BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

KHOA ĐIỀU DƯỠNG

TẠ THỊ PHƯƠNG

B00087

ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ TỈ LỆ TUÂN THỦ

RỬA TAY CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI KHOA NGOẠI VÀ

KHOA NỘI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỐNG ĐA – HÀ NỘI

TRƯỚC VÀ SAU CAN THIỆP NHẰM TĂNG CƯỜNG VỆ SINH

BÀN TAY NĂM 2010 – 2011

ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN HỆ VLVH

Hà Nội, tháng 12 năm 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

KHOA ĐIỀU DƯỠNG

TẠ THỊ PHƯƠNG

B00087

ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ TỈ LỆ TUÂN THỦ

RỬA TAY CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI KHOA NGOẠI VÀ

KHOA NỘI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỐNG ĐA – HÀ NỘI

TRƯỚC VÀ SAU CAN THIỆP NHẰM TĂNG CƯỜNG VỆ SINH

BÀN TAY NĂM 2010 – 2011

ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN HỆ VLVH

Giáo viên hướng dẫn

ThS. Vũ Thị Hồng Ngọc

Hà Nội, tháng 12 năm 2011

MỤC LỤC

Nội dung Trang

Lời cảm ơn i

Danh mục các chữ viết tắt ii

Danh mục các bảng iii

Danh mục các biểu đồ iv

Đặt vấn đề 1

Mục tiêu nghiên cứu 3

CHƯƠNG 1. Tổng quan 4

1. Cơ sở khoa học của vệ sinh bàn tay 4

2. Nhiễm khuẩn bệnh viện 4

2.1. Định nghĩa NKBV 4

2.2. Tác nhân gây NKBV 4

2.3. Tình hình NKBV hiện nay 4

2.4. Hậu quả của NKBV 5

3. Mối liên quan giữa tuân thủ rửa tay và tỉ lệ NKBV 5

7

4. Các nghiên cứu về kiến thức, thái độ và tỉ lệ tuân thủ VSBT của NVYT

4.1. Nghiên cứu trên Thế giới 7

4.2. Nghiên cứu tại Việt Nam 7

8

5. Các hoạt động của dự án Tăng cường vệ sinh bệnh viện nhằm làm tăng tỉ lệ tuân thủ rửa tay tại bệnh viện Đống Đa – Hà Nội

CHƯƠNG 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 10

1. Đối tượng, thời gian nghiên cứu 10

2. Phương pháp nghiên cứu 10

3. Chọn mẫu và cỡ mẫu 10

4. Cách thức tiến hành nghiên cứu 10

5. Các khái niệm 11

6. Phương pháp phân tích số liệu 12

7. Khía cạnh đạo đức nghiên cứu 12

CHƯƠNG 3. Kết quả 13

1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu 13

2. Kiến thức của đối tượng nghiên cứu trước và sau can thiệp 14

2.1. Kiến thức về VSBT trước và sau khi can thiệp 14

15

2.2.Tỉ lệ NVYT trả lời đúng câu hỏi về trình tự các bước của quy trình rửa tay thường quy

2.3. Sự khác biệt về kiến thức VSBT theo một số yếu tố 16

3. Thái độ của NVYT với tuân thủ VSBT 17

3.1. Thái độ chung của NVYT về VSBT 17

3.2. Thái độ của NVYT với các yếu tố làm tăng tỉ lệ tuân thủ rửa tay 19

19

3.3. Sự khác biệt về thái độ với tuân thủ VSBT theo nghề nghiệp, giới tính

4. Thực hành của NVYT về VSBT 20

4.1. Tỉ lệ NVYT tuân thủ rửa tay thường quy trước và sau khi can thiệp 20

21

4.2. Sự khác biệt về tỉ lệ tuân thủ rửa tay thường quy của NVYT theo nghề nghiệp, thời điểm quan sát

4.3. Tỉ lệ tuân thủ rửa tay thường quy theo các cơ hội của nghiên cứu 21

4.4.Phương thức nghiên cứu 23

CHƯƠNG 4. Bàn luận 24

1. Kiến thức về vệ sinh bàn tay của NVYT trước và sau khi can thiệp 24

25

2. Thái độ của NVYT với sự tuân thủ vệ sinh bàn tay trước và sau khi can thiệp

3. Thực hành vệ sinh bàn tay của NVYT trước và sau khi can thiệp 26

29

4. Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ vệ sinh bàn tay của NVYT tại bệnh viện Đống đa – Hà Nội

CHƯƠNG 5. Kết luận 30

1.Kiến thức về vệ sinh bàn tay của NVYT tại Bệnh viện 30

2. Thái độ của NVYT với sự tuân thủ vệ sinh bàn tay 30

3. Thực hành vệ sinh bàn tay của NVYT 30

CHƯƠNG 6. Khuyến nghị 31

Tài liệu tham khảo 32

Phụ lục 34

Phụ lục 1 34

Phụ lục 2 41

Phụ lục 3 45

Phụ lục 4 46

Phụ lục 5 49

LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến GS.TS. Phạm Thị Minh

Đức – Trưởng khoa Tại chức Điều dưỡng và các thầy cô giáo Khoa Tại chức Điều

dưỡng trường Đại học Thăng Long đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong khóa học

này.

Với tất cả tình cảm sâu sắc nhất, tôi bày tỏ lòng biết ơn đến –ThS. Vũ

Thị Hồng Ngọc - Giáo viên hướng dẫn người đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận

lợi và có những ý kiến góp ý quý báu cho tôi trong quá trình hoàn thành luận văn. Tôi

xin trân trọng cảm ơn ThS. Hoàng Thị Xuân Hương, ThS. Nguyễn Đức Thắng đã

đóng góp nhiều ý kiến quan trọng để tôi hoàn thiện nghiên cứu này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám đốc Bệnh viện Đống Đa - Hà Nội, đặc

biệt là các cán bộ công tác tại phòng Điều dưỡng đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo những

điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình triển khai nghiên cứu tại 2 khoa Ngoại

và Nội của bệnh viện.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Cục Quản lý Khám, chữa bệnh Bộ Y tế đã

hỗ trợ cho nghiên cứu này.

Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình và bè bạn, đồng nghiệp đã dành tình

cảm, động viên, giúp đỡ tôi trong cuộc sống và trong quá trình học tập vừa qua.

Mặc dù đã rất cố gắng song đây là đề tài nghiên cứu mới tại Việt Nam, cả về

lĩnh vực nghiên cứu, đối tượng và phương pháp nghiên cứu, do đó, không tránh khỏi

những mặt còn hạn chế, rất mong nhận được sự góp ý của các chuyên gia để tôi rút

kinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu sau này.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà nội, ngày 15 tháng 12 năm 2011

Tạ Thị Phương

i

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Bệnh nhân BN

Bác sỹ BS

Trung tâm dự phòng và kiểm soát bệnh Hoa Kỳ CDC

(Centre for Diseases Control and Prevention)

ĐD ĐD

Vi rút gây Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải HIV

Kiểm soát nhiễm khuẩn KSNK

Tụ cầu kháng kháng sinh Methicillin MRSA

(Methicillin Resistant Staphylococcus Aureus)

Nhiễm khuẩn bệnh viện NKBV

Nhân viên y tế NVYT

Sau can thiệp SCT

Trước can thiệp TCT

Tổ chức Y tế thế giới WHO

(World Health Organization)

YTCC Y tế công cộng

ii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1. Thông tin về tuổi, giới của đối tượng nghiên cứu ........................................133

Bảng 2. Thông tin về nghề nghiệp, trình độ học vấn và thâm niên công tác của .......133

Bảng 3. Kiến thức về VSBT của đối tượng nghiên cứu trước can thiệp....................144

Bảng 4. Kiến thức của đối tượng nghiên cứu về VSBT trước và sau khi can thiệp ...144

Bảng 5. Sự khác biệt về kiến thức VSBT theo nghề nghiệp .....................................166

Bảng 6. Thái độ chung của NVYT với tuân thủ VSBT trước và sau can thiệp .........177

Bảng 7. Thái độ của NVYT về mối liên quan giữa VSBT và NKBV .......................188

Bảng 8. Thái độ của NVYT với các yếu tố làm tăng tỉ lệ tuân thủ rửa tay................199

Bảng 9. Thái độ với tuân thủ VSBT theo nghề nghiệp .............................................199

Bảng 10. Thái độ với tuân thủ VSBT theo giới tính ...................................................20

Bảng 11. Tỉ lệ NVYT tuân thủ rửa tay thường quy trước và sau khi can thiệp ...........20

Bảng 12. Tỉ lệ tuân thủ rửa tay thường quy của BS và ĐD.........................................21

Bảng 13. Tỉ lệ tuân thủ rửa tay thường quy của NVYT theo thời điểm quan sát.........21

Bảng 14. Phương thức rửa tay của NVYT..................................................................23

iii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1 Hiệu quả của việc rửa tay với các loại hóa chất khác nhau..........................6

Biểu đồ 2. Tỉ lệ NVYT trả lời đúng câu hỏi về trình tự các bước của quy trình rửa tay

thường quy ..............................................................................................................155

Biểu đồ 3. Sự khác biệt về kiến thức VSBT theo trình độ học vấn ...........................176

Biểu đồ 4. Tỉ lệ tuân thủ rửa tay thường quy theo các thời điểm tiếp xúc với người

bệnh...........................................................................................................................22

Biểu đồ 5. Tỉ lệ rửa tay đúng theo các cơ hội của NC trước và sau can thiệp............233

iv

ĐẶT VẤN ĐỀ

Theo Tổ chức y tế Thế giới (WHO), nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) là các nhiễm

khuẩn xuất hiện sau 48h kể từ khi bệnh nhân nhập viện và không hiện diện cũng

như không có ở giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện. NVBK xảy ra ở khắp nơi

trên thế giới. Một số nghiên cứu đã đưa ra 5 hậu quả đối của NKBV đối với người

bệnh là: tăng tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tử vong, ngày điều trị, chi phí điều trị và tăng sự

kháng thuốc của vi sinh vật. Chi phí điều trị cho một ca NKBV tại Việt Nam là từ 2

đến 32.5 triệu đồng tùy thuộc vào cơ quan/bộ phận bị NKBV [6]. Nỗ lực kiểm soát

các tác nhân gây NKBV hiện tại và tương lai vẫn còn là một thách thức đối với

những nhà quản lý y tế, những nhà nghiên cứu, thầy thuốc và ĐD lâm sàng.

Ngày nay, mặc dù kiến thức về kiểm soát NKBV ngày càng cao, kháng sinh phổ

rộng ngày càng nhiều và các biện pháp kiểm soát NKBV ngày càng được tăng

cường, song NKBV vẫn chưa giảm. Có nhiều phương thức lây truyền NKBV, tuy

nhiên sự lây truyền qua bàn tay NVYT là một trong những nguyên nhân hàng đầu

[4]. Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định vệ sinh tay với dung dịch sát khuẩn tay chứa

cồn là biện pháp quan trọng nhất để dự phòng sự lây truyên tác nhân gây bệnh trong

các cơ sở y tế. Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 18/2009/TT-BYT

ngày 14 tháng 10 năm 2009 hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm

khuẩn tại các cơ sở khám, chữa bệnh, trong đó đã quy định thầy thuốc, NVYT, sinh

viên/học sinh và người bệnh, người nhà người bệnh khi đến bệnh viện phải rửa tay

theo quy định và hướng dẫn của cơ sở khám, chữa bệnh [1].

Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện tại các bệnh viện nhằm đánh

giá tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT, trong đó có một số nghiên cứu được thực hiện

theo phương pháp đánh giá sự thay đổi về kiến thức, thái độ và tỉ lệ tuân thủ VSBT

trước và sau can thiệp. Các can thiệp nhằm tăng cường kiến thức về tỉ lệ tuân thủ

VSBT thường có một số hoạt động như: tổ chức các buổi tập huấn, xem video clip,

nghe các bài giảng về VSBT cho NVYT, tăng cường số lượng các vị trí rửa tay,

cung cấp hóa chất sát khuẩn tay nhanh, giám sát sự tuân thủ rửa tay và phản hồi lại

1

với các NVYT để họ biết và tuân thủ tốt hơn, tổ chức các chiến dịch khuyến khích

NVYT rửa tay.

