1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG -------------------*------------------

NGUYỄN TRUNG HÒA

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP

CAN THIỆP CỘNG ĐỒNG PHÒNG CHỐNG

LOÃNG XƢƠNG Ở NGƢỜI TỪ 45 TUỔI TRỞ LÊN

TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC

Chuyên ngành: VỆ SINH XÃ HỘI HỌC VÀ TỔ CHỨC Y TẾ

Mã số: 62. 72. 01. 64

HÀ NỘI - 2015

2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG -------------------*------------------

NGUYỄN TRUNG HÒA

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP

CAN THIỆP CỘNG ĐỒNG PHÒNG CHỐNG

LOÃNG XƢƠNG Ở NGƢỜI TỪ 45 TUỔI TRỞ LÊN

TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC

Chuyên ngành: VỆ SINH XÃ HỘI HỌC VÀ TỔ CHỨC Y TẾ

Mã số: 62. 72. 01. 64

Hƣớng dẫn khoa học

1. PGS.TS. NGUYỄN VĂN TẬP

2. GS.TS. ĐÀO VĂN DŨNG

HÀ NỘI - 2015

3

Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Các số

liệu kết quả trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 10 tháng 03 năm 2015 Tác giả Nguyễn Trung Hòa

4

Lời cám ơn Tôi xin chân thành cám ơn Ban Lãnh đạo Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Phòng Đào tạo Sau Đại học và các thầy giáo, cô giáo của Viện đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi học tập và hoàn thành luận án. Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến GS.TS. Đào Văn Dũng, PGS.TS. Nguyễn Văn Tập, là những người thầy đã tận tâm hướng dẫn, động viên và cung cấp những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án này. Tôi xin chân thành cám ơn Lãnh đạo Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh, Ngành y tế quận Bình Thạnh, quận Gò Vấp, quận 6, quận 12 và huyện Hóc Môn. Đặc biệt tôi xin cám ơn Lãnh đạo Ủy ban nhân dân, quý đồng nghiệp trạm y tế và cộng tác viên của các phường 3 quận Bình Thạnh, phường 5 quận Gò Vấp, phường Hiệp Thành quận 12 và xã Tân Xuân huyện Hóc Môn đã tận tình tham gia và hỗ trợ tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu trên thực địa. Với tấm lòng thành kính, tôi cũng xin cám ơn những người dân đã đồng ý tham gia công trình nghiên cứu này. Xin cám ơn gia đình, những người thân đã quan tâm, động viên và hết lòng giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận án. Xin gửi đến tất cả mọi người lòng biết ơn sâu sắc. Hà Nội, ngày 10 tháng 03 năm 2015 Nguyễn Trung Hòa

5

MỤC LỤC

Mục lục .................................................................................................................. i

Danh mục các chữ viết tắt .................................................................................. ..v

Danh mục các bảng .......................................................................................... ..vii

Danh mục các biểu đồ............................................................................................x

Danh mục các hình, sơ đồ ................................................................................... xi

ĐẶT VẤN ĐỀ ..................................................................................................... 1

Chƣơng 1. TỔNG QUAN .................................................................................. 3

1.1. Một số khái niệm về bệnh loãng xương ........................................................ 3

1.1.1. Định nghĩa loãng xương và giảm mật độ xương ....................................... 3

1.1.2. Cấu trúc và chức năng của xương .............................................................. 3

1.1.3. Sinh lý xương và bệnh loãng xương .......................................................... 4

1.1.4. Nguyên nhân và phân loại loãng xương .................................................... 5

1.1.5. Các dấu hiệu lâm sàng loãng xương nguyên phát và biến chứng .............. 5

1.1.6. Các xét nghiệm thăm dò hình ảnh và chẩn đoán loãng xương....................6

1.1.7. Điều trị và phòng bệnh loãng xương.. ....................................................... .8

1.2. Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến loãng xương trên thế giới

và Việt Nam.............................. ...................................................... ...........10

1.2.1. Tỷ lệ loãng xương ở một số nước trên thế giới................... ................. ....10

1.2.2. Tỷ lệ loãng xương tại Việt Nam..................................... .................... .....15

1.2.3. Một số yếu tố liên quan đến loãng xương........................ ................ ........17

1.3. Các biện pháp phòng chống loãng xương trên thế giới và tại

Việt Nam ............................................................................................. .......25

1.3.1. Các biện pháp phòng chống loãng xương trên thế giới........ .............. .....25

1.3.2. Các biện pháp phòng chống loãng xương tại Việt Nam .......................... 31

1.4. Một số đặc điểm về thành phố Hồ Chí Minh................................................34

Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................ 35

2.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................. 35

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu mô tả cắt ngang. ................................................... 35

2.1.2. Đối tương nghiên cứu can thiệp.................................................................35

2.1.3. Tiêu chí loại trừ khi chọn mẫu nghiên cứu .............................................. 35

6

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ............................................................... 35

2.2.1. Địa điểm nghiên cứu ................................................................................ 35

2.2.2. Một số đặc điểm của địa phương nghiên cứu.............................................36

2.2.3. Thời gian nghiên cứu ............................................................................... 37

2.3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 37

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu .................................................................................. 37

2.3.2. Phương pháp chọn mẫu ............................................................................ 45

2.4. Tổ chức thực hiện nghiên cứu ..................................................................... 48

2.4.1. Nghiên cứu mô tả ..................................................................................... 48

2.5. Biến số và các chỉ số nghiên cứu ................................................................ 50

2.5.1.Định nghĩa các biến số .............................................................................. 50

2.5.2. Các chỉ số nghiên cứu .............................................................................. 55

2.6. Kỹ thuật hạn chế sai số nghiên cứu ............................................................. 57

2.6.1. Hạn chế sai số trong chọn mẫu ................................................................ 57

2.6.3. Hạn chế sai số trong thu thập thông tin. ................................................... 57

2.7. Xử lý và phân tích số liệu ........................................................................... 58

2.8. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ............................................................... 59

Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 60

3.1. Tỷ lệ loãng xương và một số yếu tố liên quan ở người dân từ

45 tuổi trở lên .............................................................................................. 60

3.1.1. Đặc điểm chung của người dân nghiên cứu trước can thiệp .................... 60

3.1.2. Tỷ lệ loãng xương của người dân từ 45 tuổi trở lên ................................ 66

3.1.3. Một số yếu tố liên quan đến mật độ xương của người dân ...................... 67

3.1.4. So sánh một số đặc điểm của người dân nghiên cứu ở các

phường, xã nghiên cứu can thiệp và đối chứng ....................................... 78

3.2. Xây dựng và đánh giá hiệu quảmột số biện pháp can thiệp cộng đồng

Phòng chống loãng xương ........................................................................... 79

3.2.1. Kết quả xây dựng một số biện pháp can thiệp ......................................... 79

3.2.2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp ........................................ 83

Chƣơng 4. BÀN LUẬN .................................................................................... 93

4.1. Tỷ lệ loãng xương và một số yếu tố liên quan ở người từ 45 tuổi

trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh trước can thiệp .................................... 93

7

4.1.1. Đặc điểm chung của người dân nghiên cứu trước can thiệp .................... 93

4.1.2. Tỷ lệ loãng xương của người dân nghiên cứu trước can thiệp...................94

4.1.3. Một số yếu tố liên quan đến mật độ xương................................................95

4.1.4. Yếu tố không liên quan đến loãng xương..... ......................................... 107

4.2. Xây dựng và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp ..................... 108

4.2.1. Kết quả xây dựng một số biện pháp can thiệp ................................ .......108

4.2.2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng......................114

4.2.3. Kết quả duy trì hoạt động mô hình can thiệp ........................ .................123

4.2.4. Hạn chế của đề tài....................................................................................124

KẾT LUẬN ......................................................................................... ............125

KIẾN NGHỊ ........................................................................................ ........... 127

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

8

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

BMC : Bone Mineral Concent - Khối lượng khoáng xương

BMD : Bone Mineral Density - Mật độ khoáng xương

BMI : Body Mass Index - Chỉ số khối cơ thể

BT : Bình thường

CB-CCVC : Cán bộ - Công chức viên chức

CBYT : Cán bộ y tế

CĐ-ĐH : Cao đẳng-Đại học

CI : Confidence Interval – Khoảng tin cậy

CLB : Câu lạc bộ

Cs : Cộng sự

CSHQ : Chỉ số hiệu quả

CT : Can thiệp

CTV : Cộng tác viên

DXA : Dual-Energy X-ray Absorptiometry-

Hấp thụ năng lượng kép X quang

H. : Huyện

HQCT : Hiệu quả can thiệp

HRT : Hormon Replacement Therapy-

Liệu pháp hormon thay thế

KT : Kiến thức

KTX : Không thường xuyên

LX : Loãng xương

MĐX : Mật độ xương

NVYT : Nhân viên y tế

PTH : Parathyroid Hormone - Hormone tuyến cận giáp

P. : Phường

Q. : Quận

OR : Odd Ratio- Tỷ suất chênh

9

RLHTÐR : Rối loạn hấp thu đường ruột

SD : Standard Deviation - Độ lệch chuẩn

SE : Standard Error – Sai số chuẩn

SL : Số lượng

STT : Số thứ tự

TB : Trung bình

TDTT : Thể dục thể thao

TH : Thực hành

THCS : Trung học cơ sở

THPT : Trung học phổ thông

TPHCM : Thành Phố Hồ Chí Minh

TX : Thường xuyên

IU : International Unit – Đơn vị Quốc tế

UNICEF : United Nations Children's Fund-

Quỹ nhi đồng Liên Hiệp quốc

USD : United State Dollars – Đô la Mỹ

WHO : World Health Organization-

Tổ chức Y tế thế giới

X. : Xã

10

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng Nội dung Trang

1.1. Những yếu tố nguy cơ gây ra bệnh loãng xương.....................................................17

2.1. Địa điểm nghiên cứu mô tả và can thiệp..................................................................36

2.2. Nội dung biện pháp can thiệp trên các nhóm đối tượng..........................................43

2.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xương theo mật độ xương..........................................50

2.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán xẹp đốt sống theo phương pháp Genant..............................51

2.3. Phân loại BMI theo WHO năm 2000 khu vực Châu Á...........................................52

3.1. Phân bố tỷ lệ người dân nghiên cứu theo giới và nhóm tuổi...................................60

3.2. Phân bố trung bình cân nặng, chiều cao, BMI theo giới..........................................60

3.3. Phân bố tỷ lệ người dân nghiên cứu theo đặc điểm nhân trắc.................................61

3.4. Phân bố tỷ lệ người dân nghiên cứu theo tiền sử bệnh và chiều cao.......................62

3.5. Phân bố tỷ lệ người dân nghiên cứu theo lối sống...................................................63

3.6. Phân bố tỷ lệ phụ nữ nghiên cứu theo kinh nguyệt và số con..................................63

3.7. Phân bố tỷ lệ người dân trả lời đúng về kiến thức bệnh loãng xương.....................64

3.8. Phân bố tỷ lệ người dân nhận thông tin về loãng xương và nguồn nhận.................65

3.9. Phân bố tỷ lệ người dân thực hiện hành vi có lợi và có hại cho xương...................65

3.10. Phân bố tỷ lệ kiến thức và thực hành của người dân nghiên cứu..........................66

3.11. Phân bố tỷ lệ loãng xương của người dân nghiên cứu theo giới tính....................67

3.12. Phân bố tình trạng mật độ xương theo trung bình BMD và giới tính....................67

3.13. Liên quan loãng xương với giới tính người dân nghiên cứu..................................67

3.14. Liên quan loãng xương với nhóm tuổi theo giới tính của người dân.....................68

3.15. Liên quan loãng xương với với BMI của người dân..............................................69

3.16. Liên quan loãng xương với yếu tố địa dư..............................................................70

3.17. Liên quan loãng xương với yếu tố nghề nghiệp và học vấn..................................71

3.18. Liên quan loãng xương với kinh nguyệt và số con ở phụ nữ nghiên cứu..............71

3.19. Liên quan loãng xương với sử dụng rượu bia, hút thuốc lá theo giới...................72

3.20. Liên quan loãng xương với uống sữa, thể dục thể thao theo giới.........................73

3.21. Liên quan loãng xương với tiền sử cá nhân, gia đình và chiều cao......................73

11

3.22. Liên quan tình trạng xẹp đốt sống với BMD của người bị loãng xương...............74

3.23. Liên quan loãng xương với kiến thức và thực hành của người dân.......................75

3.24. Liên quan loãng xương trên mô hình hồi quy đa biến...........................................76

3.25. Liên quan loãng xương trên mô hình hồi quy đa biến ở nữ giới............................77

3.26. Số người dân ở phường xã can thiệp được tư vấn trong 2 năm tại đơn vị

tư vấn chung...........................................................................................................80

3.27.Số người dân ở phường, xã can thiệp được tư vấn trong 2 năm tại các

trạm y tế.................................................................................................................81

3.28. Số lượt người dân được truyền thông trực tiếp tại cộng đồng ở các phường xã

can thiệp sau 2 năm................................................................................................81

3.29. Số hộ và người dân nghiên cứu được cộng tác viên thăm và tư vấn sau 2

năm can thiệp.........................................................................................................82

3.30. Phân bố tỷ lệ người dân nghiên cứu được truyền thông, tư vấn trực tiếp

về bệnh loãng xương..............................................................................................82

3.31. Phân bố tỷ lệ người dân can thiệp và đối chứng theo giới tính, tuổi, nghề nghiệp,

trình độ học vấn, tiền sử gia đình loãng xương và BMI.................................................83

3.32. Phân bố tỷ lệ phụ nữ can thiệp và đối chứng về kinh nguyệt và số con................84

3.33. Hiệu quả can thiệp về nguồn và thông tin nhận được của người dân....................85

3.34. Hiệu quả can thiệp về các nội dung thực hành của người dân...............................86

3.35. Hiệu quả can thiệp về kiến thức đúng của người dân............................................87

3.36. So sánh trung bình BMD, điểm kiến thức và thực hành của người dân trước

và sau can thiệp......................................................................................................88

3.37. Hiệu quả can thiệp về mật độ xương, kiến thức và thực hành của người dân

nghiên cứu trước và sau can thiệp..........................................................................88

3.38. Hiệu quả can thiệp về nhận thông tin bệnh loãng xương ở người có mật độ

xương thấp.............................................................................................................90

3.39. Hiệu quả can thiệp về nguồn thông tin nhận được ở người có mật độ xương

thấp.........................................................................................................................90

3.40. Hiệu quả can thiệp về kiến thức đúng ở người có mật độ xương thấp..................91

3.41. Hiệu quả can thiệp về thực hành phòng chống loãng xương ở người có

12

mật độ xương thấp.................................................................................................91

3.42. So sánh trung vị BMD, điểm kiến thức, điểm thực hành ở người có mật

độ xương thấp trước và sau can thiệp....................................................................91

3.43. Hiệu quả can thiệp về mật độ xương ở người có mật độ xương thấp....................92

3.44. Hiệu quả can thiệp về kiến thức, thực hành ở người mật độ xương thấp..............92

13

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ Nội dung Trang

3.1. Phân bố tỷ lệ tiền sử gãy xương do chấn thương nhẹ của người dân

nghiên cứu..........................................................................................................61

3.2. Phân bố tỷ lệ thói quen uống sữa theo giới của người dân nghiên cứu.............62

3.3. Phân bố tỷ lệ loãng xương của người dân nghiên cứu.......................................66

3.4. Tương quan giữa BMD với tuổi của nam giới nghiên cứu................................69

3.5. Tương quan giữa BMD với tuổi của nữ giới nghiên cứu...................................69

3.6. Tương quan giữa BMD với cân nặng, chiều cao, BMI của người dân

nghiên cứu..........................................................................................................70

3.7. Tương quan giữa BMD với kinh nguyệt và số con của phụ nữ

nghiên cứu..........................................................................................................72

3.8. Phân bố vị trí, số lượng và độ xẹp đốt sống ở người loãng xương....................74

3.9. Tương quan giữa BMD với điểm kiến thức và thực hành của người dân

nghiên cứu.........................................................................................................75

3.10. Phân bố tỷ lệ người có mật độ xương thấp hoàn thành can thiệp bằng viên

Calci-D sau 2 năm............................................................................................89

14

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình Nội dung Trang

1.1. Bản đồ thành phố Hồ Chí Minh và các quận, huyện nghiên cứu.......................34

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Sơ đồ Nội dung Trang 2.1. Mô hình can thiệp truyền thông phòng chống loãng xương...............................40 2.2. Thiết kế nghiên cứu mô tả và can thiệp cộng đồng............................................44

15

ĐẶT VẤN ĐỀ

Loãng xương là một căn bệnh thầm lặng, đang trở thành vấn đề sức khỏe toàn

cầu và là gánh nặng lên ngân sách y tế ở mỗi quốc gia. Hiện nay, ước tính toàn thế

giới có trên 200 triệu người bệnh loãng xương và đang tiếp tục gia tăng theo mức độ

già hóa dân số [58].

Đã từ lâu, người ta xem xương và cơ bị suy yếu hoặc nặng hơn là gãy xương hông

vàxẹp xương đốt sống ở người lớn tuổi là một phần bình thường của sự già hóa.

Tuy nhiên, các nhà khoa học đã nhận ra rằng sự suy yếu của xươngở người cao tuổi

là điều không bình thường, chúng được gây ra bởi mộtbệnh có thể điều trị và ngăn

ngừa được, đó là bệnh loãng xương. Bệnh chủ yếu xảy ra ở người từ tuổi trung niên

trở lên, phụ nữ sau mãn kinh. Hậu quả của bệnh thường dẫn đến biến chứng gãy

xương, đòi hỏi chi phí chăm sóc và điều trị cao, làm giảm chất lượng cuộc sống, đặc

biệt là ở người cao tuổi. Riêng với phụ nữ, nguy cơ bị gãy xương do loãng xương

lớn hơn nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, ung thư nội mạc tử cung và ung thư buồng

trứng cộng lại. Ở những phụ nữtrên 45 tuổi, loãng xươngvà biến chứng của loãng

xương phải điều trị nhiều ngàyhơntrongbệnhviệnsovớinhững bệnhkhác như nhồi

máucơ tim, bệnh tiểu đường, ung thư vú. Đối với nam giới, nguy cơ gãy xương do

loãng xương cao hơn nguy cơ ung thư tiền liệt tuyến [64],[71]. Dự báo đến năm

2050,tỷ lệ gãy xương hôngtrên thế giớisẽ tăng thêm 310%ở nam giới và 240% ở nữ

giới, sẽ có 6,3 triệu trường hợp gãy cổ xương đùi do loãng xương và 51% xảy ra ở

các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam [47],[48],[67].

Năm 2006, theo ước tính nước ta có khoảng 2,5 triệu người bị loãng xương, trong

đó 1,9 triệu người là phụ nữ, số người bị gãy xương do loãng xương khoảng

152.000 (phụ nữ 92.000 người). Dự báo đến năm 2030,số người mắc bệnh loãng

xương sẽ là 4,5 triệu, trong đó có 3,4 triệu người là phụ nữ, số ngườibị gãy xương

do loãng xương khoảng 262.650 (phụ nữ 162.650 người) [37].

Hiện nay, một số nước trên thế giới đã xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược

quốc gia phòng chống loãng xương và gãy xương như Mỹ, Úc, Canada, Châu

Âu...Những nội dung của chiến lược bao gồm các hoạt động tăng cường thông tin

16

truyền thông nhằm gia tăng nhận thức của người dân về bệnh loãng xương, nhất là ở

lứa tuổi học đường.Tích cực điều chỉnh lối sống của người dân theo chiều hướng có

tác dụng phòng ngừa nhằm tối ưu hóa mật độ xương và làm giảm bớt mức độ mất

xương liên quan với tuổi.

Ở nước ta, chưa có những nghiên cứu quy mô quốc gia để biết tình hình loãng

xương, nhưng với tỷ lệ người cao tuổi như hiện nay, thì thật sự loãng xương là một

vấn đề y tế công cộng quan trọng. Thành phố Hồ Chí Minh có dân số hơn bảy triệu

người, là thành phố phát triển và đô thị hóa với tốc độ nhanh, mật độ dân số cao và

đa dạng mô hình bệnh tật. Thống kê năm 2009 tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh

hình thành phố Hồ Chí Minh đã có 1442 người bệnh gãy cổ xương đùi, trong đó độ

tuổi từ 50 trở lên ở nam giới tỷ lệ 83%, ở nữ giới 66% và đa số có liên quan đến

loãng xương [29]. Do đó, với thực trạng về bệnh loãng xương hiện nay, thì rất cần

thiết phải có biện pháp can thiệp phòng chống bệnh đối với quần thể những người

trung niên trở lên. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả một số

biện pháp can thiệp cộng đồng phòng chống loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên

tại thành phố Hồ Chí Minh” với mục tiêu nghiên cứu sau:

1. Xác định tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến loãng xương ở người từ 45

tuổi trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011;

2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng phòng chống

loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011-

2013.

17

Chƣơng 1

TỔNG QUAN

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ BỆNH LOÃNG XƢƠNG

1.1.1. Định nghĩa loãng xƣơng và giảm mật độ xƣơng

Năm 1991, Tổ chức Y tế thế giới đưa ra định nghĩa về loãng xương, là một

bệnh với đặc điểm khối lượng xương suy giảm, vi cấu trúc của xương bị hư hỏng,

dẫn đến tình trạng xương bị suy yếu và hệ quả là tăng nguy cơ gãy xương [40]. Gãy

xương là hệ quả của loãng xương, hay nói một cách khác loãng xương là yếu tố

nguy cơ dẫn tới gãy xương. Các nhà khoa học nghiên cứu chuyên sâu về bệnh loãng

xương đã đưa ra khái niệm về sức bền của xương mà trong đó ngoài mật độ chất

khoáng trong xương thì chất lượng xương là yếu tố quan trọng như nhau.

Giảm mật độ xương hoặc khối lượng xương thấp là đề cập đến việc một

người nào đó bị giảm khối lượng xương thấp hơn bình thường nhưng chưa đến mức

gọi là loãng xương [10].

1.1.2. Cấu trúc và chức năng của xƣơng

Bộ xương người có khoảng 220 xương và chiếm khoảng 15% trọng lượng cơ

thể. Các nhà khoa học xem cấu trúc của xương như một tuyệt tác về kiến trúc. Đặc

điểm chung của xương gồm có lớp màng xương (lớp ngoài là lớp mô liên kết sợi

chắc, mỏng, dính chặt vào xương, có tính đàn hồi, trên màng có các lỗ nhỏ và lớp

trong gồm các tạo cốt bào có nhiều mạch máu và thần kinh đến nuôi xương. Nhờ

lớp tế bào này mà xương có thể lớn lên, to ra). Kế đến là phần xương đặc và phía

trong là xương xốp (do nhiều bè xương bắt chéo nhau chằng chịt, để hở những hốc

nhỏ trông như bọt biển). Trong cùng là phần tủy xương nằm trong lớp xương

xốp.Xương có nhiều chức năng nhưng chủ yếu có 5 chức năng chính:Thứ nhất làhỗ

trợ và vận động; Thứ hai là đóng vai trò bảo vệ cho các cơ quan trong cơ thể; Thứ

ba lànơi chứa chất khoáng (99% can-xi, 80% phốt-pho và 50% ma-nhê của cơ thể

được lưu trữ trong xương.Có khoảng 1 đến 1,5kg can-xi được xây dựng vào bộ

khung xương dưới hình thức tinh thể hydroxyapatite); Thứ tư xương còn là kho

chứa chất nền protein (50% chất hữu cơ: 25% chất nền và 25% nước). Chất nền có

18

90% là collagen loại I và 10% các protein khác; Và cuối cùng là bộ xương còn tham

gia điều hòa nội tiết và chuyển hóa năng lượng qua cơ chế liên quan đến leptin và

osteocalcin [108].

1.1.3. Sinh lý xƣơng và bệnh loãng xƣơng

Xương liên tục sửa chữa và tự làm mới trong một quá trình được gọi là tái mô hình.

Quá trình này có chức năng duy trì mật độ xương ở mức tối ưu. Ngoài ra, quá trình

tái mô hình còn có chức năng sửa chữa những xương bị tổn hại, kể cả khi xương bị

“vi nứt” (microcrack) hay gãy xương. Xương bị suy giảm khi các tế bào hủy xương

tạo ra những lỗ phân hủy sâu hoặc khi các tế bào tạo xương không có khả năng lắp

vào những lỗ hổng do các tế bào hủy xương để lại. Trong cơ chế hoạt động xương

chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như nội tiết tốestrogen và testosterone, là hai

hormone đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn tạo xương. Tác động của estrogen

đến xương là qua thụ thể estrogen (estrogen receptor-ER). Ảnh hưởng của estrogen

đến quá trình tái mô hình là làm giảm số lượng và hoạt động của tế bào hủy xương.

Estrogen còn tác động đến sự phát sinh, hình thành các enzym và protein qua những

cơ chế phức tạp liên quan đến các hormone khác. Estrogen tác động đến các tế bào

tạo xương và tế bào hủy xương để ức chế sự phân hủy xương ở mọi giai đoạn trong

quá trình tái mô hình xương. Ngay thời điểm hay sau thời kỳ mãn kinh, estrogen bị

suy giảm và hệ quả là mật độ xương cũng suy giảm nhanh chóng, nhất là trong 5

năm đầu sau mãn kinh. Testosterone kích thích sự tăng trưởng của cơ và tác động

tích cực đến quá trình tạo xương. Testosterone còn sản sinh ra estrogen trong quá

trình tác động đến cơ và xương.

Các chức năng tạo xương, hủy xương và chuyển hóa xương nói chung được điều

phối bởi một số yếu tố toàn thân và yếu tố nội tại. Các yếu tố toàn thân có vai trò

trong việc duy trì quân bình can-xi. Những yếu tố này bao gồm các yếu tố tại chỗ

ảnh hưởng đến sự vận hành của tế bào (các cytokin và colony stimulating factors)

và các yếu tố tăng trưởng (growth factors) kích thích sản sinh các tế bào tạo xương

và biệt hóa tế bào.

Can-xi đóng vai trò rất quan trọng trong hình thành, phát triển và duy trì bộ

xương. Các hormone cận giáp (Parathyroid hormone-PTH), calcitriol và calcitonin

19

là những hormone kiểm soát can-xi. Các hormone này đóng vai trò duy trì sức khỏe

của xương. Parathyroid hormone giúp duy trì nồng độ can-xi trong máu, tăng

trưởng cả hai quá trình tạo xương và hủy xương, giúp di chuyển can-xi khỏi xương

vào máu, nhưng khi Parathyroid hormone gia tăng sẽ đưa đến chứng cường cận giáp

và dẫn đến mất xương. Calcitriol hay 1,25 D được sản sinh từ cholecalciferol.

Một trong những nguyên nhân gây nênmất xương dẫn đến bệnh loãng

xươnglà do thiếu estrogen. Mất xương trong quá trình tái mô hình là do tăng các tế

bào hủy xương so với các tế bào tạo xương. Những cytokin sau đây được xem là

đóng vai trò quan trọng trong cơ chế estrogen-xương: (1)

TRANCE/RANKL/OPGL: Tumor necrosis factor-related activation-induced

cytokine / Receptor activator of nuclear factor kappa-B ligand / Osteoprotegerin

ligand; (2) Macrophase colony stimuating factor (M-CSF); (3)

Granulocyte/monocyte-colony stimulating factor (GM-CSF); (4) Interleukin 1 (IL-

1); (5) Interleukin 6 (IL-6). Các yếu tố tăng trưởng, IL-1, IL-6 và TNF (tumor

necrosis factor) được sản sinh bởi các bạch cầu đơn nhân và đại thực bào cũng như

các hormone toàn thân như Parathyroid hormone và 1,25 D [18].

1.1.4. Nguyên nhân và phân loại loãng xƣơng

Các nhà lâm sàng thường phân loại nguyên nhân loãng xương ra 2 nhóm: Thứ nhất

là loãng xương nguyên phát còn gọi là loãng xương sau mãn kinh (típ 1) và loãng

xương do tuổi già (típ 2);Thứ hai là loãng xương thứ phát do hậu quả của một số

bệnh lý hoặc do thuốc như bệnh Basedow, cường tuyến cận giáp, glucocorticoid

liệu pháp, bệnh đa u tủy, bệnh lý kém hấp thu ở ruột, cắt 2 buồng trứng, bệnh suy

gan suy thận mãn tính, bất động lâu tại giường, sử dụng thuốc chống co

giật...[27],[46].

1.1.5. Các dấu hiệu lâm sàng loãng xƣơng nguyên phát và hậu quả loãngxƣơng

Loãng xươngsau tuổi mãn kinh (típ 1): Đa số phụ nữ sau mãn kinh đều có giảm khối

lượng xương, nhưng quá trình này diễn ra chậm trong nhiều năm, chỉ đến khi mức độ

giảm vượt quá 25% người ta mới thấy xuất hiện các triệu chứng. Lúc đầu là đau mỏi

lưng, đau mỏi trong các ống xương dài, lưng còng dần, chiều cao giảm rõ, vậnđộng

cột sống khó và đau khiến người bệnh không ngửa lưng được, đau ngày càng tăng,

20

đôi khi đau lan tỏa theo đường đi của các rễ và dây thần kinh (do có chèn ép ở tủy

sống), rất dễ gãy xương nhất là gãy xương ở phần dưới cẳng tay (gãy Pouteau Colles)

sau một va chạm nhẹ hoặc chống tay.

Loãng xương nguyên phát ở người già (típ 2) thường xuất hiện sau 75 tuổi ở cả hai

giới, có thể sớm hơn với những người nghiện thuốc lá, lạm dụng rượu bia, ít vận

động, dinh dưỡng kém, dùng các thuốc corticosteroid kéo dài...Người bệnh thấy đau

mỏi xương nhất là vùng cột sống và vùng chậu hông, khả năng vận độnggiảm

nhiều, đau mỏi tăng sau hoạt động và khi thay đổi thời tiết nhưng đặc biệt nhất là

chỉ cần ngã hoặc va chạm nhẹ đã có thể xảy ra gãy xương. Vị trí gãy ở cổ xương đùi

chiếm tuyệt đại đa số trường hợp[41].

Hậu quả của bệnh loãng xương là gãy xương xảy ra sau một chấn thương nhẹ.

Vị trí gãy xương thường ở những nơi chịu lực của cơ thể như cổ xương đùi, cột

sống thắt lưng hoặc nơi dễ va chạm như cổ tay, xương sườn...Gãy xương do loãng

xương thường chậm lành, phải nằm điều trị dài ngày từ đó dễ dẫn đến biến chứng

bội nhiễm như viêm phổi, nhiễm trùng tiểu, loét do tỳ đè và làm tăng tỷ lệ tử vong.

Ngoài ra, hậu quả lâu dài của gãy xương do loãng xương đó là tàn phế, đau đớn khi

vận động, chất lượng cuộc sống của người bệnh giảm trầm trọng và đặc biệt là chi

phí điều trị cao làm tăng gánh nặng kinh tế cho gia đình và xã hội.

1.1.6. Các xét nghiệm,thăm dò hình ảnh và chẩn đoán loãng xƣơng

Trước đây các thầy thuốc lâm sàng thường sử dụng những xét nghiệm sinh

hóa định lượng một số chất ở trong máu và trong nước tiểu để chẩn đoán loãng

xương như can-xi, phốt-pho, osteocalcin, men phosphatase acid và kiềm, pyridiotin-

deoxypiridiotin, hydroxyprotin... nếu thử nhiều lần theo thời gian, rồi đối chiếu so

sánh thì có thể phát hiện được mức độ và tốc độ loãng xương trong 1 hoặc 2 năm

(phương pháp Christiansen).

Ngày nay, trên lâm sàng chủ yếu sử dụng phương pháp đo mật độ xương, là

phương pháp căn bản của chẩn đoán loãng xương hay giảm mật độ xương. Có thể

chia thành hai nhóm chính là kỹ thuật sử dụng bức xạ (ionising radiation) và kỹ

thuật không sử dụng bức xạ:

21

*Các kỹ thuật bức xạ thứ nhất là phương pháp radionuclide, gồm có hấp thu

năng lượng đơn (Single photon absorptiometry-SPA); Hấp thụ năng lượng kép

(Dual-photon absorptiometry-DPA) và thứ hai là phương pháp dựa vào quang tuyến

X, gồm có quang tuyến kế (radiogrammetry); Hấp thụ năng lượng đơn X quang

(Single-Energy X-ray absorptiometry-SXA); Hấp thụ năng lượng kép X quang

(Dual-Energy X-ray absorptiometry-DXA); Chụp cắt lớp điện toán (Quantitative

Computed Tomography-QCT).

*Các kỹ thuật không bức xạ bao gồm siêu âm định lượng (Quantitative

Ultrasound-QU) và cộng hưởng từ (Magnetic Resonance Tomography-MRT).

Hiện nay, đo mật độ xương bằng phương pháp hấp thụ năng lượng kép X

quang (DXA) được xem là phương pháp chuẩn để chẩn đoán loãng xương.

- Tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xƣơng bằng mật độ xƣơng

Trong giai đoạn dậy thì, mật độ xương tăng rất nhanh và đạt mức độ đỉnh

(peak Bone Mineral Density-pBMD) vào độ tuổi từ 20 đến 30. Sau độ tuổi này, mật

độ xương bắt đầu suy giảm và mức suy giảm một cách đáng kể sau thời kỳ mãn

kinh. Ở bất cứ độ tuổi nào, sự khác biệt về mật độ xương giữa các cá nhân trong một

quần thể dao động theo luật phân bố chuẩn. Độ lệch chuẩn (standard deviation-SD)

không khác biệt đáng kể giữa các độ tuổi.

Dựa vào các đặc điểm trên, các nhà nghiên cứu đề nghị chuẩn hóa các đo

mật độ xương bằng chỉ số T (T-score). Chỉ số T có thểước tính theo công thức:

Trong đó, iBMD là mật độ xương đối tượng I, mBMD là mật độ xương trung

bình của quần thể trong độ tuổi 20-30 và SD là độ lệch chuẩn của mật độ xương

trung bình của quần thể trong độ tuổi 20-30 [40].

Tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xƣơng do WHO đề nghị 1994

* T-score> -1: Mật độ xương bình thường.

* -2,5 < T-score ≤ -1: Giảm mật độ xương.

* T-score ≤-2,5: Loãng xương

* Loãng xương + gãy xương trong thời gian gần đây: Loãng xương nặng.

22

Trong thực hành lâm sàng khi đo mật độ xương bằng phương pháp DXA

được phân chia thành hai khu vực: DXA trung tâm (vị trí đo ở cổ xương đùi, toàn

xương đùi, cột sống thắt lưng) và DXA ngoại biên (vị trí ở cẳng tay, ngón tay và

xương gót chân). Giá trị chẩn đoán thường dựa vào kết quả đo DXA ở trung tâm.

Một nghiên cứu tổng hợp có hệ thống (systematic review) với mục tiêu là sử dụng

DXA ngoại biên để đánh giá nguy cơ gãy xương, chẩn đoán, theo dõi và điều trị

loãng xương đã được thực hiện bởi Hiệp hội quốc tế đo mật độ xương lâm sàng vào

năm 2007. Các kết quả đo mật độ xương của nghiên cứu này được thực hiện từ thiết

bị DXA ngoại biên của các nhà sản xuất Cooper Surgical, Osteometer Meditech,

Schick Technologies, GE Medical Systems, Demetech, Osteosys và Aloka. Qua so

sánh với phương pháp DXA trung tâm, kết quả cho thấy đo mật độ xương bằng các

thiết bị DXA ngoại biên có thể được sử dụng để đánh giá nguy cơ gãy xương ở đốt

sống và toàn cơ thể ở phụ nữ sau mãn kinh, tuy nhiên khả năng dự báo gãy đốt sống

yếu hơn so với DXA trung tâm và siêu âm gót chân. Kết quả cũng cho biết phân

loại chẩn đoán loãng xương của WHO có thể chỉ áp dụng bởi đo DXA (trung tâm

hay ngoại biên) ở cổ xương đùi, toàn bộ xương đùi, xương đốt sống thắt lưng và 1/3

(33%) vùng quan tâm xương quay qua tham chiếu từ dữ liệu của thanh niên trẻ. Cơ

sở cho sự khẳng định này do bởi trên biểu đồ so sánh cho thấy độ cong của đường

biểu diễn T-score so với tuổi ở ba vị trí đốt sống thắt lưng, xương hông và 1/3 dưới

xương quay đều giảm tương tự nhau khi qua ngưỡng T= -2,5 ở độ tuổi 75-87

[52],[59 ].

1.1.7. Điều trị và phòng bệnh loãng xƣơng

Hiện nay có nhiều thuốc có thể chống loãng xương và gãy xương một cách hữu

hiệu. Trong điều trị cần cải thiện sự tuân thủ, chủ động tìm ra những yếu tố có nguy

cơ cao nhằm can thiệp giảm tác hại đến sức khỏe xương.Cần có một chiến lược

phòng bệnh bao gồm thực hiện những thay đổi lối sống theo hướng tích cực, tăng

cường rèn luyện thể lực, dinh dưỡng hợp lý, tránh lạm dụng rượu bia và hút thuốc

lá. Các loại thuốc được sử dụng trong dự phòng và điều trị loãng xương bao gồm:

-Cung cấp can-xi bằng cách duy trì lượng can-xi đủ qua ăn uống là một biện pháp

hữu hiệu, rất cần thiết cho việc ngăn ngừa can-xi bị di chuyển khỏi xương. Trong

23

chế độ ăn cần tăng cường sử dụng các sản phẩm như sữa tươi, phó-mát, sữa chua,

đậu nành, mè, vừng, bánh mỳ; Các loại rau xanh (bó xôi, bồ ngót), đậu khô, trái cây

(bưởi, cam), thức ăn có nhiều đạm như cá hộp, thịt, sò, ốc...Việc gia tăng lượng can-

xi hàng ngày qua sử dụng thực phẩm là lựa chọn ưu tiên, tuy nhiên bổ sung can-xi

bằng thuốc viên cũng rất cần thiết nếu chế độ ăn uống thiếu can-xi.

-Vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của xương, giúp hấp

thu can-xi có hiệu quả, tăng lực của cơ, giữ thăng bằng và giảm nguy cơ té ngã.

Lượng vitamin D hàng ngày cần từ 800-1000 IU và với liều này nó giúp duy trì

nồng độ 25(OH)-D ở người trưởng thành đạt mức mong muốn là ≥ 30 ng/ml huyết

thanh (≥ 75 nmol/L) [19].

-Liệu pháp thay thế hormone (Hormone Replaycement Therapy-HRT) ở phụ

nữ sau thời kỳ mãn kinh, thường có thể xem xét sử dụng trong những trường hợp phụ

nữ mãn kinh sớm (trước 45 tuổi) và những trường hợp biểu hiện rối loạn sau mãn

kinh. HRT có khả năng ngăn ngừa mất xương, giảm nguy cơ gãy xương [33].

-Chất điều hòa thụ thể chọn lọc estrogen (Selective Estrogen Receptor Modulators-

SERM): là một nhóm thuốc liên kết với các thụ thể estrogen và kích hoạt trên một

số mô liên quan. Raloxifen là một thuốc trong nhóm SERM được chấp thuận trong

dự phòng và điều trị loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh [28].

- Calcitonin được sản sinh từ tuyến giáp có chức năng ức chế các tế bào hủy

xương, kích thích ruột hấp thu can-xi và phốt-pho, đóng vai trò quan trọng trong

việc duy trì sự phát triển của xương và kiểm soát nồng độ can-xi.

- Bisphosphonat có tác dụng ức chế hoạt động hủy xương và gián tiếp kích

hoạt các tế bào tạo xương và đại thực bào. Hiện nay, bisphosphonat là thuốc điều trị

hàng đầu của loãng xương, nó có thể làm giảm ≥ 50% nguy cơ gãy xương và tăng

từ 3-8% mật độ xương [36].

- Strontium ranelate: Thuốc đã được chấp thuận cho điều trị loãng xương ở

một số nước Châu Âu. Thuốc thường được dùng thay thế bisphosphonat khi có

chống chỉ định hoặc dùng sau khi kết thúc đợt điều trị bằng bisphosphonat. Cơ chế

tác dụng chưa rõ, nhưng được cho là có tác dụng kép, vừa kích thích tạo xương vừa

ức chế hủy xương [28].

24

1.2. TỶ LỆ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN LOÃNG XƢƠNG

TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

1.2.1. Tỷ lệ loãng xƣơng trên thế giới

1.2.1.1. Tỷ lệ loãng xương ở Châu Âu

Châu Âu là một lục địa già hóa dân số sớm nhất, cứ mỗi 30 giây có một

người gãy xương do loãng xương. Vào năm 2000, những người 50 tuổi trở lên ở

Châu Âu ước tính có 620.000 người mới bị gãy xương hông, 574.000 người gãy

xương cẳng tay, 620.000 người xẹp đốt sống, số trường hợp gãy xương chiếm

34,8% trên thế giới [77]. Gãy xương hông là hậu quả nặng nề nhất của loãng xương,

là căn nguyên gây tàn phế nghiêm trọng và dễ dẫn đến tử vong. Hầu hết gãy xương

hông xảy ra sau té ngã, 80% là phụ nữ và 90% ở người trên 50 tuổi [106]. Quy mô

dân số ở Châu Âu dự kiến sẽ tăng26%ở phụ nữ và36%ở nam giớitừ năm 2000 đến

2050, do đó tỷ lệ loãng xương sẽ tăng gấp đôi trong 50 năm tới do bởi sự già hóa

dân số và yếu tố lối sống [68].

Tại Vương Quốc Anh và xứ Wales, có 1,14 triệu phụ nữ sau mãn kinh đã

được chẩn đoán loãng xương bằng phương pháp DXA ở cổ xương đùi, 1 trong 2

phụ nữ và 1 trong 5 người đàn ông sẽ bị gãy xương sau tuổi 50. Theo thống kê,

người dân Anh tăng tuổi thọ lên gấp đôi trong vòng 200 năm qua và nó tiếp tục gia

tăng 2 năm cho mỗi thập kỷ, tương đương thọ thêm 12 phút cho mỗi giờ trôi qua.

Hiện ở Anh có gần 20 triệu người từ 50 tuổi trở lên và đến năm 2020 sẽ là 25 triệu,

dân số càng già tỷ lệ loãng xương càng tăng [98]. Nhiều nghiên cứu cho thấy 1/3 số

người trên 65 tuổi bị té ngã một lần trong năm, 40-60% dẫn đến chấn thương, trong

đó 5% bị gãy xương (1% là gãy xương hông) [118].

Tại nước Pháp, cũng với thực trạng dân số già, số phụ nữ bị loãng xương khoảng 4-

5 triệu người, nam giới khoảng 1,4 triệu người. Mỗi năm có từ 3 đến 5 ngàn trường

hợp bị gãy cổ xương đùi, trong đó 10% bị tàn phế và chi phí cho điều trị lên đến

1,35 tỷ Frances [30].

Năm 2003, thống kê có 7,8 triệu người Đức (6,5 triệu phụ nữ) đã bị ảnh hưởng bởi

bệnh loãng xương, trong đó 4,3% đã trải qua ít nhất một lần gãy xương lâm sàng và

chỉ có 21,7% được điều trị với một loại thuốc chống loãng xương. Theo báo cáo của

25

Ủy ban Châu Âu (năm 1998), ước tính sự gia tăng tỷ lệ gãy xương hông ở Đức từ

117.000 trường hợp trong năm 2000 lên 240.000 trong năm 2040,tổng số chi phí

trực tiếp cho điều trị bệnh loãng xương là 5,4 tỷ Euros [50]. Tại Tây Ban Nha, nước

thuộc khu vực Nam Âu, vào năm 2010 theo thống kê có khoảng 2,45 triệu người bị

loãng xương từ 50 tuổi trở lên, số gãy xương mới vào khoảng 204.000 trường hợp

và gãy xương hông trong khoảng thời gian 14 năm (1988-2002) đã tăng 54% [75].

Tình hình loãng xương ở một số nước Đông Âu cũng có mức độ lưu hành tương tự

các khu vực khác của Châu Âu. Tại Nga, một quốc gia rộng lớn nhất thế giới với

dân số khoảng 143 triệu người, các chuyên gia y tế ước tínhcó 14triệu

người(10%dân số)mắc bệnh loãng xương và20triệu người giảm mật độ xương.

Cũng theo thống kê, tại Nga những người trên 50 tuổi mắc loãng xương chiếm

33,8% ở nữ và 26,9% ở nam. Ucraina, một quốc gia kề cận Liên bang Nga, ước tính

sốphụ nữ mãn kinhcó nguy cơloãng xương vàgiảm mật độ xươnglà7triệungười

(28%tổng sốphụ nữ).Riêng ở Rumani, nước nằm ở phía Đông Nam Châu Âu, theo

thống kê thì tỷ lệloãng xương khá thấp, ở phụ nữ sau mãn kinhước tính là11,5%bị

loãng xương vàmột trong baphụ nữRumanibị loãng xươnghoặc giảm mật độ

xươngsautuổi55 [72].

1.2.1.2. Tỷ lệ loãng xương ở Châu Á

Trên thế giới, tình trạng gãy xương do loãng xương đã trở thành gánh nặng

chi phí cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe mà nó chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều bệnh khác

như bệnh tim, đột quỵ và ung thư vú [69]. Tại Hồng Kông, tỷ lệ mắc mới loãng

xương là 1% ở người từ 70 tuổi trở lên, tỷ lệ lưu hành loãng xương ở Malaysia là

24,1% vào năm 2005. Mức độ lưu hành loãng xương ở người dân Châu Á cao hơn

những nước phương Tây do bởi chỉ số khối cơ thể và chiều cao thấp hơn [87]. Báo

cáo về tỷ lệ gãy xương hông từ nhiều quốc gia Châu Á cho thấy rằng tỷ lệ gãy

xương thay đổi đáng kể trong các quần thể khác nhau như Đài Loan,Singaporevà

Hồng Kông, nó tăngtừ 4đến 5lần trong khoảng thời gian30 nămở Singapore vàHồng

Kông, gấp1,5 lần trong khoảng thời gian15 nămtại Nhật Bản [83].

