ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------

DƢƠNG KIM HUỆ

ĐẢNG BỘ HUYỆN LẬP THẠCH (VĨNH PHÚC)

LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ

TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2009

LUẬN VĂN THẠC SĨ: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------

DƢƠNG KIM HUỆ

ĐẢNG BỘ HUYỆN LẬP THẠCH (VĨNH PHÚC)

LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ

TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2009

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60 22 03 15

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Xuân Tuất

LUẬN VĂN THẠC SĨ: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn của TS. Đỗ Xuân Tuất.

Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận văn là trung thực đảm bảo tính

khách quan, khoa học, các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 24 tháng 02 năm 2015

Tác giả luận văn

Dương Kim Huệ

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: ĐẢNG BỘ HUYỆN LẬP THẠCH LÃNH ĐẠO PHÁT

TRIỂN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 1997 - 2005 ................................................. 7

1.1. Những yếu tố tác động đến quá trình hoạch định chủ trƣơng phát

triển kinh tế của Đảng bộ huyện Lập Thạch ............................................. 7

1.1.1. Tự nhiên và xã hội ............................................................................ 7

1.1.2. Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Lập

Thạch trong lịch sử ................................................................................... 12

1.1.3. Sự thay đổi địa danh, địa giới hành chính của huyện Lập Thạch ...... 13

1.2. Tình hình kinh tế Lập Thạch trong những năm đầu thực hiện

đƣờng lối đổi mới của Đảng (1986 - 1996) ............................................... 15

1.2.1 Bối cảnh, tình hình tác động đến sự phát triển kinh tế của huyện Lập

Thạch những năm đầu đổi mới ................................................................. 15

1.2.2. Tình hình kinh tế huyện Lập Thạch những1986 - 1996 ................. 17

1.3. Đảng bộ huyện Lập Thạch lãnh đạo phát triển kinh tế từ năm 1997

đến năm 2005 .............................................................................................. 23

1.3.1. Chủ trương và giải pháp phát triển kinh tế ..................................... 23

1.3.2. Quá trình Đảng bộ huyện Lập Thạch lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện

phát triển kinh tế, giai đoạn 1997 - 2005 .................................................. 29

Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN LẬP THẠCH LÃNH ĐẠO PHÁT

TRIỂN KINH TẾ NHỮNG NĂM 2005 - 2009 ........................................... 45

2.1. Chủ trƣơng và biện pháp phát triển kinh tế của Đảng bộ huyện

Lập Thạch giai đoạn 2005 - 2009 .............................................................. 45

2.1.1. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc ......................... 45

2.1.2. Chủ trương và biện pháp của Đảng bộ huyện Lập Thạch .............. 48

2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện và thành tựu đạt đƣợc ........................ 53

Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ........................... 64

3.1. Một số nhận xét, đánh giá .................................................................. 64

3.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân ................................................................ 64

3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân ................................................................. 68

3.2. Một số kinh nghiệm ............................................................................ 72

KẾT LUẬN .................................................................................................... 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 87

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. BCH Ban Chấp hành

2. CNH - HĐH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

3. CNXH Chủ nghĩa xã hội

4. CTQG Chính trị quốc gia

5. ĐHKHXH & NV Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn

6. ĐHQGHN Đại học quốc gia Hà Nội

7. HĐND Hội đồng nhân dân

8. HTX Hợp tác xã

9. KT - XH Kinh tế - xã hội

10. Nxb Nhà xuất bản

11. TCN Thủ công nghiệp

12. XHCN Xã hội chủ nghĩa

13. UBND Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Tình hình thu ngân sách huyện Lập Thạch từ 1997 - 1999 ............ 36

Bảng 1.2: Thống kê năng suất và sản lượng lúa của Lập Thạch giai đoạn

1995 – 2005 .................................................................................... 38

Bảng 1.3: So sánh năng suất một số loại cây trồng của Lập Thạch so với

các huyện trong tỉnh Vĩnh Phúc năm 2005 .................................... 39

Bảng 1.4: Cơ cấu kinh tế huyện Lập Thạch giai đoạn 1995 - 2005 ............... 43

Bảng 1.5: Biến động đất đai huyện Lập Thạch thời kì 1990 – 2000 ............. 44

Bảng 2.1: Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất huyện Lập Thạch giai

đoạn 2000 - 2010 ........................................................................... 62

Bảng 2.2: Chuyển dịch cơ cấu lao động huyện Lập Thạch giai đoạn 2000

– 2010 ............................................................................................. 63

Bảng 3.1: Biểu đồ tăng trưởng giá trị gia tăng theo ngành huyện Lập

Thạch giai đoạn 2000 - 2010 ......................................................... 65

Bảng 3.2: Biểu đồ cơ cấu giá trị gia tăng huyện Lập Thạch giai đoạn

2000 - 2010 .................................................................................... 66

Bảng 3.3: Biểu đồ cơ cấu lao động theo ngành huyện Lập Thạch giai

đoạn 2000 - 2010 ........................................................................... 66

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN LẬP THẠCH

Trước điều chỉnh địa giới hành chính năm 2004

Sau điều chỉnh địa giới hành chính năm 2009

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Kinh tế có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển

của mỗi quốc gia dân tộc, cũng như của mỗi địa phương.

Trong thời kỳ đổi mới đất nước, kể từ Đại hội VI của Đảng (1986) đến

nay, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm (cùng với xây

dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần,

động lực của đổi mới). Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng như luồng gió

mới, được các cấp, các ngành, các cấp ủy, chính quyền địa phương đón nhận

thực hiện, hiện thực hóa trong đời sống kinh tế của ngành mình, cấp mình, địa

phương mình, trong đó có huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

Huyện Lập Thạch là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Vĩnh

Phúc, là “cầu nối” giữa khu vực miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Hồng.

Trong lịch sử phát triển, nhân dân Lập Thạch cùng nhân dân tỉnh Vĩnh

Phúc đã có nhiều đóng góp cho công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc,

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Năm 1997, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập, trong lúc sự nghiệp đổi mới do

Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đạt được những thắng lợi bước đầu, mở ra

thời kì phát triển mới cho toàn tỉnh nói chung và huyện Lập Thạch nói riêng.

Quán triệt thực hiện đường lối đổi mới của Trung ương Đảng, Đảng bộ

tỉnh Vĩnh Phúc, Đảng bộ, chính quyền huyện Lập Thạch đã lãnh đạo, chỉ đạo

các tầng lớp nhân dân vận dụng tổ chức thực hiện đúng đắn, sáng tạo và thu

được những thành tựu rất quan trọng, nâng cao tiềm lực kinh tế địa phương,

cải thiện và nâng cao rõ rệt đời sống nhân dân.

Năm 2009, đứng trước yêu cầu phát triển KT - XH, huyện Lập Thạch

được tách thành hai huyện mới là Lập Thạch và Sông Lô. Sự kiện này không

những làm thay đổi về địa giới hành chính mà còn có tác động đến cả chính sách

phát triển của hai huyện trong đó có huyện Lập Thạch. Tuy có sự thay đổi về địa

giới hành chính nhiều lần xong cơ bản kinh tế Lập Thạch vẫn phát triển ổn định.

1

Trước bộn bề khó khăn của một huyện nghèo mới tách ra, Đảng bộ Lập Thạch

tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, vận dụng sáng tạo vào điều kiện

cụ thể từng bước đưa quê hương vượt qua khó khăn, giành được thành tựu đáng

trân trọng và tự hào. Kinh tế tăng trưởng ở mức khá cao, chính trị ổn định, quốc

phòng - an ninh được bảo đảm, an sinh xã hội ngày càng được chăm lo tốt hơn,

đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện và nâng lên từng bước.

Từ năm 1997 đến năm 2009, trong mối quan hệ chung với công cuộc

đổi mới của đất nước, Đảng bộ huyện Lập Thạch với những truyền thống tốt

đẹp của địa phương, sự nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ, vai trò lãnh đạo, đã

vươn lên mạnh mẽ và đạt được những thành tựu to lớn. Những thành tựu mà

Lập Thạch đạt được là minh chứng thực tiễn sống động cho đường lối đổi mới

của Đảng, đồng thời khẳng định vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng bộ địa

phương đối với tiến trình phát triển chung của toàn huyện.

Mặc dù đến nay Lập Thạch vẫn còn là huyện nghèo về kinh tế, nhưng

sự nghiệp đổi mới, CNH – HĐH của Đảng bộ và nhân dân Lập Thạch, với thế

và lực mới đã có những triển vọng đi lên tốt đẹp.

Để tiếp tục phát huy thành tựu, khắc phục khó khăn, nhằm đạt được

những mục tiêu kinh tế trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững, trong

giai đoạn hiện tại, đối với Đảng bộ huyện Lập Thạch, rất cần có sự tổng kết

kinh nghiệm lãnh đạo trong những thời kỳ đổi mới đã qua. Vì vậy, nghiên cứu

lịch sử quá trình Đảng bộ huyện lãnh đạo phát triển kinh tế trong giai đoạn

này có ý nghĩa quan trọng. Xuất phát từ lí do trên, tôi chọn vấn đề: “Đảng bộ

huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc) lãnh đạo phát triển kinh tế từ năm 1997

đến năm 2009” làm đề tài luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử - chuyên ngành

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Từ trước đến nay vấn đề phát kinh tế cả nước nói chung và các địa

phương nói riêng không chỉ nhận được sự quan tâm của các nhà lãnh đạo mà

luôn nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.

2

Nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế trong thời kỳ

đổi mới trên phạm vi cả nước hoặc Đảng bộ các tỉnh, huyện được đề cập khá

nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học như: TS Vũ Hồng Tiến

(2005), Một số vấn đề KT - XH trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam,

Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội; TS Nguyễn Mạnh Hùng (2004), KT - XH Việt

Nam hướng tới tăng trưởng, Nxb Thống kê, Hà Nội; Bùi Tất Thắng (2006),

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

Đặng Kim Sơn (2006), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 20 năm đổi mới và

phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;….

Ngoài ra còn có rất nhiều các luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ đã bảo vệ đề cập

đến sự phát triển KT - XH dưới góc độ khoa học kinh tế hoặc Đảng lãnh đạo

phát triển KT - XH dưới góc độ chuyên ngành Lịch sử Đảng trên phạm vi cả

nước hoặc địa phương như: Đỗ Xuân Tuất (2003), Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo

phát triển kinh tế trang trại 1986 – 2001, Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử,

Hà Nội; Lương Thị Yên (2005), Đảng bộ Lục Yên (Yên Bái) lãnh đạo phát

triển kinh tế thời kì đổi mới 1986 – 2004, luận văn Thạc sĩ khoa Lịch sử,

ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN; Nguyễn Thị Anh (2006), Đảng bộ huyện An

Dương (Hải Phòng) lãnh đạo phát triển kinh tế thời kỳ 1986 – 2005, luận văn

Thạc sĩ khoa Lịch sử, ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN; Đào Trọng Độ (2007),

Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp 1986 – 2000, luận

văn Thạc sĩ khoa Lịch sử, ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN; Nguyễn Thị Thu Hà

(2008), Đảng bộ huyện Hưng Hà (Thái Bình) lãnh đạo phát triển kinh tế -xã

hội từ 1996 – 2005, luận văn Thạc sĩ khoa Lịch sử, ĐHKHXH & NV,

ĐHQGHN; Nguyễn Thị Thu Hằng (2013), Qúa trình thực hiện chính sách

xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm 2010,

luận văn Thạc sĩ khoa Lịch sử, ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN,….

Đối với các đề tài nghiên cứu về huyện Lập Thạcth cũng đã có một số

công trình như: Lê Minh Tiến (2009), Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ

quản lý trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc,

3

luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục - Khoa Sư phạm, Đại học Quốc gia Hà Nội;

Nguyễn Thị Huyền (2013), Đảng bộ huyện Lập Thạch (Tỉnh Vĩnh Phúc) lãnh

đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2012, luận văn Thạc

sĩ Lịch Sử Đảng Cộng sản Việt Nam ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN; … Tuy

nhiên hiện tại chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào mang tính hệ

thống và toàn diện về quá trình Đảng bộ huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc) lãnh

đạo phát triển kinh tế. Chủ yếu là các báo cáo hàng năm, báo cáo trong những

nhiệm kỳ đại hội về tình hình kinh tế của huyện Lập Thạch từ 1997 – 2010. Hệ

thống niên giám thống kê của cục thống kê tỉnh Vĩnh Phúc từ 1997 – 2010 và

phòng thống kê của huyện Lập Thạch đã phản ánh các chỉ số phát triển hàng

năm nhưng chưa có tính hệ thống. Với đề tài của mình tôi mong muốn đóng

góp một phần nhỏ vào quá trình nghiên cứu phát triển kinh tế của huyện.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Lập Thạch vận dụng đường lối của

Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp phát triển kinh tế ở địa phương từ năm 1997

đến năm 2009.

- Đánh giá bước đầu những thành tựu và hạn chế của công cuộc xây

dựng và phát triển kinh tế của Lập Thạch từ từ năm 1997 đến năm 2009.

- Rút ra một số kinh nghiệm phục vụ cho công cuộc phát triển KT - XH

trong thời kì CNH - HĐH và hội nhập quốc tế của địa phương.

Thông qua đó, luận văn cho thấy Đảng bộ huyện đã vận dụng đúng và

sáng tạo đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, những chủ trương, chính sách

của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vào hoàn cảnh thực tiễn cụ thể của địa phương.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ huyện Lập Thạch vận dụng

đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, lãnh đạo sự nghiệp phát triển kinh tế

huyện từ năm 1997 đến năm 2009.

4

- Làm rõ bức tranh kinh tế của huyện Lập Thạch từ năm 1997 đến năm

2009 và các kết quả đạt được trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh

tế của Đảng bộ huyện và nguyên nhân.

- Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm lãnh đạo phát triển kinh tế của

Đảng bộ huyện Lập Thạch.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Những chủ trương, biện pháp của Đảng bộ huyện Lập Thạch để lãnh

đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế từ năm 1997 đến năm 2009.

- Thực tiễn phát triển kinh tế huyện Lập Thạch từ năm 1997 đến năm 2009.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Nội dung: Nghiên cứu vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Lập Thạch với công

cuộc phát triển kinh tế. Tuy nhiên cơ cấu kinh tế của Lập Thạch chủ yếu là nông

nghiệp chính vì vậy trong luận văn chũng chủ yếu tập trung vào nội dung này.

- Không gian: Huyện Lập Thạch – Vĩnh phúc trước năm tách huyện

(năm 2009), gồm có 39 xã và thị trấn.

- Thời gian: Luận văn giới hạn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ

huyện Lập Thạch – Vĩnh Phúc từ 1997 (năm tái lập tỉnh Vĩnh Phúc) đến 2009

(huyện Lập Thạch tách làm hai huyện mới).

5. Cơ sở lí luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu tham khảo

5.1. Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lí luận: Những nguyên lí của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng về phát triển kinh tế.

- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn sử dụng một số phương

pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp lịch sử và logic để khôi phục lại

quá trình Đảng bộ huyện Lập Thạch lãnh đạo phát triển kinh tế từ năm 1997

đến năm 2009. Ngoài ta còn sử dụng một số phương pháp khác như: phương

pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiễn,…

5

5.2. Nguồn tài liệu

- Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, Hội nghị Trung Ương của

Đảng Cộng sản Việt Nam; các văn kiện Đảng về phát triển kinh tế.

- Các văn kiện của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, Đảng bộ huyện Lập

Thạch; các Nghị quyết và báo cáo của HĐND và UBND huyện Lập Thạch.

Ngoài ra còn tham khảo các công trình nghiên cứu của các tập thể, các nhân,

… có liên quan đến đề tài và tư liệu khảo sát thực tế…

6. Đóng góp của luận văn

- Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về sự lãnh đạo của

Đảng bộ Lập Thạch về phát triển kinh tế từ năm 1997 đến năm 2009.

- Cung cấp nguồn tư liệu cơ bản về chủ trương, biện pháp và sự chỉ

đạo của Đảng bộ huyện Lập Thạch về phát triển kinh tế từ năm 1997 đến

năm 2009.

- Đánh giá khách quan kết quả các thành tựu kinh tế huyện Lập Thạch

đạt được từ năm 1997 đến năm 2009.

- Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu có giá trị lý luận - thực

tiễn cho sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện lập Thạch trong phát triển kinh tế

giai đoạn hiện nay.

Kết quả của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho công tác lãnh đạo,

chỉ đạo phát triển kinh tế của cấp ủy, chính quyền địa phương, cho Trung tâm

bồi dưỡng chính trị huyện.

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn gồm

có 3 chương và 6 tiết.

Chương 1: Đảng bộ huyện Lập Thạch lãnh đạo phát triển kinh tế giai

đoạn 1997 - 2005.

Chương 2: Đảng bộ huyện Lập Thạch lãnh đạo sự nghiệp phát triển

kinh tế những năm 2006 - 2009.

Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm

6

Chƣơng 1:

ĐẢNG BỘ HUYỆN LẬP THẠCH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN

KINH TẾ GIAI ĐOẠN 1997 - 2005

1.1. Những yếu tố tác động đến quá trình hoạch định chủ trƣơng

phát triển kinh tế của Đảng bộ huyện Lập Thạch

1.1.1. Tự nhiên và xã hội

Về vị trí địa lý:

Lập Thạch (cũ) là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Vĩnh

Phúc, có địa hình đa dạng của vùng bán sơn địa. Lập Thạch cách tỉnh lị Vĩnh

Yên 20 km, nằm ở vị trí từ 105°30′ đến 105°45′ kinh độ Đông và 21°10′ đến

21°30′ vĩ Bắc. Huyện có vị trí địa lý: phía Bắc giáp huyện Sơn Dương tỉnh

Tuyên Quang và dãy núi Tam Đảo; phía Đông giáp huyện Tam Đảo và huyện

Tam Dương; phía Tây giáp huyện Phù Ninh và thành phố Việt Trì tỉnh Phú

Thọ; phía Nam giáp huyện Vĩnh Tường và một phần tỉnh Phú Thọ.

Trước năm 2004, Lập Thạch bao gồm có 39 đơn vị hành chính trực

thuộc, diện tích tự nhiên chiến khoảng 30% diện tích của tỉnh Vĩnh Phúc. Sau

khi thực hiện theo Nghị định số 153/2003/NĐ/CP ngày 09/12/2003 của Chính

phủ về việc thành lập huyện Tam Đảo và thị xã Phúc Yên, huyên Lập Thạch

có một số điều chỉnh về: tổng diện tích tự nhiên còn 32307,17 ha trong đó đất

nông nghiệp chiếm 14.576,57 ha còn lại là các loại đất khác; toàn huyện có 36

xã và thị trấn.

Về địa hình:

Lập Thạch là một huyện miền núi nên có địa hình khá phức tạp, xen kẽ

đồi gò là những dải ruộng hẹp, khe lạch, núi non, làng mạc. Địa hình của

huyện có thể chia thành 3 tiểu vùng:

- Tiểu vùng miền núi bao gồm 15 xã, thị trấn tập trung chủ yếu ở phía

Bắc, chiếm 58,33% diện tích tự nhiên toàn huyện. Địa hình tiểu vùng này

7

thường bị chia cắt bởi độ dốc khá lớn, hướng dốc chính từ Bắc xuống Nam.

Điều kiện địa hình và đất đai thích hợp với các loại cây ăn quả, cây công

nghiệp, cây lâm nghiệp và chăn nuôi gia súc .

- Tiểu vùng trũng ven sông, bao gồm 15 xã dọc hai ven sông Phó Đáy

và sông Lô, chiếm 27,20% diện tích tự nhiên toàn huyện. Tiểu vùng này đa

phần là đất lúa 1 vụ, thường bị ngập úng vào mùa mưa, thích hợp cho việc

vừa cấy lúa vừa nuôi trồng thủy sản.

- Tiểu vùng giữa, bao gồm 9 xã thị trấn, chiếm 17,47% diện tích tự

nhiên toàn huyện. Tiểu vùng này thường có một số ít đồi thấp xen lẫn với

đồng ruộng. Tiểu vùng này đất trồng cây hàng năm (lúa, màu) chiếm chủ yếu,

do vậy đây là vùng sản xuất chủ lực của huyện.

Địa hình Lập Thạch khá phức tạp, thấp dần từ Bắc xuống Nam, ruộng

đất xen kẽ những dãy đồi thấp. Độ cao phổ biến từ 11 – 30 m là huyện thuộc

vùng núi thấp, nhiều sông suối.

Tài nguyên đất đai:

Đất canh tác của huyện Lập Thạch gồm 3 nhóm chính:

Nhóm đất phù sa ven sông Lô, sông Phó Đáy, diện tích 4814,10 ha,

chiếm 47,32% tổng diện tích tự nhiên. Đất có thành phần cơ giới chủ yếu là

cát pha, thịt nhẹ, thịt trung bình. Độ PH từ 5 – 6,5. Tỉ lệ mùn thấp, lân tổng

số, lân dễ tiêu giàu, đạm và kali nghèo. Loại đất này phù hợp với cây công

nghiệp và cây lương thực ngắn ngày [48, tr.146].

Nhóm đất bạc màu trên phù sa cổ có sản phẩm feralit: diện tích 2055,35

ha, chiếm 20,16 % tổng diện tích tự nhiên, tập trung ở phía Nam. Đất chua

nhiều, các chất tổng số và dễ tiêu đều nghèo, canxi và magie thấp. Tốc độ

phân giải hữu cơ mạnh, thành phần cơ giới sát lớp mặt giảm [48, tr.146].

Nhóm đất đồi núi: Tập trung ở phía Bắc và giữa huyện. Đây là vùng đất

tiếp giáp giữa vùng đất bạc màu và chua nhiều. Đất có kết cấu xốp, màu giàu,

hàm lượng từ 2 – 3%. Mức độ phân giải chất hữu cơ mạnh. Các chất dễ tiêu

đều nghèo [48, tr.146].

8

Năm 2009, sau khi thay đổi về địa giới hành chính, huyện có diện tích

tự nhiên là 173,1 km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ 40,3%; đất lâm

nghiệp chiếm 31,8%; đất chuyên dùng chiếm 10,3% và đất ở chiếm 2,2%.

Kinh tế và cơ sở hạ tầng huyện Lập Thạch còn chưa phát triển nên

trong tương lai, quỹ đất nông nghiệp sẽ tiếp tục biến động do các hoạt động

đầu tư (mở mang đường xá, xây dựng các công trình công cộng, xây dựng

công nghiệp....).

Khí hậu, thời tiết:

Lập Thạch thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình từ

22°C, cao nhất vào tháng 5,6 có thể lên đến 38°C – 39°C. Số giờ nắng trung

bình trong năm là 1.450 đến 1.550 giờ. Lượng mưa trung bình 1.500-1.800

mm/năm nhưng lại phân bố không đề theo các tháng thường tập trung từ

tháng 6 – 8 hàng năm (có thể đạt tới 355mm). Độ ẩm trung bình khoảng 84%

[48, tr.31]. Khí hậu Lập Thạch được chia làm 4 mùa rõ rệt. Như vậy khí hậu

Lập Thạch phù hợp với nhiều loại cây trồng vật nuôi, điều này cho phép phát

triển một nền nông nghiệp phong phú đa dạng.

Tài nguyên nước, sông ngòi:

Tài nguyên nước mặt: Lập Thạch có hai hệ thống sông chính là sông

Lô và sông Phó Đáy. Sông Lô chảy qua huyện Lập Thạch với chiều dài

khoảng 43km, chiều rộng đạt từ 300 – 800m. Lưu lượng nước rất lớn, tập

trung chủ yếu vào mùa mưa (khoảng 80%). Phía Nam và phía Đông huyện

Lập Thạch có sông Phó Đáy ngăn cách huyện Vĩnh Tường và huyện Tam

Dương với tổng lưu lượng khá lớn. Chiều dài chảy qua Lập Thạch khoảng

55km, chiều rộng khoảng 50 – 150m. Lượng nước tập trung vào mùa mưa

chiếm 90% [51, tr.33]. Ngoài ra, huyện còn có hệ thống các ngòi, ao hồ phục

vụ cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn có thể kể đến một số hồ

Vân Trục (xã Vân Trục), hồ Bò Lạc (xã Đồng Quế), ngòi Ngạc chảy từ núi

Sáng qua cống Ngạc ra sông Lô, ngòi Bì La chảy từ Tây Hạ (Bàn Giản) qua

cống Bì La,…

9

Tài nguyên nước ngầm: theo đánh giá của nhiều chuyên gia và qua điều

tra ở một số xã cho thấy nguồn nước ngầm của huyện rất hạn chế, trữ lượng

không lớn và sâu, hàm lượng ion canxi và ôxit sắt trong nước ngầm tương đối

lớn do đó việc khai thác rất khó khăn.

Như vậy nguồn nước của huyện được đánh giá là phong phú dồi dào, tuy

nhiên phân bố không đều trong năm. Để đảm bảo hài hoà nguồn nước cho phát

triển kinh tế cần quan tâm xây dựng thêm những công trình điều tiết và có biện

pháp khai thác nước ngầm bổ sung mới đảm bảo cho sản xuất và sinh hoạt.

Tài nguyên khoáng sản:

Lập Thạch có 3 nhóm khoáng sản chính nhưng chủ yếu là phi kim phục

vụ cho nhu cầu xây dựng.

- Nhóm khoáng sản nhiên liệu: có than bùn ở Văn Quán (đã được khai

thác làm phân bón và chất đốt.)

- Nhóm khoáng sản kim loại gồm Barit, đồng, vàng, thiếc, sắt đã phát

hiện có trên địa bàn.

- Nhóm vật liệu xây dựng gồm: Cát sỏi lòng sông Lô và Phó Đáy thuộc

loại thạch anh, silic có độ cứng cao, độ bám dích liên kết tốt. Cát sỏi bậc thềm

ở vùng ven hai dòng sông Lô và Phó Đáy. Tuy nhiên cát sỏi này vẫn còn bị

lẫn sét, bột, không tốt như ở lòng sông nên chưa được khai thác.

Ngoài ra còn nhiều loại khoáng sản khác như: cao lanh, mica, gạch ốp

lát,… Tuy nhiên chưa có chương trình nào điều tra, thăm dò một cách kỹ

lưỡng để đưa vào khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả các loại khoáng

sản này.

Tài nguyên động thực vật và cảnh quan thiên nhiên:

Do điều kiện khí hậu và địa hình thuận lợi cho các loại thực động vật phát

triển phong phú và đa dạng đem lại nguồn lợi lớn cho người dân địa phương.

Tài nguyên thực vật của huyện Lập Thạch phong phú đa dạng với nhiều

loại quý hiếm như: Lim, Trò, Chỉ, Chẹt,…Theo số liệu thống kê đất đai đến

năm 2009 đất lâm nghiệp có rừng toàn huyện là 3551,42 ha, chiếm 20,52%

10

tổng diện tích tự nhiên. Trong những năm gần đây, được sự hỗ trợ của các

chương trình, dự án trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc đã được người

dân hưởng ứng tham gia nhiều đến việc trồng rừng, kết hợp với phát triển

kinh tế vườn đồi, do đó thảm thực vật rừng ngày càng phát triển.

