ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ NHƢƠNG

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ

THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội – 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ NHƢƠNG

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ

THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2013

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60 22 03 15

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. Lê Mậu Hãn

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết

quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CNH, HĐH ĐNTT GD-ĐT KH-CN KH-TN KH-KT KT-XH BCH TƢ Nxb XHCN CNXH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đội ngũ trí thức Giáo dục – đào tạo Khoa học – công nghệ Khoa học – tự nhiên Khoa học – kỹ thuật Kinh tế - xã hội Ban Chấp hành Trung ƣơng Nhà xuất bản Xã hội chủ nghĩa Chủ nghĩa xã hội

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1

2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ............................................ 5

5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................... 5

6. Những đóng góp về khoa học của luận văn .................................................. 6

7. Kết cấu luận văn ............................................................................................ 6

Chƣơng 1 KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ

THỨC CỦA ĐẢNG TRƢỚC NĂM 2006 ..................................................... 7

1.1. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG TRONG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

TRÍ THỨC CÁCH MẠNG ............................................................................... 7

1.1.1. Quan niệm về trí thức .............................................................................. 7

1.1.2.Khái quát nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và xây dựng đội

ngũ trí thức trong từng thời kỳ cách mạng ...................................................... 13

1.1.3. Một số hạn chế trong công tác xây dựng ĐNTT ................................... 21

1.2.KHÁI QUÁT ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG

VIỆT NAM (1930-2006) ................................................................................. 22

1.2.1.Đội ngũ trí thức từng bƣớc trƣởng thành, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng

của đất nƣớc. .................................................................................................... 22

1.2.2. Những hạn chế của ĐNTT .................................................................... 25

Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................ 26

Chƣơng 2 XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐẨY

MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƢỚC (2006-2013)

......................................................................................................................... 28

2.1. CHỦ TRƢƠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN

NĂM 2013 ....................................................................................................... 28

2.1.1. Những yếu tố tác động đến chủ trƣơng của Đảng trong công tác xây dựng đội

ngũ trí thức....................................................................................................... 28

2.1.2. Quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc (2006-2013) .................... 29

2.2. QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG TRONG

CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỌI NGŨ TRÍ THỨC. ........................................ 37

2.2.1. Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức tiếp tục đƣợc cụ

thể hóa, pháp chế hóa bằng các chính sách, văn bản pháp luật ...................... 38

2.2.2.Trong công tác đào tạo và bồi dƣỡng và sử dụng, phát triểnđội ngũ trí thức

......................................................................................................................... 42

2.2.3. Công tác củng cố, xây dựng và phát triển hoạt động của các Hội trí thức trong

cả nƣớc ............................................................................................................. 46

2.2.4.Chủ trƣơng của Đảng về thu hút trí thức Việt kiều và trí thức ngƣời nƣớc ngoài

đƣợc chú trọng ................................................................................................. 47

2.3.THỰC TRẠNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN 2013 .... 48

2.3.1.Đội ngũ trí thức từng bƣớc trƣởng thành đóng góp vào sự phát triển của đất

nƣớc ................................................................................................................. 48

2.3.2. Những đóng góp của ĐNTT vào sự phát triển của đất nƣớc ................ 53

2.3.3. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân ............................................ 58

Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................ 63

Chƣơng 3 NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU

......................................................................................................................... 64

3.1.NHẬN XÉT CHUNG ............................................................................... 64

3.1.1. Ƣu điểm ................................................................................................. 65

3.1.2. Hạn chế .................................................................................................. 69

3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM ....................................................................... 71

3.2.1. Xây dựng đội ngũ trí thức là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị ..... 71

3.2.2. Chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo để tạo ra ĐNTT có trình độ cao.

......................................................................................................................... 73

3.2.3.Đào tạo, bồi dƣỡng phải gắn với sử dụng; đãi ngộ, tôn vinh trí thức, nhân tài là

chiến lƣợc ƣu tiên hàng đầu ............................................................................ 75

3.2.4. Coi trọng phát huy dân chủ thực sự trong hoạt động sáng tạo của trí thức

......................................................................................................................... 77

Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................ 79

KẾT LUẬN .................................................................................................... 81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 87

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở mọi thời đại, trí thức luôn là nền tảng tiến bộ của xã hội, đội ngũ trí thức là

lực lƣợng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Đại hội VII của Đảng ta chỉ rõ:

“…trong cách mạng dân tộc dân chủ, vai trò của giới trí thức đã quan trọng, trong xây

dựng xã hội chủ nghĩa, vai trò của giới trí thức càng quan trọng. Giai cấp công nhân

nếu không có đội ngũ trí thức của mình và nếu bản thân công – nông không đƣợc

nâng cao kiến thức, không dần đƣợc trí thức hóa, thì không thể xây dựng đƣợc xã hội

chủ nghĩa” [23, tr.17].

Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ đã trở thành lực lƣợng sản

xuất trực tiếp, cuộc cách mạng khoa học, công nghệ phát triển nhƣ vũ bão đã làm cho

thế giới đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, mà thực chất là quá

trình chuyển đổi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên nhiên, lao

động tay chân, sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức con ngƣời. Chính vì vậy, vai

trò cốt lõi là tri thức và công nghệ trong mối quan hệ hữu cơ với đội ngũ trí thức ngày

càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.

Nƣớc ta đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá trình hội nhập với thế

giới theo xu thế toàn cầu hoá. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra trƣớc

mắt chúng ta nhiều yêu cầu, đòi hỏi, điều kiện, trong đó có yêu cầu đặc biệt quan

trọng là phát triển nguồn lực con ngƣời. Muốn thực hiện mục tiêu sớm đƣa nƣớc ta ra

khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp theo hƣớng

hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đƣờng phát triển rút ngắn, phát huy

đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực

sáng tạo của đội ngũ trí thức.

Hội nghị Trung ƣơng 7 (Khoá X), Đảng đã ra Nghị quyết về “Xây dựng đội

ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, trong đó nhấn

mạnh vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức nƣớc nhà hiện nay: “Trí thức Việt Nam là

lực lƣợng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng kinh tế tri

thức, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”[26, tr.90].

1

Tƣ tƣởng, quan điểm của Đảng đối với trí thức và xây dựng ĐNTT là một nội

dung rất quan trọng, là một trong những lĩnh vực thể hiện tầm trí tuệ cao, mang tính

khoa học sâu sắc. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc, ĐNTT Việt Nam hiện

nay đã có sự phát triển cả về số lƣợng và chất lƣợng, đóng góp tích cực vào sự phát

triển đất nƣớc, tuy nhiên, đến nay vẫn còn nhiều hạn chế, vai trò của ĐNTT trong

một số lĩnh vực trong cuộc sống chƣa thể hiện rõ. Những yếu kém này xuất phát từ

nhiều nguyên nhân, trong đó không ít cán bộ, cấp ủy còn chƣa nhận thức rõ đƣợc vị

trí và vai trò của ĐNTT, chƣa quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng, phát huy tiềm năng

trí tuệ của ĐNTT.

Để đánh giá đƣợc những kết quả, hạn chế và rút ra đƣợc những bài học kinh

nghiệm trong xây dựng ĐNTT của Đảng là việc làm quan trọng và cần thiết để góp

phần triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa X

về xây dựng ĐNTT thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc. Vì vậy, tôi chọn đề tài:

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 2006 đến năm

2013 làm luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Lịch sử nghiên cứu

Từ khi Đảng ra đời đã từng bƣớc đặt vấn đề về trí thức và xây dựng ĐNTT.

Hiện nay, xây dựng ĐNTT là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng trong

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Nhiều chủ trƣơng của

Đảng về xây dựng ĐNTT đã đƣợc nêu ra trong các kỳ Đại hội và Hội nghị BCH TƢ.

Những chủ trƣơng đó cũng từng bƣớc đƣợc cụ thể hóa bằng chính sách và pháp luật.

Đến nay đề tài về trí thức và xây dựng ĐNTT đã nhận đƣợc nhiều sự quan tâm của

các cấp lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, có nhiều tác phẩm nghiên cứu

của các tác giả, nhiều bài viết trên các tạp chí… đã góp phần cung cấp lý luận và thực

tiễn về xây dựng ĐNTT.

Các công trình nghiên cứu chung về trí thức như:

- Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức nói

chung đối với sự tiến bộ xã hội, làm rõ những đặc điểm của trí thức Việt Nam trong

tiến trình lịch sử và dự báo xu hƣớng phát triển của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, tác

2

giả đã đề cập ra những phƣơng hƣớng đổi mới công tác quản lý và chính sách kinh tế

xã hội đối với đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn mới.

- GS, TS Phạm Tất Dong (2001): “Định hướng phát triển đội ngũ tríthức Việt

Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công

trình đã có những luận giải xác đáng về vai trò của trí thức trong phát triển lực lƣợng

sảnxuất, trong sáng tạo văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc, trong lãnh đạo và điều

hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc. Với thái độ tôn trọng trí thức, GS, TS Phạm

Tất Dong khẳng định, trong nền kinh tế thị trƣờng, “sản phẩm lao động của trí thức là

một loại hàng hóa đặc biệt, nó có thể mất đi hoặc bịchiếm đoạt mà không ai biết,

song nó cũng có thể đƣợc lƣu thông và trả giá xứng đáng nhƣ bao thứ hàng quý hiếm

khác” [10, tr.330]. Đây chính là khởi nguồn cho sự đổi mới tƣ duy khi xem tiền

lƣơng và các loại phụ cấp của trí thức nhƣ những chính sách đầu tƣ có lợi nhất để

mua lại “chất xám” - một loại sản phẩm đặc biệt trong nền kinh tế thị trƣờng.

- GS, TS Nguyễn Văn Khánh (2010), Xây dựngvà phát huy nguồn lực trí tuệ

Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội và

(2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng, Nxb Chính trị

Quốc gia Sự thật, Hà Nội . Giá trị của hai công trình nghiên cứu thể hiện tập trung ở

những luận chứng khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ với cách tiếp cận liên

ngành. Đội ngũ trí thức đƣợc tác giả quan niệm là tầng lớp tinh hoa của nguồn lực trí

tuệ Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất lƣợng của nguồn nhân lực này, tác

giả đã đƣa ra hệ thống giải pháp có nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng và phát

huy vai trò của nguồn lực trí tuệ đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp chấn hƣng

đất nƣớc.

- PGS, TS Đàm Đức Vƣợng, PGS, TS Nguyễn Viết Thông (2010), Xây dựng

đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011- 2020, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên

cứu của đề tài KX.04.16/06 -10, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu công phu và

có hệ thống về trí thức. Trên cơ sở đánh giá tổng thể về thực trạng đội ngũ trí thức

Việt Nam, đề tài đi sâu phân tích, kiến nghị những giải pháp nhằm xây dựng và phát

huy nguồn lực trí tuệ trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nƣớc.

Một số luận án, luận văn nghiên cứu về vấn đề trí thức như:

3

- PGS, TS Đỗ Thị Thạch (1999), Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi

mới hiện nay - tiềm năng và phương hướng xâyy dựng, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà

Nội. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về đội ngũ nữ trí thức. Tác giả đã chỉ

ra đƣợc vị trí, vai trò của đội ngũ nữ trí thức. Qua đó, đƣa ra những giải pháp nhằm

nâng cao hơn nữa vai trò của đội ngũ này đối với sự phát triển của đất nƣớc.

- TS, Nguyễn Thắng Lợi (2009), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng

đội trí thức từ 1991 đến 2005, Luận án Tiến sĩ Sử học, Hà Nội. Tác giả đã đi sâu vào

nghiên cứu các quan điểm, chủ trƣơng của Đảng đối với ĐNTT trong giai đoạn 1991

-2005, chỉ rõ đƣợc thực trạng của ĐNTT trên tất cả các lĩnh vực trong giai đoạn

này.Luận án đã đề cập đến những vấn đề mang tính thời sự trong xây dựng ĐNTT

nhƣ, chiến lƣợc sử dụng nhân tài, chế độ đãi ngộ, chế độ làm việc…Đặc biệt, tác giả

đã đƣa ra những bài học kinh nghiệm trong xây dựng ĐNTT và chỉ ra những giải

pháp để phát triển ĐNTT.

Trên đây là một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, tuy cách tiếp

cận đối tƣợng, mục đích nghiên cứu là khác nhau, nhƣng các công trình đã nghiên

cứu một cách toàn diện về trí thức và đội ngũ trí thức. Một số công trình đã đi sâu vào

tìm hiểu về đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng đối với ĐNTT, những mạnh và hạn chế

của ĐNTT nƣớc ta…từ đó, đƣa ra những giải pháp và bài học kinh nghiệm. Tuy

nhiên, đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc xây dựng đội ngũ trí thức giai

đoạn 2006 đến 2013, chƣa có công trình nào tập trung nghiên cứu phần chủ trƣơng

của Đảng. Vì vậy, luận văn tiếp tục làm sáng tỏ hơn nữa chủ trƣơng của Đảng đối với

xây dựng ĐNTT trí thức giai đoạn 2006 đến 2013, nhằm làm rõ những bƣớc phát

triển trong nhận thức của Đảng với ĐNTT so với các giai đoạn trƣớc đó.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng ĐNTT hiện

nay, làm rõ những bƣớc phát triển trong nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò, công

tác xây dựng ĐNTT.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

4

Làm rõ quan niệm về trí thức và vai trò của trí thức trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.

Hệ thống, khái quát các quan điểm, chủ trƣơng, chính sách của Đảng về xây

dựng ĐNTT trong giai đoạn 2006 – 2013.

Khảo sát quá trình tổ chức, chỉ đạo thực hiện xây dựng ĐNTT từ năm 2006

đến 2013.

Phân tích thực trạng của ĐNTT, đánh giá vai trò của đội ngũ này trong quá

trình CNH, HĐH, tìm ra nguyên nhân, đặc biệt là các nguyên nhân của hạn chế, yếu

kém, những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò ĐNTT hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng xây dựng ĐNTT từ

năm 2006 – 2013, thông qua việc làm rõ những chủ trƣơng, chính sách xây dựng

ĐNTT.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn

Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng xây dựng

ĐNTT trong giai đoạn từ năm 2006 – 2013, đây là giai đoạn nƣớc ta đẩy mạnh hơn

nữa sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc. Trong giai đoạn này, nhận thức của Đảng về xây

dựng ĐNTT đƣợc phát triển, thể hiện qua các Nghị quyết Đại hội X, XI, trong các

Nghị quyết chuyên đề, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 7, khóa X (tháng

7-2008) về xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc.

Thời gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với ĐNTT

từ năm 2006 đến năm 2013

Không gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với ĐNTT.

5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Nguồn tƣ liệu

Văn kiện của Đảng về công tác xây dựng ĐNTT, bao gồm các văn kiện Đại hội

Đảng toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ƣơng, Bộ Chính trị, Ban Bí thƣ, Ban Tuyên

giáo Trung ƣơng.

Các báo cáo, nghị định, quyết định, các thông tƣ liên tịch của Chính phủ, các Bộ

5

liên quan đến công tác trí thức và xây dựng ĐNTT.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các công trình nghiên cứu khoa học, các luận

văn, luận án, các bài nói, bài viết của các nhà khoa học, các lãnh đạo Đảng và Nhà

nƣớc liên quan đến công tác trí thức làm tài liệu tham khảo.

5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

Dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận mác xit, luận văn sử dụng kết hợp các

phƣơng pháp lịch sử và lôgic, thống kê…Vấn đề đƣợc nghiên cứu theo trình tự thời

gian, đồng thời xem xét công tác trí thức trong mối quan hệ với các công tác khác của

Đảng.

6. Những đóng góp về khoa học của luận văn

Luận văn nhằm hệ thống chủ trƣơng, chính sách của Đảng về công tác xây

dựng đội ngũ trí thức giai đoạn 2006 đến năm 2013.

Khái quát về sự phát triển của ĐNTT và vai trò của ĐNTT trong giai đoạn

2006 đến 2013.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3

chƣơng.

Chƣơng 1: Khái quát quá trình lãnh đạo xây dựng ĐNTT của Đảng trƣớc năm

2006

Chƣơng 2: Xây dựng đội ngũ trí thức trong những năm 2006-2013.

Chƣơng 3: Nhận xét chung và bài học kinh nghiệm.

Chƣơng 1

KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

6

TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG TRƢỚC NĂM 2006

1.1. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG TRONG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG

ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁCH MẠNG

1.1.1. Quan niệm về trí thức

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin

Ph.Ăngghen, trong thƣ “Gửi Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa”,

đề “Luân Đôn, ngày 19 - 12 – 1893”, viết: “Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên

ý thức đƣợc rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải đƣợc hình thành từ hàng ngũ

sinh viên, giai cấp đó có sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một đội

ngũ với những ngƣời anh em của họ, những ngƣời công nhân lao động chân tay, đóng

vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây.Cuộc cách mạng tƣ sản trƣớc

đây đòi hỏi các trƣờng đại học chỉ đào tạo ra các trạng sƣ làm nguyên liệu tốt nhất đề

hình thành nên những nhà hoạt động chính trị của chúng, ngoài đòi hỏi đó, sự nghiệp

giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sĩ, kỹ sƣ, nhà hóa học, nông

học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm lấy việc quản lý không phải chỉ bộ

máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa và ở đây cần đến những

kiến thức vững chắc chứ không phải là những câu nói xuông oang oang” [38, tr. 507–

508].

Định nghĩa của Ph.Ănghen tập trung nói đến trí thức, đội ngũ trí thức bắt

nguồn từ những sinh viên. Đặc biệt, ông nhấn mạnh đến vai trò ngƣời trí thức cách

mạng trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa tƣ bản.

C.Mác đánh giá cao vai trò của trí thức đối với nền sản xuất xã hội. Theo ông,

về mặt nghề nghiệp, trí thức chia thành ba nhóm, tƣơng ứng với ba hình thức cơ bản

của lao động trí óc là các nhà văn, nhà báo, những ngƣời hoạt động nghệ thuật; các

nhà lý luận tuyên truyền, giáo viên, bác sĩ, luật sƣ, giới sĩ quan, viên chức và các nhà

hoạt động chính trị; các kỹ sƣ, các nhà khoa học, kỹ thuật.

V.I.Lênin định nghĩa về trí thức, ông viết: “tôi dịch” ngƣời trí thức, tầng lớp trí

thức theo ngữ nghĩa tiếng Đức là Literat, Literatentum, bao gồm không chỉ các nhà

khoa học mà là tất cả những ngƣời có văn hóa, những ngƣời làm nghề tự do nói

7

chung, những đại biểu của lao động trí óc (brain work – er, nhƣ ngƣời Anh nói) để

phân biệt với những ngƣời lao động chân tay”[36, tr.372].

Định nghĩa của V.I.Lênin về trí thức có thành phẩn rộng rãi, cơ động, không gò

bó, nhìn chung là những ngƣời lao động trí óc.

V.I.Lênin cho rằng trí thức đƣợc gọi là trí thức vì giác ngộ hơn, kiên quyết

hơn, phản ánh và thể hiện đầy đủ hơn lợi ích giai cấp của các nhóm chính trị trong

toàn xã hội. Mặc dù trong khi coi trí thức là một tầng lớp trung gian lệ thuộc về tƣ

tƣởng đối với các giai cấp khác, Lênin vẫn đánh giá cao khả năng, sức mạnh và tính

độc lập của trí thức trong xã hội. Ông cho rằng, ở khắp nơi lãnh tụ của một giai cấp

nhất định thƣờng là ngƣời tiến bộ và có trí thức, ông đặc biệt chú ý tới giới sinh viên

coi sinh viên là bộ phận nhạy cảm nhất của trí thức. Đây là ngƣời châm ngòi, là bộ

phận luôn đi đầu trong mọi cuộc đấu tranh chống các thế lực phản động.

Quan niệm của V.I.Lênin về ngƣời trí thức cũng rất rõ ràng: “Ngƣời trí thức

đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực theo lối này hay lối

khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ chính là sự hiểu biết của cá

nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào

những phẩm chất cá nhân của họ, cho nên mới có thể đóng đƣợc một vai trò nào đó.

Vì vậy, đối với họ, quyền đƣợc hoàn toàn tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình

là điều kiện đầu tiên để công tác đƣợc kết quả. Với tƣ cách là một bộ phận trong toàn

thể, họ chỉ phục tùng toàn thể đó một cách miễn cƣỡng, phục tùng vì bắt buộc, chứ

không phải tự nguyện. Họ chỉ thừa nhận kỷ luật là cần thiết đối với quần chúng, chứ

không phải đối với những nhân vật đƣợc lựa chọn. Dĩ nhiên là họ xếp mình vào

những hàng ngũ những nhân vật đƣợc lựa chọn...” [36, tr.373].

Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa C.Mác – V.I.Lênin rất chú ý tới tầng lớp trí

thức, coi trí thức là lực lƣợng xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp

cách mạng của giai cấp công nhân. Xã hội càng phát triển thì tầng lớp trí thức càng có

vai trò to lớn nhất là trong lĩnh vực khoa học – kỹ thuật và văn hóa tƣ tƣởng.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Ngƣời định nghĩa về trí thức: “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai

thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự đấu tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra.

8

Hai là hiểu biết vềđấu tranh dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà

ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác. Một ngƣời học xong đại học, có thể

gọi là có trí thức. Song, y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết

đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại công việc thực tế, y không

biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chƣa

phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một ngƣời trí thức hoàn toàn thì phải đem trí

thức đó áp dụng vào thực tế” [42, tr.275].

Định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trí thức nhấn mạnh đến sự cống hiến

của họ, nhấn mạnh đến ý nghĩa thực tế trong hoạt động của ngƣời trí thức, đem sự

hiểu biết của mình để áp dụng vào thực tế, làm nên vật chất và tinh thần góp phần xây

dựng đời sống cộng đồng phát triển, không nên lý luận xuông bởi theo Ngƣời:

“Ngƣời viết lý luận mà không thực hành thì cũng vô ích” [43, tr.356].

Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngƣời đã nhận thức rõ và đánh giá cao vai trò, vị trí

của đội ngũ trí thức trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng nhƣ trong công cuộc

xây dựng đất nƣớc. Ngay từ những ngày đầu của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa, Ngƣời đã từng nói những ngƣời trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng

chiến rất quý báu cho Đảng. Trả lời các nhà báo nƣớc ngoài về vai trò, vị trí của đội

ngũ trí thức trong nhận thức, chính sách của Chính phủ cũng nhƣ trong thực tiễn cách

mạng ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý

báu của dân tộc. Ở nƣớc khác nhƣ thế, ở Việt Nam càng nhƣ thế. Chứng thực là trong

cuộc kháng chiến cứu quốc này, những ngƣời trí thức Việt Nam đã chung một phần

quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy sinh cực khổ,

chen vai thích cánh với bộ đội nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở

ngoài"[42, tr.156].

Bản thân Hồ Chí Minh là một trí thức yêu nƣớc đi làm cách mạng. Ngƣời đã

hết sức trọng dụng tầng lớp trí thức ƣu tú của dân tộc, tạo điều kiện cho họ đƣợc cống

hiến, đƣợc thể hiện đầy đủ nhất tài năng, vai trò và trách nhiệm của mình trong sự

nghiệp chung của toàn dân. Hàng loạt trí thức trẻ - những học sinh, sinh viên yêu

nƣớc, giác ngộ cách mạng đã có mặt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo trung kiên, giữ

những vị trí quan trọng trong bộ máy Đảng, Nhà nƣớc trong quá trình cách mạng giải

9

phóng dân tộc nhƣ: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Đức Cảnh,

Lê Duẩn, Trƣờng Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu... Nhiều trí thức

trƣởng thành trong nƣớc hay từ nƣớc ngoài trở về nhƣ: Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ,

Tạ Quang Bửu, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Nghiêm Xuân Yêm, Trần Đại

Nghĩa, Lƣơng Định Của, Tôn Thất Tùng, Phạm Huy Thông, Trần Duy Hƣng, Đặng

Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Cù Huy Cận, Xuân Diệu... đã đi theo cách mạng ngay từ

những ngày đầu độc lập, sẵn sàng chịu đựng những thử thách khó khăn, gian khổ, hy

sinh trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, đóng góp tài năng, trí tuệ cho sự

nghiệp giải phóng dân tộc, dành độc lập, tự do cho đất nƣớc. Ngay cả trong Chính

phủ lâm thời năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã mời các nhân sĩ trí thức

không phải là đảng viên Đảng Cộng sản tham gia và giữ những trọng trách nhƣ:

Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Phan Anh,...

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra vấn đề nhân tài và kiến quốc ngay sau khi

chính quyền nhân dân đƣợc thiết lập trên cả nƣớc. Ngƣời đặc biệt coi trọng nhiệm vụ

giáo dục ở bậc đại học để đào tạo nhân tài phục vụ kháng chiến kiến quốc. Việc thành

lập Ban Văn khoa Đại học theo Sắc lệnh số 45/SL là một sự kiện quan trọng trong

việc đào tạo ĐNTT mới. Ban Văn khoa Đại học có nhiệm vụ đào tạo giáo sƣ bậc

trung học, và nâng cao nền văn học Việt Nam cho xứng đáng với một nƣớc độc lập

để theo kịp các nƣớc tiên tiến trên toàn cầu. “Quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh

về thành lập Văn khoa Đại học theo Sắc lệnh số 45/SL ngày 10-10-1945 là một sự

kiện trọng đại đánh dấu một mốc son lịch sử ra đời của trƣờng đào tạo bậc Đại học

cho Khoa học Nhân văn, nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Việt Nam”

[32]. Ngƣời kêu gọi những ngƣời trí thức có tài năng hãy mang tinh thần hăng hái của

mình ra giúp nƣớc nhà. Theo Ngƣời cán bộ trí thức phải trung thành với mục đích

cách mạng “giữ cho nƣớc nhà đƣợc độc lập, nòi giống đƣợc tự do” [40, tr.505] và

“không đƣợc tự kiêu, không có cái bệnh làm quan cách mạng, phải siêng năng: siêng

nghe, siêng thấy, siêng đi, siêng nghĩ, siêng nói, siêng làm” [40, tr.38].

Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về trí thức đƣợc thể hiện tập trung ở một số điểm sau.

Một là, trí thức là lực lƣợng và động lực không thể thiếu trong công cuộc bảo

vệ và xây dựng đất nƣớc. Trí thức cách mạng Việt Nam mang trong mình tinh thần

10

dân tộc. Ngƣời khẳng định sự tham gia của trí thức là nhân tố quan trọng góp phần

quyết định thành công của cách mạng: “Cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có

cách mạng mới biết trọng trí thức” [39, tr.33].

Vì vậy phải thực sự coi trọng, sử dụng trí thức một cách đúng đắn. Đối với trí

thức ngƣời lãnh đạo phải xử sự một cách có lý, có tình. Ngƣời nói: “Phải trọng nhân

tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một ngƣời có ích cho công việc chung của chúng ta” [42,

tr.313].

Hai là, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề dân chủ đối với trí thức. Theo ngƣời

đối với trí thức thì vấn đề tự do, dân chủ phải đƣợc đặt lên hàng đầu. Không có tự do,

dân chủ sẽ không có những công trình khoa học, những tác phẩm có giá trị, không có

dân chủ, tƣ duy của trí thức sẽ bị bó hẹp, không có dân chủ, nói và viết sẽ trở thành

một thứ minh họa, sao chép khô khan…

Ba là, Ngƣời quan tâm đến vai trò cá nhân của ngƣời trí thức. Ngƣời rất trân

trọng những nhân sĩ, trí thức yêu nƣớc, thƣơng dân, những ngƣời suốt đời gắn bó với

lá cờ đại nghĩa của dân tộc. Muốn thể hiện vai trò của cá nhân, thì ngƣời trí thức cần

phải đi vào đời sống xã hội, bởi theo Ngƣời, “trí thức đọc sách chƣa phải là trí thức”,

muốn “thành trí thức hoàn toàn thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”[42,

tr.275]. Điều quan trọng là mỗi cá nhân trí thức phải biết đặt lợi ích của dân tộc lên

trên lợi ích cá nhân.

Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác bồi dƣỡng cán bộ trí

thức. Ngƣời muốn tạo ra một lớp cán bộ trí thức có trình độ văn hóa, lối sống văn

hóa, chuyên môn nghiệp vụ giỏi, khả năng lãnh đạo, quản lý tốt. Ngƣời coi vấn đề

huấn luyện, đào tạo cán bộ, dạy và học là công việc rất lớn, rất quan trọng của Đảng

và Nhà nƣớc. Ngƣời nói: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, nhƣ ngƣời làm vƣờn vun trồng

những cây cối quý báu” [42, tr.313].

