ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRỜNG ĐẠI HỌC S PHẠM ------------------------------- NGUYỄN KIẾN THỌ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THƠ CA DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI (TỪ 1945 ĐẾN NAY) LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ KKHHOOAA HHỌỌCC NNGGỮỮ VVĂĂNN

THÁI NGUYÊN - 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRỜNG ĐẠI HỌC S PHẠM ------------------------------- NGUYỄN KIẾN THỌ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THƠ CA DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI (TỪ 1945 ĐẾN NAY)

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34

LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ KKHHOOAA HHỌỌCC NNGGỮỮ VVĂĂNN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN THỊ VIỆT TRUNG

THÁI NGUYÊN - 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 5

1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 5

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 6

3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 9

3.1. Mục đích .............................................................................................. 9

3.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 10

4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 10

5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 11

6. Cấu trúc luận văn ..................................................................................... 11

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................ 12

Chƣơng 1. VÀI NÉT VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ XÃ HỘI CỦA

DÂN TỘC MÔNG ............................................................................ 12

1.1. Một số đặc điểm về cộng đồng dân tộc Mông ở Việt Nam .................. 12

1.1.1. Đặc điểm tộc người và điều kiện tự nhiên ..................................... 12

1.1.2. Đặc điểm phong tục tập quán và sinh hoạt cộng đồng .................. 17

1.1.3. Đặc điểm về đời sống tâm linh ....................................................... 24

1.1.4. Đặc điểm về ngôn ngữ, chữ viết ..................................................... 27

1.2. Vài nét về thơ ca dân tộc Mông ............................................................ 30

1.2.1. Thơ ca dân gian .............................................................................. 30

1.2.2. Thơ ca hiện đại ............................................................................... 33

Chƣơng 2. THƠ MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI - BỨC TRANH

SINH ĐỘNG VỀ THIÊN NHIÊN, CUỘC SỐNG, CON

NGƢỜI CỦA MỘT DÂN TỘC ĐẦY BẢN SẮC ......................... 41

2.1. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại ....... 41

2.2. Hình ảnh con người và cuộc sống vùng cao trong thơ dân tộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

Mông thời kỳ hiện đại ......................................................................... 46

2.2.1. Con người dân tộc Mông chân chất, mạnh mẽ và tài hoa ............... 46

2.2.2. Cuộc sống đơn sơ nhưng phong phú và giàu bản sắc ................... 51

Chƣơng 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ

CA DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI .............................. 62

3.1. Dấu ấn của các thể loại thơ ca dân gian trong thơ ca dân tộc

Mông thời kỳ hiện đại ........................................................................... 62

3.1.1. Sự vận dụng sáng tạo, hiệu quả vốn tục ngữ, ca dao, dân ca Mông ... 62

3.1.2. Sự vận dụng các hình thức nghệ thuật thơ ca dân gian trong

thơ dân tộc Mông thời kỳ hiện đại .................................................. 69

3.2. Ngôn ngữ hình ảnh trong thơ Mông thời kỳ hiện đại ........................... 73

3.2.1. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng

ngày của đồng bào Mông ............................................................... 73

3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu nhạc điệu ............................... 77

3.2.3. Ngôn ngữ, hình ảnh mang sắc thái đặc trưng của dân tộc Mông . 78

3.3. Cấu trúc, nhịp điệu trong thơ Mông thời kỳ hiện đại ........................... 81

3.3.1. Cấu trúc, nhịp điệu chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền

thống dân tộc Mông ...................................................................... 81

3.3.2. Xu hướng hiện đại trong cấu trúc, nhịp điệu của thơ ca Mông

thời kỳ hiện đại ............................................................................... 83

3.4. Tư duy, diễn đạt trong thơ Mông thời kỳ hiện đại ............................... 86

3.4.1. Tư duy trực quan hình ảnh ............................................................. 86

3.4.2. Tư duy, diễn đạt mang đậm bản sắc dân tộc Mông ....................... 87

PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................ 94

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 99

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thơ ca dân tộc Mông là một bộ phận quan trọng trong nền thơ của các

dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Nó đã góp phần tạo nên sự đa sắc màu

cho đời sống thơ ca dân tộc vốn đã rất phong phú và giàu bản sắc. Vì vậy, khi

nghiên cứu thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam không thể không nghiên cứu

thơ ca dân tộc Mông - tiếng nói văn học của một dân tộc có số cư dân đông

vào hàng thứ tám trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam và cũng là

một dân tộc có truyền thống văn hoá rất độc đáo và đặc sắc.

Trong quá trình nghiên cứu về thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện

đại, đã có những tác giả có sự quan tâm đến việc tìm hiểu thơ ca của dân tộc

Mông. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tuyển chọn

và giới thiệu thơ của một số tác giả dân tộc Mông trong các tuyển tập thơ ca

các dân tộc thiểu số nói chung; hoặc điểm qua tên tuổi của một số nhà thơ

người Mông đã phần nào trở nên quen thuộc trong số các nhà thơ dân tộc

thiểu số như: Mã A Lềnh, Mùa A Sấu, Hùng Đình Quí… Nhìn chung, tất cả

các công trình nghiên cứu, bài viết nói trên - dù trực tiếp hay gián tiếp liên

quan đến thơ ca hiện đại dân tộc Mông - cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ

điểm qua, như những nét phác thảo, chưa toàn diện và hệ thống, chưa làm nổi

bật được những nét đặc sắc cũng như những đóng góp của thơ ca hiện đại dân

tộc Mông đối với nền thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng và nền thơ ca Việt

Nam hiện đại nói chung. Do đó, rất cần thiết phải có một công trình nghiên

cứu chuyên biệt, nghiên cứu một cách hệ thống và thấu đáo, nhằm chỉ ra

những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật, sự vận động và phát triển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

cũng như những giá trị của thơ ca hiện đại dân tộc Mông trong việc góp phần

tạo nên một nền thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng, thơ ca Việt Nam hiện đại

nói chung, phong phú và giàu bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa

chọn đề tài “Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại (từ

1945 đến nay)” cho luận văn của mình.

Vốn là một cán bộ của Trung tâm đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ giáo

viên các dân tộc tỉnh Thái Nguyên, lại có dịp tiếp xúc nhiều với cộng đồng

dân tộc Mông, tôi rất yêu quí và trân trọng những nét đẹp văn hoá mang tính

bản sắc và đặc biệt là thơ ca của dân tộc Mông (cả thơ ca truyền thống và thơ

ca hiện đại). Vì vậy, nếu đề tài được thực hiện thành công, tôi hy vọng sẽ góp

phần nhỏ bé của mình vào việc chỉ ra được những vẻ đẹp đặc trưng, mới lạ và

độc đáo của thơ ca dân tộc Mông. Mặt khác, qua việc thực hiện đề tài, người

viết cũng muốn góp thêm một tiếng nói vào việc giữ gìn, bảo tồn những nét

đẹp của bản sắc văn hoá dân tộc Mông, cũng như mong muốn thực hiện được

chủ trương đưa vào chương trình giảng dạy các tác phẩm văn học dân tộc

thiểu số - trong đó có các tác phẩm thơ ca hiện đại dân tộc Mông- trong nhà

trường phổ thông, cao đẳng, đại học hiện nay,đặc biệt là các trường thuộc

khu vực miền núi phía Bắc.

2. Lịch sử vấn đề

Theo tìm hiểu bước đầu của chúng tôi thì tình hình nghiên cứu về thơ ca

dân tộc Mông (cũng như thơ ca các dân tộc thiểu số khác) mới chỉ được bắt

đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây. Mặc dù đã có một số thành

tựu nhất định nhưng nhìn chung, việc giới thiệu, nghiên cứu và phê bình văn

học các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, còn lâm vào

tình trạng “rời rạc, lẻ tẻ, chắp vá…” (Lò Ngân Sủn). Một phần do tình trạng

“ảnh hưởng của văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số còn khá mờ nhạt

trong nhận thức và đánh giá của xã hội” [25;10], dẫn đến nhiều tác giả, tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

6

phẩm chưa được chú ý, “nhiều thực tế phong phú chưa được tổng kết, thậm chí

chưa được tập hợp lại một cách tương đối hệ thống; nhiều vấn đề lí luận và thực

tiễn chưa được xới ra xem xét, nghiên cứu chặt chẽ, thấu đáo” (Nguyên Ngọc).

Về thơ ca dân tộc Mông nói chung, cho đến nay đã có một số công trình

nghiên cứu, song chủ yếu là về thơ dân gian với các công trình sưu tầm, tuyển

chọn và giới thiệu dân ca Mông như: Dân ca Mèo (Doãn Thanh, Nxb Văn học

1967). Các cuốn sách giới thiệu các tác phẩm văn học dân gian do Ty Văn

hoá Thông tin các tỉnh Hà Giang, Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn xuất bản trong

khoảng thời gian từ 1971 đến 1978; năm 1984, cuốn Dân ca Mông được tác

giả Doãn Thanh biên soạn lại và xuất bản với lời giới thiệu của nhà thơ Chế

Lan Viên. Từ 1994 đến nay, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc lần lượt giới thiệu

một số tác phẩm sưu tầm dân ca, tục ngữ, câu đố dân tộc Mông của tác giả

Hùng Đình Quí, Hờ A Di, Lê Trung Vũ, đặc biệt là việc xuất bản 6 tập Dân

ca HMông do nhà thơ, nhà sưu tầm văn học dân gian Hùng Đình Quí biên

soạn. Theo khảo sát của chúng tôi, một công trình nghiên cứu có tính hệ

thống, qui mô và toàn diện hơn cả là đề tài, luận văn Thạc sĩ của Hùng Thị

Hà: Thơ ca dân gian HMông (2003).[17]

Nên có thể nói, thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại là mảng nghiên cứu

hiện nay còn bỏ ngỏ, ngoại trừ một số các công trình mang tính chất tập hợp,

tuyển chọn và giới thiệu thơ văn các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc

Mông, như: Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945 - 1985

(Nxb Văn hoá, 1981); tuyển tập Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX

(Nxb Văn hoá Dân tộc, 2000); hay các tác phẩm chuyên sâu về nghiên cứu,

phê bình văn học các dân tộc thiểu số (ít nhiều có liên quan đến thơ văn hiện

đại dân tộc Mông) như: 40 năm văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt

Nam (Nxb Văn hoá Dân tộc, 1985); Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam

hiện đại của Lâm Tiến (Nxb Văn hoá Dân tộc, 1995); Vấn đề đặt ra với các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

7

nhà thơ dân tộc thiểu số của Lò Ngân Sủn (Nxb Văn hoá Dân tộc, 2002) ….

Một điều dễ nhận thấy là hầu như tất cả các công trình nghiên cứu này chỉ

điểm qua mảng văn học dân tộc Mông, đặc biệt là thơ hiện đại như một cách

để “nói cho đủ”. Trong đó Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại

của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Lâm Tiến có thể coi là một công trình

nghiên cứu qui mô nhất về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại từ

trước cách mạng tháng tám năm 1945 trên cả ba lĩnh vực: Thơ, văn xuôi và

kịch. Tuy nhiên, công trình này mới chỉ đi sâu nghiên cứu đánh giá về một số

tác giả tác phẩm tiêu biểu của các dân tộc thiểu số xét trên từng giai đoạn lịch

sử, chứ chưa phác thảo về diện mạo cũng như chưa đi sâu nghiên cứu về đặc

điểm văn học nói chung và thơ ca nói riêng của từng dân tộc. Vì thế, thơ ca

hiện đại dân tộc Mông cũng không được đề cập ngoài vài dòng điểm tên các

tác giả, tác phẩm nhằm minh hoạ cho việc phân tích, diễn giải một luận điểm

nào đó của người viết; cuốn Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số

của Lò Ngân Sủn đi sâu bàn luận thơ ca của các tác giả dân tộc thiểu số.

Trong đó, một vài nhà thơ hiện đại dân tộc Mông cũng đôi lần được nhắc đến

cùng với những đánh giá, bình xét về đặc điểm thơ của các tác giả này.

Năm 2008, Viện Văn học đã nghiệm thu đề tài khoa học Thơ dân tộc ít

người giai đoạn 10 năm cuối thế kỷ XX - truyền thống và hiện đại của nhóm tác

giả Hà Công Tài, Nguyễn Thị Thanh Lưu, Đỗ Thị Thu Huyền. Lý do mà các

tác giả đưa ra khi chọn nghiên cứu đề tài này là, thơ dân tộc ít người giai đoạn

10 năm cuối thế kỷ XX (1990 - 1999) có những thành tựu nhất định, biểu hiện

ở việc xuất hiện những “tác giả thật đặc sắc”, đã gây được “những ảnh hưởng

không chỉ đến sáng tác văn học dân tộc thiểu số mà cả sáng tác văn học nói

chung”. Đây được coi là cơ sở bước đầu để “triển khai nghiên cứu, tổng kết 50

năm xây dựng văn học dân tộc thiểu số (từ sau Cách mạng thành công tháng

8/1945) [59]. Nhìn chung, đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

8

phu và khá toàn diện trong nhìn nhận, đánh giá những thành tựu của thơ ca các

dân tộc thiểu số. Đặc biệt là việc bước đầu đánh giá mối quan hệ giữa thơ ca

dân gian và thơ ca hiện đại của các dân tộc ít người qua khảo sát hệ thống biểu

tượng, cùng với việc giới thiệu một số chân dung tác giả tiêu biểu đại diện cho

thơ ca hiện đại các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, do khuôn khổ và nội dung của

đề tài, thơ ca hiện đại dân tộc Mông (cũng như một số dân tộc thiểu số khác)

chưa được các tác giả xem xét và đánh giá một cách đúng mức.

Có thể khẳng định một điều: Tất cả những công trình, bài viết về thơ ca

dân tộc Mông thời kỳ hiện đại, cho đến nay mới chỉ dừng lại ở phạm vi nhỏ

lẻ, tản mạn (cả dưới góc độ tác phẩm và tác giả), mà chưa đi sâu vào phân

tích, đánh giá và chỉ ra những đặc điểm cụ thể về nội dung và nghệ thuật. Vì

thế, cũng có thể khẳng định, cho đến nay, chưa có một công trình khoa học

nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về thơ ca hiện đại dân tộc

Mông. Điều đó dẫn tới sự cần thiết về việc phải nghiên cứu văn học Mông nói

chung và thơ ca hiện đại Mông nói riêng một cách thấu đáo và nghiêm túc, để

thấy được diện mạo thơ ca hiện đại của một dân tộc vốn có truyền thống văn

hoá lâu đời, có những bản sắc riêng độc đáo. Mặt khác, đó cũng chính là

những động thái hết sức tích cực trong việc góp phần bảo tồn và phát triển

một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn

hội nhập quốc tế một cách toàn diện hiện nay.

3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích

Nghiên cứu đề tài “Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện

đại (từ 1945 đến nay)”- luận văn nhằm chỉ rõ những đặc điểm về nội dung và

nghệ thuật của thơ ca hiện đại dân tộc Mông. Đồng thời khẳng định những

đóng góp tích cực của thơ ca dân tộc Mông đối với sự phát triển của thơ ca

các dân tộc thiểu số nói riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

9

nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã đọc, tham khảo và nghiên cứu các

loại tài liệu sau:

- Các tác phẩm thơ của các tác giả dân tộc Mông từ 1945 đến nay.

- Một số tác phẩm thơ dân tộc Mông trước 1945, đặc biệt là thơ ca dân

gian Mông (để so sánh đối chiếu).

- Một số tác phẩm thơ của các dân tộc thiểu số khác nhằm so sánh, đối

chiếu, làm nổi bật những đặc điểm riêng biệt của thơ ca hiện đại dân tộc Mông.

- Các công trình, bài nghiên cứu về thơ ca dân tộc Mông nói riêng và thơ

ca các dân tộc thiểu số nói chung.

- Một số tài liệu về lí luận, lí thuyết có liên quan đến đề tài.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn cố gắng làm sáng tỏ và đi đến khẳng định những đặc điểm nổi

bật của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại ở hai phương diện cơ bản:

- Phản ánh những nét đặc sắc về đời sống văn hoá, tinh thần của dân tộc

Mông (thiên nhiên, con người, những phong tục tập quán, sinh hoạt cộng

đồng, đời sống tâm linh…) thông qua những sáng tác của các nhà thơ hiện đại

dân tộc Mông (trong sự đối chiếu, so sánh với thơ ca hiện đại của các dân tộc

anh em khác).

- Nghiên cứu một số hình thức nghệ thuật được sử dụng một cách đặc

sắc và hiệu quả (ngôn ngữ, hình ảnh thơ, hình thức kết cấu, lối tư duy, diễn

đạt…) của các nhà thơ dân tộc Mông. Qua đó, chỉ ra sự kế thừa một cách sáng

tạo, độc đáo những giá trị nghệ thuật của thơ ca dân gian, cũng như sự phát

triển, sự cách tân của các nhà thơ dân tộc Mông thời kỳ hiện đại.

Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của thơ ca dân tộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

10

Mông từ sau 1945 đến nay, luận văn đi đến khẳng định những thành tựu và

hạn chế cũng như những đóng góp của thơ ca hiện đại dân tộc Mông đối với

thơ các dân tộc thiểu số nói riêng và nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp

chính sau:

- Phương pháp thống kê, phân loại.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành

và một số phương pháp tổng hợp khác.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương:

Chƣơng 1: Một số đặc điểm về đời sống văn hoá xã hội của dân tộc Mông.

Chƣơng 2: Thơ Mông thời kỳ hiện đại- bức tranh sinh động về thiên

nhiên, cuộc sống, con người của một dân tộc đầy bản sắc.

Chƣơng 3: Một số đặc điểm về nghệ thuật của thơ ca dân tộc Mông thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

11

kỳ hiện đại.

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1

VÀI NÉT VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ XÃ HỘI

CỦA DÂN TỘC MÔNG

1.1. Một số đặc điểm về cộng đồng dân tộc Mông ở Việt Nam

1.1.1. Đặc điểm tộc người và điều kiện tự nhiên

Dân tộc Mông có tên gọi (bao gồm cả tên tự nhận) là Mông, Na Mẻo,

Mèo, Mẹo, Miếu ha, Mán trắng [18], là một dân tộc ít người ở Việt Nam

với dân số hiện nay khoảng 80 vạn người, cư trú trên 16 tỉnh miền núi phía

Bắc, chủ yếu ở các tỉnh: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái và

Cao Bằng.

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông được coi là một thành

viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, có số lượng

cư dân đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc Việt Nam.

Nhìn chung, ý kiến của các nhà nghiên cứu dân tộc học ở Việt Nam về

lịch sử hình thành dân tộc Mông là tương đối thống nhất khi cho rằng người

Mông di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100

năm về trước.

Từ những thế kỷ trước khi di cư đến Việt Nam, Người Hán gọi người

Mông là “Mèo”. Tộc danh Mèo theo âm Hán Việt là “Miêu”. Đây là tên gọi

một tộc người sớm biết nghề trồng lúa nước ở vùng hồ Bành Lãi và hồ Động

Đình (Trung Quốc), lâu dần trở thành tên gọi chính thức [17]. Theo truyền

thuyết, tổ tiên của người Mông đã ở vùng hồ Bành Lãi (thuộc Giang Tây) và

hồ Động Đình (thuộc Hồ Nam) ở Trung Quốc từ hàng nghìn năm trước công

nguyên. Trong suốt hàng chục thế kỷ, người Mông di cư theo hướng Tây -

Tây Nam, tập trung đông ở Hồ Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quảng Đông,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

12

Quảng Tây và trung tâm là Quí Châu (Trung Quốc) trước khi đến Việt Nam.

Cũng theo truyền thuyết thì xưa kia, dân tộc Mông cũng có một quốc gia

riêng với biểu tượng hình đôi sừng trâu và màu cờ đỏ. Ngày nay, một số vùng

người Mông ở Hà Giang, Lào Cai vẫn ít nhiều còn để lại những dấu ấn ấy qua

các phong tục, biểu hiện cụ thể ở tấm vải đỏ treo trước cửa nhà; người chết

không phân biệt già trẻ đều có tấm vải đỏ che miệng; hình bộ sừng trâu dùng

làm chốt cửa trên hai cánh cửa chính của mỗi nhà. Hay như cách đội khăn

quấn đầu hình hai sừng trâu của người Mông ở một số vùng hiện nay của

Trung Quốc [17;14].

Người Mông đến nước ta có thể gồm nhiều đợt qui mô lớn nhỏ khác

nhau: Từ Vân Nam sang, từ Quí Châu qua Vân Nam hoặc Quảng Tây sang cư

trú ở các vùng biên giới phía Bắc. Theo các nhà nghiên cứu dựa trên kết quả

điền dã dân tộc học ở tại một số vùng người Mông ở Việt Bắc và Tây Bắc,

cũng như việc nghiên cứu tình hình biến động của tộc Miêu ở Trung Quốc

trong lịch sử, có thể người Mông thiên di đến Việt Nam với ba đợt quy mô

lớn [18]. Thời kỳ đầu tiên cách đây trên 300 năm, người Mông từ Quí Châu

sang Đồng Văn. Dân ca Mông còn ghi lại:

Người HMông ta ở Quí Châu đến

Vì người HMông ta không biết chữ

Thua kiện người Hán ta mới đi …

Tuy nhiên, “thua kiện người Hán” chỉ là một lí do theo cách nói bóng

bẩy, nhẹ nhàng của văn học, còn trong thực tế nguyên nhân của đợt thiên di

thứ nhất này là do chính sách “cải thổ qui lưu” (tức bỏ chế độ thổ quan, phái

các quan lại từ nơi khác đến cai trị trực tiếp) của nhà Minh dẫn đến các phong

trào đấu tranh mạnh mẽ và quyết liệt của người Mông. Nhà Minh đã dùng bạo

lực để bắt qui phục. Dân ca Mông cũng đã có lúc nói thẳng nguyên nhân của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

13

đợt thiên di này:

Vì đất nước đại triều nhà Hán chín xèo không chín ké

Mẹ cha ta gặp bước loạn li phải đi lưu lạc …

Đại triều nhà Hán lòng không tốt.

Đợt thiên di thứ hai của người Mông vào Việt Nam cách nay khoảng 200

năm, sau thất bại của phong trào khởi nghĩa của người Mông ở Quí Châu

(1776 - 1820). Đợt thiên di đông nhất của người Mông vào nước ta cách đây

khoảng từ 120 đến 160 năm; khởi nghĩa Hàm Đồng (năm 1853) dưới sự lãnh

đạo của Trương Tú Mi xuất phát từ Đông Nam Quí Châu, sau lan rộng sang

Hồ Nam và Vân Nam, kéo dài 18 năm ròng rã. Vương triều Thanh đã tàn sát

huỷ diệt những người tham gia khởi nghĩa. Hàng vạn người Mông đã từ Quí

Châu (Trung Quốc) di cư sang Hà Giang, Lao Cai, Yên Bái và một số tỉnh

thuộc biên giới phía Bắc nước ta.

Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng, có thể người Mông di cư

sang Việt Nam sớm hơn, cách đây khoảng 400 năm, đời nhà Minh, hoặc xa

hơn, những gia đình người Mông đầu tiên đã đến vùng Lao Cai cách đây

khoảng trên 600 năm [15].

Đồng bào Mông ở Đồng Văn, Hà Giang còn lưu truyền một bài ca buồn

thảm rằng: “Quí Châu là quê hương yêu dấu của người Mèo ta ở. Vì người

Mèo ta phải đói rách, vì dân Mèo ta không có chữ nên phải dời quê”. Dấu ấn

của các cuộc thiên di còn để lại trong các câu chuyện cổ của người Mông với

tất cả sự đắng cay nghiệt ngã đến thê thảm của số phận con người: Chỉ ba hạt

ngô làm giống hoặc ba chiếc bánh kê có thể đổi được một cô vợ người Mông.

Người Mông vốn có gốc gác là những cư dân trồng lúa nước. Tên gọi

“Miêu”( ) theo Hán tự trên có bộ thảo ( ) là cây cỏ, dưới có chữ điền ( )

là ruộng đồng. Điều này phần nào khẳng định người Mông có tổ tiên nguồn

cội cư trú ở lưu vực các con sông với nghề trồng lúa. Mặt khác, qua một số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

14

truyện cổ và đặc biệt là kho tàng ca dao, dân ca phong phú của người Mông,

ta cũng có thể tin rằng người Mông xưa kia vốn cũng sinh sống ở những vùng

đất đai có sông ngòi và làm nhiều ruộng. Văn học dân gian truyền thống của

người Mông luôn nhắc tới “sông nước”, “thuyền bè”, tới các “đường dài -

đường rộng”, “bãi bằng - bãi phẳng”, tới ruộng, tới trâu… như một ước mơ,

như một sự phản ánh hiện thực xa xưa với một niềm luyến tiếc, hàm chứa một

sự so sánh trong nhận thức với thực tại [77; 6]

Đến Việt Nam, với một vùng đất mới, không có chiến tranh sắc tộc,

chấm dứt một giai đoạn đằng đẵng của lịch sử gắn liền với những cuộc thiên

di đầy nước mắt và máu, người Mông đã tìm thấy một quê hương mới và cuộc

sống hứa hẹn những ấm no và hạnh phúc. Những câu chuyện dân gian của

người Mông vẫn còn ghi lại: “Việt Nam là nơi đất đai màu mỡ để làm ăn, nơi

có quả bí to như cái vạc mà lợn rừng có thể khoét lỗ chui vào đó đẻ; nó vừa là

ổ, vừa là thức ăn cho lợn. Nơi trồng cây lương thực gốc có củ, thân có bắp,

ngọn trổ lúa…” [17; 15]. Vì thế mà cùng với quá trình lao động sáng tạo,

người Mông đã coi những địa danh như Mèo Vạc, Hà Giang là quê hương thứ

hai của mình:

Cá bơi ở dưới nước

Chim bay ở trên trời

Chúng ta sống ở vùng cao

Và con chim có tổ

Người Mèo ta cũng có quê

Quê ta là Mèo Vạc [50]

Sau cách mạng tháng Tám, thể theo nguyện vọng của đồng bào, từ

“Mèo” được thay thế bằng từ “Mông” (HMông). Đây là một âm tiết phát âm

từ âm mũi. Bởi vì trong hệ thống phụ âm tiếng Việt không có âm tố nào ghi

âm chính xác được âm tiết trên nên các nhà ngôn ngữ học đã mượn phụ âm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

15

“Hm” trong hệ thống phụ âm tiếng Mông để ghi âm từ “HMông”. Do sự phát

âm khó khăn, từ năm 1992 đến nay, Nhà nước ta đã thống nhất phiên âm tên

gọi của đồng bào là “Mông” và dùng cách viết “Mông” thay cho H‟Mông. Đây

là cách gọi tên và cách ghi danh được người Mông tán thành thay cho cách

phát âm là “Hơ-Mông” trước đây làm nhiều người Mông không đồng ý [14].

Ngoài Việt Nam ra, người Mông còn cư trú ở một địa bàn khá rộng lớn

thuộc phía Nam Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Miến Điện. Sau 1975, cộng

đồng người Mông còn di cư sang sinh sống ở các nước như Mỹ, Pháp, Úc …

con số lên tới hàng trăm nghìn người (chủ yếu di cư từ Lào). Hiện nay, Trung

Quốc có số lượng người Mông đông đảo hơn cả với hơn 7 triệu người (số liệu

thống kê năm 1990) phân bố ở các tỉnh Quí Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ

Xuyên, Quảng Tây, Hải Nam, Hồ Bắc. Trong 56 dân tộc ở Trung Quốc, dân

tộc Mông (Miêu) chỉ đứng sau các dân tộc Hán, Choang, Mãn, Hồi. Trên thực

tế cho thấy các cư dân Mông ở Việt Nam vẫn có quan hệ với cư dân đồng tộc

các nước khác, đặc biệt là những địa bàn sát biên giới giữa Việt Nam với

Trung Quốc và Lào [18].

Ở Việt Nam, dân tộc Mông thường cư trú ở độ cao từ 800 đến 1500 mét

so với mực nước biển, dọc theo biên giới Trung - Việt và Việt - Lào [57].

Những xóm làng của người Mông, tiếng Mông gọi là “Giao” (Jaol), nơi tập

trung đông cũng chỉ dăm chục nóc nhà, còn phần nhiều lẻ tẻ, thường ở trên

các triền núi hoặc cao nguyên. Khí hậu mát mẻ về mùa hè nhưng cũng hết sức

giá lạnh, khắc nghiệt về mùa đông. Điều kiện đi lại giao lưu rất đỗi khó khăn.

