LUẬN VĂN:
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Báo chí - xuất bản ở nước ta là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu trong
đời sống của xã hội, là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp và là diễn đàn của nhân dân.
Báo chí - xuất bản là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong công tác tư tưởng -
văn hóa của Đảng. Thông qua việc sản xuất, phổ biến những ấn phẩm báo chí - xuất
bản, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc
và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng đa dạng và phong
phú của nhân dân, xây dựng văn hóa đạo đức lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, đấu
tranh chống mọi hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào sự phát triển kinh
tế - xã hội và sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc.
Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, báo chí - xuất bản luôn luôn là
công cụ, là vũ khí đấu tranh giai cấp, gắn liền với lợi ích của giai cấp thống trị, được
sử dụng để tuyên truyền, vận động xã hội bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị.
ở nước ta, Đảng lãnh đạo trực tiếp và toàn diện đối với báo chí - xuất bản là một
nguyên tắc bất di bất dịch trong công tác lãnh đạo của Đảng. Vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với báo chí - xuất bản đã được chứng minh qua các thời kỳ lịch sử của cách
mạng Việt Nam từ trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành chính quyền
về tay nhân dân, qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, đến thời kỳ hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước và trong
công cuộc đổi mới do Đại hội lần thứ VI của Đảng khởi xướng và lãnh đạo, vì mục
tiêu "Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh" tiến bước vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội.
Hơn 20 năm qua báo chí - xuất bản nước ta đã có sự phát triển nhanh về số
lượng, quy mô và loại hình, về nội dung và hình thức, về đội ngũ người làm báo chí -
xuất bản và bạn đọc, về cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ in ấn, phát hành, truyền dẫn,
ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của xã hội. Tuy
nhiên báo chí - xuất bản cũng bộc lộ không ít thiếu sót, khuyết điểm, chất lượng nhiều
sản phẩm còn thấp, chưa kịp thời phát hiện và lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống
đặt ra, khuynh hướng tư nhân hóa, thương mại hóa, cho tư nhân núp bóng để ấn hành
xuất bản phẩm ngày càng tăng. Một số cơ quan báo chí, xuất bản thiếu nhạy bén chính
trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hóa, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin không trung thực,
thiếu chính xác. Công tác chỉ đạo, quản lý báo chí - xuất bản còn nhiều hạn chế... Điều
đó đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
báo chí - xuất bản trong thời gian tới.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản để báo chí -
xuất bản thực hiện tốt chức năng cao cả của mình, thực sự là tiếng nói của Đảng,
Nhà nước, là diễn đàn của nhân dân, củng cố vững chắc hơn những mặt tích cực,
nhất là vai trò cung cấp thông tin, định hướng dư luận, nâng cao tri thức, hướng dẫn
thị hiếu, ủng hộ, cổ vũ công cuộc đổi mới, kiên quyết và dũng cảm đấu tranh chống
tham nhũng, quan liêu, lãng phí, mất dân chủ và các biểu hiện tiêu cực khác, đồng
thời hạn chế khắc phục các thiếu sót, khuyết điểm mà có mặt, có lúc, có nơi còn
trầm trọng, chống xu hướng xa rời tôn chỉ mục đích, tư nhân hóa, thương mại hóa
báo chí - xuất bản, xây dựng và phát triển nền báo chí - xuất bản Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ
động hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ đang
diễn ra mạnh mẽ thì sự lãnh đạo chặt chẽ và thường xuyên đổi mới của Đảng là điều
kiện tiên quyết bảo đảm cho báo chí - xuất bản tiếp tục phát triển đúng định hướng
chính trị tư tưởng của Đảng và Nhà nước, đồng thời thực sự là diễn đàn của nhân
dân.
Việc nghiên cứu đề tài: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí -
xuất bản trong thời kỳ đổi mới có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết, góp phần vào
việc nhận thức rõ hơn những giá trị phổ biến, khách quan về vai trò lãnh đạo, nội dung
và phương thức lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới từ 1986 đến nay, đánh giá những thành tựu và những hạn chế yếu kém
trong công tác này, đồng thời đề xuất những giải pháp góp phần đổi mới và nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong thời kỳ phát triển mới của
đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có thể nhận thấy một số nội dung nghiên cứu có liên quan đến đề tài:
Thứ nhất là: Các Văn kiện của Đảng về lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản
trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.
Ngoài các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, Đảng
ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về lãnh đạo báo chí - xuất bản như:
Chỉ thị 08 CT/TW ngày 31 tháng 3 năm 1992 của Ban Bí thư (khóa VII) Về
tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
báo chí - xuất bản.
Chỉ thị số 22/CT-TW ngày 17 tháng 10 năm 1997 của BCT (khóa VIII) Về
tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí - xuất bản.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa VIII (1998) Về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Chỉ thị số 20/CT-TW ngày 27 tháng 01 năm 2003 của Ban Bí thư khóa IX Về
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành sách lý luận chính trị
trong tình hình mới.
Kết luận của Hội nghị lần thứ mười BCHTW Đảng khóa IX ngày 20 tháng 7
năm 2004 Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về "Xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc" trong những năm
sắp tới.
Chỉ thị số 42/CT-TW ngày 25 tháng 8 năm 2004 của Ban Bí thư khóa IX Về
nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản.
Thông báo số 162-TB/TW ngày 01 tháng 12 năm 2004 Kết luận của BCT Về một số
biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình hiện nay.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa X (2007) Về công tác tư tưởng,
lý luận và báo chí trước yêu cầu mới.
v.v..
Các Văn kiện của Đảng đã khẳng định vai trò của báo chí - xuất bản trong sự
nghiệp đổi mới; đánh giá ưu điểm và khuyết điểm trong hoạt động báo chí - xuất bản
thời gian qua và xác định rõ các quan điểm và định hướng lớn trong hoạt động báo chí
- xuất bản.
Thứ hai là: Các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về quản lý báo chí -
xuất bản trong thời kỳ đổi mới.
Thể chế hóa các quan điểm và định hướng lớn của Đảng về công tác báo chí -
xuất bản, Nhà nước đã ban hành các bộ Luật và nghị định, thông tư, hướng dẫn về
quản lý báo chí - xuất bản, tiêu biểu là:
Luật Báo chí đã được Quốc hội khóa VIII thông qua ngày 28 tháng 12 năm
1989 và Quốc hội khóa X thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo
chí ngày 12 tháng 6 năm 1999.
Luật Xuất bản được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 7 tháng 7 năm 1993 và
Luật Xuất bản được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004 (thay cho
Luật Xuất bản công bố năm 1993).
Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí.
Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản.
Thông tư số 30/2006/TT-BVHTT ngày 22 tháng 2 năm 2006 của Bộ Văn hóa -
Thông tin hướng dẫn thi hành Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày 26-8-2005 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản v.v..
Thứ ba là: Các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong và ngoài
giới báo chí - xuất bản, các cơ quan chức năng về báo chí - xuất bản nước ta về sự lãnh
đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới. Tiêu biểu là Hà Xuân
Trường: Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, Tạp chí Cộng sản, số 3-1991; BTT-
VHTW: Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác báo chí - xuất bản, Nxb Tư tưởng
Văn hóa, Hà Nội, 1992; Vũ Mạnh Chu: Đổi mới hoàn thiện pháp luật xuất bản theo
định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997;
Trần Văn Phượng: Vì sự nghiệp xuất bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Tạ
Ngọc Tấn: Báo chí - từ lý luận đến thực tiễn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1999;
Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; 70 năm Đảng lãnh
đạo báo chí, những vấn đề nóng hổi tính thời sự, Tạp chí Cộng sản số 6, 2000; Chu
Thái Thành: Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm tự do và sức sáng tạo cho đội ngũ nhà
báo nước ta, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 6, 1998; Hà Minh Đức (Chủ biên): Báo chí
- những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 1997; Vũ Đình
Hòe (Chủ biên): Truyền thông đại chúng và công tác lãnh đạo quản lý, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Văn Dững (Chủ biên): Báo chí, những điểm nhìn từ
thực tiễn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000; Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường,
Trần Quang: Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2004;
Trần Quang Nhiếp: Định hướng báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Hữu Thọ: Bình luận báo chí thời kỳ
đổi mới - một số vấn đề tư tưởng văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000; Nguyễn Viết
Chức - Nguyễn Duy Bắc: Thông tin đại chúng và phát triển văn hóa - Giáo trình Lý
luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng (dùng cho hệ cử nhân chính trị), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Nguyễn Duy Bắc: Phát triển văn học nghệ thuật và
thông tin đại chúng trong công cuộc đổi mới - Giáo trình Lý luận văn hóa và đường lối
văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam (dùng cho hệ cao cấp lý luận chính trị), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Hà Đăng: Nâng cao năng lực và phẩm chất của
phóng viên nhà báo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002; Nguyễn Vũ Tiến: Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2002; Hoàng Yến: Sự phát triển của báo chí và
vấn đề quản lý Nhà nước đối với báo chí, Tạp chí Cộng sản, số 5-2003; BTT-VHTW:
Tình hình phát triển và quản lý báo chí qua 20 năm đổi mới, Hà Nội, 2004; BTT-
VHTW - BVH-TT: Kỷ yếu Hội nghị tổng kết 4 năm thực hiện Chỉ thị 22 của BCT về
báo chí - xuất bản, Hà Nội, 2001; Lê Thanh Bình: Quản lý và phát triển báo chí - xuất
bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Đinh Xuân Dũng: Xuất bản trong cuộc
hành trình lớn của dân tộc, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa, số 10/2005; Lê Doãn Hợp:
Quản lý báo chí trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số
6/2007; Trần Đăng Tuấn: Một số vấn đề của lãnh đạo, quản lý báo chí trong tình
hình hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 6/2007 v.v.. Các công trình nghiên cứu nêu trên
từ nhiều cách tiếp cận khác nhau đã khảo sát, phân tích những vấn đề lý luận và thực
tiễn phát triển của báo chí - xuất bản nước ta trong thời kỳ đổi mới, khẳng định
những thành tựu và nêu lên những hạn chế, yếu kém của hoạt động báo chí - xuất
bản. Các công trình nghiên cứu trên đã khẳng định và kiến nghị cần tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước đối với báo chí - xuất bản trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển văn hóa và
con người... hiện nay.
Thứ tư là: Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, cử nhân chính trị, cao cấp
chính trị... đề cập đến vấn đề Đảng lãnh đạo báo chí - xuất bản. Tiêu biểu như: Sự
lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ lịch sử
chuyên ngành xây dựng Đảng của Nguyễn Vũ Tiến, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2003; Các quan điểm chỉ đạo của Đảng về báo chí thời kỳ đổi
mới (1986 - 1999), Luận văn thạc sĩ báo chí của Trần Bá Dung, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền, Hà Nội, 2000; Vấn đề tự do báo chí và Đảng lãnh đạo báo chí
hiện nay, Luận văn thạc sĩ báo chí của Hoàng Tiến Phúc, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Hà Nội, 2000; Báo chí trong việc thực thi quyền lực chính trị của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Luận văn thạc sĩ báo chí của Trần Hùng, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2001; Chính sách quản lý báo chí của Nhà nước Việt
Nam từ năm 1996 đến hết năm 2001, Luận văn thạc sĩ báo chí của Chử Kim Hoa,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2003; Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước đối với báo chí trong nền kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ báo chí của Nhữ Văn Khánh, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Hà Nội, 2004; Hoạt động báo chí trong kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Luận văn thạc sĩ văn hóa học của Vũ Đình Thường, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004; Tăng cường quản lý nhà nước
đối với hoạt động xuất bản nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ truyền thông đại
chúng của Trương Thị Văn, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2007;
Đảng lãnh đạo báo chí trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Luận văn thạc sĩ văn
hóa học của Tô Quang Phán, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2008 v.v.. Tác giả của các luận án, luận văn nêu trên đã khảo sát,
phân tích những tác động của bối cảnh trong nước và quốc tế đối với sự phát triển
của báo chí - xuất bản nước ta, đồng thời khảo sát công tác lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước đối với báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới, từ đó kiến
nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước đối với báo chí - xuất bản.
* * *
Nhìn chung những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nêu trên đã có
những đóng góp nhất định đối với khoa học báo chí - xuất bản và công tác tư tưởng lý
luận báo chí - xuất bản của Đảng, là cơ sở để chúng tôi kế thừa trong quá trình thực
hiện đề tài. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ dừng lại ở việc
xác định yêu cầu cấp thiết về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản; về sự
lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng trong điều kiện xây dựng kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; về sự lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng thời kỳ
từ 1986 đến năm 2003-2004... Nhiều vấn đề về nội dung lãnh đạo báo chí - xuất
bản, phương thức lãnh đạo báo chí - xuất bản; sự lãnh đạo của Đảng về báo chí -
xuất bản trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghệ thông tin; sự lãnh
đạo của Đảng về báo chí - xuất bản thời kỳ nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) và hội nhập quốc tế... chưa được đặt ra đúng mức. Thực trạng
công tác xuất bản và sự lãnh đạo của Đảng về công tác xuất bản trong thời kỳ đổi
mới từ 1986 đến nay còn chưa được chú ý nghiên cứu thỏa đáng. Việc thực hiện
đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản trong thời
kỳ đổi mới một mặt kế thừa những thành quả nghiên cứu của những người đi
trước mặt khác sẽ tiếp tục phát triển, bổ sung thêm những kết quả nghiên cứu mới
về lý luận và thực tiễn tiến trình, nội dung, phương thức và bài học kinh nghiệm
trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới.
3. Mục tiêu của đề tài
Việc thực hiện đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí -
xuất bản trong thời kỳ đổi mới nhằm mục tiêu sau đây:
- Làm rõ sự vận dụng, tiếp thu và phát triển sáng tạo các quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta về báo chí - xuất bản và sự lãnh
đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng công tác lãnh đạo báo chí - xuất
bản của Đảng trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.
- Khẳng định, làm rõ các quan điểm đổi mới về báo chí - xuất bản của Đảng,
phân tích những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân và các bài học kinh nghiệm trong
công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong những năm đổi mới và
những vấn đề đặt ra trong công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng ta hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường công tác
lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong thời kỳ mới.
4. Nội dung nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của đề tài được thể hiện qua các nội dung chính sau đây:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về báo chí - xuất bản và công tác lãnh đạo
báo chí - xuất bản của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Một số vấn đề lý luận về báo chí - xuất bản
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí -
xuất bản
1.3. Về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản
Chương 2: Thực trạng công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng trong
thời kỳ đổi mới
2.1. Thực trạng hoạt động báo chí - xuất bản nước ta trong thời kỳ đổi mới
2.2. Những đổi mới trong sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản thời
gian qua
2.3. Một số vấn đề đặt ra từ sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản
thời gian qua
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với báo chí - xuất bản trong giai đoạn mới
3.1. Bối cảnh và thời cơ, thách thức đối với hoạt động báo chí - xuất bản nước
ta trong giai đoạn mới
3.2. Phương hướng và các nhiệm vụ chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng về báo chí - xuất bản
3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí - xuất bản trong giai đoạn mới
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối đổi mới báo chí - xuất bản
của Đảng và Nhà nước và vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu lý thuyết: Đề tài nghiên cứu các quan điểm của chủ nghĩa Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
báo chí - xuất bản.
- Phương pháp phân tích: Được đề tài sử dụng để phân tích thực trạng báo
chí - xuất bản, thực trạng công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng trong thời
kỳ đổi mới, những thành tựu và hạn chế trong hoạt động báo chí - xuất bản và công
tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng ta thời kỳ đổi mới.
- Phương pháp thống kê - so sánh: Đề tài sử dụng các số liệu thống kê để hệ
thống hóa, khái quát hóa, phân loại, so sánh nhằm đưa ra kết luận về thực trạng lãnh
đạo báo chí - xuất bản và giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
- xuất bản trong thời kỳ đổi mới.
- Phương pháp chuyên gia: Đề tài sẽ tìm kiếm các ý kiến phân tích, đánh giá
của các chuyên gia về nội dung nghiên cứu của đề tài thông qua các chuyên đề nghiên
cứu chuyên sâu, các hội thảo và tọa đàm khoa học được tổ chức trong quá trình thực
hiện đề tài.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn là:
Thứ nhất, đề tài góp phần nâng cao trình độ nghiên cứu, năng lực phân tích và
hoạch định chính sách của các cán bộ nghiên cứu và cộng tác viên tham gia đề tài.
Thứ hai, đề tài xây dựng được hệ thống lý luận khoa học về nội dung và
phương thức lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng trong thời kỳ đổi mới từ 1986
đến nay; khẳng định, làm rõ các quan điểm cơ bản, phê phán các nhận thức lệch
lạc, sai trái về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản; phân tích những
tiến bộ và hạn chế, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm trong sự lãnh đạo
của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong những năm đổi mới; đề xuất phương
hướng và các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo
chí - xuất bản trong thời kỳ mới.
Thứ ba, kết quả của đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan lãnh
đạo, quản lý báo chí - xuất bản của Đảng và Nhà nước, các nhà quản lý kinh tế, văn
hóa, xã hội, các tổ chức và cá nhân hữu quan. Đây cũng là tư liệu tốt cho học viên hệ
lý luận chính trị cao cấp, cử nhân chính trị và học viên cao học và nghiên cứu sinh các
chuyên ngành Văn hóa học, Chính trị học, Xây dựng Đảng, Lịch sử Đảng, Báo chí,
Xuất bản v.v..
7. Lực lượng nghiên cứu đề tài
a. Cơ quan phối hợp
- Viện Lịch sử Đảng - Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh.
- Học viện Báo chí và Tuyên truyền - Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh.
- Ban Tuyên giáo Trung ương.
b. Cộng tác viên chính
1. PGS, TS. Nguyễn Duy Bắc, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
2. PGS, TS. Phạm Duy Đức, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
3. ThS. Vũ Thị Phương Hậu, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
4. TS. Lê Trung Kiên, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
5. TS. Nguyễn Thế Kỷ, Ban Tuyên giáo Trung ương
6. ThS. Tô Quang Phán, Báo Lao Động
7. TS. Nguyễn Danh Tiên, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
8. TS. Nguyễn Vũ Tiến, Học viện Báo chí và Tuyên truyền -
Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
9. ThS. Phạm Thị Thúy, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
8. Sản phẩm của đề tài
- Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của đề tài: 158 trang
- Bản kiến nghị của đề tài: 18 trang
- Đĩa CD ghi toàn bộ kết quả nghiên cứu đề tài.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về báo chí - xuất bản và công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của
Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Một số vấn đề lý luận về báo chí - xuất bản
1.1.1. Về báo chí
Báo chí là một trong những sản phẩm phổ biến và tiêu biểu nhất của xã hội
công nghiệp, hiện đại. Về lịch sử, nó gắn liền với sinh hoạt, phát triển của nền văn
minh phương Tây từ đầu thế kỷ XVII, nhưng từ nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX,
nó mới trở thành một ngành công nghiệp lớn, sức tiêu thụ mở rộng ra toàn xã hội, nhất
là ở các nước đã công nghiệp hóa. Đọc báo đã trở thành một thói quen, là một hình
thái sinh hoạt văn hóa - xã hội và báo chí là sản phẩm không thể thiếu của một cộng
đồng, phần nào là thước đo trình độ phát triển của một quốc gia trong thế giới đương
đại. Ba thế kỷ qua, báo chí gần như đã hoàn thiện được việc sản xuất, không ngừng mở
rộng số lượng người đọc, nghe, nhìn. Sự phát triển của báo chí gắn liền với những tiến
bộ của khoa học - công nghệ (máy in, kỹ thuật truyền tin, ảnh, quang học…), sự phát
triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, dân tộc;xu thế toàn cầu hóa và đặc biệt là quá
trình dân chủ hóa đời sống nhân loại…
Báo chí vừa được coi như một sản phẩm của đại công nghiệp lại vừa được coi
như một sản phẩm của sự sáng tạo văn hóa. Là sản phẩm của đại công nghiệp, nó phải
tuân theo quy luật của sản xuất công nghiệp - kỹ thuật, của kinh tế thị trường, phải chú
trọng đến việc cải tiến quản lý xí nghiệp, kỹ thuật giấy, mực, in ấn, nghiên cứu khách
hàng và coi trọng việc phát hành nhằm bảo toàn, thu hồi vốn và có lãi. Là sản phẩm
của văn hóa, nó chú trọng đến thị hiếu người đọc, đến nội dung và hình thức diễn đạt
và trình bày. Chức năng xã hội của báo chí cũng rất đa dạng. Qua việc truyền đạt
thông tin, báo chí giúp cho độc giả có vốn tri thức về nhiều mặt; giáo dục công chúng;
thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, giao tiếp và giải trí của công chúng; tổ chức thời gian sinh
hoạt giúp cho cá nhân hòa nhập hơn vào cộng đồng xã hội và các quốc gia, dân tộc
tăng cường giao lưu tiếp xúc với nhau…
Báo chí luôn gắn bó chặt chẽ với đời sống chính trị, văn hóa của quốc gia, dân
tộc. Do sự phân cực hiện nay trên thế giới mà lĩnh vực truyền thông đại chúng đã hình
thành trật tự không bình đẳng. Nhiều nước phát triển có nền công nghiệp truyền thông
mạnh có tham vọng độc quyền thông tin, chiếm lĩnh thị trường văn hóa - thông tin
nước khác, nhất là các nước kém phát triển. Vì thế, khi tham gia vào quá trình hội
nhập quốc tế, các nước kém phát triển phải có chính sách bảo vệ, củng cố bản sắc văn
hóa dân tộc nhằm loại bỏ các yếu tố độc hại, không phù hợp với truyền thống văn hóa
và thể chế nhà nước của quốc gia, dân tộc mình.
Cuộc đấu tranh của từng nước để bảo vệ độc lập tự chủ, củng cố bản sắc văn
hóa dân tộc trở thành vấn đề cấp bách trước sự xâm nhập ồ ạt của các sản phẩm báo
chí và truyền thông ngoại lai.
Trong từng nước và trong từng doanh nghiệp báo chí, vấn đề trước mắt là làm
sao xử lý được khối lượng thông tin đồ sộ từng ngày từng phút đổ dồn đến, nhất là
thông tin kinh tế. Vấn đề khác nữa là mối đe dọa của ngành truyền hình đang làm cho
người ta ngày càng ngại đọc báo in, nghĩa là "lười" động não. Cuối cùng có thể nhìn
mọi sự vật, hiện tượng bằng “đôi mắt” của kẻ khác chứ không phải bằng “đôi mắt” của
mình.
Báo in nói riêng và các loại hình khác thuộc các phương tiện thông tin đại
chúng (mass media) nói chung đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong đời
sống kinh tế, văn hóa - xã hội của mỗi đất nước và cộng đồng quốc tế.
Sự ra đời báo chí do nhiều nhân tố thúc đẩy như nhu cầu đòi hỏi thông tin trong
xã hội, trình độ văn minh của xã hội, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, các yếu tố
chính trị - kinh tế… Các nhà nghiên cứu cho rằng: Trong tiến trình lịch sử nhân loại,
sự phát triển của báo chí chủ yếu gắn liền với sự phát triển của văn minh phương Tây
từ đầu thế kỷ XVII, nhưng báo chí thực sự hoạt động như là một lĩnh vực nghề nghiệp,
một ngành mang tính kỹ nghệ được phổ biến đều đặn, rộng rãi trong xã hội, tác động
mạnh đến công chúng thì phải tính từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đến nay. Báo
chí đơn giản đã xuất hiện ở các nước châu á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản…
rất sớm nhưng không phải là báo chí theo cách hiểu ngày nay là phải gắn với máy in,
ra định kỳ, phát hành công khai, rộng rãi….
Nhìn chung, báo chí của mỗi quốc gia phát triển theo hướng vừa chịu ảnh
hưởng, tác động của dòng chảy báo chí thế giới với những kinh nghiệm bề dày nền văn
minh nhân loại, vừa mang những đặc điểm riêng của quốc gia và dân tộc mình. Đồng
thời, mỗi cơ quan báo chí nói riêng đều là nơi đại diện, người phát ngôn, phản ánh
quyền lợi của một hay một số tổ chức, lực lượng nào đó. Ví dụ: các đảng phái chính
trị, các tổ chức kinh tế - xã hội, các hội thương mại, hiệp hội nghề nghiệp, văn hóa, tôn
giáo, v.v… Báo chí chịu sự chi phối của các nguyên tắc nhất định, gọi là các nguyên
tắc báo chí như tính khuynh hướng (tính đảng), tính khách quan (trung thực), tính nhân
dân (đại chúng), tính nhân bản, tính dân tộc và tính quốc tế, tính thời đại. Báo chí có
các chức năng chính là: chức năng tư tưởng (nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng cho
công chúng và cộng đồng; định hướng dư luận xã hội đúng hướng, lành mạnh, hợp
quy luật); chức năng giáo dục văn hóa, hình thành nhân cách, truyền bá hệ tư tưởng
thống trị và truyền thống văn hóa dân tộc; chức năng quản lý, giám sát xã hội, tổ chức
liên kết hành động công chúng rộng rãi, giám sát và phản biện xã hội; chức năng giải
trí; chức năng dự báo...
Thực tiễn cho thấy: xuất hiện từ thế kỷ XVII, nhưng phải đến giữa thế kỷ XIX,
do nhu cầu cung cấp thông tin cho các báo về tin tức thị trường, nhờ có sự phát minh
về điện tín cùng các tiến bộ khác về khoa học - công nghệ, các hãng thông tấn chuyên
lo thu thập tin tức đã ra đời; hình thức, nội dung báo chí liên tục được hoàn thiện;
quảng cáo ngày càng thâm nhập rộng rãi trên các media nói chung và báo chí nói
riêng… để đáp ứng nhu cầu cho thị trường thông tin.
Có thể nói, thế kỷ XX và XXI là thời đại bùng nổ thông tin, nền kinh tế tri thức
ngày càng phát triển, nhiều loại hình báo chí mới xuất hiện nhưng báo in vẫn có vị trí
quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội… Có thể nhận thấy một số xu hướng đang
diễn ra đối với hoạt động báo chí hiện nay là: Xu hướng khu vực hóa, địa phương hóa
báo ngày, sự nâng cao vị trí báo cuối tuần và báo chủ nhật, đa dạng hóa báo định kỳ;
Xu hướng đa phương tiện của báo chí(báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử…) nhằm
đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú về loại hình, phương tiện và nội dung thông tin
của công chúng; Xu hướng đa dạng hóa thông tin đồng thời với sự chuyên biệt hóa đối
tượng. Sự mở rộng các quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao..., kéo theo việc mở rộng
khai thác, trao đổi thông tin ở tầm quốc gia và quốc tế khiến thông tin trở nên rất đa
dạng. Đồng thời với từng sản phẩm báo chí lại hình thành những đối tượng ngày càng
chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu của nhiều đối tượng khác nhau
1.1.2. Về xuất bản
Thuật ngữ "publication" trong tiếng Anh và "publicate" trong tiếng Pháp đều có
nghĩa là xuất bản phẩm, thường được dùng trong các lĩnh vực xuất bản - in ấn, thông
tin, tư liệu, thư viện. Xuất bản phẩm là các sản phẩm về các lĩnh vực đời sống như
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học - công nghệ, văn học, nghệ thuật được
xuất bản không định kỳ; được in, nhân bản bằng các chất liệu và phương tiện kỹ thuật
khác nhau, nhằm phổ biến rộng rãi. Trong xuất bản phẩm thì sách là ấn phẩm quan
trọng nhất, đã xuất hiện lâu đời, trước cả báo chí và có những bước tiến dài. Mặc dù
thời đại mới có Internet, "siêu lộ" thông tin, multi media... nhưng sách vẫn là phương
tiện trao đổi kiến thức thông tin cơ bản trong xã hội. Theo tính toán của các nhà
chuyên môn, đầu những năm 2000, số đầu sách khác nhau được xuất bản trên thế giới
hàng năm là xấp xỉ 900.000 (chưa kể có hơn 9.000 nhật báo và hơn 20.000 kỳ báo
chuyên về khoa học và học thuật). Ngành xuất bản sẽ vẫn có vị trí to lớn trong đời
sống văn hóa, giáo dục, trí tuệ của mỗi quốc gia và cả trong việc giao lưu phát triển trí
tuệ quốc tế.
Xét về bản chất, xuất bản là sự phối hợp nhiều hoạt động cần thiết để sản xuất
sách. Nhưng, chuyên môn chính của nhà xuất bản là chọn lựa và biên tập các bản thảo,
lên kế hoạch và giám sát quá trình biến một bản thảo thành một cuốn sách (dĩ nhiên là
nhà xuất bản lớn, tập đoàn xuất bản thường có đủ cả dây chuyền từ khâu làm bản thảo,
in, phân phối phát hành...); sau đó, đảm bảo cho ấn phẩm - sách đến được thị trường
mà nhà xuất bản đã lập kế hoạch. Tiếp cận thị trường và bán được sách là nhân tố, mắt
xích thiết yếu của dây chuyền xuất bản. Xã hội hiện đại cho phép việc phân phối sách
khá dễ dàng. Hạ tầng cơ sở đối với việc phát hành sách như phát hành qua hiệu sách,
gửi bưu kiện trực tiếp, qua các tổ chức giáo dục và các tổ chức tương tự. Vốn đầu tư
để sản xuất ra sách không lớn nên có thể bỏ vốn để in số bản nhất định và phục vụ cả
cho những nhóm độc giả ít ỏi, kể cả in bằng ngôn ngữ ít người sử dụng, in bằng các ký
tự đặc biệt (tuy lợi nhuận ít và có thể lỗ, nhưng thường là khu vực này cũng vẫn chấp
nhận để phục vụ những đối tượng chính sách, ví dụ như dân tộc thiểu số, vùng sâu,
vùng xa).
Về kinh tế, ngày nay, kể cả tại các nước công nghiệp phát triển, tổng doanh thu
ngành xuất bản thường ít hơn các ngành công nghiệp tiêu dùng, giải trí, nhưng về mặt
văn hóa - xã hội và giáo dục, xuất bản lại là nhân tố trọng tâm trong việc tạo các mối
liên hệ trong những ngành công nghiệp văn hóa, nhất là ở thế kỷ XXI, nó càng có vai
trò to lớn đối với xã hội hậu công nghiệp. Có một số nước, ví dụ như Thụy Điển, nhà
xuất bản và tác giả được tính tiền tái quyền trên cơ sở việc sử dụng sách ở thư viện
nhiều hay ít.
Ngày nay, các nước Âu - Mỹ phát triển có kỹ thuật in ấn, xuất bản rất hiện đại.
Nhà nước quản lý lĩnh vực xuất bản bằng luật pháp, điều tiết hoạt động xuất bản qua
thuế. Khu vực xuất bản đã hình thành các tập đoàn xuất bản khổng lồ, liên quan đến
các lĩnh vực họ hàng như báo chí, in ấn, phát thanh, truyền hình. Có nhiều nhà xuất
bản hiện nay rất nổi tiếng cả về quy mô hoạt động, đầu sách xuất bản cũng như chất
lượng và lợi nhuận... Các cường quốc về xuất bản là Mỹ, Anh, Đức, Nhật Bản, Pháp,
Trung Quốc, Nga...
ấn Độ là nước đứng thứ tám về sách in trên thế giới, mỗi năm nước này có
khoảng hơn 20.000 đầu sách. Hiện ấn Độ có hơn 3.000 nhà xuất bản, trong đó có hơn
100 nhà xuất bản loại lớn, mỗi năm xuất bản hơn 500 đầu sách. Đa số các nhà xuất bản
thuộc khu vực tư nhân và có hơn 450 công ty thuộc khu vực công hoạt động trong lĩnh
vực xuất bản. Sách ấn Độ in bằng nhiều ngôn ngữ và việc dùng tiếng Anh không bất
lợi mà còn góp phần tích cực cho sự phát triển, làm phong phú thêm sức biểu hiện của
các tiếng nói chính (ngôn ngữ chính) của ấn Độ. Nước này hiện đứng thứ ba trên thế
giới chỉ sau Mỹ và Anh về số lượng sách xuất bản bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, số
lượng cách trung bình tính theo đầu người của ấn Độ vẫn thấp so với mức trung bình
của thế giới. Mức tiêu thụ sách tính theo đầu người của ấn Độ là khoảng gần 35 trang
sách một năm, trong khi con số này ở các nước công nghiệp là hơn 2.000 trang/năm.
Sách in bằng các thứ tiếng ấn Độ chỉ xấp xỉ 1.000 bản mỗi đầu sách, còn sách in bằng
tiếng Anh thì từ 1.000 đến 2.000 bản mỗi đầu sách. Tại Nhật Bản, các công dân và các
tổ chức được tự do xuất bản sách báo và những xuất bản phẩm đó được tự do in ấn,
đăng tải,phổ biến nếu không vi phạm luật hình sự và những luật khác... Trong những
năm cuối thế kỷ XX, tổng số đầu sách xuất bản ở Nhật hàng năm đều vượt con số
40.000. Trong danh sách các tác giả nộp thuế cao nhất (do Chính phủ công bố hàng
năm) thì vị trí hàng đầu là các tác giả truyện trinh thám.
Trong nửa cuối thế kỷ XX, tại châu Âu và Bắc Mỹ, sự hình thành các hãng
truyền thông đa quốc gia đã biến đổi cơ cấu ngành xuất bản truyền thống. Tính đến
đầu những năm 90 của thế kỷ XX, hơn 50% các nhà xuất bản ở châu Âu và Bắc Mỹ
thuộc sở hữu của các công ty cổ phần quốc tế cỡ lớn. Tuy nhiên, quá trình hợp nhất
giữa các ngành truyền thông, điện tử với xuất bản đã xảy ra ở Mỹ từ những năm 60 (đó
là thời kỳ các tập đoàn CBS, ABC, ITT, Xerox, Raytheon đua nhau mua các nhà xuất
bản sách). Nhưng sách và truyền thông - điện tử là hai lĩnh vực, hai vùng đất khác
nhau, không tương đồng, nên sau một thời gian hoạt động, các công ty truyền thông,
điện tử lại tự rời bỏ địa bàn sách và quyền kiểm soát nhà xuất bản thường lại rơi vào
các tập đoàn xuất bản truyền thống đã phát triển lớn hơn (do các nhà xuất bản cũng
hợp lại để chống sự thôn tính của truyền thông - điện tử và phải tập trung để có lợi thế
cạnh tranh).
Ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX, các cuộc kết hợp giữa ngành xuất bản và
ngành công nghiệp giải trí như phim ảnh, video đã thúc đẩy quá trình tập trung hóa các
công ty tại Mỹ. Công ty Warrner sáp nhập với Time; General Cinema mua Harcourt
Brace Jovanovich; Paramomunt sáp nhập với Simon và Schuster...
Quá trình tập trung hóa trong ngành xuất bản từ năm 1960 đến năm 1990 ban
đầu chỉ là hiện tượng có tính quốc gia. Trong nửa đầu của thế kỷ XX, các nhà xuất bản
hàng đầu của Anh như Collins, Macmillan, Longman, Oxford University Press, Butter
Worth... đã hoạt động như hoạt động của các tập đoàn xuất bản đa quốc gia (các nhà
xuất bản đó đều có chi nhánh ở Mỹ, Canada, Australia, Nam Phi, ấn Độ, Newzeland.
Đầu tiên các chi nhánh đó là những đại lý bán hàng, sau trở thành các nhà xuất bản
khu vực. Họ thích đưa sách của chính quốc Anh vào hơn là sản xuất các bản thảo nội
địa và hoạt động mạnh tại thị trường sách giáo khoa và sách dạy học tiếng Anh...).
Hình thức xuất bản đa quốc gia khác được chính các nhà xuất bản sách khoa
học - kỹ thuật, y tế hình thành. Các nhà xuất bản lớn như Springer (Đức), Elsevier (Hà
Lan) là những nhà xuất bản đầu tiên của châu Âu vươn cánh tay vào một hay cả hai
nước Anh, Mỹ.
Nhờ sự hỗ trợ kỹ thuật cao từ các nhà xuất bản châu Âu khác sau Chiến tranh
thế giới thứ hai và thông qua truyền bá sách thương mại, sự nở rộ nghiên cứu sách
thương mại trong thời kỳ chiến tranh lạnh đã cho ra đời những cuốn sách, tuyển tập về
thương mại mang tính xuyên quốc gia. Rõ ràng là ấn phẩm chuyên khảo và tạp chí
khoa học là những tác động quan trọng đầu tiên dẫn đến xu hướng đa quốc gia hóa
ngành xuất bản. Một tác động quan trọng khác là giáo trình đại học Mỹ - một nơi được
coi là có nền giáo trình đại học tốt. Các nhà xuất bản sách đại học lớn ở Mỹ như: Mc
Graw - Hill, Prentice Hall, Addison - Wesley đã thiết lập các chi nhánh phân phối sách
ở các nước nói tiếng Anh, sau mở rộng sang châu Âu, châu á, Mỹ Latinh.
Có nhiều quốc gia chống lại sự xâm nhập của xuất bản nước ngoài. Ví dụ như
Canada đã ban hành luật chống người nước ngoài sở hữu xuất bản của Canada và hỗ
trợ cho các nhà xuất bản của Canada. Nhiều nước ở châu Phi, Mêhicô ở Mỹ Latinh...
đều có chính sách bảo trợ xuất bản trong nước, chống lại sức mạnh tài chính và chuyên
môn của tài phiệt xuất bản nước ngoài. Trên thực tế, quá trình tăng trưởng, phát triển
của các tập đoàn đa quốc gia từ năm 1960 đến năm 1990 đã có những ảnh hưởng tích
cực đối với lợi ích của xuất bản sách. Chính xuất bản sách (đặc biệt là sách chuyên
môn có thị trường liên quan đến các loại tạp chí học tập, sách tham khảo, tài liệu rời,
từ điển bách khoa thư...) đem lại sự ổn định kinh doanh cho các tập đoàn truyền thống
xuất bản quốc gia, trong khi truyền hình - báo chí do lệ thuộc vào quảng cáo nên thu
nhập không ổn định.
Tuy nhiên, có rất ít tập đoàn xuất bản đa quốc gia cỡ thế giới mang tính đa
ngành. Các tập đoàn xuất bản đa quốc gia chỉ thường nắm các lĩnh vực chính thuộc
xuất bản, truyền thông, giải trí và giáo dục.
Nếu so sánh tốc độ tăng trưởng trong thập niên cuối thế kỷ XX (và dự báo cả
trong thập niên đầu thế kỷ XXI) thì các công ty độc lập xuất bản sách có tuổi đời trẻ,
quy mô vừa, nhỏ với công nghệ hiện đại sẽ có mức tăng trưởng nhanh hơn các tập
đoàn đa quốc gia nói trên, vì họ dễ đổi mới liên tục đề tài sách, công nghệ, thị trường...
Đối với các tập đoàn xuất bản đa quốc gia cần phân biệt rõ những bộ phận kinh
doanh quốc gia và những bộ phận xuyên quốc gia. Ví dụ xuất bản sách cho trường
học, pháp lý, báo chí khu vực về bản chất thuộc bộ phận thứ nhất. Bộ phận xuyên quốc
gia gồm xuất bản sách cho du lịch, tài chính, khoa học, kỹ thuật, y tế... (do tiềm lực
hùng hậu nên họ chú trọng cạnh tranh với các nhà xuất bản quốc gia trong các lĩnh vực
này).
Từ khi công nghệ photocopy ra đời đã đánh dấu cuộc cách mạng trong lĩnh vực
xuất bản. Sự ra đời của máy tính đã tác động toàn diện đến mọi công đoạn như sản
xuất, phân phối và nhất là ảnh hưởng đến tính chất của việc lưu trữ và phục chế các
sản phẩm trí tuệ. Công nghệ photocopy - công nghệ nhân bản cho phép in sách với số
lượng nhỏ cho đối tượng chuyên biệt, kể cả bằng những ngôn ngữ ít người dùng. Các
tiến bộ nhân bản tiếp theo cùng với khả năng sắp chữ bằng máy tính giúp việc in sách
với số lượng ít có thể nhanh,rẻ; hơn nữa có thể in từng bản cho từng người sử dụng.
Ngành xuất bản truyền thống lúc trước cho rằng, việc nhân bản là thách thức; nhưng
đến nay, toàn ngành xuất bản đã tương đối thích nghi, đã kết hợp công nghệ nhân bản
với công đoạn in ấn để giảm giá thành, tiết kiệm thời gian, nhân công (chính các quốc
gia, các khu vực có thị trường nhỏ hẹp, xuất bản chưa phát triển có thể sử dụng lợi thế
này). Để giải quyết thách thức về hệ thống bản quyền, các quốc gia đã liên tục tăng
cường hoàn thiện luật bản quyền để hạn chế, kiểm soát việc sao chép, in ấn lậu, phi
pháp.
Xuất bản điện tử, xuất bản màn hình là các khái niệm xuất hiện thời công nghệ
mới. Các nhà xuất bản đã có khả năng hình thành, hoàn thiện một cuốn sách từ bản
thảo đến bản can hoàn chỉnh ngay trên máy tính (kể cả khâu thiết kế, trình bày bìa và
ruột sách) để sẵn sàng cho việc in ấn thành sản phẩm sách. Máy tính còn làm biến đổi
các quy trình kinh doanh liên quan đến các mặt như: quản lý hàng lưu kho, lập hóa
đơn, theo dõi biến động thị trường tiêu thụ sách nói chung và của mỗi đầu sách cụ thể
nói riêng, đồng thời giúp việc thực hiện quảng cáo chuyên biệt, bán sách qua máy tính,
qua thư điện tử... Tóm lại, nhờ máy tính mà nhiều khâu trong quy trình xuất bản được
giảm thiểu, chi phí giảm và các nhà xuất bản nhỏ cũng hoạt động hiệu quả.
Việc nối máy tính vào mạng Internet và sử dụng phối hợp các phương tiện phát
chuyển tài liệu hiện đại khác đã ảnh hưởng đến hoạt động xuất bản, phát hành (và cả
thư viện, hiệu sách nữa). Sử dụng thư điện tử qua mạng Internet có thể chuyển tài liệu,
tạp chí, sách đi nhiều nơi, tuy nhiên về bản quyền và tài chính (thu phí) đang đặt ra
một số vấn đề phải giải quyết.
Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, sách là một sản phẩm có vị trí quan
trọng trong nền kinh tế tri thức. Cùng với sách in truyền thống (sách giáo khoa, sách
tham khảo, sách thương mại, sách thông dụng kiểu tiểu thuyết, thời sự - chính trị xã
hội, thơ ca, nghệ thuật, tôn giáo, sách tự học nghề, sách cho trẻ em...) đã có nhiều sản
phẩm sách mới ra đời (sách điện tử CD-rom, sách qua mạng Internet...).
Xuất bản sách là một ngành quan trọng có vị trí kinh tế tương đối nhưng có tính
chất phức tạp do luôn phải đối mặt với các thách thức như sự thay đổi mô hình và chủ
thể sở hữu.Vì thế, các quy định quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp trí tuệ (vấn đề bản
quyền sản phẩm trí tuệ, kể cả sách, đĩa mềm, chương trình máy tính...) thường là
những nội dung đặc biệt, gây nhiều tranh luận, tranh chấp thương mại trong các cuộc
đàm phán cấp quốc tế ở những hội đàm của WTO (Tổ chức Thương mại thế giới) và
các tổ chức quốc tế khác. Bản quyền đang trở thành một trong những phương tiện
quan trọng nhất để điều chỉnh dòng lưu chuyển quốc tế của các sản phẩm dựa trên trí
tuệ, liên quan mật thiết tới vấn đề trí tuệ, các ý tưởng. Các sản phẩm dựa trên trí tuệ là
sản phẩm trung tâm phục vụ ngành công nghiệp trí tuệ(công nghiệp báo chí - xuất bản)
của thế kỷ XXI.
1.2. quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí
- xuất bản
Trước khi thành lập các Đảng Cộng sản và công nhân, một nhóm các nhà cách
mạng lập ra tờ báo để tuyên truyền chủ trương cách mạng của mình và tập hợp lực
lượng. Khi Đảng ra đời, các đảng đều củng cố tờ báo, vì đó là tiếng nói của Đảng, là
sợi dây liên hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân và là vũ khí đấu tranh đầu tiên của
giai cấp vô sản trên lĩnh vực chính trị. Vì thế, cả C.Mác - Ph.Ăng ghen và V.I.Lênin
đều cho rằng, đối với mỗi Đảng vô sản thì việc lập ra tờ báo hàng ngày là mốc quan
trọng đầu tiên để tiến lên phía trước. Các Ông khẳng định đó chính là trận địa ban đầu
từ đó Đảng sẽ tiến hành cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản. V.I.Lênin khẳng định:
"Điểm xuất phát của hoạt động, bước thực tiễn đầu tiên để tiến tới thành lập các tổ
chức mong muốn, và cuối cùng sợi dây chính mà nếu nắm được nó thì chúng ta sẽ có
thể không ngừng phát triển, củng cố và mở rộng tổ chức ấy, - phải là việc thành lập tờ
báo chính trị toàn Nga. Chúng ta cần trước hết là tờ báo, - không có nó thì không thể
tiến hành được một cách có hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động hết sức có nguyên tắc và toàn diện"1.
Tiếng nói của báo chí góp phần thống nhất được các chủ trương, phương pháp
hành động khác nhau nhằm đạt được mục đích, khắc phục những thiếu sót trong hoạt
động tư tưởng và thực tiễn của những người cộng sản, làm thức tỉnh quần chúng.
V.I.Lênin cho rằng, tờ báo không chỉ có vai trò phổ biến tư tưởng, giáo dục chính trị,
mà còn là nơi thu hút các đồng minh; tờ báo "không những là người tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể mà còn là người tổ chức tập thể"2. Đọc, phát hành rộng rãi các
tờ báo cách mạng tức là đã ủng hộ cách mạng, tiếp thu tư tưởng của Đảng. Báo chí
cách mạng càng phát động rộng rãi càng chứng tỏ khả năng của một người tổ chức tập
thể. Theo Lênin, muốn xây dựng các tổ chức chính trị mạnh mẽ thì không có phương
tiện nào khác hơn là một tờ báo cho toàn nước Nga. Người ví tờ báo như những dàn
giáo dựng lên chung quanh một tòa nhà đang xây dựng, những dàn giáo ấy thể hiện rõ
hình thù của tòa nhà, làm cho người ta tưởng tượng được không gian mà tòa nhà đó
chiếm chỗ. Đồng thời, nó giúp cho những người thợ xây dựng dễ liên lạc với nhau, tạo
ra sự phân công tự giác và đánh giá đúng hiệu quả công việc mình làm và nhờ đó dàn
giáo (tờ báo) mà ngôi nhà (tổ chức) cố định tự nó sẽ hình thành.
