LUẬN VĂN:
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí từ năm 1996 đến 2006
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các phương tiện thông tin đại chúng nói chung, báo chí nói riêng, có vai trò đặc
biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Báo chí cung cấp thông tin, định hướng, tác động
dư luận xã hội. Báo chí cách mạng là “người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ
chức tập thể”, là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng Cộng sản.
Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới báo chí nước ta đã có sự chuyển biến
tích cực cả về số lượng và chất lượng… Tuy nhiên, báo chí cũng bộc lộ những yếu kém,
khuyết điểm chậm khắc phục như: một số cơ quan báo chí thiếu nhạy bén chính trị,
chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hoá, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lí của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin không trung thực, thiếu chính
xác, khuynh hướng tư nhân hoá, thương mại hoá báo chí. Năng lực, phương thức lãnh
đạo, chỉ đạo, quản lý báo chí chưa theo kịp bước phát triển nhanh chóng, phức tạp của
báo chí, đồng thời công tác quản lí báo chí còn buông lỏng, bị động, xử lí sai phạm
thiếu kiên quyết, nể nang, né tránh kéo dài, vai trò trách nhiệm của cơ quan chủ quản
báo chí còn thụ động chưa theo kịp sự phát triển của tình hình.
Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, hội
nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề trên nhiều lĩnh vực trong đó
có lĩnh vực thông tin, văn hoá, để báo chí thực hiện đầy đủ chức năng của mình, phát
triển đúng hướng, mạnh mẽ, vững chắc, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, lí tưởng xã hội chủ nghĩa,
những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hoá dân tộc, những tinh hoa văn hoá thế
giới chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Từ thực tế đó, đòi hỏi phải đổi
mới mạnh mẽ nội dung, phương thức, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác báo chí để báo chí thật sự là
tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân
dân, bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng
của hoạt động báo chí, đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân
tộc.
Trong quá trình quán triệt, vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng đối với công tác báo chí có
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được làm sáng tỏ thêm, nhất là nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí trong giai đoạn hiện nay.
Với các lý do trên tác giả chọn đề tài: "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác
báo chí từ năm 1996 đến 2006" làm đề tài nghiên cứu chính là nhằm làm sáng tỏ tính
khách quan, sự cần thiết và nội dung cơ bản sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các nước XHCN trước đây, nhất là Liên Xô đã xuất bản một số công trình khoa
học nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí. Một số công trình, tài liệu đó
đã được dịch và đăng trên sách, báo ở nước ta. Tuy nhiên, các quan điểm trong các tài
liệu đó không còn hoặc ít phù hợp với đổi mới tư duy lý luận và thực tiễn hiện nay.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã có
nhiều nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo công tác báo chí như: Chỉ thị 22-CT/TW ngày 17-10-
1997 của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý
công tác báo chí, xuất bản. Thông báo kết luận số 162-TB/TW ngày 1-12-2004 của Bộ
Chính trị (khoá IX) về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình hiện
nay. Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị (khoá X) về một
số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí. Thông báo kết luận số 68-TB/TW
ngày 30-3-2007 của Bộ Chính trị (khoá X) về tiếp tục thực hiện thông báo số 41-TB/TW,
ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo
chí. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm khoá X (8/2007) về công
tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới… Trên phương diện quản lý nhà nước,
vấn đề Đảng lãnh đạo báo chí đã được thể chế hoá trong Luật Báo chí, các nghị định,
Thông tư... của Chính phủ, của Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền
thông) "Quản lý Nhà nước về báo chí qua 8 năm thi hành Luật Báo chí" (Đỗ Quý Doãn
- Chuyên san Nhà báo và Công luận, số 4 - 1998). Quyết định số 219/2005/QĐ-TTg
ngày 09 tháng 09 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển
thông tin đến năm 2010...
Đã có một số bài báo, tạp chí trong nước đề cập ở mức độ khác nhau đến vấn đề
này như: "Chung quanh vấn đề Đảng lãnh đạo báo chí" (Hà Xuân Trường - Báo chí,
những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia, H. 1997); "Vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước" (Nguyễn Trọng Phúc -
Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1999); "Một số vấn đề về báo chí trong thời kỳ mới", "Tiếp
tục phát huy sức mạnh của báo chí trong sự nghiệp đổi mới đất nước" (Hữu Thọ - Nghĩ
về nghề báo, Nxb Giáo dục, H. 1997). Ban Tuyên giáo Trung ương, tháng 6/2007 xuất
bản cuốn sách "Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý, tạo điều kiện để báo chí nước ta phát
triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới" (Nxb Lý luận Chính trị, H.
2007);“Những quan điểm hàng đầu đối với công tác báo chí, xuất bản”, (Nguyễn Đức
Bình - Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 5, tháng 9, 10/1997); "Khuynh hướng chính
trị - tư tưởng trong báo chí" (Tạ Ngọc Tấn - Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 8 -
1996); "Vai trò của báo chí trong hệ thống công tác tư tưởng" (Nguyễn Đức Bình - Tạp
chí Báo chí và Tuyên truyền, số 1 - 1995); "Chung quanh vấn đề đạo đức nghề nghiệp
của người làm báo" (Nguyễn Phú Trọng - Tạp chí Cộng sản, số 7 - 1993); "Báo chí với
nhiệm vụ tuyên truyền kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ kinh
tế - xã hội do Đại hội VIII đề ra" (Phạm Quang Nghị - Tạp chí Báo chí và Tuyên
truyền, số 6 - 1996); "Bước phát triển của báo chí trong quá trình đổi mới" (Phạm
Quang Nghị - Tạp chí Cộng sản, số 11, tháng 6 - 1997); "Báo chí qua mấy năm đổi
mới" (Phan Quang - Theo dòng thời cuộc, Nxb Văn hoá Thông tin, H. 1995); "Báo chí
với sự nghiệp đổi mới đất nước" (Ngọc Đản - Nxb Lao động, H. 1995); "Sự nghiệp báo
chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh" (T.S Nguyễn Thành - Nxb Khoa học xã hội, 1988); "70
năm Đảng lãnh đạo báo chí với những vấn đề nóng hổi tính thời sự" (Tạ Ngọc Tấn -
Tạp chí Cộng sản, số 12, tháng 6 - 2000)... Đó là những tài liệu tham khảo rất quan
trọng cho luận văn để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn vấn đề rộng lớn và phức tạp này.
Tuy nhiên, hầu hết các công trình trên mới chỉ dừng ở mức độ bài báo, tạp chí, đề cập các nguyên lý chung, giải quyết một số khía cạnh của các vấn đề lý luận cơ bản, một vài vấn đề cụ thể của báo chí. Chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có
hệ thống, đầy đủ và toàn diện về quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí trong từng thời kỳ và nhất là từ năm 1996 đến nay.
Tác giả cố gắng nghiên cứu một cách có hệ thống, tìm hiểu cơ sở lý luận và tổng kết thực tiễn hoạt động công tác báo chí 10 năm gần đây (1996-2006), đề xuất một số kinh nghiệm bước đầu lãnh đạo công tác báo chí của Đảng nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và những năm tiếp theo.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Luận văn có mục đích nghiên cứu cơ sở khoa học, nội dung, phương thức quá
trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí từ năm 1996 đến 2006.
Qua làm rõ kết quả của quá trình lãnh đạo đó để rút ra những kinh nghiệm bước
đầu trong công tác lãnh đạo, quản lý báo chí của Đảng nhằm phát huy vai trò của báo chí trong giai đoạn cách mạng mới.
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Làm rõ căn cứ khoa học, nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo công tác báo chí. - Khái quát tình hình lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí 10 năm đầu đổi mới và những yêu cầu đặt ra cho sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí từ năm
1996 đến 2006.
- Nghiên cứu, phân tích quá trình lãnh đạo của Đảng về công tác báo chí. Trên cơ sở đó đánh giá những thành tựu, hạn chế cần khắc phục và đề xuất một số kinh nghiệm
bước đầu của Đảng trong lãnh đạo công tác báo chí nhằm phát huy cao độ vai trò của báo chí trong thời kỳ mới, thực hiện tốt chức năng là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và
là diễn đàn tin cậy của nhân dân
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: + Các văn kiện của Đảng, các văn bản của Nhà nước, các bài viết, bài nói của lãnh
đạo Đảng và Nhà nước về báo chí.
+ Các công trình nghiên cứu, tổng kết về hoạt động báo chí
+ Thực tiễn hoạt động báo chí
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
+ Báo chí bao gồm nhiều loại hình: Báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử...; có
các báo, tạp chí chính trị - xã hội và các báo, tạp chí chuyên ngành; báo của Trung
ương, báo của ngành, địa phương. Luận văn không nghiên cứu về hoạt động của báo chí
đó
+ Công tác báo chí cũng có nhiều nội dung như: công tác toà soạn, ban biên tập,
công tác phóng viên, công tác phát hành... Luận văn không đi vào công tác báo chí mà
chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
báo chí.
+ Thời gian khảo sát từ sau Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đến nay. Đây là
thời thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, đồng thời
cũng là thời kỳ báo chí nước ta phát triển sôi động về số lượng, nội dung, hình thức...
Do đó, rất cần có sự lãnh đạo của Đảng nhằm làm cho báo chí hoạt động đúng hướng,
thực hiện tốt chức năng là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn tin cậy của nhân
dân.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu luận văn
Nguồn tài liệu là các văn kiện của Đảng, các văn bản của Nhà nước, các bài viết,
bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lãnh đạo Đảng, Nhà nước về báo chí; kỷ yếu hội
thảo khoa học về báo chí... cũng được sử dụng như các tư liệu khoa học của luận văn.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương
pháp lô gíc. Phương pháp lịch sử được sử dụng để làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo báo
chí từ năm 1996 đến 2006, phương pháp lôgíc để khái quát kết quả, rút ra kinh nghiệm
chủ yếu... Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, khái quát và tổng
hợp trong từng chương, mục và toàn bộ luận văn.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn hệ thống hoá quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo
chí 1996 - 2006 làm rõ thêm một lĩnh vực lãnh đạo của Đảng. Luận văn vừa là một
chuyên đề Lịch sử Đảng, vừa làm rõ quá trình và nội dung Đảng lãnh đạo báo chí trong
một thời kỳ; là một chương về lịch sử báo chí Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước.
Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm xã hội của báo chí
và nhà báo, đặc biệt nêu rõ tầm quan trọng và tính cấp thiết phải tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý Nhà nước đối với công tác báo chí trong giai đoạn cách mạng hiện
nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn (khảo sát các văn kiện của Đảng, Nhà nước; các
tác phẩm của các lãnh tụ Đảng, Nhà nước... về báo chí trong thời kỳ 1996 - 2006) có thể
làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng, lịch sử công tác tư
tưởng, lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam.
Luận văn có thể cung cấp nguồn tư liệu tham khảo tin cậy cho sinh viên, giáo viên,
các nhà báo và người nghiên cứu về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo
chí thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ Đảng và các cơ
quan chủ quản báo chí trong quá trình lãnh đạo, quản lý công tác báo chí hiện nay.
Luận văn này được thực hiện trong khi toàn Đảng triển khai các Nghị quyết Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ năm khoá X (8/2007), trong đó có Nghị quyết về công
tác tư tưởng, lý luận và báo chí. Vì vậy, luận văn còn góp phần vào công tác nghiên
cứu, tuyên truyền, giáo dục các nội dung cơ bản của nghị quyết, đưa nghị quyết vào
cuộc sống.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Báo chí cách mạng Việt Nam và sự lãnh đạo của đảng đối với công tác báo chí
1.1. Một số khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm về báo chí * Báo chí: “Báo và tạp chí; xuất bản phẩm định kỳ (nói khái quát)” [92, tr.54], là tên gọi
chung đối với các loại hình báo in, báo hình, báo nói, báo điện tử.
“Báo chí nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng,
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân” [84, tr.7].
Báo chí được các nhà chuyên môn định nghĩa: là toàn bộ những ấn phẩm có tính chất định kỳ chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi
trong xã hội.
- Báo in: là tên gọi loại hình báo chí được thực hiện bằng phương tiện in (báo,
tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn)
- Báo nói: là tên gọi loại hình báo chí thực hiện trên sóng phát thanh (chương
trình phát thanh).
- Báo hình: là tên gọi loại hình báo chí thực hiện trên sóng truyền hình (chương
trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện
khác nhau).
- Báo điện tử: là tên gọi loại hình báo chí thực hiện trên mạng thông tin máy tính
(Internet).
- Số phụ: là ấn phẩm phụ định kỳ ngoài số báo chính gồm các loại: tuần, cuối
tuần, tháng, cuối tháng.
- Phụ trương: là trang tăng thêm ngoài số trang quy định của báo và được phát
hành cùng số báo chính.
- Đặc san: là ấn phẩm có tính chất báo chí xuất bản không định kỳ tập trung vào
một sự kiện, một chủ đề.
* Thông tin: là nội dung được thể hiện trên báo chí băng chữ viết, tiếng nói, âm
thanh, hình ảnh hoặc đồ hoạ.
* Cơ quan chủ quản báo chí: là tổ chức đứng tên xin cấp giấy phép hoạt động
báo chí và trực tiếp quản lý cơ quan báo chí.
Cơ quan chủ quản báo chí có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây.
1- Xác định, chỉ đạo thực hiện tôn chỉ mục đích, đối tượng phục vụ và
phạm vi phát hành chủ yếu, công suất, thời gian, tần số, phạm vi toả sóng, ngôn
ngữ thể hiện được quy định trong giấy phép.
2- Chỉ đạo cơ quan báo chí thực hiện nhiệm vụ, phương hướng và kế
hoạch hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí.
3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức người đứng đầu cơ quan báo chí trực
thuộc sau khi trao đổi ý kiến với cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí.
4- Kiểm tra hoạt động của cơ quan báo chí.
5- Tạo điều kiện cho cơ quan báo chí hoạt động.
6- Chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình đối với các sai phạm của cơ quan báo chí trực thuộc[84, tr.14].
* Cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý về báo chí bao gồm:
- Cơ quan chỉ đạo về báo chí ở Trung ương là Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung
ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương); cơ quan chỉ đạo về báo chí ở địa phương là
Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ.
- Cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở Trung ương là Bộ Văn hoá - Thông tin
(nay là Bộ Thông tin và Truyền thông); cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương
là Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
1.1.2. Khái niệm về lãnh đạo công tác báo chí
* Lãnh đạo: là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện [92,
tr.540].
*Lãnh đạo cơ quan báo chí: tổng biên tập, phó tổng biên tập, tổng giám đốc,
phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc cơ quan báo chí.
* Định hướng chính trị, tư tưởng trong nội dung thông tin trên báo chí: là
hoạt động của cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí nhằm định hướng, chỉ đạo các cơ quan
báo chí thông tin đúng đắn, chính xác, kịp thời các vấn đề chính trị, tư tưởng theo quy
định của pháp luật và quy định của Đảng, phù hợp lợi ích của đất nước, của Đảng.
* Quan điểm chỉ đạo của Đảng
- Quan điểm: là điểm xuất phát quy định phương hướng suy nghĩ, cách xem xét và
hiểu các hiện tượng, các vấn đề; là cách nhìn, cách suy nghĩ; ý kiến.
- Chỉ đạo: Hướng dẫn cụ thể, theo một đường lối, chủ trương nhất định.
Như vậy, các quan điểm chỉ đạo của Đảng về báo chí là cách nhìn, cách nghĩ có
tính chất xuất phát điểm của Đảng về lĩnh vực báo chí, nhằm để hướng dẫn cụ thể công
tác báo chí theo đường lối, chủ trương của Đảng trong từng thời kỳ.
- Nội dung chỉ đạo: bao gồm chỉ đạo nhận thức, tư tưởng và chỉ đạo hoạt động
thực tiễn.
Về nhận thức, Đảng chỉ đạo các cấp uỷ, cán bộ, phóng viên và nhân dân nhận
thức đúng vai trò, vị trí, tầm quan trọng, chức năng, nhiệm vụ của báo chí. Về tư tưởng,
Đảng chỉ đạo thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân, quán triệt sâu sắc trong tất
cả các hoạt động của báo chí cách mạng và nguyên tắc Đảng trực tiếp lãnh đạo báo chí.
Về hoạt động thực tiễn, Đảng giao nhiệm vụ cho các cấp uỷ, các cơ quan chủ
báo chí, cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí thực hiện và kiểm tra việc thực hiện sự chỉ
đạo của Đảng đối với báo chí ở những định hướng cụ thể trong từng giai đoạn cách
mạng cụ thể.
* Phương thức lãnh đạo của Đảng
Xuất phát từ tình hình, nhiệm vụ cụ thể của Đảng và căn cứ vào bối cảnh trong
nước và quốc tế, Đảng ta luôn có những phương thức lãnh đạo báo chí phù hợp với đặc
điểm, nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ đó.
Phương thức là phương pháp và hình thức tiến hành; còn phương pháp là cách
thức tiến hành công việc, hoạt động của con người và tổ chức do con người lập ra nhằm
đạt hiệu quả cao. Khi điều kiện vật chất, bao gồm cả vật chất dưới dạng xã hội, hạ tầng
cơ sở có sự thay đổi, thì phương thức tiến hành cũng có sự thay đổi. Với ý nghĩa đó
phương thức lãnh đạo của Đảng là phương pháp và hình thức tiến hành lãnh đạo của
Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng phụ thuộc trước hết vào vị trí của Đảng trong xã
hội. Đồng thời luôn phát triển theo sự phát triển của hệ thống chính trị, sự trưởng thành
của đội ngũ cán bộ trong mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể. Cùng với công tác tổ chức và
cán bộ, phương thức lãnh đạo của Đảng hợp thành nội dung chủ yếu của công tác xây
dựng Đảng.
* Đảng lãnh đạo công tác báo chí
Đảng lãnh đạo công tác báo chí là trực tiếp và toàn diện. Nhưng khái quát lại
gồm ba nội dung cơ bản là các hoạt động vạch ra chiến lược phát triển và định hướng
thông tin, tuyên truyền; công tác tổ chức cán bộ; hoạt động kiểm tra, uốn nắn kịp thời
những sai lầm, lệch lạc.
1.2. Sự lãnh đạo của đảng đối với công tác báo chí
1.2.1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là tất yếu khách quan
Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí cách mạng, trước hết xuất phát từ vai trò
của báo chí đối với sự nghiệp cách mạng.
Báo chí ra đời trước khi Đảng Cộng sản ra đời. Khi chuẩn bị thành lập Đảng,
những nhóm cách mạng thường lập ra tờ báo để tuyên truyền chủ trương cách mạng của
mình và tập hợp lực lượng dẫn đến sự ra đời của Đảng như: tờ báo Tia lửa ra đời 1902,
đã tập hợp lực lượng để ra đời Đảng Xã hội Dân chủ Nga 1903. Tờ báo Thanh niên ra
đời 6/1925 để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam 2/1930. Sau khi
Đảng Cộng sản ra đời, đã củng cố tờ báo vì đó là tiếng nói của Đảng, là sợi dây liên hệ
giữa Đảng với giai cấp công nhân và là vũ khí đấu tranh đầu tiên của giai cấp vô sản
trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, đối với mỗi Đảng vô sản
thì việc lập ra tờ báo hàng ngày là mốc quan trọng đầu tiên để tiến lên phía trước. Từ trận địa
ban đầu đó, Đảng sẽ tiến hành cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản.
Là người sáng lập học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, C. Mác và ăngghen
cũng đã vạch ra quan hệ của báo chí với chính trị là sự gắn bó của báo chí với đường lối
chính trị và tổ chức của Đảng vô sản. Báo chí cách mạng dứt khoát phải trung thành và
thể hiện đường lối, quan điểm của Đảng, góp phần thực hiện có hiệu quả đường lối,
quan điểm đó trong thực tiến cuộc sống, tư tưởng của Đảng thông qua báo chí biến
thành tư tưởng của quần chúng.
Theo Mác và Ăng-ghen “Nhiệm vụ của báo Đảng là gì? Trước tiên là tiến hành
những cuộc thảo luận, chứng minh, phát triển và bảo vệ những đòi hỏi của Đảng, bác bỏ
và lật đổ những tham vọng và những luận điểm của phe thù địch” [66, tr.77]. Báo chí
phải làm sáng tỏ nguyên nhân sự áp bức của giai cấp tư sản với giai cấp vô sản; Đảng
phải tiến hành các phương pháp cách mạng như thế nào và Đảng phải liên hợp với các
tổ chức khác ra sao trong cuộc đấu tranh đó? v.v..
Báo chí phải “sống trong nhân dân và trung thực chia sẻ với nhân dân niềm hy
vọng và sự lo lắng của họ, tình yêu và lòng căm thù của họ, niềm vui và nỗi buồn của
họ” [65, tr.223]. Báo chí cách mạng phải hiểu sâu sắc cuộc sống của nhân dân, thể hiện
đúng “những tư tưởng và tình cảm hàng ngày của nhân dân đang suy nghĩ thật sự theo
cách của nhân dân” [65, tr.223].
C. Mác đã phân tích bản chất của tự do báo chí thể hiện ở sự “dũng cảm, có lý
tính, có đạo đức của tự do” [64, tr.79]; “nhưng bản thân tự do báo chí không bao giờ là
sự hoàn thiện” [65, tr.56], “nếu tự do báo chí là tất cả sẽ làm cho tất cả những chức năng
còn lại của nhân dân, thậm chí cả bản thân nhân dân nữa, sẽ trở nên thừa” [65, tr.56].
V.I. Lênin kế thừa và phát triển tư tưởng đó của Mác-ăngghen. Người chỉ rõ:
Điểm xuất phát của hoạt động, bước thực tiễn đầu tiên để tiến tới thành
lập cái tổ chức mong muốn, và cuối cùng sợi dây chính mà nếu nắm được nó thì
chúng ta sẽ có thể không ngừng phát triển, củng cố và mở rộng tổ chức ấy, phải
là việc thành lập tờ báo chính trị toàn Nga. Chúng ta cần trước hết là tờ báo,
không có nó thì không thể tiến hành được một cách có hệ thống cuộc tuyên
truyền, cổ động hết sức có nguyên tắc và toàn diện [53, tr.10].
Báo chí góp phần thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, phương pháp hành
động, thức tỉnh quần chúng nhằm đạt được mục đích, khắc phục những thiếu sót trong
hoạt động của người cộng sản. V.I.Lênin cho rằng, tờ báo không chỉ có vai trò phổ biến
tư tưởng, giáo dục chính trị, mà còn thu hút các đồng minh; tờ báo “không những là
người tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể mà còn là người tổ chức tập thể” [54,
tr.210]. Đọc, phát hành rộng rãi các tờ báo cách mạng tức là đã ủng hộ cách mạng, tiếp
thu tư tưởng của Đảng. Báo chí cách mạng càng phát hành rộng rãi càng chứng tỏ khả năng
của một người tổ chức tập thể. Theo V.I.Lênin, muốn xây dựng các tổ chức chính trị mạnh
mẽ thì không có phương tiện nào khác hơn là một tờ báo cho toàn nước Nga.
Tờ báo là diễn đàn tư tưởng, dựa vào nó phong trào cách mạng không ngừng
phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Tờ báo “giống như bộ phận của cái bể khổng lồ
thổi một tia lửa của cuộc đấu tranh giai cấp và của sự phẫn nộ trong nhân dân bùng lên
thành một đám cháy chung” [54, tr.218]. Vai trò tổ chức của tờ báo không chỉ thể hiện
tư tưởng chỉ đạo và các phương pháp tổ chức, mà ngay việc phát hành báo cũng là cơ sở
tạo ra mối liên hệ giữa các địa phương, từ đó thúc đẩy công tác tổ chức của Đảng đạt tới
quy mô ngày càng rộng lớn hơn, từ thành thị tới các vùng nông thôn.
Trong điều kiện chưa có chính quyền, sự thống nhất trong Đảng và trong các tổ
chức cách mạng về chính trị, tư tưởng và tổ chức giữ vai trò vô cùng quan trọng, có tính
chất quyết định đối với công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo của Đảng với phong trào
cách mạng. Báo chí “là người lãnh đạo tư tưởng của Đảng, phát triển các chân lý về lý
luận, các nguyên lý về sách lược các tư tưởng tổ chức chung, những nhiệm vụ chung
của toàn Đảng trong một thời kỳ này hay một thời kỳ khác” [55, tr.8].
V.I.Lênin cho rằng, trong thời kỳ đầu, báo chí là một cơ quan lãnh đạo, thậm chí
là cơ quan lãnh đạo thứ nhất, cùng với Ban chấp hành trung ương - cơ quan lãnh đạo
thứ hai, trong đó, “cơ quan thứ nhất phải lãnh đạo tư tưởng” [55, tr.8]. Sự thống nhất về
tư tưởng trong Đảng, bắt đầu từ cơ quan báo chí của Đảng là điều kiện đầu tiên tiến tới
thống nhất về mặt tổ chức.
Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, đối mặt với mạng lưới báo chí tư sản,
báo chí vô sản không chỉ làm nhiệm vụ thông tin các sự kiện, mà qua đó hướng dẫn
quần chúng tạo nên sự kiện có lợi cho cách mạng. Từ thông tin qua báo chí mà đoàn kết
mọi lực lượng. Báo chí vô sản vừa truyền bá, vừa góp phần xây dựng và củng cố hệ tư
tưởng Mác-Lênin làm cho hệ tư tưởng đó giữ vai trò chủ đạo trong xã hội.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vai trò của báo chí tiếp tục tăng lên theo tiến
trình phát triển của cách mạng. Báo chí vẫn tiếp tục thực hiện các chức năng tuyên
truyền, cổ động và tổ chức, là vũ khí tư tưởng mạnh mẽ nhất của Đảng. Dù nội dung
phản ánh, đối tượng tuyên truyền của báo chí có sự thay đổi nhưng báo chí phải trở
thành cơ quan giáo dục chính trị và kinh tế cho quần chúng, là người tuyên truyền cái
mới, tiên tiến nảy sinh từ sự sáng tạo của quần chúng.
Phải làm công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Báo chí phải giới thiệu
hết sức tỉ mỉ những thành công của công tác xã hội kiểu mẫu; phải nghiên cứu
những nguyên nhân thành công, những phương pháp làm việc và quản lý của các
công xã đó; mặt khác, báo chí đưa lên “bảng đen” những công xã nào cứ khư khư
những “truyền thống của chủ nghĩa tư bản”, nghĩa là những truyền thống vô
chính phủ, lười biếng, vô trật tự, đầu cơ…[59, tr.234].
Mỗi khi nhiệm vụ chính trị của cách mạng thay đổi, báo chí cũng phải thay đổi
cho phù hợp với nhiệm vụ mới của cách mạng. Báo chí không chỉ dừng ở các vấn đề
chính trị chung mà phải nói nhiều đến xây dựng đời sống mới, đến những sự việc luôn
xảy ra trong lĩnh vực đó. Khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào xây
dựng xã hội mới thì báo chí “có thể và cần phải nói rất ngắn gọn” [60, tr.107].
Từ vai trò của báo chí đối với sự nghiệp cách mạng, chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng
định: Đảng phải lãnh đạo báo chí; đó là nguyên tắc và gắn liền với tính đảng của báo chí
cách mạng. Tính đảng của báo chí cách mạng do mục đích, chức năng và vai trò của báo
chí cách mạng quy định. Tính đảng đòi hỏi báo chí cách mạng phải phục vụ nhiệm vụ
chính trị, xây dựng con người mới, văn hoá mới và phải đấu tranh kiên quyết chống các
tư tưởng thù địch, phản động, đấu tranh không khoan nhượng với các hiện tượng tiêu
cực trong xã hội.
Tính đảng của báo chí cách mạng thể hiện trước hết ở sự nghiệp báo chí phải là
một bộ phận trong sự nghiệp của giai cấp vô sản, do đội tiền phong của giai cấp công
nhân lãnh đạo; bên cạnh đó, sự nghiệp báo chí phải thành một bộ phận khăng khít của
công tác tổ chức, có kế hoạch thống nhất của Đảng, gắn bó mật thiết với công tác khác
do Đảng lãnh đạo; mặt khác, các nhà báo nhất thiết phải tham gia các tổ chức của Đảng
và do Đảng lãnh đạo.
Báo chí phải trở thành các cơ quan của các tổ chức của Đảng. Các nhà văn
nhất thiết phải tham gia các tổ chức của Đảng. Các nhà xuất bản và các kho sách,
các hiệu sách và các phòng đọc sách, các thư viện và các nơi bán sách báo, tất cả
những cái đó đều phải thành của Đảng, chịu trách nhiệm trước Đảng [58, tr.123 -
124].
Báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị của giai cấp vô sản, luôn gắn với tổ chức của
Đảng. Báo chí cách mạng không bao giờ và không thể là phương tiện trong tay một cá
nhân hoặc một nhóm người. Nó “không thể là sự nghiệp cá nhân độc lập với sự nghiệp
chung của giai cấp vô sản”, nó “phải thành một bộ phận trong sự nghiệp của toàn thể
giai cấp vô sản” [58, tr.123]. Theo V.I.Lênin:
Mỗi cá nhân có quyền tự do viết và nói tất cả những gì họ muốn, không có
một chút hạn chế nào. Nhưng mỗi đoàn thể tự do (trong số đó kể cả Đảng) cũng
được tự do đuổi những phần tử lợi dụng chiêu bài Đảng để tuyên truyền quan
điểm chống Đảng… Đảng là một khối tự nguyện, nếu như nó không tẩy sạch
khỏi bản thân nó những đảng viên tuyên truyền quan điểm chống Đảng, thì nó
không thể tránh khỏi tan rã, trước tiêu tan rã vê tư tưởng, sau sẽ tan rã cả về vật
chất [58, tr.125].
Trong xã hội có giai cấp, Lênin khẳng định, không thể có thứ tự do tuyệt đối như
giai cấp tư sản thường rêu rao hòng lừa bịp quần chúng. Vấn đề đặt ra là: “Hãy xem đó
là thứ tự do báo chí nào? để làm gì? cho giai cấp nào?” [63, tr.96]. Về cái gọi là tự do
báo chí tư sản, Lênin vạch rõ: Trong các nước tư bản, tự do báo chí là tự do mua chuộc
các nhà báo để tạo “dư luận” có lợi cho giai cấp tư sản. Trong điều kiện có chính quyền,
nếu tự do báo chí không xuất phát từ tính Đảng Cộng sản thì chỉ đưa đến các hệ quả là
“tăng cường lực lượng của giai cấp tư sản thế giới”, không những không giúp loại trừ
khỏi Đảng các nhược điểm, các sai lầm, các tai hoạ, các bệnh tật; trái lại, “trở thành một
vũ khí trong tay giai cấp tư sản” [63, tr.98].
Tính nhân dân của báo chí cách mạng biểu hiện ở mối liên hệ giữa báo chí với
đông đảo tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động - người sáng tạo chân chính của
lịch sử. Báo chí phải phản ánh, đánh giá các hiện tượng và sự kiện của đời sống theo lập
trường của nhân dân lao động, đại diện và bảo vệ cho quyền lợi của nhân dân, trực tiếp
tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân vì sự công bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tính nhân dân không hề mâu thuẫn mà thống nhất với tính đảng của báo chí.
Trong hoạt động báo chí, những tác phẩm thông tin, lý giải các sự kiện nóng hổi, những
vấn đề sát sườn đặt ra từ đời sống dưới ánh sáng đường lối, quan điểm của Đảng vô sản,
phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân trở thành những tác phẩm gây được
tiếng vang lớn, có hiệu quả cao, được đông đảo quần chúng lao động đồng tình.
Tính nhân dân, tính đại chúng và bản chất dân chủ của báo chí thể hiện ở sự tham
gia tích cực và thường xuyên của đông đảo nhân dân vào các hoạt động báo chí. Lênin
quan niệm rằng: một tờ báo sống được và trở nên sinh động khi nó có chừng năm người
viết và người biên tập chuyên nghiệp giỏi, nhưng đồng thời phải có năm trăm, thậm chí
năm nghìn cộng tác viên không chuyên nghiệp. Chính sự tham gia đó của quần chúng
nhân dân làm cho báo chí thực sự trở thành diễn đàn dân chủ để người dân phát biểu
những tâm tư, nguyện vọng, cung cấp các sáng kiến, thực hành quyền dân chủ. Mặt
khác, sự tham gia của quần chúng làm cho thông tin báo chí sinh động hơn, kịp thời và
sát với cuộc sống hơn.
Tính nhân dân còn thể hiện ở nghệ thuật biểu hiện của báo chí: báo chí cách
mạng phải phù hợp với trình độ hiểu biết của quảng đại quần chúng nhân dân. Lênin coi
việc biết viết, biết nói một cách giản dị, sáng sủa bằng ngôn ngữ của nhân dân, bỏ đi
kiểu “thuật ngữ uyên thâm thời thượng”, những từ nước ngoài mà quần chúng không
hiểu, những khẩu hiệu rỗng tuếch và xa lạ với quần chúng là đòi hỏi nghiêm ngặt đối
với báo chí cách mạng.
Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về báo chí vô sản,
Hồ Chí Minh đã sáng lập ra báo chí cách mạng Việt Nam. Từ tờ báo đầu tiên - báo
“Thanh niên” - Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho sự ra đời nền báo chí cách mạng Việt
Nam và giúp báo chí cách mạng Việt Nam thể hiện đầy đủ các vai trò là người tuyên
truyền, người cổ động tập thể và người tổ chức tập thể với tính thần chiến đấu rất cao.
Người coi báo chí là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là vũ khí sắc bén
trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và xây dựng cuộc sống mới cho
nhân dân. Người làm báo là để làm cách mạng và để làm cách mạng Người đã trở thành
một nhà báo. Theo Người, báo chí chúng ta chỉ có một đề tài xuyên suốt là: “chống thực
dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội” [74, tr.419]. Ngoài ra, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Báo chí của ta thì cần phục vụ nhân
dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà, cho hoà bình thế giới”. Do đó, báo chí của ta phải có đường lối chính trị
đúng, vì có đường lối chính trị đúng thì các nội dung và hình thức thể hiện của báo chí
mới đúng được. Trên cơ sở đường lối chính trị đúng, báo chí phải đi tiên phong trong
đấu tranh không khoan nhượng với những gì đi ngược lại quy luật của lịch sử, vạch trần
tính chất phản động, giả dối, bịp bợm của kẻ thù của dân tộc. “Đối với những người viết
báo chúng ta, cây bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng” [76, tr.444]. Tính
chiến đấu không chỉ nhằm tiến công vào kẻ thù của cách mạng, mà còn biểu dương
những tấm gương tiêu biểu trong chiến đấu và lao động để cổ vũ mọi người hăng hái
tham gia cách mạng.
Người đề nghị báo có mục “ý kiến bạn đọc”, coi ý kiến bạn đọc là những ý kiến
đấu tranh. Cái mới đấu tranh với cái cũ, cái tốt đấu tranh với cái không tốt. Trong biểu
dương, phải rút ra được kinh nghiệm có ý nghĩa phổ biến, phê bình phải cụ thể rõ ràng.
Phê bình và tự phê bình là biện pháp tăng cường tính chiến đấu, vì “phê bình và tự phê
bình là vũ khí rất cần thiết và rất sắc bén, giúp chúng ta sửa chữa sai lầm và phát triển
ưu điểm. Vì khéo lợi dụng nó mà Đảng ta và nhân dân ta ngày càng tiến bộ, đối với báo
chí cũng vậy” [75, tr.614].
Khi có đường lối chính trị đúng, người làm báo là người thực hiện và là nhân tố
chính đảm bảo tính chiến đấu của báo chí, vì “nói đến báo chí trước hết phải nói đến
những người làm báo chí”[74, tr.412]. Đối với người làm báo cách mạng, “cây bút,
trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”, do đó họ là “chiến sĩ cách mạng” [75, tr.616]. Hồ
Chí Minh đòi hỏi những người làm báo phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách
mạng, trau dồi tư tưởng, học tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động, phải luôn nâng cao
trình độ văn hoá, rèn giũa nghiệp vụ, mài sắc ngòi bút của mình trong sự nghiệp cách
mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở những người làm báo, khi viết phải trả
lời rõ: “Viết cho ai xem ? Viết để làm gì ?”[72, tr.545]; “Vì ai mà viết ? Mục đích viết
làm gì ?”[70, tr.443]. Những câu hỏi Người đặt ra chính là đòi hỏi báo chí phải xác định
rõ đối tượng tiếp nhận thông tin. Việc xác định đó nhằm hình thành phương pháp sáng
tạo phù hợp cho nhà báo.
Người chỉ rõ: “đối tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng”[70, tr.443]. Vì vậy,
cách viết bài báo phải đơn giản, dễ hiểu, ngôn ngữ phải trong sáng, tránh dùng từ nước
ngoài… Việc xác định đúng đối tượng phục vụ của báo chí cũng có nghĩa là nhà báo
phải biết chọn lựa những nội dung gì nên viết, cái gì không nên viết. Viết “phục vụ nhân
dân” thì nhất định phải chọn cái gì có lợi cho dân và phục vụ cách mạng . Mặt khác, viết
“phục vụ nhân dân” thì phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến nhân dân và học tập
nhân dân. Đó là một tiền đề để thành công, bởi không riêng gì viết sách, viết báo, mà
công tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến của nhân dân”[73, tr.661].
Báo chí vì cách mạng, vì nhân dân - đó vừa là mục đích, vừa là điều kiện, vừa là
tiêu chuẩn đạo đức trong hoạt động báo chí; đó cũng là tính đảng của báo chí, là biểu
hiện sự trung thành của báo chí đối với Đảng, là cống hiến của báo chí vào sự nghiệp vĩ
đại của Đảng. Về phần mình, hướng dẫn để báo chí và đội ngũ các nhà báo thực hiện đắc
lực cho cách mạng, phục vụ tốt nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân tức là Đảng đã làm tốt
vai trò lãnh đạo báo chí.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: Báo chí phục vụ ai ? Đằng sau lời chỉ dẫn của
Người: báo chí của ta phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ cho đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho hoà bình thế giới
là nguyên tắc: Đảng phải lãnh đạo báo chí. Đảng lãnh đạo báo chí, theo Người, quan
trọng nhất là Đảng phải làm cho tất cả những người làm báo có “lập trường chính trị
vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới
đúng được”[72, tr.414].
Muốn có đóng góp tích cực nhất vào công cuộc phấn đấu của toàn dân tộc cho
mục tiêu cao cả đó, báo chí phải tự giác phục tùng và tranh thủ tối đa sự lãnh đạo của
Đảng. Điều đó đảm bảo cho báo chí hoàn thành sứ mệnh của mình và bản thân Đảng
càng trưởng thành hơn trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Báo chí chỉ đúng về chính
trị khi nó được lãnh đạo của một đảng, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, một
đảng mang bản chất của giai cấp công nhân và gắn bó mật thiết với dân tộc, với nhân
dân.
Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn đặt
báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng và coi báo chí là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng trong
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH.
Ngay từ buổi đầu, Đảng ta đã nhận thức đúng đắn về vai trò của báo chí trong
việc thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ thực dân,
phong kiến, báo chí luôn là thứ vũ khí, phương tiện vô cùng lợi hại trong việc truyền bá
tư tưởng, tập hợp lực lượng, động viên, cổ vũ nhân dân tham gia đấu tranh cách mạng.
Tại Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930, Đảng ta đã nhận định: “Bây
giờ phong trào cộng sản trong Đông Dương đã bắt đầu bành trướng, nhưng mục đích
của Đảng chưa phổ thông trong quảng đại quần chúng, Đảng phải làm cho ngày càng
đông đảo quần chúng biết mục đích của Đảng”[39, tr.127].
Phong trào xuất bản và lưu hành báo chí công khai thời kỳ 1936-1939 đã tổ chức
được mặt trận đấu tranh công khai và rộng lớn trên lĩnh vực báo chí là một thắng lợi lớn
của Đảng. Đặc biệt, sau Đề cương văn hoá năm 1943, Đảng luôn coi báo chí là phương
tiện tiến hành công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, vũ khí sắc bén trong đấu
tranh giải phóng dân tộc và góp phần to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975).
Bước vào thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta càng nhận thức đầy
đủ hơn về vai trò của báo chí. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(12/1986), xác định: Sách, báo là công cụ rất quan trọng trên mặt trận tư tưởng, góp
phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Do
đó cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với công tác
báo chí và xuất bản.
