ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------***------
LẠI TRANG HUYỀN
Đảng bộ tỉnh sơn la lãnh đạo kinh tế hợp tác xã (1996 - 2006)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Hà NộI, tháng 10 - 2008
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------***------
LẠI TRANG HUYỀN
ĐẢNG BỘ TỈNH SƠN LA
LÃNH ĐẠO KINH TẾ HỢP TÁC XÃ (1996 - 2006)
CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Quang Hiển
Hà Nội, tháng 10 – 2008
2
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BCĐ: Ban chỉ đạo
CT: Chỉ thị
HĐND: Hội đồng nhân dân
HTX: Hợp tác xã
KTHT: Kinh tế hợp tác
NQ: Nghị quyết
QĐ: Quyết định
UB: Uỷ ban
UBND: Uỷ ban nhân dân
TU: Tỉnh uỷ
3
TW: Trung ương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1: LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG KINH TẾ HỢP TÁC XÃ
TRONG NHỮNG NĂM 1996 - 2000 ....................................................... 7
1.1. Những điều kiện ảnh hưởng đến sự lãnh đạp của Đảng bộ tỉnh Sơn
La trong xây dựng kinh tế Hợp tác xã .................................................... 7
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội ............................................................. 7
1.1.2. Chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển kinh tế Hợp tác xã
trong thời kì đổi mới................................................................................. 12
1.1.3. Tình hình kinh tế hợp tác xã ở Sơn La trước năm 1996 .................. 23
1.2. Những chủ trương và biện pháp lớn của Đảng bộ ......................... 28
1.3. Sự chỉ đạo xây dựng kinh tế hợp tác xã.......................................... 35
1.3.1. Quá trình chỉ đạo xây dựng kinh tế hợp tác xã ................................ 35
1.3.2. Kết quả thực hiện............................................................................ 49
Tiểu kết chương 1 ................................................................................... 49
Chương 2. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG KINH TẾ HỢP TÁC XÃ
TRONG NHỮNG NĂM 2001 - 2006 ..................................................... 50
2.1. Hoàn cảnh lịch sử mới và yêu cầu đối với việc phát triển kinh tế
HTX......................................................................................................... 50
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử mới .................................................................... 50
2.1.2. Những yêu cầu đối với việc phát triển HTX trong thời kỳ mới ....... 51
2.2. Chủ trương và biện pháp mới của Đảng bộ ................................... 55
2.3. Sự chỉ đạo phát triển kinh tế HTX ................................................. 57
2.3.1. Phương hướng mới của Đảng bộ tỉnh ............................................. 57
2.3.2. Kết quả thực hiện............................................................................ 64
Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ...................... 83
3.1. Một số nhận xét ............................................................................... 83
3.1.1. Ưu điểm của Đảng bộ tỉnh Sơn La trong quá trình lãnh đạp xây dựng
kinh tế HTX (1996 - 2006) ....................................................................... 83
3.1.2. Hạn chế của Đảng bộ tỉnh Sơn La trong quá trình lãnh đạo xây dựng
kinh tế HTX (1996 - 2006) ....................................................................... 92
3.1.3. Nguyên nhân của thành tựu ............................................................ 97
3.1.4. Nguyên nhận hạn chế của quá trình xây dựng kinh tế hợp tác xã ở
Sơn La trong những năm 1996 - 2006 ...................................................... 99
3.2. Một số kinh nghiệm lịch sử ........................................................... 101
KẾT LUẬN ........................................................................................... 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 109
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu khách quan của cách mạng
Việt Nam. Nhận thức đúng đắn hơn về quy luật của sự phát triển trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam, từ năm 1986 Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi
mới, tiến hành chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ vô cùng quan trọng,
trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò nền tảng trong nền
kinh tế quốc dân. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế tập thể và kinh tế nhà
nước quyết định và đảm bảo sự thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm thấp, kinh tế nghèo
nàn, lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Xây dựng và phát triển kinh tế
tập thể với nòng cốt là hợp tác xã đã được Đảng ta tiến hành từ những năm 60
của thế kỷ trước. Phong trào HTX đã góp phần xây dựng các công trình thuỷ
lợi, cải tạo diện tích canh tác, đưa kỹ thuật mới vào sản xuất, góp phần đưa
miền Bắc trở thành hậu phương lớn chi viện cho miền Nam đánh thắng đế
quốc Mỹ. Khi cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, cơ chế
quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, đánh đồng tập thể hoá với hợp tác
hoá làm cho phong trào hợp tác xã lâm vào khủng hoảng trong bối cảnh khó
khăn chung của đất nước. Với đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế hợp tác xã
đã có những khởi sắc, đặc biệt là khi nền kinh tế đất nước bước vào thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cùng với sự đi lên của nền kinh tế đất nước,
kinh tế hợp tác xã với tư cách là loại hình kinh tế, tổ chức kinh tế cộng đồng
đang góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá
trình phát triển của đất nước.
Sơn La, một tỉnh miền núi nhiều tộc người cùng sinh sống, nền kinh tế
5
xã hội chưa thực sự phát triển, vẫn thuộc diện là một tỉnh đặc biệt khó khăn.
Việc định hướng phát triển nền kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối việc ổn định đời sống nhân
dân, chuyển hướng sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn miền núi. Sự
chuyển đổi mô hình hợp tác xã đã mở rộng sản xuất hàng hoá, tiếp cận với
nền kinh tế thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế của tỉnh.
Năm 1996, Đảng và Nhà nước ta ban hành Luật Hợp tác xã, kinh tế
hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã được tạo điều kiện pháp lý để phát
triển. Đảng bộ tỉnh Sơn La đã có những nghị quyết, chính sách, biện phá p
quan trọng để thúc đẩy kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển, góp phần
phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh chính trị, cải thiện đời sống và
củng cố niềm tin của nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La đối với sự lãnh
đạo của Đảng. Chủ trương phát triển kinh tế hợp tác xã của Đảng trong
thời kỳ đổi mới đã đáp ứng nhu cầu khách quan phát triển kinh tế đất
nước, tạo nên một luồng gió mới trong kinh tế hợp tác xã. Trong đó sự
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La đối với phát triển hợp tác xã tỉnh đã và
đang góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Giai đoạn 1996 - 2006 kinh tế hợp tác xã cả nước nói chung và kinh
tế hợp tác xã ở Sơn La nói riêng đã đạt được những thành tựu to lớn,
khẳng định sự lựa chọn đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của đất nước ta. Mặc dù vậy những khó khăn, bất cập là không nhỏ, kinh
tế hợp tác xã còn gặp nhiều trở ngại trên bước đường phát triển. Nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự đoàn kết toàn dân tin chắc kinh tế HTX
sẽ phát triển và trở thành một trong những thành phần kinh tế chủ lực của
đất nước.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn như vậy, tôi chọn đề tài “Đảng bộ
tỉnh Sơn La lãnh đạo kinh tế hợp tác xã (1996 - 2006)” làm đề tài luận văn
6
thạc sĩ khoa học lịch sử.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã là nhu cầu tất yếu cần thiết đối với
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Kinh tế hợp tác xã có vai
trò to lớn trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế hợp tác xã.
Phần lớn các công trình nghiên cứu đều đề cập đến lịch sử, vai trò, vị trí và
tầm quan trọng của việc xây dựng kinh tế hợp tác xã trong thời kỳ đổi mới.
Có thể kể tên một số công trình nghiên cứu như sau:
“Phát triển và đổi mới hợp tác xã theo luật hợp tác xã” của Nguyễn Văn Bích.
“Đảng Cộng sản Việt Nam với phong trào hợp tác xã” do Liên minh
Hợp tác xã Việt Nam phối hợp với nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản.
Hội đồng nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn Tỉnh uỷ Sơn La đã
nghiên cứu đề tài: “Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp và vai trò của nó đối
với chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh đến năm 2010”.
Bên cạnh đó có một số luận văn, luận án nghiên cứu về đề tài hợp tác
xã như: luận văn “Kinh tế hợp tác xã ở Hà Nội Thực trạng và giải pháp” của
Hoàng Thuý Quỳnh; luận văn “Đổi mới hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Tây
Thực trạng và giải pháp” của Hoàng Thị Ngọc Lan; luận văn “Lý luận Mác
xít về hợp tác xã và thực tiễn chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam
hiện nay” của Đào Đăng Măng; luận án Tiến sĩ Khoa học Kinh tế “Xu hướng
biến đổi hợp tác xã nông nghiệp trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta”
của Nguyễn Đình Hợi…
Ngoài ra còn có một số bài viết của các tác giả đã đăng trên một số báo
và tạp chí như: “Cộng sản”, “Xây dựng Đảng”, “Lý luận Chính trị”…
Những công trình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ một số khía cạnh về
lý luận và thực tiễn của phong trào hợp tác xã ở nước ta trong những năm
7
trước và sau đổi mới, những thành tựu và hạn chế của phong trào, rút ra một
số bài học kinh nghiệm về xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác xã… Tuy nhiên
chưa có công trình nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La đối
với kinh tế hợp tác xã trong những năm trước và sau khi Đảng ta tiến hành công
cuộc đổi mới. Vì thế chưa có sự đánh giá, tổng kết một cách toàn diện về những
thuận lợi, khó khăn, thành tựu cũng như hạn chế của phong trào hợp tác xã tỉnh
Sơn La dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh để góp phần thúc đẩy việc thực hiện
chiến lược kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp, hiện đại hoá nông
thôn tỉnh Sơn La. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Sơn La lãnh
đạo phát triển kinh tế hợp tác xã là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Về mục đích, đề tài nhằm làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn
La trong việc xây dựng kinh tế HTX ở địa phương. Mặt khác đề tài trình bày quá
trình xây dựng HTX ở Sơn La giai đoạn 1996 - 2006 để khẳng định tính tất yếu
khách quan và vai trò của kinh tế HTX trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ
một nền kinh tế sản xuất nhỏ lên nền sản xuất tập trung có sự hợp tác, liên minh
giữa nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt với kinh tế HTX. Trên cơ sở đánh giá
đúng đắn thực trạng kinh tế HTX ở Sơn La để tổng kết những kết quả đạt được
và rút ra kinh nghiệm lịch sử về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La trong việc
lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế HTX ở địa phương.
Nhiệm vụ của luận văn là:
Tập hợp, xử lý, hệ thống hoá các tư liệu có liên quan đến sự lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh Sơn La trong việc xây dựng kinh tế HTX ở địa phương.
Mô tả rõ nét những chủ trương, biện pháp của đảng bộ địa phương và
việc thực hiện chủ trương, biện pháp đó để xây dựng kinh tế HTX.
Trình bày việc thực hiện và diễn biến của phong trào xây dựng kinh tế
HTX từ hoạt động của các cấp, các ngành, chính quyền, đoàn thể, quần chúng
8
nhân dân ở tỉnh Sơn La.
Đánh giá, nhận xét những kết quả của quá trình xây dựng kinh tế HTX
ở Sơn La giai đoạn 1996 - 2006. Từ đó rút ra thành tựu, hạn chế trong xây
dựng và phát triển kinh tế HTX và rút ra một số bài học kinh nghiệm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với kinh tế HTX và sự thể chế hoá, cụ thể hoá
của Đảng bộ tỉnh Sơn La để đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước vào xây dựng và phát triển kinh tế HTX ở địa phương.
Về phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu kinh tế HTX trên phạm vi tỉnh Sơn La, đi vào tìm hiểu
tình hình kinh tế HTX ở Sơn La trước năm 1996 và giai đoạn 1996 - 2006.
Những điều kiện lịch sử chi phối sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La
trong việc xây dựng kinh tế HTX.
Kết quả của quá trình xây dựng kinh tế HTX ở Sơn La, những thành
tựu và hạn chế, bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La
đối với quá trình xây dựng kinh tế HTX ở địa phương.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Đề tài thực hiện dựa trên những tài liệu đã được xuất bản có liên quan
đến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, quan điểm
của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về HTX.
Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, văn kiện Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Sơn La, các báo cáo của các ban, ngành, đoàn thể tỉnh Sơn La
về thực hiện xây dựng kinh tế HTX.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cần thiết như phương pháp
lịch sử kết hợp với phương pháp thống kê, phương pháp phân tích. Đồng thời
9
tác giả của đề tài tiến hành khảo sát thực tế một số HTX trên địa bàn tỉnh.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần: mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Sơn La lãnh đạo xây dựng kinh tế hợp tác xã
trong những năm 1996 - 2000.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Sơn La lãnh đạo xây dựng kinh tế hợp tác xã
trong những năm 2001 - 2006.
10
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.
Chương 1
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG KINH TẾ HỢP TÁC XÃ
TRONG NHỮNG NĂM 1996 - 2000
1.1. Những điều kiện ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Sơn La trong xây dựng kinh tế Hợp tác xã
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội
Điều kiện tự nhiên là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển của kinh tế xã hội của mỗi vùng miền, nói rộng hơn là đối với quốc
gia, dân tộc. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đúng đắn phải phù hợp với
những điều kiện tự nhiên và đặc điểm dân cư của mỗi vùng. Do đó những
thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của địa phương
sẽ tác động đến sự lựa chọn hướng phát triển cơ cấu kinh tế phù hợp, trong đó
việc xây dựng mô hình kinh tế hợp tác xã phải dựa trên những điều kiện thuận
lợi, tiềm năng, thế mạnh về tự nhiên và kinh tế xã hội của địa phương.
Về vị trí địa lý: Sơn La là một tỉnh miền núi cao biên giới, nằm ở phía tây bắc của Việt Nam, nằm trong vị trí từ 200 39’ đến 220 5’ vĩ bắc và 1030 15’ đến 1050 15' kinh đông. Phía bắc giáp tỉnh Lào Cai, Yên Bái. Phía đông và
đông nam giáp tỉnh Phú Thọ, Hoà Bình, Thanh Hoá. Phía tây giáp tỉnh Lai
Châu. Phía nam giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Sơn La có hai
cửa khẩu quốc gia là Pa Háng (thuộc huyện Mộc Châu) và Chiềng Khương
(thuộc huyện Sông Mã) và nằm trên trục đường quốc lộ 6: Hà Nội - Hoà Bình
- Sơn La - Điện Biên - Lai Châu, cách Hà Nội 300km. Các đường giao thông
quan trọng trên địa bàn tỉnh gồm có 4 tuyến chính nối Sơn La với thủ đô Hà
Nội: đường quốc lộ 6, quốc lộ 37, quốc lộ 43, quốc lộ 279. Ngoài ra, còn có
đường không và đường sông như sân bay Nà Sản và cảng đường sông Tà
Hộc, Vạn Yên. Các con sông chính chảy qua địa bàn tỉnh Sơn La như sông
11
Ðà, Sông Mã và rất nhiều con suối nhỏ phân bổ đều trên địa bàn tỉnh. Sông
Ðà chảy qua địa phận Sơn La dài 150 km, sông Mã chảy qua địa phận Sơn La
dài 95 km, có độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh, đem đến cho Sơn La nguồn thuỷ
điện to lớn và giao thông đường thuỷ. Tuy nhiên với địa hình rộng và phức
tạp, giao thông đi lại từ trung tâm thị xã, thị trấn đến các xã, bản còn khó
khăn, có những xã còn chưa có đường ôtô đến trung tâm xã. Những xã có
đường ôtô nhưng đến mùa mưa giao thông cũng gặp rất nhiều khó khăn, ảnh
hưởng đến sản xuất, sinh hoạt của đồng bào.
Ðịa hình tỉnh Sơn La phức tạp bị chia cắt bởi núi cao, suối sâu, có
nhiều núi đá vôi xen lẫn đồi, thung lũng, lòng chảo, bồn địa và cao nguyên.
Vùng núi chiếm trên 85% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, các dãy núi cao hầu hết
đều tập trung ở vùng giáp ranh giữa Sơn La - Lào Cai - Yên Bái, phía đông
bắc có dải phía tây Hoàng Liên Sơn án ngữ, phía tây nam cũng có những dãy
núi cao hiểm trở dọc biên giới Việt - Lào. Sơn La có hai cao nguyên tương
đối bằng phẳng: cao nguyên Mộc Châu và cao nguyên Nà Sản còn lại là các
bãi bằng nhỏ hẹp xen kẽ núi cao. Ðộ cao trung bình 600 - 700m so với mặt
biển, điểm cao nhất là 2.879m so với mặt biển, điểm thấp nhất là 70m so với
mặt biển. Cao nguyên Mộc Châu đất đai màu mỡ, phì nhiêu mang đặc trưng
của vùng khí hậu nhiệt đới với độ cao trung bình 1.050m so với mặt nước
biển là điều kiện thuận lợi để phát triển cây công nghiệp như chè, cây ăn quả
các loại. Cao nguyên Nà Sản chạy dài theo trục Quốc lộ 6, vùng đất phì nhiêu
là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại cây cây công nghiệp như:
nứa, cà phê, dâu tằm... và các loại cây ăn quả đa dạng như xoài, nhãn, dứa,
chuối vải...
Khí hậu Sơn La thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm hai
mùa: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9. có mưa
nhiều, độ ẩm cao, lượng mưa trung bình từ 1400mm - 1800mm. Mùa khô kéo
12
dài từ tháng 19 đến tháng 3 năm sau, thường lạnh, ít mưa, khô hanh. Nhìn
chung khí hậu Sơn La mát mẻ, nhiệt độ trung bình từ 200C đến 250C , vùng núi cao có thể dưới 50C. Khí hậu Sơn La đa dạng và đất đai màu mỡ là điều kiện
thuận lợi để phát triển ngành nông nghiệp như trồng trọt và chăn nuôi, chế biến
thực phẩm. Mặc dù vậy vào mùa khô trùng với mùa đông thường có gió lào
khô hanh và sương muối ở một số vùng gây khó khăn cho việc trồng trọt.
Tỉnh Sơn La có 1.405.500 ha diện tích đất tự nhiên. Trong đó diện tích
đất nông nghiệp là 190.070 ha, chiếm 13,52%; diện tích đất lâm nghiệp có
rừng là 331.120 ha, chiếm 23,55%; diện tích đất chuyên dùng là 22.327 ha,
chiếm 1,53%; diện tích đất ở là 5.756 ha, chiếm 0,39%; diện tích đất chưa sử
dụng và sông suối là 856.227 ha, chiếm 59,02%.
Trong đất nông nghiệp, diện tích đất trồng cây hàng năm là 161.266 ha,
chiếm 84,48%, trong đó lúa 2 vụ chiếm 0,8% diện tích; diện tích đất trồng cây
lâu năm là 16.426 ha, chiếm 8,64%.
Diện tích đất trống, đồi núi trọc cần phủ xanh là 734.018 ha; đất bằng
chưa sử dụng là 380 ha; đất có mặt nước chưa được khai thác sử dụng là 59
ha; đất sông suối là 9.793 ha; đất núi đá không có cây là 64.376 ha; đất chưa
sử dụng khác là 47.601 ha.
Tính đến năm 2002, tỉnh Sơn La có 310.135 ha rừng hiện có, tỷ lệ che
phủ rừng đạt 22,1%. Trong đó rừng tự nhiên là 287.161 ha, rừng trồng là
22.974 ha. Sơn La có 4 rừng đặc dụng bảo tồn thiên nhiên là Xuân Nha (Mộc
Châu) rộng 38.000 ha, Sốp Cộp (Sông Mã) rộng 27.700 ha, Côpia (Thuận
Châu) rộng 9.000 ha, Tà Xùa (Bắc Yên) rộng 16.000 ha. Rừng Sơn La có
nhiều lâm, thổ sản quý hiếm, cung cấp vật liệu cho xây dựng, sản xuất công
nghiệp và nhiều dược liệu quý hiếm.
Sơn La có 2 nguồn nguyên, vật liệu xây dựng chủ yếu là đá vôi và đất
sét với trữ lượng khá lớn phân bố tương đối rộng trên địa bàn toàn tỉnh, hiện
13
đang được khai thác mạnh để sản xuất xi măng, gạch, ngói phục vụ nhu cầu
xây dựng trong tỉnh và công trình thuỷ điện Sơn La; mỏ sét Nà Pó trữ lượng
16 triệu tấn, mỏ sét xi măng Chiềng Sinh trữ lượng khoảng 760 ngàn tấn.
Ngoài ra Sơn La còn có một số mỏ khoáng sản nhưng trữ lượng không lớn
như niken, đồng, có 8 điểm quặng và mỏ, đáng kể là mỏ bản Phúc (huyện Bắc
Yên) có trữ lượng hàng triệu tấn quặng với hàm lượng 3,55% niken; 1,3%
đồng; vàng có 4 sa khoáng và 3 điểm vàng gốc, trong đó có triển vọng là sa
khoáng Pi Toong (huyện Mường La), Mu Nu (huyện Mai Sơn); mỏ than Tà
Phù (huyện Mộc Châu) có trữ lượng khoảng 23 vạn tấn; than đá có ở các mỏ
than (huyện Quỳnh Nhai) trữ lượng khoảng 578 ngàn tấn; mỏ than Mường
Lựm, trữ lượng trên 80 ngàn tấn. Đây là điều kiện thuận lợi để Sơn La thu hút
đầu tư, phát triển công nghiệp khai khoáng. Tuy nhiên do kinh tế chậm phát
triển, thiếu vốn và nguồn nhân lực có trình độ nên ngành công nghiệp ở Sơn
La chưa phát huy được tiềm năng vốn có. Kinh tế HTX chủ yếu hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp và một số lĩnh vực phi nông nghiệp, sự hợp tác
với các thành phần kinh tế khác do đó chưa phát triển mạnh.
Như vậy đặc điểm về điều kiện tự nhiên của Sơn La có ảnh hưởng lớn
đối với việc phát triển kinh tế xã hội, trong đó có kinh tế HTX. Ở những vùng
có điệu kiện tự nhiên về đất đai, khí hậu, tài nguyên, giao thông vận tải thì
thuận lợi cho việc thiết lập và phát triển các HTX nông nghiệp, thương mại -
dịch vụ, HTX giao thông vận tải… Còn ở những vùng sâu, vùng xa do địa
hình phức tạp, giao thông không thuận lợi, các HTX nông nghiệp được xây
dựng nhưng khó có thể tổ chức được HTX toàn xã mà chỉ thiết lập được các
HTX quy mô bản, cụm bản. Hơn nữa đất canh tác nông nghiệp của Sơn La
chủ yếu là phân tán, manh mún, độ dốc lớn nên khó hình thành những vùng
sản xuất tập trung làm hạn chế đến việc xây dựng các HTX quy mô lớn.
Theo số liệu thống kê năm 1999 tỉnh Sơn La có 882.077 người, đến
14
năm 2006 dân số tăng lên 1.007.511 người, trong đó số dân thành thị chiếm
khoảng 25%. Tỉnh có 12 dân tộc chủ yếu cùng sinh sống, đông nhất là dân tộc
Thái chiếm 54% dân số, dân tộc Kinh chiếm 18%, dân tộc H’mông chiếm
12%, dân tộc Mường chiếm 8,4%, dân tộc Dao chiếm 2,5% và các dân tộc
Tày, Xinh mun, La ha, Kháng, Lào, Hoa, Khơ mú. Ở vùng cao chủ yếu là
người H’mông, vùng giữa là người Dao, Xinh mun, Khơ mú, vùng thấp là
người Thái, Mường, Kinh… sinh sống.
Với địa hình miền núi phức tạp, dân cư ở Sơn La phân bố không đồng
đều, mật độ dân cư thấp, phân bố chủ yếu ở thị xã, thị trấn, thị tứ và đặc biệt
là cư dân ở vùng cao, vùng sâu, biên giới rất thưa thớt, có bản chỉ trên dưới 10
hộ và cách nhau cả chục cây số.
Đặc điểm cư trú của các đồng bào dân tộc ở Sơn La là sống xen kẽ và
tập trung ở các bản mường, dù vậy có nơi tập trung thuần tuý là bản người
Thái, H’mông, Mường, Dao…
Sơn La là địa bàn sinh sống lâu đời của các dân tộc thiểu số. Mỗi dân
tộc có lịch sử, truyền thống văn hoá, phong tục tập quán riêng nhưng luôn hoà
hợp, đoàn kết, chân thật, cần cù trong lao động và tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng. Đây được xem là một trong những động lực thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh trong sự nghiệp chung của đất nước. Tuy nhiên
do mỗi dân tộc có phong tục, tập quán, phương thức canh tác và địa bàn cư
trú riêng, trình độ dân trí nói chung còn thấp, địa hình Sơn La lại phức tạp nên
rất khó khăn trong tổ chức đời sống và sản xuất, ảnh hưởng lớn đến việc
tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về xây
dựng và phát triển kinh tế HTX. Việc xây dựng các HTX phải đảm bảo được
sự phù hợp và hài hoà giữa phong tục tập quán, văn hoá của các dân tộc, tìm
được nét tương đồng về văn hoá, sự đoàn kết của các dân tộc. Nếu không, xây
15
dựng và phát triển kinh tế HTX sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
1.1.2. Chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển kinh tế Hợp tác
xã trong thời kỳ đổi mới
Trên thực tế, HTX ra đời ở các nước tư bản. Cho đến nay mặc dù nền
kinh tế của các nước tư bản rất phát triển và xây dựng kinh tế HTX được xem
như là con đường để đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng ở các nước như Pháp,
Đức… mô hình HTX, liên minh HTX vẫn rất phát triển. Ở Châu Âu có những
Liên minh HTX xuyên quốc gia như tập đoàn Coop Norden hoạt động trên
các lĩnh vực phân phối hàng hoá trên khắp 3 nước: Đan Mạch, Thuỵ Điển,
Thuỵ Sỹ với 4 hình thức kinh doanh là cửa hàng, siêu thị, siêu siêu thị và bách
hoá. Như vậy kinh tế HTX có khả năng phát triển và phát triển mạnh mẽ. Ở
Việt Nam, phong trào HTX lâm vào khủng hoảng khi cơ chế quản lý cũ bộc
lộ ngày ngày rõ những khuyết tật của nó. Và khi bước sang cơ chế quản lý
mới thì vai trò của HTX, liên minh HTX dường như bị lãng quên. Bởi vì với
nền tảng cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội của HTX thì việc đổi mới và vực dậy
nó không phải là việc một sớm một chiều.
Đại hội VI của Đảng (12/1986), đại hội đầu tiên hoạch định đường lối
đổi mới đất nước, đã chỉ ra khuyết điểm và cũng là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước sau năm 1975. Đó là do quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố, vai trò chỉ đạo của nền kinh
tế quốc doanh suy yếu, các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa chưa được
sử dụng và cải tạo tốt cùng với việc chậm trễ sắp xếp cơ cấu kinh tế và duy trì
quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã làm suy yếu vai trò của các
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế sử dụng và cải tạo các thành
phần kinh tế khác. Trong đó kinh tế hợp tác với HTX giữ vai trò nòng cốt đã
có đóng góp không nhỏ đối với quá trình xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc sau năm 1954, tạo tiền đề cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
của cả nước sau này và xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn chi viện
16
cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước.
Tuy nhiên bước sang thập kỷ 70 của thế kỷ XX, phong trào HTX có
biểu hiện đi xuống, suy thoái, nhiều HTX tự giải thể. Sự thích ứng của mô
hình hợp tác hoá, tập thể hoá trong điều kiện chiến tranh đã bắt đầu giảm sút.
Phương thức tổ chức quản lý theo kiểu tập trung, phân phối theo nguyên tắc
bình quân làm cho các HTX huy động được tối đa sức người sức của để phục
vụ kháng chiến. Mặc dù vậy những điều đó cũng không che giấu được những
hạn chế của mô hình HTX. Trong đó, có thể thấy hiệu quả kinh tế của sản
xuất nông nghiệp trong thời kỳ 1965 - 1975 giảm dần: “thu nhập bình quân
của các HTX tăng 23,7%, trong khi đó chi phí sản xuất tăng 75%. Chăn nuôi
thua lỗ 10%. Mức lương thực sản xuất tính trên đầu người giảm từ 309,9 kg
(1961 - 1965) xuống 252,8 kg (1966- 1975)” [44; tr 32]. Do phải đóng góp
nghĩa vụ cho HTX tăng, nên xã viên không còn hăng hái với HTX như trước
nữa. Số HTX bị giải thể tăng, “năm 1973 toàn miền Bắc có 1.098 HTX tan
vỡ” [44; tr 32], một số HTX tồn tại chỉ là hình thức. Mặc dù sau đó Đảng và
Nhà nước đã cố gắng cải tiến cơ chế quản lý HTX, mở rộng mô hình tổ chức
và quản lý HTX nông nghiệp nhưng phong trào HTX vẫn lâm vào khủng
hoảng. Năm 1980 miền Bắc “chỉ còn lại 3.732 tập đoàn sản xuất và 173 hợp
tác xã quy mô vừa” [44; tr 49]. Như vậy HTX với những yếu tố phi kinh tế
của nó được cơ chế quản lý cũ chấp nhận đã dần dần không phù hợp với cơ
chế quản lý kinh tế trong thời kỳ mới nên đã nhanh chóng rơi vào khủng
hoảng.
Sự khủng hoảng của phong trào HTX cũng nằm trong tình hình khó
khăn chung của đất nước lúc bấy giờ. Trước nguy cơ khủng hoảng kinh tế - xã
hội ngày càng trầm trọng, đe dọa sự sống còn của con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, tại Đại hội VI (12/1986), Đảng ta đã quyết tâm “nhìn thẳng sự thật,
nói rõ sự thật” và “kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích sâu sắc những
sai lầm và khuyết điểm, vạch rõ nguyên nhân, nêu ra biện pháp khắc phục,
17
xác định nhiệm vụ và tiêu chuẩn phấn đấu trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên” [8; tr 12]. Trên cơ sở đó Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới
đất nước, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, trước hết là đổi mới tư duy kinh
tế. Đường lối đó đã có tác dụng nâng cao vai trò của thành phần kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể, đồng thời sử dụng có hiệu quả các thành phần kinh tế
khác. Để có được quan điểm đúng đắn về vai trò và vị trí của các thành phần
kinh tế, hướng đến xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, Đảng ta đã dựa trên những cơ sở
lý luận và thực tiễn có giá trị to lớn, phù hợp với thực tiễn đất nước.
Trong nhiều tác phẩm, các nhà lý luận Mácxít đã bàn nhiều về vấn đề
HTX, coi HTX là một vấn đề quan trọng. Vì theo các ông, giai cấp vô sản có
mối quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân lao động, đặc biệt là giai cấp
nông dân. Khi giai cấp vô sản thiết lập được nền chuyên chính của mình và đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề nông dân và giải quyết quyền lợi kinh
tế - xã hội của họ sẽ chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Các Mác và
Ăngghen đã nhận thức được vai trò và ý nghĩa của kinh tế hợp tác và tổ chức
HTX trong việc đưa nền sản xuất nhỏ đi lên nền sản xuất lớn, tạo ra những
tiền đề căn bản cho nền kinh tế chủ nghĩa xã hội. Ănghgen khẳng định: “trong
bước quá độ lên nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa đầy đủ, chúng ta sẽ phải áp
dụng trên quy mô lớn nền sản xuất hợp tác xã với đầy đủ tính cách là một
khâu trung gian - điều đó cả Mác và tôi không bao giờ hoài nghi cả” [39; tr
568]. Trong cuốn “Vấn đề nông dân Pháp - Đức” Ăngghen viết: “Nông dân
mọi nơi đều là nhân tố vô cùng quan trọng về nhân khẩu, sản xuất và lực
lượng chính trị. Nông dân là người lao động, lại là người tư hữu nhỏ, vừa có
khuynh hướng chủ nghĩa xã hội vừa có thể đi theo giai cấp tư sản. Với tư cách
là người tư hữu nhỏ họ giữ thái độ chống đối lại những tuyên truyền kêu gọi
họ đem quyền sở hữu những mảnh ruộng đất nhỏ đem nộp cho toàn bộ xã hội,
chính đảng của giai cấp vô sản vừa không thể vi phạm ý chí của tiểu nông,
18
vừa không thể khoan nhượng tâm lý tư hữu của tiểu nông. Nếu họ vĩnh viễn
bảo tồn khoảnh ruộng đất nhỏ và khi chúng ta đã nắm được chính quyền,
nhiệm vụ của chúng ta đối với tiểu nông trước tiên là chuyển sản xuất tư nhân
và chiếm hữu tư nhân của họ thành sản xuất và chiếm hữu của hợp tác xã.