Ở Châu Á, rất nhiều trường hợp loãng xương chưa được chẩn đoán và điều

trị, ngay cả ở những người bệnh có nguy cơ cao nhất và đã thật sự bị gãy xương,

26

đặc biệt là người bệnh ở khu vực nông thôn. Trung Quốc là nước đông dân nhất trên

thế giới và sự gia tăng đáng kể dân số trong những thập niên gần đây đã dẫn đến

một số lượng lớn những người cao tuổi.Do đó, bệnh loãng xương ngày càng trở nên

phổ biến và sẽ tiếp tục tăng trên toàn Trung Quốc. Thống kê hiện nay cho thấy, tỷ lệ

chung của bệnh loãng xương ở Trung Quốc là gần 7% ở người trưởng thành, nếu từ

50 tuổi trở lên thì loãng xương ở nam là 22,5% và ở nữ là 40,1%, khu vực thành thị

chiếm từ 10-20%. Loãng xương đã ảnh hưởng gần 70 triệu người Trung Quốc trên

50 tuổi và đã gây ra 687.000 trường hợp gãy xương mỗi năm [70].

Ở Đài Loan, kết quả một nghiên cứu từ năm 2005-2008 cho thấy tỷ lệ loãng

xương ở người trên 50 tuổi nam giới là 23,9%, nữ giới 38,9%. Theo dữ liệu của Bảo

hiểm y tế quốc gia Đài Loan, trong thời gian từ năm 1996-2002, tỷ lệ gãy xương

hông ở người trên 65 tuổi tăng từ 49 đến 64 trường hợp trên một triệu người mỗi

năm [123].

Trong một nghiên cứu ở phụ nữ Ấn Độ từ 30-60 tuổi ở các nhóm có thu nhập

thấp, mật độ xương được báo cáo là thấp hơn nhiều so với các báo cáo từ các nước

phát triển, với tỷ lệ giảm mật độ xương là 52%, loãng xương là 29% và nguyên

nhân được cho là do thiếu hụt dinh dưỡng. Nhật Bản cũng có tần suất bệnh loãng

xương ở phụ nữ trong độ tuổi 50-79 được ước tính là khoảng 35% ở cột sống và

9,5% ở hông. Tình trạng gãy xương hông mới tăng 1,7 lần trong thời gian từ năm

1987-1997 và tổng số gãy xương hông được dự báo là 153.000 trường hợp trong

năm 2010, 238.000 vào năm 2030. Tại Thái Lan, qua cuộc khảo sát bằng phương

pháp DXA ở909.000phụ nữ được đo ởhông và1,3 triệuphụ nữ đo tạicột sống, thì tỷ

lệ lưu hành loãng xương là 13,6% ở xương hông và 19,8% ở cột sống[70],[75].

1.2.1.3. Tỷ lệ loãng xương ở Bắc Mỹ

Hoa Kỳ là quốc gia có dân số đứng hàng thứ ba thế giới, với hơn 330 triệu

người thì gánh nặng về vấn đề chăm sóc sức khỏe đặc biệt là loãng xương và gãy

xương càng lớn, mặc dù là nước có nền kinh tế dẫn đầu thế giới. Vào năm 2010,

ước tính ở Hoa Kỳ có khoảng 12 triệu người bệnh loãng xương và 40 triệu người

giảm mật độ xương ở tuổi trên 50. Số người mắc sẽ gia tăng vào năm 2020 là 14

triệu người loãng xương và 47 triệu giảm mật độ xương cũng ở độ tuổi trên 50

27

[89],[75]. Loãng xương gây ra 1,5 triệu trường hợp gãy xương mỗi nămtại Mỹ,

trong đó có 300.000 gãy xương hông, 700.000 xẹp xương đốt sống, chi phí điều trị

vào năm 2005 là 17 tỷ USD và chi phí này tăng 50% vào năm 2025 [84]. Một cuộc

khảo sát loãng xương ở phụ nữ các dân tộc khác nhau cho kết quả bệnh ở phụ nữ

Mỹ bản địa 11,9%, phụ nữ gốc Châu Á 10%, phụ nữ da trắng 7,2% và phụ nữ da

đen thấp nhất 4,2% [53],[113].

Canada là một quốc gia thuộc khu vực Bắc Mỹ, loãng xương cũng ảnh hưởng

đếnkhoảng1,4triệungười dân, chủ yếulà phụ nữ sau mãn kinhvà người cao tuổi [75].

Dự báo đến năm2030,số trường hợp gãy xương hôngsẽtăng gấp bốn lần. Riêng tại

Ontario, Viện khoa học đánh giá lâm sàng cho biết có 68.000 người vào cấp cứu,

trong đó có 62.000 người phải nằm viện và 14.000 tử vong do bệnh loãng xương từ

năm 2003 đến năm 2007 [95].

1.2.1.4. Tỷ lệ loãng xương ở Mỹ La-tinh

Thống kê từ 14 quốc gia trong khu vực Mỹ La-tinh, dân số từ 50 tuổi trở lên chiếm

từ 13% đến 29% (Cục điều tra dân số Mỹ). Vào năm 2050, ước tính dân số khu vực

này tăng từ 28% đến 49%.Hiện nay, dữ liệu về tỷ lệ bệnh loãng xương ở Mỹ La-

tinh rất ít. Theo thống kê của 5 nước trong khu vực là Argentina, Brazil, Colombia,

Mexico và Puerto Rico, tỷ lệ xẹp xương đốt sống chiếm 14% dân số và trong đó tỷ

lệ xẹp xương đốt sống cao nhấtở phụ nữ 80 tuổi trở lên (38%). Dự đoán vào năm

2050, số lượng gãy xương hông ở phụ nữ và nam giới tuổi từ 50-64 tại Mỹ La-tinh

sẽ tăng 400% và đối với nhóm tuổi trên 65 sẽ tăng 700% [76]. Nghiên cứu về mật

độ xương ở Mỹ La-Tinh đã cho kết quả 50-70% người dân từ 50 tuổi trở lên có mật

độ xương thấp, 12-18% phụ nữ loãng xương ở cột sống, 8-22% loãng xương ở cổ

xương đùi [79].

Nghiên cứu mật độ khoáng xương tại Argentina cho thấyhai trong bốnphụ nữ sau

mãn kinh bịgiảm mật độ và một bị loãng xương. Đến năm 2025, hơn ba triệu phụ

nữdự kiến sẽ bị giảm mật độ xương và sẽ tăng lên hơn năm triệutrong năm 2050.Tại

Brazil có 33% phụ nữ sau mãn kinh và 15,4% nam giới độ tuổi từ 65 tuổi trở lên bị

loãng xương.Tỷ lệ xẹpxương đốt sống ở phụ nữ 50 tuổi trở lên được ước tính là

14,2% và trong 21 triệu người ở nhóm tuổi này thì có 2,9 triệu người đã và đang

28

sống với tình trạng xẹp đốt sống. Theo tính toán, ở Colombia có 2.609.858 người

giảm mật độ xương và 1.423.559người loãng xương ở phụ nữ 50 tuổi trở lên. Số

trường hợp gãy xương hông ở phụ nữ ước tính từ 8.000 đến 10.000 người mỗi

năm.Một nghiên cứu củaLAVOS(The Latin American Vertebral Osteoporosis

Study) ở phụ nữvànam giới Mexico về tỷ lệxẹp xương đốt sống,kết quả tạicột sống

thắt lưngloãng xương9% ở namgiới và 17% ở phụ nữ,giảm mật độ xương30%

namgiới và 43% ở phụ nữ.Nguy cơgãy xương hông trong suốt cuộc đời còn lại ở

người từ 50tuổitrở lên là 8,5%ở phụ nữvà3,8%ở nam giới. Riêng về xẹp đốt sống ở

phụ nữ Mexico tuổi từ 50-59 là 8,3% và nếu trên80 tuổi tỷ lệ này là 37,9% [76].

1.2.1.5. Tỷ lệ loãng xương ở Trung Đông và Châu Phi

Dân số năm 2010 ở Ai Cập được ước tính là 80triệu người, thống kê cho thấy

có53,9% phụ nữ sau mãn kinh giảm mật độ xươngvà 28,4% bị loãng xương,26%

nam giới bị giảm mật độ xương và 21,9% bịloãng xươngở độ tuổi từ 20-89. Loãng

xương ở Iran được xem là vấn đề y tế công cộng quan trọng, một số nghiên cứu

được tiến hành cho kết quả tỷ lệ giảm mật độ xương ở phụ nữ từ 50 tuổi trở lên là

59,9% và loãng xương là 22,2%, ở đàn ông lần lượt là 50,1% và 11%. Tại Li-

băng,một nghiên cứu trên người cao tuổi ở Beirut cho thấy tỷ lệ xẹp xương đốt sống

chiếm 12% nam giới và 19% nữ giới, tỷ lệ loãng xương được đo ở cổ xương đùi là

33% phụ nữ và 22,5% nam giới.Ở Qatar, năm 2005 có một nghiên cứu cắt ngang

trên 574 phụ nữtuổi từ 20 đến 69 đã được thực hiện bằng phương pháp DXA, cho

thấy các đối tượng có sự suy giảm mật độ khoáng xương ở tuổi sau khi đạt mật độ

xươngđỉnh tại các địa điểm cột sống (30-39 tuổi) và ở xương đùi (40-49 tuổi).Một

nghiên cứu trên 483 phụ nữ sau mãn kinh tại Saudi Arabia tuổi từ 52 đến 62 cho

thấy tỷ lệ loãng xương là 24% và giảm mật độ xương là 34% [73].

1.2.1.6. Tỷ lệ loãng xương ở Châu Đại Dương

Theo báo cáo của Viện Sức khỏe và Phúc lợi của Úc, ước tính có 692.000 người Úc

(3,4% tổng dân số) đã được các bác sĩ chẩn đoán loãng xương vào năm 2007-2008,

phụ nữ chiếm đa số (81,9%). Bệnh xảy ra chủ yếu ở người tuổi từ 55 trở lên (84%)

[49]. Tuy nhiên, theo thống kê của Tổ chức Loãng xươngthế giới hiện Úc có 2,2

triệu người đang bị ảnh hưởng bởi bệnhloãng xương, trong đó khoảng 11% nam

29

giới và 27% phụ nữ từ 60 tuổi trở lên là loãng xương; 42% nam giới và 51% phụ nữ

giảm mật độ xương. Các chuyên gia cũng cho rằng, nguy cơ suốt đời bị gãy xương

do loãng xương sau 50tuổi là 42% ở phụ nữ, 27% ở nam giới và đã có 20.000

trường hợp gãy xương hông mỗi năm tại Úc (tăng 40% mỗi thập kỷ),tổng chi phí

liên quan đến bệnhloãng xương là 7,4 tỷ USD mỗi năm, trong đó 1,9 tỷ USD là chi

phí trực tiếp [75].

Tại New Zealand, có khoảng 84.000 trường hợp gãy xương do loãng xương trong

năm 2007, với 60% trong số này xảy ra ở phụ nữ. Gãy xương hông được ước tính

chiếm 5% của tất cả các gãy xương. Tổng chi phí cho bệnh loãng xương được ước

tính là hơn 1,15 tỷ USDmỗi năm[75].

1.2.2. Tỷ lệ loãng xƣơng tại Việt Nam

Tình hình loãng xương ở nước ta cũng được giới y khoa quan tâm và đã có

những công trình nghiên cứu trong vòng 20 năm qua. Việt Nam là một quốc gia

đang phát triển và là nước vừa thoát nghèo, người dân thuộc chủng tộc Châu Á,

những điều này cho thấy sẽ có nhiều yếu tố nguy cơ và những tác động ảnh hưởng

sâu sắc đến tỷ lệ loãng xương và biến chứng của nó trong cộng đồng, nhất là ở

những người cao tuổi. Mặt khác, các thầy thuốc đã có một thời gian dài bỏ quên

người bệnh loãng xương trên lâm sàng, thiếu sự quan tâm chẩn đoán, theo dõi và

điều trị phù hợp, dẫn đến việc phòng bệnh gần như không có, nhất là ở khu vực

cộng đồng. Thêm vào đó nền tảng nhận thức của xã hội về bệnh cũng còn rất thấp,

phương tiện chẩn đoán còn thiếu và chỉ tập trung ở các đô thị lớn.Theo kết quả

thống kê, năm 2009 dân số nước ta có khoảng 86 triệu người, trong đó người trên

65 tuổi chiếm 7%. Dự báo dân số sẽ tăng lên 104 triệu người vào năm 2030 và

người trên 65 tuổi chiếm tới 11%. Năm 2006, bệnh loãng xương ước tính ảnh

hưởng đến 2,5 triệu người Việt Nam, dự báo đến năm 2030 là 4,5 triệu người. Số

trường hợp gãy xương do loãng xương khoảng152.000 và dự báo đến năm 2030 là

262.650 trường hợp. Riêng gãy cổ xương đùi vào khoảng 23.069 trường hợp, dự

báo đến năm 2030 sẽ là 40.700 trường hợp [37].

Năm 2003, Vũ Thị Thu Hiền và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu với mục tiêu xác

định tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ trưởng thành Hà Nội. Có 2.232 phụ nữ từ 20 tuổi

30

trở lên tham gia, không mắc các bệnh có liên quan đến rối loạn chuyển hoá xương

đã được chọn từ 30 xã, phường của Hà Nội vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỷ lệ

loãng xương thô ở phụ nữ trưởng thành là 15,4%, sau khi hiệu chỉnh tuổi tỷ lệ này

là 9%, tương đối cao so với các nước trong khu vực. Phân bố bệnh loãng xương có

sự khác nhau giữa khu vực nội thành và ngoại thành ở 2 nhóm đối tượng chưa mãn

kinh và sau mãn kinh. Ở phụ nữ chưa mãn kinh, tỷ lệ loãng xương cao hơn ở khu

vực nội thành so với ngoại thành. Ngược lại, ở phụ nữ sau mãn kinh, tỷ lệ này lại

cao hơn ở khu vực ngoại thành[8]. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác cũng ở người từ

20 tuổi trở lên cho kết quả loãng xương ở nữ 16% và nam là 9,6% [32]. Năm2008,

Đỗ Thị Khánh Hỷ cũng tiến hành nghiên cứu tình hình loãng xương trên phụ nữ

mãn kinh Hà Nội và các vùng lân cận đến khám tại Viện Lão khoa. Kết quả cho

thấy tỷ lệ loãng xương tăng dần theo tuổi, nhóm tuổi từ 50-59 tỷ lệ 25,7%, từ 60-69

tuổi tỷ lệ 53,5%, từ 70-79 tuổi tỷ lệ 71,8% và ở lứa tuổi từ 80 trở lên có đến 95,9%

bị loãng xương [12].Năm 2009, cũng tại Hà Nội, Nguyễn Thị Thanh Hương đã

khảo sát loãng xương ở phụ nữ từ 50 đến 65 tuổi, kết quảcho thấy tỷ lệ mắc là 23%

[101].

Tại miền Namvào năm 2003, Nguyễn Thị Hoài Châu đã tiến hành khảo sát mật độ

xương ở phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh miền Tây. Nghiên cứu được

tiến hành trên 305 phụ nữ tuổi từ 40 trở lên. Kết quả cho thấy ở phụ nữ chưa mãn

kinh tỷ lệ loãng xương là 6,94%, giảm mật độ xương là 22,22%, trong khi đó ở phụ

nữ mãn kinh loãng xương chiếm 39,8%, giảm mật độ xương 32,9% [1]. Khu vực

miền Trung năm 2009 có nghiên cứu của Đào Thị Vân Khánh đã khảo sát tình hình

loãng xương ở phụ nữ lớn tuổi tại Bệnh viện Trường Đại học y dược Huế. Kết quả

cho thấy phụ nữ ở tuổi từ 60 trở lên có tỷ lệ loãng xương là 51,06% [13].

Tại Thái Bình, Ninh Thị Nhung và cộng sự đã nghiên cứu loãng xương và giảm mật

độ xương trên phụ nữ 40-65 tuổi.Kết quả nghiên cứu cho thấy xương quay tỷ lệ giảm

mật độ xương là 29,9% và loãng xương là 20,8%; xương chày tỷ lệ giảm mật độ xương

là 35,4% và loãng xương là 20,2%.Tỷ lệ giảm mật độ xương cả 2 điểm đo là 28,5% và

loãng xương là 11,8%.Tỷ lệ loãng xương tăng dần theo tuổi và tuổi mãn kinh [24].

31

Theo nghiên cứu của Hồ Phạm Thục Lan thì tỷ lệ lưu hành loãng xương ở người

trưởng thành tại TPHCM là 17% và số người xẹp đốt sống là 23% [16].

1.2.3. Một số yếu tố liên quan đến bệnh loãng xƣơng

Theo Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa mộtyếu tố nguy cơlàbất kỳ thuộc tính,

đặc điểmhoặctiếp xúc củamột cá nhân màlàm tăng khả năngphát triểnmột căn

bệnhhoặcchấn thương.Những yếu tố nguy cơ gây ra loãng xương và gãy xương do

loãng xương gồm2nhómthay đổi được và không thay đổi được. Bên cạnh đó còn có

những nguy cơ thứ phát gồm một số bệnh lý và thuốc có ảnh hưởng tiêu cực cho

xương.

Bảng 1.1. Những yếu tố nguy cơ gây ra bệnh loãng xƣơng[66]

Những yếu tố nguy cơ Những yếu tố nguy cơ Những yếu tố nguy cơ

thay đổi đƣợc không thay đổi đƣợc thứ phát

Bệnh suyễn, Crohn´s, Lạm dụng rượu bia Tuổi

tiểu đường, cường cận Hút thuốc lá Giới nữ giáp, viêm đa khớp

Tiền sử gia đình LX dạng thấp. Bệnh về Chỉ số khối cơ thể thấp (gầy) máu, bệnh ác tính, một

Dinh dưỡng kém Có gãy xương trước đây số rối loạn di truyền.

Rối loạn ăn uống Chủng tộc Hội chứng Kleinfelter,

amenorrhea, Turner... Thiếu vận động Mãn kinh, cắt buồng trứng

Bất động lâu. Sử dụng Chế độ ăn thiếu can-xi Corticoid liệu pháp kéo dài một số thuốc (corticoid,

Thiếu vitamin D Suy tuyến sinh dục tiên heparin, ức chế bơm

phát hoặc thứ phát ở nam proton, lợi tiểu quai...) Thường xuyên té ngã

1.2.3.1. Những yếu tố liên quan đến loãng xương thay đổi được

Cũng giống như cáccơ quankhác trong cơ thể, bộ xươngcầnmột nguồn cung cấpliên

tục về năng lượngvà các chất dinh dưỡng. Những năm quan trọng để xây dựng khối

lượng xương là ở thời kỳ ấu thơ và vị thành niên,bởi vì ở giai đoạn nàysự thành lập

32

xương mớinhanh hơn so với sự hủy xương, làm cho xươngtrở nên lớn hơn và dày

đặc hơn.Một trong những yếu tố nguy cơ chính mà có thể ảnh hưởng đến mật độ

xương đó là chế độ ăn thấp can-xi, nhất là ở trẻ em, vị thành niên và người trưởng

thành trẻ [81]. Can-xi là một chất khoáng rất quan trọng trong việc xây dựng bộ

xương, vitamin D có vai trò trong việc hỗ trợhấp thu can-xi từ chế độ ăn uống và để

đảm bảo cho hoạt động khoáng hoá môxương.Khi thiếu hụt can-xi do thiếu hấp thụ

từ chế độ ăn, cơ thể sản xuất nhiềuhormone cận giáp hơn, làm tăng tái tạo

xương,huy động các hủy cốt bào để phá vỡ xương, sau đóđưa can-xi từ xương cung

cấp cho các dây thần kinh, tế bào cơ và các cơ quan khác. Điều này làm tăng tốc độ

loãng xương.Những nghiên cứu trên đối tượng là thanh thiếu niên cho thấy khi cung

cấp một chế độ ăn tăng cường can-xi hoặc uống sữa thì có liên quan đến tăng cường

hấp thu can-xi cho xương.Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới, người trưởng

thành cần ít nhất 800 IU vitamin D và1.000 đến 1.200 mg can-xi mỗi ngày để có

thểbảo vệ chống lại loãng xương [115]. Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị về can-xi

hàng ngày của người trưởng thành Việt Nam là 700mg và nếu ở người ≥ 50 tuổi cần

cung cấp cho cơ thể 1000mg [45]. Tuy nhiên, tại Việt Nam cũng như nhiều nước

Đông Nam Á, lượng can-xi được cung cấp qua ăn uống hàng ngày rất thấp (450-

550mg đối với phụ nữ sau mãn kinh người Malaysia và người Hoa sống ở Kuala

Lumpur, 270mg/ngày đối với phụ nữ tiền mãn kinh sống tại Jakarta [21], ở Việt

Nam lượng can-xi cung cấp qua bữa ăn trung bình cho phụ nữ sau mãn kinh là

683mg/ngày [19]).Ở phụ nữ Iran, can-xi cung cấp hàng ngày là 689,08±393,15

mg/ngày [110]. Một nghiên cứu tại TPHCM, tỷ lệ thiếu vitamin D ở nam là 20%,

nữ là 46% [15].

Proteincũng là một thành phần quan trọng của mô xương, lượng protein cung cấp

không đủ là bất lợi choviệc xây dựng khối lượng xương trong thời kỳ thanh thiếu

niên và cho việc duy trì khối lượng xương ở giai đoạngià hóa.Tình trạng dinh dưỡng

kém, đặc biệt là đối với vấn đề thiếu chất đạm thường phổ biến ở người lớn tuổi có

liên quan đến mật độ xương vànghiêm trọng hơn ở những bệnh nhân bị gãy xương

hông [112]. Protein có tác dụng lên tính toàn vẹn của xương, vì vậy suy dinh dưỡng

do thiếu protein cũng dẫn đến giảm khối cơ và sức mạnh cơ nên có thể là yếu tố

33

nguy cơ gây té ngã.Trongnghiên cứu thuần tập Framingham, ở nam giới và phụ nữ

lớn tuổicó tổng số đạm động vật được cung cấp trong chế độ ăn thấp hơn thì có tỷ lệ

mất xương hông và xương cột sống nhiều hơn so với người tiêu thụ số lượng đạm

cao [93]. Một trong những cơ chế mà lượng sử dụng protein tăngcó thể có tác động

thuận lợi trên xương là thông qua sự gia tăngnồng độ của IGF-I trong máu, mà nó là

một hợp chất quan trọng trong việc tham gia thúc đẩy hình thành xương [112].

Trong các nghiên cứu trên trẻ em khỏe mạnh hoặcngười lớn được cho ăn thêm sữa

trong khẩu phần ăn của họ,thì lượng protein được tăng thêm dẫn đến sự gia tăng

đáng kể IGF-I trong huyết thanh so với các đối tượng chứng. IGF-I huyết thanh

cũng tăng ở người cao tuổi bị gãy xương hông được điều trị bằng truyền dung dịch

proteintinh khiết [65]. Mặc dù các bằng chứng nghiên cứu ở trên cho thấy

proteinmang lại lợi ích cho sức khỏe xương và thúc đẩy sự phục hồi ở người bệnh

gãy xương hông, nhưng vẫn cónhững nghiên cứucho rằng nếu một chế độ ăn quá

nhiều proteincó thể có tác động tiêu cựctrên sự trao đổi chất can-xi và có thể gây

mất xương.Điều này liên quan đến giả thuyết cho rằng sự cân bằng a-xít – kiềm của

chế độ ăn uống là một yếu tố nguy cơ tiềm ẩn cho bệnh loãng xương. Khi thức ăn

đã được tiêu hóa, hấp thu và chuyển hóa trong cơ thể, nótạo ra nhữngsản phẩm có

tính a-xít, trung tính hoặc kiềm.Khi a-xít được tạo ra, nó cần phải được trung hòa

bởi hệ thống đệm để duy trì độ pH trong máu ở mức tối ưucho các tế bào trong cơ

thể. Hệ thống đệm này được điều hòa bởi các hoạt động của thận (bài tiết các chất

a-xít) và phổi(thở ra khí carbon dioxide). Thực phẩm cũng có thểđược chia theosản

phẩm mà nó tạo ra sau chuyển hóa làa-xíthoặckiềmtrênmộtmức độđược gọi làkhả

năngtảia-xítcủa thận (Potential Renal Acid Load - PRAL).Chẳng hạn như ngũ cốc,

gạo, mì ống,một sốloại phó mátcứng, cá, thịtđều sinh ra a-xítvàcó mức giá trịPRAL

cao hơn các loại trái cây và rau quả (là thực phẩm tạo ra chất kiềm, chúng chứa

muối kiềm của ka-li, can-xi, ma-nhê). Đã có giả thuyết cho rằng, nếu chế độ ăn

uống cung cấp thực phẩm có tính a-xít chiếm ưu thế (bao gồm nguồn protein là chủ

yếu)và không đủ thức ăn giàu chất kiềm, thì các muối kiềm của bộ xương có thể bị

lôi kéo vào giúp quá trình đệm, sau đómột số lượng can-xi từ xương bị mất qua

nước tiểu. Tuy nhiên, phải có một thời gian dàicó chế độ ăn uống nhiều protein thì

34

mới có thể dẫn đến mất xương.Ngược lại với cung cấp thừa protein, người có rối

loạn ăn uống, chán ăn tâm thầnở bệnh nhi hoặcở tuổi vị thành niên sẽ ảnh hưởng

đến khối lượng xương đỉnh của họ vì đây là thời gian của cuộc sống lũy tích tối đa

khối lượng xương. Cơ thể gầyở nữ bệnh nhân chán ăn dẫn đến thiếu estrogenvà vô

kinhgóp phầnmất khối lượng xương cũng giống như phụ nữ thiếu estrogen sauthời

kỳ mãn kinh. Trọng lượng cơ thể thấp và cụ thể là thiếu dinh dưỡng ở người bệnh

chán ăn đã trở thành yếu tố nguy cơ gây khối xương thấp, tác động đến những rối

loạn nhiều hormone và mất cân bằng trao đổi chất. Người bệnh chán ăn trong một

thời giantrung bình khoảng 6 năm sẽ cho thấycó một tỷ lệ gãy xương hàng năm lớn

hơn 7 lần so với phụ nữ khỏe mạnh cùng tuổi [65].

Vitamin K cần thiết cho việc sản xuất và hoạt động của osteocalcin(là protein nhiều

thứ hai trong xương sau collagen). Một số bằng chứng cho thấy rằng nếu cung cấp

vitamin K thấp trong chế độ ăn hoặc tình trạng thiếu vitamin K trong cơ thể sẽ góp

phần làm giảm mật độ xương và gia tăng nguy cơ gãy xương ở người già. Vai trò

của vitamin A trong nguy cơ gây loãng xương hiện còn đang tranh cãi. Nếu tiêu thụ

một lượng rất cao vitaminA (cao hơn mức tiêu thụ hàng ngày được đề nghị) thì

cóảnh hưởng xấu đến xương (cùng với gan và da). Một nghiên cứu quan sát dựa vào

dân số trên phụ nữ sau mãn kinh tại Mỹ đã tìm thấy mộtmối liên hệ giữa mức độ sử

dụng vitamin A và nguy cơ gãy xương hông.Muối khoáng ma-nhê có liên quan đến

sự hằng định nội môi can-xi và trong sự hình thành hydroxyapatite (khoáng xương).

Một thử nghiệm cho sự thiếu hụt ma-nhê nghiêm trọng thì đưa đến sự bất thường

trongcấu trúc và chức năng của xương. Ở những người cao tuổi khả năng có nguy

cơthiếu hụt nhẹ ma-nhê do có sự giảm hấp thu và thậnbài tiết ma-nhê tăng theo tuổi

[99]. Các muối kẽm là thành phần của hydroxyapatitevà đóng một vai trò trong chu

chuyển xương. Kẽm cũng cần thiết cho việc thực hiện chức năng điều chỉnhmen

phosphatase kiềm, mà men này cần thiết cho quá trình khoáng xương. Thiếu kẽm

nghiêm trọng thường thấy liên quan với sự thiếunăng lượng và suy dinh dưỡng, mà

nó có sự kết hợp với sự kém phát triển xương ở trẻ em. Tuy nhiên, mức độ nhẹ hơn

của thiếu kẽm đã được báo cáo ở người già và có khả năng góp phần chotình trạng

xương yếu [65].

35

Mặc dùmột sốnghiên cứu quan sátcho thấy cómối liên hệ giữasử dụng thức uống có

gasmức độ caovớigiảm mật độ xương hoặcgia tăng tỷ lệ gãy xươngtrongthanh thiếu

niên, nhưng không có bằng chứng thuyết phụcrằng nhữngthức uốngcó gas ảnh

hưởng xấu đếnsức khỏe của xương. Một số nhà khoa học giải thích rằng nhiều khả

năng trên thực tế là cácthức uốngnày thaysữatrongchế độ ăn uống, do đótác

độngtrên sự cung cấp can-xi. Cà phê làm cho sự gia tăng bài xuất can-xi qua đường

niệu và giảm hấp thu can-xivào, nhưng sự cân bằng của cơ thể xuất hiện để giảm

bài tiết can-xi ngay sau đó trong ngày, do đó ảnh hưởng thực là không đáng kể [65].

Khi nồng độ na-tri cao trong máu sẽ thúc đẩy can-xi bài tiết qua nước tiểu, do đóăn

mặn được coi là một yếu tố nguy cơcho mất khối xương. Sử dụng trái câyvàrau

xanhđã chứng minhtác dụng có lợitrênmật độ khoángxươngở người đàn ông và phụ

nữ lớn tuổi. Bằng chứng vềtác dụng có lợicủatrái cây vàrauxanh trênsức khỏe của

xươngđược cung cấp bởimột can thiệp thử nghiệm bằngphương pháp tiếp cậnchế độ

ăn uốngđểngăn chặntăng huyết áp(Dietary Approaches to Stopping Hypertention –

DASH).Nghiên cứu được thực hiệnở người trongđộ tuổitừ 23 đến 76.Mặc

dùDASHđược thiết kế đểnghiên cứu vềchế độ ăn uốngcó thểngăn ngừa bệnh tim

mạch, nhưng một trong số thiết kế đó cótoàn bộnội dung củachế độ ăn uốngcũngảnh

hưởng đếnsức khỏe xương. Trong nghiên cứuvề xương, một nửa trong sốcác đối

tượng đượcyêu cầuthay đổitoàn bộchế độ ăn uốngcủa họbao gồm tiêu thụnhiều trái

cây,rau, các sản phẩmsữa ít chất béovàhàm lượng na-tri thấp(chế độ ăn DASH),một

nửa kháctiếp tụcvới chế độ ănthường xuyên của họ. Trong khoảng thời gianmột

vàitháng, các chế độ ăn theo DASH đã cải thiện các chỉ số của xương vàchuyển hóa

can-xi, nó có thểcó khả năng giúp cải thiện mật độ xương nếu tiếp tụctrong thời

gian dài [84].

Uống rượu vừa phải sẽ không gây hại choxương, nhưng nếuuống rượu mức độ

cao(hơn 2 đơn vị tiêu chuẩn rượu hàng ngày, 1 đơn vị = 25ml alcohol 40%)sẽ đưa

đến gia tăng đáng kể nguy cơ gãy xương hông và các xương khác do loãng xương.

Uống rượu quá mức sẽ có tác động trực tiếp gây tổn thương trên các tế bào tạo

xương và ảnh hưởng trên các nội tiết tố điều chỉnh sự trao đổi chất can-xi. Người

hút thuốc lá có khối lượng khoáng xương tại cổ xương đùi và cột sống cũng thấp

36

hơn người không hút. Một nghiên cứu thực hiện ở Thụy Điển cho thấy nam thanh

niênhút thuốc tuổi từ 18-20 đã làm giảm mật độ xương và làm mỏng lớp vỏ cứng

bên ngoài của xương. Phát hiện này cho thấy rằng hút thuốc lá ở những người trẻ có

thể làm giảmkhối lượng xương đỉnh của họ vàdo đó làm tăng nguy cơ loãng xương

trong cuộc sống sau này [66],[74].

Thiếu cân là một yếu tố nguy cơ của bệnh loãng xương bởi vì trọng lượng cơ thể

thấp có liên quan với mật độ xương đỉnh thấp hơn trong giai đoạn phát triểnxương ở

tuổi trẻ và tăng nguy cơ gãy xương ở người già. Nguy cơ gãy xương hông gần như

tăng gấp đôi ở những người cóBMI 20 kg/m² so với những người BMI 25 kg/m².

Những người có một lối sống ít vận động có nhiều khả năng bị gãyxương hông hơn

những người thường xuyên vận động.Chẳng hạn, phụ nữ ngồi hơn chín giờ một

ngày thì 50% khả năng bị gãy xương hông hơn những người ngồiít hơn sáu giờ một

ngày [66].

Người bị bệnh loãng xương,đặc biệt là ở người cao tuổi dễ bị té ngã do sức

khỏe giảm sút, các cơ quan bị giảm chức năng như cơ teo, khớp thoái hóa, biến

dạng xương, rối loạn dáng đi, rối loạn thăng bằng, giảm đáp ứng, sa sút trí tuệ, giảm

thị lực,dùng quá nhiều thuốc (thuốc hạ huyết áp, an thần...) và những nguyên nhân

này ít nhiều đều có liên quan đến loãng xương.

1.2.3.2. Các yếu tố liên quan đến loãng xương không thay đổi được

Tuổi có liên quan đến loãng xương, tuổi càng cao tỷ lệ bệnh loãng xương càng

lớn.Trong toàn bộ cuộc đời phụ nữ mất khoảng 35% khối lượng xương đặcvà 50%

khối lượng xương xốp, trong khi đó nam giới chỉ mất 1/3 khối xương. Theo kết

quả của các nghiên cứu,tỷ lệmất xươngở nam giới vàphụ nữ lớnhơn35

tuổilàkhoảng0,3-0,5% mỗi năm,tỷ lệ này là2-5%mỗi năm ở phụ nữsau khi mãn kinh

từ 4 đến 6 năm và trở nên ổn địnhsau đó.

Phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ sau mãn kinh dễ bị mất khối xương hơn nam giới vì cơ

thể họ sản xuất ít estrogen.Một sự khác biệtquan trọngở nam giới vànữgiới có

thểgiải thích tại saogãy xươnglại thường ít xảy raở nam giới, đó làcùng một

lúcxươngđang bị mất đivào bên trong củaphần xươngtiếp giáp vớikhoangtủy, thì có

xươngmới lắng đọngbên vỏ ngoàicủa xương giống như một lớp sơn. Số

37

lượngxươngmớilắng đọng trênbề mặtbên ngoàiở nam giớihơnkhoảng balần so

vớiphụ nữ.Điều này làm tăngkích thướcxươngvà do đóduy trìsức mạnh

củaxươngcũng nhưbù đắpsự mất xươngtừbên trong[63]. Mãn kinh sớm, có kinh

muộn và tất cả phụ nữ sau mãn kinh là yếu tố nguy cơ của bệnh loãng xương. Hầu

hết các quốc gia đềucó khuyến nghị đánh giá yếu tố nguy cơ loãng xương cho phụ

nữ mãn kinh nhằm đo mật độ xương cho người có nguy cơ cao (phụ nữ ≥ 65 tuổi, <

65 tuổi và có ≥ 1 yếu tố nguy cơ, phụ nữ mãn kinh đã có gãy xương) [96].

Di truyền cũng đóng một vai trò lớn trong bệnh loãng xương. Trong thực tế, cha mẹ

có tiền sử gãy xươnglà một yếu tố nguy cơ và đó là nguy cơ độc lập của mật độ

xương. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy khoảng 60-80% sự khác biệt về mật

độ xương giữa các cá nhân là do gen chi phối. Người có tiền sử gia đình bị gãy

xương có nguy cơ bị gãy xương tăng gấp 1,5 đến 2 lần so với người không có [42].

Các dân tộc, chủng tộc khác nhau đều có liên quan đến loãng xương ở mức độ khác

nhau. Bệnh thường gặp ở người da trắng và ngườiChâu Á, tỷ lệ gãy xương hông và

xương sống ở người Châu Phi thấp hơn người da trắng. Vấn đề này được giải thích

là do người Châu Phi có sự khác biệt về cấu trúc xương, khối lượng xương đỉnh cao

hơn, tốc độ chậm mất xươngsau thời kỳ mãn kinh và chất lượng vi cấu trúc xương

tốt hơn [53].

Các nghiên cứu trên toàn thế giới đều cho thấy rằng những người bị gãy

xương trước đây thì có nguy cơ gãy xương bất kỳ nhiều hơn so với những người

chưa bao giờ bị gãy. Điều này đúng cho cả nam giới và phụ nữ, nguy cơ gãy xương

lần thứ hai tăng gần gấp đôi (1,86 lần) so vớinhững người chưa gãy.

Sử dụngcorticoidliệu pháp sẽ dẫn đến nguy cơloãng xương vàliên quan đếngãy

xương. Người bệnhcó thể bịmất xươngđáng kể tùy theo thời gian và liều lượng

thuốc sử dụng.Mộttỷ lệ mấtxươngtrên 15%mỗinămđược báo cáo ởngười bệnh dùng

liềuprednison30mg/ngày.Tác dụngchủ yếu củacorticoidlà làm giảmsự hình

thànhxươngdo nó tác động có hạitrêncác tế bào tạoxương(osteoblast), mặc dùcũng

có bằng chứngcho rằng nó gâytăng hoạt động củacác tế bàohủyxương(osteoclast).

Nội tiết tố androgen cần thiết trong sự phát triển của khối lượng xương đỉnh và duy

trì khối lượng xương. Thiểu năng tuyến sinh dục ở người đàn ông trẻ có mức

38

testosterone thấp thì có mật độ xương thấp. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng liệu

pháp điều trị thay thế testosterone ở người thiểu năng sinh dục nam sẽ làm gia tăng

mật độ xương [65].

1.2.3.3. Các yếu tố liên quan gây ra loãng xương thứ phát

Ngoài những yếu tố nguy cơ trên, xương còn chịu ảnh hưởng tiêu cực từ các rối

loạn khác như viêm khớp dạng thấp và các bệnh của hệ thống nội tiết. Cường cận

giáp làm gia tăng nồng độ hormone cận giáp tác động tế bào xương để giải phóng

can-xitừ xương vàomáu. Hormone tuyến giáp tăng quá mức không điều trị kịp thời

cũng có thể dẫn đến loãng xương.Rối loạn nội tiết mà làm ảnh hưởng tới cân bằng

bình thườnggiữa nội tiết tố nữ (estrogen) và hormone nam giới(androgen) có thể

gây ra loãng xương, bởi vì nhữnghormone này giúp xây dựng xương. Sử dụng lâu

dài thuốc corticoid uống hoặc hít nhằm điều trị viêm khớp, dị ứng, bệnh Crohn, hen

suyễnvà các bệnh hô hấp mãn tính sẽ gây suy giảm mật độ xương. Kết hợpphân tích

dữ liệu từ hơn 40.000 tình nguyện viên trên toàn thế giớicho thấy rằng sử

dụngcorticoid dài hạn tăng gấp đôi nguy cơcho gãy xương hông ở phụ nữ và tăng

2,6 lần ở nam giới [65]. Các loại thuốc khác có tác động sinh học đến xươngbao

gồm các thuốc ức chế bơm proton, nó có thể làm giảm sự hấp thu can-xi từ dạ

dàyvà nghiên cứu cho thấy sử dụng lâu dài (> 1 năm)thuốc ức chế bơm proton có

thể làm tăng nguy cơ gãy xương hông lênđến 60%. Một số thuốc khác cũng ảnh

hưởng đến xương như: thuốc chống động kinh, thuốc lợi tiểu thiazid, thuốc chống

đông máu (Wafarine), thuốc chống ung thư...

1.3. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG LOÃNG XƢƠNG

Các biện pháp phòng chống loãng xương hiện nay gồm có những nội dung:

- Nâng cao nhận thức của người dân về bệnh bằng truyền thông giáo dục sức

khỏe và cần thiết phải bắt đầu từ lứa tuổi học đường nhằm đảm bảo đến giai đoạn

trưởng thành có mật độ xương đỉnh tốt nhất cũng như tránh sự mất xương về sau.

- Thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý, nhất là cung cấp đầy đủ can-xi và

vitamin D theo nhu cầu của từng lứa tuổi.

- Tăng cường tập luyện thể dục thể thao kể từ lứa tuổi học đường và tiếp tục

duy trì trong suốt cuộc sống về sau.

39

- Phòng tránh những thói quen ảnh hưởng tiêu cực đến xương như lạm dụng

rượu bia, hút thuốc lá, lười vận động, sử dụng thuốc có hại cho xương không theo

sự hướng dẫn của thầy thuốc.

- Thực hành các biện pháp phòng tránh té ngã ở người có nguy cơ cao.

- Ngành y tế cần xây dựng chiến lược phòng chống loãng xương ở mỗi quốc

gia, tăng cường đào tạo cán bộ y tế chuyên ngành, cung cấp phương tiện tầm soát,

chẩn đoán và theo dõi bệnh loãng xương trong cộng đồng, giám sát và quản lý bệnh.

1.3.1. Các biện pháp phòng chống loãng xƣơng trên thế giới

1.3.1.1. Các biện pháp phòng chống loãng xương tại Châu Âu

Năm 1998 Liên Minh Châu Âu đưa ra các khuyến nghị xác định mục tiêu quan

trọng chocải thiện việc quản lý loãng xương ở tất cả các quốc gia thành viên bao

gồm: (1) Loãng xương phải được thông qua như là một mục tiêu chăm sóc sức khỏe

lớn của Liên minh Châu Âu và các chính phủ của tất cả các nước thành viên; (2)

Thông tin chi tiết phải được công bốcho các nước về tỷ lệ mắc và tỷ lệ gãy xương

do loãng xương; (3) Phối hợp hệ thống các quốc gia để lên kế hoạch cho sự gia tăng

về nhu cầu chăm sóc sức khỏe và thực thi việc phân bổ nguồn lực thích hợp; (4)

Xây dựng và thực hiện chính sách để tư vấn cho người dân và các chuyên gia sức

khỏe về dinh dưỡng bổ sung can-xi và vitamin D; (5) Truy cập vào hệ thống và đo

mật độ xương nên được phổ cập cho những người có chỉ định lâm sàng, chấp nhận

và hỗ trợ chi phí cho cá nhân đó; (6) Các nước thành viên sử dụng cách tiếp cận dựa

trên bằng chứng để xác định phương pháp điều trị và cần được tư vấn; (7) Chính

phủ cần tích cực thúc đẩy và hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu khoa học ở các quốc

gia, đào tạo các chuyên gia chăm sóc sức khỏe liên quan đến việcquản lý bệnh

loãng xương [68].

Trên cơ sở kế hoạch hành động chung của Châu Âu, tại Ireland đã xây dựng

chiến lược phòng tránh té ngã và gãy xương ở người cao tuổi vào năm 2008. Tầm

nhìn dài hạncủa chiến lược nàylà đểcải thiện sức khỏexươngkhi dân sốđang già hóa

ở Irelandvàgiảm bớt gánh nặnggãy xương do té ngã. Điều này đòi hỏimột cách tiếp

cậnliên ngànhđểphòng chốngvà chăm sócbệnh mà tất cả cáctổ chức,các ngành

nghềchủ chốtlàm việc cùng nhauđể đạt đượcmục tiêu.Nguyên tắc cơ bảnlà tập trung

40

vàocácbiện pháp can thiệpdựa trênbằng chứng, cung cấpdịch vụ y tế một cách công

bằngvà sẵn có chotất cả. Các mục tiêuchính lànâng cao nhận thứccủacộng đồng

vềloãng xương, nâng cao năng lựcy tế, cung cấpmột cáchtoàn diện vềdịch vụchăm

sóc, điều trịloãng xương vàgãy xương, phát triển mộtmôi trườngsống an toàn hơn

[62].

Năm 1997, Bộ Y tế công cộng của Liên bang Ngađã cho phép thành lập cáctrung

tâm phòng chống loãng xương tại các bệnh viện đa khoa lớn. Từ đó đã có nhiều

trung tâm phòng chống loãng xương ra đời với các nhiệm vụ chính là cung cấp dịch

vụ chăm sóc đặc biệt cho những người bị loãng xương, các chương trình đào tạo

cho các bác sĩ, các chương trình tự quản lý cho nhữngngười bệnh và người chăm

sóc. Tuy nhiên, hiện có một tình trạng thiếu bác sĩ chuyên khoa trong lĩnh vực về

xương và loãng xươngở Nga. Trong một nghiên cứu được tiến hành, có 19% bác sĩ

không thể biết phương pháp kiểm tra bệnh loãng xương. Chỉ có 19% các bác sĩ

khuyến cáo kiểm tra mật độ xươngởngười bệnh dùng corticoid và 34% đã không

tưvấn cho những người bệnh này để tiếp tục được kiểm tra[72].

1.3.1.2. Các biện pháp phòng chống loãng xương tại một số nước ở Châu Á

Châu Á là nơicó dân số cao nhất trong các châu lục và điều đócũngtăngtuyệt đốivề

số lượng người cao tuổi. Do đó sẽ cónhững thay đổilớnvềgãy xươngdo loãng

xươngxảy raở Châu Á.Trên thực tế, 26%của tất cả cácgãy xương hông đã xảy raở

Châu Átrongnăm 1990, tỷ lệ nàycó thể tăng lên37%vào năm 2025và45% vàonăm

2050 [78].

Tại Trung quốc, chính sách của chính phủ cho đến nay loãng xương chưa được

công nhận như một vấn đề sức khỏe lớn của quốc gia.Các tổ chức chính phủ và phi

chính phủ đang dần dần chú ý nhiều hơnđến chứng loãng xương.Hiện nay, không

có chương trình của chính phủ về phòng ngừa, chẩn đoán và quản lý bệnh loãng

xương, nhưng chính phủ hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ trong các hoạt động như:

Dự án nâng cao nhận thức loãng xương, chiến dịch hành động phòng chốngloãng

xương, chiến dịch uống sữa[70].