Nước phục vụ cho sinh hoạt thiếu thốn, thậm chí khan hiếm. Cho nên, người

Mông giỏi canh tác nương rẫy hơn làm ruộng nước. Ở những nới chỉ toàn núi

đá như Mèo Vạc (Hà Giang), người dân đưa đất từ nơi khác tới, đổ vào những

hốc đá để tra ngô. Sống biền biệt trên các vùng cao quanh năm sương phủ, sự

hẻo lánh làm cho đời sống xã hội Mông chậm phát triển. Kinh tế hoàn toàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

16

mang tính chất tự cấp tự túc, lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Vì hoàn cảnh

sống vất vả khó khăn nên trước đây phần lớn đồng bào Mông sống du canh,

du cư hoặc đã định cư nhưng còn du canh. Ngày nay, được sự quan tâm của

Đảng và Nhà nước, cuộc sống của người Mông đã có những bước cải thiện

đáng kể.

Lịch sử của cộng đồng người Mông ở Việt Nam là lịch sử của những

cuộc thiên di, là một bản trường ca đầy bí tráng mà mỗi trang đều được viết

lên bằng nước mắt và máu. Lịch sử đau thương và hào hùng cùng với điều

kiện sống hết sức khắc nghiệt đã góp phần hun đúc lên một diện mạo tâm hồn

Mông với bản lĩnh can trường, dũng cảm đến táo bạo, chai sạn đến chắc nịch

như đá núi với một sức chịu đựng bền bỉ dẻo dai hiếm có. Vượt lên trên tất cả

lại là một tinh thần lạc quan, phóng túng, đôi khi hồn nhiêm đến độ thơ ngây.

Tất cả những đặc điểm đó đã được khúc xạ trong một nền văn học dân gian

Mông rất phong phú và đậm đà bản sắc, chi phối mạnh mẽ đến giọng điệu và

cảm hứng cũng như nội dung thể hiện của thơ ca hiện đại dân tộc Mông.

1.1.2. Đặc điểm phong tục tập quán và sinh hoạt cộng đồng

Căn cứ vào đặc điểm trang phục, ngôn ngữ và ý thức tự nhận của đồng

bào, có thể chia người Mông thành 5 ngành: Mông trắng (Mông Đơư), Mông

hoa (Mông lềnh), Mông đỏ (Mông si), Mông đen (mông đu) và Mông xanh

(Mông sua). Tuy nhiên, một số ý kiến của các nhà nghiên cứu lại cho rằng

người Mông về đại thể chỉ được chia thành 4 nhóm chính: Mông Đơ (tức

Mông trắng), Mông Lềnh (còn gọi là Mông sí tức Mông hoa), Mông Đu (tức

Mông đen có nơi còn gọi là Mông đỏ), Mông Sán (tức Mông Hán - có nơi gọi

là Mông xanh). Cách phân nhóm này chủ yếu dựa vào sắc phục của người phụ

nữ và sự khác nhau ít nhiều về âm điệu, thổ ngữ [57], [3].

Do liên tục có các cuộc di cư và đại thiên di xuyên quốc gia nên lịch sử

của dân tộc mông là lịch sử du canh du cư. Khi thiên di vào Việt Nam, có thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

17

do bản năng tồn tại và do đến muộn, người Mông phải dạt lên các miền núi

cao, hiểm trở và sống tách biệt với các dân tộc khác. Theo nghiên cứu của

Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, khi khảo sát địa bàn cư trú của dân tộc Mông ở Lao

Cai (năm 1989), trong tổng số 171 xã và thị trấn, có 111 xã có người Mông cư

trú. Trong số đó, 34 xã người Mông chiếm 100% dân số; 22 xã người Mông

chiếm 51% trở lên. Trong số 523 làng người Mông, có đến 457 số làng có

100% là người Mông, chỉ có 66 làng người Mông sống xen kẽ với các dân tộc

khác [ 57; 17]. Sở dĩ có hiện tượng này là vì, theo chúng tôi, người Mông rất

coi trọng tín nghĩa và tình cảm cộng đồng, dòng tộc. (Người Mông có câu cửa

miệng là “người Mông ta” (pêz HMôngz) hay cách nói “ta cùng một giống

lanh với nhau”). Mặt khác, do sự ám ảnh của quá khứ và một tâm lí luôn cảm

thấy tự ti vì bị kém cỏi so với dân tộc khác. Cuộc sống khép kín ít giao lưu

vừa là hạn chế, lại vừa là sự bảo lưu tốt nhất nền văn hoá truyền thống của

dân tộc Mông.

Môi trường canh tác chủ yếu của người Mông là nương rẫy, công cụ làm

rẫy truyền thống của người Mông là dao, búa, cuốc… phù hợp và thuận tiện

cho việc phát nương, tra hạt. Thông thường, nương của người Mông hướng về

phía có ánh mặt trời, khi đốt nương bao giờ cũng đốt từ thấp lên cao, lợi dụng

sức gió và đi lại thuận tiện. Mặc dù truyền thống canh tác lúa nước đã bị hạn

chế rất nhiều do cuộc sống du canh du cư theo các cuộc thiên di, người Mông

vẫn thường tìm đến những thung lũng có nguồn nước để làm ruộng bậc thang

cấy lúa. Ngoài ra, người Mông còn có truyền thống làm nghề thủ công khá

sớm và tương đối phát triển, nhất là nghề rèn (rèn súng săn, dao búa…). Mặt

khác, do sống ở núi cao nên người Mông rất thành thạo trong việc săn bắn,

hái lượm.

Cũng như các dân tộc khác, người Mông rất coi trọng mối quan hệ gia

đình. Đồng bào Mông gọi gia đình là “chúa dỉ” (chuôiz div). Gia đình tồn tại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

18

phổ biến dưới các hình thức hai và ba thế hệ. Trong gia đình người Mông,

nam giới được coi trọng và đảm nhiệm các việc lớn như thờ cúng tổ tiên,

tham gia các công việc của cộng đồng. Họ chỉ được coi là đã trưởng thành khi

có con đầu lòng và được làm lễ đặt tên đệm mới. Phụ nữ Mông là người phải

chịu nhiều thiệt thòi hơn cả. Trước đây, những người phụ nữ đi làm dâu, nếu

chồng chết phải lấy em trai chồng, bằng không họ sẽ bị tước đoạt toàn bộ của

cải, có khi cả con cái. Có lẽ chính vì phải chịu đựng nhiều tệ nạn như tảo hôn,

cưỡng hôn, cả cuộc đời bị trói buộc cả thể xác lẫn tâm hồn, hiện tại đau khổ,

ai oán, tương lai tối tăm mờ mịt… mà trong những bài ca than thân của kho

tàng dân ca Mông có cả một mảng đề tài: Tiếng hát làm dâu (gầu ua nhéng).

Đó là tiếng kêu than, là nước mắt đau thương của người phụ nữ bị đoạ đầy

trong đau khổ. Và đây đó, còn là ý thức, phản kháng hoặc lòng phẫn nộ le lói

trong những cảnh đời bị hắt hủi, tủi nhục:

Năm nay em đi làm dâu

Em làm chín thời mười giờ

Chẳng có lúc nào nghỉ

Trâu măng cày, dây khiếu không biết ải

Em đi làm dâu không có mùa nghỉ, chỉ có mùa làm

(Dân ca Mông)

Tuy nhiên, trong gia đình người Mông, quan hệ vợ chồng luôn được đề

cao. Người chồng bao giờ cũng được người vợ chăm sóc chu đáo từ sinh hoạt

trong nhà đến các buổi đi nương, đi chợ. Chúng ta đã quá quen thuộc với hình

ảnh các phiên chợ vùng cao, trên muôn nẻo đường núi tới chợ, người chồng

ngồi thong dong trên lưng ngựa trong khi người vợ cầm đuôi ngựa vượt dốc;

hay hình ảnh những người vợ kiên tâm cầm ô che cho chồng ngủ ngay bên vệ

đường cho vãn cơn say. Đó chính là những biểu hiện nét đẹp về đạo đức và

phẩm hạnh của người phụ nữ Mông, góp phần tạo ra mối chung thuỷ đặc biệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

19

của vợ chồng người Mông từ xưa đến nay.

Ngoài ra, gia đình người Mông còn là một môi trường để gìn giữ và phát

triển văn hoá. Các em bé gái được mẹ, được chị dạy cho thêu thùa từ rất sớm.

Lớn lên, biết xe lanh, dệt vải, biết in váy, thêu hoa… Các em trai làm quen

với súng săn, bắn nỏ, cưỡi ngựa và cả thổi khèn, thổi sáo… nên họ sớm có đủ

năng lực và kinh nghiệm để đảm nhiệm cuộc sống gia đình từ rất sớm.

Trong các phong tục tập quán của người Mông thì cuới xin và tang ma

để lại những dấu ấn bản sắc mang tính truyền thống của người Mông nhiều

hơn cả. Đám cưới của người Mông thường được tổ chức vào mùa xuân hay

cuối đông vì đồng bào kiêng những tháng có sấm chớp. Hôn nhân của người

Mông cũng tuân theo các bước lễ nghi như dạm hỏi, ăn hỏi (hẹn cưới) và lễ

đón dâu. Lễ dạm hỏi bắt buộc phải có hai ông mối thông thạo các bài hát nghi

lễ cưới xin, giúp nhà trai sang nhà gái làm các thủ tục dạm hỏi, hẹn ngày đón

dâu. Đám cưới của người Mông bao giờ cũng phải có phù rể. Phù rể sẽ cùng

chú rể quỳ lạy tổ tiên nhà gái trước khi đi rước dâu. Sau khi hoàn tất các thủ

tục, cô dâu được hai người anh em trong gia đình dắt tay ra cửa trao cho

người đón dâu. Đám đón dâu đi lẻ về chẵn, theo phong tục người nhà gái

không đưa dâu đến nhà trai. Quãng đường đón dâu về dù ngắn hay dài cũng

nhất thiết phải nghỉ giữa chừng, ăn cơm nắm do nhà gái đã chuẩn bị sẵn. Cô

dâu về tới trước cửa nhà trai còn phải một nghi lễ nhập ma nhà chồng mới

được vào cửa. Trước đây, người Mông rất phổ biến phong tục “bắt vợ”. Khi

chàng trai ưng một cô gái nào đó thì tổ chức đón đường, “bắt” cô gái về làm

vợ mình. Cô gái bị “bắt” về được nhà trai “dùng gà trống đánh dấu nhập nhà”

buộc phải lấy chàng trai cho dù có đồng ý hay không. Trong xã hội cũ, tục

“bắt vợ” diễn ra thường là do những gia đình nhà trai có quyền thế ép buộc

các cô gái về làm vợ. Khi các cuộc cưỡng hôn này tan vỡ thì thường người

con gái chỉ còn biết đến cái chết. Bởi lẽ, sau khi đã bị “nhập ma” nhà trai, cô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

20

gái có tự ý bỏ về thì bố mẹ cô cũng không thừa nhận nữa. Ngày nay, ở một số

nơi vẫn còn tồn tại phong tục này nhưng đã khác hẳn về tính chất, thường là

do có sự thoả thuận từ hai phía chàng trai và cô gái, để đặt gia đình hai bên

vào một “sự đã rồi”. Hoặc giả, lễ cưới đã được hai bên gia đình chuẩn bị, còn

việc “bắt vợ” chỉ là hình thức để tăng thêm phần thi vị cho đôi lứa mà thôi.

Suy cho cùng, tục “bắt vợ” của người Mông khi gạt bỏ những hủ tục, lại

khẳng định cho tình yêu mãnh liệt và niềm khát khao hạnh phúc, khao khát

hôn nhân tự do đã bị chế ngự và kìm hãm từ bao đời.

Tang lễ của người Mông là một hiện tượng văn hoá đặc sắc phản ánh

những quan niệm về lịch sử xã hội và cộng đồng dân tộc. Tang lễ của người

Mông là một lễ lớn được tổ chức rất chu đáo. Không giống với các dân tộc

khác, người Mông thường tổ chức hai đám tang: đám ma tươi khi người vừa

mới mất và đám ma khô không quy định chặt chẽ về thời gian tổ chức, có thể

tiến hành bất cứ lúc nào khi gia chủ có điều kiện.

Tang lễ của người Mông được diễn ra như sau: Khi có người qua đời, gia

đình sẽ bắn ba phát súng chỉ thiên để báo hiệu. Sau khi phát tang sẽ tiến hành

các nghi lễ. Trước tiên là lễ chỉ đường để người chết tìm đến với tổ tiên gọi là

lễ “khúa kê” (kruôz cê). Ông thầy cho kê một tấm phản gỗ dọc gian giữa và

đặt người chết nằm ngửa trên đó, chân hướng ra ngoài cửa, đầu hướng vào

trong nhà. Sau đó, gia đình chuẩn bị một con dao thường dùng, một cây nỏ

thường dùng, dao được tra vào bao treo ở đầu đòn cây nỏ. Tiếp theo, gia đình

chặt một cây trúc đem về cho thầy làm bút chỉ đường kèm theo một chai rượu,

một cái chén để đưa linh hồn người chết trở về nơi âm phủ và lên thiên

đường. Ông thầy cúng vừa dùng bút chỉ đường (cxinhx ntơưs) nhằm giao tiếp

với người chết, vừa đọc bài “khúa kê” để hướng dẫn hồn người chết tìm về

với tổ tiên. Ông thầy cầm lấy tay phải của người chết giả vờ kéo và gọi dậy ba

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

21

lần rồi mới đi vào bài ca chính:

Mình chết thật hay mình chết giả

Mình chết thật mình quay mặt lại đây

Lắng tai nghe thầy hát ba mươi sáu bài thần, ma

Chỉ đường chỉ lối cho mình biết đường về cùng tổ tiên.

Bài tang ca (kruôz kê) là bài ca duy nhất được sử dụng trong lễ tang nhằm

dẫn lối chỉ đường cho linh hồn người chết đi từ cõi dương về với cõi âm. Nó

được quy định hết sức nghiêm ngặt về việc truyền dạy và sử dụng: Không được

hát bài “khúa kê” trong nhà khi không có người chết; không hát “khúa kê” khi

đi ngang qua các làng bản và khu vực đông dân cư; khi ông thầy đọc “khúa kê”

trong lễ tang thì tất cả những người có mặt ở đó không được ngủ để tránh hồn

của người sống đi theo hồn của người chết sang cõi âm [15].

Người Mông quan niệm phải đến khi làm lễ ma khô, người chết mới

được rửa sạch hết tội lỗi và hồn mới được siêu thoát để đi đầu thai kiếp khác.

Các sinh hoạt cộng đồng khác của người Mông bao gồm sinh hoạt, giao

lưu trong những phiên chợ, những dịp tết, lễ hội. Đặc biệt là những lễ hội

mang đậm bản sắc văn hoá tinh thần của người Mông như lễ hội “Gầu tào”

(gruôv taox), được tổ chức hàng năm. Một ngày lễ lớn của người Mông là Tết

Nguyên đán. Ngày tết, ngoài việc thờ cúng tổ tiên, đi thăm hỏi nhau, người

Mông còn tổ chức nhiều hội vui xuân như hát dân ca, đánh quay, đánh yến …

Sinh hoạt mang sắc thái miền núi nhất của người Mông là “văn hoá

chợ”. Do điều kiện sống khắt khe cho nên chợ vừa là nơi giao lưu mua bán,

giao lưu tình cảm, vừa là nơi để trao đổi kinh nghiệm sản xuất, xây dựng cuộc

sống. Người già đến chợ để gặp gỡ thăm hỏi lẫn nhau, chuyện trò rôm rả bên

nồi “thắng cố”, trong men say ngây ngất của bát rượu ngô; trai gái đến chợ là

làm quen, tìm hiểu, tính chuyện tương lai. Những chiếc ô xoè màu sắc rực rỡ

che má hồng và đôi mắt lúng liếng của cô gái Mông. Những điệu múa khèn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

22

nghiêng ngả đất trời, thăng hoa trong men rượu của chàng trai. Và cả những

tiếng kèn lá, đàn môi vừa rụt rè e ấp, vừa sôi nổi mãnh liệt đã tạo nên một

khung cảnh nên thơ trữ tình đặc trưng của miền núi. Mỗi tuần một phiên chợ

như để xoá đi những lo toan, vất vả của cuộc sống thường nhật, để tâm hồn

mỗi người Mông nở hoa. Từ trước đến nay, nhiều nhà nghiên cúu văn hoá hay

nhắc đến và hết sức quan tâm tới là “chợ tình”. Ở Mèo Vạc (Hà Giang) và Sa

Pa (Lào Cai) đều có chợ tình. Mỗi năm chợ họp một lần vào một ngày nhất

định. Chợ tình là nơi để cho những cặp, những đôi trai gái lỡ duyên tìm về với

nha, tự do tình tự với nhau một đêm để rồi hôm sau mỗi người lại trở về với

cuộc sống hiện tại của mình, những cuộc sống thường trực sự đau khổ và bất

hạnh. Chợ tình đã tồn tại rất lâu với tính nhân văn cao cả của nó trong ký ức

của những người già. Tuy nhiên, hiện nay, bản sắc văn hoá của chợ tình đã mai

một rất nhiều. Đến độ, hàng năm vào ngày 27 tháng 3 âm lịch, chợ tình Khau

Vai (Mèo Vạc - Hà Giang) đã trở thành nơi du lịch của rất nhiều những vị

khách hiếu kì, ta có, tây có, đổ xô đến để mong được tận mắt chứng kiến những

cuộc tình lâm li ai oán, mà phần nhiều chỉ còn diễn ra trong tưởng tượng. Dẫu

sao thì sự xuất hiện “chợ tình” cũng phần nào nói lên được đời sống tinh thần

phong phú độc đáo và giàu bản sắc của dân tộc Mông. Đó là sự biểu hiện của

một hình thức sinh hoạt tinh thần độc đáo và đầy tính nhân văn nhân bản.

“Hội chợ núi mùa xuân” tiếng Mông gọi là hội “Gầu tào” (gruôv taox) là

một lễ hội tiêu biểu nhất của người Mông. Với mục đích cầu mong được mùa

“người yên, vật thịnh”. Hội được một gia đình tổ chức và thông tin để bà con

khắp nơi biết vè dự, thường diễn ra sau tết khoảng vài ngày. Hội được tổ chức

trên một khu đất tương đối rộng rãi, bằng phẳng. Hội “Gầu tào” gồm 2 phần

chính: Phần lễ và phần hội. Ở phần lễ trước đó chủ nhà đã trồng sẵn một cây

nêu (một cây mai để cả lá trên ngọn). Trên ngọn cây treo một mảnh vải đỏ.

Sau khi cúng tổ tiên ở nhà, gia chủ đặt dưới gốc nêu một mâm cúng, cầu khẩn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

23

các lực lượng siêu nhiên phù hộ cho họ có con trai, làm ăn khấm khá. Tiếp

đến là bắt đầu phần hội. Nhiều trò chơi bổ ích và lý thú như đấu võ, đua ngựa,

bắn súng kíp, bắn nỏ, đánh yến, chọi gà, múa khèn, thổi sáo và thi hát đối đáp.

Đây là dịp để các chàng trai, cô gái thi nhau trổ tài. Những người thắng cuộc

bao giờ cũng được phần thưởng (một bầu rượu, một cây sáo, một chiếc đàn

môi…). Đám hát “gầu plềnh” (hát đối đáp) thu hút đông đảo nam nữ thanh

niên. Qua đó cũng là dịp để những lứa đôi gặp gỡ, tâm sự và tìm thấy hạnh

phúc của mình. Hết thời gian mở hội, cây nêu được gia chủ đem về làm giát

gường để mong sớm có con; mảnh vải đỏ được gia chủ đem về treo trong nhà

để cầu hồng phúc.

Nhìn chung, “Gầu tào” là một lễ hội lớn, một sinh hoạt văn hoá dân gian

đặc sắc, hấp dẫn và hết sức lành mạnh. Có thể nói phong tục tập quán là một

phần cuộc sống của mỗi cộng đồng. Nó tạo nên sự phong phú và góp phần qui

định diện mạo, tích cách và tâm hồn mỗi dân tộc. Phong tục tập quán của người

Mông mang đạm bản sắc riêng, được hình thành một phần do điều kiện sống ở

những miền núi cao, hẻo lánh và hoang dã. Nó góp phần khắc hoạ một dấu ấn

riêng không thể trộn lẫn trên gương mặt của cộng đồng người Mông. Vừa bất

tử khi vượt qua cả không gian và thời gian để trường tồn trong kho tàng văn

học dân gian phong phú, vừa là niềm cảm hứng sáng tạo cho những tác giả cả

người Mông và các dân tộc khác trong những sáng tác thơ văn hiện đại.

1.1.3. Đặc điểm về đời sống tâm linh

Môi trường sống trên núi cao đã tạo cho người Mông một tâm hồn phóng

khoáng, ưa tự do, không cam chịu bất cứ một sự trói buộc nào. Mọi sự việc

diễn ra trong cuộc sống với người Mông đều là đơn giản. Người Mông xem

xét, đánh giá con người chỉ cột ở việc làm cụ thể chứ không cốt ở lời nói. Tư

duy của người Mông thiên về lối tư duy trực giác. đặc điểm nổi bật ở người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

24

Mông là niềm tin và lòng tự trọng.

Người Mông quan niệm “vạn vật hữu linh”. Tất cả sự vật hiện tượng

trong cuộc sống đều có linh hồn. Con người cũng có phần xác và phần hồn.

Vì thế mới có tục cúng ma tươi và ma khô, tức là để người chết gột rửa sạch

tội lỗi, hoá kiếp để đầu thai làm kiếp khác. Sống trên trần thế, với người

Mông cũng chỉ là sống tạm nên hết sức thanh thản. Điều đó lí giải tại sao khi

cuộc sống không được toại nguyện hoặc khi bất lực trước thiên nhiên, người

Mông dễ tự tử để hy vọng vào kiếp khác. Nhất là những đôi trai gái yêu nhau

không lấy được nhau, ăn lá ngón tự tử và hứa sẽ “cầm ô đứng đợi nhau trên

cổng nhà trời”.

Theo ý niệm của người Mông, thế giới này thuộc về các thần linh cai

quản, gồm có 3 tầng: Tầng trời, tầng giữa (trần gian) và tầng dưới lòng đất

(địa ngục). Vị thần vĩ đại nhất của muôn loài là trời. Tầng trời là nơi cư trú

của Ngọc Hoàng và các thần như thần Sấm, thần Sét, thần Mưa … và còn là

nơi sinh sống của các ma tổ tiên. Tầng giữa - trần gian (ntiêx têz) là nơi cư trú

và sinh sống của con người muông thú, cây cỏ … tầng dưới cùng là địa ngục,

còn gọi là “đáy trần gian” (kangz ntiêx têz) chỉ là một nơi tối om, nằm sâu

trong lòng đất. Người Mông luôn tin rằng, khi con người chết đi, hồn ma

được đoàn tụ với tổ tiên. Hồn con người tồn tại vĩnh viễn nên chết chỉ là một

sự hoá kiếp.

Trong trí tưởng tượng của người Mông, có nhiều loại thần linh và ma

khác nhau. Trong thế giới âm, các loại ma quỉ, thần thánh được chia làm 2

loại: Ma lành và ma dữ. Ma lành bảo vệ cho cuộc sống của con người nên

phải được tôn trọng, quan tâm tới việc cúng bái một cách chu đáo, đúng kỳ

hạn; ma dữ là ma chuyên làm hại người và gia súc, mùa màng. Nếu được

cúng bái kịp thời ma dữ cũng sẽ giảm bớt đi sự hung dữ.

Tục thờ cúng tổ tiên của người Mông cũng có phần khác với người Kinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

25

hay các dân tộc khác. Tuỳ từng dòng họ mà trong nhà có hoặc không có bàn

thờ. Bàn thờ của người Mông thường được đặt ở vách hậu gian giữa và được

cố định để thờ cúng quanh năm. Trên đặt 3 ống tre để cắm hương (ống giữa

thờ tổ tiên, ống bên phải thờ thần trông coi gia đình, ống bên trái thờ thần

chăm sóc sức khoẻ các thành viên trong gia đình) [37]. Sáng mồng một tết,

các gia đình người Mông thường mổ một con gà để cúng tổ tiên. Chủ nhà nhổ

một ít lông gà nhúng vào bát tiết sau đó đem dán lên bàn thờ. Sau khi cúng

mời tổ tiên, gia chủ dán những tờ giấy bản vào công cụ sản xuất, đồ đạc trong

nhà để ma các đồ vật đó được ăn tết và phù hộ cho gia đình. Khi gia đình có

đám cưới, đám tang hay có người ốm đau, người Mông cũng cúng mời ma

nhà về phù hộ. Trong nghi lễ thờ cúng, người Mông có một số kiêng kị như

chỉ có con trai mới được đến gần bàn thờ; khách đến chơi không được ngồi

quay lưng lại bàn thờ vì làm như vậy tổ tiên sẽ phật ý. Ma tổ tiên là ma lành

nhưng nếu không thờ cúng một cách chu đáo, ma tổ tiên sẽ nổi giận và gây ra

ốm đau cho con cháu. Vì vậy, việc thờ cúng ma tổ tiên được các gia đình

người Mông thực hiện và duy trì hết sức cẩn thận.

Hệ thống thần bản mệnh trong quan niệm của người Mông rất phong phú

và đa dạng. So với một số dân tộc khác thì hệ thống thần bản mệnh này ít bị

pha tạp bởi các yếu tố tôn giáo mà tương đối thuần nhất. Đó là các loại ma

nhà gồm: ma cửa, ma buồng, ma giữ của, ma góc nhà, ma cột chính… Từ

quan niệm đó dẫn tới một số kiêng kị mang tính chất phong tục như: Người

có thai không được bước qua cửa vào xông đất vì làm như vậy sẽ làm cho ma

cửa sợ hoặc bị ngã khiến cả năm đó gia chủ sẽ gặp những điều không may

mắn; người lạ không được tựa lưng vào cột chính, không treo quần áo hoặc

các thứ khác lên cột; người lạ không được bước qua cửa buồng. Ngày tết

không được thổi hơi vào bếp lửa vì sợ năm đó hơi lửa sẽ bùng to cháy nhà;

không dẫm chân lên bếp vì sợ ma bếp tức giận bỏ đi. Ở một số nơi, người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

26

Mông kiêng con dâu không được lên gác…

Đời sống tâm linh là nơi trú ngụ của những niềm tin mang tính tôn giáo.

Đó là những niềm tin mãnh liệt tạo dựng lên sức mạnh tinh thần. Xét dưới

góc độ nào đó, quan niệm và niềm tin chính là ý nghĩa mục đích của cuộc

sống. Dân tộc Mông gan dạ, quật cường, có bản lĩnh vô song vì họ có niềm

tin và biết khơi dậy niềm tin. Đó là mặt mạnh đồng thời cũng là một hạn chế

lớn của người Mông trên con đường tìm đến với cuộc sống văn minh và

hạnh phúc.

1.1.4. Đặc điểm về ngôn ngữ, chữ viết

Tiếng Mông là tiếng nói của khoảng 80 vạn người Mông ở nước ta. Mông

(HMôngz) là tên gọi có nghĩa là “người”. So với một số dân tộc ít người khác

sống trên cùng một địa bàn thì người Mông sống tương đối tập trung. Đây là

một điều kiện thuận lợi để tiếng Mông có thể phổ biến và phát triển.

Tiếng Mông thuộc họ Nam Á, ngữ hệ Mèo - Dao. Ở Việt Nam, nhóm

Mèo - Dao gồm có các ngôn ngữ: Mông, Dao, Pà Thẻn.

Người Mông có 5 ngành, tương ứng là 5 phương ngữ. Đó là các tiếng

Mông Đỏ (Mông trắng), Mông Lềnh (Mông hoa), Mông Si (Mông đỏ), Mông

Đu (Mông đen) và Mông Sua (Mông xanh). Tiếng Mông là ngôn ngữ thuộc

loại hình đơn âm tiết có cấu trúc âm tiết gồm: Âm đầu, vần và thanh điệu.

Tiếng Mông có 58 phụ âm, 25 vần; âm chính gồm có 11 nguyên âm đơn và 5

nguyên âm đôi. So với tiếng Việt, tiếng Mông hạn chế về âm cuối, chỉ có bán

nguyên âm I, u và phụ âm nh, ng giữ vai trò âm cuối (tiếng Mông đỏ không

có). Tiếng Mông có đến 8 thanh điệu [3]. Về cơ bản, tiếng Mông là một ngôn

ngữ thống nhất. Sự thống nhất của tiếng Mông thể hiện rõ nhất ở ngữ pháp.

