ĐẠI TÁO

(Kỳ 4)

Tham Khảo

+ Đại táo sát được độc của Ô đầu, Phụ tử, Thiên lùng (Lôi Công Đối

Luận).

+ Đại táo trị trẻ nhỏ bị lỵ vào mùa thu: Cho ăn Táo bị sâu mọt (lâu năm)

rất hay (Thực Liệu Bản Thảo).

+ Đại táo nhuận tâm phế, trị ho, bổ hư tổn ngũ tạng, trừ tích khí ở

trường Vị, hòa với Quang phấn (đốt cháy) trị cam lỵ (Nhật Hoa Chư Gia Bản

Thảo).

+ Đại táo nuôi được tỳ khí, bổ tân dịch, mạnh thận khí, tăng trí nhớ.

Nhân của quả trên 3 năm trị được chứng đau bụng, trúng phải khí độc, quặn

thắt tim (Thang Dịch Bản Thảo).

+ Tính của Táo giúp được cả 12 kinh lạc, tà khí ở trong tâm phúc, hòa

bách dược, thông cửu khiếu, bổ khí bất túc, ăn sống làm sình bụng có khi bị

tiêu chảy, khi dùng chưng thật chín rồi phơi khô thì bổ trường vị: điều hòa

trung nguyên, ích khí lực (Bản Thảo Kinh Sơ).

6 - Đại táo tính hòa hợp được âm dương, điều chỉnh được vinh vệ, sinh

được tân dịch (Dụng Dược Pháp Tượng).

7 - Sở dĩ Dại táo bẩm thụ được khi xung hòa của trời đất ở hành thổ,

cảm ứng được dương khí của trời để sinh sống, nên sách Bản Kinh ghi rằng:

"Đại táo có vi ngọt, tính bình, không độc, Lý Đông Viên và Mạnh Sằn đều cho

là khí vị đều hậu, vì nó là loại thuốc vào kinh túc Thái âm, túc Dương minh".

Sách Nội Kinh cho rằng: "Những người bất túc chân nguyên phải nên dùng

những vi ngọt để bổ túc vào đó, vì hình thể bất túc nên dùng vị thuốc ấm để

giúp cho khí đó". Vì ngọt bổ được trung nguyên, ấm thì ích được khí nên

những vi ngọt, ấm hay bổ được Tỳ Vị mà có thể sinh tân dịch nữa. Nếu thỏa

mãn được những điều kiện như thế thì trong 12 kinh mạch tự nhiên nó thông

lợi cả cửu khiếu nữa, tay chân điều hòa và thông sướng cả. Khi chính khí đã

đầy đủ thì thần hồn được yên ổn, cho nên khi ở tâm phúc có tà khí hoặc gặp

việc quá sợ sệt, nếu như giúp cho bên trong được hòa hoãn thì sự buồn phiền

phải lui, nên những chứng như co thắt tim hoặc có cảm giác vặn ngược lên

trên, những người khí thiếu, hễ mà Tỳ kinh được bổ thì khí lực mạnh lại được

ngay. Cho nên trường vị cần phải được thanh, có khi chính vì nó mà làm cho

cơ thể bất túc mà sinh ra chứng trường tích. Đại táo vì có vị ngọt nên hay giải

được độc, hòa được các vị thuốc, làm cho tỳ vị sung túc. Về mặt năng lực của

hậu thiên thì nó có thể giúp một phần trong việc dinh dưỡng, cho nên sách xưa

mới nói rằng: "Dùng nó lâu thì nhẹ nhàng thân thể, sống lâu, nhẹ nhàng như

thần tiên, không đói. Đó là ý nói đến những người tu tiên, luyện tịch cốc, người

thường chưa chắc được như vậy (Bản Thảo Kinh Sơ).

8 - Đại táo vi ngọt, là vị thuốc củaTỳ kinh, có tác dụng bổ tỳ, ích khí,

nhuận phế, làm cho giảm ho, sát được độc của Phụ tử. Ngày xưa, Trương

Trọng Cảnh trị chứng bôn đồn, dùng Đại táo với dụng ý giúp cho Tỳ thổ, dùng

nó với mục đích bình thận khí. Trị đau tức cạnh sườn do thủy ẩm sinh ra thì

dùng bài ‘Thập Táo Thang’ ý là giúp cho Tỳ thổ để thắng thận thủy, cho nên

Đại táo tính của nó điều hòa được tạng phủ, là vị thuốc chính để hòa được cả

trăm thứ thuốc vậy. Nhưng không nên dùng nhiều quá sẽ bị hại răng (Bản Thảo

Đồ Giải).