Nhiệm vụ chủ yếu ở đây là làm cho nông dân hiểu rõ rằng chúng ta muốn cứu
vãn và bảo toàn nhà cửa, ruộng đất của họ, nhưng chỉ có thể thực hiện bằng
cách chuyển biến chúng thành chiếm hữu hợp tác xã và sản xuất của hợp tác
xã” [38; tr 310]. Như vậy Ăngghen cho chúng ta thấy tại sao phải lôi cuốn
nông dân đi vào hợp tác xã và việc tiến hành phải dựa trên các nguyên tắc tự
nguyện, từng bước và phải có sự giúp đỡ của nhà nước vô sản. Giai cấp vô
sản phải dựa trên lợi ích của giai cấp nông dân và giai cấp mình để lôi cuốn
họ vào hợp tác xã. Sự gia nhập hợp tác xã phải dựa trên tinh thần tự nguyện
khi nông dân thấy được tính ưu việt, hiệu quả của sản xuất hợp tác xã.
Mác và Ăngghen đã đưa ra lý luận về sự phát triển của hợp tác xã, về
vai trò không thể thiếu của kinh tế hợp tác. Các ông coi đây là sự phát triển tất
yếu của lực lượng sản xuất. Hợp tác xã với vai trò là một hoạt động sản xuất
và một thành phần kinh tế, là hình thức đảm bảo cho quyền lợi và lợi ích của
người nông dân và tất nhiên cũng là đảm bảo cho nền kinh tế của chuyên
chính vô sản.
Đến thời Lênin, ông đã phát triển lý luận của Các Mác và Ăngghen về
kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong bối cảnh của nước Nga lúc bấy giờ.
“Chính sách cộng sản thời chiến” được thay thế bởi “Chính sách kinh tế mới”,
do nó không còn phù hợp và không phát huy tác dụng tích cực đối với kinh tế
nước Nga lúc đó. Nhà nước thay thuế trưng thu lương thực thừa bằng thuế
lương thực, tự do buôn bán, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Trong đó Lênin đặc biệt quan tâm tới kinh tế hợp tác xã, Người cho rằng phải
thông qua nó để phát triển kinh tế hàng hoá, phát triển sức sản xuất. Bởi vì:
19
“một trong những cái cần thiết và đầy đủ để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã
hội, vì với quốc gia mà còn phổ biến sản xuất nhỏ, lạc hậu, thành phần giai
cấp nông dân là chủ yếu, trong khi Nhà nước vẫn chi phối những tư liệu sản
xuất là chủ yếu, giai cấp vô sản nắm chính quyền, thì giai cấp vô sản có thể
liên minh, giúp đỡ hàng triệu tiểu nông, tiểu thương, lãnh đạo tiểu nông, tiểu
thương vào hợp tác xã. Mà khi nhân dân đã vào hợp tác xã tới một mức đông
nhất thì chủ nghĩa xã hội - tự nó sẽ được thực hiện” [36; tr 8]. Như vậy việc
hướng người nông dân và những người tiểu sản xuất vào hợp tác xã là vấn đề
hết sức quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hợp tác xã có
thể trở thành tổ chức kinh tế hoạt động hiệu quả khi trao đổi hàng hoá, ký kết
hợp đồng kinh tế với nhà nước và các tổ chức kinh tế khác. Lênin cũng thấy
được vai trò to lớn của hợp tác xã khi giai cấp vô sản lên nắm chính quyền.
Lúc này quyền lợi của người nông dân được nhà nước đảm bảo và mức độ kết
hợp với lợi ích tư nhân, kiểm tra, kiểm soát lợi ích đó làm cho lợi ích tư nhân
phải phục tùng lợi ích chung. Lênin khẳng định rằng đất đai phải thuộc sở hữu
nhà nước chứ không phải của cá nhân nhà tư bản nào cả. Tính chất của hợp
tác xã xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở nguyên tắc tổ chức, hoạt động của
hợp tác xã: tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng có lợi. Nó là sở hữu tập thể,
sở hữu của nhà nước và sở hữu của giai cấp công nhân. Trong đó sự điều
hành, quản lý và giúp đỡ của Nhà nước đối với hợp tác xã là vô cùng quan
trọng “một chế độ xã hội chỉ nảy sinh ra nếu được giai cấp nhất định nào đó
giúp đỡ về mặt tài chính. Chủ nghĩa tư bản tự do cũng đã tốn hàng trăm năm,
hàng trăm triệu rúp” [36; tr 10]. Điều quan trọng là Lênin cho rằng phong trào
hợp tác xã là phù hợp với các nước nông nghiệp, là bước quá độ sang một chế
độ xã hội mới bằng con đường đơn giản nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất
đối với nông dân. Hợp tác xã phải thực hiện từng bước chuyển đổi để phù hợp
với sự phát triển của lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ cho người nông
dân. Nhưng Lênin chỉ ra rằng nông dân sẽ tham gia vào hợp tác xã một cách
20
tự nguyện nếu như hợp tác xã lấy lợi ích của họ làm nền tảng.
Những quan điểm chủ yếu trên về hợp tác xã của chủ nghĩa Mác -
Lênin là cơ sở lý luận soi sáng cho con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
đất nước ta, được chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu một cách đầy đủ và sáng tạo
trong điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người đã nhận thấy vai trò to
lớn của phong trào hợp tác xã trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
một nước với hơn 90% dân số là nông dân và luôn dành sự quan tâm đối với
hợp tác xã. Người dành nhiều thời gian để nghiên cứu vấn đề này. Vì thế tư
tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã cũng là cơ sở lý luận đối với việc hình
thành hệ thống chủ trương của Đảng ta về con đường xây dựng phong trào
hợp tác xã.
Trong tác phẩm Đường Kách Mệnh xuất bản năm 1927, Người liên hệ
lý luận hợp tác xã với truyền thống của dân tộc “nhóm lại thành giầu, chia
nhau thành khó” và “một cây làm chẳng nên non, nhiều cây chụm lại thành
hòn núi cao”, “Lý luận hợp tác xã đều ở trong những điều ấy” [40; tr 314].
Người còn nói về tính chất hợp tác xã là tổ chức kinh tế xã hội, nó không
thuần tuý là kinh tế và cũng không thuần tuý xã hội, nó khác hội buôn và khác
hội từ thiện. Theo Hồ Chí Minh loại hình hợp tác xã rất đa dạng như: hợp tác
xã tiền bạc, hợp tác xã mua, hợp tác xã bán, hợp tác xã sinh sản.
Trong những năm 50 của thế kỷ XX, khi miền Bắc được giải phóng và
đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã nói: “Kinh nghiệm lịch sử đã ghi rõ,
nông thôn phải kinh qua cuộc cách mạng, cải cách ruộng đất là một cuộc, thứ
hai là từ chỗ thực hiện tổ đổi công, hợp tác xã, nông trường, tập thể đến chỗ
xã hội hoá nông nghiệp” [41; tr 577]. Như vậy chúng ta đã thực hiện đường
lối cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp là đưa nông dân từ làm ăn
riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công, tiến dần lên hợp tác xã cấp thấp, rồi tiến lên hợp
tác xã cấp cao. Điều này cũng thể hiện quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ
21
nghĩa xã hội là chế độ xã hội không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn
hoá cho nhân dân do nhân dân tự xây dựng lấy, đảm bảo cho nhân dân cuộc
sống ấm no, tự do hạnh phúc, được làm chủ vận mệnh của mình. Vì thế Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khái quát và xây dựng một hệ thống các nguyên tắc để
tiến hành quá trình hợp tác hoá, phát triển kinh tế hợp tác. Năm nguyên tắc
cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đó là: tự nguyện, tuần tự, bình đẳng, cùng
có lợi, thiết thực, dân chủ, có sự lãnh đạo tổ chức hợp tác xã với sự hướng
dẫn, giúp đỡ về tài chính của Nhà nước. Có như vậy, xã viên mới hiểu rõ về
hợp tác xã, được nâng cao ý thức trách nhiệm coi “hợp tác xã là nhà, xã viên
là chủ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhận rõ vai trò của hợp tác xã đối với sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, vì nó không chỉ góp phần quá độ lên chủ
nghĩa xã hội với tư cách là một loại hình kinh tế thuộc thành phần kinh tế hợp
tác (hợp tác xã là nòng cốt), thể hiện sự phát triển một bước của quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất mà còn là con
đường để giải phóng sức lao động sản xuất của người nông dân.
Sau năm 1954, chúng ta tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
đồng thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam với xuất phát điểm
thấp: cơ sở vật chất, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, hậu quả do chiến
tranh để lại trong cuộc kháng chiến chống Pháp còn nặng nề, nhưng những
khó khăn đó không thể ngăn cản được nguyện vọng hiện thực hoá lý tưởng
của chúng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: trước khi mở rộng quy mô
hợp tác xã phải chuẩn bị tư tưởng và vật chất tuyệt đối, không nên nóng vội,
xây dựng hợp tác xã gắn với chủ nghĩa xã hội phải không ngừng nghiên cứu,
tổng kết, bám sát tình hình thực tế để kịp thời điều chỉnh. Việc học tập mô
hình hợp tác xã sẽ hết sức khó khăn vì chưa có tiền lệ nào. Hồ Chí Minh đã
rút ra một nguyên nhân làm hợp tác xã phát triển chậm, kém hiệu quả là do:
những tri thức phổ thông chưa được phổ cập ở thôn quê như tri thức về hợp
tác xã, cách thức tổ chức hợp tác xã, lợi ích đem lại từ hợp tác xã cho người
22
lao động… và do thiếu cán bộ dẫn dắt hợp tác xã, có cán bộ hợp tác xã không
gương mẫu, không dân chủ công khai. Trên thực tế, Hồ Chí Minh luôn quan
tâm đến hoạt động của hợp tác xã, bám sát thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý
luận. Vì vậy đối với Đảng ta, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp
tác xã kết hợp với đánh giá thực trạng kinh tế hợp tác qua từng giai đoạn là
yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách để tiến đến xây dựng kinh tế hợp tác xã thật sự ổn
định và vững mạnh.
Như vậy lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về hợp tác xã là nền tảng và cơ sở để Đảng ta tiếp tục con đường hợp tác hoá,
phát triển kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã.
Đảng ta nhận thấy Hợp tác xã là con đường đem lại lợi ích thiết thực, đảm
bảo cho cuộc sống của người lao động và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau
khi miền Bắc được giải phóng, Đảng ta đã lãnh đạo xây dựng kinh tế hợp tác với
loại hình hợp tác xã bậc thấp và bậc cao, đã góp phần khôi phục và phát triển
kinh tế đất nước, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Quá trình xây dựng kinh tế hợp tác được đánh dấu bởi sự ra đời của
Nghị quyết Trung ương 8 (khoá II) tháng 8/1955. Nghị quyết đã đề ra chủ
trương xây dựng thí điểm các hợp tác xã ở miền Bắc. Hội nghị lần thứ 14 của
BCH TW Đảng tháng 11/1958 chỉ rõ: phong trào hợp tác xã cần đi từ thấp
đến cao, từ tổ vần công, tổ đổi công đến hợp tác xã bậc thấp rồi hợp tác xã
bậc cao… Nghị quyết Trung ương lần thứ 16 tháng 4/1959 đã đưa ra các căn
cứ để khẳng định hợp tác hoá nông nghiệp là khâu chính trong toàn bộ sợi dây
chuyền cải tạo xã hội chủ nghĩa… Nghị quyết đã chỉ ra những quy định cơ
bản để tiến hành xây dựng hợp tác xã, cải tạo quan hệ sản xuất ở nông thôn…
đã tạo ra phong trào xây dựng hợp tác xã hết sức sôi nổi. Cùng đó là Hiến
pháp sửa đổi năm 1959 và điều lệ hợp tác xã nông nghiệp năm 1969 đã tạo
điều kiện cho phong trào ngày càng mở rộng. Năm 1975 có 97% hộ nông dân
23
tham gia hợp tác xã, trong đó 88% tham gia hợp tác xã bậc cao.
Trong hai thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ trước, nét nổi bật của nền kinh tế
Việt Nam là sự ra đời của rất nhiều hợp tác xã với những điển hình tiên tiến
như Hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình), Hợp tác xã Định Công (Thanh
Hoá)…. Sau năm 1975 phong trào hợp tác xã lâm vào khủng hoảng, bế tắc,
sản xuất bắt đầu trì trệ, đình đốn, làm ăn kém hiệu quả chủ yếu là do sự chi
phối của cơ chế quản lý kinh tế cũ. Phong trào phát triển nặng về hình thức,
chú trọng tính chính trị, xã hội hơn tính kinh tế. Hoạt động của hợp tác xã
theo kiểu “đánh trống ghi điểm” dẫn đến tình trạng ruộng đất bị bỏ hoang, đời
sống xã viên khó khăn, bức bối do không phát huy được sức sáng tạo trong
lao động và các nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn.
Ngày 11/1/1981 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 100
CT/TW, chủ trương khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động có tác dụng
hạn chế và giải quyết khó khăn trước mắt, mở ra hướng đi mới về đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp.
Với đường lối đổi mới được đưa ra trong Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, Đảng ta xác định kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã là một
trong hai thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo, là nền tảng của nền kinh tế
quốc dân. Đại hội đánh giá: kinh tế hợp tác chưa được tạo điều kiện để phát
triển và chưa phát huy được khả năng của mình nhưng lại giữ vai trò quyết
định trong nền kinh tế quốc dân và chi phối các thành phần kinh tế khác.
Ngày 5/4/1988 Bộ Chính trị (khoá IV) đã ra Nghị quyết 10 NQ/TW về
đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, khẳng định hợp tác xã là đơn vị tự
chủ, tự quản, hộ gia đình, xã viên là đơn vị nhận khoán của hợp tác xã. Nghị
quyết đã tạo điều kiện cho hợp tác xã phát triển, mở ra triển vọng mới cho
hợp tác xã nông nghiệp.
Ngày 20/3/1996 Quốc hội nước ta thông qua Luật hợp tác xã. Đây là
24
bước tiến mới trong nhận thức về kinh tế hợp tác xã, việc thành lập, chuyển
đổi và hoạt động của hợp tác xã dựa trên những quy định cụ thể. Hợp tác xã
trở nên đa dạng và năng động hơn để thích ứng với nền kinh tế thị trường.
Dựa trên Thông báo số 142 - TB/TW ngày 2/2/1996 về việc xác định
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đổi mới kinh tế hợp tác, hợp tác xã, ngày
24/5/1996 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 68 - CT/TW về phát
triển kinh tế hợp tác trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Ban Bí thư yêu cầu
các cấp uỷ đảng phải: nhận thức rõ kinh tế hợp tác là yêu cầu và xu thế tất yếu
khách quan trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ thị ra đời đã có tác dụng nâng cao nhận
thức của các cấp uỷ đảng về kinh tế hợp tác và hợp tác xã, vạch ra hướng phát
triển mới của các hợp tác trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế.
Đến Đại hội IX (tháng 4/2001), Đảng ta đã chủ trương: “kinh tế tập thể
phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng
cốt” [11; tr 98]. Tiếp đó Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá IX) số 13 - NQ/TW ngày 18/3/2002 đã khẳng định: “kinh tế
tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã dựa trên sở
hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao
động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các
thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực, địa bàn (trừ một số lĩnh
vực có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ
tham gia dịch vụ, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người có ít
vốn và người có nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ” [14; tr 646].
Mục tiêu đến năm 2010 là “đưa kinh tế tập thể thoát khỏi những yếu kém hiện
nay, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, tiến tới có tỷ trọng ngày càng
25
lớn hơn trong GDP của nền kinh tế” [14; tr 646].
Ngày 17/11/2003 kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá IX đã thông qua Dự án
Luật hợp tác xã (sửa đổi) có những điểm mới như: cho phép hợp tác xã được
vay vốn ngân hàng, huy động vốn bằng các hình thức theo quy định của pháp
luật, nguyên tắc tự chủ trong hoạt động của hợp tác xã đã cụ thể hơn… để tạo
ra môi trường pháp lý phù hợp cho hợp tác xã.
Ngày 8/9/2003 Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 43 - CT/TW về lãnh đạo Đại
hội III Liên minh hợp tác xã Việt Nam (nhiệm kỳ 2005 - 2009) để tiếp tục
thực hiện Nghị quyết 13 Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) về đổi mới, phát
triển nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và triển khai thi hành Luật hợp tác xã
sửa đổi năm 2003. Chính phủ cũng đã ban hành các nghị định hướng dẫn thi
hành Luật hợp tác xã và hoạch định phát triển kinh tế tập thể (2005 - 2010).
Với những nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta, năm 2005 kinh tế tập thể
có những chuyển biến tích cực. Nhiều hợp tác xã mới được thành lập và duy
trì ở mức cao, hoạt động theo Luật hợp tác xã. Các hợp tác xã chuyển dịch
theo hướng phi nông nghiệp. Nhiều mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã mới phát
triển đa dạng ở các địa phương nên đã phát triển vốn điều lệ, đổi mới công
nghệ, kỹ thuật… Cùng với xu thế phát triển nói chung của nền kinh tế Việt
Nam, hợp tác xã đã liên kết với các cơ quan nghiên cứu khoa học, các thành
phần kinh tế khác… Tuy nhiên phải thừa nhận rằng hoạt động của các hợp tác
xã ở miền núi, vùng cao, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, vướng
mắc, các hợp tác xã điển hình, tiên tiến còn ít.
Cuối năm 2005 cả nước ta có trên 17.000 hợp tác xã, trong đó có
khoảng 8.500 hợp tác xã nông nghiệp, 2.150 hợp tác xã công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp, trên 600 hợp tác xã dịch vụ - thương mại, trên 500 hợp tác xã
xây dựng, gần 500 hợp tác xã thuỷ sản, trên 1.100 hợp tác xã giao thông vận
tải, trên 2.600 hợp tác xã dịch vụ điện năng, 50 hợp tác xã môi trường… và
26
trên 500 quỹ tín dụng nhân dân, tạo việc làm cho trên 10 triệu lao động.
Mục tiêu của Đảng ta là đến năm 2010 là đưa số lượng hợp tác xã tăng
bình quân 7,2%/năm, số lượng xã viên tăng khoảng 7,3%, tỷ trọng tổng sản
phẩm khu vực kinh tế tập thể chiếm bình quân khoảng 13,8% GDP cả nước.
Như vậy phát triển kinh tế hợp tác xã là một trong những nội dung quan trọng
của chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhưng đòi hỏi phải tiếp tục tìm tòi, đổi
mới hướng đi và cách thức thực hiện để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra.
1.1.3. Tình hình kinh tế hợp tác xã ở Sơn La trước năm 1996
Quá trình ra đời và hoạt động của các hợp tác xã ở Sơn La bắt nguồn từ
đường lối của Đảng ta và được sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh
Sơn La. Phong trào hợp tác xã được bắt đầu trong các ngành nông lâm
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, vận tải thô sơ, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã
tín dụng từ cuối thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Trong suốt quá trình ấy, hợp tác
xã đã trải qua những giai đoạn phát triển, nhiều cuộc vận động, điều chỉnh và
đổi mới quan trọng, từ hợp tác xã cấp thấp lên hợp tác xã cấp cao, hợp tác xã
quy mô nhỏ lên hợp tác xã quy mô lớn dựa trên khẩu hiệu là: tiến lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa. Trước năm 1988, toàn tỉnh Sơn La có 979 hợp tác xã
nông nghiệp. Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 5/4/1988, số
lượng hợp tác xã tăng lên thành 1.300 hợp tác xã. Trong đó có 305 hợp tác xã
ở vùng thấp, 503 hợp tác xã ở vùng giữa, 465 hợp tác xã vùng cao chủ yếu
quy mô 1 bản.
Kinh tế hợp tác xã của Sơn La đã góp phần vào sự phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh nhằm huy động sức người sức của, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, ổn định tình hình chính trị, an
ninh quốc phòng và đặc biệt là phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Trong báo cáo số 02/BC
của Ban chỉ đạo 68 tỉnh Sơn La (được thành lập để triển khai thực hiện chỉ thị
27
số 68/CT của Ban Bí thư Trung ương Đảng) về tình hình hợp tác xã ở Sơn La
trước năm 1993 đã khẳng định: “Trải qua những năm tháng, hợp tác xã Sơn
La đã có vai trò vị trí xứng đáng trong lịch sử nước nhà. Trong phong trào
hợp tác hoá ở Sơn La đã xuất hiện nhiều cá nhân, đơn vị tiên tiến trong nông
lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; phong trào 5 tấn thóc/ 1ha; thực hiện theo
lời Bác dạy: “hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ”. Bước vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, hợp tác xã là hậu phương lớn… Cùng với nhân dân cả
nước, nhân dân tỉnh Sơn La đã có nhiều đóng góp cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, giải phóng miền Nam…” [46; tr 3] và trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước “nông dân, thợ thủ công Sơn La thông qua phong
trào hợp tác hoá đã đóng góp không nhỏ vào việc huy động sức người sức của
cho tiền tuyến, thực hiện chính sách hậu phương” [46; tr 4].
Tuy nhiên mô hình hợp tác xã lúc đó mà điển hình là hợp tác xã nông
nghiệp đã dần dần bộc lộ những hạn chế là đồng nhất hợp tác hoá với tập thể
hoá triệt để “đã làm thui chột kinh tế hộ nông dân” [46; tr 5], kìm hãm tính
tích cực, sáng tạo của người lao động, xã viên trở thành người làm thuê cho
hợp tác xã, lợi ích người lao động bị vi phạm, xã viên không thiết tha với hợp
tác xã nữa, hiệu quả của hợp tác xã rất thấp do tổ chức quản lý cồng kềnh,
quan liêu, xã viên là người gánh chịu nặng nề nhất, lợi ích của nhà nước cũng
giảm sút, kinh tế hợp tác xã không phát triển.
Khi đất nước đi vào thời kỳ đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế được thay
đổi, chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế theo phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa. Các hợp tác xã gặp nhiều khó khăn do cách quản lý
cũ không phù hợp với cơ chế mới. Chất lượng, hiệu quả của hợp tác xã giảm
sút rõ rệt, chưa đáp ứng được nhu cầu đi lên và đổi mới của đất nước. Trước
nhu cầu tất yếu của việc chuyển đổi mô hình, cách thức quản lý hợp tác xã
cho phù hợp, Đảng và Chính phủ đã ra nhiều nghị quyết, nghị định nhằm từng
28
bước tháo gỡ khó khăn.
Thực hiện thông báo số 207/TB ngày 27/7/1993 của Văn phòng Chính
phủ, ngày 19/10/1993 UBND tỉnh ra quyết định số 620/QĐ - UB về việc công
nhận thành lập Hội đồng lâm thời liên minh các hợp tác xã tỉnh Sơn La. Ngày
13/4/1994 UBND tỉnh ra thông báo số 28/TB về chức năng nhiệm vụ của Hội
đồng lâm thời Liên minh các hợp tác xã tỉnh và các sở, ban, ngành, đoàn thể
của tỉnh có trách nhiệm phối hợp, giúp đỡ Hội đồng hoàn thành nhiệm vụ.
Đây là sự cụ thể hoá chủ trương của Nhà nước, thể hiện sự quan tâm đến khu
vực kinh tế hợp tác của tỉnh Sơn La.
Ngày 3/3/1994 Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 84/TTg về chấn
chỉnh tổ chức quản lý sản xuất và kinh doanh của khu vực kinh tế hợp tác xã
và quyết định số 763/TTg ngày 19/12/1994 về một số chính sách đối với kinh
tế hợp tác xã (tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, vận tải, thương mại và dịch
vụ). Việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó có thành phần
kinh tế hợp tác xã là chiến lược về kinh tế xã hội cơ bản nhất quán của Đảng
và Nhà nước ta.
Hệ thống hợp tác xã ở Sơn La sau nhiều năm hoạt động yếu kém, nay
từng bước được khôi phục và củng cố. Nhưng khả năng về tài chính, năng lực kỹ
thuật, quản lý còn nhiều hạn chế nên rất cần sự quan tâm, giúp đỡ của Nhà nước.
Để định hướng phát triển sản xuất và kinh doanh cho khu vực kinh tế
hợp tác xã gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thích ứng
được với cơ chế thị trường, khả năng, điều kiện, năng lực của hợp tác xã, khai
thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên, con người và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, UBND tỉnh ra chỉ thị số 15 CT/UB về việc chấn
chỉnh tổ chức và quản lý sản xuất, chính sách khuyến khích khu vực kinh tế
hợp tác xã. Chỉ thị nêu rõ các sở, ban, ngành, UBND các huyện thị “chú trọng
đúng mức công tác lãnh đạo, chỉ đạo kinh tế hợp tác xã lĩnh vực ngành quản
29
lý, tạo mọi điều kiện thuận lợi để khôi phục và khuyến khích phát triển các
hình thức hợp tác xã đa dạng” [51; tr 1]. Cụ thể là giao nhiệm vụ cho Sở Giao
thông vận tải, Sở Thương mại - Du lịch, Sở Công nghiệp, Sở Tài chính vật
giá, Cục thuế, Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh tiến hành đánh giá, khảo sát
để khẩn trương tiến hành chấn chỉnh, đổi mới hợp tác xã. Những HTX có điều
kiện, triển vọng thì phải khôi phục, củng cố và phát triển theo hướng đa dạng.
Hợp tác xã nào không có khả năng khôi phục và phát triển thì chuyển đổi
thành tổ hợp tác hoặc giải thể. Trong năm 1995, mỗi huyện thị được xây dựng
3 HTX mới thuộc các lĩnh vực kinh tế: vận tải, xây dựng và mua bán. Nội
dung quan trọng của Chỉ thị là: các HTX, hiệp hội, liên hiệp HTX… trong các
lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, vận tải, thương mại và dịch vụ có
đầy đủ các điều kiện theo các quy định hiện hành đều được UBND huyện thị
công nhận việc thành lập, công nhận điều lệ và cấp đăng ký kinh doanh, là
một tổ chức kinh tế xã hội có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản
riêng, bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và
hoạt động theo quy định pháp luật hiện hành. Với những nội dung như trên
Chỉ thị 15/CT của UBND tỉnh Sơn La có tác dụng định hướng phát triển phù
hợp cho các HTX, thể hiện quan điểm mới của Đảng ta đối với kinh tế HTX.
Kinh tế HTX của Sơn La trước năm 1996 đã được khảo sát, đánh giá và
trình bày trong Đại hội đại biểu Hội đồng Liên minh các HTX lần thứ nhất
tháng 3/1995 có thể khái quát thành những điểm sau:
Trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp: năm 1963, có 53 hợp tác xã với
577 xã viên hoạt động chuyên nghiệp ở thị trấn, thị xã và huyện lị, năm cao
nhất có 1.110 tổ với trên 10 nghìn lao động tham gia hoạt động bán chuyên
nghiệp ở các HTX. Tuy nhiên cho đến năm 1989, còn có 20 HTX với 800 xã
viên, đến năm 1993 còn có 15 hợp tác xã với 430 xã viên, giảm 25%.
Trong lĩnh vực HTX mua bán, năm cao nhất có 174 HTX với 1650 xã
30
viên tăng 13 lần so với năm 1960 [18; tr 2].
Trong lĩnh vực giao thông vận tải, năm 1989 có 2 HTX, năm 1993
không còn HTX nào [18; tr 2].
Lĩnh vực thương mại, năm 1983, có 174 HTX, đến năm 1993 còn 5
HTX nhưng chỉ còn 3 HTX còn hoạt động [18; tr 2].
Như vậy phong trào hợp tác xã ở Sơn La trước năm 1996 đã có biểu
hiện đi xuống, thậm chí tan rã. Trong khi Đảng chủ trương phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát
triển mạnh, thì HTX ở các lĩnh vực lại gặp khó khăn, phát triển chậm và giảm
sút nghiêm trọng. Nguyên nhân của thực trạng trên ở Sơn La là do khu vực
kinh tế HTX hình thành và phát triển trong cơ chế bao cấp và “nền kinh tế
miền núi chậm phát triển, quy mô HTX quá lớn không hợp lý vượt quá khả
năng của cán bộ quản lý HTX” [18; tr 3]; bên cạnh đó sự giảm sút của phong
trào HTX đã gây sự thiếu thiếu tin tưởng đối với các cấp uỷ, “sự lãnh đạo của
các cấp uỷ, sự quản lý hỗ trợ của nhà nước đối với khu vực kinh tế HTX bị
buông lỏng, coi nhẹ, kéo dài nhiều năm” [18; tr 3]; các chế độ chính sách của
Đảng để khuyến khích phát triển kinh tế HTX chưa được tổ chức triển khai
kịp thời, phù hợp với một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn như: Chỉ thị
154/CT ngày 15/5/1991 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, Chỉ thị 08/CT - UB
ngày 3/7/1993 của Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La và Chỉ thị 84/TTg ngày
03/03/1993 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh tổ chức và quản lý sản
xuất kinh doanh. Sự giảm sút của khu vực kinh tế HTX là do nhiều nguyên
nhân chủ quan và khách quan nhưng không phải do bản chất của thành phần
kinh tế HTX.
Đánh giá thực trạng kinh tế HTX của tỉnh và chỉ rõ những nguyên nhân
là việc làm cần thiết, nhưng từ đó phải tìm ra những giải pháp đúng đắn để
kịp thời chấn chỉnh sản xuất kinh doanh và đổi mới quản lý. Những giải pháp
31
đó bao gồm: định hướng về kinh tế HTX dựa trên chủ trương Nghị quyết Đại
hội VII: “tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự
nguyện, dân chủ, bình đẳng, phát huy và kết hợp hài hoà sức mạnh của tập thể
và sức mạnh của xã viên. Phát triển các hình thức hợp tác đa dạng và mở rộng
các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mua
bán, tín dụng…” [9; tr 17], để củng cố niểm tin của quần chúng nhân dân đối
với sự lãnh đạo của Đảng; đổi mới về hình thức và quy mô tổ chức, phương
thức hoạt động theo hướng đa dạng hoá, hợp tác hoá; đổi mới quyền sở hữu tài
sản, vốn quỹ của HTX; đổi mới về cơ chế tổ chức quản lý và cán bộ và đổi mới
phân phối thu nhập. Những phương hướng trên nhằm giải quyết khó khăn, từng
bước làm thay đổi bộ mặt kinh tế HTX của tỉnh trong những năm tới.