Năm là, Ngƣời yêu cầu các cấp lãnh đạo phải biết lựa chọn những ngƣời tài

đức để động viên, bồi dƣỡng, trọng dụng họ. Theo Tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh, vấn

đề lựa chọn cán bộ, lựa chọn ngƣời tài đức để dùng vào những việc quan trọng là

trách nhiệm, lƣơng tâm của những ngƣời lãnh đạo và làm công tác nhân sự.

11

Sáu là, Ngƣời đƣa ra yêu cầu với Đảng, Chính phủ phải có chính sách cụ thể

để sử dụng trí thức. Ngƣời nhấn mạnh đào tạo phải đi đôi với sử dụng. Đây là hai

công việc phải đi liền với nhau.

Bảy là, Ngƣời cho rằng trí thức phải gắn bó với giai cấp công nhân, giai cấp

nông dân và nhân dân lao động, tạo thành liên minh công, nông, trí để cùng nhau xây

dựng và bảo vệ đất nƣớc.

Tám là, khi xét vấn đề trí thức, Ngƣời cho rằng phải xét trên hai bình diện. Đó

là sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc với trí thức và sự tự thân rèn luyện của trí

thức.

Một số quan điểm chung về trí thức. Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Trí thức là ngƣời chuyên làm việc lao động

trí óc” [28, tr. 1705].

Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, xuất bản

năm 1986 cho rằng: “Trí thức - Tập đoàn xã hội, bao gồm những ngƣời chuyên làm

nghề lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao động

đó” [50, tr. 360].

Từ điển Tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học biên soạn và phát hành năm 1997,

Hoàng Phê chủ biên cho rằng: “Trí thức là ngƣời chuyên làm việc bằng trí óc và có

tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình” [51, tr. 999].

Từ sự phân tích những đặc trƣng cơ bản của trí thức, PGS.TS Đàm Đức

Vƣợng và PGS.TS Nguyễn Viết Thông xác định: “Họ là ngƣời lao động trí

óc, có trình độ phát triển về trí tuệ, có hiểu biết sâu về một lĩnh vực chuyên

môn, có năng lực sáng tạo, nhạy bén với cái mới” [52, tr.25].

Bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc trong xu thế hội nhập

quốc tế, vai trò của trí thức đƣợc nâng lên một tầm cao mới. Theo tác giả

Nguyễn Đắc Hƣng, “trong xã hội hiện đại, khoa học ngày càng phát triển, đội

ngũ trí thức sẽ đóng vai trò là lực lƣợng sản xuất trực tiếp thứ nhất…Ngƣời trí

thức Việt Nam phải ý thức đƣợc vai trò của mình trong cộng đồng nhân loại mà

tích cực dấn thân vào hoạt động khoa học mang tầm thế giới” [34, tr.27-28].

Nhìn chung, các định nghĩa về trí thức nói trên đều cho thấy có những điểm

12

chung, thống nhất, đó là xác định nội hàm khái niệm trí thức đều dựa trên cơ sở đặc

trƣng là lao động trí óc và trình độ học vấn, chuyên môn cao của ngƣời trí thức.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và đội ngũ trí thức:

Vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và quán triệt Tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh về trí thức, Đảng khẳng định: “Trí thức là những

ngƣời lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất

định, có năng lực tƣ duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo

ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [26, tr.81].

Đây là lần đầu tiên, Đảng đƣa ra quan niệm về trí thức với sự nhất quán

trongviệc đánh giá cao vai trò của trí thức, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảngđối

với lực lƣợng cách mạng quan trọng này.

1.1.2.Khái quát nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và xây

dựng đội ngũ trí thức trong từng thời kỳ cách mạng

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập cho tới nay về công

tác xây dựng ĐNTT là một quá trình liên tục, từ những nhận định, đánh giá còn hạn

chế, chủ quan, các đƣờng lối chính sách còn riêng lẻ đến nhận định mang tính khách

quan, các đƣờng lối, chính sách đã mang tính hệ thống.

Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã có những nhận định quan trọng về vị trí và

vai trò của ĐNTT trong sự nghiệp cách mạng. Trong các văn kiện Chánh cƣơng vắn

tắt của Đảng, Sách lƣợc vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đƣợc

thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định trí thức là bộ

phận trong lực lƣợng quần chúng cách mạng dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Trong Sách lƣợc vắn tắt có nêu rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tƣ sản, trí

thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt,.v.v. để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp” [15,

tr.3].

Trong quá trình lãnh đạo, xuất hiện một số chủ trƣơng về tầng lớp trí thức

không phù hợp với thực tế khi coi trí thức là lực lƣợng phản cách mạng nhƣ trong

Chủ trƣơng thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ (1930–1931) đã nêu “thanh trừng trí,

phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”[16, tr.157]. Chủ trƣơng coi nhẹ tầng lớp trí

thức của Đảng kéo dài trong nhiều năm, suốt từ tháng 12 năm 1930 đến tháng 3 năm

13

1935, Đảng không có bất cứ một chủ trƣơng nào đề cập đến vai trò của tầng lớp trí

thức đối với cách mạng. Phải cho đến năm 1935, chủ trƣơng tập hợp tầng lớp trí thức

đứng về phe cách mạng mới đƣợc Đảng đề cập đến. Chính vì vậy trong thời kỳ Mặt

trận dân tộc dân chủ Đông Dƣơng 1936–1939, Đảng đã lôi cuốn đông đảo tầng lớp trí

thức tham gia vào phong trào quần chúng đấu tranh. Trong Đề cƣơng văn hóa Việt

Nam 1943 nêu rõ đƣờng lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam mang tính dân tộc, khoa

học và đại chúng, xác định văn hóa là một mặt trận đấu tranh, chống chính sách văn

hóa nô dịch của thực dân và văn hóa phong kiến. Đó là kim chỉ nam định hƣớng cho

trí thức con đƣờng đi tới trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dƣới sự lãnh đạo

của Đảng, trí thức đã tham gia đấu tranh trên mặt trận văn hóa, đóng góp trực tiếp vào

thắng lợi chung của dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám 1945.

Sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nƣớc về đào tạo ĐNTT ngay từ

khi nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời thông qua việc khai giảng lại các trƣờng

đại học có sẵn và mở thêmBan Văn khoa Đại học...để đào tạo ra ĐNTT cách mạng

phục vụ sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ đất nƣớc. ĐNTT đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng và

sử dụng có hiệu quả trong trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu

nƣớc. Vai trò và vị trí của ĐNTT cách mạng đƣợc Đảng nhận định lên một bƣớc mới.

Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (họp từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm 1951, tại

xã Vinh Quang huyện Chiêm Hóa tỉnh Tuyên Quang) vấn đề trí thức đã đƣợc giải

quyết một cách cơ bản. Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

II của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã nêu rõ quan điểm, tƣ tƣởng của

Đảng về vấn đề trí thức: “Về thành phần, Đảng Lao động Việt Nam sẽ kết nạp những

công nhân, nông dân, lao động trí óc thật hăng hái, thật giác ngộ cách mạng” [18,

tr.37]. Trong Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam đối với trí thức in trên báo

Nhân dân ngày 29–8–1957, Đảng chỉ rõ trí thức là một vốn quý của dân tộc. Không

có trí thức hợp tác với công nông thì cách mạng không thể thành công và sự nghiệp

một nƣớc Việt Nam mới sẽ không hoàn thành đƣợc.

Trong những năm 1954–1957, nền giáo dục miền Bắc bƣớc đầu đƣợc tổ chức,

sắp xếp và phát triển. Các trƣờng đại học, trung học chuyên nghiệp ở Hà Nội do Bộ

Giáo dục trực tiếp quản lý đã trở thành trung tâm đào tạo cán bộ khoa học, sinh viên

14

và trí thức cho cả nƣớc. Kể từ năm 1955 trở đi, một số trƣờng đại học mở cửa trở lại

và thành lập thêm những trƣờng đại học, cao đẳng mới: Đại học Tổng hợp, Đại học

Bách Khoa, Đại học Nông nghiệp… Hệ thống các trƣờng đại học và cao đẳng này đã

góp phần đắc lực vào đào tạo ĐNTT bậc cao phục vụ sự nghiệp cách mạng XHCN ở

miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.Các Văn kiện của

Đại hội III đều nhấn mạnh đến việc xây dựng và phát triển KH-KT một cách có trọng

điểm, đi theo từng bƣớc vững chắc, đi sâu vào nghiên cứu khoa học ứng dụng: “Cần

có kế hoạch dài hạn và toàn diện đào tạo và bồi dƣỡng một đội ngũ lớn mạnh bao

gồm hàng vạn cán bộ chuyên môn về khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa

học xã hội. Những cán bộ này không chỉ thông thạo trình độ chuyên môn mà phải có

phẩm chất chính trị tốt, một lòng một dạ phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã

hội và chủ nghĩa cộng sản; họ không những phải có năng lực độc lập nghiên cứu mà

còn phải biết kết hợp với đông đảo quần chúng lao động trong công tác khoa học”

[20, tr.554].

Trong giai đoạn 1961–1965, công tác đào tạo đại học và chuyên nghiệp đƣợc

mở rộng với quy mô lớn. Đến năm học 1964 – 1965, nƣớc ta đã có 16 trƣờng đại học

với tổng số 26.100 sinh viên học tập, 128 trƣờng trung học với 95.400 học sinh. Đến

năm 1975, miền Bắc có 41 trƣờng, phân hiệu đại học, gấp 10,3 lần so với năm 1955.

Năm học 1974 – 1975, các trƣờng tuyển mới 12.025 sinh viên gấp 18,5 lần so với

năm 1955 – 1956. Tổng số sinh viên sinh viên đƣợc đào tạo là 55.701 ngƣời, gấp 47

lần so với năm học 1955 – 1956 [6; 70]. Sau ngày đất nƣớc thống nhất năm 1975, cả

nƣớc có 57 trƣờng đại học, 186 trƣờng trung học chuyên nghiệp và 53 viện nghiên

cứu khoa học [33, tr.251].

Trong đƣờng lối cách mạng miền Nam, Đảng chú trọng công tác vận động trí

thức nhằm mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất vì mục tiêu hòa bình, độc lập, thống

nhất đất nƣớc. Thực hiện tuyên bố của Mặt trận tại Đại hội lần thứ nhất, trí thức

miền Nam đã cùng các tầng lớp nhân dân tiếp tục theo đuổi mục tiêu đấu tranh giành

độc lập dân tộc, bảo vệ tự do, dân chủ cho nhân dân. Tháng 4 – 1964, Đại hội giáo

dục toàn miền Nam lần thứ nhất đƣợc tổ chức và đã bầu Ban Chấp hành Trung ƣơng

Hội gồm 31 vị giáo sƣ do giáo sƣ Lê Văn Huấn là Chủ tịch. Phong trào đấu tranh

15

chính trị của thanh niên học sinh, sinh viên, trí thức phát triển mạnh mẽ với nhiều

hình thức phong phú đa dạng.

Suốt 30 năm đấu tranh cách mạng, phẩm chất cao quý và tài năng của trí thức

dân tộc dƣới sự lãnh đạo của Đảng đƣợc ngời sáng. Trong cuộc trƣờng chinh vĩ đại vì

mục tiêu độc lập tự do: “Chẳng những công nhân, nông dân là gốc cách mạng, đƣợc

huy động đông đảo vào trận tuyến đấu tranh, mà tuyệt đại bộ phận các tầng lớp trí

thức của dân tộc, từ nhà khoa bảng cao cấp dƣới chế độ phong kiến đến các trí thức

nổi tiếng đƣợc đào tạo dƣới thời Pháp thuộc, những giáo sƣ, học giả, bác sĩ, kỹ sƣ,

các nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà thơ đều hăng hái đứng dƣới lá cờ cứu nƣớc của

Bác Hồ” [48, tr.339].

Cùng với công nhân và nông dân, trí thức yêu nƣớc và tiến bộ đã trở thành

những thành phần xã hội nền tảng của mặt trận dân tộc và chế độ dân chủ nhân dân.

Họ đã là một bộ phận của khối đại đại đoàn kết toàn dân tộc, mà nền tảng là khối liên

minh công – nông – trí.

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc đã mở ra trang sử

vàng cho lịch sử dân tộc, đất nƣớc thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội IV của Đảng (họp từ ngày 14 đến ngày 20 -12 – 1976 tại Hà Nội)

đánh giá cao những hoạt động của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ

quản lý có trình độ trên đại học, đại học, trung học chuyên nghiệp. Đại hội đánh

giá khá cao đội ngũ trí thức: “Trí thức giữ vai trò ngày càng quan trọng trong xây

dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và kỹ thuật” [21, tr.598].

Đặc biệt, Đại hội IV đã đặt vấn đề một cách nghiêm túc về việc sử dụng trí

thức đã làm việc dƣới chế độ cũ ở miền Nam: “Giúp anh chị em chóng trở thành

những ngƣời trí thức xã hội chủ nghĩa” [21, tr.598] và “Về phần anh chị em trí thức,

cần khắc phục những nhƣợc điểm nhƣ chủ quan, tự mãn, xa rời quần chúng, xa rời

sản xuất, đánh giá không đúng mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể” [21, tr.599].

Trên nền tảng quan điểm đó, công tác đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ trí thức đƣợc

thực hiện trên tinh thần đổi mới trong hệ thống giáo dục quốc dân, theo Nghị quyết số

14/NQ/TW ngày 11–1–1979 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục, tiếp đó ngày 20-

4-1981, Bộ Chính trị Trung ƣơng Đảng ra Nghị quyết 37 về “chính sách khoa học và

16

kỹ thuật”, đề cập toàn diện nhiệm vụ, mục tiêu, chính sách khoa học, kỹ thuật,

nguyên tắc, phƣơng châm lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết cũng nhấn mạnh khoa học

xã hội phải góp phần làm rõ cơ sở khoa học của việc xây dựng và cải tạo xã hội chủ

nghĩa, góp phần xây dựng đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc….

Cùng với Nghị quyết 37, Nhà nƣớc đã xác định 76 chƣơng trình tiến bộ khoa

học, kỹ thuật trong kế hoạch 5 năm (1981 – 1985). Đại hội V của Đảng (họp từ ngày

27 đến ngày 31 – 3 – 1982, tại Hà Nội) tiếp tục tƣ tƣởng của Đại hội IV là đẩy mạnh

công tác khoa học, kỹ thuật. Trong 5 năm, kể từ Đại hội IV đến Đại hội V, số lƣợng

trí thức tăng thêm 78%. Tính đến thời điểm năm 1982, cả nƣớc hiện có trên 260

nghìn cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học. Để phát huy đƣợc vai trò của

trí thức, khoa học phát triển, tổ chức và quản lý trở thành vấn đề quan trọng. Vì vậy,

Hội đồng Bộ trƣởng đã có Nghị định số 51/HHĐBT, ngày 17-5-1983, nhấn mạnh:

Kết hợp chặt chẽ KH-XH, KH-TN và KH-KT, tập trung lực lƣợng vào mục tiêu trọng

điểm, tạo ra sức mạnh tổng hợp góp phần tích cực tổ chức lại sản xuất, đổi mới hệ

thống quản lý khoa học. Đó là những định hƣớng, là cơ sở pháp lý rất quan trọng để

xây dựng và phát huy mạnh mẽ vai trò, vị trí của trí thức dân tộc trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ đất nƣớc. Trong 5 năm, kể từ Đại hội IV đến Đại hội V, số lƣợng trí

thức tăng thêm 78%. Tính đến thời điểm năm 1982, cả nƣớc hiện có trên 260 nghìn

cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học.

Bƣớc sang thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nƣớc ngày càng coi trọng vai trò và

vị trí chính trị, xã hội của các hội trí thức, quan tâm xây dựng và phát triển các hội.

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, các hội từng bƣớc kiện toàn tổ chức và đổi mới hoạt

động, bảo đảm tính chất là những tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp độc lập,

đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nƣớc. Đại hội VI của Đảng

đã ghi dấu mốc đổi mới toàn diện, trong đó, đã mở ra cho trí thức một hƣớng đi mới,

thể hiện vấn đề dân chủ đối với trí thức, “Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là bảo

đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện đƣợc sử dụng

đúng và phát triển. Phá bỏ những quan niệm hẹp hòi, không thấy tầng lớp trí thức

ngày nay là những ngƣời lao động xã hội chủ nghĩa, đƣợc Đảng giáo dục và lãnh đạo,

ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân, nông dân” [12, tr.115].

17

Bƣớc sang Đại hội VII của Đảng, thành phần trí thức trong Đại hội chiếm đa

số nhƣ trong 1176 đại biểu tham dự có 158 ngƣời là phó tiến sĩ, tiến sĩ, giáo sƣ cấp I,

II. Số ngƣời đã qua đào tạo lý luận chính trị và quản lý kinh tế: 840 ngƣời chiếm

71,42%, trong đó đạt trình độ lý luận cao cấp là 257 ngƣời, chiếm tỷ lệ 21,85 %, đạt

trình độ lý luận trung cấp: 461 ngƣời, chiếm tỷ lệ 39,2%; đã qua đào tạo quản lý kinh

tế: 152 ngƣời, chiếm tỷ lệ 12, 93 %. Điều đó chứng tỏ trình độ trí thức trong Đảng đã

đƣợc nâng lên rất nhiều so với những năm trƣớc đó, phản ánh quá trình nỗ lực học

tập của các đảng viên. Văn kiện Đại hội đánh giá cao những đóng góp của giới trí

thức trong công cuộc đổi mới đất nƣớc. Trí thức là là lực lƣợng chủ yếu thúc đẩy sự

phát triển của khoa học và công nghệ.Việc đề cao vai trò, vị trí của trí thức cũng đƣợc

khẳng định trong Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, vai trò của giới trí thức đã quan

trọng, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội vai trò của giới trí thức ngày càng quan trọng.

Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và bản thân công – nông

không đƣợc nâng cao kiến thức, không dần dần đƣợc trí thức hóa thì không thể xây

dựng xã hội chủ nghĩa đƣợc” [13, tr.70].

Đại hội VIII của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu mốc phát triển

mới trong tiến trình phát triển của nƣớc ta, quyết định những vấn đề liên quan đến

vận mệnh dân tộc và tƣơng lai của đất nƣớc. Đây là Đại hội mở đầu thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH. Đại hội tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa

học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là khâu đột phá trong tiến trình CNH, HĐH.

Từ quan điểm: “Lấy việc phát huy nguồn lực con ngƣời làm yếu tố cơ bản cho sự

phát triển nhanh và bền vững” [14, tr.85].

Đại hội VIII đã xác định một nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH

là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ vững mạnh. Phát hiện, bồi

dƣỡng và trọng dụng nhân tài trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hóa

nghệ thuật, quản lý kinh tế - xã hội và quản trị sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu

trƣớc mắt và chuẩn bị cho bƣớc phát triển cao hơn sau năm 2000” [14, tr.38].

Hội nghị Trung ƣơng 2, khóa VIII, ra Nghị quyết số 02–NQ/HNTW, ngày 24 –

12 – 1996 đã ra Nghị quyết“Về định hƣớng chiến lƣợc phát triển giáo dục – đào tạo

18

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000” và Nghị quyết

“Về định hƣớng chiến lƣợc phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”, đặt vấn đề xây dựng những con

ngƣời và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tƣởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa

biết kế thừa, tiếp thu tinh hoa truyền thống dân tộc, vừa làm chủ tri thức và khoa học

công nghệ hiện đại: “Xây dựng đội ngũ trí thức giàu lòng yêu nƣớc, yêu chủ nghĩa xã

hội, có chí khí và hoài bão lớn, quan tâm đƣa đất nƣớc lên đến đỉnh cao mới. Phấn đấu

đƣa số lƣợng cán bộ nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ lên gấp rƣỡi so với

hiện nay và nâng cao hiệu quả sử dụng đội ngũ” [17, tr.48].

Với nhiều chính sách nhằm khuyến khích phát triển ĐNTT trên mọi lĩnh vực, ở

cả trong và ngoài nƣớc của Đảng và Nhà nƣớc, ĐNTT đã không ngừng lớn mạnh về

cả số lƣợng và chất lƣợng, đóng góp những vai trò quan trọng vào công cuộc đổi mới

của đất nƣớc. Tính đến ngày 31–12–1994, cả nƣớc có 2.412 nghiên cứu sinh (991 hệ

tập trung, 933 hệ tại chức, 488 đào tạo ngắn hạn) và 4915 học viên cao học (3546 hệ

tập trung, 1369 hệ tại chức) [1].

Đại hội lần thứ IX của Đảng (họp từ ngày 19 đến ngày 22–4–2001 tại Hà Nội)

đặt vấn đề: “Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộ đặc biệt đối với

nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc” [19, tr.37] và “Đối với trí thức, tạo

điều kiện thuận lợi để thu nhận thông tin, tiếp nhận các thành tựu mới của khoa học,

công nghệ và văn hóa thế giới, nâng cao trình độ chính trị, kiến thức chuyên môn.

Khuyến khích tự do, sáng tạo, phát minh cống hiến. Phát hiện bồi dƣỡng, sử dụng

đúng và đãi ngộ xứng đáng với các tài năng, phát huy năng lực của trí thức trong việc

thực hiện các chƣơng trình, đề tài nghiên cứu của Nhà nƣớc và xây dựng đƣờng lối,

chủ trƣơng, chính sách, pháp luật” [19, tr.125-126].

Nhất quán quan điểm đối với ĐNTT, văn nghệ sỹ, tại Đại hội IX, Đảng nêu

rõ:“Chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của văn nghệ sỹ, nhất là những ngƣời cao

tuổi, đãi ngộ thỏa đáng với văn nghệ sỹ tài năng. Chú trọng bồi dƣỡng, đào tạo thế hệ

văn nghệ sỹ trẻ” [19, tr.115-116].

Đảng chú trọng vào việc tăng ngân sách đầu tƣ cho phát triển khoa học và

công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa nghệ thuật. Đại hội IX nêu rõ: “Tăng cƣờng

19

đầu tƣ cho ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa học và công nghệ”

[19, tr.113].

Hằng năm, Nhà nƣớc dành ít nhất 2 % cho ngân sách nhà nƣớc cho nghiên

cứu khoa học và phát triển công nghệ. Quỹ phát triển khoa học công nghệ ở các bộ và

các tỉnh, thành phố đƣợc xây dựng để đầu tƣ cho việc thực hiện các nhiệm vụ khoa

học công nghệ của các ngành và địa phƣơng.

Ngày 26 – 7 – 2002 của Hội nghị Trung ƣơng 6 ( Khóa IX) ra Kết luận số 14–

KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng 2 khóa VIII, phƣơng hƣớng

phát triển GD-ĐT, KH-CN đến năm 2005 và đến năm 2010.

Đảng và Chính phủ ra chủ trƣơng tạo điều kiên để trí thức Việt Kiều đóng góp

xây dựng đất nƣớc và thu hút trí thức nƣớc ngoài đến sinh sống và làm việc tại Việt

Nam, chủ trƣơng này của Đảng và Chính phủ đƣợc ghi rõ tại Nghị quyết số 36–

NQ/TW ngày 26 – 3 – 2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với ngƣời Việt Nam ở

nƣớc ngoài làĐảng và Nhà nƣớc ta luôn luôn coi cộng đồng ngƣời Việt Nam ở nƣớc

ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, hoàn chỉnh và

xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp

của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nƣớc. Xây dựng chế độ đãi ngộ

thỏa đáng đối với những chuyên gia, trí thức ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài có trình

độ chuyên môn cao, có khả năng tƣ vấn về quản lý, điều hành, chuyển giao công

nghệ, kỹ thuật cao cho đất nƣớc, góp phần phát triển nền văn hóa, nghệ thuật của

nƣớc nhà. Xây dựng và hoàn thiện các chính sách tạo thuận lợi và khuyến khích các

ngành, các trung tâm nghiên cứu khoa học - công nghệ, văn hóa nghệ thuật, giáo dục

- đào tạo, y tế, thể dục - thể thao, các cơ sở sản xuất, dịch vụ... ở trong nƣớc mở rộng

hợp tác, thu hút sử dụng chuyên gia, trí thức ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài tham gia

công việc ở trong nƣớc, làm việc cho các chƣơng trình, dự án hợp tác đa phƣơng và

song phƣơng của Việt Nam với nƣớc ngoài hoặc trong các tổ chức quốc tế có chỉ tiêu

dành cho ngƣời Việt Nam và tƣ vấn trong các quan hệ giữa Việt Nam với đối tác

nƣớc ngoài…

20

Công tác giáo dục và đào tạo cũng đƣợc Đảng hết sức quan tâm để xây dựng

ĐNTT bằng nhiều nghị quyết, chỉ thị, quyết định. Chủ trƣơng xã hội hóa giáo dục đã

huy động mạnh mẽ toàn xã hội tham gia và quá trình học tập và xây dựng môi trƣờng

cho giáo dục, huy động các nguồn lực đầu tƣ cho giáo dục và đào tạo. ĐNTT ngành

giáo dục có sự trƣởng thành nhanh chóng cả về số lƣợng và chất lƣợng, chiếm 1/3

ĐNTT của cả nƣớc. Số tiến sỹ khoa học trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo chiếm 42,

63 %, tiến sỹ chiếm 37,9%, thạc sỹ chiếm 42,9 [25].

1.1.3. Một số hạn chế trong công tác xây dựng ĐNTT

Bên cạnh những thành công trong xây dựng ĐNTT trong từng thời kỳ cách

mạng, trong những giai đoạn nhất định, chủ trƣơng của Đảng đối với ĐNTT còn mắc

phải những sai lầm, hạn chế. Trong thời kỳ từ năm 1930 – 1935, một số cấp ủy đảng

địa phƣơng trong khi thi hành chính sách mặt trận đã bài trừ tầng lớp trí thức ra khỏi

lực lƣợng cách mạng, đẩy họ về phe phản cách mạng. Trong thời kỳ 1936 – 1939,

những yêu sách đƣa ra chú trọng đến lợi ích công nông, ít chú ý đến quyền lợi các

tầng lớn trên nên một số trí thức bị các phần tử phản động đe dọa, mua chuộc.

Trong kháng chiến chống Pháp, công tác mặt trận chƣa thật sự sâu rộng, một số

lƣợng lớn các trí thức ở vùng địch chiếm không đƣợc tập hợp vào mặt trận. Sau năm

1954, nhiều nơi ở miền Bắc xảy ra tình trạng thiếu cán bộ, trí thức do chúng ta thiếu

những chính sách để chống lại âm mƣu lôi kéo, kích động trí thức di cƣ vào Nam

hoặc ra nƣớc ngoài. Sau năm 1975, công tác đối với trí thức miền Nam chƣa tốt,

nhiều trí thức ra nƣớc ngoài, số ở lại thì chƣa có biện pháp phù hợp nên sử dụng trí

thức chƣa hiệu quả.

Sau khi đất nƣớc thống nhất đến năm 1986, trong cơ chế kế hoạch hóa, tập

trung, quan liêu bao cấp, chính sách hành chính hóa công nông quá mức đã xóa nhòa

đi vị trí , vai trò của trí thức trong xã hội, không tạo động lực cho trí thức nhiệt tâm

tìm tòi sáng tạo. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài, điều kiện làm

việc của trí thức quá thiếu thốn, lạc hậu, chính sách tiền lƣơng mang nặng tính bình

quân, do vậy, nhiều trí thức không say mê với công việc nghiên cứu mà làm các công

việc khác để kiếm sống.

21

Sau khi đổi mới đến trƣớc thềm Đại hội X, nhiều chủ trƣơng, chính sách của

Đảng và Nhà nƣớc về công tác trí thức đã thu đƣợc nhiều thành tựu trong thực tế.

Song bên cạnh đó, còn mắc phải một số khuyết điểm nhƣ, trong công tác đào tạo, bồi

dƣỡng, nội dung chƣơng trình chậm đƣợc đổi mới, thiếu tính hệ thống, chƣa có chiến

lƣợc và thống nhất trên phạm vi trên toàn quốc. Đào tạo chƣa gắn với thực tiễn, nặng

về lý thuyết, nhẹ thực hành. Công tác đào tạo còn chậm đổi mới. Chƣa có những

chiến lƣợc, biện pháp cụ thể để giữ chân các chuyên gia đầu đàn và thu hút thế hệ trí

thức trẻ tham gia vào nghiên cứu khoa học.