NKBV gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng không chỉ với bệnh nhân mà

còn đối với các NVYT. Sự tuân thủ rửa tay của NVYT (như rửa tay với nước và xà

phòng, rửa tay với dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn) được coi là biện pháp đơn

giản và hiệu quả nhất để phòng ngừa hiệu quả NKBV. VSBT đúng cách sẽ làm loại

bỏ hầu hết lớp vi sinh vật gây ra NKBV cho bệnh nhân. Hiện nay vấn đề vệ sinh

bàn tay chưa được NVYT coi trọng, nhiều người khi tiến hành các kỹ thuật trên

bệnh nhân đã không có ý thức tuân thủ vệ sinh bàn tay nên đã để lại nhưng hậu quả

nghiêm trọng cho bệnh nhân như nhiễm khuẩn vết mổ, áp xe nơi tiêm…Vì vậy việc

tăng cường kiến thức, thái độ, thực hành rửa tay cho NVYT là vô cùng quan trọng.

Bệnh viện Đống Đa là một trong những bệnh viện chưa có điều kiện để thực hiện

tuân thủ rửa tay cho NVYT do cơ sở vật chất của bệnh viện chưa đồng bộ. Bệnh

viện được cải tạo xây dựng trên nền của nhà thờ cũ thời Pháp thuộc nên thiết kế các

phòng bệnh chưa phù hợp, không có chỗ đề NVYT rửa tay. Chính vì vậy Bộ Y tế đã

chọn bệnh viện để triển khai Dự án Tăng cường vệ sinh bệnh viện nhằm nâng cao

kiến thức, thái độ, thực hành rửa tay cho NVYT tại đây. Để đánh giá tỉ lệ tuân thủ

rửa tay của NVYT tại Khoa Ngoại và khoa Nội của BV Đống Đa có tăng lên sau

khi có sự can thiệp, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đánh giá kiến thức, thái độ và

tỷ lệ tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế tại khoa Ngoại và khoa Nội bệnh viện đa

khoa Đống Đa – Hà Nội trước và sau can thiệp nhằm tăng cường vệ sinh bàn tay

năm 2010-2011”

2

MỤC TIÊU

1. Mục tiêu chung

Đánh giá hiệu quả can thiệp nhằm nâng cao kiến thức, thái độ và sự tuân thủ rửa tay

của NVYT tại khoa Ngoại và khoa Nội bệnh viện Đống Đa, Hà Nội trước và sau

can thiệp nhằm tăng cường vệ sinh bàn tay năm 2010-2011.

2. Mục tiêu cụ thể

2.1. Mô tả kiến thức, thái độ và tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT tại khoa Ngoại và

khoa Nội tại bệnh viện Đống Đa trước (tháng 11/2010) và sau khi can thiệp (tháng

3/2011).

2.2. Mô tả một số yếu tố ảnh hưởng tới việc tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế

(NVYT)

3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1. Cơ sở khoa học của VSBT

Trong suốt thế kỷ thứ XIX, ở Châu Âu và Hoa Kỳ, 25% bà mẹ sinh con tại bệnh

viện đã tử vong do sốt hậu sản. Nguyên nhân là do vi khuẩn Streptococcus

pyogenes. Năm 1843, bác sĩ Oliver Wendell Holmes (Hoa Kỳ) cho rằng, VSBT có

thể phòng ngừa được sốt hậu sản. Trước tỉ lệ sốt hậu sản tại các bệnh viện ở Hoa

Kỳ, ông tin tưởng rằng nguyên nhân chính là do sự lây truyền vi khuẩn từ sản phụ

này sang sản phụ khác qua bàn tay các bác sỹ. Ý kiến của ông đã bị nhiều bác sĩ

cùng thời phản đối [12]

2. Nhiễm khuẩn bệnh viện

2.1. Định nghĩa NKBV

Theo Tổ chức y tế Thế giới (WHO), NKBV (NKBV) là các nhiễm khuẩn xuất hiện

sau 48h kể từ khi bệnh nhân nhập viện và không hiện diện cũng như không ở giai

đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện.

2.2. Tác nhân gây NKBV

Nhiễm khuẩn bệnh viện gây ra bởi các vi khuẩn, vi rút, nấm và ký sinh trùng. Trong

đó nhiễm trùng đường tiết niệu thông qua thủ thuật đặt dẫn lưu nước tiểu không

đảm bảo vô khuẩn là phổ biến nhất, đứng hàng thứ 2 là viêm phổi.

2.3. Tình hình NKBV hiện nay

* Trên thế giới

Bất kỳ nơi nào trên thế giới, các nước phát triển cũng như các nước nghèo đều phải

đối diện với NKBV. Theo nghiên cứu của WHO tại 55 bệnh viện của 14 nước trên

các châu lục, khoảng 8,7% bệnh nhân nội trú mắc NKBV.

* Tại Việt Nam

Theo nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng và cộng sự thực hiện năm 2006 – 2007 tại

62 bệnh viện khu vực phía Bắc đại diện các tuyến: Trung ương, tỉnh/Thành phố và

Quận/Huyện cho thấy, tỉ lệ NKBV trung bình là 7,8%. Trong đó các bệnh viện

tuyến TW có tỉ lệ NKBV là 5,4%; các BV tuyến tỉnh/thành phố có tỉ lệ NKBV là

8,3% cao hơn tỉ lệ NKBV ở các BV tuyến quận/huyện là 6,4%. Tác nhân gây

4

NKBV hàng đầu là Pseudomonas aeruginosa, tiếp đó là Acinetobacte baumani và

nấm Candida [6].

2.4 . Hậu quả của Nhiễm khuẩn bệnh viện

Nhiễm khuẩn bệnh viện gây ra những hậu quả nặng nề với bệnh nhân cũng như các

NVYT. Các hậu quả của NKBV bao gồm:

a) Tăng chi phí và tăng ngày điều trị:

Tại Việt Nam, thông tin tại Đại hội Hội Kiểm soát nhiễm khuẩn Hà Nội năm 2008

cho thấy, mỗi NKBV làm kéo dài thời gian nằm viện trung bình từ 9.4 đến 24.3

ngày và làm tăng chi phí điều trị trung bình từ 2-32,3 triệu đồng [7]. Đây quả là một

số tiền lớn so với mức thu nhập trung bình của người dân tại thời điểm năm 2008

mới là 1024 USD tương đương gần 16 triệu đồng [8].

Các bệnh nhân mắc NKBV đòi hỏi nhu cầu chăm sóc và điều trị cao hơn do đó làm

tăng thêm áp lực công việc cho các NVYT vốn đã làm việc trong tình trạng quá tải.

b) Tăng sự kháng thuốc của vi sinh vật

Nhiễm khuẩn bệnh viện không những gây hậu quả nặng nề về mặt lâm sàng, kinh tế

mà còn là nguyên nhân làm tăng sự kháng thuốc của vi sinh vật, làm xuất hiện

những chủng vi khuẩn đa kháng kháng sinh (ví dụ như MRSA – tụ cầu kháng kháng

sinh Methicillin) là nguyên nhân dẫn đến tử vong trong các bệnh viện. Tại Hoa Kỳ,

tháng 10/2010, CDC công bố số người chết do MRSA đã vượt quá số người chết vì

bệnh AIDS. Trong số các bệnh viện được khảo sát, MRSA được tìm thấy ở 176

bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 45%, trong đó 7,7% bị lây khi đang nằm viện.

c) Các hậu quả khác

NKBV còn làm tăng tỉ lệ tử vong và tăng các biến chứng cho người bệnh.

NKBV không chỉ gây biến chứng nặng nề cho bệnh nhân, là nguy cơ lây nhiễm cho

NVYT, NKBV còn làm giảm chất lượng điều trị và uy tín của bệnh viện.

3. Mối liên quan giữa tuân thủ rửa tay và tỉ lệ NKBV

NKBV lây truyền qua một số con đường, tuy nhiên việc lây truyền thông qua bàn

tay của NVYT là phổ biến nhất.

NKBV gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng không chỉ với bệnh nhân mà

còn đối với các NVYT. Sự tuân thủ rửa tay của NVYT (như rửa tay với nước và xà

5

phòng, rửa tay với dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn) được coi là biện pháp đơn

giản và hiệu quả nhất để phòng ngừa hiệu quả NKBV.

VSBT đúng cách sẽ làm loại bỏ hầu hết lớp vi sinh vật gây ra NKBV cho bệnh

nhân.

Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định vệ sinh tay bằng dung dịch có chứa cồn là biện

pháp quan trọng nhất để dự phòng sự lây truyên tác nhân gây bệnh trong các cơ sở y

tế. Một nghiên cứu trên Thế giới từ năm 1994 đến 1997 trên 20,000 cơ hội rửa tay

của NVYT tại một BV đã cho thấy: khi tỉ lệ tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế

tăng từ 48% (1994) lên 66% (1997) thì tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện giảm từ 16.9%

(1994) xuống còn 6.9% (1997) Tại Việt Nam, can thiệp làm tăng sự tuân thủ vệ

sinh bàn tay của NVYT cũng mang lại hiệu quả tích cực trong việc làm giảm tỉ lệ

NKBV. Tại BV Hà Đông, tỉ lệ NKBV giảm từ 14.8% (trước can thiệp) xuống còn

1.28% (sau can thiệp)

A= tay chưa rửa

B= tay sau khi rửa với nước và xà

phòng

C= tay sau khi sát khuẩn bằng

dung dịch cồn

Biểu đồ 1. Hiệu quả của việc rửa tay với các loại hóa chất khác nhau

Đánh giá được tầm quan trọng của VSBT trong việc phòng ngừa và giảm bớt tỉ lệ

NKBV, từ năm 1996 Bộ Y tế đã đã ban hành Quy trình rửa tay thường quy có minh

hoạ bằng hình ảnh. Năm 2007, dựa trên hướng dẫn mới nhất của Tổ chức Y tế Thế

giới về phương pháp rửa tay thường quy và sát khuẩn tay bằng cồn, Bộ Y tế đã mời

các chuyên gia y tế và chuyên gia kiểm soát nhiễm khuẩn sửa đổi quy trình cho phù

hợp với điều kiện Việt Nam và ban hành công văn số 7517/BYT-Đtr ngày 12 tháng

6

10 năm 2007 đề nghị các Sở Y tế, các đơn vị tổ chức cho cán bộ, nhân viên bệnh

viện học tập và thực hiện theo hướng dẫn mới và treo Quy trình rửa tay bằng hình

ảnh ở những vị trí thuận lợi để NVYT thực hiện theo quy định [2]. Năm 2009, Bộ Y

tế đã ban hành Thông tư 18/2009/TT-BYT: Hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác

KSNK tại các cơ sở khám, chữa bệnh. Điều 1 của Thông tư quy định “Thầy thuốc,

NVYT, học sinh, sinh viên thực tập tại các cơ sở khám chữa bệnh phải tuân thủ rửa

tay đúng chỉ định và đúng quy trình kỹ thuật theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Người

bệnh và người nhà người bệnh, khách đến thăm phải rửa tay theo quy định và

hướng dẫn của cơ sở khám, chữa bệnh”[1].

4. Các nghiên cứu về kiến thức, thái độ và tỉ lệ tuân thủ VSBT của NVYT

4.1. Nghiên cứu trên thế giới

Tuân thủ VSBT phòng tránh được NKBV, tuy nhiên tỉ lệ tuân thủ rửa tay của các

NVYT còn rất thấp.

Năm 2002, tại Italia, Nobile và cộng sự đã tiến hành đánh giá Kiến thức, thái độ và

thực hành VSBT của các NVYT tại các khoa hồi sức tích cực của 24 BV vùng

Campania và Calabria. Kết quả cho thấy 53,2% NVYT có kiến thức đúng, tỉ lệ có

thái độ tích cực về VSBT là 96,8%, thái độ tích cực của nhóm NVYT có trình độ

học vấn cao và nhóm nữ, lớn tuổi cao hơn một cách có ý nghĩa so với các nhóm

khác. Trong nghiên cứu này tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT tại thời điểm trước khi

chăm sóc người bệnh đạt 60% và sau khi chăm sóc người bệnh đạt 72,5%. Tỉ lệ này

ở nhóm nữ NVYT cao hơn một cách có ý nghĩa so với các nhóm khác [12].

4.2. Nghiên cứu tại Việt Nam

Khoảng 10 năm trở lại đây, VSBT của NVYT được chú trọng hơn tại Việt Nam, do

đó đã có nhiều các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.