Chỉ thị 08-CT/TW ngày 31-3-1992 của Ban Bí thư (BBT) khoá VII về tăng
cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí
xuất bản nhấn mạnh: “Báo chí, xuất bản dù là cơ quan của Đảng, của Nhà nước, của các
đoàn thể quần chúng hay của tổ chức xã hội đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và hoạt
động theo pháp luật”[32, tr.2].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí mới có thể làm tròn trách nhiệm làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh
thần xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị và định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đồng thời báo chí thực hiện được vai trò vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà
nước, của các đoàn thể, vừa là diễn đàn của nhân dân. Do vậy, báo chí phải hoạt động theo định hướng của Đảng, tham gia tích cực vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng và mục
tiêu phấn đấu của Đảng, của nhân dân ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bên
cạnh đó, báo chí là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hoá, là công cụ thông
tin nhanh nhất, phổ cập nhất, là phương tiện thường xuyên tiếp xúc với nhân dân và giải
đáp những vấn đề mới do cuộc sống đặt ra, đấu tranh hàng ngày, hàng giờ chống những âm mưu, thủ đoạn đen tối của các thế lực thù địch, chống các khuynh hướng tư tưởng
sai lầm, góp phần tổ chức, phát động phong trào hành động cách mạng của nhân dân.
Đây vừa là vinh dự, vừa là trách nhiệm của báo chí. Để xứng đáng với vinh dự và làm
tròn trách nhiệm đó, báo chí phải hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích của mình, nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Hoạt động báo chí phải
hướng vào mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, từng bước
xây dựng con người mới, lối sống mới, làm cho những nguyên lý cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Chỉ có hoàn thành chức năng trên, báo chí mới thật sự xứng đáng là đội quân
xung kích trên mặt trận tư tưởng và văn hoá, là chỗ dựa tin cậy của Đảng và của nhân
dân.
Kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là đòi hỏi khách quan:
Một là, từ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Báo chí là vũ khí, phương tiện vô cùng lợi hại trong việc truyền bá tư tưởng, tập
hợp lực lượng, động viên, cổ vũ nhân dân tham gia đấu tranh giành độc lập dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam có vai trò cực kỳ to lớn
của công tác tư tưởng của Đảng, trong đó báo chí là một công cụ sắc bén, hữu hiệu.
Đảng và nhân dân ta đang nỗ lực phấn đấu bảo vệ và xây dựng đất nước Việt
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Để đạt được mục tiêu đó, công tác tư tưởng phải đi trước một bước,
trong đó báo chí giữ vai trò xung kích. Báo chí phải góp phần đắc lực vào việc làm cho
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và giữ
vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của cả xã hội; báo chí phải tích cực tham gia
vào tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về con đường đi lên CNXH ở nước ta, làm
cho cán bộ, đảng viên và quần chúng tin vào đường lối đổi mới, tin vào sự thắng lợi tất
yếu của chủ nghĩa xã hội.
Sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo báo chí là điều kiện quan trọng để báo chí
khơi dậy được nhiệt tình cách mạng, sức sáng tạo và tiềm năng trí tuệ to lớn của nhân
dân, tổng kết các kinh nghiệm phong phú, sinh động từ thực tiễn để góp phần hoàn thiện
đường lối, chính sách của Đảng. Sự nghiệp đổi mới chỉ đạt được thắng lợi khi đông đảo
quần chúng nhân dân giác ngộ và nhận thức đầy đủ đường lối của Đảng; sự huy động và
tổ chức chặt chẽ các phong trào cách mạng phụ thuộc rất nhiều vào công tác tư tưởng
của Đảng, trong đó báo chí giữ vai trò quan trọng. Đảng lãnh đạo báo chí chính là để
phát huy vai trò đắc lực của một công cụ tư tưởng trong sự nghiệp cách mạng do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo.
Cách mạng nước ta đang đứng trước cả những thời cơ và thách thức to lớn. Bốn
nguy cơ đã được Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (1/1994), Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng khẳng định không những không giảm đi, mà có phần gay gắt hơn.
Đặc biệt, gần đây các thế lực thù địch ngày một gia tăng thực hiện “diễn biến hoà bình”,
hòng phá hoại sự ổn định chính trị, trật tự của xã hội ta, chống phá sự nghiệp xây dựng
CNXH và sự lãnh đạo của Đảng ta. Kinh nghiệm cho thấy, lợi dụng chiêu bài tự do báo
chí, các thế lực phản động đã khuyến khích báo chí ở Liên Xô và các nước Đông Âu bắt
đầu bằng phê phán lịch sử và phủ nhận hiện tại, tạo ra sự hoài nghi trong ý thức của
quần chúng, hậu quả kết cục là chế độ XHCN sụp đổ. Bài học đó cho thấy rõ rằng, sự
lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là nguyên tắc, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển
xã hội.
Hai là, Báo chí có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
Nếu như trong quá trình tiến tới thành lập một chính đảng vô sản trước hết phải
có một tờ báo, thì trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của Đảng, báo chí có trách
nhiệm và có điều kiện góp phần nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng, giữ vững mối quan
hệ giữa Đảng với nhân dân và làm cho Đảng luôn trong sạch và vững mạnh. Thông qua
việc phản ánh các vấn đề cần giải quyết, các sáng kiến của đảng viên và nhân dân, các
kết quả nghiên cứu lý luận và khoa học xã hội, các kinh nghiệm nước ngoài, báo chí
giúp Đảng “phát triển các chân lý về lý luận, các nguyên lý về sách lược, các tư tưởng
tổ chức chung, những nhiệm vụ chung của toàn Đảng trong một thời kỳ này hay một
thời kỳ khác”[55, tr.8]. Tiếp theo, việc phát hành rộng rãi báo chí tạo ra những mối liên
hệ thực tế, trực tiếp giữa Đảng với các tầng lớp nhân dân, đảm bảo việc trao đổi ý kiến,
kinh nghiệm giữa các tổ chức đảng và đảng viên. Chung quanh tờ báo sẽ là “một đạo
quân thường trực những chiến sĩ lão luyện sẽ được tuyển lựa và đào tạo một cách có hệ
thống”[54, tr.218].
Đảng ta chỉ rõ, báo chí “đã góp phần nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, cổ vũ
những điển hình tốt, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh lý luận,
chống âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch”[37, tr.1].
Đồng thời, với tư cách “tiếng nói của Đảng”, báo chí đã làm cho nhân dân tin vào Đảng
và thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng. Đảng mang trong mình bản chất cách
mạng và khoa học, với bản chất đó, Đảng trở thành bộ phận tiên tiến nhất, Đảng là trí tuệ,
lương tâm, danh dự, là đội tiền phong chiến đấu, là đội quân có kỷ luật nhất. Tuy nhiên, để
có được điều đó phải trải qua quá trình tự phấn đấu, tự hoàn thiện mình thông qua hoạt
động và sự kiểm nghiệm của thực tiễn. Trước hết Đảng phải làm tốt công tác tư tưởng
ngay trong nội bộ Đảng, công việc đó cần có sự góp sức của báo chí. Đảng lãnh đạo báo chí
không gì khác là để báo chí trở vũ khí tuyên truyền, giáo dục giúp cho Đảng ngày càng có
trí tuệ và cách mạng hơn, xứng đáng là đội tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động.
Để tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh, báo chí có điều kiện và trách nhiệm nâng cao hiểu biết, nắm vững đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, học tập kinh nghiệm tốt của các tổ chức đảng và
đảng viên, tránh mắc sai lầm, khuyết điểm. Thông qua những tiếng nói tâm huyết, nhiệt
tình cách mạng trên báo chí mỗi đảng viên củng cố thêm lập trường, ý chí, quyết tâm.
Cùng với sinh hoạt trong các tổ chức đảng, qua báo chí, từng đảng viên gắn bó với
đảng, với đội ngũ những người tiên tiến trong cuộc phấn đấu vì mục tiêu cao cả độc lập
dân tộc và CNXH, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu và các biểu hiện tiêu cực xã hội. Là
công cụ thực hiện dân chủ, báo chí là nơi để cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng
nhân dân đóng góp ý kiến với Đảng, phê phán các tổ chức đảng có sai phạm, vạch mặt
những đảng viên thoái hoá, biến chất. Tăng cường phê bình và tự phê bình trên báo chí
là một cách tốt để tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng… Tuy nhiên, đây là
vấn đề khá phức tạp, đôi khi là tế nhị. Nếu không được lãnh đạo, định hướng, rất có thể
báo chí rơi vào đấu tranh, phê phán một cách cực đoan, không chính xác, gây hoang
mang trong dư luận xã hội, bị kẻ xấu lợi dụng. Đưa tin về hiện tượng tiêu cực gì, mức
độ ra sao, đưa vào thời điểm nào, phân tích và bình luận sự việc đến đâu… phải được
cân nhắc kỹ, nếu không sẽ “lợi bất cập hại”.
Vì vậy, Đảng phải lãnh đạo chặt chẽ, thường xuyên báo chí để báo chí thực sự là
“tiếng nói của Đảng”, đồng thời là “diễn đàn của nhân dân”, để thực hiện toàn dân xây
dựng Đảng.
Ba là, Đảng lãnh đạo báo chí là xuất phát từ nhu cầu của bản thân sự phát triển
báo chí.
Đảng lãnh đạo báo chí không phải để hạn chế, trái lại cốt để báo chí thực hiện và
hoàn thành tốt các chức năng của mình. Trong điều kiện một Đảng cầm quyền, sự lãnh
đạo của Đảng chính là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho báo chí hoạt động.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhu cầu nội tại của chính báo chí, vì nhờ đó Đảng giúp
cho báo chí nắm vững và bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời kỳ,
những trọng tâm công tác chính của Đảng và Nhà nước trong từng thời điểm. Đảng định
hướng cho báo chí xử lý các vấn đề tư tưởng, lý luận, quan điểm mới phát sinh, nhất là
khi có ý kiến khác nhau. Sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo cho báo chí luôn có được lập
trường chính trị đúng trong những tình huống phức tạp của thực tiễn, khi có những
luồng thông tin trái chiều nhau, từ đó hoàn thành tốt chức năng công cụ tư tưởng của
mình. Nếu Đảng không định hướng kịp thời, báo chí sẽ rơi vào thụ động trong công
việc, thậm chí bị mất phương hướng, từ đó xa rời tôn chỉ, mục đích, mất dần bạn đọc, bị
chính độc giả phản đối.
Một trong những cách thức Đảng lãnh đạo, định hướng báo chí là Đảng cung cấp
các thông tin xác thực, toàn diện, cập nhật cần thiết cho công tác tuyên truyền trên báo
chí. Đây là yếu tố hết sức cần thiết, bởi nó chính là sức sống của báo chí cách mạng.
Được Đảng cung cấp thông tin, báo chí sẽ hoàn thành tốt các chức năng thông tin và
tham gia quản lý xã hội, bởi qua báo chí, quần chúng nhân dân biết được đúng “ý Đảng”
từ đó nghe, tin và làm theo Đảng, cũng như đóng góp ý kiến với Đảng, để Đảng với dân
hoà chung một ý chí, thống nhất trong hành động. Thiếu các thông tin chính thống do
Đảng cung cấp, báo chí sẽ không nói lên đúng “tiếng nói của Đảng”, có thể chỉ đưa các
tin tức vụn vặt, phiến diện, sai lệch.
Công tác tư tưởng của Đảng phải phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều binh
chủng trên mặt trận tư tưởng - văn hoá. Báo chí cũng bao gồm nhiều lực lượng, nhiều
kênh truyền thông. Tập hợp, tổ chức tất cả các lực lượng đó thực hiện nhiệm vụ tuyên
truyền chung và phát huy sức mạnh của toàn bộ lực lượng báo chí là công việc và ưu
thế của cơ quan lãnh đạo đảng. Nếu không có sự tổ chức, phối hợp các loại hình của
Đảng để tạo thành một đội quân báo chí thống nhất, tuyên truyền cho nhiệm vụ chung,
sẽ dẫn đến tình trạng chồng chéo, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” trong tuyên truyền,
hiệu quả tuyên truyền không những không cao, thậm chí còn phản tác dụng. Do đó, sức
mạnh của kênh thông tin chỉ được cộng hưởng và phát huy tối đa khi tất cả đều có sự
lãnh đạo của Đảng.
Dựa vào hệ thống tổ chức của Đảng là một điều kiện cơ bản để báo chí phát huy
vai trò của mình trong phê phán các sai phạm của tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán
bộ, đảng viên. Trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực hiện nay báo chí cần có sự hậu
thuẫn của tổ chức đảng, mà thiếu nó, trong không ít trường hợp, thông tin đăng phát trên
báo chí không đem lại sự chuyển biến trong thực tế, mất lòng tin của nhân dân đối với
báo chí.
Có thể thấy rằng, bản thân sự phát triển của báo chí đòi hỏi phải có sự lãnh đạo
của Đảng. Báo chí phát triển càng mạnh càng đòi hỏi tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Hiệu quả hoạt động báo chí phụ thuộc đáng kể vào sự lãnh đạo của Đảng, xa rời sự lãnh
đạo, chắc chắn báo chí sẽ không thể thực hiện đầy đủ chức năng của mình.
Tóm lại, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ Đảng vô sản phải có tờ
báo của mình làm nhiệm vụ truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho quần chúng, thống
nhất về mặt tổ chức những người vô sản, góp phần đắc lực vào việc xây dựng và hoàn
thiện đảng cộng sản. Sự liên hệ và gắn bó giữa báo chí cách mạng với hoạt động và tổ
chức đảng là tiền đề cho sự ra đời, tồn tại, phát triển của báo chí. Báo chí phải trở thành
những cơ quan của các tổ chức đảng, là bộ phận của cuộc đấu tranh cách mạng của giai
cấp vô sản do Đảng lãnh đạo, là bộ phận khăng khít cho hoạt động có tổ chức, có kế
hoạch thống nhất của Đảng. Nhà báo phải tham gia các tổ chức của Đảng và do Đảng
lãnh đạo. Báo chí vô sản phải làm tốt vai trò “người tuyên truyền tập thể, người cổ động
tập thể, người tổ chức tập thể”. Để báo chí vô sản hoàn thành nhiệm vụ và vai trò của nó
thì tất yếu Đảng phải lãnh đạo báo chí.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác-
Lênin về báo chí vô sản. Trong suót quá trình đấu tranh và trưởng thành của Đảng,
Đảng ta luôn đặt báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng, coi báo chí là vũ khí tư tưởng sắc
bén của Đảng và của cách mạng. Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, các đoàn
thể, vừa là diễn đàn của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí không chỉ xuất
phát từ yêu cầu của Đảng mà còn là nhu cầu của báo chí. Được Đảng lãnh đạo báo chí
sẽ hoàn thành tốt vai trò và nhiệm vụ của mình.
1.2.2. Nội dung và phương thức Đảng lãnh đạo công tác báo chí
* Nội dung lãnh đạo
Nội dung lãnh đạo là định hướng mục tiêu, đề ra những nguyên tắc và phương
pháp thực hiện mục tiêu, kiểm tra, giám sát việc thực hiện những nguyên tắc, những
mục tiêu đó.
Đảng lãnh đạo báo chí - xuất bản là nói trên ba mặt: vạch ra chiến lược
phát triển và định hướng thông tin, tuyên truyền; công tác tổ chức cán bộ;
hoạt động kiểm tra, uốn nắn kịp thời những sai lầm, lệch lạc. Ba mặt này có
quan hệ chặt chẽ, làm tiền đề cho nhau, trong đó, xây dựng chiến lược và
định hướng thông tin tuyên truyền là vấn đề cơ bản; công tác tổ chức cán bộ
là khâu then chốt có tính quyết định và việc uốn nắn kịp thời những lệch lạc
là vấn đề cần được quan tâm thường xuyên [12, tr.7].
* Phương thức Đảng lãnh đạo công tác báo chí
Đảng ta là Đảng cầm quyền do vậy Đảng lãnh đạo công tác báo chí là tất yếu
khách quan và rất cần thiết, là nguyên tắc bất di bất dịch.
- Đảng lãnh đạo báo chí trước hết bằng Cương lĩnh chính trị, bằng đường lối,
chủ trương của Đảng.
Đảng lãnh đạo toàn diện, triệt để, nhưng chủ yếu và trước hết vẫn là lãnh đạo
chính trị. Lãnh đạo chính trị là đề ra những mục tiêu chính trị, thể hiện bằng cương lĩnh
chính trị của Đảng, bằng đường lối chung, bằng chiến lược cách mạng trong từng thời
kỳ; hướng báo chí vào việc tuyên truyền, phổ biến đường lối chính trị ấy tới quần chúng
nhân dân, biến nó thành sức mạnh vật chất của toàn Đảng, toàn dân.
Cương lĩnh chính trị (1991) lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, trong đó có hoạt
động báo chí.
- Đảng lãnh đạo bằng hệ thống những quan điểm, chủ trương, giải pháp lớn đối
với công tác báo chí
Trong nghị quyết các kỳ đại hội của Đảng, các hội nghị Trung ương, các bài phát
biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh đạo Đảng ta… đều đánh giá cao
vị trí, vai trò của báo chí trong sự nghiệp cách mạng, chỉ ra những yếu kém trong từng
thời kỳ, những nhiệm vụ và giải pháp lớn cho hoạt động báo chí, không những có ý
nghĩa định hướng chính trị, mà còn là cẩm nang nghiệp vụ, chuyên môn cho các nhà
báo.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta cũng có nhiều nghị quyết, chỉ thị về lĩnh vực
công tác tư tưởng, đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo về công tác báo chí - xuất bản:
Nghị quyết Đại hội VI, VII, VIII, IX, X; các nghị quyết Hội nghị Trung ương; các chỉ
thị, thông báo, thông tri của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, … Đó là Chỉ thị 63-CT/TW của
Ban Bí thư (khoá VI), Chỉ thị 08-CT/TW của Ban Bí thư (khoá VII), Chỉ thị 22-CT/TW
của Bộ Chính trị (khoá VIII), Thông báo kết luận số 162-TB/TW của Bộ Chính trị
(khoá IX), Thông báo kết luận số 41-TB/TW của Bộ Chính trị (khoá X), Thông báo kết
luận số 68-TB/TW của Bộ Chính trị (khoá X)…. là một hệ thống quan điểm, chủ
trương, giải pháp lớn của Đảng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ công tác báo chí.
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí được thể chế hoá bằng Luật Báo chí và
các nghị định… của Nhà nước về báo chí.
Luật Báo chí năm 1999 thể hiện những quan điểm cơ bản của Đảng ta về công
tác báo chí, khẳng định quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của nhân dân, khẳng định
báo chí là “cơ quan ngôn luận của tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội”,
vừa là “diễn đàn của nhân dân”. Luật cũng ghi rõ 5 nhiệm vụ và quyền hạn của người
làm báo; quy định trách nhiệm, quyền hạn của Nhà nước, các tổ chức xã hội, các cá
nhân, trách nhiệm của báo chí phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, quy định
những nội dung quản lý Nhà nước về báo chí, v.v…
Sau Luật Báo chí là những nghị định, nghị quyết của Chính phủ, thông tư hướng
dẫn thi hành của Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông). Đó là
những văn bản dưới luật, thể hiện nhất quán, đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng về
báo chí, cần được thực hiện nghiêm chỉnh. Hội Nhà báo Việt Nam là “tổ chức chính trị -
xã hội - nghề nghiệp tự nguyện của người làm báo Việt Nam. Hội hoạt động dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và quản lý của Nhà nước Việt Nam”. Các chủ
trương, thông tư của Hội, “Quy ước đạo đức nghề nghiệp” do Hội ban hành… cũng thể
hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí.
- Đảng lãnh đạo báo chí thông qua các tổ chức đảng của các cơ quan báo chí
Đó là cấp uỷ đảng, các cơ quan tham mưu của Đảng. Nói Đảng lãnh đạo báo chí
cũng có nghĩa là khẳng định trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, từ trung ương đến địa
phương, thể hiện ở hai mặt: quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện cho báo chí - xuất bản phát
triển; đồng thời theo dõi kiểm tra, uốn nắn kịp thời các khuyết điểm nảy sinh. Trách
nhiệm lãnh đạo trực tiếp đối với từng tờ báo, nhà xuất bản, trước hết thuộc về cơ quan
chủ quản, thuộc về tổng biên tập, thuộc về tổ chức đảng tại nơi đó.
Tổ chức đảng và cấp uỷ các cơ quan báo chí là nơi hiện thực hoá sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác báo chí; là nơi đề ra kế hoạch tuyên truyền cho cơ sở, theo định
hướng của Đảng; nơi kiểm tra, giám sát, uốn nắn những lệch lạc trong công tác thông
tin, tuyên truyền tại cơ sở.
- Công tác tổ chức - cán bộ là khâu then chốt, có tính quyết định trong sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác báo chí.
Đảng lãnh đạo báo chí bằng công tác tổ chức - cán bộ, thể hiện trong việc đề ra
tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo các cơ quan báo chí; bằng những quy định, thủ tục trong việc
quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ; lựa chọn, đề bạt cán bộ phụ trách các cơ quan báo
chí; bằng việc kiểm tra, giám sát, quản lý đội ngũ cán bộ này.
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí còn được thể hiện bằng chính vai trò
gương mẫu của các đảng viên hoạt động trong các cơ quan báo chí.
Trong đội ngũ nhà báo của cả nước hiện nay, có người là đảng viên, có người ngoài
Đảng. Để báo chí làm tròn “trách nhiệm hình thành dư luận xã hội lành mạnh, góp phần
tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng, chính trị và tinh thần trong nhân dân” [37,
tr.3], thì vai trò gương mẫu, đầu tầu của các đảng viên trong các cơ quan báo chí là hết sức
quan trọng. Họ là người đại diện cho Đảng hằng ngày tiếp xúc với quần chúng, nói tiếng
nói của Đảng trong lĩnh vực báo chí và bằng báo chí; là tai, mắt cho Đảng trong hoạt động
báo chí…
“Người hoạt động báo chí - xuất bản phải theo định hướng của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tính chiến đấu cao, phẩm chất đạo đức
trong sáng, kiến thức sâu rộng, trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ ngày một nâng cao, luôn
luôn gắn bó với thực tiễn đất nước” [37, tr.3]. Hơn ai hết, đảng viên trong các cơ quan báo
chí phải là người gương mẫu thực hiện những định hướng đó của Đảng trong hoạt động
báo chí và khi thực hiện điều đó, đảng viên đã thể hiện vai trò lãnh đạo, quản lý của Đảng
đối với báo chí.
* Cơ chế lãnh đạo
Đảng ta là đảng cầm quyền, thực hiện chức năng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà
nước. Nhà nước là bộ máy cai trị, là công cụ quản lý xã hội của giai cấp cầm quyền, còn
Đảng là bộ tham mưu chính trị của giai cấp ấy. Cho nên Đảng lãnh đạo thông qua Nhà
nước là tất yếu. Đảng cầm quyền ở nước nào cũng vậy, ở nước ta cũng vậy. Đảng lãnh
đạo báo chí cũng theo nguyên tắc đó.
ở nước ta, Đảng lãnh đạo và quản lý báo chí về mặt tư tưởng, về mặt chính trị,
bằng các chỉ thị, Nghị quyết. Cơ quan tham mưu cho Đảng làm công việc này là Ban Tư
tưởng - Văn hoá Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương). Cơ quan quản lý nhà
nước đối với báo chí là Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông).
Trong đó có sự phối hợp của Hội Nhà báo Việt Nam. Nhân dân làm chủ thông qua việc
tham gia xây dựng các luật, văn bản dưới luật về báo chí, tham gia kiểm tra, giám sát
hoạt động của các cơ quan báo chí.
1.2.3. Thực trạng báo chí nước ta trước năm 1996
Báo chí cách mạng Việt Nam ra đời do nhu cầu tất yếu và cấp bách của cuộc
cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại xâm và sự đô hộ của đế
quốc, phong kiến mang lại tự do, hoà bình và cơm no, áo ấm cho nhân dân.
Báo chí cách mạng Việt Nam thời kỳ vận động thành lập Đảng 1925-1930 ra đời
và hoạt động trong hoàn cảnh rất khó khăn. Bọn thực dân xâm lược cấu kết với bộ máy
phong kiến thiết lập một hệ thống cai trị xã hội khắc nghiệt, đàn áp không thương tiếc
mọi mầm mống cách mạng đe doạ sự thống trị của chúng. Những tờ báo xuất bản từ
nước ngoài như: Thanh niên, Đỏ, Công nông, Lính kách mệnh, Đồng thanh, Thân ái…
và các tờ báo của các tổ chức xuất bản trong điều kiện vô cùng khó khăn nguy hiểm
trong nước như: Búa liềm, Cờ cộng sản, Nhân loại của Đông Dương Cộng sản Đảng,
Cờ đỏ của An Nam Cộng sản Đảng, Sao đỏ ở Hải Phòng, Mỏ than ở Hồng Quảng, Tia
sáng ở Nam Định, Bôn-sơ-vích ở Trung Kỳ không chỉ mang đến cho một bộ phận quần
chúng cách mạng những hiểu biết cơ bản nhất về chủ nghĩa Mác - Lênin, về con đường
giải phóng dân tộc, mà còn mang đến cho những người dân nô lệ một niềm tin, sự động
viên to lớn để lựa chọn, dấn thân vào con đường cách mạng, con đường đấu tranh giải
phóng cho mình.
Báo chí cách mạng Việt Nam thời kỳ 1930-1945 gắn bó chặt chẽ với những cao
trào vận động cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Nếu các sản
phẩm báo chí xuất hiện trong cao trào 1930-1931 chủ yếu dưới hình thức bí mật, thì
trong cao trào vân động dân chủ 1936-1939, Đảng đã chớp lấy thời cơ, tổ chức ra báo
công khai, đưa cán bộ Đảng tham gia các hoạt động báo chí tranh thủ khả năng mở rộng
quy mô tác động vào quần chúng nhân dân, tuyên truyền vận động lực lượng cách
mạng. Cán bộ Đảng đã trực tiếp tổ chức ra các báo “La lutter”, “Le Travailler”, Dân
chúng, Tin tức, Đời nay, Dân, Nhành lúa v.v.. Trong điều kiện một nước thuộc địa, mọi
quyền dân chủ bị bóp nghẹt, phát động và tổ chức đấu tranh công khai và rộng lớn trên
mặt trận báo chí là một thắng lợi lớn của Đảng.
Đầu năm 1941, Nguyễn ái Quốc về nước và một trong những việc làm đầu tiên
của Người là ra tờ báo Việt Nam độc lập - cơ quan tuyên truyền vận động cách mạng.
Theo Người, việc ra báo Việt Nam độc lập là làm theo lời dạy của Lênin: tờ báo là công
cụ tuyên truyền, cổ động, tổ chức và lãnh đạo.
Cùng với Việt Nam độc lập còn có tạp chí Cộng sản, báo Giải phóng, Cờ giải
phóng, Cứu quốc, Lao động v.v.. Hệ thống báo chí cách mạng thời kỳ này đã truyền bá
những tư tưởng của cách mạng giải phóng, cổ vũ, động viên lòng yêu nước, căm thù
thực dân, đế quốc xâm lược và giai cấp phong kiến bóc lột, góp phần tổ chức quần
chúng cách mạng, chuẩn bị cho cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi.
Ngoài hệ thống báo chí công khai hoặc bí mật, thời kỳ này còn xuất hiện các tờ
báo trong tù. Hầu như ở nhà tù nào, các chiến sĩ cộng sản cách mạng yêu nước cũng tìm
cách để ra được báo. Mặc dù phạm vi lưu hành hạn hẹp trong các bức tường nhà tù đế
quốc, thực dân nhưng những tờ báo này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng
cao nhận thức, củng cố ý chí và niềm tin, giữ vững tinh thần chiến đấu cho những cán
bộ cách mạng bị tù đày.
Báo chí cách mạng thời kỳ 1945-1954 là một bộ phận không thể thiếu của cuộc
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 cũng như tiến trình của cuộc
chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ. Với thắng lợi của cuộc
cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền về tay nhân dân và báo chí có thời cơ
phát triển mới. Chế độ mới, nền độc lập tự do cùng với những nhiệm vụ mới mẻ của
cách mạng đặt ra cho báo chí những trách nhiệm mới nặng nề hơn, tầm hoạt động rộng
lớn hơn. Sự ra đời của Đài Phát thanh và Hãng Thông tấn quốc gia đã mang lại không
chỉ diện mạo mà cả chất lượng hoạt động mới cho hệ thống báo chí cách mạng. Và cả
hệ thống báo chí ấy đã lên đường đi kháng chiến, lên chiến khu Việt Bắc, vào bưng biền
Đồng Tháp, tới các chiến khu, trở thành nguồn thông tin chính yếu, nguồn động viên cổ
vũ mạnh mẽ, vũ khí tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kháng chiến. Chính trong thử thách
khắc nghiệt của kháng chiến, một loạt cơ quan báo chí mới đã ra đời như: báo Sự thật,
Nhân dân, Quân đội nhân dân, Đài tiếng nói Nam Bộ, báo Nhân dân miền Nam v.v..
Những người làm báo cách mạng trong kháng chiến chống thực dân Pháp đã chia sẻ khó
khăn, hy sinh với nhân dân, với quân đội, đã không chỉ duy trì phát triển, đưa nguồn
thông tin, tiếng nói của cách mạng, của kháng chiến đến với đồng bào và chiến sĩ cả
nước và bạn bè quốc tế mà còn gùi vác máy in, máy phát trên vai, trực tiếp cầm song
chống càn như những chiến sĩ. Bằng trí tuệ, tài năng, lòng yêu nước và cả máu, mồ hôi,
những người làm báo kháng chiến đã hoàn thành trách nhiệm của mình, đóng góp xứng
đáng vào chiến thắng chung của cả dân tộc, đánh bại thực dân xâm lược Pháp và bọn
can thiệp Mỹ, làm nên một Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Báo chí cách mạng thời kỳ 1955-1975 đã có cơ hội thuận lợi hơn để phát triển
nhưng cũng phải đối mặt với những khó khăn, thử thách vô cùng khắc nghiệt. Miền Bắc
giải phóng bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng chưa hết kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất đã phải đối mặt với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân
của đế quốc Mỹ với mức độ ác liệt và dã man chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh.
Miền Nam nằm dưới sự đô hộ của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo
vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc xâm lược giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc. Ngoài một thời gian ngắn miền Bắc có hoà bình sau hiệp
định Giơnevơ, còn lại trên thực tế suốt cả thời kỳ này cả nước đều có chiến tranh.
Vào thời điểm trước thềm Đại hội lần thứ ba Hội Nhà báo Việt Nam (1962),
riêng “miền Bắc đã có 1.500 nhà báo làm việc trong khoảng 120 cơ quan báo chí các
loại”[81, tr.19]. Báo chí thời kỳ này đã thực sự trở thành động lực góp phần to lớn tạo
dựng và tổ chức những phong trào thi đua, những cuộc vận động rầm rộ trong toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị như: Sóng Duyên Hải,
Gió Đại Phong, Cờ Ba Nhất, Thanh niên Ba sẵn sàng, Phụ nữ Ba đảm đang v.v.. Những
tấm gương điển hình trong lao động, chiến đấu được báo chí tuyên truyền, khái quát
thành những biểu tượng có sức động viên, cổ vũ mạnh mẽ.
Báo chí cách mạng ở miền Nam - như “báo chí tiền phương” đã bám sát thực tế
chiến đấu, có mắt ngay tại các chiến hào, tại các mặt trận ác liệt nhất, phản ánh sinh
động, kịp thời cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào, chiến sĩ ta. Các nhà báo tiền
phương thực sự là những chiến sĩ ra trận, vừa cầm súng, vừa cầm bút, cầm máy ảnh,
máy quay phim, đóng góp xứng đáng vào chiến thắng chung của dân tộc trong chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Sau năm 1975 - Tổ quốc thống nhất, non sông thu về một mối, báo chí Việt Nam
cũng được hưởng niềm vui thống nhất, lần đầu tiên trở thành nề báo chí duy nhất của
nước Việt Nam dân chủ, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Cùng cả dân tộc vượt qua những khó khăn thử thách của cuộc chiến tranh biên giới Tây
Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc và sự chống phá quyết liệt của kẻ thù, báo chí lại
có mặt ở những điểm nóng nhất của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, những
cuộc cách mạng thực sự trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Đại hội VI của Đảng (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có
đổi mới tư duy, nhận thức về con đường chủ nghĩa xã hội, đổi mới kinh tế, chính trị…
báo chí nước ta đã góp phần quan trọng ổn định tình hình, xác định rõ các nguyên tắc
đổi mới của Đảng. Đường lối đổi mới của Đảng đã tạo ra điều kiện, thời cơ cho sự phát
triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội, đồng thời mang lại cơ hội lớn cho báo chí, nền báo
chí đất nước đã có những bước phát triển chưa từng thấy về kỹ thuật công nghệ, về quy
mô ảnh hưởng cũng như trình độ tác nghiệp.
Tuy nhiên, trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt
là sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khoá VII) đã ban hành Chỉ thị 08-CT/TW ngày 31 tháng 03 năm 1992, để xác định
phương hướng, nhiệm vụ hoạt động báo chí xuất bản. Từ đó báo chí đã vượt qua khó
khăn, thử thách có những tiến bộ và phát triển mới về số lượng và chất lượng, về nội
dung và hình thức, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của cách mạng, giữ gìn sự ổn
định về chính trị, thúc đẩy công cuộc đổi mới về mọi phương diện, nhất là về kinh tế và
dân chủ hoá xã hội. Đã góp phần giáo dục truyền thống dân tộc và truyền thống cách
mạng, đề cập và tham gia tích cực vào hoạt động “uống nước nhớ nguồn” và các hoạt
động xã hội khác như xoá đói giảm nghèo, khuyến học, khuyến khích tài năng, các hoạt
động từ thiện, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xã hội… Đối với
những nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội thường xuyên của Đảng và Nhà nước, hoạt động
báo chí đã có những đóng góp xứng đáng: đã tăng cường lượng thông tin và kịp thời đưa
thông tin đến với nhân dân; tích cực tuyên truyền, giải thích quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; phát hiện và phản ánh nhiều vấn đề
bức xúc trong đời sống xã hội, giúp các cơ quan Đảng và Nhà nước nắm bắt để giải quyết
kịp thời; cổ vũ và động viên phong trào nhân dân thi đua thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội - an ninh - quốc phòng - đối ngoại,…
Báo chí đã góp phần tuyên truyền các hoạt động chính trị quan trọng như: Hội
nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (1-1994), các hội nghị Trung ương từ sau Đại hội VI và
Đại hội VII, các kỳ họp của Quốc hội, các hoạt động kỷ niệm những ngày lễ lớn trong
những năm 1994 - 1995 - 1996, Đại hội Đảng các cấp và Đại hội toàn quốc của Đảng…
Báo chí đã thể hiện sự nhạy bén chính trị, kịp thời và đóng góp tích cực, hiệu quả với
hình thức và nội dung phong phú, đa dạng hơn, góp phần ổn định tình hình kinh tế-xã
hội.
Báo chí cũng đã có những đóng góp vào công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn thời kỳ 1986-1996, góp phần làm rõ mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta gồm 6 đặc trưng và 7 phương hướng. Báo chí thường xuyên đóng vai trò là một
kênh thông tin quan trọng cung cấp thông tin nhiều mặt của đời sống xã hội; phản ánh
tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, giúp cho các cơ quan lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước nắm bắt tình hình kịp thời, cụ thể để giải quyết. Cùng với việc biểu
dương nhân tố mới, một số tờ báo kiên trì nêu gương người tốt, việc tốt; tham gia tích
cực vào cuộc đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế
lực thù địch thời kỳ sau năm 1991.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ (1/1994), Đảng ta xác định tham nhũng và các tệ nạn xã
hội là một nguy cơ của cách mạng nước ta. Báo chí đã xung kích, đi đầu giáo dục pháp
luật, thúc đẩy cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, phát hiện đưa ra công luận
nhiều vụ việc cần xử lý, góp phần làm lành mạnh xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân
vào chế độ và sự lãnh đạo của Đảng.
Nhiều phương tiện kỹ thuật mới trong báo chí được tăng cường sử dụng tạo điều
kiện cho việc thông tin nhanh hơn và nâng cao chất lượng in ấn, trình bày. Kỹ thuật hiện
đại về phát thanh, truyền hình giúp đưa nhanh âm thanh, hình ảnh có chất lượng cao đến
với người nghe, người xem trên địa bàn rộng. Các hình thức thông tin của báo chí ngày
càng sinh động, sát cuộc sống hơn; tính nhân dân, tính chiến đấu được nâng cao hơn.
Nhiều chuyên mục, tiểu phẩm được mở ra đều kỳ trên báo chí tạo thêm sự hấp dẫn đối
với bạn đọc.
Trải qua những khó khăn ban đầu của việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế,
hoạt động báo chí đã từng bước thích ứng với điều kiện và cơ chế mới, đã tích luỹ và có
những kinh nghiệm bước đầu, làm tốt vai trò là tiếng nói của Đảng và Nhà nước, đồng
thời là diễn đàn tin cậy để các tầng lớp nhân dân tham gia và đóng góp ý kiến xây dựng
sự nghiệp đổi mới đất nước, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. “Có một số tờ báo
đã tự trang trải được các chi phí; có một số tờ báo có lãi”[7, tr.54]. Tuy nhiên, “phần lớn
báo của ngành, các tạp chí, các báo đảng địa phương, nhiều tờ báo, tạp chí chính trị, xã
hội, khoa học, kỹ thuật… vẫn tiếp tục được hỗ trợ bởi ngân sách Nhà nước hoặc tài
chính của Đảng”[7, tr.54-55].
Theo báo cáo của Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo
Trung ương) tại Hội nghị báo chí xuất bản toàn quốc 8/1997 “cả nước có 450 đơn vị
báo chí với 563 ấn phẩm các loại, gồm 151 tờ báo ngày và tuần báo (một kỳ hoặc nhiều
kỳ/tuần), 290 tạp chí”[7, tr.55]. Số lượng báo chí trên đây tính trên tổng số dân và theo
bình quân đầu người so với các nước trong khu vực và trên thế giới không phải là nhiều.
Tuy nhiên, chất lượng của nhiều tờ báo còn thấp. Có nhiều tờ nội dung trùng lặp hoặc
không thiết thực, nhất là số cuối tuần, cuối tháng, chuyên đề.
Hệ thống đài phát thanh và truyền hình từ Trung ương đến cơ sở đã có sự phát
triển mạnh về số lượng và tiến bộ nhanh về kỹ thuật, nhất là truyền hình. Chất lượng các
chương trình phát thanh, truyền hình mặc dù còn phải cố gắng nhiều nhưng đã được cải
tiến, nâng cao và phong phú, sinh động hơn trước; một số chương trình có sức hút đông
đảo nhân dân, lớp trẻ. Thời lượng phát sóng và diện phủ sóng của Đài Tiếng nói Việt
Nam và Đài Truyền hình Việt Nam tăng lên đáng kể. Hệ thống các đài, trạm phát thanh,
phát sóng truyền hình của các khu vực, các tỉnh, thành cho đến quận, huyện và các vùng
dân cư quan trọng đã được hình thành, được trang bị phương tiện, thiết bị kỹ thuật ngày
càng hiện đại. Do đó, đã có điều kiện để chuyển tải các thông tin quan trọng của Đảng
và Nhà nước đến cơ sở. Một số địa bàn, khu dân cư ở một số vùng sâu, vùng cao, vùng
xa đã tiếp nhận được một số chương trình phát thanh, truyền hình của Trung ương và
địa phương.
Báo chí đã “cố gắng đưa thông tin ra nước ngoài, giúp cho nhân dân thế giới,
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có được những hiểu biết đúng đắn về tình hình
đất nước, tranh thủ ngày càng rộng rãi sự đồng tình, ủng hộ của họ đối với công cuộc
đổi mới và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta”[7, tr.56].