1.2.KHÁI QUÁT ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH

MẠNG VIỆT NAM (1930-2006)

1.2.1.Đội ngũ trí thức từng bƣớc trƣởng thành, đóng góp vào sự nghiệp

cách mạng của đất nƣớc.

Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nhiều thanh niên trí thức sớm giác ngộ

và tham gia vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Học thuyết mác xít đã đƣợc

phổ biến rộng rãi và có những ảnh hƣởng lớn về mặt tƣ tƣởng đối với tầng lớp trí

thức Việt Nam qua cao trào cách mạng 1930 -1931 và phong trào Mặt trận Dân chủ

Đông Dƣơng 1936 -1939. Trong cuộc vận động tiến tới Cách mạng Tháng 8, đông

đảo trí thức đã đứng vào mặt trận quần chúng đấu tranh, tham gia các phong trào do

Việt Minh tổ chức.

Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, ĐNTT đã từng

bƣớc trƣởng thành. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dƣỡng nhân tài của Đảng và

Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều ngƣời trong thành phần công, nông, binh đã trở thành

trí thức; những ngƣời trí thức cũ đƣợc học tập chính trị. Tham gia kháng chiến, đƣợc

Đảng dìu dắt, rèn luyện trở nên cách mạng hóa. Đến năm 1954, miền Bắc có trên 500

ngƣời có trình độ đại học và 3.000 ngƣời có trình độ trung học chuyên nghiệp, chủ

yếu làm việc các lĩnh vực y tế, văn hóa [45, tr.69]. Đến năm 1964, số ngƣời có trình

độ đại học và trung học chuyên nghiệp đã tăng lên 30.709 ngƣời; gấp 10 lần so với

năm 1954 [6].

22

Nhiều trí thức đƣợc cử đi học tập tại các nƣớc XHCN đã trở lại tham gia vào

cuộc trƣờng chinh của dân tộc. Đây là đội ngũ quan trọng trong cuộc kháng chiến, họ

có những đóng góp lớn trong các lĩnh vực nhƣ quân sự, y tế, ngoại giao…Một số nhà

trí thức tiêu biểu nhƣ Trần Đại Nghĩa, Đặng Văn Ngữ, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng…

Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở miền

Bắc, đội ngũ trí thức cách mạng đã có những đóng góp to lớn nhƣ chế tạo và cải biến

thành công nhiều loại vũ khí quân sự đảm bảo cho sự chủ động của quân và dân ta

trên chiến trƣờng; góp phần tuyên truyền đƣờng lối chủ chƣơng, chính sách của Đảng

đến sâu rộng các tầng lớp nhân dân, giáo dục lòng yêu nƣớc, tinh thần tự hào dân tộc

nhất là với thế hệ trẻ. Không chỉ đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu, tuyên truyền cổ

động, mà hàng nghìn những trí thức, học sinh sinh viên sẵn sàng “xếp bút nghiên lên

đƣờng chiến đấu” theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, nhiều ngƣời đã anh dũng

hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc.

Đất nƣớc thống nhất, hai miền Nam Bắc chung về một mối cùng thực hiện

cuộc cách mạng xây dựng XHCN và bảo vệ tổ quốc, ĐNTT dƣới sự lãnh đạo của

Đảng đã từng bƣớc phát triển trên khắp mọi miền tổ quốc. Số lƣợng trí thức tăng

nhanh. Ngoài ĐNTT sẵn có tại miền Bắc, tiềm lực trí thức của đất nƣớc đƣợc bổ sung

thêm những trí thức ở các vùng mới giải phóng. Sau ngày giải phóng, các tỉnh miền

Nam có trên 10 vạn ngƣời có trình độ từ trung học trở lên[5, tr.474].Năm 1989, cả

nƣớc có 629,255 ngƣời có trình độ cao đẳng, đại học; 9.161 tiến sỹ, phó tiến sỹ và

tƣơng đƣơng [1].

Bƣớc vào thời kỳ đổi mới, đại bộ phận thế hệ trí thức mới đƣợc đào tạo trong

nhà trƣờng XHCN, xuất thân từ công nông, đƣợc chế độ mới đào tạo thành trí thức,

đƣợc giáo dục và rèn luyện qua thực tiễn chiến đầu và lao động sáng tạo trong hoàn

cảnh gian khổ, thiếu thốn. Trải qua thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH đầy khó

khăn do đất nƣớc vừa thoát khỏi chiến tranh, khủng hoảng KT-XH trầm trọng, đa số

trí thức đã thể hiện đƣợc lòng yêu nƣớc, bản chất chính trị vững vàng với Đảng, cách

mạng. Đến năm 1992, cả nƣớc có trên 700 nghìn ngƣời đạt trình độ đại học và cao

đẳng, gần 7.000 phó tiến sỹ và gần 400 tiến sỹ, 2.176 phó giáo sƣ, 459 giáo sƣ trong

đó có những chuyên gia đầu ngành đạt trình độ quốc tế[3].

23

Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, đất nƣớc đã từng bƣớc vƣợt qua những

khó khăn, thách thức trong những năm đầu đổi mới. ĐNTT nƣớc ta tiếp tục đƣợc bổ

sung lực lƣợng mới, số ngƣời có trình độ trung cấp trở lên tăng từ 3,1 triệu ngƣời

(năm 1989) lên khoảng 4 triệu ngƣời (năm 1995). Trong đó, có trên 1,2 triệu ngƣời

có trình độ trung cấp, 700 nghìn ngƣời có trình độ đại học , cao đẳng, gần 10 nghìn

tiến sỹ, phó tiến sỹ và thạc sỹ, Trong tổng số ngƣời có trình độ đại học, cao đẳng, nữ

chiếm 38%, trong tổng số ngƣời có trình độ trên đại học, nữ chiếm 15%[1].

Tâm trạng chung của trí thức tin tƣởng, phấn khởi, thiết tha mong muốn đƣợc

Đảng và Nhà nƣớc tin dùng, tạo môi trƣờng để tự do sáng tạo, đóng góp nhiều hơn

nữa cho công cuộc đổi mới và phát triển đất nƣớc. Số trí thức Việt kiều có nguyện

vọng về nƣớc đóng góp cho đất nƣớc tăng lên. Tuy nhiên, chính sách của Đảng và

Nhà nƣớc về Việt kiều thời gian này vẫn hạn chế nên nhiều kiều bào gặp khó khăn

trong việc quay trở về nƣớc để làm việc.

Sau 10 năm đổi mới, ĐNTT đã có những bƣớc phát triển vƣợt bậc, đóng góp

lớn cho sự phát triển của đất nƣớc. ĐNTT đƣợc quy tụ trong các hội trí thức, các cơ

quan nghiên cứu khoa học, các trƣờng, viện…Vai trò tƣ vấn và phản biện xã hội của

trí thức bƣớc đầu đƣợc đề cập và phát huy tác dụng. Kết quả đạt đƣợc trong công tác

đào tạo, xây dựng ĐNTT những năm đầu đổi mới là khá toàn diện.

Bƣớc sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc, quan điểm của Đảng về

xây dựng ĐNTT tiếp tục nhất quán: Tôn trọng, tôn vinh trí thức, trọng dụng nhân tài

là vốn quý của quốc gia. Coi đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực nói chung, trí thức nói

riêng, là đầu tƣ phát triển.

Cùng với sự phát triển toàn diện của đất nƣớc, trong quá trình đẩy mạnh CNH,

HĐH, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng ĐNTT từng bƣớc

đƣợc thực hiện. ĐNTT tăng nhanh cả về số lƣợng và nâng cao về trình độ, năng lực.

ĐNTT phân bố đồng đều khắp cả nƣớc. Cho đến năm 2005, cả nƣớc có hơn 1.800

nghìn ngƣời có trình độ đại học, cao đẳng, 16 nghìn thạc sĩ, 14 nghìn tiến sĩ và tiến sỹ

khoa học, đạt 210 ngƣời có trình độ cao đẳng trên 1 vạn dân. Số giáo sƣ là 1.131, phó

giáo sƣ là 5.253 [4]. Các Hội trí thức phát triển từ trung ƣơng đến các địa phƣơng, lực

lƣợng nữ trí thức, trí thức trẻ có những bƣớc phát triển đáng kể.

24

ĐNTT phát triển mạnh mẽ đã có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh

tế - xã hội. ĐNTT trong lĩnh vực khoa học cơ bản đã coi trọng việc ứng dụng chuyển

giao các thành tựu khoa học tiên tiến phục vụ sự phát triển sản xuất, bảo vệ môi

trƣờng và đời sống dân sinh; phổ biến khoa học kỹ thuật vào sản xuất. ĐNTT thực

hiện nhiệm vụ phản biện và giám định xã hội cho các cơ quan của Đảng và Nhà

nƣớc. ĐNTT trí thức kiều bảo đã có những đóng góp tích cực cho đất nƣớc.

1.2.2. Những hạn chế của ĐNTT

So với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập

kinh tế quốc tế, bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, ĐNTT còn nhiều bất cập.

ĐNTT còn bộc lộ sự bất cập về chuyên môn, nghiệp vụ. ĐNTT đƣợc đào tạo

về các lĩnh vực chuyên môn còn chƣa cân đối với nhu cầu xã hội. Lực lƣợng trí thức

chiếm tỷ lệ thấp so với dân số, trung bình cả nƣớc có khoảng10.000 ngƣời tốt nghiệp

đại học trên 1 triệu dân (chỉ số đó ở Singapore là 16.000, Hàn Quốc là 52.000, Nhật

Bản là 70.000) [1].

ĐNTT phân bố không đồng đều giữa các vùng miền, tập trung chủ yếu ở các

thành phố lớn, trong số những ngƣời có trình độ đại học trở lên thì 90% tập trung ở

các trƣờng đại học, các cơ quan Trung ƣơng và các thành phố lớn. ĐNTT tập trung ở

Hà Nội chiếm 20%, ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 14% trí thức của các nƣớc,

trong khi đó số trí thức của tỉnh Sơn La chỉ là 0,57%, tỉnh Lai Châ chỉ là 0,27% [44,

tr.147-148]. Những vùng cần trí thức để phát triển KT- XH thì còn rất thiếu. Đặc biệt

là vùng sâu, vùng xa, lực lƣợng trí thức, nhất là trí thức có trình độ cao vẫn còn rất ít,

chất lƣợng chƣa đáp ứng đƣợc với nhu cầu của thực tiễn sản xuất và đời sống.

Hiện tƣợng lão hóa và hẫng hụt đội ngũ kế cận tƣơng lai xảy ra phổ biến ở các

cơ quan nghiên cứu. Đây là nguy cơ lớn đối với sự phát triển đất nƣớc. Tại các viện,

trung tâm nghiên cứu khoa học năm 1995, tuổi trung bình của trí thức có học hàm,

học vị là trên 50 tuổi: Tiến sỹ là 52,8 tuổi, phó giáo sƣ là 56,4 tuổi và giáo sƣ là 59,9

tuổi[7, tr.18].

Trong công tác đào tạo còn nhiều bất cập, đào tạo không gắn với thực tế nên đã

gây lãng phí lớn cho ngân sách Nhà nƣớc. Có đến 63% sinh viên tốt nghiệp không có

25

việc làm, số ngƣời có việc làm thì nhiều ngƣời không đáp ứng đƣợc với yêu cầu

công việc hoặc phải đào tạo lại từ 1 đến 2 năm [29].

Bên cạnh những trí thức có tâm huyết gắn bó với nghề, với sự phát triển của

đất nƣớc thì không ít những trí thức giỏi về trình độ chuyên môn nhƣng trách nhiệm

xã hội và đạo đức bị suy giảm, gây những hệ lụy xấu cho xã hội.

Tiểu kết chƣơng 1

Trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến năm 2006, nhìn

chung Đảng luôn quan tâm xây dựng ĐNTT, tuy nhiều lúc, nhiều nơi tình trạng coi

nhẹ trí thức còn diễn ra. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, ĐNTT đã từng bƣớc phát triển,

gắn trách nhiệm của mình vào nhiệm vụ chung của toàn dân tộc, cùng với toàn thể

nhân dân làm nên những thắng lợi vẻ vang cho dân tộc, đƣa dân tộc thoát khỏi chiến

tranh, giành độc lập, cả nƣớc đi lên xây dựng XHCN trên phạm vi toàn quốc.

Trong những năm Đổi mới, Đảng đã từng bƣớc đổi mới trong công tác xây

dựng ĐNTT, Đảng đặt đội ngũ trí thức vào liên minh công nhân – nông dân – trí thức

làm nền tảng. Các chủ trƣơng chính sách của Đảng đối với trí thức đƣợc tăng cƣờng.

Những chủ trƣơng, chính sách của Đảng về công tác trí thức từng bƣớc đƣợc cụ thể

hóa trong thực tiễn, ĐNTT không ngừng phát triển, có những đóng góp lớn cho sự

phát triển của đất nƣớc.

Tuy đã có những chính sách để xây dựng đội ngũ trí thức, nhƣng chƣa đồng

đều, nhiều chủ trƣơng, chính sách chậm đi vào thực tiễn, ở nhiều nơi các cấp ủy Đảng

còn coi nhẹ. Chính những hạn chế đó, đã dẫn tới những yếu kém trong ĐNTT.

Đứng trƣớc yêu cầu của thực tiễn đặt ra, trƣớc yêu cầu của công cuộc công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là nền kinh tế trí

thức đang dần mở rộng trên phạm vi toàn cầu đã đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết,

trong đó có nhiệm vụ cần xây dựng đƣợc ĐNTT trí thức thực sự lớn mạnh để đƣa đất

nƣớc hòa nhịp cùng thời đại.

26

27

Chƣơng 2

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐẨY MẠNH CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƢỚC

(2006-2013)

2.1. CHỦ TRƢƠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỪ NĂM 2006

ĐẾN NĂM 2013

2.1.1. Những yếu tố tác động đến chủ trƣơng của Đảng trong công tác xây

dựng đội ngũ trí thức

Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nƣớc trải qua 20 năm đã đƣa đất nƣớc ra khỏi

tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, công cuộc đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc tiếp tục đạt đƣợc những thành quả đáng ghi nhận.

Tình hình kinh tế chính trị - xã hội ổn định, uy tín và vị thế của đất nƣớc trên trƣờng

quốc tế đƣợc nâng cao.

Trên thế giới nền kinh tế đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri

thức, đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên

thiên nhiên, lao động tay chân sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức con ngƣời.

Đó là nền kinh tế trong đó sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ

yếu của sự tăng trƣởng, tạo ra của cải, việc làm trong tất cả các ngành kinh tế. Sự

xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức là một bƣớc nhảy vọt về chất của lực lƣợng

sản xuất và nền văn minh nhân loại. Tỷ trọng của cải tri thức trong tài sản quốc gia

của các nƣớc cũng ngày càng gia tăng. Vai trò cốt lõi là tri thức và công nghệ trong

mối quan hệ hữu cơ với đội ngũ trí thức ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự

phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.

Nƣớc ta đi vào CNH, HĐH trong quá trình hội nhập với thế giới theo xu thế

toàn cầu hóa. Các nƣớc đi trƣớc ta phải mất hàng trăm năm cho quá trình này. Các

nƣớc khu vực quanh ta cũng mất hàng nửa thế kỷ. Là ngƣời đi sau, chúng ta có nhiều

cơ hội rút ngắn quá trình đó.

Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra trƣớc mắt

chúng ta nhiều yêu cầu, đòi hỏi, điều kiện, trong đó có yêu cầu đặc biệt quan trọng là

phát triển nguồn lực con ngƣời - yếu tố vừa giữ vai trò nhƣ động lực, phƣơng tiện để

28

đạt đƣợc mục đích, vừa đồng thời là mục đích hƣớng tới của cuộc cách mạng xã hội

chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển ĐNTT là một phần quan trọng, không thể thiếu của

yếu tố nguồn lực con ngƣời. Yêu cầu đặt ra là phải có chiến lƣợc, quy hoạch, giải

pháp thích hợp và tập trung đủ các nguồn lực cần thiết để xây dựng đội ngũ trí thức

mạnh cả về số lƣợng và chất lƣợng; phải phát huy đƣợc những tiềm lực là tinh hoa

của đội ngũ đó, phải thông qua đội ngũ trí thức để tiếp cận nhanh chóng với tri thức

và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nền kinh tế, tạo ra sự chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hƣớng từng bƣớc hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức,

phải giáo dục, rèn luyện để ĐNTT thực sự yêu nƣớc, yêu chế độ, nhận thức đƣợc đầy

đủ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2.1.2. Quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức đáp

ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc (2006-2013)

Quan điểm nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thứcngày càng phù

hợp với yêu cầu của thực tiễn Việt Nam hơn. Trong giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh quá

trình CNH, HĐH đất nƣớc, tƣ duy của Đảng về xây dựng ĐNTT đã có những phát

triển mới. Đảng đã có sự kết hợp khéo léo giữa khoa học và tâm lý để đƣa ra hệ thống

quan điểm và chủ trƣơng xây dựng ĐNTT, đƣợc thể hiện ở một số điểm sau:

Thứ nhất, Đảng tiếp tục đánh giá cao vị trí và vai trò của ĐNTT trong công

cuộc đổi mới đất nước, chủ trương hoàn thiện môi trường và tạo điều kiện thuận lợi

cho hoạt động của ĐNTT.

Đổi mới toàn diện đất nƣớc thực sự là một cuộc cách mạng, yêu cầu tất yếu,

đòi hỏi Đảng phải tập hợp và phát huy mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực trí thức có

vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là trong bối KH-CN đã trở thành lực lƣợng sản xuất

chủ yếu nhƣ hiện nay. Tại Đại hội X của Đảng, Đảng đặt vấn đề rõ ràng về sử dụng

trí thức và trọng dụng nhân tài: “Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà

khoa học đầu ngành, tổng công trình sƣ, kỹ sƣ trƣởng, kỹ thuật viên lành nghề và

công nhân kỹ thuật có tay nghề cao”[22, tr.212].

Theo định hƣớng Đại hội X của Đảng, để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc, nƣớc

ta cần phải: “Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi

thế của nƣớc ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa; hiện đại hóa đất nƣớc theo định

29

hƣớng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triền kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu

tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển mạnh các

ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào trí thức” [22,

tr.28-29].

Đƣờng lối gắn quá trình CNH, HĐH với nền kinh tế trí thức, phát triển mạnh

mẽ KH-CN và tăng cƣờng phát triển GD-ĐT thì việc trí thức hóa nguồn lực lao động

sẽ diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn xã hội cũng nhƣ trong mọi lực lƣợng tham gia

vào quá trình sản xuất. Hơn lúc nào hết đội ngũ trí thức cần phát huy vai trò to lớn

của mình trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

Về vị trí của ngƣời trí thức trong CNH, HĐH, phát triển kinh tế trí thức, từ Đại

hội lần thứ VIII của Đảng (6–1996) đã xác định nền tảng của khối đại đoàn kết dân

tộc là khối liên minh công nhân - nông dân – trí thức thay cho trƣớc đây chỉ dừng lại

là liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân.

Đến Đại hội X (4 – 2006) đã nâng lên tầm chiến lƣợc đại đoàn kết dân tộc trên

nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dƣới

sự lãnh đạo của Đảng là đƣờng lối chiến lƣợc của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức

mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền

vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát triển quan điểm của Đại hội X, Nghị quyết 7 của Ban Chấp hành Trung

ƣơng Đảng khóa X đã xác định cụ thể hơn vị trí và vai trò của trí thức trong giai đoạn

hiện nay: “Trí thức Việt Nam là lực lƣợng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong

tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc tế, xây

dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam, tiên tiến đậm đà bản sắc dân

tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức

mạnh của đất nƣớc, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lƣợng hoạt động của

hệ thống chính trị. Đầu tƣ xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tƣ cho phát triển bền vững

[26, tr.85].

Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 7, khóa X (tháng 7 – 2008) về xây dựng đội

ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Đây là lần đầu

tiên, Đảng có một nghị quyết riêng về vấn đề trí thức, một bƣớc tiến lớn của Đảng về

30

lý luận và thực tiễn trong việc giải quyết vấn đề trí thức. Đảng đã không chỉ coi trí

thức là một tầng lớp phối thuộc, mà đã ngang hàng với vấn đề công nhân và nông dân

trong bộ ba tạo nên khối liên minh vững chắc của đại đoàn kết dân tộc.

Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa X về xây dựng

đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc đã vạch ra hệ thống quan

điểm, chủ trƣơng toàn diện của Đảng về trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức.

Trong chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, Đảng chủ trƣơng:

“Đổi mới công tác cán bộ của Đảng và Nhà nƣớc, quy định rõ trách nhiệm của các cơ

quan quản lý trong việc tiến cử và sử dụng cán bộ trí thức, khắc phục tình trạng hành

chính hóa, thiếu công khai, minh bạch trong khâu tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ

nhiệm cán bộ quản lý. Xây dựng và thực hiện cơ chế tạo điều kiện để trí thức phát

triển bằng chính phẩm chất, tài năng và những kết quả cống hiến của mình cho đất

nƣớc”[26, tr.93].

Đảng đã đƣa ra cơ chế quản lý ĐNTT phù hợp với đặc tính riêng của lao động

trí óc. Đó là mở rộng dân chủ, phát huy tự do tƣ tƣởng trong các hoạt động nghiên

cứu lý luận, nghiên cứu khoa học ở các tập thể khoa học. Tạo điều kiện rộng rãi để

đội ngũ trí thức trao đổi học thuật, tiến hành phản biện có chất lƣợng các yêu cầu

khoa học và lý luận. Đảng khẳng định: “Đối với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực,

mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức,

các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng

đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nƣớc. Coi trọng vai

trò tƣ vấn, phản biện của các hội khoa học – kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học,

nghệ thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội” [22,tr.119].

Nghị quyết 7 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng đã chỉ rõ là: “Thực hành dân

chủ, tôn trọng và phát huy quyền tự do tƣ tƣởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo

của trí thức vì mục tiêu dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Tạo môi trƣờng và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng

dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có

chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nƣớc” [26, tr.91].

31

Tiếp tục chủ trƣơng trọng dụng trí thức trong Nghị quyết Đại hội X và Nghị

quyết 7 Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa X , trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI,

Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lƣợng cao; tôn trọng,

phát huy tự do tƣ tƣởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo; coi trọng vai trò tƣ

vấn, phản biện của các cơ quan khoa học trong việc hoạch định đƣờng lối, chính sách

của Đảng, Nhà nƣớc; gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nƣớc. Có chính sách trọng

dụng trí thức, đặc biệt đối với nhân tài của đất nƣớc” [27,tr.49].Văn kiện Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định phát triển nhanh nguồn nhân lực,

nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao là một trong ba khâu đột phá quan trọng của

chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020. Chiến lƣợc phát triển nguồn

nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, đã xác định mục tiêu “Đƣa nhân lực Việt Nam

trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển bền vững đất nƣớc, hội nhập

quốc trế và ổn định xã hội, nâng cao trình độ năng lực cạnh tranh của nhân lực nƣớc ta lên

mức tƣơng đƣơng các nƣớc tiên tiến trong khu vực, trong đó một số mặt tiếp cận trình độ

phát triển trên thế giới” [31, tr.78].

Hai là, chủ trươngtiếp tục đẩy mạnh toàn diện trong đào tạo, bồi dưỡngĐNTT.

Vấn đề trí thức liên quan chặt chẽ đến GD-ĐT. Vì vậy, muốn nâng cao chất

lƣợng đội ngũ trí thức, trƣớc hết phải nâng cao chất lƣợng giáo dục và đào tạo. Dựa

trên cơ sở quan điểm tƣ tƣởng Hồ Chí Minh: “Học để làm việc, học để làm ngƣời,

làm cán bộ” [43, tr.208]. Đảng nhận thức sâu sắc và đánh giá cao vai trò GD-ĐT,

KH-CN đối với phát triển ĐNTT.

Đảng xác định giáo dục và đào tạo là cơ sở để tạo ra những nhà trí thức, nhà

khoa học, nhà giáo, nhà thiết kế, các chuyên gia, tổng công trình sƣ. Đại hội X xác

định: “Về giáo dục và đào tạo chúng ta phấn đấu để cùng với khoa học và công nghệ

thực sự là quốc sách hàng đầu, thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo,

phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao, chấn hƣng nền giáo dục Việt Nam”[22,

tr.34].

Tiến hành đổi mới giáo dục một cách cơ bản, từ cơ cấu lại hệ thống đào tạo, tới

nội dung chƣơng trình, phƣơng pháp dạy và học tích cực theo hƣớng phát triển tƣ

duy, tính độc lập sáng tạo, tính liên kết phối hợp, đào tạo theo nhu cầu xã hội, nhu

32

cầu của thị trƣờng lao động. Coi đào tạo đại học, đào tạo nghề là thị trƣờng đào tạo

để có cơ chế chính sách đầu tƣ đào tạo từ cá nhân, gia đình đến xã hội

Chủ trƣơng phát triển mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động KH-CN với GD-

ĐT để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh CNH,

HĐH và phát triển kinh tế tri thức. Thống nhất định hƣớng giữa phát triển KH-CN

với chấn hƣng GD-ĐT, phát huy quan hệ tƣơng tác thúc đẩy nhau giữa hai lĩnh vực

quốc sách hàng đầu.

Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ƣơng lần thứ 7 khóa X, tiếp tục nhấn mạnh

tầm quan trọng của công tác giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đối với phát

triển ĐNTT.

Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012, của Đảng “Về phát triển khoa học

và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh

tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”, đã nêu rõ

cùng với GD-ĐT, KH-CN là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã

hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ

nghĩa xã hội. CNH, HĐH đất nƣớc phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ.

Đảng và Nhà nƣớc có chính sách đầu tƣ khuyến khích, hỗ trợ phát triển khoa học và

công nghệ. KH-CN là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành,

các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế và củng cố quốc phòng – an

ninh. Khoa học và công nghệ gắn với giáo dục và đào tạo, khoa học tự nhiên và kỹ

thuật gắn với khoa học xã hội và nhân văn. Phát triển khoa học và công nghệ là sự

nghiệp cách mạng của toàn dân. Phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng,

của các tập thể khoa học và công nghệ, của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế,

các tổ chức chính trị - xã hội và của mỗi công dân trong hoạt động khoa học, công

nghệ.

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ƣơng 8 khóa XI.

Nghị quyết nhấn mạnh giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của

Đảng, Nhà nƣớc và của toàn dân. Đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ phát triển, đƣợc ƣu

tiên đi trƣớc trong các chƣơng trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới căn

bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ

33

quan điểm, tƣ tƣởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phƣơng pháp, cơ chế, chính

sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của

Nhà nƣớc đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia

của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân ngƣời học; đổi mới ở tất cả các bậc học,

ngành học.

Balà, chủ trương xây dựng đội ngũ trí thức trẻ- lực lượng kế cận tương lai.

Coi trọng hơn nữa việc trọng dụng tài năng trẻ,tạo bƣớc chuyển có tính đột phá

trong bố trí và sử dụng cán bộ trẻ trên tất cả các lĩnh vực. Đảng đã ra nhiều nghị

quyết tăng cƣờng công tác lãnh đạo đối với công tác thanh niên trong đó có lực lƣợng

trí thức trẻ. Đảng xác định chủ trƣơng xây dựng thế hệ trẻ trong Văn kiện Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ X: “Đối với thế hệ trẻ, thƣờng xuyên giáo dục chính trị, truyền

thống, lý tƣởng, đạo đức và lối sống, tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát

triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khuyến khích thanh niên

tự học, tự nâng cao tay nghề, tự tạo việc làm”[22, tr.120].

Vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức trẻ đƣợc Đảng nhấn mạnh rõ hơn trong Nghị

quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hànhTrung ƣơng (khóa X) “Về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa”, ngày 25-7-2008, tạo cơ chế chính sách công bằng, thuận lợi để mọi tài năng trẻ

đều đƣợc tham gia phát triển đất nƣớc; bố trí cán bộ trẻ có tài năng đảm nhận các

nhiệm vụ quan trọng, phù hợp trong hệ thống chính trị, nâng cao tỉ lệ cán bộ trẻ trong

các cơ quan lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành. Tạo bƣớc đột phát trong việc bố trí,

sử dụng cán bộ trẻ cán bộ trong độ tuổi thanh niên ở tất cả các cấp, coi đây là một nội

dung quan trọng về công tác cán bộ của Đảng để lựa chọn cán bộ lãnh đạo cho tƣơng

lai…

Bốn là, chủ trương phát triển đội ngũ nữ trí thức. Nữ trí thức là một bộ phận

tinh hoa của phụ nữ thuộc mọi dân tộc.