Năm 2005, nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng và cộng sự thực hiện tại một số bệnh

viện khu vực phía bắc cho thấy tỉ lệ NVYT nhận thức về VSBT chưa tốt ở mọi đối

tượng, mọi lứa tuổi. Trong nghiên cứu này tỉ lệ NVYT có nhận thức tốt về VSBT

chỉ đạt 42,2% [5].

Một nghiên cứu can thiệp của Nguyễn Việt Hùng, Trương Anh Thư và cộng sự thực

hiện năm 2005 cho thấy, trước can thiệp tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT chỉ là

7

6,3%. Sau 4 tháng tổ chức chiến dịch vận động NVYT tăng cường VSBT, tỉ lệ tuân

thủ rửa tay đã tăng lên 65,7% [11].

5. Các hoạt động của dự án Tăng cường vệ sinh bệnh viện nhằm làm tăng tỉ lệ

tuân thủ rửa tay tại bệnh viện Đống Đa – Hà Nội

Bệnh viện Đống Đa là một bệnh viện hạng II trực thuộc Sở Y tế Hà Nội. Bệnh viện

được thành lập từ năm 1970. Hiện nay bệnh viện có 21 khoa/phòng trong đó gồm 8

khoa lâm sàng, 6 khoa cận lâm sàng và 7 phòng chức năng. Với tổng số giường

thực kê là 285 giường, trung bình 1 tháng, bệnh viện có 1370 bệnh nhân nội trú và

đón tiếp 1515 lượt người đến khám. Bệnh viện xây dựng đã lâu do vậy cơ xở vật

chất chật hẹp, xuống cấp. Bệnh viện lại được xây dựng trên cơ sở cũ của nhà thờ

nên công năng không đồng bộ. Qua khảo sát ban đầu, chúng tôi nhận thấy 100% các

khoa lâm sàng tại bệnh viện có điểm rửa tay nhưng phần lớn các điểm rửa tay này

đều đặt ở khu vực hành lang, phòng hành chính của các khoa. Có đến 80% buồng

bệnh chưa được lắp đặt bình đựng dung dịch sát khuẩn tay nhanh chứa cồn phục vụ

nhu cầu VSBT của NVYT.

Năm 2010, bệnh viện được lựa chọn là một trong sáu bệnh viện tham gia dự án

“Tăng cường vệ sinh bệnh viện” do Cục Quản lý Khám, chữa bệnh Bộ Y tế phối

hợp cùng Unilever Việt Nam thực hiện. Một trong các hoạt động của dự án tại bệnh

viện là triển khai chiến dịch vệ sinh bàn tay với mục đích nâng tỉ lệ tuân thủ rửa tay

của nhân viên y tế lên 60%. Dự án được thực hiện qua 3 giai đoạn

Giai đoạn 1: Khảo sát số bồn rửa tay cần lắp mới, cần sửa chữa và số lượng các

phương tiện rửa tay khác cần cung cấp cho bệnh viện. Khảo sát số lượng và các vị

trí dán poster khuyến khích nhân viên y tế tuân thủ vệ sinh bàn tay

Tập huấn giảng viên về vệ sinh bàn tay và cán bộ thu thập số liệu (do Cục Quản lý

khám, chữa bệnh tổ chức)

Đánh giá trước can thiệp (tháng 11 năm 2010)

Giai đoạn 2: Can thiệp (tháng 12/2010 đến tháng 2/2011)

- Tổ chức lễ phát động vệ sinh bàn tay trong toàn bệnh viện với sự tham gia

của 100% nhân viên y tế công tác tại bệnh viện.

8

- Tập huấn về kiến thức, kỹ thuật và tầm quan trọng của việc vệ sinh bàn tay

cho 100% nhân viên y tế công tác tại bệnh viện.

- Cung cấp các phương tiện phục vụ vệ sinh bàn tay: khăn lau tay, dung dịch

xà phòng diệt khuẩn, bánh xà phòng diệt khuẩn, chai dung dịch sát khuẩn tay

nhanh chứa cồn (dung tích 55ml/chai) cho NVYT Khoa Ngoại và khoa Nội

của bệnh viện.

- Phát tờ rơi về quy trình rửa tay cho các NVYT, in và dán poster khổ lớn

khuyến khích NVYT rửa tay tại các vị trí dễ nhìn.

Giai đoạn 3: Đánh giá sau can thiệp (tháng 3/2011)

9

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng, thời gian nghiên cứu

 Đối tượng nghiên cứu: Bác sỹ, ĐD đang công tác tại khoa Ngoại và khoa Nội,

bệnh viện Đống Đa – Hà Nội.

 Thời gian nghiên cứu: từ tháng 11 năm 2010 đến tháng 3 năm 2011.

2. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả trước sau can thiệp.

3. Chọn mẫu và cỡ mẫu

Chọn mẫu toàn bộ: 70 Bác sỹ và ĐD đang công tác tại khoa Khoa Ngoại và khoa

Nội, bệnh viện Đống Đa Hà Nội.

4. Cách thức tiến hành nghiên cứu

Đánh giá kiến thức và thái độ về VSBT của NVYT trước và sau can thiệp được thực

hiện bằng phương pháp phát vấn, sử dụng bộ công cụ đánh giá kiến thức và thái độ

về VSBT gồm 31 câu hỏi tự điền, thực hiện vào các buổi giao ban tại các khoa.

Nghiên cứu được tiến hành theo 3 giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: Tiến hành đánh giá kiến thức, thái độ và tỉ lệ tuân thủ rửa tay của

NVYT tại BV (tháng 11 năm 2010) như đã mô tả trong phần trên.

Giai đoạn 2: Can thiệp (tháng 12/2010 – 2/2011) với một số hoạt động chính như

sau:

 Tổ chức lễ phát động VSBT trong khoa với sự tham gia của 100% NVYT

công tác tại khoa.

 Tập huấn về kiến thức, kỹ thuật và tầm quan trọng của việc VSBT cho 100%

NVYT công tác tại khoa.

 Cung cấp các phương tiện phục vụ VSBT như: khăn lau tay, dung dịch xà

phòng diệt khuẩn, bánh xà phòng diệt khuẩn, chai dung dịch sát khuẩn tay nhanh

chứa cồn (dung tích 55ml/chai) cho NVYT trong khoa.

10

 Phát tờ rơi về quy trình rửa tay cho các NVYT, in và dán poster khổ lớn

khuyến khích NVYT rửa tay tại các vị trí dễ nhìn.

Giai đoạn 3: Đánh giá kiến thức thái độ và tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT tại BV

sau can thiệp (tháng 3 năm 2011).

Đánh giá tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT được thực hiện bằng phương pháp quan

sát điền vào bảng kiểm (quan sát không tham gia). Các quan sát viên sử dụng bộ

công cụ và cách đánh giá sự tuân thủ rửa tay (được xây dựng dựa trên bộ công cụ và

cách tiến hành đánh giá tuân thủ rửa tay đã được chuẩn hóa của Tổ chức Y tế thế

giới thực hiện trên khắp các bệnh viện toàn thế giới) chọn vị trí quan sát không gây

sự chú ý đối với NVYT và quan sát các đối tượng thực hiện những thao tác chăm

sóc, điều trị bệnh nhân tại buồng bệnh hoặc giường bệnh trong khoa. Thời gian của

mỗi lần giám sát là 20±10 phút (tùy thuộc vào thao tác chăm sóc NVYT thực hiện

trên người bệnh), nếu hết thời gian quan sát NVYT chưa kết thúc thao tác chăm sóc

bệnh nhân, thì quan sát viên tiếp tục quan sát cho tới khi NVYT hoàn thành thao tác

chăm sóc đó, NVYT chỉ được ghi nhận có VSBT khi thực hiện quy trình này tại các

vị trí VSBT trong buồng bệnh [27]. Thời gian tiến hành giám sát vào hai thời điểm

8h đến 9h sáng và 14h đến 15h chiều là thời điểm NVYT tiến hành các kỹ thuật

chăm sóc điều trị bệnh nhân nhiều nhất và việc tuân thủ rửa tay cần phải thực hiện

trong thời gian này.

5. Các khái niệm

Rửa tay đúng: Rửa tay với nước và xà phòng hoặc với dung dịch sát khuẩn tay

nhanh theo đúng quy trình VSBT gồm 6 bước của Bộ Y tế trong Công văn số:

7517/BYT- ĐTr ngày 12 tháng 10 năm 2007 về việc Hướng dẫn thực hiện Quy

trình rửa tay thường quy và sát khuẩn tay nhanh bằng dung dịch chứa cồn.

Rửa tay: Rửa tay dưới bất kỳ hình thức nào đúng hoặc không đúng theo quy trình VSBT gồm 6 bước của Bộ Y tế trong Công văn số: 7517/BYT- ĐTr ngày 12 tháng 10 năm 2007 về việc Hướng dẫn thực hiện Quy trình rửa tay thường quy và sát khuẩn tay nhanh bằng dung dịch chứa cồn.

Thời gian thực hiện vệ sinh tay với nước và xà phòng là khoảng 45 - 60 giây, với

dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn là từ 20 đến 30 giây.

11

Các cơ hội rửa tay trong phạm vi nghiên cứu gồm: Trước khi chuẩn bị dụng cụ;

Trước khi chuẩn bị thuốc; Trước khi khám hoặc chăm sóc người bệnh; Trước khi

làm thủ thuật xâm lấn; Trước khi đi găng; Khi di chuyển từ vùng bẩn sang vùng

sạch trên cùng người bệnh; Sau khi làm thủ thuật xâm lấn; Sau khi tháo găng; Sau

khi tiếp xúc với đồ vật, dụng cụ, máu, dịch và các chất bài tiết; Sau khi khám hoặc

chăm sóc bệnh nhân.

6. Phương pháp phân tích số liệu

 Các số liệu được kiểm tra, làm sạch các lỗi, mã hoá và nhập thông tin vào máy

tính, xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0, sử dụng phương pháp thống kê thông thường

để phân tích.

7. Khía cạnh đạo đức của nghiên cứu

 Nghiên cứu được thực hiện với sự đồng ý của Bệnh viện Đống Đa Hà Nội.

 Các đối tượng nghiên cứu được thông báo rõ về mục đích nghiên cứu.

 Các thông tin cá nhân về đối tượng được giữ bí mật bằng cách mã hoá.

 Nghiên cứu không có tác động nào trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu.

12

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu

Bảng 1. Thông tin về tuổi, giới của đối tượng nghiên cứu

Thông tin chung Trước can thiệp (n = 70) Sau can thiệp (n = 58)

n % n

Nhóm tuổi

≤ 29 tuổi 30 – 39 tuổi 40 - 49 ≥50 25 21 15 9 35.7 30 31,4 12,9 % 36,7 31,3 19,5 12,5 22 19 10 7

35,9 ± 9,5 35,4 ± 9,3

Nam 20 28,6 24,1 14 Tuổi trung bình Giới tính

Nữ 50 71,4 75,9 44

Số lượng NVYT tham gia vào điều tra TCT là 70 người, SCT là 58 người. Phần lớn

đối tượng nghiên cứu ≤ 29 tuổi (chiếm trên 35,7%). Về giới tính, đa phần đối tượng

tham gia nghiên cứu là nữ (chiếm trên 70%).

Bảng 2. Thông tin về nghề nghiệp, trình độ học vấn và thâm niên công tác của đối tượng nghiên cứu

Thông tin chung Trước can thiệp (n = 70) Sau can thiệp (n=58)

n % n %

Nghề nghiệp Bác Sỹ ĐD 17 53 24,3 75,7 14 44 24,1 75,9

Trình độ học vấn Sau đại học Đại học 10 11 14,3 15,7 8 9 13,8 15,5

Cao đẳng Trung học chuyên nghiệp 4 45 5,7 64,3 2 39 3,5 67,2

Thâm niên công tác tại viện Dưới 5 năm 5 – 10 năm 11 – 15 năm Trên 15 năm 25 16 7 22 35,7 22,9 10 31,4 22 14 5 17 37,9 24,1 8,6 29,2

13

Về nghề nghiệp: số đối tượng nghiên cứu là ĐD chiếm số lượng lớn (trên 75%). Đối

tượng là Bác sỹ chiếm 24,3% trước can thiệp và sau can thiệp là 24,1%.

Về trình độ học vấn: đa số đối tượng có trình độ trung học chuyên nghiệp (chiếm

trên 64%), trình độ cao đẳng chiếm số lượng ít (chỉ chiếm trên 5%).