Giữa các ngành Mông không có sự phân biệt về đặc trưng cấu tạo từ, về

phương thức ngữ pháp, về trật tự các thành phần câu… Vốn từ cơ bản của các

ngôn ngữ Mông cũng không có sự khác biệt lớn. Theo điều tra ngôn ngữ học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

27

1955 - 1957 (của Nguyễn Văn Chỉnh), chỉ có tiếng Mông Xanh là khác biệt

lớn nhất về vốn từ cơ bản với 21,3%, còn các ngành Mông khác chỉ khác biệt

khoảng 4% đến 7 %.

Hệ thống phụ âm, thanh điệu giữa các ngành Mông cũng một số khác

biệt, hệ thống âm vị có thêm bớt một vài trường hợp, song nhìn chung, cơ cấu

phụ âm và thanh điệu của các ngành Mông là thống nhất và người Mông các

vùng có thể giao tiếp với nhau một cách bình thường.

Người Mông luôn khao khát có chữ viết, điều này thể hiện ở những trang

giấy bản thờ cúng tổ tiên, thánh thần và đốt đi cho người chết. Những tờ giấy

bản được đục lỗ theo hình dọc, giống như các dòng chữ nho, người Mông cho

đó là chữ của dân tộc mình từ xa xưa đã bị lấy cắp và mất đi vì một lí do nào

đó. Giấy bản đục lỗ được dùng trong mọi lễ hội, tang ma, hôn nhân. Lời

khấn thỉnh cầu của thầy cúng cùng người sống được ẩn vào trong giấy bản và

được đốt đi để theo về cõi âm.

Tiếng Mông là một ngôn ngữ vốn không có chữ viết. Năm 1961, phương

án chữ Mông được Chính phủ Việt Nam phê chuẩn (theo Nghị định 206/CP

ngày 27/11/1961 về việc phê chuẩn phương án chữ Thái, Tày, Nùng, Mèo),

đưa vào sử dụng thống nhất trong cả nước. Chữ Mông ở Việt Nam là bộ chữ

được dựa trên hệ thống kí tự Latin theo nguyên lý ghi âm, trên cơ sở ngữ âm

của ngành Mông Lềnh ở Sa Pa - Lào Cai, có bổ sung thêm một số âm vị của

các ngành Mông khác. Những năm 70, phong trào học chữ Mông phát triển

khá mạnh ở hầu hết các tỉnh miềm núi phía Bắc, nơi có đông đồng bào Mông

sinh sống. Đến nay, do nhiều nguyên nhân, tình hình học chữ Mông đã không

còn phát triển.

Tuy nhiên, chữ Mông còn có một số khiếm khuyết gây khó khăn cho

người sử dụng. Trước hết, hệ thống chữ Mông có quá nhiều kí hiệu ghi các

biến thể khác nhau của một âm vị; có kí hiệu ghi một số âm chỉ có ở từ vay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

28

mượn, chỉ tồn tại ở một số vùng hoặc chỉ có một số người phát âm được, còn

đa số người Mông lại không hề biết đến. Một khiếm khuyết khác làm cho

nhiều người Mông băn khoăn là vẻ cách biệt quá xa giữa chữ Mông với chữ

Quốc ngữ, biểu hiện ở chỗ chữ Mông sử dụng chữ cái để ghi thanh điệu, việc

này khiến cho người sử dụng có những nhầm lẫn trong việc phân biệt chữ cái

ghi phụ âm với chữ cái ghi thanh điệu... Bởi có những bất hợp lý như vậy,

một số nhà nghiên cứu cách đây vài chục năm đã có những đề nghị cải tiến

chữ Mông, nhưng cho đến nay, công việc này vẫn chưa được tiến hành [3].

Hiện nay, chữ viết của người Mông trên các nước đã thống nhất cùng

một loại. Đó là bộ chữ được xây dựng theo kiểu chữ Latin, do một nhà văn

người Mông nhập cư ở Mỹ sáng lập ra từ những năm 70. Do sự phát triển

bùng nổ của thông tin đã tràn lan vào đời sống xã hội trong các cộng đồng

Mông ở các nước, sự thống nhất về chữ viết đã làm cho người Mông trên

khắp thế giới cùng thống nhất được một tiếng nói đó là tiếng Mông Đơ (Mông

Trắng). Bởi người Mông ở các nước có nền văn hoá phát triển như Thái Lan,

Mỹ, Pháp, Úc, Lào... đều là người Mông Trắng [18].

Có thể nói rằng, ngôn ngữ Mông không chỉ chiếm một vị thế đặc biệt

trong đời sống của đồng bào Mông mà còn góp phần quan trong trong việc

phát triển đời sống văn hoá xã hội ở các khu vực miền núi Việt Bắc, Tây Bắc.

Ngôn ngữ Mông là công cụ để những trí thức Mông bước đầu biểu hiện đời

sống tâm hồn của người Mông qua những sáng tác thơ văn bằng tiếng dân tộc.

Nhờ đó mà ngay từ những năm 60, thơ hiện đại dân tộc Mông đã có mầm

mống của sự hình thành và phát triển. Những sáng tác đầu tiên bằng tiếng dân

tộc đã là động lực để những tác giả người Mông thêm yêu mến tự hào về quê

hương của mình, là chiếc cầu nối để những tác giả người Mông bước nhanh

tới đời sống văn học, vững vàng hơn trong những sáng tác bằng tiếng phổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

29

thông sau này.

1.2. Vài nét về thơ ca dân tộc Mông

1.2.1. Thơ ca dân gian

Cùng với chiều dài lịch sử, dân tộc Mông sớm có một nền văn học dân

gian phong phú, đa dạng phản ánh đời sống văn hoá cũng như tâm tư nguyện

vộng của cộng đồng. Các thể loại văn học dân gian của dân tộc Mông cũng

giống như các dân tộc khác như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích và đặc biệt

là thơ ca dân gian với hai mảng chính là truyện thơ và dân ca.

Truyện thơ của người Mông không chỉ chứa đựng những phong tục tập

quán, những cách cảm nhận về đời sống rất đặc trưng của người Mông, mà

còn thể hiện những khát vọng mãnh liệt về tình yêu và hạnh phúc của họ, trải

qua bao những biến cố thăng trầm. Có thể nói, mỗi đề tài trong truyện thơ của

người Mông đều gắn liền với một kiểu nhân vật đặc sắc, đầy cá tính, như các

truyện thơ “A Thào Nù Câu”, “Nàng Dợ Chà Tăng”, “Dìa Pàng - Dùa

phông”, “Nàng Phan- Nồng Dí”... Truyện thơ của người Mông là một quá

trình tự sự hoá dân ca trữ tình. Mỗi truyện thơ là một tác phẩm hoàn chỉnh cả

về cốt truyện lẫn hệ thống nhân vật. Có thể tìm thấy trong truyện thơ quá trình

phát triển của xã hội người Mông; những truyền thống văn hoá và đạo lí,

những phong tục tập quán qua nhiều thế kỷ đã tạo nên bản sắc riêng của cả

một cộng đồng.

Dân ca là một thể loại rất phổ biến trong đời sống sinh hoạt tinh thần của

người Mông. Đó là những bài hát mang nội dung trữ tình, biểu lộ tình cảm,

tâm tư, nguyện vọng của đồng bào trong cuộc sống thường ngày. Ẩn chứa

trong đó bao niềm vui, nỗi buồn và cả trăm ngàn sắc thái, cung bậc tình cảm

khác nhau. Người Mông yêu dân ca với một thứ tình cảm mang tính bản năng.

Với họ cuộc sống chính là một bài dân ca trường thiên bất tận. Đời sống của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

30

người Mông luôn song hành với quá trình lưu truyền và sáng tạo dân ca. Dân

ca trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của người Mông trong

cuộc sống hàng ngày.

Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu, dân ca Mông có thể được phân chia

nội dung thành 5 mảng đề tài chính bao gồm: Tiếng hát tình yêu (gầu plềnh),

tiếng hát cưới xin (gầu xống), tiếng hát làm dâu (gầu ua nhéng), tiếng hát mồ

côi (gầu tú giua) và tiếng hát cúng ma (gầu tuờ).

Tục ngữ của người Mông phản ánh những tri thức và kinh nghiệm sống

của dân tộc trong lịch sử. Trong đời sống và tư duy, tục ngữ thể hiện những

kinh nghiệm sản xuất, cách thức ứng xử, các mối quan hệ xã hội.

Đặc điểm nghệ thuật của tục ngữ nói chung và tục ngữ Mông nói riêng là

ngắn gọn, xúc tích, tuy chứa đựng những nội dung tương đối lớn, nhưng hình

thức mỗi câu lại rất nhỏ “ép chặt thành từng từ như xiết ngón tay thành quả

đấm…, dè sẻn từng tiếng làm cho lời nói cô đọng giàu ý nghĩa”[17]. Tục ngữ

có tính bền vững, ổn định, là những câu nói ngắn gon, dễ nhớ, dễ truyền khẩu,

ít dị bản, là lời ăn tiếng nói của nhân dân. Tục ngữ Mông rất phong phú về ý

nghĩa, cái cụ thể thường gắn liền với cái khái quát, cái cụ thể gắn liền với cái

khái quát và ngược lại:

- Một tay vỗ không kêu

Ba tay vỗ vang rừng

- Nước to dễ sang đò

Người đông dễ làm ăn

Có những câu tục ngữ mang ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ: “Bò có đường bò

cày/ Ngựa có đường ngựa đi”.Trong văn học dân gian Mông, tục ngữ là một

hiện tượng nghệ thuật độc đáo; câu văn ngắn gọn mà phản ánh được nhiều ý

muốn diễn đạt, có nghệ thuật, như một chân lý: “Nói ít nhớ lâu - Nói nhiều

quên mau”, “Gừng già gừng càng cay/ Người già hiểu điều hay”. Tục ngữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

31

ngắn gọn nhưng không khô khan. Có thể tìm thấy trong kho tàng tục ngữ của

người Mông những hình ảnh đẹp đẽ, những cách nói ví von sinh động: “Tiền

bạc trên đá/ Không làm khó nhọc thì không có tiền”, “Có súng không bắn

chim Bồ các/ Có sức không đánh người ăn củ mài”. Nhìn chung, “Tục ngữ có

bao nhiêu hiện tượng phong phú…Và tất cả bao nhiêu thứ đó được chồng lên

một diện tích ngôn ngữ nhỏ hẹp” (L. Ôzêrốp). Tục ngữ góp phần làm phong

phú, sinh động và tô đậm bản sắc văn hoá Mông.

Người Mông rất ưa câu đố. Câu đố trong đời sống xã hội của người

Mông như một hình thức sinh hoạt giải trí lành mạnh và hấp dẫn, như là một

phương tiện đặc biệt để nhận thức và kiểm tra nhận thức về các sự vật, sự

việc, các biểu tượng của thế giới khách quan” [17].

Đồng bào Mông thể hiện những hiểu biết của mình về giới tự nhiên

thông qua các câu đố. Câu đố Mông có vần điệu nhịp nhàng, cân xứng, với

cách kết cấu ngắn gọn, cách gieo vần như tục ngữ: “Không phải đồng, không

phải sắt/ Chặt không đứt, ăn không được” (Nước), “Năm anh em địu năm

viên ngói” (Năm ngón tay). Có khi, vần điệu góp phần gợi lên hình dáng, đặc

điểm hoặc tính chất của vật cần đố. Chẳng hạn: “Cái lồng nho nhỏ/ Có một

chú chim/ Nhảy nhảy đi, nhảy nhảy lại/ Nhảy mãi không thôi” (Quả tim).

Câu đố Mông không chỉ giàu âm thanh mà còn giàu hình tượng. Có khi,

hình tượng được gợi lên bằng cách miêu tả trực tiếp đặc điểm của sự vật:

“Không có cành/Lại có lá/Đầu hoa nhọn, thân quả nhẵn” (Cây chuối); có khi

dáng vẻ bên ngoài của sự vật để sử dụng làm phương tiện để đố. Chẳng hạn,

câu đố về răng và lưỡi: “Ông trắng giã gạo, ông đỏ đào bới”, câu đố về tre,

măng: “Mẹ cởi truồng, con mặc váy”. Có khi, tác giả dân gian nhân hoá sự vật

hiện tượng để chúng có một dáng vẻ như con người: “Cụ già lưng còng/Rốn ở

sau lưng” (Cái vung nồi). Câu đố Mông thường có sự liên tưởng bất ngờ, dí

dỏm và rất trí tuệ. Chẳng hạn, miêu tả động tác xẻ gỗ: “Rắn chui vào sườn đá/

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

32

Mèn mén lại chảy ra”. Có những câu tục ngữ được cấu tạo theo kiểu “đố tục,

giảng thanh” rất sâu sắc và hóm hỉnh: “Không sờ không sưng/ Càng sờ càng

sưng” (cuộn lanh). Với nghệ thuật sử dụng hình tượng, với cách tạo câu và

chơi chữ uyển chuyển, câu đố có khả năng làm cho cuộc sống của người

Mông thêm sinh động, đồng thời nâng cao kiến thức và rèn luyện kỹ năng

quan sát, óc thông minh rất cần thiết cho cuộc sống.

Nhìn chung, thơ ca dân gian Mông tồn tại dưới dạng các làn điệu dân ca,

tục ngữ, câu đố phong phú cả về nội dung lẫn hình thức. Đó là sự thể hiện

những quan niệm về vũ trụ, quan niệm về nhân sinh, là sự cảm nhận về thiên

nhiên, con người và các mối quan hệ tình cảm như tình yêu, hôn nhân, quan

hệ gia đình, xã hội, lối sống và phương thức ứng xử, những kinh nghiệm

trong lao động sản xuất. Bên cạnh đó, thơ ca dân gian Mông nói chung còn

thể hiện tiếng hát than thân, phản kháng những thói xấu và cái ác trong xã hội

bằng một lối tư duy nghệ thuật rất đặc thù trong kết cấu và biểu hiện.

1.2.2. Thơ ca hiện đại

Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số Việt Nam được hình thành và phát

triển từ sau cách mạng tháng tám năm 1945. Nhưng, nói như vậy cũng không

có nghĩa là tất cả các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam

đều có văn học hiện đại nói chung hay thơ hiện đại nói riêng, càng không dễ

để có sự góp mặt vào làng thơ hiện đại Việt Nam những gương mặt nhà thơ

tiêu biểu.

Tuy không có thơ ca hiện đại sớm hơn, hay nói rộng hơn, không có nền

văn học thành văn sớm hơn như các dân tộc Tày, Thái, Mường, Dao … nhưng

thơ ca hiện đại của dân tộc Mông cho đến nay cũng đã có được vị trí và tầm

ảnh hưởng nhất định đối với nền văn học nước nhà.

Theo chúng tôi, thơ ca hiện đại dân tộc Mông xuất hiện sớm nhất là vào

nửa cuối của những năm 60 của thế kỷ XX, được phổ biến chủ yếu ở các khu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

33

tự trị Việt Bắc và Tây Bắc và cũng chủ yếu ở Hà Giang (nơi có khoảng 200

nghìn người Mông sinh sống) và ở Lào Cai (khoảng 110 nghìn người) là

những địa phương có số cư dân Mông sinh sống đông hơn cả.

Hiện cũng không biết chắc chắn những bài thơ đầu tiên của các tác giả

người Mông được in năm nào nhưng theo chúng tôi, một trong những người có

công đầu trong việc dịch thơ của các tác giả dân tộc Mông ra tiếng phổ thông

để giới thiệu rộng rãi với bạn đọc là nhà nghiên cứu văn hoá, văn học dân gian

Minh Khương (1920 - 2001). Ông đã lựa chọn và dịch thơ của một số tác giả

người Mông như Giàng A Páo (Zangz A Paor), Giàng A Lử (Zangz A Lưv),

Sùng A Thào (Shong A Thaox), Sùng A Giàng (Shong A Zangx)… tập hợp rồi

in trong các tập “Hoa chàm nở” (Ty Văn hoá Thông tin Nghĩa Lộ, 1975), “Mặt

trời hoa mây” (Ty Văn hoá Thông tin Hoàng Liên Sơn, 1978).

Thời gian này, xuất hiện một số bài thơ mô phỏng dân ca Mông của

Hùng Đình Quí, được chính tác giả hát trên sóng của Đài Phát thanh Khu tự trị

Việt Bắc, chủ yếu là thơ tuyên truyền, phục vụ cách mạng trong việc vận động

bà con dân tộc Mông ở Hà Giang. Một số bài thơ ban đầu của mã A Lềnh ở

Lào Cai được nhiều người biết đến.

Tuy nhiên, thơ ca hiện đại dân tộc Mông được xuất hiện dưới hình thức

các tập thơ in riêng của các tác giả người Mông thì phải đợi đến những năm

90 của thế kỷ XX với các tập thơ: “Người Mông nhớ Bác Hồ” (1993); “Chỉ vì

quá yêu” (1998) của Hùng Đình Quí. Nhà thơ Mã A Lềnh với các tập “Bên

suối Nậm Mơ” (1995), “Mã A Lềnh thơ” (2002); rồi đến các tác giả trẻ hơn

như Hờ A Di và thế hệ sau này có sáng tác đôi chút thơ văn như Mã Anh

Lâm, Mã Én Hằng, Hùng Thị Hiền xuất hiện trên các báo, tạp chí của các Hội

Văn học Nghệ thuật Trung ương và địa phương.

Thơ ca Mông xuất hiện không nhiều, không dầy dặn và phong phú như

thơ ca của một số dân tộc khác như các dân tộc: Tày, Thái, Mường, Chăm …

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

34

(điều này có lí do riêng của nó) nhưng thơ ca Mông cũng đã xuất hiện và phát triển,

tạo nên một mảng màu riêng biệt, đậm đà bản sắc dân tộc Mông, trong bức

tranh nhiều màu sắc rực rỡ của thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

Nhìn vào đội ngũ các thế hệ người Mông làm thơ hôm nay, quả thật hết

sức khiêm nhường nếu như so với đội ngũ làm thơ của các dân tộc thiểu số anh

em khác. Cứ lấy một tiêu chí “phổ thông” nhất là hội viên Hội văn học nghệ

thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam để khảo sát thì thấy: Số văn nghệ sĩ của

người Mông chỉ có 19 người trong khi con số đó ở dân tộc Mường là 27 người,

dân tộc Thái là 43 người (chúng tôi không dám so sánh với dân tộc Tày là dân

tộc thiểu số có số lượng nhà văn đông hơn cả). Và nếu chỉ tính riêng những

người làm thơ thì con số ấy của người Mông còn giảm đi nhiều [26].

Tuy nhiên, dân tộc Mông cũng đã góp mặt vào Hội nhà văn Việt Nam

hai gương mặt nhà thơ tiêu biểu cho dân tộc mình là Mã A Lềnh (Lào Cai) và

Hùng Đình Quí (Hà Giang). Bên cạnh đó còn có các nhà thơ người Mông

khác là hội viên các hội văn học nghệ thuật các tỉnh và các địa phương.

Thơ ca hiện đại dân tộc Mông mang một bẳn sắc riêng như là một sự soi

chiếu diện mạo tâm hồn dân tộc Mông trong những góc cạnh khác nhau của

cuộc sống cùng những giá trị văn hoá tinh thần được bảo tồn và gìn giữ từ

ngàn xưa và trải qua những cuộc thiên di đầy nước mắt và máu. Thơ ca dân

tộc Mông nói riêng (cũng như một số thơ ca của các dân tộc thiểu số khác) có

“cái độc đáo, đặc sắc riêng của nó, đặc biệt là các bài thơ làm từ tiếng dân tộc,

bằng những hình ảnh hình tượng đậm đặc chất dân tộc và miền núi” [58;53].

Thơ ca hiện đại Mông, trước hết, phản ánh những nét đặc trưng về cuộc

sống, thiên nhiên, con người của cộng đồng Mông. Thiên nhiên ở đây thật

hùng vĩ, tươi đẹp nhưng cũng rất đỗi khắc nghiệt; con người hết sức trung

thực, mộc mạc, nhưng cũng rất mạnh mẽ và phóng túng; cuộc sống ở đây đầy

khó khăn, gian khổ cộng với những hủ tục lạc hậu - nhưng cũng rất phong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

35

phú, đáng yêu và giàu bản sắc.

Người Mông ở chót vót trên những đỉnh núi cao,có những nơi quanh

năm mây mù bao phủ, khí hậu khắc nghiệt như là một thử thách cho sự sinh

tồn: “Từ một đến hai tháng tuyết phủ trắng phau/ giống nương giống rẫy

khoanh tay xếp chân co ro ngồi” (Dân ca Mông). Tuy nhiên, thiên nhiên ở

đây cũng thật đẹp, thật thơ mộng: “Mùa đông mây nằm chưa trôi đi, mây mùa

xuân đã sà xuống/ Ngọn núi và lưng rừng nào cũng đến mùa xuân hoa đào

mới nở” (Núi mọc trong mặt gương- Mùa A Sấu). Thiên nhiên mang một

dáng vẻ kiều diễm, rực rỡ đến choáng ngợp: “Mặt trời nâng hoa mây/ Bồng

bềnh sáng núi đá”. Ở đó, có những con người sống như những nghệ sĩ tài hoa

của núi rừng, vừa mạnh mẽ, phóng túng, vừa mộc mạc, chân thành. Những

con người “hồn nhiên như chim khướu chim ri”, sống hết mình đến tận cùng

yêu ghét; khi yêu thì mãnh liệt đam mê: “Nếu ta là bông tuyết trắng/ Ta xin

tan dưới bàn chân nàng/ Là chàng trai rừng núi/ Ta xin tan trên thân thể

nàng” (Mã A Lềnh); khi ghét thì dữ dội quyết liệt: “ Kẻ nào bụng không tốt tỏ

lời từ trong quả bầu, ta sẽ bóp chết ngay từ trong trứng” (Mùa A Sấu). Từ tư

thế cheo leo của núi, người Mông đã neo đậu, đã tạo nên những bến đỗ vững

vàng. Cuộc sống du canh du cư đói nghèo và lạc hậu đã dần qua, người Mông

đã có một cuộc sống ổn định, ngày một no ấm và hạnh phúc. Thanh âm của

cuộc sống mới vang vọng trong thơ Mông hiện đại với những giai điệu ngọt

ngào. Đó là những “Đồi nương ngô chín vàng/ rộn ràng từng hốc đá”, là

những “Điệu khèn vui xóm núi/ Tiếng đàn môi giục lòng” (Giàng Xuân

Hồ).Đảng và Bác Hồ đã đem lại cho người Mông một cuộc sống mới để

người Mông “ở bền nơi, làm bền nơi” để mà “Trồng chè đầy núi/ Trồng rừng

xanh rờn” (Giàng A Của).

Thơ ca hiện đại dân tộc Mông mang những đặc trưng riêng về nghệ

thuật. Nhiều bài thơ mang hình thức và âm điệu của dân ca với kết cấu đối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

36

ngẫu và lối so sánh ví von trùng điệp. Thơ hiện đại Mông dường như có sự

phân chia thành những xu hướng rõ rệt; Xu hướng trung thành với hình thức

và ngôn ngữ thơ mang tính truyền thống; đại diện cho xu hướng này là các tác

giả: Hùng đình Quí, Mùa A Sấu, Giàng A Páo…; lối thiên về cách tân và

những khám phá thể nghiệm như các tác giả: Mã A Lềnh, Giàng Xuân Hồ và

đặc biệt là các tác giả trẻ như Mã Anh Lâm, Mã Én Hằng…

Cuộc sống hiện đại, sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc ngày

càng phát triển làm cho các dân tộc thiểu số ngày càng tiếp cận và hội nhập

với cuộc sống văn minh. Theo đó, ranh giới khu biệt của bản sắc dân tộc bị

mờ đi. Thơ hiện đại dân tộc Mông bước sang một giai đoạn mới. Nếu như

trước đây, các tác giả người Mông, vốn đã rất ít ỏi, chủ yếu sáng tác thơ bằng

tiếng dân tộc, thì ở những năm đầu của thế kỷ XXI, một lớp trí thức trẻ người

Mông đã làm thơ, viết văn bằng tiếng phổ thông, bình đẳng chan hoà với các

dân tộc anh em khác. Thơ của họ mang sức sống và hơi thở của cuộc sống

hiện đại. Cả cách nghĩ, cách cảm, cách biểu hiện cũng đã có sự khác biệt rạch

ròi vói thơ ca truyền thống: “Mùa đông về trên vòm lá/ Rụng dần những mắt

thời gian/ Mùa đông chạy trên sườn núi/ Ngập ngừng cây cỏ xám dần” (Mã

Anh Lâm).

Từ sau năm 1975, thơ hiện đại dân tộc Mông có sự chuyển hướng về nội

dung đề tài, từ những vấn đề chung, lớn lao của dân tộc sang chiều hướng suy

tư, chiêm nghiệm của mỗi cá nhân về cuộc đời. Thơ dân tộc Mông đi vào

chiều sâu của trí tuệ bằng những suy nghĩ cảm nhận mang dấu ấn cá nhân rõ

rệt: “Đêm thức cùng cha/ Sao khuya nhỏ giọt bên thềm/ Lặng thầm/ Cha miệt

mài trang sách/ Trang sách nối dài rộng bao la…” (Mã Ngân Hà).

Ngôn ngữ hình ảnh thơ đã thoát khỏi sự ảnh hưởng nặng nề của thơ ca

truyền thống dân tộc Mông để từ đó, mỗi nhà thơ tạo cho mình một giọng

điêụ riêng, khó trộn lẫn, “chính điều đó đã đem lại sự khoáng đạt trong tâm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

37

hồn. Cũng chính vì như vậy những hình ảnh phong phú của ngôn ngữ dân tộc

được phát huy, ý tưởng thơ cũng được khắc sâu hơn” [66]. Thơ hiện đại Mông

đã phần nào bắt nhịp và chan hoà vào dòng chảy của thơ ca đương đại. Xuất

hiện ngày càng nhiều những bài thơ giàu triết lý, nhiều lớp nghĩa, mang dấu ấn

rõ rệt của lý trí nhưng không vì thế mà mất đi những nét bản sắc dân tộc.

Thơ ca hiện đại Mông đã đóng góp cho thơ ca các dân tộc thiểu số nói

riêng và thơ ca Việt Nam nói chung một số thành tựu không thể phủ nhận. Đó

có thể là một màu sắc trên tấm hoa văn thổ cẩm của thơ ca các dân tộc thiểu

số; là một giai điệu bổng trầm đầy quyến rũ trong bản hoà tấu của thơ ca hiện

đại Việt Nam. Chính vì vậy mà những sáng tác của các nhà thơ Mông đã được

ghi nhận bằng nhiều giải thưởng quan trọng của Hội nhà văn và các Hội Văn

học nghệ thuật từ Trung ương đến địa phương. Những tên tuổi đại diện cho

thơ Mông hiện đại phải kể đến là các nhà thơ Mã A Lềnh, Hùng Đình Quí.

Bên cạnh đó,nhiều tác giả thơ người Mông khác như: Giàng A Páo, Mùa A

Sấu, Hờ A Di… đã được công chúng yêu văn học trong cả nước phần nào biết

đến và được cộng đồng người Mông ghi nhận. Thơ của họ đã trụ lại được và

nảy mầm, đơm hoa, kết trái trong trái tim và lòng mến mộ của đồng bào.

Mặc dù thơ hiện đại Mông vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định: Với

một đội ngũ sáng tác còn mỏng và không đồng đều; với những hạn chế trong

việc sử dụng ngôn ngữ thơ bằng tiếng phổ thông của một số tác giả; với vốn

sống, vốn văn hoá và năng lực bản thân của người cầm bút, chưa thể phản

ánh, biểu hiện được đầy đủ về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống và con người

của dân tộc Mông; những phong tục tập quán, đời sống tinh thần, sinh hoạt

phong phú và giàu bản sắc chưa được chuyển tải vào thơ như sự thi vị vốn có

của nó. Cốt cách, tâm hồn con người dân tộc Mông chưa được bộc lộ một

cách toàn diện. Tuy nhiên, những gì mà thơ hiên đại dân tộc Mông đã đạt

được là hết sức đáng trân trọng.Dù chỉ là những vạt nắng mong manh toả ánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

38

trên những đỉnh non cao hùng vĩ, thơ hiện đại dân tộc Mông cũng đã giúp

chúng ta phần nào nhận ra những nét phác thảo về chân dung tinh thần của

một dân tộc mà cho đến nay, vẫn đang phần nào còn là bí ẩn.

Có thể nói rằng, với tất cả những gì đã có, những thành công, thành tựu

và cả hạn chế của thơ ca hiện đại dân tộc Mông, chúng ta vẫn có quyền mừng

vui và phấn khởi vì sự góp mặt của thơ ca hiện đại Mông trong đời sống văn

học đương đại nói chung và nền thơ Việt Nam hiện đại nói riêng.

