Luận văn Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Thái thời kỳ hiện đại từ năm 1945 đến nay
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU
Trang 1 5 9 9 10 10
1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích, đối tƣợng 3.2. Phạm vi nghiên cứu 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 11 6. Cấu trúc luận văn 12
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I MỘT VÀI NÉT VỀ DIỆN MẠO THƠ CA DÂN TỘC THÁI
1.1 Thơ ca dân tộc Thái trƣớc năm 1945
14
1.2. Thơ ca dân tộc Thái từ năm 1945 đến nay 1.2.1. Từ năm 1945 đến năm 1975 1.2.2. Từ năm 1975 đến nay 1.3. Một số thành tựu của thơ ca dân tộc Thái thời kỳ hiện đại 24 25 35 47
CHƯƠNG II NHỮNG MẠCH NGUỒN CẢM HỨNG NUÔI DƯỠNG VÀ PHÁT TRIỂN THƠ CA DÂN TỘC THÁI THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
2.1. Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc- quê hƣơng của ngƣời dân tộc Thái 2.2. Hình ảnh con ngƣời đƣợc khắc hoạ chân thực và cảm động 2.3. Những nét phong tục, tập quán đậm đà bản sắc Thái 55 65 72
CHƯƠNG III MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA THƠ CA DÂN TỘC THÁI THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ TÀI LIỆU THAM KHẢO
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92 3.1. Sự ảnh hƣởng của truyện thơ dân gian trong thơ ca Thái hiện đại 100 3.2. Sự vận dụng sáng tạo và hiệu quả vốn tục ngữ, ca dao Thái 3.3. Một số đặc điểm ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ ca Thái hiện đại 104 PHẦN KẾT LUẬN
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là một bộ phận hợp thành của nền văn học Việt Nam, thơ ca các dân tộc
thiểu số đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển chung của nền
thơ ca Việt Nam hiện đại. Điều này đã đƣợc Nghị quyết Trung ƣơng V (khoá
VIII) đánh giá “văn học các dân tộc thiểu số có bƣớc tiến đáng kể. Đội ngũ
những nhà văn hoá ngƣời dân tộc thiểu số phát triển cả về số lƣợng lẫn chất
lƣợng, đã có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học
nghệ thuật”. Thực tế cho thấy, thơ ca các dân tộc thiểu số đã trở thành một
phần không thể thiếu đƣợc trong nền thơ ca dân tộc, và diện mạo của nền thơ
ca Việt Nam hiện đại chỉ có thể đƣợc nhìn nhận một cách trọn vẹn trong một
chỉnh thể thống nhất mà đa dạng, phong phú bao gồm trong đó có thơ ca các
dân tộc thiểu số.
Với nền tảng là kho tàng văn học dân gian phong phú, đa dạng, các dân
tộc thiểu số đã xây dựng một nền văn học hiện đại đa sắc, đa màu, có nhiều
thành tựu cả về đội ngũ và tác phẩm. Nhiều dân tộc đã có những tác giả tiêu
biểu đại diện cho tiếng nói và bản sắc văn hoá của dân tộc mình nhƣ: dân tộc
Dao có Bàn Tài Đoàn, Triệu Kim Văn...; dân tộc Tày có Nông Quốc Chấn, Y
Phƣơng, Dƣơng Thuấn...; dân tộc Thái có Cầm Biêu, La Quán Miên, Lò Cao
Nhum...; dân tộc Giáy có Lò Ngân Sủn...; dân tộc Mông có Ma A Lềnh, Mùa
A Sấu; dân tộc PaDí có Pờ Sảo Mìn… ; dân tộc Mƣờng có Vƣơng Anh, Đinh
Lăng Lƣợng...; dân tộc Chăm có Inrasara....
Là một thành viên của đại gia đình các dân tộc ở Việt Nam, dân tộc Thái
có địa bàn cƣ trú chính ở vùng thƣợng lƣu sông Thao (nậm Tào), sông Đà
(nậm Tè), sông Mã miền Bắc Việt Nam. Ngƣời Thái tự hào có nền lịch sử,
văn hoá lâu đời, có chữ viết cổ, nền văn học phong phú, trong đó nổi tiếng với
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
các truyện thơ Xống chụ xôn xao, Khum lú- Nàng Ủa, Tản chụ xiết sƣơng, hay
sử thi Chƣơng Han, Khun Chƣởng, Táy pú xấc…Dân tộc Thái đã góp phần
vào sự hình thành những giá trị về nhiều mặt cho đời sống văn hoá dân tộc,
trong đó có những sáng tác văn học độc đáo mang nét đặc trƣng riêng của
ngƣời Thái.
Cùng với đội ngũ nhà văn của các dân tộc anh em khác, các nhà thơ, nhà
văn dân tộc Thái đã góp phần đƣa tiếng nói tâm hồn của dân tộc vƣợt qua núi
cao, sông sâu để hoà nhịp vào sự phát triển của nền thơ ca hiện đại nhƣ Cầm
Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Hoàng Nó, Lò Văn Cậy, Vƣơng Trung, Cầm Hùng,
La Quán Miên, Sa Phong Ba, Cầm Bá Lai, Lò Cao Nhum, Cà Thị Hoàn…Họ
là các thế hệ nhà văn song hành cùng các thời kỳ phát triển của văn học dân
tộc Thái. Trong đó, có ngƣời vừa sáng tác thơ, vừa viết tiểu thuyết, vừa
nghiên cứu sƣu tầm, giới thiệu văn học dân gian, vừa viết truyện, ký. Và ở
lĩnh vực nào họ cũng có những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, thơ là một địa
hạt thành công và có giá trị hơn cả của văn học dân tộc Thái thời kỳ hiện đại
trên cả phƣơng diện đội ngũ và tác phẩm. Có thể kể đến các nhà thơ dân tộc
Thái tiêu biểu nhƣ: Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Lò Văn Cậy, Vƣơng Trung,
Lò Vũ Vân (Sơn La), La Quán Miên (Nghệ An), Lò Cao Nhum (Hoà Bình).
Họ là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, có nhiều tác phẩm đạt giải thƣởng của
Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, của Uỷ ban toàn quốc
Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam hay của Hội Nhà văn Việt
Nam…
Mặc dù so với các nhà thơ dân tộc Kinh, đội ngũ các nhà thơ dân tộc
Thái còn khiêm tốn nhƣng họ đã góp một tiếng nói riêng đối với nền thơ ca
Việt Nam hiện đại nói chung, thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng. Theo khảo
sát của chúng tôi, số lƣợng các nhà văn, nhà thơ dân tộc Thái đông thứ hai
trong số các nhà thơ, nhà văn ngƣời dân tộc thiểu số (sau dân tộc Tày). Có
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
nhiều cây bút đã gắn liền với sự hình thành và phát triển của văn học các dân
tộc thiểu số Việt Nam, có nhiều tác giả, tác phẩm của dân tộc Thái đã đƣợc
giới nghiên cứu, phê bình và bạn đọc yêu mến, khẳng định.
Đƣợc nuôi dƣỡng từ nôi văn hoá giàu bản sắc, thơ ca dân tộc Thái thời
kỳ hiện đại đã từng bƣớc khẳng định vị trí của mình trong sự phát triển của
nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, cho đến nay việc nghiên cứu, đánh
giá về thơ văn dân tộc thiểu số nói chung và thơ ca dân tộc Thái nói riêng vẫn
chƣa xứng đáng với tầm vóc và thành tựu của nó. Nhà thơ Lò Ngân Sủn nói
đến tình trạng “bất cập, hẫng hụt” trong đời sống phê bình văn học các dân
tộc thiểu số qua bài viết “Viết về văn học các dân tộc thiểu số - một công việc
ít đƣợc quan tâm”. Riêng đối với việc nghiên cứu, phê bình thơ ca dân tộc
Thái thời kỳ hiện đại thì cũng nằm trong tình trạng “bất bình đẳng” nhƣ vậy:
“việc tổ chức, sƣu tầm, nghiên cứu, giới thiệu chƣa đƣợc tiến hành liên tục,
rộng khắp” [52, tr.12]. Vì thế, việc nghiên cứu đặc điểm thơ ca dân tộc Thái
thời kỳ hiện đại dƣới góc độ khoa học sẽ góp phần khẳng định những đóng
góp về mặt nội dung cũng nhƣ hình thức nghệ thuật của thơ ca dân tộc Thái,
mặt khác cũng làm xoá đi tâm lý “chiếu cố” (Lâm Tiến) khi nghiên cứu văn
học dân tộc thiểu số nói chung và thơ ca dân tộc Thái nói riêng.
Từ việc tìm hiểu, nghiên cứu thơ ca dân tộc Thái hiện đại, luận văn chỉ ra
một số đặc điểm cơ bản của thơ ca dân tộc Thái về nội dung và hình thức
nghệ thuật. Đó là hình ảnh thiên nhiên, quê hƣơng, con ngƣời, bản mƣờng
cùng với những phong tục, tập quán giàu bản sắc của dân tộc Thái. Vẻ đẹp
hoang sơ, kỳ vĩ, thơ mộng của thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc; Sự dung dị,
chân thành, nhân ái, khéo léo và tài hoa của con ngƣời miền núi...theo cách
cảm nhận riêng của những nhà thơ Thái. Bên cạnh việc chỉ ra một số đặc
điểm nội dung cơ bản, luận văn cũng khẳng định nét riêng độc đáo về nghệ
thuật trong thơ Thái hiện đại, đó là những tác phẩm có sự kết hợp, kế thừa
những lời thơ giàu hình ảnh, nhạc lý của văn học và văn hóa dân gian Thái
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
với cá tính sáng tạo mới mẻ, hiện đại của các nhà thơ Thái...Từ đó góp phần
khẳng định vị trí và những đóng góp độc đáo của thơ Thái hiện đại đối với
nền thơ ca các dân tộc thiểu số nói chung một cách khách quan, thuyết phục.
Ngoài ý nghĩa khoa học, đề tài có tính thực tiễn quan trọng, đó là góp
thêm một tiếng nói vào việc gìn giữ, bảo tồn những nét đẹp của bản sắc văn
hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đang bị mai một dần qua việc nghiên cứu
một cách hệ thống, toàn diện về thơ ca dân tộc Thái hiện đại (cũng nhƣ một
số các dân tộc khác), bởi đây là một công việc cụ thể, có ý nghĩa cho những
ngƣời có ý thức về sự hiện diện và vai trò của thơ ca các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại nhƣ ý kiến của nhà thơ, nhà nghiên cứu dân tộc thiểu số Dƣơng
Thuấn “Hiện nay đã có một vài tác giả ngƣời dân tộc thiểu số làm công việc
phê bình nghiên cứu nhƣng còn yếu và lẻ tẻ. Nên nghiên cứu theo hƣớng đi
sâu vào từng tác giả, từng dân tộc hơn là nghiên cứu chung chung nhƣ hiện
nay. Trên cơ sở nghiên cứu từng tác giả, từng dân tộc sẽ đánh giá một cách
hệ thống từng tác giả hoặc từng vùng văn học” [35].
Ngoài ra, luận văn còn phục vụ trực tiếp cho việc học tập, nghiên cứu
khoa học và góp phần vào việc giảng dạy văn học dân tộc thiểu số ở trƣờng
trung học phổ thông, cao đẳng, đại học.
2. Lịch sử vấn đề
Mặc dù xuất hiện muộn hơn so với thơ ca của dân tộc Kinh nhƣng thơ ca
các dân tộc thiểu số đã có một quá trình phát triển và đã đạt đƣợc một số
thành tựu nhất định “Chúng ta đã có một nền văn nghệ dân tộc thiểu số thực
sự trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam hiện đại...Tuy còn non trẻ
nhƣng đã có lực lƣợng, thành tựu qua mấy chục năm phát triển” [9]. Song
việc phê bình, nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số hiện nay ở nƣớc ta còn
nhiều hạn chế, còn đang lâm vào tình trạng “rời rạc, lẻ tẻ, chắp vá...” [69,
tr.27]. Vì vậy, nhiều tác giả, tác phẩm chƣa đƣợc chú ý, nhiều thực tế phong
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
phú chƣa đƣợc tổng kết, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chƣa đƣợc xem xét,
nghiên cứu cặn kẽ, thấu đáo.
Tuy nhiên, đến nay cũng đã có một số công trình nghiên cứu, đánh giá về
văn học các dân tộc thiểu số, trong đó có văn thơ Thái hiện đại nhƣ trong các
cuốn: Đƣờng chúng ta đi (NXB Việt Bắc, 1972), Một vƣờn hoa nhiều hƣơng
sắc (NXB Văn hoá, 1977), Chặng đƣờng mới (NXB Văn hoá, 1985) của
Nông Quốc Chấn; Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945-
1985 (NXB Văn hoá, 1981); 40 năm văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số
Việt Nam của Phong Lê (NXB VHDT, 1985), Văn học các dân tộc- từ một
diễn đàn (1999) của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam;
Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (NXB VHDT,1995), Văn học
các dân tộc thiểu số Việt Nam (NXB VHDT, 1997), Về một mảng văn học
dân tộc (NXB VHDT, 1999), Văn học và miền núi (NXB VHDT, 2002) của
Lâm Tiến, Hoa văn thổ cẩm (NXB VHDT, 1999), Thơ của các nhà thơ dân
tộc thiểu số (NXB VHDT, 2001), Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu
số (NXB VHDT, 2002) của Lò Ngân Sủn, Nhà văn các dân tộc thiểu số- Đời
và văn (NXB VHDT 2003) của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số
Việt Nam, Văn hoá các dân tộc thiểu số- Từ một góc nhìn (NXB VHDT
2004) của Vi Hồng Nhân…và một số bài viết về văn học các dân tộc thiểu số
đăng rải rác trên các báo, tạp chí nhƣ: Văn học thiểu số trƣớc thềm thế kỷ XXI
của Mai Liễu, Bản sắc dân tộc- Nỗi lo của ngƣời cầm bút của Triệu Kim Văn;
Để văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam có chất lƣợng ngang
tầm với văn học nghệ thuật cả nƣớc và Tôi muốn văn học các dân tộc thiểu số
nổi lên của Lò Ngân Sủn; Nét mới của văn học các dân tộc thiểu số của
Dƣơng Thuấn.. (đăng trên Tạp chí Văn hoá dân tộc); Văn học các dân tộc
thiểu số trong quá trình đổi mới của Đỗ Kim Cuông (Báo Đảng Cộng sản
Việt Nam); Nhìn lại văn nghệ các dân tộc thiểu số của Nông Quốc Bình (Báo
Nhân dân); Kế thừa và phát huy vốn văn hoá dân tộc trong sáng thơ của các
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
tác giả dân tộc thiểu số hiện nay của Vƣơng Anh (Tạp chí xứ Thanh) hay Văn
học các dân tộc thiểu số còn một khoảng trống của Trần Thảo (Báo Khoa học
và Đời sống)….
Có thể nói rằng, văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại cũng đã
thu hút đƣợc sự quan tâm nhất định của các nhà nghiên cứu, phê bình văn
học, tuy nhiên, so với số lƣợng các công trình nghiên cứu đồ sộ về thơ ca, về
văn học Việt Nam hiện đại nói chung thì số lƣợng tác phẩm, công trình tổng
kết, đánh giá về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam còn rất khiêm tốn,
trong đó, số lƣợng các bài viết, các công trình nghiên cứu, phê bình về thơ ca
dân tộc Thái lại càng ít ỏi. Những công trình, chuyên đề, bài viết trên đây đã
nêu lên đƣợc những thành tựu, những đóng góp của văn học các dân tộc thiểu
số trong đó ít nhiều có đề cập đến thơ dân tộc Thái hiện đại nhƣng mới chỉ
dừng lại ở mức độ sƣu tầm, giới thiệu một cách khái quát về thơ dân tộc Thái
nhƣ “Dân tộc Thái với các gƣơng mặt thơ: Cầm Biêu, Lò Văn Cậy, Lƣơng
Quy Nhân, Vƣơng Trung, Lò Cao Nhum, Cầm Bá Lai…Với những bài thơ,
truyện thơ dạt dào cảm xúc, giàu bản sắc, đầy ắp chất trữ tình và đôi khi có
những triết luận, sắc sảo, độc đáo…” [65]; hoặc là sự ghi nhận những gƣơng
mặt tiêu biểu của văn học các dân tộc thiểu số nói chung trong đó có nhà văn
dân tộc Thái “Thơ dân tộc thiểu hiện đại đang có những đại diện xứng đáng
nhƣ Y Phƣơng, Dƣơng Thuấn (Tày), Lò Ngân Sủn (Giáy), Vƣơng Anh
(Mƣờng), Triệu Kim Văn (Dao), Lò Cao Nhum (Thái)...Họ đã góp phần làm
nên diện mạo thơ Việt Nam hiện đại” (Nguyễn Thị Thu Hiền- Chúng ta đã có
một nền văn nghệ dân tộc thiểu số); hay việc giới thiệu những tác phẩm tiêu
biểu: “Thơ dân tộc thiểu số đã từng có tác phẩm đỉnh cao: Muối Cụ Hồ (Bàn
Tài Đoàn), Em là con gái Châu Yên (Cầm Giang), Ing éng (Vƣơng Trung),
Đất, Dốc, Núi (Lƣơng Quy Nhân), Hoa trong Mƣờng (Vƣơng Anh), Đi tìm
bóng núi, Cực tình (Dƣơng Thuấn), Rƣợu núi (Lò Cao Nhum)…” [71].
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Ngoài ra, việc lấy văn hoá Thái làm đối tƣợng nghiên cứu bƣớc đầu cũng
đƣợc quan tâm, thể hiện ở một số công trình, bài viết nhƣ: “Ngƣời Thái gửi
gắm tâm hồn mình vào lời ca, điệu khắp. Chính những bài khắp, điệu pí đó đã
nâng họ vƣợt lên bề mặt cuộc sống vốn gian lao, vất vả, tiếp thêm sức mạnh
cho họ bay bổng vƣơn lên” [29, tr.250]; “Thẩm mỹ Thái qua trang phục biểu
hiện một tâm hồn tinh tế, một sự rung cảm sâu xa của cộng đồng trong giới tự
nhiên và chính bản thân con ngƣời” [29, tr.294]; “Nhà sàn Thái là biểu tƣợng
cho sự tài hoa của con ngƣời, vừa đậm tính thẩm mỹ cao vừa kết hợp hài hoà
vẻ đẹp tự nhiên với đất trời” [45, tr.24)...Ngoài ra còn có một số công trình,
bài nghiên cứu có liên quan nhƣ: Lễ “Khửn cẩu”- nét đẹp văn hoá truyền
thống của ngƣời Thái của Tô Hợp [22]; Ẩm thực Thái- Sự giao hoà với thiên
nhiên- dân tộc và thời đại của Tố Minh [50]; “Ngƣời Thái cúng vật nuôi ngày
tết” của La Quán Miên [47]; “Cách làm đẹp của các cô gái Thái” của Hà
Lâm Kỳ, “Tục cúng vía của ngƣời Thái đen” của Hoàng Hạnh [33] …Những
bài viết, công trình này chủ yếu đề cập tới những phong tục tập quán của dân
tộc Thái và nhấn mạnh đến nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Thái chứ không đi
sâu vào bình diện nội dung hay nghệ thuật thơ dân tộc Thái.
Một số các tác giả ngƣời dân tộc Thái đã đƣợc giới phê bình chú ý và có
những đánh giá nhƣ: “Cầm Biêu vẫn giữ đƣợc phong cách của một ngƣời làm
thơ dân tộc trƣớc đây...ông luôn luôn có ý thức dùng hình thức thơ ca truyền
thống để thể hiện con ngƣời và cuộc sống hôm nay...” [84, tr.132]; “Thơ Cầm
Biêu xứng đáng là chiếc cầu nối cho các dân tộc anh em trong đất nƣớc ta
đến với nhau...” [11, tr. 361]; “Những bài thơ hay của các tác giả dân tộc
thiểu số thƣờng là ngắn, có khi rất ngắn, các bài thơ của Cầm Bá Lai cũng
vậy: Bài Con tép- 5 câu, Buồn- 7 câu, Chim bìm bịp- 7 câu, Rƣợu- 15 câu...”
[65, tr.96]; “Lò Cao Nhum vừa xuất hiện đã có thể đứng ngang hàng với mọi
bậc đàn anh...” [ 28, tr.413]…hay là việc phân tích, bình giảng một tập thơ
hoặc một số bài thơ của các nhà thơ dân tộc Thái nhƣ: “Hạt muối hạt tình (Lò
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Văn Cậy) nảy nở cùng cách mạng, cùng với sự đổi đời của dân tộc, đƣợc khơi
gợi từ cuộc sống, chiến đấu, lao động và từ những áng văn học dân gian dân
tộc” [65, tr.18]; “Đời đời nhớ ơn Bác (Lƣơng Quy Nhân) diễn đạt tình cảm
mộc mạc, chân thành nhƣ đời sống vốn có của ngƣời dân miền núi, khái quát
một giai đoạn đồng bào dân tộc Tây Bắc đi theo Đảng, Bác Hồ làm cách
mạng...” [3]; “Không thể nói thơ Lò Vũ Vân là một giọng thơ vui, hào sảng
nhƣng nó vẫn lóng lánh niềm tự hào về quê hƣơng, đất nƣớc, về dân tộc và
con ngƣời Tây Bắc...”[40, tr.16]…Có thể nhận thấy, những công trình, bài
viết trên đây mới chỉ dừng lại ở phạm vi bình giảng, phân tích một (hoặc một
số) bài thơ tiêu biểu của một số tác giả mà chƣa đi sâu vào phân tích, bình giá
những đặc điểm nội dung, nghệ thuật của thơ ca dân tộc Thái hiện đại nói
chung.
Theo sự khảo sát của chúng tôi, cho đến nay chƣa có công trình nào
nghiên cứu về đặc điểm thơ ca dân tộc Thái hiện đại một cách thấu đáo và
hệ thống. Đó vừa là thuận lợi nhƣng cũng là khó khăn, thách thức đối với
chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu.
3. 1. Mục đích
Văn học các dân tộc thiểu số là một bộ phận khăng khít, độc đáo và đặc
sắc của nền văn học Việt Nam. Sự phát triển phong phú, đa dạng của nó đã có
những đóng góp đáng kể vào diện mạo chung của văn học Việt Nam hiện đại.
Do đó muốn tìm hiểu những đặc điểm của thơ ca Việt Nam hiện đại, không
thể không nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm của bộ phận thơ ca các dân tộc thiểu
số Việt Nam, trong đó có thơ ca dân tộc Thái.
Ra đời cùng với sự hình thành và phát triển của thơ ca các dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện đại, thơ ca dân tộc Thái đã dần khẳng định vị trí và chỗ
đứng của mình trên thơ đàn. Việc tìm hiểu, nghiên cứu một số những đặc
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
điểm của thơ ca dân tộc Thái hiện đại từ năm 1945 đến nay góp phần tìm
hiểu, soi sáng một bộ phận văn học trong bức tranh văn học các dân tộc thiểu
số Việt Nam, từ đó có cái nhìn tƣơng đối đầy đủ, toàn diện về những đặc
điểm nổi bật, độc đáo của thơ ca dân tộc Thái trên các bình diện nội dung và
hình thức nghệ thuật.
Từ việc nghiên cứu “Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Thái thời kỳ hiện
đại từ năm 1945 đến nay” luận văn khẳng định những đóng góp về nội dung
cũng nhƣ về nghệ thuật thơ dân tộc Thái trong quá trình phát triển của thơ ca
các dân tộc thiểu số nói riêng và sự phong phú, đa dạng của nền thơ ca Việt
Nam hiện đại nói chung.
3. 2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi đọc, tham khảo và nghiên cứu các loại
tài liệu sau:
- Các tác phẩm thơ của các tác giả dân tộc Thái từ năm 1945 đến nay.
- Một số tác phẩm thơ dân tộc Thái trƣớc năm 1945, đặc biệt là thơ dân
gian Thái (để so sánh, đối chiếu).
- Một số tác phẩm thơ của các dân tộc thiểu số khác để so sánh, đối chiếu
làm nổi bật những đặc điểm riêng biệt của thơ dân tộc Thái thời kỳ hiện đại.
- Các công trình, bài nghiên cứu về thơ ca dân tộc Thái nói riêng và các
công trình nghiên cứu về thơ dân tộc thiểu số nói chung.
- Một số tài liệu về lý luận, lý thuyết có liên quan đến đề tài.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn cố gắng làm sáng tỏ và đi đến khẳng định những đặc điểm nổi
bật của thơ dân tộc Thái hiện đại ở hai phƣơng diện cơ bản:
Tìm hiểu, khám phá vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên, quê hƣơng, con
ngƣời và những phong tục, tập quán truyền thống của dân tộc Thái đƣợc phản
ánh và xây dựng trên cảm hứng trữ tình, ngợi ca của các nhà thơ Thái hiện
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
đại. Từ đó đi đến khẳng định những nét đặc điểm riêng của thơ ca dân tộc
Thái hiện đại (so với các sáng tác của các nhà thơ dân tộc anh em khác).
Nghiên cứu một số hình thức nghệ thuật đƣợc sử dụng một cách đặc sắc
và hiệu quả nhƣ ngôn ngữ, hình ảnh…qua đó thấy đƣợc sự kế thừa và kết hợp
những tinh hoa của văn hoá dân gian Thái với sự sáng tạo, cách tân của các
nhà thơ dân tộc Thái thời kỳ hiện đại.
Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của thơ dân tộc
Thái từ sau năm 1945 đến nay, luận văn đi đến khẳng định những thành công,
những đóng góp của thơ dân tộc Thái đối với thơ ca các dân tộc thiểu số nói
riêng và nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp
nghiên cứu chính sau:
5. 1. Phương pháp phân tích, khái quát hoá:
Để tìm hiểu đặc điểm nội dung hay nghệ thuật của thơ ca dân tộc Thái
hiện đại cần phải dụng phƣơng pháp phân tích, khái quát hoá. Từ việc phân
tích những tác phẩm thơ ca của một số nhà thơ tiêu biểu sẽ giúp ngƣời nghiên
cứu tổng hợp và khái quát đƣợc những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ
thuật của thơ ca Thái hiện đại.
5. 2. Phương pháp đối chiếu, so sánh:
Việc sử dụng phƣơng pháp đối chiếu, so sánh nhằm tìm hiểu sự ảnh
hƣởng, tiếp thu có chọn lọc của các nhà thơ dân tộc Thái hiện đại với các tác
phẩm của nền văn học dân gian Thái, giữa các sáng tác của dân tộc Thái với
các nhà thơ dân tộc anh em..., từ đó đi đến khẳng định những đặc điểm nổi bật
của thơ văn dân tộc Thái hiện đại.
5. 3. Phương pháp thống kê, phân loại
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Để việc phân tích, lý giải, đối chiếu, so sánh có kết quả, cần phải thực
hiện công việc thống kê, phân loại.
Ba phƣơng pháp trên đây đƣợc sử dụng và phối hợp chặt chẽ với nhau
trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phƣơng
pháp nghiên cứu tổng hợp khác.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung đƣợc triển khai theo 3
chƣơng:
Chƣơng I. Một vài nét về diện mạo thơ ca dân tộc Thái.
Chƣơng II. Những mạch nguồn cảm hứng nuôi dƣỡng và phát triển thơ
ca dân tộc Thái thời kỳ hiện đại.
Chƣơng III. Một số đặc điểm nghệ thuật của thơ ca dân tộc Thái thời kỳ
hiện đại.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I MỘT VÀI NÉT VỀ DIỆN MẠO THƠ CA DÂN TỘC THÁI
So với một chặng đƣờng dài hình thành, phát triển văn học viết của
ngƣời Kinh thì “văn học viết các dân tộc thiểu số Việt Nam mới chỉ hình
thành và phát triển vào thế kỷ XX” [84, tr.138].
Trƣớc đó, ở thế kỷ XVII, dân tộc Tày ở Cao Bằng đã có Bế Văn Phủng
và Nông Quỳnh Văn viết bản trƣờng ca “Tam nguyên luận” và “Lƣợn tứ
quý”, còn vào cuối thế kỷ XIX, dân tộc Thái cũng có Ngần Văn Hoan viết
“Lời hát nền Văn Hoan”... tuy nhiên, sự xuất hiện đó còn ở dạng “lẻ tẻ, không
có sự chắp nối, chất lƣợng tác phẩm còn mang đậm dấu vết của văn học dân
gian” [81, tr.139] nên chƣa đủ điều kiện hình thành một nền văn học các dân
tộc thiểu số bên cạnh nền văn học của ngƣời Kinh.
Tác giả Nông Quốc Bình trong bài viết “Nhìn lại văn học nghệ thuật các
dân tộc thiểu số” [2] và tác giả Đỗ Kim Cuông trong bài “Văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số Việt Nam trong qúa trình đổi mới” [12] đều khẳng định:
Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ra đời cùng cuộc
cách mạng tháng 8/ 1945. PGS-TS Phan Đăng Nhật trong cuốn “Văn học các
dân tộc thiểu số Việt Nam” [59] cũng lấy năm 1945 để làm mốc phân chia
giữa văn học dân gian và văn học hiện đại các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Đồng nhất với các ý kiến trên, nhà nghiên cứu, phê bình văn học các dân tộc
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
thiểu số Lâm Tiến nhận định “Thơ các dân tộc thiểu số hiện đại hình thành và
phát triển từ sau năm 1945” [81, tr.94], ông thừa nhận, dù mầm mống của
văn học hiện đại các dân tộc thiểu số đã có trƣớc cách mạng tháng 8/ 1945
nhƣng nó thực sự chỉ ra đời từ sau cách mạng tháng 8/1945 và ông cũng
khẳng định “thơ là thể loại xuất hiện đầu tiên” của nền văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại.
Nhƣ vậy, việc lấy năm 1945 là mốc ra đời của nền văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại là quan niệm chung nhất, phổ biến nhất của các
nhà nghiên cứu hiện nay.
1.1. Thơ ca dân tộc Thái trước năm 1945
Trƣớc cách mạng tháng 8/ 1945, văn học các dân tộc thiểu số chủ yếu là
văn học dân gian. Cũng giống nhƣ nền văn học dân gian của ngƣời Kinh, văn
học dân gian các dân tộc thiểu số gắn liền với đời sống sinh hoạt của nhân dân
lao động. Nó ra đời từ trong những câu nói, lời ca, tiếng hát, trong khi lên rẫy,
làm nƣơng, quay xa, dệt vải, đánh bắt cá hoặc trong những lời tỏ tình của nam
thanh, nữ tú, trong những trò chơi hoặc giao lƣu ở sân chơi “Hạn khuống”....
Dọc suốt chiều dài của đất nƣớc, ở các bản, làng, buôn, sóc...đều đã từng diễn
ra mọi hình thái văn học dân gian “khi thì kín đáo ẩn nấp dƣới các mái nhà, tỉ
tê bên bếp lửa gia đình, khi thì ào ạt lôi cuốn hàng mấy trăm ngƣời vào
những ngày hội, ngày lễ nhộn nhịp sôi nổi” [11, tr.63].
Có thể nói, văn học dân gian các dân tộc thiểu số cũng rất đa dạng và
phong phú không kém gì nền văn học dân gian của ngƣời Kinh, những đỉnh
cao của nền văn học dân gian Việt Nam cũng có sự góp mặt của văn học dân
gian các dân tộc thiểu số, có thể kể đến: Dân tộc Mƣờng có sử thi Đẻ đất, Đẻ
nƣớc, có dân ca Thƣờng- Rang, Bọ- Mạng, có truyện thơ Út Lót - Hồ Liêu,
Huỳ Nga - Hai Mới; Hai dân tộc Tày-Nùng có trƣờng ca Khảm Hải- Vƣợt
Biển, truyện thơ Nam Kim - Thi Đan, Đính Quân; Dân tộc Dao có trƣờng ca
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Bàn Hộ; Dân tộc Mông có Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát làm dâu, Nàng Dơ -
Chà Tăng, ngƣời Chăm có Ariya Bini - Cam, Bini - Chăm; Các dân tộc ở Tây
Nguyên có trƣờng ca Đam San, Sinh Nhã, Kinh Dú, dân tộc Khơme có Sĩ
Thạch, Tum Tiêu, đồng bằng Sông Cửu Long có truyện cổ, dân ca…
Trong đó, dân tộc Thái cũng có những tác phẩm văn học dân gian phong
phú, đa dạng, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của văn học dân gian các
dân tộc thiểu số nói riêng và nền văn học dân gian Việt Nam nói chung. Ngôn
ngữ dân tộc Thái thuộc ngữ hệ Tày - Thái, sớm có chữ viết và có sự ghi chép
những sáng tác văn học dân gian trên lá, thân cây, viết bằng bút hoặc bằng
mũi gai, điều đó cho thấy ngƣời Thái sớm có ý thức lƣu truyền vốn văn hoá
dân gian và có nền văn học dân gian khá phát triển. Tuy nhiên, cũng giống
nhƣ các dân tộc thiểu số khác, văn học dân gian của dân tộc Thái trƣớc cách
mạng tháng 8/1945 đƣợc lƣu truyền chủ yếu bằng phƣơng thức diễn xƣớng,
truyền miệng.
Trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số, ngoài ca dao, dân
ca, tục ngữ, dân tộc Thái nổi tiếng với truyện thơ, sử thi. Đây là hai loại hình
tiêu biểu của văn học dân gian các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Thái
nói riêng. Nếu nhƣ sử thi có âm hƣởng anh hùng ca, thể hiện khát khao xây
dựng cuộc sống thái bình, thịnh trị của cộng đồng dân tộc Thái trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ bản, mƣờng thì truyện thơ mang giọng điệu trữ tình
đằm thắm, thể hiện khát vọng hạnh phúc trong cuộc sống và tình yêu lứa đôi
của ngƣời dân tộc Thái.
Cùng với một số sử thi tiêu biểu nhƣ Đam San, Xinh Nhã, Đăm Đơ roăn
của dân tộc Êđê, Đẻ đất đẻ nƣớc của dân tộc Mƣờng, Đăm roi của dân tộc
Bana..., dân tộc Thái có hai sử thi nổi tiếng là Táy pú xấc” và Chƣơng Han.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Táy pú xấc là tác phẩm sử thi lớn của dân tộc Thái ở vùng Tây Bắc. Tác
phẩm có độ dài hàng ngàn câu thơ, kể chuyện “ông cha chinh chiến”, khai
phá, mở mang, xây dựng bản, mƣờng. Táy pú xấc diễn tả dòng chảy lịch sử,
khắc sâu những sự kiện hào hùng nên vừa mang chất sử liệu vừa mang chất
anh hùng ca. Táy pú xấc thể hiện “tƣ tƣởng, tình cảm, tâm tƣ, tâm hồn của
cộng đồng dân tộc Thái đối với lịch sử” [97, tr. 24].
Sử thi Chƣơng Han còn đƣợc gọi là Khun Chƣởng gồm 2940 câu, chia
thành 11 chƣơng đƣợc lƣu truyền ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Giá trị và ý
nghĩa của tác phẩm tập trung ở nhân vật Chƣơng Han- nhân vật anh hùng
chiến đấu.
Với sức mạnh vô song, Chƣơng Han đã dẹp tan các bộ lạc, thống nhất
toàn bộ địa bàn cƣ trú và đem lại cuộc sống đời thái bình, thịnh trị cho ngƣời
Thái:
Từ đó Chƣơng Han đƣợc ung dung ngự trị cõi đời
Mãi mãi là chúa tể đỉnh trời bao la bát ngát ...
Chẳng còn bầy giặc lớn nào dám về đánh phá
Cả trần gian yên ổn, đẹp dạ thoả lòng
(Sử thi Chƣơng Han)
Sử thi Chƣơng Han không đề cập đến bi kịch của từng số phận cá nhân
mà nó đã đề cập một vấn đề của cả dân tộc, của cộng đồng. Mặc dù lịch sử
đƣơng thời chƣa hoàn toàn đúng với hiện thực đƣợc miêu tả trong sử thi
nhƣng với tính chất lãng mạn lịch sử, sử thi Chƣơng Han đã khái quát một
vấn đề có tính chất lớn lao, đó là “Ngƣời Thái phải đoàn kết và tập hợp lại
dƣới ngọn cờ của một anh hùng trong gia đình các dân tộc Việt Nam” [11,
tr.145]. Chƣơng Han là sử thi tiêu biểu, thể hiện khát khao về một cuộc sống
thái bình, thịnh trị của dân tộc Thái ở vùng Tây Bắc- Việt Nam.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Một bản anh hùng ca nổi tiếng khác của dân tộc Thái là Khun Chƣởng.
Đây là một trong bộ ba anh hùng ca của ngƣời Thái ở Thái Lan, Lào và Việt
Nam. Bộ ba đó là Thạo Hùng- Thạo Chƣơng đƣợc lƣu truyền ở Thái Lan,
Lào; Chƣơng Han lƣu truyền ở vùng Tây Bắc Việt Nam và Khun Chƣởng lƣu
truyền ở vùng Nghệ An.
Nếu nhƣ Thạo Hùng-Thạo Chƣơng đƣợc đánh giá là “có tầm cỡ có thể
xếp vào trong hàng những kiệt tác văn chƣơng thế giới, tƣơng đƣơng với anh
hùng ca của Hy Lạp ...” [59, tr.2] thì Khun Chƣởng cũng đƣợc đánh giá nhƣ
“một di sản quý báu” của dân tộc Thái ở Việt Nam mà tác giả cuốn sách
“Khun Chƣởng-Anh hùng ca Thái” - PGS.TS Phan Đăng Nhật đã dùng thuật
ngữ anh hùng ca để chỉ tác phẩm Khun Chƣởng cũng với dụng ý đánh giá
Khun Chƣởng là một kiệt tác, có thể sánh ngang với anh hùng ca nổi tiếng
của Hy Lạp.
Bên cạnh sử thi- anh hùng ca, văn học dân gian Thái có những đóng góp
không nhỏ cho nền văn học dân gian Việt Nam nhờ những truyện thơ đạt đến
độ mẫu mực nhƣ Tản chụ xống xƣơng (Tâm tình tiễn thƣơng) và Khun Lú-
nàng Ủa (Chàng Lú-Nàng Ủa) và đặc biệt là Xống chụ xôn xao (Tiễn dặn
ngƣời yêu).
