LUẬN VĂN:

Đào tạo thẩm phán của Học viên Tư

pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kể từ khi thành lập cho đến nay công tác đào tạo các chức danh tư pháp nói chung

và công tác đào tạo chức danh Thẩm phán nói riêng của Học viện Tư pháp đã có những

bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Học viên Tư pháp đã không ngừng

nâng cao trình độ của các giảng viên, hoàn thiện chương trình, đổi mới phương pháp, tăng

cường cơ sở vất chất…để đào tạo và cung cấp cho ngành tòa án những cán bộ có trình độ

chuyên môn, có năng lực trong hoạt động xét xử. Tuy vậy, trong quá trình nước ta hội

nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống quốc tế, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế, với chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhiều vấn đề, nhiều yêu cầu mới đang được đặt ra

trước mắt cũng như lâu dài. Trong quá trình hoạt động của mình các Thẩm phán được đào

tạo trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành công nhưng khi đối mặt với những đòi hỏi

của quá trình cải cách tư pháp hiện nay thì đội ngũ thẩm phán của chúng ta chưa đáp ứng

được. Tình trạng xét xử oan, sai tuy không nhiều nhưng vẫn còn, nhiều vấn đề liên quan

đến xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài, sỡ hữu trí tuệ, thương mại quốc tế, các loại tội

phạm hình sự xuyên quốc gia, hầu như còn mới lạ, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học

vào nghiên cứu luật pháp quốc tế phục vụ cho hoạt động xét xử đối với nhiều thẩm phán

đã được đào tạo còn hạn chế. Điều đó cho thấy đội ngũ thẩm phán đã được đào tạo chưa

đủ năng lực để đối mặt với những thách thức mới. Trong bối cảnh đó, việc đào tạo được

một đội ngũ thẩm phán có trình độ, có năng lực toàn diện và phẩm chất tốt để giải quyết

tốt những yêu cầu xét xử của ngành tòa án do công cuộc cải cách tư pháp đặt ra trong thời

kỳ hội nhập kinh tế quốc tế là một yêu cầu vô cùng bức xúc. Đội ngũ thẩm phán có trình

độ, năng lực phục vụ cho công cuộc cải cách tư pháp phải là những người có kiến thức về

chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, có kỹ năng nghề nghiệp và

kiến thức thực tiễn, làm chủ các tiến bộ của khoa học kỹ thuật, có phẩm chất đạo đức trong

sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết số

49/NQ-TW ngày 02/6/2005 Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã

nhấn mạnh tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ chức danh tư pháp nói chung và đội ngũ

thẩm phán nói riêng. Đồng thời đặt ra mục tiêu phải đào tạo: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ

trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng đề cao quyền hạn, trách

nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên

môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ, tiến tới thi tuyển

đối với một số chức danh” [2].

Công cuộc cải cách tư pháp của nước ta hiện nay đòi hỏi Học viên Tư pháp phải

đào tạo một đội ngũ thẩm phán có trình độ, năng lực đủ khả năng xét xử các vụ án và giải

quyết các vấn đề quan trọng khác của ngành tòa án trong thời gian trước mắt cũng như lâu

dài. Tuy vậy việc đào tạo đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu của công cuộc cuộc cách tư

pháp hiện nay ở nước ta không đơn giản. Cần phải tìm hiểu những vấn đề thuộc về phẩm

chất và năng lực của đội ngũ thẩm phán, xác định các tiêu chí theo yêu cầu của cải cách tư

pháp, cũng như cách thức để đạt được các tiêu chí đó. Việc này đòi hỏi sự nghiên cứu, tìm

hiểu cả về lý luận và thực tiễn. Nhất là nghiên cứu quy trình đào tạo thẩm phán của Học

viên Tư pháp, tìm ra cách thức khắc phục những khiếm khuyết của quy trình đó. Dựa vào

các tiêu chí, đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể nhằm đào tạo đội ngũ thẩm phán

đáp ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Trên quan điểm

quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp quyền về cải cách hệ thống cơ quan tư

pháp, quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống giáo

dục. Những vấn đề trên đã đặt ra yêu cầu nghiên cứu đề tài: “Đào tạo thẩm phán của Học

viên Tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ lâu công tác đào tạo thẩm phán đã được quan tâm và coi trọng nhằm đảm bảo

xây dựng được một đội ngũ thẩm phán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có

phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp. Đào tạo thẩm phán đã được nghiên cứu trong

đào tạo các chức danh tư pháp nói chung của Bộ Tư pháp, Học viện Tư pháp, Tòa án nhân

dân tối cao và một số nhà khoa học khác, có thể kể đến các công trình nghiên cứu như sau:

* Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp Trường:

+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ:

- Đào tạo thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao, (2004)

- Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng môn đạo đức nghề nghiệp tư pháp cho các

chức danh tư pháp, (2004).

- Đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của

Việt Nam, (2006).

- Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương,

(2007).

- Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng tập hệ thống hóa các vụ án điển hình dùng làm

tài liệu cho công tác đào tạo các chức danh tư pháp, (2008).

- Hoàn thiện phương pháp đào tạo các chức danh tư pháp, (2009).

+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường:

- Xây dựng chương trình đào tạo kiểm sát viên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

(2004).

- Đào tạo các chức danh tư pháp phục vụ công cuộc cải cách tư pháp, (2006).

* Đề án xây dựng Học viên Tư pháp ngày 11/8/2003

- Luận án Tiến sĩ Luật học: Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán

của NCS Đỗ Gia Thư, năm 2006

- Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam hiện nay TS Trần Đình Thắng – NXBCTQG, năm 2009.

Nội dung nghiên cứu của các công trình trên đây đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý

luận, thực tiễn quan trọng về đào tạo các các chức danh tư pháp nhưng chưa luận chứng

một cách toàn diện cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất phương hướng giải pháp về đào tạo

thẩm phán - Một chức danh đặc thù, có vị trí, vai trò quan trọng trong công cuộc cải cách

tư pháp ở nước ta hiện nay. Mặc dù vậy các công trình khoa học đã được công bố trên sẽ là

những tài liệu có giá trị nghiên cứu khi viết luận văn này.

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp

theo yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

4. Mục đích và nhiêm vụ nghiên cứu

Đề tài đặt ra mục đích xác định một số nguyên nhân chủ yếu đã dẫn đến tình trạng

hạn chế trong công tác đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp, trên cơ sở đó phát hiện,

tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng hiệu quả của công tác đào tạo thẩm phán của

Học viên Tư pháp theo yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

Từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài đã đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như

sau:

- Phân tích cơ sở lý luận và đánh giá vai trò công tác đào tạo thẩm phán của Học

viên Tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

- Phân tích thực trạng chất lượng đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp, qua đó

chỉ ra những hạn chế bất cập cần khắc phục và tìm ra những nguyên nhân của những của

hạn chế đó.

- Đề xuất các giải pháp đổi mới công tác đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp

theo yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra luận văn đã dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa

Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và nhà nước về đào tạo

chức danh tư pháp trong đó có đào tạo thẩm phán, về cải cách tư pháp

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận

của chủ nghĩa Mác – Lê nin, trong đó các phương pháp sử dụng chủ yếu là: phân tích, tổng

hợp, thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn …Tuy nhiên do tính chất của từng chương, từng

phần của luận văn mà có thể sử dụng một trong các phương pháp trên làm chủ đạo.

Trong chương 1, phương pháp sử dụng chủ yếu là phương pháp phân tích tổng hợp;

chương 2 và chương 3, phương pháp sử dụng chủ yếu là phương pháp kết hợp lý luận và

thực tiễn, phương pháp thống kê, so sánh…

6. Những điểm mới của luận văn

- Góp phần hệ thống hoá các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đào tạo thẩm phán.

- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng đào tạo thẩm phán ở Việt Nam trong giai

đoạn hiện nay.

- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo thẩm phán theo yêu cầu

công cuộc cải cách tư pháp, ở Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài tham khảo và phụ lục, luận văn được kết

cấu gồm 3 chương, 10 tiết.

MỤC LỤC

Trang

1 MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO THẨM PHÁN THEO

6 YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo thẩm

phán 6

1.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với công tác đào tạo thẩm phán ở

nước ta hiện nay 24

1.3. Đào tạo thẩm phán ở một số quốc gia và bài học kinh nghiệm 30

Chương 2: TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN VÀ THỰC TRẠNG

ĐÀO TẠO THẨM PHÁN CỦA HỌC VIỆN TƯ PHÁP

38 GIAI ĐOẠN 1998-2008

2.1. Tình hình số lượng, chất lượng đội ngũ thẩm phán hiện nay 38

2.2. Thực trạng đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp 41

2.3. Kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong công tác đào

tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp 46

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC

ĐÀO TẠO THẨM PHÁN THEO YÊU CẦU CÁI CÁCH

58 TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Quan điểm đổi mới công tác đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp 58

theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

3.2. Giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo thẩm phán

của Học viện Tư pháp ở Việt Nam hiện nay 62

77 KẾT LUẬN

79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Trang

Bảng 2.1: Về số lượng thẩm phán tham gia giảng dạy các lớp đào tạo

nghiệp vụ xét xử 45

Bảng 2.2: Về học hàm, học vị của giảng viên 46

Bảng 2.3: Về tỷ lệ giảng dạy 46

Bảng 2.4: Thống kê số lượng đào tạo thẩm phán từ 2004-2008 48

Biểu đồ 2.1: Đào tạo thẩm phán 1998-2008 47

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO THẨM PHÁN THEO YÊU CẦU

CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG, HÌNH THỨC, PHƯƠNG PHÁP

ĐÀO TẠO THẨM PHÁN

1.1.1. Khái niệm đào tạo và đào tạo thẩm phán

1.1.1.1. Khái niệm đào tạo

Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học “Giáo dục là

hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của đối

tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như

yêu cầu đề ra [34, tr.739].

Từ định nghĩa giáo dục trên cho thấy về bản chất, giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp

thu những kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người. Về hoạt động, giáo dục là quá

trình tác động đến đối tượng giáo dục để hình thành cho họ những phẩm chất, nhân cách. Khác

với giáo dục, Đào tạo là “làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất

định” [34, tr.298]. Đào tạo được xem là quá trình tác động đến con người làm cho người đó

lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo..một cách hệ thống, nhằm chuẩn bị

cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất

định. Như vậy khái niệm “đào tạo có nghĩa hẹp hơn khái niệm giáo dục, thường đào tạo đề

cập đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có một trình độ

nhất định” [35].

Đào tạo được xác định như là quá trình làm biến đổi hành vi con người một cách có

hệ thống, thông qua việc học tập, việc học tập này có được là kết quả của việc giáo dục,

hướng dẫn, phát triển và lĩnh hội kinh nghiệm một cách có kế hoạch.

Ủy ban nhân lực Anh đã đưa ra định nghĩa: Đào tạo được xác định là một quá trình

có kế hoạch làm biến đổi thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng thông qua việc học tập rèn luyện

để làm việc có hiệu quả trong một hoạt động hay trong một loạt các hoạt động nào đó.

Mục đích của nó, xét theo tình hình công tác ở cơ quan là phát triển nâng cao năng lực cá

nhân và đáp ứng nhu cầu nhân lực hiện tại và tương lai của cơ quan [28, tr.529].

Từ phân tích các quan niệm khác nhau về đào tạo trên cho thấy, đào tạo có các đặc

điểm sau:

- Đào tạo là một quá trình học tập có hệ thống, được tổ chức theo một quy trình cụ

thể, với những bước đi thích hợp, có nội dung chương trình và yêu cầu đặt ra đối với giảng

viên, học viên theo từng giai đoạn, được đánh giá qua các bài giảng, sự tiếp thu, các bài

kiểm tra, thi tốt nghiệp...

- Các yếu tố của quá trình đào tạo tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể

thống nhất. Tạo nên một sự biến đổi về chất sau quá trình học tập của người học. Giúp

cho người học không những nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng được yêu cầu đặt ra

mà còn trang bị những phương pháp, kỹ năng tạo nền móng để tiếp tục tiếp thu, vận

dụng những kiến thức mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của nhân loại. Hay nói một

cách cụ thể đào tạo nhằm các mục tiêu sau: phát triển năng lực và nâng cao khả năng

làm việc thực tế của người được đào tạo; giúp cho họ luôn phát triển để họ có thể đáp

ứng được nhu cầu nhân lực trong tương lai của tổ chức; giảm thời gian học tập, làm

quen với công việc mới, do thuyên chuyển, đề bạt, thay đổi nhiệm vụ và đảm bảo cho

họ có đầy đủ khả năng làm việc một cách nhanh chóng và tiết kiệm.

1.1.1.2. Khái niệm đào tạo Thẩm phán

Ở Việt Nam thẩm phán là ngạch công chức thuộc cơ quan tòa án, đồng thời thẩm

phán cũng là một Chức danh nhà nước, trong hệ thống cơ quan tư pháp. Theo từ điển

tiếng việt Chức danh của cán bộ công chức là tên gọi thể hiện cấp bậc, quyền hạn, nhiệm

vụ, của mỗi công chức. Trong khoa học pháp lý thường sử dụng thuật ngữ chức danh tư

pháp để chỉ những người có chức vụ quyền hạn trong hoạt động tố tụng. Theo đó “chức

danh tư pháp” là “tên gọi thể hiện vị trí chuyên môn, cấp bậc, chức năng đặc thù công

việc của những người thường xuyên và trực tiếp tiến hành hoạt động tư pháp” [22, tr.18].

Thẩm phán là chức danh tư pháp thể hiện vị trí chuyên môn, cấp bậc, quyền hạn nhiệm

vụ trong hệ thống tòa án nhân dân các cấp. Tại Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm

nhân dân 2002 quy định: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp

luật để thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm

quyền Tòa án”. Như vậy khái niệm thẩm phán “dùng để chỉ những người làm công việc

xét xử chuyên nghiệp, được tuyển chọn theo một quy trình chặt chẽ, làm việc thường

xuyên trong cơ quan tòa án, thực hiện nhiệm vụ xét xử nhân danh nhà nước” [22, tr.22].

Xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật. Các Mác đã khẳng định:

Đối với thẩm phán thì không có cấp trên nào khác ngoài luật pháp. Thẩm

phán có trách nhiệm giải thích luật pháp trong việc vận dụng vào từng trường

hợp cá biệt, đúng như ông ta hiểu luật pháp khi xem xét nó một cách có lương

tri…Thẩm phán độc lập không thuộc về tôi cũng không thuộc về chính phủ.

Thẩm phán xem xét hành động của tôi, trên cơ sở một đạo luật nhất định [17,

tr.137].

Áp dụng pháp luật là hoạt động phức tạp, ở đây không phải là cứng nhắc mà là một

quá trình tư duy sáng tạo, phải huy động tổng thể những hiểu biết cả về pháp luật và những

hiểu biết tổng hợp về xã hội, con người để đưa ra phán quyết hợp với lẽ phải, sự công

bằng. Xuất phát từ tính chất khó khăn phức tạp và yêu cầu đạt đến độ chính xác cao của

hoạt động xét xử, pháp luật quy định “khi tiến hành xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân

dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [19, tr.9]. Nguyên tắc này xác định trách nhiệm của

thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật một cách nghiêm chỉnh, không bị tác động từ bên ngoài,

không bị tình cảm cá nhân và quyền lợi riêng tư ảnh hưởng đến việc xét xử. Thẩm phán

chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Các phán quyết của

thẩm phán thể hiện trực tiếp thái độ của nhà nước đối với các vụ án cụ thể, phản ánh trực

tiếp và sâu sắc bản chất của pháp luật, bản chất nhà nước. Ở đó con người tìm thấy lẽ công

bằng, tính nhân đạo, pháp luật vì con người, cho con người, đề cao quyền con người trở

thành hiện thực. Qua đó cho thấy hoạt động xét xử của thẩm phán có vai trò rất lớn. Trước

hết sự ổn định của trật tự pháp luật trong nước, việc giữ vững kỷ cương của xã hội, sự tự

do và an toàn của con người…Việc xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, đúng người,

đúng tội, không những có tác dụng trừng trị, giáo dục cải tạo các phần tử phạm tội mà còn

góp phần ngăn chặn phòng ngừa các ảnh hưởng tiêu cực đối với nhà nước và xã hội.

Với vai trò là người trực tiếp áp dụng pháp luật, là nhân tố quyết định đến chất lượng,

hiệu quả hoạt động xét xử của ngành tòa án, do vậy một người để được bổ nhiệm vào chức

danh thẩm phán trước tiên phải có đủ tiêu chuẩn cán bộ công chức. Tiêu chuẩn cán bộ

công chức là những quy định làm căn cứ tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công

chức. Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê nin thì tiêu chuẩn của người cán bộ phải

hội tụ của hai yếu tố phẩm chất đạo đức và tri thức năng lực hoặc như Hồ Chủ Tịch thường

nói ngắn gọn “có đức có tài”. Ngoài ra người đó phải có các tiêu chuẩn về chuyên môn

nghiệp vụ đáp ứng với chức danh khi tuyển dụng. Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm thẩm phán

là:

Công dân Việt Nam trung thành với tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức, liêm khiết và trung thực, có

tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật

và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn theo

quy định của pháp luật, có năng lực làm công tác xét xử, có sức khỏe bảo đảm

hoàn thành nhiệm vụ được giao...[24, tr.49].

Từ việc phân tích khái niệm thẩm phán và quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm thẩm

phán như trên, đã phản ánh mục đích của việc đào tạo thẩm phán. Đào tạo thẩm phán,

là một mô hình đào tạo mới ở Việt Nam. Đây có thể được xem là mô hình đào nghề

đặc thù – nghề luật. Một nghề đòi hỏi người đó phải có trình độ chuyên môn pháp lý

cao, có kiến thức xã hội sâu rộng, có năng lực xét xử, có đạo đức trong sáng, có lập

trường chính trị và bản lĩnh vững vàng. Với tính chất nghề “là một lĩnh vực hoạt động

lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ

năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những

nhu cầu của xã hội” [35] thì mục tiêu xuyên suốt của đào tạo thẩm phán là một quá

trình trang bị hệ thống và toàn diện kỹ năng nghề nghiệp cơ bản nhất, để học viên hội

đủ các tiêu chuẩn không chỉ về chuyên môn nghiệp vụ mà cả về phẩm chất, nhân cách

có thể đảm đương được nhiệm vụ xét xử các vụ án, và giải quyết những việc khác

thuộc thẩm quyền Tòa án sau khi được bổ nhiệm. Quá trình đó không những phát

triển có hệ thống, có phương pháp, các tri thức khoa học pháp lý, học viên đã được

đào tạo và rèn luyện trước đó, mà còn tạo nền móng để tiếp tục tiếp thu, vận dụng

những kiến thức mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của công cuộc cải cách tư pháp

ở nước ta hiện nay. Từ các phân tích trên có thể định nghĩa: đào tạo thẩm phán là một

quá trình trang bị hệ thống và toàn diện kỹ năng nghiệp vụ xét xử và rèn luyện đạo

đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, nguồn để bổ nhiệm vào chức danh thẩm phán của

ngành tòa án.

Tóm lại: với tư cách là một mô hình đào tạo nghề, nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn lực

cho thực tiễn, nên ngoài sự kế thừa các vấn đề cơ bản của quá trình đào tạo chung như:

mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện, đội ngũ giảng viên, thì

trong quá trình đào tạo thẩm phán còn phải cụ thể hóa mục đích chung vào điều kiện riêng

và gắn việc đào tạo của nhà trường phù hợp với đặc điểm của hoạt động xét xử, phục vụ có

hiệu quả cho sự phát triển của ngành tòa án và xã hội.

1.1.2. Đặc điểm của đào tạo thẩm phán

Từ khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản sau đây về đào tạo thẩm phán.

Thứ nhất: Đào tạo thẩm phán là đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, đào tạo đội ngũ

cán bộ kế cận để bổ nhiệm thẩm phán, làm nhiệm vụ xét xử. Đó là quá trình nâng cao

trình độ, phương pháp, kỹ năng nghề nghiệp cho người được đào tạo. Theo đó đối

tượng đào tạo thẩm phán phải là công chức của hệ thống cơ quan tòa án nhân các cấp

đã tốt nghiệp cử nhân luật, có thâm niên công tác từ ba năm trở lên và có khả năng đảm

đương được công việc xét xử của thẩm phán, sẽ được bổ nhiệm sau quá trình đào tạo.