Về động vật: do rừng tự nhiên bị khai thác và chủ yếu hiện nay là rừng

trồng nên động vật rừng còn lại không nhiều, gần đây động vật rừng đang

phát triển trở lại, nhưng số lượng các loài thú không nhiều. Hiện nay ở Lập

Thạch còn một số địa danh nổi tiếng như rừng cò Hải Lựu, vườn cò Như

Thụy, vườn cò Bắc Bình,…

Cảnh quan thiên nhiên: Lập Thạch có nhiều cảnh quan thiên nhiên có

tiềm năng phát triển du lịch sinh thái và du lịch nghỉ dưỡng; du lịch văn hóa

thăm quan các di tích văn hóa, các lễ hội,… Các di tích, danh lam nổi tiếng

như: Núi Sáng, Hồ Điển Triệt, tháp Bình Sơn, Đền thờ Tả Tướng quốc Trần

Nguyên Hãn, cụm di tích lịch sử - văn hóa liên quan đến danh nhân Triệu

Thái (Từ đường họ Triệu, Đình làng Hoàng Chung, Miếu Hoàng Chung,…),

rừng cò Hải Lựu. Ngoài ra ở Lập Thạch còn rất nhiều các lễ hội truyền thống

nổi tiếng như: Lễ hội Chọi trâu ở Hải Lựu diễn ra vào 17 tháng Giêng hàng

năm; Lễ hội cướp Phết ở Bàn Giản diễn ra vào ngày mùng 3 Tết và mùng 7

tết; Lễ hội rước cây Bông ở Đồng Thịnh diễn ra vào mùng 7 Tết hàng năm,…

Tài nguyên nhân văn:

Do có vị trí tiếp giáp với vùng đỉnh của tam giác đồng bằng sông Hồng,

lại có đất đai, khí hậu thuận lợi Lập Thạch sớm trở thành nơi sinh tụ của người

Việt cổ. Theo những tài liệu khảo cổ đã công bố về huyện Lập Thạch thì từ thời

tiền sử ở đây đã có dấu tích sinh sống của cư dân thuộc văn hóa Sơn Vi tiếp

đến là các chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên. Có thể kể đến một số di tích

tiêu biểu như: Gò Đồn, Gò Hội (Hải Lựu), Gò Châm Dài, Gò Đặng, Gò Sỏi,

(Đôn Nhân),… Dân cư Lập Thạch có nhiều thành phần tộc người khác nhau

trong đó có 4 tộc người chính là người Kinh, Cao Lan, Sán Dìu và Dao. Trong

đó người Kinh chiến tỉ lệ cao nhất 93,2% còn lại là các dân tộc khác.

11

Lập Thạch là nơi sản sinh ra nhiều anh hùng và danh nhân văn hoá làm

phong phú thêm cho lịch sử phát triển của huyện, của tỉnh Vĩnh Phúc qua các

thời kỳ chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Những dấu ấn tín ngưỡng của

cư dân bản địa hiện nay đang được dần tái hiện lại.

Tuy nhiên, để khai thác, phát huy có hiệu quả các tiềm năng này cần

phải đầu tư một cách thích đáng cho cơ sở hạ tầng mà trước tiên là đường

giao thông, điện, nước, tôn tạo các công trình và quan trọng nhất là có biện

pháp quảng bá thu hút khách du lịch trong nước cũng như quốc tế.

1.1.2. Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Lập

Thạch trong lịch sử

Nhân dân huyện Lập Thạch có truyền thống yêu nước chống giặc ngoại

xâm, luôn tham gia hưởng ứng các phong trào yêu nước chống giặc ngoại

xâm, bảo vệ quê hương đất nước. Đặc biệt do địa hình thuận lợi nên Lập

Thạch thường được lựa chọn xây dựng các căn cứ quân sự trong nhiều cuộc

khởi nghĩa lớn.

Ngay từ thế kỉ thứ II TCN, Lập Thạch đã là căn cứ chính của cuộc khởi

nghĩa do tướng Lữ Gia đứng đầu chống lại sự xâm lược của quân Hán. Dưới

thời Bắc thuộc nhân dân Lập Thạch đã tham gia tích cực vào cuộc khởi nghĩa

Hai Bà Trưng với những nhân vật tiêu biểu như: ba anh em Nguyễn Tuấn,

Nguyễn Lĩnh, Nguyễn Trỹ (Hợp Lý) và bà Quý Lan Nương (Thảm Sơn), bà

chúa Bầu lập căn cứ ở Vực Chuông (Đạo Trù), vợ chồng ông Lê Tuấn và bà

Thục Nương (Lê Dương công chúa – Thái Hòa).Vào thế kỉ VI, khi quân

Lương sang xâm lược nước ta, dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế và Triệu

Quang Phục, căn cứ hồ Điển Triệt đã được xây dựng (ở xã Tứ Yên - đây trở

thành một căn cứ quan trọng của nghĩa quân) [10,tr.12] .

Đến thế kỉ XV, khi nhà Minh xâm lược nước ta, Trần Nguyên Hãn một

người con Lập Thạch đã theo Lê Lợi đánh giặc và có công lớn trong cuộc

kháng chiến. Để ghi nhận công lao của ông trong cuộc kháng chiến nên ông

đã được phong đến chức Tả Tướng Quốc và khi ông qua đời ở nhiều nơi đã

12

lập đền thờ Ngài. Hiện nay đền Tả tướng được xây tại xã Sơn Đông và là một

trong những di tích cấp quốc gia của huyện Lập Thạch. Cũng trong thời kì

này, Triệu Thái (“Lưỡng quốc tiến sĩ” đỗ tiến sĩ ở cả hai nước Việt Nam –

Trung Quốc) quê ở thôn Hoàng Chung xã Đồng Ích cũng đã tham gia và có

nhiều đóng góp cho sự phát triển cuả nhà Lê.

Sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nhân dân Lập Thạch

đã tích cực tham gia các cuộc khởi nghĩa thuộc phong trào Cần Vương do các

ông Đề, ông Đốc, ông Lãnh, Đốc Giang và Đốc Khoát tổ chức. Đặc biệt trong

thời gian này có cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Quang Bích có ảnh hưởng khá

lớn ở Lập Thạch. Dù bị đàn áp nhưng các cuộc khởi nghĩa vẫn tiếp tục phát

triển đến tận năm 1892 mới hoàn toàn kết thúc.

Sang đầu thế kỉ XX, còn là căn cứ của các cuộc khởi nghĩa khác như:

khởi nghĩa Yên Thế (từ tháng 7 đến 10 – 1909), khởi nghĩa Thái Nguyên

(1917) do Đội Cấn chỉ huy.

Đầu thế kỉ XX cũng giống như tình hình đấu tranh trong cả nước phong

trào chống Pháp ở Lập Thạch tạm lắng xuống. Tháng 2/ 1930 Đảng Cộng sản

Việt Nam ra đời nắm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Dưới sự

lãnh đạo của Đảng nhân dân Lập Thạch đã trải qua nhiều khó khăn thử thách,

đóng góp sức người sức của cho công cuộc giải phóng và thống nhất đất nước

sau này.

1.1.3. Sự thay đổi địa danh, địa giới hành chính của huyện Lập Thạch

Trong số các địa danh các huyện của tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, Lập

Thạch là tên huyện tương đối ít biến động suốt chiều dài lịch sử. Nguyên

nghĩa chữ Lập Thạch (立石) theo Hán tự là "Đá dựng". Ban đầu đây là tên

của một làng bởi trong làng có cột đá dựng tự nhiên, tựa như một tòa miếu cổ

(nay thuộc xã Yên Thạch). Sau đó đổi thành tên xã rồi huyện.

Theo những điều ghi chép trong chính sử và Đại Nam nhất thống chí,

được Đào Duy Anh dẫn lại trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, tên

13

huyện Lập Thạch xuất hiện từ đời nhà Trần (1225 - 1400). Trong giai đoạn này

huyện mang tên Lập Thạch thuộc châu Tam Đới, lộ Đông Đô [10, tr.9]. Tính

đến nay, đây là một địa danh cấp huyện được ra đời sớm nhất của tỉnh Vĩnh

Phúc và tồn tại lâu nhất với trên 600 năm lịch sử. Dưới các triều đại phong kiến

tiếp theo địa giới, địa danh huyện Lập Thạch hầu như không thay đổi.

Từ cuối TK XIX, huyện Lập Thạch thuộc tỉnh Vĩnh Yên. Đến năm

1967 (trước khi hợp nhất tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh

Phúc), huyện Lập Thạch có 38 xã. Trong suốt thời kỳ trực thuộc tỉnh Vĩnh

Phú, huyện Lập Thạch có hai lần thay đổi địa lý hành chính. Ngày 05 – 07 –

1977, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 178/QĐ về việc hợp nhất hai

huyện Lập Thạch và Tam Dương thành huyện Tam Đảo, huyện lỵ đóng ở phố

Miễu (Hoa Lư) xã Liễn Sơn. Theo Nghị quyết của kỳ họp thứ IV Quốc hội

khóa VI và thông báo số 13/TB-TW ngày 14 – 12 – 1978 về việc chia tách

huyện Tam Đảo thành hai huyện: huyện Lập Thạch giữ nguyên như cũ (38

xã) và huyện Tam Dương được sáp nhập với huyện Bình Xuyên thành huyện

Tam Đảo. Huyện lỵ huyện Lập Thạch được chuyển về xã Xuân Hòa.

Ngày 23 – 11 – 1995 Chính phủ ra Nghị định 82/CP về việc thành lập

thị trấn Lập Thạch trên cơ sở chia tách xã Xuân Hòa thành thị trấn và xã Xuân

Hòa. Thực hiện theo Nghị định 82/CP, từ ngày 01 – 01 – 1996 huyện Lập

Thạch có 39 đơn vị hành chính cấp cơ sở (38 xã và 1 thị trấn). Tới năm 2000

các khu dân cư thuộc các xã, thị trấn trong huyện được đổi thành các thôn,

làng và khu phố. Đến năm 2003 Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc công nhận

các thôn và tổ dân phố hiện có của tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó huyện Lập Thạch

có 411 thôn thuộc 38 xã và 11 tổ dân phố thuộc thị trấn Lập Thạch.

Ngày 09 – 12 – 2003, Chính phủ ra nghị định số 153/2003/NĐ-CP về

việc thành lập thị xã Phúc Yên và huyện Tam Đảo, huyện Lập Thạch chuyển

3 xã Bồ Lý, Đạo Trù, Yên Dương về huyện Tam Đảo mới. Sau khi điều

chỉnh, từ ngày 01 – 01 – 2004 huyện Lập Thạch 36 đơn vị hành chính trực

thuộc (gồm 35 xã và 1 thị trấn), vẫn là huyện rộng nhất của tỉnh Vĩnh Phúc.

14

Ngày 23 – 12 – 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 09/NĐ-CP về

điều chỉnh địa giới hành chính huyện Lập Thạch. Từ 01 – 04 – 2009, huyện

Lập Thạch tách thị trấn Tam Sơn và 17 xã để thành lập huyện Sông Lô.

Huyện Lập Thạch còn lại 20 xã và thị trấn.

1.2. Tình hình kinh tế Lập Thạch trong những năm đầu thực hiện

đƣờng lối đổi mới của Đảng (1986 - 1996)

1.2.1 Bối cảnh, tình hình tác động đến sự phát triển kinh tế của

huyện Lập Thạch những năm đầu đổi mới

Những năm 80 của thế kỉ XX, chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào

tình trạng khủng hoảng. Trước tình hình trên, các nước XHCN đã bắt tay vào

công cuộc cải cách, đổi mới. Dưới tác động chung của tình hình thế giới và

những thành công đạt được của công cuộc đổi mới của Trung Quốc năm

1978, Đảng ta quyết định tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.

Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được

tổ chức ở Hà Nội, mở ra một trang sử mới trong lịch sử dân tộc, là một dấu

mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển biến đưa đất nước đi lên CNXH với

hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp.

Tại Đại hội với tư tưởng cầu thị, nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội đã

nghiêm túc đánh giá những thành tựu và tiến bộ trong các lĩnh vực đời sống

xã hội. Đồng thời thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, nhất là trong

chỉ đạo phát triển KT - XH, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.

Để khắc phục sai lầm khuyết điểm, đưa đất nước thoát khỏi khó khăn

thử thách, đẩy mạnh công cuộc xây dựng CNXH, Đảng ta chủ trương tiến

hành công cuộc đổi mới đất nước. Nghị quyết Đại hội VI chỉ rõ: Nhiệm vụ

bao trùm và mục tiêu tổng của chặng đường đầu tiên là: ổn định mọi mặt về

KT -XH, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh CNH -

HĐH trong những chặng đường tiếp theo. Trước mắt trong 5 năm 1986 –

1990 tập trung sức người sức người sức của thực hiện bằng được mục tiêu 3

chương trình kinh tế: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất

15

khẩu. Thừa nhận tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế còn tác dụng thúc

đẩy sản xuất, mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật cùng hướng tới

mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh”. Mặt khác Đảng quyết định xoá bỏ cơ chế

quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường với sự định hướng của nhà

nước [10, tr.186].

Bên cạnh đó, để đưa nghị quyết của Đại hội VI nhanh chóng đi vào đời

sống và các lĩnh vực sản xuất, tháng 4/1988 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết

số 10-NQ/TW “Về việc đổi mới quản lí kinh tế trong nông nghiệp”. Nghị

quyết 10 đề ra cơ chế khoán mới, xác định HTX nông nghiệp là đơn vị kinh tế

tự chủ, tự quản, hộ xã viên là đơn vị nhận khoán với HTX. Nghị quyết 10 của

Bộ Chính trị (gọi tắt là Khoán 10) chỉ rõ: phải chấn chỉnh sản xuất, đổi mới

quản lí HTX, thực hiện chế độ tự quản lí, tiếp tục thực hiện cơ chế khoán sản

phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động.

Quán triệt sâu sắc nghị quyết VI của Trung ương, Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Phú đã triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ VI toàn tỉnh. Đại hội đã thông qua

phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), đó là

đẩy nhanh phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, trong đó tập

trung hết sức cho sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất

nhập khẩu. Ngày 15 – 04 – 1987, Tỉnh ủy Vĩnh Phú ra Nghị quyết số 04-

NQ/TU về chương trình lương thực, thực phẩm đến năm 1990. Nghị quyết

nêu rõ đến năm 1990, tỉnh phải tự trang trải nhu cầu ăn, có dự trữ và có lương

thực phục vụ cho chăn nuôi.

Trên cơ sở Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, 21 – 04 – 1988, Tỉnh uỷ

Vĩnh Phú ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TU về đổi mới quản lí trong HTX

nông nghiệp nhằm tiếp tục tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Hai

Nghị quyết quan trọng nêu trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng bộ huyện

Lập Thạch triển khai thực hiện.

Với những thành tựu đạt được sau khi tiến hành đổi mới đất nước, Đại

hội VII được tổ chức, tiếp đến là Đại hội VIII. Đại hội lần thứ VII của Đảng,

16

tháng 6/1991, đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa

độ lên CNXH ở nước ta. Đại hội đã phát triển đường lối đổi mới, xác định ở

nước ta bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành

cơ chế quản lí thị trường có sự quản lí của nhà nước. Đến Đại hội VIII, đã

thông qua: Chiến lược ổn định và phát triển KT - XH đến năm 2000. Đại hội

đã tổng kết thành tựu sau 10 năm tiến hành đổi mới, đề ra những chính sách

biện pháp, phát triển KT - XH của cả nước trong các giai đoạn tiếp theo.

Tiếp đến, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú được tổ chức lần thứ

VII (tháng 12/1991), lần VIII (tháng 5/1996) đã đề ra quan điểm, chủ trương,

phương hướng, nhiệm vụ phát triển KT - XH của tỉnh trong từng giai đoạn.

Trên tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng và Tỉnh uỷ Vĩnh Phú, tại

Đại hội lần thứ XIII (tháng 10/1986), Đại hội lần thứ XIV (tháng 12/1988),

Đại hội lần thứ XV (tháng 10/1991), Đại hội lần thứ XVI (2/1996), Đảng bộ

huyện Lập Thạch đã xác định rõ mục tiêu và xây dựng kế hoạch cụ thể để

thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

Đặc biệt trong Đại hội đại biểu lần thứ XV, Đảng bộ huyện đã đề ra

phương hướng phát triển KT - XH huyện trong 5 năm từ 1991 – 1995: Phấn

đấu ổn định và phát triển một bước tình hình KT - XH. Tạo điều kiện thúc

đẩy kinh tế hộ phát triển toàn diện, mạnh mẽ. Tăng nhanh tốc độ phát triển

nông – lâm nghiệp để có khối lượng nông, lâm sản lớn đáp ứng nhu cầu tiêu

dùng và xuất khẩu, bước đầu có tích luỹ trong các hộ nông dân. Tăng cường

cơ sở vật chất, kĩ thuật, chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng gắn liền với xây

dựng nông thôn mới XHCN, hạ thấp tỉ lệ phát triển dân số, tạo điều kiện cho

người lao động giải quyết việc làm,…[10, tr.201]. Quan điểm xác định nông

nghiệp là mặt trận hàng đầu trong phát triển kinh tế ngày càng được thể hiện

rõ hơn.

1.2.2. Tình hình kinh tế huyện Lập Thạch những1986 - 1996

Trong những năm 1986 - 1996, mặc dù có dấu hiệu phục hồi và phát

triển, những tình hình kinh tế của huyện vẫn gặp nhiều khó khăn. Sản xuất

17

nông nghiệp liên tiếp chịu thiệt hại do thiên tai, đặc biệt là trận lũ lịch sử năm

1986 đã gây vỡ đê sông Phó Đáy và sông Lô. Bên cạnh đó, tình hình trong

nước lúc này đang lâm vào tình trạng khủng hoảng do một thời gian dài thực

hiện cơ chế quan liêu bao cấp dẫn đến lạm phát trong cả nước tăng, giá cả đắt

đỏ,... làm ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân trong huyện.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện và sự nỗ lực của nhân dân toàn

huyện sản xuất nông nghiệp huyện vẫn đạt nhiều kết quả.

a.Về nông nghiệp – lâm nghiệp:

Diện tích gieo trồng mỗi năm của huyện đạt từ 22.500 – 27.700 ha,

trong đó diện tích gieo trồng cây lương thực từ 19.500 – 21.200 ha tăng so với

thời kì trước. Các diện tích cây rau màu cũng liên tục tăng. Do diện tích trồng

lúa, ngô tăng, xu hướng chuyển sang trồng các cây lâm nghiệp và cây ăn quả

nên diện tích cây sắn và cây khoai lang thời kì này đều giảm. Riêng đối với

các loại cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, đậu tương,… có xu hướng tăng

rõ rệt.

Nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật đưa các giống mới có năng suất cao, có

sức chống chịu sâu bệnh tốt và tích cực chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, đặc biệt là

chú trọng sản xuất vụ đông nên kết quả đạt khá. Năng suất lúa tăng lên 30 tạ/ha

từ những năm 1995 - 1997. Tổng sản lượng lương thực quy thóc cũng đạt mức

cao, từ 43.273 tấn năm 1991 tăng lên 52.903 tấn năm 1996 [10, tr.204].

Sản lượng cây công ngiệp đến trước năm 1997 liên tục tăng so với giai

đoạn trước, giá trị sản lượng năm 1995 tăng 2,6 lần so với năm 1990.

Cùng với xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp, ngành chăn

nuôi trong thời gian này phát triển với tốc độ năm sau cao hơn năm trước.

Được sự chỉ đạo của Huyện ủy với các chính sách như nạc hóa đàn lợn, Sind

hóa đàn bò, nhập nhiều giống gia cầm có năng suất cao,… ngành chăn nuôi

phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đàn bò toàn huyện đến năm 1996 có

30.708 con trong đó có 258 con bò lai Sind, tăng hơn 10.000 con so với năm

1991. Đàn trâu tăng lên 12.625 con. Chăn nuôi trâu bò vừa nhằm đáp ứng sức

18

kéo cho ngành nông nghiệp đồng thời tăng thu nhập cho gia đình. Tổng đàn

lợn có 79.188 tỉ lệ nạc từ 80 - 90%, chăn nuôi lợn được xác định là một trong

những mũi nhọn để phát triển kinh tế của huyện; đàn gia cầm có 1.137.000

con; do tận dụng diện tích mặt nước với việc triển khai mô hình “một lúa một

cá” diện tích thả cá năm 1996 đạt 869 ha [10, tr.205].

Về lâm nghiệp, diện tích trồng rừng đạt được 595 ha. Chất lượng rừng

trồng đảm bảo tốt, giải quyết việc làm cho 300 lao động ở 5 xã Lãng Công,

Đồng Quế, Tân Lập, Vân Trục, Ngọc Mỹ. Giải quyết 25 hộ giãn dân trong

vùng dự án với số vốn đầu tư trên 700 triệu. Đã giao quyền sử dụng đất rừng

lâu dài cho 1.151 hộ với 993 ha. Phong trào trồng cây ăn quả được đẩy mạnh,

một số mô hình kinh tế trang trại vườn đồi, vườn rừng đang phát triển, nhiều

hộ gia đình cải tạo vườn tạp để thành vườn quả có giá trị kinh tế cao như vải,

nhãn, hồng, na.

Các ngành dịch vụ như vật tư, thú y, bảo vệ thực vật, thuỷ nông có

nhiều cố gắng cung ứng đủ giống, phân bón, thuốc trừ sâu, đảm bảo đủ nước

tưới cho mùa vụ đã đáp ứng nhu cầu sản xuất của nông dân.

Về công tác quản lý HTX nông nghiệp là vấn đề khó khăn và phức tạp.

Sau hơn 30 năm tồn tại, vai trò của các HTX không còn phù hợp do việc phát

triển của kinh tế hộ gia đình. Huyện ủy chỉ đạo thận trọng để tạo dự đổi mới

từng bước, hướng dẫn các HTX chuyển dần sang làm chức năng dịch vụ, một

số mô hình HTX kiểu mới đã xuất hiện. Thực hiện Luật HTX và Chỉ thị số 68

của Bộ Chính trị, Huyện ủy ban hành nghị quyết số 03 ngày 01 – 01 – 1996,

chỉ đạo việc đổi mới các HTX, toàn huyện còn 51 HTX hoạt động [10, tr.206].

Nhìn chung, kinh tế nông – lâm nghiệp của huyện sau 10 năm đổi mới

đã có bước phát triển toàn diện. Những vấn đề về nông nghiệp, nông thôn

được Đảng bộ huyện quan tâm chỉ đạo đạt được nhiều thành tựu.

b. Về công nghiệp – thủ công nghiệp, các ngành dịch vụ thương mại:

Sản xuất TCN có bước phát triển, nhiều ngành nghề mở ra như sản xuất

vật liệu xây dựng, khai thác cát sỏi, chế biến gỗ, sửa chữa cơ khí, điện tử, chế

19

biến nông sản thực phẩm và các nghề truyền thống như đan lát, rèn, đúc

nhôm… vẫn được phát huy. Giá trị tổng sản lượng năm 1996 đạt 434 triệu. Một số mặt hàng tăng khá như gạch ngói: 27,6 triệu viên; cát sỏi 80 ngàn m3

tăng 73%, vôi 4.100 tấn.

Tuy nhiên việc quản lí các ngành nghề ở cơ sở chưa chặt chẽ, chưa phát

huy hết thế mạnh tiềm năng sẵn có ở một số ngành như sản xuất vôi, khai thác

vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, chưa phát huy được các làng nghề.

Dịch vụ thương mại mở rộng, mặt hàng phong phú đa dạng, phương

thức mua bán thuận lợi, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.

Tuy nhiên, việc quản lý thị trường còn lỏng lẻo, còn để hàng kém phẩm chất,

hàng giả tràn vào thị trường huyện.

Về xây dựng mạng lưới điện, giá dự toán xây lắp năm 1996 dự kiến

khoảng 8 tỷ đồng, nhưng do khó khăn mới thực hiện được 2,57 tỷ đồng ở các

xã Bạch Lưu, Ngọc Mỹ, Vân Trục, Liên Hoà, Liễn Sơn, Quang Yên, còn dở

dang chưa đưa vào sử dụng được. Trong đó có 10 km đường 35 KV, 8 km

đường 10 KV và 6 trạm biến áp loại 100 - 250 KVA.

Về giao thông vận tải, đã tiến hành duy tu sửa chữa cầu cống các tuyến đường trục và liên xã với số vốn đầu tư 696 triệu, đào đắp hơn 60.000 m3 đất

đá, xây mới và sửa chữa 34 cống các loại, phương tiện vận tải tăng, có 3 xe

khách, 7 ô tô tải, 83 xe công nông và nhiều phương tiện thô sơ khác, có 25

chiếc thuyền máy, có doanh thu 1,56 tỷ đồng.

Về duy tu đường giao thông, còn một số đoạn đường tu sửa chưa đảm

bảo gây lãng phí, tốn kém ảnh hưởng xấu đến giao thông. Thực hiện Nghị

định 36 của Chính phủ về xây dựng giao thông nông thôn, ở một số nơi làm

tốt nhưng một số nơi còn lấn chiếm trở lại. Một số nơi làm đường nông thôn,

xóm ngõ ra đồng chuyển biến chậm, tai nạn giao thông chưa giảm.

Công tác bưu chính viễn thông phát hành báo chí phục vụ kịp thời nhu

cầu thông tin trên địa bàn huyện. Số máy điện thoại thuê bao toàn huyện lên

235 chiếc. Trong số đó ở cơ quan 82 chiếc, 12 trụ sở UBND xã có 15 chiếc, ở

20

các hộ tư nhân 123 chiếc, còn lại là điện thoại công cộng và kiốt bưu điện

quản lý. Bình quân 950 người mới có 1 máy. Công tác phát hành báo chí có

cố gắng, chuyển kịp đến tay người đọc, song một số địa phương đặt mua báo

thất thường.

c. Công tác tài chính - tín dụng:

Về ngân sách, tổng thu ngân sách nhà nước năm 1996 là 7.888 triệu,

trong đó thu trên địa bàn 6.178 triệu, thu từ ngân sách tỉnh cấp 1.710 triệu .

Ngân sách huyện còn nhiều khó khăn, song do nắm chắc đặc điểm các nhu

cầu chi nên đã chủ động bám sát kế hoạch để điều hành chi đáp ứng nhu cầu

chi thường xuyên và một số nhu cầu chi đột xuất khác.

Ngân hàng nông nghiệp huyện Lập Thạch hoạt động hiệu quả giúp cho

việc dải ngân, giúp nông dân vay vốn phát triển kinh tế đạt nhiều thuận lợi

cho nhân dân phát triển kinh tế.