Về thời gian công tác: số đối tượng có thâm niên công tác dưới 5 năm chiếm tỉ lệ

lớn (trên 35%), số đối tượng có thâm niên công tác lâu trên 15 năm chỉ chiếm

29,2%.

Bảng 3. Kiến thức về VSBT của đối tượng nghiên cứu trước can thiệp

%

Tần số (n=70) 51 72,9

66 94,3 Số lượng Nội dung Được học về quy trình rửa tay thường quy trong thời gian học trường Y Được cập nhật kiến thức về VSBT từ khi tốt nghiệp đến năm 2010

89,6 69

Trong năm 2010 được bệnh viện/khoa phòng phổ biến về quy định/hướng dẫn rửa tay thường quy của BYT Trước can thiệp, phần lớn các đối tượng đã được cập nhật kiến thức liên quan đến

VSBT (94,3%), và được hướng dẫn về các quy định của BYT liên quan đến tuân

thủ rửa tay thường quy (89,6%). Tuy nhiên chỉ có 72,9% số đối tượng trả lời đã

được học về quy trình rửa tay thường quy trong thời gian học tại trường Y.

2. Kiến thức của đối tượng nghiên cứu trước và sau khi can thiệp

2.1. Kiến thức về VSBT trước và sau khi can thiệp

Phần kiến thức về VSBT gồm 19 câu hỏi tự điền, trả lời đúng 1 câu được 1 điểm,

tổng điểm là 19 điểm. NVYT đạt được từ 11 điểm trở lên là đạt yêu cầu, đạt từ 0 –

10 điểm là không đạt yêu cầu.

Bảng 4. Kiến thức của đối tượng nghiên cứu về VSBT trước và sau khi can thiệp

Số lượng Mức độ Trước can thiệp (n = 70) Sau can thiệp (n = 58)

n % n %

40,5 59,5 100 10 48 58 17,5 82,5 100* 28 42 70

Không đạt Đạt Tổng Điểm trung bình 10,9 ± 2,4 12,7 ± 2,1**

14

*: p< 0,05 (TCT so với SCT) ; **: p< 0,05 (TCT so với SCT).

Có 59,5% NVYT ở điều tra TCT đạt yêu cầu về kiến thức VSBT, tỷ lệ này sau can

thiệp tăng lên 82,5%. Sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê (χ²=21,9, p<0.05, OR

= 3,2, 95% CI= 1,9 – 5,3).

Điểm trung bình KT của NVYT trước can thiệp là 10,9 ± 2,4, sau can thiệp điểm

này tăng một cách có ý nghĩa lên 12,7 ± 2,1 (p<0,05),

2.2. Tỉ lệ NVYT trả lời đúng câu hỏi về trình tự các bước của quy trình rửa tay

thường quy

Các NVYT được yêu cầu sắp xếp lại 6 bước của quy trình rửa tay thường quy theo

100%

90%

81.6%

80%

70%

60.6%

60%

Trả lời đúng

50%

39.4%

Trả lời sai

40%

30%

18.4%

20%

10%

0%

Trước can thiệp

Sau can thiệp

trình tự đúng, kết quả được thể hiện ở biểu đồ sau

Biểu đồ 1. Tỉ lệ NVYT trả lời đúng câu hỏi về trình tự các bước của quy trình rửa tay thường quy

 Tỉ lệ NVYT trả lời đúng câu hỏi về 6 bước của quy trình rửa tay thường quy chỉ là 18,4% TCT, SCT tăng lên 60,6%. (OR=6,8, p<0,05, χ² = 65,9, CI = 4,2

– 11,1)

15

2.3. Sự khác biệt về kiến thức VSBT theo một số yếu tố

Bảng 5. Sự khác biệt về kiến thức VSBT theo nghề nghiệp

Trước can thiệp (n=70) Sau can thiệp (n=58)

Số lượng Mức độ

Không đạt ( 0 – 10 điểm) Đạt (≥ 11 điểm) BS (n1=17) 10 (58,8%) 8 (41,2%)

Tổng 18 (100%) BS ĐD (n1=14) (n2=53) 19 (35,8%) 4(38,6%) 34(64,2%) 10 (61,4%)a 53 (100%) ĐD (n2=44) 6 (13,6%) 38 (86,4%) 14 (100%) 44 (100%)*

11,3±2,1 10±2,8 12,2±2,6 12,9±1,9**

Điểm trung bình * : p<0,05 (BS so với ĐD); **: p<0,05 (TCT so với SCT)

Trước can thiệp có 41,2% bác sỹ có kiến thức đạt, tỉ lệ này ở ĐD là 58,8%, điểm

trung bình về KT của các BS là 10±2,8 và của các ĐD là 11,3±2,1. Có sự khác biệt

về kiến thức giữa BS và ĐD trước can thiệp (p<0,05)

Sau can thiệp có 61,4% bác sỹ có kiến thức đạt, tỉ lệ này ở ĐD là 86,4%, sự khác

biệt này có nghĩa thống kê (p<0,05).

Có sự tăng lên có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ BS và ĐD có KT đạt về VSBT trước và

100%

sau can thiệp (p<0,05).

86.80%

90%

80%

75%

69.60%

68.80%

64.30%

80% 70%

54.20%

54.10%

Kiến thức không Đạt

45.80%

45.90%

60% 50%

Kiến thức Đạt

35.70%

40%

31.20%

30.40%

25%

20%

30% 20%

13.20%

10% 0%

ĐH

THCN

ĐH

THCN

Sau ĐH

Sau ĐH

Trước can thiệp

Sau can thiệp

16

Biểu đồ 2. Sự khác biệt về kiến thức VSBT theo trình độ học vấn

Trước can thiệp, tỉ lệ NVYT có kiến thức đạt ở nhóm có trình độ cao đẳng là thấp

nhất (35,7%), SCT nhóm có tỉ lệ kiến thức đạt thấp nhất lại là nhóm có trình độ sau

ĐH (68,8%).

Sau can thiệp, tỉ lệ NVYT có kiến thức đạt ở tất cả các nhóm đều tăng lên, Nhóm

THCN có tỉ lệ KT đạt cao nhất trước và sau can thiệp (69.6% và 86,8%),

3. Thái độ của NVYT với tuân thủ VSBT

3.1. Thái độ chung của NVYT về VSBT

Phần đánh giá thái độ của NVYT gồm 8 câu hỏi với 3 mức độ đánh giá là Đồng ý,

không có ý kiến, không đồng ý. Cách chấm điểm được trình bày tại phụ lục 4.

NVYT được coi là có thái độ tích cực nếu đạt điểm từ 6 đến 8 điểm, thái độ không

tích cực nếu đạt từ 0 đến 5 điểm.

Bảng 6. Thái độ chung của NVYT với tuân thủ VSBT trước và sau can thiệp

Trước can thiệp (n=70) Sau can thiệp (n=58)

Số lượng Thái độ

n % n %

94,2 5,8 100 96,5 3,5 100

Tích cực Không tích cực Tổng Điểm trung bình 66 4 70 7,2±1,1 56 2 58 7,5±0,7

Phần lớn NVYT có thái độ tích cực với việc tuân thủ VSBT, tỉ lệ có thái độ tích cực

trước can thiệp là 94,2% và sau can thiệp là 96,5%. Điểm thái độ trung bình TCT là

7,2±1,1, SCT điểm này tăng lên 7,5±0,7. Không có sự khác biệt về tỉ lệ NVYT có

thái độ tích cực cũng như điểm thái độ của NVYT trước và sau can thiệp (p>0,05)

17

Bảng 7. Thái độ của NVYT về mối liên quan giữa VSBT và NKBV

Trước can thiệp (n=70) Sau can thiệp (n=58)

Tỉ lệ đồng ý Nội dung n N %

67 % 95,7 57 98,3

68 97,1 58 100

24 34,3 13 22,5*

1 1,4 1 1,7

1 1,4 2 3,4

Nếu tỉ lệ tuân thủ rửa tay thường quy của NVYT tăng lên thì tỉ lệ NKBV sẽ giảm xuống Rửa tay là lựa chọn tốt nhất để giảm sự lây truyền của các nhân tố gây nhiễm khuẩn có liên quan đến chăm sóc y tế Rửa tay nhiều lần trong ngày sẽ làm tổn thương da tay Sẽ không nói gì nếu gặp đồng nghiệp không tuân thủ rửa tay trước khi thực hiện các thăm khám thông thường như đo dấu hiện sinh tồn, khám nội khoa, kiểm tra vết mổ sạch… Sẽ không nói gì nếu gặp đồng nghiệp không tuân thủ rửa tay khi thực hiện các thủ thuật xâm nhập trên người bệnh như đặt kim luồn, đặt nội khí quản…

TCT có 95,7% NVYT đồng ý tuân thủ rửa tay sẽ làm giảm NKBV, SCT tỉ lệ này

tăng lên 98,3%; Tỉ lệ NVYT đồng ý rửa tay là lựa chọn tốt nhất để phòng ngừa

NKBV tăng từ 97.1% TCT lên 100% SCT.

Tỉ lệ NVYT đồng ý với việc rửa tay nhiều lần làm tổn thương da tay TCT là 34,7%,

SCT tỉ lệ giảm một cách có ý nghĩa xuống 22,5%.

Tỉ lệ NVYT có thái độ sai về việc tuân thủ VSBT trong công việc thấp, Khi thực

hiện các thao tác thăm khám thông thường, ít có nguy cơ lây nhiễm, có 1.4% NVYT

đồng ý với việc không góp ý nếu đồng nghiệp của mình không rửa tay, SCT tỉ lệ

này là 1,7%. Với các thủ thuật xâm lấn, có nguy cơ lây nhiễm cao vì tiếp xúc với

máu, dịch cơ thể người bệnh có 1,4% NVYT đồng ý với việc không góp ý nếu đồng

nghiệp không rửa tay, SCT tỉ lệ này là 3,4%.

18

3.2. Thái độ của NVYT với các yếu tố làm tăng tỉ lệ tuân thủ rửa tay

Bảng 8. Thái độ của NVYT với các yếu tố làm tăng tỉ lệ tuân thủ rửa tay

Tỉ lệ đồng ý Vấn đề Trước can thiệp (n=70) Sau can thiệp (n=58)

n n

66 % 94,3 55 % 94,8

67 95,7 55 94,8

68 97,1 54 93,1

Tổ chức các buổi tập huấn/sinh hoạt khoa học cung cấp kiến thức về VSBT sẽ làm tôi cảm thấy phải tuân thủ rửa tay tốt hơn Dán các poster khuyến khích NVYT rửa tay tại các vị trí dễ nhìn sẽ làm tăng tỉ lệ tuân thủ rửa tay Nếu bệnh viện đầu tư thêm các phương tiện rửa tay (lắp thêm bồn rửa, cung cấp thêm các dung dịch sát khuẩn tay, có khăn sử dụng 1 lần tại các điểm rửa tay…) thì tỉ lệ rửa tay của NVYT sẽ tăng lên

Trên 90% các NVYT đồng ý với ý kiến tổ chức các buổi tập huấn/sinh hoạt khoa

học về chủ đề VSBT, dán các poster và đầu tư thêm các phương tiện rửa tay sẽ làm

tăng tỉ lệ tuân thủ rửa tay.

3.3. Sự khác biệt về thái độ với tuân thủ VSBT theo nghề nghiệp, giới tính

Bảng 9. Thái độ với tuân thủ VSBT theo nghề nghiệp

Trước can thiệp (n=70) Sau can thiệp (n=58)

Số lượng Thái độ BS ĐD BS ĐD

Tích cực Không tích cực 16 (94,1%) 50 (94,3%) 13 (92,8%) 43 (97,7%) 1 (2,3%) 3 (5,7%) 1 (7,2%) 1 (5,9%)

Tổng Điểm trung bình 17 (100%) 6,9±1,3 53 (100%) 7,3±0,9 14 (100%) 7,3±1,05 44 (100%) 7,5±0,6

Trước can thiệp có 94,1% NVYT là BS có thái độ tích cực, tỉ lệ này ở ĐD là 94,3%.

Sau khi can thiệp, tỉ lệ thái độ tích cực ở BS là 92,8% và ĐD là 97,7%. Không có sự

khác biệt về thái độ với tuân thủ VSBT theo nghề nghiệp trước và sau can thiệp

(p>0,05).

