BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

PHẠM THỊ LỆ QUYÊN ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAI THUỐC LÁ CỦA PHƯƠNG PHÁP TƯ VẤN TRỰC TIẾP KẾT HỢP VỚI TƯ VẤN QUA ĐIỆN THOẠI Ở BỆNH NHÂN MẮC MỘT SỐ BỆNH PHỔI

CHUYÊN NGÀNH: NỘI HÔ HẤP MÃ SỐ: 9720107

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC HÀ NỘI - 2022

CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học:

Hướng dẫn 1: GS.TS. Ngô Quý Châu

Hướng dẫn 2: PGS.TS. Trần Xuân Bách

Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án Tiến sỹ cấp

Trường vào hồi ….. giờ …… phút, ngày ….. tháng…. năm 2022

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Thư viện Trường Đại học Y Hà Nội

1

ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết của đề tài

Hút thuốc lá gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe dẫn đến phải nhập viện (đặc biệt vì các bệnh lý hô hấp, tim mạch, ung thư,…). Hầu hết người hút thuốc bỏ hút thuốc khi nhập viện, tuy nhiên, phần lớn hút thuốc lại ngay sau khi ra viện. Những bệnh nhân tiếp tục hút thuốc sau khi ra viện có nhiều khả năng tái nhập viện hơn so với những người tiếp tục duy trì cai thuốc. Do đó việc giúp những bệnh nhân này cai thuốc và duy trì cai thuốc sau khi ra viện sẽ giúp cứu sống họ và giảm các chi phí chăm sóc y tế. Các nghiên cứu đã cho thấy vai trò tư vấn của các nhân viên y tế mang lại tỷ lệ thành công khá cao. Ngay cả tư vấn ngắn cũng làm tăng tỷ lệ bỏ thuốc thành công thêm 5-10%, thời gian tư vấn càng dài, số lần tư vấn càng nhiều và nhân viên y tế là bác sỹ tư vấn thì hiệu quả càng cao. Tuy nhiên, tư vấn ngắn cai thuốc lá có hiệu quả hạn chế trên tỷ lệ cai thuốc kéo dài. Hiện nay với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ y tế di động, dịch vụ tư vấn qua điện thoại có thể cung cấp sự hỗ trợ cai thuốc lá cho người dân tại cộng đồng với tiềm năng tiếp cận được nhiều người. Hiệu quả của các chương trình tư vấn qua điện thoại đã được báo cáo ở nhiều nước trên thế giới giúp tăng tỷ lệ cai thuốc từ 7-10%. Tại Việt Nam, hoạt động hỗ trợ cai nghiện thuốc lá bắt đầu được triển khai từ năm 2015, tuy nhiên mới chỉ được triển khai ở một số bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh, việc tư vấn và điều trị cai nghiện thuốc lá chưa được lồng ghép vào hệ thống chăm sóc sức khoẻ. Với vai trò quan trọng của nhân viên y tế trong tư vấn điều trị cai thuốc lá và lợi ích tiềm năng của chương trình tư vấn hỗ trợ cai thuốc lá qua điện thoại, tính cấp thiết của việc cai thuốc lá ở những người bệnh mắc các bệnh lý liên quan đến thuốc lá. Việc nghiên cứu về hiệu của của các can thiệp tư vấn cai thuốc lá trực tiếp và tư vấn qua điện thoại trên các đối tượng là bệnh nhân mắc các bệnh lý liên quan đến thuốc lá là cần thiết để cung cấp các bằng chứng trong triển khai điều trị cai nghiện thuốc lá cho nhóm đối tượng này. 2. Mục tiêu của đề tài 1. Xác định tỷ lệ cai thuốc lá bằng phương pháp tư vấn trực tiếp khi điều trị nội trú ở nam bệnh nhân mắc một số bệnh phổi điều trị tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai.

2. Đánh giá hiệu quả cai thuốc lá bằng phương pháp tư vấn trực tiếp khi điều trị nội trú kết hợp với tư vấn qua điện thoại sau khi ra viện ở nam bệnh nhân mắc một số bệnh phổi điều trị tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai. 3. Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả cai thuốc lá trên nhóm đối tượng này. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

2

- Xác định được tỷ lệ ngưng hút thuốc lá của phương pháp tư vấn trực tiếp thực hiện bởi bác sỹ trong thời gian điều trị nội trú trên đối tượng nam bệnh nhân mắc bệnh lý phổi. Kết quả cho thấy đây là một can thiện cai thuốc lá có hiệu quả giúp cai thuốc lá trên nhóm bệnh nhân này và có thể áp dụng vào thực tế lâm sàng. - Xác định được tư vấn trực tiếp trong thời gian điều trị nội trú kết hợp với tư vấn qua điện thoại sau khi ra viện cho hiệu quả cai thuốc lá cao hơn so với chỉ tư vấn trực tiếp đơn thuần. Tư vấn qua điện thoại là can thiệp chi phí thấp, có thể tiếp cận nhiều đối tượng mà không cần đến bệnh viện, vì vậy có thể áp dụng rộng rãi trên đối tượng hút thuốc mắc bệnh hô hấp nhập viện. - Xác định được một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả cai thuốc lá bao gồm: mức độ phụ thuộc nicotine, sự hỗ trợ của gia đình đối với người hút thuốc, các triệu chứng ho mạn tính, khạc đờm mạn tính, triệu chứng thèm hút thuốc và triệu chứng thèm ăn. 4. Tính mới của luận án:

Đây là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam đánh giá về hiệu quả cai thuốc lá của các can thiệp tư vấn trực tiếp kết hợp với tư vấn qua điện thoại trên nam bệnh nhân hút thuốc mắc các bệnh lý phổi nhập viện. Kết quả của nghiên cứu sẽ giúp các nhà lâm sàng có thêm các dữ liệu về hiệu quả cai thuốc lá của các phương pháp tư vấn bởi nhân viên y tế là bác sỹ trên đối tượng là các bệnh nhân mắc các bệnh liên quan đến thuốc lá nhập viện, từ đó thay đổi thái độ thực hành lâm sàng đối với việc tư vấn điều trị cai thuốc lá cho bệnh nhân, giúp tăng hiệu quả điều trị bệnh một cách toàn diện, dự phòng các nguy cơ sức khoẻ khác trong tương lai cho bệnh nhân. 5. Cấu trúc luận án

Luận án được trình bày trong 123 trang (không kể tài liệu tham khảo

và phần phụ lục), gồm có 7 phần: - Đặt vấn đề: 3 trang - Chương 1: Tổng quan tài liệu, 35 trang - Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 21 trang - Chương 3: Kết quả nghiên cứu 36 trang - Chương 4: Bàn luận 26 trang - Kết luận: 1 trang - Khuyến nghị: 1 trang

Luận án gồm 36 bảng, 09 hình ảnh. Sử dụng 211 tài liệu tham khảo gồm tiếng Việt và tiếng Anh. Phần phụ lục gồm bệnh án nghiên cứu, các kỹ năng thực hành tư vấn chuyên sâu và danh sách các bệnh nhân nghiên cứu.

3

Chương 1: TỔNG QUAN 1.1. Tổng quan về thuốc lá và cai nghiện thuốc lá 1.1.1. Khái niệm về thuốc lá và tác hại của thuốc lá đối với bệnh hô hấp Theo luật phòng chống tác hại thuốc lá Việt Nam 2012, Điều 2: “Thuốc lá là sản phẩm được sản xuất từ toàn bộ hoặc một phần nguyên liệu thuốc lá, được chế biến dưới dạng thuốc lá điếu, xì gà, thuốc lá sợi, thuốc lào hoặc các dạng khác”. Sử dụng thuốc lá là hành vi hút, nhai, ngửi, hít, ngậm sản phẩm thuốc lá.

Hút thuốc lá gây ảnh hưởng đến gần như tất cả các cơ quan trong cơ thể, gây nhiều bệnh đặc biệt các bệnh lý về hô hấp, tim mạch, ung thư,… và gây suy giảm sức khỏe của người hút thuốc lá nói chung. Có nhiều bằng chứng cho thấy mối quan hệ nhân quả giữa hút thuốc lá với các triệu chứng và nhiều bệnh lý hô hấp như: ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế quản, viêm phổi mắc phải cộng đồng, tràn khí màng phổi và bệnh lao. 1.1.2. Nghiện thuốc lá:

Chất gây nghiện trong thuốc lá là nicotine, có trong tất cả các loại sản phẩm của thuốc lá (thuốc lá điếu, thuốc lào, xì gà, tẩu, thuốc lá tự cuốn, thuốc lá không khói, …). Nghiện thuốc lá là một trạng thái tâm thần - thể chất xuất hiện do tương tác giữa cơ thể với chất nicotine có trong thuốc lá, biểu hiện bằng sự thôi thúc phải hút thuốc lá liên tục và đều đặn để đạt được cảm giác dễ chịu khi hút thuốc lá đồng thời tránh cảm giác khó chịu khi thiếu thuốc lá, hành vi hút thuốc lá tiếp tục duy trì ngay cả khi người nghiện biết rõ hay thậm chí bị các tác hại do thuốc lá gây ra. Nghiện tâm lý, nghiện hành vi và nghiện thực thể là ba thành phần cấu thành nên nghiện thuốc lá. Ba thành phần này thường đồng thời tồn tại trên một người nghiện thuốc lá, tuy nhiên mức độ quan trọng của từng thành phần thay đổi tuỳ theo mỗi cá nhân. Chẩn đoán nghiện thuốc lá theo tiêu chuẩn DSM IV (1994). 1.1.3. Cai nghiện thuốc lá:

Để cai nghiện thuốc lá thành công người hút thuốc phải trải qua các triệu chứng cai thuốc bao gồm: thèm hút thuốc, ham muốn hút thuốc lá dữ dội, bứt rứt, kích thích, giảm khả năng tập trung, bồn chồn, mất ngủ, thèm ăn,…Các triệu chứng cai thường biểu hiện ngay trong 1-2 ngày đầu tiên sau khi bỏ thuốc, đỉnh điểm là trong tuần đầu tiên và giảm dần sau 2-4 tuần sau, tuy nhiên một số trường hợp có thể kéo dài hàng tháng. Hướng dẫn thực hành lâm sàng về “Điều trị nghiện thuốc lá” của Hoa Kỳ năm 2008 đã khuyến cáo các nhân viên y tế cần khuyến khích tất cả những bệnh nhân muốn cai thuốc lá thực hiện nỗ lực cai thuốc và hỗ trợ họ cai thuốc. Các

phương pháp điều trị hỗ trợ cai thuốc lá có hiệu quả đã được chứng minh qua các thử nghiệm lâm sàng, bao gồm: các can thiệp tư vấn để thay đổi hành vi và các thuốc hỗ trợ. • Can thiệp tư vấn cai nghiện thuốc lá:

4

Quá trình chuyển đổi hành vi hút thuốc lá Proschaska là nền tảng của tư vấn cai nghiện thuốc lá. Chu trình Proschaska gồm bảy giai đoạn liên kết với nhau (hình 1.1). Sự chuyển đổi lần lượt qua các giai đoạn là liên tục với thời gian trải qua từng giai đoạn là khác nhau giữa các cá thể, thay đổi tuỳ vào các biện pháp can thiệp mà người hút thuốc lá nhận được. Quá trình chuyển đổi hành vi không phải là một vòng tròn khép kín mà là một vòng xoắn ốc đi lên, cứ mỗi lần đi qua một vòng là người cai thuốc lá có thêm các trải nghiệm mới cần thiết, là tiền đề cho cai thuốc thành công sau này.

Hình 1.1. Chu trình chuyển đổi hành vi hút thuốc lá Proschaska

Tư vấn cai nghiện thuốc lá là cung cấp cho người hút thuốc lá các yếu tố cần thiết để thay đổi các giai đoạn chuyển đổi hành vi hút thuốc lá Proschaska. Tuỳ thuộc giai đoạn chuyển đổi hành vi hút thuốc lá, các yếu tố cần được tư vấn sẽ thay đổi theo. Tư vấn cai nghiện thuốc lá giúp quá trình chuyển biến qua các giai đoạn chuyển đổi hành vi hút thuốc lá diễn ra nhanh hơn. Các đánh giá chuyên sâu trong điều trị cai nghiện thuốc lá gồm: đánh giá mức độ phụ thuộc nicotine dựa vào thang điểm Fagerstrom, đo nồng độ khí CO trong hơi thở ra để đánh giá tình trạng hút thuốc lá. Ngoài ra, đánh giá mức độ quyết tâm cai nghiện thuốc lá và các yếu tố ảnh hưởng giúp định hướng nội dung tư vấn tăng cường quyết tâm cai thuốc lá. • Các thuốc điều trị cai nghiện thuốc lá:

Trong ba thành phần cấu thành nghiện thuốc lá: nghiện thuốc lá thực thể, hành vi và tâm lý, các thuốc điều trị cai nghiện thuốc lá được chỉ định giải quyết thành phần nghiện thực thể. Ba thuốc hiện nay được Tổ chức y tế thế giới khuyến cáo hàng đầu trong điều trị nghiện thuốc lá là: liệu pháp nicotine thay thế, bupropion, varenicline cho hiệu quả cai thuốc tốt hơn khi kết hợp với tư

5

vấn, với ít tác dụng phụ. Việc chỉ định các thuốc điều trị cai nghiện thuốc lá cần kết hợp với các phương pháp tư vấn để tăng hiệu quả cai thuốc lá. 1.2. Các biện pháp tư vấn cai nghiện thuốc lá 1.2.1. Tư vấn ngắn

Các thử nghiệm lâm sàng đã cho thấy bằng chứng mạnh mẽ về hiệu quả của tư vấn ngắn từ nhân viên y tế ở mọi vị trí trong việc khuyến khích bệnh nhân cai thuốc. Sự tư vấn của nhân viên y tế có thể có hiệu quả khác biệt ngay cả khi thời gian tư vấn là rất ít dưới 3 phút với RR 1,66; 95%CI (1,42-1,94).

Cách tiếp cận 5As (Ask: hỏi; Advice: khuyên; Assess: đánh giá; Assist: hỗ trợ; Arrange: sắp xếp) là một cách tiếp cận tư vấn đã được chấp nhận và thực hiện ở một số nước trên thế giới (Mỹ, Úc và Anh,…) cung cấp cho các nhân viên y tế một mô hình hữu ích để thực hành tư vấn ngắn cai thuốc. Cách tiếp cận 5As khuyến khích nhân viên y tế hỏi (Ask) bệnh nhân họ có hút hay sử dụng các sản phẩm thuốc lá không; tiếp theo nhân viên y tế sẽ đánh giá (Assess) sự sẵn sàng cai thuốc của đối tượng, rồi khuyên (Advice) đối tượng về tầm quan trọng của việc cai thuốc, đề nghị hỗ trợ đối tượng (Assist) khi cai thuốc và/hoặc giới thiệu sự hỗ trợ tư vấn cai thuốc, và sắp xếp (Arrange) hẹn khám theo dõi. Tư vấn ngắn cai nghiện thuốc lá có mục tiêu nhận diện nhanh người hút thuốc và tư vấn ngắn gọn từ 3-10 phút. Yêu cầu của lời khuyên cai thuốc lá trong tư vấn ngắn là: rõ ràng, mạnh mẽ, và tương thích với cá nhân người được tư vấn. 1.2.2. Tư vấn chuyên sâu • Tư vấn chuyên sâu tăng cường quyết tâm cai thuốc lá:

Đối với những bệnh nhân chưa sẵn sàng để cai thuốc tại thời điểm hiện tại, nhân viên y tế cần tư vấn chuyên sâu tăng cường quyết tâm cai thuốc lá cho cho họ, giúp tăng cơ hội cai thuốc lá trong tương lai. Các bác sỹ sử dụng kỹ năng phỏng vấn tạo động cơ (MI: Motivational Interviewing) tập trung tìm hiểu cảm xúc của đối tượng sử dụng thuốc lá, niềm tin, ý kiến và những giá trị liên quan đến sử dụng thuốc lá trong nỗ lực nhằm mở ra những mâu thuẫn trong việc sử dụng thuốc lá, từ đó bác sỹ sẽ gợi ra một cách chọn lọc để hỗ trợ, và củng cố “sự thay đổi trong cuộc nói chuyện” của bệnh nhân. Kỹ năng MI dựa trên bốn nguyên tắc chung: (1) thể hiện sự cảm thông, (2) làm rõ mâu thuẫn, (3) giúp đối tượng vượt rào cản, (4) giúp tự tăng cường quyết tâm. Mô hình 5R’s (Relevance: Tương thích, Risks: Nguy cơ, Rewards: Lợi ích, Roadblocks: Rào cản, và Repetition: Lặp lại) là một công cụ được thiết kế đặc biệt giúp những người không muốn cai thuốc và nó kết hợp nguyên tắc MI. Nghiên cứu cho thấy mô hình “5Rs” giúp tăng cường nỗ lực cai thuốc trong tương lai. • Tư vấn chuyên sâu tiến hành cai nghiện thuốc lá:

6

Tư vấn sâu tiến hành cai nghiện thuốc lá được thực hiện sau tư vấn chuyên sâu tăng cường quyết tâm cai thuốc lá, khi quyết tâm cai nghiện thuốc lá của người hút thuốc lá đủ mạnh, tương ứng giai đoạn “cai nghiện” trong chu trình Proschaska. Nội dung tư vấn chuyên sâu tiến hành cai nghiện thuốc lá tập trung vào các giải pháp đối phó những khó chịu do cai thuốc lá chủ yếu ở hai giai đoạn “cai nghiện” và “củng cố”. Tư vấn sâu đặc biệt có hiệu quả và có sự tương quan chặt chẽ giữa cường độ tư vấn và tỷ lệ thành công của cai thuốc. Can thiệp điều trị càng tích cực thì tỷ lệ cai thuốc càng cao. Tư vấn sâu được định nghĩa là tư vấn nhiều lần (>4 lần), mỗi lần tư vấn kéo dài trên 10 phút và được thực hiện bới nhân viên y tế được đào tạo về tư vấn điều trị cai nghiện thuốc lá. • Các hình thức tư vấn chuyên sâu: - Tư vấn sâu trực tiếp cá nhân: gồm các cuộc tư vấn trực tiếp với chuyên gia tư vấn cai nghiện thuốc lá đã được đào tạo, với thời gian tư vấn mỗi cuộc trên 10 phút. Trong một phân tích tổng quan trên Cochrane (2017) trên 49 thử nghiệm lâm sàng với khoảng 19000 người hút thuốc cho thấy can thiệp tư vấn sâu cá nhân giúp tăng khả năng cai thuốc lá lên 40-80% so với can thiệp tối thiểu (tư vấn ngắn, hoặc sử dụng tài liệu hỗ trợ tự cai).