Chính tờ báo là "sợi dây cơ bản", dựa vào nó phong trào cách mạng không
ngừng phát triển, tổ chức tăng lên theo cả chiều rộng và chiều sâu. Bởi vì, tờ báo
"giống như bộ phận của cái bễ khổng lồ thổi cho mỗi tia lửa của cuộc đấu tranh giai cấp và của sự phẫn nộ trong nhân dân bùng lên thành một đám cháy chung"3. Vai trò
tổ chức của tờ báo không chỉ thể hiện tư tưởng chỉ đạo và các phương pháp tổ chức,
mà ngay việc phát hành báo cũng là cơ sở tạo ra mối "liên hệ thực tế" giữa các địa
phương, từ đó thúc đẩy công tác tổ chức của Đảng đạt tới quy mô ngày càng rộng lớn
hơn, từ thành thị tới các vùng nông thôn.
Trong điều kiện chưa có chính quyền, sự thống nhất trong Đảng và trong các tổ
chức cách mạng về chính trị, tư tưởng và tổ chức giữ vai trò vô cùng quan trọng, có
1 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1975, t.5, tr.10. 2 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1975, t.6, tr.210. 3 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1975, t.6, tr.218.
tính chất quyết định đối với công tác xây dựng Đảng và hoạt động lãnh đạo phong trào
cách mạng của Đảng. Vì vậy, báo chí "là người lãnh đạo tư tưởng của Đảng, phát triển
các chân lý về lý luận, các nguyên lý về sách lược các tư tưởng tổ chức chung, những nhiệm vụ chung của toàn Đảng trong một thời kỳ này hay một thời kỳ khác"1.
Hơn thế, Lênin cho rằng, trong thời kỳ đầu, báo chí là một cơ quan lãnh đạo,
thậm chí là cơ quan lãnh đạo thứ nhất, cùng với BCHTW - cơ quan lãnh đạo thứ hai, trong đó, "cơ quan thứ nhất phải lãnh đạo tư tưởng"2. Và, sự thống nhất về tư tưởng
trong Đảng, bắt đầu từ cơ quan báo chí của Đảng là điều kiện đầu tiên tiến tới thống
nhất về mặt tổ chức.
Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, đối mặt với mạng lưới báo chí tư sản,
báo chí vô sản không chỉ làm nhiệm vụ thông tin các sự kiện, mà qua đó hướng dẫn
quần chúng tạo nên sự kiện có lợi cho cách mạng. Từ "sợi dây" liên hệ qua báo chí mà
tiến tới liên kết các cá nhân, các tổ chức trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức. Báo
chí vô sản vừa truyền bá, vừa góp phần "sản xuất hệ tư tưởng" và "tái sản xuất hệ tư
tưởng", góp phần "vật chất hóa" hệ tư tưởng. Đó là quá trình phát triển lý luận mác-xít,
truyền bá chủ nghĩa Mác và đưa lý luận vào quần chúng, tạo thành các phong trào cách
mạng.
Trong điều kiện có chính quyền, vai trò của báo chí không hề giảm đi mà tiếp
tục tăng lên theo tiến trình phát triển của cách mạng. Báo chí vẫn tiếp tục thực hiện các
chức năng tuyên truyền, cổ động và tổ chức, là vũ khí tư tưởng mạnh mẽ nhất của
Đảng, nhưng nội dung phản ánh, đối tượng tuyên truyền của báo chí có sự thay đổi căn
bản. Báo chí phải trở thành cơ quan giáo dục chính trị và kinh tế cho quần chúng, là
người tuyên truyền tất cả những cái mới, tiên tiến nảy sinh từ sự sáng tạo của quần
chúng. Báo chí - Lênin viết: “Phải làm công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Báo chí
phải giới thiệu hết sức tỉ mỉ những thành công của các công xã kiểu mẫu; phải nghiên
cứu những nguyên nhân thành công, những phương pháp làm việc và quản lý của các
công xã đó; mặt khác, báo chí đưa lên "bảng đen" những công xã nào cứ khư khư
1 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, t.7, tr.8. 2 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, t.7, tr.8.
những "truyền thống của chủ nghĩa tư bản", nghĩa là những truyền thống vô chính phủ, lười biếng, vô trật tự, đầu cơ”1.
Trong giai đoạn xây dựng CNXH, nhiệm vụ cách mạng đã thay đổi, báo chí
cũng phải thay đổi cho phù hợp với nhiệm vụ mới của cách mạng. Trong giai đoạn
mới, báo chí không chỉ dừng ở các vấn đề chính trị chung - theo cách nói của Lênin -
"tức là nói huyên thuyên về chính trị". Vấn đề căn bản là báo chí phải nói nhiều đến
xây dựng đời sống mới, đến những sự việc luôn xảy ra trong lĩnh vực đó, bởi vì, khi
giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào xây dựng xã hội mới thì chính trị
đã hoàn toàn sáng tỏ rồi. Nếu như cần phải nói các vấn đề chính trị chung, báo chí "có thể và cần phải nói rất ngắn gọn"2.
Cũng về vấn đề tuyên truyền, Lênin cho rằng, báo chí phải quan tâm cụ thể và
chân thực tới mọi vấn đề "đời thường" bằng cách "bớt những lời hoa mĩ đi". Người
kịch liệt phê phán cách viết "tô hồng" của báo chí, đồng thời phê phán sự kém sắc sảo
trong đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Người chỉ dẫn: Tờ báo chủ
yếu dành chỗ cho chủ đề xây dựng cuộc sống mới. Bởi vì, đó là chính trị quan trọng
nhất hiện nay. “Hãy bớt làm rùm beng về chính trị đi. Hãy bớt những nghị luận kiểu trí
thức đi. Hãy gần gũi đời sống hơn nữa. Hãy chú ý nhiều hơn nữa xem trong công việc
thường ngày của họ, quần chúng công nông đang thực tế sáng tạo cái mới như thế nào. Hãy kiểm nghiệm kỹ hơn xem cái mới đó có tính chất cộng sản đến mức độ nào”3.
Trong thời kỳ mới, các nhà báo, nhà văn, nhà tuyên truyền, hãy bớt nói suông
về chính trị, mà quan tâm nhiều hơn đến những công việc kiến thiết xã hội mới, những
sự việc bình thường nhất nhưng sinh động, rút ra trong đời sống và được cuộc sống
kiểm nghiệm; phải tập trung vào vấn đề kinh tế, vì chỉ có kinh tế mạnh mới có CNXH
hiện thực. ở lĩnh vực kinh tế, báo chí phải thu thập, kiểm tra, phản ánh đầy đủ, nghiên
cứu những biến đổi trong đời sống. Báo chí phải tìm xem, trong tất cả các ngành kinh
tế "thực tế có được những thành tựu nào không? Những thành tựu đó là gì? Những
thành tựu đó đã được xác nhận chưa? Thành tựu đạt được như thế nào? Làm thế nào
1 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1977, t.36, tr.234. 2 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1977, t.37, tr.107. 3 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1977, t.37, tr.109.
để mở rộng những thành tựu ấy"1. Báo chí phải làm rõ sự thật, trả lời chính xác các câu
hỏi đó với phương pháp đánh giá khách quan, toàn diện.
Biểu dương các điển hình tiên tiến, đồng thời báo chí phải kiên quyết đấu tranh
chống các hiện tượng tiêu cực đang diễn ra trong công cuộc xây dựng đất nước. Báo
chí phải dám "vạch mặt" và thậm chí "làm nhục" những kẻ có hành vi tiêu cực trong
lao động, vi phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và lợi ích chính đáng của người lao
động. Nhưng, là "cơ quan của nền chuyên chính của một giai cấp", báo chí phải cụ thể,
thận trọng khi tiến hành đấu tranh chống tiêu cực, chứ không phải bằng giọng điệu
hành chính, quan liêu, chung chung, thiếu trách nhiệm.
Từ vai trò của báo chí - xuất bản đối với sự nghiệp cách mạng, các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Đảng phải lãnh đạo báo chí - xuất bản; đó là
nguyên tắc "bất di bất dịch". Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản gắn liền
với các nguyên tắc hoạt động của Đảng cách mạng.
Trước hết là nguyên tắc tính đảng của báo chí - xuất bản cách mạng. Tính đảng
của báo chí - xuất bản cách mạng do mục đích, chức năng và vai trò của báo chí - xuất
bản cách mạng quy định. Tính đảng đòi hỏi báo chí cách mạng phải đấu tranh kiên
quyết chống các tư tưởng thù địch, phản động, đi ngược lại lợi ích của giai cấp vô sản
và nhân dân lao động, phải đấu tranh không khoan nhượng với các hiện tượng tiêu cực
trong xã hội.
Lênin công khai tuyên bố tính đảng của báo chí cách mạng, đồng thời phát triển
và làm rõ từng mặt của nguyên tắc tính đảng của báo chí. Thứ nhất: Sự nghiệp báo chí
phải là một bộ phận trong sự nghiệp của giai cấp vô sản; do đội tiên phong của giai
cấp công nhân lãnh đạo; thứ hai, sự nghiệp báo chí phải thành một bộ phận khăng khít
của công tác có tổ chức, có kế hoạch thống nhất của Đảng, gắn bó mật thiết với các
công tác khác; phải thành "một bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc" trong toàn bộ guồng
máy do Đảng lãnh đạo; thứ ba, các nhà báo nhất thiết phải tham gia các tổ chức của
Đảng và do Đảng lãnh đạo, tức là: “Báo chí phải trở thành các cơ quan của các tổ chức
của Đảng. Các nhà văn nhất thiết phải tham gia các tổ chức của Đảng. Các nhà xuất
1 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1977, t.37, tr.107.
bản và các kho sách, các hiệu sách và các phòng đọc sách, các thư viện và các nơi bán sách báo, tất cả những cái đó đều phải thành của Đảng, chịu trách nhiệm trước Đảng”1.
Tiêu chuẩn hàng đầu của tính đảng trong báo chí được thể hiện trong mối quan
hệ giữa báo chí với chính trị. Mác và Ăngghen chỉ rõ: "Tuyệt đối từ bỏ chính trị là
không thể được; tất cả các tờ báo chủ trương từ bỏ chính trị cũng đều làm chính trị. Vấn đề chỉ là làm chính trị như thế nào và làm loại chính trị gì..."2. Báo chí tư sản đã
vậy, báo chí vô sản càng phải như vậy. Quan hệ của báo chí với chính trị là sự gắn bó
của báo chí với đường lối chính trị và tổ chức của Đảng vô sản. Báo chí cách mạng dứt
khoát phải trung thành và thể hiện đường lối, quan điểm của Đảng, góp phần thực hiện
có hiệu quả đường lối, quan điểm đó trong thực tiễn cuộc sống. Tư tưởng của Đảng
thông qua báo chí biến thành tư tưởng của quần chúng.
Theo Mác và Ăngghen tính chất cách mạng và tính tiền phong về chính trị là
các yếu tố, tiêu chuẩn hàng đầu của báo chí. "Nhiệm vụ của báo Đảng là gì? Trước
tiên là tiến hành những cuộc thảo luận, chứng minh, phát triển và bảo vệ những đòi hỏi của Đảng, bác bỏ và lật đổ những tham vọng và những luận điểm của phe thù địch"3.
Cụ thể là: báo chí phải làm sáng tỏ nguyên nhân sự áp bức của giai cấp tư sản với giai
cấp vô sản; phải làm sáng tỏ cái gì quyết định sự xuất hiện tình trạng áp bức cả về
chính trị, kinh tế và xã hội, làm thế nào để thủ tiêu được sự áp bức đó; Đảng phải tiến
hành các phương pháp cách mạng như thế nào và Đảng phải liên hợp với các tổ chức
khác ra sao trong cuộc đấu tranh đó?...
Báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị của giai cấp vô sản, luôn gắn với tổ chức
của Đảng. Khác hẳn báo chí tư sản, tính tập thể là đặc điểm xuyên suốt quá trình tồn
tại và hoạt động của báo chí cách mạng. Báo chí cách mạng không bao giờ và không
thể là phương tiện trong tay một cá nhân hoặc một nhóm người. Nó "không thể là sự
nghiệp cá nhân độc lập với sự nghiệp chung của giai cấp vô sản", nó "phải thành một bộ phận trong sự nghiệp của toàn thể giai cấp vô sản"4.
1 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, t.12, tr.124. 2 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1995, t.3, tr.85. 3 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1995, t.3, tr.77. 4 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, t.12, tr.123.
Chỉ ra nguyên tắc tính đảng của báo chí, Lênin cũng kịch liệt phản đối các quan
điểm tự do ngôn luận tư sản. Người chỉ rõ: “Mỗi cá nhân có quyền tự do viết và nói tất
cả những gì họ muốn, không có một chút hạn chế nào. Nhưng mỗi đoàn thể tự do
(trong số đó kể cả Đảng) cũng được tự do đuổi những phần tử lợi dụng chiêu bài Đảng
để tuyên truyền quan điểm chống Đảng... Vì tự do ngôn luận, tôi buộc phải để cho anh
cái quyền hoàn toàn được la ó, nói bậy và viết theo sở thích của anh. Nhưng nhân danh
tự do lập hội, anh cũng phải cho tôi cái quyền liên kết hay đoạn tuyệt với những người
nói thế này thế khác. Đảng là một khối tự nguyện, nếu như nó không tẩy sạch khỏi bản
thân nó những đảng viên tuyên truyền quan điểm chống Đảng, thì nó không thể tránh khỏi tan rã, trước tiên tan rã về tư tưởng, sau sẽ tan rã cả về vật chất”1.
Mác đã phân tích kỹ: bản chất của tự do báo chí thể hiện ở sự dũng cảm, có
lý tính, có đạo đức của tự do; "nhưng bản thân tự do báo chí không bao giờ là sự hoàn thiện"2, "nếu tự do báo chí là tất cả sẽ làm cho tất cả những chức năng còn lại của nhân dân, thậm chí cả bản thân nhân dân nữa, sẽ trở nên thừa"3.
Trong xã hội có giai cấp, Lênin khẳng định, không thể có thứ "tự do tuyệt đối"
như giai cấp tư sản thường rêu rao hòng lừa bịp quần chúng. Vấn đề đặt ra là: "Hãy xem đó là thứ tự do báo chí nào? để làm gì? cho giai cấp nào?"4. Về cái gọi là tự do
báo chí tư sản, Lênin vạch rõ: Trong các nước tư bản, tự do báo chí là tự do mua chuộc
các nhà báo để tạo "dư luận" có lợi cho giai cấp tư sản. Trong điều kiện có chính
quyền, nếu tự do báo chí không xuất phát từ tính Đảng Cộng sản thì chỉ đưa đến các hệ
quả là "tăng cường lực lượng của giai cấp tư sản thế giới", không những không giúp
loại trừ khỏi Đảng các nhược điểm, các sai lầm, các tai họa, các bệnh tật; trái lại, "trở thành một vũ khí trong tay giai cấp tư sản"5.
Tính nhân dân là nguyên tắc cơ bản tiếp theo của báo chí - xuất bản cách mạng.
Báo chí phải "sống trong nhân dân và trung thực chia sẻ với nhân dân niềm hy vọng và
1 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, t.12, tr.125. 2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, t.1,
tr.79.
3 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, t.1,
tr.56.
4 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, t.44, tr.96. 5 Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, t.44, tr.98.
sự lo lắng của họ, tình yêu và lòng căm thù của họ, nỗi vui và nỗi buồn của họ"1. Báo
chí cách mạng phải hiểu sâu sắc cuộc sống của nhân dân, từ đó mới có thể nói lên, thể
hiện đúng "những tư tưởng và tình cảm hàng ngày của nhân dân đang suy nghĩ thật sự theo cách của nhân dân"2. Tính nhân dân của báo chí cách mạng biểu hiện ở mối liên
hệ giữa báo chí với đông đảo tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động - người
sáng tạo chân chính của lịch sử. Báo chí phải phản ánh, đánh giá các hiện tượng và sự
kiện của đời sống theo lập trường của nhân dân lao động, đại diện và bảo vệ cho quyền
lợi của nhân dân,trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân vì sự công bằng,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Theo đó, tính nhân dân không hề mâu thuẫn mà thống nhất với tính đảng. Trong
cuộc sống, sự gặp gỡ giữa "lòng dân" với "ý Đảng" tạo thành sức mạnh, vượt qua mọi
khó khăn để đạt mục tiêu của cách mạng. Trong hoạt động báo chí, những tác phẩm
thông tin, lý giải các sự kiện nóng hổi, những vấn đề sát sườn đặt ra từ đời sống dưới
ánh sáng đường lối, quan điểm của Đảng vô sản, phù hợp với nguyện vọng chính đáng
của nhân dân trở thành những tác phẩm gây được tiếng vang lớn, có hiệu quả cao,
được đông đảo quần chúng lao động đồng tình.
Tính nhân dân, tính đại chúng và bản chất dân chủ của báo chí thể hiện ở sự
tham gia tích cực và thường xuyên của đông đảo nhân dân vào các hoạt động báo chí.
Lênin quan niệm rằng: một tờ báo sống được và trở nên sinh động khi nó có chừng
năm người viết và người biên tập chuyên nghiệp giỏi, nhưng đồng thời phải có năm
trăm, thậm chí năm nghìn, cộng tác viên không chuyên nghiệp. Chính sự tham gia đó
của quần chúng nhân dân làm cho báo chí thực sự trở thành diễn đàn dân chủ để người
dân phát biểu những tâm tư, nguyện vọng, cung cấp các sáng kiến, thực hành quyền
dân chủ. Mặt khác, sự tham gia của quần chúng làm cho thông tin báo chí sinh động
hơn, kịp thời và sát với cuộc sống hơn.
Tính nhân dân còn thể hiện ở nghệ thuật biểu hiện của báo chí: báo chí cách
mạng phải phù hợp với trình độ hiểu biết của quảng đại quần chúng nhân dân. Lênin
coi việc biết viết, biết nói một cách giản dị, sáng sủa bằng ngôn ngữ của nhân dân, bỏ
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, t.1,
tr.223.
2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, t.1,
tr.223.
đi kiểu "thuật ngữ uyên thâm thời thượng", những từ nước ngoài mà quần chúng
không hiểu, những khẩu hiệu rỗng tuếch và xa lạ với quần chúng là đòi hỏi nghiêm
ngặt đối với báo chí cách mạng.
Tóm lại, tư tưởng xuyên suốt của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin về
nguyên tắc báo chí cách mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản và chỉ có
như vậy, báo chí mới xứng đáng là công cụ tuyên truyền, cổ động chính trị của Đảng;
đồng thời, điều đó cũng vì lợi ích của chính báo chí, để báo chí thực hiện đúng đắn và
đầy đủ vai trò, chức năng xã hội của mình.
Là người sáng lập ra báo chí cách mạng Việt Nam, ngay từ khi bước vào hoạt
động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức đầy đủ và sâu sắc vai trò to lớn
của báo chí. Từ một người học viết báo, rồi trở thành một người làm báo vĩ đại, trong
sự nghiệp báo chí của mình, Người đã có trên dưới hai nghìn bài báo. Toàn bộ hoạt
động báo chí và bản thân những bài báo đó đã thể hiện rõ quan điểm của Người về báo
chí cách mạng, về quan hệ giữa Đảng và báo chí.
Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về báo chí vô sản,
Hồ Chí Minh luôn coi báo chí là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là vũ khí sắc
bén trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và xây dựng cuộc sống mới
cho nhân dân. Cuộc đời hoạt động của Người không tách rời hoạt động báo chí. Người
làm báo là để làm cách mạng và để làm cách mạng Người đã trở thành một nhà báo.
Theo Người, báo chí chúng ta chỉ có một đề tài xuyên suốt là: "chống thực dân đế
quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội"1. Để thực hiện được nội dung đó, báo chí cách mạng phải có tính chiến đấu với
tính cách là biểu hiện cao nhất của tính đảng, là bản chất, là tiêu chí cao nhất của báo
chí cách mạng. Điều đó trước hết thể hiện ở đường lối chính trị của tờ báo. Báo chí
thực chất là hoạt động chính trị, thông tin trên báo chí quan trọng nhất là thông tin
chính trị. Báo chí phải biểu thị rõ ràng sự nhiệt tình ủng hộ hay phản đối một quan
điểm, một vấn đề, một sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội nào đó khi trong xã hội còn
đấu tranh giai cấp. Ngay trong tờ báo cách mạng đầu tiên do Người sáng lập - tờ
tr.419.
Người cùng khổ, Hồ Chí Minh đã tố cáo chế độ thực dân phong kiến và tuyên truyền, 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.9,
cổ động cho chủ nghĩa Mác-Lênin. Có thể nói rằng, với tờ báo đầu tiên - báo "Thanh
niên" ra đời năm 1925 - Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho sự ra đời nền báo chí cách
mạng Việt Nam và giúp báo chí cách mạng Việt Nam thể hiện đầy đủ các vai trò là
người tuyên truyền tập thể, người cổ động tập thể và người tổ chức tập thể với tinh
thần chiến đấu rất cao.
Trong điều kiện cụ thể cách mạng nước ta những năm đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Báo chí của ta thì cần phải phục vụ nhân
dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà, cho hòa bình thế giới. Do đó, báo chí của ta phải có đường lối chính trị
đúng, vì có đường lối chính trị đúng thì các nội dung và hình thức thể hiện của báo chí
mới đúng được. Trên cơ sở đường lối chính trị đúng, báo chí phải đi tiên phong trong
đấu tranh không khoan nhượng với những gì đi ngược lại quy luật của lịch sử, vạch
trần tính chất phản động, giả dối, bịp bợm của kẻ thù của dân tộc. "Đối với những người viết báo chúng ta, cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng"1. Tính
chiến đấu không chỉ nhằm tiến công vào kẻ thù của cách mạng, mà còn biểu dương
những tấm gương tiêu biểu trong chiến đấu và lao động để cổ vũ mọi người hăng hái
tham gia cách mạng.
Khi đã có chính quyền, Người đề nghị báo có mục "ý kiến bạn đọc', coi ý kiến
bạn đọc là những ý kiến đấu tranh. Cái mới đấu tranh với cái cũ, cái tốt đấu tranh với
cái không tốt. Trong biểu dương, phải rút ra được kinh nghiệm có ý nghĩa phổ biến,
phê bình phải cụ thể rõ ràng. Phê bình và tự phê bình là biện pháp tăng cường tính
chiến đấu, vì "phê bình và tự phê bình là vũ khí rất cần thiết và rất sắc bén, giúp chúng
ta sửa chữa sai lầm và phát triển ưu điểm. Vì khéo lợi dụng nó mà Đảng và nhân dân ta ngày càng tiến bộ, đối với báo chí cũng vậy"2.
Khi có đường lối chính trị đúng, người làm báo là người thực hiện và là nhân tố
chính đảm bảo tính chiến đấu của báo chí, vì "nói đến báo chí trước hết phải nói đến
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.11,
tr.494.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10,
tr.614.
những người làm báo chí"1. Đối với người làm báo cách mạng, "cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ", do đó họ là "chiến sĩ cách mạng"2. Hồ Chí Minh đòi hỏi những
người làm báo phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, trau dồi tư tưởng, học
tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đi sâu vào
thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động, phải luôn nâng cao trình độ văn hóa, rèn giũa
nghiệp vụ, mài sắc ngòi bút của mình trong sự nghiệp "phò chính, trừ tà".
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở những người làm báo, khi viết phải trả lời rõ: "Viết cho ai xem? Viết để làm gì?"3; "Vì ai mà viết? Mục đích viết làm gì?"4. Những câu hỏi Người đặt ra chính là đòi hỏi báo chí phải xác định rõ đối tượng
tiếp nhận thông tin. Việc xác định đó nhằm hình thành phương pháp sáng tạo phù hợp
cho nhà báo.
Người chỉ rõ: "Đối tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng"5. Vì vậy, cách viết
bài báo phải đơn giản, dễ hiểu, ngôn ngữ phải trong sáng, tránh dùng từ nước ngoài…
Việc xác định đúng đối tượng phục vụ của báo chí - xuất bản cũng có nghĩa là nhà báo
phải biết chọn lựa những nội dung gì nên viết, cái gì không nên viết. Viết "phục vụ
nhân dân" thì nhất định phải chọn cái gì có lợi cho dân và phục vụ cách mạng. Mặt
khác, viết "phục vụ nhân dân" thì phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến nhân dân
và học tập nhân dân. Đó là một tiền đề để thành công, bởi "không riêng gì viết sách, viết báo, mà công tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến của nhân dân"6.
1.3. Về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản
1.3.1. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản bao gồm các công việc
tr.412.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10,
tr.616.
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.9,
tr.545.
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.6,
tr.443.
5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.6,
tr.443.
6 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10,
tr.661.
chủ yếu sau: 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.9,
1.3.1.1. Đảng định hướng chính trị cho báo chí - xuất bản
Là báo chí - xuất bản cách mạng, yêu cầu hàng đầu của báo chí - xuất bản nước
ta là phải có lập trường chính trị vững chắc, có đường lối chính trị đúng đắn, có mục
tiêu chính trị rõ ràng. Đường lối chính trị của báo chí - xuất bản chính là cương lĩnh,
đường lối của Đảng. Do đó, đường lối, chủ trương đúng đắn là nội dung lãnh đạo cơ
bản, tổng quát nhất của Đảng đối với báo chí - xuất bản.
Đường lối của Đảng bao quát một hệ thống những vấn đề cơ bản nhất của một
giai đoạn cách mạng, nó bao quát toàn diện tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và có ý nghĩa trong phạm vi cả nước.
Đường lối đúng đắn của Đảng có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với báo chí - xuất
bản. Đường lối đúng đắn tự nó đã chứa đựng những nội dung thông tin có sức sống và
cách mạng cho báo chí - xuất bản; xã hội đón đọc báo chí để hiểu sâu hơn đường lối
của Đảng. Đường lối do Đảng đề ra đúng đắn và nhất quán sẽ tránh cho báo chí - xuất
bản, trong hoạt động của mình không rơi vào tình huống mâu thuẫn giữa những điều
cần tuyên truyền với hiện thực cuộc sống, không phải né tránh, lựa lách... Nghị quyết
của Đảng không phải là câu trả lời cho tất cả mọi vấn đề, nhưng trên những vấn đề cơ
bản của cách mạng mà có sự khẳng định đúng đắn đã là điều kiện quan trọng hàng đầu
để báo chí - xuất bản phát huy vai trò của mình. Đường lối đúng đắn của Đảng còn tạo
nên một không khí mới, một tư duy mới trong Đảng và trong xã hội, từ đó báo chí -
xuất bản có cơ sở để đổi mới nội dung thông tin và nhất là có những hình thức tuyên
truyền toàn diện hơn, đáp ứng được nhu cầu thông tin của xã hội.
Thực tiễn cuộc sống, thực tiễn cách mạng luôn vận động, nảy sinh những vấn
đề mới mà không phải bao giờ Đảng cũng kịp thời ra nghị quyết. Khi có những vấn đề
mới phát sinh, báo chí - xuất bản cần có sự chỉ đạo định hướng của Trung ương và các
cấp ủy đảng. Hơn nữa, báo chí - xuất bản còn có chức năng tham gia vào tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để Đảng ra quyết định,
hướng dẫn dư luận theo hướng đúng đắn. Trong việc này, sự chỉ đạo thường xuyên của
các cấp ủy là vô cùng quan trọng.
Từ đường lối đúng đắn, từng thời kỳ, Đảng định hướng cụ thể cho báo chí -
xuất bản thông qua việc xác định các nhiệm vụ mà báo chí - xuất bản phải thực hiện và
sự phát triển cụ thể của từng loại hình báo chí - xuất bản. Chẳng hạn, bước vào thời kỳ
đổi mới, tại Đại hội VI, Đảng ta chỉ rõ: “Các phương tiện thông tin đại chúng có nhiệm
vụ truyền bá đường lối, chính sách của Đảng, đi sát thực tế, thông tin kịp thời và phân
tích sâu sắc các sự kiện mới; phát hiện và phản ánh trung thực những điển hình tiên
tiến, nhiệt tình ủng hộ, cổ vũ những nhân tố mới, dũng cảm đấu tranh chống những
hiện tượng lạc hậu, trì trệ và mọi biểu hiện tiêu cực khác; đề cập và chỉ ra phương
hướng giải quyết những vấn đề thiết thực mà xã hội quan tâm; xây dựng dư luận xã hội lành mạnh, động viên quần chúng tích cực hoàn thành nhiệm vụ cách mạng”1.
Đến đầu những năm 90, trước đổ vỡ của CNXH ở Đông Âu và Liên Xô, tình
hình thế giới không có lợi cho cách mạng, ảnh hưởng tiêu cực tới tư tưởng của cán bộ,
quần chúng, kẻ thù đẩy mạnh âm mưu "diễn biến hòa bình", Đảng ta kịp thời chỉ ra:
“Báo chí, xuất bản có trách nhiệm góp phần làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, động viên toàn
Đảng, toàn dân vượt qua khó khăn, thử thách, năng động sáng tạo trong việc thực hiện
nghị quyết Đại hội VII của Đảng, giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục đẩy mạnh công
cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa”2. Thực hiện đường lối mở cửa và hội nhập với thế giới
của Đại hội VII, Đảng lưu ý báo chí - xuất bản phải: “Nâng cao chất lượng, đáp ứng
nhu cầu thông tin và nâng cao kiến thức mọi mặt cho nhân dân; cổ vũ mạnh mẽ các
nhân tố mới, đồng thời tích cực đấu tranh chống tiêu cực; bảo tồn và phát huy truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; bồi
dưỡng tâm hồn, tình cảm cao đẹp của con người Việt Nam; đề cao tinh thần yêu
nước,ý chí tự lập tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa; biểu dương tính trung thực, lòng nhân ái, tinh thần dũng cảm, tình yêu cái
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.129.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị số 08/CT-TW ngày 31/3/1992 của Ban Bí thư khoá VII về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí - xuất bản.
đẹp chân chính, phê phán những thói hư tật xấu, mọi biểu hiện của sự giả dối, độc ác, chạy theo những thị hiếu thấp kém”1.
Nghị quyết 09-NQ/TW của BCT khóa VII về một số định hướng lớn trong công
tác tư tưởng đã khẳng định: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo chí, xuất bản và
các hoạt động văn hóa khác. Coi trọng công tác bồi dưỡng cán bộ báo chí, xuất bản,
văn hóa, văn nghệ, nhất là các cán bộ phụ trách, nắm vững và chủ động thực hiện đúng
đắn, sáng tạo các định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng. Chú trọng biểu dương, cổ
vũ những gương tốt, những nhân tố mới, đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng, tiêu
cực. Rút kinh nghiệm công tác đấu tranh chống những luận điệu tuyên truyền, xuyên
tạc của địch, nhất là trên báo, đài, có kế hoạch chủ động, kịp thời chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" về tư tưởng - văn hóa của chúng"2.
Đại hội VIII của Đảng nhận định nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển
mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH với mục tiêu: “Xây dựng nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”3.
Để báo chí phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của thời kỳ mới, Đảng ta đề ra
các nhiệm vụ cho báo chí - xuất bản: Coi trọng việc nâng cao chất lượng thông tin đại
chúng, tính chân thật, tính chiến đấu và tính đa dạng của thông tin; coi trọng việc phát
hiện và đề cao các nhân tố mới đồng thời với việc phát hiện và phê phán các hiện
tượng tiêu cực. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại. Cụ thể hơn, Đảng ta chỉ rõ,
báo chí phải luôn luôn đi đầu trong việc bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chủ đề trung tâm của hoạt động
báo chí - xuất bản là độc lập dân tộc và CNXH. Chỉ thị 08/CT-TW của BBT khóa VII
yêu cầu báo chí - xuất bản: “Phải bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân,
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết 09 của BCT khoá VII về một số
định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết 09 của BCT khoá VII về một số
định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.18.
tính chiến đấu và tính đa dạng, có trách nhiệm hình thành dư luận xã hội lành mạnh
góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng, chính trị và tinh thần trong nhân
dân. Kiên quyết đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, khắc phục các
biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích và các biểu hiện tiêu cực, lệch lạc
khác. Tích cực biểu dương nhân tố mới, tham gia đấu tranh chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội, góp phần làm lành mạnh xã hội, giữ
gìn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp, bản sắc và tinh hoa văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”1.
Là một bộ phận của hệ thống chính trị, nhưng Đảng là hạt nhân lãnh đạo của hệ
thống, có vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị và lãnh đạo toàn xã hội. Với đặc trưng đó,
Đảng tổ chức sự phối hợp giữa các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể
nhân dân trong việc lãnh đạo, quản lý và hỗ trợ báo chí - xuất bản.
Lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo toàn diện, trong đó trước hết là Đảng lãnh đạo
đảm bảo cho báo chí - xuất bản không đi chệch đường lối chính trị của Đảng, đóng
góp tích cực vào việc thực hiện đường lối đó một cách sáng tạo, phong phú, có hiệu
quả cao.
1.3.1.2. Đảng cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời về đường lối,
chính sách và tình hình thực tiễn cho cơ quan báo chí - xuất bản
Với chức năng công cụ công tác tư tưởng của Đảng, để báo chí - xuất bản có
thể hoàn thành nhiệm vụ của mình, Đảng phải thông tin những vấn đề cần thiết cho
báo chí - xuất bản một cách kịp thời và chính xác, coi thông tin cho báo chí - xuất bản
cũng là thông tin cho toàn Đảng và cho xã hội.
Được cung cấp các thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời là cơ sở để báo chí -
xuất bản đảm bảo tính đảng, tính chân thật ngay từ khâu đầu tiên. Chỉ thị 63/CT-TW
của BBT nêu rõ: "Cung cấp thông tin cần thiết cho cán bộ báo chí - xuất bản, nhất là
cán bộ phụ trách". Chỉ thị 08/CT-TW ngày 31-3-1992 của BBT khóa VII cũng ghi: "
Tạo điều kiện cho các cơ quan báo chí, xuất bản làm tốt nhiệm vụ bằng cách tăng
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị 08/CT-TW ngày 31-3-1992 của BBT khoá VII về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí -x uất bản.
cường cung cấp thông tin"1. Chỉ thị 22/CT-TW ngày 17-10-1997 của BBT khóa VIII
chỉ rõ: "Thường xuyên phổ biến chủ trương, chỉ đạo định hướng. Cung cấp thông tin,
thường kỳ kiểm điểm rút kinh nghiệm, biểu dương ưu điểm, xử lý kịp thời các vi phạm luật pháp và định hướng tuyên truyền"2.
Để báo chí - xuất bản làm tốt chức năng của mình, giúp quần chúng cập nhật
thông tin, bản thân báo chí - xuất bản phải là người được tiếp nhận thông tin đầu tiên.
Tin tức càng chính xác, việc xử lý càng thuận lợi. Nhận thức rõ cung cấp thông tin
chính xác, kịp thời cho báo chí là nội dung lãnh đạo quan trọng. Nghị quyết số 09/NQ-
TW ngày 18-12-1995 về "Một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay"
nhấn mạnh: "Tăng cường công tác thông tin nội bộ, thông tin hai chiều, làm cho các
hoạt động tư tưởng bám sát cuộc sống, nắm bắt và giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy sinh"3.
Khi nói đến cung cấp thông tin cho báo chí, Lênin cho rằng, báo chí: “Cần phải
hiểu tất cả những nhiệm vụ chính trị của Đảng về việc xây dựng đảng, về việc đấu
tranh trong nội bộ đảng. Nó không sợ sự thật trần truồng về Đảng và nó chăm lo việc củng cố, phục hồi và cải tổ lại đảng”4.
Để báo chí có thông tin xác thực, đúng với bản chất sự việc, hiểu được đầy đủ
các nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến các thành tích hoặc khuyết điểm,
biết nên đưa tin, bình luận như thế nào là đúng..., không ai khác, chính là các cấp ủy
đảng có thẩm quyền trực tiếp cung cấp thông tin cho báo chí.
Cung cấp thông tin đầy đủ chính xác, kịp thời cho báo chí - xuất bản thì hiệu
quả lãnh đạo của Đảng đối với xã hội sẽ cao hơn. Bên cạnh đó, nhờ có thông tin ngược
chiều, nhiều chiều từ báo chí - xuất bản các quyết định của Đảng sẽ phản ánh đúng quy
luật hơn, đảm bảo tính hiện thực, tính khả thi cao, "ý Đảng" sẽ luôn phù hợp với "lòng
dân".
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị số 08/CT-TW ngày 31/3/1992 của Ban Bí thư khoá VII về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí - xuất bản.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị 22/CT-TWngày 17-10-1997 của BBT khoá VIII về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí - xuất bản.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết 09 của BCT khoá VII, Tlđd. 4 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, t.8, tr.160.
Bên cạnh cung cấp thông tin cho báo chí - xuất bản hoạt động nghiệp vụ, Đảng
còn cung cấp thông tin giải quyết các kiến nghị của báo chí về những vấn đề liên quan
đến sự lãnh đạo của Đảng.
Có thể nói rằng, việc cung cấp thông tin toàn diện cho báo chí là đảm bảo cho
báo chí hoạt động vừa phong phú, đa dạng vừa đúng định hướng chính trị trong mọi
hoàn cảnh.
1.3.1.3. Tổ chức sự phối hợp giữa các phương tiện thông tin đại chúng
Nói đến sự phối hợp giữa các phương tiện thông tin đại chúng là đề cập đến sự
phối hợp giữa các thiết chế xã hội: báo chí, xuất bản, hãng thông tấn... trong việc thu
thập, xử lý và phổ biến thông tin trên một quy mô rộng lớn dựa trên cơ sở những quy
luật của xã hội, trong đó các thiết chế này hoạt động với đặc tính chung là phổ biến
nhanh và thường xuyên tin tức, cùng một lúc làm cầu nối và bổ sung cho sự giao tiếp
trực tiếp giữa người với người.
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH, các phương tiện thông tin vẫn luôn là công cụ tư tưởng sắc bén của Đảng. Tuy
phương thức hoạt động của mỗi loại hình khác nhau, nhưng chúng luôn phối hợp chặt
chẽ vì cùng một nhiệm vụ và cùng một mục đích. Những năm qua, chính nhờ có sự
phối hợp, hợp tác lẫn nhau mà các hoạt động văn hóa, thông tin, báo chí, xuất bản có
bước phát triển mới về nội dung và phương pháp thông tin, về nghiên cứu và sáng tạo,
về đấu tranh, phê phán các hiện tượng tiêu cực.
Sự phối hợp giữa các cơ quan thông tin nhằm làm cho thông tin ngày thêm đa
dạng, phong phú, nhiều kênh, nhiều chiều, nhiều cấp độ, đảm bảo sự nhất quán về độ
chính xác của các thông tin phát ra, tránh tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược"
hoặc "nhiễu" thông tin. Kinh nghiệm từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN
Đông Âu cho thấy, sự thiếu nhất quán trong thông tin, nhất là một số tờ báo đưa thông
tin "nửa sự thật", chỉ đề cập một phần sự thật, hoặc bóp méo sự thật về một sự kiện
lịch sử, hoặc về một nhân vật nào đó là làm cho cả xã hội hoang mang, không biết tin
vào ai, đổ vỡ niềm tin đã được xây dựng từ nhiều năm, từ đó dẫn đến hoài nghi tất cả
và đó là cơ hội tốt cho "diễn biến hòa bình" của kẻ thù.
Vì vậy, trong lãnh đạo báo chí - xuất bản, Đảng có sự phân công, phân nhiệm
giữa các cơ quan báo chí - xuất bản những tin tức quan trọng được phát ra từ một
nguồn thống nhất (Thông tấn xã Việt Nam, báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản, Đài
Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật).
Các báo, đài địa phương, ngành và đoàn thể không được đưa tin trái với nội dung tin
do Thông tấn xã Việt Nam phát. Một số vấn đề nhạy cảm, tế nhị về quan hệ quốc tế
cần được cấp có thẩm quyền xem xét về nội dung và cách thức đưa tin, các báo không
tự ý đưa tin, nhất là đưa tin theo các hãng thông tấn, báo chí nước ngoài.
1.3.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản
Có thể thấy các phương thức lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng bao gồm:
1.3.2.1. Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra các nghị quyết, chỉ thị đối với báo chí
- xuất bản
Lãnh đạo bằng nghị quyết, chỉ thị là phương thức quan trọng nhất trong hoạt
động lãnh đạo của Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, các nghị quyết của Đảng
là cơ sở để các cơ quan nhà nước ban hành các chủ trương, kế hoạch, chính sách, luật
pháp. Mọi nghị quyết của Đảng đều tác động trực tiếp đến mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, trong đó có lĩnh vực báo chí - xuất bản. Các nghị quyết, các chỉ thị của Đảng
về báo chí - xuất bản trở thành cơ sở cho Nhà nước thể chế hóa cụ thể hóa các quan
điểm của Đảng đối với báo chí, xuất bản, từ đó Nhà nước thực hiện quyền hạn và trách
nhiệm quản lý nhà nước đối với báo chí - xuất bản và báo chí - xuất bản thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong thời kỳ đổi mới, dưới ánh sáng các nghị quyết Đại hội Đảng, việc cụ thể
hóa đường lối đổi mới của Đảng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
có báo chí - xuất bản, ngày càng cụ thể hơn.
Tại Đại hội VI, Đảng chỉ ra nhiệm vụ của báo chí - xuất bản trong việc truyền
bá đường lối, chính sách của Đảng, đi sát thực tế, thông tin kịp thời và phân tích sâu
sắc những sự kiện mới, nhiệt tình ủng hộ những nhân tố mới, chống những hiện tượng
trì trệ, lạc hậu... Để cụ thể hơn Nghị quyết của Đại hội, BBT Trung ương Đảng khóa
VI đã có Chỉ thị 63/CT-TW ngày 25-7-1990 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác báo chí - xuất bản. Có thể nói rằng, đây là văn bản đầu tiên Đảng ta bước
đầu chỉ ra nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản. Từ xác
định vai trò của báo chí - xuất bản, chỉ thị chỉ rõ các công việc của Đảng, Nhà nước
phải thực hiện trong lãnh đạo, quản lý báo chí - xuất bản; trách nhiệm của cơ quan chủ
quản; trách nhiệm, quyền hạn của người phụ trách cơ quan báo chí - xuất bản về việc
thành lập các tổ chức đảng trong các cơ quan báo chí - xuất bản. Với việc cụ thể các
công việc từ chủ thể lãnh đạo, quản lý (Đảng và Nhà nước) để khách thể lãnh đạo,
quản lý (các cơ quan báo chí - xuất bản), Chỉ thị 63/CT-TW của BBT đã khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản cũng như chỉ ra các công việc cụ
thể cần làm để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản. Với Chỉ thị
63/CT-TW, sau những lúng túng khi bước vào đổi mới cùng đất nước, báo chí - xuất
bản nước ta đã dần đi vào ổn định và tìm ra đường hướng phát triển theo hướng tích
cực.
Đại hội VII của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh, đối với báo chí - xuất bản, Đảng ta
khẳng định: "Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát
triển các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin đa dạng, nhiều chiều, kịp thời,
chân thực và bổ ích". Tiếp đó, ngày 31-3-1992, BBT Trung ương khóa VII ra Chỉ thị
08/CT-TW về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác báo chí - xuất bản. Chỉ thị 08/CT-TW đã chỉ ra những ưu điểm đồng thời
cũng thẳng thắn chỉ ra các khuyết điểm của công tác báo chí - xuất bản, trong đó có
những khuyết điểm nghiêm trọng kéo dài. Chỉ thị là văn bản đầu tiên chỉ ra căn bệnh
nan giải của báo chí - xuất bản trong kinh tế thị trường là "khuynh hướng thương mại
hóa, chạy theo lợi nhuận đơn thuần" dẫn đến nhiều sai lầm khác của báo chí - xuất
bản. Chỉ thị cũng chỉ ra nguyên nhân quan trọng dẫn đến các yếu kém của báo chí -
xuất bản trong thời kỳ này là "sự lãnh đạo, quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức năng
Trung ương, của nhiều cấp ủy đảng, cấp chính quyền, cơ quan chủ quản ". Đặc biệt
Chỉ thị khẳng định "báo chí, xuất bản dù là cơ quan của Đảng, của Nhà nước, các đoàn
thể quần chúng hay của tổ chức xã hội đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và hoạt
động theo pháp luật" vào thời điểm đó đã loại bỏ tư tưởng đòi tách báo chí - xuất bản
ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng của một số phần tử trong xã hội, đồng thời giúp cho báo
chí - xuất bản tin tưởng hơn, tự giác hơn trong hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nối tiếp Chỉ thị 63/CT-TW, Chỉ thị 08/CT-TW từng bước khái quát ở mức độ cao hơn
các nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản. Quá trình
phát triển đó tạo thuận lợi hơn cho sự lãnh đạo đối với báo chí - xuất bản ở các cấp ủy
đảng, các ngành và các địa phương.
Nghị quyết 09/NQ-TW ngày 18-2-1995 về một số định hướng lớn trong công
tác tư tưởng nêu yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo chí - xuất bản; coi
trọng công tác bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ phụ trách báo chí,xuất bản; nắm vững
và chủ động thực hiện đúng đắn, sáng tạo các định hướng chính trị, tư tưởng của
Đảng; đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng, tiêu cực, chống âm mưu "diễn biến
hòa bình" của kẻ địch. Với quan điểm, nhiệm vụ của công tác tư tưởng - văn hóa nói
chung, của báo chí - xuất bản nói riêng, được chỉ ra trong Nghị quyết 09/NQ-TW,
trong Chỉ thị 08/CT-TW, sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản vừa được
tăng cường, vừa mang tính khoa học, cụ thể và đạt hiệu quả cao hơn.
