MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẦN TRÊN CỦA MỎM MÓC VÀ TẾ BÀO

AGGER NASI QUA MSCT 64 LÁT CẮT

TÓM TẮT

Mục Tiêu: Đánh giá mối quan hẹ về mặt giải phẫu giữa phần trên của mỏm

móc và tế bào AN.

Thiết kế và phương pháp nghiên cứu: dạng mô tả hàng loạt ca, 32 bệnh

nhân đạt tiêu chuẩn nghiên cứu, chụp đa cắt lớp axial dày 0,5mm từ tháng 8/2006

đến tháng 11/2006 tại MEDIC TP.HCM.

Kết quả: các loại bám tận của mỏm móc ghi nhận được: dính vào xương

giấy, dính vào cả xương giấy và chỗ gặp nhau giữa cuốn giữa và nền sọ, dính vào

chỗ gặp nhau giữa cuốn giữa với nền sọ, dính vào nền sọ, dính vào cuốn giữa, dính

cả vào xương giấy và tường sau của tế bào AN, dính vào cả xương giấy và mỏm

trán của xương hàm trên, dính vào cả xương giấy và nền sọ, dính vào xương giấy

và cuốn giữa, dính vào cả xương giấy, nền sọ và cuốn giữa, dính vào xương giấy -

mỏm trán xương hàm trên - nền sọ. Tế bào AN ở trong, trên, giới hạn bởi mỏm

móc. Trong đa số các hiện hành phần giữa của mỏm móc cùng với phần dưới

trong và sau dưới của tế bào AN liên kết với nhau. Khi phần trên của mỏm móc

hướng ra ngoài xương giấy, mỏm móc tạo ra phần dưới trong và sau dưới của tế

bào AN. Tạo ra tường sau của tế bào AN. Phần trên của mỏm móc dính với cả

xương giấy và mỏm trán xương hàm trên tạo nên tế bào AN và tế bào trán. Phần

trên của mỏm móc bám vào xương giấy tạo nên ngách tận.

Kết luận: Bám tận của mỏm móc rất đa dạng, ngoài những kiểu bám của

Landsberg và Friedman chúng tôi thấy có những kiểu bám khác. Phần trên của

mẫu móc và tế bào AN có liên hệ mật thiết với nhau, mỏm móc tham gia tạo phần

sau dưới và dưới bên của tế bào AN, tạo nên tế bào AN.

Từ Khoá: mỏm móc, agger nasI

SUMMARY

Objectives: to investigate the anatomical relationship between the superior

attachment type of UP and the AN cell.

Study design : descriptive study as case series.

Methods : Data were analysed from 32 patients with all 0,5-mm axial sinus

MSCT scans, performing from 08/2005 to 11/2006 in MEDIC of HCM.

Results: types of UP’s superior attachment: insertion to the lamina

papyracea, insertion to both the lamina papyracea and the junction of the middle

turbinate with the crirbifrom plate, insertion to the junction of middle turbinate

with the crirbifrom plate, insertion to the skull base, insertion to the middle

turbinate, insertion to both the lamina papyracea and the posterior wall of the AN

cell, insertion to both the lamina papyracea and the frontal process of Maxilla,

insertion to both the lamina papyracea and the skull base, insertion to both the

lamina papyracea and the middle turbinate, insertion to both the lamina papyracea

- the skull base and the middle turbinate, insertion to both the lamina papyracea –

the frontal process of Maxilla – the skull by on MSCT64, the AN cell was

medially superiorly and inferiorly bound by the UP. In the all of cases, the middle

part of UP together with interior – medial and interior – posterial part of the AN

cell contacted together. When the superior attachment of UP trended to the lamina

papuracea, the UP formed the interior – medial and interior – posterial part of the

AN cell, with or without forming posterior – superior wall of the AN cell. The

superiot attach ment of UP was onto both the lamina papyracea and the frontal

process of Maxilla to form the AN cell and frontal cell 1. The superiot attach ment

of UP was onto the lamina papyracea to form the terminal recess.

Conclusions: the superior attach ment type of UP is very diverse, beside

the six types observed by Landsberg and Friedman, we recognize 5 another types

of UP. The superiot attach ment of UP formed the medial – interior and posterior –

interior part of the AN cell.UP, besides, also forming the AN cell.