Như vậy, đến trước năm 1997, bức tranh tổng thể về tình hình kinh tế

của Lập Thạch như sau:

1- Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá. Kinh tế nông nghiệp phát triển

đều, chuyển dịch một bước cơ cấu nông nghiệp nông thôn đúng hướng. Sản

xuất lương thực tăng, tổng sản lượng đạt gần 53.000 tấn đạt mục tiêu được đề

ra tại Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn

huyện phát triển, sản xuất vật liệu xây dựng trở thành một ngành mũi nhọn,

mạng lưới dịch vụ phát triển đa dạng nhất là dịch vụ vận tải và dịch vụ thương

mại. Giá trị tổng sản phẩm đạt 293.018 triệu đồng. Bình quân đầu người

1.317 ngàn đồng.

Cơ cấu trong giá trị tổng sản phẩm ngành nông, lâm nghiệp chiếm

69,6%, ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản chiếm

13,4%; ngành dịch vụ vận tải và thương mại chiếm 17%, cơ cấu ngành so với

đại hội lần thứ XVI của huyện chưa đạt, nhưng so với năm 1995, tỷ trọng

21

nông nghiệp giảm 3,1%, công nghiệp – xây dựng cơ bản tăng 2%, dịch vụ

tăng ít, có tỷ trọng hợp lý theo đúng hướng.

2- Sự nghiệp y tế, giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển, các hoạt động

văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì và phát triển trên diện rộng.

Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân trong huyện được nâng lên rõ rệt.

3- Chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được đảm bảo, kỷ cương xã hội

được củng cố, cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu, chống lãng

phí và thực hành tiết kiệm được coi trọng và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc.

4- Xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là

nhiệm vụ then chốt, Đảng bộ huyện đã tập trung củng cố cơ sở Đảng phù hợp

để hoạt động có hiệu quả và tự đổi mới để từng bước nâng cao vai trò và năng

lực lãnh đạo của toàn Đảng lên ngang tầm nhiệm vụ mới.

Hoạt động của HĐND có đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả các

kỳ họp. Vai trò quản lý và điều hành của chính quyền có nhiều tiến bộ, quản

lý nhà nước về KT - XH có chuyển biến rõ nét. Vai trò của một số đoàn thể

nhân dân nâng cao, được các cấp uỷ đảng, chính quyền quan tâm.

Bên cạnh những thành tựu, KT - XH của huyện Lập Thạch trong thời kì

này còn những khó khăn, hạn chế:

Tốc độ phát triển kinh tế tuy có tăng nhưng so yêu cầu chưa cao.

Chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp khá. Xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng còn

chậm, việc tranh thủ các nguồn vốn của trên cũng như vận động nhân dân

đóng góp còn thấp, thiếu vốn nghiêm trọng trong xây dựng cơ bản. Các cấp

ủy đảng từ huyện đến cơ sở còn lúng túng trong chỉ đạo đổi mới HTX nông

nghiệp, việc thanh toán nợ còn chậm, dây dưa kéo dài. Một số đơn vị cơ sở

thực hiện chưa nghiêm túc trong việc nộp thuế, huy động ngày công lao động

công ích, thu nộp thuỷ lợi phí… ngân sách xã còn mất cân đối nghiêm trọng.

Một số cơ sở chưa thực hiện đúng trong quản lý thu chi.

Công tác xoá đói giảm nghèo nhìn chung hiệu quả thấp, tỷ lệ hộ đói

nghèo nhìn chung còn cao hơn mức bình quân của tỉnh. Chỉ đạo thực hiện

22

chính sách đối với các xã miền núi và dân tộc còn yếu. Các mặt văn hoá xã

hội đã chú ý nhưng chưa đáp ứng yêu cầu.

Chất lượng đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở còn thấp, vai trò của Đảng

uỷ, chi bộ một số nơi còn rất hạn chế. Tỷ lệ tập hợp quần chúng của các đoàn

thể chưa cao. Chính quyền một số cơ sở còn vi phạm pháp luật phải xử lý.

Thực hiện chế độ thông tin báo cáo chậm, chưa đầy đủ, nhất là tình

hình đột xuất như thiên tai, bão lụt, dịch bệnh gây khó khăn cho lãnh đạo, chỉ

đạo của huyện.

1.3. Đảng bộ huyện Lập Thạch lãnh đạo phát triển kinh tế từ năm

1997 đến năm 2005

1.3.1. Chủ trương và giải pháp phát triển kinh tế

1.3.1.1. Chủ trương của Đảng

Trong suốt 10 năm (1986 - 1996), dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà

nước, cả nước bước vào thời kì đổi mới toàn diện đất nước theo tinh thần

Nghị quyết Đại hội lần thứ VI và lần thứ VII của Đảng, tình hình KT - XH

nước ta đã có những chuyển biến quan trọng. Đời sống vật chất của đa số

người dân đã được cải thiện. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

được giữ vững. Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển KT - XH.

Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta vẫn còn những

mặt tồn tại và yếu kém. Cơ chế quản lý của Nhà nước còn nhiều bất cập, đặc

biệt là trong lĩnh vực quản lý KT - XH. Đất nước còn nghèo và chậm phát

triển. Kết cấu hạ tầng xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Tình hình

lạm phát, một số tiêu cực xã hội khác còn nảy sinh… Tất cả những tồn tại đó

đã và đang đặt ra những vấn đề bức xúc cần giải quyết.

Để đáp ứng những đòi hỏi mới của sự nghiệp phát triển đất nước, Đại

hội lần thứ VIII của Đảng đã được tiến hành từ ngày 28 – 06 đến ngày 01 –

07 – 1996 tại Hà Nội. Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện đổi mới, Đại hội

đã đề ra những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp để

thực hiện CNH - HĐH đất nước đến năm 2000 và 2020. Đại hội VIII là đại

23

hội tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH - HĐH vì mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH.

Đại hội xác định: Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh

thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn

diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành

theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng Xã hội

chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đề ra trong chiến lược ổn định và

phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 [41, tr.82].

Đại hội VIII đã đưa ra những nội dung cơ bản của CNH - HĐH trong

những năm còn lại của thập kỉ 90 (thế kỉ XX). Đại hội nhấn mạnh: Phải đặc

biệt coi trọng công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phát

triển toàn diện nông thôn, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến

nông, lâm, thuỷ sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng

xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu

hạ tầng kinh tế, trước hết là những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản

trở sự phát triển… Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đẩy mạnh các

hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như chế

biến nông, lâm, thuỷ sản… du lịch. Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và

đào tạo… [41, tr.85-86].

Để thúc đẩy quá trình đổi mới trong nông nghiệp lên một bước mới,

ngày 10 – 11 – 1998, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 06-NQ/TW về một số vấn

đề nông nghiệp và nông thôn, khẳng định sự tồn tại tất yếu lâu dài của nền kinh

tế nhiều thành phần, chỉ rõ vai trò quan trọng của kinh tế hộ, xác lập vị trí của

kinh tế trang trại. Đồng thời vạch hướng đầu tư cho nông nghiệp về khoa học -

công nghệ, mở rộng quyền sử dụng đất, phát triển thị trường nông sản.

Đại hội lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001) tiếp tục chủ trương đẩy

mạnh công nghiệp, hiện đại hoá nhằm sớm "đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém

phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền

tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo

24

hướng hiện đại" [44, tr.89]. Chiến lược phát triển KT - XH giai đoạn 2001 -

2010 được Đại hội đề ra, trong đó, định hướng phát triển cho các ngành và các

vùng chỉ rõ: Đẩy nhanh CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn theo hướng

hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và

điều kiện sinh thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lao

động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn. Đưa nhanh tiến bộ khoa

học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đạt mức tiên tiến trong khu vực về

trình độ công nghệ và về thu nhập trên một đơn vị diện tích; tăng năng suất lao

động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị trường

tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, tăng đáng kể thị phần của các nông sản

chủ lực trên thị trường thế giới. Chú trọng điện khí hoá, cơ giới hoá ở nông

thôn. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu, cơ khí

phục vụ nông nghiệp, công nghiệp gia công và dịch vụ; liên kết nông nghiệp -

công nghiệp - dịch vụ trên từng địa bàn và trong cả nước.

Tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Quy

hoạch hợp lý và nâng cao hiệu quả việc sử dụng quỹ đất, nguồn nước, vốn

rừng gắn với bảo vệ môi trường. Quy hoạch các khu dân cư, phát triển các thị

trấn, thị tứ, các điểm văn hoá ở làng xã; nâng cao đời sống vật chất, văn hoá,

tinh thần, xây dựng cuộc sống dân chủ, công bằng, văn minh ở nông thôn.

Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Nâng cao

chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế, tăng sức cạnh tranh.

Những nội dung xuyên suốt trong đường lối đổi mới đất nước từ Đại

hội VI đến Đại hội IX của Đảng đã giúp Đảng bộ huyện Lập Thạch có sơ sở

vững chắc để xây dựng, hoạch định đường hướng cụ thể phát triển kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội,… của huyện đồng hành với sự phát triển kinh tế

của cả nước.

1.3.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc

Trên cơ sở chỉ đạo của Đại hội Đảng các khoá VI - VII, Tỉnh uỷ Vĩnh

Phú đã ra sức lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng đề

25

xướng. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn của tỉnh, tại Đại hội đại biểu

Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú lần thứ VI (nhiệm kỳ 1986 – 1990), đã chỉ ra nhiệm

vụ cơ bản là ổn định KT - XH và tập trung hoàn thành cho bằng được ba

chương trình kinh tế của Đảng đã đề ra là lương thực thực phẩm, hàng tiêu

dùng, hàng xuất khẩu. Trên cơ sở những thắng lợi đạt được trong giai đoạn

trước, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú lần VII (tháng 11/1991)

nhiệm kì 1991 – 1996 đã xác định nhiệm vụ của nhiệm kì tiếp theo là giữ

vững ổn định chính trị, ổn định và phát triển một bước KT - XH ... Trong Đại

hội cũng đã chủ trương: xây dựng một cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp và

dịch vụ trên địa bàn tỉnh. Phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp toàn diện gắn

nông nghiệp với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, phát triển toàn diện kinh

tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

Ngày 06 – 11 – 1996, tại kì họp thứ 10 của Quốc hội khoá IX đã ra

Nghị quyết về điều chỉnh địa giới một số tỉnh thành trong đó có Vĩnh Phú.

Tỉnh Vĩnh Phú được tách thành hai tỉnh là Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Ngày 12 –

12 – 1996, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp ra Quyết định 135-QĐ/TW về

việc thành lập Đảng bộ Vĩnh Phúc.

Ngay sau khi thành lập Đảng bộ tỉnh đã bắt tay vào chuẩn bị cho Đại

hội đầu tiên sau 29 năm tái lập tỉnh. Tháng 11/1997, Đại hội đại biểu Đảng bộ

lần thứ XII được tổ chức tại thị xã Vĩnh Yên. Tại Đại hội nêu rõ: “ Đẩy

nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, nhất là với công nghiệp, sớm thoát khỏi tình

trạng kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định,

vững chắc sau năm 2000, thu hẹp khoảng cách với bình quân cả nước.

Chuyển nền kinh tế theo cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ…” [55,

tr.12]. Căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ về phát triển KT - XH đã được đề

ra trong Đại hội XII, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp là

chủ yếu sang cơ cấu công, nông nghiệp và dịch vụ, phát huy tốt tiền lực của

các ngành kinh tế, khai thác tốt những thế mạnh của tỉnh. Để đẩy mạnh sự

nghiệp CNH - HĐH, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII chủ trương tập trung

26

mọi nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Hướng chủ yếu là phát triển công nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài và công nghiệp quốc doanh. Trên cơ sở chỉ đạo của Đảng

bộ tỉnh, kinh tế Vĩnh Phúc đã có những bước tiến vượt bậc, đời sống xã hội,

đời sống của nhân dân được nâng cao rõ rệt. Nhịp độ tăng trưởng GDP hàng

năm là 17,8%. Giá trị sản xuất ngành nông – lâm nghiệp – thuỷ sản từ 1997 –

2000 tăng bình quân 5,8%/ năm, năng suất lúa năm 2000 là 34,6 tạ/ha, lương

thực bình quân đầu người đạt 362 kg/ người. Đặc biệt, giá trị sản xuất công

nghiệp, xây dựng tăng bình quân 75,7%/năm,…

Trên cơ sở chỉ đạo tại Đại hội IX của Đảng, ngày 12 - 3 - 2001, Đại hội

đại biểu lần thứ XIII của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc được tổ chức. Đại hội đề ra

mục tiêu tổng quát đến năm 2005: “ Phát huy và khai thác cao độ tiềm năng,

thế mạnh của địa phương, tận dụng mọi nguồn lực trong và ngoài tỉnh, tranh

thủ sự giúp đỡ của Trung ương, thu hút vốn của các thành phần kinh tế trong

và ngoài nước, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế

theo cơ cấu công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ, thực hiện phân công lại lao

động xã hội. Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng an ninh, ngăn chặn và

đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xã hội; xây dựng hệ thống chính trị

trong sạch, vững mạnh, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân,

sớm vượt qua đói nghèo, từng bước tiến tới giàu có phồn vinh” [56, tr.53-54].

Tại Đại hội cũng đề ra mục tiêu cụ thể từ 2001 – 2005: GDP bình quân

hàng năm tăng 10%/ năm, thu nhập bình quân đạt 350USD/ năm; cơ cấu kinh

tế: công nghiệp và xây dựng đạt 46%, nông – lâm nghiệp là 24,5%, dịch vụ -

du lịch 29,5%. Đối với phát triển nông - lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng

hoá trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu vật nuôi, cây trồng; đẩy mạnh phát triển

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng, phát triển kinh tế đối ngoại,

tăng cường đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng,…[56, tr.54-55] Để thực hiện

thắng lợi những mục tiêu nhiệm vụ trên Đại hội đã đề ra 10 chương trình KT -

XH trọng điểm:

27

1- Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

2 - Chương trình trồng 6000 ha rừng và bảo vệ rừng hiện có.

3 - Chương trình phát triển công nghiệp – thủ công nghiệp.

4 - Chương trình xây dựng đô thị và nông thôn mới.

5 - Chương trình phát triển các khu du lịch tập trung.

6 - Chương trình dân số, việc làm xoá đói và giảm nghèo.

7 - Chương trình phát triển khoa học, công nghệ và môi trường.

8 - Chương trình giáo dục, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nâng

cao tay nghề cho người lao động.

9 - Chương trình phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và bệnh dịch

HIV/ADIS.

10 - Chương trình kiện toàn tổ chức, sắp xếp lại bộ máy chính trị.

Tuy nhiên, là một tỉnh nông nghiệp với đại bộ phận người dân sống

bằng nghề nông, để kinh tế phát triển bền vững và từng bước nâng cao mức

sống của đại bộ phận nhân dân, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh chủ trương đẩy mạnh

phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng cường chuyển dịch cơ cấu cây

trồng, vật nuôi. Ngày 01 – 11 – 2002, Tỉnh uỷ tỉnh Vĩnh Phúc ra Nghị quyết

số 10-NQ/TU “Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thời kỳ 2001 -

2005” với nội dung: Xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp toàn diện

theo hướng CNH - HĐH, tập trung hoá và chuyên môn hoá, đạt tốc độ tăng

trưởng kinh tế trên tất cả các lĩnh vực sản xuất. Lấy hiệu quả KT - XH là mục

tiêu hàng đầu… Chuyển mạnh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá, lấy năng

suất cao, chất lượng cao, hiệu quả kinh tế cao và sức cạnh tranh cao là mục

tiêu phấn đấu. Trên cơ sở nâng cao năng suất, giảm hợp lý và chuyển dần diện

tích cây lương thực sang cây trồng khác và nuôi trồng thuỷ sản có giá trị kinh

tế cao hơn, tạo sự phân công lao động mới ở nông thôn [10, tr.228]. Tỉnh uỷ

chỉ rõ phương châm phát triển nông nghiệp trong những năm 2001 - 2005 là 6

tăng 5 giảm: tăng hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích; tăng năng suất - chất

lượng cây trồng, vật nuôi; tăng sản lượng nông sản hàng hoá; tăng kim ngạch

28

xuất khẩu, tăng tỷ trọng chăn nuôi, thuỷ sản; tăng thu nhập cho nông dân.

Giảm dần tỷ trọng cây lương thực, giảm nhanh đất trống, đồi núi trọc; giảm

thấp ô nhiễm môi trường; giảm thiểu thiệt hại do thiên tai, sâu bệnh, dịch

bệnh, giảm hộ đói nghèo ở nông thôn. Trong sản xuất nông nghiệp, ưu tiên

phát triển sáu loại cây: lúa, ngô, dâu tằm, rau, hoa, cây ăn quả và ba loại con:

lợn, bò, thuỷ sản. Chỉ đạo hình thành một số vùng chuyên canh cây trồng: dâu

tằm ở Yên Lạc, Vĩnh Tường; rau, hoa Mê Linh, cây ăn quả ở Lập Thạch, Tam

Dương. Nhờ sự chỉ đạo đó kinh tế nông nghiệp đạt được nhiều thành tựu lớn

như: giá trị nông - lâm nghiệp - thuỷ sản tăng 7%/ năm; đặc biệt chăn nuôi

tăng 10,1%/năm,…

Bên cạnh chú trọng phát triển nông nghiệp, Tỉnh uỷ còn đưa ra một số

chỉ đạo nhằm lãnh đạo sự phát triển của ngành công nghiệp như: Kết luận 14

về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2005; Ban thường vụ

Tỉnh uỷ ra kết luận 01 về khôi phục và phát triển làng nghề thủ công nghiệp.

Trên cơ sở chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND đã xây dựng quy hoạch phát triển công

nghiệp đến giai đoạn 2001 - 2010 và định hướng đến năm 2020; xây dựng đề

án phát triển công nghiệp 5 năm 2001 - 2005; đề án phát triển tiểu thủ công

nghiệp và làng nghề giai đoạn 2001 - 2005 và định hướng đến năm 2010.

1.3.2. Quá trình Đảng bộ huyện Lập Thạch lãnh đạo, chỉ đạo thực

hiện phát triển kinh tế, giai đoạn 1997 - 2005

1.3.2.1. Quá trình Đảng bộ huyện Lập Thạch lãnh đạo phát triển kinh

tế theo hướng CNH - HĐH giai đoạn 1997-2005

Do đặc điểm Lập Thạch là một huyện sản xuất nông nghiệp là chủ

yếu, chính vì vậy quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế của huyện xuyên suốt

là tập trung vào thế mạnh nông nghiệp, từ đó tạo điều kiện để phát triển các

lĩnh vực khác.

Vận dụng các Nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh uỷ vào điều kiện

cụ thể của địa phương, ngay từ Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Lập Thạch

lần thứ XV(10/1991) đã xác định: “… phấn đấu ổn định và phát triển một

29

bước tình hình KT - XH. Tạo điều kiện môi trường thúc đấy kinh tế hộ phát

triển toàn diện, mạnh mẽ. Tăng nhanh tốc độ phát triển nông, lâm nghiệp để

có khối lượng nông, lâm sản lớn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu,

bước đầu có tích luỹ trong các hộ nông dân. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ

thuật, chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng gắn liền với việc xây dựng nông thôn

mới XHCN, hạ thấp tỉ lệ phát triển dân số, tạo điều kiện cho người lao động

để giải quyết việc làm….” [10, tr.201]. Quan điểm xác định nông nghiệp là

mặt trận hàng đầu ngày càng được thể hiện rõ hơn, vấn đề nông nghiệp nông

thôn ngày càng được coi trọng trong tiến trình phát triển kinh tế địa phương.

Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Lập Thạch lần thứ XVI (tháng

2/1996) đã tiếp tục xác định: “Lập Thạch là một huyện nông - lâm nghiệp -

dịch vụ - tiểu thủ công nghiệp,… phấn đấu thực hiện công nghiệp hóa – hiện

đại hóa nông nghiệp và nông thôn và thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội

công bằng, văn minh. Tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường đầu tư

thâm canh và ứng dụng khoa học kỹ thuật tạo ra các vùng sản xuất hàng hoá

lớn, phát triển chăn nuôi. Phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ với tốc

độ cao, nâng cao năng lực vận tải cả đường bộ và đường thuỷ. Tăng cường

xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng, đẩy mạnh tích luỹ nền kinh tế. Phát triển

mạnh sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, tạo nguồn lực cho sự nghiệp CNH -

HĐH đất nước” [1, tr.19].

Để hỗ trợ cho mục tiêu phát triển kinh tế trong nhiệm kỳ 1996 – 2000,

BCH Đảng bộ Lập Thạch đã ban hành 4 Nghị quyết về KT - XH, an ninh,

quốc phòng:

- Nghị quyết số 02/96/NQ-HU về an ninh chính trị và trật tự an toàn

xã hội.

- Nghị quyết số 03/96/NQ-HU ngày 01 – 11 – 1996 về đổi mới HTX

nông nghiệp.

- Nghị quyết số 04/99/NQ-HU ngày 29 – 3 – 1999 về quản lý, tu bổ các

công trình thuỷ lợi.

30

- Nghị quyết số 05/99/NQ-HU ngày 28 – 6 – 1999 về phát triển cây

ăn quả.

Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, tại Đại hội đại biểu Đảng

bộ huyện Lập Thạch lần thứ XVII (11/2000) đã đề ra phương hướng chung và

những mục tiêu cụ thể trong giai đoạn 2001 - 2005. Về phương hướng chung

Đại hội xác định: “…tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của

Nhà nước, phát huy sức mạnh toàn dân, phát huy nội lực, khai thác mọi tiềm

năng, tranh thủ thời cơ để phát triển kinh tế - xã hôi, nâng cao đời sống vật

chất, tinh thần của nhân dân, xác đinh kinh tế của huyện là nông – lâm

nghiệp, dịch vụ, thủ công nghiệp” [2, tr.53]. Phương hướng phát triển là: Tích

cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật vào

sản xuất,… Phấn đấu đến năm 2005, Lập Thạch là huyện vững về kinh tế,

mạnh về quốc phòng, xã hội ổn định.

Đại hội cũng xác định phát triển thủ công nghiệp cũng là một nhiệm vụ

trọng tâm và Huyện uỷ cần tập trung lãnh đạo. Phương hướng phát triển thủ

công nghiệp của huyện được nghị quyết của Đại hội đại biểu lần thứ XVII

Đảng bộ huyện xác định: Góp phần thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp, nông

thôn, khai thác tiền năng, thế mạnh của mỗi địa phương, thực hiện chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, phân công lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng

cao đời sống nhân dân. Để thực hiện phương hương mục tiêu phát triển thủ

công nghiệp của Đại hội, Huyện uỷ chỉ ra một số giải pháp cụ thể như sau:

- Quy hoạch vùng nguyên liệu, bến bãi cho sản xuất gạch, ngói và khai

thác cát sỏi ở những xã có tiềm năng.

- Tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, đẩy mạnh lưu

thông hàng hoá, có chính sách thu hút và khuyến khích thành lập các cơ sở

sản xuất: Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, HTX,… để

cung ứng và bao tiêu sản phẩm sản xuất được.

- Tiến hành qui hoạch, xây dựng kế hoạch phân vùng nguyên liệu để

đáp ứng cho sản xuất tiểu thủ công nghiệp.

31

- Có chính sách ưu đãi cho vay vốn để khuyến khích phát triển thủ công

nghiệp phù hợp với chu kỳ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

- Mở lớp đào tạo tay nghề cho người lao động, bồi dưỡng về quản lý

cho các chủ doanh nghiệp, tổ chức học tập, tham quan, trao đổi kinh nghiệm,

tạo môi trường thuận lợi cho các công ty, doanh nghiệp, HTX phát triển.

- Đổi mới công nghệ, dây truyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản

phẩm, hạn chế ô nhiễm môi trường, đặc biệt là sản xuất gạch ngói.

Trong quá trình chỉ đạo thực hiện, Huyện ủy, HĐND huyện cũng ban

hành nhiều nghị quyết để thúc đẩy phát triển kinh tế như: Nghị quyết số

04/2001-NQ/HĐ ngày 17 – 01 – 2001 của HĐND về phát triển kinh tế vườn

đồi, cây ăn quả; Nghị quyết số 02-NQ/HU ngày 26 – 06 – 2001 của Huyện ủy

và Nghị quyết số 10/2001-NQ/HĐ ngày 31 – 07 – 2001 của HĐND huyện về

phát triển giao thông nông thôn giai đoạn 2001 - 2005; ….

1.3.2.2. Kết quả huyện Lập Thạch đạt được về phát triển kinh tế từ

1997 - 2005

a. Giai đoạn 1997 - 2000

Trên cơ sở chỉ đạo của các Đại hội cấp trên, từ 1997 – 2000, kinh tế

Lập Thạch đã đạt được một số thành tựu kinh tế to lớn, đáng được ghi nhận,

cụ thể:

Về sản xuất nông - lâm nghiệp:

Về cây lúa, huyện đã chỉ đạo lựa chọn các giống lúa cấp I nguyên

chủng, lúa lai vào sản xuất, chọn những giống năng suất cao có khả năng

chống chịu sâu bệnh. Bên cạnh đó Huyện uỷ còn chú trọng công tác thuỷ lợi,

làm cho năng suất lúa của huyện tăng liên tục. Năng suất trung bình đạt từ 30

tạ/ha, riêng năm 2000 đạt 41,7 tạ/ha (tương đương 150kg/sào).

Bên cạnh phát triển cây lúa, huyện còn mở rộng sản xuất cây vụ đông

mà chủ yếu là cây ngô. Diện tích trồng ngô tăng từ 2.100 ha năm 1991 đã

tăng lên 3.600 ha năm 1999. Do nhu cầu sử dụng không nhiều nên diện tích

32

cây khoai, sắn liên tục giảm, thay thế các cây ngắn ngày có hiệu quả kinh tế

cao như lạc, đậu tương hay các loại cây công nghiệp và cây ăn quả.

Tổng sản lượng lương thực quy thóc: năm 1996: 52.902 tấn; năm 1997:

55.142 tấn; năm 1998: 55.012 tấn; năm 1999: 54.543 tấn; năm 2000: 68.000 tấn.

Tuy sản lượng năm 1999 giảm do ảnh hưởng của thiên tai, nhưng năm

2000 lại tăng nhanh. Do tổng sản lượng lương thực qui thóc cao nên bình

quân lương thực đầu người cũng tăng: năm 1990 chỉ có 240kg/người/năm thì

đến năm 2000 tăng lên 303kg/người/năm.

Về chăn nuôi ổn định và có chiều hướng phát triển khá, chăn nuôi gia

súc, gia cầm đều vượt chỉ tiêu đề ra tại Đại hội lần thứ XVI. Tổng đàn trâu bò

liên tục tăng trong đó đàn bò tăng nhanh và chiếm tỉ lệ đa số: năm 1996:

43.333 con; năm 1997: 44.147 con; năm 1998: 44.497 con; năm 1999: 44.183

con, năm 2000: 45.079 con.

Tổng đàn lợn cũng liên tục tăng, với tốc độ cao. Các giống lợn lai, nạc

cao chiếm tỉ lệ 80 – 90%, trọng lượng xuất chuồng bình quân cũng tăng cao:

năm 1996: 79.188 con; năm 1997: 82.045 con; năm 1998: 87.150 con; năm

1999 : 90.360 con; năm 2000 : 93.950 con.