Xống chụ xôn xao gồm 1846 câu thơ, kể về hai nhân vật “Anh yêu” và
“Em yêu” từ khi còn trong bụng mẹ. Họ đƣợc sinh ra gần nhƣ cùng một giờ,
một ngày và ở một bản. Từ thủa bé thơ, họ cùng chơi bên nhau, đến tuổi hoa
niên, đôi trẻ cùng ở sàn hoa. Nhƣng vì tục lệ hà khắc của lễ giáo phong kiến,
tình yêu của họ bị ngăn cản, “Em yêu” bị gả bán và phải sống những chuỗi
ngày sóng gió. Giá của “Em yêu” ngày nào đáng “vàng thoi, bạc nén”, bây
giờ chỉ bằng một “cuộn lá dong”. Họ gặp lại nhau trong hoàn cảnh hết sức éo
le: “Anh yêu” đã có gia đình, còn “Em yêu” trở thành món hàng bị rao bán ở
chợ. Nhờ tiếng “đàn môi” quen thuộc, họ đã nhận ra nhau và cuối cùng họ
cũng đến đƣợc với nhau, đƣợc đoàn tụ và hạnh phúc:
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
...Đôi ta lấy nhau không hề chi phận lỡ,
Không quản chi tình ế, duyên ôi
Em của anh đây vẫn mãi đẹp tƣơi!
(Tiễn dặn ngƣời yêu)
Có thể nói Xống chụ xôn xao là truyện thơ tiêu biểu của dân tộc Thái, đã
chắt lọc đƣợc những tinh hoa của dân ca dân tộc Thái:“Bao nhiêu lời thƣơng
nhớ, lời tự tình trai gái, đến cả lời vè, lời văn trôi cửa miệng của nhân dân
dân tộc Thái đều hợp nhất vào đây” [11, tr.3]. Xống chụ xôn xao là bản tình
ca ca ngợi tình yêu thuỷ chung, bất diệt của con ngƣời, là tiếng nói tâm hồn,
mang cách cảm, cách nghĩ và khát vọng của ngƣời dân tộc Thái về tình yêu
đôi lứa, về hạnh phúc cá nhân của con ngƣời.
Với kết cấu độc đáo, tràn đầy kịch tính, ngôn ngữ kể chuyện đƣợc gọt
giũa thành lời thơ, những câu thơ gợi cảm, nhiều hình ảnh Xống chụ xôn xao
xứng đáng là “một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong kho tàng thơ ca
trữ tình cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam” [11, tr.169]. Sức sống và sự
truyền cảm của Xống chụ xôn xao còn ảnh hƣởng lớn đến các nhà thơ dân tộc
thiểu số hiện đại mà ở chƣơng tiếp theo chúng tôi sẽ có điều kiện để nói đến.
Nhƣ vậy, dân tộc Thái vốn có một kho tàng văn học dân gian phong
phú, phát triển trong đó truyện thơ, sử thi là hai loại hình tiêu biểu và có nhiều
tác phẩm đạt đến đỉnh cao. Cũng có kết cấu (gặp gỡ – ly tan - đoàn tụ) của
truyện thơ hay âm hƣởng ngợi ca, thủ pháp phóng đại của sử thi trong văn học
dân gian Việt Nam, nhƣng sử thi, truyện thơ dân tộc Thái còn có những đặc
điểm mang những nét đặc trƣng tiêu biểu cho tƣ duy, cách diễn đạt của ngƣời
Thái.
Ngoài việc thể hiện khát khao xây dựng một cuộc sống thanh bình, giàu
mạnh (sử thi Chƣơng Han, Táy pú xấc...) và khát vọng tự do trong tình yêu,
hôn nhân gia đình (truyện thơ Tản chụ xống xƣơng, Xống chụ xôn xao...) thì
sử thi và truyện thơ dân tộc Thái còn phản ánh rất rõ những phong tục, tập
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
quán, lễ nghi của ngƣời Thái, đó là nét sinh hoạt văn hoá đời thƣờng (ma
chay, cƣới xin, lễ hội...) hay những phong tục, lễ nghi, tín ngƣỡng (cúng phúc
thọ, cúng Mƣờng, cúng xên cha... ) của tộc ngƣời Thái.
Các loại hình văn học dân gian nhƣ sử thi, truyện thơ, ca dao, tục ngữ
của ngƣời dân tộc Thái không tách rời với những sinh hoạt văn hoá của cộng
đồng ngƣời Thái. Nếu nhƣ trong lao động thƣờng nhật: trồng lúa, dệt vải, đan
chài, bắt cá... bà con nông dân Thái giao lƣu với nhau bằng lời hát vè, ca dao,
tục ngữ..., thì những bản anh hùng ca nhƣ Khun Chƣởng, Chƣơng Han hay
Táy pú xấc... đƣợc sử dụng rộng rãi trong lễ nghi lớn nhƣ cúng cầu thọ, cúng
“xên bản”, “xên mƣờng”, còn những truyện thơ nhƣ Tản chụ xống xƣơng,
Tản chụ xiết xƣơng, Xống chụ xôn xao đƣợc nam thanh, nữ tú thi tài, hát giao
duyên trong sân chơi “Hạn khuống”... Nhƣ vậy, có thể thấy rằng văn học dân
gian dân tộc Thái đã phản ánh đời sống sinh hoạt và đời sống tâm hồn phong
phú, đa dạng của cộng đồng dân tộc Thái với những phong tục, tập quán, tín
ngƣỡng mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Thái.
Sử thi Thái đã thu hút cả tri thức và các sáng tạo nghệ thuật ngôn từ của
dân tộc Thái: Từ những lời tục ngữ, vần, vè ngắn gọn đến các bài ca nghi lễ
cúng thần; từ những bài ca tục lệ trong cộng đồng đến những bài dân ca đối
đáp nam, nữ. Ngôn ngữ sử thi sinh động về hình tƣợng, hài hoà về nhạc điệu,
đối lập và kịch tính tạo nên sử thi anh hùng. Đó là phong cách kỳ vĩ hoá của
phƣơng pháp lãng mạn, thông qua các biện pháp cƣờng điệu, phóng đại, ngoa
dụ rất phổ biến trong cách xây dựng tính cách nhân vật, miêu tả thiên nhiên.
Truyện thơ đƣợc phô diễn bằng những lời thơ mang sắc thái ngôn ngữ
độc đáo của dân ca, những lời thơ giàu nhạc điệu của điệu “khắp”. Cách giải
quyết thiên về phong cách lãng mạn trong kết thúc của truyện thơ không lấn
át đƣợc không khí hiện thực mang nặng tâm tƣ buồn tủi của lứa đôi bị trắc trở
trong tình duyên dƣới chế độ cũ nhƣng chính không khí hiện thực mang nặng
tâm tƣ đó đã tạo nên phong cách trữ tình đậm đà, sâu lắng cho truyện thơ.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Truyện thơ, sử thi dân tộc Thái đã góp phần đánh dấu một bƣớc phát
triển cao và khẳng định vị trí của văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Hai
thể loại này đã đạt đƣợc những thành tựu xuất sắc về số lƣợng cũng nhƣ về
chất lƣợng. Truyện thơ, sử thi đã tập hợp đƣợc những tinh hoa các thể loại
văn học dân gian, đồng thời cũng có những ảnh hƣởng sâu sắc đến các thể
loại phát triển sau nó. Sức lôi cuốn mạnh mẽ của truyện thơ đƣợc ngƣời Thái
diễn đạt trong câu ví “Hát tiễn dặn lên, gà ấp phải bỏ ổ, cô gái quên hái rau,
chàng trai quên cày ruộng” [11, tr.168]. Và đối với sử thi, với cách nói phóng
đại, cách diễn tả “vƣợt xa hơn cái mẫu” cùng với sự tổng hợp các hình thức
nghệ thuật dân gian (giống nhƣ ở truyện thơ) đã tạo nên bề bộn, rộng
lớn...góp phần kích thích trí tƣởng tƣợng phong phú của ngƣời nghe mà theo
nhƣ Gorki đã đúc kết: “Cái đẹp đƣợc nhận thức là sự kết hợp nhiều chất liệu
khác nhau, kể cả những âm thanh, màu sắc, từ ngữ, nhờ đó mà con ngƣời,
nhà thiện nghệ chế tạo nên một hình thái tác động vào cảm xúc và lý trí nhƣ
một sức mạnh, khiến cho mọi ngƣời ngạc nhiên, tự hào và vui sƣớng với khả
năng sáng tạo của mình” [ 32, tr.79].
Nối tiếp kho tàng văn học dân gian phong phú, đa dạng, đến thế kỷ XIX,
nghệ nhân ngƣời dân tộc Thái là Ngần Văn Hoan đã có những đóng góp rất
lớn vào việc ra đời và hình thành thơ dân tộc Thái hiện đại.
Ngần Văn Hoan tên thật là Ngần Văn Hậu, quê ở Chiềng Hạ, xã Mai Hạ
huyện Mai Châu-Hoà Bình, ông là một hiện tƣợng độc đáo của văn học Thái.
Ông đƣợc nhân dân thêu dệt nhƣ một nhân vật “truyền thuyết” gắn với sự tích
đá Cang Lạn: Sự tích nói về cuộc thi tài hát đối giữa nàng Cang Lạn và Văn
Hoan, 3 ngày 3 đêm không phân thắng bại, cuộc thi tài chỉ kết thúc và nàng
Cang Lạn chịu thua Văn Hoan khi chàng đƣa ra vế đố:
Trên trời có bao ngôi sao sáng nhất
Dƣới trần gian có bao ngọn núi cao hơn.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Nàng Cang Lạn thua và chết hoá thành vách đá. Câu chuyện trên có thể
là hƣ cấu, tƣởng tƣợng của ngƣời dân nhƣng dù có thật hay không có thật thì
đó cũng là sự ca ngợi, khẳng định sự thông minh, tài giỏi của Ngần Văn
Hoan- một đỉnh cao trí tuệ của tri thức dân gian.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông chính là Lời hát nền Văn Hoan (Khoam
khắp pƣn Văn Hoan) dài 2.300 câu thơ, kể về mối tình nên thơ của chàng trai
Sy Ly Nâm Ơi và cô gái Liêng Khăm. Mối tình đó đƣợc lồng trong khung
cảnh thiên nhiên êm đềm ít nhiều đƣợc đƣợc “thần tiên hoá” dƣới cảm hứng
trữ tình lãng mạn của nghệ nhân Văn Hoan. Lời hát nền Văn Hoan gần gũi và
thân thuộc với đời sống tình cảm, tâm hồn của ngƣời Thái nên đƣợc lƣu
truyền rộng rãi trong đời sống cộng đồng dân tộc Thái.
Vì thuộc thể loại “khắp xƣ” (tức là hát thơ) nên có những đoạn dài trong
tác phẩm, nhân vật Sy Ly và Liêng Khăm chuyện trò với nhau để bày tỏ tâm
sự bằng hình thức của dân ca trữ tình đối đáp nhƣ “khắp báo xao” (hát trai
gái)- một loại hình văn nghệ tiêu biểu của đồng bào Thái... Trong toàn bộ tác
phẩm, ta thấy dáng dấp trữ tình đằm thắm của các bản tình ca Thái nhƣ Xống
chụ xôn xao, Tản chụ xiết xƣơng…
Nhƣ vậy, tác phẩm Lời hát nền Văn Hoan đã kết tinh đƣợc những tinh
hoa của kho tàng văn học dân gian đồ sộ của dân tộc Thái nhƣ truyện cổ tích,
truyện thơ, truyện sử thi và sử dụng khéo léo các thể loại ca dao, tục ngữ, dân
ca...nhƣng trên tinh thần mở rộng và phát triển hơn. Cảm xúc, tâm trạng và ý
nghĩ của nhân vật đã đƣợc thể hiện sinh động, phong phú, tinh tế và sâu sắc.
Có thể thấy “Tác phẩm biểu hiện tri thức dân gian khá sâu sắc nhƣng có đoạn
thơ đã mang tính bác học khá cao, đó là cách sử dụng khái quát các vấn đề
văn học Thái” [29, tr.186].
Với Lời hát nền Văn Hoan của nghệ nhân Văn Hoan, dân tộc Thái ghi
tên mình vào chặng đƣờng hình thành, phát triển đầu tiên của văn học viết các
dân tộc thiểu số Việt Nam và đóng vai trò là bƣớc chuyển tiếp giữa văn học
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
dân gian và văn học thành văn dân tộc Thái, chuẩn bị những tiền đề quan
trọng để hình thành và phát triển văn học dân tộc Thái hiện đại nói riêng và
văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung.
Nói về sự phát triển của thơ ca dân tộc Thái, ngoài nền tảng vững chắc là
kho tàng văn học dân gian phong phú, đa dạng và những tác phẩm thơ hát của
nghệ nhân Ngần Văn Hoan thì không thể không nói đến những bài thơ đƣợc
sáng tác từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, những bài thơ đã phản ánh thực trạng xã
hội và sự vận động tinh thần tích cực cách mạng của quần chúng nhân dân từ
những năm 1940-1945 nhƣ: Hua Chaƣ khanh cánh ngan nha bản (Trái tim
anh dũng chớ run sợ) của Chu Văn Thịnh, Khẩu ma tứn (Lúa chó dậy) của
Cầm Biêu, Nộc cốc kăm (Chim phƣợng hoàng) và Xiêng chang năn (Đầy
tiếng than) của Cầm Ninh... Đây có thể coi là bƣớc “tiền trạm” sơ khai nhƣng
vô cùng quan trọng để góp phần hình thành một đội ngũ những nhà thơ chiến
sĩ- nghệ sĩ dân tộc Thái.
Đầu thế kỷ XX đến những năm 1944, nhiều dân tộc thiểu số ở phía Bắc
Việt Nam nói riêng và cả nƣớc nói chung chịu nhiều tầng áp bức của thực dân
và phong kiến (miền núi). Thực dân Pháp với chính sách ngu dân đã kìm hãm
sự phát triển của kinh tế, xã hội miền núi bằng cách duy trì chế độ tù trƣởng,
thổ ty, phìa tạo đã hết sức lỗi thời và vô cùng dã man, tàn bạo. Các dân tộc
thiểu số đã không can tâm làm kiếp trâu ngựa, đã vùng lên chống lại. Cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 9/ 1940) đã mở đầu cho phong trào cách mạng ở
vùng miền núi phía Bắc, nhân dân các dân tộc thiểu số nô nức đi theo cách
mạng, tuyên truyền và vận động bà con theo Đảng, cách mạng...Đi cùng với
phong trào đấu tranh đó là cả một phong trào thơ ca cách mạng xuất hiện và
mau chóng phát triển. Đó là những sáng tác “Có vần, có điệu, dễ đọc, dễ hiểu,
đọc êm tai, dễ nghe. Bất kỳ già trẻ ai cũng đọc đƣợc. Nó lại dễ ngẫm nghĩ,
làm cho ngƣời ta cảm động...” [80, tr.87] . Trong không khí cách mạng “nhƣ
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
một dòng thác mạnh” tràn lên vùng các dân tộc thiểu số và từ chính
sách“kháng chiến văn hoá, văn hoá kháng chiến” những ngƣời có năng khiếu
văn chƣơng đã viết những bài vè, bài thơ, bài ca, soạn bài hát…không chỉ có
tính cổ động thời sự mà có một số đã trở thành những tác phẩm nghệ thuật
đích thực. Và một đội ngũ cán bộ văn hoá thông tin văn nghệ sĩ các dân tộc
thiểu số có điều kiện phát triển năng khiếu trở thành một đội ngũ chiến sĩ-
nghệ sĩ nhƣ: Bàn Tài Đoàn (dân tộc Dao), Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Lò
Văn Mƣời (dân tộc Thái), Đinh Sơn (dân tộc Mƣờng)…Chính những nhà văn,
nhà thơ ấy đã đặt những viên gạch đầu tiên hình thành nền thơ ca các dân tộc
thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại.
Với tác phẩm Khẩu ma tứn (Lúa chó dậy) của Cầm Biêu, Cán bộ với dân
của Lƣơng Quy Nhân, Tội ác giặc Pháp ở đồn Pom Nghê của Hoàng Nó...
Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Hoàng Nó... là những nhà thơ đầu tiên ghi tên
mình vào sự hình thành của văn học dân tộc Thái hiện đại.
Là một tác phẩm tiêu biểu của văn học cách mạng các dân tộc thiểu số,
Khẩu ma tứn (Lúa chó dậy-1940) đƣợc Cầm Biêu viết trong không khí hồ hởi
theo cách mạng. Bài thơ là một cảm xúc rất thật của chàng thanh niên 20 tuổi
Cầm Biêu vì căm tức thói hống hách, dâm ô của một tên chánh tổng con quan
luôn giở trò cƣớp bóc của dân bản, trêu chòng con gái nhà lành, ông đã
“chửi” bọn chúng là lũ “vện” chuyên tranh nhau để “rình đớp xôi thơm” của
mọi ngƣời. Vì vậy, tác phẩm đã đƣợc các đồng chí hoạt động cách mạng lúc
đó ở địa phƣơng dùng làm thơ tuyên truyền, phát động lòng căm thù giặc
trong quần chúng.
Khiến lũ vện phƣơng xa nhỏ rãi, hắt hơi
Đứng phắt dậy, cong đuôi trở nghề ăn cƣớp
Kéo nhau về rình đớp xôi thơm..
(Lúa chó dậy-Cầm Biêu)
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Có thể nói, dƣới ánh sáng của Đảng, cách mạng, những ngƣời dân tộc
thiểu số yêu nƣớc đã tin tƣởng và một lòng đi theo cách mạng. Họ dùng văn
chƣơng để làm công cụ tuyên truyền đấu tranh và nói lên tiếng nói, tình cảm
của những ngƣời dân tộc miền núi với Đảng, Bác. Mặc dù những sáng tác ấy
còn gần với dân ca, truyện cổ, với lời thoại sinh hoạt, “thơ chƣa mấy chất
thơ” (Cầm Biêu) nhƣng đó là sự khởi đầu rất đáng quý để các nhà nghệ sĩ-
chiến sĩ khai phá con đƣờng bứt lên thành tác giả- góp phần hình thành, phát
triển đội ngũ của nền thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Dù số lƣợng tác phẩm chƣa nhiều nhƣng “Thơ cách mạng đã khơi sâu....
nỗi đau mất nƣớc, hiểu rõ cảnh ngộ dân tộc bị chìm đắm trong vòng nô lệ,
nung nấu lòng căm thù, rèn đúc chí khí cách mạng kiên cƣờng. Thơ ca đã gợi
nhiều tình cảm, nhiều suy nghĩ và lên đƣờng tìm cách mạng” [86, tr.83] và
góp phần khẳng định vị trí của thơ cách mạng các dân tộc thiểu số với với thơ
văn cách mạng cả nƣớc.
Nhƣ vậy, cũng nhƣ các dân tộc thiểu số khác, trƣớc năm 1945, thơ ca dân
tộc Thái chủ yếu là thơ ca dân gian với thành tựu nổi bật là sử thi và truyện
thơ trữ tình. Tiếp đó, nghệ nhân Ngần Văn Hoan đã đánh dấu bƣớc chuyển
tiếp từ thơ dân gian đến thơ thành văn của dân tộc Thái với những lời thơ
trong các tác phẩm “hát thơ”. Đặc biệt sự xuất hiện của một số bài thơ cách
mạng của các nhà thơ Thái nhƣ Cầm Biêu, Cầm Ninh hay Chu Văn Thịnh...
(thời kỳ từ năm 1940-1944) đã đánh dấu một bƣớc phát triển mới cho thơ ca
Thái. Dù những bài thơ cách mạng ấy còn mang đậm dấu vết của kiểu thơ dân
gian nhƣng ít nhiều đã có những yếu tố hiện đại, đây chính là nền tảng quan
trọng dẫn tới sự hình thành và phát triển của thơ ca dân tộc Thái hiện đại từ
sau cách mạng tháng 8/ 1945.
1. 2. Thơ ca dân tộc Thái từ năm 1945 đến nay
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Nhƣ đã biết, thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ra đời, phát
triển từ sau năm 1945. Sau hơn nửa thế kỷ, thơ ca các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại chập chững bƣớc đi, mạnh dạn khám phá và tự tin khẳng định
vị trí cũng nhƣ vai trò của mình trong sự phát triển chung của nền thơ ca Việt
Nam hiện đại.
Sau hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đất nƣớc đƣợc độc lập
và thống nhất. Sự nghiệp đổi mới (từ năm 1986) đã làm thay đổi diện mạo của
đất nƣớc, ảnh hƣởng trực tiếp đến tƣ tƣởng, tình cảm và tƣ duy sáng tạo nghệ
thuật của các nhà thơ dân tộc thiểu số nói riêng cũng nhƣ các văn nghệ sĩ nói
chung. Đây là giai đoạn các tác giả ngƣời dân tộc thiểu số có điều kiện để
thoả sức tìm tòi, đổi mới tƣ tƣởng nghệ thuật. Thơ dân tộc Thái hiện đại cũng
nằm trong dòng chảy chung ấy. Việc tìm hiểu thơ dân tộc Thái hiện đại từ khi
ra đời đến trƣớc và sau thời kỳ đất nƣớc thống nhất, độc lập và đổi mới sẽ làm
nổi bật sự vận động và phát triển của thơ ca dân tộc Thái từ sau cách mạng
tháng 8/1945 đến nay.
1. 2.1. Thơ ca dân tộc Thái từ năm 1945 đến năm 1975
Sau thắng lợi của cách mạng tháng 8/ 1945, thơ ca Việt Nam phát triển
với một tốc độ mau lẹ. Trong không khí chung ấy, phong trào sáng tác thơ ca
ở miền núi phía Bắc cũng phát triển mạnh với nhiều tác giả tiêu biểu nhƣ
Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Bàn Tài Đoàn, Cầm Biêu, Lƣơng Quy
Nhân, Hoàng Nó... Họ dùng thơ để tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, đấu
tranh chống lại những đè nén, áp bức của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bọn
tay sai.
Đội ngũ và tác phẩm các nhà thơ Thái giai đoạn này bắt đầu có những
khởi sắc. Sau sáng tác đầu tay Lúa chó dậy (1940) Cầm Biêu hăng hái và tự
tin mạnh dạn ở thể loại này với hàng loạt các tác phẩm mang tính cổ vũ cách
mạng, vận động quần chúng theo cách mạng nhƣ: Vợ lính nguỵ mong chồng
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
(1949), Gái thời giặc (1950), Mƣờng muổi yên vui (1954); Cầu vào bản
(1981), Ánh hồng Điện Biên (1984); Lƣơng Quy Nhân sau tập thơ Cán bộ với
dân Mƣờng (1963) thì tự tin với Biên giới lòng ngƣời (1983); Hoàng Nó viết
Vận động binh lính địch (1948), Diễn ca thành lập khu tự trị; Lò Văn Cậy có
15 bài thơ in trong tập thơ Hạt muối hạt tình; Vƣơng Trung sáng tác truyện
thơ Ing éng (1967) và 16 bài thơ in trong tập thơ (Sóng Nậm rốm) (1979); La
Quán Miên, Sầm Nga Di, Vi Văn Thứa mạnh dạn thử sức với tập thơ Hƣơng
đất quế (1983)....
Đƣợc hình thành cùng với sự ra đời của văn học các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại, thơ ca dân tộc Thái từ năm 1945-1975 đã phát triển không
ngừng với sự trƣởng thành của các thế hệ nhà thơ: Ngoài lớp nhà thơ có công
đặt những viên gạch đầu tiên cho thơ ca Thái hiện đại là Cầm Biêu, Lƣơng
Quy Nhân, Hoàng Nó thì Lò Văn Cậy, Vƣơng Trung, La Quán Miên... là đại
diện tiêu biểu cho lớp nhà thơ trƣởng thành từ những năm 1954 đến năm
1975.
Từ năm 1945 đến năm 1975 là giai đoạn đất nƣớc trải qua muôn vàn thử
thách, gian truân. Khẩu hiệu “Tất cả cho sự nghiệp thống nhất đất nƣớc” là
cần thiết, cấp bách và thiêng liêng trong thời kỳ này. Vì vậy, văn học Việt
Nam nói chung và thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng phục vụ nhiệm vụ
chiến lƣợc của cách mạng là đánh đuổi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, thống
nhất giang sơn, đất nƣớc. Thơ Thái hiện đại cũng nằm trong xu hƣớng chung
ấy.
Các nhà thơ Thái nhƣ Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Lò Văn Cậy, Vƣơng
Trung... là một trong số rất nhiều ngƣời dân tộc thiểu số đã từng phải gánh
chịu ách thống trị dã man, tàn bạo của thực dân và phong kiến miền núi nên
họ cảm nhận đƣợc hết nỗi thống khổ và nhục nhã của kiếp sống trâu ngựa. Vì
vậy, các nhà thơ Thái đã thể hiện lòng căm thù và lên án sự tàn ác của bọn
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
cƣớp nƣớc trong sự liên tƣởng giữa hiện tại tự do, hạnh phúc với quá khứ đau
thƣơng.
Lò Văn Cậy đau xót khi nhớ về những năm tháng đói nghèo, khốn khổ
vì thiếu ăn, thiếu mặc, đặc biệt là thiếu “muối”:
...Đói muối thì chỉ phù
Không có gì thay đƣợc
Ôi con phù, rồi mẹ phù!
Cả bàn nhƣ ong đốt.
(Hạt tình)
Lƣơng Quy Nhân thì xót xa khi nhớ lại “ngày xƣa...gánh nặng nƣớc
mắt” vì mất tự do, mất quyền tự chủ:
Ta làm ra lúa, lúa không phải của ta.
Ta nuôi trâu, trâu đầy rừng không phải trâu của ta.
(Dƣới cờ Đảng)
Nhà thơ đã nói lên nỗi đau chung của cả dân tộc, đó là nỗi đau mất chủ
quyền. Trong hoàn cảnh bị mất tự do do chế độ thực dân cai trị, không có nỗi
khốn khổ nào hơn nỗi khổ không đƣợc hƣởng thụ những tài sản do mồ hôi
công sức của mình làm ra. Ngƣời nông dân trở thành kẻ nô lệ, làm không
công cho thực dân Pháp.
Cầm Biêu cũng thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc của mình đối với
“bọn quỷ giặc Tây” qua rất nhiều các sáng tác nhƣ Giặc Mỹ điên cuồng, Cầu
vào bản, Gái thời giặc.... Ông lên án hành động dã man của chúng là “bắt
lính”, “bắt phu”, đặc biệt là bắt phụ nữ Thái đi hầu rƣợu làm cả “bản mƣờng
chìm nghỉm trong bóng tối”:
Pha Mò tiếng súng doạ bắt lính,
Pha Xạ tiếng kêu giục bắt phu,
Và giữa chợ, tiếng còi dồn gái đi hầu rƣợu nha, phìa.
(Mƣờng Muổi yên vui)
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Sau những năm 1954, Miền Bắc đƣợc hoàn toàn giải phóng, tất cả đều
thay đổi “bỗng nhƣ sao đổi ngôi, suối đổi dòng, xôn xao cả bản mƣờng” [57,
tr. 2] ngƣời dân tộc thiểu số đƣợc thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than, vì vậy, cùng
với các nhà thơ dân tộc anh em, các nhà thơ Thái hƣớng ngòi bút của mình
vào sự đổi thay và tâm trạng phấn khởi của con ngƣời nhờ “luồng gió mới”
ấy. Thơ Thái giai đoạn này tập trung phản ánh cuộc sống mới và công việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nói chung và ở quê hƣơng của ngƣời
Thái nói riêng.
“Mƣời lăm năm giải phóng, Điện Biên phủ lẫy lừng” đã làm cho cuộc
sống của bà con miền núi đƣợc đầy đủ, no ấm:
Đống muối của nhà quan.
Đống muối của nhà phìn....
Đã trở lại với những ngƣời mẹ, ngƣời con.
(Hạt tình- Lò Văn Cậy)
Không chỉ riêng Lò Văn Cậy, Lƣơng Quy Nhân cũng thể hiện rất rõ sự
đổi thay ấy trong phần lớn những sáng tác trong tập thơ “Biên giới lòng
ngƣời”:
Đầu mƣờng hết giặc phản,
Cuối bản hết giặc Tây,
Dƣới chân thang đã sạch bóng giặc Mỹ.
(Biên giới lòng ngƣời)
Và Cầm Biêu cũng nhận thấy những đổi thay của cuộc sống không chỉ ở
cơm ăn, áo mặc, mà còn sâu sa hơn là sự thay đổi trong phƣơng thức sản xuất
của đồng bào dân tộc Thái:
Chúng ta san đồn địch làm mƣờng,
Gỡ thép gai dựng bản,
Quét vỏ đạn cháy dở đúc cày tăng gia.
(Ƣớc phá súc đúc cày)
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Các nhà thơ Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Hoàng Nó... hăm hở làm thơ
vận động bà con dân tộc đoàn kết xây dựng cuộc sống mới, hàng loạt các bài
thơ liên tiếp ra đời trong thời kỳ này là: Có tổ đổi công, Nam Bắc một nhà,
Nhớ bản cũ, Chọn ngƣời nhƣ chọn cây (đƣợc sáng tác năm 1956), Cầu vào
bản (1967), Muốn nhìn thấy Đảng (1958) của Cầm Biêu; Diễn ca thành lập
khu tự trị (1954), Mừng mƣời tám châu của khu tự trị (1955) của Hoàng Nó;
Cán bộ với dân mƣờng, Thuông bók đang khay (Bông hoa đang nở- 1962),
Quảm khắp diệt doạn (Tiếng hát tăng gia sản xuất -1973) của Lƣơng Quy
Nhân... trong đó có một số bài thơ đƣợc đánh giá cao trong nền thơ ca các dân
tộc thiểu số Việt Nam.
Cùng với việc phản ánh, ngợi ca cuộc sống mới, chiến thắng Điện Biên
Phủ và công lao của những con ngƣời đã “làm nên lịch sử”, thơ ca dân tộc
Thái giai đoạn này còn nói đến niềm tự hào về những con ngƣời không chỉ
gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu mà còn đoàn kết, chung sức lao động, sản
xuất, xây dựng quê hƣơng:
Tim ta tim Bế Văn Đàn
Gan ta gan Phan Đình Giót
Gót chân khoẻ hơn cả Linh Y
Thà hy sinh không quay lại đời nô lệ...
(Ánh hồng Điện Biên- Cầm Biêu)
Các nhà thơ Thái kịp thời phản ánh không khí phấn khởi, nô nức tăng
gia sản xuất, “chăm lo việc hợp tác”, xây dựng đời sống mới:
Lúa ngô xanh khắp mọi miền
Ăn cháo mài vẫn vui tiếng hát.
(Công Đảng, công Bác- Cầm Biêu)
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
La Quán Miên với hàng loạt các sáng tác nhƣ Trƣờng ca không dứt, Điện
sáng bản Tạt hay Bài ca làm ruộng bậc thang ca ngợi sự hăng say lao động,
xây dựng bản làng giàu có, ấm no:
Mồ hôi đổ tháng ngày
Lúa mọc nhƣ lau sậy
Chân bƣớc lên bậc ruộng
Vai vác cuộc đời lên.
(Bài ca làm ruộng bậc thang- La Quán Miên)
Cũng vẫn với nội dung ấy, ngƣời đọc có thể bắt gặp trong nhiều sáng
tác khác của các nhà thơ Thái giai đoạn này nhƣ Lũng Bìa với thầy giáo miền
xuôi, Với Tô Thị Rỉnh...của La Quán Miên, Phiêng Bông, Nụ cƣời...của
Vƣơng Trung, Thêu Piêu, Bừa ruộng chiêm của Cầm Biêu; Sầm Nga Di với
Lời hát của em nối lời hát của mẹ, Đêm quên ngủ hay Cổ tay tròn đuôi cá...
Trong số rất nhiều những bài thơ đƣợc sáng tác trong giai đoạn này,
phần lớn các tác phẩm mang âm hƣởng ngợi ca, các nhà thơ ca ngợi cuộc
sống mới, ca ngợi những con ngƣời bảo vệ và xây dựng quê hƣơng và ca ngợi
công lao của Đảng, Bác Hồ, nhân dân các dân tộc miền núi phía Bắc vì đã
làm nên “một Điện Biên lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và công cuộc
đánh đuổi đế quốc Mỹ thắng lợi, mang lại cuộc sống ấm no, tự do cho đồng
bào các dân tộc thiểu số nói riêng và cả dân tộc nói chung, vì vậy, những công
lao của Đảng, Bác vẫn còn tƣơi rói trong ký ức của các nhà thơ.
Với nhà thơ Cầm Biêu, công lao ấy thật khó có thể diễn đạt thành lời,
ông diễn đạt một cách chân thành những tình cảm và lòng biết ơn của mình
đối với Đảng, Bác bằng chính niềm tin của mình đối với sự nghiệp đấu tranh,
giải phóng dân tộc do Đảng và Bác lãnh đạo, đó là:
Ơn Bác ta nghe theo lời Bác
Tin Đảng, ta theo Đảng đến đích cuối cùng.
(Công Đảng, Công Bác)
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Lƣơng Quy Nhân lại thấy nguồn “ánh sáng mặt trời” do Đảng, cách
mạng đem lại cho ngƣời Thái:
Thoắt đổi đời từ đêm đen sang ngày sáng
Nắng xuống núi rừng ta làm chủ núi rừng.
(Dƣới cờ Đảng- Lƣơng Quy Nhân)
Lò Văn Cậy gửi gắm tâm tƣ, tình cảm và lòng biết ơn đến Đảng, Bác Hồ
vào “Hạt muối hạt tình”. Đây là sự chắt lọc những gì tinh tế, súc động về một
tình yêu đất nƣớc đằm thắm, thiết tha của ngƣời dân đƣợc đổi đời nhờ Đảng,
Bác và cách mạng.
Chiến tranh cách mạng đã “sử dụng văn học nhƣ một vũ khí” [42, tr.72]
góp phần vào sự nghiệp chung của dân tộc. Là một bộ phận của thơ ca Việt
Nam hiện đại, thơ dân tộc Thái giai đoạn 1945-1975 cũng không nằm ngoài
nhiệm vụ chung ấy. Về cơ bản, sáng tác của các nhà thơ Thái thời kỳ này tập
trung phản ánh hiện thực của hai cuộc cách mạng, ca ngợi đất nƣớc, con
ngƣời trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội... Trong những năm tháng đất
nƣớc có “chung khuôn mặt, chung tâm hồn” thì cảm hứng yêu nƣớc, tự hào
dân tộc là nét nổi bật và bao trùm lên phần lớn các sáng tác thời kỳ này. Mỗi
nhà thơ, theo cách riêng của mình đã thể hiện tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc
dƣới nhiều dạng thức khác nhau: Với Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Hoàng
Nó thì yêu nƣớc là căm thù giặc, tố cáo, lên án tội ác của giặc; Với Vƣơng
Trung, La Quán Miên thì yêu nƣớc là ca ngợi những con ngƣời đang cầm vũ
khí, đang lao động, sản xuất góp phần cho kháng chiến, còn với Sầm Nga Di
hay Lò Văn Cậy thì yêu nƣớc gắn liền với niềm tự hào về vẻ đẹp của thiên
nhiên, con ngƣời, quê hƣơng dân tộc Thái đang đổi thay từng ngày trong vận
động, đi lên của cách mạng.
Do mục đích tuyên truyền, cổ vũ chiến đấu nên thơ giai đoạn này mang
tính chính luận rõ nét. Nội dung xoay quanh các chủ đề, mô típ quen thuộc
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
nhƣ: cách mạng là một ngày hội, môtíp thức tỉnh, giác ngộ...Vì vậy, đối tƣợng
các nhà thơ ngợi ca phản ánh cũng là những ngƣời đang trực tiếp hoặc gián
tiếp phục vụ sự nghiệp chung của cả dân tộc. Đó là những ngƣời lính canh giữ
biên thuỳ trong sáng tác của Vƣơng Trung, ngƣời công nhân làm đƣờng, điện
trong thơ Cầm Biêu, La Quán Miên hay ngƣời nông dân một nắng hai sƣơng
với ruộng đồng để tăng gia sản xuất trong thơ Lò Văn Cậy...Vì vậy, bóng
dáng của con ngƣời cá nhân, những tâm tƣ, tình cảm cá nhân, những vấn đề
đời tƣ hầu nhƣ không đƣợc đề cập tới.
Nhƣ vậy, có thể thấy, theo xu hƣớng phát triển chung của thơ ca Việt
Nam giai đoạn 1945-1975, thơ ca các dân tộc thiểu số (trong đó có thơ ca dân
tộc Thái) đã có những bƣớc phát triển đầy khởi sắc. Cũng vẫn phản ánh cuộc
đấu tranh cách mạng của dân tộc nhƣng đề tài và phạm vi hiện thực phản ánh
của thơ ca dân tộc Thái thời kỳ này đã mở rộng hơn rất nhiều so với bài thơ
cách mạng của Cầm Biêu, Chu Văn Thịnh...trƣớc năm 1945 (từ năm 1940-
1944).
Để chuyển tải những nội dung ấy, các nhà thơ Thái giai đoạn này đã sử
dụng những hình thức nghệ thuật rất gần gũi, quen thuộc với thơ ca dân gian
Thái.
Trƣớc hết, có thể thấy rằng phần lớn các nhà thơ Thái giai đoạn này
dùng tiếng Thái để sáng tác thơ ca. Bởi các nhà thơ sáng tác trƣớc hết để vận
động, tuyên truyền, cổ vũ tinh thần cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ cho đồng bào Thái, sau đó dịch sang tiếng Việt để đƣa tiếng nói
của dân tộc mình đến với các dân tộc anh em. Cầm Biêu sáng tác Peo hƣa
Mƣớng Thanh (Ánh hồng Điện Biên- 1984); Lƣơng Quy Nhân có Thuông bók
đang khay (Bông hoa đang nở- 1962), Quảm khắp diệt doạn (Tiếng hát tăng
gia sản xuất -1973); Khóp nặm đen đin ẻ ẹn lọ hua chaƣ dên mƣớng (Biên
giới lòng ngƣời -1983); Hoàng Nó viết Mía phá sƣ ha phua chọ sớc Mỹ Diệm
pắt pay miền Nam (Vợ gửi thƣ cho chồng bị Mỹ-diệm bắt vào miền Nam); Lò
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Văn Cậy sáng tác Mịt cƣa mịt nghịa (Hạt muối hạt tình); Vƣơng Trung viết
truyện thơ Ing éng (1967) và 16 bài thơ in trong tập thơ Phóng Nậm rốm
(Sóng Nậm rốm- 1979) ...Việc các nhà thơ Thái sử dụng tiếng mẹ đẻ để sáng
tác sau đó chuyển thể sang tiếng phổ thông một mặt cho thấy sự trân trọng
tiếng nói của dân tộc mình của các nhà thơ Thái mặt khác cũng cho thấy thơ
Thái giai đoạn đầu mang đậm cách cảm, cách nghĩ , cách tƣ duy, diễn đạt của
ngƣời dân tộc Thái.