Đại hội VIII của Đảng đề ra các chủ trương quan trọng: Phát triển đi đôi với
quản lý tốt mạng lưới thông tin, báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, điện ảnh,
và các hình thức nghệ thuật khác. Lần đầu tiên Đảng đề ra chủ trương sớm hoạch định
một chiến lược quốc gia về thông tin theo hướng coi trọng việc nâng cao chất lượng
thông tin đại chúng, tính chân thật, tính chiến đấu và tính đa dạng của thông tin; coi
trọng việc phát hiện và đề cao các nhân tố mới đồng thời với việc phát hiện và phê
phán các hiện tượng tiêu cực, tăng cường công tác thông tin đối ngoại.
Đặc biệt, ngày 17-10-1997 BCT khóa VIII ban hành Chỉ thị số 22/CT-TW về
tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí xuất bản. Sau khi
đánh giá và rút ra các bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo báo chí của Đảng từ khi có
Chỉ thị 08/CT-TW, Chỉ thị khẳng định các quan điểm và định hướng lớn trong hoạt
động báo chí - xuất bản. Chỉ thị cũng chỉ ra các nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan lãnh
đạo, quản lý, các cơ quan báo chí - xuất bản, các cá nhân phụ trách trên lĩnh vực báo
chí - xuất bản, giúp cho báo chí - xuất bản dễ dàng hơn trong hoạt động nghề nghiệp,
cũng như các cơ quan lãnh đạo, quản lý cơ bản thoát khỏi sự lúng túng trong chỉ đạo
báo chí - xuất bản thời kinh tế thị trường, mở cửa.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa VIII (năm 1998) về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đã xác định
nhiệm vụ: Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; từng bước
hiện đại hóa hệ thống thông tin đại chúng; sắp xếp hợp lý nhằm tăng thêm hiệu quả
thông tin; xây dựng và từng bước thực hiện chiến lược truyền thông quốc gia phù hợp
đặc điểm nước ta và xu thế phát triển thông tin của thế giới; ngăn chặn, hạn chế tiêu
cực qua mạng internet; không ngừng nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ, chất
lượng tư tưởng, văn hóa của hệ thống truyền thông đại chúng cũng như khắc phục xu
hướng thương mại hóa trong hoạt động báo chí - xuất bản; chăm lo đặc biệt về định
hướng chính trị, tư tưởng, văn hóa cũng như kỹ thuật đối với truyền hình...
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm "phát triển đi đôi với quản
lý tốt hệ thống thông tin đại chúng” và chỉ rõ: “Báo chí, xuất bản... làm tốt chức năng
tuyên truyền thực hiện đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát
hiện cái mới, giới thiệu gương người tốt, việc tốt, phê phán các hiện tượng tiêu cực,
đấu tranh với những quan điểm sai trái; coi trọng nâng cao tính chân thật, tính giáo dục
và tính chiến đấu của thông tin; khắc phục khuynh hướng "thương mại hóa" trong hoạt
động báo chí; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ văn hóa và nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của đội ngũ báo chí”1. Trong nhiệm kỳ này, BBT đã có Chỉ thị 42-CT/TW
ngày 25-08-2004 về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản. Chỉ thị
nêu rõ: “Sự nghiệp xuất bản là một lĩnh vực hoạt động tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà
nước và nhân dân, là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, có nhiệm vụ tích lũy và truyền bá các giá trị tinh thần, góp phần nâng cao
dân trí, phát triển văn hóa, xây dựng nền tảng tư tưởng, thế giới quan, nhân sinh quan
cách mạng và khoa học (…) Hoạt động xuất bản phải chăm lo bảo vệ và khẳng định và
phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại và đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm sai trái,
lạc hậu. Hoạt động xuất bản phải coi trọng việc phục vụ nhiệm vụ chính trị, tư tưởng,
đáp ứng nhu cầu đọc của nhân dân, đồng thời phải thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh,
xây dựng ngành xuất bản thành một ngành kinh tế - công nghệ phát triển toàn diện,
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.116.
vững chắc. Cần xây dựng những chính sách và cơ chế phù hợp để xuất bản hoạt động có hiệu quả trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”1.
Văn kiện Đại hội X nêu rõ: “Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin
đại chúng phát triển, nâng cao chất lượng tư tưởng và văn hóa, vươn lên hiện đại về
mô hình, cơ cấu tổ chức và cơ sở vật chất - kỹ thuật; đồng thời xây dựng cơ chế quản lý phù hợp, chủ động, khoa học”2. Đặc biệt Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa X đã
ra Nghị quyết về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí; trong đó, đối với báo chí, Nghị
quyết tiếp tục khẳng định: "Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức
chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật"3.
Bằng cách ra các nghị quyết chuyên đề về công tác tư tưởng - văn hóa, nhất là
các nghị quyết, chỉ thị riêng đối với báo chí - xuất bản, Đảng đã thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng đối với báo chí - xuất bản ngày càng có hiệu quả.
Các quyết định, chỉ thị của Đảng về công tác báo chí - xuất bản đã đánh giá kết
quả lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực báo chí - xuất bản của Đảng, đánh giá chất lượng chính
trị, văn hóa và khoa học của báo chí - xuất bản trong thời gian trước đó và xác định
các giải pháp mới phù hợp, tạo điều kiện cho báo chí - xuất bản phát triển mạnh mẽ và
đúng định hướng.
1.3.2.2. Đảng lãnh đạo báo chí - xuất bản thông qua việc lãnh đạo, chỉ đạo
các cơ quan nhà nước xây dựng hệ thống luật pháp về báo chí - xuất bản
Đảng cầm quyền trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thì sự
lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực đời sống xã hội chủ yếu được thông qua Nhà
nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng
thành luật pháp, kế hoạch, chính sách và kiểm tra công việc quản lý của Nhà nước đối với
báo chí - xuất bản. Thông qua các cơ quan tham mưu của mình (ở Trung ương là BTT-
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị 42-CT/TW ngày 25-08-2004 của BBT
khóa IX về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.107.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khoá X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.42.
VHTW nay là Ban TGTW, ở địa phương là các Ban Tuyên giáo) và cán bộ đảng viên
trong cơ quan quản lý nhà nước về báo chí - xuất bản, trong cơ quan báo chí - xuất bản để
thực hiện sự lãnh đạo đối với các cơ quan nhà nước. Chức năng các cơ quan và cá nhân
này không phải là áp đặt ý kiến của mình cho các cơ quan quản lý báo chí - xuất bản, mà
là theo dõi, nhắc nhở, bàn bạc và thuyết phục trên quan hệ cộng đồng trách nhiệm.
Chỉ thị 22/CT-TW của BBT khóa VIII đã chỉ ra cụ thể hơn sự phối hợp giữa
các cơ quan trong việc lãnh đạo quản lý báo chí - xuất bản, chỉ thị nêu: BTT-VHTW
và BVH-TT dựa trên dự kiến quy hoạch tổng thể báo chí, xuất bản đến năm 2000 và
những năm tiếp theo để kiểm tra, xem xét cụ thể và chấn chỉnh kịp thời theo hướng
nâng cao chất lượng và hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của
nhân dân trong thời kỳ mới, không để xảy ra tình trạng tự phát.
Chỉ thị cũng chỉ rõ, các cơ quan Đảng và Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ rà
soát các loại báo chí, hạn chế sự vi phạm pháp luật và sai trái của báo chí. Việc cấp
giấy phép cho ra báo, tạp chí, tăng trang, tăng kỳ... và thu hồi giấy phép đều phải theo
luật pháp và có sự thống nhất giữa BTT-VHTW và BVH-TT. Hai cơ quan này phối
hợp nghiên cứu bổ sung và ban hành các quy định, quy chế về việc xét duyệt, cấp phép
hoạt động mới của báo chí - xuất bản (cả in ấn, phát hành, xuất nhập khẩu sách, báo),
khai thác thông tin trên mạng internet quốc tế và đưa sách, báo vào mạng này; nghiên
cứu để đổi mới cơ chế quản lý hệ thống các đài phát thanh từ Trung ương đến địa
phương, chỉ đạo và quản lý tốt nội dung, phát huy hiệu quả, khắc phục tình trạng
chồng chéo, lãng phí cơ sở vật chất kỹ thuật...
Các cấp ủy, chính quyền, cơ quan chủ quản phải chịu trách nhiệm về mọi mặt
quản lý và chỉ đạo chặt chẽ báo chí, xuất bản của cấp mình, ngành mình, đơn vị mình.
Cơ chế cụ thể do BanTT -VHTW, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tổ chức - cán bộ
Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) và BVH-TTphối hợp xây dựng và ban hành.
Từ quan điểm, báo chí - xuất bản đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, Nhà nước đã thể chế hóa các
quan điểm và định hướng lớn của Đảng về báo chí - xuất bản thành luật pháp và chính
sách. Các nội dung quản lý báo chí - xuất bản của Nhà nước được thể hiện rõ trong các
bộ Luật Báo chí (1989) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí(1999):
Luật Xuất bản(1993)và Luật Xuất bản(2004).Trên cơ sở hai Luật này Chính phủ và Bộ
VHTT(cũ) nay là Bộ TTVTT đã ban hành các Chiến lược, Nghị định, Chỉ thị, Thông
tư… hướng dẫn chi tiết thi hành các luật nêu trên: Ngày 09-09-2005 Thủ tướng Chính
phủ đã có quyết định số 219/2005/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược phát triển thông tin
đến năm 2010; Ngày 26-04-2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 51/2002/NĐ-
CP Quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Báo chí; Ngày 26-08-2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 111/2005/NĐ-
CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của của Luật Xuất bản…Nhìn
chung, các văn bản qui phạm pháp luật nói trên đã quán triệt các quan điểm cơ bản của
Đảng về báo chí - xuất bản và xác định rõ nội dung quản lý nhà nước về báo chí - xuất
bản, bao gồm:
+ Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển sự
nghiệp báo chí - xuất bản.
+ Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí;
xây dựng chế độ, chính sách về báo chí - xuất bản.
+ Tổ chức thông tin cho báo chí - xuất bản; quản lý thông tin của báo chí - xuất
bản.
+ Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí - xuất bản.
+ Tổ chức, quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo chí - xuất
bản
+ Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí, thẻ nhà báo.
+ Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí - xuất bản, quản lý hoạt động của báo chí
- xuất bản Việt Nam liên quan đến nước ngoài và hoạt động báo chí - xuất bản nước
ngoài tại Việt Nam.
+ Kiểm tra báo chí - xuất bản lưu chiểu, quản lý kho lưu chiểu báo chí - xuất
bản.
+ Tổ chức, chỉ đạo công tác khen thưởng trong hoạt động báo chí - xuất bản.
+ Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách, quy hoạch,
kế hoạch phát triển báo chí - xuất bản và việc chấp hành pháp luật về báo chí - xuất
bản; thi hành các biện pháp ngăn chặn hoạt động báo chí - xuất bản trái pháp luật. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí - xuất bản1.
Cùng với những nội dung quản lý nhà nước về báo chí được cụ thể từ quan
điểm của Đảng, Đảng cũng xây dựng và tổ chức bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước
về báo chí: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí - xuất bản. BVH-TT
(cũ) nay là Bộ TT và TT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước
về báo chí - xuất bản. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình - có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về báo
chí - xuất bản theo quy định của Chính phủ. Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm
của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với BVH-
TT (nay là BTT&TT) để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về báo chí - xuất bản.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản lý nhà nước về báo chí - xuất bản trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ2.
Một vấn đề quan trọng và là khó khăn chung của báo chí - xuất bản, nhất là các
báo và tạp chí, Nxb chính trị, là tình trạng thiếu kinh phí hoạt động nghiệp vụ. Đảng
không trực tiếp giải quyết vấn đề này, nhưng Đảng lãnh đạo Nhà nước để có chính
sách tài trợ hợp lý. Chỉ thị 22/CT-TW của BCT khóa VIII ghi: BVH-TT chủ trì phối
hợp với Hội nhà báo Việt Nam các ban, bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, đề nghị
sửa đổi, bổ sung và ban hành các chế độ, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động báo chí, xuất bản trong điều kiện mới. Chính phủ xem xét để cấp vốn hoạt động
cho một số báo, tạp chí, nhà xuất bản, chủ yếu là báo, tạp chí, sách lý luận chính trị, xã
hội, phổ biến kiến thức, khoa học kỹ thuật có nhiều khó khăn trong việc tăng số lượng
phát hành; xem xét việc tính thuế doanh thu và thuế lợi tức hợp lý trong hoạt động báo
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999
-Luật xuất bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2004 - Nghị định số 111/2005/NĐ-CP Ngày 26-08-2005 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của của Luật Xuất bản
- Nghị định số 51/2002/NĐ-CP Ngày 26-04-2002 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí
2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.29 -30.
chí - xuất bản hoặc có hình thức để tái đầu tư cho các hoạt động này. Ngân sách hàng 1 Xin xem: - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí, Nxb
năm dành để tài trợ cho báo chí, xuất bản phải có cơ chế quản lý chặt chẽ, phân bổ
đúng địa chỉ, phù hợp với yêu cầu định hướng công tác tư tưởng, văn hóa của Đảng.
Có thể nói rằng, phát huy tốt vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước về báo
chí – xuất bản nhằm phát triển đi đôi với quản lý tốt báo chí - xuất bản là vấn đề rất
trọng yếu trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản. Thông qua
cơ quan quản lý nhà nước về báo chí - xuất bản, Đảng hướng hoạt động báo chí - xuất
bản luôn bám sát và phát huy thế mạnh của mình đóng góp tích cực nhất vào việc thực
hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Cụ thể hơn, trong việc lãnh đạo thông qua Nhà nước đối với một số công việc
cụ thể, Ban cán sự Đảng ở các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí - xuất bản lãnh
đạo xác định và thực hiện đúng đường lối, quan điểm báo chí của Đảng; kiện toàn về
bộ máy và nhân sự, sao cho đủ sức lao động tốt nhất hoạt động đa dạng và nhiều khi
phức tạp của báo chí; sử dụng hợp lý sự hỗ trợ của Nhà nước về mọi mặt đối với báo
chí - xuất bản, nhất là về kinh phí, để báo chí - xuất bản đến với mọi người dân, đồng
thời cũng để nhân dân sử dụng báo chí – xuất bản là diễn đàn để thể hiện tâm tư,
nguyện vọng của mình với Đảng và Nhà nước.
Trong chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí - xuất bản, các cấp ủy
đảng phải tôn trọng và đề cao vai trò của Hiến pháp và pháp luật, trước hết là Luật Báo
chí, Luật Xuất bản. Cùng với Luật Báo chí, Luật Xuất bản Đảng lãnh đạo các cơ quan
nhà nước ban hành và hoàn chỉnh hệ thống các chính sách về báo chí - xuất bản, cụ thể
là chính sách lương và phụ cấp của nhà báo, chính sách đầu tư, chính sách thuế... để
làm sao tạo thành một hệ thống chính sách đồng bộ giúp cho báo chí - xuất bản vừa
làm tròn vai trò công tác tư tưởng của Đảng, vừa đảm bảo "báo chí - xuất bản cũng là
một ngành kinh tế".
Trong lãnh đạo các cơ quan nhà nước, có một nội dung quan trọng là tạo lập và
tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan đảng, nhà nước với các cấp Hội Nhà báo
(HNB). Ngày 24-9-1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị 38/9/ CT-TTg về " Tăng
cường trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc tạo điều kiện để các cấp HNB
Việt Nam hoạt động có hiệu quả". Chỉ thị yêu cầu:
1. Các cơ quan Nhà nước khi xây dựng chính sách, kế hoạch Nhà nước, các văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến báo chí, giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội có
liên quan tới các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà báo, đến nhiệm vụ của Hội nhà
báo Việt Nam và các cấp hội thì cần thông báo và tạo điều kiện để đại diện các cấp
Hội nhà báo có liên quan tham gia.
Các cơ quan Nhà nước cần tạo điều kiện, đồng thời có trách nhiệm yêu cầu
các nhà báo và các cấp Hội nhà báo chấp hành nghiêm chỉnh Luật báo chí.
2. Trong quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng trong phạm vi cho phép, các cơ quan nhà nước đáp ứng kịp thời nhu
cầu thông tin cho các cấp Hội nhà báo để Hội có điều kiện tổ chức, động viên làm tốt
công tác thông tin, tuyên truyền về các chủ trương, chính sách mới của Nhà nước, của
ngành của địa phương.
3. Các cơ quan Nhà nước cần mời đại diện Hội nhà báo tham gia các cuộc họp
có các nội dung liên quan đến báo chí và nhà báo; tham gia là thành viên chính thức
trong các tổ chức tư vấn có chức năng, nội dung hoạt động gắn liền với quyền và nghĩa
vụ của nhà báo; tham gia các đoàn kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật thực
hiện các chính sách, chế độ liên quan trực tiếp tới các quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa
vụ của nhà báo.
1.3.2.3. Đảng lãnh đạo thông qua các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là HNB,
HXB
Lãnh đạo các lĩnh vực thông qua các tổ chức quần chúng là "kênh" lãnh đạo
quan trọng mà Đảng sử dụng trong quá trình tiến hành cách mạng.
Đối với báo chí - xuất bản, Đảng thực hiện sự lãnh đạo thông qua các đoàn thể
chính trị - xã hội trong cơ quan báo chí - xuất bản, nhất là HNB Việt Nam, Hội XB
Việt Nam, Hội Phát hành báo chí Việt Nam….
HNB Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp của những người làm
báo Việt Nam, là một bộ phận trong hệ thống chính trị của nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam. Hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của
Nhà nước, theo pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và điều lệ Hội. Là tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp, HNB Việt Nam đại diện cho quyền làm chủ, nguyện
vọng, lợi ích hợp pháp của giới báo chí Việt Nam. Đồng thời, Hội là nơi tập hợp, đoàn
kết, động viên các nhà báo phát huy tài năng sáng tạo, sát cánh cùng các tổ chức chính
trị, xã hội, kinh tế, văn hóa... và nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Hội tích cực góp phần vào việc thực hiện đường lối và chính sách đối ngoại của
Đảng, Nhà nước vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. HNB Việt Nam là thành
viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Với tính chất và đặc thù như vậy, HNB là chỗ dựa qua đó Đảng thực hiện sự
lãnh đạo đối với báo chí. Hội vừa là tổ chức chính trị - xã hội, vừa là tổ chức nghề
nghiệp. Trong lãnh đạo, Đảng coi trọng cả tính chất chính trị - xã hội và tính chất nghề
nghiệp của tổ chức hội, không coi nhẹ mặt nào. Đảng cũng không coi HNB là cơ quan
hành chính nhà nước, hoặc tổ chức kinh doanh. Sự lãnh đạo của Đảng đối với HNB
trước hết là nhằm làm cho Hội thực hiện đúng tính chất, mục đích, nguyên tắc tổ chức
của Hội. Trong lãnh đạo HNB, các cấp ủy đảng cần nắm vững phương châm phát triển
báo chí đi đôi với quản lý tốt; quản lý tốt để báo chí tiếp tục phát triển đúng định
hướng, theo quy hoạch hợp lý, nâng cao trách nhiệm và tính sáng tạo,đáp ứng được
nhiệm vụ chính trị của thời kỳ mới, phù hợp nhu cầu đa dạng và đòi hỏi ngày càng cao
về chất lượng của bạn đọc và đi kịp sự phát triển của báo chí hiện đại trên thế giới.
Các mặt cụ thể Đảng tiến hành để lãnh đạo HNB,HXB gồm:
Một là, định hướng chính trị cho hoạt động của Hội, giúp Hội giữ vững định
hướng tư tưởng, định hướng tuyên truyền theo quan điểm, đường lối của Đảng và pháp
luật của Nhà nước; tập trung sức nâng cao chất lượng chính trị, văn hóa, nghiệp vụ,
tiếp tục giương cao ngọn cờ tư tưởng của báo chí cách mạng ở thời kỳ đổi mới, cổ vũ
toàn dân, toàn quân bảo vệ vững chắc ổn định chính trị, tạo ra nhiều thành tựu trong
phát triển kinh tế - xã hội; uốn nắn những lệch lạc trong quá trình hoạt động của báo
chí.
Hội coi trọng giáo dục chính trị, đạo đức người làm báo, bảo đảm sự trung thực
trong hoạt động nghề nghiệp, xứng đáng với vai trò của mình trong hệ thống giám sát
của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối các đại hội HNB. Sự lãnh đạo đó
được thể hiện trước và trong các kỳ Đại hội: các đồng chí lãnh đạo Đảng trực tiếp
tham gia chỉ đạo soạn thảo văn kiện, tham dự và cho ý kiến chỉ đạo tại Đại hội, Đảng
cử các đồng chí là cấp ủy viên tham gia các chức danh chủ chốt của HNB.
Thông qua Đảng đoàn của HNB, với sự tham mưu của BTTVHTƯ, Ban Tuyên
giáo các cấp, cấp ủy đảng hướng dẫn kiện toàn tổ chức các Hội nhằm làm cho các Hội
hoạt động có hiệu quả. Đảng trực tiếp chỉ đạo việc xác định tính chất, mục đích, cơ cấu
tổ chức của Hội.
Ba là, tạo lập mối quan hệ cho HNB với các thành viên khác trong hệ thống
chính trị, trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; giữa HNB với các cơ quan chỉ đạo, quản
lý báo chí, các cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương về lĩnh vực hoạt động báo
chí; quan hệ hợp tác giữa Hội với tổ chức báo chí của các nước, các tổ chức báo chí
khu vực và quốc tế.
Bốn là, Đảng đoàn HNB phải làm tốt chức năng tham mưu, giúp Đảng lãnh đạo
Hội và báo giới thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề
xuất với Đảng về chủ trương, chính sách của Đảng đối với báo chí; về chủ trương và
chức năng, nhiệm vụ của HNB, về đội ngũ cán bộ của Hội; tổ chức thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong HNB và hoạt động báo chí cả nước.
Đảng đoàn lãnh đạo Ban chấp hành HNB làm tốt chức năng giáo dục tư tưởng,
củng cố tổ chức và đoàn kết nội bộ, động viên, giúp đỡ hội viên, đào tạo thế hệ trẻ,
chăm sóc đời sống của các nhà báo...
1.3.2.4. Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức đảng trong các cơ quan báo
chí - xuất bản, trong các cấp HNB, HXB
Nói tổ chức đảng trong các cơ quan báo chí - xuất bản, các cấp HNB, là nói tới
tổ chức cơ sở đảng (trong các cơ quan báo chí) tới Đảng đoàn (trong các cấp HNB).
Cùng với hệ thống quan điểm báo chí - xuất bản của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng đối
với các vấn đề cụ thể, hằng ngày dựa vào chính các tổ chức đảng và đảng viên trong
cơ quan báo chí - xuất bản và trong các cấp HNB. Nếu không có tổ chức đảng trong
các cơ quan đó thì sự lãnh đạo của Đảng sẽ trở nên chung chung, không có người trực
tiếp thực hiện. Sự có mặt của tổ chức đảng trong cơ quan báo chí - xuất bản và các cấp
HNB là điều kiện để Đảng triển khai sự lãnh đạo trực tiếp thường xuyên và kịp thời.
Các tổ chức này có điều kiện trực tiếp lĩnh hội quan điểm của Đảng, tham gia vào quá
trình hình thành các quyết định của cơ quan báo chí - xuất bản, tổ chức Hội trong hoạt
động và công tác.
Tổ chức cơ sở đảng ở các cơ quan báo chí - xuất bản có nhiệm vụ lãnh đạo cán
bộ, đảng viên quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát huy vai trò
tích cực, chủ động đóng góp ý kiến vào việc xác định và tổ chức thực hiện các chủ
trương, kế hoạch công tác của cơ quan, tham gia vào xây dựng tổ chức, cải tiến lề lối
làm việc, đấu tranh chống tiêu cực, kiểm tra đảng viên là tổng biên tập, giám đốc trong
việc chấp hành đường lối, chính sách, pháp luật và tiến hành công tác tổ chức - cán bộ
trong cơ quan.
Sự lãnh đạo thông qua tổ chức đảng ở cơ quan báo chí - xuất bản phải thường
xuyên. Coi trọng việc chăm lo bồi dưỡng, đào tạo và quản lý đội ngũ cán bộ, nhất là
tổng biên tập, giám đốc. Khi cần thiết, có thể bổ sung và điều động cán bộ, để đảm bảo
tổ chức đảng ở đó luôn vững mạnh, phát huy tốt vai trò lãnh đạo của mình trong cơ
quan báo chí - xuất bản.
Từ vai trò của tổ chức cơ sở đảng nói chung và trong cơ quan báo chí - xuất
bản nói riêng, Chỉ thị 63/CT-TW của BBT khóa VI chỉ rõ: Thành lập đảng đoàn ở các
ban chấp hành HNB Trung ương và địa phương để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối
với Hội Nhà báo Đảng đoàn thông qua các đảng viên trong Ban chấp hành và trong
Hội để phổ biến các chủ trương của Đảng. Phát huy vai trò của Hội tham gia xây dựng
các chính sách thông tin báo chí, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người làm báo, bồi
dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho hội viên, phản ánh ý kiến của người làm báo ngoài
Đảng góp ý kiến với Đảng, giúp các chi bộ Đảng phát hiện và bồi dưỡng những tài
năng mới có đủ tiêu chuẩn để thu hút vào Đảng.
Chỉ thị 22/CT-TW của BCT Khóa VIII khẳng định: Lập ban cán sự đảng, ban
biên tập ở các cơ quan báo chí, nhà xuất bản quan trọng; ở các nơi không lập ban cán
sự đảng, ban biên tập thì giao trách nhiệm lãnh đạo cho cấp ủy hoặc chi bộ của cơ
quan.
ở các cơ quan báo chí - xuất bản, trong khi cần khắc phục thái độ coi nhẹ vai
trò của tổ chức đảng, tuyệt đối hóa quyền và vai trò của người phụ trách (Tổng biên
tập, giám đốc), cần tránh cả khuynh hướng chỉ lãnh đạo tập thể chung chung, không
phát huy vai trò và đề cao trách nhiệm của người phụ trách theo đúng quy định của
Luật Báo chí, Luật Xuất bản.
Tùy theo trình độ, năng lực thực tế của đồng chí phụ trách báo, đài, nhà xuất
bản mà cấp ủy đảng quy định những vấn đề gì đồng chí đó không được tự ý quyết
định, nhất thiết phải thỉnh thị cấp ủy hoặc đồng chí đại diện cơ quan chủ quản, nhất là
những vấn đề có quan hệ đến việc giữ gìn bí mật của Đảng và Nhà nước, tình hình an
ninh chính trị và quan hệ đối ngoại.
Có thể thấy rằng, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng đã tích lũy được nhiều
kinh nghiệm về lãnh đạo báo chí thông qua tổ chức đảng trong cơ quan quản lý nhà
nước về báo chí và tổ chức đảng trong các cơ quan báo chí trong HNB. Song, trong
tình hình mới, cần xác định rõ hơn nữa chức năng nhiệm vụ, mối quan hệ giữa các tổ
chức ấy để đem lại hiệu quả cao hơn trong lãnh đạo của Đảng đối với báo chí.
1.3.2.5. Đảng lãnh đạo trực tiếp các cơ quan báo chí - xuất bản của Đảng
Báo chí bao gồm nhiều loại, có báo chí của các cấp bộ đảng, của các cơ quan
nhà nước và báo chí của các đoàn thể quần chúng như: Liên đoàn Lao động, Đoàn
thanh niên, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, của các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp... Vì vậy, có sự khác nhau nhất định trong lãnh đạo của Đảng đối với từng
loại báo chí. Đảng chỉ trực tiếp lãnh đạo và quản lý các cơ quan báo chí của Đảng với
tư cách là cơ quan chủ quản. Còn các loại báo chí khác, Đảng lãnh đạo thông qua tổ
chức đảng trong cơ quan nhà nước, qua Đảng đoàn trong các đoàn thể và thông qua sự
quản lý của các cơ quan nhà nước, vì những báo chí đó có bản sắc và đối tượng riêng,
và tất cả đều phải tuân theo luật pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nói Đảng lãnh đạo trực tiếp các cơ quan báo chí của Đảng là nói các báo chí
chịu sự lãnh đạo của Đảng không thông qua một khâu trung gian nào. ở cấp Trung
ương, đó là báo Nhân dân - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặc
dù trên măng-séc báo ghi: Báo Nhân dân là "cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản
Việt Nam, tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam", nhưng trong thực
tế, báo Nhân dân là tiếng nói của Đảng, độc giả trong và ngoài nước đọc báo Nhân
dân để biết các quan điểm, đường lối của Đảng ta; tờ báo của Đảng phải mẫu mực
cho các báo khác học tập.
Cùng với báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản - cơ quan lý luận và chính trị của
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật cũng là cơ
quan xuất bản chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng. Ngày 22-12-2000,
BCT khóa VIII đã ra chỉ thị về công tác của Tạp chí Cộng sản trong tình hình mới,
trong đó chỉ rõ: “BCTchỉ đạo chặt chẽ hơn nữa Tạp chí theo quy chế làm việc của
Trung ương. Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương phối hợp với Tạp chí trong việc
hoạch định chương trình biên tập trong từng thời kỳ, tuyên truyền thống nhất, đồng bộ,
có hiệu quả. Ban Tổ chức Trung ương giúp Tạp chí trong việc lựa chọn, điều động cán
bộ có năng lực nghiên cứu lý luận, thực tiễn và biên tập về tạp chí. Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ quan đào tạo khác giúp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
khoa học và giới thiệu những cán bộ đủ tiêu chuẩn cho Tạp chí. Các ngành, các cơ
quan cung cấp tư liệu và tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, nghiên cứu và biên
tập của Tạp chí Cộng sản. Các đồng chí ủy viên BCT, ủy viên Trung ương Đảng, các
cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cơ quan, các ngành ở Trung ương và địa phương có trách nhiệm viết bài cho Tạp chí, thường xuyên góp ý kiến phê bình, xây dựng Tạp chí”1.
Cũng như đối với báo Nhân dân, sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng còn thể hiện
trong việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi nội dung và hướng dẫn sử dụng có hiệu quả
Tạp chí Cộng sản trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. “Các Đảng bộ thuộc cơ sở, các
chi bộ thuộc các bộ, ban, ngành, đoàn thể của Trung ương, các chi bộ thuộc lực lượng
vũ trang, công an nhân dân; các chi bộ thuộc các Tổng công ty 90, 91 được sử dụng
đảng phí để mua Tạp chí Cộng sản. Các báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Đài tiếng
nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam cần giới thiệu mục lục và nội dung chủ yếu của mỗi số Tạp chí Cộng sản”2.
Bằng sự lãnh đạo trực tiếp, Trung ương Đảng làm cho các báo, tạp chí của
Trung ương Đảng trở thành ngọn cờ tiên phong của mặt trận báo chí. Nội dung, cách
thể hiện của các báo, tạp chí này phải theo đúng nhiệm vụ mà Trung ương Đảng giao
cho, đồng thời phải xứng đáng với vai trò tiên phong trên mặt trận báo chí về mặt
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 60/CT-TW của BCT khoá VIII về
công tác của Tạp chí Cộng sản trong tình hình mới.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 60/CT-TW của BCT khoá VIII về
công tác của Tạp chí Cộng sản trong tình hình mới.
nghiệp vụ. Yêu cầu đối với hai cơ quan ngôn luận nói trên là bài, tin phải thể hiện
đúng quan điểm của Đảng, phát hiện nhạy bén và giải đáp có sức thuyết phục những
vấn đề cuộc sống đặt ra. Trong tình hình hiện nay, trước những sự tấn công tư tưởng từ
nhiều phía vào CNXH, vào sự lãnh đạo của Đảng, báo Nhân dân và Tạp chí Cộng
sản,NXB Chính trị quốc gia - Sự thật phải huy động các lực lượng cộng tác viên viết
bài đấu tranh kịp thời, có sức thuyết phục cao, phấn đấu có những bài mang tầm cỡ
quốc gia và quốc tế. Về nghiệp vụ báo chí, báo Nhân dân và Tạp chí Cộng sản, NXB
CTQG còn phải in, trình bày đẹp, chuẩn mực, không được vi phạm các quy định về
quảng cáo, phát hành rộng rãi... Vai trò tiên phong này có được hay không phụ thuộc
trước hết vào sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đồng thời với sự nỗ lực, tài năng của đội
ngũ những người làm báo của Đảng.
Đối với báo của các Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trách
nhiệm lãnh đạo trực tiếp thuộc về Ban chấp hành Đảng bộ. Các tỉnh, thành ủy phải
lãnh đạo thường xuyên và chặt chẽ tờ báo của mình, trực tiếp định hướng chính trị và
kiểm tra việc thực hiện định hướng ấy; nắm chắc công tác tổ chức và cán bộ, bồi
dưỡng, xây dựng, kiện toàn đội ngũ những người trực tiếp làm báo, trước hết là tổng
biên tập. Tổng biên tập thường là tỉnh, thành ủy viên.
1.3.2.6. Đảng lãnh đạo thông qua việc bố trí, đào tạo, quản lý cán bộ lãnh
đạo cơ quan báo chí - xuất bản và công tác cán bộ báo chí - xuất bản
Bố trí cán bộ là khâu đặc biệt quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng. Vai
trò lãnh đạo của Đảng không phải chỉ thể hiện ở chỗ ra nghị quyết, chỉ thị, mà còn ở
việc bố trí vào những cương vị nhất định những người quán triệt và có khả năng chấp
hành nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cán bộ là cái gốc của công việc... Mọi việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém; chọn người và thay người là vấn đề
quan trọng trong việc lãnh đạo. Trong quá trình đổi mới, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta xác
định: "đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta cần
phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng". Đồng thời,
Đảng tập trung vào xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở
các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí
tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân.
Xác định vai trò cực kỳ quan trọng của Tổng biên tập - người lãnh đạo và quản
lý tờ báo và Giám đốc, Tổng biên tập NXB - nên Đảng ta đặc biệt chú ý đến bố trí,
quản lý và chăm lo đội ngũ này. Chỉ thị số 32/CT-TW của BBT khóa V về tăng cường
công tác quản lý báo chí chỉ rõ: “Tổng biên tập là người chịu trách nhiệm chính và
toàn diện về mọi công việc của tờ báo. Việc bổ nhiệm Tổng biên tập và Phó Tổng biên
tập báo do cấp ủy hoặc lãnh đạo ngành mà tờ báo trực thuộc quyết định sau khi có ý
kiến chấp thuận của Ban Tuyên huấn Trung ương (đã được Ban Bí thư ủy nhiệm)
nhằm tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo báo chí đi sâu vào nghiệp vụ; việc điều động
các Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập đi công tác khác cần được các cấp ủy cân nhắc kỹ”1.
Chỉ thị 22/CT-TW ngày 17-10-1997 của BBT khóa VII làm rõ hơn và cụ thể
hơn việc bố trí, quản lý đội ngũ Tổng biên tập. Chỉ thị nêu: Bổ nhiệm, đề bạt, thay đổi
Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập các báo, tạp chí, giám đốc, phó giám đốc nhà xuất
bản phải làm đúng quy trình và có sự thống nhất ý kiến bằng văn bản giữa cơ quan
tham mưu về tư tưởng - văn hóa của Đảng với cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa -
thông tin.
Do báo chí là binh chủng trực tiếp tác chiến hằng ngày trên mặt trận tư tưởng
của Đảng, nên các cấp ủy Đảng và lãnh đạo các ngành, đoàn thể phải lãnh đạo và quản
lý tốt đội ngũ Tổng biên tập và phóng viên, cán bộ biên tập, các tờ báo, nhà xuất bản.
Cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm chỉ đạo toàn diện cơ quan báo chí - xuất
bản, trong đó thực hiện việc bố trí, khen thưởng, kỷ luật cán bộ phụ trách. Điều 12
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí (1999) về cơ quan chủ quản báo
chí ghi rõ thủ trưởng cơ quan chủ quản báo chí có quyền và trách nhiệm "bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức người đứng đầu cơ quan báo chí trực thuộc sau khi trao đổi ý
kiến với cơ quan quản lý nhà nước về báo chí".
Việc bố trí, quản lý cán bộ báo chí - xuất bản, trong đó có Tổng biên tập và Phó
khoá V về tăng cường công tác quản lý báo chí.
tổng biên tập - phải căn cứ vào tiêu chuẩn, quyền hạn, trách nhiệm của người phụ trách 1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị 32/CT-TW ngày 10/1/1984 của BBT
cơ quan báo chí theo quy định của Nhà nước. Người phụ trách cơ quan chủ quản
không kiêm Tổng biên tập báo, giám đốc nhà xuất bản. Một đồng chí Tổng biên tập
không phụ trách nhiều tờ báo. Đồng thời, phải nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực
và phẩm chất chính trị của cán bộ chủ chốt các cơ quan báo chí. Có người đủ tiêu
chuẩn đứng đầu cơ quan báo chí là điều kiện đầu tiên khi muốn thành lập cơ quan báo
chí. Người đó nhất thiết phải có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo
chí do Nhà nước quy định."Trong đào tạo, bồi dưỡng phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
đào tạo, bồi dưỡng các tổng biên tập. Đương nhiên muốn có tổng biên tập giỏi và tốt phải có cái nền rộng những phóng viên biên tập viên có tài, có đức mà đức là gốc"1.
Nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng phóng viên, biên tập viên song đặc biệt phải
chú trọng đội ngũ cốt cán, các tổng biên tập, giám đốc, phó giám đốc.
Người làm báo là những chiến sĩ cách mạng. Song, để hoàn thành công việc
mang nhiều nét đặc thù, ngoài các tiêu chuẩn chung, cán bộ làm công tác báo chí -
xuất bản, phải có thêm kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp, kỹ năng, năng khiếu và
tác phong phù hợp với nghề báo.
Trước hết, nhà báo cần phải hiểu biết cơ bản về những điều kiện của cuộc cách
mạng do Đảng lãnh đạo, thấu hiểu các quan điểm, hình thức tiến hành đấu tranh; có
tính trung thực và vững vàng cao, luôn hòa mình vào hàng ngũ những người chiến sĩ
cách mạng. Đảng ta cho rằng: để làm tròn được trách nhiệm cao cả của mình, đội ngũ
những người làm sách báo phải có lòng yêu nước và lý tưởng kiên định, có ý thức tổ
chức kỷ luật cao, có nghiệp vụ tinh thông trong quá trình lao động sáng tạo để góp
phần có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng.
Vì làm báo chí - xuất bản là một nghề, hơn nữa là một nghề mang tính đặc thù
cao, gắn bó chặt chẽ với chính trị, là hoạt động chính trị, nên nhất thiết phải qua đào
tạo và thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ, hoàn thiện nhân cách. Chỉ thị
63/CT-TW ngày 25-7-1990 của BBT khóa VI ghi rõ: Bồi dưỡng quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, định hướng chính trị, tư tưởng, cung cấp thông tin
cần thiết cho cán bộ báo chí, xuất bản, nhất là cán bộ phụ trách (tổng biên tập, giám
1 BTT-VHTW - BVH-TT, Tiếp tục đổi mới và tăng cường lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản, Kỷ yếu Hội nghị BC-TB toàn quốc, Hà Nội, 1997, t.1, tr.48.
đốc); có quy hoạch đào tạo, có chính sách chăm lo đời sống, sự an toàn trong thực hiện
nghề nghiệp của cán bộ báo chí, xuất bản.
Các cấp ủy đảng phải quan tâm phát hiện, bồi dưỡng và phát huy năng lực của
những người làm báo có phẩm chất chính trị tốt và có tài năng, kiến nghị với các cơ
quan có trách nhiệm thay đổi những cán bộ yếu kém, xử lý nghiêm đối với những cán
bộ cố tình vi phạm luật pháp hoặc lợi dụng báo chí để thực hiện mưu đồ xấu.
Chỉ thị 08/CT-TW ngày 31-3-1992 của BBT khóa VII chỉ rõ nhiệm vụ: Xây
dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí, xuất bản đến năm 2000, bảo đảm
đội ngũ này vững vàng về chính trị và tư tưởng, trong sạch về phẩm chất đạo đức và
tinh thông nghề nghiệp; chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận; viết lại các giáo trình về
nghiệp vụ phóng viên, biên tập viên; biên soạn giáo trình cho cán bộ chính quyền và
cán bộ Đảng được phân công theo dõi quản lý công tác báo chí, xuất bản, tổ chức các
lớp nghiên cứu quán triệt các văn kiện Đại hội Đảng VII cho cán bộ phụ trách báo chí,
xuất bản, in và phát hành. Đặc biệt coi trọng bồi dưỡng các tổng biên tập báo, đài và
giám đốc nhà xuất bản bảo đảm có đủ bản lĩnh chính trị và nghề nghiệp đủ sức đảm
đương nhiệm vụ.
Tiếp nối các vấn đề có tính cụ thể trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí, ở
giai đoạn mới, với sự tác động mạnh mẽ của các yếu tố chủ quan, khách quan khác
nhau, nhất là khi cả nước chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng
XHCN công tác cán bộ báo chí - xuất bản là: Khẩn trương quy hoạch và sắp xếp lại hệ
thống trường lớp, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng phóng viên, biên tập viên,
chú trọng đội ngũ cốt cán, các tổng biên tập, phó tổng biên tập, giám đốc, phó giám
đốc. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí chủ yếu là trong nước dưới sự chỉ đạo thống
nhất của Đảng và sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Không mở các khoa, lớp báo chí,
xuất bản ở các trường đại học dân lập, tư thục.
Chỉ thị 22/CT-TW của BCT khóa VIII về "Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo, quản lý công tác báo chí xuất bản" nêu cụ thể: BTTVHTƯ chủ trì cùng Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo, BVHTT, HNB Việt
Nam và các cơ quan liên quan xây dựng đề án cụ thể về tổ chức, sắp xếp, quy hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí - xuất bản, trình BCT và Thủ tướng Chính phủ
quyết định; xây dựng bộ giáo trình chuẩn để đào tạo cán bộ báo chí - xuất bản. Các cấp
ủy đảng, các cơ quan thông tin đại chúng cần tổ chức tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ tại chỗ. Mỗi người làm báo phải thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị,
phẩm chất cách mạng kiên định vững vàng, không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, đề cao tự phê bình và phê bình, tu dưỡng đạo đức gương mẫu trong
cuộc sống, phấn đấu xứng đáng là nhà báo của nhân dân. Mặt khác, cần thống nhất
quản lý, chỉ đạo công tác đào tạo, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ và nghề
nghiệp cho cán bộ báo chí - xuất bản.
Đào tạo, bồi dưỡng nhà báo và cán bộ quản lý báo chí – xuất bản là nội dung rất quan
trọng trong sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản. Đảng trực tiếp tiến hành thông
qua hệ thống trường của Đảng trong việc bồi dưỡng cán bộ quản lý các báo, các đài, các Nxb.
Các trường đại học thuộc Nhà nước quản lý tham gia đào tạo nhà báo,cán bộ biên tập xuất
bản, song cán bộ lãnh đạo, quản lý các báo,Nxb nhất thiết phải được học tập, bồi dưỡng trong
hệ thống trường của Đảng, có như thế chúng ta mới có đội ngũ cán bộ báo chí - xuất bản đồng
bộ, có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ chiến sĩ cách mạng, giữ vai trò xung
kích trên mặt trận tư tưởng - văn hóa của Đảng.
1.3.2.7. Đảng kiểm tra nội dung chính trị tư tưởng của báo chí - xuất bản và
kiểm tra các cấp ủy và tổ chức đảng thực hiện tốt việc lãnh đạo, quản lý báo chí -
xuất bản thuộc quyền
Kiểm tra là một chức năng lãnh đạo của Đảng, lãnh đạo mà không kiểm tra coi
như không lãnh đạo. Việc kiểm tra của Đảng được tiến hành ngay trong quá trình xây
dựng đường lối và trong quá trình tổ chức thực hiện nhằm tăng tính đúng đắn, chính
xác của chủ trương, đường lối do Đảng đề ra, khi cần thì điều chỉnh, uốn nắn việc tổ
chức thực hiện của các cấp ủy đảng, các cơ quan nhà nước và các tổ chức trong xã hội;
điều chỉnh sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các đoàn thể; phát hiện
khẳng định và động viên kịp thời những tập thể và cá nhân tiên tiến, xử lý các sai
phạm của tổ chức, cấp ủy đảng và cán bộ, đảng viên.
Do kiểm tra cần thiết cả về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn, nên kiểm tra
không chỉ là khâu cuối cùng của lãnh đạo, mà nó xuyên suốt từ đầu đến cuối toàn bộ
quá trình lãnh đạo của Đảng.
Với báo chí - xuất bản, sự lãnh đạo của Đảng thông qua công tác kiểm tra, uốn
nắn kịp thời các lệch lạc có tác dụng nhiều mặt. Công tác đó bao gồm: Kiểm tra nội
dung chính trị - tư tưởng trong các sách báo; xử lý nghiêm đối với những cán bộ cố
tình vi phạm luật pháp, hoặc lợi dụng báo chí - xuất bản để thực hiện mưu đồ xấu;
kiểm tra công tác quản lý của Nhà nước đối với báo chí - xuất bản qua việc ban hành
các chính sách, quy chế, luật pháp, hướng dẫn thực hiện và xử lý các sai phạm; kiểm
tra trách nhiệm chỉ đạo toàn diện báo chí - xuất bản của các cơ quan chủ quản báo chí -
xuất bản.
Các cơ quan chức năng của Đảng ở trung ương và các địa phương giúp cấp ủy
kiểm tra báo chí - xuất bản thông qua sinh hoạt, làm việc định kỳ với các tổ chức đảng
trong cơ quan nhà nước và trong cơ quan báo chí, các đảng viên phụ trách cơ quan báo
chí - xuất bản để nắm tình hình, giúp cấp ủy kịp thời uốn nắn, xử lý các sai phạm.
Công tác kiểm tra của Đảng đối với báo chí - xuất bản tiến hành đồng bộ với
thanh tra của Nhà nước, tạo sự thống nhất giữa lãnh đạo và quản lý, giữa định hướng
chính trị và việc chấp hành các quy định cụ thể của pháp luật.