Do là huyện miền núi nên phát triển kinh tế vườn, đồi, rừng, trang trại

là thế mạnh của huyện. Về trồng rừng, chăm sóc rừng tự nhiên được thực hiện

thông qua hàng loạt các chương trình: PAM (Chương trình quản lý và sử

dụng rừng trồng bằng vốn tài trợ của chương trình lương thực thế giới - viết

tắt là PAM), 327 (Thực hiện theo kế hoạch số 327-CT về một số chủ trương

chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt

nước), về sau là chương trình 5 triệu ha rừng dự án 661,… tập trung thực hiện

mục tiêu đề ra hàng năm trồng 500 ha. Rừng được giao tới tận tay người dân

quản lý và sử dụng nhờ đó quản lý và khai thác hiệu quả hơn trước. Năm

1997: 520 ha; năm 1998: 446 ha; năm 1999: 452 ha. năm 2000: 751 ha.

Về trồng cây ăn quả, Huyện ủy đề ra dự án phát triển cây ăn qủa từ năm

1995, năm 1997 tiến hành xây dựng vườn ươm cây giống tại Trung tâm huyện

33

lỵ để cung cấp giống cây cho 20 xã vùng dự án. Năm 1998, huyện đã xây dựng

xong vườn ươm, cung cấp 31 ngàn cây cho các xã trong vùng dự án và bán cho

nông dân ngoài vùng để dân tự trồng 14 ngàn cây chủ lực là vải, nhãn, hồng,

xoài. Năm 1999, Huyện uỷ có Nghị quyết số 05 ra ngày 28 – 06 – 1999 về phát

triển trồng cây ăn qủa đã triển khai đến từng Đảng bộ và nhân dân đã có

chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động. Kết qủa năm 1999 trồng

được 300 ha và đã cải tạo được 670 ha vườn tạp, hình thành 96 trang trại và

trồng được 1.665 ha cây ăn quả. Toàn huyện có 6.129 ha đất vườn, đồi trong đó

vườn đồi 2.305 ha, vườn gia đình 3.823 ha, đến nay đã trồng cây ăn qủa 1.665

ha, diện tích còn khả năng trồng cây ăn quả là 4.464 ha.

Thuỷ lợi là vấn đề quan trọng trong phát triển nông nghiệp nên rất được

lãnh đạo huyện quan tâm. Về công tác thuỷ lợi, Huyện uỷ đã ra Nghị quyết số

04 ngày 29 – 03 – 1999 về quản lý khai thác các công trình thuỷ lợi được cán

bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình ủng hộ. Sau khi triển khai Nghị quyết,

các cấp uỷ Đảng, chính quyền đã chỉ đạo rà soát lại tất cả các công trình thuỷ

lợi ở địa phương như: ao, hồ, kênh mương, xác định lại năng lực tưới của

từng công trình và việc đấu thầu ao, hồ, để từ đó định lại vai trò quản lý các

công trình thuỷ lợi. Các công trình đều phát huy tác dụng tốt. Công tác đắp đê

để phòng chống lụt bão được thường xuyên chú ý, các ao, hồ được kiểm tra

trước lũ. Tuy từ năm 1997 - 2000 không có bão lũ nhưng vẫn tăng cường tu

bổ đê và đề phòng sự cố.

Công tác quản lý HTX là vấn đề lâu dài và khó khăn, bởi vì đến giai

đoạn này những hoạt động theo phương thức cũ không còn phù hợp. Kinh tế

hộ, cá thể đang phát triển mạnh, nếu muốn tồn tại các HTX phải thay đổi

phương thức hoạt động. Thực hiện luật HTX và Chỉ thị 68-CT/TW ban hành

ngày 24 – 05 – 1996 của Bộ Chính trị, Huyện uỷ đã có Nghị quyết 03 ngày 01

– 11 – 1996 về chỉ đạo đổi mới HTX. Cuối năm 1999 đã có 51/55 HTX nông

nghiệp đại hội xã viên để thực hiện chuyển đổi và giải thể theo luật. Trong đó

có 34 HTX chuyển đổi, 17 HTX giải thể còn 4 HTX chưa đại hội xã viên là

34

Tam Sơn, Yên Lương, Yên Phú và Triệu Xá. lý do là chưa làm rõ công nợ

nên chưa đại hội xã viên được. Song tồn tại là nhiều HTX sau chuyển đổi vẫn

chưa phát huy được tác dụng, hoạt động còn là hình thức.

Nhìn chung kinh tế nông – lâm nghiệp của huyện trong thời gian này

tiếp tục đổi mới và có bước phát triển toàn diện. Các vấn đề về nông nghiệp,

nông thôn, nông dân được Huyện uỷ và toàn bộ Đảng bộ huyện quan tâm.

Các nội dung của CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn được cụ thể hoá và đạt

được kết quả tốt, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, bộ mặt

nông thôn có nhiều khởi sắc. Nhờ đó, thu nhập đầu người của huyện tăng lên

rõ rệt. Năm 1991 thu nhập đầu người dưới 1 triệu đồng thì đến năm 2000 tăng

lên 1.785.000 đồng.

Sản xuất tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản và giao thông vận tải:

Sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở quy mô nhỏ, phân tán, phát triển chậm,

chưa có nghề mũi nhọn. Sản xuất chủ yếu là vật liệu xây dựng khai thác cát

sỏi. Một số nghề truyền thống ở địa phương như đan lát, chế biến gỗ, sản

phẩm đồ đá,... chất lượng thấp, tiêu thụ chậm, không cạnh tranh được với

hàng công nghiệp, do đó không phát triển đươc. Giá trị tổng sản lượng tiểu

thủ công nghiệp: năm 1997: 24,04 tỷ đồng; năm 1998: 25,64 tỷ đồng; năm

1999: 22,79 tỷ đồng.

Về xây dựng cơ bản: bằng các nguồn vốn của Trung ương, tỉnh, huyện

và nhân dân đóng góp để xây dựng các công trình đường giao thông, điện,

trường học, trụ sở, trạm xá và các công trình phúc lợi khác... chỉ từ năm 1997

đến 1999 có tốc độ xây dựng khá. Tổng vốn đầu tư trên địa bàn từ năm 1997

đến 1999 là: 71,91 tỷ đồng, trong đó vốn của Trung ương, tỉnh và ngân sách

huyện là 46,76 tỷ đồng, dân đóng góp 25,15 tỷ đồng. Nguồn vốn chủ yếu đầu

tư xây dựng các công trình công cộng, điện, đường xá, … Năm 1998 được

Tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng xong cầu Bến Gạo con đường nối từ huyện đi

tỉnh, tạo điều kiện đi lại thuận lợi cho nhân dân.

35

Bưu chính viễn thông phát triển mạnh: đã có 39/39 xã có máy điện

thoại với tổng số 828 máy, bình quân 273 người/ 1 máy; thư báo được đưa về

các xã trong ngày.

Về thu chi ngân sách: Huyện cố gắng chủ động khai thác các nguồn thu

của địa phương tuy nhiên vẫn phải xin trợ cấp từ cấp trên.

Bảng 1.1: Tình hình thu ngân sách huyện Lập Thạch từ 1997 - 1999

(Đơn vị: tỷ đồng)

Chỉ tiêu 1997 1998 1999

19,51 22,16 19,52 Tổng thu ngân sách Nhà nước

12,41 12,91 9,63 Thu trên địa bàn

(Nguồn: Tổng hợp báo cáo tổng kết của UBND từ năm 1997 đến năm 1999)

7,10 9,10 9,67 Ngân sách tỉnh cấp

Kết thúc thế kỉ XX cũng là lúc đất nước tổng kết thành quả 15 năm

thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Với sự cố gắn

vượt bậc của Đảng bộ huyện Lập Thạch và sự nỗ lực của nhân dân trong

huyện, tình hình KT - XH của huyện đã có sự khởi sắc đáng kể. Đây là tiền

đề, cơ sở cho Đảng bộ huyện Lập Thạch tiếp tục bước vào thời kỳ đẩy mạnh

CNH - HĐH.

b. Giai đoạn 2000 - 2005

Được sự soi sáng của các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

IX, các Nghị quyết của Trung ương Đảng, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Phúc lần thứ XIII, qúa trình thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện

lần thứ XVII, Lập Thạch đã đạt được những thành tựu to lớn về phát triển

kinh tế trong giai đoạn 2001 – 2005.

Phát triển kinh tế ngay từ đầu được xác định là nhiệm vụ trọng tâm nên

Huyện ủy đã tập trung trí tuệ, lãnh đạo các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp.

Tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế các ngành, vùng và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế. Do vậy kinh tế phát triển nhanh, tổng giá trị sản xuất năm 2005 so với

36

năm 2000 tăng 169,64%, nhịp độ tăng bình quân 5 năm làm 13,92% vượt

13,92%. Thu nhập bình quân đầu người ước đạt 4,71 triệu đồng, tăng 2,34

triệu đồng so với năm 2000. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ

trọng nông nghiệp, tăng thủ công nghiệp, xây dựng, dịch vụ. Tính đến năm

2005 cơ cấu kinh tế huyện: Nông – lâm nghiệp 58,71%, thủ công nghiệp –

xây dựng 22,88%, dịch vụ 18,41%. So với năm 2000, tỷ trọng ngành nông

nghiệp giảm 6,7%, thủ công nghiệp, xây dựng tăng 7,16% [3, tr.24]

Về phát triển nông – lâm nghiệp: do là một huyện nông nghiệp, nên

phát triển kinh tế nông nghiệp luôn được Huyện uỷ xác định là nhiệm vụ hàng

đầu. Chính vì vậy lãnh đạo huyện luôn tạo những điều kiện tốt nhất để nông

nghiệp có điều kiện thuận lợi phát triển. Trên cơ sở đó, nông nghiệp Lập

Thạch từ 2001 – 2005 đã đạt được những thành tựu quan trọng. Năng suất lúa

bình quân hàng năm đều tăng, năm 2004 đạt 43,46 tạ/ha tăng 6,92 tạ/ha so với

năm 2000, năm 2005 ước đạt 44,67 tạ/ha. Tổng sản lượng lương thực có hạt

tăng từ 6,02 vạn tấn năm 2000 lên xấp xỉ 6,8 vạn tấn năm 2004. Bình quân

lương thực đầu người năm 2000 là 270 kg/người đến 2004 đạt 324 kg/người

[3, tr.25] (trong năm này chuyển 3 xã cho huyện Tam Đảo với diện tích canh

tác 2.169 ha). Bình quân thu nhập 1 ha canh tác tăng 4,45 triệu/ha năm 2000

lên 21,45 triệu/ha năm 2005.

37

Bảng 1.2: Thống kê năng suất và sản lƣợng lúa của Lập Thạch

giai đoạn 1995 – 2005

Trong đó Tổng

Năng suất lúa sản lƣợng Các loại cây Năm Thóc (tạ/ha) lƣơng thực hoa màu (tấn) qui thóc (tấn) qui thóc (tấn)

52.758,8 38.335,9 14.422,9 29,99 1995

52.933,6 37.614 15.319,6 30,10 1996

30,67 40.593 14.549 55.142 1997

30,37 41.219 13.793 55.012 1998

29,86 38.535 15.897 54.432 1999

37,47 1.356 8.862 60.218 2000

35,26 45.236 10.470 55.706 2001

40,95 69,001,7 56.883 12.163,7 2002

42,47 59.838 12.575 72.413 2003

43,55 55.310 12.657 67.967 2004

(Nguồn: Phòng thống kê huyện Lập Thạch)

44,67 54.856 12.241 67.097 2005

Bên cạnh cây lúa, huyện còn tập trung phát triển một số loại cây hoa

màu tuy nhiên dù sản lượng tăng nhưng so với một số huyện thì năng suất của

Lập Thạch còn thấp.

38

Bảng 1.3: So sánh năng suất một số loại cây trồng của Lập Thạch so với các huyện trong tỉnh Vĩnh Phúc năm 2005

(Đơn vị: tạ/ha)

Chỉ tiêu

Lập Thạch 44,03 Bình Xuyên 48,85 Tam Dƣơng 51,08 Tam Đảo 43,48 Yên Lạc 58,98 Vĩnh Tƣờng 58,91 Lúa cả năm

32,47 37,28 39,16 34,14 40,35 43,16 Ngô

61,38 73,39 79,85 41,92 110,11 131,29 Khoai

101,6 110,0 98,2 78,0 ------- 125,0 Sắn

88,56 114,23 182,95 90,0 149,05 229,0 Rau xanh

2,92 4,60 5,58 2,50 10,0 15,0 Đậu các loại

12,86 15,93 13,85 11,74 21,44 20,08 Lạc

11,70 16,90 15,29 12,06 15,75 16,88 Đậu tương

(Nguồn: Niên giám thống kê Vĩnh Phúc năm 2005)

550,0 300,0 500,0 600,0 600,0 540,0 Mía

Chăn nuôi là thế mạnh của huyện, được huyện quan tâm đầu tư xây

dựng kế hoạch và chỉ đạo và phát triển nhanh theo hướng sản xuất hàng hoá.

Thực hiện tốt các dự án cải tạo đàn bò, đàn lợn; chú trọng các khâu chọn

giống, thức ăn, kỹ thuật chăm sóc, xây dựng chuồng trại hợp tiêu chuẩn. Mở

nhiều lớp tập huấn kỹ thuật cho nông dân, tạo điều kiện về vốn và kỹ thuật

cho phát triển chăn nuôi. Do vậy từ 2000 – 2005, chăn nuôi Lập Thạch có sự

phát triển vượt bậc: tổng trâu bò có 11.081 con tăng 347 con; đàn bò là

40.102 con tăng 13.322 con (bò lai sind chiếm 30% tổng đàn); đàn lợn có

117.520 con tăng 31.308 con (lợn lai luôn chiếm trên 85%); đàn gia cầm có

1702.000 con tăng 521.000 con [3, tr.25].

Về thuỷ sản: Huyện ủy chỉ đạo tận dụng những địa bàn chiêm trũng

thành mô hình canh tác một lúa một cá. Khai thác tốt những diện tích mặt

nước để nuôi thuỷ sản, 2005 đạt 1.350 ha. Sản lượng thu được đạt 1450 tấn

tăng hơn 300 tấn so với năm 2000.

39

Do sự chỉ đạo tập trung phát triển cây ăn quả của Đảng bộ huyện Lập

Thạch mà diện tích cây ăn quả liên tục tăng năm 2000 là 1.605 ha đến 2005

có 3.339 ha. Bình quân mỗi năm trồng mới khoảng 262,4 ha trong đó chủ yếu

trồng các loại cây: vải, nhãn, xoài,… Trên địa bàn có khoảng 156 trang trại có

diện tích trên 1 ha, kết hợp trồng cây ăn quả và chăn nuôi. Nhiều tran trại có

thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Đây là một trong những biện pháp hiệu

quả trong chính sách trồng cây gây rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc.

Trong thời gian từ 1990 – 2003, Lập Thạch đã thu hẹp được diện tích đất

trống đồi núi trọc, nâng cao độ che phủ của rừng từ 19% tăng lên 28%. Bên

cạnh đó, các ngành: khuyến nông, thú y, bảo vệ thực vật,… luôn được các cấp

uỷ quan tâm tạo điều kiện phát triển.

Một trong những chính sách để hỗ trợ cho phát triển nông – lâm nghiệp

chính là vấn đề thuỷ lợi. Từ 2002 – 2004, huyện thực hiện đầu tư cho 23 công

trình với số vốn 153.085.126 triệu đồng; nâng cấp 2 tuyến đê sông Lô và sông

Phó Đáy, bê tông 2 mặt đê vừa chống lũ lụt và đảm bảo giao thông thuận tiện.

Từ 2000 – 2005, trên địa bàn huyện đã xây dựng được 48,2 km kênh mương

cứng, nâng cấp nhiều trạm bơm các hồ chưa nước như hồ Vĩnh Thành (Đạo

Trù), Đồng Khắm (Bắc Bình),….

Nhìn chung nền sản xuất nông – lâm nghiệp của huyện trong giai đoạn

2000 – 2005, có bước phát triển khá. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm

đạt 14,93%, tăng 1,86 lần so với nhiệm kỳ 1996 – 2000. Cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp cũng có xu hướng chuyển dịch theo hướng tỷ trọng trồng trọt

giảm, chăn nuôi tăng. Tỷ trọng giá trị trong ngành chăn nuôi năm 2000 là

35,9% tăng lên 42,1% năm 2005. Bình quân gia trị thu nhập trung bình trên 1

ha canh tác năm 2000 đạt 17 triệu đồng, tăng lên 21,45 triệu đồng trên 1 ha.

Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, kinh tế nông nghiệp Lập

Thạch vẫn còn một số hạn chế như: Một số cơ sở chưa quyết liệt trong việc

chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, chưa tận dụng hết những tiền năng vốn

có của đại phương về đất đai, nhân công; chương trình chuyển đổi trồng cây

40

ăn quả, một lúa một cá chưa cao cũng như việc chuyển đổi các HTX còn

nhiều lúng túng trong quá trình triển khai.

Thực hiện chính sách khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp

của Đảng, Nhà nước và HĐND tỉnh có nghị quyết về khôi phục và phát triển

làng nghề tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2001 - 2005. Nghị quyết Đại hội

đại biểu Đảng bộ huyện Lập Thạch nhiệm kì 2001 – 2005 đã đưa mục tiêu

phát triển thủ công nghiệp là một nội dung cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo

các địa phương thực hiện, triển khai, UBND huyện giao cho các xã qui

hoạch đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng các khu, cụm tiểu thủ công nghiệp,

tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư, lao động vào các cơ sở sản xuất ngành nghề

ở nông thôn. Sau 5 năm thực hiện, trên địa bàn huyện có 39 doanh nghiệp,

3.185 cở sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, chủ yếu tập trung trong các ngành

nghề như: khai thác cát, sỏi, sản xuất gạch, ngói, đồ mộc, chế biến thực

phẩm,… Tổng giá trị sản xuất thủ công nghiệp trên địa bàn năm 2001 là

28.926,5 triệu đồng, năm 2003 là 34.71,96 triệu đồng đến năm 2005 đạt

50.571 triệu đồng. Nhưng nhìn chung qui mô sản xuất thủ công nghiệp của

huyện còn nhỏ, công nghệ còn lạc hậu, mang tính thủ công vì vậy sự cạnh

tranh của các sản phẩm làm ra còn kém.

Riêng ngành xây dựng: Tổng giá trị xây dựng trên địa bàn huyện giai

đoạn 2001 – 2005 đạt 365,42 tỉ đồng, tăng 4 lần so với giai đoạn 1996 – 2000.

Bình quân hàng năm tăng 28,69% (giá trị cố định năm 1994). Tính đến năm

2005 có 100% số xã được xây dựng trường tầng, vượt chỉ tiêu Đại hội XVII

đề ra. Hoàn thành xây nhà tập thể cho giáo viên, ở 36/36 xã, thị trấn có trụ sở

làm việc nhà tầng, 28 trạm y tế xã được xây dựng, nâng cấp theo mô hình

chuẩn quốc gia. Bệnh viện trung tâm huyện được xây dựng hiện đại, các

phòng khám đa khoa tại các khu vực được nâng cấp; trên 60% số xã trong

huyện có nhà văn hoá,.. nhờ đó bộ mặt của nông thôn có sự thay đổi tích cực.

Huyện uỷ ban hành Nghị quyết số 02-NQ/HU ngày 26 – 06 – 2001 về

phát triển giao thông nông thôn giai đoạn 2001 - 2005, huy động cán bộ, đảng

41

viên và nhân dân trong 5 năm đã đóng góp được 29,67 tỷ đồng để làm đường

giao thông nông thôn. Các phương tiện vận tải thuỷ, bộ phát triển mạnh đáp

ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá của nhân dân.

Hệ thống lưới điện cũng được quan tâm, 100% các xã đã có trạm biến

áp, người dân đều được sử dụng điện lưới quốc gia.. Tuy nhiên do nhiều

nguyên nhân nên chất lượng điện ở nhiều nơi chưa tốt.

Ngành dịch vụ của huyện trong những năm 2001 - 2005 phát triển

tương đổi phong phú, đa dạng đến từng thôn, xóm, khu dân cư. Chợ trung tâm

huyện và nhiều chợ của các xã được xây dựng, cải tạo, nâng cấp tạo điều kiện

thuận lợi cho việc trao đổi buôn bán của nhân dân. Riêng dịch vụ bưu chính

viễn thông tiếp tục phát triển 100% xã có bưu điện văn hoá xã. Đa số các thôn

dân cư có điện thoại, trung bình 2,5 máy trên 100 dân, tăng 6,8% so với năm

2000, cơ bản đáp ứng nhu cầu liên lạc của nhân dân.

Nhờ những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế đã tạo điều kiện

cho văn hoá, xã hội của huyện Lập Thạch đạt nhiều thành tựu. Đáng kể nhất

là về công tác giáo dục, phát triển cả qui mô và chất lượng, cơ sở vật chất,

trang thiết bị dạy học, học được cải thiện và đầu tư theo hướng chuẩn hoá.

Hiện có 38 trường mẫu giáo thu nhận 98,7% trẻ em 5 tuổi đến trường, tiểu

học có 42 trường với 15.579 học sinh, trung học cơ sở có 38 trường với

20.133 học sinh, trung học phổ thông có 7 trường với 10.295 học sinh, có một

trung tâm giáo dục thường xuyên và một trung tâm dạy nghề. Hệ thống

trường mầm non đến trung học phổ thông được đa dạng hoá và cơ bản đáp

ứng nhu cầu của học sinh. Những kết quả đạt được đã làm gia tăng sức mạnh

của Đảng bộ huyện và niềm tin của quần chúng nhân dân.

Như vậy, năm 1997 tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập đánh dấu bước chuyển

quan trọng trong phát triển kinh tế của toàn tỉnh nói chung và các huyện nói

riêng trong đó có Lập Thạch. Từ năm 1997 – 2005, kinh tế của huyện đạt

nhiều thành tựu quan trọng, cụ thể:

42

1. Về kinh tế: Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến theo hướng tăng các

ngành dịch vụ, thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản và giảm ngành nông nghiệp.

Đây là biểu hiện cụ thể hiệu quả của chính sách CNH - HĐH đất nước.

Bảng 1.4: Cơ cấu kinh tế huyện Lập Thạch giai đoạn 1995 - 2005

(Đơn vị: %)

Tổng số Nông – lâm nghiệp Dịch vụ Thủ công nghiệp – xây dựng cơ bản Chỉ tiêu

72 15,5 12,5 1995 100

69,6 17 13,4 1996 100

67,38 16,9 15,72 2000 100

(Nguồn: Tổng hợp báo cáo hàng năm của UBND huyện Lập Thạch giai đoạn

1995 - 2005)

58,71 22,88 18,41 2005 100

Sản xuất nông nghiệp đạt được những kết quả to lớn, đặc biệt trong

lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Năng suất lúa từ năm 1997 – 2005 tăng từ

30,67 tạ/ha tăng lên 44,67 tạ/ha. Tổng sản lượng qui thóc tăng từ 55.142

tấn lên gần 68.000 tấn. Bình quân lương thực đầu người đến năm 2004 đã

đạt 324 kg. Cùng với đó chăn nuôi ngày càng chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu

ngành nông nghiệp.

Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí trong thời kì này, việc

quản lí và sử dụng đất đai ngày càng hợp lí và có nhiều tiến bộ.

43

Bảng 1.5: Biến động đất đai huyện Lập Thạch thời kì 1990 – 2000

Năm 1990

Năm 1995

Năm 2000

Loại đất

Cơ cấu (%)

Cơ cấu (%)

Cơ cấu (%)

Diện tích (ha) 40834

100

Diện tích (ha) 41429,23

100

Diện tích (ha) 41,205,80

100

Biến động 1990 - 2000 Diện tích (ha) +371,80

Cơ cấu (%) 0,91

13169 6507 2286 5128 5128 13744

32,25 15,94 5,6 12,56 100 33,66

15763,64 8653,36 2813,56 823,96 4,89 819,07 13374,71

38,05 20,89 6,79 1,99 0,59 99,41 32,28

15778,48 10675,8 2840,09 823,86 18,69 805,17 11087,57

38,29 25,91 6,89 2,0 2,27 97,73 26,91

+2609,48 4168,80 554,09 -4304,14 +18,69 -4322,83 -2656,43

19,82 64,07 24,24 83,93 84,30 19,33

Tổng diện tích tự nhiên 1- Đất nông nghiệp 2- Đất lâm nghiệp 3- Đất chuyên dùng 4- Đất ở - Đất đô thị -Đất nông thôn 5- Đất chưa sử dụng

(Nguồn: Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Lập Thạch (2005), Địa chí Lập Thạch)

Bên cạnh đó các ngành kinh tế khác như CN – TCN và dịch vụ cũng có

những bước phát triển mạnh. Chính vì những thành tựu quan trọng đạt được

trong lĩnh vực kinh tế đã tạo điều kiện cho các mặt khác của huyện cũng đạt

được hiệu quả cao.

2. Bên cạnh những thành tựu kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện có đã

có những bước tiến quan trọng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

được nâng lên rõ rệt, điều kiện ăn ở đi lại cuả nhân dân được cải thiện, đặc

biệt ở nông thôn đời sống ngày càng đổi mới.

3. An ninh chính trị, ổn định quốc phòng được giữ vững, trật tự an toàn

xã hội được ổn định, quốc phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được

đảm bảo, kỷ cương pháp luật của nhà nước được tăng cường.

4. Hệ thống chính trị hoạt động đồng bộ, có kết quả. Vai trò lãnh đạo

của Đảng được tăng cường, hoạt động của HĐND có nhiều đổi mới, vai trò

hoạt động của các tổ chức đoàn tể nhân dân có tiến bộ, góp phần tích cực thực

hiện các nhiệm vụ kinh tế và huyện đã đề ra.

44

Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN LẬP THẠCH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHỮNG NĂM 2005 - 2009

2.1. Chủ trƣơng và biện pháp phát triển kinh tế của Đảng bộ huyện

Lập Thạch giai đoạn 2005 - 2009

2.1.1. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc

Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã đạt

được nhiều thành tựu quan trọng, bước vào thời kì ổn đinh, tiếp tục đẩy mạnh

CNH - HĐH, thực hiện mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực cũng

như trên thế giới.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4/2006) đã

đề ra phương hướng phát triển kinh tế, vẫn tập trung vào CNH - HĐH đất

nước. Tiếp tục: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông

dân; chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng

tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị

trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ

khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất,

chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa

phương” [45, tr.59].

Đại hội cũng tiếp tục khẳng định, nông nghiệp, nông dân và nông thôn

vẫn có tầm chiến lược quan trọng vì vậy Đảng vẫn tập trung chỉ đạo phát

triển. Tuy nhiên bên cạnh đó Đại hội cũng xác định rõ vị trí vai trò quan trọng

của các ngành kinh tế khác như công nghiệp và dịch vụ phù thuộc vào đặc

điểm của từng vùng và địa phương.