9- Dùng táo đâ chưng rồi mới phơi khô thì tính nó ngọt, ấm, bổ Tỳ,

tráng Vị, tư vinh vệ, nhuận phế, an thần, ăn lâu không đói, ngâm rượu uống.

Nó sát đượ' độc của Phụ tủ, Ô đâàu, Thiên hùng, Xuyên tiêu (Tùy Tức Cư Ẩm

Thực).

10- Phương Bắc sinh ra táo lớn mà quả cứng, thịt dầy, sức bổ tương đối

rất mạnh gọi là ‘Giao táo’ cũng gọi tên khác là "Hắc đại táo". Táo màu đỏ gọi

là "Hồng táo" có khí thơm, vị thanh tao, có tác dụng khai vị, dưỡng tâm, bổ tỳ

huyết (Tùy Tức Cư Ẩm Thực).

11- Đại táo vị ngọt, tính bình, khi mới sinh ra thì hoa trắng nhỏ, quả

sống màu xanh, khi chín màu vàng, khi chín lắm thì thành màu đỏ, phơi khô thì

lại màu đen. Nó bẩm thụ được tinh hoa của khí đất trời, nên có đủ sắc của ngũ

hành (Bản Thảo Sùng Nguyên).

12- Đại táo bẩm thụ được khí của mùa thu là khí của hành kim, nó nhập

vào khí vị của hành Thổ, thu được chính khí trong đất nhập vào kinh Tỳ, khí vị

của nó thăng nhiều hơn giáng vì nó thuộc dương (Bản Thảo Kinh Giải).

13- Đại táo bổ tỳ, nhưng không nên dùng quá nhiều, dùng nhiều thì lý

mắc bệnh, vì tỳ phải phù hợp cả 4 khí, chẳng lẽ nó chỉ giữ được cái vị ngọt đó

sao? Vả lại ngọt là chủ ngũ vị, mỗi thứ thuốc đều có vị ngọt rồi, nên phải tùy

nghi, nghĩa là phải có những vị thuốc dẫn đạo vào các kinh thì nó mới hay

được (Dụng Dược Tượng Pháp).

14- Đại táo dùng vào những thuốc tễ, làm tán, có tác dụng an trung,

dưỡng tỳ, bình vị, dùng làm những tễ thuốc bổ có tác dụng trợ kinh khí, trừ tà

khí để điều hòa các vị thuốc (Bản Thảo Sơ Chứng).

15- Đại táo bổ tỳ thổ, vì nó có tính bổ huyết, hòa khí nhưng Nhân sâm

cũng bổ Tỳ thổ mà nó có tính bổ khí để sinh huyết (Ngọc Thu Dược Giải).

16- Tại sao phải thêm Táo và Gừng sống vào thang thuốc sắc? Cổ nhân

khi làm thuốc mỗi thang đều phải có thêm Táo và Gừng vào, là có ý thận trọng

trong việc giữ gìn Vị khí, tuy nhiên, có nơi nên dùng, có nơi kiêng cữ khác

nhau. Nếu bổ Tỳ Vị thì nên dùng Gừng và Táo. Làm ấm trung tiêu thì nên

dùng Gừng lùi. Thuiốc bổ khí thì chỉ dùng Gừng. Thuốc phát biểu thì dùng

Gừng sống. Thuốc bổ âm, thuốc vào phần huyết thì không nên dùng Gừng,

thuốc trị bệnh ở hạ tiêu thì cứ dùng Gừng, Táo. Thuốc trị bệnh về khí, không

nên dùng Gừng (Dược Phẩm Vậng Yếu).

17- Đại táo có tính ấm, bổ được bất túc, có vị ngọt nên hoãn được âm

huyết. Tà ở phần Vinh, Vệ thì dùng Gừng và Táo vì cay ngọt có tác dụng phát

tán, để hòa vinh vệ, vì vậy dùng bài Quế Chi Thang, Tiểu Sài Hồ Thang để trị.

Trong bụng đầy trướng thì cấm ăn, vì vậy trong bài Kiến Trung Thang, Trương

Trọng Cảnh trị đầy tức dưới tim đã bỏ không dùng Táo. Trong cổ phương,

người xưa dùng Đại táo cùng với Tiểu mạch, Cam thảo để trị phụ nữ bị chứng

tạng táo, vui buồn, khóc cười không rõ lý do. Thang Quy Tỳ phối hợp với

Bạch truật để trị hồi hộp, hay quên. Cho nên các sách xưa cho rằng Đại táo có

thể an trung, dưỡng Tỳ khí và lại có thể làm cho mạnh tâm thần, đó là cách

dùng Đại táo có tính sâu xa vậy (Trung Dược Học Giảng Nghĩa)