1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG -------------------*------------------
NGUYỄN TRUNG HÒA
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP
CAN THIỆP CỘNG ĐỒNG PHÒNG CHỐNG
LOÃNG XƢƠNG Ở NGƢỜI TỪ 45 TUỔI TRỞ LÊN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC
Chuyên ngành: VỆ SINH XÃ HỘI HỌC VÀ TỔ CHỨC Y TẾ
Mã số: 62. 72. 01. 64
HÀ NỘI - 2015
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG -------------------*------------------
NGUYỄN TRUNG HÒA
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP
CAN THIỆP CỘNG ĐỒNG PHÒNG CHỐNG
LOÃNG XƢƠNG Ở NGƢỜI TỪ 45 TUỔI TRỞ LÊN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC
Chuyên ngành: VỆ SINH XÃ HỘI HỌC VÀ TỔ CHỨC Y TẾ
Mã số: 62. 72. 01. 64
Hƣớng dẫn khoa học
1. PGS.TS. NGUYỄN VĂN TẬP
2. GS.TS. ĐÀO VĂN DŨNG
HÀ NỘI - 2015
3
Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Các số
liệu kết quả trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 03 năm 2015 Tác giả Nguyễn Trung Hòa
4
Lời cám ơn Tôi xin chân thành cám ơn Ban Lãnh đạo Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Phòng Đào tạo Sau Đại học và các thầy giáo, cô giáo của Viện đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi học tập và hoàn thành luận án. Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến GS.TS. Đào Văn Dũng, PGS.TS. Nguyễn Văn Tập, là những người thầy đã tận tâm hướng dẫn, động viên và cung cấp những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án này. Tôi xin chân thành cám ơn Lãnh đạo Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh, Ngành y tế quận Bình Thạnh, quận Gò Vấp, quận 6, quận 12 và huyện Hóc Môn. Đặc biệt tôi xin cám ơn Lãnh đạo Ủy ban nhân dân, quý đồng nghiệp trạm y tế và cộng tác viên của các phường 3 quận Bình Thạnh, phường 5 quận Gò Vấp, phường Hiệp Thành quận 12 và xã Tân Xuân huyện Hóc Môn đã tận tình tham gia và hỗ trợ tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu trên thực địa. Với tấm lòng thành kính, tôi cũng xin cám ơn những người dân đã đồng ý tham gia công trình nghiên cứu này. Xin cám ơn gia đình, những người thân đã quan tâm, động viên và hết lòng giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận án. Xin gửi đến tất cả mọi người lòng biết ơn sâu sắc. Hà Nội, ngày 10 tháng 03 năm 2015 Nguyễn Trung Hòa
5
MỤC LỤC
Mục lục .................................................................................................................. i
Danh mục các chữ viết tắt .................................................................................. ..v
Danh mục các bảng .......................................................................................... ..vii
Danh mục các biểu đồ............................................................................................x
Danh mục các hình, sơ đồ ................................................................................... xi
ĐẶT VẤN ĐỀ ..................................................................................................... 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN .................................................................................. 3
1.1. Một số khái niệm về bệnh loãng xương ........................................................ 3
1.1.1. Định nghĩa loãng xương và giảm mật độ xương ....................................... 3
1.1.2. Cấu trúc và chức năng của xương .............................................................. 3
1.1.3. Sinh lý xương và bệnh loãng xương .......................................................... 4
1.1.4. Nguyên nhân và phân loại loãng xương .................................................... 5
1.1.5. Các dấu hiệu lâm sàng loãng xương nguyên phát và biến chứng .............. 5
1.1.6. Các xét nghiệm thăm dò hình ảnh và chẩn đoán loãng xương....................6
1.1.7. Điều trị và phòng bệnh loãng xương.. ....................................................... .8
1.2. Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến loãng xương trên thế giới
và Việt Nam.............................. ...................................................... ...........10
1.2.1. Tỷ lệ loãng xương ở một số nước trên thế giới................... ................. ....10
1.2.2. Tỷ lệ loãng xương tại Việt Nam..................................... .................... .....15
1.2.3. Một số yếu tố liên quan đến loãng xương........................ ................ ........17
1.3. Các biện pháp phòng chống loãng xương trên thế giới và tại
Việt Nam ............................................................................................. .......25
1.3.1. Các biện pháp phòng chống loãng xương trên thế giới........ .............. .....25
1.3.2. Các biện pháp phòng chống loãng xương tại Việt Nam .......................... 31
1.4. Một số đặc điểm về thành phố Hồ Chí Minh................................................34
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................ 35
2.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................. 35
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu mô tả cắt ngang. ................................................... 35
2.1.2. Đối tương nghiên cứu can thiệp.................................................................35
2.1.3. Tiêu chí loại trừ khi chọn mẫu nghiên cứu .............................................. 35
6
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ............................................................... 35
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu ................................................................................ 35
2.2.2. Một số đặc điểm của địa phương nghiên cứu.............................................36
2.2.3. Thời gian nghiên cứu ............................................................................... 37
2.3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 37
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu .................................................................................. 37
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu ............................................................................ 45
2.4. Tổ chức thực hiện nghiên cứu ..................................................................... 48
2.4.1. Nghiên cứu mô tả ..................................................................................... 48
2.5. Biến số và các chỉ số nghiên cứu ................................................................ 50
2.5.1.Định nghĩa các biến số .............................................................................. 50
2.5.2. Các chỉ số nghiên cứu .............................................................................. 55
2.6. Kỹ thuật hạn chế sai số nghiên cứu ............................................................. 57
2.6.1. Hạn chế sai số trong chọn mẫu ................................................................ 57
2.6.3. Hạn chế sai số trong thu thập thông tin. ................................................... 57
2.7. Xử lý và phân tích số liệu ........................................................................... 58
2.8. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ............................................................... 59
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 60
3.1. Tỷ lệ loãng xương và một số yếu tố liên quan ở người dân từ
45 tuổi trở lên .............................................................................................. 60
3.1.1. Đặc điểm chung của người dân nghiên cứu trước can thiệp .................... 60
3.1.2. Tỷ lệ loãng xương của người dân từ 45 tuổi trở lên ................................ 66
3.1.3. Một số yếu tố liên quan đến mật độ xương của người dân ...................... 67
3.1.4. So sánh một số đặc điểm của người dân nghiên cứu ở các
phường, xã nghiên cứu can thiệp và đối chứng ....................................... 78
3.2. Xây dựng và đánh giá hiệu quảmột số biện pháp can thiệp cộng đồng
Phòng chống loãng xương ........................................................................... 79
3.2.1. Kết quả xây dựng một số biện pháp can thiệp ......................................... 79
3.2.2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp ........................................ 83
Chƣơng 4. BÀN LUẬN .................................................................................... 93
4.1. Tỷ lệ loãng xương và một số yếu tố liên quan ở người từ 45 tuổi
trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh trước can thiệp .................................... 93
7
4.1.1. Đặc điểm chung của người dân nghiên cứu trước can thiệp .................... 93
4.1.2. Tỷ lệ loãng xương của người dân nghiên cứu trước can thiệp...................94
4.1.3. Một số yếu tố liên quan đến mật độ xương................................................95
4.1.4. Yếu tố không liên quan đến loãng xương..... ......................................... 107
4.2. Xây dựng và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp ..................... 108
4.2.1. Kết quả xây dựng một số biện pháp can thiệp ................................ .......108
4.2.2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng......................114
4.2.3. Kết quả duy trì hoạt động mô hình can thiệp ........................ .................123
4.2.4. Hạn chế của đề tài....................................................................................124
KẾT LUẬN ......................................................................................... ............125
KIẾN NGHỊ ........................................................................................ ........... 127
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
8
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
BMC : Bone Mineral Concent - Khối lượng khoáng xương
BMD : Bone Mineral Density - Mật độ khoáng xương
BMI : Body Mass Index - Chỉ số khối cơ thể
BT : Bình thường
CB-CCVC : Cán bộ - Công chức viên chức
CBYT : Cán bộ y tế
CĐ-ĐH : Cao đẳng-Đại học
CI : Confidence Interval – Khoảng tin cậy
CLB : Câu lạc bộ
Cs : Cộng sự
CSHQ : Chỉ số hiệu quả
CT : Can thiệp
CTV : Cộng tác viên
DXA : Dual-Energy X-ray Absorptiometry-
Hấp thụ năng lượng kép X quang
H. : Huyện
HQCT : Hiệu quả can thiệp
HRT : Hormon Replacement Therapy-
Liệu pháp hormon thay thế
KT : Kiến thức
KTX : Không thường xuyên
LX : Loãng xương
MĐX : Mật độ xương
NVYT : Nhân viên y tế
PTH : Parathyroid Hormone - Hormone tuyến cận giáp
P. : Phường
Q. : Quận
OR : Odd Ratio- Tỷ suất chênh
9
RLHTÐR : Rối loạn hấp thu đường ruột
SD : Standard Deviation - Độ lệch chuẩn
SE : Standard Error – Sai số chuẩn
SL : Số lượng
STT : Số thứ tự
TB : Trung bình
TDTT : Thể dục thể thao
TH : Thực hành
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TPHCM : Thành Phố Hồ Chí Minh
TX : Thường xuyên
IU : International Unit – Đơn vị Quốc tế
UNICEF : United Nations Children's Fund-
Quỹ nhi đồng Liên Hiệp quốc
USD : United State Dollars – Đô la Mỹ
WHO : World Health Organization-
Tổ chức Y tế thế giới
X. : Xã
10
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Nội dung Trang
1.1. Những yếu tố nguy cơ gây ra bệnh loãng xương.....................................................17
2.1. Địa điểm nghiên cứu mô tả và can thiệp..................................................................36
2.2. Nội dung biện pháp can thiệp trên các nhóm đối tượng..........................................43
2.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xương theo mật độ xương..........................................50
2.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán xẹp đốt sống theo phương pháp Genant..............................51
2.3. Phân loại BMI theo WHO năm 2000 khu vực Châu Á...........................................52
3.1. Phân bố tỷ lệ người dân nghiên cứu theo giới và nhóm tuổi...................................60
3.2. Phân bố trung bình cân nặng, chiều cao, BMI theo giới..........................................60
3.3. Phân bố tỷ lệ người dân nghiên cứu theo đặc điểm nhân trắc.................................61
3.4. Phân bố tỷ lệ người dân nghiên cứu theo tiền sử bệnh và chiều cao.......................62
3.5. Phân bố tỷ lệ người dân nghiên cứu theo lối sống...................................................63
3.6. Phân bố tỷ lệ phụ nữ nghiên cứu theo kinh nguyệt và số con..................................63
3.7. Phân bố tỷ lệ người dân trả lời đúng về kiến thức bệnh loãng xương.....................64
3.8. Phân bố tỷ lệ người dân nhận thông tin về loãng xương và nguồn nhận.................65
3.9. Phân bố tỷ lệ người dân thực hiện hành vi có lợi và có hại cho xương...................65
3.10. Phân bố tỷ lệ kiến thức và thực hành của người dân nghiên cứu..........................66
3.11. Phân bố tỷ lệ loãng xương của người dân nghiên cứu theo giới tính....................67
3.12. Phân bố tình trạng mật độ xương theo trung bình BMD và giới tính....................67
3.13. Liên quan loãng xương với giới tính người dân nghiên cứu..................................67
3.14. Liên quan loãng xương với nhóm tuổi theo giới tính của người dân.....................68
3.15. Liên quan loãng xương với với BMI của người dân..............................................69
3.16. Liên quan loãng xương với yếu tố địa dư..............................................................70
3.17. Liên quan loãng xương với yếu tố nghề nghiệp và học vấn..................................71
3.18. Liên quan loãng xương với kinh nguyệt và số con ở phụ nữ nghiên cứu..............71
3.19. Liên quan loãng xương với sử dụng rượu bia, hút thuốc lá theo giới...................72
3.20. Liên quan loãng xương với uống sữa, thể dục thể thao theo giới.........................73
3.21. Liên quan loãng xương với tiền sử cá nhân, gia đình và chiều cao......................73
11
3.22. Liên quan tình trạng xẹp đốt sống với BMD của người bị loãng xương...............74
3.23. Liên quan loãng xương với kiến thức và thực hành của người dân.......................75
3.24. Liên quan loãng xương trên mô hình hồi quy đa biến...........................................76
3.25. Liên quan loãng xương trên mô hình hồi quy đa biến ở nữ giới............................77
3.26. Số người dân ở phường xã can thiệp được tư vấn trong 2 năm tại đơn vị
tư vấn chung...........................................................................................................80
3.27.Số người dân ở phường, xã can thiệp được tư vấn trong 2 năm tại các
trạm y tế.................................................................................................................81
3.28. Số lượt người dân được truyền thông trực tiếp tại cộng đồng ở các phường xã
can thiệp sau 2 năm................................................................................................81
3.29. Số hộ và người dân nghiên cứu được cộng tác viên thăm và tư vấn sau 2
năm can thiệp.........................................................................................................82
3.30. Phân bố tỷ lệ người dân nghiên cứu được truyền thông, tư vấn trực tiếp
về bệnh loãng xương..............................................................................................82
3.31. Phân bố tỷ lệ người dân can thiệp và đối chứng theo giới tính, tuổi, nghề nghiệp,
trình độ học vấn, tiền sử gia đình loãng xương và BMI.................................................83
3.32. Phân bố tỷ lệ phụ nữ can thiệp và đối chứng về kinh nguyệt và số con................84
3.33. Hiệu quả can thiệp về nguồn và thông tin nhận được của người dân....................85
3.34. Hiệu quả can thiệp về các nội dung thực hành của người dân...............................86
3.35. Hiệu quả can thiệp về kiến thức đúng của người dân............................................87
3.36. So sánh trung bình BMD, điểm kiến thức và thực hành của người dân trước
và sau can thiệp......................................................................................................88
3.37. Hiệu quả can thiệp về mật độ xương, kiến thức và thực hành của người dân
nghiên cứu trước và sau can thiệp..........................................................................88
3.38. Hiệu quả can thiệp về nhận thông tin bệnh loãng xương ở người có mật độ
xương thấp.............................................................................................................90
3.39. Hiệu quả can thiệp về nguồn thông tin nhận được ở người có mật độ xương
thấp.........................................................................................................................90
3.40. Hiệu quả can thiệp về kiến thức đúng ở người có mật độ xương thấp..................91
3.41. Hiệu quả can thiệp về thực hành phòng chống loãng xương ở người có
12
mật độ xương thấp.................................................................................................91
3.42. So sánh trung vị BMD, điểm kiến thức, điểm thực hành ở người có mật
độ xương thấp trước và sau can thiệp....................................................................91
3.43. Hiệu quả can thiệp về mật độ xương ở người có mật độ xương thấp....................92
3.44. Hiệu quả can thiệp về kiến thức, thực hành ở người mật độ xương thấp..............92
13
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ Nội dung Trang
3.1. Phân bố tỷ lệ tiền sử gãy xương do chấn thương nhẹ của người dân
nghiên cứu..........................................................................................................61
3.2. Phân bố tỷ lệ thói quen uống sữa theo giới của người dân nghiên cứu.............62
3.3. Phân bố tỷ lệ loãng xương của người dân nghiên cứu.......................................66
3.4. Tương quan giữa BMD với tuổi của nam giới nghiên cứu................................69
3.5. Tương quan giữa BMD với tuổi của nữ giới nghiên cứu...................................69
3.6. Tương quan giữa BMD với cân nặng, chiều cao, BMI của người dân
nghiên cứu..........................................................................................................70
3.7. Tương quan giữa BMD với kinh nguyệt và số con của phụ nữ
nghiên cứu..........................................................................................................72
3.8. Phân bố vị trí, số lượng và độ xẹp đốt sống ở người loãng xương....................74
3.9. Tương quan giữa BMD với điểm kiến thức và thực hành của người dân
nghiên cứu.........................................................................................................75
3.10. Phân bố tỷ lệ người có mật độ xương thấp hoàn thành can thiệp bằng viên
Calci-D sau 2 năm............................................................................................89
14
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình Nội dung Trang
1.1. Bản đồ thành phố Hồ Chí Minh và các quận, huyện nghiên cứu.......................34
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ Nội dung Trang 2.1. Mô hình can thiệp truyền thông phòng chống loãng xương...............................40 2.2. Thiết kế nghiên cứu mô tả và can thiệp cộng đồng............................................44
15
ĐẶT VẤN ĐỀ
Loãng xương là một căn bệnh thầm lặng, đang trở thành vấn đề sức khỏe toàn
cầu và là gánh nặng lên ngân sách y tế ở mỗi quốc gia. Hiện nay, ước tính toàn thế
giới có trên 200 triệu người bệnh loãng xương và đang tiếp tục gia tăng theo mức độ
già hóa dân số [58].
Đã từ lâu, người ta xem xương và cơ bị suy yếu hoặc nặng hơn là gãy xương hông
vàxẹp xương đốt sống ở người lớn tuổi là một phần bình thường của sự già hóa.
Tuy nhiên, các nhà khoa học đã nhận ra rằng sự suy yếu của xươngở người cao tuổi
là điều không bình thường, chúng được gây ra bởi mộtbệnh có thể điều trị và ngăn
ngừa được, đó là bệnh loãng xương. Bệnh chủ yếu xảy ra ở người từ tuổi trung niên
trở lên, phụ nữ sau mãn kinh. Hậu quả của bệnh thường dẫn đến biến chứng gãy
xương, đòi hỏi chi phí chăm sóc và điều trị cao, làm giảm chất lượng cuộc sống, đặc
biệt là ở người cao tuổi. Riêng với phụ nữ, nguy cơ bị gãy xương do loãng xương
lớn hơn nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, ung thư nội mạc tử cung và ung thư buồng
trứng cộng lại. Ở những phụ nữtrên 45 tuổi, loãng xươngvà biến chứng của loãng
xương phải điều trị nhiều ngàyhơntrongbệnhviệnsovớinhững bệnhkhác như nhồi
máucơ tim, bệnh tiểu đường, ung thư vú. Đối với nam giới, nguy cơ gãy xương do
loãng xương cao hơn nguy cơ ung thư tiền liệt tuyến [64],[71]. Dự báo đến năm
2050,tỷ lệ gãy xương hôngtrên thế giớisẽ tăng thêm 310%ở nam giới và 240% ở nữ
giới, sẽ có 6,3 triệu trường hợp gãy cổ xương đùi do loãng xương và 51% xảy ra ở
các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam [47],[48],[67].
Năm 2006, theo ước tính nước ta có khoảng 2,5 triệu người bị loãng xương, trong
đó 1,9 triệu người là phụ nữ, số người bị gãy xương do loãng xương khoảng
152.000 (phụ nữ 92.000 người). Dự báo đến năm 2030,số người mắc bệnh loãng
xương sẽ là 4,5 triệu, trong đó có 3,4 triệu người là phụ nữ, số ngườibị gãy xương
do loãng xương khoảng 262.650 (phụ nữ 162.650 người) [37].
Hiện nay, một số nước trên thế giới đã xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược
quốc gia phòng chống loãng xương và gãy xương như Mỹ, Úc, Canada, Châu
Âu...Những nội dung của chiến lược bao gồm các hoạt động tăng cường thông tin
16
truyền thông nhằm gia tăng nhận thức của người dân về bệnh loãng xương, nhất là ở
lứa tuổi học đường.Tích cực điều chỉnh lối sống của người dân theo chiều hướng có
tác dụng phòng ngừa nhằm tối ưu hóa mật độ xương và làm giảm bớt mức độ mất
xương liên quan với tuổi.
Ở nước ta, chưa có những nghiên cứu quy mô quốc gia để biết tình hình loãng
xương, nhưng với tỷ lệ người cao tuổi như hiện nay, thì thật sự loãng xương là một
vấn đề y tế công cộng quan trọng. Thành phố Hồ Chí Minh có dân số hơn bảy triệu
người, là thành phố phát triển và đô thị hóa với tốc độ nhanh, mật độ dân số cao và
đa dạng mô hình bệnh tật. Thống kê năm 2009 tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh
hình thành phố Hồ Chí Minh đã có 1442 người bệnh gãy cổ xương đùi, trong đó độ
tuổi từ 50 trở lên ở nam giới tỷ lệ 83%, ở nữ giới 66% và đa số có liên quan đến
loãng xương [29]. Do đó, với thực trạng về bệnh loãng xương hiện nay, thì rất cần
thiết phải có biện pháp can thiệp phòng chống bệnh đối với quần thể những người
trung niên trở lên. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả một số
biện pháp can thiệp cộng đồng phòng chống loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên
tại thành phố Hồ Chí Minh” với mục tiêu nghiên cứu sau:
1. Xác định tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến loãng xương ở người từ 45
tuổi trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011;
2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng phòng chống
loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011-
2013.
17
Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ BỆNH LOÃNG XƢƠNG
1.1.1. Định nghĩa loãng xƣơng và giảm mật độ xƣơng
Năm 1991, Tổ chức Y tế thế giới đưa ra định nghĩa về loãng xương, là một
bệnh với đặc điểm khối lượng xương suy giảm, vi cấu trúc của xương bị hư hỏng,
dẫn đến tình trạng xương bị suy yếu và hệ quả là tăng nguy cơ gãy xương [40]. Gãy
xương là hệ quả của loãng xương, hay nói một cách khác loãng xương là yếu tố
nguy cơ dẫn tới gãy xương. Các nhà khoa học nghiên cứu chuyên sâu về bệnh loãng
xương đã đưa ra khái niệm về sức bền của xương mà trong đó ngoài mật độ chất
khoáng trong xương thì chất lượng xương là yếu tố quan trọng như nhau.
Giảm mật độ xương hoặc khối lượng xương thấp là đề cập đến việc một
người nào đó bị giảm khối lượng xương thấp hơn bình thường nhưng chưa đến mức
gọi là loãng xương [10].
1.1.2. Cấu trúc và chức năng của xƣơng
Bộ xương người có khoảng 220 xương và chiếm khoảng 15% trọng lượng cơ
thể. Các nhà khoa học xem cấu trúc của xương như một tuyệt tác về kiến trúc. Đặc
điểm chung của xương gồm có lớp màng xương (lớp ngoài là lớp mô liên kết sợi
chắc, mỏng, dính chặt vào xương, có tính đàn hồi, trên màng có các lỗ nhỏ và lớp
trong gồm các tạo cốt bào có nhiều mạch máu và thần kinh đến nuôi xương. Nhờ
lớp tế bào này mà xương có thể lớn lên, to ra). Kế đến là phần xương đặc và phía
trong là xương xốp (do nhiều bè xương bắt chéo nhau chằng chịt, để hở những hốc
nhỏ trông như bọt biển). Trong cùng là phần tủy xương nằm trong lớp xương
xốp.Xương có nhiều chức năng nhưng chủ yếu có 5 chức năng chính:Thứ nhất làhỗ
trợ và vận động; Thứ hai là đóng vai trò bảo vệ cho các cơ quan trong cơ thể; Thứ
ba lànơi chứa chất khoáng (99% can-xi, 80% phốt-pho và 50% ma-nhê của cơ thể
được lưu trữ trong xương.Có khoảng 1 đến 1,5kg can-xi được xây dựng vào bộ
khung xương dưới hình thức tinh thể hydroxyapatite); Thứ tư xương còn là kho
chứa chất nền protein (50% chất hữu cơ: 25% chất nền và 25% nước). Chất nền có
18
90% là collagen loại I và 10% các protein khác; Và cuối cùng là bộ xương còn tham
gia điều hòa nội tiết và chuyển hóa năng lượng qua cơ chế liên quan đến leptin và
osteocalcin [108].
1.1.3. Sinh lý xƣơng và bệnh loãng xƣơng
Xương liên tục sửa chữa và tự làm mới trong một quá trình được gọi là tái mô hình.
Quá trình này có chức năng duy trì mật độ xương ở mức tối ưu. Ngoài ra, quá trình
tái mô hình còn có chức năng sửa chữa những xương bị tổn hại, kể cả khi xương bị
“vi nứt” (microcrack) hay gãy xương. Xương bị suy giảm khi các tế bào hủy xương
tạo ra những lỗ phân hủy sâu hoặc khi các tế bào tạo xương không có khả năng lắp
vào những lỗ hổng do các tế bào hủy xương để lại. Trong cơ chế hoạt động xương
chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như nội tiết tốestrogen và testosterone, là hai
hormone đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn tạo xương. Tác động của estrogen
đến xương là qua thụ thể estrogen (estrogen receptor-ER). Ảnh hưởng của estrogen
đến quá trình tái mô hình là làm giảm số lượng và hoạt động của tế bào hủy xương.
Estrogen còn tác động đến sự phát sinh, hình thành các enzym và protein qua những
cơ chế phức tạp liên quan đến các hormone khác. Estrogen tác động đến các tế bào
tạo xương và tế bào hủy xương để ức chế sự phân hủy xương ở mọi giai đoạn trong
quá trình tái mô hình xương. Ngay thời điểm hay sau thời kỳ mãn kinh, estrogen bị
suy giảm và hệ quả là mật độ xương cũng suy giảm nhanh chóng, nhất là trong 5
năm đầu sau mãn kinh. Testosterone kích thích sự tăng trưởng của cơ và tác động
tích cực đến quá trình tạo xương. Testosterone còn sản sinh ra estrogen trong quá
trình tác động đến cơ và xương.
Các chức năng tạo xương, hủy xương và chuyển hóa xương nói chung được điều
phối bởi một số yếu tố toàn thân và yếu tố nội tại. Các yếu tố toàn thân có vai trò
trong việc duy trì quân bình can-xi. Những yếu tố này bao gồm các yếu tố tại chỗ
ảnh hưởng đến sự vận hành của tế bào (các cytokin và colony stimulating factors)
và các yếu tố tăng trưởng (growth factors) kích thích sản sinh các tế bào tạo xương
và biệt hóa tế bào.
Can-xi đóng vai trò rất quan trọng trong hình thành, phát triển và duy trì bộ
xương. Các hormone cận giáp (Parathyroid hormone-PTH), calcitriol và calcitonin
19
là những hormone kiểm soát can-xi. Các hormone này đóng vai trò duy trì sức khỏe
của xương. Parathyroid hormone giúp duy trì nồng độ can-xi trong máu, tăng
trưởng cả hai quá trình tạo xương và hủy xương, giúp di chuyển can-xi khỏi xương
vào máu, nhưng khi Parathyroid hormone gia tăng sẽ đưa đến chứng cường cận giáp
và dẫn đến mất xương. Calcitriol hay 1,25 D được sản sinh từ cholecalciferol.
Một trong những nguyên nhân gây nênmất xương dẫn đến bệnh loãng
xươnglà do thiếu estrogen. Mất xương trong quá trình tái mô hình là do tăng các tế
bào hủy xương so với các tế bào tạo xương. Những cytokin sau đây được xem là
đóng vai trò quan trọng trong cơ chế estrogen-xương: (1)
TRANCE/RANKL/OPGL: Tumor necrosis factor-related activation-induced
cytokine / Receptor activator of nuclear factor kappa-B ligand / Osteoprotegerin
ligand; (2) Macrophase colony stimuating factor (M-CSF); (3)
Granulocyte/monocyte-colony stimulating factor (GM-CSF); (4) Interleukin 1 (IL-
1); (5) Interleukin 6 (IL-6). Các yếu tố tăng trưởng, IL-1, IL-6 và TNF (tumor
necrosis factor) được sản sinh bởi các bạch cầu đơn nhân và đại thực bào cũng như
các hormone toàn thân như Parathyroid hormone và 1,25 D [18].
1.1.4. Nguyên nhân và phân loại loãng xƣơng
Các nhà lâm sàng thường phân loại nguyên nhân loãng xương ra 2 nhóm: Thứ nhất
là loãng xương nguyên phát còn gọi là loãng xương sau mãn kinh (típ 1) và loãng
xương do tuổi già (típ 2);Thứ hai là loãng xương thứ phát do hậu quả của một số
bệnh lý hoặc do thuốc như bệnh Basedow, cường tuyến cận giáp, glucocorticoid
liệu pháp, bệnh đa u tủy, bệnh lý kém hấp thu ở ruột, cắt 2 buồng trứng, bệnh suy
gan suy thận mãn tính, bất động lâu tại giường, sử dụng thuốc chống co
giật...[27],[46].
1.1.5. Các dấu hiệu lâm sàng loãng xƣơng nguyên phát và hậu quả loãngxƣơng
Loãng xươngsau tuổi mãn kinh (típ 1): Đa số phụ nữ sau mãn kinh đều có giảm khối
lượng xương, nhưng quá trình này diễn ra chậm trong nhiều năm, chỉ đến khi mức độ
giảm vượt quá 25% người ta mới thấy xuất hiện các triệu chứng. Lúc đầu là đau mỏi
lưng, đau mỏi trong các ống xương dài, lưng còng dần, chiều cao giảm rõ, vậnđộng
cột sống khó và đau khiến người bệnh không ngửa lưng được, đau ngày càng tăng,
20
đôi khi đau lan tỏa theo đường đi của các rễ và dây thần kinh (do có chèn ép ở tủy
sống), rất dễ gãy xương nhất là gãy xương ở phần dưới cẳng tay (gãy Pouteau Colles)
sau một va chạm nhẹ hoặc chống tay.
Loãng xương nguyên phát ở người già (típ 2) thường xuất hiện sau 75 tuổi ở cả hai
giới, có thể sớm hơn với những người nghiện thuốc lá, lạm dụng rượu bia, ít vận
động, dinh dưỡng kém, dùng các thuốc corticosteroid kéo dài...Người bệnh thấy đau
mỏi xương nhất là vùng cột sống và vùng chậu hông, khả năng vận độnggiảm
nhiều, đau mỏi tăng sau hoạt động và khi thay đổi thời tiết nhưng đặc biệt nhất là
chỉ cần ngã hoặc va chạm nhẹ đã có thể xảy ra gãy xương. Vị trí gãy ở cổ xương đùi
chiếm tuyệt đại đa số trường hợp[41].
Hậu quả của bệnh loãng xương là gãy xương xảy ra sau một chấn thương nhẹ.
Vị trí gãy xương thường ở những nơi chịu lực của cơ thể như cổ xương đùi, cột
sống thắt lưng hoặc nơi dễ va chạm như cổ tay, xương sườn...Gãy xương do loãng
xương thường chậm lành, phải nằm điều trị dài ngày từ đó dễ dẫn đến biến chứng
bội nhiễm như viêm phổi, nhiễm trùng tiểu, loét do tỳ đè và làm tăng tỷ lệ tử vong.
Ngoài ra, hậu quả lâu dài của gãy xương do loãng xương đó là tàn phế, đau đớn khi
vận động, chất lượng cuộc sống của người bệnh giảm trầm trọng và đặc biệt là chi
phí điều trị cao làm tăng gánh nặng kinh tế cho gia đình và xã hội.
1.1.6. Các xét nghiệm,thăm dò hình ảnh và chẩn đoán loãng xƣơng
Trước đây các thầy thuốc lâm sàng thường sử dụng những xét nghiệm sinh
hóa định lượng một số chất ở trong máu và trong nước tiểu để chẩn đoán loãng
xương như can-xi, phốt-pho, osteocalcin, men phosphatase acid và kiềm, pyridiotin-
deoxypiridiotin, hydroxyprotin... nếu thử nhiều lần theo thời gian, rồi đối chiếu so
sánh thì có thể phát hiện được mức độ và tốc độ loãng xương trong 1 hoặc 2 năm
(phương pháp Christiansen).
Ngày nay, trên lâm sàng chủ yếu sử dụng phương pháp đo mật độ xương, là
phương pháp căn bản của chẩn đoán loãng xương hay giảm mật độ xương. Có thể
chia thành hai nhóm chính là kỹ thuật sử dụng bức xạ (ionising radiation) và kỹ
thuật không sử dụng bức xạ:
21
*Các kỹ thuật bức xạ thứ nhất là phương pháp radionuclide, gồm có hấp thu
năng lượng đơn (Single photon absorptiometry-SPA); Hấp thụ năng lượng kép
(Dual-photon absorptiometry-DPA) và thứ hai là phương pháp dựa vào quang tuyến
X, gồm có quang tuyến kế (radiogrammetry); Hấp thụ năng lượng đơn X quang
(Single-Energy X-ray absorptiometry-SXA); Hấp thụ năng lượng kép X quang
(Dual-Energy X-ray absorptiometry-DXA); Chụp cắt lớp điện toán (Quantitative
Computed Tomography-QCT).
*Các kỹ thuật không bức xạ bao gồm siêu âm định lượng (Quantitative
Ultrasound-QU) và cộng hưởng từ (Magnetic Resonance Tomography-MRT).
Hiện nay, đo mật độ xương bằng phương pháp hấp thụ năng lượng kép X
quang (DXA) được xem là phương pháp chuẩn để chẩn đoán loãng xương.
- Tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xƣơng bằng mật độ xƣơng
Trong giai đoạn dậy thì, mật độ xương tăng rất nhanh và đạt mức độ đỉnh
(peak Bone Mineral Density-pBMD) vào độ tuổi từ 20 đến 30. Sau độ tuổi này, mật
độ xương bắt đầu suy giảm và mức suy giảm một cách đáng kể sau thời kỳ mãn
kinh. Ở bất cứ độ tuổi nào, sự khác biệt về mật độ xương giữa các cá nhân trong một
quần thể dao động theo luật phân bố chuẩn. Độ lệch chuẩn (standard deviation-SD)
không khác biệt đáng kể giữa các độ tuổi.
Dựa vào các đặc điểm trên, các nhà nghiên cứu đề nghị chuẩn hóa các đo
mật độ xương bằng chỉ số T (T-score). Chỉ số T có thểước tính theo công thức:
Trong đó, iBMD là mật độ xương đối tượng I, mBMD là mật độ xương trung
bình của quần thể trong độ tuổi 20-30 và SD là độ lệch chuẩn của mật độ xương
trung bình của quần thể trong độ tuổi 20-30 [40].
Tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xƣơng do WHO đề nghị 1994
* T-score> -1: Mật độ xương bình thường.
* -2,5 < T-score ≤ -1: Giảm mật độ xương.
* T-score ≤-2,5: Loãng xương
* Loãng xương + gãy xương trong thời gian gần đây: Loãng xương nặng.
22
Trong thực hành lâm sàng khi đo mật độ xương bằng phương pháp DXA
được phân chia thành hai khu vực: DXA trung tâm (vị trí đo ở cổ xương đùi, toàn
xương đùi, cột sống thắt lưng) và DXA ngoại biên (vị trí ở cẳng tay, ngón tay và
xương gót chân). Giá trị chẩn đoán thường dựa vào kết quả đo DXA ở trung tâm.
Một nghiên cứu tổng hợp có hệ thống (systematic review) với mục tiêu là sử dụng
DXA ngoại biên để đánh giá nguy cơ gãy xương, chẩn đoán, theo dõi và điều trị
loãng xương đã được thực hiện bởi Hiệp hội quốc tế đo mật độ xương lâm sàng vào
năm 2007. Các kết quả đo mật độ xương của nghiên cứu này được thực hiện từ thiết
bị DXA ngoại biên của các nhà sản xuất Cooper Surgical, Osteometer Meditech,
Schick Technologies, GE Medical Systems, Demetech, Osteosys và Aloka. Qua so
sánh với phương pháp DXA trung tâm, kết quả cho thấy đo mật độ xương bằng các
thiết bị DXA ngoại biên có thể được sử dụng để đánh giá nguy cơ gãy xương ở đốt
sống và toàn cơ thể ở phụ nữ sau mãn kinh, tuy nhiên khả năng dự báo gãy đốt sống
yếu hơn so với DXA trung tâm và siêu âm gót chân. Kết quả cũng cho biết phân
loại chẩn đoán loãng xương của WHO có thể chỉ áp dụng bởi đo DXA (trung tâm
hay ngoại biên) ở cổ xương đùi, toàn bộ xương đùi, xương đốt sống thắt lưng và 1/3
(33%) vùng quan tâm xương quay qua tham chiếu từ dữ liệu của thanh niên trẻ. Cơ
sở cho sự khẳng định này do bởi trên biểu đồ so sánh cho thấy độ cong của đường
biểu diễn T-score so với tuổi ở ba vị trí đốt sống thắt lưng, xương hông và 1/3 dưới
xương quay đều giảm tương tự nhau khi qua ngưỡng T= -2,5 ở độ tuổi 75-87
[52],[59 ].
1.1.7. Điều trị và phòng bệnh loãng xƣơng
Hiện nay có nhiều thuốc có thể chống loãng xương và gãy xương một cách hữu
hiệu. Trong điều trị cần cải thiện sự tuân thủ, chủ động tìm ra những yếu tố có nguy
cơ cao nhằm can thiệp giảm tác hại đến sức khỏe xương.Cần có một chiến lược
phòng bệnh bao gồm thực hiện những thay đổi lối sống theo hướng tích cực, tăng
cường rèn luyện thể lực, dinh dưỡng hợp lý, tránh lạm dụng rượu bia và hút thuốc
lá. Các loại thuốc được sử dụng trong dự phòng và điều trị loãng xương bao gồm:
-Cung cấp can-xi bằng cách duy trì lượng can-xi đủ qua ăn uống là một biện pháp
hữu hiệu, rất cần thiết cho việc ngăn ngừa can-xi bị di chuyển khỏi xương. Trong
23
chế độ ăn cần tăng cường sử dụng các sản phẩm như sữa tươi, phó-mát, sữa chua,
đậu nành, mè, vừng, bánh mỳ; Các loại rau xanh (bó xôi, bồ ngót), đậu khô, trái cây
(bưởi, cam), thức ăn có nhiều đạm như cá hộp, thịt, sò, ốc...Việc gia tăng lượng can-
xi hàng ngày qua sử dụng thực phẩm là lựa chọn ưu tiên, tuy nhiên bổ sung can-xi
bằng thuốc viên cũng rất cần thiết nếu chế độ ăn uống thiếu can-xi.
-Vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của xương, giúp hấp
thu can-xi có hiệu quả, tăng lực của cơ, giữ thăng bằng và giảm nguy cơ té ngã.
Lượng vitamin D hàng ngày cần từ 800-1000 IU và với liều này nó giúp duy trì
nồng độ 25(OH)-D ở người trưởng thành đạt mức mong muốn là ≥ 30 ng/ml huyết
thanh (≥ 75 nmol/L) [19].
-Liệu pháp thay thế hormone (Hormone Replaycement Therapy-HRT) ở phụ
nữ sau thời kỳ mãn kinh, thường có thể xem xét sử dụng trong những trường hợp phụ
nữ mãn kinh sớm (trước 45 tuổi) và những trường hợp biểu hiện rối loạn sau mãn
kinh. HRT có khả năng ngăn ngừa mất xương, giảm nguy cơ gãy xương [33].
-Chất điều hòa thụ thể chọn lọc estrogen (Selective Estrogen Receptor Modulators-
SERM): là một nhóm thuốc liên kết với các thụ thể estrogen và kích hoạt trên một
số mô liên quan. Raloxifen là một thuốc trong nhóm SERM được chấp thuận trong
dự phòng và điều trị loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh [28].
- Calcitonin được sản sinh từ tuyến giáp có chức năng ức chế các tế bào hủy
xương, kích thích ruột hấp thu can-xi và phốt-pho, đóng vai trò quan trọng trong
việc duy trì sự phát triển của xương và kiểm soát nồng độ can-xi.
- Bisphosphonat có tác dụng ức chế hoạt động hủy xương và gián tiếp kích
hoạt các tế bào tạo xương và đại thực bào. Hiện nay, bisphosphonat là thuốc điều trị
hàng đầu của loãng xương, nó có thể làm giảm ≥ 50% nguy cơ gãy xương và tăng
từ 3-8% mật độ xương [36].
- Strontium ranelate: Thuốc đã được chấp thuận cho điều trị loãng xương ở
một số nước Châu Âu. Thuốc thường được dùng thay thế bisphosphonat khi có
chống chỉ định hoặc dùng sau khi kết thúc đợt điều trị bằng bisphosphonat. Cơ chế
tác dụng chưa rõ, nhưng được cho là có tác dụng kép, vừa kích thích tạo xương vừa
ức chế hủy xương [28].
24
1.2. TỶ LỆ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN LOÃNG XƢƠNG
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.2.1. Tỷ lệ loãng xƣơng trên thế giới
1.2.1.1. Tỷ lệ loãng xương ở Châu Âu
Châu Âu là một lục địa già hóa dân số sớm nhất, cứ mỗi 30 giây có một
người gãy xương do loãng xương. Vào năm 2000, những người 50 tuổi trở lên ở
Châu Âu ước tính có 620.000 người mới bị gãy xương hông, 574.000 người gãy
xương cẳng tay, 620.000 người xẹp đốt sống, số trường hợp gãy xương chiếm
34,8% trên thế giới [77]. Gãy xương hông là hậu quả nặng nề nhất của loãng xương,
là căn nguyên gây tàn phế nghiêm trọng và dễ dẫn đến tử vong. Hầu hết gãy xương
hông xảy ra sau té ngã, 80% là phụ nữ và 90% ở người trên 50 tuổi [106]. Quy mô
dân số ở Châu Âu dự kiến sẽ tăng26%ở phụ nữ và36%ở nam giớitừ năm 2000 đến
2050, do đó tỷ lệ loãng xương sẽ tăng gấp đôi trong 50 năm tới do bởi sự già hóa
dân số và yếu tố lối sống [68].
Tại Vương Quốc Anh và xứ Wales, có 1,14 triệu phụ nữ sau mãn kinh đã
được chẩn đoán loãng xương bằng phương pháp DXA ở cổ xương đùi, 1 trong 2
phụ nữ và 1 trong 5 người đàn ông sẽ bị gãy xương sau tuổi 50. Theo thống kê,
người dân Anh tăng tuổi thọ lên gấp đôi trong vòng 200 năm qua và nó tiếp tục gia
tăng 2 năm cho mỗi thập kỷ, tương đương thọ thêm 12 phút cho mỗi giờ trôi qua.
Hiện ở Anh có gần 20 triệu người từ 50 tuổi trở lên và đến năm 2020 sẽ là 25 triệu,
dân số càng già tỷ lệ loãng xương càng tăng [98]. Nhiều nghiên cứu cho thấy 1/3 số
người trên 65 tuổi bị té ngã một lần trong năm, 40-60% dẫn đến chấn thương, trong
đó 5% bị gãy xương (1% là gãy xương hông) [118].
Tại nước Pháp, cũng với thực trạng dân số già, số phụ nữ bị loãng xương khoảng 4-
5 triệu người, nam giới khoảng 1,4 triệu người. Mỗi năm có từ 3 đến 5 ngàn trường
hợp bị gãy cổ xương đùi, trong đó 10% bị tàn phế và chi phí cho điều trị lên đến
1,35 tỷ Frances [30].
Năm 2003, thống kê có 7,8 triệu người Đức (6,5 triệu phụ nữ) đã bị ảnh hưởng bởi
bệnh loãng xương, trong đó 4,3% đã trải qua ít nhất một lần gãy xương lâm sàng và
chỉ có 21,7% được điều trị với một loại thuốc chống loãng xương. Theo báo cáo của
25
Ủy ban Châu Âu (năm 1998), ước tính sự gia tăng tỷ lệ gãy xương hông ở Đức từ
117.000 trường hợp trong năm 2000 lên 240.000 trong năm 2040,tổng số chi phí
trực tiếp cho điều trị bệnh loãng xương là 5,4 tỷ Euros [50]. Tại Tây Ban Nha, nước
thuộc khu vực Nam Âu, vào năm 2010 theo thống kê có khoảng 2,45 triệu người bị
loãng xương từ 50 tuổi trở lên, số gãy xương mới vào khoảng 204.000 trường hợp
và gãy xương hông trong khoảng thời gian 14 năm (1988-2002) đã tăng 54% [75].
Tình hình loãng xương ở một số nước Đông Âu cũng có mức độ lưu hành tương tự
các khu vực khác của Châu Âu. Tại Nga, một quốc gia rộng lớn nhất thế giới với
dân số khoảng 143 triệu người, các chuyên gia y tế ước tínhcó 14triệu
người(10%dân số)mắc bệnh loãng xương và20triệu người giảm mật độ xương.
Cũng theo thống kê, tại Nga những người trên 50 tuổi mắc loãng xương chiếm
33,8% ở nữ và 26,9% ở nam. Ucraina, một quốc gia kề cận Liên bang Nga, ước tính
sốphụ nữ mãn kinhcó nguy cơloãng xương vàgiảm mật độ xươnglà7triệungười
(28%tổng sốphụ nữ).Riêng ở Rumani, nước nằm ở phía Đông Nam Châu Âu, theo
thống kê thì tỷ lệloãng xương khá thấp, ở phụ nữ sau mãn kinhước tính là11,5%bị
loãng xương vàmột trong baphụ nữRumanibị loãng xươnghoặc giảm mật độ
xươngsautuổi55 [72].
1.2.1.2. Tỷ lệ loãng xương ở Châu Á
Trên thế giới, tình trạng gãy xương do loãng xương đã trở thành gánh nặng
chi phí cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe mà nó chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều bệnh khác
như bệnh tim, đột quỵ và ung thư vú [69]. Tại Hồng Kông, tỷ lệ mắc mới loãng
xương là 1% ở người từ 70 tuổi trở lên, tỷ lệ lưu hành loãng xương ở Malaysia là
24,1% vào năm 2005. Mức độ lưu hành loãng xương ở người dân Châu Á cao hơn
những nước phương Tây do bởi chỉ số khối cơ thể và chiều cao thấp hơn [87]. Báo
cáo về tỷ lệ gãy xương hông từ nhiều quốc gia Châu Á cho thấy rằng tỷ lệ gãy
xương thay đổi đáng kể trong các quần thể khác nhau như Đài Loan,Singaporevà
Hồng Kông, nó tăngtừ 4đến 5lần trong khoảng thời gian30 nămở Singapore vàHồng
Kông, gấp1,5 lần trong khoảng thời gian15 nămtại Nhật Bản [83].
