ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN

CHÍNH TRỊ



TRỊNH THỊ BẠCH TUYẾT

VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGUỒN LỰC THUYỀN VIÊN

NGÀNH HÀNG HẢI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2009

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN

CHÍNH TRỊ



TRỊNH THỊ BẠCH TUYẾT

VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGUỒN LỰC THUYỀN VIÊN

NGÀNH HÀNG HẢI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN LỰC

HÀ NỘI - 200

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn của TS. Lê Văn Lực.

Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính

khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ

ràng.

Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm

2009.

Tác giả luận văn

Trịnh Thị Bạch Tuyết

3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam là quốc gia có bờ biển chạy dọc theo chiều dài đất nước, thềm lục địa rộng gần 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, có nhiều giá trị

và tiềm năng to lớn. Hơn nữa, với vị trí gần đường Hàng hải quốc tế, thuận lợi

cho các dịch vụ Hàng hải và giao lưu với thị trường thế giới, ngành vận tải

biển được nước ta coi là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất

nước.

Hội nghị lần thứ Tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã đề ra

“Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó có chiến lược phát

triển vận tải biển, cảng biển, dịch vụ Hàng hải và nguồn nhân lực biển. Đây là

định hướng có tính quyết định đối với khai thác nguồn lực từ biển, đóng góp

cho sự phát triển kinh tế đất nước.

Trong xu thế đi lên của đất nước và việc gia nhập WTO, ngành Hàng

hải Việt Nam ngày càng phát triển và hội nhập quốc tế. Sự phát triển nhanh

chóng của đội tàu trong nước và dịch vụ xuất khẩu lao động thuyền viên đang

đặt ra cho các trường Hàng hải nước ta cơ hội đào tạo đội ngũ thuyền viên.

Việc cải tiến chương trình, phát triển đào tạo và huấn luyện thuyền viên được

coi là vấn đề cấp thiết, đó cũng là vấn đề tiên quyết góp phần tích cực trong

việc phát triển ngành Hàng hải.

Tuy vậy, bước đầu hội nhập và thực tiễn mấy năm qua cho thấy: đội

ngũ sĩ quan, thuyền viên có tăng lên đủ số lượng để đáp ứng nhu cầu thị

trường nhưng đang bộc lộ nhiều khiếm khuyết về mặt chuyên môn, nghiệp

vụ, kỹ năng thực hành, ngoại ngữ khi làm việc trên những con tàu hiện đại

hoặc tàu đa quốc tịch…

Sự hạn chế của đội ngũ thuyền viên do nhiều yếu tố, một trong những

yếu tố cơ bản là do chất lượng đào tạo thuyền viên còn những khiếm khuyết

chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn.

4

Do vậy, để nâng cao chất lượng thuyền viên Việt Nam phục vụ cho

chiến lược phát triển kinh tế biển, việc nghiên cứu tình hình đào tạo đội ngũ

thuyền viên hiện nay để điều chỉnh, bổ sung và nâng cao chất lượng đào tạo

các trường Hàng hải nói chung và đào tạo thuyền viên nói riêng là việc hết

sức quan trọng và cấp thiết. Đặc biệt việc đào tạo để thuyền viên không chỉ

kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ chuyên ngành mà còn chú ý giáo dục cho

thuyền viên ý thức làm việc, tinh thần trách nhiệm, tác phong công nghiệp, lối

sống chan hoà và lòng yêu nghề, coi đi biển là sự nghiệp lâu dài của mình là

công việc thường xuyên và mang tính thời sự.

Nhận thức từ yêu cầu trên, chúng tôi chọn đề tài “Vấn đề đào tạo

nguồn lực thuyền viên ngành Hàng hải ở Việt Nam hiện nay” để thực hiện

luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Triết học đồng thời mong góp một phần nhỏ vào

việc nâng cao chất lượng đào tạo thuyền viên ở nước ta hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu

Để nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trong ngành Hàng hải nói chung,

đội ngũ thuyền viên nói riêng, gần đây có nhiều người tập trung nghiên cứu:

- Luận văn thạc sĩ khoa học kỹ thuật “Nghiên cứu đổi mới chương trình

đào tạo trung học Hàng hải Việt Nam” do kỹ sư Phan Văn Tại thực hiện đã

phân tích và đánh giá thực trạng chương trình đào tạo các ngành trung cấp

Điều khiển tàu biển, trung cấp Vận hành máy tàu biển; so sánh với yêu cầu

tiêu chuẩn của STCW 95 và luật pháp Việt Nam về giáo dục và đào tạo nhằm

xây dựng chương trình đào tạo mới phù hợp với yêu cầu và nhu cầu hiện tại.

- Luận văn thạc sĩ khoa học kỹ thuật “Giải pháp nâng cao hiệu quả và

khả năng cạnh tranh quốc tế của xuất khẩu thuyền viên Việt Nam tới năm

2003” do kĩ sư Phạm Viết Cường thực hiện đã phân tích, thống kê, tổng hợp

và đánh giá thực trạng chất lượng thuyền viên Việt Nam, kinh nghiệm huấn

luyện, quản lý, xuất khẩu thuyền viên của các cường quốc về Hàng hải. Đồng

5

thời luận văn đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng thuyền viên, xu

hướng của thị trường thuyền viên trong những năm tiếp theo.

- Luận văn thạc sĩ khoa học triết học “Xu hướng và giải pháp phát triển

nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” do

Nguyễn Thị Hồng Vân thực hiện nhằm phân tích những xu hướng và đề xuất

những giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ CNH,

HĐH.

- Trong những năm trở lại đây đã có một số bài nghiên cứu, trao đổi xung

quanh việc đổi mới và phát triển nguồn lực lao động Hàng hải đăng trên các tạp

chí Hàng hải, Tạp chí biển Việt Nam, Giao thông vận tải…

+ Tác giả ThS. Mai Văn Khang “Phát huy nguồn lực lao động thuyền

viên của ngành Hàng hải Việt Nam” đã nghiên cứu, phân tích yếu tố con

người từ đã tóm tắt một số yêu cầu quan trọng đối với nguồn nhân lực.

+ Tác giả ThS. Văn Khang “Chiến lược đào tạo thuyền viên cho ngành

Hàng hải Việt Nam” đã đưa ra những đề xuất chung nhằm phát huy nguồn lực

lao động thuyền viên và chiến lược đào tạo, quy hoạch nguồn nhân lực thuyền

viên đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế.

Các công trình trên đã phân tích nhiều vấn đề sâu sắc trong một số lĩnh

vực khác nhau để áp dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên đề tài này của chúng tôi

tập trung nghiên cứu lĩnh vực đào tạo thuyền viên đáp ứng yêu cầu hội nhập

kinh tế quốc tế cũng như phát triển kinh tế biển Việt Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích

Làm rõ vai trò của đào tạo và thực trạng vấn đề đào tạo nguồn lực

thuyền viên ngành Hàng hải ở Việt Nam trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp

chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực thuyền viên Việt

Nam trong thời gian tới.

6

* Nhiệm vụ

- Làm rõ vai trò của đào tạo đối với sự phát triển nguồn nhân lực

thuyền viên ngành Hàng hải ở Việt Nam hiện nay.

- Phân tích thực trạng đào tạo nguồn nhân lực thuyền viên ở Việt Nam

hiện nay.

- Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn lực thuyền

viên đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu

Công tác đào tạo nguồn lực thuyền viên - nguồn lực lao động chủ yếu

nhất trong ngành Hàng hải Việt Nam.

* Phạm vi nghiên cứu

Các cơ sở đào tạo nguồn lực thuyền viên trong cả nước, chủ yếu ở Trường

Đại học Hàng hải và Cao đẳng Hàng hải I.

Về thời gian: Các số liệu tiến hành khảo sát trong luận văn được giới

hạn từ 1995 đến nay.

5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lí luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lí luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về việc đào tạo nguồn lực con

người.

* Cơ sở thực tiễn

Luận văn dựa trên những báo cáo tổng kết thực tiễn và tình hình đào tạo

thuyền viên ở các trường, trung tâm đào tạo thuyền viên ở Việt Nam trong thời

gian gần đây và tham khảo kinh nghiệm đào tạo thuyền viên của một số nước

trên thế giới.

7

* Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện những nội dung nghiên cứu đã được xác định, luận văn vận

dụng phương pháp luận biện chứng duy vật mà chủ yếu là các phương pháp

phân tích - tổng hợp, so sánh, thống nhất lí luận với thực tiễn…

6. Đóng góp của luận văn

- Luận văn làm rõ vai trò của việc đào tạo nguồn lực thuyền viên đạt

chuẩn quốc tế.

- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng

dạy, học tập, hoạch định chiến lược phát triển nguồn lực thuyền viên Việt Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được cấu trúc thành 3 chương

Chương 1. Vai trò của việc đào tạo nguồn lực thuyền viên ngành Hàng

hải Việt Nam hiện nay.

Chương 2. Thực trạng đào tạo nguồn lực thuyền viên ngành Hàng hải ở

Việt Nam hiện nay.

Chương 3. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo

nguồn lực thuyền viên ngành Hàng hải ở Việt Nam hiện nay.

8

Chương 1 VAI TRÒ CỦA VIỆC ĐÀO TẠO NGUỒN LỰC THUYỀN VIÊN NGÀNH HÀNG HẢI VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Đội ngũ thuyền viên và vai trò của đội ngũ thuy ền viên đối với

ngành Hàng hải Việt Nam

Nguồn lực lao động quan trọng nhất của ngành Hàng hải Việt Nam

hiện nay là đội ngũ thuyền viên làm việc trên các tàu biển. Đây là một yếu tố

quan trọng không thể thiếu được, nó là động lực chủ yếu tác động trực tiếp

nhất đến hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp vận tải biển nói riêng và toàn

ngành Hàng hải nói chung.

1.1.1. Thuyền viên và quy định hệ thống chức danh thuyền viên

Thuyền bộ là những thuyền viên thuộc định biên của tàu biển, bao gồm

thuyền trưởng, các sĩ quan và các chức danh khác được bố trí làm việc trên

tàu biển.

Thuyền viên là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn đảm nhiệm chức danh

trên tàu biển Việt Nam.

Thuyền viên làm việc trên tàu biển Việt Nam phải có đủ các điều kiện sau

đây:

- Là công dân Việt Nam hoặc công dân nước ngoài được phép làm việc

trên tàu biển Việt Nam.

- Có đủ tiêu chuẩn sức khỏe, độ tuổi lao động, khả năng chuyên môn và

chứng chỉ chuyên môn theo quy định.

- Được bố trí đảm nhận chức danh trên tàu biển.

- Có sổ thuyền viên.

- Có hộ chiếu thuyền viên để xuất cảnh hoặc nhập cảnh, nếu thuyền

viên đã được bố trí làm việc trên tàu biển hoạt động tuyến quốc tế [37].

9

Quy định hệ thống chức danh thuyền viên

Căn cứ mức độ trách nhiệm phải thực hiện các chức năng được quy

định trong Bộ luật STCW 95 nhằm đảm bảo cho sự hoạt động của con tàu, sự

an toàn của người và bảo vệ môi trường biển, các chức danh của thuyền viên

trên tàu biển Việt Nam được phân thành các nhóm như sau:

- Mức trách nhiệm quản lý: bao gồm các thuyền viên đảm nhiệm các

chức danh thuyền trưởng, đại phó, máy trưởng, máy hai với trách nhiệm như

sau.

+ Thuyền trưởng là người chỉ huy cao nhất trên tàu

+ Đại phó là một sĩ quan boong có cấp bậc kề sát thuyền trưởng, được

quyền thay thế thuyền trưởng chỉ huy con tàu trong các trường hợp thuyền

trưởng không còn khả năng đảm nhiệm chức danh của mình.

+ Máy trưởng là một sĩ quan máy cao nhất chịu trách nhiệm về sức đẩy

cơ học của con tàu và về vận hành cũng như bảo quản các thiết bị cơ khí và

điện của tàu.

+ Sĩ quan máy hai là một sĩ quan máy có cấp bậc kề sát máy trưởng,

chịu trách nhiệm về sức đẩy cơ học của tàu, về khai thác, bảo dưỡng máy và

trang thiết bị điện của con tàu trong trường hợp máy trưởng mất khả năng

đảm nhiệm chức danh của mình.

- Mức trách nhiệm vận hành bao gồm các thuyền viên đảm nhiệm các

chức danh sĩ quan boong, sĩ quan máy và sĩ quan vô tuyến điện với trách

nhiệm như sau:

+ Sĩ quan boong là một sĩ quan có trình độ chuyên môn theo quy định

tại các điều khoản của Chương II - Công ước STCW 78/95.

+ Sĩ quan là một sĩ quan có trình độ chuyên môn theo quy định tại các

điều khoản của Chương III - Công ước STCW 78/95.

10

+ Sĩ quan vô tuyến điện là một sĩ quan đã được cấp “giấy chứng nhận

khả năng chuyên môn” thích hợp theo các quy tắc vô tuyến của cơ quan có thẩm

quyền quy định và các điều khoản của Chương IV - Công ước SCTW 78/95.

- Mức trách nhiệm trợ giúp bao gồm các thuyền viên đảm nhiệm

chức danh thủy thủ, thợ máy trực ca.

1.1.2. Vai trò của ngành Hàng hải đối với nền kinh tế quốc dân nước ta

Ngành Hàng hải (Vận tải biển) là ngành vận tải rất quan trọng trong hệ

thống vận tải của Việt Nam. Mục tiêu chủ yếu của vận tải biển là đáp ứng yêu

cầu trao đổi hàng hoá bằng đường biển giữa các khu vực trong nước, vận

chuyển hàng hoá xuất, nhập khẩu đồng thời tham gia vào thị trường thuê tàu

thế giới.

Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngành Hàng hải Việt

Nam có một vị trí, vai trò hết sức to lớn, thể hiện tầm quan trọng đó trong

những khía cạnh sau:

Thứ nhất: Ngành Hàng hải giữ vai trò quan trọng trong giao lưu kinh

tế giữa các vùng trong nước và giữa Việt Nam với nước ngoài. Trong giai

đoạn vừa qua, gần như toàn bộ hàng hoá xuất nhập khẩu và một phần đáng kể

hàng hoá trao đổi giữa các vùng trong nước đã được vận chuyển bằng đường

biển.

Thứ hai: Ngành Hàng hải đóng góp to lớn vào việc bảo đảm hoạt động

xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trong điều kiện quan hệ kinh tế đối ngoại của

nước ta ngày càng mở rộng, hầu hết khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu được

vận chuyển bằng đường biển, thì vai trò của ngành Hàng hải đối với các hoạt

động ngoại thương càng được thể hiện một cách rõ rệt.

Thứ ba: Ngành Hàng hải góp phần không nhỏ trong cán cân thanh toán

của đất nước thông qua các hoạt động có thu nhập bằng ngoại tệ; đồng thời

thông qua số lượng và giá trị hàng hoá vận chuyển, ngành này còn tác động

đến cán cân thương mại - bộ phận quan trọng nhất trong cán cân thanh toán

11

của đất nước. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta còn

trong tình trạng thiếu vốn đầu tư, thiếu nguồn vật tư, thiết bị và phải nhập

khẩu với số lượng lớn.

Thứ tư: Ngành Hàng hải còn có vai trò đặc biệt trong an ninh quốc

phòng, bảo đảm an toàn, tìm kiếm cứu nạn, góp phần bảo vệ trọn vẹn lãnh thổ và

an toàn lãnh hải, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước.

1.1.3. Nguồn lực thuyền viên quyết định năng lực hoạt động của

ngành Hàng hải Việt Nam

Dưới dạng tổng quát, khái niệm “nguồn lực” được hiểu là toàn bộ các

yếu tố cả vật chất lẫn tinh thần đã, đang và sẽ có khả năng tạo ra sức mạnh

cho sự phát triển và trong những điều kiện thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải

biến xã hội của một quốc gia, dân tộc. Nghĩa là, khái niệm nguồn lực có phạm

vi bao quát rộng, nó hàm chứa không chỉ những yếu tố đã và đang tạo ra sức

mạnh trên thực tế mà cả những yếu tố mới ở dạng sức mạnh tiềm năng; nó

không chỉ nói lên sức mạnh mà còn chỉ ra nơi bắt đầu, phát sinh hoặc nơi có

thể cung cấp sức mạnh; nó phản ánh không chỉ số lượng mà còn cả chất lượng

các yếu tố, đồng thời nói lên sự biến đổi không ngừng của các yếu tố đó.