Những nội dung trên gắn với hoạt động của Hội đồng Liên minh các
HTX tỉnh Sơn La, là cơ quan trực tiếp theo dõi và triển khai, đánh giá kết quả
thực hiện chủ trương, chính sách đối với khu vực kinh tế HTX của tỉnh. Theo
Báo cáo của Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La ngày 23/12/1995, kết
quả thực hiện phương hướng nhiệm vụ năm 1995 là: 1 HTX được củng cố
theo nội dung đổi mới, 9 HTX được củng cố theo nội dung xác định lại
phương hướng sản xuất và kiện toàn ban quản lý, thành lập 3 HTX mới.
Như vậy kinh tế hợp tác xã ở Sơn La đã bắt đầu có chuyển biến tích
cực. Tuy số HTX đạt được phương hướng đặt ra còn ít nhưng có tác dụng
định hướng cho các HTX còn lại.
1.2. Những chủ trương và biện pháp lớn của Đảng bộ
Ngày 25/1/1997 Ban chỉ đạo 68 có tờ trình Ban thường vụ Tỉnh uỷ số
04TT/BCĐ về chủ trương phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã ở Sơn La. Tờ
trình đã đánh giá thực trạng kinh tế hợp tác xã, nêu phương hướng phát triển
kinh tế hợp tác xã. Nhìn chung hợp tác xã được xây dựng và phát triển rộng
rãi trong các lĩnh vực từ những năm 60 đến đầu những năm 90 của thế kỷ
32
trước nhưng khi bước sang thời kỳ đổi mới “các HTX trong tất cả các lĩnh
vực, các ngành đều gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng, thậm chí khủng hoảng”
[45; tr 2]. Các hợp tác xã nông nghiệp được giao quyền sử dụng đất đai, trở
thành đơn vị kinh tế tự chủ, không còn trực tiếp điều hành toàn bộ quá trình
sản xuất, chuyển đổi sang làm tư vấn và dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ “nhưng
ở mức độ hạn chế, tuyệt đại đa số các HTX tồn tại chỉ là hình thức… lẫn lộn
chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của tổ chức kinh tế với chức năng
hành chính của chính quyền” [45; tr 2]; hợp tác xã trong lĩnh vực tiểu thủ công
nghiệp, xây dựng, vận tải phần lớn bị giải thể, số còn lại tuy bước đầu được
củng cố song còn gặp nhiều khó khăn, mức độ hợp tác còn hạn chế cả bề rộng
và bề sâu. Nguyên nhân của thực trạng này là sự bất hợp lý của mô hình HTX
kiểu cũ, các HTX không có đủ điều kiện về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình
độ của đội ngũ cán bộ, ngoài ra nền kinh tế Sơn La vốn chủ yếu là kinh tế tự
cấp, tự túc do phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số, trình độ sản xuất
hàng hóa thấp, thị trường hạn chế và phân tán; các cấp uỷ đảng ở Sơn La chưa
thấy hết được vai trò của kinh tế HTX, chậm có chủ trương, giải pháp, cơ chế,
chính sách cụ thể để củng cố, đổi mới và phát triển kinh tế HTX.
Như vậy có thể thấy, trong giai đoạn này, kinh tế hợp tác và HTX sẽ có
những biến động lớn. Với Sơn La, việc chuyển từ nền kinh tế tự cấp, tự túc sang
nền kinh tế hoá nhiều thành phần có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thực hiện đường
lối đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế tập thể không thể thiếu vai trò của khu
vực kinh tế HTX. Vì đây là thành phần kinh tế gắn bó và giúp đỡ người nông dân
và người lao động phát triển sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ban chỉ đạo 68 của tỉnh thấy rằng, hợp tác xã “là một hình thức phát
triển cao của kinh tế hợp tác, có tư cách pháp nhân, có tài khoản, có đăng ký
sản xuất kinh doanh, có đóng góp cổ phần, lao động, và phân phối theo vốn
và lao động đóng góp, hoạt động theo luật hợp tác xã” [45; tr 5]; đổi mới và
33
phát triển các hình thức kinh tế hợp tác và hợp tác xã, những nơi có điều kiện
sẽ tổ chức hợp tác xã theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi trước hết là
trong lĩnh vực nông nghiệp, dịch vụ vận tải, mua bán, tín dụng, hợp tác xã
tiêu thụ, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp… trên cơ sở sự phát triển của kinh tế
hộ gia đình; đồng thời duy trì các HTX hiện có để từng bước tiếp tục chuyển
đổi hợp tác xã trong các ngành, các lĩnh vực.
Thực hiện Chỉ thị số 68 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khoá VII), Nghị định 16 cuả Chính phủ và đề xuất của Ban chỉ đạo 68 trong
tờ trình số 04 TT/BCĐ, Ban thường vụ tỉnh Sơn La đã ra Nghị quyết số
02/NQ ngày 10/5/1997 về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác, hợp
tác xã trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế.
Nghị quyết đã khái quát tình hình kinh tế hợp tác xã trong các ngành và
lĩnh vực kinh tế năm 1997: các hợp tác xã nông nghiệp được giao quyền sử
dụng đất đai, trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, không còn trực tiếp điều hành
toàn bộ quá trình sản xuất, chuyển đổi sang làm tư vấn và dịch vụ hỗ trợ cho
kinh tế hộ “nhưng ở mức độ hạn chế, tuyệt đại đa số các HTX tồn tại chỉ là
hình thức… lẫn lộn chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh cuả tổ chức kinh
tế với chức năng hành chính của chính quyền” [51; tr 2]; trong lĩnh vực tiểu
thủ công nghiệp phần lớn các HTX bị giải thể, đã được củng cố một số HTX,
còn lĩnh vực tín dụng - thương mại bị đổ vỡ hoàn toàn và đang được xây dựng
thí điểm.
Với thực trạng kinh tế HTX như trên, Nghị quyết đã đưa ra quan điểm:
“hợp tác xã là tổ chức kinh tế được xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện, dân
chủ, cùng có lợi, mục đích hoạt động của hợp tác xã là hiệu quả kinh tế của
mỗi thành viên và hợp tác để phát triển cộng đồng” [51; tr 4]; Kinh tế hợp tác
và hợp tác xã phải “tham gia tích cực và có hiệu quả trong quá trình chuyển
34
dịch cơ cấu kinh tế theo quy hoạch vùng sản xuất, quy hoạch phát triển cây
con ngành nghề theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, hướng mạnh về
xuất khẩu” [51; tr 4].
Nghị quyết 02/NQ của Tỉnh uỷ Sơn La là sự cụ thể hoá chủ trương của
Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá VI), tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh
tế nhiều thành phần trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Theo tinh thần của Nghị quyết số 02/NQ, Tỉnh uỷ đã thành lập Ban chỉ
đạo chuyển đổi hợp tác xã theo luật do đồng chí phó Chủ tịch UBND tỉnh làm
trưởng ban, Chủ tịch Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh làm phó ban thường
trực, các ngành có liên quan là thành viên.
Nghị quyết đã chỉ ra phương hướng phát triển đúng đắn cho khu vực
kinh tế HTX ở Sơn La, là sự vận dụng Chỉ thị 68/CT của Ban Bí thư Trung
ương Đảng, Luật HTX, các Nghị định số 02, 15, 16 của Chính phủ về hợp tác
xã và Nghị quyết Đại hội VIII, Nghị quyết Đại hội tỉnh đảng bộ Sơn La lần
thứ X. Nghị quyết đã khẳng định quyết tâm đổi mới và phát triển kinh tế HTX
một cách mạnh mẽ từ thấp đến cao, đa dạng nhưng thống nhất theo đúng Luật
HTX, mỗi HTX phải có điều lệ riêng dựa trên mẫu điều lệ do Chính phủ ban
hành. Đặc biệt phải phát huy vai trò của kinh tế hộ gia đình, các doanh nghiệp
nhà nước nông lâm nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, giúp
cho hợp tác xã… về kỹ thuật sản xuất, chuyển giao công nghệ, dịch vụ vật tư,
đào tạo nghề… để nhanh chóng thoát khỏi khó khăn, định hướng phát triển
đúng đắn.
Năm 1997 là năm thứ hai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
(1996 - 2000) theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng. Trong khu
vực kinh tế HTX là năm đầu thực hiện Luật HTX. Chính phủ ra 9 nghị định
35
về thực hiện Luật HTX, 5 thông tư của Bộ, ngành Trung ương hướng dẫn
thực hiện nghị định của Chính phủ. Ở Sơn La, sau Nghị quyết số 02/NQ của
Ban thường vụ Tỉnh uỷ về việc tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác
và hợp tác xã trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế, UBND tỉnh đã có Quyết
định số 1025/QĐ - UB ngày 22/7/1997 theo tinh thần của Nghị định 16/CP
ngày 21/5/1997 của Chính phủ. Quyết định số 1025/QĐ - UB đã ban hành
quy định về chuyển đổi và đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo Luật
HTX, đối với các HTX làm thí điểm trên các lĩnh vực kinh tế và quỹ tín dụng
nhân dân trong toàn tỉnh.
UBND tỉnh ban hành kế hoạch số 442/KH về tiến hành mở đợt thí điểm
chuyển đổi, đăng ký một số HTX tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, xây
dựng và vận tải, đồng thời ban hành quy chế hoạt động của Hội đồng Liên
minh các HTX tỉnh.
Sau gần 2 năm thực hiện các nghị quyết, quyết định và kế hoạch,
UBND tỉnh ra quyết định số 297/QĐ - UB ngày 03/03/1999 về việc ban hành
quy định thực hiện chính sách khuyến khích phát triển HTX trên địa bàn tỉnh.
Quyết định của UBND tỉnh dựa trên Nghị định số 15/CP ngày 21/2/1997,
Luật HTX và các nghị định khác của Chính phủ đối với hợp tác xã. Mục đích
của Quyết định số 297/QĐ - UB là thúc đẩy việc chuyển đổi, thành lập mới
HTX trên lĩnh vực kinh tế, hoạt động theo Luật HTX, khuyến khích các tổ,
nhóm HTX phát triển thành HTX và triển khai chính sách phù hợp với điều
kiện cụ thể của tỉnh.
Chính sách khuyến khích phát triển HTX trong Quyết định bao gồm
những nội dung như sau:
Các HTX được ưu đãi về đất: HTX nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản được Nhà nước giao đất không phải trả tiền sử dụng đất, các
HTX kinh doanh ở xã vùng 3 thì được miễn thuế thuê đất, kinh doanh ở xã
36
vùng 2 thì được miễn tiền thuê đất trong 5 năm kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận kinh doanh và được giảm tiền thuê đất trong 5 tiếp theo. Đối với
các HTX hoạt động trước ngày Luật HTX ban hành đã thực hiện chuyển đổi
và đăng ký kinh doanh lại, được xem xét theo quy định của Luật Đất đai và
Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung.
Các HTX được ưu đãi về thuế: HTX nông lâm ngư nghiệp có sản phẩm
chưa qua chế biến hoặc mới sơ chế thì được miễn thuế giá trị gia tăng và thuế
thu nhập doanh nghiệp. Về thuế giá trị gia tăng thì các HTX sản xuất kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện nộp thuế. Các HTX có cơ sở sản
xuất, xây dựng, vận tải hoạt động sản xuất kinh doanh bị lỗ do nguyên nhân
số thuế giá trị gia tăng phải nộp của các hoạt động này lớn hơn số thuế theo
mức doanh thu trước đây thì được phép giảm thuế.
Các HTX sản xuất kinh doanh có dự án đầu tư vào các lĩnh vực ngành
nghề được ưu đãi đầu tư theo danh mục A Nghị định số 07 - 1998/NĐ - CP
ngày 15/01/1998 của Chính phủ thì được ưu đãi về thuế như sau: đầu tư ở xã
vùng 3 được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm đầu và được giảm
50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo; đầu tư ở xã vùng 2 được miễn
thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm đầu và được giảm 50% số thuế phải
nộp trong 7 năm tiếp theo; đầu tư ở xã vùng 1 thì được miễn thuế thu nhập
doanh nghiệp trong 3 năm đầu và được giảm số thuế trong 5 năm tiếp theo.
Tuy nhiên chính sách này áp dụng đối với các HTX sản xuất kinh doanh đã
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo Luật HTX và được ưu đãi
về thuế kể từ khi có thu nhập chịu thuế.
Với các HTX kinh doanh dịch vụ thuộc ngành nghề ưu đãi đầu tư theo
quy định của Chính phủ thì được ưu đãi như sau: kinh doanh ở xã vùng 3 thì
được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm và được giảm 50% số
thuế phải thu nhập trong 5 năm tiếp theo; kinh doanh ở xã vùng 2 thì được
37
miến thuế thu nhập doanh nghiệp trong 1 năm và được giảm 50% số thuế
trong 4 năm tiếp theo; kinh doanh ở xã vùng 1 thì được miến thuế thu nhập
doanh nghiệp trong 1 năm và giảm 50% số thuế trong 3 năm tiếp theo.
Các HTX được ưu tiên về vốn sản xuất kinh doanh: được vay vốn kinh
doanh của hệ thống ngân hàng thương mại và được giảm lãi xuất tín dụng
50% khi kinh doanh ở vùng 3, giảm 15% nếu kinh doanh ở vùng 2. Ngoài ra
HTX còn được vay vốn từ các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội
của Chính phủ, quỹ quốc gia nhằm giải quyết việc làm, quỹ hỗ trợ đầu tưu
phát triển của Nhà nước. Những HTX sản xuất các loại cây chủ lực, cây công
nghiệp, chăn nuôi theo hướng phát triển kinh tế hàng hoá thuộc các vùng quy
hoạch được UBND tỉnh phê duyệt được áp dụng chính sách 413/QĐ - UB
ngày 03/4/1996 của UBND tỉnh, được Nhà nước hỗ trợ lãi suất bằng cách vay
vốn lãi xuất thấp và được tiếp nhận các dự án đầu tư của Nhà nước, các tổ
chức quốc tế, được bố trí vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tham gia đấu
thầu để kinh doanh một số mặt hàng chính sách xã hội có trợ cước trợ giá của
Nhà nước.
HTX được ưu đãi về xuất khẩu nếu có thị trường tiêu thụ ở nước ngoài
và do HTX trực tiếp sản xuất. Vì thế HTX cũng được quyền liên doanh, liên
kết quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp khác và các
tổ chức cá nhân để giúp HTX tạo thị trường, đào tạo tay nghề, đổi mới và
chuyển giao công nghệ.
Việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cũng được quan tâm, cán bộ điều hành,
quản lý HTX được giảm 50% học phí nếu đi học ở các cơ sở của Nhà nước và
hệ thống thuộc Liên minh HTX Việt Nam. Nếu học tại tỉnh thì được miễn
100% học phí, giảm 50% nếu học ngoài tỉnh và được trợ cấp tiền ăn, sinh hoạt
phí trong thời gian đào tạo tại cơ sở.
Các HTX hoạt động theo Luật HTX được đóng bảo hiểm xã hội cho xã
38
viên HTX theo quy định hiện hành của pháp luật.
Như vậy chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác xã của
UBND tỉnh tại quyết định số 297 và các nghị quyết trên đã bám sát thực trạng
kinh tế HTX Sơn La, nắm rõ chính sách của Đảng và đưa ra chính sách
khuyến khích phát triển HTX, tạo điều kiện giúp HTX mở rộng hoạt động,
vươn lên phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.
1.3. Sự chỉ đạo xây dựng kinh tế hợp tác xã
1.3.1. Quá trình chỉ đạo xây dựng kinh tế hợp tác xã
Sự đổi mới về nhận thức đối với khu vực kinh tế hợp tác xã, tích cực
xây dựng kinh tế HTX phải dựa trên cơ sở nắm vững và quán triệt chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Đảng bộ tỉnh Sơn La đã đưa ra quan điểm
về đặc trưng cơ bản của kinh tế HTX, về phát triển kinh tế hợp tác với nhiều
hình thức từ thấp đến cao với quy mô và mức độ khác nhau, xác định phương
hướng nhiệm vụ đổi mới HTX. Nội dung đổi mới là đổi mới về hình thức và
quy mô tổ chức, phương hướng hoạt động theo hướng đa dạng hoá, hợp tác
hóa, đổi mới về quyền sở hữu tài sản, vốn quỹ của hợp tác xã, đổi mới về cơ
chế tổ chức quản lý và cán bộ tạo điều kiện tốt để đổi mới thu nhập của cán
bộ, xã viên HTX.
Đổi mới HTX là yêu cầu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và trước hết là đối với công cuộc đổi mới của đất nước ta. Đảng bộ tỉnh
Sơn La cũng như các đảng bộ địa phương khác đã nhận thấy đổi mới để phát
triển hợp tác xã là một bước ngoặt mang tính lịch sử. Đổi mới HTX nhằm
nâng cao và phát huy vai trò, vị trí của kinh tế HTX trong nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần. Năm 1996 là năm có ý nghĩa đối với khu vực kinh tế
hợp tác xã, Luật Hợp tác xã ra đời đã mở đầu cho sự chuyển biến mạnh mẽ
của HTX trong thời kỳ đổi mới. Ở Sơn La, năm 1996 cũng là năm tiếp tục
đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương của Đảng, các nghị quyết, quyết định, chỉ
39
thị của Đảng bộ tỉnh và UBND tỉnh, kinh tế HTX đã bước đầu có những
chuyển biến theo hướng tích cực. Song song với những điều kiện đó, các hợp
tác xã phải quyết tâm chủ động đổi mới.
Đảng bộ tỉnh Sơn La đã chỉ đạo tiến hành khảo sát tình hình kinh tế
HTX trên địa bàn tỉnh để đưa ra những kết luận về thực trạng kinh tế HTX,
những nguyên nhân của thực trạng và trên cơ sở đó tìm ra phương thức hoạt
động có hiệu quả cho HTX. Xã viên, hộ gia đình, hộ cá thể có thể lựa chọn
một trong các loại hình hợp tác để tham gia phát triển sản xuất.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới trong 10 năm (1986 -
1996) đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. Kinh tế HTX
cũng vì thế mà có những chuyển biến tích cực. Ở Sơn La, nền kinh tế giữ
vững thế ổn định và đang tìm tòi, thử nghiệm hướng phát triển mới với sự
giúp đỡ của Trung ương. Đời sống của nhân dân các dân tộc trong tỉnh từng
bước được cải thiện .
Đối với khu vực kinh tế HTX, Đảng bộ tỉnh đã giao nhiệm vụ cho cơ
quan chuyên trách là Hội đồng liên minh các HTX tỉnh Sơn La về việc theo
dõi, giúp đỡ các HTX hoạt động trên cơ sở sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ
Sơn La. Hội đồng Liên minh các HTX đã có công văn báo cáo hằng năm về
kết quả hoạt động của HTX và phương hướng nhiệm vụ đặt ra đối với các đơn
vị thành viên. Đồng thời Ban thường trực Hội đồng liên minh đã tham mưu
cho UBND tỉnh, Tỉnh uỷ về các chính sách đối với HTX như: Chỉ thị 15/CT
của UBND tỉnh về việc chấn chỉnh tổ chức và quản lý sản xuất, chính sách
khuyến khích khu vực kinh tế HTX…
Phương hướng hoạt động của HTX được đưa ra trên cơ sở khảo sát
đánh giá kết quả hoạt động của các HTX, sự cụ thể hoá chủ trương, chính
sách của Đảng của Đảng bộ Sơn La qua từng giai đoạn.
Năm 1996, tỉnh Sơn La đạt được những chỉ tiêu kinh tế xã hội quan
40
trọng: nhịp độ tăng trưởng GDP đạt 10,1%, sản lượng lương thực đạt 21 vạn
tấn, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng 13%, xuất khẩu đạt 3 triệu đôla,
thu thuế đạt 115% kế hoạch, giảm 5 nghìn hộ đói và 2.560 hộ nghèo. Vì thế
nền kinh tế từ tự cấp tự túc đang từng bước chuyển dịch về phía nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần. Đây là nhân tố khách quan kích thích HTX phát
triển. Phương hướng, nhiệm vụ đặt ra cũng phải xuất phát từ những điều kiện
kinh tế xã hội của địa phương.
Phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu và xuyên suốt các năm từ năm 1996
đến năm 2000 là tiếp tục củng cố HTX hiện có, phát triển thêm nhiều HTX
mới: loại hình kinh tế hợp tác trong thời gian này chủ yếu là loại hình HTX
theo phương thức hoạt động dịch vụ hỗ trợ, khoảng 20% số HTX tổ chức theo
mô hình sản xuất tập trung. Những HTX và tổ hợp tác xã tồn tại từ trước đều
được củng cố duy trì, tiến tới đạt được một số HTX phát triển khá. Từ khi
Luật HTX có hiệu lực từ tháng 1/1997, nhiệm vụ đổi mới và phát triển các
HTX càng được đẩy mạnh thực hiện, đồng thời phát triển thêm nhiều HTX
mới, huy động mọi năng lực của các thành viên trong toàn ngành, đẩy mạnh
sản xuất kinh doanh có hiệu quả; gắn chuyển đổi và phát triển HTX, đẩy
mạnh sản xuất kinh doanh có hiệu quả với nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện
đại hoá nền kinh tế của tỉnh. Để đạt được mục tiêu này, trước hết phải triển
khai thực hiện Luật HTX để xã viên, người lao động hiểu được ý nghĩa và lợi
ích khi tham gia HTX. Quá trình đổi mới và phát triển, chuyển đổi HTX, đăng
ký lại HTX dựa trên tinh thần tự nguyện, quyền tự chủ, tự quyết, tự chịu trách
nhiệm của HTX và xã viên theo đúng quy định của Luật HTX. Cụ thể là
chuyển đổi toàn diện đối với HTX cũ, bổ sung, điều chỉnh những phần nào
chưa phù hợp đối với HTX thành lập mới trong năm 1995, 1996. Giải thể
hoặc xây dựng HTX khác đối với HTX không thể chuyển đổi được.
Về nhiệm vụ củng cố HTX: các HTX phải được củng cố trên mọi lĩnh
vực như tiểu thủ công nghiệp, vận tải, xây dựng, thương mại dịch vụ, nông
41
nghiệp, quỹ tín dụng nhân dân. Mục đích của củng cố và phát triển HTX là
xây dựng được hệ thống các HTX hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực, đẩy
mạnh sản xuất kinh doanh theo chiều sâu. Mỗi HTX phải có phương án sản
xuất kinh doanh theo phương thức hoạt động đa dạng, kinh doanh tổng hợp
với mô hình dịch vụ hỗ trợ là chính, tổ chức sản xuất tập trung hoặc kết hợp
cả hai hình thức. Về nhiệm vụ này, các HTX được hướng dẫn lập các phương
án sản xuất kinh doanh phù hợp với cơ chế mới, đáp ứng nhu cầu phục vụ thị
trường, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của tỉnh. Những mặt
hàng, ngành nghề nào sản xuất kinh doanh có triển vọng ổn định thì đầu tư
phát triển mạnh, mở mang địa điểm, mạng lưới tiêu thụ, phục vụ đưa hàng
hoá tiêu dùng cho nhân dân. Ngược lại, mặt hàng, ngành nghề nào không phù
hợp thì chuyển sang mặt hàng mà thị trường có nhu cầu trước mắt và lâu dài,
phát huy tính năng động, sáng tạo, xoay nghề giỏi, chuyển nghề nhanh.
Qua điều tra khảo sát của Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh, có thể
thấy rằng khó khăn nhất của HTX là thiếu vốn. Vì vậy mỗi năm, tỉnh có văn
bản hướng dẫn các cơ sở lập dự án phát triển ngành nghề, xin vay vốn lãi xuất
thấp. Đảng bộ cũng chỉ đạo Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh liên kết với
các trường dạy nghề để mở các lớp đào tạo thợ kỹ thuật tại tỉnh và cử người đi
học tại các tỉnh khác.
Năm 1999 là năm đưa ra nhiệm vụ là hoàn thiện chuyển đổi HTX, phát
triển thêm từ 10 đến 20 HTX mới. Nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng,
đảm bảo giá cả để tạo uy tín cho các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Tiếp tục tăng cường củng cố kiện toàn tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của
Hội đồng Liên minh HTX tỉnh để đảm bảo nâng cao được hiệu quả công tác, sâu
sát cơ sở, thúc đẩy phong trào kinh tế hợp tác và HTX phát triển. Đồng thời đưa ra
phướng hướng phát triển thành viên của Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh.
Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo cho các HTX
42
hoạt động đúng luật và điều lệ HTX. Công tác kiểm tra và kiểm soát phải
được thông qua bầu cử, đảm bảo nguyên tắc giữa ban quản trị, ban kiểm soát
và kế toán tài vụ, công khai về tài chính, công bằng trong phân phối thu nhập
và công việc. Công tác này phải thật sự đóng vai trò là bảo vệ và bênh vực
cho quyền lợi chính đáng của HTX và xã viên, bảo vệ thành quả và sự phát
triển của HTX.
Nhiệm vụ về công tác thi đua khen thưởng nhằm khuyến khích phong
trào HTX phát triển được xác định là thi đua: triển khai luật HTX, chuyển đổi
và đăng ký lại HTX, phát triển HTX và xã viên, ổn định tổ chức HTX, sản
xuất kinh doanh có hiệu quả và hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước, các tổ
chức đảng, đoàn thể hoạt động tốt.
Để phát triển HTX không thể thiếu công tác xây dựng Đảng và các tổ
chức đoàn thể khác như công đoàn, đoàn thanh niên cộng sản, hội phụ nữ.
Đây là nhiệm vụ quan trọng để giữ vững, nâng cao nhận thức và niểm tin của
xã viên, người lao động đối với sự đi lên của phong trào HTX, lãnh đạo các
cơ sở đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã vạch ra.
Những phương hướng nhiệm vụ nêu trên nhằm khuyến khích phát triển
HTX, tạo môi trường thuận lợi để các HTX lựa chọn phương thức hoạt động,
tận dụng các chính sách ưu đãi của Nhà nước cho kinh tế HTX để vươn lên
thoát khỏi khó khăn và trở thành khu vực kinh tế mạnh, góp phần to lớn làm
cho kinh tế tập thể đóng vai trò nền tảng trong nền kinh tế quốc dân. Điều
quan trọng là Đảng bộ đã đánh giá thực trạng, những khó khăn còn vướng
mắc của HTX để triển khai thực hiện chủ trương phát triển HTX của Đảng,
đưa ra những biện pháp thích hợp để xây dựng và phát triển HTX ở Sơn La.
1.3.2. Kết quả thực hiện
Những chủ trương và biện pháp của Đảng bộ tỉnh Sơn La đối với việc
xây dựng và phát triển kinh tế HTX từ năm 1996 đến năm 2000 đã được nỗ
43
lực thực hiện với sự phối hợp của các cấp, ngành, chính quyền và đoàn thể
các cấp, trên hết là nguyện vọng và sự tham gia của xã viên và bà con nhân
dân lao động. Dựa trên các báo cáo tổng kết hoạt động của các HTX và
phương hướng nhiệm vụ trong các năm kế tiếp của Hội đồng Liên minh các
HTX tỉnh Sơn La, có thể thấy kết các quả đạt được trong giai đoạn này thể
hiện ở những nội dung sau:
* Công tác chuyển đổi hợp tác xã được đẩy mạnh: Hội đồng Liên minh
các HTX tỉnh là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo chuyển đổi HTX đã
kiểm tra đôn đốc việc chuyển đổi tại các huyện, thị xã, hướng dẫn, giúp đỡ,
tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Các cán bộ của
cơ quan thường trực đã trực tiếp đi cơ sở vận động, tuyên truyền, hướng dẫn
các HTX chuyển đổi nên công tác chuyển đổi đã được triển khai nhằm quán
triệt Nghị quyết 02/NQ của Ban thường vụ Tỉnh uỷ, Luật HTX, Nghị định
16/CP của Chính phủ, Quyết định 1025 của UBND tỉnh. Trước khi chuyển
đổi toàn tỉnh có 1.546 HTX, trong đó có 1.506 HTX nông nghiệp và 40 HTX
phi nông nghiệp. Với sự cố gắng, nỗ lực thực hiện, từ tháng 6/1997 đến tháng
2/1998, tỉnh đã mở đợt chuyển đổi thí điểm và đã chuyển đổi được 33 HTX,
trong đó có:
21 HTX nông nghiệp
4 HTX tiểu - thủ công nghiệp
2 HTX vận tải
1 HTX xây dựng
và 5 quỹ tín dụng nhân dân
Sau khi tổng kết đợt thí điểm, tỉnh đã bước vào mở rộng diện chuyển
đổi. Các huyện, thị xã đã đăng ký chuyển đổi là 1.117 HTX trong các lĩnh vực
kinh tế. Hết năm 1998, đã có 38 cơ sở kinh tế tập thể được chuyển đổi đăng
44
ký hoạt động theo Luật HTX trên tổng số 1.554 HTX, trong đó:
20 HTX nông nghiệp
5 HTX tiểu - thủ công nghiệp
5 HTX vận tải
1 HTX xây dựng
5 quỹ tín dụng nhân dân và 2 HTX mua bán
Năm 2000 chuyển đổi HTX đạt kết quả là: 170 HTX. Trong đó hợp tác
xã nông lâm nghiệp theo số liệu cũ có 1.506 HTX, đã có 1.272 HTX tự giải
thể hoặc coi như đã giải thể chuyển sang hình thức quản lý hành chính bản,
các hộ xã viên chuyển sang hình thức hộ kinh tế gia đình, hiện còn 234 HTX
nông nghiệp có đủ điều kiện chuyển đổi theo Luật và đã chuyển đổi được 120
HTX; HTX phi nông nghiệp có 53 HTX, chuyển đổi được 50 HTX, 3 HTX
không đủ điều kiện chuyển đổi đã tự giải thể. Đồng thời các HTX chuyển đổi
được củng cố để hoàn thiện các thủ tục, cấp giấy phép kinh doanh cho 113
HTX, khắc dấu, đăng ký tài khoản ở Ngân hàng; các HTX cũng bắt tay vào
xây dựng phương án sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên số các HTX chưa hoàn
thiện thủ tục là 57 HTX do phương án sản xuất kinh doanh chưa khả thi cũng
như một số HTX có phương án sản xuất kinh doanh nhưng không đạt hiệu
quả như đã đề ra.
* Bên cạnh công tác chuyển đổi, củng cố HTX, việc phát triển, thành
lập mới HTX cũng được đẩy mạnh:
Năm 1996: thành lập mới được 18 HTX (thị xã 7 HTX, huyện Mộc
Châu 5 HTX, huyện Mai Sơn 3 HTX, huyện Yên Châu 1, huyện Thuận Châu
1, huyện Sông Mã 1), các huyện Quỳnh Nhai, Mường La, Bắc Yên vẫn là
“huyện trắng” về HTX. Trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp, tỉnh có 1.488
HTX, trong đó có 2 HTX thực sự hoạt động điều hành tập trung, gần 300
HTX chuyển sang làm dịch vụ cho các hộ xã viên, các HTX còn lại tồn tại chỉ
45
là hình thức.
