
vietnam medical journal n01 - MARCH - 2020
134
tháng cao hơn những bệnh nhân không có độc
tính này (cao hơn gấp 3 lần), HFSR là yếu tố tiên
lượng độc lập tới kết quả điều trị [6]. Bruno
Vincenzi (2009) trên 65 BN điều trị sorafenib với
liều khởi điểm 800 mg/ngày, tỷ lệ kiểm soát
bệnh là 48,3% cao hơn 19,4 % ở nhóm không
có HFSR, trung vị thời gian đến khi bệnh tiến
triển là 8,1 tháng ở BN có HFSR so với 4,0
tháng ở nhóm không có HFSR, sự khác biệt có ý
nghĩa khi phân tích đa biến [7]. Nghiên cứu của
Bettinger và cộng sự (2012), Koschny và cộng sự
(2013) lại không thấy vai trò tiên lượng của phản
ứng da tay chân với kết qủa điều trị sorafenib [8].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù khi
phân tích đơn biến kết quả PFS và OS đều gấp 2
lần ở nhóm bệnh nhân có phản ứng da tay chân
(bảng 2), tuy nhiên khi phân tích đa biến độc
tính này lại không phải yếu tố ảnh hưởng độc lập
đến kết quả điều trị (Bảng 3). Bảng 1 cho thấy
phản ứng da tay chân gặp nhiều hơn có ý nghĩa
ở những BN có u gan kích thước > 60mm, viêm
gan virus B, có huyết khối tĩnh mạch cửa và men
gan trước điều trị >80 UI/L. Đây có thể là các
yếu tố ảnh hưởng khi phân tích đa biến. Mặc dù
vậy, việc xuất hiện phản ứng da tay chân vẫn
được đánh giá là yếu tố tiên lượng tốt đến kết
quả điều trị với thuốc sorafenib.
V. KẾT LUẬN
Phản ứng da tay chân là độc tính thường gặp
nhất ở bệnh nhân ung thư gan nguyên phát điều
trị sorafenib tại Việt nam. Sự xuất hiện của độc
tính là yếu tố tiên lượng tốt đến kết quả điều trị
của thuốc tuy nhiên không phải là yếu tố tiên
lượng độc lập đến kết quả điều trị.
Lời cảm ơn: Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn
Ban lãnh đạo, Phòng Kế hoạch tổng hợp, các
khoa lâm sàng bệnh viện K, Bệnh viện Đại học Y
Hà Nôi đã tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành
nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bray F, Ferlay J, Soerjomataram I, et al
(2018). Global cancer statistics 2018: GLOBOCAN
estimates of incidence and mortality worldwide for
36 cancers in 185 countries. CA Cancer J Clin,
68(6), 394–424.
2. A new prognostic system for hepatocellular
carcinoma: a retrospective study of 435 patients:
the Cancer of the Liver Italian Program (CLIP)
investigators (1998). Hepatology, 28(3), 751–755.
3. Cheng A L, Kang Y K, Chen Z , et al (2009).
Efficacy and safety of sorafenib in patients in the
Asia-Pacific region with advanced hepatocellular
carcinoma: a phase III randomised, double-blind,
placebo-controlled trial. Lancet Oncol, 10(1), 25–34.
4. Lencioni R, Kudo M, Ye S.L et al (2014).
GIDEON (Global Investigation of therapeutic
DEcisions in hepatocellular carcinoma and Of its
treatment with sorafeNib): second interim analysis.
Int J Clin Pract, 68(5), 609–617.
5. Reig M, Torres F, Rodriguez-Lope C et al
(2014). Early dermatologic adverse events predict
better outcome in HCC patients treated with
sorafenib. Journal of Hepatology, 61(2), 318–324.
6. Branco F, Alencar R.S.M, Volt F et al (2017).
The Impact of Early Dermatologic Events in the
Survival of Patients with Hepatocellular Carcinoma
Treated with Sorafenib. Ann Hepatol, 16(2), 263–268.
7. Vincenzi B, Santini D, Russo A et al (2010).
Early skin toxicity as a predictive factor for tumor
control in hepatocellular carcinoma patients treated
with sorafenib. Oncologist, 15(1), 85–92.
8. Bettinger D, Schultheiss M, Knüppel E et al
(2012). Diarrhea predicts a positive response to
sorafenib in patients with advanced hepatocellular
carcinoma. Hepatology, 56(2), 789–790.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY THÂN XƯƠNG CHÀY
BẰNG ĐINH NỘI TỦY KÍN CÓ CHỐT
Nguyn Thiên Đức*, Võ Thnh Ton**
TÓM TẮT34
Mục đích: Đánh giá kết quả liền xương và phục
hồi chức năng của gãy thân xương chày sau phẫu
thuật kết hợp xương định nội tủy có chốt. Đối tượng
*Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
**Bệnh viện Thống Nhất
Chịu trách nhiệm chính: Võ Thanh Toàn
Email: vothanhtoan1990@yahoo.com
Ngày nhận bài: 6.01.2020
Ngày phản biện khoa học: 21.2.2020
Ngày duyệt bài: 28.2.2020
và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu
trên hồ sơ của tất cả những bệnh nhângãy thân
xương chày do chấn thươngđược điều trị phẫu thuật
kết hợp xương bằng định nội tủy có chốt tại Bệnh viện
Thống Nhất từ tháng 01/2016 đến tháng 09/2019.
Kết quả: Nghiên cứu 43bệnh nhân trong thời gian
theo dõi trung bình 11,4 tháng (ngắn nhất 7 tháng và
dài nhất 18 tháng). Cho kết quả liền xương tốt 100%,
thời gian liền xương trung bình là 14,5 tuần. Kết
quảPHCN theo tiêu chuẩnEkeland: rất tốt 76,2%, tốt
19,0%, trung bình 4,8% vàkhông có kết quả kém.
Kết luận: Chọn định nội tủy có chốt kết hợp xương
cho gãy thân xương chày làphương pháp tốt nhất, cố
định xương vững chắc, giúp bệnh nhân tập vậnđộng