Việc phân loại nguồn lực tuỳ thuộc vào cách xác định các tiêu chí và ở

việc xem xét chúng trong các quan hệ xác định. Chẳng hạn, theo tiêu chí khái

quát, nguồn lực được phân thành: nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần;

theo quan hệ bên trong - ngoài, và mỗi quốc gia với tư cách là một sự vật, thì

có nguồn lực bên trong (con người, vốn trong nước, cơ sở vật chấ t- kỹ thuật,

tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý...) và nguồn lực bên ngoài (sự trợ giúp của

nước ngoài, của các tổ chức quốc tế như vốn, công nghệ, thị trường, kinh

nghiệm quản lý...), theo chủ thể - khách thể, thì có nguồn lực chủ quan (con

người) và các nguồn lực khách quan (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, vốn

trong nước và nước ngoài...), theo quan hệ rộng - hẹp, thì những yếu tố tạo

nên một nguồn lực nào đã lại trở thành những nguồn lực của chính nguồn lực

12

đó, thí dụ giáo dục cũng là một nguồn lực góp phần tạo nên nguồn lực con

người, hay trí tuệ cũng được coi là một nguồn lực trong nguồn lực con người;

theo quan hệ nhân - quả, thì tất cả những yếu tố tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự

phát triển xã hội đều được coi là nguồn lực [32, tr.59-60].

Trong thời đại ngày nay, đối với tất cả các quốc gia, việc huy động, xác

định một cách đúng đắn và hiệu quả các nguồn lực đều có ý nghĩa to lớn trong

việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định cần khai thác và sử dụng nhiều

nguồn lực khác nhau trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất, nó có vai

trò quyết định, điều này càng có ý nghĩa hơn khi mà ở nước ta nguồn lực tài

chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Hơn nữa, các nguồn lực khác đều có

thể bị khai thác cạn kiệt chỉ có con người - một nguồn lực gần như vô tận, đặc

biệt là tri thức của con người.

Nguồn lực lao động quan trọng nhất của ngành Hàng hải Việt Nam

hiện nay là đội ngũ thuyền viên làm việc trên các tàu biển. Đây là một yếu tố

quan trọng không thể thiếu, nó là động lực chủ yếu tác động trực tiếp nhất đến

hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp vận tải biển nói riêng và toàn ngành

Hàng hải nói chung. Trên thực tế, đội ngũ này so với yêu cầu phát triển trong

tương lai còn thiếu hụt lớn và xét về cơ cấu, trong đội ngũ này đang có tình

trạng vừa thiếu lại vừa thừa.

Ở nước ta, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường với cơ chế “mở”

theo phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước” thì ngành

Hàng hải cũng được đặc biệt quan tâm, được coi là một trong những ngành

kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế tổng thể của đất nước.

Trong chiến lược phát triển ngành Hàng hải Việt Nam, Đảng và Nhà nước

đang từng bước triển khai thực hiện, trong đó chính sách “phát triển nguồn

nhân lực” là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Điều đó là tất yếu bởi lẽ đội ngũ

sĩ quan, thuyền viên làm việc trên tàu biển Việt Nam là yếu tố quan trọng và

13

không thể thiếu, nó là động lực chủ yếu tác động đến hiệu quả kinh tế của các

doanh nghiệp vận tải biển nói riêng và toàn ngành Hàng hải nói chung. Hàng

hải là một ngành hoạt động trong môi trường khắc nghiệt - môi trường biển.

Lịch sử đã chứng kiến rất nhiều tai nạn Hàng hải nghiêm trọng, có thể gọi là

những thảm hoạ. Biển đã nuốt trôi những con tàu khổng lồ, cuốn theo nhiều

sinh mạng, của cải và gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến môi trường. Để ngăn ngừa

những thảm hoạ này, trước hết người ta cho rằng cách tốt nhất phải có tàu và

trang thiết bị tốt. Do đó, tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) đã đưa ra những

luật lệ, qui định, yêu cầu… đối với tàu và trang thiết bị trên tàu nhằm giúp

cho “Hàng hải an toàn hơn, biển cả trong sạch hơn”. Tuy nhiên, bản thân mỗi

con tàu chỉ là những khối sắt thép vô tri, vô giác, dù có hiện đại nhất thì con

người mới chính là “linh hồn” thổi sức sống cho mỗi con tàu, làm cho nó

hoạt động được. Theo thống kê của các chuyên gia thì khoảng 80% tai nạn

Hàng hải là do có sai sót của con người. Hầu như (nếu không muốn nói là tất cả)

các vụ đâm, va và mắc cạn đều do sai sót của con người. Các vụ cháy nổ cũng

chủ yếu do thiếu sót của con người gây ra. Việc chìm và đắm tàu do thời tiết có

thể coi là bất khả kháng, nhưng cũng có thể hạn chế được nếu sử dụng dịch vụ

dẫn đường để tránh thời tiết xấu. Ngay cả các vụ tai nạn liên quan đến hỏng hóc

cơ khí đôi khi cũng có thể do lỗi bảo dưỡng thiết bị gây nên. Quan tâm đến yếu

tố con người trong an toàn Hàng hải, IMO đã có những bộ luật mang tính nhân

văn như Công ước Quốc tế về Tiêu chuẩn huấn luyện, cấp giấy chứng nhận và

trực ca của thuyền viên (STCW). Một Bộ luật về yếu tố con người (Bộ luật Quản

lý an toàn quốc tế ISM Code) cũng đã được thử nghiệm. Ngoài ra, IMO cũng

chuẩn hóa chương trình đào tạo cho các trường và các viện Hàng hải theo các

chương trình mẫu (model course), được biên soạn bởi các chuyên gia có kinh

nghiệm, để cung cấp tài liệu đào tạo thuyền viên, phổ biến những nghiên cứu về

Hàng hải.

14

Các trường Hàng hải các cấp của các quốc gia trên thế giới có nhiệm vụ

đào tạo và huấn luyện cho các sĩ quan, thuyền viên làm việc trên các tàu vận

tải biển của đội tàu biển quốc gia và phục vụ cho xuất khẩu thuyền viên ra

nước ngoài. Ngoài ra, các trung tâm huấn luyện thuyền viên của các trường

Hàng hải ở các quốc gia còn được giao nhiệm vụ huấn luyện và cấp các

chứng chỉ chuyên môn đi biển cho thuyền viên theo công ước của IMO bao

gồm: Chứng chỉ an toàn cơ bản; Chứng chỉ nghiệp vụ; Chứng chỉ đặc biệt...

Do đó, trách nhiệm của các trường Hàng hải các cấp của mỗi quốc gia hiện

nay rất nặng nề. Vì chất lượng một con tàu đi biển phụ thuộc rất nhiều vào

trình độ chuyên môn của đội ngũ sĩ quan, thuyền viên trên tàu, mặt khác, trình

độ chuyên môn của đội ngũ sĩ quan, thuyền viên trên các con tàu vận tải biển

lại phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đào tạo, huấn luyện của các cơ sở đào

tạo, huấn luyện Hàng hải. Chính vì lẽ đó mà chất lượng đào tạo, huấn luyện sĩ

quan, thuyền viên tại các cơ sở đào tạo, huấn luyện Hàng hải đang được

Chính phủ của các quốc gia có ngành Hàng hải nói chung và Việt Nam nói

riêng rất quan tâm.

1.2. Vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển nguồn lực

thuyền viên hiện nay

1.2.1. Giáo dục và đào tạo định hướng chiến lược đào tạo cho các cơ

sở đào tạo thuyền viên Việt Nam

“Giáo dục - đào tạo” là những hiện tượng xã hội đặc biệt, xuất hiện và

phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ngay từ trong xã hội

nguyên thuỷ đã xuất hiện nhu cầu truyền cho nhau những hoạt động sống nói

chung để chống lại những nguy hiểm do tự nhiên đem lại. Quá trình đó ngày

càng phát triển và trở thành một hoạt động tất yếu, cơ bản hình thành nên

nhân cách con người và được thực hiện một cách có tổ chức, có định hướng

với tư cách là một nền giáo dục xã hội

15

Thời kì hiện nay được coi là bắt đầu kỷ nguyên phát triển mới của loài

người. Nguồn lực cho thời kì này tuy được đề cập rất nhiều nhưng nguồn lực

con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất hiện nay. Tất cả các nước khi bước

vào thế kỷ XXI đều nhận thức rằng sự phát triển của quốc gia nhờ vào nguồn

lực số một là nguồn lực con người, trong đó chất lượng của nguồn lực này

được nâng lên không thể bằng con đường nào khác ngoài việc đầu tư phát

triển giáo dục - đào tạo.

Theo Từ điển Hán Việt:“Giáo dục là hoạt động có tổ chức nhằm mục

đích đào tạo con người”.