19

Bảng 10. Thái độ với tuân thủ VSBT theo giới tính

Trước can thiệp (n=70) Sau can thiệp (n=58)

Số lượng Thái độ Nam Nữ Nam Nữ

Tích cực Không tích cực Tổng Điểm trung bình 18 (90,%) 2 (9,10%) 20 (100%) 6,9±1,5 48 (96%) 2 (4%) 50 (100%) 7,3±0,9 13 (92,8%) 1 (7,2%) 14 (100%) 7,6±1,03 43 (97,7%) 1 (2,3%) 44 (100%) 7,5±0,7

Tỉ lệ nam và nữ có thái độ tích cực với tuân thủ VSBT trước và sau can thiệp khá

cao (trên 90%). Nữ có thái độ tích cực với tuân thủ VSBT cao hơn so với nam,

nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

4. Thực hành của NVYT về VSBT

4.1. Tỉ lệ NVYT tuân thủ rửa tay thường quy trước và sau khi can thiệp

Bảng 11. Tỉ lệ NVYT tuân thủ rửa tay thường quy trước và sau khi can thiệp

Thời điểm Tỉ lệ Trước can thiệp (n=70) Sau can thiệp (n=58)

n % n %

37 26 53,2 37,2 35 23 60,3* 40

Tỉ lệ tuân thủ rửa tay Tỉ lệ rửa tay đúng * : p < 0,05 (SCT so với TCT)

Số liệu ở bảng trên cho thấy trước và sau can thiệp tỉ lệ tuân thủ rửa tay cao hơn tỉ lệ

rửa tay đúng. TCT tỉ lệ tuân thủ rửa tay là 53,2%, SCT tăng một cách có ý nghĩa lên

60,3% (p<0,05).

Tỉ lệ rửa tay đúng tăng lên sau can thiệp (40% so với 37,2%), nhưng sự khác biệt

không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

20

4.2. Sự khác biệt về tỉ lệ tuân thủ rửa tay thường quy của NVYT theo nghề nghiệp,

thời điểm quan sát

Bảng 12. Tỉ lệ tuân thủ rửa tay thường quy của BS và ĐD

Sau can thiệp

Đối tượng Tỉ lệ

BS (n=14) ĐD (n=44)

Tỉ lệ tuân thủ rửa tay

Tỉ lệ rửa tay đúng

Trước can thiệp ĐD BS (n=53) (n=17) 56,6%** (30) 39,6% (21) 41,2% (7) 30,6% (5) 57,1%* (8) 42,8% (6) 61,2% (27) 38,6% (17)

*: p<0,05 (SCT so với TCT)

**: p<0,05 (BS so với ĐD)

Trước can thiệp tỉ lệ tuân thủ rửa tay của BS là 41,2%, SCT tăng lên 56,6%

(p<0,05). Đối với các ĐD, tỉ lệ tuân thủ rửa tay trước can thiệp là 57,8% sau can

thiệp là 61,2% (p>0,05). Trước và sau can thiệp, tỉ lệ rửa tay của ĐD đều cao hơn

tuân thủ rửa tay của BS, tuy nhiên chỉ có sự khác biệt về tỉ lệ tuân thủ rửa tay giữa

BS và ĐD trước can thiệp (p<0,05).

Trước can thiệp, tỉ lệ rửa tay đúng của các BS thấp hơn ĐD, tuy nhiên SCT tỉ lệ

tuân thủ rửa tay đúng của các BS lại cao hơn ĐD (42,8% so với 38,6%). Không có

sự khác biệt về tỉ lệ rửa tay đúng theo nghề nghiệp trước và sau can thiệp (p>0,05).

Bảng 13. Tỉ lệ tuân thủ rửa tay thường quy của NVYT theo thời điểm quan sát

Tỉ lệ tuân thủ rửa tay (%) Tỉ lệ rửa tay đúng (%)

Tỉ lệ tuân thủ Thời điểm TCT SCT TCT SCT

52,6 57,3 38,3 33,6 59,1 58,4

40,7 Sáng Chiều 37,6 Trước và sau can thiệp, số cơ hội rửa tay vào buổi sáng luôn cao hơn so với buổi

chiều, nhưng tỉ lệ tuân thủ rửa tay vào buổi sáng vẫn luôn cao hơn buổi chiều, tuy

sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.

4.3. Tỉ lệ tuân thủ rửa tay thường quy theo các cơ hội của nghiên cứu

Có 10 cơ hội cần rửa tay của NVYT được đưa vào nghiên cứu, chúng tôi phân loại

10 cơ hội này thành 2 thời điểm:

21

- Thời điểm trước khi NVYT chạm vào người bệnh (bao gồm: trước khi chuẩn

bị dụng cụ, thuốc, khám/chăm sóc người bệnh, làm thủ thuật xâm lấn, đi găng sạch)

- Thời điểm sau khi NVYT chạm vào người bệnh (bao gồm: sau khi

khám/chăm sóc người bệnh, tiếp xúc với đồ vật,dụng cụ, máu, dịch và chất bài tiết

của người bệnh, làm thủ thuật, tháo găng sạch, khi di chuyển từ vùng bẩn sang vùng

sạch trên cùng 1 người bệnh)

Biểu đồ 3. Tỉ lệ tuân thủ rửa tay thường quy theo các thời điểm tiếp xúc với người bệnh

Trước và sau can thiệp, thời điểm sau khi chạm vào người bệnh được các NVYT

tuân thủ tốt hơn so với thời điểm trước khi chạm vào người bệnh

22

Biểu đồ 4. Tỉ lệ rửa tay đúng theo các cơ hội của NC trước và sau can thiệp

Tỉ lệ rửa tay đúng vào thời điểm sau khi NVYT chạm vào người bệnh luôn cao hơn

thời điểm trước khi chạm vào người bệnh. Không có sự khác biệt về tỉ lệ rửa tay

đúng trước và sau khi chạm vào người bệnh.

4.4. Phương thức rửa tay

Bảng 14. Phương thức rửa tay của NVYT

Trước can thiệp (n=70) Sau can thiệp (n = 58)

Thời điểm Phương thức rửa tay N % N %

16 53 2 22.8 75,7* 2,8 9 47 1 15,5 81* 1,7

Nước và xà phòng/hóa chất rửa tay Dung dịch sát khuẩn tay nhanh/cồn Nước *: p < 0,05

Phương thức rửa tay được các NVYT sử dụng nhiều nhất là rửa tay bằng dung dịch

sát khuẩn tay nhanh hoặc với cồn (TCT là 75,7%, SCT là 82%). Có sự khác biệt về

tỉ lệ NVYT sử dụng dung dịch sát khuẩn tay nhanh hoặc cồn so với các phương

thức rửa tay khác (p<0,05). Sau can thiệp, tỉ lệ các cơ hội rửa tay rửa với nước giảm

từ 2,8% TCT xuống 1,7%, Tỉ lệ các cơ hội được rửa tay bằng nước và xà phòng

giảm từ 22,8% TCT xuống còn 15,5% SCT 23

CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN

1. Kiến thức về vệ sinh bàn tay của NVYT trước và sau can thiệp

Phần đánh giá kiến thức về vệ sinh bàn tay của NVYT gồm 19 câu hỏi tự điền, trả

lời đúng 1 câu được 1 điểm. NVYT đạt từ 11 điểm trở lên là đạt yêu cầu, dưới 11

điểm là không đạt yêu cầu.

Điểm trung bình về KT của NVYT là 10,9 ± 2,4 tăng một cách có ý nghĩa lên 12,7

± 2,1 (p<0,05). Tỷ lệ NVYT có KT đạt là 59.5% tăng lên 82.5% sau can thiệp

(p<0,05).

Kết quả trên cho thấy, hoạt động can thiệp vào việc tăng cường kiến thức về vệ sinh

bàn tay đã góp phần cải thiện KT của NVYT về vệ sinh tay sinh tay. Từ kết quả trên

cho thấy công tác đào tạo, tập huấn thường xuyên có tác dụng nâng cao KT của

NVYT về vệ sinh bàn tay, do đó cần duy trì công tác này làm cơ sở cho việc tuân

thủ đúng quy trình kỹ thuật trong thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn của toàn bệnh

viện.

Tuy có kiến thức tốt về vệ sinh bàn tay nhưng tỉ lệ NVYT trả lời đúng thứ tự 6 bước

của quy trình rửa tay thường quy do Bộ y tế ban hành còn chưa cao. Kết quả nghiên

cứu cho thấy, tỉ lệ NVYT trả lời đúng 6 bước của quy trình này chỉ đạt 18,4% trước

can thiệp, sau can thiệp tuy tăng lên một cách rõ rệt (đạt 60,6%, p<0,05). Tuy vậy tỉ

lệ này vẫn chưa phải là cao vì vẫn còn tới 40% số đối tượng nghiên cứu chưa biết

đúng trình tự các bước rửa tay mặc dù chỉ có 5,4% trong số họ cho rằng quy trình

rửa tay thường quy là phức tạp, quá nhiều bước khó nhớ. Hoạt động can thiệp đã

tăng cường dán poster in hình 6 bước rửa tay tại tất cả các bồn rửa tay và tại các

buồng bệnh, hành lang nhưng tỉ lệ NVYT trả lời đúng thứ tự 6 bước rửa tay vẫn còn

thấp. Điều này cho thấy bệnh viện Đống Đa cần có thêm các biện pháp khác giúp

NVYT của mình nhớ được quy trình rửa tay này. Rửa đúng quy trình có vai trò rất

quan trọng trong việc loại bỏ các vi khuẩn trên da tay. Các bước của quy trình rửa

tay nhằm bảo đảm cho các vùng da tay có khả năng mang tác nhân gây bệnh cao

nhất được ưu tiên rửa sạch (ví dụ như các đầu ngón tay, ngón cái...) việc rửa không

24

đúng quy trình sẽ không phát huy được hiệu quả tối đa của việc vệ sinh bàn tay

phòng NKBV.

Kết quả tại bảng 5 cho thấy, có sự khác biệt về KT vệ sinh bàn tay theo nghề nghiệp

trước và sau can thiệp. TCT, tỉ lệ có KT đạt của BS là 41,2% thấp hơn đáng kể so

với ĐD (64,2%, p<0,05). SCT, tỉ lệ KT đạt của BS tăng lên 61,4% nhưng vẫn thấp

hơn so với ĐD (86,4%, p<0,05). Kết quả nghiên cứu tương tự nghiên cứu của

Khaled M và cộng sự thực hiện vào năm 2008 tại Cairo, Ai Cập [9].

Tỉ lệ có kiến thức đạt ở BS và ĐD trước và sau can thiệp đều tăng lên một cách có ý

nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả này cho thấy các lớp đào tạo về KT vệ sinh bàn

tay của dự án đã có tác động tích cực lên mọi đối tượng trong BV.

Kết quả tại biểu đồ 2 cho thấy, kiến thức về vệ sinh bàn tay thay đổi theo chiều

hướng tích cực ở tất cả các nhóm có trình độ học vấn khác nhau. TCT và SCT nhóm

có KT đạt cao nhất là nhóm có trình độ Trung học chuyên nghiệp (69,6% và

86,8%). Kết quả này cho thấy kiến thức về vệ sinh bàn tay không phụ thuộc và

trình độ học vấn, nhóm có trình độ thấp nhất lại có kiến thức về vệ sinh bàn tay tốt

nhất. Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi, không thấy sự khác biệt có ý nhĩa

thống kê về kiến thức vệ sinh bàn tay theo trình độ học vấn.

2. Thái độ của NVYT với sự tuân thủ vệ sinh bàn tay trước và sau can thiệp

Phần đánh giá thái độ của NVYT về sự tuân thủ vệ sinh bàn tay gồm 8 câu hỏi với 3

mức độ đánh giá Đồng ý, không có ý kiến và không đồng ý. NVYT được coi là có

thái độ tích cực nếu đạt từ 6 đến 8 điểm, thái độ không tích cực nếu đạt từ 0 đến 8

điểm.

Trong nghiên cứu này, hầu hết các đối tượng nghiên cứu đều có thái độ tích cực với

sự tuân thủ vệ sinh bàn tay. Tỉ lệ có thái độ tích cực TCT đạt 94,2%, SCT là 96,5%.

Trước can thiệp, có 95,7% NVYT cho rằng tỉ lệ tuân thủ rửa tay tăng lên thì tỉ lệ

NKBV sẽ giảm xuống, SCT tỉ lệ này là 98,3%. Tỉ lệ này cao hơn so với kết quả

trong nghiên cứu của Khaled và cộng sự (70,7%) [9] và tương đương với tỉ lệ trong

nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng thực hiện tại một số bệnh viện khu vực phía Bắc

Việt Nam (97,6%) [5].