Keywords: the uncinate process,the agger nasi cell

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngày nay, phẫu thuật xoang trán qua nội soi vẫn còn nhiều thách thức đối với

phẫu thuật viên, trong điều trị viêm xoang trán mãn tính qua nội soi. Hai móc giải

phẫu đóng vai trò như là chìa khoá để vào ngách trán là phần trên của mỏm móc và tế

bào AN5. Hai câu trúc này đã được mô tả bởi nhiều tác giả. Trong một số trường hợp

các nhà phẫu thuật gặp nhiều khó khăn trong việc đi vào ngách trán, mặc dù tế bào

AN cell đã được lấy đi. Sự thất bại này có lẽ thiếu sự hiểu biết về mối quan hệ giữa

phần trên của mỏm móc và tế bào AN, chúng có mối liên hệ họ hàng với nhau trong

cấu trúc ngách trán. Chính vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục tiêu chính

là đánh giá xem liệu phần trên của mỏm móc và tế bào AN quan hệ với nhau như thế

nào qua việc phân tích tỉ mỉ cấu trúc giải phẫu giữa chúng qua MSCT 64.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu

Mô tả hàng loạt ca.

Đối Tượng Nghiên Cứu

Là những bệnh nhân kiểm tra sức khoẻ ở MEDIC và những bệnh nhân bị viêm

đa xoang được chỉ định chụp MSCT 64. Chọn mẫu ngẫu nhiên, sao cho thoả các điều

kiện sau: trên 18 tuổi, không chấn thương mũi xoang trước đó, không có polype mũi

xoang, không có nấm xoang, không có khối u mũi xoang, không có phẫu thuật xoang

trước đó và phải xác định được phần trên của mỏm móc. Chúng tôi chọn được 32 ca

(tương đương 64 xoang).

Phương tiện, dụng cụ nghiên cứu

Máy multislice Toshiba aquilion 64 slice và máy vi tính Workstation cùng

với phần mềm VITREA 2 để xử lý hình ảnh in phim, lưu trữ.

Các Tiêu Chuẩn Đánh Giá Của Chúng Tôi:

Tỷ lệ hiện diện của tế bào AN.

Các kiểu bám tận của mỏm móc qua

Phần trên của mỏm móc có tạo ra thành sau tế bào AN không? Có tạo ra tế

bào trán không?

Tiến hành nghiên cứu

Dùng chức năng MPR, tạo cửa sổ có 3 mặt cắt sagital, coronal, axial, và 3

D

Điều chỉnh W/L sao cho W/L: 2000/200

Bậc công cụ crosshair 2D, cắt mặt phẳng thấy tế bào AN trên sagittal, thì

cũng xác định AN trên coronal và axial sau đó chụp hình đưa vào lưu trữ.

Lấy mặt cắt sagital làm chuẩn, từ đầu mỏm móc ló ra trên sagittal chúng tôi

làm điểm tựa cắt mặt cắt theo mỏm móc để được hình coronal thấy toàn bộ đường

đi của mỏm móc và đầu bám tận mỏm móc, chụp hình vào lưu trữ.

Sử dụng nhiều giao diện protocol khác nhau với công cụ Crosshair 3D,

chúng tôi dựng lại đường đi của mỏm móc ở mặt cắt coronal, chụp hình lại và

quay đoạn phim về sự bám tận của mỏm móc. Sử dụng protocol cửa sổ xương, mô

mềm chúng tôi cắt những cấu trúc xung quanh còn mỏm móc và tế bào AN, thậm

chí chỉ còn lại mỏm móc để tiện khảo sát, chụp hình và quay lại đoạn phim về mối

quan hệ giữa mỏm móc và tế bào AN.

Tất cả dữ liệu thu được lưu trữ vào thư mục có mang tên họ bệnh nhân. Sau

đó chúng tôi sàng lọc dữ liệu lại thống kê thu thập dữ liệu vào microsoft excel

2003 và SPSS 11.5 for windowns.

KẾT QUẢ

3.1 Phần trên của mỏm móc len lõi lên trên ngách trán với nhiều chân bám

khác nhau, 1 chân, 2 chân và 3 chân. Ngoài các kiểu bám của Landsberg và

Friedman chúng tôi thấy có các kiểu bám tận khác của mỏm móc.

- Xương giấy + mặt bên của tế bào AN. (A) (Hình 7)

- Xương giấy + mỏm trán xương hàm trên. (B) (Hình 1 + Hình 4)

- Nền sọ

- Xương giấy + nền sọ. (C) (Hình 3)

- Xương giấy + cuốn giữa. (D) (Hình 2)

- Xương giấy + nền so + cuốn giữa, (E) (Hình 5).

