ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

ĐẶNG ANH TUẤN

§¹I X¸ Vµ §ÆC X¸ TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

ĐẶNG ANH TUẤN

§¹I X¸ Vµ §ÆC X¸ TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đặng Anh Tuấn

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI XÁ, ĐẶC XÁ

TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................ 8

1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế định đại xá, đặc xá ........................ 8

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của chế định đại xá ................................. 8

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của chế định đặc xá ............................... 12

1.1.3. Đại xá, đặc xá là các chế định pháp lý hình sự ................................... 16

1.1.4. Phân biệt chế định đại xá với chế định đặc xá .................................... 16

1.2. Mục đích và ý nghĩa của đại xá, đặc xá .......................................... 18

1.2.1. Đại xá, đặc xá thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của

Đảng và Nhà nước đối với người phạm tội ........................................ 19

1.2.2. Đại xá, đặc xá góp phần tích cực vào việc giáo dục, cải tạo

người phạm tội, đấu tranh, phòng và chống tội phạm, bảo đảm

an ninh và trật tự an toàn xã hội .......................................................... 19

1.2.3. Đại xá, đặc xá góp phần tích cực vào việc khắc phục những hậu

quả do hành vi phạm tội gây ra và được nhân dân đồng tình, ủng hộError! Bookmark not defined.

1.2.4. Đại xá, đặc xá góp phần tích cực vào việc phục vụ những nhiệm

vụ đối ngoại của Nhà nước trong quá trình hội nhập và phát

triển; đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, diễn biến hòa bìnhError! Bookmark not defined.

1.3. Đại xá, đặc xá theo quy định của Pháp luật hình sự một số

quốc gia trên thế giới ........................ Error! Bookmark not defined.

1.3.1. Đại xá, đặc xá theo pháp luật của Cộng hòa liên bang NgaError! Bookmark not defined.

1.3.2. Đặc xá theo pháp luật của Cộng hoà PhápError! Bookmark not defined.

1.3.3. Đại xá, đặc xá theo pháp luật của Cộng hoà SécError! Bookmark not defined.

1.3.4. Đại xá, đặc xá theo pháp luật của Cộng hòa Ấn ĐộError! Bookmark not defined.

1.3.5. Đại xá, đặc xá theo pháp luật của Hợp chủng quốc Hoa KỳError! Bookmark not defined.

1.4. Chế định đại xá, đặc xá trong thời kỳ phong kiến Việt NamError! Bookmark not defined.

1.4.1. Bộ luật Hồng Đức quy định về đại xá, đặc xáError! Bookmark not defined.

1.4.2. Đại xá, đặc xá theo quy định của Bộ luật Gia Long (Hoàng Việt

luật lệ) ................................................. Error! Bookmark not defined.

1.5. Một số chế định liền kề với chế định đại xá, đặc xáError! Bookmark not defined.

1.5.1. Chế định Giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù hay Giảm mức

hình phạt đã tuyên ............................... Error! Bookmark not defined.

1.5.2. Chế định miễn trách nhiệm hình sự .... Error! Bookmark not defined.

1.5.3. Chế định miễn hình phạt ..................... Error! Bookmark not defined.

1.5.4. Chế định Miễn chấp hành hình phạt ... Error! Bookmark not defined.

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ

ĐẠI XÁ VÀ ĐẶC XÁ ....................... Error! Bookmark not defined.

2.1. Quy định về đại xá, đặc xá tại Bộ luật hình sự và Bộ luật tố

tụng hình sự ....................................... Error! Bookmark not defined.

2.2. Quy định về đặc xá tại Luật Đặc xá năm 2007 và các văn bản

khác có liên quan ................................ Error! Bookmark not defined.

2.2.1. Những nguyên tắc thực hiện đặc xá .... Error! Bookmark not defined.

2.2.2. Đối tượng được đề nghị đặc xá ........... Error! Bookmark not defined.

2.2.3. Thời điểm tổ chức đặc xá .................... Error! Bookmark not defined.

2.2.4. Thẩm quyền xét đặc xá ....................... Error! Bookmark not defined.

2.2.5. Điều kiện được đề nghị đặc xá ............ Error! Bookmark not defined.

2.2.6. Trình tự, thủ tục đề nghị đặc xá .......... Error! Bookmark not defined.

Chương 3: THỰC TIỄN CÔNG TÁC ĐẠI XÁ, ĐẶC XÁ Ở NƯỚC

TA, ĐỀ XUẤT HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẠI

XÁ, ĐẶC XÁ TRONG THỜI GIAN TỚIError! Bookmark not defined.

3.1. Thực tiễn công tác đại xá ở nước ta Error! Bookmark not defined.

3.1.1. Đại xá lần thứ nhất .............................. Error! Bookmark not defined.

3.1.2. Đại xá lần thứ hai ................................ Error! Bookmark not defined.

3.1.3. Nhận xét về việc thực hiện đại xá ....... Error! Bookmark not defined.

3.2. Thực tiễn công tác đặc xá ở nước ta Error! Bookmark not defined.

3.2.1. Các giai đoạn đặc xá từ năm 1945 đến nayError! Bookmark not defined.

3.2.2. Một số nhận xét và đánh giá về công tác đặc xáError! Bookmark not defined.

3.2.3. Việc tiếp nhận, quản lý, giúp đỡ những người được đặc xá tái

hòa nhập cộng đồng ............................ Error! Bookmark not defined.

3.3. Những tồn tại, vướng mắc trong công tác đặc xá ở nước ta

hiện nay và một số giải pháp hoàn thiện, góp phần nâng cao

hiệu quả công tác đại xá, đặc xá ...... Error! Bookmark not defined.

3.3.1. Những tồn tại, vướng mắc trong công tác đặc xá ở nước ta hiện nayError! Bookmark not defined.

3.3.2. Một số giải pháp hoàn thiện, góp phần nâng cao hiệu quả công

tác đặc xá và việc xây dựng các quy định cụ thể về đại xáError! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 21

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ghi nhận:

“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [29, Điều 2, Khoản 1]. Một

nhà nước dân chủ tiến bộ là nhà nước tồn tại trên cơ sở hướng tới việc bảo

đảm các lợi ích của con người, hạnh phúc của con người là thước đo mọi giá

trị của cuộc sống. Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam thể hiện

rõ bản chất Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Ở nhà nước pháp quyền, sự

nghiêm minh của pháp luật luôn được đề cao nhưng pháp luật lại vì con

người, hướng đến mục đích cao cả nhất là đem lại lợi ích và công lý cho con

người vì thế pháp luật luôn mang tính nhân đạo sâu sắc, nghiêm minh mà

thấu tình đạt lý.