Từ các tiêu chuẩn nêu trên của đối tượng đào tạo thẩm phán, cho thấy đối tượng đào tạo

thẩm phán hiện nay chỉ bó hẹp là những công chức đang đảm nhận nhiệm vụ như thư

kí, thẩm tra viên, chuyên viên…trong các bộ phận của hệ thống tòa án nhân dân các

cấp, ở các địa bàn từ đồng bằng, đô thị đến nông thôn miền núi hải đảo. Do bị bó hẹp

về tiêu chuẩn chỉ là công chức của ngành tòa án và do vị trí công tác có yêu cầu chuyên

môn và nhiệm vụ, thuộc các địa bàn hành chính khác nhau nên về trình độ, năng lực, độ

tuổi của đội ngũ công chức đào tạo nguồn để bổ nhiệm thẩm phán không đồng đều…

Đây là đặc điểm của đối tượng đào tạo thẩm phán một trong những yếu tố giữ vai trò

trung tâm để các cơ quan quản lý và thực hiện đào tạo xây dựng kế hoạch, xác định mục

tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo cho phù hợp,

Thứ hai: Đào tạo thẩm phán để thực hiện chuyên môn hóa, chuẩn xác, chức năng xét

xử nên nội dung, chương trình đào tạo luôn gắn với đặc trưng cơ bản của nghề nghiệp như

tính chuyên nghiệp, kinh nghiệm trong hoạt động nghề nghiệp và nhu cầu phát triển của xã

hội. Đặc biệt phải xuất phát từ yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập, hợp

tác quốc tế trong hoạt động tư pháp. Đặc điểm này thể hiện tính mục đích rõ nét của đào

tạo đồng thời đặt ra yêu cầu nội dung, chương trình của đào tạo thẩm phán không chỉ trang

bị và cập nhật đầy đủ những kiến thức mới về pháp lý, chính trị, kinh tế, xã hội mà cần đặc

biệt chú trọng rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo về nghiệp vụ xét xử, tăng cường thực hành tác

nghiệp, nâng cao nhận thức và trau dồi đạo đức nghề nghiệp cho học viên trong quá trình

đào tạo. Nội dung đào tạo thẩm phán có các đặc thù sau:

Mang tính nghề nghiệp cụ thể: không chỉ cung cấp các kiến thức kỹ năng về nghiệp

vụ xét xử mà còn bao gồm các kiến thức, pháp luật chuyên ngành, đạo đức nghề nghiệp

bản lĩnh chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao

Mang tính toàn diện: Cơ cấu hợp lý giữa lý luận và thực tiễn, gắn lý thuyết và thực

hành, giữa bổ sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ với nâng cao nhận thức trách nhiệm

đạo đức nghề nghiệp, kiến thức bổ trợ về tin học và kiến thức pháp luật chuyên ngành, hội

nhập kinh tế quốc tế

Cơ cấu chương trình và bố trí thời lượng phù hợp với đối tượng và từng nội dung đào

tạo để đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả của việc đào tạo, phù hợp với yêu cầu người học là

những người đang đảm nhận công tác chỉ có thể tham gia một thời gian nhất định cho việc

học tập nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức.

Tóm lại nội dung chương trình đào tạo thẩm phán theo hướng đào tạo nghề, đảm

bảo người học sau khi tốt nghiệp khóa học có thể đảm nhiệm được nhiệm vụ xét xử của

người thẩm phán, đạt mục tiêu của đào tạo đã được xác định.

Thứ ba: Trong đào tạo chức danh tư pháp nói chung và đào tạo thẩm phán nói riêng,

xuất phát từ yêu cầu của công tác tư pháp đặc biệt là công tác xét xử luôn đòi hỏi công

chức phải tuân theo trình tự thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định và sự chủ động sáng tạo

trong việc triển khai nhiệm vụ, áp dụng chính xác pháp luật vào thực tiễn sinh động. Do đó

phương pháp đào tạo thẩm phán là những những phương pháp đào tạo hiện đại, rèn luyện,

tạo được sự chủ động cho người học không chỉ tiếp nhận kiến thức mà còn có khả năng áp

dụng kiến thức và nâng cao năng lực tư duy đánh giá độc lập trong công vụ đặc biệt là

giải quyết các tình huống cụ thể. Các phương pháp đào tạo được ưu tiên lựa chọn trong

đào tạo thẩm phán là phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm. Đặc

điểm này một mặt phản ánh tính đặc thù của đối tượng đào tạo thẩm phán là những cử

nhân luật đã được trang bị đầy đủ hệ thống tri thức cơ bản, cơ sở và chuyên ngành. Được

tuyển dụng công chức theo ngạch công chức của hệ thống cơ quan tòa án, có thời gian

trải nghiệm qua thực tiễn công tác. Mặt khác phản ánh yêu cầu của mục đích, nội dung,

cũng như tính chất phong phú phức tạp của quá trình đào tạo thẩm phán là đào tạo nghề

trong đó coi trọng rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo về nghiệp vụ xét xử, tăng cường thực hành

tác nghiệp, nên đòi hỏi trong quá trình đào tạo, đội ngũ giảng viên phải có nhiều kinh

nghiệm thực tiễn nghề nghiệp và đồng thời phải vận dụng các hình thức, phương pháp

đào tạo linh hoạt nhằm phát huy cao độ tính tích cực, độc lập sáng tạo của học viên, gắn

“học đi đôi với hành” gắn phương pháp đào tạo với các thiết bị và phương tiện dạy học

hiện đại, để truyền tải nội dung đào tạo đến đối tượng đào tạo nhằm đạt được mục tiêu đã

đề ra.

Thứ tư: Ở nước ta kể từ năm 1998 đến nay đào tạo thẩm phán được nhà nước xác

định chủ thể đào tạo là Học viện Tư pháp trực thuộc Bộ Tư pháp. Điều 2 của Quyết

định 23/2004/QĐ-TTg ngày 25/2/2004 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Học viện

Tư pháp, chỉ rõ: “Học viên Tư pháp là cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học trực thuộc

Bộ Tư pháp, hoạt động theo Điều lệ Trường Đại học”. Cũng tại Điều 5 của Quyết định

số 23/2004/QĐ-TTg nêu rõ trách nhiệm phối hợp của Tòa án nhân dân tối cao, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp trong công tác quy hoạch sử dụng cán bộ chức

danh tư pháp, để xác định nhu cầu đào tạo hàng năm, làm cơ sở cho Học viên Tư pháp

xây dựng kế hoạch đào tạo phù hợp nhu cầu sử dụng của ngành. Với địa vị pháp lý là

đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp, cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt

động tư pháp nên hoạt động đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp đã được gắn kết,

thống nhất trong công tác quản lý đào tạo, điều phối, xây dựng chiến lược phát triển

chung, toàn diện lâu dài cho cả hệ thống tư pháp. Đào tạo cán bộ tư pháp không còn là

công việc riêng của từng ngành mà là công việc của toàn hệ thống. Đây là bước hiện

thực hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ ngành tư pháp, thể hiện một bước chuyển biến mới trong thực tiến đào tạo cán

bộ tư pháp nói chung và đào tạo thẩm phán nói riêng ở Việt Nam.

Tóm lại: với tư cách là một mô hình đào tạo mới, Đào tạo thẩm phán có những đặc

điểm cơ bản của đào tạo nói chung, đồng thời mang những đặc điểm riêng có của mình

như đã phân tích ở trên. Các đặc điểm của đào tạo thẩm phán chúng có mối liên hệ qua lại

với nhau. Từ các đặc điểm của đào tạo thẩm phán sẽ giúp cho các cơ quan quản lý và thực

hiện đào tạo xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo phù hợp.

1.1.3 Nội dung, chương trình đào tạo thẩm phán

Nội dung đào tạo là những kiến thức, kỹ năng được truyền tải đến cho đối tượng đào

tạo. Nội dung đào tạo thẩm phán quy định hệ thống tri thức pháp lý chuyên nghành; quy

định hệ thống những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng gắn liền với hoạt động nghề nghiệp của

thẩm phán.Về nguyên tắc khi xây dựng nội dung đào tạo nói chung, hay nội dung đào tạo

thẩm phán nói riêng đều phải phải đảm bảo tính toàn diện, tính hệ thống, đảm bảo lôgíc

khoa học chặt chẽ, cũng như sự cân đối giữa các môn học, giữa lý thuyết với thực hành, sự

thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục.

Với tính chất đặc thù của đối tượng đào tạo, và mục tiêu của đào tạo nên cấu trúc nội

dung đào tạo thẩm phán gồm: hệ thống tri thức chuyên nghành, hệ thống tri thức có liên

quan trực tiếp đến hoạt động nghề nghiệp. Hệ thống kỹ năng, kỹ xảo về nghề nghiệp: Kỹ

năng được hiểu “là năng lực tự giác hoàn thành một hoạt động nhất định dựa trên sự hiểu

biết và vận dụng những tri thức tương ứng. Kỹ xảo là năng lực thực hiện một cách tự động

hóa một thao tác hay một công việc nhất định nó thể hiện sự thành thạo trong hoạt động

của con người” [30, tr.36].

Cũng từ tính chất của hoạt động nghề nghiệp mà hệ thống kỹ năng được xác định

gồm các kỹ năng chuyên biệt về nghiệp vụ xét xử như: kỹ năng phân tích và áp dụng pháp

luật, kỹ năng điều khiển phiên tòa, kỹ năng soạn thảo văn bản tố tụng..

Hệ thống kinh nghiệm hoạt động sáng tạo: Đó là quá trình làm tăng khả năng độc lập,

mang kiến thức đã biết vào một tình huống mới; phát hiện những vấn đề mới trong tình

huống đã biết, phát hiện cách thức giải quyết tối ưu trong hàng loạt cách thức giải quyết

cho học viên. Gắn chặt hoạt động học tập với thực tế nghề nghiệp, không truyền nghề một

cách máy móc, áp đặt.

Những chuẩn mực về thái độ đối với xã hội và nghề nghiệp: đây là một nội dung đào

tạo đang được đặt ra với yêu cầu trong điều kiện hiện nay trên cơ sở quán triệt quan điểm

của Đảng và Nhà nước ta về: “xây dựng đội ngũ thẩm phán thư ký tòa án, điều tra viên,

kiểm sát viên, chấp hành viên, công chứng viên, giám định viên, luật sư..có phẩm chất

chính trị và đạo đức chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, đảm

bảo bộ máy trong sạch vững mạnh” [6, tr.90].

Nội dung của phần này chú trọng, bồi dưỡng rèn luyện những phẩm chất cơ bản nhân

cách của người thẩm phán. Giác ngộ đầy đủ về nghề nghiệp, phấn đấu nắm được nghề

nghiệp ở trình độ ngày càng cao càng sâu, không ngừng cải tiến phương pháp làm việc

nâng cao chất lượng, hiệu quả.

Chương trình và các môn học: “chương trình đào tạo là bản thiết kế về hoạt động

giảng dạy trong đó phản ánh các yếu tố mục đích, nội dung, phương pháp và kết quả giảng

dạy. Những yếu tố này được cấu trúc theo quy trình chặt chẽ về thời gian biểu” [29,

tr.109]. Một chương trình đào tạo dù ở cấp độ nào chương trình khung hay chương trình

chi tiết chỉ có giá trị pháp lý khi được các cấp quản lý nhà nước về giáo dục có thẩm quyền

phê duyệt. Chương trình đào tạo thẩm phán được xây dựng và phê duyệt tại quyết định số

1269/QĐ-TTg ngày 18/11/2003 của Thủ tướng chính phủ. Theo đó, thời gian đào tạo thẩm

phán là 12 tháng được chia làm ba phần với số đơn vị học trình cụ thể:

Phần 1: chương trình đào tạo chuyên đề

Phần chuyên đề liên quan đến nghiệp vụ xét xử chiếm 10% tổng số đơn vị học trình,

phần học này giúp học viên có những nhận thức chung về nghề Thẩm phán như: những

khó khăn, thách thức và yêu cầu đặt ra đối với thẩm phán; ý thức trách nhiệm và trau dồi

rèn luyện đạo đức nghề nghiệp; xác định vị trí và mối quan hệ giữa của từng chức danh

Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư trong hoạt động tố tụng; bổ sung và cập nhật các kiến

thức pháp luật cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp; giới thiệu một số vấn đề mang tính

chất bổ trợ cho hoạt động nghề nghiệp của các chức danh tư pháp như các chuyên đề về

văn hoá tư pháp, tâm thần học tư pháp, đánh giá kết quả giám định, nghệ thuật hùng biện.

Phần 2: chương trình đào tạo kỹ năng

Bao gồm các môn học liên quan đến kỹ năng nghiệp vụ xét xử chiếm 60% đây là nội

dung chính và quan trọng nhất của Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử. Mục đích của

phần đào tạo kỹ năng là trang bị cho học viên một cách toàn diện và hệ thống các kỹ năng

nghề nghiệp cơ bản của Thẩm phán để có thể xét xử được tất cả các loại án hình sự, dân

sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động.

Phần 3: chương trình thực tập và thi tốt nghiệp

Phần này chiếm 30% tổng số đơn vị học trình. Địa điểm thực tập sẽ tiến hành tại các

Toà án địa phương. Do đối tượng đào tạo là nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện nên

phần lớn thời gian thực tập sẽ được tiến hành ở Toà án cấp huyện. Các nội dung thực tập

chủ yếu liên quan đến án hình sự, hành chính và dân sự sơ thẩm. Hoạt động thực tập được

thiết kế nhằm tạo môi trường để học viên có điều kiện thực hành trong thực tế những thao

tác nghiệp vụ đã được học tập. Qua đó sẽ giúp cho học viên khái quát hóa các kinh nghiệm

từ thực tiễn nghề nghiêp.

Bằng việc xác định hướng tiếp cận theo sự phát triển trong xây dựng chương trình

đào tạo. Đặt mối quan tâm hàng đầu là phát triển sự hiểu biết ở học viên. Dạy học viên

“cách học” hơn là việc truyền thụ kiến thức đơn thuần. Vì vậy chương trình đào tạo thẩm

phán khi xây dựng đã rất chú ý đến việc đáp ứng tối đa nhu cầu và hứng thú học tập của

học viên. Cũng từ cách tiếp cận này, chương trình đào tạo thẩm phán đã lựa chọn hình thức

thiết kế theo mô đun (Module). Đây là cách thiết kế hiện đại và phổ biến hiện nay, nhất là

trong lĩnh vực đào tạo nghề nghiệp. Thuật ngữ modunle “được dùng để chỉ một đơn vị

kiến thức hoặc một hệ thống kỹ năng vừa tương đối độc lập, vừa có thể kết hợp với kiến

thức hoặc kỹ năng khác tạo thành hệ thống trọn vẹn có quy mô lớn hơn. Những kiến thức

hoặc kỹ năng này thường được thể hiện dưới dạng việc làm của học viên” [29, tr.115].

Chương trình đào tạo thiết kế theo modunle là hệ thống các modunle được kết nối với nhau

theo các hình thức nhất định, Với cách thiết kế này khi hoàn thành các modunle đó, học

viên đạt được mục tiêu học tập của mình.

Trong chương trình đào tạo thẩm phán phần đào tạo kỹ năng tập trung ở ba môn học:

Kỹ năng giải quyết vụ án hình sự; kỹ năng giải quyết vụ án dân sự; kỹ năng giải quyết vụ

án hành chính. Đây là ba môn học trang bị các tri thức và kỹ năng cần thiết như: kỹ năng thụ

lý, điều tra thu thập chứng cứ nghiên cứu hồ sơ, xét xử phiên tòa sơ thẩm, ra bản án hoặc

quyết định giải quyết vụ án của ba loại án hình sự, dân sư, hành chính. Trong từng môn học có

các bài học: “Bài học là đơn vị cơ bản tạo thành hệ thống môn học” [29, tr.124]. Các bài học

kỹ năng đều được thiết kế: bài lý thuyết trang bị kiến thức pháp luật tố tụng trong một giai

đoạn tố tụng của quá trình giải quyết vụ án. Bài học tình huống thực hành kỹ năng qua hồ

sơ vụ án. Bài học đối thoại - kiểm tra.

Bài học kỹ năng theo module

MODULE BÀI HỌC KỸ NĂNG

Lý thuyết (Presentation)

Giải quyết tình huống (Exercice)

MODULE

BÀI HỌC

KỸ NĂNG

Đối thoại (Discution)

Phát triển tình huống (Skill development)

Diễn án (Similuation)

ài hòa, Sáng tạo tư duy, Bản lĩnh hiện đại, Định hướng nhân văn, Phát triển chuyên nghiệp!

Tài liệu học tập (học liệu): “là nơi hiện thực hóa, vật chất hóa và là nơi tồn tại của nội

dung dạy học” [29, tr.126]. Tài liệu học tập có nhiều loại, trong chương trình đào tạo thẩm

phán bộ giáo trình kỹ năng xét xử vụ án hình sự; kỹ năng xét xử dân sự, kỹ năng xét xử vụ

án hành chính, hệ thống hồ sơ các vụ án, các bộ phiếu kỹ thuật, hệ thống ngân hàng đề

kiểm tra thường xuyên, đề thi học phần. Đây là những tài liệu tương ứng với ba bộ môn

học và phục vụ cho một module bài học. Hệ thống tài liệu này có vị trí đặc biệt quan trọng

đối với cả học viên và giảng viên trong quá trình đào tạo thẩm phán, với mục tiêu chỉ cập

nhật kiến lý thuyết cho học viên, nên hồ sơ tình huống là tài liệu học tập quan trọng để học

viên rèn luyện kỹ năng giải quyết các vụ án trong thực tế.

Nội dung, chương trình là phần tri thức và kỹ năng cần truyền thụ cho học viên trong

quá trình đào tạo. Đó là yếu tố trọng tâm của quá trình đào tạo, là sự thể hiện mục tiêu của

nhiêm vụ đào tạo thẩm phán. Có thể nói chất lượng hoạt động nghề nghiệp của học viên

sau quá trình đào tạo được quyết định bởi “dạy cái gì”. Vì vậy, nội dung chương trình đào

tạo luôn là vấn đề đặt ra cho quá trình cải tiến nâng cao chất lượng đào tạo, là trung tâm

chú ý của những người làm công tác quản lý giáo dục và cả những người đón nhận sản

phẩm của quá trình đào tạo đó.

1.1.4. Hình thức đào tạo thẩm phán

Hiện vẫn có quan điểm đồng nhất khái niệm hình thức đào tạo với khái niệm phương

pháp đào tạo. Tuy nhiên nhìn chung người ta quan niệm rằng hình thức đào tạo được hiểu

là hình thức hoạt động giảng dạy được tổ chức theo trật tự và chế độ nhất định nhằm thực

hiện các nhiệm vụ đào tạo đã quy định. Hình thức đào tạo là cách thức tổ chức tiến hành

đào tạo, có nhiều hình thức đào tạo khác nhau tùy theo mối quan hệ giữa việc dạy học có

tính chất tập thể hay cá nhân, tùy theo phương thức tổ chức điều khiển của giáo viên cũng

như tùy theo địa điểm thời gian học tập. Đào tạo có thể diễn ra dưới hình thức tập trung,

chính quy, tại chức, từ xa. Cũng cần phân biệt giữa hình thức đào tạo với hình thức tổ chức

một khóa học (khóa đào tạo; khóa bồi dưỡng; khóa huấn luyện).

Với cơ sở lý luận về hình thức của đào tạo nói chung, thì hình thức đào tạo thẩm phán

hiện nay là đào tạo tập trung thời gian 12 tháng. Đào tạo tập trung có ưu điểm là quá trình

đào tạo được thực hiện một cách bài bản, tích cực và được chuẩn hóa. Học viên có điều

kiện tập trung mọi khả năng, sức lực và thời gian vào việc học tập không bị phân tán bởi

những công việc khác nên có điều kiện nghiên cứu hồ sơ tình huống, đọc sách, tài liệu, giải

bài tập về nhà, nhớ nhanh, nhớ lâu các kiến thức lý luận và thực tiễn được giảng viên

truyền thụ. Cách thức tổ chức đào tạo thẩm phán như sau:

Hệ thống giờ lên lớp, đây là hình thức đào tạo cơ bản gồm nhiều bài học lý thuyết và tình

huống cụ thể, có quy định rất chặt chẽ về nội dung, kết quả, thời gian địa điểm học, số lượng

học viên tham gia và được tiến hành theo thời khóa biểu nghiêm ngặt. Những bài học trên lớp

kế tiếp nhau một cách hệ thống sẽ giúp cho học viên nắm được hệ thống tri thức và kỹ năng

của môn học.

Hình thức thảo luận: Là hình thức thường xuyên được sử dụng rộng rãi trong đào tạo

nói chung, đặc biệt trong đào tạo thẩm phán. Hình thức thảo luận được sử dụng trong các

tình huống, thảo luận trên lớp, thảo luận nhóm nhỏ, Xemina..Đây là hình thức giúp cho

học viên đưa ra nhiều ý kiến quan điểm riêng của mình nhằm hướng đến mục đích chung.

Với hình thức này, sẽ tạo cơ hội cho giảng viên có thông tin phản hồi về học viên. Giảng

viên có thể thu được tri thức, kinh nghiệm qua suy nghĩ và sáng tạo của học viên bởi các

học viên đào tạo thẩm phán là những người đã có trình độ và thực tế nghề nghiệp nhất

định.

Hình thức tự học, đây cũng là hình thức giảng dạy cơ bản của đào tạo thẩm phán hình

thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức kỹ năng do chính

bản thân học viên tiến hành trên lớp hoặc ở ngoài lớp, hoặc không theo chương trình và

giáo trình. Hình thức này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy tính chủ động, năng

lực độc lập sáng tạo trong nghiên cứu học tập, giúp học viên rèn luyện năng lực, hứng thú

thói quen có phương pháp nghiên cứu khoa học, hoàn thiện hơn vốn kiến thức và hiểu biết

của mình trong hoạt động đặc thù của nghề thẩm phán.