Năm 1997: thành lập mới được 5 HTX (1 HTX tiểu - thủ công nghiệp,
2 HTX vận tải, 2 HTX xây dựng, chưa phát triển thêm HTX thương mại -
dịch vụ và quỹ tín dụng nhân dân nào); có 1.492 HTX nông nghiệp, tăng 4
HTX là do chia HTX lớn thành HTX nhỏ theo mô hình bản là chủ yếu.
Năm 1998: thành lập mới được 5 HTX mới (2 HTX tiểu - thủ công
nghiệp, 1 HTX vận tải, 1 HTX xây dựng, 1 HTX trồng và chế biến chè).
Năm 1999: thành lập mới được 7 HTX (2 HTX nông nghiệp và 5 HTX
phi nông nghiệp).
Năm 2000: thành lập mới 5 HTX (2 HTX dịch vụ nông nghiệp và 3
HTX phi nông nghiệp).
Như vậy trong 5 năm (1996 - 2000), tỉnh Sơn La đã vận động phát triển,
thành lập mới được thêm 40 HTX. Trong đó chủ yếu là các HTX phi nông nghiệp
hoạt động trong các lĩnh vực: tiểu thủ công nghiệp, vận tải, xây dựng, thương mại
- dịch vụ, quỹ tín dụng nhân dân. Tuy nhiên số HTX thành lập ở các lĩnh vực chưa
đồng đều, một số huyện vẫn còn là “huyện trắng” về HTX.
* Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh - dịch vụ của các HTX qua
từng năm:
Năm 1996: Mặc dù còn nhiều khó khăn như thiếu vốn, thiếu thị trường,
năng lực quản lý điều hành nhưng các HTX đã cố gắng tổ chức sản xuất kinh
doanh, đảm bảo thu hồi vốn, có lãi nhất định. Nhiều HTX đã nêu cao tinh
thần chủ động, sáng tạo, nhanh nhạy nắm bắt thị trường, tổ chức giao khoán
cho tổ xã viên để phát huy tính chủ động. Vì thế hoạt động sản xuất kinh
doanh - dịch vụ của các HTX năm 1996 đạt kết quả như sau:
Tổng doanh thu đạt 14,6 tỷ đồng tăng 275,95% so với năm 1995
(doanh thu năm 1995 là 6,276 tỷ đồng), trong đó:
Thu về sản xuất : 2,8 tỷ đồng
46
Thu về thương mại - dịch vụ : 1,6 tỷ đồng
Thu về xây dựng cơ bản : 3,2 tỷ đồng
Thu về vận tải : 8 tỷ đồng
Thu nhập bình quân (người/ tháng) : 400 nghìn đồng
Năm 1997: Các HTX, tổ hợp tác, trên 4 lĩnh vực đạt doanh thu như sau:
tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, thương mại - dịch vụ; hoạt
động sản xuất kinh doanh đạt doanh thu là 17,5 tỷ đồng, tăng 115,67% so với
năm 1996, trong đó:
Thu về sản xuất : 3,846 tỷ đồng
Thu về thương mại - dịch vụ : 3,851 tỷ đồng
Thu về xây dựng : 2,6 tỷ đồng
Thu về vận tải : 9,803 tỷ đồng
Nộp thuế cho Nhà nước : 638,46 triệu đồng
Vốn lưu động có : 3,2 tỷ đồng
Vốn cố định : 13,4 tỷ đồng
Thu nhập bình quân (người/tháng): 490 nghìn đồng
So với kế hoạch doanh thu vượt 17%, so với năm 1996 tăng 38%.
Năm 1998: Tổng doanh thu đạt được của các HTX thành viên của Liên
minh các HTX Sơn La là 32,5 tỷ đồng tăng 197,8% so với năm 1997, trong đó:
Thu về sản xuất : 5,5 tỷ đồng
Thu về dịch vụ : 27 tỷ đồng
Nộp thuế cho Nhà nước : 638,46 triệu đồng
Thu nhập bình quân (người/tháng) : 518 nghìn đồng
Vốn cố định : 38,360 tỷ đồng
47
Vốn lưu động. : 28,673 tỷ đồng
Các HTX chuyển đổi là thành viên của liên minh các HTX tỉnh hoạt động
bước đầu có hiệu quả chiếm 56,5% (26 HTX). Cụ thể là đã: trả đủ nợ tiền vay cả
gốc lẫn lãi, trả lãi vốn góp chiếm từ 35% đến 40% thu nhập, chi lương cán bộ
chiếm từ 40% đến 50% thu nhập, lập các quỹ từ 10% đến 20% thu nhập; 13 HTX
chiếm trên 28% hoạt động tích cực, có hiệu quả nhưng chưa cao, còn 7 HTX trên
15% thực sự khó khăn, kinh doanh chưa có hiệu quả.
Năm 1999: Tổng số doanh thu đạt 14,986 tỷ đồng, đạt 72,31% so với
năm trước, trong đó:
Thu về sản xuất : 5,46 tỷ đồng
Thu về dịch vụ : 9,256 tỷ đồng
Nộp thuế cho Nhà nước : 731,29 triệu đồng
Thu nhập bình quân (người/tháng): 475 nghìn đồng
Năm 2000: Là năm thứ 5 của giai đoạn 1996 - 2000. Theo số liệu báo
cáo và khảo sát 43 HTX:
Tổng doanh thu của năm 2000 là 24 tỷ đồng, trong đó:
Lãi : 819,390 triệu đồng
Trích lập các quỹ : 768,680 triệu đồng
Nộp thuế cho Nhà nước : 709,5 triệu
Thu nhập bình quân (người/tháng): 495 nghìn đồng
Vốn cố định : 25,2 tỷ đồng
Vốn lưu động : 5,2 tỷ đồng
Qua kết quả doanh thu của các HTX thành viên có thể thấy doanh thu tăng
qua các năm, cao nhất là năm 1998 nhưng lại giảm trong năm 1999 và tiếp tục
tăng trong năm 2000. Số HTX làm ăn khá tăng cao so với năm 1999, chiếm
73,33% tổng số HTX. Điều này chứng tỏ các HTX hoạt động theo đúng Luật
48
HTX, cấp uỷ, chính quyền địa phương nhận thức đúng về mô hình HTX kiểu mới.
Trước chuyển đổi, toàn tỉnh có 1.559 HTX, trong đó có 1.506 HTX
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, 53 HTX hoạt động trong lĩnh vực phi
nông nghiệp. Khi tiến hành chuyển đổi có 1.117 HTX đăng ký chuyển đổi.
Đến năm 2000, tổng số HTX chuyển đổi và thành lập mới là 170 HTX, trong
đó có 120 HTX nông nghiệp (thành lập mới 6 HTX và chuyển đổi 114 HTX)
và 50 HTX phi nông nghiệp (chuyển đổi 38 HTX, thành lập mới 12 HTX).
Sau khi chuyển đổi các HTX được giúp đỡ để hoàn thiện thủ tục đăng ký kinh
doanh, nhận giấy phép đăng ký kinh doanh và lập phương án sản xuất kinh
doanh. Sau 3 năm có 37 HTX hoạt động có hiệu quả, chiếm 33% các HTX
đăng ký, trong đó có 14 HTX nông nghiệp và 23 HTX phi nông nghiệp.
Bên cạnh các HTX cũ thành lập từ trước và thực hiện chuyển đổi theo
luật, Liên minh các HTX tỉnh còn vận động thành lập được thêm 28 HTX.
Điều này chứng tỏ cơ chế mới đã có tác dụng đối với việc thành lập mới
HTX, xuất phát từ nhu cầu của xã viên, người lao động. Điển hình là HTX
Minh Hà (huyện Thuận Châu), HTX Xây dựng (huyện Bắc Yên)… Sự
chuyển đổi và thành lập mới HTX dựa trên các chính sách ưu đãi, khuyến
khích phát triển của Nhà nước thu hút sự đóng góp của nhân dân, bước đầu
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát huy, khai thác thế mạnh các nguồn lực,
góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và thực hiện tốt
nghĩa vụ với Nhà nước và chính sách xã hội ở nông thôn miền núi.
Thành tựu nổi bật của quá trình xây dựng kinh tế HTX ở Sơn La trong
những năm 1996 - 2000 là tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất trong lĩnh vực
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, thương mại -
dịch vụ có bước phát triển mới, cùng với kinh tế nhà nước đóng vai trò nền
tảng, định hướng cho các thành phần kinh tế khác của tỉnh phát triển, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển nền kinh tế từ tự cấp, tự túc sang nền
49
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Các HTX đã sản xuất những mặt hàng
thiết yếu, phục vụ đời sống nhân dân, nhất là các HTX nông nghiệp đã chuyển
sang làm khâu dịch vụ, giúp đỡ cho hộ nông dân về dịch vụ sản xuất như:
chuyển giao kỹ thuật, phân bón, dịch vụ thuỷ lợi, giống… Bên cạnh đó, HTX
còn làm khâu trung gian liên kết giữa các doanh nghiệp nhà nước với các
thành phần kinh tế khác. Kinh tế HTX phát triển theo hướng đa dạng hoá
ngành nghề, phát huy các nguồn lực và thế mạnh của mỗi vùng.
Được sự quan tâm, giúp đỡ về cơ chế, về nguồn vật chất của Đảng, Nhà
nước và chính quyền tỉnh, kinh tế HTX ở Sơn La đã được đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật, máy móc thiết bị, nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh
và năng lực quản lý HTX để HTX có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh
tế thị trường. Doanh thu của các HTX tăng qua các năm đã phần nào tháo gỡ
khó khăn về vốn, tạo niềm tin, gắn bó giữa xã viên với HTX.
Kinh tế HTX còn giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho người
nông dân, xã viên, người lao động. Chủ trương xây dựng và phát triển HTX
đa dạng trên nhiều lĩnh vực tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho người
lao động. Qua các hợp đồng, phương án sản xuất kinh doanh của HTX, xã
viên yên tâm sản xuất, nhiều hộ thoát khỏi đói nghèo. Các HTX cùng với
chính quyền, đoàn thể trên địa bàn hoạt động của mình giải quyết tốt các vấn
đề xã hội, tham gia các chương phát triển kinh tế xã hội của tỉnh như chương
trình 135, chương trình 133, chương trình 925…
Với những kết quả như trên, kinh tế HTX còn góp phần ổn định chính
trị xã hội. Sơn La chủ yếu có 4 thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ. Các thành phần
kinh tế khác không có hoặc có không đáng kể. HTX với vai trò là nòng cốt
của kinh tế hợp tác đã thúc đẩy kinh tế hợp tác phát triển, tạo công ăn việc
làm, tăng thu nhập, vì thế ổn định xã hội, tạo cơ sở để ổn định chính trị trên
địa bàn toàn tỉnh. Đây cũng là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với một tỉnh
50
vùng cao biên giới.
Trong các HTX chủ yếu là HTX nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã
góp phần bảo lưu, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá tinh thần, truyền
thống đoàn kết cộng đồng của nhân dân các dân tộc ở Sơn La. HTX còn giúp
các hộ gia đình, xã viên tiếp cận với khoa học kỹ thuật, cách làm ăn mới theo
cơ chế thị trường. Nhiều HTX được thành lập trên phạm vi đơn vị bản nên
sinh hoạt văn hoá cộng đồng được duy trì, bộ mặt nông thôn miền núi có
nhiều khởi sắc.
Các HTX hoạt động theo Luật và thường xuyên được kiểm tra, giám sát
nên hạn chế được những tranh chấp của xã viên. Mô hình HTX kiểu cũ đã
được thay thế bằng mô hình HTX kiểu mới với hai loại hình sở hữu là sở hữu
của cá thể xã viên (cổ phần hoặc tài sản đóng góp) và sở hữu tập thể. Quyền
sở hữu tư liệu sản xuất của xã viên được đảm bảo, được hưởng lãi và các phúc
lợi khác từ hoạt động của HTX. Đây là sợi dây ràng buộc xã viên với HTX,
nâng cao trách nhiệm của xã viên đối với sự tồn tại và đi lên của HTX.
Bên cạnh những kết quả đạt được, HTX ở Sơn La còn tồn tại một số
mặt hạn chế, đó là:
Ngoài những HTX đã chuyển đổi thì phần lớn các HTX không đủ điều
kiện chuyển đổi đã giải thể theo Luật. Một số HTX chuyển đổi nhưng thuộc
diện yếu kém, khó khăn, lúng túng trong hoạt động, một số tự giải thể như
HTX vận tải hàng hoá 30/4 ở huyện Mai Sơn…
Phướng án sản xuất kinh doanh của một số HTX chưa có tính khả thi.
Một số chủ nhiệm HTX không xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh
cho HTX. Người dân chưa thực sự hiểu rõ lợi ích của việc chuyển đổi HTX
sang loại hình mới, ngại đóng góp cổ phần.
Nhiều HTX khi chuyển đổi chưa được cấp đăng ký kinh doanh chiếm
33,33%, trong đó có 51 HTX nông nghiệp và 5 HTX phi nông nghiệp.
Tài sản, vốn quỹ của HTX nói chung còn nghèo nàn, vốn cổ phần ít,
51
máy móc cũ, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ công nghệ lạc hậu. Thị trường
tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm còn
kém sức cạnh tranh.
Nhiều hợp tác xã hoạt động nhưng chưa hiệu quả, chưa thực sự sáng
tạo trong cách nghĩ, cách làm, còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ,
đầu tư của Nhà nước, trình độ quản lý HTX còn yếu kém nên dẫn đến kết quả
làm ăn yếu kém, chậm tiến bộ của các HTX.
Một trong những nhiệm vụ cần phải đặt ra và giải quyết trong giai đoạn
này là cần phải phát triển các tổ chức đoàn thể trong các HTX, đặc biệt là
nhiệm vụ tuyên truyền cho quần chúng, xã viên tham gia công tác xây dựng
Đảng, làm cho chi bộ Đảng phát huy vai trò trung tâm đoàn kết, hạt nhân lãnh
đạo thực hiện đường lối của Nhà nước, chủ trương, biện pháp của Đảng bộ
Sơn La về xây dựng và phát triển HTX, cụ thể là tiếp tục củng cố, đổi mới và
phát triển HTX. Tuy nhiên công tác xây dựng Đảng, phát triển cơ sở Đảng
trong HTX giai đoạn này chưa thực sự mở rộng, một số HTX chưa có cơ sở
Đảng. Trong phương hướng, nhiệm vụ của từng năm (trước 1999) đã chưa đề
cập đến vấn đề này. Vì thế, vai trò của tổ chức Đảng trong các HTX chưa
được phát huy.
Tiểu kết chương 1
Trong những năm 1996 - 2000, phong trào HTX ở Sơn La đã diễn ra
dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng (1996), Luật HTX ban
hành năm 1996, các nghị định của Chính phủ, các thông tư của các Bộ, ngành
Trung ương về thực hiện luật HTX và hướng dẫn thực hiện các nghị định của
Chính phủ. Đảng bộ tỉnh Sơn La đã quán triệt thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, cụ thể hoá bằng nghị quyết của Tỉnh uỷ, chỉ thị,
quyết định của UBND tỉnh đối với việc khuyến khích, thúc đẩy phát triển
52
kinh tế HTX. Kết quả cho thấy cơ chế, chính sách là điều kiện thúc đẩy HTX
phát triển, hiệu quả hoạt động của HTX là động lực để động viên người lao
động tham gia, đóng góp hết sức mình đối với HTX.
Kinh tế HTX ở Sơn La tập trung ở hai khu vực: phi nông nghiệp và
nông nghiệp. Trong khu vực phi nông nghiệp có các ngành: tiểu thủ công
nghiệp, xây dựng, vận tải, mua bán - dịch vụ. Cả hai khu vực này đều tiến
hành chuyển đổi và thành lập mới các HTX, có sự chuyển biến về chất và
lượng, tạo nên diện mạo mới của phong trào HTX. Tuy nhiên xuất phát điểm
thấp, quy mô HTX nhỏ, vốn ít, sản phẩm thiếu thị trường và chưa có tính
cạnh tranh cao nên hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp. Hơn nữa hệ thống
giao thông, cơ sở hạ tầng, phong tục tập quán của Sơn La ảnh hưởng không
nhỏ đến việc xây dựng HTX. Trên thực tế các mô hình HTX ở Sơn La còn
đơn điệu, chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.
Yêu cầu mới đối với kinh tế hợp tác xã là tiếp tục đẩy mạnh công tác
chuyển đổi, củng cố và phát triển HTX, nâng cao nội lực của HTX. Điều này
đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Sơn La phải quan tâm hơn nữa đối với khu vực kinh tế
HTX về mọi mặt để nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng bộ về xây
53
dựng và phát triển kinh tế HTX trong giai đoạn mới.
Chương 2
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG KINH TẾ HỢP TÁC XÃ
TRONG NHỮNG NĂM 2001 - 2006
2.1. Hoàn cảnh lịch sử mới và yêu cầu đối với việc phát triển kinh
tế HTX
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử mới
Bước sang thế kỷ XXI tình hình trong nước và thế giới có những thay
đổi to lớn tác động đến sự phát triển của kinh tế hợp tác và HTX. Đại hội lần
thứ IX của Đảng (tháng 4/2001) nhận định: loài người bước sang thế kỷ XXI,
dân tộc ta đứng trước những thời cơ và thách thức lớn. Cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ tiếp tục bùng nổ và đạt được những thành tựu có tính chất
nhảy vọt, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, có vai trò quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Với các nước đang phát triển như
Việt Nam, việc nắm bắt các thành tựu khoa học công nghệ là cơ hội để cải
thiện vị thế của mình trong khu vực và thế giới, thu hẹp khoảng cách phát
triển so với các nước khác, nhưng cũng là thách thức, nguy cơ tụt hậu xa hơn
nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu kém để vươn lên. Vì vậy đối
với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra như vũ bão, trước mắt
chúng ta phải tranh thủ thời cơ để nắm bắt được các thành tựu khoa học công
nghệ và tiến tới chiếm lĩnh được các tri thức khoa học công nghệ.
Bên cạnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ, toàn cầu hoá cũng đang
diễn ra mạnh mẽ. Đây là bối cảnh khách quan, ảnh hưởng và chi phối đến tất
cả các nước, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Năm 2001, đất nước ta đã trải qua 15 năm tiến hành đổi mới và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã
54
hội, mục tiêu là thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Trong quá trình đó, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải luôn
giữ vai trò chủ đạo để đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. HTX với vai trò là nòng cốt của kinh tế tập thể khi bước
sang thế kỷ XXI cũng có những biến chuyển to lớn.
Đảng ta tiếp tục ban hành các chính sách đối với kinh tế tập thể. Tháng
2/2002 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã thông qua Nghị
quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Hội
nghị thống nhất các quan điểm về kinh tế tập thể là: hợp tác xã kiểu mới phải
thật sự được tổ chức trên tinh thần tự nguyện, tự chịu trách nhiệm và cùng có
lợi, quản lý dân chủ và bình đẳng cao hơn của những người lao động, hộ sản
xuất kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sự ra đời của Luật HTX năm 1996 là cơ sở pháp lý cho hoạt động của
HTX, mở ra triển vọng mới cho kinh tế hợp tác xã, đồng thời cũng đảm bảo
cho sự phát triển bền vững của nó. Thực tế phong trào HTX những năm 50
của thế kỷ XX đến đầu thế kỷ mới, có thể nói HTX có thể phát triển và phát
triển hơn nữa nhờ chính sách đúng đắn của Đảng. Những thời cơ và thách
thức sẽ là đòn bẩy để HTX tồn tại và thích ứng trong môi trường mới.
2.1.2. Những yêu cầu đối với việc phát triển HTX trong thời kỳ mới
Trong quá trình phát triển phong trào HTX, những nguyên tắc và mục
đích xây dựng HTX phải được giữ vững. Tuy nhiên trước những biến động
của thế giới, khu vực và trong nước đòi hỏi Đảng ta phải có chủ trương, biện
pháp phù hợp trong hoàn cành lịch sử mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã chỉ ra cho nhân dân Việt Nam thấy
rằng HTX là con dường dễ tiếp thu nhất, phù hợp nhất đối với hàng triệu đồng
bào ta. Bước sang thế kỷ XXI, đời sống nhân dân đã không ngừng được cải
thiện, tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước có nhiều
55
chuyển biến mạnh mẽ, HTX có còn là con đường dễ tiếp thu nhất và phù hợp
nhất đối với người lao động, người nông dân Việt Nam hay không, trước hết
phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng.
Kế thừa, học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về HTX, Đảng ta xác định kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa
dạng trong đó HTX giữ vai trò nòng cốt. Kinh tế HTX là hình thức tổ chức
kinh tế xã hội ra đời phát triển khách quan của nền kinh tế. Từ Đại hội IX,
Đảng ta đã thực sự quan tâm hơn để đầu tư và phát triển mô hình kinh tế này.
Tính đến tháng 6/2003 cả nước có 14.207 HTX. Theo Liên minh HTX
Việt Nam trong số này có khoảng 5.800 HTX mới thành lập, riêng trong lĩnh
vực nông nghiệp có 2.139 HTX, khoảng 8.400 HTX chuyển đổi từ mô hình
cũ sang. Về xã viên và người lao động, theo báo cáo của Ban chỉ đạo tổng kết
kinh tế hợp tác và hợp tác xã, năm 2001 số lượng xã viên của 4.876 HTX đã
chuyển đổi và thành lập mới là 3.171.576 người, chiếm khoảng 8% lao động
cả nước. Như vậy nếu tính số lượng của tất cả xã viên HTX của cả nước thì
đây là con số không nhỏ, chứng tỏ lực lượng lao động dồi dào của khu vực
kinh tế hợp tác và hợp tác xã.
Năm 2001, kết quả sản xuất kinh doanh của các HTX đã có sự tăng trưởng
đáng kể, ở các HTX chuyển đổi là 2,18 lần, các HTX mới thành lập là 1,3 lần, số
HTX làm ăn yếu kém còn nhiều và giảm không đáng kể. Tuy vậy đóng góp của
kinh tế HTX vào thu nhập GDP của cả nước là không nhỏ, khoảng 8%.
Trên thực tế, HTX trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn tiếp tục khẳng định
vai trò của mình. Trong giai đoạn mới, HTX nông nghiệp chủ yếu làm dịch vụ
đầu vào, đầu ra cho các hộ nông dân, tạo thuận lợi cho các hộ gia tăng sản
lượng hàng hoá nông lâm, thuỷ sản.
Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã có tác dụng thúc đẩy kinh tế
HTX phát triển. Những vấn đề đặt ra đối với kinh tế HTX trong giai đoạn mới
56
biểu hiện ở những mặt sau:
1. Phát triển HTX phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu chính
đảm bảo cho sự phát triển bền vững, lâu dài của HTX, sự gắn bó của xã viên,
người lao động đối với HTX. Những nguyên tắc xây dựng và tổ chức HTX phải
được tôn trọng và thực hiện đúng dựa trên các điều khoản quy định của Luật
HTX 1996 và Luật HTX sửa đổi 2003. Có nghĩa là HTX phải dân chủ, bình
đẳng, tự nguyện, cùng có lợi của các thành viên tham gia, kết hợp hài hoà lợi ích
của xã viên với HTX và lợi ích của xã hội, thực hiện đúng các quy định của luật
về vốn góp, về bộ máy quản lý HTX, về đại hội xã viên…
2. Các HTX phải đảm bảo và phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Thời kỳ trước HTX được sự bao cấp của Nhà nước nên hoạt động thụ động,
trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước. Tính chủ động, tự chịu trách
nhiệm của HTX rất thấp nên chưa thấy được yêu cầu phải đặt mục tiêu kinh tế
lên hàng đầu dẫn đến hiệu quả kinh tế của khu vực kinh tế HTX thấp kém.
Tôn trọng và đảm bảo tính chủ động, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ của HTX là một yêu cầu và hướng hoạt động trong
thời gian tới để kích thích sự chuyển biến tích cực của HTX.
3. Theo Luật HTX, các HTX cũ nếu có đủ điều kiện sẽ tiến hành
chuyển đổi, Nhà nước khuyến khích thành lập mới các HTX hoạt động đa
dạng trong nhiều lĩnh vực. Vì vậy trong thời gian tới các HTX mới và các
HTX đã chuyển đổi phải phát triển vững chắc, coi trọng nâng cao chất lượng
sản phẩm, hàng hoá dịch vụ của các HTX. Các HTX tồn tại về mặt hình thức
hoặc thành lập để được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước sẽ tác
động tiêu cực đến bộ mặt và sự phát triển của phong trào HTX. Nhà nước
phải có những giải pháp đối với các kiểu HTX như vậy để cho chúng trở về
đúng bản chất của mình.
4. Thường xuyên đánh giá, tổng kết thực tiễn, tìm ra các HTX điển
57
hình, xuất sắc, làm ăn giỏi để rút kinh nghiệm, nghiên cứu mô hình HTX hoạt
động có hiệu quả để nhân rộng ra trên nhiều địa phương. Đồng thời phải có sự
liên kết, hợp tác, trao đổi kinh nghiệm giữa các HTX để giúp đỡ nhau cùng
phát triển. Các HTX điển hình, xuất sắc chính là tấm gương kích thích sự
hưởng ứng để phong trào HTX ngày càng sôi nổi.
5. Trong bối cảnh nền kinh tế đang có những chuyển biến mạnh mẽ,
các HTX cần hình thành và mở rộng mối quan hệ hợp tác với phong trào
HTX quốc tế để tranh thủ sự giúp đỡ, trao đổi về kinh nghiệm thực tế, về mô
hình HTX, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu…
Bước sang thế kỷ XXI, HTX vẫn còn nhiều khó khăn, yếu kém, phong
trào phát triển chưa đồng đều trên cả nước, nhất là HTX ở các tỉnh miền núi,
vùng sâu, vùng xa. Vì vậy HTX cần được sự hỗ trợ của Nhà nước, tạo cơ sở
pháp lý và môi trường thuận lợi, giúp đỡ về cơ chế chính sách, tài chính,
nguồn nhân lực. Nhà nước tiếp tục có chính sách khuyến khích phát triển
HTX đối với các tỉnh đặc biệt khó khăn để phong trào HTX trở thành chỗ dựa
vững chắc cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
Ở Sơn La, kinh tế HTX còn nhiều khó khăn, chưa phát triển như các
địa phương khác. Sự đi lên nói chung của cả nước cũng tạo điều kiện thuận
lợi để kinh tế HTX phát triển, có cơ hội lựa chọn, tìm kiếm những giải pháp.
Là một tỉnh miền núi nghèo, Sơn La cũng không nằm ngoài ảnh hưởng của
những thách thức và thời cơ trong thời kỳ mới. Điều đó đòi hỏi sự nhạy bén,
sáng suốt của Đảng bộ tỉnh Sơn La, phải luôn nắm vững đường lối, chủ
trương các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với kinh tế hợp tác và HTX
và vận dụng phù hợp với điều kiện của tỉnh, tôn trọng những điều kiện thực tế
và học hỏi kinh nghiệm của những mô hình HTX điển hình, tiên tiến. Phát
triển kinh tế HTX trong hoàn cảnh lịch sử mới trước hết phụ thuộc vào chủ
trương phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Đảng bộ tỉnh Sơn La đã và đang chú trọng nhiệm vụ phát triển HTX,
58
hướng vào giải quyết những nhu cầu về kinh tế, văn hoá, xã hội của đông đảo
quần chúng. Vì HTX là tổ chức kinh tế có thể giúp đỡ nhân dân các dân tộc
Sơn La đi lên thoát khỏi đói nghèo.
Phát triển HTX phải gắn với liên kết rộng rãi các loại hình hợp tác. Đặc
biệt chú trọng xây dựng và phát triển HTX ở khu vực nông thôn, miền núi gắn
với các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hoá của tỉnh. Đây cũng là nhiệm vụ
trọng tâm trong chiến lược phát triển HTX ở nước ta.
Đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của
Đảng mở đường cho lực lượng sản xuất của khu vực kinh tế hợp tác và HTX
phát triển. Trên hết, HTX phải ngày càng tiếp cận với khoa học kỹ thuật, công
nghệ và trình độ quản lý tiên tiến. Ở Sơn La, phải kết hợp với phát huy và giữ
gìn truyền thống và văn hoá của các dân tộc, đặc biệt là đối với các HTX
trong lĩnh vực nông nghiệp. Tiềm năng để phát triển kinh tế HTX ở Sơn La
còn rất lớn, trong giai đoạn 1996 - 2000 đã có đóng góp không nhỏ trong việc
thực hiện mục tiêu kinh tế HTX của tỉnh.
2.2. Chủ trương và biện pháp mới của của Đảng bộ
Ngay sau khi Đảng ban hành các nghị quyết của hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX), đặc biệt là nghị quyết số 13 NQ/TW
ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế
tập thể, Đảng bộ tỉnh Sơn La đã chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ,
giải pháp trong Nghị quyết của Đảng.
Ngày 08/04/2002 Ban bí thư Trung ương Đảng (khoá IX) ra chỉ thị số 11-
CT/TW về việc nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết Hội
nghị lần thứ 5 của BCH TW Đảng (khoá IX). Đảng bộ tỉnh Sơn La đã tổ chức Hội
nghị cán bộ toàn tỉnh để quán triệt nghị quyết, xây dựng dự thảo chương trình
hành động, tổ chức thực hiện và chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể tỉnh, các huyện
uỷ, thị uỷ, đảng uỷ trực thuộc, các xã phường, thị trấn tổ chức nghiên cứu, quán
59
triệt và triển khai thực hiện nghị quyết của Trung ương và của tỉnh.
Sau Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XI, Tỉnh uỷ Sơn La đã
ban hành Nghị quyết số 09 - NQ/TU ngày 10/7/2002 về Chương trình hành
động thực hiện nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoá IX), trọng tâm là triển khai thực hiện đề án xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp trong nông nghiệp và nông thôn của tỉnh. Đồng thời để triển
khai việc đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Ban thường
vụ Tỉnh uỷ đã thành lập Ban chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể của tỉnh, do
đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban.
Thông qua việc nghiên cứu, quán triệt và tuyên truyền nghị quyết,
Đảng bộ tỉnh Sơn La đã nhận thức và xác định sắc nét hơn về nhiệm vụ trong
tổ chức, chỉ đạo, thực hiện phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX, tạo
ra bầu không khí sôi nổi trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng về phát triển kinh tế tập thể.
Thực hiện nghị quyết của Trung ương, Luật HTX và các nghị định, quyết
định của Chính phủ về phát triển kinh tế tập thể, chính quyền tỉnh đã xây dựng và
ban hành các chính sách cụ thể hoá về phát triển kinh tế tập thể, đó là: quyết định
số 297/QĐ - UB ngày 03/03/1999 của UBND tỉnh về ban hành quy định chính
sách khuyến khích phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Sơn La; cụ thể hoá và
ban hành chính sách xoá nợ trong các HTX nông nghiệp theo quyết định
146/2001/QĐ - TTg ngày 02/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về xử lý nợ tồn
đọng của các HTX nông nghiệp; quyết định 275/QĐ - UB ngày 31/01/2005 của
UBND tỉnh về chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá
trên địa bàn tỉnh Sơn La giai đoạn 2005 - 2010; nghị quyết số 93/2006/NQ -
HĐND ngày 13/03/2006 của Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch phát triển kinh
tế tập thể tỉnh Sơn La giai đoạn 2006 - 2010; quyết định số 1426/QĐ - UB ngày
23/5/2006 của UBND tỉnh về phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế tập thể ngành
60
nông nghiệp tỉnh Sơn La năm 2006.