Cùng với việc sắp xếp và quy hoạch mạng lưới báo chí và hệ thống phát thanh,
truyền hình từ Trung ương đến cơ sở, Nhà nước đã tăng cường đầu tư, có lĩnh vực được
đầu tư khá lớn (như phát thanh, truyền hình, Thông tấn xã Việt Nam) để đổi mới và từng bước hiện đại hoá trang thiết bị kỹ thuật, các điều kiện và phương tiện làm việc,
phát huy hiệu quả báo chí, thu hẹp dần khoảng cách về mặt kỹ thuật so với các nước trong khu vực. Đảng và Nhà nước cũng đã đầu tư bù lỗ cho những sách báo phục vụ thiếu
nhi, đồng bào miền núi và một số đối tượng lao động khác; hỗ trợ kinh phí mua một số sách
báo; hỗ trợ tài chính cho một số báo, tạp chí chuyên ngành và báo chí địa phương.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, phóng viên, biên tập viên… báo chí
đã được mở rộng và đa dạng hoá. Đông đảo cán bộ quản lý, phóng viên, biên tập viên
báo chí đã có ý thức tự học, tự rèn luyện và vươn lên và trưởng thành qua công tác thực
tiễn, đã có sự tiến bộ đáng kể về chuyên môn, nghiệp vụ. Đã xuất hiện một số nhà báo,
trong đó có một số nhà báo trẻ có trình độ chuyên môn khá và có uy tín nghề nghiệp,
nhanh chóng nắm bắt được các vấn đề mới mẻ, bức xúc của đời sống xã hội; có không ít bài viết hay, có hiệu quả xã hội và tác dụng giáo dục tốt.
Đại đa số những người làm báo có bản lĩnh chính trị và nghề nghiệp, nhiệt tình
ủng hộ đường lối đổi mới của Đảng, gắn bó với nhân dân, dũng cảm trong đấu tranh
chống tham nhũng, chống tiêu cực, có nhiều đóng góp cho việc nâng cao dân trí, mở
rộng dân chủ trong sinh hoạt xã hội. Theo báo cáo của Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung
ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) tại Hội nghị báo chí xuất bản toàn quốc
8/1997:
Đội ngũ những người làm báo có 7.500 người được cấp thẻ nhà báo, trong
đó 71% phóng viên, biên tập viên có trình độ đại học trở lên, 25% được đào tạo
chuyên ngành báo chí, 25% có trình độ ngoại ngữ bằng B trở lên, 60% ở lứa tuổi
30 - 40. Nhà báo không chuyên nghiệp cũng tăng nhanh. Số đông cán bộ, phóng
viên báo chí có nghiệp vụ chuyên môn tốt, vững vàng về chính trị, nhưng số
người giỏi còn rất ít, số người trẻ dưới 30 tuổi chỉ chiếm 12%[7, tr.59].
Việc tổ chức cho cán bộ báo chí đi học tập, tham quan, trao đổi kinh nghiệm
chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật… ở nước ngoài đã được mở rộng với nhiều hình thức.
ở nước ta có 5 cơ sở đã và đang đào tạo cán bộ báo chí (cả phát hành) và hai cơ sở đào
tạo cán bộ ngành in có trình độ đại học. Ngoài các lớp tập trung, các cơ sở nói trên còn
phối hợp với nhiều tỉnh, thành và một số ngành mở các lớp đại học tại chức về báo chí.
Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền) đã tổ
chức hai lớp cao học đầu tiên về báo chí. Số lượng học viên theo học các lớp tập trung
và tại chức đã lên đến hàng nghìn người; nhờ việc đi nghiên cứu, tham quan, trao đổi
kinh nghiệm trong và ngoài nước, cho nên đội ngũ những người làm báo đã không
ngừng được nâng cao về quan điểm lập trường chính trị, về nghiệp vụ chuyên môn và
bước đầu tiếp cận với các hình thức hoạt động báo chí hiện đại của các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Công tác phát hành báo chí cũng có những tiến bộ. Sau một số năm buông lỏng
về chỉ đạo, quản lý; đồng thời do chấn động của sự chuyển đổi cơ chế, công tác phát
hành có lúc bị coi nhẹ. Với chủ trương đúng đắn và các biện pháp cụ thể nhằm khôi
phục và duy trì hoạt động công tác phát hành, nhờ có kinh phí hỗ trợ của Nhà nước đối
với một số hoạt động báo chí thường xuyên, cũng như việc đầu tư khá lớn cho hệ thống
phát thanh, truyền hình, thông tin cho nên một khối lượng báo chí cần thiết và những
thông tin quan trọng về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã đến
với nhân dân. Báo Nhân dân, báo Quân đội nhân dân, báo ngành, đoàn thể và báo của
các đảng bộ địa phương đã đến với nhiều cơ sở đảng, các đơn vị thuộc lực lượng vũ
trang trong ngày phát hành. Đồng bào dân tộc ít người ở một số nơi đã được xem một số
tờ báo dành riêng cho mình; được nghe một số chương trình phát thanh bằng tiếng các
dân tộc. Một số chương trình truyền hình của Việt Nam phát qua vệ tinh, một số buổi
phát thanh đối ngoại của Đài Tiếng nói Việt Nam đã đến được với một số bạn bè quốc
tế và bà con người Việt ở nước ngoài ở một số nước.
Công tác chỉ đạo và quản lý hoạt động báo chí của cơ quan Đảng, Nhà nước, các
vậy,
cơ quan chủ quản đã có nhiều cố gắng, được tăng cường và đổi mới Như hoạt động báo chí trên phạm vi cả nước đã từng bước phát huy được ưu điểm, khắc phục
những yếu kém, lệch lạc mà chỉ thị 08-CT/TW ngày 31-3-1992 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng chỉ ra, đã nỗ lực phấn đấu để đạt được những tiến bộ và có nhiều chuyển
biến khá quan trọng mà mặt cơ bản và quan trọng nhất là thực hiện đúng định hướng
của Đảng, Nhà nước; phục vụ đắc lực và có hiệu quả sự nghiệp đổi mới, cơ bản giữ
vững được vai trò và chức năng là phương tiện tư tưởng - văn hoá quan trọng của Đảng,
Nhà nước; đấu tranh phê phán các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội; thực hiện
ngày càng tốt hơn vai trò diễn đàn của nhân dân, góp phần tăng cường ổn định chính trị,
tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội; thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu
thông tin, văn hoá của nhân dân; mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với bạn bè trên thế
giới; thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Nội dung, chất lượng thông tin,
ngôn luận nhìn chung phong phú, sinh động, kịp thời, hấp dẫn hơn. Những ưu điểm và
tiến bộ đó càng nổi bật trong bối cảnh khá phức tạp của tình hình thế giới và trong nước
trong những năm qua.
Bên cạnh những ưu điểm và tiến bộ đã đạt được, hoạt động báo chí và công tác chỉ đạo, quản lý các hoạt động này cũng đã bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm. Có những khuyết điểm đã nêu trong Chỉ thị 08-CT/TW ngày 31-3-1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả, đồng thời có những khuyết điểm mới, khá nghiêm trọng.
Trước hết, đó là khuynh hướng thương mại hoá báo chí với nhiều biểu hiện khác
nhau. Biểu hiện rõ nhất của khuynh hướng này là khá nhiều cơ quan báo chí bị cơ chế
thị trường lôi cuốn, coi nhẹ chức năng chính trị và chức năng giáo dục; chạy theo thị
hiếu tầm thường của một bộ phận độc giả, thính giả, khán giả. Một số tờ báo chỉ nặng
về phê phán tiêu cực, yếu kém, coi nhẹ việc biểu dương, cổ vũ nhân tố mới, người tốt
việc tốt, tạo ra không khí nặng nề trên mặt báo và trong xã hội. Trên một số báo, tạp chí,
nhất là các số phụ, số chuyên đề đã khai thác quá nhiều các đề tài có nội dung giật gân,
câu khách về bạo lực, các vụ án; khai thác những chuyện đời tư các “nhân vật”, thậm
chí có lúc đăng, in, phát cả những chuyện hoàn toàn không có thực, không có lợi cho
giáo dục truyền thống văn hoá, đạo đức…, nhằm tăng lượng phát hành, thu lợi nhuận
cao mà không tính đến tác hại nghiêm trọng của việc làm này.
Trong nền kinh tế thị trường, quảng cáo là nhu cầu không thể thiếu của xã hội.
Nếu làm tốt, quảng cáo góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển; tiền thu từ quảng cáo hỗ
trợ cho việc giảm giá thành, cải tiến trang thiết bị… Nhưng do tác động của khuynh
hướng thương mại hoá, nhiều báo, đài quảng cáo quá nhiều cho các sản phẩm, hàng hoá
nước ngoài, vô tình gây khó khăn cho các sản phẩm, hàng hoá trong nước. Quảng cáo
quá nhiều hàng hoá cao cấp, đắt tiền, không phù hợp với chủ trương kêu gọi sự tiết
kiệm trong tiêu dùng của chúng ta; thông tin, quảng cáo về các kiểu thời trang của
những người mẫu giầu có và của các hãng sản xuất, kinh doanh nước ngoài với ngôn từ
và hình ảnh thiếu chọn lọc, xa lạ với bản sắc và truyền thống văn hoá của dân tộc, lối
sống lành mạnh và giản dị của đông đảo quần chúng lao động, kích thích tâm lý, thị
hiếu thẩm mỹ và tiêu dùng lệch lạc của người dân, nhất là của lớp trẻ. Việc xác
định tôn chỉ, mục đích và đối tượng phát hành đã được quy định trong giấy phép cho
từng cơ quan báo chí, nhằm nâng cao hiệu quả tổng hợp của hệ thống báo chí nhưng
tình trạng xa rời tôn chỉ, mục đích diễn ra khá phổ biến. Một mặt, khuynh hướng này
cũng là biểu hiện phát sinh của khuynh hướng thương mại hoá. Nhưng mặt đáng quan
tâm là biểu hiện của sự yếu kém về chính trị, tư tưởng của một số tờ báo ở cả Trung
ương và địa phương.
Biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích và đối tượng ở một số báo chí, kể cả một số
báo của các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội thường thể hiện ở việc coi nhẹ chức năng
tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, né tránh đề cập hoặc chỉ đề cập hời hợt những
chủ đề, sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, ngay cả các sự kiện quan trọng, các
hoạt động phong phú, sinh động, các phong trào cách mạng sôi nổi ở các địa phương,
đơn vị mà các báo, tạp chí đó có trách nhiệm và nghĩa vụ làm người phát ngôn.
Trên một số ít báo chí đã có những tin, bài, hình ảnh có nội dung tư tưởng, quan
điểm sai trái. “Một số ít bài báo có nội dung lệch lạc và sai phạm về chính trị khá
nghiêm trọng vẫn được xuất bản nhưng việc xử lý lại không kịp thời, không nghiêm
khắc. Có không ít những tin, bài khi cho đăng không được cân nhắc kỹ, để cho các thế
lực thù địch khai thác, lợi dụng, đả kích, nói xấu chế độ ta”[7, tr.65].
Nhiều tờ báo xa rời đối tượng rộng lớn ở nông thôn, xí nghiệp, ít đề cập đến vấn
đề trong sản xuất và đời sống của nông dân, công nhân. Một số báo của tỉnh, của ngành
xin ra số phụ nhưng lại tổ chức biên tập và phát hành chủ yếu ở thành phố lớn.
Chất lượng thông tin chính trị, văn hoá, khoa học của một số ấn phẩm báo chí
còn thấp. Tính chiến đấu trên các phương tiện thông tin đại chúng chưa cao, chưa phản
ánh đầy đủ và kịp thời thực tiễn cách mạng sôi động và đời sống xã hội. Nhìn chung,
“báo chí còn nặng về mô tả, phản ánh bề nổi của các hiện tượng; ít những bài nghiên
cứu, điều tra, phóng sự sâu sắc, có giá trị phát hiện vấn đề và đề xuất phương hướng,
biện pháp giải quyết”[7, tr.66]. Không ít “bài bình luận, đấu tranh quan điểm, hướng
dẫn dư luận chưa sắc bén, thiếu sức thuyết phục, thiếu chủ động… làm giảm tác dụng
định hướng dư luận”[7, tr.66]. Không ít bài báo, cuốn sách, bộ phim, băng, đĩa chưa đạt
được yêu cầu của một sản phẩm văn hoá bổ ích và sâu sắc; ảnh thời sự báo chí còn kém.
Có một ít bài báo “sai phạm về chính trị như phủ nhận truyền thống của dân tộc
và những thành tựu của cách mạng, của hai cuộc kháng chiến vừa qua, tuyên truyền đề
cao chủ nghĩa tư bản”[7, tr.66-67]. Do thiếu nhạy cảm về chính trị, thiếu kiến thức, một
số bài báo chưa cân nhắc kỹ càng khi đề cập các vấn đề về tôn giáo, lịch sử, văn hoá văn
nghệ, quan hệ quốc tế… đã gây ra những tác động xấu. Một số báo chí, nhất là các số đặc
san, phụ san, số cuối tuần, cuối tháng đã được phát hành ồ ạt và bị khuynh hướng thương
mại hoá chi phối khá nặng nề.
Thông tin, bình luận quốc tế không ít trường hợp thiếu định hướng, thiếu sự chọn
lọc, hoặc sao chép bình luận nguyên văn của nước ngoài không phù hợp với đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Một số trường hợp còn đăng và in lại những tin, bài,
hình ảnh… độc hại. Hiện tượng xa rời truyền thống văn hoá dân tộc, đề cao cách sống
xa hoa, xa lạ, đăng bài, đưa lên hình ảnh kích dâm, bạo lực chưa được khắc phục có
hiệu quả kể cả trong các sách, tranh truyện cho trẻ em.
Việc đăng bài về đề tài đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã
hội “có những thông tin không chính xác, khách quan, trung thực và thiếu tính xây
dựng; không ít trường hợp báo chí tự cho mình quyền công tố luận tội, quyền phán
quyết thay cho kết luận chính thức của các cơ quan chức năng thanh tra, tư pháp”[7,
tr.67]. Đã có “hiện tượng “cửa quyền” ở nhiều cơ quan báo chí, không thực hiện đúng
luật pháp về báo chí, viết sai không đính chính hoặc đính chính lấy lệ, nhận khuyết điểm
không đúng mức; có trường hợp còn để lộ bí mật của Nhà nước”[7, tr.68], hoặc đưa ra
công khai quá sớm khi vụ việc đang trong giai đoạn điều tra, xem xét. Có báo chí vì
những “động cơ không chính đáng, đã hút dư luận vào những việc không quan trọng.
Trong một số bài tranh luận, phê phán còn có những lời lẽ thiếu văn hoá, cay cú, quy
chụp, thiếu sức thuyết phục và không có lợi cho đoàn kết nội bộ”[7, tr.68].
Việc sắp xếp lại báo chí được thực hiện khá nghiêm túc, nhất là ở các ngành, các
địa phương trọng điểm. Nhưng sau đó các cơ quan chỉ đạo, quản lý, nhất là một số cơ
quan chủ quản đã không thường xuyên kiểm tra để kịp thời uốn nắn và chấn chỉnh cho
nên một số báo chí đã xa dần tôn chỉ, mục đích của mình. Nhiều cơ quan chủ quản đã
khoán trắng trách nhiệm cho các ban biên tập hoặc cá nhân phụ trách. Có trường hợp
“cơ quan chủ quản né tránh hoặc không chỉ đạo, uốn nắn sai sót của cơ quan báo chí do
mình phụ trách; không cân nhắc, xem xét chặt chẽ các điều kiện xuất bản báo, tạp chí và
những điều kiện bảo đảm cho tờ báo có thể hoạt động tốt nhưng vẫn không xin xuất bản
báo, tạp chí và các ấn phẩm mới”[7, tr.68]. Thêm vào đó là những thiếu sót của cơ quan
quản lý nhà nước về báo chí - xuất bản trong việc cấp phép cho nên một số báo, tạp chí,
một số sách xuất bản trùng lặp về nội dung; một số cơ quan báo chí chưa có đủ tiêu
chuẩn và điều kiện tối thiểu nhưng vẫn được cấp giấy phép; có cơ quan ra quá nhiều ấn
phẩm với chất lượng thấp. “Sách, báo, bản tin in lậu, in không có giấy phép vẫn còn tiếp
tục phát triển, có cuốn, có tờ rất độc hại”[7, tr.69]. Còn buông lỏng quản lý sách cũ và
các quầy cho thuê sách.
Do quản lý lỏng lẻo nên trên thực tế có “một số báo, tạp chí nhất là các số phụ,
số cuối tuần, cuối tháng, số chuyên đề, đặc san số báo biên tập và in ở xa cơ quan chủ
quản đã thật sự do tư nhân chi phối và thao túng với nhiều hình thức và mức độ khác
nhau, từ nội dung đến hình thức và phương thức xuất bản, phát hành, giá cả”[7, tr.69].
Họ đã nấp bóng một số người ở một số toà soạn báo chí, nhà xuất bản (nhất là ở những nơi không có đủ các điều kiện cần thiết, nhưng đã được phép thành lập), những tổ chức và cá nhân có trách nhiệm cấp phép… có khi lại được một số người này “hợp tác”, “liên kết” để làm ăn riêng với họ, đem lại nguồn lợi bất chính cho các phía liên quan, bất chấp cả những quy định và pháp luật. Sự vi phạm này trong thời gian qua chủ yếu mang
động cơ kinh tế, nhưng tính chất nghiêm trọng của nó là từ sự quản lý lỏng lẻo này dẫn
tới tình trạng không kiểm soát được nội dung báo chí và xuất bản phẩm. Nhiều cơ quan
chủ quản báo chí, nhà xuất bản đã không làm tròn trách nhiệm chỉ đạo, quản lý các hoạt
động báo chí, xuất bản thuộc phạm vi phụ trách của mình.
Trước sự phát triển nhanh chóng của báo chí từ năm 1992 đến năm 1996 “công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí - xuất bản đã đào tạo được gần một nghìn người
có trình độ đại học”[7, tr.70] nhưng đến nay vẫn chưa có quy hoạch toàn diện cho đến năm 2000 như Chỉ thị 08-CT/TW ngày 31-3-1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khoá VII) đã chỉ ra. Trên thực tế chưa có một cơ quan nào chịu trách nhiệm về chỉ đạo,
quản lý, kiểm tra, đôn đốc thực hiện nhiệm vụ này. Chương trình, nội dung giảng dạy và
sách giáo khoa, phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí - xuất bản chưa thống nhất, còn chậm được đổi mới và hiện đại hoá. Giảng dạy còn nặng về lý thuyết, chưa
coi trọng đúng mức việc rèn luyện kỹ năng và nghiệp vụ hành nghề cho người học. Các
vấn đề liên quan đến số lượng, tiêu chuẩn tuyển sinh, trang thiết bị cho việc giảng dạy
và học tập… chưa được giải quyết thống nhất, nhất là đối với các lớp đại học tại chức
đã và đang được tổ chức khá ồ ạt tại nhiều đơn vị, địa phương như hiện nay. Công tác
kiểm tra nội dung, chương trình giảng dạy về báo chí, xuất bản chưa chặt chẽ, nhất là
đối với hệ tại chức và mở rộng. Do đó tỷ lệ người tốt nghiệp sau khi ra trường được
tuyển dụng còn ít vì khả năng tác nghiệp, hành nghề còn quá yếu trong khi nhu cầu bổ
sung và đổi mới đội ngũ phóng viên, biên tập viên lại khá cao và rất cấp bách. Công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí, xuất bản, trước mắt là bồi dưỡng các tổng biên tập,
các giám đốc và đội ngũ cán bộ cốt cán của các cơ quan báo chí - xuất bản từ Trung
ương đến địa phương chưa được chú ý.
Bên cạnh số đông các “nhà báo, người biên tập có lương tâm và đạo đức trong
sáng, đã có một số người vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông tin thiếu khách quan,
trung thực; có một số người thiếu khiêm tốn trong giao dịch, một số ít lợi dụng hoạt
động báo chí đi đe doạ, ép buộc một số cá nhân, cơ sở để đòi tiền”[7, tr.71]. Đã xuất
hiện “một số ít nhà báo liên hệ, móc nối với nhau để thông tin, bình luận thiếu khách
quan”[7, tr.71] về một vụ việc, tập trung vào một cơ sở, một địa phương, nhất là lợi
dụng việc chống tiêu cực, tham nhũng để đả kích người này, tổ chức nọ, ủng hộ và bảo vệ cho tổ chức và những người sai phạm. Có cả những lời ca ngợi thành tích không
đúng sự thật đối với một số đơn vị, cá nhân, thậm chí đã ca ngợi những đơn vị, cá nhân đang mắc những sai phạm lớn của một người viết thiếu trung thực, vi phạm những tiêu
chuẩn về đạo đức nghề nghiệp của người cầm bút. Cần thấy rằng những biểu hiện nói trên tuy chỉ là một bộ phận nhỏ, nhưng ảnh hưởng, tác hại đến uy tín của báo chí không
nhỏ, làm cho dư luận xã hội và những người trung thực, có lương tri và các tổ chức làm
ăn chân thật lo lắng, bất bình. Bên cạnh đó, do tác động của một số lực lượng đang tìm
mọi cách, nhất là qua các hình thức tài trợ, quà cáp, chi phí quảng cáo, liên doanh liên
kết, mời đi tham quan, du lịch trong và ngoài nước để chi phối báo chí nước ta, phục vụ
cho những lợi ích và động cơ không đúng đắn.
Chế độ chính sách đối với hoạt động báo chí trong hoàn cảnh mới chưa được
xem xét để ban hành đầy đủ, đồng bộ và kịp thời.
Quan niệm hoạt động báo chí là sự nghiệp có thu hoạt động như các doanh
nghiệp công ích để sản xuất ra loại hàng hoá đặc biệt phục vụ cho nhiệm vụ chính trị, tư
tưởng, văn hoá của Đảng, Nhà nước và phải được thông tin đúng đắn và tốt đến với
nhân dân ở cơ sở, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo…
hay phải hoạt động như các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng hoá nói chung,
cho đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt khoát, rõ ràng cho nên một số chính sách, chế
độ tổ chức cụ thể như chính sách đầu tư, chính sách thuế, chế độ lương, nhuận bút… đối
với hoạt động báo chí vẫn chưa có những quyết định thoả đáng.
Vì lo hạch toán, cho nên “giữa một số cơ quan báo chí - xuất bản, phát hành đang
có sự đảo lộn chức năng (một số cơ quan phát hành lại xuất bản sách, ngược lại Nhà
xuất bản phải tự phát hành…)”[7, tr.72, 73]. “Có cơ quan không những “khoán trắng”
cho cơ quan báo chí, nhà xuất bản tự xoay xở, mà còn yêu cầu phải đóng góp tài chính,
cho nên có tình trạng để cho một số “đầu nậu” chi phối từ đầu vào đến đầu ra, không
làm đúng tôn chỉ, mục đích của mình”[7, tr.73]. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước dành
một khoản ngân sách không nhỏ để đầu tư và tài trợ cho báo chí xuất bản nhưng cơ chế
thực hiện các chính sách này chưa được quy định rõ ràng và hợp lý do đó việc giải
quyết thường thiếu kịp thời, chưa thật đúng định hướng, đúng địa chỉ, nên chưa phát
huy được hiệu quả.
Việc phát hành, xuất nhập khẩu sách báo, phát thanh, truyền hình nói chung và
việc xuất khẩu sách báo Việt Nam ra nước ngoài nói riêng, trước hết là đối với cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài còn gặp quá nhiều khó khăn, ách tắc, không những
vì cước phí đắt gấp nhiều lần so với ấn phẩm nhưng lại chưa có chính sách tài trợ rõ
ràng mà còn vì thủ tục phiền hà và chưa có một đầu mối chịu trách nhiệm giải quyết.
Việc hợp tác về in ấn và phát hành của một số tờ báo và tạp chí với phía nước
ngoài đã tích luỹ được một số kinh nghiệm bổ ích, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc
đưa báo và tạp chí đó ra nước ngoài, góp phần vào việc tuyên truyền đối ngoại, tuy vậy,
cũng bộc lộ một số sơ hở và thiếu sót cần được kịp thời chấn chỉnh.
Thực hiện Chỉ thị 08-CT/TW ngày 31-3-1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khoá VIII) các cơ quan chỉ đạo và quản lý báo chí - xuất bản đã được kiện toàn một
bước, trình độ, năng lực được nâng cao hơn trước đã tích luỹ thêm kinh nghiệm nhưng
vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém. Trước sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của báo
chí, công tác chỉ đạo, quản lý mặc dù có cố gắng, nhưng còn khá nhiều lỏng lẻo, nhiều
khi không bao quát nổi.
Một số chế độ, chính sách đối với báo chí như tiền lương, thuế, nhuận bút, khen
thưởng… chậm được giải quyết. Có những quy định về thông tin không còn phù hợp,
hoặc không cụ thể, rõ ràng (như những gì được phép công khai, những gì cần giữ bí
mật; điều gì cấm và điều gì không nên cấm) gây lúng túng không những cho việc đăng
tin, bài mà còn gây khó khăn lúng túng cho cả cơ quan chỉ đạo, quản lý.
ở hầu hết các tỉnh, thành hiện nay vẫn chưa có đủ số lượng cán bộ cần thiết và có đủ
trình độ, tiêu chuẩn để giúp cấp uỷ và chính quyền địa phương chỉ đạo, quản lý hoạt động
báo chí thuộc phạm vi trách nhiệm và địa bàn của mình.
Tại các cơ quan chỉ đạo, quản lý cấp Trung ương, tình trạng thiếu cán bộ đủ năng
lực và trình độ để làm tốt chức năng chỉ đạo, tham mưu, quản lý đã diễn ra từ nhiều năm
nhưng đến nay vẫn chưa có biện pháp cụ thể, hữu hiệu để khắc phục.
Công tác thanh tra, kiểm tra nói chung cũng như thanh tra, kiểm tra chuyên
ngành đối với hoạt động báo chí nhất là kiểm tra, giám sát và xử lý các hoạt động báo
chí vi phạm pháp luật còn yếu; việc xử lý các vụ việc sai phạm của báo chí không
những thường không kịp thời, đúng mức mà quan trọng hơn là rất khó khăn, lúng túng.
Nhiều ban cán sự, đảng đoàn và cơ quan chủ quản báo chí buông lỏng trách
nhiệm quản lý, chỉ đạo các hoạt động báo chí nhất là việc chỉ đạo phương hướng, nội
dung và quản lý những cán bộ chủ chốt; có trường hợp bổ nhiệm, miễn nhiệm tổng biên
tập báo không đúng quy định. Không kiểm tra, xử lý những sai phạm của các cơ quan
báo chí thuộc phạm vi phụ trách của mình. Không ít trường hợp ngay cả cơ quan quản
lý báo chí cũng thực hiện không nghiêm luật pháp về báo chí và đã buông lỏng việc
quản lý, xử lý các vi phạm trong hoạt động báo chí.
Những hạn chế, thiếu sót của báo chí đã chỉ ra ở trên làm cho vai trò, chức năng
của báo chí bị hạ thấp. Trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, báo chí cần có sự thay đổi theo tích cực mới có thể làm tròn
trách nhiệm vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng.
Chương 2
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí (1996 - 2006)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) đã tổng kết 10 năm đầu đổi mới,
khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, chúng ta đã hoàn thành
nhiệm vụ chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, cho phép đất nước chuyển sang thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (CNH,HĐH).
Đảng lãnh đạo báo chí là “vạch ra chiến lược phát triển và định hướng thông tin,
tuyên truyền; công tác tổ chức cán bộ; hoạt động kiểm tra, uốn nắn kịp thời những sai
lầm, lệch lạc” [12, tr.6-8]. Ba mặt này có quan hệ chặt chẽ, làm tiền đề cho nhau, trong
đó, xây dựng chiến lược và định hướng thông tin tuyên truyền là vấn đề cơ bản; công
tác tổ chức cán bộ là khâu then chốt có tính quyết định và việc uốn nắn kịp thời những
lệch lạc là vấn đề cần được quan tâm thường xuyên. Bên cạnh đó, cần khẳng định trách
nhiệm của các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến địa phương, thể hiện ở hai mặt: quan
tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cho báo chí phát triển; đồng thời theo dõi kiểm tra, uốn nắn
kịp thời các khuyết điểm nảy sinh. Trách nhiệm lãnh đạo trực tiếp đối với từng tờ báo
trước hết thuộc về cơ quan chủ quản, thuộc về tổng biên tập tờ báo, thuộc về tổ chức
đảng tại nơi đó.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết để báo chí hoạt động
đúng mục đích và có hiệu quả. Sự lãnh đạo của Đảng càng hoàn thiện, càng hiệu quả thì
báo chí càng có điều kiện, tác nhân môi trường tốt để hoạt động và phát triển. Vì vậy,
việc không ngừng nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng vừa là yêu cầu khách quan, vừa
là đòi hỏi của bản thân nền báo chí.
2.1. lãnh đạo xây dựng chiến lược phát triển và định
hướng thông tin, tuyên truyền báo chí
2.1.1. Lãnh đạo xây dựng chiến lược phát triển báo chí
Thông tin được coi là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội, là công cụ để
điều hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc gia, là phương tiện hữu hiệu để mở rộng giao
lưu hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc, là nguồn cung cấp tri thức mọi mặt cho công
chúng và là nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, chiến lược phát triển
thông tin là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia. Thành công hay thất bại của một quốc gia tuỳ thuộc rất lớn vào khả năng làm
chủ, chiếm được lợi thế thông tin. Xây dựng chiến lược phát triển thông tin Việt Nam
chính là nhằm xác định những quan điểm chỉ đạo, mục tiêu cơ bản và những giải pháp
chủ yếu để thúc đẩy toàn bộ hệ thống thông tin cả nước không ngừng phát triển, cung
cấp ngày càng kịp thời thông tin đa dạng, phong phú, có chất lượng, đáp ứng nhu cầu
thông tin của công chúng, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Trong bất kỳ một hoạt động xã hội nào được tiến hành trên quy mô lớn hay nhỏ
đều cần đến sự lãnh đạo, quản lý nhằm thực hiện mục tiêu chung. Quản lý chính là sự
tác động có tính định hướng lên một hệ thống nào đó và hướng nó phát triển phù hợp
với những quy luật nhất định. Quản lý chính là sự tác động, điều khiển, chỉ huy đến quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người làm cho chúng vận động và phát triển
phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích và theo ý muốn của nhà quản lý. Đó chính là sự
tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Phát triển báo chí đi đôi với quản lý tốt là phù hợp xu thế của sự phát triển; phát
triển gắn với sự quản lý đồng thời phải nâng cao vai trò, vị trí, năng lực và hiệu quả
công tác quản lý để đáp ứng và phục vụ tốt sự phát triển; cần chống khuynh hướng phát
triển tràn lan, không quản lý được; đồng thời cũng chống khuynh hướng quản lý yếu
kém, hạn chế, cản trở sự phát triển.
Đại hội VIII của Đảng đã đề ra các chủ trương quan trọng:
Phát triển đi đôi với quản lý tốt mạng lưới thông tin, báo chí, xuất bản,
phát thanh, truyền hình, điện ảnh và các hình thức nghệ thuật khác. Sớm hoạch
định một chiến lược quốc gia về thông tin; coi trọng việc nâng cao chất lượng
thông tin đại chúng, tính chân thật, tính chiến đấu và tính đa dạng của thông tin;
coi trọng việc phát hiện và đề cao nhân tố mới đồng thời với việc phát hiện và
phê phán các hiện tượng tiêu cực, tăng cường công tác thông tin đối ngoại [35].
Đặc biệt, ngày 17-10-1997 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 22/CT-TW về tiếp
tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí xuất bản. Sau khi đánh
giá và rút ra các bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo báo chí của Đảng từ khi có Chỉ thị
08/CT-TW ngày 31-3-1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII), chỉ thị số
22/CT-TW khẳng định các quan điểm và định hướng lớn trong hoạt động báo chí. Chỉ
thị cũng chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý, các cơ quan
báo chí, các cá nhân phụ trách trên lĩnh vực báo chí, giúp cho báo chí dễ dàng hơn trong
hoạt động nghề nghiệp, cũng như các cơ quan lãnh đạo, quản lý cơ bản thoát khởi sự
lúng túng trong chỉ đạo báo chí thời kinh tế thị trường, mở cửa.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII (7/1998)
chỉ ra các nhiệm vụ:
Củng cố, xây dựng, phát triển, từng bước hiện đại hoá hệ thống thông tin
đại chúng. Sắp xếp lại và quy hoạch hợp lý hệ thống truyền hình, phát thanh,
thông tấn, báo chí, xuất bản, thông tin mạng nhằm tăng thêm hiệu quả thông tin,
tránh lãng phí; phối hợp hoạt động của các loại hình thông tin, báo chí, giữa
thông tin, báo chí với các lĩnh vực văn hoá-nghệ thuật. Xây dựng và từng bước
thực hiện chiến lược truyền thông quốc gia phù hợp đặc điểm nước ta và xu thế
phát triển thông tin đại chúng của thế giới. Đẩy mạnh thông tin đối ngoại. Tận
dụng thành tựu của mạng Internet để giới thiệu công cuộc đổi mới và văn hoá
Việt Nam với thế giới, đồng thời có biện pháp hiệu quả ngăn chặn, hạn chế tác
dụng tiêu cực qua mạng Internet cũng như qua các phương tiện thhông tin khác.
Không ngừng nâng cao trình độ chính trị và nghề nghiệp, chất lượng tư tưởng, văn
hoá của hệ thống truyền thông đại chúng. Khắc phục xu hướng thương mại hoá
trong hoạt động báo chí, xuất bản. Chăm lo đặc biệt về định hướng chính trị-tư
tưởng, văn hoá, cũng như về kỹ thuật hiện đại đối với truyền hình là loại báo chí có
ưu thế lớn, có sức thu hút công chúng đông đảo[40, tr.64-65].
Đại hội IX của Đảng (4-2001) đã chỉ ra nhiệm vụ mới của báo chí:
Báo chí, xuất bản… làm tốt chức năng tuyên truyền thực hiện
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát hiện cái mới,
giới thiệu gương người tốt, việc tốt, phê phán các hiện tượng tiêu cực, đấu
tranh với những quan điểm sai trái; coi trọng nâng cao tính chân thật, tính
giáo dục và tính chiến đấu của thông tin; khắc phục khuynh hướng “thương
mại hoá” trong hoạt động báo chí; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ văn
hoá và nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của đội ngũ báo chí [42, tr.116].
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá IX (2/2002) ra nghị quyết về
nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; trong đó đối với
báo chí, Nghị quyết tiếp tục khẳng định: “Báo chí nước ta là báo chí cách mạng, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự giám sát và xây dựng của nhân
dân” [43, tr. 124], đồng thời yêu cầu tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác thông tin, cổ động. Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 22/CT-TW của Bộ Chính trị
khoá VIII “về tiếp tục đổi mới, tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí, xuất bản” để
báo chí thật sự là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, đồng thời là diễn đàn của nhân dân, để
nhân dân thông qua báo chí thực hiện quyền làm chủ của mình; đa dạng hoá nội dung và
hình thức thông tin, báo chí để các sản phẩm thông tin, báo chí đáp ứng sát hơn nhu cầu
thông tin và đến được với đông đảo nhân dân thuộc các vùng, các dân tộc, các tầng lớp
khác nhau; khắc phục những tiêu cực trong hoạt động báo chí. Những quan điểm và nội
dung lãnh đạo đó trở thành cơ sở quan trọng để báo chí phấn đấu ngày càng hoàn thành
tốt hơn nhiệm vụ của mình trong giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH của đất nước.
Sự phát triển báo chí bao gồm cả tăng thêm số lượng, mở rộng quy mô, phạm vi
tác động và nâng cao chất lượng thông tin. Việc tiếp tục mở rộng quy mô báo chí trong
phạm vi toàn xã hội là một yêu cầu đương nhiên. Xã hội luôn phát triển, dân trí ngày
càng cao, tất yếu dẫn đến nhu cầu thông tin, giao tiếp tăng lên. Chính thực tiễn xã hội
đặt ra những đòi hỏi mở rộng quy mô thông tin của từng cơ quan báo chí, cũng như cho
sự ra đời của những tờ báo, bản tin, chương trình phát thanh, truyền hình mới.
Tại Hội nghị báo chí, xuất bản toàn quốc 24-8-1997 đồng chí Nguyễn Đức Bình
uỷ viên Bộ Chính trị phát biểu: “Có ý kiến cho rằng báo chí của chúng ta quá nhiều. Lại
có ý kiến cho rằng báo chí của chúng ta quá ít, chưa đủ đáp ứng yêu cầu thông tin của
xã hội. Có lẽ đúng hơn cả là vừa thừa, vừa thiếu[7, tr.41-42]. Thừa ở đây là sự trùng lặp
về nội dung giữa nhiều tờ báo, là thừa những thông tin vô bổ; là sự báo chí tập trung
quá nhiều vào các thành phố lớn như: Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Cái đáng
thiếu hiện nay là các tờ báo, các chương trình phát thanh và truyền hình có chất lượng
cao, có nội dung lành mạnh, bổ ích, hình thức thể hiện phong phú, hấp dẫn đa dạng,
không chỉ phục vụ tốt các tầng lớp nhân dân ở thành thị mà còn đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu thông tin của cán bộ nhân dân, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng
căn cứ cách mạng nước ta.
Thông báo kết luận số 162-TB/TW của Bộ Chính trị ngày 1-12-2004 đã chỉ rõ:
Chính phủ và các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí, theo chức năng của
mình, chỉ đạo rà soát lại quy hoạch báo chí, bao gồm cả hệ thống các đài phát
thanh, truyền hình ở Trung ương và địa phương, khắc phục tình trạng cho ra quá nhiều báo, tạp chí, có phương án điều chỉnh hợp lý, theo tinh thần phát
triển đi đôi với quản lý tốt báo chí [19, tr.5].
Ngày 9-9-2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 219/2005/TTg
về chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010 với các quan điểm sau:
1. Hoạt động thông tin và các loại hình thông tin ở nước ta đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và tuân thủ các quy định của pháp
luật; vừa góp phần mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, vừa đề cao kỷ
cương, kỷ luật và pháp luật.
Thông tin phải làm tốt nhiệm vụ phổ biến, giáo dục và bảo vệ chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; đồng thời là diễn đàn của nhân dân. Chủ
đề trọng tâm trong hoạt động thông tin ở nước ta trước mắt và lâu dài là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Phát triển nhanh, mạnh, vững chắc hệ thống thông tin, đảm bảo phát
triển đi đôi với quản lý tốt.
Bảo đảm lĩnh vực thông tin phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, phù hợp với xu thế chung của sự phát triển; nâng cao vai trò, vị trí, năng
lực và hiệu quả của công tác quản lý để đáp ứng và phục vụ tốt sự phát triển
thông tin; chống khuynh hướng phát triển tràn lan, chú trọng đầu tư phát triển,
nâng cao chất lượng, hiện đại hoá một số lĩnh vực và cơ quan thông tin trọng
điểm.
Coi trọng chất lượng chính trị, chất lượng văn hoá, chất lượng khoa học
và chất lượng nghiệp vụ của thông tin, đặc biệt là chất lượng chính trị; bảo đảm
đưa thông tin đến mọi đối tượng, mọi vùng, phù hợp với từng tầng lớp, lứa tuổi
với những sản phẩm có chất lượng, hấp dẫn, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu thông tin
ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân. Chú trọng công tác thông tin đối ngoại
giúp cho cộng đồng quốc tế và cộng người Việt Nam ở nước ngoài có thông tin
kịp thời, đúng đắn về tình hình Việt Nam tranh thủ sự đồng tình của nhân dân thế
giới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta.
Phát triển thông tin dựa trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa ứng dụng công
nghệ thông tin, truyền thông và các phương tiện thích hợp khác; tăng cường tự
chủ tài chính cho các đơn vị làm công tác thông tin.
3. Bảo đảm tính chân thật, tính giáo dục, tính chiến đấu của thông tin, phù
hợp với lợi ích của đất nước và nhân dân.
Thông tin phải góp phần quan trọng trong việc cung cấp tri thức, nâng cao
dân trí; hình thành và định hướng dư luận xã hội lành mạnh; tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng, chính trị và tinh thần trong nhân dân; biểu dương các
nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xã hội; giữ gìn
và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Người làm công tác thông tin phải tuân thủ định hướng của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có
kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cao.