Việc “biết nhiều tục ngữ, dân ca Thái, thuộc lòng những bài nhƣ Xống
chụ xôn xao, Tản chụ xống xƣơng” và “những lời thơ của các câu chuyện kể
ấy in đậm trong tâm trí và theo suốt cuộc đời cầm bút” [11 tr.458, 549] đã
ảnh hƣởng không nhỏ đến sáng tác của các nhà thơ. Là những nhà thơ thuộc
thế hệ đầu tiên của thơ ca Thái hiện đại, Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân hay
Hoàng Nó, Lò Văn Cậy đƣợc tắm mình trong nguồn mạch văn hoá dân tộc
nên trong phần lớn các sáng tác giai đoạn này ta thấy các nhà thơ Thái đều sử
dụng thể thơ truyền thống 7 chữ- 8 dòng, 7 chữ- 4 dòng, vần đƣờng luật, lối
phô diễn, những làn điệu dân ca, vận dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ của văn
học dân gian Thái…Trong 23 bài thơ trong tập thơ Biên giới lòng ngƣời của
Lƣơng Quy Nhân có tới 2/3 bài thơ sử dụng thể thơ truyền thống 7 chữ- 8
dòng, 7 chữ- 4 dòng nhƣ Ơn Đảng, Mùa xuân con ngƣời, Ai chặt đƣợc dòng
sông, Thơ....Thể thơ truyền thống này cũng xuất hiện khá nhiều trong các
sáng tác của Cầm Biêu, La Quán Miên.
Vì sử dụng thể thơ truyền thống này nên thơ Thái giai đoạn 1945-1975
rất gần những làn điệu dân ca Thái:
Yêu nhau anh phá lau thành ruộng
Ruộng ta rộng xa tận khâu Pha...
(Trên đồi nƣơng- Hoàng Nó)
Hoặc lối phô diễn quen thuộc của truyện thơ:
Thân sinh em dân ngƣời Xá Cảu
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Bố mẹ nuôi bằng cám ngô nhà Tạo,
Cô chú nuôi bằng vỏ cám trấu nhà Phìa...
(Bản Cang Cói thân thƣơng- Lò Văn Cậy)
Những câu thơ có vần điệu nhƣ lời hát, điệu “khắp”, “pí”, thiu”, lối hát,
nói đối đáp cũng xuất hiện khá nhiều trong thơ Sầm Nga Di và Cầm Biêu:
Hỏi rằng: “Nhìn coi dƣới nƣớc- còn không-vết giầy đinh giặc Pháp?
Hai cô đáp: “Thƣa anh, nƣớc lũ trôi rêu phủ lấp đi rồi”
(Cầu vào bản- Cầm Biêu)
Đọc thơ Thái giai đoạn này ngoài việc có thể cảm nhận đƣợc lối tƣ duy,
quan niệm sống và những khát vọng của ngƣời dân tộc Thái, ngƣời đọc còn
có thể khám phá ra một thế giới ngôn ngữ, hình tƣợng giàu chất biểu cảm của
ca dao, truyện thơ hay sử thi trong văn học dân gian.
Trong sáng tác của La Quán Miên ta thấy bóng dáng của truyện thơ trữ
tình Xống chụ xôn xao ở những câu thơ nhƣ những lời tâm tình, tiễn dặn:
“Thấy sông đừng quên suối
Nghe nƣớc mát chớ phụ nƣớc trong”
(Tiễn dặn ngƣời trai bản)
Đặc biệt Vƣơng Trung sáng tác truyện thơ “In éng” đã phần nào cho thấy
sự ảnh hƣởng và sức sống mạnh liệt của thể loại văn học dân gian này trong
đời sống hiện đại của dân tộc Thái.
Ngoài việc vận dụng và tiếp thu, lối hát đối đáp hay những đặc trƣng của
thể loại truyện thơ, sử thi trong văn học dân gian, các nhà thơ Thái cũng vận
dụng rất nhiều câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao để diễn tả, phản ánh nội dung
hiện đại. Gọi cả nhà ăn cơm, Gió, Hai bàn chân, Đất...(Lƣơng Quy Nhân);
Nam Bắc một nhà (Cầm Biêu); Cổ tay tròn đuôi cá, Bụng ta đỏ lửa (Sầm Nga
Di)...
Do ảnh hƣởng của nội dung phản ánh, thơ Thái giai đoạn 1945-1975 xuất
hiện khá nhiều những bài thơ có kết cấu mà sinh thời Xuân Quỳnh gọi là thứ
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
thơ “2 giai đoạn”: đoạn đầu các nhà thơ thƣờng hồi tƣởng lại quá khứ khổ
đau khi chƣa có Đảng, cách mạng, đoạn sau là phản ánh cuộc sống hiện tại tự
do, ấm no, hạnh phúc. Những bài thơ có kết cấu nhƣ trên thƣờng có nội dung
ca ngợi công lao của Đảng, Bác Hồ và cuộc kháng chiến thần thánh của dân
tộc, đó là Mƣờng muổi yên vui, Có tổ đổi công (Cầm Biêu), Dƣới cờ Đảng,
Ơn Đảng (Lƣơng Quy Nhân) Trên đồi nƣơng (Hoàng Nó); Hạt tình (Lò Văn
Cậy), Piêng bông (Vƣơng Trung).
Ngôn ngữ thơ Thái giai đoạn này rất gần gũi, dễ hiểu, đó là ngôn ngữ
cuộc sống, từ cuộc sống đi vào thơ. Các nhà thơ Thái vận dụng lời ăn, tiếng
nói hàng ngày của đồng bào Thái để diễn tả những tâm tƣ, tình cảm của mình.
Cầm Biêu bộc lộ tình yêu quê hƣơng, bản mƣờng của mình bằng cách so
sánh, ví von quen thuộc, giản dị:
Mƣời bản không bằng bản cắt rốn
Mƣời chốn không bằng chốn chôn rau.
(Nhớ bản cũ- Cầm Biêu)
Lò Văn Cậy cũng sử dụng ngôn ngữ rất gần gũi và lối diễn đạt dung dị
này trong Bản Cang Cói thân thƣơng:
Cái thân yêu nào bằng cái thân yêu của bản em
Cái thân thƣơng nào bằng cái thân thƣơng của bản em
Cang Cói.
Với Lƣơng Quy Nhân thì dƣờng nhƣ khoảng cách giữa ngôn ngữ, lời ăn
tiếng nói hàng ngày và thơ ca không xa là mấy, vì vậy đọc thơ ông, ta có cảm
giác nhƣ đang trực tiếp nghe ông tâm sự, rãi bày:
Con út thƣơng của cha à!
Mẹ con băm cám lợn rửa tay,
Cơm ngon với canh cá chép,
Canh ngọt nhà ta no...
(Gọi cả nhà ăn cơm)
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Do quan niệm thơ phải “dễ đọc, dễ hiểu” nên thơ ca Thái giai đoạn này
không có chủ trƣơng sử dụng cách nói bóng gió, cƣờng điệu, phóng đại. Thơ
xa lạ với cách làm duyên, trau chuốt ngôn từ, vì vậy sự giản dị đến quen thuộc
là đặc điểm nghệ thuật nổi bật của thơ Thái giai đoạn 1945-1975.
Tuy nhiên, từ yêu cầu về nhận thức, thơ phải dễ hiểu nên ngôn ngữ thơ
nhiều khi rơi vào đơn giản, dễ dãi, ít chọn lọc, tính hàm súc, tính hình tƣợng,
đa nghĩa bị hạn chế. Có không ít những bài thơ tuyên truyền, cổ động nên
“thơ chƣa mấy chất thơ” đúng nhƣ lời “thú nhận” của Cầm Biêu, đó là những
“diễn ca chính sách, văn vần hoá khẩu hiệu chính trị, tả ngƣời thực việc thực
mà thôi” ... vì vậy lời thơ đôi khi còn thiếu sức rung cảm. Tuy nhiên, thơ Thái
giai đoạn đầu có những điểm mạnh, thơ mang cảm xúc rất chân thành. Đó là
những tình cảm đƣợc khởi phát từ trái tim hồn nhiên, thành thực. Chính điệu
này đã tạo men say lý tƣởng và sức bay bổng cho thơ.
1.2.2. Thơ ca dân tộc Thái từ năm 1975 đến nay
Sau năm 1975, đất nƣớc hoà bình, độc lập, đặc biệt Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (1986) và Nghị quyết Trung ƣơng 5 của Bộ Chính trị đã mở
ra một giai đoạn mới cho văn học. Nền văn học Việt Nam nói chung và thơ ca
các dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng phát triển mạnh mẽ, tạo nên một sự
đa dạng, phong phú cho đời sống văn nghệ nƣớc nhà.
Đây là thời kỳ mà những bản anh hùng ca, những khúc ca ngợi ca chiến
thắng chỉ còn là dƣ âm, là ký ức. Đề tài chiến tranh cách mạng, nhân dân anh
hùng dần chuyển sang cuộc sống đời thƣờng với những vấn đề đời tƣ, thế sự.
Thơ bắt nhịp với sự đa chiều và bộn bề lo toan của cuộc sống. Thơ bớt miêu
tả mà đi sâu vào tâm trạng cá nhân, cái tôi trở thành trung tâm của cảm hứng
sáng tác. Những thay đổi ấy đã đặt ra những đòi hỏi, thách thức đối với các
nhà thơ dân tộc thiểu số nói chung và các nhà thơ dân tộc Thái nói riêng. Thơ
phải vƣợt khỏi những “khuôn phép thơ sáo mòn” (Anh Ngọc) và phải có
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
“Tác phẩm hay! Tác phẩm đặc sắc! Tác phẩm có giá trị! Đó là mơ ƣớc, là
mục tiêu phấn đấu, là khẩu hiệu hành động của ngƣời sáng tác” [85, tr.91].
Có thể nói, sau năm 1975 là thời kỳ thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam
có nhiều thành tựu cả về đội ngũ và tác phẩm. Các cây bút trẻ xuất hiện ngày
càng nhiều trên thơ đàn, nhiều tác phẩm hay đƣợc công chúng đón nhận ...
điều đó khiến ngƣời ta có thể nhận diện nền thơ ca các dân tộc thiểu số một
cách rõ ràng và khẳng định nó nhƣ một thực thể riêng, độc đáo trong nền văn
học Việt Nam hiện đại.
Cùng với sự khởi sắc của thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam. Đội ngũ
các nhà thơ Thái ngày càng phát triển và đƣợc “trẻ hoá”. Ngoài lớp các nhà
thơ Thái giai đoạn đầu nhƣ Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Lò Văn Cậy... thì sự
xuất hiện của các nhà thơ trẻ, với cảm nhận mới mẻ về cuộc sống đã góp phần
làm cho văn học dân tộc Thái hiện đại sau năm 1975 đa dạng và phong phú.
Ngoài thành tựu về đội ngũ, tác phẩm thơ giai đoạn này cũng có những
khởi sắc. Thế hệ đầu tiên của thơ ca Thái hiện đại là Cầm Biêu, Lƣơng Quy
Nhân, Hoàng Nó vẫn tiếp tục sáng tác. Những tác phẩm thơ của họ vẫn tràn
đầy sức sống và tình yêu quê hƣơng, con ngƣời. Hoàng Nó có Tiếng hát
mƣờng ban (1987); Lƣơng Quy Nhân có Lửa hồng một góc và Hoa trời in
chung năm 1987, tiêu biểu là Độ dày của tình yêu (1994); Cầm Biêu vẫn tỏ ra
sung sức với hàng loạt các tập thơ nhƣ Bản mƣờng nhớ ơn (1993), Mƣờng
chanh há (1995), Pông hặc (1995), đặc biệt là Peo fẫy mí mọt (Ngọn lửa
không tắt-1994)...
Tiếp nối thế hệ các nhà thơ lớp trƣớc, La Quán Miên sau Hƣơng đất quế
tiếp tục với Bản quê ta yêu dấu (1996), Con đƣờng bản Đôn in chung (1999),
Trong thung lũng (2002). Cầm Bá Lai ra đi khi chƣa có tập thơ đầu tay, chỉ
kịp để lại 400 bài thơ bản thảo, nhƣng rồi tập thơ Hoa và nắng của ông cũng
đƣợc bạn bè ông cho ra mắt bạn đọc. Lò Vũ Vân sau một số bài thơ in chung
trong tập thơ Vòng xoè (1980) thì tăng tốc bằng một số tập thơ khác nhƣ
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Tiếng sấm vào mùa (1998), Nhặt hoa trăng (2000) và mới đây nhất là tập thơ
gồm 70 bài thơ ra mắt bạn đọc, đó là Đi từ miền gió hoang (2006). Cây bút trẻ
Lò Cao Nhum vụt sáng và bứt phá ở Giọt sao trở về (1995), Rƣợu núi (1996),
Mùa hoa chuông in chung (1997) Sàn trăng (2000), Theo lời hát về nguồn
(2001.
Không chỉ sáng tác thơ, các tác giả dân tộc Thái còn nghiên cứu, giới
thiệu, sƣu tầm văn học dân gian nhƣ Hạn khuống (1991) của Lƣơng Quy
Nhân; Hạn khuống (1990), Nàng Công Cắm (1993), Lễ xên kẻ (1994) của
Cầm Biêu; Hoàng Nó dịch truyện thơ dài ngàn câu Păn cứn pai nƣng (2001);
La Quán Miên sƣu tầm và dịch, biên soạn: Truyện thơ và đồng dao Thái miền
Tây Nghệ An (1996), Chim Yểng (1997), Đám cƣới trên núi (1997), viết
truyện, ký Hai ngƣời trở về (1996), Vùng đất hoa Cờ Mạ (1997), Bản nhỏ
tuổi thơ (2000), Năm học đã qua (2003); Lò Cao Nhum dịch dân ca Thái Lời
hát trong lễ hội chá chiêng (2001)...
Sau năm 1975, các nhà thơ dân tộc thiểu số nói chung và các nhà thơ
Thái nói riêng viết đề tài miền núi nhiều hơn, tập trung hơn, đi sâu vào những
nét đời thƣờng với cảm hứng lãng mạn, lạc quan, tƣơi vui. Tuy nhiên, bên
cạnh đó cũng có không ít những bài thơ là sự triết lý, chiêm nghiệm về cuộc
đời, con ngƣời, sự cô đơn khi đối diện với cái cũ- mới, truyền thống - hiện
đại...
Đề tài miền núi không phải đến sau năm 1975 mới xuất hiện trong thơ
Thái mà thực tế ở giai đoạn 1945-1975, Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân hay
Vƣơng Trung và rất nhiều những nhà thơ khác đã nói đến tình yêu, lòng tự
hào về quê hƣơng và con ngƣời dân tộc Thái.
Quê hƣơng miền núi trong sáng tác của Cầm Biêu giai đoạn 1945-1975
là “Thiên đƣờng” (Thiên đƣờng từ chốn này), là nơi chôn rau, cắt rốn không
gì sánh nổi (Nhớ bản cũ), là những con ngƣời tuy không cùng thôn, cùng bản,
tuy ở mọi miền tổ quốc nhƣng vẫn cùng chung “giọt máu hồng”, cùng chung
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
“một bầu sữa mẹ” (Quê hƣơng của tình yêu), còn đối với Lƣơng Quy Nhân,
khái niệm quê hƣơng đƣợc mở rộng hơn, ở tầm cao hơn, đó là Tổ quốc (Mùi
quê).
Con ngƣời miền núi là những con ngƣời dũng cảm, kiên cƣờng trong sản
xuất và chiến đấu, họ mang vẻ đẹp vừa chân chất, giản dị, vừa kỳ vĩ, anh hùng
Đèn chung bấc, Núi đan rào (Lò Văn Cậy), Hội cấy thi, Nụ cƣời (Vƣơng
Trung), Ngƣợc dòng quyết đi tới ngọn nguồn, Thêm một mũi gƣơm (Lƣơng
Quy Nhân), Điện sáng bản Tạt, Bài ca làm ruộng bậc thang (La Quán Miên),
Lời hát của em nối lời hát của mẹ, Đêm quên ngủ hay Cổ tay tròn đuôi cá
của Sầm Nga Di ....
Khác với giai đoạn 1945-1975, các nhà thơ Thái sau năm 1975 tập
trung nói nhiều đến quê hƣơng với cảm xúc đời thƣờng. Quê hƣơng trong
sáng tác của Lò Cao Nhum là hình ảnh ngôi nhà sàn- một đặc trƣng tiêu biểu
của ngƣời dân tộc Thái Ngôi nhà sàn của tôi, là thứ lúa đặc sản thơm, dẻo nhƣ
“dòng sữa” (Cây lúa) ; là bát “rƣợu” đƣợc chắt lọc từ những gì tinh tuý nhất
của núi rừng:
Rƣợu nhà tôi
Có ngọt mật ong vách đá
Có chua măng ƣớp chum vò...
(Rƣợu núi)
Nhà thơ thể hiện tình yêu của mình với quê hƣơng bằng cách ca ngợi
những đặc sản của quê hƣơng nhƣ lúa, rƣợu cần. Nói đến những đặc sản ấy
ngƣời ta liên tƣởng ngay đến quê hƣơng, xứ sở của ngƣời Thái và bàn tay tài
hoa, sáng tạo, khéo léo của ngƣời Thái. Bằng cách thể hiện giản dị, mộc mạc
và chân thành, quê hƣơng hiện lên trong thơ Lò Cao Nhum rất đỗi gần gũi và
thân quen.
Với La Quán Miên, quê hƣơng cũng là nỗi nhớ về ngôi nhà sàn “mang
dáng chim Phƣợng Hoàng” (Xa quê), là Nắm đất bản quê, là sự tri ân mảnh
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
đất bao dung, hiền hoà của con ngƣời trong Mỗi lần đi xa, Con đƣờng bản
Đôn, là dòng sông tuổi thơ hiền hoà, yên ả:
Hiền hoà Nặm Huống sông quê,
Một dòng trong xanh tận đáy.
Tuổi thơ tha hồ vùng vẫy,
Sóng đùa, sóng giỡn trên vai.
(Sông quê ngày trở lại)
Trong thơ của La Quán Miên, quê hƣơng gắn liền với nỗi nhớ. Đó là
một miền ký ức trong trẻo, mát lành, luôn luôn hiện hữu trong ông, có tác
dụng bồi đắp hồn thơ La Quán Miên. Mỗi lần xa quê, miền ký ức ấy lại dậy
sóng. Cũng giống nhƣ Lò Cao Nhum, quê hƣơng trong thơ La Quán Miên rất
thân thuộc, giản dị.
Sau năm 1975, thơ ca Thái không còn bóng dáng của những con ngƣời
mang vẻ đẹp của sử thi nhƣ ngƣời lính, những ngƣời công nhân, nông dân
đang gồng mình để tăng gia sản xuất, thay vào đó là những con ngƣời chân
thật, giản dị và rất đời thƣờng. Đó là ngƣời lính còn may mắn sống sót sau
chiến tranh nhƣng không còn lành lặn, phải “nằm nghiêng nhìn bầu trời núi,
nằm sấp nhìn vào cuộc đời”:
Bƣớc thấp, bƣớc cao trên những luống cầy
Chân đi khập khiễng trên nƣơng, trên rẫy
Là ngƣời lao công thầm lặng, ngày ngày kết bạn với “lá khô”, thì thầm (Con chim của núi- La Quán Miên)
với “cành rụng”:
Đƣờng chổi đi bụi lá
Thầm thì góc trời mai
Vun già nua cho đất
Ru nỗi buồn cho cây.
(Ngƣời dọn lá- Lò Cao Nhum)
Là những ngƣời nông dân “chăn vịt” chăm chỉ, hiền lành, chất phác:
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
Chiếc mũ cọ với ngọn roi tre
Men bờ mƣơng hóng mát trƣa hè.
(Chăn vịt- Cầm Biêu)
Là sự vất vả vì “gùi núi một đời” của ngƣời mẹ trong thơ Lò Cao
Nhum:
Mẹ về nƣơng
Từ núi
Đen nhẻm cây lồ ô cháy
Mặt trời lăn từ trán qua vai.
(Chiều núi)
Do thay đổi về đề tài nên thơ Thái sau 1975 đã hƣớng về những con
ngƣời lao động rất bình thƣờng, dung dị. Nhà thơ miêu tả, phản ánh những
con ngƣời ở vị trí bình thƣờng thƣờng, hàng ngày phải đối mặt với mƣu sinh,
với gánh nặng cơm, áo, gạo, tiền để duy trì cuộc sống. Vì vậy, so với các sáng
tác của các nhà thơ dân tộc Thái ở giai đoạn trƣớc, các nhà thơ dân tộc Thái
sau năm 1975 đã chú ý và đi sâu vào sự phong phú, phức tạp của “con ngƣời
đa diện, cuộc đời đa đoan”.
Cầm Biêu lên án và đả kích những thói hƣ, tật xấu của con ngƣời nhƣ
lƣời biếng, tham lam, mê tín dị đoan thể hiện trong các sáng tác nhƣ Cá lƣng
khô, Thầy mo đi nằm viện, Rƣợu uống ngƣời, Thầy bói đi chiếu điện, Cô dâu
rắn ráo, Leo cây không nhớ lối xuống, Đƣờng xuống hang... Đặc biệt Năng
thăm quê là nỗi đau của nhà thơ trƣớc những tệ nạn ở quê hƣơng nhƣ: “hút
xái", “bói quẻ, cúng ma”, “lừa đảo”, “ăn chơi”, “trộm cắp”, “cờ bạc”...
những tệ nạn ấy đã lên lỏi vào vùng miền núi và đã tha hoá, làm tan cửa nát
nhà những con ngƣời vốn dĩ chân chất, hiền lành, quanh năm chỉ biết lao
động lƣơng thiện, những thay đổi chóng mặt ấy làm nhà thơ “ngơ ngác nhƣ
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
vào rừng bị lạc” và “bâng khuâng quay gót trở về” thể hiện sự tiếc nuối một
quá khứ anh hùng của quê hƣơng:
Còi cách mạng văng vẳng bên tai
Theo quân dân đều bƣớc một hai.
(Năng thăm quê- Cầm Biêu)
Hoặc là sự trăn trở về nghề nghiệp Văn chƣơng không sợ nghèo, Sách,
Vàng và thơ, Ngƣời nhiều tên, Nàng thơ ...của Cầm Biêu, Trang giấy và ngọn
đèn, Chồi lá của Lò Cao Nhum...
Những triết lý về cuộc đời, cuộc sống của con ngƣời cũng xuất hiện
nhiều trong thơ giai đoạn này: Cái chổi, Chữ có ăn đƣợc không, Đƣờng đời,
Cái sọt rác, Ngƣời nào sắc ấy...của Cầm Biêu.
Đặc biệt là những khoảng lặng của tâm hồn đƣợc các nhà thơ chú ý khai
thác: đó là sự chiêm nghiệm về cuộc đời: “Gom lại tàn úa quăn queo lòng
mình”( Ngƣời dọn lá- Lò Cao Nhum), là bài hát dành cho những con ngƣời đi
tìm những gì đã mất Tôi hát, là sự “cô đơn mùa giêng hai” khi con ngƣời
không biết trân trọng những giá trị của cuộc sống trong Chim một cánh,
không tìm đƣợc sự đồng cảm trong tình yêu, khiến con ngƣời “chơ vơ giữa
miền hoang chếnh choáng” trong Vô đề, Tự khúc (Lò Vũ Vân), hay đó là sự
“trống rỗng” đến tận cùng của “cái gì đấy” không hình không dáng, không
thiếu, không thừa “không đầu, không cuối” trong Bông hoa ơi, Chiều, Giấc
trƣa (Lò Cao Nhum)..., làm ngƣời ta thấy bức bối, cùng quẫn:
Cái gì đấy bồn chồn sợi nắng
Cái gì đây run rẩy đƣờng mặt trời
Cái lƣu luyến của điều trời đất
Cái hờ hững của cái chƣa nhau...”
(Chiều- Lò Cao Nhum)
Hay là sự bừng tỉnh trong tiếc nuối:
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
Nàng hát lên những bài ca ru tình kỳ diệu
Bài ca ấy trong suốt nhƣ dòng sông pha lê
Để trái tim tê tái, chìm dần vào giấc hoang mộng mê tơi
Khi ta chợt bừng tỉnh, chỉ còn ta với cái ngẩn ngơ tiếc nuối...
(Những cuộc tình ảo-Lò Vũ Vân)
Cũng với dòng suy tƣởng ấy, nếu nhƣ đối với Lò Ngân Sủn thì nỗi đáng
sợ nhất là “không thƣơng nhau” thì đối với Cầm Bá Lai trong vô số những nỗi
buồn của con ngƣời nhƣ gánh nặng cơm, áo, gạo tiền ...thì nỗi buồn lớn nhất
chính sự không thành thật của ngƣời với ngƣời trong cuộc sống, ấy là nỗi
buồn về “Lòng ngƣời chƣa đứng thẳng” (Buồn ), là sự giả dối mà La Quán
Miên gọi là “Ngoài miệng .. bôi mỡ. Trong bụng... dấu chông” ( Ngôi nhà sàn
của tôi). Vì vậy, nhà thơ Lƣơng Quy Nhân cũng thành thực bộc lộ:
Lòng ngƣời lắm nghĩ suy
Ta xin chọn và giữ lấy lòng thẳng
(Đã đi là tới)
Còn trong tình yêu đó là những khoảng trống trong tâm hồn con ngƣời
trƣớc những biến đổi không lƣờng của cuộc đời, đó là nỗi nhớ chồng của
ngƣời thiếu phụ trong Áo chồng, sự mất mát Khi em lên xe hoa (Lò Cao
Nhum). Nỗi đau đó cũng có phần giống nhƣ tâm trạng của nhà thơ Mai Liễu
trong Mùa bông:
Con gái đi lấy chồng
Gánh theo mấy mùa thao thức”
Cùng với sự đổi thay của cuộc sống, của lòng ngƣời, các nhà thơ dân
tộc Thái giai đoạn này đề cập nhiều đến sự mai một của những giá trị truyền
thống, bản sắc văn hoá dân tộc với sự nuối tiếc:
Váy hoá đã khác
Khăn “piêu” còn đâu...
(Mƣờng cuông- La Quán Miên)
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Những vẻ đẹp truyền thống đã bị mai một ít nhiều, giống nhƣ Nguyễn
Bính, cũng đã trăn trở về sự mất đi vẻ đẹp trong sáng, giản dị của “hƣơng
đồng gió nội bay đi ít nhiều”. Đó là nỗi trống trải, hẫng hụt trƣớc sự mất đi
những dấu vết gắn liền với ký ức tƣơi đẹp một thời trong Sông quê, ngày trở
lại (La Quán Miên):
Đâu rồi, dòng sông tuổi thơ
Đâu rồi, ngƣời của ngày xƣa.
Nhƣng các nhà thơ cũng không bi quan trƣớc cuộc đời, khi vƣợt qua cơn
khủng hoảng về tâm hồn, vƣợt qua sự trống rỗng, đơn côi, con ngƣời lại trở
về với bản ngã tự tin, yêu đời và hăm hở đón nhận cuộc sống, để mỗi ngày là
một Ban mai, là Tiếng chim xanh (Lò Cao Nhum):
Ban mai,
Tôi mở cửa,
Nâng mặt trời lên,
Đón mặt trời vào...
Và bên cạnh màu xanh hy vọng ấy, hƣơng thơm mang phong vị của quê
hƣơng sẽ thức tỉnh con ngƣời:
Dù tóc ta có bạc
Nhƣng bên trời gió trở thơm hƣơng cốm
Xanh nhần nhật tƣơng lai...
(Đi từ miền gió hoang- Lò Vũ Vân)
Đất nƣớc thời kỳ hậu chiến tranh và đổi mới mở ra bao bộn bề, lo toan,
vất vả của cuộc sống. Con ngƣời trở về vị trí bình thƣờng và nhà thơ cũng
không còn là “cái loa phát ngôn” kêu gọi, cổ vũ cho lý tƣởng của cộng
đồng...Từ tƣ thế ấy nhà thơ có điều kiện để nhìn nhận, đánh giá cuộc sống
một cách chân thực, khách quan, phản ánh những cái đang diễn ra đúng bản
chất của nó. Các nhà thơ Thái giai đoạn này cũng nhìn thẳng vào hiện thực,
đối thoại với hiện thực, nói lên tiếng nói, tâm tƣ, tình cảm và cuộc sống của
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
ngƣời dân tộc thiểu số trƣớc những biến thái tinh vi, phong phú, phức tạp của
cơ chế thị trƣờng. Thơ không còn là những khúc ca, nhà thơ không còn đóng
vai trò là một thành viên của dàn đồng ca, hợp xƣớng nên thơ giai đoạn này
hội tụ đầy đủ những nốt trầm, bổng của hỉ, nộ, ái, ố.
Con ngƣời, cuộc sống đi vào thơ Thái một cách bình dị, đời thƣờng. Đó
là những đứa trẻ miền núi lem luốc, là chị lao công, đến ông lão nông và
ngƣời phụ nữ sớm hôm tần tảo... Họ đều là những ngƣời lao động chân chất,
giản dị, chăm chỉ làm ăn.
Sau năm 1975, nhà thơ và những nhân vật của mình không phải “dấu
diếm” thân phận cá nhân với những nỗi buồn riêng mà mạnh dạn thể hiện, rãi
bày thế giới nội tâm đa dạng, phong phú. Vấn đề con ngƣời, hạnh phúc của
con ngƣời đƣợc nhìn nhận, đánh giá theo những chiều hƣớng khác nhau, đầy
đủ hơn, nhân bản hơn. Khác với giai đoạn 1945-1975, thơ Thái sau năm 1975
chất chứa tiếng thở dài của ngƣời thiếu phụ, dáng “khập khiễng” đến cực nhọc
của anh thƣơng binh, có cái oán trách của ngƣời bị phụ tình, có cả nỗi cô đơn
của ngƣời không tìm thấy tiếng nói chung trong đồng loại... Mặc dù âm
hƣởng chính của thơ Thái thời kỳ sau 1975 vẫn là niềm hào hứng, phấn khởi
của những con ngƣời đƣợc tự do, đƣợc làm chủ cuộc sống, nhƣng rõ ràng,
cơn lốc của cuộc đời, những lo toan bộn bề của đời thƣờng đã làm cho những
nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu số nhìn nhận sự thật khách quan hơn, đa diện hơn.
Vì vậy, lẽ đƣơng nhiên, thơ Thái sau năm 1975 đi vào cảm hứng đời tƣ- thế
sự trong sự vận động chung của thơ ca Việt Nam. Tuy nhiên, với sự lạc quan
vốn có, thơ Thái giai đoạn này không có “sự bất lực” trƣớc những phức tạp,
lẫn lộn của cuộc sống, nhà thơ dần nhìn nhận và làm quen với nó nhƣ một quy
luật tất yếu của cơ chế thị trƣờng. Họ tin vào bản chất tốt đẹp và sự hƣớng
thiện của con ngƣời, bởi nói nhƣ Cầm Biêu, tất cả chỉ là “tạm thời” mà thôi.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Có thể nói, sau năm 1975, hoà vào dòng chảy chung của văn học các dân
tộc thiểu số Việt Nam, các nhà thơ dân tộc Thái đã có những bƣớc tiến đáng
kể về số lƣợng cũng nhƣ chất lƣợng trong các sáng tác. Thơ Thái giai đoạn
này thể hiện khá rõ quá trình vận động và phát triển của thơ ca dân tộc Thái
hiện đại. Điều này thể hiện ở sự kế thừa và phát huy những thành tựu của thơ
Thái giai đoạn 1945-1975 của hai thế hệ nhà thơ.
Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân...là lớp nhà thơ gắn bó với hình thành của
thơ dân tộc Thái hiện đại, do vậy các ông mang đậm phong cách của ngƣời
làm thơ dân tộc và ngƣời dân tộc thiểu số làm thơ. Phần lớn các ông vẫn sáng
tác bằng tiếng dân tộc Thái sau đó tự dịch sang tiếng Việt (Pèo fẫy mí mọt-
Ngọn lửa không tắt của Cầm Biêu; Luống hặc căn lợc có nặn- Độ dầy của
tình yêu của Lƣơng Quy Nhân). Bên cạnh câu thơ truyền thống 7 chữ- 8
dòng...giai đoạn này Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân vẫn “chuộng” những câu
thơ có 7 chữ- 4 dòng nhƣ Cầu treo, Nâng cánh cùng bay, Văn chƣơng không
sợ nghèo, Vàng và thơ...(Cầm Biêu) hay Độ dày của tình yêu, Mùi quê...
(Lƣơng Quy Nhân).
Kết cấu bài thơ mang đậm dấu vết thơ ca dân gian, thiên về phƣơng thức
tự sự, đó thƣờng là những bài thơ “hai giai đoạn”, có dòng hồi tƣởng về quá
khứ khổ đau để nhấn mạnh đến giá trị cuộc sống hiện tại và xây dựng tƣơng
lai, tiêu biểu là Thầy hiệu trƣởng cấp ba, Ngày 26 tháng 8, Chiềng Lề xƣa,
Chiềng Lề nay của Cầm Biêu và Vào đời , Sống lại rồi của Lƣơng Quy Nhân.
Trong thơ, Cầm Biêu và Lƣơng Quy Nhân vận dụng nhiều bút pháp
tƣợng trƣng, sử dụng nhiều từ láy, lặp đi lặp lại một từ nhƣ: Thiên đƣờng từ
chốn này, Cỏ Mộc Châu, Tâm sự cái chổi ...(Cầm Biêu); Cánh đồng Điện
Biên, Năm tháng vẫn còn, Một Điện Biên, Thế nào là thơ ...(Lƣơng Quy
Nhân).
Có thể thấy, ở giai đoạn này, mặc dù nội dung phản ánh của thơ nghiêng
về những vấn đề của cuộc sống hiện đại nhƣng lớp nhà thơ Thái giai đoạn đầu
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
là Cầm Biêu và Lƣơng Quy Nhân vẫn sử dụng hình thức biểu hiện mang tính
chất truyền thống.
Kế tục sự nghiệp của thế hệ nhà thơ lớp trƣớc, Vƣơng Trung, La Quán
Miên, Lò Cao Nhum, Lò Vũ Vân....có sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa
truyền thống và hiện đại. Chính điều này tạo nên diện mạo phong phú, đa
dạng và sự vận động, phát triển liên tục của thơ Thái hiện đại.
Không quá câu lệ vào những thể thơ 7 chữ- 8 dòng, 7 chữ- 4 dòng...trong
thơ truyền thống, các nhà thơ Thái trƣởng thành sau năm 1954, đặc biệt là sau
những năm 1975 bên cạnh việc sử dụng những thể thơ truyền thống thì tích
cực học hỏi và vận dụng thể thơ tự do trong sáng tác. Từ những thay đổi về
nhận thức của chủ thể sáng tạo, thơ của Vƣơng Trung, La Quán Miên, Lò Cao
Nhum ...có những biến đổi câu chữ, vần điệu làm thay hình, đổi dạng câu thơ.
Hình thức thơ thực sự đƣợc giải phóng, thể thơ đa dạng, phong phú hơn gồm
cả các thể thơ cách luật dân tộc đến thơ có hình dáng chiếc ruộng bậc thang
(Xuân Quý Mùi- Lò Vũ Vân; Chồi lá- Lò Cao Nhum...), những bài thơ không
vần (Gia tài của bố- La Quán Miên...) hay thơ văn xuôi (Núi, Ngã ba suối- Lò
Cao Nhum...). Những câu thơ dài, ngắn đan xen với nhau thể hiện dòng suy
tƣởng của tâm trạng hay những phá cách, không bị bó gọn trong ý tƣởng, quy
phạm của câu chữ đã tạo cho hình thức thơ dân tộc Thái hiện đại thêm phong
phú, đa dạng. Hình thức này thƣờng đƣợc sử dụng trong những bài thơ mang
nặng suy tƣ, tâm trạng của nhà thơ trƣớc thời cuộc, những bài thơ mang cảm
xúc của con ngƣời cá nhân trong mối quan hệ riêng, chung với cộng đồng.
Tuy nhiên, bên cạnh tính hiện đại, những dấu vết của văn học dân gian
vẫn rất đậm nét trong tƣ duy, ngôn ngữ, hình ảnh, cảm hứng... của các nhà thơ
Thái sau 1975, đặc biệt là ở những bài thơ viết về đề tài miền núi và cuộc
sống của đồng bào dân tộc. Nối tiếp dòng mạch văn học dân gian, sau truyện
thơ Ing éng, Vƣơng Trung sáng tác trƣờng ca Sóng Nậm rốm mang đầy hơi
thở của núi rừng, của con ngƣời và cuộc sống vùng cao; La Quán Miên, Lò
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Cao Nhum vẫn nồng nàn với chất tự sự, trữ tình của con ngƣời luôn dự cảm
và trăn trở với sự mất- còn của những giá trị văn hoá dân tộc ở Con đƣờng
bản Đôn, Rƣợu núi, Lò Vũ Vân dù khá hiện đại với những vẫn thơ mang hình
dáng ruộng bậc thang, những câu thơ có lúc dàn trải, mêng mông nhƣ những
lời ca lƣng chừng núi nhƣng cũng rất cổ điển ở những vần thơ mang nỗi nhớ,
sự hoài niệm về quê hƣơng, bản mƣờng: Xuân về quê tôi, Tạm biệt xứ
mƣờng...