Tại Indonesia, Bộ Y tếđã công nhậnbệnh loãng xươnglàmột vấn đề sức khỏe

quan trọngkể từ năm 2006và những nỗ lựcđang được tiến hànhvớisự hỗ trợ củacác

41

tổ chức xã hộinhằm truyền bá thông điệpvề phòng chốngbệnh trong cộng đồng.Tổ

chức phòng chống loãng xương Indonesia được thành lập năm 2004 và đang tích

cực tham gia nâng cao nhận thức về bệnh của người dân qua các hoạt động như đào

tạo cán bộ chuyên vềloãng xương, đào tạo giáo viên hướng dẫn tập thể dục cho sức

khỏe xương, phân phối sách về loãng xương...Bên cạnh đó, một số giải pháp mạnh

mẽ cũng đang được tiến hành, đó là phát triển một hệ thống hỗ trợ cho người bệnh,

nâng cao nhận thức hơn nữa trong nhân dân về các biện pháp phòng ngừa và thay

đổi lối sống nhằm xây dựng khối lượng xương đỉnh cao hơn, cải thiện việc chẩn

đoán và điều trị, đặc biệt là tăng cường máy đo mật độ xương DXA ở nhiều nơi của

cả nước [70].

Hiệp hội Loãng xương Malaysia do các thầy thuốc đứng ra thành lập vào giữa thập

niên 90 thế kỷ trước. Hội đã cho xuất bản tài liệu “Hướng dẫn thực hành lâm sàng”

về loãng xương trong năm 2001 và 2006. Các hướng dẫn này đã được phân phối và

sử dụng rộng rãi bởi các học viên và các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực khác

nhau.Nội dung hướng dẫn bao gồm: Quản lý người bệnh bị loãng xương, dịch tễ

học, dữ liệu bị gãy xương hông, thực hành dinh dưỡng, chẩn đoán và điều trị bệnh

loãng xương sau mãn kinh, loãng xương ở nam giới, loãng xươngdo

glucocorticoid... Ngoài ra, tại Malaysia còn thành lập Hiệp hội nâng cao nhận thức

về loãng xương Kuala Lumpur vào năm 2008. Đây là một tổ chức phi chính phủ

được thành lập vớimục tiêu chính là tăng cường sức khỏe xương cho người dân.

Hiệp hộiđã giới thiệu chương trình “xương khỏe mạnh cho cuộc sống”nhằm nhấn

mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường xương khỏe mạnh trong tất cả các giai

đoạn của cuộc sống, từ phụ nữ mang thai, trẻ em, thanh thiếu niên, người lớn và

người già. Để thực hiện công việc này, Hội đã thành lập các nhóm hỗ trợ người

bệnh, các thành viên gia đình và những người chăm sóc người bệnh [70].

1.3.1.3. Các biện pháp phòng chống loãng xương tại Bắc Mỹ

-Chiến lƣợc phòng chống loãng xƣơng ở Ontario, Canada

Canada là quốc gia mà người dân có nguy cơ gãy xương do loãng xương thuộc vào

nhóm cao nhất thế giới. Gãy xươngdo loãng xương phổ biến hơnnhồi máu cơ tim,

đột quỵ vàung thư vúcộng lại.Năm 2003, Canada đã xây dựng một chiến lược

42

phòng chống loãng xương cho vùng Ontario với nội dung:Tăng cường giáo dục sức

khỏe người dân để có thể tăng sức khỏe cho xương, giảm nguy cơ loãng xương (dự

phòng cấp 1). Tăng cường phát hiện và quản lý bệnh (dự phòng cấp 2). Phòng bệnh

nên tập trung người dân có nguy cơ cao và trong quá trình phát triển xương (phụ nữ

mãn kinh, người cao tuổi, trẻ em và vị thành niên); (2) Phát hiện sớm và chẩn đoán

bệnh loãng xương (dự phòng cấp 2 và 3); (3) Chăm sóc sau gãy xương, phục hồi

chức năng và quản lý bệnh loãng xương một cách hiệu quả để giảmgãy xương tái

phát và cải thiện chất lượng cuộc sống (dự phòng cấp 3); (4) Thực hành của chuyên

gia y tế dựa trên bằng chứng; (5) Nghiên cứu khoa học sẽ giúp phát triển kiến thức

mới trong bệnh loãng xương; (6) Lãnh đạovà giám sát sẽ giúp đảm bảo hiệu

quảthực hiện các khuyến nghị của kế hoạch hành động loãng xương và giúp Ontario

đạt tiến bộ trong việc giảm gánh nặng của bệnh loãng xương và cải thiện chất lượng

cuộc sống [95].

- Các biện pháp phòng chống loãng xƣơng tại Hoa Kỳ

Nhiều tiểu bang của Hoa Kỳ đã xây dựng chiến lược phòng chống loãng xương,

trong đó có Pennsylvania.Các mục tiêu chiến lược Pennsylvania bao gồm: (1) Mục

tiêu thứ nhất là tăng 10% mỗi năm số người dân nhận thức về bệnh loãng xươngở

tất cả các lứa tuổi về phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị. Tăng cường nỗ lực hợp tác

để sử dụng hiệu quả nguồn lực có sẵn; (2) Mục tiêu thứ hai là tăng cường thông tin

đối với sức khỏe con người và với các chuyên gia dịchvụ về phòng chống loãng

xương.Sử dụng các tiêu chuẩn thống nhất về các phương pháp đo mật độ xương

vàđọc kết quả trong các quần thể khác nhau; (3) Mục tiêu thứ ba là giảm rào cản

ảnh hưởng đến việc chẩn đoán và điều trị loãng xương.Nâng cao nhận thức cho

người dân về lợi ích của việc thực hiện tầm soát bệnh. Tăng kinh phí cho các hoạt

động giáo dục sức khỏe cho người dân. Tăng cường tiếp cận dịch vụ loãng

xươngcung cấp trên toàn tiểubang, đặc biệt là khu vực nông thôn và nơi y tế còn

hạn chế; (4) Mục tiêu thứ tư là xây dựng hệ thống giám sát để theo dõi các xu

hướng sức khỏe, chế độ ăn uống, hành vi ở trẻ em và người lớn. Tăng cường năng

lực ở cấp Nhà nước để thu thập và phân tích dữ liệuchiến lược. Kiểm tra hệ thống

43

thu thập dữ liệu và các chỉ số hiện đang thu thập thông tin về dinh dưỡng (đặc biệt

là can-xi, sữa tiêu thụ), gãy xương ở người lớn và trẻ em [103].

1.3.1.4.Cácbiện phápphòngchống loãng xươngtại một số nước Mỹ La-tinh

Tại Brazil, một quốc gia có số dân đông đứng hàng thứ 5 trên thế giới, chính phủ đã

xem loãng xương là một vấn đề sức khỏe lớn. Vào năm 2011, một chiến dịch đã

được đưa ra nhằm nâng cao nhận thức của người dân về yếu tố nguy cơ của bệnh

mang tên: “Chiến dịch phòng ngừa loãng xương: từ trẻ em cho tới người già” do Bộ

Y tế phát động. Thông qua ngành kỹ thuật y tế cao cấp dành cho người cao tuổi, Bộ

Y tế Brazil đang phát triển một kế hoạch hướng tới tăng cường khả năng hệ thống y

tế công cộng trong việc phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị loãng xương, phòng

tránh té ngã ở cấp độ quốc gia và địa phương. Mục đích của việc làm này là cung

cấp các chuyên gia y tế bằng những công cụ sẵn có họ có thể xác định nguy cơ té

ngã và gãy xương ở người cao tuổi, hướng tới kéo giảm 2% mỗi năm tỷ lệ người

nằm viện vì gãy cổ xương đùi.

Loãng xương và gãy xương do loãng xương là một vấn đề sức khỏe ưu tiên

tại Cuba. Chính phủ đã có nhiều chương trình nhận thức cộng đồng về bệnh loãng

xương bao gồm phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị. Chương trình cũng nhằm đến

những người già, người khuyết tật và những người bị ảnh hưởng bởi các bệnh mãn

tính khác [75].

1.3.1.5. Các biện pháp phòng chống loãng xương tại Trung Đông và Châu Phi

Tại Iran, loãng xương và gãy xương do loãng xươngđược xem là một vấn đề sức

khỏe ưu tiên. Quá trình phát triển mạng lưới phòng chống bệnh loãng xương của

Iran nhằm mục đích nâng cao nhận thức của người dân ở các khu vực khác nhau

của đất nước, cải thiện việc chăm sóc người bệnh và tiến hành nghiên cứu đa trung

tâm trong lĩnh vực này. Loãng xươngđã được công nhận là một vấn đề sức khỏe lớn

ở Iraq và chính phủ đã phê duyệt chủ trương, phát triển đào tạo chuyên gia y tế về

lĩnh vức này. Những thành tựu lớn gần đây tại Iraq về vấn đề loãng xương là sự sẵn

có của máy DXA trong các bệnh viện của chính phủ, việc thành lập các hướng dẫn

để phòng ngừa loãng xương ở các trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu, các hướng

dẫn để ngăn chặn và điều trị loãng xương do BộY tế ban hành, sự cải thiện trong

44

chương trình giáo dục phòng chống và điều trị bệnh loãng xương. Tại Jordan, loãng

xươngcũng đã được công nhận là một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Hiệp

hộiphòng chốngLoãng xươngJordan đã rất tích cựctrong việc thúc đẩynhận thức

vềsức khỏe của xươngở cấp quốc giathông quacác hoạt động đào tạo, hội nghị y

khoa, tài liệu quảng cáo, tờ rơi,thực hiện các hoạt động truyền thông (trên truyền

hình, các cuộc phỏng vấnđài phát thanh, báo, tạp chí)[73].

1.3.1.6. Kế hoạch Chiến lược Quốc gia về phòng chống loãng xương ởÚc

Tại Úc đã xây dựng một Chiến lược Quốc gia phòng chống loãng xương gồm

7 nội dung: (1) Thứ nhất là thực thi các chương trình nhận thức về bệnh thông qua

các trung tâm loãng xương đóng ở các tiểu bang và phối hợp hành động ở cấp quốc

gia, kể cả các chương trình định hướng vào các bác sĩ gia đình; (2) Thứ hai là thực

hiện các chiến lược phòng ngừa sức khỏe cho cộng đồng như các chương trình phổ

biến ở học đường nhằm làm tăng cường thu nạp can-xi trong bữa ăn hàng ngày và

luyện tập thể lực ở lớp trẻ; (3) Thứ ba là thiết lập các chương trình cụ thể nhằm

hướng vào lớp người có tuổi có nguy cơ thiếu vitamin D, hướng vào việc phòng

ngừa té ngã, thiết bị bảo vệ hông cho người cao tuổi ở các viện dưỡng lão cũng như

trong cộng đồng; (4) Thứ tư là thực hiện các chiến lược phòng ngừa thứ cấp, như

thiết lập các phòng khám chuyên khoa trong các bệnh viện giảng dạy hoặc các

phương thức áp dụng cho bác sĩ gia đình để nâng tỷ lệ điều trị đối với nhóm người

có nguy cơ cao bị gãy xương; (5) Thứ năm là xây dựng các dự án nghiên cứu để xin

tài trợ từ Hội đồng Nghiên cứu Y khoa Quốc gia và các nguồn khác; (6) Thứ sáu là

giám sát và đánh giá tỷ lệ gãy xương, hiệu quả của điều trị và tỷ lệ lưu hành cũng

như gánh nặng của bệnh loãng xương theo từng thời điểm trong vòng một thập niên

tới; (7) Cuối cùng là liên kết hoạt động với ngành chấn thương chỉnh hình để đảm

bảo người bệnh có gãy xương được điều trị đúng mực [40].

1.3.2. Các biện pháp phòng chống loãng xƣơng tại Việt Nam

Việt Nam là một trong số ít các quốc gia Châu Á (Singapore, Indonesia, Lãnh thổ

Đài Loan) được chính phủ công nhận loãng xương là một vấn đề sức khỏe quan

trọng. Trong những năm gần đây, tại nước ta vấn đề loãng xương đã được quan tâm

nhiều hơn, đặc biệt là sự ra đời của các tổ chức Hội Loãng xương ở các thành phố

45

lớn. Hội Loãng xương Hà Nội và TPHCM được thành lập vào năm 2006. Tôn chỉ

hoạt động của các Hội là cố gắng tăng cường về tổ chức và chuyên môn, từng bước

tạo sự chuyển biến thực sự trong nhận thức của mỗi người, của mỗi ngành và của

toàn xã hội trong việc bảo vệ sức khỏe xương. Các chuyên gia y tế Việt Nam cũng

đã thực hiện khá nhiều đề tài nghiên cứu về loãng xương như dịch tễ học, nghiên

cứu các giải pháp điều trị và đã từng bước tham mưu xây dựng chính sách quốc gia

về phòng chống loãng xương.

Với sự nỗ lực của các Hội Loãng xương, sự đồng thuận của Bộ Y tế và cho phép

của Chính phủ, năm 2008 Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học Tầm nhìn Châu

Á về loãng xương đã quy tụ hàng trăm nhà khoa học trong và ngoài nước đến dự

với hàng chục báo cáo những đề tài nghiên cứu mới nhất về bệnh loãng xương.

Cũng qua sự kiện này, hoạt động ngành y tế nói chung và hoạt động của Hội Loãng

xương nói riêng đã có bước phát triển khá mạnh mẽ, hàng loạt chương trình truyền

thông qua báo đài được thực hiện, tổ chức sự kiện nhân ngày Loãng xương thế giới

20 tháng 10 hàng năm với đông đảo tầng lớp nhân dân hưởng ứng. Bên cạnh đó,

những hoạt động cung cấp dịch vụ tầm soát MĐX di động đến cộng đồng và tại các

cơ sở chẩn đoán, điều trị cũng được tăng cường trang thiết bị, đặc biệt là hoạt động

tư vấn, cải thiện dinh dưỡng bổ sung can-xi và vitamin D, xây dựng lối sống lành

mạnh nhằm phòng chống loãng xương đang được phổ biến đến người dân.

Năm 2013, Sở y tế TPHCM đã cho ban hành “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự

phòng loãng xương”, trong đó gồm có 9 nội dung phòng bệnh được khuyến cáo

người dân thực hiện: (1) Mục đích của dự phòng loãng xương là phát triển và duy

trì khối xương tốt nhất cho mọi người, giảm nguy cơ loãng xương và gãy xương

bằng cách can thiệp vào các yếu tố nguy cơ gây mất xương và gãy xương; (2) Tối

ưu hóa sức khỏe xương là công việc cần được quan tâm suốt đời của mỗi người; (3)

Khuyến cáo cho mọi người bệnh trong các lần khám bệnh thường kỳ: Các yếu tố

nguy cơ của loãng xương và các biện pháp phòng ngừa cơ bản, đo chiều cao định

kỳ đều đặn, khám ghi nhận gù vẹo cột sống nếu có; (4)Các biện pháp phòng ngừa

tiên phát là một phần của điều trị loãng xương, giáo dục người bệnh và nâng cao

nhận thức về bệnh loãng xương, khuyến cáo các biện pháp dự phòng loãng xương

46

thích hợp cho từng lứa tuổi; (5) Chế độ dinh dưỡng cần cung cấp đầy đủ can-xi,

vitamin D theo nhu cầu của từng lứa tuổi; (6) Duy trì thường xuyên hoạt động thể

lực và các bài tập làm tăng sức cơ.Các hoạt động thể lực có ích như đi bộ, chạy nhẹ,

thái cực quyền, khiêu vũ, aerobic, yoga, tennis và các bài tập thể dục chịu tải khác,

tùy thuộc vào độ tuổi và tình trạng sức khỏe. Mọi người nên duy trì hoạt động thể

lực thường xuyên ít nhất 30 phút mỗi ngày và ít nhất 5 ngày mỗi tuần; (7) Khuyến

cáo người bệnh thay đổi lối sống, hạn chế rượu (không uống quá 3 đơn vị rượu mỗi

ngày), ngưng hút thuốc lá; (8) Thực hành các biện pháp phòng tránh té ngã; (9) Chú

ý các biện pháp phòng ngừa sớm cho những người có nguy cơ loãng xương

docorticoid, xem xét điều trị dự phòng (alendronate, risedronate...) cho các người

bệnh với T-score từ -2,4 đến -1,5, nhưng có nguy cơ cao [28].

Trong dự phòng bệnh loãng xương thì vấn đề dinh dưỡng là rất quan trọng.Viện

Dinh dưỡng Quốc gia đã đề xuất biện pháp dinh dưỡng trong dự phòng và góp phần

điều trị loãng xương là sát hợp với người Việt Nam hơn cả. Cần cung cấp đủ lượng

can-xi hàng ngày theo nhu cầu nhằm đảm bảo cho sự tạo thành khối xương đạt được

mật độ tối đa, duy trì khối xương đạt được và chế độ dinh dưỡng bổ sung can-xi

hợp lý suốt cả đời sẽ làm cho quá trình cốt hóa hoàn thiện hơn, giảm bớt các nguy

cơ liên quan đến mất xương trong thời kỳ mãn kinh vì thiếu estrogen [45].

Các chuyên gia y tế ở một số địa phương của nước ta cũng đã tiến hành thực

nghiệm một số mô hình can thiệp dự phòngloãng xương. Tại thành phố Thái

Bình,một nghiên cứu trên phụ nữ từ 40 đến 65 tuổi được thực hiện tại 2 phường với

mục tiêu đánh giá hiệu quả của một số biện pháp can thiệp dinh dưỡng và luyện tập

dự phòng giảm mật độ xương. Có 259 phụ nữ giảm mật độ xương được chọn vào

nhóm đối chứng, nhóm can thiệp gồm 139 phụ nữ giảm mật độ xương áp dụng các

biện pháp can thiệp (truyền thông, luyện tập, thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý

kèm theo bổ sung can-xi và vitamin D) đã được cộng đồng chấp nhận và tham gia

thực hiện. Kết quả cho thấy hiệu quả phục hồi giảm mật độ xương quay là 10,2% và

xương chày là 42,8%. Hiệu quả bảo vệ không bị mắc mới giảm mật độ xương đối

với xương quay là 21,4%, xương chày là 25,7%. Hiệu quả bảo vệ không bị mắc mới

loãng xương đối với xương quay là 1,3%, xương chày là 13,5% [25].

47

1.4. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TPHCM là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn

hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam. Về vị trí địa lý, TPHCM cách thủ đô Hà

Nội gần 1.730km đường bộ, giáp với các tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà

Rịa -Vũng Tàu, Long An và Tiền Giang.TPHCM nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa

cận xích đạo. đặc điểm chung của khí hậu-thời tiết là nhiệt độ cao đều trong năm và

có hai mùa mưa - khô rõ ràng. Thành phố gồm có 19 quận và 5 huyện, tổng diện

tích 2.095,01 km², có dân số khoảng 7,4 triệu người (năm 2010), mật độ trung bình

48

3.532 người/km² và với dân số đông, mật độ cao trong nội thành, cộng thêm một

lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhu cầu lớn về chăm sóc sức khỏe của người

dân. Thêm vào đó, tình hình tuổi thọ của người dân ngày càng gia tăng đã dẫn đến

những bệnh lý của người già tăng theo như là bệnh tim mạch, bệnh chuyển hóa,

bệnh xương khớp trong đó bệnh loãng xương có tỷ lệ khá cao.

Quận 12

Quận Gò Vấp

Huyện Hóc Môn

Quận 6

Quận Bình Thạnh

Hình 2.1. Bản đồ TPHCM và địa điểm các quận, huyện nghiên cứu

Chƣơng 2

ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU

Người dân từ 45 tuổi trở lên đang cư trú trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu mô tả cắt ngang

Người dân từ 45 tuổi trở lên đang cư trú tại 8 phường và 2 xã thuộc 4 quận và 1

huyện của TPHCMđược chọn ngẫu nhiên tại thời điểm nghiên cứu.

49

2.1.2. Đối tƣợng nghiên cứu can thiệp

- Nhóm nghiên cứu can thiệp cộng đồng:Người dân từ 45 tuổi trở lên đang cư trú tại

3 phường và 1 xã can thiệp thuộc 3 quận và 1 huyện của TPHCM được chọn ngẫu

nhiên tại thời điểm nghiên cứu.

- Nhóm đối chứng cộng đồng: Người dân từ 45 tuổi trở lên đang cư trú tại 3 phường

và 1 xã đối chứngthuộc 3 quận và 1 huyện của TPHCM được chọn ngẫu nhiên tại

thời điểm nghiên cứu.

- Nghiên cứu can thiệp trực tiếp bằng viên Calci-D không có đối chứng:

Người dân bị giảm mật độ xương hoặc loãng xương qua kết quả điều tra cắt ngang

tại 3 phường và 1 xã can thiệp (cùng với phường, xã can thiệp cộng đồng).

2.1.3. Tiêu chí loại trừ khi chọn mẫu nghiên cứu

- Những người mới chuyển đến địa phương (không đăng ký tạm trú).

- Những người không nhớ hoặc không cung cấp đầy đủ nội dung những câu trả lời

trong bảng câu hỏi nghiên cứu.

- Phụ nữ đã phẫu thuật cắt bỏ 2 buồng trứng và hoặc cắt tử cung toàn phần.

- Nam giới suy tuyến sinh dục tiên phát hoặc thứ phát.

- Những người bệnh suy gan, suy thận mãn tính, người bị bệnh ác tính.

- Người dân không đồng ý tham gia nghiên cứu.

2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU

2.2.1. Địa điểm nghiên cứu:

Tại cộng đồng dân cư thuộc 4 quận và 1 huyện của thành phố Hồ Chí Minh: Quận

6, 12, Bình Thạnh, Gò Vấp và huyện Hóc Môn.

Bảng 2.1. Địa điểm nghiên cứu mô tả và can thiệp

Phương pháp nghiên cứu

Địa điểm nghiên cứu Phường 12 và 13 quận 6; Phường Hiệp Thành và An

Phú Đông quận 12; Phường 3 và 11 quận Bình Mô tả cắt ngang Thạnh; Phường 5 và 8 quận Gò Vấp; Xã Tân Xuân

và Đông Thạnh huyện Hóc Môn

Can thiệp cộng Phường Hiệp Thành quận 12; Phường 3 quận Bình

50

đồng Thạnh; Phường 5 quận Gò Vấp; Xã Tân Xuân huyện

Hóc Môn

Phường An Phú Đông quận 12; Phường 11 quận Đối chứng cộng Can Bình Thạnh; Phường 8 quận Gò Vấp; Xã Đông đồng thiệp Thạnh huyện Hóc Môn

Trên người LX Phường Hiệp Thành quận 12; Phường 3 quận Bình

hoặc giảm MĐX Thạnh; Phường 5 quận Gò Vấp; Xã Tân Xuân huyện

qua điều tra ngang Hóc Môn

2.2.2. Một số đặc điểm của địa phƣơng nghiên cứu

- Quận 6 là quận ven ngoại thành, nằm về phía Tây Nam thành phố Hồ Chí Minh,

gồm 14 phường với tổng diện tích tự nhiên là 7,19 km². Dân số của quận là 253.474

người (năm 2010), trong đó nữ chiếm 53%, mật độ bình quân 3.535 người/km².

Với vị trí địa lý là cửa ngõ phía Tây của thành phố Hồ Chí Minh, quận 6 có thế

mạnh về thương mại dịch vụ. Tình hình sức khỏe của người dân được chăm sóc khá

tốt, nhưng hiện nay xu hướng bệnh không lây nhiễm gia tăng, nhất là bệnh của

người cao tuổi.

- Quận 12 nằm phía Bắc thành phố Hồ Chí Minh có 11 phường trực thuộc, diện tích

đất tự nhiên 52,75km², dân số 427.083 người (năm 2010). Tình hình sức khỏe người

dân gần đây được cải thiện nhiều, nhưng vẫn còn một bộ phận người dân nhập cư

do mưu sinh, thiếu điều kiện chăm sóc mà ảnh hưởng đến sức khỏe bệnh tật như

bệnh truyền nhiễm, bệnh xã hội và một số bệnh không lây nhiễm như: Tăng huyết

áp, tiểu đường, hen, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính…

- Quận Bình Thạnh nằm về phía Đông Bắc thành phố Hồ Chí Minh códiện

tích20,76 km², dân số 470.054 người (năm 2010). Quận đã được đô thị hóa khá lâu,

kinh tế phát triển theo hướng thương mại dịch vụ, văn hóa xã hội phát triển khá tốt.

Hệ thống y tế gồm Bệnh viện quận, Trung tâm y tế dự phòng, 20 trạm y tế. Mô hình

bệnh tật tại quận Bình Thạnh gồm đại đa số bệnh không lây như: Tiểu đường, tăng

huyết áp, béo phì, bệnh về xương khớp...

51

- Quận Gò Vấp nằm ở phía Tây Bắc thành phố Hồ Chí Minh,có diện tích 19,75 km2,

chia thành 16 phường với dân số 548.145 người (năm 2010), nữ chiếm 51,2%.

Quận Gò Vấp có số lượng dân nhập cư khá lớn, sống đan xen giữa các khu đô thị

mới, thu nhập chủ yếu bằng lao động phổ thông.Do vậy, mặt bằng chung trình độ

dân trí còn hạn chế, nhất là kiến thức về phòng bệnh, thói quen dinh dưỡng, thói

quen vận động ở một số bộ phận người dân còn chưa hợp lý, ảnh hưởng lớn đến sự

gia tăng tỷ lệ bệnh do lối sống.

- Huyện Hóc Môn nằm về phía Tây Bắc các quận nội thành của thành phố Hồ Chí

Minh,có diện tích 109,18 km², dân số 358.640 người (năm 2010). Trong những năm

gần đây, huyện Hóc Môn đã gia tăng đô thị hóa, các khu dân cư mới được xây

dựng, các khu công nghiệp mọc lên đã làm cho diện tích đất nông nghiệp thu hẹp

dần và nghề làm nông giảm đáng kể. Tình hình đời sống người dân ngàycàng nâng

cao, chăm sóc y tế được cải thiện. Mô hình bệnh tật huyện Hóc Môn đa dạng bao

gồm bệnh lây nhiễm và bệnh không lây. Số lượng người dân cao tuổi ngày càng gia

tăng, do vậy vấn đề chăm sóc bệnh người già là một ưu tiên cần thực hiện.

2.2.3. Thời gian nghiên cứu

- Từ tháng 7 năm 2011 đến tháng 9 năm 2011: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

- Từ tháng 9 năm 2011 đến tháng 9 năm 2013: Nghiên cứu can thiệp.

2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: qua 2 giai đoạn và thiết kế theo 2 phương pháp

2.3.1.1. Giai đoạn 1 - Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang

Điều tra cắt ngang ở người dân từ 45 tuổi trở lên tại 8 phường và 2 xã thuộc 4 quận

và một huyện của thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện mục tiêu 1:

- Xác định tỷ lệ loãng xương, giảm mật độ xương, trung bìnhBMD ở người

dân từ 45 tuổi trở lên bằng phương pháp DXA cẳng tay.

-Xác định một số yếu tố liên quan đến bệnh loãng xương đối với người dân nghiên

cứu như: tuổi, giới tính, cân nặng, chiều cao, BMI, kinh nguyệt và số con ở phụ nữ,

địa phương sinh sống, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng giảm chiều cao, tiền

sử gãy xương do chấn thương nhẹ, tiền sử gia đình có bệnh loãng xương hoặc gãy

xương do loãng xương, tình trạng sử dụng kháng viêm corticoid; các thói quen tập

52

thể dục thể thao, uống sữa, hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia; kiến thức và thực hành

phòng chống bệnh loãng xương.

2.3.1.2. Giai đoạn 2 – Phương pháp nghiên cứu can thiệp

1) Xây dựng mạng lƣới y tế cơ sở triển khai thực hiện can thiệp

- Đối tượng:Tổ chức bộ máy của ngành y tế, CBYT, các CTV, thành viên

Ban Chỉ đạo chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tuyến quận, huyện phường, xã.

- Nội dung và biện pháp thực hiện

+ Các quận, huyện tham gia hoạt động can thiệp sẽ thành lập Ban Chủ nhiệm

Chương trình phòng, chống bệnh loãng xương gồm 5 thành viên. Nhiệm vụ của Ban

Chủ nhiệm là triển khai thực hiện hoạt động can thiệp đến các phường, xã; theo dõi,

đôn đốc các trạm y tế thực hiện các nội dung can thiệp; kiểm tra, giám sát và đánh

giá hiệu quả hoạt động can thiệp.

+ Tổ chức tập huấn về khám và tầm soát bệnh loãng xương, kỹ năng tư vấn,

truyền thông về các biện pháp dự phòng và quản lý bệnh cho nhân viên y tế từ quận,

huyện đến phường, xã.

+ Xây dựng các biện pháp dự phòng và quản lý bệnh loãng xương tại cộng

đồng như: giám sát, sàng lọc, phát hiện sớm bệnh loãng xương tại cộng đồng. Mỗi

quận, huyện đều có thiết bị để tầm soát bệnh loãng xương (máy siêu âm, X quang,

máy DXA...). Tổ chức một điểm tư vấn chung cho các quận, huyện. Mỗi phường,

xã đều có một điểm tư vấn tại trạm y tế (tư vấn tại chổ hay qua điện thoại). Các

trạm y tế phường, xã can thiệp có phân công một CBYT làm công tác bán chuyên

trách và có ít nhất 4 cộng tác viên hỗ trợ cho hoạt động can thiệp tại địa phương.

+ Thực hiện lồng ghép các hoạt động dự phòng và quản lý bệnh loãng xương tại

cộng đồng với các chương trình phòng, chống các bệnh không lây nhiễm hiện có

như: chương trình phòng chống bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, ung thư, dinh

dưỡng, phòng chống tác hại thuốc lá...nhằm làm tăng hiệu quả can thiệp.

+ Hoạt động can thiệp trong đó có sự tham gia của ban, ngành, các hội, đoàn ở địa

phương. Ngoài ra, hoạt động can thiệp còn có sự kết hợp các cơ sở y tế công và tư,

các công ty kinh doanh, phân phối sản phẩm có tác động đến phòng bệnh LX.

- Dự kiến kết quả sau can thiệp

53

+ 100% quận, huyện có thành lập Ban Chủ nhiệm Chương trình can thiệp.

+ 100% cán bộ tham gia hoạt động can thiệp đều được tập huấn.

+ 100% trạm y tế phường, xã can thiệp có bố trí CBYT, các CTV làm công

tác truyền thông, thực hiện các biện pháp dự phòng, quản lý bệnh loãng xương.

2) Hoạt động can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức khỏe cộng đồng

- Đối tượng:Người dân từ 45 tuổi trở lên đang cư trú tại phường, xã can thiệp

- Nội dung và biện pháp thực hiện

+ Biên soạn các tài liệu, áp phích truyền thông về bệnh loãng xương đặt tại

bảng tin của các khu phố, ấp can thiệp. Biên soạn, in ấn các tờ rơi, cẩm nang phòng

bệnh loãng xương. Sản xuất pa-nô tuyên truyền và mỗi phường, xã được đặt 2 cái

tại các vị trí công cộng như: trạm y tế phường/xã, uỷ ban nhân dân, chợ, trường học.

+ Tổ chức các buổi nói chuyện và tư vấn về bệnh loãng xương tại các cơ quan

và các tổ chức xã hội ở cộng đồng mỗi quý/lần. Các buổi hội thảo, nói chuyện được

tổ chức tại cộng đồng với sự hợp tác của các tổ chức như: Hội người cao tuổi, Hội

cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, trường học...

+ Thành lập và mời gọi người dân tham gia Câu lạc bộ loãng xương và tổ chức sinh

hoạt hàng quý với sự tư vấn, hướng dẫn phòng bệnh của các chuyên gia.

+ Tổ chức nhóm CTV thăm hộ gia đình, tư vấn trực tiếp đến người dân. Khảo sát về

hành vi, lối sống của người dân nhằm truyền thông thay đổi hành vi.

- Dự kiến kết quả đạt được sau can thiệp

+ Tăng 20% người dân có kiến thức tốt về loãng xương.

+ Tăng 15% người dân có thực hành tốt về phòng, chống loãng xương.

Hoạt động truyền thông được mô tả theo sơ đồ sau

Ban Chủ nhiệm Chƣơng trình phòng chống loãng xƣơng quận, huyện

TRẠM Y TẾ PHƢỜNG, XÃcan thiệp CÁC TỔ CHỨC Chínhtrị-Xã hội P/X

Hỗ trợ của BCĐ CS SK ND

54

Truyền thông trực tiếp Truyền thông gián tiếp

- Bản tin của khu phố ấp - Tư vấn tại trạm y tế

- Pa-nô (panel) - Truyền thông tại P/X

- Áp-phích (poster) - Thăm hộ gia đình

- Tờ rơi, cẩm nang - Khám loãng xương và

-Tư vấn qua điện thoại tư vấn trực tiếp

Đối tượng đích: Đối tượng đích:

Người dân trưởng thành - Người dân ≥ 45 tuổi Cộng tác viên, phối hợp lồng ghép các chƣơng trình y tế hiện có trong cộng đồng - Người dân có MĐX thấp

- Tăng kiến thức và thực hành phòng chống loãng xương - Giảm tỷ lệ mắc và biến chứng do loãng xương Kết quả mong đợi

Sơ đồ 2.1. Mô hình can thiệp truyền thông phòng chống loãng xƣơng

(BCĐCSSKND: Ban Chỉ đạo chăm sóc sức khỏe nhân dân)

3) Hoạt động can thiệp dinh dƣỡng bổ sung thức ăn có hàm lƣợng can-xi cao

- Đối tượng:Người dân từ 45 tuổi trở lên tại các phường, xã can thiệp.

- Nội dung và biện pháp thực hiện

+ Cán bộ y tế và cộng tác viên thực hiện tư vấn cho người dân khi thăm hộ

gia đình về chế độ ăn giàu can-xi, lợi ích của việc uống sữa và các sản phẩm từ sữa.

Phối hợp chương trình dinh dưỡng tổ chức tập huấn, trong đó có chuyên đề dinh

dưỡng phòng, chống loãng xương cho người dân tại cộng đồng.

55

+ Đối với người dân xương bình thường, giảm mật độ xương: Hướng dẫn chế

độ ăn phù hợp cho từng đối tượng nhằm cung cấp đủ can-xi trong khẩu phần ăn

hàng ngày, khuyến khích người dân tăng cường uống sữa và sử dụng những chất

giàu can-xi khác.

+ Đối với người bị loãng xương và loãng xương nặng: Ngoài hướng dẫn chế

độ ăn, cần xây dựng thực đơn phù hợp và uống sữa hàng ngày (≥ 2 ly sữa, tương

đương bổ sung 600 mg can-xi/ngày) hoặc uống bổ sung viên Calci-D.

- Dự kiến kết quả đạt được sau can thiệp

+ Tăng > 20% người dân thực hiện chế độ ăn có hàm lượng can-xi cao.

+ Tăng 10% người dân bị loãng xương có uống sữa ≥ 2 ly/ngày.

+ Tăng 5% người dân bổ sung viên Calci-D hàng ngày.

4) Hoạt động can thiệp bằng tập luyện thể dục thể thao nâng cao thể lực

- Đối tượng: Người dân từ 45 tuổi trở lên tại các phường, xã can thiệp.

- Nội dung và các biện pháp thực hiện

Cán bộ y tế và cộng tác viên phường, xã tuyên truyền vận động về lợi ích của

tập thể dục thể thao, tư vấn cho từng đối tượng chọn phương pháp tập luyện cho

phù hợp. Khuyến khích tập dưỡng sinh, yoga, đi bộ nhanh hàng ngày (ít nhất 30

phút/ngày), đạp xe, bơi lội…Phối hợp các hội, đoàn tổ chức các hoạt động rèn luyện

thân thể cho các thành viên. Xây dựng mô hình kết hợp Câu lạc bộ người bệnh

loãng xương và dưỡng sinh. Tổ chức thu thập số liệu người dân tham gia tập thể

dục thể thao mỗi 6 tháng/lần nhằm định hướng cho tuyên truyền vận động.

- Dự kiến kết quả đạt được sau can thiệp

+ Tăng > 20% số người dân thực hiện tập thể dục.

+ Tăng > 10% số người dân thực hiện tập thể thao.

+ 100% phường, xã can thiệp có Câu lạc bộ loãng xương - dưỡng sinh.

5) Hoạt động can thiệp bằng thuốc Calci-D ở ngƣời có mật độ xƣơng thấp

- Đối tượng: Những người giảm mật độ xương hoặc loãng xương tại các

phường, xã can thiệp qua điều tra ngang.

- Nội dung và biện pháp thực hiện

56

+ Truyền thông nâng cao nhận thức về bệnh loãng xương, hướng dẫn tập

luyện nâng cao thể lực, thực hiện chế độ dinh dưỡng có hàm lượng can-xi và

vitamin D cao.

+Sử dụng viên Calci-D hàng ngày: Viên Calci-D sử dụng để can thiệp có thành

phần calcium carbonate hàm lượng 750mg (tương đương 300mg can-xi) và vitamin

D3 là 60 IU được sản xuất bởi Công ty cổ phần hóa dược phẩm Mekophar thuộc

thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, việc can thiệp dự phòng bằng viên Calci-D sẽ bổ

sung hàng ngày lượng can-xi là 600mg và 120 IU vitamin D cho người dân nghiên

cứu.

+ Phương pháp cung cấp viên Calci-D: Tại các phường, xã can thiệp trong quá trình

điều tra ngang, bác sĩ nghiên cứuchọn những người dângiảm mật độ xương và loãng

xương để tư vấn và mời họ cam kết tham gia sử dụng Calci-D mỗi ngày 2 viên

trong 2 năm liên tục. Để hoạt động can thiệp được duy trì có hiệu quả với sự tự

nguyện của người dân, người tham gia được phân thành nhómtự túc mua viên

Calci-D uống hàng ngày và nhóm Chương trình cung cấp miễn phí (150

người).CBYT và cộng tác viên phường, xã lập danh sách người dân can thiệp, dự

trù số lượng thuốc hàng tháng và trực tiếp cung cấp cho người dân. Người tự túc

thuốc thì được bác sĩ ghi toa và hướng dẫn nơi cung cấp thuốc. Việc sử dụng viên

Calci-D sẽ được giám sát của các cộng tác viên phường, xã (nhắc nhở qua điện

thoại, đến thăm hỏi tư vấn tại nhà và qua truyền thông trực tiếp, kiểm vỏ thuốc).

+Người đạt tiêu chí can thiệp bằng viên Calci-D là người tuân thủ đủ về số lượng và

thời gian sử dụng thuốc (uống 2 viên/ngày, ít nhất 6 ngày/tuần). Như vậy, tổng số

ngày sử dụng thuốc là > 626 ngày trong 2 năm (>85% thời gian) và uống >1252

viên Calci-D được xem là đạt tiêu chí can thiệp.

- Dự kiến kết quả đạt được sau can thiệp

+ Giảm 10% tỷ lệ loãng xươngvà giảm mật độ xương so với trước can thiệp.

+ Trung bình BMD và trung bình T-score tăng hơn so với trước can thiệp.

Bảng 2.2. Nội dung biện pháp can thiệp trên các nhóm đối tƣợng

Đối tượng Nhóm can thiệp cộng đồng Nhóm Nhóm người loãng xương

57

đối chứng hoặc giảm mật độ xương

cộng đồng

- Truyền thông giáo dục Không có - Truyền thông nâng cao

sức khỏe nâng cao nhận các tác động nhận thức của người dân

thức của người dân về bệnh can thiệp về bệnh loãng xương.

loãng xương. - Hướng dẫn người dân

- Hướng dẫn người dân tập tập luyện thể dục thể

Biện pháp luyện thể dục thể thao, thao, tham gia Câu lạc bộ

can thiệp nâng cao thể lực. Loãng xương-Dưỡng sinh

- Hướng dẫn và khuyến cáo - Thực hiện chế ăn với

người dân thực hiện chế ăn những thực phẩm có hàm

với những thực phẩm có lượng can-xi cao.

hàm lượng can-xi cao. - Bổ sung Calci-D 2 viên

mỗi ngày.

Điều tra ngang trên người dân từ 45 tuổi trở lên tại 8 phường

và 2 xã thuộc 4 quận và một huyện của TPHCM (n=989)

ả t

-Xác định tỷ lệ loãng xương, giảm mật độ xương, trung bình

BMD ở người ≥45 tuổi bằng phương pháp DXA cẳng tay.

ô m u ứ c n ê i

-Xác định một số yếu tố liên quan đến bệnh loãng xương.

h g N

58

Can thiệp cộng đồng phòng chống Can thiệp trên người LX và giảm

LXởtất cả người dân ≥45 tuổi tại 3 MĐX qua điều tra ngang tại 3

phường và 1 xã của TPHCM phườngvà 1 xã can thiệp(n=166)

Cỡ mẫu trước CTn=422từ điều Cỡ mẫu trước CTn=388từ điều

tra ngang tại các P/X can thiệp tra ngang tại các P/X đối chứng

Địa phƣơng can thiệp: P.3 ng và 1 xã can thiệp(n=332) Địa phƣơng đối chứng: P.

Q. Bình Thạnh, P.5 Q. Gò 11 Q.Bình Thạnh, P.8 Q. Gò

So

Vấp, P. Hiệp thành Q.12, xã Vấp, P. An Phú Đông Q.12,

sánh

Tân Xuân H. Hóc Môn xã Đông Thạnh H.Hóc Môn

Thực hiện các biện pháp: Thực hiện các biện pháp:

-Truyền thông GDSK. Tư vấn, tập luyện, dinh p ệ i h t n a c u ứ c n ê i -Dinh dưỡng bổ sung calci dưỡng và sử dụng calci-

u a s c ớ ƣ r t h n á s o S

-Tập luyện thể dục thể thao D 2 viên/ngày/2 năm.

h g N

u a s c ớ ƣ r t h n á s o S

u a s c ớ ƣ r t h n á s o S

So Kết quả sau can Kết quả sau can Kết quả sau can

sánh thiệp của phường thiệp của phường thiệp trên người

xã can thiệp xã đối chứng LX và giảm MĐX

Cỡ mẫu sau CT n=399 Cỡ mẫu sau CT n=399 n sau CT=166

Sơ đồ 2.2. Thiết kế nghiên cứu mô tả và can thiệp cộng đồng 2.3.2. Phƣơng pháp chọn mẫu

2.3.2.1. Nghiên cứu mô tả cắt ngang

-Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo công thức ước lượng một tỷ lệ [10]

n = Z²(1-α/2). p(1-p) x DE Δ²

59

Trong đó: + n: cỡ mẫu.

(1-/2): độ tin cậy, với độ tin cậy 95% thì Z(1-/2)= 1,96.

+ Z2

+ P = 0,304, tỷ lệ loãng xương theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Trung

Hòaở người trên 45 tuổi trong cộng đồng năm 2008 là 30,4% [9].

+Δ: sai số mong muốn, chọn Δ= 0,04.

+ DE (Design Effect): Hệ số thiết kế = 2

Thay vào công thức ta được n=401. Do chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên 2

giai đoạn (chọn quận/huyện và phường/xã) nên nhân với hệ số thiết kế = 2. Như

vậy, cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu là 802và để tránh sai số cỡ mẫu được tăng

thêm 25%,thực tế chúng tôi điều tra 989 người.

-Kỹ thuật chọn mẫu đƣợc thực hiện qua 3 bƣớc

+ Bước 1 - Chọn quận, huyện nghiên cứu: TPHCM có 19 quận và 5 huyện.

Do thành phố có quy mô dân số các quận, huyện không đều nhau, chúng tôi dùng

phương pháp chọn mẫu xác suất tỷ lệ với kích thước (probability proportionate to

size- PPS) để chọn 4 quận và 1 huyện vào nghiên cứu [5]. Sắp xếp các quận theo

thứ tự ngẫu nhiên từ 1-19 và các huyện từ 20-24. Cộng dồn dân số các quận, huyện

chia cho 5 sẽ được khoảng cách mẫu k.Dân số TPHCM tính đến 31/12/2010 là

7.396.445 người, như vậy k là 1.479.289. Dùng bảng số ngẫu nhiên chọn số i (gồm

7 chữ số) từ 1 đến ≤ k. Số i được chọn là 0982047. Quận đầu tiên chọn có số dân

lớn liền kề số i và quận tiếp theo có số dân lớn liền kề i + k, i + 2k, i + 3k và i + 4k

là huyện được chọn. Kết quả các quận được chọn là: Quận 12, 6, Bình Thạnh, Gò

Vấp và huyện Hóc Môn (phụ lục 3).

+ Bước 2 - Chọn phường, xã nghiên cứu: Dùng phương pháp ngẫu nhiên đơn

bốc thăm chọn 2 phường, xã ở mỗi quận, huyện. Các phường, xã chọn là: Phường 3,

11 quận Bình Thạnh; phường 5, 8 quận Gò Vấp; phường Hiệp Thành, An Phú Đông

quận 12; phường 12, 13 quận 6; xã Tân Xuân, Đông Thạnh huyện Hóc Môn.

+ Bước 3 - Chọn người dân nghiên cứu: Dùng phương pháp chọn mẫu ngẫu

nhiên hệ thống theo khung mẫu là danh sách người dân từ 45 tuổitrở lên có thứ tự

tuổi tăng dần ở mỗi phường, xã.Tổng số dân ≥ 45 tuổi của phường, xã chia cho số

60

người dân đưa vào mẫu ta được hệ số k, chọn một số i từ 1 đến k. Người đầu tiên

vào danh sách là số i, sau đó là i + k, i + 2k,...cho tới khi đủ số thiết kế (phụ lục 3).