Đối với tỉnhVĩnh Phúc được xác định là một trong những vùng kinh tế

trọng điểm của khu vực Bắc Bộ, thực hiện đường lối đổi mới có tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao và phấn đấu trở thành một tỉnh có cơ cấu công nghiệp

chiếm tỉ lệ chủ yếu.

45

Quán triệt đường lối chỉ đạo của Đại hội X của Đảng và tiếp tục đường

lối phát triển kinh tế từ Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ Tỉnh, tại Đại hội Đảng

bộ Tỉnh lần thứ XIV đã tiếp tục nhấn mạnh: Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế

cao theo hướng ổn định, bền vững, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng và

sức cạnh tranh của nền kinh tế …. phấn đấu có đủ các yếu tố cơ bản trở thành

một tỉnh công nghiệp vào năm 2015; trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào

những năm 20 của thế kỉ XXI [57, tr 33]. Đại hội cũng nhấn mạnh đẩy nhanh

tốc độ tăng trưởng kinh tế đi đôi với nâng cao chất lượng tăng trưởng trên cơ

sở đặc biệt quan tâm đến phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; lấy

phát triển công nghiệp là nền tảng; đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất

lượng các lĩnh vực dịch vụ, trong đó phát triển du lịch là mũi nhọn [57, tr.34].

Tại Đại hội cũng xác định về sản xuất nông nghiệp và phát triển nông

thôn: Tập trung đẩy mạnh CNH -HĐH, nông thôn coi phát triển nông nghiệp

và kinh tế nông thôn là nhiệm vụ quan trọng nhằm mục tiêu không ngừng

nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nông dân, bảo đảm an ninh nông

thôn, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi thúc đẩy công nghiệp và dịch vụ

phát triển . Đồng thời phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện, hiệu quả,

bền vững [57, tr.34-35]. Đại hội cũng xác định đưa kinh tế dịch vụ thành

ngành kinh tế mũi nhọn. Tập trung phát triển các ngành kinh tế theo thế mạnh

từng khu vực, vùng trong tỉnh.

Để hỗ trợ công cuộc phát triển kinh tế toàn tỉnh, ngày 27 – 12 – 2006,

Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh (khoá XIV) ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU

“Về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn

2006 – 2010, định hướng đến năm 2020”, có tác động to lớn và là cơ sở vững

chắc để Đảng bộ huyện Lập Thạch vươn lên thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị

được Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XVIII đề ra.

Trên cơ sở đánh giá tình hình chung của toàn tỉnh về vấn đề phát triển

kinh tế nông nghiệp, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã chỉ đạo phát triển kinh tế

nông nghiệp trên quan điểm: Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời

46

sống nông dân là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triến

KT-XH của tỉnh. Để phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống

nông dân, phát triển đồng bộ các lĩnh vực KT-XH, trong đó phải phát triển

mạnh công nghiệp, lấy phát triển công nghiệp là nền tảng; đẩy mạnh phát

triển và nâng cao chất lượng các lĩnh vực dịch vụ, trong đó lấy phát triển du

lịch làm mũi nhọn nhằm hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn trong chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đồng thời tăng thu ngân sách để tái đầu tư

cho nông nghiệp, nông thôn [17, tr.28].

Phát triển nông nghiệp, nông thôn trước hết phải phát triển lực lượng

sản xuất, trong đó chú trọng phát huy nguồn lực con người tạo môi trường

thuận lợi để giải phóng sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế và tạo điều

kiện cho nông dân chủ động đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn.

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển giữa tăng

trưởng kinh tế với ổn định xã hội, bảo vệ môi trường, phòng chống, giảm nhẹ

thiên tai, xây dựng nông thôn mới nhằm giải quyết việc làm, giảm nghèo, nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu

số, vùng núi, vùng khó khăn, các xã nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách về

mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa nông dân và các thành phần xã hội

khác; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống….

Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân với

phương châm: giảm đóng góp, tăng đầu tư, phát triển nông thôn toàn diện.

Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, hiệu quả, bền vững. Phát huy

lợi thế từng vùng, hình thành các vùng sản xuất tập trung, vùng nông nghiệp

đô thị có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả cao trên cơ sở đẩy

mạnh ứng dụng các thành khoa học – công nghệ tiên tiến và gắn với thị

trường. Phát triển mạnh chăn nuôi, thuỷ sản gắn với an toàn dịch bệnh. Khai

thác hiệu quả đất đai, trong đó chú trọng vùng đồi, vùng trũng. Quan tâm

củng cố, nâng cấp hệ thống đê điều thuỷ lợi.

47

Trên cơ sở đó Nghị quyết cũng đã chỉ ra các mục tiêu cụ thể về phát

triển nông nghiệp nông thôn toàn tỉnh. Cũng để hỗ trợ cho Nghị quyết này

HĐND tỉnh Vĩnh phúc còn ban hành thêm một số nghị quyết để hỗ trợ như:

Nghị quyết về cơ chế khuyến khích phát triển giống cây trồng, vật nuôi giai

đoạn 2007 – 2010; Nghị quyết về cơ chế hỗ trợ vùng trồng trọt sản xuất hàng

hoá và xây dựng các khu sản xuất tập trung trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2007 –

2010; Nghị quyết về chương trình kiên cố hoá kênh mương giai đoạn 2007 –

2010; Nghị quyết về việc hỗ trợ 100% thuỷ lợi phí cho sản xuất trồng trọt trên

địa bàn tỉnh giai đoạn 2007 – 2011; Nghị quyết về cơ chế hỗ trợ phát triển

giao thông nông thôn giai đoạn 2007 – 2010; Nghị quyết về chương trình

giảm nghèo, giải quyết việc làm giai đoạn 2007 – 2010.

2.1.2. Chủ trương và biện pháp của Đảng bộ huyện Lập Thạch

Đối với huyện Lập Thạch, sau 20 năm đổi mới đã tạo được nhiều điều

kiện, tiền đề thuận lợi cho thời kì mới. Nhiều dự án phát triển sinh thái, định

hướng phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thu hút vốn đầu tư xây

dựng thị trấn thị tứ trên địa bàn huyện được xây dựng. Bên cạnh đó Đảng bộ

huyện Lập Thạch cũng có một số thuận lợi như: Đảng bộ có truyền thống

cách mạng; đội ngũ cán bộ đảng viên đoàn kết, gắn bó mật thiết với quần

chúng nhân dân, tạo được niềm tin trong nhân dân; chính trị của huyện luôn

luôn ổn định … Trong suốt một thời gian dài thực hiện chính sách đổi mới và

phát triển kinh tế của Đảng, huyện Lập Thạch đã có nhiều bước tiến quan

trọng: kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng liên tục được xây mới, đời sống nhân

dân được nâng cao, sự đồng thuận và nhất trí cao trong quần chúng nhân dân.

Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi thì huyện Lập Thạch cũng phải đối

mặt với một số khó khăn như: kinh tế của Lập Thạch chủ yếu là kinh tế nông

nghiệp, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng còn hạn chế,

các ngành kinh tế như công nghiệp, tiểu thủ công ngiệp chưa phát triển mạnh.

Đồng thời với đó nguồn lao động của huyện tuy đông nhưng trình độ chuyên

môn thấp, nguồn thu ngân sách hàng năm của huyện còn hạn chế, bình quân

48

thu nhập đầu người của huyện thấp,… Lập Thạch vẫn là huyện nghèo nhất

của tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là những khó khăn và thách thức to lớn với Đảng bộ

huyện Lập Thạch nhiệm kì 2005 – 2010.

Trong hai ngày 9 đến 10 – 11 – 2005 Đảng bộ huyện Lập Thạch tiến

hành Đại hội đại biểu lần thứ XVIII nhiệm kì 2005 – 2010. Tại Đại hội đã

kiểm điểm kết quả lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ

huyện Lập Thạch trong nhiệm kì 2000 – 2005 đồng thời rút ra những kinh

nghiệm phục vụ cho công cuộc lãnh đạo phát triển địa phương trong giai đoạn

tiếp theo. Cũng trong Đại hội đã chỉ ra phương hướng, mục tiêu và một số

biện pháp thực hiện phát triển kinh tế của huyện trong giai đoạn 2005 – 2010.

Dựa trên thực tế của địa phương Đại hội Đảng bộ huyện đã xác định

mục tiêu cho giai đoạn 2005 - 2010.

Mục tiêu tổng quát: Xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,

xây dựng Đảng là then chốt, đoàn kết là động lực, văn hoá là nền tảng tinh

thần của xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh công tác qui hoạch, thu hút vốn đầu tư,

phát triển kết cấu hạ tầng, tịch cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

nông thôn theo hướng toàn diện, hiệu quả, bền vững. Lấy chăn nuôi làm mũi

nhọn, khâu đột phá, gắn chăn nuôi với phát triển kinh tế, vườn đồi, kinh tế

trang trại đồng thời đẩy nhanh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,

dịch vụ, du lịch, văn hoá, giáo dục, y tế. Thực hiện tốt các chính sách xã hội,

giải quyết việc làm, đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo. Không ngừng cải

thiện nâng cao đời sống nhân dân ... Phấn đấu hoàn thành các mục tiêu Đại

hội XVIII đề ra, tạo tiền đề đưa Lập Thạch cơ bản trở thành một huyện công

nghiệp vào những năm hai mươi của thế kỉ XXI. [3, tr.52]

Trên cơ sở mục tiêu tổng quát Đại hội cũng thông qua những mục tiêu

cụ thể: Nhịp độ tăng trưởng tổng giá trị sản xuất bình quân hàng năm: 15%.

Trong đó: nông - lâm - thuỷ sản: 8%, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây

dựng: 25%; dịch vụ, du lịch: 22,5%. Cơ cấu kinh tế có tỷ trọng: nông nghiệp,

lâm nghiệp, thuỷ sản: 50%c, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng:

49

26%, dịch vụ, du lịch: 24%. Thu nhập bình quân đầu người 1 năm: 8 triệu

đồng trở lên (trên 500USD). Tổng sản lượng cây có hạt: trên 70.000 tấn. Xây

dựng trường chuẩn quốc gia: mầm non đạt: 50% trở lên, tiểu học đạt: 100%,

trung học cơ sở đạt: 40%, trung học phổ thông đạt: 30%. Về giao thông: Nhựa

hoá hoặc bê tông hóa: 100% đường tỉnh lộ, huyện lộ, 30% đường liên thôn,

liên xóm. Giảm tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới 0,83%. Tỷ lệ trẻ em dưới

5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 15%. Tổng thu ngân sách Nhà nước hang năm đạt

trên 50 tỷ đồng. Trong đó thu trên địa bàn: 20 tỷ đồng 1 năm. Mỗi năm giải

quyết việc làm cho khoảng 2500 – 3000 người. Tỷ lệ người lao động qua đào

tạo, truyền nghề: 50%. Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 15% theo chuẩn mới,

mỗi năm giảm khoảng 2%. Phấn đấu 65% thôn, làng; 85% hộ gia đình đạt

chuẩn văn hoá. Tuyển quân hang năm đạt 100%. Hàng năm trên 80% chi,

Đảng bộ cơ sở đạt trong sạch vững mạnh. Mỗi năm kết nạp mới từ 350 – 400

đảng viên, 80% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ.

Cũng trong Đại hội đã xác định một số chương trình có tính đột phá của

huyện giai đoạn 2005 – 2010 cần tập trung thực hiện là:

- Chương trình đẩy mạnh công tác qui hoạch và phát triển đô thị huyện

và các xã thị trấn.

- Chương trình thuỷ sản và phát triển chăn nuôi bò thịt.

- Chương trình giải việc làm và giảm hộ nghèo.

- Chương trình phát triển công nghiệp.

- Chương trình phát triển du lịch [3, tr.71].

Trong đó Đại hội cũng chỉ rõ phải thực hiện được nhiệm vụ phát triển

kinh tế nông - lâm nghiệp, xác định đây là nhiệm vụ hàng đầu và giữ vị trí

quan trọng đối với kinh tế và đời sống của nhân dân trong huyện. Phát triển

nông nghiệp theo hướng toàn diện, hiệu quả trên cơ sở quy hoạch. Đẩy mạnh

CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và

sản xuất. Chú trọng sử dụng các loại giống có năng suất và chất lượng cao để

nâng cao hiệu quả kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực. Chuyển đổi một phần

50

diện tích lúa sang trồng các loại cây có hiệu quả kinh tế cao, trồng các loại cỏ

để phát triển chăn nuôi bò. Khai thác tốt tiềm năng kinh tế vườn đồi, kinh tế

trang trại một thế mạnh của kinh tế địa phương. Đồng thời phát triển chăn

nuôi toàn diện, nâng cao chất lượng đàn gia súc, gia cầm đặc biệt chú trọng

phát triển đàn bò đến 2010 đạt trên 70.000 con. Cơ cấu ngành nông nghiệp

thay đổi theo hướng giảm tỉ lệ trồng trọt và tăng ngành chăn nuôi, cụ thể trồng

trọt chiếm 40 – 45%, ngành chăn nuôi chiến 55 – 60%. Tổng sản lượng lương

thực đạt trên 70 nghìn tấn, năng suất lúa trung bình đạt 50 tạ/ ha, thu nhập

bình quân trên 1 ha khoảng 30 triệu động/ năm. Xây dựng các mô hình cánh

đồng cho thu nhập 50 triệu đồng/1 ha/năm.

Về chăn nuôi: phát triển mạnh đàn bò thịt, phấn đấu mỗi gia đình nuôi

khoảng 1,5 – 2 con bò trở lên trong đó tỉ lệ bò lai sind chiếm khoảng trên 40%

tổng đàn. Đàn lợn chiến 95% tổng đàn là lợn lai. Phát triển đàn gia cầm. Làm

tốt các công tác phòng dịch, chú trọng chăn nuôi theo hướng công nghiệp.

Đầu tư cải tạo vùng chiêm trũng thành vùng sản xuất 1 lúa, 1 cá. Tận dụng

các diện tích mặt nước để chăn nuôi thuỷ sản.

Bên cạnh đó Đại hội cũng chỉ rõ các mục tiêu trong phát triển công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, du lịch, dịch vụ; đưa ra các biện pháp

cụ thể:

- Qui hoạch và xây dựng khu công nghiệp phát huy lợi thế đoạn đường

cao tốc chạy qua địa bàn huyện.

- Xây dựng cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thị trấn Lập Thạch,

hướng đầu tư: Chế biến lâm sản, mộc dân dụng, mây tre đan, chế biến khoáng

sản, sản xuất vật liệu xây dựng, sửa chữa ô tô, xe máy, các loại xe cơ giới,…

- Xây dựng cụm tiểu thủ công nghiệp làng nghề Hải Lựu – Bạch Lưu:

sản xuất đá xây dựng và mỹ nghệ.

- Xây dựng cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Thái Hoà – Bắc

Bình: sản xuất ươm tơ, chế biến nông sản thực phẩm, vật liệu xây dựng.

51

- Xây dựng cụm tiểu thủ công nghiệp làng nghề Triệu Đề, Cao Phong

phát triển làng nghề mây tre đan theo hướng nâng dần các sản phẩm xuất khẩu.

Chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm gạch, ngói, khai thác vật liệu

xây dựng. Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, khuyến khích,

tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất.

Phấn đấu đến năm 2010 ở mỗi xã trong qui hoạch cụm kinh tế có từ 5 – 10

doanh nghiệp, thị trấn có trên 30 doanh nghiệp về kinh doanh, dịch vụ, vật

liệu xây dựng, sửa chữa ô tô, xe máy,… Tạo điều kiện về đất đai cho mỗi doanh nghiệp từ 500 – 1000m2.

Về giao thông: nhựa hoá, bê tông hoá 100% các tuyến tỉnh lộ, huyện lộ

và các đường nội thị trấn, tranh thủ các nguồn vốn của Trung ương, tỉnh nâng

cấp các tuyến đường tỉnh lộ 305, 305C, 306, 307, 307C và xây dựng các bến

cảng như Phú Hậu, Cao Phong, Như Thuỵ, Hải Lựu, Đức Bác. Đề nghị

UBND tỉnh cho xây dựng cầu Phú Hậu (xã Sơn Đông). Hoàn thiện hệ thống

đường theo qui hoạch 6 cụm kinh tế: Triệu Đề, Tam Sơn – Nhạo Sơn, thị trấn

Liễn Sơn, Nhân Đạo – Lãng Công, Bắc Bình – Hợp Lý. Qui hoạch tổng thể

đường giao thông mở rộng thị trấn Lập Thạch theo hướng phát triển thị xã

gồm các xã Xuân Lôi, Tử Du, Xuân Hoà, Tân Lập, Vân Trục. Tiếp tục thực

hiện phát triển giao thông nông thôn theo nghị quyết số 02-NQ/HU của

Huyện uỷ khoá XVII.

Về xây dựng cơ sở hạ tầng:

- Thuỷ lợi: Đầu tư hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi, phát triển các công

trình đầu mối như các trạm bơm ven sông, hồ đập nội vùng, các công trình

kiên cố hoá kênh mương.

- Công trình điện: hoàn thành chương trình REII (dự án năng lượng

nông thôn II), đảm bảo 100% xã có hệ thống điện đạt tiêu chuẩn, phấn đấu

100% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia.

- Cơ sở vật chất cho giáo dục: 100% các trường có đủ phòng học 1 ca,

trong đó 85% là phòng học tầng, số phòng còn lại đủ tiêu chuẩn cho các cấp

học. Xây dựng xong trung tâm dạy nghề ở huyện.

52

- Công trình y tế: Phấn đấu 100% trạm y tế xã có nhà kiên cố. Xây

dựng hệ thống nước sạch, hệ thống nước thải và xử lí rác thải bện viện trung

tâm huyện; 80% số hộ có nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn.

- Mỗi xã ven sông xây dựng kế hoạch khả thi từ 1 – 3 khu sản xuất gạch

lò cao theo công nghệ mới, xoá lò gạch thủ công gây ô nhiễm mỗi trường.

- Công trình văn hoá: xây dựng thư viện trung tâm huyện, bể bơi, sân

tenis và xây dựng sân vận động ở các xã, thị trấn. Phấn đấu 100% các xã và

thôn có nhà xăn hoá.

Ngoài ra, phát huy thế mạnh của huyện nằm trong khu qui hoạch tổng

thể phát triển thương mại du lịch của tỉnh Vĩnh Phúc, bảo vệ tốt các tiềm năng

du lịch sinh thái như: Thác Bay- núi Sáng Sơn, quần thể hồ Vân Trục, rừng cò

Hải Lựu, đền thờ Trần Nguyên Hãn và những di tích lịch sử tháp Bình Sơn,…

Tăng cường cải thiện cơ sở hạ tầng, thu hút các nhà đầu tư và khách tham

quan di lịch. Xây dựng chợ Trung tâm thị trấn Lập Thạch và các chợ trung

tâm các xã, tạo điều kiện cho thương mại du lịch có điều kiện phát triển.

2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện và thành tựu đạt đƣợc

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền địa phương nhân dân huyện

bước vào thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đại hội

Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIV, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện

Lập Thạch lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2005 – 2010.

Trong lúc nhân dân toàn huyện đang nỗ lực thực hiện các Nghị quyết

của Đại hội Đảng bộ huyện Lập Thạch lần thứ XVIII thì một sự kiện chính trị

quan trọng đã diễn ra. Thực hiện theo nghị quyết số 39/2008/NĐ-CP ngày 04

– 04 – 2008 của Chính Phủ thị trấn Hoa Sơn được thành lập trên cơ sở tách

một phần diện tích và dân số xã Liễn Sơn và thôn Tân Thái xã Thái Hoà. Đến

lúc này huyện Lập Thạch còn 34 xã và 3 thị trấn. Cũng trong thời gian này

một sự kiện chính trị quan trọng lại diễn ra tác động to lớn tới tình hình phát

triển kinh tế xã hội của huyện. Ngày 23 – 12 – 2008, Chính phủ ban hành

Nghị định số 09-NĐ/CP về điều chỉnh địa giới hành chính huyện Lập Thạch

53

để thành lập huyện sông Lô. Thực hiện Nghị định của Chính phủ, ngày 01 –

04 – 2009 huyện Sông Lô chính thức được thành lập. Sau khi bị chia tách lúc

này huyện Lập Thạch chỉ còn diện tích tự nhiên là 17.301,22 ha với 118.354

nhân khẩu và 20 đơn vị hành chính xã và thị trấn (18 xã và 2 thị trấn). Với qui

mô và phạm vi của huyện mới hẹp hơn nhiều tạo điều kiện thuận lợi để huyện

tập trung vào đầu tư, tạo điều kiện để huyện phát triển một cách toàn diện

nhanh, mạnh hơn so với những giai đoạn trước.

Tiếp tục xác định thế mạnh của huyện là phát triển kinh tế nông nghiệp,

được sự hỗ trợ của Nghị quyết 03 của Tỉnh ủy, Đảng bộ huyện Lập Thạch tập

trung vào phát triển kinh tế nông nghiệp.

Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII coi

“sản xuất nông - lâm nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu và giữ vị trí rất quan trọng

đối với kinh tế và đời sống của nhân dân trong huyện”, cấp uỷ, chính quyền

các cấp luôn chỉ đạo sát sao, phù hợp với từng thời điểm cụ thể, kịp thời triển

khai Nghị quyết 03-NQ/TU của Đảng bộ tỉnh “về phát triển nông nghiệp,

nông thôn và nâng cao đời sống nông dân”. Với quan điểm chỉ đạo của

Huyện uỷ là đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu

giống cây trồng, vật nuôi, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Chỉ đạo

các đơn vị dịch vụ nông nghiệp bám sát tình hình, kịp thời cung ứng vật tư,

giống, phục vụ sản xuất. Vượt qua nhiều khó khăn như: thời tiết diễn biến bất

thường năm 2006 làm mất mùa trên diện rộng toàn miền Bắc, đầu năm 2008

rét đậm rét hại kéo dài, hạn hán thiếu nước cho sản xuất, cuối năm 2008 mưa

lớn kéo dài làm thiệt hại nặng về năng suất, sản lượng vụ đông…, bằng những

chỉ đạo hiệu quả như “lấy vụ mùa bù vụ chiêm” năm 2006, “lấy vụ chiêm, vụ

mùa năm 2009 bù vụ đông năm 2008”, chỉ đạo hình thành vùng sản xuất hàng

hoá tập trung quy mô 200 ha ở 10/20 xã, thị trấn cho hiệu quả kinh tế cao. Kết

quả huyện hoàn thành chỉ tiêu diện tích gieo trồng theo kế hoạch, đảm bảo an

ninh lương thực, đến năm 2009 năng suất lúa bình quân đạt 50,08 tạ/ha (vượt

mục tiêu kế hoạch đề ra đến 2010 đạt 50 tạ/ha). Đặc biệt huyện Lập Thạch

54

còn triển khai vùng sản xuất lúa tập trung đưa giống mới có năng suất, chất

lượng cao vào sản xuất như TBR 36, NA1,… Bình quân lương thực đầu

người đạt 331,7 kg/người/năm [9, tr.12]. Ngoài cây trồng chủ lực, truyền

thống, huyện chỉ đạo trồng bí xanh, bí đỏ, thanh long, rau xanh…

Về chăn nuôi: Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XVIII “lấy chăn nuôi

là mũi nhọn, khâu đột phá trong phát triển kinh tế nông nghiệp”, Đảng bộ

huyện đã ra Nghị quyết chuyên đề số 05 nhằm đẩy nhanh phát triển chăn

nuôi, gắn chăn nuôi với phát triển kinh tế trang trại, nuôi trồng thuỷ sản,

chuyển mạnh chăn nuôi sang sản xuất hàng hoá, lấy năng suất chất lượng,

hiệu quả kinh tế cao và sức cạnh tranh cao làm mục tiêu phấn đấu. Tạo sự

phân công lao động mới ở nông thôn – tập trung vào chăn nuôi.

Huyện ủy Lập Thạch đã xây dựng Kế hoạch số 04-KH/HU ngày 31 –

10 – 2007 để chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 03 của Tỉnh uỷ; chỉ đạo xây dựng

các khu chăn nuôi tập trung, hỗ trợ vốn, giống, tăng cường bồi dưỡng, tập

huấn kiến thức cho nông dân,… mang lại hiệu quả thiết thực với nhiều hộ gia

đình. Chỉ đạo cụ thể, sâu sát việc nâng cao hiệu quả kinh tế các mô hình chăn

nuôi công nghiệp, bán công nghiệp như nuôi lợn siêu nạc, vịt siêu trứng, gà

thả vườn, bò thịt. Hình thành vùng chăn nuôi lợn siêu nạc ở Quang Sơn, Ngọc

Mỹ, Hợp Lý, cho thu nhập khá. Toàn huyện có 79 trang trại kết hợp trồng trọt

và chăn nuôi. Trước tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp,

Ban thường vụ Huyện uỷ, UBND huyện chỉ đạo quyết liệt, chủ động xây

dựng và thực hiện kế hoạch tiêm phòng, vận động nông dân tăng cường các

biện pháp phòng bệnh cho vật nuôi, chăn nuôi an toàn sinh học, nên không có

dịch bệnh lớn xảy ra, xử lý dứt điểm từng trường hợp bị bệnh, không để lây

lan. Tổng đàn trâu, bò, lợn, gia cầm và tổng giá trị sản xuất từ chăn nuôi hàng

năm đều tăng, đến năm 2010 đạt 380 tỷ đồng, chiếm 51% giá trị kinh tế nông

nghiệp. Bình quân mỗi hộ có 1,28 con bò [9, tr.13]

Về nuôi trồng thuỷ sản, tổng diện tích nuôi trồng toàn huyện đến năm

2010 là 790,8 ha, trong đó diện tích một lúa, một cá là 592,2 ha, sản lượng

55

đến năm 2010 ước đạt 1.133,8 tấn, tăng 195,7 tấn so với năm 2006. Xuất hiện

một số mô hình nuôi cá giống, cho thu nhập khá [9, tr.13 - 14].

Các ngành dịch vụ nông nghiệp có nhiều cố gắng, tăng cường khuyến

cáo, mở lớp tập huấn, tổ chức các mô hình trình diễn, đưa tiến bộ khoa học kĩ

thuật vào sản xuất, dự thính, dự báo tình hình sâu bệnh kịp thời, góp phần

nâng cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp.

Công tác quản lý HTX: toàn huyện có 21 HTX dịch vụ tổng hợp, hoạt

động còn nhiều khó khăn, một số HTX hoạt động kém hiệu quả.

Quản lý chặt chẽ hệ thống các công trình thuỷ lợi, hồ đập trên địa bàn,

cải tạo, nâng cấp 85 công trình với giá trị 146,9 tỷ đồng. Hoàn thành bàn giao

các công trình thuỷ lợi về 2 công ty thuỷ lợi trên địa bàn. Công tác phòng

chống lụt bão được chú trọng, luôn chủ động ứng phó trước mọi tình huống.