Thực tập, kiến tập hình thức học tập có tính chất ngọai khóa được tiến hành ngoài giờ

lên lớp. Đây hình thức đào tạo quan trọng của đào tạo nghề giúp cho học viên củng cố, mở

rộng, khơi sâu thêm tri thức về hoạt động nghề nghiệp đã được trang bị trong nhà trường,

gắn liền giữa lý luận và thực tiễn

Tất cả các hình thức đào tạo thẩm phán trên đây đều có vị trí và chức năng nhất định

trong hoạt động đào tạo thẩm phán. Chúng có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại

lẫn nhau nhưng không thể thay thế nhau

1.1.5. Phương pháp đào tạo thẩm phán

Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy lạp “Metodos” có nghĩa là con

đường, cách thức vận động để đạt tới mục đích nhất định. “Phương pháp là hình thức tự

vận động bên trong của nội dung” [33, tr.103], nó gắn liền với hoạt động của con người

giúp cho con người hoàn thành được những nhiệm vụ phù hợp với với mục đích đã đề

ra. Bởi vậy phương pháp bao giờ cũng mang tính mục đích, tính cấu trúc và luôn gắn

liền với nội dung. Hay có thể định nghĩa phương pháp đào tạo: “là những con đường,

cách thức tiến hành đào tạo” [29, tr.145]. Phương pháp đào tạo là hệ thống gồm một

hay nhiều quy tắc được áp dụng có tác dụng hướng dẫn một loại hình hoạt động cụ thể

nào đó để đạt được mục tiêu đào tạo. Với định nghĩa đó, có thể hiểu phương pháp đào

tạo ở hai cấp độ khác nhau. Ở cấp độ thứ nhất là cách thức hình thành mục đích, soạn

thảo và triển khai nội dung đào tạo, cách thức tổ chức hoạt động dạy và hoạt động học

nhằm hiện thực hóa mục đích, nội dung dạy học và cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả

của quá trình đào tạo. Ở cấp độ thứ hai phương pháp đào tạo là cách thức tiến hành các

hoạt động của người dạy và người học nhằm hiện thực một nội dung dạy học đã được

xác định.

Phương pháp đào tạo hiện đại theo quan niệm của các nhà khoa học sư phạm trên thế

giới hiện nay có các đặc điểm cơ bản sau: (i), gắn liền với ngành nghề đào tạo; (ii), có tác

dụng phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học ; (iii), gắn liền với

thực tiễn xã hội, thực tiễn cuộc sống; (iv) tính đa dạng và phù hợp với loại hình, quy mô,

điều kiện đào tạo; (v) ngày càng gắn liền với các phương tiện và thiết bị dạy học hiện đại.

Phương pháp đào tạo hiện đại sẽ khắc phục được các khiếm khuyết của hệ thống các

phương pháp đào tạo truyền thống là đào tạo nặng về truyền thụ và thông báo, chú trọng

định hướng giảng dạy hơn là kết quả giảng dạy.

Với tư cách là một hình thức đào tạo nghề, về bản chất phương pháp đào tạo thẩm

phán không tách rời phương pháp đào tạo nói chung. Xuất phát từ tính đặc thù trong mục

đích đào tạo, đối tượng đào tạo và vận dụng linh hoạt các phương pháp đào tạo hiện đại,

đồng thời quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới phương pháp

đào tạo, đào tạo thẩm phán đã áp dụng các phương pháp tích cực, các phương pháp lấy

người học làm trung tâm. Các phương pháp được áp dụng trong đào tạo thẩm phán của

Học viện tư pháp gồm:

Phương pháp Thuyết trình: là phương pháp mang tính truyền thống, có ưu điểm

truyền đạt khối lượng thông tin lớn, trong thời gian ngắn, với những lớp học đông học

viên. Phương pháp này vẫn được áp dụng trong các bài giảng lý thuyết của phần

chuyên đề và phần kỹ năng chung tại Học viện Tư pháp.

Phương tình huống: một phương pháp đào tạo được triển khai khá phổ biến tại Học

viện Tư pháp. Đây là một phương pháp đào tạo giảm được khoảng cách lý thuyết – thực tế,

phù hợp với mô hình đào tạo nghề. Yếu tố cấu thành chủ yếu của phương pháp đào tạo

mới này dựa trên các tình huống thực tế của cả học viên và giảng viên.

Phương pháp sắm vai: (thực hành đóng vai bài tình huống hoặc bài diễn án) Phương

pháp này được sử dụng phổ biến cho tất cả các lớp đào tạo tại Học viện Tư pháp. Phương

pháp sắm vai là một kỹ thuật đơn giản nhưng hiệu quả, để giảng dạy những khái niệm cơ

bản về quan hệ giữa người với người và để nhận thức được bản chất tại sao các cá thể phản

ứng như vậy trong những hoàn cảnh khác nhau.

Song giảng là giảng viên lý thuyết và giảng viên thẩm phán cùng giảng một bài học

trong cùng một lớp học. Ở Học viện Tư pháp rất coi trọng việc kết hợp nhiều giảng viên

cùng lên một lớp học, đây là một phương pháp giảng dạy có hiệu quả đối với đào tạo nghề,

kết hợp nhuần nhuyễn lý thuyết và thực tiễn. Tạo nên sự sinh động trong các bài giảng, bởi

phong cách giảng khác nhau, tạo điều kiện cho các giảng viên cơ hữu và giảng viên kiêm

có cơ hội bổ sung kiến thức cho nhau. Các phương pháp này đã chú trọng khai thác và phát

huy vai trò chủ thể, tính tích cực tham gia của học viên vào quá trình tương tác giữa người

dạy và người học. Điểm nổi bật của phương pháp dạy học này là dạy vì sự phát triển của

người học, tôn trọng và thỏa mãn nhu cầu học tập của học viên, hướng đến sự phát triển

mọi tiềm năng và sự sáng tạo của học viên.

Các phương pháp được sử dụng để đánh giá kết quả học tập trong đào tạo thẩm phán:

phương pháp đánh giá thông qua giải quyết hồ sơ; đánh giá thông qua khả năng nói; đánh

giá thông qua khả năng viết; đánh giá thông qua thực hành theo nhóm, đánh giá kết quả

học tập qua thi các học phần dưới hình thức làm bài thi là một tình huống vụ án. Đây cũng

là một phương pháp đánh giá kết quả học tập có hiệu quả dùng thực tiễn để kiểm nghiệm

lý thuyết của phương pháp đào tạo thẩm phán.

Vì phương pháp đào tạo không phải là phạm trù mục đích, mà là phạm trù

phương tiện. Do vậy, yêu cầu khi sử dụng chúng vào thực tiễn như nào cho hiệu quả,

hoàn toàn phụ thuộc khả năng của các chủ thể. Đồng thời trong thực tiễn không có

phương pháp nào tồn tại độc lập, không có kiểu phương pháp nào, nhóm phương pháp

nào vạn năng. Khi vận dụng cần phải linh hoạt trên cơ sở phối hợp, hợp lý theo chức

năng của mỗi phương pháp, tùy theo mục đích, nội dung tài liệu, đặc điểm tâm lý học

viên của một quá trình dạy học cụ thể. Việc sử dụng đơn điệu một phương pháp dạy

học, dù đó là phương pháp dạy học tốt nhất cũng mang lại hiệu quả không cao.

Qua phân tích các nội dung cơ bản của phương pháp đào tạo thẩm phán cho thấy

phương pháp đào tạo thẩm phán thể hiện rõ nét tính mục đích của đào tạo thẩm phán là

đào tạo nghề. Thể hiện tính đa dạng khoa học, hiện đại và gắn liền với xu hướng phát

triển của đời sống thực tiễn. Phù hợp nội dung, điều kiện phương tiện và đặc điểm đội

ngũ giảng viên, nên đã có tác dụng phát huy cao độ tính tích cực, tính độc lập, tính sáng

tạo, và khả năng nghiên cứu khoa học của học viên. Phương pháp đào tạo thẩm phán là

một phạm trù phương tiện do vậy trong quá trình sử dụng cần đổi mới và sáng tạo, bởi

đó là một trong yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo.

Như vậy đào tạo nói chung và đào tạo thẩm phán nói riêng tồn tại với tư cách là một

hệ thống. Qua nghiên cứu đào tạo thẩm phán chúng ta đã xác định được các thành tố cơ

bản của nó bao gồm: mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức, phương

tiện..Các thành tố này có vị trí, vai trò chức năng khác nhau, tuy nhiên chúng có mối quan

hệ biện chứng lẫn nhau trong cùng hệ thống. Do đó khi đánh giá thực trạng công tác đào

tạo thẩm phán, cần thiết phải xem xét đầy đủ đến các yếu tố này, trong đó đối tượng đào

tạo đóng vai trò trung tâm và hướng tới mục tiêu đào tạo.

1.2. YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO

THẨM PHÁN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.2.1. Nội dung cải cách tư pháp về đào tạo thẩm phán

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân – nhà nước được tổ chức quản lý theo pháp luật và

đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Với đặc

trưng đó của nhà nước pháp quyền thì nhiêm vụ cấp bách hàng đầu là phải tiếp tục đổi

mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh. Do đó yêu cầu “cải

cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp” [6, tr.95] là một

đòi hỏi bức xúc ở nước ta. Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ IX, ngày 2 tháng 1 năm 2002, Bộ chính trị đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TW về “một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Nghị quyết số 08-NQ/TW của

Bộ Chính trị đã đề cập nhiều giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư

pháp bao gồm tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ

chức bổ trợ tư pháp như công chứng, giám định tư pháp, hộ tịch, lý lịch tư pháp, luật sư.

Trong đó cải cách tòa án là khâu đột phá bởi trong hệ thống các cơ quan tư pháp tòa án có

vai trò đặc biệt quan trọng. Mục tiêu của cải cách tư pháp là: xây dựng một nền tư pháp

trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,

phụng sự đất nước. Một trong những nhân tố mang tính quyết định cho việc thực hiện

thành công công cuộc cải cách tư pháp là xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ

thẩm phán và hội thẩm nhân dân cả về số lượng và chất lượng. Một nhiệm vụ vừa có tính

cấp bách vừa có tính lâu dài. Đội ngũ thẩm phán theo đánh giá: “còn thiếu về số lượng,

yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ; một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản

lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức [28, tr.02], chưa đáp ứng kịp với yêu cầu và sự phát triển

sôi động của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Để khắc

phục tình trạng trên, Nghị quyết cũng đã khẳng định tầm quan trọng của công tác đào tạo,

bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp cho chức danh thẩm phán.

Phát huy và tiếp nối những kết quả đạt được trong quá trình tổ chức thực hiện có

hiệu quả của Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 2-6-2005, Bộ chính trị ban hành tiếp Nghị

quyết 49-NQ/ TW về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”: Tổ chức hệ thống

tòa án theo thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; về công tác xây

dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh đã được khẳng định trong Nghị

quyết 08-NQ/TW, tiếp tục được Nghị quyết 49-NQ/ TW xác định phương hướng: “xây

dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo

hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý. Nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về

chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội

đối với từng loại cán bộ, tiến tới thi tuyển một số chức danh”. Để thực hiện phương

hướng này Nghị quyết đã đề ra nhiệm vụ cụ thể là:

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo

nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ

trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh

tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất đạo đức

trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa [2,

tr.06].

Nghị quyết số 49-NQ/TW tiếp tục khẳng định: “Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp

có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội

nhập quốc tế và khu vực”. Các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp ở nước ta cũng đã

từng bước được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật được quốc hội thông qua trong

thời gian gần đây như Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001; Luật tổ chức tòa

án nhân dân năm 2002; Pháp lệnh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân năm 2002...Đây là cơ sở

pháp lý để xây dựng đội ngũ thẩm phán trong sạch vững mạnh đáp ứng yêu cầu sự nghiệp

cải cách tư pháp.

Để xác định các yêu cầu đối với đào tạo thẩm phán, cần phải xuất phát từ mục tiêu,

phương hướng, nhiệm vụ của cải cách tư pháp trong thời gian tới và tiêu chuẩn hóa, Chức

danh thẩm phán theo Pháp lệnh Thẩm phán Hội thẩm nhân dân. Cụ thể đó là những phẩm

chất cần phải có đối với một người khi được tuyển chọn để bổ nhiệm vào chức danh thẩm

phán, là những đòi hỏi của nhà nước, xã hội đối với người thẩm phán trong giai đoạn cải

cách tư pháp hiện nay. Đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp trong thời tới cần đáp

ứng một số yêu cầu căn bản sau đây:

1.2.2. Những yêu cầu của cải cách tư pháp đối với công tác đào tạo thẩm phán

Về số lượng: Theo quy chế của ngành tòa án:

Với số lượng án phải giải quyết như hiện nay một thẩm phán phải xét xử

theo định mức năm vụ án trong một tháng, tức sáu mươi vụ án trong một năm,

thì ngành tòa án phải bổ sung thêm một nghìn người trong một năm, trong đó

cần bổ sung 450 thẩm phán, và 550 thư ký, cán bộ khác [26, tr.05].

Cũng theo phương hướng của Nghị quyết 49-NQ/ TW thì hệ thống tòa án nước ta sẽ

được tổ chức bốn cấp (tối cao, thượng thẩm, phúc thẩm, sơ thẩm) khác hẳn so với hệ thống tòa

án ba cấp hiện hành (tối cao, tỉnh, huyện). Đây là một mô hình mới, khác hoàn toàn với tổ

chức của hệ thống tòa án hiện nay. Khi thực hiện mô hình này không đơn giản là việc chuyển

đổi, hay thay đổi tên gọi, mà hàng loạt vấn đề liên quan sẽ đặt ra như: về nhiệm vụ, thẩm

quyền, hình thức tổ chức bộ máy, về quản lý tổ chức và hoạt động của tòa án mỗi cấp; đặc biệt

là quy mô về biên chế cán bộ, cơ sở vật chất... Việc thành lập và vận hành của hệ thống tòa án

theo yêu cầu cải cách tư pháp sẽ tác động đến hoạt động đào tạo thẩm phán. Trong đó nhu cầu

về số lượng được đào tạo để bổ sung nguồn bổ nhiệm thẩm phán cho ngành tòa án trong thời

gian tới sẽ rất lớn. Đây là nhiệm vụ quan trọng phải được các cơ quan quản lý đào tạo khảo sát

và xây dựng kế hoạch cụ thể để công tác đào tạo thẩm phán đảm bảo về mặt số lượng.

Trong tiến trình cải cách tư pháp, yếu tố con người vừa là mục đích, vừa là động lực

có tính chất quyết định sự thành công hay thất bại. Ngoài việc đào tạo đáp ứng nhu cầu về

số lượng thì đào tạo thẩm phán trong thời gian tới cần phải đặc biệt chú trọng đáp ứng

những yêu cầu về chất lượng được thể hiện ở các mặt sau:

Về phẩm chất chính trị

Phẩm chất chính trị là quan điểm, tư tưởng, nhận thức và lập trường của một người về

giai cấp, về Đảng, về lý tưởng Xã hội chủ nghĩa. Đối với mỗi chế độ nhà nước muốn tồn tại và

phát triển phải có đội ngũ cán bộ công chức trung thành, tận tụy với nhà nước đó. Ý thức

chính trị của người thẩm phán được biểu hiện là lòng trung thành với Đảng, với nhân dân, tinh

thần yêu nước sâu sắc, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân vô điều kiện, kiên quyết bảo vệ

pháp chế xã hội chủ nghĩa, có lập trường chính trị vững vàng. Biết biến nhận thức chính trị

của mình thành nhận thức của mọi người, tạo được lòng tin và lôi cuốn mọi người nghe

theo…Để có được tư tưởng, quan điểm, lập trường và bản lĩnh chính trị, đòi hỏi thẩm phán

phải có trình độ lý luận nhất định thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và rèn luyện. Đây là

nhiệm vụ luôn được gắn liền trong suốt quá trình học tập tại nhà trường cũng như quá trình

công tác của người thẩm phán.

Về phẩm chất đạo đức

Đạo đức là cái “gốc” của con người, là chuẩn mực về phẩm chất của con người, được xã

hội chấp nhận. Quan niệm về đạo đức là những yêu cầu của xã hội đối với những hành vi của

cá nhân trong xã hội, đòi hỏi mỗi cá nhân phải ý thức được trách nhiệm bổn phận của mình

đối với người khác và xã hội. Với tính chất đặc thù của nghề nghiệp liên quan trực tiếp, gián

tiếp đến sinh mạng pháp lý của công dân. Vì vậy đối với thẩm phán ngoài những chuẩn mực

đạo đức chung của một công chức nhà nước: cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, không

tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, có ý thức kỷ luật, trung thực, không

cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Họ cần lĩnh hội đầy đủ các

chuẩn mực đạo đức khác theo yêu cầu đặc thù nghề nghiệp: tính công bằng, khách quan, vô tư

trong hoạt động công vụ, chuẩn mực ứng xử trong giao tiếp, lương tâm trách nhiệm nghề

nghiệp.

Các chuẩn mực đạo đức của người thẩm phán được biểu lộ qua ý thức với xã hội; qua

thái độ công tác; qua hành vi đối với lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể. Hoạt động xét xử là

hoạt động công khai, mọi người dân đều có quyền và có thể giám sát hoạt động của

thẩm phán. Thông qua cách hành xử và tư cách của người thẩm phán mà họ đặt niềm

tin vào công lý và công bằng xã hội. Hồ Chủ tịch đã dạy: “Trong công tác xử án phải

công bằng, liêm khiết, trong sạch... phải hiểu dân gần dân, giúp dân, học dân để giúp

mình thêm liêm khiết, thêm công bằng” [15, tr.175]. Người thẩm phán, trước hết là

người gương mẫu trong cuộc sống, phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,

sự suy thoái về tư tưởng thực dụng, tham vọng cá nhân, lối sống vị kỉ, sa đọa. Mỗi

thẩm phán không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải kiên định con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội mà Đảng, dân tộc ta đã lựa chọn, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa, quán triệt sâu sắc và đấu tranh bảo vệ đường lối quan điểm của

Đảng Cộng sản Việt Nam, chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trong

lĩnh vực tư pháp. Vì vậy tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp không thể tách rời với quá

trình đào tạo thẩm phán.

Về năng lực chuyên môn nghiệp vụ

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là một trong những tiêu chí quan trọng nhất, là căn

cứ hàng đầu để tuyển dụng, sắp xếp, bố trí vị trí công tác của công chức trong hệ thống cơ

quan nhà nước. Thẩm phán là một chức danh tư pháp, gắn liền với các tiêu chuẩn theo quy

định của pháp luật. Hoạt động xét xử của thẩm phán là hoạt động áp dụng pháp luật, có

tính đa dạng phức tạp liên quan đến quyền con người, quyền công dân, bất kỳ một sơ suất

nào cũng có thể gây thiệt hại và ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân, tổ chức. Vì vậy thẩm phán không chỉ tinh thông về pháp luật mà còn phải nắm vững

quan điểm đường lối của Đảng trong từng giai đoạn công tác, tích lũy kinh nghiệm thực tế.

Từ các yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ phân tích trên đặt ra, trong quá trình đào tạo

thẩm phán, ngoài những tri thức cơ bản, tri thức pháp luật chuyên ngành được đào tạo ở

bậc đại học đã được tiêu chuẩn hóa, về tri thức và phương pháp cần phải được hệ thống lại.

Đồng thời phải cập nhật, bổ sung tri thức mới về pháp luật nội dung chuyên sâu như: sỡ

hữu trí tuệ, kiến thức cơ bản về thương mại và tranh chấp thương mại quốc tế, xung đột

pháp luật. Chuyên đề liên quan đạo đức nghề nghiệp, tin học, ngoại ngữ. Đặc biệt chú

trọng rèn luyện các kỹ năng nghiệp vụ xét xử như: kỹ năng áp dụng pháp luật, phát hiện

vấn đề, đánh giá chứng cứ, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, kỹ năng điều khiển thẩm vấn phiên

tòa, kỹ năng soạn thảo các quyết định tố tụng. Tăng cường hoạt động thực tập và ngoại

khóa tại các cơ quan tòa án để bám sát các vấn đề đặt ra từ thực tiễn

Tóm lại: Chất lượng nguồn nhân lực là năng lực, trình độ chuyên môn, là phẩm chất

đạo đức và bản lĩnh nghề nghiệp..hợp thành nguồn nhân lực. Trong ba yếu tố phẩm chất

chính trị, đạo đức và năng lực nghiệp vụ thì yếu tố năng lực nghiệp vụ chuyên môn là yếu

tố động có sự vận động biến đổi theo yêu cầu khách quan. Xuất phát từ cơ sở đó và

phương hướng thay đổi về hệ thống tổ chức tòa án, tiêu chuẩn hóa cụ thể đối với từng chức

danh, từng loại cán bộ, Quan điểm của Đảng và nhà nước ta đòi hỏi công tác đào tạo thẩm

phán trong thời gian tới phải có những thay đổi cho phù hợp. Cụ thể cần phải nghiên cứu

đề ra định hướng, thực hiện các giải pháp nhằm đổi mới cơ bản về nội dung chương trình,

hình thức và phương pháp đào tạo, bảo đảm đào tạo cung cấp cho ngành tòa án đội ngũ

cán bộ đủ về số lượng đáp ứng yêu cầu về chất lượng phục vụ công cuộc cải cách tư pháp.