Ở Châu Á, rất nhiều trường hợp loãng xương chưa được chẩn đoán và điều
trị, ngay cả ở những người bệnh có nguy cơ cao nhất và đã thật sự bị gãy xương,
26
đặc biệt là người bệnh ở khu vực nông thôn. Trung Quốc là nước đông dân nhất trên
thế giới và sự gia tăng đáng kể dân số trong những thập niên gần đây đã dẫn đến
một số lượng lớn những người cao tuổi.Do đó, bệnh loãng xương ngày càng trở nên
phổ biến và sẽ tiếp tục tăng trên toàn Trung Quốc. Thống kê hiện nay cho thấy, tỷ lệ
chung của bệnh loãng xương ở Trung Quốc là gần 7% ở người trưởng thành, nếu từ
50 tuổi trở lên thì loãng xương ở nam là 22,5% và ở nữ là 40,1%, khu vực thành thị
chiếm từ 10-20%. Loãng xương đã ảnh hưởng gần 70 triệu người Trung Quốc trên
50 tuổi và đã gây ra 687.000 trường hợp gãy xương mỗi năm [70].
Ở Đài Loan, kết quả một nghiên cứu từ năm 2005-2008 cho thấy tỷ lệ loãng
xương ở người trên 50 tuổi nam giới là 23,9%, nữ giới 38,9%. Theo dữ liệu của Bảo
hiểm y tế quốc gia Đài Loan, trong thời gian từ năm 1996-2002, tỷ lệ gãy xương
hông ở người trên 65 tuổi tăng từ 49 đến 64 trường hợp trên một triệu người mỗi
năm [123].
Trong một nghiên cứu ở phụ nữ Ấn Độ từ 30-60 tuổi ở các nhóm có thu nhập
thấp, mật độ xương được báo cáo là thấp hơn nhiều so với các báo cáo từ các nước
phát triển, với tỷ lệ giảm mật độ xương là 52%, loãng xương là 29% và nguyên
nhân được cho là do thiếu hụt dinh dưỡng. Nhật Bản cũng có tần suất bệnh loãng
xương ở phụ nữ trong độ tuổi 50-79 được ước tính là khoảng 35% ở cột sống và
9,5% ở hông. Tình trạng gãy xương hông mới tăng 1,7 lần trong thời gian từ năm
1987-1997 và tổng số gãy xương hông được dự báo là 153.000 trường hợp trong
năm 2010, 238.000 vào năm 2030. Tại Thái Lan, qua cuộc khảo sát bằng phương
pháp DXA ở909.000phụ nữ được đo ởhông và1,3 triệuphụ nữ đo tạicột sống, thì tỷ
lệ lưu hành loãng xương là 13,6% ở xương hông và 19,8% ở cột sống[70],[75].
1.2.1.3. Tỷ lệ loãng xương ở Bắc Mỹ
Hoa Kỳ là quốc gia có dân số đứng hàng thứ ba thế giới, với hơn 330 triệu
người thì gánh nặng về vấn đề chăm sóc sức khỏe đặc biệt là loãng xương và gãy
xương càng lớn, mặc dù là nước có nền kinh tế dẫn đầu thế giới. Vào năm 2010,
ước tính ở Hoa Kỳ có khoảng 12 triệu người bệnh loãng xương và 40 triệu người
giảm mật độ xương ở tuổi trên 50. Số người mắc sẽ gia tăng vào năm 2020 là 14
triệu người loãng xương và 47 triệu giảm mật độ xương cũng ở độ tuổi trên 50
27
[89],[75]. Loãng xương gây ra 1,5 triệu trường hợp gãy xương mỗi nămtại Mỹ,
trong đó có 300.000 gãy xương hông, 700.000 xẹp xương đốt sống, chi phí điều trị
vào năm 2005 là 17 tỷ USD và chi phí này tăng 50% vào năm 2025 [84]. Một cuộc
khảo sát loãng xương ở phụ nữ các dân tộc khác nhau cho kết quả bệnh ở phụ nữ
Mỹ bản địa 11,9%, phụ nữ gốc Châu Á 10%, phụ nữ da trắng 7,2% và phụ nữ da
đen thấp nhất 4,2% [53],[113].
Canada là một quốc gia thuộc khu vực Bắc Mỹ, loãng xương cũng ảnh hưởng
đếnkhoảng1,4triệungười dân, chủ yếulà phụ nữ sau mãn kinhvà người cao tuổi [75].
Dự báo đến năm2030,số trường hợp gãy xương hôngsẽtăng gấp bốn lần. Riêng tại
Ontario, Viện khoa học đánh giá lâm sàng cho biết có 68.000 người vào cấp cứu,
trong đó có 62.000 người phải nằm viện và 14.000 tử vong do bệnh loãng xương từ
năm 2003 đến năm 2007 [95].
1.2.1.4. Tỷ lệ loãng xương ở Mỹ La-tinh
Thống kê từ 14 quốc gia trong khu vực Mỹ La-tinh, dân số từ 50 tuổi trở lên chiếm
từ 13% đến 29% (Cục điều tra dân số Mỹ). Vào năm 2050, ước tính dân số khu vực
này tăng từ 28% đến 49%.Hiện nay, dữ liệu về tỷ lệ bệnh loãng xương ở Mỹ La-
tinh rất ít. Theo thống kê của 5 nước trong khu vực là Argentina, Brazil, Colombia,
Mexico và Puerto Rico, tỷ lệ xẹp xương đốt sống chiếm 14% dân số và trong đó tỷ
lệ xẹp xương đốt sống cao nhấtở phụ nữ 80 tuổi trở lên (38%). Dự đoán vào năm
2050, số lượng gãy xương hông ở phụ nữ và nam giới tuổi từ 50-64 tại Mỹ La-tinh
sẽ tăng 400% và đối với nhóm tuổi trên 65 sẽ tăng 700% [76]. Nghiên cứu về mật
độ xương ở Mỹ La-Tinh đã cho kết quả 50-70% người dân từ 50 tuổi trở lên có mật
độ xương thấp, 12-18% phụ nữ loãng xương ở cột sống, 8-22% loãng xương ở cổ
xương đùi [79].
Nghiên cứu mật độ khoáng xương tại Argentina cho thấyhai trong bốnphụ nữ sau
mãn kinh bịgiảm mật độ và một bị loãng xương. Đến năm 2025, hơn ba triệu phụ
nữdự kiến sẽ bị giảm mật độ xương và sẽ tăng lên hơn năm triệutrong năm 2050.Tại
Brazil có 33% phụ nữ sau mãn kinh và 15,4% nam giới độ tuổi từ 65 tuổi trở lên bị
loãng xương.Tỷ lệ xẹpxương đốt sống ở phụ nữ 50 tuổi trở lên được ước tính là
14,2% và trong 21 triệu người ở nhóm tuổi này thì có 2,9 triệu người đã và đang
28
sống với tình trạng xẹp đốt sống. Theo tính toán, ở Colombia có 2.609.858 người
giảm mật độ xương và 1.423.559người loãng xương ở phụ nữ 50 tuổi trở lên. Số
trường hợp gãy xương hông ở phụ nữ ước tính từ 8.000 đến 10.000 người mỗi
năm.Một nghiên cứu củaLAVOS(The Latin American Vertebral Osteoporosis
Study) ở phụ nữvànam giới Mexico về tỷ lệxẹp xương đốt sống,kết quả tạicột sống
thắt lưngloãng xương9% ở namgiới và 17% ở phụ nữ,giảm mật độ xương30%
namgiới và 43% ở phụ nữ.Nguy cơgãy xương hông trong suốt cuộc đời còn lại ở
người từ 50tuổitrở lên là 8,5%ở phụ nữvà3,8%ở nam giới. Riêng về xẹp đốt sống ở
phụ nữ Mexico tuổi từ 50-59 là 8,3% và nếu trên80 tuổi tỷ lệ này là 37,9% [76].
1.2.1.5. Tỷ lệ loãng xương ở Trung Đông và Châu Phi
Dân số năm 2010 ở Ai Cập được ước tính là 80triệu người, thống kê cho thấy
có53,9% phụ nữ sau mãn kinh giảm mật độ xươngvà 28,4% bị loãng xương,26%
nam giới bị giảm mật độ xương và 21,9% bịloãng xươngở độ tuổi từ 20-89. Loãng
xương ở Iran được xem là vấn đề y tế công cộng quan trọng, một số nghiên cứu
được tiến hành cho kết quả tỷ lệ giảm mật độ xương ở phụ nữ từ 50 tuổi trở lên là
59,9% và loãng xương là 22,2%, ở đàn ông lần lượt là 50,1% và 11%. Tại Li-
băng,một nghiên cứu trên người cao tuổi ở Beirut cho thấy tỷ lệ xẹp xương đốt sống
chiếm 12% nam giới và 19% nữ giới, tỷ lệ loãng xương được đo ở cổ xương đùi là
33% phụ nữ và 22,5% nam giới.Ở Qatar, năm 2005 có một nghiên cứu cắt ngang
trên 574 phụ nữtuổi từ 20 đến 69 đã được thực hiện bằng phương pháp DXA, cho
thấy các đối tượng có sự suy giảm mật độ khoáng xương ở tuổi sau khi đạt mật độ
xươngđỉnh tại các địa điểm cột sống (30-39 tuổi) và ở xương đùi (40-49 tuổi).Một
nghiên cứu trên 483 phụ nữ sau mãn kinh tại Saudi Arabia tuổi từ 52 đến 62 cho
thấy tỷ lệ loãng xương là 24% và giảm mật độ xương là 34% [73].
1.2.1.6. Tỷ lệ loãng xương ở Châu Đại Dương
Theo báo cáo của Viện Sức khỏe và Phúc lợi của Úc, ước tính có 692.000 người Úc
(3,4% tổng dân số) đã được các bác sĩ chẩn đoán loãng xương vào năm 2007-2008,
phụ nữ chiếm đa số (81,9%). Bệnh xảy ra chủ yếu ở người tuổi từ 55 trở lên (84%)
[49]. Tuy nhiên, theo thống kê của Tổ chức Loãng xươngthế giới hiện Úc có 2,2
triệu người đang bị ảnh hưởng bởi bệnhloãng xương, trong đó khoảng 11% nam
29
giới và 27% phụ nữ từ 60 tuổi trở lên là loãng xương; 42% nam giới và 51% phụ nữ
giảm mật độ xương. Các chuyên gia cũng cho rằng, nguy cơ suốt đời bị gãy xương
do loãng xương sau 50tuổi là 42% ở phụ nữ, 27% ở nam giới và đã có 20.000
trường hợp gãy xương hông mỗi năm tại Úc (tăng 40% mỗi thập kỷ),tổng chi phí
liên quan đến bệnhloãng xương là 7,4 tỷ USD mỗi năm, trong đó 1,9 tỷ USD là chi
phí trực tiếp [75].
Tại New Zealand, có khoảng 84.000 trường hợp gãy xương do loãng xương trong
năm 2007, với 60% trong số này xảy ra ở phụ nữ. Gãy xương hông được ước tính
chiếm 5% của tất cả các gãy xương. Tổng chi phí cho bệnh loãng xương được ước
tính là hơn 1,15 tỷ USDmỗi năm[75].
1.2.2. Tỷ lệ loãng xƣơng tại Việt Nam
Tình hình loãng xương ở nước ta cũng được giới y khoa quan tâm và đã có
những công trình nghiên cứu trong vòng 20 năm qua. Việt Nam là một quốc gia
đang phát triển và là nước vừa thoát nghèo, người dân thuộc chủng tộc Châu Á,
những điều này cho thấy sẽ có nhiều yếu tố nguy cơ và những tác động ảnh hưởng
sâu sắc đến tỷ lệ loãng xương và biến chứng của nó trong cộng đồng, nhất là ở
những người cao tuổi. Mặt khác, các thầy thuốc đã có một thời gian dài bỏ quên
người bệnh loãng xương trên lâm sàng, thiếu sự quan tâm chẩn đoán, theo dõi và
điều trị phù hợp, dẫn đến việc phòng bệnh gần như không có, nhất là ở khu vực
cộng đồng. Thêm vào đó nền tảng nhận thức của xã hội về bệnh cũng còn rất thấp,
phương tiện chẩn đoán còn thiếu và chỉ tập trung ở các đô thị lớn.Theo kết quả
thống kê, năm 2009 dân số nước ta có khoảng 86 triệu người, trong đó người trên
65 tuổi chiếm 7%. Dự báo dân số sẽ tăng lên 104 triệu người vào năm 2030 và
người trên 65 tuổi chiếm tới 11%. Năm 2006, bệnh loãng xương ước tính ảnh
hưởng đến 2,5 triệu người Việt Nam, dự báo đến năm 2030 là 4,5 triệu người. Số
trường hợp gãy xương do loãng xương khoảng152.000 và dự báo đến năm 2030 là
262.650 trường hợp. Riêng gãy cổ xương đùi vào khoảng 23.069 trường hợp, dự
báo đến năm 2030 sẽ là 40.700 trường hợp [37].
Năm 2003, Vũ Thị Thu Hiền và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu với mục tiêu xác
định tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ trưởng thành Hà Nội. Có 2.232 phụ nữ từ 20 tuổi
30
trở lên tham gia, không mắc các bệnh có liên quan đến rối loạn chuyển hoá xương
đã được chọn từ 30 xã, phường của Hà Nội vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỷ lệ
loãng xương thô ở phụ nữ trưởng thành là 15,4%, sau khi hiệu chỉnh tuổi tỷ lệ này
là 9%, tương đối cao so với các nước trong khu vực. Phân bố bệnh loãng xương có
sự khác nhau giữa khu vực nội thành và ngoại thành ở 2 nhóm đối tượng chưa mãn
kinh và sau mãn kinh. Ở phụ nữ chưa mãn kinh, tỷ lệ loãng xương cao hơn ở khu
vực nội thành so với ngoại thành. Ngược lại, ở phụ nữ sau mãn kinh, tỷ lệ này lại
cao hơn ở khu vực ngoại thành[8]. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác cũng ở người từ
20 tuổi trở lên cho kết quả loãng xương ở nữ 16% và nam là 9,6% [32]. Năm2008,
Đỗ Thị Khánh Hỷ cũng tiến hành nghiên cứu tình hình loãng xương trên phụ nữ
mãn kinh Hà Nội và các vùng lân cận đến khám tại Viện Lão khoa. Kết quả cho
thấy tỷ lệ loãng xương tăng dần theo tuổi, nhóm tuổi từ 50-59 tỷ lệ 25,7%, từ 60-69
tuổi tỷ lệ 53,5%, từ 70-79 tuổi tỷ lệ 71,8% và ở lứa tuổi từ 80 trở lên có đến 95,9%
bị loãng xương [12].Năm 2009, cũng tại Hà Nội, Nguyễn Thị Thanh Hương đã
khảo sát loãng xương ở phụ nữ từ 50 đến 65 tuổi, kết quảcho thấy tỷ lệ mắc là 23%
[101].
Tại miền Namvào năm 2003, Nguyễn Thị Hoài Châu đã tiến hành khảo sát mật độ
xương ở phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh miền Tây. Nghiên cứu được
tiến hành trên 305 phụ nữ tuổi từ 40 trở lên. Kết quả cho thấy ở phụ nữ chưa mãn
kinh tỷ lệ loãng xương là 6,94%, giảm mật độ xương là 22,22%, trong khi đó ở phụ
nữ mãn kinh loãng xương chiếm 39,8%, giảm mật độ xương 32,9% [1]. Khu vực
miền Trung năm 2009 có nghiên cứu của Đào Thị Vân Khánh đã khảo sát tình hình
loãng xương ở phụ nữ lớn tuổi tại Bệnh viện Trường Đại học y dược Huế. Kết quả
cho thấy phụ nữ ở tuổi từ 60 trở lên có tỷ lệ loãng xương là 51,06% [13].
Tại Thái Bình, Ninh Thị Nhung và cộng sự đã nghiên cứu loãng xương và giảm mật
độ xương trên phụ nữ 40-65 tuổi.Kết quả nghiên cứu cho thấy xương quay tỷ lệ giảm
mật độ xương là 29,9% và loãng xương là 20,8%; xương chày tỷ lệ giảm mật độ xương
là 35,4% và loãng xương là 20,2%.Tỷ lệ giảm mật độ xương cả 2 điểm đo là 28,5% và
loãng xương là 11,8%.Tỷ lệ loãng xương tăng dần theo tuổi và tuổi mãn kinh [24].
31
Theo nghiên cứu của Hồ Phạm Thục Lan thì tỷ lệ lưu hành loãng xương ở người
trưởng thành tại TPHCM là 17% và số người xẹp đốt sống là 23% [16].
1.2.3. Một số yếu tố liên quan đến bệnh loãng xƣơng
Theo Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa mộtyếu tố nguy cơlàbất kỳ thuộc tính,
đặc điểmhoặctiếp xúc củamột cá nhân màlàm tăng khả năngphát triểnmột căn
bệnhhoặcchấn thương.Những yếu tố nguy cơ gây ra loãng xương và gãy xương do
loãng xương gồm2nhómthay đổi được và không thay đổi được. Bên cạnh đó còn có
những nguy cơ thứ phát gồm một số bệnh lý và thuốc có ảnh hưởng tiêu cực cho
xương.
Bảng 1.1. Những yếu tố nguy cơ gây ra bệnh loãng xƣơng[66]
Những yếu tố nguy cơ Những yếu tố nguy cơ Những yếu tố nguy cơ
thay đổi đƣợc không thay đổi đƣợc thứ phát
Bệnh suyễn, Crohn´s, Lạm dụng rượu bia Tuổi
tiểu đường, cường cận Hút thuốc lá Giới nữ giáp, viêm đa khớp
Tiền sử gia đình LX dạng thấp. Bệnh về Chỉ số khối cơ thể thấp (gầy) máu, bệnh ác tính, một
Dinh dưỡng kém Có gãy xương trước đây số rối loạn di truyền.
Rối loạn ăn uống Chủng tộc Hội chứng Kleinfelter,
amenorrhea, Turner... Thiếu vận động Mãn kinh, cắt buồng trứng
Bất động lâu. Sử dụng Chế độ ăn thiếu can-xi Corticoid liệu pháp kéo dài một số thuốc (corticoid,
Thiếu vitamin D Suy tuyến sinh dục tiên heparin, ức chế bơm
phát hoặc thứ phát ở nam proton, lợi tiểu quai...) Thường xuyên té ngã
1.2.3.1. Những yếu tố liên quan đến loãng xương thay đổi được
Cũng giống như cáccơ quankhác trong cơ thể, bộ xươngcầnmột nguồn cung cấpliên
tục về năng lượngvà các chất dinh dưỡng. Những năm quan trọng để xây dựng khối
lượng xương là ở thời kỳ ấu thơ và vị thành niên,bởi vì ở giai đoạn nàysự thành lập
32
xương mớinhanh hơn so với sự hủy xương, làm cho xươngtrở nên lớn hơn và dày
đặc hơn.Một trong những yếu tố nguy cơ chính mà có thể ảnh hưởng đến mật độ
xương đó là chế độ ăn thấp can-xi, nhất là ở trẻ em, vị thành niên và người trưởng
thành trẻ [81]. Can-xi là một chất khoáng rất quan trọng trong việc xây dựng bộ
xương, vitamin D có vai trò trong việc hỗ trợhấp thu can-xi từ chế độ ăn uống và để
đảm bảo cho hoạt động khoáng hoá môxương.Khi thiếu hụt can-xi do thiếu hấp thụ
từ chế độ ăn, cơ thể sản xuất nhiềuhormone cận giáp hơn, làm tăng tái tạo
xương,huy động các hủy cốt bào để phá vỡ xương, sau đóđưa can-xi từ xương cung
cấp cho các dây thần kinh, tế bào cơ và các cơ quan khác. Điều này làm tăng tốc độ
loãng xương.Những nghiên cứu trên đối tượng là thanh thiếu niên cho thấy khi cung
cấp một chế độ ăn tăng cường can-xi hoặc uống sữa thì có liên quan đến tăng cường
hấp thu can-xi cho xương.Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới, người trưởng
thành cần ít nhất 800 IU vitamin D và1.000 đến 1.200 mg can-xi mỗi ngày để có
thểbảo vệ chống lại loãng xương [115]. Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị về can-xi
hàng ngày của người trưởng thành Việt Nam là 700mg và nếu ở người ≥ 50 tuổi cần
cung cấp cho cơ thể 1000mg [45]. Tuy nhiên, tại Việt Nam cũng như nhiều nước
Đông Nam Á, lượng can-xi được cung cấp qua ăn uống hàng ngày rất thấp (450-
550mg đối với phụ nữ sau mãn kinh người Malaysia và người Hoa sống ở Kuala
Lumpur, 270mg/ngày đối với phụ nữ tiền mãn kinh sống tại Jakarta [21], ở Việt
Nam lượng can-xi cung cấp qua bữa ăn trung bình cho phụ nữ sau mãn kinh là
683mg/ngày [19]).Ở phụ nữ Iran, can-xi cung cấp hàng ngày là 689,08±393,15
mg/ngày [110]. Một nghiên cứu tại TPHCM, tỷ lệ thiếu vitamin D ở nam là 20%,
nữ là 46% [15].
Proteincũng là một thành phần quan trọng của mô xương, lượng protein cung cấp
không đủ là bất lợi choviệc xây dựng khối lượng xương trong thời kỳ thanh thiếu
niên và cho việc duy trì khối lượng xương ở giai đoạngià hóa.Tình trạng dinh dưỡng
kém, đặc biệt là đối với vấn đề thiếu chất đạm thường phổ biến ở người lớn tuổi có
liên quan đến mật độ xương vànghiêm trọng hơn ở những bệnh nhân bị gãy xương
hông [112]. Protein có tác dụng lên tính toàn vẹn của xương, vì vậy suy dinh dưỡng
do thiếu protein cũng dẫn đến giảm khối cơ và sức mạnh cơ nên có thể là yếu tố
33
nguy cơ gây té ngã.Trongnghiên cứu thuần tập Framingham, ở nam giới và phụ nữ
lớn tuổicó tổng số đạm động vật được cung cấp trong chế độ ăn thấp hơn thì có tỷ lệ
mất xương hông và xương cột sống nhiều hơn so với người tiêu thụ số lượng đạm
cao [93]. Một trong những cơ chế mà lượng sử dụng protein tăngcó thể có tác động
thuận lợi trên xương là thông qua sự gia tăngnồng độ của IGF-I trong máu, mà nó là
một hợp chất quan trọng trong việc tham gia thúc đẩy hình thành xương [112].
Trong các nghiên cứu trên trẻ em khỏe mạnh hoặcngười lớn được cho ăn thêm sữa
trong khẩu phần ăn của họ,thì lượng protein được tăng thêm dẫn đến sự gia tăng
đáng kể IGF-I trong huyết thanh so với các đối tượng chứng. IGF-I huyết thanh
cũng tăng ở người cao tuổi bị gãy xương hông được điều trị bằng truyền dung dịch
proteintinh khiết [65]. Mặc dù các bằng chứng nghiên cứu ở trên cho thấy
proteinmang lại lợi ích cho sức khỏe xương và thúc đẩy sự phục hồi ở người bệnh
gãy xương hông, nhưng vẫn cónhững nghiên cứucho rằng nếu một chế độ ăn quá
nhiều proteincó thể có tác động tiêu cựctrên sự trao đổi chất can-xi và có thể gây
mất xương.Điều này liên quan đến giả thuyết cho rằng sự cân bằng a-xít – kiềm của
chế độ ăn uống là một yếu tố nguy cơ tiềm ẩn cho bệnh loãng xương. Khi thức ăn
đã được tiêu hóa, hấp thu và chuyển hóa trong cơ thể, nótạo ra nhữngsản phẩm có
tính a-xít, trung tính hoặc kiềm.Khi a-xít được tạo ra, nó cần phải được trung hòa
bởi hệ thống đệm để duy trì độ pH trong máu ở mức tối ưucho các tế bào trong cơ
thể. Hệ thống đệm này được điều hòa bởi các hoạt động của thận (bài tiết các chất
a-xít) và phổi(thở ra khí carbon dioxide). Thực phẩm cũng có thểđược chia theosản
phẩm mà nó tạo ra sau chuyển hóa làa-xíthoặckiềmtrênmộtmức độđược gọi làkhả
năngtảia-xítcủa thận (Potential Renal Acid Load - PRAL).Chẳng hạn như ngũ cốc,
gạo, mì ống,một sốloại phó mátcứng, cá, thịtđều sinh ra a-xítvàcó mức giá trịPRAL
cao hơn các loại trái cây và rau quả (là thực phẩm tạo ra chất kiềm, chúng chứa
muối kiềm của ka-li, can-xi, ma-nhê). Đã có giả thuyết cho rằng, nếu chế độ ăn
uống cung cấp thực phẩm có tính a-xít chiếm ưu thế (bao gồm nguồn protein là chủ
yếu)và không đủ thức ăn giàu chất kiềm, thì các muối kiềm của bộ xương có thể bị
lôi kéo vào giúp quá trình đệm, sau đómột số lượng can-xi từ xương bị mất qua
nước tiểu. Tuy nhiên, phải có một thời gian dàicó chế độ ăn uống nhiều protein thì
34
mới có thể dẫn đến mất xương.Ngược lại với cung cấp thừa protein, người có rối
loạn ăn uống, chán ăn tâm thầnở bệnh nhi hoặcở tuổi vị thành niên sẽ ảnh hưởng
đến khối lượng xương đỉnh của họ vì đây là thời gian của cuộc sống lũy tích tối đa
khối lượng xương. Cơ thể gầyở nữ bệnh nhân chán ăn dẫn đến thiếu estrogenvà vô
kinhgóp phầnmất khối lượng xương cũng giống như phụ nữ thiếu estrogen sauthời
kỳ mãn kinh. Trọng lượng cơ thể thấp và cụ thể là thiếu dinh dưỡng ở người bệnh
chán ăn đã trở thành yếu tố nguy cơ gây khối xương thấp, tác động đến những rối
loạn nhiều hormone và mất cân bằng trao đổi chất. Người bệnh chán ăn trong một
thời giantrung bình khoảng 6 năm sẽ cho thấycó một tỷ lệ gãy xương hàng năm lớn
hơn 7 lần so với phụ nữ khỏe mạnh cùng tuổi [65].
Vitamin K cần thiết cho việc sản xuất và hoạt động của osteocalcin(là protein nhiều
thứ hai trong xương sau collagen). Một số bằng chứng cho thấy rằng nếu cung cấp
vitamin K thấp trong chế độ ăn hoặc tình trạng thiếu vitamin K trong cơ thể sẽ góp
phần làm giảm mật độ xương và gia tăng nguy cơ gãy xương ở người già. Vai trò
của vitamin A trong nguy cơ gây loãng xương hiện còn đang tranh cãi. Nếu tiêu thụ
một lượng rất cao vitaminA (cao hơn mức tiêu thụ hàng ngày được đề nghị) thì
cóảnh hưởng xấu đến xương (cùng với gan và da). Một nghiên cứu quan sát dựa vào
dân số trên phụ nữ sau mãn kinh tại Mỹ đã tìm thấy mộtmối liên hệ giữa mức độ sử
dụng vitamin A và nguy cơ gãy xương hông.Muối khoáng ma-nhê có liên quan đến
sự hằng định nội môi can-xi và trong sự hình thành hydroxyapatite (khoáng xương).
Một thử nghiệm cho sự thiếu hụt ma-nhê nghiêm trọng thì đưa đến sự bất thường
trongcấu trúc và chức năng của xương. Ở những người cao tuổi khả năng có nguy
cơthiếu hụt nhẹ ma-nhê do có sự giảm hấp thu và thậnbài tiết ma-nhê tăng theo tuổi
[99]. Các muối kẽm là thành phần của hydroxyapatitevà đóng một vai trò trong chu
chuyển xương. Kẽm cũng cần thiết cho việc thực hiện chức năng điều chỉnhmen
phosphatase kiềm, mà men này cần thiết cho quá trình khoáng xương. Thiếu kẽm
nghiêm trọng thường thấy liên quan với sự thiếunăng lượng và suy dinh dưỡng, mà
nó có sự kết hợp với sự kém phát triển xương ở trẻ em. Tuy nhiên, mức độ nhẹ hơn
của thiếu kẽm đã được báo cáo ở người già và có khả năng góp phần chotình trạng
xương yếu [65].
35
Mặc dùmột sốnghiên cứu quan sátcho thấy cómối liên hệ giữasử dụng thức uống có
gasmức độ caovớigiảm mật độ xương hoặcgia tăng tỷ lệ gãy xươngtrongthanh thiếu
niên, nhưng không có bằng chứng thuyết phụcrằng nhữngthức uốngcó gas ảnh
hưởng xấu đếnsức khỏe của xương. Một số nhà khoa học giải thích rằng nhiều khả
năng trên thực tế là cácthức uốngnày thaysữatrongchế độ ăn uống, do đótác
độngtrên sự cung cấp can-xi. Cà phê làm cho sự gia tăng bài xuất can-xi qua đường
niệu và giảm hấp thu can-xivào, nhưng sự cân bằng của cơ thể xuất hiện để giảm
bài tiết can-xi ngay sau đó trong ngày, do đó ảnh hưởng thực là không đáng kể [65].
Khi nồng độ na-tri cao trong máu sẽ thúc đẩy can-xi bài tiết qua nước tiểu, do đóăn
mặn được coi là một yếu tố nguy cơcho mất khối xương. Sử dụng trái câyvàrau
xanhđã chứng minhtác dụng có lợitrênmật độ khoángxươngở người đàn ông và phụ
nữ lớn tuổi. Bằng chứng vềtác dụng có lợicủatrái cây vàrauxanh trênsức khỏe của
xươngđược cung cấp bởimột can thiệp thử nghiệm bằngphương pháp tiếp cậnchế độ
ăn uốngđểngăn chặntăng huyết áp(Dietary Approaches to Stopping Hypertention –
DASH).Nghiên cứu được thực hiệnở người trongđộ tuổitừ 23 đến 76.Mặc
dùDASHđược thiết kế đểnghiên cứu vềchế độ ăn uốngcó thểngăn ngừa bệnh tim
mạch, nhưng một trong số thiết kế đó cótoàn bộnội dung củachế độ ăn uốngcũngảnh
hưởng đếnsức khỏe xương. Trong nghiên cứuvề xương, một nửa trong sốcác đối
tượng đượcyêu cầuthay đổitoàn bộchế độ ăn uốngcủa họbao gồm tiêu thụnhiều trái
cây,rau, các sản phẩmsữa ít chất béovàhàm lượng na-tri thấp(chế độ ăn DASH),một
nửa kháctiếp tụcvới chế độ ănthường xuyên của họ. Trong khoảng thời gianmột
vàitháng, các chế độ ăn theo DASH đã cải thiện các chỉ số của xương vàchuyển hóa
can-xi, nó có thểcó khả năng giúp cải thiện mật độ xương nếu tiếp tụctrong thời
gian dài [84].
Uống rượu vừa phải sẽ không gây hại choxương, nhưng nếuuống rượu mức độ
cao(hơn 2 đơn vị tiêu chuẩn rượu hàng ngày, 1 đơn vị = 25ml alcohol 40%)sẽ đưa
đến gia tăng đáng kể nguy cơ gãy xương hông và các xương khác do loãng xương.
Uống rượu quá mức sẽ có tác động trực tiếp gây tổn thương trên các tế bào tạo
xương và ảnh hưởng trên các nội tiết tố điều chỉnh sự trao đổi chất can-xi. Người
hút thuốc lá có khối lượng khoáng xương tại cổ xương đùi và cột sống cũng thấp
36
hơn người không hút. Một nghiên cứu thực hiện ở Thụy Điển cho thấy nam thanh
niênhút thuốc tuổi từ 18-20 đã làm giảm mật độ xương và làm mỏng lớp vỏ cứng
bên ngoài của xương. Phát hiện này cho thấy rằng hút thuốc lá ở những người trẻ có
thể làm giảmkhối lượng xương đỉnh của họ vàdo đó làm tăng nguy cơ loãng xương
trong cuộc sống sau này [66],[74].
Thiếu cân là một yếu tố nguy cơ của bệnh loãng xương bởi vì trọng lượng cơ thể
thấp có liên quan với mật độ xương đỉnh thấp hơn trong giai đoạn phát triểnxương ở
tuổi trẻ và tăng nguy cơ gãy xương ở người già. Nguy cơ gãy xương hông gần như
tăng gấp đôi ở những người cóBMI 20 kg/m² so với những người BMI 25 kg/m².
Những người có một lối sống ít vận động có nhiều khả năng bị gãyxương hông hơn
những người thường xuyên vận động.Chẳng hạn, phụ nữ ngồi hơn chín giờ một
ngày thì 50% khả năng bị gãy xương hông hơn những người ngồiít hơn sáu giờ một
ngày [66].
Người bị bệnh loãng xương,đặc biệt là ở người cao tuổi dễ bị té ngã do sức
khỏe giảm sút, các cơ quan bị giảm chức năng như cơ teo, khớp thoái hóa, biến
dạng xương, rối loạn dáng đi, rối loạn thăng bằng, giảm đáp ứng, sa sút trí tuệ, giảm
thị lực,dùng quá nhiều thuốc (thuốc hạ huyết áp, an thần...) và những nguyên nhân
này ít nhiều đều có liên quan đến loãng xương.
1.2.3.2. Các yếu tố liên quan đến loãng xương không thay đổi được
Tuổi có liên quan đến loãng xương, tuổi càng cao tỷ lệ bệnh loãng xương càng
lớn.Trong toàn bộ cuộc đời phụ nữ mất khoảng 35% khối lượng xương đặcvà 50%
khối lượng xương xốp, trong khi đó nam giới chỉ mất 1/3 khối xương. Theo kết
quả của các nghiên cứu,tỷ lệmất xươngở nam giới vàphụ nữ lớnhơn35
tuổilàkhoảng0,3-0,5% mỗi năm,tỷ lệ này là2-5%mỗi năm ở phụ nữsau khi mãn kinh
từ 4 đến 6 năm và trở nên ổn địnhsau đó.
Phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ sau mãn kinh dễ bị mất khối xương hơn nam giới vì cơ
thể họ sản xuất ít estrogen.Một sự khác biệtquan trọngở nam giới vànữgiới có
thểgiải thích tại saogãy xươnglại thường ít xảy raở nam giới, đó làcùng một
lúcxươngđang bị mất đivào bên trong củaphần xươngtiếp giáp vớikhoangtủy, thì có
xươngmới lắng đọngbên vỏ ngoàicủa xương giống như một lớp sơn. Số
37
lượngxươngmớilắng đọng trênbề mặtbên ngoàiở nam giớihơnkhoảng balần so
vớiphụ nữ.Điều này làm tăngkích thướcxươngvà do đóduy trìsức mạnh
củaxươngcũng nhưbù đắpsự mất xươngtừbên trong[63]. Mãn kinh sớm, có kinh
muộn và tất cả phụ nữ sau mãn kinh là yếu tố nguy cơ của bệnh loãng xương. Hầu
hết các quốc gia đềucó khuyến nghị đánh giá yếu tố nguy cơ loãng xương cho phụ
nữ mãn kinh nhằm đo mật độ xương cho người có nguy cơ cao (phụ nữ ≥ 65 tuổi, <
65 tuổi và có ≥ 1 yếu tố nguy cơ, phụ nữ mãn kinh đã có gãy xương) [96].
Di truyền cũng đóng một vai trò lớn trong bệnh loãng xương. Trong thực tế, cha mẹ
có tiền sử gãy xươnglà một yếu tố nguy cơ và đó là nguy cơ độc lập của mật độ
xương. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy khoảng 60-80% sự khác biệt về mật
độ xương giữa các cá nhân là do gen chi phối. Người có tiền sử gia đình bị gãy
xương có nguy cơ bị gãy xương tăng gấp 1,5 đến 2 lần so với người không có [42].
Các dân tộc, chủng tộc khác nhau đều có liên quan đến loãng xương ở mức độ khác
nhau. Bệnh thường gặp ở người da trắng và ngườiChâu Á, tỷ lệ gãy xương hông và
xương sống ở người Châu Phi thấp hơn người da trắng. Vấn đề này được giải thích
là do người Châu Phi có sự khác biệt về cấu trúc xương, khối lượng xương đỉnh cao
hơn, tốc độ chậm mất xươngsau thời kỳ mãn kinh và chất lượng vi cấu trúc xương
tốt hơn [53].
Các nghiên cứu trên toàn thế giới đều cho thấy rằng những người bị gãy
xương trước đây thì có nguy cơ gãy xương bất kỳ nhiều hơn so với những người
chưa bao giờ bị gãy. Điều này đúng cho cả nam giới và phụ nữ, nguy cơ gãy xương
lần thứ hai tăng gần gấp đôi (1,86 lần) so vớinhững người chưa gãy.
Sử dụngcorticoidliệu pháp sẽ dẫn đến nguy cơloãng xương vàliên quan đếngãy
xương. Người bệnhcó thể bịmất xươngđáng kể tùy theo thời gian và liều lượng
thuốc sử dụng.Mộttỷ lệ mấtxươngtrên 15%mỗinămđược báo cáo ởngười bệnh dùng
liềuprednison30mg/ngày.Tác dụngchủ yếu củacorticoidlà làm giảmsự hình
thànhxươngdo nó tác động có hạitrêncác tế bào tạoxương(osteoblast), mặc dùcũng
có bằng chứngcho rằng nó gâytăng hoạt động củacác tế bàohủyxương(osteoclast).
Nội tiết tố androgen cần thiết trong sự phát triển của khối lượng xương đỉnh và duy
trì khối lượng xương. Thiểu năng tuyến sinh dục ở người đàn ông trẻ có mức
38
testosterone thấp thì có mật độ xương thấp. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng liệu
pháp điều trị thay thế testosterone ở người thiểu năng sinh dục nam sẽ làm gia tăng
mật độ xương [65].
1.2.3.3. Các yếu tố liên quan gây ra loãng xương thứ phát
Ngoài những yếu tố nguy cơ trên, xương còn chịu ảnh hưởng tiêu cực từ các rối
loạn khác như viêm khớp dạng thấp và các bệnh của hệ thống nội tiết. Cường cận
giáp làm gia tăng nồng độ hormone cận giáp tác động tế bào xương để giải phóng
can-xitừ xương vàomáu. Hormone tuyến giáp tăng quá mức không điều trị kịp thời
cũng có thể dẫn đến loãng xương.Rối loạn nội tiết mà làm ảnh hưởng tới cân bằng
bình thườnggiữa nội tiết tố nữ (estrogen) và hormone nam giới(androgen) có thể
gây ra loãng xương, bởi vì nhữnghormone này giúp xây dựng xương. Sử dụng lâu
dài thuốc corticoid uống hoặc hít nhằm điều trị viêm khớp, dị ứng, bệnh Crohn, hen
suyễnvà các bệnh hô hấp mãn tính sẽ gây suy giảm mật độ xương. Kết hợpphân tích
dữ liệu từ hơn 40.000 tình nguyện viên trên toàn thế giớicho thấy rằng sử
dụngcorticoid dài hạn tăng gấp đôi nguy cơcho gãy xương hông ở phụ nữ và tăng
2,6 lần ở nam giới [65]. Các loại thuốc khác có tác động sinh học đến xươngbao
gồm các thuốc ức chế bơm proton, nó có thể làm giảm sự hấp thu can-xi từ dạ
dàyvà nghiên cứu cho thấy sử dụng lâu dài (> 1 năm)thuốc ức chế bơm proton có
thể làm tăng nguy cơ gãy xương hông lênđến 60%. Một số thuốc khác cũng ảnh
hưởng đến xương như: thuốc chống động kinh, thuốc lợi tiểu thiazid, thuốc chống
đông máu (Wafarine), thuốc chống ung thư...
1.3. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG LOÃNG XƢƠNG
Các biện pháp phòng chống loãng xương hiện nay gồm có những nội dung:
- Nâng cao nhận thức của người dân về bệnh bằng truyền thông giáo dục sức
khỏe và cần thiết phải bắt đầu từ lứa tuổi học đường nhằm đảm bảo đến giai đoạn
trưởng thành có mật độ xương đỉnh tốt nhất cũng như tránh sự mất xương về sau.
- Thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý, nhất là cung cấp đầy đủ can-xi và
vitamin D theo nhu cầu của từng lứa tuổi.
- Tăng cường tập luyện thể dục thể thao kể từ lứa tuổi học đường và tiếp tục
duy trì trong suốt cuộc sống về sau.
39
- Phòng tránh những thói quen ảnh hưởng tiêu cực đến xương như lạm dụng
rượu bia, hút thuốc lá, lười vận động, sử dụng thuốc có hại cho xương không theo
sự hướng dẫn của thầy thuốc.
- Thực hành các biện pháp phòng tránh té ngã ở người có nguy cơ cao.
- Ngành y tế cần xây dựng chiến lược phòng chống loãng xương ở mỗi quốc
gia, tăng cường đào tạo cán bộ y tế chuyên ngành, cung cấp phương tiện tầm soát,
chẩn đoán và theo dõi bệnh loãng xương trong cộng đồng, giám sát và quản lý bệnh.
1.3.1. Các biện pháp phòng chống loãng xƣơng trên thế giới
1.3.1.1. Các biện pháp phòng chống loãng xương tại Châu Âu
Năm 1998 Liên Minh Châu Âu đưa ra các khuyến nghị xác định mục tiêu quan
trọng chocải thiện việc quản lý loãng xương ở tất cả các quốc gia thành viên bao
gồm: (1) Loãng xương phải được thông qua như là một mục tiêu chăm sóc sức khỏe
lớn của Liên minh Châu Âu và các chính phủ của tất cả các nước thành viên; (2)
Thông tin chi tiết phải được công bốcho các nước về tỷ lệ mắc và tỷ lệ gãy xương
do loãng xương; (3) Phối hợp hệ thống các quốc gia để lên kế hoạch cho sự gia tăng
về nhu cầu chăm sóc sức khỏe và thực thi việc phân bổ nguồn lực thích hợp; (4)
Xây dựng và thực hiện chính sách để tư vấn cho người dân và các chuyên gia sức
khỏe về dinh dưỡng bổ sung can-xi và vitamin D; (5) Truy cập vào hệ thống và đo
mật độ xương nên được phổ cập cho những người có chỉ định lâm sàng, chấp nhận
và hỗ trợ chi phí cho cá nhân đó; (6) Các nước thành viên sử dụng cách tiếp cận dựa
trên bằng chứng để xác định phương pháp điều trị và cần được tư vấn; (7) Chính
phủ cần tích cực thúc đẩy và hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu khoa học ở các quốc
gia, đào tạo các chuyên gia chăm sóc sức khỏe liên quan đến việcquản lý bệnh
loãng xương [68].
Trên cơ sở kế hoạch hành động chung của Châu Âu, tại Ireland đã xây dựng
chiến lược phòng tránh té ngã và gãy xương ở người cao tuổi vào năm 2008. Tầm
nhìn dài hạncủa chiến lược nàylà đểcải thiện sức khỏexươngkhi dân sốđang già hóa
ở Irelandvàgiảm bớt gánh nặnggãy xương do té ngã. Điều này đòi hỏimột cách tiếp
cậnliên ngànhđểphòng chốngvà chăm sócbệnh mà tất cả cáctổ chức,các ngành
nghềchủ chốtlàm việc cùng nhauđể đạt đượcmục tiêu.Nguyên tắc cơ bảnlà tập trung
40
vàocácbiện pháp can thiệpdựa trênbằng chứng, cung cấpdịch vụ y tế một cách công
bằngvà sẵn có chotất cả. Các mục tiêuchính lànâng cao nhận thứccủacộng đồng
vềloãng xương, nâng cao năng lựcy tế, cung cấpmột cáchtoàn diện vềdịch vụchăm
sóc, điều trịloãng xương vàgãy xương, phát triển mộtmôi trườngsống an toàn hơn
[62].
Năm 1997, Bộ Y tế công cộng của Liên bang Ngađã cho phép thành lập cáctrung
tâm phòng chống loãng xương tại các bệnh viện đa khoa lớn. Từ đó đã có nhiều
trung tâm phòng chống loãng xương ra đời với các nhiệm vụ chính là cung cấp dịch
vụ chăm sóc đặc biệt cho những người bị loãng xương, các chương trình đào tạo
cho các bác sĩ, các chương trình tự quản lý cho nhữngngười bệnh và người chăm
sóc. Tuy nhiên, hiện có một tình trạng thiếu bác sĩ chuyên khoa trong lĩnh vực về
xương và loãng xươngở Nga. Trong một nghiên cứu được tiến hành, có 19% bác sĩ
không thể biết phương pháp kiểm tra bệnh loãng xương. Chỉ có 19% các bác sĩ
khuyến cáo kiểm tra mật độ xươngởngười bệnh dùng corticoid và 34% đã không
tưvấn cho những người bệnh này để tiếp tục được kiểm tra[72].
1.3.1.2. Các biện pháp phòng chống loãng xương tại một số nước ở Châu Á
Châu Á là nơicó dân số cao nhất trong các châu lục và điều đócũngtăngtuyệt đốivề
số lượng người cao tuổi. Do đó sẽ cónhững thay đổilớnvềgãy xươngdo loãng
xươngxảy raở Châu Á.Trên thực tế, 26%của tất cả cácgãy xương hông đã xảy raở
Châu Átrongnăm 1990, tỷ lệ nàycó thể tăng lên37%vào năm 2025và45% vàonăm
2050 [78].
Tại Trung quốc, chính sách của chính phủ cho đến nay loãng xương chưa được
công nhận như một vấn đề sức khỏe lớn của quốc gia.Các tổ chức chính phủ và phi
chính phủ đang dần dần chú ý nhiều hơnđến chứng loãng xương.Hiện nay, không
có chương trình của chính phủ về phòng ngừa, chẩn đoán và quản lý bệnh loãng
xương, nhưng chính phủ hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ trong các hoạt động như:
Dự án nâng cao nhận thức loãng xương, chiến dịch hành động phòng chốngloãng
xương, chiến dịch uống sữa[70].