Chương 2
Thực trạng công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng trong thời kỳ đổi mới
2.1. Thực trạng hoạt động báo chí - xuất bản nước ta trong thời kỳ đổi mới
2.1.1. Thực trạng hoạt động báo chí nước ta trong thời kỳ đổi mới
2.1.1.1. Thành tựu, ưu điểm
- Báo chí phát triển nhanh về số lượng loại hình, số lượng cơ quan báo chí, số
lượng ấn phẩm, sản phẩm báo chí, đội ngũ những người làm báo
Tính đến nay (đầu tháng 8/2009), cả nước có trên 700 cơ quan báo chí, trong đó
có 634 cơ quan báo chí in (khối trung ương 73 báo in, 353 tạp chí in; khối địa phương
101 báo in, 106 tạp chí in; 1 hãng thông tấn quốc gia) với 813 ấn phẩm; có 67 đài phát
thanh truyền hình (trung ương 2, ngành 1, địa phương 64); 5 báo điện tử chuyên dụng,
130 trang tin điện tử của các cơ quan báo chí. Có gần 15.000 người được cấp thẻ nhà
báo, hàng ngàn cán bộ, kỹ sư, nghệ sỹ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí
và hàng chục ngàn người khác là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công
đoạn in ấn, tiếp thị, quảng cáo, phát hành, sống chủ yếu bằng dịch vụ nghề báo. So với
năm 1986 - thời điểm đất nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới thì số lượng các
cơ quan báo chí, số lượng báo, đài, tạp chí và đội ngũ những người làm báo hiện nay
tăng từ 3 đến 4 lần; nếu so với năm 2001, các chỉ số này tăng 1,3 đến 1,4 lần. Năm
1969, mạng thông tin toàn cầu (internet), một trong những phát minh lớn nhất của loài
người trong thế kỷ XX ra đời và gần 30 năm sau mới có mặt ở Việt Nam, nhưng đến
thời điểm này, số người sử dụng internet của Việt Nam đã chiếm gần 20% dân số, một
mức khá cao ở khu vực Đông Nam á. Sự ra đời và phát triển vượt bậc của báo điện tử
nối mạng internet cùng với khả năng tích hợp nhiều loại hình báo chí trên một thiết bị
truyền thông hiện đại tạo ra khả năng to lớn cho việc truyền tải, thu nhận thông tin của
các cơ quan báo chí, xuất bản và công chúng của báo chí, xuất bản.
- Phần lớn các cơ quan báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích và định
hướng chính trị, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
Báo chí tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin sinh
động về công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh trung thực tâm tư,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân; góp phần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận; cổ vũ, động viên phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, biểu dương các nhân tố
mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; tích cực đấu tranh chống tham
nhũng, tiêu cực, lãng phí, chống "diễn biến hoà bình”; góp phần giữ vững ổn định
chính trị, thúc đẩy công cuộc đổi mới và dân chủ hoá đời sống xã hội, củng cố lòng tin
của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Thành tích đóng góp của báo
chí đối với sự nghiệp đổi mới đất nước trong 20 năm qua là to lớn, có ý nghĩa quan
trọng, được Đảng, Nhà nước, nhân dân ghi nhận, biểu dương. Chưa bao giờ, sức mạnh
của báo chí lại được thể hiện một cách đầy đủ và sinh động như thời điểm hiện tại.
Một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng qua kênh báo chí góp ý vào dự thảo Báo cáo chính
trị của BCHTW khoá IX trình Đại Hội X; một phong trào hành động cách mạng sôi
nổi do báo chí phát động học tập, làm theo tấm gương sáng của các anh hùng, liệt sỹ
Đặng Thuỳ Trâm, Nguyễn Văn Thạc, Hoàng Thượng Lân, Nguyễn Văn Giá, Hoàng
Kim Giao... được cả xã hội nhiệt liệt hưởng ứng. Những kỳ họp Quốc hội; những sự
kiện chính trị, xã hội sôi động; việc Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới
WTO; tổ chức thành công Năm APEC Việt Nam 2006, Tuần lễ cấp cao APEC và Hội
nghị cấp cao APEC 14; Việt Nam được các nước châu á nhất trí đề cử làm Uỷ viên
không thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ
trong những bước đi đầu tiên; tổ chức thành công Đại lễ Phạt Đản Liên hợp quốc 2008
(VESAK 2008)...đều có công tuyên truyền, cổ vũ của báo chí. Báo chí đã thực sự trở
thành một kênh giám sát cán bộ, đảng viên, một hình thức đấu tranh chống tiêu cực,
tham nhũng có hiệu quả cao. Nhiều tờ báo đã dày công điều tra, phát hiện, đưa ra công
luận, đấu tranh kiên quyết với các hành vi tham nhũng, tiêu cực ở PMU 18, các Tổng
Công ty Dầu khí, Hàng hải, Hàng không, các vụ việc nổi cộm ở Thanh tra Nhà nước,
Bộ Thương mại, Văn phòng Chính phủ; những sai phạm trong quản lý đất đai ở Khánh
Hoà, Phú Quốc (Kiên Giang), Đồ Sơn (Hải Phòng), vv...
Báo chí góp phần tích cực giúp nhân dân thế giới ngày càng hiểu rõ hơn
đường lối, chính sách đúng đắn và những thành tựu đổi mới to lớn của nước ta. Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta đánh giá cao vai trò của báo chí trong đời sống xã hội cũng
như những đóng góp quan trọng của báo chí trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa, hội nhập thế giới.
- Công chúng báo chí có bước phát triển về số lượng, trình độ, tham gia ngày
càng tích cực vào quá trình truyền thông
Số lượng người đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, truy cập mạng internet
tăng nhanh so với trước. Tỷ lệ hộ dân được nghe đài, xem truyền hình đạt khoảng 95 -
97%. Riêng số người sử dụng internet đạt gần 20% dân số, một mức cao của khu vực
Đông - Nam á và cả châu á. Nhờ những đổi thay lớn lao trong đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội của đất nước, quá trình dân chủ hoá thông tin được tăng cường.
Công chúng báo, đài, từ chỗ tiếp nhận thụ động chuyển dần sang chủ động, bình đẳng
trong thu nhận, trao đổi thông tin. Chức năng "diễn đàn" của các tầng lớp nhân dân
trên báo chí ngày càng được thể hiện rõ nét và sinh động. Số lượng đồng bào ta ở xa
Tổ quốc được trực tiếp nghe, xem chương trình của 2 đài phát thanh, truyền hình quốc
gia, đọc báo qua mạng điện tử và báo in chuyển từ trong nước tăng mạnh.
- Báo chí được tăng cường năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, máy móc,
điều kiện làm việc, đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động báo chí
Cả nước hiện có trên 100 cơ quan báo chí tạo được nguồn thu tài chính khá ổn
định, tự cân đối được nhu cầu thu - chi, trong đó có hơn 50 đơn vị hoạt động có lãi, có
nguồn thu mỗi năm lên tới hàng chục, hàng trăm tỷ đồng. Nhờ đó, một số cơ quan báo,
đài có điều kiện nâng cấp máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ làm báo, đầu tư nhiều
hơn cho hoạt động nghiệp vụ, cải thiện và nâng cao đời sống cán bộ, phóng viên, nhân
viên, mở rộng các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện, xây dựng quỹ Đền ơn đáp
nghĩa, quĩ Vì người nghèo, quĩ Hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam/đioxin, xây dựng
trạm y tế, trường học, cầu đường, công trình phúc lợi, giúp trẻ em mồ côi, tàn tật
v.v..Một số cơ quan báo, đài đang phát triển theo mô hình tập đoàn truyền thông của
báo chí quốc tế.
- Báo chí tham gia tích cực các hoạt động báo chí thế giới và khu vực
Báo chí nước ta đã chủ động, tích cực hội nhập với báo chí thế giới trên cơ sở
giữ vững bản sắc dân tộc và những nguyên tắc cơ bản của nền báo chí cách mạng. Hội
Nhà báo Việt Nam là thành viên của Tổ chức Quốc tế các nhà báo (OIJ), Liên đoàn
báo chí ASEAN (CAJ). Hội và các cơ quan báo chí trong nước đẩy mạnh giao lưu,
hợp tác với các tổ chức, cơ quan báo chí của Lào, Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc,
Pháp, Thụy Điển, Campuchia và các nước khác trong ASEAN...Đài TNVN, Đài
THVN mở rộng phạm vi phủ sóng phát thanh, truyền hình ra nhiều khu vực trên thế
giới, nhất là khu vực Bắc Mỹ, châu á, châu Âu, châu Đại Dương. TTXVN, Báo Nhân
Dân và một số báo, đài khác mở văn phòng đại diện, cử phóng viên thường trú hoặc
lưu động ở các địa bàn quan trọng, tham gia phản ánh kịp thời các sự kiện chính trị,
kinh tế, xã hội nổi bật của khu vực và thế giới. Công tác thông tin đối ngoại được tăng
cường và đạt hiệu quả rõ rệt.
- Công tác chỉ đạo, quản lý báo chí có nhiều cố gắng
Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt
Nam và các đơn vị hữu quan đã tăng cường phối hợp, đổi mới một bước nội dung,
phương thức công tác, hoàn thành tương đối tốt nhiệm vụ được giao. Trong mấy năm
gần đây, Ban, Bộ, Hội tiếp tục tham mưu với Trung ương Đảng và Chính phủ ban
hành một số văn bản lãnh đạo, quản lý báo chí: Thông báo kết luận 162-TB/TW của
BCT (khóa IX); Chỉ thị 37-CT/TW của Ban Bí thư về "Tiếp tục nâng cao vai trò, chất
lượng hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam trong tình hình mới"; Chỉ thị 52-CT/TW
của Ban Bí thư (khoá IX) về phát triển và quản lý báo chí điện tử; Quyết định 388/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thực hiện Thông báo kết luận 162-TB/TW
của BCT (khóa IX); Thông báo kết luận số 41-TB/TW và Thông báo kết luận số 68-
TB/TW của BCT (khoá X); Kế hoạch 03-KH/TW của Ban Bí thư nêu một số biện
pháp cụ thể nhằm thực hiện Thông báo kết luận 68-TB/TW. Đặc biệt, năm 2007, tại
Hội nghị lần thứ năm, BCHTW (khoá X) đã bàn và ra Nghị quyết về “Công tác tư
tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới”.
2.1.1.2. Một số yếu kém, khuyết điểm
Cùng với ưu điểm và thành tích nêu trên, những khuyết điểm, yếu kém mà Chỉ
thị 22-CT/TW của BCT (khoá VIII); Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII;
Kết luận Hội nghị lần thứ 12 BCHTW khóa IX; Thông báo 162-TB/TW của BCT
(khoá IX); Thông báo kết luận số 41-TB/TW và Thông báo kết luận số 68-TB/TW
của BCT (khoá X); Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) và một số văn bản khác của
Đảng và Chính phủ đã nêu ra chậm được khắc phục; có mặt, có lúc, có cơ quan còn
trầm trọng thêm. Biểu hiện cụ thể như sau:
- Một số cơ quan báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư
tưởng, văn hoá của báo chí cách mạng, thậm chí có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước
Một bộ phận không nhỏ người làm báo, kể cả một số cán bộ lãnh đạo cơ quan
báo chí chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan báo chí và của những
người làm báo; chưa thường xuyên coi trọng rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực
chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp.
Đã xuất hiện trên một số tờ báo, tạp chí những ý kiến, bài viết vô tình hay cố ý
đi chệch định hướng chính trị: hoài nghi, phê phán hoặc phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đòi xem xét lại hoặc xoá bỏ Điều 4 của Hiến pháp; tán
thành, cổ vũ quan điểm đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; đòi lật lại một số vấn đề
lịch sử đã được kết luận; đưa thông tin không đúng, thậm chí xuyên tạc đời tư lãnh tụ;
kiến nghị "khôi phục quy chế độc lập cho báo chí", mở diễn đàn bàn thảo, tranh luận
nhiều vấn đề nhạy cảm lẽ ra cần có thời gian nghiên cứu, đánh giá, kết luận, làm cho
người đọc phân tâm, hoài nghi.
- Xa rời tôn chỉ, mục đích; thông tin không trung thực, suy diễn chủ quan, áp đặt
vô lối, sa đà vào những tiêu cực, yếu kém, mặt trái xã hội; xem nhẹ việc phát hiện, biểu
dương nhân tố mới, điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt
Tình trạng xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ ngày càng gia tăng, có
nơi trở nên nghiêm trọng. Một số tờ báo sa đà khi phản ánh các vụ án, mặt tiêu cực,
mặt trái và những yếu kém của xã hội, thậm chí tiết lộ bí mật quốc gia, tạo tư liệu,
chứng cứ để các thế lực thù địch khai thác, vu cáo, đả kích ta về các vấn đề dân chủ,
nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Làm " nóng" các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước,
của địa phương một cách thiếu ý thức, thậm chí vô trách nhiệm chỉ vì mục đích câu
khách, để bán được nhiều báo. Khi thể hiện, không chú ý cân nhắc liều lượng, mức độ,
thời điểm, hình thức trình bày, tiêu đề bài viết, cân nhắc kỹ mặt lợi, hại của mỗi thông
tin1. Tình trạng phóng viên viết bài, đưa tin nhưng không nắm chắc vấn đề, sự việc dẫn
đến viết ẩu, viết sai, thậm chí có những sai sót nghiêm trọng. Khi bị cơ quan chức
năng phát hiện, nhắc nhở; bị tổ chức, cá nhân phản đối, khiếu nại không được nhà báo và cơ quan báo chí tiếp thu nghiêm túc, cải chính đúng luật2. Số nhà báo yếu kém đạo
đức, lợi dụng nghề báo để thực hiện hành vi vụ lợi không còn là điều cá biệt. Đã xuất
hiện "câu lạc bộ" hoặc nhóm nhà báo kết hợp với nhau để làm ăn, tung hô người này,
“hạ bệ” người khác, “đánh hội đồng” các doanh nghiệp, cơ quan hay cá nhân nào đó vì
ác ý hoặc vì vụ lợi. Thậm chí, có người còn vu cáo, nói xấu cán bộ chỉ đạo, quản lý
báo chí vì họ đã thẳng thắn phê bình, xử lý các sai phạm.
- Khuynh hướng tư nhân hoá báo chí, tư nhân núp bóng nhà nước để ra báo,
kinh doanh, dịch vụ truyền thông ngày càng tăng
Do những yếu kém, sơ hở trong công tác quản lý, do tác động của cơ chế thị
trường, đã xuất hiện tình trạng một số tờ báo, tạp chí, phụ san, chuyên san, mạng 1 Thông tin giật gân, câu khách: phản ánh một số cuộc chất vấn tại Quốc hội; Hoa hậu Mai Phương "mất tích"; Thông tin về Khu vườn lạ; Bài văn lạ; Giếng nước thần; Nhà tự cháy; Cây khóc; Phạm Duy về nước; Tỷ phú đô -la Lê Quốc Hồ; sự việc ở nhà hàng Phố Núi, chuyện đời tư ông Tiến trong vụ án PMU 18; Dự án tăng học phí; nguồn nước bị ô nhiễm; kháng sinh, hoá chất trong thủy sản, thực phẩm, lương thực; thuế thu nhập cá nhân; thiếu điện trong mùa hè; tăng giá xăng dầu; dự báo bão Chanchu; Diễn viên Hàn Quốc Song Hye Kyo bị bắt ở sân bay Hồng Kông vì tàng trữ 50 viên hồng; đưa người lao động VN tại Liban về nước; Phương Thanh, Hiền Thục có con ngoài giá thú; tự truyện Lê Vân -Yêu và Sống; chuyện Thánh vật ở sông Tô Lịch; dùng ngoại cảm để tìm mộ;Xác không đầu kêu cứu; phim sex Hoàng Thuỳ Linh; các quan chức ngủ trên chuyên cơ Thủ tướng thăm Mỹ v.v... 2 Thông tin sai: Đ/c Nguyễn Thị Minh - nguyên UVTW Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh có 10 ha đất, lợi dụng vốn ưu đãi của Nhà nước để đầu tư vào trang trại; Vụ án Đồ Sơn có sự can thiệp của Bí thư Thành uỷ Hải Phòng; Chuyện bà quả phụ nhà thơ Tố Hữu trả lại biệt thự cho nhà nước; Vụ PMU 18; Vụ công nhân" bị đem con bỏ chợ" ở Malaixia; bị cáo Vi Văn Niệm là cháu của Phó Bí thư Tỉnh uỷ Lạng Sơn Vi Xuân Thanh; đưa bài trả lời phỏng vấn không có thật giữa phóng viên PL&ĐS và Bộ trưởng Bộ Tư pháp Uông Chu Lưu; vấn đề in ấn và chất lượng đồng tiền polymer; Phi công ngủ trên máy bay khi đang trên đường sang Đức; Một người đàn ông tuyệt thực 9 ngày trước cửa UBND phường Nghĩa Đô, Hà Nội; vụ hiếp dâm tập thể gây chết người ở Thái Nguyên; vụ hai bé gái tự giải thoát khỏi bọn buôn người ở Bắc Giang; nước tương (xì đầu) chứa chất gây ung thư; ăn buởi dễ bị ung thư; mắm tôm là nguyên nhân gây bệnh tả; dùng thuốc kích thích "tăng phọt" trên rau; ăn bưởi bị ung thư; Đề thi môn toán khối A vào đại học năm 2008 bị lộ v.v..
truyền hình cáp... bị cơ quan chủ quản hay cơ quan báo chí " bán cái", bị tư nhân chi
phối hoặc thao túng. Các công ty TNHH và cổ phần đăng ký hoạt động trong lĩnh vực
truyền thông xuất hiện ngày càng nhiều. Một số nhóm xã hội đang tìm cách cho ra đời
báo in, tạp chí, báo điện tử, mạng truyền hình trả tiền (PayTV)...theo hình thức liên
doanh, liên kết, mượn pháp nhân, đội lốt cơ quan báo chí. Tình hình này càng biểu
hiện rõ và phức tạp hơn trong thời gian gần đây.
- Một số báo, đài phát thanh, truyền hình, tạp chí có vị trí quan trọng nhưng
chậm đổi mới, chưa đủ sức làm chủ, chi phối thông tin
Hệ thống các báo, đài phát thanh, truyền hình, tạp chí quan trọng do các
cơ quan Đảng, Nhà nước ở trung ương và địa phương quản lý có số lượng khá
đông đảo, hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, được quan tâm đầu tư máy móc,
phương tiện, điều kiện làm việc, chế độ phát hành, phát sóng. Tuy nhiên, như
nhận định của BCT (khóa IX) trong Thông báo 162: “một số tờ báo ở Trung
ương, địa phương, bộ, ngành thiếu năng động, chậm đổi mới, nội dung và hình
thức chưa hấp dẫn, thiếu sức thuyết phục người đọc, chất lượng và hiệu quả tuyên
truyền, giáo dục không cao”. Nhiều báo, tạp chí có lượng phát hành thấp, sức
vươn để chiếm lĩnh thị trường báo chí còn yếu; một số đài phát thanh, truyền hình
chưa đủ sức lôi cuốn người nghe, người xem, do đó, khả năng tác động, chi phối
thông tin đối với công chúng hạn chế.
- Hệ thống các đài phát thanh, truyền hình thiếu quy hoạch, kế hoạch phát
triển, gây lãng phí, tốn kém
So với nhiều nước trên thế giới, hệ thống các đài phát thanh, truyền hình,
truyền thanh của ta nhiều về số lượng (số lượng đài, số cán bộ, phóng viên, nhân viên)
nhưng phát triển thiếu quy hoạch, kế hoạch. Tình trạng đầu tư tràn lan, tăng bộ máy
biên chế, tăng công suất máy phát, gây can nhiễu sóng, nâng dung lượng, thời lượng
các chương trình giải trí, chiếu nhiều phim nước ngoài, quảng bá lối sống tiêu dùng,
hưởng thụ...ngày một gia tăng. Sự bung ra khá nhanh của hệ thống truyền hình trả tiền
mang lại những khó khăn mới trong khâu quản lý nội dung.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa X đã đánh giá một cách tổng quát: "Trong
hoạt động báo chí, một số yếu kém, khuyết điểm được nhắc nhở nhiều lần nhưng chậm
khắc phục, có mặt, có lúc, có nơi còn trầm trọng hơn. Một số cơ qụan báo chí thiếu
nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng văn hoá, có biểu hiện xa rời sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin không trung thực, thiếu chính xác..."1.
2.1.2.Thực trạng hoạt động của ngành xuất bản nước ta trong thời kỳ đổi
mới
2.1.2.1. Thành tựu
Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, ngành xuất bản - in - phát hành
sách đã gặt hái được những thành tựu đáng kể. Đó là kết quả của những nỗ lực chung
của toàn ngành trong việc vượt qua những năm tháng khó khăn của quá trình chuyển
đổi cơ chế quản lý. Ngành xuất bản - in - phát hành đã và đang ngày càng khẳng định
mình với những bước phát triển tương đối toàn diện. Trong quá trình thực hiện chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế, ngành xuất bản - in - phát hành sách vẫn giữ được mức tăng
trưởng đều đặn qua các năm. Mức hưởng thụ xuất bản phẩm bình quân đầu người hằng
năm liên tục tăng lên. Hoạt động xuất bản - in - phát hành sách đã tích cực tuyên
truyền đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; góp phần ổn định chính
trị, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, nâng cao dân trí và đời sống tinh thần của nhân
dân.
Hai mươi năm chuyển đổi cơ chế, ngành xuất bản nói chung và các nhà xuất
bản nói riêng đã trải qua nhiều biến cố, thăng trầm. Vượt qua những khó khăn, các nhà
xuất bản đã và đang ngày càng khẳng định vị thế của mình và đặc biệt trong khoảng
mười lăm năm (1993-2008), ngành xuất bản đã gặt hái những thành tựu đáng kể. Năm
2004, toàn ngành xuất bản đã cung cấp tới độc giả 19.395 đầu sách trong đó Nhà xuất
bản Trẻ cho ra đời 2.585 đầu sách, với 392.249 trang bản thảo, 11.557.300 bản in,
1.582.606.700 trang in. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản 990 đầu sách với
2.620.080 bản in, 555.774.564 trang in. Năm 2008 toàn ngành xuất bản được 25.120
đầu sách với 279,913 triệu bản. Đó là một vài con số minh chứng cho sự phát triển của
ngành xuất bản.
Có thể nhận thấy những thành tựu cơ bản của ngành xuất bản trong thời gian
qua trên một số điểm chính dưới đây:
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khoá X,
Nxb CTQG, HN, 2007, tr.42.
- Đã xây dựng được một nền xuất bản độc lập, tự chủ, đứng vững trong cơ chế
thị trường
Từ năm 1990 đến nay, từ chỗ thiếu sách, toàn ngành đã từng bước thỏa mãn
nhu cầu xã hội về sách với chất lượng, nội dung và hình thức ngày càng cao; đồng thời
phát triển mạnh nội lực và nâng cao hoạt động của ngành xuất bản - in - phát hành
sách (năm 1993 cả nước xuất bản được 5000 tên sách với 120 triệu bản; năm 2004 cả
nước xuất bản được 19.695 tên sách với hơn 243 triệu bản; năm 2007, cả nước xuất
bản được 26.609 cuốn với 276.447 triệu bản; tăng 6,4% số cuốn, 22% về số bản so với
năm 2004.
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, phục vụ đắc lực công tác tư tưởng, văn
hóa; góp phần khẳng định nền tảng tư tưởng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát
triển văn hóa và kinh tế, nâng cao dân trí và đời sống tinh thần của nhân dân.
Bình quân đầu người về hưởng thụ xuất bản phẩm liên tục tăng lên, năm 2002
đạt 2,8 bản/người/năm, tạo nền tảng cho việc phấn đấu đến năm 2005 đạt 4
bản/người/năm.
Các chỉ tiêu về cuốn, bản, trang in không ngừng tăng trưởng và nhanh hơn
mức tăng dân số. Có nhiều tác phẩm có giá trị mang tính tổng kết thế kỷ, tổng kết giai
đoạn cách mạng vừa qua.
Có thể thấy rõ sự phát triển của nền xuất bản Việt Nam qua sự chuyển mình,
sự trưởng thành của các nhà xuất bản. Xin đơn cử trường hợp Nhà xuất bản Giáo dục
và Nhà xuất bản Trẻ:
"Nhà xuất bản Giáo dục: Chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh, Nhà xuất
bản đã phải đối mặt với nhiều khó khăn của cơ chế mới. Năm 1994, khi giá giấy lên
cao, tổng nợ toàn quốc của Nhà xuất bản lên tới 130 tỷ đồng. Tuy nhiên, nhờ sự năng
động và sáng tạo trong quản lý kinh doanh (gọi góp vốn của cán bộ, công nhân viên
Nhà xuất bản, liên kết đầu tư, vay vốn ngân hàng đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật), năm
1995 doanh số bán ra của Nhà xuất bản đạt trên 300 tỷ đồng. Tính 10 năm (1987 -
1996), Nhà xuất bản xuất bản được 10.966 đầu sách, trên 725 triệu bản sách, tăng 2,9
lần số đầu sách và 2,6 lần về số bản sách so với giai đoạn 10 năm từ 1977-1986. Năm
2003, Nhà xuất bản đạt gần 899 tỷ đồng doanh thu và 50,4 tỷ đồng lợi nhuận. Thu
nhập bình quân đầu người đạt 2,3 triệu đồng/tháng.
Nhà xuất bản Trẻ, với mô hình là một doanh nghiệp nhà nước (doanh nghiệp loại
một) hoạt động trong cơ chế thị trường, song bằng sự xác định hướng đi đúng, chủ
động, sáng tạo trong đầu tư, sản xuất và tìm kiếm thị trường, năm 2003, Nhà xuất bản
đã xuất bản được trên 2000 đầu sách, doanh thu đạt 43,33 tỷ đồng, tổng lợi nhuận
trước thuế đạt 2,24 tỷ đồng, nộp thuế nhà nước trên 700 triệu. Tính đến năm 2003, vốn
kinh doanh của Nhà xuất bản Trẻ đã phát triển ở con số xấp xỉ 3,5 tỷ đồng (gấp 10 lần so với vốn đầu tư ban đầu do ngân sách nhà nước cấp)"1.
- Sự phát triển phong phú của các loại sách và cơ cấu đề tài
+ Sách chính trị - xã hội
Nhiều bộ sách có giá trị về lý luận chính trị, về khoa học xã hội và nhân văn, về
chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, về những vấn
đề mới trong các lĩnh vực lý luận quan trọng như kinh tế, văn hóa, xã hội,... đã được
xuất bản, đáp ứng được sự quan tâm của đông đảo quần chúng. Tỷ lệ mảng sách này
tăng dần từ 12,5% (năm 1997) lên 21,4% (năm 2002).
+ Sách khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Mảng sách này có bước phát triển vững chắc và vượt bậc. Các nhà xuất bản
chuyên ngành về loại sách này như: Khoa học - kỹ thuật, Xây dựng, Thống kê, Nông
nghiệp, Bưu điện,... đã xuất bản được nhiều bộ sách quý, góp phần giới thiệu những tri
thức mới, nâng cao dân trí, đóng góp trực tiếp đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của đất nước trong những năm qua.
+ Sách văn hóa - nghệ thuật đã có bước phát triển, tạo ra những giá trị mới
trong đời sống văn hóa - nghệ thuật
Do đặc trưng của loại hình nghệ thuật gắn liền với đời sống xã hội nên mảng
sách này được nhiều người quan tâm; nhiều sách văn học Việt Nam hiện đại và văn
học dịch đang có nhu cầu tái bản ngày càng nhiều. Các bộ sách đánh giá một giai đoạn
phát triển của văn học Việt Nam đã xuất bản như Tổng tập văn học Việt Nam, Văn học
1 Đinh Xuân Dũng - Ngô Trần ái, Các nhà xuất bản Việt Nam thế kỷ XX,
Nxb Giáo dục, HN,2006, tr.123
Việt Nam thế kỷ XX, các bộ toàn tập, tuyển tập Hồ Chí Minh, các tác giả được Giải
thưởng Hồ Chí Minh...
Chú trọng khai thác những di sản văn hóa, văn nghệ của tất cả các dân tộc
sống trên mọi vùng, miền của đất nước để xuất bản, phổ biến, lưu giữ dưới dạng xuất
bản phẩm.
Một số nhà xuất bản đã xuất bản những tác phẩm tiêu biểu của nền văn hóa,
văn học thế giới có nội dung, giá trị nhân văn, sách in đẹp và phát hành với số lượng
lớn đã khích lệ người đọc trở lại với thị hiếu lành mạnh.
Cơ cấu sách văn hóa - nghệ thuật tăng từ 21,2% năm 1991 lên 24,2% năm
2000.
+ Sách giáo khoa - giáo trình, sách cho thanh thiếu nhi
Đảm bảo cung cấp đủ sách giáo khoa ở cấp học phổ thông. Ngoài bộ sách của
chương trình giáo dục phổ thông 12 năm, đặc biệt chú trọng đến các loại sách tham
khảo, nâng cao cho thầy và trò; sách chuẩn kiến thức cho các môn học, ở các cấp; sách
giáo khoa tiếng dân tộc, sách phục vụ xóa mù chữ và chống tái mù chữ.
Chú trọng đầu tư xuất bản các loại sách giáo trình cho hệ thống đào tạo cao
đẳng, đại học và trên đại học. Xây dựng các bộ giáo trình cơ bản cho từng môn học,
bảo đảm yêu cầu về khoa học và sư phạm cho các hệ thống trường trong cả nước.
Tăng cường số lượng đề tài xuất bản các loại sách giáo trình dạy nghề, ngoại
ngữ, tin học..., sách tham khảo cho việc đào tạo từ xa, tự học với sự trợ giúp của các
thiết bị hiện đại như truyền hình, máy tính, các loại sách có kèm theo băng, đĩa.
Xuất bản các loại sách tra cứu phục vụ cho học tập, nâng cao dân trí như: Từ
điển bách khoa, Từ điển tra cứu, Bách khoa thư chuyên ngành...
Nhiều bộ sách, tủ sách cho thanh thiếu niên thuộc nhiều lứa tuổi và nhiều lĩnh
vực khác nhau đã được hình thành, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của bạn đọc
trẻ.
+ Sách dịch
Đây là mảng sách có bước phát triển mạnh, đột phá. ở tất cả các thể loại từ sách
văn hóa - nghệ thuật, sách công cụ cho đến sách khoa học kỹ thuật... đều có sách dịch.
Chưa bao giờ, các loại sách của nước ngoài lại được dịch và xuất bản nhiều như những
năm qua. Không chỉ sách của Liên Xô (cũ), Trung Quốc - như giai đoạn trước đổi mới,
hiện nay, sách của các nước Mỹ, Pháp, Anh... và một số quốc gia Mỹ La tinh cũng đã
được dịch và giới thiệu ở Việt Nam.
- Tăng cường giao lưu và hợp tác quốc tế
Nếu trước đây ngành xuất bản nước ta chủ yếu hợp tác với các nước thuộc Liên
Xô (cũ), thì ở giai đoạn này chúng ta không chỉ tiếp tục tìm cách duy trì quan hệ hợp
tác với Liên bang Nga, mà còn nối lại quan hệ với Trung Quốc, mở ra quan hệ với
nhiều nước mà trước đây hầu như chưa có quan hệ hoặc ở mức rất hẹp. Các nhà xuất
bản, cơ sở in, tổ chức phát hành sách Việt Nam đã trao đổi mua bán bản quyền, mua
bán máy in, tham gia hội chợ sách, hội chợ in quốc tế ở Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật
Bản, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Ba Lan, Thụy Sĩ, Hồng Kông, các nước trong khối
ASEAN và Ai Cập... Qua các hội chợ, ngành xuất bản - in - phát hành sách đã ký kết
được nhiều hợp đồng hợp tác về xuất bản sách, học tập được nhiều kinh nghiệm về
phát triển công nghệ in, kỹ thuật làm sách hiện đại. Thu được nhiều kết quả về mặt này
là các Nhà xuất bản Kim Đồng, Trẻ, Thế giới, là Công ty Xunhasaba, Công ty Cổ phần
phát hành sách Tp. Hồ Chí Minh, Công ty In Trần Phú, Công ty Cổ phần văn hóa
phương Nam...
Năm 1995, được phép của Chính phủ, lần đầu tiên Việt Nam đã tổ chức thành
công Hội chợ sách quốc tế Việt Nam lần thứ nhất tại Hà Nội. Tại Hội chợ này đã có
nhiều nhà xuất bản nổi tiếng của Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Đức, Anh, Nhật Bản,
các nước trong khối ASEAN tham gia trưng bày hàng vạn bản sách, ký kết, trao đổi
nhiều bản quyền về sách. Từ đó đến nay, chúng ta đã tổ chức thêm một số Hội chợ
sách quốc tế nữa, quy mô lần sau thường lớn hơn lần trước, thêm nhiều đại diện của
các nhà xuất bản nổi tiếng thế giới tham gia.
Hoạt động xuất nhập khẩu sách báo của chúng ta cũng đặc biệt phát triển.
Trước đây, chúng ta chỉ có một đơn vị là Xunhasaba độc quyền xuất nhập khẩu sách
báo, nay đã có thêm nhiều đơn vị được phép nhập khẩu sách báo là Công ty Cổ phần
phát hành sách Tp. Hồ Chí Minh Tổng Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
sách Hà Nội,... Hoạt động xuất khẩu sách báo Việt Nam ra nước ngoài đã được Nhà
nước khuyến khích cho các thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực này. Hiện nay
bạn hàng có quan hệ với chúng ta trong xuất nhập khẩu sách báo đã lên tới hơn 50
nước, với nhiều triệu bản sách xuất nhập khẩu hàng năm. Đặc biệt, năm 1992 Việt
Nam đã tham gia thành lập Hiệp hội Xuất bản châu á - Thái Bình Dương (APPA) gồm
15 nước tổ chức tại Nhật Bản. Hằng năm, Hội xuất bản nước ta đều tham gia Đại hội
thường niên của Hiệp hội này và năm 2007 chúng ta đã tổ chức đăng cai Hội nghị
thường niên lần thứ 14 - Hiệp hội xuất bản châu á - Thái Bình Dương (APPA) tổ chức
tại Tp. Hồ Chí Minh. Đã có 27 đại diện từ Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Philippin, Singapore, Thái Lna, Pakistan, Brunei tham gia Hội nghị.
- Kiện toàn hệ thống tổ chức và xây dựng cơ sở vật chất
Đảng và Nhà nước đã cho thành lập thêm, củng cố lại bộ máy tổ chức và
chức năng nhiệm vụ của nhiều nhà xuất bản, cơ sở in, tổ chức phát hành sách.
Đến thời điểm năm 2004, cả nước đã có 47 nhà xuất bản, 726 cơ sở in, 1147
đơn vị phát hành sách của nhà nước và các thành phần kinh tế khác. Đến thời điểm
2008, cả nước có 55 nhà xuất bản, gần 900 cơ sở in và 1160 cơ sở phát hành sách.
Nhiều nhà xuất bản đã đầu tư, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ thông tin
trong kỹ thuật làm sách, giao dịch mua bán bản quyền với nước ngoài. Trụ sở nhiều
nhà xuất bản đã được nâng cấp, xây dựng mới như Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Văn hóa - Thông tin, Giáo dục, Lao động Xã hội, Khoa học xã hội, Kim Đồng, Bản
đồ... Đã xuất hiện mô hình các nhà xuất bản khép kín cả ba khâu: xuất bản, in, phát
hành (khoảng 30 nhà xuất bản), trong đó nhiều nhà xuất bản đã trang bị cho khâu in rất
hiện đại như: Nhà xuất bản Bản đồ, Nhà xuất bản Giáo dục, Nhà xuất bản Lao động
Xã hội...
Ngành in đã offset hoàn toàn, đang tập trung đột phá vào các công đoạn tiếp
theo là chế bản và gia công, hoàn thiện sản phẩm. Ngành in Việt Nam đã có khả năng
đáp ứng được mọi nhu cầu về in sách theo tiêu chuẩn quốc tế, như Công ty in Trần
Phú, Công ty ITAXA...
Hầu hết các đơn vị phát hành sách được cổ phần hóa, mô hình tổ chức năng
động và gọn nhẹ hơn. Trụ sở làm việc và cửa hàng giới thiệu - bán sách của nhiều đơn
vị được cấp vốn xây dựng khang trang hơn như của Tổng công ty sách Việt Nam,
Tổng công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên sách Hà Nội, Công ty Cổ phần phát
hành sách Tp. Hồ Chí Minh, Công ty Cổ phần văn hóa phương Nam...
Về năng lực tài chính, chỉ trong vòng 5 năm (1997-2002), tổng số vốn của các
nhà xuất bản đã tăng lên bốn lần (từ 99 tỷ lên 399 tỷ). Năm 2003, 1/3 các nhà xuất bản
được cấp vốn lưu động theo chế độ quy định của Nhà nước. Một số nhà xuất bản đã có
đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước.
2.1.2.2. Những hạn chế
Sáu năm đầu của thời kỳ đổi mới (từ 1986-1991) là những năm tháng gian nan
nhất của ngành xuất bản, khi các nhà xuất bản phải tự "vật lộn" để "sinh tồn", để thích
nghi với hoàn cảnh mới.Từ chỗ được Nhà nước bao cấp toàn bộ cho quy trình hoạt
động xuất bản về vốn, thiết bị, vật tư in, kế hoạch xuất bản và cả việc phát hành xuất
bản phẩm, nay các nhà xuất bản phải chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh, nghĩa
là phải tự lo về kinh tế, phải thực hiện những quy định về lãi suất, về thuế như với một
doanh nghiệp kinh doanh đơn thuần. “Hầu hết các nhà xuất bản đều thiếu vốn, khan
hiếm giấy và vật tư thiết bị in và phải tự xoay xở để tồn tại trong cơ chế mới. Một số
nhà xuất bản điêu đứng, tưởng chừng không thể đứng được trước "cơn bão" kinh tế thị
trường. Ví dụ: Nhà xuất bản Thanh niên, vào năm 1988, tiền trong két chỉ còn 200.000
đồng (trong khi tiền lương cần phải có 3 triệu/ tháng). Cán bộ, công nhân viên Nhà
xuất bản có lúc phải tự đem sách đi rao bán ở khắp nơi, tại các địa điểm công cộng, cả
trên tàu hỏa. Một ví dụ khác, Nhà xuất bản Sân khấu thành lập năm 1986, nhưng sau
hơn hai năm cho ra mắt được một số tập sách có giá trị (1987-1988), trong các năm từ
1989-1991 gặp rất nhiều khó khăn, mỗi năm chỉ xuất bản được dăm ba đầu sách, một vài đầu lịch và đến năm 1991, Nhà xuất bản đã đứng trước nguy cơ bị giải thể"1.
Hệ thống cấp phát hành sách quốc doanh lâm vào tình trạng bi đát chưa từng
thấy, hiện tượng "đầu nậu sách" xuất hiện: “Cũng gặp khó khăn như các nhà xuất bản,
trong thời gian từ 1986 đến 1991, do chuyển đổi cơ chế kinh tế, hệ thống phát hành
sách quốc doanh, đặc biệt ở địa phương bị tan vỡ hàng mảng, không còn khả năng lo
cho phát hành sách, phải chạy vào kinh doanh các mặt hàng khác để tồn tại. Nhiều
thành phần kinh tế đã tham gia kinh doanh phát hành sách, vai trò của hệ thống phát
hành sách quốc doanh bị tê liệt, bị lấn át và bắt đầu xuất hiện sự lộn xộn, cạnh tranh
thiếu lành mạnh khi thị trường sách ra đời trong thời buổi kinh tế thị trường đang vận
1 Đinh Xuân Dũng - Ngô Trần ái, Các nhà xuất bản Việt Nam thế kỷ XX,
Nxb Giáo dục, HN,2006, tr.116.
động với nhiều diễn biến phức tạp (danh từ "đầu nậu sách" ra đời ở thời kỳ này với những đánh giá trái ngược nhau)”1.
Từ khi chuyển sang cơ chế mới, mô hình tổ chức của ngành không đồng bộ,
cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập làm cho hoạt động xuất bản - in - phát hành
sách gặp phải những khó khăn, thách thức. Một trong những bức xúc đối với lĩnh
vực xuất bản - in - phát hành sách hiện nay là cần có sự đánh giá đúng đắn, khoa
học về tính chất, hoạt động của lĩnh vực này để đề ra các giải pháp thích hợp, khắc
phục những tồn tại và tạo một hành lang pháp lý phù hợp, hỗ trợ, phát triển hoạt
động xuất bản - in - phát hành sách trong thế kỷ XXI.
Nhìn chung, vai trò, vị trí của hoạt động xuất bản chưa được nhận thức và
quan tâm đầy đủ nên chưa có những biện pháp củng cố về tổ chức, chưa hoàn thiện hệ
thống cơ chế, chính sách đồng bộ cho hoạt động này phát triển ngang tầm với nhiệm
vụ mà Đảng và Nhà nước giao.
Hệ thống pháp luật và chính sách đang trong quá trình hoàn thiện, còn nhiều
bất cập. Tình trạng kém ổn định và nhất quán về mặt pháp lý, cơ chế, chính sách; đặc
biệt là thiếu chính sách ưu đãi về vốn (bao gồm vốn lưu động, vốn đầu tư cơ sở vật
chất, phát triển sự nghiệp); chưa khuyến khích được hoạt động xuất bản phát triển.
Quy mô sản xuất của toàn ngành còn nhỏ bé, trang thiết bị còn nghèo nàn,
trình độ công nghệ chưa theo kịp các nước tiên tiến trong khu vực. Mô hình tổ chức
toàn ngành chưa được xác định khoa học và hợp lý, chậm đổi mới; nhiều hệ thống xuất
bản - in - phát hành có cùng chức năng; tổ chức phân tán, chia cắt, chồng chéo, trùng
lặp. Hiệu quả hoạt động thấp, sử dụng lao động chưa hợp lý, khả năng cạnh tranh thấp.
Công tác xã hội hóa hoạt động xuất bản vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển của ngành. Trong bối cảnh kinh phí của Nhà nước còn hạn chế, việc huy động
nguồn lực của các thành phần kinh tế khác cho hoạt động xuất bản chưa được đặt ra
một cách chính thức, dù trong thực tế, các nguồn lực này vẫn ngầm chảy trong hoạt
động xuất bản, một mặt làm Nhà nước thiếu hụt nguồn lực tài chính, mặt khác, gây
khó khăn cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
1 Đinh Xuân Dũng - Ngô Trần ái, Các nhà xuất bản Việt Nam thế kỷ XX,
Nxb Giáo dục, HN,2006, tr.117.
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xuất bản - in - phát hành sách còn bị động, lúng
túng, chưa chủ động xây dựng được chiến lược hoặc chương trình hợp tác lâu dài với
nước ngoài.
Khả năng vươn lên từ nội lực của ngành còn yếu, Nhà nước chưa có một chiến
lược đầu tư trọng điểm cho ngành, do vậy chưa tạo ra được sức mạnh tổng hợp toàn
ngành và hỗ trợ cho sự phát triển chung.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập so với
yêu cầu thực tế; chưa phù hợp với cơ chế thị trường; đào tạo chưa gắn liền với sử
dụng. Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ quản lý đã tăng lên nhưng vẫn còn thiếu
và yếu về trình độ, hạn chế nhiều đến sự phát triển của toàn ngành.
2.2. những đổi mới trong sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản
thời gian qua
2.2.1. Những thành tựu
- Đảng ta tiếp tục coi trọng vai trò của báo chí - xuất bản trong công cuộc đổi
mới, đồng thời đặt vấn đề đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản một
cách cấp thiết, đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi báo chí - xuất bản là
vũ khí tư tưởng sắc bén để tuyên truyền, tập hợp và tổ chức quần chúng tiến hành cách
mạng. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, Đảng đã có bước nhận thức mới: khẳng
định vai trò to lớn của báo chí - báo chí là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các
tổ chức chính trị, xã hội và là diễn đàn của nhân dân; là một lực lượng đi đầu trong
việc bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Đồng thời, Đảng cũng coi việc giữ vững và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với báo chí - xuất bản là một vấn đề nguyên tắc bất di bất dịch. Kết luận
chính trị quan trọng này của Đảng ta là sự phản bác mạnh mẽ những ý kiến đề xuất đòi
"phi chính trị hóa", "tự do hóa" báo chí - xuất bản, cho rằng Đảng chỉ nên "định hướng
rộng" vạch hành lang, còn để cho báo chí tự do hoạt động, để công chúng tự chọn món
ăn !
Sau 5 năm đổi mới, ngày 25-7-1990 BBT Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số
63/CT-TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí, xuất bản.
Chỉ thị được ban hành kịp thời đã có tác dụng mạnh mẽ đối với hoạt động báo chí. Chỉ
thị đã vạch rõ nhiều sai lầm, khuyết điểm của báo chí sau 5 năm đổi mới, có vấn đề
được phê phán rất nghiêm khắc như tình trạng không thực hiện đúng mục đích, tôn chỉ
và quy định trong giấy phép; một số báo chí ra những ấn phẩm chống lại đường lối,
quan điểm của Đảng, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, kích động dư
luận chống đối sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN... BBT cũng nghiêm khắc chỉ
ra những thiếu sót của các cấp lãnh đạo và quản lý, trong đó có khuyết điểm một số
cấp ủy đảng chưa có nhận thức đúng về vai trò báo chí trong công cuộc đổi mới.
Cùng với việc vạch rõ nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của
Nhà nước và trách nhiệm của cơ quan chủ quản đối với báo chí, lần đầu tiên Đảng chỉ
ra phương thức lãnh đạo đối với báo chí là: Đảng lãnh đạo bằng định hướng chính trị;
định hướng quy hoạch báo chí; kiểm tra nội dung chính trị - tư tưởng; lãnh đạo cơ
quan Nhà nước xây dựng hệ thống luật pháp về báo chí; lãnh đạo qua cơ quan tham
mưu và đảng viên ở các cơ quan báo chí. Nhà nước quản lý qua việc ban hành các
chính sách, quy chế, luật pháp, hướng dẫn thực hiện và xử lý sai phạm.