4. Thông tin phải thực sự đi trước một bước, vừa làm tốt việc dự báo, định
hướng phát triển xã hội, đồng thời phải là nguồn lực thúc đẩy sự phát triển xã
hội. Thông tin phục vụ sự nghiệp đổi mới, đổi mới tư duy phát triển lý luận; mở
rộng và phát huy dân chủ trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội; nâng cao ý thức
làm chủ đất nước của nhân dân.
5. Phát triển thông tin phải đảm bảo an ninh thông tin là nội dung rất quan
trọng trong bối cảnh tình hình quốc tế có những diễn biến phức tạp, khi mà
“chiến tranh thông tin” đang được một số quốc gia đặc biệt tăng cường trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh, quốc phòng… Bảo đảm an ninh
thông tin trước hết là giữ vững độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ
nghĩa của đất nước, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi mưu đồ chống phá sự
nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới của nước ta. Việc bảo đảm an ninh
thông tin phải bảo đảm phục vụ tốt cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của
thông tin, đồng thời không cản trở sự phát triển của thông tin [90, tr.16-17].
Chiến lược phát triển thông tin cũng xác định rõ báo chí là một bộ phận quan
trọng trong chiến lược phát triển thông tin, là một trong những yếu tố hình thành văn
hoá đọc, một kênh chuyển tải, lưu giữ các giá trị văn hoá - khoa học.
Bên cạnh đó, Chiến lược phát triển thông tin đã chỉ rõ mục tiêu cụ thể về phát
triển thông tin quan báo chí là:
Phát triển mạnh mẽ, toàn diện mạng lưới báo chí trong cả nước theo
phương châm không trùng chéo về tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, phải lấy
mục đích phục vụ lợi ích đất nước, lợi ích nhân dân làm mục tiêu hàng đầu cho
sự phát triển.
Phát triển đi đôi với việc sắp xếp, quy hoạch mạng lưới báo chí trong cả
nước. Mục tiêu của việc quy hoạch, sắp xếp là giảm đầu mối các cơ quan báo chí
theo phương thức một cơ quan báo chí quản lý một số ấn phẩm báo chí; khắc
phục xu hướng thương mại hoá, tình trạng xa rời tôn chỉ, mục đích, trùng lặp về
nội dung, đối tượng, lãng phí trong khâu xuất bản, phát hành, góp phần nâng cao
chất lượng chính trị, chất lượng văn hoá, chất lượng khoa học, chất lượng nghiệp
vụ của báo chí; thử nghiệm xây dựng tổ hợp xuất bản, tập đoàn báo chí, kết hợp
với các hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tạo nguồn
đầu từ cho hoạt động báo chí [90, tr.19].
Việc sắp xếp, quy hoạch mạng lưới báo chí theo hướng chủ yếu
sau đây:
Mỗi tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức chính trị- xã hội-
nghề nghiệp ở Trung ương có một tờ báo là cơ quan ngôn luận và một tạp chí là
cơ quan thông tin lý luận
Mỗi Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản
lý nhà nước có một tạp chí nghiên cứu, chỉ đạo toàn ngành. Những cơ quan có
nhu cầu và đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật thì xem xét cho xuất bản
một tờ báo là cơ quan ngôn luận (một số đơn vị có tính đặc thù như Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an xem xét riêng).
Các Tổng cục, Học viện, các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ, Đại học quốc gia, các trường đại học lớn, các tổng công ty chuyên
ngành lớn khi có nhu cầu và có đủ điều kiện thì áp dụng mô hình có một tạp chí
hoặc bản tin hoạt động khoa học.
Các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp có quy mô lớn, phạm vi hoạt
động rộng, có nhu cầu và bảo đảm các điều kiện theo quy định của pháp luật thì
được xem xét cho xuất bản một tạp chí. Trường hợp đặc biệt mới xem xét cho
xuất bản báo. Các tổ chức khác chỉ xuất bản bản tin, tài liệu tuyên truyền hoặc
đặc san phát hành từng quý, từng năm.
Các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương có cơ cấu chung về báo chí như
sau: một tờ báo là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ tỉnh, thành phố; một tạp chí về
kinh tế hoặc khoa học-công nghệ hoặc kinh tế-khoa học-công nghệ; một tạp chí văn
nghệ hoặc văn hoá - nghệ thuật. Các địa phương đặc thù như Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh có thể xem xét cho xuất bản thêm một số tạp chí, báo chuyên ngành [90,
tr.20].
Ngoài ra, căn cứ tiêu chí đối tượng phục vụ của báo chí để có cơ chế chính sách
phù hợp về tài chính, tạo điều kiện hỗ trợ cho sự phát triển báo chí. Mục tiêu đến 2010,
“phấn đấu tăng sản lượng báo xuất bản hàng năm lên 900 triệu bản báo/năm; mức hưởng thụ
bình quân lên 10 bản/người/năm; giảm tỷ lệ mất cân đối trong phát hành báo chí giữa khu
vực thành phố, thị xã và vùng nông thôn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa xuống mức
60%/40%” [90, tr.20]. “Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư các trang thiết bị hiện đại
cho hoạt động báo chí, bảo đảm các sản phẩm báo chí có chất lượng cao cả về hình thức
và nội dung”[90, tr.20]. Nâng cao chất lượng đội ngũ phóng viên, biên tập viên ngang
tầm trình độ, kỹ năng hoạt động báo chí của phóng viên, biên tập viên của các nước
trong khu vực và quốc tế. Đến năm 2010, “phấn đấu đạt tỷ lệ 100% đội ngũ này có trình
độ đại học trở lên; 100% được qua các lớp chính trị trong đó có 80% có trình độ trung,
cao cấp; 100% phóng viên, biên tập viên biết ít nhất một ngoại ngữ, trong đó có 70% có
trình độ B trở lên; 100% nhà báo được qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ”[90, tr.20].
Để thực hiện mục tiêu trên chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010 đã đề ra
một số giải pháp thực hiện nhằm “hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý của
các cơ quan chỉ đạo và quản lý thông tin nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối
với lĩnh vực này; khắc phục tình trạng chồng chéo, phân công, phân cấp không rõ ràng
giữa các cơ quan quản lý, giữa Trung ương với địa phương”[90, tr.26]; đảm bảo sự tập
trung, hiệu quả của công tác chỉ đạo, quản lý thông tin trong phạm vi cả nước:
Xây dựng tổ chức, bộ máy đủ mạnh để thực hiện có hiệu quả chức năng
quản lý các loại hình thông tin với đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, có trình độ
chính trị và năng lực chuyên môn nghiệp vụ cao. Xây dựng quy chế phối hợp
hoạt động để tăng cường sự chỉ đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với
hoạt động thông tin.
Hoàn thiện phương thức và cơ chế phối hợp để xử lý có hiệu quả thông tin
phản hồi của nhân dân đóng góp, phản ánh với Đảng và Nhà nước; nâng cao chất
lượng điều tra dư luận xã hội; tăng cường hệ thống thông tin đối ngoại, chủ động
đấu tranh với quan điểm sai trái, thù địch.
Kiện toàn và tăng cường hiệu lực quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước
về thông tin báo chí. Xác định rõ chức năng nhiệm vụ quản lý giữa cơ quan quản
lý nhà nước và cơ quan chủ quản để tăng cường hiệu lực công tác điều hành,
quản lý thông tin.
Xây dựng cơ chế phối hợp về phân công nhiệm vụ của các cơ quan quản
lý nhà nước trong quản lý các khâu của các loại hình thông tin… nhằm tăng
cường công tác quản lý nhà nước về các loại hình thông tin này.
Rà soát, điều chỉnh quy hoạch hệ thống báo chí; xây dung, phát triển một
số cơ quan báo chí điện tử trọng điểm trên mạng Internet; Xây dựng quy hoạch
hợp lý hệ thống phát thanh, truyền hình và báo điện tử. Chú trọng việc xác định
quy mô, phạm vi hoạt động, công suất phát sang của đài truyền hình cấp tỉnh;
quy hoạch việc phát sóng của các đài truyền hình tỉnh, thành phố với các đài khu
vực; từng bước xây dựng cơ chế thực hiện thống nhất quản lý lĩnh vực truyền
dẫn và phát sóng.
Đánh giá đầy đủ các điều kiện hoạt động của hệ thống đài phát thanh cấp
huyện để xem xét, cấp phép hoạt động và phân loại quản lý theo quy định của
Luật Báo chí. Kiện toàn bộ máy quản lý thông tin ở các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (các phòng nghiệp vụ của Sở Văn hoá - Thông tin)[90, tr.26-
27].
Đồng thời với việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức là hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý trong quản lý và hành lang pháp lý cho hoạt động
thông tin:
Xây dựng và ban hành quy chế hoạt động thông tin, cụ thể là quy chế về
chức danh báo chí, quy chế về cung cấp và quản lý thông tin cho báo chí, quy
chế về tổ chức và điều kiện thành lập các cơ quan báo chí, quy chế về điều kiện
hoạt động của các cơ sở dịch vụ Internet công cộng… Sửa đổi và ban hành Nghị
định về “Quy chế hoạt động thông tin, báo chí của phóng viên nước ngoài, các cơ
quan tổ chức nước ngoài tại Việt Nam” cho phù hợp với thực tế phát triển của
thông tin, khả năng quản lý nhà nước và của các cơ quan chức năng[90, tr.27]
Tuy nhiên, công tác quy hoạch phát triển báo chí còn bị động, việc xem xét, cho
ra báo, tạp chí, đặc san, phụ trương… còn thiếu chặt chẽ, đôi khi dễ dãi. Hệ thống báo
chí hiện nay còn nhiều điểm bất hợp lý, cồng kềnh, trùng lặp về nội dung, nặng về bao
cấp, gây lãng phí, tốn kém.
Thông báo kết luận số 41-TB/TW của Bộ Chính trị (khoá X) ngày 11-10-2006 đã
yêu cầu:
Chính phủ chỉ đạo các cơ quan tiếp tục thực hiện Kế hoạch của Chính phủ
để thực hiện thông báo kết luận số 162-TB/TW, ngày 1-12-2004 của Bộ Chính
trị (Quyết định số 388/QĐ-TTg, ngày 13-5-2005 của Thủ tướng Chính phủ); chỉ
đạo Bộ Văn hoá - Thông tin và các cơ quan liên quan rà soát lại hệ thống báo chí,
xác định tính hợp pháp, sự phù hợp về tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ
của một số tờ báo, tạp chí, mạng truyền hình, phát thanh, các chương trình truyền
hình, phát thanh, nhất là các báo điện tử, trang và bản tin điện tử trên Internet,
các phụ san, phụ trương, chuyên đề để sắp xếp và điều chỉnh phù hợp với tinh
thần phát triển đi đôi với lãnh đạo và quản lý tốt báo chí; xử lý nghiêm các báo,
tạp chí vi phạm chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của nhà
nước [20, tr. 3].
Sắp xếp lại báo chí phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,
thực hiện đúng phương châm của Đảng là “phát triển đi đôi với quản lý tốt”. Nguyên tắc
của việc chấn chỉnh là: việc duy trì và cấp phép các cơ quan báo chí trên cơ sở có nhu
cầu thông tin, đồng thời phù hợp với điều kiện, khả năng của đất nước và khả năng quản
lý, chỉ đạo hoạt động báo chí của các cơ quan chủ quản; có đủ cán bộ, phóng viên, có
nguồn tài chính đảm bảo chủ động chuẩn bị cho bước phát triển mới của hoạt động báo
chí phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ truyền thông đại
chúng. Xem xét cho ra thêm những tờ báo, tạp chí có đủ các điều kiện bảo đảm cho tờ
báo, tạp chí hoạt động có hiệu quả và rút bớt báo chí (nhất là số phụ, số chuyên đề)
trong thời gian qua có nhiều sai phạm, không thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, trùng
lặp về nội dung, đối tượng; không có đủ các điều kiện khác, cơ quan chủ quản buông
lỏng quản lý…
Thông báo kết luận số 68-TB/TW của Bộ Chính trị (khoá X) ngày 30-3-2007 yêu
cầu các cơ quan lãnh đạo của Đảng, cơ quan quản lý của Nhà nước, cơ quan chủ quản,
cơ quan báo chí và các cấp hội nhà báo:
Rà soát quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các cơ quan báo chí thuộc tất cả
các loại hình, đảm bảo tổ chức và hoạt động đúng với Luật Báo chí; rà soát và xử
lý sai phạm tất cả các cơ quan báo chí thuộc mọi lại hình, nhất là các báo điện tử,
phát thanh, truyền hình, các phụ san, phụ trương, chuyên trang, chuyên đề, số
đặc biệt có sai phạm, hoạt động sai pháp luật; xử lý việc để tư nhân, thậm chí tổ
chức, cá nhân nước ngoài núp bóng hoạt động báo chí dưới mọi hình thức. Sớm
ban hành đầy đủ, đồng bộ các văn bản quản lý nhà nước đối với hoạt động báo
chí [21, tr.2].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X (1-8-2007)
“về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới” đã chỉ rõ: “Rà soát, điều
chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển hệ thống báo chí, các đài phát thanh, truyền hình từ
trung ương đến địa phương và báo chí điện tử; sắp xếp thu gọn đầu mối theo hướng
khoa học, hợp lý, hiệu quả”[45, tr.50]
Do vậy, không phải bất kỳ tổ chức, đơn vị, địa phương nào cũng đều phải có báo
và tạp chí và không phải báo và tạp chí nào cũng cho ra số phụ, số chuyên đề. Cần tập
trung các nguồn lực để từng bước một hệ thống báo chí Việt Nam đổi mới và hiện đại,
chú trọng việc cải tiến để nâng cao chất lượng hoạt động báo chí.
Về số lượng và cơ cấu loại hình báo chí, cần xem xét để phát triển từng bước,
đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao và phong phú của xã hội, phù hợp với sự phát
triển của đất nước, với khả năng và điều kiện vật chất, kỹ thuật. Phấn đấu thu hẹp
khoảng cách phát triển của báo chí nước ta so với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Tăng cường quản lý không có nghĩa là “siết chặt” là “dẹp bớt” một cách đơn giản
về số lượng. Quản lý tốt là cốt để tạo điều kiện cho báo chí phát triển cả về số lượng,
quy mô, hiệu quả, phạm vi tác động cả về chất lượng, hiệu quả mà tiêu chí chất lượng,
hiệu quả phải đặt lên hàng đầu. Nói đến quản lý là nói đến toàn bộ quá trình tổ chức bộ
máy vận hành của cả hệ thống, hình thành hành lang pháp lý đủ mức cần thiết và thực
hiện việc kiểm tra, đánh giá, uốn nắn, sửa chữa kịp thời những sai lầm thiếu sót trong
hoạt động. Tăng cường quản lý báo chí cũng chính là tăng cường vai trò sự lãnh đạo của
Đảng thông qua hoạt động quản lý của bộ máy Nhà nước các cấp, các ngành, các địa
phương. Chỉ có thể phát huy sức mạnh của báo chí, khi tiến hành quản lý Nhà nước về
báo chí một cách hiệu quả.
Trong việc tăng cường quản lý, vấn đề hàng đầu cần quan tâm là nhanh chóng
kiện toàn bộ máy và sớm hình thành cơ chế thích hợp cho bộ máy vận hành, tăng cường
số lượng, chất lượng cán bộ và điều kiện hoạt động cho bộ máy. Giải quyết vấn đề này
cũng chính là khắc phục một nguyên nhân cơ bản dẫn đến những thiếu sót khuyết điểm
vừa qua trong hoạt động báo chí.
Mặt khác, cần thường xuyên hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động thông
tin báo chí. Sự phát triển liên tục của báo chí, đòi hỏi phải kịp thời và không ngừng bổ
sung, cụ thể hoá các chế định pháp lý cho phù hợp với điều kiện mới. Trên thực tế một
số quy định cụ thể trong các văn bản dưới luật không còn hợp lý, song chưa được điều
chỉnh. Một số hoạt động cụ thể chưa đưa vào phạm vi chi phối của pháp luật, chế độ.
Thậm chí ngay cả khi đã có luật, chế độ, quy định, xong ta không xử lý hoặc xử lý
không nghiêm, không kịp thời những trường hợp vi phạm.
Phát triển đi đôi với quản lý cần được hiểu rằng đảm bảo cho sự tăng trưởng về
số lượng, quy mô của báo chí, phù hợp với nhu cầu, điều kiện và khả năng thực tế.
Đồng thời khả năng quản lý phải được tăng cường để đảm bảo các điều kiện cho hệ
thống báo chí hoạt động có hiệu quả, toàn diện. Muốn vậy, cần tăng cường, hoàn thiện,
hình thành một bộ máy đủ mạnh từ cấp Bộ, cấp sở tới Ban biên tập báo, đủ sức vận
hành, kiểm tra, kiểm soát hệ thống báo chí trên thực tế. Vấn đề là phải thường xuyên
bảo đảm tính hợp lý, sự cân đối hài hoà giữa phát triển và quản lý, sao cho không có sự
phát triển nào bị hạn chế do hoạt động quản lý yếu kém, bất cập.
Tiếp tục phát triển hệ thống báo chí là một yêu cầu khách quan, xã hội càng phát triển
thì nhu cầu thông tin báo chí vẫn càng tăng lên. Trên thực tế, các chỉ số tiêu dùng báo chí của
nước ta còn rất thấp so với các nước phát triển.
Việt Nam tính đến 7/2006 cả nước có gần 620 cơ quan báo chí, hơn 803
ấn phẩm, sản phẩm báo chí trong đó có 172 báo, 448 tạp chí; 67 đài phát thanh,
truyền hình (2 đài quốc gia), hoan 600 đài truyền thanh-truyền hình cấp huyện;
88 báo điện tử.
Trung Quốc có 1931 tờ báo (202 báo trung ương, bộ, ngành, đoàn thể
trung ương; 1.711 báo địa phương). Bình quân phát hành 195.488.000 tờ/kỳ, 1
năm là 41 tỷ 260 triệu bản. Tờ Nhân dân nhật báo phát hành 1.920.000 bản. Cả
nước có 1.000 đài truyền hình, hơn 900 đài phát thanh, 161 báo điện tử.
Nước Anh có 10 tờ báo hàng ngày, 9 tờ báo chủ nhật cấp quốc gia, 1.400
tờ báo địa phương, 6.500 tạp chí.
Pháp có 81 báo ngày trong đó có 10 tờ báo quốc gia chuyên đưa tin chính
trị, tổng hợp; 10 tờ chuyên về thương mại, thể thao, còn lại là báo địa phương và
hàng ngàn tạp chí.
Mỹ có 770 tờ báo, 610 tờ báo chủ nhật, hàng trăm tờ báo khác; không có
đài phát thanh, truyền hình quốc gia, hệ thống đài phát thanh, truyền hình thương
mại nhiều và mạnh nhất thế giới [3, tr.46].
Trong khi đó sự phát triển báo chí lại chưa đều, phần lớn tập trung vào các đô
thị, khu đông dân cư. Trang bị kỹ thuật hành nghề và sản xuất báo chí cũng như năng
lực tác nghiệp nói chung của chúng ta còn thua kém so với khu vực và thế giới. Chính
vì thế, rõ ràng nền báo chí của ta cần được phát triển, mở rộng quy mô ảnh hưởng, đa
dạng hoá để đáp ứng nhu cầu thông tin phong phú, ngày càng mở rộng của nhân dân.
Việc phát triển báo chí bao gồm cả quy mô và chất lượng, trong đó chất lượng
cần phải được quan tâm đặc biệt. Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết Đại hội X, Chỉ thị
số 08-CT/TW và Chỉ thị 22-CT/TW... của Đảng đều nhấn mạnh, coi trọng yêu cầu của
chất lượng của báo chí. Nói đến chất lượng báo chí là nói đến một hệ thống báo chí cân
đối, phân bổ hợp lý về loại hình và khu vực, có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu thông tin
phong phú của xã hội, đóng góp tích cực nhất cho sự phát triển của mỗi người dân cũng
như của cả đất nước.
Trong điều kiện mới có thể nói rằng nền báo chí có chất lượng là một hệ thống
hợp lý các cơ quan báo chí với các sản phẩm tương ứng có khả năng cung cấp thông tin
bổ ích, đúng đắn, đầy đủ, kịp thời, đáp ứng nhu cầu tinh thần to lớn không ngừng tăng
lên của nhân dân. Hệ thống thông tin báo chí này phải đủ trình độ và bản lĩnh để nhận
thức và phân tích một cách chính xác, kịp thời các sự kiện, những diễn biến phức tạp
của thời cuộc đủ sức hình thành và hướng dẫn một cách đúng đắn dư luận xã hội, có sức
tập hợp động viên xã hội hành động theo những tiêu chuẩn và định hướng của Đảng và
Nhà nước. Chất lượng của nền thông tin báo chí bao hàm cả sự phong phú, đa dạng về
nội dung cũng như hình thức thông tin; khả năng dự báo, phát hiện cái mới; sự sắc sảo
và nhạy bén chính trị trong nhận thức thực tiễn và hoạt động sáng tạo. Cũng cần tính
đến cả chất lượng kỹ thuật, hấp dẫn, sức thuyết phục của các sản phẩm. Điểm hội tụ
những tiêu chí trên chính là chất lượng chính trị - tư tưởng, là sự trung thành với mục
tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; là khả năng lôi cuốn quần chúng vào
sự nghiệp đó, là khả năng đấu tranh chống sự phá hoại nhiều mặt của thế lực thù địch,
bảo vệ chế độ, đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân, của dân tộc,
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó có nghĩa là trong toàn bộ các tiêu chí tạo thành chất
lượng của nền báo chí thì tiêu chí hàng đầu quan trọng nhất ở nội dung và cách thể hiện.
Nếu nói nôm na là viết, nói, truyền hình… sao cho đúng, cho hay, cho đẹp từ đó có sức
hấp dẫn lớn đưa lại hiệu suất và hiệu quả cao về tư tưởng, chính trị và nhận thức xã hội.
Nếu đánh giá trên tiêu chí cơ bản này thì tình hình thực tế hiện nay của báo chí đang đòi
hỏi chúng ta còn phải có những nỗ lực cực kỳ lớn nhằm nâng cao chất lượng, do đó phải
coi đây là hướng phấn đấu chính chứ không phải đặt lên hàng đầu mặt số lượng đầu
báo, càng không nên để bung ra thiếu cân nhắc những số phụ, số chuyên đề.
Chất lượng báo chí cũng thể hiện ở tính chiến đấu cao của nó, đó là sự sắc sảo
trong vạch mặt chống lại những âm mưu thù địch của kẻ thù, là sự dũng cảm và công
bằng trong đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong nội bộ xã hội. Đương nhiên,
nền báo chí chất lượng cũng là nền báo chí được đảm bảo bằng các phương tiện kỹ
thuật, công nghệ hiện đại, hệ thống dịch vụ thuận lợi cho việc hành nghề của người làm
báo. Nền báo chí chất lượng cũng là nền báo chí có khả năng phản ánh trung thực, kịp
thời tiếng nói của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhân dân có thể phát biểu ý
kiến, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của mình.
Nghị quyết Đại hội VIII, Đại hội IX, Đại hội X của Đảng đặt ra yêu cầu phát
triển đi đôi với quản lý báo chí. Quản lý báo chí cách mạng, trước hết là thể hiện vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - một nguyên tắc đảm bảo cho đảm bảo cho báo chí
phát triển hợp lý, hoạt động đúng hướng, thật sự là công cụ sắc bén trên mặt trận tư
tưởng của Đảng.
Từ phương diện cụ thể, quản lý bao gồm hệ thống tổ chức quản lý, bộ máy, nhân
sự, cơ chế hoạt động và hành lang pháp lý đầy đủ, đảm bảo cho hệ thống báo chí vận
hành thuận lợi. Do đó, cần củng cố, tăng cường bộ máy quản lý báo chí nhất quán từ
trung ương đến các địa phương, bổ sung, hoàn chỉnh Luật Báo chí và văn bản dưới luật
để điều chỉnh kịp thời những khía cạnh mới nảy sinh trong báo chí hiện đại, tăng cường
tính nghiêm minh trong kiểm tra, đánh giá và xử lý các vụ việc.
Vấn đề có ý nghĩa quyết định, chi phối chất lượng, hiệu quả và yêu cầu quản lý
báo chí chính là cán bộ, bao gồm từ khâu đào tạo, bồi dưỡng đến đến bố trí, sử dụng.
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng yêu cầu người làm báo cách mạng phải trung
thành với chế độ, với dân tộc, có hệ thống tri thức văn hoá rộng, có khả năng thích ứng
với công nghệ tiên tiến và sự năng động trong phương pháp hoạt động nghề nghiệp.
Muốn có mẫu cán bộ báo chí như thế, rõ ràng là phải có sự đầu tư mạnh hơn nữa trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng. Phải có chính sách bồi dưỡng, đào tạo lại và có cơ chế
kiểm tra, đánh giá để sử dụng đúng cán bộ cũng như giúp cán bộ thích ứng kịp với
những đổi mới trong hoạt động nghề nghiệp.
Cùng với nội dung quản lý, cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí, Luật báo chí
Việt Nam chỉ rõ: Nhà nước mở rộng quan hệ quốc tế trong hoạt động báo chí, Chính
phủ quy định cụ thể về quan hệ quốc tế trong hoạt động báo chí (điều 17b). Nhà nước
có chính sách hỗ trợ ngân sách và tạo điều kiện cho báo chí phát triển, Chính phủ quy
định cho phép cơ quan báo chí được tổ chức hoạt động kinh doanh phù hợp với chuyên
môn nghiệp vụ của mình… (điều 17c). Nhà nước hỗ trợ ngân sách để báo chí đến với
nhân dân các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đến với cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài (điều 17d). Chính phủ quy định tổ chức và hoạt động của thanh tra
báo chí (điều 17d).
Để khắc phục khó khăn chung của báo chí, nhất là báo Đảng và tạp chí chính trị,
là tình trạng thiếu kinh phí hoạt động nghiệp vụ, Chỉ thị 22/CT-TW (17-10-1997) của
Đảng chỉ rõ:
Bộ Văn hoá - Thông tin chủ trì phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam, các
ban, bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, đề nghị sửa đổi, bổ sung và ban hành các
chế độ, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động báo chí, xuất bản trong
điều kiện mới. Chính phủ xem xét để cấp vốn hoạt động cho một số báo, tạp chí,
nhà xuất bản, chủ yếu là báo, tạp chí, sách lý luận chính trị, xã hội, phổ biến kiến
thức, khoa học kỹ thuật có nhiều khó khăn trong việc tăng số lượng phát hành;
xem xét việc tính thuế doanh thu và thuế lợi tức hợp lý trong hoạt động báo chí -
xuất bản hoặc có hình thức để tái đầu tư cho các hoạt động này. Ngân sách hàng
năm dành để tài trợ cho báo chí, xuất bản phải có cơ chế quản lý chặt chẽ, phân
bổ đúng địa chỉ, phù hợp với yêu cầu định hướng công tác tư tưởng, văn hoá của
Đảng [37, tr.4].
Cụ thể hơn, trong việc lãnh đạo thông qua Nhà nước đối với một số công việc cụ
thể, Ban cán sự Đảng ở các cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí lãnh đạo xác định và
thực hiện đúng đường lối, quan điểm báo chí của Đảng; kiện toàn về bộ máy và nhân
sự, sao cho đủ sức quản lý tốt nhất hoạt động đa dạng và nhiều khi phức tạp của báo chí;
sử dụng hợp lý sự hỗ trợ của Nhà nước về mọi mặt đối với báo chí, nhất là về kinh phí,
để báo chí đến với mọi người, để tiếng nói của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân,
đồng thời cũng để nhân dân sử dụng báo chí là diễn đàn để thực hiện tâm tư, nguyện
vọng của mình với Đảng và Nhà nước.
Trong chỉ đạo các cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí, các cấp uỷ đảng phải tôn
trọng và đề cao vai trò của Hiến pháp và pháp luật, trước hết là Luật Báo chí. Cùng với
Luật Báo chí, Đảng lãnh đạo các cơ quan Nhà nước ban hành và hoàn chỉnh hệ thống các
chính sách về báo chí, cụ thể là chính sách lương và phụ cấp của nhà báo, chính sách đầu
tư, chính sách thuế… để làm sao tạo thành một hệ thống chính sách đồng bộ giúp cho báo
chí vừa làm tròn vai trò công tác tư tưởng của Đảng, vừa đảm bảo “báo chí cũng là một
ngành kinh tế”.
2.1.2. Lãnh đạo định hướng trong nội dung thông tin, tuyên truyền của báo
chí
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo các giai cấp, các tổ chức, đoàn thể, lãnh đạo
toàn bộ mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội bằng mục tiêu chính trị cao cả thiêng liêng
của mình thông qua đường lối, chủ trương, chính sách trong từng thời kỳ cụ thể để xây
dựng một xã hội cho con người, vì con người.
Sự lãnh đạo của Đảng với báo chí là toàn diện, chủ yếu và trước hết là lãnh đạo
chính trị. Đảng lãnh đạo báo chí bằng định hướng chính trị, định hướng tư tưởng, định
hướng thông tin, bằng hệ thống quan điểm báo chí. Đảng theo dõi, kiểm tra, uốn nắn
việc thực hiện các định hướng đó thông qua các tổ chức Đảng và các đảng viên. Hiệu
quả công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí phụ thuộc vào việc đặt ra những định
hướng và quan điểm báo chí đúng đắn và khoa học, phụ thuộc vào năng lực và phẩm
chất của các tổ chức Đảng.
Từ năm 1996 đến năm 2006, Đảng ta đã chỉ thị, nghị quyết nhằm đổi mới, phát
triển và hoàn thiện đường lối chính trị, định hướng tư tưởng và quan điểm báo chí và đã
nâng cao được hiệu quả lãnh đạo báo chí rõ rệt. Từ quan điểm “báo chí là công cụ tư
tưởng sắc bén của Đảng” đến quan điểm “báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, Nhà nước
đồng thời là diễn đàn của nhân dân” thực sự là một bước phát triển đáng mừng của lý
luận báo chí cách mạng Việt Nam. Quan điểm đó quy định phương thức thông tin đa
dạng, nhiều chiều trong hoạt động báo chí, làm thay đổi diện mạo nền báo chí, tăng tính
hiệu quả và hấp dẫn của báo chí, nó phản ánh mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân
dân. Vì vậy, báo chí đã thực sự phát huy triệt để vai trò là chiếc cầu nối tin cậy giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Uy tín, ảnh hưởng, vai trò báo chí trong xã hội ngày
càng tăng lên. Báo chí đã thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền, định hướng dư luận, cổ
động tập thể… và quan trọng hơn đã tham gia vào quá trình quản lý xã hội một cách
tích cực. Sự lãnh đạo về đường lối chính trị, định hướng tư tưởng, quan điểm báo chí
của Đảng là nhân tố làm nên thành tựu của báo chí cách mạng Việt Nam.
Lý luận báo chí vô sản và thực tiễn hoạt động của báo chí Việt Nam đã chứng
minh rằng với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ vào toàn
bộ xã hội, báo chí có vai trò và ý nghĩa vô cùng to lớn trong công tác tư tưởng, tuyên
truyền, phổ biến, hướng dẫn đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cùng với hoạt động lý luận, tổ chức, công tác tư tưởng của Đảng có vai trò đặc biệt
quan trọng. Mục đích của công tác tư tưởng là nhằm tác động vào ý thức xã hội, hình thành
một hệ tư tưởng thống trị với những định hướng nhất định. Nói cách khác, đó là việc thực
thi quyền lực tinh thần của đảng cầm quyền.
Qua công tác tư tưởng, báo chí đã hình thành đời sống tinh thần của quảng đại
quần chúng nhân dân lao động. Báo chí Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục
lý tưởng, giáo dục chính trị, xây dựng một lối sống mới và phát huy những giá trị tích
cực trong đời sống văn hoá tinh thần dân tộc trong xã hội, đồng thời kiên quyết chống
lại những âm mưu, những luận điệu phản tuyên truyền chống Đảng và Nhà nước, chống
lại những tiêu cực trong đời sống đang cản trở sự phát triển của đất nước. Báo chí đã
nâng cao được tính tự giác cho nhân dân, xây dựng được cho họ lập trường quan điểm
vững vàng, một nhãn quan chính trị khoa học và đúng đắn. ở đây, yêu cầu về sự định
hướng toàn diện của quần chúng xã hội trở thành mục đích có ý nghĩa quyết định trong
toàn bộ hoạt động tư tưởng của báo chí.
Với những đặc trưng của mình, báo chí cách mạng đã có năng lực to lớn trong
việc hình thành mô hình thông tin phản ánh sắc sảo, kịp thời sự vận động nhằm tạo nên
một định hướng xã hội tích cực. Tiếng nói của báo chí vừa là tiếng nói của Đảng Cộng
sản, vừa là tiếng nói của nhân dân lao động. Sức mạnh định hướng của báo chí chúng ta
thể hiện ở khả năng trở thành diễn đàn rộng lớn cho toàn Đảng, toàn dân tham gia xây
dựng một đời sống tinh thần xã hội phong phú, có ích cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Báo chí đã tác động vào ý thức xã hội thông qua một thành tố năng động nhất,
linh hoạt nhất của nó đó là dư luận xã hội. Những biến động của đời sống xã hội đều
được đón nhận bởi dư luận xã hội, được phản ánh theo đặc trưng của dư luận xã hội.
Báo chí tác động vào dư luận xã hội để từ đó tác động vào những yếu tố ổn định hơn
của ý thức xã hội như: truyền thống văn hoá lịch sử, nhân sinh quan và thế giới quan.
Đặc trưng của quá trình hình thành và ý nghĩa to lớn của dư luận xã hội trong đời sống
tinh thần xã hội đã thu hút sự quan tâm chú ý hàng đầu của báo chí. Và báo chí tác động
vào dư luận xã hội không chỉ ở cách thụ động mà quan trọng hơn báo chí cách mạng đã
biết chủ động hình thành, định hướng dư luận xã hội theo hướng tích cực, có lợi nhất
cho sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng, cho sự phát triển chung của đất nước.
Báo chí cách mạng đã thực hiện thành công công tác tư tưởng bằng sự tác động
có tính thuyết phục với những sự kiện, hiện tượng, vấn đề cụ thể của đời sống hiện thực
xã hội chứ không phải bằng thứ lý luận giáo điều, cứng nhắc. Báo chí đã xứng đáng là công
cụ tư tưởng quan trọng của Đảng trong việc định hướng toàn bộ đời sống tinh thần xã hội
theo lý luận chủ nghĩa vô sản.
Bên cạnh đó, báo chí thực hiện tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cổ động và tổ chức quần chúng. Đây là một
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của báo chí vô sản. Ngay trong những trang
báo cách mạng đầu tiên, báo chí Việt Nam đã không ngừng truyền bá những tri thức của
chủ nghĩa Mác - Lênin, thế giới quan khoa học của chủ nghĩa xã hội, những tư tưởng
cách mạng của Hồ Chí Minh. Báo chí còn rất kịp thời phản ánh những chủ trương,
đường lối, quan điểm, chính sách chỉ thị lãnh đạo của Đảng tới toàn dân trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc. Có thực hiện tuyên truyền tốt mới tạo ra được những động
lực cách mạng to lớn nhằm thay đổi xã hội.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hôm nay, báo chí phải có nhiệm vụ
truyền bá, giải thích cho toàn xã hội những quan điểm, đường lối, chính sách, quyết
định của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc tuyên truyền phải
kèm theo việc phân tích, lý giải các cơ sở khoa học, thực tiễn của các chính sách, chủ
trương ấy một cách thuyết phục, hoàn chỉnh. Chính điều đó sẽ giúp cho quần chúng
nhân dân hiểu biết, tin tưởng và tự giác chấp hành các quan điểm, chính sách, đường lối
của Đảng.
Cùng với những nội dung trên, nội dung tuyên truyền của báo chí còn rất rộng lớn
và phong phú, đề cập đến mọi tri thức của mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, đáp ứng việc
xây dựng một con người mới xã hội chủ nghĩa toàn diện.
Trong hoạt động tuyên truyền, báo chí cần phải xem xét kỹ những cách thức,
phương pháp tuyên truyền phù hợp với từng thời điểm, đối tượng cụ thể, chứ không
phải tuyên truyền chung chung một chiều. Song song với nhiệm vụ tuyên truyền, báo
chí cách mạng phải luôn ý thức rõ ràng “vai trò của tờ báo không chỉ đóng khung ở chỗ
phổ biến tư tưởng, giáo dục chính trị và thu hút những người bạn đồng minh chính trị.
Tờ báo không những chỉ là người tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể, mà còn là
người tổ chức tập thể. Khi thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, tổ chức và hướng dẫn tập
thể” [69, tr.186], báo chí Việt Nam trong những năm kháng chiến gian khổ cứu nước đã
góp phần to lớn trong việc động viên sức người, sức của, động viên tinh thần yêu nước
và tạo ra những phong trào cách mạng to lớn để chiến thắng kẻ thù, giải phóng dân tộc.
Trong thời kỳ đầu của cuộc xây dựng và phát triển đất nước, vai trò của báo chí thể hiện
rõ qua việc tuyên truyền, đấu tranh nhằm thực hiện cơ chế khoán, tạo nên những thành
tựu to lớn trong sản xuất nông nghiệp.
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động công tác tư tưởng và công tác
tuyên truyền của báo chí càng có ý nghĩa và vai trò hết sức to lớn trong việc cải biến căn
bản tình trạng lạc hậu, nghèo nàn, đưa đất nước vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Yêu cầu hàng đầu của báo chí cách mạng cần phải có lập trường chính trị vững
chắc, đường lối chính trị đúng đắn, mục tiêu chính trị rõ ràng. Đường lối chính trị của
báo chí chính là cương lĩnh, đường lối của Đảng. Do đó, đường lối, chủ trương đúng
đắn là nội dung lãnh đạo cơ bản, tổng quát nhất của Đảng đối với công tác báo chí.
Đường lối đúng đắn của Đảng có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với công tác báo chí.
Đường lối đúng đắn tự nó đã chứa đựng những nội dung thông tin có sức sống và cách
mạng giúp cho hoạt động báo chí không rơi vào tình huống mâu thuẫn giưa những điều
cần tuyên truyền với hiện thực cuộc sống. Đường lối đúng đắn của Đảng còn tạo nên một
không khí mới, một tư duy mới trong Đảng và trong toàn xã hội, từ đó báo chí có cơ sở đổi
mới nội dung thông tin, hình thức tuyên truyền toàn diện hơn, đáp ứng được nhu cầu thông
tin của xã hội.
Từ đường lối đúng đắn, trong từng thời kỳ, Đảng luôn định hướng cho báo chí
thực hiện các nhiệm vụ cụ thể. Chẳng hạn, bước vào thời kỳ đổi mới Đảng ta chỉ rõ:
Các phương tiện thông tin đại chúng có nhiệm vụ truyền bá đường lối, chính sách của
Đảng, đi sát thực tế, thông tin kịp thời và phân tích sâu sắc các sự kiện mới; phát hiện
và phản ánh trung thực những điển hình tiên tiến, nhiệt tình ủng hộ, cổ vũ những nhân
tố mới, dũng cảm đấu tranh chống những hiện tượng lạc hậu, trì trệ và mọi biểu hiện
tiêu cực khác; đề cập và chỉ ra phương hướng giải quyết những vấn đề thiết thực mà xã
hội quan tâm; xây dựng dư luận xã hội lành mạnh, động viên quần chúng tích cực hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng.
Định hướng chính trị, tư tưởng một cách chính xác, kịp thời, hiệu quả là yêu cầu
hàng đầu đối với các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí, các cơ quan báo chí và nhà báo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: một trong những khuyết điểm của báo chí là không
biết lãnh đạo dư luận, không biết thúc đẩy và nâng cao tinh thần đấu tranh của nhân dân.
Định hướng chính xác là phúc của Đảng và nhân dân. Định hướng sai lầm là hoạ của
Đảng và nhân dân. Trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ truyền thông hiện đại,
khi mà chúng ta từng phút, từng giây đối mặt với nhiều loại thông tin, tư tưởng khác
nhau, điều cần thiết là phải phân biệt được đâu là cái tiến bộ, đâu là cái phản động, đâu
là cái thực, đâu là cái giả dối. Đảm bảo định hướng đúng đắn, kịp thời trên báo chí là để
tuyên truyền, cổ vũ quần chúng hăng hái thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng đề ra,
mặt khác, đề cao cảnh giác, chống lại thông tin, quan điểm sai trái, phản động của kẻ
thù, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Trong bức thư gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc
Kháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tờ báo của chúng ta có mấy điểm chính:
1. Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và
tổ chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung.