Tại Indonesia, Bộ Y tếđã công nhậnbệnh loãng xươnglàmột vấn đề sức khỏe
quan trọngkể từ năm 2006và những nỗ lựcđang được tiến hànhvớisự hỗ trợ củacác
41
tổ chức xã hộinhằm truyền bá thông điệpvề phòng chốngbệnh trong cộng đồng.Tổ
chức phòng chống loãng xương Indonesia được thành lập năm 2004 và đang tích
cực tham gia nâng cao nhận thức về bệnh của người dân qua các hoạt động như đào
tạo cán bộ chuyên vềloãng xương, đào tạo giáo viên hướng dẫn tập thể dục cho sức
khỏe xương, phân phối sách về loãng xương...Bên cạnh đó, một số giải pháp mạnh
mẽ cũng đang được tiến hành, đó là phát triển một hệ thống hỗ trợ cho người bệnh,
nâng cao nhận thức hơn nữa trong nhân dân về các biện pháp phòng ngừa và thay
đổi lối sống nhằm xây dựng khối lượng xương đỉnh cao hơn, cải thiện việc chẩn
đoán và điều trị, đặc biệt là tăng cường máy đo mật độ xương DXA ở nhiều nơi của
cả nước [70].
Hiệp hội Loãng xương Malaysia do các thầy thuốc đứng ra thành lập vào giữa thập
niên 90 thế kỷ trước. Hội đã cho xuất bản tài liệu “Hướng dẫn thực hành lâm sàng”
về loãng xương trong năm 2001 và 2006. Các hướng dẫn này đã được phân phối và
sử dụng rộng rãi bởi các học viên và các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực khác
nhau.Nội dung hướng dẫn bao gồm: Quản lý người bệnh bị loãng xương, dịch tễ
học, dữ liệu bị gãy xương hông, thực hành dinh dưỡng, chẩn đoán và điều trị bệnh
loãng xương sau mãn kinh, loãng xương ở nam giới, loãng xươngdo
glucocorticoid... Ngoài ra, tại Malaysia còn thành lập Hiệp hội nâng cao nhận thức
về loãng xương Kuala Lumpur vào năm 2008. Đây là một tổ chức phi chính phủ
được thành lập vớimục tiêu chính là tăng cường sức khỏe xương cho người dân.
Hiệp hộiđã giới thiệu chương trình “xương khỏe mạnh cho cuộc sống”nhằm nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường xương khỏe mạnh trong tất cả các giai
đoạn của cuộc sống, từ phụ nữ mang thai, trẻ em, thanh thiếu niên, người lớn và
người già. Để thực hiện công việc này, Hội đã thành lập các nhóm hỗ trợ người
bệnh, các thành viên gia đình và những người chăm sóc người bệnh [70].
1.3.1.3. Các biện pháp phòng chống loãng xương tại Bắc Mỹ
-Chiến lƣợc phòng chống loãng xƣơng ở Ontario, Canada
Canada là quốc gia mà người dân có nguy cơ gãy xương do loãng xương thuộc vào
nhóm cao nhất thế giới. Gãy xươngdo loãng xương phổ biến hơnnhồi máu cơ tim,
đột quỵ vàung thư vúcộng lại.Năm 2003, Canada đã xây dựng một chiến lược
42
phòng chống loãng xương cho vùng Ontario với nội dung:Tăng cường giáo dục sức
khỏe người dân để có thể tăng sức khỏe cho xương, giảm nguy cơ loãng xương (dự
phòng cấp 1). Tăng cường phát hiện và quản lý bệnh (dự phòng cấp 2). Phòng bệnh
nên tập trung người dân có nguy cơ cao và trong quá trình phát triển xương (phụ nữ
mãn kinh, người cao tuổi, trẻ em và vị thành niên); (2) Phát hiện sớm và chẩn đoán
bệnh loãng xương (dự phòng cấp 2 và 3); (3) Chăm sóc sau gãy xương, phục hồi
chức năng và quản lý bệnh loãng xương một cách hiệu quả để giảmgãy xương tái
phát và cải thiện chất lượng cuộc sống (dự phòng cấp 3); (4) Thực hành của chuyên
gia y tế dựa trên bằng chứng; (5) Nghiên cứu khoa học sẽ giúp phát triển kiến thức
mới trong bệnh loãng xương; (6) Lãnh đạovà giám sát sẽ giúp đảm bảo hiệu
quảthực hiện các khuyến nghị của kế hoạch hành động loãng xương và giúp Ontario
đạt tiến bộ trong việc giảm gánh nặng của bệnh loãng xương và cải thiện chất lượng
cuộc sống [95].
- Các biện pháp phòng chống loãng xƣơng tại Hoa Kỳ
Nhiều tiểu bang của Hoa Kỳ đã xây dựng chiến lược phòng chống loãng xương,
trong đó có Pennsylvania.Các mục tiêu chiến lược Pennsylvania bao gồm: (1) Mục
tiêu thứ nhất là tăng 10% mỗi năm số người dân nhận thức về bệnh loãng xươngở
tất cả các lứa tuổi về phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị. Tăng cường nỗ lực hợp tác
để sử dụng hiệu quả nguồn lực có sẵn; (2) Mục tiêu thứ hai là tăng cường thông tin
đối với sức khỏe con người và với các chuyên gia dịchvụ về phòng chống loãng
xương.Sử dụng các tiêu chuẩn thống nhất về các phương pháp đo mật độ xương
vàđọc kết quả trong các quần thể khác nhau; (3) Mục tiêu thứ ba là giảm rào cản
ảnh hưởng đến việc chẩn đoán và điều trị loãng xương.Nâng cao nhận thức cho
người dân về lợi ích của việc thực hiện tầm soát bệnh. Tăng kinh phí cho các hoạt
động giáo dục sức khỏe cho người dân. Tăng cường tiếp cận dịch vụ loãng
xươngcung cấp trên toàn tiểubang, đặc biệt là khu vực nông thôn và nơi y tế còn
hạn chế; (4) Mục tiêu thứ tư là xây dựng hệ thống giám sát để theo dõi các xu
hướng sức khỏe, chế độ ăn uống, hành vi ở trẻ em và người lớn. Tăng cường năng
lực ở cấp Nhà nước để thu thập và phân tích dữ liệuchiến lược. Kiểm tra hệ thống
43
thu thập dữ liệu và các chỉ số hiện đang thu thập thông tin về dinh dưỡng (đặc biệt
là can-xi, sữa tiêu thụ), gãy xương ở người lớn và trẻ em [103].
1.3.1.4.Cácbiện phápphòngchống loãng xươngtại một số nước Mỹ La-tinh
Tại Brazil, một quốc gia có số dân đông đứng hàng thứ 5 trên thế giới, chính phủ đã
xem loãng xương là một vấn đề sức khỏe lớn. Vào năm 2011, một chiến dịch đã
được đưa ra nhằm nâng cao nhận thức của người dân về yếu tố nguy cơ của bệnh
mang tên: “Chiến dịch phòng ngừa loãng xương: từ trẻ em cho tới người già” do Bộ
Y tế phát động. Thông qua ngành kỹ thuật y tế cao cấp dành cho người cao tuổi, Bộ
Y tế Brazil đang phát triển một kế hoạch hướng tới tăng cường khả năng hệ thống y
tế công cộng trong việc phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị loãng xương, phòng
tránh té ngã ở cấp độ quốc gia và địa phương. Mục đích của việc làm này là cung
cấp các chuyên gia y tế bằng những công cụ sẵn có họ có thể xác định nguy cơ té
ngã và gãy xương ở người cao tuổi, hướng tới kéo giảm 2% mỗi năm tỷ lệ người
nằm viện vì gãy cổ xương đùi.
Loãng xương và gãy xương do loãng xương là một vấn đề sức khỏe ưu tiên
tại Cuba. Chính phủ đã có nhiều chương trình nhận thức cộng đồng về bệnh loãng
xương bao gồm phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị. Chương trình cũng nhằm đến
những người già, người khuyết tật và những người bị ảnh hưởng bởi các bệnh mãn
tính khác [75].
1.3.1.5. Các biện pháp phòng chống loãng xương tại Trung Đông và Châu Phi
Tại Iran, loãng xương và gãy xương do loãng xươngđược xem là một vấn đề sức
khỏe ưu tiên. Quá trình phát triển mạng lưới phòng chống bệnh loãng xương của
Iran nhằm mục đích nâng cao nhận thức của người dân ở các khu vực khác nhau
của đất nước, cải thiện việc chăm sóc người bệnh và tiến hành nghiên cứu đa trung
tâm trong lĩnh vực này. Loãng xươngđã được công nhận là một vấn đề sức khỏe lớn
ở Iraq và chính phủ đã phê duyệt chủ trương, phát triển đào tạo chuyên gia y tế về
lĩnh vức này. Những thành tựu lớn gần đây tại Iraq về vấn đề loãng xương là sự sẵn
có của máy DXA trong các bệnh viện của chính phủ, việc thành lập các hướng dẫn
để phòng ngừa loãng xương ở các trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu, các hướng
dẫn để ngăn chặn và điều trị loãng xương do BộY tế ban hành, sự cải thiện trong
44
chương trình giáo dục phòng chống và điều trị bệnh loãng xương. Tại Jordan, loãng
xươngcũng đã được công nhận là một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Hiệp
hộiphòng chốngLoãng xươngJordan đã rất tích cựctrong việc thúc đẩynhận thức
vềsức khỏe của xươngở cấp quốc giathông quacác hoạt động đào tạo, hội nghị y
khoa, tài liệu quảng cáo, tờ rơi,thực hiện các hoạt động truyền thông (trên truyền
hình, các cuộc phỏng vấnđài phát thanh, báo, tạp chí)[73].
1.3.1.6. Kế hoạch Chiến lược Quốc gia về phòng chống loãng xương ởÚc
Tại Úc đã xây dựng một Chiến lược Quốc gia phòng chống loãng xương gồm
7 nội dung: (1) Thứ nhất là thực thi các chương trình nhận thức về bệnh thông qua
các trung tâm loãng xương đóng ở các tiểu bang và phối hợp hành động ở cấp quốc
gia, kể cả các chương trình định hướng vào các bác sĩ gia đình; (2) Thứ hai là thực
hiện các chiến lược phòng ngừa sức khỏe cho cộng đồng như các chương trình phổ
biến ở học đường nhằm làm tăng cường thu nạp can-xi trong bữa ăn hàng ngày và
luyện tập thể lực ở lớp trẻ; (3) Thứ ba là thiết lập các chương trình cụ thể nhằm
hướng vào lớp người có tuổi có nguy cơ thiếu vitamin D, hướng vào việc phòng
ngừa té ngã, thiết bị bảo vệ hông cho người cao tuổi ở các viện dưỡng lão cũng như
trong cộng đồng; (4) Thứ tư là thực hiện các chiến lược phòng ngừa thứ cấp, như
thiết lập các phòng khám chuyên khoa trong các bệnh viện giảng dạy hoặc các
phương thức áp dụng cho bác sĩ gia đình để nâng tỷ lệ điều trị đối với nhóm người
có nguy cơ cao bị gãy xương; (5) Thứ năm là xây dựng các dự án nghiên cứu để xin
tài trợ từ Hội đồng Nghiên cứu Y khoa Quốc gia và các nguồn khác; (6) Thứ sáu là
giám sát và đánh giá tỷ lệ gãy xương, hiệu quả của điều trị và tỷ lệ lưu hành cũng
như gánh nặng của bệnh loãng xương theo từng thời điểm trong vòng một thập niên
tới; (7) Cuối cùng là liên kết hoạt động với ngành chấn thương chỉnh hình để đảm
bảo người bệnh có gãy xương được điều trị đúng mực [40].
1.3.2. Các biện pháp phòng chống loãng xƣơng tại Việt Nam
Việt Nam là một trong số ít các quốc gia Châu Á (Singapore, Indonesia, Lãnh thổ
Đài Loan) được chính phủ công nhận loãng xương là một vấn đề sức khỏe quan
trọng. Trong những năm gần đây, tại nước ta vấn đề loãng xương đã được quan tâm
nhiều hơn, đặc biệt là sự ra đời của các tổ chức Hội Loãng xương ở các thành phố
45
lớn. Hội Loãng xương Hà Nội và TPHCM được thành lập vào năm 2006. Tôn chỉ
hoạt động của các Hội là cố gắng tăng cường về tổ chức và chuyên môn, từng bước
tạo sự chuyển biến thực sự trong nhận thức của mỗi người, của mỗi ngành và của
toàn xã hội trong việc bảo vệ sức khỏe xương. Các chuyên gia y tế Việt Nam cũng
đã thực hiện khá nhiều đề tài nghiên cứu về loãng xương như dịch tễ học, nghiên
cứu các giải pháp điều trị và đã từng bước tham mưu xây dựng chính sách quốc gia
về phòng chống loãng xương.
Với sự nỗ lực của các Hội Loãng xương, sự đồng thuận của Bộ Y tế và cho phép
của Chính phủ, năm 2008 Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học Tầm nhìn Châu
Á về loãng xương đã quy tụ hàng trăm nhà khoa học trong và ngoài nước đến dự
với hàng chục báo cáo những đề tài nghiên cứu mới nhất về bệnh loãng xương.
Cũng qua sự kiện này, hoạt động ngành y tế nói chung và hoạt động của Hội Loãng
xương nói riêng đã có bước phát triển khá mạnh mẽ, hàng loạt chương trình truyền
thông qua báo đài được thực hiện, tổ chức sự kiện nhân ngày Loãng xương thế giới
20 tháng 10 hàng năm với đông đảo tầng lớp nhân dân hưởng ứng. Bên cạnh đó,
những hoạt động cung cấp dịch vụ tầm soát MĐX di động đến cộng đồng và tại các
cơ sở chẩn đoán, điều trị cũng được tăng cường trang thiết bị, đặc biệt là hoạt động
tư vấn, cải thiện dinh dưỡng bổ sung can-xi và vitamin D, xây dựng lối sống lành
mạnh nhằm phòng chống loãng xương đang được phổ biến đến người dân.
Năm 2013, Sở y tế TPHCM đã cho ban hành “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự
phòng loãng xương”, trong đó gồm có 9 nội dung phòng bệnh được khuyến cáo
người dân thực hiện: (1) Mục đích của dự phòng loãng xương là phát triển và duy
trì khối xương tốt nhất cho mọi người, giảm nguy cơ loãng xương và gãy xương
bằng cách can thiệp vào các yếu tố nguy cơ gây mất xương và gãy xương; (2) Tối
ưu hóa sức khỏe xương là công việc cần được quan tâm suốt đời của mỗi người; (3)
Khuyến cáo cho mọi người bệnh trong các lần khám bệnh thường kỳ: Các yếu tố
nguy cơ của loãng xương và các biện pháp phòng ngừa cơ bản, đo chiều cao định
kỳ đều đặn, khám ghi nhận gù vẹo cột sống nếu có; (4)Các biện pháp phòng ngừa
tiên phát là một phần của điều trị loãng xương, giáo dục người bệnh và nâng cao
nhận thức về bệnh loãng xương, khuyến cáo các biện pháp dự phòng loãng xương
46
thích hợp cho từng lứa tuổi; (5) Chế độ dinh dưỡng cần cung cấp đầy đủ can-xi,
vitamin D theo nhu cầu của từng lứa tuổi; (6) Duy trì thường xuyên hoạt động thể
lực và các bài tập làm tăng sức cơ.Các hoạt động thể lực có ích như đi bộ, chạy nhẹ,
thái cực quyền, khiêu vũ, aerobic, yoga, tennis và các bài tập thể dục chịu tải khác,
tùy thuộc vào độ tuổi và tình trạng sức khỏe. Mọi người nên duy trì hoạt động thể
lực thường xuyên ít nhất 30 phút mỗi ngày và ít nhất 5 ngày mỗi tuần; (7) Khuyến
cáo người bệnh thay đổi lối sống, hạn chế rượu (không uống quá 3 đơn vị rượu mỗi
ngày), ngưng hút thuốc lá; (8) Thực hành các biện pháp phòng tránh té ngã; (9) Chú
ý các biện pháp phòng ngừa sớm cho những người có nguy cơ loãng xương
docorticoid, xem xét điều trị dự phòng (alendronate, risedronate...) cho các người
bệnh với T-score từ -2,4 đến -1,5, nhưng có nguy cơ cao [28].
Trong dự phòng bệnh loãng xương thì vấn đề dinh dưỡng là rất quan trọng.Viện
Dinh dưỡng Quốc gia đã đề xuất biện pháp dinh dưỡng trong dự phòng và góp phần
điều trị loãng xương là sát hợp với người Việt Nam hơn cả. Cần cung cấp đủ lượng
can-xi hàng ngày theo nhu cầu nhằm đảm bảo cho sự tạo thành khối xương đạt được
mật độ tối đa, duy trì khối xương đạt được và chế độ dinh dưỡng bổ sung can-xi
hợp lý suốt cả đời sẽ làm cho quá trình cốt hóa hoàn thiện hơn, giảm bớt các nguy
cơ liên quan đến mất xương trong thời kỳ mãn kinh vì thiếu estrogen [45].
Các chuyên gia y tế ở một số địa phương của nước ta cũng đã tiến hành thực
nghiệm một số mô hình can thiệp dự phòngloãng xương. Tại thành phố Thái
Bình,một nghiên cứu trên phụ nữ từ 40 đến 65 tuổi được thực hiện tại 2 phường với
mục tiêu đánh giá hiệu quả của một số biện pháp can thiệp dinh dưỡng và luyện tập
dự phòng giảm mật độ xương. Có 259 phụ nữ giảm mật độ xương được chọn vào
nhóm đối chứng, nhóm can thiệp gồm 139 phụ nữ giảm mật độ xương áp dụng các
biện pháp can thiệp (truyền thông, luyện tập, thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý
kèm theo bổ sung can-xi và vitamin D) đã được cộng đồng chấp nhận và tham gia
thực hiện. Kết quả cho thấy hiệu quả phục hồi giảm mật độ xương quay là 10,2% và
xương chày là 42,8%. Hiệu quả bảo vệ không bị mắc mới giảm mật độ xương đối
với xương quay là 21,4%, xương chày là 25,7%. Hiệu quả bảo vệ không bị mắc mới
loãng xương đối với xương quay là 1,3%, xương chày là 13,5% [25].
47
1.4. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TPHCM là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn
hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam. Về vị trí địa lý, TPHCM cách thủ đô Hà
Nội gần 1.730km đường bộ, giáp với các tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà
Rịa -Vũng Tàu, Long An và Tiền Giang.TPHCM nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa
cận xích đạo. đặc điểm chung của khí hậu-thời tiết là nhiệt độ cao đều trong năm và
có hai mùa mưa - khô rõ ràng. Thành phố gồm có 19 quận và 5 huyện, tổng diện
tích 2.095,01 km², có dân số khoảng 7,4 triệu người (năm 2010), mật độ trung bình
48
3.532 người/km² và với dân số đông, mật độ cao trong nội thành, cộng thêm một
lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhu cầu lớn về chăm sóc sức khỏe của người
dân. Thêm vào đó, tình hình tuổi thọ của người dân ngày càng gia tăng đã dẫn đến
những bệnh lý của người già tăng theo như là bệnh tim mạch, bệnh chuyển hóa,
bệnh xương khớp trong đó bệnh loãng xương có tỷ lệ khá cao.
Quận 12
Quận Gò Vấp
Huyện Hóc Môn
Quận 6
Quận Bình Thạnh
Hình 2.1. Bản đồ TPHCM và địa điểm các quận, huyện nghiên cứu
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Người dân từ 45 tuổi trở lên đang cư trú trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu mô tả cắt ngang
Người dân từ 45 tuổi trở lên đang cư trú tại 8 phường và 2 xã thuộc 4 quận và 1
huyện của TPHCMđược chọn ngẫu nhiên tại thời điểm nghiên cứu.
49
2.1.2. Đối tƣợng nghiên cứu can thiệp
- Nhóm nghiên cứu can thiệp cộng đồng:Người dân từ 45 tuổi trở lên đang cư trú tại
3 phường và 1 xã can thiệp thuộc 3 quận và 1 huyện của TPHCM được chọn ngẫu
nhiên tại thời điểm nghiên cứu.
- Nhóm đối chứng cộng đồng: Người dân từ 45 tuổi trở lên đang cư trú tại 3 phường
và 1 xã đối chứngthuộc 3 quận và 1 huyện của TPHCM được chọn ngẫu nhiên tại
thời điểm nghiên cứu.
- Nghiên cứu can thiệp trực tiếp bằng viên Calci-D không có đối chứng:
Người dân bị giảm mật độ xương hoặc loãng xương qua kết quả điều tra cắt ngang
tại 3 phường và 1 xã can thiệp (cùng với phường, xã can thiệp cộng đồng).
2.1.3. Tiêu chí loại trừ khi chọn mẫu nghiên cứu
- Những người mới chuyển đến địa phương (không đăng ký tạm trú).
- Những người không nhớ hoặc không cung cấp đầy đủ nội dung những câu trả lời
trong bảng câu hỏi nghiên cứu.
- Phụ nữ đã phẫu thuật cắt bỏ 2 buồng trứng và hoặc cắt tử cung toàn phần.
- Nam giới suy tuyến sinh dục tiên phát hoặc thứ phát.
- Những người bệnh suy gan, suy thận mãn tính, người bị bệnh ác tính.
- Người dân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu:
Tại cộng đồng dân cư thuộc 4 quận và 1 huyện của thành phố Hồ Chí Minh: Quận
6, 12, Bình Thạnh, Gò Vấp và huyện Hóc Môn.
Bảng 2.1. Địa điểm nghiên cứu mô tả và can thiệp
Phương pháp nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu Phường 12 và 13 quận 6; Phường Hiệp Thành và An
Phú Đông quận 12; Phường 3 và 11 quận Bình Mô tả cắt ngang Thạnh; Phường 5 và 8 quận Gò Vấp; Xã Tân Xuân
và Đông Thạnh huyện Hóc Môn
Can thiệp cộng Phường Hiệp Thành quận 12; Phường 3 quận Bình
50
đồng Thạnh; Phường 5 quận Gò Vấp; Xã Tân Xuân huyện
Hóc Môn
Phường An Phú Đông quận 12; Phường 11 quận Đối chứng cộng Can Bình Thạnh; Phường 8 quận Gò Vấp; Xã Đông đồng thiệp Thạnh huyện Hóc Môn
Trên người LX Phường Hiệp Thành quận 12; Phường 3 quận Bình
hoặc giảm MĐX Thạnh; Phường 5 quận Gò Vấp; Xã Tân Xuân huyện
qua điều tra ngang Hóc Môn
2.2.2. Một số đặc điểm của địa phƣơng nghiên cứu
- Quận 6 là quận ven ngoại thành, nằm về phía Tây Nam thành phố Hồ Chí Minh,
gồm 14 phường với tổng diện tích tự nhiên là 7,19 km². Dân số của quận là 253.474
người (năm 2010), trong đó nữ chiếm 53%, mật độ bình quân 3.535 người/km².
Với vị trí địa lý là cửa ngõ phía Tây của thành phố Hồ Chí Minh, quận 6 có thế
mạnh về thương mại dịch vụ. Tình hình sức khỏe của người dân được chăm sóc khá
tốt, nhưng hiện nay xu hướng bệnh không lây nhiễm gia tăng, nhất là bệnh của
người cao tuổi.
- Quận 12 nằm phía Bắc thành phố Hồ Chí Minh có 11 phường trực thuộc, diện tích
đất tự nhiên 52,75km², dân số 427.083 người (năm 2010). Tình hình sức khỏe người
dân gần đây được cải thiện nhiều, nhưng vẫn còn một bộ phận người dân nhập cư
do mưu sinh, thiếu điều kiện chăm sóc mà ảnh hưởng đến sức khỏe bệnh tật như
bệnh truyền nhiễm, bệnh xã hội và một số bệnh không lây nhiễm như: Tăng huyết
áp, tiểu đường, hen, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính…
- Quận Bình Thạnh nằm về phía Đông Bắc thành phố Hồ Chí Minh códiện
tích20,76 km², dân số 470.054 người (năm 2010). Quận đã được đô thị hóa khá lâu,
kinh tế phát triển theo hướng thương mại dịch vụ, văn hóa xã hội phát triển khá tốt.
Hệ thống y tế gồm Bệnh viện quận, Trung tâm y tế dự phòng, 20 trạm y tế. Mô hình
bệnh tật tại quận Bình Thạnh gồm đại đa số bệnh không lây như: Tiểu đường, tăng
huyết áp, béo phì, bệnh về xương khớp...
51
- Quận Gò Vấp nằm ở phía Tây Bắc thành phố Hồ Chí Minh,có diện tích 19,75 km2,
chia thành 16 phường với dân số 548.145 người (năm 2010), nữ chiếm 51,2%.
Quận Gò Vấp có số lượng dân nhập cư khá lớn, sống đan xen giữa các khu đô thị
mới, thu nhập chủ yếu bằng lao động phổ thông.Do vậy, mặt bằng chung trình độ
dân trí còn hạn chế, nhất là kiến thức về phòng bệnh, thói quen dinh dưỡng, thói
quen vận động ở một số bộ phận người dân còn chưa hợp lý, ảnh hưởng lớn đến sự
gia tăng tỷ lệ bệnh do lối sống.
- Huyện Hóc Môn nằm về phía Tây Bắc các quận nội thành của thành phố Hồ Chí
Minh,có diện tích 109,18 km², dân số 358.640 người (năm 2010). Trong những năm
gần đây, huyện Hóc Môn đã gia tăng đô thị hóa, các khu dân cư mới được xây
dựng, các khu công nghiệp mọc lên đã làm cho diện tích đất nông nghiệp thu hẹp
dần và nghề làm nông giảm đáng kể. Tình hình đời sống người dân ngàycàng nâng
cao, chăm sóc y tế được cải thiện. Mô hình bệnh tật huyện Hóc Môn đa dạng bao
gồm bệnh lây nhiễm và bệnh không lây. Số lượng người dân cao tuổi ngày càng gia
tăng, do vậy vấn đề chăm sóc bệnh người già là một ưu tiên cần thực hiện.
2.2.3. Thời gian nghiên cứu
- Từ tháng 7 năm 2011 đến tháng 9 năm 2011: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
- Từ tháng 9 năm 2011 đến tháng 9 năm 2013: Nghiên cứu can thiệp.
2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: qua 2 giai đoạn và thiết kế theo 2 phương pháp
2.3.1.1. Giai đoạn 1 - Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang
Điều tra cắt ngang ở người dân từ 45 tuổi trở lên tại 8 phường và 2 xã thuộc 4 quận
và một huyện của thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện mục tiêu 1:
- Xác định tỷ lệ loãng xương, giảm mật độ xương, trung bìnhBMD ở người
dân từ 45 tuổi trở lên bằng phương pháp DXA cẳng tay.
-Xác định một số yếu tố liên quan đến bệnh loãng xương đối với người dân nghiên
cứu như: tuổi, giới tính, cân nặng, chiều cao, BMI, kinh nguyệt và số con ở phụ nữ,
địa phương sinh sống, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng giảm chiều cao, tiền
sử gãy xương do chấn thương nhẹ, tiền sử gia đình có bệnh loãng xương hoặc gãy
xương do loãng xương, tình trạng sử dụng kháng viêm corticoid; các thói quen tập
52
thể dục thể thao, uống sữa, hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia; kiến thức và thực hành
phòng chống bệnh loãng xương.
2.3.1.2. Giai đoạn 2 – Phương pháp nghiên cứu can thiệp
1) Xây dựng mạng lƣới y tế cơ sở triển khai thực hiện can thiệp
- Đối tượng:Tổ chức bộ máy của ngành y tế, CBYT, các CTV, thành viên
Ban Chỉ đạo chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tuyến quận, huyện phường, xã.
- Nội dung và biện pháp thực hiện
+ Các quận, huyện tham gia hoạt động can thiệp sẽ thành lập Ban Chủ nhiệm
Chương trình phòng, chống bệnh loãng xương gồm 5 thành viên. Nhiệm vụ của Ban
Chủ nhiệm là triển khai thực hiện hoạt động can thiệp đến các phường, xã; theo dõi,
đôn đốc các trạm y tế thực hiện các nội dung can thiệp; kiểm tra, giám sát và đánh
giá hiệu quả hoạt động can thiệp.
+ Tổ chức tập huấn về khám và tầm soát bệnh loãng xương, kỹ năng tư vấn,
truyền thông về các biện pháp dự phòng và quản lý bệnh cho nhân viên y tế từ quận,
huyện đến phường, xã.
+ Xây dựng các biện pháp dự phòng và quản lý bệnh loãng xương tại cộng
đồng như: giám sát, sàng lọc, phát hiện sớm bệnh loãng xương tại cộng đồng. Mỗi
quận, huyện đều có thiết bị để tầm soát bệnh loãng xương (máy siêu âm, X quang,
máy DXA...). Tổ chức một điểm tư vấn chung cho các quận, huyện. Mỗi phường,
xã đều có một điểm tư vấn tại trạm y tế (tư vấn tại chổ hay qua điện thoại). Các
trạm y tế phường, xã can thiệp có phân công một CBYT làm công tác bán chuyên
trách và có ít nhất 4 cộng tác viên hỗ trợ cho hoạt động can thiệp tại địa phương.
+ Thực hiện lồng ghép các hoạt động dự phòng và quản lý bệnh loãng xương tại
cộng đồng với các chương trình phòng, chống các bệnh không lây nhiễm hiện có
như: chương trình phòng chống bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, ung thư, dinh
dưỡng, phòng chống tác hại thuốc lá...nhằm làm tăng hiệu quả can thiệp.
+ Hoạt động can thiệp trong đó có sự tham gia của ban, ngành, các hội, đoàn ở địa
phương. Ngoài ra, hoạt động can thiệp còn có sự kết hợp các cơ sở y tế công và tư,
các công ty kinh doanh, phân phối sản phẩm có tác động đến phòng bệnh LX.
- Dự kiến kết quả sau can thiệp
53
+ 100% quận, huyện có thành lập Ban Chủ nhiệm Chương trình can thiệp.
+ 100% cán bộ tham gia hoạt động can thiệp đều được tập huấn.
+ 100% trạm y tế phường, xã can thiệp có bố trí CBYT, các CTV làm công
tác truyền thông, thực hiện các biện pháp dự phòng, quản lý bệnh loãng xương.
2) Hoạt động can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức khỏe cộng đồng
- Đối tượng:Người dân từ 45 tuổi trở lên đang cư trú tại phường, xã can thiệp
- Nội dung và biện pháp thực hiện
+ Biên soạn các tài liệu, áp phích truyền thông về bệnh loãng xương đặt tại
bảng tin của các khu phố, ấp can thiệp. Biên soạn, in ấn các tờ rơi, cẩm nang phòng
bệnh loãng xương. Sản xuất pa-nô tuyên truyền và mỗi phường, xã được đặt 2 cái
tại các vị trí công cộng như: trạm y tế phường/xã, uỷ ban nhân dân, chợ, trường học.
+ Tổ chức các buổi nói chuyện và tư vấn về bệnh loãng xương tại các cơ quan
và các tổ chức xã hội ở cộng đồng mỗi quý/lần. Các buổi hội thảo, nói chuyện được
tổ chức tại cộng đồng với sự hợp tác của các tổ chức như: Hội người cao tuổi, Hội
cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, trường học...
+ Thành lập và mời gọi người dân tham gia Câu lạc bộ loãng xương và tổ chức sinh
hoạt hàng quý với sự tư vấn, hướng dẫn phòng bệnh của các chuyên gia.
+ Tổ chức nhóm CTV thăm hộ gia đình, tư vấn trực tiếp đến người dân. Khảo sát về
hành vi, lối sống của người dân nhằm truyền thông thay đổi hành vi.
- Dự kiến kết quả đạt được sau can thiệp
+ Tăng 20% người dân có kiến thức tốt về loãng xương.
+ Tăng 15% người dân có thực hành tốt về phòng, chống loãng xương.
Hoạt động truyền thông được mô tả theo sơ đồ sau
Ban Chủ nhiệm Chƣơng trình phòng chống loãng xƣơng quận, huyện
TRẠM Y TẾ PHƢỜNG, XÃcan thiệp CÁC TỔ CHỨC Chínhtrị-Xã hội P/X
Hỗ trợ của BCĐ CS SK ND
54
Truyền thông trực tiếp Truyền thông gián tiếp
- Bản tin của khu phố ấp - Tư vấn tại trạm y tế
- Pa-nô (panel) - Truyền thông tại P/X
- Áp-phích (poster) - Thăm hộ gia đình
- Tờ rơi, cẩm nang - Khám loãng xương và
-Tư vấn qua điện thoại tư vấn trực tiếp
Đối tượng đích: Đối tượng đích:
Người dân trưởng thành - Người dân ≥ 45 tuổi Cộng tác viên, phối hợp lồng ghép các chƣơng trình y tế hiện có trong cộng đồng - Người dân có MĐX thấp
- Tăng kiến thức và thực hành phòng chống loãng xương - Giảm tỷ lệ mắc và biến chứng do loãng xương Kết quả mong đợi
Sơ đồ 2.1. Mô hình can thiệp truyền thông phòng chống loãng xƣơng
(BCĐCSSKND: Ban Chỉ đạo chăm sóc sức khỏe nhân dân)
3) Hoạt động can thiệp dinh dƣỡng bổ sung thức ăn có hàm lƣợng can-xi cao
- Đối tượng:Người dân từ 45 tuổi trở lên tại các phường, xã can thiệp.
- Nội dung và biện pháp thực hiện
+ Cán bộ y tế và cộng tác viên thực hiện tư vấn cho người dân khi thăm hộ
gia đình về chế độ ăn giàu can-xi, lợi ích của việc uống sữa và các sản phẩm từ sữa.
Phối hợp chương trình dinh dưỡng tổ chức tập huấn, trong đó có chuyên đề dinh
dưỡng phòng, chống loãng xương cho người dân tại cộng đồng.
55
+ Đối với người dân xương bình thường, giảm mật độ xương: Hướng dẫn chế
độ ăn phù hợp cho từng đối tượng nhằm cung cấp đủ can-xi trong khẩu phần ăn
hàng ngày, khuyến khích người dân tăng cường uống sữa và sử dụng những chất
giàu can-xi khác.
+ Đối với người bị loãng xương và loãng xương nặng: Ngoài hướng dẫn chế
độ ăn, cần xây dựng thực đơn phù hợp và uống sữa hàng ngày (≥ 2 ly sữa, tương
đương bổ sung 600 mg can-xi/ngày) hoặc uống bổ sung viên Calci-D.
- Dự kiến kết quả đạt được sau can thiệp
+ Tăng > 20% người dân thực hiện chế độ ăn có hàm lượng can-xi cao.
+ Tăng 10% người dân bị loãng xương có uống sữa ≥ 2 ly/ngày.
+ Tăng 5% người dân bổ sung viên Calci-D hàng ngày.
4) Hoạt động can thiệp bằng tập luyện thể dục thể thao nâng cao thể lực
- Đối tượng: Người dân từ 45 tuổi trở lên tại các phường, xã can thiệp.
- Nội dung và các biện pháp thực hiện
Cán bộ y tế và cộng tác viên phường, xã tuyên truyền vận động về lợi ích của
tập thể dục thể thao, tư vấn cho từng đối tượng chọn phương pháp tập luyện cho
phù hợp. Khuyến khích tập dưỡng sinh, yoga, đi bộ nhanh hàng ngày (ít nhất 30
phút/ngày), đạp xe, bơi lội…Phối hợp các hội, đoàn tổ chức các hoạt động rèn luyện
thân thể cho các thành viên. Xây dựng mô hình kết hợp Câu lạc bộ người bệnh
loãng xương và dưỡng sinh. Tổ chức thu thập số liệu người dân tham gia tập thể
dục thể thao mỗi 6 tháng/lần nhằm định hướng cho tuyên truyền vận động.
- Dự kiến kết quả đạt được sau can thiệp
+ Tăng > 20% số người dân thực hiện tập thể dục.
+ Tăng > 10% số người dân thực hiện tập thể thao.
+ 100% phường, xã can thiệp có Câu lạc bộ loãng xương - dưỡng sinh.
5) Hoạt động can thiệp bằng thuốc Calci-D ở ngƣời có mật độ xƣơng thấp
- Đối tượng: Những người giảm mật độ xương hoặc loãng xương tại các
phường, xã can thiệp qua điều tra ngang.
- Nội dung và biện pháp thực hiện
56
+ Truyền thông nâng cao nhận thức về bệnh loãng xương, hướng dẫn tập
luyện nâng cao thể lực, thực hiện chế độ dinh dưỡng có hàm lượng can-xi và
vitamin D cao.
+Sử dụng viên Calci-D hàng ngày: Viên Calci-D sử dụng để can thiệp có thành
phần calcium carbonate hàm lượng 750mg (tương đương 300mg can-xi) và vitamin
D3 là 60 IU được sản xuất bởi Công ty cổ phần hóa dược phẩm Mekophar thuộc
thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, việc can thiệp dự phòng bằng viên Calci-D sẽ bổ
sung hàng ngày lượng can-xi là 600mg và 120 IU vitamin D cho người dân nghiên
cứu.
+ Phương pháp cung cấp viên Calci-D: Tại các phường, xã can thiệp trong quá trình
điều tra ngang, bác sĩ nghiên cứuchọn những người dângiảm mật độ xương và loãng
xương để tư vấn và mời họ cam kết tham gia sử dụng Calci-D mỗi ngày 2 viên
trong 2 năm liên tục. Để hoạt động can thiệp được duy trì có hiệu quả với sự tự
nguyện của người dân, người tham gia được phân thành nhómtự túc mua viên
Calci-D uống hàng ngày và nhóm Chương trình cung cấp miễn phí (150
người).CBYT và cộng tác viên phường, xã lập danh sách người dân can thiệp, dự
trù số lượng thuốc hàng tháng và trực tiếp cung cấp cho người dân. Người tự túc
thuốc thì được bác sĩ ghi toa và hướng dẫn nơi cung cấp thuốc. Việc sử dụng viên
Calci-D sẽ được giám sát của các cộng tác viên phường, xã (nhắc nhở qua điện
thoại, đến thăm hỏi tư vấn tại nhà và qua truyền thông trực tiếp, kiểm vỏ thuốc).
+Người đạt tiêu chí can thiệp bằng viên Calci-D là người tuân thủ đủ về số lượng và
thời gian sử dụng thuốc (uống 2 viên/ngày, ít nhất 6 ngày/tuần). Như vậy, tổng số
ngày sử dụng thuốc là > 626 ngày trong 2 năm (>85% thời gian) và uống >1252
viên Calci-D được xem là đạt tiêu chí can thiệp.
- Dự kiến kết quả đạt được sau can thiệp
+ Giảm 10% tỷ lệ loãng xươngvà giảm mật độ xương so với trước can thiệp.
+ Trung bình BMD và trung bình T-score tăng hơn so với trước can thiệp.
Bảng 2.2. Nội dung biện pháp can thiệp trên các nhóm đối tƣợng
Đối tượng Nhóm can thiệp cộng đồng Nhóm Nhóm người loãng xương
57
đối chứng hoặc giảm mật độ xương
cộng đồng
- Truyền thông giáo dục Không có - Truyền thông nâng cao
sức khỏe nâng cao nhận các tác động nhận thức của người dân
thức của người dân về bệnh can thiệp về bệnh loãng xương.
loãng xương. - Hướng dẫn người dân
- Hướng dẫn người dân tập tập luyện thể dục thể
Biện pháp luyện thể dục thể thao, thao, tham gia Câu lạc bộ
can thiệp nâng cao thể lực. Loãng xương-Dưỡng sinh
- Hướng dẫn và khuyến cáo - Thực hiện chế ăn với
người dân thực hiện chế ăn những thực phẩm có hàm
với những thực phẩm có lượng can-xi cao.
hàm lượng can-xi cao. - Bổ sung Calci-D 2 viên
mỗi ngày.
Điều tra ngang trên người dân từ 45 tuổi trở lên tại 8 phường
và 2 xã thuộc 4 quận và một huyện của TPHCM (n=989)
ả t
-Xác định tỷ lệ loãng xương, giảm mật độ xương, trung bình
BMD ở người ≥45 tuổi bằng phương pháp DXA cẳng tay.
ô m u ứ c n ê i
-Xác định một số yếu tố liên quan đến bệnh loãng xương.
h g N
58
Can thiệp cộng đồng phòng chống Can thiệp trên người LX và giảm
LXởtất cả người dân ≥45 tuổi tại 3 MĐX qua điều tra ngang tại 3
phường và 1 xã của TPHCM phườngvà 1 xã can thiệp(n=166)
Cỡ mẫu trước CTn=422từ điều Cỡ mẫu trước CTn=388từ điều
tra ngang tại các P/X can thiệp tra ngang tại các P/X đối chứng
Địa phƣơng can thiệp: P.3 ng và 1 xã can thiệp(n=332) Địa phƣơng đối chứng: P.
Q. Bình Thạnh, P.5 Q. Gò 11 Q.Bình Thạnh, P.8 Q. Gò
So
Vấp, P. Hiệp thành Q.12, xã Vấp, P. An Phú Đông Q.12,
sánh
Tân Xuân H. Hóc Môn xã Đông Thạnh H.Hóc Môn
Thực hiện các biện pháp: Thực hiện các biện pháp:
-Truyền thông GDSK. Tư vấn, tập luyện, dinh p ệ i h t n a c u ứ c n ê i -Dinh dưỡng bổ sung calci dưỡng và sử dụng calci-
u a s c ớ ƣ r t h n á s o S
-Tập luyện thể dục thể thao D 2 viên/ngày/2 năm.
h g N
u a s c ớ ƣ r t h n á s o S
u a s c ớ ƣ r t h n á s o S
So Kết quả sau can Kết quả sau can Kết quả sau can
sánh thiệp của phường thiệp của phường thiệp trên người
xã can thiệp xã đối chứng LX và giảm MĐX
Cỡ mẫu sau CT n=399 Cỡ mẫu sau CT n=399 n sau CT=166
Sơ đồ 2.2. Thiết kế nghiên cứu mô tả và can thiệp cộng đồng 2.3.2. Phƣơng pháp chọn mẫu
2.3.2.1. Nghiên cứu mô tả cắt ngang
-Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo công thức ước lượng một tỷ lệ [10]
n = Z²(1-α/2). p(1-p) x DE Δ²
59
Trong đó: + n: cỡ mẫu.
(1-/2): độ tin cậy, với độ tin cậy 95% thì Z(1-/2)= 1,96.
+ Z2
+ P = 0,304, tỷ lệ loãng xương theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Trung
Hòaở người trên 45 tuổi trong cộng đồng năm 2008 là 30,4% [9].
+Δ: sai số mong muốn, chọn Δ= 0,04.
+ DE (Design Effect): Hệ số thiết kế = 2
Thay vào công thức ta được n=401. Do chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên 2
giai đoạn (chọn quận/huyện và phường/xã) nên nhân với hệ số thiết kế = 2. Như
vậy, cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu là 802và để tránh sai số cỡ mẫu được tăng
thêm 25%,thực tế chúng tôi điều tra 989 người.
-Kỹ thuật chọn mẫu đƣợc thực hiện qua 3 bƣớc
+ Bước 1 - Chọn quận, huyện nghiên cứu: TPHCM có 19 quận và 5 huyện.
Do thành phố có quy mô dân số các quận, huyện không đều nhau, chúng tôi dùng
phương pháp chọn mẫu xác suất tỷ lệ với kích thước (probability proportionate to
size- PPS) để chọn 4 quận và 1 huyện vào nghiên cứu [5]. Sắp xếp các quận theo
thứ tự ngẫu nhiên từ 1-19 và các huyện từ 20-24. Cộng dồn dân số các quận, huyện
chia cho 5 sẽ được khoảng cách mẫu k.Dân số TPHCM tính đến 31/12/2010 là
7.396.445 người, như vậy k là 1.479.289. Dùng bảng số ngẫu nhiên chọn số i (gồm
7 chữ số) từ 1 đến ≤ k. Số i được chọn là 0982047. Quận đầu tiên chọn có số dân
lớn liền kề số i và quận tiếp theo có số dân lớn liền kề i + k, i + 2k, i + 3k và i + 4k
là huyện được chọn. Kết quả các quận được chọn là: Quận 12, 6, Bình Thạnh, Gò
Vấp và huyện Hóc Môn (phụ lục 3).
+ Bước 2 - Chọn phường, xã nghiên cứu: Dùng phương pháp ngẫu nhiên đơn
bốc thăm chọn 2 phường, xã ở mỗi quận, huyện. Các phường, xã chọn là: Phường 3,
11 quận Bình Thạnh; phường 5, 8 quận Gò Vấp; phường Hiệp Thành, An Phú Đông
quận 12; phường 12, 13 quận 6; xã Tân Xuân, Đông Thạnh huyện Hóc Môn.
+ Bước 3 - Chọn người dân nghiên cứu: Dùng phương pháp chọn mẫu ngẫu
nhiên hệ thống theo khung mẫu là danh sách người dân từ 45 tuổitrở lên có thứ tự
tuổi tăng dần ở mỗi phường, xã.Tổng số dân ≥ 45 tuổi của phường, xã chia cho số
60
người dân đưa vào mẫu ta được hệ số k, chọn một số i từ 1 đến k. Người đầu tiên
vào danh sách là số i, sau đó là i + k, i + 2k,...cho tới khi đủ số thiết kế (phụ lục 3).