Những nhà thơ, dù tài giỏi đến đâu, cũng không thể tạo dựng được bản

sắc văn hoá cho dân tộc mình. Chỉ có bản sắc dân tộc góp phần vẽ lên diện

mạo tính cách của nhà thơ; phong tục tập quán nuôi dưỡng tâm hồn họ. Hành

trình của dân tộc là đôi cách để họ bay xa. Dân tộc Mông cho dù không phải

là một dân tộc thiểu số xuất hiện sớm trên mảnh đất Việt Nam quần tụ hơn 50

dân tộc anh em, cũng không phải là dân tộc có may mắn để có được những

điều kiện thuận lợi trong quá trình sinh tồn và phát triển. Bù lại, dân tộc Mông

có một bề dày lịch sử đầy đau thương nhưng cũng rất đỗi hào hùng từ sự khởi

đầu của một “Vương quốc Miêu‟ với một nền văn minh lúa nước đến khi lưu

lạc phong trần của những cuộc thiên di đến Việt Nam sống kín đáo và khiêm

nhường trên các đỉnh núi cao, vẫn kiên trung một phẩm chất, một bản lĩnh

mạnh mẽ đến táo bạo. Những phong tục tập quán, đời sống tinh thần, đời sống

tâm linh của người Mông là một kho tàng phong phú và bí ẩn, tạo nên một cốt

cách Mông và được in dấu trong một nền thơ ca phong phú, từ thơ ca dân gian

đến thơ ca hiện đại. Giá trị thơ ca của một dân tộc không phải chỉ được đánh

giá bằng số lượng bề dày các tác phẩm, bằng đội ngũ đông đảo các nhà thơ,

mà còn bằng cả những nét riêng biệt, độc đáo, đầy cá tính và bản sắc trong

thơ ca của dân tộc đó. Thơ ca hiện đại Mông có sự kế thừa và phát triển từ

một nền văn học dân gian phong phú; có sự sáng tạo bằng tấm lòng yêu mến

thơ ca và thái độ trân trọng những giá trị văn hoá truyền thống của các nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

39

thơ; được nuôi dưỡng từ chiếc nôi thiên nhiên vừa hùng vĩ hoang sơ vừa thơ

mộng trữ tình, con người vừa mạnh mẽ quyết liệt vừa lãng mạn tài hoa; cuộc

sống vừa khắc nghiệt vừa tràn đầy thi vị. Tất cả được chiếu rọi qua một lăng

kính kì diệu là tâm hồn các nhà thơ để dệt thành những tứ thơ vừa chân thực,

vừa tràn đầy cảm xúc. Đó mới chính là những nét hoa văn độc đáo và đặc sắc

trên tấm “hoa văn thổ cẩm” được thêu dệt bằng đôi bàn tay khéo léo, bằng sự

cần mẫn và sự sáng tạo của tất cả dân tộc thiểu số anh em, góp phần tạo nên

một “nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, một nền thơ ca

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

40

Việt Nam phong phú vừa truyền thống vừa hiện đại.

Chƣơng 2

THƠ MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI - BỨC TRANH

SINH ĐỘNG VỀ THIÊN NHIÊN, CUỘC SỐNG, CON NGƢỜI

CỦA MỘT DÂN TỘC ĐẦY BẢN SẮC

2.1. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, do tâm lí mặc cảm, tự ti và do đến

muộn, dân tộc Mông ở Việt Nam thường lựa chọn những nơi hẻo lánh nhất,

thường là chót vót các đỉnh núi cao để sinh sống [57] [37]. Khu vực cư dân

đông nhất của người Mông là địa bàn các tỉnh ở Việt Bắc và Tây Bắc dọc

theo biên giới Việt Trung và biên giới Việt - Lào. Tuy nhiên, khi lí giải về

việc người Mông ở núi cao, nhà nghiên cứu văn học dân gian Giàng Seo Gà ở

Lào Cai lại cho rằng, người Mông có cả một truyền thuyết gắn liền với phong

tục sinh sống ở vùng núi cao của dân tộc mình [15]. So với các dân tộc thiểu

số khác ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, có lẽ người Mông ở cao nhất.

Những đỉnh núi cao quanh năm mây phủ, thiên nhiên vừa hoang dã, khắc

nghiệt vừa hùng vĩ và rất đỗi nên thơ đã tạo nên một nét đặc trưng về hoàn

cảnh sống của người Mông. Ở đó, người Mông vừa lệ thuộc hoàn cảnh vừa

tìm mọi cách để chế ngự hoàn cảnh.

Từ khởi thuỷ là một nền văn minh lúa nước [18] [37], sau các cuộc thiên

di phải sống bám vào núi với hình thức canh tác chủ yếu là nương rẫy, là một

thử thách lớn lao và quyết liệt. Người Mông không chỉ chấp nhận cuộc sống

đó mà còn bằng lòng thậm chí thật tự hào khi có được một quê hương.

Người Mèo ta cũng có quê

Quê ta là Mèo Vạc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

41

(Dân ca Mông)

Tình cảm quê hương từ bao đời nay, ở đâu cũng vậy, đều là một thứ tình

cảm thiêng liêng, thiết tha gắn bó như máu thịt, chính vì vậy mà viết về quê

hương bao giờ cũng có được sự chân thực và cảm động. Cùng sống trong cái

nôi chung của vùng Việt Bắc, Tây Bắc, nhưng mỗi dân tộc lại có một cách

cảm nhận về quê hương khác nhau. Người Tày, người Nùng lựa chọn các

lòng thung, các bãi bằng để canh tác lúa nước; người Mường, người Thái định

cư trên thượng nguồn các con sông; người Dao sống bám vào các triền núi

thấp; người Mông sống cheo leo trên các đỉnh núi cao. Và thế là mỗi dân tộc

có một khung cảnh thiên nhiên riêng của mình để gửi gắm tâm tư.

Viết về thiên nhiên miền núi, các nhà thơ người Kinh thường bị chi phối bởi

vẻ hùng vĩ đến choáng ngợp để rồi chìm đắm trong những tình cảm yêu mến

mới lạ. Nhà thơ Bùi Minh Quốc thể hiện tâm trạng của mình khi lần đầu đến

Tây Bắc: “Xe chạy nghiêng nghiêng trèo dốc núi/Lên miền Tây vời vợi nghìn

trùng/Lên miền Tây, ta làm bạn núi rừng...”

Hay cảm nhận của nhà thơ Xuân Diệu khi đến với Sa Pa: “Sa Pa hè mát

hơn thu/Chỉ làn gió nhẹ cũng ru hồn người”.

Những câu thơ như vậy, dù có mới mẻ về câu chữ nhưng vẫn chưa thấy

được cái hồn của miền núi. Ra xun Gamzatop nói: “Không ai hiểu rõ cái nhà

bằng chính bốn bức tường của nó”. Phải để người miền núi viết về miền núi,

người dân tộc viết về người dân tộc thì những bí mật của tâm hồn con người

và thiên nhiên mới được hiển lộ. Phải là người đã từng sống ở vùng cao thì

mới viết được những câu thơ như thế này:

Trên núi cao gió reo đã thích

Trăng ở rừng mới say...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

42

(Dương Thuấn)

Rất tự nhiên. Đó là cái thế của “người trong cuộc”. Phải sống và gắn bó

sâu nặng, hết lòng với núi cao, mới viết được những câu thơ chân thực đến

giản dị:

Quê tôi giữa rừng núi điệp trùng

Mùa đông lạnh hơn

Vì nỗi buồn của đá

(Nông Thị Minh Hoà)

Trên tận những đỉnh núi cao dường như vượt qua cả cảm nhận và điểm

nhìn của người Tày, người Thái, người Dao ở Việt Bắc và Tây Bắc, là quê

hương của người Mông. Người Mông sống ở trên đỉnh của sự dữ dội, trên

đỉnh của sự hùng vĩ và cả trên đỉnh của sự thơ mộng của thiên nhiên. Vì thế,

thiên nhiên của người Mông là một điều kiện sống vừa khắc nghiệt, vừa nên

thơ mà không phải bất cứ dân tộc nào cũng có được (hay phải chịu đựng). Có

thể nói một cách không khoa trương rằng núi cao của người Tày, người Thái,

người Mường, người Dao... là đất bằng của người Mông. Từ đỉnh cao

Phanxipăng (Lào Cai) đến cổng trời Lũng Cú (Hà Giang); từ những cánh rừng

già Tây Bắc đến cao nguyên đá Đồng Văn, đều là quê hương của người Mông.

Có lẽ chẳng có nơi nào trên đất nước Việt Nam này mà thiên nhiên lại khắc

nghiệt đến như vậy: “Từ một đến hai tháng, tuyết phủ đến trắng phau/Giống

nương giống rẫy khoang tay xếp chân co ro ngồi” (Dân ca Mông). Thiên

nhiên của người Mông có sự khác biệt với thiên nhiên của các dân tộc khác

không hẳn chỉ ở độ cao về mặt địa lý mà chính là ở cái thế cheo leo trên

những đỉnh núi chót vót. Chính vì thế mà khi viết về núi non, nhà thơ của các

dân tộc khác thường có điểm nhìn từ dưới lên cao với một cảm giác choáng

ngợp trước sự trùng trùng, điệp điệp của núi non hùng vĩ: “Núi bế núi/ Núi thi

nhau đan rào/ Phên tiếp phên chồng chất” (Núi đan rào - Lò Văn Cậy). Thậm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

43

chí, núi non hiểm trở đối với họ đầy uy nghi, dữ dội đến khốc liệt: “Vách núi

Lỷ như gấu đứng ưỡn bụng sẽ cào/ Vách núi Sáng như hổ dựng cao thân sắp

chộp” (Cầu Nôi - Vương Trung). Người Mông lại không có cảm giác đó. Bởi

một điều đơn giản: “ Người Mông ta trên núi/ Rừng trập trùng mây bay mây

lượn” (Giàng A Páo). Tư thế của người Mông là tư thế ở trên cao, điểm nhìn

của người Mông là điểm nhìn từ đỉnh núi nhìn xuống, nên tầm nhìn thật

phóng khoáng và bao quát được cả một không gian rộng:

Ôi! bầu trời ngọn núi cao ơi

Miền núi cao như bức tranh đẹp hiện trong mặt gương

Mùa đông mây nằm chưa trôi đi, mây mùa xuân đã sà xuống

Ngọn núi và lưng rừng nào cũng đến mùa xuân hoa đào mới nở

(Núi mọc trong mặt gương - Mùa A Sấu)

Chỉ có ở chót vót trên những đỉnh non cao của người Mông mới có được

cảm giác này:

Mặt trời nâng hoa mây

Bồng bềnh sáng núi đá

(Mặt trời hoa mây - Giàng A Páo)

Ngay cả cách tả núi của những nhà thơ Mông cũng có sự khác lạ, lạ ở

cách nhìn nhận, cách cảm, lạ ở sự liên tưởng độc đáo và táo bạo:

Núi Malipho là núi đầu rồng

Dông Malipho là dông núi xếp

Đường Malipho là đường ngang núi

Lối Malipho là sợi chỉ xuyên qua sống váy Mèo

(Malipho - Mùa A Sấu)

Hình ảnh điển hình cho một thiên nhiên khắc nghiệt- nơi người Mông

sinh sống- đó là cao nguyên đá. Trong thơ Mông hiện đại xuất hiện rất nhiều

hình ảnh đá núi. Đá núi đầu tiên và cuối cùng vẫn là nơi chở che, nương tựa,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

44

làm vơi đi những day dứt, ám ảnh về một quá khứ đầy bi thương của dân tộc

Mông: “Quá khứ trầm luân nặng nề trong ký ức/Chiếc nôi êm là tảng đá giữa

non ngàn” ( Mã A Lềnh). Hình ảnh người đàn ông dân tộc Mông với “mái

đầu trơ một mỏm đá hoang” gợi lên một sự so sánh liên tưởng rất thú vị và

độc đáo về sự từng trải đến chai sạn, kết tinh những sương gió cuộc đời. Đá

núi trong cách nhìn của những nhà thơ Mông là một thế giới sống động, có

tính cách và tâm hồn: “Đá nằm như hổ rình mồi/Đá đứng như trâu gặm cỏ/Đá

vươn như ngựa phi giữa nắng chiều tà”(Đá ở Sapa - Mã A Lềnh). Phải là

những người “sống trên đá không chê đá gập ghềnh” thì mới có được một cái

nhìn và tình cảm gắn bó thân thiết với đá núi đến như vậy.

Thiên nhiên của người Mông không chỉ dữ dội, khắc nghiệt mà còn rất

đáng yêu, rất thơ mộng, lãng mạn. Không chỉ có đá núi, ở “vòm trời khoảnh

đất quê mình” còn có tiếng “chim diều chim cắt kêu”, có những “Đồi nương

ngô chín vàng/Rộn ràng từng hốc đá”(Giàng Xuân Hồ); có tiếng chim Câu

Kỷ Giàng gọi mùa, tiếng chim “Đá Lâu” bên sườn núi; có “Cúc cu kêu tiếng

rõ rành rọt/ Kêu cho trời nắng thúc ngô vàng” (Hùng Đình Quí); có “hoa

rừng hoa núi đua nhau nở”; có “Triền núi cao sinh ra cây vàng/Lòng núi cao

sinh ra măng bạc”. Thiên nhiên ở trên những đỉnh núi cao có sự thơ mộng

riêng, vắng vẻ nhưng không lạnh lẽo, thậm chí còn ấm áp tưng bừng với “Bầy

ong tung tăng đi hút nhuỵ hoa gianh/Hoa gianh trắng ngà ấm áp” (Giàng A

Của); những thửa ruộng bậc thang ngày mùa báo hiệu một cuộc sống no ấm

“Bậc thang vút lên mây/Mùa vào thơm lúa chín/Hương lúa tràn quê hương”.

Thiên nhiên gắn bó với người Mông, đến nỗi, mỗi địa danh đều trở lên trĩu

nặng ân tình, đều đẹp đến lãng mạn: “Phi Lềnh là sống núi bay/ Tử Củ Thảng

là vùng tê giác/ Cắng Đinh Nhà là điếu thuốc bạc” (Mùa A Sấu).

Quê hương của người Mông không có đồng bằng, điều đó đã rõ ràng.

Quê hương của người Mông không có những dòng sông, điều đó cũng rõ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

45

Dòng Nho Quế (Hà Giang) đã có người Nùng, người Dao, người Kinh làm

chủ; thượng nguồn sông Đà, sông Mã và cả sông Hồng ở Tây Bắc cũng đã là

xứ sở của người Dáy, người Thái, người Mường... người Mông chỉ còn nhận

cho mình những đỉnh núi cao ngất tạnh mù khơi; nhận cho mình mặt trời và

sương mây làm gia sản truyền đời. Nhưng không vì thế mà thiên nhiên của

người Mông mất đi sự tình tứ, thơ mộng. Trái lại, nó hoang dã và bí hiểm,

đắm say lòng người. Ở đó người Mông thênh thênh sống, thênh thênh bước và

thênh thênh bộc lộ những vui buồn. Dẫu còn nhiều hạn chế, nhưng những sứ

giả của tâm hồn dân tộc Mông - những nhà thơ Mông hiện đại như Mã A

Lềnh, Hùng Đình Quí, Mùa A Sấu, Giàng A Páo, Giàng Xuân Hồ... đã ít

nhiều bộc lộ được những tình cảm yêu mến và gắn bó thiết tha với thiên

nhiên, như là một sự tri ân đối với những ngọn núi đã nuôi dưỡng cuộc đời và

tâm hồn họ.

2.2. Hình ảnh con ngƣời và cuộc sống vùng cao trong thơ dân tộc Mông

thời kỳ hiện đại

2.2.1. Con người dân tộc Mông chân chất, mạnh mẽ và tài hoa

Sống giữa một thiên nhiên vừa hùng vĩ hoang sơ, vừa thơ mộng trữ tình

đến như vậy, con người dân tộc Mông cũng mang những đặc trưng riêng cả về

hình thức, tâm hồn và tính cách, dễ nhận ra và khó có thể trộn lẫn với bất cứ

một dân tộc nào khác. Thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại đã phần nào khắc

hoạ được những hình ảnh con người Mông đầy cá tính và bản lĩnh. Đó là

những con người vừa chân thật chất phác đến thơ ngây, vừa mạnh mẽ phóng

túng đến ngang tàng; khéo léo đến độ tài hoa; vừa chan hoà giữa thiên nhiên

vừa nổi bật giữa thiên nhiên như những nghệ sĩ của núi rừng.

Chân thật, chất phác là đặc điểm dễ nhận thấy ở người miền núi nói chung

và người dân tộc Mông nói riêng. Những người Mông dù mang họ Mã, họ

Thào, họ Sùng hay họ Giàng đều có thể đối xử với nhau một cách chân thành,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

46

đều là “người Mông ta”(pêz HMôngz) như câu nói cửa miệng hàng ngày, hay

cách nói hình ảnh mà rất đỗi thân thương: “Ta cùng một giống lanh với nhau”.

Có thể khẳng định một điều, trong tâm thức người Mông, không có một niềm

tin nào lớn hơn niềm tin vào những người cùng dòng tộc. Giao tiếp với các dân

tộc khác, người Mông có thể ít lời nhưng khi đã quây quần giữa những người

Mông với nhau bên chén rượu ngô ngất ngây men đất men rừng thì ít ai có thể

cởi mở, nồng nhiệt bằng họ. Chân thật đến hồn nhiên là đặc tính của người

Mông. Những người con của núi cao “hồn nhiên như chim khướu chim ri” (Mã

A Lềnh) thách thức những khó khăn, thách thức cả những buồn khổ lo toan

trong cuộc sống. Bản tính của người Mông chất phác đến ngây thơ, luôn “sống

hiền hậu như con gà nhà”, “sống hiền lành như con chim núi”( Hùng Đình

Quí). Hồn nhiên giữa cao nguyên đá, những mái nhà, những xóm làng,

những con người dân tộc Mông chụm vào nhau mà “sống tưng bừng như một

tổ ong mật”, “sống ầm vang như một tổ ong khoái”. Hình dáng, trang phục của

người Mông là sự tự biểu hiện nét chân thực hồn nhiên, dường như chưa có sự

pha trộn của cuộc sống hiện đại. Hình ảnh những cô gái Mông với đôi gò má

ửng hồng, với ánh mắt tinh anh và cái nhìn vừa rụt rè, vừa táo bạo; với bắp

chân to khoẻ và dáng đi uyển chuyển mềm mại trong chiếc váy Mông rực rỡ

trông tựa như những bông hoa di động trên các đỉnh non cao. Cô gái Mông

“trắng đẹp trắng xinh như hoa mạch hoa lan nở lưng rừng” với những khát

khao mơ ước thầm kín và mãnh liệt: “… đã từng thao thức/ vẽ vào gấu váy

của mình/ Và thêu ngọn gió hoang thổi vào mơ ước”, dẫu cho “đầu ngón tay

em kim nhọn đâm nát biết bao lần”. Hình ảnh những chàng trai Mông mắt

sáng, mày sắc, mạnh mẽ và tài hoa, cốt cách như dao chém đá, ý chí như

những ngọn núi cao. Khi yêu, yêu đến nồng nàn đam mê với trái tim chân

thành và một sự chung thuỷ hiếm thấy. Sau tiếng khèn khắc khoải chờ đợi bạn

tình, sau những phút giây đắm say tình tự đến thâu đêm, chàng trai Mông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

47

“…lê bước về nhà/ Mà hồn như còn ngủ ở thắt lưng em” (Dân ca Mông).

Người Mông chân thật, chất phác nhưng cũng thẳng thắn bộc bạch lòng mình

bằng tình yêu mạnh mẽ đến tan chảy, đến “chín rụng cõi lòng”:

Nếu ta là bông tuyết trắng

Ta xin tan dưới bàn chân nàng

Là chàng trai rừng núi

Ta xin tan trên thân thể nàng

(Mã A Lềnh)

Khi yêu, trai gái Mông thương đến từng nỗi nhớ, nỗi tương tư của người

yêu: “Em đừng nhắc đến anh, anh sẽ không nhắc đến em/ Kẻo hai đứa nhặt

phải cái điều ốm đau” (Hùng Đình Quí) Có lẽ cũng chính vì bản tính chân

thực mà những tình cảm yêu ghét của người Mông nhiều khi được đẩy tới độ

cực đoan. Yêu đến đam mê, đắm say là vậy nhưng khi đã ghét, đã căm giận

thì cũng hết sức quyết liệt:

Kẻ nào bụng không tốt tỏ lời từ trong quả bầu, ta sẽ bóp

chết ngay từ trong trứng

Tỏ lời qua khe cửa và lỗ hổng chái nhà, ta sẽ bịt ngay để

không một ai thấy

(Núi mọc trong mặt gương- Mùa A Sấu)

Đó là những suy nghĩ, những lời nói thẳng, không e dè, không cần viện

đến bất cứ một sự vòng vo, bóng bẩy nào khác. Người Mông không chấp

nhận những gì nửa vời, nhất là trong tình cảm. “Bóp chết ngay từ trong trứng”

là thái độ và hành động của người Mông đối với kẻ thù. Ta ít gặp trong thơ

của các dân tộc khác một cách diễn đạt “không thơ lắm” như vậy. Nhưng đó

là tính cách của người Mông. Trong vốn thơ ca không nhiều lắm của các tác

giả Mông thời kỳ hiện đại, ta cũng thường bắt gặp những cách nói, cách thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

48

hiện như vậy. Hùng Đình Quí diễn tả thái độ, hành động của anh trai Mông

đánh Mỹ ngoài mặt trận: “Đi gặp giặc Mỹ giữa đường/ Anh trai Mông đánh

như sét đánh chó/ Đi gặp giặc nguỵ giữa lối/ Anh trai Mông đánh như sét

đánh rắn”. Bản tính chân thực của người Mông cũng hồn nhiên đi vào thơ

Mông hiện đại, và chính nó đã trở thành một nét bản sắc để người đọc thêm

cảm thấy quí mến thơ ca Mông.

Con người dân tộc Mông không chỉ chân thật, chất phác đến hồn nhiên

mà còn mạnh mẽ đến quyết liệt. Mạnh mẽ từ bước đi chắc nịch với “đôi chân

trần đạp trên đá sắc” (Mã A Lềnh). Mạnh mẽ trong lao động sản xuất để làm

ra từng bắp ngô, hạt thóc nơi đỉnh núi cao nguyên khắc nghiệt: “Muốn bật đất

lên trời” để mà “Be bờ ruộng bậc thang mỗi năm một vụ" (Mã Én Hằng).

Không khuất phục là bản lĩnh của người Mông đã được kiểm chứng từ trong

lịch sử bằng các cuộc khởi nghĩa chống lại sự áp bức, đô hộ của người Hán,

người Mãn. Ý chí mạnh mẽ cũng chính là một thứ vũ khí được tôi luyện từ

bản năng sinh tồn của người Mông trước sự đe dọa của thú dữ và thiên nhiên.

Cuộc sống du canh, du cư trước đây đã hun đúc cho người Mông những phẩm

chất và ý chí, dám đương đầu với những khó khăn, khốc liệt nhất, can hệ đến

cả sinh mạng của cá nhân và dòng tộc. Không có bản lĩnh mạnh mẽ thì không

thể có được triết lý vừa giản dị vừa sâu sắc như thế này: " Chỉ có con cóc mới

đi không hết đường/ trở về chết dưới bàn tay vợ". Quan niệm về lẽ sống chết

ở đời của các anh hùng hào kiệt xưa nay như "Chết vinh còn hơn sống nhục"

hay "Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành", xem ra cũng không phải là xa lạ với

người Mông, bởi họ có quan niệm về sống chết rõ ràng, như một chân lý: "Có

chết/ chết trên lưỡi sắc/ chớ chết sau sống dao". Chính vì vậy mà người Mông

luôn thường trực một tư thế hiên ngang ngẩng đầu mà sống, mà thách thức

với cuộc đời, thể hiện rõ ràng, dứt khoát một phong cách mạnh mẽ đến ngang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

49

tàng: "nghênh ngang, xù xì như hòn đá tảng giữa ngàn lau".

Người Mông không chỉ "sống hiền lành như con chim núi" cũng không

phải chỉ là những "thợ rừng" lành nghề. Ở người Mông còn tiềm ẩn và

thường trực một tâm hồn nghệ sĩ rất mực tài hoa. Không phải ngẫu nhiên mà

dân tộc Mông lại sở hữu những điệu khèn, những tiếng kèn lá, đàn môi hết

sức độc đáo và đặc sắc. Con người dân tộc Mông không chỉ cần mẫn siêng

năng mà còn rất khéo léo. Bàn tay người đàn ông Mông chai sạn thô ráp,

khai phá ruộng nương, săn bắn chim muông thú dữ. Đôi bàn tay rèn ra khẩu

súng, con dao, cũng là đôi bàn tay tạo nên những chiến khèn Mông và sử

dụng tài tình, mở ra những thanh âm ngọt ngào tình tứ. Những chiếc lá trên

cây đâu có vô tri, đâu phải vô tình, qua bàn tay của chàng trai, cô gái Mông

là có thể "đặt lên môi thành tình tứ thành lời":

"Nhớ buổi tiễn chân ta qua đồi

Em ngắt lá thổi bài kèn réo rắt"

(Dân ca Mông)

Trên những triền núi cao, khắp các xóm bản của người Mông, luôn tràn

đầy những thanh âm rất đặc trưng như là những sứ giả của tâm hồn người

Mông: "Điệu khèn vui xóm núi/ Tiếng kèn môi giục lòng" (Lên cao nguyên -

Giàng Xuân Hồ).

Khéo léo, tài hoa là nét bản tính đặc trưng của con người dân tộc Mông.

Người Mông rất yêu ca hát, yêu âm nhạc. Có lẽ đặc trưng hoàn cảnh sống đã

chi phối và góp phần tạo nên những diện mạo tâm hồn ấy của người Mông.

Đó là một trong những nét bản sắc mà thiên nhiên và cuộc sống ban tặng cho

con người: "Do sống giữa một vùng rừng núi nhấp nhô, đa dạng với muôn

ngàn hoa lá khác nhau, nên con mắt của người miền núi có nhiều màu sắc,

dáng hình kì vĩ, ít chấp nhận những cái gì bằng phẳng đơn điệu, lặp đi lặp lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

50

đến sáo mòn... Do sống giữa một vùng thiên nhiên như thế, phải đấu tranh

chống thú dữ để sinh tồn và bảo vệ mùa màng nên có tác phong hùng dũng

đến dữ dội? Hoặc sống trong khoảng không gian bao la mà tâm hồn phóng

khoáng nhiều khi đến phóng túng [30]. Đó là tính cách và diện mạo tâm hồn

con người dân tộc Mông.

2.2.2. Cuộc sống đơn sơ nhưng phong phú và giàu bản sắc

Trước cách mạng, dân tộc Mông điển hình cho nỗi đau khổ do cuộc sống

mất tự do và tập quán du canh du cư cùng với những hủ tục lạc hậu đeo đẳng,

trói buộc. Người Mông phải sống cơ cực "như con ma không mẹ cha ăn của

thừa", "như con ma mồi côi chăn trâu người". Câu chuyện bi thương về tình

cảnh nghiệt ngã của người Mông đói ăn, đói muối được nhà thơ Bàn Tài

Đoàn ghi lại bằng những vần thơ đầy cảm thông và đau xót:

"Người Mèo ngày xưa bao đời lại

Ở đất Đồng Văn đói khổ nghèo

Ngẩng đầu thấy núi cao chót vót

Cúi đầu thấy đá chồng chất nhau

Bắp vùi xuống đất trong khe đá

Nó mọc lên không chịu ra hoa"

(Muối của cụ Hồ - Bàn Tài Đoàn)

Cuộc sống du canh du cư của người Mông luôn thường trực nỗi lo toan

như những thử thách lớn lao, khắc nghiệt nhất của số phận. Du canh du cư

tưởng trốn được cái nghèo nhưng rốt cuộc "Người trốn đất Mèo cũng khổ/

Người ở đất Mèo thêm nghèo". Không phải họ không nhận ra một hệ quả tất

yếu "Giàu di cư thì nghèo/ nghèo di cư thì chết" (tục ngữ Mông) nhưng sự

bần cùng vẫn luôn dẫn dắt người Mông đi theo con đường định mệnh.

Cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại đã giải phóng cuộc đời của cả dân tộc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

51

Đồng bào miền núi nói chung và đồng bào dân tộc Mông nói riêng cũng đã

thoát khỏi những cảnh đời tăm tối để bắt tay vào xây dựng một cuộc sống

mới, một tương lai mới cho dân tộc mình. Lớp thế hệ nhà thơ Mông đầu tiên

được ra đời và lớn lên trong cuộc sống hoà bình, hiểu sâu sắc giá trị của cuộc

sống, của hai chữ tự do. Chính vì vậy mà cảm hứng nổi trội nhất trong thơ ca

dân tộc Mông thời kỳ hiện đại là cảm hứng về cuộc sống mới do Cách mạng,

Đảng và Bác Hồ đem lại. "Chữ Bác Hồ" là món quà lớn lao nhất mà người

Mông có được từ chế độ mới, góp phần quan trọng và tích cực để đưa cuộc

đời người Mông từ bóng tối ra ánh sáng, từ khổ đau đến với hạnh phúc. Bởi

lẽ, chữ viết luôn là nỗi khát khao thường trực của người Mông, là một trong

những lí do dẫn đến các cuộc thiên di: "Vì người Mèo ta không có chữ/ Thua

kiện người Hán ta mới đi" (Dân ca Mông). Ước mơ có chữ viết luôn được bộc

lộ tràn đầy trong các bài ca trước đây của người Mông. Người Mông nhận

thức sâu sắc đói nghèo và cùng cực là hệ luỵ tất yếu của nạn mù chữ, thất học:

"Người Hán có chữ/ Người Hán ăn không hết tài hết phép/ Người Mông

không có chữ/ Quanh năm suốt tháng cơ hàn" (Dân ca Mông). Điều đó lí giải

việc ca ngợi chữ Bác Hồ, biết ơn Đảng, Chính phủ là đề tài, là cảm hứng của

rất nhiều tác giả người Mông. Người Mông tự hào vì có chữ "dạy cách làm ăn

tốt, làm uống hay", "dạy cách làm ăn tốt, làm mặc đúng" và thể hiện tấm lòng

tri ân đối với Đảng và Bác Hồ:

Có chữ giúp ghi lại cuộc đời

Học chữ người Mông nhớ công ơn Đảng không nguôi

Có chữ giúp ghi lại cuộc sống

Học chữ người Mông nhớ công ơn Bác Hồ mãi mãi.

(Người Mông có chữ)

Lòng biết ơn là tình cảm thường thấy và biểu hiện trong thơ dân tộc

Mông thời kỳ hiện đại. Nói thế nào cũng không đủ, nói thế nào cũng không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

52

cùng. Dường như, với các tác giả người Mông, khi đặt bút làm thơ, mục tiêu

đầu tiên là thể hiện được tấm lòng của mình, của dân tộc mình, lòng biết ơn

đối với Cách mạng đã khai sinh cho người Mông có được một cuộc đời mới.

Hùng Đình Quí có các bài thơ Người Mông có chữ (1968), Ơn Đảng (1969),

Nhớ Bác Hồ (1969), Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải, Việt Bắc ngày nay

(1972); Giàng A Của có bài thơ Có Cụ Hồ về; Vừ Thị Dưa có bài Nhớ đến

Chính phủ; rồi Giàng Páo Ly, Giàng A Páo, Mùa A Sấu, Sùng Nhìa Tú...

đều có những bài thơ nói lên lòng biết ơn sâu nặng của dân tộc Mông đối với

Đảng, với Chính phủ và Bác Hồ.

Tuy nhiên, không phải cứ có được tự do là có ngay được một cuộc sống

no ấm hạnh phúc. Người Mông vẫn phải đối mặt với những thử thách,

những khó khăn muôn mặt của cuộc đời; vẫn phải "còng lưng bới đá gieo

hạt ngô"; vẫn phải kiên tâm bền bỉ gùi từng "lù cở" đất lên núi đá cao

nguyên để bắt đá nảy mầm, bắt núi trổ bông để cải tạo cuộc sống. Cuộc sống

dẫu còn đơn sơ, nhưng đã đậm đà niềm vui, báo hiệu một tương lai tốt đẹp.

Dân tộc Mông là một dân tộc có tính cộng đồng rất cao. Có lẽ do sống khu

biệt trên các đỉnh núi hẻo lánh nên tình cảm cộng đồng được cộng hưởng,

được nở rộ như những bông hoa dưới ánh mặt trời. Không khí vui tươi, sôi

nổi rộn rã ở miền Bắc trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã lan

toả đến tận các bản làng heo hút của người Mông. Cuộc sống dần văn minh,

xoá bỏ những hủ tục cũ kỹ, lạc hậu là đối tượng miêu tả, biểu hiện của các

nhà thơ Mông. Những thửa ruộng bậc thang lúa vàng trĩu hạt; những mái

trường có con em của người Mông theo học, như những “bầy ong tung tăng

đi hút nhị hoa”; Những chính sách của Đảng tựa như những làn điệu dân ca

bay bổng, lay động, thấm sâu vào tâm hồn người Mông. Khắp nơi rộn rã

không khí đổi mới vui tươi, tràn ngập niềm tin vào cuộc sống. Cảm giác lâng

lâng của con người được giải phóng, được tự do thật là kì diệu, để người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

53

Mông nhìn thiên nhiên cũng thấy có tâm hồn, có sự đồng điệu, say mê:

Mặt trời nâng hoa mây

Bồng bềnh sáng núi đá

Cuồn cuộn toả ngọn rừng tre

Như nâng cuộc đời ta đi lên

(Mặt trời hoa mây - Giàng A Páo)

Cái say mê đến độ ngây ngất khi người Mông được nghe những lời bạc,

lời vàng từ những cán bộ người Kinh, được nhìn thấy những “ánh vàng, ánh

bạc” trong đường lối của Đảng; một niềm tin tuyệt đối, rạng ngời trên mắt,

trên môi của cả một dân tộc vốn quen với sự chịu đựng và bất công, lần đầu

tiên được làm chủ cuộc đời:

Mặt trời chiếu toả tia nắng

Sáng đầy núi cao

Như những sợi chỉ hồng

Như ánh sáng của Đảng

Làm thành huyện ta

Ánh sáng mới nơi nơi

Cho xanh rờn đầy núi đầy đồi

(Ánh mặt trời - Giàng A Lử)

Khi không có sự phân biệt vùng cao - vùng thấp, không có sự phân biệt

thiểu số - đa số thì dân tộc Mông cũng say sưa và tự nguyện góp công góp sức

để đánh tan giặc Mỹ. Tâm trạng của anh trai Mông được lên đường nhập ngũ,

được cầm súng trực tiếp chiến đấu mới hân hoan phấn khởi làm sao. Thậm chí

nó át đi cả bản tính thường trực của một dân tộc vốn kiệm lời để mà reo lên,

bộc lộ niềm vinh dự lớn lao của mình:

Chàng trai ơi

Tên chàng đã rõ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

54

Đi đánh Mỹ chính nơi mặt trận

Tên chàng giấy ghi tỏ tường

Đi đánh Mỹ ngoài mặt trận

(Chuyện râm ran - Giàng A Lử)

Phải là một dân tộc đã đắm chìm quá lâu trong u tối, khổ cực; phải là

những con người đã bị đày đoạ quá lâu trong những đắng cay, bất hạnh mới có

được cảm giác vui mừng đến tuyệt đỉnh của hạnh phúc khi cuộc sống không

còn lo toan, một cuộc sống đủ đầy, mãn nguyện cả về vật chất lẫn tinh thần:

Người Mèo vùng cao ta

Ở bền nơi, làm bền nơi...

Trồng chè đầy núi

Trồng rừng xanh rờn

Thành rừng bát ngát

Cuộc đời ta

Mọi thứ đều làm ra

(Định canh, định cư - Giàng A Gia)

Cuộc sống của người Mông có sự bình yên, êm đềm, đẹp một cách lãng

mạn. Chất lãng mạn ngấm sâu vào tim vào óc mỗi người để thăng hoa thành

những tâm hồn nghệ sĩ. Phải có tâm hồn nghệ sĩ mới thấy được chất men say

của những vụ mùa no ấm và sức sáng tạo kì diệu của bàn tay con người:

"Bậc thang vút lên mây

Mùa vào thơm lúa chín

Hương lúa tràn quê hương"

(Lên cao nguyên - Giàng Xuân Hồ)

Để góp phần tạo nên cuộc sống êm đềm và thơ mộng đó, có sự tần tảo và

cũng rất duyên dáng của "cô gái người Mông/ Thêu cả bốn mùa vào gấu váy";

có sự cần mẫn và cũng rất nên thơ của con người như gắn bó, hoà quyện với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

55

khung cảnh thiên nhiên: "Ngược ngược núi/ lúi húi cô gái Mèo xe gai/ Đeo

nắng chiều về bản"; có cả những suy tư, trăn trở thậm chí lo âu, dằn vặt về

cách thức và con đường để vượt qua số phận, để thoát khỏi cái nghèo:

"Em gầu Mông

Mảnh đất quê ta đâu phải nghèo

Chỉ vì không biết chữ

Cái miệng muốn ăn

Nhưng tay chẳng với tới"

(Phải học - Hùng Đình Quí)

Sự đổi thay đáng ghi nhận nhất trong cuộc sống của người Mông có lẽ là

sự đổi thay về số phận của người phụ nữ. Chúng ta đã quá quen thuộc hình

ảnh cô Mỵ trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài. Cô Mỵ sống một

cuộc đời câm lặng trong đau khổ "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa" nhà

thống lí Pá Tra. Những cô Mỵ ngày xưa đã được cách mạng đem đến cho một

cuộc đời mới, được làm chủ bản thân và tương lai của mình, được học hành

để tâm hồn lúc nào cũng phơi phới niềm vui: "Đi trên đường lá óng ánh/ Em

gái Mông/ Lòng dạ cười lấp lánh". Kì diệu hơn, cô gái Mông ngày nay đã có

thể trở thành cô giáo, đem cái chữ Bác Hồ để soi sáng cho đồng bào mình,

dân tộc mình. Hình ảnh cô giáo người Mông đi dạy học là một hình ảnh đẹp

đến thi vị về cuộc sống hạnh phúc của người Mông trong xã hội mới:

Đom đóm thắp đuốc dầu

Đom đóm thắp đuốc sáng

Sáng soi Vần Chải những mái nhà tranh

Đấy là cô giáo Gầu Mông

Tay giỏi tay cầm sách

Tay trắng tay cầm đèn

Đi dạy học xuống giữa thôn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

56

(Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải - Hùng Đình Quí)

Cuộc sống của người Mông đang hàng ngày, hàng giờ đổi thay một

cách toàn diện. Cổng trời ở Hà Giang cao vút và hiểm trở. Từ khi Chính

Phủ mở đường, người Mông đỡ đi biết bao cực nhọc. Thái độ của chàng

trai người Mông có cái ngộ nghĩnh đáng yêu, có chất lãng mạn, phóng túng

của một tâm hồn nghệ sĩ. Anh trai Mông thách thức cái dốc và con đường:

Xin mời đường mày hãy vểnh tai lắng

Ta - người trai Mông đây còn hát

Ba mươi ba bài dân ca nữa mới thôi...

Xin mời đường mày hãy vểnh tai nghe

Ta - người trai Mông này còn ca

Ba mươi ba bài dân ca nữa mới chịu...

(Qua dốc Cán Tỷ - Hùng Đình Quí)

Con đường Chính phủ mở để nối liền miền núi với miền xuôi cũng là con

đường ngắn nhất đến với cuộc sống tự do, no ấm, hạnh phúc của người Mông:

"Ngày xưa qua Mã Pì Lèng

Đường chữ chi chín gấp khúc

Dòng Nho Quế trôi xuôi cười nhìn ta...

Ngày nay qua Mã Pì lèng

Không còn đường chữ chi chín khúc dài

Cưỡi xe qua con đường dạo hài chơi

Dòng Nho Quế nhìn mà thèm...

Từ nay đường xe Mã Pì Lèng mở

Hạnh phúc đời đời đến

(Qua Mã Pì Lèng - Hùng Đình Quí)

Để có được một cuộc sống hạnh phúc, người Mông luôn phải cảnh giác

và đấu tranh quyết liệt với những tệ nạn, những hủ tục lạc hậu, sự xúi giục

của bọn người xấu lợi dụng lòng chân thật và niềm tin nhiều khi đến ngây thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

57

của người Mông để phục vụ cho những mưu đồ đen tối, muốn cho người

Mông lầm đường lạc lối. Sứ mạng vẻ vang và trọng trách lớn lao của những

nhà thơ Mông là người định hướng tâm lý, định hướng tương lai cho bước

đường đi của dân tộc mình. Người thầy giáo, người cán bộ cách mạng Hùng

Đình Quí luôn trăn trở với nhiệm vụ nặng nề của mình là cảnh tỉnh đồng bào

Mông, những người bà con thân thiết của ông, tránh xa những cái xấu, cái hại

để chung tay xây dựng cuộc sống mới. Những hủ tục lạc hậu còn nặng nề, còn

đeo đẳng đe doạ sự bình an và tương lai của dân tộc Mông. Hùng Đình Quí

dùng thơ ca- những bài thơ mộc mạc mang âm hưởng và hình thức của dân ca

Mông để tuyên truyền, vận động, để giúp người Mông thêm “sáng con mắt,

chặt đầu gối” trên những bước đường gian nan. Thơ ông với những lời lẽ nhẹ

nhàng, dễ hiểu mà hết sức thấm thía, có lý có tình. Ông chỉ ra những nguyên

nhân của cái dốt, cái nghèo là do những hủ tục vợ cả, vợ lẽ và những tác hại

khôn lường của thuốc phiện, rượu và cả những lời ngon ngọt tai hại của bọn

người xấu. Ông khẳng định:

Một vợ một chồng

Sống đời như nàng tiên hoa đẹp

Vợ cả vợ lẽ

Sống đời rối mù như cầy cào nhau

(Vợ lẽ)

Nhà thơ biết cách đi vào phân tích tâm lý, cho những con người “hay ăn,

lười làm” phải nghĩ ngợi:

Để xây cuộc đời

Bầu bạn đi đầy đường chật lối

Ai đó còn cứ mải mê trên bàn cay

Vậy muốn xây cuộc sống hay để ăn mày?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

58

(Rượu đắng)

Tệ nạn thuốc phiện những năm trước đây đã tàn phá ghê gớm những bản

làng của người Mông, huỷ hoại cả về thể chất và tinh thần của dân tộc Mông,

nhà thơ cảnh tỉnh:

Thoáng trông lỗ tẩu bằng lỗ kim

Nhưng lôi châu báu đi hàng nghìn

Thoáng nhìn lỗ tẩu bằng lỗ dòi

Nhưng lôi châu báu di hàng triệu

(Thuốc phiện hại)

Nhà thơ kêu gọi nhắn nhủ đồng bào mình: “Hỡi những ai/ Có tiền đem

gửi tiết kiệm dành/ Còn thời gian cho con cháu đi học/ Con đường làm

người”. Đó là thái độ tích cực của một công dân, một người bà con thân tình,

người cán bộ có trách nhiệm.

Cuộc sống của người Mông trên núi cao đơn sơ nhưng không đơn điệu,

một phần cũng bởi người Mông có đời sống tinh thần phong phú. Âm nhạc

chính là một chất men say trong tâm hồn người Mông. Người Mông yêu âm

nhạc bằng một tình yêu gần như là bản năng, đầy chất nghệ sĩ. Cuộc sống của

đồng bào dân tộc Mông không thể thiếu những tiếng khèn, tiếng đàn môi, kèn

lá - những nhạc cụ quen thuộc và gần gũi của dân tộc Mông. Chàng trai Mông

múa khèn tài hoa như những nghệ sĩ đích thực trong các buổi chợ phiên,

những đêm trăng hay trong các lễ hội “Gầu tào”: “Điệu khèn vui xóm núi/

Tiếng đàn môi giục lòng”. Những thiếu nữ Mông thả tâm tình trong tiếng đàn

môi dìu dặt, trong tiếng kèn lá ẩn chứa những tâm sự vui buồn: “Nhớ buổi

tiễn chân ta qua đồi/ Em ngắt lá thổi bài kèn réo rắt”. Âm nhạc Mông không

ưa sự quân bình mà ưa đi đến tận cùng của những cung bậc thanh âm, chót

vót cao và thăm thẳm sâu. Có lẽ đó cũng chính là cá tính của một dân tộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

59

chứa bao điều bí ẩn trong tâm hồn.

Cuộc sống của người Mông không thiếu sự thơ mộng đến lãng mạn,

những chủ nhân của núi đá vùng cao có đời sống tinh thần phong phú, trước

hết và trên hết, họ có một tình yêu nồng nàn:

Em là cô gái Mèo hoa

Anh là chàng trai Tày trắng

Trời có mắt, trời cho ta thấy

Đất có lòng, đất cho ta duyên

Trời đất xe duyên trên sườn núi

(Tình ca ở Chiu Lầu Thí - Giàng Xuân Hồ)

Chính những đỉnh núi - cao nguyên ấy đã sinh ra những nhà thơ dân tộc

Mông để cất lên những tiếng ca ca ngợi quê hương và tình yêu của mình:“Từ

đá/Sinh ra những chàng thi sĩ/Hát ca về đất trời, tình yêu của mình”(Đá ở

Sapa - Mã A Lềnh).

Đời sống văn hoá Mông với sự phong phú, độc đáo và đặc sắc góp phần

tạo nên một diện mạo tâm hồn dân tộc Mông. Những buổi chợ phiên miền núi

cao ngập tràn những thanh âm sắc màu của những tiếng mời chào, nói cười

nghiêng ngả, của hoa văn thổ cẩm đủ bảy sắc cầu vồng, của những bát rượu

nồng nàn hương bắp bên những chảo “thắng cố” bốc hơi ngào ngạt. Tất cả tạo

nên một không khí náo nức tươi vui mê đắm lòng người. Có thể những nhà

thơ Mông thời kỳ hiện đại chưa phải là những người thợ mỏ lành nghề để

khai thác và tinh luyện những mỏ quặng còn rất đỗi nguyên sơ với một trữ

lượng khổng lồ tiềm ẩn trong đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc Mông.

Nhưng dẫu sao,với khả năng và trái tim nồng nàn yêu mến của mình, các tác

giả người Mông đã phần nào làm hiển lộ được kho tàng quí giá ấy, để làm cho

người đọc biết đến và yêu mến thơ Mông cũng như yêu quí những giá trị văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

60

hoá tinh thần mang nét bản sắc rõ rệt và sâu đậm của dân tộc Mông.

Trân trọng và cảm phục, đồng cảm và chia sẻ với cuộc sống khắc nghiệt,

dữ dội mà hào hoa của dân tộc Mông, nhà thơ người Dao Triệu Kim Văn đã

phải thốt lên:

Có dân tộc nào như người Mông hỡi em

Sinh trên đá đợi bạn tình trên đá

Hiếm hoi cây lên khan từng chiếc lá

Đặt lên môi thành tình tứ thành lời

(Đá núi Đồng Văn - Triệu Kim Văn)

Thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại là sản phẩm tinh thần của các nhà

thơ Mông, là tấm gương phản chiếu đời sống, xã hội dân tộc Mông. "Các sáng

tác bao giờ cũng bám rễ vào cuộc sống một cách hồn nhiên, phản ánh sắc nét,

sinh động đời sống tình cảm cũng như phong tục, tập quán của đồng bào

HMông" [27;76]. Đó là tình cảm của con người yêu mến gắn bó với thiên

nhiên - một thứ thiên nhiên miền núi cao rất đặc trưng của người Mông. Đó

còn là sự phác họa hình ảnh con người dân tộc Mông đầy bản lĩnh và cá tính;

mạnh mẽ và tài hoa, chân thực và lãng mạn. Đó là sự miêu tả, phản ánh cuộc

sống của dồng bào Mông trong xã hội mới với không khí vui tươi lao động,

phấn khởi và tin tưởng vào Đảng và Bác Hồ; Cuộc sống của một dân tộc với

những phong tục tập quán đầy bản sắc.

Thơ ca hiện đại Mông được sáng tạo từ cảm xúc chân thành và tình cảm

thiết tha yêu cuộc sống, yêu dân tộc của những nhà thơ Mông, tiêu biểu và đại

diện cho tiếng nói tình cảm của dân tộc Mông. Đúng như nhận xét của nhà

thơ Chế Lan Viên: "Thơ ca Mông là công cụ thực dụng trong đời sống, chứ

không phải chỉ giúp con người đôi cánh hư ảo để bay lên trên, thoát ra ngoài.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

61

Đời sống do đó vào cụ thể, tràn đầy trong thơ". [77]

Chƣơng 3

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ CA

DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI

3.1. Dấu ấn của các thể loại thơ ca dân gian trong thơ ca dân tộc Mông

thời kỳ hiện đại

3.1.1. Sự vận dụng sáng tạo, hiệu quả vốn tục ngữ, ca dao, dân ca Mông

Văn chương nói chung và thơ ca nói riêng, là một hoạt động sáng tạo.

Tuy nhiên, không có một sự sáng tạo nào là tuyệt đối trong tất cả mọi lĩnh

vực. Cái mới bao giờ cũng được kế thừa và phát triển từ cái cũ. Thơ ca cũng

vậy, những nhà thơ tài năng là những nhà thơ biết khai thác một cách triệt để

những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc mình. Sự từng trải và vốn sống

là cần thiết cho sáng tác của nhà văn, nhà thơ. Từ trước đến nay, dấu ấn và sự

ảnh hưởng của thơ ca truyền thống đối với sáng tác của các nhà thơ không

phải là điều mới lạ. Thậm chí, nó như là một sự đương nhiên. Thơ hiện đại

các dân tộc thiểu số trước năm 1975 chủ yếu được sáng tác bằng tiếng dân

tộc, sau đó mới dịch ra tiếng Việt. Chất dân tộc, cái gọi là “bản sắc” trong thơ,

về mặt ngôn ngữ, hình ảnh và tư duy, chính là do sự thừa hưởng từ vốn từ

ngữ, văn hoá truyền thống của các dân tộc mà thành. Bởi vậy, cũng có thể nói

rằng, tất cả các nhà thơ đều đã ít nhiều chịu ảnh hưởng, bị chi phối bởi thơ ca

truyền thống của dân tộc và quê hương nơi nhà thơ sinh ra. Xa rời chiếc nôi

truyền thống, nhà thơ tự đánh mất bản sắc của chính mình, ít ra cũng là mất đi

bản sắc của dân tộc mình.

Bản sắc dân tộc trong văn học là do chính những nhà văn dân tộc sáng

tạo ra, nó là sự thể hiện tâm hồn, tính cách dân tộc thông qua cách cảm, cách

nghĩ, cách viết riêng của nhà văn, “là sự thể hiện một cách đẹp đẽ, sáng tạo

những truyền thống văn hoá của dân tộc trong những điều kiện lịch sử nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

62

định” [66; 76].

Thơ dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng rõ nét từ kho tàng thơ ca dân gian

phong phú của mỗi dân tộc. Bởi lẽ, sức sống của thơ ca dân gian lan toả và

cuốn hút mạnh mẽ đến từng con người, từng làng bản, thôn xóm, từng vùng

miền, “khi thì kín đáo ẩn nấp dưới các mái nhà, tỉ tê bên bếp lửa gia đình,

khi thì ào ạt lôi cuốn hàng mấy trăm người, vào những ngày hội, ngày lễ

nhộn nhịp sôi nổi” [17; 14]. Dân tộc Mường có sử thi “Đẻ đất - đẻ nước”, có

dân ca “Thường Rang - Bọ Mạng”, có truyện thơ “Út Lót - Hồ Liêu”; truyện

thơ “Nam Kim - Thi Đan”; dân tộc Dao có trường ca “Bàn hộ”; dân tộc

Chăm có “Aniya Bini - Cam”, “Bini - Chăm”; Tây Nguyên có trường ca

Đam San, Sinh Nhã; dân tộc Khơ Me có “Sĩ Thạch - Tum Tiêu”… Và bên

cạnh đó là hàng nghìn, hàng vạn những bài ca dao, những câu tục ngữ đã ăn

sâu vào đời sống tinh thần của nhân dân, chi phối đến lời ăn tiếng nói hàng

ngày của đồng bào.

Vấn đề ảnh hưởng của văn hoá, văn học dân gian trong sáng tác của các

nhà thơ hiện đại là một chuyện bình thường. Bởi “xét về bản chất nghệ sĩ là

một hiện tượng dân tộc, nên sáng tác của anh ta không thể thoát li truyền

thống đạo đức văn hoá của dân tộc mình” (Lâm Tiến).

Dân tộc Mông có một kho tàng thơ ca dân gian phong phú với các truyện

thơ “A Thào - Nù Câu”, “Nàng Dợ - Chà Tăng”. “Dìa Pàng - Dùa Phông”,

“Nàng Phan - Nồng Di” …; Có một khối lượng ca dao đồ sộ với “tiếng hát

tình yêu”, “tiếng hát cưới xin”, “tiếng hát làm dâu”, “tiếng hát mồ côi”, “tiếng

hát cúng ma” …; Có vốn tục ngữ giàu có chứa đựng trong lời ăn tiếng nói

hàng ngày của đồng bào; đã để lại rất nhiều dấu ấn trong sáng tác của các nhà

thơ hiện đại dân tộc Mông.

Tuy nhiên dấu ấn của văn học truyền thống trong thơ ca Mông hiện đại

có phần không được rộng rãi và sâu đậm như ở các dân tộc thiểu số anh em

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

63

khác. Điều đó, theo chúng tôi, hoàn toàn có thể cắt nghĩa, lý giải hợp lí. Đó là,

mặc dù có một nền văn học dân gian phong phú, dân tộc Mông trải qua quá

trình thiên di và tập quán du canh du cư, sống rải rác trên những đỉnh núi cao

nên có sự mai một dần kho tàng phong phú đó của dân tộc. Những thần thoại,

truyền thuyết, cổ tích và cả truyện thơ chỉ còn đọng lại nơi ký ức của những

người già. Thiếu môi trường sinh hoạt diễn xướng, dường như các tác phẩm

đó có nguy cơ chìm dần vào lãng quên. Chỉ còn lại trong vốn văn hoá tinh

thần đặc sắc ấy là tục ngữ, dân ca (cả phần lời và làn điệu của các bài ca dân

gian) có sức sống bền bỉ nhờ môi trường sinh hoạt, đặc biệt là các lễ hội như

“gầu xống”, “gầu tào”, các cuộc hát “gầu plềnh”. Nói cách khác, tục ngữ, dân

ca còn có môi trường để tồn tại vì tính ứng dụng trong sinh hoạt hàng ngày

của nó. Người Mông hát trong lúc lao động, khi đi nương rẫy, lúc xe lanh dệt

vải, nam nữ thanh niên hát trong những đêm tình tự, những lời tỏ tình, gửi

gắm tâm sự vào những điệu khèn, vào tiếng đàn môi, kèn lá “đặt lên môi

thành tình tứ thành lời” (Triệu Kim Văn). Cũng vậy, tục ngữ, câu đố được sử

dụng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của đồng bào, tuy có mai một, nhưng

vẫn có môi trường để tồn tại. Truyện thơ mang tính sử thi của người Mông

còn lại và phổ biến nhiều là bài “khúa kê” được hát lên trong những lễ tang

ma, cả ma tươi lẫn ma khô. Tiếng hát cúng ma (gầu tuờ) được hát theo lễ thức

bao gồm bài “khúa kê” - bài hát cúng đầu tiên do thầy cúng (dở mổ) hát để

chỉ cho linh hồn người chết biết đường về với tổ tiên. Ngoài ra, các bài quan

trọng như “cúng đám to” (Nả đềnh), “cúng đám nhỏ” (Mí đềnh) cũng được

lưu truyền từ đời này sang đời khác do tính nghi lễ hết sức quan trọng của nó.

Cũng chính vì vậy mà những bài hát tang ma cho đến nay vẫn còn tồn tại và

phổ biến.

Cuộc sống khắc nghiệt của người Mông ảnh hưởng không nhỏ đến việc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

64

bảo tồn, nuôi dưỡng các giá trị văn hoá, tinh thần.Chính vì thiếu đi nguồn sữa

mẹ văn học dân gian phong phú ấy đã làm cho các nhà thơ hiện đại dân tộc

Mông có những hạn chế rất lớn trong những sáng tác vốn đã ít ỏi của mình.

Thường thấy trong thơ ca hiện đại Mông, dấu ấn truyền thống chỉ còn lại và

ảnh hưởng chủ yếu ở cách diễn đạt, ở hình thức thơ, và một số lượng mỏng

các bài thơ có nội dung từ các câu tục ngữ, những bài hát dân ca bấy lâu vẫn

còn tồn tại và trở nên quen thuộc.