Đội ngũ nữ trí thức Việt Nam ngày càng phát huy vai trò và khẳng định chỗ

đứng vững chắc của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và

hội nhập quốc tế. Đại hội X, Đảng khẳng định: “Bồi dƣỡng, đào tạo để phụ nữ tham

34

gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các

cấp[22, tr.120].

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HÐH

đất nƣớc, Ðảng ta đã ban hành hai nghị quyết quan trọng, đó là Nghị quyết số 11-

NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HÐH đất nước” và Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6-8-2008 của Hội nghị

Trung ƣơng bảy (khóa X) “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HÐH đất nước”. Điều này thể hiện Ðảng coi trọng vai trò, vị trí của phụ nữ,

của các nữ trí thức, tạo tiền đề cho việc xây dựng các chủ trƣơng, chính sách để phát

triển đội ngũ trí thức nói chung và đội ngũ nữ trí thức nói riêng cả về số lƣợng và chất

lƣợng; phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp CNH, HÐH, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi

lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị “Về công

tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước”, Đảng khẳng định:

Ðến năm 2020, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán bộ

lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa.

Xây dựng, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện tốt các chính sách nhằm phát

triển cán bộ nữ trong nghiên cứu khoa học, trong lãnh đạo, quản lý. Có chính sách cụ

thể về quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng, bổ nhiệm, luân chuyển đối với cán bộ nữ, đặc

biệt quan tâm cán bộ nữ là trí thức, công nhân, ngƣời dân tộc thiểu số, tôn giáo. Có

chính sách đặc thù đối với cán bộ nữ công tác ở vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải

đảo, là ngƣời dân tộc thiểu số, cán bộ nữ đi học có con nhỏ.

Đại hội XI, Đảng tiếp tục khẳng định công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ

nữ: “Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số” [27,

tr.59].

Năm là, chủ trương xây dựng ĐNTT văn nghệ sỹ, tiếp tục mở rộng dân chủ để

phát huy năng lực, sở trường của mỗi người văn nghệ sỹ.

35

Đội ngũ trí thức hoạt động trong lĩnh vực văn hóa đã góp phần không nhỏ vào

tôn vinh và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, giáo dục truyền thống lịch

sử, đóng góp vào quá trình dân chủ hóa xã hội.

Tại Đại hội X, Đảng chủ trƣơng: “Bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi hoạt động

sáng tạo văn hóa, văn học,nghệ thuật đi đôi trách nghiệm công dân của văn nghệ sĩ. Có

chính sách trọng dụng các tài năng văn hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của

văn nghệ sĩ. Đẩy mạnh hoạt động lý luận–phê bình văn học nghệ thuật. Đổi mới nội

dụng phƣơng thức hoạt động và cơ cấu tổ chức của các hội văn học nghệ thuật từ trung

ƣơng đến địa phƣơng [22, tr.107–108].

Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị “Về

tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, tiếp tục khẳng

định tài năng văn học, nghệ thuật và vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện, bồi

dƣỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm của

toàn xã hội, trƣớc hết là của Đảng, Nhà nƣớc và của các tổ chức trong hệ thống chính

trị các cấp.

Sáu là, chủ trương xây dựng ĐNTT dân tộc thiểu số. ĐNTT người dân tộc thiểu

số

Đảng và Nhà nƣớc chăm lo, bồi dƣỡng phù hợp với hoàn cảnh riêng của từng

dân tộc và chung của cả nƣớc. Tuy chƣa có nghị quyết riêng về xây dựng ĐNTT

ngƣời dân tộc thiểu số nhƣng trong các nghị quyết Đại hội Đảng và nghị quyết Hội

nghị trung ƣơng, Đảng chú trọng đến công tác phát triển đội ngũ trí thức này. Đại hội

X, Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện chính sách ƣu tiên trong đào, bồi dƣỡng cán bộ, trí

thức là ngƣời dân tộc thiểu số…chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân

tộc”[22, tr.122].

Bảy là, chủ trương tạo điều kiện để trí thức Việt Nam ở nước ngoài và trí thức

nước ngoài trở về và đến Việt Nam làm việc.

Hiện nay, số ngƣời Việt Nam định cƣ, công tác và làm việc ở nƣớc ngoài

tƣơng đối lớn, trong đó có nhiều ngƣời có trình độ cao, nắm giữ những vị trí quan

trọng trong các tổ chức khoa học, các trƣờng đại học, viện nghiên cứu có uy tín trên

rất nhiều nƣớc. Đây là một nguồn lực có giá trị đối với phát triển của đất nƣớc.

36

Đảng rất chú trọng đến công tác khuyến khích ĐNTT Việt Kiều quay trở về

nƣớc làm việc và kêu gọi trí thức nƣớc ngoài đến làm việc tại đất nƣớc ta. Những chủ

trƣơng này của Đảng đƣợc ghi rõ tại các nghị quyết Đại hội và các nghị quyết Hội

nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng. Trong Báo cáo Chính trị của Đại hội X, Đảng ghi

rõ: “Có chính sách khuyến khích ngƣời Việt Nam, trí thức Việt Nam ở nƣớc ngoài về

quê hƣơng, góp phần xây dựng đất nƣớc; khen thƣởng những ngƣời có nhiều thành

tích cho đất nƣớc” [22, tr.123].

Sau khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 7, Chính phủ tiếp tục có Chỉ thị số

19/2008/CT-TTg, ngày 6-6-2008, về việc tiếp tục tăng cƣờng triển khai Chƣơng trình

hành động của Chính phủ về công tác đối với ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài.

Các văn kiện trên đều khẳng định ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài là một bộ

phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, tiềm lực của

cộng đồng ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài, đặc biệt là về khoa học và công nghệ, về

vốn, về khả năng tạo các mối quan hệ giữa các tổ chức và cá nhân ở nƣớc ngoài với

nƣớc ta là một lợi thế và một nguồn lực quan trọng cần phải phát huy để bổ sung và

hỗ trợ cho sự phát triển đất nƣớc.

2.2. QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG

TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỌI NGŨ TRÍ THỨC.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, XI và các Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng

về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng ĐNTT của Đảng, Nhà nƣớc

đã cụ thể hóa các chủ trƣơng bằng các văn bản pháp luật, các chƣơng trình hoạt động

của các bộ, ban, ngành liên quan trong đó nổi bật là các văn bản liên quan đến giáo

dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xác định rõ vị trí, vai trò quan trọng của giáo

dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đối với phát triển ĐNTT, có những chính sách

khuyến khích, thu hút trí thức Việt kiều, trí thức nƣớc ngoài đến làm việc và đóng

góp cho đất nƣớc.

37

2.2.1. Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức tiếp

tục đƣợc cụ thể hóa, pháp chế hóa bằng các chính sách, văn bản pháp luật

Một số bộ luật đƣợc Quốc hội ban hành trƣớc đó nhƣ Luật Sở hữu trí tuệ, Luật

Khoa học và Công nghệ đến nay đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn với thực tế

đất nƣớc trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc. Luật Giáo dục đại học đƣợc

ban hành, nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục và đào tạo nhƣ đào tạo nhân lực, nâng

cao dân trí, bồi dƣỡng nhân tài. Đặc biệt, điều 32 về quyền tự chủ của cơ sở giáo dục

đại học cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh

vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp

tác quốc tế, bảo đảm chất lƣợng giáo dục đại học. Sự kiện này đƣợc xem là một

bƣớc tiến quan trọng trong quan điểm quản trị đại học của Nhà nƣớc Việt Nam nói

chung và Bộ Giáo dục nói riêng, vì đây là lần đầu tiên quyền tự chủ của trƣờng đại

học đƣợc đƣa vào văn bản pháp luật.

Thực hiện mục tiêu xã hội hóa giáo dục, nhiều chính sách của Nhà nƣớc đƣợc

triển khai mạnh mẽ trong thực tế để khuyến khích mọi ngƣời dân tham gia học tập để

nâng cao dân trí, bồi dƣỡng nhân tài. Tạo ra phong trào học tập sâu rộng trong xã hội

với nhiều hình thức khác nhau, các cấp, các ngành và toàn dân đã tăng cƣờng trách

nhiệm của mình đối với sự nghiệp giáo dục, huy động các lực lƣợng tham gia vào quá

trình đa dạng hóa các hình thức học tập và các loại hình nhà trƣờng; huy động xã hội

đầu tƣ các nguồn lực cho giáo dục và đào tạo. Đặc biệt, để hỗ trợ cho những học sinh

nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, con em của gia đình chính sách, có công với cách

mạng, Nhà nƣớc đã ban hành các chính sách miễn giảm học phí, cấp học bổng

khuyến khích…đƣợc thực hiện hàng năm.

Chính sách về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập là một trong những

chính sách lớn đang đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta quan tâm hiện nay, vì nó thể hiện

đƣợc sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc ta đối với công tác giáo dục, đào tạo. Cụ

thể hóa chủ trƣơng xã hội hóa giáo dục, Chính phủ đã đƣa ra Nghị định số

49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về miễn, giảm học phí, hỗ

trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ

thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015 và Nghị

38

định số 74/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều

của Nghị định số 49/2010/NĐ-CP. Hai Nghị định này của Chính phủ đã nhận đƣợc

sự đồng thuận và ủng hộ mạnh mẽ từ phía ngƣời dân.

Xây dựng ĐNTT phát triển đồng đều ở tất cả các vùng miền trong cả nƣớc, đặc

biệt là ĐNTT ngƣời dân tộc thiểu số là một trong những chủ trƣơng quan trọng của

Đảng để đào tạo ra đƣợc nguồn nhân lực chất lƣợng cao phục vụ sự phát triển kinh tế

- xã hội của vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nâng cao dân trí cho dân tộc

thiểu số. Nhiệm vụ nặng nề đó đƣợc giao cho những ngƣời trí thức của chính các dân

tộc thiểu số. Ngày 14/11/2006, Thủ tƣớng Chính phủ đã ký ra Nghị định số

134/2006/NĐ-CP “Về Quy định chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại

học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân”.

Nhằm mở rộng hợp lý quy mô đào tạo đại học, đáp ứng yêu cầu của công

nghiệp hóa và hiện đại hóa; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và tiềm lực khoa

học công nghệ của đất nƣớc; góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và

đào tạo nhân tài; thực hiện điều chỉnh cơ cấu hệ thống đào tạo nguồn nhân lực, nâng

cao chất lƣợng và hiệu quả đào tạo, thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội; gắn công

tác đào tạo với nghiên cứu khoa học và đời sống xã hội, Chính phủ đã ra Quyết định

số 121/2007/QĐ-TTg, ngày 27 – 7 – 2007 “Về quy hoạch mạng lƣới các trƣờng đại

học cao đẳng”đã đƣợc triển khai rộng rãi khắp cả nƣớc. Nhiều định hƣớng phát triển

giáo dục đại học đƣợc nghiên cứu và áp dụng.

Nhiều chỉ thị, chƣơng trình hành động của Chính phủ để cụ thể chủ trƣơng của

Đảng trong phát triển GD-ĐT đặc biệt là đào tạo đại học, cao đẳng. Ngày 27 – 2 –

2010 Thủ tƣớng Chính Phủ đã ra Chỉ thị số 296/CT- TTg: “Về đổi mới quản lý giáo

dục đại học giai đoạn 2010 – 2012”, đánh giá tổng quát về tình hình giáo dục đại học

ở nƣớc ta hiện nay là từ khi thực hiện đƣờng lối đổi mới, dƣới sự lãnh đạo của Đảng,

với nỗ lực to lớn của toàn dân tộc, nƣớc ta đã phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh

vực, trong đó có giáo dục và đào tạo.

Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 35/2009/QH12 về chủ trƣơng, định hƣớng

đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010 - 2011

đến năm học 2014 - 2015.

39

Để hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ đƣợc phát triển mạnh mẽ, có

giá trị pháp lý cao, ngày 6-4-2007, Bộ trƣởng Bộ Khoa học và Công nghệ đã ra Quyết

định số 08/2007/QĐ-BKHCN về việc ban hành quy định và tiêu chuẩn xác định tổ

chức khoa học và công nghệ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lƣợc và chính sách

phục vụ quản lý nhà nƣớc; Quyết định số 11/2007/QĐ-BKHCN ngày 4-6-2006 của

Bộ trƣởng Bộ Khoa học và Công nghệ về việc ban hành quy định tuyển chọn, xét

chọn tổ chức cá nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học, xã hội và nhân văn cấp

nhà nƣớc và Quyết định số 10/2007/QĐ-BKHCN ngày 11-5-2007 của Bộ trƣởng Bộ

Khoa học và Công nghệ về việc ban hành quy định tuyển chọn, xét chọn tổ chức cá

nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp nhà nƣớc.

Hiện nay, Đảng và Nhà nƣớc luôn dành sự quan tâm đến đội ngũ cán bộ làm

khoa học. Một số văn bản về vấn đề này đã đƣợc ban hành, trong đó có Quyết định số

174/2008/QĐ-TTg, ngày 31-12-2008, của Thủ tƣớng Chính phủ quy định tiêu chuẩn,

thủ tục bổ nhiệm chức danh, phó giáo sƣ. Từng nhiệm kỳ, Thủ tƣớng Chính phủ đều

ra quyết định thành lập Hội đồng chức danh giáo sƣ nhà nƣớc. Bộ Giáo dục và Đào

tạo cũng đã ra quyết định số 3932/QĐ-BGDĐT, ngày 2-6-2009, về việc ban hành

Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng chứ danh giáo sƣ nhà nƣớc, các hội đồng

chức danh giáo sƣ ngành, liên ngành và Hội đồng chức danh giáo sƣ cơ sở.

Để khắc phục tình trạng “công trình tập thể” đã diễn ra trong nghiên cứu khoa

học nhiều năm, Chính phủ đã ra Nghị định 115/2005/NĐ-CP, ngày 5-9-2005 giao

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho thủ trƣởng các cơ quan, doanh nghiệp khoa

học công nghệ công lập. Để Nghị định 115 có giá trị thực tiễn, phù hợp với thực tiễn,

Chính phủ đã ra Nghị định số 96/2010/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 09 năm 2005 của Chính phủ quy định

cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập và

Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ về doanh

nghiệp khoa học và công nghệ. Đây là một chủ trƣơng đúng đắn, mang tính đột phá

trong hoạt động khoa học-công nghệ đƣợc nhiều cơ quan, ban, ngành, địa phƣơng và

các tổ chức khoa học-công nghệ tích cực triển khai thực hiện. Tuy nhiên, việc thực

40

hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm chƣa thực sự đi vào cuộc sống và có phần

chậm trễ.

Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 16-4-2010 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới,

nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật

Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”. Ngày

25/6/2010, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng đã ra Thông báo 353-TB/TW giao nhiệm vụ

cho Ban Cán sự Đảng các bộ, ban, ngành phối hợp với Đảng đoàn Liên hiệp hội Việt

Nam xây dựng năm đề án triển khai thực hiện Chỉ thị 42-CT/TW, với thời hạn báo

cáo là quý II và quý III trong năm 2011.

Những văn bản trên thể hiện tinh thần đổi mới và những nhận thức sâu sắc của

Đảng và Nhà nƣớc về tầm quan trọng phải tập hợp và phát huy cao nhất trí tuệ của

ĐNTT cho công cuộc CNH, HĐH đất nƣớc, đặc biệt là đẩy mạnh nền kinh tế trí thức.

Việc đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ đã từng bƣớc giải phóng tiềm

năng, phát huy tính chủ động của ĐNTT trong nghiên cứu khoa học.

Đối với đội ngũ trí thức nữ, Đảng và Nhà nƣớc đã thể hiện sự quan tâm của

mình, Luật Bình Đẳng Giới Quốc hội Nƣớc Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá XI, Kỳ

họp thứ 10 thông qua ngày 21/11/2006 có ghi “Đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao năng lực

cho lao động nữ” (Điều 13. Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động). Chính phủ đã

ban hành Chiến lƣợc quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, trong đó mục

tiêu 1 về “Tăng cƣờng sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm

từng bƣớc giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị”. Với mục tiêu tăng tỷ

lệ lao động nữ đƣợc đào tạo nghề và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả sức cạnh tranh

của lao động nữ, đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng lao động, góp phần tăng sức cạnh

tranh của nguồn nhân lực; tạo điều kiện để phụ nữ có thể tìm kiếm việc làm thu nhập

ổn định, giúp xóa đói, giảm nghèo và nâng cao vị thế cho phụ nữ…Chính phủ đã có

đề án quy mô lớn về “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015”,

giao cho Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ban, ngành

thực hiện.

Nhằm khuyến khích đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ tham gia vào phát triển kinh tế

xã hội đƣợc tốt hơn, Đảng và Chính phủ đã xem xét việc hỗ trợ đối với các nhân sĩ, trí

thức, văn nghệ sĩ tiêu biểu có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. Kết luận số 59- 41

KL/TW, ngày 9/4/2013 “về việc thực hiện việc hỗ trợ cho các đối tƣợng với các nhân sĩ,

trí thức, văn nghệ sĩ tiêu biểu có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống” với mức hỗ trợ

hàng tháng và mỗi lần hỗ trợ bằng 2,0 mức lƣơng tối thiểu chung, ngoài ra, còn có chế độ khám chữa bệnh theo tiêu chuẩn lãnh đạo cấp vụ đối với các trƣờng hợp không là

lãnh đạo cấp vụ…

Trong lĩnh vực văn hóa, Quyết định số 958/QĐ-TTG của Thủ tƣớng Chính phủ

phê duyệt Đề án "Xây dựng đội ngũ trí thức ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến

năm 2020", với mục tiêu phấn đấu xây dựng đội ngũ trí thức ngành Văn hóa, Thể

thao và Du lịch đảm bảo chất lƣợng, đủ số lƣợng, đồng bộ về cơ cấu; có trình độ

chuyên môn cao và năng lực thực tiễn; có khả năng tiếp cận, làm chủ và chuyển giao

khoa học công nghệ tiên tiến, sáng tạo và truyền bá tinh hoa dân tộc và thế giới trong

lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, gia đình, thể dục thể thao và du lịch nói riêng và đời

sống xã hội nói chung; sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa nghệ thuật có chất lƣợng,

đạt đƣợc đỉnh cao nghệ thuật, kỷ lục thể thao quốc gia và quốc tế, thu hút nhiều

khách du lịch; không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lƣơng

tâm, tay nghề đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa và phát triển nền kinh tế tri thức của đất nƣớc.

2.2.2.Trong công tác đào tạo và bồi dƣỡng và sử dụng, phát triểnđội ngũ

trí thức

Chính sách đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đƣợc cải thiện.

Đảng và Nhà nƣớc đã có chính sách đào tạo, bồi dƣỡng giáo viên, chính sách sử dụng

và đãi ngộ, chính sách tiền lƣơng mới. Trong hệ thống cơ chế, chính sách tuyển chọn,

bố trí và sử dụng cán bộ đƣợc từng bƣớc bổ sung, điều chỉnh, ít nhiều tạo điều kiện cho

cán bộ quản lý, giáo dục công tác thuận lợi.

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội X và các Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ƣơng

Đảng, Nhà nƣớc đã đƣa ra các chƣơng trình, đề án nhằm xây dựng ĐNTT trên mọi

lĩnh vực.

Thực hiện Nghị quyết số 14/2005/NQ–CP của Chính Phủ “Về đổi mới cơ bản

và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam, giai đoạn 2006 – 2020”, nhiều đề án và

chƣơng trình đƣợc thực hiện nhằm thực hiện đƣợc các mục tiêu củaNghị quyết đề ra.

42

Để phát triển và nâng cao hoạt động của hệ thống trƣờng đại học, cao đẳng có

chất lƣợng, đào tạo ra đƣợc lực lƣợng lao động chất lƣợng cao, Bộ trƣởng Bộ Giáo

dục và Đào tạo đã trình Đề án về “Quy hoạch mạng lƣới các trƣờng đại học và cao

đẳng Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020”, tại tờ trình số 6526/TTr-BGDĐT ngày 25

tháng 6 năm 2007. Đề án này của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đƣợc Thủ tƣớng Chính

phủ phê chấp nhận và ra Quyết định số 121/2007/QĐ–TTg, ngày 27–7–2007 “Về quy

hoạch mạng lƣới các trƣờng đại học cao đẳng” đã đƣợc triển khai rộng rãi khắp cả

nƣớc. Nhiều định hƣớng phát triển giáo dục đại học đƣợc nghiên cứu và áp dụng.

Tháng 10 – 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Chính Phủ bản đề án “Đào

tạo theo chƣơng trình tiên tiến tại một số trƣớng đại học của Việt Nam giai đoạn 2008

– 2015”. Đề án của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và đào tạo đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ

phê duyệt và ra quyết định số 1505 /QĐ –TTg Phê duyệt Đề án "Đào tạo theo chƣơng

trình tiên tiến tại một số trƣờng đại học Việt Nam giai đoạn 2008 - 2015".

Sau 9 năm thực hiện Chiến lƣợc phát triển giáo dục 2001 – 2010, giáo dục đại

học nƣớc ta đã từng bƣớc phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình trƣờng và

hình thức đào tạo, nguồn lực xã hội đƣợc huy động nhiều hơn và đạt đƣợc nhiều kết

quả tích cực, cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nƣớc, góp phần quan trọng tạo nên sự tăng trƣởng kinh tế, ổn định xã

hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế thắng lợi.

Để đánh giá việc thực hiện chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trong

công tác GD-ĐT, nhằm nâng cao chất lƣợng đào tạo đại học, cao đẳng, Ủy ban

Thƣờng vụ Quốc hội đã trình các Báo cáo liên quan nhƣ Báo cáo ngày 12 – 4 – 2010

(kèm theo các phụ lục) của Đoàn Giám sát Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội về việc thực

hiện chính sách, pháp luật về thành lập trƣờng, đầu tƣ và bảo đảm chất lƣợng đào tạo

đối với giáo dục đại học; Báo cáo số 34/BC – CP, ngày 14 -4 – 2010 (kèm theo các

phụ lục) của Chính Phủ, về việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trƣờng,

đầu tƣ bảo đảm chất lƣợng đào tạo đối với giáo dục đại học; Báo Cáo ngày 15-4-

2010( kèm theo các phụ lục) của Đoàn Giám sát Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội về kết

43

quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trƣờng, đầu tƣ bảo đảm

chất lƣợng đào tạo đối với giáo dục đại học.

Thực hiện Nghị quyết số 05- NQ/BCSĐngày 06/01/2010 của Ban Cán sự

Đảng bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-

2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai Chƣơng trình hành động thực hiện Nghị

quyết với những nhiệm vụ cụ thể nhƣ Tổ chức nghiên cứu, thảo luận trong toàn ngành

và xã hội “Làm gì để đảm bảo và nâng cao chất lƣợng đào tạo”; rà soát các chỉ tiêu phát

triển giáo dục đại học giai đoạn 2010-2020; hoàn thiện và triển khai thực hiện hệ thống

văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục đại học; đổi mới quản lý trong cơ quan Bộ

Giáo dục và Đào tạo; phân công, phân cấp quản lý các trƣờng đại học, cao đẳng, đẩy

mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội; quy hoạch xây dựng các đại học trong các tỉnh,

các khu đại học tập trung, quy hoạch và xây dựng ký túc xá sinh viên; nâng cao năng

lực quản lý của đội ngũ hiệu trƣởng, phó hiệu trƣởng.

Với những chính sách cụ thể, ĐNTT trong ngành giáo dục đã trƣởng thành

nhanh chóng về cả số lƣợng và chất lƣợng qua từng năm, từng bƣớc đáp ứng đƣợc

yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

Năm học 2007-2008, là năm học đầu tiên thực hiện chống bệnh thành tích

trong học tập và thi cử. Tỷ lệ tốt nghiệp các cấp học và xếp loại giỏi và khá đều giảm

ở các địa phƣơng từ 10-20% so với năm học trƣớc. Điều này đã giúp ngành giáo dục

đánh giá thực chất về chất lƣợng giáo dục, đào tạo.

Bên cạnh giáo dục và đào tạo, Đảng và Nhà có chính sách đầu tƣ khuyến

khích, hỗ trợ. Nhiều quyết định, chỉ thị, chƣơng trình, đề án nhằm cụ thể hóa chủ

trƣơng, đƣờng lối của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ đƣợc thực hiện.

Tiềm lực khoa học và công nghệ đƣợc nâng lên. Quản lý nhà nƣớc về khoa

học và công nghệ từng bƣớc đƣợc đổi mới. Hệ thống pháp luật về khoa học và công

nghệ đƣợc chú trọng hoàn thiện. Tính đến tháng 6-2008, tại 1.177, trong tổng số

trên 1.300 tổ chức khoa học và công nghệ trên phạm vi cả nƣớc, cho thấy có 474 tổ

chức khoa học và công nghệ thuộc các bộ, ngành và hai viện trực thuộc Chính phủ

(Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ

44

Việt Nam), 366 tổ chức khoa học và công nghệ công lập tại 62/64 tỉnh, thành phố,

337 tổ chức khoa học và công nghệ thuộc các hội, trong đó có Liên hiệp các Hội

khoa học và kỹ thuật Việt Nam.

Đội ngũ các nhà khoa học ở Việt Nam bao gồm các giáo sƣ, phó giáo sƣ, tiến

sĩ, thạc sĩ và một số là viện sĩ. Đội ngũ giáo sƣ, phó giáo sƣ, tiến sĩ phát triển nhanh,

góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đất nƣớc. Năm 2010, Hội đồng Chức danh

giáo sƣ Nhà nƣớc phong tặng 71 giáo sƣ và 507 phó giáo sƣ. Năm 2012, Hội đồng

Chức danh giáo sƣ Nhà nƣớc phong tặng 41 giáo sƣ và 426 phó giáo sƣ [54, tr.165].

Thị trƣờng khoa học và công nghệ đƣợc hình thành và bƣớc đầu phát huy tác

dụng. Trong 2007 các tổ chức khoa học và công nghệ, bình quân có 145,46 ngƣời/1

sáng chế và 69,27 ngƣời/1 giải pháp.

Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, lƣợng nữ chiếm một tỷ lệ đáng kể

42,2%. Nhiều nữ trí thức đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc trao cho những giải thƣởng cao

quý, nhiều nhà khoa học nữ đƣợc nhà nƣớc tôn vinh là anh hùng lao động, cấp bằng

lao động sáng tạo, các giải thƣởng trong và ngoài nƣớc. Giải thƣởng Kovalevskaia

đƣợc trao hàng năm là một minh chứng cho việc tôn vinh nữ trí thức Việt Nam. Kể từ

khi thành lập đến nay (1985), Ủy ban Giải thƣởng Kovalevskaia Việt Nam đã xét,

chọn và trao giải thƣởng cho 30 cá nhân và 14 tập thể các nhà khoa học nữ xuất sắc,

tiêu biểu nhất trong lĩnh vực khoa học tự nhiên.

Trong đào tạo và bồi dƣỡng cán bộ trí thức trẻ, Đảng và Nhà nƣớc ta đã thƣờng

xuyên quan tâm đến công tác phát hiện, đào tạo, bồi dƣỡng nhân tài; đầu tƣ đổi mới

hệ thống giáo dục và đào tạo cả về nội dung, phƣơng pháp, cơ sở vật chất,… nhằm

nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện. Tích cực tuyển chọn, gửi nhiều tài năng trẻ

đi học tập, nghiên cứu, đào tạo ở nƣớc ngoài, nhanh chóng tiếp cận các công nghệ

hiện đại, tiên tiến của thế giới, có chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với các nhà khoa

học có công trình nghiên cứu xuất sắc, các văn nghệ sĩ tài năng, các cán bộ khoa học

trẻ. Thực hiện chiến lƣợc phát triển khoa học và công nghệ, xây dựng các khu công

nghiệp, khu công nghệ cao và hệ thống phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, từng

bƣớc hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện bảo hộ sở hữu trí tuệ, tạo mọi điều kiện

thuận lợi để các tài năng cống hiến trƣởng thành. Mặt khác, để đào tạo, bồi dƣỡng tài

45

năng trẻ, nhất là tài năng trẻ trong đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ phục vụ các

ngành, lĩnh vực mũi nhọn, trọng điểm, Chính phủ đã phê duyệt và bắt đầu thực hiện

đề án cử ngƣời đi học nƣớc ngoài bằng ngân sách nhà nƣớc từ năm 2000. Bộ Giáo

dục và Đào tạo đã phối hợp với các bộ, ban, ngành liên quan tuyển chọn đƣợc hàng

chục ngàn lƣu học sinh và thực tập sinh đi học tập, nghiên cứu ở các trƣờng đại học

danh tiếng trên thế giới.