1.3. ĐÀO TẠO THẨM PHÁN Ở MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1.3.1. Đào tạo thẩm phán ở một số quốc gia

1.3.1.1. Ở Nhật bản

Trong lĩnh vực tư pháp, Nhật bản có một cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chung

cho các chức danh tư pháp bao gồm Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư. Cơ quan có

nhiệm vụ đào tạo các chức danh tư pháp là Viện Đào tạo và Nghiên cứu tư pháp (The

Legal Training and Reach Intite) trực thuộc Tòa án tối cao. Viện Đào tạo và Nghiên cứu tư

pháp được thành lập năm 1947 với chức năng sau:

- Đào tạo nghề cho những người sẽ được bổ nhiệm các chức danh như Thẩm phán,

Kiểm sát viên và Luật sư

- Bồi dưỡng cho những người đã được bổ nhiệm Thẩm phán (riêng bồi dưỡng nghiệp

vụ cho Kiểm sát viên do Bộ tư pháp thực hiện và các Luật sư đang hành nghề thì do Hiệp

hội luật sư Nhật Bản thực hiện)

- Thực hiện các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học pháp lý (cả pháp luật nội

dung và pháp luật tố tụng) phục vụ cho việc xét xử của hệ thống Tòa án Nhật Bản và hoạt

động đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp.

Để được tham gia khóa đào tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư

các khóa sinh phải trúng tuyển kỳ thi tư pháp quốc gia. Điều kiện đăng ký dự thi kỳ thi tư

pháp quốc gia thí sinh phải là người đã tốt nghiệp khoa luật của các trường đại học, tốt

nghiệp đại học thuộc các nghành khác, thậm chí chưa tốt nghiệp đại học nhưng họ phải thi

kiến thức đại học rồi mới được dự kỳ thi tư pháp quốc gia. Kỳ thi quốc tư pháp quốc gia

chia làm ba vòng trong năm, những người vượt qua ba vòng thi tư pháp quốc gia sẽ được

đào tạo nghiệp vụ để trở thành Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư.

Về chương trình đào tạo: các khóa sinh của ba chức danh được đào tạo chung một

chương trình, các khóa sinh đều được trang bị kỹ năng nghề nghiệp của Thẩm phán, Kiểm

sát và Luật sư, trong chương trình đào tạo cũng hoàn toàn không có những chuyên đề dành

riêng cho những khóa sinh muốn trở thành Thẩm phán, Kiểm sát viên hoặc Luật sư. Cách

bố trí chương trình như vậy nhằm trang bị cho khóa sinh nền kiến thức và kĩ năng nghề

nghiệp chung, hạn chế đựơc những bất đồng quan điểm khi các Thẩm phán, Kiểm sát viên,

Luật sư tham gia vào cùng một vụ việc.

Đội ngũ giáo viên của trường là các Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư đang hành

nghề. Họ là các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực của mình và được điều động hẳn về trường

để tham gia giảng dạy cho các khóa đào tạo bồi dưỡng với thời gian 3 đến 4 năm. Hết

nhiệm kì này họ lại quay về cơ quan cũ hoặc được thuyên chuyển đi địa phương khác và

tiếp tục thực hiện công việc xét xử hoặc công tố Việc điều động giáo viên Thẩm phán do

Tòa án tối cao thực hiện. Bộ Tư Pháp điều động giáo viên là Kiểm sát viên, còn giáo viên

là các Luật sư thì do hiệp hội Luật sư Nhật Bản điều động.

Hiện nay, Nhật Bản đang có những cải cách cơ bản trong lĩnh vực tư pháp mà một

trong các nội dung trọng tâm là nâng cao chất lượng và số đội ngũ cán bộ tư pháp. Để cải

thiện một bước căn bản chất lượng đào tạo nghề cho Thẩm phán, Luật sư và Kiểm sát viên,

Nhật Bản đã quyết định thành lập hệ thống cơ sở đào tạo pháp luật có chất lượng cao, đó là

các “Law School” theo kiểu Nhật. Các “Law School” này bắt đầu hoạt động từ năm 2004,

nhằm trang bị kiến thức nghề nghiệp cơ sở cho những người chuẩn bị ứng thí vào kì thi tư

pháp quốc gia để theo học tại viện Đào tạo và Nghiên cứu tư pháp.Với hệ thống Law

School kiểu Nhật này, Nhật Bản hy vọng sẽ tăng số lượng luật gia nói chung và số lượng

chức danh tư pháp nói riêng, đồng thời cải thiện một cách đáng kể chất lượng chuyên môn

của đội ngũ này.

1.3.1.2. Ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có một hệ thống đa dạng các cơ sở đào tạo pháp luật cơ

sở (cử nhân luật) và đào tạo nghề cho các chức danh tư pháp. Bộ Tư pháp có các trung tâm

đào tạo cán bộ tư pháp cao cấp ở Bắc Kinh và Chongqing (China Training Centre for Senior

International Legal Professionals).

Trung tâm đào tạo Luật sư ở Thượng Hải (China Training for International

Lawyers-Shanghai); Tòa án nhân dân tối cao có Trường Thẩm phán quốc gia (National

judges College); Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Trường Kiểm sát quốc gia (National

Procurators College). Trung tâm đào tạo cán bộ tư pháp cao cấp trực thuộc Bộ tư pháp

có chức năng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ Thẩm phán, Luật sư và Kiểm

sát viên, Công chứng viên cho các địa phương thuộc Trung hoa lục địa, Hồng kông, Ma

Cao, Đài Bắc. Điều kiện để học trường này là các học viên phải có bằng cử nhân luật và có

thể sử dụng một ngoại ngữ. Trường thẩn phán quốc gia: Trường thẩm phán quốc gia

được thành lập năm 1997 trên cơ sở hợp nhất trung tâm đào tạo thẩm phán cao cấp (thành

lập năm 1991) và trường cán bộ Tòa án nhân dân (thành lập năm 1987). Trường Thẩm

phán quốc gia đặt dưới sự quản lý của Tòa án nhân dân Tối cao. Trường có chức năng

nhiệm vụ sau:

- Tổ chức các lớp luân huấn cho các cán bộ Tòa án, trong đó có Thẩm phán để họ

nhận bằng cử nhân 3 năm.

- Nâng cao trình độ của Thẩm phán lên mức cử nhân luật bốn năm.

- Liên kết các trường tổng hợp để đào tạo các Thẩm phán có trình độ trên đại học (7

năm).

- Đào tạo nghiệp vụ Thẩm phán (3 tháng).

- Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử cho các Thẩm phán

đương chức.

- Bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ xét xử của Thẩm phán trong các lĩnh vực chuyên

ngành.

1.3.1.3. Ở Cộng hòa Liên bang Đức

Liên bang Đức, một người để được công nhận là luật gia phải đảm bảo đáp ứng 4

điều kiện sau: phải học trong một trường đại học; đạt kết quả trong kì thi quốc gia lần thứ

nhất; có thời gian công tác thực tế trong lĩnh vực pháp luật; đạt kết quả trong kì thi quốc

gia lần hai.

Chỉ những người đã được công nhận là luật gia đầy đủ mới có thể được bổ nhiệm làm

Thẩm phán, Kiểm sát viên hoặc mới có thể hành nghề Luật sư.

Cộng hòa Liên bang Đức không có những thiết chế cố định dưới hình thức Trường

hay Viện để đào tạo nghề cho Thẩm phán, Luật sư, Kiểm sát viên. Để trở thành Thẩm

phán, Luật sư hay Kiểm sát viên, những người đã đỗ kì thi quốc gia lần thứ nhất phải đăng

kí học một khóa đào tạo nghề với thời gian khoảng 2,5 năm. Các khóa đào tạo này được tổ

chức ở từng Bang. Trước đây việc tổ chức các khóa đào tạo do Tòa án tối cao của Bang

đảm nhiệm nhưng thời gian gần đây chức năng này đã chuyển cho Bộ Tư Pháp Bang.

Trong khóa học các học viên được đào tạo chung một chương trình, trong đó giới

thiệu cả kĩ năng nghề nghiệp của Thẩm phán, Luật sư và Kiểm sát viên. Các học viên được

thực tập theo một chương trình chung tại các tòa án, Viện Công tố và các Văn phòng Luật

sư. Tốt nghiệp khóa đào tạo Thẩm phán này, các học viên phải trải qua kì thi quốc gia lần

hai. Chỉ những người thi đỗ kì thi quốc gia lần hai mới có thể đăng kí hành nghề Thẩm

phán, Kiểm sát viên hay Luật sư.

1.3.1.4. Ở Cộng hòa Pháp

Ở nước Pháp, Trung tâm đào tạo tư pháp quốc gia được thành lập năm 1959 Trung

tâm đào tạo tư pháp quốc gia đã trở thành Trường thẩm phán quốc gia năm 1972 và

Trường được đặt dưới sự quản lý của Bộ trưởng Bộ tư pháp. Nhiệm vụ chính của trường:

tổ chức các kỳ thi tuyển sinh; đào tạo nguồn thẩm phán; bồi dưỡng thẩm phán; quan hệ

quốc tế..Đối tượng đào tạo nguồn thẩm phán là những khóa sinh đủ điều kiện dự thi và

trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn thẩm phán, hoặc đủ điều kiện không qua kỳ thi tuyển thẩm

phán theo quy định của pháp luật. Kỳ thi tuyển thẩm phán tổ chức qua ba kỳ thi, điều kiện

để được dự thi mỗi kỳ thi khác nhau.

Kỳ thi thứ nhất: sinh viên, điều kiện bằng đại học có thời gian đào tạo 4 năm hoặc

bằng của Học viện chính trị, dưới 27 tuổi.

Kỳ thi thứ hai: công chức dưới 46 tuổi 5 tháng, có thâm niên công tác ít nhất 4 năm,

không cần điều kiện về bằng cấp, đã dự thi không quá 3 lần.

Kỳ thi thứ ba: Để tham gia thi tuyển, thí sinh phải chứng minh được là trong thời gian

8 năm đã có một hoặc nhiều hoạt động nghề nghiệp trong lĩnh vực đầu tư hoặc đã đảm

nhận một hoặc nhiều chức vụ dân cử, hoặc đã thực hiện chức năng tài phán với tư cách

không chuyên nghiệp, dưới 40 tuổi.

Trường đào tạo nghề đối với các chức danh sau: Thẩm phán tòa sơ thẩm thẩm

quyền rộng; thẩm phán tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp; thẩm phán điều tra; thẩm phán

về trẻ em; thẩm phán hình sự, thẩm phán phụ trách thi hành hình phạt; phó viện trưởng

viện công tố bên cạnh tòa án sơ thẩm quyền hẹp.quyền..?

Chương trình đào tạo Thẩm phán kéo dài 31 tháng được chia thành 02 giai đoạn. Giai

đoạn đầu tiên kéo dài 25 tháng gồm 3 tháng thực tập ngoài cơ quan tư pháp, 8 tháng học

tại trường đào tạo Thẩm phán Bordeaux, học viên được đào tạo về phương pháp và kỹ

năng làm việc của thẩm phán, được trang bị những kiến thức về văn hóa tư pháp. Mười

bốn tháng thực tập tại các tòa án học viên lần lượt thực tập ở tất cả các chức vụ. Giai đoạn

thứ hai kéo dài 6 tháng đào tạo chuyên sâu theo chức vụ, sau khi thi xếp hạng (trình độ và

thứ hạng) học viên lựa chọn công việc tương lai của mình và được đào tạo chuyên sâu cho

từng nhóm chức vụ đã lựa chọn. Kết thúc khóa đào tạo, học viên thẩm phán trở thành thẩm

phán chuyên nghiệp.

1.3.2. Bài học rút ra từ kinh nghiệm đào tạo thẩm phán của các nước trên thế

giới

Công tác đào tạo luôn là yếu tố quyết định đến chất lượng của đội ngũ cán bộ nói

chung và đối với chức danh thẩm phán nói riêng. Vì vậy, các quốc gia đều đặc biệt chú ý

và quan tâm đến công tác này. Tùy thuộc vào điều kiện riêng, mỗi quốc gia có những

nguyên tắc, cách thức tổ chức, phương pháp và nội dung đào tạo khác nhau. Qua phân tích

kinh nghiệm đào tạo thẩm phán của một số nước trên thế giới có thể giúp chúng ta thấy

được những khó khăn đã hiện hữu trong mỗi mô hình đào tạo và ở một khía cạnh khác

cảnh báo chúng ta khó khăn còn xuất hiện đâu đó, cần thiết phải khắc phục. Đồng thời cho

ta thấy các ý tưởng về các giải pháp thay thế và hệ quả của nó. Một số bài học kinh nghịêm

được rút ra từ các mô hình đào tạo thẩm phán của các nước trên thế giới:

Một là: Coi các chức danh tư pháp nói chung và chức danh thẩm phán là một nghề

đặc thù đòi hỏi trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Do đó phải được đào tạo cơ bản về

pháp luật và đặc biệt phải qua khóa đào tạo nghề trong nhà trường. Áp dụng hình thức thi

tuyển để lựa chọn học viên đào tạo chức danh thẩm phán. Mở rộng đối tượng được tham

dự kỳ thi và có những quy định nghiêm ngặt về điều kiện dự thi kỳ thi tư pháp quốc gia

như: bằng cấp, thâm niên công tác, độ tuổi..Sau khi được bổ nhiệm thẩm phán trong quá

trình công tác phải thường xuyên được đào tạo lại và bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ.

Hai là: Nội dung chương trình đào tạo thẩm phán phải luôn gắn liền với hoạt động

nghề nghiệp thẩm phán. Quá trình đào tạo áp dụng các phương pháp khoa học hiện đại để

tăng tính độc lập, sáng tạo tích cực của học viên.

Ba là: Xây dựng tiêu chuẩn chức danh cụ thể cho từng công việc trong bộ máy nhà

nước nói chung và cho chức danh Thẩm phán nói riêng, để làm cơ sở cho việc đào tạo,

tuyển dụng, sử dụng, quy hoạch, đánh giá và là chuẩn mực để rèn luyện phấn đấu của

Thẩm phán

Bốn là: Thực hiện thi tuyển vào các chức danh trong đó có chức danh thẩm phán. Quá

trình thi tuyển được tiến hành bảo đảm nguyên tắc công bằng, minh bạch công khai, khách

quan

Năm là: Có chế độ đãi ngộ xứng đáng, khen thưởng và kỷ luật thích đáng đối với

người được bổ nhiệm thẩm phán. Tôn vinh, khích lệ sự phấn đấu và nâng cao vai trò trách

nhiệm của thẩm phán trong xã hội.

Việc nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia khác nhau trong đào tạo thẩm phán là

vô cùng cần thiết. Tuy nhiên không có mô hình chung cho việc đào tạo thẩm phán ở tất cả

các quốc gia, bởi mỗi nước có những đặc điểm về lịch sử, chính trị, kinh tế văn hóa- xã hội

khác nhau. Bài học kinh nghiệm có thể áp dụng thành công ở nước này nhưng chưa chắc

áp dụng thành công ở nước khác. Tuy nhiên về nội dung, chương trình, hình thức, phương

pháp đào tạo…là những vấn đề chúng ta có thể học hỏi để nâng cao chất lượng đào tạo

thẩm phán ở nước ta hiện nay.

Chương 2

TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN

VÀ THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THẨM PHÁN CỦA HỌC VIỆN TƯ PHÁP GIAI ĐOẠN

1998-2008

2.1. TÌNH HÌNH SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN HIỆN NAY

2.1.1. Về số lượng

Tính đến thời điểm hiện nay (năm 2008) “cả nước có 746 Tòa án nhân dân, bao gồm:

Tòa án nhân dân tối cao, 63 tòa án nhân dân cấp tỉnh và 682 tòa án nhân dân cấp huyện.

Qua kết quả tổng rà roát đội ngũ thẩm phán của ngành tòa án tính đến thời điểm

1/3/2008 tòa án tối cao có 524/603 người trong đó có 116/120 thẩm phán; 63 tòa án cấp

tỉnh có 3264/3559 người, trong đó có 998/1118 thẩm phán; tòa án nhân dân cấp huyện có

7550/7822 người trong đó có 3250/3690 thẩm phán” [27, tr.18]. Đội ngũ thẩm phán đã

được quan tâm củng cố kiện toàn, bổ sung và đã có bước phát triển mạnh về số lượng, tuy

nhiên số lượng thẩm phán vẫn chư đủ chỉ tiêu của nghành tòa án. Việc thiếu thẩm phán

xảy ra ở tất cả các cấp tòa án, đồng thời ở một số địa phương như các đơn vị hành chính

mới chia tách, vùng sâu vùng xa vùng hải đảo…tình trạng này càng nghiêm trọng. Sỡ dĩ có

tình trạng trên một phần là do điều kiện địa lý xa xôi khó khăn nhiều mặt ở các địa

phương. Mặt khác chế độ chính sách, chế độ tuyển dụng điều chuyển đãi ngộ cán bộ chưa

thỏa đáng

Theo số liệu thống kê của ngành tòa án cho thấy số lượng các vụ án thuộc thẩm

quyền của tòa án trong những năm gần đây tăng mạnh trung bình mỗi năm tăng khoảng

15%. Riêng năm 2007 tổng số các loại vụ án, toàn ngành tòa án đã thụ lý giải quyết

256.647 vụ tăng 23.806 vụ so với năm 2006.

Nếu tính theo định mức xét xử hiện nay quy định đối với tòa án cấp tỉnh,

cấp huyện trên các địa bàn và tổng số lượng vụ án phải thụ lý, xét xử với tỷ lệ

gia tăng số vụ án hàng năm là 15% thì trong vòng năm năm tới ngành tòa án cần

bổ sung mỗi năm khoảng 1000 người trong đó có khoảng 500 thẩm phán thì mới

đáp ứng yêu cầu về số lượng cho công tác xét xử [27, tr.07].

Số lượng này vẫn thiếu so với yêu cầu xét xử hiện nay và nhu cầu phát triển nguồn

nhân lực, nhất là khi tính đến việc thực hiện cải cách hệ thống tòa án tổ chức không theo

đơn vị hành chính trong thời gian tới. Ngoài ra còn phải tính đến thực tế là gần 30 năm

qua, đội ngũ cán bộ, công chức của ta hầu hết đều được đào tạo và tuyển dụng theo từng

đợt, điều này dẫn đến tình trạng trong vòng 5 đến 10 năm tới, số lượng thẩm phán đến tuổi

về hưu có khả năng sẽ tăng đột biến. Thực tế này đặt ra trong thời gian tới cần phải có kế

hoạch đào tạo để tạo nguồn, và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ đã được đào tạo nghiệp vụ xét

xử trong thời gian qua.

2.1.2. Về chất lượng

2.1.2.1. Năng lực chuyên môn

92% thẩm phán tòa án nhân cấp tỉnh có trình độ đại học Luật, số còn lại có trình độ

tương đương hoặc đại học khác. Đây là những đảm bảo về tiêu chuẩn về năng lực chuyên

môn và phẩm chất chính trị, đạo đức của người thẩm phán. Tuy nhiên, nước ta còn hơn

200 thẩm phán tòa án cấp tỉnh và tòa án cấp huyện chưa có trình độ đại học luật, thuộc

diện nợ tiêu chuẩn trình độ, chuyên môn theo quy định. Vẫn còn một tỷ lệ nhỏ thẩm phán

chưa tốt nghiệp đại học (cấp tỉnh hiện còn 5.1%; cấp huyện còn 5,6%) [36]. Trình độ tin

học, ngoại ngữ, kiến thức pháp luật quốc tế của các thẩm phán nhìn chung còn thấp so với

yêu cầu hiện nay.

2.1.2.2.Về bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức

100% thẩm phán là đảng viên. Bên cạnh những thẩm phán có bản lĩnh chính trị vững

vàng, phẩm chất đạo đức trong sạch, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách của

Đảng, pháp luật của nhà nước, tuân thủ những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp vẫn còn có

những thẩm phán có biểu hiện tham những, tiêu cực. Một số thẩm phán thiếu nhạy bén về

chính trị, thiếu biện pháp đấu tranh, đường lối xử lý vụ án chưa gắn với tình hình đấu tranh

phòng ngừa tội phạm ở địa phương, làm cho hiệu quả đấu tranh tội phạm, chống tham

nhũng chưa cao. Một số ít thẩm phán, có biểu hiện giảm sút ý chí chiến đấu, thoái hóa biến

chất về phẩm chất đạo đức lối sống, lợi dụng chức vụ quyền hạn để tiếp tay cho bọn tội

phạm.Thậm chí có thẩm phán còn lợi dụng quyền năng pháp lý của mình để làm sai lệch

hồ sơ vì động cơ vụ lợi cá nhân, dẫn đến làm oan, sai, xâm phạm nghiêm trọng đến

quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. Những sai phạm

trên đây dẫn đến một số thẩm phán đã bị xử lý kỉ luật, thậm chí bị truy tố ra trước tòa án.

Trong năm 2007 có 35 cán bộ thẩm phán bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứ trách nhiệm hình

sự và 11 thẩm phán tòa án địa phương chưa được xem xét bổ nhiệm lại làm thẩm phán vì

không hoàn thành nhiệm vụ. Năm 2008 có 45 trường hợp cán bộ, thẩm phán tòa án bị xử

lý kỷ luật, trong đó có 7 trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự [27, tr.03]. Với thực

trạng như vậy cho thấy chất lượng xét xử chưa xứng tầm, vẫn xảy ra án oan sai là điều

khó tránh khỏi.

