Đặc điểm sân khấu cải lương

Năm 1920 đoàn hát mang tên Tân Thinh ra mắt khán giả, Tân

Thinh không dùng tên gánh mà dùng tên đoàn hát và ghi rõ đoàn hát

cải lương, dưới bảng hiệu có treo đôi liễn như sau: "Cải cách hát ca

theo tiến bộ, Lương truyền tuồng tích sánh văn minh"

Ðôi liễn ấy đã nêu lên những đặc điểm cơ bản của sân khấu cải

lương. Như trên đã nói, cải lương vốn là một động từ mang nghĩa thông

thường trở thành một danh từ riêng. Cải lương có nghĩa là thay đổi tốt hơn

khi so sánh với hát bội. Sân khấu cải lương là một loại hình sân khấu khác

hẳn với hát bội cả về nội dung vở soạn lẫn nghệ thuật trình diễn.

Bố cục

Khởi sự, các vở cải lương viết về các tích xưa, như Trảm Trịnh Ân, Vợ Ngũ

Vân Thiệu bị tên, Cao Lũng vít thiết xa, Ngưu Cao tảo mộ, Thoại Khanh Châu

Tuấn...vẫn còn giữ mang hơi hướm theo kiểu hát bội, do các soạn giả lớp cải

lương đầu tiên vốn là soạn giả của sân khấu hát bội.

Sau này, các vở về đề tài xã hội mới (gọi là tuồng xã hội), như Tội của

ai,Khúc oan vô lượng, Tứ đổ tường... thì hoàn toàn theo cách bố cục của

kịch nói, nghĩa là vở kịch được phân thành hồi, màn, lớp, có mở màn, hạ màn,

theo sự tiến triển của hành động kịch. Càng về sau thì bố cục của các vở cải

lương, kể cả các vở viết về đề tài xưa cũng theo kiểu bố cục của kịch nói.

Đề tài & cốt truyện

Buổi đầu, kịch bản cải lương lấy cốt truyện của các truyện thơ Nôm

như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên...hoặc các vở tuồng hát bội, hoặc phỏng

theo truyện phim và kịch bản Pháp, như Bằng hữu binh nhung (frères

d’arme), Sắc giết người (Atlantide), Giá trị và danh dự (Le Cid), Tơ

vương đến thác (La dame au camélias)... Vào những năm 1930, đã

xuất hiện những vỡ mới viết về đề tài xã hội Việt Nam như đã kể trên.

Sau đó, lại có thêm các kịch bản dựa vào các truyện cổ Ấn Độ, Ai

Cập, La Mã, Nhật Bản, Mông Cổ...Thế là cải lương có đủ loại tuồng ta,

tuồng Tàu, tuồng Tây...sau có thêm dạng tuồng kiếm hiệp, tuồng Hồ

Quảng v.v...chứng tỏ khả năng phong phú, biết đáp ứng sở thích của

nhiều tầng lớp công chúng.

Ngọc Gia2u trong vở “Tình yêu và lời đáp”

Sự dung nạp không thành kiến của cải lương có thể coi là sự lai tạp,

nhưng đây cũng là khía cạnh đặc điểm có tính chất chung đối với văn hóa của

vùng đất Nam Bộ.

Ca nhạc

Các loại hình sân khấu như hát bội, chèo, cải lương được gọi là ca

kịch. Là ca kịch chứ không phải là nhạc kịch, vì soạn giả không sáng tác

nhạc mà chỉ soạn lời ca theo các bản nhạc có sẵn, cốt sao cho phù hợp với

các diễn biến cùng sắc thái tình cảm của câu chuyện.

Sân khấu cải lương sử dụng cái vốn dân ca nhạc cổ rất phong phú

của Nam Bộ. Trên bước đường phát triển nó được bổ sung thêm một số

bài bản mới (như Dạ cổ hoài lang của Cao Văn Lầu mà sau này mang tên

vọng cổ). Nó cũng gồm một số điệu ca vốn là nhạc Trung Hoa nhưng đã

Việt Nam hóa. Ngoài trừ bản vọng cổ, dưới đây là một số bài bản được sử

dụng khá phổ biến trong các tuồng cải lương:

- Tam nam: Nam xuân, Nam ai, Nam đảo (đảo ngũ cung) - Khốc

hoàng thiên - Phụng hoàng - Nặng tình xưa - Ngũ điểm - Bài tạ - Sương

chiều - Tú Anh - Xang xừ líu - Văn thiên tường (nhất là lớp dựng) - Ngựa ô

bắc - Ngựa ô nam - Đoản khúc Lam giang - Phi vân điệp khúc - Vọng kim

lang - Kim tiền bản - Duyên kỳ ngộ - U líu u xáng - Trăng thu dạ khúc -

Xàng xê v.v... - Và các điệu lý, như: giao duyên, lý con sáo, lý tòng quân,

lý cái mơn v.v..