2.3.2.2. Nghiên cứu can thiệp
1) Nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng
-Can thiệp được thực hiện trên tất cả những người trưởng thành trong cộng
đồng tại các phường, xã can thiệp và cỡ mẫu điều tra người dân từ 45 tuổi trở lên
𝑃1−𝑃2 2
[10] sau can thiệp được tính theo công thức kiểm định sự khác biệt giữa 2 tỷ lệ: 𝑛 = Z2 ∝, 𝛽 𝑝1 1−𝑝1 + 𝑝2 1−𝑝2
Trong đó: + n: cỡ mẫu tối thiểu cho mỗi nhóm (nhóm can thiệp và chứng)
+p1: Tỷ lệ loãng xương ở nhóm can thiệp = 20,4%
+p2: Tỷ lệ loãng xương ở nhóm chứng = 30,4%
+ α: Mức ý nghĩa thống kê với độ tin cậy là 95% (α = 0,05)
+ β: Xác suất của việc phạm phải sai lầm loại II. Chọn β = 0,1
+ Z² (α,β) = 10,5
Tỷ lệ loãng xương sau can thiệp (p1) ước tính là 20,4% do mong muốn giảm
10% so với trước can thiệp (theo kết quả từ một nghiên cứu có trước là 30,4%). Tỷ
lệ loãng xương ở nhóm chứng (p2)sau can thiệp ước tính là 30,4% do tỷ lệ không
hoặc ít thay đổi(không có tác động can thiệp).Thay vào công thức trên ta có cỡ mẫu
điều tra cộng đồng sau 2 năm can thiệp tối thiểu là 393 người ở mỗi nhóm (can
thiệp và đối chứng). Thực tế chúng tôi thực hiện trên 399 người mỗi nhóm.
- Kỹ thuật chọn mẫu đƣợc thực hiện qua 2 bƣớc
+ Bước 1- Chọn phường, xã can thiệp và đối chứng: Bốc thăm ngẫu nhiên chọn 3
trong 4 quận và chọn huyện Hóc Môn đã điều tra ngang. Mỗi quận, huyện sẽ chọn một
phường, xã can thiệp và một phường, xã chứng. Kết quả các phường, xã được chọn để can
thiệp là: Phường Hiệp Thành quận 12, phường 3 quận Bình Thạnh, phường 5 quận Gò
Vấp và xã Tân Xuân huyện Hóc Môn.
Tiêu chuẩn chọn phường, xã đối chứng:Để cho những người dân nghiên cứu thuộc các
phường, xã đối chứng có khả năng so sánh cao nhất với những người dân nghiên
cứu thuộc các phường, xã can thiệp, ngoài các yếu tố tương đồng về điều kiện địa
61
lý, kinh tế, văn hóa giữa hai địa phương thì các đặc điểm cá nhân và một số yếu tố
khác có liên quan đến tình trạng loãng xương cũng phải tương đồng. Ngoài ra,
phường, xã chứng và can thiệp cần phải xa cách biệt để tránh yếu tố nhiễu. Cácphường,
xã đối chứng được chọn là: Phường An Phú Đông quận 12, phường 11 quận Bình Thạnh,
phường 8 quận Gò Vấp và xã Đông Thạnh huyện Hóc Môn.
+ Bước 2 – Chọn người dân điều tra sau can thiệp:Là người dân ngẫu nhiên trong
cộng đồng. Dùng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống theo khung mẫu là
danh sách người dân ≥ 45 tuổi có thứ tự tuổi tăng dần ở mỗi phường, xã can thiệp
và đối chứng. Tổng số dân ≥45tuổi của phường, xã chia cho số lượng người dân đưa
vào mẫu ta được hệ số k, chọn một số i từ 1 đến ≤ k. Người đầu tiên vào danh sách
là số i, sau đó là i + k, i + 2k,...cho đến khi đủ số theo thiết kế (phụ lục 3).
2) Can thiệp bằng viên Calci-D trên ngƣời dân có mật độ xƣơng thấp
Là nghiên cứu thử nghiệm thựcđịa (field trial) [10] can thiệp trực tiếp đến
người dân bị loãng xương hoặc giảm mật độ xương sau khi đã có kết quả điều tra
cắt ngang tại các phường, xã can thiệp. Nghiên cứu không có nhóm chứng và đánh
giá chỉ số hiệu quả can thiệp qua so sánh trước sau trên cùng một đối tượng.
𝑃1−𝑃2 2
[10] -Cỡ mẫuđược tính theo công thức kiểm định sự khác nhau giữa 2 tỷ lệ: 𝑛 = Z2 ∝, 𝛽 𝑝1 1−𝑝1 + 𝑝2 1−𝑝2
+ p1 = 0,747 là tổng tỷ lệ loãng xương và giảm mật độ xương (30,4% +
44,3%) theo kết quả nghiên cứu nghiên cứu có trước [9].
+ p2 = 0,597 (p1 – 0,15) là tỷ lệ loãng xương và giảm mật độ xương sau can
thiệp, ước tính là giảm 15% so với trước can thiệp.
+ α: Mức ý nghĩa thống kê với độ tin cậy là 95% (α = 0,05)
+ β: Xác suất của việc phạm phải sai lầm loại II. Chọn β = 0,2
+ Z² (α,β) = 7,9
+ Thay vào công thức ta có n =150 là cỡ mẫu tối thiểu can thiệp và để tránh
sai số do mất dấu tăng 10%, thực tế chúng tôi điều tra sau can thiệp là 166 người.
62
- Cách chọn mẫu: Tất cả những người bị loãng xương hoặc giảm MĐX qua
kết quả điều tra ngang tại phường 3 quận Bình Thạnh, phường 5 quận Gò Vấp,
phường Hiệp Thành quận 12 và xã Tân Xuân huyện Hóc Môn.Tiêu chuẩn chọn:
Những người có kết quả đo mật độ xương T-score ≤ - 1
Những người không có chống chỉ định dùng thuốc Calci-D.
Những người không có sử dụng thuốc chống loãng xương khác.
Tự nguyện tham gia và thực hiện đúng chỉ dẫn của người nghiên cứu.
-Theo kết quả điều tra ngang, tỷ lệ giảm mật độ xương và loãng xương ở
người từ 45 tuổi trở lên tạiphường, xã can thiệp là 78,6% (330 người), trong đó 17
người có chỉ định và chấp thuận dùng thuốc chống loãng xương. Vì đạo đức nghiên
cứu, chúng tôi tư vấn và chọn tất cả 313 người còn lại tham gia can thiệp bằng viên
Calci-D. Kết quả đạt tiêu chí và được điều tra sau can thiệp là 166 người.
2.4. TỔ CHỨC THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU
2.4.1. Nghiên cứu mô tả
- Tổ chức tập huấn cho cán bộ y tế, các cộng tác viên tham gia nghiên cứu. Tổ chức
hội nghị đồng thuận và triển khai thực hiện nghiên cứu cho các đối tượng là lãnh
đạo Trung tâm y tế dự phòng các quận, huyện, Ban chỉ đạo chăm sóc sức khỏe nhân
dân, Trưởng trạm y tế phường, xã và các cộng tác viên tại địa bàn nghiên cứu.
- Tổ chức nhóm điều tra thu thập số liệu gồm: 2 kỹ thuật viên đo mật độ xương, 4
bác sĩ phỏng vấn và tư vấn về bệnh loãng xương,1 thạc sĩ chẩn đoán hình ảnh, 1 cán
bộ cân đo chiều cao, cân nặng, 1 kỹ thuật viên X quang.
- Địa điểm tổ chức khám và phỏng vấn tại trạm y tế các phường, xã nghiên
cứu. Máy đo loãng xương DTX-200 DexaCare được vận chuyển đến từng trạm y tế
để đo tại chỗ. Chụp X quang cột sống tại các bệnh viện quận, huyện nghiên cứu.
Thu thập thông tin
- Phỏng vấn trực tiếp để thu thập các số liệu về năm sinh, giới tính, trình độ
học vấn, nghề nghiệp, chiều cao lúc trẻ (từ 20 đến 30 tuổi), tuổi bắt đầu có kinh
nguyệt, thời gian bắt đầu mãn kinh, số con đã sinh, tiền sử bệnh và sử dụng thuốc,
tiền sử bệnh của gia đình, thói quen tập thể dục, uống sữa, hút thuốc lá, uống rượu
bia và kiến thức, thực hành đối với phòng, chống bệnh loãng xương.
63
- Quan sát: Khám và phát hiện bệnh. Số liệu được thu thập qua thăm khám được
tiến hành do một nhóm cố định các bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên.
+ Cân nặng: Được cân bằng cân Tanita (Nhật) chia độ đến 0,1kg.
+ Chiều cao: Đo bằng thước đo chiều cao đứng Microtoise của UNICEF.
+ Đo mật độ xương: Bằng phương pháp đo hấp thụ năng lượng tia X kép (Dual-
Energy X-ray Absorptiometry -DXA). Phương pháp này cho phép ước tính khối
lượng chất khoáng xương (Bone Mineral Content - BMC), tính diện tích mà khối
chất khoáng được đo và lấy BMC chia cho diện tích. Vì vậy, đơn vị đo mật độ
xương bằng máy đo hấp phụ năng lượng tia X kép là g/cm².
Trong nghiên cứu này thực hiện đo mật độ xương tại phần xa cẳng tay bằng
máy DTX-200 DexaCare do hãng OSTEOMETER MEDITECH, INC của Mỹ sản
xuất năm 2009 đạt tiêu chuẩn ISO 9001, EN 46001 (phụ lục 4). Máy được thiết kế
sử dụng năng lượng thấp và có kích thước nhỏ gọn dễ di chuyển và không cần che
chắn nên thích hợp nghiên cứu tại cộng đồng. Người đo mật độ xương ngồi song
song với máy và đặt toàn bộ cẳng tay trái vào rãnh phía trên phần máy chính. Tia X
quét qua phần xa xương quay và xương trụ (nơi chiếm 65% xương xốp, 35% xương
vỏ) khoảng 8 mm thời gian là 4,5 phút với độ chính xác tối ưu (>99%) và liều bức
xạ rất thấp (0.1Sv). Người đo được cung cấp dữ liệu cho máy về tên, tuổi, giới,
cân nặng, chiều cao và chủng tộc (máy có dữ liệu tham chiếu gồm chủng tộc da
trắng, da đen, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc). Nghiên cứu này chọn BMD tham
chiếu là của người Trung Quốc. Kết quả sau khi quét máy sẽ tính được số g/cm² mật
độ xương của người đo và so sánh với dữ liệu tham chiếu là trung bình BMD của
người trưởng thành trẻ từ 20-30 tuổi cùng giới và chủng tộc. Từ đó phiên ra kết quả
T-score (và tỷ lệ % BMD so với tham chiếu). Bên cạnh đó, máy còn tính giá trị Z-
score, là so sánh BMD người đo với dữ liệu tham chiếu (trung bình BMD người
bình thường cùng giới, chủng tộc và cùng độ tuổi) mà máy cài đặt sẵn. Tuy nhiên,
giá trị này không dùng để chẩn đoán.
2.4.2. Tổ chức thu thập dữ liệu sau can thiệp
- Tổ chức đoàn khám, thu thập số liệu thành phần như nghiên cứu ngang tại 4
phường, xã can thiệp và 4 phường, xã chứng. Dùng phương pháp ngẫu nhiên hệ
64
thống chọn người dân nghiên cứu theo khung mẫu là danh sách người dân từ 45
tuổitrở lên tại các phường, xã can thiệp theo cỡ mẫu 399người và phường, xã chứng
là 399 người. Nhóm can thiệp bằng viên Calci-D gồm những người đạt tiêu chí sau
can thiệp.
- Phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi gồm phần hành chính, một số yếu tố
liên quan, kiến thức và thực hành của người dân. Đo mật độ xương.
2.5. BIẾN SỐ VÀ CÁC CHỈ SỐ NGHIÊN CỨU
2.5.1. Định nghĩa các biến số
2.5.1.1. Loãng xương
Để chẩn đoán loãng xương,Tổ chức Y tế thế giới đề nghị chuẩn hóa các kết quả đo
MĐX bằng chỉ số T (T-score) được tính từ hiệu số giữa MĐX người được đo với
mật độ xương trung bình của quần thể trong độ tuổi 20-30, sau đó chia cho độ lệch
chuẩn của mật độ xương trung bình của quần thể trong độ tuổi 20-30.
Bảng 2.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xƣơng theo mật độ xƣơng
Chẩn đoán Tiêu chuẩn
T-score > -1 Bình thường (Normal)
-2,5 < T-score ≤ -1 Giảm mật độ xương (Osteopenia)
Loãng xương (Osteoporosis) T-score ≤ -2,5
Loãng xương nặng (Severe osteoporosis) Loãng xương + tiền sử gãy xương
Nguồn: Tổ chức Y tế thế giới 1994 [41]
2.5.1.2. Xẹp đốt sống
Chẩn đoán xẹp đốt sống bằng phương pháp bán định lượng do Genant đề xuất
vào năm 1990. Phim cột sống được chụp nghiêng, vị trí đốt sống đánh giá là từ T4
đến L4 dựa vào một trong 4 chỉ số sau: chiều cao trước, giữa, sau và diện tích mặt
bên của thân đốt sống so với chiều cao còn lại của chính đốt sống đó.
Bảng 2.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán xẹp đốt sống theo phƣơng pháp Genant[40]
Mức độ gãy
Vị trí xác định Diện tích mặt bên của thân đốt sống Độ 1 (nhẹ) : giảm từ 10-20%
65
Độ 2 (vừa) : giảm từ 20-40%
Độ3 (nặng): giảm >40%
Thân trước: Thân giữa: so Thân sau: so Độ 1 (nhẹ): giảm từ 20-25%
so với chiều với chiều cao với chiều cao Độ 2 (vừa): giảm từ 25-40%
cao thân sau trước và sau thân trước Độ 3 (nặng): giảm >40%
Người được chụp X quang để chẩn đoán xẹp xương đốt sống theo phương pháp bán
định lượng là những người đo mật độ xương có T-score ≤ -2,5.
2.5.1.3. Biến số phụ thuộc
Mật độ xương(BMD) là biến liên tục được tính bằng đơn vị g/cm².
Phân loại mật độ xương là biến định tính theo 3 mức độ: xương bình thường,
giảm mật độ xương và loãng xương; theo 2 mức độ: loãng xương và không loãng
xương
2.5.1.4. Biến số độc lập
- Tuổi là biến liên tục được tính từ năm sinh tới ngày khám theo quy định
tính tuổi của Tổ chức Y tế thế giới (1995). Trong phân tích, tuổi được phân thành
8 nhóm: 45-49, 50-54, 55-59, 60-64, 65-69, 70-74, 75-79, ≥80 tuổi.
- Trình độ học vấn:Là biến thứ hạng được phân 4 nhóm ≤ tiểu học; nhóm >
tiểu học đến trung học phổ thông; nhóm trung cấp và nhóm cao đẳng, đại học.
- Nghề nghiệp: Là nghề chủ yếu và thường xuyên của người dân từ trưởng
thành đến lúc phỏng vấn. Đây là biến danh mục được phân thành 5 nhóm nghề: Cán
bộ-công chức-viên chức, công nhân, nông dân, kinh doanh, nội trợ.
- BMI (Body Mass Index – Chỉ số khối cơ thể): được tính bằng tỷ số giữa cân
nặng (kg) và chiều cao bình phương (m), là biến liên tục và cũng là biến thứ hạng
được phân thành 4 nhóm: gầy, bình thường, thừa cân, béo phì.
Bảng 2.5. Phân loại BMI theo WHO 2000 khu vực Châu Á
Xếp loại BMI
Gầy < 18,5
66
Trung bình 18,5 – 22,9
Thừa cân 23 – 24,9
Béo phì ≥ 25
Nguồn: Tổ chức Y tế thế giới năm 2000 [27]
- Cân nặng là biến số liên tục được tính bằng Kilogram.
- Chiều cao là biến số liên tục được tính bằng đơn vị centimeter.
- Giảm chiều cao: Là chiều cao hiện tại giảm từ 5 cm trở lên so với chiều cao
khi ở tuổi thanh niên (20 đến 30 tuổi), là biến nhị phân có hoặc không.
- Tuổi có kinh nguyệt được tính năm bắt đầu có kinh lần đầu, là biến liên tục
và cũng là biến nhị phân: nhóm có kinh < 16 tuổi và nhóm ≥ 16 tuổi.
- Tuổi mãn kinh được tính từ năm bắt đầu hết kinh nguyệt. Mãn kinh là biến
nhị phân (chưa mãn kinh, đã mãn kinh) và cũng là biến thứ hạng 3 nhóm:
+ Mãn kinh sau 45 tuổi
+ Mãn kinh sớm: khi người phụ nữ mất kinh tự nhiên ≤ 45 tuổi.
+ Mãn kinh rất sớm: khi người phụ nữ mất kinh tự nhiên < 40 tuổi.
- Số con là biến nhị phân: phụ nữ sinh từ 4 đứa con trở lên và sinh dưới 4 con.
Theo nghiên cứu của một số tác giả tại Việt Nam, phụ nữ sinh từ 1-3 con là yếu tố
bảo vệđối với bệnh loãng xương so với sinh nhiều hơn [33].
- Tiền sử sử dụng corticoid: người dân dùng corticoid liên tục trên 3 tháng ≥ 5 mg
prednison (hoặc thuốc tương đương)/ngày do nhiều nguyên nhân (điều trị viêm
khớp, hội chứng thận hư, hen suyễn…). Là biến nhị phân: có hoặc không.
- Lạm dụng rượu bia là biến nhị phân có 2 giá trị có hoặc không, được xác định theo
quy chuẩn của WHO.
- Gãy xương do chấn thương nhẹ là biến nhị phân có 2 giá trị có hoặc không,
được tính là có khi người dân bị gãy xương do các hoạt động sinh hoạt (do té, do va
chạm nhẹ) mà không tính đến tai nạn giao thông hoặc tai nạn nặng nề khác.
- Tiền sử gia đình là biến nhị phân với 2 giá trị có hoặc không (kể cả không
biết), được xác định là có khi ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột của người dân nghiên
67
cứu có người bị loãng xương hoặc gãy xương do loãng xương (được chẩn đoán bởi
cơ sở y tế có đủ điều kiệnqua kiểm tra sổ y bạ hoặc kết quả khám bệnh).
- Tập thể dục thể thao là biến nhị phân có 2 giá trị có hoặc không, được tính
khi người dân nghiên cứu thường xuyên tập thể dục hoặc chơi thể thao ít nhất 30
phút/ngày (hoặc ít nhất 150 phút/tuần).
- Hút thuốc lá (lào) là biến nhị phân có 2 giá trị có hoặc không, được tính là
có khi người dân nghiên cứu hút trên 10 điếu (hoặc 10 lượt hút thuốc lào) trong
ngày và đã nghiện thuốc lá trong nhiều năm (> 2 năm).
- Thói quen uống sữa là biến định tính, có 3 nhóm: uống ≥ 2 ly
(200ml/ly)/ngày, uống 1 ly/ngày, không uống và phân loại 2 nhóm: có hoặc không
uống sữa. Loại sữa được tính là sữa tươi, các loại sữa giàu can-xi.
2.5.1.5. Kiến thức về bệnh loãng xương của người dân
- Nguồn và thông tin về bệnh loãng xương người dân nhận được
+ Nhận thông tin thường xuyên là người dân đã nghe nói về bệnh loãng xương mỗi
năm ít nhất 2 lần và trong nhiều năm liền.
+ Nhận thông tin không thường xuyên là người dân thỉnh thoảng nghe nói về
bệnh loãng xương không hơn 1 lần trong năm và không liên tục nhiều năm.
+ Người dân chưa từng nghe nói về bệnh loãng xương.
+ Nguồn thông tin: báo chí, ti-vi, nhân viên y tế, sách, kênh khác (tờ rơi, áp phích,
pa nô, người thân...)
-Kiến thức về bệnh loãng xương:Bộ câu hỏi về kiến thức gồm 20 câu được
chia thành 3 nhóm nội dung: khái niệm về bệnh loãng xương, các yếu tố nguy cơ và
kiến thức phòng bệnh. Bộ câu hỏi được kiểm định độ tin cậy bằng Hệ số
Cronbach´s Alpha với mức chấp nhận > 0,7. Mỗi câu hỏi có 3 giá trị: đúng (được 1
điểm), sai hoặc không biết (0 điểm).
Kiến thức được phân loại thành 3 mức độ:
+ Kiến thức tốt: người dân đạt ≥15 điểm và phải đúng 10 câu bắt buộc (3 câu
về khái niệm bệnh loãng xương; 5 câu về yếu tố nguy cơ: Là phụ nữ, mãn kinh, tuổi
già, lười vận động, dùng thuốc corticioid; 2 câu về phòng bệnh: ăn thức ăn giàu can-
xi, tập thể dục thể thao thường xuyên)
68
+ Kiến thức trung bình: người dân đạt ≥10 điểm và đúng 6 câu bắt buộc (2
câu về khái niệm bệnh; 3 câu về yếu tố nguy cơ: Là phụ nữ, mãn kinh, tuổi già; 1
câu về phòng bệnh:ăn thức ăn giàu can-xi hoặc tập thể dục thể thao thường xuyên).
+ Kiến thức kém: người dân không đạt tốt hoặc trung bình.
2.5.1.6. Thực hành về phòng chống loãng xương của người dân
- Phân loại thực hành:Bộ câu hỏi về thực hành gồm 12 câu được chia thành 2
nội dung: thực hành hành vi có hại cho xương(có 4 nội dung: hút thuốc lá, lạm dụng
rượu bia, sử dụng thuốc corticoid, sử dụng nhiều cà phê và/hoặc thức uống có gas),
thực hành hành vi có lợi cho xương (có 8 nội dung: tập thể dục, tập thể thao, uống
sữa hàng ngày, uống bổ sung viên can-xi, ăn thức ăn giàu can-xi, phòng tránh té
ngã, kiểm tra mật độ xương định kỳ, chủ động nhận thông tin về bệnh). Bộ câu hỏi
được kiểm định độ tin cậy bằng Hệ số Cronbach´s Alpha với mức chấp nhận > 0,7.
Mỗi câu hỏi được đánh giá 5 mức độ theo thang Likert. Điểm 5 cho hành vi rất
thường xuyên và giảm dần mỗi điểm đến chưa từng có hành vi là 1 điểm.
+ Rất thường xuyên là hành vi được thực hiện hàng ngày/tuần.
+ Thường xuyên là thực hiện hành vi > 3 ngày/tuần.
+ Ít khi là thực hiện hành vi từ 1 đến 3 ngày/tuần.
+ Rất ít khi là thực hiện hành vi <1 ngày/tuần.
Tuy nhiên nội dung thực hành các biện pháp phòng bệnh như: kiểm tra sức khỏe
xương định kỳ, chủ động tìm hiểu thông tin về bệnh thì được tính theo thời gian 3,
6, 12 và >12 tháng lần lượt là rất thường xuyên, thường xuyên, ít khi và rất ít
khi.Khi tính điểm để phân loại thực hành sẽ đảo ngược số điểm của 4 hành vi có hại
cho xương5=1, 4=2, 3=3, 2=4, 1=5 để lấy tổng số điểm của từng người dân nghiên
cứu và như vậy điểm tối đa đạt 60 và tối thiểu 12. Thực hành tốt khi đạt ≥ 36 điểm,
không có hành vi tiêu cực thường xuyên hoặc rất thường xuyên, có thực hiện bắt
buộc 3 biện pháp tăng sức mạnh xương (tập thể dục hoặc thể thao, uống sữa, ăn
thức ăn giàu chất can-xi) và hành vi theo dõi sức khỏe định kỳ; trung bình khi đạt
>24 điểm, không có hành vi tiêu cực thường xuyên hoặc rất thường xuyên, có thực
hiện bắt buộc 2 biện pháp tăng sức mạnh xương (tập thể dục hoặc thể thao, ăn thức
ăn giàu chất can-xi); kém khi ≤ 24 điểm.
69
- Định nghĩa một số nội dung thực hành
+ Ăn thức ăn giàu can-xi là trong thực đơn bữa ăn có chứa nhiều chấtcó hàm lượng
can-xi cao, gồm 5 nhóm: sữa và thực phẩm từ sữa; hải sản (cá, tôm, cua, ốc, hến...);
một vài loại mè, đậu nành; rau có màu xanh đậm (bồ ngót, bông cải xanh, mù tạc,
cần...); các củ quả (cam, nước táo, bột ngũ cốc…). Người có sử dụng thức ăn giàu
can-xi khi ăn uống ít nhất 4 nhóm trên và cung cấp ≥1.000mg can-xi/ngày.
+ Uống bổ sung viên can-xi là sử dụng thuốc đơn liều can-xi hay kết hợp nhưng tối
thiểu phải cung cấp 500 mg can-xi/ngày.
+ Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị về can-xi cho người trưởng thành (19 -49
tuổi) là 700 mg/ngày; người ≥ 50 tuổi là 1.000 mg/ngày [45].
+ Phòng tránh té ngã là thực hiện các biện pháp: rèn luyện thân thể, sử dụng
giày dép an toàn (vừa, không trơn, đế thấp), trong nhà đủ ánh sáng và không có
chướng ngại vật, sàn nhà và nhà vệ sinh không trơn trượt, mang dụng cụ hỗ trợ.
2.5.2. Các chỉ số nghiên cứu
2.5.2.1. Tỷ lệ loãng xương, trung bình BMD và một số yếu tố liên quan ở người
từ 45 tuổi trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh
- Phân bố mật độ xương và gãy xương do loãng xương ở người 45 tuổi trở lên
+ Tỷ lệ xương bình thường, giảm mật độ xương, loãng xương.
+ Tỷ lệ loãng xương ở nam giới và nữ giới.
+ Trung bình BMD của người dân nghiên cứu.
+ Trung bình BMD, tỷ lệ xẹp xương đốt sống ở bệnh nhân loãng xương.
- Một số yếu tố liên quan đến loãng xương và BMD ở người 45 tuổi trở lên
+ Liên quan BMD và bệnh loãng xương với tuổi của người dân nghiên cứu.
+ Liên quan BMD và bệnh loãng xương với cân nặng, chiều cao và BMI.
+ Liên quan bệnh loãng xương với giới tính, địa dư, nghề nghiệp, trình độ học vấn
của người dân nghiên cứu.
+ Liên quan BMD và bệnh loãng xương với kinh nguyệt và số con của phụ nữ
nghiên cứu.
+ Liên quan bệnh loãng xương với thói quen sống của người dân nghiên cứu (uống
sữa, lạm dụng rượu bia, hút thuốc lá, tập thể dục thể thao).
70
+ Liên quan bệnh loãng xương với sử dụng thuốc corticoid, gãy xương do chấn
thương nhẹ, giảm chiều cao, gia đình cùng huyết thống bệnh loãng xương hoặc gãy
xương do loãng xương.
+ Liên quan bệnh loãng xương với tình trạng xẹp xương đốt sống.
+ Liên quan BMD với điểm kiến thức và thực hành của người dân.
+ Liên quan bệnh loãng xương với kiến thức và thực hành của người dân.
2.5.2.2. Chỉ số, số liệu về xây dựng và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can
thiệp cộng đồng phòng, chống loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên
- Về tổ chức thực hiện can thiệp
+ Số lượng Ban Chủ nhiệm chương trình phòng, chống loãng xương cấp quận,
huyện được thành lập.
+ Số cán bộ tham gia can thiệp được đào tạo tập huấn.
+ Số tài liệu truyền thông (tờ rơi, cẩm nang, pa nô, áp phích, phim) được sản xuất
và cấp phát cho người dân nghiên cứu.
+ Số người dân nghiên cứu được tư vấn trực tiếp, qua điện thoại, đo MĐX.
+ Số buổi truyền thông được tổ chức tại cộng đồng về loãng xương
+ Số hộ gia đình được thăm và tư vấn trực tiếp.
+ Số quận, huyện có trang bị máy đo mật độ xương.
+ Số phường, xã có thành lập câu lạc bộ người bệnh loãng xương.
+ Số buổi giám sát hoạt động can thiệp của Ban Chủ nhiệm quận, huyện.
- Chỉ số đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng
+ Chỉ số về nguồn và thông tin loãng xương nhận được của người dân
Tỷ lệ người dân nghiên cứu nhận được thông tin thường xuyên và không
thường xuyên về bệnh loãng xương. Hiệu quả can thiệp.
Tỷ lệ nguồn thông tin (báo chí, ti-vi, nhân viên y tế, sách, kênh khác) người
dân nghiên cứu nhận được. Hiệu quả can thiệp.
+ Chỉ số đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng trên người dân ≥45 tuổi
Tỷ lệ loãng xương, giảm MĐX ở người dân nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp.
Chỉ số trung bình BMD, điểm kiến thức đúng, điểm thực hành tích cực của người
dân nghiên cứu can thiệp, đối chứng trước và sau can thiệp.
71
Tỷ lệ kiến thức, thực hành tốt của người dân nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp trên tỷ
lệ kiến thức, thực hành.
Tỷ lệ kiến thức đúng, thực hành tích cực của người dân nghiên cứu. Hiệu quả can
thiệp trên kiến thức đúng và thực hành tích cực phòng, chống loãng xương.
+ Chỉ số hiệu quả can thiệp bằng viên Calci-D trên người dân có MĐX thấp
Tỷ lệ người dân có mật độ xương thấp được can thiệp bằng viên Calci-D hoàn thành
can thiệp sau 2 năm.
Tỷ lệ loãng xương, giảm mật độ xương ở người có MĐX thấp trước và sau can
thiệp bằng viên Can-xi D. Chỉ số hiệu quả về can thiệp trên mật độ xương.
Tỷ lệ kiến thức, thực hành đúng của người dân có MĐX thấp. Chỉ số hiệu quả về
kiến thức và thực hành đúng sau 2 năm.
Chỉ số trung bình BMD, điểm kiến thức, điểm thực hành của người dân có mật độ
xương thấp trước và sau can thiệp bằng viên Calci-D.
Tỷ lệ người dân có mật độ xương thấp được can thiệp có nhận thông tin thường
xuyên, không thường xuyên và nguồn thông tin về bệnh loãng xương. Chỉ số hiệu
quả can thiệp.
Tỷ lệ kiến thức, thực hành tốt ở người có mật độ xương thấp được can thiệp bằng
viên Calci-D trước và sau can thiệp.
2.6. KỸ THUẬT HẠN CHẾ SAI SỐ
2.6.1. Hạn chế sai số trong chọn mẫu
- Chọn mẫu được thực hiện ngẫu nhiên theo quy trình chọn mẫu. Cỡ mẫu đủ
lớn và có biện pháp thay thế phù hợp khi người dân nghiên cứu bỏ cuộc.
- Các cặp phường, xã can thiệp và chứng được chọn có nhiều đặc điểm tương
đồng về điều kiện địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội
2.6.2. Hạn chế sai số trong thu tập thông tin
- Quá trình điều tra được thực hiện đúng kế hoạch, phương pháp và quy trình.
- Việc thu thập thông tin như thói quen ăn uống, khẩu phần ăn (để ước lượng
số can-xi cung cấp qua thức ăn hàng ngày), luyện tập thể dục thể thao, thói quen
sinh hoạt trong nghiên cứu, tiền sử bệnh của bản thân và gia đình bằng hình thức
phỏng vấn trực tiếp người dân nghiên cứu sẽ khó tránh sai số nhớ lại. Để khắc phục
72
hạn chế này, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn cán bộ tham gia có kinh nghiệm, có thời
gian dành cho nghiên cứu, được tập huấn kỹ năng khai thác thông tin, thử nghiệm
cẩn thận và chỉnh sửa bộ câu hỏi cho dễ hiểu, về đánh giá thực hành dinh dưỡng đã
áp dụng phương pháp hỏi ghi khẩu phần 24 giờ qua trong 3 ngày để hạn chế tối đa
sai số.
- Hiệu quả can thiệp hoàn toàn phụ thuộc vào sự tuân thủ can thiệp của người
dân nghiên cứu. Do vậy, trong suốt quá trình nghiên cứu từ khâu lên kế hoạch đến
tổ chức thực hiện luôn được nhóm nghiên cứu giám sát chặt chẽ, cán bộ nghiên cứu
can thiệp được huấn luyện kỹ năng truyền thông, chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh
loãng xương để quá trình can thiệp đạt hiệu quả cao nhất.
- Máy đo mật độ xương được kiểm tra độ chính xác hàng ngày (test phantom)
- Bộ câu hỏi về kiến thức và thực hành được kiểm định độ tin cậy bằng Hệ số
Cronbach´s Alpha với mức chấp nhận > 0,7.
- Số liệu trước khi phân tíchđược làm sạch, quy đổi, xếp lớp các dữ liệu.
2.7.XỬ LÝ VÀ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU
Tất cả các bảng thu thập thông tin và kết qủa phỏng vấn, thăm khám từng người sau
khi hoàn tất sẽ được kiểm tra tính chính xác và tính phù hợp. Toàn bộ số liệu được
nhập vào phần mềm EpiData sau đó được chuyển sang phần mềm Stata-10 để xử lý.
Số liệu nhân trắc và BMD được kiểm định phân bố chuẩn hay không chuẩn. Các
thống kê mô tả, phân tích trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn sẽ được thực hiện.
Phân tích hồi quy logistic đơn biến và đa biến, hệ số tương quan r của Spearman (số
liệu không phân bố chuẩn) để xác định các yếu tố liên quan đã được thực hiện trong
nghiên cứu này. Test χ² hoặc fisher´s exact test, Mann-Whitney test được thực hiện
để so sánh sự khác biệt giữa các nhóm can thiệp và chứng. Hệ số Cronbach´s Alpha
được thực hiện trên phần mềm Stata-10với câu lệnh là alpha sau đó là đặt các biến
điểm kiến thức và thực hành vào để phân tích cho ra kết quả.
Phương pháp đánh giá hiệu quả can thiệp
- Áp dụng công thức
Chỉ số hiệu quả (CSHQ) P1- P2 CSHQ % = X 100
73
P1
Với: - P1 là tỷ lệ cần đánh giá ở thời điểm trước can thiệp.
- P2 là tỷ lệ cần đánh giá ở thời điểm sau can thiệp. Hiệu quả can thiệp: HQCT (%) = CSHQ can thiệp – CSHQ đối chứng[10]
- Nội dung đánh giá
So sánh trước can thiệp (phường, xã can thiệp - phường, xã chứng)
So sánh trước - sau can thiệp (phường, xã can thiệp)
So sánh trước - sau can thiệp (phường, xã chứng)
So sánh sau can thiệp (phường, xã can thiệp - phường, xã chứng).
So sánh trước - sau can thiệp trên nhóm người dân sử dụng Calci-D
- Các chỉ số so sánh bao gồm:Tỷ lệ nhận thông tin, nguồn thông tin về loãng xương;
Tỷ lệ về kiến thức và thực hành phòng chống loãng xương; Tình trạng BMD của
người dân; Tỷ lệ loãng xương, giảm mật độ xương.
2.8. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU
- Đạo đức trong nghiên cứu đã được Hội đồng đánh giá đề cương chi tiết của Viện
Vệ sinh Dịch tễ Trung ương thông qua trước khi triển khai nghiên cứu.
-Nghiên cứu này được thực hiện trên tinh thần tôn trọng người dân tham gia. Tất cả
những thông tin về người tham gia được xử lý và công bố dưới hình thức tổng hợp
số liệu, không có thông tin nào được trình bày dưới hình thức cá nhân.
- Việc đo mật độ xương bằng hấp thụ năng lượng tia X kép là phương pháp an toàn,
liều lượng bức xạ rất thấp được xemlà một xét nghiệm không xâm lấn.
- Tất cả người dân nghiên cứu đều được thông báo, giải thích rõ về nội dung và ý
nghĩa của việc nghiên cứu. Tất cả người dân tham gia với tinh thần tự nguyện và có
quyền từ chối tham gia nghiên cứu.
74
Chƣơng 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. TỶ LỆ LOÃNG XƢƠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
3.1.1. Đặc điểm chung của ngƣời dân nghiên cứu trƣớc can thiệp
Bảng 3.1. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân nghiên cứu theo giới tính và nhóm tuổi
Nam (n=423) Nữ (n=566) Tổng cộng (n=989) Nhóm tuổi Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %
45-49 98 44,1 124 55,9 222 22,4
50-54 63 38,2 102 61,8 165 16,7
55-59 67 44,1 85 55,9 152 15,4
60-64 47 37,3 79 62,7 126 12,7
65-69 39 40,2 58 59,8 97 9,8
70-74 40 44,0 51 56,0 91 9,2
75-79 33 50,0 33 50,0 66 6,7
≥ 80 36 51,4 34 48,6 70 7,1
42,8 566 57,2 Tổng cộng 423 989 100
Trung bình(SD) 60,5 (±11,6) 59,5 (±11,0) 59,9 (±11,2)
Nghiên cứu được tiến hành trên 989 người dân từ 45 tuổi trở lên, nữ 57,2%. Tuổi
trung bình của người dân là 59,9 (± 11,2), nhóm tuổi 45-49 có tỷ lệ cao nhất
(22,4%).
Bảng 3.2. Phân bố trung bình cân nặng, chiều cao, BMI theo giới
Nam Nữ Tổng cộng Biến số Trung bình SD (±) Trung bình SD (±) Trung bình SD (±)
Cân nặng 58,9 9,8 53,7 8,3 55,9 9,3
Chiều cao 161,3 6,2 150,5 6 155,1 8,1
BMI 22,6 3,3 23,7 3,3 23,2 3,4
Trung bình BMI của nữ (23,7 kg/m²) cao hơn nam (22,6 kg/m²).
75
Bảng 3.3. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân nghiên cứu theo đặc điểm nhân trắc
Biến số Chỉ số Tần số Tỷ lệ %
Quận Gò Vấp 197 19,9
Quận Bình Thạnh 199 20,1
Địa dư Quận 6 179 18,1
Quận 12 217 21,9
Huyện Hóc Môn 197 19,9
Cán bộ công chức, viên chức 253 25,6
Công nhân 324 32,8
Nghề nghiệp Nông dân 134 13,5
Doanh nhân tiểu thương 158 16
Nội trợ 120 12,1
≤Tiểu học 550 55,6
Trình độ THCS-THPT 319 32,2
học vấn Trung cấp 62 6,3
Cao đẳng –Đại học 58 5,9
Tổng cộng 989 100
Số người dân nghiên cứu ở quận 12 có tỷ lệ cao nhất(21,9%), nghềnghiệp là công
nhân chiếm tỷ lệ 32,8%, trình độ tiểu học hoặc thấp hơn có tỷ lệ cao(55,6%).
3,6%
Gãy cổ xương đùi
Xẹp đốt sống
Gãy xương cổ tay
29,1% 20%
Gãy xương khác
47,3%
Biểu đồ 3.1. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân có tiền sử gãy xƣơng do chấn thƣơng nhẹ
Tiền sử gãy xương cổ tay có tỷ lệ 47,3%, 3,6% gãy cổ xương đùi.
10,5%
76
Bảng 3.4. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân theo tiền sử bệnh và chiều cao
Biến số Chỉ số Tần số (n=989) Tỷ lệ %
Có 51 5,2 Gãy xương do chấn thương nhẹ Không 938 94,8
Có 119 12,0 Tiền sử gia đình có loãng xương Không 870 88,0
Có 277 28,0 Giảm chiều cao Không 712 72,0
Có 26 2,6 Sử dụng corticoid Không 963 97,4
Tổng cộng 989 100
5,2% người dân nghiên cứu có tiền sử bị gãy xương do chấn thương nhẹ, 12% có
tiền sử gia đình bị loãng xương, 28% có giảm chiều cao và có 2,6% người dân sử
dụng corticoid.
100
90
80
90,1%
70
60
63,8%
50
≥ 2 ly sữa
40
1 ly sữa
30
Không uống 24,2%
20
12% 8%
10
0
1,9%
Nữ giới Nam giới
Biểu đồ 3.2. Phân bố thói quen uống sữa của ngƣời dân theo giới tính
Nam giới có thói quen uống sữa tỷ lệ9,9%, nữ giới 36,2%.
77
Bảng 3.5. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân theo lối sống
Biến số Tần số (n=989) Tỷ lệ % Chỉ số
Có 445 45,0 Tập thể dục-Thể thao Không 544 55,0
≥ 2 ly/ngày 76 7,7
Uống sữa thường xuyên < 2 ly/ngày 171 17,3
Không uống 742 75,0
Có 184 18,6 Hút thuốc lá Không 805 81,4
Có 77 7,8 Lạm dụng rượu bia Không 912 92,2
Tổng cộng 989 100
Tập thể dục thể thao 45% và 75% không uống sữa thường xuyên. Tỷ lệ người
dân hút thuốc lá là 18,6%, lạm dụng rượu bia 7,8%.
Bảng 3.6. Phân bố tỷ lệ phụ nữ theo kinh nguyệt và số con
Biến số Chỉ số Tần số Tỷ lệ % Trung bình SD (±)
Tuổi có <16 296 52,3 15,4 1,9 kinh ≥16 270 47,7
Rất sớm (<40) 15 2,6 Tuổi mãn Sớm (40-45) 47 8,3 kinh 48,3 4,1 Sau 45 tuổi 504 89,1
Đã mãn kinh 443 78,3 Mãn kinh Chưa mãn kinh 123 21,7
<4 con 365 64,5 Số con 3,3 2,4 ≥4 con 201 35,5
Tổng cộng 566 100
Phụ nữ nghiên cứucó kinh muộn 47,7% và tuổi có kinh trung bình khá cao (15,4
±1,9). Tuổi mãn kinh trung bình là 48,3 ± 4,1. Có 10,9% phụ nữ mãn kinh sớm và
rất sớm, 21,7% phụ nữ chưa mãn kinh,sinh con nhiềucó tỷ lệ 35,5%.
78
Bảng 3.7. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân trả lời đúng kiến thức về bệnh loãng xƣơng
Nội dung của kiến thức % Cronbach´s Alpha Đúng n=989
Kiến thức về khái niệm bệnh loãng xương
Bệnh LX là xương bị giảm khối lượng, bị giòn 34,3 339
0,9 Bệnh LX dẫn tới tăng nguy cơ bị gãy xương 34,3 339
Bệnh LX có thể gâycòng lưng, đau, giảm chiều cao 326 33
Bệnh LX có liên quan đến gãy cổ xương đùi 297 30
Kiến thức về yếu tố nguy cơ
Bệnh LX thường xảy ra ở đàn bà nhiều hơn đàn ông 488 49,3
Tuổi già dễ dẫn tới bệnh loãng xương 280 28,3
Mãn kinh ở phụ nữ có nguy cơ dễ bị loãng xương 221 22,3
Hút thuốc lá có nguy cơ bị loãng xương 37 3,7
Lạm dụng rượu bia có nguy cơ gây ra loãng xương 50 5,1
0,92 Uống nhiều cà phê hoặc thức uống có gas dễ bị LX 10 1
Di truyền là yếu tố nguy cơ gây ra loãng xương 148 15
Lười vận động dễ dẫn đến nguy cơ bị loãng xương 262 26,5
Thiếu vitamin D có nguy cơ bị loãng xương 216 21,8
Bệnh RLHTĐR, suy gan, suy thận dễ bị LX 103 10,4
Dùng thuốc chống đau nhức (corticoid) rất dễ bị LX 160 16,2
Kiến thức về phòng bệnh
Ăn nhiều thức ăn giàu can-xi phòng loãng xương 495 50,1
Tập TDTT thường xuyên có thể phòng tránh LX 352 35,6
0,86 Phòng tránh té ngã ngừa biến chứng loãng xương 297 30
Người có nguy cơ LX nên khám, đo MĐX định kỳ 18 1,8
Những thức ăn có nhiều can-xi 385 38,9
Trung bình điểm kiến thức đúng 241,2 24,4
Khoảng 1/3 người dân biết về khái niệm bệnh loãng xương, hiểu biết về yếu tố nguy
cơ còn thấp. Tỷ lệ trung bình điểm kiến thức đúng 24,4%.Bộ câu hỏi kiến thức được
kiểm định độ tin cậy bằng hệ số Cronbach´s Alpha 0,86 – 0,92.
79
Bảng 3.8. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân nhận thông tin loãng xƣơng và nguồn nhận
Nội dung Tần số (n=989) Tỷ lệ %
Người dân nhận thông tin về bệnh loãng xương 430 43,5
Nhận thông tin từ báo chí 280 28,3
Nhận thông tin từ ti-vi 353 35,7
Nhận thông tin từ cán bộ y tế 30 3,0
Nhận thông tin từ sách 47 4,7
7,7 76
Nhận thông tin từ kênh khác 43,5% người dân đã từng nghe nói về bệnh loãng xương từ báo, ti-vi, cán bộ y tế,
sách, kênh khác với tỷ lệ lần lượt là 28,3%, 35,7%, 3,0%, 4,7%, 7,7%.
Bảng 3.9. Phân bố tỷ lệngƣời dânthực hiện hành vi có lợi và có hại cho xƣơng
Nội dung thực hành Mức độ (n=989) %
Cronbach´s α Hành vi có hại cho xươngÍt khi-chưa từng
Hút thuốc lá (lào) 81782,6
Lạm dụng rượu bia 91392,3
Sử dụng thuốc kháng viêm (corticoid) 963 97,4
Uống nhiều cà phê và hoặc nước có gas 89490,4
Hành vi có lợi Rất thường xuyên-Thườngxuyên
Tập thể dục (≥30 phút/ngày) 366 37 0,72
Tập thể thao (≥30 phút/ngày) 94 9,5
Uống sữa (≥200ml/ngày) 247 25
Uống viên can-xi (≥500mg/ngày)58 5,9
Ăn thức ăn giàu can-xi 155 15,7
Thực hành phòng tránh té ngã 198 20
Kiểm tra sức khỏe, đo MĐX định kỳ 248 25,1
Chủ động nhận thông tin về bệnh LX 298 30,1
Điểm trung bình 437,644,3
Tỷ lệ người dân không hút thuốc lá 82,6%, không lạm dụng rượu bia 92,3% và
không sử dụng corticoid là 97,4%, thể dục thể thao thường xuyên 46,5%, thường
80
xuyên ăn thức ăn giàu can-xi 15,7%. Điểm trung bình thực hành tích cực chiếm tỷ
lệ 44,3%. Bộ câu hỏi thực hành được kiểm định độ tin cậy bằng hệ số Cronbach´s
Alphamức chấp nhận là 0,72.