Đối với tội phạm, chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta không

chỉ tuân thủ theo nguyên tắc pháp chế mà thể hiện nguyên tắc nhân đạo sâu sắc,

đó là trừng phạt kết hợp với giáo dục. Thông qua hình phạt, Nhà nước vừa

nhằm trừng phạt, răn đe kết hợp giáo dục, cảm hoá, cải tạo người phạm tội trở

thành người lương thiện, qua đó bồi dưỡng mọi công dân tinh thần, ý thức làm

chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng và chống tội

phạm. Vì vậy, Nhà nước và pháp luật không bắt buộc người phạm tội phải chấp

hành toàn bộ thời hạn hình phạt tù đã tuyên tại bản án kết tội khi người đó đã

thực sự ăn năn hối cải, mong muốn hoàn lương, làm lại cuộc đời, đóng góp cho

gia đình và xã hội. Nhà nước và pháp luật có những cơ chế là cơ sở cho việc

người đang chấp hành án phạt tù có thể được tha miễn thời hạn chấp hành hình

phạt tù còn lại khi người đó đảm bảo được những điều kiện luật định. Các quy

định pháp luật đó hợp thành các chế định pháp lý là “Đại xá và đặc xá”.

1

Là chế định thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta,

Chế định Đại xá, đặc xá khuyến khích, giáo dục, động viên những người bị

kết án đang chấp hành hình phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam tích cực cải

tạo, học tập, lao động, chấp hành tốt các quy định, nội quy của trại giam, trại

tạm giam phấn đấu lập công chuộc tội để sớm trở về tái hoà nhập với cộng

đồng, trở thành người có ích cho xã hội.

Đại xá, đặc xá là chế định pháp lý có ý nghĩa tổng hợp về mặt chính trị

- xã hội - pháp lý đặc biệt, thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà

nước. Không chỉ thể hiện tính nhân đạo, đại xá, đặc xá còn góp phần đấu

tranh với những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động âm

mưu chống phá Nhà nước ta dưới chiêu bài tự do tôn giáo và nhân quyền.

Chế định đại xá, đặc xá có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ với chế định về

chấp hành hình phạt tù. Chế định chấp hành hình phạt tù - với tư cách chế

định lớn nhất của Luật Thi hành án hình sự là cơ sở cho các quy định về đặc

xá. Việc chấp hành hình phạt tù được đảm bảo nghiêm chỉnh, kịp thời, đúng

quy định pháp luật sẽ là những căn cứ đầu tiên cho việc thực hiện xét đặc xá.

Ở chiều ngược lại, việc đặc xá mang lại những tác động vô cùng tích cực và

hiệu quả cho những người chưa được đặc xá cố gắng phấn đấu, rèn luyện.

Trước năm 2008, nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, các sự

kiện trọng đại của đất nước, Chủ tịch nước căn cứ vào Điều 103 Hiến pháp

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm

2001, quyết định đặc xá tha tù cho những phạm nhân đang chấp hành hình

phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam do Bộ Công an và Bộ Quốc phòng

quản lý, hoặc miễn chấp hành hình phạt tù cho những người bị kết án phạt

tù đang được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù có đầy đủ các

điều kiện, tiêu chuẩn theo Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước.

Ngày 21/11/2007, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XII đã thông qua

Luật Đặc xá, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/2008. Trên cơ sở kế thừa kinh

2

nghiệm trong công tác đặc xá của Nhà nước ta trong thời gian qua và tiếp thu

có chọn lọc những kinh nghiệm của các nước về xây dựng và thực hiện pháp

luật về đặc xá, Luật đặc xá đã thể chế hóa những quan điểm của Đảng về

chính sách khoan hồng, nhân đạo đối với những người phạm tội, bị kết án

phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhằm khuyến khích họ cải tạo tốt, sớm trở

về với gia đình và cộng đồng. Cùng đó, Luật Đặc xá năm 2007 cũng cụ thể

hóa quy định về thẩm quyền của Chủ tịch nước đối với hoạt động đặc xá

trong Hiến pháp. Điều này đã giúp cho Chủ tịch nước thực hiện tốt hơn quyền

của mình với tư cách Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước về đối

nội, đối ngoại, góp phần đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, phục vụ tốt

công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

Kể từ ngày Cách mạng tháng tháng Tám năm 1945 thành công đến nay,

Nhà nước ta đã 02 lần tiến hành đại xá và khoảng 46 lần tiến hành đặc xá cho

rất nhiều người phạm tội nói chung và người phạm tội bị kết án nói riêng.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình áp dụng pháp luật

về đặc xá, đặc biệt khi Luật Đặc xá năm 2007 có hiệu lực, còn một số nội dung

bộc lộ những tồn tại, hạn chế, cần được nghiên cứu, tổng kết, rút kinh nghiệm.

Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề về đại xá, đặc

xá đồng thời đánh giá việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn từ đó đưa ra các

giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các chế định này. Điều này không những

có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là vấn đề mang tính

cấp thiết. Đây cũng là lý do cho việc chúng tôi lựa chọn đề tài “Đại xá và đặc

xá trong Luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Là chế định thể hiện chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự và

nguyên tắc nhân đạo của luật thi hành án hình sự, đại xá, đặc xá có quan hệ

chặt chẽ mật thiết với chế định chấp hành hình phạt tù và một số chế định

khác của luật hình sự và luật thi hành án hình sự, vì vậy chế định này ở các

3

mức độ khác nhau đã được một số nhà khoa học trong và ngoài nước quan

tâm nghiên cứu.

Có thể kể tới một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý

nước ngoài như Kelina X.G - “Những vấn đề lý luận của việc tha miễn trách

nhiệm hình sự” (NXB. Khoa học, Maxcơva, 1974); Kelina X.G – “Những cơ sở

lý luận của việc tha miễn trách nhiệm hình sự” (NXB. Khoa học, Maxcơva,

1994); “Bộ hình thư về các hình phạt hình sự và hình phạt cải tạo năm 1845 –

Trong sách: Pháp luật Nga các thế kỷ X-XX (pháp luật nửa thế kỷ XIX)” (NXB.

Sách pháp lý, Maxcơva, 1988); Marôgulôva I.L –“Đại xá và đặc xá trong pháp

luật hình sự Nga”. Maxcơva, 1951; Xinsôva T.A – “Đại xá và đặc xá trong luật

nhà nước Xô viết” – tạp chỉ Luật học, 1969; Xabanhin X.N – “Đại xá và đặc xá

trong pháp luật hình sự Nga”. – tạp chí Nhà nước và pháp luật, 1998.

Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu, một số bài đăng trên

các tạp chí, báo liên quan tới nội dung về Đại xá, đặc xá tiêu biểu như: GS. TS

Nguyễn Ngọc Anh, Sách chuyên khảo “Hoàn thiện pháp luật về đặc xá ở Việt

Nam”, NXB Tư pháp, 2007; GS. TS Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên) cùng tập thể

tác giả, Sách chuyên khảo “Bình luận Luật Đặc xá”, NXB Tư pháp, 2013;

PGS. TS Trịnh Quốc Toản, Chương 4 – Các biện pháp miễn. giảm hình phạt

trong bộ luật hình sự hiện hành, Sách chuyên khảo “Nghiên cứu hình phạt

trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người”, NXB Chính

trị quốc gia – Sự thật, 2015; GS.TSKH Lê Cảm, Chương thứ tám – “Các biện

pháp tha miễn trong luật hình sự” - sách chuyên khảo sau đại học: “Những vấn

đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung)”, NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội, 2005; GS.TSKH Lê Cảm, “Khái niệm, các đặc điểm, phân loại và bản

chất pháp lý của các biện pháp tha miễn trong luật hình sự Việt Nam” – tạp chí

Khoa học pháp lý, số 3/2001; GS.TSKH Lê Cảm, “Chế định đặc xá, chế định

đại xá và mô hình lý luận của chúng trong luật hình sự Việt Nam” – Tạp chí

Tòa án nhân dân, số 5 (3)/2005; GS. TS Nguyễn Ngọc Anh, “Bàn về khái niệm,

4

vị trí, vai trò của pháp luật về đặc xá”, Tòa án nhân dân tối cao, Số 13/2007;

GS. TS Nguyễn Ngọc Anh, “Vài nét về sự phát triển của pháp luật Việt Nam

về đặc xá trước năm 1945”, Toà án nhân Dân tối cao, Số 16/2007.

Ngoài ra, còn một số bài đăng của các tác giả khác trên các báo, tạp chí

chuyên ngành. Tuy nhiên, do mục đích và cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu của

các tác giả ở những góc độ, khía cạnh khác nhau nên các công trình nghiên cứu

chủ yếu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp riêng lẻ của công tác đặc xá là

chính, chưa đi sâu về chế định đại xá, đặc xá trong Luật hình sự Việt Nam.

Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng

định việc nghiên cứu đề tài “Đại xá và đặc xá trong Luật hình sự Việt Nam”

là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn là: nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác đại

xá, đặc xá từ năm 1945 đến nay để làm sáng tỏ chế định đại xá, chế định đặc

xá dưới góc độ pháp luật hình sự, qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm xây

dựng các quy định cụ thể liên quan đến chế định đại xá và sửa đổi, bổ sung

hoàn thiện chế định đặc xá trong thời gian tới.

Từ mục đích đó, đề tài có các nhiệm vụ sau:

- Xem xét và lý giải về mặt lý luận và thực tiễn đại xá, đặc xá dưới góc độ

pháp luật hình sự, mà cụ thể là của Luật đặc xá, Luật hình sự, tố tụng hình sự.

- Làm rõ khái niệm, đặc điểm cơ bản, ý nghĩa của chế định đại xá, chế

định đặc xá; phân biệt chế định đại xá với chế định đặc xá; tìm hiểu các quy

định về đại xá, đặc xá trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và

trong pháp luật phong kiến Việt Nam; tìm hiểu và so sánh một số chế định

liền kề khác với chế định đại xá, đặc xá trong pháp luật hình sự Việt Nam.

- Tìm hiểu và phân tích các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam

về đại xá, đặc xá.

5

- Tìm hiểu thực tiễn đại xá, đặc xá ở nước ta từ khi Cách mạng tháng

8/1945 thành công đến nay, công tác đặc xá từ khi Luật Đặc xá năm 2007 có

hiệu lực thi hành, kiến nghị hướng hoàn thiện trong quy định và thực hiện

công tác đại xá, đặc xá.

3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của chế định đại xá,

chế định đặc xá; các quy định về đại xá, đặc xá; cũng như thực tiễn công tác

đặc xá, đại xá, đặc biệt là công tác đặc xá ở nước ta từ năm 1945 đến nay

(trong đó thời điểm từ khi Luật Đặc xá năm 2007 ra đời và hiệu lực thi hành).

4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng

chống tội phạm, về tính nhân đạo của pháp luật. Nội dung luận văn cũng quán

triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của các Nghị quyết Đại hội Đảng IX, X, XI và

các Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Luận văn cũng

kế thừa và vận dụng những thành tựu của các bộ môn khoa học pháp lý

chuyên ngành như: Lịch sử Nhà nước và pháp luật; Lý luận về Nhà nước và

pháp luật; Luật hình sự; Tội phạm học; Luật tố tụng hình sự; Luật thi hành án

hình sự, Luật thi hành án dân sự, Luật đặc xá và Triết học.

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, nhằm tiếp cận và làm sáng tỏ về mặt

lý luận từng vấn đề tương ứng, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp

nghiên cứu như: phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích và tổng hợp;

phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy

nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học….

5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học về

6

chế định đại xá, đặc xá, trong đó đã giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về mặt

lý luận và thực tiễn liên quan tới đại xá và đặc xá. Trong luận văn này, tác giả

đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau:

5.1. Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận

về chế định đại xá và đặc xá như: khái niệm đại xá và đặc xá; đặc điểm, bản

chất và hậu quả pháp lý của đại xá và đặc xá; ý nghĩa của đại xá và đặc xá;

các quy phạm luật thực định về đại xá và đặc xá qua đó đề xuất sửa đổi, bổ

sung các quy định về đặc xá, xây dựng chi tiết các quy định về đại xá.

5.2. Hệ thống hóa lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm về

đại xá và đặc xá trong pháp luật hình sự Việt Nam để từ đó đưa ra những nhận

xét, đánh giá khách quan và toàn diện.

5.3. Phân tích những căn cứ, điều kiện là cơ sở pháp lý cho việc được

đại xá và đặc xá theo quy định của pháp luật.

5.4. Nghiên cứu, phân tích những nét cơ bản về thực tiễn áp dụng Luật

Đặc xá, đưa ra những đánh giá đúng đắn, giúp chỉ ra những tồn tại, hạn chế,

vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân của tình trạng này từ đó tìm giải

pháp khắc phục.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về đại xá, đặc xá trong luật hình sự

Việt Nam.

Chương 2. Các quy định của pháp luật hiện hành về đại xá và đặc xá.

Chương 3. Thực tiễn công tác đại xá, đặc xá ở nước ta, đề xuất hướng

hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả công

tác đại xá, đặc xá trong thời gian tới.

7

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI XÁ, ĐẶC XÁ

TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế định đại xá, đặc xá

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của chế định đại xá

Chế định đại xá là một chế định đặc biệt mà cho đến thời điểm hiện nay

dù Luật Đặc xá năm 2007 được ban hành, có hiệu lực thi hành được 8 năm

nhưng chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào đưa ra được khái niệm pháp

lý cụ thể về đại xá.

Từ điển bách khoa Việt Nam có giải thích về khái niệm của chế định

đại xá như sau: “Đại xá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố

hoặc vô tội, hoặc cho miễn giảm một phần hoặc toàn bộ hình phạt đối với một

loại hoặc một số loại can phạm nhất định” [18, tr.722].