25

Hầu hết các NVYT đều đồng ý rửa tay là lựa chọn tốt nhất để giảm sự lây truyền

của các nhân tố gây nhiễm khuẩn có liên quan đến chăm sóc y tế (trước can thiệp là

97,1%, SCT là 100%). Một số nghiên cứu trên thế giới và trong nước cũng đưa ra

kết quả tương tự. Trong nghiên cứu của Khaled, tỉ lệ NVYT đồng ý với ý kiến này

là 92%, trong nghiên cứu của Nobile, có 96,8% NVYT đồng ý vệ sinh bàn tay là

giảm các nhiễm khuẩn ở bệnh nhận và 86,2% đồng ý vệ sinh bàn tay làm giảm nguy

cơ lây truyền vi khuẩn cho NVYT. Nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng cũng có kết

quả tương tự đó là 97,6% NVYT cho rằng vệ sinh bàn tay làm giảm nguy cơ NKBV

ở BN và 96,1% cho rằng việc này sẽ làm giảm NKBV ở NVYT. Như vậy có thể nói

tỷ lệ NVYT có nhận thức và thái độ đúng về tầm quan trọng của rửa tay với nhiễm

khuẩn thường là rất cao.

Thái độ của các NVYT với các yếu tố làm tăng tỉ lệ tuân thủ rửa tay trước và sau

can thiệp không có sự thay đổi mang ý nghĩa thống kê. TCT có 94,3% NVYT đồng

ý rằng tổ chức các buổi tập huấn, sinh hoạt khoa học cung cấp KT về vệ sinh bàn

tay sẽ làm cho mình thấy phải tuân thủ rửa tay tốt hơn, SCT tỉ lệ này là 94,8%. Có

95,7% NVYT cho rằng dán các poster khuyến khích rửa tay sẽ làm tăng tỉ lệ rửa

tay, SCT tỉ lệ này giảm xuống 94,8%. Tỉ lệ NVYT đồng ý nếu bệnh viện đầu tư

thêm các phương tiện phục vụ rửa tay thì sẽ tăng tỉ lệ rửa tay của NVYT TCT là

97,1%, SCT giảm xuống 93,1%, cao hơn trong nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng

và cộng sự (88.6%) [6].

3. Thực hành vệ sinh bàn tay của NVYT trước và sau can thiệp

Kết quả tại bảng 11 cho thấy, trước can thiệp tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT tại

BV đạt 53,2%, SCT tỉ lệ này tăng một cách có ý nghĩa lên 60,3% (p<0,05). Tỉ lệ

tuân thủ rửa tay SCT tại Bệnh viện tuy chưa thực sự cao nhưng đã đạt mục tiêu của

hoạt động (tăng tỉ lệ tuân thủ rửa tay lên 60%).

Tuy tỉ lệ tuân thủ rửa tay đạt trên 50% nhưng tỉ lệ rửa tay đúng của NVYT lại đạt tỉ

lệ rất thấp (TCT chỉ đạt 37,2%, SCT đạt 40%). Trên thực tế quan sát cho thấy các

NVYT thường không rửa đúng các bước theo trình tự, bỏ bước và kèm theo đó là

không thực hiện đủ số lần cho mỗi bước (Quy trình rửa taythường quy gồm 6 bước,

mỗi bước NVYT cần thực hiện ít nhất là 5 lần). Quy trình rửa tay thường quy đã

26

được Bộ y tế ban hành và được dán tại tất cả các điểm rửa tay và trong các buồng

bệnh nên mọi NVYT có thể tiếp cận rất dễ dàng tại BV, tuy nhiên họ vẫn thực hành

sai, vì vậy cần có những hình thức khác để nhắc nhở NVYT thực hành tốt hơn nữa

để bảo đảm rửa tay hiệu quả.

Trong 10 cơ hội rửa tay của NVYT được đưa vào nghiên cứu, chúng tôi phân loại

thành 2 thời điểm: thời điểm trước khi NVYT chạm vào người bệnh (bao gồm các

cơ hội trước khi chuẩn bị dụng cụ, thuốc, khám/chăm sóc người bệnh,làm thủ thuật

xâm lấn, đi găng sạch) và sau khi NVYT chạm vào người bệnh (sau khi khám/chăm

sóc người bệnh, tiếp xúc với đồ vật,dụng cụ,máu,dịch và chất bài tiết của người

bệnh, làm thủ thuật, tháo găng sạch, khi di chuyển từ vùng bẩn sang vùng sạch trên

cùng 1 người bệnh). Kết quả nghiên cứu (biểu đồ 3) cho thấy, ở cả trước và sau can

thiệp, thời điểm sau khi chạm vào người bệnh luôn được các NVYT tuân thủ tốt

hơn một cách rõ rệt (có ý nghĩa thống kê) so với thời điểm trước khi chạm vào

người bệnh. Điều này có thể nói NVYT có ý thức bảo vệ bản thân hơn là bảo vệ

người bệnh trước các nguy cơ của NKBV. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên

cứu của WHO được công bố tại Hội nghị lần thứ 21 về Vi sinh vật lâm sàng và các

bệnh truyền nhiễm tại Châu Âu (ECCMID) năm 2011, theo đó gần 1/2 NVYT trên

thế giới thường bỏ qua việc rửa tay trước khi tiếp xúc với người bệnh [10].

Bảng 12 cho thấy, ĐD tuân thủ rửa tay tốt hơn bác sỹ. TCT, tỉ lệ tuân thủ rửa tay

của ĐD đạt 56,6% cao hơn một cách có ý nghĩa so với các BS (41,2%). Các ĐD

cũng là đối tượng có tỉ lệ rửa tay đúng cao hơn (39,6% so với 30,6%). SCT, tỉ lệ

tuân thủ rửa tay của ĐD là 61,2%, của các BS là 57,1%, tỉ lệ rửa tay đúng của BS là

42,8%, của ĐD là 38,6%.

Kết quả nghiên cứu của Trần Hữu Luyện và cộng sự tại BV trung ương Huế thực

hiện cho kết quả: tỉ lệ tuân thủ rửa tay của ĐD là 60,79%, trong khi đó các BS chỉ

đạt 47,7% [4]. Nghiên cứu tại BV Việt Đức Hà Nội cũng có kết quả tỉ lệ tuân thủ

rửa tay của các BS thấp hơn so với ĐD (39,3% so với đạt 69,8%) [3].

Giải thích về điều này, một số nhà nghiên cứu nước ngoài đã cho rằng, việc ĐD

tuân thủ rửa tay tốt hơn là do tỉ lệ nữ trong ĐD cao hơn so với BS, do đó sự tuân thủ

rửa tay có thể liên quan đến giới tính. Một giả thuyết khác cho rằng, các ĐD là

27

người gần gũi với các bệnh nhân hơn là các bác sỹ. Công việc chính của ĐD là

chăm sóc người bệnh về cả tinh thần và thể chất, họ gần gũi bệnh nhân hơn do đó

họ quan tâm hơn tới sự an toàn của người bệnh, điều đó dẫn đến việc họ tuân thủ

rửa tay tốt hơn. Còn tại Việt Nam, việc các ĐD tuân thủ vệ sinh bàn tay tốt hơn còn

có thể do họ dễ dàng tiếp cận với các phương tiện rửa tay hơn các BS. Thực tế cho

thấy, các BS khi thăm khám người bệnh thường chỉ mang theo các công cụ phục vụ

thao tác thăm khám. Khi muốn vệ sinh tay họ phải dùng các vị trí rửa tay cố định

trong buồng bệnh ví dụ như bồn rửa hoặc các chai chứa dung dich sát khuẩn tay

được bố trí trong buồng. Việc rửa tay với nước và xà phòng tại bồn rửa sẽ bị ảnh

hưởng nếu BV không trang bị hộp chứa khăn lau tay đi kèm hoặc bồn rửa tay đặt vị

trí không thuận tiện, việc sát khuẩn tay với dung dịch sát khuẩn cũng sẽ bị ảnh

hưởng nếu vị trí đặt chai dung dịch xa ví trị khám bệnh của các BS. Tại Việt Nam

do điều kiện kinh tế nên đa phần các BV thường chỉ trang bị hộp chứa khăn lau tay

tại các vị trí dùng riêng cho NVYT ví dụ như các bồn rửa tay trong phòng hành

chính, buồng nghỉ của NVYT hoặc trong phòng thay băng, phòng thủ thuật. Tại các

buồng bệnh các bồn rửa không được trang bị khăn lau tay. Với dung dịch sát khuẩn

tay chỉ tại các bệnh viện lớn mới có khả năng trang bị các chai chứa dung dịch tại

mỗi đầu giường bệnh hoặc trong mỗi buồng bệnh 1 chai dung dịch sát khuẩn. Do

đó, kèm với áp lực công việc phải khám nhiều bệnh nhân trong 1 khoảng thời gian

nhất định, các BS sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện vệ sinh bàn tay. Còn với các

ĐD khi họ khám hoặc thực hiện các thao tác chăm sóc, thủ thuật trên người bệnh,

họ thường mang theo xe tiêm hoặc xe thay băng để đựng dụng cụ. Trên các xe thủ

thuật đó được trang bị các chai sát khuẩn tay nhanh. Sau mỗi thao tác trên người

bệnh, họ có ngay chai dung dịch sát khuẩn trên xe tiêm/xe thay băng bên cạnh mình

để vệ sinh tay.

Bảng 14 cho thấy, trong các phương pháp rửa tay, trước và sau rửa tay bằng cồn

hoặc dung dịch sát khuẩn tay nhanh chứa cồn được các NVYT sử dụng nhiều nhất

(TCT là 76,6%, SCT là 82,1%, p<0,05). Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu

của Trần Hữu Luyện thực hiện tại BV Trung ương Huế, tỉ lệ các cơ hội rửa tay thực

hiện với dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn chiếm 78,3% [4].

28

Kết quả trên cho thấy, rõ ràng dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn có thể là một lựa

chọn tốt vì tiện dụng, không cần lau khô tay sau khi sử dụng, có thể mang theo

người, không gây kích ứng da tay, mất ít thời gian sử dụng, hiệu lực diệt khuẩn tốt.

Việc sử dụng loại dung dịch này không cần đầu tư xây dựng bồn rửa, nước và khăn

lau tay mà chỉ cần đầu tư hóa chất và lắp hệ thống các hộp đựng trong buồng bệnh,

sẽ ít tốn kém hơn so với việc xây dựng các bồn rửa tay. Nhiều nghiên cứu đã chứng

minh, việc rửa tay với dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn có khả năng diệt vi khuẩn

tốt hơn hẳn phương pháp rửa tay với nước và xà phòng. Sát khuẩn tay với dung dịch sát khuẩn chứa cồn 70o có khả năng diệt được trên 99,99% vi khuẩn trên da tay và

duy trì hiệu quả diệt vi khuẩn trong 180 phút. Trong khi đó việc rửa tay với xà

phòng diệt khuẩn chỉ tiêu diệt được khoảng 85% vi khuẩn và rửa tay với xà phòng

thường chỉ diệt được khoảng 60% vi khuẩn.

4. Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ vệ sinh bàn tay của NVYT tại bệnh

viện Đống Đa – Hà Nội

Trước khi tiến hành các can thiệp, chúng tôi đã khảo sát và yêu cầu các NVYT liệt

kê các yếu tố ảnh hưởng nhất đến sự tuân thủ vệ sinh bàn tay tại BV. Kết quả cho

thấy, có 3 yếu tố được các NVYT cho rằng ảnh hưởng nhiều nhất đến sự tuân thủ vệ

sinh bàn tay của họ bao gồm: không có hoặc thiếu các bồn rửa tay (21,4%), không

nhận thức đúng tầm quan trọng của vệ sinh bàn tay (17,3%) và không có/thiếu khăn

lay tau sau khi rửa tay (14,9%). Như vậy, các NVYT tại BV Đống Đa – HN không

nghĩ rằng áp lực công việc, số lượng bệnh nhân nhiều là yếu tố ảnh hưởng nhất đến

sự tuân thủ vệ sinh bàn tay. Điều này cho thấy cần để bảo dảm tuân thủ rửa tay thì

các cơ sở y tế phải đầu tư đủ phương tiện rửa tay đồng thời thường xuyên giáo dục

nâng cao nhận thức cho nhân viên về tầm quan trọng của vệ sinh bàn tay.