Bảng 3.10. Phân bố tỷ lệ kiến thức và thực hành của ngƣời dân theo giới tính
Biến Chỉ Tốt Trung bình Kém Tổng cộng
số số SL % SL % SL % SL %
Kiến Nam 18 4,2 68 16,1 337 79,7 423 42,8
thức Nữ 68 12,0 70 12,4 428 75,6 566 52,7
86 8,7 765 77,3 989 100 138 14,0
Tổng cộng Thực Nam 23 5,4 29 6,9 371 87,7 423 42,8
hành Nữ 61 10,8 77 13,6 428 75,6 566 52,7
84 80,8 10,7 106 799 100 989 8,5
Tổng cộng Kiến thức và thực hành tốt về phòng chống bệnh loãng xương của người dân nghiên
cứu còn thấp (8,7% và 8,5%). Nữ giới có kiến thức và thực hành tốt (12,0% và
10,8%) cao hơn nam giới (4,2% và 5,4%).
3.1.2.Tỷ lệ loãng xƣơng của ngƣời dân từ 45 tuổi trở lên
Loãng xương 32,4% Bình thường 22%
Loãng xương nặng 7,5%
Giảm MĐX 38,1%
Biểu đồ 3.3. Phân bố tỷ lệ loãng xƣơng của ngƣời dân nghiên cứu
Loãng xương chiếm tỷ lệ cao nhất 39,9%, 7,5% loãng xương nặng và có 38,1%
giảm mật độ xương
81
Bảng 3.11. Phân bố tỷ lệ loãng xƣơng của ngƣời dân theo giới tính
Bình thường Giảm MĐX Loãng xương Tổng cộng p
Giới tính Tần số % Tần số % Tần số % Tần số %
Nam 94 22,2 169 40,0 160 37,8 423 42,8
Nữ 124 21,9 207 36,6 235 41,5 566 57,2<0,05
38,1 395 Tổng cộng 218 22,0 376 39,9 989 100
Tỷ lệ loãng xương ở nữ 41,5% cao hơn nam (37,8%), mật độ xương bình thường ở
nam giới 22,2%, nữ giới 21,9%.
Bảng 3.12. Phân bố trung bình BMD của ngƣời dân theo giới tính
Bình thường Giảm MĐX Loãng xương Tổng cộng Biến số X SD± X SD± X SD± X SD±
0,583 0,06 0,508 0,04 0,402 0,07 0,484 0,09
0,486 0,04 0,398 0,03 0,287 0,05 0,371 0,09
Nam XBMDNữ Tổng cộng 0,528 0,07 0,448 0,06 0,334 0,08 0,42 0,11
Trung bình (X)BMD (g/cm²) của nam giới(0,484g/cm²) cao hơn nữ giới
(0,371g/cm²). Trung bình BMD bình thường đo bằng DXA ở cẳng tay ở nam giới là
0,583 g/cm² và ở nữ giới là 0,486 g/cm².
3.1.3. Một số yếu tố liên quan đến mật độ xƣơng của ngƣời dân
3.1.3.1.Liên quan mật độ xương theo tuổi và giới tính của người dân nghiên cứu
Bảng 3.13. Liên quan loãng xƣơng với giới tính của ngƣời dân
Loãng xương Không LX Biến số Chỉ số OR 95% CI Tần số % Tần số %
41,5 331 58,5 1 235 Nữ
Giới tính 37,8 263 62,2 0,5 (0,3 – 0,9) 160 Nam
395 Tổng cộng 39,9 594 60,1
Phân tíchđơn biến
Nam giới nguy cơ loãng xương chỉbằng 1/2 nữ giới.
82
Bảng 3.14. Liên quan loãng xƣơng với nhóm tuổi theo giới tính của ngƣời dân
Nhóm Loãng xương Không LX
OR 95% CI Giới tính tuổi Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %
Nam 10 88 10,2 89,8
45-49 Nữ 6 118 4,8 95,2
1 Chung 16 206 7,2 92,8
Nam 11 52 17,5 82,5
50-54 Nữ 14 88 13,7 86,3
2,3 (1,0-5,1) Chung 25 140 15,2 84,9
Nam 23 44 34,3 65,7
55-59 Nữ 24 61 28,2 71,8
6,0 (2,8-13,2) Chung 47 105 30,9 69,1
Nam 20 27 42,5 57,5
60-64 Nữ 47 32 59,5 40,5
14,3 (6,3-32,3) Chung 67 59 53,2 46,8
Nam 18 21 46,1 53,9
65-69 Nữ 42 16 72,4 27,6
22 (8,8-55,6) Chung 60 37 61,9 38,1
Nam 22 18 55,0 45,0
70-74 Nữ 42 9 82,3 17,7
31,2 (12,3-79,5) Chung 64 27 70,3 29,7
Nam 27 6 81,8 18,2
75-79 Nữ 29 4 87,9 12,1
74,8 (23,9-234) Chung 56 10 84,9 15,2
Nam 29 7 80,6 19,4
Nữ ≥ 80 31 3 91,2 8,8
78,2 (24,5-249) Chung 60 10 85,7 14,3
594 39,9 60,1 Tổng cộng 395
Trên phân tích hồi quy logistic đa biến, tỷ lệloãng xương tăng theo nhóm tuổi và
nguy cơ bệnh loãng xương nhóm tuổi 55-59 cao gấp 6 lần nhóm tuổi từ 45-49
83
(p<0,05). Ba nhóm tuổi đầu cho thấy tỷ lệ loãng xương ở nam cao hơn nữ giới, tuy
nhiên ở nhóm tuổi càng lớn thì nữ loãng xương càng cao hơn nam
Biểu đồ 3.4. Tƣơng quan BMD với Biểu đồ 3.5. Tƣơng quan BMD với
tuổi nam giới nghiên cứu tuổi nữ giới nghiên cứu
Tính r của Spearman test (số liệu chỉ số BMD không chuẩn)
BMD và tuổi có hệ số tương quan r= -0,53 ở nam giới và r= -0,68 ở nữ giới,là
tương quan nghịch biếnmức độ chặt chẽ (nữ hơn nam), tuổi càng cao thì BMD càng
giảm, tương quan này có ý nghĩa thống kê (p<0,01).
3.1.3.2. Liên quan BMD người dân nghiên cứu với cân nặng, chiều cao, BMI
Bảng 3.15. Liên quan loãng xƣơng với BMI của ngƣời dân
Chỉ số Loãng xương Không LX Biến số OR 95% CI Tần số % Tần số %
Bình thường 189 223 54,1 1 45,9
Gầy 46 68,7 21 31,3 2,6 (1,5 - 4,5)
BMI Thừa cân 76 34,1 147 65,9 0,6 (0,4 - 0,9)
Béo phì 84 29,3 203 70,7 0,5 (0,4 - 0,7)
Tổng cộng 395 39,9 594 60,1
Phân tích đơn biến
Người gầy có nguy cơ bị loãng xương gấp 2,6 lần người BMI bình thường, người
có BMI càng cao nguy cơ bị loãng xương càng giảm (p<0,001).
84
Biểu đồ 3.6. Tƣơng quan BMD với cân nặng, chiều cao, BMI của ngƣời dân
Hệ số tương quan giữa BMD với BMI r=0,18 (Spearman´s test) cho thấy là
tương quan đồng biến mức độ yếu. Hệ số tương quan cân nặng r=0,51, chiều cao
r=0,57, cân nặng và chiều cao có sự tương quan đồng biến và chặt chẽ với BMD, có
ý nghĩa thống kê p<0,05.
3.1.3.3. Liên quan mật độ xương với một số đặc điểm nhân trắc
Bảng 3.16. Liên quan loãng xƣơng với yếu tố địa dƣ
Yếu tố Loãng xương Không LX
OR 95% CI Tần số % Tần số %
Gò Vấp 70 35,5 127 64,5 1
Bình Thạnh 87 43,7 112 56,3 1,4 (0,9 – 2,4)
12 93 42,9 124 57,1 1,3 (0,9 – 2,0) Địa dư 6 67 37,4 112 62,6 1,2 (0,8 – 1,8)
Hóc Môn 78 39,6 119 1,1(0,7 – 1,7) 60,4
60,1 Tổng cộng 395 39,9 594
Phân tích đơn biến
Các quận huyện có tỷ lệ loãng xương khác nhau nhưng liên quan không có ý
nghĩa thống kê (p>0,05) và tỷ lệ loãng xương chung ở các quận nội thành là 39,9%
gần tương tương đương ở huyện ngoại thành Hóc Môn 39,6%.
85
Bảng 3.17. Liên quan loãng xƣơng với yếu tố nghề nghiệp và học vấn
Biến số Chỉ số Loãng xương Không LX
OR 95% CI Tần số % Tần số %
CB-CCVC 72 28,5 71,5 1 181
Công nhân 143 44,1 55,9 2,0 (1,4 - 2,8) 181
Kinh doanh 67 42,4 57,6 1,9 (1,2 - 2,8) 91 Nghề nghiệp Nông dân 68 50,8 49,2 2,6 (1,7 - 4,0) 66
Nội trợ 45 37,5 62,5 1,7 (1,0 - 2,7) 75
≤ Tiểu học 282 51,3 48,7 1 268
≤ THPT 93 29,2 70,8 0,4 (0,3 - 0,5) 226
Trung cấp 12 19,3 80,7 0,23 (0,1 - 0,4) 50 Trình độ học vấn CĐ - ĐH 8 13,8 86,2 0,15 (0,1 - 0,3) 50
Tổng cộng 395 39,9 594 60,1
Trên phân tích đơn biến, nông dân nguy cơ loãng xương gấp 2,6 lần CBCC-VC, học
vấn CĐ-ĐHnguy cơ loãng xương chỉcó 0,15 lần tiểu học.
3.1.3.4. Liên quan BMD của phụ nữ nghiên cứu với kinh nguyệt và số con
Bảng 3.18. Liên quan loãng xƣơng với kinh nguyệt và số con
Loãng xƣơng Không LX Biến số Chỉ số OR 95% CI Tần số % Tần số %
<16 99 33,5 66,5 1 197
Tuổi kinh ≥16 136 50,4 2 (1,4 – 2,9) 49,6 134
1 >45 199 39,5 60,5 305
Sớm 26 55,3 1,9 (1 - 3,5) 44,7 21 Tuổi mãn kinh Rất sớm 10 66,7 33,3 3,1 (1 – 9,2) 5
Chưa 2 1,6 98,4 1 121
Mãn kinh Rồi 233 52,6 47,4 2,0 (1,4 - 2,8) 210
<4 con 96 26,3 73,7 1 269
Số con ≥4 con 139 69,2 30,8 3 (1,4–6,4) 62
235 Tổng cộng 41,5 331 58,5
86
Trên phân tích đơn biến, phụ nữ đã mãn kinh, có kinh muộn nguy cơ loãng xương
gấp đôi phụ nữ chưa mãn kinh, có kinh sớm. Sinh nhiều con nguy cơ loãng
xươnggấp 3lần phụ nữ sinh <4 con.
Biểu đồ 3.7. Tƣơng quan BMD với kinh nguyệt và số con phụ nữ nghiên cứu
BMD với tuổi có kinhSpearman´s r =-0,19, là tương quan nghịch biến mức độ
yếu,với số con r= -0,35 là tương quan nghịch biến mức độ trung bình. BMD với
tuổi mãn kinh là tương quan đồng biến mức độ yếu (r=0,15). Tất cả có p<0,05.
3.1.3.5. Liên quan loãng xương với lối sống, tiền sử bệnh, chiều cao người dân
Bảng 3.19.Liên quan loãng xƣơng với sử dụng rƣợu bia, hút thuốc lá theo giới
Loãng xương Không LX
OR 95% CI Biến số Chỉ số Tần số % Tần số %
1 Lạm Không 115 33,2 231 66,8 Nam dụng Có 45 58,4 32 41,6
2,8 (1,7 – 4,7) 1 rượu Không 235 41,5 331 58,5 Nữ bia . Có 0 0,0 0 0,0
1 Không 84 34,7 158 65,3 Hút Nam Có 76 42 105 58 1,4 (0,9 – 2,0) thuốc 1 Không 233 41,4 330 58,6 lá Nữ 33,3 Có 2 66,7 1 2,8 (0,3 - 31,5)
60,1 Tổng cộng 395 39,9 594
Phân tích đơn biến.
87
Lạm dụng rượu bia ở nam giới nguy cơ bệnh gấp 2,8 lần, nam hút thuốc lá nguy cơ
bệnh gấp 1,4 lần người không hút.
Bảng 3.20. Liên quan loãng xƣơng với uống sữa, thể dục thể thao theo giới
Không LX Biến số Chỉ số OR 95% CI Loãng xương Tần số % Tần số %
1 Có 76,3 18 23,7 58 Nam Uống 63,7 Không 62 36,3 109
sữa 1,8 (1 - 3,4) 1 Có 69,3 63 30,7 142 Nữ 52,3 Không 172 47,7 189
2,0 (1,4 – 3,0) 1 Thể Có 76,2 49 23,8 157 Nam dục 48,8 Không 111 51,2 106 3,4 (2,2 – 5,2)
thể 77,8 Có 53 22,2 186 1 Nữ thao Không 4,4 (3,0 – 6,6) 182 55,7 145 44,3
Tổng cộng 395 39,9 594 60,1
Trên phân tích hồi quy logistic đơn biến, nữ giới không uống sữa nguy cơ bệnh gấp
đôi, không tập thể dục thể thao nguy cơ loãng xương gấp 4,4 lần.
Bảng 3.21. Liên quan loãng xƣơng với tiền sử cá nhân, gia đình vàchiều cao
Loãng xương Không LX Biến số Chỉ số OR 95% CI Tần số % Tần số %
Gãy Không 356 38,0 582 62,0 1
xương 5,3 (2,7 -10,4) Có 39 76,5 12 23,5
Tiền sử Không 311 35,7 559 64,3 1
gia đình 4,3 (2,8- 6,6) 84 70,6 35 Có 29,4
Sử dụng Không 374 38,8 589 61,2 1
corticoid 6,6 (2,4 -17,9) Có 80,8 5 21 19,2
Giảm Không 21,1 562 150 78,9 1
chiều cao 28,7 (17 - 48,3) Có 88,4 32 245 11,6
395 Tổng cộng 39,9 594 60,1
88
Phân tích đơn biến
Người sử dụng corticoid nguy cơ loãng xương gấp 6,6 lần so với người không sử
dụng, người có tiền sử gia đình bị loãng xương nguy cơ bệnh gấp 4,3 lần và người
có tiền sử gãy xương do chấn thương nhẹ nguy cơ loãng xương gấp 5,3 lần người
không có tiền sử gãy.Tất cả đều có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
70
61%
59,3%
60
Đốt sống thắt
50
lưng, Một đốt, Độ I
40,7%
40
Đốt sống ngực, Hai
30,5%
đốt, Độ II
28,8%
28,8%
30
23,7%
Cả hai, Trên 2
20
15,3%
đốt, Độ III
11,9%
10
0
Vị trí xẹp đốt sống
Số đốt sống xẹp
Phân độ xẹp đốt sống
3.1.3.6. Liên quan loãng xương với tình trạng xẹp đốt sống
Biểu đồ 3.8. Phân bố tỷ lệ vị trí, số lƣợng, độ xẹp đốt sống ở ngƣời loãng xƣơng
Vị trí xẹp đốt sống thắt lưng 59,3%, số đốt sống xẹp 1 đốt có tỷ lệ 61% và xẹp độ
3 là 28,8%.
Bảng 3.22. Liên quan xẹp đốt sống với BMD của ngƣời bệnh loãng xƣơng
Biến số Chỉ số Tần số % XBMD SD± Spearman´s r P
Có 59 15,2 0,296 0,08
0,19 <0,001 Không 329 84,8 0,337 0,08 Xẹp đốt sống Tổng cộng 388 100 0,331 0,08
Phân tích tương quan r của Spearman (số liệu BMD không chuẩn).
Trung bình BMD ở người loãng xương có xẹp đốt sống (0,296 g/cm²)thấp hơn so
với người loãng xương không xẹp (0,337 g/cm²) và sự tương quan đồng biến ở mức
độ yếu(p<0,001).
89
3.1.3.7. Liên quan mật độ xương với kiến thức, thực hành của người dân
Bảng 3.23.Liên quan tỷ lệ loãng xƣơng với kiến thức và thực hành
Loãng xương Không LX Tổng cộng Biến số Chỉ số OR 95% CI SL % SL %SL %
Kém 364 47,6 52,4 765 401 77,3 1
0,18 (0,1-0,3) TB 19 13,8 86,2 138 119 14,0 Kiến thức 0,18 (0,1-0,3) Tốt 12 13,9 86,1 86 74 8,7
799 Kém 372 46,6 427 53,4 80,8 1
0,15 (0,1-0,4) 106 86 TB 20 18,9 81,1 10,7 Thực hành 0,04(0,01-0,1) 81 3,6 96,4 84 8,5
3 Tốt Tổng cộng 395 39,9 594 60,1 989 100
Phân tích đơn biến.
Kiến thức tốt nguy cơ loãng xương chỉ bằng 0,18 lần kiến thức kém, thực hành tốt
nguy cơ chỉ bằng 0,04 lần thực hành kém, liên quan có ý nghĩa thống kê.
Biểu đồ 3.9. Tƣơng quan BMD với điểm kiến thức và thực hành
Kết quả phân tích tương quan (Spearman´s test) giữa BMD với điểm kiến thức và
thực hành của người dân cho thấy cho hệ số tương quan r đều bằng 0,22, như vậy
kiến thức và thực hành tương quan đồng biến với BMD ở mức độ yếu, có ý nghĩa
thống kê p<0,01.
90
Bảng 3.24. Liên quan loãng xƣơng trên mô hình hồi quy logistic đa biến
Biến số C Chỉ số OR SE 95% CI
45-49 1 Nhóm tuổi Nhóm khác 1,9 0,12 1,7 - 2,2
Nam 1 Giới tính 1,94 0,57 1,1 – 3,5 Nữ
CB-CCVC 1 Nghề nghiệp Nghề khác 0,8 0,06 0,7 – 0,9
Gầy 1 Chỉ số khối cơ thể Không gầy 0,8 0,07 0,7 - 0,96
Có 1 Gãy xương do chấn thương nhẹ Không 1,9 0,92 0,8 - 4,9
Có 1 Hút thuốc lá Không 0,9 0,29 0,5 - 1,7
Có 1 Lạm dụng rượu bia Không 4,4 1,68 2,1 - 9,3
Có 1 Thói quen uống sữa Không 1,5 0,3 1 - 2,2
Không 1
Tiền sử gia đình bị loãng xương Có 4,9 1,59 2,6 - 9,2
Không 1 Thể dục thể thao Có 0,6 0,12 0,4 - 0,9
Không 1 Sử dụng corticoid Có 1,4 0,19 1,1 - 1,8
Không 1 Giảm chiều cao Có 11,5 2,98 6,9 - 19
Kém 1 Kiến thức Không kém 0,42 0,12 0,2 - 0,7
Kém 1 Thực hành Không kém 0,25 0,1 0,1 - 0,5
91
Trên mô hình hồi quy logistic đa biến cho kết quả 12 biến liên quan có ý nghĩa
thống kê với tình trạng loãng xương, còn lại là các biến nhiễu không liên quan như:
yếu tố địa dư, trình độ học vấn, gãy xương do chấn thương nhẹ, hút thuốc lá.Mô
hình có ý nghĩa thống kê với χ²= 700, p=0. Theo kết quả phântích có R²= 0,526,
điều nàycho thấy mô hình giải thích tình trạng loãng xương 52,6%.
Bảng 3.25. Liên quan loãng xƣơng trên mô hình hồi quy logistic đa biếnnữ giới
Biến số C Chỉ số OR SE 95% CI
45-49 1 Nhóm tuổi Nhóm khác 1,8 0,2 1,5 - 2,2
CB-CCVC 1 Nghề nghiệp Nghề khác 0,8 0,1 0,7 – 0,9
Gầy 1 Chỉ số khối cơ thể Không gầy 0,7 0,08 0,6 - 0,9
Có 1 Thói quen uống sữa Không 1,8 0,4 1,1 - 2,8
Không 1
Tiền sử gia đình bị loãng xương Có 5,6 2,4 2,4 – 12,9
Rồi 1 Mãn kinh Chưa 0,2 0,1 0,3 - 0,7
<4 con 1 Số con ≥4 con 2,3 0,8 1,2–4,4
Không 1 Giảm chiều cao Có 10,0 3,1 5,5 – 18,5
Kém 1 Kiến thức Không kém 0,6 0,2 0,3- 1,0
Kém 1 Thực hành Không kém 0,5 0,2 0,2 - 0,9
Trên mô hình hồi quy logistic đa biến đối ở nữ giới nghiên cứu cho kết quả 10 biến
liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng loãng xương, còn lại là các biến không
liên quan như mô hình chung và các biến: tuổi kinh, sử dụng corticoid, tập thể dục
92
thể thao. Mô hình có ý nghĩa thống kê với χ² = 443,3, p=0, R²= 0,577, điều này cho
thấy mô hình giải thích tình trạng loãng xương 57,7%.
3.1.4. So sánh một số đặc điểm của ngƣời dân nghiên cứu ở các phƣờng, xã can
thiệp và các phƣờng, xã đối chứng
Kết quả phân tích cho thấy trong tất cả các yếu tố liên quan được khảo sát thì chỉ có
một vài biến số có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê như giữa phường can thiệp và
đối chứng quận Gò Vấp là yếu tố mãn kinh ở phụ nữ và sử dụng corticoid, phường
can thiệp và đối chứng quận Bình Thạnh có 2 yếu tố là giảm chiều cao và tiền sử
gia đình có bệnh loãng xương, phường can thiệp và đối chứng quận 12 thì yếu tố
nghề nghiệp, xã can thiệp và đối chứng huyện Hóc Môn có yếu tố số con ở phụ nữ
và tiền sử gia đình. Nhìn chung các phường, xã đối chứng có thể coi là tương thích
để so sánh với các phường, xã can thiệp.
Như vậy, theo kết quả mô hình hồi quy logistic đa biến chung và so sánh
riêng giữa các địa phương can thiệp và đối chứng thì ngoài những yếu tố liên quan
không thay đổi được, các yếu tố liên quan cần can thiệp là kiến thức và thực hành
phòng chống loãng xương, trong đó những hành vi có lợi cho xương như tập thể
dục thể thao, nâng cao thể chất, thường xuyên uống sữa, tránh lạm dụng rượu bia và
sử dụng corticoid kéo dài.
93
3.2. XÂY DỰNG VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢMỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN
THIỆP CỘNG ĐỒNG PHÒNG CHỐNG LOÃNG XƢƠNG
3.2.1. Kết quả xây dựng một số biện pháp can thiệp
- Đã xây dựng mạng lưới hoạt động can thiệp tại tuyến y tế cơ sở. Thành lập Ban
Chủ nhiệm Chương trình can thiệp phòng, chống loãng xương ở 4 quận, huyện và 4
phường, xã can thiệp. Tại các trạm y tế phường, xã thành lập Tổ hoạt động can thiệp
bao gồm trưởng trạm y tế, cán bộ y tế chuyên trách hoạt động can thiệp và 4 cộng
tác viên.
- Đã tổ chức hội nghị đồng thuận triển khai thực hiện chương trình can thiệp
cộng đồng phòng, chống loãng xương tại các địa phương can thiệp.
- Đã xây dựng bộ tài liệu tập huấn cho cán bộ chương trình, cho cộng tác
viên. Tổ chức tập huấn cho 48 thành viên tham gia chương trình can thiệp. Cung
cấp tài liệu hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh loãng xương cho các cán
bộ và cơ sở y tế tham gia can thiệp. Xây dựng và sản xuất tài liệu truyền thông gồm
8 pa-nô, 15.000 tờ rơi các loại, 1.000 cuốn cẩm nang, 50 áp phích, sưu tầm 7 đoạn
phim ngắn về loãng xương phục vụ cho tập huấn và truyền thông.
- Đã xây dựng mô hình truyền thông đa dạng với nhiều loại hình hoạt động:
(1) Thành lập đơn vị tư vấn chung cho tất cả người trưởng thành có nhu cầu tìm
hiểu và chăm sóc sức khỏe xương ở 4 địa phương can thiệp được đặt tại Trung tâm
y tế dự phòng quận Gò Vấp (nơi có vị trí địa lý thuận lợi và có máy đo mật độ
xương DXA); (2) Các trạm y tế đều có cán bộ tư vấn tại chỗ, cung cấp tờ rơi, tư vấn
qua điện thoại và thực hiện góc truyền thông giáo dục sức khỏe; (3) Mạng lưới cộng
tác viên với nhiệm vụ thăm hộ gia đình, phát tờ rơi, mời gọi người dân tham gia các
buổi truyền thông chuyên đề phòng chống loãng xương; (4) Mỗi phường, xã can
thiệp đều có đặt 2 pa-nô phòng, chống loãng xương: một ở trạm y tế và một ở khu
vực chợ hoặc tại ủy ban nhân dân phường, xã; (5) Trên bảng tin mỗi khu phố, ấp
đều có dán một áp phích phòng, chống loãng xương.
- Phối hợp với các hội, đoàn tại địa phương thực hiện 29 buổi truyền thông tại
các phường, xã can thiệp cho nhiều đối tượng: người cao tuổi, phụ nữ sau 40 tuổi,
94
phụ nữ mãn kinh, những người có bệnh xương khớp, người có nguy cơ té ngã,
thành viên câu lạc bộ dưỡng sinh.
- Xây dựng mạng lưới cộng tác viên đến thăm hộ gia đình để tư vấn cho các
thành viên trong gia đình về bệnh loãng xương và những biện pháp phòng tránh;
khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành của người dân về phòng bệnh loãng xương;
quan sát và hướng dẫn thực tế về chế độ ăn giàu chất can-xi, về 6 biện pháp phòng
tránh té ngã, về rèn luyện thể chất phù hợp với lứa tuổi và sức khỏe.
- Đã triển khai tổ chức 34 buổi truyền thông lồng ghép với hoạt động của các
chương trình y tế có liên quan hiện nay như: loãng xương với chương trình dinh
dưỡng, chương trình phòng, chống tăng huyết áp, chương trình phòng, chống bệnh
đái tháo đường, chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, chương trình
phòng, chống bệnh tim mạch, chương trình phòng, chống tác hại của thuốc lá.
-Kết hợp với các hội, ngành, các công ty sữa, dược phẩm tổ chức hai sự kiện
chuyên đề LX: “Xương chắc, dáng khỏe”, “Can-xi và sức khỏe xương” dành cho
người trưởng thành mà chủ yếu là phụ nữ từ 45 tuổi trở lên.Thành lập 4 câu lạc bộ
người bệnh loãng xương tại các phường, xã can thiệp, phối hợp với câu lạc bộ
dưỡng sinh để tăng cường hoạt động thể chất và định kỳ hướng dẫn chế độ ăn cũng
như phòng tránh té ngã. Các bệnh viện công và tư trên địa bàn quận, huyện nghiên
cứu đều có trang bị máy đo mật độ xương để thực hiện dịch vụ khám, chẩn đoán và
điều trị cho người dân.
Bảng 3.26. Số ngƣời dân ở phƣờng xã can thiệp đƣợc tƣ vấn trong 2 năm tại
đơn vị tƣ vấn chung
Phương pháp tư Trực tiếp Điện thoại
Địa phương vấn Lượt người Số người Số cuộc
Phường 5 quận Gò vấp 487 415 89
Phường 3 quận Bình Thạnh 238 192 57
Phường Hiệp thành Q.12 245 207 68
Xã Tân Xuân H. Hóc Môn 178 162 45
Tổng cộng 1148 976 259
95
Đơn vị tư vấn chung trung bình 2,3 lượt người/ngày, 2 ngày có một cuộc qua điện
thoại (tính theo 250 ngày làm việc/năm), địa phương đối chứng không có.
Bảng 3.27. Số ngƣời dân ở phƣờng, xã can thiệp đƣợc tƣ vấn trong 2 năm tại
các trạm y tế
Phương pháp tư Trực tiếp Điện thoại Tờ rơi
Địa phương vấn Lượt người Số người Số cuộc Số tờ
Phường 5 quận Gò vấp 2.128 1.857 856 2.348
Phường 3 quận Bình Thạnh 1.432 1.295 738 1.581
Phường Hiệp thành Q.12 1.672 1.428 847 1.870
Xã Tân Xuân H. Hóc Môn 1.720 1.512 736 1.899
Tổng cộng 6.952 6.092 3.177 7.698
Trung bình mỗi ngày có khoảng 14 lượt người đến tư vấn, hơn 6 cuộc tư vấn qua
điện thoại và hơn 15 tờ rơi được phát ra (tính theo 250 ngày làm việc/ năm).
Bảng 3.28. Số lƣợt ngƣời dân đƣợc truyền thông trực tiếp tại cộng đồng ở các
phƣờng xã can thiệp sau 2 năm
Hình thức truyền Chuyên đề LX Lồng ghép Tờ rơi thông
Số tờ Địa phương Số cuộc Lượt người Số người Số cuộc Lượt người Số người
Phường 5 quận Gò vấp 1.178 1.055 10 8 895 617 2.073
Phường 3 Q. Bình Thạnh 1.029 937 8 7 637 523 1.666
Phường Hiệp thành Q.12 1.015 829 8 7 687 518 1.702
Xã Tân Xuân H. Hóc Môn 1.024 929 8 7 592 512 1.616
Tổng cộng 29 4.246 3.750 34 2.811 2.170 7.057
Số người được truyền thông trực tiếp tại cộng đồng sau 2 năm can thiệp là 5920
người, trong đó truyền thông lồng ghép từ các chương trình y tế khác có tỷ lệ 39,8%
số người được truyền thông. Tổng số cuộc truyền thông lớn sau 2 năm là 63, như
vậy có 2,6 cuộc/tháng và truyền thông chuyên đề loãng xương chỉ có 46% các cuộc.
96
Bảng 3.29. Số hộ và ngƣời dân nghiên cứu đƣợc cộng tác viên thăm và tƣ vấn
sau 2 năm can thiệp
Nội dung Hộ gia đình Người dân ≥ 45 tuổi Tờ rơi
Địa phương Số hộ Số người Số tờ
Phường 5 quận Gò vấp 385 721 388
Phường 3 quận Bình Thạnh 357 692 363
Phường Hiệp thành Q.12 379 651 380
Xã Tân Xuân H. Hóc Môn 346 596 350
Tổng cộng 1.467 2.660 1.481
Trung bình 2 hộ gia đình và hơn 7 người được các cộng tác viên tư vấn mỗi ngày
(tính theo năm 365 ngày).
Bảng 3.30. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân nghiên cứu đƣợc truyền thông, tƣ vấn trực
tiếp về bệnh loãng xƣơng
Nội dung Số người dân ≥ 45 Dân số mục Tỷ lệ % đạt
Địa phương tuổi được tư vấn tiêu được
Phường 5 quận Gò vấp 4.665 5.844 79,8
Phường 3 quận Bình Thạnh 3.636 4.934 73,4
Phường Hiệp thành Q.12 4.156 5.475 75,9
Xã Tân Xuân H. Hóc Môn 3.711 4.220 87,9
Tỗng cộng 16.168 20.473 80,0
Độ bao phủ truyền thông đến người dân nghiên cứu 80%.
97
3.2.2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng
3.2.2.1. So sánh đặc điểm chung người dân nghiên cứu trước và sau can thiệp
Bảng 3.31.Phân bố ngƣời dân can thiệp và đối chứngtheo giới tính, tuổi, nghề
nghiệp, trình độ học vấn
Người dân can thiệp Người dân đối chứng
Biến Chỉ số
Trước CT (1) n=422 Sau CT (2) n=399 Trước CT (3) n=388 Sau CT (4) n=399 P *=0,05 χ² số SL % SL % SL % SL %
Nam 181 42,9 186 46,6 165 42,5 186 46,6
1&2>* 1&3>* 2&4>* 3&4>*
Giới tính Nữ 241 57,1 213 53,4 223 57,5 213 53,4
45-49 101 23,9 88 22,1 81 20,9 86 21,5
50-54 76 18 68 17 59 15,2 69 17,3
55-59 64 15,2 74 15,6 58 14,9 72 18,1
Nhóm tuổi 60-64 52 12,3 60 15 12,4 46 11,5 48
1&2>* 1&3>* 2&4>* 3&4>*
65-69 38 9 38 9,5 10,8 38 9,5 42
70-74 35 8,3 32 8 10,3 38 9,5 40
75-79 27 6,4 22 5,5 7,5 27 5,8 29
≥80 29 6,9 17 4,3 8 23 6,8 31
CB-CCVC 113 26,8 95 23,8 84 21,6 113 26,8
Công nhân 135 32 139 34,8 121 31,2 135 32
Nông dân 86 20,4 84 21,1 46 11,9 86 20,4 Nghề nghiệp
1&2<* 1&3>* 2&4>* 3&4>*
93 Kinh doanh 39 9,2 29 7,3 24 39 9,2
44 Nội trợ 49 11,6 52 13 11,3 49 11,6
≤Tiểu học
≤THPT 117 27,7 178 44,6 115 29,6 192 48,1 Trình độ học vấn
Trung cấp 4,4 8,1 17 11 44 34 28 7 235 59,9 130 32,6 244 62,9 151 37,9 1&2>* 1&3<* 2&4>* 3&4>*
CĐ-ĐH 18 4,3 47 11,8 12 3,1 28 7
Tổng cộng 422 100 399 100 388 100 399 100
98
So sánh trước sau của nhóm can thiệp và đối chứng về giới tính, tuổi, nghề nghiệp,
trình độ học vấnđa số đều khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.32. Phân bố phụ nữ can thiệp và đối chứngvề kinh nguyệt và số con
Người dân can thiệp Người dân đối chứng
Biến số Chỉ số P *=0,05 χ² Trước CT (1) n =422 Sau CT (2) n=399 Trước CT (3) n= 388 Sau CT (4) n= 399
SL % SL % SL % SL %
<16 111 46,1 103 48,4 111 49,8 106 49,8
1&2>* 1&3>* 2&4>* 3&4>*
Tuổi kinh ≥16 130 53,9 110 51,6 112 50,2 107 50,2
Rồi 188 78 166 77,9 177 79,4 168 77,9
1&2>* 1&3>* 2&3>* 3&4>*
Mãn kinh Chưa 53 22 47 22,1 46 20,6 45 21,1
<4 144 59,7 147 69 143 64,1 135 63,4 Số con
1&2>* 1&3>* 2&4>* 3&4>*
≥4 97 40,3 66 31 80 35,9 78 36,6
Tổng cộng 241 100 213 100 223 100 213 100
Tuổi kinh, mãn kinh và số con của phụ nữ nghiên cứu qua so sánh trước can thiệp
và sau can thiệp của các nhóm đều khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
99
3.2.2.2. Hiệu quả can thiệp cộng đồng trên người dân từ 45 tuổi trở lên
1) Hiệu quả can thiệp vềnguồn và thông tin nhận đƣợc sau can thiệp
Bảng 3.33.Hiệu quả can thiệp về nguồn và thông tin nhận đƣợccủa ngƣời dân
Người dân can thiệp Người dân đối chứng P HQ
(1)SL=422
(2)SL=399
(3)SL=388
(4)SL=399
CT Biến Trước CT Sau CT Trước CT Sau CT Chỉ số χ² % số
SL % SL % SL % SL %
7 1,7 50 12,5 9 2,3 17 4,3 - 548 TX Nhận
1&3* thông 152 36 318 79,7 138 35,6 217 59,4 54,5 KTX 3&4* tin
7,8 241 62,1 165 41,3 1&3* 54 Không 263 62,3 31
126 29,9 74 18,6 115 29,6 56 14 14,9 Có Báo 1&3* 6,1 Không 296 70,1 325 81,4 273 70,4 343 86
Có 127 30,1 280 70,2 122 31,4 192 48,1 80 Ti-vi ** Không 295 69,9 119 29,8 266 68,6 207 51,9 33,1
2017
NV Có 10 2,4 213 53,4 20 5,2 43 10,8 3&4* YT Không 412 97,6 186 46,6 368 94,8 356 89,2 46,4
25 5,9 12 3 19 4,9 0 0 50,8 Có Sách 1&3* 369 95,1 399 100 2,2 Không 397 94,1 387 97
28 6,6 214 53,6 30 7,7 61 713 Có Khác 15,3 1&3* 3&4* 42,1 Không 394 93,4 185 46,4 358 92,3 338 84,7
422 100 399 100 388 100 399 100 Tổng cộng
* p>0,05, các so sánh còn lại p<0,05; ** tất cả các so sánh p<0,05.
Nhóm can thiệp thông tin nhận được thường xuyên tăng từ 1,7% lên 12,5%, hiệu
quả can thiệp trên nhận thông tin thường xuyên là 548%.Hiệu quả can thiệptrên
nguồn thông tin nhận được từ báo, ti-vi, nhân viên y tế, sách lần lượt là 14,9%,
80%, 2017%, 50,8%.
100
2) Hiệu quả can thiệp về kiến thức đúng và các nội dung thực hành
Bảng 3.34. Hiệu quả can thiệp về kiến thức đúng của ngƣời dân
Người dân can thiệp Người dân đối chứng Điểm trung
bình kiến HQ CT % Trước CT (1) SL=422 Sau CT (2) SL=399 Trước CT (3) SL=388 Sau CT (4) SL=399 thức đúng P χ² X % X % X % X %
Khái niệm
143,5 34,0 277 69,4 137,3 35,4 141,5 35,5 104 * loãng xương
Yếu tố nguy 83,6 19,8 237,6 59,6 74 19,1 148,2 37,1 107 * cơ về LX
Phòng bệnh 121,2 28,7 278,6 69,8 144,4 37,2 196,2 49,2 111 ** loãng xương
*p = 1&3>0,5, các so sánh còn lại p<0,05; **p<0,05 tất cả các so sánh.
Kiến thức đúng về khái niệm bệnh loãng xương tăng 35,4%, kiến thức đúng về các
yếu tố nguy cơ tăng 39,8%, kiến thức đúng về các biện pháp phòng bệnh tăng
41,1%. Hiệu quả can thiệp trên kiến thức đúng phòng bệnh loãng xương lần lượt là
111%.
101
Bảng 3.35. Hiệu quả can thiệp vềcác nội dung thực hành của ngƣời dân
Người dân can thiệp Sau CT Trước Người dân đối chứng Sau CT Trước CT
(3)SL=388
(4)SL=399
(2)SL=399
422
HQ CT % Biến số CT(1)SL= P χ²
SL % SL % SL % SL %
* Hút thuốc lá (lào) 82 19,4 88 22,1 67 17,3 120 30,1 60,1
Lạm dụng rượu * 39 9,2 18 4,5 32 8,3 30 7,5 41,5
12 2,8 5 1,3 13 3,4 13 3,3 ** 50,7 Sử dụng corticoid
* 38 9 0 0 31 8 2 0,5 6,2 Uống nhiều cà phê, nước có gas
Tập thể dục * 160 37,9 231 57,9 135 34,8 144 36,1 49,1
Tập thể thao 30 7,1 45 11,3 46 11,9 20 5 ** 117
Uống sữa * 114 27 110 27,6 86 22,2 72 18,1 20,7
* Uống viên can-xi 30 7,1 41 10,3 23 5,9 15 3,8 80,7
67 15,9 256 64,2 69 17,8 160 40,1 * 179 Ăn thức ăn giàu can-xi
97 23 268 65,2 71 18,3 115 28,8 * 126 Phòng tránh té ngã
121 28,7 221 55,4 92 23,7 73 18,3 * 116 Kiểm tra sức khỏe định kỳ
151 35,8 191 47,9 128 33 42 10,5 * 102 Chủ động nhận thông tin về LX
*p = 1&3>0,5, các so sánh còn lại p<0,05; ** p<0,05 tất cả các so sánh
Hiệu quả can thiệp cao nhất trên hành vi ăn thức ăn giàu can-xi (179%), hiệu
quả can thiệp trên hành vi uống sữa 20,7% và tập thể dục là 49,1%.
102
Bảng 3.36. So sánh trung bình BMD, điểm kiến thức, thực hành của ngƣời dân
Người dân can thiệp Người dân đối chứng
P
Trước CT (1) SL=422 Sau CT (2) SL=399 Trước CT (3) SL=388 Sau CT (4) SL=399 Biến số
X SD± X SD± X SD± X SD±
BMD 0,422 0,11 0,443 0,11 0,416 0,11 0,424 0,11 1&3* 3&4*
ĐiểmKT 5,1 6,2 13,2 5,1 4,96 6,3 7,7 5,4 1&3*
33,9 34,1 42,2 5,2 7,0 6,8 5,9 36,8 1&3*
ĐiểmTH Spearman´s test. (*) p>0,05, các so sánh còn lại p<0,05.
Trung bình BMD (X) tăng 0,021g/cm², trung bình điểm kiến thức tăng 8,1,điểm
thực hành tăng 8,3 sau can thiệp trong nhóm can thiệp, có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.37. Hiệu quả can thiệp về mật độ xƣơng, kiến thức và thực hành
Chỉ số Người dân can thiệp Người dân đối chứng Biến số
HQ CT % Trước CT (1)SL=422 Sau CT (2)SL=399 Sau CT (4)SL=399 Trước CT (3)SL=388
-
P χ² SL % SL % SL % SL %
LX 175 41,5 136 34,1 152 39,2 148 37,1 12,4
↓MĐX 155 36,7 140 35,1 154 39,7 164 41,1 7,9 MĐX 1&3* 3&4*
-
BT 92 21,8 123 30,8 82 21,1 87 21,8 38 1&3* 3&4*
Tốt 42 9,9 118 29,6 42 10,8 19 4,8 255
TB 62 14,7 149 37,3 60 15,5 71 17,8 139 Kiến thức 1&3* 3&4*
-
Kém 318 75,4 132 33,1 286 73,7 309 77,4 1&3* 61
Tốt 42 9,9 79 19,8 36 9,3 26 6,5 130
TB 40 9,5 114 28,6 42 10,8 72 18,1 133 Thực hành 1&3* 1&2*
Kém 340 80,6 206 51,6 310 79,9 301 75,4 1&3* 30,4
103
3&4*
* p>0,05, các so sánh còn lại p<0,05.
Sau can thiệp ở nhóm can thiệp tỷ lệ loãng xương giảm 7,4%, mật độ xương
bình thường tăng 9%, hiệu quả can thiệp trên tỷ lệ loãng xương là 12,4%. Kiến thức
tốt tăng 19,7%, thực hành tốt tăng 9,9%, hiệu quả can thiệp trên kiến thức tốt 255%
và thực hành tốt 130%.
3.2.2.3. Hiệu quả can thiệp bằng viên Calci-D ở người có mật độ xương thấp
Kết quả cho thấy số người dân nghiên cứu tại 4 phường, xã can thiệp bị loãng
xương là 41,7% và giảm mật độ xương 36,5%, tỷ lệ chung 78,2% (n=422). Tất cả
có 330 người đều được tư vấn và mời tham gia sử dụng thuốc Calci-D 2 viên/ngày
uống liên tục trong 2 năm. Có 313 người đủ điều kiện và đồng ý tham gia, trong đó
cung cấp thuốc cho 215 người (68,7%) và cá nhân tự túc thuốc là 98 người (31,3%).
36,1%
0%
Xã Tân Xuân H.Hóc Môn
63,9%
Số người CT
không đạt
48,8%
3,6%
Phường Hiệp Thành Q.12
47,6%
Số người CT tự
túc đạt
52,9%
0%
Phường 3 Q. Bình Thạnh
Số người CT đạt
47,1%
tiêu chí
49,4%
6,8%
Phường 5 Q. Gò Vấp
43,8%
0
20
40
60
Có 166 người dân đạt tiêu chí can thiệp (53%)
Biểu đồ 3.10. Phân bố tỷ lệ ngƣời dân hoàn thành can thiệp Calci-D
Xã Tân Xuân huyện Hóc Môn có số ngườiđạt tiêu chí can thiệp cao nhất (63,9%) và
quận Gò Vấp có số người can thiệp tự túc thuốc cao nhất (6,8%).
104
Bảng 3.38.Chỉ số hiệu quảcan thiệp vềnhận thông tinở ngƣời có mật độ xƣơng
thấp
Chỉ số Trước can thiệp Sau can thiệp p Biến số CSHQ % SL % SL %
- Nhận Thường xuyên 2 1,2 35 21,8
thông Thỉnh thoảng 49 29,5 130 78,3 <0,01
tin Chưa từng 115 69,3 1 0,6 1717 165 99,1 <0,01
Tổng cộng 166 100 166 100
Fisher´s exact test
Tỷ lệ nhận thông tin thường xuyên về loãng xương tăng từ 1,2% lên 21,8%.
Bảng 3.39.Chỉ số hiệu quả can thiệp vềnguồn thông tin nhận đƣợc ở ngƣời có
mật độ xƣơng thấp
Chỉ số Trước can thiệp Sau can thiệp p Biến số CSHQ % SL % SL %
Báo 41 24,7 25 15,1 -38,9 Có <0,05 chí 125 75,3 141 -12,8 Không 84,9
37 22,3 101 60,8 173 Có Ti-vi <0,01 129 77,7 65 39,2 50 Không
2,4 157 94,6 3842 Có 4 NVYT <0,01 9 4,4 95,5 Không 162 97,6
7 4,2 -50 14 8,4 Có Sách >0,05 95,8 -4,6 Không 152 91,6 159
72 43,4 623 Có 10 6 Khác <0,01 94 56,6 39,8 Không 156 94
Tổng cộng 166 100 166 100
Fisher´s exact test
105
Nhận thông tin từ nhân viên y tế có chỉ số hiệu quả cao nhất(3842%). Kênh báo chí
và sách can thiệp không hiệu quả.