Tại Việt Nam, tư vấn sâu trực tiếp cá nhân trong điều trị cai nghiện thuốc lá đã bắt đầu được triển khai tại một số bệnh viện tuyến tỉnh và trương ương từ năm 2015 nhằm hỗ trợ cho những người hút thuốc lá muốn cai thuốc lá. Trong một nghiên cứu năm 2019-2020 chưa công bố kết quả của Trung tâm Hô hấp, Bệnh viện Bạch Mai đánh giá hiệu quả cai thuốc lá của phương pháp tư vấn trực tiếp trên những người hút thuốc đến tư vấn tại phòng tư vấn cai nghiện thuốc lá trực tiếp của Bệnh viện. Kết quả nghiên cứu cắt ngang tại thời điểm theo dõi sau 6 tháng trên 451 người tham gia nghiên cứu, tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá thời điểm 7 ngày là 60,8%. - Tư vấn qua điện thoại (Quitline): Tư vấn qua điện thoại có thể là tư vấn chủ động (Proactive Quitline) hoặc tư vấn phản ứng (Reactive Quitline). Trong tư vấn phản ứng, đối tượng hút thuốc là người khởi đầu tất cả các cuộc gọi và nói chuyện với nhân viên tư vấn về các vấn đề quan tâm cụ thể của mình để được hỗ trợ. Với tư vấn chủ động, nhân viên tư vấn chủ động gọi một hoặc nhiều cuộc gọi cho người hút thuốc và cung cấp sự tư vấn một cách có hệ thống với các lần tư vấn đã được lên kế hoạch trước nhằm cung cấp sự hỗ trợ giúp họ thực hiện nỗ lực cai thuốc hoặc tránh tái nghiện. Việc tăng tần suất các cuộc gọi tư vấn cai thuốc giúp tăng khả năng cai thuốc so với các can thiệp kém tích cực hơn như cung cấp tài liệu tự cai thuốc, tư vấn ngắn hoặc sử dụng thuốc hỗ trợ cai đơn thuần. Từ 3 cuộc gọi trở lên đã cho thấy hiệu quả hơn hẳn 1 hoặc 2 cuộc gọi. Đây là hình thức tư vấn quan

trọng đối với những người có ít thời gian hoặc có nguồn tài chính hạn chế. Hiệu quả của tư vấn cai nghiện thuốc lá qua tổng đài đã được báo cáo ở nhiều nước trên thế giới, giúp tăng tỷ lệ cai thuốc từ 7-10% đối với hình thức tư vấn phản ứng, và từ 11-14% đối với hình thức tư vấn chủ động theo một phân tích tổng quan gồm 104 nghiên cứu trên Cochrane.

7

Ở Việt Nam, tổng đài Tư vấn và hỗ trợ cai nghiện thuốc lá bắt đầu thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 9 năm 2015 tại Trung tâm Hô hấp, bệnh viện Bạch Mai dưới sự chỉ đạo và hỗ trợ của Quỹ Phòng chống tác hại thuốc lá – Bộ Y Tế. Tổng đài tư vấn hiện triển khai cả hai hình thức hỗ trợ là tư vấn phản ứng và tư vấn chủ động cho người hút thuốc lá muốn cai thuốc. Mỗi cuộc gọi đến đều hoàn toàn miễn phí. Tất cả các thông tin cá nhân và thông tin liên quan của đối tượng hút thuốc gọi đến tổng đài đều được bảo mật. Nghiên cứu cắt ngang của Ngô Quý Châu và cộng sự (2019) đánh giá hiệu quả hỗ trợ cai thuốc lá của tổng đài này đối với hình thức tư vấn phản ứng trên 469 đối tượng cho kết quả tỷ lệ ngưng hút thuốc thời điểm 7 ngày là 31,6%. Đối với hình thức tư vấn chủ động qua điện thoại, một nghiên cứu cắt ngang tiến hành năm 2020 của Trung tâm Hô hấp – Bệnh viện Bạch Mai (chưa công bố kết quả) trên 1800 đối tượng, kết quả tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá thời điểm 7 ngày do đối tượng tự báo cáo là 63,3%, và có 41,6% đối tượng báo cáo đã ngưng sử dụng thuốc lá kéo dài từ 12 tháng trở lên. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả cai nghiện thuốc lá

Việc xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cai thuốc thành công sẽ giúp cho bác sỹ trong điều trị cai nghiện thuốc lá có thể cá thể hoá với từng nhóm bệnh nhân từ đó tăng hiệu quả cai thuốc lá.

Nghiên cứu của Hymowitz và cộng sự trên 13.415 người hút thuốc thấy tuổi bắt đầu hút thuốc từ sau 20 tuổi có liên quan với khả năng cai thuốc thành công cao hơn. Khuder và cộng sự thấy những người bắt đầu hút thuốc từ trước 16 tuổi có nguy cơ không cai được thuốc cao hơn những người hút thuốc từ lứa tuổi muộn hơn (OR=2,1). Tỷ lệ cai thuốc cao hơn được báo cáo ở những người lớn tuổi hơn. Nhiều nghiên cứu cũng thấy tiền sử nỗ lực cai thuốc lá trước đó là yếu tố quan trọng tiên lượng khả năng cai thuốc thành công trong tương lai. Những người có thời gian duy trì cai thuốc ngắn hơn trong tiền sử có liên quan với khả năng tái nghiện cao hơn. Mức độ phụ thuộc nicotine nặng được mô tả là yếu tố tiên lượng quan trọng cho khả năng cai thuốc kém hơn trong nhiều nghiên cứu. Lạm dụng rượu cũng là yếu tố tiên lượng khả năng cai thuốc kém hơn và việc cai rượu ở những người hút thuốc lạm dụng rượu giúp tăng khả năng cai thuốc thành công.

8

Động lực cai thuốc hay mức độ quyết tâm cai thuốc dường như cũng là yếu tố tiên lượng quan trọng đối với khả năng cai thuốc thành công. Ngày càng có thêm bằng chứng cho thấy mức độ quyết tâm cai thuốc lúc đầu có thể dự đoán khả năng cai thuốc thành công. Nghiên cứu của West và cộng sự thấy những người hút thuốc có bạn đời phản đối việc hút thuốc có nhiều khả năng cai thuốc hơn. Gourlay và cộng sự thấy những người hút thuốc kết hôn với người không hút thuốc có khả năng cai thuốc và duy trì cai thuốc cao hơn. Một số nghiên cứu cũng thấy sự hỗ trợ từ bạn đời là yếu tố tiên lượng mạnh khả năng cai thuốc thành công, đặc biệt các hành vi ủng hộ như nói với người hút thuốc là bỏ thuốc và khuyến khích động viên họ dự đoán khả năng cai thuốc thành công, trong khi các hành vi tiêu cực như cằn nhằn và phàn nàn về việc hút thuốc của họ dự đoán khả năng tái nghiện. 1.4. Tình hình nghiên cứu về điều trị cai nghiện thuốc lá trên đối tượng

bệnh nhân điều trị nội trú Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã được thực hiện đánh giá hiệu quả của các can thiệp cai thuốc lá trên đối tượng bệnh nhân nhập viện. Các can thiệp này bao gồm tư vấn cai nghiện thuốc lá, sử dụng thuốc điều trị cai nghiện thuốc lá và kết hợp cả hai. Các can thiệp tư vấn trong bệnh viện được thực hiện bởi các nhân viên y tế khác nhau có hiệu quả hơn so với điều trị thông thường, đặc biệt khi các can thiệp tiếp tục ít nhất một tháng sau khi ra viện (RR 1,7; 95% CI 1,27-1,48). Phân tích gộp của Rigotti và cộng sự (2012), bao gồm 14 thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân nhập viện vì bệnh lý tim mạch cấp tính so sánh hiệu quả của một can thiệp cai thuốc lá tích cực trong bệnh viện so với chăm sóc thông thường. Kết quả cho thấy can thiệp tích cực hiệu quả hơn chăm sóc thông thường với RR 1,42 (95%CI: 1,29-1,56). Cũng trong phân tích gộp của Rigotti và cộng sự, 5 nghiên cứu trên các bệnh nhân nhập viện vì các bệnh lý hô hấp đã được đưa vào phân tích. Hai nghiên cứu trong số này, nicotine thay thế được dùng kết hợp với tư vấn cai nghiện thuốc lá. Kết quả, trong nghiên cứu sử dụng nicotine miếng dán, tỷ lệ cai thuốc liên tục 3-12 tháng ở nhóm sử dụng cao hơn nhóm dùng giả dược (21% so với 14% tương ứng), mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Ba nghiên cứu còn lại so sánh hiệu quả của can thiệp tư vấn tích cực (không dùng thuốc cai nghiện thuốc lá) với chăm sóc thông thường ở bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Kết quả, một nghiên cứu cho thấy sau 1 năm theo dõi, các bệnh nhân nhận can thiệp tư vấn tích cực có khả năng cai thuốc lá cao hơn gần 3 lần so với nhóm chỉ nhận chăm sóc thông thường (RR 2,83; 95%CI: 1,40-5,74); hai nghiên cứu còn lại không cho thấy có sự khác biệt về hiệu quả cai thuốc giữa hai nhóm.

9

Tại Việt Nam, các nghiên cứu đánh giá hiệu quả của các can thiệp cai nghiện thuốc lá hiện còn ít, đặc biệt là trên đối tượng bệnh nhân phải nhập viện điều trị nội trú. Năm 2005, nghiên cứu của Lê Khắc Bảo và cộng sự tại bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tư vấn kết hợp điều trị bupropion cho tỷ lệ cai thuốc lá thành công sau 9 tuần là 60%, tỷ lệ cai thuốc lá thành công sau 12 tháng là 20% cho tư vấn đơn thuần, 33% cho tư vấn kết hợp nicotine thay thế, và 29% cho tư vấn kết hợp bupropion. Mới đây, một nghiên cứu của Huang W.C và cộng sự (2022) thực hiện tư vấn hỗ trợ cai thuốc lá trên các bệnh nhân đến khám tại các bệnh viện cấp quận của Hà Nội (không có nhóm đối chứng), các đối tượng được tư vấn ngắn bởi bác sỹ của bệnh viện cấp quận, sau đó sẽ được chuyển gửi đến Quitline và đối tượng tiếp tục được nhận 9 cuộc tư vấn qua điện thoại trong 12 tháng đồng thời được nhận 64 tin nhắn hỗ trợ cai thuốc lá trong vòng 3 tháng đầu sau cuộc gọi tư vấn đầu tiên. Kết quả, ở thời điểm theo dõi 12 tháng, 221 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá trong vòng 30 ngày tự báo cáo là 40,7%. Trong số này, 22 bệnh nhân đã gửi mẫu nước tiểu để xét nghiệm cotinine, tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá xác nhận bằng xét nghiệm cotinine trong nước tiểu là 5,9%.