Nguyên nhân của các vi phạm trên, một mặt do bản thân thẩm phán thiếu ý thức rèn

luyện đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp cũng như năng lực chuyên môn. Mặt khác do sự

thiếu quan tâm sâu sát của lãnh đạo và cấp ủy, đoàn thể nơi thẩm phán công tác, việc kiểm

tra, giám sát còn bị buông lỏng, chưa xử lý nghiêm, dứt điểm các hành vi vi phạm pháp

luật của thẩm phán. Việc phân công công tác cho thẩm phán chưa hợp lý. Bên cạnh đó vẫn

còn nhiều thẩm phán chưa được đào tạo cơ bản, chưa được bồi dưỡng thường xuyên và ít

kinh nghiệm trong hoạt động xét xử.

Như vậy, nhìn chung đội ngũ thẩm phán nước ta có trình độ chuyên môn khá vững

vàng, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức tốt. Hoạt động xét xử của thẩm phán đã đạt

được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, trước yêu cầu của cải cách tư pháp, xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đội ngũ thẩm

phán thiếu về số lượng chưa đảm bảo chất lượng về năng lực chuyên môn, đạo đức nghề

nghiệp, bản lĩnh chính trị và yếu các kỹ năng bổ trợ như tin học, ngoại ngữ. Đánh giá đầy

đủ, đúng đắn thực trạng đội ngũ thẩm phán trong hoạt động xét xử hiện nay để tìm ra các

nguyên nhân chủ yếu của thực trạng đó là vấn đề quan trọng trong việc xác định những

định hướng, các giải pháp, trong đó có giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực cho cải cách tư

pháp trong thời gian tới. Nhằm tăng cường năng lực cho đội ngũ thẩm phán trong hoạt

động xét xử, khẳng định vị trí vai trò của đội ngũ thẩm phán trong công cuộc cải cách tư

pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

2.2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THẨM PHÁN CỦA HỌC VIỆN TƯ PHÁP

2.2.1. Khái quát về Học viên Tư pháp

2.2.1.1.Sự ra đời và phát triển của Học viện Tư pháp

Trường đào tạo các chức danh tư pháp được thành lập trên cơ sở Trung tâm đào tạo,

bồi dưỡng thẩm phán và các chức danh tư pháp trực thuộc Trường Đại học Luật Hà Nội.

Sau hai năm hoạt động (từ năm 1996 đến năm 1998), Trung tâm được thừa nhận như một

mô hình tốt cần được mở rộng và hoàn thiện. Vì vậy, ngày 11 tháng 2 năm 1998 Thủ

tướng Chính phủ ra quyết định số 34/1998/QĐ-TTg thành lập trường Đào tạo các chức

danh tư pháp và giao cho trường chức năng đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán và các chức

danh tư pháp khác như luật sư, chấp hành viên, công chứng viên, thư kí tòa án…Với việc

triển khai đào tạo thành công một số khóa đào tạo thẩm phán, luật sư ..tại trường đào tạo

thẩm phán và các chức danh tư pháp, mô hình đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho các chức

danh tư pháp sau cử nhân luật dần dần được khẳng định. Để đáp ứng yêu cầu tăng cường

năng lực cho cán bộ ngành tư pháp, ngoài tiêu chuẩn về trình độ cử nhân luật, Người được

bổ nhiệm các chức danh tư pháp cần phải được đào tạo kỹ năng nghề nghiệp. Yêu cầu về

đào tạo kỹ năng nghề nghiệp của các chức danh tư pháp đã được chính thức tiêu chuẩn hóa

và ghi nhận trong các văn bản qui phạm pháp luật như: Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về

công chứng, chứng thực năm 2000. Pháp lệnh luật sư 2001; Luật tổ chức Tòa án nhân dân

năm 2002; Pháp lệnh thẩm phán, hội thẩm nhân dân năm 2002; Luật tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân năm 2002; Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.

Theo yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, trước tình trạng tồn tại đồng thời nhiều đầu mối đào tạo, mỗi cơ

sở đào tạo lại có những đặc thù riêng của mình, nên công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư

pháp đã bộc lộ những bất cập. Công tác đào tạo cán bộ tư pháp hoặc là dàn trải, thiếu tập

trung và định hướng, hoặc là quá cục bộ, dẫn đến khó khăn cho công tác quy hoạch và sử

dụng cán bộ của các cơ quan tư pháp. Hơn nữa do sự thiếu tương thích trong nội dung,

chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, nền kiến thức trang bị cho học viên không

đồng đều. Trong khi đó, hoạt động thực tiễn lại đòi hỏi thẩm phán kiểm sát viên và luật sư

cùng tham gia tố tụng, phải có cùng mặt bằng về trình độ pháp lý, kỹ năng nghề nghiệp

bảo đảm tính thống nhất trong việc đánh giá sự kiện, áp dụng pháp luật khi giải quyết vụ

án. Để giải quyết những bất cập trong công tác đào tạo chức danh tư pháp,Đảng và Nhà

nước đã có nhiều quyết sách quan trọng. Ngày 2 tháng 1 năm 2002, Bộ chính trị Ban chấp

hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số

nhiêm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới trong đó nhấn mạnh: “nghiên cứu

xây dựng đề án thành lập cơ quan thống nhất đầu mối đào tạo nghề nghiệp cho cán bộ có

chức danh tư pháp và nghiên cứu khoa học tư pháp”. Ngày 18/11/2003 Thủ tướng chính

phủ đã ban hành Quyết định số 1269/2003/QĐ-TTg phê duyệt đề án thành lập Học viện tư

pháp. Ngày 25/02/2004, Học viện tư pháp được thành lập theo Quyết định số 23/2004/QĐ-

TTg của Thủ tướng chính phủ. Trong đó nêu rõ việc thành lập Học viện Tư pháp nhằm đạt

mục tiêu quan trọng là: “Tập trung đầu mối đào tạo nghề nghiệp cho cán bộ có chức danh

tư pháp trên cơ sở thống nhất nội dung, chương trình đào tạo; huy động tối đa nguồn nhân

lực và cơ sở vật chất cho công tác đào tạo”.

Theo quyết định số 23/2004/QĐ -TTg của Thủ tướng chính phủ, Học viện Tư pháp

đã được xác định rõ: “là cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học trực thuộc Bộ Tư pháp,

hoạt động theo Điều lệ Trường Đại học”. Với quy định này, Học viện Tư pháp có những

điều kiện thuận lợi trong hoạt động đào tạo nhân lực chung của nhà nước.

Sự ra đời của Trường đào tạo các Chức danh tư pháp và sau đó là việc thành lập Học

viện Tư pháp, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà

nước, về đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp. Thể hiện sự quan tâm

của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta. Với sự chỉ

đạo sát sao của Bộ tư pháp cùng với sự quan tâm hỗ trợ của các ngành, các cấp, đặc biệt sự

giúp đỡ từ Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, các đoàn luật sư, các

cơ quan bổ trợ tư pháp từ trung ương đến địa phương, từ sau khi thành lập cho đến nay với

vị trí vai trò mới, Học viện Tư pháp đã nhanh chóng phát triển, khẳng định vị thế của mình

trong hệ thống các cơ sở đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và các cơ sở

đào tạo các chức danh tư pháp nói riêng.

Để thực hiện Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị, Bộ tư pháp đã

tổ chức nghiên cứu triển khai xây dựng đề án: “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung

tâm lớn đào tạo cán bộ tư pháp”. Đề án: “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn

đào tạo cán bộ tư pháp” được phê duyệt sẽ mở ra một triển vọng mới về chiến lược đào tạo

nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta trong thời gian tới.

2.2.1.2. Về cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo

Trụ sở của Học viện Tư pháp đặt tại Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Trụ sở cuả

Học viện Tư pháp tại thành phố Hà Nội có 16 hội trường, phòng học, 30 phòng làm việc

và 2 phòng họp và hội thảo, 1 kí túc xá khoảng 150 chỗ cho học viên, sinh viên. Cơ sở hạ

tầng, trang thiết bị của Học viên Tư pháp hiện nay tại thành phố Hà nội đảm bảo phục vụ

tốt cho công tác đào tạo với quy mô khoảng 2.000 học viên

Cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh đặt tại 180 bis Kha Vạn Cân phường Linh tây, quận

Thủ Đức, có 4 phòng học, giảng đường, 5 phòng làm việc, 1 phòng thư viện, kí túc xá cho

100 sinh viên. Với quy mô đào tạo hiện nay và để triển khai thực hiện nhiệm vụ bổ sung,

Học viện đang triển khai thực hiện Dự án xây dựng trụ sở làm việc tại Hà nội và Thành

phố Hồ Chí Minh

Thư viện Học viện Tư pháp được đầu tư trang bị 2000 đầu sách với số lượng 14000

quyển phục vụ cho công tác đào tạo. Việc quản lý bạn đọc, quản lí sách tài liệu…được

thực hiện bằng phần mềm quản lý thư viện. Hiện nay, Thư viện Học viện Tư pháp đang

triển khai thực hiện đề án liên kết Thư viện điện tử Luật với các thư viện của Bộ tư pháp,

Thư viện trường Đại học Luật, Thư viện Viện Nhà nước và pháp luật. Việc liên kết Thư

viện sẽ mở ra nhiều tiện ích trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Hệ thống thông tin của Học viện được trang bị hiện đại gồm: Hệ thống máy vi tính

văn phòng; hệ thống thiết bị giảng dạy; hệ thống mạng tin học bao gồm mạng LAN, mạng

internet và wirless; hệ thống tổng đài điện thoại nội bộ; một số phần mềm quản lý như

phần mềm kế toán, phần mềm thư viện điện tử. Học viện đã xây dựng website để cung cấp

thông tin, phục vụ cán bộ, giảng viên và học viên trong việc nghiên cứu khoa học, tra cứu

văn bản pháp luật và nắm bắt tình hình hoạt động của học viện. Hiện nay, Học viện Tư

pháp đang xây dựng đề án áp dụng hệ thống các biện pháp áp dụng công nghệ thông tin

trong đào tạo các chức danh tư pháp.

2.2.1.3. Về đội ngũ giảng viên

Cùng với sự phát triển của nhà trường, đội ngũ giảng viên của Học viện Tư pháp đã

không ngừng lớn mạnh. Tính đến năm 2009 Học viện Tư pháp có 138 viên chức trong đó

đã có 54 giảng viên cơ hữu, 2 Phó Giáo sư Tiến sĩ, 16 Tiến sĩ, 30 Thạc sỹ, 6 cử nhân, và

17 giảng viên đã từng là thẩm phán, kiểm sát viên, chấp hành viên, luật sư.

Bên canh đội ngũ giảng viên thuộc biên chế, Học viện Tư pháp còn có đội ngũ giảng

viên kiêm chức khoảng 200 người là những Thẩm phán, các chuyên gia, các nhà khoa học,

các nhà quản lý đang công tác ở các lĩnh vực chuyên môn khác nhau của Tòa án nhân dân

Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, văn phòng Quốc hội, văn phòng

Chính phủ, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật. Tuy chưa được đào tạo sâu về phương

pháp sư phạm nhưng họ là những người có trình độ sâu về chuyên môn nghiệp vụ, giàu

kinh nghiệm thực tiễn nghề nghiệp

Bảng 2.1: Về số lượng Thẩm phán tham gia giảng dạy các Lớp đào tạo nghiệp vụ xét

xử (theo báo cáo bế giảng Lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử khóa XI của Học viện Tư

pháp)

STT Giảng viên Số lượng Số tiết giảng

1. Thẩm phán tối cao 12 652 (16%)

2. Thẩm phán cấp tỉnh 13 560 (14%)

3. Thẩm phán cấp huyện 6 152 (3%)

Nguồn: Báo cáo Học viện tư pháp 2009.

Bảng 2.2: Về học hàm, học vị của giảng viên

STT Giảng viên Số lượng Số tiết giảng

1. Phó Giáo sư – Tiến sỹ 02 36 (0.8%)

2. Tiến sỹ 19 980 (24.6%)

3. Thạc sỹ 21 2370

(58.8%)

4. Cử nhân 2 640 (15.8%)

Nguồn: Báo cáo Học viện tư pháp 2009.

Bảng 2.3: Về tỷ lệ giảng dạy

STT Giảng viên Số lượng Số tiết giảng

1. Giảng viên cơ hữu 27 2212

(54.9%)

2. Giảng viên kiêm nhiệm 47 1814

(45,1%)

Nguồn: Báo cáo Học viện tư pháp 2009.

2.3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN

TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO THẨM PHÁN CỦA HỌC VIỆN TƯ PHÁP

2.3.1. Kết quả đạt được trong công tác đào tạo thẩm phán

Trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, Học viên Tư pháp đã quan tâm, không

ngừng cải tiến hoạt động đào tạo và đã đạt được những kết quả như sau:

2.3.1.1. Về số lượng, chất lượng

Kể từ năm 1998 – 2008, sau hơn mười năm được thành lập, Học viên Tư pháp đã tổ

chức triển khai đào tạo được mười một khóa lớp nghiệp vụ xét xử cụ thể:

Giai đoạn từ năm 1998-2003: Trường đào tạo các chức danh tư pháp đã đào tạo được

4.436 học viên, trong đó có 1.141 học viên lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử. Giai đoạn từ

2004-2008: Học viên Tư pháp đã đào tạo 11.327 học viên các chức danh trong đó đào tạo

được 2.257 học viên lớp nghiệp vụ xét xử. Tổng số học viên thẩm phán của 11 khóa đào

tạo là 3.348 học viên. Khóa 12 đang đào tạo 535 học viên.

Biểu đồ 2.1: Đào tạo thẩm phán 1998-2008

ĐÀO TẠO THẨM PHÁN

11 khóa: 3348 người

600

507

500

469

452

427

402

400

300

248

247

233

190

200

119

104

100

0

1998

1999 2000 2001

2002 2003 2004

2005 2006 2007

2008

Nguồn: Học viện Tư pháp 2008.

Qua số liệu trên biều đồ cho thấy, nhu cầu đào tạo nguồn cán bộ của ngành tòa án

ngày càng tăng. Số lượng học viên được cơ quan tòa án cử đi đào tạo hàng năm không

đồng đều và chưa đúng với kế hoạch đã được xây dựng, phê duyệt là 500 người /1 năm.

Tuy nhiên việc thực hiện tốt kế hoạch đào tạo của Học viên Tư pháp trong thời gian qua

như trên, đã góp phần khắc phục tình trạng thiếu trầm trọng nguồn cán bộ để bổ nhiệm

thẩm phán cho ngành tòa án.

Về chất lượng đào tạo, tỷ lệ học viên đạt kết quả tốt nghiệp của 5 năm (2003-2008)

như sau:

Bảng 2.4: Thống kê số lượng đào tạo thẩm phán từ 2004-2008

SỐ LƯỢNG ĐỖ TỐT TRƯỢT TỐT GHI STT KHÓA TRIỆU TẬP NGHIỆP NGHIỆP CHÚ HỌC

Khóa

1 VII 482 469 (97,30%) 13 (2,69)

Khóa

2 VIII 499 (98,23%) 9 (1,77%) 508

3 Khóa IX 402 (98,77%) 5 (1,23%) 407

4 Khóa X 416 (96,07%) 17 (3,93%) 433

5 Khóa XI 448 (98,46%) 7 (1,54%) 455

Nguồn: Học viện Tư pháp 2008.

Với số liệu thống kê, cho thấy mặc dù số lượng đào tạo tăng, nhưng chất lượng đào

tạo luôn được đảm bảo. Qua kết quả khảo sát thực tế ở các tòa án địa phương, đánh giá về

chất lượng đào tạo thẩm phán trong mười năm qua đạt kết quả tốt. Đảm bảo mục tiêu đào

tạo đã được xác định. Phần lớn học viên sau khi tốt nghiệp khóa đào tạo nghiệp vụ xét xử

tại Học viên Tư pháp đều có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có

năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đủ điều kiện các tiêu chuẩn để bổ nhiệm thẩm phán.

Nhiều người sau khi được bổ nhiệm thẩm phán đã trưởng thành nhanh chóng, đã và đang

đảm nhiệm các cương vị lãnh đạo chủ chốt ở các tòa án địa phương và Tòa án nhân dân tối

cao, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng công tác của ngành tòa án. Bước

đầu đáp ứng được các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.

2.3.1.2.Về nội dung, chương trình, giáo trình tài liệu

Ngay từ những ngày đầu thành lập, trong điều kiện ở nước ta chưa có mô hình đào

tạo nghề luật, lãnh đạo nhà trường đã đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng nội dung

chương trình giảng dạy, học tập phù hợp với mục tiêu đào tạo. Trong hơn mười năm đào

tạo thẩm phán, có thể chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn một tương ứng với 9 khoá đào tạo

Thẩm phán (từ khoá I đến khoá IX).

Ở giai đoạn này Chương trình được thiết kế để đào tạo riêng học viên thẩm phán.

Giai đoạn hai từ năm 2007-2009 tương ứng với các khoá đào tạo nghiệp vụ xét xử X,

XI,XI, Học viện đã phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân

tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các Đoàn luật sư đã xây dựng và áp dụng chương

trình đào tạo chung cho Thẩm phán và Kiểm sát viên. Điểm nổi bật của chương trình này

là được thiết kế để đào tạo chung hai chức danh Thẩm phán và Kiểm sát viên. Ngoài các

nội dung của hoạt động xét xử, các học viên Thẩm phán bước đầu còn được tiếp cận với

những hoạt động nghiệp vụ kiểm sát cơ bản. Tuy nhiên chương trình này mới chỉ được

triển khai áp dụng đào tạo trong hai khóa học 2005-2007 có hiệu quả. Kể từ khóa học 2008

cho đến nay không được thực hiện được vì học viên kiểm sát không còn là đối tượng đào

tạo của Học viện Tư pháp. Hiện tại chương trình này đã được đã được chỉnh sửa, bổ sung

và đang được áp dụng đào tạo chức danh thẩm phán.

Sau hơn mười khóa đào tạo thẩm phán cho thấy về cơ cấu chương trình đào tạo thẩm

phán đã có chỉnh sửa bổ sung, đảm bảo tỷ lệ kiến thức lý thuyết và kiến thức thực tiễn, kỹ

năng hành nghề, phù hợp với đặc thù về đối tượng, hình thức và thời gian đào tạo thẩm

phán trong 12 tháng. Phù hợp với quan điểm đào tạo hiện đại và thực tiễn Việt Nam, trên

cơ sở tiếp thu một cách hợp lý những kinh nghiệm của nước ngoài.

Về giáo trình, tài liệu, Học viện Tư pháp đặc biệt coi trọng công tác biên soạn giáo

trình, tài liệu, sổ tay nghiệp vụ, sách tham khảo. Để đảm bảo chất lượng đào tạo, Học viện

Tư pháp đã xây dựng đủ các bộ giáo trình phục vụ đào tạo gồm: Xuất bản 46 đầu sách,

trong đó giáo trình đào tạo nghiệp vụ Thẩm phán, có 05 cuốn. Giáo trình của các chức

danh khác như Kiểm sát viên, Luật sư, Chấp hành viên, Công chứng viên. Sách chuyên

khảo như Sổ tay thẩm phán, Sổ tay luật sư, Cẩm nang hội thẩm; sách hướng dẫn thực hiện

chương trình đào tạo Thẩm phán, sách hướng dẫn thực hiện chương trình đào tạo nghiệp

vụ thi hành án, các bộ ngân hàng đề thi của các chức danh, các bộ phiếu kĩ thuật.

Đặc biệt Học viện đã khai thác và biên tập 1.500 bộ hồ sơ các loại án điển hình dùng

cho bài học tình huống. Đây là những hồ sơ vụ án mang tính điển hình trong thực tiễn xét

xử, có nhiều tình huống phục vụ cho ý đồ sư phạm phục vụ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp

Bên cạnh đó, để cập nhật kiến thức pháp luật cơ bản cho học viên, Học viện còn biên

soạn và lần lượt cho xuất bản các giáo trình luật như: Giáo trình Luật Dân sự và tố tụng

dân sự, giáo trình Luật Hình sự và tố tụng Hình sự, giáo trình luật Đất đai, giáo trình luật

Kinh doanh, thương mại, giáo trình Luật Lao động, giáo trình Luật hành chính và tố tụng

Hành chính, giáo trình Đạo đức nghề luật.

2.3.1.4. Về phương pháp đào tạo

Do đặc thù của việc đào tạo Thẩm phán là đào tạo nghề, ngay từ những khoá đào tạo

đầu tiên, Học viện Tư pháp đã áp dụng những phương pháp giảng dạy tích cực, lấy hồ sơ

thực tiễn làm cơ sở cho việc dạy và học, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực

hành. Việc áp dụng phương pháp đào tạo thẩm phán qua khảo sát ý kiến của các học viên

thẩm phán đã qua đào tạo tại Học viên Tư pháp cho rằng: các giảng viên Học viện Tư pháp

đã chủ động thực hiện phương pháp tình huống 60,8% ; Phương pháp thuyết trình chỉ sử

dụng hạn chế 9,8%. Nhìn chung phương pháp giảng dạy thẩm phán được đánh giá cao

88% học viên đang theo học và 86,3% học viên qua đào tạo được hỏi ý kiến đánh giá rằng

phương pháp đào tạo đang được áp dụng tại Học viên Tư pháp là hiệu quả [14].