Trong quan niệm của Giáo dục học, “giáo dục theo nghĩa rộng là quá

trình toàn vẹn hình thành nhân cách được tổ chức một cách có ý thức, có kế

hoạch thông qua các hoạt động, các quan hệ giữa người giáo dục và người

được giáo dục, nhằm truyền đạt và lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội

của loài người đã tích luỹ được”

“Khái niệm giáo dục theo nghĩa hẹp là công tác giáo dục chuyên biệt

do nhà giáo dục tiến hành, nhằm hình thành hệ thống các phẩm chất nhất định

như: đạo đức, thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, quan điểm thẩm mỹ, động cơ,

thái độ, và những nét tính cách của nhân cách”

Đào tạo là quá trình tác động đến con người nhằm làm cho người lĩnh hội

và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… một cách có hệ thống nhằm

chuẩn bị cho người đã thích nghi với cuộc sống và khả năng tiếp nhận sự phân

công lao động nhất định, hoàn thành tốt công việc được giao.

Báo cáo chính trị tại Đại hội X Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định:

"Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng

thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát triển

nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế

nhanh và bền vững”;

16

Đầu tư đào tạo phát triển nguồn lực con người được hiểu ở cả ba lĩnh

vực chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng cuộc sống và giáo dục đào tạo,

nhưng trong đó giáo dục đào tạo có vị trí quan trọng nhất, đặc biệt là đào tạo

trong giai đoạn hiện nay. Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, khái niệm đào

tạo được hiểu là:

“Đào tạo, quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người

đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo... một cách có hệ

thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng

nhận một sự phân công nhất định góp phần của mình vào việc phát triển xã

hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người. Về cơ bản, đào tạo là

giảng dạy và học tập trong nhà trường phải gắn với giáo dục đạo đức, nhân

cách. Kết quả và trình độ được đào tạo (trình độ học vấn) của một người còn

do việc tự đào tạo của người đã thể hiện ra ở việc tự học và tham gia các

hoạt động xã hội, lao động sản xuất rồi tự rút kinh nghiệm của người đó

quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào

tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả cao. Tuỳ theo

tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và cho lao động, người ta phân biệt đào tạo

chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp. Hai loại này gắn bó và hỗ trợ cho nhau

với những nội dung do các đòi hỏi của sản xuất, của các quan hệ xã hội, của

tình trạng khoa học, kỹ thuật và văn hoá của đất nước. Khái niệm giáo dục

nhiều khi bao gồm cả các khái niệm đào tạo. Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo

cấp tốc, đào tạo chuyên môn, đào tạo cơ bản, đào tạo lại, đào tạo ngắn hạn,

đào tạo từ xa” [52, tr.735].

1.2.2. Giáo dục và đào tạo góp phần quyết định chất lượng nguồn lực

thuyền viên

Giáo dục và đào tạo là hai khái niệm khác nhau, nhưng chúng có mối

quan hệ biện chứng với nhau. “Giáo dục” theo nghĩa rộng bao hàm cả đào tạo

vì một mục đích chung là bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao năng lực và các

17

phẩm chất của con người nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội, góp

phần tích cực vào việc phát huy nguồn lực con người với tư cách là một

nguồn nội lực của đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Mặt khác, giáo dục là một trong những biện pháp cơ bản của đào tạo, tức là

muốn đào tạo một con người thì nhất thiết phải thông qua con đường giáo

dục, ngược lại, giáo dục cũng nhằm vào mục tiêu đào tạo con người, coi con

người là mục tiêu cơ bản nhất. Vì thế mà trong quá trình giáo dục đã bao hàm

yếu tố của đào tạo và trong bất cứ một hoạt động đào tạo nào cũng phải chứa

đựng hiện tượng giáo dục.

Ngày nay, khi nói đến việc sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực

con người, bên cạnh những giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của người

lao động người ta nói nhiều đến những giải pháp nhằm phát triển nguồn lực

đó. Bởi vì, nói đến nguồn lực con người không chỉ nói đến số lượng, mà điều

quan trọng hơn là chất lượng của nó, tức là những con người đã qua giáo dục

và đào tạo. Nếu chỉ có lao động dồi dào, nguồn nhân công rẻ không thôi sẽ

không đáp ứng được nhu cầu hội nhập quốc tế như hiện nay. Những năm qua,

kinh tế nước ta đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng cơ bản Việt

Nam vẫn là một quốc gia nghèo. Vì thế, yêu cầu phát triển giáo dục đào tạo cả

về số lượng và chất lượng ngày càng mang ý nghĩa sống còn đối với sự phát

triển của nước ta hiện nay. Tốc độ phát triển đất nước phụ thuộc rất nhiều vào

chất lượng nguồn lực con người. Chất lượng nguồn nhân lực lại phụ thuộc

vào chất lượng và hiệu quả đào tạo. Để từng bước nâng cao chất lượng đào

tạo cần nâng cao hiệu quả đào tạo trong đó có việc đổi mới phương thức tổ

chức đào tạo, chương trình và phương pháp đào tạo, kiên quyết ngăn chặn và

xử lý nghiêm những hiện tượng tiêu cực trong môi trường giáo dục, tăng

cường đầu tư phương tiện giảng dạy và học tập, song, quan trọng hơn là chăm

lo xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên tâm huyết

với sự nghiệp giáo dục, có đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tạo hiệu quả

trong sự nghiệp trồng người.

18

Với nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò nguồn lực con người - yếu tố cơ

bản, quan trọng bậc nhất quyết định sự thành công hay thất bại của quá trình

phát triển kinh tế - xã hội; cũng như mục đích, ý nghĩa, nhu cầu của việc

không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo là nhiệm vụ cốt lõi, hệ

thống đào tạo huấn luyện Hàng hải Việt nam đã được hình thành theo nhiều

giai đoạn. Tuy nhiên, chỉ khi Công ước quốc tế về huấn luyện, cấp chứng chỉ

cho thuyền viên sửa đổi ra đời (Công ước STCW 78/95), thì hệ thống đào tạo

huấn luyện Hàng hải của Việt Nam mới thực sự có hệ thống và tuân thủ hoàn

toàn theo đòi hỏi của Công ước. Trong giai đoạn gần đây, chúng ta đã đào tạo

và huấn luyện được số lượng lớn sĩ quan thuyền viên có trình độ phục vụ cho

ngành Hàng hải trong nước và xuất khẩu thuyền viên. Mặc dù vậy, sau khi

tham gia thị trường thuyền viên quốc tế, đội ngũ thuyền viên của chúng ta còn

nhiều điểm yếu cần phải khắc phục. Trước tình hình mới của thị trường lao

động Hàng hải thế giới, ngành đào tạo - huấn luyện Hàng hải Việt Nam đang

đứng trước vận hội to lớn chiếm lĩnh thị trường lao động trình độ cao đầy

tiềm năng này. Cùng với vận hội này, thách thức đặt ra là phải nhanh chóng

nâng cao được số lượng sĩ quan, thuyền viên có trình độ đáp ứng được yêu

cầu quốc tế. Điều đặc biệt đó càng có ý nghĩa hơn trong bối cảnh hiện nay với

nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức, khi mà khoa học và công nghệ

đã và đang phát triển mạnh mẽ như vũ bão, những thành tựu của nó được ứng

dụng vào mọi lĩnh vực trong đó có ngành Hàng hải, đặc biệt, trên tàu biển

hiện nay công nghệ thông tin đang được ứng dụng rộng rãi, mức độ tự động

hoá ngày càng cao. Do đó, đòi hỏi đội ngũ sĩ quan, thuyền viên Việt Nam

không những tăng về số lượng, mà còn giỏi về chất lượng, tinh thông về

nghiệp vụ và ngoại ngữ… đạt chuẩn quốc tế; nhằm đáp ứng, thoả mãn nhu

cầu của sự phát triển nền kinh tế đất nước; làm chủ được sự tiến bộ của khoa

học và công nghệ, đảm đương điều khiển được đội tàu biển quốc gia và cung

cấp thuyền viên cho đội tàu thế giới.