2.3.2.2. Nghiên cứu can thiệp

1) Nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng

-Can thiệp được thực hiện trên tất cả những người trưởng thành trong cộng

đồng tại các phường, xã can thiệp và cỡ mẫu điều tra người dân từ 45 tuổi trở lên

𝑃1−𝑃2 2

[10] sau can thiệp được tính theo công thức kiểm định sự khác biệt giữa 2 tỷ lệ: 𝑛 = Z2 ∝, 𝛽 𝑝1 1−𝑝1 + 𝑝2 1−𝑝2

Trong đó: + n: cỡ mẫu tối thiểu cho mỗi nhóm (nhóm can thiệp và chứng)

+p1: Tỷ lệ loãng xương ở nhóm can thiệp = 20,4%

+p2: Tỷ lệ loãng xương ở nhóm chứng = 30,4%

+ α: Mức ý nghĩa thống kê với độ tin cậy là 95% (α = 0,05)

+ β: Xác suất của việc phạm phải sai lầm loại II. Chọn β = 0,1

+ Z² (α,β) = 10,5

Tỷ lệ loãng xương sau can thiệp (p1) ước tính là 20,4% do mong muốn giảm

10% so với trước can thiệp (theo kết quả từ một nghiên cứu có trước là 30,4%). Tỷ

lệ loãng xương ở nhóm chứng (p2)sau can thiệp ước tính là 30,4% do tỷ lệ không

hoặc ít thay đổi(không có tác động can thiệp).Thay vào công thức trên ta có cỡ mẫu

điều tra cộng đồng sau 2 năm can thiệp tối thiểu là 393 người ở mỗi nhóm (can

thiệp và đối chứng). Thực tế chúng tôi thực hiện trên 399 người mỗi nhóm.

- Kỹ thuật chọn mẫu đƣợc thực hiện qua 2 bƣớc

+ Bước 1- Chọn phường, xã can thiệp và đối chứng: Bốc thăm ngẫu nhiên chọn 3

trong 4 quận và chọn huyện Hóc Môn đã điều tra ngang. Mỗi quận, huyện sẽ chọn một

phường, xã can thiệp và một phường, xã chứng. Kết quả các phường, xã được chọn để can

thiệp là: Phường Hiệp Thành quận 12, phường 3 quận Bình Thạnh, phường 5 quận Gò

Vấp và xã Tân Xuân huyện Hóc Môn.

Tiêu chuẩn chọn phường, xã đối chứng:Để cho những người dân nghiên cứu thuộc các

phường, xã đối chứng có khả năng so sánh cao nhất với những người dân nghiên

cứu thuộc các phường, xã can thiệp, ngoài các yếu tố tương đồng về điều kiện địa

61

lý, kinh tế, văn hóa giữa hai địa phương thì các đặc điểm cá nhân và một số yếu tố

khác có liên quan đến tình trạng loãng xương cũng phải tương đồng. Ngoài ra,

phường, xã chứng và can thiệp cần phải xa cách biệt để tránh yếu tố nhiễu. Cácphường,

xã đối chứng được chọn là: Phường An Phú Đông quận 12, phường 11 quận Bình Thạnh,

phường 8 quận Gò Vấp và xã Đông Thạnh huyện Hóc Môn.

+ Bước 2 – Chọn người dân điều tra sau can thiệp:Là người dân ngẫu nhiên trong

cộng đồng. Dùng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống theo khung mẫu là

danh sách người dân ≥ 45 tuổi có thứ tự tuổi tăng dần ở mỗi phường, xã can thiệp

và đối chứng. Tổng số dân ≥45tuổi của phường, xã chia cho số lượng người dân đưa

vào mẫu ta được hệ số k, chọn một số i từ 1 đến ≤ k. Người đầu tiên vào danh sách

là số i, sau đó là i + k, i + 2k,...cho đến khi đủ số theo thiết kế (phụ lục 3).

2) Can thiệp bằng viên Calci-D trên ngƣời dân có mật độ xƣơng thấp

Là nghiên cứu thử nghiệm thựcđịa (field trial) [10] can thiệp trực tiếp đến

người dân bị loãng xương hoặc giảm mật độ xương sau khi đã có kết quả điều tra

cắt ngang tại các phường, xã can thiệp. Nghiên cứu không có nhóm chứng và đánh

giá chỉ số hiệu quả can thiệp qua so sánh trước sau trên cùng một đối tượng.

𝑃1−𝑃2 2

[10] -Cỡ mẫuđược tính theo công thức kiểm định sự khác nhau giữa 2 tỷ lệ: 𝑛 = Z2 ∝, 𝛽 𝑝1 1−𝑝1 + 𝑝2 1−𝑝2

+ p1 = 0,747 là tổng tỷ lệ loãng xương và giảm mật độ xương (30,4% +

44,3%) theo kết quả nghiên cứu nghiên cứu có trước [9].

+ p2 = 0,597 (p1 – 0,15) là tỷ lệ loãng xương và giảm mật độ xương sau can

thiệp, ước tính là giảm 15% so với trước can thiệp.

+ α: Mức ý nghĩa thống kê với độ tin cậy là 95% (α = 0,05)

+ β: Xác suất của việc phạm phải sai lầm loại II. Chọn β = 0,2

+ Z² (α,β) = 7,9

+ Thay vào công thức ta có n =150 là cỡ mẫu tối thiểu can thiệp và để tránh

sai số do mất dấu tăng 10%, thực tế chúng tôi điều tra sau can thiệp là 166 người.

62

- Cách chọn mẫu: Tất cả những người bị loãng xương hoặc giảm MĐX qua

kết quả điều tra ngang tại phường 3 quận Bình Thạnh, phường 5 quận Gò Vấp,

phường Hiệp Thành quận 12 và xã Tân Xuân huyện Hóc Môn.Tiêu chuẩn chọn:

Những người có kết quả đo mật độ xương T-score ≤ - 1

Những người không có chống chỉ định dùng thuốc Calci-D.

Những người không có sử dụng thuốc chống loãng xương khác.

Tự nguyện tham gia và thực hiện đúng chỉ dẫn của người nghiên cứu.

-Theo kết quả điều tra ngang, tỷ lệ giảm mật độ xương và loãng xương ở

người từ 45 tuổi trở lên tạiphường, xã can thiệp là 78,6% (330 người), trong đó 17

người có chỉ định và chấp thuận dùng thuốc chống loãng xương. Vì đạo đức nghiên

cứu, chúng tôi tư vấn và chọn tất cả 313 người còn lại tham gia can thiệp bằng viên

Calci-D. Kết quả đạt tiêu chí và được điều tra sau can thiệp là 166 người.

2.4. TỔ CHỨC THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU

2.4.1. Nghiên cứu mô tả

- Tổ chức tập huấn cho cán bộ y tế, các cộng tác viên tham gia nghiên cứu. Tổ chức

hội nghị đồng thuận và triển khai thực hiện nghiên cứu cho các đối tượng là lãnh

đạo Trung tâm y tế dự phòng các quận, huyện, Ban chỉ đạo chăm sóc sức khỏe nhân

dân, Trưởng trạm y tế phường, xã và các cộng tác viên tại địa bàn nghiên cứu.

- Tổ chức nhóm điều tra thu thập số liệu gồm: 2 kỹ thuật viên đo mật độ xương, 4

bác sĩ phỏng vấn và tư vấn về bệnh loãng xương,1 thạc sĩ chẩn đoán hình ảnh, 1 cán

bộ cân đo chiều cao, cân nặng, 1 kỹ thuật viên X quang.

- Địa điểm tổ chức khám và phỏng vấn tại trạm y tế các phường, xã nghiên

cứu. Máy đo loãng xương DTX-200 DexaCare được vận chuyển đến từng trạm y tế

để đo tại chỗ. Chụp X quang cột sống tại các bệnh viện quận, huyện nghiên cứu.

Thu thập thông tin

- Phỏng vấn trực tiếp để thu thập các số liệu về năm sinh, giới tính, trình độ

học vấn, nghề nghiệp, chiều cao lúc trẻ (từ 20 đến 30 tuổi), tuổi bắt đầu có kinh

nguyệt, thời gian bắt đầu mãn kinh, số con đã sinh, tiền sử bệnh và sử dụng thuốc,

tiền sử bệnh của gia đình, thói quen tập thể dục, uống sữa, hút thuốc lá, uống rượu

bia và kiến thức, thực hành đối với phòng, chống bệnh loãng xương.

63

- Quan sát: Khám và phát hiện bệnh. Số liệu được thu thập qua thăm khám được

tiến hành do một nhóm cố định các bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên.

+ Cân nặng: Được cân bằng cân Tanita (Nhật) chia độ đến 0,1kg.

+ Chiều cao: Đo bằng thước đo chiều cao đứng Microtoise của UNICEF.

+ Đo mật độ xương: Bằng phương pháp đo hấp thụ năng lượng tia X kép (Dual-

Energy X-ray Absorptiometry -DXA). Phương pháp này cho phép ước tính khối

lượng chất khoáng xương (Bone Mineral Content - BMC), tính diện tích mà khối

chất khoáng được đo và lấy BMC chia cho diện tích. Vì vậy, đơn vị đo mật độ

xương bằng máy đo hấp phụ năng lượng tia X kép là g/cm².

Trong nghiên cứu này thực hiện đo mật độ xương tại phần xa cẳng tay bằng

máy DTX-200 DexaCare do hãng OSTEOMETER MEDITECH, INC của Mỹ sản

xuất năm 2009 đạt tiêu chuẩn ISO 9001, EN 46001 (phụ lục 4). Máy được thiết kế

sử dụng năng lượng thấp và có kích thước nhỏ gọn dễ di chuyển và không cần che

chắn nên thích hợp nghiên cứu tại cộng đồng. Người đo mật độ xương ngồi song

song với máy và đặt toàn bộ cẳng tay trái vào rãnh phía trên phần máy chính. Tia X

quét qua phần xa xương quay và xương trụ (nơi chiếm 65% xương xốp, 35% xương

vỏ) khoảng 8 mm thời gian là 4,5 phút với độ chính xác tối ưu (>99%) và liều bức

xạ rất thấp (0.1Sv). Người đo được cung cấp dữ liệu cho máy về tên, tuổi, giới,

cân nặng, chiều cao và chủng tộc (máy có dữ liệu tham chiếu gồm chủng tộc da

trắng, da đen, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc). Nghiên cứu này chọn BMD tham

chiếu là của người Trung Quốc. Kết quả sau khi quét máy sẽ tính được số g/cm² mật

độ xương của người đo và so sánh với dữ liệu tham chiếu là trung bình BMD của

người trưởng thành trẻ từ 20-30 tuổi cùng giới và chủng tộc. Từ đó phiên ra kết quả

T-score (và tỷ lệ % BMD so với tham chiếu). Bên cạnh đó, máy còn tính giá trị Z-

score, là so sánh BMD người đo với dữ liệu tham chiếu (trung bình BMD người

bình thường cùng giới, chủng tộc và cùng độ tuổi) mà máy cài đặt sẵn. Tuy nhiên,

giá trị này không dùng để chẩn đoán.

2.4.2. Tổ chức thu thập dữ liệu sau can thiệp

- Tổ chức đoàn khám, thu thập số liệu thành phần như nghiên cứu ngang tại 4

phường, xã can thiệp và 4 phường, xã chứng. Dùng phương pháp ngẫu nhiên hệ

64

thống chọn người dân nghiên cứu theo khung mẫu là danh sách người dân từ 45

tuổitrở lên tại các phường, xã can thiệp theo cỡ mẫu 399người và phường, xã chứng

là 399 người. Nhóm can thiệp bằng viên Calci-D gồm những người đạt tiêu chí sau

can thiệp.

- Phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi gồm phần hành chính, một số yếu tố

liên quan, kiến thức và thực hành của người dân. Đo mật độ xương.

2.5. BIẾN SỐ VÀ CÁC CHỈ SỐ NGHIÊN CỨU

2.5.1. Định nghĩa các biến số

2.5.1.1. Loãng xương

Để chẩn đoán loãng xương,Tổ chức Y tế thế giới đề nghị chuẩn hóa các kết quả đo

MĐX bằng chỉ số T (T-score) được tính từ hiệu số giữa MĐX người được đo với

mật độ xương trung bình của quần thể trong độ tuổi 20-30, sau đó chia cho độ lệch

chuẩn của mật độ xương trung bình của quần thể trong độ tuổi 20-30.

Bảng 2.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xƣơng theo mật độ xƣơng

Chẩn đoán Tiêu chuẩn

T-score > -1 Bình thường (Normal)

-2,5 < T-score ≤ -1 Giảm mật độ xương (Osteopenia)

Loãng xương (Osteoporosis) T-score ≤ -2,5

Loãng xương nặng (Severe osteoporosis) Loãng xương + tiền sử gãy xương

Nguồn: Tổ chức Y tế thế giới 1994 [41]

2.5.1.2. Xẹp đốt sống

Chẩn đoán xẹp đốt sống bằng phương pháp bán định lượng do Genant đề xuất

vào năm 1990. Phim cột sống được chụp nghiêng, vị trí đốt sống đánh giá là từ T4

đến L4 dựa vào một trong 4 chỉ số sau: chiều cao trước, giữa, sau và diện tích mặt

bên của thân đốt sống so với chiều cao còn lại của chính đốt sống đó.

Bảng 2.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán xẹp đốt sống theo phƣơng pháp Genant[40]

Mức độ gãy

Vị trí xác định Diện tích mặt bên của thân đốt sống Độ 1 (nhẹ) : giảm từ 10-20%

65

Độ 2 (vừa) : giảm từ 20-40%

Độ3 (nặng): giảm >40%

Thân trước: Thân giữa: so Thân sau: so Độ 1 (nhẹ): giảm từ 20-25%

so với chiều với chiều cao với chiều cao Độ 2 (vừa): giảm từ 25-40%

cao thân sau trước và sau thân trước Độ 3 (nặng): giảm >40%

Người được chụp X quang để chẩn đoán xẹp xương đốt sống theo phương pháp bán

định lượng là những người đo mật độ xương có T-score ≤ -2,5.

2.5.1.3. Biến số phụ thuộc

Mật độ xương(BMD) là biến liên tục được tính bằng đơn vị g/cm².

Phân loại mật độ xương là biến định tính theo 3 mức độ: xương bình thường,

giảm mật độ xương và loãng xương; theo 2 mức độ: loãng xương và không loãng

xương

2.5.1.4. Biến số độc lập

- Tuổi là biến liên tục được tính từ năm sinh tới ngày khám theo quy định

tính tuổi của Tổ chức Y tế thế giới (1995). Trong phân tích, tuổi được phân thành

8 nhóm: 45-49, 50-54, 55-59, 60-64, 65-69, 70-74, 75-79, ≥80 tuổi.

- Trình độ học vấn:Là biến thứ hạng được phân 4 nhóm ≤ tiểu học; nhóm >

tiểu học đến trung học phổ thông; nhóm trung cấp và nhóm cao đẳng, đại học.

- Nghề nghiệp: Là nghề chủ yếu và thường xuyên của người dân từ trưởng

thành đến lúc phỏng vấn. Đây là biến danh mục được phân thành 5 nhóm nghề: Cán

bộ-công chức-viên chức, công nhân, nông dân, kinh doanh, nội trợ.

- BMI (Body Mass Index – Chỉ số khối cơ thể): được tính bằng tỷ số giữa cân

nặng (kg) và chiều cao bình phương (m), là biến liên tục và cũng là biến thứ hạng

được phân thành 4 nhóm: gầy, bình thường, thừa cân, béo phì.

Bảng 2.5. Phân loại BMI theo WHO 2000 khu vực Châu Á

Xếp loại BMI

Gầy < 18,5

66

Trung bình 18,5 – 22,9

Thừa cân 23 – 24,9

Béo phì ≥ 25

Nguồn: Tổ chức Y tế thế giới năm 2000 [27]

- Cân nặng là biến số liên tục được tính bằng Kilogram.

- Chiều cao là biến số liên tục được tính bằng đơn vị centimeter.

- Giảm chiều cao: Là chiều cao hiện tại giảm từ 5 cm trở lên so với chiều cao

khi ở tuổi thanh niên (20 đến 30 tuổi), là biến nhị phân có hoặc không.

- Tuổi có kinh nguyệt được tính năm bắt đầu có kinh lần đầu, là biến liên tục

và cũng là biến nhị phân: nhóm có kinh < 16 tuổi và nhóm ≥ 16 tuổi.

- Tuổi mãn kinh được tính từ năm bắt đầu hết kinh nguyệt. Mãn kinh là biến

nhị phân (chưa mãn kinh, đã mãn kinh) và cũng là biến thứ hạng 3 nhóm:

+ Mãn kinh sau 45 tuổi

+ Mãn kinh sớm: khi người phụ nữ mất kinh tự nhiên ≤ 45 tuổi.

+ Mãn kinh rất sớm: khi người phụ nữ mất kinh tự nhiên < 40 tuổi.

- Số con là biến nhị phân: phụ nữ sinh từ 4 đứa con trở lên và sinh dưới 4 con.

Theo nghiên cứu của một số tác giả tại Việt Nam, phụ nữ sinh từ 1-3 con là yếu tố

bảo vệđối với bệnh loãng xương so với sinh nhiều hơn [33].

- Tiền sử sử dụng corticoid: người dân dùng corticoid liên tục trên 3 tháng ≥ 5 mg

prednison (hoặc thuốc tương đương)/ngày do nhiều nguyên nhân (điều trị viêm

khớp, hội chứng thận hư, hen suyễn…). Là biến nhị phân: có hoặc không.

- Lạm dụng rượu bia là biến nhị phân có 2 giá trị có hoặc không, được xác định theo

quy chuẩn của WHO.

- Gãy xương do chấn thương nhẹ là biến nhị phân có 2 giá trị có hoặc không,

được tính là có khi người dân bị gãy xương do các hoạt động sinh hoạt (do té, do va

chạm nhẹ) mà không tính đến tai nạn giao thông hoặc tai nạn nặng nề khác.

- Tiền sử gia đình là biến nhị phân với 2 giá trị có hoặc không (kể cả không

biết), được xác định là có khi ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột của người dân nghiên

67

cứu có người bị loãng xương hoặc gãy xương do loãng xương (được chẩn đoán bởi

cơ sở y tế có đủ điều kiệnqua kiểm tra sổ y bạ hoặc kết quả khám bệnh).

- Tập thể dục thể thao là biến nhị phân có 2 giá trị có hoặc không, được tính

khi người dân nghiên cứu thường xuyên tập thể dục hoặc chơi thể thao ít nhất 30

phút/ngày (hoặc ít nhất 150 phút/tuần).

- Hút thuốc lá (lào) là biến nhị phân có 2 giá trị có hoặc không, được tính là

có khi người dân nghiên cứu hút trên 10 điếu (hoặc 10 lượt hút thuốc lào) trong

ngày và đã nghiện thuốc lá trong nhiều năm (> 2 năm).

- Thói quen uống sữa là biến định tính, có 3 nhóm: uống ≥ 2 ly

(200ml/ly)/ngày, uống 1 ly/ngày, không uống và phân loại 2 nhóm: có hoặc không

uống sữa. Loại sữa được tính là sữa tươi, các loại sữa giàu can-xi.

2.5.1.5. Kiến thức về bệnh loãng xương của người dân

- Nguồn và thông tin về bệnh loãng xương người dân nhận được

+ Nhận thông tin thường xuyên là người dân đã nghe nói về bệnh loãng xương mỗi

năm ít nhất 2 lần và trong nhiều năm liền.

+ Nhận thông tin không thường xuyên là người dân thỉnh thoảng nghe nói về

bệnh loãng xương không hơn 1 lần trong năm và không liên tục nhiều năm.

+ Người dân chưa từng nghe nói về bệnh loãng xương.

+ Nguồn thông tin: báo chí, ti-vi, nhân viên y tế, sách, kênh khác (tờ rơi, áp phích,

pa nô, người thân...)

-Kiến thức về bệnh loãng xương:Bộ câu hỏi về kiến thức gồm 20 câu được

chia thành 3 nhóm nội dung: khái niệm về bệnh loãng xương, các yếu tố nguy cơ và

kiến thức phòng bệnh. Bộ câu hỏi được kiểm định độ tin cậy bằng Hệ số

Cronbach´s Alpha với mức chấp nhận > 0,7. Mỗi câu hỏi có 3 giá trị: đúng (được 1

điểm), sai hoặc không biết (0 điểm).

Kiến thức được phân loại thành 3 mức độ:

+ Kiến thức tốt: người dân đạt ≥15 điểm và phải đúng 10 câu bắt buộc (3 câu

về khái niệm bệnh loãng xương; 5 câu về yếu tố nguy cơ: Là phụ nữ, mãn kinh, tuổi

già, lười vận động, dùng thuốc corticioid; 2 câu về phòng bệnh: ăn thức ăn giàu can-

xi, tập thể dục thể thao thường xuyên)

68

+ Kiến thức trung bình: người dân đạt ≥10 điểm và đúng 6 câu bắt buộc (2

câu về khái niệm bệnh; 3 câu về yếu tố nguy cơ: Là phụ nữ, mãn kinh, tuổi già; 1

câu về phòng bệnh:ăn thức ăn giàu can-xi hoặc tập thể dục thể thao thường xuyên).

+ Kiến thức kém: người dân không đạt tốt hoặc trung bình.

2.5.1.6. Thực hành về phòng chống loãng xương của người dân

- Phân loại thực hành:Bộ câu hỏi về thực hành gồm 12 câu được chia thành 2

nội dung: thực hành hành vi có hại cho xương(có 4 nội dung: hút thuốc lá, lạm dụng

rượu bia, sử dụng thuốc corticoid, sử dụng nhiều cà phê và/hoặc thức uống có gas),

thực hành hành vi có lợi cho xương (có 8 nội dung: tập thể dục, tập thể thao, uống

sữa hàng ngày, uống bổ sung viên can-xi, ăn thức ăn giàu can-xi, phòng tránh té

ngã, kiểm tra mật độ xương định kỳ, chủ động nhận thông tin về bệnh). Bộ câu hỏi

được kiểm định độ tin cậy bằng Hệ số Cronbach´s Alpha với mức chấp nhận > 0,7.

Mỗi câu hỏi được đánh giá 5 mức độ theo thang Likert. Điểm 5 cho hành vi rất

thường xuyên và giảm dần mỗi điểm đến chưa từng có hành vi là 1 điểm.

+ Rất thường xuyên là hành vi được thực hiện hàng ngày/tuần.

+ Thường xuyên là thực hiện hành vi > 3 ngày/tuần.

+ Ít khi là thực hiện hành vi từ 1 đến 3 ngày/tuần.

+ Rất ít khi là thực hiện hành vi <1 ngày/tuần.

Tuy nhiên nội dung thực hành các biện pháp phòng bệnh như: kiểm tra sức khỏe

xương định kỳ, chủ động tìm hiểu thông tin về bệnh thì được tính theo thời gian 3,

6, 12 và >12 tháng lần lượt là rất thường xuyên, thường xuyên, ít khi và rất ít

khi.Khi tính điểm để phân loại thực hành sẽ đảo ngược số điểm của 4 hành vi có hại

cho xương5=1, 4=2, 3=3, 2=4, 1=5 để lấy tổng số điểm của từng người dân nghiên

cứu và như vậy điểm tối đa đạt 60 và tối thiểu 12. Thực hành tốt khi đạt ≥ 36 điểm,

không có hành vi tiêu cực thường xuyên hoặc rất thường xuyên, có thực hiện bắt

buộc 3 biện pháp tăng sức mạnh xương (tập thể dục hoặc thể thao, uống sữa, ăn

thức ăn giàu chất can-xi) và hành vi theo dõi sức khỏe định kỳ; trung bình khi đạt

>24 điểm, không có hành vi tiêu cực thường xuyên hoặc rất thường xuyên, có thực

hiện bắt buộc 2 biện pháp tăng sức mạnh xương (tập thể dục hoặc thể thao, ăn thức

ăn giàu chất can-xi); kém khi ≤ 24 điểm.

69

- Định nghĩa một số nội dung thực hành

+ Ăn thức ăn giàu can-xi là trong thực đơn bữa ăn có chứa nhiều chấtcó hàm lượng

can-xi cao, gồm 5 nhóm: sữa và thực phẩm từ sữa; hải sản (cá, tôm, cua, ốc, hến...);

một vài loại mè, đậu nành; rau có màu xanh đậm (bồ ngót, bông cải xanh, mù tạc,

cần...); các củ quả (cam, nước táo, bột ngũ cốc…). Người có sử dụng thức ăn giàu

can-xi khi ăn uống ít nhất 4 nhóm trên và cung cấp ≥1.000mg can-xi/ngày.

+ Uống bổ sung viên can-xi là sử dụng thuốc đơn liều can-xi hay kết hợp nhưng tối

thiểu phải cung cấp 500 mg can-xi/ngày.

+ Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị về can-xi cho người trưởng thành (19 -49

tuổi) là 700 mg/ngày; người ≥ 50 tuổi là 1.000 mg/ngày [45].

+ Phòng tránh té ngã là thực hiện các biện pháp: rèn luyện thân thể, sử dụng

giày dép an toàn (vừa, không trơn, đế thấp), trong nhà đủ ánh sáng và không có

chướng ngại vật, sàn nhà và nhà vệ sinh không trơn trượt, mang dụng cụ hỗ trợ.

2.5.2. Các chỉ số nghiên cứu

2.5.2.1. Tỷ lệ loãng xương, trung bình BMD và một số yếu tố liên quan ở người

từ 45 tuổi trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh

- Phân bố mật độ xương và gãy xương do loãng xương ở người 45 tuổi trở lên

+ Tỷ lệ xương bình thường, giảm mật độ xương, loãng xương.

+ Tỷ lệ loãng xương ở nam giới và nữ giới.

+ Trung bình BMD của người dân nghiên cứu.

+ Trung bình BMD, tỷ lệ xẹp xương đốt sống ở bệnh nhân loãng xương.

- Một số yếu tố liên quan đến loãng xương và BMD ở người 45 tuổi trở lên

+ Liên quan BMD và bệnh loãng xương với tuổi của người dân nghiên cứu.

+ Liên quan BMD và bệnh loãng xương với cân nặng, chiều cao và BMI.

+ Liên quan bệnh loãng xương với giới tính, địa dư, nghề nghiệp, trình độ học vấn

của người dân nghiên cứu.

+ Liên quan BMD và bệnh loãng xương với kinh nguyệt và số con của phụ nữ

nghiên cứu.

+ Liên quan bệnh loãng xương với thói quen sống của người dân nghiên cứu (uống

sữa, lạm dụng rượu bia, hút thuốc lá, tập thể dục thể thao).

70

+ Liên quan bệnh loãng xương với sử dụng thuốc corticoid, gãy xương do chấn

thương nhẹ, giảm chiều cao, gia đình cùng huyết thống bệnh loãng xương hoặc gãy

xương do loãng xương.

+ Liên quan bệnh loãng xương với tình trạng xẹp xương đốt sống.

+ Liên quan BMD với điểm kiến thức và thực hành của người dân.

+ Liên quan bệnh loãng xương với kiến thức và thực hành của người dân.

2.5.2.2. Chỉ số, số liệu về xây dựng và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can

thiệp cộng đồng phòng, chống loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên

- Về tổ chức thực hiện can thiệp

+ Số lượng Ban Chủ nhiệm chương trình phòng, chống loãng xương cấp quận,

huyện được thành lập.

+ Số cán bộ tham gia can thiệp được đào tạo tập huấn.

+ Số tài liệu truyền thông (tờ rơi, cẩm nang, pa nô, áp phích, phim) được sản xuất

và cấp phát cho người dân nghiên cứu.

+ Số người dân nghiên cứu được tư vấn trực tiếp, qua điện thoại, đo MĐX.

+ Số buổi truyền thông được tổ chức tại cộng đồng về loãng xương

+ Số hộ gia đình được thăm và tư vấn trực tiếp.

+ Số quận, huyện có trang bị máy đo mật độ xương.

+ Số phường, xã có thành lập câu lạc bộ người bệnh loãng xương.

+ Số buổi giám sát hoạt động can thiệp của Ban Chủ nhiệm quận, huyện.

- Chỉ số đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng

+ Chỉ số về nguồn và thông tin loãng xương nhận được của người dân

Tỷ lệ người dân nghiên cứu nhận được thông tin thường xuyên và không

thường xuyên về bệnh loãng xương. Hiệu quả can thiệp.

Tỷ lệ nguồn thông tin (báo chí, ti-vi, nhân viên y tế, sách, kênh khác) người

dân nghiên cứu nhận được. Hiệu quả can thiệp.

+ Chỉ số đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng trên người dân ≥45 tuổi

Tỷ lệ loãng xương, giảm MĐX ở người dân nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp.

Chỉ số trung bình BMD, điểm kiến thức đúng, điểm thực hành tích cực của người

dân nghiên cứu can thiệp, đối chứng trước và sau can thiệp.

71

Tỷ lệ kiến thức, thực hành tốt của người dân nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp trên tỷ

lệ kiến thức, thực hành.

Tỷ lệ kiến thức đúng, thực hành tích cực của người dân nghiên cứu. Hiệu quả can

thiệp trên kiến thức đúng và thực hành tích cực phòng, chống loãng xương.

+ Chỉ số hiệu quả can thiệp bằng viên Calci-D trên người dân có MĐX thấp

Tỷ lệ người dân có mật độ xương thấp được can thiệp bằng viên Calci-D hoàn thành

can thiệp sau 2 năm.

Tỷ lệ loãng xương, giảm mật độ xương ở người có MĐX thấp trước và sau can

thiệp bằng viên Can-xi D. Chỉ số hiệu quả về can thiệp trên mật độ xương.

Tỷ lệ kiến thức, thực hành đúng của người dân có MĐX thấp. Chỉ số hiệu quả về

kiến thức và thực hành đúng sau 2 năm.

Chỉ số trung bình BMD, điểm kiến thức, điểm thực hành của người dân có mật độ

xương thấp trước và sau can thiệp bằng viên Calci-D.

Tỷ lệ người dân có mật độ xương thấp được can thiệp có nhận thông tin thường

xuyên, không thường xuyên và nguồn thông tin về bệnh loãng xương. Chỉ số hiệu

quả can thiệp.

Tỷ lệ kiến thức, thực hành tốt ở người có mật độ xương thấp được can thiệp bằng

viên Calci-D trước và sau can thiệp.

2.6. KỸ THUẬT HẠN CHẾ SAI SỐ

2.6.1. Hạn chế sai số trong chọn mẫu

- Chọn mẫu được thực hiện ngẫu nhiên theo quy trình chọn mẫu. Cỡ mẫu đủ

lớn và có biện pháp thay thế phù hợp khi người dân nghiên cứu bỏ cuộc.

- Các cặp phường, xã can thiệp và chứng được chọn có nhiều đặc điểm tương

đồng về điều kiện địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội

2.6.2. Hạn chế sai số trong thu tập thông tin

- Quá trình điều tra được thực hiện đúng kế hoạch, phương pháp và quy trình.

- Việc thu thập thông tin như thói quen ăn uống, khẩu phần ăn (để ước lượng

số can-xi cung cấp qua thức ăn hàng ngày), luyện tập thể dục thể thao, thói quen

sinh hoạt trong nghiên cứu, tiền sử bệnh của bản thân và gia đình bằng hình thức

phỏng vấn trực tiếp người dân nghiên cứu sẽ khó tránh sai số nhớ lại. Để khắc phục

72

hạn chế này, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn cán bộ tham gia có kinh nghiệm, có thời

gian dành cho nghiên cứu, được tập huấn kỹ năng khai thác thông tin, thử nghiệm

cẩn thận và chỉnh sửa bộ câu hỏi cho dễ hiểu, về đánh giá thực hành dinh dưỡng đã

áp dụng phương pháp hỏi ghi khẩu phần 24 giờ qua trong 3 ngày để hạn chế tối đa

sai số.

- Hiệu quả can thiệp hoàn toàn phụ thuộc vào sự tuân thủ can thiệp của người

dân nghiên cứu. Do vậy, trong suốt quá trình nghiên cứu từ khâu lên kế hoạch đến

tổ chức thực hiện luôn được nhóm nghiên cứu giám sát chặt chẽ, cán bộ nghiên cứu

can thiệp được huấn luyện kỹ năng truyền thông, chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh

loãng xương để quá trình can thiệp đạt hiệu quả cao nhất.

- Máy đo mật độ xương được kiểm tra độ chính xác hàng ngày (test phantom)

- Bộ câu hỏi về kiến thức và thực hành được kiểm định độ tin cậy bằng Hệ số

Cronbach´s Alpha với mức chấp nhận > 0,7.

- Số liệu trước khi phân tíchđược làm sạch, quy đổi, xếp lớp các dữ liệu.

2.7.XỬ LÝ VÀ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU

Tất cả các bảng thu thập thông tin và kết qủa phỏng vấn, thăm khám từng người sau

khi hoàn tất sẽ được kiểm tra tính chính xác và tính phù hợp. Toàn bộ số liệu được

nhập vào phần mềm EpiData sau đó được chuyển sang phần mềm Stata-10 để xử lý.

Số liệu nhân trắc và BMD được kiểm định phân bố chuẩn hay không chuẩn. Các

thống kê mô tả, phân tích trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn sẽ được thực hiện.

Phân tích hồi quy logistic đơn biến và đa biến, hệ số tương quan r của Spearman (số

liệu không phân bố chuẩn) để xác định các yếu tố liên quan đã được thực hiện trong

nghiên cứu này. Test χ² hoặc fisher´s exact test, Mann-Whitney test được thực hiện

để so sánh sự khác biệt giữa các nhóm can thiệp và chứng. Hệ số Cronbach´s Alpha

được thực hiện trên phần mềm Stata-10với câu lệnh là alpha sau đó là đặt các biến

điểm kiến thức và thực hành vào để phân tích cho ra kết quả.

Phương pháp đánh giá hiệu quả can thiệp

- Áp dụng công thức

Chỉ số hiệu quả (CSHQ) P1- P2 CSHQ % = X 100

73

P1

Với: - P1 là tỷ lệ cần đánh giá ở thời điểm trước can thiệp.

- P2 là tỷ lệ cần đánh giá ở thời điểm sau can thiệp. Hiệu quả can thiệp: HQCT (%) = CSHQ can thiệp – CSHQ đối chứng[10]

- Nội dung đánh giá

So sánh trước can thiệp (phường, xã can thiệp - phường, xã chứng)

So sánh trước - sau can thiệp (phường, xã can thiệp)

So sánh trước - sau can thiệp (phường, xã chứng)

So sánh sau can thiệp (phường, xã can thiệp - phường, xã chứng).

So sánh trước - sau can thiệp trên nhóm người dân sử dụng Calci-D

- Các chỉ số so sánh bao gồm:Tỷ lệ nhận thông tin, nguồn thông tin về loãng xương;

Tỷ lệ về kiến thức và thực hành phòng chống loãng xương; Tình trạng BMD của

người dân; Tỷ lệ loãng xương, giảm mật độ xương.

2.8. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU

- Đạo đức trong nghiên cứu đã được Hội đồng đánh giá đề cương chi tiết của Viện

Vệ sinh Dịch tễ Trung ương thông qua trước khi triển khai nghiên cứu.

-Nghiên cứu này được thực hiện trên tinh thần tôn trọng người dân tham gia. Tất cả

những thông tin về người tham gia được xử lý và công bố dưới hình thức tổng hợp

số liệu, không có thông tin nào được trình bày dưới hình thức cá nhân.

- Việc đo mật độ xương bằng hấp thụ năng lượng tia X kép là phương pháp an toàn,

liều lượng bức xạ rất thấp được xemlà một xét nghiệm không xâm lấn.

- Tất cả người dân nghiên cứu đều được thông báo, giải thích rõ về nội dung và ý

nghĩa của việc nghiên cứu. Tất cả người dân tham gia với tinh thần tự nguyện và có

quyền từ chối tham gia nghiên cứu.

74

Chƣơng 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. TỶ LỆ LOÃNG XƢƠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

3.1.1. Đặc điểm chung của ngƣời dân nghiên cứu trƣớc can thiệp

Bảng 3.1. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân nghiên cứu theo giới tính và nhóm tuổi

Nam (n=423) Nữ (n=566) Tổng cộng (n=989) Nhóm tuổi Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %

45-49 98 44,1 124 55,9 222 22,4

50-54 63 38,2 102 61,8 165 16,7

55-59 67 44,1 85 55,9 152 15,4

60-64 47 37,3 79 62,7 126 12,7

65-69 39 40,2 58 59,8 97 9,8

70-74 40 44,0 51 56,0 91 9,2

75-79 33 50,0 33 50,0 66 6,7

≥ 80 36 51,4 34 48,6 70 7,1

42,8 566 57,2 Tổng cộng 423 989 100

Trung bình(SD) 60,5 (±11,6) 59,5 (±11,0) 59,9 (±11,2)

Nghiên cứu được tiến hành trên 989 người dân từ 45 tuổi trở lên, nữ 57,2%. Tuổi

trung bình của người dân là 59,9 (± 11,2), nhóm tuổi 45-49 có tỷ lệ cao nhất

(22,4%).

Bảng 3.2. Phân bố trung bình cân nặng, chiều cao, BMI theo giới

Nam Nữ Tổng cộng Biến số Trung bình SD (±) Trung bình SD (±) Trung bình SD (±)

Cân nặng 58,9 9,8 53,7 8,3 55,9 9,3

Chiều cao 161,3 6,2 150,5 6 155,1 8,1

BMI 22,6 3,3 23,7 3,3 23,2 3,4

Trung bình BMI của nữ (23,7 kg/m²) cao hơn nam (22,6 kg/m²).

75

Bảng 3.3. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân nghiên cứu theo đặc điểm nhân trắc

Biến số Chỉ số Tần số Tỷ lệ %

Quận Gò Vấp 197 19,9

Quận Bình Thạnh 199 20,1

Địa dư Quận 6 179 18,1

Quận 12 217 21,9

Huyện Hóc Môn 197 19,9

Cán bộ công chức, viên chức 253 25,6

Công nhân 324 32,8

Nghề nghiệp Nông dân 134 13,5

Doanh nhân tiểu thương 158 16

Nội trợ 120 12,1

≤Tiểu học 550 55,6

Trình độ THCS-THPT 319 32,2

học vấn Trung cấp 62 6,3

Cao đẳng –Đại học 58 5,9

Tổng cộng 989 100

Số người dân nghiên cứu ở quận 12 có tỷ lệ cao nhất(21,9%), nghềnghiệp là công

nhân chiếm tỷ lệ 32,8%, trình độ tiểu học hoặc thấp hơn có tỷ lệ cao(55,6%).

3,6%

Gãy cổ xương đùi

Xẹp đốt sống

Gãy xương cổ tay

29,1% 20%

Gãy xương khác

47,3%

Biểu đồ 3.1. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân có tiền sử gãy xƣơng do chấn thƣơng nhẹ

Tiền sử gãy xương cổ tay có tỷ lệ 47,3%, 3,6% gãy cổ xương đùi.

10,5%

76

Bảng 3.4. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân theo tiền sử bệnh và chiều cao

Biến số Chỉ số Tần số (n=989) Tỷ lệ %

Có 51 5,2 Gãy xương do chấn thương nhẹ Không 938 94,8

Có 119 12,0 Tiền sử gia đình có loãng xương Không 870 88,0

Có 277 28,0 Giảm chiều cao Không 712 72,0

Có 26 2,6 Sử dụng corticoid Không 963 97,4

Tổng cộng 989 100

5,2% người dân nghiên cứu có tiền sử bị gãy xương do chấn thương nhẹ, 12% có

tiền sử gia đình bị loãng xương, 28% có giảm chiều cao và có 2,6% người dân sử

dụng corticoid.

100

90

80

90,1%

70

60

63,8%

50

≥ 2 ly sữa

40

1 ly sữa

30

Không uống 24,2%

20

12% 8%

10

0

1,9%

Nữ giới Nam giới

Biểu đồ 3.2. Phân bố thói quen uống sữa của ngƣời dân theo giới tính

Nam giới có thói quen uống sữa tỷ lệ9,9%, nữ giới 36,2%.

77

Bảng 3.5. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân theo lối sống

Biến số Tần số (n=989) Tỷ lệ % Chỉ số

Có 445 45,0 Tập thể dục-Thể thao Không 544 55,0

≥ 2 ly/ngày 76 7,7

Uống sữa thường xuyên < 2 ly/ngày 171 17,3

Không uống 742 75,0

Có 184 18,6 Hút thuốc lá Không 805 81,4

Có 77 7,8 Lạm dụng rượu bia Không 912 92,2

Tổng cộng 989 100

Tập thể dục thể thao 45% và 75% không uống sữa thường xuyên. Tỷ lệ người

dân hút thuốc lá là 18,6%, lạm dụng rượu bia 7,8%.

Bảng 3.6. Phân bố tỷ lệ phụ nữ theo kinh nguyệt và số con

Biến số Chỉ số Tần số Tỷ lệ % Trung bình SD (±)

Tuổi có <16 296 52,3 15,4 1,9 kinh ≥16 270 47,7

Rất sớm (<40) 15 2,6 Tuổi mãn Sớm (40-45) 47 8,3 kinh 48,3 4,1 Sau 45 tuổi 504 89,1

Đã mãn kinh 443 78,3 Mãn kinh Chưa mãn kinh 123 21,7

<4 con 365 64,5 Số con 3,3 2,4 ≥4 con 201 35,5

Tổng cộng 566 100

Phụ nữ nghiên cứucó kinh muộn 47,7% và tuổi có kinh trung bình khá cao (15,4

±1,9). Tuổi mãn kinh trung bình là 48,3 ± 4,1. Có 10,9% phụ nữ mãn kinh sớm và

rất sớm, 21,7% phụ nữ chưa mãn kinh,sinh con nhiềucó tỷ lệ 35,5%.

78

Bảng 3.7. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân trả lời đúng kiến thức về bệnh loãng xƣơng

Nội dung của kiến thức % Cronbach´s Alpha Đúng n=989

Kiến thức về khái niệm bệnh loãng xương

Bệnh LX là xương bị giảm khối lượng, bị giòn 34,3 339

0,9 Bệnh LX dẫn tới tăng nguy cơ bị gãy xương 34,3 339

Bệnh LX có thể gâycòng lưng, đau, giảm chiều cao 326 33

Bệnh LX có liên quan đến gãy cổ xương đùi 297 30

Kiến thức về yếu tố nguy cơ

Bệnh LX thường xảy ra ở đàn bà nhiều hơn đàn ông 488 49,3

Tuổi già dễ dẫn tới bệnh loãng xương 280 28,3

Mãn kinh ở phụ nữ có nguy cơ dễ bị loãng xương 221 22,3

Hút thuốc lá có nguy cơ bị loãng xương 37 3,7

Lạm dụng rượu bia có nguy cơ gây ra loãng xương 50 5,1

0,92 Uống nhiều cà phê hoặc thức uống có gas dễ bị LX 10 1

Di truyền là yếu tố nguy cơ gây ra loãng xương 148 15

Lười vận động dễ dẫn đến nguy cơ bị loãng xương 262 26,5

Thiếu vitamin D có nguy cơ bị loãng xương 216 21,8

Bệnh RLHTĐR, suy gan, suy thận dễ bị LX 103 10,4

Dùng thuốc chống đau nhức (corticoid) rất dễ bị LX 160 16,2

Kiến thức về phòng bệnh

Ăn nhiều thức ăn giàu can-xi phòng loãng xương 495 50,1

Tập TDTT thường xuyên có thể phòng tránh LX 352 35,6

0,86 Phòng tránh té ngã ngừa biến chứng loãng xương 297 30

Người có nguy cơ LX nên khám, đo MĐX định kỳ 18 1,8

Những thức ăn có nhiều can-xi 385 38,9

Trung bình điểm kiến thức đúng 241,2 24,4

Khoảng 1/3 người dân biết về khái niệm bệnh loãng xương, hiểu biết về yếu tố nguy

cơ còn thấp. Tỷ lệ trung bình điểm kiến thức đúng 24,4%.Bộ câu hỏi kiến thức được

kiểm định độ tin cậy bằng hệ số Cronbach´s Alpha 0,86 – 0,92.

79

Bảng 3.8. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân nhận thông tin loãng xƣơng và nguồn nhận

Nội dung Tần số (n=989) Tỷ lệ %

Người dân nhận thông tin về bệnh loãng xương 430 43,5

Nhận thông tin từ báo chí 280 28,3

Nhận thông tin từ ti-vi 353 35,7

Nhận thông tin từ cán bộ y tế 30 3,0

Nhận thông tin từ sách 47 4,7

7,7 76

Nhận thông tin từ kênh khác 43,5% người dân đã từng nghe nói về bệnh loãng xương từ báo, ti-vi, cán bộ y tế,

sách, kênh khác với tỷ lệ lần lượt là 28,3%, 35,7%, 3,0%, 4,7%, 7,7%.

Bảng 3.9. Phân bố tỷ lệngƣời dânthực hiện hành vi có lợi và có hại cho xƣơng

Nội dung thực hành Mức độ (n=989) %

Cronbach´s α Hành vi có hại cho xươngÍt khi-chưa từng

Hút thuốc lá (lào) 81782,6

Lạm dụng rượu bia 91392,3

Sử dụng thuốc kháng viêm (corticoid) 963 97,4

Uống nhiều cà phê và hoặc nước có gas 89490,4

Hành vi có lợi Rất thường xuyên-Thườngxuyên

Tập thể dục (≥30 phút/ngày) 366 37 0,72

Tập thể thao (≥30 phút/ngày) 94 9,5

Uống sữa (≥200ml/ngày) 247 25

Uống viên can-xi (≥500mg/ngày)58 5,9

Ăn thức ăn giàu can-xi 155 15,7

Thực hành phòng tránh té ngã 198 20

Kiểm tra sức khỏe, đo MĐX định kỳ 248 25,1

Chủ động nhận thông tin về bệnh LX 298 30,1

Điểm trung bình 437,644,3

Tỷ lệ người dân không hút thuốc lá 82,6%, không lạm dụng rượu bia 92,3% và

không sử dụng corticoid là 97,4%, thể dục thể thao thường xuyên 46,5%, thường

80

xuyên ăn thức ăn giàu can-xi 15,7%. Điểm trung bình thực hành tích cực chiếm tỷ

lệ 44,3%. Bộ câu hỏi thực hành được kiểm định độ tin cậy bằng hệ số Cronbach´s

Alphamức chấp nhận là 0,72.