2.2.3. Công tác củng cố, xây dựng và phát triển hoạt động của các Hội trí

thức trong cả nƣớc

Ngày 16-4-2010, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 42-CT/TW về về tiếp tục đổi

mới, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ

thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Thực

hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, các cấp, các ngành, các địa phƣơng đã từng bƣớc nâng

cao nhận thức của mình vai trò trí thức, quan tâm đến công tác xây dựng các hội trí

thức.

Nhiều tỉnh ủy, thành ủy đã ra các nghị quyết, quyết định để đẩy mạnh và nâng

cao hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tại địa phƣơng,

quan tâm chỉ đạo các Liên hiệp hội địa phƣơng, các hội chuyên ngành và các đơn vị

trực thuộc.

Thực hiện đổi mới về tổ chức và hoạt động của Liên hiệp các hội Khoa học và

Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học và Nghệ thuật Việt Nam, các đơn vị

nghiên cứu giảng dạy tại các viện, các trƣờng đại học theo hƣớng các tổ chức nghiên

cứu khoa học và công nghệ, hoạt động theo chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết

quả và hiệu quả hoạt động của mình theo quy định của pháp luật.

Hiện nay, tổ chức của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tiếp

tục đƣợc kiện toàn, mở rộng đến các tỉnh và thành phố trong cả nƣớc. Tính đến năm

2010, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức rộng khắp trong cả

nƣớc với 125 hội thành viên, gồm 55 liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ƣơng và 70 hội, tổng hội ngành toàn quốc. Liên hiệp các

Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã thu hút đƣợc trên 80 vạn trí thức khoa học và

công nghệ, chiếm khoảng 1/3 trí thức hiện có của cả nƣớc.

46

2.2.4.Chủ trƣơng của Đảng về thu hút trí thức Việt kiều và trí thức ngƣời

nƣớc ngoài đƣợc chú trọng

Đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam khẳng định đồng bào ta

ở nƣớc ngoài là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời của dân tộc, cùng với

đồng bào trong nƣớc thực hiện mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội của Tổ

quốc, đóng góp vào ngoại giao nhân dân. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI của Đảng khẳng định: “Đồng bào định cƣ ở nƣớc ngoài là một bộ phận không tách

rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nƣớc ban hành cơ chế, chính sách để hỗ

trợ, giúp đỡ đồng bào ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cƣờng hợp

tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nƣớc; tạo điều kiện để đồng bào giữ

gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, hƣớng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng đất

nƣớc” [27, tr.245]. Đối với ĐNTT Việt kiều, Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 26-8-

2008, về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nƣớc cũng khẳng định, một bộ phận của trí thức Việt Nam là những trí thức Việt

kiều và đa số trí thức Việt Nam ở nƣớc ngoài luôn hƣớng về Tổ quốc, nhiều ngƣời đã về

nƣớc làm việc, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, có những đóng góp thiết thực

vào sự nghiệp phát triển đất nƣớc.

Năm 2006, Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với nhiều bộ, ngành liên quan đã

trình Thủ tƣớng Chính phủ Đề án “Xây dựng chính sách, biện pháp vận động, khuyến

khích chuyên gia, trí thức ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài đóng góp vào sự nghiệp xây

dựng đất nƣớc”. Thủ tƣớng đã đồng ý và giao cho các bộ, ban, ngành triển khai thực

hiện một số nội dung nêu trong Đề án.

Cũng trong năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng “Đề án thu hút

chuyên gia Việt Nam ở nƣớc ngoài tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển

giao công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2009 – 2020” với

dự kiến mời khoảng 3.000 chuyên gia nƣớc ngoài về nƣớc, kinh phí dự trù hơn 1.200

tỷ đồng.

Hiện tại, Bộ Khoa học và Công nghệ vẫn đang xây dựng “Đề án trọng dụng và

sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ”. Việc tổ chức thực hiện chính sách vận

động chuyên gia trí thức Việt Kiều đóng góp xây dựng đất nƣớc bƣớc đầu có kết quả.

47

Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết mỗi năm có khoảng 1.200 giảng

viên, cán bộ nghiên cứu sinh, sinh viên đi học tập, nghiên cứu ở nƣớc ngoài bằng học

bổng do các nƣớc dành cho Việt Nam thông qua các hiệp định đã kỹ kết và từ nguồn

ngân sách nhà nƣớc.

Mỗi năm, Chính phủ đã cấp 400 học bổng, trong đó, 200 học bổng dành cho

đào tạo tiến sĩ, 100 học bổng dành cho đào tạo thạc sĩ, 40 học bổng dành cho đào tạo

đại học, 60 học bổng dành cho thực tập khoa học.Theo Đề án 911, năm 2013 Bộ Giáo

dục và Đào tạo thông báo chỉ tiêu với 1.100 chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ ở nƣớc ngoài,

trong đó có 190 chỉ tiêu du học Pháp, 180 chỉ tiêu du học Đức, 150 chỉ tiêu du học

Trung Quốc, 125 chỉ tiêu du học Mỹ, 90 chỉ tiêu du học Nhật Bản, 70 chỉ tiêu du học

Nga,…Đây là cơ hội cho các thí sinh du học ở nƣớc ngoài.

Hợp tác quốc tế đƣợc mở rộng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Trong thời

gian qua, Chính phủ, Bộ giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã đàm phán ký kết các bản

thỏa thuận công nhận tƣơng đƣơng bằng cấp giữa Việt Nam với 10 nƣớc trên thế

giới. Trong năm 2008 và 2009, Việt Nam đã ký 31 điều ƣớc quốc tế và thỏa thuận

quốc tế về hợp tác trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo với các nƣớc ở cấp chính

phủ và các bộ. Nhiều chƣơng trình đại học 3+1 và 2+1 đã đƣợc lý kết. Ngày càng có

nhiều chƣơng trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ phối hợp với nƣớc ngoài. Phối hợp với các

trƣờng đại học ở nƣớc ngoài triển khai 23 chƣơng trình tiên tiến ở 17 trƣờng đại

học,với Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á để xây dựng các trƣờng

đại học xuất sắc theo chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ.

2.3.THỰC TRẠNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN 2013

2.3.1.Đội ngũ trí thức từng bƣớc trƣởng thành đóng góp vào sự phát triển

của đất nƣớc

Đƣợc sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc, ĐNTT Việt Nam ngày càng phát

triển về số lƣợng, chất lƣợng và khẳng định đƣợc vị trí quan trọng của mình trong xã

hội. Điều đó đƣợc thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nƣớc.

Theo Niên giám thống kê năm 2011, tính đến năm 2011, dân số cả nƣớc là

87.840.000 ngƣời trong đó nam giới 43,5 triệu ngƣời, nữ giới 44,4 triệu ngƣời. Năm

48

học 2011-2012, cả nƣớc có 828,1 nghìn giáo viên trực tiếp giảng dạy tiểu học, trung

học cơ sở, trung học phổ thông.Năm học 2011-2012, cả nƣớc có 14.781,6 nghìn học

sinh phổ thông. Năm 2011, cả nƣớc có 419 trƣờng đại học và cao đẳng, trong đó, số

trƣờng công lập là 337, số trƣờng ngoài công lập là 82. Năm 2011, số giáo viên đại

học và cao đẳng là 84,2 nghìn ngƣời, trong đó, số giáo viên công lập là 70,3 nghìn

ngƣời, số giáo viên ngoài công lập 13,9 nghìn ngƣời. Số sinh viên năm 2011 là

2.208,1 nghìn ngƣời. Đây là nguồn trí thức lớn của đất nƣớc. Đến năm 2010, số

lƣợng công nhân là 9,5 triệu ngƣời, chiếm gần 10%, nông dân có gần 62 triệu ngƣời,

chiếm hơn 70%. Riêng đội ngũ trí thức (tính từ tốt nghiệp đại học và cao đẳng trở

lên) có 2,5 triệu ngƣời, chiếm 2,15%. Trong số 2,5 triệu trí thức, có gần 20 nghìn thạc

sĩ, 17 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 7 nghìn giáo sƣ và phó giáo sƣ. Đội ngũ trí

thức này tham gia vào nhiều lĩnh vực, hoạt động ở tất cả các ngành, nhƣng tập trung

đông nhất là khu vực sự nghiệp, giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế.

Năm 2010, Hội đồng Chức danh giáo sƣ nhà nƣớc phong tặng 71 giáo sƣ và

507 phó giáo sƣ. Tính từ năm 1980 đến khoảng năm 2010, Nhà nƣớc đã phong tặng

cho gần 9 nghìn giáo sƣ và phó giáo sƣ, trong đó 1.407 giáo sƣ. Năm 2012 Hội đồng

Chức danh giáo sƣ nhà nƣớc phong tặng 41 giáo sƣ và 420 phó giáo sƣ. Ở nƣớc ta, có

khoảng 1/4 giáo sƣ và phó giáo sƣ giảng dạy chuyên nghiệp tại bậc đại học. Số còn

lại là giảng dạy bán chuyên nghiệp và nghiên cứu [54, tr.652].

Trong đào tạo giáo dục phổ thông, phần lớn đều có trình độ đào tạo đạt chuẩn

và trên chuẩn, trong đó giáo viên tiểu học có 99,09%, giáo viên trung học cơ sở là

98,5%, giáo viên trung học phổ thông là 98,91%. Trong đó số giáo viên đạt trên

chuẩn có 6 % là tiến sĩ, thạc sĩ. Chỉ tính riêng trong năm học 2009-2010, cả nƣớc có

hơn 30 nghìn lƣợt nhà giáo đã tham gia các lớp tập huấn của Bộ giáo dục và Đào tạo.

Kết quả của việc nâng cao chất lƣợng giáo dục phổ thông đƣợc thể hiện bằng những

học sinh trung học phổ thông giỏi ngày càng nhiều dƣới mái trƣờng phổ thông.

Hiện nay, tiềm lực khoa học và công nghệ đƣợc nâng lên. Thị trƣờng khoa học

và công nghệ đƣợc hình thành và bƣớc đầu phát huy tác dụng. Hợp tác quốc tế về

khoa học và công nghệ có những bƣớc phát triển mới. Nghiên cứu cơ bản và nghiên

49

cứu ứng dụng bắt đầu có sự kết hợp. ĐNTT trong lĩnh vực khoa học và công nghệ

cũng phát triển về chất lƣợng và số lƣợng.

Tính đến ngày 23-4-2008, cả nƣớc có 337 tổ chức khoa học công nghệ ngoài

công lập, đƣợc các Hội và Liên hiệp các Hội khoa học Việt Nam ra quyết định thành

lập, trong đó có 320 tổ chức đã đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ, chiếm tỉ lệ

94%. Riêng Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), đến tháng

12-2012 có 336 Viện, Trung tâm và 73 Hội. Trong số 337 tổ chức khoa học và công

nghệ, có 69 tổ chức hoạt động trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và nhân văn, chiếm

30,4%, 169 tổ chức hoạt động trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, chiếm 26%, 49 tổ

chức hoạt động trong lĩnh vực khoa học nông nghiệp, chiếm 8%, 35 tổ chức hoạt

động trong lĩnh vực y, dƣợc, chiếm 9% [54, tr, 186].

Chỉ tiêu đánh giá về trí tuệ, trình độ ngoại ngữ, khả năng thích ứng với tốc độ

phát triển khoa học và công nghệ của Việt Nam (xếp theo thang điểm 10) là 2,3/10 và

khả năng thích ứng với tốc độ phát triển khoa học và công nghệ là 2/10.

Riêng lực lƣợng trí thức trẻ có khoảng 521 nghìn ngƣời (tính đến năm 2008

chiếm khoảng 25% trong tổng số đội ngũ trí thức của cả nƣớc). Hàng năm có khoảng

70-80 nghìn sinh viên tốt nghiệp đại học bổ sung cho lực lƣợng trí thức. Tháng 8-

2004, Hội Trí thức khoa học và công nghệ trẻ Việt Nam đƣợc thành lập. Qua 5 năm

hoạt động tính đến năm 2009 hội đã có 300 hội viên hoạt động với tiêu chí trí thức trẻ

quan tâm, dấn thân và cống hiến cho các hoạt động và lợi ích của xã hội. Lực lƣợng

trí thức trẻ đƣợc tập hợp chủ yếu thông qua hoạt động của Hội Liên hiệp thanh niên

Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam.

Đội ngũ nữ trí thức là một bộ phận quan trọng của đội ngũ trí thức Việt Nam.

Lực lƣợng này đang có mặt trên khắp cở sở kinh tế, văn hóa, xã hội. Tỉ lệ phụ nữ so

với những ngƣời cùng trình độ chuyên môn số liệu ghi trong Văn kiện Đại hội đại biểu

phụ nữ lần thứ X năm 2007 là: công nhân kỹ thuật là 34,47%, trung học chuyên nghiệp

là 50,35%, cao đẳng là 60,64%, đại học trở lên là 40,23%, giáo sƣ 5,1%, phó giáo sƣ

11,67%, tiến sĩ khoa học là 9,78%, tiến sĩ là 17,02%, thạc sĩ là 30,53%. Điểm nổi bật là

đội ngũ trí thức nữ Việt Nam có mặt ở tất cả các lĩnh vực (riêng lĩnh vực giáo dục đào

tạo chiếm 53,2%). Cán bộ có trình độ cao đẳng trở lên chiếm gần 50% trong đó, nữ

50

thạc sĩ chiếm 29,1% trong tổng số thạc sĩ nói chung của Việt Nam (năm 2010). Ngày

8-3-2011, tại Hà Nội, Hội Nữ trí thức Việt Nam đƣợc thành lập.

Trí thức trong lĩnh vực lập pháp có sự tăng nhanh về số lƣợng và chất lƣợng.

Ngoài đại biểu Quốc hội đƣợc bầu thông qua cuộc bầu cử Quốc hội, tính đến tháng 3-

2009, tổng số cán bộ, công chức trong biên chế của cơ quan Văn phòng Quốc hội là

552 ngƣời, trong đó có 40 chuyên viên cao cập, 124 chuyên viên chính, 268 chuyên

viên và tƣơng đƣơng. Về trình độ chuyên môn có sự tăng đáng kể cán bộ công chức

có trình độ đại học và sau đại học. Hiện nay, cán bộ làm việc trong cơ quan lập pháp

là 22 tiến sĩ, 97 thạc sĩ, 9 ngƣời đang làm luận án tiễn sĩ, 54 ngƣời đang theo học cao

học, 456 ngƣời có trình độ đại học, cao đẳng. Trong tổng số 500 đại biểu Quốc hội

khóa XIII (2011-2016), có 15,60% là đại biểu các dân tộc thiểu số, 24,40% là đại

biểu nữ, 8,40% là đại biểu ngoài đảng. Đáng chú ý là số đại biểu Quốc hội khóa XIII,

có trình độ đại học, trên đại học chiếm tỷ lệ cao, đạt 98,2%, tỷ lệ này đối với đại biếu

Quốc hội khóa XII (2007-2011) là 95,66% [1, tr.235-236].

Trong lĩnh vực văn hóa, báo chí, đội ngũ trí thức khá đông đảo. Tính đến năm

2007, lĩnh vực văn hóa đã có 138 nhà giáo ƣu tú, 14 nhà giáo nhân dân, 23 giáo sƣ,

116 phó giáo sƣ. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có tổng 17 trƣờng đại học và cơ sở

đào tạo. Bình quân mỗi năm có khoảng từ 7 – 10 ngƣời bảo vệ luận văn tiến sĩ,

khoảng từ 120 – 140 ngƣời bảo vệ luận án thạc sĩ, khoảng 1.700 – 1.800 ngƣời tốt

nghiệp đại học, cao đẳng chính quy, bổ sung vào đội ngũ trí thức. Cả nƣớc có hơn 17

nghìn trí thức làm báo chuyên nghiệp đƣợc cấp thẻ nhà báo, hàng nghìn kỹ thuật

viên, kỹ sƣ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí…[54, tr.240].

ĐNTT trí thức hoạt động trong lĩnh vực y tế ngày càng giữ vị trí quan trọng

trong đời sống xã hội, ngày càng phát triển về số lƣợng và từng bƣớc nâng cao chất

lƣợng, vƣơn lên đáp ứng trình độ y tế của thế giới. Theo Niên giám thống kê 2001, số

lƣợng trí thức hoạt động trong lĩnh vực y tế tính đến cuối năm 2011, cả nƣớc có

50.400 bác sĩ, 52.525 y sĩ, 74.362 y tá, 26.610 nữ hộ sinh, 3.752 dƣợc sĩ cao cấp,

19.257 dƣợc sĩ trung cấp, 4.725 dƣợc tá làm việc tại 1.040 bệnh viện và cơ quan y tế.

Trình độ chuyên môn của đội ngũ trí thức y tế đã trƣởng thành hơn. Nhiều giáo sƣ,

phó giáo sƣ, tiến sĩ, bác sĩ, dƣợc sĩ đã có nhiều đóng góp trong việc bổ sung, hoàn

51

thiện chính sách phát triển hệ thống y tế, xây dựng Luật Bảo hiểm y tế, Luật khám

chữa bệnh, những luật này đƣợc đánh giá là 3 trong số 10 thành tựu nổi bật nhất của

ngành y tế trong năm 2009.

Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của thời kỳ mới, vị trí, vai trò đội ngũ trí thức

trong quân đội cũng không ngừng đƣợc nâng lên. Đảng, Nhà nƣớc, Bộ Quốc phòng

đã có nhiều chủ trƣơng xây dựng đội ngũ trí thức trong quân đội. Qua thống kê chất

lƣợng đội ngũ trí thức của 46 trƣờng trong quân đội có 11.617 nhà giáo và cán bộ

quản lý giáo dục. Riêng Học viện Chính trị quân sự có 30 giáo sƣ, phó giáo sƣ, 102

tiến sĩ, 123 thạc sĩ, 100% cán bộ đều tốt nghiệp đại học. Số trình độ trên đại học

chiếm 62% trong tổng số cán bộ của học viện.

Đội ngũ trí thức trong quân đội làm việc hầu hết ở các ngành, các nghề nhƣ

giáo viên ngành khoa học quân sự chiếm 41,5%, giáo viên ngành khoa học xã hội và

nhân văn quân sự chiếm 16,7%, giáo viên ngành khoa học hậu cần chiếm 10,21%,

giáo viên ngành quân y chiếm 4,94%, giáo viên ngành kỹ thuật quân sự chiếm

12,48%, giáo viên ngành khoa học cơ bản và chuyên môn nghiệp vụ chiếm 13,68%.

Nhìn chung, lực lƣợng quân đội tham gia xây dựng quân đội khá lớn và khá mạnh.

Qua nghiên cứu, đội ngũ trí thức trong quân đội là khá đồng bộ về cơ cấu ngành

nghề, cơ cấu lứa tuổi và thâm niên quân ngũ [8].

Trong những năm đẩy mạnh CNH, HĐH, đƣợc sự quan tâm của Đảng và Nhà

nƣớc, đội ngũ trí thức trong ngành ngoại giao đã trƣởng thành vƣợt bậc, kế thừa và

phát huy những truyền thống quý báu của ngành. Đội ngũ trí thức nằm trong công tác

đối ngoại ngày càng chính quy bài bản sớm trải qua các vị trí công tác ở trong và ngoài

nƣớc. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đội ngũ trí thức hiện nay làm công tác

đối ngoại đã tiến bộ nhanh về mọi mặt, trình độ, kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm đối

ngoại… bƣớc đầu tiếp cận đảm nhiệm tốt các vị trí lãnh đạo, quản lý tầm cỡ quốc tế

nhƣ việc đảm nhiệm vai trò Ủy viên không thƣờng trực Hội đồng Bảo an Liên hợp

quốc nhiệm kỳ 2008-2009, tổng thƣ ký Asean nhiệm kỳ 2013-2017.

Hiện nay trong khoảng 4 triệu Việt kiều định cƣ ở hơn 90 quốc gia và vùng

lãnh thổ, tập trung ở các nƣớc phát triển, thì có khoảng 400.000 trí thức đƣợc đào tạo

rất bài bản về chuyên môn ở trình độ đại học và công nhân kỹ thuật bậc cao, có kiến

52

thức cập nhật về khoa học - công nghệ, về quản lý kinh tế, làm việc trong các trung

tâm kinh tế, khoa học - công nghệ ở nƣớc ngoài. Họ là nguồn lực quan trọng, có ý

nghĩa chiến lƣợc trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nƣớc, đặc biệt khi đất nƣớc

ta tham gia hội nhập quốc tế. Qua thống kê cho thấy, số lƣợt chuyên gia trí thức Việt

kiều về làm việc với các cơ quan quản lý Nhà nƣớc chiếm đến 55%, số lƣợt trí thức

về nƣớc tham gia giảng dạy và hợp tác nghiên cứu ở các trƣờng đại học, viện nghiên

cứu chiếm khoảng 45%.

2.3.2. Những đóng góp của ĐNTT vào sự phát triển của đất nƣớc

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa X “Về xây

dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nƣớc” khẳng định những đóng góp to lớn của ĐNTT đối với sự phát triển đất nƣớc.

Nhìn vào những đóng góp của đội ngũ tri thức đối với sự phát triển đất nƣớc,

vai trò của đội ngũ trí thức đƣợc thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, đội ngũ trí thức xây dựng những luận cứ khoa học góp phần quan

trọng trong việc hoạch định, phản biện và hoàn thiện đường lối, chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Trí thức trong lĩnh vực lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn đã xây

dựng đƣợc những luận cứ khoa học cho việc hoạch định chủ trƣơng, đƣờng lối của

Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc, góp phần làm sáng tỏ con đƣờng phát

triển của đất nƣớc và giải đáp những vấn đề mới nhƣ xây dựng lý luận về những

nguyên tắc đổi mới, lý luận về kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, bƣớc

đi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, lý luận về xây dựng Đảng

thời kỳ đổi mới…từ những tổng kết lý luận và thực tiễn, đóng góp của ĐNTT trong

lĩnh vực này đã lý giải ngày càng rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần xây dựng hệ thống quan điểm lý luận về công

cuộc đổi mới.

ĐNTT nói chung và ĐNTT hoạt động trong lĩnh vực lý luận, tƣ tƣởng đã góp

phần khẳng định và bảo vệ đƣờng lối, quan điểm, chủ trƣơng, chính sách của Đảng

và Nhà nƣớc, giữ gìn, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận

trong xã hội.

53

Đội ngũ trí thức hoạt động trên lĩnh vực văn hóa đã góp phần không nhỏ vào

việc soạn thảo các văn bản pháp quy về văn hóa nhƣ: Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Di sản

văn hóa, Luật Điện ảnh, Pháp lệnh thƣ viện…

Đến nay hoạt động tƣ vấn, phản biện và giám định xã hội đã trở thành một

trong những nhiệm vụ quan trọng của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt

Nam, nhằm giúp các ngành, các cấp, có thêm cơ sở, luận cứ khoa học trong quá trình

xác định, thẩm định, phê duyệt và thực hiện các đề án.

Với sự nhiệt tình hăng say, ý thức trách nhiệm, tinh thần khách quan khoa học,

hoạt động tƣ vấn phản biện và giám sát xã hội của Liên hiệp hội Việt Nam phản ảnh

trung thực, khách quan ý kiến của đội ngũ trí thức đóng góp vào việc xây dựng chủ

trƣơng, đƣờng lối, chính sách, pháp luật và thực hiện có hiệu quả các dự án quan

trọng về kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Hoạt động này là kênh quan trọng, đáng tin

cậy giúp các cơ quan Đảng và Nhà nƣớc có đƣợc những thông tin phản ánh trung

thực ý kiến của quần chúng nhân dân, dƣ luận xã hội. Một số hoạt động nổi bật nhƣ

tƣ vấn, phản biện Dự án thuỷ điện Sơn La; tƣ vấn phản biện dự án đƣờng Hồ Chí

Minh đoạn qua Vƣờn quốc gia Cúc Phƣơng; đánh giá hiệu quả khu công nghệ cao

thành phố Hồ Chí Minh; đánh giá chƣơng trình đào tạo nghề 1 tỷ USD của Thủ tƣớng

Chính phủ; góp ý dự án “Quy hoạch hai bờ sông Hồng đoạn qua Hà Nội”; phản biện

chƣơng trình xây dựng nhà máy điện hạt nhân; đánh giá hiệu quả chƣơng trình khai

thác bauxit tại Tây nguyên; phản biện Luật thủ đô; phản biện Dự án khu du lịch Tam

Đảo 2 tại vùng lõi Vƣờn quốc gia Tam Đảo; tƣ vấn góp ý dự án “đƣờng sắt cao tốc

Bắc - Nam”; tƣ vấn góp ý đề án “Quy hoạch thủ đô đến năm 2030 tầm nhìn 2050”;

phản biện báo cáo của Công ty Poyry về thủy điện Xayabury - Lào; đánh giá sự cố

thuỷ điện Sông Tranh; đề án “Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030 và

tầm nhìn đến năm 2050”; việc Xây đập Xayabury trên sông Mê Kông; đề án “Đổi

mới chƣơng trình sách giáo khoa, giáo dục phổ thông sau năm 2015”; dự thảo Bộ

Luật Lao động sửa đổi.

Các kết quả của hoạt động tƣ vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp

Hội Việt Nam đƣợc Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân đánh giá cao, góp phần thiết thực

vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc, đồng thời nâng cao vị thế và vai trò

54

của hệ thống tổ chức Liên hiệp Hội [56].

Tri thức ngành trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tƣ pháp đã giúp Quốc hội,

Chính phủ nghiên cứu soạn thảo nhiều văn bản pháp quy. Quốc hội khóa XII đã đƣa

vào 24 dự án luật, 6 dự án pháp lệnh về lĩnh vực tƣ pháp, chiếm tỷ lệ 23,43% trogn

tổng số 128 dự án luật, pháp lệnh. Tính từ tháng 6 -2005 đến tháng 2-2009, Quốc hội

đã thông qua 14 luật, bộ luật mới, 5 pháp lệnh, 8 nghị quyết về lĩnh vực tƣ pháp.

Chính phủ, các cơ quan tƣ pháp trung ƣơng đã ban hành gần 20 văn bản hƣớng dẫn

áp dụng thống nhất pháp luật về tƣ pháp trong cả nƣớc. Các luật, pháp lệnh, nghị

quyết của Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội ban hành đã thể chế một bƣớc chủ

trƣơng, chính sách của Đảng về hình sự, dân sự, tố tụng tƣ pháp, bổ trợ tƣ pháp. Các

văn bản tƣ pháp của Chính phủ và các cơ quan tƣ pháp trung ƣơng, ban hành khá kịp

thời, cụ thể, có chất lƣợng, phù hợp với các văn bản luật, bảo đảm các quy định của

luật, pháp lệnh, nghị quyết đƣợc thống nhất, nhanh chóng đi vào cuộc sống. Trong

đó, bộ phận tiêu biểu trí thức là đại biểu Quốc hội là bộ phận cấu thành hết sức quan

trọng, giữ vị trí trung tâm trong toàn bộ hoạt động của Quốc hội, là thành tố không

thể thiếu trong hoạt động của Quốc hội.

Đội ngũ trí thức hoạt động trên lĩnh vực báo chí đã có bƣớc trƣởng thành cùng

với công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Nhiều phóng viên

ngày đêm lăn lộn với đời sống xã hội, thể hiện nhiều bài báo có giá trị, phản ánh đúng

cuộc sống. Nhiều phóng viên, biên tập viên đã dũng cảm phanh phui những vụ việc

tiêu cực, tham nhũng góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ.

Thứ hai, đội ngũ trí thức là nguồn lực lao động trí tuệ cao đóng góp không nhỏ

công cuộc đẩy mạnh đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước.