2. Mục đích là kháng chiến và kiến quốc. Để đi đến kháng chiến thắng lợi
kiến quốc thành công thì:
3. Tôn chỉ của tờ báo là đoàn kết toàn dân, thi đua ái quốc. Vì vậy:
4. Đối tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng. Một tờ báo không được
dân chúng ham chuộng thì không xứng đáng là một tờ báo[Hồ Chí Minh toàn
tập, tập5, tr.625].
Tại Đại hội lần thứ III, Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 8-9-1962, Người nhắc nhở:
Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Trong điều kiện lịch sử
hiện nay, để phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, báo chí phải bám sát hoạt động thực
tiễn đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới, phản ánh đời sống, tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân, làm chiếc cầu tin yêu nối dân với Đảng. Phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc
không chỉ là phản ánh, cổ vũ cuộc sống nhân dân, mà còn là việc không ngừng nâng cao
chất lượng nội dung, hình thức tác phẩm báo chí. Làm sao để nhân dân dễ đọc, dễ nghe,
dễ hiểu; để các loại hình báo chí đến được nhiều hơn với nhân dân các vùng, miền, các
dân tộc, tôn giáo, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa, nơi biên giới hải đảo. Chỉ khi các
nhà báo bám sát cuộc sống, ở những vùng khó khăn, gian khổ, thì lúc đó họ mới cảm
nhận đầy đủ, sâu sắc sự nghiệp vĩ đại của quần chúng, mới có tác phẩm tốt phục vụ
quần chúng nhân dân.
Để báo chí phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới, Chỉ thị 22/CT-
TW ngày 17-10-1997 của Bộ Chính trị khoá VIII yêu cầu báo chí:
Phải đảm bảo tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu
và tính đa dạng, có trách nhiệm hình thành dư luận xã hội lành mạnh góp phần
tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng, chính trị và tinh thần trong nhân
dân. Kiên quyết đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, khắc phục
các biểu hiện thương mại hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích và các biểu hiện tiêu cực,
lệch lạc khác. Tích cực biểu dương nhân tố mới, tham gia đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội, góp phần làm
lành mạnh xã hội, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp, bản sắc và
tinh hoa văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại [37, tr.3].
Ngoài ra, chỉ thị đã còn nêu rõ: “Thường xuyên phổ biến chủ trương, chỉ đạo
định hướng, cung cấp thông tin, thường kỳ kiểm điểm rút kinh nghiệm, biểu dương ưu
điểm, xử lý kịp thời các vi phạm pháp pháp luật và định hướng tuyên truyền”[37, tr.6].
Là một bộ phận của hệ thống chính trị, nhưng Đảng là hạt nhân lãnh đạo của hệ
thống, có vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị và lãnh đạo toàn xã hội. Với đặc trưng đó,
Đảng tổ chức sự phối hợp giữa các tổ chức đảng, các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể
nhân dân trong việc lãnh đạo, quản lý và hỗ trợ báo chí.
Lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là lãnh đạo toàn diện, trong đó trước hết là
lãnh đạo đảm bảo cho báo chí không đi chệch đường lối chính trị của Đảng, đóng góp
tích cực vào việc thực hiện đường lối đó một cách sáng tạo và có hiệu quả.
Thông báo kết luận số 162 - TB/TW ngày 1-12-2004 của Bộ Chính trị đã yêu
cầu:
Các cấp uỷ và tổ chức đảng cần thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý tốt hoạt động báo chí theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Chỉ
thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII), thông tri số 01-TT/TW của Ban Bí
thư (khoá IX) và các văn bản của Nhà nước về báo chí. Các cơ quan quản lý báo
chí cần tăng cường công tác quản lý Nhà nước về báo chí. Các cơ quan chỉ đạo,
quản lý, chủ quản và Hội nhà báo các cấp phối hợp chặt chẽ, thường xuyên để tổ
chức thực hiện tốt những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về báo chí [19, tr.4].
Nghị quyết Đại hội X của Đảng khi đề cập nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận
và báo chí đã nhấn mạnh: “Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy
và học tập lý luận, công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động, báo chí xuất bản, văn hóa
nghệ thuật, nắm bắt và định hướng dư luận xã hội; tăng cường tuyên truyền đối ngoại,
đặc biệt là những vấn đề chính trị nhạy cảm như dân tộc, tôn giáo, nhân quyền” [44,
tr.285].
Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị khoá X đã
quy định rõ:
Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương chịu trách nhiệm định hướng về
chính trị, tư tưởng trong nội dung thông tin báo chí; theo dõi, kiểm tra, đánh giá
việc thực hiện quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, việc đảm bảo định hướng chính trị, tư tưởng trong hoạt động
của báo chí [20, tr.2].
Ban Tư tưởng - Văn hóa (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) là cơ quan được Bộ
Chính trị, Ban Bí thư ủy quyền lãnh đạo, chỉ đạo công tác báo chí; là đầu mối tiếp nhận, xử
lý, chỉ đạo nội dung thông tin trên báo chí, nhất là những thông tin liên quan đến các vấn đề
quan trọng, phức tạp, nhạy cảm về đối nội, đối ngoại. Ban cán sự đảng Bộ Văn hóa - Thông
tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) là cơ quan phối hợp, có trách nhiệm cùng Ban
Tuyên giáo Trung ương hướng dẫn, quản lý thông tin trên báo chí theo quy định của pháp
luật và quy định của Đảng.
Các tỉnh ủy, thành ủy, các ban của Đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực
thuộc trung ương, tổ chức đảng trong các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản, cơ quan chức
năng liên quan căn cứ tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu của Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban
cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện định
hướng chính trị, tư tưởng, nhất là các vấn đề quan trọng (như vấn đề có tác động lớn, ảnh
hưởng sâu, rộng đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và quan hệ quốc tế),
phức tạp, nhạy cảm (gồm nhiều sự việc, tình tiết đang diễn biến mau lẹ, khó nắm bắt chính
xác, đầy đủ, kịp thời đang thu hút sự quan tâm sâu sắc của nhiều loại đối tượng; nếu thông
tin sai, vội vàng, thiếu cân nhắc các mặt lợi hại có thể tác động nhanh, mạnh, bất lợi đến dư
luận trong nước và quốc tế cũng như các hoạt động trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội
… của đất nước) trong nội dung thông tin của báo chí.
Do vậy, cấp ủy và lãnh đạo các cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí thực hiện nghiêm
túc sự chỉ đạo, định hướng của Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Thông tin
và Truyền thông. Căn cứ các quy định của Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương khi cần thiết
có quyền yêu cầu cấp ủy và lãnh đạo các cơ quan chủ quản báo chí hoặc cơ quan báo chí
đăng, phát hoặc không đăng, phát thông tin vì lợi ích của đất nước, của Đảng; theo dõi,
kiểm tra, đánh giá việc thực hiện của các cơ quan chủ quản hoặc cơ quan báo chí.
Với chức năng công cụ công tác tư tưởng của Đảng, để báo chí có thể hoàn thành
nhiệm vụ của mình, Đảng phải thông tin những vấn đề cần thiết cho báo chí một cách kịp thời và chính xác, coi thông tin cho báo chí cũng là thông tin cho toàn Đảng và cho xã hội. Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời là cơ sở để báo chí đảm bảo tính đảng, tính chân thật ngay từ khâu đầu tiên.
Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị nêu rõ:
Đi đôi với việc tăng cường và chủ động hơn nữa trong việc cung cấp thông tin, cần phải khẩn trương chấn chỉnh việc cung cấp thông tin cho báo chí.
Chính phủ quy định rõ cơ chế, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị nhà nước
trong việc cung cấp kịp thời, đầy đủ những thông tin cần thiết theo quy định cho
báo chí và cho xã hội [20, tr. 4].
Để báo chí làm tốt chức năng thông tin đại chúng của mình, giúp quần chúng cập
nhật thông tin, bản thân báo chí phải là người được tiếp nhận thông tin đầu tiên. Tin tức
chính xác, kịp thời cho báo chí là một nội dung lãnh đạo quan trọng của Đảng. Trong cung cấp thông tin cho báo chí thường vướng mắc nhất là các tin liên quan đến nội bộ tổ
chức, cấp uỷ và cán bộ lãnh đạo.
Kết luận số 68/CT-TW ngày 30-3-2007 của Bộ Chính trị chỉ ra rằng: “Ban Tư tưởng
- Văn hoá Trung ương chịu trách nhiệm về định hướng chính trị, tư tưởng trong nội dung
thông tin báo chí [21, tr. 4].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X (1-8-
2007) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới đã chỉ rõ: “Xây dựng
quy chế làm tốt việc định hướng và cung cấp thông tin cho báo chí, nhất là đối với
những vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm về đối nội, đối ngoại” [45, tr.50].
Khi nói đến cung cấp thông tin cho báo chí, Lênin cho rằng, báo chí: "Cần phải
tìm hiểu tất cả về nhiệm vụ chính trị của Đảng về việc xây dựng Đảng, về đấu tranh
trong nội bộ Đảng. Nó không sợ sự thật trần truồng về Đảng và nó chăm lo việc củng
cố, phục hồi và cải tổ lại Đảng" [56, tr.160].
Để báo chí có thông tin chính xác, đúng với bản chất sự việc, hiểu được đầy đủ các
nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến các thành tích hoặc khuyết điểm, biết nên
đưa tin, bình luận như thế nào là đúng…, không ai khác, chính là cấp uỷ đảng có thẩm
quyền trực tiếp cung cấp thông tin cho báo chí.
Cung cấp thông tin đầy đủ chính xác, kịp thời cho báo chí thì hiệu quả lãnh đạo
của Đảng đối với xã hội sẽ cao hơn. Bên cạnh đó, nhờ có thông tin ngược chiều, nhiều
chiều từ báo chí, các quyết định của Đảng sẽ phản ánh đúng quy luật hơn, đảm bảo tính
hiện thực, tính khả thi cao, “ý Đảng” sẽ luôn phù hợp với “lòng dân”.
Bên cạnh cung cấp thông tin cho báo chí hoạt động nghiệp vụ, Đảng còn cung
cấp thông tin giải quyết các kiến nghị của báo chí về những vấn đề liên quan đến sự
lãnh đạo của Đảng. Có thể nói rằng, việc cung cấp thông tin toàn diện là đảm bảo cho
báo chí hoạt động vừa phong phú, đa dạng, vừa đúng định hướng chính trị trong mọi
hoàn cảnh.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
(8/2007) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới đã chỉ rõ nhiệm vụ
của báo chí:
Báo chí phải nắm vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả
đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, bám sát
nhiệm vụ công tác tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành tựu của công
cuộc đổi mới. Coi trọng đúng mức việc phát hiện, biểu dương các nhân tố mới,
điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh, góp phần ngăn chặn và từng bước đẩy lùi
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và các tệ nạn xã hội; phản bác có
hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản động thù địch, bảo vệ vững
chắc trận địa tư tưởng của Đảng [45, tr. 49].
Tuyên truyền các nhân tố tích cực, điển hình là một phương pháp hiệu quả, một
phương hướng quan trọng của báo chí cách mạng Việt Nam. Về bản chất tuyên truyền
nhân tố tích cực, điển hình là việc phát hiện cái mới trong phong trào cách mạng để nuôi
dưỡng, phát huy và gây dựng, mở rộng để tạo ra các phong trào vận động lớn, thúc đẩy
việc thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị. Đó cũng là cách thức tuyên truyền
hướng dẫn việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua việc
xây dựng các mô hình điển hình. Các mô hình điển hình ấy sẽ trở thành các hình mẫu,
tấm gương có sức thuyết phục, giúp các địa phương, đơn vị khác học tập, ứng dụng để
giải quyết các vấn đề của mình.
Những phong trào vận động rộng lớn, mang lại hiệu quả chính trị - xã hội to lớn
trong lịch sử đấu tranh và xây dựng đất nước: hũ gạo nuôi quân, thi đua diệt dốt, thanh
niên ba sẵn sàng - phụ nữ ba đảm đang… Những tấm gương trong lao động sản xuất và
chiến đấu đã động viên cổ vũ, góp phần tạo nên những thắng lợi to lớn của dân tộc.
Chính báo chí đã góp phần phát hiện và tuyên truyền mở rộng tầm vóc, ảnh hưởng xã
hội của những sự việc, con người điển hình ấy, nhân những điển hình ấy thành phong
trào cách mạng rộng lớn để thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước.
Đất nước ta đang ở vào thời điểm của những năm đầu trong kế hoạch 2006 -
2010, cũng là năm thứ 21 của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Bối cảnh mới của sự phát triển hiện nay ở Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào
lộ trình, bước đi của quá trình chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của đất
nước. Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Thông tin đối ngoại qua báo chí,
đó là hệ thống chuyển tải tin tức, sự kiện, hình ảnh của một đất nước ra bên ngoài thông
qua kênh báo chí, trong đó chủ yếu là báo viết, báo hình, báo điện tử, báo nói. Báo chỉ
chuyển tải thông tin trong nước ra nước ngoài, đồng thời chuyển thông tin từ nước
ngoài vào Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau. Đối với nước ta, đây là một vấn
đề quan trọng cần được quan tâm đúng mức giúp cho bạn bè thế giới hiểu đúng chúng ta
và chúng ta nhận được những thông tin phản hồi từ họ chính là cơ sở cần thiết để Việt
Nam xây dựng chính sách cho phù hợp, đảm bảo các bước đi, lộ trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam đáp ứng được tốt nhất quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Thông báo số 188-TB/TW ngày 29-12-1998 nêu ý kiến của Thường vụ Bộ Chính
trị khoá VIII về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, khẳng định: Tiếp tục
đầu tư và nâng cao chất lượng hệ thống thông tấn, báo chí, xuất bản quốc gia như:
Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, một số
báo và nhà xuất bản lớn để làm nòng cốt cho công tác thông tin đối ngoại. Từng bước
và tổ chức chặt chẽ việc đưa các bộ phận chính của hệ thống này chuyển ngữ lên mạng
Internet, nhằm cập nhật tin tức về Việt Nam trên thế giới. Đồng thời, ngày 26-4-2000
Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 10/2000/CT-TTg về tăng cường quản lý và đẩy
mạnh công tác thông tin đối ngoại, theo đó Chỉ thị khẳng định: Thông tin đối ngoại là
một bộ phận rất quan trọng trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta nhằm làm
cho các nước, người nước ngoài (gồm cả người nước ngoài đang sinh sống, công tác tại
Việt Nam), người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài hiểu về đất nước,
con người Việt Nam, đường lối, chủ trương, chính sách và thành tựu đổi mới của ta,
trên cơ sở đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó
cũng xác định rõ nội dung chủ yếu của thông tin đối ngoại là:
Thông tin đối ngoại có nhiệm vụ phổ biến rộng rãi đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta, những chủ trương quan trọng trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng…; bác bỏ những thông tin sai lệch, xuyên tạc về
Việt Nam. Đường lối và chính sách đối ngoại bao gồm cả chính sách kinh tế đối ngoại;
chủ trương nhất quán Việt Nam “sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”; yêu cầu và tiềm năng của Việt
Nam trong quan hệ hợp tác với các nước trên nguyên tắc cùng có lợi, tôn trọng độc lập,
chủ quyền và quyền tự quyết của nhau. Giới thiệu đất nước - con người Việt Nam, lịch
sử và nền văn hoá lâu đời, phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
(8/2007) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới xác định:
Tăng cường và nâng cao chất lượng và hoạt động thông tin đối ngoại.
Tiếp tục tăng thời lượng phát thanh, truyền hình, báo điện tử ra các nước, các
khu vực, đưa được nhiều thông tin và sản phẩm văn hóa có nội dung tốt đến
đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế; tăng cường giới thiệu, quảng bá
hình ảnh về đất nước và con người Việt Nam đến nhiều nước trên thế giới [45,
tr.52]
Những định hướng trên cho thấy, làm tốt công tác thông tin đối ngoại qua kênh
báo chí sẽ góp phần thúc đẩy nhanh và đúng hướng quá trình hội nhập của đất nước
hiện nay và những năm tiếp theo.
Do đó, báo chí đăng tải thường xuyên, kịp thời về chủ trương, đường lối của
Đảng trên các lĩnh vực, làm cho bạn bè thế giới có cơ sở xây dựng quan hệ hợp tác phù
hợp với các chủ trương và chính sách của chúng ta. Đây là vấn đề quan trọng. Nhờ
chuyển tải kịp thời dưới nhiều hình thức đa dạng như báo viết, truyền hình VTV4, Đài
Tiếng nói Việt Nam được phát qua nhiều thứ tiếng, đặc biệt là báo điện tử… mà thế giới
hiểu chúng ta hơn, ngay cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài với gần 3 triệu người cũng
đã có sự thay đổi rất lớn trong nhận thức, đóng góp nhiều hơn cho quê hương…
Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch luôn tìm cách phá hoại,
xuyên tạc, bóp méo sự thật về tình hình Việt Nam, nhằm mưu đồ lật đổ chế độ, làm mất
ổn định đất nước. Chúng lập ra nhiều đài, báo, tán phát tài liệu phản động, đưa về đất
nước để phá hoại sự nghiệp đổi mới, làm cho bạn bè quốc tế hiểu sai, dẫn đến cô lập
Việt Nam; chúng thường lợi dụng để xuyên tạc về vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn
giáo, đa nguyên đa đảng, tham nhũng… Bởi vậy, báo chí cách mạng cũng là kênh quan
trọng để đập tan những tuyên truyền sai lệch đó, giới thiệu những chủ trương đúng đắn
của ta về đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác dân tộc, tôn giáo, về những nỗ lực của
Việt Nam trong việc chặn đứng và đẩy lùi bệnh tham nhũng, quan liêu…
Thông qua kênh báo chí, chúng ta đã đăng tải nhiều nội dung giới thiệu về đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Ba kênh mạnh nhất hiện nay là VTV4, Báo
Điện tử, Đài Tiếng nói Việt Nam thường xuyên đưa các tin về hoạt động đối ngoại rộng mở
của đất nước, bao gồm cả đối ngoại Đảng, đối ngoại Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Các
hoạt động đối ngoại đa dạng này đã làm cho thế giới thấy hình ảnh một Việt Nam hội nhập
mạnh mẽ với bên ngoài, cởi mở, cùng phát triển. Việt Nam vẫn luôn coi trọng bạn bè
truyền thống, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác trên những nguyên tắc cơ bản, phù hợp với đặc điểm của đất nước và thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó thông tin đối ngoại góp phần giới thiệu đất nước, con người, văn
hoá Việt Nam tới bạn bè quốc tế, đồng thời đưa tin và góp phần định hướng dư luận về
những vấn đề bức xúc, các điểm nóng trên thế giới, giúp cho người dân trong nước có được bức tranh chung về tình hình quốc tế, chuẩn bị tâm thế tốt hơn khi hội nhập. Bên
cạnh đó, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đòi hỏi chúng ta
phải nắm bắt kịp thời những tiến bộ của thành tựu khoa học và công nghệ, kinh nghiệm
và các thành tựu phát triển trên từng lĩnh vực của các nước trên thế giới, qua đó thực
hiện “đi tắt đón đầu”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy lợi thế,
tiềm năng của đất nước. Đồng thời, thông tin đối ngoại tránh những rủi ro, vấp váp do
thiếu thông tin, kinh nghiệm trong giai đoạn mở cửa, hội nhập của đất nước. Các doanh
nghiệp Việt Nam rất cần thông tin về thị trường, luật pháp, về hợp tác đầu tư với nước
ngoài… Đó là những thế mạnh mà thông tin đối ngoại qua kênh báo chí có thể góp phần
tích cực để thúc đẩy quá trình hội nhập của đất nước hiện nay và những năm tiếp theo.
2.2. Đảng lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ trong các cơ quan báo chí
2.2.1. Lãnh đạo công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí
Báo chí là vũ khí tư tưởng của Đảng, người làm báo là những chiến sĩ trên mặt
trận tư tưởng của Đảng, nên trong đào tạo nhà báo, nội dung hàng đầu là trang bị thế
giới quan Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng. Về
vấn đề này, chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn:
Về trách nhiệm báo chí, Lênin có nói: báo chí là người tuyên truyền,
người cổ động, người tổ chức, người lãnh đạo chung. Vì vậy, nhiệm vụ của người làm báo là quan trọng và vẻ vang. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì
phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao tư tưởng, đứng vững trên lập trường
giai cấp vô sản; phải nâng cao trình độ văn hoá, phải đi sâu vào nghiệp vụ của
mình. Cần phải luôn luôn cố gắng thì nhất định thành công [74, tr.415].
Theo Người, nhà báo trước hết phải được học tập và nắm vững lý luận cách
mạng của giai cấp vô sản. Công việc này là của Đảng, “đã lựa chọn đúng cán bộ cần
phải dạy bảo lý luận cho cán bộ, chỉ thực hành mà không có lý luận cũng như có một
mắt sáng, một mắt mù ” [70, tr.276].
Người làm báo trước hết phải có lập trường vững vàng, nhưng điều đó không tự
nhiên có, mà nó là quá trình học tập, rèn luyện không ngừng, học trong nhà trường, học trong xã hội, học nơi công tác thực tế, học ở quần chúng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phẩm chất chính trị, lập trường chính trị chính là cái đức của người cán bộ nói chung và
nhà báo nói riêng. Trong sự nghiệp đổi mới, nội dung của đức đối với người làm báo thể
hiện ở:
Phẩm chất chính trị, trình độ giác ngộ XHCN, lòng trung thành với Đảng, với
nhân dân, với chế độ, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, quyết tâm
phấn đấu, hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng đó.
Có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh và phong cách dân chủ, khoa học, sâu
sát thực tế và cơ sở; ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm.
Quy ước tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của báo chí Việt Nam với 10 điều do Hội
Nhà báo Việt Nam quy định đã nêu rõ phẩm chất cần có của nhà báo mà xét đến cùng là
nhằm vào mục tiêu cao cả của báo chí Việt Nam là phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nhà báo hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực và hoàn cảnh nào
cũng phải hướng về mục tiêu cao cả đó. Theo báo cáo của BVHTT số người được cấp
thẻ nhà báo thời hạn 2001 - 2005 là 10294 người, trong đó trình độ lý luận chính trị: Trung
cấp 4118 người (40,44%); cao cấp 1699 người (16,30%); đảng viên 5367 người (52,93%);
đoàn viên 1703 người (18,52%).
Với tình hình chất lượng nhà báo như trên, báo chí còn gặp nhiều khó khăn trong
việc khắc phục những hạn chế đã bộc lộ trong thời gian qua, nhất là tính chiến đấu và
định hướng tư tưởng của báo chí. Để gấp rút nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ báo
chí, Đảng ta chỉ rõ:
Cấp uỷ đảng, các cơ quan thông tin đại chúng, các nhà xuất bản cần tổ
chức tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ. Mỗi nhà báo, cán bộ các
cơ quan báo chí xuất bản phải thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị,
phẩm chất cách mạng kiên định vững vàng, không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, đề cao tự phê bình và phê bình, tu dưỡng đạo đức,
gương mẫu trong cuộc sống, phấn đấu xứng đáng là nhà báo nhân dân. Mặt
khác, cần thống nhất quản lý, chỉ đạo công tác đào tạo nâng cao trình độ
chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ làm công tác báo chí -
xuất bản [77, tr.2-5].
Thực hiện chế độ học tập bắt buộc đối với các nhà báo thuộc các cơ quan, tổ
chức chính trị - xã hội nhằm nâng cao trình độ mọi mặt, bảo đảm sự thống nhất về chính
trị và tư tưởng trong đội ngũ nhà báo. Đặc biệt, tinh thần và kết quả học tập lý luận
chính trị là một tiêu chuẩn để xem xét đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo các cơ quan báo
chí.
Đức và tài của người cán bộ có mối quan hệ biện chứng. Nhà báo phải lấy đức
làm gốc, song trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, với sự bùng nổ thông tin, nhà báo
phải thể hiện được tài năng chuyên môn. Tài của nhà báo thể hiện ở trình độ tri thức
toàn diện đáp ứng được nhiệm vụ trong thời kỳ mới và ở năng lực tổ chức. Đào tạo đội
ngũ nhà báo vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn là yêu cầu lớn đặt ra đối với
công tác cán bộ của Đảng ta hiện nay.
Về đào tạo cán bộ báo chí hiện đang tồn tại những quan niệm khác nhau, có thể
do nhận thức về nghề nghiệp làm báo và cũng có thể do lợi ích của từng cơ sở quy định.
Để thật sự thống nhất như quan điểm của Đảng thì phải có cơ chế lãnh đạo và quản lý
thống nhất công tác đào tạo, bồi dưỡng nhà báo. Hiện nay, ở nước ta có 5 cơ quan chỉ
đạo công tác đào tạo người làm báo là: BTTVHTƯ (nay là Ban Tuyên giáo TƯ), Bộ
Giáo dục và Đào tạo, BVHTT (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông), Học viện Báo chí
và Tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và Hội
Nhà báo Việt Nam. Song, lại thiếu một cơ chế lãnh đạo chung, phân công hợp lý giữa
các cơ quan này, nhất là về kế hoạch, quy hoạch phát triển, nội dung, chương trình. Đây
là nguyên nhân căn bản mà trong những năm qua đã nhiều lần quy hoạch, đặt vấn đề đổi
mới đào tạo cán bộ làm báo vẫn chưa có kết quả.
Với quan điểm của Đảng ta là Đảng thống nhất quản lý công tác cán bộ, công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí trong toàn quốc cần được nghiên cứu, thống nhất,
nhất là về phân công mục tiêu đào tạo; về nội dung chương trình, sách giáo khoa; về đội
ngũ cán bộ quản lý, giảng dạy; về xác định mục tiêu, tiêu chuẩn chiêu sinh, về kế hoạch đầu tư để từng bước xây dựng cơ sở vật chất, trang bị phương tiện kỹ thuật dạy và học tiên tiến,
hiện đại.
Trong ba cơ sở đào tạo cơ bản các nhà báo hiện nay là: Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, thuộc thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; khoa Báo chí, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội;
khoa Ngữ văn - Báo chí, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh, chỉ có Học viện Báo chí và Tuyên truyền đào tạo theo các
chuyên ngành của báo chí như: báo viết, phát thanh, truyền hình, mạng điện tử. Các cơ
sở còn lại không phân ngành, do đó mỗi nơi đào tạo một chương trình. Đòi hỏi hiện nay
là, ngoài sự thống nhất về mô hình, cơ cấu đào tạo, còn phải có sự thống nhất về nội
dung - đó là bộ giáo trình chuẩn. Giáo trình chuẩn quốc gia đào tạo cán bộ báo chí nên gồm: các giáo trình Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các giáo trình về cơ sở lý luận
báo chí, nhằm cụ thể hoá quan điểm của Đảng về báo chí; các giáo trình về lịch sử báo
chí; các giáo trình về trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của báo chí. Chú ý đào
tạo về quản lý kinh tế, tin học, ngoại ngữ. Trong điểm tốt nghiệp phải có điểm chính trị tổng hợp. Năm 2002, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao cho khoa báo chí Phân viện Báo
chí và Tuyên truyền nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền thực hiện đề tài chương
trình khung đào tạo cử nhân báo chí. Đây là kết quả của việc cụ thể hoá các quan điểm
của Đảng về lãnh đạo báo chí ở phương diện đào tạo cán bộ báo chí. Tuy nhiên, đề án này cần có sự tác động, hỗ trợ của tất cả các cơ quan hữu quan, nhất là các cấp lãnh đạo,
quản lý vĩ mô, để chuẩn mực trong đào tạo cán bộ báo chí nhanh chóng được áp dụng
vào thực tiễn.
Việc giáo dục, giúp đỡ của các tổ chức, cơ quan cũng không thay thế được cho
sự tự phấn đấu, rèn luyện của mỗi nhà báo cả về đạo đức và năng lực, theo đúng tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đạo đức của người làm báo - theo Hồ Chí Minh - quan trọng nhất
là đức tính trung thực. “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần
nói chớ nói, chớ viết càn” [70, tr.526]; “chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ chớ
nói, chớ viết” [70, tr.530]. Có trung thực đối với nghề nghiệp, có trách nhiệm với điều
viết ra, báo chí mới được nhân dân tin và làm theo báo chí. Để trở thành nhà báo tốt,
người làm báo phải luôn học hỏi, luôn cầu tiến bộ, phải tu dưỡng đạo đức cách mạng.
Đặc biệt, người làm báo “phải có chí, chớ dấu dốt, nhờ phê bình và tự phê bình mà tiến
bộ” [72, tr.425]. “Nhà báo phải học trong xã hội, học nơi công tác thực tế, học ở quần
chúng” [70, tr.530]. Vì nhiệm vụ của người làm báo là “quan trọng và vẻ vang”, nên
muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ thì người làm báo “phải cố gắng học tập chính trị, nâng
cao tư tưởng, đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản; phải nâng cao trình độ văn hoá,
phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình, cần phải luôn luôn cố gắng, mà cố gắng thì nhất
định thành công” [74, tr.415]. Đã là nhà báo, theo Người phải rèn cả đức và tài, phải cố
học hỏi, ra công rèn luyện. Để có một bài báo tốt, theo Hồ Chí Minh, người làm báo
cần:
1. Gần gũi dân chúng, cứ ngồi trong phòng giấy mà viết thì không thể
thiết thực.
2. ít nhất cũng phải biết một thứ tiếng nước ngoài, để xem báo nước
ngoài, và học kinh nghiệm của người.
3. Khi viết xong một bài tự mình phải xem lại ba bốn lần, sửa chữa lại
cho cẩn thận…
4. Luôn luôn cố gắng học hỏi, luôn luôn cầu tiến bộ [71, tr. 139].
Tiếp nối các vấn đề có tính cụ thể trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí, ở giai
đoạn mới với sự tác động mạnh mẽ của các yếu tố chủ quan, khách quan, nhất là khi cả
nước chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa công
tác cán bộ báo chí là:
Khẩn trương quy hoạch và sắp xếp lại hệ thống trường lớp, nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng phóng viên, biên tập viên, chú trọng đội ngũ
cốt cán, các tổng biên tập, phó tổng biên tập, giám đốc, phó giám đốc. Đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí chủ yếu là trong nước dưới sự chỉ đạo thống
nhất của Đảng và sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Không mở các khoa, lớp
báo chí, xuất bản ở các trường đại học dân lập, tư thục [37, tr.4].
Chỉ thị 22/CT-TW ngày 17-10-1997 của Bộ Chính trị yêu cầu: BTTVHTW chủ
trì cùng Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và đào tạo, BVHTT,
Hội Nhà báo Việt Nam và các cơ quan liên quan xây dựng đề án cụ thể về tổ chức, sắp
xếp, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí, trình Bộ Chính trị và Thủ tướng
Chính phủ quyết định; xây dựng bộ giáo trình chuẩn để đào tạo cán bộ báo chí. Các cấp
uỷ đảng, các cơ quan thông tin đại chúng cần tổ chức tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ tại chỗ. Mỗi người làm báo phải thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm
chất cách mạng kiên định vững vàng, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, đề cao tự phê bình và phê bình, tu dưỡng đạo đức gương mẫu trong cuộc sống,
phấn đấu xứng đáng là nhà báo của nhân dân. Mặt khác, cần thống nhất quản lý, chỉ đạo
công tác đào tạo, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ và nghề nghiệp cho cán bộ báo chí.
Thông báo kết luận số 162 - TB/TW ngày 1-12-2004 của Bộ Chính trị (khóa IX)
yêu cầu: “Quan tâm hơn nữa việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ các nhà
báo về nhận thức chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm
xã hội và nghĩa vụ công dân”[19, tr.4]. Thông báo kết luận số 68-TB/TW ngày 30-3-
2007 của Bộ Chính trị nêu rõ: “Rà soát lại việc quy hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cơ quan báo chí, nhất là các tổng biên tập và phó
tổng biên tập các báo”[21, tr.3]
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về
công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới xác định:
Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng phẩm
chất chính trị, trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp
của đội ngũ những người làm báo. Rà soát, đánh giá lại đội ngũ lãnh đạo, quản
lý, phóng viên, biên tập viên,.. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cán bộ
có phẩm chất, năng lực, tạo điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật để các báo, đài,
tạp chí chủ lực đổi mới, nâng cao chất lượng về nội dung, hình thức, tăng tính
thuyết phục, tính hấp dẫn, lượng phát hành, phạm vi phủ sóng, làm tốt khả năng
chi phối, định hướng thông tin và dư luận xã hội [45, tr.51]
Đào tạo, bồi dưỡng nhà báo và cán bộ quản lý báo chí là nội dung rất quan trọng
trong sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí. Đảng trực tiếp tiến hành thông qua
hệ thống trường của Đảng trong việc bồi dưỡng cán bộ quản lý các báo. Các trường đại
học thuộc Nhà nước quản lý tham gia đào tạo nhà báo, song cán bộ lãnh đạo, quản lý
các báo nhất thiết phải được học tập, bồi dưỡng trong hệ thống trường của Đảng. Có
như thế chúng ta mới có đội ngũ cán bộ báo chí đồng bộ, có đủ phẩm chất và năng lực
hoàn thành nhiệm vụ chiến sĩ cách mạng, giữ vai trò xung kích trên mặt trận tư tưởng -
văn hoá của Đảng.
Do vậy, trong lãnh đạo công tác báo chí, không chỉ dừng ở giữ vững, khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng, mà phải đặt yêu cầu tích cực đổi mới, lãnh đạo có chất
lượng, hiệu quả cao. Đây là đòi hỏi từ hai phía: Đảng và các cơ quan báo chí. Báo chí tự
nguyện phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, nhưng đó là sự lãnh đạo có hiệu quả, phát huy
được sự năng động của báo chí, tăng cường quản lý, đào tạo, bồi dưỡng các nhà báo và
cán bộ quản lý báo chí.
2.2.2. Lãnh đạo công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật cán
bộ báo chí
Bố trí cán bộ là khâu đặc biệt quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng. Vai trò
lãnh đạo của Đảng không phải chỉ thể hiện ở chỗ ra Nghị quyết, Chỉ thị, mà còn ở việc
bố trí vào những cương vị nhất định những người chấp hành nghiêm túc các Nghị quyết,
Chỉ thị của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cán bộ là cái gốc của công việc… Mọi việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém; chọn người và thay người là vấn đề
quan trọng trong việc lãnh đạo. Trong quá trình đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng,
Đảng ta xác định: đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng
ta cần phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Đồng
thời, Đảng tập trung vào xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản
lý ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có
trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân.
Xác định vai trò cực kỳ quan trọng của tổng biên tập - người lãnh đạo và quản lý
tờ báo - nên Đảng ta đặc biệt chú ý đến bố trí và quản lý cán bộ trong các báo và tập
trung chăm lo đội ngũ tổng biên tập. Tổng biên tập là người chịu trách nhiệm chính và
toàn diện về mọi công việc của tờ báo. Việc bổ nhiệm tổng biên tập và phó tổng biên
tập báo do cấp uỷ hoặc lãnh đạo ngành mà tờ báo trực thuộc quyết định sau khi có ý
kiến chấp thuận của Ban Tuyên giáo Trung ương (đã được Ban Bí thư uỷ nhiệm) nhằm
tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo báo chí đi sâu vào nghiệp vụ; việc điều động các tổng
biên tập, phó tổng biên tập đi công tác khác cần được cấp uỷ cân nhắc kỹ.
Chỉ thị 22/CT-TW của Bộ Chính trị ngày 17-10-1997 làm rõ hơn và cụ thể hơn,
tạo cơ sở cho việc bố trí, quản lý đội ngũ tổng biên tập, Chỉ thị nêu:
Bổ nhiệm, đề bạt, thay đổi tổng biên tập, phó tổng biên tập các báo, tạp
chí, giám đốc, phó giám đốc nhà xuất bản phải làm đúng quy trình và có sự
thống nhất ý kiến bằng văn bản giữa cơ quan tham mưu về tư tưởng - văn hoá
của Đảng với cơ quan quản lý Nhà nước về văn hoá - thông tin [37, tr.6].
Do báo chí là binh chủng trực tiếp tác chiến hằng ngày trên mặt trận tư tưởng của
Đảng, nên các cấp uỷ đảng và lãnh đạo các ngành, đoàn thể phải lãnh đạo và quản lý tốt
đội ngũ phóng viên, cán bộ biên tập, trước hết là tổng biên tập các báo.
Cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm chỉ đạo toàn diện cơ quan báo chí, trong đó
thực hiện việc bố trí, khen thưởng, kỷ luật cán bộ phụ trách. Điều 12 Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Báo chí về cơ quan chủ quản ghi rõ thủ trưởng cơ quan chủ
quản báo chí có quyền và trách nhiệm “bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức người đứng
đầu cơ quan báo chí trực thuộc sau khi trao đổi ý kiến với cơ quan quản lý nhà nước về
báo chí” [84, tr.26].
Việc bố trí, quản lý cán bộ báo chí - trong đó có tổng biên tập và phó tổng biên
tập - phải căn cứ vào tiêu chuẩn, quyền hạn, trách nhiệm của người phụ trách cơ quan
báo chí theo quy định của Nhà nước. Người phụ trách cơ quan chủ quản không kiêm
tổng biên tập báo, giám đốc nhà xuất bản. Một đồng chí tổng biên tập không phụ trách
nhiều tờ báo. Đồng thời, phải nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực và phẩm chất chính
trị của cán bộ chủ chốt các cơ quan báo chí. Có cán bộ đủ tiêu chuẩn đứng đầu là điều kiện
đầu tiên khi muốn thành lập cơ quan báo chí. Người đó nhất thiết phải có đủ các tiêu chuẩn
chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do Nhà nước quy định.
Từ vai trò của tổng biên tập các báo, Đảng ta còn nhấn mạnh: “Trong đào tạo,
bồi dưỡng phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng các tổng biên tập. Đương
nhiên muốn có tổng biên tập giỏi và tốt phải có cái nền rộng những phóng viên có tài,
có đức mà đức là gốc” [8, tr.48]. Nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng phóng viên,
biên tập viên song đặc biệt phải chú trọng đội ngũ cốt cán, các tổng biên tập, giám đốc,
phó giám đốc.
Trước những diễn biến phức tạp của thời kỳ mới, trong lãnh đạo báo chí, các cấp
uỷ cần quản lý chặt chẽ các nhà báo, nhất là tổng biên tập các báo, đài. Đây là một trong
những căn cứ để đánh giá hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với báo chí.
Người làm báo là những chiến sĩ cách mạng. Song, để hoàn thành công việc
mang nhiều nét đặc thù, ngoài các tiêu chuẩn chung, cán bộ làm công tác báo chí, phải
có thêm kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp, kỹ năng, năng khiếu và tác phong phù
hợp với nghề báo.
Công văn số 3412-CV/TTVH ngày 20-3-2001 của Ban Tư tưởng - Văn hoá
Trung ương đã nêu rõ:
Tiêu chuẩn đề bạt vào các chức danh tổng biên tập, phó tổng biên tập cơ
quan báo chí; giám đốc, phó giám đốc cơ quan phát thanh truyền hình ngoài các
quy định chung với cán bộ cùng cấp cần có các điều kiện từng công tác ít nhất 5
năm trong các cơ quan báo chí, là hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, theo quy
định của Bộ Văn hoá - thông tin tuổi đời dưới 55 khi đề bạt, bổ nhiệm lần đầu [2,
tr.1].
Lao động báo chí là loại hình lao động đặc biệt có tính sáng tạo cao, là hoạt động
chính trị - xã hội và văn hoá thông qua phương tiện thông tin đại chúng. Lao động báo
chí còn đòi hỏi người làm báo có nhân cách đáp ứng được với công việc thầm lặng,
nhưng không kém phần cực nhọc. Lập trường, thế giới quan là điểm xuất phát hình
thành nhân cách nhà báo. Trước hết, nhà báo cần phải hiểu biết cơ bản về những điều
kiện của cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo, thấu hiểu các quan điểm, hình thức tiến
hành đấu tranh; có tính trung thực, lập trường vững vàng, luôn hoà mình vào hàng ngũ
những người chiến sĩ cách mạng. Đảng ta cho rằng: để làm tròn được trách nhiệm cao
cả của mình, đội ngũ những người làm sách báo phải có lòng yêu nước và lý tưởng kiên
định, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có nghiệp vụ tinh thông trong quá trình lao động sáng
tạo để góp phần có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng.