Bảng 3.10. Phân bố tỷ lệ kiến thức và thực hành của ngƣời dân theo giới tính

Biến Chỉ Tốt Trung bình Kém Tổng cộng

số số SL % SL % SL % SL %

Kiến Nam 18 4,2 68 16,1 337 79,7 423 42,8

thức Nữ 68 12,0 70 12,4 428 75,6 566 52,7

86 8,7 765 77,3 989 100 138 14,0

Tổng cộng Thực Nam 23 5,4 29 6,9 371 87,7 423 42,8

hành Nữ 61 10,8 77 13,6 428 75,6 566 52,7

84 80,8 10,7 106 799 100 989 8,5

Tổng cộng Kiến thức và thực hành tốt về phòng chống bệnh loãng xương của người dân nghiên

cứu còn thấp (8,7% và 8,5%). Nữ giới có kiến thức và thực hành tốt (12,0% và

10,8%) cao hơn nam giới (4,2% và 5,4%).

3.1.2.Tỷ lệ loãng xƣơng của ngƣời dân từ 45 tuổi trở lên

Loãng xương 32,4% Bình thường 22%

Loãng xương nặng 7,5%

Giảm MĐX 38,1%

Biểu đồ 3.3. Phân bố tỷ lệ loãng xƣơng của ngƣời dân nghiên cứu

Loãng xương chiếm tỷ lệ cao nhất 39,9%, 7,5% loãng xương nặng và có 38,1%

giảm mật độ xương

81

Bảng 3.11. Phân bố tỷ lệ loãng xƣơng của ngƣời dân theo giới tính

Bình thường Giảm MĐX Loãng xương Tổng cộng p

Giới tính Tần số % Tần số % Tần số % Tần số %

Nam 94 22,2 169 40,0 160 37,8 423 42,8

Nữ 124 21,9 207 36,6 235 41,5 566 57,2<0,05

38,1 395 Tổng cộng 218 22,0 376 39,9 989 100

Tỷ lệ loãng xương ở nữ 41,5% cao hơn nam (37,8%), mật độ xương bình thường ở

nam giới 22,2%, nữ giới 21,9%.

Bảng 3.12. Phân bố trung bình BMD của ngƣời dân theo giới tính

Bình thường Giảm MĐX Loãng xương Tổng cộng Biến số X SD± X SD± X SD± X SD±

0,583 0,06 0,508 0,04 0,402 0,07 0,484 0,09

0,486 0,04 0,398 0,03 0,287 0,05 0,371 0,09

Nam XBMDNữ Tổng cộng 0,528 0,07 0,448 0,06 0,334 0,08 0,42 0,11

Trung bình (X)BMD (g/cm²) của nam giới(0,484g/cm²) cao hơn nữ giới

(0,371g/cm²). Trung bình BMD bình thường đo bằng DXA ở cẳng tay ở nam giới là

0,583 g/cm² và ở nữ giới là 0,486 g/cm².

3.1.3. Một số yếu tố liên quan đến mật độ xƣơng của ngƣời dân

3.1.3.1.Liên quan mật độ xương theo tuổi và giới tính của người dân nghiên cứu

Bảng 3.13. Liên quan loãng xƣơng với giới tính của ngƣời dân

Loãng xương Không LX Biến số Chỉ số OR 95% CI Tần số % Tần số %

41,5 331 58,5 1 235 Nữ

Giới tính 37,8 263 62,2 0,5 (0,3 – 0,9) 160 Nam

395 Tổng cộng 39,9 594 60,1

Phân tíchđơn biến

Nam giới nguy cơ loãng xương chỉbằng 1/2 nữ giới.

82

Bảng 3.14. Liên quan loãng xƣơng với nhóm tuổi theo giới tính của ngƣời dân

Nhóm Loãng xương Không LX

OR 95% CI Giới tính tuổi Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %

Nam 10 88 10,2 89,8

45-49 Nữ 6 118 4,8 95,2

1 Chung 16 206 7,2 92,8

Nam 11 52 17,5 82,5

50-54 Nữ 14 88 13,7 86,3

2,3 (1,0-5,1) Chung 25 140 15,2 84,9

Nam 23 44 34,3 65,7

55-59 Nữ 24 61 28,2 71,8

6,0 (2,8-13,2) Chung 47 105 30,9 69,1

Nam 20 27 42,5 57,5

60-64 Nữ 47 32 59,5 40,5

14,3 (6,3-32,3) Chung 67 59 53,2 46,8

Nam 18 21 46,1 53,9

65-69 Nữ 42 16 72,4 27,6

22 (8,8-55,6) Chung 60 37 61,9 38,1

Nam 22 18 55,0 45,0

70-74 Nữ 42 9 82,3 17,7

31,2 (12,3-79,5) Chung 64 27 70,3 29,7

Nam 27 6 81,8 18,2

75-79 Nữ 29 4 87,9 12,1

74,8 (23,9-234) Chung 56 10 84,9 15,2

Nam 29 7 80,6 19,4

Nữ ≥ 80 31 3 91,2 8,8

78,2 (24,5-249) Chung 60 10 85,7 14,3

594 39,9 60,1 Tổng cộng 395

Trên phân tích hồi quy logistic đa biến, tỷ lệloãng xương tăng theo nhóm tuổi và

nguy cơ bệnh loãng xương nhóm tuổi 55-59 cao gấp 6 lần nhóm tuổi từ 45-49

83

(p<0,05). Ba nhóm tuổi đầu cho thấy tỷ lệ loãng xương ở nam cao hơn nữ giới, tuy

nhiên ở nhóm tuổi càng lớn thì nữ loãng xương càng cao hơn nam

Biểu đồ 3.4. Tƣơng quan BMD với Biểu đồ 3.5. Tƣơng quan BMD với

tuổi nam giới nghiên cứu tuổi nữ giới nghiên cứu

Tính r của Spearman test (số liệu chỉ số BMD không chuẩn)

BMD và tuổi có hệ số tương quan r= -0,53 ở nam giới và r= -0,68 ở nữ giới,là

tương quan nghịch biếnmức độ chặt chẽ (nữ hơn nam), tuổi càng cao thì BMD càng

giảm, tương quan này có ý nghĩa thống kê (p<0,01).

3.1.3.2. Liên quan BMD người dân nghiên cứu với cân nặng, chiều cao, BMI

Bảng 3.15. Liên quan loãng xƣơng với BMI của ngƣời dân

Chỉ số Loãng xương Không LX Biến số OR 95% CI Tần số % Tần số %

Bình thường 189 223 54,1 1 45,9

Gầy 46 68,7 21 31,3 2,6 (1,5 - 4,5)

BMI Thừa cân 76 34,1 147 65,9 0,6 (0,4 - 0,9)

Béo phì 84 29,3 203 70,7 0,5 (0,4 - 0,7)

Tổng cộng 395 39,9 594 60,1

Phân tích đơn biến

Người gầy có nguy cơ bị loãng xương gấp 2,6 lần người BMI bình thường, người

có BMI càng cao nguy cơ bị loãng xương càng giảm (p<0,001).

84

Biểu đồ 3.6. Tƣơng quan BMD với cân nặng, chiều cao, BMI của ngƣời dân

Hệ số tương quan giữa BMD với BMI r=0,18 (Spearman´s test) cho thấy là

tương quan đồng biến mức độ yếu. Hệ số tương quan cân nặng r=0,51, chiều cao

r=0,57, cân nặng và chiều cao có sự tương quan đồng biến và chặt chẽ với BMD, có

ý nghĩa thống kê p<0,05.

3.1.3.3. Liên quan mật độ xương với một số đặc điểm nhân trắc

Bảng 3.16. Liên quan loãng xƣơng với yếu tố địa dƣ

Yếu tố Loãng xương Không LX

OR 95% CI Tần số % Tần số %

Gò Vấp 70 35,5 127 64,5 1

Bình Thạnh 87 43,7 112 56,3 1,4 (0,9 – 2,4)

12 93 42,9 124 57,1 1,3 (0,9 – 2,0) Địa dư 6 67 37,4 112 62,6 1,2 (0,8 – 1,8)

Hóc Môn 78 39,6 119 1,1(0,7 – 1,7) 60,4

60,1 Tổng cộng 395 39,9 594

Phân tích đơn biến

Các quận huyện có tỷ lệ loãng xương khác nhau nhưng liên quan không có ý

nghĩa thống kê (p>0,05) và tỷ lệ loãng xương chung ở các quận nội thành là 39,9%

gần tương tương đương ở huyện ngoại thành Hóc Môn 39,6%.

85

Bảng 3.17. Liên quan loãng xƣơng với yếu tố nghề nghiệp và học vấn

Biến số Chỉ số Loãng xương Không LX

OR 95% CI Tần số % Tần số %

CB-CCVC 72 28,5 71,5 1 181

Công nhân 143 44,1 55,9 2,0 (1,4 - 2,8) 181

Kinh doanh 67 42,4 57,6 1,9 (1,2 - 2,8) 91 Nghề nghiệp Nông dân 68 50,8 49,2 2,6 (1,7 - 4,0) 66

Nội trợ 45 37,5 62,5 1,7 (1,0 - 2,7) 75

≤ Tiểu học 282 51,3 48,7 1 268

≤ THPT 93 29,2 70,8 0,4 (0,3 - 0,5) 226

Trung cấp 12 19,3 80,7 0,23 (0,1 - 0,4) 50 Trình độ học vấn CĐ - ĐH 8 13,8 86,2 0,15 (0,1 - 0,3) 50

Tổng cộng 395 39,9 594 60,1

Trên phân tích đơn biến, nông dân nguy cơ loãng xương gấp 2,6 lần CBCC-VC, học

vấn CĐ-ĐHnguy cơ loãng xương chỉcó 0,15 lần tiểu học.

3.1.3.4. Liên quan BMD của phụ nữ nghiên cứu với kinh nguyệt và số con

Bảng 3.18. Liên quan loãng xƣơng với kinh nguyệt và số con

Loãng xƣơng Không LX Biến số Chỉ số OR 95% CI Tần số % Tần số %

<16 99 33,5 66,5 1 197

Tuổi kinh ≥16 136 50,4 2 (1,4 – 2,9) 49,6 134

1 >45 199 39,5 60,5 305

Sớm 26 55,3 1,9 (1 - 3,5) 44,7 21 Tuổi mãn kinh Rất sớm 10 66,7 33,3 3,1 (1 – 9,2) 5

Chưa 2 1,6 98,4 1 121

Mãn kinh Rồi 233 52,6 47,4 2,0 (1,4 - 2,8) 210

<4 con 96 26,3 73,7 1 269

Số con ≥4 con 139 69,2 30,8 3 (1,4–6,4) 62

235 Tổng cộng 41,5 331 58,5

86

Trên phân tích đơn biến, phụ nữ đã mãn kinh, có kinh muộn nguy cơ loãng xương

gấp đôi phụ nữ chưa mãn kinh, có kinh sớm. Sinh nhiều con nguy cơ loãng

xươnggấp 3lần phụ nữ sinh <4 con.

Biểu đồ 3.7. Tƣơng quan BMD với kinh nguyệt và số con phụ nữ nghiên cứu

BMD với tuổi có kinhSpearman´s r =-0,19, là tương quan nghịch biến mức độ

yếu,với số con r= -0,35 là tương quan nghịch biến mức độ trung bình. BMD với

tuổi mãn kinh là tương quan đồng biến mức độ yếu (r=0,15). Tất cả có p<0,05.

3.1.3.5. Liên quan loãng xương với lối sống, tiền sử bệnh, chiều cao người dân

Bảng 3.19.Liên quan loãng xƣơng với sử dụng rƣợu bia, hút thuốc lá theo giới

Loãng xương Không LX

OR 95% CI Biến số Chỉ số Tần số % Tần số %

1 Lạm Không 115 33,2 231 66,8 Nam dụng Có 45 58,4 32 41,6

2,8 (1,7 – 4,7) 1 rượu Không 235 41,5 331 58,5 Nữ bia . Có 0 0,0 0 0,0

1 Không 84 34,7 158 65,3 Hút Nam Có 76 42 105 58 1,4 (0,9 – 2,0) thuốc 1 Không 233 41,4 330 58,6 lá Nữ 33,3 Có 2 66,7 1 2,8 (0,3 - 31,5)

60,1 Tổng cộng 395 39,9 594

Phân tích đơn biến.

87

Lạm dụng rượu bia ở nam giới nguy cơ bệnh gấp 2,8 lần, nam hút thuốc lá nguy cơ

bệnh gấp 1,4 lần người không hút.

Bảng 3.20. Liên quan loãng xƣơng với uống sữa, thể dục thể thao theo giới

Không LX Biến số Chỉ số OR 95% CI Loãng xương Tần số % Tần số %

1 Có 76,3 18 23,7 58 Nam Uống 63,7 Không 62 36,3 109

sữa 1,8 (1 - 3,4) 1 Có 69,3 63 30,7 142 Nữ 52,3 Không 172 47,7 189

2,0 (1,4 – 3,0) 1 Thể Có 76,2 49 23,8 157 Nam dục 48,8 Không 111 51,2 106 3,4 (2,2 – 5,2)

thể 77,8 Có 53 22,2 186 1 Nữ thao Không 4,4 (3,0 – 6,6) 182 55,7 145 44,3

Tổng cộng 395 39,9 594 60,1

Trên phân tích hồi quy logistic đơn biến, nữ giới không uống sữa nguy cơ bệnh gấp

đôi, không tập thể dục thể thao nguy cơ loãng xương gấp 4,4 lần.

Bảng 3.21. Liên quan loãng xƣơng với tiền sử cá nhân, gia đình vàchiều cao

Loãng xương Không LX Biến số Chỉ số OR 95% CI Tần số % Tần số %

Gãy Không 356 38,0 582 62,0 1

xương 5,3 (2,7 -10,4) Có 39 76,5 12 23,5

Tiền sử Không 311 35,7 559 64,3 1

gia đình 4,3 (2,8- 6,6) 84 70,6 35 Có 29,4

Sử dụng Không 374 38,8 589 61,2 1

corticoid 6,6 (2,4 -17,9) Có 80,8 5 21 19,2

Giảm Không 21,1 562 150 78,9 1

chiều cao 28,7 (17 - 48,3) Có 88,4 32 245 11,6

395 Tổng cộng 39,9 594 60,1

88

Phân tích đơn biến

Người sử dụng corticoid nguy cơ loãng xương gấp 6,6 lần so với người không sử

dụng, người có tiền sử gia đình bị loãng xương nguy cơ bệnh gấp 4,3 lần và người

có tiền sử gãy xương do chấn thương nhẹ nguy cơ loãng xương gấp 5,3 lần người

không có tiền sử gãy.Tất cả đều có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

70

61%

59,3%

60

Đốt sống thắt

50

lưng, Một đốt, Độ I

40,7%

40

Đốt sống ngực, Hai

30,5%

đốt, Độ II

28,8%

28,8%

30

23,7%

Cả hai, Trên 2

20

15,3%

đốt, Độ III

11,9%

10

0

Vị trí xẹp đốt sống

Số đốt sống xẹp

Phân độ xẹp đốt sống

3.1.3.6. Liên quan loãng xương với tình trạng xẹp đốt sống

Biểu đồ 3.8. Phân bố tỷ lệ vị trí, số lƣợng, độ xẹp đốt sống ở ngƣời loãng xƣơng

Vị trí xẹp đốt sống thắt lưng 59,3%, số đốt sống xẹp 1 đốt có tỷ lệ 61% và xẹp độ

3 là 28,8%.

Bảng 3.22. Liên quan xẹp đốt sống với BMD của ngƣời bệnh loãng xƣơng

Biến số Chỉ số Tần số % XBMD SD± Spearman´s r P

Có 59 15,2 0,296 0,08

0,19 <0,001 Không 329 84,8 0,337 0,08 Xẹp đốt sống Tổng cộng 388 100 0,331 0,08

Phân tích tương quan r của Spearman (số liệu BMD không chuẩn).

Trung bình BMD ở người loãng xương có xẹp đốt sống (0,296 g/cm²)thấp hơn so

với người loãng xương không xẹp (0,337 g/cm²) và sự tương quan đồng biến ở mức

độ yếu(p<0,001).

89

3.1.3.7. Liên quan mật độ xương với kiến thức, thực hành của người dân

Bảng 3.23.Liên quan tỷ lệ loãng xƣơng với kiến thức và thực hành

Loãng xương Không LX Tổng cộng Biến số Chỉ số OR 95% CI SL % SL %SL %

Kém 364 47,6 52,4 765 401 77,3 1

0,18 (0,1-0,3) TB 19 13,8 86,2 138 119 14,0 Kiến thức 0,18 (0,1-0,3) Tốt 12 13,9 86,1 86 74 8,7

799 Kém 372 46,6 427 53,4 80,8 1

0,15 (0,1-0,4) 106 86 TB 20 18,9 81,1 10,7 Thực hành 0,04(0,01-0,1) 81 3,6 96,4 84 8,5

3 Tốt Tổng cộng 395 39,9 594 60,1 989 100

Phân tích đơn biến.

Kiến thức tốt nguy cơ loãng xương chỉ bằng 0,18 lần kiến thức kém, thực hành tốt

nguy cơ chỉ bằng 0,04 lần thực hành kém, liên quan có ý nghĩa thống kê.

Biểu đồ 3.9. Tƣơng quan BMD với điểm kiến thức và thực hành

Kết quả phân tích tương quan (Spearman´s test) giữa BMD với điểm kiến thức và

thực hành của người dân cho thấy cho hệ số tương quan r đều bằng 0,22, như vậy

kiến thức và thực hành tương quan đồng biến với BMD ở mức độ yếu, có ý nghĩa

thống kê p<0,01.

90

Bảng 3.24. Liên quan loãng xƣơng trên mô hình hồi quy logistic đa biến

Biến số C Chỉ số OR SE 95% CI

45-49 1 Nhóm tuổi Nhóm khác 1,9 0,12 1,7 - 2,2

Nam 1 Giới tính 1,94 0,57 1,1 – 3,5 Nữ

CB-CCVC 1 Nghề nghiệp Nghề khác 0,8 0,06 0,7 – 0,9

Gầy 1 Chỉ số khối cơ thể Không gầy 0,8 0,07 0,7 - 0,96

Có 1 Gãy xương do chấn thương nhẹ Không 1,9 0,92 0,8 - 4,9

Có 1 Hút thuốc lá Không 0,9 0,29 0,5 - 1,7

Có 1 Lạm dụng rượu bia Không 4,4 1,68 2,1 - 9,3

Có 1 Thói quen uống sữa Không 1,5 0,3 1 - 2,2

Không 1

Tiền sử gia đình bị loãng xương Có 4,9 1,59 2,6 - 9,2

Không 1 Thể dục thể thao Có 0,6 0,12 0,4 - 0,9

Không 1 Sử dụng corticoid Có 1,4 0,19 1,1 - 1,8

Không 1 Giảm chiều cao Có 11,5 2,98 6,9 - 19

Kém 1 Kiến thức Không kém 0,42 0,12 0,2 - 0,7

Kém 1 Thực hành Không kém 0,25 0,1 0,1 - 0,5

91

Trên mô hình hồi quy logistic đa biến cho kết quả 12 biến liên quan có ý nghĩa

thống kê với tình trạng loãng xương, còn lại là các biến nhiễu không liên quan như:

yếu tố địa dư, trình độ học vấn, gãy xương do chấn thương nhẹ, hút thuốc lá.Mô

hình có ý nghĩa thống kê với χ²= 700, p=0. Theo kết quả phântích có R²= 0,526,

điều nàycho thấy mô hình giải thích tình trạng loãng xương 52,6%.

Bảng 3.25. Liên quan loãng xƣơng trên mô hình hồi quy logistic đa biếnnữ giới

Biến số C Chỉ số OR SE 95% CI

45-49 1 Nhóm tuổi Nhóm khác 1,8 0,2 1,5 - 2,2

CB-CCVC 1 Nghề nghiệp Nghề khác 0,8 0,1 0,7 – 0,9

Gầy 1 Chỉ số khối cơ thể Không gầy 0,7 0,08 0,6 - 0,9

Có 1 Thói quen uống sữa Không 1,8 0,4 1,1 - 2,8

Không 1

Tiền sử gia đình bị loãng xương Có 5,6 2,4 2,4 – 12,9

Rồi 1 Mãn kinh Chưa 0,2 0,1 0,3 - 0,7

<4 con 1 Số con ≥4 con 2,3 0,8 1,2–4,4

Không 1 Giảm chiều cao Có 10,0 3,1 5,5 – 18,5

Kém 1 Kiến thức Không kém 0,6 0,2 0,3- 1,0

Kém 1 Thực hành Không kém 0,5 0,2 0,2 - 0,9

Trên mô hình hồi quy logistic đa biến đối ở nữ giới nghiên cứu cho kết quả 10 biến

liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng loãng xương, còn lại là các biến không

liên quan như mô hình chung và các biến: tuổi kinh, sử dụng corticoid, tập thể dục

92

thể thao. Mô hình có ý nghĩa thống kê với χ² = 443,3, p=0, R²= 0,577, điều này cho

thấy mô hình giải thích tình trạng loãng xương 57,7%.

3.1.4. So sánh một số đặc điểm của ngƣời dân nghiên cứu ở các phƣờng, xã can

thiệp và các phƣờng, xã đối chứng

Kết quả phân tích cho thấy trong tất cả các yếu tố liên quan được khảo sát thì chỉ có

một vài biến số có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê như giữa phường can thiệp và

đối chứng quận Gò Vấp là yếu tố mãn kinh ở phụ nữ và sử dụng corticoid, phường

can thiệp và đối chứng quận Bình Thạnh có 2 yếu tố là giảm chiều cao và tiền sử

gia đình có bệnh loãng xương, phường can thiệp và đối chứng quận 12 thì yếu tố

nghề nghiệp, xã can thiệp và đối chứng huyện Hóc Môn có yếu tố số con ở phụ nữ

và tiền sử gia đình. Nhìn chung các phường, xã đối chứng có thể coi là tương thích

để so sánh với các phường, xã can thiệp.

Như vậy, theo kết quả mô hình hồi quy logistic đa biến chung và so sánh

riêng giữa các địa phương can thiệp và đối chứng thì ngoài những yếu tố liên quan

không thay đổi được, các yếu tố liên quan cần can thiệp là kiến thức và thực hành

phòng chống loãng xương, trong đó những hành vi có lợi cho xương như tập thể

dục thể thao, nâng cao thể chất, thường xuyên uống sữa, tránh lạm dụng rượu bia và

sử dụng corticoid kéo dài.

93

3.2. XÂY DỰNG VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢMỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN

THIỆP CỘNG ĐỒNG PHÒNG CHỐNG LOÃNG XƢƠNG

3.2.1. Kết quả xây dựng một số biện pháp can thiệp

- Đã xây dựng mạng lưới hoạt động can thiệp tại tuyến y tế cơ sở. Thành lập Ban

Chủ nhiệm Chương trình can thiệp phòng, chống loãng xương ở 4 quận, huyện và 4

phường, xã can thiệp. Tại các trạm y tế phường, xã thành lập Tổ hoạt động can thiệp

bao gồm trưởng trạm y tế, cán bộ y tế chuyên trách hoạt động can thiệp và 4 cộng

tác viên.

- Đã tổ chức hội nghị đồng thuận triển khai thực hiện chương trình can thiệp

cộng đồng phòng, chống loãng xương tại các địa phương can thiệp.

- Đã xây dựng bộ tài liệu tập huấn cho cán bộ chương trình, cho cộng tác

viên. Tổ chức tập huấn cho 48 thành viên tham gia chương trình can thiệp. Cung

cấp tài liệu hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh loãng xương cho các cán

bộ và cơ sở y tế tham gia can thiệp. Xây dựng và sản xuất tài liệu truyền thông gồm

8 pa-nô, 15.000 tờ rơi các loại, 1.000 cuốn cẩm nang, 50 áp phích, sưu tầm 7 đoạn

phim ngắn về loãng xương phục vụ cho tập huấn và truyền thông.

- Đã xây dựng mô hình truyền thông đa dạng với nhiều loại hình hoạt động:

(1) Thành lập đơn vị tư vấn chung cho tất cả người trưởng thành có nhu cầu tìm

hiểu và chăm sóc sức khỏe xương ở 4 địa phương can thiệp được đặt tại Trung tâm

y tế dự phòng quận Gò Vấp (nơi có vị trí địa lý thuận lợi và có máy đo mật độ

xương DXA); (2) Các trạm y tế đều có cán bộ tư vấn tại chỗ, cung cấp tờ rơi, tư vấn

qua điện thoại và thực hiện góc truyền thông giáo dục sức khỏe; (3) Mạng lưới cộng

tác viên với nhiệm vụ thăm hộ gia đình, phát tờ rơi, mời gọi người dân tham gia các

buổi truyền thông chuyên đề phòng chống loãng xương; (4) Mỗi phường, xã can

thiệp đều có đặt 2 pa-nô phòng, chống loãng xương: một ở trạm y tế và một ở khu

vực chợ hoặc tại ủy ban nhân dân phường, xã; (5) Trên bảng tin mỗi khu phố, ấp

đều có dán một áp phích phòng, chống loãng xương.

- Phối hợp với các hội, đoàn tại địa phương thực hiện 29 buổi truyền thông tại

các phường, xã can thiệp cho nhiều đối tượng: người cao tuổi, phụ nữ sau 40 tuổi,

94

phụ nữ mãn kinh, những người có bệnh xương khớp, người có nguy cơ té ngã,

thành viên câu lạc bộ dưỡng sinh.

- Xây dựng mạng lưới cộng tác viên đến thăm hộ gia đình để tư vấn cho các

thành viên trong gia đình về bệnh loãng xương và những biện pháp phòng tránh;

khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành của người dân về phòng bệnh loãng xương;

quan sát và hướng dẫn thực tế về chế độ ăn giàu chất can-xi, về 6 biện pháp phòng

tránh té ngã, về rèn luyện thể chất phù hợp với lứa tuổi và sức khỏe.

- Đã triển khai tổ chức 34 buổi truyền thông lồng ghép với hoạt động của các

chương trình y tế có liên quan hiện nay như: loãng xương với chương trình dinh

dưỡng, chương trình phòng, chống tăng huyết áp, chương trình phòng, chống bệnh

đái tháo đường, chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, chương trình

phòng, chống bệnh tim mạch, chương trình phòng, chống tác hại của thuốc lá.

-Kết hợp với các hội, ngành, các công ty sữa, dược phẩm tổ chức hai sự kiện

chuyên đề LX: “Xương chắc, dáng khỏe”, “Can-xi và sức khỏe xương” dành cho

người trưởng thành mà chủ yếu là phụ nữ từ 45 tuổi trở lên.Thành lập 4 câu lạc bộ

người bệnh loãng xương tại các phường, xã can thiệp, phối hợp với câu lạc bộ

dưỡng sinh để tăng cường hoạt động thể chất và định kỳ hướng dẫn chế độ ăn cũng

như phòng tránh té ngã. Các bệnh viện công và tư trên địa bàn quận, huyện nghiên

cứu đều có trang bị máy đo mật độ xương để thực hiện dịch vụ khám, chẩn đoán và

điều trị cho người dân.

Bảng 3.26. Số ngƣời dân ở phƣờng xã can thiệp đƣợc tƣ vấn trong 2 năm tại

đơn vị tƣ vấn chung

Phương pháp tư Trực tiếp Điện thoại

Địa phương vấn Lượt người Số người Số cuộc

Phường 5 quận Gò vấp 487 415 89

Phường 3 quận Bình Thạnh 238 192 57

Phường Hiệp thành Q.12 245 207 68

Xã Tân Xuân H. Hóc Môn 178 162 45

Tổng cộng 1148 976 259

95

Đơn vị tư vấn chung trung bình 2,3 lượt người/ngày, 2 ngày có một cuộc qua điện

thoại (tính theo 250 ngày làm việc/năm), địa phương đối chứng không có.

Bảng 3.27. Số ngƣời dân ở phƣờng, xã can thiệp đƣợc tƣ vấn trong 2 năm tại

các trạm y tế

Phương pháp tư Trực tiếp Điện thoại Tờ rơi

Địa phương vấn Lượt người Số người Số cuộc Số tờ

Phường 5 quận Gò vấp 2.128 1.857 856 2.348

Phường 3 quận Bình Thạnh 1.432 1.295 738 1.581

Phường Hiệp thành Q.12 1.672 1.428 847 1.870

Xã Tân Xuân H. Hóc Môn 1.720 1.512 736 1.899

Tổng cộng 6.952 6.092 3.177 7.698

Trung bình mỗi ngày có khoảng 14 lượt người đến tư vấn, hơn 6 cuộc tư vấn qua

điện thoại và hơn 15 tờ rơi được phát ra (tính theo 250 ngày làm việc/ năm).

Bảng 3.28. Số lƣợt ngƣời dân đƣợc truyền thông trực tiếp tại cộng đồng ở các

phƣờng xã can thiệp sau 2 năm

Hình thức truyền Chuyên đề LX Lồng ghép Tờ rơi thông

Số tờ Địa phương Số cuộc Lượt người Số người Số cuộc Lượt người Số người

Phường 5 quận Gò vấp 1.178 1.055 10 8 895 617 2.073

Phường 3 Q. Bình Thạnh 1.029 937 8 7 637 523 1.666

Phường Hiệp thành Q.12 1.015 829 8 7 687 518 1.702

Xã Tân Xuân H. Hóc Môn 1.024 929 8 7 592 512 1.616

Tổng cộng 29 4.246 3.750 34 2.811 2.170 7.057

Số người được truyền thông trực tiếp tại cộng đồng sau 2 năm can thiệp là 5920

người, trong đó truyền thông lồng ghép từ các chương trình y tế khác có tỷ lệ 39,8%

số người được truyền thông. Tổng số cuộc truyền thông lớn sau 2 năm là 63, như

vậy có 2,6 cuộc/tháng và truyền thông chuyên đề loãng xương chỉ có 46% các cuộc.

96

Bảng 3.29. Số hộ và ngƣời dân nghiên cứu đƣợc cộng tác viên thăm và tƣ vấn

sau 2 năm can thiệp

Nội dung Hộ gia đình Người dân ≥ 45 tuổi Tờ rơi

Địa phương Số hộ Số người Số tờ

Phường 5 quận Gò vấp 385 721 388

Phường 3 quận Bình Thạnh 357 692 363

Phường Hiệp thành Q.12 379 651 380

Xã Tân Xuân H. Hóc Môn 346 596 350

Tổng cộng 1.467 2.660 1.481

Trung bình 2 hộ gia đình và hơn 7 người được các cộng tác viên tư vấn mỗi ngày

(tính theo năm 365 ngày).

Bảng 3.30. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân nghiên cứu đƣợc truyền thông, tƣ vấn trực

tiếp về bệnh loãng xƣơng

Nội dung Số người dân ≥ 45 Dân số mục Tỷ lệ % đạt

Địa phương tuổi được tư vấn tiêu được

Phường 5 quận Gò vấp 4.665 5.844 79,8

Phường 3 quận Bình Thạnh 3.636 4.934 73,4

Phường Hiệp thành Q.12 4.156 5.475 75,9

Xã Tân Xuân H. Hóc Môn 3.711 4.220 87,9

Tỗng cộng 16.168 20.473 80,0

Độ bao phủ truyền thông đến người dân nghiên cứu 80%.

97

3.2.2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng

3.2.2.1. So sánh đặc điểm chung người dân nghiên cứu trước và sau can thiệp

Bảng 3.31.Phân bố ngƣời dân can thiệp và đối chứngtheo giới tính, tuổi, nghề

nghiệp, trình độ học vấn

Người dân can thiệp Người dân đối chứng

Biến Chỉ số

Trước CT (1) n=422 Sau CT (2) n=399 Trước CT (3) n=388 Sau CT (4) n=399 P *=0,05 χ² số SL % SL % SL % SL %

Nam 181 42,9 186 46,6 165 42,5 186 46,6

1&2>* 1&3>* 2&4>* 3&4>*

Giới tính Nữ 241 57,1 213 53,4 223 57,5 213 53,4

45-49 101 23,9 88 22,1 81 20,9 86 21,5

50-54 76 18 68 17 59 15,2 69 17,3

55-59 64 15,2 74 15,6 58 14,9 72 18,1

Nhóm tuổi 60-64 52 12,3 60 15 12,4 46 11,5 48

1&2>* 1&3>* 2&4>* 3&4>*

65-69 38 9 38 9,5 10,8 38 9,5 42

70-74 35 8,3 32 8 10,3 38 9,5 40

75-79 27 6,4 22 5,5 7,5 27 5,8 29

≥80 29 6,9 17 4,3 8 23 6,8 31

CB-CCVC 113 26,8 95 23,8 84 21,6 113 26,8

Công nhân 135 32 139 34,8 121 31,2 135 32

Nông dân 86 20,4 84 21,1 46 11,9 86 20,4 Nghề nghiệp

1&2<* 1&3>* 2&4>* 3&4>*

93 Kinh doanh 39 9,2 29 7,3 24 39 9,2

44 Nội trợ 49 11,6 52 13 11,3 49 11,6

≤Tiểu học

≤THPT 117 27,7 178 44,6 115 29,6 192 48,1 Trình độ học vấn

Trung cấp 4,4 8,1 17 11 44 34 28 7 235 59,9 130 32,6 244 62,9 151 37,9 1&2>* 1&3<* 2&4>* 3&4>*

CĐ-ĐH 18 4,3 47 11,8 12 3,1 28 7

Tổng cộng 422 100 399 100 388 100 399 100

98

So sánh trước sau của nhóm can thiệp và đối chứng về giới tính, tuổi, nghề nghiệp,

trình độ học vấnđa số đều khác biệt không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.32. Phân bố phụ nữ can thiệp và đối chứngvề kinh nguyệt và số con

Người dân can thiệp Người dân đối chứng

Biến số Chỉ số P *=0,05 χ² Trước CT (1) n =422 Sau CT (2) n=399 Trước CT (3) n= 388 Sau CT (4) n= 399

SL % SL % SL % SL %

<16 111 46,1 103 48,4 111 49,8 106 49,8

1&2>* 1&3>* 2&4>* 3&4>*

Tuổi kinh ≥16 130 53,9 110 51,6 112 50,2 107 50,2

Rồi 188 78 166 77,9 177 79,4 168 77,9

1&2>* 1&3>* 2&3>* 3&4>*

Mãn kinh Chưa 53 22 47 22,1 46 20,6 45 21,1

<4 144 59,7 147 69 143 64,1 135 63,4 Số con

1&2>* 1&3>* 2&4>* 3&4>*

≥4 97 40,3 66 31 80 35,9 78 36,6

Tổng cộng 241 100 213 100 223 100 213 100

Tuổi kinh, mãn kinh và số con của phụ nữ nghiên cứu qua so sánh trước can thiệp

và sau can thiệp của các nhóm đều khác biệt không có ý nghĩa thống kê.

99

3.2.2.2. Hiệu quả can thiệp cộng đồng trên người dân từ 45 tuổi trở lên

1) Hiệu quả can thiệp vềnguồn và thông tin nhận đƣợc sau can thiệp

Bảng 3.33.Hiệu quả can thiệp về nguồn và thông tin nhận đƣợccủa ngƣời dân

Người dân can thiệp Người dân đối chứng P HQ

(1)SL=422

(2)SL=399

(3)SL=388

(4)SL=399

CT Biến Trước CT Sau CT Trước CT Sau CT Chỉ số χ² % số

SL % SL % SL % SL %

7 1,7 50 12,5 9 2,3 17 4,3 - 548 TX Nhận

1&3* thông 152 36 318 79,7 138 35,6 217 59,4 54,5 KTX 3&4* tin

7,8 241 62,1 165 41,3 1&3* 54 Không 263 62,3 31

126 29,9 74 18,6 115 29,6 56 14 14,9 Có Báo 1&3* 6,1 Không 296 70,1 325 81,4 273 70,4 343 86

Có 127 30,1 280 70,2 122 31,4 192 48,1 80 Ti-vi ** Không 295 69,9 119 29,8 266 68,6 207 51,9 33,1

2017

NV Có 10 2,4 213 53,4 20 5,2 43 10,8 3&4* YT Không 412 97,6 186 46,6 368 94,8 356 89,2 46,4

25 5,9 12 3 19 4,9 0 0 50,8 Có Sách 1&3* 369 95,1 399 100 2,2 Không 397 94,1 387 97

28 6,6 214 53,6 30 7,7 61 713 Có Khác 15,3 1&3* 3&4* 42,1 Không 394 93,4 185 46,4 358 92,3 338 84,7

422 100 399 100 388 100 399 100 Tổng cộng

* p>0,05, các so sánh còn lại p<0,05; ** tất cả các so sánh p<0,05.

Nhóm can thiệp thông tin nhận được thường xuyên tăng từ 1,7% lên 12,5%, hiệu

quả can thiệp trên nhận thông tin thường xuyên là 548%.Hiệu quả can thiệptrên

nguồn thông tin nhận được từ báo, ti-vi, nhân viên y tế, sách lần lượt là 14,9%,

80%, 2017%, 50,8%.

100

2) Hiệu quả can thiệp về kiến thức đúng và các nội dung thực hành

Bảng 3.34. Hiệu quả can thiệp về kiến thức đúng của ngƣời dân

Người dân can thiệp Người dân đối chứng Điểm trung

bình kiến HQ CT % Trước CT (1) SL=422 Sau CT (2) SL=399 Trước CT (3) SL=388 Sau CT (4) SL=399 thức đúng P χ² X % X % X % X %

Khái niệm

143,5 34,0 277 69,4 137,3 35,4 141,5 35,5 104 * loãng xương

Yếu tố nguy 83,6 19,8 237,6 59,6 74 19,1 148,2 37,1 107 * cơ về LX

Phòng bệnh 121,2 28,7 278,6 69,8 144,4 37,2 196,2 49,2 111 ** loãng xương

*p = 1&3>0,5, các so sánh còn lại p<0,05; **p<0,05 tất cả các so sánh.

Kiến thức đúng về khái niệm bệnh loãng xương tăng 35,4%, kiến thức đúng về các

yếu tố nguy cơ tăng 39,8%, kiến thức đúng về các biện pháp phòng bệnh tăng

41,1%. Hiệu quả can thiệp trên kiến thức đúng phòng bệnh loãng xương lần lượt là

111%.

101

Bảng 3.35. Hiệu quả can thiệp vềcác nội dung thực hành của ngƣời dân

Người dân can thiệp Sau CT Trước Người dân đối chứng Sau CT Trước CT

(3)SL=388

(4)SL=399

(2)SL=399

422

HQ CT % Biến số CT(1)SL= P χ²

SL % SL % SL % SL %

* Hút thuốc lá (lào) 82 19,4 88 22,1 67 17,3 120 30,1 60,1

Lạm dụng rượu * 39 9,2 18 4,5 32 8,3 30 7,5 41,5

12 2,8 5 1,3 13 3,4 13 3,3 ** 50,7 Sử dụng corticoid

* 38 9 0 0 31 8 2 0,5 6,2 Uống nhiều cà phê, nước có gas

Tập thể dục * 160 37,9 231 57,9 135 34,8 144 36,1 49,1

Tập thể thao 30 7,1 45 11,3 46 11,9 20 5 ** 117

Uống sữa * 114 27 110 27,6 86 22,2 72 18,1 20,7

* Uống viên can-xi 30 7,1 41 10,3 23 5,9 15 3,8 80,7

67 15,9 256 64,2 69 17,8 160 40,1 * 179 Ăn thức ăn giàu can-xi

97 23 268 65,2 71 18,3 115 28,8 * 126 Phòng tránh té ngã

121 28,7 221 55,4 92 23,7 73 18,3 * 116 Kiểm tra sức khỏe định kỳ

151 35,8 191 47,9 128 33 42 10,5 * 102 Chủ động nhận thông tin về LX

*p = 1&3>0,5, các so sánh còn lại p<0,05; ** p<0,05 tất cả các so sánh

Hiệu quả can thiệp cao nhất trên hành vi ăn thức ăn giàu can-xi (179%), hiệu

quả can thiệp trên hành vi uống sữa 20,7% và tập thể dục là 49,1%.

102

Bảng 3.36. So sánh trung bình BMD, điểm kiến thức, thực hành của ngƣời dân

Người dân can thiệp Người dân đối chứng

P

Trước CT (1) SL=422 Sau CT (2) SL=399 Trước CT (3) SL=388 Sau CT (4) SL=399 Biến số

X SD± X SD± X SD± X SD±

BMD 0,422 0,11 0,443 0,11 0,416 0,11 0,424 0,11 1&3* 3&4*

ĐiểmKT 5,1 6,2 13,2 5,1 4,96 6,3 7,7 5,4 1&3*

33,9 34,1 42,2 5,2 7,0 6,8 5,9 36,8 1&3*

ĐiểmTH Spearman´s test. (*) p>0,05, các so sánh còn lại p<0,05.

Trung bình BMD (X) tăng 0,021g/cm², trung bình điểm kiến thức tăng 8,1,điểm

thực hành tăng 8,3 sau can thiệp trong nhóm can thiệp, có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.37. Hiệu quả can thiệp về mật độ xƣơng, kiến thức và thực hành

Chỉ số Người dân can thiệp Người dân đối chứng Biến số

HQ CT % Trước CT (1)SL=422 Sau CT (2)SL=399 Sau CT (4)SL=399 Trước CT (3)SL=388

-

P χ² SL % SL % SL % SL %

LX 175 41,5 136 34,1 152 39,2 148 37,1 12,4

↓MĐX 155 36,7 140 35,1 154 39,7 164 41,1 7,9 MĐX 1&3* 3&4*

-

BT 92 21,8 123 30,8 82 21,1 87 21,8 38 1&3* 3&4*

Tốt 42 9,9 118 29,6 42 10,8 19 4,8 255

TB 62 14,7 149 37,3 60 15,5 71 17,8 139 Kiến thức 1&3* 3&4*

-

Kém 318 75,4 132 33,1 286 73,7 309 77,4 1&3* 61

Tốt 42 9,9 79 19,8 36 9,3 26 6,5 130

TB 40 9,5 114 28,6 42 10,8 72 18,1 133 Thực hành 1&3* 1&2*

Kém 340 80,6 206 51,6 310 79,9 301 75,4 1&3* 30,4

103

3&4*

* p>0,05, các so sánh còn lại p<0,05.

Sau can thiệp ở nhóm can thiệp tỷ lệ loãng xương giảm 7,4%, mật độ xương

bình thường tăng 9%, hiệu quả can thiệp trên tỷ lệ loãng xương là 12,4%. Kiến thức

tốt tăng 19,7%, thực hành tốt tăng 9,9%, hiệu quả can thiệp trên kiến thức tốt 255%

và thực hành tốt 130%.

3.2.2.3. Hiệu quả can thiệp bằng viên Calci-D ở người có mật độ xương thấp

Kết quả cho thấy số người dân nghiên cứu tại 4 phường, xã can thiệp bị loãng

xương là 41,7% và giảm mật độ xương 36,5%, tỷ lệ chung 78,2% (n=422). Tất cả

có 330 người đều được tư vấn và mời tham gia sử dụng thuốc Calci-D 2 viên/ngày

uống liên tục trong 2 năm. Có 313 người đủ điều kiện và đồng ý tham gia, trong đó

cung cấp thuốc cho 215 người (68,7%) và cá nhân tự túc thuốc là 98 người (31,3%).

36,1%

0%

Xã Tân Xuân H.Hóc Môn

63,9%

Số người CT

không đạt

48,8%

3,6%

Phường Hiệp Thành Q.12

47,6%

Số người CT tự

túc đạt

52,9%

0%

Phường 3 Q. Bình Thạnh

Số người CT đạt

47,1%

tiêu chí

49,4%

6,8%

Phường 5 Q. Gò Vấp

43,8%

0

20

40

60

Có 166 người dân đạt tiêu chí can thiệp (53%)

Biểu đồ 3.10. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân hoàn thành can thiệp Calci-D

Xã Tân Xuân huyện Hóc Môn có số ngườiđạt tiêu chí can thiệp cao nhất (63,9%) và

quận Gò Vấp có số người can thiệp tự túc thuốc cao nhất (6,8%).

104

Bảng 3.38.Chỉ số hiệu quảcan thiệp vềnhận thông tinở ngƣời có mật độ xƣơng

thấp

Chỉ số Trước can thiệp Sau can thiệp p Biến số CSHQ % SL % SL %

- Nhận Thường xuyên 2 1,2 35 21,8

thông Thỉnh thoảng 49 29,5 130 78,3 <0,01

tin Chưa từng 115 69,3 1 0,6 1717 165 99,1 <0,01

Tổng cộng 166 100 166 100

Fisher´s exact test

Tỷ lệ nhận thông tin thường xuyên về loãng xương tăng từ 1,2% lên 21,8%.

Bảng 3.39.Chỉ số hiệu quả can thiệp vềnguồn thông tin nhận đƣợc ở ngƣời có

mật độ xƣơng thấp

Chỉ số Trước can thiệp Sau can thiệp p Biến số CSHQ % SL % SL %

Báo 41 24,7 25 15,1 -38,9 Có <0,05 chí 125 75,3 141 -12,8 Không 84,9

37 22,3 101 60,8 173 Có Ti-vi <0,01 129 77,7 65 39,2 50 Không

2,4 157 94,6 3842 Có 4 NVYT <0,01 9 4,4 95,5 Không 162 97,6

7 4,2 -50 14 8,4 Có Sách >0,05 95,8 -4,6 Không 152 91,6 159

72 43,4 623 Có 10 6 Khác <0,01 94 56,6 39,8 Không 156 94

Tổng cộng 166 100 166 100

Fisher´s exact test

105

Nhận thông tin từ nhân viên y tế có chỉ số hiệu quả cao nhất(3842%). Kênh báo chí

và sách can thiệp không hiệu quả.