Về trách nhiệm cơ quan chủ quản với báo chí - xuất bản, vấn đề mới mà trước
đây ít được đề cập - Chỉ thị nêu rõ: “ Cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm chỉ đạo toàn
diện cơ quan báo chí, xuất bản của mình. Thủ trưởng cơ quan chủ quản phải trực tiếp
chỉ đạo và định kỳ họp với cán bộ phụ trách báo chí, nhà xuất bản để kiểm tra việc
thực hiện tôn chỉ mục đích và các quy định trong giấy phép do Nhà nước cấp. Thực
hiện việc khen thưởng, kỷ luật và bố trí cán bộ phụ trách. Chăm lo xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật và thực hiện các chế độ, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí, xuất bản của ngành, đoàn thể hoặc địa phương mình hoạt động có hiệu quả”1
Với người phụ trách cơ quan báo chí, Chỉ thị nêu: "Tổng biên tập, giám đốc là
đảng viên chịu trách nhiệm trước cơ quan chủ quản và cấp ủy đảng về việc thực hiện các định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng"2. Để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối
1 Chỉ thị 63/CT-TW ngày 25-07-1990 của BBT (khóaVI) về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí - xuất bản, tr.6
2 Chỉ thị 63/CT-TW ngày 25-07-1990 của BBT (khóaVI) về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí - xuất bản, tr.7
với báo chí, về tổ chức, Chỉ thị quy định: ở các HNB từ Trung ương tới địa phương
thành lập Đảng đoàn ở các Ban chấp hành.
Có thể nói rằng, trong bối cảnh lịch sử của năm 1990, Chỉ thị số 63/CT-TW ra
đời là hết sức kịp thời, phù hợp với yêu cầu của công tác tư tưởng - văn hóa nói chung
và lĩnh vực báo chí - xuất bản nói riêng. ở thời kỳ này, sự tác động của tư tưởng dân
chủ cực đoan từ các nước XHCN Liên Xô và Đông Âu đang cải tổ, cải cách và sự
chống phá về tư tưởng của các thế lực phản động trong và ngoài nước khá phức tạp.
Mặc dù sự nghiệp đổi mới đã đạt được những kết quả đáng trân trọng, song nước ta lúc
đó vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống của bộ phận lớn nhân dân
còn khó khăn. Hoạt động báo chí - xuất bản đã đổi mới bước đầu về nội dung, hình
thức, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, đấu tranh chống âm mưu phá hoại của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, phê phán các luận điệu chống Đảng, chống
CNXH, nhưng báo chí – xuất bản lúc đó đã bộc lý luận nhiều khuyết điểm, nếu không
được chấn chỉnh ngay thì có thể trượt dài sang hướng tiêu cực.
Sau Đại hội VII của Đảng, cùng với những đổi mới mạnh mẽ trong đời sống
kinh tế - xã hội, báo chí nước ta cũng có những thay đổi căn bản. Bên cạnh những tiến
bộ, báo chí thời kỳ này bộc lộ nhiều thiếu sót, trong đó có những khuyết điểm nghiêm
trọng, đã được Chỉ thị 63/CT-TW chỉ ra như: báo, đài nặng về phê phán tiêu cực,
chống tiêu cực chưa chính xác, thiếu thận trọng, tính chiến đấu của báo chí chưa cao,
chạy theo lợi nhuận đơn thuần, tạo nên khuynh hướng thương mại hóa trong hoạt động
báo chí...
Trước tình hình đó, để tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả báo chí - xuất bản, ngày 31-3-1992 BBT (khóa VII) đã ra Chỉ thị số
08/CT-TW về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác báo chí, xuất bản. Chỉ thị khẳng định lại quan điểm của Đại hội VII: Phát
triển sự nghiệp thông tin, báo chí, xuất bản theo hướng nâng cao chất lượng, đáp ứng
nhu cầu thông tin và nâng cao kiến thức mọi mặt cho nhân dân.
Từ đánh giá khái quát tình hình báo chí sau 5 năm đổi mới, Chỉ thị nêu 6 việc
cần làm ngay.Đó là những công việc vừa có tính định hướng, nhưng cũng rất cụ thể,
thể hiện đầy đủ những quan điểm cơ bản của Đại hội VII của Đảng về công tác báo
chí, xuất bản.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản đổi mới một bước. Từ quan
điểm báo chí thực hiện vai trò vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn
thể, vừa là diễn đàn của nhân dân, Đảng yêu cầu phương thức thông tin phải đa dạng,
nhiều chiều, phải làm thay đổi tích cực diện mạo của toàn bộ nền báo chí, làm tăng
tính hấp dẫn và hiệu quả của báo chí. Quan điểm đó cũng phản ánh mối quan hệ khăng
khít giữa Đảng với quần chúng, đồng thời cũng đòi hỏi nội dung và phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với báo chí phải đổi mới không ngừng.
Chỉ thị 08/CT-TW khẳng định nguyên nhân quan trọng dẫn đến khuyết điểm
của báo chí - xuất bản là: sự lãnh đạo, quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức năng
Trung ương, của nhiều cấp ủy đảng, cấp chính quyền, cơ quan chủ quản có báo,Nxb...
Trách nhiệm trực tiếp thuộc về một số tổng biên tập báo, đài, Giám đốc Nxb. Do đó,
để nâng cao chất lượng, hiệu quả các báo chí - xuất bản, việc đầu tiên là phải khắc
phục nguyên nhân trên. Về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan
lãnh đạo, và cơ quan chủ quản của báo chí - xuất bản. Chỉ thị chỉ rõ: “Sắp xếp lại hệ
thống báo chí, xuất bản theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả chính trị, tư tưởng,
văn hóa. Sắp xếp lại một số báo chí, nhà xuất bản xét thấy không cần thiết và không đủ
điều kiện hoạt động, có chức năng trùng nhau. Không tổ chức thêm, ra thêm kỳ khi các
điều kiện không cho phép. Không nhất thiết ngành nào cũng có báo và nhà xuất bản.
Không nhất thiết địa phương nào cũng có nhà xuất bản và báo Văn nghệ. Giảm bớt
báo Công an bán công khai; những thông tin và bài viết về vụ án cần giảm nhiều và
định hướng lại cách viết sao cho không gây phản tác dụng. Sắp xếp hệ thống phát thanh, truyền hình trong toàn quốc”1.
Một lần nữa, Đảng ta lại nhắc lại "cách lãnh đạo" nói chung được vận dụng vào
báo chí - xuất bản: "Hệ thống báo chí và nhà xuất bản của Đảng và của cơ quan quản
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị số 08/CT-TW ngày 31-3-1992 của BBT (khóa VII) về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản
lý nhà nước về báo chí, xuất bản phải nêu gương trong việc sắp xếp lại trật tự và định hướng nội dung"1.
Đảng ta chỉ rõ: Cùng với sự năng động tự trang trải về tài chính của các cơ
quan báo chí, Nhà nước có chính sách tài chính thích hợp nhất là đối với một số sách
báo chính trị và khoa học. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để phủ sóng phát thanh
truyền hình... làm sao tiếng nói của Đảng đến được với mọi vùng, mọi người dân.
Trước khi có Chỉ thị 08/CT-TW, việc xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ báo chí - xuất bản ít được chú ý, gây nên tình trạng thiếu hụt và kém
chất lượng trong đội ngũ những người làm báo. Chỉ thị 08/CT-TW đã nhấn mạnh
nhiệm vụ cực kỳ quan trọng này và xác định phải có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ báo chí - xuất bản, bảo đảm đội ngũ này vững vàng về chính trị - tư tưởng, trong
sạch về phẩm chất đạo đức và tinh thông nghề nghiệp, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế
cận; có chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo và quản lý báo chí - xuất bản. Đặc biệt,
coi trọng bồi dưỡng các tổng biên tập báo, đài - đội ngũ cán bộ chủ chốt của cơ quan
báo chí – xuất bản, kiện toàn cơ quan chỉ đạo của Đảng và cơ quan quản lý nhà nước
về báo chí - xuất bản.
Từ Chỉ thị số 63/CT-TW ngày 25-7-1990 của BBT (khóa VI) đến Chỉ thị
08/CT-TW ngày 31-3-1992 của BBT (khóa VII) thể hiện bước phát triển mới cả về
nhận thức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí.
Việc Đảng kịp thời ra chỉ thị về báo chí - xuất bản, biểu hiện sự đổi mới mạnh mẽ tư
duy của Đảng, nhất là đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản, giúp
báo chí - xuất bản làm tròn vai trò của mình, hạn chế tránh được các khuyết điểm
nghiêm trọng.
Từ khi có Chỉ thị 08/CT-TW, hoạt động báo chí - xuất bản có nhiều tiến bộ, có
bước phát triển mới quan trọng. Sự phát triển trên lĩnh vực này thể hiện một cách toàn
diện, cả về số lượng, chất lượng, nội dung, hình thức, phương tiện kỹ thuật và công
nghệ, quy mô, phạm vi tác động, cũng như vai trò thực tế của báo chí - xuất bản trong
đời sống xã hội. Sự phát triển tích cực trên các mặt đó đã tạo ra các điều kiện cơ bản 1 Đảng Cộng sản Việt nam, Chỉ thị số 08/CT-TW ngày 31-3-1992 của BBT (khóa VII) về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản
cần thiết, giúp báo chí - xuất bản tham gia giải quyết những vấn đề, nhiệm vụ có ý
nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định
hướng XHCN, góp phần xứng đáng vào những thành tựu kinh tế - xã hội to lớn của đất
nước ta đầu những năm 90.
Tuy nhiên, những năm sau đó, bên cạnh những thành tích và đóng góp quan
trọng, báo chí - xuất bản bộc lộ không ít khuyết điểm, có những khuyết điểm đã được
chỉ ra từ trước, song không những không được sửa chữa mà còn trầm trọng hơn. Đất
nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, đời sống kinh tế, xã hội của đất nước có
những thay đổi mạnh mẽ. BCT khóa VIII ra Chỉ thị số 22/CT-TW ngày 17-10-1997 về
tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo quản lý công tác báo chí, xuất bản. Chỉ thị
nhấn mạnh các yêu cầu: làm cho các cấp, các ngành, trực tiếp là cơ quan chủ quản, đội
ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực báo chí - xuất bản, nhận thức sâu sắc vị trí, vai
trò, nhiệm vụ của công tác báo chí - xuất bản trong sự nghiệp cách mạng, nhất là trong
thời kỳ đổi mới thực hiện CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Để làm tốt
công tác báo chí, xuất bản vấn đề then chốt là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước, nâng cao trách nhiệm của cơ quan chủ quản và của người làm báo
chí - xuất bản, bảo đảm cho báo chí không ngừng đổi mới nội dung và hình thức, nâng
cao chất lượng về mọi mặt, trước hết là chất lượng chính trị, làm tốt chức năng là tiếng
nói của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội, là diễn đàn tin cậy của
nhân dân.
Trên cơ sở thống nhất về nhận thức, các cấp ủy đảng và chính quyền địa
phương, ngành, đoàn thể, các cơ quan quản lý báo chí - xuất bản, các đơn vị báo chí
đánh giá đúng tình hình báo chí - xuất bản thuộc trách nhiệm của mình, cả thành tựu
và khuyết điểm trên tinh thần tự phê bình nghiêm túc. Từ đó, tạo ra được chuyển biến
rõ nét trong việc lãnh đạo, quản lý công tác báo chí - xuất bản, chủ yếu là nâng cao
chất lượng thông tin, khắc phục khuynh hướng lệch lạc, nâng cao trình độ và trách
nhiệm của người làm báo.
Đặc biệt, bản hướng dẫn thực hiện Chỉ thị 22/CT-TW ngày 27-10-1997 của
BanTT -VHTƯ đã yêu cầu: “Xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa các ban ngành
Trung ương, giữa Trung ương và địa phương, cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí,
xuất bản để tăng thêm hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo quản lý. Triển khai đồng bộ
những vấn đề cơ bản như chiến lược phát triển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính
sách, pháp luật về báo chí, xuất bản, quy hoạch cán bộ, đào tạo đội ngũ báo chí - xuất bản cho tới thế kỷ XXI”1.
Từ sau Chỉ thị 22/CT-TW của BCT (khoá VIII) đến nay, BTT-VHTW, BVH-
TT, HNB Việt Nam tiếp tục tham mưu với Trung ương Đảng và Chính phủ ban hành
một số văn bản lãnh đạo, quản lý báo chí: Thông báo kết luận 162-TB/TW của BCT
(khóa IX); Chỉ thị 37-CT/TW của BBT (khóa IX) về "Tiếp tục nâng cao vai trò, chất
lượng hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam trong tình hình mới"; Chỉ thị 52-CT/TW
của BBT (khoá IX) về phát triển và quản lý báo chí điện tử; Quyết định 388/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thực hiện Thông báo kết luận 162-TB/TW của
BCT (khóa IX); Thông báo kết luận số 41-TB/TW và Thông báo kết luận số 68-
TB/TW của BCT (khoá X); Kế hoạch 03-KH/TW của Ban Bí thư nêu một số biện
pháp cụ thể nhằm thực hiện Thông báo kết luận 68-TB/TW. Đặc biệt, năm 2007, tại
Hội nghị lần thứ năm, BCHTW (khoá X) đã bàn và ra Nghị quyết về “Công tác tư
tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới”.
Từ Chỉ thị 08/CT-TW của BBT (khóa VII) đến Chỉ thị 22/CT-TW của BCT
(khóa VIII); Thông báo Kết luận 162 của BCT (khóa IX) và Nghị quyết Trung ương 5
khóa X về báo chí… là bước những chuyển mới trong lãnh đạo của Đảng đối với báo
chí - xuất bản. Việc thường xuyên ra các Nghị quyết, Kết luận, Chỉ thị về báo chí -
xuất bản đã chứng tỏ, Đảng ta luôn đặt vấn đề đổi mới nội dung và phương thức lãnh
đạo đối với báo chí - xuất bản một cách đúng đắn và phù hợp. Với những đổi mới
trong sự lãnh đạo của Đảng, báo chí - xuất bản nước ta đã có bước phát triển mới về
loại hình; nội dung và hình thức; giữ vững định hướng chính trị, góp phần vào thành
tựu chung của sự nghiệp đổi mới đất nước.
- Đảng nắm vững sự lãnh đạo trực tiếp, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò
của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể
Trong điều kiện có chính quyền, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị; đề
ra đường lối, chính sách xây dựng và bảo vệ đất nước; nắm vững tổ chức và cán bộ để 1 BTT-VHTW - BVH-TT, Tiếp tục đổi mới và tăng cường lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản, Kỷ yếu Hội nghị BC-XB toàn quốc, Hà Nội, 1997, t.2, tr.9.
đảm bảo thực hiện có kết quả đường lối của Đảng. Đảng lãnh đạo thông qua cả tổ chức
đảng chứ không chỉ thông qua cá nhân đảng viên. Đảng lãnh đạo bằng các quyết định
của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến
khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc. Đảng lãnh đạo phát huy mạnh mẽ vai trò
và hiệu lực của Nhà nước chứ không điều hành thay Nhà nước. Các tổ chức đảng và
mọi đảng viên đều hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và chịu trách
nhiệm về các hoạt động của mình.
Từ phương thức lãnh đạo căn bản trên, trong lãnh đạo báo chí - xuất bản,bước
đầu Đảng phân định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan lãnh đạo của Đảng, cơ quan
quản lý nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan chủ quản. Lãnh đạo của Đảng và quản
lý của Nhà nước quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng lại là hai việc khác nhau. Quản lý
là chỉ đạo trên cơ sở những quy định, càng cụ thể bao nhiêu càng thuận lợi bấy nhiêu.
Những quy định ấy phải là một hệ thống pháp luật, pháp quy đầy đủ và đồng bộ, vừa
đảm bảo sự thống nhất quản lý của Nhà nước, vừa đảm bảo quyền tự do báo chí,
quyền được tạo điều kiện và bảo vệ khi hành nghề, kể cả sinh mệnh người làm báo.
Lãnh đạo báo chí - xuất bản thể hiện ở việc định hướng những mục tiêu, đề ra những
nguyên tắc (nếu cần cả phương pháp) để thực hiện những mục tiêu đó; là kiểm tra việc
thực hiện những mục tiêu, những nguyên tắc đó của các cơ quan quản lý. Về trách
nhiệm cơ quan chủ quản, từ khi có Luật Báo chí (1989; sửa đổi, bổ sung 1999); Luật
xuất bản (1993; sửa đổi, bổ sung 2004) cơ quan chủ quản được khẳng định với đầy đủ
tư cách pháp nhân. Cơ quan chủ quản là người "chủ nhiệm tập thể" của tờ báo,Nxb.
Đây là người lãnh đạo trực tiếp tờ báo, Nxb trên ba nội dung chính: định hướng chính
trị, tổ chức - cán bộ và điều kiện hoạt động. Cơ quan chủ quản là người đứng ra xin
phép thành lập cơ quan báo chí, Nxb. Không một cơ quan báo chí - xuất bản nào
không có cơ quan chủ quản. Tổng biên tập tờ báo, giám đốc Nxb phải tuân thủ trước
tiên sự lãnh đạo trực tiếp của cơ quan chủ quản. Như vậy, cơ quan chủ quản giữ một
vai trò trọng yếu trong hệ thống lãnh đạo, quản lý báo chí - xuất bản. Tuy nhiên, nếu
quá nhấn mạnh, khoán trắng cho cơ quan chủ quản sẽ dẫn đến buông lỏng sự lãnh đạo
của cấp ủy đảng. Ngược lại, nếu coi nhẹ cơ quan chủ quản sẽ dẫn đến tình trạng cấp ủy
bao biện, làm thay, không phát huy đầy đủ tính chủ động, sáng tạo của cơ quan chủ
quản. Mặc dù chức năng của mỗi cơ quan khác nhau, song sự thống nhất được Đảng
chỉ rõ trong Chỉ thị số 22/CT-TW của BCT (khóa VIII): “Các cấp ủy, chính quyền, cơ
quan chủ quản phải chịu trách nhiệm về mọi mặt quản lý và chỉ đạo chặt chẽ báo chí,
xuất bản của cấp mình, ngành mình, đơn vị mình. Cơ chế cụ thể do BTT-VHTW, Ban
Tổ chức Trung ương, Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ và Bộ Văn hóa - thông tin phối hợp quy định và ban hành”1.
Trong điều kiện cầm quyền, Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà nước. Do đó,
hiệu quả quản lý của Nhà nước với xã hội nói chung, với báo chí nói riêng, đều phản
ánh nội dung và hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Thông qua Nhà nước, Đảng thể hiện
quan điểm đối với báo chí, và các quan điểm, chủ trương của Đảng được thể chế hóa
thành hệ thống pháp luật và chính sách cụ thể cho báo chí thực hiện. Hiệu quả quản lý
của Nhà nước đối với báo chí thời kỳ đổi mới không ngừng nâng cao, bắt nguồn từ
việc Đảng đã đầu tư sức lực và trí tuệ vào nghiên cứu và đổi mới mạnh mẽ phương
thức lãnh đạo nói chung, phương thức lãnh đạo với báo chí nói riêng, phù hợp điều
kiện mới.
Trong Hiến pháp nước ta năm 1992, điều 69 viết: "Công dân có quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin...". Điều 33 khẳng định: "Nghiêm
cấm những hoạt động văn hóa, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân
cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam". Những điều đó cho thấy, Hiến
pháp nước ta thừa nhận hoạt động của báo chí, đồng thời xác định rõ phạm vi của nó.
Phạm vi hoạt động được xác định với các đạo luật, văn bản dưới luật có liên quan đến
những vấn đề mà báo chí đề cập đến. Ngoài ra, báo chí còn phải tuân theo quy ước xã
hội (văn hóa, lối sống, quy định của các tổ chức, đoàn thể xã hội) như là đạo luật
không thành văn, nhưng báo chí phải tuân theo.
Sự ra đời Luật Báo chí 1989, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo
chí năm 1999 hoàn thiện một bước luật pháp về báo chí. Cũng như vậy là Luật Xuất
bản ra đời năm 1993 và được sửa chữa, bổ sung năm 2004. Như vậy, cùng với đổi mới
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị 22/CT-TWngày 17-10-1997 của BBT khoá VIII về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí - xuất bản.
trong lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản, là sự đổi mới khá mạnh mẽ trong
quản lý của Nhà nước đối với báo chí - xuất bản.
Nghị quyết số 384-HĐBT ngày 5-11-1990 của Hội đồng Bộ trưởng về tăng
cường quản lý công tác báo chí, xuất bản đã nêu 8 quy định trách nhiệm của các cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí - xuất bản. Đặc biệt, Nghị quyết cũng nêu cao trách
nhiệm của các cá nhân phụ trách: “Thủ trưởng các cơ quan Nhà nước, Đảng, đoàn thể
tổ chức xã hội ở Trung ương và địa phương, trên cơ sở định hướng của Đảng và Nhà
nước, có trách nhiệm xác định tôn chỉ, mục đích, phương hướng, nội dung hoạt động
của các đơn vị báo chí, nhà xuất bản, in thuộc phần mình phụ trách, chịu trách nhiệm
về việc thành lập và chỉ đạo, kiểm tra, giám sát các tổ chức ấy hoạt động đúng tôn chỉ,
mục đích, đúng đối tượng phục vụ đã được quy định trong giấy phép và nghiêm chỉnh chấp hành các luật lệ của Nhà nước”1.
Trong thời kỳ mới, một công cụ hết sức quan trọng để phát huy mạnh mẽ vai
trò của Nhà nước trong quản lý báo chí - xuất bản là hệ thống chính sách, pháp luật.
Cùng với Luật Báo chí, Luật Xuất bản, các văn bản pháp quy khác là điều kiện rất
quan trọng đảm bảo cho hoạt động báo chí - xuất bản nước ta có một hệ thống văn bản
pháp lý làm công cụ điều chỉnh, kiểm tra, xử lý trong quá trình tổ chức thực hiện.
Việc tổ chức thanh tra, kiểm tra, xử phạt các hành vi vi phạm trong hoạt động
báo chí - xuất bản bước đầu đã phát hiện, nhắc nhở, chấn chỉnh những cơ quan, đơn vị
có sai phạm, góp phần nâng cao chất lượng báo chí - xuất bản và hiệu lực của công tác
quản lý nhà nước.
Sự thống nhất giữa lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với báo chí -
xuất bản đã có bước phát triển mới. Phương châm "phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ
thống thông tin đại chúng" mà Đảng nêu ra đã thể hiện sự đề cao vai trò quản lý của
Nhà nước đối với báo chí - xuất bản. Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
báo chí - xuất bản, Hội đồng Bộ trưởng trước đây và Chính phủ hiện nay luôn theo sát
và kịp thời chỉ đạo, uốn nắn việc thi hành Luật và các văn bản dưới luật đối với báo
chí - xuất bản. Đồng thời, đối thoại với báo chí đã trở thành nét văn hóa trong phong
1 Hội đồng Bộ trưởng, Nghị quyết số 384-HĐBT ngày 05-11-1990 về tăng
cường quản lý công tác báo chí xuất bản.
cách công tác của nhiều thành viên Chính phủ và các cá nhân có trách nhiệm trong cơ
quan nhà nước.
Trình độ, năng lực của các cơ quan quản lý báo chí được nâng lên hơn trước.
Các cuộc giao ban báo chí hàng tuần của BTT-VHTW và BVH-TT trước đây nay là
BTGTW và BTT&TT hiện nay, cũng như các thông báo thường xuyên của các cơ
quan trên đã trở thành kênh chỉ đạo, kiểm tra, uốn nắn sai sót, cung cấp thông tin... có
hiệu quả cho các cơ quan báo chí - xuất bản. Sự phối hợp giữa BTT-VHTW và BVH-
TT, BTGTW và BTT&TT, các Ban Tuyên giáo tỉnh, ngành, đoàn thể được tăng
cường. Về cơ bản đã ngăn chặn được tình trạng cấp giấy phép xuất bản ồ ạt, đặc biệt là
với các số chuyên đề, phụ trương, đặc san. Việc xử lý sai phạm, đề bạt, khen thưởng
đúng quy trình, đúng đối tượng hơn.
Bằng sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, đồng thời đề cao vai trò của Nhà nước
trong quản lý báo chí - xuất bản, trong giai đoạn mới, báo chí - xuất bản đã hoàn thành
tốt chức năng của mình, đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước.
- Đảng lãnh đạo HNB Việt Nam, đảm bảo cho Hội hoạt động đúng tôn chỉ,
mục đích, đoàn kết các nhà báo phấn đấu hoàn thành tốt vai trò của báo chí cách
mạng.
Trong 20 năm đổi mới, HNB Việt Nam - tổ chức chính trị xã hội và nghề
nghiệp của những người làm báo Việt Nam - tiến hành bốn kỳ Đại hội: V, VI, VII,
VIII.
Đại hội V (10-1989) được tiến hành trong điều kiện phức tạp của đời sống
chính trị, đặc biệt là diễn biến của tình hình Đông Âu và Liên Xô. ở trong nước, các
vấn đề kinh tế, chính trị đang đứng trước thử thách to lớn, đường lối đổi mới chỉ mới
bắt đầu trở thành hiện thực ở phạm vi hạn chế. Đại hội V có tầm quan trọng đặc biệt,
vì đây là thời kỳ báo chí cả nước đang có những đổi mới rất mạnh về nội dung, đề tài,
hình thức, đổi mới cách nghĩ và hoạt động của cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí, cũng
như đội ngũ những người làm báo. Đại hội V cũng đứng trước những câu hỏi lớn: Làm
thế nào đổi mới báo chí mà không xa rời nguyên tắc; đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã
hội, song vẫn giữ vững quan điểm báo chí vô sản? Được BCT, BBT trực tiếp chỉ đạo,
các đảng viên là đại biểu Đại hội nêu cao trách nhiệm, đề cao tính đảng, vì vậy Đại hội
V HNB Việt Nam đã tìm ra câu trả lời đúng đắn, định hướng cho báo chí phát triển
phù hợp với thực tiễn đổi mới của đất nước. Đại hội đã xác định đúng phương hướng,
nhiệm vụ phát triển công tác báo chí giải quyết tốt các công tác hội và bầu ra Ban chấp
hành mới xứng đáng.
Đại hội VI diễn ra trong bối cảnh đất nước có những thành tựu, thời cơ và vận
hội mới, tạo tiền đề cho đất nước ta tiến vào thời kỳ mới - thời kỳ CNH, HĐH. Đại hội
có thuận lợi lớn nhất là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã tổng kết
một bước và hình thành hệ thống quan điểm về xây dựng CNXH trong điều kiện mới,
thể hiện tập trung trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Sau những năm đổi mới, trình độ lãnh đạo của Đảng đã được nâng cao rõ
rệt, căn bản đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng, Đảng cũng đã có một số
kinh nghiệm bước đầu về đổi mới sự lãnh đạo đối với báo chí.
Phát biểu tại Đại hội HNB Việt Nam lần thứ VI, Tổng Bí thư Đỗ Mười chỉ ra
định hướng khái quát, bao trùm hoạt động báo chí nước ta trong giai đoạn mới là:
“Báo chí cần phản ánh và tham gia tổng kết thực tiễn, tạo cơ sở khoa học cho việc cụ
thể hóa và phát triển đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mới,
phù hợp với đặc điểm của nước ta và của thế giới ngày nay, góp phần làm rõ con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc"1.
Cùng với "Quy ước về tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của báo chí Việt Nam"
(gọi tắt là "Quy ước đạo đức báo chí Việt Nam"), Đại hội cũng thông qua "Điều lệ Hội
nhà báo Việt Nam" với những sửa đổi cần thiết cho phù hợp với điều kiện mới.
Đại hội VII HNB Việt Nam họp tháng 9-2000, Đại hội VIII HNB Việt Nam
họp tháng 8-2005 là những cột mốc đánh dấu bước trưởng thành của Hội qua hơn 50
năm hoạt động và của đội ngũ những người làm báo Việt Nam qua hơn 70 năm gắn bó
với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và sự nghiệp đổi mới đất nước. Diễn ra ở thời
điểm chuyển giao thế kỷ, sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản
Nam, Hà Nội, 3-1995,tr.10-11
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế kéo dài, 1 Hội nhà báo Việt Nam, Văn kiện Đại hội lần thứ VI Hội Nhà báo Việt
phá thế bao vây, cấm vận của kẻ thù, từng bước hội nhập vào xu thế phát triển của các
nước trong khu vực và thế giới, vừa giữ vững ổn định chính trị, vừa đẩy mạnh phát
triển kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Sau hơn 20 năm "đổi mới báo chí vì sự nghiệp đổi mới đất nước", nền báo chí
cách mạng Việt Nam đã phát triển khá nhanh cả về số lượng và chất lượng, cả về công
nghệ làm báo và trình độ chính trị, nghiệp vụ, chuyên môn của đội ngũ những người
làm báo. "Quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí Việt Nam" từng bước đi vào đời sống
báo chí, đồng thời được củng cố quyết tâm bằng đợt sinh hoạt chính trị "Trách nhiệm
xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo".
Tại các hội nghị tổng kết, sơ kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
về công tác báo chí, các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng đã trực tiếp đến dự các kỳ
Đại hội, hội nghị Ban chấp hành HNB chỉ đạo và đối thoại với HNB; Đảng tăng cường
chỉ đạo các cơ quan, ban ngành, các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội đến dự và có
trách nhiệm đối với các Đại hội; Đảng chỉ đạo các cơ quan hữu trách tạo môi trường
thuận lợi để bạn bè, đồng nghiệp quốc tế của báo chí Việt Nam đến dự các kỳ Đại
hội… là biểu hiện cụ thể lãnh đạo của Đảng đối với báo chí ở một khâu có vai trò đặc
biệt quan trọng.
Nhờ vậy các cấp HNB đã được kiện toàn một bước về tổ chức và cán bộ, về
phương thức và kế hoạch hoạt động, từ Đảng đoàn, Thường vụ, BCHTW Hội đến chi
hội cơ sở. Những nhiệm vụ đề ra trong nghị quyết các kỳ họp của Ban chấp hành, của
Đảng đoàn và của Thường vụ Hội đã được thường trực Đảng đoàn và Thường trực,
Thường vụ chỉ đạo triển khai một cách khẩn trương, chặt chẽ, đạt hiệu quả cao.
Các Ban thuộc Trung ương Hội vừa là cơ quan tham mưu của Thường vụ và
Ban chấp hành, vừa trực tiếp triển khai thực hiện các kế hoạch công tác theo nghị
quyết của Thường vụ và Ban chấp hành đề ra. Hệ thống Hội ở các cấp ngày càng hoàn
chỉnh và ổn định, hoạt động đi vào nền nếp và phát huy hiệu quả ngày càng cao, xứng
đáng là tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp tự nguyện của những người làm báo
trong cả nước.
HNB Việt Nam đã triển khai nghiên cứu, quán triệt các Chỉ thị của Đảng đối
với báo chí cho các chi hội trong cả nước. Hội đã tiến hành thành công các kỳ Đại hội.
Hiện nay, Ban chấp hành khóa VIII của Hội đang triển khai nhiều mặt công tác nhằm
nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động Hội từ Trung ương tới địa phương; tham
gia việc quy hoạch báo chí, kiến nghị các chế độ, chính sách với báo chí, nhất là về
chế độ tiền lương và phụ cấp báo chí… Đặc biệt, Hội đã đóng vai trò quan trọng trong
công tác tổ chức, động viên hội viên đề cao đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm công
dân của nhà báo, nâng cao chất lượng báo chí qua các giải thưởng báo chí hàng năm,
tổ chức tốt Hội báo Xuân; tăng cường bồi dưỡng chính trị, nghề nghiệp và mở rộng
giao lưu quốc tế. Hai đợt sinh hoạt chính trị trong hội viên cả nước tiến tới các hội thảo
"Báo chí viết về đề tài Đảng quang vinh và công tác xây dựng Đảng" và "Nâng cao
đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm công dân của nhà báo" do Hội phối hợp với báo
Nhân dân tổ chức đã có tác động tích cực trong giới báo chí. Cuộc vận động viết về
xây dựng Đảng của Hội phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương phát động đã thu hút
hàng nghìn nhà báo và bạn đọc tham gia. Hội cũng đã tổ chức thành công việc trao
Giải thưởng báo chí quốc gia hàng năm, kể từ năm 2005 đến nay. Đối với HXB, bước
đầu Đảng cũng đã có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức hoạt động..
- Trong công cuộc đổi mới, Đảng tiếp tục khẳng định mạnh mẽ báo chí là vũ
khí sắc bén của Đảng trên mặt trận tư tưởng - văn hóa; đồng thời khẳng định rõ báo
chí - xuất bản vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước và các tổ chức xã hội, vừa là
diễn đàn của nhân dân. Đảng phát huy vai trò của nhân dân trong các hoạt động báo
chí - xuất bản.
Bước tiến trong nhận thức của Đảng về vai trò của báo chí - xuất bản là tiền đề
quan trọng cho sự đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí -
xuất bản. Nếu chỉ giới hạn chức năng, nhiệm vụ của báo chí - xuất bản ở việc truyền
bá đường lối, chính sách của Đảng là chưa đủ, vì mọi chủ trương, chính sách của Đảng
chỉ được thực hiện thắng lợi nhờ sự đồng tình, hưởng ứng, tích cực tham gia của quần
chúng. Báo chí - xuất bản không chỉ là công cụ thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, mà
còn là công cụ để quần chúng thực hiện quyền làm chủ của mình, thực hiện khẩu hiệu
"dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" thông qua báo chí - xuất bản. Đó cũng là
quá trình khắc phục kiểu thông tin một chiều từ trên xuống, góp phần dân chủ hóa xã
hội về thông tin. Như vậy, quần chúng nhân dân là những người vừa thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vừa đóng góp ý kiến với Đảng, Nhà nước để
hoàn thiện đường lối, chính sách; vừa là đối tượng phục vụ, đối tượng phản ánh của
báo chí, vừa là người tham gia cộng tác, giám sát và kiểm tra báo chí - xuất bản
Những thành tựu trong công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng trong
thời gian qua là do các nguyên nhân sau:
Một là, đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng vừa đòi hỏi, vừa thúc đẩy, tạo cơ
sở cho đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản, tạo môi trường và
điều kiện quan trọng cho báo chí - xuất bản hoạt động.
Trước đây, trong cơ chế cũ, quan hệ giữa Đảng với cơ quan báo chí - xuất bản
là quan hệ một chiều từ trên xuống, Đảng chỉ thị, quyết định quá chi tiết, thậm chí can
thiệp không cần thiết, còn vai trò quản lý của Nhà nước đối với báo chí - xuất bản mờ
nhạt, không rõ ràng và chủ yếu bằng các mệnh lệnh hành chính. Vì vậy, vai trò, chức
năng của báo chí - xuất bản bị xem nhẹ, tính độc lập tương đối và tính chủ động, tích
cực của báo chí không được định hình. Việc phê phán các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn
những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái trên báo chí dè dặt
và hạn chế. Khi bước vào đổi mới, trên cơ sở định hướng chính trị cho báo chí - xuất
bản, Đảng đã thực sự tôn trọng vai trò độc lập của báo chí - xuất bản, động viên, tạo
điều kiện để báo chí - xuất bản chủ động, sáng tạo và đa dạng trong thực hiện chức
năng của mình.
Kinh tế thị trường đòi hỏi báo chí - xuất bản không trông chờ bao cấp mà phải
phát huy hết khả năng của mình để chất lượng báo chí - xuất bản ngày một cao, thông
tin đa dạng hơn, phong phú hơn; hình thức tờ báo, cuốn sách đẹp hơn; chất lượng văn
hóa, khoa học không ngừng tăng lên, từ đó số lượng độc giả cũng tăng lên. Các báo,
đài,Nxb phải chủ động tìm đến độc giả, thính giả, không trừ một đối tượng nào, khu
vực nào, tìm hiểu nhu cầu, nguyện vọng của người đọc, tìm lấy "thị trường" riêng cho
mình… Từ đó, từng báo,Nxb cải tiến nội dung, hình thức thông tin cho thích hợp. Qua
đó việc đáp ứng các nhu cầu hiểu biết đa dạng của các tầng lớp nhân dân trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, khoa học - công nghệ, văn hóa, xã hội…, báo chí - xuất bản góp
phần nâng cao trình độ dân trí chung. Thông tin của Việt Nam ra nước ngoài và thông
tin quốc tế vào với độc giả Việt Nam thêm phong phú.
Hai là, có sự đổi mới đồng bộ cả nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với báo chí - xuất bản.
Sự đổi mới trong lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản thể hiện ở cả nội
dung và phương thức lãnh đạo. Trên tất cả các mặt: xác định chiến lược phát triển và
định hướng thông tin tuyên truyền; công tác tổ chức - cán bộ; hoạt động kiểm tra, uốn
nắn kịp thời những sai lầm, lệch lạc, Đảng đều có sự đổi mới, giữ vững vai trò lãnh
đạo, nhưng không làm thay chức năng quản lý của Nhà nước, Đảng lãnh đạo để báo
chí - xuất bản hoạt động tốt hơn, chứ không phải để hạn chế báo chí - xuất bản phát
triển. Lãnh đạo báo chí - xuất bản nhằm phát huy đầy đủ vai trò của báo chí - xuất bản,
song phải có kiểm tra để kịp thời phát hiện và uốn nắn các sai phạm xảy ra trong hoạt
động nghề nghiệp của báo chí - xuất bản.
Ba là, có những đổi mới trong quản lý Nhà nước về báo chí - xuất bản và sự
tham gia đông đảo, tích cực của nhân dân trong hoạt động báo chí - xuất bản.
Sự lãnh đạo đối với báo chí - xuất bản của Đảng đạt kết quả cao còn có các
nguyên nhân khác như sự đầu tư về kinh phí của Nhà nước; sự ủng hộ nhiệt tình của
đông đảo các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp và nhất là sự trưởng thành của bản
thân đội ngũ các cơ quan báo chí - xuất bản, các nhà báo, biên tập viên. Điểm nổi bật
của những người làm báo Việt Nam là luôn trung thành với Đảng, với Tổ quốc và
nhân dân; làm báo trong kinh tế thị trường nhưng không chệch định hướng XHCN;
vừa tích cực phấn đấu phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới đất nước, đồng thời luôn tự
phấn đấu đổi mới chính mình để phục vụ ngày càng có hiệu quả hơn, hoàn thành
nhiệm vụ vẻ vang của mình với Đảng, với dân tộc.
2.2.2. Một số hạn chế, thiếu sót trong lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng
Một là, chậm trễ, thiếu kiên quyết và chưa có biện pháp cụ thể khắc phục một
số thiếu sót, sai phạm của báo chí - xuất bản. Mặc dù đã phát hiện ra các lệnh lạc của
báo chí - xuất bản từ sớm và đề ra các biện pháp khắc phục, nhưng không thật sự có
hiệu quả, hiệu lực. Nghị quyết Trung ương 5 khóa X(2008) đánh giá: "Trong hoạt
động báo chí, một số yếu kém, khuyết điểm được nhắc nhở nhiều lần nhưng chậm khắc
phục, có mặt, có lúc, có nơi còn trầm trọng hơn. Một số cơ qụan báo chí thiếu nhạy
bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng văn hoá, có biểu hiện xa rời sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin không trung thực, thiếu chính xác..."1. Trở lại thời gian trước đó, Chỉ thị 22/CT-TW ngày 17-
10-1997, BCT khóa VIII đã nhận định: “Một bộ phận báo chí, xuất bản bị khuynh
hướng thương mại và cơ chế thị trường chi phối chạy theo thị hiếu tầm thường đăng tải
những chuyện giật gân, tình dục, bạo lực, mê tín dị đoan hoặc những chuyện vụn vặt.
Một số sách, báo, tạp chí, nhất là các số phụ, số chuyên đề, xa rời tôn chỉ, mục đích và
đối tượng phục vụ, nhất là đối với công nhân, nông dân; tính chiến đấu và định hướng tư tưởng chưa rõ nét”2. Chỉ thị 08/CT-TW ngày 31-3-1992 của BBT khóa VII chỉ ra
căn bệnh trong hoạt động báo chí nước ta là khuynh hướng thương mại hóa, chạy theo
lợi nhuận đơn thuần dẫn tới đua nhau đăng và phát những tin, bài, hình ảnh giật gân,
câu khách. Chỉ thị 63/CT-TW ngày 25-7-1990 được BBT khóa VI đã nêu rõ: Một số
cơ quan báo, tạp chí, nhà xuất bản không thực hiện đúng tôn chỉ, chức năng của mình;
một số cơ quan báo chí, nhà xuất bản có khuynh hướng "giật gân" câu khách kiếm tiền
cho ra thị trường những ấn phẩm xấu, gây hại lớn đến việc xây dựng con người mới,
nền văn hóa mới, làm cho dư luận bất bình; có báo, tạp chí đăng quảng cáo quá nhiều,
quảng cáo cả cho kẻ lừa và làm hàng xấu. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII "Về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" và Nghị
quyết Trung ương 5 khóa IX cũng chỉ ra khuynh hướng "thương mại hóa" khá phổ
biến trên báo chí - xuất bản. Chỉ thị 42-CT/TW ngày 25-08-2004 của BBT khóa IX về
nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản đã nêu rõ: “Hoạt động xuất bản
còn có những yếu kém, khuyết điểm: Quy mô, năng lực hoạt động xuất bản ở nước ta
vẫn còn chưa đủ đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn và đa dạng của xã hội về cung cấp
thông tin, tri thức và thưởng thức văn học nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế, nhất là còn thiếu nhiều loại sách
phổ cập tri thức phục vụ đông đảo quần chúng. Nhưng điều đáng quan tâm hơn là chất
lượng hoạt động xuất bản chưa cao. Sách nghiên cứu, tổng kết thực tiễn còn ít, chất
lượng còn hạn chế. Sách viết về công cuộc đổi mới, những nhân tố mới, con người mới,
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khoá X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.42.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị 22/CT-TW ngày17-10-1997 của BCT khóa VIII về Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí xuất bản.
viết về cuộc đấu tranh giữa cái mới, tiến bộ và cái cũ, cái lạc hậu, kìm hãm, cái hư hỏng
còn ít và kém sâu sắc, sinh động; vẫn còn xuất bản và lưu hành một số sách có nội dung
sai phạm về chính trị, tư tưởng, gây ảnh hưởng tiêu cực trong đời sống xã hội. Khuynh
hướng thương mại hoá, chạy theo lợi nhuận kinh tế thuần tuý tác động xấu đến hoạt
động xuất bản. Tệ in lậu xảy ra khá phổ biến, nhưng chưa được kiểm tra, ngăn chặn
có hiệu quả. Mạng lưới phát hành còn chưa đến được nhiều vùng sâu, vùng xa, nông
thôn, miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đội ngũ biên tập viên còn nhiều
hạn chế về trình độ, năng lực. Công tác đào tạo chưa được quan tâm đúng mức.Việc
hợp tác, liên doanh về xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm với nước ngoài còn lúng túng”1. Như vậy, hơn 20 năm đổi mới báo chí - xuất bản, những thiếu sót đã nhận
thấy và chỉ ra, song chưa được lãnh đạo ngăn chặn, khắc phục được.
Trước hết, phải nói đến khuynh hướng thương mại hóa và cùng với nó là
khuynh hướng xa rời tôn chỉ, mục đích. Hai khuynh hướng này, tuy khác nhau, nhưng
có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Xét về nguyên nhân, ngoài
những điểm khác nhau, cả hai có một nguyên nhân chung là coi nhẹ chức năng tư
tưởng - chính trị, chức năng giáo dục của báo chí - xuất bản. Thực tế cho thấy, nguyên
nhân của khuynh hướng thương mại hóa cũng như khuynh hướng xa rời tôn chỉ, mục
đích không phải chỉ do sức ép của cơ chế thị trường (vì một số báo không khó khăn về
kinh tế vẫn mắc vào khuyết điểm trên), mà chủ yếu phải tìm ở trách nhiệm, ý thức
chính trị của cơ quan báo chí - xuất bản.
Khuynh hướng “thương mại hóa”thể hiện trên các mặt: nội dung, tổ chức và
phát hành. Về nội dung, biểu hiện rõ nhất của xu hướng thương mại hóa chính là xu
hướng phi chính trị, phi định hướng trong thông tin, chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế, vụ
lợi, phục vụ động cơ cá nhân của người làm báo. Khi đã bị thương mại hóa, trong nội
dung thường là phản ánh sai lệch bản chất sự việc, thông tin theo kiểu tự nhiên, hướng
vào tính hiếu kỳ của người đọc; đặt lợi ích kinh tế của lên trên hết, chỉ cốt bán được
nhiều sách, báo, không tuân thủ đường lối của Đảng và Nhà nước; đưa nhiều tin tức từ
bên ngoài không phù hợp với bản sắc dân tộc Việt Nam, khoét sâu chuyện đời tư của
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị 42-CT/TW ngày 25-08-2004 của BBT khóa IX về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản.
những người nổi tiếng, chuyện tình dục, tội ác được miêu tả chi tiết gây tác hại xấu tới
xã hội; không lường hết các tác hại.
Về mặt tổ chức và ý thức kỷ luật, “thương mại hóa” là việc không thực hiện
đúng tôn chỉ, mục đích của tờ báo, Nxb đã được phê duyệt, chạy theo kinh doanh, bán
giấy phép cho tư nhân bất chấp Luật Báo chí, Luật Xuất bản đăng cả tin bài, xuất bản
sách trái với quan điểm của Đảng ta. Có báo liên doanh với nước ngoài, để người bên
ngoài can thiệp sâu vào nội dung nhằm phục vụ lợi ích của họ.
Thương mại hóa còn thể hiện trong công tác phát hành: báo chí - xuất bản chỉ
tập trung ở đô thị - nơi tập trung số người có điều kiện mua sách báo, còn ở nông thôn,
vùng sâu, vùng xa báo chí - xuất bản đến ít, mà lý do căn bản vì người dân không có
tiền mua sách báo.