Cũng giống nhƣ ngôn ngữ thơ trong thơ Thái giai đoạn trƣớc, sau năm
1975, ngôn ngữ đời sống hàng ngày đi vào thơ rất tự nhiên, không trau chuốt.
Ngoài một số câu thơ, bài thơ giống nhƣ sự đối thoại của nhà thơ với độc giả
nhƣ Mối tình đầu lâu chết, Cái sọt rác (Cầm Biêu) hay Vội quá chừng (Lƣơng
Quy Nhân)...thì phần lớn ngôn ngữ thơ giai đoạn này giản dị, đời thƣờng
nhƣng vẫn tràn đầy chất thơ, chất trữ tình: Rƣợu núi, Ban mai (Lò Cao
Nhum), Tiếng roi, Nụ cƣời (Vƣơng Trung) hay Con đƣờng bản Đôn, Mỗi lần
đi xa (La Quán Miên)....Vì miêu tả, phản ánh những vấn đề của đời tƣ, thế sự,
những tâm trạng, số phận của con ngƣời cá nhân nên ngôn ngữ rất gần gũi, dễ
hiểu và dễ đi vào lòng ngƣời.
1. 3. Một số thành tựu của thơ ca Thái hiện đại
Tình hình xã hội ổn định, kinh tế phát triển, sự quan tâm và những chính
sách, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc đã tạo những điều kiện thuận lợi để
văn học các dân tộc thiểu số nói chung và thơ dân tộc Thái nói riêng đơm hoa
kết trái. Kể từ khi mới hình thành (năm 1945), số lƣợng cũng chất lƣợng đội
ngũ và tác phẩm của thơ dân tộc Thái hiện đại còn rất khiêm tốn, phần lớn các
cây bút của thời kỳ này không phải sinh ra đã là nhà thơ mà bản thân họ có
năng khiếu văn chƣơng kết hợp với yêu cầu của công tác tuyên truyền, vận
động quần chúng nên họ đã đến thơ một cách rất tự nhiên, giản dị. Vì vậy, các
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
nhà thơ đã phải nỗ lực, cố gắng rất nhiều khẳng định mình, tìm chỗ đứng cho
văn học dân tộc Thái hiện đại trên diễn đàn văn học nghệ thuật của cả nƣớc.
Đội ngũ các nhà thơ dân tộc Thái ngày càng đông đảo. Với số lƣợng nhà
thơ khiêm tốn ban đầu là Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Hoàng Nó, đến thế hệ
nhà thơ trƣởng thành từ sau năm 1954 là Vƣơng Trung, Lò Văn Cậy, La Quán
Miên và các rất nhiều nhà thơ trẻ xuất hiện từ sau năm 1975 nhƣ Lò Vũ Vân,
Lò Cao Nhum, Cầm Bá Lai, Cà Thị Hoàn, Lò Ngọc Duyên...đã hình thành đội
ngũ các nhà thơ dân tộc Thái. Sự lớn mạnh của đội ngũ các nhà thơ Thái hiện
đại không chỉ thể hiện ở sự đông đảo về số lƣợng, sự đa dạng về độ tuổi và
quê quán... mà là sự trƣởng thành về đội ngũ các nhà thơ. Những nhà thơ trẻ
đƣợc đào tạo bài bản qua trƣờng lớp, đƣợc cọ sát, đƣợc trao đổi, giao lƣu thực
tế với nhiều nhà thơ của các dân tộc anh em...nên họ có điều kiện để tiếp thu,
học hỏi, nâng cao ngòi bút sáng tác của mình. Chính vì vậy, đội ngũ các nhà
thơ Thái ngày càng trƣởng thành, các sáng tác ngày càng dày dặn và đƣợc bạn
đọc nhiệt thành đón nhận.
Từ vốn kho tàng văn học dân gian phong phú cùng với sự học hỏi từ
những tác phẩm thơ của các dân tộc anh em, nhất là của dân tộc Kinh, các
sáng tác của các nhà thơ dân tộc Thái ngày càng đƣợc nâng cao về cả số
lƣợng lẫn chất lƣợng, bƣớc qua giai đoạn “tìm đƣờng”, họ đã khẳng định sự
có mặt của mình trong đời sống thơ ca Việt Nam hiện đại với những tên tuổi
nhƣ Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Vƣơng Trung, Lò Cao Nhum, La Quán
Miên,.... Có thể nói, các nhà thơ Thái đã góp phần quan trọng đối với việc xây
dựng, củng cố đội ngũ các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Cùng với sự lớn mạnh của đội ngũ, số lƣợng tác phẩm của các nhà thơ
Thái ngày càng phong phú hơn. Vƣợt xa con số những bài thơ ít ỏi ban đầu,
thơ Thái ngày càng dày dặn và xuất hiện thƣờng xuyên hơn trên thơ đàn. Phần
lớn các nhà thơ Thái đều có những tập thơ riêng: Cầm Biêu có Ánh hồng Điện
Biên (1984); Bản mƣờng nhớ ơn (1993), Peo fẫy mí mọt (Ngọn lửa không tắt-
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
1994), Mƣờng chanh há (1995), Pông hặc (1995); Lƣơng Quy Nhân có Cán
bộ với dân Mƣờng (1963) Biên giới lòng ngƣời (1983); Độ dày của tình yêu
(1994); Hoàng Nó có Tiếng hát mƣờng ban (1987); Lò Văn Cậy Hạt muối hạt
tình; Vƣơng Trung sáng tác truyện thơ Ing éng (1967) và trƣờng ca Sóng Nậm
rốm in chung cùng 16 bài thơ trong tập thơ Sóng Nậm rốm (1979); La Quán
Miên có Bản quê ta yêu dấu (1996), Con đƣờng bản Đôn (1999); Cầm Bá Lai
có tập thơ Hoa và nắng ; Lò Vũ Vân sau một số bài thơ in chung trong tập thơ
Vòng xoè (1980) tiếp tục sáng tác Tiếng sấm vào mùa (1998), Nhặt hoa trăng
(2000), Đi từ miền gió hoang (2006). Cây bút trẻ Lò Cao Nhum với Giọt sao
trở về (1995), Rƣợu núi (1996), Sàn trăng (2000), Theo lời hát về nguồn
(2001)...Có thể thấy, số lƣợng các tác phẩm thơ Thái ngày càng nhiều và chất
lƣợng tác phẩm ngày càng đƣợc nâng cao. Nhiều bài thơ của các tác giả dân
tộc Thái đƣợc bạn đọc yêu mến, thừa nhận; nhiều tác phẩm, tập thơ đƣợc trao
những giải thƣởng có uy tín nhƣ Ngọn lửa không tắt (Cầm Biêu) - Giải A Uỷ
ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam 1995; Hoa và nắng (Cầm
Bá Lai) đƣợc trao giải B của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt
Nam năm 1997; Rƣợu núi của Lò Cao Nhum đạt giải C cuộc thi thơ Tạp chí
Văn nghệ quân đội; Tặng thƣởng chung khảo Hội Nhà văn Việt Nam 1997;
Giải A Giải thƣởng văn học nghệ thuật Hoà Bình 50 năm, 1998....
Có thể nói, trong thơ dân tộc Thái hiện đại, ở cả hai phƣơng diện nội
dung và nghệ thuật- “chất Thái” đƣợc thể hiện rất rõ nét và in đậm dấu ấn
trong từng sáng tác của các nhà thơ.
Về nội dung: Nổi bật là hình ảnh của thiên nhiên Tây Bắc- với những
dãy núi trùng trùng, điệp điệp nhƣ “thang mây lên trời” (Lƣơng Quy Nhân);
những con dốc treo leo “Vừa ngửa mặt.... Mũ đội đầu đã rơi theo về chân
dốc” (Lƣơng Quy Nhân), những ngọn nguồn của dòng sông, con suối dữ dội
“cuồn cuộn một góc trời” mà cũng rất hiền hoà, nên thơ “tung sóng nhƣ đổ
bông xuống đồng” (Vƣơng Trung); những cánh đồng lúa Mƣờng Thanh,
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
Mƣờng Lò trù phú “bông dày, nặng hạt” có hƣơng thơm “thức tỉnh mƣờng
bản” (Vƣơng Trung); những nƣơng bông trắng xoá khi đến mùa thu hoạch,
những cánh đồng cỏ bao la “ánh lên màu mê mƣớt” (Lò Vũ Vân) hay những
cánh rừng Ban “nở trắng non ngàn” (Cầm Cƣờng)... đã đi vào thơ Thái với vẻ
đẹp tự nhiên nhƣ nó vốn có.
Hoàn cảnh địa lý và môi trƣờng tự nhiên tƣơi đẹp ấy mặc dù không phải
là yếu tố duy nhất có tính quyết định đến sắc thái văn hoá vùng Tây Bắc, song
rõ ràng nó đã tham gia vào việc hình thành và tạo dựng nên những nét văn
hoá đặc thù của con ngƣời nơi đây.
Trên nền thiên nhiên tƣơi đẹp, thơ mộng, hùng vĩ, hoang dã ấy là hình
ảnh con người với những nét đặc trƣng của dân tộc Thái. Tiêu biểu cho “chất
vàng mƣời trong tâm hồn Tây Bắc” (Nguyễn Tuân) ấy là hình ảnh ngƣời phụ
nữ Thái xinh đẹp, dịu dàng, hay lam hay làm, khéo tay, tài hoa và chiều chồng
nhất mực. Những cô gái Thái với đôi bàn tay thon “hình búp Ban” đã làm nên
bao điều kỳ diệu cho cuộc sống, cho gia đình: “Đụng vào khung cửi vải thành
hoa/ Tung nắm tấm thành ra đàn gà”(Ca dao Thái). Ngƣời con gái Thái với
đôi bàn tay khéo léo đã tạo ra những món ăn ngon đặc biệt của dân tộc Thái,
đó là những ép xôi nếp “dẻo thơm”, món cá nƣớng ngọt, bùi, những hũ rƣợu
cần thơm ngọt ngây ngất; Họ đã tạo nên bộ trang phục “xửa cóm” với hàng
cúc bạc nhƣ những con bƣớm trắng đẹp xinh, những chiếc khăn “Piêu” rực
rỡ hoạ tiết, sắc màu. Rồi cũng vẫn những ngƣời con gái đẹp nhƣ những cánh
hoa Ban ấy- khi quê hƣơng, làng bản bị giặc ngoại xâm đe doạ và phá hoại-
họ trở nên cứng cỏi, kiên cƣờng, mạnh mẽ “hơn cả con gấu, con hùm” (Em là
con gái Châu Yên), góp phần hoặc trực tiếp đánh đuổi kẻ thù, gìn giữ quê
hƣơng, sông suối, đồng ruộng....Tất cả những hình ảnh ấy đã đƣợc phản ánh
một cách sinh động và tự hào trong những trang thơ của các nhà thơ Thái
nhiều thế hệ.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Trong thơ Thái hiện đại, ngƣời đọc không chỉ thấy đƣợc bức tranh thiên
nhiên tƣơi đẹp và những con ngƣời cần cù, tài hoa, khéo léo mà còn cảm nhận
đƣợc đời sống văn hoá tinh thần rất phong phú, đa dạng của ngƣời Thái qua
những câu thơ, bài thơ phản ánh những hình thức sinh hoạt cộng đồng của
ngƣời Thái. Ngoài những lễ hội nhƣ “Xíp xí”; Lễ “Xến Xó Phốn”; Lễ “Xên
bản, xên Mƣờng” thì hình thức sinh hoạt không thể thiếu của ngƣời Thái đó là
“Hạn khuống”. “Hạn khuống” chính là nơi lƣu giữ những bản sắc văn hoá
truyền thống quý báu của tộc ngƣời Thái. Bên cạnh đó múa xoè giữ vai trò
quan trọng trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc Thái. Múa xoè gắn
kết tình cảm con ngƣời với nhau, làm cho ngƣời gần ngƣời hơn, thân thiện
hơn.
Có thể khẳng định rằng: Các nhà thơ Thái thời kỳ hiện đại đã phản ánh
đƣợc một cách chân thực, sống động hình ảnh của thiên nhiên, cuộc sống, con
ngƣời dân tộc mình vào trong các trang thơ của chính mình. Những trang thơ
ấy càng trở nên ấn tƣợng hơn, lung linh hơn, thu hút đƣợc sự yêu mến và say
mê của ngƣời đọc hơn bởi một hình thức nghệ thuật thơ đặc sắc mang
“mầu” Thái đậm đà.
Tiếp thu truyện thơ dân gian, các nhà thơ Thái hiện đại đã đem đến cho
thơ ca Thái một “không khí” truyện thơ mới. Vƣơng Trung là nhà thơ có sự kế
thừa rõ nét nhất thể loại này qua truyện thơ Ing-Éng về kết cấu thể loại, ngôn
ngữ...Mặc dù kế thừa thể loại truyện thơ trong văn học dân gian nhƣng Vƣơng
Trung khắc họa chân dung, tính cách nhân vật rất giản dị, đời thƣờng.
Bên cạnh việc tiếp thu, kế thừa những thành tựu của truyện thơ, các nhà
thơ Thái hiện đại cũng chú ý đến việc vận dụng tục ngữ, ca dao, dân ca Thái
để tăng tính hàm súc, biểu cảm cho câu thơ. Có nhà thơ mƣợn ý tứ từ những
câu ca dao, tục ngữ nhƣ Lò Văn Cậy, Vƣơng Trung, Sầm Nga Di.... nhƣng có
nhà thơ sử dụng gần nhƣ nguyên vẹn một câu tục ngữ để tăng hiệu quả nghệ
thuật nhƣ Lƣơng Quy Nhân...
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
Ngoài ra, những làn điệu “khắp”: “khắp dân ca mƣờng Pa xe bện, điệu
đƣa đẩy chèo thuyền sông Mã, khắp tiễn đƣa bên bến Nậm Tè”...[28, tr.416]
đã nuôi dƣỡng tâm hồn các nhà thơ Thái, làm thơ Thái hiện đại giàu nhạc
điệu, giàu hình ảnh.
Với việc sử dụng những câu thơ giàu hình ảnh, các nhà thơ Thái nhƣ
Cầm Biêu, La Quán Miên, Lò Cao Nhum... không chỉ cho ta thấy cách diễn
đạt quen thuộc của ngƣời dân tộc Thái, mà thông qua đó cách cảm, cách nghĩ,
thế giới tâm hồn và đời sống sinh hoạt, tập quán, tín ngƣỡng của ngƣời Thái
cũng đƣợc thể hiện rõ nét. Đó là sinh hoạt cộng đồng “Hạn khuống” trong vai
trò là “linh hồn” của bản mƣờng, là chiếc “khăn Piêu” đội đầu của ngƣời con
gái Thái là nơi lƣu giữ “tâm hồn Thái”...
Có thể thấy rằng, các nhà thơ Thái đã rất chú ý đến việc vận dụng và
phát huy hiệu quả những tinh hoa của nghệ thuật thơ ca dân gian Thái (truyện
thơ, tục ngữ, ca dao, dân ca...) vào trong các sáng tác cụ thể của mình. Cộng
với cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt luôn gần gũi với lời ăn tiếng nói của
ngƣời Thái khiến cho thơ của họ rất có bản sắc. Đó chính là bản sắc Thái khó
có thể trộn lẫn. Chính điều đó đã làm cho thơ Thái vừa có tính truyền thống,
vừa có tính hiện đại, có sức hấp dẫn đối với ngƣời đọc.
Bằng tình yêu và niềm tự hào vì những truyền thống tốt đẹp của dân tộc
mình, các nhà thơ dân tộc Thái thời kỳ hiện đại đã phản ánh vào trong những
trang thơ của mình những hình ảnh về quê hƣơng, đất nƣớc, con ngƣời cùng
những phong tục, tập quán mang những nét độc đáo của dân tộc Thái. Đó là
bức tranh thiên nhiên tƣơi đẹp đầy vẻ hùng vĩ, hoang sơ, bí ẩn và thơ mộng.
Đó là những ngƣời dân tộc Thái mà đại diện là ngƣời con gái Thái dịu dàng,
đảm đang, khéo léo, lãng mạn, xinh đẹp nhƣ nhƣ những cánh Ban tinh khiết
trên núi. Đó là những cảnh sinh hoạt văn hoá tinh thần phong phú, giàu bản
sắc với những điệu “xoè”, điệu “khắp” và sân chơi “hạn khuống”...cùng bao
phong tục của ngƣời Thái từ ngàn xƣa đến nay vẫn còn đƣợc gìn giữ, lƣu
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
truyền. Tất cả những hình ảnh ấy lại đƣợc thể hiện một cách sống động, hấp
dẫn, “vừa lạ, vừa quen” qua những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Những câu
thơ, bài thơ vừa có bóng dáng của truyện thơ cổ, vừa có những câu “thơ văn
xuôi” hiện đại, vừa có giai điệu ngọt ngào của những điệu “khắp”, vừa có sự
tình tứ, bay bổng của “điệu xoè”, vừa có sự dân giã, mộc mạc của lời ăn tiếng
nói hàng ngày, nhƣng cũng có những câu thơ có tính triết lý, trí tuệ sâu sắc....
Những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật ấy đã tạo nên một nét đặc sắc
riêng cho thơ ca Thái thời kỳ hiện đại. Cũng chính sự đặc sắc này đã đem lại
cho thơ Thái một vị thế quan trọng trong thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam
nói riêng và góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú cho nền thơ ca Việt
Nam hiện đại nói chung. Hiện nay, trong xu thế hội nhập, thơ Thái hiện đại
nhƣ một tiếng nói hiện hữu của một bản sắc văn hoá đang đƣợc lƣu giữ và
trân trọng trong đời sống văn học của dân tộc Việt Nam.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
CHƯƠNG II
NHỮNG MẠCH NGUỒN CẢM HỨNG NUÔI DƯỠNG VÀ PHÁT TRIỂN THƠ CA DÂN TỘC THÁI THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
Trong sáng tác của các nhà thơ, đặc biệt là các nhà thơ dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại, thiên nhiên, đất nƣớc, con ngƣời miền núi với vẻ đẹp hùng
vĩ, hoang sơ và thơ mộng... là nguồn cảm hứng vô tận của các nghệ sĩ. Tuy
nhiên, do địa bàn cƣ trú khác nhau với các phong tục tập quán khác nhau nên
mỗi dân tộc có những cách cảm nhận, diễn đạt khác nhau về quê hƣơng, cuộc
sống, con ngƣời ở nơi đây... Nếu nhƣ ngƣời Mông sinh sống bằng việc trồng
ngô, trồng bí, dệt quần áo bằng sợi lanh, sống chủ yếu ở vùng núi cao theo lối
du canh, du cƣ...thì dân tộc Thái có địa bàn cƣ trú ở chủ yếu ở vùng Tây Bắc,
định cƣ ở vùng thƣợng lƣu các con sông, con suối, chân núi, có nhiều kinh
nghiệm trong việc làm thuỷ lợi, trồng lúa nƣớc, dệt vải bằng sợi bông. Trong
đời sống tinh thần của họ nổi lên là những sinh hoạt cộng đồng trong những
ngày hội, ngày lễ với những điệu múa xoè, nhảy sạp, đặc biệt đồng bào Thái
rất thích ca hát. Khắp là lối hát ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ...Chính những
đặc trƣng về văn hoá ấy đã tạo nên lối tƣ duy, diễn đạt, cách cảm, cách nghĩ
mang những nét riêng của ngƣời Thái.
Vì cuộc sống của ngƣời Mông, ngƣời Thái... gắn những điều kiện địa lý
tự nhiên có nhiều nét tƣơng đồng nên hình ảnh thiên nhiên, con ngƣời và cuộc
sống của dân miền núi trong thơ ca của họ có những nét giống nhau, nhƣng
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
vẫn có những đặc trƣng riêng biệt. Chính sự riêng biệt đó đã tạo ra bản sắc
riêng trong các sáng tác thơ của họ.
Trong thơ ca dân tộc Thái thời kỳ hiện đại, có thể nhận thấy, thiên nhiên
Tây Bắc- với những dãy núi trùng điệp, những ngọn nguồn của dòng sông,
con suối dữ dội mà nên thơ, những cánh đồng lúa Mƣờng Thanh, Mƣờng Lò
trù phú, những nƣơng bông trắng xoá khi đến mùa thu hoạch, những rừng Ban
với các màu sắc trắng, tím đến nao lòng... hay những con ngƣời Tây Bắc với
vẻ đẹp rất Thái “mặt tƣơi nhƣ hoa mạ, má đỏ nhƣ hoa vông” mang những nét
đẹp đầy bản sắc trong đời sống văn hoá, tinh thần của họ nhƣ “hạn khuống”,
ném còn, múa xoè, nhảy sạp, hát khắp.... là nguồn cảm hứng vô tận trong sáng
tác của các nhà thơ Thái.
2.1. Thiên nhiên vùng Tây Bắc- quê hương của dân tộc Thái
Trong thơ ca của các nhà thơ dân tộc Thái, thiên nhiên đƣợc khám phá
dƣới nhiều dạng thức khác nhau, ở mỗi địa bàn cƣ trú, các nhà thơ đều ca
ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên nơi mình sống và gắn bó, đó có thể là những đỉnh
núi cao hùng vĩ, cánh đồng cỏ xanh mƣớt đến tận chân trời trong thơ Lƣơng
Quy Nhân, là “vùng mỏ”, là “Bản Tạt” trong Hƣơng đất quế, là dấu ấn đầy kỷ
niệm về sự gắn bó của tuổi thơ với thiên nhiên trong Con đƣờng bản Đôn của
La Quán Miên, cũng có thể là “dòng sông Đà”, là “chiều núi” ở Hoà Bình
trong thơ Lò Cao Nhum, là làn nƣớc trong xanh của Hồ Pa Khoang, là loài
Hoa Bông Trăng từ mƣờng Chu Va trong thơ Lò Vũ Vân ....nhƣng dƣờng nhƣ
vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc lại có sức hút hơn cả đối với
mỗi nhà thơ dân tộc Thái.
Tây Bắc từ thủa hồng hoang, tạo hoá đã tạo cho thiên nhiên bao điều kỳ
thú. Đó là một miền núi cao hiểm trở, các dãy núi nhƣ chọc thủng mây trời, ở
đó có đỉnh Phu Luông cao 2.983 mét, Yam Phình cao 3096 mét, đặc biệt là
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
núi Phanxipăng- nóc nhà của Đông Dƣơng cao 3.143 mét, đƣợc ngƣời Thái
gọi là “sừng trời” (Khau pạ) là bức tƣờng thành phía Đông và vùng Tây Bắc.
Tây Bắc còn đƣợc gọi là đất “ba con sông” tạo nên ba dải nƣớc màu
trắng, xanh, đỏ. Đó là sông Mã lắm thác, nhiều ghềnh nên nhiều sóng bạc đầu,
sông Đà (nậm Tè) chảy giữa các núi đá granit sâu thẳm có màu xanh đen, còn
sông Hồng hay còn gọi là sông Thao (nậm Tao) mang nặng phù sa màu đỏ.
Ba con sông trở thành biểu tƣợng riêng của vùng đất, hoà nhịp với ba màu của
nắng, cây, đất, là tín hiệu văn hoá vùng mà ngƣời Tây Bắc lấy đó làm tự hào,
để phân biệt với ngƣời vùng muối (Kinh), ngƣời vùng sông Lô, sông Chảy
(Tày, Nùng)...
Vùng Tây Bắc có nhiều dân tộc sinh sống: Thái, Mƣờng, Dao, Khơmú,
La ha, Kháng, Nùng... trong đó dân tộc Thái có số lƣợng dân cƣ tập trung
đông đúc nhất. Do quá trình hỗn dung và tiếp biến văn hoá, “ngƣời Thái
đóng vai trò chủ thể trong lịch sử phát triển của vùng và văn hoá Thái nổi lên
nhƣ một sắc Thái đại diện cho văn hoá vùng Tây Bắc” [2]. Vì vậy, với vai trò
chủ nhân của vùng núi Tây Bắc, các nhà thơ dân tộc Thái đều hƣớng ngòi bút
của mình về với vùng sơn cƣớc hữu tình rất hoang sơ, dữ dội nhƣng thơ mộng
và quyến rũ- quê hƣơng của ngƣời Thái.
Do đặc điểm về địa bàn cƣ trú, ngƣời Thái từ xa xƣa đã gắn bó ngàn
đời với thiên nhiên Tây Bắc. Vùng đất trù phú này đã che chở, bảo vệ, cung
cấp thức ăn, lƣơng thực cho ngƣời Thái... Vì vậy, ngƣời Thái sớm gắn bó hài
hoà với thiên nhiên, trân trọng thiên nhiên và biết bảo vệ thiên nhiên.
Là những ngƣời con của dân tộc Thái, các nhà thơ Thái hiện đại, hơn ai
hết đã cảm nhận đƣợc những đặc trƣng riêng biệt của thiên nhiên nơi đây. Do
vậy, trong thơ của họ, thiên nhiên Tây Bắc đƣợc hiện lên với vẻ đẹp rất hoang
sơ, hùng vĩ và đầy bí ẩn. Trƣớc hết, đó là những dãy núi trùng điệp, tầng tầng,
lớp lớp nhƣ thang bắc lên trời:
Núi bế núi,
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Núi thi nhau đan rào.
Núi chồng núi thành rào,
Phên tiếp phiên chồng chất.
(Núi đan rào- Lò Văn Cậy)
Đối với các cƣ dân sinh sống ở vùng Tây Bắc, những ngọn núi cao
chọc trời đã gắn bó với họ từ thủa khai bản, lập mƣờng. Núi là bạn, là nơi che
chở và bao bọc cho con ngƣời, cung cấp thức ăn cho con ngƣời...vì vậy,
không chỉ riêng với các nhà thơ dân tộc Thái, nỗi nhớ về quê hƣơng dƣờng
nhƣ bao giờ cũng có dấu ấn của núi rừng. Mùa A Sấu, Lò Ngân Sủn, Bàn Tài
Đoàn... có nhiều bài thơ hay về núi. Trong hồi ức của nhà thơ đất Hà thành -
Quang Dũng cũng đã sững sờ, say đắm trong nỗi khắc khoải nhớ về Tây Bắc
với những cảnh dốc núi dựng đứng:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thƣớc lên cao, ngàn thƣớc xuống,
Nhà ai Pha Luông mƣa xa khơi.
(Tây Tiến)
Sống ở chân núi nên cách cảm nhận về những ngọn núi của các nhà thơ
ngƣời dân tộc Thái cũng có những nét khác so với một số nhà thơ dân tộc anh
em. Ngƣời Mông do tập quán “ăn theo sƣơng mù” nên cƣ trú ở những đỉnh
núi cao, do vậy nhà thơ ngƣời Mông miêu tả ngọn núi từ điểm nhìn từ cao
xuống thấp, từ đỉnh núi xuống dƣới chân núi hoặc ở thế ngang bằng:
Ôi bầu trời, ngọn núi cao ơi!
Miền núi cao nhƣ bức tranh đẹp hiện trong mặt gƣơng,
Mùa đông, mây nằm chƣa trôi đi, mây mùa xuân đã sà xuống,
Ngọn núi và lƣng rừng nào cũng đến mùa xuân hoa đào mới nở.
(Núi mọc trong mặt gƣơng- Mùa A Sấu )
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
Còn đối với các nhà thơ dân tộc Thái do sống ở chân núi nên điểm nhìn
là từ dƣới lên cao, do vậy, trong con mắt nhà thơ Thái những ngọn núi bao
giờ cũng chót vót, hùng vĩ:
Núi chắn nƣớc thành vực
Núi xanh rờn dựng thang mây lên trời
Núi có tay vƣơn tới trời xanh...
(Núi - Lƣơng Quy Nhân)
Những ngọn núi cao chọc trời vừa hoang sơ vừa bí ẩn nên tạo cho thiên
nhiên Tây Bắc cảm giác dữ dội đến khốc liệt:
Vách núi Lỷ nhƣ gấu đứng ƣỡn bụng sẽ cào,
Vách núi Sáng nhƣ hổ dựng cao thân sắp chộp.
(Cầu Nôi- Vƣơng Trung)
Song song với với những ngọn núi ấy là những con dốc “dựng đứng”:
Dốc dữ dội
Dốc dựng đứng...
Vừa ngửa mặt nhìn trời,
Mũ đội đầu đã rơi theo về chân dốc.
(Dốc- Lƣơng Quy Nhân)
Chính sự hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc đã tạo thành những
“rào núi”, “phên núi” nhƣ những lá chắn, tƣờng thành, “luỹ thép” vững chắc
che cho bản làng. Vì vậy, những ngọn núi cao không chỉ là vẻ đẹp tiêu biểu
của thiên nhiên vùng Tây Bắc mà còn mang những đặc trƣng về lối sống
(định canh định cƣ) và tính cách con ngƣời dân tộc Thái (sự đoàn kết, vững
tâm, bền lòng):
Núi chen núi đua cao
Núi trèo non chồng chất
Muôn đời mây rủ núi đi, núi không đi
Mặc mây đi, núi ở lại
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
Bởi mây không có rễ, mây bay
Núi có nhà núi ở...
(Núi- Vƣơng Trung)
Do sự kiến tạo của địa lý tự nhiên “Nhiều suối cùng chảy hoà. Mới sông
to, sóng cả” (Vƣơng Trung) nên thiên nhiên Tây Bắc không chỉ có những
đỉnh núi cao hùng vĩ mà những con sông, con suối cũng trở nên rất dữ dội.
Đó là “Suối Đông và suối Tộc” với những “dòng nƣớc xiết”, “vực sâu”, “khe
thẳm”, là sông “Nậm rốm” với những con sóng bạc đầu “sôi bùng sóng xô
toả” hung dữ có thể “xô lật ngã trôi voi” :
Hùng hổ lao tràn thác
Thét vang rung núi đồi
Quằn quại sóng hung dữ
Cuồn cuộn một góc trời
(Sóng Nậm rốm- Vƣơng Trung)
Tuy nhiên, thiên nhiên Tây Bắc bên cạnh vẻ hoang sơ, bí ẩn và dữ dội
còn mang vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình. Trong thơ Thái hiện đại, hình ảnh
những ruộng bậc thang, cánh đồng lúa chín vàng ẩn hiện trong sƣơng sớm,
những cao nguyên đồng cỏ xanh mƣớt tới tận chân trời hay màu trắng bạt
ngàn của rừng Ban... cũng có sức hấp dẫn rất lớn đối với các nhà thơ Thái
hiện đại.
Nếu nhƣ ở miền xuôi, những cánh đồng bao la thẳng cánh cò bay với
hƣơng thơm của lúa đang thì con gái thu hút các nhà thơ, thì ở miền ngƣợc,
đó là những tầng ruộng bậc thang ẩn hiện trong mây nhƣ những bậc thang
bƣớc lên trời, là nơi giao hoà của con ngƣời với thiên nhiên, của trời và đất.
Ruộng bậc thang là hình ảnh đặc trƣng của Tây Bắc, ruộng nằm treo
leo ở lƣng chừng núi, bao bọc lấy những sƣờn đồi “lƣợn bậc thang mây” làm
giảm bớt đi sự hùng vĩ, dữ dội của những ngọn núi. Trong những buổi sớm
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
mai, ruộng bậc thang bị bao trùm bởi những làn sƣơng huyển ảo, khi nắng lan
toả khắp núi rừng là lúc ruộng bậc thang hiện lên rõ nét bởi những sắc vàng
rực rỡ của những bông lúa hoà với màu xanh của núi rừng, trông rất thơ
mộng, quyến rũ.
Nắng lan lan trải sáng núi đồi
Mƣợt ruộng rẫy đâm chồi nảy lá
Đồng bậc thang vành khăn êm ả
Triền suối Mùn lúa thả về đâu.
(Lên Thung Khe-Lò Cao Nhum)
Đó còn là những cánh đồng cỏ bao la“ánh lên màu mê mƣớt” ở cao
nguyên Mộc Châu-Sơn La:
Bốn mùa em óng mƣợt,
Nhƣ tóc chải trong gƣơng”
(Cỏ Mộc Châu- Cầm Biêu)
Là không gian trong trẻo và mát lành vào buổi sớm mai, tất cả đều bừng
tỉnh giấc, đón chào ngày mới sau một đêm dài bởi tiếng chim kêu, vƣợn hót.
Trong sáng tác của các nhà thơ Thái nhƣ Vƣơng Trung, La Quán Miên, Lò
Cao Nhum, đặc biệt là Lò Vũ Vân, vẻ đẹp buổi sớm mai đƣợc nói đến rất
nhiều ở các dạng thức khác nhau, khi thì là “nắng mai” đƣợc nhìn từ mặt
nƣớc “Mặt hồ lấp lánh nắng mai” (Hồ Pa Khoang), khi thì là “Nắng vàng mật
sóng sánh ban mai” (Mắt lá), có lúc lại là vẻ đẹp khi xuân đến:
Mật xuân rót tràn ang thung
Hàng ngàn tiếng chim xâu chuỗi ngọc ngà choàng lên vai núi.
(Sa mu- Lò Vũ Vân)
Vạn vật nhƣ đƣợc tắm mình trong không gian tinh khôi, tƣơi mát ấy,
thiên nhiên, con ngƣời đƣợc toả sáng trong buổi sớm mai:
Để sớm mai chồi non lúng liếng mở mắt
Để đôi chim nhỏ lách chách bơi trên cành
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
Những hạt sƣơng rụng vỡ tan trên cỏ
Có ngƣời con gái hé môi cƣời nhìn qua mắt nắng.
(Tình xuân-Lò Vũ Vân)
Tây Bắc tƣơi đẹp, thơ mộng một phần là nhờ những loài hoa: hoa Đào,
hoa Kim anh (đóc coi), hoa Ngựa núi (đóc pho), hoa Trẩu, hoa Mơ, hoa Mận,
hoa Lan...nhƣng hoa Ban mới là loài hoa tiêu biểu, đặc trƣng cho Tây Bắc nói
chung và ngƣời Thái nói riêng.
Hoa Ban từ lâu đƣợc xem là biểu trƣng của Tây Bắc. Hoa Ban xuất hiện
trong các trƣờng ca, các truyện thơ hay những câu chuyện kể hàng đêm bên
bếp lửa và đi vào đời sống văn hoá, tâm linh của ngƣời dân tộc Thái. Với
đồng bào Thái, có lẽ không ai là không trải qua tuổi thanh xuân nồng cháy,
với những trò chơi thú vị hái hoa Ban và hát giao duyên. Trong ký ức của
ngƣời đi xa, cùng với nỗi nhớ mƣờng, bản, nhớ ngƣời thân yêu, còn có nỗi
nhớ da diết hoa Ban mỗi độ xuân về. Gần nửa thế kỷ trƣớc, hoa Ban từng nở
rộ trong những trang ký của Nguyễn Tuân. Và trong tiềm thức của ngƣời dân
tộc Thái, hoa Ban là loài hoa tƣợng trƣng cho vẻ đẹp thanh tao, trong sáng của
con ngƣời nơi đây:
Hoa Ban nở, hoa Ban tàn
Tình ta đẹp nhƣ hoa Ban.
(Tình ca Thái)
Cây Ban thuộc họ thân mộc, không mọc thẳng mà khẳng khiu uốn khúc,
chia cành phân nhánh nhƣ có bàn tay tạo dáng của đấng hoá công. Về mùa
đông cây Ban tự trút lá, dồn nhựa vào thân cây, đợi xuân ấm áp đâm chồi nảy
lộc. Ban có hai loài, hoa đỏ và hoa trắng, trong đó loài hoa trắng chiếm đa số.
Hoa ban cùng họ với hoa bƣớm, không có hƣơng nhƣng có vị, mỗi hoa gồm
từ 4-5 cánh, nhị màu hồng, gân màu tím. Nhị hoa mang vị ngọt, quyến rũ
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
nhiều loài côn trùng, nhất là các loài lấy mật nhƣ ong, bƣớm, vì vậy theo tiếng
Thái hoa Ban có nghĩa là hoa ngọt.
Hàng năm, cứ vào dịp tháng hai âm lịch, thời tiết bắt đầu nắng ấm sau
những cơn mƣa xuân ấm áp, hoa Ban bắt đầu nở trắng cả núi rừng Tây Bắc,
điềm báo trƣớc một mùa màng bội thu. Bà con vùng cao coi hoa Ban nhƣ thể
nông lịch của mình, họ phát nƣơng vào lúc hoa nở và tra hạt vào lúc hoa tàn.
Ngƣời Thái quan niệm, hoa Ban nở nhƣ giục mầm măng mọc, nhƣ báo hiệu
cho mùa lễ truyền thống “Xên lẩu nó”, “Hội hoa Ban” bắt đầu. Tiếng trống,
tiếng chiêng vang lên rộn rã, các bếp nhà sàn đỏ lửa bập bùng, trai gái cùng
nhau ra rừng để tìm những bông hoa Ban mới nở. Họ trân trọng mang về tặng
cha mẹ, ngƣời yêu, vì ngƣời Thái cho rằng, hoa Ban trinh trắng vừa là biểu
tƣợng của đạo hiếu đối với cha mẹ, vừa là biểu tƣợng của tình yêu trai gái:
Ta yờu nhau khi Ban cũn đơm nụ,
Ta yờu nhau khi Ban nở trờn cành.
Ban sẽ hộo, mong Ban trở lại cành,
Ban sẽ rụng, mong Ban rụng về gốc.
(Tỡnh ca Thỏi).
Nhà thơ Sầm Nga Di ví tình yêu đẹp nhƣ mùa hoa Ban “Tình ta đẹp nhƣ
mùa ban nở” và nhà thơ Cầm Cƣờng thì:
Có cành ban trắng,
Nở với công trƣờng.
Có những mối tình,
Nở cùng đất nƣớc.
(Dƣới cành hoa ban)
Hoa ban tƣợng trƣng cho lòng chung thuỷ, son sắc của con ngƣời miền
núi:
Hoa trên rừng có nhiều
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
Ta xin chọn hoa ban trong trắng thuỷ chung.