Đất nƣớc đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là một

công việc có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển của đất nƣớc, là nhiệm vụ

trung tâm của thời lỳ đổi mới. Trƣớc những đòi hỏi lớn lao đó, đội ngũ các nhà khoa

hoc, công nghệ phải đóng góp vai trò động lực, đi đầu trong nghiên cứu, ứng dụng

các tiến bộ khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ trên nhiều lĩnh vực…Theo

định hƣớng của Đại hội X, để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc, nƣớc ta cần phải

“tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của

nƣớc ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa 55

gắn với phát triển kinh tế trí thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của

nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển mạnh các ngành kinh tế và

các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa và trí thức [22, tr.28-29].

Hiện nay, giáo dục đại học, cao đẳng là mối quan tâm đặc biệt của xã hội vì, vì

đây là cơ sở chủ yếu để đào tạo trí thức. ĐNTT này đóng góp lớn vào việc cung cấp

nguồn nhân lực trọng yếu cho nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế - xã hội, phần

nào cải thiện đời sống nhân dân.

ĐNTT hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp đã góp phần rất lớn làm ra giá trị

sản xuất công nghiệp, bình quân mỗi năm khoảng 1.500 nghìn tỷ VNĐ, góp phần

cùng với các ngành kinh tế khác, tạo ra năng suất lao động, và chất lƣợng sản phẩm,

nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa.

ĐNTT hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 2% so với tổng số lao

động trong ngành nông nghiệp. Trong những năm gần đây, đội ngũ trí thức (trong đó

có các chuyên gia) trong lĩnh vực nông nghiệp đã tạo ra 142 giống cây trồng mới có

chất lƣợng và năng suất cao. Chƣơng trình giống mới đã mang lại hiệu quả lớn: trên

90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích điều trồng

mới đƣợc sử dụng [54, tr.263].

ĐNTT hoạt động các lĩnh vực tài chính, kinh tế, ngân hàng, có nhiều chuyên gia

giỏi đang làm việc tại các ngành công nghệ cao nhƣ điện tử, nguyên tử, tin học, sinh

học, vật liệu mới, hàng không vũ trụ…Lĩnh vực lý luận kinh tế, cán bộ trí thức có

nhiều đóng góp mới trong soạn thảo các nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp quy

của Nhà nƣớc nhƣ vấn đề đảng viên làm kinh tế tƣ nhân, xây dựng nền kinh tế thị

trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa…

Công tác khám chữa bệnh ở nƣớc ta những năm gần đây có những bƣớc phát

tiến dài nhờ việc áp dụng thành công nhiều ứng dụng y tế cao nhƣ: can thiệp tim

mạch, điều trị ung thƣ, ghép mô, tế bào gốc. Nhiều trí thức của lĩnh vực y tế đã góp

chất xám, góp công, góp sức xây dựng hệ thống y tế và y tế cơ sở đƣợc củng cố và

phát triển; đề xuất phƣơng hƣớng tổ chức và thực hiện nhiều giải pháp quan trọng để

nâng cao chất lƣợng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Nhờ đó mà mức

56

thụ hƣởng các dịch vụ y tế của ngƣời dân tăng lên rõ rệt; số lần khám bệnh tăng từ

1,87 lần/ ngƣời vào năm 2001 lên 2,5 lần/ ngƣời vào năm 2009.

Thực hiện Quyết định 1097/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ sửa đổi, bổ

sung Dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ ƣu tú, có trình độ đại học tăng cƣờng

về làm Phó Chủ tịch UBND xã thuộc 62 huyện nghèo (đã đƣợc phê duyệt theo Quyết

định 170/QĐ-TTgngày 26/1/2011), trong giai đoạn 1 (từ 2011-2012). Khảo sát một

số địa phƣơng, vai trò của đội ngũ trí thức trẻ đã đƣợc thể hiện rất rõ nhƣ.

Tỉnh Bắc Kạn đã tuyển chọn đƣợc 22 tri thức trẻ về làm Phó Chủ tịch UBND

xã tại các địa phƣơng của 2 huyện, trong đó huyện Ba Bể có 14 ngƣời và huyện Pác

Nặm có 8 ngƣời. Sau hơn một năm triển khai, các đội viên dự án cơ bản đã nắm rõ vị

trí, vai trò trách nhiệm của mình, đã từng bƣớc cùng UBND xã thực hiện nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng, phối hợp với các tổ chức đoàn thể làm tốt

công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trƣơng của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nƣớc...

Bắc Giang có 19 trí thức trẻ trúng tuyển đƣợc bầu và phê chuẩn chức vụ Phó

Chủ tịch UBND xã tại huyện Sơn Động. Trong đó có 6 Phó Chủ tịch UBND xã phụ

trách lĩnh vực kinh tế, 13 Phó Chủ tịch UBND xã phụ trách lĩnh vực văn hoá - xã hội.

Sau 1 năm công tác, các trí thức trẻ đã tiếp cận và giải quyết công việc kịp thời;

thƣờng xuyên xuống thôn, bản nắm tình hình, tích cực tham mƣu với Đảng uỷ,

HĐND, UBND xã các giải pháp phát triển kinh tế-xã hội. Nhiều trí thức trẻ mạnh dạn

xây dựng các tiểu đề án phát triển mô hình kinh tế nhƣ đƣa giống khoai tây vào sản

xuất tại xã Tuấn Đạo, chăn nuôi thỏ quy mô gia đình, ứng dụng quy trình xử lý nƣớc

thải tại xã Quế Sơn, thành lập hợp tác xã dịch vụ sản xuất nông nghiệp xã Vĩnh

Khƣơng; phát triển đàn ong mật gắn với khu du lịch sinh thái ở xã An Lạc [57].

Thứ ba, vai trò của trí thức Việt kiều đối với phát triển đất nước

Hiện nay có khoảng 4,5 triệu ngƣời Việt Nam sống, lao động và học tập tại 103

quốc gia và vùng lãnh thổ. Phần lớn trong số đó có mặt tại các quốc gia, vùng lãnh

thổ có nền kinh tế phát triển, có điều kiện tiếp cận với các tri thức hiện đại của thế

giới, nhƣ Mỹ, Pháp, Úc, Ca-na-đa, Đài Loan, Đức,…

57

Trung bình mỗi năm có khoảng 500 nghìn lƣợt kiều bào về thăm quê hƣơng,

hàng nghìn lƣợt doanh nhân Việt kiều tìm kiếm cơ hội kinh doanh, hàng trăm lƣợt

chuyên gia, trí thức về tham gia nghiên cứu, giảng dạy, hợp tác nghiên cứu khoa học,

chuyển giao công nghệ,… Đến nay, Việt kiều tham gia góp vốn vào 3.500 doanh

nghiệp, với tổng số vốn đăng ký khoảng 8,4 tỷ USD. Kiều hối gửi về nƣớc tăng trung

bình 10% - 15%/năm, từ mức 3 tỷ USD năm 2004 tăng lên 7,4 tỷ USD năm 2008, 8,4

tỷ USD năm 2010, riêng 6 tháng đầu năm 2012 đạt khoảng 6,4 tỷ USD.

2.3.3. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân

Những hạn chế của ĐNTT hiện nay

Trƣớc yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc và hội nhập kinh

tế quốc tế, ĐNTT nƣớc ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém.

Nghị quyết Hội nghị lần thứbảy BCH Trung ƣơng khóa X về xây dựng đội ngũ

trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, chỉ ra những

hạn chế của ĐNTT.

“Số lƣợng và chất lƣợng chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của sự phát triển đất

nƣớc. Cơ cấu đội ngũ trí thức có những mặt bất hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới

tính... Trí thức tinh hoa và hiền tài còn ít, chuyên gia đầu ngành còn thiếu nghiêm

trọng, đội ngũ kế cận hẫng hụt; chƣa có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín ở khu

vực và quốc tế. Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu khoa học chƣa xuất phát và gắn bó

mật thiết với thực tiễn sản xuất, kinh doanh và đời sống.

Trong khoa học tự nhiên và công nghệ, số công trình đƣợc công bố ở các tạp

chí có uy tín trên thế giới, số sáng chế đƣợc đăng ký quốc tế còn quá ít. Trong khoa

học xã hội và nhân văn, nghiên cứu lý luận còn thiếu khả năng dự báo và định hƣớng,

chƣa giải đáp đƣợc nhiều vấn đề do thực tiễn đổi mới đặt ra, chƣa có những công

trình sáng tạo lớn, nhiều công trình còn sơ lƣợc, sao chép.Trong văn hóa, văn nghệ

còn ít tác phẩm có giá trị xứng tầm với những thành tựu vẻ vang của đất nƣớc, sự

sáng tạo và hy sinh lớn lao của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc; lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật còn nhiều hạn chế.

Trình độ của trí thức ở nhiều cơ quan nghiên cứu, trƣờng đại học tụt hậu so

với yêu cầu phát triển đất nƣớc và so với một số nƣớc tiên tiến trong khu vực, nhất là

58

về năng lực sáng tạo, khả năng thực hành và ứng dụng, khả năng giao tiếp bằng ngoại

ngữ và sử dụng công nghệ thông tin.

Một bộ phận trí thức, kể cả ngƣời có trình độ học vấn cao, còn thiếu tự tin, e

ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan đến chính trị.

Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng, có

biểu hiện chạy theo bằng cấp, thiếu trung thực và tinh thần hợp tác. Một số trí thức

không thƣờng xuyên học hỏi, tìm tòi, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, thiếu chí khí và

hoài bão. Nhiều trí thức trẻ có tâm trạng thiếu phấn khởi, chạy theo lợi ích trƣớc mắt,

thiếu ý chí phấn đấu vƣơn lên về chuyên môn”[22, tr.85-86].

Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đã bộc lộ một số hạn chế, trƣớc hết ở khâu

quản lý từ trung ƣơng đến các trƣờng, nội dung giảng dạy chƣa gắn kết giữa lý thuyết

với đời sống xã hội, chƣa gắn kết với nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng,

chất lƣợng giảng dạy, nhìn chung, còn thấp. Các đề án, đề tài, dự án, chiến lƣợc,

chƣơng trình, tài liệu, tuy có nghiên cứu, nhƣng chất lƣợng còn thấp.

Đặc biệt, giáo dục đại học – cơ sở chủ yếu đào tạo trí thức, còn rất nhiều hạn

chế. Tổ chức “Diễn đàn kinh tế thế giới” xếp giáo dục đại học của Việt Nam đứng

thứ 93/131 nƣớc, sau cả Boolivia, Xri Lanca, Thái Lan (xếp thứ 44), Philíppin (xếp

thứ 62), Inđônêxia (xếp thứ 65). Qua đánh giá này, phản ánh phần nào thực trạng của

giáo dục và đào tạo Việt Nam hiện tại.

Ngày 13 – 12 – 2006, báo An ninh thủ đô đăng bài của Tiến sĩ Mork A,

Aosbwill: “Thế giới lo cho giáo dục đại học Việt Nam. 72 dự án đào tạo nƣớc ngoài

đƣợc cấp phép, một thị trƣờng tự do không có nghĩa là các trƣờng đƣợc lợi dụng. lừa

đảo khách hàng…” hay “thật khó mà nói thêm nữa về sự nghiêm trọng của những

thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong giáo dục đại học. Chúng tôi cho rằng nếu

không có những cải cách nhanh và tận gốc dành cho giáo dục đại học, Việt Nam, sẽ

không thể phát huy tiềm năng to lớn của họ”; “Việt Nam không có một trƣờng đại

học chất lƣợng đƣợc công nhận. Không một trƣờng đại học nào của Việt Nam nào

đƣợc ghi nhận trên bất kỳ bảng xếp hạng quen thuộc các đại học hàng đầu châu Á. Về

mặt này Việt Nam thua kém cả các quốc gia Đông Nam Á về phần đông họ có thể

59

giới thiệu một số học viện có đẳng cấp. Đại học Việt Nam nói chung bị lọt ra ngoài

dòng kiến thức quốc tế” [30].

Giáo trình giảng dạy trong các trƣờng đại học còn gặp phải nhiều vấn đề, gây

bức xúc trong dƣ luận, kiến thức chồng chéo, kiến thức chuyên ngành bị cào bằng.

Trình độ ngoại ngữ yếu kém. Chất lƣợng giáo dục thấp đã dẫn đến hậu quả khoảng

50% sinh viên Việt Nam tốt nghiệp đại học không thể tìm thấy việc làm đúng với

chuyên ngành của mình, tỉ lệ thất nghiệp cao [11].

Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ thiếu, có sự chênh lệch về giới tính, độ

tuổi. Phần lớn nguồn nhân lực chất lƣợng cao là nam và đã trên 45 tuồi (giáo sƣ, tiến

sĩ khoa học nam chiếm 98,55% và 95,52% là trên 45 tuổi). Những con số này đã phản

ánh tình trạng lão hóa của đội ngũ trình độ cao trong các tổ chức khoa học và công

nghệ. Tình trạng nguồn nhân lực chất lƣợng cao có học hàm giáo sƣ, phó giáo sƣ, có

học vị Tiến sĩ, tiến sĩ khoa học có xu thế giảm, nguồn nhân lực trẻ lại không mặn mà

với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập.

Khả năng thích ứng với tốc độ phát triển của khoa học công nghệ Việt Nam

không cao. Khả năng hoạt động khoa học và công nghệ của nƣớc ta là 2,3/10 xếp

theo thang điểm 10 và thích ứng với khả năng phát triển của khoa học công nghệ là

2/10.Theo hai tác giả Lê Văn Út và Thái Lâm Toàn “từ năm 2006 - 2010, Việt Nam

chỉ có 5 bằng sáng chế đƣợc đăng kí tại Hoa Kì. Trong khi đó Nhật Bản là 46.139,

Hàn Quốc là 12.262, Singapore là 647, Malaysia là 161, Thái Lan là 53, Philippin là

27. Về công bố quốc tế, theo thống kê của Viện Thông tin khoa học (ISI), trong 15

năm qua (1996 - 2011), Việt Nam chỉ có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các

tạp san quốc tế, bằng khoảng 1/5 của Thái Lan (69.637), 1/6 của Malaysia (75.530),

1/10 của của Singapore (126.881).

Chỉ số chất lƣợng nhân lực của Việt Nam còn thấp mới chỉ đạt 3,79/10, trong

khi đó Trung Quốc đạt 5,73/10; Ấn Độ 5,76/10; Nhật Bản 6,5/10; Singapo 6,81/10.

Tỉ lệ nhân lực nghiên cứu khoa học trên 100 dân, Việt Nam đạt 0,18, trong khi đó

Hàn Quốc 2,19, Đức là 2,83.

Tình trạng “chảy máy chất xám” ở đội ngũ trí thức hiện nay là tình trạng đáng

báo động, nó biểu hiện rõ là trí thức ra nƣớc ngoài làm việc và trí thức trong các cơ

60

quan công lập bỏ ra làm tƣ. Chính phủ và nhiều địa phƣơng thi hành chính sách trải

thảm đỏ thu hút và giữ nhân tài trong khu vực công nhƣng làn sóng dịch chuyển lao

động từ cơ quan và doanh nghiệp nhà nƣớc sang khu vực tƣ nhân vẫn diễn ra âm

thầm, mạnh mẽ và chƣa có dấu hiệu giảm. Theo Báo cáo số 174/BC/CP ngày 5-11-

2008 thì trong thời gian từ tháng 7-2003 đến tháng 12-2007 đã có 16.314 cán bộ,

công chức, viên chức thôi việc. Trong tổng số ngƣời xin thôi việc trên, số tốt nghiệp

đại học, cao đẳng trở lên chiếm 84%. Đặc biệt theo tiến sĩ Ngô Thành Can, sẽ không

có gì để nghiên cứu nếu nhƣ những ngƣời rời khỏi khu vực nhà nƣớc có trình độ tay

nghề “tầm tầm bậc trung” hay “yếu yếu”, đằng này “những ngƣời ra đi là những

ngƣời giỏi và khá về chuyên môn, năng động, dám nghĩ, dám làm [9] và “Hiện tƣợng

công chức có năng lực, có kinh nghiệm xin thôi việc hoặc thuyên chuyển công tác

đang có xu hƣớng gia tăng. Những công chức này chủ yếu là những ngƣời đã đƣợc

đào tạo chính quy trình độ thạc sĩ, tiến sĩ luật từ các quốc gia có hệ thống pháp luật

phát triển nhƣ Oxtraylia, Pháp, Hà Lan, Nhật Bản” [55].

Trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, không ít trí thức

Việt Nam chƣa thật sự hƣớng về giai cấp công nhân và giai cấp nông dân mà đang có

xu hƣớng ngả về các doanh nhân. Điều này thể hiện sự đi về các nhà máy, đồng

ruộng của trí thức ngày càng trở lên thƣa vắng, mà muốn “đổ xô” vào các công ty,

tổng công ty, tập đoàn kinh tế lớn ở các thành phố và các đô thị[53].

Những nguyên nhân chính dẫn đến hạn chế của trí thức Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, về cơ chế chính sách, công tác trí thức cũng đƣợc Đảng chỉ rõ tại

các Đại hội và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng, Nghị quyết Hội nghị Trung

ƣơng 5 khóa X của Đảng (tháng 7 – 2007) đã kiểm điểm: “chƣa có cơ chế, chính

sách phù hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi dƣỡng, trọng dụng ngƣời tài đức, có tài,

thay thế kịp thời những ngƣời yếu kém về phẩm chất và năng lực”[24, tr.110].

Thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán

bộ, phát hiện và sử dụng ngƣời tài, chậm đổi mới cơ chế, phƣơng pháp và quy trình

đánh giá, bổ nhiễm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ, đánh giá cán bộ vẫn là khâu

yếu. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chƣơng chƣa

đƣợc khắc phục. Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa. Chất lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng 61

cán bộ thấp. Môi trƣờng làm việc, chính sách cán bộ chƣa tạo đƣợc động lực để

khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán bộ, chƣa cổ vũ ý chí

phấn đấu vƣơn lên, tận tụy của cán bộ đối với công chức [27, tr.173–174].

Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn

yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan chƣa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng

thêm, chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chƣa đủ rõ còn chồng chéo [27,

tr.171-172].

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tuyển dụng cán bộ, công chức còn

nhiều bất cập. Theo Báo cáo giám sát pháp lệnh cán bộ, công chức của Ủy ban pháp

luật tháng 9-2008 cho biết chúng ta có quá nhiều quy phạm pháp luật hƣớng dẫn thi

hành pháp lệnh tuy nhiên hiệu lệnh thực tế của các văn bản đó chƣa cao vì thực hiện

chậm, không phù hợp với pháp luật, nhiều văn bản chƣa đƣợc hƣớng dẫn thi hành,

thậm chí mâu thuẫn nhau.

Trong quá trình tuyển dụng, đánh giá và sử dụng cán bộ, chƣa phát huy đầy đủ

tính dân chủ, tính công khai và minh bạch. Chính sách đãi ngộ chƣa đồng đều, chƣa

đủ sức thu hút nhân tài vào công tác trong hệ thống chính trị…Những hạn chế đó đã

dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám và nhiều ngƣời tài dời khỏi khu vực công sang

khu vực tƣ. Bên cạnh đó, việc sử dụng ngƣời không đúng ngƣời, không đúng việc,

giao việc không phù hợp với chuyên môn, năng lực, sở trƣờng dẫn đến việc trù dập

ngƣời giỏi, ngƣời tài không đƣợc cất nhắc sử dụng đúng mục đích.

Thứ hai, chính sách đào tạo và sử dụng trí thức chƣa đi đôi với nhau, chúng ta

mới chỉ coi trọng và đặt lên “hàng đầu” những giải pháp đầu vào (giáo dục đào tạo)

mà ít quan tâm đến chính sách sử dụng, đãi ngộ nhân tài, nhân lực chất lƣợng cao

(giải pháp đầu ra) và chƣa tập trung giải quyết mối quan hệ giữa đào tạo, sử dụng, đãi

ngộ nguồn lực này. Chính vì vậy tỷ lệ thất nghiệp hiện nay của sinh viên quá nhiều.

Trong chính sách tiền lƣơng và đãi ngộ còn nhiều bất cập. Sự cào bằng tiền

lƣơng giữa các tầng lớp trí thức đã dẫn đến sự cào bằng về đánh giá giá trị của tài

năng, điều đó đã làm cho một số bộ phận trí thức chán nản không muốn cống hiến.

Chính nguyên nhân này đã dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám của các khu vực

công, những cán bộ, trí thức có năng lực thật sự lại không mặn mà với khu vực công, 62

nên đã dịch chuyển vị trí làm việc của mình sang khu vực tƣ để nhận đƣợc sự đãi ngộ

cao hơn.Nguyên nhân đƣợc cho xuất phát từ tiền lƣơng và chính sách đãi ngộbởi

“Một công chức tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ nƣớc ngoài khi trở về công tác chỉ có mức

thu nhập từ 2 – 2,5 triệu đồng/tháng. Trong khi đó, ngay sau khi tốt nghiệp trở về

công chức đó có thể đƣợc các công ty “mời chào” với mức lƣơng 1200 – 1500

usd/tháng” [55].

Thứ ba, về bố trí sử dụng cán bộ trí thức còn bất cập. Không ít trƣờng hợp

đƣợc đề bạt non, đƣa những ngƣời chƣa đủ tiêu chuẩn tài và đức vào cƣơng vị quản

lý các cấp, trong khi đó những ngƣời xứng đáng hơn lại không đƣợc bổ nhiệm.

Thứ tư, trong công tác xây dựng các hội trí thức, một số cơ quan Đảng, Nhà

nƣớc còn chƣa nhận thức thật đầy đủ về quan điểm, đƣờng lối của Đảng đối với vị trí,

vai trò của Liên hiệp Hội Việt Nam ở Trung ƣơng và các địa phƣơng trong việc tập

hợp, đoàn kết và phát huy trí tuệ của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam ở trong

và ngoài nƣớc. Mặc dù trên các văn bản chính thức của Đảng, Liên hiệp Hội ở Trung

ƣơng và địa phƣơng đƣợc coi là tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công

nghệ, nhƣng việc thể chế hóa các chủ trƣơng, chính sách của Đảng đối với Liên hiệp

Hội Việt Nam chƣa đầy đủ, chƣa kịp thời. Nhà nƣớc vẫn chƣa tạo điều kiện để các hội

nghề nghiệp thực hiện các nhiệm vụ Nhà nƣớc giao phù hợp với năng lực của các

hội. Điều kiện hoạt động của Liên hiệp Hội ở Trung ƣơng và các địa phƣơng tuy đã

đƣợc cải thiện hơn so với trƣớc song vẫn còn nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, bộ

máy tổ chức và cơ sở vật chất.

Thứ năm, bản thân ngƣời trí thức ít chịu rèn luyện, học tập để vƣơn lên chiếm

lĩnh đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Không ít trí thức nảy sinh tƣ

tƣởng cơ hội, thực dụng, không thực chất trong nghiên cứu khoa học, rơi vào tình

trạng lo cho nghiên cứu khoa học thì ít, mà lo cho sự hƣởng thụ thì nhiều.

Tiểu kết chƣơng 2

Trong những năm đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc (2006 -

2013), Đảng ta tiếp tục nhất quán chủ trƣơng xây dựng ĐNTT phục vụ cho sự nghiệp

63

cách mạng. Chủ trƣơng của Đảng về ĐNTT đã có bƣớc phát triển mạnh mẽ. Đảng đã

ra một nghị quyết riêng về trí thức, điều này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng

đối với công tác xây dựng ĐNTT. Khẳng định rõ xây dựng ĐNTT là một đòi hỏi

mang tính thời sự trong bối cảnh mới của nền kinh tế toàn cầu. Những chủ trƣơng của

Đảng đối với công tác trí thức đƣợc thể hiện rõ ở nhiều chỉ thị, nghị quyết của Trung

ƣơng.

Công tác xây dựng ĐNTT của Đảng từng bƣớc đạt đƣợc những kết quả quan

trọng. ĐNTT từng bƣớc trƣởng thành, ngày càng khẳng định đƣợc vị trí, vai trò của

mình trong sự phát triển của đất nƣớc. ĐNTT là lực lƣợng quan trọng tham gia vào tƣ

vấn, phản biện các vấn đề xã hội, tham gia xây dựng các chủ trƣơng, chính sách lớn

của đất nƣớc, cùng với các tầng lớp nhân dân khác trong xã hội tiến hành đẩy mạnh

sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc đạt đƣợc những thắng lợi quan trọng.

Chƣơng 3

NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU

3.1.NHẬN XÉT CHUNG

Trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2013, Đảng ta đã tiếp tục nhận thức rõ về vị

trí, vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự phát triến đất nƣớc, nhiều chủ trƣơng, chính

sách đã đƣợc Đảng đề ra cụ thể hóa bằng các chính sách, pháp luật cụ thể, đƣợc quán

64

triệt từ trung ƣơng đến các địa phƣơng đã đƣợc tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ trí

thức phát triển mạnh mẽ cả về số lƣợng và chất lƣợng, đóng góp không nhỏ vào quá

trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

3.1.1. Ƣu điểm

Thứ nhất, tư duy của Đảng về đội ngũ trí thức ngày càng rõ ràng, cụ thể hơn.

Nhận thức của Đảng về trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng phù

hợp hơn với yêu cầu thực tiễn của đất nƣớc. Hiện nay, nhận thức của Đảng về trí thức

ngày càng toàn diện hơn, đánh giá đúng đắn đƣợc tầm quan trọng của trí thức, đội

ngũ trí thức, từ đó hoạch định đƣợc những chủ trƣơng, chính sách để khuyến khích

đội ngũ trí thức phát triển và góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nƣớc.

Đảng nhất quán quan điểm, chính sách đối với trí thức, trƣớc sau luôn coi trí

thức là một bộ phận quan trọng của cách mạng. Trải qua các kỳ Đại hội Đảng, công

tác trí thức tiếp tục đƣợc bổ sung và phát triển, việc hoạch định chiến lƣợc phát triển

ĐNTT đƣợc Đảng phát triển và hoàn chỉnh so với giai đoạn trƣớc.

Đại hội X của Đảng (họp từ ngày 18 đến 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội) đặt vấn

đề một cách rõ ràng về sử dụng trí thức: “Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài,

các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sƣ, kỹ sƣ trƣởng, kỹ thuật viên lành

nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao” [22, tr.212].

Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 7, khóa X về xây dựng đội ngũ trí

thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, đã đánh giá một

cách khách quan và khoa học về đội ngũ trí thức. Điểm phát triển mới trong Nghị

quyết là Đảng ta đã kiểm điểm công tác xây dựng đội ngũ trí thức bên cạnh việc đánh

giá đội ngũ trí thức. Đây đƣợc coi là sự phát triển trong tƣ duy của Đảng về công tác

trí thức. Lần đầu tiên kể từ khi Đảng ra đời, Đảng có một Nghị quyết chuyên đề riêng

về công tác trí thức, đây là một bước tiến lớn về lý luận và thực tiễn công việc giải

quyết vấn đề trí thức. Vấn đề trí thức thực sự đƣợc làm sáng tỏ, đƣợc nhận thức một

cách toàn diện. Vị trí của đội ngũ trí thức cũng đƣợc nhận thức đúng đắn trong mối

quan hệ với giai cấp nông dân, giai cấp công nhân trong khối đại đoàn kết dân tộc.

Xây dựng đội ngũ trí thức chính là xây dựng nền tảng chính trị của cả hệ thống chính

trị.

65

Đại hội XI của Đảng, tiếp tục đặt vấn đề xây dựng nền tảng “liên minh giữa giai

cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam

lãnh đạo” [27, tr.85] và đặt vấn đề: “khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập,

tạo điều kiện để ngƣời dân đƣợc học tập suốt đời”. Nghị quyết nhấn mạnh đến vấn đề

nhân tài, trọng dụng nhân tài: “Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nƣớc” [27,

tr.242].

Trong công tác trí thức, Đảng chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dƣỡng trí thức.

Đảng đƣa ra nhiều Nghị quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo, khoa học và công

nghệ để đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ trí thức. Gắn trí thức với phát triển văn hóa, xã hội.

Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trí

thức có vai trò quan trọng. Đảng coi trọng chức năng bảo vệ, phát huy, phát triển và

truyền bá văn hóa dân tộc là của đội ngũ trí thức.Đảng ta luôn coi trọng vai trò đặc biệt

của đội ngũ trí thức và văn nghệ sĩ, đƣợc thể hiện rất rõ trong các Nghị quyết của Đảng

từ trƣớc tới nay và các Nghị quyết mà Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI đã

ban hành liên quan tới xây dựng đội ngũ trí thức, phát triển văn hóa và con ngƣời Việt

Nam, giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ. Đảng ta luôn luôn khẳng định tri thức

bao giờ cũng là nền tảng của tiến bộ xã hội. Đội ngũ trí thức là lực lƣợng nòng cốt để

sáng tạo và truyền bá tri thức này trong cuộc sống.