Ngoài ra, khi các bài hát tây bắt đầu xuất hiện trên sân khấu cải

lương như: Pouet Pouet (trong Tiếng nói trái tim), Marinella (trong Phũ

phàng), Tango mysterieux (trong Ðóa hoa rừng)…thì lúc bấy giờ trong một

đoàn cải lương xã hội có hai dàn nhạc: dàn nhạc cải lương thì ngồi ở

trong, còn dàn nhạc jazz thì ngồi ở trước sân khấu...

Diễn xuất

Diễn viên cải lương diễn xuất như kịch nói. Chỉ khác là diễn viên ca

chứ không nói. Cử chỉ điệu bộ phù hợp theo lời ca, chứ không cường điệu

như hát bội. Vương Hồng Sển nói: Hát bội tượng trưng nhiều quá và la lối

lớn tiếng quá, trái lại cải lương ca rỉ rả cho thêm muồi...

Sau này (khoảng những năm 60), cải lương có pha thêm những

cảnh múa, đu bay, diễn võ...cốt chỉ để thêm sinh động...

Y phục, tranh cảnh

Trong các vở diễn về tuồng tích xưa hay lấy cốt truyện ở nước ngoài thì y

phục của diễn viên và tranh cảnh trên sân khấu cũng được chọn lựa sao gợi

được bối cảnh nơi xảy ra câu chuyện, nhưng cũng chỉ mới có tính ước lệ chứ

chưa đúng với hiện thực. Trong các vở về đề tài xã hội, diễn viên ăn mặc như

nhân vật ngoài đời.

Âm nhạc

Người ta thường nói cải lương xuất phát từ Nam Bộ, đó là cách nói

rút gọn, đứng về mặt lịch sử thì nhạc cải lương là một loại nhạc sân khấu,

được phát triển dựa trên phong trào ca nhạc tài tử (phong trào chơi nhạc

không chuyên nghiệp lan rộng khắp Nam bộ thời trước). Loại nhạc này bắt

nguồn từ nền ca nhạc dân gian lâu đời của nước ta.

Âm nhạc cải lương chịu ảnh hưởng của hai nền nhạc lớn đã có từ

thời cổ và tồn tại đến bây giờ, đó là nền ca hát dân gian và nền nhạc khí

dân gian. Hai nền nhạc này tạo cho cải lương một phong cách đặc biệt, do

đó trong âm nhạc cải lương, yếu tố ca hát và yếu tố nhạc khí cùng thúc

đẩy nhau phát triển và tạo ra một hình thức đối lập trong nhiều bè, mở

đường cho sự nảy nở của tính chất sân khấu.

Âm nhạc cải lương hơi nhẹ nhàng vì dùng đàn dây tơ và dây kim,

không có kèn trống như hát bội. Có sáu thứ đàn thường dùng trong điệu

cải lương như sau:

1. Ðàn kìm: đàn Kìm cũng gọi là "Nguyệt cầm" có hai dây tơ và tám

phím. Tiếng kìm tuy không trong và thanh như tiếng Tranh hay Lục huyền

cầm, nhưng cũng có âm hưởng nhiều nên khi hòa với cây Tranh nghe rất

hay. Tùy hơi cao thấp của diễn viên, đàn Kìm có thể đàn năm dây Hò khác

nhau.

2. Ðàn Tranh: đàn Tranh hay đàn Thập Lục có 16 dây. Tiếng đàn

Tranh được thanh tao nhờ dùng dây kim và nhấn tiếng có ngân nhiều.

Cũng như cây kìm, đàn Tranh có thể đổi bậc dây Hò tùy theo hơi cao thấp

của người ca.

3. Ðàn Cò: Cây Cò, cũng gọi là đàn Nhị, có hai dây tơ, không có

phím và dùng cây cung để kéo ra tiếng. Ðàn Cò là cây đàn đắc dụng nhất

của âm nhạc Việt Nam. Nó chẳng khác nào cây Violon trong âm nhạc Âu

Mỹ. Luôn luôn có mặt trong hát Bội, Cải lương, nhạc Tài tử,...