Người Mông có một kho tàng tục ngữ phong phú được hình thành phát

triển từ thực tiễn lao động sản xuất. Tục ngữ được nhân dân áp dụng vào đời

sống tư duy và sinh hoạt hàng ngày với chức năng quan trọng và cơ bản nhất

của nó là truyền bá kinh nghiệm cuộc sống. Tục ngữ có thế mạnh riêng là dồn

tụ được một dung lượng ý nghĩa lớn trong một số lượng câu chữ rất nhỏ.

Cũng như lời ăn tiếng nói hàng ngày, tục ngữ đi vào thơ ca hiện đại của

dân tộc Mông, qua sáng tác của các tác giả một cách rất giản dị, tự nhiên. Nói

về cách đối xử “làm gương” của cha mẹ đối với con cái, tục ngữ có câu:

Mình đối xử với bố mẹ thế nào

Sau này con cái lại đối xử với mình thế ấy [51]

Từ suy nghĩ về những kinh nghiệm truyền đời ấy, Hùng Đình Quí thể hiện

niềm yêu kính đối với bố mẹ, như là một cách thức để con cháu soi vào học tập:

Bố mẹ ta, ta quí yêu

Sau này ta mới không bị

Con cái ta chê chửi.

Mẹ cha mình, mình yêu quí

Về sau mình mới không lo

Con cái mình chửi theo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

65

(Ơn bố mẹ)

Lẽ đời, “cây có cội, sông có nguồn” là qui luật tất yếu của tự nhiên, yêu

quí ông bà, cha mẹ là nương theo qui luật của lẽ tự nhiên ấy. Ca dao người

kinh có câu:

Con người có tổ có tông

Như cây có cội như sông có nguồn

Hùng Đình Quí mượn qui luật này để nói đến một tình cảm khác, đó là

lòng biết ơn đối với Đảng, với Bác Hồ:

Có trời mới có đất

Có Đảng mới có ngô xay cối đá

Có đất mới có trời

Có Đảng mới có thóc giã cối chầy

(Ơn Đảng)

Tác giả đã mượn nguyên ý của người Mông trong câu tục ngữ “Có trời

mới có đất/Có đất mới có cỏ cây/Có già mới có trẻ/Có trên mới có dưới”.

Nói về sức mạnh của tình đoàn kết, tục ngữ Mông có câu: “Một chân

đứng không vững/Một tay vỗ không vang”. Nhà thơ Mùa A Sấu cũng dùng

cách nói đó để kêu gọi người Mông đoàn kết, đồng sức đồng lòng để xây

dựng một cuộc sống mới no ấm, hạnh phúc:

Ôi! bầu trời ngọn núi cao ơi

Miền núi cao một tay vỗ không kêu

Nhưng ta biết nói họ biết làm, thì có ngày họ đến tìm

và nhiều tay vỗ kêu

Một chân đứng lên thì không vững

Nhưng ta biết nói họ biết nghe thì có ngày sẽ ào ào đến

trên một con đường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

66

(Núi mọc trong mặt gương)

Những bài hát dân ca Mông, đặc biệt là dân ca trữ tình, vốn rất lãng mạn

và tình tứ, có nhiều câu đạt tới đỉnh cao cả về nội dung biểu hiện và hình thức

nghệ thuật. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng đánh giá rất cao những bài hát -

bài thơ dân gian ấy của người Mông: “Có thể nằm không hổ thẹn trong những

tuyển tập thơ hay của thế giới”, chẳng hạn như bài ca sau đây:

Gió về gió thổi lá cây bay lả lướt bên khe

Nếu ta là hạt mưa hạt sương

Ta xin tan trên bàn tay nàng

Gió về gió thổi lá cây lật ngả nghiêng bên suối

Nếu ta là hạt mưa hạt sương

Ta xin tan dưới bàn chân nàng. [50]

Chắt lọc và phát triển từ chất trữ tình ấy của lời ca dân gian, Mã A Lềnh

đã viết lên những câu thơ không kém phần tình tứ và lãng mạn:

Nếu ta là bông tuyết trắng

Ta xin tan dưới bàn chân nàng

Là chàng trai rừng núi

Ta xin tan trên thân thể nàng

Thơ ca hiện đại dân tộc Mông, có những câu thơ mang đậm chất dân ca,

cho dù nhà thơ không sử dụng cụ thể một câu tục ngữ, ca dao nào, cũng

không phải được thể hiện theo hình thức những làn điệu quen thuộc của dân

ca Mông. Ấy là khi trong tâm hồn nhà thơ, chất truyền thống và hiện đại đã có

sự kết hợp nhuần nhuyễn, thậm chí đã chan hoà vào nhau để có những câu thơ

thật đặc sắc:

Em là cô gái Mèo hoa

Anh là chàng trai Tày trắng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

67

Trời có mắt, trời cho ta thấy

Đất có lòng, đất cho ta duyên

Trời đất xe duyên trên sườn núi

(Tình ca ở Chiu Lầu Thí - Giàng Xuân Hồ)

Cũng có khi nhà thơ mượn nguyên hình thức diễn đạt của dân ca như là

một cách viết lời cho những làn điệu dân ca truyền thống của người Mông.

Lối thơ mô phỏng dân ca này tạo cho câu thơ, bài thơ một sự êm ái, nhẹ

nhàng và có giai điệu:

Vòm trời trên mây quang

Vòm trời dưới sao sáng

Mùa xuân này ta còn gặp nhau

Cuộc hát giao duyên này ta còn có bạn

Khéo rồi mai mình đi đường mình ta đi đường ta mau

Đôi ta chẳng còn được lấy tay che mắt nhìn nhau

(Hội Xuân - Mã A Lềnh)

Những bài ca dân gian Mông có cái hay, cái độc đáo quyến rũ ở chỗ, nó

thể hiện tâm hồn người Mông, tâm hồn mê say tiếng hát và biết quí trọng

tiếng hát của mình:

Bài hát hết lại không hết

Hết như hết một nửa

Hết như hết một mình

Hay:

Lời hát biết hát không biết kết thúc

Như khóm ngải tàn lại tiếp khóm xanh

Bài hát biết nói, không biết kết thúc

Kết thúc như hoa đào nở trên núi cao [50]

Thơ ca hiện đại dân tộc Mông cũng vậy, mỗi bài thơ là một cung bậc trữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

68

tình, một giai điệu tình cảm, khi say đắm đam mê, lúc suy tư trầm lắng nhưng

không có nốt nhạc cuối cùng. Nốt nhạc cuối cùng sẽ vang xa và ngân nga

trong lòng người đọc:

Lời hát sắp hết lời hát lại về

Ta đang chung lòng dù mai có xa nhau cũng không quên lời thề

Lời hát sắp hết lời hát đến ngay

Ta đã kết thân với nhau dù mai có chia tay ta cũng

nhớ cuộc hát giáo duyên này.

(Hội xuân - Mã A Lềnh)

Sự tiếp thu, ảnh hưởng và phát triển sáng tạo mạch thơ ca dân gian truyền

thống tạo cho thơ hiện đại dân tộc Mông có một sắc thái riêng và cả một sự

phong phú, thống nhất. Thống nhất ở âm hưởng, ở hình thức thơ, ở sự vận

dụng vốn văn hoá, văn học truyền thống; phong phú ở sự đa dạng của những

nét riêng mang dấu ấn cá nhân của từng tác giả. Sự thống nhất và phong phú ấy

góp phần tạo nên và hình thành những cá tính thơ, cá tính của từng tác giả và

cá tính của cả tâm hồn dân tộc Mông được soi chiếu qua thơ ca.

3.1.2. Sự vận dụng các hình thức nghệ thuật thơ ca dân gian trong thơ dân

tộc Mông thời kỳ hiện đại

Chịu ảnh hưởng nặng nề của dân ca, thơ ca hiện đại dân tộc Mông luôn

mang hơi ấm của lối trò chuyện giãi bày trực tiếp. Một điều dễ nhận thấy là

các nhà thơ dân tộc Mông thường sử dụng hình thức đối đáp như một nhu cầu

được thổ lộ, giãi bày tình cảm. Lối kết cấu đối đáp thuận lợi cho việc bộc lộ

tình cảm của các nhân vật trữ tình. Có những bài thơ được diễn đạt bằng hình

thức độc thoại nhưng dấu ấn của cách trò chuyện, đối đáp vẫn rất đậm nét:

Em gầu Mông

Người Kinh người Tày cũng khó khăn

Những nói đến con đường học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

69

Anh em đi rầm đường

Còn ta cứ giả như không biết gì

Thế định làm người hay làm con ma?

(Phải học - Hùng Đình Quí)

Diễn tả tâm sự của chàng trai người Mông lên đường đi đánh Mỹ hứa

hẹn và căn dặn người yêu ở lại, Hùng Đình Quí viết:

Em gầu Mông

Em ở lại vòm trời khoảng đất quê em

Hay có chim diều chim cắt kêu

Kêu hót ở trên những lưng núi

Em nhớ đừng để người lừa kẻ dối

Mà mất trơn cả vụ mùa làm ăn

(Anh lại về)

Trong thơ ca hiện đại Mông, tính trần thuật, phô diễn, kể lể đóng vai trò

quan trọng trong việc chi phối đến kết cấu, mạch thơ. Điều đó làm cho những

bài thơ của dân tộc Mông trở nên dông dài, thiếu đi tính cô đọng, súc tích, nói

ít gợi nhiều của thơ hiện đại. Tuy nhiên lối kết cấu dài mang đậm tính tự sự

kết hợp với mạch trữ tình dàn trải cũng góp phần thể hiện tính hồn nhiên, bộc

trực, thẳng thắn và phúc hậu; thuận lợi cho lối diễn tả bằng những hình ảnh so

sánh trùng điệp quen thuộc của người miền núi. Bài thơ “Đợi chờ” của Hùng

Đình Quí có thể coi là bài thơ tiêu biểu cho dạng kết cấu này, cũng là một

trong những bài thơ dài nhất của thơ ca hiện đại Mông cho đến nay. Bài thơ

dài tới 42 khổ thơ, khổ ít nhất 4 câu, khổ dài nhất 26 câu. Cả bài thơ là hình

thức đối thoại giữa hai nhân vật trữ tình là “anh trai Mông” (đrâu Mông) và

“em gái Mông” (gầu Mông). Bài thơ là tâm sự cuộc đời của nhà thơ với giọng

điệu tự sự sâu lắng, với nội dung như là một câu chuyện kể, lời thơ rất gần với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

70

dân ca qua việc sử dụng vần điệu, kết cấu. Ngoài ra, còn hàng loạt bài thơ của

Hùng Đình Quí mang hình thức độc thoại vốn cũng rất đặc trưng của dân ca

Mông như các bài “Không liên luỵ”, “Phải học”, “Ngu và nhục”, “Nếu sai tôi

chết không nhắm mắt”, “Hãy chờ đi đầu xuống đất”… Có thể nói, Hùng Đình

Quí là nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của thơ ca truyền thống dân tộc

Mông. Lối kết cấu đối đáp chủ yếu sử dụng phép đối ý, đối lời, tạo nên sự cân

đối giữa các câu thơ, đoạn thơ khiến cho nội dung bài thơ được nhấn mạnh,

được khắc sâu, đạt hiệu quả nghệ thuật.

Kết cấu trùng điệp là một hình thức nghệ thuật quen thuộc trong thơ ca,

kể cả thơ ca của dân tộc Kinh. Sự lặp lại nhiều lần một chi tiết, hình ảnh, đôi

khi cả câu thơ khiến cho việc khắc hoạ diện mạo, nội tâm và hành động của

nhân vật trữ tình trở nên rõ rệt và ấn tượng hơn. Trong thơ hiện đại của các

nhà thơ dân tộc Kinh, lối kết cấu trùng điệp cũng khá phổ biến. Nguyễn Đình

Thi diễn tả nỗi nhớ của người chiến sĩ “Ngôi sao nhớ ai mà lấp lánh …/Ngọn

lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh”; Phạm Tiến Duật khắc hoạ hình ảnh những

chiếc xe không có kính vẫn băng băng ra chiến trường, mặc cho “Không có

kính/Ừ thì có bụi”, “Không có kính/Ừ thì ướt áo”; Bằng Việt chiêm nghiệm

về hình tượng bếp lửa đeo đẳng trong ký ức như dấu ấn về tình cảm thương

yêu sâu đậm và thiêng liêng của người bà:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa…

(Bếp lửa)

Tuy nhiên, lối kết cấu trùng điệp là một hình thức nghệ thuật rất đặc

trưng và phổ biến trong thơ ca hiện đại dân tộc Mông, xuất hiện trong sáng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

71

tác của các tác giả với một mức độ đậm đặc. Đây cũng chính là sự kế thừa

truyền thống bởi kết cấu trùng điệp là hình thức phổ biến nhất trong thơ ca

dân gian dân tộc Mông:

Bố mẹ sinh ra em nổi tiếng đẹp xinh

Ta thường lấy núi đồi làm thang bắc lên thăm

Bố mẹ sinh ra em lừng danh tươi giòn

Ta thường lấy núi đồi làm thang bắc lên hỏi [63]

Các nhà thơ hiện đại đã tiếp thu và chiếm lĩnh hình thức kết cấu đặc

trưng này như là một cách biểu hiện riêng cho thơ ca của dân tộc Mông.

Những bài thơ với nội dung phản ánh khác nhau nhưng có chung một hình

thức kết cấu. Sùng Nhìa Tú tự hào vì sự đổi đời của người Mông từ khi có

Bác Hồ:

Mặt trời chiếu tia nắng xuống đồi dốc

Ta có Bác Hồ - Bác Hồ bảo người Mông ta cách làm ăn

Mặt trời chiếu tia nắng xuống đồi bậc thang

Ta có Bác Hồ - Bác Hồ bảo người Mông ta cách làm mặc

(Mặt trời, mặt trăng và Bác Hồ)

Hùng Đình Quí diễn tả tâm trạng hân hoan vui của chàng trai người

Mông “Qua dốc Cán Tỷ” trên con đường mới mở nhờ chính sách của Đảng để

miền núi tiến kịp miền xuôi:

Con đường, mày bò qua đèo qua núi miết

Nhưng thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh đây

Vượt trăm lần vẫn chưa thấy chán

Con đường, mày bò qua đèo qua núi hoài

Nhưng thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh đây

Vượt trăm lần vẫn chưa thấy chê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

72

(Qua dốc Cán Tỷ)

Giàng A Páo vận động bà con dân tộc Mông có ý thức bảo vệ rừng để

“giữ cho núi đồi biếc xanh”:

Con sóc ăn quả xá

Tung tăng bò lên ngọn cây dẻ

Ta giữ cho núi đồi biếc xanh

Cuộc sống xanh tươi dài mãi mãi

Con sóc ăn quả xá

Tung tăng bò lên ngọn cây thông

Ta giữ cho núi đồi xanh biếc

Là làm đúng hướng của lòng

(Rừng biếc xanh)

Thủ pháp trùng điệp tạo lên sự tràn đầy trong mạch cảm xúc của nhân

vật trữ tình, làm tăng sức thuyết phục của lí lẽ và tính nhất quán của hình

tượng thơ. Sự có mặt của các cụm từ, ngữ được lặp đi lặp lại nhiều lần và mỗi

lần lặp lại đều có sự biến đổi đôi chút theo qui luật phù hợp với âm, vần khiến

việc lặp lại không bị nhàm chán, đơn điệu, vừa sinh động, vừa khắc hoạ rõ ý

đồ nghệ thuật tạo nên sắc thái biểu đạt riêng cho mỗi bài thơ.

3.2. Ngôn ngữ hình ảnh trong thơ Mông thời kỳ hiện đại

3.2.1. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày

của đồng bào Mông

“Thơ dân tộc thiểu số thuộc loại thơ giản dị, chân mộc, dễ hiểu, nhưng

vẫn hay và đầy ám ảnh” [58;12]. Ngôn ngữ mộc mạc dễ hiểu là đặc trưng của

thơ các dân tộc thiểu số. Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của người miền núi, ưa

sự chân thật, chất phác, dị ứng với những lời khuôn sáo mĩ miều. Các nhà thơ

đã đưa vào thơ ca những lời ăn tiếng nói hàng ngày của người miền núi. Cả

cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt cũng rất giản dị. Có cảm giác các tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

73

thơ dân tộc thiểu số họ nghĩ gì viết thế, giản dị, mộc mạc mà dễ hiểu. Điều

này cũng thường thấy trong thơ của các tác giả người Mông. Suy cho cùng,

ngôn ngữ mộc mạc dễ hiểu sẽ có độ chân thực cao và chân thực là một điều

kiện cần thiết của thơ. Tình cảm đối với Bác Hồ kính yêu là một tình cảm lớn

lao, thiêng liêng của dân tộc Mông nói riêng, các dân tộc Việt Nam nói chung,

là đề tài, là cảm hứng cho rất nhiều bài thơ. Người Mông diễn đạt tình cảm đó

một cách giản dị: “Ơn Bác Hồ người Mông nợ/Chồng cao bằng núi đá/Chất

cao bằng núi đất” (Hùng Đình Quí). So với cách viết của nhà thơ Tố Hữu

“Người là cha, là bác, là anh/Quả tim lớn lọc trăm dòng máu đỏ”, không chỉ

là sự khác nhau về ngôn ngữ hình ảnh thơ mà chính là sự khác nhau về đặc

trưng tâm lí của hai dân tộc. Người miền núi chỉ nói cái gì nhìn thấy, ít nói cái

gì cảm thấy, tức là lối biểu đạt bằng tư duy lí tính. Lấy cái có thể đo đếm

được để diễn tả cái không thể đo đếm được. Để nói về lòng biết ơn, người

Kinh có cách nói khái quát “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, người Mông nói bằng

những hình ảnh rất giản dị, cụ thể:

Người ta gieo kê,

Kê ra bông

Những công ơn ấy

Người Mông xin ghi nhớ trong lòng

Người ta gieo lúa, lúa ra hạt

Những công ơn ấy

Người Mông xin ghi nhớ trong bụng

(Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải - Hùng Đình Quí)

Trong thơ Mông hiện đại, ngôn ngữ giao tiếp, lời ăn tiếng nói hàng ngày

của đồng bào được các tác giả đưa vào thơ một cách rất nhuần nhị, tự nhiên.

Chính điều đó làm thơ Mông trở lên giàu bản sắc mang những đặc trưng

riêng của dân tộc Mông. Chẳng hạn, để nói sự gắn bó với mảnh đất quê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

74

hương mình, Giàng A Páo viết “Người Mèo ta trên núi/Bền nơi ở, bền nơi

làm”. Để khuyên nhủ người Mông tránh xa thuốc phiện “bỏ thuốc phiện bằng

được” nhà thơ sử dụng cách nói của người Mông “Nay ta đem con đường hút

thuốc phiện chặt phăng đi”.(Mùa A Lao). Ca ngợi con ong mật siêng năng,

chăm chỉ, nhà thơ mông biểu hiện tình cảm “Em quí con ong mật làm đúng

tim mình”(Giàng A Tủa). Người Mông không nói “ăn mặc” mà thường nói

“làm ăn, làm mặc”. Cách nói này đã được nhà thơ Hùng Đình Quí sử dụng

trong bài thơ nói lên tình cảm vui mừng phấn khởi của người Mông khi được

học chữ “Chữ mình học là biết rộng/Chữ dạy cách làm ăn tốt, làm mặc

đúng”. Nhà thơ động viên đồng bào Mông cho con em đi học để “Biết con

đường chữ hay/Hiểu con đường chữ đẹp” Lời khuyên thật mộc mạc chân tình:

“Dù dành cho con cái/Tiền của chất hàng bồ/Cũng chẳng bằng cho đi/Lấy

con đường học theo đầy bụng”. Ca ngợi vẻ đẹp của thiếu nữ Mông dưới con

mắt của chàng trai Mông đang say đắm trong tình yêu: “Không biết bố mẹ em

ăn gì xinh ra/Để anh ngắm nhìn mải miết/Cứ thấy đôi mắt đôi má em/Trắng

đẹp trắng xinh như hoa mạch lan ở lưng rừng”. Chiến tranh không chỉ gieo

rắc đau thương tai hoạ cho người Kinh mà cả người dân tộc thiểu số. Đồng

bào Mông ý thức được trách nhiệm lên đường đánh Mỹ để giành lại tự do

đem lại sự bình yên cho quê hương. Khí thế đầu quân thật sôi nổi mạnh mẽ:

“Trời đất khói mù/Việt Bắc không run/Thanh niên Mông, Dao đi bộ đội như

nước lũ‟. Cách sử dụng ngôn ngữ hàng ngày của người Mông trong thơ làm

cho thơ Mông hiện đại chiếm được tình cảm yêu mến của đồng bào. Bởi lẽ

các nhà thơ đã nghĩ hộ, nói hộ được những góc độ tình cảm của người Mông

trong cuộc sống. Tuy nhiên cách nói mộc mạc dân dã theo đặc trưng sử dụng

ngôn ngữ của người Mông cũng có hạn chế nhất định, làm cho các bài thơ câu

thơ vì thế phần nào mất đi sức cảm, sức gợi, mất đi chất thơ.

Với mục đích lớn nhất là động viên tuyên truyền và bằng cảm hứng ngợi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

75

ca, thơ Mông hiện đại luôn có xu hướng lựa chọn những từ ngữ quen thuộc,

dễ hiểu, phù hợp với đặc điểm tâm lí và trình độ nhận thức của người Mông.

Những từ ngữ như “bền nơi”, “bền làm”, “đá nở hoa”, “hang sai quả” là

những so sánh liên tưởng hết sức gần gũi với cách nói hàng ngày của người

Mông, xuất hiện trong thơ Mông những từ ngữ đó với một tần xuất khá lớn.

Người trai Mông ra mặt trận nhắn nhủ người yêu “Nàng ở lại cùng hợp tác xã

trồng cấy” để “cho cuộc sống bền nơi ở” (Sùng A Giàng). Ca ngợi cuộc sống

định canh định cư, theo lời của Đảng, thể hiện tấm lòng biết ơn Đảng: “Có

Đảng đưa đường chỉ lối/Người Mèo vùng cao ta/Ở bền nơi, làm bền nơi”

(Giàng A Gia). Tin tưởng vào tương lai hạnh phúc sẽ đến với dân tộc nhà thơ

Mông bày tỏ “Ta ngọt lòng/Bền nơi làm, bền nơi ở”. Kêu gọi mọi người hăng

hái tích cực tham gia trồng rừng, bảo vệ rừng, nhà thơ bày tỏ ước nguyện phải

giữ cho được “Rừng cây bát ngát đậm đặc/Ở bền cùng ta như người yêu”

(Sùng A Trống). Người Mông có tiếng là thuỷ chung trong tình cảm vợ

chồng, hình ảnh người phụ nữ Mông lặng lẽ xoè ô bên vệ đường che cho

chồng nằm ngủ, kiên nhẫn chờ chồng vãn cơn say là một hình ảnh quen thuộc

trong các chợ phiên miền núi. Người Mông xác định rất rõ sự cần thiết phải

có cuộc sống thuỷ chung “Một vợ một chồng/Sống đời như nàng tiên hoa

đẹp/Vợ cả vợ lẽ/Sống đời rối mù như cầy cào nhau”. Sở dĩ có sự so sánh như

vậy là vì cách nói “nàng tiên hoa đẹp” và “rối mù như cầy cào nhau” rất quen

thuộc, rất gần gũi với người Mông, đó là ngôn ngữ hàng ngày nên dễ hiểu,

gây được ấn tượng và cảm tình của đồng bào dân tộc Mông. Cách lựa chọn

những từ ngữ hình ảnh quen thuộc đưa vào thơ ca góp phần tạo cho thơ Mông

có một nét bản sắc riêng. Tuy nhiên, việc lặp lại quá nhiều từ ngữ hình ảnh

như vậy cũng đồng thời là một hạn chế, nó tạo ra sự khuôn mẫu, sáo mòn đôi

khi đến tẻ nhạt, thiếu đi những từ ngữ hình ảnh sáng tạo, độc đáo tạo nên dấu

ấn riêng của từng nhà thơ. Việc sử dụng những từ ngữ hình ảnh quen thuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

76

mà vẫn đặc sắc và thi vị là tài năng riêng của mỗi nhà thơ, có xuất hiện nhưng

không nhiều trong thơ Mông. Ta có thể nhận ra điều đó trong thơ của Mã A

Lềnh với hình ảnh người đàn ông Mông phong trần với “mái đầu trơ một

mỏm đá hoang” và tính cách mạnh mẽ phóng túng “nghênh ngang, xù xì như

hòn đá tảng giữa ngàn lau”. Nếu thành công trong việc sử dụng những từ ngữ

hình ảnh quen thuộc như vậy, thơ hiện đại dân tộc Mông chắc chắn sẽ có

được một vị trí cao hơn nữa trong sự mến mộ của người đọc cũng như trong

nền thơ ca hiện đại của dân tộc.

3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu nhạc điệu

Ngôn ngữ thơ Mông hiện đại rất giàu tính biểu cảm, giàu cảm xúc và

nhạc điệu. Đây cũng chính là đặc trưng của ngôn ngữ thơ ca nói chung. Tuy

nhiên, thơ Mông đặc sắc ở chỗ tính biểu cảm và nhạc điệu của thơ phù hợp

với thị hiếu thẩm mĩ của người Mông, bởi nó xuất phát từ việc phản ánh đời

sống tình cảm của mỗi cá nhân trong cộng đồng Mông mà những nhà thơ là

người đại diện. Họ có tâm thế của người trong cuộc nên hiểu rõ cách nghĩ,

cách cảm của đồng bào.

Người dân tộc thiểu số nói chung ưa nói những lời có vần, một phần do

văn học truyền miệng ngự trị quá lâu trong đời sống tinh thần của họ, vì chữ

viết xuất hiện muộn. Cách nói vần vè có ưu thế là dễ nhớ, dễ thuộc, đặc biệt là

những thành ngữ tục ngữ được vận dụng trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày.

Dân tộc Mông cũng vậy, từ thơ ca dân gian đến thơ hiện đại không có sự cách

biệt quá lớn về mặt hình thức và cả cách tư duy, biểu hiện. Bởi vậy, thơ hiện

đại Mông cho dù có được sáng tác ghi lại bằng chữ Mông hay bằng chữ quốc

ngữ, con đường đi đến trái tim, khối óc của đồng bào Mông vẫn chủ yếu là

con đường truyền khẩu. Cách nói vần vè là cơ hội thuận lợi để các nhà thơ

Mông bày tỏ tình cảm của mình phù hợp với việc diễn tả nội dung của các bài

thơ mang cảm hứng chung là ngợi ca. Từ cảnh cảnh đẹp của thiên nhiên rực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

77

rỡ và tráng lệ trên những triền núi cao quê hương của người Mông: “Mặt trời

nâng hoa mây/Bồng bềnh sáng núi đá”, đến cảnh đẹp của đời sống người

Mông đầm ấm, tươi vui trong vụ mùa thu hoạch “Bậc thang vút lên mây/Mùa

vào thơm lúa chín/Hương lúa tràn quê hương”, và tình cảm yêu mến đến tự

hào về môi trường sống đặc trưng của dân tộc mình: “Người Mèo ta trên

núi/Rừng trập trùng mây bay mây lượn” (Giàng A Páo).

Cách nói vần vè làm cho thơ hiện đại Mông mang một đặc điểm chung

là giàu nhạc điệu. Những nhà thơ là những nhạc sĩ tài hoa trong việc phối kết

các âm thanh của ngôn từ để tạo ra một bản nhạc riêng của các bài thơ. Âm

điệu chung của thơ Mông là âm điệu gần gũi với dân ca và chịu ảnh hưởng

nặng nề của dân ca Mông. Điều đó lí giải tại sao các bài thơ của các tác giả

Mông lại có thể hát lên trong các sinh hoạt tập thể, các lễ hội mà không cần

phải phổ nhạc. Sự phối hợp tài tình các âm vực cao thấp trong ngôn ngữ thơ

tạo cho thơ Mông một sự cân đối, hài hoà: “Nắng trời con chim con sâu

lượn/Trời nắng con chim con bướm đỗ”. Sự cân đối trong hình thức các câu

thơ không chỉ ở số lượng câu chữ mà ở cả sự cân đối về thanh điệu. Ở đó các

thanh bằng, thanh trắc được kết hợp với nhau một cách nhịp nhàng, uyển

chuyển. Cách kết hợp như vậy tạo ra vần điệu cho thơ Mông như là một nét

đặc trưng, khó lẫn với thơ ca của các dân tộc khác. Ta gặp rất nhiều trong các

bài thơ của các tác giả Mông lối diễn đạt như vậy: “Cái ao ruộng hai đầu

bằng/Cái ruộng ao hai đầu lặng” (Hùng Đình Quí), “Hoa chàm nở chênh

chênh dốc sườn đồi/Hoa chàm nở chênh chênh cao sườn núi” (Giàng A Páo);

“Người mẹ giỏi tay nuôi/Người cha khéo tay đặt” (Sùng A Thào); “Cha trao

cho tôi tuổi tác/Mẹ ban phát linh hồn/Cha đắp bồi trí tuệ/Mẹ cho trọn điều

khôn” (Mã A Lềnh) …

3.2.3. Ngôn ngữ, hình ảnh mang sắc thái đặc trưng của dân tộc Mông

Ngôn ngữ, hình ảnh của một dân tộc là sản phẩm của đời sống văn hoá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

78

tinh thần của dân tộc ấy. Thơ hiện đại dân tộc Mông cũng vậy. Các nhà thơ

bao giờ cũng có nét tương đồng, thậm chí trùng hợp trong việc sử dụng hình

ảnh thơ, nhất là những hình ảnh đặc trưng cho thiên nhiên con người và cuộc

sống cộng đồng mình. Trong thơ Mông hiện đại, ta bắt gặp rất nhiều những

hình ảnh thơ được trở đi trở lại nhiều lần có giá trị như những biểu tượng.