- Xương giấy + Mỏm trán xương hàm trên + nền sọ (F)

Hình 5 : Mỏm móc bám vào nền sọ

Hình 6 : Mỏm móc bám vào cuốn giữa

nhau, tế bào AN ở trong trên và sau giới hạn bởi mỏm móc ,tường trước

của nó là mỏm trán của xương hàm trên, tường ngoài cửa nó là xương giấy. Đại đa

số phần trên của mỏm móc và phần dưới của mỏm móc gặp nhau (Hình 4). Khi

phần trên của mõm móc hướng ra xương giấy thì nó tạo ra phần dướitrong – sau

dưới của tế bào AN, và mặt sau của tế bào AN để tạo thành tế bào AN (Hình 7 +

Hình 1).

BÀN LUẬN

Bám tận của mỏm móc được mô tả bởi nhiều tác giả1,2,3,4 cho những kết quả

khác nhau. Ibrahim Ercan2 cho rằng phần trên của mỏm móc bám vào phần xương

giấy của mỏm móc cao nhất (62,6%) tương đương với Landsberg và Friedman,

cũng giống với tỷ lệ của Suat Turgut – cùng cộng sự (63%)3. Luo Zhang4 lại có tỷ

lệ khác, họ cho rằng bám tận vào phần trên của xương giấy - nền sọ có tỷ lệ cao

nhất (31%). Trong nghiên cứu của chúng tôi nhờ kỹ thuật hiện đại của MSCT 64

Lát Cắt, dựng hình 3D hoàn hảo, chúng tôi có tểh cắt hết các cấu trúc xung quanh

mỏm móc và tế bào AN, thậm chí chỉ còn mỏm móc. Chúng tôi thấy rõ bám tận

của mỏm móc và mối quan hệ giữa mỏm móc và tế bào AN. Phần trên của mỏm

móc bám tận bởi những chân khác nhau. Trong trường hợp mỏm móc 1 chân nó

thường bám voà cuống giữa hoặc nền sọ hoặc bám đơn thuần vào xương giấy

(type I, type V, VI của Landsberg và Friedman). Trong trường hợp mỏm móc 2

chân, 1 chân bám vào xương giấy, chân còn lại bám vào mặt sau của tế bào AN

hoặc mỏm trán xương hàm trên (tạo tế bào AN và tế bào trán) hoặc bám vào nền

sọ hoặc bám vào xương giấy - nền sọ - cuốn giữa. Đa số trường hợp phần trên

mỏm móc có khuynh hướng liên quan với xương giấy (III, (A), (B), (C), (D), (E),

(P), phần còn lại mỏm móc không liên quan đến xương giấy (1 chân) (Type IV, V,

VI của Lansberg và Friedman). Qua 3 D chúng tôi thấy rằng type I, II của

Landsberg và Friedman, khi phần trên của mỏm móc bám vào mặt sau tế bào AN

chúng thường bám vào xương giấy, hoặc nếu bám vào xương giấy thì nó cũng

bám vào mỏm trán xương hàm trên.

Về mặt phôi thai học mỏm móc và tế bào AN đều bắt nguồn từ cuống sàng

trước, trong quá trình phát triển một phần của cuốn sàng trước đi xuống dưới tạo

nên mỏm móc, phần còn lại trên để tạo thành tế bào AN, cho nên sự phát triển của

chúng về sau liên hệ mật thiết với nhau. Tế bào AN ở phía trước, trong, dưới trong

giới hạn bởi mỏm móc, ngoài là xương giấy, trên là ngách trán, phía trước là mỏm

trán xương hàm trên. Đại đa số các trường hợp phần giữa trên của mỏm móc, phần

sau dưới và dưới trong tế bào AN gặp nhau (100%). Khi phần trên của mỏm móc

có khuynh hướng bám vào liên quan đến xương giấy chúng thường tạo nên phần

trong dưới – sau dưới của tế bào AN. Ngoài ra, nó có thể còn có chân khác để tạo

ra mặt sau hoặc bám vào tế bào AN. Trong trường hợp phần trên của xương giấy

không liên quan đến xương giấy, thường bám đơn thuần vào cuốn giữa hoặc nền

sọ chúng không liên quan đến tế bào AN. Do vậy chúng tôi kết luận rằng khi phần

trên của mỏm móc có khuynh hướng về phía xương giấy thì nó có liên hệ mật thiết

với mặt sau của tế bào AN và tạo ra tế bào AN.