Dựa trên kết quả khảo sát trước can thiệp về các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ rửa

tay, hoạt động can thiệp đã tổ chức các buổi tập huấn về vai trò của vệ sinh bàn tay

cho NVYT tại BV. Bên cạnh đó cung cấp khăn lau tay vải tái sử dụng, xà phòng

diệt khuẩn, chai dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn dung tích nhỏ có thể bỏ vào túi

áo công tác mang theo người.

29

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN

Từ những kết quả thu được, chúng tôi đưa ra những kết luận sau đây về kiến thức,

thái độ và tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT tại Khoa Ngoại và khoa Nội bệnh viện

Đống Đa – Hà Nội trước và sau can thiệp như sau:

1. Kiến thức về vệ sinh bàn tay của NVYT tại BV

- Tỉ lệ NVYT có kiến thức đạt về vệ sinh bàn tay tăng lên một cách có ý nghĩa

thống kê SCT so với TCT.

- ĐD có kiến thức về vệ sinh bàn tay tốt hơn so với các BS. Sự khác biệt này có ý

nghĩa thống kê.

- Không có sự khác biệt trong tỉ lệ có kiến thức đạt về vệ sinh bàn tay theo trình

độ học vấn của đối tượng nghiên cứu trước và sau can thiệp.

2. Thái độ của NVYT với sự tuân thủ vệ sinh bàn tay

- Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ thái độ tích cực với tuân thủ

vệ sinh bàn tay của NVYT tại BV trước và sau can thiệp.

3. Thực hành vệ sinh bàn tay của NVYT

- Có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT tại

BV trước và sau thiệp. Điều dưỡng tuân thủ rửa tay tốt hơn so với bác sĩ.

- Phương thức vệ sinh tay được các NVYT tại bệnh viện sử dụng nhiều nhất là vệ

sinh tay bằng dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn hoặc bằng cồn. Tỉ lệ cơ hội rửa tay

được thực hiện bằng phương pháp này cao hơn rõ rệt so với phương pháp rửa tay

bằng xà phòng và nước.

30

CHƯƠNG 6: KHUYẾN NGHỊ

Từ kết quả nghiên cứu này chúng tôi chúng tôi xin đưa ra khuyến nghị sau:

- Bệnh viện cần duy trì các hoạt động tập huấn, giao ban, chia sẻ kinh nghiệm về

vệ sinh bàn tay.

- Định kỳ tổ chức các đợt giám sát tỉ lệ vệ sinh bàn tay tại BV và có phản hồi tới

các NVYT.

- Tiếp tục đầu tư và duy trì các phương tiện phục vụ vệ sinh tay cho các khoa

theo điều kiện của bệnh viện.

31

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt

1. Bộ Y tế (2009), Thông tư 18/2009/ TT-BYT ngày 14 tháng 10 năm 2009 hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại các cơ sở khám, chữa bệnh.

2. Bộ Y tế (2007), Công văn Số: 7517/BYT- ĐTr ngày 12 tháng 10 năm 2007 về việc Hướng dẫn thực hiện Quy trình rửa tay thường quy và sát khuẩn tay nhanh bằng dung dịch chứa cồn.

3. Bùi Thị Kim Nhung, Nguyễn Tiến Thành, cộng sự (2009), Đánh giá sự tuân thủ rửa tay của Cán bộ, nhân viên Y tế tại Bệnh viện HN Việt Đức năm 2009. Các công trình nghiên cứu khoa học Hội nghị Khoa học ĐD Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức lần thứ II - 2009. Hà Nội. 61-67.

4. Trần Hữu Luyện, Đặng Như Phồn, và cộng sự (2010), Khảo sát tuân thủ vệ sinh bàn tay tại bệnh viện Trung Ương Huế theo lời kêu gọi của Tổ chức Y tế thế giới nhân ngày 05/5/2010. Báo cáo tại Lễ phát động chiến dịch "Bảo vệ sự sống: Hãy vệ sinh tay", Hà Nội.

5. Nguyễn Việt Hùng, Lê Thị Thanh Thủy, cộng sự (2005), "Thực trạng phương tiện vệ sinh bàn tay, nhận thức và thực hành vệ sinh bàn tay của Nhân viên y tế tại một số bệnh viện khu vực phía Bắc, 2005", Tạp chí y học lâm sàng bệnh viện Bạch Mai. Tháng 6/2008, pp. 136-141.

6. Nguyễn Việt Hùng, và cộng sự (2007), Thực trạng nhiễm khuẩn bệnh viện và công tác kiểm soát nhiêm khuẩn tại một số bệnh viện phía Bắc năm 2006 - 2007. Hội nghị triển khai Thông tư 18/2009/BYT-TT về việc Hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác Kiểm soát Nhiễm khuẩn tại các cơ sở Khám chữa bệnh. Hà Nội.

7. Võ Tuấn (2010), "Nhiễm trùng bệnh viện tại Việt Nam: Nguy cơ nhiễm bệnh web người mỗi 600.000 năm", trang trên tại

cho http://www.laodong.com.vn/Tin-Tuc/Nguy-co-nhiem-benh-cho-tren-600000- nguoi-moi-nam/17564 truy cập ngày 15/8/2010.

8. Vũ Minh (2008), "2008 thu nhập đã đạt 1.024 USD/người", tại trang web cập ngày truy http://www.hce.edu.vn/readarticle.php?article_id=136, 15/12/2010.

II. Tiếng Anh

9. Khaled, M., Abd, E., et al (2008), "Assessment of knowledge, attitude and practice of hand washing among health care workers in Ain Shams University hospitals in Cairo", The Egyptian Journal of Community Medicine, 26(2), pp. 36-48. 10. Nancy, A. M. (2011), "WHO Hand-Hygiene Initiative largely Ignored", Mediscape Medical News.

32

11. Nguyen Viet Hung, Truong Anh Thu, et al. (2005), An effective Hand hygiene intervention in the prevention of Healthcare association infections, Vietnam 2005. Presented at International Health Cooperation Research, Hong Kong.

12. Nonile, G., Monturio, P., et al (2002), "Healthcare personnel and hand decontamination in intensive care units: knowledge, attitudes, and behavior in Italy", Journal of hospital infection, 51(3), pp. 226.

33

Phụ lục 1. Phiếu điều tra kiến thức và thái độ với thực hành rửa tay thường quy

PHIẾU ĐIỀU TRA KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ VỚITHỰC HÀNH RỬA TAY THƯỜNG QUY

Mã số phiếu

Nhằm phục vụ tốt hơn công tác đào tạo, tập huấn về nội dung “Thực hành rửa tay

thường quy”, đề nghị Anh/Chị vui lòng điền giúp các thông tin vào các ô thích hợp

(sử dụng dấu X hoặc viết vào dòng để trống).

- Nhằm đảm bảo tính chính xác và đầy đủ thông tin, đề nghị Anh/Chị đọc kỹ nội

dung của mỗi câu hỏi và trả lời đầy đủ các câu hỏi.

- Bằng việc trả lời các câu hỏi dưới đây, các anh/chị đồng ý tham gia nghiên cứu

“Đánh giá kiến thức, thái độ và tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT tại BV Đống Đa –

Hà Nội trước và sau khi triển khai dự án Tăng cường vệ sinh bệnh viện 2010 -

2011”

Toàn bộ thông tin anh/chị viết trên phiếu sẽ được hoàn toàn bảo mật.

Chúng tôi chân thành cảm ơn sự hợp tác của Anh/Chị.

I. Thông tin cá nhân:

Khoa: ............................................. Tuổi:……….. Giới: (cid:0) Nam (cid:0) Nữ

Nghề nghiệp:

- (cid:0) Bác sỹ;

- (cid:0) Điều dưỡng;

Trình độ học vấn:

34

- (cid:0) Sau ĐH;

- (cid:0) ĐH;

- (cid:0) Cao Đẳng;

- (cid:0) Trung học chuyên nghiệp

Thời gian công tác tại Bệnh viện:

(cid:0) < 5 năm;

(cid:0) 5 – 10 năm;

(cid:0) 11 – 15 năm;

(cid:0) 16 – 20 năm;

(cid:0) 21 – 25 năm ;

(cid:0) >25 năm

II. Đánh giá kiến thức về thực hành rửa tay thường quy

Xin anh/chị cho biết ý kiến của mình về các nội dung dưới đây:

Anh/chị vui lòng lựa chọn 1 phương án trả lời phù hợp nhất từ câu 1 đến câu 16

Đúng Sai Nội dung Không biết ST T

1. Nhiễm khuẩn bệnh viện xảy ra ở khắp các bệnh viện trên thế giới. Tổ chức Y tế thế giới ước tính ở bất cứ thời điểm nào cũng có hơn 1 triệu người trên thế giới mắc phải NKBV

2. Bàn tay của NVYT là tác nhân quan trọng trong việc

lây truyền Nhiễm khuẩn bệnh viện?

3. NVYT tuân thủ đúng quy trình rửa tay sẽ làm giảm nguy cơ mắc nhiễm khuẩn ở người bệnh và chính bản thân mình?

4. Rửa tay đúng quy trình là phương pháp đơn giản,

35

hiệu quả nhưng tốn kém để phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện?

5. Rửa tay có thể giúp ngăn ngừa lây nhiễm bệnh cúm

A H1N1?

6. Khoảng 7% găng sạch bị thủng ngay sau khi xuất

xưởng?

7. Mang găng sạch là biện pháp thay thế cho rửa tay?

8. Rửa tay thường quy loại bỏ hầu hết vi sinh vật

thường trú trên da bàn tay?

9. Mức độ ô nhiễm bàn tay của NVYT phụ thuộc vào thời gian thực hiện thao tác trên người bệnh?

Theo các anh chị, với các thời điểm rửa tay sau đây, chúng ta cần phải sử dụng loại hóa chất rửa tay như thế nào cho đúng và thích hợp nhất (Đánh dấu X vào cột tương ứng)

Dung dịch/hóa chất để rửa tay tay

Rửa bằng nước và xà phòng Cơ hội rửa tay

Rửa tay bằng cồn/dd sát khuẩn

10. Sau khi tiếp xúc với đồ vật, dụng cụ dính máu, dịch và các

chất bài tiết của người bệnh.

11. Trước khi đi găng sạch

12. Khi di chuyển từ vùng bẩn sang vùng sạch trên cùng người

bệnh

13. Bất cứ thời điểm nào bàn tay NVYT xuất hiện vết bẩn

14. Ngay sau khi bàn tay bị rủi ro do vật sắc nhọn

36

15. Sau khi khám bụng cho một người bệnh nội khoa

16. Trước khi tiêm bắp cho người bệnh

Sắp xếp các bước rửa tay theo đúng quy trình (đánh số thứ tự vào ô tương ứng) 17.

Mô tả Bước số

Chà 2 lòng bàn tay vào nhau, miết các kẽ ngón tay

Làm ướt tay với nước và xà phòng, chà 2 lòng bàn tay

Xoa các đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại.