19

Chương 2

THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN LỰC THUYỀN VIÊN

NGÀNH HÀNG HẢI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng năng lực đào tạo của các cơ sở đào tạo , huấn luyện

thuyền viên Việt Nam

đào tạo, huấn luyện 2.1.1. Đánh giá thực trạng hệ thống cơ sở

thuyền viên Việt Nam

Hiện nay, đội ngũ sĩ quan, thuyền viên của nước ta được cung cấp từ

nhiều nguồn khác nhau ngoài hệ thống đào tạo huấn luyện chính thống trực

thuộc Bộ Giao thông Vận tải,cụ thể như:

Hình 2.1.1. Hệ thống cơ sở cung cấp sĩ quan, thuyền viên hiện tại ở Việt Nam

Chính phủ

Bộ Thủy sản

Bộ Giao thông Vận tải

Bộ LĐ TB&XH

Bộ Quốc phòng

Đào tạo nước ngoài

Liên kết đào tạo

Các trường TH, CNKT TS TW và ĐF

Trường Đại học GTVT TP. HCM

Trường Đại học Nha Trang

Trường Đại học Hàng hải Việt Nam

Quân chủng Hải quân

Hệ thống Nhà nước

Cục Hàng hải Việt Nam

Trường CĐ nghề Bách nghệ HP

Học viện Hải quân

Các trường TH Hải quân

Trường Cao đẳng Hàng hải I

Trường CĐ Nghề Hàng hải II

Qua sơ đồ này ta thấy: có nhiều bộ, ngành tham gia cung cấp thuyền

viên cho ngành Hàng hải Việt Nam. Theo thống kê chưa đầy đủ, có khoảng từ

5-10% số sĩ quan và từ 10-15% số thủy thủ, thợ máy đang làm việc trên các

20

tàu thuộc các công ty vận tải biển Việt Nam được đào tạo ngoài các cơ sở đào

tạo của Bộ Giao thông - Vận tải.

Thực tiễn cho thấy, ngoài việc đào tạo thuyền viên phục vụ cho đội tàu

mang tính đặc thù của ngành, các ngành còn có những đội tàu tham gia vận

chuyển hàng hoá, hành khách… làm đa dạng, phong phú ngành Hàng hải,

song cũng đưa lại sự phức tạp, thiếu đồng bộ trên lĩnh vực này. Hiện nay, Bộ

Giao thông - Vận tải đã và đang tích cực áp dụng nhiều biện pháp, giải pháp

để từng bước củng cố, tăng cường công tác quản lý, áp dụng rộng rãi, thống

nhất đồng bộ trong cả nước về lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực Hàng hải.

Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu tập trung nhận xét, đánh giá về công

tác đào tạo, huấn luyện thuyền viên phục vụ cho đội tàu thương mại quốc gia

và nhu cầu xuất khẩu thuyền viên.

Các cơ sở đào tạo, huấn luyện Hàng hải của Việt Nam gồm có:

- Phía Bắc: Trường Đại học Hàng hải, Trường Cao đẳng Hàng hải I và

Trường Cao đẳng nghề Bách nghệ Hải Phòng.

- Phía Nam: Trường Đại học Giao thông - Vận tải (Tp.HCM) và

Trường Cao đẳng Nghề Hàng hải II;

- Trong các trường Đại học và Cao đẳng trên đều có các Trung tâm

huấn luyện Hàng hải với các chức năng huấn luyện An toàn cơ bản, huấn

luyện nghiệp vụ Hàng hải và huấn luyện đặc biệt...

Đối với tất cả các cơ sở đào tạo Hàng hải hiện nay, tuy chịu sự quản lý

của Bộ Giao thông - Vận tải, nhưng về đề cương, chương trình đào tạo đều

chịu sự quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Vậy nên, đặc điểm nổi bật về

đảm bảo chất lượng chuyên môn của các cơ sở đào tạo như sau:

- Tổ chức tuyển sinh đầu vào theo quy chế do Bộ Giáo dục và Đào tạo

ban hành. Thí sinh đầu vào đều có trình độ phổ thông trung học; thời gian đào

tạo: Đại học 4 - 4,5 năm; Cao đẳng 3 năm; Trung cấp 2 năm.

21

- Sau khi tốt nghiệp học viên được cấp bằng tốt nghiệp đào tạo, Giấy

chứng nhận khả năng chuyên môn và một số chứng chỉ huấn luyện Hàng hải.

- Nội dung, chương trình đào tạo bao gồm: các môn cơ bản, các môn cơ

sở chuyên ngành, các môn chuyên môn, tiếng Anh và thời gian thực tập tại

xưởng, tại tàu.

Hình 2.1.2. Mô hình đào tạo Hàng hải trình độ “Đại học”

Đào tạo Đại học- thời gian 4,5 năm

Bằng TN Đại học

Thi quốc gia (Toán, Lý, Hóa)

Học sinh tốt nghiệp Trung  học Phổ thông 

Các môn cơ bản 1,5 năm

Các môn cơ sở 1,5 năm

Chuyên ngành Thực tập

Mạng lưới cơ sở đào tạo, huấn luyện Hàng hải của Việt Nam thể hiện

trên hình vẽ sau:

Bộ Giao thông Vận tải

Bộ Giáo dục & Đào tạo

Trường Đại học Hàng hải

Trường ĐH Hàng hải

Cục Hàng hải Việt Nam

Trường ĐH GTVT TP HCM

Cao đẳng Hàng hải TW I CĐ Nghề Bách nghệ Hải Phòng

Trường CĐ Hàng hải I

Trường CĐ Nghề Hàng hải II

CĐ Nghề Bách nghệ HP

Cao đẳng Nghề Hàng hải II

ĐH GTVT Tp HCM

Hình 2.1.3. Sơ đồ hệ thống đào tạo và huấn luyện hàng hải tại Việt Nam

Hình 2.1.4. Các Trường đào tạo và huấn luyện hàng hải tại Việt Nam

22

Như vậy, trên thực tế thấy rằng ở Miền Trung mặc dù là nơi có nhiều

cảng biển, nhiều khu công nghiệp tầm cỡ quốc gia đồng thời có nhiều tiềm

năng rất tốt trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho ngành Hàng hải, song

hiện nay chưa có bất kỳ một cơ sở đào tạo, huấn luyện Hàng hải nào. Bên

cạnh đó, là một trong những vùng có nền kinh tế chậm phát triển của cả nước,

nguồn nhân lực trẻ của miền Trung chưa có điều kiện để theo học các cơ sở

tại Hải Phòng hay Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là nguyên nhân chính của

hiện tượng thiếu hụt trầm trọng nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển

công nghiệp Hàng hải tại miền Trung.

Hệ thống đào tạo, huấn luyện Hàng hải hiện tại là tương đối phù hợp với

yêu cầu thực tế, tuy nhiên chưa thực hiện được đào tạo liên thông, chưa có sự

gắn kết một cách chặt chẽ về chuyên môn, nghiệp vụ, huấn luyện.

Việc sắp xếp lại mạng lưới các cơ sở, điều chỉnh lại hệ thống đào tạo,

huấn luyện Hàng hải là vấn đề rất cần thiết để đáp ứng được nhu cầu về

nguồn nhân lực cho ngành Hàng hải, đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường

thuyền viên thế giới.

2.1.2. Chương trình đào tạo Hàng hải (Maritime Education) hiện nay

của Việt Nam

Trên cơ sở các số liệu thống kê về đề cương đào tạo Hàng hải của các

hệ đại học, cao đẳng, trung cấp và công nhân kỹ thuật, thời gian dành cho đào

tạo lý thuyết và dành cho thực hành, thí nghiệm dựa theo bảng phân bố sau.

23

Bảng 2.1.1. Phân bổ thời gian đào tạo của các hệ theo cấp độ đào tạo

Tổng số tiết

Tổng số tiết bài tập, thực hành

lý thuyết

TT

Hệ đào tạo

Thời gian (Tháng)

Tổng số tiết

Số tiết

Số tiết

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

60

4570 3735 81,73

835

18,27

Đại học

1

36

2845 2220 78,03

625

21,97

Cao đẳng

2

24

1880 1300 69,15

580

30,85

Trung học

3

15

1140

752

65,96

388

34,04

CNKT

4

03

250

71,43

350

100

28,57

5

SQQL hạng  500 GT

02

240

187

77,92

53

22,08

6

SQQL hạng < 500 GT

Bảng 2.1.2. Phân bổ thời gian đào tạo của các hệ theo các nhóm môn học

Hệ trung học

Hệ cao đẳng

Hệ đại học

Lái

Máy

Lái

Máy

Lái

Máy

Giáo dục đại cương

283

390

465

690

765

855

Cơ sở ngành

270

377

420

540

960

1290

Chuyên ngành

753

753

885

1005

1350

1200

Tiếng Anh

405

405

285

270

345

330

Thực tập

200

200

300

285

300

285

* Phân tích, đánh giá chương trình đào tạo Hàng hải hệ đại học

Chương trình đào tạo hệ đại học Hàng hải hiện hành cho các ngành đi

biển (Điều khiển tàu biển và Máy tàu biển) tại trường Đại học Hàng hải có

nhiều điểm không phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.