(Dƣới cờ Đảng- Lƣơng Quy Nhân)
Vì vậy, đối với mỗi ngƣời dân Tây Bắc nói chung và ngƣời Thái nói
riêng thì hoa Ban là loài hoa không có tuổi : “Trăm năm ngắm ban nở cũn
ngắm mói/ Mỗi mựa bạn lại thờm trẻ ra, khụng già...” (Tỡnh ca Thỏi). Hoa
Ban tƣợng trƣng cho sự lạc quan của ngƣời dân Tây Bắc:
Tây Bắc ta mãi rộ hoa Ban Lứa nở lứa đâm chồi kế
tiếp (Hoa Ban- Vƣơng Trung)
Có lẽ, ở Tây Bắc không gì đẹp hơn khi mùa Ban nở rộ. Trƣớc màu “trắng
non ngàn” của hoa Ban, tâm hồn con ngƣời cũng đƣợc thanh lọc, họ yêu đời,
yêu cuộc sống, yêu lao động hơn. Vì vậy, mùa Ban là mùa của những “tiếng
hát”, của “sóng tình ca”, của “tuổi nắng xuân”, là “mùa thiêng” (Cầm
Cƣờng) của ngƣời Thái.
Trong thơ Thái hiện đại, lồng trong bức tranh thiên nhiên hoang sơ và
thơ mộng ấy là hình ảnh quê hƣơng ngƣời Thái. Với những nếp nhà sàn thấp
thoáng, những khu rừng, con sông, suối nhiều động, thực vật...là biểu hiện
cho sự trù phú, thanh bình, đầm ấm của con ngƣời và cuộc sống nơi đây:
Đó là những khu “rừng vàng” có thảm động, thực vật phong phú “Hƣơu
nai tụ bầy” ,“mùa trái chín ngọt ngào” ...là nơi cung cấp lƣơng thực cho con
ngƣời:
Sƣờn rừng: cõng vựa lúa, kho ngô, quê đàn gia súc
Lòng rừng, chứa tình, đựng nghĩ, ôm ấp công ơn
(Rừng- Lƣơng Quy Nhân)
Là những con sông, suối nhiều cá:
Cá trăm, cá chiên dƣới sông phơi vẩy đuôi
(Cầu vồng qua sông Mã- Lò Văn Cậy)
Cá “mọn” đua đàn lƣợn giữa dòng,
Cá chép bơi đầy vực.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
(Cầu Ngòi Thia- Vƣơng Trung)
Hay là sự đầm ấm, no đủ từ bàn tay lao động chăm chỉ của con ngƣời:
Gà đầy sân đua gáy ấm nhà
Chuồng mới ủn ỉn tiếng lợn nái dỗ đàn con bú...
Ao trƣớc nhà sai cá.
(Suối Đông và suối Tộc- Vƣơng Trung)
Nhờ sự ban tặng của tạo hoá, thiên nhiên Tây Bắc rất giàu có. Những
khu rừng nguyên sinh “ƣớp hƣơng mật” (Lò Vũ Vân) có nhiều loại gỗ mang
lại giá trị kinh tế cao (Đinh, Lim, Sến, Táu, Pơmu...); nhiều loại thuốc quý
hiếm (Xuyên khung, Tam thất, Đỗ trọng...). Nơi có “Hoa thơm và ong mật/
Bạc vàng và đất quý....” (Lƣơng Quy Nhân) ấy là “Mƣờng ta”- Mƣờng của
ngƣời Thái. Sự giàu có và trù phú ấy là biểu hiện của một vùng đất “chật
hƣơng no ấm”, “Hừng hực cuộc sống sinh sôi” của những con ngƣời chăm
chỉ, cần cù “ngón tay đen đúa nắng hun” để tạo dựng nên một “cuộc sống
tuôn trào hào hiệp ” (Lò Vũ Vân).
Lồng trong khung cảnh thiên nhiên nên thơ, lãng mạn ấy là bức tranh về
bản làng của ngƣời Thái. Ẩn hiện trong sƣơng là những mái nhà sàn bình dị,
ấm cúng, làn khói lam thoang thoảng gió đồng, lách cách tiếng thoi đƣa, lốc
cốc tiếng mõ trâu đàn về bản...Tất cả làm nên một vẻ đẹp trong sáng, đậm đà
nhƣ một bức tranh sơn thuỷ, dân dã, nguyên sơ của một vùng quê miền núi
giàu bản sắc.
Trong thơ Thái hiện đại, Tây Bắc hiện lên với một vẻ đẹp hùng vĩ mà hài
hoà, hoang sơ mà tƣơi mát, đó là những đỉnh núi cao ngút ngàn: Chung một
dải núi, Cầu vồng qua sông Mã (Lò Văn Cậy); những tầng ruộng bậc thang,
đồng cỏ ẩn hiện trong sƣơng sớm: Tết một mình với suối Co Păn (Cầm
Hùng), Đêm rừng thu, Hƣơng núi (Lò Vũ Vân), Núi cao và bãi cỏ (La Quán
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
Miên); những khu rừng bạt ngàn hoa Ban trắng, những nếp nhà sàn chiều lam
khói toả, tiếng cồng ngân rạo rực mùa xuân, tiếng ngựa thồ hàng, tiếng chim
kêu, vƣợn hót: Tiếng chim xanh (Lò Cao Nhum), Chim Bìm bịp (Cầm Bá
Lai); Tây Bắc-Tây Nguyên (Hoàng Nó), Có điện có mọi thứ (Cầm Biêu); đặc
biệt, Lƣơng Quy Nhân có một loạt bài thơ mà tên gọi của nó gắn liền với cảnh
quan thiên nhiên tiêu biểu cho miền núi cao Tây Bắc: Dốc, Sƣơng mây, Sao,
Gió, Mƣa, Núi, Rừng,....Vậy nên “Thơ ca dân tộc là một thứ thơ ca có pha lẫn
chất thực vật” (Lò Ngân Sủn) là vì thế.
Dù miêu tả với nhiều cảm xúc khác nhau, ở những thời điểm khác nhau
nhƣng nét chung trong sáng tác của các nhà thơ dân tộc Thái hiện đại chính là
niềm tự hào về mảnh đất trù phú, tƣơi đẹp và sự tri ân với thiên nhiên Tây
Bắc. Với họ, Tây Bắc chính là quê hƣơng, là nơi “chôn rau cắt rốn”, là nỗi
nhớ, là niềm thƣơng, niềm kiêu hãnh trong mỗi trang thơ.
2. Hình ảnh con người được khắc hoạ chân thực và cảm động
Mang những nét tính cách chung của ngƣời dân tộc miền núi, ngƣời
dân tộc Thái chân thành, thẳng thắn trong cuộc sống đời thƣờng và cũng rất
kiên cƣờng, dũng cảm trong chiến đấu: “Không ai xích đƣợc tinh thần cách
mạng” (Cầm Biêu), “Đời đời nhớ ơn Bác” (Lƣơng Quy Nhân) ..., cần cù,
chịu khó và tài hoa trong lao động, “Xa nhau”, “Có tổ đổi công”(Cầm
Biêu)..., những con ngƣời kiên trì vƣợt qua số phận, sống có ích cho đời “Con
chim của núi” (La Quán Miên), “Chiều núi” của Lò Cao Nhum, Hai bàn chân
(Lƣơng Quy Nhân)..., họ sống chan hoà với thiên nhiên, tôn trọng thiên nhiên,
gắn bó với thiên nhiên: “Nhớ bản cũ”, “Nhành dâu xuân” (Cầm Biêu), “Con
đi dạy học vùng cao”, “Mái trƣờng rẻo cao” (La Quán Miên), “Ngƣời trên
núi”, “Tiếng chim xanh”, “Hỏi cây” (Lò Cao Nhum)...Trong đó hình ảnh
ngƣời phụ nữ Thái đi vào thơ ca nhƣ là hình tƣợng tiêu biểu, nổi bật của
ngƣời dân tộc Thái.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
66
Vẻ đẹp của ngƣời con gái Thái đã đƣợc ca ngợi trong bài ca dao Thái
mà Cầm Giang đã dịch sang tiếng Việt “Em là con gái Châu Yên”:
.Con gái Châu Yên không chua không chát,
Ngọt ngào nhƣ tiếng cƣời câu hát,
Giỏi đánh cồng, ham xoè quạt,
Thích gội đầu lá sả tóc nhƣ rêu
Thích làm nƣơng, đi xúc, dệt, thêu...
Qua tháng năm, ngƣời phụ nữ Thái vẫn giữ đƣợc cho mình những
phẩm chất rất đáng quý, đáng trân trọng: sự dịu hiền, khéo léo trong giao tiếp,
sự đảm đang, cần cù trong lao động, sự tinh tế, cuốn hút trong điệu múa, lễ
hội dân gian... Những phẩm chất ấy đã tôn vinh vẻ đẹp trong sáng, mềm mại
của ngƣời phụ nữ Thái, trở thành biểu tƣợng và niềm tự hào của ngƣời dân
tộc Thái. Vì vậy, trong thơ ca dân tộc Thái hiện đại, bên cạnh việc ca ngợi xứ
sở, quê hƣơng, bản mƣờng, thì ngƣời phụ nữ Thái cũng trở thành nguồn cảm
hứng sáng tác của nhiều nhà thơ không chỉ bởi vẻ đẹp duyên dáng của ngoại
hình mà còn bởi sự đảm đang, tài hoa trong lao động và sự khéo léo, tế nhị
trong ứng xử.
Sống tran hoà giữa thiên nhiên, hoà đồng với thiên nhiên, ngƣời phụ nữ
Thái mang trong mình vẻ đẹp trong sáng, tự nhiên của thiên nhiên miền núi.
Vẻ đẹp của các cô gái Thái thƣờng đƣợc so sánh với các loài hoa “Mặt tƣơi
nhƣ hoa mạ, má đỏ nhƣ hoa vông”. Đó là vẻ đẹp tƣơi tắn, dịu hiền mang
hƣơng sắc thiên nhiên:
Thấy cô gái mình thon mắt biếc
Má hồng, lông mày cong.
(Ing éng- Vƣơng Trung)
Không mang vẻ đẹp sắc nét, ngất ngây đến độ làm “đốt cháy” đối
phƣơng nhƣ “Đôi mắt ƣớt nhƣ mỡ nóng trong chảo” của ngƣời phụ nữ Dáy
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
67
trong thơ Lò Ngân Sủn, qua sự cảm nhận của những nhà thơ dân tộc Thái,
ngƣời phụ nữ Thái hiện lên rất đỗi thân quen, gần gũi trong đó nụ cƣời duyên
dáng bởi “Hàm răng trắng ngời” có sức ám ảnh rất lớn đối với các nhà thơ:
Cô dân quân cƣời nụ
Hàm răng duyên dáng dƣới ánh trăng khuya
Ôi! Nụ cƣời trong đêm vắng.
(Nụ cƣời- Vƣơng Trung)
Trong trang phục “áo cóm” truyền thống, kết hợp với chiếc khăn “piêu”
buông hờ, những sơn nữ ngƣời Thái trở nên duyên dáng, mềm mại, thƣớt tha,
nữ tính, làm say lòng ngƣời:
Váy hoa rực rỡ
Bàn chân bƣớc theo
Khăn “piêu” mới dệt
Lòng đà ngẩn ngơ.
(Mƣờng Cuông- Lò Cao Nhum)
Bộ trang phục của ngƣời Thái là một vẻ đẹp tiêu biểu của ngƣời phụ nữ
Thái và là bản sắc văn hoá dân tộc Thái. Với thiết kế gọn gàng, kết hợp với
hàng cúc bạc hình bƣớm lóng lánh trƣớc ngực tạo cho ngƣời phụ nữ Thái một
vẻ duyên dáng, cuốn hút:
Cúc bạc, áo cóm, khăn piêu
Nếu đƣợc tôn tạo đáng yêu nhƣờng nào
Sánh cùng gấm vóc, lụa đào,
Em xoè, em múa, khác nào rồng bay.
(Với văn công tỉnh nhà- Cầm Biêu)
Cùng với vẻ duyên dáng, xinh đẹp, ngƣời phụ nữ Thái còn có những
phẩm chất chung của ngƣời phụ nữ Việt Nam nhƣ sự dũng cảm, thuỷ chung,
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
68
đảm đang, chăm chỉ... trong đó ngƣời phụ nữ Thái nổi bật lên với sự tế nhị
trong cách ứng xử:
….Êm ái ru con ngủ đêm khuya
Thủ thỉ làm hiền khi chồng đang giận...
(Em là con gái Châu Yên- dân ca Thái)
Và trong giao tiếp hàng ngày, họ là những ngƣời chủ nhà mến khách và
khéo léo:
Khách đến Sơn La
Chối không biết uống rƣợu
Cô gái Thái vít cần, nâng bát
Cất lời ngọt hƣơng men
Khách say lời trƣớc rƣợu...
(Lời mời cô gái Thái- Cầm Hùng)
Có thể nói, sức hấp hẫn của ngƣời phụ nữ Thái không chỉ bởi vẻ đẹp
hình thức duyên dáng mà bởi sự khéo léo, mềm mại “nhƣ bông lau, cành
hóp” (Dân ca Thái) trong cách ứng xử, giao tiếp. Vẻ đẹp thanh thoát, tế nhị,
khéo léo của ngƣời phụ nữ Thái khác hẳn vẻ mãnh liệt, dữ dội nhƣ “cơn mƣa
rào”, nhƣ “ngọn lửa” của cô gái trong thơ nhà thơ dân tộc Tày- Y Phƣơng:
Em hiền lành
Em chậm chạp
Em đội chum rƣợu đến với anh
Ngƣời con gái có bàn chân to khoẻ
Đạp qua bao nhiêu đau khổ
Đến với anh...
(Em- Cơn mƣa rào- Ngọn lửa)
Lại càng không có cái vẻ “cau có”, “dửng dƣng”, “khinh khỉnh” đến
“kiêu kỳ” và “đỏng đảnh” nhƣ trong “Ngƣời không thấy thì trời thấy” (Y
Phƣơng), các cô gái Thái vô cùng khéo léo, tế nhị, dịu dàng, biến giận thành
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
yêu, biến buồn thành vui và luôn ngọt ngào nhƣ “quả nê, cao gạc”. Tuy
nhiên, trong những tình huống, hoàn cảnh hiểm nghèo, họ cũng trở nên dũng
cảm, rắn rỏi hơn bao giờ hết:
Lái thuyền lƣớt ngọn sóng
Rẽ bọt trắng sôi bùng...
(Chèo thuyền đƣa tiễn- Vƣơng Trung)
Không chỉ ca ngợi sự xinh đẹp, duyên dáng, mềm mại của ngƣời phụ nữ
Thái, các nhà thơ dân tộc Thái còn rất tự hào bởi sự đảm đang, khéo léo và tài
hoa của ngƣời phụ nữ Thái- một vẻ đẹp tiêu biểu của ngƣời dân tộc Thái:
Úp bàn tay nên hoa
Ngửa bàn tay thành bông.
(Tục ngữ Thái)
Với đôi bàn tay “hình búp ban” khéo léo, ngƣời phụ nữ Thái là những
ngƣời nội trợ tài hoa, họ tạo nên những ép xôi thơm dẻo, những bữa tiệc rƣợu
cần lâng lâng, ngây ngất:
Rƣợu nhà tôi
Ủ từ sắc lá rừng gai
Chắt từ củ mài hốc đá
Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài.
(Rƣợu núi- Lò Cao Nhum)
Với ngƣời miền núi nói chung và ngƣời dân tộc Thái nói riêng thì rƣợu là
nét sinh hoạt trong văn hoá ẩm thực không thể thiếu trong những dịp lễ tết
hay tiếp đón bạn bè. Đƣợc chắt lọc từ những gì tinh tuý nhất của núi rừng nhƣ
lá “gai”, “củ mài hốc đá” tạo nên thứ rƣợu có vị ngọt của “mật ong”, có vị
chua của “măng”, vị mặn của “mồ hôi quyện lẫn gió sƣơng” nhƣng trên hết,
đó là cái tâm, là trái tim “chỉ biết yêu thƣơng” của ngƣời nấu rƣợu đƣợc gửi
gắm trong thứ rƣợu đặc trƣng của miền núi, ấy là “Rƣợu núi”. Nhà thơ dân
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
70
tộc Thái- Lò Cao Nhum đã ca ngợi và gửi gắm tình cảm, sự biết ơn, trân trọng
và tự hào đối với sự khéo léo, giỏi giang của ngƣời phụ nữ Thái.
Không chỉ đam đang trong công việc nội trợ, ngƣời phụ nữ Thái hiện đại
cũng rất khéo léo, tài hoa trong nghề trồng lúa- một nghề truyền thống của
ngƣời Thái:
Ngửa bàn tay thành sao tua rua,
Bay lấp lánh cánh đồng rộng rãi,
Mỗi lần bay đi và lƣợn lại,
Chăng hàng mạ mƣợt xanh theo.
(Hội cấy thi-Vƣơng Trung)
Mƣợn hình ảnh “đôi bàn tay” khéo léo vốn xuất hiện rất nhiều trong tục
ngữ, ca dao Thái, nhà thơ Vƣơng Trung thể hiện sự ngƣỡng mộ của mình
trƣớc sự khéo léo, tài hoa tuyệt vời của ngƣời phụ nữ Thái. Họ là “những
ngƣời tài giỏi của mƣờng”, “những ngƣời tinh thông của bản”, ngƣời trồng
ra “khóm lúa bằng ghế mây” để tạo nên sự trù phú, no ấm cho bản mƣờng.
Không chỉ giỏi giang trong nghề trồng lúa, nhà thơ Lƣơng Quy Nhân
cũng rất tự hào trƣớc những ngƣời phụ nữ Thái, họ còn rất tài hoa trong nghề
dệt vải truyền thống: Sao toả sáng, thi với em quay tơ, dệt vải (Lƣơng Quy
Nhân).
Để nhấn mạnh đến sự khéo léo, nhanh nhẹn của ngƣời phụ nữ, nhà thơ
Lƣơng Quy Nhân đã rất tài tình khi miêu tả hình ảnh những ngƣời phụ nữ
Thái dệt vải, quay tơ thi với vì sao trên trời. Hình ảnh ngƣời phụ nữ Thái bên
chiếc “guồng xa” nhƣ đƣợc tôn lên gấp bội nhờ ánh sáng của những vì tinh tú,
ánh sao nhƣ làm nền cho ngƣời phụ nữ Thái, “toả sáng” sự tài hoa của ngƣời
phụ nữ Thái, họ là những nghệ sĩ rất khéo léo“Đụng vào khung cửu vải thành
hoa” (Dân ca Thái).
Vị trí, vai trò của ngƣời phụ nữ Thái còn đƣợc thể hiện ở những sinh
hoạt cộng đồng. Trong những lễ, hội truyền thống, trò chơi dân gian họ nhƣ
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
71
những ngọn lửa thu hút, lôi cuốn ngƣời chơi, làm rạng ngời cả sân chơi “Hạn
khuống”:
Đầu Khâu Cả thành đồi ngọc sáng,
Đƣờng Tô Hiệu vào áng thơ xuân.
Gái Chiềng Ly không cần chờ trăng rằm chơi “khuống”.
(Điện Chiềng Ngàm - Cầm Biêu)
Trong tiếng nhạc tƣng bừng, men rƣợu cần ngây ngất, điệu xoè hoa mời
gọi và vẻ đẹp của những cô gái có “Áo cúc bạc, đeo sà tích” (Vƣơng Trung)
không ai không thấy nao lòng và khát khao đƣợc một lần nữa sống trong đêm
hội ấy:
Hãy gửi hộ tôi tới mƣờng xo,
Vẫn hằng ƣớc tới tự bao giờ.
Tiếng đàn “tính tẩu” chàng trai trẻ,
Gẩy nhịp lâng lâng “noọng gái” xoè...
(Tiếng hát- Cầm Cƣờng)
Vẻ đẹp của các cô gái Thái trong điệu múa truyền thống không chỉ có
sức cuốn hút đối với những nhà thơ dân tộc Thái, nhà thơ Tày - Lƣơng Định
cũng ngây ngất đến “chao đảo” trƣớc vẻ đẹp quyến rũ của ngƣời con gái Thái
trong những điệu múa nồng say:
Em buông váy,
Cho hoàng hôn mau tắt.
Xoè ngàn hoa,
Chao đảo cả trời sao.
(Đêm lễ hội)
Trong cộng đồng dân tộc Thái, ngƣời phụ nữ có vị trí và vai trò rất lớn
trong tổ chức cuộc sống, với đôi bàn tay khéo léo, họ trồng lúa để tạo ra thứ
gạo thơm dẻo cho quê hƣơng, dệt ra những tấm thổ cẩm rực rỡ sắc màu và họ
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
72
là nhân vật chính của những trò chơi dân gian nhƣ ném còn, múa xoè, múa
sạp, là ngƣời “dẫn dắt” của sân chơi “Hạn khuống”... Ngƣời phụ nữ Thái là
linh hồn của bản mƣờng ngƣời Thái.
Trong thơ ca Thái hiện đại, vẻ đẹp duyên dáng, dịu dàng, tƣơi thắm của
các cô gái Thái luôn đƣợc so sánh với các loài hoa: hoa Mạ, hoa Vông đặc
biệt là hoa Ban- loài hoa đặc trƣng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc: “Hoa
Ban nở thành ngƣời con gái Thái” (Trần Mạnh Hảo). Do vậy, trong con mắt
của các nhà thơ, ngƣời phụ nữ Thái có hình thức bên ngoài mang vẻ đẹp của
tự nhiên, của thiên nhiên nơi đây. Còn vẻ đẹp của tâm hồn, trí tuệ, của những
phẩm chất nhƣ đảm đang, chăm chỉ, khéo léo ...lại là vẻ đẹp của truyền thống,
của nếp sống văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc Thái. Vẻ đẹp ấy đã đƣợc dân
gian ngợi ca hết mực trong bài dân ca “Em là con gái Châu Yên”. Qua tháng
năm, ngƣời phụ nữ Thái hiện đại vẫn mang trong mình những tố chất rất
“Thái” ấy. Vì vậy, trong thơ ca Thái hiện đại vẻ đẹp rất hài hoà của ngƣời con
gái Thái đã tạo nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ.
2. 3. Những nét phong tục, tập quán đậm đà bản sắc Thái.
Tạo hoá đã ban tặng cho Tây Bắc và miền núi Thanh- Nghệ nƣớc ta
những hệ thống núi đồi cao, thấp, trập trùng theo hƣớng Tây Bắc- Đông Nam.
Giữa những vùng đồi núi đó những cao nguyên rộng lớn, những vùng bình
nguyên lòng chảo, những sông, suối, khe, ghềnh thác, xen lẫn là những khu
rừng rậm rạp, trù phú, thung lũng hoang sơ, cánh đồng lúa, những bản nhà
sàn...Đó là bối cảnh không gian văn hoá Thái, những giá trị vật chất, tinh thần
của dân tộc Thái.
Ngƣời Thái sống định canh, định cƣ ở những nơi bãi bằng, dọc sông
suối. Bản Thái thƣờng nằm ở ven đồi, chân núi, nhìn ra cánh đồng, ở đó bao
giờ cũng có ít nhất một dòng suối to hay nhỏ tuỳ nơi. Sông suối đóng vai trò
quan trọng trong tâm linh của ngƣời Thái. Suối đƣợc coi là vật nữ tính “me
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
73
nặm”. Suối là nơi trú ngụ của thần nƣớc, hàng năm, khi làm lễ cúng bản (xên
bản) vào mùa xuân, ngƣời ta tổ chức ngay ở trên bờ, là nơi cung cấp thức ăn
(tôm, cá...) cho con ngƣời. Vì vậy, ngạn ngữ Thái có câu “Txả kin tói phay,
táy kin tòi nặm” (Ngƣời Xá ăn theo lửa, ngƣời Thái ăn theo nƣớc) là vì thế.
Văn hoá nông nghiệp Thái nổi tiếng vì hệ thống tƣới tiêu, ngƣời ta lấy
đá ngăn suối làm nƣớc dâng cao, đó là “phai”, phía trên “phai” xẻ một đƣờng
chảy dẫn nƣớc vào cánh đồng, đó là “mƣơng”, từ “mƣơng” tạo ra những rãnh
nƣớc chảy vào ruộng, đó là “lái”, còn “lịn” là cách lấy nƣớc từ nguồn nƣớc
trên núi cao, dẫn về ruộng, về nhà bằng các cây tre đã đục mấu nối tiếp nhau.
Hệ thống thuỷ lợi thích hợp này đƣợc đúc kết nhƣ một thành ngữ: “Mƣơng,
phai, lái, lịn” (Khơi mƣơng, đắp đập, dẫn nƣớc, đặt máng) trên các cánh
đồng, thung lũng...Do chủ động tƣới tiêu nên ngƣời Thái nuôi cá ngay trong
mực nƣớc của ruộng lúa. Gặt lúa xong là tháo nƣớc bắt cá. Cá nuôi trong
ruộng vừa ăn sâu, bọ, cỏ dại, vừa sục bùn cho tốt lúa. Từ tập quán “ăn theo
nƣớc” nên đã quy định những phong tục rất riêng biệt của ngƣời Thái đó là
trồng lúa nƣớc và nuôi, bắt cá.
Nếu nhƣ ngƣời Xá (Khơ mú, La ha, Kháng...) làm nƣơng theo phƣơng
pháp thô sơ: phát rừng, đốt lấy tro, trọc lỗ tra hạt, ngƣời Mông ở núi cao, phát
rừng, cày xới trồng ngô, trồng lúa nƣơng, ngô thâm canh...thì tổ tiên của
ngƣời Thái đã biết làm thuỷ lợi trồng lúa nƣớc. Vì vậy trình độ canh tác
truyền thống của ngƣời Thái đã rất phát triển. Ngƣời Thái rất coi trọng sản
xuất nông nghiệp nên họ cho rằng “Có thóc lúa- có mọi thứ” (Mí khảu- mí cu
dƣơng). Ngƣời nông dân Thái từ lâu đã khẳng định:
(Khẩu nặm năng nƣa
Ngấn cắm năng tảu)
Tức là
Thóc gạo ngồi trên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
74
Vàng bạc ngồi dƣới
(Tục ngữ Thái)
Với kinh nghiệm đã tích luỹ đƣợc trong sản xuất lƣơng thực, ngƣời Thái
rất coi trọng ruộng nƣớc: “Nƣơng bao la không bằng ruộng nhà một thửa”
(Hay đƣa ta báu to ná haƣ nƣng), hình ảnh những ruộng nƣơng trù phú nhờ
bàn tay khéo léo của con ngƣời đã thể hiện sự giàu đẹp của quê hƣơng, bản
mƣờng ngƣời Thái:
Nƣơng anh chín núi mƣời rừng,
Ruộng anh chín bản mƣời mƣờng đều khen
Ƣớc gì nƣơng giáp nƣơng anh
Ruộng kề bờ ruộng cùng xanh một ngày...
Để có những nƣơng lúa, ruộng lúa bạt ngàn ấy, không có cách nào khác
(Gần nhau tay có hai tay- Cầm Cƣờng)
ngoài việc phải khai khẩn đất hoang, tạo thành những tầng ruộng bậc thang,
dẫn nƣớc về để cấy lúa, đây chính là cách làm thuỷ lợi “Mƣơng, phai, lái, lịn”
truyền thống của ngƣời Thái:
Muốn có ruộng cày cấy...
Hãy đắp bờ trên núi
Khơi mƣơng dẫn nƣớc về...
(Bài ca làm ruộng bậc thang- La Quán Miên)
Bạn tình ơi!
Yêu nhau anh phá lau thành ruộng
Ruộng ta rộng xa tận Khâu Pha
Nƣơng lúa ta bông dày, nặng hạt...
(Trên đồi nƣơng- Hoàng Nó)
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
75
Cảnh lao động của ngƣời dân tộc Thái mà tiêu biểu là ngƣời phụ nữ
Thái trên những cánh đồng lúa thể hiện tình yêu lao động của ngƣời Thái:
Ơi những gái tơ giỏi tay nâng mạ
Thiếu phụ khéo chăng dây
Nhƣ hai dây đàn tính
Gẩy lên dẫn mạ kín đồng..”
(Hội cấy thi-Vƣơng Trung)
Đối với mỗi ngƣời dân lao động nói chung và ngƣời dân tộc Thái nói
riêng cây lúa là tài sản vô giá, quý hơn bạc vàng “Hạt lúa là bạc, bạc không
thể so sánh”, chính vì vậy, ngƣời Thái rất gắn bó và hoà hợp với cây lúa, coi
lúa nhƣ những ngƣời bạn thân thiết: “Đi trên bờ lúa níu chân lả lả” vì với họ
“Có hạt lúa là mẹ. Sữa cho đời không cạn” cho nên “Ai yêu lúa ra đồng rỏ mồ
hôi giọt” (Cây lúa- Lò Cao Nhum) là vì thế.
Đồng bào Thái tự hào với những vùng quê mang dấu ấn văn hoá nổi
tiếng “Lƣơn Mƣờng Pùa, lụa Ngọc Chiến”, “Lúa Mƣờng Sạt, vải Mƣờng
Piềng...” đặc biệt với cánh đồng Mƣờng Thanh- cánh đồng lớn nhất trong “tứ
mƣờng”: “Nhất Thanh, nhì Lò, tam Thanh, tứ Tấc” nơi tạo ra thứ gạo thơm
ngon nổi tiếng không đâu sánh kịp:
Trăm thơm không bằng thơ “tan nhe” lúa quý quê nhà
Mƣời dẻo không dẻo bằng “tan pỏm” đặc sản Chiềng Quen
(Mƣờng Chanh quê ta- Cầm Biêu)
Sự phì nhiêu, màu mỡ của những cánh đồng trồng lúa cùng với hệ
thống thuỷ lợi thích hợp đã tạo nên thứ gạo đặc sản của ngƣời Thái mà nhà
thơ Quang Dũng đã từng ca ngợi “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” (Tây
Tiến).
Nhƣ hầu hết các dân tộc ở nƣớc ta, lƣơng thực chính nấu trong bữa ăn
của ngƣời Thái là cơm (nấu từ gạo). Nhƣng khác với nhiều dân tộc anh em,
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
76
cơm của đồng bào Thái là xôi (đồ từ gạo nếp). Họ vốn tự coi mình là “tay
kháu nứng” (ngƣời cơm nếp đồ) để phân biệt với các dân tộc ăn cơm gạo tẻ.
Họ quan niệm gạo nếp mới là thứ gạo tốt để nuôi sống con ngƣời. Vì thế mà
ngƣời Thái đã lựa chọn đƣợc rất nhiều giống lúa nếp ngon cấy dƣới ruộng.
Ngay trong đoạn mở đầu của của Quám tô mƣơng (Chuyện kể bản mƣờng)
của ngƣời Thái đã có câu: “Từ khi loài ngƣời ở trần gian đã có 330 giống lúa
dƣới ruộng”, về sau ngƣời Thái còn du nhập thêm nhiều giống nếp cạn trồng
ở nƣơng rẫy và bắt đầu sử dụng gạo tẻ để làm cơm. Sự thay đổi thói quen đó
xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống nhƣng phong tục dùng xôi nhƣ cơm
thì đến nay vẫn còn rất đậm nét:
Nếp nƣơng thơm dẻo lắm,
Tình nghĩa quê hƣơng, tấm lòng em đó.
(Anh đƣợc về thăm- La Quán Miên)
Với ngƣời dân tộc Thái, gói cơm nếp thơm dẻo là món quà cho ngƣời
đi xa mà ngƣời lại gửi gắm trong đó tất cả “tấm lòng”, tình cảm quê hƣơng,
bản sắc văn hoá của dân tộc:
Ông ké nhà trên,
Cầm gói nếp lắc tay anh nhắn.
(Tiễn dặn ngƣời trai bản –La Quán Miên)
Bên cạnh hình ảnh cây lúa và món xôi thơm ngon nổi tiếng, hình ảnh
con cá trở nên rất quen thuộc và gần gũi với ngƣời Thái. Lễ vật trong ngày
cƣới cổ truyền của ngƣời Thái trƣớc đây không thể thiếu cá sống và trên
đƣờng khâu của chiếc khăn Piêu quen thuộc của chị em phụ nữ dân tộc Thái
thƣờng có hình xƣơng cá.
Với ngƣời Thái, món cá vô cùng quan trọng trong nghệ thuật ẩm thực.
Ngƣời Thái nâng món cá lên ngang tầm với lúa gạo qua quan niệm “Miếng
cơm trắng, khúc cá bạc” (Kháu đon, ton pa khảo). Từ cá, họ có thể chế biến
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
ra rất nhiều món ăn rất lạ, hấp dẫn nhƣ món “kỏi sinh câm” (gỏi cá sinh cầm)
hay “kỏi hắn” (gỏi Thái). Tuy nhiên món ăn truyền thống quen thuộc của
ngƣời Thái chính là món cá nƣớng (pa píng tộp- cá nƣớng gập):
Anh chƣa có lá chuối gói cá “mọn” má hồng,
Chƣa có lá dong gói trầu cau đến gửi.
(Tâm tình trƣớc ngày tạm biệt- Lò Văn Cậy)
Theo phong tục của ngƣời Thái, khi ăn thịt gà thì phải “nhƣờng đùi cho
trẻ con” và:
Ăn cá dành đầu cá cho ngƣời già
(Ngôi nhà sàn của tôi- La Quán Miên)
Món cá thƣờng đƣợc dùng trong những dịp lễ tết quan trong nhƣ lễ cúng
cơm mới, cúng tổ tiên hay đƣợc dùng để đãi khách, món cá là biểu hiện của
lòng hiếu khách:
Đi ăn cá về nhà uống ruợu,
Ở thì ngủ đệm đắp chăn ấm.
(Dân ca Thái)
Nhƣ vậy món cá không chỉ là thức ăn đơn thuần mà nó còn hàm chứa cả
văn hoá ẩm thực Thái nói riêng và bản sắc văn hoá độc đáo của ngƣời Thái
nói chung. Truyền thống nuôi cá, bắt cá (không phải là săn bắn) và chế biến
cá là món ăn chính còn đƣợc các nhà thơ Thái hiện đại nói đến khá nhiều nhƣ
trong một số tác phẩm của Lƣơng Quy Nhân, Cầm Biêu, Vƣơng Trung, La
Quán Miên...
Chịu ảnh hƣởng của lối sống định cƣ ở những ven sông, suối, chân núi,
ngƣời Thái có phong tục tập quán riêng biệt trong việc canh tác làm nông
nghiệp. Nếu nhƣ ngƣời Mông chú trọng đến việc trồng ngô, lúa nƣơng, chăn
nuôi trâu, bò, ngựa thì ngƣời Thái có truyền thống trồng lúa nƣớc, nuôi, bắt
cá, điều này đã quy định văn hoá ẩm thực Thái. Cơ cấu bữa ăn của ngƣời Thái
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
là cơm nếp đồ và cá nƣớng. Thực đơn ấy không phải chỉ là sở thích mà một
tiêu chí của nền văn minh lúa nƣớc. Ngƣời Mƣờng có câu “Cọ vá lá vá cho
cơm” (có cả đổ vả cho cơm) hay ngƣời Việt còn khái quát bằng câu “cơm với
cá nhƣ mạ với con” cũng là minh chứng cho thấy sự gần gũi của những cƣ
dân của nền văn minh nông nghiệp lúa nƣớc. Vậy nên hình ảnh những ruộng
lúa chín vàng, thứ gạo “tan nhe”, “tan pỏm” thơm dẻo hay những gì “liên
quan” đến cá xuất hiện phổ biến trong thơ Thái hiện đại. Thậm chí, hình ảnh
con cá trở nên gần gũi và thân thuộc đến mức các nhà thơ thƣờng ví von, so
sánh “Bàn chân xinh xắn nhƣ đuôi cá xoè” (Lƣơng Quy Nhân) hay “Cổ tay
em tròn đuôi cá” (Sầm Nga Di).
Chính từ phong tục, tập quán “ăn theo nƣớc” nên ngƣời Thái gắn bó
máu thịt với đồng ruộng, nƣơng rẫy, sông suối. Đây chính là môi trƣờng lao
động và là nguồn nuôi dƣỡng sự sống cho ngƣời Thái. Từ quan niệm đƣợc
đúc kết “Qúi thóc- thóc về. Quí cá- cá lên” (tục ngữ), mỗi thành viên trong
gia đình cũng nhƣ cộng đồng xã hội ngƣời Thái nhận thức rất tự giác
rằng:“Muốn no cơm, gắng làm ruộng/ Muốn ăn cá phải đắp bờ phơi mƣơng”
(Tục ngữ Thái) vì họ rất coi trọng những truyền thống rất riêng biệt của dân
tộc mình “Có nƣớc mới có cá, có ruộng mới có lúa” (tục ngữ Thái), bởi vậy,
các thế hệ ngƣời Thái luôn răn dạy cháu con phải biết gìn giữ và phát huy
những phong tục, tập quán đậm đà bản sắc của dân tộc mình:
Đƣợc nắm xôi ngon chớ quên ruộng
Đƣợc khúc cá bùi chớ quên suối
(Tục ngữ Thái)
Ngoài nghề trồng lúa, dệt vải cũng là hoạt động sản xuất chính của ngƣời
Thái. Ngƣời Thái quan niệm “Gái dệt vải. Trai đàn chài”, hay “Trời sinh ra
con gái phải biết trồng bông dệt vải”. Sự phân công lao động rạch ròi này vừa
biểu hiện một tiêu chí của nền văn minh lúa nƣớc, vừa là cái lý để duy trì bản
sắc tộc của ngƣời. Đối với phụ nữ dân tộc Thái, dệt vải để tạo ra những tấm
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
thổ cẩm rực rỡ sắc màu là tiêu chuẩn, là nhân tố rất quan trọng để tạo nên
ngƣời phụ nữ Thái “Yêu chồng năng dệt vải, thƣơng con chăm vá may...” [55,
Tr.138]. Bởi vậy ngƣời phụ nữ Thái không coi đó là nghĩa vụ của mình mà
coi đó là niềm vui, niềm hạnh phúc, là lẽ tự nhiên của tạo hoá ban tặng cho
ngƣời phụ nữ Thái :
Vui làm vui ăn
Vui quay xa thành sợi
Vui kéo sợi, ƣơm tơ...
(Châm ngôn Thái)
Để có những tấm thổ cẩm rực rỡ sắc màu, ngƣời phụ nữ Thái phải thực
hiện rất nhiều công đoạn, đó là:
Em cào cỏ làm bông,
Em kéo bông thành sợi.