2.3.1.5. Về đội ngũ giảng viên

Kết quả khảo sát đối với học viên đã qua đào tạo tại Học viện trong “Đề án xây

dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo cán bộ tư pháp”, đa số các ý kiến

nhận xét rằng các giảng viên cơ hữu, và kiêm nhiệm của Học viện Tư pháp vừa có kinh

nghiệm thực tế vừa nắm chắc lý thuyết có phương pháp giảng dạy tốt, phù hợp với các

đối tượng học viên. Đội ngũ giảng viên cơ hữu đã từng bước chủ động và có khả năng

đảm đương một phần hoạt động giảng dạy của Học viện có chất lượng. Đây là những ý

kiến đánh giá hoàn toàn phù hợp với trình độ, năng lực thực tế của đa số giảng viên

Học viện Tư pháp. Như vậy, có thể khẳng định rằng đội ngũ giảng viên hiện nay của

Học viện Tư pháp có đủ trình độ, năng lực chuyên môn, có phương pháp giảng dạy,

đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đào tạo của Học viện đề ra.

2.3.1.6. Về cơ sở vật chất

Bộ Tư pháp luôn quan tâm đầu tư kinh phí cho công tác đào tạo nói chung và đào tạo

thẩm phán nói riêng. Để giải quyết nhu cầu về cơ sở vật chất, đáp ứng nhu cầu mở rộng

quy mô đào tạo, Học viện đã triển khai thực hiện Dự án xây dựng cơ sở làm việc tại Hà

Nội và thành phố Hồ Chí Minh, đến giai đoạn ba, nhiều gói thầu về các hạng mục công

trình đang được tích cực hoàn thành đúng tiến độ.

Nguyên nhân cơ bản để đạt được kết quả trong công tác đào tạo thẩm phán là:

Thứ nhất, trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo, Học viện tư pháp đã

luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Ban cán sự và Đảng uỷ Bộ tư

pháp, sự giúp đỡ, phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả của các cơ quan đơn vị liên quan trong

hoạt động đào tạo như Toà án tối cao, Viện kiểm sát tối cao, toà án thành phố Hà nội, tòa

án thành phố Hồ Chí Minh và toà án nhân dân các địa phương. Sự phối hợp, giúp đỡ nhiệt

tình của đội ngũ giảng viên kiêm nhiệm từ các cơ quan toà án, các cơ sở đào tạo, các vụ

viện thuộc các cơ quan trung ương, trong việc triển khai kế hoạch đào tạo, xây dựng hệ

thống giáo trình tài liệu, hồ sơ tình huống để hoạt động đào tạo thẩm phán của Học viện

Tư pháp đạt kết quả.

Thứ hai, lãnh đạo Học viên Tư pháp luôn nhận thức được tầm quan trọng của công

tác đào tạo để đáp ứng nguồn nhân lực cho ngành tòa án phục vụ công cuộc cải cách tư

pháp. Lãnh đạo Học viện đã chủ động nắm bắt yêu cầu đào tạo kịp thời xác định mục tiêu

nhiệm vụ đào tạo trong từng thời kỳ phát triển của đất nước, để không ngừng cải tiến

phương pháp quản lý, nâng cao chất lượng giảng dạy hoàn thành kế hoạch, mục tiêu của

các khóa đào tạo thẩm phán được giao. Xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong toàn thể

cán bộ viên chức của nhà trường, đặc biệt chăm lo đào tạo đội ngũ giảng viên, thường

xuyên đổi mới công tác tổ chức cán bộ, kiện toàn bộ máy làm việc, bố trí cán bộ hợp lý

trong từng giai đoạn phát triển của Học viện.

Thứ ba, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu học

tập cũng như nơi ăn ở của học viên, tương xứng với quy mô và yêu cầu đào tạo.

2.3.2. Những hạn chế trong công tác đào tạo thẩm phán

Công tác đào tạo thẩm phán trong thời gian qua bên cạnh những thuận lợi và kết quả

đã đạt được, vẫn còn có những khó khăn, và hạn chế, cần phải nhận thức được những hạn

chế này và tìm ra các nguyên nhân, để có cơ sở xác định phương hướng tiếp tục đổi mới

công tác đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp trong thời gian tới

Một là: Về chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo.

Chương trình đào tạo còn bị chia cắt theo từng chức danh. Chưa có sự gắn bó và

đảm bảo tính liên thông giữa các chức danh kiểm sát viên, luật sư, thẩm phán, để thực

hiện chủ trương của Đảng về luân chuyển cán bộ trong hệ thống cơ quan tư pháp chưa

gắn bó đào tạo và sử dụng cán bộ giữa các cơ quan tư pháp.

Phần lớn chương trình đào tạo mới chỉ tập trung vào việc trang bị kỹ năng nghề

nghiệp chung ban đầu mà chưa đa dạng hoá chương trình và đào tạo theo từng lĩnh vực

chuyên biệt, đào tạo chuyên sâu phục vụ cho mục đích của Hội nhập kinh tế quốc tế.

Hệ thống giáo trình, giáo án, sách, tài liệu tham khảo còn chưa đầy đủ và còn nhiều

bất cập. Nội dung của nhiều giáo trình, tài liệu tham khảo còn trùng lặp, thiếu tính đa dạng

không chuyên sâu, ít kiến thức thực tiễn và chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế, xã hội.

Công tác biên sạo giáo trình chưa được coi trọng thiếu tính thống nhất trong toàn bộ hệ

thống đào tạo ngành luật

Hai là : Về áp dụng phương pháp đào tạo

Qua khảo sát đánh giá thực trạng áp dụng phương pháp đào tạo thẩm phán cho thấy,

thời gian qua việc đổi mới áp dụng phương pháp đào tạo tích cực chưa triệt để, chưa hiệu

quả và thành một phong trào, một hoạt động thường nhật của tất cả giảng viên nhất là các

giảng viên thỉnh giảng, ở tất cả các bộ môn.

Mặc dù các khóa học bồi dưỡng về phương pháp sư phạm thường xuyên được tổ

chức nhưng còn mang tính hình thức chưa đổi mới để đáp ứng được yêu cầu và giải quyết

một cách triệt để về nhận thức của giảng viên. Chưa có một cơ chế thực thi đổi mới, và áp

dụng hiệu quả các phương pháp đào tạo tích cực đối với tất cả các giảng viên. Nhận thức

của nhiều người, trong đó có cả cấp quản lý vẫn còn cho rằng đó là trách nhiệm của riêng

giảng viên, không coi đây là công việc, trách nhiệm chung của cả hệ thống nhà trường, từ

nhân viên phục vụ đến lãnh đạo trong đó vai trò của ban giám đốc Học viện có ý nghĩa

quyết định. Chưa xây dựng được kế hoạch, nội dung phương thức đổi mới phương pháp

đào tạo của giảng viên và phương pháp học tập của học viên cho từng giờ học, lớp học,

môn học, khóa học.

Việc tiến hành khảo sát học viên đánh giá giảng viên về đổi mới phương pháp giảng

dạy chưa thường xuyên. Chưa sử dụng hiệu quả kết quả đánh giá của học viên vào việc

đổi mới về hoạt động này.

Ba là: Về đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ giảng viên

Còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng và chưa được nâng cao trình độ ở mức

cần thiết. Đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo thiếu kỹ năng lãnh đạo, quản lý về đào tạo. Đội

ngũ giảng viên cơ hữu còn thiếu về số lượng, tỉ lệ giảng viên đã là các chức danh thẩm

phán còn thấp (mới đạt 31,4%), một số giảng viên chưa kinh qua hoạt động thực tiễn, nên

còn hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp, dẫn đến khi giải quyết tình huống hoặc nhận xét diễn

án đã đưa ra thông tin chưa đủ sức thuyết phục đối với học viên.

Đội ngũ giảng viên kiêm nhiệm, tuy nhiệt tình với công tác đào tạo nhưng do bận

công việc chính tại cơ quan nên chưa chủ động về thời gian để tham gia giảng dạy. Việc

điều động, quản lý và đánh giá chất lượng đối với đội ngũ giảng viên kiêm nhiệm còn gặp

khó khăn. Trong hoạt động giảng dạy vẫn còn một số giảng viên kiêm chức hạn chế về

phương pháp sư phạm như chưa bám sát vào đề cương giảng dạy của nhà trường, đôi khi

quá sa đà vào việc nêu các vụ án thực tế mà mình đã làm, dẫn đến không còn đủ thời gian

để truyền đạt các nội dung của bài giảng. Việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực

chưa triệt để, phần nhiều các giảng viên kiêm chức không sử sụng phần mềm powerpoint

để trình chiếu các thông tin chính của bài giảng. Điều đó cho thấy việc cập nhật kiến thức

và kỹ năng giảng dạy, nghiên cứu của một số giảng viên còn hạn chế. Trình độ ngoại ngữ

của giảng viên còn thấp chưa đồng đều

Bốn là: Về cơ sở vật chất

Học viện Tư pháp mới được thành lập hơn mười năm nay, cũng như nhiều cơ sở đào

tạo khác, hiện Học viện đang phải đối mặt với với sự thiếu hụt về cơ sở vật chất, phương

tiện dạy học với sự phát triển mở rộng quy mô đào tạo. Theo Quyết định số 1269/QĐ-TTg

ngày 18 tháng 11 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Tư pháo chủ trì việc

xây dựng trụ sở Học viện Tư pháp nhưng cho đến nay việc triển khai xây dựng trụ sở của

Học viện Tư pháp tại thành phố Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa đạt được tiến

độ như mong muốn do những khó khăn liên quan đến thủ tục đầu tư xây dựng; Học viện

Tư pháp vẫn phải đi thuê hội trường (cả Hà Nội và TP Hồ Chí Minh) để tổ chức các lớp

đào tạo làm phát sinh nhiều chi phí, ảnh hưởng đến việc quản lý và chất lượng của các lớp

đào tạo. Các trang thiết bị giảng dạy còn thiếu thốn, thư viện nhìn chung còn lạc hậu thiếu

đầu sách, tạp chí chuyên ngành mới, các phương tiện tin học còn quá ít. Có ít tài liệu sách

báo của nước ngoài và số tài liệu đã có chưa được khai thác sử dụng một cách có hiệu quả.

Nguồn ngân sách nhà nước dành cho đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo, nên việc

xây dựng hồ sơ mới, việc sứa đổi, bổ sung giáo trình, tài liệu, trang bị phương tiện giảng

dạy, học tập còn hạn chế, chưa áp dụng hiệu quả công nghệ thông tin hiện đại vào quá

trình đào tạo

2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Những hạn chế trong công tác đào tạo thẩm phán nêu trên do nhiều nguyên nhân, cả

khách quan và chủ quan. Tổng quát lại có thể thấy do những nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất: Nhận thức về vị trí vai trò của Học viện Tư pháp trong hoạt động đào tạo

các chức danh tư pháp nói chung, hoạt động đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán nói riêng,

của các cấp bộ, ngành hữu quan có lúc có nơi chưa đầy đủ, thống nhất còn có tư tưởng cho

rằng việc đào tạo các chức danh tư pháp là trách nhiệm riêng của Bộ Tư pháp, công tác

đào tạo được coi là một chi phí tốn kém, chỉ được quan tâm mà chưa coi là một giải pháp

ưu tiên then chốt cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với chiến lược dài hơi,

đồng bộ và có chủ định.

Thứ hai: Thể chế liên quan đến công tác đào tạo các chức danh tư pháp nói chung và

đào tạo thẩm phán chưa thật đầy đủ và đồng bộ, như chưa có các quy định về việc đào tạo

chung ba chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên và luật sư, thiếu “quy chế hóa” bằng hình

thức văn bản có giá trị pháp lý về cơ chế phối hợp giữa các ngành trong việc quy hoạch đội

ngũ cán bộ làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo lâu dài cũng như việc triển khai

hoạt động đào tạo hàng năm; về hoạt động đào tạo theo định kỳ bắt buộc (đào tạo lại); về

đánh giá sử dụng cán bộ sau quá trình được đào tạo; về luân chuyển giảng viên, về quyền

của học viên được thực hiện một số hoạt động tố tụng trong thời gian thực tập tại cơ quan

tòa án… cũng như việc triển khai chưa đồng bộ thiếu sự phối hợp của các cơ quan có liên

quan, hỗ trợ, tạo điều kiện cần thiết để công tác đào tạo thẩm phán đạt mục tiêu và hiệu

quả.

Thứ ba: Nguồn học viên được cử đi học hàng năm trình độ không đồng đều, tỷ lệ tốt

nghiệp đại học luật hệ chính quy còn thấp hệ chính quy chiếm 34,5%; hệ tại chức chiếm

51,11%; mở rộng 11,03%; chuyên tu 2,67%; đào tạo từ xa 0,4%. Độ tuổi của nhiều học

viên khá cao. Đối tượng học viên đào tạo thẩm phán không thi tuyển mà là cử tuyển từ

phạm vi biên chế của cơ quan tòa án, nên chưa lựa chọn được những người thật sự giỏi về

chuyên môn, có tư cách đạo đức tốt để đào tạo nguồn bổ nhiệm cho chức danh thẩm phán.

Học viên là những người đã qua thực tiễn hoạt động nghề nghiệp, bên cạnh có những kỹ

năng nghề nghiệp tốt thông qua học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, còn nhiều

cách làm theo thói quen không chính quy, chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Nhiều

học viên tốt nghiệp đại học từ lâu, quá trình công tác không được bồi dưỡng thường xuyên

nên nhiều kiến thức mới không được cập nhật. Điều này gây trở ngại nhất định cho việc

tiếp thu kiến thức mới.

Thứ tư: Chưa có chiến lược xây dựng và đào tạo đội ngũ giảng viên nhằm đáp ứng

nhiệm vụ được giao; chưa có cơ chế khuyến khích hoặc điều động các chức danh tư pháp

giỏi, có nhiều kinh nghiệm về làm giảng viên cho Học viện hoặc luân chuyển và đào tạo

giảng viên cơ hữu trong môi trường thực tế nghề nghiệp. Việc bồi dưỡng, nâng cao kỹ

năng nghiệp vụ sư phạm và kinh nghiệm thực tiễn cho giảng viên cơ hữu và phương pháp

sư phạm cho giảng viên kiêm chức tuy được tiến hành khá thường xuyên nhưng hiệu quả

chưa cao.

Thứ năm: Cơ quan quản lý đào tạo và Học viện tư pháp chưa xây dựng được phương

pháp và chỉ số đánh giá chất lượng đào tạo, mới chú trọng đến việc mở lớp mà chưa coi

trọng việc tổ chức đánh giá chất lượng, hiệu quả.

Thứ sáu: Kinh phí đầu tư cho đào tạo còn hạn chế, cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng

dạy, học tập tuy đã có nhiều cải thiện nhưng chưa tương xứng với nhu cầu mở rộng quy

mô đào tạo, cũng như việc áp dụng các phương pháp đặc trưng của đào tạo nghề.

Trên đây là những nét khái quát về thực trạng công tác đào tạo thẩm phán của Học

viên Tư pháp hơn mười năm qua. Đánh giá kết quả đào tạo thẩm phán trong thời gian qua

cần phải dựa trên một số nguyên tắc cơ bản như mục tiêu đào tạo; quan điểm chỉ đạo phát

triển đào tạo của Đảng và nhà nước; các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước về đào

tạo thẩm phán đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và công cuộc cải cách tư pháp. Đào tạo

thẩm phán là một mô hình đào tạo nghề mới ở nước ta, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ

đào tạo của mình, Học viện Tư pháp phải vừa tìm tòi, vừa rút kinh nghiệm, với tỷ lệ đầu tư

bình quân trên đầu người cho đào tạo thẩm phán ở mức còn hạn chế, cùng với năng lực

hiện có của đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất, môi trường đào tạo; thể chế quản lý... của

đào tạo như hiện nay, những hạn chế, bất cập về chất lượng đào tạo thẩm phán là khó tránh

khỏi. Chúng ta chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân của nó là cơ sở thực

tiễn xác định các phương thức khắc phục, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng của hoạt

động đào tạo thẩm phán trong thời gian tới, một yêu cầu mang tính khách quan. Tất cả

những điều đó cho thấy cần phải tích cực, khẩn trương xây dựng kế hoạch đổi mới về đào

tạo thẩm phán đảm bảo về số lượng đáp ứng yêu cầu về chất lượng phục vụ cho công cuộc

cải cách tư pháp của ngành tòa án.

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI

CÔNG TÁC ĐÀO TẠO THẨM PHÁN THEO YÊU CẦU CÁI CÁCH TƯ PHÁP Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO THẨM PHÁN CỦA HỌC

VIỆN TƯ PHÁP THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Để đề xuất được những giải pháp cụ thể khả thi nhằm tiếp tục đổi mới và nâng cao

chất lượng đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt

Nam hiện nay, cần phải xác định đúng đắn và thống nhất nhận thức những quan điểm chỉ

đạo về công tác đào tạo các chức danh tư pháp nói chung và đào tạo thẩm phán nói riêng

trong thời gian tới.

3.1.1. Trong đào tạo thẩm phán cần quán triệt, nhận thức sâu sắc quan điểm, chủ

trương của Đảng, về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

Báo cáo chính trị tại các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam

luôn khẳng định tầm quan trọng của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng trong việc nâng cao

phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức: “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức với chương trình, nội dung sát hợp”. Trong lĩnh vực tư pháp, Nghị quyết số

08/NQ-TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ một trong các nguyên

nhân cơ bản của những tồn tại, khuyết điểm trong công tác tư pháp thời gian qua là do

“Công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện

nay. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ;

một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức”.

Nghị quyết đã khẳng định tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp

trong sạch, vững mạnh trong đó chú trọng tới công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề

nghiệp tư pháp theo các chức danh. Đặc biệt Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định tầm

quan trọng của nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp.

Toàn bộ quá trình triển khai đổi mới công tác đào tạo thẩm phán phải đảm bảo quán

triệt mục tiêu và yêu cầu của cải cách tư pháp đến năm 2020 là xây dựng một nền tư pháp

dân chủ trong sạch, vững mạnh, công minh, bảo vệ công lý, quyền con người, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các chủ thể khác. Bám sát mục tiêu và yêu cầu

của cải cách tư pháp trên đây mới xác định đúng đắn yêu cầu về tiêu chuẩn, năng lực

chuyên môn, về phẩm chất đạo đức cần thiết của đội ngũ cán bộ thẩm phán trong nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Trong đó công tác đào tạo cán bộ tư

pháp cần:

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ

nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ

tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã

hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong

sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa [2, tr.08].

Mặt khác cần quán triệt nội dung, giải pháp, lộ trình cải cách tư pháp, đặc biệt là lộ

trình cải cách, xây dựng hệ thống cơ quan tòa án theo thẩm quyền xét xử mà không theo

địa giới hành chính như hiện nay. Cũng như lộ trình: “Xây dựng Học viên Tư pháp thành

trung tâm lớn về đào tạo cán bộ tư pháp..Để từ đó tiến hành xây dựng kế hoạch phát triển

và đổi mới công tác đào tạo thẩm phán nhằm đảm bảo sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực có

kiến thức, kỹ năng, trình độ chuyên môn chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của quá trình

cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền, xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập

kinh tế quốc tế.

Nghị quyết 49-NQ/TW khẳng định để thực hiện thành công sự nghiệp tư pháp, công

tác đào tạo phải “Bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lức cán bộ, công chức

ngành tư pháp...đổi mới công tác đào tạo cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu luân chuyển cán

bộ

Trên cơ sở quán triệt đầy đủ các Nghị quyết của Đảng về Chiến lược Cải cách tư

pháp đến năm 2020, mới có nhận thức thống nhất để chuyển hóa thành quyết tâm chính trị

của cả hệ thống chính trị, đảm bảo thực hiện đồng bộ, thống nhất giữa các cấp, các ngành

đối với các yêu cầu nội dung của cải cách tư pháp nói chung, trong đó có công tác đào tạo

thẩm phán của Học viên Tư pháp. Đồng thời đảm bảo thực hiện đồng bộ tất cả các khâu

công tác có liên quan đến việc đào tạo các chức danh tư pháp nói chung và đào tạo thẩm

phán nói riêng

3.1.2. Đào tạo thẩm phán phải gắn với yêu cầu cải cách tư pháp

Hoạt động đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán trong thời gian qua đã có những

đóng góp nhất định cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp trong sạch,

vững mạnh. Tuy vậy, công cuộc cải cách tư pháp do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo

đang đặt ra cho hoạt động đào tạo cán bộ pháp luật nói chung và đào tạo nguồn bổ

nhiệm các chức danh tư pháp, trong đó có thẩm phán nói riêng những yêu cầu và nhiệm

vụ mới hết sức nặng nề:

Thứ nhất: Hoạt động đào tạo phải cung cấp đủ nguồn bổ nhiệm thẩm phán cho cơ

quan Toà án các cấp. Đặc biệt trong thời gian tới, khi thực hiện việc xây dựng hệ thống tòa

án khu vực theo yêu cầu cải cách tư pháp. Dự báo, để tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán đáp

ứng nhu cầu thực tiễn, hằng năm Học viện Tư pháp phải đào tạo được ít nhất 500 học viên

thẩm phán.