Đối với khái niệm đại xá, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học

luật hình sự cũng như những người thực thi pháp luật của Việt Nam và thế

giới đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau.

Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm cụ thể và rõ

ràng về chế định đại xá trong các tác phẩm có liên quan như:

Theo PGS.TS. Trịnh Quốc Toản:

Đại xá là một biện pháp khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước

do Quốc hội quyết định nhân dịp sự kiện lịch sử quan trọng của đất

nước đối với những người phạm những tội nhất định. Đối với

những hành vi phạm tội được đại xá thì dù đang ở trong bất cứ giai

đoạn tố tụng nào (từ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) người

phạm tội đều được tha tội hoàn toàn, được phục hồi toàn bộ quyền

công dân và được coi như không phạm tội và cũng không có án tích

trong lý lịch tư pháp [40, tr.240].

8

Theo GS. TSKH. Lê Cảm:

Về nội dung, đại xá là sự khoan hồng mang tính chất tổng hợp

về mặt pháp lý hình sự và TTHS được thực hiện theo trình tự ngoài

Toà án bằng việc áp dụng đối với người phạm tội (bị kết án) không

nhất định một trong các biện pháp tha miễn của PLHS nếu người đó

đáp ứng đầy đủ những điều kiện mà văn bản đại xá quy định.

Về hình thức, văn bản đại xá là văn bản quy phạm pháp

luật do cơ quan lập pháp tối cao (Quốc hội) ban hành dưới dạng

quyết định nhân dịp có sự kiện lịch sử đặc biệt quan trọng của đất

nước, có hiệu lực pháp luật bắt buộc đối với tất cả các cơ quan

bảo vệ pháp luật và Toà án căn cứ vào giai đoạn TTHS cụ thể

tương ứng [10, tr.849].

Theo TS. Trịnh Tiến Việt thì:

Đại xá được hiểu là văn bản (quyết định) của Quốc hội

miễn TNHS hoặc miễn hình phạt hoặc thay đổi hình phạt đã

tuyên bằng một hình phạt nhẹ hơn đối với một loại người phạm

tội nhất định [51, tr.83].

Theo Th.S Đinh Văn Quế:

Đại xá là việc miễn TNHS đối với một loại tội phạm hoặc

một loại người phạm tội nhất định. Văn bản đại xá có hiệu lực đối

với những hành vi phạm tội được nêu trong văn bản đó xảy ra trước

khi ban hành văn bản đại xá thì được miễn truy cứu TNHS; nếu đã

khởi tố, truy tố hoặc xét xử thì phải đình chỉ, nếu đã chấp hành

xong hình phạt thì được coi là không có án tích [23, tr.159].

Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu pháp luật hình sự của Liên Xô cũ,

Liên Bang Nga, Italia cũng có một số ý kiến đưa ra quan điểm về Chế định

Đại xá [10, tr.845-847]:

9

GS. TSKH luật Karôg A.I. quan niệm rằng: a) Trong luật hình sự đại xá

được hiểu là văn bản của cơ quan quyền lực nhà nước tối cao mà theo đó các

loại người hoặc tất cả những người đã phạm những loại tội nhất định được

miễn trách nhiệm hình sự, miễn chấp hành một phần hoặc hoàn toàn hình phạt

hay thay thế hình phạt đã được Toà án quyết định bằng hình phạt khác nhẹ

hơn; b) Văn bản về đại xá không thay đổi và không huỷ bỏ đạo luật quy định

trách nhiệm hình sự đối với việc thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã

hội nào, không đặt ra nghi ngờ đối với bản án của Toà án đã được tuyên đối

với vụ án cụ thể.

Theo GS. TSKH luật Haumôv A.V. thì văn bản đại xá không đưa những

thay đổi vào đạo luật hình sự, tức là không phi tội phạm hoá các hành vi tương

ứng mà những người được đại xá đã thực hiện, không đặt ra sự nghi ngờ đối

với tính hợp pháp và có căn cứ của bản án kết tội mà Toà án đã tuyên.

Theo nữ GS. TSKH luật Heznamôva Z.A. thì đại xá là một dạng tha

miễn có tính chất hỗn hợp vì bằng văn bản đại xá với tư cách là văn bản ngoài

Toà án có thể áp dụng bất kỳ việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt và

thực tế là trong bất kỳ giai đoạn trách nhiệm hình sự nào; đại xá được áp dụng

chỉ đối với những tội phạm đã hoàn thành trước thời điểm văn bản đại xá có

hiệu lực pháp luật; miễn hình phạt do có văn bản đại xá có thể được thực hiện

trong thời điểm tuyên bản án kết tội hoặc trong quá trình chấp hành hình phạt;

miễn việc tiếp tục chấp hành hình phạt do có văn bản đại xá bao gồm - miễn

chấp hành hình phạt trước thời hạn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, thay

đổi hình phạt đã quyết định bằng hình phạt khác nhẹ hơn hoặc xoá án tích.

Từ các quan điểm của những nhà làm luật trong và ngoài nước như đã

nêu trên, chúng tôi có thể đưa ra khái niệm về Đại xá trong Luật hình sự Việt

Nam như sau: Đại xá là sự khoan hồng của Nhà nước có ý nghĩa chính trị -

xã hội - pháp lý vô cùng đặc biệt, được Cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà

nước - Quốc hội quyết định nhân dịp sự kiện lịch sử đặc biệt quan trọng của

10

đất nước, nhằm tha miễn một cách hoàn toàn và triệt để đối với hàng loạt các

đối tượng phạm tội nhất định được quy định trong Văn bản đại xá.

Từ những quan điểm đề cập khái niệm của Đại xá trên, có thể đưa ra những

đặc điểm cơ bản của chế định Đại xá trong Luật hình sự Việt Nam như sau:

Thứ nhất, đại xá là sự tha miễn, khoan hồng của Nhà nước, có ý nghĩa

chính trị - xã hội - pháp lý hết sức đặc biệt, thể hiện Nguyên tắc nhân đạo của

Pháp luật hình sự Việt Nam. Đại xá được áp dụng đối với một loạt người

phạm tội nhất định thuộc đối tượng đại xá được ghi trong văn bản đại xá.

Thứ hai, đại xá thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội - cơ quan

quyền lực cao nhất của Nhà nước, quy định tại Khoản 11 Điều 70 Hiến pháp

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đại xá được Quốc hội

quyết định nhân sự kiện lịch sử đặc biệt quan trọng của đất nước. Văn bản đại

xá là văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện dưới dạng nghị quyết (quyết

định) của Quốc hội.