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu tiến hành tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai từ

tháng 10 năm 2017 đến tháng 10 năm 2020. 2.1. Đối tượng nghiên cứu: - Tiêu chuẩn lựa chọn: bệnh nhân >18 tuổi; nhập viện điều trị dưới 2 tuần tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai với chẩn đoán một trong các bệnh sau: hen phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, viêm phổi mắc phải cộng đồng, lao phổi – màng phổi, tràn khí màng phổi, ung thư phổi; đang hút thuốc hoặc còn hút thuốc trong vòng 1 tháng trước. - Tiêu chuẩn loại trừ: nữ giới; không hút thuốc hoặc hút dưới 100 điếu cho đến thời điểm nghiên cứu; từ chối tham gia nghiên cứu, có suy giảm về nhận thức ảnh hưởng đến việc chấp thuận tham gia nghiên cứu hoặc tham gia vào can thiệp, có vấn đề về giao tiếp ảnh hưởng đến việc tiếp nhận sự can thiệp (câm, điếc), sức khỏe quá yếu không cho phép nhận sự can thiệp hoặc dự đoán tuổi thọ ngắn, có lạm dụng các chất gây nghiện khác (cần sa, ma túy).

2.2. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp, ngẫu nhiên, so sánh song

song hai nhóm

- Bệnh nhân sau khi được sàng lọc và đồng ý tham gia vào nghiên cứu sẽ được phân tầng theo mức độ phụ thuộc nicotine dựa vào thang điểm Fagerstrom gồm 6 câu hỏi về thói quen hút thuốc của bệnh nhân để

10

phân ra các mức độ nghiện thực thể nhẹ (0-3 điểm), trung bình (4-5 điểm) và nặng (6-10 điểm); bệnh nhân sau đó được phân ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1 bằng phương pháp bốc thăm vào 2 nhóm: Nhóm tư vấn trực tiếp và Nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại.

- Các can thiệp trong nghiên cứu: + Tư vấn cai thuốc trực tiếp: khi bệnh nhân đang điều trị nội trú, gồm 1 lần tư vấn ngắn dưới 5 phút do bác sỹ điều trị thực hiện sau khi nhập viện 1 ngày và 1 lần tư vấn sâu (30 phút trở lên) do bác sỹ phòng tư vấn trực tiếp hoặc nghiên cứu sinh thực hiện trong vòng 1 tuần kể từ khi nhâp viện. Nội dung tư vấn ngắn và tư vấn sâu: theo mô hình tư vấn 5As (Ask, Advice, Assess, Assist, Arrange) với sự hỗ trợ tùy thuộc vào giai đoạn trưởng thành quyết tâm cai thuốc theo chu trình Prochaska với những đối tượng đã muốn cai thuốc và kết hợp sử dụng mô hình 5Rs (Relevance, Risks, Rewards, Roadblocks, Repetition) nhấn mạnh mối liên quan giữa bệnh lý hô hấp của bệnh nhân với hút thuốc lá và những lợi ích của cai thuốc đối với tiến triển bệnh phổi để tăng cường động cơ cai thuốc với những đối tượng chưa muốn cai thuốc lá. + Tư vấn chủ động qua điện thoại sau khi ra viện: gồm 6 lần gọi điện thoại chủ động: P1-P6 (1 tuần, 2 tuần, 3 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng sau khi ra viện). Thực hiện bởi tư vấn viên của tổng đài quốc gia tư vấn hỗ trợ cai thuốc miễn phí 18006606. Nội dung tư vấn mỗi lần thay đổi tuỳ theo tình huống cụ thể và nhu cầu của bệnh nhân: tăng cường quyết tâm cai thuốc, khuyến khích tiếp tục quá trình cai thuốc, phòng tránh tái hút thuốc trở lại và các mẹo cai giúp bệnh nhân chế ngự các vấn đề khó chịu khi cai. 2.3. Cỡ mẫu: Với tỷ lệ cai thuốc thành công sau 6 tháng ước tính là 40,5% ở nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại, 18,6% ở nhóm tư vấn trực tiếp, với hệ số tin cậy là 95% và lực của mẫu là 90%, tính thêm 30% bệnh nhân có thể bỏ cuộc ở mỗi nhóm thì cỡ mẫu cho nghiên cứu được dự kiến là 114 bệnh nhân mỗi nhóm.

Trong đó: n1 = Cỡ mẫu nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại n2 = Cỡ mẫu nhóm tư vấn trực tiếp

= Hệ số tin cậy (95%).

11

= Lực mẫu (90%).

p1 = Tỷ lệ bệnh nhân nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại cai thuốc p2 = Tỷ lệ bệnh nhân nhóm tư vấn trực tiếp cai thuốc P = (p1 + p2)/2 2.4. Các biến số, chỉ số nghiên cứu và công cụ đánh giá Thu thập thông tin theo mẫu bệnh án nghiên cứu thống nhất, bao gồm:

- Thu thập số liệu tại thời điểm ban đầu: Các thông tin về đặc điểm nhân khẩu học, tiền sử hút và cai thuốc trước đó, các đặc điểm yếu tố môi trường khói thuốc xung quanh, lý do cai thuốc lần này, mức độ quyết tâm cai thuốc, triệu chứng lâm sàng liên quan đến bệnh lý hô hấp mắc phải, bệnh đồng mắc, chẩn đoán xác định bệnh, thời gian nằm viện.

- Thu thập số liệu tại các thời điểm đánh giá (1 tháng, 3 tháng, 6 tháng): bệnh nhân sẽ được gọi điện thoại lại để đánh giá bởi một điều tra viên không tham gia vào nghiên cứu này. Ở mỗi thời điểm đó, điều tra viên này sẽ cố gắng liên lạc bằng được với bệnh nhân và người nhà tối đa là 10 cuộc gọi trước khi kết luận là không liên lạc được với thời gian gọi cửa sổ ở mỗi thời điểm là 5 ngày. Các số liệu đánh giá được thu thập qua điện thoại dựa vào các câu hỏi về: tình trạng hút thuốc hiện tại và bệnh sử cai thuốc kể từ khi tham gia vào nghiên cứu (ngày cai thuốc, các triệu chứng khó chịu khi cai, có sự hỗ trợ của người thân trong quá trình cai thuốc không), mức độ hài lòng với dịch vụ tư vấn.Những bệnh nhân báo cáo là cai được thuốc ở thời điểm 6 tháng sau khi ra viện sẽ được mời đến bệnh viện để xác nhận bằng đo nồng độ khí CO trong hơi thở ra. 2.5. Một số khái niệm, tiêu chuẩn sử dụng trong nghiên cứu • Ngưng sử dụng thuốc lá (abstinence):

- Ngưng sử dụng thuốc lá thời điểm 7 ngày được xác định dựa vào hai câu hỏi sau: “Trong vòng 7 ngày qua ông/bà có hút thuốc lá dù chỉ là một hơi không?”, “Trong vòng 7 ngày qua ông/bà có sử dụng bất kỳ sản phẩm gì khác của thuốc lá không?”. Bệnh nhân được xác định là ngưng sử dụng thuốc lá thời điểm 7 ngày nếu trả lời không với cả hai câu hỏi trên và có sự xác nhận của một người nhà sống cùng.

- Ngưng sử dụng thuốc lá kéo dài 1 tháng/3 tháng/6 tháng được xác định dựa vào hai câu hỏi sau: “Trong vòng 1 tháng/3 tháng/6 tháng kể từ khi ra viện ông/bà có hút thuốc lá dù chỉ là một hơi không”, “Trong vòng 1 tháng/3 tháng/6 tháng kể từ khi ra viện ông/bà có sử dụng bất kỳ sản phẩm nào của thuốc lá không?”. Bệnh nhân được xác định là ngưng sử dụng thuốc lá kéo dài 1 tháng/3 tháng/6 tháng nếu trả lời không với cả hai câu hỏi trên và có sự xác nhận của một người nhà sống cùng.

12

- Ngưng sử dụng thuốc lá xác nhận bằng đo nồng độ khí CO hơi thở ra ở thời điểm theo dõi 6 tháng: được khẳng định bằng đo nồng độ khí CO trong hơi thở ra <10ppm khi bệnh nhân đến khám lại tại bệnh viện tại thời điểm này. • Tái nghiện: là hút thuốc lá hay bất kỳ sản phẩm nào của thuốc lá dù chỉ là một hơi trong vòng 7 ngày vừa qua

• Mức độ phụ thuộc nicotine: đánh giá theo thang điểm Fagerstrom đầy đủ gồm 6 câu hỏi về thói quen hút thuốc lá của đối tượng. Tổng điểm 6 câu hỏi giúp đánh giá mức độ nghiện thực thể: Nhẹ là 0-3 điểm; Trung bình là 4-6 điểm và nặng là 7-10 điểm

• Mức độ hài lòng: đánh giá theo thang đo Likert 5 điểm với các câu trả lời được mã hoá như sau: (1) Hoàn toàn không hài lòng, (2) Không hài lòng, (3) Bình thường, (4) Hài lòng, (5) Rất hài lòng).

• Đánh giá mức độ quyết tâm cai thuốc lá theo bảng câu hỏi Q-MAT (Questionnaire de motivation à l’arrêt du tabac) gồm 4 câu hỏi về dự định hút thuốc trong tương lai, mức độ mong muốn cai thuốc lá, mức độ bất mãn với hành vi hút thuốc. Tổng điểm 4 câu hỏi giúp đánh giá mức độ quyết tâm: Thấp là 0-6 điểm; Trung bình là 7-13 điểm; Cao là 14-20 điểm.

• Đánh giá mức độ quyết tâm cai thuốc một cách đơn giản dựa vào thang tương ứng thị giác VAS (Visual Anlogue Scale) (thang điểm từ 0 đến 10 với 0 là không muốn cai thuốc và 10 là quyết tâm cai thuốc cao nhất).

• Ho mạn tính: được định nghĩa là ho kéo dài trên 8 tuần. • Khạc đờm mạn tính: được định nghĩa là khạc đờm kéo dài trên 8 tuần.

2.6. Phân tích và xử lý số liệu Nghiên cứu sử dụng phần mềm STATA để phân tích số liệu

- Thống kê mô tả được sử dụng để mô tả đặc điểm của đối tượng nghiên cứu và đánh giá các chỉ tiêu nghiên cứu, và được trình bầy dưới các tỷ lệ, giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và khoảng tin cậy 95%. - Kiểm định Khi bình phương (χ2) được sử dụng để so sánh tỷ lệ cai thuốc giữa hai nhóm ở các thời điểm theo dõi.