Chủ trƣơng xây dựng đội ngũ trí thức toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, đề cao

vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nƣớc. Coi trọng vai trò tƣ vấn, phản biện xã hội của đội ngũ trí thức. Đảng đề ra nhiều

chủ trƣơng để khuyến khích đội ngũ trí thức thể hiện vai trò của mình đối với xã hội.

Chính sách sử dụng, trọng dụng trí thức có những bƣớc phát triển mới. Xây dựng môi

trƣờng hoàn thiện cho đội ngũ trí thức phát triển, tự khẳng định mình cũng là một trong

những nhiệm vụ trong công tác trí thức của Đảng đã đạt đƣợc kết quả: “thực hành dân

chủ, tôn trọng và phát huy tự do, tƣ tƣởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của đội

ngũ trí thức vì mục tiêu dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Tạo môi trƣờng và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức, trọng

dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có

chính sách đặc biệt với nhân tài của đất nƣớc” [22, tr.91].

66

Thứ hai, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức không ngừng

được đổi mới.

Tại Đại hội X của Đảng tháng 4 năm 2006, Đảng đƣa ra chủ đề thảo luận “làm

thế nào để thu hút nhân tài”, trƣớc hết là để lựa chọn nhân tài bổ nhiệm, cất nhắc và

các cƣơng vị lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị. Đảng đã đƣa ra năm giải pháp

lớn nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn mới,

trong đó có giải pháp đổi mới phƣơng thức lãnh đạo của Đảng, trong đó có đổi mới

phƣơng thức lãnh đạo của Đảng với đội ngũ trí thức. Đảng đổi mới quy trình ban

hành các quyết định lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực của trí thức theo hƣớng

khoa học, dân chủ, đi từ cơ sở. Ngoài ra, Đảng chú trọng đổi mới phƣơng thức tiến

hành công tác tƣ tƣởng đối với đội ngũ trí thức theo hƣớng mở rộng dân chủ, phát

huy tự do tƣ tƣởng trong các hoạt động nghiên cứu khoa học ở các tập thể khoa học.

Tạo điều kiện rộng rãi để đội ngũ trí thức trao đổi học thuật, tiến hành phản biện có

chất lƣợng các yêu cầu khoa học và lý luận.

Thứ ba, quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác trí thức được cụ thể hóa

và thực hiện có kết quả.

Chủ trƣơng của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức đƣợc pháp chế hóa, cụ thể

hóa tại các đạo luật, nhiều văn bản pháp luật đƣợc các cấp, các ngành từ trung ƣơng

đến địa phƣơng thực hiện nghiêm túc. Các bộ luật đƣợc bổ sung và phát triển để phù

hợp với điều kiện mới. Chính phủ để ban hành các chƣơng trình cụ thể để thực hiện

các nghị quyết của Bộ Chính trị về xây dựng đội ngũ trí thức, có sơ kết, tổng kết,

đánh giá việc thực hiện ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phƣơng.

Môi trƣờng cho các hoạt động sáng tạo của trí thức đƣợc mở rộng theo hƣớng

phát huy dân chủ. Cơ chế tự chủ hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ

đƣợc thực hiện. Tính đến 31/12/2014, trong tổng số 642 tổ chức khoa học-công nghệ

công lập có 488 tổ chức đã đƣợc phê duyệt Đề án thực hiện cơ chế tự chủ (đạt 76%),

100% tổ chức khoa học-công nghệ đƣợc tự chủ trong thực hiện các nhiệm vụ khoa

học-công nghệ.

Thứ tư, đội ngũ trí thức đã từng bước trưởng thành và đóng góp vào xây dựng

67

đất nước.

Nhận đƣợc sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc, đội ngũ trí thức phát triển

không ngừng về cả số lƣợng và chất lƣợng. Trí thức Việt Nam hiện nay rất đông đảo,

có thành phần đa dạng, hoạt động rộng rãi trên tất cả các ngành nghề, lĩnh vực và có

nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nƣớc.Đại bộ phận trí thức làm

việc tận tụy, vì mục tiêu dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.

Đội ngũ trí thức nƣớc ta có tiềm năng trí tuệ to lớn, thông minh và ham hiểu biết, rất

nhạy bén với cái mới, với xu thế thời cuộc, có khả năng tiếp cận nhanh chóng với

trình độ tiên tiến của khoa học, công nghệ và văn hóa thế giới. Đội ngũ trí thức văn

nghệ sĩ đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt

Nam, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực. Đội ngũ trí thức trong lĩnh vực khoa học xã

hội đã góp phần bổ sung, lý giải và làm rõ thêm những quan điểm của Đảng về con

đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhiều kết luận khoa học đã đƣợc dùng làm

cơ sở đề xây dựng các nghị quyết, hoạch định các chủ trƣơng, chính sách của Đảng

và Nhà nƣớc, góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới đất nƣớc. Đội ngũ trí

thức khoa học tự nhiên, có những thành tựu trong nghiên cứu, điều tra tự nhiên, tài

nguyên thiên nhiên, môi trƣờng, góp phần cung cấp các luận cứ cho việc xây dựng

chiến lƣợc và quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, tạo cơ sở cho quá trình tiếp thu và

làm chủ công nghệ hiện đại trên thế giới…

Trình độ trí thức của Việt Nam đƣợc nâng lên từng bƣớc, nhất là về học vấn.

Cả nƣớc có khoảng 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sƣ; 5.253 phó giáo

sƣ, 16 nghìn ngƣời có trình độ thạc sĩ, 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học và công

nghệ, 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó 49% có trình độ thạc sĩ trở lên,

gần 14 nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề và 952

nghìn giáo viên hệ phổ thông. Gần 9.000 tiến sĩ đƣợc điều tra, thì có khoảng 70% giữ

chức vụ quản lý và 30% thực sự làm công tác chuyên môn. Đội ngũ trí thức Việt

Nam ở nƣớc ngoài hiện có khoảng 400 nghìn ngƣời, trong đó có hàng trăm giáo sƣ,

tiến sĩ đang dạy tại một số trƣờng đại học trên thế giới [54, tr. 354].

68

Đội ngũ trí thức có bƣớc trƣởng thành toàn diện, trình độ chuyên môn và năng

lực sáng tạo đƣợc nâng lên; trí thức thể hiện hoài bão lớn, có ý thức trách nhiệm đối

với xã hội, gắn bó với Đảng, với dân tộc.

3.1.2. Hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, công tác xây dựng đội ngũ trí thức của Đảng

giai đoạn từ năm 2006 đến 2013 vẫn còn mắc phải một số hạn chế, yếu kém sau:

Thứ nhất, việc quán triệt các quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng về

công tác trí thức ở một số cấp ủy và cán bộ chủ chốt còn chưa sâu sắc, thiếu nghiêm

túc.

Đƣờng lối, quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về đội ngũ trí thức, ở nhiều nơi

chƣa đƣợc cụ thể hóa một cách chi tiết khoa học, việc tổ chức thực hiện vẫn là khâu

yếu. Nhiều địa phƣơng, nhiều cơ quan chƣa nhận thức rõ đƣợc vị trí, vai trò của đội

ngũ trí thức. Thậm chí có biểu hiện thành kiến với trí thức. Chƣa có chiến lƣợc tổng

thể để phát triển đội ngũ trí thức. Tuy Đảng đã có riêng một Nghị quyết chuyên đề về

công tác xây dựng đội ngũ trí thức, nhƣng đến nay vẫn chƣa thể huy động toàn xã hội

tham gia vào công tác xây dựng đội ngũ trí thức. Nhận thức về vai trò và chức năng,

nhiệm vụ của các hội trí thức ở địa phƣơng còn mờ nhạt. Nhiều tổ chức trí thức chƣa

đƣợc quan tâm, phát triển đầy đủ. Mặt khác nhiều hội trí thức chƣa chủ động, tich s

cực trong việc quảng bá thƣơng hiệu của mình tới xã hội, chính vì vậy rất khó khăn

trong thu hút lực lƣợng trí thức trẻ tham gia.

Thứ hai, công tác tư tưởng trong xây dựng đội ngũ trí thức còn một số hạn chế.

Quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học đã đƣợc xây dựng, song việc thực

hiện quy chế ở nhiều nơi còn nhiều thiếu sót, điều này đã hạn chế nhiều đến việc

nghiên cứu, sáng tạo của trí thức. Một số lãnh đạo cấp ủy đảng chƣa nhận thức sâu

sắc mối quan hệ giữa khoa học và chính trị nên có trƣờng hợp giải quyết chƣa tốt, gây

tâm tƣ, suy nghĩ trong trí thức. Nhiều lúc, nhiều nơi các cấp ủy Đảng địa phƣơng còn

coi nhẹ vai trò của trí thức và các lĩnh vực tạo ra trí thức, chƣa giải quyết đƣợc thỏa

đáng nhu cầu hành nghề của trí thức. Cá biệt, trong công tác trí thức vẫn còn tƣ tƣởng

ngại dùng ngƣời tài, ngại tiếp xúc với trí thức, sợ trí thức phản biện, giám định lại xã

69

hội tại địa phƣơng. Công tác bồi dƣỡng, tạo điều kiện cho trí thức phát triển chƣa

đƣợc chú trọng.

Thứ ba, chiến lược sử dụng trí thức đã được Đảng đưa ra nhưng chưa thật sự

đồng đều trong công tác đào tạo và sử dụng trí thức.

Đào tạo tràn lan nhƣng không đáp ứng đƣợc nhu cầu sử dụng dẫn đến tình

trạng thất nghiệp diễn ra khá nhiều đặc biệt với sinh viên mới tốt nghiệp tại các

trƣờng đại học. Đào tạo tràn lan, không gắn đào tạo với thực tiễn dã gây ra lãng phí

lớn ngân sách đất nƣớc. Tình trạng chảy máu chất xám diễn ra nhiều, theo số liệu

thống kê, hàng năm có dến gần 50% số sinh viên tốt nghiệp ra trƣờng, làm không

đúng với chuyên ngành đào tạo. Điều này dẫn đến nghịch lý là vừa thừa, vừa thiếu trí

thức. Công tác đào tạo và phát triển đội ngũ trí thức, phát huy vai trò của họ ở không

ít nơi chƣa đƣợc thực sự coi trọng, nên chƣa khắc phục đƣợc tình trạng đội ngũ trí

thức tuy tăng về số lƣợng nhƣng tỷ lệ trên số dân còn thấp so với các nƣớc trong khu

vực, chất lƣợng đào tạo chƣa cao, thiếu nhiều trí thức đầu ngành, chuyên môn giỏi.

Tình trạng già hóa đội ngũ trí thức chất lƣợng cao ngày càng báo động trong khi đó

lại hụt hẫng trí thức trình độ cao, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận. Trong

đánh giá, sử dụng công chức còn nhiều bất cập: “Chƣa phát huy đầy đủ dân chủ, công

khai, minh bạch trong quá trình đánh giá, tuyển chọn và sử dụng cán bộ, chính sách

đãi ngộ chƣa đồng bộ, chƣa đủ sức thu hút nhân tài và công tác trong hệ thống chính

trị” [58].

Thứ tư, chính sách tiền lương và đãi ngộ với trí thức còn nhiếu bất cập.

Vấn đề tiền lƣơng, thu nhập và đãi ngộ với ngƣời lao động là yếu tố rất quan

trọng ảnh hƣởng tới chất lƣợng lao động của họ.

Quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về cải cách chính sách tiền lƣơng nhiều năm

nay là đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Từ

quan điểm, chủ trƣơng này, Chính phủ đã không ngừng triển khai thực hiện, xem xét,

điều chỉnh mức lƣơng tối thiểu chung, tối thiểu vùng; sửa đổi, bổ sung chế độ phụ

cấp ƣu đãi, thâm niên theo nghề, phụ cấp đặc thù theo ngành; đổi mới cơ chế tài

chính đối với đơn vị hành chính, sự nghiệp..., từng bƣớc hoàn thiện chế độ tiền lƣơng

70

và cải thiện đời sống của cán bộ, công chức và ngƣời lao động. Tuy nhiên, quá trình

điều chỉnh, triển khai trong từng nội dung của chính sách tiền lƣơng hiện hành vẫn

còn nhiều bất cập nhƣ. Quan hệ tiền lƣơng tối thiểu - trung bình - tối đa chƣa hợp lý,

hệ số trung bình quá thấp nên chƣa cải thiện đƣợc đời sống, chƣa khuyến khích đƣợc

cán bộ, công chức và ngƣời lao động có hệ số lƣơng thấp; Mức lƣơng tối thiểu hiện

nay chƣa thật sự phù hợp với cơ chế thị trƣờng, dù liên tục điều chỉnh nhƣng tăng vẫn

không kịp so với tốc độ trƣợt giá và mức tăng trƣởng của nền kinh tế. Do đó, tiền

lƣơng thực tế của cán bộ, công chức và ngƣời lao động có phần giảm sút, chƣa bảo

đảm trang trải cho các nhu cầu thiết yếu của bản thân, chƣa kể đến gia đình họ

Đặc biệt, sự cào bằng trong đãi ngộ đối với trí thức là một trong những nguyên

nhân dẫn đến tình trạng nhiều nhà khoa học, trí thức tài năng không tập trung vào

nghiên cứu khoa học.

Nhìn chung, chính sách tiền lƣơng dù đã trải qua nhiều lần “cải cách” nhƣng

vẫn chƣa tạo ra động lực đủ mạnh cho ngƣời hƣởng lƣơng phát huy tài năng và cống

hiến. Tiền lƣơng thấp không kích thích đƣợc cán bộ công chức và ngƣời lao động gắn

bó với Nhà nƣớc, không thu hút đƣợc nhân tài, dẫn đến hiện tƣợng ngƣời làm việc

giỏi, có tài bỏ khu vực Nhà nƣớc ra làm việc cho khu vực ngoài Nhà nƣớc - nơi có

tiền lƣơng và thu nhập cao - có xu hƣớng ngày càng tăng. Mặt khác, lƣơng thấp cũng

là một trong những nguyên nhân dẫn đến tiêu cực, tham nhũng,...

3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM

Từ nghiên cứu, tìm hiểu quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng ĐNTT và kết quả

thực hiện trên thực tế một số kinh nghiệm đƣợc rút ra:

3.2.1. Xây dựng đội ngũ trí thức là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của

cách mạng Việt Nam, đây là một trong năm bài học kinh nghiệm đƣợc xác định trong

Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và

phát triển năm 2011). Sự trƣởng thành của ĐNTT là kết quả của đƣờng lối, chủ

trƣơng của Đảng đối với ĐNTT. Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, trong công tác trí

71

thức vẫn còn nhiều điểm hạn chế cần đƣợc khắc phục. Đổi mới phƣơng thức lãnh đạo

của Đảng với trí thức phải đặt trong mục tiêu đổi mới phƣơng thức lãnh đạo trung của

Đảng trên tất cả các lĩnh vực và tuân thủ mục tiêu đó. Đảng phải hƣớng tới xây dựng

củng cố và hoàn thiện phƣơng pháp, hình thức, biện pháp lãnh đạo phù hợp nhất với

ĐNTT. Trong lãnh đạo ĐNTT phải thấm nhuần và quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ

đạo đổi mới công tác quần chúng của Đảng. Xây dựng và phát huy vai trò của ĐNTT

phải trên cơ sở củng cố vững chắc khối liên minh công nhân – nông dân – trí thức.

Thu hút đƣợc toàn xã hội tham gia vào xây dựng ĐNTT.

Những chủ trƣơng, định hƣớng lớn để xây dựng ĐNTT của Đảng cần đƣợc thể

chế hóa bằng những chính sách cụ thể thông qua Nhà nƣớc. Đảng cần quan tâm lãnh

đạo, chỉ đạo Nhà nƣớc và hệ thống chính trị các cấp để xây dựng ĐNTT. Nâng cao

nhận thức của cấp ủy Đảng và chính quyền về vai trò, vị trí quan trọng của trí thức

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập kinh tế quốc tế;

xác định công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng thƣờng xuyên của cấp ủy đảng,

chính quyền các cấp. Nhiệm vụ đặt ra với các cấp ủy đảng từ Trung ƣơng đến địa

phƣơng cần nghiêm chỉnh chấp hành các chủ trƣơng, quan điểm của Trung ƣơng

Đảng. Bên cạnh đó, tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai

trò của ĐNTT, để nhân dân hiểu và cùng tham gia xây dựng ĐNTT lớn mạnh. Các

cấp ủy đảng từ Trung ƣơng đến cơ sở có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và

kiểm tra việc thể chế hóa các nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết thành các chính

sách, chế độ, chế tài, quy chế cụ thể để thực hiện thắng lợi Nghị quyết.

Trong công tác của hệ thống chính trị đối với ĐNTT có hiệu quả cao, cần tăng

cƣờng công tác tƣ tƣởng của Đảng trong các tập thể trí thức. Sức mạnh của Đảng nói

chung, của các tập thể đơn vị, tổ chức dƣới sự lãnh đạo của Đảng nói riêng là ở sự

thống nhất về tƣ tƣởng, tổ chức và hành động, trong đó có thống nhất về tƣ tƣởng là

nhân tố quan trọng hàng đầu. Đảng ta luôn chú trọng và đề cao vai trò của ĐNTT,

từng bƣớc đổi mới phƣơng thức lãnh đạo đối với ĐNTT, trong đó nội dung, hình thức

trong công tác tƣ tƣởng đƣợc theo hƣớng đa dạng hóa thông tin, mở rộng dân chủ

trong sinh hoạt khoa học và tƣ tƣởng. Tuy nhiên, hiện nay công tác tƣ tƣởng của

Đảng đối với ĐNTT chƣa thật sự đạt hiệu quả. Muốn đạt hiệu quả, cần tăng cƣờng sự

72

chỉ đạo, lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác tƣ tƣởng. Bên cạnh đó

cần kiện toàn bộ máy, đầu tƣ cho công tác tƣ tƣởng, phát huy sức mạnh tổng hợp để

đẩy mạnh công tác tƣ tƣởng trong các tập thể trí thức, tăng cƣờng đổi mới, nâng cao

chất lƣợng nội dung tuyên truyền, giáo dục chính trị tƣ tƣởng.

3.2.2. Chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo để tạo ra ĐNTT có trình

độ cao.

Nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục - đào tạo là động lực, là chìa khóa cho

sự phát triển kinh tế - xã hội, các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm việc đầu tƣ

trọng điểm vào chiến lƣợc phát triển giáo dục - đào tạo gắn với chiến lƣợc trí thức,

nhân tài. Tập trung đầu tƣ ngân sách để phát triển hệ thống giáo dục quốc gia. Các

nƣớc Anh, Pháp, Đức, Hoa Kì, Nhật Bản, Hàn Quốc... có tỉ lệ chi ngân sách cho giáo

dục - đào tạo trong tổng giá trị sản phẩm quốc nội (GDP) luôn ở mức cao so với mức

bình quân của thế giới (4%). Chẳng hạn, Hàn Quốc là 16,48%, Đức là 9,77% vào

năm 2004; Hoa Kì là 13,72%, Nhật Bản là 9,17% vào năm 2005 [53, tr.23]. Xây

dựng hệ thống giáo dục đại học có chất lƣợng đào tạo hàng đầu trên thế giới. Ở nƣớc

Anh có Trƣờng Đại học Oxford với hơn 21.000 sinh viên hàng năm, gồm hơn 11.000

sinh viên đại học và hơn 9.000 cao học, nghiên cứu sinh. Đến nay, Đại học Oxford đã

đào tạo đƣợc 29 vị Thủ tƣớng nƣớc Anh, còn Đại học Cambridge cũng đã đào tạo

đƣợc 63 ngƣời đoạt giải Nobel. Đây là hai trƣờng đại học không chỉ nổi tiếng ở xứ

sƣơng mù mà còn nổi tiếng trên thế giới trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất

lƣợng cao.Kinh nghiệm của các nƣớc có nền kinh tế phát triển trên thế giới đều chú

trọng vào công tác giáo dục và đào tạo để xây dựng đƣợc ĐNTT có chất lƣợng cao.

Trong sự nghiệp đổi mới, thực hiện CNH, HĐH, Đảng ta đặc biệt chú trọng

đào tạo, xây dựng ĐNTT với quan điểm phát triển GD-ĐT, nâng cao dân trí, đào tạo

nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài là đầu tƣ phát triển, là một trong những nhân tố có ý

nghĩa quyết định đƣa đất nƣớc vƣợt qua khó khăn, tạo tiền đề cho sự phát triển vững

chắc.Đảng ta không chỉ coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng,

Nhà nƣớc và của toàn dân, mà còn nhấn mạnh ƣu tiên đầu tƣ phát triển giáo dục trong

các chƣơng trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chuyển mạnh quá trình giáo

dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất

73

ngƣời học, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trƣờng kết hợp

với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

Vấn đề trí thức bắt nguồn từ giáo dục, muốn đổi mới công tác trí thức phải đổi

mới công tác giáo dục, trƣớc hết là trong tƣ duy giáo dục. Đảng và Nhà nƣớc luôn

quan tâm đến công tác giáo dục “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí,

phát triển nguồn nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất

nƣớc, xây dựng nền văn hóa và con ngƣời Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo

cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tƣ cho giáo

dục và đào tạo là đầu tƣ cho phát triển”[27, tr.77]. Đầu tƣ cho giáo dục và đào tạo là

đầu tƣ khôn ngoan nhất vì sẽ tạo ra đƣợc một ĐNTT có trí thức, chất lƣợng cao.

Tăng cƣờng ngân sách cho giáo dục và đào tạo.Trong những năm qua, mặc dù

điều kiện đất nƣớc và ngân sách nhà nƣớc còn nhiều khó khăn, Nhà nƣớc vẫn quan

tâm dành một tỷ lệ ngân sách đáng kể để đầu tƣ cho giáo dục. Với nguồn ngân sách

đó, lĩnh vực giáo dục và đào tạo đã đạt đƣợc.Bên cạnh nguồn đầu tƣ lớn từ ngân sách

Nhà nƣớc, công tác đào tạo đã huy động đƣợc nhiều nguồn đầu tƣ lớn từ các nguồn

lực khác nhau.

Các loại hình đào tạo đƣợc đa dạng hóa, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân

dân. Bên cạnh các loại hình đào tạo chính quy trong nhà trƣờng, phong trào tự học, tự

đào tạo phát triển rộng khắp tại các thành phố lớn. Sinh viên ra trƣờng tự tìm việc

làm đúng với chuyên ngành học tập, nhu cầu công việc. Trong những năm 2006 -

2013, Bộ Giáo dục và đào tạo mở rộng loại hình đào tạo liên kết với các trƣờng đại

học nƣớc ngoài và mời chuyên gia giỏi đầu ngành trong và ngoài nƣớc về giảng dạy.

Để nâng cao chất lƣợng đào tạo, Nhà nƣớc đã đầu tƣ nguồn lực lớn cho việc

đổi mới nội dung, chƣơng trình đào tạo, đào tạo lại tránh chồng chéo kiến thức…Đổi

mới biện pháp, cách thức dạy và học, lấy ngƣời học làm trung tâm, học đi đôi với

hành. Đổi mới cơ cấu đào tạo các ngành nghề, cấp học.

Thực hiện nâng cao chất lƣợng đội ngũ giáo viên, giảng viên cho các cấp học

từ tiểu học đến sau đại học, nâng cao chất lƣợng đào tọa trong nƣớc, đồng thời gửi đi

nghiên cứu, học tập ở nƣớc ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau. Đặc biệt, chú

trọng đào tạo đội ngũ giảng viên của các trƣờng đại học và cao đẳng trọng điểm quốc

gia, đội ngũ giảng viên, giáo viên này có tầm đặc biệt quan trọng, thực sự là máy cái

74

để tạo nên các thế hệ trí thức không chỉ giỏi chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải là

những ngƣời có phẩm chất chính trị tốt, trung thành với Tổ quốc và dân tộc.

Thực hiện xã hội hóa giáo dục và đào tạo, tạo điều kiện cho mọi công dân đƣợc

học tập suốt đời. Đào tạo nhân cách, tạo nên những tinh hoa của trí tuệ và tâm hồn

Việt Nam; chú trọng không chỉ nền tảng tri thức khoa học, mà còn phải trau dồi

phƣơng pháp khoa học để ngƣời học có năng lực tƣ duy sáng tạo. Quá trình phát triển

năng lực luôn gắn với quá trình hoạt động thực tiễn, tổ chức thực hiện công việc. Vì

vậy, phƣơng châm gắn học với hành, nhà trƣờng với xã hội, thông qua công việc mà

tiếp tục học sẽ mãi có giá trị to lớn và lâu dài.

3.2.3.Đào tạo, bồi dƣỡng phải gắn với sử dụng; đãi ngộ, tôn vinh trí thức,

nhân tài là chiến lƣợc ƣu tiên hàng đầu

Muốn đƣa đất nƣớc tiến lên ở tầm thời đại, thì vấn đề đặt ra trƣớc hết đối với

Nhà nƣớc là phải ra sức khai thác, phát hiện, đào tạo, bồi dƣỡng, trọng dụng nhân tài.

Đây là công việc cực kỳ quan trọng và cũng không ít khó khăn bởi vì nhân tài là một

sản phẩm đặc biệt.

Hiện nay, ở nƣớc ta giữa chính sách đào tạo, bồi dƣỡng và sử dụng, đãi ngộ,

tôn vinh trí thức chƣa thực sự gắn liền với nhau. Nƣớc ta đang nghiêng nhiều về công

tác đào tạo, bồi dƣỡng mà coi nhẹ công tác sử dụng. Các quan điểm, chủ trƣơng của

Đảng về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ vẫn tập trung đến công tác giáo

dục và đào tạo mà ít đề cập đến công tác sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh. Hoặc có đề

cập đến thì việc thực hiện hóa các chủ trƣơng vào thực tiễn vẫn còn chậm so với lý

luận, giữa quan điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối và thực hiện còn khoảng cách khá xa.

Chính vì vậy, hiện tại số lƣợng sinh viên, thạc sĩ và nghiên cứu sinh của Việt Nam rất

nhiều song xã hội vẫn thiếu những trí thức thật sự bởi một phần do công tác đào tạo,

bồi dƣỡng không đến nơi đến chốn, chƣa tạo ra đƣợc kết quả thực sự, một phần do

công tác sử dụng, trọng dụng của các cấp ủy đảng chƣa tốt. Tính chất cào bằng trong

chi trả lƣơng cho trí thức, cho cán bộ công nhân viên chức vô hình chung đã cào bằng

giá trị của các nhà khoa học, điều này ảnh hƣởng không tốt đến tâm tƣ của các nhà

khoa học. Kinh nghiệm của Nhật Bản trong chính sách sử dụng, trọng dụng và tôn

vinh trí thức rất đáng để chúng ta học tập “bậc lƣơng của công chức đƣợc căn cứ vào

75

trách nhiệm và chức vụ của công chức, mức độ phức tạp của công việc đƣợc giao,

cƣờng độ, thời gian làm việc và ảnh hƣởng của môi trƣờng lao động. Tiền lƣơng làm

cho công chức tự hào về vị trí công việc của mình và tận tụy phục vụ nhân dân,

không lợi dụng chức quyền để trục lợi, nếu vi phạm đạo đức công chức sẽ bị mất việc

làm suốt đời. Hàng năm, các cơ quan ở Nhật Bản vẫn tiến hành đánh giá phân loại để

có chế độ đãi ngộ thỏa đáng, tiến hành bổ nhiệm và bổ nhiệm lại chức danh lãnh đạo.

Nhật Bản còn quy định cấm công chức không đƣợc nhận quà biếu dƣới mọi hình

thức, chống lợi dụng chức quyền để tham nhũng” [35, tr.150-151].

Để nâng cao hơn nữa chất lƣợng những đóng góp mà ĐNTT đối với xã hội,

Đảng cần quan tâm hơn nữa đến công tác sử dụng, trọng dụng trí thức. Xây dựng

chính sách đãi ngộ và tôn vinh trí thức thỏa đáng, tạo điều kiện cơ sở thuận lợi cho

đội ngũ trí thức sáng tạo, cống hiến. Để thu hút ĐNTT trong và ngoài nƣớc tận tâm,

tận lực vì sự nghiệp đổi mới của đất nƣớc, cần xây dựng chính sách đãi ngộ thỏa

đáng, nhất là những chuyên gia đầu đàn. Ngƣời có tài phải đƣợc trọng dụng, hƣởng

lƣơng, thƣởng nhiều hơn, phải đƣợc tin dùng và đƣợc làm việc trong môi trƣờng

khoa học thực sự, không phân biệt đối xử về tuổi tác, chính trị.