Bảng 3.40.Chỉ số hiệu quả can thiệp về kiến thức đúng ở ngƣời có MĐX thấp
Nội dung kiến thức đúng T Trước CTn=166 Sau CTn=166
p χ² Điểm X % Điểm X %
CS HQ % <0,05 202 Khái niệm về bệnh LX 45,5 27,4 137,5 82,8
Các yếu tố nguy cơ LX 27,7 16,7 115,1 69,3 <0,05 315
Các biện pháp phòng LX 42,2 25,4 143,8 86,6 <0,05 241
Kiến thức đúng về khái niệm bệnh loãng xương sau can thiệp tăng gấp ba lần, hiểu
biết về các yếu tố nguy cơ tăng từ 16,7% lên 69,3%, biết các biện pháp phòng bệnh
tăng từ 25,4% lên 86,6%. Hiệu quả can thiệp lần lượt là 202%, 315%, 241%.
Bảng 3.41. Chỉ số hiệu quả can thiệp về thực hành ở ngƣời có MĐX thấp
Thực hành Trước CT n=166 Sau CTn=166 p
CSHQ % Điểm X % Điểm X %
Hành vi có hại cho xương 18,3 11 6,8 4,1 <0,01 62,7
Hành vi có lợi cho xương 30 18,1 118,4 71,3 <0,01 294
Thực hành có lợicủa người dân tăng tỷ lệ, hành vi có hại giảm tỷ lệ sau can thiệp.
Chỉ số hiệu quả can thiệp trên hành vi có hại 62,7%, có lợi 294%.
Bảng 3.42. So sánh trung vị BMD, điểm kiến thức và thực hành ở ngƣời mật độ
xƣơng thấp trƣớc và sau can thiệp
Chỉ số Trước can thiệp(n=166) Sau can thiệp (n=166) Z p
Trung vị 25% 75% Trung vị 25% 75%
BMD 0,360 0,314 0,431 0,372 0,318 0,457 2,8 <0,01
Điểm KT 0 0 8 16,5 13 19 11 <0,01
Điểm TH 34 31 37 47 44 50 11,2 <0,01
Mann-Whitney test.
Trung vị BMD của người dân nghiên cứu gia tăng từ 0,36 g/cm² lên 0,372 g/cm²
sau can thiệp, có ý nghĩa thống kê p<0,01. So sánh trước và sau can thiệp, trung vị
106
điểm kiến thức của người dân nghiên cứu tăng từ 0 đến 16,5 điểm và điểm thực
hành tăng từ 34 đến 47 điểm, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,01.
Bảng 3.43.Chỉ số hiệu quả can thiệp vềtỷ lệ loãng xƣơng ở ngƣời có mật độ
xƣơng thấp
Biến số Trước can thiệp Sau can thiệp
CSHQ % p1 SL % SL %
<0,01 108 65,1 86 51,8 Loãng xương
20,4 <0,01 58 34,9 64 38,6 Giảm MĐX
- 0 0 16 9,6 Bình thường
100 Tổng cộng 166 100 166
Fisher´s exact test
Tỷ lệ loãng xương sau can thiệp giảm từ 65,1% xuống 51,8% và có 9,6% số
người giảm mật độ xương trở về bình thường, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
p<0,01. Chỉ số hiệu quả can thiệp trên tỷ lệ loãng xương là 20,4%.
Bảng 3.44.Chỉ số hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành ở ngƣời có mật
độ xƣơngthấp
Chỉ số Trước can thiệp Sau can thiệp p Biến số CSHQ %% χ² SL % SL %
Tốt 18 10,8 80 48,2 <0,05 346,3 Kiến Trung bình 18 10,8 48 28,9 <0,05 167,6 thức Kém 130 78,4 38 22,9 <0,05 70,8
Tốt 7 4,2 101 60,8 1347,6 <0,05 Thực Trung bình 8 4,8 24 14,5 <0,05 202 hành Kém 151 91 41 24,7
<0,05 72,9 Tổng cộng 166 100 166 100
Kiến thức tốttăng từ 10,8% lên 48,2%, kiến thức trung bình tăng từ 10,8% lên
28,9%, chỉ số hiệu quảlần lượt là 346,3 % và 167,6%. Thực hành tốt tăng từ 4,2%
107
lên 60,8%, thực hành trung bình tăng từ 4,8% lên 14,5%, chỉ số hiệu quả lần lượt là
1347,6% và 202%. Tất cả so sánh đều có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
Chƣơng 4
BÀN LUẬN
4.1. TỶ LỆ LOÃNG XƢƠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƢỜI
DÂN TỪ 45 TUỔI TRỞ LÊN TẠI TPHCM
4.1.1.Đặc điểm chung của ngƣời dân nghiên cứu trƣớc can thiệp
Nghiên cứu được tiến hành trên 989 người dân từ 45 tuổi trở lên, trong đó nữ
có tỷ lệ 57,2% và nam 42,8%. Tuổi trung bình của người dân nghiên cứu là 59,9 (±
11,2) và phân chia theo giới thì tuổi trung bình của nam là 60,5 (±11,6), nữ 59,5 (±
11).Theo thiết kế nghiên cứu tuổi được chia thành 8 nhómphân tích, kết quả cho
thấy với phương pháp chọn mẫu hệ thống người dân tham gia vào nghiên cứu có tỷ
lệ tương đương về độ tuổi và giới tính so với thực tế trong cộng đồng. Các nhóm
tuổi bao gồm: 45-49, 50-54, 55-59, 60-64, 65-69, 70-74, 75-79, ≥80 có tỷ lệ lần lượt
là: 22,4%, 16,7%, 15,4%, 12,7%, 9,8%, 9,2%, 6,7%, 7,1%.
Về độ tuổi của người dânđược chọn để nghiên cứu từ 45 trở lên bởi vì bắt
đầu từ tuổi này đã có sự mất dần đi khối lượng xương và là thời điểm rất cần thiết
phải can thiệp phòng chống loãng xương khi mà ở tuổi trẻ hơn nhiều người dân
chưa tạo được khung xương có mật độ xương đỉnh tốt nhất. Bên cạnh đó, trong
phân tích kết quả chúng ta có thể so sánh mật độ xương ở nhóm phụ nữ tiền mãn
kinh và hậu mãn kinh do tốc độ mất xương gia tăng rất nhanh 5 năm đầu sau mãn
kinh. Mộtnghiên cứu tác động chi phí và sức khỏe về gãy xương do loãng xương
cho biết, ước tính ở Mỹ đầu thế kỷ 21 có đến 5,2 triệu trường hợp bị gãy xương bao
gồm: xương hông, xương đốt sống hoặc cổ tay trong quần thể dân số từ 45 tuổi trở
lên [114]. Ở phụ nữ trên 45 tuổi, bệnh loãng xương chiếm nhiều thời gian điều trị
trong bệnh viện hơn những loại bệnh khác bao gồm cả bệnh tiểu đường, nhồi máu
cơ tim và ung thư vú [69]. Như vậy, những người tuổi từ 45 trở lên, đặc biệt ở nữ
giới là đối tượng có nguy cơ bệnh loãng xương và biến chứng gãy xương.Cho nên,
108
việc tổ chức thực hiện các biện pháp phòng bệnh từ nhóm tuổi này sẽ tốt hơn cho
sức khỏe xương so với nhóm tuổi lớn hơn.
Việc phân định mỗi nhóm tuổi là 5 năm trong nghiên cứu này nhằm mục
đích mô tả thực trạng bệnh và những yếu tố liên quan mà đặc điểm riêng của từng
nhóm hiện có, nhất là sự đáp ứng của người dân nghiên cứu trong từng nhóm tuổi
sau quá trình thực hiện những biện pháp can thiệp phòng chống loãng xương. Trong
thực tế, ở mỗi nhóm tuổi có những đặc điểm khác nhau về sinh học, tiền sử bệnh tật,
về công việc mưu sinh, về mức độ hoạt động cơ thể...Cụ thể, nhóm tuổi từ 45 đến
49 với đặc điểm là bắt đầu bước qua tuổi trung niên, có nhiều biến đổi sinh học ảnh
hưởng đến sức khỏe và nhất là ở phụ nữ đây là thời kỳ tiền mãn kinh; Nhóm tuổi từ
50 đến 54 thì ở phụ nữ hầu như đã mãn kinh và có nhiều ảnh hưởng do suy giảm
estrogen dẫn đến giảm nhanh mật độ xương; Nhóm tuổi từ 55 đến 64 là giai đoạn
đầu tiên của tuổi già, có đặc điểm chung của cuộc sống những người hưu trí, sau
thời kỳ lao động cống hiến cho xã hội và lũy tích rất nhiều yếu tố phơi nhiễm trong
cuộc sống; Nhóm tuổi từ 80 trở lên là nhóm tuổi rất già, phần lớn sức khỏe không
tốt, lũy tích nhiều bệnh tật, thường sống phụ thuộc, cần có sự trợ giúp về sinh hoạt
và đặc biệt biến chứng gãy xương do loãng xương chiếm tỷ lệ cao, ảnh hưởng chất
lượng cuộc sống.
Về thể trạng chung của người dân nghiên cứu kết quả cho thấy trung bình
BMI ở nam giới là bình thường (22,6 kg/m²) và ở nữ thì thừa cân nhẹ (23,7
kg/m²).Nghề nghiệp của người dân nghiên cứu được xếp vào 5 nhóm: cán bộ công
chức, công nhân, nông dân, kinh doanh và nội trợ có tỷ lệ lần lượt là 25,6%, 32,8%,
13,5%, 16% và 12,1%, như vậy tại địa phương nghiên cứu nghề nông có tỷ lệ khá
cao. Về trình độ học vấn của người dân nghiên cứu cho thấy kết quả tỷ lệ học vấn
thấp, trình độ tiểu học hơn phân nửa (55,6%), trung học cơ sở đến trung học phổ
thông có tỷ lệ 32,2%, trung cấp 6,3% và cao đẳng đại học là 5,9%.
4.1.2. Tỷ lệ loãng xƣơng của ngƣời dân trƣớc can thiệp
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ loãng xương chung là 39,9%, trong đó loãng
xương nặng là 7,4% (có 18,3% người loãng xương đã bị gãy xương trước đây),
38,1% giảm mật độ xương và chỉ có 22% người dân nghiên cứu có mật độ xương
109
bình thường. Đây là tỷ lệ bệnh khá cao so với nhiều nghiên cứu khác.Một nghiên
cứu tại Thái Bình trên phụ nữ tuổi từ 40 đến 65 đo mật độ xương bằng siêu âm
xương quay cho kết quả thấp hơn, tỷ lệ loãng xương là 20,8% và giảm mật độ
xương là 29,9% [24]. Tuy nhiên, tuổi của phụ nữ nghiên cứu cao nhất chỉ ở 65 trong
khi tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 59,5. So sánh tỷ lệ loãng
xương của người Trung Quốc trên 50 tuổi thì ở nữ giới 40,1% gần bằng với kết quả
của chúng tôi (41,5%), nhưng so với nam giới thì ở người Trung Quốc thấp hơn
nhiều (22,5% so với 37,8%) [70]. Tại TPHCM, Hồ Phạm Thục Lan và cộng sự
nghiên cứumật độ xương ở cổ xương đùi đo bằng phương pháp DXA trên người
trưởng thành vào năm 2010, tỷ lệ loãng xương ở nữ là 43,7% và như vậy tỷ lệ này
cao hơn mặc dù tuổi người dân nghiên cứu thấp hơncủa chúng tôi [16].Một nghiên
cứu tại Cà Mau ở người từ 50 tuổi trở lên có tỷ lệ loãng xương là 21,53% [44] và tỷ
lệ này chỉ bằng phân nửa nghiên cứu của chúng tôi và tác giả Hồ Phạm Thục Lan.
Trung bình BMD của người dân nghiên cứu là 0,42 g/cm² (± 0,11), nam giới
0,484 g/cm² (± 0,09) và nữ giới 0,371 g/cm² (± 0,09). Kết quả trung bình BMD của
người loãng xương là 0,334 g/cm² (± 0,08), ở nam giới 0,402 g/cm² (± 0,07), nữ
giới 0,287 g/cm² (± 0,05). Theo kết quả khảo sát tại Trung tâm Chấn thương chỉnh
hình TPHCM năm 1998, qua đo mật độ xương ở cổ tay bằng máy DTX-200 thì
trung bình BMDở 255 phụ nữ từ 51-70 tuổi là 0,344 g/cm² [43]. Như vậy, BMDnày
thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi, có thể do người dân đến khám là những người
đã có bệnh về xương khớp. Tuy nhiên, một nghiên cứu đo BMD ở phụ nữ Mỹ (50-
70 tuổi) bằng DXA ngoại biên tương tự nghiên cứu của chúng tôi có BMD trung
bình là 0,489 ±0,113g/cm², cao hơn kết quả của chúng tôi [80]. Điều này phù hợp
với nhiều nghiên cứu cho rằng ở phụ nữ Mỹ da trắng, Mỹ gốc Phi có mật độ xương
cao hơn phụ nữ Châu Á.
4.1.3. Một số yếu tố liên quan đến mật độ xƣơng của ngƣời dân nghiên cứu
Những yếu tố liên quan trong nghiên cứu được đưa vào mô hình hồi quy logistic đa
biến cho kết quả có 4 yếu tố liên quan không có ý nghĩa thống kê đó là yếu tố địa
dư, trình độ học vấn, gãy xương do chấn thương nhẹ và hút thuốc lá. Kết quả này
cho thấy, mặc dù địa dư và trình độ học vấn nơi nghiên cứu có vùng nội đô, ven đô
110
và nông thôn, nhưng tỷ lệ loãng xương các vùng không khác biệt có ý nghĩa thống
kê. Điều này có lẽ do người dân nghiên cứu từ tuổi trung niên trở lên, những người
này đã sống qua thời gian chiến tranh và điều kiện địa dư cũng như học vấn gần như
tương đồng với nhau. Việc yếu tố hút thuốc lá và gãy xương do chấn thương nhẹ
không liên quan đến loãng xương có thể do cỡ mẫu còn thấp, hút thuốc lá chủ yếu
chỉ ở nam giới. Đây là điểm hạn chế của đề tài. Tuy nhiên, trên phân tích đơn biến
thì trình độ học vấn và gãy xương do chấn thương nhẹ liên quan có ý nghĩa thống
kê p <0,05.
4.1.3.1. Liên quan tình trạng mật độ xương với giới tính
Theo kết quả nghiên cứu thì tỷ lệ mật độ xương bình thường ở nam và nữ gần
tương đương nhau, tuy nhiên tỷ lệ loãng xương thì ở nữ cao hơn nam giới (41,5%
so với 37,8%) và nam giới nguy cơ bị loãng xương chỉ bằng phân nửa nữ giới (95%
CI: 0,3-0,9), liên quan này có ý nghĩa thống kê p<0,05. Khi phân tích tình trạng
loãng xương theo giới và nhóm tuổi cho thấy ở 3 nhóm tuổi đầu tỷ lệ loãng xương ở
nam giới lại cao hơn nữ giới (45-49 tuổi: nam 10,2%, nữ 4,8%; 50-54 tuổi: nam
17,5%, nữ 13,7%; 55-59 tuổi: nam 34,3%, nữ 28,2%). Tuy nhiên, ở những nhóm
tuổi càng lớn thì tỷ lệ nữ bị loãng xương càng cao hơn nam (60-64 tuổi: nam 42,5%,
nữ 59,5%; 65-69 tuổi: nam 46,1%, nữ 72,4%). Tuổi mãn kinh trung bình của phụ nữ
nghiên cứu là 48,3 và nhóm tiền mãn kinh (45-49 tuổi) tỷ lệ loãng xương chỉ có
4,8% nhưng 5 năm sau mãn kinh (50-54 tuổi) tỷ lệ loãng xương đã tăng đến 13,7%.
Điều này cho thấy phụ nữsau mãn kinh tốc độ mất xương gia tăng rất nhanh và dễ
bị mất khối xương hơn nam giới vì cơ thể họ sản xuất ít estrogen. Sự khác biệt giữa
nam và nữ có thể do ảnh hưởng của các hormone sinh dục trên bộ xương, một
phần là do độ chắc của xương khác nhau vốn là một trong những yếu tố bệnh sinh
chủ yếu của gãy xương do loãng xương [63]. Một nghiên cứu hồi cứu trên các cơ
sở y tế quốc gia từ dữ liệu Bảo hiểm y tế của Đài Loan đã đánh giá tỷ lệ gãy xương
hông từ năm 1996đến năm 2000, tỷ lệ gãy xương hông tăng lên cùng với tuổi tác và
phụ nữ cao gấp 1,6 lần hơn nam giới trong tất cả các độ tuổi [125]. Tương tự kết
quả nghiên cứu của chúng tôi, tại Hoa Kỳ tỷ lệ loãng xương ở nữ giới cao gấp hai
tới ba lần nam giới bởi vì sự mất xương tăng nhanh sau mãn kinh do bởi sự giảm
111
lượng estrogen trong cơ thể [54]. Với những số liệu thống kê trên đã cho thấy nữ
giới chịu ảnh hưởng loãng xương và biến chứng luôn cao hơn nam giới.
4.1.3.2. Liên quan tình trạng mật độ xương với tuổi
Trên biểu đồ 3.4, 3.5 cho thấy BMD có tương quan tuyến tính với tuổi, phân
tích Spearman có hệ số tương quan rho= -0,53 ở nam giới và rho = -0,68 ở nữ
giới,là tương quan nghịch biến mức độ chặt chẽ (nữ hơn nam), tuổi càng cao thì
BMD càng giảm. Theo kết quả phân tích thì tỷ lệ loãng xương tăng dần theo nhóm
tuổi: 45-49; 50-54; 55-59; 60-64; 65-69; 70-74; 75-79; ≥ 80 lần lượt là 7,2%;
15,2%; 30,9%; 53,2%, 61,9%, 70,3%, 84,8% và 85,7%. Tuổi càng cao thì khả năng
mắc bệnh càng cao, sự liên quan có ý nghĩa thống kê p<0,05. Giai đoạn tăng tỷ lệ
loãng xương cao nhất là từ 55-64 tuổi và tăng chậm khi từ 75 tuổi trở lên. Nhóm
tuổi từ 55-59 có nguy cơ mắc loãng xương gấp 6 lần nhóm tuổi 45-49, (95% CI:
2,8-13,2; p<0,05). Nghiên cứu của Phạm Văn Tú và cộng sự cho kết quả mật độ
xương gót và xương cẳng tay có mối liên quan tuyến tính với tuổi, tuổi càng cao thì
mật độ xương càng giảm [39]. Nguyễn văn Tuấn cho rằng tỷ lệ mắc gãy xương
hông tăng lũy tiến theo độ tăng của tuổi, bất kể giới tính, vùng địa dư, nhóm chủng
tộc. Các nghiên cứu dịch tễ học đã tái xác định yếu tố nguy cơ này. Cứ tăng lên mỗi
5 năm tuổi thì nguy cơ gãy xương hông ở người phụ nữ có tuổi tăng từ 1-4 đến 1-8
lần [40].
4.1.3.3. Liên quan tình trạng mật độ xương với nghề nghiệp và học vấn
Tỷ lệ loãng xương ở năm nhóm nghề từ thấp đến cao là cán bộ, công chức, viên
chức 28,5%, nội trợ 37,5%, kinh doanh 42,4%, công nhân 44,1% và nông dân
50,8%. Phân tích liên quan cho thấy công nhân nguy cơ bị loãng xương gấp 2 lần so
với cán bộ, công chức, viên chức (95% CI: 1,4-2,8; p<0,05) và nông dân nguy cơ
gấp 2,6 lần (95% CI: 1,7-4; p<0,05). Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Vũ Thị Thu Hiềnlà phụ nữ mãn kinh ở nông thôn có mật độ xương thấp hơn ở thành
thị [8]. Một nghiên cứu tại Cần Thơ vào năm 2011 về khảo sát tình hình loãng
xương ở người cao tuổi cho thấy nghề nghiệp là cán bộ, công chức, viên chức có tỷ
lệ loãng xương thấp nhất nhưng nhóm thấp thứ hai lại là nông dân và cao nhất thuộc
nhóm nghề kinh doanh [6]. Lý giải vì sao cán bộ, công chức, viên chức thường làm
112
việc văn phòng, tĩnh tại nhưng các cuộc khảo sát thường có tỷ lệ bệnh thấp là do cán
bộ, công chức, viên chức tham gia tập thể dục thể thao nhiều hơn (trong nghiên cứu
này có 63,6%cán bộ, công chức, viên chứctập thể dục thể thao, trong khi nông dân
chỉ có 26,1%), có kiến thức phòng bệnh tốt và dinh dưỡng hợp lý hơn.
Liên quan đến yếu tố học vấn,trên thống kê mô tả cho thấy nhóm có học vấn
tiểu học có tỷ lệ loãng xương 51,3%, trung học cơ sở và phổ thông là 29,2%, trung
cấp 19,3% và cao đẳng đại học 13,8%.Mặc dù trên phân tích hồi quy đa biến thì đây
là yếu tố nhiễu (p=0,26), nhưng kết quả phân tích đơn biến cho thấy người có học vấn
cao đẳng đại học nguy cơ bị loãng xương chỉ bằng 0,15 lần người có học vấn tiểu học
(95% CI:0,07-0,33) và liên quan này có ý nghĩa thống kê p<0,05.Trình độ học vấn
nói lên sự hiểu biết của người dân về mọi lĩnh vực trong đó có vấn đề phòng ngừa
bệnh tật và dinh dưỡng hợp lý, trình độ học vấn càng cao càng có kiến thức về bệnh
loãng xương, do đó phòng bệnh tốt hơn. Theo Nguyễn Văn Tuấn, trong công tác
phòng ngừa bệnh tật nói chung và loãng xương nói riêng, giáo dục về nhận thức của
quần chúng về ý nghĩa, tầm vóc và hệ quả của bệnh tật là một khâu quan trọng, chính
yếu cho sự thành công của chương trình can thiệp cộng đồng [40].
4.1.3.4. Liên quan tình trạng mật độ xương với BMI, chiều cao, cân nặng
Kết quả nghiên cứu cho thấy tương quan giữa BMD với BMI, cân nặng và chiều
cao là đồng biến, nhưng với BMI (rho= 0,18) tương quan mức độ yếu trong khi cân
nặng và chiều cao (rho= 0,51 và 0,57) là tương quan chặt chẽ, có ý nghĩa thống kê
p<0,05. Liên quan đến tình trạng loãng xương qua phân tích đơn biến cho thấy tỷ lệ
loãng xương lần lượt ở nhóm gầy 68,7%, bình thường 45,9%, thừa cân 34,1% và
béo phì là 29,3%, người gầy có nguy cơ bị loãng xương gấp 2,6 lần người bình
thường (95% CI: 1,5-4,5; p<0,05), nhưng đối với người béo phì nguy cơ chỉ phân
nửa (95% CI: 0,4-0,7; p<0,05). Kết quả phân tích người dân nghiên cứu bị giảm
chiều cao (≥ 5cm) cho thấy người có giảm chiều cao tỷ lệ loãng xương 88,4%,
người không có thì tỷ lệ 21,1%, nguy cơ loãng xương của người giảm chiều cao gấp
28,7 lần người không giảm (95% CI: 17-48,3; p<0,05).Thiếu cân là một yếu tố nguy
cơ cao cho bệnh loãng xương bởi vì trọng lượng cơ thể thấp có liên quan với mật độ
xương đỉnh thấp hơn trong giai đoạn phát triểnxương của tuổi trẻ và tăng nguy cơ
113
gãy xương ở người già. Một nghiên cứu đánh giá nguy cơ loãng xương ở phụ nữ
miền Bắc Việt Nam từ 50 tuổi trở lên cho kết quả phụ nữ nhẹ hơn 45 kg là có nguy
cơ loãng xương [100].
Vũ Thị Thanh Thủy nghiên cứu bệnh chứng ở phụ nữ mãn kinh đã xác định được 6
yếu tố liên quan đến nguy cơ xẹp lún đốt sống do loãng xương sau mãn kinh, trong
đó có chiều cao ≤ 145cm, cân nặng ≤ 41kg [34],[35]. Theo Nguyễn Văn Tuấn và
Nguyễn Đình Nguyên, mối quan hệ giữa các chỉ số nhân trắc đối với nguy cơ gãy
xương thì xác định nhóm người có chiều cao cao hơn, cân nặng thấp hơn và trọng
lượng mỡ của cơ thể thấp hơn là những yếu tố nguy cơ gãy xương hông ở người
phụ nữ. Giải thích vấn đề này có thể do người có chiều cao cao hơn thì cổ xương
đùi cũng dài hơn, khả năng chịu lực kém hơn và dễ bị gãy khi có tác động đối lực.
Với những người có trọng lượng mỡ và chỉ số BMI cao, có mật độ phân bố mỡ ở
vùng hông, cụ thể là quanh đầu trên xương đùi nhiều, chúng có vai trò là chiếc gối
đệm bảo vệ đầu trên xương đùi giảm hoặc triệt tiêu lực va chạm, nên giảm nguy cơ
gãy xương. Và ngược lại, những người có trọng lượng cơ thể thấp thì mật độ mỡ
quanh đầu trên xương đùi thấp nên tăng nguy cơ gãy xương [41].
4.1.3.5. Liên quan tình trạng mật độ xương với kinh nguyệt và số con
Kết quả phân tích cho thấy BMD với tuổi có kinh và số con của phụ nữ
nghiên cứu có tương quan nghịch biến ở mức độ yếu và trung bình (rho của
Spearman test là -0,19 và -0,35). Đối với tuổi mãn kinh thì BMD có tương quan
đồng biến ở mức yếu (r của Spearman test = 0,15), có ý nghĩa thống kê p<0,01. So
sánh giữa nhóm người tuổi có kinh muộn (≥16 tuổi) loãng xương 50,4% và nhóm
người không có kinh muộn (<16 tuổi) loãng xương 33,5%, nguy cơ loãng xương
khi có kinh muộn là gấp đôi (95% CI: 1,4-2,9; p<0,05). Tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ
mãn kinh là 52,6%, mãn kinh sớm có nguy cơ loãng xương gấp 1,9 lần so với người
mãn kinh sau 45 tuổi (95% CI: 1,04-3,48; p<0,05), phụ nữ đã mãn kinh nguy cơ
loãng xương gấp đôi phụ nữ chưa mãn kinh và phụ nữ sinh nhiều con nguy cơ loãng
xương gấp 3 lần người sinh <4 con, có ý nghĩa thống kê p<0,01.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của một số tác giả.
Theo Vũ Thị Thanh Thủy, Trần Ngọc Ân thì những yếu tố nguy cơ loãng xương sau
114
mãn kinh của người Việt Nam là mãn kinh ≤ 43 tuổi, thời gian mãn kinh ≥ 21 năm,
phụ nữ sinh từ 4 con trở lên có liên quan đến xẹp đốt sống[34],[35]. Nghiên cứu
bệnh-chứng về các yếu tố nguy cơ của loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh, tác giả
Mai Thị Công Danh cho rằng dậy thì trước tuổi16 sẽ giảm nguy cơ loãng xương [4].
Một nghiên cứu khác với đối tượng là phụ nữ trên 45 tuổi tại một quận nội thành
TPHCM năm 2008, kết quả cho thấy tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinhlà
37,2%, tuổi càng tăng, tuổi có kinh càng muộn thì tỷ lệ bệnh loãng xương càng cao
(tuổi từ 46-55 tỷ lệ loãng xương 31,6%, trên 75 tuổi là 62,6%)[9]. Năm 2003 tại Hà
Nội, Nguyễn Thị Lực đã tiến hành khảo sát mật độ xương trên 840 phụ nữ đến
khám tại Bệnh viện E. Phân tích kết quả cho thấy mật độ xương giảm dần và giảm
mạnh sau tuổi mãn kinh.Tỷ lệ loãng xương tăng dần ở tuổi sinh đẻ là 5%, tiền mãn
kinh 32% và mãn kinh 63% [20].Nghiên cứu tại thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang)
cũng cho kết quả là thời gian mãn kinh ở phụ nữ và tình trạng loãng xương có mối
liên quan có ý nghĩa thống kê (p<0,01) [7]. Tình trạng sinh đẻ nhiều lần, nuôi con
bằng sữa mẹ mà không ăn uống đủ chất đặc biệt là protid và can-xi để bù đắplà
nguy cơ dẫn đến loãng xương.
4.1.3.6. Liên quan tình trạng mật độ xương với lối sống
Uống sữa: ở nhóm có thói quen uống sữa (≥2 ly/ngày) tỷ lệ loãng xương 23,7%,
nhóm không có thói quen uống sữa loãng xương 42,5% và có nguy cơ bị loãng
xương gấp 2,4 lần người uống sữa, có ý nghĩa thống kê với (95% CI: 1,4-4,1; p
<0,05). Theo kết quả phân tích thì người dân nghiên cứu là nam giới có tỷ lệ uống
sữa thấp hơn nữ giới hơn 3,5 lần, điều này cho thấy nữ giới thực hành dinh dưỡng
phòng bệnh tốt hơn nam và cũng giải thích một phần vì sao ở 3 nhóm tuổi đầu tiên
của nghiên cứu này tỷ lệ loãng xương ở nữ lại thấp hơn nam. Kết quả khảo sát mật
độ xương ở phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh miền Tây cho thấy người
ăn uống thức ăn giàu can-xi có tỷ lệ loãng xương thấp (9,8%), người có chế độ ăn
thiếu can-xi bệnh loãng xương có tỷ lệ 34,4% [1]. Uống sữa có liên quan đến mật
độ xương, những người không có thói quen uống sữa mật độ xương thấp. Sữa là
nguồn thực phẩm có chứa can-xi cao, nguồn Vitamin D và hấp thu can-xi tốt
nhất.Một nghiên cứu nhằm xác định sự liên quan giữa nồng độ can-xi máu và mật
115
độ xương cho kết quả người có can-xi máu thấp thì có mật độ xương thấp và tỷ lệ
loãng xương cao hơn người có can-xi máu bình thường và liên quan có ý nghĩa
thống kê [38]. Theo tác giả Nguyễn Thị Kim Hưng, Việt Nam là một trong các quốc
gia sử dụng sữa thấp nhất thế giới, trung bình chỉ có 4g/người/ngày (Campuchia
5,8g, Lào 17,3g, Thái Lan là 37,2g, Malaysia 107,6g, Nhật Bản128,4g, Úc 574g và
Mỹ là 600g) [11].
Thể dục thể thao: Tỷ lệ loãng xương ở người có tập thể dục thể thao là 22,9%,
người không tập 53,9%, nguy cơ loãng xương ở người tập thể dục thể thao chỉ bằng
0,3 lần so với những người không tập (95% CI: 0,2-0,3; p<0,05). Nghiên cứu của
Nguyễn Thị Hoài Châu cũng cho kết quả người lao động thể lưc ít tỷ lệ loãng
xương 67,4%, người lao động nhiều loãng xương chỉ có 26% [1]. Vận động thể lực
là biện pháp làm gia tăng sức mạnh của cơ bắp và của hệ xương khớp. Điều này dễ
nhận thấy hơn khi quan sát trường hợp bất động thì cơ bắp bị teo và hệ xương bị
suy kiệt.Những người có một lối sống ít vận động hơn có nhiều khả năng bị
gãyxương hông hơn những người thường xuyên vận động. Chẳng hạn, phụ nữ ngồi
hơn chín giờ một ngày thì có 50% khả năng bị gãy xương hông hơn những người
ngồiít hơn sáu giờ một ngày [64],[74]. Tập thể dục thường xuyên cũng đã được
chứng minh để giúp bảo vệ chống lại loãng xương, gãy xương liên quan đến loãng
xương và cũng có thểgiúp phục hồi chức năng ở tuổi trưởng thành. Một cuộc khảo
sát mối liên quan giữa vận động thể lực và loãng xương ở phụ nữ mãn kinh tại Tiền
Giang, kết quả cho thấy nhóm phụ nữ thường xuyên vận động có mật độ xương
thấp là 19,6% trong khi nhóm không vận động chiếm tới 35,5% và vận động có mối
liên quan đến loãng xương [7].
Lạm dụng rƣợu bia: người dân nghiên cứu không lạm dụng rượu bia tỷ lệ loãng
xương là 38,4%, có lạm dụng rượu bia thì tỷ lệ 58,4% và nguy cơ loãng xương gấp
2,3 lần (95% CI: 1,4-3,6; p<0,05).Uống rượu vừa phải sẽkhông gây hại choxương,
ngược lại uống rượu mức độ cao hơn (hơn 2 đơn vị tiêu chuẩn rượu hàng ngày)sẽ
đưa đến gia tăng đáng kể nguy cơ gãy xương hông và các xương khác do loãng
xương. Uống rượu quá mức sẽ có tác động trực tiếp gây tổn thương trên các tế bào
tạo xương và ảnh hưởng trên các nội tiết tố điều chỉnh sự trao đổi chất can-xi.Từ sự
116
thiếu hụt can-xi,tuyến cận giáptiết ra Parathyroid hormone làm giảm dự trữcan-xi ở
xương. Cân bằng can-xisẽ tiếp tụcbị tác động bất lợibởikhả năngcủa rượulàm ảnh
hưởng đếnsản xuấtmộtsố vitamincần thiết chosự hấp thụ can-xi.Ngoài ra,uống nhiều
rượukéo dàicó thể gây rasự thiếu hụtnội tiết tốở nam giới (testosterone) vànữ giới
(estrogen). Tuy nhiên, theo báo cáo của một nghiên cứu về chuyển hóa xương trên
người uống rượu là phụ nữ tuổi từ 65 đến 77. Kết quả cho thấy nếu sử dụng một
lượng rượu vừa phải thì những người uống rượu có mật độ xương cao hơn người
không uốngtại cột sống10%, toàn cơ thể 4,5% và giữa xương quay 6% [107].
Ngược lại,một nghiên cứu từChâu Âu, Bắc Mỹ và Úc cho thấy nếu uống hơn hai
đơn vị rượu mỗi ngày có thể tăngnguy cơ gãy xương hông do loãng xương ở cả nam
giớivà phụ nữ, nếu uống hơn 4 đơn vị rượu mỗi ngày (25ml alcohol 40% = 1đơn vị)
sẽ tăng nguy cơ lên gấp đôi [67]. Tại Anh, có 40% nam giới và 23% phụ nữ tiêu thụ
rượu hàng ngày hơn mức khuyến nghị, tức là hơn 4 đơn vị mỗi ngày ở nam giới và
hơn 3 đơn vị mỗi ngày ở phụ nữ [98].
4.1.3.7.Liên quantình trạng mật độ xương với sử dụng thuốc và tiền sử bệnh
Sử dụng corticoid: có liên quan đến loãng xương, trong nghiên cứu này có 38,8%
ở nhóm không dùng corticoid bị loãng xương,80,8% người sử dụng corticoid bị
loãng xương và nguy cơ bệnh gấp 6,6 (95% CI: 2,4-17,9; p<0,05). Điều này phù
hợp với y văn và các nghiên cứu tại Việt Nam. Theo tác giả Nguyễn Thy Khuê, mật
độ xương giảm nhanh và nhiều trong những năm đầu sau khi dùng corticoid mà
nguyên nhân một phần là do liều lượng cao khi bắt đầu liệu trình. Kết quả một
nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng cho thấy sử dụng prednison 7,5 mg/ngày có thể
làm giảm mật độ xương. Corticoid làm tăng nguy cơ gãy xương bất kỳ lên 1,91 lần,
nguy cơ gãy cổ xương đùi lên 2,01 lần, xẹp đốt sống lên 2,86 lần và gãy xương
cẳng tay lên 1,13 lần [14].Nguyễn Văn Thọ đã tiến hành khảo sát mật độ xương
bằng phương pháp DXA ở bệnh nhân dùng kéo dài corticosteroid dạng hít, kết quả
có 34% bệnh nhân hen và bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính dùng corticoid dạng hít kéo
dài bị loãng xương. Tỷ lệ này tăng lên 66% ở nhóm 60 tuổi, 52% ở nhóm nữ mãn kinh, 64% ở nhóm BMI < 18,5 kg/m2 và 61% ở nhóm dùng corticoid toàn thân ngắn
hạn trong đợt kịch phát.Tỷ lệ loãng xương tương quan với lớn tuổi, mãn kinh, thiếu
117
cân, dùng corticoid toàn thân ngắn hạn (p<0,05) [31].Corticoid là nguyên nhân
thường thấy nhất gây loãng xương thứ phát, đặc biệt là trong 6 -12 tháng đầu sử
dụng. Liều tối thiểu prednison gây mất xương chưa được biết, nhưng một số nghiên
cứu gần đây cho rằng chỉ 2,5 mg prednison/ngày (uống hay dạng hít) có thể gây mất
xương [90],[117].
Gãy xƣơng do chấn thƣơng nhẹ: Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm không
gãy xương bị loãng xương 40%, nhóm có gãy xương bị loãng xương 76,5%, nhóm
bị loãng xương có tỷ lệ gãy xương 9,9%, nhóm không bị loãng xương tỷ lệ gãy
xương là 2%.Trên phân tích đơn biến thì nguy cơ loãng xương ở người có gãy
xương do chấn thương nhẹ gấp 5,3 lần so với người không gãy (95% CI: 2,7-10,4;
p<0,05). Tuy nhiên, kết quả phân tích trên mô hình hồi quy đa biến thì gãy xương
do chấn thương nhẹ không có liên quan loãng xương (p=0,17), điều này có thể do
mẫu nghiên cứu còn thấp. Gãy xương do loãng xương được xác định là các gãy
xương xảy ra do các sang chấn tối thiểu (nghĩa là do ngã trong tư thế đứng hoặc
thấp hơn). Một nghiên cứu xác định tần suất gãy xương nhằm cảnh báo nguy cơ gãy
xương ở người bệnh loãng xương, kết quả phân tích trên 162 người bệnh tuổi trung
bình 70 thì có 46% trường hợp gãy nhiều đốt sống, 5% gãy đầu dưới xương quay,
0,55% gãy cổ xương đùi và nguyên nhân thường do chấn thương nhẹ như té chống
tay, trượt chân té ngồi [22]. Theo Nguyễn Đình Nguyên gãy xương không do chấn
thương ở người cao tuổi, cho đến nay có thể coi là có liên quan đến loãng xương.
Một trong những bằng chứng của mối liên hệ này là mật độ xương thấp, dù đo ở
trung tâm hay ngoại vi, đều làm tăng nguy cơ gãy xương ở gần như mọi vị trí, trừ
một vài nơi như đốt chi, hộp sọ và xương mặt [23].
Nguyễn Văn Quang cho rằng một ngày nào đó gãy xương hông và loãng
xương sẽ trở thành bệnh chỉnh hình chủ yếu và nặng nề nhất mà bác sĩ chỉnh hình
phải đối phó. Do đó, các hướng dẫn, các chương trình giáo dục kiến thức cơ bản về
loãng xương và sinh học xương có thể giúp cải thiện hiệu quả điều trị [26].
Tiền sử gia đìnhcó loãng xƣơng: là yếu tố nguy cơ của loãng xương, kết
quả phân tích cho thấy nhóm không có tiền sử gia đình tỷ lệ loãng xương 35,7%,
nhóm có tiền sử là 70,6% và nguy cơ bệnh gấp 4,3 lần (95% CI: 2,8 – 6,6; p<0,05).
Di truyền đóng một vai trò lớn trong bệnh loãng xương. Các nhà khoa họcđã phát
118
hiện ra sự thay đổi tinh tế trong mã di truyền ở người, làm cho một số người dễ bị
loãng xương hơnnhững người khác. Trong thực tế, cha mẹ có tiền sử gãy xươnglà
một yếu tố nguy cơ và đó là nguy cơ độc lập với mật độ xương. Các nghiên cứu trên
thế giới cho thấy khoảng 60-80% sự khác biệt về mật độ xương giữa các cá nhân là
do gen chi phối. Người có tiền sử gia đình bị gãy xương có nguy cơ bị gãy xương
tăng gấp 1,5 đến 2 lần so với người không có tiền sử gia đình[42].
4.1.3.8. Liên quan mật độ xương với xẹp đốt sống ở người loãng xương
Kết quả nghiên cứu cho thấy những người bị loãng xương được chỉ định chụp X
quang cột sống nghiêng (theo phương pháp bán định lượng của Genant) là 388/395
người, có 59 người bị xẹp đốt sống tỷ lệ 15,2%. Khảo sát cũng cho biết là có 11/59
người bị xẹp đốt sống biết được bệnh và như vậy có 81,4% người loãng xương bị
xẹp đốt sống mà không biết. Tỷ lệ xẹp đốt sống nặng (độ 3) có tới 28,8% và xẹp
trên 2 đốt sống là 15,3%. Người bị loãng xương xẹp đốt sống có trung bình BMD
thấp hơn (0,296 g/cm² ± 0,08) so với người bị loãng xương không xẹp đốt sống
(0,337 g/cm² ± 0,08). Kết quả phân tích tương quan BMD với tình trạng xẹp đốt
sống ở người loãng xương cho thấy đây là tương quan đồng biến mức độ yếu
(r=0,19), có ý nghĩa thống kê p<0,01, nếu số trường hợp không xẹp đốt sống càng
tăng thì trung bình BMD càng lớn.
Kết quả so sánh xẹp đốt sống theo giới tính thì nam tỷ lệ xẹp 10,5% và nữ
18,3%(p<0,05), như vậy nữ có tỷ lệ xẹp đốt sống cao hơn nam. Nếu so sánh theo
nhóm tuổi thì tỷ lệ xẹp đốt sống thấp nhóm tuổi từ 45-64 (4,4%-13%) và tăng cao ở
nhóm 65-80 tuổi (18,2%-21,3%), tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05). So sánh nghiên cứu của Vũ Thị Thanh Thủy thì tỷ lệ xẹp đốt sống do
loãng xương của nghiên cứu chúng tôi thấp hơn (15,2% so với 17,4%) [34]. Một
nghiên cứu về quy mô xẹp xương đốt sống ở người Việt Nam cho kết quả tỷ lệ xẹp
xương đốt sống ở quần thể người trên 50 tuổi ở nam là 23% và ở nữ là 26%, bệnh
tăng theo độ tuổi và có hơn 1/5 không triệu chứng, có 12% xẹp ở nhiều đốt
sống[15],[17]. So sánh kết quả này thì nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ xẹp đốt
sống thấp hơn (mặc dù người dân phân tích trong nghiên cứu là người loãng
xương), tỷ lệ xẹp nhiều đốt sống cao hơn, phù hợp về sự gia tăng tỷ lệ bệnh theo
tuổi nhưng khác nhau về số trường hợp không triệu chứng bệnh (hơn 1/5 so với hơn
119
4/5, 81,4% không biết xẹp đốt sống).Tại một quận củathành phố Hồ Chí Minh, Trần
Hoàng Minh Châu nghiên cứu thuần tập về tình hình xẹp đốt sống do loãng xương
ở người trên 50 tuổi. Kết quả cho thấy tỷ lệ gãy xương chung sau 5 năm theo dõi từ
10/2003 đến 10/2008 là 15,5% (tương đương tỷ lệ gãy xương đốt sống của nghiên
cứu chúng tôi), trong đó tỷ lệ xẹp xương đốt sống chiếm 33,3%,tỷ lệ gãy xương
hông chiếm 14,5% [2].
Một nghiên cứu tương tự với nghiên cứu của chúng tôi về tỷ lệ lưu hành xẹp xương
đốt sống liên quan đến loãng xương ở phụ nữ mãn kinh tại Saudi Arabia. Kết quả
cho thấy có 785 người chụp X quang cột sống thì có 159 (20,3%) người bệnh và
198 đốt sống bị xẹp, nhóm tuổi 61-70 chiếm 35,4% số trường hợp, gãy nhiều đốt
chủ yếu ở tuổi từ 71 trở lên, tỷ lệ xẹp hầu hết ở đốt sống ngực và chỉ có 13,2%
người bệnh được điều trị thuốc chống loãng xương [91]. Kết quả này cao hơn
nghiên cứu của chúng tôi về tỷ lệ bệnh (15,2% so với 20,3%) có lẽ do người dân
nghiên cứu tuổi trung bình thấp hơn (59,5 so với 65,7) và có cả giới tính nam. Về tỷ
lệ bệnh theo nhóm tuổi thì nghiên cứu của chúng tôi ở tuổi cao tỷ lệ bệnh thấp hơn
so với phụ nữ Saudi Arabia.
Gãy xương do chấn thương nhẹ là một dự báo lớn cho những gãy xương tiếp theo.
Sự hiện diện của triệu chứng xẹp xương đốt sống trên phim X quang làm gia tăng
nguy cơ gãy xương trong tương lai lên 4 đến 5 lần và gấp hai lần nguy cơ gãy
xương hông. Vì vậy, thực hiện chụp X quang thắt lưng đơn giản có thể phát hiện
người bệnh cần đo mật độ xương và điều trị loãng xương [78].