Thứ ba, phạm vi của đại xá rất rộng lớn, không chỉ được áp dụng với

những người đang bị khởi tố, bị tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố, xét xử

hoặc đảm bảo việc thi hành án mà còn được áp dụng đối với những phạm

nhân đang chấp hành án. Đại xá được áp dụng với bất kỳ ai đã phạm vào một

trong những loại tội được hưởng đại xá. Đại xá không xem xét từng trường

hợp cụ thể và cũng không đặt ra các tiêu chí cụ thể để được đại xá như vấn đề

về nhân thân, quá trình chấp hành nội quy trại tạm giam, trại giam…

Thứ năm, hậu quả pháp lý của đại xá đối với các đối tượng được hưởng

đại xá chính là áp dụng một trong các biện pháp tha miễn gồm miễn trách

nhiệm hình sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, xóa án tích căn cứ

vào giai đoạn tố tụng hình sự cụ thể tương ứng: miễn trách nhiệm hình sự (các

giai đoạn tố tụng hình sự trước khi Toà án tuyên bản án kết tội có hiệu lực

pháp luật); miễn hình phạt; miễn chấp hành hình phạt (giai đoạn sau khi Toà

11

án tuyên bản án kết tội có hiệu lực pháp luật); xoá án tích (đối với người đã

chấp hành xong hình phạt và các quyết định khác của Toà án).

Thứ sáu, khi Quyết định đại xá có hiệu lực, người được đại xá trên toàn

quốc được trả tự do ngay, được phục hồi toàn bộ quyền công dân và được coi

như không phạm tội.

Thứ bảy, do tính chất vô cùng đặc biệt, tha miễn một cách hoàn toàn,

triệt để, mức độ áp dụng rộng lớn nên việc áp dụng đại xá ít phổ biến hơn các

hình thức khác.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của chế định đặc xá

Đặc xá là hoạt động đặc biệt, một hình thức thể hiện tính nhân đạo của

Nhà nước, do người có thẩm quyền quyết định theo quy định của Hiến pháp

nhằm miễn chấp hành hình phạt (hoặc thay đổi hình phạt khác nhẹ hơn) đối

với người đang chấp hành hình phạt với những điều kiện, tiêu chuẩn hoặc khi

có những sự kiện nhất định. Đặc xá thường được tổ chức nhân dịp những sự

kiện trọng đại của đất nước, của dân tộc và đáp ứng nhiệm vụ của Nhà nước

trong từng giai đoạn cụ thể.

Theo Từ điển Tiếng Việt, đặc xá là việc cơ quan quyền lực tối cao của

một nước tha hẳn hoặc giảm hình phạt cho những phạm nhân nhất định. Cụ

thể hơn, Từ điển Bách khoa Việt Nam của Trung tâm biên soạn Từ điển bách

khoa Việt Nam xuất bản năm 1995 ghi:

Đặc xá là thể thức miễn tội, giảm hình phạt, miễn hình phạt

hoặc xoá án đối với một người hoặc một số người có biến cải đặc biệt

và theo đơn xin của người phạm tội, của gia đình họ, của cơ quan và

tổ chức hữu quan hoặc căn cứ vào chính sách đối nội, đối ngoại của

Nhà nước khi xét thấy cần thiết. Người bị kết án tử hình nếu được đặc

xá thì được tha tội chết, giảm thành tù chung thân [18, tr.747].

Cuốn từ điển này cũng đưa ra khái niệm ân xá, theo đó ân xá là quyết

12

định của người đứng đầu Nhà nước miễn toàn bộ hay một phần hình phạt cho

người bị kết tội theo bản án đã có hiệu lực pháp luật. Nếu quyết định ân xá chỉ

giảm hình phạt thì hình phạt được hạ xuống bậc dưới trong thang hình phạt.

Án phạt không bị xoá bỏ, vẫn được ghi vào lý lịch tư pháp có ghi chú việc ân

xá. Ân xá có hai hình thức: đặc xá và đại xá.

Trong cuốn Từ điển Nghiệp vụ phổ thông dùng trong Công an nhân

dân (xuất bản năm 1977) đưa ra khái niệm:

Đặc xá là xét tha trước hạn tù cho những phạm nhân cải tạo

tiến bộ đạt các tiêu chuẩn quy định nhân dịp Quốc khánh 2/9 hoặc

khi có những sự kiện chính trị đặc biệt [45, tr.179].

Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân (xuất bản năm 2006) thì:

Đặc xá là miễn toàn bộ hay một phần hình phạt trước thời

hạn cho những phạm nhân có quá trình cải tạo tốt, đạt những tiêu

chuẩn quy định nhân dịp những sự kiện chính trị đặc biệt của quốc

gia. Người bị kết án tử hình nếu được đặc xá thì được tha tội chết,

giảm thành chung thân [46, tr.432].

Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, trước khi Luật Đặc xá năm

2007 được ban hành thì giữa các nhà nghiên cứu, những người thực thi pháp

luật còn nhiều quan điểm khác nhau về chế định đặc xá như sau:

Theo GS. TSKH Lê Cảm thì:

Đặc xá là sự khoan hồng mang tính chất tổng hợp về mặt

pháp lý hình sự được thực hiện theo trình tự ngoài Toà án bằng việc

áp dụng đối với riêng một (những) người bị kết án cụ thể nhất định

một trong các biện pháp tha miễn của PLHS nếu người đó đáp ứng

đầy đủ những điều kiện mà văn bản đặc xá quy định [10, tr.843].

Theo GS. TS. Nguyễn Ngọc Anh thì:

13

Đặc xá là việc Chủ tịch nước (người đứng đầu nhà nước)

quyết định tha tù trước thời hạn cho phạm nhân hoặc quyết định

miễn chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án phạt tù đang được

hoãn chấp hành hình phạt hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt,

có quá trình cải tạo tốt hoặc xét thấy có những lý do khác đáng

được hưởng sự khoan hồng, giảm nhẹ đặc biệt [2, tr.18].

Ngày 21/11/2007, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam khóa XII đã thông qua Luật Đặc xá năm 2007. Luật có hiệu

lực thi hành từ ngày 01/3/2008. Sau khi Quốc hội thông qua, Chủ tịch nước

đã Công bố Lệnh thông qua Luật này.

Luật Đặc xá năm 2007 bao gồm 6 chương, 36 điều quy định thế nào là đặc

xá; thời điểm, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm thực hiện đặc xá; điều

kiện, quyền và nghĩa vụ của người được đề nghị đặc xá, người được đặc xá.

Khoản 1 Điều 3 Luật Đặc xá năm 2007 hiện hành quy định: “Đặc xá là sự

khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời

hạn cho những người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện

trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt” [32].

Khái niệm về đặc xá theo quy định của Luật Đặc xá năm 2007 đã

làm rõ về thẩm quyền quyết định đặc xá, đối tượng được hưởng đặc xá,

thời điểm đặc xá. Việc xác định thẩm quyền quyết định đặc xá là rất quan

trọng vì trong các bản Hiến pháp của nước ta chưa có quy định thống nhất.