(Trên đồi nƣơng- Hoàng Nó)
Vào mùa xuân, ngƣời phụ nữ Thái dùng hạt bông để trỉa trên những
mảnh nƣơng sau khi đã thu hoạch xong một vụ lúa. Họ rất cẩn thận trong việc
chọn hạt bông, đó phải là những là hạt mới thu hoạch trong năm, có nhƣ vậy,
mới có những cây bông tốt và có những tấm thổ cẩm bền, đẹp, mịn màng, để
“ấm lòng” (Hoàng Nó) ngƣời mặc.
Nghề dệt vải ngoài yêu cầu về sự kiên chì, đảm đang thì còn đòi hỏi sự
khéo léo của ngƣời phụ nữ. Câu tục ngữ “Úp bàn tay nên hoa/ Ngửa bàn tay
thành bông” không chỉ nhấn mạnh đến nghề truyền thống gắn liền với ngƣời
phụ nữ Thái là nghề dệt vải mà còn ca ngợi đôi bàn tay tài hoa của ngƣời phụ
nữ Thái đã tạo ra biết bao sản phẩm có ý nghĩa thiết thực cho đời sống con
ngƣời:
Ngồi xổm thêu đƣợc hình chim phƣợng
Ngồi nghiêng quay sợi thành chùm hoa xo xe…
(Ca dao Thái)
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
Hình ảnh những cô gái Thái bên khung cửi, cái sa quay sợi hay các
công cụ dệt vải khác trở thành biểu tƣợng rất gợi cảm và đầm ấm của ngƣời
phụ nữ Thái: Dệt khung cửi, kéo tơ thi với vì sao
Dệt vải kẻ thi với sao bay”
(Sao- Lƣơng Quy Nhân)
Cả bản mƣờng rộn rã tiếng thoi đƣa
Tiếng thoi nay tiếp tiếng thoi xƣa...
(Tiếng thoi- Cầm Biêu)
Sự kiên trì và sự khéo léo của đôi bàn tay thon nhƣ “cuộn lá hành” của
các cô gái Thái đã tạo ra biết bao sản phẩm, trong đó bộ trang phục Thái là
một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, nổi bật:
Nào áo chàm cúc bạc long lanh...
Nhƣ rồng bay, đẹp hơn phƣợng múa.
(Chiếc guồng xa- Cầm Biêu)
Ngắm nhìn ngƣời phụ nữ Thái trong trang phục “xửa cóm” ta có cảm
giác nhƣ đang ngắm một pho tƣợng có bố cục chặt chẽ, hài hoà. Chiếc váy
đen dài, kết hợp với chiếc áo ngắn bó sát và chiếc thắt lƣng màu hoa thiên lý
làm tôn thêm thân hình thon thả, cân đối của ngƣời mặc. Màu đỏ của gấu váy
kết hợp với màu đen của thân váy làm tăng sự uyển chuyển nhƣ sóng lƣợn
mỗi khi họ bƣớc đi. Màu trắng bạc lấp lánh của hai hàng “má pém” (cúc
bƣớm) trên ngực áo làm cho màu sắc tƣơng phản càng trở nên sống động. Sự
kết hợp hài hoà về màu sắc và đƣờng nét của bộ trang phục không chỉ nói nên
sự khéo léo của ngƣời phụ nữ Thái mà còn nhấn mạnh đến sự tinh tế và tính
thẩm mĩ của ngƣời Thái. Do vậy, dƣới con mắt của nhà thơ Thái hiện đại,
ngƣời phụ nữ Thái trong trang phục “xửa cóm” mềm mại, uyển chuyển hơn
“rồng bay, phƣợng múa”.
Nói về bộ trang phục của phụ nữ Thái, không thể không nói đến chiếc
khăn “Piêu”- khăn đội đầu mà ngƣời Thái rất trân trọng. Khăn “Piêu” có ý
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
nghĩa rất lớn đối với ngƣời phụ nữ Thái, nó là đồ trang sức làm đẹp của phụ
nữ Thái, là kỷ niệm của những đôi trai gái đang yêu, là vật phẩm quý giá để
nàng dâu kính biếu gia đình chồng trong đám cƣới. Khăn “Piêu” cũng là sản
phẩm của nghề dệt vải và là tác phẩm nghệ thuật từ đôi bàn tay khéo léo của
ngƣời phụ nữ Thái.
“Piêu” tiếng Thái có nghĩa là khăn. Khăn Piêu đƣợc dệt từ một đoạn
vải khổ rộng chừng hai gang tay và dài một sải tay. Việc dệt khăn, thêu khăn
cũng là cả một quá trình đòi hỏi sự kiên trì, khéo léo của ngƣời phụ nữ Thái.
Mặt khăn đƣợc gọi là “ná Piêu” thêu bằng chỉ ngũ sắc tạo ra những đƣờng nét
hoa văn gọi là “Xai peng” (dây tình) đan vào nhau, đối nhau từng đôi một.
Các góc khăn và trên mép vải đƣợc viền tết chỉ màu thành các “cút Piêu”.
“Cút Piêu” hình tròn cuốn chỉ dày, đậm nhiều màu thành những vòng tròn,
mỗi đoạn vòng một màu. Khăn Piêu đội đầu đƣợc thêu thùa hoa văn rất công
phu với những màu sắc đỏ, vàng, xanh biếc trên nền chàm trải rộng trông lộng
lẫy và hài hoà nhƣ những tia nắng của ánh mặt trời.
Giống nhƣ bộ “Xửa cóm”, Khăn “Piêu” không đơn giản chỉ là chiếc
khăn đội đầu, che mƣa, che nắng, nó còn phản ánh quan niệm lễ giáo của
ngƣời Thái. Nếu nhƣ bộ “xửa cóm” có số cúc bao giờ cũng là số chẵn, biểu
hiện của sự đầy đặn, trọn vẹn dành cho chồng con, thì ngƣợc lại, số lƣợng
“cút” trên chiếc khăn Piêu lại là số lẻ. “Nghệ thuật số lẻ” không phải chỉ thoả
mãn nhu cầu thẩm mĩ mà còn phản ánh tƣ tƣởng của ngƣời Thái. Khi thêu
Piêu để tặng ngƣời thân trong gia đình nhà chồng, các cô dâu phải chú ý đến
số lƣợng “cút”. Ngƣời Thái có câu:
Cút sam mê pả
Cút hả mẹ dã
tức là: Piêu ba cút tặng bác, bà
Piêu năm cút tặng mẹ chồng
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
Với đƣờng nét cân đối, màu sắc hài hoà, khăn Piêu tạo nên vẻ đẹp hấp
dẫn, mang tâm hồn và tính thẩm mĩ của một dân tộc, qua đôi tay khéo léo của
ngƣời phụ nữ. Khăn Piêu của phụ nữ Thái không chỉ mang giá trị thẩm mỹ
mà còn mang tính xã hội, cùng với váy, áo, thắt lƣng, khăn Piêu góp phần tạo
nên một nét đẹp, một sắc thái riêng, hấp dẫn về trang phục của dân tộc Thái:
Em xe sợi thành vóc hoa dâu
Em dệt cửi thành gấm vân chéo
Em dệt tơ thành đoá hoa vàng
(Dân ca Thái)
Chiếc khăn “Piêu” không chỉ là kết quả của một hoạt động thêu thông
thƣờng mà là vật để chị em phụ nữ Thái gửi gắm tâm hồn, tình cảm của mình
vào trong đó:
Đó có thể là lời nhắn nhủ về sự thuỷ chung, son sắc của kẻ ở, ngƣời đi:
Em nhƣ sợi chỉ xanh
Anh nhƣ sợi chỉ đỏ,
Chỉ đan nhau, vải rách, màu vẫn thắm tƣơi.
(Ing Éng- Vƣơng Trung)
Cũng có thể là cảm xúc về hiện thực cuộc sống:
Chỉ vàng thêu tia nắng...
Chỉ hồng thêu cây súng...
Chỉ đào và chỉ xanh
Thêu hình anh cầm súng.
(Chiếc khăn- Vƣơng Trung)
Hay là nơi gửi gắm lòng ngƣỡng mộ đối với những con ngƣời “làm nên
lịch sử”:
Thêu hình anh cao lớn hiên ngang
Giang hai tay ôm cả bầu trời không gian
Cho vầng trăng sáng rọi
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
Trên sàn em thêu chiếc khăn Piêu.
(Thêu Piêu- Cầm Biêu)
Có thể thấy, với việc miêu tả cảnh lao động của ngƣời dân tộc Thái trong
nghề dệt vải truyền thống, các nhà thơ Thái đã cho ngƣời đọc thấy phong tục
tập quán gắn liền với truyền thống làm nƣơng rẫy, trồng bông để sản xuất thủ
công nghiệp trong xã hội ngƣời Thái, nó không chỉ thể hiện tính tự lập, tổ
chức lao động sản xuất, phát triển kinh tế, gìn giữ bản sắc văn hoá của dân tộc
Thái mà thêm một lần nữa khẳng định vị trí, vai trò hết sức quan trọng của
ngƣời phụ nữ Thái trong cộng đồng dân tộc Thái.
Các nhà thơ dân tộc Thái đã từng ca ngợi sự duyên dáng về hình thức,
khéo léo trong ứng xử, đảm đang trong công việc nội trợ của ngƣời phụ nữ
Thái nhƣng họ cũng ngợi ca ra vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Thái trong lao động
sản xuất, đó là vẻ đẹp của đôi bàn tay khéo léo “Úp bàn tay nên hoa/ Ngửa
bàn tay thành bông”, của thẩm mỹ tinh tế, thông minh, sắc sảo. Nếu nhƣ bộ
trang phục “xửa cóm”, “khăn Piêu”- sản phẩm của nghề dệt vải truyền thống
tôn vinh vẻ đẹp hình thể của ngƣời phụ nữ Thái thì các nhà thơ tôn vinh vẻ
đẹp trí tuệ của ngƣời phụ nữ Thái. Ngƣời phụ nữ Thái xứng đáng là đại diện
cho vẻ đẹp tâm hồn, tài năng của ngƣời dân tộc Thái.
Tập quán sinh hoạt vật chất của dân tộc Thái còn đƣợc thể hiện ở phƣơng
tiện vận chuyển đi lại ở dọc các con sông bằng “thuyền đuôi én” trong sáng
tác của Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Lò Văn Cậy...; họ ở ngôi nhà sàn
“Mang hình dáng chim Phƣợng Hoàng/ Hai đầu hồi kết thành Khau Cút”
trong sáng tác của La Quán Miên hay Lò Cao Nhum,....Dĩ nhiên những tập
quán ấy có đƣợc là do lối sống định canh, định cƣ ở ven sông, suối quy định.
Việc lựa chọn loại hình nhà sàn cũng là một tiêu chí của nền văn hoá lúa
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
nƣớc, nó thể hiện “thế ứng xử khôn khéo, có tình, có lý của cƣ dân Thái” [29,
tr.248].
Ngoài tập quán trồng lúa, dệt vải thì những phong tục trong các sinh hoạt
lễ hội... là một phần không thể thiếu trong đời sống của cộng đồng dân tộc
Thái. Với các dân tộc thiểu số nói chung thì những hình thức cầu cúng, ca,
múa, hát...gắn liền với đời sống tinh thần phong phú của họ, phản ánh những
nét phong tục rất đẹp và giàu bản sắc của mỗi dân tộc.
Nếu nhƣ dân tộc Tày có lễ hội “Lồng Tồng” (xuống đồng), dân tộc
Hrê có lễ hội “Cầu mƣa”, dân tộc Mông có hội “Gầu tào”, dân tộc Xơđăng có
lễ hội “Cúng máng” thì dân tộc Thái cũng có những lễ hội văn hoá truyền
thống rất riêng biệt: Lễ hội “Xíp xí” mang ý nghĩa dăn dạy con cháu thƣơng
yêu và đùm bọc lẫn nhau; Lễ “Khửn cẩu” là nét đẹp văn hoá truyền thống độc
đáo trong đời sống giao tiếp xã hội, là khuôn phép, đạo đức, lối sống nhằm
bảo vệ hạnh phúc, hôn nhân và gia đình; Lễ “Xến Xó Phốn” cầu cho mƣa
thuận gió hoà...nhƣng tiêu biểu nhất, độc đáo nhất là lễ hội hoa Ban. Với
ngƣời Thái ở Tây Bắc, mùa Ban gắn liền với một câu chuyện đầy sắc màu
huyền thoại về những con ngƣời di cƣ theo dòng nƣớc để dựng nên “tứ
mƣờng” khiến cho mùa hoa ban trở thành “mùa thiêng” của ngƣời Thái. Hội
hoa Ban khụng chỉ là ngày hội của tỡnh yờu và hạnh phỳc, mà còn là dịp để
ngƣời Thái cầu mùa, cầu phúc...
Đồng bào Thái có nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ trong đó
tục hát “Hạn khuống” là một hình thức sinh hoạt văn hoá, tinh thần không thể
thiếu của ngƣời Thái.
“Hạn khuống” nghĩa đen của tiếng Thái tức là sàn sân, tức là một cái sàn dựng ở ngoài sân có độ cao từ 1 đến 1,5m, rộng từ 16-24m2, lát bằng dát
tre hoặc lứa, xung quanh đƣợc “thƣng” bằng phên đan hình mắt cáo, có một
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
cửa ra vào, lên xuống bằng thang 3 bậc. Ở giữa sàn có một bếp lửa và có 5
cây “lắc xáy” (nhƣ cây nêu), đây là nơi để ngƣời Thái tổ chức sinh hoạt vui
chơi vào ban đêm.
“Hạn khuống” là nơi tụ hội đông vui, thƣờng sinh hoạt vào hai mùa thu
đông khô ráo, là mùa có bông để bật, có sợi để kéo, có chỉ để thêu, vừa sản
xuất, vừa đua nhau đàn hay, hát giỏi. Các cô gái dệt sợi mịn, khăn đẹp, con
trai đan lát khéo, thổi sáo hay, hai bên công khai tìm hiểu nhau qua lời ăn
tiếng nói. Do vậy, “Hạn khuống” tƣợng trƣng cho sự no ấm của quê hƣơng,
cho sự lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống của ngƣời dân tộc Thái:
Tiếng đàn hoà tiếng sáo thanh thanh
Tiếng khèn hoà tiếng “hƣn” thánh thót
Nào trai đẹp gái xinh cùng tụ họp,
Tƣng bừng nhƣ không có ngày già,
Rộn ràng tƣởng không có lúc chết...
(Hạn khuống- Cầm Biêu)
“Hạn khuống” là linh hồn của bản mƣờng và phụ nữ dân tộc Thái lại là
linh hồn của sân chơi “Hạn khuống”. Mỗi “Hạn khuống” có từ năm đến mƣời
tổ viên gái trở lên gọi là “xao lắc xáy” và có một tổ trƣởng gọi là “tổn
khuống” (tƣớng sân). Khi “Hạn khuống” bắt đầu, “tổn khuống” ngồi ở vị trí
gần bếp lửa, dùng chiếc “guồng xa” của mình chặn lối cửa ra vào, vừa kéo
sợi, vừa thay mặt các chị em tiếp các chàng trai đến xin lên “Hạn khuống” và
lúc này cuộc thi đàn hay, hát giỏi, đối đáp của nam thanh, nữ tú bắt đầu :
Hạn khuống nhỏ nhóm lửa đua tài
Và trên sàn, sánh trăng rằm đôi lứa, lứa đôi
(Nhớ bản cũ - Cầm Biêu)
Chỉ bằng hai câu thơ ngắn gọn và giản dị, nhà thơ Cầm Biêu tái hiện lại
một hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian rất đặc trƣng và gần gũi với ngƣời
Thái, đó là sinh hoạt “Hạn khuống”. “Hạn khuống” là sân chơi dành cho mọi
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
ngƣời, là nơi để nam thanh, nữ tú “đua tài” văn nghệ (nói, hát đối đáp), vừa
lao động sản xuất buổi tối (kéo sợi, thêu thùa, đan lát...). Đây cũng là nơi để
trai gái tìm hiểu nhau một cách công khai, lành mạnh, lựa chọn tình yêu xứng
đáng, tài nghệ xứng lứa, vừa đôi. Tục ngữ Thái có câu “Ngƣời khôn coi dáng
đi. Ngƣời khéo coi đƣờng kim mũi chỉ”. Thật vậy, ở sân chơi “Hạn khuống”,
trai nhìn gái khéo ăn, khéo ở, thêu đẹp, hát hay. Gái nhìn trai khéo chân, khéo
tay, đàn hay, đan đẹp. Dƣới ánh trăng rằm, bên ánh lửa bập bùng giữa đêm
khuya, ngƣời ngƣời quây quần vui chơi, giải trí ...tất cả đã gợi lên sự ấm áp,
thân thiện của ngƣời với ngƣời nơi đây và hơn nữa thể hiện đời sống no ấm,
thanh bình và rất văn hoá của ngƣời dân tộc Thái. “Hạn khuống” còn là nơi
lƣu giữ những bản sắc văn hoá truyền thống quý báu của tộc ngƣời Thái:
Những câu chuyện cổ
Tục ngữ, tiếu lâm
Anh ngồi
Đắm say...
(Xa quê- La Quán Miên)
Các dân tộc Tây Bắc nói chung và ngƣời Thái nói riêng từ xa xƣa đã rất
ƣa thích múa. Điệu múa sạp là điệu múa phổ biến mà dân tộc nào cũng có (trừ
ngƣời Mông). Ngoài ra, mỗi dân tộc đều có những điệu múa mang bản sắc
văn hoá và phong cách độc đáo của dân tộc mình. Ngƣời Laha với điệu tăng
bu (dỗ ống) mềm mại, uyển chuyển trong tiếng đệm rộn ràng của một dàn ống
tre đục rỗng mắt; những vũ điệu lắc mông, lƣợn eo quyến rũ là “đặc sản” của
ngƣời Khơmú; điệu múa chuông nhịp nhàng, khoẻ khoắn của ngƣời Dao; sự
mạnh mẽ, khéo léo, tài hoa của ngƣời Mông trong điệu múa khèn truyền
thống và điệu xoè tinh tế, nồng say ngƣời Thái đã trở thành biểu tƣợng văn
hoá tiêu biểu của vùng Tây Bắc.
Ngƣời Thái có câu “Không xoè không tốt lúa. Không xoè thóc cạn bồ”.
Ở Tây Bắc, xoè đƣợc ví nhƣ loại rƣợu ƣớp men lá rừng, là một món ăn tinh
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
thần không thể thiếu trong sinh hoạt cộng đồng của ngƣời Thái, đặc biệt là
trong các dịp lễ, tết.
Khi khúc dân ca Thái “Inh lã ơi! Xao noọng ơi!” quen thuộc đƣợc cất
lên là bắt đầu một đêm xoè hoa rực rỡ. Ngƣời Thái có trên 30 điệu xoè nhƣng
trong đó xoè vòng là điệu xoè nổi tiếng nhất và đƣợc ƣa thích nhất. Xoè vòng
(tiếng Thái là Xoé voóng). Khi múa xoè, ngƣời ta cầm tay nhau múa du dƣơng
theo nhạc điệu nên xoè vòng còn có tên gọi Xoé khăm khen.
Trên một bãi đất rộng, mọi ngƣời - không kể tuổi tác, giới tính cùng nắm
tay nhau theo điệu xoè rộn rã. Xoè càng đông, vòng xoè càng rộng, không khí
càng tƣng bừng, náo nức, lúc chụm vào, lúc nở ra nhƣ những bông hoa rừng.
Khi tham gia vòng xoè, con ngƣời đƣợc gần nhau, đƣợc gắn kết với nhau.
Một trong những yếu tố làm nên sức hấp dẫn của múa xoè chính là sự dân giã,
mộc mạc, dễ múa, dễ hiểu và sức quyến rũ lạ kỳ của nhạc lý:
Nổi tiếng chiêng xoè múa khắp nơi
Nhạc chùm rung hoà với pi, hƣn
Quyện vào nhau thành âm thanh bất diệt.
(Mƣờng Muổi yên vui- Cầm Biêu)
Nhạc cụ để tạo nên âm thanh tƣng bừng ấy chính là công và cống, đây là
hai loại trống có tiếng trong, gọn và vang xa. Ngoài tiếng công và cống còn có
tiếng chiêng vang rộn rã tạo nên âm thanh lôi cuốn ngƣời xem và hào hứng
nhập cuộc. Khi tiếng công, cống, chiêng hoà vang đệm theo nhịp 2/4 tạo nên
không khí tƣng bừng của ngày hội bản làng, đặc biệt sự nhún nhảy của ngƣời
chơi tạo nên sự rạo rực, tăng thêm sức sôi động của vòng xoè.
Có thể nói, sự tao nhã của múa xoè là cách mời bạn xoè của các thiếu nữ
dân tộc Thái và phong tục mời rƣợu khi tham gia xoè. Trong bộ trang phục
“xửa cóm”, những hàng cúc bƣớm lóng lánh, nụ cƣời duyên dáng, bàn tay
mềm mại nâng chén rƣợu nồng, điệu múa xoè và các chủ nhân của nó đã làm
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
đắm say lữ khách phƣơng xa, tạo nên ấn tƣợng khó phai đối với ai từng một
lần tham gia xoè vòng:
Nhảy ngả nghiêng sƣờn núi
Uống trận rƣợu nghìn năm”
(Lời mời cô gái Thái- Cầm Hùng)
Là ngƣời trong cuộc, những nhà thơ dân tộc Thái hơn ai hết cảm nhận
đƣợc sự say nồng và sức hấp dẫn, quyến rũ của xoè vòng. Xoè vòng làm con
ngƣời gần nhau hơn, ai ai cũng muốn hoà mình vào vòng xoè nhƣng không
phải ai cũng mạnh dạn vƣợt qua rào cản, khoảng cách về tuổi tác, giới tính,
ngôn ngữ để đƣợc tận hƣởng sự sôi nổi và gần gũi ấy.... Vì vậy nhà thơ Cầm
Hùng đã cho rằng yếu tố quyết định làm cho mọi ngƣời chiến thắng đƣợc sự
rụt rè chính là nhờ “Lời mời cô gái Thái”. Những lời hát chân tình của các cô
gái Thái trong điệu múa xoè vòng quen thuộc là:
Vào đây anh
Tay cầm tay múa xoè cùng em
Kìa hội vui
Đôi tay ngà đón chờ ngƣời ơi!
Còn đối với nhà thơ dân tộc Dáy- Lò Ngân Sủn thì sức hấp dẫn của xoè
vòng đã làm ông rung động, ngất ngây nhƣ có “gió”, có “mây”, có “trăng”,
có “lửa” hiện ra từ vũ điệu Vòng xoè:
Gió thổi ra từ đôi chân,
Mây hiện ra từ điệu múa,
Lửa cháy lên từ rƣợu cần,
Trăng hiện lên từ ánh mắt,
Gái trai nhảy ra từ câu khắp.
Quấn chặt,
Vòng xoè.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
Nhƣ vậy, xoè vòng của ngƣời Thái là một đặc trƣng văn hoá truyền
thống, đóng vai trò quan trọng trong kho tàng múa dân gian cổ truyền. Múa
xoè là yếu tố thúc đẩy lao động, sản xuất phát triển. Sau những ngày lao động
vất vả, đêm đêm dƣới ánh trăng, bên ánh lửa bập bùng...trong không khí ấy,
con ngƣời quên đi những mệt nhọc, thấy yêu lao động, yêu cuộc sống. Xoè
vòng còn là nơi nam thanh, nữ tú dân tộc Thái gửi gắm tình yêu. Khi tham gia
vòng xoè, trai gái đƣợc gần nhau, đƣợc lựa chọn bạn xoè, thể hiện tình cảm
riêng tƣ...Vì vậy vòng xoè gắn kết tình cảm con ngƣời với nhau, làm cho
ngƣời gần ngƣời hơn, thân thiện hơn trong vòng tay nhân ái.
Ăn cơm với cá, mặc quần áo bằng vải, bằng tơ tằm do chính mình làm ra,
quây quần bên bếp lửa nhà sàn... là sinh hoá vật chất dung dị của ngƣời Thái.
Sự hài hoà và thế cân bằng trong sinh hoạt văn hoá vật chất ấy đã tạo nên sự
sinh động, phong phú của các hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần. Chính
những ƣớc mơ và khát vọng của lòng tin vào cái đẹp của cuộc sống đã chắp
cánh thành những lời ca, bài khắp bay bổng và bất tận. Ngƣời Thái khắp ở
nhà, khắp trên nƣơng, khắp ở ruộng đồng và trong những đêm trăng thanh,
trai, gái khắp đối đáp bên sàn “Hạn khuống”.
Không chỉ có lời khắp, những bƣớc nhảy, xoè vòng theo ánh lửa bập
bùng của trống chiêng, tay trong tay ngây ngất, lúng liếng quên mình bên hũ
rƣợu cần...đã cho thấy say nồng của tâm hồn Thái.
Những phong tục, tập quán ấy không chỉ thể hiện tín ngƣỡng hay là hệ
quả của lối sống định canh, định cƣ, hình thức lao động tập trung, bình
đẳng...mà nó thể hiện và khẳng định sự tài hoa, khéo léo của ngƣời Thái, đặc
biệt là ngƣời phụ nữ Thái. Ngƣời Thái tự hào bởi họ là tác giả của món xôi
dẻo thơm ngon, của cá nƣớng ngọt, bùi, của bộ trang phục “xửa cóm” “khăn
Piêu” duyên dáng, quyến rũ... Điều đó cho thấy dân tộc Thái là một dân tộc
có nền văn hoá, văn minh lâu đời và đời sống sinh hoạt, đời sống văn hoá tinh
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
thần phong phú, đa dạng, giàu bản sắc văn hoá. Đó là niềm tự hào của ngƣời
Thái nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.
* *
*
Nói tóm lại, thơ của các nhà thơ dân tộc Thái hiện đại đã thể hiện đƣợc
những cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của quê hƣơng, bản mƣờng và những
phong tục, tập quán của ngƣời Thái đến với đông đảo ngƣời đọc nhiều thế hệ.
Trƣớc hết, trong thơ Thái hiện đại, Tây Bắc – quê hƣơng của ngƣời Thái
hiện lên với vẻ đẹp rất đặc trƣng: những dãy núi cao, hùng vĩ; những ruộng
bậc thang xanh mƣớt nhƣ những “vành khăn êm ả”; những cao nguyên đồng
cỏ tƣơi đẹp, bao la; màu trắng bạt ngàn của loài hoa Ban báo hiệu một mùa
màng tƣơi tốt...Hoàn cảnh địa lý tự nhiên đã tạo cho Tây Bắc một khung cảnh
lãng mạn và hài hoà, hoang sơ mà hùng vĩ. Chính sự phong phú, đa dạng của
thảm thực vật, động vật đã giúp cho Tây Bắc trở nên trù phú và giàu có. Có
thể thấy, nền tảng địa lý, môi trƣờng tự nhiên là một trong những dấu hiệu gợi
ra các nguồn nghĩa mang tính đặc thù của vùng văn hoá Tây Bắc, mặc dù
không phải là yếu tố duy nhất, có tính quyết định đến sắc thái văn hoá, song
rõ ràng nó đã tham gia vào việc hình thành và tạo dựng nên những nét văn
hoá đặc thù của con ngƣời nơi đây.
Trong vai trò chủ thể, sống hoà hợp với thiên nhiên, cảnh quan môi
trƣờng sinh thái đã hình thành nên nét tính cách giản dị, chân thành, đáng yêu
của con ngƣời dân tộc Thái. Đại diện cho “chất vàng mƣời trong tâm hồn Tây
Bắc” (Nguyễn Tuân) là hình ảnh ngƣời phụ nữ Thái. Đó là những ngƣời phụ
nữ không chỉ xinh đẹp, duyên dáng mà còn rất chăm chỉ, đảm đang, tài hoa và
khéo léo. Những sản phẩm đƣợc làm ra từ bàn tay “hình búp ban” nhƣ nắm
cơm thơm dẻo, món cá nƣớng ngọt bùi, men rƣợu cần lâng lâng, ngây ngất
hay bộ trang phục truyền thống đã thể hiện sự đảm đang, tinh tế và tính thẩm
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
mĩ cao của ngƣời Thái. Nhìn ngƣời phụ nữ Thái uyển chuyển và thƣớt tha
trong bộ trang phục “xửa cóm” có hàng cúc bạc lấp lánh, chiếc “khăn Piêu”
rực rỡ sắc màu...ngƣời Thái đã khẳng định sự hiện hữu nổi bật của con ngƣời
trƣớc tự nhiên.
Ngoài việc phản ánh, miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, con ngƣời thì những
phong tục, tập quán đậm đà bản sắc Thái cũng thu hút sự quan tâm của các
nhà thơ Thái hiện đại. Ngƣời đọc cảm nhận đƣợc cuộc sống sinh hoạt rất
phong phú và đa dạng, độc đáo của ngƣời Thái qua những dòng thơ tràn cảm
xúc của Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Lò Văn Cậy, Lò Cao Nhum hay La
Quán Miên...
Từ nghi thức “thờ nƣớc (nặm), nƣớc có biểu tƣợng thần chủ (chảu) là
con rồng (tô luông) mang tên chủ nƣớc (chảu nặm)” [72] một mặt cho thấy
nét tƣơng đồng của dân tộc Thái với ngƣời Việt (Kinh), mặt khác cho thấy
dân tộc Thái có nền văn hoá lâu đời mà tiêu biểu là nền văn minh lúa nƣớc.
Tập quán trồng lúa nƣớc, trồng bông dệt vải hay nghề nuôi, đánh bắt cá làm
thức ăn, những phong tục lễ nghi: cúng cơm mới, “xên bản, xên mƣờng”, sinh
hoạt văn hoá văn nghệ dân gian...cũng xuất phát từ tín ngƣỡng “ăn theo
nƣớc” của ngƣời Thái.
Bên cạnh một đời sống lao động sản xuất khẩn trƣơng, tự chủ thì ngƣời
Thái có đời sống văn hoá tinh thần rất phong phú và đa dạng. Sau những ngày
lao động vất vả, để giao lƣu, giải trí, ngƣời Thái tụ họp, quây quần bên ánh
lửa bập bùng của sân chơi Hạn khuống hay tiếng cồng, tiếng chiêng rộn rã
của điệu xoè vòng. Đây là những hình thức sinh hoạt, văn hoá văn nghệ rất
tiêu biểu, đặc trƣng của ngƣời dân tộc Thái, mang bản sắc văn hoá Thái.
Những hình thức sinh hoạt văn nghệ đó không chỉ cho thấy ngƣời Thái có
một đời sống sinh hoạt và đời sống tinh thần phong phú, đa dạng và rất văn
minh mà còn thể hiện sự đoàn kết, tính cộng đồng, gắn kết con ngƣời với
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
nhau một cách bình đẳng, thân thiện... Vì vậy những phong tục, tập quán đậm
đà bản sắc của ngƣời Thái mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Đọc thơ Thái hiện đại, ngƣời ta có thể hiểu và cảm nhận đƣợc những giá
trị vật chất, tinh thần tiêu biểu mang “thƣơng hiệu” của ngƣời Thái, đó là gạo
nếp, là trang phục xửa cóm, là tác giả của điệu xoè, là chủ nhân của xứ sở hoa
Ban trắng. Tất cả những nội dung ấy đƣợc các nhà thơ Thái hiện đại thể hiện
trong cảm hứng trữ tình, ngợi ca với lòng tự hào sâu sắc về những nét đẹp của
bản sắc văn hoá dân tộc mình và đó cũng chính là mạch nguồn quan trong tạo
cảm hứng sáng tác cho các nhà thơ Thái.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
CHƯƠNG III
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA THƠ CA DÂN TỘC THÁI THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
Đƣợc nuôi dƣỡng trong chiếc nôi văn hoá giàu bản sắc, các nhà thơ dân
tộc Thái hiện đại đã kế thừa và vận dụng sáng tạo những tinh hoa văn hoá của
cha ông vào trong sáng tác của mình. Bên cạnh việc sử dụng những phƣơng
tiện nghệ thuật mới, hiện đại, các nhà thơ Thái hiện đại còn vận dụng những
câu ca dao, tục ngữ ...của văn học dân gian làm cho thơ Thái trở nên gần gũi
và giản dị. Ta có thể tìm thấy giai điệu du dƣơng của những làn điệu dân ca,
điệu “khắp” hay sự bay bổng của nhịp điệu xoè trong rất nhiều những câu thơ,
bài thơ. Hơn nữa, cách sử dụng ngôn ngữ truyện thơ để chuyển tải những nội
dung của cuộc sống hiện đại cũng tạo cho thơ Thái chất trữ tình sâu lắng.
Chính sự hoà quyện cảm quan nghệ thuật hiện đại với các yếu tố trữ tình
trong nghệ thuật dân gian Thái đã đem lại cho thơ Thái những nét độc đáo
riêng biệt, đó là tính truyền thống và hiện đại trong nghệ thuật thơ.
3.1. Sự ảnh hưởng của truyện thơ dân gian trong thơ ca Thái hiện đại
Thơ ca dân gian các dân tộc thiểu số hàm chứa bao nhiêu ý tình tinh tế,
mang nhiều sắc thái khác nhau của tâm hồn các dân tộc: Từ niềm vui tƣơi mát
hồn nhiên thể hiện bản chất tốt đẹp của ngƣời lao động đến nỗi niềm cay đắng
khổ đau về thân phận cực nhục trong xã hội cũ, đến ƣớc mơ cháy bỏng vƣơn
tới một cuộc sống tốt đẹp hơn...những tâm trạng phong phú đó đã đƣợc phô
diễn qua bao sinh hoạt hội hè, giao duyên và đƣợc trau chuốt, cô đọng lại
thành những lời thơ ý nhị sâu sắc trong kho tàng dân ca các dân tộc. Trên cơ
sở nền dân ca phong phú ấy, với sự phát triển của hiện thực xã hội và nhu cầu
sinh hoạt văn hoá tinh thần của nhân dân các dân tộc, các nghệ nhân dân gian
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
đã sáng tạo nên nhiều truyện thơ mang phong vị trữ tình đậm đà của lời thơ,
tiếng hát quen thuộc của nhân dân. Vì vậy, Giáo sƣ-Tiến sĩ N.I. Niculin đánh
giá “Truyện thơ bắt nguồn từ văn học dân gian, với tƣ cách là những thể loại,
chúng tạo thành một bộ phận đặc biệt tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam” [11,
tr.154].
Trong thể loại truyện thơ, truyện thơ trữ tình có giá trị nội dung và nghệ
thuật rất đặc sắc, gần với tâm hồn, tình cảm của con ngƣời. Mang những đặc
điểm chung của truyện thơ Việt Nam, truyện thơ trữ tình các dân tộc thiểu số
có kết cấu truyện: gặp gỡ (đôi bạn tình yêu nhau tha thiết)- ly tan ( tình yêu bị
tan vỡ, đôi bạn bị chia lìa do cha mẹ ép duyên, gả bán cô gái cho ngƣời khác)-
đoàn tụ (đôi bạn tình tìm cách thoát khỏi những ngang trái và cùng xây dựng
hạnh phúc trăm năm). Mặc dù đây là môtíp quen thuộc nhƣng nó không tạo
cảm giác nhàm chán đối với ngƣời đọc, mà ngƣợc lại, có sức hấp dẫn lớn bởi
kết cấu truyện độc đáo, giàu kịch tính. Vì là “truyện” kể nên truyện thơ có
yếu tố sự kiện, chi tiết, hành động đƣợc khắc hoạ đậm nét, nhƣng là “truyện
thơ” nên ngôn ngữ kể chuyện đƣợc gọt giũa thành lời thơ. Truyện thơ là sự
hoà quyện rất hiệu quả của truyện trong thơ và thơ trong truyện. Yếu tố tự sự
và trữ tình kết hợp hài hoà tạo sự hấp dẫn riêng biệt cho truyện thơ.
Do đƣợc “kế thừa và phát triển truyền thống tự sự và trữ tình của truyện
cổ và thơ ca dân gian” [32, tr.819] nên ngôn ngữ truyện thơ có tính hàm súc
của tục ngữ, nét trữ tình của ca dao và sự lãng mạn, huyền thoại của cổ
tích,...mặt khác nó cũng “tiếp thu ảnh hƣởng của nền văn hoá bác học” [32,
tr.819] cho nên nghệ thuật truyện thơ nói chung và ngôn ngữ truyện thơ nói
riêng trau chuốt hơn, hoàn thiện hơn. Chính vì vậy, truyện thơ có sức hấp dẫn
mạnh mẽ với ngƣời đọc và có ảnh hƣởng sâu sắc đến những thể loại phát triển
sau nó.
Truyện thơ các dân tộc thiểu số đã đánh dấu bƣớc phát triển cao của văn
học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam. Những truyện thơ tiêu biểu là Út
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
Lót - Hồ Liêu (dân tộc Mƣờng), Nam Kim - Thi Đan, Đính Quân (dân tộc
Tày- Nùng), Tiếng hát làm dâu (dân tộc Mông) và đặc biệt truyện thơ Xống
chụ xôn xao (Tiễn dặn ngƣời yêu) là đỉnh cao của văn học dân gian Thái và là
tác phẩm tiêu biểu của thể loại truyện thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Tiếp thu truyện thơ dân gian, các nhà thơ Thái hiện đại đã đem đến cho
thơ ca Thái một “không khí” truyện thơ mới. Trong rất nhiều các sáng tác của
các nhà thơ Thái hiện đại, ngƣời đọc không mấy khó khăn để tìm ra dấu ấn
truyện thơ, bởi việc “thuộc lòng Xống chụ xôn xao, Tản chụ xống xƣơng, Tản
chụ xiết xƣơng” [11, tr.548] nên việc ảnh hƣởng, tiếp thu truyện thơ vào sáng
tác là điều dễ hiểu.
Với các nhà thơ dân tộc Thái nói riêng và ngƣời Thái nói chung thì
những truyện thơ nhƣ Xống chụ xôn xao (Tiễn dặn ngƣời yêu) đã ăn sâu vào
máu thịt của họ, trở thành niềm tự hào và kiêu hãnh của họ, do vậy, trong
nhiều bài thơ hiện đại của dân tộc Thái, chất tâm tình của truyện thơ hiện lên
rất rõ nét:
Hỡi anh ơi! Ngƣời chồng em ngàn năm yêu dấu
Nghĩ tới anh, em những héo hon lòng.