- Mô hình hồi quy đa biến được sử dụng để phân tích ảnh hưởng của phương pháp cai với kết quả cai thuốc ở từng thời điểm. Các nhóm yếu tố gây nhiễu tiềm tàng được hiệu chỉnh trong các mô hình hồi quy đa biến gồm: các đặc điểm nhân khẩu học (tuổi (5 nhóm tuổi), tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, trình độ học vấn, nơi ở); đặc điểm hút và cai thuốc trước đây (mức độ phụ thuộc nicotin theo thang điểm Fagerstrom, tuổi bắt đầu hút điếu thuốc đầu tiên, tuổi bắt đầu hút thuốc hàng ngày, số năm hút thuốc, số lượng thuốc hút trung bình/ ngày, loại thuốc hút, sử dụng rượu bia/ cà phê/ trà, nỗ lực cai thuốc trước đây; chẩn đoán bệnh hô hấp và thời gian nằm viện.

13

- Hồi quy sai biệt kép được sử dụng để phân tích ảnh hưởng của can thiệp và thời gian tham gia nghiên cứu (1 tháng, 3 tháng và 6 tháng) đến kết quả cai thuốc của bệnh nhân. Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Tổng số sàng lọc 273 bệnh nhân, loại trừ 19 bệnh nhân, còn lại 254 bệnh nhân: nhóm tư vấn trực tiếp 128 bệnh nhân, nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại 126 bệnh nhân, 3 bệnh nhân mất theo dõi thời điểm 3 tháng, 5 bệnh nhân mất theo dõi thời điểm 6 tháng. 3.1. Đặc điểm chung bệnh nhân nghiên cứu ở hai nhóm

Bảng 3.1. Phân bố đặc điểm chung của hai nhóm (n=254)

Biến số

p

Nhóm tư vấn trực tiếp n=128 (%) 53 ± 12,75

Nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại n=126 (%) 51,40 ± 12,30

0,347

Tuổi (TB ± ĐLC) Tuổi bắt đầu hút thuốc

≤14

22 (17,19)

22 (17,46)

0,954

15-18

57 (44,53)

60 (47,62)

0,622

≥19

44 (34,92)

0,578

Số năm hút (TB ±ĐLC)

33,89 ± 13,28

0,516

49 (38,28) 35,05 ± 13,02

18,23 ± 8,85

17,33 ± 9,16

0,335

Số điếu thuốc hút trung bình mỗi ngày (TB ± ĐLC)

5,16 ± 1,68

4,91 ± 1,77

0,334

Điểm Fagerstrom (TB ±ĐLC) Hút thuốc trong nhà

106 (82,81)

100 (79,37)

0,483

Hút thuốc trong xe ô tô

4 (3,13)

6 (4,76)

0,502

Có nhiều bạn hút thuốc

105 (82,03)

116 (92,06)

0,017

35 (27,34)

30 (23,81)

0,519

86 (84,31)

92 (82,14)

0,672

7 (6,86)

9 (8,04)

0,745

1,92 ± 1,52

1,41 ± 0,68

0,03

Sống cùng nhà với người hút thuốc khác Tiếp xúc khói thuốc nơi làm việc (n=214) Cấm hút thuốc ở nơi làm việc (n=214) Số lần cai thuốc trước đây (TB ±ĐLC) Mức độ quyết tâm cai thuốc lần này Điểm VAS (TB ± ĐLC)

9,82 ± 0,73

9,82 ± 0,73

0,863

Điểm QMAT (TB ± ĐLC)

16,55 ± 1,91

16,74 ± 1,03

0,806

Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về tuổi trung bình, tuổi bắt đầu hút thuốc, số năm hút thuốc, số điếu thuốc hút trung bình mỗi ngày, mức độ phụ thuộc nicotine theo thang điểm Fagerstrom, đặc điểm môi trường khói thuốc xung quanh, và mức độ quyết tâm cai thuốc lần này. Nhóm tư vấn trực tiếp có số lần cai thuốc trung bình trước đây nhiều hơn nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp với qua điện thoại (1,92 so với 1,41; p=0,03).

14

Bảng 3.2. Phân bố tình trạng bệnh lý của hai nhóm (n=254)

p

Biến số

Nhóm tư vấn trực tiếp n=128 (%)/ TB ± ĐLC

Nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại n=126 (%)/ TB ± ĐLC

0,340

17 (13,28) 28 (21,88) 6 (4,69) 55 (42,97) 15 (11,72) 7 (5,47)

22 (17,46) 16 (12,70) 8 (6,35) 52 (41,27) 16 (12,70) 12 (9,52)

0,812 0,309 0,353 0,266

42 (37,17) 31 (27,68) 52 (46,02) 65 (59,09)

41 (35,65) 39 (33,91) 60 (52,17) 60 (51,72)

0,648

10,07 ± 5,36

9,89 ± 5,24

Chẩn đoán bệnh phổi BPTNMT K phổi Hen PQ VPMPCĐ Lao phổi – MP Tràn khí màng phổi Triệu chứng lâm sàng Ho mạn tính Khạc đờm mạn tính Khó thở Đau ngực Thời gian nằm viện (ngày) (TB ± ĐLC) Bệnh đồng mắc

0,017

80 (62,50)

60 (47,62)

Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về phân bố bệnh lý hô hấp phải nhập viện, các triệu chứng lâm sàng, thời gian nằm điều trị nội trú. Nhóm tư vấn trực tiếp có tỷ lệ bệnh đồng mắc cao hơn nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại (62,50% so với 47,62%; p=0,017).

- Các bệnh nhân nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại nhận số cuộc gọi tư vấn qua điện thoại sau khi ra viện trung bình là 5,60 ± 0,75 cuộc. Trong đó 93 bệnh nhân (73,81%) nhận đủ 6 cuộc gọi tư vấn, 17 bệnh nhân (13,49%) nhận 5 cuộc gọi; 14 bệnh nhân (11,11%) nhận 4 cuộc gọi và 2 bệnh nhân (1,59%) nhận 3 cuộc gọi. Tổng thời gian tư vấn qua điện thoại trung bình là 16,59 phút/bệnh nhân.

15

3.2. Hiệu quả cai thuốc lá của các phương pháp can thiệp

Bảng 3.3. Tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá do bệnh nhân tự báo cáo và có xác nhận của người nhà thời điểm 6 tháng (n=254)

Cai thuốc lá

p

Nhóm tư vấn trực tiếp n=128 (%) 59 (46,46)

Nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại n=126 (%) 35 (29,17)

0,005

68 (53,54)

85 (70,83)

67 (52,76)

85 (70,83)

0,004

65 (51,18)

84 (70,00)

0,003

62 (48,82)

75 (62,50)

0,031

56 (44,09)

80 (66,67)

0,000

Vẫn hút thuốc Ngưng sử dụng thời điểm 7 ngày Ngưng sử dụng kéo dài 1 tháng Ngưng sử dụng kéo dài 3 tháng Ngưng sử dụng kéo dài 6 tháng Ngưng sử dụng thuốc lá xác nhận bằng đo CO <10ppm

Thời điểm 6 tháng sau khi ra viện, tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá thời điểm 7 ngày, tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá kéo dài 1 tháng, tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá kéo dài 3 tháng và tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá kéo dài 6 tháng (có xác nhận của người nhà) của nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại đều cao hơn nhóm tư vấn trực tiếp với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá có xác nhận bằng đo CO<10ppm tại thời điểm 6 tháng sau khi ra viện ở nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại là 66,67% cao hơn nhóm tư vấn trực tiếp (44,09%) với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Bảng 3.4. Sự thay đổi về hành vi hút thuốc của hai nhóm can thiệp ở các thời điểm theo dõi sau 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng

1 tháng

3 tháng

6 tháng

Ban đầu

Vẫn hút thuốc

n (%)

p

n (%)

p

n (%)

p

n (%)

Khác biệt (%)

Khác biệt (%)

Khác biệt (%)

64,06

60,00

53,54

128 (100)

46 (35,94)

50 (40,00)

59 (46,46)

0,002

0,004

0,005

24

29 (23,39)

35

(19,05) 80,95

76,61

(29,17) 70,83

126 (100)

Nhóm tư vấn trực tiếp Nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại

16

Tại các thời điểm theo dõi sau 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng nhóm tư vấn trực tiếp giảm được số người hút thuốc tương ứng là 64,06%; 60% và 53,54% so với thời điểm ban đầu (trước can thiệp). Nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại giảm được số người hút thuốc tương ứng là 80,95%; 76,61% và 70,83% so với thời điểm ban đầu (trước can thiệp), giảm nhiều hơn so với nhóm tư vấn trực tiếp tại tất cả các thời điểm theo dõi với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.5. Ảnh hưởng của phương pháp can thiệp đến kết quả cai thuốc (n=254)

OR hiệu

OR hiệu

OR hiệu

OR hiệu

chỉnh 1*

chỉnh 2*

chỉnh 3***

chỉnh 4****

(95% CI)

(95% CI)

(95% CI)

(95% CI)

Nhóm tư vấn trực tiếp

-

-

-

-

Theo

dõi 1

Nhóm tư vấn trực tiếp

tháng

kết hợp qua điện thoại

4,90 (0,12;197,84)

2,30 (1,26; 4,19)

5,27 (0,17;159,28)

8,28 (0,20;349,08)

Nhóm tư vấn trực tiếp

-

-

-

-

Theo

dõi 3

Nhóm tư vấn trực tiếp

tháng

kết hợp qua điện thoại

6,95 (0,06;793,24)

2.88 (1,60; 5,18)

9,83 (0,13;766,19)

4,91 (2,21; 10,91)

Nhóm tư vấn trực tiếp

-

-

-

-

Theo

dõi 6

Nhóm tư vấn trực tiếp

tháng

kết hợp qua điện thoại

2,52 (0,23; 27,55)

2111,29 (3,11; 1432015,92)

74,65 (1,26; 4432,60)

84,31 (1,15; 6180,68)

*OR hiệu chỉnh 1: hiệu chỉnh với đặc điểm nhân khẩu học ** OR hiệu chỉnh 2: hiệu chỉnh với đặc điểm hút và cai thuốc *** OR hiệu chỉnh 3: hiệu chỉnh với đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm hút và cai thuốc **** OR hiệu chỉnh 4: hiệu chỉnh với đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm hút và cai thuốc, chẩn đoán bệnh hô hấp và thời gian nằm viện

Bệnh nhân nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại có khả năng cai thuốc lá cao hơn nhóm tư vấn trực tiếp ở các thời điểm theo dõi 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng khi phân tích đa biến, hiệu chỉnh các yếu tố đặc điểm hút và cai thuốc. Khi hiệu chỉnh với cả đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm hút và cai thuốc, chẩn đoán bệnh hô hấp và thời gian nằm viện, nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại cũng có khả năng cai thuốc cao hơn ở thời điểm theo dõi 3 tháng.