Thứ hai: Chương trình đào tạo phải được đổi mới nhằm trang bị cho người học kiến

thức chuyên môn và kỹ năng hành nghề đáp ứng yêu cầu công việc mà họ đảm nhiệm

trong thực tế. Trong xu hướng thành lập Toà án khu vực theo tinh thần Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020,

mở rộng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện và bổ nhiệm từ thẩm phán cấp huyện thì đào

tạo thẩm phán cần hướng đến việc tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện với chương

trình, nội dung phù hợp với yêu cầu công việc của thẩm phán Toà án cấp huyện. Cụ thể nội

dung chương trình phải thể hiện được các định hướng cơ bản quan điểm, chỉ đạo hướng

dẫn của UB thẩm phán tòa án tối cao, nhiệm vụ trọng tâm của ngành tòa án trong từng thời

kỳ, quy định về hoạt động nghiệp vụ của thẩm phán. Quan tâm đào tạo những kỹ năng

nghề cần thiết mà trên thực tế thẩm phán còn đang yếu. Đảm bảo, đến năm 2012, Học viện

Tư pháp có đầy đủ chương trình, giáo trình hoàn toàn mang tính kĩ năng theo chương trình

đã được duyệt để thay thế cho các loại giáo trình hiện có; từ năm 2013 đến năm 2020, có

đầy đủ chương trình giáo trình đào tạo phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới.

Thứ ba: Chất lượng đào tạo phải phù hợp với Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng do

Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và đáp ứng với yêu cầu của cơ quan sử dụng lao động.

Học viên tốt nghiệp ra trường được trang bị kiến thức nghiệp vụ sát với yêu cầu đòi hỏi

thực tiễn, được trang bị một cách có hệ thống kỹ năng hành nghề , đạo đức và bản lĩnh

nghề nghiệp.

Thứ tư: Xây dựng đội ngũ giảng viên, bao gồm giảng viên cơ hữu và giảng viên kiêm

chức giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề nghiệp

phù hợp với mục tiêu dạy nghề tại Học viện Tư pháp, theo đó: đến năm 2012, đội ngũ

giảng viên cơ hữu của Học viện Tư pháp đảm nhiệm được 60% số giờ giảng, 100% giảng

viên đã qua đào tạo nghề, 45% giảng viên cơ hữu đã là chức danh tư pháp, đến năm 2020,

đội ngũ giảng viên cơ hữu của Học viện Tư pháp đảm nhiệm được 70% số giờ giảng,

100% giảng viên đã qua đào tạo nghề, 70% giảng viên cơ hữu đã là chức danh tư pháp.

Thứ năm: Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ thông tin và các

điều kiện trang thiết bị kỹ thuật cần thiết hỗ trợ cho công tác đào tạo nghề, bảo đảm đủ

phòng học, phòng làm việc và trang thiết bị hiện đại phục vụ giảng dạy, học tập.

Tóm lại: Để có được nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của quá trình cải cách tư pháp

đủ về số lượng, cao về chất lượng phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển đổi mới của giáo

dục đào tạo nói chung và đào tạo thẩm phán nói riêng. Phụ thuộc cả về nhận thức, sự đồng

thuận mang tính hiệu quả trên thực tế của nhiều chủ thể tham gia vào tiến trình cải cách tư

pháp. Trong đó hoạt động đào tạo thẩm phán, thời gian tới cần phải hướng vào các tiêu

chuẩn về Chức danh thẩm phán đã được chuẩn hóa trong các văn bản của nhà nước, các

nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp. Tính đặc thù về đối tượng đào tạo và yêu

cầu thực tiễn của nghề nghiệp, để đổi mới đào tạo. Đào tạo thẩm phán phải gắn với bồi

dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức; gắn với quy hoạch cán bộ; đào tạo phải đáp ứng được

yêu cầu luân chuyển cán bộ và phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế

3.2. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC ĐÀO

TẠO THẨM PHÁN CỦA HỌC VIỆN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, những thành công và tồn tại của mô hình đào

tạo thẩm phán trong thời gian qua của HVTP cho thấy cần phải có những thay đổi về chất

và về lượng trong việc đào tạo thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp cho ngành tòa

án. Việc đổi mới đào tạo thẩm phán bao gồm các giải pháp sau:

3.2.1. Giải pháp chung

3.2.1.1.Đổi mới công tác đào tạo thẩm phán phải gắn với việc xây dựng quy hoạch,

kế hoạch cán bộ của ngành tòa án

Để đổi mới công tác đào tạo thẩm phán, đáp ứng nhu cầu nhân lực đảm bảo số

lượng và chất lượng cung cấp cho quá trình cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp

quyền, xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trước tiên Học viện

Tư pháp cần phối hợp với cơ quan tòa án, với tư cách là khách hành sử dụng sản

phẩm đào tạo của Học viện Tư pháp thường xuyên tiến hành khảo sát, thống kê, lưu

trữ các tài liệu liên quan đến đội ngũ thẩm phán hiện hành, để rà soát, đánh giá thực

trạng đội ngũ thẩm phán một cách toàn diện, cả về số lượng và chất lượng, qua đó so

sánh đối chiếu thực trạng đội ngũ thẩm phán đã qua đào tạo tại Học viện với các yêu

cầu, tiêu chuẩn của chức danh thẩm phán, cũng như đòi hỏi thực tế của công tác xét

xử. Để về phía tòa án tối cao có biện pháp kiện toàn về cơ cấu tổ chức cơ quan tòa án

các cấp, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo đội ngũ công chức ngành tòa án. Về

phía Học viện Tư pháp kịp thời có kế hoạch điều chỉnh và đổi mới công tác đào tạo

thẩm phán cả về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu thực tiễn xét xử của ngành

tòa án.

3.2.1.2. Đổi mới đào tạo thẩm phán phải gắn với việc đổi mới và nâng cao chất

lượng đào tạo cán bộ pháp luật

Đào tạo thẩm phán là đào tạo nghề, đối tượng học viên đào tạo thẩm phán là công

chức tòa án đã tốt nghiệp cử nhân luật. Qua phần đánh giá thực trạng đào tạo thẩm phán

hơn mười năm qua của Học viên Tư pháp cho thấy mặc dù 100% học viên đều đã tốt

nghiệp cử nhân luật, tuy nhiên trình độ, kỹ năng của học viên nhìn chung còn thấp.

Điều này phản ánh một thực tế, chất lượng của các cử nhân luật được đào tạo theo

nhiều hệ, ở nhiều cơ sở đào tạo đại học luật khác nhau của nước ta hiện nay chưa cao.

Do vậy các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, các cơ quan tư pháp, các

cơ sở đào tạo luật phải quan hệ chặt chẽ với nhau để đảm bảo đổi mới và nâng cao chất

lượng đào tạo cán bộ tư pháp nói chung đào tạo

thẩm phán nói riêng. Thực hiện giải pháp này cần tiến hành một số biện pháp sau:

Trước hết cần lập kế hoạch, chương trình đào tạo cán bộ pháp luật nói chung và đào

tạo chức danh tư pháp nói riêng, dựa trên kế hoạch chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cán

bộ tư pháp trong các nghị quyết của Đảng và văn bản pháp luật của nhà nước. Công tác

đào tạo cán bộ pháp lý phải đáp ứng nhu cầu nhân lực cả về số lượng và chất lượng cung

cấp cho quá trình cải cách tư pháp. Muốn vậy các cơ sở đào tạo luật phải cần tăng cường

quy mô đào tạo, đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa mở rộng quy mô đào tạo và đảm

bảo chất lượng đào tạo. Chất lượng cán bộ là một trong các yếu tố quyết định thành công

của cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền. Do đó, việc đổi mới phát triển

công tác đào tạo phải đặc biệt chú trọng yêu cầu nâng cao chất lượng cán bộ Tư pháp.

Cơ cấu đào tạo hoàn chỉnh, đồng bộ đối với từng bậc, từng hệ, từng loại hình, từng

chuyên ngành đào tạo. Toàn bộ cơ cấu đào tạo phải được thiết kế khoa học và cân đối giữa

các mục tiêu. Yêu cầu này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa những cơ quan, tổ

chức có trách nhiệm thiết kế chương trình đào tạo từng bậc, từng hệ, từng loại hình đào tạo

nhằm ra soát toàn bộ cơ cấu đào tạo loại bỏ những chồng chéo, trùng lặp trong cơ cấu đào

tạo.

Đổi mới chương trình đào tạo: Chương trình đạo tạo phải vừa thiết thực đáp ứng nhu

cầu thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vừa tiếp cận trình độ tiên tiến của

khu vực và thế giới. Việc cải tiến chương trình đào tạo pháp luật phải đảm bảo một tỷ lệ

thích hợp giữa kiến thức lý luận cơ bản nền tảng những kiến thức chuyên ngành và các kỹ

năng tác nghiệp cụ thể, cần nhanh chóng khắc phục tình trạng chương trình đào tạo chủ

yếu thiên về lý luận thuần túy, sáo rỗng, xa rời thực tiễn mà không hướng tới tạo cho

người học tác phong và phương pháp tư duy độc lập, sáng tạo và có khả năng thích ứng

nhanh với những đòi hỏi phong phú và phức tạp của cuộc sống,

Nghiên cứu, xây dựng các đề án, xây dựng trường ĐH luật Hà Nội và TP.HCM trở

thành những trường trọng điểm về đào tạo cán bộ pháp luật và nghiên cứu khoa học pháp

lý. Đẩy mạnh việc đổi mới nội dung chương trình giáo trình phương pháp đào tạo nâng cao

chất lượng đào tạo, phấn đấu trở thành những trường hàng đầu về đào tạo luật gia và

chuyên gia pháp luật có trình độ cao.

3.2.2. Giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng đào tạo thẩm phán

3.2.2.1. Xây dựng, hoàn thiện chương trình, giáo trình, tài liệu theo hướng tăng

cường trang bị kỹ năng nghề nghiệp, sát với yêu cầu thực tiễn

Công tác xét xử của Toà án trong thời gian qua cho thấy các thẩm phán thường yếu

về kỹ năng thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ; kỹ năng soạn thảo bản án, quyết định; kỹ

năng điều khiển phiên toà; kỹ năng phân tích pháp luật để áp dụng chính xác trong từng

trường hợp cụ thể còn nhiều hạn chế, vẫn còn tình trạng hiểu và áp dụng pháp luật một

cách máy móc theo câu chữ chứ không theo tinh thần của pháp luật, thậm chí theo lối suy

diễn chủ quan; trình độ am hiểu kiến thức pháp luật trong các lĩnh vực chuyên sâu, nhất là

các kiến thức về kinh tế thị trường, sở hữu trí tuệ, hội nhập kinh tế quốc tế; sự hiểu biết về

các kỹ năng nghề nghiệp của luật sư, kiểm sát viên chưa sâu; trình độ tin học, ngoại ngữ

còn hạn chế.

Chương trình đào tạo thẩm phán đang áp dụng là phù hợp với đối tượng và mục đích

đào tạo. Tuy vậy với tiến trình cải cách tư pháp, và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta

trong thời gian tới và từ thực tiễn được phân tích ở trên đang đặt ra nhu cầu phải tiếp tục rà

soát để chỉnh lý, bổ sung nội dung chương trình đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán nhằm

đáp ứng các yêu cầu thực tiễn hành nghề hiện nay.

Chương tình đào tạo thẩm phán cần được hoàn thiện trên cơ sở đảm bảo khung

chương trình chung với cấu thành phần chuyên đề chung; phần kỹ năng; thực tập; kỹ năng

chuyên sâu và thi tốt nghiệp. Nội dung chương trình phải căn cứ vào yêu cầu thực tiễn,

tiêu chuẩn của chức danh thẩm phán. Trong đó quán triệt phương châm lý luận phải gắn

thực tiễn, học đi đôi với hành đảm bảo hiệu quả, thiết thực. Chương trình đào tạo phải kết

hợp trang bị kiến thức chuyên môn với việc nâng cao nhận thức về chính trị, đạo đức nghề

nghiệp và kỹ năng nghiệp vụ xét xử. Kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ trang bị cần toàn

diện đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm tránh dàn trải. Trước mắt, trong điều kiện chưa thể

thực hiện việc đào tạo chung cho thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư thì Chương trình đào

tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán cần bổ sung thêm các nội dung liên quan đến vị trí, vai trò

và một số kỹ năng cơ bản của kiểm sát viên và luật sư trong hoạt động tố tụng. Trong quá

trình đào tạo cần tăng cường các hoạt động sinh hoạt chung giữa các lớp thẩm phán, kiểm

sát viên, luật sư như diễn án chung, thi hùng biện, tham gia tư vấn tại Trung tâm thực hành

nghề luật, tham gia thực hiện các chương trình Toà tuyên án mà hiện nay Học viện đang

thực hiện khá tốt. Trên cơ sở Chương trình đào tạo khung, các tổ bộ môn sẽ tổ chức

việc chỉnh lý, bổ sung hoặc biên soạn lại giáo trình, tài liệu tham khảo, hồ sơ tình

huống cho phù hợp. Trong thời gian tới cần đưa vào chương trình đào tạo bộ môn đạo

đức nghề nghiệp cho học viên thẩm phán. Giảm thời lượng cập nhật văn bản pháp luật

mới, pháp luật nội dung. Tập trung vào việc rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ xét xử, kinh

nghiệm và tác nghiệp cụ thể. Chương trình đào tạo thẩm phán phải đảm bảo thống nhất

với chương trình đào tạo các chức danh tư pháp khác như kiểm sát, luật sư; Chương

trình phải đảm bảo tính hiện đại, thiết thực và có cơ cấu hợp lý.

Việc xây dưng và hoàn thiện hệ thống giáo trình tài liệu phục vụ đào tạo thẩm phán

phải có bước đi cụ thể, trước mắt tiếp tục hoàn thiện các giáo trình, tài liệu có sẵn đào tạo

chung các chức danh thẩm phán luật sư kiểm sát viên. Bên cạnh bộ giáo trình, tiếp tục

chỉnh lý, biên tập bổ sung đề cương môn học, đề cương chi tiết bài giảng, khai thác, biên

tập và bổ sung mới các hồ sơ vụ án điển hình của ba loại án phục vụ cho bài học tình

huống của học viên, biên soạn ngân hàng đề thi. Loại bỏ những hồ sơ có tình tiết đơn giản

không phù hợp với ý đồ sư phạm, hồ sơ áp dụng các văn bản pháp luật đã hết hiệu lực.

Tiếp tục biên soạn các tài liệu tham khảo viết bài các tạp chí khoa học xây dựng nguồn tư

liệu học tập phong phú đa dạng cung cấp kịp thời theo các đề cương môn học cho học

viên.

3.2.2.2. Áp dụng triệt để phương pháp đào tạo tích cực

Các Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII và Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII của

Đảng Cộng Sản Việt Nam đều chỉ ra vấn đề phải đổi mới các phương pháp đào tạo trong

hệ thống giáo dục hiện nay. Thể chế hoá những quan điểm chỉ đạo nêu trên của Đảng, Luật

Giáo dục đã đưa ra định hướng đổi mới phương pháp đào tạo để đáp ứng các yêu cầu của

xã hội. Theo đó, phương pháp đào tạo phải hướng tới việc phát huy tính tích cực, chủ

động, sáng tạo của người học.

Phương pháp đào tạo là một trong các yếu tố quyết định đến chất lượng đào tạo. Do

vậy cần quán triệt đội ngũ giảng viên, đặc biệt là giảng viên kiêm chức, về vai trò, tầm

quan trọng của phương pháp đào tạo tích cực, bảo đảm áp dụng hiệu quả phương pháp đào

tạo tích cực trong quá trình đào tạo tại Học viện Tư pháp, tăng cường đối thoại, học theo

nhóm nhỏ, toạ đàm, diễn án, sử dụng mô hình để phát huy tính sáng tạo của học viên; tổ

chức hội thảo để hướng dẫn, trao đổi, thống nhất các biện pháp và quy trình áp dụng

phương pháp đào tạo đến từng giảng viên. Tiến hành khảo sát, đánh giá các phương pháp

hiện có, học tập kinh nghiệm của nước ngoài và các cơ sở đào tạo, trên cơ sở đó lựa chọn

các phương pháp đào tạo thích hợp có thể áp dụng hiệu quả tại Học viện Tư pháp. Trong

thời gian tới về việc hoàn thiện phương pháp đào tạo nghề cần tập trụng một số vấn đề sau:

Thứ nhất: Việc sử dụng phương pháp đào tạo phải linh hoạt, phù hợp với tính chất

của từng nội dung trong chương trình đào tạo. Đối với các bài giảng lý thuyết thì phương

pháp chủ đạo nên được sử dụng là phương pháp thuyết trình. Phương pháp này có ưu điểm

là đồng thời truyền đạt được lượng thông tin lớn cho nhiều học viên để đảm bảo tính thống

nhất trong nội dung bài giảng, nhằm tạo mặt bằng kiến thức lý thuyết cho các học viên.

Tuy nhiên, việc sử dụng phương pháp thuyết trình cũng phải tính tới các đặc thù của hoạt

động đào tạo nghề. Các nội dung của bài học phải được minh họa bằng các tình huống

thực tiễn sinh động. Giảng viên lên lớp cần trao đổi với học viên để cải thiện không khí lớp

học, tránh tình trạng học viên hoàn toàn thụ động khi lên lớp.

Thứ hai: Cải thiện phương pháp giải quyết tình huống bằng cách xây dựng quy trình

tiến hành các giờ học tình huống và tập huấn cho đội ngũ giảng viên và học viên để học

viên có thể làm chủ được phương pháp đào tạo này. Tăng cường phương pháp thảo luận

theo nhóm để rèn luyện phương pháp làm việc tập thể đồng thời phát huy tính tự chịu

trách nhiệm của cá nhân.

Thứ ba: Kết hợp quá trình đào tạo trên lớp với quá trình tự đào tạo ở nhà bằng cách

giao các nhiệm vụ cụ thể mà học viên phải giải quyết ngoài giờ lên lớp với cơ chế kiểm

tra, giám sát và đánh giá hữu hiệu. Các nhiệm vụ mà học viên phải thực hiện ngoài giờ lên

lớp có thể là : Viết tiểu luận theo đề tài có sẵn hoặc theo đề tài học viên tự chọn; viết thu

hoạch nghiên cứu hồ sơ tình huống; soạn thảo các văn bản tố tụng và các loại văn bản

khác....

Thứ tư: Tăng cường hiệu quả các giờ học diến án chung giữa các chức danh tư pháp.

Cần gia tăng các giờ học diễn án đóng vai. Lịch diễn án, hồ sơ diễn án và các vai diễn cụ

thể của các học viên phải được công bố từ đầu khóa học theo nguyên tắc mọi học viên đều

phải tham gia diễn án dưới các vai khác nhau, phù hợp với nghề nghiệp mà học viên theo

học. Các buổi diễn án của học viên cần được quay bằng Video để chiếu lại cho học viên

xem và rút kinh nghiệm. Các học viên trực tiếp tham gia diễn án cần viết bản thu hoạch

diễn án trong đó có nhận xét về từng vai diễn và đề xuất ý kiến cá nhân về đường lối giải

quyết vụ việc theo các diễn biến tại phiên tòa giả định.

Cùng với việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì phải gắn với đổi mới phương pháp

học của học viên. Nếu chỉ đơn phương đổi mới giảng dạy của giảng viên thì đổi mới

phương pháp đào tạo không thành công. Ngoài ra cần tạo động lực để các giảng viên tham

gia phong trào đổi mới phương pháp giảng dạy, tổ chức các cuộc thi giảng dạy giỏi trong

nhà trường.

3.2.2.3. Xây dựng đội ngũ giảng viên vững mạnh, vừa giỏi về chuyên môn, vừa

tinh thông về nghiệp vụ xét xử, có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với giảng viên

Giảng viên là nhân tố quan trọng quyết định đến chất lượng đào tạo. Đào tạo thẩm

phán là hoạt động đào tạo nghề có nhiều đặc thù, đòi hỏi phải có đội ngũ giảng viên giỏi về

pháp luật, giàu kinh nghiệm thực tiễn. Hàng năm cần tiến hành khảo sát, nắm thực trạng về

số lượng, chất lượng đội ngũ giảng viên bao gồm cả giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh

giảng. Trên cơ sở đó có kế hoạch phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ

giảng viên của Học viện bằng cách tuyển dụng, tiếp nhận hoặc gửi đi đào tạo những người

có trình độ chuyên môn, có năng lực nghiên cứu, phương pháp giảng dạy tốt. Thường

xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của

học viên cho đội ngũ giảng viên. Đồng thời tăng kiến thức thực tiễn đối với giảng viên

thuộc biên chế của Học viên, bằng cách tạo điều kiện cho họ tiếp cận và rèn luyện các kỹ

năng hành nghề của thẩm phán như tham gia làm Hội thẩm nhân dân; tham gia một số hoạt

động tố tụng với các thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư có nhiều kinh nghiệm Đẩy mạnh

hoạt động của Trung tâm thực hành nghề luật để giảng viên có điều kiện tham gia các hoạt

động thực tiễn. Bên cạnh đó cần hết sức quan tâm xây dựng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng

là các thẩm phán giỏi đã và đang hành nghề trong thực tiễn. Xây dựng, thực hiện chính

sách và chế độ đãi ngộ phù hợp về thù lao đối với giảng viên nói chung đặc biệt giảng viên

thỉnh giảng. Tạo điều kiện thuận lợi trong việc bố trí sắp xết công việc của các giảng viên

thỉnh giảng. Thực hiện việc ký hợp đồng giảng dạy theo thời hạn với thẩm phán đã nghỉ

hưu có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có sức khoẻ, có đạo đức và tâm huyết với

công tác đào tạo. Tranh thủ, thu hút sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế, vận động các

chuyên gia uy tín của các nước trên thế giới tham gia vào công tác đào tạo thẩm phán ở các

lĩnh vực liên quan. Tuy vậy, để tạo ra chuyển biến mạnh về chất lượng đội ngũ giảng viên

cần phải nghiên cứu, học tập xây dựng cơ chế luân chuyển và điều động giảng viên như

một số nước trên thế giới theo hướng: Toà án nhân dân tối cao điều động biệt phái các

thẩm phán giỏi, có khả năng sư phạm về làm công tác giảng dạy có thời hạn tại Học viện

Tư pháp, hết thời hạn này họ lại trở về cơ quan cũ.