Một trong những điểm không còn phù hợp có thể nhận thấy qua bảng tổng

hợp phân bố thời gian đào tạo.

24

Bảng 2.1.3. Tổng hợp về phân bố thời lượng đào tạo hệ Đại học ngành đi biển

TT

Chương trình

Số tuần

Tỷ lệ

1 Học trên lớp (cơ bản và chuyên môn)

115

115

49%

2 Chính trị (đầu khóa), Quân sự

1 + 6

7

3%

3 Thực tập chung, Thực tập tốt nghiệp

16 + 12

28

12%

4 Thi học kỳ, Thi Tốt nghiêp

33 + 17

50

21%

5 Nghỉ Tết (các kì và kì cuối), Nghỉ hè toàn khóa

10 + 24

34

15%

Tổng

234

100%

Nguồn: Phòng Đào tạo Trường Đại học Hàng hải

Toàn bộ chương trình được thực hiện trong 4,5 (năm) x 52tuần/năm =

234(tuần). Nếu phân toàn bộ nội dung các phần trong chương trình đào tạo

thành các nhóm bao gồm: 1- Học trên lớp; 2- Chính trị (đầu khóa), Quân sự;

3- Thực tập, Thực tập tốt nghiệp; 4- Thi học kỳ, Thi Tốt nghiệp và 5- Nghỉ

Lễ, Tết và nghỉ hè toàn khóa thì phân bố thời lượng so sánh giữa các nhóm

được mô tả như sau:

Hình 2.1.5. Phân bố thời lượng so sánh giữa các nhóm

1. Học trên lớp 2. Chính trị - QS 3. Thực tập 4. Thi - kiểm tra 5. Nghỉ hè, Lễ, Tết

Nếu xét sự phân bố chương trình đào tạo cụ thể thành 11 nhóm, gồm:

1.Học chính trị, quân sự đầu khóa; 2. Các môn học chính trị; 3. Các môn học

cơ sở, cơ bản; 4. Ngoại ngữ; 5. Nhóm các môn học hỗ trợ chuyên ngành; 6.

25

Nhóm các môn học chuyên ngành; 7. Chương trình thực tập toàn khóa; 8.

Nghỉ Tết và nghỉ hè toàn khóa; 9. Thi học kỳ; 10. Thi tốt nghiệp và 11. Huấn

luyện an toàn cơ bản và chuyên môn thì phân bố thời lượng so sánh giữa các

nhóm được mô tả như Hình 2.1.6:

Hình 2.1.6. Phân bố chương trình đào tạo

1. Chính trị, quân sự đầu khóa 2. Các môn học chính trị 3. Các môn học cơ sở cơ bản 4. Ngoại ngữ 5. Các môn hỗ trợ chuyên ngành 6. Các môn học chuyên ngành 7. Thực tập toàn khóa 8. Nghỉ hè và Tết 9. Thi học kỳ 10. Thi tốt nghiệp 11. Huấn luyện cơ bản và nghiệp vụ .

Phân bố thời lượng (hiện hành)

Nhìn vào số liệu tổng hợp trên có thể nhận thấy một số điểm sau: - Trong suốt 4,5 năm đào tạo, không có quỹ thời gian dành cho huấn

luyện an toàn cơ bản và huấn luyện nghiệp vụ Hàng hải;

- Tổng số thời gian thực tập chung không nhiều (28 tuần). Trong 28 tuần thực tập chung đó, thời gian dành cho thực tập trên tàu chỉ có 12 tuần. Như vậy, thời gian thực tập trên tàu là quá ít. Vì thế, học viên tốt nghiệp Đại học chưa có khả năng đảm nhận được chức danh sĩ quan Hàng hải;

26

- Nếu đào tạo theo xu hướng Đại học công nghệ hoặc Đại học nghề thì các môn học cơ sở, cơ bản còn quá nhiều. Cụ thể là sau 2 năm, người học vẫn chưa được học các môn chuyên ngành Hàng hải;

- Ngoại ngữ chiếm rất nhiều thời gian trong toàn bộ chương trình đào

tạo khoá học nhưng kết quả sau khi tốt nghiệp vẫn kém;

- Tổng thời gian dành cho các kỳ thi là 50 tuần, chiếm 45% so với thời

gian đào tạo trên lớp là 115 tuần;

- Khả năng đào tạo liên thông rất khó khăn và không tạo điều kiện

thuận lợi cho người học chuyển đổi các cấp học;

* Phân tích, đánh giá chương trình đào tạo Hàng hải hệ cao đẳng Chương trình đào tạo hiện hành của hệ cao đẳng các ngành đi biển

(Điều khiển tàu biển và Máy tàu biển) được tổng hợp như sau: Bảng 2.1.4. Tổng hợp phân bố thời lượng đào tạo

TT Chương trình đào tạo Cao đẳng

Số tuần Ghi chú

73

1 Học trên lớp

5

2 Lao động

13

3 Thực tập, Thực tập tốt nghiệp

25

4 Thi học kỳ, Thi Tốt nghiêp

18

5 Nghỉ Tết (các kì và kì cuối) và nghỉ hè toàn khóa

134

Tổng

Nguồn: Phòng Đào tạo Trường Cao đẳng Hàng hải 1.

Nhận xét:

- Thời lượng thực tập quá ít (13 tuần) chưa đảm bảo điều kiện cấp bằng

sĩ quan (theo Quy định của Cục Hàng hải Việt Nam);

- Thời lượng dành cho thi hết môn của 5 học kỳ là 16 tuần, thi lại 2

tuần và thi tốt nghiệp là 7 tuần, chiếm 18,65% thời lượng đào tạo;

- Chưa có thời gian dành cho huấn luyện an toàn cơ bản và nghiệp vụ

chuyên môn;

Như vậy, nếu hệ Cao đẳng chỉ bố trí trong 5 học kỳ, mục tiêu đào tạo

để có thể cấp bằng Sĩ quan Hàng hải là chưa có đủ điều kiện. Sinh viên tốt

nghiệp hệ cao đẳng có thể được cấp bằng sĩ quan Hàng hải nếu thời gian đào

tạo là 3 năm, nghĩa là kéo dài thêm 26 tuần. Nếu xét về tiêu chí sinh viên sau

27

khi tốt nghiệp sẽ được cấp 2 bằng thì sinh viên hệ cao đẳng không có đủ điều

kiện thực hiện.

* Phân tích, đánh giá chương trình đào tạo Hàng hải hệ trung cấp

Bảng 2.1.5. Phân bố thời gian đào tạo hệ trung cấp

STT Phân bố thời gian Ngành boong Ngành máy

Số tiết % Số tiết %

Các môn cơ sở 799 25,9 599 18,5 1

Anh Văn 320 10,4 320 9,9 2

Các môn chuyên môn 1045 33,9 1215 37,5 3

Thực hành* 680 (17t) 22 320 (8t) 9,9 4

Thực tập tốt nghiệp** 240 (4t) 7,8 784 (14t) 24,2 5

* Ngành boong: thời gian thực tập các loại là 17 tuần; ngành máy: thực tập nguội

– hàn - gia công cơ khí và sửa chữa máy điện là 8 tuần.

** Ngành boong: thực tập tốt nghiệp và báo cáo thực tập là 4 tuần; ngành máy:

thực tập vận hành máy tầu biển là 14 tuần.

Tổng số 3084 100 3238 100 6

Đây là chương trình đào tạo các học viên trở thành thuyền trưởng, máy

trưởng và sĩ quan Hàng hải làm việc trên các tầu biển có dung tích <500GT

hoặc là các thủy thủ trực ca của các tầu có dung tích từ 500-3000GT và trên

3000GT hoặc thợ máy trực ca của các tầu có tổng công suất máy từ 750-

3000KW và trên 3000KW. Tuy nhiên, thông qua số liệu trên, chúng tôi có

một số nhận xét sau:

- Chương trình đào tạo trung cấp Hàng hải thực chất là đào tạo nghề

hoặc đào tạo kỹ thuật viên, tuy nhiên, thời lượng dành cho học lý thuyết và

thực hành được phân bổ khá giống với chương trình đào tạo Hàng hải hệ đại

học (lý thuyết chiếm ~60%; thực hành là ~30% và Anh văn là ~10%). Như

vậy, thời lượng dành cho đào tạo tay nghề là quá ít.

28

- Đề cương cho các môn học lý thuyết được xây dựng tương đối cụ thể,

tuy nhiên, chưa thấy xây dựng đề cương chi tiết cho các môn thực hành và

thực tập tốt nghiệp.