Vì làm báo là một nghề, hơn nữa là một nghề mang tính đặc thù cao, gắn bó chặt
chẽ với chính trị, là hoạt động chính trị nên nhất thiết phải qua đào tạo và thường xuyên
bồi dưỡng, nâng cao trình độ, hoàn thiện nhân cách.
Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị đã yêu cầu:
“Ban Tổ chức Trung ương chủ trì cùng Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (nay là
Ban Tuyên giáo Trung ương), Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin - Truyền
thông) soạn thảo, trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư Quy chế về tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn
nhiệm tổng biên tập, phó tổng biên tập, giám đốc, phó giám đốc các cơ quan báo
chí”[20, tr.4].
Quyết định số 75-QĐ/TW ngày 21-8-2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá
X) về việc ban hành quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ lãnh đạo cơ
quan báo chí đã nêu rõ tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm:
Về tiêu chuẩn bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí:
Tốt nghiệp đại học; đã được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ báo chí và
chương trình quản lý nhà nước về báo chí; có trình độ lý luận cao cấp; có thời
gian hoạt động trong lĩnh vực báo chí ít nhất là 3 năm. Có đạo đức nghề nghiệp,
có năng lực quản lý và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, được sự tín nhiệm của cán bộ, phóng
viên, đảng viên trong cơ quan báo chí [1, tr.5].
Về điều kiện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí:
Tuổi bổ nhiệm lần đầu nói chung không quá 55 đối với nam và 50 đối với
nữ. Có đủ sức khoẻ để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cán bộ lãnh đạo cơ
quan báo chí bị kỷ luật đảng hoặc chính quyền với hình thức cách chức, trong
vòng một năm kể từ ngày có quyết định không được bầu vào cấp uỷ, không được
bổ nhiệm vào các chức vụ tương đương và cao hơn [1, tr.5].
Ngoài ra, quyết định số 75-QĐ/TW ngày 21-8-2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá X) nêu rõ: “Cơ quan chỉ đạo và cơ quan quản lý báo chí tham gia giám sát,
thẩm định quy trình bổ nhiệm cán bộ. Cơ quan chủ quản báo chí trước khi ra quyết định bổ nhiệm… phải trao đổi ý kiến bằng văn bản với cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý nhà
nước về báo chí” [1, tr.7]. “Thời hạn mỗi lần bổ nhiệm chức vụ đối với cán bộ lãnh đạo
cơ quan báo chí là 5 năm” [1, tr.7].
Bên cạnh đó, “trong thời hạn 06 tháng trước khi cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí
hết thời hạn giữ chức vụ lãnh đạo cơ quan chủ quản báo chí chỉ đạo thực hiện quy trình
bổ nhiệm lại đối với lãnh đạo cơ quan báo chí”[1,tr.7].
Đồng thời, quyết định số 75-QĐ/TW ngày 21-8-2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá X) về việc ban hành quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỉ
luật cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí đã nêu rõ điều kiện miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo cơ
quan báo chí:
1. Cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí bị miễn nhiệm chức vụ khi báo chí hoặc cá nhân cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí bị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
kết luận xử lý một trong hai hình thức sau:
Cơ quan báo chí bị cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý về báo chí kiến nghị
cơ quan chủ quản xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo theo Điều 28 của Luật Báo chí.
Cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí bị tổ chức đảng thi hành kỷ luật bằng
hình thức khiển lần thứ hai (trong thời gian một năm của thời hạn giữ chức vụ)
hoặc bị kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo.
2. Cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí có sai phạm chưa đến mức phải kỷ luật cách
chức, nhưng không đủ uy tín, điều kiện để giữ chức vụ [1, tr.9].
Các cấp uỷ đảng phải quan tâm phát hiện, bồi dưỡng và phát huy năng lực của
những người làm báo có phẩm chất chính trị tốt và có tài năng, kiến nghị với các cơ
quan có trách nhiệm thay đổi những cán bộ yếu kém, xử lý nghiêm đối với những cán
bộ cố tình vi phạm luật pháp hoặc lợi dụng báo chí để thực hiện mưu đồ xấu.
Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 17-10-1997 của Bộ Chính trị (khoá VIII) nêu rõ:
“Thường kỳ kiểm điểm rút kinh nghiệm, biểu dương ưu điểm, xử lý kịp thời các vi
phạm pháp luật và định hướng tuyên truyền”[37, tr.6].
Thông báo kết luận số 162-TB/TW của Bộ Chính trị ngày 1-12-2004 đã yêu cầu:
Tiến hành kiểm đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ quản lý báo chí ở đoàn
thể, ngành, địa phương, đơn vị mình; nêu rõ mặt được, mặt yếu kém, đề ra biện
pháp cụ thể phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm và xử lý dứt điểm các sai
phạm, nhất là các vấn đề bức xúc. Chấn chỉnh ngay tình trạng một số tờ báo xa
rời tôn chỉ, mục đích, chưa tự giác chấp hành Luật báo chí, coi nhẹ chức năng tư
tưởng, văn hoá của báo chí cách mạng. Xử lý kịp thời, nghiêm minh các sai
phạm của các tổng biên tập và cán bộ, phóng viên các cơ quan báo chí, nhất là
những khuyết điểm sai phạm nghiêm trong, lặp đi lặp lại, kéo dài [21, tr.4].
Công tác khen thưởng và xử lý vi phạm là một phần quan trọng của công tác
quản lý nhà nước về báo chí. Chính vì thế lĩnh vực công tác này được Đảng và nhà nước
quan tâm chỉ đạo sâu sát, với các hình thức và mức xử lý nghiêm minh, vừa đủ sức răn đe,
vừa tạo điều kiện để báo chí tiếp tục phát triển.
Thông báo kết luận số 68-TB/TW ngày 30-3-2007 của Bộ Chính trị yêu cầu: “Rà
soát và xử lý sai phạm tất cả các cơ quan báo chí thuộc mọi loại hình, nhất là các báo
điện tử, phát thanh, truyền hình, các phụ san, phụ trương, chuyên trang, chuyên đề, số
đặc biệt có sai phạm, hoạt động sai pháp luật; xử lý việc để tư nhân núp bóng hoạt động
báo chí dưới mọi hình thức” [21, tr.2].
Quyết định số 75-QĐ/TW ngày 21-8-2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khoá X) quy định rõ về khen thưởng và xử lý vi phạm cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí:
“Khen thưởng cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí có thành tích và cống hiến trong hoạt
động báo chí được khen thưởng theo quy định của Nhà nước, quy định của Đảng; Cán
bộ lãnh đạo cơ quan báo chí có thành tích xuất sắc thì được tặng danh hiệu vinh dự của
nhà nước” [1, tr.7]. Ngoài ra Quyết định số 75-QĐ/TW ngày 21-8-2007 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khoá X) cũng chỉ rõ: Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu
cơ quan báo chí, nếu vi phạm hoặc để cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nhân viên vi
phạm… thì tùy theo tính chất, mức độ của vụ việc … mà tổ chức đảng có thẩm quyền
xử lý kỷ luật đảng với các hình thức: Khiển trách; cảnh cáo; cách chức; khai trừ đảng [1,
tr.7-8]. Đồng thời kiến nghị cơ quan chủ quản báo chí xử lý kỷ luật với các hình thức:
Khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ nghạch, cách chức, buộc thôi việc. “Cơ quan
chỉ đạo, cơ quan quản lý báo chí có quyền đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ
luật đối với cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí để báo chí vi phạm Luật Báo chí, vi phạm
các quy định của Đảng và có quyền đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ luật
đối với cơ quan chủ quản báo chí nếu không chấp hành việc xử lý vi phạm trên” [1,
tr.8].
Hình thức kỷ luật khiển trách: “Người đứng đầu cơ quan báo chí bị khiển trách
nếu để báo chí, phóng viên, biên tập viên, nhân viên của cơ quan vi phạm các quy định
của Đảng và pháp luật của Nhà nước ở mức độ ít nghiêm trọng” [1, tr.8]. “Cấp phó của
người đứng đầu thì tùy theo mức độ liên đới trách nhiệm mà áp dụng hoặc không áp dụng
hình thức khiển trách” [1, tr.8].
Hình thức kỷ luật cảnh cáo: “Người đứng đầu cơ quan báo chí bị cảnh cáo nếu để
báo chí, phóng viên, biên tập viên, nhân viên của cơ quan vi phạm các quy định của Đảng
và pháp luật của Nhà nước ở mức độ nghiêm trọng” [1, tr.8].
Hình thức cách chức “người đứng đầu cơ quan báo chí giữ các chức vụ trong đảng bị
cách chức nếu để cơ quan báo chí bị cơ quan nhàn ước có thẩm quyền ra quyết định đình bản
tạm thời hoặc bị kỷ luật cảnh cáo lần thứ hai” [1, tr.9].
Hình thức khai trừ đảng “người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan
báo chí bị khai trừ đảng nếu để cơ quan báo chí vi phạm các quy định của Đảng và pháp
luật của Nhà nước về hoạt động báo chí, thông tin trên báo chí ở mức độ rất nghiêm
trọng” [1, tr.9].
Theo báo cáo của Bộ Văn hoá-Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông)
trong 2 năm 2005 và 2006, Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền
thông) đã nhắc nhở, phê bình, đề nghị kiểm điểm đối với trên 80 trường hợp; đình bản tạm
thời 08 cơ quan báo chí; thu hồi giấy phép hoạt động 01 tạp chí, 01 ấn phẩm phụ; thu hồi 05
ấn phẩm báo chí; thu hồi 13 thẻ nhà báo. Chỉ tính riêng trong năm 2006, Thanh tra Bộ đã
xử phạt vi phạm hành chính đối với 74 lượt cơ quan báo chí với tổng số tiền phạt là
657.300.000 đồng. Sáu tháng đầu năm 2007, Tranh tra Bộ đã xử phạt vi phạm hành
chính đối với 12 cơ quan báo chí với tổng số tiền là 72.000.000 đồng [3, tr.85].
Đồng thời, triển khai thực hiện kết luận số 162-TB/TW ngày 1-12-2004 của Bộ
Chính trị, Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin - Truyền thông) đã kịp thời biểu
dương, khen thưởng, hiệp y để các cấp có thẩm quyền "khen thưởng 61 trường hợp,
trong đó biểu dương, khen thưởng 44, hiệp y khen thưởng đối với 17 trường hợp khác
gồm tập thể các cơ quan báo chí và các cán bộ, phóng viên có thành tích trên các mặt
tuyên truyền chính trị, đấu tranh với các luận điệu của các thế lực thù địch, cổ vũ phong
trào thi đua yêu nước, biểu dương các gương người tốt, việc tốt" [3, tr.82], trong đó có
các báo như: Báo Nhân dân, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân, Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội
đã có thành tích tổ chức tốt công tác tuyên truyền về Đảng Cộng sản Việt Nam nhân dịp
kỷ niệm 75 thành lập Đảng với những nội dung phong phú, đa dạng, hình thức thể hiện
độc đáo, sinh động.
Báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh được Bộ trưởng Bộ Văn hoá-Thông tin
(nay là Bộ Thông tin - Truyền thông) tặng bằng khen vì đã có thành tích trong việc
tuyển truyền, giới thiệu cuốn nhật ký “Mãi mãi tuổi 20” của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và
cuốn nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, khơi dậy lòng yêu nước trong thế hệ trẻ và
các tầng lớp nhân dân.
Ngoài ra, lãnh đạo Bộ còn kịp thời biểu dương, khen thưởng những cơ quan báo
chí đã có thành tích xuất sắc trong các đợt tuyên truyền về Đại hội Đảng và các chủ đề
về các lĩnh vực quốc phòng, an ninh - trật tự, an toàn giao thông…với những hình thức
khen thưởng kịp thời, linh hoạt.
2.3. Lãnh đạo công tác kiểm tra giám sát, uốn nắn kịp thời những sai lầm,
lệch lạc trong nội dung thông tin của báo chí
2.3.1. Lãnh đạo kiểm tra, giám sát việc thực hiện quan điểm, đường lối của
Đảng, thi hành Điều lệ Đảng
Kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là một bộ
phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Vấn đề có tính nguyên lý là: không
kiểm tra là không lãnh đạo. Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
phải làm tốt công tác kiểm tra, giám sát.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là hoạt động của các cấp ủy đảng, các ban
chức năng của cấp ủy, các tổ chức đảng và của đảng viên, hướng vào việc xây dựng,
thực hiện các Nghị quyết, Quyết định và Chỉ thị của Đảng; hoàn thiện quy trình lãnh
đạo và giữ gìn kỷ luật của Đảng; giải quyết những vấn đề trong sinh hoạt nội bộ của
Đảng, nâng cao uy tín chính trị của Đảng. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là khi đã
trở thành Đảng cầm quyền, Đảng ta luôn coi trọng công tác kiểm tra, kỷ luật. Công tác
kiểm tra, kỷ luật của Đảng đã góp phần vào những thắng lợi chung của cách mạng Việt
Nam trong những năm qua.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay đang đặt ra cho Đảng ta và đội ngũ đảng viên
của Đảng những cơ hội và thách thức mới. Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện. Bên cạnh những cơ hội lớn, tình hình
trên đang đặt ra những yêu cầu mới cho công tác kiểm tra, kỷ luật đảng. Đảng là một tổ
chức nằm trong xã hội, cán bộ, đảng viên của Đảng sống trong xã hội, nên những mặt
trái của kinh tế thị trường, của quá trình hội nhập tác động trực tiếp đến Đảng và đội
ngũ đảng viên. Thực tế trong những năm qua đã có những cán bộ, đảng viên rất trung
kiên, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến tranh, song đã bị gục ngã bởi “viên
đạn bọc đường”. Điều đó nhắc chúng ta không thể chủ quan, không thể lơ là công tác
kiểm tra, kỷ luật đảng.
Đứng trước yêu cầu của thực tiễn, trước những nguy cơ đối với sự nghiệp đổi
mới, đòi hỏi Đảng ta phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, để
Đảng ta thực sự ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử trong thời kỳ mới.
Công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng trong những năm đầu đổi mới có sự chuyển
biến rõ rệt và đạt được những thành tích quan trọng, góp phần tích cực phục vụ thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, cũng còn nhiều hạn
chế. Báo cáo chính trị Đại hội X đã chỉ rõ:
Công tác kiểm tra trong Đảng vẫn còn yếu, chất lượng và hiệu quả kiểm
tra chưa cao; nhiều khuyết điểm sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm
được phát hiện và khắc phục; chưa coi trọng kiểm tra phong ngừa, phát huy nhân
tố tích cực. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra và thi
hành kỷ luật trong Đảng. Công tác giám sát trong Đảng và giám sát của nhân dân
đối với các hoạt động của Đảng, Nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa được quan
tâm, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác xây dựng Đảng trong tình mới [44,
tr.272].
Những yếu kém trong công tác kiểm tra cũng là một trong những nguyên nhân
không ngăn chặn và đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng, suy thoái về chính trị, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ các bộ đảng viên hiện nay.
Do vậy, kiểm tra giám sát là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của tổ chức đảng,
trước hết là của cấp ủy các cơ quan báo chí lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức kiểm tra, giám sát
việc thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, việc thi hành Điều lệ Đảng. Qua kiểm
tra, giám sát, phải kịp thời phát hiện ưu điểm để biểu dương, nhân điển hình; rút kinh
nghiệm và đề ra biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt hơn; phát hiện thiếu sót,
khuyết điểm để uốn nắn, sửa chữa, khắc phục, nếu có dấu hiệu vi phạm thì kiểm tra,
xem xét, xử lý nghiêm minh. Đồng thời đánh giá đúng về phẩm chất chính trị, năng lực,
trình độ, bản lĩnh, đạo đức, lối sống, uy tín của cán bộ báo chí, nhất là những cán bộ chủ
chốt, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng các cơ quan báo chí; phát hiện những cán bộ
thoái hóa, biến chất, cơ hội, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, không còn uy tín đối với
tổ chức và quần chúng nhân dân.
Đánh giá đúng thực chất việc cấp ủy, tổ chức đảng chấp hành đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng; Điều lệ Đảng, các Nghị quyết, Chỉ thị, Quy định, Quyết
định, Quy chế của Đảng, của cấp ủy cấp trên; các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; việc
chấp hành kỷ luật đảng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ… Đồng thời,
phát hiện kịp thời những cấp ủy, tổ chức đảng cơ quan báo chí có biểu hiện suy thoái,
mất đoàn kết nghiêm trọng; không chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương, chính sách,
nguyên tắc của Đảng, không xử lý kịp thời, nghiêm minh hoặc có biểu hiện bao che cho
tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên có vi phạm.
Uỷ ban Kiểm tra Trung ương phối hợp với các ban Đảng ở Trung ương, cấp uỷ,
ban cán sự, đảng đoàn, chỉ đạo uỷ ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát
các tổ chức đảng và đảng viên trong việc thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, nhất
là các nội dung liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện kỷ luật của Đảng trong
các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí, cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí. Đồng thời
xử lý kỷ luật những tổ chức đảng và đảng viên chấp hành không nghiêm hoặc vi phạm
kỷ luật đảng.
2.3.2. Lãnh đạo kiểm tra các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước
trong hoạt động báo chí
Đảng kiểm tra nội dung chính trị tư tưởng của báo chí và kiểm tra các cấp uỷ và
tổ chức đảng thực hiện tốt việc lãnh đạo, quản lý báo chí thuộc quyền. Việc kiểm tra của
Đảng được tiến hành ngay trong quá trình xây dựng đường lối và trong quá trình tổ
chức thực hiện nhằm tăng tính đúng đắn, chính xác của chủ trương, đường lối do Đảng
đề ra, khi cần thì điều chỉnh, uốn nắn việc tổ chức thực hiện của các cấp uỷ đảng, các cơ
quan nhà nước và các tổ chức trong xã hội; điều chỉnh sự phân công, phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước, các đoàn thể; phát hiện, khẳng định và động viên kịp thời những tập
thể và cá nhân tiên tiến, xử lý các sai phạm của tổ chức; cấp uỷ đảng và cán bộ, đảng
viên.
Do kiểm tra cần thiết cả về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn, nên kiểm tra
không chỉ là khâu cuối cùng của lãnh đạo, mà nó xuyên suốt từ đầu đến cuối toàn bộ
quá trình lãnh đạo của Đảng.
Với báo chí, sự lãnh đạo của Đảng thông qua công tác kiểm tra, uốn nắn kịp thời
các lệch lạc có tác dụng về nhiều mặt. Công tác đó bao gồm: Kiểm tra nội dung chính trị
- tư tưởng trong các sách báo; xử lý nghiêm đối với những cán bộ cố tình vi phạm luật
pháp, hoặc lợi dụng báo chí để thực hiện mưu đồ xấu; kiểm tra công tác quản lý của
Nhà nước đối với báo chí qua việc ban hành các chính sách, quy chế, luật pháp, hướng
dẫn thực hiện và xử lý các sai phạm; kiểm tra trách nhiệm chỉ đạo toàn diện báo chí của
các cơ quan chủ quản báo chí.
Các cơ quan chức năng của Đảng ở Trung ương và các địa phương giúp cấp uỷ
kiểm tra báo chí thông qua sinh hoạt, làm việc định kỳ với các tổ chức đảng trong các
cơ quan nhà nước và trong cơ quan báo chí, các đảng viên phụ trách cơ quan báo chí để
nắm tình hình, giúp cấp uỷ kịp thời uốn nắn, xử lý các sai phạm.
Công tác kiểm tra của Đảng đối với báo chí tiến hành đồng bộ với thanh tra của
Nhà nước, tạo sự thống nhất giữa lãnh đạo và quản lý, giữa định hướng chính trị và việc
chấp hành các quy định cụ thể.
Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng đối với hoạt động báo chí và công tác
lãnh đạo, quản lý báo chí. Trong công tác xây dựng Đảng, kiểm tra là một việc có vị trí
cực kỳ quan trọng, góp phần đảm bảo cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, trong sạch về phẩm chất đạo đức. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, công tác kiểm
tra của Đảng phải được tăng cường và tiến hành một cách thường xuyên, có hiệu quả.
Trong các cơ quan tham mưu, quản lý về báo chí và trong các cơ quan báo chí có tổ chức
đảng và đảng viên, các cơ quan, tổ chức này và hoạt động báo chí phải được thường xuyên
kiểm tra.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH cùng với những thành tựu to lớn của đất
nước, báo chí đã có những tiến bộ trưởng thành đáng kể. Trong bối cảnh xã hội có nhiều
mặt phức tạp, thuận lợi luôn đi cùng thử thách, báo chí đã vững vàng, tỉnh táo, nhiệt tình
ủng hộ sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, dũng cảm đấu tranh chống tiêu cực, góp phần
khôi phục và củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Đồng thời, báo chí
cũng có những đóng góp xứng đáng trong việc phát hiện, nhân rộng lối sống mới, đạo
đức mới, các gương người tốt, việc tốt, các nhân tố điển hình tiên tiến, đấu tranh với các
hiện tượng tiêu cực. Những thành tựu đó của báo chí có quan hệ hữu cơ với công tác
xây dựng Đảng. Cụ thể hơn, công tác kiểm tra của Đảng nói chung và kiểm tra đối với
báo chí nói riêng được tăng cường là một trong những nguyên nhân dẫn đến thành tích
đó.
Mục đích kiểm tra là làm cho đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng nói
chung, về báo chí nói riêng, được thi hành một cách đúng đắn và sáng tạo. Chỉ có qua
kiểm tra mới biết các nghị quyết có được thi hành hay không, thi hành có đúng không,
đúng đến mức nào; cơ quan, tổ chức nào, cá nhân cán bộ, đảng viên nào cố gắng,
nghiêm túc, phát huy sáng kiến, làm việc có hiệu quả và không có hiệu quả. Thông qua
việc kiểm tra chấp hành Nghị quyết của Đảng, chúng ta mới biết rõ những mặt đúng
đắn, phù hợp của đường lối, chủ trương, nghị quyết để tiếp tục phát huy, cũng như
những hạn chế để kịp thời bổ sung, hoàn chỉnh.
Là Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên được giao những cương vị công tác khác
nhau trong các cơ quan nhà nước. Đây là môi trường tốt để họ phát huy năng lực phục
vụ nhân dân, đồng thời cũng là mảnh đất thuận lợi cho tệ tham nhũng, quan liêu dễ dàng
nảy nở. Một mặt, phải giáo dục họ; mặt khác, phải thường xuyên tiến hành công tác
kiểm tra của Đảng để khuyến khích những mặt tốt, ngăn ngừa mặt xấu, kỷ luật kịp thời
những phần tử cơ hội, thoái hoá, biến chất trong Đảng để Đảng luôn trong sạch, vững
mạnh.
Đối tượng kiểm tra bao gồm các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, liên quan
đến hoạt động báo chí, nhất là cán bộ chủ chốt ở các cơ quan báo chí. Các đối tượng này
phải đồng thời coi trọng, không xem nhẹ đối tượng nào. Về nội dung, cần kiểm tra toàn
diện, trong đó đặc biệt chú ý: Kiểm tra nội dung chính trị tư tưởng trong các sách báo,
nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực và phẩm chất chính trị của cán bộ chủ chốt các
cơ quan báo chí - xuất bản; phát hiện, bồi dưỡng và phát huy những người làm báo, xuất
bản có phẩm chất chính trị tốt và có tài năng, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm
thay đổi những cán bộ yếu kém, xử lý nghiêm đối với những cán bộ cố tình vi phạm
pháp luật, hoặc lợi dụng báo chí, xuất bản thực hiện mưu đồ xấu.
Công tác kiểm tra đối với báo chí đòi hỏi phải chủ động, kịp thời, chính xác,
nghiêm minh, có tính giáo dục, phòng ngừa, không chỉ đơn thuần thụ động xử lý các vụ
vi phạm. Cán bộ làm công tác kiểm tra báo chí phải có đủ năng lực chuyên môn, phẩm
chất và bản lĩnh chính trị. Công tác kiểm tra sẽ thiếu chính xác khi người cán bộ kiểm
tra không đủ năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức. Hoạt động
báo chí là lĩnh vực tư tưởng - văn hoá, vì vậy, bên cạnh những nét chung như các hoạt
động khác của Đảng, đòi hỏi người kiểm tra phải có trí tuệ, có trình độ văn hoá đáp ứng
đặc điểm của hoạt động báo chí và quản lý báo chí.
Công tác kiểm tra đòi hỏi không né tránh, bao che cho những cơ quan báo chí và
cá nhân nhà báo vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, trong điều
kiện hiện nay, phải tỉnh táo bảo vệ công lý, lẽ phải, không được lợi dụng kiểm tra để
làm ảnh hưởng xấu tới hoạt động của các cơ quan báo chí, tới tư tưởng của chính những
người làm công tác tư tưởng.
Các cơ quan báo chí phải luôn cầu thị, phương châm “hoan nghênh bạn đọc góp
ý phê bình báo” phải luôn được thực hiện trong thực tế. Tự phê bình và tiếp nhận phê
bình vừa đúng với bản chất của Đảng, vừa đúng với bản thân báo chí - phương tiện
truyền thông đại chúng.
Công tác kiểm tra đối với báo chí không chỉ là việc riêng của uỷ ban kiểm tra, mà
là việc của toàn Đảng, trước hết là các cấp uỷ đảng của BTTVHTW và BVHTT.
Công việc cụ thể trước mắt của công tác kiểm tra đối với báo chí là rà soát, chấm
dứt tình trạng cho ra báo chí có nội dung xấu, nhất là ở các số phụ, chuyên đề; thu hồi
giấy phép đối với ấn phẩm thực hiện không đúng luật pháp, sai tôn chỉ, mục đích, không
đúng với đối tượng. Kiểm tra, phát hiện để chấn chỉnh tình trạng khoán trắng, báo chí tư
nhân trá hình, kiểm tra việc chấp hành quan điểm báo chí của Đảng ở các cơ quan báo
chí.
Chỉ thị 22/CT- TW ngày 17-10-1997 của Bộ Chính trị đã chỉ ra cụ thể hơn sự
phối hợp giữa các cơ quan trong việc lãnh đạo quản lý báo chí, chỉ thị nêu: “Ban Tuyên
giáo Trung ương và Bộ Thông tin và Truyền thông dựa trên dự kiến quy hoạch tổng thể
báo chí, xuất bản đến năm 2000 và những năm tiếp theo để kiểm tra, xem xét cụ thể và
chấn chỉnh kịp thời theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu thông tin của nhân dân trong thời kỳ mới không để xảy ra tình trạng tự
phát”[37, tr.3].
Chỉ thị cũng chỉ rõ, các cơ quan Đảng và Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ rà soát
các loại báo chí, hạn chế sự vi phạm pháp luật và sai trái của báo chí. Việc cấp giấy
phép cho ra báo, tạp chí, tăng trang, tăng kỳ,… và thu hồi giấy phép đều phải tuân theo
luật pháp và có sự thống nhất giữa Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (nay là Ban
Tuyên giáo Trung ương) và Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền
thông). Hai cơ quan này phối hợp nghiên cứu bổ sung và ban hành các quy định, quy chế
về việc xét duyệt, cấp phép hoạt động mới của báo chí - xuất bản (cả in ấn, phát hành, xuất
nhập khẩu sách, báo), khai thác thông tin trên Internet và đưa sách, báo vào mạng này;
nghiên cứu để đổi mới cơ chế quản lý hệ thống các đài phát thanh từ Trung ương đến địa
phương, chỉ đạo và quản lý tốt nội dung, phát huy hiệu quả, khắc phục tình trạng chồng
chéo, lãng phí cơ sở vật chất kỹ thuật…
Sự phối hợp giữa các cơ quan được quy thành trách nhiệm cụ thể: Các cấp uỷ,
chính quyền, cơ quan chủ quản phải chịu trách nhiệm về mọi mặt quản lý và chỉ đạo
chặt chẽ báo chí, xuất bản của cấp mình, ngành mình, đơn vị mình. Cơ chế cụ thể do Ban
Tuyên giáo, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) và Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp xây dựng và ban hành.
Thông báo kết luận số 68-TB/TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “Uỷ ban kiểm tra
Trung ương thường xuyên kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và cá nhân có liên quan,
nghiêm túc thực hiện chủ trương của Đảng về tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí, nhất là Thông báo kết luận số 162-TB/TW, số 41-TB/TW và kết luận này của Bộ Chính
trị”[21, tr.4].
Trong điều kiện kinh tế thị trường, cũng như mọi người, đội ngũ cán bộ báo chí
cũng hằng ngày, hằng giờ chịu sự tác động từ các tiêu cực xã hội. Đã có một bộ phận nhà báo xa rời “quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí”, gây tác hại xấu đến uy tín báo
chí, làm cho xã hội bất bình. Để kịp thời ngăn ngừa sự “xuống cấp” của một bộ phận
nhà báo đó, các cấp uỷ đảng, các cơ quan chức năng phải tăng cường công tác kiểm tra,
nhất là đối với các nhà báo là đảng viên. Khi phát hiện dấu hiệu vi phạm Điều lệ Đảng,
pháp luật của Nhà nước và quy ước về đạo đức báo chí thì cần có biện pháp ngăn chặn để
tránh cho họ rơi vào kết cục đáng tiếc.
Kiểm tra của Đảng phải gắn với thanh tra của Nhà nước, với kiểm tra của Hội
Nhà báo từ Trung ương tới cơ sở, theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nêu
cao tính chủ động của tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp. Sự phối hợp chặt chẽ đó
tạo nên sự đồng bộ trong hệ thống kiểm tra của Đảng đối với báo chí, giúp cho báo chí
vừa chủ động, sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp, vừa đi đúng hướng, từ đó làm tốt
hơn vai trò công tác tư tưởng của mình, đồng thời nó cũng tạo ra sự thống nhất giữa
lãnh đạo và quản lý, giữa định hướng chính trị và việc chấp hành các quy định cụ thể.
Các cơ quan chức năng của Đảng ở Trung ương và các địa phương giúp cấp uỷ
kiểm tra báo chí thông qua sinh hoạt, làm việc định kỳ với các đảng viên phụ trách ở cơ
quan báo chí để nắm tình hình, giúp cấp uỷ kịp thời uốn nắn xử lý các sai phạm.
Cơ quan chủ quản có báo phải hết sức coi trọng công tác kiểm tra. Thủ trưởng cơ
quan chủ quản phải trực tiếp chỉ đạo và định kỳ họp với cán bộ phụ trách báo chí, nhà
xuất bản để kiểm tra việc thực hiện tôn chỉ, mục đích và các quy định do Nhà nước cấp.
Xét cho cùng, công tác kiểm tra của Đảng đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý
báo chí và bản thân báo chí thực chất là việc thực hiện sự lãnh đạo của Đảng sau khi
Đảng đã có đường lối chính trị, hệ thống quan điểm và chủ trương đối với báo chí.
Công tác kiểm tra vừa nhằm làm cho báo chí thực hiện tốt chức năng của mình, tránh
được sai phạm, tạo điều kiện để báo chí hoàn thành tốt chức năng của mình, vừa để các
cơ quan lãnh đạo, quản lý hoàn thiện năng lực lãnh đạo, quản lý của mình, chứ không
phải là “kiểm duyệt”, gây cản trở cho báo chí.
Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí, thẻ nhà báo. Quản lý hợp tác
quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của báo chí Việt Nam liên quan đến nước
ngoài và hoạt động báo chí nước ngoài tại Việt Nam. Kiểm tra báo chí lưu chiểu,
quản lý kho lưu chiểu báo chí. Tổ chức, chỉ đạo công tác khen thưởng trong hoạt
động báo chí. Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách,
quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí và việc chấp hành pháp luật về báo chí;
thi hành các biện pháp ngăn chặn hoạt động báo chí trái pháp luật. Giải quyết
khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí [84, tr.28-29].
Chương 3 kết quả và một số kinh nghiệm bước đầu của đảng trong lãnh đạo công tác báo chí từ năm 1996 đến 2006
3.1. kết quả thực hiện
3.1.1. Thành tựu
Trong quá trình khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước
ta luôn dành cho báo chí sự quan tâm sâu sắc, sự lãnh đạo, quản lý ngày càng khoa học,
tạo điều kiện để báo chí phát triển đúng hướng, mạnh mẽ, vững chắc. Năm 1997, nhận
rõ những ưu điểm, thành tích và cả hạn chế, yếu kém của báo chí hoạt động trong cơ
chế thị trường, Bộ Chính trị (khoá VIII) ra Chỉ thị 22-CT/TW “Về tiếp tục đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản”. ở nhiệm kỳ khoá IX, tại
Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương đã ra Nghị quyết 16-NQ/TW “Về nhiệm
vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”, trong đó nhấn mạnh đến
yêu cầu “nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền cổ động, báo chí - xuất
bản, văn hoá - văn nghệ, thông tin đối ngoại”. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng ban hành
một số Chỉ thị, Thông báo nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước đối với công tác báo chí, trong đó, có một văn bản hết sức quan trọng - Thông báo
kết luận số 162-TB/TW, ngày 1-12-2004 của Bộ Chính trị “Về một số biện pháp tăng
cường quản lý báo chí trong tình hình mới”,Thông báo kết luận số 41-TB/TW, ngày 11-
10-2006 của Bộ Chính trị “Về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo
chí”, Thông báo kết luận số 68-TB/TW, ngày 30-03-2007 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục
thực hiện Thông báo số 41-TB/TW, ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị về một số biện
pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí”, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X (8/2007) đã ra Nghị quyết “Về công tác tư tưởng, lý luận và
báo chí trước yêu cầu mới”, hoạt động báo chí ở nước đã có những chuyển biến tích cực
và tiến bộ nhiều mặt:
Báo chí tiếp tục phát triển số lượng, loại hình, ấn phẩm, đội ngũ người làm báo,
số lượng người đọc, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, năng lực tài chính được tăng
cường, do đó tác động của báo chí được mở rộng.
Tính đến thời điểm tháng 7 năm 2006, “cả nước có gần 620 cơ quan báo chí,
hơn 803 ấn phẩm, sản phẩm báo chí: 172 báo, 448 tạp chí; 67 đài phát thanh, truyền
hình (2 đài quốc gia), hơn 600 đài truyền thanh - truyền hình cấp huyện”[3, tr.45].
Trong gần mười năm qua, báo điện tử nối mạng Internet ra đời và phát triển mạnh mẽ,
trở thành công cụ có nhiều ưu thế trong việc tiếp nhận, chuyển tải nhanh, sinh động một
dung lượng thông tin lớn phục vụ tuyên truyền đối nội, đối ngoại có hiệu quả. Đến nay,
cả nước có 88 báo điện tử và khoảng 2.000 bản tin cùng hàng ngàn trang điện tử
(website, web log) có tính chất, cách thức hoạt động gần giống như trang báo hoặc tạp
chí điện tử. Hơn 13.000 người đã được cấp thẻ nhà báo, hàng trăm người đang trong
diện xét cấp thẻ, hàng ngàn cán bộ, nhân viên kỹ thuật, hành chính làm việc trong các
cơ quan báo chí. “Năm 1992 cả nước có 350 cơ quan báo chí (136 báo, 214 tạp chí).
Năm 1997, có 153 báo, 337 tạp chí. Năm 2001 có 154 báo, 334 tạp chí, hơn 11.000 nhà
báo được cấp thẻ nhà báo”[3, tr.2]. Ngoài ra, còn có hàng chục ngàn cộng tác viên, nhân
viên, lao động gắn bó với nghề báo hoặc sống chủ yếu dựa vào dịch vụ cho nghề báo.
So với kỳ trước năm 1992, báo chí nước ta đã có bước trưởng thành nhanh chóng
về mọi mặt: tăng loại hình và số lượng cơ quan báo chí; số đầu báo, tạp chí, đài phát
thanh, truyền hình, ấn phẩm, chương trình; tăng số lượng, phạm vi phát hành, phạm vi phủ
sóng; tăng chất lượng in ấn, phát sóng; tăng số lượng nhà báo, đội ngũ những người làm
việc trong các cơ quan báo chí.
Công chúng báo chí có bước phát triển về số lượng, trình độ, tham gia ngày càng
tích cực vào quá trình truyền thông. Số lượng người đọc báo, nghe đài, xem truyền hình,
truy cập mạng Internet chiếm khoảng 16,5% dân số, đạt mức cao ở khu vực Đông Nam
á. Nhờ những thay đổi lớn lao trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất
nước, quá trình dân chủ hoá thông tin được tăng cường. Công chúng báo, đài, từ chỗ
tiếp nhận thụ động, bình đẳng trong thu nhận, trao đổi thông tin. Chức năng “diễn đàn”
của các tầng lớp nhân dân trên báo chí ngày càng được thể hiện rõ nét và sinh động. Số
lượng đồng bào ta ở xa Tổ quốc được trực tiếp nghe, xem chương trình của 2 đài phát
thanh, truyền hình quốc gia, đọc báo qua mạng điện tử và báo in chuyển từ trong nước
tăng mạnh.
Bên cạnh đó, năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, máy móc, điều kiện làm việc, đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động báo chí. Cả nước hiện có trên 100 cơ quan báo chí
tạo được nguồn thu tài chính khá ổn định, tự cân đối được nhu cầu thu - chi, trong đó có
hơn 50 đơn vị hoạt động có lãi, có nguồn thu mỗi năm lên tới hàng chục, hàng trăm tỷ
đồng.
Doanh thu 1 năm của Đài Truyền hình Việt Nam là 900 tỷ đồng (quảng cáo 700 tỷ đồng, truyền hình cáp 200 tỷ đồng); Đài Truyền hình Thành phố Hồ
Chí Minh trên 600 tỷ (quảng cáo: 400 tỷ đồng, truyền hình cáp 200 tỷ đồng); Đài
Tiếng nói Việt Nam 122 tỷ đồng (quảng cáo 36 tỷ đồng); Đài Tiếng nói Nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh hơn 30 tỷ đồng; Đài Phát thanh - Truyền hình Hà
Nội trên 170 tỷ đồng quảng cáo; Báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh là 450 tỷ
đồng (quảng cáo là 260 tỷ đồng); Báo Thanh niên 246 tỷ (quảng cáo 148 tỷ đồng); Báo Tiền phong 50 tỷ đồng (quảng cáo 20 tỷ đồng)….[11, tr.3].
Nhờ đó, một số cơ quan báo, đài có điều kiện nâng cấp máy móc, thiết bị, đổi
mới công nghệ làm báo, đầu tư nhiều hơn cho hoạt động nghiệp vụ, cải thiện và nâng
cao đời sống cán bộ, phóng viên, nhân viên, mở rộng các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện, xây dựng quỹ Đền ơn đáp nghĩa, quỹ Vì người nghèo, quỹ Hỗ trợ nạn nhân chất
độc da cam/điôxin, xây dựng trạm y tế, trường học, cầu đường, công trình phúc lợi, giúp
trẻ em mồ côi tàn tật v.v.. Một số cơ quan báo, đài đang phát triển theo mô hình tập đoàn
truyền thông của báo chí quốc tế.
Phần lớn báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, phản ánh kịp thời tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân, biểu dương phong trào thi đua yêu nước, đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tệ nạn xã hội, chống “diễn biến hòa bình”..
góp phần tích cực vào thành tựu chung của đất nước.
Các cơ quan báo chí, nhìn chung hoạt động đúng hướng, đúng pháp luật, đúng
tôn chỉ, mục đích; thực hiện tốt chức năng vừa là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các đoàn thể quần chúng, vừa là
diễn đàn của nhân dân, góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc đổi mới.