(Vợ lính nguỵ mong chồng- Cầm Biêu)
Còn trong truyện thơ Tiễn dặn ngƣời yêu:
Đừng vội, anh, đừng vội
Sao Khun Lú trên trời còn đợi
Áng mây kia vƣơng vấn vẫn chờ
Đôi ta xa nhau, dằng dặc niềm thƣơng nối nhớ.
Quả thật, nếu đặt câu thơ trên một cách độc lập (không ghi tên tác giả)
thì khó có thể nhận biết đƣợc đây là một sáng tác của nhà thơ Thái hiện đại
vào những năm 50 của thế kỷ XX.
Không chỉ có Cầm Biêu mà với La Quán Miên và nhiều nhà thơ Thái
hiện đại khác, thể loại truyện thơ với những đặc trƣng tiêu biểu của nó cũng
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
có sức hấp dẫn rất lớn đối. Nếu nhƣ trong truyện thơ Tiễn dặn ngƣời yêu, tác
giả dân gian diễn đạt lời dặn dò, nhắn gửi ngƣời thƣơng của mình là: “Duyên
bản đừng úa. Tình mƣờng chớ phai” thì trong Tiễn dặn ngƣời trai bản, nhà
thơ Thái hiện đại cũng sử dụng ngôn ngữ tiễn dặn, nhắn nhủ gần gũi với
truyện thơ:
Thấy sông đừng quên suối
Nghe nƣớc mát chớ phụ nƣớc trong.
(La Quán Miên)
Với cách sử dụng ngôn ngữ giàu chất biểu cảm của truyện thơ, tác giả đã
cho thấy cách diễn đạt hết sức quen thuộc của trai, gái Thái khi tiễn biệt. Đó
đều là lời dặn dò, nhắn nhủ về sự chung thuỷ trƣớc sau nhƣ một của kẻ ở,
ngƣời đi, có khác chăng chỉ là ở vị trí của ngƣời phát ngôn và ngƣời nhận tin
mà thôi (ở Tiễn dặn ngƣời yêu, “Anh yêu” là ngƣời nhắn nhủ “Em yêu”, còn
trong thơ ca Thái hiện đại thì phát ngôn trên là của cô gái “Tiễn dặn ngƣời
trai bản”.
Đặc biệt, trong Tâm tình trƣớc ngày tạm biệt thì cách diễn đạt, kể lể cũng
giống nhƣ Tiễn dặn ngƣời yêu:
Tạm biệt em, em hỡi, lòng đừng úa
Chớ cho lời ta bay theo gió, lòng ta sẽ buồn.
(Lò Văn Cậy)
“Duyên đừng úa” hay “lòng đừng úa” là cách diễn đạt rất gần gũi với
nhau (tuy không đồng nhất là một) nhƣng rõ ràng cả hai lời nhắn gửi ấy đều
có nội dung là: hãy giữ lời thề thuỷ chung, son sắc, vẹn nghĩa vẹn tình.
Ngoài việc đƣa chất tâm tình thủ thỉ và cách diễn đạt của truyện thơ dân
gian vào trong sáng tác, các nhà thơ Thái hiện đại còn sử dụng ngôn ngữ kể
chuyện, biện pháp liệt kê của truyện thơ một cách linh hoạt, hiệu quả:
Rồi từ từ hiện lên ngôi sao ông ngoại
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
Rồi từ từ hiện lên ngôi sao ông nội...
(Ngã ba suối- Lò Cao Nhum)
Hay cách lặp từ để gây ấn tƣợng dứt khoát nhƣ trong Đất của Lƣơng Quy
Nhân:
Đất bằng một sợi tóc cắt vuông, không buông!
Đất bằng một hạt cát bẻ đôi, không nhƣờng!
Cách sử dụng dân ca vào thơ cũng gây hiệu quả rất lớn cho thơ Thái, đó
là những câu thơ giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh:
Gái nhộn nhịp cùng lứa hoa vông, ta ơi!
Trai xốn xang cùng mùa hoa gạo, ta hỡi.
(Bến thuyền quê mẹ- Lò Văn Cậy)
Chất trữ tình sâu lắng, nghe nhƣ ngâm, nhƣ hát “ta ơi, ta hỡi” rất gần gũi
với những trƣờng đoạn tâm tình, tiễn dặn của truyện thơ dân gian:
Chào gái cùng trai đang thời sen ngó,
Chào bốn mặt đan mau, sàn khuống nhỏ.
Có thể thấy rằng, truyện thơ dân gian có ảnh hƣởng rất lớn đối với thơ ca
Thái hiện đại. Ngoài những bài thơ, câu thơ của các nhà thơ Cầm Biêu,
Lƣơng Quy Nhân, Lò Văn Cậy, La Quán Miên hay Lò Cao Nhum... thì
Vƣơng Trung là nhà thơ có sự kế thừa rõ nét nhất thể loại này qua truyện thơ
Ing-Éng.
Tiếp nối truyền thống văn học dân gian, Vƣơng Trung đã sáng tác truyện
thơ Ing- Éng bằng tiếng Thái và dịch sang tiếng Việt. Đây là câu chuyện kể về
mối tình của đôi thanh niên Thái, gắn bó với nhau từ thủa còn thơ. Ing đi bộ
đội để gìn giữ sự yên bình cho bản làng. Trong thời gian đó, Éng ở nhà bị cha
mẹ ép gả lấy Lò Oan. Để giữ vẹn lời thề, chung thuỷ với bạn tình, Éng trốn
gia đình đi nông trƣờng. Lò Oan tìm mọi cách chia rẽ tình yêu của Ing và
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
Éng. Ing và Éng gặp lại nhau ở nông trƣờng và họ hiểu ra âm mƣu thâm độc
của Lò Oan, họ càng yêu nhau tha thiết hơn và hứa hẹn trăm năm hạnh phúc.
Về kết cấu thể loại, nhà thơ dân tộc Thái hiện đại -Vƣơng Trung đã kế
thừa và vận dụng kết cấu truyện thơ nhƣ Xống chụ xôn xao, Khum lú- Nàng
Ủa, Tản chụ xiết sƣơng… vào Ing- Éng. Đọc tác phẩm, ta thấy có nhiều nét
gần gũi so với truyện thơ dân gian, đặc biệt là Tiễn dặn ngƣời yêu. Nếu “Anh
yêu” và “Em yêu” trong Tiễn dặn ngƣời yêu:
... nhƣ gốc cải xanh
Công cha mẹ nuôi lớn cùng thời
Yêu nhau từ thủa mới ra đời
Trao duyên, gửi nghĩa từ ngày càng thơ.
Thì Ing và Éng cũng gắn bó với nhau “nhƣ dƣa sinh ra leo cùng giàn”,
thủa nhỏ ngồi “cùng lớp, cùng bàn”, cùng “đến trƣờng thầy”, lớn lên “cùng
ghế mây gốc sàn nhà mẹ”. Ing- Éng cũng phải trải qua những trắc trở, sóng
gió trong tình yêu và cuối cùng cũng đƣợc đoàn tụ giống nhƣ “Anh yêu” và
“Em yêu” trong Tiễn dặn ngƣời yêu.
Trong tác phẩm Ing- Éng, cũng có những trƣờng đoạn “tiễn dặn”, tuy
không phải “tiễn dặn” ngƣời yêu đi lấy chồng nhƣ trong Tiễn dặn ngƣời yêu
nhƣng rõ ràng, dấu ấn truyện thơ dân gian đã thấm nhuần trong Ing- Éng:
Còn thƣơng nhau xin sắp gối riêng chờ
Duyên phận mai sau hoặc sẽ có ngày thoả nguyện.
(Xống chụ xôn xao)
Thấy mía ngọt đừng khát,
Gặp áo mới ngƣời khác đừng thay...
Đừng bay theo lời ngọt ngƣời quyến.
(Ing- Éng)
Không chỉ ở kết cấu mà ngôn ngữ truyện thơ Ing –Éng cũng rất gần gũi
với Tiễn dặn ngƣời yêu. Thậm chí có nhiều đoạn tác giả Vƣơng Trung không
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
gọi tên nhân vật của mình mà dùng đại từ phiếm chỉ “Anh yêu” giống nhƣ
trong Tiễn dặn ngƣời yêu:
Nhớ tới lời Anh yêu
Anh đi phƣơng nào hãy nhìn phƣơng đó!
Trong truyện thơ Ing –Éng, tác giả còn sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục
ngữ trong kho tàng văn học dân gian nói chung và trong truyện thơ dân gian
nói riêng nhƣ: “Rào bền, mƣơng mới tốt. Phai chắc, lúa mới xanh” hay cách
diễn đạt mang đậm tƣ duy của ngƣời Thái:
Không bao giờ chỉ thêu sờn trƣớc vải
Duy có khăn phơi nhiều gió bay
Với ngƣời Thái, khăn Piêu là vật ký thác tâm trạng và là kỷ vật của tình
yêu. Vì vậy, để nói đến sự thay lòng đổi dạ của con ngƣời, nhân vật Éng
không dùng cách nói thẳng mà hay mƣợn hình ảnh “khăn thêu hoa đã phai
chỉ” để nói đến sự phai nhạt trong tình yêu.
Cách so sánh, ví von trong truyện thơ dân gian cũng đƣợc nhà thơ Thái
hiện đại- Vƣơng Trung sử dụng rất hiệu quả:
Để nói về nỗi nhớ thì nhà thơ so sánh “lòng anh nhƣ rau cải phơi giữa
nắng” hoặc “nhƣ sông nhớ cá”, “nhƣ ruộng nhớ lúa vàng thơm”...
Hoặc khi nói đến sự trắc trở trong tình yêu, nhà thơ cũng không nói
thẳng mà ví von rất giàu hình ảnh, độc đáo, ấn tƣợng theo cách diễn đạt rất tế
nhị và không kém phần lãng mạn của ngƣời Thái: “Nay quạ đen đến xoè cánh
che ánh trăng ta”...
Tuy kế thừa thể loại truyện thơ trong văn học dân gian nhƣng truyện
thơ của Vƣơng Trung ít sử dụng những thủ pháp khoa trƣơng, phóng đại
nhƣ trong truyện thơ dân gian. Ông viết về những con ngƣời đời thƣờng,
những vấn đề của hiện thực với sự dung dị trong cách khắc họa chân dung,
tính cách nhân vật:
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
Dù ngƣời khác mặc áo đỏ cánh kiến
Không bằng ngƣời yêu mặc áo nhuộm chàm
Đã yêu ăn rau dền thay bữa
Không yêu, uống rƣợu càng đắng tim gan...
(Ing- Éng)
Còn ở Tiễn dặn ngƣời yêu, thủ pháp phóng đại đƣợc sử dụng rất phổ
biến:
Goá hai lần, goá ba lần
Goá vẫn tƣơi giòn, đỏ đắn
Goá đẹp hơn hồi con gái trắng ngần
Goá đẫy đà hơn thiếu nữ đang xuân”...
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, thể loại truyện thơ dân gian không chỉ có sức
hấp dẫn đối với các nhà thơ thuộc giai đoạn đầu của thơ Thái hiện đại nhƣ
Cầm Biêu hay Lƣơng Quy Nhân, Vƣơng Trung... mà với La Quán Miên và
đặc biệt là Lò Cao Nhum- một nhà thơ trẻ xuất hiện sau năm 1975, không khí
truyện thơ vẫn ăn sâu và lan toả trong các sáng tác. Việc vận dụng linh hoạt,
có hiệu quả những đặc trƣng của truyện thơ đã tạo cho thơ Thái hiện đại nét
đặc sắc và độc đáo, đó là tính truyền thống-hiện đại đƣợc kết hợp rất hài hoà.
Qua thơ ca Thái (đặc biệt là ở truyện thơ Ing- Éng của Vƣơng Trung), ngƣời
ta không chỉ thấy những giá trị văn học của quá khứ xa xăm đang hiện về (ca
dao, tục ngữ, truyện cổ tích....) mà còn có thể thấy đƣợc những nét phong tục,
tập quán, tín ngƣỡng của ngƣời Thái (tục trồng lúa nƣớc, bắt cá, lễ hội dân
gian, tục ở rể...) và cả cách tƣ duy, diễn đạt, ví von của ngƣời Thái.
Với những thế mạnh của mình nhƣ ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu,
cách kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn, kết cấu truyện đầy kịch tính...truyện thơ và
những đặc trƣng thể loại của nó trong thơ ca Thái hiện đại đã thêm một lần
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
nữa khẳng định sự hấp dẫn và sức sống mạnh mẽ, dẻo dai của mình trong đời
sống văn nghệ cộng đồng.
3. 2. Sự vận dụng sáng tạo và hiệu quả vốn tục ngữ, ca dao Thái
Ca dao, dân ca, tục ngữ Việt Nam nói chung và ca dao, tục ngữ Thái nói
riêng có giá trị về nhiều mặt. Vì đƣợc đúc kết từ đời sống cộng đồng của dân
tộc nên nó thể hiện rõ nét lời ăn, tiếng nói, cách cảm cách nghĩ và trí tuệ của
nhân dân. Vì vậy, việc tìm hiểu sự ảnh hƣởng của ca dao, tục ngữ Thái trong
thơ ca Thái hiện đại là một trong những phƣơng thức để tìm ra bản sắc văn
hoá dân tộc Thái trong thơ ca Thái hiện đại.
Bên cạnh truyện thơ, các nhà thơ Thái hiện đại cũng chú ý đến việc vận
dụng tục ngữ Thái để tăng tính hàm súc cho câu thơ.
Phần lớn các nhà thơ Thái nhƣ Cầm Biêu, Lò Văn Cậy, Vƣơng Trung,
La Quán Miên đều vận dụng tục ngữ trong sáng tác của mình....Trong đó,
Lƣơng Quy Nhân là nhà thơ sử dụng nhiều và có hiệu quả tục ngữ dân gian
vào trong thơ hiện đại.
Theo quan niệm của ngƣời Thái, đất là tài sản vô giá của con ngƣời. Có
đất, con ngƣời sẽ sinh tồn, vì vậy, tục ngữ Thái có câu:
Còn đất còn ruộng
Còn ngƣời còn của
Từ quan niệm của dân gian: có đất, sẽ có ruộng, có ruộng sẽ có gạo,
nhà thơ Thái hiện đại đã vừa rút ngắn vừa mở rộng tƣ tƣởng ấy và diễn đạt
bằng một hình ảnh thơ rất độc đáo:
Đất mở mắt, thành gạo
Đất quỳ gối, thành nhà.
(Đất- Lƣơng Quy Nhân)
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
Hoặc cũng xuất phát từ quan niệm của ngƣời Thái là rất coi trọng ruộng
lúa và sông suối, vì đây là nơi cung cấp lƣơng thực, thức ăn cho con ngƣời
(theo phong tục tập quán trồng lúa làm lƣơng thực và đánh bắt cá làm thức
ăn) nên ngƣời Thái có câu tục ngữ :
Đƣợc nắm xôi ngon chớ quên ruộng
Đƣợc khúc cá bùi chớ quên suối
Nhà thơ Thái hiện đại đã vận dụng câu tục ngữ ấy và diễn đạt theo cách
của riêng mình: Đƣợc lúa chớ quên ruộng.
Đƣợc cá chớ quên nơm
(Ơn Đảng- Lƣơng Quy Nhân)
Hoặc để góp phần tô đậm bản sắc dân tộc cho thơ, Lƣơng Quy Nhân đã
không ngần ngại sử dụng gần nhƣ nguyên vẹn một câu tục ngữ Thái để tăng
hiệu quả nghệ thuật cho thơ mình.
Ví dụ, tục ngữ Thái có câu:
Cá sấy không trở lại đẻ
Gà sấy không trở lại gáy”
Thì khi nói đến sự hồi sinh của con ngƣời nhờ có ánh sáng của cách
mạng, nhà thơ viết:
Bây giờ thì dƣờng nhƣ
Cá sấy khô biết đẻ
Gà sấy khô biết gáy...
(Gọi cả nhà ăn cơm)
Trong Biên giới lòng ngƣời, nhà thơ Lƣơng Quy Nhân sử dụng rất
nhiều tục ngữ Thái trong một bài thơ:
- Chúi cổ, luồn rào, miệng ngậm lửa.
- Than hồng dấu trong nẹp áo.
- Giặc miệng ngọt, lòng đắng.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
- Trƣớc mặt cƣời, múa dao sau lƣng.
Hay La Quán Miên cũng viết:
Ngoài miệng- đừng bôi mỡ
Trong bụng- đừng giấu chông
(Ngôi nhà sàn của tôi)
Có thể nhận thấy cách diễn đạt của Lƣơng Quy Nhân và La Quán Miên
đều đƣợc lấy trong câu tục ngữ quen thuộc của ngƣời Thái:
- Lời nói ở đầu lƣỡi, đắng ngọt ở đấy cả.
- Sông sâu vẫn đo đƣợc đáy, lòng ngƣời không đo đƣợc.
- Nhím cắm gai ngoài da, ngƣời cắm gai trong bụng.
Nhà thơ Thái hiện đại đã mƣợn ý tứ từ những câu tục ngữ trong dân gia
để nói đến sự “nông, sâu”, phức tạp của lòng ngƣời. Với cách nói hình ảnh
nhƣ “Than hồng dấu trong nẹp áo” hay “Miệng- bôi mỡ”, “Bụng- vót chông”
đã làm tăng tính hàm súc và ý nghĩa của câu thơ.
Cũng giống nhƣ thể loại tục ngữ, vốn cao dao- dân ca dân gian Thái
cũng đƣợc các nhà thơ Thái hiện đại vận dụng khá phổ biến và hiệu quả.
Để nhấn mạnh đến nguồn gốc cùng giống nòi và tính đoàn kết của cộng
đồng ngƣời Thái, ca dao Thái có câu:
Ở khác bản nhƣng cùng chung một tỉnh
Ở khác phƣờng nhƣng đều là một giống
Ở dƣới suối nƣớc chảy nhƣng đều chung một dòng
Từ ý tứ của câu ca dao trên, nhà thơ Thái hiện đại cũng phát huy vốn ca
dao, dân ca giàu có của mình trong bài thơ “Nam Bắc một nhà” nhƣng trên
tinh thần mở rộng hơn, hiện đại hơn khái niệm “giống nòi”.
Đôi ta dù khác bản nhƣng chung mƣờng,
Dù khác phƣơng nhƣng cùng chung đất nƣớc.
(Cầm Biêu)
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
Trong văn học dân gian Thái có rất nhiều câu ca ngợi đôi bàn tay khéo
léo của ngƣời Thái, đặc biệt là ngƣời phụ nữ Thái, nhƣ:
Úp bàn tay nên hoa
Ngửa bàn tay thành bông
Vƣơng Trung cũng ca ngợi đôi bàn tay khéo léo của ngƣời phụ nữ Thái
hiện đại trong việc trồng lúa:
Ngửa bàn tay thành sao tua rua.
Bay lấp lánh cánh đồng rộng rãi.
(Hội cấy thi)
Lò Cao Nhum cũng cảm nhận đƣợc sự tài hoa đến tài tình của ngƣời phụ
nữ Thái Bàn tay:
Bàn tay đan,
Thành bông thành vải...
Bàn tay vung,
Ra trái ra cơm...
Bàn tay xoè,
Ánh bạc ánh vàng.
Còn trong dân ca Thái thì sự khéo léo của đôi bàn tay cũng đƣợc ca ngợi
trên thủ pháp phóng đại, đôi bàn tay ngƣời phụ nữ nhƣ có phép lạ nhiệm màu:
Đụng vào khung cửu vải thành hoa.
Tung nắm tấm thành ra đàn gà.
Khua cái chầy hoa ra gạo trắng.
Đụng vào cỏ thì cỏ chết nắng.
Vuốt lên lúa, bụi lúa ra bông”
Sầm Nga Di cũng rất lãng mạn với cái nhìn dân gian về đôi bàn tay khéo
léo: Khi em xoè tay trái
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
Vải nhiều tấm quẳng ra
Chân váy nở nhiều hoa...
Em xoè bàn tay phải
Gà tục tác đẻ trứng tròn”
(Cổ tay tròn đuôi cá)
Ngoài ra, trong thơ Thái hiện đại còn bắt gặp nhiều câu ca dao, tục ngữ
đƣợc vận dụng trong thơ, trong Nam Bắc một nhà (Cầm Biêu) có 5/ 14 câu
thơ đƣợc lấy từ nguyên văn dân ca Thái, thậm chí bài Nhớ bản cũ của ông
cũng đƣợc nâng cao từ dân ca Thái.
Đối với mỗi ngƣời dân tộc Thái nói chung và nhà thơ Thái hiện đại nói
riêng thì những giá trị văn hoá truyền thống của cha ông nhƣ ca dao, dân ca,
tục ngữ...là “gia phả”, “gia tài”, là tài sản vô giá, không “bạc vàng nào sánh
nổi” của tộc ngƣời. Nói nhƣ La Quán Miên, mỗi lần tiếp xúc với những giá trị
truyền thống ấy, “hồn” ngƣời lại về với “tổ tiên” từ thủa cha ông xây bản, lập
mƣờng. Chính vì vậy, trong thơ Thái hiện đại, các nhà thơ rất chú ý vận dụng
linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả những câu ca dao, tục ngữ vào trong thơ.
Việc vận dụng nguyên vẹn hoặc một phần ý tƣởng của những câu tục
ngữ, ca dao, dân ca trong văn học dân gian Thái vào trong thơ Thái hiện đại-
một mặt, nó tái hiện một cách sinh động cách tƣ duy, diễn đạt, phong tục, tập
quán hay quan niệm của ngƣời Thái về lao động, quan hệ xã hội, giao tiếp
ứng xử ...của con ngƣời, mặt khác, làm tăng tính hàm súc, biểu cảm cho thơ,
làm cho thơ Thái hiện đại gần gũi, dễ hiểu, dễ đi vào lòng ngƣời và tạo nên
bản sắc dân tộc đậm đà cho thơ Thái hiện đại.
3.3. Một số đặc điểm của ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ ca Thái hiện đại
Đƣợc sinh ra và lớn lên từ những miền quê giàu truyền thống văn hoá,
các nhà thơ Thái hiện đại nhƣ Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Hoàng Nó, Lò
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
Văn Cậy, Vƣơng Trung, Lò Vũ Vân, La Quán Miên, Lò Cao Nhum ... là
ngƣời con của bản mƣờng, đƣợc nuôi dƣỡng và bồi đắp “Từ giọt máu hồng
mẹ đẻ ra. Cùng một bầu sữa mẹ nuôi sống ”. Hơn ai hết, các nhà thơ dân tộc
Thái luôn ý thức việc giữ gìn những bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Vì
vậy, phần lớn sáng tác của họ mang đậm cách nghĩ, cách cảm của ngƣời Thái
thông qua việc đƣa lời ăn, tiếng nói hàng ngày, cách so sánh ví von độc
đáo...làm cho ngôn ngữ thơ Thái hiện đại vừa mộc mạc, giản dị vừa giàu sức
biểu cảm, nhiều nhạc điệu, hình ảnh sinh động, giàu chất liên tƣởng, so sánh...
Nhƣ đã biết, phần lớn các nhà thơ Thái hiện đại sáng tác thơ bằng tiếng
dân tộc mình sau đó dịch sang tiếng phổ thông. Chính vì vậy, các tác phẩm
thể hiện rất rõ những cách diễn đạt, tƣ duy của ngƣời Thái. Trong thơ Thái
hiện đại, cả trƣớc và sau giai đoạn 1975, một đặc điểm nổi bật là thơ có ngôn
ngữ mộc mạc, dễ hiểu, nhƣ tính cách chân thành, giản dị của ngƣời dân tộc
Thái:
Làm phúc không mong đền công
Làm ơn không mong trả lãi
Trồng cây ven đƣờng
Cả mình hƣởng bóng râm
(Làm phúc- Cầm Biêu)
Đọc Hạt tình của Lò Văn Cậy thì cũng dễ dàng nhận ra tính cách khảng
khái, thẳng thắn của ngƣời Thái qua những từ ngữ rất mộc mạc:
Chuyện mẹ đi xin muối
Đến cầu thang nhổ bọt
Tốc cả váy lên hông
Đớp gan mày thì có!
Đổi đầu mày thì có.
Nhà thơ với cách sử dụng những động từ gây ấn tƣợng mạnh nhƣ
“tốc”, “đớp”... đã thể hiện tính cách bộc trực thẳng thắn và cƣơng quyết của
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
ngƣời Thái trƣớc quân xâm lƣợc, dù đói khát, đặc biệt là “đói muối” cũng
không chịu luồn cúi trƣớc kẻ thù. Cũng với ngôn ngữ thơ mộc mạc nhƣ lời ăn
tiếng nói hàng ngày ấy, La Quán Miên cho ngƣời đọc thấy cách thể hiện tình
cảm rất riêng của ngƣời Thái:
Bụng ta thƣơng mày lắm...
Cái máy bay thằng Mỹ
Ném bom xuống, bom to nhƣ cái chum
Bản nhà sàn của ta ăn lửa...
Bụng ta thƣơng hung.
(Tiễn dặn ngƣời trai bản)
Từ việc sử dụng cách xƣng hô “ta- mày” và cách nói “bụng ta
thƣơng”, cách diễn đạt “bản nhà sàn của ta ăn lửa” đã cho thấy việc đƣa
ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày vào thơ tạo ấn tƣợng gần gũi, thân tình, dễ tiếp
nhận đối với ngƣời đọc. Ngƣời Thái hay mƣợn “cái bụng” để nói lên tấm
lòng, tình cảm, suy nghĩ, mong muốn....của mình “Nếu anh nhƣ bụng em.
Muốn bên anh suốt đời...” (Sầm Nga Di) cho thấy cách diễn đạt tình cảm
không thể lẫn vào đâu đƣợc của ngƣời Thái.
Trong thơ dân tộc Thái hiện đại, có rất nhiều những bài thơ có nhan đề
ngắn gọn chỉ có từ một đến hai chữ, Lƣơng Quy Nhân có “Núi”, “Dốc”,
“Gió”, “Sao”, “Đất”, “Nƣớc”, “Rừng”..., Cầm Biêu cũng có không ít
những bài thơ có nhan đề nhƣ thế: “Bữa ăn”, “Bụi”, “Sách”, “Mới”, “Điện,
Đèn, Đóm”...hoặc “Đông”, “Xuân”, “Khát”, “Biển”... của Lò Vũ Vân.
Ngoài việc đơn giản, gọn nhẹ từ việc đặt nhan đề cho tác phẩm, họ cũng tinh
giản tối đa những câu chữ để tạo sự dễ hiểu, dễ thuộc, dễ nhớ hoặc để diễn tả
dụng ý của mình:
Sàn đầu bản.
Có thiếu phụ nhớ chồng.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
Trăng.
Vô tình.
Mặc sức sáng.
(Áo chồng- Lò Cao Nhum)
Ta cũng có thể tìm thấy ngôn ngữ diễn đạt, truyền tải ngắn gọn, mộc
mạc, đơn giản ấy trong Vô đề”, “Hƣơng núi”, “Tự khúc” (Lò Vũ Vân), “Chỉ
có một tình yêu”, “Đã đi là tới”, “Nhớ” (Lƣơng Quy Nhân)... hay “Nữ bây
giờ”, “Ngƣời mẹ”...(Lò Văn Cậy)
Chính cách vận dụng những lời ăn tiếng nói hàng ngày vào trong thơ,
cách sử dụng từ ngữ gắn gọn, dễ hiểu...đã tạo cho thơ Thái sự mộc mạc, giản
dị, sự súc tích, ngắn gọn. Tuy không cầu kỳ, rƣờm rà nhƣng ngôn ngữ thơ
Thái không quá đơn giản, mà ngƣợc lại, nhiều bài thơ, câu thơ có tính triết lý,
trí tuệ sâu sắc:
Vì ngƣời đi bằng đầu,
Chứ không phải bằng chân.
Muốn chân khỏi vấp váp,
Phải chững chạc cái đầu.
(Cái đầu, cái chân- Cầm Biêu)
Với cách diễn đạt“ngƣời đi bằng đầu” chứ “không phải bằng chân”
nghe có vẻ mâu thuẫn, phi lý, ngƣợc đời nhƣng ngôn ngữ biểu hiện ở đây
đã cho thấy sự “đi” này không phải là di chuyển vật lý đơn thuần mà là sự
“đi” của con ngƣời trong “đƣờng đời”. Con ngƣời có vững vàng, cứng cáp,
không bị “vấp váp” đều là do “cái đầu” tức là bản lĩnh, trí tuệ của con
ngƣời quyết định.
Cũng cùng với cách nói ấy trong Chỉ cần một loại ngƣời, nhà thơ Thái
hiện đại đã phát huy tối đa và hiệu quả sự mộc mạc của ngôn ngữ, đƣa ngôn
ngữ thơ đến tính triết lý sâu sắc:
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
Chỉ cần một loại ngƣời.
Có một bộ óc sáng,
Và một trái tim vàng,
Trí óc có gân tay,
Bàn tay có nếp nhăn của não.
(Chỉ cần một loại ngƣời- Cầm Biêu)
Câu thơ “Trí óc có gân tay. Bàn tay có nếp nhăn của não” đã lột tả rõ
nét và sâu sắc tƣ tƣởng của nhà thơ Cầm Biêu nói riêng và quan niệm của
ngƣời Thái nói chung về giá trị của con ngƣời. Sức mạnh của con ngƣời chính
là bộ óc và đôi bàn tay, lao động trí óc và lao động chân tay đƣợc kết hợp một
cách hài hoà sẽ tạo hiệu quả rất lớn trong lao động. Khi một đôi bàn tay trí tuệ
“có nếp nhăn của não” cộng với một “trái tim” nhân hậu là khi con ngƣời trở
thành “ngƣời” nhất.
Bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ đời thƣờng và cách diễn đạt rất thẳng
thắn, mộc mạc, trong thơ Thái hiện đại cũng có không ít bài thơ có giàu tính
biểu cảm do thói quen “nói những lời có vần” của ngƣời dân tộc thiểu số nói
chung và ngƣời Thái nói riêng:
Bạn lên thăm một tháng
Thăm chƣa hết 23 dân tộc anh em
Bạn đến một tháng
Trèo chƣa hết cây thang nhà sàn lợp cỏ của tôi
Bạn ở một tháng
Chƣa đếm hết hƣơu nai trong rừng
Bạn chờ một tháng
Chƣa kịp thở nếm hƣơng thơm trong lành đất trời…
(Nhắn bạn- Lƣơng Quy Nhân)
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
Bài thơ nhƣ một lời mời, lời nhắn gửi đến các dân tộc anh em nhƣng
đồng thời cũng là lời giới thiệu về sự trù phú, tƣơi đẹp, hấp dẫn của quê
hƣơng ngƣời Thái. Cách sử dụng từ ngữ giàu sức biểu cảm, tạo hình đã thể
hiện sự tinh tế, khéo léo, lãng mạn và bay bổng trong cách diễn đạt của ngƣời
Thái.
Hoặc với những đề tài “không mấy chất thơ” nhƣ “cái chổi”, “ cái sọt
rác”, Cầm Biêu cũng thổi vào đó cách diễn đạt mới mẻ, tinh tế:
Cái sọt rơm
Cái sọt rác...
Việc nhọc nhằn không chút kêu ca
Tròn nhiệm vụ, sọt rác nở hoa
(Cái sọt rác)
Ngoài tính hàm súc, tính biểu cảm thì ngôn ngữ thơ Thái còn rất giàu
nhạc điệu do các nhà thơ tiếp thu ngôn ngữ truyện thơ và ảnh hƣởng của
những làn điệu dân ca, đặc biệt là điệu “khắp”.
“Gần nhau tay có hai tay” của Cầm Cƣờng giống nhƣ một lời dân ca
trong thơ ca dân gian:
Gần nhau tay có hai tay
Sức là hai sức, một ngày hai công
Mƣa chín ngàn hạt mặc lòng,
Mƣa chín ngàn trận đầy sông mặc trời…
Đôi ta làm lấy lúa chung
Dệt lấy chăn, mùng, gối, áo, đủ đôi.
Lối hát đối đáp “khắp” đƣợc các nhà thơ sử dụng khá nhiều nhƣ một
phƣơng thức hữu hiệu để bộc lộ tâm tình:
Nghiêng nghiêng bóng núi chiều tà
Câu thơ em hát la đà bên khuông:
“Ngƣời ơi ngƣời chớ hẹn xuông
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
Để cho gió bẻ mất buồng cau non
Dẫu cho rừng kiệt núi mòn
Câu thơ tình nặng sắc son lời nguyền”
(Câu hát ví mùa xuân-Lò Vũ Vân)
Hay Lò Cao Nhum- nhà thơ nổi tiếng với những sáng tác mang hơi thở
cuộc sống hiện đại cũng không thể không vận dụng điệu “khắp” quen thuộc
này:
Biết là sâu thẳm mênh mông
Tầm nhìn của núi, tầm trông của trời
Tầm lao thuyền của biển khơi
Cũng từ sỏi đá này thôi kết thành...
(Sỏi đá- Lò Cao Nhum)
Mặc dù còn có những câu thơ “chƣa mấy chất thơ” do thói quen đƣa
vào thơ những lời ăn, tiếng nói trong sinh hoạt hàng ngày nhƣng bù lại, điểm
mạnh của ngôn ngữ thơ Thái là tính hàm súc, kiệm lời nên rất gần gũi, dễ
hiểu. Mặt khác, các nhà thơ Thái đã vận dụng tinh tế, khéo léo, sáng tạo ngôn
ngữ của truyện thơ, ca dao, dân ca ...nên làm tăng tính biểu cảm và nhạc điệu
trong thơ. Nhờ cách phối hợp hiệu quả ngôn ngữ thơ hiện đại với ngôn ngữ
của văn học dân gian, các nhà thơ Thái đã tạo nên một bản sắc riêng cho thơ
Thái, khiến cho ngƣời đọc bị hấp dẫn, lôi cuốn bởi cảm giác “lạ mà quen,
quen mà lạ” vì tính truyền thống và hiện đại của thơ Thái.
Trong thơ Thái hiện đại, các nhà thơ hay vận dụng cách diễn đạt quen
thuộc của ngƣời Thái là ví von, so sánh để gây ấn tƣợng với ngƣời đọc, vì vậy
thơ Thái rất sinh động và giàu hình ảnh.
Trong thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng, hình ảnh ngọn núi xuất hiện
khá nhiều nhƣng trong con mắt của nhà thơ dân tộc Thái, núi không chỉ là
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
những khối đá khổng lồ xếp chồng chất lên nhau, không phải là vật vô tri, vô
giác, mà ngƣợc lại, núi nhƣ một cơ thể sống:
Núi già, núi có râu đầy cằm
Núi có máu, có xƣơng núi sống...
(Núi-Lƣơng Quy Nhân)
Hình ảnh ngọn núi có “râu đầy cằm” cho thấy cái nhìn rất dí dỏm của
nhà thơ về ngọn núi. Ngọn núi trở nên sinh động, có sức sống (dù rằng đó là
một “ông núi” hay “cụ núi”) vì vậy nó kích thích trí tƣởng tƣợng, liên tƣởng
của ngƣời đọc, gây sự chú ý, hấp dẫn đối với ngƣời đọc.
Hay trong Thƣ tết gửi cho anh, vẫn cách so sánh, ví von ấy, nhà thơ
Thái hiện đại đã cho thấy cách nói, cách diễn đạt rất độc đáo của ngƣời Thái:
Em làm ra ngô để bắp ngô to bằng sừng trâu
Em làm ra lúa để bông lúa to bằng ngà voi…
(Lƣơng Quy Nhân)
Hình ảnh “bắp ngô to bằng sừng trâu”, “bông lúa to bằng ngà voi” có
vẻ rất phi lý nhƣng lại rất dễ đƣợc chấp nhận bởi nó xuất hiện trong một niềm
mong đợi, một sự khao khát về một cuộc sống ấm no, đầy đủ của ngƣời Thái.
Cách so sánh, ví von hay đƣợc các nhà thơ Thái dùng để biểu đạt tâm
trạng, tình cảm. Cách mƣợn “cái này” để nói “cái kia” làm tăng giá trị biểu
cảm của lời thơ. Ngƣời Thái hay nói:
Tình ta đẹp nhƣ mùa Ban nở.
(Lời em hát- Sầm Nga Di)
Hình ảnh hoa ban nở gợi lên sự thanh bình, tƣơi đẹp, lãng mạn của quê
hƣơng ngƣời Thái. Với ngƣời Thái, mùa hoa Ban nở mùa của lễ hội, mùa của
tình yêu, là “mùa thiêng” của dân tộc Thái... do vậy nhà thơ Thái hiện đại đã
rất tinh tế khi mƣợn hình ảnh rực rỡ của “mùa Ban nở” để ca ngợi tình yêu
trong sáng của mình.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
Với việc sử dụng những câu thơ giàu hình ảnh, các nhà thơ Thái không
chỉ cho thấy cách diễn đạt quen thuộc của ngƣời dân tộc Thái, mà thông qua
đó cách cảm, cách nghĩ và thế giới tâm hồn và đời sống sinh hoạt, tập quán,
tĩn ngƣỡng của ngƣời Thái cũng đƣợc thể hiện rõ nét.
Trong thơ Thái hiện đại, hình ảnh nhà sàn xuất hiện khá nhiều. Theo
truyền thống của ngƣời Thái, một nếp nhà sàn là một đơn vị không gian chứa
đựng một tế bào của xó hội nờn ngƣời Thái mới gọi là "Cộng đồng nhà"
(chúa hƣớn). éú cú thể là một gia đỡnh nhỏ gồm một cặp vợ chồng và con cỏi
chƣa đến tuổi trƣởng thành hoặc cũng có thể là một gia đỡnh lớn gồm ba, bốn
thế hệ cựng chung sống hũa thuận bờn nhau. Vì vậy, nhà sàn có vai trò đặc
biệt quan trọng trong đời sống sinh hoạt của ngƣời Thái, đó là nơi là nơi con
trai đan lát, thổi khèn, pí, con gái quay xa, dệt vải, thêu thùa....
Chân bƣớc lên thang..
Trải thảm, mời trầu
Mở rƣợu, đánh cồng...