Có thể nói rằng, với nội hàm rộng như vậy, thương mại hóa lại trở thành
nguyên nhân của một số khuyết điểm khác trong hoạt động báo chí - xuất bản.
Một khuyết điểm tuy không phổ biến, nhưng cần được nêu lên là những vi
phạm về chính trị, đạo đức, phẩm chất nghề nghiệp của một số cán bộ báo chí - xuất
bản. Những vi phạm ấy thể hiện qua những hiện tượng, những khía cạnh khác nhau.
Một số cán bộ thiếu ý thức chính trị, thiếu trách nhiệm đã để xuất hiện trên mặt báo
những thông tin tác động xấu về mặt chính trị và dư luận xã hội hay lộ bí mật quốc gia.
Nguy hiểm hơn, một số người làm báo đã vì đồng tiền mà "bán linh hồn cho quỷ dữ",
như lăng xê các giám đốc làm ăn trái pháp luật thành người năng động, sáng tạo; viết
bài bênh che cho các hành vi trái pháp luật, vi phạm chính sách, thậm chí thanh minh
cho tội phạm; dựng chuyện, thổi phồng khuyết điểm của doanh nghiệp đang gặp khó
khăn; bịa đặt, tung tin bất lợi về các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp; nhân danh
cơ quan báo chí, hoặc tổ chức HNB để gửi công văn cản trở quá trình điều tra, xử lý
các sai phạm;… Mặc dù chỉ là một bộ phận nhỏ, là những "con sâu làm rầu nồi canh",
nhưng gây ảnh hưởng, tác hại rất xấu đến uy tín của báo chí, làm cho dư luận xã hội và
những người trung thực có lương tri và các tổ chức làm ăn chân thật lo lắng, bất bình.
Tất cả những thiếu sót, khuyết điểm nêu trên thuộc trách nhiệm của các cơ
quan báo chí - xuất bản, của một số nhà báo, của các cơ quan chủ quản báo,Nxb nhưng
cũng có phần trách nhiệm của Đảng, trước hết là các cấp ủy đảng đối với cơ quan báo
chí - xuất bản thuộc quyền.
Hai là, việc sắp xếp lại hệ thống báo chí - xuất bản chưa đạt được yêu cầu đề
ra. Phải nói ngay rằng, tổng số báo chí - xuất bản các loại so với tổng số dân của nước
ta thì chưa phải thuộc loại cao. Nhưng, từ khi đổi mới, đã có tình trạng "thừa" tương
đối báo chí - xuất bản. Biểu hiện rõ nhất là tình trạng trùng lắp nội dung giữa các báo,
Nxb; sự khác biệt giữa các báo, giữa báo và tạp chí, giữa báo ngày với báo tuần, báo
Thứ bảy, báo Cuối tuần, báo Chủ nhật…, giữa số chính và phụ trương, số chuyên đề,
giữa Nxb này với Nxb khác không rõ. Các cơ quan báo nói, báo hình lại có tạp chí,
báo nói lại có báo in, báo hình. Từ khi chia tách địa giới hành chính các tỉnh, nhiều
tỉnh nhỏ cũng có đài phát thanh - truyền hình, nhưng nội dung nghèo nàn, chủ yếu là
tiếp sóng đài Trung ương. Nhiều ấn phẩm khoa học chuyên ngành hẹp, số bản in rất ít,
đáng ra chỉ là nội san, thông tin khoa học… cũng được nâng lên thành tạp chí (đơn vị
báo chí cấp 2). Nhiều hội nghề nghiệp, sở thích ảnh hưởng xã hội hạn hẹp cũng ra tạp
chí.
Tình trạng này đã xuất hiện từ cuối những năm 80. Trong Chỉ thị 22/CT-TW,
BCTkhóa VIII đã yêu cầu phải chấn chỉnh, sắp xếp lại, nhưng các cơ quan quản lý nhà
nước về báo chí thiếu kiên quyết trong việc cấp phép, nên một số báo, tạp chí trùng lặp
về nội dung; một số cơ quan báo chí,Nxb chưa đủ các tiêu chuẩn và điều kiện tối thiểu
vẫn được cấp giấy phép; có cơ quan ra quá nhiều ấn phẩm với chất lượng thấp. Tình
trạng nể nang lẫn nhau trong việc cấp phép báo chí mới, không rút giấy phép, sắp xếp
lại tổ chức các báo không nên tồn tại còn khá phổ biến.
Tổ chức quản lý các cơ quan báo chí cũng còn một số bất cập. Báo Nhân dân
trực thuộc BCHTW Đảng, còn Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam
lại là cơ quan trực thuộc Chính phủ. ở các tỉnh, thành ủy, báo của Đảng bộ tỉnh trực
thuộc tỉnh, thành ủy, còn Đài phát thanh và truyền hình lại trực thuộc ủy ban nhân dân
tỉnh. Thành phố Hồ Chí Minh có Đài Truyền hình riêng và Đài phát thanh riêng, còn ở
các tỉnh, thành phố khác thì ghép chung thành Đài phát thanh và truyền hình. Đài
Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam là cấp trên về mặt nghiệp vụ của
các Đài phát thanh và truyền hình tỉnh, thành phố, nhưng không có chức năng quản lý
nhà nước đối với cấp dưới. Chương trình truyền hình Quân đội nhân dân do Tổng cục
chính trị Quân đội nhân dân chỉ đạo, Chương trình truyền hình an ninh do Tổng cục II
Bộ Công an chỉ đạo, Đài Truyền hình Việt Nam chỉ làm nhiệm vụ phát sóng. Một số
quận, huyện có bộ phận truyền hình thực hiện công đoạn ghi hình rồi chuyển về Đài
truyền hình tỉnh, thành phố phát; nhiều quận, huyện khác không có bộ phận này. Hệ
thống đài truyền thanh quận, huyện được coi là cơ quan báo chí, nhưng cán bộ, phát
thanh viên các đài này không được coi là nhà báo.
Ba là, chế độ, chính sách đối với hoạt động báo chí - xuất bản trong hoàn cảnh
mới chưa được xem xét để ban hành đầy đủ, đồng bộ và kịp thời.
Quan niệm về hoạt động báo chí - xuất bản như các doanh nghiệp công ích hay
như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa nói chung chưa được thảo luận
đến nơi đến chốn để có kết luận dứt khoát, rõ ràng. Cho nên, một số chính sách, chế độ
cụ thể như chính sách đầu tư, chính sách thuế, chế độ lương, nhuận bút đối với hoạt
động báo chí - xuất bản chưa có những quyết định thỏa đáng.
Mặc dù hằng năm Đảng và Nhà nước dành một khoản ngân sách không nhỏ để
đầu tư và tài trợ cho báo chí - xuất bản nhưng cơ chế thực hiện các chính sách này
chưa được quy định rõ ràng và hợp lý. Do đó, việc giải quyết thường thiếu kịp thời,
chưa thật đúng hướng, đúng địa chỉ, nên chưa phát huy được hiệu quả.
Một số vướng mắc, bất cập trong chế độ, chính sách đối với báo chí - xuất bản
như tiền lương, thuế, nhuận bút, khen thưởng… chậm được giải quyết. Có những quy
định về thông tin không còn phù hợp, hoặc không đủ cụ thể, rõ ràng (như những gì
được phép công khai, những gì cần giữ bí mật; điều gì cấm và điều gì không nên cấm)
gây lúng túng cho cơ quan chỉ đạo, quản lý.
Với những thiếu sót và khuynh hướng tiêu cực trong hoạt động báo chí - xuất
bản giai đoạn vừa qua, có thể thấy rằng, tất cả các thiếu sót đã được chỉ ra nhiều lần
(không riêng khuynh hướng thương mại hóa) nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu, hoặc
có nhưng hiệu quả còn thấp. Đó là những hạn chế cơ bản trong lãnh đạo đối với báo
chí - xuất bản thời gian qua.
Từ thực tiễn, có thể rút ra các nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế, yếu
kém trong công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản là:
- Việc quán triệt, thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về báo chí - xuất bản chưa nghiêm túc
Trong hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, ít có lĩnh vực nào như báo
chí - xuất bản được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo bằng nhiều nghị quyết, chỉ thị,
thông báo, văn bản qui phạm pháp luật, nhất là nhiệm kỳ khoá IX và khóa X. Tuy
nhiên, chất lượng, độ bền vững và hiệu quả mà hoạt động báo chí - xuất bản mang lại
chưa được như mong muốn. Nguyên nhân chủ yếu là các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo
chí - xuất bản; các cấp ủy đảng và chính quyền; các cơ quan chủ quản và các cơ quan
báo chí - xuất bản chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc và thực hiện nghiêm túc các nghị
quyết, chỉ thị, văn bản đã ban hành. Việc nhìn nhận, đánh giá hoạt động báo chí - xuất
bản trong các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương đôi khi chưa nhất quán, khi
tới thăm, làm việc với cơ quan báo chí - xuất bản thường chỉ khen ngợi một chiều, ít
phê bình, nhắc nhở, tạo ra tâm lý chủ quan, thỏa mãn, ngộ nhận của một số lãnh đạo
cơ quan báo chí - xuất bản, gây khó khăn cho các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí -
xuất bản, nhất là khi xử lý các sai phạm cụ thể.
- Nhận thức về vai trò, nhiệm vụ, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng
viên, tổ chức đảng ở các cơ quan báo chí - xuất bản chưa nâng lên tương xứng với
nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới.
Nói chung, cán bộ lãnh đạo, đảng viên đều nhận thức được vai trò to lớn, nhiều
mặt của báo chí - xuất bản. Tuy nhiên, nhận thức chung vẫn cho rằng, việc lãnh đạo,
quản lý báo chí - xuất bản thuộc trách nhiệm của BCT, BBT, của BTT-VHTW, BVH-
TT, (nay là BTGTW, BTT&TT) mà chưa thấy hết trách nhiệm của mình: cấp ủy cơ
quan chủ quản không kiểm tra thủ trưởng cơ quan quản lý báo chí - xuất bản của cơ
quan mình hoạt động ra sao, tổ chức đảng trong cơ quan báo chí - xuất bản đã thực
hiện đầy đủ vai trò của mình chưa; các cán bộ, đảng viên khác cũng không theo dõi,
hoạt động, đóng góp ý kiến với cơ quan báo chí; nhiều bộ, ngành, địa phương chưa
thật sự tích cực hỗ trợ cơ quan báo chí - xuất bản, giải quyết các đề nghị của báo chí -
xuất bản ở ngành, địa phương, đơn vị mình … Cá biệt còn có cán bộ, đảng viên xa
lánh báo chí, vi phạm quy định của Luật Báo chí về cung cấp thông tin, trả lời báo chí,
thậm chí còn gây cản trở cho người giam giữ nhà báo, tịch thu phương tiện nghiệp vụ
của các nhà báo.
- Sự phân công, phối hợp giữa cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và cơ quan
chủ quản chưa rõ ràng, chặt chẽ
BTT-VHTW, BTGTW, BVH-TT, BTT&TT chưa làm đúng và thực thi đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ được giao, nhiều khi bỏ việc lớn, sa vào việc nhỏ, mang tính
sự vụ. Ban chưa tham mưu kịp thời, sắc bén các chủ trương lớn liên quan đến hoạt
động báo chí - xuất bản trong cơ chế thị trường, trong sự phát triển mạnh mẽ của báo
chí - xuất bản trong nước và thế giới, trong điều kiện các thế lực thù địch triệt để sử
dụng hệ thống thông tin, nhất là khai thác các sơ hở, yếu kém của ta được phản ánh
trên báo chí - xuất bản để chống phá ta một cách quyết liệt.
Bộ chưa làm tròn trách nhiệm quản lý nhà nước, chưa tham mưu đắc lực để
thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, bổ sung, hoàn chỉnh pháp luật, chính
sách, tạo chế tài đủ mạnh để xử lý kịp thời, nghiêm túc các sai phạm. Việc xem xét để
cấp phép, đình chỉ, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí - xuất bản làm chưa tốt, có
trường hợp cửa quyền, có trường hợp dễ dãi. Việc triển khai thực hiện Thông báo 162-
TB/TW của BCT (khóa IX), Kế hoạch 03-KH/TW của BBT mà BTT&TT là cơ quan
chủ trì làm chậm, chưa đảm bảo yêu cầu đề ra.
Vai trò của HNB Việt Nam trong việc tham gia quản lý công tác báo chí còn
yếu, nặng về hình thức. Hội chưa làm tốt công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo
đức nghề nghiệp cho hội viên. Việc bảo vệ quyền lợi của hội viên cũng như xử lý hội
viên sai phạm chưa được coi trọng đúng mức.
Nhiều cơ quan chủ quản chưa quan tâm chỉ đạo các đơn vị báo chí - xuất bản
trực thuộc, nhất là đối với những đơn vị có sai phạm kéo dài. Việc chọn cán bộ chuyên
trách về báo chí - xuất bản còn tuỳ tiện, phần lớn đều không đủ tầm, đủ bản lĩnh, đôi
khi bị cơ quan báo chí - xuất bản chi phối, thậm chí vô hiệu hóa.
Trách nhiệm và sự phân công trong lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo báo chí - xuất
bản của Đảng và Nhà nước còn hạn chế, có điểm bất cập. Nhiều cấp ủy, chính quyền
chưa xác định rõ trách nhiệm quản lý và chỉ đạo báo chí - xuất bản của cấp mình. Chỉ
đạo quản lý báo chí - xuất bản còn lỏng lẻo, phối hợp chưa thật chặt chẽ. ở hầu hết các
tỉnh, thành và cả cơ quan Trung ương hiện nay chưa có đủ cán bộ về số lượng và chất
lượng để giúp cấp ủy và chính quyền chỉ đạo, quản lý hoạt động báo chí - xuất bản
thuộc phạm vi trách nhiệm của mình. Công tác kiểm tra, thanh tra nói chung còn yếu,
xử lý các vụ việc sai phạm của báo chí - xuất bản không kịp thời, đúng mức, thậm chí
còn lúng túng, hữu khuynh. Nhiều ban cán sự, đảng đoàn và cơ quan chủ quản báo chí
– xuất bản buông lỏng trách nhiệm quản lý, chỉ đạo các hoạt động báo chí - xuất bản
của mình, nhất là việc chỉ đạo phương hướng, nội dung và quản lý những cán bộ chủ
chốt. Có trường hợp, ngay cơ quan quản lý báo chí - xuất bản cũng thực hiện không
nghiêm luật pháp về báo chí - xuất bản. Vai trò tổ chức đảng ở cơ sở, của cơ quan chủ
quản và sự giám sát của xã hội đối với báo chí – xuất bản chưa được quan tâm đúng
mức. Việc phân công còn chồng chéo, thiếu rõ ràng. Có tình trạng hữu khuynh, dựa
dẫm, đổ trách nhiệm cho nhau khi xảy ra thiếu sót, khuyết điểm. Tình trạng buông
lỏng ở nhiều khâu quan trọng; chưa phát huy được vai trò trách nhiệm, chức năng,
nhiệm vụ của từng cơ quan làm cho hiệu lực lãnh đạo hạn chế.
- Một số giám đốc, tổng biên tập, ban biên tập cơ quan báo, đài, Nxb chưa
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao
Ban biên tập, tổng biên tập cơ quan báo, đài, Nxb có vai trò hết sức quan
trọng trong việc tổ chức và điều hành bộ máy, nhìn nhận hiện thực đời sống, chọn lọc,
xử lý để đưa thông tin, nhất là những thông tin quan trọng, phức tạp, nhạy cảm. ở
những nơi thường xảy ra sai phạm đều có nguyên nhân tổng biên tập, ban biên tập chỉ
đề cao quyền hạn mà chưa coi trọng trách nhiệm chính trị; xa rời tôn chỉ, mục đích,
đối tượng phục vụ, chạy theo lợi ích cục bộ; không tôn trọng tổ chức đảng, đoàn thể cơ
quan, sự chỉ đạo của cơ quan quản lý báo chí - xuất bản và cơ quan chủ quản; lơ là
công tác chuyên môn, chưa bám sát nội dung từng số báo, trang báo, chương trình phát
thanh, truyền hình;bản thảo sách liên kết…; sau mỗi lần sai phạm không nghiêm túc
kiểm điểm, không đề ra biện pháp khắc phục, sửa chữa. Việc quản lý phóng viên
thường trú, văn phòng đại diện tại địa phương của một số báo, tạp chí chưa tốt; chưa
chú ý đến chất lượng chính trị, chuyên môn, đạo đức, phong cách của phóng viên,
nhân viên; một số văn phòng đại diện chỉ chuyên lo khai thác quảng cáo và phát hành
báo, tập trung tìm kiếm, phản ánh các hiện tượng tiêu cực trong khi địa phương có
nhiều nhân tố mới, điển hình tiên tiến lại chưa được tuyên truyền, cổ vũ đúng mức.
- Xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược thông tin quốc gia còn lúng
túng; công tác quy hoạch phát triển báo chí - xuất bản còn chậm
Chiến lược thông tin quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm
2005, thực hiện từ năm 2006 nhưng các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược
lại chỉ xác định đến năm 2010, như vậy là quá ngắn.
Công tác quy hoạch phát triển báo chí - xuất bản còn bị động, chưa làm rõ lộ
trình, bước đi cho từng năm. Việc xem xét, cho ra báo, tạp chí, đặc san, phụ trương,
dịch vụ truyền hình cáp... còn thiếu chặt chẽ, đôi khi dễ dãi. Hệ thống báo chí - xuất
bản hiện nay còn nhiều điểm bất hợp lý, cồng kềnh, trùng lặp về nội dung, nặng về bao
cấp, gây lãng phí, tốn kém…
- Nhận thức một số khái niệm, vấn đề cơ bản trong hoạt động báo chí - xuất
bản chưa thống nhất; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về báo chí - xuất
bản chưa theo kịp bước phát triển của toàn ngành
Nhận thức về việc thực hiện các quy định của pháp luật và các nguyên tắc,
quy định của Đảng trong hoạt động báo chí - xuất bản đôi khi chưa rõ ràng, cụ thể.
Các khái niệm: quyền tự do báo chí; quyền tự do ngôn luận trên báo chí - xuất bản;
thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới và việc xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân chưa được làm rõ, đôi lúc còn mơ hồ dẫn
đến tình trạng lạm quyền, không đề cao trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của
người làm báo.
Các vấn đề: "thương mại hoá" hoạt động báo chí - xuất bản; xây dựng các tập
đoàn truyền thông; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
trong cơ quan báo chí - xuất bản; chính sách tài chính, thuế, tiền lương, tiền thưởng,
quỹ phúc lợi, quảng cáo, kinh doanh trong hoạt động báo chí - xuất bản; phương pháp
lãnh đạo, quản lý báo chí - xuất bản; kể cả việc xem xét để bổ sung, sửa đổi Luật Báo
chí, Luật xuất bản và văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này chưa
được quan tâm đúng mức, không theo kịp bước phát triển phong phú, sôi động, có
phần phức tạp của báo chí - xuất bản trước yêu cầu mở cửa, hội nhập.
Mâu thuẫn giữa chức năng tư tưởng, văn hóa với hoạt động kinh tế; giữa thông
tin, tuyên truyền và tính thương mại của báo chí - xuất bản ngày càng gia tăng, tính
chất " hàng hóa đặc biệt" của báo chí - xuất bản không phải lúc nào cũng được hiểu
đúng, dẫn đến tình trạng vận dụng và thực hiện tùy tiện…
Chúng ta chưa nghiên cứu, làm rõ những vấn đề mới nảy sinh trong hoạt động
và quản lý báo chí - xuất bản trong cơ chế thị trường, mở cửa, nên chưa có sự nhất trí
cao trong chống các khuynh hướng tiêu cực của báo chí - xuất bản, nhất là khuynh
hướng thương mại hóa. Còn lẫn lộn giữa khuyến khích xã hội hóa báo chí - xuất bản
dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước với việc ra sách, báo lấy mục tiêu
lợi nhuận là hàng đầu, từ đó lơ là chức năng giáo dục chính trị, tư tưởng, văn hóa của
báo chí - xuất bản. Đây là biểu hiện cụ thể của khuynh hướng kinh tế đơn thuần. Chưa
nhận thức đầy đủ rằng khuynh hướng "thương mại hóa" cũng như khuynh hướng xa
rời tôn chỉ mục đích không phải chỉ ở sức ép của cơ chế thị trường mà nguyên nhân
chủ yếu chính là trách nhiệm, ý thức chính trị của cơ quan chủ quản, của cán bộ quản
lý và phóng viên, biên tập viên ở từng tờ báo,Nxb.
- Công tác đào tạo, giáo dục, sử dụng cán bộ, phóng viên, nhân viên ở một số
cơ quan báo chí - xuất bản chưa tốt
Báo chí – xuất bản là một nghề đặc thù. Người làm báo, biên tập phải có
những phẩm chất tương đối cao về nhận thức chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức
nghề nghiệp. Pháp luật ta không cho phép có báo chí - xuất bản tư nhân. Tuy nhiên,
việc tuyển sinh vào các cơ sở đào tạo báo chí - xuất bản hiện nay được tiến hành cũng
giống như bất cứ ngành học nào khác. Ngoài hệ chính quy, hệ tại chức, còn có cả hệ
mở rộng, có cả khoa đào tạo báo chí ở trường đại học dân lập (Đại học dân lập Đông
Đô, khoa Quan hệ quốc tế). Việc tiếp nhận, sử dụng cán bộ, phóng viên, nhân viên ở
nhiều cơ quan báo chí – xuất bản chưa đảm bảo nguyên tắc, quy trình. Có nhà báo bị
kỷ luật, bị sa thải ở cơ quan báo chí này, lại được cơ quan báo chí khác tiếp nhận, sử
dụng; bị báo địa phương đưa ra khỏi bộ máy vì yếu kém về đạo đức, tư cách, lại được
báo các bộ, ngành, đoàn thể ở trung ương hoặc địa phương khác tiếp nhận, được bố trí
vào chỗ làm việc có thu nhập cao hơn, thậm chí vào vị trí quản lý, lãnh đạo.
Công tác giáo dục, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, biên tập,
phóng viên các cơ quan báo chí - xuất bản chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều nhà
báo, biên tập viên trẻ ngại học chính trị, ít đọc sách, báo chính trị. Cả nước có 3 cơ sở
đào tạo phóng viên báo chí ở trình độ đại học, trên đại học, nhưng chưa có bộ giáo
trình chuẩn, thống nhất về nội dung. Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cơ quan báo chí - xuất bản chưa được coi trọng, còn rất nhiều bất cập. việc
đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí - xuất bản chưa được quan tâm đầy đủ.
Trên thực tế, chưa có một cơ quan nào chịu trách nhiệm chủ yếu về chỉ đạo, quản lý,
kiểm tra đôn đốc thực hiện triệt để nhiệm vụ này. Chương trình, nội dung giảng dạy,
phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí - xuất bản chưa thống nhất, chậm được
đổi mới và hiện đại hóa. Giảng dạy còn nặng về lý thuyết, chưa coi trọng rèn luyện kỹ
năng, nghiệp vụ cho người học. Công tác kiểm tra nội dung, chương trình giảng dạy
gần như chưa có. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí - xuất bản, nhất là bồi
dưỡng cán bộ cốt cán của các cơ quan báo chí - xuất bản còn chưa được chú ý. Công
tác rèn luyện, giáo dục đạo đức nghề nghiệp, bồi dưỡng trình độ chính trị, năng lực
nghiệp vụ cho cán bộ báo chí - xuất bản chưa được đề cao thường xuyên.
Hoạt động trong môi trường kinh tế thị trường, lại là kinh tế thị trường chưa
hoàn thiện của nước ta hiện nay, các cán bộ báo chí - xuất bản đứng trước nhiều thử
thách lớn về bản lĩnh chính trị, trình độ nghiệp vụ và nhất là phẩm chất đạo đức. Có
nhiều người, nhiều thứ, nhiều cách cám dỗ họ. Trong khi đó, bên cạnh đa số nhà báo,
cán bộ biên tập đã qua rèn luyện, thử thách đủ sức vượt qua là lực lượng khá đông các
nhà báo, biên tập viên trẻ, mới vào nghề, chưa qua thử thách rất dế sa ngã, bị mua
chuộc ở mức độ này hay mức độ khác. Ngay một bộ phận nhà báo trung niên, có tuổi
nghề khá, nếu không nghiêm khắc với bản thân cũng có thể vì đồng tiền mà bẻ cong
ngòi bút. Trong khi đó không phải tất cả các tổ chức và cấp ủy đảng đều đã quan tâm
thường xuyên đến việc giáo dục, rèn luyện, quản lý các nhà báo, kịp thời uốn nắn
những nhà báo có biểu hiện lệch lạc, tiêu cực.
- Tác động tiêu cực từ bên ngoài
Các thế lực cơ hội, thù địch rất quan tâm đến việc lợi dụng báo chí - xuất bản
và một số nhà báo không vững vàng về bản lĩnh chính trị để xâm nhập, tác động, thực
hiện âm mưu "Diễn biến hòa bình" trong lĩnh vực thông tin, báo chí. Những năm gần
đây, số nhà báo Việt Nam ra nước ngoài tham quan, học tập, hội thảo, nghiên cứu do
các cơ quan Đảng, Nhà nước cử hoặc do phía nước ngoài mời, tài trợ tăng đáng kể.
Trong đó, một số ít nhà báo đã bị tác động, chuyển hoá, nhất là bị quan điểm "tự do
báo chí" theo kiểu phương Tây chi phối. Một số thế lực từ bên ngoài đã và đang lợi
dụng chính sách mở cửa, cơ chế kinh tế thị trường để liên doanh, liên kết với các cơ
quan báo chí - xuất bản từ đó xâm nhập lĩnh vực truyền thông của ta. Trong thời gian
tới, khi nước ta đã có các tập đoàn báo chí, xuất bản, nhất là khi chúng ta đã gia nhập
WTO, chắc chắn đây sẽ là hướng ưu tiên khai thác, tác động của bên ngoài đối với
hoạt động báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ.
Việc phân công còn chồng chéo, thiếu rõ ràng. Có tình trạng hữu khuynh, dựa
dẫm, đổ trách nhiệm cho nhau khi xảy ra thiếu sót, khuyết điểm. Tình trạng buông
lỏng ở nhiều khâu quan trọng; chưa phát huy được vai trò trách nhiệm, chức năng,
nhiệm vụ của từng cơ quan làm cho hiệu lực lãnh đạo hạn chế.
2.3. Một số bài học kinh nghiệm từ sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí -
xuất bản thời gian qua
Hơn 20 năm đổi mới đã cho chúng ta một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo của
Đảng đối với báo chí - xuất bản:
Một là, giữ vững quan điểm, tích cực đổi mới báo chí - xuất bản, song không xa
rời các nguyên tắc.
Đây là bài học kinh nghiệm cơ bản, hàng đầu trong đổi mới lãnh đạo báo chí -
xuất bản. Nó bắt đầu từ bài học lớn mà Đảng ta đã đúc kết. Đi vào kinh tế thị trường,
mở cửa với bên ngoài, nhất thiết không được xem nhẹ hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của
Đảng. Trái lại, càng đi vào kinh tế thị trường càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng. Đổi mới nhưng không xa rời những vấn đề có tính nguyên tắc, không
phủ nhận thành tựu của quá khứ; đổi mới những chủ trương và bước đi hợp lý, có tính
đến các mối quan hệ biện chứng nhiều mặt.
Trước hết, để quan điểm báo chí - xuất bản của Đảng được nắm vững và quán
triệt đầy đủ thì các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, các đoàn thể từ Trung ương
tới địa phương trước tiên là những cơ quan, đoàn thể địa phương trực tiếp là cơ quan
chủ quản; các cán bộ làm công tác báo chí - xuất bản phải nhận thức sâu sắc vai trò,
nhiệm vụ của báo chí trong sự nghiệp cách mạng, nhất là trong giai đoạn hiện nay,
thực hiện CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Bài học đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với sự lãnh đạo của Đảng đối với báo
chí - xuất bản, một lĩnh vực nhạy cảm, tác động sâu rộng đến toàn xã hội và cả quan hệ
quốc tế. Trong quá trình đổi mới khó tránh khỏi những lệch lạc, không quán triệt sâu
sắc đường lối của Đảng trong quá trình đổi mới, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, báo
chí. Chẳng hạn, đã có ý kiến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất
bản, đòi "tự do báo chí", "dân chủ vô giới hạn", đòi ra báo chí - xuất bản tư nhân…,
hoặc phủ nhận những đóng góp to lớn của báo chí - xuất bản cách mạng nước ta trong
quá khứ. ở mức thấp hơn là tình trạng để tư nhân chi phối một số khâu trong hoạt động
của một vài tờ báo,Nxb, khuynh hướng xa rời tôn chỉ, mục đích…
Đảng ta đã sớm nhận thấy tác hại từ những sai phạm của báo chí - xuất bản
đem lại. Đảng ta luôn nắm vững quan điểm báo chí vô sản, vừa khắc phục quan điểm
bảo thủ, quyết tâm đổi mới mạnh mẽ, không ngừng, đồng thời không xa rời nguyên
tắc:
Đảng lãnh đạo báo chí, xuất bản là nguyên tắc hàng đầu, bất di bất dịch. Chính
trong điều kiện mở cửa nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường và mở cửa, sự
lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, xuất bản càng cần thiết hơn bao giờ hết. Xã hội
càng phát triển, thông tin báo chí càng có vai trò to lớn. Với nội dung thông tin có định
hướng đúng đắn chân thật, có sức thuyết phục, báo chí - xuất bản có khả năng hình
thành dư luận xã hội, dẫn đến hành động xã hội phù hợp sự vận động của hiện thực
theo những chiều hướng có chủ định. Báo chí - xuất bản không chỉ là vũ khí tư tưởng
sắc bén, lợi hại mà còn là người cổ động tập thể, người tổ chức tập thể, điều này càng
đúng trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay.
Hai là, phối hợp chặt chẽ giữa sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
theo một cơ chế rõ ràng.
Lãnh đạo và quản lý là hai công việc ít nhiều khác nhau, nhưng trong điều kiện
nước ta, chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu như quản lý của Nhà nước là
bằng pháp luật và chính sách, vừa đảm bảo quyền tự do báo chí, quyền được tạo điều
kiện và được bảo vệ khi hành nghề của nhà báo, thì lãnh đạo là định hướng mục tiêu,
đề ra nguyên tắc thực hiện mục tiêu và kiểm tra việc thực hiện những mục tiêu, những
nguyên tắc đó của cơ quan quản lý. Là Đảng cầm quyền, các tổ chức đảng (Đảng đoàn,
Ban cán sự đảng, đảng bộ, chi bộ…) nằm ngay trong cơ quan quản lý, cơ quan báo chí
- xuất bản, trong tổ chức HNB; Đảng cử người của mình vào các chức vụ quan trọng
trong bộ máy quản lý báo chí - xuất bản. Vì vậy, cả cơ quan lãnh đạo và quản lý đều là
các đảng viên của Đảng công tác tại đó; sự phối hợp chặt chẽ giữa lãnh đạo và quản lý
- xét cho cùng - là từ mục tiêu chung, từ ý thức Đảng, từ các nguyên tắc tổ chức của
Đảng và nhiệm vụ của đảng viên.
Tuy nhiên, cũng đã có tình trạng phối hợp chưa tốt giữa cơ quan chức năng của
Đảng và cơ quan chức năng của Nhà nước trong quá trình lãnh đạo báo chí - xuất bản:
Cơ quan chức năng của Đảng (BTTVHTƯ, BTGTW, Ban Tuyên giáo các tỉnh, thành
ủy) giúp cấp ủy chỉ đạo về nội dung, phương hướng tuyên truyền trên báo chí - xuất
bản theo đường lối của Đảng, nhưng không trực tiếp tham gia bàn bạc và quyết định
việc thực hiện luật pháp, về phân phối ngân sách tài trợ, nội dung, chương trình đào
tạo nhà báo, chỉ tiêu, đối tượng tuyển sinh… Từ đó dễ nảy sinh hiện tượng tiêu cực và
lộn xộn trong hoạt động báo chí - xuất bản. Đặc biệt, khi tham gia xây dựng chế độ
lương, do không có sự phối hợp giữa cơ quan lãnh đạo và quản lý, nên thang lương
nhà báo, biên tập viên có nhiều điểm không phù hợp đã được kiến nghị nhiều lần
nhưng chưa được giải quyết. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến một bộ phận không ít
nhà báo xa rời "Quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí", gây tác hại xấu đến uy tín báo
chí, làm cho xã hội phiền lòng.
Có thể khẳng định rằng, khi nào và trên vấn đề gì sự phối hợp giữa lãnh đạo và quản
lý đối với báo chí - xuất bản không chặt chẽ, theo một cơ chế chặt chẽ sẽ gây nên sự chồng
chéo, chậm trễ trong công việc, nhiều khi để trống các vấn đề quan trọng không có cơ quan
nào trực tiếp lo liệu, theo dõi, giải quyết.
Ba là, phải lãnh đạo, quản lý báo chí theo phương pháp dân chủ và trên cơ sở
luật pháp.
Trong công cuộc đổi mới, dân chủ hóa đời sống xã hội vừa là mục tiêu vừa là
động lực của đổi mới. Đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới phương thức lãnh đạo,
quản lý đối với báo chí - xuất bản theo phương pháp dân chủ là bài học lớn trong nâng
cao hiệu quả lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng. Mặt khác, dân chủ chỉ có thể thực
hiện trên cơ sở pháp luật.
Báo chí - xuất bản thời kỳ đổi mới đã thực sự khởi sắc, nhất là từ khi Luật Báo
chí, Luật Xuất bản được ban hành. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản
được dân chủ hóa đã phát huy cao độ khả năng của báo chí - xuất bản theo Luật Báo
chí, Luật xuất bản.
Báo chí - xuất bản không bị kiểm duyệt chi tiết trước khi in, phát sóng. Giám
đốc,Tổng biên tập được toàn quyền và tự chịu trách nhiệm về nội dung, hình thức của
sản phẩm báo chí - xuất bản và các hoạt động của cơ quan báo chí - xuất bản theo quy
định của pháp luật. Các kiến nghị của cơ quan báo chí - xuất bản được cấp ủy đảng, cơ
quan nhà nước xem xét, giải quyết theo thẩm quyền: Các phát hiện của báo chí về
những vấn đề mới trong đời sống, những bất cập trong quản lý của các ngành, các cấp,
những hiện tượng tiêu cực của một số tổ chức và cá nhân đều được các cơ quan lãnh
đạo, quản lý xem xét, yêu cầu các cơ quan và người lãnh đạo trực tiếp phải giải quyết
và trả lời báo chí, công luận. Mỗi năm đã có hàng trăm lượt Thủ tướng Chính phủ yêu
cầu các cơ quan, đơn vị giải quyết các vấn đề báo chí nêu. từ đó, báo chí tích cực hơn
trong thâm nhập thực tế, phát hiện vấn đề; bạn đọc cũng tin tưởng báo chí và cộng tác
nhiệt tình hơn với báo chí. Các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Trung ương và các địa
phương cũng thường xuyên gặp gỡ, lắng nghe ý kiến đóng góp, trả lời chất vấn của các
nhà báo, tiếp nhận kiến nghị của các cơ quan báo chí, tạo nên không khí cởi mở, dân chủ
giữa lãnh đạo và giới báo chí.
Mặt khác, Đảng cũng yêu cầu các sai phạm của cơ quan báo chí - xuất bản, của
nhà báo, cán bộ biên tập, của cơ quan chủ quản báo chí - xuất bản và cơ quan quản lý
nhà nước về báo chí - xuất bản phải được xử lý nghiêm theo đúng pháp luật, không
được bao che, xử lý nội bộ. Việc này góp phần tăng cường kỷ cương, đảm bảo sự công
bằng trong lĩnh vực báo chí - mặt không thể thiếu của dân chủ.
Quản lý báo chí - xuất bản bằng phương pháp dân chủ, trên cơ sở luật pháp chỉ
đạt hiệu quả tối ưu khi tìm ra và thực hành các hình thức lãnh đạo, quản lý thực sự dân
chủ, cởi mở, tôn trọng hoạt động nghề nghiệp của báo chí – xuất bản trong khuôn khổ
pháp luật.
Bốn là, chọn đúng và quản lý chặt đội ngũ cán bộ phụ trách báo chí - xuất bản.
Đây là bài học về công tác cán bộ của Đảng, thực hiện đúng đắn nguyên tắc
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát
huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính
trị về công tác cán bộ.
Vấn đề lựa chọn, bố trí và quản lý cán bộ luôn là bài học lớn trong suốt tiến
trình cách mạng, nhất là ở giai đoạn hiện nay, vì 'cán bộ là nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Đối với báo chí – xuất bản, lĩnh vực đòi hỏi người phụ trách phải có lập trường,
quan điểm vững vàng, nắm vững luật pháp, giỏi chuyên môn và có uy tín trong giới -
bài học này đặc biệt quan trọng.
Người Giám đốc, Tổng biên tập giữ vai trò quyết định đối với tờ báo, Nxb là
người đứng đầu cơ quan báo chí lãnh đạo và quản lý cơ quan báo chí - xuất bản về mọi
mặt, bảo đảm thực hiện tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí - xuất bản và chịu trách
nhiệm trước thủ trưởng cơ quan chủ quản và trước pháp luật về mọi hoạt động của cơ
quan báo chí - xuất bản.
Quan điểm, bản lĩnh chính trị của Giám đốc, Tổng biên tập quyết định tính
chất, quan điểm của tờ báo,Nxb. Hơn nữa, trong cơ chế mới, người giám đốc, Tổng
biên tập không những phải có phẩm chất chính trị, chuyên môn giỏi, mà còn phải là
người quản lý giỏi. Vói đặc thù nghề nghiệp báo chí, nếu không bố trí đúng người
đứng đầu thì sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí – xuất bản trên thực tế không thực
hiện được.
Một số hạn chế, sai phạm của báo chí - xuất bản trong thời gian qua có nguyên
nhân là việc bố trí, bổ nhiệm cán bộ quản lý các cơ quan báo chí - xuất bản chưa được
quan tâm đầy đủ, đôi khi thiếu cân nhắc, thận trọng. Mặc dù đã có những quy định cụ
thể về cán bộ phụ trách, song một số cơ quan, địa phương vẫn bổ nhiệm cán bộ lãnh
đạo cơ quan báo chí - xuất bản không đúng tiêu chuẩn. Một số người không đảm nhận
được công việc gì lại được bố trí sang phụ trách. Việc thay đổi, bổ nhiệm Giám
đốc,Tổng biên tập, Phó tổng biên tập các báo, tạp chí, Nxb của một số ngành, địa
phương không thực hiện đầy đủ quy trình, không có sự thỏa thuận trước của cơ quan
quản lý báo chí - xuất bản.
Bài học quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ phụ trách báo chí,xuất bản kiểm tra đội
ngũ này thường xuyên và uốn nắn kịp thời sự lệch lạc của họ, kiên quyết xử lý các sai
phạm, khi cần thiết phải thay ngay… có ý nghĩa sâu sắc với công tác lãnh đạo báo chí
- xuất bản trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3
Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí – xuất bản
trong giai đoạn mới
3.1. Bối cảnh và thời cơ, thách thức đối với hoạt động báo chí - xuất bản
nước ta trong giai đoạn mới
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
Tình hình chính trị, kinh tế thế giới đã và đang diễn biến hết sức phức tạp, chứa
đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực; xung đột vũ trang, sắc
tộc, tôn giáo, nạn khủng bố quốc tế… đã tác động mạnh mẽ và đặt ra những thách thức
to lớn đối với lĩnh vực thông tin báo chí - xuất bản.
Hiện nay, các nước tư bản có tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ đã và đang
thực hiện chính sách bành trướng thông tin, độc quyền thông tin theo kiểu áp đặt, bắt
các nước nhỏ hoặc kinh tế yếu kém trở thành khách hàng tiêu thụ thông tin và lệ thuộc
vào nguồn tin của họ. Cuộc đấu tranh của các nước đang phát triển về một "trật tự
thông tin quốc tế mới" đã trở thành một bộ phận của cuộc đấu tranh giành độc lập về
kinh tế, chính trị, tiến bộ và công bằng xã hội.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin đã tác động sâu sắc đến lĩnh vực thông tin, đưa thế giới từ kỷ
nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát triển kinh tế tri thức. Sự hội tụ
giữa thông tin, viễn thông, tin học là một xu hướng quan trọng trong xu thế phát triển
thông tin trên phạm vi toàn cầu. Đầu tư cho thông tin từ chỗ được coi là phúc lợi xã
hội chuyển thành đầu tư cho sự phát triển.
Trong xu thế khách quan của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, các hoạt động
thông tin được mở rộng, tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập văn hóa, đồng thời cũng
đang diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia và
bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã và đang
sử dụng hệ thống thông tin để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng tinh vi và quyết liệt hơn.
3.1.2. Bối cảnh trong nước
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của
nước ta là: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; từ nay đến năm
2020 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Để đi tắt đón đầu, xây dựng nước ta thành một quốc gia công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, cùng với vai trò của khoa học công nghệ, văn hóa, giáo dục, thông tin có vị trí
hết sức quan trọng. Thông tin không chỉ cung cấp, phổ biến kiến thức, nâng cao dân
trí, cổ động và tổ chức phong trào cách mạng của nhân dân để thực hiện thành công
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà còn tham gia ngày càng trực tiếp và
có hiệu quả vào việc bảo vệ chế độ xã hội.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta được tiến hành trong điều
kiện tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã khiến nhu cầu các đối tượng trong xã hội về
tiếp nhận và cung cấp thông tin ngày càng đa dạng. Xu hướng hội tụ thông tin - viễn
thông - tin học đang diễn ra mạnh mẽ là yếu tố tích cực tác động đến sự phát triển
thông tin ở nước ta.
Thông tin nước ta vừa bảo đảm sự phát triển đồng bộ, đáp ứng yêu cầu của tiến
trình hội nhập quốc tế, đồng thời phải đấu tranh quyết liệt với những luồng thông tin
phản động, chống phá chế độ và không phù hợp với lợi ích của nhân dân, đất nước ta.
Cơ sở hạ tầng thông tin ở nước ta bao gồm mạng lưới viễn thông và Internet và
các dịch vụ viễn thông, Internet có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, trong đó có sự phát triển của thông tin. Thông tin ngày càng khẳng định
là nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội, chi phối sâu sắc toàn diện mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Đời sống nhân dân được cải thiện, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao
nên nhu cầu thông tin của nhân dân càng đòi hỏi cao hơn, trong khi đó, mức hưởng thụ
thông tin của nhân dân vẫn còn sự không đồng đều giữa khu vực đô thị và nông thôn,
miền núi, vùng xa xôi, hẻo lánh.
3.1.3. Thời cơ và thách thức
Bối cảnh quốc tế và trong nước tạo ra thời cơ lớn, đồng thời cũng đặt ra những
thách thức hết sức gay gắt cho lĩnh vực thông tin nước ta.
Sự phát triển của thông tin đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội tốt để
Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với công nghệ mới, các kỹ năng, các phương tiện
thông tin, kỹ thuật truyền thông hiện đại, những kinh nghiệm tổ chức hoạt động,
những cơ sở lý luận mới để từ đó hỗ trợ quá trình đổi mới và phát triển của thông tin
nước ta.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ra hết sức coi trọng và đánh giá cao vai trò của
thông tin. Đây không chỉ là phương tiện cung cấp thông tin, cung cấp tri thức, là một
trong những công cụ giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành đất nước mà còn là nơi để
phản hồi những thông tin từ nhân dân đối với đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần quan trọng thực hiện dân chủ hóa trong đời
sống xã hội.
Những khuyết điểm, yếu kém trong hoạt động thông tin và quản lý thông tin;
cuộc đấu tranh quyết liệt diễn ra trên mặt trận thông tin; xu hướng toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế về thông tin đang đặt ra những thách thức gay gắt trong việc bảo vệ độc
lập, chủ quyền quốc gia và sự bình đẳng về thông tin. Một mặt phải kiên quyết khắc
phục những khuyết điểm, yếu kém để phát triển, mặt khác phải đảm bảo tính hợp lý và
cân đối giữa yêu cầu phát triển và khả năng quản lý, giữa số lượng và chất lượng, giữa
đa dạng và thống nhất, giữa mở cửa hội nhập quốc tế và giữ vững định hướng chính
trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong thời đại bùng nổ thông tin đòi hỏi thông tin nước ta phải nhanh chóng
nắm bắt, tiếp cận với những vấn đề mới để bảo đảm không bị tụt hậu, đồng thời vẫn
giữ được định hướng phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
trong khuôn khổ pháp luật. Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo,
có năng lực tiếp thu, vận dụng tri thức và kỹ năng mới, hiện đại. Chúng ta cần phát
huy những ưu thế đó để khắc phục có hiệu quả những khuyết điểm, yếu kém, vượt qua
khó khăn, thách thức, tranh thủ mọi thời cơ thuận lợi để xây dựng, phát triển thông tin
Việt Nam thực sự là công cụ, vũ khí chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng, là phương tiện thiết
yếu trong đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Tình hình thế giới đang có nhiều biến đổi khôn lường và do sự liên thông hữu
cơ nên tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam cần phải thích ứng với sự thay
đổi đó. Do đó đương nhiên đời sống báo chí - xuất bản Việt Nam cũng có những
chuyển biến mạnh mẽ, có những xu hướng phát triển mà trong lịch sử báo chí - xuất
bản nước ta chưa hề có.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X đã dự báo và chỉ ra các xu thế, đặc
điểm mới, đồng thời làm rõ sự tác động của nó đối với công tác tư tưởng, lý luận, báo
chí:
- Trên thế giới, đang diễn ra sự tiến triển của xu thế lớn: hòa bình, hợp tác và phát
triển là nhân tố thuận lợi cho sự nghiệp cách mạng nước ta, đồng thời những bất ổn định
do chiến tranh, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ,
ly khai, khủng bố, tranh chấp chủ quyền… sẽ gây nên tâm trạng lo lắng trong nhân dân.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, toàn cầu hóa kinh tế và thông tin quốc
tế tạo ra những cơ hội phát triển, đồng thời cũng tạo ra không ít khó khăn, thách thức cho
các nước, nhất là các nước đang phát triển. Vai trò ngày càng tăng của tri thức, của các
phương tiện thông tin đại chúng, các khuynh hướng tư tưởng, lý luận, chính trị, cả tiến bộ
và phản động, tiếp tục đấu tranh gay gắt với nhau, trực tiếp xâm nhập vào nước ta, tác
động đến tư tưởng, lối sống, nếp sống của con người.