4.1.3.9. Liên quan mật độ xương với kiến thức người dân
Kiến thức chung về bệnh còn thấp, chỉ khoảng 30-34%. Tỷ lệ hiểu biết các
yếu tố nguy cơ rất thấp. Kết quả phân loại kiến thức cho thấy chỉ có 8,7% là kiến
thức tốt (nữ 12%, nam 4,3%), kiến thức kém 77,3% (nam 79,6%, nữ 75,6%), kiến
thức có liên quan với giới tính (p<0,01). Mối liên quan giữa loãng xương với kiến
thức cho thấy nhóm kiến thức tốt loãng xương chỉ có 13,9% trong khi kiến thức
kém 47,6% và nguy cơ loãng xương của người có kiến thức tốt chỉ bằng 0,18 lần so
với người có kiến thức kém, liên quan này có ý nghĩa thống kê (95% CI: 0,1-0,3;
p<0,01). Một nghiên cứu đánh giá về kiến thức, thái độ, thực hành của phụ nữ ở
120
vùng Assir, Saudi Arabia cho kết quả kiến thức của phụ nữ nghiên cứu về bệnh
loãng xương rất thấp (điểm trung bình đạt 3,3/12), thấp nhất là cho rằng loãng
xương chủ yếu xảy ra ở đàn ông (90%) [46]. Cũng tại Saudi Arabia nghiên cứu của
Fahad M.Al-Shahbrani về kiến thức loãng xương của phụ nữ tuổi trung niên trở lên
cho thấy có tới 62% đã từng nghe nói về bệnh loãng xương, nguồn thông tin được
nhận từ thầy thuốc điều trị 38%, ti vi 32% và qua bạn bè là 12%. Như vậy, với kết
quả nghiên cứu của chúng tôi thì tỷ lệ người được nghe nói về loãng xương thấp
hơn (43,5% so với 62%), nếu so sánh về kênh thông tin nhận được thì tại Saudi
Arabia từ thầy thuốc khá cao (38% so với chúng tôi chỉ có 7%) và từ ti vi thấp hơn
nhiều (12% so với 82,1%). So sánh sự hiểu biết về yếu tố nguy cơ thì kết quả của
chúng tôi thấp hơn: tuổi già (55% so với 28,3%), uống nhiều cà phê (39% so với
1%), lạm dụng rượu (23% so với 5,1%), hút thuốc lá (39% so với 3,7%), di truyền
(22% so với 15%). Riêng biết về triệu chứng bệnh nghiên cứu của chúng tôi cao
hơn (33% so với 10%) [55]. Như vậy, sự hiểu biết về bệnh của nghiên cứu tại Saudi
Arabia nhiều hơn. Điều này có thể do người dân nhận thông tin trực tiếp từ thầy
thuốc cao hơn, trong khi người dân trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thông tin
chủ yếu từ ti vi, nơi mà chuyển tải thông tin thường không đầy đủ.Tuy nhiên, tại
lãnh thổ phát triển như Hồng Kông, khi khảo sát 52 người đàn ông lớn tuổi thì tỷ lệ
người đã từng nhận thông tin về loãng xương cũng chỉ 42,6%, thấp hơn nghiên cứu
của chúng tôi [85]. Tại Việt Nam, Nguyễn Thị Thanh hương đã khảo sát kiến thức
về loãng xương ở các sinh viên một số trường đại học của thành phố Hà Nội, trong
đó có cả sinh viên trường y và dược. Kết quả có sự hiểu biết về bệnh khá cao. Tỷ lệ
trả lời đúng (20 câu hỏi) là 65%, trả lời đúng về kiến thức chung 80%, về yếu tố
nguy cơ 63% và kiến thức phòng bệnh 75% [102]. Tất cả tỷ lệ đều cao hơn nghiên
cứu của chúng tôi do bởi người dân nghiên cứu đang là sinh viên (y và dược chiếm
52%), trong khi đó người dân nghiên cứu của chúng tôi là những người tuổi trung
niên trở lên và ít có điều kiện tiếp cận thông tin về sức khỏe nhất là thông tin về
bệnh loãng xương.
4.1.3.10. Liên quan mật độ xương với thực hành của người dân
121
Kết quả cho thấy người dân tập thể dục có tỷ lệ 37%, thường xuyên bổ sung can-xi
qua ăn uống thấp (uống sữa, uống viên can-xi, ăn thực phẩm giàu can-xi có tỷ lệ lần
lượt là 25%, 5,9%, 15,7%). Về kết quả thực hành tốt thì tỷ lệ rất thấp (8,5%) và nữ
cao hơn nam, thực hành kém 80,8% và nam cao hơn nữ.Người có thực hành trung
bình nguy cơ loãng xương bằng 0,15 lần (95% CI: 0,1-0,4; p<0,001) và thực hành
tốt nguy cơ loãng xương thấp (OR=0,04) so với người có thực hành kém, có ý nghĩa
thống kê. Nghiên cứu trên sinh viên Trường Đại học Khoa học Malaysia vào năm
2010 cho kết quả kiến thứcvề yếu tố nguy cơ loãng xương thấp với đa số các sinh
viên (82,6%). Ngược lại, 77,1% hiểu tầm quan trọng của thực phẩm hàm lượng can-
xi cao và lối sống vận động tích cực sẽ tăng cường sức khỏe cho xương. Cách ăn
uống và lối sốngcủa các sinh viên chỉ có 1,4% đạtmức khuyến cáohàng ngày
củalượng can-xivàcó7,2% hoạt độngthể lựcít nhất2 giờmỗituần [126]. Kết quả
nghiên cứu này về kiến thức yếu tố nguy cơ thấp hơn khảo sát của chúng tôi (22-
30%), nhưng hiểu về tầm quan trọng của thực phẩm hàm lượng can-xi cao và lối
sống vận động tích cực thì cao hơn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thứctốt thì thực hành tốt càng cao, mối liên quan
này có ý nghĩa thống kê (p<0,01), phù hợp với nghiên cứu của Shu-Wen Chen tại
Đài Loan là thực hành chung và thực hành tích cực liên quan với kiến thức có ý
nghĩa thống kê, nhưng sự liên quan này yếu.Nhóm thực hành tiêu cực liên quan yếu
với kiến thức [119].
4.1.4. Yếu tố không liên quan đến loãng xƣơng
Hút thuốc lá: nhóm nam giới hút thuốc lá có tỷ lệ 42%loãng xương, không hút
thuốc lá loãng xương 34,7% và nguy cơ bệnh gấp 1,4 lần. Tuy nhiên, kết quả phân
tích không thấy có mối liên quan đến loãng xương (p>0,05). Kết quả này không phù
hợp với y văn, có lẽ trong thiết kế nghiên cứu không đặt ra tiêu chí những người bỏ
hút thuốc lá sau khi đã sử dụng rất nhiều năm (khảo sát là không hút), do đó sẽ dẫn
đến sai số trong phân tích. Nhiều nghiên cứu trên thế giới chứng minh hút thuốc lá
có liên quan với bệnh loãng xương. Một phân tích các nghiên cứu trên gần 60.000
người ở Canada,Mỹ, Châu Âu, Úc và Nhật Bản cho thấy rằng hút thuốc lá làm tăng
nguy cơ gãy xương hông lên đến 1,5 lần. Mặc dù nguy cơ từ hút thuốc lá tăng theo
122
thời gian sử dụng, nhưng ảnh hưởng của khói thuốc lá xuất hiện khá sớm.Nghiên
cứu thực hiện ở Thụy Điển cho thấy nam thanh niênhút thuốc tuổi từ 18-20, đã làm
giảm mật độ xương và làm mỏnglớp vỏ cứng bên ngoài của xương mà lớp vỏ này
mang đến cho xương nhiềusức mạnh. Phát hiện này cho thấy rằng hút thuốc lá ở
những người trẻ có thể làm giảmkhối lượng xương đỉnh của họvàdo đó làm tăng
nguy cơ loãng xương trong cuộc sống sau này [88]. Theo tác giả Nguyễn Văn Tuấn,
những người có tuổi đang hoặc đã từng hút thuốc đều có nguy cơ loãng xương cao
hơn các đối tượng cùng đặc tính mà không hút thuốc [41].
Địa dƣ:Kết quả phân tích đơn biến và đa biến đều cho thấy sự liên quan giữa yếu tố
địa dư và tỷ lệ loãng xương không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tỷ lệ loãng xương
giữa các quận, huyện nghiên cứu tuy có khác nhau (thấp nhất ở quận Gò Vấp là
35,5%, cao nhất là quận Bình Thạnh 43,7%) nhưng nếu so sánh tỷ lệ giữa các quận
thành thị với khu vực nông thôn là huyện Hóc Môn thì tỷ lệ này gần tương đương
nhau (39,9% thành thị so với 39,6% nông thôn). Điều này có thể do người dân
nghiên cứu của các quận huyện ở độ tuổi trung niên trở lên đã trải qua cùng môi
trường sống thời kỳ chiến tranh trước đây và ở giai đoạn hiện nay khu vực nông
thôn đã đô thị hóa khá nhanh, do vậy vấn đề địa dư gần như không có khoảng cách.
Nghiên cứu của Vũ Thị Thu Hiền cho thấy tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ có sự tương
phản giữa nội thành và ngoại thành Hà Nội, phụ nữ chưa mãn kinh tỷ lệ loãng
xương cao hơn ở nội thành và ngược lại phụ nữ mãn kinh ở ngoại thành lại cao hơn.
Tuy nhiên, phân tích cũng không thấy có sự liên quan giữa khu vực nội và ngoại
thành [8]. Về vấn đề gãy xương do loãng xương,Nguyễn văn Tuấn cho rằng tỷ lệ
mắc gãy xương hông tăng lũy tiến theo độ tăng của tuổi, bất kể giới tính, vùng địa
dư, nhóm chủng tộc [40]. Như vậy, kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với một
số nghiên cứu khác về yếu tố địa dư đối với bệnh loãng xương.
4.2. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢMỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP CÔNG
ĐỒNG PHÒNG CHỐNG LOÃNG XƢƠNG
4.2.1. Kết quả xây dựng một số biện pháp can thiệp
Phòng chống loãng xương là không bao giờ sớm đối với mỗi con người. Thật vậy,
nếu kể từ bào thai con người được cha mẹ trao cho một bộ xương tốt và từ tuổi ấu
123
thơ đến tuổi trưởng thành được vun đắp cho một khung xương với mật độ cao nhất
có thể được, thì một cuộc sống lành mạnh tiếp theo sẽ mang lại cho xương vững
chắc và mạnh mẻ ở tuổi già.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã và đang thực hiện những chiến lược,
những kế hoạch hành động nhằm khống chế tình trạng loãng xương. Để đạt được
điều này thì ở mỗi quốc gia cần phải tăng cường nhận thức của người dân về bệnh,
cần hiểu rõ về mối nguy cơ mà mỗi cá nhân hiện có và tích cực thể hiện lối sống
lành mạnh, rèn luyện thể chất thường xuyên, dinh dưỡng phù hợp với nhu cầu sức
khỏe xương, tránh những thói quen có tác hại cho xương.
Trên cơ sở đó, xây dựng một số biện pháp can thiệp phòng chống bệnh loãng
xương dựa vào cộng đồng tại một số quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minhđược
thực hiện với nhiều hoạt động nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho mật độ xương
của người dân.
4.2.1.1. Kết quả xây dựng mạng lưới hoạt động phòng, chống loãng xương
Xây dựng một mạng lưới hoạt động từ quận, huyện đến phường, xã khu phố, ấp với
sự tham gia của Ban Chỉ đạo chăm sóc sức khỏe nhân dân, lãnh đạo ngành y tế, cán
bộ y tế, các cộng tác viên và có sự phối hợp với các tổ chức, hội đoàn địa phương
cùng với các cơ sở y tế tư và những doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm có liên
quan đến dự phòng loãng xương. Đào tạo cán bộ tham gia, soạn thảo, sản xuất và
cung cấp tài liệu tập huấn, tài liệu truyền thông cho các hoạt động can thiệp.Kết quả
nghiên cứu cho thấy Sở Y tế TPHCM đã chấp thuận triển khai một số biện pháp can
thiệp tại các địa phương theo thiết kế nghiên cứu và có văn bản đề nghị tuyến y tế
cơ sở ở các địa phương nghiên cứu hỗ trợ thực hiện can thiệp. Đã xây dựng mạng
lưới hoạt động can thiệp tại tuyến y tế cơ sở, 4 quận, huyện đều có thành lập Ban
Chủ nhiệm chương trình can thiệp phòng chống loãng xương và tổ công tác tại 4
phường, xã can thiệp. Đã xây dựng bộ tài liệu tập huấn cho cán bộ chương trình,
cho cộng tác viên. Tổ chức tập huấn cho 48 thành viên (100%) tham gia chương
trình can thiệp. Cung cấp tài liệu hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh
loãng xương cho các cán bộ và cơ sở y tế. Xây dựng và sản xuấttài liệu truyền thông
124
gồm 8 panô, 15.000 tờ rơi các loại, 1000 cuốn cẩm nang, 50 áp phích, sưu tầm 7
đoạn phim ngắn về loãng xương và phòng bệnh.
Kết quả xây dựng mạng lưới hoạt động phòng chống loãng xương cho thấy có nhiều
điểm tương đồng với các biện pháp hoạt động tại Malaysia.Hiệp hội Loãng xương
Malaysia do các thầy thuốc đứng ra thành lập vào giữa thập niên 90 thế kỷ trước.
Hội đã cho xuất bản tài liệu “Hướng dẫn thực hành lâm sàng” về loãng xương trong
năm 2001 và 2006. Các hướng dẫn này đã được phân phối và sử dụng rộng rãi bởi
các học viên và các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực khác nhau.Nội dung hướng dẫn
bao gồm: quản lý người bệnh bị loãng xương, dịch tễ học, dữ liệu bị gãy xương
hông, thực hành dinh dưỡng, chẩn đoán và điều trị bệnh loãng xương sau mãn kinh,
loãng xương ở nam giới, loãng xương do glucocorticoid... Ngoài ra, tại Malaysia
còn thành lập Hiệp hội nâng cao nhận thức về loãng xương Kuala Lumpur vào năm
2008. Đây là một tổ chức phi chính phủ được thành lập vớimục tiêu chính là tăng
cường sức khỏe xương cho người dân. Hiệp hộiđã giới thiệu chương trình “xương
khỏe mạnh cho cuộc sống”nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường
xương khỏe mạnh trong tất cả các giai đoạn của cuộc sống, từ phụ nữ mang thai, trẻ
em, thanh thiếu niên, người lớn và người già. Để thực hiện công việc này, Hội đã
thành lập các nhóm hỗ trợ người bệnh, các thành viên gia đình và những người
chăm sóc người bệnh[70].
4.2.1.2. Kết quả xây dựng các mục tiêu và nội dung hoạt động can thiệp
Trong hoạt động can thiệp đã xác định hai mục tiêu cơ bản, đó là mục tiêu dự phòng
cấp một nhằm can thiệp trên những người dân trưởng thành trong cộng đồng, ưu
tiên dành cho người dân từ 45 tuổi trở lên và mục tiêu dự phòng cấp hai,cấp ba là
can thiệp trên người dân có mật độ xương thấp hoặc đã có biến chứng bệnh.
Kết quả xây dựng các nội dung hoạt động can thiệp cho mục tiêu dự phòng
cấp một là đãtổ chức các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe, nâng cao nhận
thức của người dân, từ đó gia tăng kiến thức và thực hành phòng chống loãng
xương. Hoạt động truyền thông thay đổi hành vi trong việc rèn luyện thân thể và
tăng cường dinh dưỡng hợp lý bổ sung can-xi, vitamin D ở người dân trưởng thành,
nhất là quần thể người dân từ tuổi trung niên trở lên. Để thực hiện nội dung này,
125
chương trình can thiệp đã thành lập phòng tư vấn chung nhằm phục vụ trọn gói (tư
vấn, khám, đo mật độ xương, chẩn đoán, chăm sóc và điều trị, phục hồi chức năng)
cho người dân ở tất cả các phường, xã can thiệp, đơn vị tư vấn tại các trạm y tế,
mạng lưới cộng tác viên đến thăm hộ gia đình và tổ chức các cuộc truyền thông lớn
tại cộng đồng.
Kết quả xây dựng các nội dung hoạt động can thiệp cho mục tiêu dự phòng
cấp hai và cấp ba là đã tổ chức khám sàng lọc, đo mật độ xương, chẩn đoán và quản
lý người có mật độ xương thấp, người bệnh loãng xương.Đối với người có mật độ
xương thấp đã đưa vào chương trình bổ sung viên Calci-D hàng ngày (cung cấp
miễn phí và người bệnh có khả năng tự túc), những người bệnh được các bác sĩ
chuyên khoa kê toa thuốc điều trị phù hợp với chỉ định. Bên cạnh đó còn có hoạt
động chăm sóc, hướng dẫn phục hồi chức năng cho người bệnh có chỉ định, hướng
dẫn phòng tránh té ngã cho người dân mục tiêu trong cộng đồng. Ngoài ra, tại 4
quận, huyện can thiệp đều có trang bị các thiết bị đo mật độ xương, trong đó có
triển khai các hoạt động tầm soát bệnh miễn phí trong cộng đồng dân cư như Bệnh
viện Bình Thạnh khám tư vấn, đo mật độ xương miễn phí cho người già trên 80
tuổi, Trung tâm y tế dự phòng quận Gò Vấp tổ chức đo mật độ xương và cấp thuốc
miễn phí tại các khu dân cư can thiệp.
Kết quả xây dựng các mục tiêu và nội dung hoạt động can thiệp có nhiều điểm
tương đồng của chiến lược quốc gia phòng chống loãng xương một số nước trên thế
giới. Chẳng hạn, tại Canada năm 2003 đã xây dựng một chiến lược phòng chống
loãng xương cho vùng Ontario với một số nội dung:(1)Tăng cường giáo dục sức
khỏe người dân để có thể tăng sức khỏe cho xương, giảm nguy cơ loãng xương (dự
phòng cấp 1);Tăng cường phát hiện và quản lý bệnh (dự phòng cấp 2). Phòng bệnh
nên tập trung người dân có nguy cơ cao và trong quá trình phát triển xương (như
phụ nữ mãn kinh, người cao tuổi, trẻ em và vị thành niên, người có sử dụng
corticoid); (2) Phát hiện sớm và chẩn đoán bệnh loãng xương. Sử dụng phù hợp các
giải pháp để kiểm tra mật độ xương sẽ xác định những người loãng xương hoặc có
nguy cơ cao.Tiếp cận tốt hơn vớiphương pháp điều trịhiệu quả, dựa trên bằng
chứng(dự phòng cấp 2 và 3); (3) Chăm sóc sau gãy xương, phục hồi chức năng và
126
quản lý bệnh loãng xươngmột cách hiệu quả để giảmgãy xương tái phát và cải thiện
chất lượng cuộc sống (dự phòng cấp 3).Tự quản lý và phòng ngừa té ngã. Khi người
dân được tiếp cận chính xácthông tin, người bệnh có thể đóng một vai trò tích cực
trong việc quản lý tình trạng bệnh của họ vàgiảm nguy cơ gãy xương [95].
Tại Mỹ, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu sự tác động của việc sử dụng hệ
thống tin học dựa trên dân số để tầm soát loãng xương và điều trị ở phụ nữ từ 65
tuổi trở lên. Người bệnh được điều trị ở một trong hai đơn vị nội khoa chọn vào
nhóm can thiệp, người bệnh ở đơn vị thứ ba chọn vào nhóm chứng. Người hội đủ
điều kiện đưa vào can thiệp sẽ được gửi một bức thư mời đo mật độ xương bằng
máy DXA. Sau 3 tháng gửi thư kết quả cho thấy tỷ lệ sàng lọc loãng xương ở nhóm
can thiệp là 76,4%, ở nhóm chứng 69% (p<0,001). Nhóm can thiệp có 25% được trả
lời thư và hoàn thành sàng lọc cũng như được điều trị thích hợp [111]. Đây là một
mô hình khá hay nhưng không nằm trong thiết kế nghiên cứu của chúng tôi, bên
cạnh đó việc gửi thư rộng rãi để tầm soát loãng xương cho người cao tuổi với số
lượng lớn đòi hỏi phải có kinh phí cao và đủ máy đo DXA.
Nghiên cứu can thiệp phòng chống loãng xương tại cộng đồng Ontario Canada qua
hệ thống bác sĩ gia đình. Kết quả khảo sát các bác sĩ gia đình và người bệnh trong
việc phòng chống loãng xương tại Ontario cho thấy có gia tăngđáng kể sự quan tâm
về bệnh trong những năm gần đây do tăng sự sẵn có của phương pháp điều trị và
tăng nhận thức của người dân. Phân tích dữ liệu bảo hiểm y tế ở Ontario cho thấy số
lượng người kiểm tra mật độ xương tăng gấp bảy lần từ năm 1992 đến 1999. Vai trò
bác sĩ gia đình trong việc quản lý bệnh loãng xương cũng đã tăng lên,tỷ lệ đo mật
độ xương theo chỉ định của các bác sĩ gia đình tăng từ 47,3% năm 1992 lên 80,1%
trong năm 2000. Nghiên cứu này là một phần của chương trình phát triển và đánh
giá việc thực hiện các chiến lược để cải thiện việc quản lý bệnh loãng xương trong
thực hành bác sĩ gia đình[120]. Cũng tại Canada, một nghiên cứu can thiệp về quản
lý người bệnh sau khi gãy xương do loãng xương, kết quả có 45% nhóm can thiệp
nhận được quản lý trong 6 tháng so với nhóm chứng chỉ có 26% (OR: 2,3; 95% CI:
1,3-4,1)tỷ lệ người được đo mật độ xương một lần ở nhóm can thiệp là 57%, nhóm
chứng 21% (OR: 4,8; 95% CI: 3.0-7.0) [121]. Qua những nghiên cứu trên cho thấy
127
nhiều nội dung hoạt động can thiệp đã được thử nghiệm đều có hiệu quả trong quản
lý bệnh, việc tầm soát, phát hiện và chăm sóc theo dõi điều trị nếu được thực hiện
tốt thì mang lại lợi ích cho người bệnh và cho cộng đồng.
Một nghiên cứu tương tự nghiên cứu của chúng tôi, tại Bắc Carolina (Mỹ) có
một cuộc khảo sát phụ nữ da trắng và da đen tuổi từ 45 trở lên về chăm sóc phòng
bệnh loãng xương tại phòng khám gia đình ở cộng đồng, cho thấy phụ nữ da trắng
5,6 lần hơn phụ nữ da đen về đã từng đo mật độ xương (95% CI: 3,01 -11,79), 2,97
lần hơn về được bác sĩ tư vấn và 2,42 lần hơn được bác sĩ khuyên bổ sung can-xi.
Hầu hết phụ nữ nghiên cứu tuổi từ 45 trở lên xem chăm sóc phòng bệnh loãng
xương là quan trọng và chỉ có phân nửa phụ nữ tuổi từ 65 trở lên đã được đo mật độ
xương [60],[61].
4.2.1.3. Kết quả xây dựng hoạt động giám sát
Trong quá trình can thiệp, giám sát luôn diễn ra song hành với các hoạt động can
thiệp. Giám sát đã giúp điều chỉnh kịp thời về chất lượngcan thiệp, đảm bảo các
hoạt động được thực hiện theo đúng kế hoạch và giải quyết những khó khăn phát
sinh. Hệ thống báo cáo đã thu thập đủ thông tin cần thiết theo định kỳ quý, 6 tháng,
năm. Từ đó cán bộ nghiên cứu đã lượng giá từng giai đoạn theo các mục tiêu nghiên
cứu đề ra. Thiết lập một hệ thống thông tin liên lạc để trao đổi giữa cán bộ nghiên
cứu với các thành viên tham gia hoạt động can thiệp nhằm đảm bảo tính chính xác
của các hoạt động và hỗ trợ tích cực trong quá trình can thiệp tại cộng đồng. Khi
phỏng vấn một trong những người dân can thiệp, người đó nói rằng: “Cô ấy (cộng
tác viên) rất nhiệt tình, giải thích rất cặn kẽ về bệnh loãng xương. Nhờ cô ấy động
viên mà hiện nay tôi đi bộ nhiều hơn và thường ăn cá, uống thêm sữa để có can-xi
cho xương”. Sau một năm can thiệp, nghiên cứu viên đã tiến hành phỏng vấn sâu
các thành viên tham gia can thiệp từ cấp quận, huyện đến phường, xã, kết quả cho
thấy đa số hiểu và nhiệt tình thực hiện những nội dung can thiệp, một số người rất
tâm đắc với hoạt động phòng chống loãng xương vì cho rằng nó thực sự có lợi cho
người cao tuổi mà hiện nay chưa trở thành một chương trình sức khỏe chính thức
của ngành y tế. Một thành viên Ban Chủ nhiệm Chương trình của một quận cho
biết: “Trước đây, trong quá trình hoạt động khám chữa bệnh, tôi chứng kiến một số
128
người già bị té gãy cổ xương đùi mà không thể phẩu thuật được nên bó bột chống
xoay nằm một chổ rất khổ sở và hao tốn tiền bạc cũng như công sức chăm sóc của
gia đình. Làm Chương trình này mong rằng kéo giảm biến chứng cho người già thì
bản thân mình thấy có ý nghĩa rồi”. Như vậy, ngoài việc giám sát kết quả các chỉ số
mục tiêu nghiên cứu thì giám sát bộ máy hoạt động nhất là các thành viên tham gia
Chương trình sẽ giúp đánh giá hiệu quả can thiệp và sự duy trì hoạt động trong
tương lai.
4.2.2. Đánh giá hiệu quảmột số biện pháp can thiệp cộng đồng
4.2.2.1. Đánh giá hiệu quả can thiệp bằngtruyền thông giáo dục sức khỏe
Kết quả hoạt động truyền thông sau 2 năm can thiệp có tất cả 24.406 lượt người
được tư vấn về phòng chống loãng xương, trong đó tư vấn trực tiếp là 20.970 lượt,
tỷ lệ 85,9%, gián tiếp qua điện thoại là 3.436 lượt tỷ lệ 14,1%. Thốngkê riêng thì tại
đơn vị tư vấn trạm y tế có số lượt người cao nhất đạt 10.129lượt, tỷ lệ 41,5% (trong
đó trực tiếp 6.952 lượt và gián tiếp qua điện thoại là 3.177 lượt). Tại các cuộc
truyền thông lớn ở cộng đồng bao gồm 63 cuộc (29 cuộc chuyên về loãng xương và
34 cuộc lồng ghép) tiếp nhận được 7.057 lượt người tỷ lệ 28,9%.Các cộng tác viên
thăm 1.467 hộ gia đình đã tư vấn được 5.813 ngườitỷ lệ 23,8%; Tại phòng tư vấn
chung tiếp nhận tư vấn được 1.407lượt người, tỷ lệ 5,8%. Tổng số tờ rơi và cẩm
nang được phân phát trong cộng đồng là 16.236. So với các địa phương đối chứng,
người dân chưa được tiếp tiếp cận các hoạt động truyền thông, tư vấn về loãng
xương, họ chỉ được nghe thông tin từ báo đài hoặc sách và một phần từ kênh khác.
Như vậy, nếu tính số người được tư vấn là 16.168 so với số người dân từ 45 tuổi trở
lên trong cộng đồng (20.473 người) thì độ bao phủ của truyền thông chiếm 80%
(bảng 3.30). Tuy nhiên, số người nhận thông tin sau can thiệp từ ti-vi cao nhất
(70,2%), nhân viên y tế 53,4%, kênh khác 53,6% có thể giải thích độ bao phủ người
dân nhận thông tin cao hơn và minh chứng thông tin nhận được thường xuyên và
không thường xuyên lên đến 92,2% sau can thiệp (so với trước can thiệp chỉ có
37,7%).
Kết quả cho thấy ở nhóm can thiệp thông tin nhận được thường xuyên tăng tỷ lệ từ
1,7% lên 12,5%, không thường xuyên tăng từ 36% lên 79,7% sau khi can thiệp,
129
trong khi nhóm chứng tăng2,3% lên 4,3% và 35,6% lên 59,4%, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Hiệu quả can thiệp về nhận thông tin thường xuyên là 548% và
không thường xuyên 54,5%. Nguồn thông tin nhận được tăng cao sau can thiệp là từ
kênh nhân viên y tế, ti-vi và kênh khác, trong khi đó từ kênh báo chí và sách thì
giảm. Hiệu quả can thiệp trên nguồn thông tin nhận được từ báo 14,9%, ti-vi 80%,
nhân viên y tế 2017%, sách 50,8%,kênh khác 713%. Sự khác biệt của các so sánh
đều có ý nghĩa thống kê (ngoại trừ so sánh của kênh ti-vi trước và sau can thiệp).
Với kết quả như trên, chúng tôi so sánh với một số hoạt động can thiệp của
Hiệp hội loãng xương Singapore. Hội đã tham gia tích cực trong việc giáo dục, phổ
biến các thông tin về bệnhloãng xương cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và
người dân. Các chiến dịch nâng cao nhận thức và hành động bằngnhững chương
trình tiếp cận cộng đồng như là tư vấn qua điện thoạivà thành lập trang web giúp đỡ
người bệnh,phổ biến các bài giảng y học thường thức.Mặc dù vậy, khi tiến hành
một cuộc khảo sát dựa trên dân sốtrong số 1.376 phụ nữ Trung Quốc sống tại
Singapore tuổi từ 45 trở lên(tuổi trung bình 57) vào năm 2001, đã có 42% người
được hỏi không biết về bệnh loãng xương [70]. Như vậy, kết quả nghiên cứu của
chúng tôi có tỷ lệ người biết về loãng xương cao hơn. Một nghiên cứu can thiệp
bằng truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống loãng xương trên phụ nữ công
nhân tại Kingdom Saudi Arabia cũng cho hiệu quả can thiệp như nghiên cứu của
chúng tôi. Kết quả trước can thiệp chỉ có 63% người dân từng nghe nói về bệnh
loãng xương và chủ yếu từ ti-vi (35%), 41% ít khi tập thể dục. Sau can thiệp đã cải
thiện có ý nghĩa về kiến thức và thực hành chế độ ăn, thái độ về tập luyện, dinh
dưỡng và lối sống đã gia tăng tích cực tới 97% [94].
Hoạt động can thiệp trên mật độ xương ở phụ nữ mãn kinh Úc được thiết kế gần
tương tự hoạt động can thiệp của chúng tôi, Tania Winzenberg cùng cộng sự đã
thực hiện một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng trong 2 năm trên 470 phụ nữ
khỏe mạnh tuổi từ 25-44 với mục đích xác định ảnh hưởng của mật độ xương cá
nhân qua việc nhận thông tin phản hồi về mật độ xương và can thiệp giáo dục thay
đổi hành vi có lợi cho xương. Người dân nghiên cứu sau khi được đo mật độ
xươngđều nhận được một thư và phân thành hai nhóm: T-score ≥0 được thông báo
130
là không có nguy cơ cao về gãy xương sau này; T-score <0 được thông báo là có
nguy cơ cao bị gãy xương sau này. Trước khi kết quả BMD được biết, người dân
nghiên cứu đều nhận được một tờ rơi “Hiểu biết về loãng xương”. Kết quả những
phụ nữ nhận được thông tin BMD thấp đã có một sự gia tăng lớn hơn về BMD ở cổ
xương đùi so với người bình thường (1,6% so với 0,7%, p=0,0001), can thiệp giáo
dục có mức tăng BMD tương đương ở cổ xương đùi và BMD thay đổi có liên quan
đáng kể việc bổ sung can-xi [122].
4.2.2.2. Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng bổ sung can-xi của người dân
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người có thói quen uống sữa tăng rất ít sau
can thiệp (27,6% so với trước can thiệp 27%), tỷ lệ người có uống viên thuốc can-xi
tăng nhẹ từ 7,1% lên 10,3%, tuy nhiên tỷ lệ người thực hiện ăn uống tăng cường
dinh dưỡng bổ sung can-xi tăng khá cao (15,9% trước can thiệp tăng lên 64,2% sau
can thiệp). Hiệu quả can thiệp trên uống sữa là 20,7%, uống viên can-xi 80,7% và
ăn uống thức ăn có hàm lượng can-xi cao là 179%. Kết quả này cũng phù hợp với
sự gia tăng tỷ lệ hiểu biết của người dân, 19,8% người dân hiểu biết các yếu tố nguy
cơ trước can thiệp tăng lên 59,6% sau can thiệp, 26,7% người dân hiểu biết về kiến
thức phòng bệnh trước can thiệp tăng lên 69,8% sau can thiệp.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với một nghiên cứu đánh giá hiệu
quả củacan thiệp giáo dục dinh dưỡng dựa vào cộng đồng trên lượng can-xi tiêu thụ
và sự mất xương ở phụ nữ mãn kinh Việt Nam tại hai xã của tỉnh Hải Dương. Thời
gian can thiệp kéo dài 18 tháng. Người dân được chọn ngẫu nhiên tuổi 55-65 và
cóhơn 5 năm sau mãn kinh, với lượng can-xi tiêu thụ thấp (<400 mg/ngày), nhóm
can thiệp đã được giáo dục dinh dưỡng để cải thiện lượng can-xi tiêu thụ lênđến
800mg/ngày, trong khi những người trong nhóm chứng chế độ ăn uống giữ bình
thường.Kết quả cho thấy lượng can-xi trong nhóm can thiệp tăng lên đáng kể từ 345
± 54 mg/ngày lên 657 ± 64 mg/ngày sau 18 tháng (p<0,01), trong khi nó không có
thay đổi đáng kể trong nhóm chứng. Giá trị khối lượng xương không thay đổi đáng
kể trong nhóm can thiệp trong khi nó giảm đáng kể (0,5%) trong nhóm chứng
(p<0,01). Sự can thiệp dẫn đến giảm Parathyroid hormone huyết thanh 12%
(p<0,01),trong khi nhóm chứng có sự gia tăng Parathyroid hormone huyết thanh
131
32% (p<0,001). Như vậy, can thiệp giáo dục dinh dưỡng có hiệu quả trong việc cải
thiện lượng can-xi tiêu thụ và làm chậm mất xương ở phụ nữ mãn kinh Việt Nam
[124].Tại Ai Cập, một nghiên cứu tiến hành trên nữ sinh về kiến thức, niềm tin và
hành vi đối với bệnh loãng xương. Kết quả có hơn phân nửa nữ sinh nhận thức được
lợi ích của tập luyên thể lực phòng tránh loãng xương (59,1%), nhưng chỉ có 42,9%
tham gia tập một vài môn thể thao nhưng không thường xuyên. Kiến thức liên quan
đến thức ăn giàu can-xi và nhu cầu can-xi thấp [116].
Tương tự như hoạt động can thiệp của chúng tôi, các nhà khoa học ở Mỹđã tiến
hành một nghiên cứu áp dụng các mô hình phòng chống loãng xươngbằng can thiệp
giáo dục nhằm gia tăng chế độ ăn can-xi và vitamin D ở phụ nữ trẻ, cho thấy kiến
thức về loãng xương và tầm quan trọng của chế độ ăn giàu can-xi và vitamin D
được cải thiện sau 8 tuần can thiệp (p<0,01). Tuy nhiên, về thực hành thì không có
sự thay đổi ăn uống thức ăn giàu can-xi, vitamin D hay sản phẩm từ sữa và cung cấp
can-xi cũng không đủ theo khuyến nghị cho người phụ nữ trẻ [82]. Một nghiên cứu
đánh giá thay đổi hành vi nguy cơ loãng xương ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại Ai
Cập cho thấy sau 4 tháng tư vấn nâng cao nhận thức thực hành dinh dưỡng tốt nhằm
kéo giảm nguy cơ loãng xương thì có một sự cải thiện có ý nghĩa thống kê về kiến
thức chế độ ăn, tập luyện, nguy cơ tuổi và giới, triệu chứng bệnh và quản lý bệnh
loãng xương [56].Tại Hồng Kông một chương trình giáo dục can thiệp phòng chống
loãng xương cho phụ nữ được tiến hành trên 38 người và 38 đối chứng, kết quả sau
can thiệp cho thấy có sự gia tăng có ý nghĩa thống kê về hành vi sử dụng đậu nành,
uống sữa và tập luyện thể lực nhiều hơn [97]. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên
cứu của chúng tôi.
4.2.2.3. Đánh giá hiệu quả can thiệp bằng tập luyện nâng cao thể lực của người
dân
Kết quả nghiên cứu cho thấytỷ lệ người dân thực hành tập thể dục từ 37,9% trước
can thiệp tăng lên 57,9% sau can thiệp, hiệu quả can thiệp về tập thể dục là 49,1%.
Tỷ lệ người dân tập thể thao từ 7,1% trước can thiệp tăng lên 11,3% sau can thiệp,
hiệu quả can thiệp về tập thể thao là 117%. Kết quả này cũng phù hợp với tỷ lệ kiến
thức tăng sau can thiệpvà tại các địa phương can thiệp đã hình thành Câu lạc bộ
132
Loãng xương – Dưỡng sinh và kết quả cũng cho thấy tỷ lệ người dântham gia tăng
sau can thiệp (7,8% so với trước can thiệp là 3,7%) và sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p<0,01).
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đều cho kết quả luyện tập thể lực sẽ cải thiện tình
trạng mật độ xương. Tại Boston ở Mỹ, các nhà khoa học đã nghiên cứu sự tác động
của luyện tập Thái cực quyền trên nguy cơ gãy xương ở phụ nữ mãn kinh có giảm
mật độ xương. Đây là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng được thực hiện trên
86 phụ nữ mãn kinh giảm mật độ xương tuổi từ 45 đến 70 được tuyển chọn từ các
phòng khám ở cộng đồng. Nhóm phụ nữ can thiệp được đào tạo và thực hành Thái
cực quyền trong 9 thángvà còn lại là nhóm chứng không có tập. Kết quả cho thấy có
sự khác biệt mật độ xương ở cổ xương đùi giữa nhóm tập luyện và nhóm chứng
(+0,04 g/cm² so với -0,98% BMD, p=0,05) [105]. Tương tự, ở Vancouver (Canada)
Nick D.Cater đã tiến hành nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng bằng
một chương trình tập luyện được thiết kế dành cho phụ nữ bị loãng xương tuổi từ 65
đến 75. Nhóm tham gia can thiệp được vào lớp tập thể dục 2 lần/tuần và nhóm
chứng không tập. Kết quả sau 20 tuần can thiệp,sau khi hiệu chỉnh về tuổi, hoạt
động thể chất và các năm sử dụng estrogen thì cải thiện cân bằng động của nhóm
can thiệp lớn hơn 4,9% so với nhóm chứng (p=0,044); Sau khi hiệu chỉnh hoạt động
thể chất, tình trạng nhận thức và số gãy xương thì sự cải thiện trong sức mạnh mở
rộng đầu gối của nhóm can thiệp lớn hơn 12,8% so với nhóm chứng (p=0,047).
Nhóm can thiệp cũng đã có sự cải thiện lớn hơn 6,3% trong sự cân bằng tĩnh sau khi
hiệu chỉnh cho viêm khớp, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,06)
[51].
4.2.2.4. Đánh giá hiệu quả can thiệp bằng bổ sung viên Calci-D cho người có mật
độ xương thấp
Theo kết quảsau hai năm can thiệp bằng thuốc Calci-D tại 4 phường, xã thì có tỷ lệ
53%người đạt tiêu chí can thiệp (5,4% tự túc thuốc). Như vậy, đủ cỡ mẫu theo thiết
kế nghiên cứu. Kết quả phân tích cũng cho thấy trong 47% trường hợp thất bại khi
can thiệp thì có 0,96% trường hợp tử vong (do bệnh lý khác),15% trường hợpkhông
dung nạp được thuốc, 23,6%trường hợp không tuân thủ về thời gian và số lượng
133
thuốc sử dụng, còn lại 7,4% trường hợp bị mất dấu mà chủ yếu do chuyển
nhà.Người có mật độ xương thấp ngoài việc được can thiệp bằng viên Calci-D cũng
được tư vấn trực tiếp và lập lại nhiều lần do đó kiến thức và thực hành đều gia tăng
đáng kể sau can thiệp.Có 99,4% người dân can thiệp nhận được thông tin về bệnh,
chỉ số hiệu quả về nhận thông tin thường xuyên là 1717%. Nguồn thông tin nhận
được từ nhân viên y tế có tỷ lệ cao nhất (94,6%) và chỉ số hiệu quả can thiệp là
3842%. Chỉ số hiệu quả can thiệp cao do bởi thông tin về bệnh loãng xương chưa là
nội dung truyền thông của tuyến y tế cơ sở trước can thiệp cho nên tỷ lệ rất thấp
người dân chưa tiếp cận thông tin từ nhân viên y tế. Khi có hoạt động can thiệp trực
tiếp đối với người có mật độ xương thấp sử dụng viên Calci-D thì nhân viên y tế
thường xuyên tiếp cận tư vấn và hỗ trợ các biện pháp phòng chống loãng xương.
Nhóm kiến thức đúng về khái niệm bệnh loãng xươngcó hơn82% và chỉ số hiệu quả
can thiệp là 202%. Nhóm biết yếu tố nguy cơ tăng cao sau can thiệp từ 16,7% lên
69,3%, chỉ số hiệu quả 315%. Riêng kiến thức phòng bệnh như ăn thức ăn giàu can-
xi, tập thể dục thể thao phòng tránh loãng xương, những loại thức ăn giàu can-xi và
những người cần kiểm tra mật độ xương định kỳ có tỷ lệ trả lời đúng rất cao và chỉ
số hiệu quả là 241%. Về thực hành, kết quả cho thấy nhóm có hành vi có hại cho
xương đều giảm sau can thiệp, tỷ lệ trung bình điểm 11% giảm còn 4,1% và chỉ số
hiệu quảlà 62,7%. Nhóm có hành vi có lợi cho xương đều tăng tỷ lệ sau can thiệp,
tỷ lệ trung bình điểm từ 18,1% lên 71,3% và chỉ số hiệu quả 294%.
Kết quả về trung vị BMD cho thấy tăng 0,012 g/cm², điểm kiến thức tăng
16,5 và thực hành tăng 13 điểm. Kiến thức tốt sau can thiệp tăng 37,4% và chỉ số
hiệu quả là 364,3%. Thực hành tốt sau can thiệp tăng 56,6% và chỉ số hiệu quả là
1347,6%.
Kết quả về tỷ lệ loãng xương sau can thiệp giảm 13,3% và có 9,6% mật độ
xương trở về bình thường. Do bởi chọn tất cả người có mật độ xương từ ≤ -1 vào
can thiệp, cho nên có những người giảm mật độ xương nhưng gần ở mức bình
thường hoặc bị loãng xương nhưng mật độ xương gần với mức giảm mật độ xương
nếu thực hiện nhiều hành vi tích cực phối hợp uống viên Calci-D sẽ cải thiện về
134
BMD và từ đó có những người từ loãng xương trở về giảm mật độ xương và từ
giảm mật độ xương trở về bình thường.
Một nghiên cứu can thiệp dinh dưỡng bổ sung can-xi cho phụ nữ lớn tuổi ở Úc từ
năm 2007 đến 2009 với mục đíchso sánhchế độ ăn uốngbổ sungcan-xicủa phụ
nữcaotuổivới những khuyến nghịchế độ ăn uốngcủaÚcvàđiềutrasự phổ biếncủa
việcbổ sung viên can-xiở người phụ nữ cao tuổi. Cộng đồngphụ nữ từ70 đến 80tuổi
đã được chọnngẫu nhiêncho nghiên cứu2nămcan thiệpở Tây Úc. Chế độ ăn uống
được đánh giá bằng một thực đơn dinh dưỡng cao trong 3 ngày/tuần. Tổng cộng
có218phụ nữđã tham gia.Kết quả phân tích cho thấylượng can-xitrungbìnhđược
cung cấp là852±298mg/ngày,thấp hơnkhuyến nghịcủa Úc.Đối tượnguống bổ
sungcan-xithấp hơn 1/4 vàchỉ có 3%uống vitaminD bổ sung. Lượng can-
xibổsungtrung bình427±122mg/ngày vànhư vậy tổng lượngcan-xitănglênđến
955±504mg/ngày,tuy nhiên vẫn cònthấp hơn 13%sovớiyêu cầutrung bìnhdự kiến
(Estimated Average Riquirement-EAR, 1100 mg/ngày) chocácphụ nữ trongnhóm
tuổi này. Phụ nữ uốngbổ sung can-xicómộtlượng can-xicao hơn(1501±573mg)
sovớinhững người phụ nữchỉ do chế độ ăn uống(813±347mg). Cáckếtquảcủa nghiên
cứu nàycho thấyrằng phần lớnphụ nữcaotuổikhông đượcđápứngnhu cầu can-xitừchế
độ ăn uống. Để đạt đượclượngcan-xitheo khuyến cáothìchiến lượctốt hơnlà cung
cấp can-xitừ cả haichế độ ăn uống vàbổ sung can-xi [127]. Như vậy, với kết quả
nghiên cứu này thì việc vừa thực hiện chế độ ăn giàu chất can-xi phối hợp với uống
viên can-xi là biện pháp phòng tránh loãng xương hoặc giảm mức độ bệnh qua việc
cung cấp đủ lượng can-xi hàng ngày theo khuyến cáo. Viện dinh dưỡng Quốc gia
Việt Nam khuyến nghị người từ 50 tuổi trở lên nên cung cấp lượng can-xi tối thiểu
1.000mg/ngày và theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi người có mật độ xương
thấp được sử dụng 600mg/ngày qua thuốc cung cấp và cùng với tăng cường ăn uống
những chất giàu can-xi thì sẽ đảm bảo lượng can-xi cung cấp hàng ngày hơn
1.000mg.
Tương tự nghiên cứu can thiệp trên người có mật độ xương thấp, người có
nguy cơ cao như nghiên cứu của chúng tôi, tại Ontario Canada có một nghiên cứu
can thiệp dựa vào cộng đồng để tối ưu hóa việc quản lý loãng xương. Có 201 đối
135
tượng tham gia tuổi từ 55 trở lên(101 đối tượng can thiệp và 100 đối chứng).Nội
dung của can thiệp hướng về các bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu và người bệnh,
bao gồm tạo điều kiện đomật độ xương, giáo dục người bệnh và khuyến nghị người
bệnh cụ thể để điều trị loãng xương. Người bệnh được tư vấn cá nhân từ các cán bộ
nghiên cứu, họ cũng nhận được tài liệu giáo dục về can-xi và vitamin D, các yếu tố
nguy cơ loãng xương và kết quả mật độ xương.Kết quả các đối tượng can thiệp
được điều trị thuốc chống loãng xương tăng 29% so với chăm sóc thông thường
(RR:2,09; 95% CI: 1,29-3,4). Nhiều cá nhân trong nhóm can thiệp đã được dùng
can-xi (54% nhóm can thiệp so với 20% của nhóm chứng; RR: 2.67; 95% CI:1,74-
4,12) và vitamin D (33% nhóm can thiệp so với 20% của nhóm chứng; RR:
1,63;95% CI: 1,01-2,65).Nghiên cứu này đã chứng minh rằng một chương trình can
thiệp nhiều thành phần hướng vào người bệnh có nguy cơ bị gãy xương và các bác
sĩ của họ sẽ tăng gấp đôi tỷ lệ quản lý loãng xươngthích hợp so với chăm sóc thông
thường trong cộng đồng [103].