Phần giữa Mỏm Bám Tạo Dẫn

của mỏm móc liên móc tạo phần vào mặt ra tế bào lưu ngách

kết với phần sau sau dưới và sau của tế AN trán qua nội

dưới và trong dưới dưới trong bào AN soi ảo

của tế bào AN của tế bào

AN

Mỏm móc Phểu

1 chân (type IV, + - - - sàng

V, VI)

Trực Mỏm móc

tiếp vào khe > 1 chân (type III, + + + +

giữa IV, (A), (B), (C),

(D), (E), (F)

Mối quan hệ giữa phần trên của mỏm móc và tế bào AN (+: có; - :

không)

Trong nghiên cứu này chúng tôi thấy rằng phần trên của mỏm móc liên

quan mật thiết với tế bào AN, khi phần trên của mỏm móc phát triển lên trên

hướng ra phía xương giấy chúng thường liên quan đến mặt sau của tế bào AN, lúc

này phần trên của mỏm móc tạo nên mặt sau của tế bào AN hoặc bám vào mặt sau

của tế bào AN. Có những trường hợp phần trên của mỏm móc chia ra làm 2 chân,

một chân bám vào xương giấy, một chân còn lại ôm ra phía trước bám vào mỏm

trán xương hàm trên để tạo thành tế bào AN, lúc này tế bào AN đóng vai trò một

ngách tận. Có những trường hợp qua 2D chúng tôi đánh giá kiểu bám trên của

mỏm móc đơn thuần bám vào xương giấy, nhưng khi dựng 3D chúng tôi thấy

rằngngoài bám vào xương giấy phần trên của mỏm móc có nhiều chân có thể bám

vào mặt sau của tế bào AN - trần sọ - cuốn giữa - mỏm trán xương hàm trên.

Nghiên cứu của Ibrahim Ercan – cùng cộng sự cho rằng phần trên của mỏm móc

và tế bào AN không có mối liên hệ với nhau, mặc dù họ đánh giá hai cấu trúc này

là hai cấu trúc rất quan trọng ảnh hưởng đến ngách trán, nhưng họ cho rằng ảnh

hưởng này chỉ là ảnh hưởng độc lập nhau. Tác giả Luo Zhang – cùng cộng sự cũng

như Micheal Friedman (5)- cùng cộng sự (Frintal Sinus Surgery 2004: up date of

Linical Anatomy and surgical techniques) cho rằng phần trên của mỏm móc và tế

bào AN liên hệ mật thiết với nhau trong phẫu thuật xoang trán qua nội soi. Tác giả

Luo Zhang – cùng cộng sự cho rằng mỏm móc tạo nên tế bào AN khi họ nghiên

cứu trên xác được xủ lý. Trong nghiên cứu này chúng tôi khẳng định giữa chúng

có mối quan hệ khắn khít với nhau đối với dẫn lưu xoang trán, có một tỷ lệ lớn

phần trên mỏm móc tạo tế bào AN - tế bào trán 1, có một số trường hợp phần trên

của mỏm móc bám rất cao và mỏm trán (Frontal Beak), đây là một trong những

thách thức cho các nhà phẫu thuật giải quyết sạch bệnh tích ở xoang trán qua nội

soi.

KẾT LUẬN

Bám tận của mỏm móc rất đa dạng ngoài những kiểu bám của Landberg và

Friedman chúng tôi thấy có những kiểu bám khác. Với cỡ mẫu chưa đủ lớn, chúng

tôi chưa thể phân loại các kiểu bám của mỏm móc, cần có một kiểu mẫu lớn hơn.

Mối quan hệ giữa phần trên của mẫu móc và tế bào AN đã được khẳng định,

chúng có thể liên hệ mật thiết với nhau, mỏm móc tham gia tạo phần dưới trong và

sau dưới của tế bào AN, ngoài ra, chúng tạo ra cả thành sau của tế bào AN khi

phần trên của mỏm móc có khuynh hướng liên quan đến xương giấy. Có những

giả thuyết cho rằng mức độ khí hoá của tế bào AN đẩy phần trên của mỏm móc

vào xương giấy, điều này cần phải được nghiên cứu thêm. Khi phần trên của mỏm

móc bám rất cao và ngách trán, làm một sự thách thức cần phải lấy hết ngách tận

thì ngách trán bộc lộ ra. Chúng tôi thấy rằng khi phần trên của mỏm móc có liên

quan đến xương giấy thì chúng liên hệ mật thiết