Theo quy định tại Điều thứ 49 Hiến pháp năm 1946 thì đặc xá thuộc thẩm

quyền quyết định của Chủ tịch nước. Còn tại Điều 53 Hiến pháp năm 1959

lại quy định đặc xá thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban thường vụ

Quốc hội. Điều 100 Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng Nhà nước có

thẩm quyền quyết định đặc xá. Điều 103 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ

sung năm 2001) và Điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định đặc xá thuộc

thẩm quyền quyết định của Chủ tịch nước.

14

Từ định nghĩa trên ta thấy chế định đặc xá có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, đặc xá là sự tha miễn, khoan hồng của Nhà nước, có ý nghĩa

chính trị - xã hội - pháp lý hết sức đặc biệt, thể hiện Nguyên tắc nhân đạo của

Pháp luật hình sự Việt Nam.

Thứ hai, đặc xá thuộc thẩm quyền quyết định của Chủ tịch nước –

Nguyên thủ quốc gia, quy định tại Khoản 3 Điều 88 Hiến pháp nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và Luật Đặc xá năm 2007.

Thứ ba, Đặc xá được áp dụng đối với một số người phạm tội nhất định

thuộc đối tượng đặc xá được ghi trong Quyết định về đặc xá. Phạm vi của đặc

xá áp dụng với những người được đề nghị đặc xá gồm phạm nhân đang chấp

hành án phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; người bị kết án

phạt tù đã chấp hành được một phần hình phạt nhưng đang được tạm đình chỉ

chấp hành án phạt tù và người bị kết án phạt tù giam nhưng đang được hoãn

chấp hành hình phạt và các trường hợp khác thuộc trường hợp đặc biệt. Đặc

xá trong trường hợp đặc biệt là đặc xá được thực hiện theo yêu cầu đột xuất

trong những trường hợp cụ thể, đối với những đối tượng cụ thể (thường là đơn

lẻ), mang tính chất đối nội, đối ngoại hoặc ân giảm hình phạt tử hình xuống

hình phạt tù chung thân cho người bị kết án tử hình …

Thứ tư, thời điểm đặc xá: Đặc xá được Chủ tịch nước quyết định nhân

sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước, dân tộc hay trường hợp đặc biệt.

Thứ năm, người được hưởng đặc xá sẽ được “tha tù trước thời hạn”

chấp hành án phạt tù mà Bản án, Quyết định của Tòa án đã tuyên phạt đối với

họ. Đối với những phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại các trại giam, trại

tạm giam, nhà tạm giữ được đặc xá, họ sẽ được ra tù trước thời hạn. Đối với

người bị kết án phạt tù đã chấp hành được một phần hình phạt nhưng đang

được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù và người bị kết án phạt tù giam nhưng

đang được hoãn chấp hành hình phạt, họ sẽ được miễn, không phải tới Trại

giam, Trại tạm giam, Nhà tạm giữ tiếp tục chấp hành phần hình phạt còn lại.

15

Thứ sáu, Văn bản đặc xá là văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện dưới

dạng Quyết định về đặc xá, Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước. Khi Quyết định

đặc xá có hiệu lực, người được đặc xá trên toàn quốc được trả tự do ngay.

1.1.3. Đại xá, đặc xá là các chế định pháp lý hình sự

Từ các quan điểm về đại xá, đặc xá cũng như thực tiễn công tác đại xá,

đặc xá từ năm 1945 đến nay, chúng tôi khẳng định rằng đại xá, đặc xá là các

chế định pháp lý hình sự, bởi lẽ:

Thứ nhất, về mặt lập pháp, từ khi Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời, các

nhà làm luật lần đầu tiên quy định đại xá là một trường hợp của miễn trách

nhiệm hình sự (Điều 25); đại xá, đặc xá là một trường hợp của miễn Chấp

hành hình phạt (Điều 57). Như vậy, bằng những quy định này, nhà làm luật đã

chính thức thừa nhận đại xá, đặc xá là các chế định của Pháp luật hình sự, thể

hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với tội phạm trong giai đoạn

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, về mặt lý luận, bản chất của việc áp dụng chế định đại xá, đặc

xá là do có sự việc phạm tội, đối tượng được hưởng đại xá, đặc xá là người

phạm tội. Như vậy chế định đại xá, đặc xá bắt nguồn và gắn liền với tội phạm

và người phạm tội (do luật hình sự điều chỉnh).

Thứ ba, về thực tiễn áp dụng, qua các lần đại xá, đặc xá từ năm 1945

đến nay, mặc dù mỗi giai đoạn, mỗi lần đại xá, xét đặc xá được quy định cụ

thể khác nhau nhưng luôn có chung đối tượng là người phạm tội.

Từ ba căn cứ trên khẳng định rằng đại xá, đặc xá là chế định pháp lý

hình sự, thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hình sự.

1.1.4. Phân biệt chế định đại xá với chế định đặc xá

Từ khái niệm và đặc điểm trên cho thấy, đại xá và đặc xá có sự khác

nhau rất rõ ràng về thẩm quyền, nội dung, phạm vi và hậu quả pháp lý.

Về mặt thẩm quyền, theo quy định của Hiến pháp nước ta thì chỉ có

16

Quốc hội mới có quyền quyết định đại xá (khoản 11 Điều 70 Hiến pháp nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013) còn đặc xá lại thuộc thẩm

quyền của Chủ tịch nước được quy định tại khoản 3 Điều 88 Hiến pháp nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và Luật đặc xá năm 2007.

Tuy đều là biện pháp khoan hồng của nhà nước đối với người phạm tội nhưng

đại xá có ý nghĩa chính trị to lớn hơn so với đặc xá.

Về nội dung, thông thường căn cứ vào tình hình kinh tế chính trị cũng

như diễn biến tội phạm trong từng thời kỳ mà Quốc hội quyết định đại xá cho

những hành vi phạm tội hay loại tội phạm nào. Người phạm tội thực hiện

những hành vi được nêu trong văn bản đại xá thì dù đang ở giai đoạn điều tra,

truy tố hay xét xử đều được miễn trách nhiệm hình sự; Nếu đã bị tuyên hình

phạt, đang chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn

lại và được xóa án tích; Nếu đã chấp hành xong hình phạt hay các quyết định

khác của Tòa án thì được xóa án tích.

Trong khi đó, việc đặc xá được xem xét cụ thể theo yêu cầu (có đơn)

của người bị kết án hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, thậm chí có những

trường hợp theo yêu cầu của người nước ngoài. Việc xét đặc xá bao gồm xét

đặc xá tha tù và xét ân giảm án tử hình áp dụng trong giai đoạn 1945 - 1948,

có nghĩa là đối tượng được xét đặc xá phải là những người đang thi hành án

phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, người bị kết án được

hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù; Người bị kết án tử hình có đơn xin

ân giảm gửi Chủ tịch nước. Chế định đặc xá nhằm khuyến khích người phạm

tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng cải tạo tốt, nhanh chóng hòa nhập

với cộng đồng, trở thành con người có ích cho xã hội. Ý nghĩa chính trị của

đặc xá tuy có hạn chế hơn so với đại xá nhưng nó phúc đáp kịp thời yêu cầu

thực tiễn trong hoạt động đối nội và đối ngoại của Nhà nước ta.