4.2.2.5.Đánh giá hiệu quả can thiệp trên tình trạng mật độ xương ở người dân từ
45 tuổi trở lên
Theo kết quả nghiên cứu thì BMD của người dân sau can thiệp tăng hơn so với
trước can thiệp và so với nhóm chứng. Trung bình BMD sau can thiệp tăng 0,021
g/cm² trong khi nhóm chứng chỉ tăng 0,008 g/cm². Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê p<0,01. Tỷ lệ loãng xương trước can thiệp 41,5% và sau can thiệp ở nhóm
can thiệp là 34,1% giảm 7,4%, so với nhóm chứng chỉ giảm 2,1%, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Hiệu quả can thiệp trên tỷ lệ loãng xương là 12,4%. Tuy nhiên, tỷ lệ
giảm mật độ xương thay đổi không đáng kể, giảm 1,6% ở nhóm can thiệp và tăng
1,4% ở nhóm chứng sau can thiệp,hiệu quả can thiệp trên nhóm giảm mật độ xương
là 7,9%. Tỷ lệ mật độ xương bình thường sau can thiệp ở nhóm can thiệp tăng 9%,
trong khi nhóm chứng chỉ tăng 0,7%.
Tương tự kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tại thành phố Thái Bình,một
nghiên cứu trên phụ nữ từ 40 đến 65 tuổi được thực hiện tại 2 phường với mục tiêu
đánh giá hiệu quả của một số biện pháp can thiệp dinh dưỡng và luyện tập dự phòng
giảm mật độ xương. Có 259 phụ nữ giảm mật độ xương được chọn vào nhóm đối
136
chứng, nhóm can thiệp gồm 139 phụ nữ giảm mật độ xương áp dụng các biện pháp
can thiệp (truyền thông, luyện tập, thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý kèm theo bổ
sung can-xi và vitamin D) đã được cộng đồng chấp nhận và tham gia thực hiện. Kết
quả cho thấy hiệu quả phục hồi giảm mật độ xương quay là 10,2% và xương chày là
42,8%. Hiệu quả bảo vệ không bị mắc mới giảm mật độ xương đối với xương quay
là 21,4%, xương chày là 25,7%. Hiệu quả bảo vệ không bị mắc mới loãng xương
đối với xương quay là 1,3%, xương chày là 13,5% [25].
4.2.2.6. Đánh giá hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành phòng chống
loãng xương ở người dân từ 45 tuổi trở lên
Theo kết quả nghiên cứu, điểm trung bình kiến thức của người dân nghiên
cứu tại các phường, xã can thiệp tăng 8,1 điểm so với phường, xã chứng chỉ tăng
2,74 điểm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,01.Về thực hành, điểm trung bình
của người dân nghiên cứu tại các phường, xã can thiệp tăng 8,3 điểm trong khi tại
các phường, xã chứng giảm 0,9 điểm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả
phân loại kiến thức tốt của người dân nghiên cứutại các phường, xã can thiệp từ
9,9% trước can thiệp tăng lên 29,6% sau can thiệp (tăng 19,7%), tại các phường, xã
chứng trước can thiệp là 10,8% nhưng sau can thiệp chỉ còn 4,8% (giảm 6%). Về
phân loại thực hành tốt tại các phường, xã can thiệp từ 9,9% trước can thiệp tăng lên
19,8% sau can thiệp (tăng 9,9%), trong khi đó tại các phường, xã chứng trước can
thiệp là 9,3% sau can thiệp giảm còn 6,5%.
Một nghiên cứu có kết quả tương tự nghiên cứu của chúng tôi đó là sự gia tăng kiến
thức và hành vi tốt qua việc đánh giá hiệu quả của sự giáo dục loãng xương dựa vào
cộng đồng và quy trình quản lý loãng xương đã được thực hiện tại Úc. Mục đích
của nghiên cứu này nhằm xác định xem việc tham gia khóa học được thiết kế hỗ trợ
cho các cá nhân để ngăn chặnbệnh và tự quản lý bệnh loãng xươngqua việc cải
thiện về kiến thức, tính tự hiệu quả, kỹ năng tự quản lý hoặc thay đổi hành vi. Đối
tượng nghiên cứu gồm 198 người (92% nữ) trên 40 tuổi tuyển chọn từ cộng đồng
được phân ngẫu nhiên vào nhóm chứng (n = 95) và can thiệp (n = 103). Khóa học
bao gồm bốn buổi một tuần và qua 6 tuần theo dõi, nhóm can thiệp cho thấy một sự
137
gia tăng đáng kể về kiến thức loãng xương so với nhóm chứng và cũng cho thấy có
một sự gia tăng lớn trong định hướng hành vi sức khỏe [57].
Riêng tại Ai Cập, một cuộc khảo sát vào năm 2008 cho thấy mức độ nhận thức về
bệnh loãng xương là thấp sau khi phỏng vấn 462 người tuổi từ 40 trở lên và 262
thầy thuốc. Một nghiên cứu can thiệp khác là giáo dục sức khỏe nhằm đánh giá kiến
thức và lựa chọn lối sống của trẻ gái vị thành niên liên quan đến loãng xương. Có
616 em học sinh tham gia và kết quả cho thấy vì lo sợ béo phì mà hạn chế uống sữa
(71,3%), thiếu tập luyện (62,5%). Sau can thiệp có sự thay đổi đáng kể về kiến thức
liên quan đến loãng xương (76,8%), tuổi xảy ra bệnh (74,6%), triệu chứng báo động
của loãng xương (74,1%). Gần 86% đối tượng tham gia có tăng nhận thức về việc
uống sữa, 69% cho biết là thể thao rất tốt cho xương [92].
4.2.3. Kết quả duy trì hoạt động can thiệp
Trong quá trình hoạt động can thiệp phòng chống loãng xương tại cộng đồng,
chương trình nghiên cứu được sự ủng hộ của ngành y tế tại các địa phương, được sự
quan tâm và hợp tác của các hội, đoàn, sự phối kết hợp của các cơ sở y tế tư nhân,
của các doanh nghiệp kinh doanh thuốc và sữa, đặc biệt là được người dân đồng
thuận cao. Điểm mới của đề tài nghiên cứu là lần đầu tiên xây dựng và triển khai
hoạt động can thiệp phòng chống loãng xương tại cộng đồng thuộc thành phố Hồ
Chí Minh với sự kết hợp một số biện pháp nhằm đạt mục tiêu giảm mất can-xi của
xương và tăng cường hấp thu can-xi để duy trì sức khỏe xương ở những người dân
nghiên cứu. Hoạt động can thiệp đã thực hiện tại tuyến y tế cơ sở nơi mà cũng đang
triển khai nhiều chương trình y tế và như vậy sẽ tận dụng được nguồn lực sẵn có để
phối hợp can thiệp nhằm bảo vệ sức khỏe người dân nhất là ở người cao tuổi. Do
đó, để duy trì hoạt động can thiệp và định hướng sẽ triển khai thành một chương
trình y tế thực sự của thành phố Hồ Chí Minh, Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM
đã chấp thuận đề tài tiếp tục duy trì mô hình can thiệp theo Quyết định số 396/QĐ-
SKHCN ngày 23 tháng 7 năm 2013 về phê duyệt đề tài: “Đánh giá hiệu quả một số
biện pháp can thiệp cộng đồng phòng chống loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên
tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2013 đến 2015”, kéo dài thời gian can thiệp
138
thêm 2 năm. Như vậy, chương trình sẽ tiếp tục duy trì và có đủ thời gian để so sánh
đánh giá sau hai giai đoạn can thiệp.
Sự phối kết hợp Hội Y tế công cộng, Hội Loãng xương thành phố Hồ Chí
Minh đã củng cố quyết tâm của các nhà lãnh đạo mong muốn triển khai đại trà hoạt
động can thiệp phòng chống loãng xương tại tuyến y tế cơ sở. Bên cạnh đó, sự quan
tâm của lãnh đạo ngành y tế thành phố đã thể hiện qua việc biên soạn và cho lưu
hành trong ngành tài liệu “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh loãng
xương” vào tháng 10 năm 2013. Trong điều 2 của Quyết định ban hành tài liệu này
đã cho phép áp dụng cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thuộc thành phố Hồ Chí
Minh có đủ điều kiện thực hiện theo quy định hiện hành, là căn cứ pháp lý cho việc
thực hiện kỹ thuật, phát triển chuyên môn kỹ thuật, nghiên cứu khoa học, chuyển
tuyến, thanh toán viện phí và bảo hiểm y tế [28].
4.2.4. Hạn chế của đề tài
Đề tài sẽ tăng giá trị khoa học hơn nếu đo mật độ xương bằng phương pháp hấp thụ
năng lượng kép X quang ở vị trí trung tâm (cổ xương đùi và cột sống). Tuy nhiên,
nghiên cứu được thực hiện tại cộng đồng cho nên phương pháp đo mật độ xương
bằng DXA ở ngoại biên là khả thi hơn. Để khắc phục hạn chế này, hướng nghiên
cứu tiếp theo sẽ so sánh mật độ xương (g/cm²) đo ở vị trí trung tâm (được quy đổi
thành số T-score) với đo ở ngoại biên (cẳng tay) xem có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê hay không. Bên cạnh đó, cần khảo sát mật độ xương ở người thanh niên
trẻ (20-30 tuổi) người Việt Nam để tìm giá trị tham chiếu cho chẩn đoán loãng
xương, giảm mật độ xương đối với máy đo DXA ngoại biên.
Trong nghiên cứu can thiệp trên người dân có mật độ xương thấp bằng viên
Calci-D và một số biện pháp như truyền thông phòng chống bệnh loãng xương, tập
luyện nâng cao thể lực, thực hiện chế độ dinh dưỡng giàu can-xi chỉ theo dõi dọc và
so sánh trước sau mà không có nhóm đối chứng. Đây là hạn chế của đề tài, kết quả
nghiên cứu có giá trị khoa học hơn nếu có nhóm đối chứng để so sánh.
Nghiên cứu chỉ thực hiện trên người dân từ 45 tuổi trở lênvà đây là đối tượng có tỷ
lệ nguy cơ mắc bệnh cao. Do đó, các biện pháp can thiệp dự phòng đều đã muộn,
hiệu quả can thiệp thấp so với người dân tuổi trẻ hơn. Loãng xương là bệnh của tuổi
139
trẻ nhưng hậu quả của nó là ở tuổi già [67], như vậy can thiệp càng sớm thì hiệu quả
phòng bệnh càng cao
KẾT LUẬN
1. Tỷ lệ loãng xƣơng và một số yếu tố liên quanở ngƣời dân từ 45 tuổi trở lên
tại thành phố Hồ Chí Minh
Từ kết quả nghiên cứu mật độ xương của 989 người dân bằng phương pháp
DXA ngoại biên ở vị trí 1/3 dưới cẳng tay, chúng tôi có một số kết luận sau:
- Người dânhiện mắc loãng xương cao, tỷ lệ 39,9% (trong đó ở nam giới
37,8% và nữ giới 41,5%), tỷ lệ giảm mật độ xương là 38,1%.
- Tỷ lệ loãng xương tăng dần theo nhóm tuổi:7,2% (45-49 tuổi),15,2% (50-
54 tuổi),30,9% (55-59 tuổi),53,2% (60-64 tuổi), 61,9% (65-69 tuổi),70,3% (70-74
tuổi), 84,9% (75-79 tuổi),85,7% (từ 80 tuổi trở lên).
- Tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh là 52,6%.
-Trung bình BMD đo vị trí cẳng tay ở người dân loãng xương là 0,334 g/cm² ± 0,08
(nam giới 0,402 g/cm² ± 0,07, nữ giới 0,257 g/cm² ±0,05).
- Một số yếu tố liên quan đến tình tình trạng loãng xƣơng
Phân tích trên mô hình hồi quy logistic đa biến, tình trạng loãng xương có
liên quan đến các yếu tố: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, BMI, tiền sử gia đình bị loãng
xương, sử dụng corticoid, thói quen uống sữa, tập thể dục thể thao, lạm dụng rượu
bia, giảm chiều cao, kiến thức và thực hành phòng chống loãng xương. Đối với phụ
nữ, tình trạng mật độ xương có liên quan đến tuổi có kinh, tuổi mãn kinh, sinh nhiều
con khi phân tích đơn biến. BMD có liên quan đến tình trạng xẹp xương đốt sống ở
người loãng xương.
Những yếu tố không liên quan đến loãng xương trên mô hình hồi quy đa biến làyếu
tố địa dư, trình độ học vấn, gãy xương do chấn thương nhẹ, hút thuốc lá.
2. Hiệu quảmột số biện pháp can thiệp cộng đồng
- Đối với người dân từ 45 tuổi trở lên sau hai năm thực hiện một số biện pháp can
thiệp cộng đồng phòng chống loãng xương và kết quả điều tra trên 399 người dân,
chúng tôi có một số kết luận sau:
140
+Truyền thôngvề bệnh loãng xương đạt 80% dân số mục tiêu, hiệu quả can thiệp
trên nhận thông tin thường xuyên là 548%.
+Người dân thực hiện ăn uống bổ sung can-xi tăng từ 15,9% lên 64,2% sau
can thiệp, hiệu quả can thiệp trên hành vi uống sữa là 20,7%, ăn nhiều chất có hàm
lượng can-xi cao là 179% và uống viên can-xi là 80,7%.
+Tỷ lệ người dân tập thể dục tăng từ 37,9% lên 57,9% sau can thiệp. Hiệu
quả can thiệp trên hành vi tập thể dục là 49,1%.
+Trung bình BMD người dân can thiệp tăng 0,021 g/cm².
+Tỷ lệ loãng xương sau can thiệp là 34,1% (giảm 7,4%), hiệu quả can thiệp 12,4%.
Tỷ lệ mật độ xươngbình thường 30,8% (tăng 9%), hiệu quả can thiệp 38%.
+Kiến thức tốt sau can thiệp là 29,6% (tăng 19,7%), hiệu quả can thiệp
255%.Thực hành tốt sau can thiệp là 19,8% (tăng 9,9%), hiệu quả can thiệp 130%.
- Đối với người dân có mật độ xương thấp sau hai năm can thiệp bằng truyền
thông, tập luyện, dinh dưỡng bổ sung can-xi vàsử dụng viên Calci-D, chúng tôi có
một số kết luận sau:
+Trung bình BMD tăng 0,012g/cm².
+ Tỷ lệ loãng xương giảm 13,3%, chỉ số hiệu quả 20,4%.
+ Kiến thức tốt tăng 37,4%, chỉ số hiệu quả 364,3%.
+ Thực hành tốt tăng 56,6%, chỉ số hiệu quả 1347,6%.
141
KIẾN NGHỊ
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi xin kiến nghị một số vấn đề sau:
- Tuyến y tế cơ sở cần tăng cường công tác truyền thông giáo dục sức khỏe, nâng
cao nhận thức của người dân về phòng, chống bệnh loãng xương. Điều chỉnh lối
sống để tối ưu hóa mật độ xương từ tuổi trẻ và làm giảm bớt mức độ mất xương liên
quan đến tuổi nhằm giảm tỷ lệ mắc cũng như biến chứng của bệnh loãng xương về
sau. Tổ chức các khóa đào tạo để cán bộ y tế cơ sở có kiến thức và kỹ năng phát hiện,
tư vấn, chăm sóc, điều trị loãng xương và biến chứng của nó.
- Cần trang bị cho tuyến quận, huyện phương tiện tầm soát loãng xương,
phương tiện hỗ trợ chăm sóc và điều trị loãng xương, quản lý và điều trị gãy xương,
phục hồi chức năng.
- Khuyến cáo sử dụng thuốc Calci-D ở người có mật độ xương thấp và những người
thường xuyên có chế độ ăn không đủ can-xi theo khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng
quốc gia để cải thiện tình trạng mật độ xương, giảm sự mất xương do thiếu cung cấp
can-xi.
142
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Trung Hòa, Nguyễn Văn Tập, Đào Văn Dũng, Nguyễn Thị Thùy Dương
(2013),“Tỷ lệ loãng xương và một số yếu tố liên quan ở người 45 tuổi trở lên tại
thành phố Hồ Chí Minh năm 2011”, Tạp chí Y học dự phòng, tập XXIII, số 7(143),
2013, tr.93-98
2. Nguyễn Trung Hòa, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Văn Tập, Phạm Thanh Bình
(2014), “Kiến thức, thái độ phòng chống loãng xương ở người 45 tuổi trở lên tại
thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Y học Cộng đồng, số 8, 2014, tr. 8-13.
3. Nguyễn Trung Hòa, Nguyễn Văn Tập, Đào Văn Dũng (2014), “Hiệu quả một số
biện pháp can thiệp cộng đồng phòng chống loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên
tại thành phố Hồ Chí Minh”,Tạp chí Y học dự phòng, tập XXIV, số 6 (155), tr. 103-
108.
143
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Hoài Châu (2003), “Khảo sát mật độ xương và tìm hiểu những yếu
tố liên quan đến bệnh loãng xương của phụ nữ ở thành phố Hồ Chí Minh và
một số tỉnh miền Tây”,Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 7(1), tr. 126-
129.
2. Trần Hoàng Minh Châu (2010), “Tỷ lệ gãy xương có triệu chứng lâm sàng và
một số yếu tố nguy cơ ở người trên 50 tuổi tại quận Gò Vấp thành phố Hồ Chí
Minh sau 5 năm theo dõi”, Kỷ yếu các báo cáo hội nghị khoa học loãng xương,
gãy xương và vitamin D, Cần Thơ, tr. 16-26.
3. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2010), Báo cáo dân số và mật độ dân số
năm 2010, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Mai Thị Công Danh (2010), “Kiến thức và thói quen sinh hoạt có liên quan đến
loãng xương của phụ nữ sau mãn kinh tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2006”,
Kỷ yếu các báo cáo hội nghị khoa học loãng xương, gãy xương và vitamin D,
Cần Thơ, tr. 71-72.
5. Đào Văn Dũng, Hoàng Đình Huề, Võ Văn Thắng và cs (2008), Thiết kế nghiên
cứu hệ thống y tế, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
6. Lê Dũng, Nguyễn Trung Kiên (2012), “Khảo sát tình hình loãng xương ở người
cao tuổi tại thành phố Cần Thơ năm 2011”, Tạp chí Y học thực hành, tập
825(6), tr. 6-9.
7. Lưu Ngọc Giang (2011), “Mối liên quan giữa loãng xương và thời gian mãn
kinh của phụ nữ ở thành phố Mỹ Tho”, Tạp chí Y học thực hành, tập 751(2), tr.
21-24.
8. Vũ Thị Thu Hiền và cs (2007), “Xác định mức độ phổ biến và yếu tố liên quan
đến bệnh loãng xương ở phụ nữ Việt Nam bằng phương pháp siêu âm định
lượng”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, tập 50(4), tr. 7-15.
144
9. Nguyễn Trung Hòa (2008), Nghiên cứu tình hình loãng xương và một số yếu tố
liên quan ở người trên 45 tuổi tại quận Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh năm
2008,Luận án Chuyên khoa cấp 2, Đại học Y dược Huế.
10. Lưu Ngọc Hoạt (2008), Thống kê – Tin học ứng dụng trong nghiên cứu y học,
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 36-63
11. Nguyễn Thị Kim Hưng (2003), “Can-xi và dinh dưỡng phòng ngừa loãng
xương”, Kỷ yếu các báo cáo khoa học hội nghị khoa học chuyên đề loãng
xương và bệnh cột sống,thành phố Hồ Chí Minh, tr. 21-24.
12. Đỗ Thị Khánh Hỷ (2008), “Tìm hiểu mật độ xương, tình trạng loãng xương và
một số yếu tố ảnh hưởng ở phụ nữ sau mãn kinh”, Tạp chí Nghiên cứu Y học,
tập 58(5), tr. 75-81.
13. Đào Thị Vân Khánh, Nguyễn Hoàng Thanh Vân, Nguyễn Thị Huyền Trang
(2009), “Khảo sát tình hình loãng xương ở phụ nữ lớn tuổi bằng máy siêu âm
định lượng”, Tạp chí Y học thực hành, tập 644, 645(2), tr. 20-22.
14. Nguyễn Thy Khuê (2008), “Loãng xương do glucocorticoid”, Kỷ yếu các báo
cáo khoa học Tầm nhìn Châu Á về loãng xương, thành phố Hồ Chí Minh, tr.
25-27.
15. Hồ Phạm Thục Lan và cs (2008), “Ăn chay trường và loãng xương: một nghiên
cứu trên các ni cô phật giáo”, Kỷ yếu các báo cáo khoa học Tầm nhìn Châu Á
về loãng xương, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 16.
16. Hồ Phạm Thục Lan và cs (2011), “Chẩn đoán loãng xương: ảnh hưởng của giá
trị tham chiếu”,Thời sự y học - Tạp chí Y khoa của Hội Y học thành phố Hồ
Chí Minh, tập 1-2(57), tr. 3-10.
17. Hồ Phạm Thục Lan và cs (2011), “Chẩn đoán gãy xương đốt sống: Phát triển giá
trị tham chiếu cho người Việt – Quy mô gãy xương đốt sống ở người Việt”,
Thời sự Y học-Tạp chí Y khoa của Hội Y học thành phốHồ Chí Minh, tập 8(63),
tr. 3-16.
18. Hồ Phạm Thục Lan, Nguyễn Văn Tuấn (2011), “Sinh lý học loãng xương”,
Thời sự Y học-Tạp chí Hội Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 7(62), tr. 22-28.
145
19. Hồ Phạm Thục Lan (2011), Cẩm nang điều trị Loãng xương, Nhà xuất bản Y
học, Hà Nội, tr. 100-107.
20. Nguyễn Thị Lực, Hữu Thị Chung (2003), “Đánh giá mật độ xương ở 840 phụ
nữ bằng phương pháp siêu âm”, Kỷ yếu các báo cáo khoa học chuyên đề loãng
xương và bệnh cột sống, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 25-28.
21. Marlena C. Kruger và cs (2010), “Tác dụng của sữa tăng cường can-xi và
vitamin D đối với tình trạng vitamin D và chu chuyển xương ở phụ nữ sau mãn
kinh Đông Nam Á”, Kỷ yếu các báo cáo hội nghị khoa học loãng xương, gãy
xương và vitamin D, Cần Thơ, tr. 55-70.
22. Trần Văn Nam, Nguyễn Văn Công (2010), “BMD và gãy xương”, Kỷ yếu các
báo cáo hội nghị khoa học loãng xương, gãy xương và vitamin D, Cần Thơ, tr.
34.
23. Nguyễn Đình Nguyên (2010), “Vai trò của các yếu tố nguy cơ trong tiên đoán
gãy xương”, Kỷ yếu các báo cáo hội nghị khoa học loãng xương, gãy xương và
vitamin D, Cần Thơ, tr. 35-40.
24. Ninh Thị Nhung, Phạm Ngọc Khái, Phạm Ngọc Châu (2010), “Loãng xương
và giảm mật độ xương của phụ nữ 40-65 tuổi tại một số khu vực của tỉnh Thái
Bình”, Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, tập 6(1).
25. Ninh Thị Nhung, Phạm Ngọc Khái, Phạm Ngọc Châu (2010), “Hiệu quả của
một số biện pháp can thiệp dự phòng loãng xương cho phụ nữ 40-65 tuổi tại
Thái Bình”, Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, tập 6(1).
26. Nguyễn Văn Quang (2008), “Bác sĩ chỉnh hình và loãng xương”, Kỷ yếu các
báo cáo khoa học Tầm nhìn Châu Á về loãng xương, thành phố Hồ Chí Minh,
tr. 65-66.
27. Đỗ Trung Quân (2005), Bệnh nội tiết chuyển hóa thường gặp, Nhà xuất bản Y
học, Hà Nội, tr. 481-496.
28. Sở Y tế TPHCM (2013), Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh
loãng xương, Ban hành theo Quyết định số 1983/QĐ-SYT, thành phố Hồ Chí
Minh
146
29. Nguyễn Văn Thái, Đặng Thị Bé Thu, Phạm Thanh Tân (2010), “Gãy đầu dưới
xương quay, cổ xương đùi, cổ phẫu thuật xương cánh tay, điều trị và phòng
ngừa tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TPHCM”, Kỷ yếu các báo cáo hội
nghị khoa học loãng xương, gãy xương và vitamin D, Cần Thơ, tr. 27-29.
30. Trần Đức Thọ (2005), Bệnh loãng xương ở người cao tuổi, Nhà xuất bản Y
học, Hà Nội.
31. Nguyễn Văn Thọ, Lê Nguyễn Thụy Khanh, Lê Thị Tuyết Lan (2010), “Nghiên
cứu mật độ xương bằng đo hấp thụ năng lượng tia X kép ở người sử dụng
corticoides kéo dài”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 14(1), tr. 21-
27.
32. Nguyễn Huy Thông, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Thị Phi Nga, Đoàn Văn Đệ
(2010), “Đánh giá mật độ xương và tỷ lệ loãng xương ở các bệnh nhân khám
và điều trị tại Bệnh viện 103 bằng phương pháp hấp thụ tia X năng lượng kép”,
Tạp chí Y-Dược học quân sự, tập 35(1), tr. 107-113.
33. Vũ Thị Thanh Thuỷ, Trần Ngọc Ân (2003), “Tổng quan nghiên cứu loãng
xương tại Bệnh viện Bạch Mai từ 1992-2002”, Kỷ yếu các báo khoa học
chuyên đề loãng xương và bệnh cột sống, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 15-17.
34. Vũ Thị Thanh Thủy (2009), “Những tiến bộ mới trong điều trị loãng xương”,
Kỷ yếu báo cáo chuyên đề: Cơ xương khớp-Những tiến bộ trong chẩn đoán và
điều trị, Tạp chí của Tổng Hội y học Việt Nam, Hà Nội, số 4, tr. 33-35.
35. Vũ Thị Thanh Thủy, Trần Ngọc Ân (2010), “Đánh giá những nguy cơ loãng
xương sau mãn kinh ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, tập 68(3),tr. 49.
36. Lê Anh Thư (2008), “Chọn lựa thuốc điều trị loãng xương ở Việt Nam”, Kỷ
yếu các báo cáo khoa học Tầm nhìn Châu Á về loãng xương, thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 32-33.
37. Lê Anh Thư (2009), Những tiến bộ chính trong lĩnh vực loãng xương và thách
thức trong chọn lựa-quản lý điều trị loãng xương, Báo cáo khoa học chuyên đề
cập nhật mới trong chẩn đoán, điều trị loãng xương và bệnh xương khớp, Hội
Loãng xương thành phố Hồ Chí Minh.
147
38. Lê Thanh Toàn, Vũ Đình Hùng (2011), “Loãng xương ở bệnh nhân đái tháo
đường tại Bệnh viện Chợ Rẫy”, Kỷ yếu các báo cáo tại hội nghị khoa học lần
thứ 9 chuyên đề: Thành tựu 10 năm xương khớp tại TPHCM, tr.113-119.
39. Phạm Văn Tú, Trần Ngọc Ân, Vũ Thị Thanh Thủy (2003), “Nhận xét mật độ
xương của nam giới bình thường từ 50 tuổi trở lên bằng phương pháp đo hấp
thụ tia X năng lượng kép”, Kỷ yếu các báo cáo khoa học chuyên đề loãng
xương và bệnh cột sống, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 41-44.
40. Nguyễn Văn Tuấn (2007), Loãng xương chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa,
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
41. Nguyễn Văn Tuấn (2008), “Loãng xương”, Thời sự Y học – Tạp chí Hội Y học
thành phố Hồ Chí Minh, tập 7(29), tr. 11-33.
42. Nguyễn Văn Tuấn (2009), “Di truyền trong loãng xương: Tiến tới cá nhân hóa
tiên lượng và điều trị”, Kỷ yếu các báo cáo chuyên đề nội tiết-Đái tháo đường,
thành phố Hồ Chí Minh, tr. 311-315.
43. Đại Phi Vân, Nguyễn Thái Thành, Trần Thị Ngọc Dung (1998), “Đo tỷ trọng
xương ở phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh ở độ tuổi từ 45-70”, Kỷ yếu các báo
cáo khoa học chuyên đề loãng xương và bệnh cột sống, thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 57-58.
44. Bùi Đức Văn, Nguyễn Văn Tín, Bùi Văn Dủ (2010), “Tỷ lệ loãng xương và các
yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân ≥50 tuổi tại khoa nội BVĐKKV Cái Nước-Cà
Mau”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 14, tr. 418-423.
45. Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Bộ Y tế (2006), Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị
cho người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học,tr. 33-35, 56-58.
Tiếng Anh
46. Amani A Osman (2013), “Assessment of Osteoporosis KAP among women in
Assir region, Saudi Arabia”, Journal of Medicine and Medical Sciences, Vol.
4(2),pp. 50-55.
(2003), Community-based osteoporosis
47. Ann-Charlotte, Grahn Kronhed
prevention: Physical activity in relation to bone density, fall prevention, and the
148
effect of training programmes,The Vadstena Osteoporosis Prevention Project,
Sweden.
48. Anoop Kuttikat et al (2004), “Management of Osteoporosis”, Journal Indian
Rheumatol Association, Vol. 12, pp. 104-118.
49. Australian Institute of Health and Welfare (2011), A Snapshot of Osteoporosis in
Australia, Report of the National Center for Monitoring Arthritis and
Musculoskeletal Conditions at the Australian Institute of Health and Welfare.
50. B. Häussler, H. Githe, D. Göl, G. Glaeske, L. Pientka, D. Felsenberg (2007),
“Epidemiology, treatment and cost of osteoporosis in Germany – the BoneEVA
Study”, Osteoporosis Int., Vol. 18, pp.77-84.
51. D. Nick Carteret al. (2002), “Community-based exercise program reduces risk
factors for falls in 65 to 75 year-old women with osteoporosis: randomized
controlled trial”,CMAJ, Vol. 167(9), pp. 997-1004.
52. Didier B.Hans et al. (2008), “Peripheral Dual-Energy X-Ray Absorptiometry in
the Management of Osteoporosis: The 2007 ISCD Official Position”, Journal
of Clinical Densitometry: Assessment of Skeletal Health, Vol. 11(11), pp. 188-
206.
53. Elizabeth Barrett-Connor et al. (2005), “Osteoporosis and Fracture Risk in
Women of Different Ethnic Groups”, Journal of Bone and Mineral research,
Vol. 20(2), pp. 185-194.
54. Ellen Edmonds et al. (2012), “Osteoporosis knowledge, beliefs, and calcium
intake of college students: Utilization of the health belief model”, Journal of
preventive Medicine, Vol. 2(1), pp. 27-32.
55. Fahad M. Al-Shahrani et al. (2010), “Knowledge of osteoporosis in middle-aged
and elderly women”, Saudi Medicine Journal, Vol. 31(6), pp. 684-687.
56. Farida Habid et al. (2012), “Assessment and modification of risk behavior
osteoporosis among childbearing working women”, Journal of American
Science, Vol. 8(9), pp.111-119.
149
57. Francis KL et al. (2009), “Effectiveness of a community-based osteoporosis
education and self-management course: a wait list controlled trial”,
Osteoporosis Int., Vol. 20(9), pp. 1563-1570.
58. G. Maalouf et al. (2007), “Middle East and North Africa consensus on
osteoporosis”, Journal Musculoskelet Neuronal Interact, Vol. 7(2), pp.131-
143.
59. Glen M. Blake, Ignac Fogelman (2001), “Peripheral or Central Densitometry:
Does It Matter Which Technique We use?”, Journal of Clinical Densitometry,
Vol. 4(2), pp. 83-96.
60. Gourlay ML, Callahan LF, Preisser JS, Sloane PD (2007), “Osteoporosis
preventive care in white and black women in community family medicine
settings”, Journal Family Medicine, University of North Carolina, Vol. 100(7),
pp. 677-682.
61. Gourlay Margaret L. et al. (2006), “Survey of Osteoporosis Preventive Care in
Community Family Medicine Settings”, Journal Family Medicine, Vol. 38(10),
pp. 724-730.
62. Health Service Excutive and the Department of Health and Children and the
National Council on Ageing and Older People (2008), Strategy to prevent falls
and fractures in Ireland´s Ageing population. Sumary, Conclusions and
Recommendations, Ireland.
63. International Osteoporosis Foundation (2004), Invest in your bones Osteoporosis
in Men the silent epidemic strikes men too, Report of International
Osteoporosis Foundation, pp.1-16.
64. International Osteoporosis Foundation (2005), Invest in your bones. Move it or
Lose it. How excercise helps to build and maintain strong bones, prevent falls
and fractures, and speed rehabilitation, Report annual of International
Osteoporosis Foundation.
150
65. International Osteoporosis Foundation (2006), Bone Appetite. The role of food
and nutrition in building and maintaining strong bones, Report annual of
International Osteoporosis Foundation, pp.1-22.
66. International Osteoporosis Foundation (2007), Know and reduce your risk of
osteoporosis, Report annual of International Osteoporosis Foundation.
67. International Osteoporosis Foundation (2008), Beat the Break. Know and reduce
your osteoporosis risk factors,Report annual of International Osteoporosis
Foundation, pp. 1-14.
68. International Osteoporosis Foundation (2008), Osteoporosis in the European
Union in 2008: Ten years of progress and ongoing challengers, Report of
International Osteoporosis Foundation.
69. International Osteoporosis Foundation (2009), FRAX ® Identifying people at
high risk of fracture, WHO Fracture Risk Assessment Tool, a new clinical tool
for informed treatment decisions, Report of International Osteoporosis
Foundation, pp.1-16.
70. International Osteoporosis Foundation (2009), The Asian Audit Epidemiology,
cost and burden of osteoporosis in Asia 2009, Report annual of International
Osteoporosis Foundation, pp.1-57.
71. International Osteoporosis Foundation (2010), The Breaking Spin, Report of
International Osteoporosis Foundation.
72. International Osteoporosis Foundation (2010), The Eastern European and
Central Asian regional audit: Epidermiology, cost and burden of osteoporosis
in 2010, Report annual of International Osteoporosis Foundation.
73. International Osteoporosis Foundation (2011), The Middle East and Africa
regional Audit, Report annual of International Osteoporosis Foundation.
74. International Osteoporosis Foundation (2011), Three steps to unbreakable
bones: Vitamin D, Calcium and Exercise, Report of International Osteoporosis
Foundation.
151
75. International Osteoporosis Foundation (2012), The Latin America regional
Audit: Epidemiology, cost and burden of osteporosis in 2012, Report annual of
International Osteoporosis Foundation, pp. 1-67.
76. International Osteoporosis Foundation (2012), Facts and Statistics, Report of
International Osteoporosis Foundation.
77. John A. Kanis et al. (2008), “European guidance for the diagnosis and
management of osteoporosis in postmenopausal women”, Osteoporosis int.
Vol. 19, pp. 399-428.
78. Jian-min Liu, Guang Ning, Jia-lun Chen (2007), “Osteoporotic fractures in Asia:
risk factors and strategies for prevention”, Journal Bone Mineral Metabolism,
Vol. 25, pp. 1-5.
79. Jorge Morales-Torres (2007), “Strategies for the prevention and control of
osteoporosis in developing countries”, Review of Clinical Rheumatology
Mexico, Vol. 26(3), pp. 139-143.
80. Julienne K. Kirk, Mindy Nichols, John G.Spangler (2002), “Use of a Peripheral
Dexa Measurement for Osteoporosis Screening”, Clinical Research and
Methods, Vol. 34(3), pp. 201-205.
81. Kamila POSLUŠNÁ et al. (2008), “Risk factors of osteoporosis- Knowledge
and practices among adolescent females”, School and Health, Vol. 21, pp. 211-
220.
82. Karen Bohaty, Holly Rocole, Kelli Wehling, Nancy Waltman (2008), “Testing
the effectiveness of an educational intervention to increase dietary intake of
calcium and vitamin D in young adult women”, Journal of the American
Academy of Nurse Practioners, Vol. 20, pp. 93-99.
83. L K H Koh (2007), “Osteoporosis in Asian populations”, Menopausal Medicine,
Vol. 5, pp. 10-14.
84. Lin Pao-Hwa et al. (2003), “The DASH diet and sodium reduction improve
markers of bone turnover and calcium metabolism in adults”, Journal Nutrition,
Vol. 133, pp. 3130-3136.
152
85. Linda Yin-King Lee et al. (2006), “Osteoporosis in older Chinese men:
knowledge and health beliefs”, Journal of Clinical Nursing, Vol. 15, pp. 353-
355.
86. Lionel S. Lim, Laura J. Hoeksema, Kevin Sherin (2009), “Screening for
osteoporosis in the adult U.S. population ACMP position statement on
preventive practice”, American Journal of Preventive Medicine, Vol. 36(4), pp.
366-375
87. Loh KY, Shong HK (2007), “Osteoporosis: Primary Prevention in the
Community”, Med. J. Malaysia, Vol. 62(4), pp. 355-358.
88. Lorentzon Mattias et al. (2007), “Smoking is associated with lower bone mineral
density and reduced cortical thickness in young men”, The Journal of Clinical
Endocrinology and Metabolism, Vol. 92(2), pp. 497-503.
89. M. Allison Ford et al. (2011), “Osteoporosis knowledge, self-efficacy, and
beliefs among college students in the USA”, Journal of Osteoporosis, Vol.
2011, pp. 1-8.
90. M. Duyvendak et al. (2011), “Doctors´ beliefs and knowledge on
corticosteroid-induced osteoporosis: identifying barriers to improve
prevention”, Journal of Clinical Pharmacy and Therapeutics”, Vol. 36(3), pp.
356-366.
91. M. Sadat-Ali et al. (2009), “Osteoporosis-related vertebral fractures in
postmenopausal women: Prevalence in a Saudi Arabian sample”, La Revue de
Santé de la Méditerranée orientale, Vol. 15(6), pp. 1420-1425.
92. Mahfouz et al (2007), “Osteoporosis-related lifestyle choices and knowledge
among adolescent females in El-Minia city, Egypt”, El-Minia Med., Bull., Vol.
18(1), pp. 29-41
93. Marian T.Hannan et al. (2000), “Effect of Dietary Protein on Bone Loss in
Elderly Men and Women: The Framingham Osteoporosis Study”, Journal of
Bone and Mineral Research, Vol. 15(12), pp. 2504-2512.
153
94. Mervat M.A. El-Sayed et al. (2013), “Osteoporosis-Related Life Habits,
Knowledge and Attitude among Group of Female Employees in King Saud
University”, World Applied Sciences Journal, Vol. 22(7), pp. 919-925.
95. Ministry of Health and Long-Term Care (2003), Osteoporosis Action Plan: An
Osteoporosis Strategy for Ontario, Report of the Osteoporosis Action Plan
Committee, Ontario Canada.
96. Miriam F. Delaney (2006), “Strategies for the prevention and treatment of
osteoporosis during early postmenopause”,American Journal of Obstetrics and
Gynecology, Vol. 194, pp. 12-23.
97. Moon Fai Chan et al. (2006), “Osteoporosis prevention education programme
for women”, Journal of Advanced Nursing, Vol. 54(2) , pp. 159-170.
98. National Osteoporosis Society United Kingdom (2006), Osteoporosis Facts and
Figures, Report of National Osteoporosis Society, United Kingdom.
in the Prevention of
99. Neil Hirschenbein (2002), Nutritional Stretegies
Osteoporosis, ANSR-Applied Nutritional Science Reports, pp. 1-5
100.Ngoc Lan T. Nguyen, Minh Thuy T. Tao (2013), “Assessing the risk factors for
osteoporosis in women aged from 50 years and above in the Northern part of
Vietnam”, Report of The Fifth Strong Bone Asia conference: Osteoporosis in
Asean (+), Danang city Vietnam, p. 49.
101.H.T.T. Nguyen et al. (2009), “Peak bone mineral density in Vietnamese
women”, Arch Osteoporosis, Vol. 4, pp. 9-15.
102.H.T.T. Nguyen, N.D. Nguyen, T.T. Le, T.V. Nguyen (2013), “Knowledge of
Osteoporosis among Tertiary Students in Vietnam”, Report of The Fifth Strong
Bone Asia conference: Osteoporosis in Asean (+), Danang city Vietnam, p. 91.
103.Patricia M Ciaschini et al. (2010), “Community-based intervention to optimize osteoporosis management: randomized controlled trial”,BMC Geriatric,Vol.10
(60).
104.Pensylvania Department of Health and Pensylvania Osteoporosis Coalition
(2004), Osteoporosis and Bone health: Pennsylvania Osteoporosis prevention
154
and education strategic plan, Report of Department of Health Harrisburg,
Commonwealth of Pennsylvania.
105.Peter M Wayne et al. (2012), “Impact of Tai Chi exercise on multiple fracture-
related risk factors in post-menopausal osteopenic women: a pilot pragmatic,
randomized trial”, BMC Complement Alternal Medicine, Vol. 12(7), pp. 1-12.
106.Philip Sambrook, Cyrus Cooper (2006), “Osteoporosis”, The Lancet, Vol. 367,
pp. 2010-2018.
107.Prema B Rapuri et al. (2000), “Alcohol intake and bone metabolism in elderly
women”, American Journal Clinical Nutrition, Vol. 72, pp.1206-1213
108.R.Bartl, B.Frisch (2009), Osteoporosis, ® Springer-Verlag Berlin Heidelberg.
109.R. Rizzoli et al. (2008), “The role of calcium and vitamin D in the management
of osteoporosis”, Bone, Vol. 42, pp.246-249.
110.Rafraf M, Bazyun B, Afsharnia F (2009), “Osteoporosis-related life habits
knowledge about osteoporosis among women in Tabriz, Iran”, The
International Medical Journal, Vol.8(2), pp. 17-20.
111.Rebecca L Kesman et al. (2010), “Population informatics-based system to
improve osteoporosis screening in women in a primary care practice”, J. Am.
Med. Inform. Assoc., Vol. 17(2), pp. 212–216.
112.Rizzoli René, Jean-Philippe Bonjour (2004), “Dietary Protein and Bone
Health”, Journal of Bone and Mineral Research, Vol. 19(4), pp. 527-531.
113.Rohini Handa et al. (2008), “Osteoporosis in developing countries”, Best
Practice and Research Clinical Rheumatology, Vol. 22(4), pp. 693-708.
114.Russel Burge et al. (2007), “Incidence and Economic Burden of Osteoporosis-
Related Fractures in the United States 2005-2025”, Journal of Bone and
Mineral Research, Vol. 22(3), pp. 465-475.
115.S.Boonen et al. (2006), “Calcium and vitamin D in the prevention and
treatment of osteoporosis – a clinical update”, Journal of Internal Medicine,
Vol. 259, pp. 539-552.
155
116.Saneya A Wahba et al. (2010), “Osteoporosis knowledge, beliefs, and
behaviors among Egyption female students”, JASMR, Vol. 5(2), pp. 173-180.
117.Sarina Schrager (2003), “Osteoporosis Prevention in Primary Care”, Winconsin
Medical Journal, Vol. 102(3), pp.52-55.
118.South Eastern Health and Social Care Trust(2012), Falls and Osteoporosis
Strategy 2012-2016, Report of National Health Services Lothian, Scotland.
(2012), “Osteoporosis Prevention-Adolescents´
119.Shu-Wen Chen et al.
knowledge, attitudes, and practices”, American Journal of Health Behavior,
Vol. 36(6), pp.736-745.
120.Susan B. Jaglal et al. (2003), “How are family physicians managing
osteoporosis? Qualitative study of their experiences and educational needs”,
Canadian Family Physician, Vol. 49, pp. 462-468.
121.Susan B. Jaglal et al. (2012), “Impact of a centralized osteoporosis coordinator
on post-fracture osteoporosis management: a cluster randomized trial”,
Osteoporos Int., Vol.23(1), pp. 87–95.
122.Tania Winzenberg et al. (2006), “The effect on behavior and bone mineral
density of individualized bone mineral density feedback and educational
interventions in premenopausal women: a randomized controlled trial,” BMC
Public Health, Vol. 6(12).
123.The Taiwanese Osteoporosis Association (2011), Taiwanese Guidelines for the
Prevention and Treatment of Osteoporosis, Report of The Taiwanese
Osteoporosis Association, Taiwan.
124.Thu Hien T.Vu, Bach Mai Le, Lam T. Nguyen (2013), “Effect of nutrition
education on calcium intake and bone mass in Vietnamese women”, Report of
The Fifth Strong Bone Asia conference: Osteoporosis in Asean (+), Danang
city Vietnam, pp. 99-101.
125.W.C.Tung, Iris F.K. Lee (2006), “Effects of an osteoporosis educational
programme for men”, Issues and Innovations in Nursing practice, pp. 26-34.
156
126.Wan Arfah Nadiah Wan Jamil et al. (2010), “Knowledge, Attitude and Dietary
and Lifestyle Practices on Bone Health Status among Undergraduate
University Students in Health Campus, University Sains Malaysia, Kelantan”,
Health and Environment Journal, Vol. 1(1), pp.34-40.
127.Xingqiong Meng et al. (2010), “Calcium Intake in Elderly Australian Women
Is Inadequate”, Nutrients, Vol. 2(9), pp. 1036–1043.