Bảng 3.40.Chỉ số hiệu quả can thiệp về kiến thức đúng ở ngƣời có MĐX thấp

Nội dung kiến thức đúng T Trước CTn=166 Sau CTn=166

p χ² Điểm X % Điểm X %

CS HQ % <0,05 202 Khái niệm về bệnh LX 45,5 27,4 137,5 82,8

Các yếu tố nguy cơ LX 27,7 16,7 115,1 69,3 <0,05 315

Các biện pháp phòng LX 42,2 25,4 143,8 86,6 <0,05 241

Kiến thức đúng về khái niệm bệnh loãng xương sau can thiệp tăng gấp ba lần, hiểu

biết về các yếu tố nguy cơ tăng từ 16,7% lên 69,3%, biết các biện pháp phòng bệnh

tăng từ 25,4% lên 86,6%. Hiệu quả can thiệp lần lượt là 202%, 315%, 241%.

Bảng 3.41. Chỉ số hiệu quả can thiệp về thực hành ở ngƣời có MĐX thấp

Thực hành Trước CT n=166 Sau CTn=166 p

CSHQ % Điểm X % Điểm X %

Hành vi có hại cho xương 18,3 11 6,8 4,1 <0,01 62,7

Hành vi có lợi cho xương 30 18,1 118,4 71,3 <0,01 294

Thực hành có lợicủa người dân tăng tỷ lệ, hành vi có hại giảm tỷ lệ sau can thiệp.

Chỉ số hiệu quả can thiệp trên hành vi có hại 62,7%, có lợi 294%.

Bảng 3.42. So sánh trung vị BMD, điểm kiến thức và thực hành ở ngƣời mật độ

xƣơng thấp trƣớc và sau can thiệp

Chỉ số Trước can thiệp(n=166) Sau can thiệp (n=166) Z p

Trung vị 25% 75% Trung vị 25% 75%

BMD 0,360 0,314 0,431 0,372 0,318 0,457 2,8 <0,01

Điểm KT 0 0 8 16,5 13 19 11 <0,01

Điểm TH 34 31 37 47 44 50 11,2 <0,01

Mann-Whitney test.

Trung vị BMD của người dân nghiên cứu gia tăng từ 0,36 g/cm² lên 0,372 g/cm²

sau can thiệp, có ý nghĩa thống kê p<0,01. So sánh trước và sau can thiệp, trung vị

106

điểm kiến thức của người dân nghiên cứu tăng từ 0 đến 16,5 điểm và điểm thực

hành tăng từ 34 đến 47 điểm, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,01.

Bảng 3.43.Chỉ số hiệu quả can thiệp vềtỷ lệ loãng xƣơng ở ngƣời có mật độ

xƣơng thấp

Biến số Trước can thiệp Sau can thiệp

CSHQ % p1 SL % SL %

<0,01 108 65,1 86 51,8 Loãng xương

20,4 <0,01 58 34,9 64 38,6 Giảm MĐX

- 0 0 16 9,6 Bình thường

100 Tổng cộng 166 100 166

Fisher´s exact test

Tỷ lệ loãng xương sau can thiệp giảm từ 65,1% xuống 51,8% và có 9,6% số

người giảm mật độ xương trở về bình thường, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê

p<0,01. Chỉ số hiệu quả can thiệp trên tỷ lệ loãng xương là 20,4%.

Bảng 3.44.Chỉ số hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành ở ngƣời có mật

độ xƣơngthấp

Chỉ số Trước can thiệp Sau can thiệp p Biến số CSHQ %% χ² SL % SL %

Tốt 18 10,8 80 48,2 <0,05 346,3 Kiến Trung bình 18 10,8 48 28,9 <0,05 167,6 thức Kém 130 78,4 38 22,9 <0,05 70,8

Tốt 7 4,2 101 60,8 1347,6 <0,05 Thực Trung bình 8 4,8 24 14,5 <0,05 202 hành Kém 151 91 41 24,7

<0,05 72,9 Tổng cộng 166 100 166 100

Kiến thức tốttăng từ 10,8% lên 48,2%, kiến thức trung bình tăng từ 10,8% lên

28,9%, chỉ số hiệu quảlần lượt là 346,3 % và 167,6%. Thực hành tốt tăng từ 4,2%

107

lên 60,8%, thực hành trung bình tăng từ 4,8% lên 14,5%, chỉ số hiệu quả lần lượt là

1347,6% và 202%. Tất cả so sánh đều có ý nghĩa thống kê (p<0,05)

Chƣơng 4

BÀN LUẬN

4.1. TỶ LỆ LOÃNG XƢƠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƢỜI

DÂN TỪ 45 TUỔI TRỞ LÊN TẠI TPHCM

4.1.1.Đặc điểm chung của ngƣời dân nghiên cứu trƣớc can thiệp

Nghiên cứu được tiến hành trên 989 người dân từ 45 tuổi trở lên, trong đó nữ

có tỷ lệ 57,2% và nam 42,8%. Tuổi trung bình của người dân nghiên cứu là 59,9 (±

11,2) và phân chia theo giới thì tuổi trung bình của nam là 60,5 (±11,6), nữ 59,5 (±

11).Theo thiết kế nghiên cứu tuổi được chia thành 8 nhómphân tích, kết quả cho

thấy với phương pháp chọn mẫu hệ thống người dân tham gia vào nghiên cứu có tỷ

lệ tương đương về độ tuổi và giới tính so với thực tế trong cộng đồng. Các nhóm

tuổi bao gồm: 45-49, 50-54, 55-59, 60-64, 65-69, 70-74, 75-79, ≥80 có tỷ lệ lần lượt

là: 22,4%, 16,7%, 15,4%, 12,7%, 9,8%, 9,2%, 6,7%, 7,1%.

Về độ tuổi của người dânđược chọn để nghiên cứu từ 45 trở lên bởi vì bắt

đầu từ tuổi này đã có sự mất dần đi khối lượng xương và là thời điểm rất cần thiết

phải can thiệp phòng chống loãng xương khi mà ở tuổi trẻ hơn nhiều người dân

chưa tạo được khung xương có mật độ xương đỉnh tốt nhất. Bên cạnh đó, trong

phân tích kết quả chúng ta có thể so sánh mật độ xương ở nhóm phụ nữ tiền mãn

kinh và hậu mãn kinh do tốc độ mất xương gia tăng rất nhanh 5 năm đầu sau mãn

kinh. Mộtnghiên cứu tác động chi phí và sức khỏe về gãy xương do loãng xương

cho biết, ước tính ở Mỹ đầu thế kỷ 21 có đến 5,2 triệu trường hợp bị gãy xương bao

gồm: xương hông, xương đốt sống hoặc cổ tay trong quần thể dân số từ 45 tuổi trở

lên [114]. Ở phụ nữ trên 45 tuổi, bệnh loãng xương chiếm nhiều thời gian điều trị

trong bệnh viện hơn những loại bệnh khác bao gồm cả bệnh tiểu đường, nhồi máu

cơ tim và ung thư vú [69]. Như vậy, những người tuổi từ 45 trở lên, đặc biệt ở nữ

giới là đối tượng có nguy cơ bệnh loãng xương và biến chứng gãy xương.Cho nên,

108

việc tổ chức thực hiện các biện pháp phòng bệnh từ nhóm tuổi này sẽ tốt hơn cho

sức khỏe xương so với nhóm tuổi lớn hơn.

Việc phân định mỗi nhóm tuổi là 5 năm trong nghiên cứu này nhằm mục

đích mô tả thực trạng bệnh và những yếu tố liên quan mà đặc điểm riêng của từng

nhóm hiện có, nhất là sự đáp ứng của người dân nghiên cứu trong từng nhóm tuổi

sau quá trình thực hiện những biện pháp can thiệp phòng chống loãng xương. Trong

thực tế, ở mỗi nhóm tuổi có những đặc điểm khác nhau về sinh học, tiền sử bệnh tật,

về công việc mưu sinh, về mức độ hoạt động cơ thể...Cụ thể, nhóm tuổi từ 45 đến

49 với đặc điểm là bắt đầu bước qua tuổi trung niên, có nhiều biến đổi sinh học ảnh

hưởng đến sức khỏe và nhất là ở phụ nữ đây là thời kỳ tiền mãn kinh; Nhóm tuổi từ

50 đến 54 thì ở phụ nữ hầu như đã mãn kinh và có nhiều ảnh hưởng do suy giảm

estrogen dẫn đến giảm nhanh mật độ xương; Nhóm tuổi từ 55 đến 64 là giai đoạn

đầu tiên của tuổi già, có đặc điểm chung của cuộc sống những người hưu trí, sau

thời kỳ lao động cống hiến cho xã hội và lũy tích rất nhiều yếu tố phơi nhiễm trong

cuộc sống; Nhóm tuổi từ 80 trở lên là nhóm tuổi rất già, phần lớn sức khỏe không

tốt, lũy tích nhiều bệnh tật, thường sống phụ thuộc, cần có sự trợ giúp về sinh hoạt

và đặc biệt biến chứng gãy xương do loãng xương chiếm tỷ lệ cao, ảnh hưởng chất

lượng cuộc sống.

Về thể trạng chung của người dân nghiên cứu kết quả cho thấy trung bình

BMI ở nam giới là bình thường (22,6 kg/m²) và ở nữ thì thừa cân nhẹ (23,7

kg/m²).Nghề nghiệp của người dân nghiên cứu được xếp vào 5 nhóm: cán bộ công

chức, công nhân, nông dân, kinh doanh và nội trợ có tỷ lệ lần lượt là 25,6%, 32,8%,

13,5%, 16% và 12,1%, như vậy tại địa phương nghiên cứu nghề nông có tỷ lệ khá

cao. Về trình độ học vấn của người dân nghiên cứu cho thấy kết quả tỷ lệ học vấn

thấp, trình độ tiểu học hơn phân nửa (55,6%), trung học cơ sở đến trung học phổ

thông có tỷ lệ 32,2%, trung cấp 6,3% và cao đẳng đại học là 5,9%.

4.1.2. Tỷ lệ loãng xƣơng của ngƣời dân trƣớc can thiệp

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ loãng xương chung là 39,9%, trong đó loãng

xương nặng là 7,4% (có 18,3% người loãng xương đã bị gãy xương trước đây),

38,1% giảm mật độ xương và chỉ có 22% người dân nghiên cứu có mật độ xương

109

bình thường. Đây là tỷ lệ bệnh khá cao so với nhiều nghiên cứu khác.Một nghiên

cứu tại Thái Bình trên phụ nữ tuổi từ 40 đến 65 đo mật độ xương bằng siêu âm

xương quay cho kết quả thấp hơn, tỷ lệ loãng xương là 20,8% và giảm mật độ

xương là 29,9% [24]. Tuy nhiên, tuổi của phụ nữ nghiên cứu cao nhất chỉ ở 65 trong

khi tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 59,5. So sánh tỷ lệ loãng

xương của người Trung Quốc trên 50 tuổi thì ở nữ giới 40,1% gần bằng với kết quả

của chúng tôi (41,5%), nhưng so với nam giới thì ở người Trung Quốc thấp hơn

nhiều (22,5% so với 37,8%) [70]. Tại TPHCM, Hồ Phạm Thục Lan và cộng sự

nghiên cứumật độ xương ở cổ xương đùi đo bằng phương pháp DXA trên người

trưởng thành vào năm 2010, tỷ lệ loãng xương ở nữ là 43,7% và như vậy tỷ lệ này

cao hơn mặc dù tuổi người dân nghiên cứu thấp hơncủa chúng tôi [16].Một nghiên

cứu tại Cà Mau ở người từ 50 tuổi trở lên có tỷ lệ loãng xương là 21,53% [44] và tỷ

lệ này chỉ bằng phân nửa nghiên cứu của chúng tôi và tác giả Hồ Phạm Thục Lan.

Trung bình BMD của người dân nghiên cứu là 0,42 g/cm² (± 0,11), nam giới

0,484 g/cm² (± 0,09) và nữ giới 0,371 g/cm² (± 0,09). Kết quả trung bình BMD của

người loãng xương là 0,334 g/cm² (± 0,08), ở nam giới 0,402 g/cm² (± 0,07), nữ

giới 0,287 g/cm² (± 0,05). Theo kết quả khảo sát tại Trung tâm Chấn thương chỉnh

hình TPHCM năm 1998, qua đo mật độ xương ở cổ tay bằng máy DTX-200 thì

trung bình BMDở 255 phụ nữ từ 51-70 tuổi là 0,344 g/cm² [43]. Như vậy, BMDnày

thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi, có thể do người dân đến khám là những người

đã có bệnh về xương khớp. Tuy nhiên, một nghiên cứu đo BMD ở phụ nữ Mỹ (50-

70 tuổi) bằng DXA ngoại biên tương tự nghiên cứu của chúng tôi có BMD trung

bình là 0,489 ±0,113g/cm², cao hơn kết quả của chúng tôi [80]. Điều này phù hợp

với nhiều nghiên cứu cho rằng ở phụ nữ Mỹ da trắng, Mỹ gốc Phi có mật độ xương

cao hơn phụ nữ Châu Á.

4.1.3. Một số yếu tố liên quan đến mật độ xƣơng của ngƣời dân nghiên cứu

Những yếu tố liên quan trong nghiên cứu được đưa vào mô hình hồi quy logistic đa

biến cho kết quả có 4 yếu tố liên quan không có ý nghĩa thống kê đó là yếu tố địa

dư, trình độ học vấn, gãy xương do chấn thương nhẹ và hút thuốc lá. Kết quả này

cho thấy, mặc dù địa dư và trình độ học vấn nơi nghiên cứu có vùng nội đô, ven đô

110

và nông thôn, nhưng tỷ lệ loãng xương các vùng không khác biệt có ý nghĩa thống

kê. Điều này có lẽ do người dân nghiên cứu từ tuổi trung niên trở lên, những người

này đã sống qua thời gian chiến tranh và điều kiện địa dư cũng như học vấn gần như

tương đồng với nhau. Việc yếu tố hút thuốc lá và gãy xương do chấn thương nhẹ

không liên quan đến loãng xương có thể do cỡ mẫu còn thấp, hút thuốc lá chủ yếu

chỉ ở nam giới. Đây là điểm hạn chế của đề tài. Tuy nhiên, trên phân tích đơn biến

thì trình độ học vấn và gãy xương do chấn thương nhẹ liên quan có ý nghĩa thống

kê p <0,05.

4.1.3.1. Liên quan tình trạng mật độ xương với giới tính

Theo kết quả nghiên cứu thì tỷ lệ mật độ xương bình thường ở nam và nữ gần

tương đương nhau, tuy nhiên tỷ lệ loãng xương thì ở nữ cao hơn nam giới (41,5%

so với 37,8%) và nam giới nguy cơ bị loãng xương chỉ bằng phân nửa nữ giới (95%

CI: 0,3-0,9), liên quan này có ý nghĩa thống kê p<0,05. Khi phân tích tình trạng

loãng xương theo giới và nhóm tuổi cho thấy ở 3 nhóm tuổi đầu tỷ lệ loãng xương ở

nam giới lại cao hơn nữ giới (45-49 tuổi: nam 10,2%, nữ 4,8%; 50-54 tuổi: nam

17,5%, nữ 13,7%; 55-59 tuổi: nam 34,3%, nữ 28,2%). Tuy nhiên, ở những nhóm

tuổi càng lớn thì tỷ lệ nữ bị loãng xương càng cao hơn nam (60-64 tuổi: nam 42,5%,

nữ 59,5%; 65-69 tuổi: nam 46,1%, nữ 72,4%). Tuổi mãn kinh trung bình của phụ nữ

nghiên cứu là 48,3 và nhóm tiền mãn kinh (45-49 tuổi) tỷ lệ loãng xương chỉ có

4,8% nhưng 5 năm sau mãn kinh (50-54 tuổi) tỷ lệ loãng xương đã tăng đến 13,7%.

Điều này cho thấy phụ nữsau mãn kinh tốc độ mất xương gia tăng rất nhanh và dễ

bị mất khối xương hơn nam giới vì cơ thể họ sản xuất ít estrogen. Sự khác biệt giữa

nam và nữ có thể do ảnh hưởng của các hormone sinh dục trên bộ xương, một

phần là do độ chắc của xương khác nhau vốn là một trong những yếu tố bệnh sinh

chủ yếu của gãy xương do loãng xương [63]. Một nghiên cứu hồi cứu trên các cơ

sở y tế quốc gia từ dữ liệu Bảo hiểm y tế của Đài Loan đã đánh giá tỷ lệ gãy xương

hông từ năm 1996đến năm 2000, tỷ lệ gãy xương hông tăng lên cùng với tuổi tác và

phụ nữ cao gấp 1,6 lần hơn nam giới trong tất cả các độ tuổi [125]. Tương tự kết

quả nghiên cứu của chúng tôi, tại Hoa Kỳ tỷ lệ loãng xương ở nữ giới cao gấp hai

tới ba lần nam giới bởi vì sự mất xương tăng nhanh sau mãn kinh do bởi sự giảm

111

lượng estrogen trong cơ thể [54]. Với những số liệu thống kê trên đã cho thấy nữ

giới chịu ảnh hưởng loãng xương và biến chứng luôn cao hơn nam giới.

4.1.3.2. Liên quan tình trạng mật độ xương với tuổi

Trên biểu đồ 3.4, 3.5 cho thấy BMD có tương quan tuyến tính với tuổi, phân

tích Spearman có hệ số tương quan rho= -0,53 ở nam giới và rho = -0,68 ở nữ

giới,là tương quan nghịch biến mức độ chặt chẽ (nữ hơn nam), tuổi càng cao thì

BMD càng giảm. Theo kết quả phân tích thì tỷ lệ loãng xương tăng dần theo nhóm

tuổi: 45-49; 50-54; 55-59; 60-64; 65-69; 70-74; 75-79; ≥ 80 lần lượt là 7,2%;

15,2%; 30,9%; 53,2%, 61,9%, 70,3%, 84,8% và 85,7%. Tuổi càng cao thì khả năng

mắc bệnh càng cao, sự liên quan có ý nghĩa thống kê p<0,05. Giai đoạn tăng tỷ lệ

loãng xương cao nhất là từ 55-64 tuổi và tăng chậm khi từ 75 tuổi trở lên. Nhóm

tuổi từ 55-59 có nguy cơ mắc loãng xương gấp 6 lần nhóm tuổi 45-49, (95% CI:

2,8-13,2; p<0,05). Nghiên cứu của Phạm Văn Tú và cộng sự cho kết quả mật độ

xương gót và xương cẳng tay có mối liên quan tuyến tính với tuổi, tuổi càng cao thì

mật độ xương càng giảm [39]. Nguyễn văn Tuấn cho rằng tỷ lệ mắc gãy xương

hông tăng lũy tiến theo độ tăng của tuổi, bất kể giới tính, vùng địa dư, nhóm chủng

tộc. Các nghiên cứu dịch tễ học đã tái xác định yếu tố nguy cơ này. Cứ tăng lên mỗi

5 năm tuổi thì nguy cơ gãy xương hông ở người phụ nữ có tuổi tăng từ 1-4 đến 1-8

lần [40].

4.1.3.3. Liên quan tình trạng mật độ xương với nghề nghiệp và học vấn

Tỷ lệ loãng xương ở năm nhóm nghề từ thấp đến cao là cán bộ, công chức, viên

chức 28,5%, nội trợ 37,5%, kinh doanh 42,4%, công nhân 44,1% và nông dân

50,8%. Phân tích liên quan cho thấy công nhân nguy cơ bị loãng xương gấp 2 lần so

với cán bộ, công chức, viên chức (95% CI: 1,4-2,8; p<0,05) và nông dân nguy cơ

gấp 2,6 lần (95% CI: 1,7-4; p<0,05). Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của

Vũ Thị Thu Hiềnlà phụ nữ mãn kinh ở nông thôn có mật độ xương thấp hơn ở thành

thị [8]. Một nghiên cứu tại Cần Thơ vào năm 2011 về khảo sát tình hình loãng

xương ở người cao tuổi cho thấy nghề nghiệp là cán bộ, công chức, viên chức có tỷ

lệ loãng xương thấp nhất nhưng nhóm thấp thứ hai lại là nông dân và cao nhất thuộc

nhóm nghề kinh doanh [6]. Lý giải vì sao cán bộ, công chức, viên chức thường làm

112

việc văn phòng, tĩnh tại nhưng các cuộc khảo sát thường có tỷ lệ bệnh thấp là do cán

bộ, công chức, viên chức tham gia tập thể dục thể thao nhiều hơn (trong nghiên cứu

này có 63,6%cán bộ, công chức, viên chứctập thể dục thể thao, trong khi nông dân

chỉ có 26,1%), có kiến thức phòng bệnh tốt và dinh dưỡng hợp lý hơn.

Liên quan đến yếu tố học vấn,trên thống kê mô tả cho thấy nhóm có học vấn

tiểu học có tỷ lệ loãng xương 51,3%, trung học cơ sở và phổ thông là 29,2%, trung

cấp 19,3% và cao đẳng đại học 13,8%.Mặc dù trên phân tích hồi quy đa biến thì đây

là yếu tố nhiễu (p=0,26), nhưng kết quả phân tích đơn biến cho thấy người có học vấn

cao đẳng đại học nguy cơ bị loãng xương chỉ bằng 0,15 lần người có học vấn tiểu học

(95% CI:0,07-0,33) và liên quan này có ý nghĩa thống kê p<0,05.Trình độ học vấn

nói lên sự hiểu biết của người dân về mọi lĩnh vực trong đó có vấn đề phòng ngừa

bệnh tật và dinh dưỡng hợp lý, trình độ học vấn càng cao càng có kiến thức về bệnh

loãng xương, do đó phòng bệnh tốt hơn. Theo Nguyễn Văn Tuấn, trong công tác

phòng ngừa bệnh tật nói chung và loãng xương nói riêng, giáo dục về nhận thức của

quần chúng về ý nghĩa, tầm vóc và hệ quả của bệnh tật là một khâu quan trọng, chính

yếu cho sự thành công của chương trình can thiệp cộng đồng [40].

4.1.3.4. Liên quan tình trạng mật độ xương với BMI, chiều cao, cân nặng

Kết quả nghiên cứu cho thấy tương quan giữa BMD với BMI, cân nặng và chiều

cao là đồng biến, nhưng với BMI (rho= 0,18) tương quan mức độ yếu trong khi cân

nặng và chiều cao (rho= 0,51 và 0,57) là tương quan chặt chẽ, có ý nghĩa thống kê

p<0,05. Liên quan đến tình trạng loãng xương qua phân tích đơn biến cho thấy tỷ lệ

loãng xương lần lượt ở nhóm gầy 68,7%, bình thường 45,9%, thừa cân 34,1% và

béo phì là 29,3%, người gầy có nguy cơ bị loãng xương gấp 2,6 lần người bình

thường (95% CI: 1,5-4,5; p<0,05), nhưng đối với người béo phì nguy cơ chỉ phân

nửa (95% CI: 0,4-0,7; p<0,05). Kết quả phân tích người dân nghiên cứu bị giảm

chiều cao (≥ 5cm) cho thấy người có giảm chiều cao tỷ lệ loãng xương 88,4%,

người không có thì tỷ lệ 21,1%, nguy cơ loãng xương của người giảm chiều cao gấp

28,7 lần người không giảm (95% CI: 17-48,3; p<0,05).Thiếu cân là một yếu tố nguy

cơ cao cho bệnh loãng xương bởi vì trọng lượng cơ thể thấp có liên quan với mật độ

xương đỉnh thấp hơn trong giai đoạn phát triểnxương của tuổi trẻ và tăng nguy cơ

113

gãy xương ở người già. Một nghiên cứu đánh giá nguy cơ loãng xương ở phụ nữ

miền Bắc Việt Nam từ 50 tuổi trở lên cho kết quả phụ nữ nhẹ hơn 45 kg là có nguy

cơ loãng xương [100].

Vũ Thị Thanh Thủy nghiên cứu bệnh chứng ở phụ nữ mãn kinh đã xác định được 6

yếu tố liên quan đến nguy cơ xẹp lún đốt sống do loãng xương sau mãn kinh, trong

đó có chiều cao ≤ 145cm, cân nặng ≤ 41kg [34],[35]. Theo Nguyễn Văn Tuấn và

Nguyễn Đình Nguyên, mối quan hệ giữa các chỉ số nhân trắc đối với nguy cơ gãy

xương thì xác định nhóm người có chiều cao cao hơn, cân nặng thấp hơn và trọng

lượng mỡ của cơ thể thấp hơn là những yếu tố nguy cơ gãy xương hông ở người

phụ nữ. Giải thích vấn đề này có thể do người có chiều cao cao hơn thì cổ xương

đùi cũng dài hơn, khả năng chịu lực kém hơn và dễ bị gãy khi có tác động đối lực.

Với những người có trọng lượng mỡ và chỉ số BMI cao, có mật độ phân bố mỡ ở

vùng hông, cụ thể là quanh đầu trên xương đùi nhiều, chúng có vai trò là chiếc gối

đệm bảo vệ đầu trên xương đùi giảm hoặc triệt tiêu lực va chạm, nên giảm nguy cơ

gãy xương. Và ngược lại, những người có trọng lượng cơ thể thấp thì mật độ mỡ

quanh đầu trên xương đùi thấp nên tăng nguy cơ gãy xương [41].

4.1.3.5. Liên quan tình trạng mật độ xương với kinh nguyệt và số con

Kết quả phân tích cho thấy BMD với tuổi có kinh và số con của phụ nữ

nghiên cứu có tương quan nghịch biến ở mức độ yếu và trung bình (rho của

Spearman test là -0,19 và -0,35). Đối với tuổi mãn kinh thì BMD có tương quan

đồng biến ở mức yếu (r của Spearman test = 0,15), có ý nghĩa thống kê p<0,01. So

sánh giữa nhóm người tuổi có kinh muộn (≥16 tuổi) loãng xương 50,4% và nhóm

người không có kinh muộn (<16 tuổi) loãng xương 33,5%, nguy cơ loãng xương

khi có kinh muộn là gấp đôi (95% CI: 1,4-2,9; p<0,05). Tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ

mãn kinh là 52,6%, mãn kinh sớm có nguy cơ loãng xương gấp 1,9 lần so với người

mãn kinh sau 45 tuổi (95% CI: 1,04-3,48; p<0,05), phụ nữ đã mãn kinh nguy cơ

loãng xương gấp đôi phụ nữ chưa mãn kinh và phụ nữ sinh nhiều con nguy cơ loãng

xương gấp 3 lần người sinh <4 con, có ý nghĩa thống kê p<0,01.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của một số tác giả.

Theo Vũ Thị Thanh Thủy, Trần Ngọc Ân thì những yếu tố nguy cơ loãng xương sau

114

mãn kinh của người Việt Nam là mãn kinh ≤ 43 tuổi, thời gian mãn kinh ≥ 21 năm,

phụ nữ sinh từ 4 con trở lên có liên quan đến xẹp đốt sống[34],[35]. Nghiên cứu

bệnh-chứng về các yếu tố nguy cơ của loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh, tác giả

Mai Thị Công Danh cho rằng dậy thì trước tuổi16 sẽ giảm nguy cơ loãng xương [4].

Một nghiên cứu khác với đối tượng là phụ nữ trên 45 tuổi tại một quận nội thành

TPHCM năm 2008, kết quả cho thấy tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinhlà

37,2%, tuổi càng tăng, tuổi có kinh càng muộn thì tỷ lệ bệnh loãng xương càng cao

(tuổi từ 46-55 tỷ lệ loãng xương 31,6%, trên 75 tuổi là 62,6%)[9]. Năm 2003 tại Hà

Nội, Nguyễn Thị Lực đã tiến hành khảo sát mật độ xương trên 840 phụ nữ đến

khám tại Bệnh viện E. Phân tích kết quả cho thấy mật độ xương giảm dần và giảm

mạnh sau tuổi mãn kinh.Tỷ lệ loãng xương tăng dần ở tuổi sinh đẻ là 5%, tiền mãn

kinh 32% và mãn kinh 63% [20].Nghiên cứu tại thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang)

cũng cho kết quả là thời gian mãn kinh ở phụ nữ và tình trạng loãng xương có mối

liên quan có ý nghĩa thống kê (p<0,01) [7]. Tình trạng sinh đẻ nhiều lần, nuôi con

bằng sữa mẹ mà không ăn uống đủ chất đặc biệt là protid và can-xi để bù đắplà

nguy cơ dẫn đến loãng xương.

4.1.3.6. Liên quan tình trạng mật độ xương với lối sống

Uống sữa: ở nhóm có thói quen uống sữa (≥2 ly/ngày) tỷ lệ loãng xương 23,7%,

nhóm không có thói quen uống sữa loãng xương 42,5% và có nguy cơ bị loãng

xương gấp 2,4 lần người uống sữa, có ý nghĩa thống kê với (95% CI: 1,4-4,1; p

<0,05). Theo kết quả phân tích thì người dân nghiên cứu là nam giới có tỷ lệ uống

sữa thấp hơn nữ giới hơn 3,5 lần, điều này cho thấy nữ giới thực hành dinh dưỡng

phòng bệnh tốt hơn nam và cũng giải thích một phần vì sao ở 3 nhóm tuổi đầu tiên

của nghiên cứu này tỷ lệ loãng xương ở nữ lại thấp hơn nam. Kết quả khảo sát mật

độ xương ở phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh miền Tây cho thấy người

ăn uống thức ăn giàu can-xi có tỷ lệ loãng xương thấp (9,8%), người có chế độ ăn

thiếu can-xi bệnh loãng xương có tỷ lệ 34,4% [1]. Uống sữa có liên quan đến mật

độ xương, những người không có thói quen uống sữa mật độ xương thấp. Sữa là

nguồn thực phẩm có chứa can-xi cao, nguồn Vitamin D và hấp thu can-xi tốt

nhất.Một nghiên cứu nhằm xác định sự liên quan giữa nồng độ can-xi máu và mật

115

độ xương cho kết quả người có can-xi máu thấp thì có mật độ xương thấp và tỷ lệ

loãng xương cao hơn người có can-xi máu bình thường và liên quan có ý nghĩa

thống kê [38]. Theo tác giả Nguyễn Thị Kim Hưng, Việt Nam là một trong các quốc

gia sử dụng sữa thấp nhất thế giới, trung bình chỉ có 4g/người/ngày (Campuchia

5,8g, Lào 17,3g, Thái Lan là 37,2g, Malaysia 107,6g, Nhật Bản128,4g, Úc 574g và

Mỹ là 600g) [11].

Thể dục thể thao: Tỷ lệ loãng xương ở người có tập thể dục thể thao là 22,9%,

người không tập 53,9%, nguy cơ loãng xương ở người tập thể dục thể thao chỉ bằng

0,3 lần so với những người không tập (95% CI: 0,2-0,3; p<0,05). Nghiên cứu của

Nguyễn Thị Hoài Châu cũng cho kết quả người lao động thể lưc ít tỷ lệ loãng

xương 67,4%, người lao động nhiều loãng xương chỉ có 26% [1]. Vận động thể lực

là biện pháp làm gia tăng sức mạnh của cơ bắp và của hệ xương khớp. Điều này dễ

nhận thấy hơn khi quan sát trường hợp bất động thì cơ bắp bị teo và hệ xương bị

suy kiệt.Những người có một lối sống ít vận động hơn có nhiều khả năng bị

gãyxương hông hơn những người thường xuyên vận động. Chẳng hạn, phụ nữ ngồi

hơn chín giờ một ngày thì có 50% khả năng bị gãy xương hông hơn những người

ngồiít hơn sáu giờ một ngày [64],[74]. Tập thể dục thường xuyên cũng đã được

chứng minh để giúp bảo vệ chống lại loãng xương, gãy xương liên quan đến loãng

xương và cũng có thểgiúp phục hồi chức năng ở tuổi trưởng thành. Một cuộc khảo

sát mối liên quan giữa vận động thể lực và loãng xương ở phụ nữ mãn kinh tại Tiền

Giang, kết quả cho thấy nhóm phụ nữ thường xuyên vận động có mật độ xương

thấp là 19,6% trong khi nhóm không vận động chiếm tới 35,5% và vận động có mối

liên quan đến loãng xương [7].

Lạm dụng rƣợu bia: người dân nghiên cứu không lạm dụng rượu bia tỷ lệ loãng

xương là 38,4%, có lạm dụng rượu bia thì tỷ lệ 58,4% và nguy cơ loãng xương gấp

2,3 lần (95% CI: 1,4-3,6; p<0,05).Uống rượu vừa phải sẽkhông gây hại choxương,

ngược lại uống rượu mức độ cao hơn (hơn 2 đơn vị tiêu chuẩn rượu hàng ngày)sẽ

đưa đến gia tăng đáng kể nguy cơ gãy xương hông và các xương khác do loãng

xương. Uống rượu quá mức sẽ có tác động trực tiếp gây tổn thương trên các tế bào

tạo xương và ảnh hưởng trên các nội tiết tố điều chỉnh sự trao đổi chất can-xi.Từ sự

116

thiếu hụt can-xi,tuyến cận giáptiết ra Parathyroid hormone làm giảm dự trữcan-xi ở

xương. Cân bằng can-xisẽ tiếp tụcbị tác động bất lợibởikhả năngcủa rượulàm ảnh

hưởng đếnsản xuấtmộtsố vitamincần thiết chosự hấp thụ can-xi.Ngoài ra,uống nhiều

rượukéo dàicó thể gây rasự thiếu hụtnội tiết tốở nam giới (testosterone) vànữ giới

(estrogen). Tuy nhiên, theo báo cáo của một nghiên cứu về chuyển hóa xương trên

người uống rượu là phụ nữ tuổi từ 65 đến 77. Kết quả cho thấy nếu sử dụng một

lượng rượu vừa phải thì những người uống rượu có mật độ xương cao hơn người

không uốngtại cột sống10%, toàn cơ thể 4,5% và giữa xương quay 6% [107].

Ngược lại,một nghiên cứu từChâu Âu, Bắc Mỹ và Úc cho thấy nếu uống hơn hai

đơn vị rượu mỗi ngày có thể tăngnguy cơ gãy xương hông do loãng xương ở cả nam

giớivà phụ nữ, nếu uống hơn 4 đơn vị rượu mỗi ngày (25ml alcohol 40% = 1đơn vị)

sẽ tăng nguy cơ lên gấp đôi [67]. Tại Anh, có 40% nam giới và 23% phụ nữ tiêu thụ

rượu hàng ngày hơn mức khuyến nghị, tức là hơn 4 đơn vị mỗi ngày ở nam giới và

hơn 3 đơn vị mỗi ngày ở phụ nữ [98].

4.1.3.7.Liên quantình trạng mật độ xương với sử dụng thuốc và tiền sử bệnh

Sử dụng corticoid: có liên quan đến loãng xương, trong nghiên cứu này có 38,8%

ở nhóm không dùng corticoid bị loãng xương,80,8% người sử dụng corticoid bị

loãng xương và nguy cơ bệnh gấp 6,6 (95% CI: 2,4-17,9; p<0,05). Điều này phù

hợp với y văn và các nghiên cứu tại Việt Nam. Theo tác giả Nguyễn Thy Khuê, mật

độ xương giảm nhanh và nhiều trong những năm đầu sau khi dùng corticoid mà

nguyên nhân một phần là do liều lượng cao khi bắt đầu liệu trình. Kết quả một

nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng cho thấy sử dụng prednison 7,5 mg/ngày có thể

làm giảm mật độ xương. Corticoid làm tăng nguy cơ gãy xương bất kỳ lên 1,91 lần,

nguy cơ gãy cổ xương đùi lên 2,01 lần, xẹp đốt sống lên 2,86 lần và gãy xương

cẳng tay lên 1,13 lần [14].Nguyễn Văn Thọ đã tiến hành khảo sát mật độ xương

bằng phương pháp DXA ở bệnh nhân dùng kéo dài corticosteroid dạng hít, kết quả

có 34% bệnh nhân hen và bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính dùng corticoid dạng hít kéo

dài bị loãng xương. Tỷ lệ này tăng lên 66% ở nhóm  60 tuổi, 52% ở nhóm nữ mãn kinh, 64% ở nhóm BMI < 18,5 kg/m2 và 61% ở nhóm dùng corticoid toàn thân ngắn

hạn trong đợt kịch phát.Tỷ lệ loãng xương tương quan với lớn tuổi, mãn kinh, thiếu

117

cân, dùng corticoid toàn thân ngắn hạn (p<0,05) [31].Corticoid là nguyên nhân

thường thấy nhất gây loãng xương thứ phát, đặc biệt là trong 6 -12 tháng đầu sử

dụng. Liều tối thiểu prednison gây mất xương chưa được biết, nhưng một số nghiên

cứu gần đây cho rằng chỉ 2,5 mg prednison/ngày (uống hay dạng hít) có thể gây mất

xương [90],[117].

Gãy xƣơng do chấn thƣơng nhẹ: Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm không

gãy xương bị loãng xương 40%, nhóm có gãy xương bị loãng xương 76,5%, nhóm

bị loãng xương có tỷ lệ gãy xương 9,9%, nhóm không bị loãng xương tỷ lệ gãy

xương là 2%.Trên phân tích đơn biến thì nguy cơ loãng xương ở người có gãy

xương do chấn thương nhẹ gấp 5,3 lần so với người không gãy (95% CI: 2,7-10,4;

p<0,05). Tuy nhiên, kết quả phân tích trên mô hình hồi quy đa biến thì gãy xương

do chấn thương nhẹ không có liên quan loãng xương (p=0,17), điều này có thể do

mẫu nghiên cứu còn thấp. Gãy xương do loãng xương được xác định là các gãy

xương xảy ra do các sang chấn tối thiểu (nghĩa là do ngã trong tư thế đứng hoặc

thấp hơn). Một nghiên cứu xác định tần suất gãy xương nhằm cảnh báo nguy cơ gãy

xương ở người bệnh loãng xương, kết quả phân tích trên 162 người bệnh tuổi trung

bình 70 thì có 46% trường hợp gãy nhiều đốt sống, 5% gãy đầu dưới xương quay,

0,55% gãy cổ xương đùi và nguyên nhân thường do chấn thương nhẹ như té chống

tay, trượt chân té ngồi [22]. Theo Nguyễn Đình Nguyên gãy xương không do chấn

thương ở người cao tuổi, cho đến nay có thể coi là có liên quan đến loãng xương.

Một trong những bằng chứng của mối liên hệ này là mật độ xương thấp, dù đo ở

trung tâm hay ngoại vi, đều làm tăng nguy cơ gãy xương ở gần như mọi vị trí, trừ

một vài nơi như đốt chi, hộp sọ và xương mặt [23].

Nguyễn Văn Quang cho rằng một ngày nào đó gãy xương hông và loãng

xương sẽ trở thành bệnh chỉnh hình chủ yếu và nặng nề nhất mà bác sĩ chỉnh hình

phải đối phó. Do đó, các hướng dẫn, các chương trình giáo dục kiến thức cơ bản về

loãng xương và sinh học xương có thể giúp cải thiện hiệu quả điều trị [26].

Tiền sử gia đìnhcó loãng xƣơng: là yếu tố nguy cơ của loãng xương, kết

quả phân tích cho thấy nhóm không có tiền sử gia đình tỷ lệ loãng xương 35,7%,

nhóm có tiền sử là 70,6% và nguy cơ bệnh gấp 4,3 lần (95% CI: 2,8 – 6,6; p<0,05).

Di truyền đóng một vai trò lớn trong bệnh loãng xương. Các nhà khoa họcđã phát

118

hiện ra sự thay đổi tinh tế trong mã di truyền ở người, làm cho một số người dễ bị

loãng xương hơnnhững người khác. Trong thực tế, cha mẹ có tiền sử gãy xươnglà

một yếu tố nguy cơ và đó là nguy cơ độc lập với mật độ xương. Các nghiên cứu trên

thế giới cho thấy khoảng 60-80% sự khác biệt về mật độ xương giữa các cá nhân là

do gen chi phối. Người có tiền sử gia đình bị gãy xương có nguy cơ bị gãy xương

tăng gấp 1,5 đến 2 lần so với người không có tiền sử gia đình[42].

4.1.3.8. Liên quan mật độ xương với xẹp đốt sống ở người loãng xương

Kết quả nghiên cứu cho thấy những người bị loãng xương được chỉ định chụp X

quang cột sống nghiêng (theo phương pháp bán định lượng của Genant) là 388/395

người, có 59 người bị xẹp đốt sống tỷ lệ 15,2%. Khảo sát cũng cho biết là có 11/59

người bị xẹp đốt sống biết được bệnh và như vậy có 81,4% người loãng xương bị

xẹp đốt sống mà không biết. Tỷ lệ xẹp đốt sống nặng (độ 3) có tới 28,8% và xẹp

trên 2 đốt sống là 15,3%. Người bị loãng xương xẹp đốt sống có trung bình BMD

thấp hơn (0,296 g/cm² ± 0,08) so với người bị loãng xương không xẹp đốt sống

(0,337 g/cm² ± 0,08). Kết quả phân tích tương quan BMD với tình trạng xẹp đốt

sống ở người loãng xương cho thấy đây là tương quan đồng biến mức độ yếu

(r=0,19), có ý nghĩa thống kê p<0,01, nếu số trường hợp không xẹp đốt sống càng

tăng thì trung bình BMD càng lớn.

Kết quả so sánh xẹp đốt sống theo giới tính thì nam tỷ lệ xẹp 10,5% và nữ

18,3%(p<0,05), như vậy nữ có tỷ lệ xẹp đốt sống cao hơn nam. Nếu so sánh theo

nhóm tuổi thì tỷ lệ xẹp đốt sống thấp nhóm tuổi từ 45-64 (4,4%-13%) và tăng cao ở

nhóm 65-80 tuổi (18,2%-21,3%), tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống

kê (p>0,05). So sánh nghiên cứu của Vũ Thị Thanh Thủy thì tỷ lệ xẹp đốt sống do

loãng xương của nghiên cứu chúng tôi thấp hơn (15,2% so với 17,4%) [34]. Một

nghiên cứu về quy mô xẹp xương đốt sống ở người Việt Nam cho kết quả tỷ lệ xẹp

xương đốt sống ở quần thể người trên 50 tuổi ở nam là 23% và ở nữ là 26%, bệnh

tăng theo độ tuổi và có hơn 1/5 không triệu chứng, có 12% xẹp ở nhiều đốt

sống[15],[17]. So sánh kết quả này thì nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ xẹp đốt

sống thấp hơn (mặc dù người dân phân tích trong nghiên cứu là người loãng

xương), tỷ lệ xẹp nhiều đốt sống cao hơn, phù hợp về sự gia tăng tỷ lệ bệnh theo

tuổi nhưng khác nhau về số trường hợp không triệu chứng bệnh (hơn 1/5 so với hơn

119

4/5, 81,4% không biết xẹp đốt sống).Tại một quận củathành phố Hồ Chí Minh, Trần

Hoàng Minh Châu nghiên cứu thuần tập về tình hình xẹp đốt sống do loãng xương

ở người trên 50 tuổi. Kết quả cho thấy tỷ lệ gãy xương chung sau 5 năm theo dõi từ

10/2003 đến 10/2008 là 15,5% (tương đương tỷ lệ gãy xương đốt sống của nghiên

cứu chúng tôi), trong đó tỷ lệ xẹp xương đốt sống chiếm 33,3%,tỷ lệ gãy xương

hông chiếm 14,5% [2].

Một nghiên cứu tương tự với nghiên cứu của chúng tôi về tỷ lệ lưu hành xẹp xương

đốt sống liên quan đến loãng xương ở phụ nữ mãn kinh tại Saudi Arabia. Kết quả

cho thấy có 785 người chụp X quang cột sống thì có 159 (20,3%) người bệnh và

198 đốt sống bị xẹp, nhóm tuổi 61-70 chiếm 35,4% số trường hợp, gãy nhiều đốt

chủ yếu ở tuổi từ 71 trở lên, tỷ lệ xẹp hầu hết ở đốt sống ngực và chỉ có 13,2%

người bệnh được điều trị thuốc chống loãng xương [91]. Kết quả này cao hơn

nghiên cứu của chúng tôi về tỷ lệ bệnh (15,2% so với 20,3%) có lẽ do người dân

nghiên cứu tuổi trung bình thấp hơn (59,5 so với 65,7) và có cả giới tính nam. Về tỷ

lệ bệnh theo nhóm tuổi thì nghiên cứu của chúng tôi ở tuổi cao tỷ lệ bệnh thấp hơn

so với phụ nữ Saudi Arabia.

Gãy xương do chấn thương nhẹ là một dự báo lớn cho những gãy xương tiếp theo.

Sự hiện diện của triệu chứng xẹp xương đốt sống trên phim X quang làm gia tăng

nguy cơ gãy xương trong tương lai lên 4 đến 5 lần và gấp hai lần nguy cơ gãy

xương hông. Vì vậy, thực hiện chụp X quang thắt lưng đơn giản có thể phát hiện

người bệnh cần đo mật độ xương và điều trị loãng xương [78].