- Thời gian dành cho thực tập trên tàu là quá ngắn (Ngành boong là 4

tuần; ngành máy là 14 tuần), đây chính là những yếu điểm của các cơ sở đào

tạo và huấn luyện Hàng hải ở Việt Nam.

* Phân tích, đánh giá chương trình đào tạo Hàng hải hệ sơ cấp

Trong hệ thống các trường đào tạo Hàng hải của cả nước, có một số

trường đào tạo hệ sơ cấp boong, máy và thống nhất gọi là: sơ cấp điều khiển

tàu biển và sơ cấp máy tàu biển.

Bảng 2.1.6. Phân bố thời lượng chương trình đào tạo hệ sơ cấp

Ngành

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Sơ cấp điều khiển tàu biển (Số tiết)

Sơ cấp máy tàu biển (Số tiết)

Môn học

Giáo dục đại cương

349

215

10,8

17,3

Anh văn

480

480

24,1

23,9

Chuyên ngành

395

625

31,4

19,7

Thực tập

33,7

39,0

784 (14 t)

672 (12 t)

Tổng số

2008 (15 tháng)

1992 (18 tháng)

Nguồn: Phòng Đào tạo Trường Cao đẳng Hàng hải 1.

- Chương trình đào tạo sơ cấp Hàng hải với thời lượng dành cho học lý

thuyết và thực hành được phân bổ theo tỷ lệ (Lý thuyết chiếm ~37%; thực

hành là ~39% và Anh văn là ~23%). Như vậy, thời lượng dành cho đào tạo

tay nghề là ít và thời lượng dành cho Anh ngữ tương đối nhiều so với hệ đào

tạo trung cấp.

- Không cần thiết bố trí một số môn học lý thuyết (Kinh tế vận tải biển

-20t, Tin học - 60t, Vận chuyển hàng hóa - 40t, Cơ ứng dụng - 30t...). Bởi vì

29

thời lượng quá ít và một số môn thật sự không cần thiết. Môn Giáo dục quốc

phòng nên bố trí ngoại khóa.

- Không có đề cương chi tiết dành cho thực tập lái tàu (ngành boong)

và thực tập vận hành (ngành máy).

Nhìn chung, các cơ sở đào tạo, huấn luyện Hàng hải ở nước ta đã nhận

thức đúng tầm quan trọng của công tác huấn luyện theo yêu cầu của STCW

95 Code, vì thế, đã tích cực chuẩn bị, bổ sung hoàn thiện các điều kiện để

phục vụ tốt công tác huấn luyện sĩ quan, thuyền viên. Trong đó có nội dung

chương trình đào tạo, huấn luyện sĩ quan Hàng hải.

Tuy vậy, đánh giá thực chất về nội dung chương trình đào tạo, huấn

luyện nói chung cho thấy còn tồn tại, bất cập bởi nhiều nguyên nhân:

- Chưa áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong đào tạo - huấn luyện

Hàng hải. Chưa tách biệt rõ ràng phần kiến thức, kỹ năng đào tạo với phần

kiến thức, kỹ năng huấn luyện để tránh trùng lặp.

- Chương trình đào tạo Hàng hải còn nặng về lý thuyết. Tỷ lệ (%) học

lý thuyết và thực hành, huấn luyện, thực tập thiếu hợp lý. Tỷ lệ (%) số tiết của

các môn học trong chương trình chưa thích hợp. Việc bố trí chương trình học

tập kết hợp huấn luyện, thực tập chưa bám sát với thực tiễn sản xuất.

- Một số môn học còn thiếu những kiến thức cơ bản, chưa thích hợp với

chuyên môn nghiệp vụ sẽ đảm nhận; nhiều kiến thức mới theo yêu cầu chưa

được đề cập trong nội dung đào tạo như: kiến thức về môi trường - ISM Code,

PSC, quan hệ cư xử trên tàu, ngoại giao, an toàn, quản lý, ứng cứu khẩn

cấp…

- Nội dung chương trình đào tạo chưa đề cập hoặc đề cập một cách sơ

sài đối với lĩnh vực thương mại mới, các loại tàu chuyên dụng, tàu đặc thù, đa

chức năng, tàu hiện đại, cũng như các công ước, luật pháp quốc tế về Hàng

hải, xu thế phát triển ngành Hàng hải thế giới, tiếng anh cho sĩ quan còn bị coi

nhẹ...

30

2.1.3. Đánh giá năng lực đội ngũ giảng viên

Chất lượng đội ngũ giảng viên và cán bộ khoa học đóng vai trò quyết

định chất lượng giáo dục đào tạo. Một đội ngũ có tâm, có tầm sẽ góp phần

cùng đội ngũ quản lý biến cái không thể thành cái có thể, tạo ra sự đột phá

cho từng khâu và cho cả quá trình, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đào

tạo.

Phần lớn đội ngũ giáo vỉên ở các trường đào tạo thuyền viên ở Việt

Nam đều có trình độ đại học, qua nhiều năm đi biển, giàu kinh nghiệm trong

nghiệp vụ chuyên môn, nhiều giảng viên có bằng Thuyền trưởng, Máy trưởng

hạng I, bằng sĩ quan quản lý, song, nghiệp vụ sư phạm còn yếu kém. Thực ra,

để đứng trên bục giảng, các giảng viên được bồi dưỡng để có chứng chỉ sư

phạm bậc 1, bậc 2 do các trường sư phạm kỹ thuật cấp, nhưng rõ ràng là khó

đạt chuẩn.

Về tuổi đời, đội ngũ giảng viên tương đối trẻ; số có trình độ tiến sĩ có

tuổi đời bình quân là 42,6; số thạc sĩ có tuổi đời là 34,8; số thuyền trưởng,

máy trưởng hạng nhất có tuổi đời khoảng 40.

31

Tiêu chí

Có trình độ khác

Số lượng GS, PGS

Số lượng Tiến sĩ

Số lượng Thạc sĩ

Số lượng Kỹ sư

Tổng số lao động trong biên chế

Tổng số lao động hợp đồng

Bảng 2.1.7. Thống kê đội ngũ giáo viên của các cơ sở đào tạo Hàng hải Việt Nam

TT

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Tuổi trung bình

Tuổi trung bình

Tuổi trung bình

Tuổi trung bình

Tuổi trung bình

Tuổi trung bình

Tuổi trung bình

Đơn vị

1

737

39.5

199

38.6

244

32.4

376

36.7

266

39.0

49.1

50

9

39.0

Đại học Hàng hải

172

39.8

204

32

103

35

194

34

52

39

58

27

5

47

-

156

35

112

32

68

40

181

36

21

45

-

0

0

2 Đại học GTVT TP HCM 3 Cao đẳng Hàng hải I

-

4

131

33

51

13

38

141

35

27

41

-

0

0

33

CĐ Nghề Hàng hải II

9

35

523

38.0

65

58

43

131

38

274

29

75

40

44

5 Đại học Hải sản Nha Trang

Nguồn: Sè liÖu thèng kª, kh¶o s¸t trùc tiÕp tõ c¸c c¬ së ®µo t¹o, huÊn luyÖn hµng h¶i trong c¶ n íc

32

Bảng 2.1.8. Thống kê đội ngũ giáo viên xếp theo học vị

STT

Năm

Tiến sĩ

Thạc sĩ

Kỹ sư

Trình độ khác

Số lượng

Tuổi

Số lượng

Tuổi

Số lượng

Tuổi

Số lượng

Tuổi

1

2008

120.0

42.6

559.0

34.8

1166.0

34.1

441.0

39.7

Nguồn: Sè liÖu thèng kª, kh¶o s¸t trùc tiÕp tõ c¸c c¬ së ®µo t¹o, huÊn luyÖn hµng h¶i trong c¶ n íc

Biểu đồ 2.1.1. Biểu đồ tính theo % tổng số đội ngũ giáo viên có học vị

33

Bảng 2.1.9. Thống kê đội ngũ giáo viên có bằng chuyên môn tại các cơ sở đào tạo Hàng hải

Tiêu chí

Điện trưởng

Thuyền trưởng hạng 1

Thuyền trưởng hạng 2

Máy trưởng hạng 1

Máy trưởng hạng 2

TT

Đơn vị

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Tuổi trung bình

Tuổi trung bình

Tuổi trung bình

Tuổi trung bình

Tuổi trung bình

25

37.0

26

33.0

36.7

10

20

35.0

27

34

1 Đại học Hàng hải

2 Đại học GTVT TP HCM

10

40

25

34

38

27

6

33

4

38

3 Cao đẳng Hàng hải I

35

42

10

43

43

12

33

43

-

-

4 CĐ Nghề Hàng hải II

19

38.1

27

32.0

35.5

11

21

34.0

28

33

5 Đại học Hải sản Nha Trang

27

42

6

41

42

9

21

42

-

-

Nguồn: Sè liÖu thèng kª, kh¶o s¸t trùc tiÕp tõ c¸c c¬ së ®µo t¹o, huÊn luyÖn hµng h¶i trong c¶ n íc.