Sự quán triệt Nghị quyết của Đảng, chính sách của Chính phủ của Đảng bộ
tỉnh Sơn La ngày càng sâu sắc, giúp cho đảng viên và nhân dân có sự chuyển biến
tích cực về nhận thức, các cấp, các ngành và chính quyền cơ sở xác định rõ hơn
nhiệm vụ về tổ chức, chỉ đạo phát triển kinh tế hợp tác và HTX.
2.3. Sự chỉ đạo phát triển kinh tế HTX
2.3.1. Phương hướng mới của Đảng bộ tỉnh
Để tiếp tục đường lối phát triển kinh tế HTX, Đảng bộ tỉnh Sơn La đã
triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Nghị quyết số 13 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) và giao nhiệm vụ cho cơ quan
thường trực là Liên minh các HTX tỉnh; phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu
xây dựng và phát triển kinh tế HTX.
Về phương hướng trong những năm 2001- 2006 là:
Phát triển kinh tế hợp tác và HTX gắn liền với phát huy dân chủ ở cơ
sở, đảm bảo công tác kiểm tra, kiểm soát đi liền với thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở. Xây dựng HTX thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Tuyên truyền, vận động, phát triển, thành lập mới HTX ở những vùng
sản xuất tập trung, vùng chuyên canh cây công nghiệp, trục quốc lộ và tỉnh lộ.
Chú ý thành lập các HTX dịch vụ trồng, tiêu thụ mía, cà phê, dâu tằm, chè,
dịch vụ chăn nuôi bò sữa…
Mở rộng một số loại hình HTX mới như HTX quản lý điện, nước sinh
hoạt, HTX trường học, HTX môi trường, HTX xe ôm, HTX vận tải thuỷ…
Đối với HTX chuyển đổi mà chưa đăng ký kinh doanh cần tập trung
giải quyết các vướng mắc, hoàn thành các thủ tục để được cấp đăng ký kinh
doanh. Những HTX đã được cấp đăng ký kinh doanh cần kiện toàn và tăng
cường tổ chức nhân sự, kiện toàn ba chức danh: chủ nhiệm, kế toán trưởng và
61
kiểm soát. Xác định rõ hơn phương hướng sản xuất kinh doanh dịch vụ, từng
bước mở rộng đối tượng và phạm vi hoạt động, tiến hành huy động thêm vốn
từ xã viên và bên ngoài, đảm bảo sử dụng vốn sinh lời, an toàn và có lãi.
Đối với HTX chưa chuyển đổi: Nếu còn khả năng chuyển đổi và theo
nguyện vọng của xã viên thì tiếp tục hỗ trợ giải quyết khó khăn, hoàn thành
các thủ tục cần thiết chuyển đổi nhưng không dài quá năm 2003. Loại HTX
không còn khả năng chuyển đổi mà xã viên đồng tình giải thể thì hướng dẫn
làm thủ tục giải thể.
Đối với HTX thành lập mới: Những HTX yếu cần tập trung củng cố những
mặt còn yếu như trình độ của cán bộ, phương án sản xuất kinh doanh, quy mô sản
xuất kinh doanh, huy động vốn… Những HTX khá cần tiếp tục đổi mới công nghệ,
mở thêm ngành nghề, mở rộng liên kết kinh tế, mở rộng thị trường đầu ra…
Một số phương hướng phát triển kinh tế hợp tác và HTX theo ngành:
Trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp: Hướng dẫn đăng ký, tạo điều kiện
phát triển HTX từ thấp đến cao. Phát triển một số loại hình HTX kiểu mới ở
nông thôn như HTX điện, nước sinh hoạt, HTX dịch vụ phát triển cây công
nghiệp, chăn nuôi…, mở thêm dịch vụ mới, mở rộng ngành nghề nông thôn
để thu hút thêm lao động, tích cực góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Từng bước nâng cao chất lượng, mở rộng dịch vụ đầu ra để
có thể tham gia xuất khẩu hàng hoá nông - lâm sản. Phát triển HTX ở những
vùng sản xuất hàng hoá, vùng cây con chủ lực. Phấn đấu xây dựng HTX
thành cầu nối giữa doanh nghiệp Nhà nước với hộ nông dân. HTX phải làm
nòng cốt trong xây dựng và phát triển nông thôn mới, bảo vệ môi trường.
Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng: Phát
triển các HTX chế biến nông lâm sản, chú trọng phát triển các HTX tiểu thủ
công nghiệp ở nông thôn về chế biến nông lâm sản, sản xuất cơ khí phục vụ
62
nông nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng… Hỗ trợ các HTX sản xuất chế biến
chè, cà phê, dâu tằm, tham gia xuất khẩu. Khuyến khích thành lập các HTX
thủ công mỹ nghệ, các HTX xây dựng tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng ở
nông thôn, đặc biệt là chuẩn bị máy móc, thiết bị để có thể tham gia xây dựng
cơ sở hạ tầng và nhà ở cho chương trình di dân tái định cư thuỷ điện Sơn La.
Trong lĩnh vực giao thông vận tải: HTX vận tải hành khách cần mở
thêm luồng tuyến nội tỉnh và ngoại tỉnh, đẩy mạnh hoạt động xe taxi ở thị xã,
tiến tới cả thị trấn Mộc Châu và Hát Lót. HTX vận tải hàng hoá phải thực
hiện tốt dịch vụ cho xã viên như: dịch vụ bến bãi, xăng dầu, tìm nguồn hàng
cho xã viên… Khai thác thế mạnh vận tải đường sông. Các huyện Mường La,
Quỳnh Nhai, Phù Yên, Bắc Yên, Mai Sơn, Mộc Châu thành lập ở mỗi huyện
một số HTX thí điểm.
Trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ: Nội dung chỉ đạo là phải chú
trọng phát triển HTX thương mại - dịch vụ ở những vùng mà thương nghiệp
quốc doanh chưa vươn tới được. Trước mắt xây dựng HTX thương mại - dịch
vụ nhận bán hàng đại lý cho thương nghiệp quốc doanh, các đơn vị vật tư nhà
nước, thu mua nông lâm sản hàng hoá cho nhân dân. Xây dựng các chợ trung
tâm cụm xã, chợ ven sông, chợ vùng cao phục vụ đời sống nhân dân.
Trong lĩnh vực quỹ tín dụng nhân dân: Tích cực huy động vốn nhàn rỗi
trong dân, thẩm định các dự án cho vay để giảm tối đa tỷ lệ rủi ro, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn vay, góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo, giải quyết
việc làm cho các thành viên của quỹ.
Về nhiệm vụ, mục tiêu chung:
Tuyên truyền vận động phát triển kinh tế hợp tác và HTX trong tất cả các
ngành, các lĩnh vực kinh tế trong tỉnh. Thu hút các hộ gia đình, cá nhân ở nông
thôn và một bộ phận dân cư đô thị tham gia các hoạt động kinh tế hợp tác, HTX.
Phấn đấu đưa kinh tế tập thể dần thoát khỏi tình trạng nhỏ bé và yếu
63
kém, vươn lên vị trí xứng đáng trong nền kinh tế của tỉnh, góp phần tăng
trưởng kinh tế, tăng sức cạnh tranh, tạo nhiều công ăn việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân, góp phần xoá đói giảm nghèo, giữ vững ổn định chính trị xã hội.
Mục tiêu xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác và HTX là phát triển
kinh tế HTX với nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến
HTX tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi, quản lý dân chủ.
Nhiệm vụ tiếp theo là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành
viên trên cơ sở quy định của pháp luật bằng cách tổ chức cho các đơn vị thành
viên học tập, tìm hiểu chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Phát triển
kinh tế hợp tác, HTX trên cơ sở mở rộng liên kết, liên doanh kinh tế giữa kinh
tế hộ với kinh tế tập thể, giữa kinh tế tập thể với các thành phần kinh tế khác,
đặc biệt với các doanh nghiệp Nhà nước. Tăng cường vai trò và vị thế của
HTX trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Phát triển kinh tế hợp tác, HTX theo hướng bền vững, hiệu quả cho cả
HTX và mọi thành viên trong cộng đồng, lấy tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế - xã
hội làm mục tiêu và tiêu chuẩn để đánh giá sự mạnh yếu của HTX.
Củng cố xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác, HTX trong đó tiếp tục củng
cố các HTX đã chuyển đổi bằng việc nắm bắt hoạt động sản xuất kinh doanh của
các HTX, tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà
nước về kinh tế hợp tác, HTX, các chính sách đầu tư khuyến khích HTX phát
triển. Củng cố kinh tế hợp tác, HTX trên các mặt: quan hệ sở hữu, phương thức
quản lý và phân phối. Việc củng cố các HTX phải tiến hành trên cơ sở luật HTX,
tôn trọng các nguyên tắc xây dựng HTX. Đồng thời phát triển HTX trên các lĩnh
vực, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp để phát huy thế mạnh của từng vùng.
Như vậy nhiệm vụ củng cố HTX đi liền với phát triển HTX.
Phát triển các HTX mới trong các lĩnh vực: Trên cơ sở thế mạnh về
điều kiện tự nhiên của mỗi vùng, nhiệm vụ, mục tiêu giai đoạn này là vận
64
động thành lập mới các HTX tại các vùng cây công nghiệp ở các huyện Mai
Sơn, Yên Châu, Mộc Châu, thị xã Sơn La, Mường La, Sông Mã, Thuận Châu.
Đối với nhân dân vùng cao, vùng sâu, biên giới, vận động thành lập các HTX
chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi ong, tổ hợp tác sản xuất, đặc biệt là HTX
dịch vụ lâm nghiệp để nhân dân tiếp cận được các mô hình sản xuất tiên tiến.
Khuyến khích nhân dân lập các trang trại để thành lập các HTX theo loại hình
sản xuất kinh doanh dịch vụ cho phù hợp với điều kiện của từng nơi. Đồng
thời thành lập thí điểm một số HTX để rút kinh nghiệm mở rộng thành lập
trong các năm sau.
Tổ chức tốt các hoạt động tư vấn dịch vụ hỗ trợ trên các lĩnh vực tín
dụng, hỗ trợ tìm kiếm thị trường, khoa học công nghệ. Đây là nội dung mới
trong công tác chỉ đạo phát triển kinh tế HTX.
Bên cạnh mục tiêu củng cố phát triển các HTX, mục tiêu nâng cao hiệu
quả hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ của các HTX cũng không kém
phần quan trọng. Bởi hiệu quả sản xuất kinh doanh quyết định sự tồn tại và
phát triển của HTX, góp phần nâng cao vai trò của kinh tế tập thể trong nền
kinh tế nhiều thành phần, nâng cao thu nhập của xã viên và người lao động để
tạo niềm tin và sự gắn bó đối với HTX. Phát triển HTX lấy hiệu quả sản xuất
kinh doanh làm thước đo thể hiện đường lối phát triển kinh tế HTX của Đảng
là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện vai trò tích cực của đảng bộ địa phương trong
quá trình thực hiện đường lối của Đảng.
Để thực hiện được các phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu như trên,
những biện pháp và cơ chế chính sách mà Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân đã ban
hành như sau:
Thực hiện chính sách khuyến khích phát triển kinh tế HTX tại quyết
định số 297/QĐ - UB của UBND vào trong cuộc sống của nhân dân. Tăng
cường nguồn lực cho kinh tế tập thể, nâng tỷ lệ đóng góp vào GDP của tỉnh,
65
tạo được năng lực sản xuất hàng hoá dịch vụ có chất lượng, được thị trường
trong nước chấp nhận. Thu hút thêm nhiều thành viên vào HTX, tăng tích luỹ
cho HTX và nộp ngân sách Nhà nước. Tạo ra nhiều việc làm cho nhân dân,
cải thiện đời sống xã viên và người lao động trong các HTX.
Phát triển rộng khắp các hình thức tổ hợp tác ở các vùng, các ngành
nghề. Hướng dẫn, giúp đỡ các tổ hợp tác có đủ điều kiện chuyển lên HTX.
Tạo môi trường thuận lợi về các mặt kinh tế, cơ chế chính sách, các thủ
tục hành chính, quản lý Nhà nước để kinh tế hợp tác và HTX phát triển.
Tăng cường công tác đào tạo cho đội ngũ cán bộ quản lý HTX và dạy
nghề cho xã viên, người lao động trong khu vực kinh tế HTX. Hàng năm tỉnh
trích một phần ngân sách cho công tác đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ
quản lý HTX để đến năm 2005 có 100% chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán
và kiểm soát HTX được đào tạo và bồi dưỡng ngắn hạn.
Tiến hành công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX kể cả cán bộ chủ
chốt xã về quản lý HTX.
Tập trung giải quyết chính sách tín dụng ưu đãi đối với HTX, hình
thành quỹ hỗ trợ HTX cho tỉnh.
Tổ chức cho cán bộ quản lý HTX đi học tập kinh nghiệm ở các mô hình
HTX tiên tiến trong và ngoài tỉnh.
Kiện toàn, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ của cơ quan quản lý
Nhà nước đối với HTX.
Tăng cường biên chế cán bộ chuyên trách theo dõi khu vực kinh tế HTX
trong các ngành: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải,
thương mại - dịch vụ, nông nghiệp và Ngân hàng Nhà nước tỉnh.
Tăng cường và phát huy vai trò của đảng đoàn Liên minh HTX tỉnh,
nâng cao chất lượng tổ chức Liên minh HTX, đảm bảo thực hiện tốt vai trò
66
đại diện và hỗ trợ cho kinh tế hợp tác và HTX.
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Sơn La đã ban hành quyết định thành lập ban chỉ
đạo xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 5 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá IX), trong đó Liên minh HTX tỉnh là thành viên Ban chỉ
đạo. Tỉnh uỷ xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết và quán triệt
Nghị quyết đến các huyện thị, đồng thời chỉ đạo các huyện thị phải xây dựng
chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của mình.
Đầu năm 2002, Liên minh HTX tỉnh đã xây dựng chương trình hành
động theo sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ Sơn La, với 6 nội dung chính:
Triển khai tích cực công tác tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu các nội
dung cơ bản của Nghị quyết tới các cấp, các ngành và nhân dân các dân tộc
trong tỉnh nhằm tạo ra sự thống nhất về nhận thức các quan điểm, định hướng
và giải pháp phát triển kinh tế thị trường.
Tập trung củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX hiện
có thực hiện đúng luật HTX. Tích cực vận động phát triển kinh tế hợp tác,
HTX đa dạng và hoạt động có hiệu quả trong tất cả các ngành, các lĩnh vực.
Tham gia tích cực vào việc sửa đổi, bổ sung Luật HTX và hoàn thiện
khung khổ pháp lý, chính sách đối với kinh tế hợp tác và HTX mà Nghị quyết
Trung ương 5 đã khẳng định.
Tích cực triển khai các hoạt động hỗ trợ, tư vấn và dịch vụ cho khu vực
kinh tế hợp tác và HTX.
Coi trọng và đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các cơ sở kinh tế hợp tác, HTX và xã viên HTX.
Không ngừng hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Liên minh các HTX tỉnh.
Trong quá trình thực hiện nội dung chỉ đạo, xuất hiện một số vấn đề cần
được quan tâm, điều chỉnh tạo điều kiện cho chính sách phát triển kinh tế hợp tác
và HTX. Nhìn chung các vấn đề vướng mắc tập trung ở vấn đề kinh phí, việc thực
67
hiện các chính sách ưu đãi về đất, thuế, tín dụng, xuất nhập khẩu.
Như vậy nội dung chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La đối với việc phát
triển kinh tế HTX trong giai đoạn này chủ yếu tập trung thực hiện các Nghị
quyết, chỉ thị đã ban hành trước đó của tỉnh và triển khai thực hiện Nghị quyết
13 của Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) của Đảng. Tỉnh uỷ Sơn La đã có sự
quan tâm, chỉ đạo đối với khu vực kinh tế HTX, tạo điều kiện ưu đãi về chính
sách, môi trường khung khổ pháp lý để kinh tế HTX phát triển. Tập trung chỉ
đạo việc tìm hiểu, điều tra tình hình kinh tế HTX, phát hiện những khó khăn,
vướng mắc và nhu cầu phát triển xuất phát từ thực tế của HTX. Tiếp tục phân
cấp nhiệm vụ cụ thể cho từng địa phương, các cấp, các ngành, đặc biệt là
nhiệm vụ và chương trình hành động của Liên minh HTX tỉnh.
2.3.2. Kết quả thực hiện
Được sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La và sự hướng dẫn, giúp đỡ
trực tiếp của Liên minh các HTX tỉnh, phong trào HTX tỉnh Sơn La trong
những năm 2001 - 2006 đã đạt được những kết quả như sau:
Về công tác chuyển đổi, củng cố HTX:
Năm 2001: Toàn tỉnh đã chuyển đổi được 158 HTX, trong đó có 123
HTX nông nghiệp và 35 HTX phi nông nghiệp, năm 2001 chuyển đổi được 6
HTX nông nghiệp, củng cố 4 HTX: HTX Thuận Tiến, HTX Hợp Tiến, HTX
Đồng Tiến, HTX Quyết Thắng.
Năm 2002: Số lượng HTX chuyển đổi không tăng. Ngược lại trong số
123 HTX nông nghiệp chuyển đổi đã tự giải thể 10 HTX, 2 HTX phi nông
nghiệp tự giải thể trong số 35 HTX phi nông nghiệp đã chuyển đổi. Số lượng
các HTX chuyển đổi và đang hoạt động trong toàn tỉnh là 146 HTX.
Năm 2003: Chuyển đổi được 2 HTX là HTX dịch vụ nông nghiệp
Chiềng Thi và HTX nông nghiệp Na Xanh (xã Chiềng Pằn, huyện Yên Châu)
và có 4 HTX tự giải thể. Tính đến ngày 31/12/2003 số HTX chuyển đổi còn
68
lại đang hoạt động là 144 HTX.
Năm 2004: Số HTX trong toàn tỉnh giảm từ 144 HTX xuống còn 138
HTX. Có 6 HTX tự giải thể hoặc chuyển sang hình thức khác, do hoạt động
sản xuất kinh doanh không có hiệu quả.
Năm 2005 và năm 2006 không có HTX tiến hành chuyển đổi.
Kết quả về công tác thành lập mới HTX:
Năm 2001: Từ khi có Luật HTX đã thành lập mới được 24 HTX. Trong
đó năm 2001 thành lập được 10 HTX là: HTX cơ khí Thượng Hải (huyện
Thuận Châu), HTX Sản xuất vật liệu xây dựng Hợp Thành (Mộc Châu), HTX
Xây dựng Hợp tiến (Yên Châu), HTX Sản xuất vật liệu xây dựng Tường Phù
(Phù Yên), HTX Dịch vụ trồng chè Tô Múa và HTX Dịch vụ nông nghiệp
Chiềng Cang (Mộc Châu), HTX Xây dựng Đức Duy (Mộc Châu), HTX Xây
dựng Nam Sơn (Quỳnh Nhai), HTX Xây dựng Tiến Thành (Thuận Châu),
HTX Sản xuất vật liệu xây dựng Chiềng Khoi (Yên Châu).
So với chỉ tiêu đặt là chuyển đổi và thành lập mới được 12 HTX thì
năm 2001 công tác chuyển đổi và thành lập mới được 16 HTX, vượt chỉ tiêu
đặt ra là 133,33%.
Năm 2001, chuyển đổi và thành lập mới được 182 HTX chiếm 77, 78%
số HTX đủ điều kiện chuyển đổi. Trong đó 131 HTX nông nghiệp chiếm 56%
số HTX đủ điều kiện chuyển đổi, 51 HTX phi nông nghiệp vượt 27,5% số
HTX phi nông nghiệp dự kiến chuyển đổi. Sau khi chuyển đổi và thành lập
mới, một số HTX không làm ăn hiệu quả, không thực hiện phương án sản
xuất - kinh doanh - dịch vụ đặt ra, có HTX còn vi phạm Luật HTX nên tự giải
thể và bị buộc giải thể là 5 HTX (3 HTX tiểu thủ công nghiệp, 1 HTX vận tải
và 1 HTX dịch vụ nông nghiệp).
Năm 2002: Từ khi thực hiện Luật HTX đến năm 2002, toàn tỉnh thành
lập mới được 26 HTX (6 HTX dịch vụ nông nghiệp và 20 HTX phi nông
nghiệp). Riêng năm 2002 thành lập mới được 2 HTX là HTX Dịch vụ Lóng
69
Luông (Mộc Châu) và HTX Thương mại dịch vụ Phúc Thịnh (Bắc Yên).
Năm 2003: thành lập mới được 8 HTX, trong đó huyện Thuận Châu thành
lập được 3 HTX, huyện Mộc Châu 2 HTX, huyện Phù Yên 2 HTX, huyện Mai
Sơn 1 HTX. Tính cả 2 HTX chuyển đổi thì năm 2003 tăng 10 HTX, tuy nhiên
giảm 5 HTX trong đó 4 HTX giải thể và 1 HTX chuyển thành Công ty trách
nhiệm hữu hạn. Tính đến ngày 31/12/2003 toàn tỉnh có 176 HTX (123 HTX
Dịch vụ nông nghiệp, 17 HTX Tiểu thủ công nghiệp, 8 HTX Vận tải, 15 HTX
Xây dựng, 8 HTX Thương mại dịch vụ, 5 Quỹ tín dụng nhân dân).
Năm 2004: Không thành lập thêm HTX mới nào, ngược lại một số
HTX đã chuyển đổi, được cấp giấy phép kinh doanh nhưng do không thu
được vốn cổ phần của xã viên nên không có vốn hoạt động, trình độ quản lý
HTX yếu kém nên đã dẫn đến giải thể. Năm 2004 toàn tỉnh có 138 HTX (84
HTX nông nghiệp, 18 HTX tiểu thủ công nghiệp, 03 HTX vận tải, 12 HTX
xây dựng, 08 HTX thương mại, 05 quỹ tín dụng nhân dân, 08 HTX kinh
doanh điện), giảm 38 HTX so với năm 2003.
Năm 2005: thành lập mới được 17 HTX, tăng tổng số HTX trên toàn
tỉnh lên 155 HTX (84 HTX nông nghiệp, 22 HTX tiểu thủ công nghiệp, 05
HTX vận tải, 14 HTX xây dựng, 09 HTX thương mại, 05 quỹ tín dụng nhân
dân, 16 HTX kinh doanh điện). Đây là kết quả của sự phối hợp giữa Liên
minh các HTX tỉnh với các, ngành, các huyện tuyên truyền, hướng dẫn và
nắm bắt tình hình thành lập mới các HTX.
Năm 2006: thành lập mới được 19 HTX (10 HTX nông nghiệp, 08
HTX tiểu thủ công nghiệp, 01 HTX xây dựng) nâng tổng số HTX trong toàn
tỉnh lên 182 HTX (102 HTX nông nghiệp và 80 HTX phi nông nghiệp). Tuy
nhiên trong số 182 HTX có 75 HTX hoạt động cầm chừng, chủ yếu là các
HTX nông nghiệp (59/75 HTX). Nguyên nhân là do HTX chưa đủ điều kiện
về vốn, trình độ năng lực, phương án sản xuất - kinh doanh chưa hiệu quả…,
mặt khác các HTX chuyển đổi theo phong trào trong những năm 1998 - 2000
70
nên gặp nhiều khó khăn vướng mắc.
Như vậy từ năm 2001 đến năm 2006, số lượng HTX trên toàn tỉnh
không tăng, nhưng có sự thay đổi về chất. Nhiều HTX trong các lĩnh vực
được thành lập, được cấp giấy phép kinh doanh, có con dấu, có tư cách pháp
nhân, có phương án sản xuất - kinh doanh và hoạt động có hiệu quả. Những
HTX không giải quyết được khó khăn, vướng mắc hoặc vi phạm Luật HTX
thì tự giải thể hoặc bị buộc giải thể. Tỉnh Sơn La tạo điều kiện về mọi mặt, tạo
môi trường pháp lý thuận lợi để các HTX phát triển. Một số HTX chuyển
sang loại hình kinh tế hợp tác khác như doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ
phần. Vì thế kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ của các HTX
đã có sự chuyển biến tích cực trong giai đoạn này.
Về hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ của các HTX, đơn vị
71
thành viên của Liên minh các HTX tỉnh Sơn La:
Bảng 1: BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ SẢN XUẤT - KINH DOANH - DỊCH VỤ CỦA CÁC HỢP TÁC XÃ
Tổng vốn tài sản (x 1.000 VNĐ)
Trích lập
Thu nhập
Tổng doanh
Lợi nhuận Nộp thuế
thu
Năm
các quỹ
bình quân
Vốn cố định Vốn lưu động Vốn cổ phần
2001 29.022.976 34.679.229 2.237.397 54.149.452 3.165.267 809.367 1.094.224 672,8
2002 29.100.500 37.047.560 3.974.850 75.494.495 2.586.340 938.276 1.052.050 673,8
2003 18.850.800 49.199.080 4.058620 78.887.260 2.728.600 1.015.910 1.389.610 691,2
2004 26.349.800 62.632.500 2.237.397 128.233.300 2.141.700 4.261.300 1.460.300 500
2005 14.667.660 72.249.480 5.251.790 143.233.000 5.658.000 5.114.110 1.378.815 840
2006 97.596.970 107.643.830 9.1215.830 139.965.000 3.639.830 577.640 1.835.340 509
72
Nguồn: Liên minh HTX tỉnh Sơn La
Dựa trên bảng tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của các HTX có
thể thấy rằng, nhìn chung kết quả sản xuất - kinh doanh - dịch vụ của các
HTX tăng theo từng năm, chứng tỏ nội lực của các HTX đã có sự chuyển biến
theo hướng tích cực. Trong đó, những HTX có quy mô lớn và hoạt động có
hiệu quả là các Quỹ tín dụng nhân dân. Tổng vốn và tài sản bình quân của các
quỹ tín dụng nhân dân là 19,72 tỷ đồng/quỹ, lợi nhuận bình quân 320 triệu
đồng/quỹ/năm, nộp ngân sách bình quân 21,6 triệu đồng/quỹ/năm, lương cán
bộ quản lý bình quân 1,45 triệu đồng/tháng. Các HTX hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp có quy mô nhỏ và hoạt động kém hiệu quả như: tổng vốn và
tài sản bình quân là 230,29 triệu đồng/HTX, lợi nhuận bình quân 23,11 triệu
đồng/năm, nộp ngân sách bình quân 3,48 triệu đồng/HTX/năm, lương cán bộ
quản lý bình quân 241 nghìn đồng/người/tháng. Sở dĩ có sự chênh lệch đó do
những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Những HTX nào nhận thức tốt
về đổi mới hoạt động sản xuất - kinh doanh, xây dựng được phương án khả
thi, nắm rõ Luật HTX và chủ trương của Nhà nước, cán bộ quản lý có trách
nhiệm, trình độ, năng lực thì các HTX đó hoạt động rất hiệu quả không kể đến
đó là HTX trong lĩnh vực nào. Tuy nhiên các HTX nông nghiệp hoạt động
chủ yếu ở địa bàn nông thôn miền núi còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất
kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, việc phổ biến chủ trương, chính sách đến đồng bào
dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, chưa xây dựng được những vùng
chuyên canh cây lương thực, cây công nghiệp rộng lớn tương xứng với thế
mạnh của vùng nên hiệu quả hoạt động của các HTX còn thấp kém hơn rất
nhiều so với các HTX phi nông nghiệp.
Tóm lại: Qua 6 năm thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước kinh tế HTX ở Sơn La có sự phát triển mạnh mẽ. Năm 2006 so với năm
2000, tổng doanh thu tăng 119,7%, lợi nhuận tăng 545,8%, thu nhập bình
quân tăng 0,3%, làm nghĩa vụ với Nhà nước tăng. Tuy vậy có thể thấy thu
73
nhập bình quân của xã viên và người lao động tăng không nhiều, chứng tỏ hiệu
quả hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ của các HTX trong các lĩnh vực
chưa đồng đều. Một số HTX trong lĩnh vực phi nông nghiệp như xây dựng, vận
tải, thương mại - dịch vụ đã nắm bắt được yêu cầu của thị trường, xây dựng
phương án sản xuất kinh doanh hợp lý, công tác quản lý tốt nên doanh thu và
lợi nhuận của HTX tăng. Các HTX dịch vụ nông nghiệp chuyển sang làm khâu
dịch vụ cho các hộ nông dân, xã viên, còn gặp nhiều khó khăn về vốn, trình độ
quản lý của ban quản lý HTX, tiếp cận khoa học kỹ thuật và thị trường nên làm
ăn còn kém hiệu quả, dẫn đến thu nhập bình quân của các HTX nói chung
trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp tăng không cao. Mặc dù vậy,
kinh tế HTX trong những năm 2001 - 2006 đã có bước tăng trưởng khá, ổn
định trước những biến động của thị trường. Điều đó chứng tỏ đường lối đúng
đắn của Đảng về phát triển HTX và sự nắm bắt, tiếp cận của Đảng bộ tỉnh Sơn
La đã ngày một linh hoạt hơn.
Về kết quả phân loại các căn cứ trên kết quả sản xuất - kinh doanh -
dịch vụ của các HTX:
Liên minh HTX tỉnh đã dựa trên thông tư hướng dẫn tiêu chí đánh giá
và phân loại hợp tác xã của Bộ kế hoạch và đầu tư để xây dựng bản tiêu chí
đánh giá phân loại tổ hợp tác, hợp tác xã và quỹ tín dụng nhân dân với các chỉ
tiêu chấm điểm cụ thể. Với tổng điểm dựa trên thang điểm về mức độ thực
hiện chỉ tiêu: chấp hành các quy định của Nhà nước và của tỉnh, hoạt động
sản xuất kinh doanh, tổng lợi nhuận năm/ tổng vốn tự có, thu nhập ban quản
lý HTX, thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh đã đề ra, trích
lập các quỹ, chỉ tiêu các hoạt động đoàn thể, các HTX được phân loại như
sau: loại giỏi đạt từ 80 điểm đến 100 điểm, loại khá đạt từ 65 điểm đến 79
điểm, loại trung bình đạt từ 50 điểm đến 64 điểm, loại yếu đạt dưới 50 điểm.
74
Dựa trên tiêu chí này kết quả phân loại HTX qua từng năm như sau:
Bảng 2: BẢNG TỔNG HỢP PHÂN LOẠI KẾT QUẢ SẢN XUẤT - KINH DOANH - DỊCH VỤ CỦA CÁC HTX
Phân loại Loại giỏi Loại khá Loại trung bình Loại yếu kém
Năm Số HTX Tỷ lệ (%) Số HTX Tỷ lệ (%) Số HTX Tỷ lệ (%) Số HTX Tỷ lệ (%)
13,33 44,44 37,78 06 20 17 02 4,45 Năm 2001
02 22 3,6 28 01 5,4 51 40 Năm 2002
02 24 3,6 29 01 1,8 51,8 42,8 Năm 2003
02 22 3,1 36 05 7,8 55,4 33,8 Năm 2004
10 25 14,7 28 05 7,3 41 37 Năm 2005
07 16 10,2 36 05 7,3 52,9 23,5 Năm 2006
75
Nguồn: Liên minh HTX tỉnh Sơn La
Dựa trên bảng tổng hợp kết quả phân loại HTX có thể rút ra một số điểm sau:
Năm 2001: Nhiều HTX chủ động xây dựng phương án sản xuất kinh
doanh có hiệu quả, mở rộng ngành nghề kinh doanh tổng hợp nên số HTX
khá, giỏi tăng, HTX yếu kém giảm:
Các HTX điển hình, tiên tiến trong các lĩnh vực kinh tế là:
Lĩnh vực xây dựng có HTX Thịnh Thành (Yên Châu), HTX Xây dựng
Bình Minh (Mộc Châu).