Về phạm vi áp dụng: Một điểm quan trọng nữa để phân biệt giữa hoạt

17

động đại xá và đặc xá: đại xá là sự xá miễn được áp dụng đối với một hoặc một

số hành vi phạm tội nhất định, theo đó, hàng loạt người đã thực hiện hành vi

được xác định trong quyết định đại xá sẽ được tha, miễn trách nhiệm hình sự.

Điều đó có nghĩa đại xá được thi hành rộng rãi, tuy nhiên, vẫn có loại trừ một

số tội phạm nguy hiểm mà nếu tha sẽ ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội và an

ninh quốc gia. Còn đặc xá được áp dụng với trường hợp người phạm tội cụ thể,

căn cứ vào tình hình thực tiễn Chủ tịch nước đưa ra tiêu chuẩn của từng đợt đặc

xá, dựa vào đó người đang chấp hành án phạt tù làm đơn xin được xét đặc xá

hoặc cơ quan tổ chức hữu quan đề nghị lập thành danh sách cụ thể trình Chủ

tịch nước quyết định. Do vậy, phạm vi của đặc xá hẹp hơn so với đại xá.

Về hậu quả pháp lý: Quyết định đặc xá và đại xá sẽ dẫn đến hai hậu quả

pháp lý khác nhau, đó là thời gian xóa án tích cho người phạm tội. Đối với

hành vi phạm tội được đại xá thì dù đang ở trong giai đoạn nào từ điều tra,

truy tố, xét xử, thi hành án đều được tha tội hoàn toàn, có nghĩa sẽ được trả tự

do ngay, phục hồi toàn bộ quyền công dân và được coi như không phạm tội.

Người được đại xá sẽ là người không có tội và cũng sẽ không có án tích trong

lý lịch tư pháp của mình. Còn quyết định đặc xá thì chỉ tính trong giai đoạn

đang thi hành án phạt tù và người được đặc xá sẽ được miễn chấp hành phần

hình phạt còn lại nhưng không được xóa án tích ngay như người được quyết

định đại xá và vẫn có tiền án trong lí lịch tư pháp. Thời gian tính để xóa án

tích cho những người được đặc xá theo quy định của Bộ luật hình sự bắt đầu

từ thời điểm được đặc xá.

1.2. Mục đích và ý nghĩa của đại xá, đặc xá

Mục đích của đại xá, đặc xá trong mỗi thời kỳ đều có những điểm khác

nhau, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể và nhiệm vụ chính trị, ý chí của

Đảng và Nhà nước tại thời điểm quyết định thực hiện đại xá, đặc xá. Tuy

18

nhiên, khi khảo sát, nghiên cứu các quyết định đại xá, đặc xá của Nhà nước ta

ban hành từ năm 1945 đến nay, chúng tôi nhận thấy, mục đích và ý nghĩa mà

đại xá, đặc xá luôn thể hiện những điểm cơ bản sau:

1.2.1. Đại xá, đặc xá thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của

Đảng và Nhà nước đối với người phạm tội

Đại xá, đặc xá thể hiện Nhà nước luôn luôn quan tâm đến người dân, kể

cả trong trường hợp họ phạm tội, đang bị trừng phạt, qua quá trình cải tạo họ

đã tiến bộ, đạt được tiêu chuẩn, điều kiện nhất định thì Nhà nước thay đổi

chính sách trừng phạt đối với họ, khôi phục quyền, lợi ích cơ bản của công

dân. Thực tế là Nhà nước cho họ được hưởng chính sách khoan hồng, nhân

đạo. Đặc xá, đại xá thể hiện bản chất ưu việt, thể hiện rõ nét nhất tinh thần

nhân đạo, bao dung của người Việt Nam qua bao đời.

Đối với đặc xá, đó là sự ghi nhận của Nhà nước đối với kết quả cải tạo,

chấp hành tốt nội quy, quy chế của phạm nhân. Nhà nước ta tôn trọng quyền

con người, đặc biệt đối với những người có quá khứ lầm lỗi mà trong quá

trình lao động, cải tạo, chấp hành án phạt họ đã nhận thức được lỗi lầm của

mình, giá trị của cuộc sống và thực sự mong muốn đóng góp sức mình cho xã

hội, cộng đồng, gia đình và chính bản thân.

1.2.2. Đại xá, đặc xá góp phần tích cực vào việc giáo dục, cải tạo

người phạm tội, đấu tranh, phòng và chống tội phạm, bảo đảm an ninh và

trật tự an toàn xã hội

Đặc xá là sự thể hiện nhất quán chính sách hình sự của Nhà nước ta

trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm và giáo dục người phạm tội tái

hoà nhập cộng đồng. Vì vậy, mục đích đầu tiên của công tác đặc xá là phải

góp phần tích cực vào việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, đấu tranh phòng

và chống tội phạm, bảo vệ an ninh và trật tự, an toàn xã hội.

Việc trả lại tự do cho những người đang chấp hành án phạt tù có thời

19

hạn và những hình phạt hạn chế quyền tự do khác phải có tác dụng thực sự

khuyến khích, động viên những người đang phải chấp hành án phạt tù hoặc

hình phạt hạn chế quyền tự do khác có quyết tâm và động lực cải tạo tốt để

được sớm tái hoà nhập cộng đồng, hoàn lương, trở thành những công dân có

ích cho xã hội và gia đình họ.

Thực tiễn công tác đặc xá đã chứng minh rằng, không có một biện pháp

giáo dục, cải tạo nào có tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến tâm lý của người

phạm tội như công tác đặc xá bằng việc những phạm nhân được trực tiếp

chứng kiến thực tế việc trả lại tự do cho những phạm nhân khác được hưởng

đặc xá. Những phạm nhân đang chấp hành hình phạt thường có tâm lý bi

quan, mặc cảm và từ đó tiềm ẩn những nguy cơ dẫn đến việc tự huỷ hoại cuộc

sống của bản thân họ hoặc có những hành động tiêu cực khác. Thực hiện đặc

xá phải đem lại cho phạm nhân đang chấp hành án phạt tù khát vọng được trở

về xã hội, tái hoà nhập cộng đồng và làm lại cuộc đời. Từ đó, họ quyết tâm

cải tạo, hoàn lương để được hưởng đặc xá.

Ngoài ra, đặc xá còn ghi nhận công sức đội ngũ cán bộ, chiến sỹ làm

nhiệm vụ quản lý trại giam, trại tạm giam cùng với gia đình phạm nhân và xã

hội nhằm giáo dục, cảm hóa những người lầm lỗi.