Tiếng khèn, tiếng sáo
Lời hát cất lên...
Mẫu váy, mẫu thêu
Sắc màu, hoạ tiết...
(Xa quê- La Quán Miên)
Không những thế, nhà sàn còn là biểu tƣợng văn hoá, tâm linh của ngƣời
Thái (ngƣời Thái quan niệm vũ trụ có ba tầng: Tầng trời, tầng mặt đất và tầng
dƣới mặt đất. Về xã hội cũng có ba tầng: Mƣờng Phạ, Mƣờng Lum, Mƣờng
Cỏng và ngôi nhà sàn của ngƣời Thái cũng có 3 tầng: Pựng lang – nền, Hạng
cang- sàn nhà, Tê đá hang thản hạnh- trần)...Vì thế, với ngƣời Thái, nhà sàn
không chỉ là nơi để ở mà là nơi hàm chứa những phong tục, tập quán, tín
ngƣỡng đặc sắc của dân tộc Thái:
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
Nhà tôi không ăn lúa đếm bông
Ăn kê đếm hạt
Ăn cá đếm xƣơng...
Khách xa, xin chào ngoài cổng
Khách gần, chào ở chân thang
Mũ nón treo ở phía dƣới
Túi bạc, túi vàng treo ở phía trên...
(Ngôi nhà sàn của tôi- La Quán Miên)
Nhà sàn của ngƣời Thái – “hƣớn hạn phủ táy” là một công trỡnh kiến
trỳc đẹp, hũa đồng với với thiên nhiên, đất trời cùng vạn vật. Từ kiến trúc
xây dựng đến nghệ thuật trang trí đều bắt nguồn từ thực tế cuộc sống khách
quan đƣợc cách điệu hóa đạt tới trỡnh độ thẩm mỹ cao. Nhà sàn của ngƣời
Thái mang một nét đẹp riêng biệt, đơn sơ nhƣng cũng không kém phần bề
thế, sang trọng:
Ngôi nhà sàn,
Mang hình dáng chim Phƣợng Hoàng,
Hai đầu hồi kết thành Khau Cút,
Nhƣ hai ngọn rau rún.
(Xa quê- La Quán Miên)
Nhà sàn của ngƣời Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, hai đầu hồi - “tụp
cống” khum khum nhƣ mai rùa, gắn với truyền thuyết về thuở khai thiên lập
địa, thần rùa “Pua tấu” dạy cho ngƣời Thái biết cách làm nhà theo hỡnh rựa
đứng. Sự duyên dáng đặc trƣng của nhà sàn Thái đƣợc thể hiện ở hình “Khau
cút” vắt chéo vào nhau hai bên đầu hồi nhà sàn. Giải thích về biểu tƣợng
“Khau cỳt” cú nhiều ý kiến khỏc nhau nhƣ: Đó là cặp sừng trâu cách điệu,
biểu tƣợng của một nền văn minh lúa nƣớc, hoặc đó là những búp cây “rau
rún” cú nhiều ở Tõy Bắc, hay gắn với cuộc thiờn di tỡm miền đất hứa của
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
ngƣời Thái, anh em luôn nhớ về nhau...Dự cỏch giải thớch nào thỡ khi bắt
gặp hỡnh “Khau cỳt” trên nóc nhà sàn, là mỗi ngƣời Thái lại thêm ấm lũng,
nhớ về anh em, bản mƣờng yêu dấu. Vì vậy, mỗi lần xa quê, ngƣời Thái lại
nhớ về ngôi nhà sàn trong đó có bếp lửa hồng ấm nồng quen thuộc.
Nhà sàn của ngƣời Thái cổ có hai bếp lửa – “chớk phỏy”. Bếp lửa phớa
“tang quản” dành cho ngƣời già, bếp chính ở phía “tang chan” dành cho nữ
giới. Quanh bếp lửa hồng, đó bao lần gia đỡnh họ tộc quõy quần nghe ngƣời
già hát, ngâm, kể - “khắp” những điều răn dạy về đạo lý làm ngƣời - “Quỏmk
son cốn”; Chuyện bản mƣờng - “Quámk tố mƣớng”; Bƣớc đƣờng chinh chiến
của cha ông - “Tỏy pỳ xấc”; Tiễn dặn ngƣời yêu - “Xống chụ xon xao”... cùng
nồng say trong các điệu “xũe” ngày mừng cơm mới, lên nhà mới, hội cƣới,
ngày xuân...Vì vậy, hình ảnh bếp lửa xuất hiện khá nhiều trong thơ Thái hiện
đại, nó nhƣ trái tim hồng, sƣởi ấm và nuôi dƣỡng cả về vật chất và tinh thần
cho mỗi con ngƣời:“Đống lửa nhen, sợi khói ấm bản chiều” ( La Quán
Miên).
Giữa núi rừng trùng điệp, bếp lửa ấy dù chỉ là một “khoang tròn ấm
sáng” nhƣng lòng ngƣời ấm lại nhờ ánh lửa hồng trong đêm đông giá rét:
Ôi bếp lửa nhà ta chật hẹp
Một khoang tròn ấm sáng nhà trong
Nơi đầu núi lửa reo tí tách
Cũng đủ tan băng giá biên phòng.
(Bếp lửa nhà ta- Lò Cao Nhum)
Vì hình ảnh nhà sàn của ngƣời Thái (trong đó có bếp lửa) là nơi chứng
kiến buồn vui của bao thế hệ, giúp mỗi ngƣời hiểu thêm về quá khứ, hiện tại
và tƣơng lai nên thông qua hình ảnh quen thuộc này, các nhà thơ Thái hiện
đại đã giúp ngƣời đọc đã khám phá, hiểu thêm những phong tục, tập quán, tín
ngƣỡng độc đáo của ngƣời Thái.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
Bên cạnh ngôi nhà sàn, đối với ngƣời dân tộc Thái, sân chơi “hạn
khuống” đã trở thành một biểu tƣợng của nếp sinh hoạt văn hoá truyền thống
của dân tộc. Nó đã trở thành máu thịt của cái “cơ thể tinh thần” Thái. Chính
vì vậy, khi giặc tàn phá quê hƣơng, nỗi đau đớn của ngƣời Thái tăng lên gấp
bội. Bởi không phải chỉ mất bản, mất làng, mất núi, rừng, đồng ruộng...mà
mất đi cả cái “linh hồn” của quê hƣơng:
Sàn ngắm trăng quạnh hƣu hoang vắng,
Nơi hợp chợ thành rừng cà gai,
Khuống đầu bản vắng cây tính tẩu,
Sàn giữa mƣờng im tiếng bật bông.
(Cầm Biêu)
Hoặc hình ảnh “khăn Piêu” cũng vậy! Đó là một nét đẹp đặc trƣng của
ngƣời con gái Thái. Là vật gửi hồn, gửi bản sắc văn hoá dân tộc Thái. Nếu
một mai nét đẹp đặc trƣng ấy mất đi thì “tâm hồn Thái” đã gửi gắm ngàn năm
cũng không còn đƣợc nguyên vẹn:
Váy hoa đã khác
Khăn “Piêu” còn đâu...
(La Quán Miên)
Nhƣ vậy, với cách sử dụng ngôn ngữ thơ tạo hình và biện pháp so sánh,
ví von...đã làm cho thơ Thái giàu hình ảnh, giàu chất liên tƣởng, kích thích trí
tƣởng tƣợng của ngƣời đọc. Chính từ những hình ảnh cụ thể, gần gũi, quen
thuộc mà lối tƣ duy, diễn đạt và cách cảm, cách nghĩ quen thuộc của ngƣời
dân tộc Thái hiện lên sinh động và rõ nét.
Thông qua việc vận dụng những làn điệu dân ca, điệu “khắp” và những
lời ăn, tiếng nói hàng ngày của ngƣời Thái vào trong thơ nên ngôn ngữ thơ
Thái hiện đại vừa mộc mạc, giản dị vừa giàu sức biểu cảm, nhiều nhạc điệu.
Hình ảnh trong thơ Thái cũng trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn nhờ cách
liên tƣởng, ví von, so sánh và hệ thống từ ngữ giàu tính tạo hình.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
117
Đọc thơ Thái hiện đại, chúng ta có thể hình dung ra cảnh sắc thiên nhiên,
con ngƣời, những nếp sinh hoạt, phong tục tập quán đậm đà bản sắc của
ngƣời Thái và trên hết là có thể hiểu đƣợc cả thế giới tâm hồn phong phú, đa
dạng của ngƣời Thái- cái mà chúng ta không thể nhìn thấy, mà chỉ có thể cảm
nhận và hình dung thông qua lời ăn, tiếng nói, cách cảm, cách nghĩ và những
hình ảnh gắn liền với đời sống văn hoá, tâm linh của ngƣời Thái mà thôi.
Có thể nói, với cách sử dụng ngôn ngữ ấy, những hình ảnh ấy...các nhà
thơ Thái đã tạo cho thơ Thái hiện đại dấu ấn riêng, bản sắc riêng và góp phần
làm đa dạng, phong phú và giàu có cho ngôn ngữ thơ ca các dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại.
* *
*
Trong thơ Thái hiện đại, việc các nhà thơ tiếp thu, vận dụng sáng tạo,
linh hoạt những loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống nhƣ truyện thơ, ca
dao, tục ngữ hay thủ pháp ví von, so sánh và cách diễn đạt gần gũi với lời ăn
tiếng nói hàng ngày...đã tạo cho thơ Thái những nét độc đáo, ấn tƣợng.
Việc tiếp thu nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ giàu hình ảnh của thể loại
truyện thơ đã tạo cho thơ Thái chất trữ tình, sâu lắng. Những câu thơ, bài thơ
phản ánh những đề tài hiện đại, những vấn đề của cuộc sống hiện đại nhƣng
vẫn giàu tính biểu cảm. Đặc biệt, với sự kết tinh nghệ thuật của cả thể loại
truyện thơ dân gian trong truyện thơ Ing-Éng, đã tạo cho thơ Thái hiện đại sự
phong phú, đa dạng không chỉ ở thể loại mà còn ở nghệ thuật biểu hiện của
thơ. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa những câu thơ ngắn gọn, giản dị của thể
thơ tự do với những câu thơ dài bất tận trong truyện thơ; là nghệ thuật dẫn
dắt, kể chuyện hồi hộp, hấp dẫn của truyện thơ với cách diễn đạt gần gũi, dễ
hiểu nhƣng không kém phần lãng mạn của thơ Thái hiện đại...
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
118
Các nhà thơ Thái hiện đại cũng đã phát huy những ƣu điểm, thế mạnh
của thể loại tục ngữ, ca dao, dân ca trong thơ Thái hiện đại. Những câu thơ, ý
thơ ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu nhƣ lời ăn tiếng nói hàng ngày một mặt làm
cho thơ Thái trở nên gần gũi, thân quen, mặt khác cũng tạo nên tính hàm súc,
trí tuệ cho thơ. Sự bay bổng, phóng khoáng của những câu ca dao, làn điệu
dân ca cũng làm cho thơ Thái dễ đi vào lòng ngƣời.
Một đóng góp lớn của các nhà thơ Thái là việc vận dụng sáng tạo ngôn
ngữ biểu cảm với ngôn ngữ sinh hoạt tạo cho thơ Thái cảm giác vừa lạ, vừa
quen. Hơn nữa việc sử dụng những vần điệu giàu âm thanh, nhạc lý của làn
điệu ca dao, “khắp” cũng làm cho thơ Thái càng giàu nhạc điệu. Nhiều câu
thơ, bài thơ có sự du dƣơng, ngọt ngào của điệu “khắp”, có nhịp điệu bập
bùng của trống chiêng từ những điệu xoè; có nhịp thơ mềm mại, uyển chuyển
của Xống chụ xôn xao.
Cách so sánh, ví von độc đáo cũng đƣợc các nhà thơ Thái rất chú ý và sử
dụng khá hiệu quả trong thơ Thái hiện đại. Chính cách liên tƣởng quen thuộc,
“mƣợn cái này để nói cái kia” của ngƣời Thái đã tạo cho câu thơ những hình
ảnh rất cụ thể và sinh động. Một ngọn núi, một màu trắng hoa Ban hay một
Có thể thấy rằng, từ nền tảng là kho tàng văn học dân gian phong phú, đa
nếp nhà sàn ...cũng gợi bao điều kỳ thú về thế giới tâm hồn của ngƣời Thái.
dạng, các nhà thơ Thái hiện đại với sự tinh tế và lãng mạn đã chắp cánh thành
những bài thơ giàu bản sắc văn hoá Thái. Đi vào thế giới nghệ thuật thơ Thái,
ngƣời đọc cảm nhận và khám phá đƣợc những lời ăn, tiếng nói, cách cảm,
cách nghĩ và những phong tục, tập quán, sinh hoạt của ngƣời Thái. Cầm Biêu,
Lƣơng Quy Nhân, Lò Cao Nhum hay La Quán Miên và nhiều nhà thơ Thái
khác....đã thổi vào ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ...sự nồng say của tâm hồn
ngƣời dân tộc Thái.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
119
PHẦN KẾT LUẬN
1. Năm 1945 là mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời, hình thành và phát
triển của thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, trong đó có thơ ca dân
tộc Thái. Giống nhƣ một số các dân tộc thiểu số khác, trƣớc năm 1945, thơ ca
Thái chủ yếu là văn học dân gian, với những thành tựu độc đáo nhƣ ca dao,
dân ca, tục ngữ, sử thi... đặc biệt là truyện thơ- một trong những thể loại đỉnh
cao của nền văn học dân gian các dân tộc thiểu số.
Kể từ khi mới ra đời, số lƣợng, chất lƣợng đội ngũ và tác phẩm của thơ
dân tộc Thái hiện đại còn rất khiêm tốn. Sau hơn nửa thế kỷ, đội ngũ các nhà
thơ dân tộc Thái ngày càng đông đảo, lớn mạnh hơn (từ lớp những nhà thơ
đầu tiên khai sinh ra văn học dân tộc Thái hiện đại là Cầm Biêu, Lƣơng Quy
Nhân, Hoàng Nó đến thế hệ nhà thơ trƣởng thành sau năm 1954 là Vƣơng
Trung, Lò Văn Cậy, La Quán Miên và đội ngũ các nhà thơ từ sau năm 1975
nhƣ Lò Vũ Vân, Lò Cao Nhum, Cầm Bá Lai...). Mặc dù xuất hiện ở những
thời điểm khác nhau, thuộc các vùng, miền khác nhau (Nghệ An, Hoà Bình,
Sơn La...) nhƣng ở họ đều có điểm chung là rất yêu mến và say đắm thơ ca,
“lấy sáng tác làm nguồn vui” [28, tr.56], vì vậy, với các nhà thơ Thái hiện đại,
làm thơ là một thứ lao động nghệ thuật thực sự vất vả và nghiêm túc “Mồ hôi
đã quyện máu đào nàng thơ” (Cầm Biêu).
Cùng với sự lớn mạnh về đội ngũ, số lƣợng, chất lƣợng tác phẩm thơ ca
Thái hiện đại ngày càng phong phú hơn, dày dặn hơn. Nhiều bài thơ, tập thơ
đạt đƣợc các giải thƣởng có uy tín, đƣợc bạn đọc yêu mến và nhiệt thành đón
nhận. Đó không chỉ là sự thừa nhận về sự hiện diện của thơ ca Thái hiện đại
mà còn là sự khẳng định vị trí và những đóng góp của thơ Thái đối với nền
thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
2. Về nội dung: Nhìn chung, từ năm 1945 đến nay, các nhà thơ Thái hiện
đại đều tập trung phản ánh thiên nhiên, con ngƣời, cuộc sống tƣơi đẹp và
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
120
những phong tục, tập quán đậm đà bản sắc dân tộc Thái. Tuy nhiên, ở những
thời điểm khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, họ có cách nhìn nhận khác nhau.
Từ năm 1945-1975, thơ ca Thái đã phản ánh cuộc sống cách mạng và
cuộc kháng chiến của vùng dân tộc mình. Thơ ẩn chứa những cảm nhận, suy
tƣ, tâm trạng của đồng bào miền núi đối với những năm tháng cách mạng,
kháng chiến gian khổ. Đồng thời cũng là niềm vui sƣớng tự hào vì đƣợc đổi
đời và sống dƣới ánh sáng của cách mạng, của chiến thắng oanh liệt, hào
hùng của cả dân tộc và sự náo nức xây dựng cuộc sống mới.
Mặc dù việc phản ánh không khí cách mạng và công cuộc xây dựng cuộc
sống mới là chủ đề chính trong thơ ca dân tộc Thái giai đoạn này, nhƣng
thông qua đó, các nhà thơ cũng đã bộc lộ cảm xúc của mình trƣớc thiên nhiên,
con ngƣời và cuộc sống của ngƣời Thái. Tuy nhiên, trong những năm tháng
đất nƣớc “có chung khuôn mặt, chung tâm hồn”, mọi thứ đều đƣợc nhìn nhận
bởi cảm xúc khẳng định, ngợi ca. Thiên nhiên cũng đƣợc nhân hoá, mang sức
mạnh vô song nhƣ con ngƣời, còn con ngƣời đƣợc đẩy lên ở tầm cao hơn, họ
có “trái tim Bế Văn Đàn”, có “gan Phan Đình Giót” (Cầm Biêu) dù cho
“sƣơng giăng- nắng tràn” vẫn “thản nhiên cƣời hát” (Lò Văn Cậy).
Sau năm 1975, hoà bình đƣợc lập lại, các nhà thơ chú ý và đi sâu vào
những thể tài mới với cảm xúc cụ thể hơn. Thiên nhiên Tây Bắc- quê hƣơng
của ngƣời Thái hiện lên với vẻ đẹp rất chân thực. Trong sự hoang sơ, bí ẩn là
khung cảnh thơ mộng, hiền hoà. Chen giữa những dãy núi cao, những thung
lũng rộng lớn là những nếp sàn, tầng ruộng bậc thang và rừng Ban trắng
muốt... Trên nền thiên nhiên ấy, con ngƣời dân tộc Thái giản dị, thật thà, yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống. Nổi bật là hình tƣợng ngƣời phụ nhữ Thái xinh
đẹp, duyên dáng, khéo léo, tài hoa. Cuộc sống vật chất và tinh thần của ngƣời
Thái cũng đƣợc các nhà thơ phản ánh chân thực và sinh động. Họ vừa hăng
say lao động xây dựng cuộc sống mới nhƣng cũng rất bay bổng trong những
điệu khắp, lãng mạn trong những vòng xoè, biết trân trọng và gìn giữ bản sắc
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
121
văn hoá dân tộc ở những lễ hội truyền thống của quê hƣơng... Tuy nhiên, bên
cạnh đó, các nhà thơ cũng chú ý khai thác những trăn trở, suy tƣ, sự chiêm
nghiệm về lẽ sống, cuộc đời, con ngƣời trong hoàn cảnh xã hội đầy biến động,
đó là sự giao tranh của cái cũ- mới, cao cả- thấp hèn,...Chính vì vậy, thơ Thái
ngày càng gần gũi hơn, chân thực hơn, giản dị hơn.
Có thể thấy, dù ở những thời điểm khác nhau, dù phản ánh sự vật, hiện
thực bằng nhiều dạng thức khác nhau nhƣng điểm gặp gỡ chung của của các
nhà thơ Thái là cảm hứng về thiên nhiên, con ngƣời, phong tục, tập quán,
cuộc sống của ngƣời dân tộc Thái là mạch nguồn không ngừng chảy trong
sáng tác của các nhà thơ. Đọc thơ Thái hiện đại, ngƣời đọc không chỉ cảm
nhận đƣợc vẻ đẹp của thiên nhiên, con ngƣời và cuộc sống nơi đây mà thông
qua cách diễn đạt độc đáo của các nhà thơ Thái, ngƣời đọc đã khám phá ra
những phong tục, tập quán, cách cảm, cách nghĩ và thế giới tâm hồn của
ngƣời Thái. Có nghĩa, các nhà thơ Thái, thông qua nội dung phản ánh của
mình, đã chuyển tải đến ngƣời đọc những “thông điệp” của ngƣời Thái, bản
sắc văn hoá Thái.
3. Về nghệ thuật: Phần lớn các thế hệ nhà thơ Thái (đặc biệt là các nhà
thơ thuộc giai đoạn đầu) đều sử dụng những hình thức nghệ thuật quen thuộc,
đó là thể thơ truyền thống 7 chữ- 8 dòng, 7 chữ- 4 dòng, vần đƣờng luật, lối
phô diễn, những làn điệu dân ca, vận dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ của văn
học dân gian Thái….Vì vậy, thơ Thái rất gần gũi và dễ đi vào lòng ngƣời.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, các nhà thơ Thái hiện đại cũng phối hợp có hiệu quả
những hình thức nghệ thuật mới, hiện đại với tinh hoa nghệ thuật của nền văn
học dân gian Thái nên thơ Thái vừa có tính truyền thống, vừa có màu sắc hiện
đại. Bên cạnh sự mộc mạc, đơn sơ là sự trí tuệ, sâu sắc; dù gần gũi, giản dị
cũng vẫn có sự bay bổng và tinh tế; dù rất truyền thống với nghệ thuật của
truyện thơ, ca dao...dân gian nhƣng cũng rất hiện đại ở những thể thơ, câu thơ
tự do, phá cách... Chính sự kết hợp này đã đem lại cho thơ Thái những đặc
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
122
điểm nghệ thuật rất độc đáo, riêng biệt, thơ Thái hấp dẫn ngƣời đọc và thu hút
bởi cảm giác vừa “lạ” nhƣng cũng vừa “quen” ấy.
Nhƣ vậy, cùng với nội dung phản ánh mang đậm cách cảm, cách nghĩ và
bản sắc dân tộc Thái. Thơ Thái hiện đại với hình thức biểu hiện độc đáo đã
mang tiếng nói, phong tục, tập quán... đặc trƣng của dân tộc Thái đến với
vƣờn hoa muôn màu, muôn sắc của các dân tộc anh em nhƣ một phong vị đặc
sản của quê hƣơng ngƣời Thái. Chính vì thế, nghệ thuật thơ Thái hiện đại
cũng đã góp phần “níu giữ” thể loại, gìn giữ và phát triển những tinh hoa của
văn học dân gian, bản sắc văn hoá dân tộc và góp phần làm đa dạng, phong
phú nền thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng và thơ ca Việt
Nam nói chung.
4. Với những giá trị đã đƣợc khẳng định của thơ ca dân gian Thái nhƣ
những bài ca dao, những áng sử thi hay những truyện thơ dạt dào vần, điệu,
các nhà thơ Thái hiện đại không chỉ bảo tồn, phát triển những tinh hoa ấy, mà
đã thắp sáng và truyền lại cho con cháu thế hệ mai sau. Dù đƣợc tắm mình
trong nguồn mạch văn hoá dân tộc nhƣ Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân... hay là
sự kế thừa vốn văn học dân gian qua sách vở nhƣ La Quán Miên, Lò Cao
Nhum...thì dƣ vang truyền thống vẫn không phai mờ. Những giá trị của quá
khứ nhƣ là “Pèo pẫy mí mọt” (Ngọn lửa không tắt) đƣợc chuyển giao từ thế
hệ này sang thế hệ khác, phải chăng đây là giá trị và là đóng góp lớn của thơ
ca dân tộc Thái đối với nền văn học các dân tộc thiểu số nói riêng và văn học
Việt Nam hiện đại nói chung.
Bằng tâm huyết và lao động sáng tạo miệt mài, các nhà thơ dân tộc Thái
thời kỳ hiện đại đã sôi nổi, tự tin bƣớc lên diễn đàn văn học nghệ thuật, góp
vào dòng chảy lớn của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam những mạch
nguồn trong trẻo, mát lành. Theo nhƣ cách nói của ngƣời dân tộc miền núi
“có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa”, sự đóng góp của các nhà thơ Thái đối với
nền văn học các các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại là điều đáng ghi nhận.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
123
Thơ ca dân tộc Thái hiện đại đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hoá đậm đà của
thơ ca các dân tộc thiểu số và tạo nên sự phong phú, giàu có cho nền văn học
Việt Nam hiện đại ./.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
124
DANH MỤC
CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1. Vũ Thị Vân (2007), “Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Thái thời kỳ hiện
đại”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên (số 3).
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
125
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vƣơng Anh (2006) “Kế thừa và phát huy vốn văn hoá dân tộc trong sáng
tác thơ của các tác giả dân tộc thiểu số hiện nay”, Tạp chí xứ Thanh (số 12).
2. Bộ văn hoá Thông tin (2005), “Toàn cảnh văn hoá vùng Tây Bắc”,
Wedsite Bộ Văn hoá Thông tin.
3. Nông Quốc Bình (2006), “Nhìn lại văn học nghệ thuật các dân tộc
thiểu số”, Báo Nhân dân (số 8).
4. Lê Thị Vân Bình (2006), “Đời đời nhớ ơn Bác -Tấm lòng ngƣời dân
Tây Bắc với Bác Hồ”, Báo Điện Biên Phủ điện tử.
Cầm Biêu (1984), Ánh hồng Điện Biên, Nxb Văn hoá Dân tộc. 5.
Cầm Biêu (1994), Ngọn lửa không tắt, Nxb Văn hoá Dân tộc. 6.
Cầm Biêu (1961), “Lời nói đầu Xống chụ xon xao” NxB Hà Nội. 7.
Lò Văn Cậy (1986), Hạt muối hạt tình, Nxb Văn hoá. 8.
Nông Quốc Chấn (1998), Tuyển tập Văn học dân tộc & miền núi , Nxb 9.
Giáo dục.
10. Nông Quốc Chấn (1977), Một vƣờn hoa nhiều hƣơng sắc, Nxb Văn hoá.
11. Nông Quốc Chấn chủ biên (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt
Nam, NXB Văn hoá Dân tộc.
12. Đỗ Kim Cuông (2006), “Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số trong
quá trình đổi mới”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
13. Nguyễn Nghĩa Dân (2006) “So sánh nội dung thống nhất và đa dạng
của tục ngữ Việt với tục ngữ các dân tộc thiểu số ở nƣớc ta”, Tạp chí
Văn hoá dân gian (số 4).
14. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hoá học Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông
tin.
15. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hƣợu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoàng Khung,
Lê Chí Dũng…(1999), Văn học Việt Nam 1900-1945, Nxb Giáo dục.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
126
16. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1977), Báo cáo Chính trị BCH
TW Đảng, Nxb Sự thật.
17. Phan Kiến Giang (2000), “Bộ áo ngắn “xửa cóm” cổ truyền của ngƣời
Thái”, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 11).
18. Mào Ết (2000), “Tục ngữ dân tộc Thái”, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 11).
19. Ngọc Hải (2000), “Lễ hội “xên bản” của đồng bào Thái”, Tạp chí Dân
tộc và Thời đại (số 86).
20. Nguyễn Mạnh Hào (2001), “Suy nghĩ về bản sắc văn hoá dân tộc”, Tạp
chí Xƣa và nay (số 9).
21. Nguyễn Thị Thu Hiền (2003), “Chúng ta đã có một nền văn nghệ dân
tộc thiểu số”, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 5).
22. Tô Hợp (2001), “Lễ Khửn cẩu”- Nét đẹp văn hoá truyền thống của
ngƣời Thái” , Tạp chí văn hoá dân tộc (số 6).
23. Lô Hoan (2000), “Nhớ về đồng dao ngƣời Thái”, Tạp chí Văn hoá dân
tộc (số 6).
24. Vũ Hoài (2007), “Sơn La- Những điệu múa đắm say lòng ngƣời”, Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
25. Lò Văn Hặc (2000), “Một số trò chơi ngày Tết của dân tộc Thái”, Tạp
chí Văn hoá dân tộc (số 6).
26. Hội Nhà văn Việt Nam (1960), Cầu vào bản- tập thơ miền núi. Nxb
Văn học.
27. Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1999), Văn học
các dân tộc- từ một diễn đàn, Nxb Văn hoá Dân tộc.
28. Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2003), Nhà văn
các dân tộc thiểu số- Đời và văn, Nxb Văn hoá Dân tộc.
29. Hội Thái học Việt Nam (1992), Kỷ yếu Hội thảo Thái học, NXB VH
Dân tộc.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
127
30. Nguyễn Văn Huy (2001), Bức tranh văn hoá các dân tộc Việt Nam,
NXB Giáo dục.
31. Nguyễn Xuân Kính (2004), “Giao lƣu văn hoá giữa dân tộc Việt và văn
hoá các dân tộc thiểu số”, Tạp chí Văn hoá Dân gian (số 9).
32. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1997), Văn học
dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.
33. Hà Lâm Kỳ chủ biên (2005), Mỗi nét hoa văn , Nxb Văn hoá Dân tộc.
34. Cầm Bá Lai (1997)“Hoa và nắng”, Nxb Văn hoá Dân tộc.
35. Ngọc Lan (2005), “Trao đổi với nhà thơ Dƣơng Thuấn”, Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
36. Phong Lê (1993), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội Nhà văn.
37. Trịnh Bích Liên (2003), “Đổi mới quan niệm về nghệ thuật của các nhà
văn DTTS hiện đại ở phạm vi lý luận phê bình”, Tạp chí Văn hoá các
dân tộc (số 11).
38. Đinh Liên (2002), “Phƣơng ngôn tục ngữ Thái- Kinh nghiệm sống của
ngƣời miền núi”, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 3).
39. Lê Lâm (1998), “Tản trụ xống xƣơng- Bản tình ca dân tộc Thái”, Tạp
chí Văn hoá dân tộc (số 1).
40. Mai Liễu (2005) “Lên Tây Bắc tìm Lò Vũ Vân”, Tạp chí Văn học dân
tộc (số 6).
41. Mai Liễu (2007) “Khoảng trống về lý luận phê bình văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số”, Báo Nhân dân (số 8).
42. Mã Giang Lân (2005), Văn học hiện đại Việt Nam, Vấn đề-Tác giả,
Nxb Giáo dục.
43. Đặng Văn Lung (1994), Tục ngữ- Văn học dân gian các dân tộc, Nxb
Văn hoá Dân tộc.
44. Hoàng Lƣơng (2001), “Tình ca Thái”, Tạp chí Văn hoá các Dân tộc
(số 1+2).
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
128
45. Bùi Huy Mai (2002), Dân tộc và Bản sắc văn hoá, Nxb Văn hoá Dân tộc.
46. La Quán Miên (1999), Con đƣờng bản Đôn (tập thơ), Nxb Nghệ An.
47. La Quán Miên (2004) “Ngƣời Thái cúng vật nuôi ngày tết”, Tạp chí
Văn học dân tộc (số 8).
48. La Quán Miên (2004) “Lai mổng mƣơng- một văn bản có nhiều tƣ liệu
quý về ngƣời Thái ở Nghệ An”, Tạp chí Văn học dân tộc (số 9).
49. La Quán Miên, Sầm Nga Di, Vi Văn Thứa (1983), Hƣơng đất quế- tập
thơ, Nxb Nghệ Tĩnh.
50. Tố Minh (2005) "Ẩm thực Thái- Sự giao hoà với thiên nhiên- dân tộc
và thời đại", Tạp chí Văn học dân tộc (số 77).
51. Hà Văn Nam (1999), Tục ngữ Thái, Nxb Văn hoá dân tộc.
52. Đậu Tuấn Nam (2005), “Bảo tồn, phát triển các giá trị văn hoá truyền
thống của ngƣời Thái”, Tạp chí văn học dân gian (số 4).
53. Lò Cao Nhum (1996), Rƣợu núi, Nxb Văn hoá Dân tộc.
54. Lò Cao Nhum (1995), Giọt sao trở về, Nxb Văn hoá Dân tộc.
55. Lƣơng Quy Nhân (1991), Hạn khuống, Sở VHTT Lai Châu.
56. Lƣơng Quy Nhân (1994), Độ dày tình yêu, Nxb VHDT.
57. Lƣơng Quy Nhân (1983), Biên giới lòng ngƣời, Nxb Văn hoá Dân tộc.
58. Vi Hồng Nhân (2004), Văn hoá các dân tộc- từ một góc nhìn, Nxb Văn
hoá Dân tộc.
59. Phan Đăng Nhật (2005), Khủn chƣởng- Anh hùng ca Thái, Nxb Khoa
học xã hội.
60. Hoàng Nó (1987), “Tiếng hát mƣờng ban”, Nxb Văn hoá Dân tộc.
61. Võ Quang Nhơn (1983) , Văn học các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam,
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
62. Lò Giàng Páo (1997), Tìm hiểu văn hoá vùng các dân tộc thiểu số, Nxb
Văn hoá Dân tộc.
63. Mạc Phi dịch và giới thiệu (1972), Tiễn dặn ngƣời yêu, Nxb Văn hoá.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
129
64. Ngô Thị Thanh Quý (2001), Nghiên cứu thi pháp truyện thơ Tiễn dặn
ngƣời yêu dân tộc Thái, Luận văn thạc sỹ Ngữ văn, trƣờng ĐH Sƣ
phạm Thái Nguyên.
65. Lò Ngân Sủn (1999), Hoa văn thổ cẩm, Nxb Văn hoá Dân tộc.
66. Lò Ngân Sủn (2001), Thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số, Nxb Văn
hoá Dân tộc.
67. Lò Ngân Sủn (2002), Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số,
Nxb Văn hoá Dân tộc.
68. Lò Ngân Sủn (2003), “Tôi muốn văn học các DTTS nổi lên”, Tạp chí
văn hoá các dân tộc (số 9).
69. Lò Ngân Sủn (2003), “Viết về văn học các dân tộc thiểu số - một công
việc ít đƣợc quan tâm”, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 3).
70. Lò Ngân Sủn (2003), “Vài nét về dân ca dân tộc thiểu số”, Tạp chí Văn
hoá dân tộc (số 10).
71. Lò Ngân Sủn (2004), “Để văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt
Nam có chất lƣợng ngang tầm với văn học nghệ thuật cả nƣớc”, Tạp
chí Văn hoá dân tộc (số 10).
72. Dƣơng Đình Minh Sơn (1999), “Kút Piêu của ngƣời Thái”, Tạp chí
Văn hoá dân tộc (số 8).
73. Dƣơng Đƣờng Minh Sơn (2006), “Dây tình của ngƣời Thái”, Tạp chí
Văn hoá dân tộc (số 5).
74. Vũ Ngọc Sơn (2006), “Quan hệ thông gia của đồng bào Thái”, Tạp chí
Dân tộc và Thời đại (số 92).
75. Đinh Sơn (2006), Hỏi chuyện với chuyên gia Thái học Cầm Trọng-
Báo Điện Biên Phủ điện tử.
76. Trần Đình Sử dịch và giới thiệu (2002), Mấy vấn đề lý luận và phƣơng
pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
130
77. Nguyễn Thái (2004), “Trang phục phụ nữ Thái Tây Bắc- nét đẹp đời
thƣờng”, Tạp chí Văn hoá các Dân tộc (số 8).
78. Hà Bá Tâm (2006), “Từ ẩm thực, nhận diện về một truyền thống Thái”,
Tạp chí Dân tộc và Thời đại (số 88).
79. Vũ Minh Tâm (2004), “Bản sắc văn hoá dân tộc- Một cách tiếp cận”,
Tạp chí Dân tộc và Thời đại (số 47).
80. Ngọc Thanh (1980), Dân ca Thái, Nxb Văn hoá.
81. Phạm Thế Thành (2005), Bản sắc Tày trong thơ Nông Quốc Chấn,
Luận văn thạc sỹ khoa học Ngữ văn, trƣờng ĐH Sƣ phạm Thái
Nguyên.
82. Trần Thảo (2006) “Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số còn một
khoảng trống”, Báo Khoa học và Đời sống (15).
83. Đỗ Văn Thông (2006), “Cơm Lam Tây Bắc”, Tạp chí Dân tộc và Thời
đại (số 85).
84. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb
Văn hoá dân tộc.
85. Lâm Tiến (1999 ), Về một mảng văn học dân tộc, Nxb Văn hoá dân tộc.
86. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, Nxb Văn hoá dân tộc.
87. Nguyễn Mạnh Tiến, Nguyễn Thanh Trƣờng (2006), “Vài nét về phong
tục tập quán trong truyện viết về miền núi 30-45”, Tạp chí Khoa học
trƣờng ĐHSP HN (số 5).
88. Dƣơng Thuấn (2003), “Vấn đề phát triển văn học nghệ thuật các DTTS
trong thời kỳ mới”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
89. Dƣơng Thuấn (1996), “Giải thƣởng văn học dân tộc và miền núi 2 năm
1994-1995”, Tạp chí Văn hoá các Dân tộc (số 4).
90. Dƣơng Thuấn (2000), “Nét mới của văn học dân tộc và miền núi”, Tạp
chí Văn hoá các Dân tộc (số 7).
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
131
91. Dƣơng Thuấn (2001), “Văn hoá với con ngƣời ở miền núi”, Tạp chí
Văn hoá các Dân tộc (số 8).
92. Trần Thị Diễm Thuý (2003), “Vị thế của ngƣời phụ nữ trong văn hoá
dân gian”, Tạp chí Văn học (số 1).
93. Cầm Trọng (2005), “Lễ tục cƣới xin trong xã hội cổ truyền Thái đen”,
Tạp chí Dân tộc và Thời đại (số 80).
94. Vƣơng Trung (1967), Truyện thơ Ing Éng, Nxb Văn học.
95. Vƣơng Trung (1979), Sóng Nậm rốm, Nxb Văn hoá.
96. Vƣơng Trung (1999), Mo khuôn, Nxb Văn hoá Dân tộc.
97. Vƣơng Trung (2003), Táy pú xấc, Nxb Văn hoá Dân tộc.
98. Vƣơng Trung (1999), “Thơ văn các dân tộc Thái trên đƣờng phát
triển”, Tạp chí văn hoá dân tộc (số 9).
99. Lò Vũ Vân (2000), Nhặt hoa trăng, Nxb Văn hoá.
100. Lò Vũ Vân (2000), Đi từ miền gió hoang, Nxb Văn hoá Dân tộc.
101. Triệu Kim Văn (2002), “Bản sắc dân tộc- nỗi lo của ngƣời cầm bút” ”,
Tạp chí Văn hoá các Dân tộc (số 2).
102. Viện Văn học (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội.
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
132