Lĩnh vực vận tải có HTX Vận tải 19/5 ở Thị xã xếp loại khá.
Lĩnh vực quỹ tín dụng nhân dân có Quỹ tín dụng nhân dân Nông
trường (Mộc Châu) xếp loại giỏi.
Lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp có HTX Minh Hà (Thuận Châu) xếp loại khá.
Lĩnh vực nông nghiệp có HTX Cò Nòi (Mai Sơn), HTX Te Nở (thị xã),
HTX Nang Phai, HTX Mường Bú (Mường La) xếp loại khá.
Lĩnh vực thương mại - dịch vụ có HTX Thương binh 27/7 Hát Lót (Mai
Sơn) xếp loại khá.
Năm 2002, 2003, 2004, số lượng HTX làm ăn giỏi giảm và không tăng
chiếm tỷ lệ thấp, trong khi đó số HTX xếp loại trung bình và yếu kém lại
tăng. Tuy nhiên trong khu vực kinh tế HTX vẫn xuất hiện các điển hình HTX
trong các lĩnh vực như:
Lĩnh vực nông nghiệp: HTX dịch vụ phát triển nông nghiệp 19/5 (Thị
trấn nông trường Mộc Châu), HTX Bản Tông (thị xã Sơn La), HTX Bản Bắt
(Yên Châu).
Lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp: HTX Thuận Tiến, HTX Nậm Muổi
(Thuận Châu).
Quỹ tín dụng nhân dân: Quỹ tín dụng nhân dân Thị trấn nông trường Mộc
Châu, Quỹ tín dụng nhân dân liên phường xã Quyết Thắng (thị xã Sơn La).
Lĩnh vực thương mại - dịch vụ: HTX Thương mại - dịch vụ Hua La (thị
76
xã Sơn La), HTX Thương binh 27/7 (Mai Sơn).
Lĩnh vực vận tải: HTX Vận tải 19/5 (thị xã Sơn La).
Bước sang năm 2005 và 2006, số HTX giỏi khá tăng, trung bình giảm,
số HTX yếu kém vẫn chưa cải thiện được tình hình sản xuất kinh doanh nên
vẫn giữ nguyên. Điều này chứng tỏ kinh tế HTX phát triển nhưng chưa đồng
đều ở các lĩnh vực, một số HTX chưa thoát ra khỏi khó khăn.
Tuy vậy xét trong cả giai đoạn 2001 - 2006 thì kinh tế HTX ngày càng
xuất hiện những điển hình, tiên tiến về sản xuất - kinh doanh - dịch vụ, chất
lượng hoạt động của các HTX được nâng lên, có bước phát triển theo chiều sâu.
Những HTX được xếp loại khá, giỏi theo tiêu chí của Liên minh HTX
Tỉnh là những HTX điển hình, tiên tiến. Đây là những mô hình HTX hoạt
động hiệu quả ở một số lĩnh vực. Việc đánh giá và phân loại HTX nhằm tổng
kết, nâng cao hình ảnh, thương hiệu và rút ra bài học kinh nghiệm về xây
dựng và mở rộng các mô hình HTX điển hình, tiên tiến, góp phần thúc đẩy
HTX phát triển theo chiều sâu. Trong những năm 2001 - 2006, phong trào
HTX tỉnh Sơn La xuất hiện một số HTX điển hình, tiên tiến tiêu biểu như sau:
HTX Dịch vụ phát triển nông nghiệp 19/5 thị trấn nông trường Mộc
Châu: HTX được thành lập vào tháng 3/2000 tại tiểu khu Chè Đen II, thị trấn
nông trường Mộc Châu. Tổng vốn và giá trị tài sản của HTX là 15 tỷ đồng,
vốn hoạt động thường xuyên là 3 tỷ đồng, vốn điều lệ là 590 triệu đồng, tổng
số xã viên là 45 người. Ngành nghề kinh doanh của HTX là sản xuất, chế
biến, tiêu thụ nông sản, rau, hoa quả sạch; chế biến rượu, đồ uống từ mận,
ngô; chuyển giao khoa học, kỹ thuật công nghệ, cung cấp phân bón, giống cây
trồng, vật nuôi, thuốc trừ sâu, nhân giống cây trồng; sản xuất phân bón hữu
cơ, phân vi sinh. Khi bước vào hoạt động, HTX đã mạnh dạn đầu tư thiết bị
và thử nghiệm, sản xuất thành công dây chuyền công nghệ sản xuất rượu từ
quả mận hậu, ngô, được thị trường trong và ngoài tỉnh rất ưa chuộng. Đặc biệt
77
rượu của HTX đã được giới thiệu tại thị trường Pháp, được khách hàng Pháp
và tổ chức ASODIA đánh giá cao về chất lượng vì vậy HTX đã được sử dụng
logo sản xuất rượu nổi tiếng của Pháp là Midi pyrene trên nhãn xủa sản phẩm
rượu và được trưng bày tại quầy hàng tầng hai của tháp Éphen ở thủ đô Paris,
Pháp. HTX còn sản xuất rau sạch cao cấp trái vụ như su hào, bắp cải, cà
chua…, sản xuất phân bón vi sinh từ bã thải củ dong giềng. Để ổn định sản
xuất lâu dài, HTX đã vận động dồn điền, đổi thửa thành khu sản xuất tập
trung rộng 20 ha, đầu tư phát triển thương hiệu sản phẩm như nhãn mác, logo
độc quyền, mã số vạch… Đồng thời xây dựng được mối quan hệ tốt với tổ
chức trong và ngoài nước như: tổ chức ASODIA của Pháp, Viện bảo vệ thực
vật, Viện chăn nuôi, Công ty rượu bia nước giải khát Hà Nội, các doanh
nghiệp và các tổ chức kinh tế khác ở Hà Nội và các tỉnh… Với những điều
kiện như trên, năm 2005 doanh thu của HTX đạt 1,2 tỷ đồng, năm 2006 đạt
1,5 tỷ đồng, lương bình quân xã viên năm 2005 đạt 850.000 đồng/ tháng, năm
2006 đạt 1,2 triệu đồng/ tháng. Để không ngừng mở rộng, nâng cao hiệu quả
sản xuất - kinh doanh, HTX đã đầu tư, đổi mới công nghệ, cơ sở vật chất như: mở rộng 5.000m2 hệ thống nhà kính, đầu tư phương tiện vận tải, hệ thống cây
trồng ăn quả ôn đới, hệ thống nhà xưởng chế biến nông sản và máy móc thiết
bị chuyên dùng trị giá khoảng trên 6 tỷ đồng. Với hoạt động sản xuất - kinh
doanh - dịch vụ đa dạng như trên, HTX đã chấp hành tốt các chế độ, chính
sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, tuân thủ đúng các quy định của Luật
kế toán, nộp thuế cho Nhà nước, thực hiện tốt các hoạt động xã hội như tham
gia đóng góp ủng hộ các quỹ từ thiện do huyện, thị trấn phát động. Về công
tác xây dựng tổ chức HTX, hàng năm HTX tổ chức Đại hội thường niên theo
đúng quy định. Năm 2006 HTX có 12 đảng viên, song do đặc điểm cán bộ, xã
viên của HTX hoạt động phân tán theo địa bàn thôn bản, xã khác nhau nên
các đảng viên sinh hoạt tại nơi cư trú. Hiện nay HTX đang đề nghị Đảng uỷ
cấp trên cho thành lập Chi bộ Đảng. Từ khi thành lập cho đến năm 2006 HTX
78
dịch vụ phát triển nông nghiệp 19/5 ở thị trấn nông trường Mộc Châu đã vươn
lên trở thành HTX điển hình, tiên tiến, sản xuất kinh doanh giỏi của tỉnh, là
mô hình HTX cần được nhân rộng và đã góp phần không nhỏ vào việc xoá
đói giảm nghèo, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho xã viên và người lao
động, các hộ nông dân ở huyện Mộc Châu. Vì thế trong suốt thời gian hoạt
động, HTX luôn được UBND tỉnh Sơn La công nhận danh hiệu “tập thể lao
động xuất sắc”, năm 2004, 2005 được Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn tặng bằng khen, năm 2005 được UBND tỉnh tặng cờ thi đua
dẫn đầu Liên minh HTX tỉnh, nhận Huy chương vàng của Cục vệ sinh an toàn
thực phẩm - Bộ y tế cho sản phẩm “Rượu Mận hậu Mộc Châu” và “Rau sạch
an toàn”, “Cúp vàng thương hiệu an toàn vì sức khoẻ cộng đồng” năm 2007.
Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn nông trường huyện Mộc Châu: Quỹ
được thành lập ngày 01/8/1996 tại thị trấn nông trường Mộc Châu và chuyển
đổi theo Luật HTX ngày 05/12/1998. Ngành nghề kinh doanh là tiền tệ, thuộc
lĩnh vực ngân hàng với quy mô tổng số vốn và trị giá tài sản là 90 tỷ đồng,
vốn hoạt động thường xuyên là 85 tỷ đồng, vốn điều lệ là 2 tỷ đồng; tổng số
cán bộ, công nhân viên gồm 14 người, tổng số thành viên gồm 3.980 thành
viên. Về kết quả sản xuất kinh doanh của Quỹ, năm 2005 doanh thu đạt 3,6 tỷ
đồng, năm 2006 đạt 5,1 tỷ đồng, năm 2007 đạt 7,6 tỷ đồng; lợi nhuận sau thuế
năm 2005 đạt 556 triệu đồng, năm 2006 đạt 681 triệu đồng, năm 2007 đạt 1,1
tỷ đồng; nộp ngân sách năm 2005 đạt 61 triệu, năm 2006 đạt 75 triệu, năm
2007 đạt 115 triệu. Lương bình quân cán bộ, công nhân viên năm 2005 đạt
1,7 triệu đồng/ tháng, năm 2006 đạt 2 triệu đồng/ tháng, năm 2007 đạt 2,5
triệu đồng/ tháng. Trong quá trình hoạt động, Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn
nông trường Mộc Châu đã chấp hành tốt các chủ trương, chính sách pháp luật
của Đảng và Nhà nước, có thái độ hoà nhã, tận tình, chu đáo, thực hiện nếp
sống có văn hoá, văn minh lịch sự, tổ chức quản lý hạch toán theo đúng quy
định của pháp luật. Hoạt động kinh doanh của Quỹ đã phục vụ cho quá trình
79
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, góp phần đẩy lùi tệ cho vay nặng
lãi, giảm tình trạng nông dân nghèo thiếu vốn phải bán non sản phẩm nông
nghiệp chưa đến vụ thu hoạch, giảm tỷ lệ đói nghèo của khu vực thị trấn nông
trường Mộc Châu từ 17% (năm 2005) xuống 11% (năm 2006). Ngoài hoạt
động kinh doanh, Quỹ hưởng ứng tích cực ủng hộ các quỹ từ thiện xã hội:
năm 2005 đóng góp 15 triệu đồng, năm 2006 đóng góp 20 triệu đồng, năm
2007 đóng góp 30 triệu đồng cho các quỹ như quỹ bảo trợ người tàn tật, trẻ
mồ côi, phòng chống thiên tai, xây dựng nhà tình thương. Quỹ tổ chức Đại
hội thường niên đúng quy định, có Hội đồng quản trị, Ban giám đốc điều
hành, các bộ phận nghiệp vụ như kế toán, tín dụng, ban kiểm soát gọn nhẹ
theo đúng quy định của Luật HTX và quy định của ngành Ngân hàng. Quỹ có
tổ chức Chi bộ Đảng, Công đoàn cơ sở, Chi đoàn thanh niên, Chi hội phụ nữ,
Chi hội khuyến học. Từ năm 2000 trở đi quỹ liên tục được công nhận danh
hiệu “trong sạch, vững mạnh tiêu biểu”, được Nhà nước trao tặng huân
chương lao động hạng Ba, được UBND tặng cờ thi đua xuất sắc và nhiều
bằng khen.
Những mô tả ngắn gọn như trên là một vài nét cơ bản về hoạt động của
hai HTX tiêu biểu cho lĩnh vực nông nghiệp và quỹ tín dụng nhân dân ở
huyện Mộc Châu. Đó là hai HTX điển hình, tiên tiến trong số những HTX
hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ có hiệu quả đã góp phần không nhỏ
vào sự phát triển của phong trào HTX ở Sơn La trong những năm đầu của thế
kỷ XXI, mở ra triển vọng mới cho các HTX trong nhiều lĩnh vực.
Kết quả của một số hoạt động khác:
Về công tác xây dựng và phát triển tổ chức đảng: Năm 2006 toàn tỉnh
có 132/182 HTX có có đảng viên và tổ chức đảng với 1.187 đảng viên; trong
đó lĩnh vực nông nghiệp có 86/102 HTX với 1.007 đảng viên, lĩnh vực phi
nông nghiệp có 46/82 HTX có 180 đảng viên, 10 HTX đã thành lập chi bộ
80
trực thuộc đảng uỷ cơ sở độc lập với chi bộ bản, tiểu khu, tổ dân phố với 244
đảng viên (trong đó 1 chi bộ HTX nông nghiệp với 31 xã viên, 9 chi bộ HTX
phi nông nghiệp với 213 xã viên); có 122/132 HTX có đảng viên sinh hoạt
với chi bộ bản, tiểu khu, tổ dân phố; còn 52/182 HTX chưa có đảng viên,
trong đó có 16 HTX nông nghiệp và 36 HTX phi nông nghiệp.
Bên cạnh nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu của một tổ chức kinh tế,
trong những năm 2001 - 2006 hầu hết các HTX đều trích lập quỹ phúc lợi,
công ích để giải quyết các nhu cầu trong nội bộ HTX và cùng địa phương giải
quyết các vấn đề xã hội. Các HTX đã tạo được nhiều công ăn việc làm cho xã
viên và người lao động. Năm 2001 có gần 9.500 xã viên và người lao động,
đến năm 2006 tổng số xã viên và người lao động tăng thành 14.740 người,
trong 76 HTX là thành viên của Liên minh các HTX tỉnh đang hoạt động,
thực hiện tốt các chính sách xã hội và phúc lợi công cộng. Nhiều HTX đã tích
cực tham gia các chương trình kinh - tế xã hội của Chính phủ như chương
trình 120, 133, 135 và chương trình 925 của tỉnh. Như vậy ngoài chức năng
phát triển kinh tế, HTX còn làm tốt chức năng xã hội, nâng cao tính cộng
đồng trong HTX và địa bàn dân cư.
Hầu hết các HTX đã tiến hành chuyển đều đổi đăng ký sản xuất kinh
doanh dịch vụ và xây dựng phương án sản xuất, chủ động mở rộng ngành
nghề, quy mô sản xuất, giúp đỡ xã viên và người lao động tăng thu nhập, cải
thiện đời sống, góp phần xoá đói giảm nghèo.
Kết quả triển khai thực hiện luật HTX đã tạo chuyển biến bước đầu
trong nhận thức của cán bộ và nhân dân về mô hình HTX kiểu mới. Các HTX
làm ăn khá giỏi ngày càng nhiều đã củng cố niềm tin của nhân dân về xây
dựng mô hình HTX kiểu mới. Một số đã thấy được quyền lợi, trách nhiệm và
nghĩa vụ của mình trong xây dựng, phát triển HTX.
Những kết quả đạt được như trên là nhờ những đóng góp không nhỏ
81
của Liên minh HTX tỉnh Sơn La, cơ quan thường thực của Ban chỉ đạo thực
hiện Nghị quyết 13 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong những năm
2001 - 2006, Liên minh HTX tỉnh Sơn La đã thu được những kết quả như sau:
Công tác tổ chức bộ máy và cán bộ: Giai đoạn 2001 - 2006 Liên minh
HTX tỉnh đã kiện toàn, sắp xếp lại các phòng, ban, xây dựng quy chế làm việc
cho từng phòng, ban, văn phòng, phân công trách nhiệm cho từng người.
Hàng năm chế độ báo cáo trong hệ thống Liên minh từ tỉnh đến cơ sở
được đổi mới và đạt chất lượng tốt. Đổi mới và cải tiến phương pháp quản lý
và công tác trong cơ quan, phân công cán bộ theo dõi kinh tế hợp tác và HTX
ở các huyện, thị. Thường xuyên đi cơ sở nắm bắt tình hình, trực tiếp giúp đỡ
HTX yếu kém và trung bình yếu, tập trung xây dựng các mô hình điểm trên
các lĩnh vực kinh tế.
Thực hiện cải cách hành chính, quy hoạch, đào tạo cán bộ để không
ngừng nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan.
Ban Chấp hành và cán bộ Liên minh HTX tỉnh thực hiện nghiêm túc
quy chế hoạt động của Liên minh HTX Tỉnh khoá II nhiệm kỳ (2000 - 2005).
Trong năm 2004, kiện toàn Ban Chấp hành, bầu bổ sung Ban Chấp hành, Ban
Thường trực, tổ chức Hội nghị Ban chấp hành lần thứ 8, lần thứ 9 và kiện
toàn Uỷ ban Liên minh HTX Tỉnh.
Thực hiện báo cáo của Ban thường vụ Tỉnh uỷ và quyết định của Uỷ ban
nhân dân tỉnh về việc sắp xếp, bố trí cán bộ lãnh đạo Liên minh HTX Tỉnh.
Thực hiện quy chế tổ chức, hoạt động của Liên minh HTX Tỉnh Sơn La
khoá II và điều lệ Liên minh HTX Tỉnh Sơn La khoá III (2005 - 2010). Năm
2005 đã tổ chức ba Hội nghị Ban chấp hành để chuẩn bị nội dung tổ chức đại
hội III nhiệm kỳ (2005 - 2010). Tháng 8/2005 tổ chức thành công đại hội
nhiệm kỳ III.
Về hoạt động tư vấn, hỗ trợ, dịch vụ đối với các HTX thành viên: Liên
82
minh HTX Tỉnh đã hướng dẫn các HTX lập dự án vay vốn 120, quỹ hỗ trợ
đơn vị thành viên. Kết quả là năm 2006 có 16 đơn vị đang thực hiện dự án
Chương trình 120 với tổng số vốn là 1.508 triệu đồng. Có 17 đơn vị thực hiện
dự án vay vốn từ quỹ hỗ trợ đơn vị thành viên với số vốn là 601 triệu đồng đã
tháo gỡ khó khăn về vốn, tạo việc làm cho xã viên, nhằm thu hút lao động.
Liên minh HTX Tỉnh thường xuyên kiểm tra các dự án vay vốn, đôn đốc sử
dụng đúng mục đích, có hiệu quả, trả nợ vốn đúng hạn, luân chuyển vốn kịp
thời và chú trọng công tác xây dựng quỹ hỗ trợ.
Liên minh HTX tỉnh cùng với trung tâm dịch vụ việc làm của Liên
minh HTX Việt Nam xây dựng chương trình phối hợp về tư vấn dịch vụ hỗ
trợ các HTX thành viên và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Năm 2002, ký hợp đồng
với Công ty xuất nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp phía Nam (công ty
Coopimex), gửi thông báo tuyển sinh nguồn lao động xuất khẩu đi Malaysia
cho công ty Coopimex.
Tích cực vận động các đơn vị thành viên tham gia Hội chợ thương mại
Việt Nam - Lào - Trung Quốc vào tháng 10/2004. Kết quả là có 6 đơn vị
thành viên đưa hàng đến hội chợ và được đánh giá cao, giúp các thành viên
quảng bá, giới thiệu và xúc tiến thương mại với khách hàng, đối tác trong và
ngoài nước.
Về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ: lãnh đạo Liên minh
HTX Tỉnh đã sắp xếp dẫn đoàn cán bộ HTX và doanh nghiệp vừa và nhỏ đi
học tập và nghiên cứu ở các tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá và đã học hỏi được
những kinh nghiệm cần thiết về tổ chức mô hình HTX phù hợp, tiếp cận với
các nhu cầu của thị trường, về kinh nghiệm quản lý HTX, đào tạo cán bộ…;
cùng với trường Cán bộ HTX và Doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc Liên minh
HTX Việt Nam mở lớp tập huấn cho cán bộ Liên minh, cán bộ theo dõi HTX
của các huyện, thị, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán HTX; chiêu sinh học
83
sinh đi học lớp tại trường Trung cấp Nông - Lâm của tỉnh và Trung cấp kinh
tế kỹ thuật bán công Gia Lâm, Hà Nội gồm 37 học sinh là con em xã viên và
người lao động trong HTX; tổ chức lớp tập huấn nghiệp vụ kế toán cho 50
cán bộ quản lý HTX, chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh, kế toán các HTX
trong các năm; cử cán bộ theo học lớp tại chức đại học của Liên minh HTX
trong năm 2002, 2003 gồm các ngành Cử nhân chính trị, Luật, Quản lý kinh
tế, Cao đẳng ngân hàng và Trung cấp chính trị.
Giai đoạn 2003 - 2005 cơ quan thường trực Liên minh HTX tỉnh đã tổ
chức được 4 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ kế toán HTX và kiểm soát HTX cho
hơn 100 cán bộ HTX, kết hợp với tham quan học tập kinh nghiệm các đơn vị
điển hình tiên tiến của tỉnh bạn. Tuyển sinh con em xã viên, người lao động,
xã viên trong các HTX đi học tại trường trung học quản lý và công nghệ của
Liên minh HTX Việt Nam, tổng số hơn 40 người.
Về công tác kiểm tra: Uỷ ban kiểm tra Liên minh HTX Tỉnh có nhiệm
vụ tổng kết công tác qua từng năm, phối hợp với các cơ quan có chức năng
giải quyết tranh chấp của một số đơn vị thành viên, HTX. Đề nghị cơ quan
thuế xem xét và giải quyết về việc tính thuế đối với một số đơn vị thành viên
của Liên minh. Với chức năng kiểm tra và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các
HTX, đơn vị thành viên của Liên minh thực hiện chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ Liên minh HTX Việt Nam, điều lệ
HTX. Qua kiểm tra phát hiện kịp thời những lệch lạc trong thực hiện Luật
HTX, điều lệ HTX, phát hiện tồn tại, yếu kém của các đơn vị thành viên,
kiểm tra, kiểm soát công tác tài chính kế toán để có những biện pháp củng cố,
uốn nắn kịp thời. Đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đơn vị
thành viên.
Về công tác thi đua khen thưởng: Liên minh HTX Tỉnh đăng ký các
danh hiệu thi đua khen thưởng ngay đầu các năm và chú trọng phát động thi
84
đua toàn ngành lập thành tích cao để chào mừng thành tích Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX, X, các Đại hội tỉnh Đảng bộ Sơn La, kỷ niệm “ngày HTX
quốc tế” và những ngày lễ lớn của đất nước.
Công tác tuyên truyền, vận động, phát triển kinh tế hợp tác, HTX đạt
hiệu quả thiết thực nhờ có sự phối hợp với báo Sơn La để tuyên truyền Nghị
quyết Trung ương 5 (khoá IX) về kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, HTX; giới
thiệu về chính sách, giải pháp phát triển kinh tế tập thể ở địa phương, phối hợp
với đài phát thanh truyền hình tỉnh Sơn La xây dựng phóng sự về các mô hình
HTX tiên tiến.
Tổ chức nghiên cứu, quán triệt các Nghị quyết của Đảng cho uỷ viên
Ban chấp hành Liên minh HTX Tỉnh, cán bộ của Liên minh, chủ nhiệm, phó
chủ nhiệm HTX, chủ doanh nghiệp, giám đốc các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh để nâng cao nhận thức về kinh tế hợp tác, HTX, kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước.
Liên minh HTX tỉnh đã chủ động, tích cực tham gia đề xuất, kiến nghị
với Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc hoàn thiện
thể chế và chính sách đối với kinh tế hợp tác, HTX ở Sơn La.
Thực hiện tốt các nội dung khác được Tỉnh và Liên minh HTX Việt
Nam giao như: thực hiện chương trình giao ban 6 tháng, đóng góp tham luận
tại các Hội nghị giao ban Liên minh HTX các tỉnh miền núi phía Bắc lần thứ
III, lần thứ IV tại Liên minh HTX tỉnh Thái Nguyên, Yên Bái về các giải pháp
phát triển kinh tế tập thể, hoạt động của Liên minh HTX các tỉnh miền núi
phía Bắc.
Thực hiện tốt các quyết định, công văn của Uỷ ban nhân dân Tỉnh như
Quyết định 1169/QB - UB ngày 7/5/2002 của Uỷ ban nhân dân tỉnh, Nghị
quyết số 231 ngày 04/04/2002 của Uỷ ban nhân dân tỉnh…
Những kết quả không nhỏ nói trên là nhờ sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
85
Sơn La, sự quyết tâm phấn đấu thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao của Liên
minh HTX tỉnh. Việc thực hiện đúng đắn đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước là nhân tố thúc đẩy hoạt động và sự phát
triển của kinh tế HTX. Đồng thời cùng với sự đi lên của kinh tế HTX trên cả
nước, dù còn nhiều khó khăn, phức tạp nhưng phần đông xã viên và người lao
động ở Sơn La đã nhận thức đúng đắn hơn về mô hình HTX kiểu mới, về luật
HTX, điều lệ HTX để cùng với Ban quản lý HTX thực hiện tốt các phương án
sản xuất kinh doanh dịch vụ của HTX. Xuất hiện một số HTX làm ăn, sản
xuất kinh doanh dịch vụ khá giỏi ở Sơn La, số HTX hoạt động yếu kém giảm
chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Sơn La có vị trí quan trọng, tuy nhiên
số HTX hoạt động hình thức và chưa có hiệu quả vẫn còn tồn tại, nhiều HTX
chưa có đảng viên và tổ chức đảng ảnh hưởng đến nhận thức của xã viên và
nhất là ban quản lý đối với đổi mới và phát triển HTX. Trên thực tế, kinh tế
HTX cũng như một số thành phần kinh tế khác còn gặp nhiều khó khăn vì thế
giải quyết những tồn đọng, vướng mắc vẫn là nhiệm vụ quan trọng để thúc
86
đẩy kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển.
Chương 3
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
3.1. Một số nhận xét
3.1.1. Ưu điểm của Đảng bộ tỉnh Sơn La trong quá trình lãnh đạo xây
dựng kinh tế HTX (1996 - 2006)
1. Chuyển biến tích cực về nhận thức: Sau một thời gian dài phong trào
HTX trên cả nước lâm vào thời kỳ khủng hoảng, Đảng ta đã nghiên cứu và đưa
ra đường lối, chủ trương mới để khôi phục và phát triển kinh tế HTX. Đường lối,
chủ trương của Đảng có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động của các cấp uỷ đảng,
vạch ra hướng chỉ đạo mới trong khi các cấp uỷ đảng, nhất là các đảng bộ địa
phương đang lúng túng trong việc đưa ra mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế
của tỉnh.
Sau khi Quốc hội nước ta ban hành Luật HTX và chỉ thị số 68 - CT/TW
(1996), Đảng bộ tỉnh Sơn La đã tổ chức nghiên cứu, quán triệt và thực hiện
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Đảng bộ đã dựa trên điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, phân tích
nguồn lực, tiềm năng của tỉnh để cụ thể hoá, thể chế hoá, tổ chức chỉ đạo thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhận thức đúng đắn
hơn về vai trò của kinh tế hợp tác, HTX, là thành phần kinh tế quan trọng, là
một trong hai thành phần kinh tế nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Ngay sau khi Chỉ thị số 68 - TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ra
đời, Ban thường vụ Tỉnh uỷ đã chỉ đạo các cấp, ngành, huyện, thị tổ chức
khảo sát kinh tế hợp tác và kinh tế HTX trong các ngành. Và trên cơ sở kết
quả khảo sát, Đảng bộ đã chỉ rõ những mặt tích cực và hạn chế của mô hình
HTX kiểu cũ, những vấn đề đáng quan tâm về tình hình hợp tác xã của tỉnh.
87
Từ đó chỉ ra những nguyên nhân của những tồn tại, trong đó Đảng bộ thẳng
thắn vạch ra rằng: nhiều cán bộ chưa nhận thức đầy đủ về bản chất, đặc trưng
của HTX, cho rằng HTX tự thân vận động là đổi mới được, không cần chỉ
đạo, tạo điều kiện nên đã buông trôi, thả nổi HTX, không tôn trọng nguyên
tắc HTX… Đảng bộ khẳng định nền kinh tế Sơn La chủ yếu vẫn là tự túc tự
cấp, trình độ sản xuất hàng hoá thấp, thị trường hạn chế, phân tán, vì thế yêu
cầu việc tổ chức các HTX phải theo mức độ từ thấp đến cao; HTX vẫn là nhu
cầu của nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La, là tổ chức kinh tế tự chủ do những
người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức
lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của
từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống góp phần phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Đồng thời, Đảng bộ xác định phương hướng đổi mới và
phát triển kinh tế hợp tác, HTX trong các ngành và các lĩnh vực.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng kinh tế HTX, Đảng bộ tỉnh Sơn La
đã có vai trò không nhỏ đối với sự phát triển của phong trào HTX của tỉnh
nhà, tạo điều kiện cho kinh tế HTX trong những năm 1996 - 2006 đạt được
những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, xuất phát từ tình hình kinh tế của tỉnh
nói chung và kinh tế HTX nói riêng, Đảng bộ tiếp tục thẳng thắn vạch ra
khuyết điểm là: các cấp uỷ đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ về kinh
tế hợp tác, hợp tác xã, chậm có những chủ trương, giải pháp, cơ chế, chính
sách cụ thể để đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác trong điều kiện mới. Vì
vậy Đảng bộ đã bám sát đường lối của Đảng để đưa ra nhận thức mới về kinh
tế hợp tác và hợp tác xã, xác định phương hướng chung và yêu cầu đổi mới và
phát triển HTX. Nhận thức mới của Đảng bộ được thể hiện rất rõ nét trong
Nghị quyết số 02 - NQ/TU ngày 10/5/1997. Đồng thời tích cực chỉ đạo tuyên
truyền, tổ chức, thực hiện nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên thuộc các
cấp ngành, đoàn thể về kinh tế hợp tác và HTX, về nhiệm vụ trong việc thực
88
hiện chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng bộ. Quan trọng hơn là đã tạo
được không khí phấn khởi, tin tưởng của nhân dân vào đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Nông dân, xã viên, cán bộ HTX nhận thức được sự
quan tâm của Nhà nước đối với khu vực kinh tế hợp tác, HTX và sự hỗ trợ
của Nhà nước giúp HTX trong các lĩnh vực kinh tế còn khó khăn, tồn đọng
lâu nay chưa được giải quyết. Thông qua tuyên truyền, phổ biến, vận động
thực hiện Luật HTX năm 1996, Luật HTX sửa đổi năm 2003 xã viên, cán bộ
HTX đã có nhận thức, hiểu biết hơn về mô hình HTX kiểu mới, thấy được lợi
ích, nghĩa vụ của mình từ đó hăng hái tham gia xây dựng kinh tế HTX.