- ở trong nước, sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
tiếp tục được đẩy mạnh, thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước ngày một cao, mục tiêu
lớn sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và đến 2020, về cơ bản, trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại đã tạo ra những thời cơ, thuận lợi mới cho công tác
tư tưởng, lý luận, báo chí. Những biến đổi mạnh mẽ cơ cấu giai cấp - xã hội ngày càng đa
dạng, phức tạp hơn, sự đa dạng về lợi ích kinh tế, sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa
các vùng, phân hóa giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư, các tiêu cực và tệ nạn xã hội
(quan liêu, tham nhũng, lãng phí…), cuộc đấu tranh tư tưởng ngày càng quyết liệt hơn…,
tạo ra những khó khăn và thách thức lớn đối với sự ổn định, phát triển đất nước và đối với
công tác tư tưởng, lý luận, báo chí. Từ những dự báo trên, Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa X xác định: "Sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đòi hỏi công tác
tư tưởng, lý luận, báo chí phải đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động"1.
Ngày nay khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ bão cùng với sự mở
rộng toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy báo chí - xuất bản phát triển mạnh mẽ - mà
người ta gọi là "thời kỳ bùng nổ thông tin". Báo chí - xuất bản mở rộng quy mô ảnh
hưởng, thu hẹp không gian và thời gian giao tiếp với sự trợ giúp hiệu quả của khoa học
công nghệ. Báo chí - xuất bản do vậy có "quyền lực" xã hội to lớn, có tầm ảnh hưởng
toàn cầu. Báo chí - xuất bản là một hoạt động tinh thần của con người nhưng cũng là
ngành kinh tế đặc thù (các tập đoàn báo chí - xuất bản kinh doanh đa ngành, khi quảng
cáo là hoạt động kinh doanh siêu lợi nhuận). Bên cạnh tầm ảnh hưởng toàn cầu báo chí
- xuất bản gia tăng giao lưu quốc tế và khu vực. Do tích hợp các thành tựu khoa học
công nghệ, báo chí - xuất bản gia tăng các loại hình báo (như "báo chí công dân" - bán
chuyên nghiệp). Báo chí - xuất bản vừa là công cụ chính trị vừa là phương tiện, sân
chơi giải trí của công chúng.
Toàn cầu hóa kinh tế kéo theo đó là toàn cầu hóa báo chí - đó là quá trình quy
chuẩn hóa và mở rộng quy mô ra toàn cầu về phạm vi ảnh hưởng, nguồn thông tin,
công chúng, phương tiện kỹ thuật, cách thức thông tin và tiếp nhận thông tin của các
loại hình truyền thông đại chúng. Với sự "thống trị" của các phương tiện kỹ thuật công
nghệ, đối tượng của báo chí được gọi là "người tiêu dùng thông tin" - thượng đế mới.
Công chúng ngày nay được quyền lựa chọn cách tiếp nhận và khai thác thông tin.
Báo chí thế giới đang phát triển mạnh mẽ về quy mô, cơ cấu tổ chức. Các nhà
chính trị, các nhà tài phiệt tập trung nhân lực, tài chính và khoa học công nghệ, sức
mạnh kinh doanh vào những tập đoàn truyền thông đa phương tiện, vừa nhằm vào hiệu
quả kinh tế vừa nhằm đến hiệu quả chính trị. Toàn cầu hóa báo chí mang đến nguy cơ
"xâm lược chính trị" là một thực tế đang diễn ra.
Do tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, báo chí Việt Nam cũng có những đặc
điểm cơ bản của báo chí hiện đại thời toàn cầu hóa.
Báo chí Việt Nam đang phát triển theo hướng đa phương tiện, đa dạng hóa
thông tin đồng thời với sự chuyên biệt hóa đối tượng để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.42.
và khắt khe của công chúng. Báo chí Việt Nam ngày càng tăng cường vai trò và sức 1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khoá X,
mạnh xã hội - nó như một lực lượng xã hội có sức mạnh to lớn, có khả năng thúc đẩy
các sự kiện, từ đó tạo ra áp lực xã hội. Báo chí Việt Nam đang ngày càng hội nhập và
quan hệ rộng với báo chí quốc tế. Báo chí Việt Nam ngày càng tự chủ tài chính và từ
đó hình thành nền kinh tế báo chí. Trên tất cả những đặc điểm hiện đại đó, báo chí
Việt Nam vẫn làm tốt nhiệm vụ chính trị - nhiệm vụ đặc thù mang tính ý thức hệ của
báo chí cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, do tác động hai mặt của toàn cầu hóa, báo chí Việt Nam phát triển
nhưng cũng đã và đang "mắc" những "căn bệnh thời đại" của báo chí hiện đại:
- Báo chí đang có xu hướng thiên về những mặt tiêu cực - mặt tối của xã hội -
đề tài câu khách để bán được báo nhiều hơn, từ đó làm thiên lệch mặt bằng thông tin:
trên mặt báo chỉ thấy nhiều mặt tối mà chưa có sự biểu dương, tôn vinh đúng mức
những điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực.
- Do chạy theo thị yếu cũng như do lạm quyền, báo chí có nhiều trường hợp
thương mại hóa, thông tin thiếu chính xác, làm lộ bí mật quốc gia, ảnh hưởng đến danh
dự cá nhân, cơ quan và gây thiệt hại đối với lợi ích quốc gia. Một số ít nhà báo thiếu tu
dưỡng, lạm dụng quyền lực báo chí, tập hợp nhau đánh "hội đồng" các cá nhân, cơ
quan với mục đích vụ lợi; họ vi phạm đạo đức nghề nghiệp, gây tác động xấu đến dư
luận xã hội.
- Báo chí được mở rộng liên doanh liên kết nhưng một số cơ quan báo chí lợi
dụng quy định này để cho tư nhân chi phối một số hoạt động báo chí - xuất bản. Đã và
đang xuất hiện tình trạng một số người làm báo bị ảnh hưởng bởi quan niệm không
đúng về "tự do" báo chí, về vị trí, chức năng của nhà báo nên có nhiều việc làm vi
phạm pháp luật, kêu gọi tự do báo chí kiểu tư bản.
- Tình trạng thiếu nhạy bén chính trị, buông rơi chức năng tư tưởng - văn hóa
của báo chí cách mạng, thậm chí có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin không trung thực, suy diễn chủ quan,
áp đặt vô lối…
Như vậy, xu thế thế giới và trong nước tạo điều kiện cho báo chí phát triển,
kèm theo đó là những phát sinh mới phức tạp hơn, đòi hỏi công tác lãnh đạo, quản lý
của Đảng phải đổi mới để phù hợp yêu cầu mới. Chỉ có đổi mới công tác lãnh đạo,
nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí mới định hướng báo chí hoạt động
và phát triển lành mạnh, trở thành một lực lượng tinh thần có sức mạnh to lớn trong
công cuộc xây dựng đất nước với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
3.2. Phương hướng và các nhiệm vụ chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo của đảng về báo chí - xuất bản
3.2.1. Phương hướng
Phương hướng đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của
Đảng trên lĩnh vực báo chí - xuất bản trong giai đoạn mới là phát huy truyền thống tốt
đẹp của báo chí - xuất bản cách mạng Việt Nam, nắm vững và vận dụng sáng tạo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí - xuất bản, quán
triệt sâu sắc và toàn diện quan điểm lãnh đạo và quản lý báo chí - xuất bản trong các
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X vừa
qua đã nêu ra. Nâng cao vai trò lãnh đạo về tư tưởng, tổ chức, kiểm tra báo chí - xuất
bản của tổ chức Đảng các cấp, của các cơ quan chủ quản báo chí - xuất bản; phát huy
vai trò của HNB, HXB cùng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý báo chí - xuất bản, nâng
cao chất lượng tư tưởng chính trị, chất lượng thông tin và chất lượng văn hóa của mỗi
tờ báo,mỗi Nxb, động viên báo chí - xuất bản tích cực tham gia vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, bảo vệ hòa bình và an ninh quốc gia, thúc đẩy kinh tế
- xã hội phát triển, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng đối với báo
chí - xuất bản trong tình hình mới: Báo chí - xuất bản là tiếng nói của Đảng, Nhà nước,
của các tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân; Báo chí - xuất bản đặt
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật; Báo chí - xuất bản phải đảm bảo tính tư tưởng, tính chân thật,
tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng; Báo chí - xuất bản phải đóng vai trò
quan trọng trong bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng; Báo chí - xuất bản phải nắm vững và tuyên truyền sâu
rộng, kịp thời, có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, bám sát nhiệm vụ công tác tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ toàn
Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Báo chí - xuất bản phải bảo đảm giữ vững
tính đảng, tính tư tưởng, tính nhân dân, tính chiến đấu, tính văn hoá; vừa kiên trì bản
chất của nền báo chí cách mạng, vừa nỗ lực vươn lên để theo kịp trình độ phát triển
của báo chí khu vực và thế giới: hiện đại về mô hình, tổ chức, phương thức hoạt động,
không ngừng nâng cao chất lượng chính trị, chuyên môn, kỹ thuật, công nghệ;Tiếp tục
phát triển sự nghiệp báo chí đi đôi với tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác báo chí
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí - xuất bản nước ta phải thực sự là chiến sĩ
tiên phong trên mặt trận tư tưởng văn hóa, cổ vũ động viên nhân dân thực hiện thắng
lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Luôn giữ vững tính đảng, tính tư tưởng, tính nhân dân, tính chiến đấu, tính
văn hoá; vừa kiên trì bản chất của nền báo chí cách mạng, vừa nỗ lực vươn lên để theo
kịp trình độ phát triển của báo chí khu vực và thế giới: hiện đại về mô hình, tổ chức,
phương thức hoạt động, không ngừng nâng cao chất lượng chính trị, chuyên môn, kỹ
thuật, công nghệ. Tiếp tục phát triển sự nghiệp báo chí đi đôi với tăng cường lãnh đạo,
quản lý công tác báo chí đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới, bảo vệ
được bản sắc văn hóa, bản lĩnh dân tộc và thể chế chính trị trong quá trình hội nhập
quốc tế.
Để phục vụ đắc lực sự nghiệp đổi mới đất nước, mặt khác, đổi mới chính nền
báo chí - xuất bản nước nhà, các cơ quan báo chí - xuất bản và đội ngũ những người
làm báo cần bám sát nhiệm vụ công tác tư tưởng; tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành
tựu công cuộc đổi mới; phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; kế thừa và
phát huy các giá trị quý báu của tinh hoa văn hoá nước nhà; tiếp nhận, phát huy tinh
hoa văn hoá nhân loại; phản bác thông tin, quan điểm sai trái, phản động, thù địch, phi
văn hoá.
Coi trọng định hướng phát triển, định hướng thông tin, công tác cán bộ, chủ
trương cấp phép hoạt động báo chí, chính sách tài chính cho hoạt động báo chí. Xây
dựng, bổ sung, hoàn thiện, thực hiện nghiêm túc Luật báo chí, luật Xuất bản và các
văn bản qui định thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Đảng,
Nhà nước, cơ quan chủ quản trong việc chỉ đạo, quản lý báo chí - xuất bản. Tăng
cường trách nhiệm các cơ quan báo chí - xuất bản và người làm báo; xây dựng chế tài
đủ mạnh để vừa tạo điều kiện cho báo chí - xuất bản phát triển vừa xử lý kịp thời, dứt
điểm các sai phạm. Rà soát, bổ sung, chỉnh sửa quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí
- xuất bản của cả nước. Quy hoạch hệ thống báo, tạp chí in, các đài phát thanh,
truyền hình từ trung ương đến địa phương và báo chí điện tử trong điều kiện các loại
hình truyền thông đa phương tiện đã và đang phát triển mạnh mẽ. Sắp xếp, bố trí, kể cả
việc thu gọn đầu mối các báo, tạp chí, chương trình phát thanh, truyền hình, các loại ấn
phẩm theo hướng khoa học, hợp lý, hiệu quả. Khắc phục tình trạng xa rời tôn chỉ, mục
đích, trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ.
Đề cao trách nhiệm cán bộ, đảng viên, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên ở các cơ quan báo chí -
xuất bản, cơ quan chủ, cơ quan chỉ đạo, quản báo chí về thi hành Điều lệ Đảng, các
quy định của Đảng trong hoạt động báo chí - xuất bản, nhất là Chỉ thị 08-CT/TW, Chỉ
thị 22-CT/TW, Thông báo 162-TB/TW, Thông báo 41-TB/TW, Thông báo 68-TB/TW
của BCT, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về công tác tư tưởng, lý luận,
báo chí trước yêu cầu mới. Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập, nghiên cứu, thực
hành của các trường, các cơ sở đào tạo báo chí - xuất bản; coi trọng chất lượng đầu
vào, phẩm chất chính trị để từ đó tập trung cho việc dạy nghề, rèn luyện đạo đức, lối
sống cho học sinh, sinh viên.
Quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực; ưu tiên đầu tư cơ
sở vật chất - kỹ thuật - công nghệ cho các báo, đài, tạp chí do các cơ quan Đảng, Nhà
nước ở Trung ương và cấp uỷ, chính quyền các địa phương quản lý, giúp các cơ quan
này nâng cao chất lượng nội dung, hình thức, tăng tính hấp dẫn, lượng phát hành,
phạm vi phủ sóng, tính định hướng, chi phối, làm chủ trận địa thông tin, văn học, nghệ
thuật.
Tiếp tục mở rộng sóng phát thanh, truyền hình ra các nước, các khu vực; đưa
được sách, báo có nội dung tốt trong nước phục vụ công chúng, nhất là đồng bào ta ở
nước ngoài. Tăng cường giao lưu, hợp tác với các tổ chức báo chí - xuất bản trong khu
vực và trên thế giới; coi trọng tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, sự
nghiệp đổi mới của Việt Nam đến nhiều nước trên thế giới.
3.2.2. Những nhiệm vụ chủ yếu
3.2.2.1. Bám sát những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư tưởng nói chung,
của hoạt động báo chí - xuất bản nói riêng
Để phục vụ đắc lực sự nghiệp đổi mới đất nước, mặt khác, đổi mới chính nền
báo chí - xuất bản nước nhà, các cơ quan báo chí - xuất bản và đội ngũ những người
làm báo cần bám sát nhiệm vụ công tác tư tưởng; tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành
tựu công cuộc đổi mới; phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; kế thừa và
phát huy các giá trị quý báu của tinh hoa văn hoá nước nhà; tiếp nhận, phát huy tinh
hoa văn hoá nhân loại; phản bác thông tin, quan điểm sai trái, phản động, thù địch, phi
văn hoá.
3.2.2.2. Xây dựng, bổ sung, hòan thiện hệ thống các quy định của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về báo chí - xuất bản
Coi trọng định hướng phát triển, định hướng thông tin, công tác cán bộ, chủ
trương cấp phép hoạt động báo chí, chính sách tài chính cho hoạt động báo chí. Xây
dựng, bổ sung, hoàn thiện, thực hiện nghiêm túc Luật Báo chí, Luật Xuất bản và các
văn bản qui định thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Đảng,
Nhà nước, cơ quan chủ quản trong việc chỉ đạo, quản lý báo chí - xuất bản. Tăng
cường trách nhiệm các cơ quan báo chí và người làm báo; xây dựng chế tài đủ mạnh
để vừa tạo điều kiện cho báo chí - xuất bản phát triển vừa xử lý kịp thời, dứt điểm các
sai phạm. Rà soát, bổ sung, chỉnh sửa quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí - xuất
bản của cả nước. 3.2.2.3. Chú ý đến việc quy hoạch hệ thống báo chí - xuất bản
Quy hoạch hệ thống báo, tạp chí in, các đài phát thanh, truyền hình từ trung
ương đến địa phương và báo chí điện tử trong điều kiện các loại hình truyền thông đa
phương tiện đã và đang phát triển mạnh mẽ. Sắp xếp, bố trí, kể cả việc thu gọn đầu
mối các báo, tạp chí, chương trình phát thanh, truyền hình, các loại ấn phẩm theo
hướng khoa học, hợp lý, hiệu quả. Khắc phục tình trạng xa rời tôn chỉ, mục đích, trùng
lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ.
3.2.2.4. Chăm lo công tác xây dựng Đảng, nâng cao vai trò, vị trí, tác dụng
của tổ chức đảng trong cơ quan báo chí - xuất bản
Đề cao trách nhiệm cán bộ, đảng viên, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên ở các cơ quan báo chí,
cơ quan chủ quản, cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí - xuất bản về thi hành Điều lệ
Đảng, các quy định của Đảng trong hoạt động báo chí - xuất bản, nhất là Chỉ thị 08-
CT/TW, Chỉ thị 22-CT/TW, Thông báo 162-TB/TW, Thông báo 41-TB/TW, Thông
báo 68-TB/TW của BCT, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về công tác tư
tưởng, lý luận, báo chí đã yêu cầu: "Coi trọng, chăm lo công tác xây dựng Đảng trong
các cơ quan báo chí. Đề cao trách nhiệm đảng viên của người làm báo, nhất là người
giữ cương vị lãnh đạo. Thường xuyên kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên ở
các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý báo chí về thi hành Điều lệ
Đảng, các quy định của Đảng, Nhà nước đối với báo chí". Nâng cao chất lượng giảng
dạy, học tập, nghiên cứu, thực hành của các trường, các cơ sở đào tạo báo chí; coi
trọng chất lượng đầu vào, phẩm chất chính trị để từ đó tập trung cho việc dạy nghề, rèn
luyện đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên.
3.2.2.5. Chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm
công tác báo chí - xuất bản
Quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực; ưu tiên đầu tư cơ
sở vật chất - kỹ thuật - công nghệ cho các báo, đài, tạp chí, Nxb do các cơ quan Đảng,
Nhà nước ở Trung ương và cấp uỷ, chính quyền các địa phương quản lý, giúp các cơ
quan này nâng cao chất lượng nội dung, hình thức, tăng tính hấp dẫn, lượng phát hành,
phạm vi phủ sóng, tính định hướng, chi phối, làm chủ trận địa thông tin, văn học, nghệ
thuật.
3.2.2.6. Đầu tư thoả đáng cho hoạt động thông tin đối ngoại
Tiếp tục mở rộng sóng phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử ra các nước,
các khu vực; đưa được sách, báo có nội dung tốt trong nước phục vụ công chúng, nhất
là đồng bào ta ở nước ngoài. Tăng cường giao lưu, hợp tác với các tổ chức báo chí -
xuất bản trong khu vực và trên thế giới; coi trọng tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất
nước, con người, sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đến nhiều nước trên thế giới.
3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối
với báo chí - xuất bản trong giai đoạn mới
Nhằm đổi mới và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước với báo chí - xuất bản trong bối
cảnh mới, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X về Công tác tư tưởng, lý luận và
báo chí trước yêu cầu mới đã đề ra một loạt giải pháp quan trọng: Coi trọng, chăm lo
công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan báo chí; đề cao trách nhiệm đảng viên của
người làm báo, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo; thường xuyên kiểm tra, giám sát
các tổ chức đảng, đảng viên ở cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý báo
chí; xây dựng quy chế để làm tốt việc định hướng và cung cấp thông tin cho báo chí;
nghiên cứu bổ sung, sửa đổi Luật báo chí và các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan; quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa 4 cơ quan (cơ quan
chỉ đạo báo chí của Đảng; cơ quan quản lý báo chí của Nhà nước; Hội nhà báo; Cơ
quan chủ quản báo chí) đối với cơ quan báo chí và người làm báo; xây dựng chế tài đủ
mạnh, xử lý dứt điểm, kịp thời, nghiêm minh các sai phạm; rà soát, điều chỉnh, bổ
sung quy hoạch hệ thống báo chí, các đài phát thanh, truyền hình từ Trung ương đến
địa phương và báo chí điện tử; sắp xếp, thu gọn đầu mối theo hướng khoa học, hợp lý,
hiệu quả; nghiên cứu, phân loại báo chí theo chức năng, nhiệm vụ; đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, trình độ nghiệp
vụ, năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ làm báo; rà soát, đánh
giá lại đội ngũ lãnh đạo, quản lý, phóng viên, biên tập viên, kiên quyết đưa những
người không đủ phẩm chất, năng lực ra khỏi cơ quan báo chí; thực hiện tốt các quy
định về bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật; quản lý chặt chẽ cơ quan đại
diện, phóng viên thường trú ở các địa phương và ở nước ngoài; đối với các cơ quan
báo chí chủ lực, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cán bộ có đủ phẩm chất,
năng lực; đổi mới, nâng cao chất lượng về nội dung, hình thức, tăng tính thuyết phục,
tính hấp dẫn, lượng phát hành, phạm vi phát sóng; tạo điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ
thuật để các báo đài chủ lực hoàn thành nhiệm vụ, nâng cao năng lực chi phối, định
hướng thông tin và dư luận xã hội; đối với hoạt động thông tin đối ngoại của báo chí
như mở rộng sóng phát thanh, truyền hình, báo điện tử ra các nước, các khu vực, đưa
được nhiều sản phẩm văn hóa có nội dung tốt đến với đồng bào ta ở nước ngoài và bạn
bè quốc tế, tăng cường giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam
đến nhiều nước trên thế giới.
Trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X và thực tế phát triển báo
chí - xuất bản Việt Nam hiện nay, chúng tôi xin đề xuất 4 nhóm giải pháp để nâng cao
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong giai đoạn mới như sau:
3.3.1. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng
đối với báo chí – xuất bản
Muốn lãnh đạo có hiệu quả, chủ thể lãnh đạo phải nâng cao năng lực nội tại của
mình. Đó là nguyên tắc và cũng là yêu cầu tất yếu.
- Đảng phải có quan điểm, đường lối rõ ràng, xác đáng về báo chí - xuất
bản và hoạt động báo chí - xuất bản.
Trên cơ sở phân tích khoa học về xu thế phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa,
… thời kỳ mới, BCHTW Đảng khóa X đã ra Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 về
Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới. Đây là "kim chỉ nam" cho
việc thực hiện và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản hiện
nay, nó vừa mang tính khoa học vừa mang tính thời sự.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí - xuất bản được phát triển toàn diện phục
vụ cho lợi ích của nhân dân, vì mục tiêu tự do, hạnh phúc của nhân dân, độc lập cho
dân tộc. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo báo chí - xuất bản thực hiện trên các mặt: Đảng
lãnh đạo về định hướng thông tin truyền thông và vạch ra chiến lược phát triển; Đảng
lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ; Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát, sửa chữa
kịp thời những sai lầm, khuyết điểm, khuyến khích phát huy các thành tựu tích cực của
báo chí.
Ngày nay, đời sống chính trị ngày càng có diễn biến phức tạp, các thành phần
trong xã hội có sự phân hóa đa dạng hơn, bởi vậy Đảng lãnh đạo báo chí - xuất bản
nhằm định hướng tư tưởng một cách rõ ràng cho đông đảo quần chúng. Khi các lực
lượng thù địch đang có các hoạt động lợi dụng báo chí - xuất bản nhằm chống phá
cách mạng nước ta trên mặt trận chính trị - tư tưởng, đòi hỏi Đảng ta cần phải chủ
động sử dụng và kiểm soát báo chí - xuất bản để chống lại những âm mưu phản động
đó. Với bản chất và năng lực của mình, Đảng là tổ chức chính trị duy nhất có thể lãnh
đạo báo chí - xuất bản và sử dụng báo chí - xuất bản hiệu quả nhất vì lợi ích của đại đa
số quần chúng. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản thì sự nghiệp
cách mạng của Đảng, của nhân dân mới thực sự thành công. Đây là bài học xương
máu rút ra từ lịch sử, đặc biệt là sự sụp đổ của CNXH ở châu Âu đầu những năm 90
của thế kỷ XX.
Sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu qua quan điểm, đường lối. ở đây cần nhấn mạnh
hơn quan điểm của Đảng về đặc thù của báo chí - xuất bản. Đường lối của Đảng là
phát huy mạnh mẽ bản sắc, phong cách, đặc điểm báo chí, xuất bản, không biến tất cả
tờ báo,Nxb giống nhau. Sự lãnh đạo phải kết hợp hài hòa, bảo đảm không mâu thuẫn
giữa định hướng và bản sắc, đặc thù báo chí và xuất bản để báo chí - xuất bản vừa
đúng vừa hay, hấp dẫn. Báo chí - xuất bản hấp dẫn không có nghĩa là giật gân câu
khách, hấp dẫn có nghĩa là tính thuyết phục cao bởi cách truyền tải thông tin, bởi chính
sự chính xác đúng đắn của thông tin… Quan điểm đường lối của Đảng là cởi mở,
khuyến khích, tạo điều kiện mọi mặt để báo chí phát triển phục vụ lợi ích của quốc gia
dân tộc, của Đảng, nhưng Đảng kiên quyết giữ vững nguyên tắc chính trị, xử lý
nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, thiếu ý thức chính trị của báo chí -
xuất bản, gây thiệt cho lợi ích xã hội.
- Quan điểm, phương thức lãnh đạo của Đảng phải luôn đổi mới và hoàn
thiện để phù hợp với yêu cầu thực tế hoạt động báo chí - xuất bản đang vận động
liên tục, phong phú nhưng phức tạp.
Quan điểm, đường lối của Đảng không phải là bất biến. Đời sống chính trị,
kinh tế, xã hội luôn biến động, vì vậy quan điểm, đường lối của Đảng về báo chí - xuất
bản cũng phải luôn được hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu thực tế đang biến chuyển.
Do đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X của Đảng cũng cần được hoàn thiện
trong khi triển khai vào thực tế. Phương thức lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo bằng
đường lối chủ trương, thông qua hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương tới địa
phương chứ không phải cầm tay chỉ việc, không can thiệp sâu vào sự vụ, đồng thời
luôn luôn hoàn thiện và đổi mới phương thức nhằm phù hợp với yêu cầu thực tế.
- Nội dung lãnh đạo của Đảng phải có tính khoa học cao, có tầm bao quát
vừa rộng, vừa sâu, vừa lâu dài.
Đường lối, chủ trương về báo chí - xuất bản thể hiện qua các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng và cụ thể hóa bằng các văn bản luật và dưới luật của Nhà nước. Mỗi quan
điểm chỉ đạo của Đảng là kim chỉ nam cho công tác quản lý báo chí - xuất bản của
Nhà nước và cho cơ quan báo chí - xuất bản, do đó phải có tính bao quát, khoa học,
vừa phù hợp với yêu cầu hiện tại vừa là có tính chiến lược trong thời gian dài. Nếu
lãnh đạo báo chí - xuất bản bằng những nghị quyết, chỉ thị không bao quát được thời
gian phát triển sau này của báo chí - xuất bản, không bao quát cả khả năng phát triển
và chuyển biến của tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa của quốc tế, thì sẽ không có
tính ổn định về chính trị và chính sách, từ đó sẽ gây nên tình trạng lúng túng trong hoạt
động báo chí - xuất bản. Vì thế Đảng cần phải luôn tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh
nghiệm, nâng cao lý luận trong công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản nhằm nâng cao
vai trò và hiệu quả lãnh đạo báo chí - xuất bản trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế hiện nay.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng đối với hoạt động báo chí - xuất bản.
Đường lối, chủ trương của Đảng về báo chí - xuất bản hiện nay là tương đối
đầy đủ, nhưng việc triển khai thực hiện để đường lối chủ trương đó đi vào đời sống
báo chí - xuất bản lại thiếu nghiêm túc. Công tác kiểm tra, giám sát không thường
xuyên và chặt chẽ nên không ít nơi diễn ra tình trạng "đầu voi, đuôi chuột" hoặc "trống
đánh xuôi, kèn thổi ngược", cuối cùng hiệu quả của các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
thấp. Vì vậy, Đảng cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát thường xuyên việc triển
khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị và tăng cường tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh
nghiệm, từ đó điều chỉnh phương pháp triển khai thực hiện cho phù hợp thực tế. Bên
cạnh đó cần xử lý nghiêm những cơ quan, cán bộ, đảng viên không thực hiện, triển
khai nghị quyết của Đảng, kiên quyết thay đổi những cán bộ đảng viên làm việc hời
hợt… Khi công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường ở mức cao thì việc triển khai
nghị quyết của Đảng vào đời sống báo chí - xuất bản sẽ có hiệu quả tốt hơn.
- Nâng cao vai trò quản lý, chỉ đạo của cơ quan chủ quản báo chí - xuất
bản.
Đảng lãnh đạo báo chí - xuất bản thông qua cơ quan chủ quản báo chí - xuất
bản. ở nước ta mỗi cơ quan báo chí, mỗi Nxb đều chịu sự lãnh đạo của một cơ quan
chủ quản. Luật Báo chí, Luật Xuất bản đã quy định rất rõ trách nhiệm, quyền hạn của
cơ quan chủ quản báo chí - xuất bản. Tuy nhiên, lâu nay các cơ quan chủ quản báo chí
– xuất bản một mặt yếu về năng lực quản lý báo chí - xuất bản, mặt khác chủ quan
không quan tâm, không sâu sát, coi việc quản lý cơ quan báo chí - xuất bản đã có Ban
Tuyên giáo và ngành thông tin - truyền thông nên lơi lỏng việc quản lý các cơ quan
báo chí - xuất bản hoặc "khoán trắng" cho Tổng Biên tập. Mỗi cơ quan báo chí - xuất
bản đều có một cơ quan chủ quản, mà mỗi cơ quan chủ quản đều trực thuộc hệ thống
hành chính nhà nước hoặc hệ thống tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đúng ra thì với một cơ cấu tổ chức như vậy, với một hệ thống chính trị chặt chẽ
như vậy thì tính nguyên tắc phải được coi trọng và những hạn chế, tiêu cực trong hoạt
động báo chí - xuất bản sẽ giảm thiểu đến mức thấp nhất. Tuy nhiên, trong chỉ đạo,
quản lý, mặc dù đa số các trường hợp chúng ta giữ vững nguyên tắc, xử lý nghiêm,
nhưng cũng có một số sự việc khi xử lý còn dè dặt, thậm chí còn ngại đụng chạm do lý
do này lý do khác. Tình trạng này diễn ra nhiều nhất ở cơ sở chủ quản báo chí - xuất
bản là các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội. Nhiều cơ quan chủ quản báo chí - xuất
bản chưa kịp thời uốn nắn sai sót của cơ quan báo chí - xuất bản, có nơi còn né tránh,
không xử lý lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên thuộc thẩm quyền.
Muốn nâng cao hiệu quả quản lý của cơ quan chủ quản báo chí - xuất bản cần
phải coi trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao vai trò của tổ chức Đảng, cá nhân có
trách nhiệm, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan chủ quản báo chí - xuất bản. Cơ quan
chủ quản phải chủ động phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và
Truyền thông để định hướng thông tin, chủ động cung cấp thông tin, kịp thời uốn nắn,
xử lý những sai sót của cơ quan báo chí - xuất bản. Trong tình hình phức tạp về chính
trị do tác động của toàn cầu hóa hiện nay, việc nâng cao vai trò, năng lực quản lý của
cơ quan chủ quản báo chí - xuất bản cũng là một giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với báo chí - xuất bản, giúp cơ quan báo chí - xuất bản thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy trong cơ quan chủ quản và cơ
quan báo chí - xuất bản
Người đứng đầu cơ quan báo chí - xuất bản là Giám đốc, Tổng Biên tập. Tuy
nhiên, trong cơ chế chính trị của nước ta, Đảng có vai trò lãnh đạo toàn diện. Vì thế,
vai trò của cấp ủy đảng trong cơ quan báo chí - xuất bản cực kỳ quan trọng. Thực tế, từ
khi chế độ một thủ trưởng của các cơ quan nhà nước đã được xác lập, do nhiều lý do
chủ quan và khách quan, cấp ủy ở cơ quan báo chí - xuất bản đã có phần giảm sút vai
trò lãnh đạo hơn trước. Một số cơ quan báo chí - xuất bản bằng nhiều cách sắp xếp để
đảng bộ hoặc chi bộ bầu vào cấp ủy kiêm nhiệm gồm những cán bộ yếu chuyên môn,
dĩ hòa vi quý, hoặc những cán bộ chờ về hưu, không có dũng khí đấu tranh, dẫn đến
vai trò cấp ủy đứng ở hàng thứ yếu. Thậm chí vì lợi ích cá nhân, cấp ủy ở trong một
số trường hợp là đồng lõa những việc làm sai phạm của Giám đốc, Biên tập. Tại
những cơ quan báo chí - xuất bản như vậy, thực chất vai trò lãnh đạo của Đảng ủy cơ
sở đối với báo chí - xuất bản hầu như không có. Ngày nay không thể có chế độ
"chính ủy báo chí" nhưng tuyệt đối không thể để vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng tại
cơ quan báo chí - xuất bản bị mai một. Vì, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trực tiếp
và toàn diện đối với cơ quan báo chí - xuất bản thông qua cấp ủy đảng ở cơ quan báo
chí - xuất bản là một trong những yếu tố quan trọng khắc phục tình trạng hoạt động
báo chí - xuất bản thiếu nhạy cảm chính trị. Cơ quan chủ quản, cấp ủy cấp trên của
cấp ủy cơ quan báo chí - xuất bản phải sâu sát, chỉ đạo, kiểm tra, định hướng để bầu
cấp ủy gồm những cán bộ làm báo có bản lĩnh chính trị, có chuyên môn cao, đủ uy
tín lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan báo chí - xuất bản hoạt động đúng hướng.
Để nâng cao vai trò tổ chức đảng trong cơ quan báo chí - xuất bản, cần phải:
Duy trì có nề nếp, đổi mới nội dung sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy trong các cơ
quan báo chí - xuất bản; kết hợp chặt chẽ công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên,
quần chúng với công tác kiểm tra, giám sát đảng viên trong cơ quan báo chí - xuất bản;
thống nhất mô hình tổ chức cơ sở đảng và bố trí bí thư cấp ủy phù hợp (người đứng
đầu cơ quan báo chí - xuất bản đồng thời có thể là bí thư cấp ủy hoặc bí thư cấp ủy là
người trong ban lãnh đạo của cơ quan báo chí - xuất bản); tăng cường sự lãnh đạo, chỉ
đạo của tổ chức đảng và cơ quan quản lý cấp trên của cơ quan báo chí - xuất bản đối với cơ sở đảng trong cơ quan báo chí - xuất bản1.
- Cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí - xuất bản phải công khai, minh bạch,
chủ động cung cấp thông tin và định hướng thông tin.
Ngày nay với thành tựu khoa học kỹ thuật và cơ chế dân chủ cởi mở, việc lấy
thông tin không hề khó khăn. Nếu báo chí - xuất bản trong nước không được cung cấp
thông tin thì báo chí nước ngoài có quan điểm chống phá Đảng và Nhà nước ta vẫn có
thông tin và họ sẽ đưa thông tin theo cách có lợi cho họ với bình luận ác ý, hoặc cứ
đưa theo cách "đánh hỏa mù" làm rối thông tin mà không có định hướng. Nếu các cơ
quan chỉ đạo, quản lý báo chí – xuất bản chủ động công khai thông tin theo định
hướng và báo chí - xuất bản sẽ đưa thông tin, phân tích thông tin khách quan có định
hướng trên cơ sở lợi ích quốc gia thì sẽ chống được những chiến dịch thông tin theo
kiểu vấy bẩn của các thế lực thù địch, đồng thời tạo niềm tin cho nhân dân. Báo chí -
xuất bản hăng hái nhưng phải tự mày mò - nhất là mày mò trước những thông tin nhạy
cảm mang tính đối ngoại, an ninh quốc gia - nếu không được cung cấp thông tin đầy
đủ, sẽ dẫn đến những tình huống việt vị nghiêm trọng. Lãnh đạo, quản lý báo chí -
xuất bản là phải có cả sự cung cấp và định hướng thông tin nhanh, chính xác trong
những trường hợp này. Tất nhiên, như vậy không có nghĩa là cơ quan quản lý làm thay
Tổng biên tập.
Quản lý báo chí là quản lý một lĩnh vực vừa rất khó,vừa rất nhạy cảm. Tuy
nhiên, đòi hỏi người làm công tác quản lý báo chí phải nhạy cảm, đi trước đón đầu
trong định hướng. Chúng ta đang trong tình trạng báo chí nói nhiều một vấn đề gì đó
suốt thời gian vài ngày thậm chí vài tuần thì cơ quan quản lý mới "tuýt còi" và nói
rằng báo chí đã quá đà, cần phải xử lý. Đúng ra việc định hướng cho cơ quan báo chí
phải có từ trước chứ không phải chờ đến khi cơ quan báo chí sai phạm rồi mới cảnh
báo và xử lý. Việc đó chẳng khác nào cảnh sát giao thông chờ cho người tham gia giao
thông vượt đèn đỏ rồi bắt chứ không phải điều hành giao thông và luôn có sự cảnh báo
trước.
3.3.2. Nhóm giải pháp xây dựng hoàn thiện pháp luật và các chính sách đối
với báo chí - xuất bản 1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị 25/CT-TW ngày 31-07-2008 của BBT khoá X về tăng cường công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan báo chí.
- Tăng cường vai trò của bộ máy nhà nước và pháp luật đối với hoạt động
báo chí - xuất bản (tức là tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng)
Luật pháp là cụ thể hóa (pháp luật hóa) quan điểm, đường lối của Đảng. Việc chỉ
đạo, lãnh đạo hoạt động báo chí - xuất bản thông qua các công cụ luật pháp là yêu cầu
tất yếu trong thời kỳ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Pháp luật không
thể thay thế hoàn toàn sự chỉ đạo chính trị đối với báo chí - xuất bản nhưng nó là công
cụ cực kỳ quan trọng thể hiện sự lãnh đạo chính trị đối với báo chí - xuất bản, nhất là
trong bối cảnh mở rộng dân chủ thời toàn cầu hoá. Nói đối khác đi, tăng cường vai trò
của pháp luật tức là tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí -
xuất bản.
- Cần sửa đổi Luật Báo chí cho phù hợp với hoạt động báo chí trong bối
cảnh mới.
Luật Báo chí là văn bản pháp luật điều chỉnh các hành vi trong hoạt động báo
chí. Từ khi có Luật Báo chí năm 1999, các quy định pháp lý đối với hoạt động báo chí
dù chưa đầy đủ, chi tiết, chưa đáp ứng những phát sinh trong đời sống báo chí nhưng
đây là hành lang pháp lý thuận lợi cho báo chí. Về lý thuyết, Luật Báo chí giúp báo chí
hoạt động theo phạm vi cho phép, đồng thời ngăn ngừa các sai phạm của báo chí. Tuy
nhiên, cho đến nay, do sự phát triển mạnh mẽ của báo chí, nhiều yếu tố nước ngoài
xuất hiện và tham gia vào hoạt động báo chí trong nước, trong đó có cả yếu tố tích cực
và tiêu cực, nhiều điều khoản của Luật Báo chí không còn phù hợp, thậm chí cản trở
những xu hướng phát triển mới. Luật pháp là cụ thể hóa theo hướng pháp điển hóa
đường lối chính trị, trong khi đó quan điểm, đường lối quản lý báo chí của Đảng đã có
nhiều đổi mới. Sự phát triển mạnh mẽ của Internet hiện nay cũng đòi hỏi phải nhanh
chóng sửa Luật Báo chí. Đi theo đó là phải sửa các luật liên quan đến báo chí. Việc
sửa Luật Báo chí không thể làm theo cách lâu nay là chỉ sửa một vài điều, chuyển từ
dạng luật khung sang luật chi tiết. Khi có những phát sinh mới trong hoạt động báo chí
thì cần có các quy định dưới luật thật sát hợp và kịp thời.
Xin đưa ra một số nội dung Luật Báo chí chưa theo kịp sự phát triển của báo
chí cần phải điều chỉnh:
+ Danh mục các bí mật nhà nước chưa được cụ thể, chưa công khai cho báo
chí; các quy định pháp luật về quyền được thông tin, được khai thác thông tin, được
nhận thông tin của báo chí chưa rõ ràng… dẫn đến tình thế báo chí vướng nhiều mặt,
có lúc rơi vào "bẫy" pháp lý đưa thông tin không có lợi cho quốc gia dân tộc. Hoạt
động của thị trường chứng khoán phát triển rất nhanh với những sắc thái đa diện, khi
đưa thông tin báo chí sẽ có thể gây tác hại lớn cho nhóm xã hội này nhưng làm lợi lớn
cho nhóm xã hội khác ma không có chế tài để xử lý nghiêm. Việc phát triển ào ạt các
dịch vụ gia tăng trên báo chí như dịch vụ nhắn tin, dịch vụ ca nhạc, đoán số tử vi, dự
đoán kết quả, dịch vụ giải trí… nhưng các cơ quan chức năng khó xử lý vì không có
chế tài.
+ Thiếu những quy định cụ thể trong luật về xã hội hóa báo chí nhằm điều
chỉnh quan hệ hợp tác và tham gia của các nguồn lực tư nhân, nước ngoài vào việc sản
xuất sản phẩm báo chí. Xã hội hóa báo chí đang là một trong những nội dung được coi
là "nóng, nhạy cảm" nhất của Dự thảo sửa đổi Luật Báo chí. Trên thực tế, xã hội hóa
báo chí đã diễn ra từ lâu, với nhiều phương thức liên kết của các cơ quan truyền thông
của nhà nước và các tổ chức tư nhân, đem lại lợi ích cho cả ba bên: cơ quan báo chí, tư
nhân và cộng đồng… Từ hơn 10 năm nay, 5 tờ báo đã được một công ty nước ngoài là
Ringier (Thụy Sĩ) đầu tư. Đó là VN Economic Times, Quốc tế, VN Investment
Review… Nhờ đó mà nhiều tờ báo khởi sắc. Những ấn phẩm phụ được tư nhân tham
gia cũng có số lượng phát hành nhiều khi cao hơn tờ báo chính. Có khi, hai bên song
hành không ảnh hưởng đến nhau, như tờ Doanh nhân Sài Gòn và Doanh nhân Sài Gòn
Cuối tháng (của Nhà nước) với tạp chí Doanh nhân Cuối tuần (có sự tham gia của tư
nhân). Theo thống kê, hiện nay có khoảng 70 tờ báo, tạp chí đã ra đời qua sự liên kết
với tư nhân như: Công ty Hoa Mặt Trời liên kết với Tạp chí Tiếp thị và Gia đình;
Công ty ấn Phẩm (Tập đoàn Galaxy) liên kết với Nhịp cầu đầu tư, Mốt và Cuộc sống;
Công ty M5 Media (Vietnam Net Media Goup) liên kết với Autonet, Echip Mobile;
Tập đoàn Đại Dương đầu tư để có Info TV; Công ty Cổ phần Thiên Phú Hưng đầu tư
cho VTC2; Công ty Cổ phần Quốc tế truyền thông (IMC) chọn kênh VTC7; Kênh
truyền hình cáp về sức khỏe mang tên O2 TV và Công ty Unicom hợp tác với Trung
tâm Thông tin Bộ Y tế sản xuất… Mặc dù Luật Báo chí hiện hành chưa quy định vấn
đề này, nhưng theo các quy định pháp lý khác, tư nhân có thể được tham gia trong lĩnh
vực đại lý quảng cáo và phát hành cho các cơ quan báo chí. Trên thực tế, việc các cơ
quan báo chí và truyền hình hợp tác với các công ty quảng cáo tư nhân để bán quảng
cáo trên báo chí và các kênh truyền hình đã được thực hiện từ lâu. Và hầu hết các cơ
quan báo chí đều sử dụng các kênh phát hành của tư nhân từ những năm 1990 song song với hệ thống phát hành của ngành bưu điện1.
Luật Báo chí hiện hành quy định báo chí là cơ quan ngôn luận của cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp. Như vậy, ở Việt Nam không có báo chí tư nhân. Vì thế, việc tư nhân "đứng
đằng sau" các đơn vị báo chí hiện nay là đang "lách luật". Luật Báo chí nên thừa nhận
sự tham gia của các tổ chức, cá nhân, giống như Luật Xuất bản 2004 đã thừa nhận.
Các tổ chức, cá nhân đó không thể đóng vai trò chính trong hoạt động báo chí, nội
dung báo chí mà họ sản xuất chỉ được phép phát hành khi có sự đồng ý của cơ quan
báo chí, Bộ Thông tin - Truyền thông. Khâu biên tập và xuất bản nội dung phải do cơ
quan báo chí, xuất bản mà người đứng đầu là tổng giám đốc/ tổng biên tập chịu trách
nhiệm. Họ cũng chỉ được tham gia sản xuất trong một số lĩnh vực nhất định như các
khâu thiết kế, trình bày, in ấn, phát hành báo chí; khai thác và mua bản quyền măng
xét và nội dung báo chí trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, thể thao, giải trí,
quảng cáo, thông tin kinh tế để xuất bản trong nước; báo chí nước ngoài có thể khai
thác, mua măng xét báo chí trong nước để xuất bản tại nước ngoài; sản xuất các
chương trình phát thanh cũng thuộc các lĩnh vực khoa học công nghệ, thể thao, giải trí,
quảng cáo, thông tin kinh tế… Khi xảy ra tiêu cực, sai phạm, các tổ chức, cá nhân có
liên quan cũng phải bị xem xét trách nhiệm liên đới, tránh tình trạng để cơ quan báo
chí "chịu trận" một mình. Bên cạnh đó, cũng cần có một số điều luật khác quy định rõ
về trách nhiệm của người cầm bút và có chế tài xử lý nghiêm minh.
- Xây dựng cơ chế để tăng cường giám sát xã hội đối với báo chí - xuất bản.