Đàn tranh

4. Ðàn Sến: Cây Sến có hai dây tơ và có đủ bậc như cây Banjo, nên đàn

ít nhấn và có nhiều chữ lợ nghe ngộ. Có khi đàn ba dây nghe hơi như đàn Tỳ.

5. Guitare: Cũng gọi Lục huyền cầm hay Tây ban cầm, có sáu dây kim,

nhưng thường đàn có năm dây. Tiếng thanh như đàn Tranh, khi đàn bậc cao.

6. Violon: Cũng có tên là Vĩ Cầm, có bốn dây tơ và cung kéo như

đàn Cò. Đàn này dùng phụ họa với cây Guitare hay cây Tranh để đàn

Vọng cổ nghe hay, nhưng ít dùng đàn các bản khác vì tiếng nó kêu lớn

làm lấn áp mấy cây đàn kia.

7. Cây Sáo: Cây hay ống Sáo, hoặc ống Tiêu, cũng có dùng trong

điệu Cải lương, nhưng nó có một bậc Hò, không thay đổi.

8. Cây Cuỗn: Cây Cuỗn giống như cây Kèn, nhưng không có cái Loa.

Âm điệu

Bài ca Cải lương đặt theo bản đờn, nên kịch sỹ phải tùy âm nhạc,

không được tự do phô diễn hết tài năng của mình như trong điệu hát Bội.

Ca dư hơi thì trễ đàn, còn thiếu hơi dứt trước đàn.

Thứ hai là đang nói chuyện kế chuyển qua ca. Trừ một ít danh ca

biết cách "mở hơi" cho câu ca của mình có hứng thú, còn phần đông lúc

ca nghe khô khan, không có mùi vị chút nào. Lỗi ấy một phần do ban âm

nhạc thờ ơ, không thuộc chỗ nào sắp ca để dạo đàn trước nhằm gợi ý cho

khán giả có cảm giác vui buồn trước khi nghe ca, như bên âm nhạc hát

Bội.

Ghi công

Sơ khởi nên kể công ông Tống Hữu Định (tức Phó Mười Hai). Kế đó,

người có công gầy dựng và đưa lên sân khấu là ông André Thận. Bên cạnh

đó còn có vài người góp sức như: Kinh-lịch Quờn (hay Hườn), Phạm Đăng

Đàng...

Ngoài ra còn phải kể đến công của những bầu gánh, soạn giả, nhạc

sĩ và các đào kép tài danh thuộc thế hệ đầu, như: Tư Sự (gánh Đồng Bào

Nam), Hai Cu (gánh Nam Đồng Ban), Trần Ngọc Viện (gánh Nữ Đồng

Ban), Trương Duy Toản, Ba Ðại, Hai Trì, Nhạc khị, Năm Triều, Sáu Lầu

(Cao Văn Lầu), Nguyễn Tri Khương, Trần Văn Chiều (tự Bảy Triều), Ba

Ðắc, Bảy Lung, Ba Niêm, Hai Nhiều, Hai Cúc, Năm Phỉ, Ngọc Xứng, Ngọc

Sương, Phùng Há, Tư Sạng, Hai Giỏi, Năm Nở, Trần Hữu Trang, Tư Chơi,

Năm Châu, Ba Vân, Bảy Nam v.v... Tất cả đã góp phần hình thành và phát

triển loại hình nghệ thuật cải lương.

Cũng nên nói thêm, từ sau Hiệp định Geneve (1954), cải lương càng

có cơ hội phát triển mạnh mẽ, trở thành một loại hình nghệ thuật, một bộ

môn sân khấu có khả năng thu hút đông đảo khán thính giả. Và do sáng

kiến của ông Trần Tấn Quốc, một nhà báo kỳ cựu, giải Thanh Tâm được

thành lập năm 1958 và liên tiếp mỗi năm kế sau đều có phát huy chương

và khen thưởng cho những nam nữ nghệ sĩ trẻ có triển vọng nhất trong

năm.

Một số vở cải lương nổi tiếng:

Tô Ánh Nguyệt, Sầu vương biên ải, Tuyệt tình ca, Tôn Tẫn giả điên,

Người vợ không bao giờ cưới, Đời cô Lựu, Lá sầu riêng, Tiếng hạc trong

trăng, Sân khấu về khuya, Bên cầu dệt lụa, Tiếng trống Mê Linh, Tấm lòng

của biển v.v...