Công tác quản lý giáo dục, cải tạo các đối tượng phạm tội phải chấp

hành hình phạt là vấn đề rất phức tạp, vì những người phạm tội rất khác nhau

về nhiều mặt, như: điều kiện, hoàn cảnh, tính cách của từng người khác nhau,

người giàu, người nghèo; người có trình độ, nhận thức khác nhau, người

phạm tội nhất thời, do hoàn cảnh xô đẩy, người lưu manh chuyên nghiệp, tái

phạm nguy hiểm; động cơ, mục đích phạm tội cũng khác nhau với các lỗi vô

ý, cố ý; nơi giam xa xôi đi lại thăm hỏi khó khăn, tình hình bệnh tật, điều kiện

sinh hoạt về vật chất, tinh thần khác xa với cuộc sống tự do… Do đó việc

quản lý họ để thực hiện mục đích hình phạt là rất khó khăn. Về thực trạng và

20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên) (2013), Bình luận Luật Đặc xá, NXB Tư pháp, Hà Nội.

2.

Nguyễn Ngọc Anh (2007), Hoàn thiện pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

3.

Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên), Nguyễn Việt Hồng, Phạm Văn Công (2008), Tìm hiểu pháp luật về đặc xá, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

4.

Bộ Công an (2009), Báo cáo số 66/BCĐ-V26 ngày 24/02/2009 tổng kết công tác đặc xá năm 2009 (đợt 1), Hà Nội.

5.

Bộ Công an (2009), Báo cáo số 341/BC-BCA ngày 20/8/2009 về kết quả thực hiện công tác đặc xá năm 2009 (đợt 2), Hà Nội.

6.

Bộ Công an (2010), Báo cáo số 501/BC-BCA-C81 ngày 16/10/2010 về kết quả thực hiện công tác đặc xá năm 2010, Hà Nội.

7.

Bộ Công an (2011), Thông tư số 40/2011/TT-BCA ngày 27/6/2011 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù và xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân, Hà Nội.

8.

Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA-BQP- TANDTC-VKSNDTC ngày 15/05/2013 hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân, Hà Nội.

9.

Lê Cảm (2005), “Chế định đặc xá, chế định đại xá và mô hình lý luận của chúng trong luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Toà án nhân dân, (5).

10. Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự

(Phần chung), NXB Đai học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

11. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị định số 76/2008/NĐ-CP ngày 04/7/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đặc xá, Hà Nội.

21

12. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Nghị định số 80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 của Chính phủ quy định biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù, Hà Nội.

13. Chủ tịch Hồ Chí Minh (1945), Tuyên ngôn độc lập ngày mùng 2 tháng

9 năm 1945.

14. Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Quyết định số 1251/2013/QĐ-CTN ngày 20/7/2013 của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2013, Hà Nội.

15. Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Quyết định số 1366/2015/QĐ-CTN ngày 10 tháng 7 năm 2015 của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2015, Hà Nội.

16. Nguyễn Thành Dũng (2013), “Kể chuyện… đặc xá xưa và nay (Bài

viết)”, Báo điện tử Công an nhân dân.

17. Trần Văn Độ (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung),

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

18. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam, NXB Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.

19. Hội đồng tư vấn đặc xá (2015), Hướng dẫn số 91/HD-HĐTVĐX ngày 15/7/2015 về triển khai Quyết định số 1366/2015/QĐ-CTN ngày 10 tháng 7 năm 2015 của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2015, Hà Nội.

20. Nguyễn Mạnh Hùng (2003), Thuật ngữ pháp lý (Tập I), NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

21. Kiên Long (2015), “Hơn 18 nghìn phạm nhân được đặc xá (Bài viết)”, Báo điện tử Đại đoàn kết, Cơ quan trung ương của Mặt trận tổ quốc Việt Nam.

22. Nguyễn Xuân Mai (2011), Đặc xá - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

22

23. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999 –

Phần chung, NXB thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

24. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946), Hiến pháp, Hà Nội.

25. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1959), Hiến pháp, Hà Nội.

26. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), Hiến

pháp, Hà Nội.

27. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến

pháp, Hà Nội.

28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Hiến pháp

năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hà Nội.

29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến

pháp, Hà Nội.

30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Bộ luật

Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Hà Nội.

31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Tố

tụng hình sự, Hà Nội.

32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật Đặc

xá, Hà Nội.

33. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Thi

hành án hình sự, Hà Nội.

34. Nguyễn Quyết (2013), “Hơn 1,5 vạn phạm nhân được đặc xá dịp 2-9

(Bài viết)”, Báo điện tử Người Lao động.

35. Lê Thị Sơn (1997), “Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình

sự”, Tạp chí Luật học, (5).

36. Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu (1994), Hoàng Việt Luật lệ,

NXB Văn hóa - Thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh.

23

37. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Đề án triển khai thực hiện tha tù trước thời hạn có điều kiện (Ban hành kèm theo Quyết định số 1461/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ), Hà Nội.

38. Yên Thủy (2016), “Đã có hơn 82.000 phạm nhân, người hoãn án phạt tù được đặc xá (Bài viết)”, Báo điện tử Vietnamplus thuộc Thông tấn xã Việt Nam.

39. Nguyễn Dũng Tiến (2005), Đặc xá, đại xá một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Khoa Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

40. Trịnh Quốc Toản (2015), Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

41. Trung tâm thông tin báo chí (2011), “Họp báo công bố đặc xá năm

2011 (Bài viết)”, Cổng thông tin điện tử Bộ Công an.

42. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam

(Tập I), NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

43. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình lý luận Nhà nước và

Pháp luật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

44. Xuân Tùng (2015), “Công bố quyết định đặc xá cho gần 18.300 phạm nhân dịp 2/9 (Bài viết)”, Báo điện tử Vietnamplus thuộc Thông tấn xã Việt Nam.

45. Viện Nghiên cứu khoa học Công an (1977), Từ điển Nghiệp vụ phổ

thông, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

46. Viện Chiến lược và Khoa học Công an (2006), Từ điển bách khoa

Công an nhân dân Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

47. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách

khoa và NXB Tư pháp, Hà Nội.

24

48. Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1995), Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 1995, Hà Nội.

49. Viện Ngôn ngữ (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển bách khoa,

Hà Nội.

50. Viện Sử học (1995), Quốc triều hình luật, NXB Chính trị quốc gia,

Thành phố Hồ Chí Minh.

51. Trịnh Tiến Việt (2004), Những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.

52. Trịnh Tiến Việt (2007), “Về khái niệm miễn trách nhiệm hình sự”, Tạp

chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật, (23), tr.103-114.

53. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2002), Giáo trình luật hình sự Việt

Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

54. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2011), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng

hình sự, NXB Tư pháp, Hà Nội.

25