4.1.3.9. Liên quan mật độ xương với kiến thức người dân

Kiến thức chung về bệnh còn thấp, chỉ khoảng 30-34%. Tỷ lệ hiểu biết các

yếu tố nguy cơ rất thấp. Kết quả phân loại kiến thức cho thấy chỉ có 8,7% là kiến

thức tốt (nữ 12%, nam 4,3%), kiến thức kém 77,3% (nam 79,6%, nữ 75,6%), kiến

thức có liên quan với giới tính (p<0,01). Mối liên quan giữa loãng xương với kiến

thức cho thấy nhóm kiến thức tốt loãng xương chỉ có 13,9% trong khi kiến thức

kém 47,6% và nguy cơ loãng xương của người có kiến thức tốt chỉ bằng 0,18 lần so

với người có kiến thức kém, liên quan này có ý nghĩa thống kê (95% CI: 0,1-0,3;

p<0,01). Một nghiên cứu đánh giá về kiến thức, thái độ, thực hành của phụ nữ ở

120

vùng Assir, Saudi Arabia cho kết quả kiến thức của phụ nữ nghiên cứu về bệnh

loãng xương rất thấp (điểm trung bình đạt 3,3/12), thấp nhất là cho rằng loãng

xương chủ yếu xảy ra ở đàn ông (90%) [46]. Cũng tại Saudi Arabia nghiên cứu của

Fahad M.Al-Shahbrani về kiến thức loãng xương của phụ nữ tuổi trung niên trở lên

cho thấy có tới 62% đã từng nghe nói về bệnh loãng xương, nguồn thông tin được

nhận từ thầy thuốc điều trị 38%, ti vi 32% và qua bạn bè là 12%. Như vậy, với kết

quả nghiên cứu của chúng tôi thì tỷ lệ người được nghe nói về loãng xương thấp

hơn (43,5% so với 62%), nếu so sánh về kênh thông tin nhận được thì tại Saudi

Arabia từ thầy thuốc khá cao (38% so với chúng tôi chỉ có 7%) và từ ti vi thấp hơn

nhiều (12% so với 82,1%). So sánh sự hiểu biết về yếu tố nguy cơ thì kết quả của

chúng tôi thấp hơn: tuổi già (55% so với 28,3%), uống nhiều cà phê (39% so với

1%), lạm dụng rượu (23% so với 5,1%), hút thuốc lá (39% so với 3,7%), di truyền

(22% so với 15%). Riêng biết về triệu chứng bệnh nghiên cứu của chúng tôi cao

hơn (33% so với 10%) [55]. Như vậy, sự hiểu biết về bệnh của nghiên cứu tại Saudi

Arabia nhiều hơn. Điều này có thể do người dân nhận thông tin trực tiếp từ thầy

thuốc cao hơn, trong khi người dân trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thông tin

chủ yếu từ ti vi, nơi mà chuyển tải thông tin thường không đầy đủ.Tuy nhiên, tại

lãnh thổ phát triển như Hồng Kông, khi khảo sát 52 người đàn ông lớn tuổi thì tỷ lệ

người đã từng nhận thông tin về loãng xương cũng chỉ 42,6%, thấp hơn nghiên cứu

của chúng tôi [85]. Tại Việt Nam, Nguyễn Thị Thanh hương đã khảo sát kiến thức

về loãng xương ở các sinh viên một số trường đại học của thành phố Hà Nội, trong

đó có cả sinh viên trường y và dược. Kết quả có sự hiểu biết về bệnh khá cao. Tỷ lệ

trả lời đúng (20 câu hỏi) là 65%, trả lời đúng về kiến thức chung 80%, về yếu tố

nguy cơ 63% và kiến thức phòng bệnh 75% [102]. Tất cả tỷ lệ đều cao hơn nghiên

cứu của chúng tôi do bởi người dân nghiên cứu đang là sinh viên (y và dược chiếm

52%), trong khi đó người dân nghiên cứu của chúng tôi là những người tuổi trung

niên trở lên và ít có điều kiện tiếp cận thông tin về sức khỏe nhất là thông tin về

bệnh loãng xương.

4.1.3.10. Liên quan mật độ xương với thực hành của người dân

121

Kết quả cho thấy người dân tập thể dục có tỷ lệ 37%, thường xuyên bổ sung can-xi

qua ăn uống thấp (uống sữa, uống viên can-xi, ăn thực phẩm giàu can-xi có tỷ lệ lần

lượt là 25%, 5,9%, 15,7%). Về kết quả thực hành tốt thì tỷ lệ rất thấp (8,5%) và nữ

cao hơn nam, thực hành kém 80,8% và nam cao hơn nữ.Người có thực hành trung

bình nguy cơ loãng xương bằng 0,15 lần (95% CI: 0,1-0,4; p<0,001) và thực hành

tốt nguy cơ loãng xương thấp (OR=0,04) so với người có thực hành kém, có ý nghĩa

thống kê. Nghiên cứu trên sinh viên Trường Đại học Khoa học Malaysia vào năm

2010 cho kết quả kiến thứcvề yếu tố nguy cơ loãng xương thấp với đa số các sinh

viên (82,6%). Ngược lại, 77,1% hiểu tầm quan trọng của thực phẩm hàm lượng can-

xi cao và lối sống vận động tích cực sẽ tăng cường sức khỏe cho xương. Cách ăn

uống và lối sốngcủa các sinh viên chỉ có 1,4% đạtmức khuyến cáohàng ngày

củalượng can-xivàcó7,2% hoạt độngthể lựcít nhất2 giờmỗituần [126]. Kết quả

nghiên cứu này về kiến thức yếu tố nguy cơ thấp hơn khảo sát của chúng tôi (22-

30%), nhưng hiểu về tầm quan trọng của thực phẩm hàm lượng can-xi cao và lối

sống vận động tích cực thì cao hơn.

Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thứctốt thì thực hành tốt càng cao, mối liên quan

này có ý nghĩa thống kê (p<0,01), phù hợp với nghiên cứu của Shu-Wen Chen tại

Đài Loan là thực hành chung và thực hành tích cực liên quan với kiến thức có ý

nghĩa thống kê, nhưng sự liên quan này yếu.Nhóm thực hành tiêu cực liên quan yếu

với kiến thức [119].

4.1.4. Yếu tố không liên quan đến loãng xƣơng

Hút thuốc lá: nhóm nam giới hút thuốc lá có tỷ lệ 42%loãng xương, không hút

thuốc lá loãng xương 34,7% và nguy cơ bệnh gấp 1,4 lần. Tuy nhiên, kết quả phân

tích không thấy có mối liên quan đến loãng xương (p>0,05). Kết quả này không phù

hợp với y văn, có lẽ trong thiết kế nghiên cứu không đặt ra tiêu chí những người bỏ

hút thuốc lá sau khi đã sử dụng rất nhiều năm (khảo sát là không hút), do đó sẽ dẫn

đến sai số trong phân tích. Nhiều nghiên cứu trên thế giới chứng minh hút thuốc lá

có liên quan với bệnh loãng xương. Một phân tích các nghiên cứu trên gần 60.000

người ở Canada,Mỹ, Châu Âu, Úc và Nhật Bản cho thấy rằng hút thuốc lá làm tăng

nguy cơ gãy xương hông lên đến 1,5 lần. Mặc dù nguy cơ từ hút thuốc lá tăng theo

122

thời gian sử dụng, nhưng ảnh hưởng của khói thuốc lá xuất hiện khá sớm.Nghiên

cứu thực hiện ở Thụy Điển cho thấy nam thanh niênhút thuốc tuổi từ 18-20, đã làm

giảm mật độ xương và làm mỏnglớp vỏ cứng bên ngoài của xương mà lớp vỏ này

mang đến cho xương nhiềusức mạnh. Phát hiện này cho thấy rằng hút thuốc lá ở

những người trẻ có thể làm giảmkhối lượng xương đỉnh của họvàdo đó làm tăng

nguy cơ loãng xương trong cuộc sống sau này [88]. Theo tác giả Nguyễn Văn Tuấn,

những người có tuổi đang hoặc đã từng hút thuốc đều có nguy cơ loãng xương cao

hơn các đối tượng cùng đặc tính mà không hút thuốc [41].

Địa dƣ:Kết quả phân tích đơn biến và đa biến đều cho thấy sự liên quan giữa yếu tố

địa dư và tỷ lệ loãng xương không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tỷ lệ loãng xương

giữa các quận, huyện nghiên cứu tuy có khác nhau (thấp nhất ở quận Gò Vấp là

35,5%, cao nhất là quận Bình Thạnh 43,7%) nhưng nếu so sánh tỷ lệ giữa các quận

thành thị với khu vực nông thôn là huyện Hóc Môn thì tỷ lệ này gần tương đương

nhau (39,9% thành thị so với 39,6% nông thôn). Điều này có thể do người dân

nghiên cứu của các quận huyện ở độ tuổi trung niên trở lên đã trải qua cùng môi

trường sống thời kỳ chiến tranh trước đây và ở giai đoạn hiện nay khu vực nông

thôn đã đô thị hóa khá nhanh, do vậy vấn đề địa dư gần như không có khoảng cách.

Nghiên cứu của Vũ Thị Thu Hiền cho thấy tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ có sự tương

phản giữa nội thành và ngoại thành Hà Nội, phụ nữ chưa mãn kinh tỷ lệ loãng

xương cao hơn ở nội thành và ngược lại phụ nữ mãn kinh ở ngoại thành lại cao hơn.

Tuy nhiên, phân tích cũng không thấy có sự liên quan giữa khu vực nội và ngoại

thành [8]. Về vấn đề gãy xương do loãng xương,Nguyễn văn Tuấn cho rằng tỷ lệ

mắc gãy xương hông tăng lũy tiến theo độ tăng của tuổi, bất kể giới tính, vùng địa

dư, nhóm chủng tộc [40]. Như vậy, kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với một

số nghiên cứu khác về yếu tố địa dư đối với bệnh loãng xương.

4.2. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢMỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP CÔNG

ĐỒNG PHÒNG CHỐNG LOÃNG XƢƠNG

4.2.1. Kết quả xây dựng một số biện pháp can thiệp

Phòng chống loãng xương là không bao giờ sớm đối với mỗi con người. Thật vậy,

nếu kể từ bào thai con người được cha mẹ trao cho một bộ xương tốt và từ tuổi ấu

123

thơ đến tuổi trưởng thành được vun đắp cho một khung xương với mật độ cao nhất

có thể được, thì một cuộc sống lành mạnh tiếp theo sẽ mang lại cho xương vững

chắc và mạnh mẻ ở tuổi già.

Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã và đang thực hiện những chiến lược,

những kế hoạch hành động nhằm khống chế tình trạng loãng xương. Để đạt được

điều này thì ở mỗi quốc gia cần phải tăng cường nhận thức của người dân về bệnh,

cần hiểu rõ về mối nguy cơ mà mỗi cá nhân hiện có và tích cực thể hiện lối sống

lành mạnh, rèn luyện thể chất thường xuyên, dinh dưỡng phù hợp với nhu cầu sức

khỏe xương, tránh những thói quen có tác hại cho xương.

Trên cơ sở đó, xây dựng một số biện pháp can thiệp phòng chống bệnh loãng

xương dựa vào cộng đồng tại một số quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minhđược

thực hiện với nhiều hoạt động nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho mật độ xương

của người dân.

4.2.1.1. Kết quả xây dựng mạng lưới hoạt động phòng, chống loãng xương

Xây dựng một mạng lưới hoạt động từ quận, huyện đến phường, xã khu phố, ấp với

sự tham gia của Ban Chỉ đạo chăm sóc sức khỏe nhân dân, lãnh đạo ngành y tế, cán

bộ y tế, các cộng tác viên và có sự phối hợp với các tổ chức, hội đoàn địa phương

cùng với các cơ sở y tế tư và những doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm có liên

quan đến dự phòng loãng xương. Đào tạo cán bộ tham gia, soạn thảo, sản xuất và

cung cấp tài liệu tập huấn, tài liệu truyền thông cho các hoạt động can thiệp.Kết quả

nghiên cứu cho thấy Sở Y tế TPHCM đã chấp thuận triển khai một số biện pháp can

thiệp tại các địa phương theo thiết kế nghiên cứu và có văn bản đề nghị tuyến y tế

cơ sở ở các địa phương nghiên cứu hỗ trợ thực hiện can thiệp. Đã xây dựng mạng

lưới hoạt động can thiệp tại tuyến y tế cơ sở, 4 quận, huyện đều có thành lập Ban

Chủ nhiệm chương trình can thiệp phòng chống loãng xương và tổ công tác tại 4

phường, xã can thiệp. Đã xây dựng bộ tài liệu tập huấn cho cán bộ chương trình,

cho cộng tác viên. Tổ chức tập huấn cho 48 thành viên (100%) tham gia chương

trình can thiệp. Cung cấp tài liệu hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh

loãng xương cho các cán bộ và cơ sở y tế. Xây dựng và sản xuấttài liệu truyền thông

124

gồm 8 panô, 15.000 tờ rơi các loại, 1000 cuốn cẩm nang, 50 áp phích, sưu tầm 7

đoạn phim ngắn về loãng xương và phòng bệnh.

Kết quả xây dựng mạng lưới hoạt động phòng chống loãng xương cho thấy có nhiều

điểm tương đồng với các biện pháp hoạt động tại Malaysia.Hiệp hội Loãng xương

Malaysia do các thầy thuốc đứng ra thành lập vào giữa thập niên 90 thế kỷ trước.

Hội đã cho xuất bản tài liệu “Hướng dẫn thực hành lâm sàng” về loãng xương trong

năm 2001 và 2006. Các hướng dẫn này đã được phân phối và sử dụng rộng rãi bởi

các học viên và các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực khác nhau.Nội dung hướng dẫn

bao gồm: quản lý người bệnh bị loãng xương, dịch tễ học, dữ liệu bị gãy xương

hông, thực hành dinh dưỡng, chẩn đoán và điều trị bệnh loãng xương sau mãn kinh,

loãng xương ở nam giới, loãng xương do glucocorticoid... Ngoài ra, tại Malaysia

còn thành lập Hiệp hội nâng cao nhận thức về loãng xương Kuala Lumpur vào năm

2008. Đây là một tổ chức phi chính phủ được thành lập vớimục tiêu chính là tăng

cường sức khỏe xương cho người dân. Hiệp hộiđã giới thiệu chương trình “xương

khỏe mạnh cho cuộc sống”nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường

xương khỏe mạnh trong tất cả các giai đoạn của cuộc sống, từ phụ nữ mang thai, trẻ

em, thanh thiếu niên, người lớn và người già. Để thực hiện công việc này, Hội đã

thành lập các nhóm hỗ trợ người bệnh, các thành viên gia đình và những người

chăm sóc người bệnh[70].

4.2.1.2. Kết quả xây dựng các mục tiêu và nội dung hoạt động can thiệp

Trong hoạt động can thiệp đã xác định hai mục tiêu cơ bản, đó là mục tiêu dự phòng

cấp một nhằm can thiệp trên những người dân trưởng thành trong cộng đồng, ưu

tiên dành cho người dân từ 45 tuổi trở lên và mục tiêu dự phòng cấp hai,cấp ba là

can thiệp trên người dân có mật độ xương thấp hoặc đã có biến chứng bệnh.

Kết quả xây dựng các nội dung hoạt động can thiệp cho mục tiêu dự phòng

cấp một là đãtổ chức các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe, nâng cao nhận

thức của người dân, từ đó gia tăng kiến thức và thực hành phòng chống loãng

xương. Hoạt động truyền thông thay đổi hành vi trong việc rèn luyện thân thể và

tăng cường dinh dưỡng hợp lý bổ sung can-xi, vitamin D ở người dân trưởng thành,

nhất là quần thể người dân từ tuổi trung niên trở lên. Để thực hiện nội dung này,

125

chương trình can thiệp đã thành lập phòng tư vấn chung nhằm phục vụ trọn gói (tư

vấn, khám, đo mật độ xương, chẩn đoán, chăm sóc và điều trị, phục hồi chức năng)

cho người dân ở tất cả các phường, xã can thiệp, đơn vị tư vấn tại các trạm y tế,

mạng lưới cộng tác viên đến thăm hộ gia đình và tổ chức các cuộc truyền thông lớn

tại cộng đồng.

Kết quả xây dựng các nội dung hoạt động can thiệp cho mục tiêu dự phòng

cấp hai và cấp ba là đã tổ chức khám sàng lọc, đo mật độ xương, chẩn đoán và quản

lý người có mật độ xương thấp, người bệnh loãng xương.Đối với người có mật độ

xương thấp đã đưa vào chương trình bổ sung viên Calci-D hàng ngày (cung cấp

miễn phí và người bệnh có khả năng tự túc), những người bệnh được các bác sĩ

chuyên khoa kê toa thuốc điều trị phù hợp với chỉ định. Bên cạnh đó còn có hoạt

động chăm sóc, hướng dẫn phục hồi chức năng cho người bệnh có chỉ định, hướng

dẫn phòng tránh té ngã cho người dân mục tiêu trong cộng đồng. Ngoài ra, tại 4

quận, huyện can thiệp đều có trang bị các thiết bị đo mật độ xương, trong đó có

triển khai các hoạt động tầm soát bệnh miễn phí trong cộng đồng dân cư như Bệnh

viện Bình Thạnh khám tư vấn, đo mật độ xương miễn phí cho người già trên 80

tuổi, Trung tâm y tế dự phòng quận Gò Vấp tổ chức đo mật độ xương và cấp thuốc

miễn phí tại các khu dân cư can thiệp.

Kết quả xây dựng các mục tiêu và nội dung hoạt động can thiệp có nhiều điểm

tương đồng của chiến lược quốc gia phòng chống loãng xương một số nước trên thế

giới. Chẳng hạn, tại Canada năm 2003 đã xây dựng một chiến lược phòng chống

loãng xương cho vùng Ontario với một số nội dung:(1)Tăng cường giáo dục sức

khỏe người dân để có thể tăng sức khỏe cho xương, giảm nguy cơ loãng xương (dự

phòng cấp 1);Tăng cường phát hiện và quản lý bệnh (dự phòng cấp 2). Phòng bệnh

nên tập trung người dân có nguy cơ cao và trong quá trình phát triển xương (như

phụ nữ mãn kinh, người cao tuổi, trẻ em và vị thành niên, người có sử dụng

corticoid); (2) Phát hiện sớm và chẩn đoán bệnh loãng xương. Sử dụng phù hợp các

giải pháp để kiểm tra mật độ xương sẽ xác định những người loãng xương hoặc có

nguy cơ cao.Tiếp cận tốt hơn vớiphương pháp điều trịhiệu quả, dựa trên bằng

chứng(dự phòng cấp 2 và 3); (3) Chăm sóc sau gãy xương, phục hồi chức năng và

126

quản lý bệnh loãng xươngmột cách hiệu quả để giảmgãy xương tái phát và cải thiện

chất lượng cuộc sống (dự phòng cấp 3).Tự quản lý và phòng ngừa té ngã. Khi người

dân được tiếp cận chính xácthông tin, người bệnh có thể đóng một vai trò tích cực

trong việc quản lý tình trạng bệnh của họ vàgiảm nguy cơ gãy xương [95].

Tại Mỹ, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu sự tác động của việc sử dụng hệ

thống tin học dựa trên dân số để tầm soát loãng xương và điều trị ở phụ nữ từ 65

tuổi trở lên. Người bệnh được điều trị ở một trong hai đơn vị nội khoa chọn vào

nhóm can thiệp, người bệnh ở đơn vị thứ ba chọn vào nhóm chứng. Người hội đủ

điều kiện đưa vào can thiệp sẽ được gửi một bức thư mời đo mật độ xương bằng

máy DXA. Sau 3 tháng gửi thư kết quả cho thấy tỷ lệ sàng lọc loãng xương ở nhóm

can thiệp là 76,4%, ở nhóm chứng 69% (p<0,001). Nhóm can thiệp có 25% được trả

lời thư và hoàn thành sàng lọc cũng như được điều trị thích hợp [111]. Đây là một

mô hình khá hay nhưng không nằm trong thiết kế nghiên cứu của chúng tôi, bên

cạnh đó việc gửi thư rộng rãi để tầm soát loãng xương cho người cao tuổi với số

lượng lớn đòi hỏi phải có kinh phí cao và đủ máy đo DXA.

Nghiên cứu can thiệp phòng chống loãng xương tại cộng đồng Ontario Canada qua

hệ thống bác sĩ gia đình. Kết quả khảo sát các bác sĩ gia đình và người bệnh trong

việc phòng chống loãng xương tại Ontario cho thấy có gia tăngđáng kể sự quan tâm

về bệnh trong những năm gần đây do tăng sự sẵn có của phương pháp điều trị và

tăng nhận thức của người dân. Phân tích dữ liệu bảo hiểm y tế ở Ontario cho thấy số

lượng người kiểm tra mật độ xương tăng gấp bảy lần từ năm 1992 đến 1999. Vai trò

bác sĩ gia đình trong việc quản lý bệnh loãng xương cũng đã tăng lên,tỷ lệ đo mật

độ xương theo chỉ định của các bác sĩ gia đình tăng từ 47,3% năm 1992 lên 80,1%

trong năm 2000. Nghiên cứu này là một phần của chương trình phát triển và đánh

giá việc thực hiện các chiến lược để cải thiện việc quản lý bệnh loãng xương trong

thực hành bác sĩ gia đình[120]. Cũng tại Canada, một nghiên cứu can thiệp về quản

lý người bệnh sau khi gãy xương do loãng xương, kết quả có 45% nhóm can thiệp

nhận được quản lý trong 6 tháng so với nhóm chứng chỉ có 26% (OR: 2,3; 95% CI:

1,3-4,1)tỷ lệ người được đo mật độ xương một lần ở nhóm can thiệp là 57%, nhóm

chứng 21% (OR: 4,8; 95% CI: 3.0-7.0) [121]. Qua những nghiên cứu trên cho thấy

127

nhiều nội dung hoạt động can thiệp đã được thử nghiệm đều có hiệu quả trong quản

lý bệnh, việc tầm soát, phát hiện và chăm sóc theo dõi điều trị nếu được thực hiện

tốt thì mang lại lợi ích cho người bệnh và cho cộng đồng.

Một nghiên cứu tương tự nghiên cứu của chúng tôi, tại Bắc Carolina (Mỹ) có

một cuộc khảo sát phụ nữ da trắng và da đen tuổi từ 45 trở lên về chăm sóc phòng

bệnh loãng xương tại phòng khám gia đình ở cộng đồng, cho thấy phụ nữ da trắng

5,6 lần hơn phụ nữ da đen về đã từng đo mật độ xương (95% CI: 3,01 -11,79), 2,97

lần hơn về được bác sĩ tư vấn và 2,42 lần hơn được bác sĩ khuyên bổ sung can-xi.

Hầu hết phụ nữ nghiên cứu tuổi từ 45 trở lên xem chăm sóc phòng bệnh loãng

xương là quan trọng và chỉ có phân nửa phụ nữ tuổi từ 65 trở lên đã được đo mật độ

xương [60],[61].

4.2.1.3. Kết quả xây dựng hoạt động giám sát

Trong quá trình can thiệp, giám sát luôn diễn ra song hành với các hoạt động can

thiệp. Giám sát đã giúp điều chỉnh kịp thời về chất lượngcan thiệp, đảm bảo các

hoạt động được thực hiện theo đúng kế hoạch và giải quyết những khó khăn phát

sinh. Hệ thống báo cáo đã thu thập đủ thông tin cần thiết theo định kỳ quý, 6 tháng,

năm. Từ đó cán bộ nghiên cứu đã lượng giá từng giai đoạn theo các mục tiêu nghiên

cứu đề ra. Thiết lập một hệ thống thông tin liên lạc để trao đổi giữa cán bộ nghiên

cứu với các thành viên tham gia hoạt động can thiệp nhằm đảm bảo tính chính xác

của các hoạt động và hỗ trợ tích cực trong quá trình can thiệp tại cộng đồng. Khi

phỏng vấn một trong những người dân can thiệp, người đó nói rằng: “Cô ấy (cộng

tác viên) rất nhiệt tình, giải thích rất cặn kẽ về bệnh loãng xương. Nhờ cô ấy động

viên mà hiện nay tôi đi bộ nhiều hơn và thường ăn cá, uống thêm sữa để có can-xi

cho xương”. Sau một năm can thiệp, nghiên cứu viên đã tiến hành phỏng vấn sâu

các thành viên tham gia can thiệp từ cấp quận, huyện đến phường, xã, kết quả cho

thấy đa số hiểu và nhiệt tình thực hiện những nội dung can thiệp, một số người rất

tâm đắc với hoạt động phòng chống loãng xương vì cho rằng nó thực sự có lợi cho

người cao tuổi mà hiện nay chưa trở thành một chương trình sức khỏe chính thức

của ngành y tế. Một thành viên Ban Chủ nhiệm Chương trình của một quận cho

biết: “Trước đây, trong quá trình hoạt động khám chữa bệnh, tôi chứng kiến một số

128

người già bị té gãy cổ xương đùi mà không thể phẩu thuật được nên bó bột chống

xoay nằm một chổ rất khổ sở và hao tốn tiền bạc cũng như công sức chăm sóc của

gia đình. Làm Chương trình này mong rằng kéo giảm biến chứng cho người già thì

bản thân mình thấy có ý nghĩa rồi”. Như vậy, ngoài việc giám sát kết quả các chỉ số

mục tiêu nghiên cứu thì giám sát bộ máy hoạt động nhất là các thành viên tham gia

Chương trình sẽ giúp đánh giá hiệu quả can thiệp và sự duy trì hoạt động trong

tương lai.

4.2.2. Đánh giá hiệu quảmột số biện pháp can thiệp cộng đồng

4.2.2.1. Đánh giá hiệu quả can thiệp bằngtruyền thông giáo dục sức khỏe

Kết quả hoạt động truyền thông sau 2 năm can thiệp có tất cả 24.406 lượt người

được tư vấn về phòng chống loãng xương, trong đó tư vấn trực tiếp là 20.970 lượt,

tỷ lệ 85,9%, gián tiếp qua điện thoại là 3.436 lượt tỷ lệ 14,1%. Thốngkê riêng thì tại

đơn vị tư vấn trạm y tế có số lượt người cao nhất đạt 10.129lượt, tỷ lệ 41,5% (trong

đó trực tiếp 6.952 lượt và gián tiếp qua điện thoại là 3.177 lượt). Tại các cuộc

truyền thông lớn ở cộng đồng bao gồm 63 cuộc (29 cuộc chuyên về loãng xương và

34 cuộc lồng ghép) tiếp nhận được 7.057 lượt người tỷ lệ 28,9%.Các cộng tác viên

thăm 1.467 hộ gia đình đã tư vấn được 5.813 ngườitỷ lệ 23,8%; Tại phòng tư vấn

chung tiếp nhận tư vấn được 1.407lượt người, tỷ lệ 5,8%. Tổng số tờ rơi và cẩm

nang được phân phát trong cộng đồng là 16.236. So với các địa phương đối chứng,

người dân chưa được tiếp tiếp cận các hoạt động truyền thông, tư vấn về loãng

xương, họ chỉ được nghe thông tin từ báo đài hoặc sách và một phần từ kênh khác.

Như vậy, nếu tính số người được tư vấn là 16.168 so với số người dân từ 45 tuổi trở

lên trong cộng đồng (20.473 người) thì độ bao phủ của truyền thông chiếm 80%

(bảng 3.30). Tuy nhiên, số người nhận thông tin sau can thiệp từ ti-vi cao nhất

(70,2%), nhân viên y tế 53,4%, kênh khác 53,6% có thể giải thích độ bao phủ người

dân nhận thông tin cao hơn và minh chứng thông tin nhận được thường xuyên và

không thường xuyên lên đến 92,2% sau can thiệp (so với trước can thiệp chỉ có

37,7%).

Kết quả cho thấy ở nhóm can thiệp thông tin nhận được thường xuyên tăng tỷ lệ từ

1,7% lên 12,5%, không thường xuyên tăng từ 36% lên 79,7% sau khi can thiệp,

129

trong khi nhóm chứng tăng2,3% lên 4,3% và 35,6% lên 59,4%, sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê. Hiệu quả can thiệp về nhận thông tin thường xuyên là 548% và

không thường xuyên 54,5%. Nguồn thông tin nhận được tăng cao sau can thiệp là từ

kênh nhân viên y tế, ti-vi và kênh khác, trong khi đó từ kênh báo chí và sách thì

giảm. Hiệu quả can thiệp trên nguồn thông tin nhận được từ báo 14,9%, ti-vi 80%,

nhân viên y tế 2017%, sách 50,8%,kênh khác 713%. Sự khác biệt của các so sánh

đều có ý nghĩa thống kê (ngoại trừ so sánh của kênh ti-vi trước và sau can thiệp).

Với kết quả như trên, chúng tôi so sánh với một số hoạt động can thiệp của

Hiệp hội loãng xương Singapore. Hội đã tham gia tích cực trong việc giáo dục, phổ

biến các thông tin về bệnhloãng xương cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và

người dân. Các chiến dịch nâng cao nhận thức và hành động bằngnhững chương

trình tiếp cận cộng đồng như là tư vấn qua điện thoạivà thành lập trang web giúp đỡ

người bệnh,phổ biến các bài giảng y học thường thức.Mặc dù vậy, khi tiến hành

một cuộc khảo sát dựa trên dân sốtrong số 1.376 phụ nữ Trung Quốc sống tại

Singapore tuổi từ 45 trở lên(tuổi trung bình 57) vào năm 2001, đã có 42% người

được hỏi không biết về bệnh loãng xương [70]. Như vậy, kết quả nghiên cứu của

chúng tôi có tỷ lệ người biết về loãng xương cao hơn. Một nghiên cứu can thiệp

bằng truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống loãng xương trên phụ nữ công

nhân tại Kingdom Saudi Arabia cũng cho hiệu quả can thiệp như nghiên cứu của

chúng tôi. Kết quả trước can thiệp chỉ có 63% người dân từng nghe nói về bệnh

loãng xương và chủ yếu từ ti-vi (35%), 41% ít khi tập thể dục. Sau can thiệp đã cải

thiện có ý nghĩa về kiến thức và thực hành chế độ ăn, thái độ về tập luyện, dinh

dưỡng và lối sống đã gia tăng tích cực tới 97% [94].

Hoạt động can thiệp trên mật độ xương ở phụ nữ mãn kinh Úc được thiết kế gần

tương tự hoạt động can thiệp của chúng tôi, Tania Winzenberg cùng cộng sự đã

thực hiện một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng trong 2 năm trên 470 phụ nữ

khỏe mạnh tuổi từ 25-44 với mục đích xác định ảnh hưởng của mật độ xương cá

nhân qua việc nhận thông tin phản hồi về mật độ xương và can thiệp giáo dục thay

đổi hành vi có lợi cho xương. Người dân nghiên cứu sau khi được đo mật độ

xươngđều nhận được một thư và phân thành hai nhóm: T-score ≥0 được thông báo

130

là không có nguy cơ cao về gãy xương sau này; T-score <0 được thông báo là có

nguy cơ cao bị gãy xương sau này. Trước khi kết quả BMD được biết, người dân

nghiên cứu đều nhận được một tờ rơi “Hiểu biết về loãng xương”. Kết quả những

phụ nữ nhận được thông tin BMD thấp đã có một sự gia tăng lớn hơn về BMD ở cổ

xương đùi so với người bình thường (1,6% so với 0,7%, p=0,0001), can thiệp giáo

dục có mức tăng BMD tương đương ở cổ xương đùi và BMD thay đổi có liên quan

đáng kể việc bổ sung can-xi [122].

4.2.2.2. Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng bổ sung can-xi của người dân

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người có thói quen uống sữa tăng rất ít sau

can thiệp (27,6% so với trước can thiệp 27%), tỷ lệ người có uống viên thuốc can-xi

tăng nhẹ từ 7,1% lên 10,3%, tuy nhiên tỷ lệ người thực hiện ăn uống tăng cường

dinh dưỡng bổ sung can-xi tăng khá cao (15,9% trước can thiệp tăng lên 64,2% sau

can thiệp). Hiệu quả can thiệp trên uống sữa là 20,7%, uống viên can-xi 80,7% và

ăn uống thức ăn có hàm lượng can-xi cao là 179%. Kết quả này cũng phù hợp với

sự gia tăng tỷ lệ hiểu biết của người dân, 19,8% người dân hiểu biết các yếu tố nguy

cơ trước can thiệp tăng lên 59,6% sau can thiệp, 26,7% người dân hiểu biết về kiến

thức phòng bệnh trước can thiệp tăng lên 69,8% sau can thiệp.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với một nghiên cứu đánh giá hiệu

quả củacan thiệp giáo dục dinh dưỡng dựa vào cộng đồng trên lượng can-xi tiêu thụ

và sự mất xương ở phụ nữ mãn kinh Việt Nam tại hai xã của tỉnh Hải Dương. Thời

gian can thiệp kéo dài 18 tháng. Người dân được chọn ngẫu nhiên tuổi 55-65 và

cóhơn 5 năm sau mãn kinh, với lượng can-xi tiêu thụ thấp (<400 mg/ngày), nhóm

can thiệp đã được giáo dục dinh dưỡng để cải thiện lượng can-xi tiêu thụ lênđến

800mg/ngày, trong khi những người trong nhóm chứng chế độ ăn uống giữ bình

thường.Kết quả cho thấy lượng can-xi trong nhóm can thiệp tăng lên đáng kể từ 345

± 54 mg/ngày lên 657 ± 64 mg/ngày sau 18 tháng (p<0,01), trong khi nó không có

thay đổi đáng kể trong nhóm chứng. Giá trị khối lượng xương không thay đổi đáng

kể trong nhóm can thiệp trong khi nó giảm đáng kể (0,5%) trong nhóm chứng

(p<0,01). Sự can thiệp dẫn đến giảm Parathyroid hormone huyết thanh 12%

(p<0,01),trong khi nhóm chứng có sự gia tăng Parathyroid hormone huyết thanh

131

32% (p<0,001). Như vậy, can thiệp giáo dục dinh dưỡng có hiệu quả trong việc cải

thiện lượng can-xi tiêu thụ và làm chậm mất xương ở phụ nữ mãn kinh Việt Nam

[124].Tại Ai Cập, một nghiên cứu tiến hành trên nữ sinh về kiến thức, niềm tin và

hành vi đối với bệnh loãng xương. Kết quả có hơn phân nửa nữ sinh nhận thức được

lợi ích của tập luyên thể lực phòng tránh loãng xương (59,1%), nhưng chỉ có 42,9%

tham gia tập một vài môn thể thao nhưng không thường xuyên. Kiến thức liên quan

đến thức ăn giàu can-xi và nhu cầu can-xi thấp [116].

Tương tự như hoạt động can thiệp của chúng tôi, các nhà khoa học ở Mỹđã tiến

hành một nghiên cứu áp dụng các mô hình phòng chống loãng xươngbằng can thiệp

giáo dục nhằm gia tăng chế độ ăn can-xi và vitamin D ở phụ nữ trẻ, cho thấy kiến

thức về loãng xương và tầm quan trọng của chế độ ăn giàu can-xi và vitamin D

được cải thiện sau 8 tuần can thiệp (p<0,01). Tuy nhiên, về thực hành thì không có

sự thay đổi ăn uống thức ăn giàu can-xi, vitamin D hay sản phẩm từ sữa và cung cấp

can-xi cũng không đủ theo khuyến nghị cho người phụ nữ trẻ [82]. Một nghiên cứu

đánh giá thay đổi hành vi nguy cơ loãng xương ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại Ai

Cập cho thấy sau 4 tháng tư vấn nâng cao nhận thức thực hành dinh dưỡng tốt nhằm

kéo giảm nguy cơ loãng xương thì có một sự cải thiện có ý nghĩa thống kê về kiến

thức chế độ ăn, tập luyện, nguy cơ tuổi và giới, triệu chứng bệnh và quản lý bệnh

loãng xương [56].Tại Hồng Kông một chương trình giáo dục can thiệp phòng chống

loãng xương cho phụ nữ được tiến hành trên 38 người và 38 đối chứng, kết quả sau

can thiệp cho thấy có sự gia tăng có ý nghĩa thống kê về hành vi sử dụng đậu nành,

uống sữa và tập luyện thể lực nhiều hơn [97]. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên

cứu của chúng tôi.

4.2.2.3. Đánh giá hiệu quả can thiệp bằng tập luyện nâng cao thể lực của người

dân

Kết quả nghiên cứu cho thấytỷ lệ người dân thực hành tập thể dục từ 37,9% trước

can thiệp tăng lên 57,9% sau can thiệp, hiệu quả can thiệp về tập thể dục là 49,1%.

Tỷ lệ người dân tập thể thao từ 7,1% trước can thiệp tăng lên 11,3% sau can thiệp,

hiệu quả can thiệp về tập thể thao là 117%. Kết quả này cũng phù hợp với tỷ lệ kiến

thức tăng sau can thiệpvà tại các địa phương can thiệp đã hình thành Câu lạc bộ

132

Loãng xương – Dưỡng sinh và kết quả cũng cho thấy tỷ lệ người dântham gia tăng

sau can thiệp (7,8% so với trước can thiệp là 3,7%) và sự khác biệt này có ý nghĩa

thống kê (p<0,01).

Nhiều nghiên cứu trên thế giới đều cho kết quả luyện tập thể lực sẽ cải thiện tình

trạng mật độ xương. Tại Boston ở Mỹ, các nhà khoa học đã nghiên cứu sự tác động

của luyện tập Thái cực quyền trên nguy cơ gãy xương ở phụ nữ mãn kinh có giảm

mật độ xương. Đây là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng được thực hiện trên

86 phụ nữ mãn kinh giảm mật độ xương tuổi từ 45 đến 70 được tuyển chọn từ các

phòng khám ở cộng đồng. Nhóm phụ nữ can thiệp được đào tạo và thực hành Thái

cực quyền trong 9 thángvà còn lại là nhóm chứng không có tập. Kết quả cho thấy có

sự khác biệt mật độ xương ở cổ xương đùi giữa nhóm tập luyện và nhóm chứng

(+0,04 g/cm² so với -0,98% BMD, p=0,05) [105]. Tương tự, ở Vancouver (Canada)

Nick D.Cater đã tiến hành nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng bằng

một chương trình tập luyện được thiết kế dành cho phụ nữ bị loãng xương tuổi từ 65

đến 75. Nhóm tham gia can thiệp được vào lớp tập thể dục 2 lần/tuần và nhóm

chứng không tập. Kết quả sau 20 tuần can thiệp,sau khi hiệu chỉnh về tuổi, hoạt

động thể chất và các năm sử dụng estrogen thì cải thiện cân bằng động của nhóm

can thiệp lớn hơn 4,9% so với nhóm chứng (p=0,044); Sau khi hiệu chỉnh hoạt động

thể chất, tình trạng nhận thức và số gãy xương thì sự cải thiện trong sức mạnh mở

rộng đầu gối của nhóm can thiệp lớn hơn 12,8% so với nhóm chứng (p=0,047).

Nhóm can thiệp cũng đã có sự cải thiện lớn hơn 6,3% trong sự cân bằng tĩnh sau khi

hiệu chỉnh cho viêm khớp, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,06)

[51].

4.2.2.4. Đánh giá hiệu quả can thiệp bằng bổ sung viên Calci-D cho người có mật

độ xương thấp

Theo kết quảsau hai năm can thiệp bằng thuốc Calci-D tại 4 phường, xã thì có tỷ lệ

53%người đạt tiêu chí can thiệp (5,4% tự túc thuốc). Như vậy, đủ cỡ mẫu theo thiết

kế nghiên cứu. Kết quả phân tích cũng cho thấy trong 47% trường hợp thất bại khi

can thiệp thì có 0,96% trường hợp tử vong (do bệnh lý khác),15% trường hợpkhông

dung nạp được thuốc, 23,6%trường hợp không tuân thủ về thời gian và số lượng

133

thuốc sử dụng, còn lại 7,4% trường hợp bị mất dấu mà chủ yếu do chuyển

nhà.Người có mật độ xương thấp ngoài việc được can thiệp bằng viên Calci-D cũng

được tư vấn trực tiếp và lập lại nhiều lần do đó kiến thức và thực hành đều gia tăng

đáng kể sau can thiệp.Có 99,4% người dân can thiệp nhận được thông tin về bệnh,

chỉ số hiệu quả về nhận thông tin thường xuyên là 1717%. Nguồn thông tin nhận

được từ nhân viên y tế có tỷ lệ cao nhất (94,6%) và chỉ số hiệu quả can thiệp là

3842%. Chỉ số hiệu quả can thiệp cao do bởi thông tin về bệnh loãng xương chưa là

nội dung truyền thông của tuyến y tế cơ sở trước can thiệp cho nên tỷ lệ rất thấp

người dân chưa tiếp cận thông tin từ nhân viên y tế. Khi có hoạt động can thiệp trực

tiếp đối với người có mật độ xương thấp sử dụng viên Calci-D thì nhân viên y tế

thường xuyên tiếp cận tư vấn và hỗ trợ các biện pháp phòng chống loãng xương.

Nhóm kiến thức đúng về khái niệm bệnh loãng xươngcó hơn82% và chỉ số hiệu quả

can thiệp là 202%. Nhóm biết yếu tố nguy cơ tăng cao sau can thiệp từ 16,7% lên

69,3%, chỉ số hiệu quả 315%. Riêng kiến thức phòng bệnh như ăn thức ăn giàu can-

xi, tập thể dục thể thao phòng tránh loãng xương, những loại thức ăn giàu can-xi và

những người cần kiểm tra mật độ xương định kỳ có tỷ lệ trả lời đúng rất cao và chỉ

số hiệu quả là 241%. Về thực hành, kết quả cho thấy nhóm có hành vi có hại cho

xương đều giảm sau can thiệp, tỷ lệ trung bình điểm 11% giảm còn 4,1% và chỉ số

hiệu quảlà 62,7%. Nhóm có hành vi có lợi cho xương đều tăng tỷ lệ sau can thiệp,

tỷ lệ trung bình điểm từ 18,1% lên 71,3% và chỉ số hiệu quả 294%.

Kết quả về trung vị BMD cho thấy tăng 0,012 g/cm², điểm kiến thức tăng

16,5 và thực hành tăng 13 điểm. Kiến thức tốt sau can thiệp tăng 37,4% và chỉ số

hiệu quả là 364,3%. Thực hành tốt sau can thiệp tăng 56,6% và chỉ số hiệu quả là

1347,6%.

Kết quả về tỷ lệ loãng xương sau can thiệp giảm 13,3% và có 9,6% mật độ

xương trở về bình thường. Do bởi chọn tất cả người có mật độ xương từ ≤ -1 vào

can thiệp, cho nên có những người giảm mật độ xương nhưng gần ở mức bình

thường hoặc bị loãng xương nhưng mật độ xương gần với mức giảm mật độ xương

nếu thực hiện nhiều hành vi tích cực phối hợp uống viên Calci-D sẽ cải thiện về

134

BMD và từ đó có những người từ loãng xương trở về giảm mật độ xương và từ

giảm mật độ xương trở về bình thường.

Một nghiên cứu can thiệp dinh dưỡng bổ sung can-xi cho phụ nữ lớn tuổi ở Úc từ

năm 2007 đến 2009 với mục đíchso sánhchế độ ăn uốngbổ sungcan-xicủa phụ

nữcaotuổivới những khuyến nghịchế độ ăn uốngcủaÚcvàđiềutrasự phổ biếncủa

việcbổ sung viên can-xiở người phụ nữ cao tuổi. Cộng đồngphụ nữ từ70 đến 80tuổi

đã được chọnngẫu nhiêncho nghiên cứu2nămcan thiệpở Tây Úc. Chế độ ăn uống

được đánh giá bằng một thực đơn dinh dưỡng cao trong 3 ngày/tuần. Tổng cộng

có218phụ nữđã tham gia.Kết quả phân tích cho thấylượng can-xitrungbìnhđược

cung cấp là852±298mg/ngày,thấp hơnkhuyến nghịcủa Úc.Đối tượnguống bổ

sungcan-xithấp hơn 1/4 vàchỉ có 3%uống vitaminD bổ sung. Lượng can-

xibổsungtrung bình427±122mg/ngày vànhư vậy tổng lượngcan-xitănglênđến

955±504mg/ngày,tuy nhiên vẫn cònthấp hơn 13%sovớiyêu cầutrung bìnhdự kiến

(Estimated Average Riquirement-EAR, 1100 mg/ngày) chocácphụ nữ trongnhóm

tuổi này. Phụ nữ uốngbổ sung can-xicómộtlượng can-xicao hơn(1501±573mg)

sovớinhững người phụ nữchỉ do chế độ ăn uống(813±347mg). Cáckếtquảcủa nghiên

cứu nàycho thấyrằng phần lớnphụ nữcaotuổikhông đượcđápứngnhu cầu can-xitừchế

độ ăn uống. Để đạt đượclượngcan-xitheo khuyến cáothìchiến lượctốt hơnlà cung

cấp can-xitừ cả haichế độ ăn uống vàbổ sung can-xi [127]. Như vậy, với kết quả

nghiên cứu này thì việc vừa thực hiện chế độ ăn giàu chất can-xi phối hợp với uống

viên can-xi là biện pháp phòng tránh loãng xương hoặc giảm mức độ bệnh qua việc

cung cấp đủ lượng can-xi hàng ngày theo khuyến cáo. Viện dinh dưỡng Quốc gia

Việt Nam khuyến nghị người từ 50 tuổi trở lên nên cung cấp lượng can-xi tối thiểu

1.000mg/ngày và theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi người có mật độ xương

thấp được sử dụng 600mg/ngày qua thuốc cung cấp và cùng với tăng cường ăn uống

những chất giàu can-xi thì sẽ đảm bảo lượng can-xi cung cấp hàng ngày hơn

1.000mg.

Tương tự nghiên cứu can thiệp trên người có mật độ xương thấp, người có

nguy cơ cao như nghiên cứu của chúng tôi, tại Ontario Canada có một nghiên cứu

can thiệp dựa vào cộng đồng để tối ưu hóa việc quản lý loãng xương. Có 201 đối

135

tượng tham gia tuổi từ 55 trở lên(101 đối tượng can thiệp và 100 đối chứng).Nội

dung của can thiệp hướng về các bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu và người bệnh,

bao gồm tạo điều kiện đomật độ xương, giáo dục người bệnh và khuyến nghị người

bệnh cụ thể để điều trị loãng xương. Người bệnh được tư vấn cá nhân từ các cán bộ

nghiên cứu, họ cũng nhận được tài liệu giáo dục về can-xi và vitamin D, các yếu tố

nguy cơ loãng xương và kết quả mật độ xương.Kết quả các đối tượng can thiệp

được điều trị thuốc chống loãng xương tăng 29% so với chăm sóc thông thường

(RR:2,09; 95% CI: 1,29-3,4). Nhiều cá nhân trong nhóm can thiệp đã được dùng

can-xi (54% nhóm can thiệp so với 20% của nhóm chứng; RR: 2.67; 95% CI:1,74-

4,12) và vitamin D (33% nhóm can thiệp so với 20% của nhóm chứng; RR:

1,63;95% CI: 1,01-2,65).Nghiên cứu này đã chứng minh rằng một chương trình can

thiệp nhiều thành phần hướng vào người bệnh có nguy cơ bị gãy xương và các bác

sĩ của họ sẽ tăng gấp đôi tỷ lệ quản lý loãng xươngthích hợp so với chăm sóc thông

thường trong cộng đồng [103].