Kinh tế vườn, đồi, rừng, ổn định nhưng chưa có bước đột phá để đem

lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Thực hiện tốt công tác trồng, chăm sóc, bảo vệ

và phòng chống cháy rừng. Sau chia tách, huyện Lập Thạch có 422,5 ha rừng

phòng hộ, 3.900,94 ha rừng sản xuất, được quản lý, bảo vệ tốt. Cấp phép chăn

nuôi động vật hoang dã cho 12 trại nuôi rắn và nhím trên địa bàn. Việc trồng

và kinh doanh cây cảnh phát triển nhanh, dần khẳng định chỗ đứng trên thị

trường, cho thu nhập khá [9, tr.14].

Chỉ đạo thực hiện tốt công tác quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2001 -

2010. Hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp và

98,7% đất ở, đất lâm nghiệp đang triển khai. Giải quyết đúng trình tự các

khiếu nại về đất đai, góp phần ổn định tình hình chung toàn huyện.

Vệ sinh môi trường, được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo thực

hiện, Huyện uỷ ban hành 2 thông báo kết luận chỉ đạo chuyên đề về công tác

môi trường, chỉ đạo phối hợp hỗ trợ phương tiện, kinh phí cho hộ và địa

phương thu gom, xử lý chất thải sinh hoạt và sản xuất, một số Đảng uỷ cơ sở

đã ban hành được Nghị quyết chuyên đề, thí điểm mô hình HTX dịch vụ môi

trường. Hệ thống nước sạch thi công xong giai đoạn 2, đang triển khai lắp đặt

56

đến hộ. Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân vệ sinh môi trường,

xây dựng 3 công trình vệ sinh theo tiêu chí mới.

Như vậy, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ

lần thứ XVIII và Nghị quyết 03 của Tỉnh uỷ, tình hình phát triển kinh tế nông

nghiệp huyện có chiều hướng phát triển tốt.

Về công nghiệp – thủ công nghiệp: Chỉ đạo thực hiện chủ trương quan

tâm thu hút đầu tư công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, được tỉnh phê

duyệt và quy hoạch chi tiết khu công nghiệp thuộc xã Bàn Giản, Đồng Ích,

triển khai xây dựng nhà máy giầy da tại Xuân Lôi. Cuối năm 2009, huyện Lập

Thạch được phê duyệt 3 khu công nghiệp, quy hoạch 2 cụm tiểu thủ công

nghiệp và 2 khu làng nghề, tạo điều kiện thuận lợi thực hiện nghị quyết Đại

hội XVIII. Tổng giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp năm 2010 đạt 57,2 tỷ

đồng, tăng 27,6 tỷ so với đầu nhiệm kỳ.

Trong những năm 2005 - 2010, tranh thủ các nguồn vốn và huy động nội

lực, nhựa hoá và bê tông hoá được 75/75 km đường quốc lộ và tỉnh lộ. Hoàn

thành cầu Bì La, mở rộng tỉnh lộ 306 đoạn cầu Bì La đi thị trấn Lập Thạch.

Huyện ủy ban hành nghị quyết chuyên đề phát triển giao thông nông thôn, đến

năm 2010 cứng hoá được 202,34/554,3 km (= 36,5%) đường giao thống nông.

Về huyện lộ, đang khẩn trương thi công tuyến Xuân Hoà - Bắc Bình - Hợp Lý;

Hợp Lý - Ngọc Mỹ; Tử Du - Liên Hoà - Liễn Sơn và các tuyến đường nội thị,

đường liên xã khác, kết quả cứng hoá được 51,1/87,7 km (= 58,3%).

Về xây dựng phát triển mạnh, xây dựng mới được nhiều công trình trên

các lĩnh vực như trụ sở làm việc, trường học, trạm y tế, công trình thuỷ lợi,…

Đầu tư cho xây dựng bình quân hàng năm tăng 18,4%, tổng giá trị đạt 593,7

tỷ đồng. Tuy nhiên, một số công trình trọng điểm Nghị quyết Đại hội đề ra

chưa thực hiện được như chợ trung tâm huyện, sân vận động, trung tâm văn

hoá thể thao huyện.

Về điện, hệ thống lưới điện trên địa bàn được đầu tư nâng cấp, hoàn

thiện mạng lưới điện nông thôn REII, 100% hộ dân đã có điện lưới sử dụng.

57

Về quy hoạch và phát triển đô thị, trong nhiệm kỳ thành lập mới 2 thị

trấn Tam Sơn và Hoa Sơn, huyện có 3 thị trấn và 34 xã. Sau chia tách huyện,

thị trấn Tam Sơn thuộc huyện Sông Lô, hiện nay huyện có 2 thị trấn và 18 xã.

Chỉ đạo quy hoạch các khu tái định cư, quy hoạch tổng thể, chi tiết của huyện

và các xã, thị trấn sau điều chỉnh địa giới, tạo tiền đề, định hướng phát triển

kinh tế - xã hội, đô thị cho những năm tiếp theo.

Về thu chi ngân sách: Công tác thuế, tài chính có nhiều cố gắng, hoàn

thành các chỉ tiêu kế hoạch tỉnh giao. Thu ngân sách bình quân hàng năm tăng

19,45%, đến năm 2009 tổng thu ngân sách đạt 286,561 tỷ đồng, vượt mục tiêu

Đại hội đề ra là 50 tỷ đồng/năm; tổng chi đạt 236,652 tỷ đồng, thực hiện

nghiêm túc tiết kiệm chi để đầu tư phát triển KT - XH. Kho bạc Nhà nước duy

trì thực hiện tốt nhiệm vụ, đảm bảo an toàn tiền, tài sản của nhà nước. Tập

trung đầy đủ, kịp thời mọi nguồn thu vào ngân sách Nhà nước. Thực hiện tốt

công tác kiểm soát chi theo Luật ngân sách Nhà nước.

Công tác khoa học, công nghệ: Quan tâm ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ

thuật mới vào sản xuất và bảo vệ môi trường như xây dựng hầm Bioga, thử

nghiệm giống lúa mới năng suất cao, giải pháp phòng và chữa bệnh ký sinh

trùng đường máu ở bò… Tạo điều kiện trang bị, ứng dụng công nghệ thông

tin vào nhiều lĩnh vực, góp phần nâng cao hiệu quả công tác. Tuy nhiên, hiệu

quả khai thác phần mềm ứng dụng chưa cao.

Về dịch vụ của huyện trong giai đoạn 2005 – 2009 đã đạt được một số

thành tựu quan trọng:

Hoạt động tín dụng, ngân hàng bám sát các mục tiêu phát triển kinh tế,

xã hội. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn nguồn vốn tăng

trưởng bình quân năm đạt 31,16%, dư nợ tăng 27,21%/năm, luôn hướng vốn

vào các mục tiêu phát triển KT - XH ở địa phương. Ngân hàng chính sách xã

hội thực hiện cho vay đúng đối tượng, tạo điều kiện giúp người nghèo, hộ

chính sách, học sinh, sinh viên… khắc phục khó khăn, góp phần quan trọng

trong công tác xoá đói giảm nghèo.

58

Dịch vụ thương mại, tập trung chủ yếu ở trung tâm huyện, các thị tứ,

trung tâm cụm xã. Đến năm 2010, 12/20 xã, thị trấn có chợ, hàng hoá phong

phú, đa dạng, góp phần thúc đẩy phát triển dịch vụ, thương mại của địa

phương. Các hoạt động kinh doanh trên địa bàn được quản lý chặt chẽ, phát

hiện và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm, bảo vệ quyền lợi hợp pháp

của người tiêu dùng.

Các phương tiện vận tải thuỷ, bộ phát triển mạnh; doanh thu đạt 75,4 tỷ

đồng. Các công ty, cá nhân kinh doanh về vận tải hành khách mở rộng, như

xe buýt hoạt động đều, mở thêm tuyến Bắc Bình - Vĩnh Yên, các hãng taxi,

du lịch… đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân.

Hoạt động bưu chính, viễn thông, truyền thanh có nhiều cố gắng, đáp

ứng nhu cầu thông tin của nhân dân và phục vụ nhiệm vụ chính trị của huyện.

Tuy nhiên, trang thiết bị hệ thống truyền thanh xuống cấp, chậm được đầu tư

sửa chữa, đội ngũ cán bộ truyền thanh cơ sở nghiệp vụ yếu, chưa được quan

tâm bồi dưỡng.

Nhờ những thành tựu to lớn trong lĩnh vực phát triển kinh tế đã tạo điều

kiện thuận lợi cho huyện Lập Thạch đạt được những thành tựu trong các vấn

đề văn hoá xã hội. Công tác văn hoá, thông tin, thể thao luôn bám sát nhiệm

vụ chính trị của địa phương, định hướng lãnh đạo của Đảng, tổ chức các hoạt

động tuyên truyền, văn nghệ, thể dục thể thao rộng khắp, đa dạng và lành

mạnh. Chỉ đạo xây dựng được nhiều phong trào là điểm sáng được tỉnh đánh

giá cao, chọn làm điểm như phong trào xây dựng cổng nghĩa trang liệt sỹ theo

mẫu thiết kế chung ở 37/37 xã, thị trấn (huyện Lập Thạch trước khi chia

tách); xây nhà văn hoá thôn, 213/214 thôn xây dựng được nhà văn hoá; một

số nơi đã cải tạo, nâng cấp nhà văn hoá thôn đáp ứng yêu cầu mới; 19/20 xã,

thị trấn có nhà văn hoá xã. Tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao cơ sở

và huyện lần thứ III. Đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng

đời sống văn hoá, đến năm 2010, toàn huyện có 82,6% hộ gia đình đạt tiêu

chuẩn văn hoá 61,5% thôn đạt tiêu chuẩn văn hoá, 18/20 điểm bưu điện văn

59

hoá xã phát huy tốt vai trò, phục vụ nhu cầu nghiên cứu tài liệu, trao đổi

thông tin của nhân dân. Các lễ hội được quản lý tốt, quan tâm chỉ đạo công

tác quản lý, bảo vệ, tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá. Chỉ đạo tổ chức

lễ hội cướp phết ở Bàn Giản, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hoá và từng bước

tạo điểm nhấn về văn hoá của Lập Thạch sau chia tách.

Sự nghiệp giáo dục - đào tạo được quan tâm toàn diện nhằm phát huy

truyền thống hiếu học và nguồn nhân lực của huyện nhà, phục vụ sự nghiệp

xây dựng quê hương thời kỳ chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ. Đội ngũ

cán bộ, giáo viên từng bước được chuẩn hoá, đến năm 2010, 100% giáo viên

tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông đạt chuẩn và trên chuẩn, 91,3%

giáo viên mầm non đạt chuẩn. Cơ sở vật chất trường học được quan tâm đầu

tư, tổng nguồn vốn trong 5 năm đạt 101,23 tỷ đồng.

Về quy mô, cân đối, ổn định phù hợp tình hình thực tế, trong nhiệm kỳ

thành lập mới trường THPT Văn Quán, chuyển đổi 2 trường THPT bán công

thành trường công lập, thành lập mới 2 trường mầm non, sau chia tách huyện,

bàn giao các trường học trên địa bàn huyện Sông Lô phù hợp địa giới mới.

Huyện Lập Thạch có 23 trường mầm non, 25 trường tiểu học, 21 trường trung

học cơ sở, 6 trường trung học phổ thông, 1 trung tâm giáo dục thường xuyên,

1 trung tâm dạy nghề có hệ bổ túc. Tỉ lệ huy động trẻ 5 tuổi ra lớp mẫu giáo, 6

tuổi vào lớp 1 đạt 100%; tỉ lệ học sinh bỏ học hàng năm giảm.

Về chất lượng, tập trung thực hiện cuộc vận động “2 không” với 4 nội

dung thiết thực để nâng cao chất lượng dạy và học. Xếp loại văn hoá, học sinh

khá giỏi các cấp, học sinh thi đỗ tốt nghiệp, thi đỗ vào các trường đại học, cao

đẳng hàng năm tăng. Chỉ đạo tổ chức các hội nghị chuyên đề để bàn các biện

pháp nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn; triển khai xây

dựng trường chất lượng cao ở Thái Hoà, Thị trấn Lập Thạch, Sơn Đông, nhằm

thúc đẩy phong trào thi đua học tập, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.

Về xây dựng trường chuẩn quốc gia, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần

thứ XVIII, Huyện uỷ đã ban hành Nghị quyết chuyên đề, hàng năm có đánh

60

giá tiến độ và có kết luận để chỉ đạo phù hợp cho năm tiếp theo, năm 2009

ban hành nghị quyết về xây dựng nhà ăn bán trú khối trường học mầm non,

huyện đầu tư kinh phí 100% theo mẫu thiết kế chung, chỉ đạo các địa phương

ưu tiên vốn để tập trung hoàn thiện các tiêu chí cơ sở vật chất đạt chuẩn, phấn

đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội đề ra. Đến năm 2010, 14/23 trường mầm

non, 20/25 trường tiểu học, 9/21 trường trung học cơ sở, 1/6 trung học phổ

thông đạt chuẩn quốc gia.

Công tác quản lý nhà nước về y tế được quan tâm chỉ đạo, khuyến

khích và tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ y, bác sỹ được đào tạo, bồi dưỡng về

chuyên môn. Toàn huyện đạt 2,2 bác sỹ/ 1 vạn dân. Tinh thần trách nhiệm và

trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, nhân viên được nâng cao, có nhiều

cố gắng trong khám và điều trị, không có tai biến xảy ra. Cơ sở vật chất được

quan tâm đầu tư, thường xuyên bổ sung trang thiết bị. Công tác y tế dự phòng,

quan tâm truyền thông để nhân dân chủ động phòng chống các loại dịch bệnh,

nhanh chóng khoanh vùng và khống chế, dập dịch tiêu chảy cấp, cúm A

H1N1. Thực hiện đầy đủ các chương trình y tế quốc gia, vệ sinh phòng dịch.

Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, luôn chủ động nắm bắt thông

tin về di, biến động dân số, phối hợp tổng điều tra dân số trên địa bàn. Tỷ lệ

phát triển dân số tự nhiên hiện nay là 1,01%, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên tăng

nhẹ. Thực hiện tốt công tác bảo trợ xã hội, công tác bảo vệ chăm sóc, giáo

dục trẻ em, 100% trẻ dưới 6 tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, quan

tâm xây dựng nhà tình thương tặng trẻ có hoàn cảnh khó khăn, tặng xe lăn,

đưa đi phẫu thuật trẻ em bị khuyết tật… động viên các em vượt lên hoàn

cảnh, hoà nhập cộng đồng. Tổ chức xây dựng mô hình điểm về phòng chống

suy dinh dưỡng cho trẻ em, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ

19% xuống còn 7,5%.

Công tác lao động việc làm và giảm nghèo được quan tâm thực hiện đạt

kết quả tốt. Chú ý lồng ghép các chương trình dự án về phát triển KT - XH,

các thông tin việc làm để định hướng đào tạo, tạo điều kiện việc làm cho

61

người lao động; Tỷ lệ lao động qua đào tạo trên địa bàn đạt 34%; tuyên truyền

về quy hoạch phát triển và các dự án công nghiệp thu hút lao động tại địa bàn.

Luôn nắm chính xác thông tin, số liệu về thực trạng hộ nghèo trong toàn

huyện để có định hướng chỉ đạo phù hợp. Tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm

mạnh, giai đoạn 2005 – 2010 giảm từ 25,6% xuống còn 10,27%, bình quân

mỗi năm giảm 3,06%.

Trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII,

dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhạy bén, trí tuệ, đoàn

kết, thống nhất cao của Huyện uỷ, UBND, cùng sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ

và nhân dân trong huyện, huyện Lập Thạch đã đạt nhiều thành tựu:

Nền kinh tế đạt tốc độ phát triển cao, nhịp độ tăng giá trị bình quân

hàng năm đến hết năm 2008 (trước khi tách huyện đạt 14,15%), đến năm

2010 đạt 18,9% (kế hoạch đại hội là 15%). Thu nhập bình quân đầu người đạt

14,3 triệu đồng/người (kế hoạch đại hội 8 triệu đồng/người). Hệ thống kết cấu

hạ tầng được đầu tư. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đến

năm 2010: Nông - lâm - thuỷ sản: 40,84%; công nghiệp - thủ công nghiệp –

xây dựng: 28,64%; dịch vụ: 30,52%.

Bảng 2.1: Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất huyện Lập Thạch giai đoạn 2000 - 2010

(Đơn vị: %)

Cơ cấu STT Chỉ tiêu 2000 2005 2010

1 Nông lâm ng nghiệp 60.50 52.63 40.84

2 Công nghiệp - xây dựng 12.77 24.40 28.64

(Nguồn: Tổng hợp báo cáo hàng năm của Huyện ủy Lập Thạch từ 2000 - 2010)

3 Dịch vụ - thương mại 26.73 22.97 30.52

Sự chuyển dịch của cơ cấu kinh đưa đến sự chuyển dịch trong cơ cấu

lao động của huyện theo hướng: tăng tỉ lệ lao động trong công nghiệp, thủ

công nghiệp, dịch vụ và giảm lao động nông nghiệp:

62

Bảng 2.2: Chuyển dịch cơ cấu lao động huyện Lập Thạch

giai đoạn 2000 – 2010

(Đơn vị tính: người)

Chỉ tiêu 2000 2010 Tăng(+), giảm(-)

A. Tổng lao động trong tuổi có việc làm 56435 63556

1. Lao động nông lâm, thuỷ sản 45938 48081

2. Lao động công nghiệp - xây dựng 5136 7228

3. Lao động thương mại - dịch vụ 5361 8247

B. Cơ cấu lao động theo ngành (%) 100 100

1. Lao động nông lâm, thuỷ sản 81.4 75.65 -5.75

2. Lao động công nghiệp – xây dung 9.1 11.37 2.27

(Nguồn: Phòng Nội vụ và niên giám thống kê huyện năm 2000,2010)

3. Lao động thương mại - dịch vụ 9.50 12.98 3.48

Văn hoá - xã hội có chuyển biến tích cực, nhiều phong trào nổi bật

được tỉnh đánh giá cao, chọn làm điểm. Giáo dục được quan tâm và có nhiều

tiến bộ. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên, một bộ phận

nhân dân có mức sống khá, nông thôn ngày càng tiến bộ và đổi mới. An sinh

xã hội được coi trọng.

Tình hình an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ

vững. Thực hiện tốt công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của

công dân.

Hệ thống chính trị hoạt động đồng bộ, hiệu quả. Vai trò lãnh đạo của

Đảng, quản lý của chính quyền trên các lĩnh vực được tăng cường, nhất là ở

những lĩnh vực có khó khăn, phức tạp, nhạy cảm. Đảng bộ đoàn kết, thống

nhất, hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố. Hoạt động của Mặt trận tổ

quốc và các đoàn thể nhân dân có tiến bộ, góp phần tích cực vào thực hiện

nhiệm vụ chính trị của địa phương.

63

Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM

3.1. Một số nhận xét, đánh giá

3.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân

3.1.1.1. Ưu điểm

Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế Đảng bộ huyện Lập Thạch

đã bám sát vào những mục tiêu, chủ trương của các Đại hội Đảng và của Tỉnh

Ủy Vĩnh phúc đưa ra những chủ trương biện pháp đúng đắn và phù hợp với

tình hình phát triển của địa phương. Nhờ đó, trong hơn 10 năm từ năm 1997

đến năm 2009, tình hình kinh tế huyện Lập Thạch đã có những bước phát

triển quan trọng, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) không ngừng tăng. Điều

này được thể hiện rất rõ thông qua các chỉ số kinh tế. Trong đó chủ yếu tập

trung giai đoạn 2000 – 2009. Kết quả đạt được cụ thể như sau :

a. Về tổng giá trị sản xuất:

Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt 15,4%/năm trong giai đoạn 2000

– 2010, trong đó: Nông, lâm nghiệp tăng 7,24%/năm; công nghiệp – xây dựng

tăng 18,36%/năm và thương mại dịch vụ tăng 22,81%/năm.

- Giai đoạn 2000 - 2005 đạt 14,91%/năm, trong đó: Nông, lâm ngư

nghiệp đạt 8,54%; công nghiệp – xây dựng đạt 23,49% và thương mại dịch vụ

đạt 20,63%.

- Giai đoạn 2005 - 2009 đạt 18,85%, trong đó: Nông, lâm ngư nghiệp đạt

7,5%; công nghiệp – xây dựng đạt 16,78% và thương mại dịch vụ đạt 28,75%.

b. Về tăng trưởng giá trị gia tăng (VA):

Trong giai đoạn 2000 - 2009, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng toàn

huyện đạt 15,36%/năm, trong đó: Nông, lâm ngư nghiệp đạt 7,88%/năm;

công nghiệp xây dựng đạt 21,06%/năm và thương mại dịch vụ đạt

19,60%/năm, chia theo giai đoạn:

64

- Giai đoạn 2000 - 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 14,67%/năm, trong đó:

Nông, lâm ngư nghiệp đạt 8,35%/năm; công nghiệp – xây dựng đạt

25,41%/năm và thương mại dịch vụ đạt 16,90%/năm.

- Giai đoạn 2005 - 2010, tốc độ tăng trưởng đạt 16,06%/năm, trong đó:

Nông, lâm ngư nghiệp đạt 7,41%/năm; công nghiệp - xây dựng đạt

16,86%/năm và thương mại dịch vụ đạt 22,36%/năm.

(Nguồn: Phòng thông kê huyện Lập Thạch)

Bảng 3.1: Biểu đồ tăng trƣởng giá trị gia tăng theo ngành huyện Lập Thạch giai đoạn 2000 - 2010

c. Về cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

Về chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất giai đoạn 1995 - 2009 cơ cấu

giá trị sản xuất đã có sự chuyển dịch giảm cơ cấu ngành nông, lâm ngư

nghiệp, tăng cơ cấu ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ. Cụ thể năm

1995 cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông, lâm ngư nghiệp còn chiếm 72% thì

đến năm 20091 chỉ tiêu này là 42,61%. Như vậy, trong 15 năm tỉ trọng ngành

nông, lâm nghiệp trong cơ cấu kinh tế huyện Lập Thạch giảm 29,39%.

Trong linh vực kinh tế ngành cũng có sự chuyển dịch mạnh đặc biệt là

trong nông nghiệp, tăng tỉ trọng của ngành chăn nuôi, giảm tỉ trọng ngành

trồng trọt; trong trồng trọt do sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện chú trọng phát

triển trồng các loại cây công nghiệp, ăn quả có giá trị kinh tế cao. Nhiều mô

hình trang trại đã xuất hiện trên địa bàn huyện.

65

Về chuyển dịch cơ cấu giá trị gia tăng năm 2010 so với năm 2000 như sau:

Nông, lâm ngư nghiệp chiếm 41,57% (giảm 17,64%); công nghiệp – xây dựng

chiếm 25,86% (tăng 14,90%); thương mại dịch vụ chiếm 32,57% (tăng 2,74%).

(Nguồn: Phòng thông kê huyện Lập Thạch)

Bảng 3.2: Biểu đồ cơ cấu giá trị gia tăng huyện Lập Thạch giai đoạn 2000 - 2010

d. Về chuyển dịch cơ cấu lao động:

Cơ cấu lao động trong giai đoạn 2000 - 2010 đã có sự chuyển dịch tích

cực. Năm 2000 cơ cấu lao động nông nghiệp là 81,4% thì đến năm 2010 chỉ

còn 75,65% (giảm 5,75%), lao động công nghiệp là năm 2000 là 9,1% đến

năm 2010 là 11,37% (tăng 2,27%) và lao động dịch vụ thương mại cũng tăng

từ 9,5% lên 12,98% (tăng 3,48%). Tuy nhiên sự chuyển dịch cơ cấu lao động

giữa các ngành còn chậm.

(Nguồn: Phòng thông kê huyện Lập Thạch)

Bảng 3.3: Biểu đồ cơ cấu lao động theo ngành huyện Lập Thạch giai đoạn 2000 - 2010

66

Do những thành tựu đạt được trong lãnh đạo phát triển kinh tế đã tạo

điều kiện thuận lợi cho Đảng bộ huyện Lập Thạch lãnh đạo phát triển các lĩnh

vực văn hóa – xã hội. Đời sống cuả nhân dân ngày càng được chăm lo tốt

hơn, thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng. Công tác giáo dục, y tế, xây

dựng của địa phương cũng được Đảng bộ huyện chỉ đạo tăng cường phát

triển, giúp thay đổi bộ mặt của kinh tế xã hội của địa phương, góp phần thúc

đẩy quá trình CNH – HĐH của tỉnh Vĩnh Phúc.

3.1.1.2. Nguyên nhân

Kinh tế huyện Lập Thạch giai đoạn 1997 – 2009 đạt được những thành

tựu trên là do nhiều nhân tố tổng quan, từ nguyên nhân chủ quan và nguyên

nhân khách quan trong đó nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quan trọng,

quyết định.

Trước tiên là do Đảng đã đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp với

thực tiễn đất nước. Trong quá lãnh đạo thực hiện, Huyện ủy Lập Thạch đã luôn

bám sát vào các mục tiêu được đề ra tại các kỳ đại hội của Đảng, đại hội Đảng

bộ tỉnh, đại hội Đảng bộ huyện từ đó đề ra những chủ trương biện pháp phát

triển kinh tế đúng đắn và phù hợp với thực tế của địa phương trong từng giai

đoạn cụ thể; xác định rõ thế mạnh từ đó đưa ra các mục tiêu rõ ràng, phù hợp.

Trong quá trình chỉ đạo thực hiện BCH Đảng bộ huyện thường xuyên

kiểm tra, đôn đốc, kịp thời từ đó thông qua các giải pháp để chỉ đạo tập trung

vào nhiệm vụ trọng tâm và những khâu trọng yếu. Công tác sơ kết, tổng kết

được chú trọng giúp cho Đảng bộ huyện nhanh chóng phát hiện những sai

lầm, kịp thời đề ra biện pháp xử lí và rút ra bài học kinh nghiệm cho các giai

đoạn tiếp theo. Đồng thời Đảng bộ Lập Thạch luôn đề cao tinh thần đấu tranh

tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng.

Trong quá trình thực hiện, Đảng bộ và nhân dân trong huyện luôn thể

hiện tinh thần đoàn kết, nhất trí, đồng lòng trong việc thực hiện các mục tiêu

KT - XH; khắc phục khó khăn; sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng,

chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đoàn kết, nỗ lực vươn

67

lên, khai thác các thế mạnh của huyện, phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ đề

ra; các cấp các ngành vận dụng và cụ thể hóa các nghị quyết của Trung ương,

Tỉnh ủy đề ra các cơ chế, chính sách và các giải pháp phù hợp với địa phương

để tổ chức thực hiện; đồng thời phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ

thống chính trị, huy động được nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, khai

thác có hiệu quả các nguồn vốn; làm tốt công tác kiểm tra, phát huy dân chủ

và kịp thời xử lý các vi phạm tạo điều kiện ổn định phát triển KT - XH.