Báo chí tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin sinh
động về công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh trung thực tâm tư,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân; góp phần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận;
cổ vũ, động viên phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, biểu dương các nhân tố mới,
điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực, lãng phí, chống “diễn biến hoà bình”; góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc
đẩy công cuộc đổi mới và dân chủ hoá đời sống xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân
đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Thành tích, công lao của báo chí đối với sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước có ý nghĩa quan trọng, được Đảng, Nhà nước và
nhân dân ghi nhận, biểu dương. Chưa bao giờ, sức mạnh của báo chí lại được thể hiện
một cách đầy đủ và sinh động như thời điểm hiện tại. Một đợt sinh hoạt chính trị sâu
rộng qua kênh báo chí góp ý kiến vào dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
trung ương khoá IX trình Đại hội X; một phong trào hành động cách mạng sôi nổi do
báo chí phát động học tập, làm theo tấm gương sáng của các anh hùng, liệt sĩ Đặng
Thuỳ Trâm, Nguyễn Văn Thạc, Hoàng Thượng Lân, Nguyễn Văn Giá, Hoàng Kim
Giao… được cả xã hội nhiệt liệt hưởng ứng. Những kỳ họp Quốc hội; những sự kiện
chính trị, xã hội sôi động; việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO); tổ chức thành công năm APEC Việt Nam 2006, tuần lễ cấp cao APEC và Hội
nghị cấp cao APEC 14; Việt Nam được các nước châu á nhất trí đề cử làm uỷ viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đều có công tuyên truyền, cổ vũ của
báo chí. Báo chí cũng đã dày công điều tra, phát hiện, đưa ra công luận, đấu tranh kiên
quyết với các hành vi tham nhũng, tiêu cực ở PMU 18, các tổng công ty Dầu khí, Hàng
hải, Hàng không, các vụ việc nổi cộm ở Thanh tra Nhà nước, Bộ Thương mại; những
sai phạm trong quản lý đất đai ở Khánh Hoà, Phú Quốc (Kiên Giang), Đồ Sơn (Hải
Phòng),...
Phần lớn thông tin về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mà nhân dân
ta biết được đều thông qua báo chí, phát thanh, truyền hình. Báo chí đã trở thành kênh
thông tin quan trọng phản ánh tâm tư và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, phát
hiện và phản ánh các vấn đề bức xúc trong xã hội giúp các cơ quan lãnh đạo nắm bắt và
giải quyết kịp thời. Nhiều vấn đề nhờ có báo chí đã hướng sự chú ý của Đảng, Nhà nước
và sự quan tâm của xã hội để cùng tìm biện pháp giải quyết. Vấn đề y đức trong ngành
y tế, những bức xúc trong chất lượng giáo dục và đào tạo… mà báo chí đã nêu trong
thời gian qua có thể là những ví dụ tiêu biểu. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực và các tệ nạn xã hội báo chí đã phát hiện và đưa ra công luận nhiều vụ việc cần xử
lý, làm lành mạnh xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ, vào sự lãnh đạo
của Đảng, giữ gìn sự nghiêm, minh kỷ cương phép nước.
Báo chí góp phần quan trọng nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, sáng
tạo văn hoá của nhân dân, tham gia có hiệu quả vào các hoạt động xã hội góp phần vào
quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, công chúng tham gia ngày càng tích cực, chủ
động vào quá trình truyền thông.
Báo chí góp phần tích cực giúp nhân dân thế giới ngày càng hiểu rõ hơn đường lối,
chính sách đúng đắn và những thành tựu đổi mới to lớn của nhà nước ta. Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đánh giá cao vai trò của báo chí trong đời sống xã hội cũng như những đóng
góp quan trọng của báo chí trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, mở cửa, hội nhập thế giới.
Tham gia tích cực các hoạt động báo chí thế giới và khu vực. Báo chí nước ta đã
chủ động, tích cực hội nhập với báo chí thế giới trên cơ sở giữ vững bản sắc dân tộc và
những nguyên tắc cơ bản của nền báo chí cách mạng. Hội Nhà báo Việt Nam là thành
viên của Tổ chức Quốc tế các nhà báo (OIJ), Liên đoàn Báo chí ASEAN (CAJ). Hội và
các cơ quan báo chí trong nước đẩy mạnh giao lưu, hợp tác với các tổ chức, cơ quan báo
chí của Lào, Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Pháp, Thuỵ Điển và các nước khác
trong khối ASEAN… Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam mở rộng
phạm vi phủ sóng phát thanh, truyền hình ra nhiều khu vực trên thế giới, nhất là khu
vực Bắc Mỹ, châu á, châu Âu. Thông tấn xã Việt Nam, báo Nhân Dân và một số báo,
đài khác mở văn phòng đại diện, cử phóng viên thường trú hoặc lưu động ở các địa bàn
quan trọng, tham gia phản ánh kịp thời các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội nổi bật của
khu vực và thế giới. Công tác thông tin đối ngoại được tăng cường và đạt hiệu quả rõ
rệt.
Công tác chỉ đạo, quản lý báo chí có nhiều cố gắng. Ban Tuyên giáo Trung ương,
Bộ Thông tin - Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam và các đơn vị hữu quan đã tăng
cường phối hợp, đổi mới một bước nội dung phương thức công tác, hoàn thành tương
đối tốt nhiệm vụ được giao. Trong 2 năm qua, ban, bộ, hội tiếp tục tham mưu với Trung
ương Đảng và Chính phủ ban hành một số văn bản lãnh đạo, quản lý báo chí: Chỉ thị
52-CT/TW của Ban Bí thư về phát triển và quản lý báo chí điện tử; Quyết định 388/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thực hiện Thông báo kết luận số 162-
TB/TW của Bộ Chính trị; Thông báo số 73/TB-VPCP nêu ý kiến của Thủ tướng Chính
phủ tại buổi làm việc với lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam. Một số cơ quan chủ quản
báo chí như Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh… đã
có những cố gắng đáng ghi nhận nhằm tăng cường sự lãnh đạo, quản lý các cơ quan báo
chí trực thuộc.
3.1.2. Yếu kém và khuyết điểm
Cùng với ưu điểm và thành tích nêu trên, những khuyết điểm, yếu kém mà Chỉ
thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá
IX), Kết luận Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX), Thông báo kết
luận số 162-TB/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) Thông báo kết luận số 41-TB/TW, ngày
11-10-2006 của Bộ Chính trị, Thông báo kết luận số 68-TB/TW, ngày 30-03-2007 của
Bộ Chính trị và một số văn bản khác của Trung ương Đảng và Chính phủ đã nêu ra
chậm được khắc phục như:
Một số cơ quan báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư
tưởng, văn hoá của báo chí cách mạng, thậm chí có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Một bộ phận không nhỏ người làm báo, kể cả một số cán bộ lãnh đạo cơ quan
báo chí chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan báo chí và của những người
làm báo; chưa thường xuyên coi trọng rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên
môn, đạo đức nghề nghiệp. Đã xuất hiện trên một số tờ báo, tạp chí những ý kiến, bài
viết vô tình hay cố ý đi chệch định hướng chính trị: hoài nghi, phê phán hoặc phủ nhận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đòi xem xét lại hoặc xoá bỏ Điều 4 của
hiến pháp; tán thành, cổ vũ quan điểm đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; đòi lật lại
một số vấn đề lịch sử đã được kết luận; đưa thông tin không đúng, thậm chí xuyên tạc
đời tư của lãnh tụ; kiến nghị “khôi phục quy chế độc lập cho báo chí”, mở diễn đàn bàn
thảo, tranh luận nhiều vấn đề nhạy cảm lẽ ra cần có thời gian nghiên cứu, đánh giá, kết
luận, làm cho người đọc phân tâm, hoài nghi.
Xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ gia tăng, thông tin không trung thực,
thiếu chính xác, phản ánh nhiều về tiêu cực và tệ nạn xã hội, thậm chí tiết lộ bí mật quốc
gia, ít tuyên truyền các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, cổ vũ phong trào thi
đua yêu nước. Đã có một số nhà báo yếu kém về đạo đức, lợi dụng nghề báo để thực hiện
hành vi vụ lợi.
Tình trạng xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ ngày càng gia tăng, có nơi
trở nên nghiêm trọng. Một số tờ báo sa đà khi phản ánh các vụ án, mặt tiêu cực, mặt trái
và những yếu kém của xã hội, thậm chí tiết lộ bí mật quốc gia, tạo tư liệu, chứng cứ để
các thế lực thù địch khai thác, vu cáo, đả kích ta về các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân
tộc, tôn giáo, làm “nóng” các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương một
cách thiếu ý thức, thậm chí vô trách nhiệm chỉ vì mục đích câu khách, để bán được
nhiều báo. Khi thể hiện, không chú ý cân nhắc liều lượng, mức độ, thời điểm, hình thức
trình bày, tiêu đề bài viết, cân nhắc kỹ mặt lợi, hại của mỗi thông tin như: Phản ánh một
số cuộc chất vấn tại Quốc hội; Thông tin về khu vườn lạ; trò lừa của Lê Quốc Hồ; sự
việc ở nhà hàng phố Núi, nhà ông Tiến, “đường ông Tiến”, “chùa ông Tiến” liên quan
đến vụ án PMU 18…
Tình trạng phóng viên viết bài, đưa tin nhưng không nắm chắc vấn đề, sự việc
dẫn đến viết ẩu, viết sai, thạm chí có những sai sót nghiêm trọng. Khi bị cơ quan chức
năng phát hiện, nhắc nhở, bị tổ chức, cá nhân phản đối, khiếu nại không được nhà báo
và cơ quan báo chí tiếp thu nghiêm túc, cải chính đúng luật. Tình trạng phóng viên viết
bài, đưa tin nhưng không nắm chắc vấn đề, sự việc dẫn đến viết ẩu, viết sai, thậm chí có
những sai sót nghiêm trọng. Khi bị cơ quan chức năng phát hiện, nhắc nhở; bị tổ chức,
cá nhận phản đối, khiếu nại không được nhà báo và cơ quan báo chí tiếp thu nghiêm túc,
cải chính đúng luật.
Số nhà báo yếu kém đạo đức, lợi dụng nghề báo để thực hiện hành vi vụ lợi
không còn là điều cá biệt. Đã xuất hiện “câu lạc bộ” hoặc nhóm nhà báo kết hợp với
nhau để làm ăn, tung hô người này, “hạ bệ” người khác, “đánh hội đồng” các doanh
nghiệp, cơ quan hay cá nhân nào đó vì ác ý hoặc vì vụ lợi. Thậm chí, có người còn vu
cáo, nói xấu cán bộ chỉ đạo, quản lý báo chí vì họ đã thẳng thắn phê bình, xử lý các sai
phạm.
Bên cạnh đó khuynh hướng tư nhân hoá báo chí, tư nhân núp bóng Nhà nước để
ra báo, kinh doanh, dịch vụ truyền thông ngày càng tăng. Do những yếu kém, sơ hở
trong công tác quản lý, do tác động của cơ chế thị trường, đã xuất hiện tình trạng một số tờ
báo, tạp chí, phụ san, mạng truyền hình cáp… bị cơ quan chủ quản hay cơ quan báo chí
“bán cái”, bị tư nhân chi phối hoặc thao túng. Các công ty trách nhiệm hữu hạn và cổ phần
đăng ký hoạt động trong lĩnh vực truyền thông xuất hiện ngày càng nhiều. Một số nhóm xã
hội đang tìm cách cho ra đời báo in, tạp chí, báo điện tử, mạng truyền hình trả tiền
(PayTV)… theo hình thức liên doanh, liên kết, mượn pháp nhân, đội lốt cơ quan báo chí.
Tình hình này càng biểu hiện rõ và phức tạp hơn trong thời gian gần đây.
Các cơ quan báo chí quan trọng của Đảng, Nhà nước ở cả Trung ương và địa
phương chậm đổi mới, nội dung và hình thức chưa hấp dẫn, chất lượng và hiệu quả tuyên
truyền không cao, chưa chi phối, làm chủ thông tin, định hướng dư luận xã hội, vươn lên để
chiếm lĩnh thị trường báo chí còn rất yếu. Hệ thống các báo, đài phát thanh, truyền hình, tạp
chí quan trọng do các cơ quan Đảng, Nhà nước ở trung ương và địa phương quản lý có số
lượng khá đông đảo, hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, được quan tâm đầu tư máy móc,
phương tiện, điều kiện làm việc, chế độ phát hành, phát sóng. Tuy nhiên, như nhận định
trong Thông báo kết luận số 162-TB/TW của Bộ Chính trị (khoá IX): “một số tờ báo ở
Trung ương, địa phương, bộ, ngành thiếu năng động, chậm đổi mới, nội dung và hình thức
chưa hấp dẫn, thiếu sức thuyết phục người đọc, chất lượng và hiệu quả tuyên truyền, giáo
dục không cao”. Nhiều báo, tạp chí có lượng phát hành thấp, sức vươn để chiếm lĩnh thị
trường báo chí còn yếu; một số đài phát thanh, truyền hình chưa đủ sức lôi cuốn người
nghe, người xem, do đó khả năng tác động, chi phối thông tin đối với công chúng hạn chế.
Hệ thống các đài phát thanh, truyền hình thiếu quy hoạch, kế hoạch phát triển,
gây lãng phí, tốn kém. So với nhiều nước trên thế giới, hệ thống các đài phát thanh,
truyền hình của ta nhiều về số lượng (số lượng đài, số cán bộ, phóng viên, nhân viên)
nhưng phát triển thiếu quy hoạch, kế hoạch. Tình trạng đầu từ tràn lan, tăng bộ máy
biên chế, tăng công suất máy phát gây nhiễu sóng, nâng dung lượng, thời lượng các
chương trình giải trí, chiếu nhiều phim nước ngoài, quảng bá lối sống tiêu dùng, hưởng
thụ… ngày một gia tăng. Sự bung ra khá nhanh của hệ thống truyền hình trả tiền mang
lại những khó khăn mới trong khâu quản lý nội dung.
Công tác chỉ đạo, quản lý báo chí còn nhiều hạn chế, việc xây dựng và hoàn
thiện quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí, rà soát, sắp xếp, thu gọn đầu mối còn bị
động lúng túng, thiếu tính khoa học, thiếu tầm nhìn lâu dài
Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác báo chí có những nguyên nhân
khách quan, nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan sau:
Tư duy của Đảng trên lĩnh vực báo chí còn chậm đổi mới. Sự quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng đối với công tác báo chí chưa đúng tầm trong điều kiện Đảng cầm
quyền. Một số cấp uỷ chưa thực sự quan tâm và coi trọng công tác báo chí; có biểu hiện
hữu khuynh, nể nang, né tránh đối với những quan điểm sai trái có tính nguyên tắc.
Năng lực, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý báo chí chưa theo kịp bước phát
triển nhanh chóng, phức tạp của báo chí, đồng thời công tác quản lý báo chí còn buông lỏng,
bị động, xử lý sai phạm thiếu kiên quyết, nể nang, né tránh kéo dài, vai trò trách nhiệm của cơ
quan chủ quản báo chí còn hạn chế, thụ động.
Đội ngũ cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí còn nhiều hạn chế,
yếu kém như: Chưa có kế hoạch, chính sách, chế tài cụ thể, có hiệu lực để tạo động lực
sáng tạo cho đội ngũ cán bộ báo chí. Công tác xây dựng Đảng trong một số cơ quan báo
chí còn lơi lỏng, ít hiệu quả.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu về báo chí chưa theo kịp sự phát triển của
tình hình dẫn đến sự lúng túng, bị động trước những vấn đề mới đặt ra, vì vật thiếu những
quyết sách lâu dài, cơ bản, chủ động để lãnh đạo, quản lý.
3.2. Một số kinh nghiệm bước đầu của đảng trong lãnh đạo công tác báo chí
3.2.1. Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác báo chí
Báo chí chỉ có thể là công cụ tuyên truyền chính trị của Đảng và Nhà nước, vừa
thực hiện chức năng thông tin đa dạng của mình khi Đảng lãnh đạo công tác báo chí
một cách toàn diện, trực tiếp. Sự nghiệp đổi mới của đất nước diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH báo chí tham gia động viên
và tổ chức quần chúng theo đường lối đổi mới của Đảng, phản ánh mọi sáng kiến, khó khăn
của quần chúng và là trường học của cả những người lãnh đạo cũng như quần chúng nhân dân
lao động.
Tuy nhiên, khi đi vào xử lý các vấn đề cụ thể của báo chí, có quan niệm cho
rằng, Đảng ta là Đảng cầm quyền nên việc xem xét, xử lý, giải quyết các vấn đề cụ thể
như việc cho ra báo, tạp chí, việc tài trợ cho báo, công tác đầu tư, bồi dưỡng cán bộ báo
chí… nên để cho các cơ quan quản lý nhà nước xem xét, quyết định, Đảng chỉ nêu định
hướng chỉ đạo, thậm chí chỉ nên “chỉ đạo từ xa”, “ở hậu trường”… Cũng có ý kiến đề
nghị, đã có Luật Báo chí - mà luật đã chứa đựng quan điểm đường lối của Đảng - thì cứ
dựa vào luật mà xử lý, luật pháp chính là cái tối thượng, báo chí phải tuân theo, Đảng
không cần phải kiểm tra, chỉ đạo. Ngược lại, lại có khuynh hướng dồn tất cả những vấn
đề cần đưa lên báo mà đụng đến quan điểm, đường lối cho cấp uỷ xử lý.
Trong thời gian qua, vấn đề chỉ đạo, định hướng nội dung đôi khi không gắn với
vấn đề tài chính, do đó có tình trạng cơ quan chủ quản xin được giấy phép rồi phó mặc
cho toà soạn tự xoay sở, không quan tâm, thậm chí không chịu trách nhiệm khi báo có
sai lầm, khuyết điểm. Nhiều cấp uỷ, chính quyền và cơ quan chủ quản chưa xác định rõ
trách nhiệm quản lý và chỉ đạo báo chí của cấp mình. Chỉ đạo, quản lý công tác báo chí
còn lỏng lẻo, phối hợp trong quản lý chưa chặt chẽ. Cá biệt, có cơ quan chủ quản coi tờ
báo là công cụ kinh doanh lấy lãi, từ đó dẫn đến coi nhẹ các yêu cầu chính trị, ra báo theo
thị hiếu của một bộ phận dân cư, xa rời tôn chỉ, mục đích được xác định trong giấy phép.
Có quan điểm cho rằng, tổng biên tập chịu trách nhiệm tối cao, toàn bộ về nội
dung, phạm vi của các vấn đề được thể hiện, đề cập của các báo, tạp chí kể cả các số
đặc san, số cuối tuần, cuối tháng… Trên tổng biên tập chỉ có luật pháp, tổng biên tập sai
đã có luật pháp xử lý, không cần sự lãnh đạo của cấp uỷ; rằng tổng biên tập chỉ do cán
bộ của toà soạn tín nhiệm, cấp uỷ không nên cử người phụ trách tờ báo.
Mặc dù chúng ta không cho báo chí “liên doanh” với nước ngoài, không có báo
chí tư nhân, nhưng một số tờ báo vẫn nhận đầu tư mang tính “liên doanh” hoặc dưới
danh nghĩa hội nghề nghiệp, mua lại giấy phép, “đầu nậu” báo chí. Ngay báo chí, nếu
coi là hàng hoá - dù là hàng hoá đặc biệt - cũng phải chịu sự tác động của các quy luật
kinh tế thị trường.
Tất cả các vấn đề nêu trên là thách thức lớn, đặt ra nhiều điều mới mẻ cho sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí. Những quan niệm không đúng nêu trên,
nếu không được uốn nắn, giải quyết thì sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí
chỉ mang tính lý thuyết, trừu tượng.
Các báo, tạp chí có mục đích, tầm quan trọng, tính chất, phạm vi ảnh hưởng khác
nhau, do đó sự lãnh đạo của Đảng đối với mỗi loại báo chí có khác nhau về hình thức.
Song, tất cả các báo đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng - đó là nguyên tắc. Sự lãnh đạo
toàn diện của Đảng được thể hiện trên cả các mặt: vạch ra chiến lược phát triển; định
hướng thông tin tuyên truyền, công tác tổ chức cán bộ; hoạt động kiểm tra, uốn nắn kịp
thời những sai lầm lệch lạc. Các mặt này quan hệ chặt chẽ, làm tiền đề cho nhau, trong
đó xây dựng chiến lược và định hướng thông tin tuyên truyền là vấn đề cơ bản; công tác
tổ chức cán bộ là khâu then chốt, có tính quyết định và việc uốn nắn kịp thời những lệch
lạc là nhiệm vụ cần quan tâm thường xuyên. Nói lãnh đạo toàn diện báo chí, cũng có
nghĩa khẳng định trách nhiệm của cấp uỷ đảng từ Trung ương đến địa phương, thể hiện
ở cả sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện cho báo chí phát triển; lãnh đạo các cơ quan,
các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội và nhân dân giúp đỡ, ủng hộ báo chí; đồng thời
theo dõi, kiểm tra, uốn nắn kịp thời các khuyết điểm nảy sinh. Có thể nói rằng, lãnh đạo
toàn diện công tác báo chí là Đảng lãnh đạo tất cả các vấn đề có liên quan tới hoạt động
và phát triển của báo chí.
Kinh nghiệm đầu tiên qua 10 năm phấn đấu vì sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
của báo chí Việt Nam là: Hoạt động báo chí phải đặt dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp,
toàn diện của Đảng. Sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đối với từng tờ báo thể hiện trước
hết ở sự lãnh đạo của cấp uỷ cơ quan chủ quản, thuộc về tổ chức đảng tại nơi đó và ở
tổng biên tập do cấp uỷ đảng cử ra. Điều này là rõ ràng, dễ hiểu, nhưng khuyết điểm lâu
nay thực hiện chưa nghiêm, nhất là đối với cơ quan chủ quản, đối với tổ chức đảng trong
toà soạn mỗi tờ báo.
Sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với công tác báo chí thể hiện ở việc không
chấp nhận đa nguyên chính trị, tự do hoá và tư nhân hoá báo chí, “phi chính trị hoá”
hoạt động và quản lý công tác báo chí.
Trong điều kiện có chính quyền, Đảng có một công cụ sắc bén làm công tác tư
tưởng là hệ thống báo chí. Đây là những “chiến sĩ” xung kích trên mặt trận tư tưởng. Vì
vậy, các đảng cầm quyền đều rất chú trọng sử dụng báo chí. ở các nước có chế độ đa
đảng, các đảng phái chính trị luôn tìm cách tranh thủ báo chí để lôi kéo quần chúng ủng
hộ mình. Không phải ngẫu nhiên mà họ coi báo chí là “quyền lực thứ tư”. Trong chống
phá các nước xã hội chủ nghĩa, các nước đế quốc và phản động cũng coi báo chí là công
cụ tiên phong trong việc thực hiện ý đồ của họ. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu có nguyên nhân quan trọng là do thực hiện “đa nguyên”, tự do hoá trên
lĩnh vực báo chí.
3.2.2. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước đối với công tác báo chí
Trong điều kiện cơ chế thị trường, sản phẩm của báo chí cũng là một loại hàng
hoá được bán rộng rãi. Hoạt động của báo chí cũng phải lấy thu bù chi và kinh doanh có
lãi. Nhưng mục tiêu chính của hoạt động báo chí không phải là lợi nhuận mà là sự phát
triển và hoàn thiện con người, vì sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy các cơ quan báo
chí phải phấn đấu để báo chí phát triển lành mạnh và đúng hướng, ngày càng chiếm
được lòng tin yêu của nhân dân và nâng cao uy tín trong xã hội.
Bước sang thế kỷ XXI đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá -
hiện đại hoá. Thế và lực của nước ta sau những năm đổi mới đã mạnh hơn trước rất
nhiều. Bối cảnh trong nước và quốc tế có cả cơ hội và thách thức lớn. Báo chí và các
phương tiện thông tin đại chúng là lĩnh vực quan trọng, là vũ khí sắc bén trên lĩnh vực
tư tưởng, văn hoá, là động lực quan trọng của sự phát triển đất nước. Vì vậy, báo chí
cần phải tiếp tục tham gia một cách tích cực vào sự nghiệp đổi mới để góp phần thúc
đẩy sự phát triển và đi lên của đất nước. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã đề ra
phương hướng, mục tiêu phấn đấu của hệ thống thông tin đại chúng nước ta trong
những năm trước mắt là:
Phát triển đi đôi với quản lý hệ thống thông tin đại chúng. Báo chí xuất
bản… làm tốt chức năng tuyên truyền thực hiện đường lối chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, phát hiện những nhân tố mới, cái hay cái đẹp
trong xã hội, giới thiệu gương người tốt việc tốt, những điển hình tiên tiến,
phê phán các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu
tranh với những quan điểm sai trái; Coi trọng nâng cao tính chân thật, tính
chiến đấu và tính giáo dục của thông tin. Sử dụng Internet đẩy mạnh thông tin
đối ngoại, đồng thời hạn chế ngăn chặn những hoạt động tiêu cực qua mạng.
Khắc phục khuynh hướng “thương mại hoá” báo chí, xuất bản. Nâng cao bản
lĩnh chính trị, tư tưởng, ý thức trách nhiệm, trình độ văn hoá và nghề nghiệp,
phẩm chất đạo đức của đội ngũ báo chí, xuất bản [42, tr.114].
Để có thể thực hiện tốt những nhiệm vụ mà Đảng đã giao cho báo chí, chúng ta
phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp cơ bản nhưng trước hết phải nâng cao hiệu quả
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với báo chí theo phương châm phát
triển đi đôi với quản lý tốt.
Công tác lãnh đạo và quản lý báo chí phải đạt được những mục tiêu phát triển
toàn diện báo chí mà trọng tâm là nâng cao chất lượng tư tưởng, chính trị, văn hoá, khoa
học. Đổi mới nghiệp vụ thông tin, hình thức trình bày, in ấn theo hướng từng bước hiện
đại hoá, quan tâm tới chất lượng và hiệu quả. Nâng cao tính tư tưởng, tính chân thật,
tính chiến đấu của các sản phẩm báo chí, hướng nội dung thông tin vào nhiệm vụ trung
tâm là phục vụ sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kiên
quyết chống xu hướng xa rời tôn chỉ mục đích ở từng cơ quan báo chí; chống những
biểu hiện phai nhạt lý tưởng, né tránh chính trị. Hoạt động báo chí phải gắn liền với
thực tế sản xuất và đời sống, phản ánh sinh động phong trào cách mạng, phong trào thi
đua yêu nước của các tầng lớp nhân dân ở mọi miền đất nước. Báo chí phải thật sự là
tiếng nói của Đảng và Nhà nước, đồng thời là diễn đàn của nhân dân, là công cụ của dân
và vì dân.
Phải chống các biểu hiện tiêu cực lệch lạc, đặc biệt là chống khuynh hướng
“thương mại hoá” báo chí. Nguyên nhân của tình trạng thương mại hoá bắt nguồn từ
chỗ chưa quán triệt sâu sắc mặt tích cực của chủ trương xoá bỏ bao cấp trong báo chí, ở
mặt trái của kinh tế thị trường, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do nhận thức chính
trị còn hạn chế; cùng với đó là những biểu hiện thoái hoá biến chất ở một số người làm
công tác báo chí. Từ khuynh hướng thương mại hoá đó đã dẫn đến sự ra đời của nhiều tác
phẩm báo chí có chất lượng chính trị, tư tưởng thấp, tác động xấu đến đời sống tinh thần xã
hội, trở thành vấn đề bức xúc trong dư luận, cần được ngăn chặn và đẩy lùi kịp thời.
Một vấn đề quan trọng khác cũng cần được lưu tâm là phải được quy hoạch và
xây dựng hệ thống thông tin đại chúng một cách cân đối, đồng bộ và hợp lý. Vấn đề này
đã được đề cập nhiều lần nhưng việc thực hiện vẫn còn rất chậm. Nguyên nhân là do tư
tưởng cục bộ, bản vị của một số ngành và địa phương chủ quan, do tư tưởng hữu
khuynh ở một số cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý báo chí. Vì vậy cần phải kiên
quyết sắp xếp lại, quy hoạch dài hạn hệ thống báo chí trên cơ sở thống nhất nhận thức
về vấn đề này từ trong các cấp bộ Đảng, chính quyền và các cơ quan báo chí, đồng thời
phải có chính sách đồng bộ đi kèm…
Để có thể hoàn thành các nhiệm vụ mục tiêu trên cần có những giải pháp đồng
bộ nhưng trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo và quản lý cho phù hợp với tình
hình hoạt động báo chí trong giai đoạn hiện nay.
Trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng có 2 vấn đề quan trọng:
Một là: nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo, tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu
quả lãnh đạo của Đảng.
Hai là: cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng sao cho phù hợp với tình hình
đất nước hiện nay.
Đổi mới phương thức lãnh đạo về báo chí là làm cho công tác báo chí phù hợp
hơn, có hiệu quả hơn. Vì thế đổi mới phương thức trên là đòi hỏi tất yếu, khách quan,
bảo đảm cho báo chí hoạt động đúng hướng; cho quyền tự do và nâng cao năng lực sáng
tạo của nhà báo.
Khi bàn về tăng cường, đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo của
Đảng đối với báo chí, nhiều nhà báo có uy tín trong nghề đều cho rằng: Tuy bối cảnh
đất nước đổi mới và cơ chế thị trường như hiện nay thì sự lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí không có nghĩa là chỉ thị cho báo chí viết bài này, đăng bài kia mà chủ yếu bằng
các phương thức sau đây:
Một là: Các cấp uỷ Đảng phải thường xuyên thực hiện tốt công tác chỉ đạo, định
hướng tuyên truyền cho các cơ quan báo chí, đặc biệt đối với các vấn đề, chủ trương lớn
của Đảng, hoặc khi thực tế có vấn đề phức tạp nảy sinh.
Hai là: Các cấp uỷ Đảng phải thường xuyên chăm lo tới công tác cán bộ trong cơ
quan báo chí và phải coi đây là khâu có ý nghĩa quyết định và then chốt.
Ba là: Các cấp uỷ Đảng phải có trách nhiệm quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện cho
báo chí phát triển, tạo điều kiện để báo chí phát huy tính chủ động, sáng tạo để thực
hiện sâu sắc chức năng nhiệm vụ của mình. Bên cạnh đó phải thường xuyên tăng cường
theo dõi, kiểm tra uốn nắn kịp thời khi báo chí có khuyết điểm, sai sót.
Bốn là: Để nâng cao chất lượng của báo chí thì vấn đề có ý nghĩa quyết định là
con người, ở đội ngũ các nhà báo, đội ngũ cán bộ các cơ quan chủ quản và quản lý báo
chí. Vì vậy phải thường xuyên quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, chăm sóc đội ngũ cán bộ
trên nhằm tăng cường, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày một nặng nề hơn.
Có thể nói rằng sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và tính chất của
nền báo chí cách mạng ở nước ta thể hiện trước hết ở công tác cán bộ. Bởi vì suy cho
cùng, sau khi có chủ trương đường lối đúng thì cán bộ là khâu có ý nghĩa quyết định
trong báo chí cũng như trong lĩnh vực công tác khác của đời sống xã hội. Cán bộ có
năng lực luôn luôn là điều kiện tiên quyết để giải quyết các nhiệm vụ chuyên môn. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng diễn đạt thật giản dị và sinh động vai trò của công tác cán bộ:
“Cán bộ là dây chuyền của bộ máy tổ chức. Nếu dây chuyền không tốt, không nhạy thì
động cơ tốt đến mấy cũng dễ bị tê liệt”. Trong lĩnh vực báo chí, cán bộ còn là vấn đề
chính trị và gắn liền với chính trị bởi hoạt động báo chí là hoạt động chính trị - xã hội.
Dù ý thức hay không ý thức được điều đó thì các sản phẩm báo chí vẫn cứ tác động và
can dự theo những mức độ khác nhau vào các quan hệ chính trị - xã hội, tham gia vào
việc xác định hay thúc đẩy khuynh hướng của tiến trình thời đại và việc tạo ra sản phẩm
báo chí có chất lượng ra sao hoàn toàn phụ thuộc vào người cán bộ làm báo. Rõ ràng
công tác cán bộ ở các cơ quan báo chí luôn là vấn đề then chốt trong công tác lãnh đạo,
chỉ đạo báo chí của Đảng, vì vậy công tác cán bộ trong lĩnh vực báo chí cần phải được
quán triệt ở tất cả các khâu, từ việc lựa chọn thu hút nhân tài, sắp xếp sử dụng cho tới
kiểm tra đánh giá và đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ cán bộ báo chí.
Đảng lãnh đạo báo chí bằng định hướng chính trị, định hướng tư tưởng, định
hướng thông tin, bằng hệ thống quan điểm báo chí. Kiểm tra uốn nắn việc thực hiện các
định hướng đó thông qua các tổ chức Đảng và đảng viên của mình. Hiệu quả công tác
lãnh đạo của Đảng đối với báo chí phụ thuộc vào việc vạch ra những quan điểm đúng
đắn, khoa học; vào trình độ, năng lực, phẩm chất của tổ chức Đảng và cán bộ đảng viên.
Đảng lãnh đạo báo chí không chỉ bằng đường lối mang tính định hướng mà còn
thường xuyên chỉ ra cho báo chí những phương hướng cụ thể trong từng thời kỳ. Báo
chí đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng là một vấn đề có tính nguyên tắc bất di, bất dịch
nhưng Đảng lãnh đạo báo chí không phải theo cách “cầm tay, chỉ việc” mà bằng sự định hướng chính trị cụ thể cho báo chí. Sự định hướng ấy được thực hiện thông qua vai
trò của tổng biên tập. Đây là một biện pháp chỉ đạo báo chí lâu nay vẫn được xem là hữu hiệu nhất. Tổng biên tập giữ vị trí cầu nối qua việc thông tin lại những điều đã tiếp
thu được qua giao ban với các cán bộ và phóng viên trong tòa soạn. Trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị của mỗi nhà báo được nâng lên. Đây là một cách để các cấp uỷ
Đảng “đến” với báo chí bằng hình thức dân chủ trong tiếp cận để từ đó truyền đạt những tư tưởng định hướng của Đảng với báo chí.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước đối với báo chí còn
là sự phân biệt đúng tính chất khác nhau của các loại hình báo chí và những đòi hỏi của
nó để có cách thức lãnh đạo, quản lý cho phù hợp: Báo in khác với báo phát thanh,
truyền hình, khác với báo điện tử; báo chí khoa học khác với báo chí thông thường; báo của các tổ chức Đảng khác với báo của các đoàn thể xã hội…
Phân biệt đúng tính chất của các loại hình báo chí là để phát huy hết năng lực của
nó trong hoạt động sáng tạo; trong chất lượng kỹ thuật, sự hấp dẫn và thuyết phục đối
với công chúng. Điểm hội tụ của toàn bộ các tiêu chí trên chính là cái chất chính trị - tư tưởng, là sự trung thành với chế độ, là sự lôi cuốn mạnh mẽ rộng rãi quần chúng nhân
dân vào sự nghiệp cách mạng chung của đất nước.
Người làm báo xét cho cùng là người làm thông tin. Báo chí là phải thông tin,
phải thông tin nhanh, thông tin đúng, phải bình luận kịp thời chính xác. Muốn thế
trước hết nhà báo phải được thông tin, phải có nguyên liệu thì nhà báo mới làm ra
được sản phẩm. Nguyên liệu của người làm báo có rất nhiều từ đời sống hiện thực,
từ phong trào cách mạng của quần chúng… nhưng đó mới là thông tin từ dưới lên.
Báo chí cần có thông tin từ trên xuống, tức là những thông tin có tính chất chỉ đạo,
định hướng. Dĩ nhiên còn phải có những nguồn thông tin khác, nhưng thiếu hai
nguồn thông tin chủ yếu nói trên thì bất cứ người làm báo nào dù tài ba đến mấy
cũng gặp nhiều khó khăn. Thông tin là vấn đề quan trọng và tối cần thiết đối với
công việc của người làm báo, do đó các cơ quan lãnh đạo và quản lý báo chí cần đề
ra chế độ thông tin đối với báo chí. Những người lãnh đạo các cấp uỷ Đảng, các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức xã hội phải có trách nhiệm cung cấp thông tin cho các
nhà báo. Cấp uỷ Đảng phải lãnh đạo và tạo điều kiện cho các nhà báo nắm được ngọn
nguồn thông tin, nắm được tình hình mọi mặt ở địa phương. Cấp uỷ phải bằng mọi cách
thông tin kịp thời và chính xác cho báo chí và phải làm sao cho báo chí nắm được ý đồ
hành động của cấp uỷ. Người làm báo phải biết cấp uỷ Đảng đang chỉ đạo nhân dân địa
phương làm gì? Vấn đề gì phải làm ngay trước mắt, vấn đề gì chuẩn bị lâu dài. Xét cho
đến cùng, việc cấp uỷ Đảng làm cho báo chí hiểu rõ tình hình ở địa phương, đơn vị
mình đến mức nào, được tiếp cận với ý đồ của cấp uỷ ra sao, điều đó ảnh hưởng trực
tiếp và rất sâu sắc đến hiệu quả hoạt động của báo chí. Nếu tạo điều kiện cho báo chí
được cùng suy nghĩ với những suy nghĩ của cấp uỷ thì chắc chắn cấp uỷ chẳng cần phải
áp đặt ý kiến thì báo chí cũng luôn luôn là tiếng nói của Đảng - một tiếng nói của Đảng
đi thẳng ra của trái tim của những người làm báo.
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với báo chí cũng là nâng cao hiệu quả
sự lãnh đạo của Đảng bởi sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện thông qua chính hoạt
động của bộ máy quản lý Nhà nước các cấp, các ngành, các địa phương. Chính vì vậy,
thực hiện tốt những nội dung cơ bản trên đây chính là thiết thực, nâng cao hiệu quả sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với báo chí.
3.2.3. Coi trọng và nâng cao vai trò của cấp uỷ Đảng cơ quan chủ quản báo
chí
Trong những năm qua, Đảng đã có nhiều văn kiện đề cập vấn đề Đảng lãnh đạo
báo chí nhưng có ba văn kiện rất quan trọng thể hiện trực tiếp, toàn diện, triệt để về vấn
đề này. Đó là Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị, ngày 17/10/1997; Thông báo kết
luận số 162-TB/TW của Bộ Chính trị; Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11-10-
2006 của Bộ Chính trị; Thông báo kết luận số 68-TB/TW ngày 30-3-2007 của Bộ Chính
trị;... những văn kiện này được bổ sung nhận thức mới, được phát triển, hoàn chỉnh trên
cơ sở kế thừa.
Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị là Chỉ thị chuyên đề về công tác báo chí xuất
bản, có giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Nhận định về những thiếu sót, khuyết điểm của
báo chí trong thời gian qua, Chỉ thị khẳng định:
Một bộ phận báo chí, xuất bản bị khuynh hướng thương mại hoá và cơ
chế thị trường chi phối, chạy theo thị hiếu tầm thường, đăng tải những chuyện
giật gân, tình dục bạo lực, mê tín dị đoan hoặc những chuyện vụn vặt. Một số
sách, báo tạp chí nhất là các số phụ, số chuyên đề, xa rời tôn chỉ, mục đích và
đối tượng phục vụ, nhất là đối với công nhân, nông dân; tính chiến đấu và
định hướng tư tưởng chưa rõ nét. Coi nhẹ việc biểu dương, cổ vũ người tốt,
việc tốt, những nhân tố mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có
trường hợp phủ nhận truyền thống và thành tựu cách mạng xa rời định hướng
xã hội chủ nghĩa, làm lộ bí mật Quốc gia, coi nhẹ công tác đấu tranh tư tưởng,
đấu tranh lý luận hoặc chịu ảnh hưởng luận điệu chiến tranh tâm lý của các
thế lực thù địch; khai thác tin tức, tư liệu bài vở, báo chí nước ngoài thiếu
chọn lọc. Có những vụ việc thông tin thiếu chính xác, thiếu khách quan, gây
nhiễu thông tin, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, đưa tin sai không cải chính
hoặc cải chính chiếu lệ làm ảnh hưởng đến uy tín của báo chí; có tình trạng để
tư nhân chi phối một số hoạt động báo chí xuất bản. Một số người làm báo,
xuất bản bị ảnh hưởng quan niệm không đúng về “tự do” báo chí xuất bản, về
vị trí, chức năng của người viết báo, ra sách; còn có những biểu hiện tiêu cực.
Nhiều cấp uỷ, chính quyền và cơ quan chủ quản chưa xác định rõ trách
nhiệm quản lý và chỉ đạo báo chí của cấp mình. Chỉ đạo quản lý báo chí xuất
bản còn lỏng lẻo, phối hợp chưa chặt chẽ.