4.2.2.5.Đánh giá hiệu quả can thiệp trên tình trạng mật độ xương ở người dân từ

45 tuổi trở lên

Theo kết quả nghiên cứu thì BMD của người dân sau can thiệp tăng hơn so với

trước can thiệp và so với nhóm chứng. Trung bình BMD sau can thiệp tăng 0,021

g/cm² trong khi nhóm chứng chỉ tăng 0,008 g/cm². Sự khác biệt này có ý nghĩa

thống kê p<0,01. Tỷ lệ loãng xương trước can thiệp 41,5% và sau can thiệp ở nhóm

can thiệp là 34,1% giảm 7,4%, so với nhóm chứng chỉ giảm 2,1%, sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê. Hiệu quả can thiệp trên tỷ lệ loãng xương là 12,4%. Tuy nhiên, tỷ lệ

giảm mật độ xương thay đổi không đáng kể, giảm 1,6% ở nhóm can thiệp và tăng

1,4% ở nhóm chứng sau can thiệp,hiệu quả can thiệp trên nhóm giảm mật độ xương

là 7,9%. Tỷ lệ mật độ xương bình thường sau can thiệp ở nhóm can thiệp tăng 9%,

trong khi nhóm chứng chỉ tăng 0,7%.

Tương tự kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tại thành phố Thái Bình,một

nghiên cứu trên phụ nữ từ 40 đến 65 tuổi được thực hiện tại 2 phường với mục tiêu

đánh giá hiệu quả của một số biện pháp can thiệp dinh dưỡng và luyện tập dự phòng

giảm mật độ xương. Có 259 phụ nữ giảm mật độ xương được chọn vào nhóm đối

136

chứng, nhóm can thiệp gồm 139 phụ nữ giảm mật độ xương áp dụng các biện pháp

can thiệp (truyền thông, luyện tập, thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý kèm theo bổ

sung can-xi và vitamin D) đã được cộng đồng chấp nhận và tham gia thực hiện. Kết

quả cho thấy hiệu quả phục hồi giảm mật độ xương quay là 10,2% và xương chày là

42,8%. Hiệu quả bảo vệ không bị mắc mới giảm mật độ xương đối với xương quay

là 21,4%, xương chày là 25,7%. Hiệu quả bảo vệ không bị mắc mới loãng xương

đối với xương quay là 1,3%, xương chày là 13,5% [25].

4.2.2.6. Đánh giá hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành phòng chống

loãng xương ở người dân từ 45 tuổi trở lên

Theo kết quả nghiên cứu, điểm trung bình kiến thức của người dân nghiên

cứu tại các phường, xã can thiệp tăng 8,1 điểm so với phường, xã chứng chỉ tăng

2,74 điểm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,01.Về thực hành, điểm trung bình

của người dân nghiên cứu tại các phường, xã can thiệp tăng 8,3 điểm trong khi tại

các phường, xã chứng giảm 0,9 điểm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả

phân loại kiến thức tốt của người dân nghiên cứutại các phường, xã can thiệp từ

9,9% trước can thiệp tăng lên 29,6% sau can thiệp (tăng 19,7%), tại các phường, xã

chứng trước can thiệp là 10,8% nhưng sau can thiệp chỉ còn 4,8% (giảm 6%). Về

phân loại thực hành tốt tại các phường, xã can thiệp từ 9,9% trước can thiệp tăng lên

19,8% sau can thiệp (tăng 9,9%), trong khi đó tại các phường, xã chứng trước can

thiệp là 9,3% sau can thiệp giảm còn 6,5%.

Một nghiên cứu có kết quả tương tự nghiên cứu của chúng tôi đó là sự gia tăng kiến

thức và hành vi tốt qua việc đánh giá hiệu quả của sự giáo dục loãng xương dựa vào

cộng đồng và quy trình quản lý loãng xương đã được thực hiện tại Úc. Mục đích

của nghiên cứu này nhằm xác định xem việc tham gia khóa học được thiết kế hỗ trợ

cho các cá nhân để ngăn chặnbệnh và tự quản lý bệnh loãng xươngqua việc cải

thiện về kiến thức, tính tự hiệu quả, kỹ năng tự quản lý hoặc thay đổi hành vi. Đối

tượng nghiên cứu gồm 198 người (92% nữ) trên 40 tuổi tuyển chọn từ cộng đồng

được phân ngẫu nhiên vào nhóm chứng (n = 95) và can thiệp (n = 103). Khóa học

bao gồm bốn buổi một tuần và qua 6 tuần theo dõi, nhóm can thiệp cho thấy một sự

137

gia tăng đáng kể về kiến thức loãng xương so với nhóm chứng và cũng cho thấy có

một sự gia tăng lớn trong định hướng hành vi sức khỏe [57].

Riêng tại Ai Cập, một cuộc khảo sát vào năm 2008 cho thấy mức độ nhận thức về

bệnh loãng xương là thấp sau khi phỏng vấn 462 người tuổi từ 40 trở lên và 262

thầy thuốc. Một nghiên cứu can thiệp khác là giáo dục sức khỏe nhằm đánh giá kiến

thức và lựa chọn lối sống của trẻ gái vị thành niên liên quan đến loãng xương. Có

616 em học sinh tham gia và kết quả cho thấy vì lo sợ béo phì mà hạn chế uống sữa

(71,3%), thiếu tập luyện (62,5%). Sau can thiệp có sự thay đổi đáng kể về kiến thức

liên quan đến loãng xương (76,8%), tuổi xảy ra bệnh (74,6%), triệu chứng báo động

của loãng xương (74,1%). Gần 86% đối tượng tham gia có tăng nhận thức về việc

uống sữa, 69% cho biết là thể thao rất tốt cho xương [92].

4.2.3. Kết quả duy trì hoạt động can thiệp

Trong quá trình hoạt động can thiệp phòng chống loãng xương tại cộng đồng,

chương trình nghiên cứu được sự ủng hộ của ngành y tế tại các địa phương, được sự

quan tâm và hợp tác của các hội, đoàn, sự phối kết hợp của các cơ sở y tế tư nhân,

của các doanh nghiệp kinh doanh thuốc và sữa, đặc biệt là được người dân đồng

thuận cao. Điểm mới của đề tài nghiên cứu là lần đầu tiên xây dựng và triển khai

hoạt động can thiệp phòng chống loãng xương tại cộng đồng thuộc thành phố Hồ

Chí Minh với sự kết hợp một số biện pháp nhằm đạt mục tiêu giảm mất can-xi của

xương và tăng cường hấp thu can-xi để duy trì sức khỏe xương ở những người dân

nghiên cứu. Hoạt động can thiệp đã thực hiện tại tuyến y tế cơ sở nơi mà cũng đang

triển khai nhiều chương trình y tế và như vậy sẽ tận dụng được nguồn lực sẵn có để

phối hợp can thiệp nhằm bảo vệ sức khỏe người dân nhất là ở người cao tuổi. Do

đó, để duy trì hoạt động can thiệp và định hướng sẽ triển khai thành một chương

trình y tế thực sự của thành phố Hồ Chí Minh, Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM

đã chấp thuận đề tài tiếp tục duy trì mô hình can thiệp theo Quyết định số 396/QĐ-

SKHCN ngày 23 tháng 7 năm 2013 về phê duyệt đề tài: “Đánh giá hiệu quả một số

biện pháp can thiệp cộng đồng phòng chống loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên

tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2013 đến 2015”, kéo dài thời gian can thiệp

138

thêm 2 năm. Như vậy, chương trình sẽ tiếp tục duy trì và có đủ thời gian để so sánh

đánh giá sau hai giai đoạn can thiệp.

Sự phối kết hợp Hội Y tế công cộng, Hội Loãng xương thành phố Hồ Chí

Minh đã củng cố quyết tâm của các nhà lãnh đạo mong muốn triển khai đại trà hoạt

động can thiệp phòng chống loãng xương tại tuyến y tế cơ sở. Bên cạnh đó, sự quan

tâm của lãnh đạo ngành y tế thành phố đã thể hiện qua việc biên soạn và cho lưu

hành trong ngành tài liệu “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh loãng

xương” vào tháng 10 năm 2013. Trong điều 2 của Quyết định ban hành tài liệu này

đã cho phép áp dụng cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thuộc thành phố Hồ Chí

Minh có đủ điều kiện thực hiện theo quy định hiện hành, là căn cứ pháp lý cho việc

thực hiện kỹ thuật, phát triển chuyên môn kỹ thuật, nghiên cứu khoa học, chuyển

tuyến, thanh toán viện phí và bảo hiểm y tế [28].

4.2.4. Hạn chế của đề tài

Đề tài sẽ tăng giá trị khoa học hơn nếu đo mật độ xương bằng phương pháp hấp thụ

năng lượng kép X quang ở vị trí trung tâm (cổ xương đùi và cột sống). Tuy nhiên,

nghiên cứu được thực hiện tại cộng đồng cho nên phương pháp đo mật độ xương

bằng DXA ở ngoại biên là khả thi hơn. Để khắc phục hạn chế này, hướng nghiên

cứu tiếp theo sẽ so sánh mật độ xương (g/cm²) đo ở vị trí trung tâm (được quy đổi

thành số T-score) với đo ở ngoại biên (cẳng tay) xem có sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê hay không. Bên cạnh đó, cần khảo sát mật độ xương ở người thanh niên

trẻ (20-30 tuổi) người Việt Nam để tìm giá trị tham chiếu cho chẩn đoán loãng

xương, giảm mật độ xương đối với máy đo DXA ngoại biên.

Trong nghiên cứu can thiệp trên người dân có mật độ xương thấp bằng viên

Calci-D và một số biện pháp như truyền thông phòng chống bệnh loãng xương, tập

luyện nâng cao thể lực, thực hiện chế độ dinh dưỡng giàu can-xi chỉ theo dõi dọc và

so sánh trước sau mà không có nhóm đối chứng. Đây là hạn chế của đề tài, kết quả

nghiên cứu có giá trị khoa học hơn nếu có nhóm đối chứng để so sánh.

Nghiên cứu chỉ thực hiện trên người dân từ 45 tuổi trở lênvà đây là đối tượng có tỷ

lệ nguy cơ mắc bệnh cao. Do đó, các biện pháp can thiệp dự phòng đều đã muộn,

hiệu quả can thiệp thấp so với người dân tuổi trẻ hơn. Loãng xương là bệnh của tuổi

139

trẻ nhưng hậu quả của nó là ở tuổi già [67], như vậy can thiệp càng sớm thì hiệu quả

phòng bệnh càng cao

KẾT LUẬN

1. Tỷ lệ loãng xƣơng và một số yếu tố liên quanở ngƣời dân từ 45 tuổi trở lên

tại thành phố Hồ Chí Minh

Từ kết quả nghiên cứu mật độ xương của 989 người dân bằng phương pháp

DXA ngoại biên ở vị trí 1/3 dưới cẳng tay, chúng tôi có một số kết luận sau:

- Người dânhiện mắc loãng xương cao, tỷ lệ 39,9% (trong đó ở nam giới

37,8% và nữ giới 41,5%), tỷ lệ giảm mật độ xương là 38,1%.

- Tỷ lệ loãng xương tăng dần theo nhóm tuổi:7,2% (45-49 tuổi),15,2% (50-

54 tuổi),30,9% (55-59 tuổi),53,2% (60-64 tuổi), 61,9% (65-69 tuổi),70,3% (70-74

tuổi), 84,9% (75-79 tuổi),85,7% (từ 80 tuổi trở lên).

- Tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh là 52,6%.

-Trung bình BMD đo vị trí cẳng tay ở người dân loãng xương là 0,334 g/cm² ± 0,08

(nam giới 0,402 g/cm² ± 0,07, nữ giới 0,257 g/cm² ±0,05).

- Một số yếu tố liên quan đến tình tình trạng loãng xƣơng

Phân tích trên mô hình hồi quy logistic đa biến, tình trạng loãng xương có

liên quan đến các yếu tố: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, BMI, tiền sử gia đình bị loãng

xương, sử dụng corticoid, thói quen uống sữa, tập thể dục thể thao, lạm dụng rượu

bia, giảm chiều cao, kiến thức và thực hành phòng chống loãng xương. Đối với phụ

nữ, tình trạng mật độ xương có liên quan đến tuổi có kinh, tuổi mãn kinh, sinh nhiều

con khi phân tích đơn biến. BMD có liên quan đến tình trạng xẹp xương đốt sống ở

người loãng xương.

Những yếu tố không liên quan đến loãng xương trên mô hình hồi quy đa biến làyếu

tố địa dư, trình độ học vấn, gãy xương do chấn thương nhẹ, hút thuốc lá.

2. Hiệu quảmột số biện pháp can thiệp cộng đồng

- Đối với người dân từ 45 tuổi trở lên sau hai năm thực hiện một số biện pháp can

thiệp cộng đồng phòng chống loãng xương và kết quả điều tra trên 399 người dân,

chúng tôi có một số kết luận sau:

140

+Truyền thôngvề bệnh loãng xương đạt 80% dân số mục tiêu, hiệu quả can thiệp

trên nhận thông tin thường xuyên là 548%.

+Người dân thực hiện ăn uống bổ sung can-xi tăng từ 15,9% lên 64,2% sau

can thiệp, hiệu quả can thiệp trên hành vi uống sữa là 20,7%, ăn nhiều chất có hàm

lượng can-xi cao là 179% và uống viên can-xi là 80,7%.

+Tỷ lệ người dân tập thể dục tăng từ 37,9% lên 57,9% sau can thiệp. Hiệu

quả can thiệp trên hành vi tập thể dục là 49,1%.

+Trung bình BMD người dân can thiệp tăng 0,021 g/cm².

+Tỷ lệ loãng xương sau can thiệp là 34,1% (giảm 7,4%), hiệu quả can thiệp 12,4%.

Tỷ lệ mật độ xươngbình thường 30,8% (tăng 9%), hiệu quả can thiệp 38%.

+Kiến thức tốt sau can thiệp là 29,6% (tăng 19,7%), hiệu quả can thiệp

255%.Thực hành tốt sau can thiệp là 19,8% (tăng 9,9%), hiệu quả can thiệp 130%.

- Đối với người dân có mật độ xương thấp sau hai năm can thiệp bằng truyền

thông, tập luyện, dinh dưỡng bổ sung can-xi vàsử dụng viên Calci-D, chúng tôi có

một số kết luận sau:

+Trung bình BMD tăng 0,012g/cm².

+ Tỷ lệ loãng xương giảm 13,3%, chỉ số hiệu quả 20,4%.

+ Kiến thức tốt tăng 37,4%, chỉ số hiệu quả 364,3%.

+ Thực hành tốt tăng 56,6%, chỉ số hiệu quả 1347,6%.

141

KIẾN NGHỊ

Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi xin kiến nghị một số vấn đề sau:

- Tuyến y tế cơ sở cần tăng cường công tác truyền thông giáo dục sức khỏe, nâng

cao nhận thức của người dân về phòng, chống bệnh loãng xương. Điều chỉnh lối

sống để tối ưu hóa mật độ xương từ tuổi trẻ và làm giảm bớt mức độ mất xương liên

quan đến tuổi nhằm giảm tỷ lệ mắc cũng như biến chứng của bệnh loãng xương về

sau. Tổ chức các khóa đào tạo để cán bộ y tế cơ sở có kiến thức và kỹ năng phát hiện,

tư vấn, chăm sóc, điều trị loãng xương và biến chứng của nó.

- Cần trang bị cho tuyến quận, huyện phương tiện tầm soát loãng xương,

phương tiện hỗ trợ chăm sóc và điều trị loãng xương, quản lý và điều trị gãy xương,

phục hồi chức năng.

- Khuyến cáo sử dụng thuốc Calci-D ở người có mật độ xương thấp và những người

thường xuyên có chế độ ăn không đủ can-xi theo khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng

quốc gia để cải thiện tình trạng mật độ xương, giảm sự mất xương do thiếu cung cấp

can-xi.

142

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Nguyễn Trung Hòa, Nguyễn Văn Tập, Đào Văn Dũng, Nguyễn Thị Thùy Dương

(2013),“Tỷ lệ loãng xương và một số yếu tố liên quan ở người 45 tuổi trở lên tại

thành phố Hồ Chí Minh năm 2011”, Tạp chí Y học dự phòng, tập XXIII, số 7(143),

2013, tr.93-98

2. Nguyễn Trung Hòa, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Văn Tập, Phạm Thanh Bình

(2014), “Kiến thức, thái độ phòng chống loãng xương ở người 45 tuổi trở lên tại

thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Y học Cộng đồng, số 8, 2014, tr. 8-13.

3. Nguyễn Trung Hòa, Nguyễn Văn Tập, Đào Văn Dũng (2014), “Hiệu quả một số

biện pháp can thiệp cộng đồng phòng chống loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên

tại thành phố Hồ Chí Minh”,Tạp chí Y học dự phòng, tập XXIV, số 6 (155), tr. 103-

108.

143

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Nguyễn Thị Hoài Châu (2003), “Khảo sát mật độ xương và tìm hiểu những yếu

tố liên quan đến bệnh loãng xương của phụ nữ ở thành phố Hồ Chí Minh và

một số tỉnh miền Tây”,Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 7(1), tr. 126-

129.

2. Trần Hoàng Minh Châu (2010), “Tỷ lệ gãy xương có triệu chứng lâm sàng và

một số yếu tố nguy cơ ở người trên 50 tuổi tại quận Gò Vấp thành phố Hồ Chí

Minh sau 5 năm theo dõi”, Kỷ yếu các báo cáo hội nghị khoa học loãng xương,

gãy xương và vitamin D, Cần Thơ, tr. 16-26.

3. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2010), Báo cáo dân số và mật độ dân số

năm 2010, thành phố Hồ Chí Minh.

4. Mai Thị Công Danh (2010), “Kiến thức và thói quen sinh hoạt có liên quan đến

loãng xương của phụ nữ sau mãn kinh tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2006”,

Kỷ yếu các báo cáo hội nghị khoa học loãng xương, gãy xương và vitamin D,

Cần Thơ, tr. 71-72.

5. Đào Văn Dũng, Hoàng Đình Huề, Võ Văn Thắng và cs (2008), Thiết kế nghiên

cứu hệ thống y tế, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

6. Lê Dũng, Nguyễn Trung Kiên (2012), “Khảo sát tình hình loãng xương ở người

cao tuổi tại thành phố Cần Thơ năm 2011”, Tạp chí Y học thực hành, tập

825(6), tr. 6-9.

7. Lưu Ngọc Giang (2011), “Mối liên quan giữa loãng xương và thời gian mãn

kinh của phụ nữ ở thành phố Mỹ Tho”, Tạp chí Y học thực hành, tập 751(2), tr.

21-24.

8. Vũ Thị Thu Hiền và cs (2007), “Xác định mức độ phổ biến và yếu tố liên quan

đến bệnh loãng xương ở phụ nữ Việt Nam bằng phương pháp siêu âm định

lượng”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, tập 50(4), tr. 7-15.

144

9. Nguyễn Trung Hòa (2008), Nghiên cứu tình hình loãng xương và một số yếu tố

liên quan ở người trên 45 tuổi tại quận Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh năm

2008,Luận án Chuyên khoa cấp 2, Đại học Y dược Huế.

10. Lưu Ngọc Hoạt (2008), Thống kê – Tin học ứng dụng trong nghiên cứu y học,

Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 36-63

11. Nguyễn Thị Kim Hưng (2003), “Can-xi và dinh dưỡng phòng ngừa loãng

xương”, Kỷ yếu các báo cáo khoa học hội nghị khoa học chuyên đề loãng

xương và bệnh cột sống,thành phố Hồ Chí Minh, tr. 21-24.

12. Đỗ Thị Khánh Hỷ (2008), “Tìm hiểu mật độ xương, tình trạng loãng xương và

một số yếu tố ảnh hưởng ở phụ nữ sau mãn kinh”, Tạp chí Nghiên cứu Y học,

tập 58(5), tr. 75-81.

13. Đào Thị Vân Khánh, Nguyễn Hoàng Thanh Vân, Nguyễn Thị Huyền Trang

(2009), “Khảo sát tình hình loãng xương ở phụ nữ lớn tuổi bằng máy siêu âm

định lượng”, Tạp chí Y học thực hành, tập 644, 645(2), tr. 20-22.

14. Nguyễn Thy Khuê (2008), “Loãng xương do glucocorticoid”, Kỷ yếu các báo

cáo khoa học Tầm nhìn Châu Á về loãng xương, thành phố Hồ Chí Minh, tr.

25-27.

15. Hồ Phạm Thục Lan và cs (2008), “Ăn chay trường và loãng xương: một nghiên

cứu trên các ni cô phật giáo”, Kỷ yếu các báo cáo khoa học Tầm nhìn Châu Á

về loãng xương, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 16.

16. Hồ Phạm Thục Lan và cs (2011), “Chẩn đoán loãng xương: ảnh hưởng của giá

trị tham chiếu”,Thời sự y học - Tạp chí Y khoa của Hội Y học thành phố Hồ

Chí Minh, tập 1-2(57), tr. 3-10.

17. Hồ Phạm Thục Lan và cs (2011), “Chẩn đoán gãy xương đốt sống: Phát triển giá

trị tham chiếu cho người Việt – Quy mô gãy xương đốt sống ở người Việt”,

Thời sự Y học-Tạp chí Y khoa của Hội Y học thành phốHồ Chí Minh, tập 8(63),

tr. 3-16.

18. Hồ Phạm Thục Lan, Nguyễn Văn Tuấn (2011), “Sinh lý học loãng xương”,

Thời sự Y học-Tạp chí Hội Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 7(62), tr. 22-28.

145

19. Hồ Phạm Thục Lan (2011), Cẩm nang điều trị Loãng xương, Nhà xuất bản Y

học, Hà Nội, tr. 100-107.

20. Nguyễn Thị Lực, Hữu Thị Chung (2003), “Đánh giá mật độ xương ở 840 phụ

nữ bằng phương pháp siêu âm”, Kỷ yếu các báo cáo khoa học chuyên đề loãng

xương và bệnh cột sống, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 25-28.

21. Marlena C. Kruger và cs (2010), “Tác dụng của sữa tăng cường can-xi và

vitamin D đối với tình trạng vitamin D và chu chuyển xương ở phụ nữ sau mãn

kinh Đông Nam Á”, Kỷ yếu các báo cáo hội nghị khoa học loãng xương, gãy

xương và vitamin D, Cần Thơ, tr. 55-70.

22. Trần Văn Nam, Nguyễn Văn Công (2010), “BMD và gãy xương”, Kỷ yếu các

báo cáo hội nghị khoa học loãng xương, gãy xương và vitamin D, Cần Thơ, tr.

34.

23. Nguyễn Đình Nguyên (2010), “Vai trò của các yếu tố nguy cơ trong tiên đoán

gãy xương”, Kỷ yếu các báo cáo hội nghị khoa học loãng xương, gãy xương và

vitamin D, Cần Thơ, tr. 35-40.

24. Ninh Thị Nhung, Phạm Ngọc Khái, Phạm Ngọc Châu (2010), “Loãng xương

và giảm mật độ xương của phụ nữ 40-65 tuổi tại một số khu vực của tỉnh Thái

Bình”, Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, tập 6(1).

25. Ninh Thị Nhung, Phạm Ngọc Khái, Phạm Ngọc Châu (2010), “Hiệu quả của

một số biện pháp can thiệp dự phòng loãng xương cho phụ nữ 40-65 tuổi tại

Thái Bình”, Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, tập 6(1).

26. Nguyễn Văn Quang (2008), “Bác sĩ chỉnh hình và loãng xương”, Kỷ yếu các

báo cáo khoa học Tầm nhìn Châu Á về loãng xương, thành phố Hồ Chí Minh,

tr. 65-66.

27. Đỗ Trung Quân (2005), Bệnh nội tiết chuyển hóa thường gặp, Nhà xuất bản Y

học, Hà Nội, tr. 481-496.

28. Sở Y tế TPHCM (2013), Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh

loãng xương, Ban hành theo Quyết định số 1983/QĐ-SYT, thành phố Hồ Chí

Minh

146

29. Nguyễn Văn Thái, Đặng Thị Bé Thu, Phạm Thanh Tân (2010), “Gãy đầu dưới

xương quay, cổ xương đùi, cổ phẫu thuật xương cánh tay, điều trị và phòng

ngừa tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TPHCM”, Kỷ yếu các báo cáo hội

nghị khoa học loãng xương, gãy xương và vitamin D, Cần Thơ, tr. 27-29.

30. Trần Đức Thọ (2005), Bệnh loãng xương ở người cao tuổi, Nhà xuất bản Y

học, Hà Nội.

31. Nguyễn Văn Thọ, Lê Nguyễn Thụy Khanh, Lê Thị Tuyết Lan (2010), “Nghiên

cứu mật độ xương bằng đo hấp thụ năng lượng tia X kép ở người sử dụng

corticoides kéo dài”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 14(1), tr. 21-

27.

32. Nguyễn Huy Thông, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Thị Phi Nga, Đoàn Văn Đệ

(2010), “Đánh giá mật độ xương và tỷ lệ loãng xương ở các bệnh nhân khám

và điều trị tại Bệnh viện 103 bằng phương pháp hấp thụ tia X năng lượng kép”,

Tạp chí Y-Dược học quân sự, tập 35(1), tr. 107-113.

33. Vũ Thị Thanh Thuỷ, Trần Ngọc Ân (2003), “Tổng quan nghiên cứu loãng

xương tại Bệnh viện Bạch Mai từ 1992-2002”, Kỷ yếu các báo khoa học

chuyên đề loãng xương và bệnh cột sống, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 15-17.

34. Vũ Thị Thanh Thủy (2009), “Những tiến bộ mới trong điều trị loãng xương”,

Kỷ yếu báo cáo chuyên đề: Cơ xương khớp-Những tiến bộ trong chẩn đoán và

điều trị, Tạp chí của Tổng Hội y học Việt Nam, Hà Nội, số 4, tr. 33-35.

35. Vũ Thị Thanh Thủy, Trần Ngọc Ân (2010), “Đánh giá những nguy cơ loãng

xương sau mãn kinh ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, tập 68(3),tr. 49.

36. Lê Anh Thư (2008), “Chọn lựa thuốc điều trị loãng xương ở Việt Nam”, Kỷ

yếu các báo cáo khoa học Tầm nhìn Châu Á về loãng xương, thành phố Hồ Chí

Minh, tr. 32-33.

37. Lê Anh Thư (2009), Những tiến bộ chính trong lĩnh vực loãng xương và thách

thức trong chọn lựa-quản lý điều trị loãng xương, Báo cáo khoa học chuyên đề

cập nhật mới trong chẩn đoán, điều trị loãng xương và bệnh xương khớp, Hội

Loãng xương thành phố Hồ Chí Minh.

147

38. Lê Thanh Toàn, Vũ Đình Hùng (2011), “Loãng xương ở bệnh nhân đái tháo

đường tại Bệnh viện Chợ Rẫy”, Kỷ yếu các báo cáo tại hội nghị khoa học lần

thứ 9 chuyên đề: Thành tựu 10 năm xương khớp tại TPHCM, tr.113-119.

39. Phạm Văn Tú, Trần Ngọc Ân, Vũ Thị Thanh Thủy (2003), “Nhận xét mật độ

xương của nam giới bình thường từ 50 tuổi trở lên bằng phương pháp đo hấp

thụ tia X năng lượng kép”, Kỷ yếu các báo cáo khoa học chuyên đề loãng

xương và bệnh cột sống, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 41-44.

40. Nguyễn Văn Tuấn (2007), Loãng xương chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa,

Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

41. Nguyễn Văn Tuấn (2008), “Loãng xương”, Thời sự Y học – Tạp chí Hội Y học

thành phố Hồ Chí Minh, tập 7(29), tr. 11-33.

42. Nguyễn Văn Tuấn (2009), “Di truyền trong loãng xương: Tiến tới cá nhân hóa

tiên lượng và điều trị”, Kỷ yếu các báo cáo chuyên đề nội tiết-Đái tháo đường,

thành phố Hồ Chí Minh, tr. 311-315.

43. Đại Phi Vân, Nguyễn Thái Thành, Trần Thị Ngọc Dung (1998), “Đo tỷ trọng

xương ở phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh ở độ tuổi từ 45-70”, Kỷ yếu các báo

cáo khoa học chuyên đề loãng xương và bệnh cột sống, thành phố Hồ Chí

Minh, tr. 57-58.

44. Bùi Đức Văn, Nguyễn Văn Tín, Bùi Văn Dủ (2010), “Tỷ lệ loãng xương và các

yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân ≥50 tuổi tại khoa nội BVĐKKV Cái Nước-Cà

Mau”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 14, tr. 418-423.

45. Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Bộ Y tế (2006), Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị

cho người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học,tr. 33-35, 56-58.

Tiếng Anh

46. Amani A Osman (2013), “Assessment of Osteoporosis KAP among women in

Assir region, Saudi Arabia”, Journal of Medicine and Medical Sciences, Vol.

4(2),pp. 50-55.

(2003), Community-based osteoporosis

47. Ann-Charlotte, Grahn Kronhed

prevention: Physical activity in relation to bone density, fall prevention, and the

148

effect of training programmes,The Vadstena Osteoporosis Prevention Project,

Sweden.

48. Anoop Kuttikat et al (2004), “Management of Osteoporosis”, Journal Indian

Rheumatol Association, Vol. 12, pp. 104-118.

49. Australian Institute of Health and Welfare (2011), A Snapshot of Osteoporosis in

Australia, Report of the National Center for Monitoring Arthritis and

Musculoskeletal Conditions at the Australian Institute of Health and Welfare.

50. B. Häussler, H. Githe, D. Göl, G. Glaeske, L. Pientka, D. Felsenberg (2007),

“Epidemiology, treatment and cost of osteoporosis in Germany – the BoneEVA

Study”, Osteoporosis Int., Vol. 18, pp.77-84.

51. D. Nick Carteret al. (2002), “Community-based exercise program reduces risk

factors for falls in 65 to 75 year-old women with osteoporosis: randomized

controlled trial”,CMAJ, Vol. 167(9), pp. 997-1004.

52. Didier B.Hans et al. (2008), “Peripheral Dual-Energy X-Ray Absorptiometry in

the Management of Osteoporosis: The 2007 ISCD Official Position”, Journal

of Clinical Densitometry: Assessment of Skeletal Health, Vol. 11(11), pp. 188-

206.

53. Elizabeth Barrett-Connor et al. (2005), “Osteoporosis and Fracture Risk in

Women of Different Ethnic Groups”, Journal of Bone and Mineral research,

Vol. 20(2), pp. 185-194.

54. Ellen Edmonds et al. (2012), “Osteoporosis knowledge, beliefs, and calcium

intake of college students: Utilization of the health belief model”, Journal of

preventive Medicine, Vol. 2(1), pp. 27-32.

55. Fahad M. Al-Shahrani et al. (2010), “Knowledge of osteoporosis in middle-aged

and elderly women”, Saudi Medicine Journal, Vol. 31(6), pp. 684-687.

56. Farida Habid et al. (2012), “Assessment and modification of risk behavior

osteoporosis among childbearing working women”, Journal of American

Science, Vol. 8(9), pp.111-119.

149

57. Francis KL et al. (2009), “Effectiveness of a community-based osteoporosis

education and self-management course: a wait list controlled trial”,

Osteoporosis Int., Vol. 20(9), pp. 1563-1570.

58. G. Maalouf et al. (2007), “Middle East and North Africa consensus on

osteoporosis”, Journal Musculoskelet Neuronal Interact, Vol. 7(2), pp.131-

143.

59. Glen M. Blake, Ignac Fogelman (2001), “Peripheral or Central Densitometry:

Does It Matter Which Technique We use?”, Journal of Clinical Densitometry,

Vol. 4(2), pp. 83-96.

60. Gourlay ML, Callahan LF, Preisser JS, Sloane PD (2007), “Osteoporosis

preventive care in white and black women in community family medicine

settings”, Journal Family Medicine, University of North Carolina, Vol. 100(7),

pp. 677-682.

61. Gourlay Margaret L. et al. (2006), “Survey of Osteoporosis Preventive Care in

Community Family Medicine Settings”, Journal Family Medicine, Vol. 38(10),

pp. 724-730.

62. Health Service Excutive and the Department of Health and Children and the

National Council on Ageing and Older People (2008), Strategy to prevent falls

and fractures in Ireland´s Ageing population. Sumary, Conclusions and

Recommendations, Ireland.

63. International Osteoporosis Foundation (2004), Invest in your bones Osteoporosis

in Men the silent epidemic strikes men too, Report of International

Osteoporosis Foundation, pp.1-16.

64. International Osteoporosis Foundation (2005), Invest in your bones. Move it or

Lose it. How excercise helps to build and maintain strong bones, prevent falls

and fractures, and speed rehabilitation, Report annual of International

Osteoporosis Foundation.

150

65. International Osteoporosis Foundation (2006), Bone Appetite. The role of food

and nutrition in building and maintaining strong bones, Report annual of

International Osteoporosis Foundation, pp.1-22.

66. International Osteoporosis Foundation (2007), Know and reduce your risk of

osteoporosis, Report annual of International Osteoporosis Foundation.

67. International Osteoporosis Foundation (2008), Beat the Break. Know and reduce

your osteoporosis risk factors,Report annual of International Osteoporosis

Foundation, pp. 1-14.

68. International Osteoporosis Foundation (2008), Osteoporosis in the European

Union in 2008: Ten years of progress and ongoing challengers, Report of

International Osteoporosis Foundation.

69. International Osteoporosis Foundation (2009), FRAX ® Identifying people at

high risk of fracture, WHO Fracture Risk Assessment Tool, a new clinical tool

for informed treatment decisions, Report of International Osteoporosis

Foundation, pp.1-16.

70. International Osteoporosis Foundation (2009), The Asian Audit Epidemiology,

cost and burden of osteoporosis in Asia 2009, Report annual of International

Osteoporosis Foundation, pp.1-57.

71. International Osteoporosis Foundation (2010), The Breaking Spin, Report of

International Osteoporosis Foundation.

72. International Osteoporosis Foundation (2010), The Eastern European and

Central Asian regional audit: Epidermiology, cost and burden of osteoporosis

in 2010, Report annual of International Osteoporosis Foundation.

73. International Osteoporosis Foundation (2011), The Middle East and Africa

regional Audit, Report annual of International Osteoporosis Foundation.

74. International Osteoporosis Foundation (2011), Three steps to unbreakable

bones: Vitamin D, Calcium and Exercise, Report of International Osteoporosis

Foundation.

151

75. International Osteoporosis Foundation (2012), The Latin America regional

Audit: Epidemiology, cost and burden of osteporosis in 2012, Report annual of

International Osteoporosis Foundation, pp. 1-67.

76. International Osteoporosis Foundation (2012), Facts and Statistics, Report of

International Osteoporosis Foundation.

77. John A. Kanis et al. (2008), “European guidance for the diagnosis and

management of osteoporosis in postmenopausal women”, Osteoporosis int.

Vol. 19, pp. 399-428.

78. Jian-min Liu, Guang Ning, Jia-lun Chen (2007), “Osteoporotic fractures in Asia:

risk factors and strategies for prevention”, Journal Bone Mineral Metabolism,

Vol. 25, pp. 1-5.

79. Jorge Morales-Torres (2007), “Strategies for the prevention and control of

osteoporosis in developing countries”, Review of Clinical Rheumatology

Mexico, Vol. 26(3), pp. 139-143.

80. Julienne K. Kirk, Mindy Nichols, John G.Spangler (2002), “Use of a Peripheral

Dexa Measurement for Osteoporosis Screening”, Clinical Research and

Methods, Vol. 34(3), pp. 201-205.

81. Kamila POSLUŠNÁ et al. (2008), “Risk factors of osteoporosis- Knowledge

and practices among adolescent females”, School and Health, Vol. 21, pp. 211-

220.

82. Karen Bohaty, Holly Rocole, Kelli Wehling, Nancy Waltman (2008), “Testing

the effectiveness of an educational intervention to increase dietary intake of

calcium and vitamin D in young adult women”, Journal of the American

Academy of Nurse Practioners, Vol. 20, pp. 93-99.

83. L K H Koh (2007), “Osteoporosis in Asian populations”, Menopausal Medicine,

Vol. 5, pp. 10-14.

84. Lin Pao-Hwa et al. (2003), “The DASH diet and sodium reduction improve

markers of bone turnover and calcium metabolism in adults”, Journal Nutrition,

Vol. 133, pp. 3130-3136.

152

85. Linda Yin-King Lee et al. (2006), “Osteoporosis in older Chinese men:

knowledge and health beliefs”, Journal of Clinical Nursing, Vol. 15, pp. 353-

355.

86. Lionel S. Lim, Laura J. Hoeksema, Kevin Sherin (2009), “Screening for

osteoporosis in the adult U.S. population ACMP position statement on

preventive practice”, American Journal of Preventive Medicine, Vol. 36(4), pp.

366-375

87. Loh KY, Shong HK (2007), “Osteoporosis: Primary Prevention in the

Community”, Med. J. Malaysia, Vol. 62(4), pp. 355-358.

88. Lorentzon Mattias et al. (2007), “Smoking is associated with lower bone mineral

density and reduced cortical thickness in young men”, The Journal of Clinical

Endocrinology and Metabolism, Vol. 92(2), pp. 497-503.

89. M. Allison Ford et al. (2011), “Osteoporosis knowledge, self-efficacy, and

beliefs among college students in the USA”, Journal of Osteoporosis, Vol.

2011, pp. 1-8.

90. M. Duyvendak et al. (2011), “Doctors´ beliefs and knowledge on

corticosteroid-induced osteoporosis: identifying barriers to improve

prevention”, Journal of Clinical Pharmacy and Therapeutics”, Vol. 36(3), pp.

356-366.

91. M. Sadat-Ali et al. (2009), “Osteoporosis-related vertebral fractures in

postmenopausal women: Prevalence in a Saudi Arabian sample”, La Revue de

Santé de la Méditerranée orientale, Vol. 15(6), pp. 1420-1425.

92. Mahfouz et al (2007), “Osteoporosis-related lifestyle choices and knowledge

among adolescent females in El-Minia city, Egypt”, El-Minia Med., Bull., Vol.

18(1), pp. 29-41

93. Marian T.Hannan et al. (2000), “Effect of Dietary Protein on Bone Loss in

Elderly Men and Women: The Framingham Osteoporosis Study”, Journal of

Bone and Mineral Research, Vol. 15(12), pp. 2504-2512.

153

94. Mervat M.A. El-Sayed et al. (2013), “Osteoporosis-Related Life Habits,

Knowledge and Attitude among Group of Female Employees in King Saud

University”, World Applied Sciences Journal, Vol. 22(7), pp. 919-925.

95. Ministry of Health and Long-Term Care (2003), Osteoporosis Action Plan: An

Osteoporosis Strategy for Ontario, Report of the Osteoporosis Action Plan

Committee, Ontario Canada.

96. Miriam F. Delaney (2006), “Strategies for the prevention and treatment of

osteoporosis during early postmenopause”,American Journal of Obstetrics and

Gynecology, Vol. 194, pp. 12-23.

97. Moon Fai Chan et al. (2006), “Osteoporosis prevention education programme

for women”, Journal of Advanced Nursing, Vol. 54(2) , pp. 159-170.

98. National Osteoporosis Society United Kingdom (2006), Osteoporosis Facts and

Figures, Report of National Osteoporosis Society, United Kingdom.

in the Prevention of

99. Neil Hirschenbein (2002), Nutritional Stretegies

Osteoporosis, ANSR-Applied Nutritional Science Reports, pp. 1-5

100.Ngoc Lan T. Nguyen, Minh Thuy T. Tao (2013), “Assessing the risk factors for

osteoporosis in women aged from 50 years and above in the Northern part of

Vietnam”, Report of The Fifth Strong Bone Asia conference: Osteoporosis in

Asean (+), Danang city Vietnam, p. 49.

101.H.T.T. Nguyen et al. (2009), “Peak bone mineral density in Vietnamese

women”, Arch Osteoporosis, Vol. 4, pp. 9-15.

102.H.T.T. Nguyen, N.D. Nguyen, T.T. Le, T.V. Nguyen (2013), “Knowledge of

Osteoporosis among Tertiary Students in Vietnam”, Report of The Fifth Strong

Bone Asia conference: Osteoporosis in Asean (+), Danang city Vietnam, p. 91.

103.Patricia M Ciaschini et al. (2010), “Community-based intervention to optimize osteoporosis management: randomized controlled trial”,BMC Geriatric,Vol.10

(60).

104.Pensylvania Department of Health and Pensylvania Osteoporosis Coalition

(2004), Osteoporosis and Bone health: Pennsylvania Osteoporosis prevention

154

and education strategic plan, Report of Department of Health Harrisburg,

Commonwealth of Pennsylvania.

105.Peter M Wayne et al. (2012), “Impact of Tai Chi exercise on multiple fracture-

related risk factors in post-menopausal osteopenic women: a pilot pragmatic,

randomized trial”, BMC Complement Alternal Medicine, Vol. 12(7), pp. 1-12.

106.Philip Sambrook, Cyrus Cooper (2006), “Osteoporosis”, The Lancet, Vol. 367,

pp. 2010-2018.

107.Prema B Rapuri et al. (2000), “Alcohol intake and bone metabolism in elderly

women”, American Journal Clinical Nutrition, Vol. 72, pp.1206-1213

108.R.Bartl, B.Frisch (2009), Osteoporosis, ® Springer-Verlag Berlin Heidelberg.

109.R. Rizzoli et al. (2008), “The role of calcium and vitamin D in the management

of osteoporosis”, Bone, Vol. 42, pp.246-249.

110.Rafraf M, Bazyun B, Afsharnia F (2009), “Osteoporosis-related life habits

knowledge about osteoporosis among women in Tabriz, Iran”, The

International Medical Journal, Vol.8(2), pp. 17-20.

111.Rebecca L Kesman et al. (2010), “Population informatics-based system to

improve osteoporosis screening in women in a primary care practice”, J. Am.

Med. Inform. Assoc., Vol. 17(2), pp. 212–216.

112.Rizzoli René, Jean-Philippe Bonjour (2004), “Dietary Protein and Bone

Health”, Journal of Bone and Mineral Research, Vol. 19(4), pp. 527-531.

113.Rohini Handa et al. (2008), “Osteoporosis in developing countries”, Best

Practice and Research Clinical Rheumatology, Vol. 22(4), pp. 693-708.

114.Russel Burge et al. (2007), “Incidence and Economic Burden of Osteoporosis-

Related Fractures in the United States 2005-2025”, Journal of Bone and

Mineral Research, Vol. 22(3), pp. 465-475.

115.S.Boonen et al. (2006), “Calcium and vitamin D in the prevention and

treatment of osteoporosis – a clinical update”, Journal of Internal Medicine,

Vol. 259, pp. 539-552.

155

116.Saneya A Wahba et al. (2010), “Osteoporosis knowledge, beliefs, and

behaviors among Egyption female students”, JASMR, Vol. 5(2), pp. 173-180.

117.Sarina Schrager (2003), “Osteoporosis Prevention in Primary Care”, Winconsin

Medical Journal, Vol. 102(3), pp.52-55.

118.South Eastern Health and Social Care Trust(2012), Falls and Osteoporosis

Strategy 2012-2016, Report of National Health Services Lothian, Scotland.

(2012), “Osteoporosis Prevention-Adolescents´

119.Shu-Wen Chen et al.

knowledge, attitudes, and practices”, American Journal of Health Behavior,

Vol. 36(6), pp.736-745.

120.Susan B. Jaglal et al. (2003), “How are family physicians managing

osteoporosis? Qualitative study of their experiences and educational needs”,

Canadian Family Physician, Vol. 49, pp. 462-468.

121.Susan B. Jaglal et al. (2012), “Impact of a centralized osteoporosis coordinator

on post-fracture osteoporosis management: a cluster randomized trial”,

Osteoporos Int., Vol.23(1), pp. 87–95.

122.Tania Winzenberg et al. (2006), “The effect on behavior and bone mineral

density of individualized bone mineral density feedback and educational

interventions in premenopausal women: a randomized controlled trial,” BMC

Public Health, Vol. 6(12).

123.The Taiwanese Osteoporosis Association (2011), Taiwanese Guidelines for the

Prevention and Treatment of Osteoporosis, Report of The Taiwanese

Osteoporosis Association, Taiwan.

124.Thu Hien T.Vu, Bach Mai Le, Lam T. Nguyen (2013), “Effect of nutrition

education on calcium intake and bone mass in Vietnamese women”, Report of

The Fifth Strong Bone Asia conference: Osteoporosis in Asean (+), Danang

city Vietnam, pp. 99-101.

125.W.C.Tung, Iris F.K. Lee (2006), “Effects of an osteoporosis educational

programme for men”, Issues and Innovations in Nursing practice, pp. 26-34.

156

126.Wan Arfah Nadiah Wan Jamil et al. (2010), “Knowledge, Attitude and Dietary

and Lifestyle Practices on Bone Health Status among Undergraduate

University Students in Health Campus, University Sains Malaysia, Kelantan”,

Health and Environment Journal, Vol. 1(1), pp.34-40.

127.Xingqiong Meng et al. (2010), “Calcium Intake in Elderly Australian Women

Is Inadequate”, Nutrients, Vol. 2(9), pp. 1036–1043.