Cấp uỷ, chính quyền các cấp từ đó đã chú trọng, quan tâm hơn đến việc
lãnh đạo, chỉ đạo kinh tế HTX, bước đầu đề ra một số chính sách và giải pháp
thiết thực hỗ trợ kinh tế HTX.
2. Đảng bộ tỉnh Sơn La đã cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, ban hành một số chính sách để khuyến khích phát
triển kinh tế HTX, phân công nhiệm vụ cho các cấp, các ngành, các đơn vị có
liên quan cùng phối hợp thực hiện. Đó là các chỉ thị, nghị quyết, quyết định
về khuyến khích phát triển HTX và quán triệt, tổ chức, thực hiện các nghị
quyết, các chỉ thị, nghị định của Đảng và Nhà nước ta.
Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế HTX, thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng. Đảng bộ Sơn La đã chỉ đạo, phân công nhiệm vụ và tạo
điều kiện cho các, cơ quan, ban, ngành, đoàn thể củng cố và nâng cao hiệu
quả hoạt động, trong đó cơ quan thường trực Liên minh HTX Tỉnh.
Cơ chế chính sách mà Đảng bộ Sơn La ban hành dựa trên các Nghị quyết
của Đảng khá đồng bộ và cụ thể do nắm vững đường lối và được tham mưu của
các cấp, ngành tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các thành phần kinh tế.
Thực tế đã chứng minh rằng, vai trò của các đảng bộ địa phương trong
việc tiếp thu, cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng là vô cùng quan
89
trọng, góp phần quyết định đến sự thắng lợi của của đường lối. Bởi vì, Đảng
bộ có vai trò cầu nối, đưa đường lối của Đảng đến với quần chúng nhân dân, để
nhân dân hiểu, tin tưởng và làm theo. Do đó, cụ thể hoá, thể chế hoá phải có tính
chủ động, sáng tạo, nắm bắt được nguyện vọng của nhân dân để đưa ra những
chính sách phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và của từng vùng, đồng
thời phát huy được tiềm năng và thế mạnh, từng bước khắc phục khó khăn.
3. Trong quá trình chỉ đạo xây dựng kinh tế HTX, Đảng bộ Sơn La
luôn thể hiện sự quan tâm đối với khu vực kinh tế HTX, tổ chức nghiên cứu,
triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, chỉ đạo các cơ quan, ban
ngành, đoàn thể các cấp có liên quan kiểm tra việc thực hiện chính sách về
phát triển kinh tế HTX, xây dựng các báo cáo về tình hình phát triển HTX, rút
ra những nguyên nhân của thành tựu và hạn chế, bài học kinh nghiệm để tiếp
tục đưa kinh tế HTX trở thành thế mạnh của nền kinh tế tỉnh nhà.
Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh kiện toàn nâng cao hiệu
quả hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng tham mưu, quản lý nhà
nước về kinh tế tập thể, Luật HTX và các nghị định của Chính phủ, thành lập
Chi cục HTX và phát triển nông thôn, bổ sung chức năng nhiệm vụ theo dõi và
quản lý nhà nước về phát triển kinh tế tập thể cho các huyện, thị; trọng tâm là
kiện toàn cơ quan Liên minh HTX tỉnh. Liên minh HTX tỉnh là cơ quan chuyên
trách có nhiệm vụ tham gia và chấp hành quy định, hoạt động của Liên minh
HTX Việt Nam trong từng nhiệm kỳ, thực hiện đúng đắn những nhiệm vụ mà
Liên Minh HTX Việt Nam đã đặt ra là quyết tâm xây dựng kinh tế HTX phát
triển tốt, góp phần đưa ra những giải pháp về phát triển kinh tế HTX trong các
giai đoạn tiếp theo.
Những quyết sách của Đảng bộ tỉnh đã tạo tạo môi trường pháp lý
thuận lợi để từng bước tháo gỡ những khó khăn cho kinh tế HTX. Các chủ
trương, chính sách đối với kinh tế HTX chủ yếu tập trung trên lĩnh vực kinh tế
nhằm lấy mục tiêu kinh tế đặt lên hàng đầu, đồng thời quan tâm giải quyết các
90
vấn đề trong khu vực kinh tế HTX.
Đảng bộ đã xác định rõ mục tiêu phấn đấu đưa kinh tế HTX cùng với
kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, trước hết là đưa
kinh tế HTX trở thành thế mạnh của nền kinh tế xã hội tỉnh Sơn La. Chính vì
vậy trong giai đoạn 1996 - 2006, kinh tế HTX tỉnh Sơn La được sự quan tâm
đặc biệt của Đảng và Nhà nước, ưu tiên về cơ chế, chính sách nên đã có
những chuyển biến rõ rệt theo hướng tiến bộ.
4. Trong quá trình xây dựng kinh tế HTX, Đảng bộ tỉnh Sơn La đã chỉ đạo
các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể tổ chức triển khai thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách mà Đảng bộ tỉnh đã cụ thể hoá trên cơ sở đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước. Vì thế, nhìn chung các cấp, ngành, chính quyền,
đoàn thể từ tỉnh đến đông đảo quần chúng, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đều
phấn khởi, nhận thức được tính quan trọng và cấp thiết của các nghị quyết về
phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã, thống nhất cao những nhận định của
Trung ương, thấy được sự quan tâm của đảng và Nhà nước đối với kinh tế tập
thể, từ đó quyết tâm đoàn kết thực hiện.
Quá trình này đã đạt được những thành tựu trên các mặt sau:
Về kinh tế: Năm 2006 là năm đánh dấu 10 năm thực hiện Luật HTX
của tỉnh Sơn La nói riêng và cả nước nói chung. Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo triển
khai thực hiện làm cho lực lượng sản xuất trong khu vực kinh tế hợp tác xã
phát triển thêm một bước. Về quy mô và hiệu quả hoạt động của các HTX đã
có những chuyển biến tích cực nhờ các chính sách ưu đãi về vốn, khoa học
công nghệ, đào tạo đội ngũ cán bộ… Các HTX trước đây chủ yếu hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp, sau khi có luật HTX và đường lối phát triển kinh
tế tập thể của Đảng đã tiến hành chuyển đổi và thành lập mới HTX ở nhiều
lĩnh vực, để củng cố và phát huy nội lực của các HTX.
Quá trình củng cố, nâng cao chất lượng HTX đã chuyển đổi và thành
91
lập mới theo Luật đã đạt được những thành tựu đáng kể. Những HTX không
thể duy trì hoạt động thì giải thể hoặc chuyển sang hình thức khác. Tính đến
hết ngày 31/12/2006 toàn tỉnh có 182 HTX, trong đó có 102 HTX nông
nghiệp và 80 HTX phi nông nghiệp. Năm 2006, HTX đã mở rộng ngành nghề
như thành lập HTX kinh doanh điện, nước, vệ sinh môi trường... để mở rộng
thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế của HTX.
Nhiều HTX mới thành lập, chủ yếu là các HTX phi nông nghiệp đã
đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh như các HTX
vận tải, thương mại - dịch vụ, quỹ tín dụng nhân dân… Đây là các HTX hoạt
động có hiệu quả do đã nắm bắt được chủ trương của Nhà nước và của tỉnh,
xây dựng phương án sản xuất kinh doanh hợp lý, phát huy nội lực và ngoại
lực, thực hiện đúng quy định pháp luật hiện hành và nhất là đã tiếp cận với
nền kinh tế hàng hoá để phát triển sản xuất, mở rộng hoạt động sản xuất -
kinh doanh - dịch vụ trên địa bàn nội tỉnh và ngoại tỉnh. Do đó ngày càng rút
ngắn khoảng cách với các thành phần kinh tế khác, tiếp cận khoa học kỹ
thuật, cách thức quản lý tiên tiến và phát triển mối quan hệ hợp tác.
Nhiều HTX đã củng cố, tạo nguồn lực từ nội bộ để duy trì và tiếp tục ổn
định hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ và phát triển lâu dài. Được sự giúp
đỡ, hướng dẫn của Liên minh HTX tỉnh, các HTX chủ động học hỏi, xây dựng
phương án sản xuất kinh doanh, làm đơn xin vay vốn và được hưởng các chính
sách ưu đãi về đất, về thuế của các chính sách của tỉnh và Trung ương nên giải
quyết phần nào khó khăn, nhờ đó nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư mua
sắm thiết bị sản xuất mới, hiện đại, mở mang ngành nghề, mở rộng sản xuất kinh
doanh. Trong các lĩnh vực đã xuất hiện các HTX điển hình, tiên tiến. Riêng HTX
nông nghiệp từ những khó khăn nay đã chuyển hẳn sang làm dịch vụ cho xã viên
và người lao động như: chuyển giao kỹ thuật, dịch vụ thuỷ lợi, phân bón, giống
mới… Ở những vùng cây công nghiệp tập trung, HTX làm vệ tinh cho các doanh
92
nghiệp, các doanh nghiệp thông qua các HTX cung ứng vật tư, giống cho các hộ
nông dân, thu mua sản phẩm cho nông dân, vì thế HTX còn là cầu nối giữa hộ
nông dân với doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh đó, sự tác động qua lại giữa kinh tế HTX với kinh tế hộ và
các Doanh nghiệp Nhà nước là không nhỏ, thúc đẩy nhau phát triển. Các hộ
nông dân liên kết với Doanh nghiệp Nhà nước thông qua các hợp đồng kinh tế
như: trồng dâu nuôi tằm, chè, cà phê, mía, đậu tương, ngô…. Đây là hình thức
kinh tế hợp tác hiệu quả, tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn hộ nông dân.
Nông dân được giúp đỡ, tư vấn về phương án sản xuất, vốn, kỹ thuật sản xuất,
sơ chế sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm… Nhiều hộ nông dân đã đổi đời như
nông dân ở xã Chiềng Sung, Cò Nòi, Hát Lót (huyện Mai Sơn); Mô Cổng,
Phổng Lái (huyện Thuận Châu); Chiềng Khoi (huyện Yên Châu)… Đây là
hình thức tổ chức sản xuất mới trong nông nghiệp được tỉnh Sơn La quan tâm
khuyến khích phát triển. Do phát triển hình thức hợp tác kinh tế mới nên Sơn
La đã xây dựng được những vùng cây chuyên canh cây công nghiệp. Các hộ
nông dân trở thành vệ tinh xung quanh Doanh nghiệp Nhà nước. Các Doanh
nghiệp Nhà nước lại là “bà đỡ” cho các HTX. Giữa các HTX với nhau và với
các doanh nghiệp nhà nước, các thành phần kinh tế khác có sự liên doanh,
liên kết với nhau. Tính cộng đồng trong các HTX được phát huy mạnh mẽ để
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội. Do dó đây là động lực trong
phát triển sản xuất nông nghiệp ở Sơn La, góp phần tích cực vào việc xoá đói,
giảm nghèo ở nông thôn.
Với tốc độ tăng trưởng hàng năm của kinh tế HTX đã góp phần không
nhỏ vào thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của tỉnh, khẳng định sự đi lên tất
yếu của HTX. Sự đi lên của các HTX đồng nghĩa với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá và từng bước thực hiện công
nghiệp hoá nông nghiệp, hiện đại hoá nông thôn miền núi. Trong nông
93
nghiệp, các hộ nông dân đang từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
theo hướng sản xuất hàng hoá, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn được khôi phục. Vì
thế đời sống của xã viên và người lao động ở nông thôn miền núi đã từng
bước đi vào ổn định và phát triển theo hướng chuyên canh, sản xuất hàng hoá,
sản phẩm làm ra nói chung đã được đảm bảo về đầu vào và đầu ra.
Thông qua hoạt động tuyên truyền và chương trình hoạt động của Liên
minh HTX tỉnh, phối hợp cùng các ban, ngành, đoàn thể và Liên minh HTX
Việt Nam đã mở các lớp nâng cao năng lực quản lý cho các chức danh HTX
như chủ nhiệm HTX, kế toán, kiểm soát viên HTX. Hoạt động này nhằm mục
tiêu giúp các HTX đổi mới trong cách nghĩ, cách làm, chủ động, khoa học
trong xây dựng và thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh, nắm bắt
được tình hình hoạt động theo Luật của HTX.
Về chính trị, văn hoá - xã hội: Các HTX đã chuyển đổi, thành lập mới
đang hoạt động và hoạt động có hiệu quả đã góp phần xoá đói giảm nghèo,
thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của tỉnh. Nhiều HTX đã thực hiện tốt các
chính sách xã hội và phúc lợi công cộng, lập các quỹ công ích để giải quyết
nhu cầu của xã viên và cùng chính quyền địa phương giải quyết các vấn đề xã
hội, tham gia các chương trình kinh tế xã hội của tỉnh, tham gia ủng hộ các
quỹ như quỹ vì người nghèo, quỹ ủng hộ đồng bào bị thiên tai, quỹ bảo trợ
người tàn tật và trẻ mồ côi, quỹ ủng hộ chương trình kiên cố hoá trường học
của Chính phủ… HTX không chỉ là một tổ chức kinh tế mà còn là một tổ
chức xã hội, đảm bảo được lợi ích chung của cộng đồng và lợi ích của xã
viên, người lao động. Với một tỉnh miền núi cao biên giới, đông đảo các dân
tộc anh em cùng sinh sống như Sơn La, HTX còn có nhiệm vụ là đoàn kết
nhân dân các dân tộc, đảm bảo hài hoà lợi ích các dân tộc mà vẫn giữ gìn và
phát huy được bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc. Vì thế mục tiêu phát triển
94
kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với mục tiêu giữ vững an ninh, chính trị.
Trong quá trình phát triển, kinh tế HTX đã góp phần ổn định an ninh
chính trị. Chủ trương thành lập mới và tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các
HTX đã thu hút đông đảo người lao động tham gia vào HTX. Sự hoạt động ổn
định, đảm bảo thu nhập cho xã viên và người lao động góp phần làm giảm các
tệ nạn xã hội, ở nông thôn hạn chế được tình trạng di dịch cư tự do, tình trạng
đốt nương làm rẫy, xã viên và người lao động tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, không bị các thế lực phản động lôi kéo, tạo nên sự ổn định chính trị xã
hội trên địa bàn tỉnh.
Sự đi lên phong trào HTX không chỉ nâng cao đời sống vật chất mà đời
sống văn hoá tinh thần của bà con xã viên và người lao động cũng được cải
thiện rõ rệt về thông tin nghe, nhìn, về các hình thức giải trí... Ở các bản, làng,
khu dân cư, các hoạt động văn hoá tinh thần được đa dạng hoá, hiện đại hoá
nhưng vẫn giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá, phong tục tập quán tốt
đẹp của các dân tộc thiểu số. Vào những dịp lễ, tết của dân tộc, tỉnh Sơn La đã
phối hợp với các HTX tổ chức các hoạt động vui chơi, các cuộc thi để phục vụ
nhu cầu của quần chúng nhân dân.
Về công tác phát triển tổ chức đảng: năm 2006 có 132/182 HTX có
đảng viên và tổ chức đảng. Đây là kết quả của sự tăng cường và phát huy vai
trò của Đảng đoàn Liên minh HTX tỉnh, nâng cao chất lượng tổ chức Liên
Minh HTX đảm bảo thực hiện tốt vai trò đại diện và hỗ trợ cho kinh tế hợp
tác và HTX. Vì vậy công tác phát triển đảng đã có sự tiến bộ, số lượng đảng
viên trong các HTX chiếm số lượng không nhỏ. Việc nâng cao vai trò tổ chức
đảng trong các HTX giúp các HTX làm tốt hơn công tác tuyên truyền, thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, thực hiện tốt hơn nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của HTX, tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Điều này chứng tỏ nơi nào HTX có tổ chức đảng hoạt động mạnh thì nơi đó
95
kinh tế HTX sẽ có điều kiện phát triển hơn.
Trong những năm qua những chủ trương, đường lối, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước về kinh tế tập thể trong đó kinh tế HTX giữ vai trò
nòng cốt đã và đang đi vào cuộc sống tạo nên sự chuyển biến tích cực về kinh
tế xã hội ở Sơn La. Phong trào HTX ở Sơn La tuy còn nhiều khó khăn và yếu
kém nhưng trong những năm qua đã thực sự vươn lên, kinh tế HTX có sự
thay đổi về chất và lượng và đang ngày càng đi lên cùng với sự quan tâm chỉ
đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La.
3.1.2. Hạn chế của Đảng bộ tỉnh Sơn La trong quá trình lãnh đạo xây
dựng kinh tế HTX (1996 - 2006)
Với sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La, quá trình xây dựng kinh tế
HTX ở Sơn La trong những năm 1996 - 2006 đã đạt được những thành tựu đáng
kể trên nhiều lĩnh vực nhưng bên cạnh đó còn tồn tại một số hạn chế cơ bản:
1. Tuy Đảng bộ tỉnh đã ban hành một số nghị quyết quan trọng về xây
dựng và phát triển kinh tế HTX nhưng số lượng các nghị quyết đưa ra chưa
nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu củng cố và phát triển HTX một cách bền
vững trước những thách thức của nền kinh tế thị trường. Trong những năm
cuối của thế kỷ XX và trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường trên
thế giới nói chung đã có những biến động phức tạp, ngay cả nền kinh tế của
các nước tư bản phát triển cũng đứng trước những nguy cơ và rủi ro không
tránh khỏi. Vì thế nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của
nước ta chắc chắn sẽ có những ảnh hưởng nhất định nhưng sẽ được giảm
thiểu nếu như Đảng và Nhà nước có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn,
các đảng bộ địa phương thực hiện một cách chủ động, sáng tạo đường lối,
chính sách của Đảng.
Đảng bộ tỉnh Sơn La chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng
nhưng cũng chưa thật sự sáng tạo, chủ động để đưa ra những chính sách cụ
96
thể, đáp ứng nhu cầu cần thiết về chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế HTX.
Trên thực tế, những nghị quyết của đảng bộ mới chỉ dừng lại ở mực độ chấp
hành đường lối của Đảng, đưa ra phương hướng chung về phát triển kinh tế
HTX chứ chưa cụ thể hoá, thể chế hoá một cách triệt để. Vì thế nhiều HTX
trong các ngành, lĩnh vực rất lúng túng trong việc xác định bước đi và thực
hiện các quy định của Nhà nước, dẫn đến khó khăn trong duy trì và phát triển
sản xuất.
Ví dụ, Đảng bộ tỉnh đã có chương trình hành động để thực hiện Nghị
quyết 13 của BCHTW (khoá IX) nhưng còn chung chung, chưa cụ thể. Tỉnh
cũng đã xây dựng hai đề án thực hiện nhưng chưa nêu ra công việc phải làm,
nội dung cụ thể để tổ chức thực hiện nghị quyết.
Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách
khuyến khích HTX phát triển, đặc biệt là Nghị quyết 13 của Đảng, nhưng các
chủ trương, chính sách này chưa tới dân, nhiều HTX chưa được hưởng các
chính sách ưu đãi của Nhà nước cũng là do việc cụ thể hoá, thể chế hoá chủ
trương, chính sách của Đảng bộ chưa triệt để. Những vướng mắc về cơ chế
chính sách xảy ra thường xuyên đối với các HTX, ví dụ: các HTX khó tiếp
cận với nguồn vốn của ngân hàng, một số chính sách ưu đãi về thuế chưa
được thực hiện (quyết định 297/QĐ - UB của UBND tỉnh ra ngày 03/03/1999
mà cho đến năm 2003, chính sách về thuế và đất đai nhiều HTX chưa được
hưởng).
Ở Sơn La, kinh tế HTX trong những năm 1996 - 2006 đã vượt ra những
khó khăn của thời kỳ trước khi đổi mới nhưng trong quá trình xây dựng và phát
triển, khu vực kinh tế HTX chưa được quan tâm bằng một số lĩnh vực kinh tế xã
hội khác. Nếu so sánh có thể thấy rằng, vấn đề được quan tâm hàng đầu là công
tác di dân, tái định cư thuỷ điện Sơn La, vấn đề phòng chống ma tuý… Tất nhiên
không thể phủ nhận tầm quan trọng của những công tác đó nhưng sự lãnh đạo
của đảng là phải toàn diện về mọi mặt, phải có sự quan tâm đúng mức, đúng lúc
97
nhất là đối với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung và sự
lãnh đạo của đảng bộ địa phương về chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
nói riêng.
2. Đảng bộ tỉnh Sơn La còn thiếu quan tâm đối với việc chỉ đạo thực hiện
các nghị quyết, quyết định đã ban hành, đối với công tác thường xuyên kiểm tra,
giám sát thực hiện, chỉ đạo cho các cấp, ngành tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế HTX. Việc triển khai thực hiện ở các huyện, thị nhìn chung
còn lúng túng, chưa nghiêm túc thiếu các nội dung triển khai cụ thể.
Đảng bộ cũng chưa thường xuyên tổng kết việc hiện hiện các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, các nghị định của Chính phủ cũng như việc thực hiện
các nghị quyết của Đảng bộ. Vì thế trong tổ chức triển khai thực hiện, các
cấp, ngành, các cơ quan, đoàn thể còn thiếu chủ động, chưa có sự phối kết
hợp chặt chẽ, chưa vào cuộc. Một ví dụ tiêu biểu là từ khi có Luật HTX
(1996) và Luật HTX sửa đổi (2003), Tỉnh uỷ Sơn La chưa có một hội nghị
tổng kết nào về việc thực hiện Luật, việc tổng kết chỉ diễn ra đơn thuần là
nhiệm vụ của Liên minh HTX Tỉnh, sau đó gửi báo cáo lên Tỉnh uỷ, UBND
và HĐND Tỉnh. Cũng phải thấy rằng, công tác tổng kết thực hiện các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng và đảng bộ địa phương chưa được nhận thức đúng mức,
chưa thấy được tác dụng của việc thường xuyên tổng kết, đánh giá nhiệm vụ
xây dựng kinh tế HTX trong từng giai đoạn và kết quả thực hiện các nghị
quyết, chương trình cụ thể. Đồng thời phải thông qua khảo sát để phát hiện
những tồn tại, tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục, đáp ứng được tối
đa yêu cầu, nhiệm vụ của các nghị quyết.
Việc thiếu quan tâm đối với việc thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước dẫn đến việc một số cấp uỷ, chính quyền chưa nhận thức hết vai
trò của HTX nên đã buông lỏng quản lý ở lĩnh vực này, không phân công người
theo dõi, không nắm bắt được tình hình của HTX. Quan trọng hơn nữa là công tác
98
tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế tập thể
chưa đúng mức, hiệu quả thấp. Một mặt, một bộ phận đảng viên, cán bộ và nhân
dân thiếu tin tưởng đối với hoạt động của kinh tế tập thể và mô hình HTX kiểu mới.
Mặt khác, một số cán bộ chủ chốt HTX chưa nắm rõ được chủ trương, đường lối
của Đảng, thậm chí là nội dung của các nghị quyết, dẫn đến việc nhân dân các dân
tộc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa không nắm được là điều dễ hiểu.
Hạn chế trên đã dẫn đến nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền về
kinh tế HTX còn chưa đúng mức, thiếu quan tâm, đầu tư và tạo điều kiện cho
kinh tế HTX phát triển. Hơn nữa có thể thấy rằng, nguồn nhân lực, cán bộ
chuyên trách theo dõi, hướng dẫn cho khu vực kinh tế HTX còn chưa được
quan tâm, đầu tư. Ở các huyện, thị việc thiếu cán bộ theo dõi mảng kinh tế
HTX đang là thực trạng chung dẫn đến việc triển khai, giám sát việc thực hiện
các chủ trương, chính sách bị buông lỏng.
Nhiều cán bộ HTX còn chưa hiểu hết luật HTX, chưa hiểu thế nào là
HTX kiểu mới nên khi chuyển đổi xong Ban quản lý HTX còn lúng túng, có
khi vi phạm luật HTX và bị buộc phải giải thể như HTX Đồng Tiến, HTX
Quyết Thắng (Thị xã) và tự giải thể như HTX Công nghiệp 99 (Bắc Yên) và
một số HTX nông nghiệp khác. Nhiều HTX nông nghiệp nhận thức không
đúng nên đã chuyển đổi theo phong trào xã viên không có nhu cầu HTX cũng
chuyển đổi nên chuyển đổi xong. Ban quản lý không biết làm gì, không hoạt
động, không thu được vốn cổ phần xã viên, thậm chí có HTX chuyển đổi
xong vẫn hoạt động theo kiểu cũ, vẫn thu tỷ lệ phần trăm sản lượng để chi phí
cho ban quản lý.
Việc thiếu quan tâm đối với quá trình thực hiện đường lối của Đảng và
các chính sách cụ thể của tỉnh ảnh hưởng đến kết quả thực hiện, không
thường xuyên đánh giá tình hình phát triển của HTX thì cũng không rút ra
được hạn chế và bài học kinh nghiệm cần thiết đối với phát triển kinh tế HTX
99
trong mỗi điều kiện cụ thể và đối với HTX trong mỗi ngành, lĩnh vực nhất
định. Vì vậy, trong những năm qua, dù đã xuất hiện những mô hình HTX điển
hình, tiên tiến, sản xuất kinh doanh mạnh nhưng sự phát triển của khu vực
HTX nói chung chưa đồng đều và ổn định. Nếu so với cả nước thì kinh tế
HTX ở Sơn La chưa có nhiều nổi bật và vẫn là một trong những tỉnh còn gặp
nhiều khó khăn. Vì thế, phát triển kinh tế HTX ở Sơn La trong giai đoạn tiếp
theo cần được sự quan tâm hơn nữa của Đảng bộ tỉnh và các cấp uỷ, chính
quyền, đoàn thể.
3. Đối với công tác phát triển tổ chức cơ sở đảng trong các HTX, Đảng
bộ tỉnh Sơn La chưa có sự quan tâm, thể hiện ở việc thiếu cơ chế, nghị quyết
đối với vấn đề này. Trên thực tế, Đảng bộ tỉnh chưa ban hành được một nghị
quyết nào về việc xây dựng và phát triển tổ chức cơ sở đảng trong các HTX,
chứng tỏ công tác này chưa được nhận thức và quan tâm đúng mức. Nguyên
nhân có thể là vì phát triển tổ chức đảng trong các HTX còn gặp nhiều khó
khăn. Ở các HTX nông nghiệp, quy mô HTX chủ yếu là theo đơn vị bản hoặc
cụm bản, đường xá giao thông không thuận tiện, hiệu quả sản xuất - kinh
doanh - dịch vụ chưa cao, trình độ của ban quản lý HTX còn thấp. Qua khảo
sát các thành viên của Liên minh HTX năm 2003, còn 7% chủ nhiệm HTX có
trình độ văn hoá cấp I, 82,6% cán bộ HTX nông nghiệp và 55% cán bộ HTX phi
nông nghiệpchưa qua đào tạo. Một số chủ nhiệm HTX chưa viết được báo cáo
kết quả sản xuất kinh doanh của HTX mình, nhất là HTX nông nghiệp. Ở các
HTX phi nông nghiệp chỉ chú trọng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nhu cầu
có tổ chức đảng còn thấp nên hầu như không có kiến nghị, đề xuất nào đối với
các cấp, ngành. Trong khi đó, Đảng bộ tỉnh lại chưa xây dựng được chủ trương,
biện pháp cụ thể để phát triển tổ chức trong các HTX, một vấn đề có tầm quan
trọng không nhỏ đối với tương lai phát triển lâu dài của HTX.
4. Mặc dù kinh tế HTX ở Sơn La đã thoát ra khỏi khủng hoảng của những
100
năm trước khi đổi mới nhưng phát triển chậm chưa tương xứng với điều kiện và
tiềm năng. Việc chuyển đổi và thành lập HTX theo Luật còn khó khăn, phần lớn
các HTX có quy mô nhỏ, nhất là các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.
Phạm vi hoạt động của các HTX chưa cân đối cả về ngành nghề và địa
bàn hoạt động, mới chủ yếu phát triển tại các vùng và các địa bàn thuận lợi,
chưa chú trọng tới vùng cao, vùng sâu, biên giới.
Một số HTX làm ăn có hiệu quả do thực hiện đúng Luật, nhanh nhạy
trong việc nắm bắt, tìm hiểu thị trường. Một số còn thiếu chủ động, chưa xây
dựng được phương án sản xuất kinh doanh phù hợp, nói chung là trông chờ
vào cơ chế, chính sách ưu đãi của Nhà nước nên kết quả sản xuất - kinh doanh
- dịch vụ còn thấp, nộp ngân sách chưa nhiều, tích luỹ trong HTX còn hạn
chế, các hình thức hoạt động chưa đa dạng, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhỏ
bé, thiết bị công nghệ còn lạc hậu. Khó khăn lớn nhất của các HTX là thiếu
vốn, thiếu thông tin thị trường, chất lượng sản phẩm còn thiếu sức cạnh tranh.
Nhiều HTX tồn tại chỉ là hình thức, nhất là HTX trong lĩnh vực nông nghiệp,
một số không tồn tại được đã chuyển sang loại hình kinh tế khác như công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc doanh nghiệp tư nhân. Vì thế đã có một số HTX
làm ăn khá chuyển sang thành lập doanh nghiệp tư nhân hay công ty trách
nhiệm hữu hạn. Điều này chứng tỏ rằng, các chính sách của Đảng bộ chưa
kích thích HTX phát huy cao độ nội lực của mình. HTX muốn phát triển lâu
dài và ở đúng vị trí của nó trong nền kinh tế quốc dân thì phải phát huy được
sức mạnh nội lực.
Tóm lại, quá trình lãnh đạo xây dựng kinh tế HTX của Đảng bộ tỉnh
Sơn La đã đạt được những thắng lợi không nhỏ, góp phần thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và với phong trào HTX nói
chung của cả nước, nhưng trong quá trình đó vẫn còn tồn tại những khó khăn
101
và hạn chế cơ bản đã và đang ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của HTX.
3.1.3. Nguyên nhân của thành tựu
Một là: Đảng và Nhà nước đã có chủ trương, chính sách đúng đắn về
phát triển kinh tế HTX, là điều kiện tiên quyết để Đảng bộ và nhân dân các
dân tộc Sơn La thực hiện và noi theo.
Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã đem lại niềm tin cho xã viên và
người lao động, mang lại công ăn việc làm, thu nhập và ổn định đời sống
nhân dân, thu hút ngày càng lớn lao động vào khu vực kinh tế HTX. Đó là:
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
(khoá IV), Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VII), nghị quyết Trung ương 5
(khoá IX) và Luật HTX năm 1996, Luật HTX sửa đổi năm 2003… về đổi mới
và phát triển kinh tế tập thể, mà nòng cốt là HTX để đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Trên cơ sở các nghị quyết và chỉ thị của Trung ương, các nghị định của
Chính phủ, Đảng bộ tỉnh Sơn La đã cụ thể hoá bằng các nghị quyết với nội
dung tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong các ngành
và các lĩnh vực kinh tế, về chính sách khuyến khích phát triển HTX trên địa
bàn tỉnh và các chương trình hành động thực hiện nghị quyết Trung ương.
Đảng bộ tỉnh Sơn La đã chỉ đạo cho các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể,
các sở, ban, ngành có liên quan thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, chủ trương, biện pháp của Đảng bộ tỉnh, giúp đỡ, tạo điều kiện cho
kinh tế HTX phát triển. Đồng thời phải kể đến vai trò của Liên minh HTX
Tỉnh, cơ quan chuyên trách về hướng dẫn, tổng kết việc thực hiện các chủ
trương, biện pháp của Đảng bộ tỉnh Sơn La trong những năm qua.