Trong sử dụng và trọng dụng trí thức là tạo cho họ một môi trƣờng xã hội

thuận lợi để họ đƣợc phép phát huy tài năng nhƣ tự do suy nghĩ, tự do trao đổi,

đƣợc đánh giá công bằng…cùng với việc hỗ trợ về tài chính, cần đặc biệt quan tâm,

tạo môi trƣờng và điều kiện làm việc thuận lợi để nhân tài phát huy tài năng, cống

hiến cho địa phƣơng, đất nƣớc. Thực tế cho thấy, thu hút và trọng dụng nhân tài, nếu

tuyệt đối hóa ƣu đãi về tài chính, lợi ích vật chất, xem nhẹ việc tạo môi trƣờng làm

việc dân chủ, tôn vinh sự đóng góp, cống hiến của nhân tài... thì việc thu hút và trọng

dụng nhân tài khó có thể đạt hiệu quả nhƣ mong muốn; thậm chí ngƣời tài đã thu hút

đƣợc sẽ rời khỏi địa phƣơng. Do đó, cùng với những ƣu đãi về vật chất, cần coi trọng

tạo lập môi trƣờng cho nhân tài làm việc. Đó là, đầu tƣ cơ sở vật chất, xây dựng

không khí làm việc thân thiện, minh bạch, dân chủ và chế độ thông tin kịp thời; sự

quan tâm, gần gũi của ngƣời lãnh đạo quản lý; chính sách tôn vinh, khen thƣởng kịp

thời, xứng đáng với đóng góp của nhân tài.

76

Đối với ngƣời trí thức, quan trọng nhất là ngƣời lãnh đạo phải có tâm có tầm,

phải hiểu và tôn trọng tài năng thực sự của ngƣời trí thức, từ đó tạo điều kiện thuận

lợi cho họ phát triển.Thu hút và trọng dụng nhân tài là một nghệ thuật. Do đó, cấp

ủy, nhất là ngƣời đứng đầu cấp ủy cần tuân thủ quan điểm của Đảng, đồng thời cần

khéo léo trong thu hút và trọng dụng nhân tài. Để đạt đƣợc điều đó, theo Chủ tịch Hồ

Chí Minh, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải đổi mới phong cách lãnh đạo. Ngƣời

viết muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo,

hay lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa ra tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hóa

ra tài nhỏ...

Nguyên tắc trong việc sử dụng, tuyển chọn ngƣời tài việc tuyển chọn và sử

dụng lao động trí tuệ cần phải lấy công việc làm trung tâm, trên nguyên tắc dùng

đúng ngƣời tài và dùng đúng lúc. Dùng đúng ngƣời tài là phải dựa vào năng lực trí

tuệ, vào sở trƣờng và nguyện vọng từng chủ thể trí tuệ mà giao việc phù hợp.

Trí thức phải đƣợc sống trong môi trƣờng chính trị thuận lợi và tốt đẹp, môi

trƣờng đó làm nảy sinh trí thông minh, giàu óc sáng tạo của ngƣời trí thức. Muốn

vậy, Nhà nƣớc cần triển khai tích cực công tác phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi

dƣỡng, sử dụng nhân tài; tổ chức mạng lƣới đào tạo có chất lƣợng cả trong và ngoài

nƣớc để sớm có một đội ngũ cán bộ khoa học, đội ngũ học giả có trình độ cao trên

các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cần gạt bỏ sự ích kỷ, chỉ vì bon chen chức tƣớc mà

dìm đi những ngƣời tài thực sự trong các cơ quan công quyền; phải gạt bỏ mọi nghi

ngờ đối với các tổ chức ngoài công lập, trên cơ sở đó mà có chính sách đúng đắn để

phát huy các hội, viện, trung tâm nghiên cứu.

3.2.4. Coi trọng phát huy dân chủ thực sự trong hoạt động sáng tạo của trí

thức

Vấn đề quan trọng nhất là Đảng phải làm thật tố công tác tƣ tƣởng đối với trí

thức. Các cấp ủy đảng thực sự phải đóng vai trò chính ủy đối với trí thức, thƣơng yêu

trí thức, chân thành với trí thức, thông cảm với trí thức. Giải quyết đƣợc vấn đề lợi

ích bằng chính sách và vấn đề tƣ tƣởng đối với trí thức sẽ quy tụ đƣợc đội ngũ trí

thƣc gắn bó với Đảng. Ở đây, ngƣời lãnh đạo phải có cái đầu, cái tâm trong việc nhìn

nhận phải trái, đúng sai đối với trí thức. Đặc trƣng của công tác tƣ tƣởng hiện nay đối

77

với trí thức là làm sao thể hiện đƣợc sự đồng chiều giữa tƣ duy lãnh đạo của Đảng

với tƣ duy của ngƣời trí thức.

Dân chủ đối với trí thức là yếu tố không thể thiếu trong quá trình vận động trí

thức tham gia cách mạng. Khi dân chủ đƣợc thực hiện đúng đắn sẽ tạo môi trƣờng,

động lực thúc đẩy các hoạt động trí tuệ, làm nảy nở tài năng.

Dân chủ là điều kiện cần thiết, là nhu cầu của từng cá nhân và tập thể lao động sáng

tạo. Sự phát triển vƣợt bậc của trí tuệ là vô cùng cần thiết, cần đƣợc xã hội thừa nhận,

tạo điều kiện môi trƣờng thuận lợi để phát triển, vì trong nhiều trƣờng hợp, đó là

mầm mống của những tài năng, những thiên tài và là trung tâm tạo ra chất lƣợng cao

của nguồn lực trí tuệ. Chính vì vậy, Lênin đã cho rằng “phải bảo đảm phạm vi hết sức

rộng rãi cho sáng kiến cá nhân, cho khuynh hƣớng cá nhân, cho tƣ tƣởng và sức

tƣởng tƣợng, cho hình thức và nội dung” [37, tr.124].Thực hiện quyền dân chủ,

quyền tự do lành mạnh trong sáng tạo và đƣợc pháp luật bảo vệ sẽ là bƣớc chuyển

tiếp để nâng cao về chất cuộc sống của ngƣời trí thức Việt Nam trong thời kỳ mới.

Dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề. Đại hội XI của Đảng

nhấn mạnh thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tƣ tƣởng trong hoạt động

nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì sự phát triển của đất nƣớc.Trong những năm gần

đây, mặc dù Đảng và Nhà nƣớc đã chú trọng hơn đến việc tạo lập môi trƣờng dân chủ

cho các hoạt động sáng tạo trí tuệ, song đến nay, hành lang pháp lý về vấn đề này

chƣa đƣợc kiện toàn, ảnh hƣởng đến sự cống hiến của trí thức.

Trí thức là tầng lớp xã hội có học vấn cao, trình độ chuyên môn sâu, chuyên

lao động trí óc có tính sáng tạo. Họ thƣờng có xu hƣớng có tính độc lập, tự trọng

cao, nhƣng dễ tự ái, không thích bị dạy khôn, ƣa thích không khí tự do, dân chủ, công

bằng; mọi việc đều có xu hƣớng thiên về tƣ duy lý tính. Đặc biệt, niềm tin, tình cảm

thƣờng đƣợc xây dựng trên cơ sở nhận thức khoa học, không chấp nhận sự áp đặt về

tƣ tƣởng, niềm tin, mối quan tâm hàng đầu của trí thức thƣờng là môi trƣờng làm

việc, nghiên cứu khoa học tốt, phát huy đƣợc năng lực trí tuệ…Với những đặc thù

trên, nên muốn lãnh đạo trí thức có hiệu quả thì không phải chỉ cần quan điểm, đƣờng

lối, chủ trƣơng đúng mà còn phải có cách thức lãnh đạo thích hợp, khéo léo. Bỏ qua

những đặc thù của đội ngũ trí thức, áp đặt những phƣơng cách lãnh đạo thô thiển thì

78

kết quả lãnh đạo sẽ bị hạn chế, thậm chí còn gây phản ứng tiêu cực từ đối tƣợng lãnh

đạo.

Kết quả hoạt động của trí thức chỉ đƣợc công nhận thực sự khi có dân chủ. Khi

dân chủ đƣợc phát huy sẽ là động lực trực tiếp của trí thức chân chính. Dân chủ có cơ

chế bảo đảm đƣợc thực thi, khi thị trƣờng là nơi thể hiện tài năng và là thƣớc đo đích

thực sức sáng tạo của ngƣời trí thức sẽ tạo điều kiện cho khoa học nảy nở.

Môi trƣờng hoạt động chỉ thực sự dân chủ khi các thể chế dân chủ lấy lợi ích

của nhân dân, của dân tộc làm quy chiếu cho mục đích, nội dung của toàn bộ quá

trình hoạt động. Môi trƣờng dân chủ của trí thức đƣợc xác lập bởi chính sự thể hiện

trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, đạo đức nhân cách của ĐNTT. Dân chủ chỉ thực

sự trở thành chìa khóa vạn năng khi nó đƣợc phát huy bởi ngƣời trí thức chân chính,

hƣớng mọi khả năng của mình vào lợi ích của dân tộc, của nhân dân lao động.

Tiểu kết chƣơng 3

Chủ trƣơng lãnh đạo xây dựng ĐNTT của Đảng từ năm 2006 đến 2013 đã đạt

đƣợc những kết quả quan trọng. Đây là giai đoạn, quan điểm, chủ trƣơng của Đảng

đối với ĐNTT tiếp tục đƣợc bổ sung, phát triển so với giai đoạn trƣớc. Đặc biệt, quan

điểm của Đảng về công tác trí thức đƣợc nâng lên một tầm cao mới. Đảng đã có nghị

quyết chuyên đề riêng về trí thức và công tác xây dựng ĐNTT. Đây là một bƣớc tiến

quan trọng trong đƣờng lối của Đảng. Đảng ngày càng nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò

của ĐNTT đối với sự phát triển của đất nƣớc trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH và

hội nhập kinh tế quốc tế, hƣớng tới nền kinh tế trí thức.

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, ĐNTT đã có sự trƣởng thành về mọi mặt, tích cực

tham gia xây dựng đất nƣớc. Quá trình lãnh đạo của Đảng đối với ĐNTT đã đƣa ra

nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng nhƣ xây dựng ĐNTT là trách nhiệm của toàn

bộ hệ thống chính trị, của toàn xã hội; chú trọng công tác GD-ĐT để tạo ra ĐNTT có

năng lực và phẩm chất chính trị tốt; đào tạo, bồi dƣỡng ĐNTT phải đi đôi với sử

dụng, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng; thực hành dân chủ trong hoạt động của trí thức.

Những kinh nghiệm đƣợc rút ra trong quá trình lãnh đạo xây dựng ĐNTT của

Đảng từ năm 2006 -2013, sẽ góp phần vào nâng cao hiệu quả việc triển khai các chủ

trƣơng, nghị quyết của Đảng về công tác trí thức.

79

80

KẾT LUẬN

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đại đang phát triển nhƣ vũ bão;

toàn cầu hóa diễn ra sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực, tác động sâu xa đến sự phát triển

của các quốc gia dân tộc. Các nƣớc, dù với chế độ chính trị khác nhau đều phải chủ

động xác định chiến lƣợc phát triển cho riêng mình một cách phù hợp mới mong

tránh khỏi nguy cơ tụt hậu trong cuộc chạy đua toàn cầu. Việt Nam đang thực hiện sự

nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nƣớc

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội, trƣớc hết,

phấn đấu đến năm 2020 nƣớc ta trở thành nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại. Để

thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, chúng ta không có con đƣờng nào khác là phải tích

cực chuẩn bị cho mình một nguồn lực trí tuệ lớn mạnh và phát huy nó một cách có

hiệu quả trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Sự hình thành và phát triển ĐNTT Việt Nam mới – trí thức công nông, là một

thành tựu của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trải qua thực tiễn đấu tranh

cách mạng, ĐNTT không ngừng trƣởng thành, bản lĩnh chính trị của ĐNTT đƣợc tôi

luyện, trình độ giác ngộ ngày càng đƣợc nâng cao. Từ trong thực tiễn, ĐNTT đã thể

hiện là chủ thể sáng tạo và truyền bá trí thức, lực lƣợng hết sức quý giá của nguồn

nhân lực, có vị trí, vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, do đó trí thức có

vị trí mới trong lòng dân tộc. ĐNTT đã thể hiện rõ là lực lƣợng lao động trực tiếp,

nguồn động lực quan trọng của sự phát triển và là nền tảng của chế độ. Sự trƣởng

thành của trí thức là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của Đảng, của hệ thống chính trị và cả

dân tộc.

Quan điểm, chủ trương của Đảng trong công tác xây dựng ĐNTT ngày càng

phù hợp hơn với thực tiễn đời sống, xã hội. Đảng đã vận dụng sáng tạo và phát triển

quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về trí thức vào thực

tiễn xây dựng đất nƣớc hiện nay. Đảng đã hoạch định đƣờng lối xây dựng ĐNTT

mang tính chiến lƣợc sâu sắc. Đây là sự phát triển trong quan điểm của Đảng đối với

công tác trí thức trong giai đoạn này so với giai đoạn trƣớc. Nhận thức của Đảng về

vị trí, vai trò của ĐNTT ngày càng rõ ráng, phù hợp hơn với thực tiễn.

81

ĐNTT ngày càng lớn mạnh ,và có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp

đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng định

trên thực tế sự đúng đắn trong đường lối lãnh đạo của Đảng ta đối với ĐNTT. Cho

dù nhiều lúc, nhiều nơi trong việc quán triệt đƣờng lối của Đảng của các cấp ủy đảng

còn lệch lạc, gây hiểu lầm trong nhân dân, trong ĐNTT.Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc mở ra cơ hội để ĐNTT phát huy trí tuệ và

năng lực sáng tạo, đồng thời cũng đặt ra những nhiệm vụ nặng nề, đòi hỏi sự phấn

đấu vƣợt bậc. Đáp ứng yêu cầu thực tế, ĐNTT nỗ lực phấn đấu, rèn luyện, nâng cao

trình độ chuyên môn và chính trị, thể hiện rõ phẩm chất giàu lòng yêu nƣớc, gắn bó

với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao động, gắn với lợi ích dân

tộc, có ý thức trách nhiệm xã hội cao. ĐNTT từng bƣớc trƣởng thành toàn diện, phát

triển nhanh về số lƣợng, nâng cao về trình độ năng lực và phẩm chất chính trị, góp

phần nâng cao tiềm lực trí tuệ của dân tộc. Trí thức có những cống hiến to lớn, thiết

thực vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế Việt Nam

trƣớc thế giới. Đó là một thành tựu đáng tự hào của Đảng và dân tộc ta trong sự

nghiệp đổi mới.

Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, để công tác xây dựng ĐNTT thực sự đạt

hiệu quả, ngoài chủ trƣơng, chính sách của Đảng cần đƣợc thực hiện và quán triệt

đúng đắn ở tất cả các cấp, các ngành từ trung ƣơng đến địa phƣơng, thì bản thân mỗi

ngƣời trí thức cũng cần phải có ý thức tự giác trong nghiên cứu, trong hoạt động, tự ý

thức đƣợc vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình đối với xã hội.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Khoa giáo Trung ƣơng (1995), Báo cáo 5-7 về tình hình đội ngũ trí thức và

công tác trí thức của Đảng, tài liệu lƣu tại Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng

Đảng.

2. Ban Công tác Đại biểu Quốc hội khóa XII (2007-2011), Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

82

3. Ban Khoa giáo Trung ƣơng (1992), Mục tiêu giáo dục: Dân trí - nhân lực - nhân

tài, Tài liệu lƣu tại Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng.

4. Ban Tuyên giáo Trung ƣơng (2008), Phụ lục Đề án xây dựng ĐNTT trong thời

kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc và hội nhập kinh tế quốc tế.

5. Bảy mươi năm Đảng Cộng sản Việt Nam(2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

6. Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp (1976), Niên giám thống kê 20 năm phát

triển giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp (1955 – 1975), Hà Nội.

7. Bộ Giáo dục và đào tạo (1995), Báo cáo về sự nghiệp đổi mới giáo dục đào tạo:

tình hình thực hiện 1991 -1995 và phương hướng 1996 -2000, Tài liệu lƣu trữ tại

Cục lƣu trữ Trung ƣơng.

8. Bùi Đình Bôn (2006), Chuyên đề xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong quân

đội nhân dân Việt Nam, Chuyên đề của Đề tài KX.04/16/06-10.

9. Ngô Thành Can (2008), Công chức và Công sinh và những nẻo đường ly tán,

Vietnamnet.vn, ngày 14/9/2008.

10. Phạm Tất Dong (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Phạm Ngọc Dũng (2012), Chảy máu chất xám, từ lý luận đến thực tiễn ở Việt

Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, Nxb Sự Thật,

Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3 Nxb Sự Thật,

Hà Nội.

83

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 1996-

1999, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Đề án số 125/TLHN ngày 26-6 của Bộ Chính

trị về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện

đại hóa đất nước hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành

Trung ương khóa X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

28. Đại từ điển tiếng việt (1998), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

29. Mai Đình (2007), Chất lượng nguồn nhân lực quá yếu, Lao động (3-10)

30. Giáo dục đại học ở Việt Nam (2009), Cuộc khủng hoảng và sự phản ứng, Báo

cáo của viện ASH, Đại học Havard Mỹ.

31. Lƣu Song Hà (2015), Nguồn nhân lực nữ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

và hội nhập kinh tế quốc tế, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

84

32. Lê Mậu Hãn (2014), ĐH Văn khoa Hà Nội thành lập theo quyết định của Chủ

tịch Hồ Chí Minh từ đầu kỷ nguyên độc lập tự do, đăng ngày 22/4/2015.

33. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Công tác dân vận, Nxb Lý

luận Chính trị, Hà Nội.

34. Nguyễn Đắc Hƣng (2005), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển của đất

nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Nguyễn Đắc Hƣng (2007), Phát triển nhân tài chấn hưng đất nước, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội

36. V.I.Lênin (1977), toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ Matxcova

37. V.I.Lênin (1977), toàn tập, tập 12, Nxb Tiến bộ Matxcova

38. C.Mac – Ph. Ăngghen (2006), Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

40. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

41. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

42. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

43. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

44. Nguyễn Văn Sơn (2002), Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy nguồn trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

46. Ngô Huy Tiếp (2009), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức

nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

47. Tổng Cục thống kê (2012), Niên giám thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội.

48. Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1996), Thắng lợi và bài học,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Trần Trọng Toàn (2006), Chuyên đề số 12 “Vấn đề trí thức Việt Kiều”, của Đề

tài KX.04.16/06-10.

50. Từ điển Chủ nghĩa Cộng sản khoa học (1986), Nxb Sự thật, Hà Nội.

51. Từ điển Tiếng Việt (2000), Nxb Đà Nẵng.

85

52. Đàm Đức Vƣợng, Nguyễn Viết Thông (2010), Xây dựng đội ngũ trí thức Việt

Nam giai đoạn 2011 - 2012, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài KX.04-

16/06-10, Hà Nội.

53. Đức Vƣợng (2013), Một số vấn đề về vấn đề trí thức và nhân tài, Nxb Chính trị

quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

54. Đức Vƣợng (2014), Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam

trong sự nghiệp xây dựng đổi mới đất nước, Nxb Chính trị quốc gia – Sự Thật,

Hà Nội.

55. Website: http://www. moj.gov.vnThu hút và giữ chân ngƣời tài (2010), Một vài

trăn trở và kiến nghị.

56. Website: http://www.vusta.vn, Cần tiếp tục củng cố và phát triểnLiên hiệp các

hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đáp ứng yêu cầu mới, đăng ngày 28-4-2012.

57. Website: http://duan600.vn, 600 vị trí để trí thức trẻ thực hiện ước mơ và hoài

bão, đăng ngày 19-9-2013.

58. Website: http://cpv.org.vn, Xây dựng chiến lược quốc gia về nhân tài trong thời

kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đăng ngày 30-3-2011.

59. Website: http://www.bachkhoatoanthu.gov.vn

86

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: Cơ cấu lao động có việc làm chia theo trình độ CMKT

Chia theo trình độ CMKT

Dạy nghề Trung Không Tổng Không có (SCN cấp Đại học Cao đẳng xác Cmkt số TCN, chuyên trở lên định CĐN) nghiệp

Cả nƣớc 3,7 3,7 1,7 6,1 0,12 100,0 84,7

Nam 5,6 3,3 1,2 6,7 0,11 100,0 83,0

Nữ 1,7 4,0 2,3 5,4 0,13 100,0 86,4

Thành thị 100,0 68,8 6,5 6,0 2,9 15,8 0,08

Nam 9,3 5,0 2,1 17,2 0,06 100,0 66,4

Nữ 3,4 7,0 3,7 14,2 0,10 100,0 71,5

Nông thôn 100,0 90,9 2,7 2,8 1,3 2,3 0,14

Nam 100,0 89,6 4,2 2,7 0,8 2,6 0,14

Nữ 100,0 92,3 1,0 2,8 1,7 2,0 0,15

( Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động - Việc làm 6 tháng đầu năm 2011, Tổng

cục Thống kê)

PHỤ LỤC 2: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã

qua đào tạo phân theo ngành kinh tế

(đơn vị: %)

87

2009 2010 2011 2012

82,9 89,9 90,4 91,2 Giáo dục và đào tạo

79,0 85,3 86,9 86,2 Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội

16,6 16,3 16,4 19,5 Nghệ thuật, vui chơi, giải trí

19,0 13,4 15,2 17,0 Hoạt động dịch vụ khác

2,8 3,8 2,9 3,6 Hoạt động làm thuê các công việc trong

hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất

và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình

Hoạt động của các tổ chức và cơ quan 75,6 95,5 82,1 81,9

quốc tế

(Nguồn: Tổng cục thống kê (2012), Niên giám thống kê tóm tắt,

Nxb Thống kê tr.47)

PHỤC LỤC 3: Giáo dục đại học và cao đẳng

(đơn vị: nghìn)

2006 2007 2008 2009 2010

277 Số trƣờng học 369 393 403 474

243 Công lập 305 322 326 334

88

Ngoài công lập 34 64 77 80 71

Số giáo viên 48,6 56,1 60,7 69,6 71,5

Công lập 42,0 51,3 54,8 50,3 61,2

Ngoài công lập 6,6 4,6 5,9 9,3 10,3

Nam 28,1 30,8 32,4 36,8 37,8

Nữ 20,5 25,3 28,3 32,8 33,7

Số sinh viên 1387,1 1603,5 1719,5 1956,2 2041,9

Công lập 1226,7 1414,7 1501,3 1656,4 1737,7

Ngoài công lập 160,4 188,8 218,2 299,5 304,2

Nam 714,5 817,3 872,6 990,5 1035,9

Nữ 672,8 786,2 846,9 965,7 1008,0

Số sinh viên tốt nghiệp 210,9 234,0 222,7 246,6 289,9

Công lập 195,0 215,2 206,7 223,9 245,9

Ngoài Công lập 15,9 18,8 14,0 22,7 35,0

(Nguồn: Tổng cục thống kê (2010), Niên giám thống kê tóm tắt,

Nxb Thống kê, tr.46)

PHỤC LỤC 4: Trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất đã đạt đƣợc của dân số

từ 15 tuổi trở lên theo các vùng kinh tế - xã hội, 2009

Trình độ Trung du Đồng Bắc Tây Đông Đồng

CMKT cao và miền bằng Trung Nguyên Nam bằng

nhất đạt núi phía sông Bộ và Bộ sông

đƣợc Bắc Hồng Duyên Cửu

Long hải miền

89

Trung

Sơ cấp 2,4 3,5 2,1 1,9 3,6 1,4

Trung học 6,4 6,8 4,8 3,8 3,8 2,2

Cao đẳng 1,8 2,3 1,7 1,3 1,6 0,9

Đại học 2,7 6,3 3,4 2,8 6,3 2,0

Trên đại học 0,1 0,5 0,1 0,1 0,3 0,1

(Nguồn: Số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam, 2009,

Tổng cục thống kê)

PHỤ LỤC 5: Tình hình sinh viên hệ cử tuyển trong những năm gần đây

(ngƣời)

Năm học 2007-2008 2008-2009 2009-2010 2010-2011 2011-2012

SV cao 422,937 476,721 576,878 726,219 756,292

90

đẳng

Hệ cử 1.323 662 794 1,060 1,171

tuyển

SV đại học 1,180,547 1,242,778 1,358,861 1,435,887 1,448,021

Hệ cử 5,765 5,562 7,189 7,448 7,600

tuyển

(Nguồn: Số liệu thống kê của Bộ giáo dục và đào tạo năm 2012)

PHỤ LỤC 6: Tổng số nhân lực khoa học công nghệ trình độ đại học trong

1,177 tổ chức KH – CN đã điều tra trong tổng số hơn 1.300 tổ chức khoa học

công nghệ năm 2007

Khối Trình độ Tổng Chính Kiêm Ghi chú

nhiệm/ nhiệm/ hợp

biên chế đồng

91

Tổng nhân GS. TSKH 120

lực trung GS.TS 154

ƣơng PGS.TSKH 56

27.120 PGS. TS 1.041

GS 39

PGS 88

TSKH 87

TS 2.777

ThS 5.931

ĐH 16.947

CĐ 880

Tổng nhân GS. TSKH 12 3 9

lực địa GS.TS 7 1 6

phƣơng PGS.TSKH 20 8 12

5.734 PGS. TS 53 11 42

GS 6 0 6

PGS 5 2 3

TSKH 24 7 17

TS 169 78 91

ThS 479 286 193

ĐH 4533 2834 1699

CĐ 426 179 247

Tổng số GS. TSKH 139 53 86

nhân lực GS.TS 76 24 52

trong các PGS.TSKH 164 52 112

Hội và liên PGS. TS 296 123 173

hiệp hội GS 30 14 16

5.733 PGS 27 12 15

TSKH 34 10 24

92

TS 745 346 399

ThS 770 282 488

ĐH 3187 1588 1599

CĐ 265 181 84

(Nguồn: [19, tr.78-79]

PHỤ LỤC 7: Tỷ lệ sinh viên/ vạn dân của Việt Nam

Năm 2000 2007 2009

SV/Vạn dân 135 165 196

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Báo cáo

của Bộ Lao động, Thƣơng binh, xã hội năm 2009)

93

PHỤ LỤC 8: Đơn sáng chế PCT của một số nƣớc Đông Bắc Á và Đông

Nam Á

Nƣớc 2002 2003 2004 2005 2006 2007

14.063 17.414 20.264 24.869 27.033 27,731 Nhật

2.520 2.949 3.558 4.688 5.944 7,061 Hàn Quốc

1.295 1.706 2.503 3.951 5,456 Trung Quốc 1.018

330 282 431 443 476 542 Singapore

18 - 38 45 60 103 Malaysia

20 21 26 11 23 15 Philippines

9 7 9 12 11 5 Thái lan

16 2 8 6 8 9 Indonesia

2 7 0 2 10 5 Việt Nam

( Nguồn: WINPO – Word Intellectual Proprety Organizantion)

94

PHỤ LỤC 9: Tình hình nữ sinh trong giáo dục chuyên nghiệp hiện nay

Năm học 2007- 2008- 2009- 2010- 2011-

2008 2009 2010 2011 2012

Trung Tổng thể 614,516 625,770 685,163 686,184 623,050

cấp Nữ(ngƣời) 341,693 338,050 376,360 377,310 362,558

Tỷ lệ % 55,6 54,02 54,78 54,99 58,19

nữ

Cao Tổng thể 422,937 476,721 576,878 726,219 756,292

đẳng Nữ(ngƣời) 214,686 244,200 305,905 386.265 393,771

Tỷ lệ % 50,76 51,22 53,03 53,19 52,07

nữ

Đại học Tổng thể 1,180,547 1,242,778 1,358,861 1,435,887 1,448,021

Nữ(ngƣời) 571,523 602,676 659,825 693,175 698,662

Tỷ lệ % 48,41 48,49 48,56 48,28 48,25

nữ

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê của Bộ giáo dục và Đào tạo năm 2012)

95

96