Biểu tượng cho thiên nhiên của dân tộc Mông có lẽ là những hình ảnh “núi”,

“mây”, và “mặt trời”. Có lẽ, do sống trên những triền núi đá cao nên gần gũi

nhất với người Mông là núi; do khí hậu khắc nghiệt gần như quanh năm

sương mù che phủ nên mặt trời là biểu tượng của sự ấm áp; những buổi chiều

mùa hè trời như cao hơn, nắng pha sắc màu cho những đám mây nên mây là

biểu tượng của cái đẹp. Khác với thơ của người Kinh và các dân tộc thiểu số

khác, thiên nhiên của người Mông không có những dòng sông nên vì vậy mà

trong thơ hiện đại Mông hình ảnh những dòng sông cũng rất hiếm hoi hoặc

gần như không xuất hiện. Hay như trong thơ của người Thái, hình ảnh hoa

ban xuất hiện nhiều, như là nét đặc trưng thì trong thơ Mông hình ảnh của loài

hoa đặc trưng lại là hoa đào, hoa phong lan: “Ngọn núi lưng rừng nào cũng

đến mùa xuân hoa đào mới nở” (Mùa A Sấu), “(Em) trắng đẹp trắng xinh

như hoa mạch hoa lan nở giữa rừng” (Hùng Đình Quí).

Những hình ảnh “núi”, “đá núi” xuất hiện trong thơ Mông hiện đại không

chỉ đơn thuần là nội dung phản ánh của hiện thực cuộc sống người Mông, cuộc

sống của một dân tộc “Sinh trên đá đợi bạn tình trên đá” (Triệu Kim Văn) mà

nhiều khi, như những hình ảnh của sự so sánh, liên tưởng, ẩn dụ rất độc đáo và

đặc sắc. Dáng vẻ uy nghi, sừng sững của những ngọn núi là hình ảnh để so

sánh với công ơn của Đảng của Bác Hồ đối với người Mông: “ơn Bác Hồ

người Mông nợ/Chồng cao bằng núi đất/chất cao bằng núi đá”. Có khi để diễn

tả niềm vui, nhà thơ Mông dùng hình ảnh “đá nở hoa, hang sai quả”. Hình ảnh

người đàn ông Mông phóng túng, phong trần với “mái đầu trơ một mỏm đá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

79

hoang”, và tính cách “nghêng ngang, xù xì như hòn đá tảng giữa ngàn lau”...

Hình ảnh “nắng” “mặt trời” xuất hiện trong thơ Mông với một mức độ

gần như dầy đặc, với những ẩn dụ, so sánh, liên tưởng hết sức phong phú.

Mặt trời là Đảng, là Bác Hồ, là cuộc sống no ấm, hạnh phúc: “Mặt trời đến

sớm toả tia nắng/Như ánh sáng của Đảng soi”, “Mặt trời chiếu tia nắng

xuống bên đồi dốc/Ta có Bác Hồ - Bác Hồ bảo người Mông ta cách làm ăn”

(Sùng Nhìa Tú). Nhiều bài thơ sử dụng cách so sánh ví von trực tiếp hình ảnh

mặt trời như: “Có cụ Hồ về”(Giàng A Của), “Mặt trời hoa mây” (Giàng A

Páo), “Ánh mặt trời” (Giàng A Lử), “Mặt trời, mặt trăng và Bác Hồ” (Sùng

Nhìa Tú), “Nhớ đến Chính phủ” (Vừ Thị Dưa)... Bên cạnh đó, có những bài

thơ mà hình ảnh “nắng” “mặt trời” mang ý nghĩa ẩn dụ, bộc lộ kín đáo suy

nghĩ, tình cảm của các tác giả: “Ngửa mặt lên tôi say uống nắng vàng”, “Ở

trên đầu nắng rọi mênh mang”, “Nắng lại toả xua tan u ám - trong lòng ta

mang sắc nắng tràn trề”. Hơn ai hết người Mông nhận thức sâu sắc sự cần

thiết của nắng đối với sự sống: “Cuộc sống này sinh sôi vì có nắng/Nắng đậu

trên môi nụ cười tươi rạng” (Mã A Lềnh)...

Những bài thơ viết về cuộc sống đồng bào Mông xuất hiện rất nhiều

những hình ảnh “cây lanh”, “sợi lanh”, “con ong”, “chim ri”, “chim khướu”,

“ruộng bậc thang”... như những hình ảnh vừa gần gũi với cuộc sống, vừa là

đặc trưng cho cuộc sống của người Mông. Sợi lanh dường như là một thứ “bất

li thân” của người phụ nữ Mông, khi đi nương, đi rẫy, khi làm bếp, ngay cả

trong lúc nghỉ ngơi, người phụ nữ vẫn luôn luôn tước lanh để rồi dệt nên

những trang phục vừa bền chắc, vừa rực rỡ sắc màu. Vì vậy, trong thơ Mông,

hình ảnh sợi lanh như một biểu tượng cho sự cần mẫn chăm chỉ và cho cả tình

yêu chung thuỷ: “Sợi lanh căng do em se/ Đôi ta kết đường tình duyên”,

“Trước cửa nhà em có cây lanh mọc/Ong mới về tìm đậu” (dân ca Mông),

“Guồng se lanh nối dài vô tận sợi lanh/ Mùa xuân này trời xui đất khiến cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

80

em gặp anh” (Mã A Lềnh). Hình ảnh “tổ ong khoái, ong mật” thường được

các nhà thơ Mông sử dụng để thể hiện sự đoàn kết và niềm vui trong cuộc

sống: “Mẹ con, bố con/ Sống tưng bừng như một tổ ong mật”, “Để người vùng

cao vùng thấp/ Mới được ở ầm vang như tổ ong khoái ong mật” (Hùng Đình

Quí), “Có ngày cuộc sống của ta như ong khoái” (Sùng A Trống), “Đôi ta

thành vợ chồng/ Nảy nở sinh sôi như tổ ong mật” (dân ca Mông)...

Chúng tôi không có điều kiện để khảo sát đầy đủ những hình ảnh mang ý

nghĩa biểu tượng trong thơ ca Mông, sự xuất hiện với tần số cao những hình

ảnh tiêu biểu của thiên nhiên con người và cuộc sống vật chất tinh thần của

người Mông góp phần làm cho thơ hiện đại Mông mang một đặc trưng riêng

hay nói cách khác, đó là một trong những biểu hiện của bản sắc dân tộc trong

thơ Mông hiện đại. Những hình ảnh “chim khướu, chim ri”, “tiếng khèn”,

“đàn môi” … là những biểu tượng đặc trưng cho những nét phong cách và

sinh hoạt của người Mông, rất cần những nghiên cứu một cách cụ thể, riêng

biệt. Thiết nghĩ, chắc chắn đó sẽ là những khám phá lí thú về vấn đề đặc trưng

bản sắc của dân tộc Mông.

3.3. Cấu trúc, nhịp điệu trong thơ Mông thời kỳ hiện đại

3.3.1. Cấu trúc, nhịp điệu chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền thống dân

tộc Mông

Kết cấu của bài thơ là một trong những phương tiện để biểu đạt nội

dung. Kết cấu của bài thơ còn phần nào bộc lộ những đặc điểm về tâm lí, cách

tư duy, biểu đạt của từng tác giả. Thơ Mông hiện đại mang những đặc trưng

riêng mà theo chúng tôi có thể phân chia thành hai xu hướng kết cấu của các

bài thơ: Xu hướng kết cấu truyền thống và xu hướng kết cấu hiện đại.

Kết cấu theo lối truyền thống là một trong những đặc trưng nổi bật của thơ

Mông hiện đại. Đó vừa là một ưu thế đồng thời vừa là một hạn chế nhất định của

thơ Mông. Sử dụng các hình thức kết cấu của thơ ca truyền thống tạo cho thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

81

Mông có đặc điểm riêng biệt, dễ nhận ra, giàu bản sắc. Tuy nhiên, sử dụng quá

nhiều hình thức kết cấu đó sẽ làm cho các bài thơ trở nên đơn điệu, dễ nhàm

chán, không bắt kịp được với lối tư duy hiện đại, là một sự kìm hãm trong việc

chuyển tải nội dung phản ánh cũng như ý đồ nghệ thuật của các tác giả.

Thơ Mông hiện đại chịu ảnh hưởng rất lớn của dân ca Mông về mặt hình

thức kết cấu. Lối kết cấu đối ngẫu, lặp lại nhiều lần những từ ngữ, hình ảnh,

cấu trúc câu thơ kết hợp với sự phối âm các thanh điệu bằng trắc làm cho thơ

Mông hiện đại có những giai điệu rất gần với dân ca Mông:

Em gầu Mông

Nếu em nhớ dài, anh nhớ lâu

Thì cho dù hang ra hoa, đá ra quả

Cũng chẳng ai tách rời được hai ta đâu!

Nếu em nhớ đầy, anh nhớ đủ

Thì cho dù đá ra quả, hang ra hoa

Cũng chẳng ai tách rời hai ta được!

(Đợi chờ - Hùng đình Quí)

Thậm chí, có những bài thơ Mông đọc lên chúng ta có cảm giác đã thấy

rõ những giai điệu để có thể cất ngay lên tiếng hát:

Trên vòm trời mây quang

Dưới vòm trời trăng sáng

Con chim hoạ mi nhảy nhót

Con chim khướu đậu cành lan hót vang

Qua hội xuân này kẻo mình đi nhà mình, ta trở về nhà ta thôi

Đôi ta không còn tựa lưng nhau thổi đàn môi

(Hội xuân - Mã A Lềnh)

Thơ Mông giàu nhạc điệu, một phần là do âm hưởng của dân ca Mông

quá sâu đậm chi phối từ cảm xúc đến kết cấu, từ hình ảnh đến nhịp điệu của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

82

từng câu thơ:

Em là cô gái Mèo hoa

Anh là chàng trai Tày trắng

Trời có mắt trời cho ta thấy

Đất có lòng, đất cho ta duyên

Trời đất se duyên bên sườn núi

(Tình ca ở Chu Lầu Thí - Giàng Xuân Hồ)

Tuy nhiên, ảnh hưởng quá nhiều từ hình thức kết cấu của dân ca làm cho

thơ Mông hiện đại không tránh khỏi sự lặp lại đến đơn điệu, đôi khi cũ kĩ, sáo

mòn: “Con bướm vàng mặc váy hoa vàng/ Ngày ngày làm dáng /chạy loăng

quăng bên rừng/ Con bướm mặc váy mới hoa lụa/ Ngày ngày làm dáng chạy

nhênh nhang” (Giàng A Tủa), “Anh trai Mông/ Nước trong, trong vắt không

vẩn đục/ Anh hãy đi rồi mau trở lại/ Nước trong, trong vắt không vẩn ngầu

/Anh hãy đi rồi mau rồi trở về” (Hùng Đình Quí).

Kết cấu đối ngẫu, trùng điệp làm cho thơ Mông trở nên dàn trải, thiếu sự

cô đọng cần thiết. Đây cũng chính là một trong những hạn chế của những bài

thơ chịu ảnh hưởng quá nặng nề của hình thức dân ca. Tuy nhiên, nó có vẻ lại

là món ăn “hợp khẩu vị” của người Mông ở khả năng hành dụng hát không

cần phổ nhạc. Vì thế mà những bài thơ của Hùng Đình Quí, Giàng A Páo

trước nay vẫn được nhiều người Mông ưu thích.

3.3.2. Xu hướng hiện đại trong cấu trúc, nhịp điệu của thơ ca Mông thời kỳ

hiện đại

Bên cạnh xu hướng kết cấu thơ chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền thống,

thơ ca hiện đại Mông còn mang những đặc điểm của cấu trúc thơ ca hiện đại.

Điều này thể hiện rất rõ trong việc dồn nén câu chữ, đặc biệt là cách gieo vần,

ngắt nhịp trong các câu thơ, bài thơ. “Nếu so với dân ca dân tộc thiểu số thì

thơ hiện đại dân tộc thiểu số đã có một bước nhảy vọt về nội dung tư tưởng và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

83

nghệ thuật thể hiện” [58;59]. Thơ Mông hiện đại cũng vậy, xu hướng thoát li

truyền thống trong hình thức thơ bộc lộ rất rõ. Trước hết, sự cô đọng thể hiện

ở nhan đề các bài thơ. Nếu như giai đoạn trước năm 1975, thơ Mông thường

chỉ có nội dung dàn trải, giọng điệu giãi bày, kể lể; tên các bài thường dài

(chẳng hạn, các bài thơ “Mặt trời, mặt trăng và Bác Hồ” của Sùng Nhìa Tú;

“Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải” của Hùng Đình Quí; “Chim Câu kỉ Giàng gọi

mùa” của Giàng A Của, “Núi mọc trong mặt gương” của Mùa A Sấu …) thì

thơ Mông sau 1975 thiên về những bài thơ ngắn với cách đặt tiêu đề cũng rất

cô đọng, chắt lọc. Tập “Mã A Lềnh thơ” (2002) gồm 42 bài thơ, trong đó,

xuất hiện tới 22 bài thơ nhan đề chỉ có từ một đến hai chữ. Bài thơ có tiêu đề

dài nhất cũng chỉ có bốn chữ. đặc biệt xuất hiện những bài thơ tứ tuyệt mà

gần như chưa bao giờ xuất hiện trong thơ Mông trước đây. Thậm chí có

những bài thơ nhỏ chỉ có hai câu (“Nhà văn”, “Thực tế”, “Văn”, “Thơ”,

“Truyện ngắn”, “Trường ca” - gần như là những định nghĩa riêng, độc đáo

trong “chùm thơ đạo nghiệp” của Mã A Lềnh).

Thể loại lục bát là một hình thức kết cấu gần như độc quyền phổ biến

của thơ ca dân tộc Kinh, đã được sử dụng khá thành công trong thơ của các

dân tộc thiểu số khác từ sau cách mạng tháng Tám, cũng đã xuất hiện trong

thơ hiện đại của dân tộc Mông một cách khá nhuần nhuyễn:

Lương hưu đầu tháng lĩnh rồi

Đưa em nguyên vẹn. Em cười cất đi

(Hưu - Mã A Lềnh)

Thậm chí, có những bài thơ mà cấu trúc thể loại lục bát đã được cách

điệu, tạo nên cách ngắt nhịp mang dấu ấn nghệ thuật khá rõ:

Tuyết buông

nhoà trắng

góc trời

Sương sa trên má

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

84

một người

vợi xa

Cánh chim chấp chới

chiều tà

Thinh không

lá rụng

vỡ oà

hoàng hôn

(Chiều xưa - Mã A Lềnh)

Cách ngắt nhịp theo kiểu chẻ nhỏ các câu thơ, “đánh rơi” từng con chữ

hay lối thơ bậc thang từng xuất hiện trong thơ của Nguyễn Vĩ trong phong

trào thơ mới mà theo các nhà nghiên cứu phê bình, chịu ảnh hưởng rõ rệt của

thơ Maiacopxki trước đây cũng được các tác giả người Mông như Mã A

Lềnh, Mã Ngân Hà sử dụng, cũng không thể nói là không được những hiệu

quả nghệ thuật nhất định:

Đường con đi phía trước

bắt đầu

từ

CHA

(Cha - Mã Ngân Hà)

Có giọt đau nào

trót

sa

nơi

ngực

rồi

phải không cha?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

85

(Với cha - Mã A Lềnh)

Thậm chí, thơ văn xuôi là một biến thể đặc biệt của thơ trữ tình cũng đã

được các nhà thơ Mông sử dụng với sự bộc lộ, tuôn chảy mãnh liệt của cảm

xúc: “Tôi chợt vô ý nước mắt chan ra say đắm lang thang một mình đứng xem

các bạn Chăm say sưa với điệu dân ca dân vũ suốt ngàn năm sương rừng

gió núi và hoàn thiện qua bấy nhiêu năm ánh sáng cách mạng soi đường”

(Từ Vân Hồ ‟86 - Mã A Lềnh).

Có thể nói, các nhà thơ hiện đại dân tộc Mông đang kiên tâm bền bỉ trên

hành trình đổi mới cho thơ, với những mong ước rất đáng trân trọng là để thơ

dân tộc Mông tạo nên một nguồn mạch mới, bắt nhịp và chan hoà vào dòng

chảy chung của thơ ca hiện đại các dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca Việt

Nam hiện đại nói chung.

3.4. Tƣ duy, diễn đạt trong thơ Mông thời kỳ hiện đại

3.4.1. Tư duy trực quan hình ảnh

Tư duy trực quan hình ảnh là đặc điểm chung của người miền núi, đúng

hơn là đặc điểm chung của người dân tộc thiểu số. Đó là sự tự biểu hiện của

khả năng nhận thức và biểu đạt của cá nhân trước một vấn đề trừu tượng đòi

hỏi phải diẽn đạt bằng ngôn ngữ với mục đích để người đọc, người nghe dễ

dàng tiếp nhận. Thơ dân tộc thiểu số nói chung và thơ dân tộc Mông nói

riêng, rất giàu hình ảnh. Tư duy hình ảnh tạo nên sự phong phú độc đáo cho

hình tượng thơ. Lựa chọn những hình ảnh có khả năng diễn tả chính xác nội

dung cần biểu hiện làm cho những câu thơ, bài thơ trở nên sinh động và có

tính biểu cảm cao, gây được ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Chẳng hạn, để

miêu tả cái nắng nóng gay gắt đến khắc nghiệt của những ngày hè, nhà thơ

Nông Quốc Chấn có những câu thơ đầy hình ảnh: “Mặt trời như bốc lửa/

Nắng vỡ ống bương/Bụi mù trên nương/Ngoài ruộng nhe nanh, chim cu đánh

sảng… (Thần nông). Nhà thơ La Quán Miên (dân tộc Thái) có cách nói rất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

86

hình ảnh khi kể về giặc Mỹ ném bom bắn phá quê hương: “Cái máy bay

thằng Mỹ/Ném bom xuống bom to như cái chum/Bản nhà sàn của ta ăn lửa”

(Tiễn dặn người trai bản). Cách tư duy của người miền núi làm cho tất cả mọi

sự vật hiện tượng đều có cuộc sống riêng có suy nghĩ và hành động như con

người: “Núi già, núi có râu đầy cằm/Núi có máu, có xương núi sống” (Núi -

Lương Quy Nhân). Trong thơ Mông hiện đại, cách tư duy trực quan hình ảnh

cũng thể hiện rất rõ. Diễn tả không khí lao động khẩn trương cho kịp mùa vụ,

Giàng A Của dùng hình ảnh “đưa hết cánh tay ra đồng ruộng”. Khuyên mọi

người có ý thức bảo vệ rừng, Sùng A Trống chỉ ra tác hại của việc tàn phá

rừng đầu nguồn: “Ta đem rừng triệt hại/Có ngày cuộc sống của ta/Như là con

mương ruộng đã vỡ/Còn trơ lại cái rãnh khô”. Hùng Đình Quí ca ngợi cuộc

sống hạnh phúc một vợ một chồng, lên án hủ tục lấy vợ lẽ, ông khuyên những

người Mông không nên “tranh đục cũ người dùng”, “cướp dao mẻ người

liếc”. Tư duy trực quan hình ảnh tạo cho thơ Mông có sức khái quát cao hơn,

gần với nếp cảm, nếp nghĩ, với cách diễn đạt trong ngôn ngữ hàng ngày của

người Mông.

3.4.2. Tư duy, diễn đạt mang đậm bản sắc dân tộc Mông

Mặc dù cách tư duy diễn đạt bằng hình ảnh không phải là cách biểu hiện

mang tính đặc thù trong ngôn ngữ thơ ca của bất cứ dân tộc nào, nhưng sắc

thái để khu biệt tính đặc trưng trong thơ của từng dân tộc lại rất rõ. Nó được

biểu hiện bằng cách sử dụng những hình ảnh gần gũi quen thuộc với cuộc

sống của từng vùng, từng dân tộc, thậm chí cả đặc điểm tâm lí và cá tính của

dân tộc cũng phần nào được bộc lộ qua những hình ảnh đó. Chẳng hạn, những

hình ảnh so sánh ví von với “cá” thường được sử dụng như một đặc trưng

trong thơ của các dân tộc Mường, Thái do đặc trưng sinh sống ở ven các con

sông và việc canh tác lúa nước. Vậy nên, trong thơ Thái hiện đại mới hay xuất

hiện những hình ảnh so sánh như: “Cổ tay em tròn đuôi cá” (Sầm Nga Di),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

87

“Bàn chân xinh xắn như đuôi cá xoè” (Lương Quy Nhân). Chính từ phong tục

tập quán “ăn theo nước” nên người Thái mới có sự gắn bó máu thịt với ruộng

đồng, sông suối. Các câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao của người Thái nói nhiều

đến hình ảnh cá như: “Quí thóc - thóc về. Quí cá - cá lên” hay “Được nắm xôi

ngon chớ quên ruộng/Được khúc cá bùi chớ quên suối”. Trong tập hợp những

hình ảnh được diễn đạt, biểu hiện theo tư duy của người Mông, dường như

chưa một lần có những sự so sánh ví von liên quan đến cá. Tuy nhiên, lại xuất

hiện với một mật độ khá lớn các hình ảnh đặc trưng của người Mông: Nếu là

hoa thì đó là phong lan, hoa mận, hoa đào …, nếu là chim thì đó là hoạ mi,

chim ri, chim khướu …, nếu là cây thì đó là cây ngô, cây lanh v.v… Không chỉ

hình ảnh mà cách diễn đạt hình ảnh trong thơ Mông cũng rất độc đáo và giàu

bản sắc. Chẳng hạn, nói về tác hại của tệ nạn nghiện rượu và thuốc phiện, các

nhà thơ Mông thường sử dụng cách diễn đạt rất hình ảnh và cũng rất độc đáo:

“Người tài chui vào hũ”, “Người giỏi chui vào chai”. Những cơn đói thuốc vật

vã làm cho con nghiện như “cầy điên chết bệnh”, “mèo dại chết nắng”, tài sản

bị tiêu tan: “dưới nhà còn đất/trên gác chỉ còn bồ hóng” (Hùng Đình Quí), để

rồi nhà thơ đưa ra những lời khuyên nhủ chân tình: “Chàng trai muốn áo bông

lồng áo lụa/Hay để cái tẩu hơ ngọn đèn?” (Mùa A Lao), “Nay ta đem con

đường hút thuốc phiện chặt phăng đi” (Giàng Sùng Tủa). Nhiều hình ảnh thơ là

sản phẩm của lối tư duy trực quan mộc mạc đến hồn nhiên, chân thật đến ngộ

nghĩnh. Lời người trai Mông lên đường đánh Mỹ thể hiện một ý chí cao, một

quyết tâm sắt đá: “Chỉ có con cóc mới đi không hết đường/Trở về chết dưới

bàn tay vợ”. Để rồi: “Đi gặp giặc Mỹ giữa đường/ Anh trai Mông đánh như sét

đánh chó/Đi gặp giặc nguỵ giữa lối/Anh trai Mông đánh như sét đánh rắn”.

Núi rừng, con người Việt Bắc thay da đổi thịt, tưng bừng trong cuộc sống mới

“khác nào rắn xanh lột da”, “khác nào măng mai lột bẹ”. Người Mông vui vẻ,

hạnh phúc “sống tưng bừng như một tổ ong mật”, con người trở nên những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

88

nhân cách đẹp: “Anh trai Mông tốt bạc/Em gái Mông tốt vàng”…

Tư duy nghệ thuật của nhà thơ một phần là sản phẩm của đời sống văn

hoá tinh thần của dân tộc mà nhà thơ là người đại diện, một phần là do sự

từng trải và vốn tri thức văn hoá mà nhà thơ do học hỏi, rèn luyện mà có

được. Cũng như thơ ca của các dân tộc khác, thơ hiện đại dân tộc Mông có

cách tư duy, diễn đạt in đậm dấu ấn văn hoá của dân tộc mình. Nhà thơ Chế

Lan Viên nhận xét: “Thơ HMông có yếu tố của tình cảm, có yếu tố của bản

năng. Nhưng thơ HMông cũng diễn tả suy nghĩ. Trong thơ HMông có yếu tố

rất rõ của lí trí. Người HMông là người muốn biết rõ lí lẽ phải trái, nguyên

nhân vì đâu” [77]. Một nét đặc trưng trong cách tư duy, diễn đạt của người

Mông là cách nói bóng bẩy bằng những hình ảnh, hình tượng mang ý nghĩa

triết lí và sự lí giải cặn kẽ để khẳng định đúng sai, khẳng định chân lí cuộc

sống. Người Mông sống vui vẻ lạc quan là vậy nhưng cũng có lúc suy tư,

cũng có lúc phải xót xa chiêm nghiệm về cuộc đời, nhất là cuộc đời trong xã

hội cũ: “Đời người như bóng râm từ từ ngả bên đồi”, “Đời người như củ cải

phơi nắng/Già cứ dần trẻ lại qua mau” (dân ca Mông). Cuộc sống khắc

nghiệt qua những cuộc thiên di từ trong quá khứ đau thương của lịch sử dân

tộc đã đúc kết cho người Mông một chân lí mới mẻ mà giản dị: “Ở đâu có

bầu trời, đó là Tổ quốc”. Sự lựa chọn cuộc sống ở thế cheo leo trên những

đỉnh núi là một sự lựa chọn cẩn trọng. Bởi chỉ ở đó, người Mông mới thật sự

thanh thản, mới có cảm giác của sự bình yên, được che chở, nương tựa:

“Chiếc nôi êm là tảng đá giữa non ngàn”. Những triết lý trong thơ dân tộc

thiểu số nói chung, dân tộc Mông nói riêng “thường bằng những hình ảnh

thấm thía, bắt người đọc phải suy tư và tự lý giải. Những triết lý thường

không dễ dãi, không quen thuộc. Đó là những khám phá, sáng tạo của nhà

thơ” [59; 18]

Người Mông thật thà cả tin nhưng cũng rất tỉnh táo, nhìn nhận sự việc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

89

bằng lí trí. Đạo “Vàng Chứ” lan tràn trong các vùng của người Mông một

cách ồ ạt trước đây không phải chỉ có nguyên nhân từ niềm tin mù quáng mà

một phần do thực tế khắc nghiệt của cuộc sống đặt ra: Môi trường thiên nhiên

của người Mông đã bị tàn phá; đời sống kinh tế bấp bênh. Niềm tin đôi khi là

cứu cánh cuối cùng của sự giải thoát. Không phải không có những người

Mông nhận ra điều này: “ Người rước đạo về lừa ta/Là kẻ muốn ta hết

giống/Người đem đạo về dối mình/Là kẻ muốn ta tiệt gốc”. Nhận ra những

điểm yếu trong tính cách, tâm lí của dân tộc mình để cầu tiến bộ là một thái

độ rất đáng trân trọng, khích lệ: “Người ta khen người ta sức khoẻ/Người

Mông khen người Mông lợn béo” để rồi thực tế “Lợn béo không thấy/Chỉ thấy

mê li chén rượu cồn/Lại còn toan tính theo đường Vàng Chứ luôn”. Sứ mạng

vẻ vang của những nhà thơ Mông là đi tiên phong trong cuộc chiến chống hủ

tục lạc hậu, các niềm tin mù quáng trong đời sống văn hoá tinh thần của dân

tộc mình. Nhà thơ người Mông giảng giải, phân tích cặn kẽ, chí lí chí tình để

làm cho những người Mông nhẹ dạ, cả tin có nhận thức đúng: “Người ta lừa

rằng/Theo Vàng Chứ không làm cũng có ăn/Thách các người cứ thử đợi?Nếu

đúng như vậy/Tôi xin đi bằng đầu xuống đất!”. Một lẽ giản đơn, người Mông

rất coi trọng tổ tiên ông bà vậy mà những người theo đạo “Vàng Chứ” đang

tâm phá bỏ bàn thờ tổ tiên. Nhà thơ Mông khẳng định như một chân lí:

“Người Mông nếu không còn tổ tiên ông bà/Dù cho còn sống tròn đôi

mắt/Cũng chẳng khác chi con ngươi bị mù loà”.