17

Bảng 3.6. Phân bố triệu chứng khó chịu khi cai tại các thời điểm theo dõi

1 tháng n =220 (%)/ TB±ĐLC 127 (57,73) 26 (11,82) 8 (3,64) 2 (0,91) 4 (1,82) 7 (3,18) 3 (1,36) 10 (4,55) 43 (19,46) 73 (33,18) 0,98 ± 1,52

3 tháng n = 217 (%)/ TB±ĐLC 79 (36,41) 11 (5,07) 4 (1,84) 1 (0,46) 2 (0,93) 5 (2,31) 3 (1,39) 3 (1,39) 48 (22,22) 99 (45,62) 1,90 ± 3,04

6 tháng n = 200 (%)/ TB±ĐLC 49 (24,50) 13 (6,50) 2 (1,00) 1 (0,50) 1 (0,50) 6 (3,00) 1 (0,50) 3 (1,50) 53 (26,50) 112 (56,00) 2,43 ± 2,84

Thèm hút thuốc lá Bứt rứt, kích thích Cáu gắt Dễ nổi giận Lo lắng Khó tập trung Mất kiên nhẫn Mất ngủ Thèm ăn Tăng cân Số cân tăng (kg)

Triệu chứng khó chịu khi cai thường gặp nhất là thèm hút thuốc với tỷ lệ tương ứng là 57,73; 36,41 và 24,50% ở các thời điểm theo dõi 1, 3 và 6 tháng; triệu chứng bứt rứt, kích thích gặp với tỷ lệ tương ứng là 11,82; 5,07 và 6,50%; các triệu chứng khó chịu khác gặp với tỷ lệ ít và đều có xu hướng giảm dần theo thời gian. Triệu chứng thèm ăn gặp với tỷ lệ tương ứng là 19,46; 22,22; 26,50% đi kèm đó là tỷ lệ bệnh nhân tăng cân khá cao lần lượt là 35,61; 48,77 và 54,63% tương ứng ở các thời điểm theo dõi 1, 3 và 6 tháng. Số cân nặng tăng trung bình ở thời điểm 6 tháng là 2,43± 2,84 kg.

Bảng 3.7. Mức độ hài lòng với dịch vụ cai thuốc (theo thang điểm Likert)

Biến số

P

Tư vấn trực tiếp n=134 4,62 ± 0,57 4,61 ± 0,58 4,62 ± 0,57

Tư vấn qua điện thoại n=123 4,67 ± 0,50 4,65 ± 0,53 4,66 ± 0,53

0,448 0,542 0,511

-

Nội dung tư vấn (TB±ĐLC) Thời lượng cuộc tư vấn (TB±ĐLC) Thái độ của tư vấn viên (TB±ĐLC) Giới thiệu dịch vụ (n(%)) Không Không chắc Có

10 (4,27) 31 (13,25) 193 (82,48)

Hầu hết bệnh nhân đều hài lòng với dịch vụ tư vấn trực tiếp và dịch vụ tư vấn qua điện thoại với mức điểm hài lòng cao cho nội dung tư vấn, thời lượng cuộc tư vấn và thái độ của tư vấn viên. Không có sự khác biệt về mức độ hài lòng giữa dịch

18

vụ tư vấn trực tiếp và dịch vụ tư vấn qua điện thoại. 82,48% đối tượng muốn giới thiệu dịch vụ tư vấn cai thuốc lá này cho người thân, bạn bè. 3.3. Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả cai thuốc Bảng 3.8. Phân tích đa biến mối liên quan giữa 1 số yếu tố với kết quả cai thuốc lá ở thời điểm 6 tháng

OR thô (95% CI)

OR hiệu chỉnh 1* (95% CI)

OR hiệu chỉnh 2** (95% CI)

OR hiệu chỉnh 3*** (95% CI)

Mức độ phụ thuộc nicotine Nặng Trung bình

Nhẹ

- 1,62 (0,85 – 3,07) 2,48 (1,05 – 5,89)

- 1,74 (0,89 – 3,42) 2,80 (1,14 – 6,90)

- 1,38 (0,57 – 3,31) 2,14 (0,58 – 7,93)

- 1,54 (0,59 – 4,03) 2,82 (0,67 – 11,93)

Hỗ trợ của gia đình khi cai thuốc Không

- 2,39 (1,20 – 4,77)

- 2,19 (1,05 – 4,54)

- 3, 48 (1,43 – 8,46)

- 3,32 (1,26 – 8,76)

Ho mạn tính Không

- 0,44 (0,23 – 0,84)

- 0,60 (0,25 – 1,45)

- 0,35 (0,14 – 0,88)

- 0,57 (0,32 – 1,01) Khạc đờm mạn tính Không

- 0,53 (0,29 – 0,95)

- 0,45 (0,23 – 0,86)

- 0,42 (0,17 – 1,05)

- 0,27 (0,10 – 0,71)

Thèm hút thuốc - Không 0,12 (0,06-0,25)

- 0,11 (0,05-0,24)

- 0,09 (0,03-0,24)

- 0,07 (0,06-0,22)

Thèm ăn nhiều hơn khi cai thuốc Không

- 2,63 (1,10 – 6,29)

- 2,91 (1,16 – 7,31)

- 2,23 (0,72 – 6,89)

- 3,16 (0,85 – 11,78)

OR thô: đơn biến *OR hiệu chỉnh 1: hiệu chỉnh với đặc điểm nhân khẩu học ** OR hiệu chỉnh 2: hiệu chỉnh với đặc điểm hút và cai thuốc ***OR hiệu chỉnh 3: hiệu chỉnh với đặc điểm nhân khẩu, đặc điểm hút và cai thuốc

19

Đối tượng có mức độ phụ thuộc nicotine nhẹ có khả năng cai thuốc lá cao hơn so với đối tượng có mức độ phụ thuộc nicotine nặng khi hiệu chỉnh với các yếu tố về đặc điểm nhân khẩu học OR 2,80; 95%CI (1,14-6,90). Đối tượng nhận được sự hỗ trợ của gia đình có khả năng cai thuốc lá cao hơn đối tượng không nhận được sự hỗ trợ từ gia đình khi hiệu chỉnh đa biến với các yếu tố đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm hút và cai thuốc với OR; 95%CI là 3,32 (1,26-8,76). Những bệnh nhân có triệu chứng ho mạn tính và khạc đờm mạn tính đều có khả năng cai thuốc lá kém hơn những người không có các triệu chứng mạn tính này khi phân tích hiệu chỉnh đa biến với các yếu tố về đặc điểm nhân khẩu học và các yếu tố về đặc điểm hút và cai thuốc với OR; 95%CI lần lượt là 0,35(0,14-8,76); 0,27 (0,10-0,71). Những bệnh nhân có triệu chứng thèm hút thuốc có khả năng cai thuốc thành công kém hơn so với đối tượng không có triệu chứng này khi hiệu chỉnh với cả các yếu tố đặc điểm nhân khẩu học và các yếu tố về đặc điểm hút và cai thuốc với OR, 95%CI là 0,07 (0,06- 0,22). Ngược lại, đối tượng có triệu chứng thèm ăn nhiều hơn khi cai thuốc có liên quan với khả năng cai thuốc thành công cao hơn với OR, 95%CI 2,91 (1,16-7,31) khi hiệu chỉnh với các yếu tố đặc điểm nhân khẩu học.

Chương 4: BÀN LUẬN

4.1. Hiệu quả của các can thiệp cai thuốc lá trên hai nhóm

Nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam đánh giá hiệu quả của dịch vụ cai thuốc lá trên nhóm bệnh nhân nhập viện vì các bệnh lý hô hấp. Với tổng số 254 bệnh nhân, trong đó 128 bệnh nhân nhóm tư vấn trực tiếp, 126 bệnh nhân nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại, 8 bệnh nhân mất theo dõi, 14 bệnh nhân báo cáo đã cai thuốc lá có sự xác nhận của người nhà tại thời điểm theo dõi 6 tháng nhưng không đến bệnh viện để đo nồng độ khí CO hơi thở ra. Như vậy tỷ lệ mất theo dõi trong nghiên cứu của chúng tôi là 8/254 (3,15%).

Bệnh nhân trong 2 nhóm can thiệp của chúng tôi đều có sự tương đồng nhau về hầu hết các đặc điểm về nhân khẩu học, đặc điểm hành vi hút thuốc trước đó, mức độ phụ thuộc nicotine, đặc điểm môi trường khói thuốc xung quanh, mức độ quyết tâm cai thuốc lần này (Bảng 3.1) và tương đồng nhau về phân bố bệnh lý hô hấp, các triệu chứng lâm sàng, thời gian nằm viện (Bảng 3.2). Với sự tương đồng ở hầu hết các đặc điểm chung như vậy, cho thấy hiệu quả của can thiệp quan sát được không bị sai chệch bởi sự khác biệt về đặc điểm cá nhân và tình trạng sức khỏe của các đối tượng nghiên cứu giữa 2 nhóm. Hầu hết đối tượng ở hai nhóm khi nhập viện đều có mức độ quyết tâm cai thuốc cao (Bảng 3.1).