Báo chí - xuất bản ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, song song
với các quy định pháp luật cần xây dựng và hoàn chỉnh các quy chế lãnh đạo của các
tổ chức đảng đối với hoạt động báo chí - xuất bản, chi tiết hóa các quy định và kỷ luật
1 Xin xem www.vietnamjournalism.com
trong Đảng đối với các sai lầm, khuyết điểm của đảng viên làm công việc báo chí -
xuất bản, chi tiết hóa các quy định giám sát xã hội đối với báo chí - xuất bản cũng như
trách nhiệm cung cấp thông tin cho báo chí - xuất bản. Luật Báo chí, Luật xuất bản và
các quy định mang tính pháp quy không phải chỉ để điều chỉnh những người làm công
tác báo chí - xuất bản mà tất cả các đối tượng khác đều phải bị điều chỉnh (tổ chức
Đảng, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, các cá nhân trong các cơ quan này, các nhóm
xã hội…). Gần đây có tình trạng các nhóm xã hội trong đó có lợi ích chính trị, kinh tế
khác nhau dùng báo chí - xuất bản như một lực lượng để cạnh tranh, triệt tiêu lẫn nhau,
nhưng không có cơ chế giám sát của xã hội đối với báo chí - xuất bản. Báo chí - xuất
bản không phải là lực lượng xã hội đứng trên luật pháp, báo chí - xuất bản cũng không
là công cụ của một nhóm người hoặc cá nhân ai đó. Báo chí - xuất bản ở Việt Nam là
vũ khí văn hóa - tư tưởng của Đảng và Nhà nước, là diễn đàn của nhân dân, nên báo
chí - xuất bản phải được xã hội giám sát, kiểm soát bằng những quy định pháp luật.
- Đảng và Nhà nước phải có chính sách xây dựng và phát triển một hệ thống
báo chí - xuất bản hiện đại, tiên tiến, mạnh về đội ngũ, tài chính và khả năng đáp
ứng mọi yêu cầu về thông tin các tình huống phức tạp nhất.
Nhà nước cần tập trung tăng cường thực lực hệ thống báo chí - xuất bản nhằm
mục đích về tổng thể là một nền báo chí - xuất bản mạnh vè thực lực.
Cần phải có chính sách phát triển tiềm lực kinh tế mạnh cho cơ quan báo chí -
xuất bản. Sức mạnh của báo chí - xuất bản trước hết là con người, là đội ngũ làm báo.
Việc dùng chính sách khuyến khích, nâng đỡ, đào tạo nhân lực cho báo chí - xuất bản
là đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó cần phải có chính sách phát triển tiềm lực kinh tế
báo chí - xuất bản. Hiện tại, báo chí Việt Nam so với báo chí nước ngoài đang thiếu
hụt lớn về đội ngũ làm báo, về tiềm lực tài chính, cơ sở vật chất - kỹ thuật và công
nghệ. "Nền" tài chính của các cơ quan báo chí hiện không đồng đều, bất hợp lý. Theo
một khảo sát, đa số các cơ quan báo chí, xuất bản yếu về tài chính, nhất là báo chí địa
phương, báo chí ngành và các tổ chức chính trị - xã hội. Một số cơ quan báo chí hiện
nay có manh nha mô hình "tập đoàn báo chí" nhưng không đồng bộ. Trong khi đó
chính sách tài chính đối với báo chí là bất cập. Đại đa số các cơ quan báo chí phải tự
trang trải về tài chính nhưng buộc phải làm tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Trong cơ
chế thị trường sản phẩm báo chí làm ra phải được bán cho người đọc bằng nhiều hình
thức khác nhau (dù là báo viết, báo điện tử hay báo hình) để thu tiền trực tiếp hay là
thu qua đăng quảng cáo. Không thể có cơ quan báo chí nào hoạt động và thực hiện
nhiệm vụ chính trị của mình mà không cần nguồn thu tài chính. Do vậy cần có cơ chế
về tài chính tương thích cho báo chí bên cạnh sự đổi mới cơ chế về nghiệp vụ. Nhà
nước không thể bao cấp tài chính cho các cơ quan báo chí, còn các cơ quan báo chí chỉ
cần có cơ chế tài chính tương thích với đòi hỏi thực tiễn. Các cơ chế mới này giúp báo
chí chủ động hơn về tài chính, không phải chỉ chăm chăm lo tìm kiếm lợi nhuận mà có
sức tập trung nhiều hơn cho nhiệm vụ chính trị. Khi bản thân có đủ sức mạnh thì
chúng ta mới chống lại được sự đồng hóa về văn hóa, đồng thời chủ động đón nhận
những mặt tích cực của văn hóa thế giới để làm phong phú nền văn hóa của chúng ta.
Đúng ra phải có cơ chế khuyến khích nguồn thu cho cơ quan báo chí để báo chí
có điều kiện làm tốt nhiệm vụ chính trị thì ngành tài chính lại thu thuế thu nhập 28%
(như đối với doanh nghiệp), thu thuế giá trị gia tăng 10%, không cho trả nhuận bút
vượt khỏi 10% doanh thu từ hoạt động báo chí (theo quy định của ngành tài chính,
"doanh thu từ hoạt động báo chí" chỉ là từ tiền bán báo chứ không bao gồm cả tiền bán
quảng cáo)... Chính sách hiện hành đó không khuyến khích được sự tăng trưởng tài
chính cho báo chí. Một khi nền tài chính của cơ quan báo chí yếu kém thì xu hướng
"thương mại hóa" theo hướng tiêu cực gia tăng. Báo chí phải loay hoay kiếm tiền tự
trang trải, khi đó nhiệm vụ chính trị ở chỗ này, chỗ khác bị đặt xuống hàng thứ yếu.
Do đó, Đảng và Nhà nước cần phải có chính sách hợp lý để thúc đẩy các cơ quan báo
chí có nền tài chính lành mạnh.
- Đầu tư xây dựng một số đơn vị báo chí - xuất bản có vị thế đầu đàn, đủ
năng lực cung cấp thông tin cho các tầng lớp nhân dân, giữ vai trò chi phối dư luận
xã hội, giữ nhịp cho cả hệ thống báo chí - xuất bản, vươn ra thế giới, chủ động
thông tin về những diễn biến kinh tế, chính trị trên thế giới.
Hiện tại đang là thời kỳ bùng nổ thông tin nhưng chưa có một cơ quan báo chí
nào của nước ta có tầm quốc tế chủ động thông tin quốc tế mà hầu hết phụ thuộc hoàn
toàn vào các hãng truyền thống độc quyền lớn của nước ngoài (ngoại trừ Thông tấn xã
Việt Nam, Báo Nhân dân có đại diện ở một số nước nhưng cũng chỉ đủ sức đưa thông
tin liên quan đến Việt Nam). Về nguyên tắc, hệ thống báo chí nhà nước phải chi phối
các nguồn năng lực hoạt động báo chí ngoài khu vực nhà nước. Trước hết cần thí điểm
xây dựng một số tập đoàn báo chí nhà nước mạnh về nhân lực, mạnh về kinh tế, hiện
đại vè kỹ thuật, đáp ứng cơ bản nhu cầu chính đáng về thông tin trong xã hội. Để tránh
nguy cơ các tập đoàn này sa vào mục đích lợi nhuận, cần xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo có bản lĩnh chính trị vững vàng, xây dựng cơ chế quản lý chặt chẽ thì hoàn
toàn có thể xử lý được mối quan hệ giữa kinh tế báo chí và tôn chỉ mục đích của cơ
quan báo chí. Nếu các đơn vị hàng đầu này không mạnh về tài chính, nhân lực, kỹ
thuật, tất yếu sẽ dẫn đến sa sút về thực lực, không theo kịp với nhu cầu xã hội. ở góc
độ toàn cục, giải pháp tốt nhất là xây dựng cho được một hệ thống báo chí nhà nước
thật vững mạnh, đa dạng, phong phú về thông tin, từ đó giảm thiểu lý do đòi hỏi thành
lập các cơ quan báo chí tư nhân. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa báo chí nước ta
cần có đủ khả năng tham gia vào các hoạt động thông tin quốc tế, có khả năng tiếp
nhận xử lý và tung vào dòng giao lưu thông tin quốc tế một lượng thông tin đủ lớn, đủ
mạnh để tạo ra tiếng nói độc lập, công bằng, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các
dân tộc và bảo vệ lợi ích kinh tế, định hướng chính trị, những giá trị văn hóa của dân
tộc. Việc sắp xếp, cơ cấu lại các cơ quan báo chí cũng như tập trung xây dựng một số
tập đoàn báo chí nhà nước mạnh (về con người, kinh tế, kỹ thuật) vừa đáp ứng nhu cầu
chính đáng về thông tin của xã hội, đồng thời giảm thiểu phát sinh hệ thống báo chí
ngoài nhà nước, chi phối được các mối quan hệ hợp tác trong hoạt động báo chí của
các nguồn lực tư nhân và nước ngoài, tránh bị lệ thuộc và bị xâm lấn quyền lực nhà
nước trong hệ thống báo chí. Điều đó cũng bảo đảm cho quyền lực của hệ thống chính
trị nước ta được củng cố và tăng cường. Nếu không phát triển nhanh một hệ thống báo
chí đủ mạnh có trọng tâm, trọng điểm thì không thể đáp ứng những nhu cầu rộng lớn,
đa diện của xã hội hiện đại, chống lại dòng thông tin ồ ạt từ nước ngoài tràn vào.
- Có chính sách quy hoạch, cơ cấu lại hệ thống báo chí - xuất bản cho phù
hợp.
Hiện nay, hệ thống báo chí - xuất bản có cơ cấu chưa hợp lý, lĩnh vực như phát
thanh - truyền hình khá cồng kềnh, phân tán (các huyện đều có đài truyền thanh -
truyền hình nhưng lại gần như nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật Báo chí). Báo
chí, xuất bản Việt Nam hiện nay đang có sự cạnh tranh rất khốc liệt. Có ý kiến cho
rằng tính trên đầu người dân thì số lượng đầu báo ở nước ta chưa phải là cao. Nếu tính
theo số học là như vậy, nhưng thực tế rất nhiều cơ quan, sản phẩm báo chí được ra đời
dưới một cái vỏ bọc cơ quan chủ quản là bộ ngành, tổ chức chính trị - xã hội, nghề
nghiệp nào đó, nhưng do một nhóm tư nhân đầu tư tài chính để kiếm lợi nhuận bằng
mọi cách để thỏa mãn thị hiếu thấp của một bộ phận dân chúng. Họ cạnh tranh không
bình đẳng với các cơ quan báo chí khác bằng sức mạnh của tài chính. Và chính những
tờ báo này là đối tượng vi phạm nhiều nhất. Nhà nước phải nhanh chóng rà soát lại,
phân loại và xử lý nghiêm minh các cơ quan báo chí vi phạm, xử lý tình trạng tư nhân
núp bóng nhà nước, đoàn thể để trục lợi, kiên quyết không cấp phép cho những tờ báo
lá cải như vậy ra đời. Nhà nước cần thiết phải hạn chế việc cấp giấy phép cho ra đời
các cơ quan báo chí mới, đồng thời sắp xếp lại các cơ quan báo chí hiện có cho hợp lý,
tránh cồng kềnh, dàn trải, chồng lấn, tránh "hội chứng" ngành ngành, hội hội thành lập
cơ quan báo chí. Nhà nước phải chặt chẽ trong quản lý và định hướng phát triển báo
chí để tránh tình trạng bội thực về các hội chứng như hội chứng nhà máy giấy, hội
chứng nhà máy xi măng, hội chứng cảng biển.
- Cần xây dựng chiến lược thông tin quốc gia từ nay đến năm 2020 và định
hướng thông tin dài hơn làm cơ sở cho công tác quy hoạch, sắp xếp hệ thống báo
chí - xuất bản.
Phải thống nhất nhận thức về vấn đề này từ trong các cấp ủy đảng, chính quyền
và các cơ quan báo chí, đồng thời phải có cơ chế, chính sách đồng bộ đi kèm. Trước
hết, tập trung ưu tiên cho phát triển hệ thống truyền hình, phát thanh, báo điện tử, các
báo, tạp chí khoa học kỹ thuật đi đôi với quản lý tốt các loại hình này. Cần nghiên cứu,
đề xuất giải pháp sắp xếp lại các đài phát thanh - truyền hình địa phương trên cơ sở
chức năng, nhiệm vụ và nhu cầu công chúng. Kiểm tra, đánh giá kết quả đầu tư phủ
sóng, trợ giá máy thu thanh, thu hình để tiếp tục có chủ trương phù hợp. Đầu tư thích
đáng, giải quyết hợp lý phí phát hành để có thêm các ấn phẩm phục vụ nông thôn,
vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có nhiều đồng bào các tôn giáo. Phát
triển các báo điện tử phục vụ thông tin đối ngoại và trong nước kể cả phát thanh,
truyền hình, báo in đối ngoại đi đôi với quản lý chặt chẽ nội dung thông tin và dịch vụ
kèm theo các loại hình này.
- Có chính sách khuyến khích, bảo đảm được sự tự chủ, chủ động sáng tạo
của các cơ quan báo chí - xuất bản.
Báo chí - xuất bản tuy là một hoạt động trong lĩnh vực văn hóa tinh thần tác
động trực tiếp đến chính trị nhưng lại có đặc thù sáng tạo cao. Linh hồn của báo chí là
thông tin. Trong các công cụ để thỏa mãn nhu cầu được thông tin của con người chỉ
báo chí là có khả năng đáp ứng tốt nhất, nó giúp công chúng hình thành những quan
điểm, nhận thức đúng đắn về những vấn đề của đời sống. Trong tác nghiệp, nhà báo
từng phút, từng giờ bám và săn thông tin, phân tích thông tin, xử lý thông tin. Bằng
khoa học công nghệ, cơ quan báo chí chuyển tải đến công chúng những thông tin đã
xử lý đó với những thông điệp vừa mang tính giai cấp vừa mang phong cách cá nhân.
Quá trình làm báo là một quá trình sáng tạo mang tính đặc thù, không phải ai cũng có
thể làm được bởi còn có yếu tố năng khiếu.
Do đó, Nhà nước cần phải có những chính sách quản lý khuyến khích báo chí
vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo giúp cho báo chí đảm bảo được tính chính trị đúng hướng,
nhưng cũng đảm bảo được tính sáng tạo. Trong quản lý nhà nước cần phải đảm bảo
điều kiện pháp lý, tài chính cho báo chí phát triển theo hướng dành quyền tự chủ, chủ
động, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động báo chí. Nhà nước có chính sách cụ thể
nhưng không can thiệp quá sâu vào hoạt động của báo chí.
3.3.3. Nhóm giải pháp về củng cố, hoàn thiện tổ chức, nhân sự
- Nâng cao năng lực chuyên môn và bản lĩnh chính trị của cán bộ làm công
tác chỉ đạo, quản lý báo chí - xuất bản.
Quan điểm, đường lối của Đảng về báo chí - xuất bản và lãnh đạo báo chí -
xuất bản có tính khoa học cao hay không, có bao quát cả chiều rộng, chiều sâu và tầm
nhìn dài hay không, trước hết là phụ thuộc vào năng lực chuyên môn, khả năng nhạy
bén, bản lĩnh chính trị vững vàng của các cán bộ, đảng viên làm công tác tham mưu.
Hệ thống cán bộ tham mưu của Đảng về công tác báo chí chủ yếu nằm trong
BanTGTW, Ban Tuyên giáo các tỉnh thành ủy, Ban Tuyên giáo các bộ, ngành, tổ chức
chính trị - xã hội, Bộ chuyên ngành quản lý nhà nước về báo chí... Hiện nay, trình độ
cán bộ trong hệ thống tham mưu của Đảng về công tác báo chí đã được nâng cao so
với trước đây, bản lĩnh chính trị cũng ngày càng vững vàng hơn. Tuy nhiên, tính nhạy
bén trong công tác quản lý, chỉ đạo điều hành hoạt động báo chí còn yếu, có lúc thiếu
kiên quyết trong việc giữ vững nguyên tắc, nhưng có lúc lại cứng nhắc máy móc. Vì
vậy hệ thống cán bộ tham mưu này phải được rèn luyện, học tập nâng cao nghiệp vụ,
bản lĩnh chính trị, khả năng phản ứng nhanh và nhạy bén trong các tình huống cũng
như tầm chiến lược. Cần kiên quyết không đề bạt, sử dụng những cán bộ không am
hiểu về báo chí, công tác tuyên giáo, công tác quản lý báo chí vào những cơ quan quan
trọng này. Có như vậy, Đảng mới có được một hệ thống cơ quan tham mưu về chỉ đạo,
quản lý báo chí có đủ sức mạnh để giúp Đảng định hướng cho báo chí, chỉ đạo và quản
lý báo chí có hiệu quả.
- Nâng cao vai trò, chất lượng hoạt động của HNB, HXB Việt Nam.
Về chức năng, nhiệm vụ, HNB, HXB Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội -
nghề nghiệp của những người làm báo Việt Nam, hoạt động dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Tuy nhiên, trong những năm hoạt động của Hội chưa đáp ứng yêu cầu và đòi
hỏi của thực tiễn, sức cuốn hút và tập hợp của Hội còn kém, ý thức xây dựng Hội của
một số hội viên còn mờ nhạt, chất lượng hoạt động của một số cơ sở Hội và hội viên
chưa cao. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, HNB, HXB Việt Nam phải nâng cao vai trò,
chất lượng hoạt động của mình, phải đổi mới, kiện toàn về tổ chức, đổi mới phương
thức hoạt động nhằm tập hợp và đoàn kết rộng rãi các nhà báo, chủ động tham gia
công tác chỉ đạo, quản lý báo chí; xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật
về báo chí, nhằm thực hiện tốt vai trò tư vấn, phản biện, giám định của một tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp về các vấn đề liên quan đến hoạt động báo chí, đến đội
ngũ các nhà báo. Thực tế hiện nay không có nhiều nhà báo làm văn bản nhờ Hội Nhà
báo Việt Nam bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, bởi Hội chưa có ảnh hưởng lớn
đến xã hội cũng như chưa thực sự là chỗ dựa cho các nhà báo - hội viên. Nhiều hội
viên chỉ biết đến HNB Việt Nam qua việc tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ.
- Nâng cao chất lượng người làm báo chí - xuất bản theo tiêu chí vừa hồng vừa
chuyên, xây dựng chuẩn hóa đội ngũ phóng viên, biên tập viên.
Với sự phát triển mạnh mẽ của báo chí - xuất bản Việt Nam hiện nay, nhu cầu
về nhà báo ngày càng lớn. Bên cạnh đó, đang có xu thế thông tin nhiều chiều, nâng cao
quyền tự do ngôn luận của nhân dân, người dân được tham gia vào cả quá trình hình
thành và phản ánh thông tin. Như thế không có nghĩa là coi nhẹ lực lượng nhà báo
chuyên nghiệp. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, bên cạnh đội ngũ nhà báo
chuyên nghiệp đạt được những tiêu chí cơ bản về nhà báo hiện đại thì vẫn còn không ít
nhà báo có chuyên môn yếu, thiếu nhạy cảm chính trị, thiếu tu dưỡng đạo đức, vi
phạm pháp luật. Họ lợi dụng nghề báo và quyền lực xã hội của báo chí để đưa tin sai
sự thật, tham gia vào những cuộc đấu đá phe cánh, cạnh tranh không lành mạnh của
doanh nghiệp để trục lợi cá nhân, làm thiệt hại uy tín, danh dự của cá nhân, tổ chức,
làm thiệt hại lợi ích quốc gia dân tộc. Cần phải đổi mới công tác đào tạo. Đào tạo cần
được chú trọng cả về lý luận chính trị, trình độ nghiệp vụ và phong cách của người làm
công tác báo chí. Vì vậy công tác đào tạo, tuyển dụng, đề bạt, bố trí cán bộ phải được
thực hiện chặt chẽ hơn, nghiêm túc hơn nữa. Trước những hiện tượng cơ quan báo chí
xa rời tôn chỉ, mục đích, xa rời sự lãnh đạo của Đảng thì công tác đào tạo và bố trí cán
bộ, phóng viên của cơ quan báo chí càng phải được đặc biệt coi trọng.
- Đảng phải coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và phát triển
Đảng tại cơ sở đào tạo báo chí - xuất bản.
Các cơ sở đào tạo về báo chí - xuất bản phải thực sự coi trọng việc đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị; bố trí nội dung, chương trình học tập, nhất là về chính trị sát
hợp với các định hướng của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước. Tăng cường
công tác phát triển Đảng trong đội ngũ sinh viên nhằm tạo nguồn cung cấp đảng viên
cho các cơ quan báo chí - xuất bản. Học viện Báo chí và Tuyên truyền thuộc Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và các Học viện trực thuộc, trung tâm
bồi dưỡng chính trị của Đảng ủy khối các cơ quan Trung ương, trường chính trị các
tỉnh, thành phố, các cơ sở bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí của Hội Nhà báo phải xây
dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị riêng cho lãnh đạo và những
người làm báo chí - xuất bản. Nhằm phù hợp đặc thù nghề nghiệp, cần thay đổi quy
định cử cán bộ, phóng viên, biên tập viên đi học các lớp lý luận chính trị - hành chính có thể trẻ hơn 5 tuổi so với quy định hiện hành1.
- Nâng cao ý thức và bản lĩnh chính trị của đội ngũ nhà báo, biên tập viên.
Nhà báo, cán bộ biên tập không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật Báo chí, Luật
Xuất bản mà còn chịu điều chỉnh của nhiều bộ luật khác hiện hành. Bên cạnh đó nhà
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị 25/CT-TW ngày 31-07-2008 của BBT khoá X về tăng cường công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan báo chí.
báo chịu sự "điều chỉnh" của cơ chế chính trị, của quy ước đạo đức xã hội và tầng sâu
văn hóa, cho nên nhà báo phải có ý thức và nhạy cảm chính trị, có ý thức đạo đức và
nhạy cảm văn hóa. Thông tin hàng ngày trên thế giới và trong nước liên tục diễn ra
không ngừng, có thông tin, vấn đề nếu nêu trên báo thì pháp luật điều chỉnh được,
nhưng cũng có thông tin, vấn đề pháp luật không điều chỉnh được mà phụ thuộc vào sự
nhạy cảm "nên hay không nên" của nhà báo, người làm báo. Thực tế có những thông
tin, vấn đề đưa lên mặt báo nếu soi vào quy định của pháp luật thì không sai, nhưng
xét các góc độ chính trị, đạo đức, văn hóa thì không nên. Tính đặc thù củ báo chí là ở
chỗ đó.
Hoạt động của báo chí luôn mang định hướng chính trị. Nhà báo khi đưa tin
phải dựa trên quan điểm chính trị nhất định. Sự áp đặt quan điểm chính trị của các
nước phương Tây vào Việt Nam cũng nằm trong mục tiêu "xâm lăng văn hóa", áp đặt
các dân tộc khác phải có cách nghĩ, cách làm như họ. Sâu xa hơn, Việt Nam là nơi để
các thế lực thù địch tìm mọi cách tấn công về tư tưởng, văn hóa, phê phán chủ nghĩa
Mác -Lênin, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản, tiến tới lật đổ chính
quyền, thiết lập chính phủ thân phương Tây. Trong bối cảnh đó phẩm chất chính trị
của nhà báo là rất quan trọng, nó tác động lớn đến việc hành xử có lợi hay không đối
với lợi ích quốc gia, dân tộc. Không chỉ có việc đưa thông tin trong nước mà ngay cả
việc đưa thông tin theo các hãng truyền thông nước ngoài không ít trường hợp do thiếu
hiểu biết, do thiếu nhạy cảm chính trị đã thông tin có lợi cho các lực lượng thù địch
trên thế giới, chúng lợi dụng thông tin đó tấn công vào các lực lượng tiến bộ, chính
nghĩa.
Với trách nhiệm của nhà báo như vậy, cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ báo
chí không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, mà còn phải có đạo đức tốt, ý thức chính
trị cao, đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng và của sự phát triển báo chí.
Bồi dưỡng cán bộ là trách nhiệm của các cơ quan quản lý. Việc học tập và tự nghiên
cứu các văn bản nghị quyết mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cần
được khuyến khích hơn nữa, để mỗi người nhận thức rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ trước
đất nước, trước dân tộc. Mỗi cán bộ báo chí phải tu dưỡng đạo đức, nâng cao bản lĩnh
chính trị, mài sắc ý chí chiến đấu bảo vệ lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Nâng cao vai trò của người lãnh đạo cơ quan báo chí - xuất bản.
Trong cơ quan báo chí - xuất bản, người đứng đầu cơ quan là Giám đốc, Tổng
Biên tập có vai trò cực kỳ quan trọng, là vị trí số một, có tính chất quyết định sự phát
triển của cơ quan báo chí - xuất bản. Do vậy, trước hết Đảng mà cụ thể là BTGTW,
BTT&TT và cơ quan chủ quản báo chí - xuất bản phải chọn lựa và đề bạt người đứng
đầu cơ quan báo chí - xuất bản có đủ bản lĩnh chính trị, có chuyên môn giỏi, có khả
năng quản lý điều hành cơ quan báo chí - xuất bản hiện đại, biết làm kinh tế báo chí để
duy trì và phát triển cơ quan báo chí. Theo quy định của Đảng và Nhà nước, người
được đề bạt vào vị trí lãnh đạo cơ quan báo chí - xuất bản phải học xong lớp cao cấp lý
luận chính trị, có ít nhất 3 năm làm báo chuyên nghiệp, có năng lực tổ chức điều
hành..., và phải có sự hiệp thương thống nhất giữa cơ quan chủ quản báo chí, Bộ
TTVTT, BanTGTW. Nhưng gần đây, một số cơ quan chủ quản đã không thực hiện
những quy định đó, song các cơ quan chỉ đạo và quản lý báo chí chỉ xử lý bằng cách...
nhắc nhở. Những cơ quan báo chí do những người đó lãnh đạo thường hết mắc sai
phạm này đến sai phạm khác.
Người đứng đầu cơ quan báo chí được Nhà nước giao cho một trách nhiệm rất
lớn. Người đứng đầu cơ quan báo chí là người chịu trách nhiệm cao nhất trước pháp
luật về mọi hoạt động của cơ quan báo chí đó. Một khi đã chọn lọc kỹ càng để giao
trọng trách đứng đầu cơ quan báo chí cho ai thì phải tin tưởng vào họ - cơ chế tin
tưởng sẽ khuyến khích sự năng động, sáng tạo, dám làm dám chịu trách nhiệm của họ.
Người đứng đầu cơ quan báo chí để xảy ra sai phạm ở cơ quan báo chí, gây tác hại cho
xã hội, ảnh hưởng xấu đến lợi ích quốc gia, lợi ích công dân thì phải xử lý nghiêm.
Một khi xử lý người đứng đầu cơ quan báo chí sai phạm thì sẽ lập lại được mặt bằng
của cơ quan báo chí đó. Nhưng khi người đứng đầu cơ quan báo chí làm tốt thì phải
tôn vinh (Đảng và Nhà nước ta chưa có cơ chế rõ ràng về tôn vinh người đứng đầu cơ
quan báo chí và nhà báo; chẳng hạn như có danh hiệu Tổng Biên tập giỏi - như chủ
doanh nghiệp giỏi, danh hiệu nhà báo ưu tú...). Nhưng trước hết khi đã có Luật Báo
chí, Luật Xuất bản thì nên tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho người đứng đầu cơ
quan báo chí để họ được chủ động quản lý cơ quan báo chí trong khuôn khổ pháp luật
chứ không nên quản lý theo mệnh lệnh. Thực chất việc quản lý báo chí trước hết và
chủ yếu là quản lý người đứng đầu cơ quan báo chí. Lâu nay chúng ta có nhiều cách
quản lý báo chí, trong đó có quản lý bằng luật pháp, bằng quy chế chính trị, bằng
mệnh lệnh, bằng vận động... Ngày nay quản lý báo chí - trước hết và quan trọng nhất
là quản lý người đứng đầu cơ quan báo chí - nên hạn chế cách quản lý bằng mệnh
lệnh. Muốn như vậy, bên cạnh Luật Báo chí cần có quy chế người đứng đầu cơ quan
báo chí để thực hiện. Khi có quy chế cụ thể về trách nhiệm, người đứng đầu cơ quan
báo chí thấy rõ mình được làm gì và không được làm gì. Tất nhiên, khi thực hiện còn
phải phụ thuộc vào bản lĩnh chính trị, chuyên môn giỏi, khả năng quản lý và thẩm
định, xử lý thông tin của mỗi người.
3.3.4. Nhóm giải pháp về đổi mới hoạt động của các cơ quan báo chí - xuất
bản
- Báo chí - xuất bản phải tuân thủ sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng.
Báo chí - xuất bản là một trọng tâm trong công tác tư tưởng của Đảng. Đảng
phải lãnh đạo báo chí - xuất bản để thực hiện quyền lực chính trị của mình, thực hiện
các mục tiêu chính trị của mình. Đảng là chủ thể trực tiếp lãnh đạo báo chí - xuất bản
và báo chí - xuất bản là đối tượng chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Nhận thức này
phải được thực hiện với nguyên tắc tối thượng, được xác định nhất quán từ người đứng
đầu cơ quan báo chí - xuất bản đến phóng viên, biên tập viên, nhân viên của cơ quan
báo chí - xuất bản. ý thức chấp hành tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí -
xuất bản cũng là một trong những biểu hiện phẩm chất chính trị của cơ quan báo chí -
xuất bản và người làm báo.
- Cơ quan báo chí - xuất bản phải trở thành cơ quan đi đầu về thông tin
chính trị, định hướng dư luận xã hội tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới đất nước, vào
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Báo chí - xuất bản phải làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng; góp phần tích cực vào việc tuyên truyền những chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến nhân dân; tác động vào
quần chúng, tập hợp, thuyết phục và tổ chức quần chúng trở thành lực lượng cách
mạng để thực hiện những mục tiêu cụ thể trong từng thời kỳ, nhằm xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Báo chí phải tự làm mạnh mình lên để có đủ khả
năng cung cấp cho nhân dân những vấn đề, sự kiện phong phú, đa dạng trong đời sống
xã hội, với một phạm vi rộng lớn, tham gia vào việc hình thành dư luận đúng đắn, xây
dựng thế giới quan khoa học, góp phần vào việc xây dựng tư tưởng, tình cảm, đạo đức,
lối sống, không ngừng nâng cao sự hiểu biết của nhân dân, giữ vững định hướng chính
trị, giữ gìn bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Thông qua
việc đăng tải chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước dưới hình thức hấp dẫn lôi
cuốn, báo chí tư vấn, thuyết phục, định hướng nhận thức, làm thay đổi thái độ và hành
vi của công chúng, hướng mọi người dân tin tưởng và tích cực đóng góp công sức vào
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Báo chí - xuất bản phải đi đầu trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, bảo
vệ và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần hình thành và
từng bước hoàn chỉnh lý luận của sự nghiệp đổi mới của Đảng, lý luận về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của
Đảng trong điều kiện mới... Báo chí - xuất bản phải hoàn thiện mình, trở thành lực
lượng tiên phong, xung kích trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, những
âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng lý luận của các thế lực
thù địch. Báo chí phải đào tạo, bồi dưỡng nhiều cây bút sắc bén trên mặt trận này để
kịp thời giáng trả đích đáng những học thuyết, luận điệu sai trái, nhằm phủ nhận,
xuyên tạc những thành tựu của cách mạng nước ta.
Báo chí - xuất bản cần phát hiện và cảnh báo kịp thời những vấn đề, những
điểm nóng chính trị - xã hội, cung cấp thông tin cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước để có
biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả. Báo chí phải nắm chắc dư luận xã hội, phát hiện
ra những hiện tượng không bình thường, những việc làm vi phạm pháp luật, những
hoạt động mang tính chính trị của cá nhân và tổ chức, những biểu hiện manh nha của
các vụ khiếu kiện tụ tập đông người, các cuộc đình công, bãi khóa của công nhân, sinh
viên..., phản ánh kịp thời với các cơ quan chức năng. Từ nguồn thông tin của báo chí,
chính quyền giải quyết kịp thời những vướng mắc, không để xảy ra tình trạng căng
thẳng ở các khu vực, nhờ đó giữ vững ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội.
- Cơ quan báo chí - xuất bản phải không ngừng trau dồi kiến thức, học hỏi kinh
nghiệm, nâng cao năng lực nắm bắt khoa học công nghệ để làm tốt công tác thông tin
đối ngoại, giúp cho cộng đồng quốc tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có
thông tin kịp thời, đúng đắn về tình hình đất nước, tranh thủ sự đồng tình của nhân dân
thế giới đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Chúng ta tiến hành mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu với các nước trong khu vực
và trên thế giới theo nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ và giữ gìn bản sắc,
truyền thống văn hóa dân tộc, báo chí phải tăng cường đưa thông tin và các ấn phẩm
văn hóa của nước ta ra nước ngoài, đồng thời tiếp thu mạnh mẽ nhưng có chọn lọc
những thành tựu, giá trị và tinh hoa văn hóa nhân loại; thực hiện đúng đắn và sáng tạo
đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng và đa phương hóa các quan hệ
quốc tế trong hoạt động báo chí - xuất bản.
Kết luận
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh về báo chí - xuất bản cách mạng, từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, chúng ta
khẳng định, Đảng lãnh đạo báo chí - xuất bản là tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo của
Đảng là đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo; do đòi hỏi của Đảng trong
trọng trách lãnh đạo dân tộc và đòi hỏi của bản thân báo chí - xuất bản. Trong đấu
tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền trước đây, sự lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí - xuất bản đã giữ vai trò quyết định làm cho báo chí - xuất bản phục vụ đắc lực
sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Ngày nay, trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản
càng phải được giữ vững, tăng cường và có hiệu quả cao hơn.
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã tăng cường sự lãnh đạo đối với
báo chí - xuất bản và coi đây là nguyên tắc hàng đầu, bất di bất dịch. Đảng ta chỉ rõ
rằng: chính trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường và mở cửa, sự
lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản càng cần thiết hơn bao giờ hết. Xã hội
càng phát triển, thông tin đại chúng càng có vai trò to lớn. Với nội dung thông tin có
định hướng đúng đắn, chân thật, có sức thuyết phục cao, báo chí - xuất bản có khả
năng hình thành dư luận xã hội, dẫn đến hành động xã hội phù hợp đường lối của
Đảng và sự vận động của hiện thực theo chiều hướng tiến bộ. Báo chí - xuất bản
không chỉ là vũ khí tư tưởng sắc bén, mà còn là người cổ động tập thể, người tổ chức
tập thể. Điều này càng đúng trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay.
Sau hơn 20 năm đổi mới, sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản đã có
những đổi mới quan trọng, giữ vững định hướng chính trị, tư tưởng, thông tin, xác lập
hệ thống quan điểm báo chí - xuất bản phù hợp với tình hình mới, chú ý hơn đến kiểm
tra, uốn nắn việc thực hiện các định hướng đó; thông qua tổ chức đảng và đảng viên,
phát huy vai trò quản lý của cơ quan nhà nước, các cơ quan chủ quản báo chí - xuất
bản để lãnh đạo chặt chẽ báo chí - xuất bản, làm cho báo chí - xuất bản khởi sắc mạnh
mẽ. Bên cạnh đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản những năm vừa qua
còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót. Kinh nghiệm cho thấy, hiệu quả lãnh đạo của
Đảng đối với báo chí - xuất bản phụ thuộc vào việc vạch ra những định hướng và quan
điểm báo chí - xuất bản đúng đắn, khoa học; vào sự chỉ đạo chặt chẽ và cụ thể đối với
các cơ quan báo của các cấp, các ngành liên quan; vào trình độ, năng lực, phẩm chất
của cán bộ, đảng viên. Bước phát triển mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới đòi hỏi sự lãnh
đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản cũng phải tiếp tục được đổi mới.
Từ những bài học về sự lãnh đạo đối với xã hội nói chung, đối với báo chí -
xuất bản nói riêng của Đảng ta qua những năm vừa qua cùng với kinh nghiệm quá
trình báo chí - xuất bản đổi mới vì sự nghiệp đổi mới đất nước, bước vào giai đoạn
mới, để tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản cần thực
hiện tốt các vấn đề trọng yếu sau:
- Các tổ chức đảng, các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí - xuất bản, các
đoàn thể nhân dân, các cán bộ lãnh đạo trong những cơ quan báo chí cần quán triệt sâu
sắc các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về báo chí - xuất bản, nhất là Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 khóa X, tổ chức cho cán bộ, đảng viên, phóng viên tiếp tục học tập,
xây dựng chương trình hành động toàn diện nâng cao chất lượng báo chí - xuất bản
trong thời kỳ mới. Báo chí - xuất bản làm tốt hơn nữa nhiệm vụ phổ cập, truyền bá
những quan điểm, chủ trương của Đảng trong Văn kiện Đại hội X thúc đẩy phong trào
hành động cách mạng rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân. Từng cơ quan báo chí -
xuất bản phải tăng cường đoàn kết nội bộ, đấu tranh tự phê bình và phê bình trên tinh
thần xây dựng, chống các biểu hiện tiêu cực, không ngừng trau dồi đạo đức nghề
nghiệp và trách nhiệm công dân, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và nhân dân. Đầu
tư kỹ thuật mới, nhanh chóng làm chủ kỹ thuật theo kịp đà tiến bộ của khoa học - công
nghệ thông tin.
- Các cơ quan chủ quản - bao gồm cả cấp ủy, Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn và
thủ trưởng cơ quan - thực hiện nghiêm túc trách nhiệm và quyền hạn đã ghi trong Luật
Báo chí, Luật Xuất bản, bố trí cán bộ có đủ tiêu chuẩn, thường xuyên chỉ đạo, giúp đỡ,
tạo điều kiện toàn diện, đồng thời kiểm tra đôn đốc, định hướng tuyên truyền; xử lý
kịp thời các sai phạm của các cơ quan báo chí - xuất bản thuộc quyền.
- Ban TGTW sớm xây dựng trình Trung ương ban hành quy định về trách
nhiệm, quyền hạn lãnh đạo báo chí - xuất bản của các tổ chức Đảng từ Trung ương tới
cơ sở; hoàn thiện hệ thống cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí - xuất bản theo kịp tình
hình mới, đồng thời xây dựng, bổ sung hệ thống chế độ, chính sách và cơ chế làm việc
để phát huy hiệu lực và chất lượng công tác của các cơ quan này.
- Bộ TT&TT phối hợp với các ban, ngành, HNB, HXB xây dựng Chiến lược
thông tin quốc gia đến 2020 để Chính phủ phê duyệt, phối hợp với Văn phòng Chính
phủ và các ngành có liên quan đề xuất vấn đề lương và phụ cấp có tính chất lương, chế
độ ngạch, bậc công chức; chế độ tài trợ và chế độ thuế báo chí; phí phát hành, quy
định về trách nhiệm, quyền hạn các cơ quan chủ quản... theo Luật Báo chí, Luật Xuất
bản.
- Cần nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí - xuất
bản. Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cùng các ban, ngành có
liên quan khẩn trương xây dựng, chuẩn hóa chương trình và giáo trình, sử dụng hợp lý
đội ngũ cán bộ được đào tạo. Chú trọng đề cao ý thức tự rèn luyện, phấn đấu, tự học
tập, bồi dưỡng của đội ngũ những người làm báo chí, xuất bản.
Trên đây là những công việc có ý nghĩa cấp bách trước mắt, song cũng là
những vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài cho báo chí - xuất bản Việt Nam tiếp tục
đổi mới và phát triển, đảm bảo và tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí - xuất bản trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Vụ Báo chí và xuất bản (1992), Nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác báo chí - xuất bản, Nxb Tư tưởng - Văn hóa, Hà
Nội.
2. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1997), Báo cáo về tình hình và kết quả
thực hiện Chỉ thị 08/CT-TW (tháng 3-1992) trong thời gian qua và những
nhiệm vụ cần tiếp tục thực hiện trong thời gian tới, ngày 26-6, Hà Nội.
3. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1997), Hướng dẫn việc quán triệt và thực
hiện Chỉ thị 22/CT-TW của BCT về "tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác báo
chí - xuất bản" (932 -HD/TTVH), ngày 27-10, Hà Nội.
4. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin (1997), Tiếp tục đổi
mới và tăng cường lãnh đạo quản lý công tác báo chí - xuất bản, 2 tập, (Kỷ yếu
Hội nghị báo chí - xuất bản toàn quốc), Hà Nội.
5. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (29-31/10/2001), Tình hình báo chí - xuất
bản sau 4 năm thực hiện Chỉ thị 22/CT-TW và một số phương hướng giải pháp
thực hiện chủ yếu, (Báo cáo của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương), Hà Nội.
6. Nguyễn Đức Bình (2006), Một số vấn đề về công tác lý luận tư tưởng và văn hóa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2000, ban hành kèm theo Quyết định số
219/2005/QĐ-TTG ngày 9-9/2005 của Thủ tướng Chính phủ.
8. Đinh Xuân Dũng (2005): "Xuất bản trong cuộc hành trình lớn của dân tộc", Tạp
chí Tư tưởng - Văn hóa, số 10/2005.
9. Ngọc Đản (1995), Báo chí với sự nghiệp đổi mới, Nxb Lao động, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (25-7-1990), Chỉ thị của Ban Bí thư về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí - xuất bản, số 63/CT-TW.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (31-3-1992), Chỉ thị của Ban Bí thư về tăng cường sự
lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí -
xuất bản, số 08/CT-TW.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn
hóa, văn nghệ (từ Đại hội VI đến Đại hội VII), Nxb Sự thật, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (18-2-1995), Nghị quyết một số định hướng lớn trong
công tác tư tưởng hiện nay, số 9-NQ-TW.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam, BCHTW (17-10-1997), Chỉ thị tiếp tục đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí - xuất bản, số 22/CT-TW.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW (khóa
VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2001 -
2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa X,
Lưu hành nội bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đirếch Engien (2007), Phương tiện thông tin đại chúng của Mỹ và những ảnh
hưởng đến thế giới thứ ba, Tạp chí Cộng sản, số 775, tháng 5/2007.
24. Hà Minh Đức (Chủ biên) (1997), Báo chí - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Văn hóa XHCN (2000), Lý luận
văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, hệ cử nhân chính trị, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
26. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Văn hóa XHCN (2000), Lý luận
văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ cao cấp chính trị,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Vũ Đình Hòe (Chủ biên) (2000), Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo,
quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Vũ Đình Hòe (1996), "Đào tạo cán bộ báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường",
Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, (4), tr.2-3.
29. Hội Nhà báo Việt Nam (1998), Trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà
báo, Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội.
30. Lê Doãn Hợp (2007): "Quản lý báo chí trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện
nay", Tạp chí Cộng sản, số 6/2007.
31. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 5, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
32. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
33. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí (1999), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
34. Luật Xuất bản và Nghị định hướng dẫn thi hành (2005), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
35. Lê Văn Lý (Chủ biên) (1999), Sự lãnh đạo của Đảng trong một số lĩnh vực trọng yếu
của đời sống xã hội nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. C.Mác và Ph.Ăngghen (1978), Toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
37. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
38. C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin - Hồ Chí Minh về báo chí xuất bản (2004), Vũ
Duy Thông tuyển chọn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. X.A.Mikhailốp (2004), Báo chí hiện đại nước ngoài - những quy tắc và nghịch lý,
Nxb Thông tấn, Hà Nội.
40. Michael Schudson (2003), Sức mạnh của tin tức truyền thông, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Lê Hữu Nghĩa (1997), "Kinh tế thị trường và công tác tư tưởng", Tạp chí Cộng
sản, (9), tr.19-21.
47. Tăng cường lónh đạo, quản lý tạo điều kiện để báo chí nước ta phát triển mạnh
mẽ, vững chắc trong thời gian tới (2007), Nxb Lý luận chớnh trị, Hà Nội.
48. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (1995), Hồ Chí Minh về vấn đề báo chí, Phân viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
49. Tạ Ngọc Tấn (2000), "70 năm Đảng lãnh đạo báo chí, những vấn đề nóng hổi tính
thời sự", Tạp chí Cộng sản, (12).
50. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Nguyễn Vũ Tiến (2003), Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời kỳ đổi
mới, Luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
52. Chu Thái Thành (1998), "Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm tự do và sức sáng tạo
cho đội ngũ nhà báo nước ta", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (6), tr.6-9.
53. Hữu Thọ (1997), Nghĩ về nghề báo, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
54. Hữu Thọ (2000), Bình luận báo chí thời kỳ đổi mới - một số vấn đề tư tưởng văn
hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Hà Xuân Trường (1995), "Chung quanh vấn đề Đảng lãnh đạo báo chí", Tạp chí
Cộng sản, (471), tr.50-53.
56. Trần Đăng Tuấn (2007), "Một số vấn đề của lãnh đạo, quản lý báo chí trong tình
hình hiện nay", Tạp chí Cộng sản, số 6/2007.
57. Văn bản pháp quy về báo chí - xuất bản (2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về báo chí - xuất bản và công tác lãnh
đạo báo chí - xuất bản của Đảng Cộng sản Việt Nam 13
1.1. Một số vấn đề lý luận về báo chí - xuất bản 13
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí -
xuất bản 22
1.3. Về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản 33
Chương 2: Thực trạng công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng
trong thời kỳ đổi mới 64
2.1. Thực trạng hoạt động báo chí - xuất bản nước ta trong thời kỳ đổi mới 64
2.2. Những đổi mới trong sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản thời
gian qua 81
2.3. Một số bài học kinh nghiệm từ sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí -
xuất bản thời gian qua 111
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với báo chí - xuất bản trong giai đoạn mới 117
3.1. Bối cảnh và thời cơ, thách thức đối với hoạt động báo chí - xuất bản nước
ta trong giai đoạn mới 117
3.2. Phương hướng và các nhiệm vụ chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng về báo chí - xuất bản 123
3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí - xuất bản trong giai đoạn mới 129
Kết luận 153
Danh mục tài liệu tham khảo 156
DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
BBT : Ban Bí thư
BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương
BCT : Bộ Chính trị
BTGTW : Ban Tuyên giáo Trung ương
BTT&TT : Bộ Thông tin và truyền thông
BTT-VHTW : Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương
BVH-TT : Bộ Văn hóa - Thông tin
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam
HNB : Hội Nhà báo
HXB : Hội Xuất bản
Nxb : Nhà xuất bản
XHCN : Xã hội chủ nghĩa