Chà lòng bàn tay này lên mu và kẽ ngoài các ngón của bàn tay kia và ngược lại

Xoay ngón cái của bàn tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại

Chà mặt ngoài các ngón của bàn tay này vào lòng bàn tay kia

18. Theo anh/chị thời gian thích hợp cho 1 lần rửa tay thường quy với dung dịch sát

khuẩn tay là (lựa chọn 1 trong 4 tình huống dưới đây): a. 5 – 15 giây b. 20 – 30 giây c. 35 - 45 giây d. Không biết

19. Theo anh/chị hình thức rửa tay nào có tác dụng diệt vi khuẩn trên bàn tay tốt nhất (chỉ lựa chọn 1 tình huống dưới đây):

a. Xà phòng + nước b. Cồn/dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn c. Không biết

37

20. Anh chị hãy liệt kê 3 yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất tới sự tuân thủ vệ sinh bàn tay của nhân viên y tế (làm cho bản thân anh/chị và các đồng nghiệp ít rửa tay hơn hoặc không rửa tay theo quy định):

…………………………………………………………………

…………………………………………………………………

…………………………………………………………………

21. Trong thời gian học tập trong trường y Anh/Chị có được giảng về quy trình rửa tay

thường quy không? a. Có b. Không

22. Từ khi tốt nghiệp trường y đến nay, Anh/chị có được cập nhật kiến thức về rửa tay

không? a. Có b. Không Nếu có, anh/chị được cập nhật qua: (có thể lựa chọn nhiều tình huống):

d. Qua giao ban, sinh hoạt chuyên môn. a. Tập huấn do khoa/bệnh viện tổ chức b. Trao đổi với đồng nghiệp c. Từ tạp chí khoa học e. Hình thức khác (đề nghị ghi rõ):

……………………………………… ………………………………………

38

23. Từ đầu năm đến nay, Anh/chị có được bệnh viện/khoa phổ biến về quy định, hướng

dẫn rửa tay thường quy không? a. Có b. Không

Nếu có thì dưới hình thức nào? (có thể lựa chọn nhiều tình huống):

d. Qua sinh hoạt chuyên môn

e. Từ tạp chí khoa học. a. Tập huấn do khoa/bệnh viện tổ chức b. Bằng văn bản hướng dẫn c. Nhắc nhở trong giao ban khoa

f. Hình thức khác (đề nghị ghi rõ):

……………………………………… ………………………………………

III. Đánh giá thái độ của NVYT với rửa tay thường quy

Anh/chị vui lòng đánh dấu X vào cột tương ứng

Ý kiến Đồng ý Không

ST T Không đồng ý có ý kiến

24. Nếu tỉ lệ tuân thủ Rửa tay thường quy của NVYT tăng lên thì tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện sẽ giảm xuống

25. Rửa tay là lựa chọn tốt nhất để giảm sự lây truyền của các nhân tố gây nhiễm khuẩn có liên quan đến chăm sóc y tế.

26. Rửa tay nhiều lần trong ngày sẽ làm tổn

thương da tay

27. Tôi sẽ chẳng nói gì nếu đồng nghiệp của tôi không tuân thủ rửa tay trước khi thực hiện các thăm khám thông thường, kiểm tra vết

39

mổ sạch…

28. Tôi sẽ chẳng nói gì nếu đồng nghiệp của tôi không tuân thủ rửa tay khi thực hiện các thủ thuật xâm lấn trên người bệnh như đặt kim luồn, đặt Nội khí quản….

29. Tổ chức các buổi tập huấn/sinh hoạt khoa học cung cấp kiến thức về vệ sinh bàn tay sẽ làm tôi cảm thấy phải tuân thủ rửa tay tốt hơn nữa

Ý kiến Đồng ý Không

ST T Không đồng ý có ý kiến

30. Dán các poster khuyến khích NVYT rửa tay tại các vị trí dễ nhìn sẽ làm tăng tỉ lệ tuân thủ rửa tay trong bệnh viện

31. Nếu bệnh viện đầu tư thêm các phương tiện RT (lắp thêm bồn rửa, cung cấp thêm các dung dịch sát khuẩn tay, có khăn sử dụng 1 lần tại các điểm RT …) thì tỉ lệ tuân thủ RT của NVYT sẽ tăng lên

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của anh/chị!

40

Phụ lục 2. Cách chấm điểm phần Đánh giá kiến thức về vệ sinh bàn tay

STT Tên Biến Nội dung Điểm

1. Thực trạng vệ

NKBV

Nhiễm khuẩn bệnh viện xảy ra ở khắp các BV trên thế giới. Tổ chức Y tế thế giới ước tính ở bất cứ thời điểm nào cũng có hơn 1 triệu người trên thế giới mắc NKBV

1. Đúng 1 2. Sai 0 3. Không biết 0

2. Tác nhân gây

NKBV Bàn tay của NVYT là tác nhân quan trọng trong việc lây truyền Nhiễm khuẩn bệnh viện?

1. Đúng 1

2. Sai 0

3. Không biết 0

3. Tác dụng của vệ sinh bàn tay

NVYT tuân thủ đúng quy trình rửa tay sẽ làm giảm nguy cơ mắc nhiễm khuẩn ở người bệnh và chính bản thân mình 1 1. Đúng 0 2. Sai 0 3. Không biết

4. Tác dụng của vệ sinh bàn tay

Rửa tay đúng quy trình là phương pháp đơn giản, hiệu quả nhưng tốn kém để phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện: 0 1. Đúng 1 2. Sai 0 3. Không biết

5. Tác dụng của vệ sinh bàn tay Rửa tay có thể giúp ngăn ngừa lây nhiễm bệnh cúm A H1N1

1. Đúng 1

2. Sai

41

3. Không biết 0

0

6. Tác dụng của vệ sinh bàn tay Rửa tay thường quy loại bỏ hầu hết các VSV thường trú trên da bàn tay

1. Đúng 0

2. Sai 1

3. Không biết 0

Khoảng 7% găng sạch bị thủng ngay sau khi xuất xưởng 1 7. Kiến thức về sử dụng găng sạch 1. Đúng 0

2. Sai 0

3. Không biết

Mang găng là biện pháp thay thế cho rửa tay

1. Đúng 0 8. Kiến thức về sử dụng găng sạch 2. Sai 1

3. Không biết 0

9. Mức độ

Mức độ ô nhiễm bàn tay của NVYT phụ thuộc vào thời gian thực hiện thao tác trên người bệnh

ô nhiễm của bàn tay NVYT 1. Đúng 0

2. Sai 1

3. Không biết 0

10. Hóa chất rửa

tay Sau khi tiếp xúc với đồ vật, dụng cụ dính máu, dịch và các chất bài tiết

1. RT bằng xà phòng và nước 1

2. RT bằng cồn/dd sát khuẩn 0

11. Hóa chất rửa Trước khi đi găng sạch

tay 1. RT bằng xà phòng và nước 0

42

2. RT bằng cồn/dd sát khuẩn tay chứa cồn 1

12. Hóa chất rửa

tay Khi di chuyển từ vùng bẩn sang vùng sạch trên cùng người bệnh

1. RT bằng xà phòng và nước 1

2. RT bằng cồn/dd sát khuẩn tay chứa cồn 0

13. Hóa chất rửa Bất cứ thời điểm nào bàn tay NVYT xuất hiện vết bẩn

tay 1. RT bằng xà phòng và nước 1

2. RT bằng cồn/dd sát khuẩn tay chứa cồn 0

14. Hóa chất rửa Ngay sau khi bàn tay bị rủi ro do vật sắc nhọn

tay 1. RT bằng xà phòng và nước 1

2. RT bằng cồn/dd sát khuẩn tay chứa cồn 0

15. Hóa chất rửa Sau khi khám bụng cho một người bệnh nội khoa

tay 1. RT bằng xà phòng và nước 0

2. RT bằng cồn/dd sát khuẩn tay chứa cồn 1

16. Hóa chất rửa Trước khi tiêm bắp cho người bệnh

tay 1. RT bằng xà phòng và nước 0

2. RT bằng cồn/dd sát khuẩn tay chứa cồn 1

17. Thực hành rửa Sắp xếp các bước của quy trình rửa tay thường quy

tay 1. Đúng 1

2. Sai 0

18. Thực hành rửa

Thời gian thích hợp cho 1 lần rửa tay thường quy với dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn là: tay

1. 5 - 15 giây 0

2. 20 - 30 giây 1

3. 35 – 45 giây 0

4. Không biết 0

19. Thực hành rửa Hình thức rửa tay có tác dụng diệt vi khuẩn tốt nhất

43

tay 1. Xà phòng + nước 0

2. Cồn/dd sát khuẩn tay chứa cồn 1

3. Không biết 0

Tổng điểm tối đa: 19

Tổng điểm ≤10 điểm: Kiến thức không đạt

Tổng điểm ≥11: Kiến thức đạt

44

Phụ lục 3: Cách chấm điểm phần Đánh giá thái độ với vệ sinh bàn tay

Ý kiến Không

ST T Đồng ý Không đồng ý có ý kiến

0 0 1

1. Nếu tỉ lệ tuân thủ Rửa tay thường quy của NVYT tăng lên thì tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện sẽ giảm xuống

0 1 0

2. Rửa tay là lựa chọn tốt nhất để giảm sự lây truyền của các nhân tố gây nhiễm khuẩn có liên quan đến chăm sóc y tế.

1 0 3. Rửa tay nhiều lần trong ngày sẽ làm tổn thương da tay 0

1 0 0

4. Tôi sẽ chẳng nói gì nếu đồng nghiệp của tôi không tuân thủ rửa tay trước khi thực hiện các thăm khám thông thường, kiểm tra vết mổ sạch…

1 0 0

5. Tôi sẽ chẳng nói gì nếu đồng nghiệp của tôi không tuân thủ rửa tay khi thực hiện các thủ thuật xâm lấn trên người bệnh như đặt kim luồn, đặt Nội khí quản….

0 1 0

6. Tổ chức các buổi tập huấn/sinh hoạt khoa học cung cấp kiến thức về vệ sinh bàn tay sẽ làm tôi cảm thấy phải tuân thủ rửa tay tốt hơn nữa

0 1 0

7. Việc dán các poster khuyến khích NVYT rửa tay tại các vị trí dễ nhìn sẽ làm tăng tỉ lệ tuân thủ rửa tay trong bệnh viện

0 1 0

8. Nếu bệnh viện đầu tư thêm các phương tiện RT (lắp thêm bồn rửa, cung cấp thêm các dung dịch sát khuẩn tay, có khăn sử dụng 1 lần tại các điểm RT …) thì tỉ lệ tuân thủ RT của NVYT sẽ tăng lên

Tổng điểm tốt đa: 8

Đạt 6 - 8 điểm: Thái độ tích cực

Đạt 0 – 5 điểm: Thái độ không tích cực

45

Phụ lục 4. Phiếu đánh giá sự tuân thủ rửa tay của NVYT

PHIẾU ĐÁNH GIÁ RỬA TAY THƯỜNG QUY

Mã số phiếu

Bệnh viện: Đống Đa – Hà Nội

Khoa: ……………………………..… Số nhân viên trong khoa: ……… người

Thời điểm giám sát: Sáng Chiều

Đối tượng được quan sát: Bác sĩ Điều dưỡng

Dung dịch/hóa chất để rửa tay

Không rửa tay

Rửa tay bằng nước xà Cơ hội rửa tay Rửa tay bằng nước và phòng

Rửa tay bằng cồn/dd sát khuẩn

1. Trước khi chuẩn bị dụng cụ

2. Trước khi chuẩn bị thuốc

3. Trước khi khám hoặc chăm sóc người bệnh

4. Trước khi làm thủ thuật

5. Trước khi đi găng

6. Khi di chuyển từ vùng bẩn sang vùng sạch

trên cùng người bệnh

7. Sau khi làm thủ thuật

8. Sau khi tháo găng

46

9. Sau khi tiếp xúc với đồ vật, dụng cụ, máu,

dịch và các chất bài tiết.

10. Sau khi khám hoặc chăm sóc bệnh nhân

Ghi chú: Đ: đúng

S: sai

O: không tuân thủ

Không có cơ hội thì bỏ trống

47

HƯỚNG DẪN

Điền phiếu đánh giá tuân thủ rửa tay thường quy của ĐTNC

Để có thể đưa ra được những số liệu chính xác trong tuân thủ rửa tay thường quy của ĐTNC, yêu cầu người giám sát đọc kỹ những hướng dẫn dưới đây:

1. Người quan sát có thể đứng tại buồng bệnh hoặc tại địa điểm thích hợp (không làm ảnh hưởng đến ĐTNC, hạn chế tối đa sự chú ý và phát hiện của ĐTNC)

2. Việc xác định cơ hội rửa tay phải chính xác (Ví dụ: Trong quá trình làm thủ thuật, nếu tay Điều dưỡng chạm vào quần áo người bệnh thì Điều dưỡng cần phải sát khuẩn tay nhanh hoặc rửa tay bằng nước và xà phòng do đó trong thường hợp này được đánh và dòng thứ 9; Nếu chăm sóc vùng hậu môn – sinh dục xong lại phải tiến hành cho người bệnh ăn thì Điều dưỡng phải rửa tay, trường hợp này chúng ta đánh dầu vào dòng thứ 6).

3. Đánh dấu Đ khi có tuân thủ rửa tay và thực hiện đúng, hoặc dấu S khi có tuân thủ rửa tay nhưng tuân thủ sai và đánh dấu O khi không tuân thủ vào cột tương ứng.

4. Thời gian để thực hiện 1 lần rửa tay với dung dịch sát khuẩn tay nhanh là khoảng 20 – 30 giây và rửa tay với xà phòng là khoảng 45 – 60 giây.

Xin chân thành cảm ơn.

48

Phụ lục 5. Quy trình rửa tay thường quy bằng nước và xà phòng hoặc bằng dung dịch sát khuẩn tay nhanh do Bộ y tế ban hành

49