Đảng bộ huyện đã thực hiện tốt quy chế dân chủ, nhân dân được trực

tiếp tiếp tham gia đóng góp ý kiến và thực hiện các hoạt động phát triển kinh

tế của địa phương. Vì vậy đã tạo ra sự đoàn kết nhất trí và đồng thuận cao

giữa Đảng và nhân dân tạo điều kiện hoàn thành tốt mục tiêu được đề ra tại

các Đại hội.

Ngoài ra những yếu tố thuận lợi như: sự quan tâm, giúp đỡ thường

xuyên của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh; vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên

phong phú, truyền thống của nhân dân và Đảng bộ huyện,… cũng tạo điều

kiện cho huyện Lập Thạch đạt những bước tiến quan trọng trong quá trình

phát triển tiếp theo.

3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân

3.1.2.1. Hạn chế

Như vậy, kinh tế cuả huyện Lập Thạch đã có sự phát triển tuy nhiên

còn một số hạn chế, cần được khắc phục.

Tuy các chỉ số phát triển kinh tế của huyện có tăng trưởng khá nhưng

chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và còn ở mức thấp so với một số

huyện trong tỉnh, chất lượng tăng trưởng chưa vững chắc. Thu nhập bình quân

đầu người còn ở mức thấp hơn so với các huyện khác trong tỉnh. Kinh tế Lập

Thạch vẫn chủ yếu là kinh tế nông nghiệp, điều này thể hiện rất rõ trong việc

tỉ trọng công nghiệp vẫn chiếm trên 40% trong cơ cấu nền kinh tế. Đã có sự

chuyển dịch kinh tế theo ngành và trong từng ngành nhưng chuyển dịch chưa

nhanh và mạnh.

68

Trong nông nghiệp, Lập Thạch có thế mạnh trong phát triển trồng các

loại cây công nghiệp, ăn quả và kinh tế trang trại nhưng các mô hình này

trong giai đoạn này chưa được chú trọng phát triển, cũng như chưa đem lại

hiệu quả cao. Sản xuất nông nghiệp còn manh mún, không áp dụng khoa học

kĩ thuật vào sản xuất; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ còn hạn chế; các

sản phẩm nông nghiệp làm ra thì giá trị, chất lượng chưa cao, chưa có thương

hiệu. Những mô hình kinh tế mới chậm được nhân rộng, chưa phát huy được

tiền năng đồng thời chưa nhận được sự hỗ trợ thỏa đáng. Một số xã của huyện

có lợi thế phát triển một lúa, một cá nhưng cũng chưa đem lại hiệu quả cao.

Các HTX hoạt động chưa mạnh chưa đem lại hiệu quả.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn nhìn chung quy mô còn

nhỏ, công nghệ lạc hậu; chưa thực sự quan tâm đến chất lượng, thương hiệu

sản phẩm. Một ngành nghề thủ công của huyện có lợi thế so sánh nhưng đầu

tư phát triển thiếu đồng bộ, chưa tương xứng với tiềm năng. Sức cạnh tranh

của sản phẩm địa phương còn kém, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh

tế khu vực và quốc tế. Môi trường đầu tư thiếu hấp dẫn, năng lực cạnh tranh

còn thấp. Các dự án đầu tư triển khai chậm, nhiều dự án đầu tư đi vào sản

xuất kinh doanh hiệu quả không cao. Một số doanh nghiệp nhà nước sản xuất

kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài nhưng thực hiện đổi mới, sắp xếp

còn chậm và gặp nhiều vướng mắc. Về cơ bản trên địa bàn huyện lúc này

kinh tế tư nhân rất kém phát triển.

Kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, điện... chưa đáp ứng yêu

cầu phục vụ phát triển kinh tế nhanh và bền vững; chưa tạo được nền tảng

kinh tế vững chắc để thúc đẩy nhanh quá trình phát triển ở giai đoạn tiếp theo.

Văn hóa xã hội tuy có nhiều khởi sắc nhưng vẫn còn nhiều khó khăn:

tình trạng thiếu việc làm, thu nhập thấp ở không ít vùng nông thôn trong

huyện đang là vấn đề bức xúc, nhiều xã vẫn còn nhiều khó khăn. Sự tác động

của CNH - HĐH vào nông nghiệp và nông thôn còn hạn chế. Đời sống văn

hóa một số nơi chậm được cải thiện; tệ nạn xã hội trộm cắp, ma túy có chiều

hướng gia tăng ở nhiều vùng nông thôn trong huyện.

69

Chất lượng nguồn nhân lực của huyện còn nhiều hạn chế. Điểm đáng

chú ý là phần lớn lao động nông thôn hiện nay là lao động chưa được đào tạo

cơ bản. Trên địa bàn huyện hiện nay chỉ có duy nhất 1 Trung tâm dạy nghề do

huyện quản lý và một số cơ sở dạy nghề tư nhân với năng lực đào tạo nghề rất

hạn chế. Tại một số làng nghề truyền thống việc truyền nghề cho các lớp trẻ

cũng gặp nhiều khó khăn.

Ở một nơi trong huyện nhiều người dân còn chủ quan, nhận thức chưa

đầy đủ về vấn đề vệ sinh và bảo vệ môi trường sống của chính gia đình và

cộng đồng. Tỷ lệ công trình hợp vệ sinh còn thấp, giếng nước là 52,7%, hố xí

44,2%, nhà tắm 73,6%. Chưa hoàn thành chương trình nước sạch với tỉ lệ dân

sử dụng nước sạch

Thực hiện chủ trương xã hội hóa y tế, giáo dục bên cạnh mặt tích cực

thì cũng làm cho đời sống của bộ phận dân cư nông thôn vốn đã khó khăn lại

càng khó khăn hơn. Việc chăm sóc sức khỏe dân cư nông thôn chưa được

quan tâm đúng mức, giá thuốc, chi phí khám, chữa bệnh cao trong khi đó thu

nhập của nông dân còn quá thấp. Khả năng tiếp cận với giáo dục, nhất là ở

bậc đại học, trung học chuyên nghiệp của thanh niên nông thôn còn rất khó

khăn. Đến năm 2010, tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn cao, số bác sĩ ở

các tuyến còn thiếu, 5/20 trạm y tế chưa có bác sĩ, mục tiêu giường bện/ bệnh

nhân thấp. Chỉ tiêu xây dựng trường chuẩn quốc gia tại các cấp học cũng chưa

đạt kết quả cao. Do vậy các chính sách quan tâm đến phát triển duy trì các di

tích văn hóa, các công trình lịch sử, hoạt động văn hóa thể thao còn hạn chế.

Về công tác lãnh đạo: Vai trò lãnh đạo của một số chi bộ dưới cơ sở

chưa được phát huy. Một số nơi còn có cấp ủy chưa quan tâm đến công tác

qui hoạch, định hướng phát triển địa phương, chậm đánh giá hạn chế và mở

rộng các mô hình điểm. Ở một số nơi còn diễn ra tình trạng mất đoàn kết, cán

bộ cấp huyện và xã còn vi phạm các nguyên tắc quản lý về kinh tế và tổ chức

Đảng. Trình độ của một số cán bộ cấp cơ sở còn chưa cập, chưa quan tâm đến

công tác bồi dưỡng chuyên môn. Công tác quản lí, kiểm tra, giám sát ở một số

lĩnh vực và các cấp còn chưa đạt hiệu quả.

70

Những hạn chế, yếu kém trên chính là nguyên nhân ngăn phát triển KT

- XH cũng như quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Lập Thạch

những năm qua.

3.1.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế:

Về phía khách quan: chịu sự tác động chung của tình hình kinh tế trong

và ngoài nước; tính tất yếu của phát triển kinh tế theo kinh tế thị trường và xu

thế của quá trình hội nhập kinh tế tác động đến cả nước trong đó có huyện

Lập Thạch. Những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường tác động

đến tư tưởng, hành động của một bộ phận cán bộ đảng viên và quần chúng

nhân dân làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển của địa phương.

Bên cạnh đó, Lập Thạch là huyện miền núi, địa hình phức tạp, có nhiều

khó khăn trong giao lưu và hội nhập kinh tế. Sau khi tách tỉnh, điểm xuất phát

của Vĩnh Phúc nói chung và Lập Thạch nói riêng còn thấp, dân số đông, lao

động nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao, cơ sở vật chất thiếu thốn, nguồn vốn thiếu,

trình độ khoa học công nghệ lạc hậu, trình độ tay nghề người lao động thấp,…

cũng ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển KT - XH của huyện Lập Thạch.

Về phía chủ quan, nhận thức của một bộ phận cán bộ đảng viên và quần

chúng nhân dân còn hạn chế và chưa có sự thống nhất cao trong các chỉ tiêu

phát triển cuả huyện. Trong các nhiệm kỳ, các cấp, các ngành chưa tập trung

cao vào lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư phát triển kinh tế công nghiệp – tiểu thủ

công nghiệp, dịch vụ - du lịch nên chưa khai thác được hết tiềm năng, lợi thế

để tăng tốc độ phát triển các lĩnh vực KT - XH.

Cơ chế chính sách còn thiếu đồng bộ, chưa tạo động lực mạnh mẽ

thúc đẩy phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong tổ chức thực

hiện, chậm đề ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho cơ sở; chính sách thu

hút đầu tư, cải cách hành chính chậm; chỉ đạo giải phóng mặt bằng thiếu

kiên quyết, môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Hiệu lực quản lý, điều hành của

chính quyền còn yếu, còn buông lỏng một số lĩnh vực như: quy hoạch, quản

lý sử dụng đất đai ...

71

Tổ chức bộ máy chính quyền ở các cấp địa phương còn nhiều hạn chế.

Sự quản lý nhà nước về KT - XH bằng pháp luật còn yếu. Một số cán bộ đảng

viên các cấp, các ngành, các cơ quan còn kém cả về phẩm chất, trình độ và

năng lực công tác, thiếu tinh thần trách nhiệm và tính tiên phong gương mẫu,

có một số vi phạm pháp luật, vi phạm kỉ luật Đảng. Công tác kiểm tra chưa

thường xuyên, chưa phát hiện kịp thời các vi phạm. Kỉ luật, kỉ cương chưa

nghiêm. Hệ thống chính trị ở cơ sở còn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ

mới đặt ra từ thực tiễn.

3.2. Một số kinh nghiệm

Từ thực tiễn nghiên cứu quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế của Đảng

bộ huyện Lập Thạch từ năm 1997 đến năm 2009, bước đầu rút ra một số kinh

nghiệm chủ yếu sau:

Một là, nhận thức rõ tầm quan trọng của kinh tế, coi phát triển kinh tế là

nhiệm vụ trung tâm trong các chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển.

Tầm quan trọng của kinh tế đã được Đảng bộ huyện xác định rất rõ

trong nội dung các Đại hội lần thứ XVI, XVII, XVIII. Quan điểm lãnh đạo

của huyện đã khẳng định phát triển kinh tế là mục tiêu đồng thời là nhiệm vụ

trọng tâm của toàn đảng toàn dân; kinh tế sẽ tập trung vào phát triển các thế

mạnh của địa phương; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng

công nghiệp, dịch vụ và giảm nông nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình triển

khai vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Đảng bộ huyện cần xây dựng các chương

trình, kế hoạch, đề án dài hạn nhằm phát triển các thế mạnh của địa phương.

Đồng thời đưa ra các biện pháp chính sách hỗ trợ tối đa cho phát triển kinh tế

địa phương.

Trong quá trình lãnh đạo, cùng với việc đề ra các chủ trương, biện pháp

phát triển cho từng ngành, Đảng bộ và chính quyền huyện cần thực hiện nhất

quán chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển kinh tế thị

trường hàng hoá, khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát

triển bình đẳng trên tất cả các ngành, các lĩnh vực. Kinh tế nhà nước vẫn giữ

72

vị trí trung tâm, nắm những ngành nghề quan trọng của địa phương. Bên cạnh

đó cần chú ý tạo điều kiện cho các ngành kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh

tế trang trại và hộ cá thể có điều kiện phát triển, …

Bức tranh kinh tế nhiều thành phần sẽ góp phần quan trọng vào chuyển

dịch chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện, tận dụng các lợi thế, khai thác

tiềm năng, đất đai và tạo việc làm, thu nhập ổn định cho người lao động.

Hai là, nắm vững chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, của tỉnh,

từ đó xác định cơ cấu kinh tế phù hợp; tập trung lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu

kinh tế đúng hướng; phát huy được tiềm năng, lợi thế kinh tế của địa phương.

Quán triệt đường lối đổi mới và các Nghị quyết của Đảng, vận dụng

sáng tạo vào thực tiễn địa phương để tạo được bước đột phá trên một số lĩnh

vực. Không tạo được bước đột phá thì Lập Thạch không theo kịp các huyện

trong tỉnh. Vì vậy trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ đã xác định rõ khó khăn,

thời cơ và thuận lợi, vận dụng và thực hiện đúng quan điểm phát triển kinh tế

là nhiệm vụ trọng tâm, tập hợp trí tuệ của toàn Đảng bộ và nhân dân để phát

triển KT - XH. Chủ động, kịp thời đề ra những chủ trương, giải pháp đúng

đắn trên từng ngành cụ thể để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế của

huyện, tập trung vào những thế mạnh của huyện.

Xác định mục tiêu phát triển vừa mang tính tiên tiến, khoa học, vừa phù

hợp với điều kiện của từng xã và xu thế phát triển chung của đất nước. Tập

trung chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương phát huy nội lực khai thác

tiềm năng lợi thế trong phát triển nông nghiệp, các làng nghề tiểu thủ công

nghiệp và lưu thông hàng hoá. Đẩy mạnh hợp tác đầu tư, tranh thủ nguồn lực

bên ngoài nhằm phát triển công nghiệp. Tranh thủ sự ủng hộ của Trung ương,

của các bộ, ngành, cấp tỉnh và sự đóng góp của nhân dân để xây dựng kết cấu

hạ tầng, đặc biệt là đường giao thông, nhất là giao thông nông thôn, tạo cơ sở

để phát triển KT – XH.

Nhận thức đầy đủ đường lối đổi mới, phát triển kinh tế của Đảng,

xác định rõ lợi thế của huyện, Đảng bộ huyện Lập Thạch đã xác định đúng

73

mũi nhọn đột phá trong phát triển kinh tế đẩy mạnh phát triển toàn diện

nông nghiệp theo hướng hiện đại hoá, tăng tỉ trọng của ngành công nghiệp

và dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện tốt cho phát triển kinh

tế nhiều thành phần, tăng nhanh sản phẩm xã hội, nâng cao đời sống nhân

dân. Chủ động triển khai xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án

phát triển KT - XH .

Đặc biệt Đảng bộ huyện phải biết tận dụng thế mạnh để phát triển các

ngành thủ công nghiệp, trồng cây ăn quả và chú trong vào chăn nuôi. Hiện

nay do có lợi thế đất đai rộng lớn, Lập Thạch được chú ý lựa chọn xây dựng

nhiều dự án quan trọng của tỉnh, Trung ương. Đảng bộ huyện cần xây dựng

các chính sách thuận tiện và chỉ đạo chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận

lợi để nắm bắt được các dự án đầu tư tạo những bước đột phá quyết định.

Với những chủ trương đúng đắn, phù hợp với thực tiễn địa phương, xu

thế phát triển chung của đất nước, hợp lòng dân nên đã được nhân dân đồng

tình ủng hộ. Nhân dân cùng với chính quyền tạo mọi điều kiện thuận lợi để

các dự án nhanh chóng được thực hiện; mạnh dạn, tích cực chuyển đổi cơ cấu

cây trồng vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy sản xuất phát triển;

duy trì và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống, tạo việc làm, tăng

thu nhập, nhanh chóng xóa đói, giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới.

Ba là, tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế; kết hợp giữa

nguồn nội lực với ngoại lực để phát triển kinh tế.

Kinh tế là mục tiêu lớn nhất, trung tâm mọi mục tiêu khác phải tuân

theo mục tiêu kinh tế để thực hiện. Tuy nhiên để đạt đhược hiệu quả thì Đảng

bộ huyện cần đưa ra nhưng cơ chế chính sách tốt nhất để thu hút được sự đầu

tư từ bên ngoài cũng như phát huy được nội lực bên trong.

Về cơ chế chính sách: Cần xây dựng một cơ chế chính sách thông

thoáng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Với những dự án đầu tư trong

nước và có vốn nước ngoài vào khu công nghiệp, cụm công nghiệp được chấp

thuận theo quy trình đăng ký đầu tư và thẩm tra đầu tư với thủ tục đơn giản

74

nhất để được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Khi tiến hành xây dựng chính

quyền địa phương cần tạo điều kiện tối đa có thể về cơ chế, giải phóng mặt

bằng,… để các dự án được tiến hành nhanh chóng thuận lợi. Bên cạnh đó,

cũng cần quan tâm chú ý phát triển các ngành kinh tế của địa phương như

phát triển kinh tế cá thể, tư nhân, các làng nghề thủ công, các trang trại,…

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã hội với phương châm Nhà

nước và nhân dân cùng làm. Tranh thủ sự đầu tư hỗ trợ của Trung ương, tỉnh,

tuy nhiên Huyện ủy cần đưa ra những chính sách khuyến khích hỗ trợ từ phía

người dân. Xây dựng các công trình dân sinh, đầu tư về các lĩnh vực điện

đường, trường trạm. Góp phần các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, góp phần

nâng cao đời sống của nhân dân địa phương.

Chính sách phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển:

- Cần có chính sách khuyến khích và thu hút người có tài, ưu tiên nhiều

cho người thực sự có tài và lao động kỹ thuật từ các vùng khác đến công tác

và làm việc lâu dài trên địa bàn huyện, đồng thời đẩy nhanh tốc độ đào tạo

nguồn nhân lực bằng cách gửi đi đào tạo, liên kết đào tạo.

- Đặc biệt đối với đội ngũ công nhân viên chức nhà nước, trên cơ sở

quy hoạch và tiêu chuẩn hoá cán bộ, cần tạo điều kiện để cán bộ đương chức

được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

- Có chính sách đào tạo lao động và đào tạo nghề sát thực hơn cho các

doanh nghiệp, các trường dạy nghề phải phối hợp với các doanh nghiệp để

đào tạo lao động, công nhân kỹ thuật thiết thực hơn.

- Có chính sách đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản trị doanh

nghiệp đủ sức tiếp cận tiến bộ mới về khoa học quản lý, về công nghệ mới,

biết dự báo và tiếp cận với thị trường để chủ động hội nhập vào tiến trình toàn

cầu hoá.

Lập Thạch còn nghèo, ngân sách nhà nước còn hạn chế chính vì vậy

việc tận dụng tối đa các nguông lực từ nhân dân và bên ngoài là vô cùng quan

trọng. Bên cạnh đó cây xây dựng một hệ thống chính sách thuận tiện nhất về

75

cơ sở hạ tầng cũng như nhân lực để đón nhận các cơ hội đầu tư chuẩn bị cho

quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đặc biệt ở khu vực nông nghiệp và

nông thôn.

Bốn là, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với đảm bảo an sinh xã

hội; đảm bảo quốc phòng - an ninh.

Thực chất các kết quả của phát triển kinh tế mục tiêu cũng là nhằm cải

thiện đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh xã hội từ đó tăng cường sức mạnh

quốc phòng đảm bảo an ninh của địa phương. Bên cạnh những chuyển biến

tích cực về mặt kinh tế còn nhiều vấn đề mới nảy sinh, trong đó có những vấn

đề xã hội đòi hỏi Đảng bộ huyện phải nhận thức đầy đủ và có những giải pháp

cụ thể để chỉ đạo thực hiện nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, xây

dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển kinh tế nhanh

phải đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Vấn đề đầu tiên là phải quan

tâm phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ

thuật và trình độ tay nghề cho người lao động nông thôn đáp ứng yêu cầu của

sự nghiệp CNH - HĐH; thực hiện được mục tiêu chuyển dịch lao động từ lĩnh

vực nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ giải quyết được tình

trạng thất nghiệp ở nông thôn hiện nay. Bên cạnh đó cũng phải đầu tư chăm

sóc các vấn đề liên quan đến phát triển giao thông nông thôn, vấn đề y tế

chăm sóc sức khỏe cộng đồng, tình trạng ô nhiễm môi trường.

Khi đảm bảo tốt đời sống nhân dân và sự ổn định các vấn đề xã hội sẽ

giải quyết được các tệ nạn đang diễn ra như trộm cắp, ma túy và như thế vấn

đề an ninh, trật tự sẽ được đảm bảo. Sức mạnh đoàn kết toàn dân được tăng

cường đảm bảo tình hình quốc phòng – an ninh của huyện.

Năm là, chăm lo công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo,

quản lý điều hành nền kinh tế và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ đáp

ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Quán triệt quan điểm “phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là

nhiệm vụ then chốt”, Đảng bộ Lập Thạch thường xuyên chăm lo công tác xây

76

dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ sức lãnh đạo

phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

Công tác chính trị, tư tưởng được coi trọng, các nghị quyết, chỉ thị của

Đảng, của Tỉnh ủy được thực hiện nghiêm túc, kịp thời gắn với chương trình

hành động của từng cấp, từng ngành. Công tác giáo dục chính trị cho cán bộ

đảng viên được triển khai tích cực đã góp phần nâng cao nhận thức chính trị,

ý thức cảnh giác cách mạng, chống những biểu hiện thoái hóa biến chất trong

Đảng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, với công

cuộc đổi mới nhằm thúc đẩy nhiệm vụ chính trị tại địa phương.

Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết

Trung ương 6 (lần 2), Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 (Khóa IX) về cuộc

vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng

phí được quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc đã thu được kết quả, tạo

được niềm tin của nhân dân đối với Đảng, mối quan hệ giữa Đảng với nhân

dân được gắn bó hơn. Vai trò và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được

nâng lên một bước.

Để thúc đẩy phát triển KT - XH nhanh và toàn diện, Đảng bộ huyện

Lập Thạch nhanh chóng cụ thể hóa nhanh các Nghị quyết của Trung ương,

Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh, triển khai quán triệt và chỉ đạo thực

hiện trên tất cả các lĩnh vực. Đảng bộ huyện Lập Thạch đã sớm thông qua các

kế hoạch tổng thể, quy hoạch phát triển KT - XH chung và quy hoạch phát

triển của từng ngành tới năm 2020. Với chủ trương nhất quán là khai thác tối

đa lợi thế của địa phương để phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp toàn

diện theo hướng sản xuất hàng hóa, có cơ chế thông thoáng ưu đãi nhằm thu

hút đầu tư trong và ngoài tỉnh, nước ngoài nhằm phát triển công nghiệp, hạ

tầng giao thông, cơ sở hạ tầng du lịch ... Đây thực sự là những định hướng có

ý nghĩa quyết định đến phát triển KT - XH của huyện đảm bảo đi đúng

hướng, phát huy các lợi thể của địa phương, mang lại hiệu quả kinh tế và phát

triển bền vững.

77

Trong quá trình đổi mới và hội nhập, bên cạnh đường lối lãnh đạo

đúng đắn, kịp thời của Đảng còn cần có đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị,

có phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo và quản lý giỏi. Công tác cán bộ có

ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của quá trình phát triển KT - XH, làm

tốt công tác cán bộ thì tổ chức Đảng, hệ thống chính quyền vững mạnh, KT -

XH ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được

nâng cao. Đặc biệt, trong lãnh đạo, quản lý kinh tế trên các lĩnh vực từ nông

nghiệp, công nghiệp đến dịch vụ, cán bộ lãnh đạo ngoài phẩm chất chính trị,

kiến thức kinh tế còn phải giỏi về quản lý, khoa học kỹ thuật, công nghệ,

phải dám nghĩ, dám làm và chịu trách nhiệm mới đáp ứng được yêu cầu của

thực tiễn từng ngành, lĩnh vực. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác

cán bộ, Tỉnh ủy đã ban hành quy chế về phân cấp và quản lý cán bộ, về bổ

nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ theo hướng tăng cường tính chủ động và đề

cao trách nhiệm ở các cấp; xây dựng quy chế về đánh giá cán bộ; cụ thể hóa

tiêu chuẩn của một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý… Công tác cán bộ

đã từng bước được thực hiện đúng quy trình, đảm bảo dân chủ, công khai.

Đội ngũ cán bộ được chú ý đào tạo, bồi dưỡng theo quy hoạch. Dù nhận

thức và đã có những chính sách về công tác cán bộ nhưng công tác cán bộ

còn nhiều hạn chế: năng lực lãnh đạo của một số tổ chức đảng và đội ngũ

cán bộ về phát triển kinh tế còn nhiều bất cập, xử lý những vấn đề mới, phức

tạp nảy sinh còn lúng túng. Công tác đánh giá cán bộ chưa thường xuyên,

chất lượng quy hoạch cán bộ chưa cao, chưa chuẩn bị được nguồn cán bộ

đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài. Một số cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ

sở thiếu kinh nghiệm thực tiễn, quản lý kém hiệu quả nên ảnh hưởng không

nhỏ đến phát triển KT - XH. Đây là vấn đề cần phải khắc phục trong thời

gian tới để huyện Lập Thạch phát triển nhanh hơn trở thành một huyện phát

triển của tỉnh Vĩnh Phúc.

78

KẾT LUẬN

Luận văn "Đảng bộ huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc) lãnh đạo phát triển

kinh tế từ năm 1997 đến năm 2009" đề cập đến cơ sở lý luận và thực tiễn của

quá trình Đảng bộ huyện Lập Thạch lãnh đạo phát triển kinh tế tại địa

phương. Đó là quá trình hình thành và phát triển đường lối, tổ chức thực hiện;

đánh giá kết quả, phân tích nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm cần

thiết của Đảng bộ huyện để tiếp tục đẩy mạnh quá trình CNH - HĐH. Qua đó

đưa ra một số kết luận sau:

Lập Thạch là một vùng đất có lịch sử truyền thống văn hóa lâu đời.

Huyện có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển một số ngành kinh tế tuy

nhiên do còn nhiều khó khăn nên huyện chưa phát huy được lợi thế của mình.

Từ năm 1997 đến năm 2009 tuy trải qua sự kiện tách tỉnh Vĩnh Phúc và

một lần thay đổi về địa giới hành chính nhưng về cơ bản kinh tế Lập Thạch

vẫn phát triển với tốc độ nhanh và đạt được một số thành tựu quan trọng góp

phần vào việc nâng cao và ổn định đời sống của nhân dân địa phương.

Kinh tế Lập Thạch có tốc độ tăng trưởng liên tục tăng; Cơ cấu kinh tế

chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng của nông nghiệp tăng dần tỉ trọng công

nghiệp, xây dựng, thủ công nghiệp và dịch vụ; Cơ cấu từng ngành cũng có sự

chuyển dịch tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa. Từ đó đời sống nhân dân

ngày càng được cải thiện và nâng cao. Chính những thành tựu này đã giúp

thay đổi bộ mặt KT - XH của huyện Lập Thạch, thúc đẩy quá trình CNH -

HĐH ở địa phương.

Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn một số khó khăn và hạn

chế như: chưa phát huy được hết lợi thế phát triển của địa phương; kết cấu cơ

sở hạ tầng còn nghèo nàn, lạc hậu; đời sống của nhân dân có nhiều khó khăn;

hệ thống chính sách của địa phương chưa đồng bộ, trình độ quản lý một số

cán bộ cơ sở còn hạn chế, … Vì vậy, Đảng bộ huyển chưa phát huy hết được

khả năng trong phát triển kinh tế của toàn huyện.

79

Từ lịch sử quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế của Đảng bộ huyện Lập

Thạch rút ra một số kinh nghiệm sau:

Một là, nhận thức rõ tầm quan trọng của kinh tế, coi phát triển kinh tế

là nhiệm vụ trung tâm trong các chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển.

Hai là, nắm vững chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước từ đó

xác định cơ cấu kinh tế phù hợp; tập trung lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh

tế đúng hướng; phát huy được tiềm năng, lợi thế kinh tế của địa phương.

Ba là, tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế; kết hợp giữa

nguồn nội lực với ngoại lực để phát triển kinh tế.

Bốn là, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với đảm bảo an sinh xã

hội; đảm bảo quốc phòng - an ninh.

Năm là, chăm lo công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo,

quản lý điều hành nền kinh tế và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ đáp

ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Với những thành tích đã đạt được, với lợi thế vốn có cùng những kinh

nghiệm lãnh đạo trong phát triển kinh tế của Đảng bộ huyện từ năm 1997 đến

năm 2009, đã tạo điều kiện, tiền đề thuận lợi để Đảng bộ và nhân dân huyện

Lập Thạch tiếp tục đẩy mạnh công cuộc phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, công cuộc CNH - HĐH tại địa phương, góp phần tích cực vào sự

nghiệp CNH - HĐH của tỉnh Vĩnh Phúc và đất nước.

80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. BCH Đảng bộ huyện Lập Thạch (1996), Văn kiện đại hội đại biểu huyện

Lập Thạch lần thứ XVI nhiệm kỳ 1996 – 2000, Lập Thạch.

2. BCH Đảng bộ huyện Lập Thạch (2001), Văn kiện đại hội đại biểu huyện

Lập Thạch lần thứ XVII nhiệm kỳ 2001 – 2005, Lập Thạch.

3. BCH Đảng bộ huyện Lập Thạch (2005), Văn kiện đại hội đại biểu huyện

Lập Thạch lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2006 – 2010, Lập Thạch.

4. BCH Đảng bộ huyện Lập Thạch (2006), Nghị quyết 02-NQ-HU ngày

26/5/2006 của Huyện ủy Lập Thạch về xây dựng cơ sở hạ tầng thị trấn Lập

Thạch giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020, Lập Thạch.

5. BCH Đảng bộ huyện Lập Thạch (2006), Nghị quyết 05-NQ-HU ngày

26/6/2006 của Huyện ủy Lập Thạch về phát triển chăn nuôi giai đoạn

2006-2010, Lập Thạch.

6. BCH Đảng bộ huyện Lập Thạch (2006), Nghị quyết 06-NQ-HU ngày

27/6/2006 của Huyện ủy Lập Thạch về phát triển giao thông nông thôn

giai đoạn 2006-2010, Lập Thạch.

7. BCH Đảng bộ huyện Lập Thạch (2006), Nghị quyết 07-NQ-HU ngày

27/6/2006 của Huyện ủy Lập Thạch về phát triển cây ăn quả, cây cảnh

giai đoạn (2006-2010), Lập Thạch.

8. BCH Đảng bộ huyện Lập Thạch (2008), Nghị quyết 15-NQ-HU ngày

12/03/2008 của Huyện ủy Lập Thạch về việc chia tách huyện Lập Thạch,

Lập Thạch.

9. BCH Đảng bộ huyện Lập Thạch (2010), Văn kiện đại hội đại biểu huyện

Lập Thạch lần thứ XIX nhiệm kỳ 2010 – 2015, Lập Thạch.

10. BCH Đảng bộ huyện Lập Thạch (2013), Lịch sử Đảng bộ huyện Lập

Thạch 1930 – 2010, Vĩnh Phúc.

11. BCH đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (2007), Lịch sử đảng bộ Vĩnh Phúc (1930 -

2005), Nxb Chính trị quốc gia.

81

12. BCH tỉnh Vĩnh Phúc (2010), Biên niên những sự kiện lịch sử Đảng bộ

tỉnh Vĩnh Phúc 1930 – 2010, Vĩnh Phúc.

13. Bộ Giáo dục (2003), Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Ban Nông nghiệp Trung ương (1988), Kinh tế, xã hội nông thôn ngày

nay, tập I, Nxb Tư tưởng văn hóa, Hà Nội.

15. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2001), Chiến lược phát triển

nông nghiệp nông thôn trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá 2001 –

2010, Hà Nội.

16. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2001), Nông dân, nông nghiệp,

nông thôn Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

17. Ban tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Vĩnh

Phúc (2007), Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 BCH Đảng bộ tỉnh khóa XIV

về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân giai

đoạn 2006 – 2010, định hướng đến năm 2020-Nghị quyết số 03-NQ/TU,

ngày 27/12/2006, Vĩnh Phúc.

18. Ban Tuyên giáo tỉnh Vĩnh Phúc – Trung tâm thông tin công tác tư tưởng

(2010), Tình hình kinh tế - xã hội trong tỉnh tháng 1/2010, Lưu hành nội

bộ, Vĩnh Phúc.

19. Ban Tuyên giáo Trung Ương (2008), Tài liệu học tập các nghị quyết hội

nghị Trung ương Bảy khóa X, Nxb Chính trị quốc gia.

20. Ban tư tưởng, văn hóa trung ương (2006), Tài liệu học tập nghị quyết đại

hội X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia.

21. Hoàng Xuân Chinh (2000), Vĩnh Phúc thời tiền sơ sử, Sở Văn hóa tỉnh

Vĩnh Phúc.

22. Võ Chí Công (1999), Những vấn đề cơ bản trong đổi mới cơ chế quản lý

kinh tế ở nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.

23. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi

mới, Nxb Thống Kê, Hà Nội.

82

24. Nguyễn Sinh Cúc, Lê Mạnh Hùng, Hoàn Vĩnh Lê (1998), Thực trạng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb

Thống Kê, Hà Nội.

25. Cục thống kê Vĩnh Phúc (1997), Niên giám thống kê 1990 – 1996 tỉnh

Vĩnh Phúc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

26. Cục thống kê Vĩnh Phúc (1998), Niên giám thống kê 1997 tỉnh Vĩnh

Phúc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

27. Cục thống kê Vĩnh Phúc (1999), Niên giám thống kê 1997 tỉnh Vĩnh

Phúc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

28. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2000), Niên giám thống kê 1999 tỉnh Vĩnh

Phúc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

29. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2002), Niên giám thống kê 2001 tỉnh Vĩnh

Phúc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

30. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2003), Niên giám thống kê 2002 tỉnh Vĩnh

Phúc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

31. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2004), Niên giám thống kê 2003 tỉnh Vĩnh

Phúc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

32. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2005), Niên giám thống kê 2004 tỉnh Vĩnh

Phúc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

33. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2006), Niên giám thống kê 2005 tỉnh Vĩnh

Phúc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

34. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2007), Niên giám thống kê 2006 tỉnh Vĩnh

Phúc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

35. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2008), Niên giám thống kê 2007 tỉnh Vĩnh

Phúc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

36. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2009), Niên giám thống kê 2008 tỉnh Vĩnh

Phúc, Nxb Thống kê, Hà Nội.

37. Lê Duẩn (1986), Nắm vững đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến

lên xây dựng kinh tế địa phương vững mạnh, Nxb Sự thật, Hà Nội.

83

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

39. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh

tế - xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia.

42. Đảng cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH

Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết của Bộ chính trị về một số vấn

đề phát triển nông nghiệp và nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Lê Mậu Hãn (2004), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb

CTQG, Hà Nội.

47. Lê Mạnh Hùng (chủ biên) (1998), Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống Kê, Hà Nội.

48. Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Lập Thạch (2005), Địa chí Lập Thạch,

Lập Thạch.

49. Huyện ủy huyện Lập Thạch (2006), Nghị quyết số 13/2006/NQ - HĐND

ngày 27 tháng 12 năm 2006 Về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm

2007, Lập Thạch.

50. Huyện ủy huyện Lập Thạch (2009), Báo cáo 01/BC-NN&PTNT ngày

27/9/2009 huyện Lập Thạch về kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết 03-

TU về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân

giai đoạn 2006 - 2010 định hướng đến năm 2020, Lập Thạch.

84

51. Phan Thanh Phố (2000), Phương hướng phát triển kinh tế xã hội Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

52. Đặng Kim Sơn (2006), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 20 năm đổi

mới và phát triển, Nxb CTQG, Hà Nội.

53. Vũ Đình Thắng (2002), Phát triển kinh tế nông thôn, Nxb Thống kê

Hà Nội.

54. Trương Thị Tiến (1999), Đổi mới cơ chế quản lí nông nghiệp ở Việt

Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.

55. Tỉnh Ủy Vĩnh Phúc (11/1997), Văn kiện đại hội đảng bộ Vĩnh Phúc lần

XII, Vĩnh Phúc.

56. Tỉnh Ủy Vĩnh Phúc (3/2001), Văn kiện đại hội đảng bộ Vĩnh Phúc lần

XIII, Vĩnh Phúc.

57. Tỉnh Ủy Vĩnh Phúc (12/2005), Văn kiện đại hội đảng bộ Vĩnh Phúc lần

XIV, Vĩnh Phúc.

58. Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (2010), Văn kiện đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần

XV, Vĩnh Phúc.

59. Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, Ban Tuyên giáo (2011), Vĩnh Phúc 15 năm phát

triển thành tựu và triển vọng, Vĩnh Phúc.

60. UBND huyện Lập Thạch (1997), Báo cáo tổng kết năm 1997, phương

hướng nhiệm vụ năm 1998, Vĩnh Phúc.

61. UBND huyện Lập Thạch (1998), Báo cáo tổng kết năm 1998, phương

hướng nhiệm vụ năm 1999, Lập Thạch.

62. UBND huyện Lập Thạch (1999), Báo cáo tổng kết năm 1999, phương

hướng nhiệm vụ năm 2000, Lập Thạch.

63. UBND huyện Lập Thạch (2000), Báo cáo tổng kết năm 2000, phương

hướng nhiệm vụ năm 2001, Lập Thạch.

64. UBND huyện Lập Thạch (2001), Báo cáo tổng kết năm 2001, phương

hướng nhiệm vụ năm 2002, Lập Thạch.

85

65. UBND huyện Lập Thạch (2002), Báo cáo tổng kết năm 2002, phương

hướng nhiệm vụ năm 2003, Lập Thạch.

66. UBND huyện Lập Thạch (2003), Báo cáo tổng kết năm 2003, phương

hướng nhiệm vụ năm 2004, Lập Thạch.

67. UBND huyện Lập Thạch (2004), Báo cáo tổng kết năm 2004, phương

hướng nhiệm vụ năm 2005, Lập Thạch.

68. UBND huyện Lập Thạch (2005), Báo cáo tổng kết năm 2005, phương

hướng nhiệm vụ năm 2006, Lập Thạch.

69. UBND huyện Lập Thạch (2006), Báo cáo tổng kết năm 2006, phương

hướng nhiệm vụ năm 2007, Lập Thạch.

70. UBND huyện Lập Thạch (2007), Báo cáo tổng kết năm 2001, phương

hướng nhiệm vụ năm 2008, Lập Thạch.

71. UBND huyện Lập Thạch (2008), Báo cáo tổng kết năm 2008, phương

hướng nhiệm vụ năm 2009, Lập Thạch.

72. UBND huyện Lập Thạch (2009), Báo cáo tổng kết năm 2009, phương

hướng nhiệm vụ năm 2010, Lập Thạch.

73. UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2011), Dự thảo quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030. Lưu

tại văn phòng UBND tỉnh Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc.

74. http://baovinhphuc.com.vn/

75. http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban

76. http://www.ipavinhphuc.vn/nien-giam-thong-ke-tinh-vinh-phuc

77. http://www.vinhphuc.gov.vn/ct/cms/HeThongChinhTriTinh

86

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Nghị định việc điều chỉnh địa giới huyện Lập Thạch từ 01/04/2009

CHÍNH PHỦ

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Số: 09/NĐ-CP

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 23 tháng 12 năm 2008

NGHỊ ĐỊNH

Về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Lập Thạch để thành lập huyện

Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc

__________________________________

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc,

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. Điều chỉnh địa giới hành chính huyện Lập Thạch để thành lập huyện Sông

Lô, tỉnh Vĩnh Phúc như sau:

Thành lập huyện Sông Lô thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở điều chỉnh 15.031,77 ha

diện tích tự nhiên và 93.984 nhân khẩu của huyện Lập Thạch (bao gồm toàn bộ diện

tích tự nhiên và nhân khẩu của các xã: Bạch Lưu, Hải Lựu, Đôn Nhân, Quang Yên,

Lãng Công, Nhân Đạo, Phương Khoan, Đồng Quế, Nhạo Sơn, Như Thuỵ, Yên

Thạch, Tân Lập, Tứ Yên, Đồng Thịnh, Đức Bác, Cao Phong và thị trấn Tam Sơn).

Huyện Sông Lô có 15.031,77 ha diện tích tự nhiên và 93.984 nhân khẩu, có 17 đơn

vị hành chính trực thuộc, gồm các xã: Bạch Lưu, Hải Lựu, Đôn Nhân, Quang Yên,

Lãng Công, Nhân Đạo, Phương Khoan, Đồng Quế, Nhạo Sơn, Như Thuỵ, Yên

Thạch, Tân Lập, Tứ Yên, Đồng Thịnh, Đức Bác, Cao Phong và thị trấn Tam Sơn.

Địa giới hành chính huyện Sông Lô: Đông giáp huyện Lập Thạch; Tây giáp huyện

Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; Nam giáp thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; Bắc giáp

huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính:

Huyện Lập Thạch còn lại 17.310,22 ha diện tích tự nhiên và 123.664 nhân khẩu, có

87

20 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm: thị trấn Lập Thạch, thị trấn Hoa Sơn, các

xã: Sơn Đông, Triệu Đề, Đình Chu, Xuân Lôi, Văn Quán, Tiên Lữ, Đồng Ích, Bàn

Giản, Tử Du, Liên Hòa, Ngọc Mỹ, Xuân Hòa, Vân Trục, Liễn Sơn, Thái Hòa, Bắc

Bình, Hợp Lý, Quang Sơn.

Địa giới hành chính huyện Lập Thạch: Đông giáp huyện Tam Dương và Tam Đảo

tỉnh Vĩnh Phúc; Tây giáp huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc và thành phố Việt Trì, tỉnh

Phú Thọ; Nam giáp huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc; Bắc giáp huyện Sơn

Dương, tỉnh Tuyên Quang.

Tỉnh Vĩnh Phúc có 123.176,43 ha diện tích tự nhiên và 1.059.063 nhân khẩu, có 9

đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc là: thành phố Vĩnh Yên; thị xã Phúc Yên;

các huyện: Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên, Lập Thạch

và Sông Lô.

Điều 2. Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

Điều 3. Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc và Thủ

trưởng các cơ quan có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.

TM. CHÍNH PHỦ

THỦ TƢỚNG

(Đã ký)

Nguyễn Tấn Dũng

88

Phụ lục 2: Bảng thống kê thu nhập của các xã thị trấn năm 2003

STT

Xã, thị trấn

Tổng thu nhập năm 2003 (tỷ đồng)

Bình quân giá trị (triệuđồng/người/năm)

Bình quân lương thực (kg/người/năm)

1

Bắc Bình

14,200

330

3,0

2

Bạch Lưu

6,800

300

2,50

3

Bàn Giản

11,200

339

2,47

4

Bồ Lý

9,126

317

1,72

5

Cao Phong

16,500

290

2,20

6

Đạo Trù

21,000

320

1,80

7

Đình Chu

12,150

226

3,30

8

Đôn Nhân

14,500

301

3,0

9

Đồng Ích

28,354

470

2,68

10

Đồng Quế

11,580

400

2,73

11

Đồng Thịnh

24,625

380

2,92

12

Đức Bác

22,70

310

2,80

13

Hải Lựu

10,168

260

2,70

14

Hợp Lý

8,600

360

3,06

15

Lãng Công

15,732

364

2,63

16

Liên Hoà

12,600

310

2,70

17

Liễn Sơn

22,200

377

2,21

18

Ngọc Mỹ

13,482

430

2,80

19

Nhạo Sơn

7,800

329

2,50

20

Nhân Đạo

10,700

308

2,20

21

Như Thuỵ

9,188

300

2,40

22

Phương Khoan

10,535

327

2,07

23

Quang Sơn

16,200

350

2,80

24

Quang Yên

17,920

320

2,40

25

Sơn Đông

23,989

293

2,80

26

Tam Sơn

6,680

293

2,18

27

Tân Lập

12,057

420

2,57

28

Tiên Lữ

11,830

332

2,85

29

Tử Du

16,781

396

2,88

30

Tứ Yên

10,840

330

2,39

31

Thái Hoà

22,152

265

3,16

89

32

TT Lập Thạch

17,300

240

3,57

33

Triệu Đề

22,000

260

3,0

34

Văn Quán

11,250

473

2,80

35

Vân Trục

9,670

270

2,34

36

Xuân Hoà

20,127

400

2,41

37

Xuân Lôi

16,379

320

2,86

38

Yên Dương

11,500

336

2,19

39

Yên Thạch

15,230

323

2,50

Tổng cộng

575,644

(Nguồn: Phòng thống kê huyện Lập Thạch)

(Ghi chú: - Bình quân lương thực toàn huyện là: 332,5 kg/người/năm

- Bình quân giá trị toàn huyện là 2,6 triệu/ người/ năm )

90

Phụ lục 3: Biến động sử dụng đất của huyện Lập Thạch từ 1990 – 2000

Loại đất

Năm 1990

Năm 1995

Năm 2000

Biến động 1990 - 2000

Diện tích (ha)

Diện tích (ha)

Diện tích (ha)

Diện tích (ha)

Cơ cấu (%)

Cơ cấu (%)

Cơ cấu (%)

40.834 100

41429,23 100

41,205,80 100

+371,8

Cơ cấu (%) 0,91

13169

32,25 15763,64 38,05 15778,48 38,29

+2609,48 19,82

6507

15,94 8653,36

20,89 10675,80 25,91

4168,8

64,07

Đất

2286

5,6

2813,56

6,79

2840,09

6,89

554,09

24,24

5128

12,56 823,96

1,99

823,86

2,0

83,83

Tổng diện tích tự nhiên 1 – Đât nông nghiệp 2- lâm nghiệp 3 – Đất chuyên dùng 4 – Đất ở

4,89

0,59

18,69

2,27

- 4,304,14 +18,69

5128

100

819,07

99,41 805,17

97,73

-4322,83 84,3

13744

33,66 13374,71 32,28 11087,57 26,91

-2656,43 19,33

Đât ở đô thị Đất ở nông thôn 5 - Đất chƣa sử dụng

(Nguồn: Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Lập Thạch (2005), Địa chí Lập Thạch)

91

Phụ lục 4: Dân số và mật độ dân số năm 2010

Đơn vị hành chính

Diện tích (km2 )

Dân số (ngƣời )

Mật độ dân số ( ngƣời/km2 )

173.1

118772

Tổng số

686

1. T.T Lập Thạch

1690

7007

4.15

2. TT.Hoa Sơn

1110

5508

4.96

3. Quang Sơn

501

5508

10.98

4. Ngọc Mỹ

338

5250

15.54

5. Hợp lý

563

4289

7.62

6. Bắc Bình

556

6291

11.30

7. Thái Hoà

906

6887

7.60

8. Liễn Sơn

534

5493

10.29

9. Xuân Hoà

643

8508

13.22

10. Vân Trục

341

4161

12.20

11. Liên Hoà

676

5164

7.64

12. Tử Du

599

5917

9.87

13. Bàn Giản

751

4322

5.76

14. Xuân Lôi

700

5212

7.44

15. Đồng ích

831

12.46

10357

16. Tiên Lữ

786

4022

5.12

17. Văn Quán

701

5006

7.14

18. Đình Chu

1025

4425

4.32

19. Triệu Đề

1247

7314

5.86

20. Sơn Đông

846

8131

9.61

(Nguồn: Phòng thống kê huyện Lập Thạch)

92

Phụ lục 5: Chăn nuôi tỉnh Vĩnh Phúc năm 2009 phân theo huyện, thị (Tính đến 01/10/2009)

Tổng số

Đơn vị tính

Vĩnh Yên

Phúc Yên

Lập Thạch

Sông Lô

Tam Dƣơng

Tam Đảo

Bình Xuyên

Yên Lạc

Vĩnh Tƣờng

A

B

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

I. Tổng số trâu

Con

26.012

309

2.153

5.965

4.066

3.664

5.538

2.237

259

1.821

Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng

Tấn

1.346,5

22,6

99,0

333,0

200,6

86,1

303,0

178,0

33,1

91,1

II. Tổng số bò

Con

139.99

3.400

4.517

29.814

20.174

18.722

15.701

12.612

13.647

21.412

Trong tổng số:

- Bò lai

86.566

3.025

1.661

17.135

9.482

10.826

6.259

7.743

11.014

19.421

- Bò sữa

1.172

75

83

954

0

0

0

60

- Bò cái sữa

865

75

65

641

0

0

0

54

Sản lượng thịt bò xuất chuồng

Tấn

4.324,6

175,0

188,0

860,1

523,8

147

490,7

605,0

660,2

674,8

Sản lượng sữa tươi

1.819,4

100,1

0,0

99,6

0,0

0,0

0,0

0,0

101,0

1.518,7

III. Đàn lợn (không kể lợn sữa)

Con

533.923

31.528

21.928

86.863

65.321

76.860

71.606

52.316

52.398

75.103

Trong đó:

- Nái

Con

87.916

2.708

2.202

15.221

15.484

9.893

9.313

12.439

9.531

11.125

- Thịt

444.573

28.812

19.718

71.337

49.747

61.556

42.800

39.643

65.436

65.524

1.434

8

8

305

90

157

203

316

136

- Đực giống

211

59.381,2

3.972

2.816

5.573

4.871

10.010

6.8224

7.639,7

7.4920

10.184,9

Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng

Tấn

IV. Tổng số gia

1.000con

7.033,6

220,8

207,4

968,5

707,5

2.035,6

1.055,4

544,3

680,1

614,0

93

cầm

Chia ra:

1.000con

5.658,3

190,4

183,8

650,5

1.664,9

- Gà

799,3

981,8

358,9

425,5

403,2

- Trong đó: Mái đẻ

1.382,9

59,6

193,6

25,8

81,3

498,9

190,7

82,8

107,6

142,6

- Vịt

861,6

29,2

132,0

23,6

37,9

70,5

61,0

123,8

201,6

182,0

- Trong đó: Mái đẻ

477,2

22,4

55,7

11,6

18,7

8,2

24,0

38,9

136,0

161,7

- Ngan

179,8

1,1

37,2

0,0

19,1

6,1

12,4

25,9

52,4

25,6

- Trong đó: Mái đẻ

16,4

0,9

1,4

1,6

3,8

5,7

3,0

- Ngỗng

2,8

0,1

0,7

0,2

1,0

0,6

0,2

- Trong đó: Mái đẻ

1,3

0,3

0,6

0,3

0,1

Tấn

19.507,3

378,3

309,9

1.646,6

1.754,0

6.407,7

2.749,7

1.885,8

2.311,5

1.031,4

SL thịt gia cầm giết bán

SL trứng gia cầm

1.000quả 173.583,7 9.550,8

1.577,4

8.878,5

6.045,0

56.768,9

15.011,9

15.134,2

18.625,2

35.586,0

V. Chăn nuôi khác

1. Chăn nuôi

- Ngựa

22

7

11

111

Con

212

30

0

0

31

- Dê

0,0

400

64

10

10

1.872

129

259

612

288

- Ong

1.318

2.322

619

132

59

Tổ

11.782

91

522

3.317

3.402

- Rắn

100

250

350

588.700

Con

596.458

1.085

95

5.028

- Trăn

18

3

4

5

6

- Hươu

9

0

0

8

1

- Chó

202.718

9.004

13.087

50.352

30.626

24.825

19.234

20.835

12.350

22.405

- Thỏ

3.204

534

574

560

170

286

10

375

27

668

76,0

13,30

5,70

16,7

3,8

12,1

- Chim bồ câu

1.000quả

0,30

8,60

15,50

94

0,0

0,0

0,0

4,0

3,6

9,5

717,0

- Chim cút

734

- Dế

3,0

1,5

1,5

- Nhím

Con

211

203

8,0

- Đà điểu

10

10

2. Sản lượng

- Sản lượng mật ong

Tấn

78,5

1,1

4,7

17,5

7,5

16,9

8,2

0,8

0,3

21,8

- Sản lượng kén tằm

181,0

0,0

0,0

0,0

4,9

0,0

0,0

10,1

166,0

- Sản lượng thịt chó

168,4

31,2

109,3

118,7

1.256,3

111,3

76,1

188,4

177,0

275,9

- Sản lượng dê

44,0

1,4

1,0

5,8

0,0

11,0

0,0

0,4

1,0

23,4

- Sản lượng thịt rắn

168,9

1,6

0,6

0,0

0,4

0,0

0,0

166,1

0,2

- Sản lượng thịt thỏ

45,6

0,3

0,0

2,7

3,4

0,0

6,5

5,4

27,3

- SL chim bồ câu

73,9

0,7

11,1

1,1

5,3

7,7

4,1

27,7

16,2

- Sản lượng chim cút

57,5

0,0

1,0

0,0

1,2

7,5

47,8

- SL trứng chim cút

1.000quả

49.647,1

408,0

650,7

16.352,0

32.236,4

145,0

- Dế

Kg

145,0

5,6

- Nhung hươu

5,6

(Nguồn: Niên giám thống kê Nông nghiệp - Lâm nghiệp - Thủy sản tỉnh Vĩnh Phúc năm 2009)

95

Phụ lục 6: Một số hình ảnh mô hình kinh tế Lập Thạch

Mô hình cây Thanh long ruột đỏ xã Vân Trục

(Nguồn: www.vinhphuc.gov.vn)

Mô hình cây cảnh xã Triệu Đề

(Nguồn: http://123.30.236.24/khuyennong/index)

96

Mô hình sản xuất đá xã Hải Lựu

Mô hình sản xuất mây tre đan xã Cao Phong

(Nguồn: www.vinhphuc.gov.vn)

(Nguồn: http://www.baoxaydung.com.vn)

97

Mô hình nuôi lợn xã Quang Sơn

Mô hình làm gạch ở xã Như Thụy

(Nguồn: http://www.vinhphuc.gov.vn)

(Nguồn: http://www.vinhphuc.gov.vn)

98