Hai là: Những kết quả đạt được không thể thiếu bàn tay, công sức, tiền
của của xã viên, người lao động và nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La. Chính
họ là những người phát huy nội lực của HTX, biến đường lối của Đảng thành
102
hiện thực và làm nên thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước. Với sự ra đời
của Luật HTX, quá trình đổi mới HTX được đẩy mạnh và đạt được những kết
quả to lớn. Nhân dân, xã viên HTX tỉnh Sơn La đã hăng hái đóng góp sức
mình vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nay dưới ánh sáng của
Đảng tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
3.1.4. Nguyên nhân hạn chế của quá trình xây dựng kinh tế hợp tác xã
ở Sơn La trong những năm 1996 - 2006
Về nguyên nhân khách quan: Sơn La là một trong những tỉnh miền núi
đặc biệt khó khăn, nền kinh tế thị hàng hoá nhìn chung còn phát triển chậm so
với các khu vực khác, lực lượng sản xuất chậm phát triển và còn bị chi phối
bởi điều kiện tự nhiên - xã hội, nhất là phong tục tập quán của các dân tộc;
chưa tạo ra nhu cầu cấp thiết về xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác và
HTX trong nhân dân. Những nơi có nhu cầu HTX thì có nhiều thành phần
kinh tế khác cũng cung ứng dịch vụ cho nông dân, trong khi HTX lại không
đủ sức cạnh tranh nên rất khó duy trì hoạt động. Các quy luật của kinh tế thị
trường như: cung, cầu, cạnh tranh, giá trị chưa bộc lộ rõ nét trong nền kinh tế
ở Sơn La nên đã ảnh hưởng tới nhu cầu, tiến độ và các nguyên tắc của quá
trình hình thành các HTX theo Luật HTX.
Cơ chế, chính sách, khuyến khích phát triển HTX chưa thực sự đồng
bộ, chưa cân dối với ngân sách và các điều kiện cần thiết để thực hiện chính
sách. Trong khi đó, kinh tế HTX hoạt động cho cả hai mục tiêu kinh tế và xã
hội nên rất khó cạnh tranh với kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường.
Địa hình Sơn La rộng lớn, bị chia cắt mạnh bởi nhiều núi cao, vực sâu,
giao thông gặp nhiều khó khăn nhất là vào mùa mưa, diện tích đất canh tác
không tập trung, địa bàn nông thôn miền núi rộng nên các chủ trương, chính
sách của Đảng chậm được thực hiện, chưa đi sâu vào đời sống đồng bào các
dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa.
Bên cạnh đó, một số cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển HTX
103
của Chính phủ chưa đồng bộ, thiếu thông tư cụ thể để hướng dẫn thực hiện.
Chính sách đề ra nhưng không cân đối được với ngân sách và các điều kiện để
thực hiện chính sách nên cơ chế, chính sách khó đến được với nhân dân như
chính sách ưu đãi về thuế, về đất đai, vay vốn ngân hàng… Vì vậy trên thực
tế, chính sách ưu đãi nhiều nhưng không thực hiện được là bao. Thế nhưng các
thành phần kinh tế khác lại cho rằng, HTX được Nhà nước ưu đãi quá nhiều
nhưng hiệu quả kinh tế lại thấp, dẫn đến sức ép về tâm lý đối với HTX. Trong
khi đó, những hậu quả của mô hình HTX kiểu cũ để lại vẫn chưa được giải quyết
triệt để, in đậm trong nếp nghĩ của nhiều người, là một trong những lý do cản trở
sự phát triển của kinh tế HTX.
Về nguyên nhân chủ quan:
Nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền các cấp, của một số cán bộ
đảng viên và nhân dân, của các ban, ngành, đoàn thể chưa đúng, chưa thấy được
tầm quan trọng của kinh tế HTX, thiếu tin tưởng vào mô hình HTX kiểu mới,
chưa coi HTX là một tổ chức kinh tế có vị trí ngang hàng với các tổ chức kinh tế
khác. Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật HTX chưa được triển khai đồng bộ,
sâu sắc, triệt để. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa được đầu tư thoả đáng.
Trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực điều hành và tính
năng động, chủ động trong tổ chức sản xuất kinh doanh, dịch vụ của ban quản
lý HTX còn nhiều hạn chế. Do đó nhiều cán bộ quản lý HTX chưa nắm rõ
được Luật HTX, phương án sản xuất kinh doanh của HTX chưa hiệu quả,
lúng túng trong tìm kiếm thị trường, mặt hàng kinh doanh…
Nhiều HTX thiếu vốn hoạt động, thiếu địa bàn để mở rộng sản xuất
kinh doanh, mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Nhiều
HTX không có đủ tài sản để thế chấp, vay vốn ngân hàng nên phải dựa vào tài
sản của cán bộ quản lý và sự bảo lãnh của uỷ ban nhân dân xã (tín chấp), vì
vậy số vốn hoạt động của HTX không nhiều, cản trở hoạt động sản xuất kinh
104
doanh, dịch vụ của HTX.
Hoạt động của Ban chỉ đạo chuyển đổi, thành lập và thực hiện nghị
quyết Trung ương 5 (khoá IX) chưa thật chủ động, hiệu quả, tích cực, chưa xây
dựng rõ nét mô hình HTX kiểu mới do biên chế ít, kiêm nhiệm nhiều. Sự quan
tâm chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền một số huyện chưa thường xuyên, liên tục
nên chưa phát hiện kịp thời việc vi phạm của các HTX, khi phát hiện thì việc
xử lý cũng chưa kiên quyết. Đó là do các HTX mới thành lập đi vào hoạt động
tạo ra phong trào, niềm tin với xã viên nên việc kiểm tra có phần buông lỏng.
Từ khi có Luật HTX, nhiều HTX kiểu cũ không chuyển đổi thì tự giải thể, lại ít
có HTX thành lập mới nên dẫn đến một số HTX tồn tại dưới dạng hình thức
hay một số thành lập để được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước.
Từ tỉnh đến huyện chưa thành lập Ban chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị
quyết 13 về kinh tế tập thể nên hiệu quả thực hiện Nghị quyết chưa cao và còn
tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc.
Tính cạnh tranh, chớp thời cơ, chủ động trên thị trường của các HTX so
với các thành phần kinh tế khác còn có phần hạn chế do mất nhiều thời gian
bàn bạc, thống nhất trong ban quản lý HTX.
Hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế HTX ở các cấp chính
quyền còn yếu và buông lỏng, phân công nhiệm vụ chưa rõ ràng. Đội ngũ cán
bộ trong hệ thống quản lý Nhà nước chuyên lo về HTX vừa thiếu số lượng, vừa
yếu về chất lượng. Trong khi đó các chính sách khuyến khích phát triển HTX
còn thiếu và chưa đồng bộ nên rất khó khăn khi xử lý các vấn đề nảy sinh trong
quá trình thực hiện. Vì vậy các cấp, ngành từ tỉnh đến huyện chưa xây dựng
được quy hoạch, kế hoạch củng cố và phát triển HTX, chưa xây dựng được
chiến lược phát triển kinh tế tập thể ở địa phương và ở ngành mình.
3.2. Một số kinh nghiệm lịch sử
Trong quá trình nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La đối
105
với việc xây dựng kinh tế HTX từ năm 1996 đến năm 2006, có thể rút ra một
số bài học kinh nghiệm cơ bản. Những bài học kinh nghiệm này xuất phát từ
cơ sở tổng kết những thành tựu và hạn chế của quá trình xây dựng kinh tế
HTX ở Sơn La:
1. Tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ tỉnh Sơn La và
các cấp uỷ Đảng đối với lĩnh vực kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Đặc biệt là sự
thể chế hoá và triển khai tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, các
nghị định về kinh tế hợp tác, HTX của Đảng bộ tỉnh.
Đây là bài học kinh nghiệm có tầm quan trọng đối với quá trình xây
dựng và phát triển lâu dài của HTX. Trước hết là phải có sự đổi mới về nhận
thức về vai trò của kinh tế HTX, quan tâm tạo điều kiện về cơ chế, chính sách
đối với HTX để các cấp uỷ đảng, chính quyền phối hợp thực hiện đồng bộ và
sâu sắc hơn. Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ tỉnh đối với kinh tế HTX sẽ
rút ngắn khoảng cách và vị trí của kinh tế HTX với các thành phần kinh tế
khác, là động lực để thúc đẩy kinh tế HTX phát triển. Sự thiếu quan tâm của
các cấp uỷ đảng cũng sẽ tạo ra sự buông lỏng quản lý trong quá trình triển
khai thực hiện các chính sách cũng như tâm lý trễ nải, trông chờ, ỷ lại, không
chịu học hỏi, vươn lên của một số HTX. Hơn lúc nào hết, bài học về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự quản lý của chính quyền các cấp luôn có
tính thời sự trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế HTX nói riêng và
đổi mới đất nước nói chung.
2. Thường xuyên đổi mới nhận thức về công tác quản lý, phương thức
hoạt động của HTX.
Xuất phát từ nhu cầu phát triển của mỗi HTX trong các lĩnh vực, chính
sách đào tạo đội ngũ cán bộ cho các HTX cần được đẩy mạnh. Trọng tâm là
ban quản lý HTX phải có trình độ, năng lực quản lý điều hành, năng động,
dám nghĩ, dám làm, tâm huyết với HTX. Cần đi trước một bước về đào tạo
cán bộ quản lý HTX như phương pháp quản lý, nghiệp vụ kiểm soát, kế toán,
kỹ thuật cơ bản và nhất là cán bộ HTX phải nắm vững Luật HTX, các chủ
106
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đây là yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển của phong trào HTX, đòi
hỏi sự phối hợp của các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể dựa trên chính sách
đào tạo đội ngũ cán bộ HTX của Trung ương và của tỉnh. Trong đó phải nâng
cao vai trò, nhiệm vụ của Liên minh HTX tỉnh, kiện toàn hơn nữa bộ máy
nhân sự của Liên minh để nâng cao sự phối hợp của Liên minh các HTX tỉnh
Sơn La với các cấp, ngành ở trong và ngoài địa phương về phương hướng
nâng cao hiệu quả quản lý, phương thức hoạt động của HTX.
3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động để nâng cao nhận thức của
cán bộ đảng viên và nhân dân về vai trò của kinh tế hợp tác và hợp tác xã.
Những hạn chế và tồn tại của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế
HTX ở Sơn La trong những năm qua xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ, sâu
sắc về vai trò của kinh tế HTX của một bộ phận cán bộ đảng viên. Từ đó dẫn
đến việc chưa nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm
cho công tác tuyên truyền, vận động thực hiện chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế HTX bị coi nhẹ, buông lỏng.
Đây vẫn là bài học cần thiết trong thời gian tới. Bài học này liên quan tới
sự tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, sự quản lý của Nhà nước,
nói phải đi đôi với làm, tạo ra hiệu quả thiết thực thì mới tạo được niềm tin đối
với kinh tế HTX.
4. Học tập các mô hình HTX điển hình, tiên tiến ở trong và ngoài tỉnh.
Từ khi Luật HTX ra đời cho đến 10 năm sau, phong trào HTX trên cả
nước đã xuất hiện những HTX điển hình tiên tiến, sản xuất, kinh doanh mạnh. Ở
tất cả các lĩnh vực, vùng, miền trên cả nước đều có những HTX điển hình, tiên
tiến. Vì thế, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, ngành, các đoàn thể
liên quan trong phong trào kinh tế hợp tác, xây dựng và nhân rộng các hợp tác xã
điển hình tiên tiến.
Để tạo ra những bước tiến mới trong phong trào HTX thì các HTX điển
107
hình, tiên tiến phải là động lực thúc đẩy toàn bộ phong trào HTX. Các HTX
này sẽ là tấm gương, vừa phát triển, vừa phải tạo ra sức ảnh hưởng lớn để thu
hút các HTX khác học hỏi và làm theo.
Các HTX điển hình, tiên tiến phải tham gia tích cực vào phong trào
HTX của địa phương, tích cực trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ các HTX yếu hơn
về kinh nghiệm phát huy sức mạnh của tập thể và sức mạnh của từng xã viên
trong HTX. Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho các HTX yếu hơn trong việc
học tập, tham khảo kinh nghiệm của những HTX tiên tiến để tìm hướng phát
triển thành công cho mình và cho phong trào HTX của cả nước.
Phải nhận thấy rõ vai trò quan trọng của vấn đề này trong phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế hợp tác và hợp tác xã, gắn việc xây dựng và nhân rộng
các hợp tác xã điển hình tiên tiến với các phong trào thi đua của Liên minh HTX
Tỉnh, quan tâm hỗ trợ xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi cho các hợp tác xã.
Nếu có điều kiện thì tổ chức nghiên cứu, học hỏi các mô hình HTX ở các
nước bạn có kinh tế HTX phát triển, mạnh dạn xây dựng thí điểm các mô hình
HTX mới nhằm mở rộng ngành nghề, đa dạng hoá các mô hình HTX ở Sơn La.
5. Mở rộng sự liên kết, hợp tác giữa các hình thức kinh tế hợp tác và
các thành phần kinh tế khác nhằm khai thác về vốn, khoa học kỹ thuật, thị
trường, sản phẩm hàng hoá… để nâng cao hiệu quả kinh tế của HTX, tăng
thu nhập cho xã viên và người lao động.
Muốn phát triển HTX lâu dài và bền vững trong bối cảnh quốc tế và
trong nước hiện nay, phải thật sự coi trọng mối quan hệ hợp tác giữa kinh tế
HTX với các thành phần kinh tế khác. Trong đó, tăng cường mối quan hệ giữa
HTX với các doanh nghiệp quốc doanh, bởi các doanh nghiệp nhà nước được
coi là bà đỡ cho kinh tế hộ, kinh tế hợp tác và HTX phát triển.
Mở rộng quan hệ hợp tác giữa HTX với phong trào HTX quốc tế để
tranh thủ được ngoại lực, phát huy nội lực. Việc tranh thủ ngoại lực sẽ tạo ra
108
môi trường thuận lợi để các HTX phát huy nội lực, phạm vi hoạt động của
HTX cũng không bị bó hẹp trong khuôn khổ nhất định. Bước đầu, các HTX
sẽ không tránh khỏi một số khó khăn nhưng đó sẽ là những cọ xát cần thiết để
kinh tế HTX dần dần thích ứng với môi trường mới.
Ở Sơn La, do điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, việc
mở rộng quan hệ hợp tác của HTX phải được tiến hành từng bước chắc chắn, có
sự quan tâm của Đảng bộ, sự dẫn dắt của Liên minh HTX Tỉnh, tích cực phát
huy tinh thần học hỏi, đóng góp vào sự phát triển chung của phong trào HTX
trên cả nước.
6. Xây dựng và phát triển kinh tế HTX phải luôn xuất phát từ điều kiện
thực tế, phù hợp điều kiện tự nhiên, điều kiện - kinh tế xã hội của tỉnh.
Sơn La là một tỉnh miền núi cao biên giới, nền kinh tế hàng hoá chậm
phát triển so với các địa phương khác trên cả nước. Chấp hành tốt chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước là cơ sở để kinh tế HTX ở Sơn La ngày
càng phát triển. Tuy nhiên, dựa trên điều kiện của mỗi vùng mà có chiến lược
xây dựng mô hình HTX phù hợp để phát huy được thế mạnh, đa dạng hoá
ngành nghề, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, phấn đấu góp phần vào
mục tiêu công nghiệp hoá nông nghiệp, hiện đại hoá nông thôn của tỉnh.
7. Thực hiện đúng nguyên tắc xây dựng HTX.
Luật HTX năm 1996 đã nêu định nghĩa về HTX: “Hợp tác xã là tổ chức
kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện
cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức
mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả
hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống, góp
phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước...”.
Định nghĩa này đã thể hiện sự đổi mới tư duy về HTX, khẳng định
những người lao động có nhu cầu và tự nguyện tuân thủ các nguyên tắc HTX
109
đều có thể thành lập và tham gia HTX. Các nguyên tắc cơ bản để thành lập và
phát triển HTX là: tự nguyện gia nhập HTX, quản lý dân chủ và bình đẳng, tự
chịu trách nhiệm và cùng có lợi, hợp tác và phát triển cộng đồng. Điều này
cũng có nghĩa là các HTX phải phát huy, nâng cao tinh thần tự chủ, tự chịu
trách nhiệm đối với sự tồn tại và phát triển của mình, để thoát khỏi hoàn toàn
mô hình HTX kiểu cũ thời cơ chế quản lý cũ còn sót lại.
Đảm bảo mục tiêu kinh tế gắn với mục tiêu chính trị, đổi mới hoạt động
của HTX cho phù hợp với yêu cầu khách quan, kiên định mục tiêu đưa kinh tế
hợp tác mà nòng cốt là HTX trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
8. Khôi phục hoạt động của Ban chỉ đạo chuyển đổi HTX và thành lập Ban
chỉ đạo triển khai thực hiện các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trên thực tế, muốn thúc đẩy quá trình phát triển của kinh tế HTX thì
phải có bộ phận hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc triển khai các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng và Đảng bộ.
Mặc dù ở tỉnh còn nhiều HTX chưa chuyển đổi nhưng Ban chỉ đạo
chuyển đổi không còn hoạt động làm ảnh hưởng đến việc thực hiện Luật HTX.
Các HTX muốn thành lập mới cũng cần có sự hướng dẫn cụ thể. Nhất là đối với
việc triển khai thực hiện các nghị quyết Trung ương thì việc thành lập Ban chỉ
đạo vừa thể hiện sự quan tâm, chấp hành tốt chính sách của Đảng, vừa là nhiệm
vụ của tỉnh để luôn nắm bắt được tình hình thực hiện, kết quả, những tồn tại,
vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện để kịp thời đưa ra những giải pháp
khắc phục hoặc có kiến nghị đối với tỉnh và Trung ương xem xét.
Đối với hoạt động của Ban chỉ đạo phải được quán triệt trên tinh thần
nghiêm túc thực hiện vai trò, nhiệm vụ của mình, thường xuyên tiến hành
công tác khảo sát, đánh giá, tổng kết việc triển khai thực hiện chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước để rút ra những nguyên nhân của thành tựu
110
và hạn chế, bài học kinh nghiệm trong quá trình chỉ đạo triển khai thực hiện.
KẾT LUẬN
Trong những năm đất nước ta tiến hành đổi mới, xây dựng nền kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để thực hiện tốt nhiệm vụ chiến
lược là xây dựng và bảo vệ thành công tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
thực hiện công bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã
không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, đổi mới cách nghĩ, cách làm, phát huy nội
lực và tranh thủ ngoại lực để đạt được những bước tiến nhanh và vững chắc
trên con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc.
Trong quá trình đổi mới từ năm 1986, Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách quan trọng để đổi mới toàn diện đất nước. Xuất phát từ lý
luận và thực tiễn về xây dựng và phát triển kinh tế HTX, Đảng ta khẳng định
kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã phải trở thành nền tảng quan trọng
của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế HTX trong những năm đổi mới đã từng
bước thoát ra khỏi khủng hoảng kéo dài trong gần hai thập kỷ do được sự
quan tâm, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển. Thực tế cho
thấy đường lối phát triển kinh tế HTX của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn.
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, kinh tế HTX ở Sơn La
trong những năm 1996 - 2006 đã có những tiến bộ nhất định. Đảng bộ tỉnh
Sơn La đã không ngừng tiếp thu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước dựa trên điều kiện thực tiễn của tỉnh. Đời sống vật chất và tinh
thần của bà con xã viên, người lao động được cải thiện, niềm tin đối với sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước được củng cố.
Phát triển kinh tế HTX là một tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở một nước có nền nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam và
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các tỉnh miền núi cao biên giới còn
nhiều khó khăn như Sơn La. Từ thực tế có thể thấy, phát triển kinh tế HTX
111
góp phần đưa Sơn La thoát khỏi tình trạng có nền kinh tế chậm phát triển,
hướng tới xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, ổn định chính trị xã hội và củng cố an ninh quốc phòng, tiến
tới phát triển HTX theo chiều sâu.
Xuất phát từ vai trò của HTX trong quá trình đổi mới nền kinh tế đất
nước, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn miền núi, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, phát triển HTX
được coi là nhiệm vụ, yêu cầu có tính chiến lược, lâu dài và cần được sự quan
tâm, khuyến khích phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
Những năm 1996 - 2006, với sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La và
sự đoàn kết nhất trí của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, kinh tế HTX đã đạt
được những thành tựu có ý nghĩa to lớn đối với quá trình xây dựng kinh tế
HTX tỉnh Sơn La nói riêng và phong trào HTX trên cả nước nói chung.
Những thành tựu này khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng ta về phát
triển kinh tế HTX với mục đích đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân, khơi dậy tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng, trí tuệ và truyền thống văn
hoá tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
112
chủ nghĩa xã hội trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc ta từ nay về sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La (2002), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Sơn La, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La (2002), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Sơn La, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La (2002), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Sơn La, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ
đổi mới 1986 – 2002, Nxb Thống kê, Hà Nội.
5. Đảng bộ tỉnh Sơn La (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Sơn La khoá X, Sơn La.
6. Đảng bộ tỉnh Sơn La (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Sơn La khoá XI, Sơn La.
7. Đảng bộ tỉnh Sơn La (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Sơn La khoá XII, Sơn La.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
113
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam với phong trào hợp tác xã, tập 1 (2005),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam với phong trào hợp tác xã, tập 2 (2005),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Hội đồng lâm thời Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (1995), Báo cáo
tình hình hoạt động tình hình hoạt động năm 1994 và Chương trình công tác
năm 1995 của Hội đồng lâm thời Liên minh các HTX tỉnh Sơn La, Ngày
16/2/1995, Tại kho lưu trữ Liên minh HTX tỉnh Sơn La.
16. Hội đồng lâm thời Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (1995), Báo cáo
đánh giá tình hình kinh tế HTX trong những năm qua và phương hướng đổi
mới, phát triển phong trào HTX trong những năm 1995-1999, Ngày
30/3/1995, Tại kho lưu trữ Liên minh HTX tỉnh Sơn La.
17. Hội đồng lâm thời Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (1995), Báo cáo
tình hình kinh tế HTX năm 1995, Ngày 23/12/1995, Tại kho lưu trữ Liên minh
HTX tỉnh Sơn La.
18. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (1995), Báo cáo của Ban
Chấp hành lâm thời Liên minh các HTX tỉnh Sơn La, Tháng 3/1995, Tại kho
lưu trữ Liên minh HTX tỉnh Sơn La.
19. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (1996), Báo cáo tình hình
hoạt động năm 1995 và phương hướng hoạt động năm 1996 của Hội đồng Liên
minh các HTX tỉnh Sơn La, Ngày 24/4/1996, Tại kho lưu trữ Liên minh HTX
tỉnh Sơn La.
20. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (1997), Báo cáo tình hình
hoạt động năm 1996 và phương hướng hoạt động năm 1997 của Hội đồng Liên
minh các HTX tỉnh Sơn La, Ngày 07/3/1997, Tại kho lưu trữ Liên minh HTX
114
tỉnh Sơn La.
21. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (1998), Báo cáo tình
hình hoạt động năm 1997 và phương hướng hoạt động năm 1998 của Hội
đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La, Ngày 04/02/1998, Tại kho lưu trữ Liên
minh HTX tỉnh Sơn La.
22. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (1999), Báo cáo tình
hình hoạt động năm 1998 và phương hướng hoạt động năm 1999 của Hội
đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La, Ngày 20/12/1998, Tại kho lưu trữ Liên
minh HTX tỉnh Sơn La.
23. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (1999), Báo cáo tình hình
kinh tế HTX và hoạt động của Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh từ khi thành
lập đến nay, Ngày 10/3/1999, Tại kho lưu trữ Liên minh HTX tỉnh Sơn La.
24. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (2000), Báo cáo tổng kết
nhiệm kỳ thứ nhất (1995 - 2000), phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ thứ hai
(2000 - 2005), Ngày 01/8/2000, Tại kho lưu trữ Liên minh HTX tỉnh Sơn La.
25. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (2000), Báo cáo tình hình
hoạt động năm 1999 và phương hướng hoạt động năm 2000 của Hội đồng Liên
minh các HTX tỉnh Sơn La, Ngày 25/2/2000, Tại kho lưu trữ Liên minh HTX
tỉnh Sơn La.
26. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (2001), Báo cáo tổng kết
năm 2000 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2001, Ngày 18/1/2001, Tại kho
lưu trữ Liên minh HTX tỉnh Sơn La.
27. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (2002), Báo cáo tổng kết
năm 2001 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2002, Ngày 18/1/2002, Tại kho
lưu trữ Liên minh HTX tỉnh Sơn La.
28. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (2002), Báo cáo tổng kết
năm 2002 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2003, Ngày 28/12/2002,
115
Tại kho lưu trữ Liên minh HTX tỉnh Sơn La.
29. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (2004), Báo cáo tổng kết
năm 2003 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2004, Ngày 19/2/2004,
Tại kho lưu trữ Liên minh HTX tỉnh Sơn La.
30. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (2005), Báo cáo tổng kết
năm 2004 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2005, Ngày 04/2/2005,
Tại kho lưu trữ Liên minh HTX tỉnh Sơn La.
31. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (2005), Báo cáo tổng kết
năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2006, Ngày 30/12/2005,
Tại kho lưu trữ Liên minh HTX tỉnh Sơn La.
32. Hội đồng Liên minh các HTX tỉnh Sơn La (2007), Báo cáo tổng kết
năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2007, Ngày 23/1/2007,
Tại kho lưu trữ Liên minh HTX tỉnh Sơn La.
33. Hội đồng nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn Tỉnh uỷ Sơn La
(2005), Kinh tế tập thể trong nông nghiệp và vai trò của nó đối với chiến lược
phát triển kinh tế của tỉnh đến năm 2010, Tại kho lưu trữ Tỉnh uỷ Sơn La.
34. Hội đồng nhân dân tỉnh Sơn La (2006), Nghị quyết kế hoạch phát
triển kinh tế tập thể giai đoạn 2006 - 2010, Ngày 23/3/2006, Tại kho lưu trữ
Tỉnh uỷ tỉnh Sơn La.
35. Chử Văn Lâm (Chủ biên) (1992), Hợp tác hoá nông nghiệp Việt
Nam - lịch sử vấn đề triển vọng, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
36. V.I. Lênin (1997), Bàn về chế độ hợp tác xã, Nxb Sự thật, Hà Nội.
37. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 1930 - 2006 (2006), Nxb Lao
động, Hà Nội.
38. C.Mac và Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 25, Nxb Sự thật, Hà Nội.
39. C.Mac và Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 36, Nxb Sự thật, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
116
41. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Sự thật, Hà Nội.
42. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật
hợp tác xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật
hợp tác xã sửa đổi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Trương Thị Tiến (1999), Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông
nghiệp ở Việt Nam, Nxb Chính tri quốc gia, Hà Nội.
45. Tỉnh uỷ Sơn La (1997), Tờ trình Ban thường vụ Tỉnh uỷ về chủ
trương phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã ở Sơn La, Ngày 25/1/1997, Tại
kho lưu trữ Tỉnh uỷ Sơn La.
46. Tỉnh uỷ Sơn La (1997), Báo cáo kết quả khảo sát và phương hướng
củng cố phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã ở Sơn La, Ngày 8/3/1997, Tại
kho lưu trữ Tỉnh uỷ Sơn La.
47. Tỉnh uỷ Sơn La (1997), Nghị quyết của Ban thường vụ tỉnh uỷ về
tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong các ngành,
các lĩnh vực kinh tế, Ngày 10/5/1997, Tại kho lưu trữ Tỉnh uỷ Sơn La.
48. Tỉnh uỷ Sơn La (2007), Nghị quyết của Ban thường vụ tỉnh uỷ về
tăng cường lãnh đạo phát triển phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập
thể, Ngày 19/4/2007, Tại kho lưu trữ Tỉnh uỷ Sơn La.
49. Tỉnh uỷ Sơn La (2007), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về việc
tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu kinh tế tập thể, Ngày 02/5/2007,
Tại kho lưu trữ Tỉnh uỷ Sơn La.
50. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã (2001), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
51. Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La (1995), Chỉ thị của UBND tỉnh Sơn La
117
về việc chấn chỉnh tổ chức và quản lý sản xuất, chính sách khuyến khích khu vực
kinh tế hợp tác xã, Ngày 05/8/1995, Tại kho lưu trữ Liên minh các HTX tỉnh
Sơn La.
52. Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La (1997), Quyết định của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Sơn La về việc quy định chuyển đổi, đăng ký HTX trên các lĩnh vực
kinh tế, Ngày 22/7/1997, Tại kho lưu trữ Liên minh các HTX tỉnh Sơn La.
53. Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La (1998), Hướng dẫn thực hiện quyết
định 1025 của UBND tỉnh về việc chuyển đổi đăng ký HTX, Ngày 18/3/1998,
Tại kho lưu trữ Liên minh các HTX tỉnh Sơn La.
54. Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La, Ban chỉ đạo CĐ - ĐK HTX (1998),
Báo cáo tình hình thực hiện mở diện chuyển đổi HTX trong các lĩnh vực kinh
tế, Ngày 20/11/1998, Tại kho lưu trữ Liên minh các HTX tỉnh Sơn La.
55. Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La (1999), Quyết định của UBND tỉnh
Sơn La về việc ban hành bản quy định thực hiện chính sách khuyến khích phát
triển HTX trên địa bàn tỉnh Sơn La theo Nghị định 15/CP ngày 21/2/1997 và
các Nghị định khác của Chính phủ, Ngày 03/03/1999, Tại kho lưu trữ Liên
118
minh các HTX tỉnh Sơn La.
PHỤ LỤC
119
Phụ lục 06: BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT - KINH DOANH - DỊCH VỤ CỦA CÁC ĐƠN VỊ THÀNH VIÊN NĂM 2005
Vốn - Tài sản (x1.000VNĐ)
TT Phân theo lĩnh vực Số HTX
Lợi nhuận
Thuế đã nộp
Trích lập các quỹ
(2)
Tổng số vốn (5)
Vốn cố định (6)
Tổng DT và doanh số cho vay (9) 2745250 2814000 4620000 3000000 1837000
(11) 21770 48500 91921 150000 35220
(1) 1 HTX Nông nghiệp 2 HTX Tiểu - TCN 3 HTX Vận tải 4 HTX Xây dựng 5 HTX TM - DV 6 Quỹ TDND 7 HTX KD Điện
4376290 2002850 9230000 1000000 1126000 67861000 1320000
630519
63000
Tổng
(3) 16 5 2 1 3 5 1 33
Tổng số XV và LĐ (4) 2004 86 27 9 94 7315 11 9546
2156810 372850 9020000 800000 118000 1190000 1010000 86916140 14667660
Vốn lưu động (7) 2219480 1630000 210000 200000 1008000 66672000 310000 72249480
Vốn cổ phần (8) 370990 241000 17000 300000 65000 4249000 8800 5251790
(10) 315910 201280 7486 250000 77000 83115000 1466000 14000 98761769 2331676
(12) 73480 85335 10000 100000 47000 101000 1009000 54000 511411 1378815
Nguồn: Liên minh HTX tỉnh Sơn La
120