Để biểu đạt tư duy và bộc lộ suy nghĩ, tình cảm một cách chí lí chí tình,

thơ Mông hiện đại sử dụng nhiều những thủ pháp nghệ thuật trong đó phổ

biến hơn cả là các biện pháp so sánh, nhân hoá, ẩn dụ … Đó cũng chính là các

thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca. đặc trưng của thơ Mông nằm ở nội

dung diễn đạt, biểu hiện của các thủ pháp nghệ thuật ấy.

Khả năng diễn đạt bằng so sánh hình ảnh như là một nét tâm lí “thiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

90

bẩm” của người miền núi nói chung. Trong thơ Mông hiện đại khả năng ấy

được bộc lộ một cách đa dạng. đặc biệt là xu hướng sử dụng liên tiếp nhiều

hình ảnh để biểu đạt sự so sánh. Chẳng hạn, để nói về cuộc sống bi thảm của

người Mông trong xã hội cũ, nhà thơ Mông sử dụng hình ảnh “Như con ma

không mẹ cha ăn của thừa”, “Như con ma mồ côi chăn trâu người”. Ca ngợi

cuộc sống đổi mới, nhà thơ Mông sử dụng những hình ảnh liên tiếp “khác nào

rắn xanh lột da”, “khác nào măng mai lột bẹ”. Các hình ảnh so sánh ví von

trùng điệp này tạo cho vấn đề được biểu đạt vừa cụ thể hơn, vừa sâu sắc hơn.

Bên cạnh đó, các thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hoá cũng thường xuyên

được sử dụng và sử dụng có hiệu quả trong thơ Mông hiện đại. Muốn nói lên

nạn mù chữ, thất học là nguyên nhân của sự đói nghèo, thơ Mông dùng cách

nói hình ảnh “cái miệng muốn ăn/Nhưng tay chẳng với tới”. Niềm vui hạnh

phúc được thơ Mông diễn đạt bằng những hình ảnh mới lạ và độc đáo: “Bò

đực biết đẻ con”, “đá nở hoa, hang sai quả”.v.v..

3.5. Một số hạn chế về nghệ thuật của thơ Mông thời kỳ hiện đại

Một đặc điểm đồng thời cũng là một hạn chế của thơ Mông hiện đại là

nội dung các bài thơ, câu thơ thường là đơn giản, chỉ thể hiện được một lớp

nghĩa. Nó phù hợp với tâm lí nhận thức và phản ánh chân thực và thẳng thắn

của người Mông. Tuy nhiên, nó làm cho thơ Mông thiếu đi sự súc tích, tính

đa nghĩa vốn là một tiêu chí cần thiết của thơ: “Thơ phải được ý ở ngoài lời.

Trong thơ hàm súc vô cùng thì mới là tôn chỉ của người làm thơ. Cho nên ý

thừa hơn lời thì tuy cạn mà vẫn sâu, lời thừa hơn ý thì tuy công phu và vẫn

vụng” (Ngô Lôi Pháp) [4;54]. Thơ Mông hiện đại vẫn chỉ phù hợp với giọng

điệu giãi bày, kể lể vốn đã rất quen thuộc trong thơ Mông truyền thống.

Phương thức biểu đạt chủ yếu trong thơ Mông là phương thức tạo hình, lấy

việc phản ánh hiện thực làm chính, thiếu đi sức gợi và sự lắng đọng cần thiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

91

để người đọc phải suy ngẫm, chiêm nghiệm.

Về mặt nghệ thuật, thơ Mông hiện đại đã có được những ưu điểm nhất

định. Đó là những thành công cần được ghi nhận. Trước hết, thơ Mông đã tạo

ra được một giọng điệu riêng biệt, mang đặc trưng của thơ miền núi, gần gũi

với thơ dân tộc thiểu số nói chung nhưng vẫn giữ lại cho mình những nét bản

sắc riêng. Từ kết cấu các bài thơ, câu thơ, đến cách lựa chọn hình ảnh và cách

diễn đạt có một ranh giới khu biệt, tuy không phải lúc nào cũng được phân

định rõ ràng song vẫn có thể nhận ra. Thơ Mông hiện đại đã thể hiện được

cách nghĩ, cách cảm của người miền núi, bằng lối tư duy trực quan hình ảnh,

bằng cách diễn đạt đậm đặc chất dân tộc và miền núi. Điều quan trọng là

những tác giả thơ người Mông đã biết lựa chọn, chắt lọc những hình ảnh, biểu

tượng và ngôn ngữ quen thuộc với thiên nhiên, con người và cuộc sống của

dân tộc mình. Trong thơ Mông hiện đại, có sự kết hợp giữa truyền thống và

hiện đại. Điều đó được thể hiện qua việc tiếp thu, kế thừa những giá trị của

thơ ca truyền thống và việc không ngừng tìm tòi, khám phá, sáng tạo, tích cực

đổi mới cho thơ để bắt nhịp và hoà nhập với cuộc sống hiện đại. Những biểu

hiện của các giá trị truyền thống và hiện đại tạo nên tính thống nhất, hài hoà

cho thơ Mông. Ở đó tính truyền thống được bảo lưu, tính hiện đại được tiếp

nhận, đây là yếu tố để thơ Mông hiện đại tồn tại như một cá tính riêng giàu

bản sắc.

Tuy nhiên, thơ Mông còn bộc lộ những hạn chế nhất định, khó tránh

khỏi do đặc điểm tâm lí và khả năng, trình độ nhận thức của dân tộc cũng như

của từng cá nhân mỗi nhà thơ. Đó là tính đơn giản, đơn nghĩa trong phản ánh

hiện thực và diễn đạt thơ, sự lặp lại những yếu tố cả về nội dung, cả về hình

thức nghệ thuật làm cho thơ Mông đôi khi trở nên cũ kĩ, sáo mòn. Thơ hiện

đại Mông thiên về tả, kể nhiều hơn gợi, chưa đặt ra được và gợi lên những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

92

vấn đề lớn lao của hiện thực; thiếu tính khái quát tính đa nghĩa vốn rất cần

thiết của thơ hiện đại. Một số bài thơ còn gượng ép trong cách nghĩ, cách viết,

bộc lộ những non kém cả về mặt nội dung biểu hiện và hình thức nghệ thuật.

“Dân tộc thiểu số hay đa số, nhà văn đều bình đẳng trước nghệ thuật”

(Cao Duy Sơn).

Trên hành trình đến với những giá trị đích thực của thơ ca, các nhà thơ

dân tộc Mông đã có những cố gắng không mệt mỏi bằng đam mê và sáng tạo

để đưa thơ hiện đại dân tộc Mông lên một tầm cao mới, với một vị thế mới

trong nền thơ các dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca Việt Nam hiện đại nói

chung, đưa tiếng nói thơ ca của người Mông chan hoà vào tiếng nói thơ ca

của các dân tộc anh em khác. Trong nỗ lực đó, thơ Mông hiện đại thể hiện

được những đặc trưng trong tư duy nghệ thuật, biểu hiện ở ngôn ngữ, hình

ảnh thơ, ở cấu trúc thơ,ở cách tư duy và biểu đạt.

Thơ Mông hiện đại là một thứ thơ chân mộc, giản dị. Ngôn ngữ thơ giàu

hình ảnh và nhạc điệu. Cấu trúc thơ vừa chịu ảnh hưởng của cấu trúc thơ ca

truyền thống dân tộc Mông, vừa phát triển theo xu hướng cấu trúc mang tính

nghệ thuật cao của thơ hiện đại. Lối tư duy biểu đạt vừa gần gũi với cách

nghĩ, cách cảm, cách thể hiện của người dân tộc thiểu số, vừa bộc lộ rõ đặc

trưng bản sắc của dân tộc Mông. Các nhà thơ Mông đã không ngừng sáng tạo,

tự đổi mới cho thơ, làm cho thơ Mông ngày càng tiệm cận những chuẩn mực

khắt khe về giá trị nghệ thuật của thơ ca đương đại.

Mặc dù còn bộc lộ những hạn chế nhất định do những yếu tố khách

quan và chủ quan chi phối khả năng nhận thức và sáng tạo nghệ thuật, thơ ca

hiện đại Mông cũng đã bước đầu khắc hoạ được bức tranh thiên nhiên, con

người và cuộc sống đa sắc và độc đáo của dân tộc Mông, khắc hoạ được diện

mạo và bức chân dung tinh thần của dân tộc Mông - một dân tộc còn ẩn chứa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

93

bao điều kỳ diệu trong tâm hồn.

PHẦN KẾT LUẬN

Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, thơ ca Mông như một bông hoa nở

muộn, nhưng cũng đã góp mặt và toả hương, một thứ hương độc đáo và

quyến rũ giữa vườn hoa thơ ca muôn màu sắc của dân tộc.

Dân tộc Mông với chiều dài lịch sử khởi đầu bằng một “Vương quốc

Miêu”, trải qua những cuộc thiên di đầy nước mắt và máu trước khi đến Việt

Nam, cùng với điều kiện sống khắc nghiệt đã sản sinh ra một nền văn hoá

Mông rất độc đáo, mang đậm dấu ấn miền núi cao. Thơ ca dân gian Mông là

kho tàng văn hoá đặc sắc phản ánh chân thực và sinh động cuộc sống của dân

tộc Mông, tồn tại như một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống

của đồng bào. Đó vừa là cơ sở, vừa là một trong những yếu tố quyết định cho

sự hình thành và phát triển của thơ ca hiện đại Mông.

Thơ ca hiện đại dân tộc Mông xuất hiện muộn hơn so với thơ ca hiện đại

của một số dân tộc thiểu số anh em khác như Tày, Thái, Mường, Chăm…

nhưng cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định. Trước hết, thơ Mông

hiện đại đã khắc hoạ được một cách khá sâu sắc và toàn diện bức tranh thiên

nhiên vừa khắc nghiệt dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình của dân tộc Mông. Thiên

nhiên - hoàn cảnh sống của người Mông mang những nét đặc trưng: Đó là

chót vót những đỉnh núi cao hùng vĩ và hoang sơ, khí hậu khắc nghiệt, thiếu

nước, thậm chí có nơi còn hiếm hoi cả đất. Bù lại, thiên nhiên trên núi cao của

người Mông cũng không thiếu sự thơ mộng đến lãng mạn: vẻ trầm tĩnh thâm

u của đá, vẻ rực rỡ muôn sắc màu của hoa lá, cỏ cây; vẻ sinh động đến náo

nhiệt của chim muông. Ở đó, người Mông sống dường như vừa lệ thuộc vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

94

hoàn cảnh, vừa tìm mọi cách để chế ngự hoàn cảnh.

Hình ảnh con người và cuộc sống trong thơ ca hiện đại Mông hiện lên

với những dáng vẻ độc đáo và đặc sắc. Đó là những con người đầy bản lĩnh

và cá tính: Vừa chân thật giản dị, vừa mạnh mẽ quyết liệt; chân thật đến hồn

nhiên, mạnh mẽ đến táo bạo, dũng cảm đến liều lĩnh, phóng túng đến ngang

tàng, cốt cách như dao chém đá, ý chí như những ngọn núi cao. Khi yêu, yêu

đến nồng nàn đam mê, khi ghét, ghét đến tận cùng xương tuỷ. Cuộc sống của

người Mông trong xã hội cũ thường xuyên du canh du cư như những thử

thách khắc nghiệt của số phận. Cuộc sống đó đã thay da đổi thịt từ khi có

Đảng, có Cách mạng. Người Mông được “ăn bền nơi, ở bền nơi” để mà

“trồng chè đầy núi, trồng rừng xanh rờn”… Đời sống văn hoá tinh thần của

người Mông cũng đã bước đầu được phản ánh trong thơ ca hiện đại Mông với

sự thi vị vốn có của nó. Những phong tục tập quán, những lễ hội “gầu xống”,

“gầu tào”, những cuộc hát “gầu plềnh”, những sinh hoạt „văn hoá chợ”…là

những nét đặc trưng mang đậm bản sắc dân tộc Mông. Hình ảnh những chàng

trai Mông ngây ngất trong men tình men rượu với những điệu múa khèn

nghiêng ngả đất trời; những cô gái Mông tươi tắn trong những bộ váy áo thổ

cẩm như những bông hoa rực rỡ đắm say hương sắc núi rừng, tình tứ và đam

mê trong những giaii điệu réo rắt, véo von của tiếng đàn môi, kèn lá; những

cụ già cởi mở tâm tình bên nồi “thắng cố"... là bức tranh sinh động về cuộc

sống của người Mông. Bên cạnh đó, những hủ tục lạc hậu đôi khi còn rơi rớt

lại là hệ luỵ của đói nghèo và niềm tin ngây thơ cũng đã được các tác giả

Mông phản ánh trong thơ ca với một thái độ gay gắt, quyết liệt, đồng thời như

một sự cảnh tỉnh cho đồng bào mình, dân tộc mình biết đi đúng con đường

thoát khỏi đói nghèo, tăm tối.

Thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại tương đối phong phú về nội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

95

dung và cũng khá đặc sắc về nghệ thuật. Cách sử dụng những từ ngữ, hình

ảnh chân mộc, giản dị; sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh

của thơ ca truyền thống cùng với xu hướng tìm tòi, khám phá, thể nghiệm,

cách tân trong tư duy và biểu hiện, tạo cho thơ Mông vừa mang đậm cốt

cách truyền thống, vừa có được những đặc trưng nghệ thuật của thơ hiện

đại, tiệm cận và bước đầu bắt nhịp, chan hoà vào dòng chảy chung của đời

sống thơ ca đương đại.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thơ ca Mông thời kỳ

hiện đại cũng có một số những hạn chế nhất định: Đó là đội ngũ sáng tác còn

mỏng và không đồng đều; nội dung phản ánh còn chưa thật sự phong phú và

toàn diện; những phong tục tập quán, đời sống tinh thần, đời sống tâm linh...

của dân tộc Mông chưa được chuyển tải vào thơ ca như sự phong phú và thi vị

vốn có của nó. những sinh hoạt cộng đồng mang đậm nét bản sắc dân tộc chưa

được các nhà thơ quan tâm đề cập đúng mức. Mặt khác, tư duy nghệ thuật

trong thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại còn chịu ảnh hưởng nặng nề của thơ

ca truyền thống; chưa định hình được phong cách, cá tính của các nhà thơ một

cách rõ rệt; chưa có được những tác phẩm thật sự có giá trị đối với thơ ca dân

tộc thiểu số nói riêng cũng như thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.

Từ việc nêu ra những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ ca dân

tộc Mông thời kỳ hiện đại, chúng tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến, kiến nghị của cá

nhân về việc giữ gìn và phát huy các giá trị của thơ ca Mông nói riêng và bản

sắc văn hoá Mông nói chung. Đó là: Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập Quốc tế

đang diễn ra với một nhịp độ ngày càng nhanh, chi phối và làm biến đổi ngày

càng lớn đời sống vật chất và tinh thần của tất cả các dân tộc. Hiện tượng giao

thoa văn hoá, “xâm lăng” văn hoá ngày càng phổ biến cả về chiều sâu và bề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

96

rộng. Trong bối cảnh đó, việc phản ánh kịp thời những biến động trong đời

sống vật chất, tinh thần của người Mông là một thách thức lớn đối với những

nhà thơ Mông. Thơ Mông hiện đại khó có thể biểu hiện được những vấn đề

lớn lao của cuộc sống đặt ra, càng không thể là công cụ để chuyển tải tư

tưởng, tình cảm của đồng bào dân tộc Mông. Tiếng nói chung của cả dân tộc

đang ngày càng bị mờ nhoè trong tiếng nói riêng của cá nhân mỗi nhà thơ.

Vấn đề đặt ra đối với thơ dân tộc Mông hiện nay là vừa phải bắt nhịp được

với đời sống thơ ca đương đại, có những sáng tác có giá trị so với mặt bằng

thơ ca chung của cả nước, vừa phải giữ gìn và phát huy những giá trị truyền

thống mang tính bản sắc của dân tộc Mông, tức là phải có được (hay đạt tới)

một thứ thơ vừa truyền thống vừa hiện đại. Trước tiên, nó phải thật sự là hoa

trong vườn hoa thơ ca của các dân tộc Việt Nam nhưng đồng thời phải là một

thứ hoa lạ, độc đáo về màu sắc và hương thơm. Tuy nhiên, xu hướng tiếp thu

cái mới, biểu hiện cái mới trong tư duy nghệ thuật của các tác giả Mông lại

gắn liền với việc thoát ly những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, làm

cho thơ Mông hiện đại có xu hướng “Kinh hoá” trong lối tư duy và biểu đạt.

Để khắc phục tình trạng này, theo chúng tôi, trước hết phải có những chính

sách và biện pháp nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ tác giả thơ người Mông,

nhất là giới trẻ. Quan tâm phát hiện những học sinh người Mông có năng

khiếu để bồi dưỡng. Bên cạnh đó, các Hội Văn học Nghệ thuật Trung ương và

Địa phương cần tăng cường tổ chức các đợt tham quan, học tập, giao lưu văn

học nghệ thuật, mở các trại sáng tác cho những văn nghệ sĩ người Mông,

khuyến khích các tác giả người Mông cũng như các tác giả dân tộc khác viết

về cuộc sống của người Mông. Xuất bản và phổ biến các sáng tác văn học

nghệ thuật, sáng tác thơ ca của các tác giả Mông nhằm tạo điều kiện cho thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

97

ca Mông đến được với độc giả cả nước. Ngoài ra, vấn đề quan trọng là phải

cải tạo, khôi phục và thiết lập môi trường sinh hoạt, diễn xướng nhằm bảo lưu

các giá trị văn hoá, văn học dân gian vốn rất phong phú và độc đáo của người

Mông. Việc giữ gìn và phát triển triển tiếng nói và chữ viết của dân tộc Mông

cũng là những vấn đề can hệ đến sự phát triển của văn hoá Mông nói chung,

của văn học Mông và thơ ca Mông nói riêng.

Việc nghiên cứu thơ ca dân tộc Mông (bao gồm cả thơ ca dân gian và

thơ ca hiện đại) dưới góc độ văn hoá thông qua việc khảo sát những mô típ,

những biểu tượng ngôn ngữ cũng là những vấn đề hết sức lý thú đòi hỏi một

hướng tiếp cận, nghiên cứu qui mô và nghiêm túc. Bởi đó cũng chính là một

trong những yếu tố mang tính bản sắc riêng của dân tộc Mông mà chúng ta

cần gìn giữ và phát triển. Vấn đề đó đang đặt ra và chờ đợi giải quyết trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

98

những nghiên cứu tiếp sau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Văn An (2007), Nét đẹp văn hoá trong thơ văn và ngôn ngữ

dân tộc, Nxb Hội Nhà văn.

2. Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (2007), Nhà văn Việt Nam hiện

đại, Hội nhà văn Việt Nam.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Tài liệu tập huấn giáo viên dạy tiếng

Mông cho cán bộ công chức công tác ở vùng dân tộc Mông

Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học 4.

Nông Quốc Chấn (1998), Tuyển tập văn học dân tộc & miền núi, Nxb 5.

Giáo dục

6. Nông Quốc Chấn (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt nam, Nxb

Văn hoá dân tộc

7. Nguyễn Văn Chỉnh chủ biên (1996), Từ điển Việt - Mông, Nxb Văn

hoá dân tộc

8. Đại học Thái Nguyên - Trường đại học Sư phạm (2005), Kỷ yếu hội

thảo khoa học, Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hoá dân tộc

Mông, Hà Giang.

9. Đại học Thái Nguyên - Trường đại học Sư phạm (2005), Kỷ yếu hội

thảo khoa học, Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hoá dân tộc

Cao Lan, Mông, Tuyên Quang.

10. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hoá Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc

gia thành phố Hồ Chí Minh

11. Nguyễn Anh Đào (2007), Chàng trai Mông họ Mã và xứ sở Mường

Tiên, Tạp chí Văn hoá các dân tộc, số 11

12. Gia Dũng biên soạn (2000), Tuyển tập thơ các dân tộc thiểu số Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

99

Nam thế kỷ XX, Nxb Văn hoá dân tộc

13. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hoá học Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin

14. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt

Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội

15. Giàng Seo Gà (2004), Tang ca (Kruôz cê) của người Mông Sa Pa,

Nxb Văn hoá dân tộc

16. Lê Sĩ Giáo chủ biên (2005), Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục

17. Hùng Thị Hà (2003) Thơ ca dân gian HMông, Luận văn thạc sĩ khoa

học Ngữ văn, Trường Đại học

18. Nguyễn Văn Hiệu (2005), Dân tộc Mông ở Việt Nam, HMông-

mienstudy.net

19. Lê Như Hoa chủ biên, Văn hoá ứng xử các dân tộc Việt Nam, Nxb

Văn hoá Thông tin.

20. Lưu Kim Hoa (2007), Giữ gìn, pháy huy bản sắc Văn hoá dân tộc,

cùng nhau phấn đấu và phát triển, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ

Việt Nam (số11)

21. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Văn hoá dân tộc trong

quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia

22. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1999), Văn

học các dân tộc - Từ một diễn đàn, Nxb Văn hoá Dân tộc

23. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2003), Nhà

văn các dân tộc thiểu số - Đời và Văn, Nxb Văn hoá Dân tộc

24. Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lào Cai (1997), Thơ Lào Cai 1991 - 1995

25. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2007), Văn

học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kỳ đổi mới, Nxb Văn hoá

Dân tộc.

26. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2007), Từ Đại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

100

hội đến Đại hội

27. Đỗ Huy (2002), Cơ sở triết học của Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam,

Viện Văn hoá, Nxb Văn hoá - Thông tin.

28. Nguyễn Chí Huyên, Hùng Hoa Toàn, Lương Văn Bảo, Nguồn gốc lịch

sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học -

Xã hội

29. Đỗ Thị Thu Huyền (2008), Thơ ca Tày hiện đại qua một số gương mặt

tiêu biểu, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 5)

30. Hà Lâm Kỳ (2007), Minh Khương và tác phẩm sưu tầm, dịch nghiên

cứu văn hoá Mông, Hội Văn học nghệ thuật Yên Bái.

31. Hùng Đại Kỳ (2006), Cây khèn trong đời sống ở bản làng HMông,

Tạp chí Dân tộc và thời đại, số 88

32. Mã A Lềnh (2002), Mã A Lềnh thơ, Nxb Văn hoá dân tộc

33. Mã A Lềnh (1999), Tần ngần trước văn chương, Hội Văn học nghệ

thuật tỉnh Lào Cai

34. Mã A Lềnh (1995), Bên Suối Nậm Mơ, Nxb Văn hoá Dân tộc

35. Đinh Liên (2002), Phương ngôn tục ngữ Thái - Kinh nghiệm sống của

người miền núi, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 3)

36. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu nhóm dân

tộc Tày - Nùng - Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học - Xã hội

37. Nguyễn Văn Lộc chủ biên (2006), Báo cáo tổng hợp nghiên cứu bảo

tồn và phát triển ngôn ngữ văn hoá một số dân tộc thiểu số ở Việt

Bắc, Đề tài độc lập cấp Nhà nước, Mã số ĐTĐL - 2004/27

38. Đỗ Đức Lợi (2002), Tập tục chu kì đời người của các tộc người, ngôn

ngữ Mông - Dao ở Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc

39. Trường Lưu, Hùng Đình Quí (1998), Người Mông ở Hà Giang, Sở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

101

Văn hoá thông tin Hà Giang

40. La Quán Miên (1999), Con đường bản Đôn, Nxb Nghệ An

41. Nhiều tác giả (1996), Văn hoá truyền thống dân tộc Tày, Nùng, Nxb

Văn hoá Dân tộc

42. Ma Trường Nguyên (2007), Bắc cầu vồng thăm nhau, Nxb Hội Nhà văn

43. Ma Trường Nguyên (2006), Vài ý nghĩ tản mạn về thơ và bản sắc dân

tộc trong thơ, Báo Văn nghệ Thái Nguyên (số 22)

44. Vi Hồng Nhân (2004), Văn hoá các dân tộc- Từ một góc nhìn. Nxb

Văn hoá Dân tộc

45. Võ Quang Nhơn (1983), Văn hoá các dân tộc ít người ở Việt Nam.

Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp

46. Lò Cao Nhum (1996), Rượu núi. Nxb Văn hoá Dân tộc

47. Phạm Hồng Quang (2002), Giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc cho sinh

viên sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội

48. Hùng Đình Quý (1993), Người Mông nhớ Bác Hồ, Nxb Văn hoá dân tộc.

49. Hùng Đình Quý (1994), Văn hoá truyền thống các dân tộc ở Hà

Giang, Sở Văn hoá thông tin Hà Giang

50. Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (Tập 1), Sở Văn hoá

thông tin Hà Giang

51. Hùng Đình Quý (2002), Dân ca Mông Hà Giang (Tập 2), Sở Văn hoá

thông tin Hà Giang

52. Hùng Đình Quý (2003), Dân ca Mông Hà Giang (Tập 3), Sở Văn hoá

thông tin Hà Giang

53. Hùng Đình Quý (1998), Chỉ vì quá yêu, Nxb Văn hoá dân tộc

54. Hoàng Quyết, Tuấn Dũng (1994), Văn hoá truyền thống các dân tộc ở

Việt Bắc, Nxb Văn hoá dân tộc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

102

55. Đặng Đức Siêu (2003), Nhà văn hoá cổ truyền phương Đông, Nxb Giáo dục.

56. Trần Hữu Sơn (2005), Xây dựng đời sống văn hoá ở vùng cao, Nxb

Văn hoá dân tộc.

57. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hoá HMông, Nxb Văn hoá dân tộc

58. Lò Ngân Sủn (2002), Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số

(Hoa văn thổ cẩm tập 3), Nxb văn hoá dân tộc.

59. Hà Công Tài, Nguyễn Thị Thanh Lưu, Đỗ Thị Thu Huyền (2007), Thơ

dân tộc ít người giai đoạn 10 năm cuối thế kỷ XX - Truyền thống

và hiện đại, đề tài cấp Viện 2007, Viện Văn học Hà Nội

60. Vũ Minh Tâm (2004), Bản sắc văn hoá dân tộc- Một cách tiếp cận,

Tạp chí Dân tộc và Thời đại (số 47)

61. Nguyễn Năng Tân chủ biên (1996), HMôngz ntơưn, Nxb Giáo dục

62. Lê Ngọc Thắng, Lê Bá Nam (1994), Bản sắc văn hoá các dân tộc ở

Việt nam, Nxb Văn hoá dân tộc

63. Doãn Thanh (1984), Dân ca HMông, Nxb Văn học

64. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục

65. Dương Thuấn (2000), Nét mới của văn học dân tộc và miền núi, Tạp chí

Văn hoá các dân tộc (số 7).

66. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại,

Nxb Văn hoá dân tộc.

67. Lâm Tiến (2007), Mấy suy nghĩ về lí luận phê bình văn học các dân

tộc thiểu số, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 155.

68. Lâm Tiến (1999), Về một mảng văn học dân tộc, Nxb Văn hoá dân tộc

69. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, Nxb Văn hoá dân tộc

70. Lâm Tiến (2007), Mấy suy nghĩ về lí luận phê bình Văn học các dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

103

tộc thiểu số, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (số135)

71. Vũ Thị Vân, Trần Thị Việt Trung (2007), Nghiên cứu một số đặc điểm

riêng của thơ ca dân tộc Thái thời kì hiện đại, Tạp chí Khoa học

và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên, số 43.

72. Triệu Kim Văn (2002), Bản sắc dân tộc - nỗi lo của người cầm bút,

Tạp chí Văn hoá các dân tộc.

73. Triệu Kim Văn (1999), Lá tìm nhau, Nxb

74. Triệu Kim Văn (2002), Lửa của mồ côi, Nxb

75. Triệu Kim Văn (1994), Mùa sa nhân, Nxb

76. Cư Hoà Vần, Hoàng Nam (1994), Dân tộc Mông ở Việt Nam, Nxb

Văn hoá dân tộc.

77. Chế Lan Viên (1984), Tâm hồn và tiếng hát HMông, Lời giới thiệu

cuốn „Dân ca Mông”, Nxb Văn học

78. Viện Thông tin khoa học xã hội (2002), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

104

tộc thiểu số ở Việt Nam từ những năm 90, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

105