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tại thời điểm theo dõi 6 tháng, nhóm can thiệp tư vấn trực tiếp có tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá thời điểm 7 ngày; tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá kéo dài 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng tự báo

cáo (có xác nhận của một người thân) tương ứng là 53,54; 52,76; 51,18% và 48,82%; tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá xác nhận bằng đo nồng độ khí CO hơi thở ra là 44,09%. Nhóm can thiệp tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại có tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá thời điểm 7 ngày; tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá kéo dài 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng tự báo cáo (có xác nhận của một người thân) tương ứng là 70,83; 70,83; 70; 62,50%; tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá xác nhận bằng đo nồng độ khí CO trong hơi thở ra là 66,67%. Đây là kết quả cai thuốc khá cao. Điều này có thể là do các bệnh nhân đều nhập viện vì các bệnh lý phổi có liên quan đến thuốc lá, việc hiểu được rõ các tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ của bản thân, cũng như lợi ích của việc cai thuốc lá đối với tiến triển bệnh hiện tại, với mong muốn bệnh nhanh chóng ổn định nên hầu hết bệnh nhân đều có quyết tâm cai thuốc lá cao (Bảng 3.3). Thêm vào đó, môi trường không khói thuốc trong bệnh viện cũng là môi trường thuận lợi để cai thuốc. Đặc biệt, các bệnh nhân được nhận tư vấn cai nghiện thuốc lá từ chính bác sỹ điều trị và tư vấn chuyên sâu từ bác sỹ phòng tư vấn cai nghiện thuốc lá trong thời gian điều trị nội trú (cả 2 nhóm can thiệp) kết hợp tiếp tục tư vấn hỗ trợ qua điện thoại sau khi ra viện (với nhóm can thiệp tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại) đã giúp khả năng cai thuốc thành công cao.

20

Tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới. Trong nghiên cứu của Lei Wu và cs (2016) trên 547 nam giới hút thuốc chia làm 2 nhóm, 1 nhóm chỉ nhận can thiệp tư vấn trực tiếp 1 lần 40 phút (nhóm chứng- 149 đối tượng) và 1 nhóm nhận can thiệp tư vấn trực tiếp 1 lần kết hợp 4 cuộc tư vấn qua điện thoại ở thời điểm 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng sau đó (nhóm can thiệp- 398 đối tượng). Tại thời điểm theo dõi 12 tháng, tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá thời điểm 7 ngày tự báo cáo ở nhóm chứng và nhóm can thiệp tương ứng là 14,8 và 26,4% và tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá liên tục 12 tháng tự báo cáo ở nhóm chứng và nhóm can thiệp tương ứng là 10,7% và 19,6%. Tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá ở nhóm can thiệp trong nghiên cứu của các tác giả cũng cao hơn nhóm chứng tuy nhiên thấp hơn so với kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi ở cả nhóm can thiệp và nhóm chứng. Sự khác biệt này có lẽ do đối tượng trong nghiên cứu của tác giả là người không có bệnh, không nằm điều trị nội trú nên động lực cai thuốc thấp hơn, không được hưởng thuận lợi từ môi trường không khói thuốc ở bệnh viện trong thời gian đầu, hơn nữa tỷ lệ nghiện thực thể mức độ nặng của các đối tượng trong nghiên cứu này cũng cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi (43,6% so với 22,66%), tần suất can thiệp cũng khác nhau về cường độ (bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi nhận can thiệp với cường độ cao hơn) và đây là tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá theo dõi sau 12 tháng, dài hơn so với của chúng tôi là theo dõi sau 6 tháng.

Nghiên cứu của Chen và cs (2013) trên 85 bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính được phân ngẫu nhiên vào 2 nhóm: nhóm can thiệp (nhận tư

vấn sâu 1 lần, tài liệu hỗ trợ tự cai và 9 cuộc tư vấn qua điện thoại sau khi về nhà ở các thời điểm 1, 2, 3, 4, 6, 8 tuần và 3 tháng; nhóm chứng chỉ nhận lời khuyên cai thuốc khi ở bệnh viện. Kết quả ở thời điểm theo dõi 6 tháng, tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá có xác nhận bằng đo nồng độ CO ở nhóm can thiệp và nhóm chứng tương ứng là 40,5 và 18,6% (p=0,027). Nghiên cứu của chúng tôi thấy tỷ lệ cai thuốc lá giảm dần theo thời gian theo dõi, không chỉ ở nhóm can thiệp tư vấn trực tiếp đơn thuần mà cả ở nhóm can thiệp tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại, tuy nhiên nhóm can thiệp tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại vẫn có tỷ lệ ngưng sử dụng thuốc lá cao hơn nhóm can thiệp tư vấn trực tiếp đơn thuần khi nằm viện ở tất cả các thời điểm theo dõi 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 3.3). Điều này cho thấy việc tiếp tục tư vấn hỗ trợ cai nghiện thuốc lá cho bệnh nhân sau khi ra viện sẽ giúp tăng hiệu quả cai thuốc so với chỉ can thiệp trong thời gian điều trị nội trú. Phân tích gộp trên Cochrane của Rigotti và cộng sự (2012) về hiệu quả của các can thiệp cai thuốc lá trên nhóm bệnh nhân nhập viện cho thấy các can thiệp cai thuốc lá ngắn cường độ I (1 lần tư vấn dưới 15 phút trong thời gian nằm viện và không có hỗ trợ theo dõi sau khi ra viện) và cường độ II (1 hoặc nhiều lần tư vấn trên 15 phút trong thời gian nằm viện và không có hỗ trợ theo dõi sau khi ra viện) không hiệu quả hơn chăm sóc thông thường (chỉ khuyên cai thuốc) với (RR 1,14, 95%CI 0,82-1,59) và (RR 1,10, 95%CI 0,96-1,25) tương ứng. Nhóm tư vấn trực tiếp trong nghiên cứu của chúng tôi nhận can thiệp ở cường độ II cho thấy kết quả cai thuốc cao ở thời điểm theo dõi 6 tháng, tuy nhiên nghiên cứu của chúng tôi có nhược điểm là không có nhóm đối chứng (chăm sóc thông thường- không có can thiệp hệ thống nào đối với hành vi hút thuốc lá) để so sánh về hiệu quả của can thiệp tư vấn trực tiếp so với cách tiếp cận bệnh nhân hàng ngày. Cũng trong phân tích gộp của Rigotti và cộng sự (2012), các tác giả kết luận các can thiệp tư vấn cường độ cao- can thiệp tích cực (bắt đầu từ khi điều trị nội trú trong bệnh viện và tiếp tục hỗ trợ kéo dài ít nhất một tháng sau khi ra viện) giúp tăng hiệu quả cai thuốc lá. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại là nhóm nhận can thiệp cường độ cao cũng có kết quả cai thuốc cao hơn hẳn nhóm tư vấn trực tiếp chỉ nhận can thiệp khi điều trị nội trú với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở tất cả các thời điểm theo dõi sau 1, 3, và 6 tháng. Điều này cho thấy đây là can thiệp có hiệu quả giúp duy trì tỷ lệ cai thuốc lá cao sau khi ra viện.

21

Nghiên cứu của chúng tôi (Bảng 3.4) cho thấy sự thay đổi tích cực về hành vi hút thuốc của hai nhóm can thiệp ở các thời điểm theo dõi sau 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng so với thời điểm ban đầu trước can thiệp: cả hai nhóm can thiệp đều có tỷ lệ chuyển đổi hành vi từ hút thuốc sang ngưng sử dụng thuốc lá với tỷ lệ cao (tương ứng là 64,06%; 60,00% và 53,54% ở nhóm tư vấn trực tiếp

và 80,95%; 76,61% và 70,83% ở nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại). Nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại có tỷ lệ thay đổi hành vi từ hút thuốc sang ngưng sử dụng thuốc lá nhiều hơn so với nhóm tư vấn trực tiếp tại tất cả các thời điểm theo dõi.

22

Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại có khả năng cai thuốc cao hơn nhóm tư vấn trực tiếp đơn thuần ở các thời điểm theo dõi 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng (Bảng 3.5) khi hiệu chỉnh với các yếu tố đặc điểm hút và cai thuốc OR, 95%CI tương ứng là 2,30 (1,26- 4,19); 2,88 (1,60-5,18) và 74,65 (1,26-4432,60). Khi hiệu chỉnh với cả đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm hút và cai thuốc, chẩn đoán bệnh hô hấp và thời gian nằm viện, nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại cũng có khả năng cai thuốc cao hơn ở thời điểm theo dõi 3 tháng với OR, 95%CI là 4,91 (2,21- 10,91). Nhóm tư vấn trực tiếp kết hợp qua điện thoại là nhóm được tiếp tục hỗ trợ tư vấn cai thuốc lá qua điện thoại trong khoảng thời gian 3 tháng đầu sau khi ra viện, trung bình mỗi đối tượng nhận thêm 5,6 cuộc gọi với tổng thời gian tư vấn là 16,59 ± 4,41 phút. Điều này cho thấy can thiệp tư vấn qua điện thoại sau khi ra viện giúp tăng hiệu quả cai thuốc cao hơn so với chỉ tư vấn trực tiếp trong thời gian nằm viện. Ưu điểm của việc tư vấn qua điện thoại là bệnh nhân có thể được hỗ trợ mà không cần phải đến phòng tư vấn trực tiếp vì vậy tiết kiệm được thời gian và chi phí đi lại cho chính người bệnh, tăng khả năng tiếp cận đến dịch vụ hỗ trợ cai thuốc lá cho mọi đối tượng có mong muốn cai thuốc lá ngay tại cộng đồng. Kết quả phân tích gộp trên thư viện Cochrane (Matkin W và cs, 2019) về hiệu quả cai thuốc lá của tư vấn qua điện thoại cho thấy, tư vấn tích cực qua điện thoại có hiệu quả cai thuốc lá rõ rệt nhất khi kết hợp với tài liệu hỗ trợ tự cai thuốc, hoặc tư vấn ngắn trực tiếp. Không có đủ bằng chứng cho thấy số cuộc gọi nhiều hơn sẽ mang lại hiệu quả cai thuốc cao hơn, mặc dù bằng chứng giới hạn cho thấy các can thiệp từ 3 đến 6 cuộc gọi có thể hiệu quả hơn những can thiệp chỉ gồm 1 cuộc gọi với RR 1,38; 95%CI(1,17-1,63).