34

Bảng 2.1.10. Thống kê số lượng sĩ quan Hàng hải tham gia đào tạo,

huấn luyện tại các cơ sở đào tạo huấn luyện Hàng hải

STT

Năm

Sĩ quan quản lý

Sĩ quan vận hành

Các loại khác

Tuổi

Tuổi

Tuổi

Số lượng

Số lượng

Số lượng

1

2008

189

39.5

154

37.0

59

34

Nguồn: Sè liÖu thèng kª, kh¶o s¸t trùc tiÕp tõ c¸c c¬ së ®µo t¹o, huÊn luyÖn

hµng h¶i trong c¶ n íc

Biểu đồ 2.1.2.

B

ản

g

2.1

.11

.

Th

ống kê giáo viên có trình độ ngoại ngữ (%)

Tốt (có khả năng giao tiếp, làm việc)

Trung bình (có thể đọc hiểu tài liệu)

Yếu (không có các khả năng trên)

Khá (có khả năng giao tiếp đơn giản, dịch thuật)

10,0

45,4

34,8

9.8

Nguồn: Sè liÖu thèng kª, kh¶o s¸t trùc tiÕp tõ c¸c c¬ së ®µo t¹o, huÊn

luyÖn hµng h¶i trong c¶ n íc

35

Về số lượng giáo viên chưa đáp ứng theo tỷ lệ qui định của Nhà nước là

1/25 và tiến tới năm 2010 thì tỷ lệ này phải đạt <1/20. Tỷ lệ giáo viên làm công

tác huấn luyện còn bất cập hơn, khi có những lớp huấn luyện với số học viên lên

đến 60-80 (tại Trung Quốc tỷ lệ này là 1:8,4 từ năm 1997).

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban khoa giáo Trung ương (2006), Triển khai Nghị quyết Đại hội X trong

lĩnh vực khoa giáo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội .

2. Ban Tuyên giáo Thành uỷ, Sở khoa học và Công nghệ (6/2008), Kỷ yếu hội thảo các Trường Đại học, cao đẳng thực hiện nghị quyết số 18-NQ/TU của Ban Thường vụ Thành uỷ về phát triển nhân lực chất lượng cao, Hải Phòng.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam

giai đoạn 2006 - 2020.

4. Công ước quốc tế về huấn luyện, cấp chứng chỉ và trực ca cho thuyền viên

năm 1978, sửa đổi năm 1995.

5. Nguyễn Đức Chính (chủ biên), Nguyễn Phương Nga, Lê Đức Ngọc (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Nguyễn Khắc Ch ương (2003), “Công tác giáo dục đại học, cao đẳng và ngành nghề để phát triển nguồn nhân lực ở nước ta”, Tạp chí Lí luận chính trị, (7).

7. Cục Hàng hải Việt Nam (2006), Hàng hải Việt Nam năm 2006 và dự kiến

năm 2007 (tóm lược).

8. Cục Hàng hải Việt Nam (2007), “Định hướng phát triển kinh tế Hàng hải phù hợp chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, Tạp chí Hàng hải, (3).

36

9. Cục Hàng hải Việt Nam (1995), Dự án quy hoạch và phát triển đội tàu vận

tải biển Việt Nam đến 2010.

10. Cục Hàng hải Việt Nam (2006) , Hàng hải Việt Nam, thành tựu và phát triển.

11. Nguyễn Trọng Chuẩn; Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (2002), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam lí luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Nguyễn Văn Dân (2008), Diện mạo và triển vộng của xã hội tri thức, Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

13. Hồ Anh Dũng (2005), Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất

ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

14. Nguyễn Hữu Dũng (2005), “Thị trườ ng lao động : thực trạng và giải pháp

phát triển”, Tạp chí Lí luận chính trị, (8).

15. Nguyễn Hữu Dũng (2009), “Vấn đề phát triển nguồn nhân lực hiện nay ở

Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (253).

16.

Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục (2005), Giáo dục đại học, Chất lượng và đánh giá, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp

hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đỗ Công Định (2005), “Nguồn nhân lực Việt Nam: thực trạng và kiến

nghị”, Tạp chí Cộng sản, (10).

37

21. Đổi mới, nâng cao năng lực, vai trò trách nhiệm, đạo đức của đội ngũ giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục trong xu thế Việt Nam hội nhập quốc tế (2007), Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

22. Phạm Văn Đồng (1999), Vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

23. Phạm Văn Đức (2000), “Một số suy nghĩ về vai trò của giáo dục - đào tạo

trong việc phát triển nguồn lực con người”, Tạp chí Triết học, (6).

24. Phạm Minh Hạc (chủ biên - 2004), Vấn đề con người trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Trần Ngọc Hiên (2002), Cơ sở lí luận về kinh tế thị trườ ng , Nxb. Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

26. Nguyễn Đình Hoà (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Triết học, (1).

27. Nguyễn C ảnh Hồ (2001), “Bàn về thực chất của kinh tế thị trườ ng” , Tạp

chí Cộng sản, (7).

28. Hội Thông tin giáo dục quốc tế (2002), Hiện đại hoá giáo dục Nhật Bản,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Hoàng Thị Minh Hường (1999), Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải phòng, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội.

30. Đặng Hữu (2004), Kinh tế thị trườ ng , thời cơ và thách thức đối với xã hội

Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đặng Hữu (2004), “Phát triển bền vững dựa trên tri thức”, Tạp chí Cộng

sản, (4).

32. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội.

38

33. Nguyễn Công Khanh (2004), Đánh giá và đo lường trong khoa học xã hội,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội .

34. Lê Trọng Khanh (1999), Đào tạo nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành ngân hàng, Luận văn thạc sĩ khoa học Triết học, Hà nội.

35. Mai Văn Khang (2007), “Chiến lược đào tạo thuyền viên cho ngành Hàng

hải Việt Nam”, Tạp chí Hàng hải, (4).

36. Mai Văn Khang (2007), “Phát huy nguồn lực lao động thuyền viên của

ngành Hàng hải Việt Nam”, Tạp chí Hàng hải, (8).

37. Luật Hàng hải Việt Nam (2005), Nxb. Chính trị quốc qia, Hà Nội.

38. Luật Giáo dục Việt Nam (1998), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

40. Vũ Hữu Ngoạn (2001), Tìm hiểu một số khái niệm trong Văn kiện Đại hội

IX của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Dương Ngọc (02/05/2007), theo VnEconomy, Việt Nam vẫn còn đang…

đứng trước biển.

42. Bùi Văn Nhơn (2006), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội, Nxb.

Tư pháp, Hà Nội 2006.

43. Bộ Giáo dục và Đào tạo (02/12/2004), Quy định tạm thời về Kiểm định

chất lượng trường đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

44. Phan Văn Tại (2006), Nghiên cứu đổi mới chương trình đào tạo trung học

Hàng hải Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Hàng hải Việt Nam.

45. Bùi Tất Thắng - Viện Chiến lược phát triển (2007), “Về chiến lược phát

triển kinh tế biển của Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (7).

46. Lê Đình Thêm (2000), “Một vài ý kiến về đào tạo và huấn luyện thuyền

viên”, Tạp chí Hàng hải, (4).

39

47. Tiêu chuẩn chuyên môn, chứng chỉ chuyên môn của thuyền viên và định

biên an toàn tối thiểu của tàu biển Việt Nam (Quy chế 66).

48. Nguyễn Thị Th ơm (2004), “Những khiếm khuyết của nền kinh tế thị

trườ ng”, Tạp chí Lí luận chính trị, (8).

49. Trường Cao đẳng Hàng hải I (3/2007), Nội san, Hải Phòng.

50. Phùng Thị Trưởng (1998), Phát triển ngành Hàng hải Việt Nam theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội.

51. Trần Văn Tùng (2001), Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục

Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

52. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Tập 1, Nxb.

53. Tuyển tập các văn bản pháp luật hiện hành về giáo dục và đào tạo (2000),

Nxb. Thống kê, Hà Nội.

54. Tery M. More (2005), Sơ lược về các trườ ng học Hoa Kỳ, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

40