Kiểm tra và xử lý những hành động tiêu cực, những vi phạm pháp luật
trong hoạt động báo chí xuất bản còn chậm. Tinh thần tự phê bình, sửa chữa
khuyết điểm chưa nghiêm túc [37, tr.2-3].
Trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 của Đảng khoá IX
(2/2002), khi thảo luận về công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, nhiều uỷ viên
Trung ương Đảng dự hội nghị bày tỏ sự lo ngại về tình trạng lạm dụng quyền tự do báo
chí để phản ánh không khách quan, tạo ra dư luận xấu trong xã hội; báo chí quyền thì
nhiều, trách nhiệm thì ít; có một bộ phận phóng viên thoái hoá biến chất, chạy chọt làm
tiền. Có ý kiến cho rằng tính định hướng tư tưởng của báo chí nước ta chưa cao, có tình
trạng chạy theo thị hiếu tầm thường, nặng quảng cáo… giải trình trước Hội nghị Trung
ương về nguyên nhân của tình trạng trên, Bộ Chính trị khẳng định:
Công tác quản lý, chỉ đạo báo chí cũng còn nhiều thiếu sót. Một số cơ
quan chủ quản còn buông lỏng vai trò lãnh đạo, quản lý hoạt động của cơ
quan báo chí, xuất bản trực thuộc; chưa coi trọng việc bồi dưỡng, rèn luyện
đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập về chính trị, nhiệm vụ và phẩm chất đạo
đức [43, tr.125].
Như vậy, có thể thấy rõ là về những nguyên nhân thiếu sót, khuyết điểm của báo
chí trong thời gian qua thì có nhiều, nhưng như đã khẳng định của Bộ Chính trị Trung
ương Đảng thì có một nguyên nhân rất quan trọng là do các cơ quan chủ quản chưa xác
định rõ trách nhiệm của mình, chưa hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý các cơ
quan báo chí trực thuộc.
Căn cứ vào thực tế báo chí hiện nay thì cơ quan chủ quản báo chí chính là tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Đảng - Đoàn thể), các Bộ, Ban, Ngành của TW
và UBND các tỉnh thành phố trong cả nước.
Ví dụ: Báo Hà Nội mới - cơ quan chủ quản là Thành uỷ Hà Nội; Báo Tiền Phong
- cơ quan chủ quản là Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Báo Lao
Động - cơ quan chủ quản là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Báo Nhà báo và Công
luận - cơ quan chủ quản là Hội Nhà báo Việt Nam; Đài Phát thanh và Truyền hình Hà
Nội - cơ quan chủ quản là UBND thành phố Hà Nội.v.v.. Như vậy, Luật báo chí của
nước ta đã quy định đầy đủ và rõ ràng về tư cách pháp nhân, quyền hạn và trách nhiệm
của cơ quan chủ quản. Đây là người trực tiếp lãnh đạo và quản lý tờ báo trên 3 nội
dung chính: Định hướng chính trị, tổ chức cán bộ và điều kiện hoạt động. Cơ quan
chủ quản là người đứng ra xin phép thành lập cơ quan báo chí. Không có một cơ
quan báo chí nào mà không có cơ quan chủ quản. Tổng biên tập tờ báo phải tuân thủ
trước tiên sự lãnh đạo trực tiếp của cơ quan chủ quản. Như vậy, cơ quan chủ quản
giữ một vai trò rất trọng yếu trong hệ thống lãnh đạo và quản lý báo chí. Nhận thức
khác đi sẽ dẫn đến sai lầm trong cách thức, phương thức chỉ đạo, quản lý. Nếu quá
nhấn mạnh, khoán trắng cho cơ quan chủ quản sẽ dẫn đến tình trạng buông lỏng sự
lãnh đạo của cấp uỷ Đảng. Ngược lại, nếu coi nhẹ cơ quan chủ quản sẽ dẫn đến tình
trạng cấp uỷ bao biện, làm thay, không phát huy đầy đủ tính chủ động, sáng tạo của cơ
quan chủ quản.
Nhìn lại thực tiễn hoạt động báo chí nước ta trong thời gian qua có thể thấy rằng:
Nhiều cơ quan chủ quản đã nắm vững vai trò, vị trí của mình, thực hiện đầy đủ chức
năng quản lý, lãnh đạo, làm cho tờ báo do mình chủ quản ngày càng phát triển. Tuy vậy,
cũng có thực tế là: Cơ quan chủ quản chỉ đứng ra xin phép ra báo cớ tờ báo rồi thì yên
tâm là có Tổng biên tập chịu trách nhiệm trước pháp luật, có sự định hướng và quản lý của cấp trên và các cơ quan chức năng. Vì vậy, không có chỉ đạo cụ thể, chỉ nghe báo
cáo chung, thậm chí nếu báo có sai sót khuyết điểm thì cũng không biết xử lý ra sao.
Cũng có tình trạng thực tế báo ra hàng ngày, hàng tuần nhiều, lãnh đạo chủ quản không
kịp đọc hết. Hơn thế nữa nhiều lãnh đạo cơ quan chủ quản ngại đụng chạm đến vấn đề
cụ thể nên thường né tránh, đùn đẩy trách nhiệm cho Tổng biên tập tờ báo mà không
quan tâm hướng dẫn tờ báo do mình chủ quản đến nơi, đến chốn. Hiện tượng dễ dãi qua
loa trong chỉ đạo của cơ quan chủ quản báo chí hiện nay là vấn đề thấy rõ và đáng lo
ngại.
Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều nhưng chủ yếu và trước hết là do nhận
thức trách nhiệm của cơ quan chủ quản chưa đầy đủ thứ hai có thể là người thay mặt cơ
quan chủ quản chỉ đạo báo chí chưa đủ khả năng trình độ và không hiểu biết nhiều về
báo chí.
Để khắc phục những bất cập trên, việc cần làm hiện nay là phải nâng cao nhận
thức về vai trò cực kỳ quan trọng của cơ quan chủ quản trong chỉ đạo và quản lý báo
chí. Giữa chủ quản và cơ quan báo chí trực thuộc có 3 mối quan hệ lớn sau đây:
Quan hệ thứ nhất là quan hệ cấp trên với cấp dưới: Chủ quản là người sinh ra
báo, bổ nhiệm tổng biên tập là người sử dụng báo chí để phục vụ cho cơ quan đơn vị
mình, cho nên quan hệ này hết sức cụ thể. Nhìn chung các chủ quản chủ động xây dựng
quan hệ này.
Quan hệ thứ hai là quan hệ giữa người có cùng trách nhiệm với công tác báo chí
hay nói cách khác là quan hệ đồng nghiệp: Hiện nay nhận thức quan hệ này còn rất mơ
hồ bởi chủ quản báo chí và báo chí là quan hệ nghề nghiệp có cùng trách nhiệm trong sự
nghiệp báo chí, cùng được Luật Báo chí điều chỉnh về hoạt động báo chí. Tuy nhiên,
nhiều chủ quản báo chí khoán trắng hoạt động báo chí do mình quản lý cho tổng biên
tập. Chính từ chỗ này các báo không được hưởng sự hỗ trợ thường xuyên về định hướng
nghề nghiệp từ chủ quản vừa có xu hướng thoát ly khỏi chủ quản. Xu hướng thoát lý
khỏi chủ quản không phải là ít trong một số tờ báo. Chủ quản nói gì thì nói, báo chí cứ
làm việc của mình, bằng bộ máy phóng viên của mình. Nhiều tờ báo nội dung bài vở đi
xa dời tôn chỉ, mục đích của báo, ít bám sát chức năng nhiệm vụ của đơn vị chủ quản.
Trước tình hình đó chủ quản cảm thấy lúng túng về nghiệp vụ nên ngại nói, ngại phân
tích, hướng dẫn báo chí đến nơi đến chốn. Mối quan hệ báo chí với cơ quan chủ quản
báo chí và tổng biên tập thiếu chặt chẽ. Một khi quan hệ hợp tác không tốt thì rất khó
lãnh đạo, quản lý báo chí thực hiện đúng trách nhiệm của mình.
Quan hệ thứ ba là nhiều cơ quan chủ quản không chỉ là cơ quan chủ quản mà
còn là cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí: Ví dụ: UBND Thành phố Hồ Chí Minh là
cơ quan chủ quản của Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh nhưng đồng thời theo
luật báo chí UBND thành phố lại có trách nhiệm quản lý Nhà nước về hoạt động của tất
cả các cơ quan báo chí trên địa bàn thành phố. Nội dung quản lý Nhà nước bao gồm:
xây dựng kế hoạch, đào tạo cán bộ, đề xuất chính sách, kiểm tra, thanh tra xử lý, khen
thưởng.v.v… Vì vậy nhiệm vụ của chủ quản khá nặng nề.
Trên ba quan hệ lớn này cho thấy chúng ta mới làm được quan hệ thứ nhất còn quan hệ đồng nghiệp có chung trách nhiệm trên lĩnh vực báo chí và quan hệ với tư cách người quản lý Nhà nước về báo chí trong phạm vi ngành, địa phương thì người chủ
quản hiện nay chưa đóng vai trò đầy đủ. Do hoạt động chủ quản còn hạn chế nên nhiều thiếu sót, khuyết điểm trong lĩnh vực báo chí chậm được sửa chữa, khắc phục.
Thực tiễn hoạt động báo chí cho thấy nếu các cơ quan chủ quản báo chí hiểu rõ vị trí, vai trò và làm tốt trách nhiệm của mình thì báo chí sẽ hạn chế được những sai sót
và phát triển lành mạnh.
3.2.4. Phát huy vị trí, vai trò của tổ chức đảng trong các cơ quan báo chí Nói tới tổ chức Đảng trong các cơ quan báo chí là nói tới các tổ chức cơ sở đảng (trong các cơ quan báo chí). Cùng với hệ thống quan điểm báo chí của Đảng, sự lãnh
đạo của Đảng đối với các vấn đề cụ thể, hằng ngày dựa vào chính các tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan báo chí. Nếu không có tổ chức đảng trong các cơ quan đó thì sự lãnh đạo của Đảng sẽ trở nên chung chung, không có người trực tiếp thực hiện. Sự có mặt tổ chức đảng trong cơ quan báo chí là điều kiện để Đảng triển khai sự lãnh đạo trực tiếp
thường xuyên và kịp thời. Các tổ chức này có điều kiện trực tiếp lĩnh hội quan điểm của Đảng, tham gia vào quá trình hình thành các quyết định của cơ quan báo chí.
Có thể nói rằng, tổ chức cơ sở đảng là một trong những khâu quan trọng nhất trong quá
trình thực hiện sự lãnh đạo của Đảng; bởi đây là nền tảng của Đảng.
Sự nghiệp CNH, HĐH đặt ra yêu cầu ngày càng cao với các tổ chức cơ sở đảng
nói chung và các tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan báo chí nói riêng. Tổ chức cơ sở đảng ở các cơ quan báo chí có nhiệm vụ lãnh đạo cán bộ, đảng viên quán triệt đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát huy vai trò tích cực, chủ động đóng góp ý kiến vào việc xác định và tổ chức thực hiện các chủ trương, kế hoạch công tác của cơ
quan, tham gia vào xây dựng tổ chức, cải tiến lề lối làm việc, đấu tranh chống tiêu cực, kiểm tra đảng viên là tổng biên tập trong việc chấp hành đường lối, pháp luật và tiến
hành công tác tổ chức - cán bộ trong cơ quan.
Sự lãnh đạo thông qua tổ chức đảng ở cơ quan báo chí phải thường xuyên. Coi
trọng việc chăm lo bồi dưỡng, đào tạo và quản lý đội ngũ cán bộ, nhất là tổng biên tập.
Khi cần thiết, có thể bổ sung và điều động cán bộ, để đảm bảo tổ chức đảng ở đó luôn
vững mạnh, phát huy tốt vai trò lãnh đạo của mình trong cơ quan báo chí.
Từ vai trò của tổ chức cơ sở đảng nói chung và trong cơ quan báo chí nói riêng,
Chỉ thị 22/CT-TW ngày 17-10-1997 của Bộ Chính trị khẳng định: Lập ban cán sự đảng,
ban biên tập ở các cơ quan báo chí, nhà xuất bản quan trọng; ở các nơi không lập ban
cán sự đảng, ban biên tập thì giao trách nhiệm lãnh đạo cho cấp uỷ hoặc chi bộ cơ quan.
ở các cơ quan báo chí, trong khi cần khắc phục thái độ coi nhẹ vai trò của tổ chức
đảng, tuyệt đối hoá quyền và vai trò của người phụ trách (tổng biên tập, giám đốc), cần
tránh cả khuynh hướng chỉ lãnh đạo tập thể chung chung, không phát huy vai trò và đề
cao trách nhiệm của người phụ trách theo đúng quy định của Luật Báo chí.
Tuỳ theo trình độ, năng lực thực tế của đồng chí phụ trách báo, đài nhà xuất bản
mà cấp uỷ đảng quy định những vấn đề gì đồng chí đó không được tự ý quyết định, nhất
thiết phải thỉnh thị cấp uỷ hoặc đồng chí đại diện cơ quan chủ quản, nhất là những vấn
đề có quan hệ đến việc giữ gìn bí mật của Đảng và Nhà nước, tình hình an ninh chính trị
và quan hệ đối ngoại.
Có thể thấy rằng, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng đã tích luỹ được nhiều
kinh nghiệm về lãnh đạo báo chí thông qua tổ chức đảng trong cơ quan quản lý Nhà
nước về báo chí và tổ chức Đảng trong các cơ quan báo chí trong Hội Nhà báo. Song,
trong tình hình mới, cần xác định rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa
các tổ chức ấy để đem lại hiệu quả cao hơn trong lãnh đạo của Đảng đối với báo chí.
3.2.5. Phát huy bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, trách nhiệm của
đảng viên và của người đứng đầu cơ quan báo chí
Trong thời gian vừa qua một số tờ báo vẫn còn để xảy ra tình trạng đăng thông
tin thiếu định hướng chính trị, thiếu chính xác, mơ hồ, còn biểu hiện thương mại hoá
báo chí đã gây xôn xao trong dư luận, gây hoang mang trong nhân dân, thậm chí rất bất
bình với thông tin tuỳ tiện và thiếu trách nhiệm trên báo. Vậy ai là người chịu trách
nhiệm về những chuyện ấy? Theo quy định của Luật Báo chí, đó chính là người đứng
đầu cơ quan báo chí - Tổng biên tập.
Theo quy định của Luật báo chí nước ta tại chương IV điều 13 ghi rõ: Người
đứng đầu cơ quan báo chí là Tổng biên tập (báo in), Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc
(phát thanh và truyền hình)… người đứng đầu cơ quan báo chí có nhiệm vụ quản lý cơ
quan báo chí về mọi mặt, bảo đảm thực hiện tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí, chịu
trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của cơ quan báo chí do mình phụ trách.
Như vậy, vị trí của tổng biên tập đã được pháp luật xác định rõ là người đứng
đầu tờ báo, là ngọn cờ của tờ báo và là người thông qua những quyết định cuối cùng có
liên quan đến việc sản xuất và xuất bản của các phương tiện thông tin đại chúng.
Thực tế làm báo từ xưa đến nay cho thấy: Một bài báo hay thì xã hội khen tác giả
và khen tờ bao. Một bài báo dở thì xã hội chê người viết và chắc chắn cơ quan chủ quản
sẽ quy trách nhiệm chính vào tổng biên tập vì đã cho đăng những bài báo đó trên báo
của mình. Nếu báo mà vi phạm pháp luật thì tổng biên tập phải trình toàn án trước tiên
về trách nhiệm dân sự cũng như hình sự của báo mình. Với trách nhiệm xã hội nặng nề
như trên đòi hỏi tổng biên tập phải luôn nắm chắc tôn chỉ, mục đích của tờ báo mà mình
phụ trách; dựa vào sự lãnh đạo quản lý của Đảng, Nhà nước và cơ quan chủ quản mà
xác định hướng đi đúng đắn cho tờ báo của mình.
Trong thực tế tổng biên tập không thể đọc và duyệt tất cả các tin, bài trong số
báo hay trong một chương trình phát thanh truyền hình… mà có thể phó tổng biên tập
hoặc các trưởng Ban chuyên môn được tổng biên tập phân công thực hiện. Tuy vậy,
tổng biên tập vẫn là người chịu trách nhiệm trước nhất và cao nhất về từng số báo được
xuất bản. Những bài thời sự chính trị hoặc những bài phản ánh điều tra về những mặt
trái của xã hội thì nhất thiết tổng biên tập phải xem. Có như vậy mới không để lọt
những tin bài không rõ định hướng hoặc gây nhiều lơ mơ trong bạn đọc. Trong thực tế
đã có chuyện: Một số tổng biên tập làm công tác “đối ngoại” nhiều hơn làm báo công
tác nghiệp vụ, thương phó thác cho phó Tổng biên tập hoặc thư ký toà soạn. Đến khi
duyệt thì tổng biên tập xem lướt rồi ký và cho in dẫn đến tình hình chất lượng nội dung
tuyên truyền yếu không đúng với định hướng tuyên truyền của Đảng, tin bài sai sót và
gây dư luận xấu trong xã hội. Cũng có một thực trạng khác là một số tổng biên tập còn
hạn chế về năng lực quản lý báo chí và quản lý đội ngũ những người làm báo, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ chưa tương xứng với vai trò vị trí của tổng biên tập. Có người
không được đào tạo chuyên ngành báo chí, chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ thường
xuyên nên trước yêu cầu đổi mới của sự nghiệp báo chí và của đất nước đã trở nên hết
sức lúng túng, không phát huy được vai trò là “ngọn cờ” là “linh hồn” của tờ báo.
Đảng ta rất quan tâm đến báo chí không chỉ vì báo chí có chức năng thông tin,
tuyên truyền, cổ động và tạo nên dư luận xã hội mà còn có khả năng tổ chức, tập hợp
lực lượng thành các hoạt động quần chúng trong thực tiễn như một lực lượng vật chất
hùng mạnh. Vai trò của báo chí rất to lớn vì vậy trách nhiệm xã hội của nó cũng rất lớn
lao và khi nó chệch choạc, sai lầm thì ảnh hưởng xã hội của nó cũng không nhỏ.
Trong thời gian qua thương mại hoá trong thông tin báo chí đã trở thành một
khuynh hướng trong hoạt động báo chí. Cách xử lý thông tin theo kiểu giật gân, câu
khách, nặng về thông tin mảng tối của xã hội hơn là mảng sáng đã trở thành căn bệnh
mãn tính ở một số nhà báo và một số tờ báo. Đây là vấn đề bức xúc trong dư luận và
làm buồn lòng những người làm báo chân chính. Vậy làm thế nào để lùi khuynh hướng
tác hại và căn bệnh nguy hiểm nói trên? Câu trả lời ở đây chính là vai trò và trách nhiệm
của tổng biên tập.
Theo quy định của Luật báo chí tổng biên tập là người đưa ra quyết định cuối
cùng. Tổng biên tập thực hiện toàn quyền của mình dựa vào các quy định của Luật báo
chí, quy chế của toàn soạn và các quy định nghề nghiệp. Không thể bỗng nhiên một tác
phẩm báo chí từ tác giả đi thẳng đến công chúng. Nó phải trải qua một quá trình biên
soạn, biên tập duyệt. Chỉ riêng khâu duyệt cũng qua nhiều nấc (Trưởng ban, trưởng
phòng, trưởng tiểu ban) xem xút thông qua các Phó tổng biên tập duyệt trong phạm vi
được phân công hay uỷ nhiệm rồi tổng biên tập duyệt cuối cùng. Tổng biên tập là người
định hướng nội dung, hình thức tờ báo cho phù hợp với tôn chỉ, mục đích đã được quy
định; Duyệt nội dung, hình thức từng số báo, duyệt khâu cuối cùng trước khi đưa ra in
hay phát sóng; có thể duyệt từng tin hay bài, ảnh, thậm chí từng câu chữ. Tổng biên tập
(cùng những người cộng sự của mình) hoàn toàn có thể làm chủ trong việc cho đăng tải
hay không cho đăng tải tác phẩm báo chí này hay tác phẩm báo chí khác; chuyển tải các
tác phẩm với các chủ đề khác nhau, với những biểu tượng thế nào cho thích hợp và đưa
tác phẩm đó tới công chúng vào thời điểm nào để đạt được hiệu quả cao nhất.
Đảng ta tin cậy giao phó cho tổng biên tập quyền hạn và nghĩa vụ cao cả đồng
thời cũng yêu cầu người đứng đầu cơ quan báo chí trách nhiệm rất nặng nề trước Đảng,
trước nhân dân và pháp luật. Tổng biên tập phải là người chịu trách nhiệm cao nhất về
tờ báo của mình: Chịu trách nhiệm trước cơ quan chủ quản về nhiệm vụ chính trị của tờ
báo; chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước bạn đọc và cũng là trước nhân dân về mọi
hiệu quả về thông tin mà báo đăng tải; chịu trách nhiệm trước toàn thể đội ngũ cán bộ,
phóng viên trong toà soạn về sự hưng vong của tờ báo. Tuy vậy, bên cạnh tổng biên tập
còn có các phó tổng biên tập, thư ký toà soạn, các trưởng ban, các đồng chí phụ trách
các chuyên mục, chương trình. Đó cũng là người có vai trò rất quan trọng trong việc
quyết định đến quan điểm chính trị, bộ mặt của tờ báo hay chương trình của tờ báo. Vấn
đề ở đây là tổng biên tập phải làm tốt công tác cán bộ, tập hợp được một đội ngũ cán bộ
trong toà soạn tin cậy về chính trị, vững vàng về nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức. Có
làm được như vậy tổng biên tập mới có thể kiểm soát và bao quát được các mặt hoạt
động của tờ báo và hoàn thành trọng trách được giao.
Qua những phân tích ở trên chúng ta đã có thể thấy rằng vai trò của tổng biên tập
ở một tờ báo cực kỳ quan trọng. Họ có trách nhiệm về chính trị cực lớn; họ là “ngọn cờ”
là “linh hồn” của những tờ báo. Đúng, sai, tốt, xấu, hay, dở của tờ báo được quyết định
trước hết nơi tổng biên tập. Tờ báo có đúng, có hấp dẫn, có được bạn đọc yêu mến hay
không vai trò quyết định vẫn ở người đứng đầu cơ quan báo chí. Đội ngũ cán bộ phóng
viên có đoàn kết, tận tình với nghề, có hoạt động báo chí đúng với quy định của pháp
luật, có đúng với đạo đức của người làm báo hay không… cũng chính từ hiệu quả công
tác quản lý của tổng biên tập. Tổng biên tập là người thế nào trong quan điểm chính trị
và tư tưởng, trong đạo đức nghề nghiệp thì cả đội ngũ toà soạn được hình thành theo
hướng đó. Vì vậy, trong công tác lãnh đạo và quản lý báo chí của Đảng và Nhà nước
phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng các tổng biên tập của các cơ quan
báo chí. Đương nhiên muốn có tổng biên tập giỏi và tốt phải có một cái nền rộng là
phóng viên, biên tập viên có tài, có đức, mà đức là gốc như Đảng ta nhiều lần khẳng
định.
Trong cơ chế thị trường một tờ báo ra đời và “sống” được đôi khi chính là tài
năng ở người tổng biên tập. Ngoài những tố chất cần thiết như tạo nghề, am hiểu lĩnh
vực báo chí, họ còn phải có kiến thức và kinh nghiệm thương trường, phải có tầm nhìn
xa về nhu cầu thông tin, thị hiếu của bạn đọc. Đặc biệt họ phải là người có đầu óc tổ
chức và biết tìm ra hướng đi tốt nhất cho tờ báo của mình.
Hiện nay có một thực tế là một số tổng biên tập còn có hạn chế về năng lực quản
lý báo chí và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chưa tương xứng với vị trí và vai trò của
tổng biên tập. Có người không được đào tạo về chuyên môn ngành báo chí, chưa được
bồi dưỡng thường xuyên trước yêu cầu đổi mới của đất nước vì vậy họ không phát huy
được vai trò là “ngọn cờ”, là “linh hồn” của tờ báo. Làm báo là nghề đòi hỏi phải có
trình độ về mọi mặt và năng khiếu báo chí. Đối với người tổng biên tập thì cũng cần
phải có trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ tốt thì mới đủ tầm để chỉ đạo và kiểm
soát thông tin trên báo chí. Chính vì vậy mỗi tổng biên tập phải tự vươn lên, thường
xuyên học tập tu dưỡng về mọi mặt để bao giờ cũng xứng đáng với vị trí của mình. Mặt
khác các cơ quan chủ quản báo chí phải thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện cho tổng
biên tập để họ có đủ “quyền” và “lực” mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đã tin tưởng
giao phó cho họ canh giữ thông tin trên mặt trận văn hoá tư tưởng.
Cuộc sống của chúng ta trên thực tế gam “màu đen”, “màu sáng” ít hơn nhiều so
với gam “màu sáng”, “màu hồng” và trách nhiệm của báo chí là phải làm cho bức tranh
xã hội sáng hơn lên đó cũng chính là thước đo về kết quả công việc của Tổng biên tập
và mỗi nhà báo chúng ta.
Kết luận
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về
báo chí cách mạng, từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và kinh nghiệm các nước, chúng ta
khẳng định, Đảng lãnh đạo công tác báo chí là tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo của Đảng là
đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo; do đòi hỏi của Đảng trong trọng trách
lãnh đạo dân tộc và đòi hỏi của bản thân báo chí. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, giành
chính quyền trước đây, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí đã giữ vai trò quyết
định làm cho báo chí phục vụ đắc lực sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Ngày nay, trong
giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí càng phải
được giữ vững, tăng cường và có hiệu quả cao hơn.
Trong những năm qua, Đảng ta đã tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác báo
chí và coi đây là nguyên tắc hàng đầu, bất di bất dịch. Đảng ta chỉ rõ: chính trong điều
kiện kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường và mở cửa, sự lãnh đạo của Đảng đối
với báo chí càng cần thiết hơn bao giờ hết. Xã hội càng phát triển, thông tin báo chí
càng có vai trò to lớn. Với nội dung thông tin có định hướng đúng đắn, chân thật, có sức
thuyết phục cao, báo chí có khả năng hình thành dư luận xã hội, dẫn đến hành động xã
hội phù hợp đường lối của Đảng và sự vận động của hiện thực theo chiều hướng tiến bộ.
Báo chí không chỉ là vũ khí tư tưởng sắc bén, mà còn là người cổ động tập thể, người tổ
chức tập thể. Điều này càng đúng trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH từ năm 1996 đến 2006, sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác báo chí đã có những đổi mới quan trọng, giữ vững định hướng
chính trị, tư tưởng, thông tin, xác lập hệ thống quan điểm báo chí phù hợp với tình hình
mới, chú ý hơn đến kiểm tra, uốn nắn việc thực hiện các định hướng đó; thông qua tổ
chức đảng và đảng viên, phát huy vai trò quản lý của cơ quan nhà nước, các cơ quan
chủ quản báo chí để lãnh đạo chặt chẽ báo chí, làm cho báo chí khởi sắc mạnh mẽ. Bên
cạnh đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí những năm qua còn bộc lộ một
số hạn chế, thiếu sót. Kinh nghiệm cho thấy, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với công
tác báo chí phụ thuộc vào việc vạch ra những định hướng và quan điểm báo chí đúng
đắn, khoa học; vào sự chỉ đạo chặt chẽ và cụ thể đối với cơ quan báo chí của các cấp,
các ngành liên quan; vào trình độ, năng lực, phẩm chất của cán bộ, đảng viên. Bước
phát triển mạnh mẽ của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác báo chí cũng phải tiếp tục được đổi mới.
Từ những bài học về sự lãnh đạo đối với xã hội nói chung, đối với công tác quản
lý báo chí nói riêng của Đảng ta trong những năm vừa qua cùng với kinh nghiệm quá
trình báo chí đổi mới vì sự nghiệp đổi mới đất nước, bước vào giai đoạn mới, để tiếp tục
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí, cần thưc hiện tốt các vấn đề
trọng yếu sau đây:
Báo chí phải nắm vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bám sát nhiệm vụ công tác
tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành tựu của công cuộc đổi mới. Coi trọng đúng
mức việc phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tin tiến; tích cực đấu tranh,
góp phần ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực
và tệ nạn xã hội; phản bác có hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản động,
thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng; tiếp tục phát huy tiềm lực và ưu
điểm, khắc phục các yếu kém, khuyết điểm, nâng cao chất lượng tư tưởng, tính hấp dẫn,
mở rộng đối tượng độc giả, vươn lên hiện đại về mô hình tổ chức hoạt động, về cơ sở
vật chất, kĩ thuật và công nghệ.
Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí
nhà nước đối với hoạt động báo chí.
Coi trọng, chăm lo công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan báo chí. Đề cao
trách nhiệm đảng viên của người làm báo, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo. Thường
xuyên kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên ở các cơ quan báo chí, cơ quan
chủ quản, cơ quan quản lí báo chí về thi hành Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng,
Nhà nước đối với hoạt động báo chí. Xây dựng quy chế để thường xuyên làm tốt việc
định hướng và cung cấp thông tin cho báo chí, nhất là đối với các vấn đề quan trọng,
phức tạp, nhạy cảm về đối nội, đối ngoại; nghiên cứu bổ sung, sửa đổi Luật Báo chí và
các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; quy định thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế
phối hợp giữa các cơ quan chỉ đạo báo chí của Đảng, cơ quan quản lí báo chí của Nhà
nước, Hội Nhà báo và cơ quan chủ quản báo chí đối với cơ quan báo chí và người làm
báo; xây dựng chế tài đủ mạnh, xử lí dứt điểm, kịp thời, nghiêm minh các sai phạm.
Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển hệ thống báo chí, các đài phát
thanh, truyền hình từ Trung ương đến địa phương và báo chí điện tử; sắp xếp, thu gọn
đầu mối theo hướng khoa học, hợp lí, hiệu quả. Nghiên cứu, phân loại báo chí theo chức
năng, nhiệm vụ, bảo đảm tính đa dạng; khắc phục tình trạng xa rời tơn chỉ, mục đích,
trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan báo chí.
Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng phẩm
chất chính trị, trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của đội
ngũ những người làm báo. Rà soát, đánh giá lại đội ngũ lãnh đạo, quản lí, phóng viên,
biên tập viên, kiên quyết đưa những người không đủ phẩm chất, năng lực ra khỏi cơ
quan báo chí. Thực hiện tốt các quy định của Đảng về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen
thưởng, kỉ luật cán bộ lãnh đạo các cơ quan báo chí. Quản lí chặt chẽ cơ quan đại diện,
phóng viên thường trú ở các địa phương và ở nước ngoài; việc đào tạo phóng viên báo
chí ở nước ngoài và bằng tiền tài trợ của các tổ chức nước ngoài.
Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, tạo
điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật để các báo, đài, tạp chí chủ lực đổi mới, nâng cao
chất lượng về nội dung, hình thức, tăng tính thuyết phục, tính hấp dẫn, lượng phát hành,
phạm vi phủ sóng, làm tốt khả năng chi phối, định hướng thông tin và dư luận x hội.
Tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động thông tin đối ngoại. Tiếp tục tăng
thời lượng phát thanh, truyền hình, báo điện tử ra các nước, các khu vực, đưa được
nhiều thông tin và sản phẩm văn hoá có nội dung tốt đến đồng bào ta ở nước ngoài và
bạn bè quốc tế; tăng cường giới thiệu, quảng bá hình ảnh về đất nước và con người Việt
Nam đến nhiều nước trên thế giới.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban Bí thư (2007), Quyết định số 75-QĐ/TW ngày 21-8-2007 của Ban Bí thư về việc ban hành quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ
lãnh đạo cơ quan báo chí.
2. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2001), Công văn số 3412-CV/TTVH ngày 20-3-2001 về tiêu chuẩn đề bạt vào các chức danh tổng biên tập, phó tổng
biên tập cơ quan báo chí; giám đốc, phó giám đốc cơ quan phát thanh truyền
hình.
3. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện để báo chí nước ta phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội.
4. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Vụ Báo chí và xuất bản (1992), Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác báo chí - xuất bản, Nxb Tư tưởng - Văn hóa,
Hà Nội.
5. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Vụ Báo chí và xuất bản (1994), Báo cáo một
số nét về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xuất bản.
6.
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1997), Báo cáo tình hình và kết quả thực hiện Chỉ thị 08/CT-TW (tháng 3 năm 1992) trong thời gian qua và những nhiệm vụ cần tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.
7. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin (1997), Tiếp tục đổi mới và tăng cường lãnh đạo quản lý công tác báo chí - xuất bản, Tập 1 (Kỷ yếu Hội nghị báo chí xuất bản toàn quốc), Hà Nội.
8. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin (1997), Tiếp tục đổi mới và tăng cường lãnh đạo quản lý công tác báo chí - xuất bản, Tập 2 (Kỷ yếu Hội nghị báo chí xuất bản toàn quốc), Hà Nội.
9. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1997), Hướng dẫn việc quán triệt và thực hiện Chỉ thị 22/CT-TW của Bộ Chính trị về “tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác báo chí - xuất bản”, số 932-HD/TTVH
10. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (29-31/10/2001), Tình hình báo chí xuất bản sau 4 năm thực hiện Chỉ thị 22/CT-TW và một số phương hướng giải pháp thực hiện chủ yếu. (Báo cáo của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương), Hà Nội.
11. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (20-9-2006), Báo cáo đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với công tác báo chí trong tình hình mới.
12. Nguyễn Đức Bình (1997), “Những quan điểm hàng đầu đối với công tác báo chí
xuất bản”, Tạp chí Báo chí - Tuyên truyền, (5), tr.6- 8.
13. Nguyễn Đức Bình (1997), “Nâng cao hơn nữa tính đảng của hoạt động báo chí
xuất bản”, Tạp chí Tư tưởng- văn hóa, (9), tr.3 - 5.
14. Nguyễn Đức Bình (1997), “Nắm vững các quan điểm cơ bản về công tác báo chí
xuất bản”, Tạp chí Cộng sản, (18), tr.11 - 15.
15. Nguyễn Đức Bình (1998), “Các tạp chí đóng góp tích cực hơn nữa vào việc thực hiện nhiệm vụ của Học viện và công tác tư tưởng - lý luận của Đảng”, Tạp chí Nghiên cứu - lý luận, (6), tr.3-5.
16. TS. Lê Thanh Bình (2004), Quản lý và phát triển báo chí - xuất bản, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
17. TS. Lê Thanh Bình (2004), Quản lý và phát triển báo chí - xuất bản, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
18. TS. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế văn hóa, xã hội, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
19. Bộ Chính trị (2004), Thông báo kết luận số 162
- TB/TW ngày 1-12-2004 về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình hiện nay.
20. Bộ Chính trị (2006), Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 về một số
biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí.
21. Bộ Chính trị (2007), Kết luận số 68/CT-TW ngày 30-3-2007 về tiếp tục thực hiện thông báo số 41-TB/TW, ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí.
22. Bộ Văn hóa - Thông tin (29-4-1994), Thông tư hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp
chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan báo chí, số 34/TC-CV.
23. Bộ Văn hóa - Thông tin (1-2000), Đề cương chiến lược phát triển thông tin báo
chí Việt Nam đến năm 2010 (dự thảo).
24. Bộ Văn hóa - Thông tin (29-31/10-2001), Báo cáo công tác quản lý nhà nước về báo chí - xuất bản qua 4 năm thực hiện Chỉ thị 22 của Bộ Chính trị. 25. Bộ Văn hóa - Thông tin (29-31/10-2001), Phụ lục báo cáo công tác quản lý nhà n-
ước về báo chí - xuất bản.
26. Lê Đăng Doanh (1997), Cơ sở khoa học của công tác đổi mới kinh tế ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Ngọc Đản (1995), Báo chí với sự nghiệp đổi mới, Nxb Lao động, Hà Nội. 28. Đảng Cộng sản Việt Nam (10-1-1984), Chỉ thị số 32/CT-TW về tăng cường công
tác quản lý báo chí.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (25 -7-1990), Chỉ thị của Ban Bí thư về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí - xuất bản, số 63/CT-TW.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (31-3-1992), Chỉ thị của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản, số 08/CT-TW.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, văn nghệ (từ Đại hội VI đến Đại hội VII), Nxb Sự thật, Hà Nội. 34. Đảng Cộng sản Việt Nam (18-2-1995), Nghị quyết số 09/NQ-TW về một số định
hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương (17-10-1997), Chỉ thị số 22/CT-TW về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (22-12-2000), Nghị quyết số 60/CT-TW của Bộ Chính trị
Trung ương Đảng về công tác của Tạp chí Cộng sản trong tình hình mới.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khoá IX (lưu hành nội bộ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Hà Minh Đức (chủ biên) (1997), Báo chí - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
47. Hà Minh Đức (2002), Sự nghiệp báo chí và văn học của Hồ Chí Minh, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
48. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
(1995) Hồ Chí Minh về vấn đề báo chí, Hà Nội.
49. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2000), Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo, quản lý, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
50. Hội Nhà báo Việt Nam (3-1995), Văn kiện Đại hội lần thứ VI Hội Nhà báo Việt
Nam, Hà Nội.
51. Hội Nhà báo Việt Nam (1998), Trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà
báo, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.
52. Hội Nhà báo Việt Nam (9-2000), Văn kiện Đại hội lần thứ VII Hội Nhà báo Việt
Nam, Hà Nội.
53. V.I. Lênin (1975), Toàn tập, Tập 5, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 54. V.I. Lênin (1975), Toàn tập, Tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
55. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, Tập 7, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 56. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, Tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 57. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 11, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 58. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, Tập 12, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 59. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 60. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 61. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 62. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 63. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 64. Lê Văn Lý (chủ biên) (1999), Sự lãnh đạo của Đảng trong một số lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. C.Mác và Ph.Ăngghen (1978), Toàn tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 66. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 68. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 17, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 69. C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin - Hồ Chí Minh (2004), Bàn về báo chí, xuất bản,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 71. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 72. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 73. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 74. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 75. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 76. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 77. Đỗ Mười (1997), “Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng - văn hóa góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Tư tưởng - văn hoá, (3), tr.5-7.
78. Đỗ Mười (1997), “Nhân tố quyết định chất lượng công tác báo chí xuất bản là đội
ngũ cán bộ”, Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, (5), tr.2-5.
79. Đỗ Mười (1997), “Người làm báo, làm công tác xuất bản hãy xứng đáng vai trò xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn hóa của Đảng”, Tạp chí Tư tưởng - văn hóa, (9) tr.3-6.
80. Phạm Quang Nghị (1997), “Bước phát triển của báo chí trong quá trình đổi mới ở
nước ta”, Tạp chí Cộng sản, (11), tr.9-12.
81. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (2005), 80 năm báo chí cách mạng Việt Nam- những bài học lịch sử và định hướng phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Lê Khả Phiêu (1996), “Báo chí giữ vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Tư tưởng - văn hóa, (12), tr.10- 12.
83. Lê Khả Phiêu (1998), “Nêu cao tinh thần trách nhiệm xã hội, giữ gìn phẩm chất và bản lĩnh của người làm báo cách mạng”, Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, (6), tr.11-12.
84. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (1999), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí, (Luật số 12/1999/QH10), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Tô Huy Rứa (1995), “Lênin với báo chí cách mạng”, Tạp chí Cộng sản, (472),
tr.32-35.
86. Đào Anh San (1997), “Hồ Chí Minh với tính đảng của báo chí cách mạng”, Tạp
chí Nghiên cứu lý luận, (7), tr.3-5.
87. Tạ Ngọc Tấn (2000), “70 năm Đảng lãnh đạo báo chí, những vấn đề nóng hổi tính
thời sự”, Tạp chí Cộng sản, (12), tr.19-22.
88. Chu Thái Thành (1998), “Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm tự do và sức sáng tạo cho đội ngũ nhà báo nước ta”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (6), tr. 6-9. 89. Thủ tướng Chính phủ (1998), Chỉ thị số 33/98/CT-TTg về tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tạo điều kiện để các cấp Hội nhà báo Việt Nam hoạt động có hiệu quả.
90. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 219/2005/TTg về chiến lược phát triển
thông tin đến năm 2100.
91. Hà Xuân Trường (1995), “Chung quanh vấn đề Đảng lãnh đạo báo chí”, Tạp chí
Cộng sản, (471), tr. 50-53. 92. Viện Ngôn ngữ (1992), Từ điển tiếng Việt.