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới và kết quả phân tích gộp trên Cochrane, đó là các can thiệp cai thuốc lá tích cực bắt đầu từ khi nhập viện và tiếp tục ít nhất 1 tháng sau khi ra viện cho hiệu quả cai thuốc cao hơn các can thiệp cai thuốc lá chỉ tiến hành trong thời gian nằm viện. Trong nghiên cứu của chúng tôi, hầu hết bệnh nhân đều hài lòng với dịch vụ tư vấn trực tiếp và dịch vụ tư vấn qua điện thoại với mức điểm hài lòng cao theo thang đo Likert cho nội dung tư vấn, thời lượng cuộc tư vấn, và thái độ của tư vấn viên. Phần lớn đối tượng (82,48%) muốn giới thiệu dịch vụ tư vấn cai thuốc lá này cho người thân, bạn bè (Bảng 3.7). Không có sự khác biệt về mức độ hài lòng của bệnh nhân đối với dịch vụ tư vấn trực tiếp hay dịch vụ tư vấn qua điện thoại. 4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả cai thuốc lá

23

Nghiên cứu của chúng tôi thấy đối tượng có mức độ phụ thuộc nicotine nhẹ có khả năng cai thuốc thành công cao hơn đối tượng có mức độ phụ thuộc nicotine nặng khi phân tích đa biến, hiệu chỉnh với các yếu tố đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm hút và cai thuốc khác tại thời điểm theo dõi 6 tháng với OR; 95%CI tương ứng là 2,48 (1,05-5,89) và 2,80 (1,14-6,90) (Bảng 3.8). See và cộng sự (2019) cũng thấy mức độ phụ thuộc nicotine (p<0,001) là yếu tố tiên đoán độc lập khả năng cai thuốc thành công, bệnh nhân cai thuốc thành công hút số lượng thuốc hàng ngày ít hơn và mức độ phụ thuộc nicotine theo thang điểm Fagerstrom thấp hơn.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, sự hỗ trợ của gia đình khi cai thuốc giúp tăng hiệu quả cai thuốc lá ở thời điểm theo dõi 6 tháng khi phân tích đa biến, hiệu chỉnh với các yếu tố về đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm hút và cai thuốc trước đó (OR; 95%CI là 3,32 (1,26-8,76)) (Bảng 3.8). Sự hỗ trợ của gia đình trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là hỗ trợ của vợ và hoặc con cái đối với bệnh nhân thông qua việc động viên tinh thần, nhắc nhở bệnh nhân về tác hại của thuốc lá đối với bệnh phổi trong quá trình cai thuốc. Nghiên cứu của chúng tôi không có can thiệp hay tập huấn riêng đối với gia đình để họ cung cấp sự hỗ trợ cai thuốc lá cụ thể trong quá trình cai thuốc lá với đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên khi thực hiện tư vấn sâu trực tiếp trong thời gian nằm viện thì bác sỹ thường tư vấn cai thuốc lá cho bệnh nhân với sự có mặt của một thành viên trong gia đình thường là vợ hoặc con của họ. Điều này có lẽ cũng có những ảnh hưởng tích cực đến những hiểu biết của người thân trong gia đình về tác hại của hút thuốc lá đối với sức khoẻ người thân của họ, cũng như những khó khăn trong quá trình cai thuốc lá, từ đó tăng sự cảm thông, chia sẻ và động viên của gia đình đối với bệnh nhân trong quá trình cai thuốc lá.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy những bệnh nhân có triệu chứng ho mạn tính và khạc đờm mạn tính đều có khả năng cai thuốc lá kém hơn những người không có các triệu chứng mạn tính này khi phân tích hiệu chỉnh đa biến với các yếu tố về đặc điểm nhân khẩu học và các yếu tố về đặc điểm hút và cai thuốc với OR; 95%CI lần lượt là 0,35(0,14-8,76); 0,27 (0,10-0,71). Các nghiên cứu trên thế giới đều thấy việc cai thuốc lá sẽ giúp giảm các triệu chứng ho, khạc đờm, khó thở ở người hút thuốc.Tuy nhiên những người hút thuốc mắc bệnh hô hấp, có các triệu chứng ho mạn tính, khạc đờm mạn tính thường là những người đã hút thuốc trong nhiều năm, đặc biệt những bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, ung thư phổi thường có mức độ phụ thuộc nicotine nặng hơn, chính vì vậy mà họ thường gặp khó khăn hơn khi cai thuốc lá. Điều này có thể giải thích cho kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Stolz và cộng sự (2014) cũng thấy những người có triệu chứng hô hấp như ho, khạc đờm mạn tính có khả năng cai thuốc lá ở thời điểm theo dõi 24 tháng thấp hơn những người không có các triệu chứng này.

24

Các triệu chứng khó chịu khi cai thuốc trong nghiên cứu của chúng tôi (Bảng 3.6), thường gặp nhất là thèm hút thuốc với tỷ lệ ở các thời điểm theo dõi 1, 3 và 6 tháng tương ứng là 57,73; 36,41 và 24,50%; triệu chứng bứt rứt, kích thích gặp với tỷ lệ tương ứng là 11,82; 5,07 và 6,50%; các triệu chứng khó chịu khác gặp với tỷ lệ ít. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy đối tượng có triệu chứng thèm hút thuốc ở thời điểm theo dõi 6 tháng có khả năng cai thuốc lá kém hơn với OR, 95%CI là 0,12 (0,06-0,25) (Bảng 3.8). Kết quả này của chúng tôi cũng tương tự nghiên cứu của Stolz và cộng sự (2014), các tác giả thấy mức độ thèm thuốc càng nhiều có liên quan đến giảm khả năng cai thuốc lá thành công. Taggar và cộng sự (2015) cũng thấy triệu chứng thèm hút thuốc có liên quan với giảm khả năng cai thuốc lá thành công.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, triệu chứng thèm ăn sau khi cai thuốc lá gặp với tỷ lệ tương ứng là 19,46; 22,22; 26,50% (Bảng 3.6); đi kèm đó là tỷ lệ bệnh nhân tăng cân khá cao lần lượt là 33,18; 45,62 và 56,00% tương ứng ở các thời điểm theo dõi 1, 3 và 6 tháng. Số cân nặng tăng trung bình ở thời điểm 6 tháng là 2,43± 2,84 kg (Bảng 3.6). Nghiên cứu của chúng tôi thấy đối tượng có triệu chứng thèm ăn nhiều hơn ở thời điểm theo dõi 6 tháng có khả năng cai thuốc lá cao hơn với OR, 95%CI là 2,91(1,16-7,31) (bảng 3.8). Chúng tôi không thấy có mối liên quan giữa tăng cân khi cai thuốc lá với kết quả cai thuốc.

KẾT LUẬN 1. Tư vấn cai thuốc lá trực tiếp thực hiện bởi bác sỹ là can thiệp có hiệu quả

trên nhóm nam bệnh nhân hút thuốc nhập viện vì các bệnh lý phổi.

2. Tư vấn cai thuốc lá trực tiếp thực hiện bởi bác sỹ khi điều trị nội trú kết hợp với tiếp tục tư vấn qua điện thoại sau khi ra viện (6 cuộc tư vấn) mang lại hiệu quả cai thuốc lá cao hơn tư vấn trực tiếp đơn thuần trên nhóm nam bệnh nhân nhập viện vì các bệnh lý phổi với OR;95%CI là 4,91 (2,21- 10,91) ở thời điểm theo dõi 3 tháng.

3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả cai thuốc lá: - Mức độ phụ thuộc nicotine nhẹ là yếu tố tiên lượng khả năng cai thuốc thành công cao hơn so với mức độ phụ thuộc nicotine nặng (OR, 95%CI 2,80 (1,14-6,90) ).

- Sự hỗ trợ của gia đình (động viên của vợ và hoặc con cái) là yếu tố tiên lượng khả năng cai thuốc thành công cao hơn so với không có sự hỗ trợ của gia đình (OR, 95%CI 3,32 (1,26-8,76).

- Triêu chứng ho mạn tính là yếu tố tiên lượng khả năng cai thuốc kém hơn

(OR, 95%CI 0,35 (0,14-0,88))

- Triệu chứng khạc đờm mạn tính là yếu tố tiên lượng khả năng cai thuốc

kém hơn (OR, 95%CI 0,27 (0,10-0,71).

- Triệu chứng thèm hút thuốc khi cai cũng là yếu tố tiên lượng khả năng cai

thuốc kém hơn với OR, 95%CI là 0,07 (0,06-0,22)

- Đối tượng có triệu chứng thèm ăn nhiều hơn khi cai thuốc có liên quan với khả năng cai thuốc thành công cao hơn với OR, 95%CI 2,91 (1,16-7,31).

CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

TRONG KHUÔN KHỔ ĐỀ TÀI

1. Quyên, P. T. L., Châu, N. Q., & Bách, T. X. (2021). Hiệu quả cai

thuốc lá của phương pháp tư vấn trực tiếp kết hợp tư vấn qua điện

thoại ở bệnh nhân hô hấp nhập viện. Tạp Chí Nghiên cứu Y

học, 137(1): 169-180.

2. Phạm Thị Lệ Quyên, Ngô Quý Châu, Trần Xuân Bách (2021).

Hiệu quả cai thuốc lá của phương pháp tư vấn trực tiếp trên nhóm bệnh

nhân hô hấp nhập viện tại bệnh viện Bạch Mai. Tạp chí Y học lâm sàng,

123: 51-61.

3. Phạm Thị Lệ Quyên, Ngô Quý Châu, Trần Xuân Bách (2022). Một

số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả cai thuốc lá ở bệnh nhân hô hấp nhập

viện. Tạp chí Y học lâm sàng, 127(9/2022): 112-125.