Những cải cách, đổi mới chương trình đào tạo chỉ có thể thực hiện dược khi có sự đổi

mới tư duy của người đào tạo: Từ chỗ coi người thầy là trung tâm chuyển sang coi người

học là trung tâm. Các giảng viên Học viên Tư pháp cần phải làm tất cả mọi việc cần thiết

để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho học viên học tập đạt kết quả tốt nhất.

3.3.2.4. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và sử dụng hiệu quả kết quả

nghiên cứu khoa học vào công tác đào tạo

Trong các cơ sở đào tạo nói chung và Học viên tư pháp nói riêng, việc giảng dạy và

nghiên cứu khoa học là hai công việc có vai trò quan trọng như nhau và gắn bó chặt chẽ

với nhau. Muốn giảng dạy, học tập tốt thì cần phải nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực

tiễn của đời sống pháp lý, nhất là những vấn đề về đào tạo nghề luật, sự nghiệp cải cách tư

pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta. Những kết quả nghiên cứu đạt được

sẽ góp phần thiết thực phục vụ cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công cuộc

cải cách tư pháp.

3.2.2.5. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, đảm bảo nhuồn kinh phí đào tạo thường

xuyên cho chức danh tư pháp trong đó có đào tạo thẩm phán

Cần xác định rõ và dành khoản kinh phí thỏa đáng cho công tác đào tạo thẩm phán.

Trước mắt tích cực tập trung triển khai thực hiện dự án xây dựng cơ sở tại Thành phố Hồ

Chí Minh, ưu tiên xây dựng phòng học thực hành tin học và phòng đọc. Đảm bảo tiến độ

xây dựng Trụ sở Học viện Tư pháp tại Hà nội theo đúng kế hoạch đầu tư hàng năm.. Triển

khai đề án nâng cấp thư viện, đầu tư trang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động đào tạo.

Thực hiện đề án liên kết thư viện điện tử của Học viên Tư pháp với các cơ sở đào tạo khác.

Triển khai xây dựng và thực hiện đề án “áp dụng các biện pháp công nghệ thông

tin nhằm nâng cao chất lượng đào tạo các chức danh tư pháp” theo đó nâng cấp website

Học viên Tư pháp thành cổng thông tin điện tư của Học viện. Tin học hóa quản lý đào

tạo. Áp dụng công nghệ thông tin đào tạo trực tuyến với cơ sở miền nam, trong việc

kiểm tra đánh giá chất lượng học viên.

Xây dựng kho cơ sở dữ liệu về tài liệu giảng dạy, học tập video phiên tòa giả định;

chương trình tòa tuyên án; số hóa các CD-ROM về tài liệu học tập về hồ sơ tình huống;

Chuyển tải các tài liệu giảng dạy và học tập lên mạng internet để học viên và giảng viên tra

cứu thuận lợi...

3.2.2.6. Tăng cường phối hợp giữa Bộ Tư pháp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao trong hoạt động đào tạo

Trong thời gian qua, giữa Học viện Tư pháp và các đơn vị chức năng của Toà án

nhân dân tối cao, các Toà án địa phương đã có một số hoạt động phối hợp trong công

tác tuyển sinh; xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, giáo trình, tài liệu tham khảo;

tổ chức việc thực tập cho học viên… Tuy vậy, nhiều hoạt động phối hợp chưa có cơ

chế chính thức (ví dụ, việc phân công giáo viên là thẩm phán tham gia giảng dạy cho

Học viện; quản lý học viên trong thời gian theo học tại Học viện; xét điều kiện tốt

nghiệp cho học viên; việc tham gia xây dựng chương trình, giáo trình, tài liệu tham

khảo) nên sự phối kết hợp chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Nhằm tăng cường hơn nữa

sự phối hợp trong công tác đào tạo các chức danh tư pháp, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân

dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần phối hợp ban hành văn bản liên tịch (có

thể dưới hình thức Thông tư liên tịch hoặc Nghị quyết liên tịch của Ban cán sự Đảng)

về công tác đào tạo nhằm tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong tất cả các khâu:

xây dựng chương trình, chuẩn bị giáo trình, tài liệu; tuyển sinh; quản lý học viên; tổ

chức thực tập; đánh giá điều kiện tốt nghiệp ra trường; điều động giảng viên giỏi tham

gia giảng dạy…

Tóm lại: Trong bối cảnh nước ta hiện nay, thực hiện đồng bộ, hữu hiệu những giải

pháp nêu trên nhất định sẽ góp phần tạo nên sự chuyển biến đáng kể trong đào tạo thẩm

phán, nâng cao nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp Để

nâng cao chất lượng, từng bước mở rộng quy mô đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán, cần

áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp từ việc tiếp tục hoàn thiện Chương trình đào tạo; nâng

cao chất lượng đầu vào; củng cố, kiện toàn đội ngũ giảng viên; đổi mới phương pháp đào

tạo... đến việc xây dựng, vận hành hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành hữu quan,

nhất là Toà án nhân dân tối cao trong hoạt động đào tạo và tăng cường cơ sở vật chất kỹ

thuật phục vụ hoạt động đào tạo thẩm phán. Các giải pháp trên đây cần được áp dụng đồng

bộ, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ với mục tiêu

xuyên suốt là tạo chuyển biến mạnh về chất lượng đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán, đáp

ứng yêu cầu về nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ công cuộc cải cách tư pháp, cải

cách pháp luật, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập kinh tế quốc

tế.

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Xuất phát từ thực trạng đội ngũ thẩm phán hiện nay và thực trạng đào tạo thẩm phán

của Học viên Tư pháp, trên cơ sở phương hướng và các biện pháp đổi mới công tác đào

tạo thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi nhiệm vụ xét xử của đội ngũ

thẩm phán theo tinh thần cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa và hội nhập quốc tế. Bài học kinh nghiệm từ nghiên cứ các mô hình đào tạo thẩm

phán của một số nước trên thế giới trong chương một, tác giả đề xuất một số kiến nghị cụ

thể sau:

Thứ nhất: Tổ chức kỳ thi tuyển quốc gia, để mở rộng nguồn dự tuyển đối tượng học

viên đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán

Hiện nay đang áp dụng chế độ cử tuyển, theo đó, Toà án nhân dân tối cao lựa chọn,

cử người đi học các lớp đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán. Do phạm vi lựa chọn bị hạn

chế nên chất lượng đầu vào còn thấp, trình độ không đồng đều, ảnh hưởng đến chất lượng

đào tạo. Để nâng cao chất lượng đầu vào, đề nghị cho thí điểm tổ chức thi tuyển quốc gia

để lựa chọn những người giỏi đào tạo nguồn các chức danh tư pháp. Cần mở rộng đối

tượng dự thi tuyển sinh đầu vào để theo học các lớp đào tạo nguồn thẩm phán, kiểm sát

viên, luật sư. Điều kiện bắt buộc để dự thi là phải có bằng cử nhân luật. Những người đang

trong biên chế của Toà án hay Viện kiểm sát cũng phải đăng ký dự thi như những người

bình thường khác. Để đảm bảo tính khách quan, kỳ thi tuyển sinh quốc gia phải được điều

hành bởi một Hội đồng tuyển sinh độc lập với các thành viên là đại diện của Toà án nhân

dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Liên đoàn Luật sư toàn quốc. Hội

đồng tuyển sinh sẽ chỉ định Ban giám khảo gồm các thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư,

giảng viên luật giỏi, có bề dày kinh nghiệm thực tiễn và đào tạo. Kỳ thi tuyển sinh phải

được tổ chức gồm nhiều vòng thi với các hình thức thi và môn thi khác nhau, từ vòng sơ

loại hồ sơ đến vòng thi viết và vòng thi vấn đáp. Kỳ thi tuyển sinh đầu vào phải được tổ

chức hết sức nghiêm túc, chính xác, công khai và công bằng với sự phối hợp chặt chẽ của

các cơ quan chức năng có liên quan.

Mở rộng nguồn dự tuyển để chọn được những người thực sự giỏi, tâm huyết với

nghề, vào học các lớp đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán với giải pháp mang tính đột phá

là tổ chức kỳ thi tuyển quốc gia.

Thứ hai: Cần phải đào tạo chung cho thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư trong một

chương trình.

Qua nghiên cứu mô hình đào tạo thẩm phán nhiều nước trên thế giới ở chương một

cho thấy, nhiều nước trên thế giới tiến hành đào tạo chung các chức danh tư pháp. Ví dụ,

Nhật Bản đào tạo 3 chức danh thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư trong một chương trình

chung thống nhất với 3 nhóm nội dung chính là xét xử, biện hộ, công tố. Cộng hoà Pháp

đào tạo chung 2 chức danh là thẩm phán và công tố viên (kiểm sát viên) trong một chương

trình chung. Nhiều nước khác tuy không có thiết chế đào tạo riêng cho thẩm phán nhưng

thẩm phán được lựa chọn bổ nhiệm trong số những luật sư giỏi nên họ am hiểu rất sâu sắc

nghiệp vụ của luật sư. Ở Việt Nam chủ trương đào tạo chung 3 chức danh thẩm phán, kiểm

sát viên, luật sư trong một chương trình được triển khai khá sớm. Ngay từ năm 2004, Bộ

Tư pháp đã giao cho Học viện Tư pháp chủ trì, phối hợp với các đơn vị chức năng của Toà

án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao xây dựng Chương trình chung đào tạo

thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư. Từ niên học 2006-2007, Học viện Tư pháp đã tiến hành

đào tạo chung cho 2 chức danh thẩm phán và kiểm sát viên nhưng sau đó, do Viện

KSNDTC không cử cán bộ đi học nên việc đào tạo chung này tạm thời bị gián đoạn. Hiện

nay, việc đào tạo nguồn thẩm phán đang được thực hiện độc lập với hoạt động đào tạo

kiểm sát viên và luật sư.

Chúng tôi cho rằng, việc đào tạo 3 chức danh thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư trong

một chương trình có nhiều lợi thế. Trước hết, thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư là ba chức

danh có quan hệ mật thiết với nhau trong các hoạt động tố tụng; nếu họ hiểu được kỹ năng

nghề nghiệp của nhau sẽ nhanh chóng thống nhất ý kiến khi đánh giá về cùng một vấn đề,

giúp giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật và phù hợp với các tình tiết

khách quan. Việc đào tạo thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên trong một chương trình thống

nhất tạo điều kiện thuận lợi cho việc luân chuyển công tác giữa các chức danh này, tạo

điều kiện thực hiện được chủ trương rất quan trọng của Nghị quyết số 49-NQ/TW là “mở

rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp, không chỉ là cán bộ trong các cơ quan

tư pháp, mà còn là các luật gia, luật sư". Bên cạnh đó, việc thống nhất đào tạo các chức

danh tư pháp tạo điều kiện cho việc tập trung năng lực đào tạo (giáo viên, giáo trình, tài

liệu, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động đào tạo) và tạo nhiều thuận lợi cho

việc tổ chức thực hiện các khoá đào tạo (tổ chức các buổi diễn án, thảo luận, toạ đàm khoa

học...).

Thứ ba: Chú trọng hoạt động đào tạo theo định kỳ bắt buộc (đào tạo lại).

Hiện nay, việc đào tạo lại theo định kỳ bắt buộc (đào tạo lại) chưa được quy định mà

trong quá trình hành nghề các thẩm phán chỉ được bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày (3-5

ngày) theo từng chuyên đề cụ thể, nhất là khi có văn bản pháp luật mới được ban hành.

Việc đào tạo để nâng cao chất lượng đội ngũ các chức danh tư pháp đương nhiệm một

cách có hệ thống, bài bản vẫn chưa được thực hiện. Hiện nay, chưa có chương trình đào

tạo lại nhằm hệ thống hoá lại những kỹ năng nghề nghiệp; chưa có chương trình đào tạo

theo từng chuyên đề nghiệp vụ, như: chương trình đào tạo chuyên về pháp luật quốc tế và

kỹ năng xét xử đối với vụ án có yếu tố nước ngoài; chưa có chương trình đào tạo cho các

thẩm phán chuyên về giải quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ, đất đai, nhà ở… Do chưa được

đào tạo lại nên các thẩm phán không có cơ hội, điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ, trong khi việc đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán hiện nay chỉ đặt ra mục tiêu

trang bị kỹ năng nghề nghiệp cơ bản ban đầu cho người được bổ nhiệm thẩm phán cấp

huyện. Đào tạo “trong công vụ theo định kỳ bắt buộc” là một chủ trương lớn của Đảng.

Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung

ương Khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, quản lý của bộ máy

nhà nước đã chỉ đạo: “Thực hiện cơ chế đào tạo tiền công vụ và đào tạo, bồi dưỡng trong

công vụ theo định kỳ bắt buộc hàng năm; thực hiện chế đội đào tạo, bồi dưỡng trước khi

bổ nhiệm”. Để thực hiện được việc đào tạo lại theo định kỳ bắt buộc cần nghiên cứu sửa

đổi, bổ sung Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân để bổ sung bắt buộc

việc đào tạo lại theo định kỳ đối với những người đã được bổ nhiệm thẩm phán. Nội dung

chính của việc đào tạo lại là trang bị và hệ thống hoá các kỹ năng nghiệp vụ theo yêu cầu

công việc; cập nhật các kiến thức pháp luật mới; trang bị những kỹ năng nghiệp vụ chuyên

sâu về từng lĩnh vực hoạt động cho từng đối tượng cụ thể

Thứ tư: Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác đào tạo các

chức danh tư pháp nói chung và đào tạo thẩm phán nói riêng

Hoàn thiện chính sách quản lý công tác đào tạo thẩm phán: Trên cơ sở rà soát hiệu

lực các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đào tạo chức danh tư pháp nói chung,

đào tạo thẩm phán nói riêng, Bộ Tư pháp tiến hành xem xét các văn bản trong phạm vi

thẩm quyền trực tiếp sửa đổi hoặc kiến nghị cơ quan chức năng thay thế hoặc sửa đổi, bổ

sung những văn bản không đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Xây dựng, ban hành những văn bản

mới về quản lý đào tạo thẩm phán trong đặc thù tình hình cải cách tư pháp và hội nhập

quốc tế hiện nay. Bộ Tư pháp phối hợp với các bộ, ngành tòa án nhân dân tối cao thực hiện

quản lý vĩ mô tập trung vào việc xây dựng quy hoạch; kế hoạch; phân bổ chỉ tiêu; kinh phí;

xây dựng chương trình khung đào tạo và hướng tổ chức thực hiện; kiểm tra; giám sát việc

thực hiện công tác đào thẩm phán của Học viên Tư pháp. Bộ tư pháp cần tăng quyền tự

chủ cho Học viên Tư pháp trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện

cho Học viên Tư pháp nâng cao chất lượng đào tạo. Tăng cường sự phối hợp giữa bộ tư

pháp với các bộ ngành liên quan trong việc lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn hoạt động đào tạo

thẩm phán của Học viện Tư pháp. Quan tâm kiện toàn về tổ chức bộ máy của cơ quan Học

viên Tư pháp.

KẾT LUẬN

1. Để phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam

hiện nay, việc đào tạo nghiệp vụ xét xử cho đội ngũ cán bộ tòa án đủ điều kiện về năng lực

chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức, bản lĩnh và trách nhiệm nghề nghiệp, bổ nhiệm

chức danh thẩm phán là vô cùng cần thiết và cấp bách. Để đào tạo thẩm phán đi đúng

hướng cần nắm vững các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải

cách tư pháp, đặc biệt chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho cải cách tư pháp, hoàn thiện

hệ thống pháp luật của nước ta đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

2. Cần nghiên cứu cụ thể, sát thực về mặt lý luận quy trình đào tạo thẩm phán và

điều tra để thấy rõ nhu cầu của ngành tòa án, của xã hội đối với việc đào tạo đội ngũ cán

bộ nguồn bổ nhiệm chức danh thẩm phán, có trình độ chuyên môn, có phẩm chất chính trị,

nhằm phục vụ đắc lực, hiệu quả cho sự nghiệp cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế ở Việt

Nam hiện nay.

3. Để đi tắt, đón đầu và đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp,

hình thức đào tạo thẩm phán và sử dụng đội ngũ cán bộ được đào tạo để bổ nhiệm thẩm

phán có trình độ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cải cách tư pháp, cần nghiên cứu tham

khảo và tiếp thu rộng rãi những kinh nghiệm tiên tiến của các nước khác trong khu vực và

trên thế giới phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

4. Để đáp ứng tốt những yêu cầu đối với việc đào tạo thẩm phán trong giai đoạn hiện

nay phục vụ sự nghiệp cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, cần nắm vững thực trạng đội

ngũ thẩm phán đã được đào tạo đang trực tiếp tham gia nhiệm vụ xét xử của ngành tòa án

cũng như thực trạng đào tạo thẩm phán. Có như vậy mới thấy được và phát huy những ưu

điểm, thành công của công tác đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ đã được đào tạo nghiệp vụ

xét xử của Học viện Tư pháp. Đồng thời khắc phục những nhược điểm và khiếm khuyết

của quá trình đổi mới đào tạo thẩm phán, trong thời gian tới.

5. Cần nêu rõ quan điểm và quán triệt mục tiêu, yêu cầu của cải cách tư pháp đến

năm 2020 và xác định tiêu chí về năng lực chuyên môn, đạo đức, phẩm chất cần thiết của

đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp trong thời gian tới ở nước ta. Để

từ đó xác định được một cách đầy đủ những giải pháp cụ thể về đổi mới công tác đào tạo

thẩm phán nhằm đáp ứng sự nghiệp cải cách tư pháp của nước ta.

6. Để đào tạo được một đội ngũ cán bộ nguồn bổ nhiệm chức danh thẩm phán có

năng lực chuyên môn, có phẩm chất chính trị, đạo đức, bản lĩnh và trách nhiệm nghề

nghiệp phục vụ cải cách tư pháp, cần phải đề ra và thực hiện một hệ thống đồng bộ, toàn

diện các giải pháp cụ thể và thiết thực. Đó là các giải pháp đổi mới chương trình, tài liệu học

tập cho người học, phương pháp giảng dạy của giảng viên, phương pháp học tập của người

học, nâng cao trình độ của giảng viên cũng như đãi ngộ xứng đáng cho giảng viên, đẩy mạnh

công tác nghiên cứu khoa học pháp lý. Bên cạnh đó, còn cần đổi mới mạnh mẽ phương thức

tuyển chọn đối tượng học viên đào tạo thẩm phán, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các

cơ quan liên quan trong hoạt động đào tạo thẩm phán, và việc thường xuyên bồi dưỡng sau

đào tạo cho đội ngũ thẩm phán./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2002), Nghị quyết 08 - NQ/ TW

ngày 2-1-2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian

tới.

2. Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2005), Nghị quyết 49-NQ/ TW ngày 2-6-

2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

3. Bộ Giáo dục Đào tạo (2005), Đề án Đổi mới giáo dục Việt Nam.

4. Bộ Tư pháp (2007), Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp

địa phương, Đề tài khoa học cấp bộ.

5. Bộ Tư pháp (2008), Phương pháp đào tạo các chức danh Tư pháp năm 2009 – Bộ Tư

pháp, (Khảo sát tháng 3/2008), Đề tài khoa học cấp bộ.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đại học Luật Hà Nội (2006), Đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho

việc hội nhập quốc tế của Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ.

8. Giáo dục học (2008), Nxb Hà Nội.

9. Học viện Tư pháp (2003), Đề án xây dựng, ngày 11/8/2003.

10. Học viện Tư pháp (2004), Xây dựng chương trình đào tạo kiểm sát viên – Một số vấn

đề lý luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp cơ sở.

11. Học viện Tư pháp (2004), Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng môn đạo đức nghề

nghiệp tư pháp cho các chức danh tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ.

12. Học viện Tư pháp (2006), Đào tạo các chức danh tư pháp phục vụ công cuộc cải

cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp cơ sở.

13. Học viện Tư pháp (2008), Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng tập hệ thống hóa các vụ

án điển hình dùng làm tài liệu cho công tác đào tạo các chức danh tư pháp, Đề

tài khoa học cấp bộ.

14. Học viện Tư pháp (2009), Hoàn thiện phương pháp đào tạo các chức danh tư pháp,

Đề tài khoa học cấp bộ.

15. Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội.

16. V.I.Lênin (1963), Bút ký triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội.

17. C.Mác (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

18. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992.

19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Pháp lệnh Thẩm phán

và Hội thẩm Tòa án nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Tạp chí Nghề Luật số 1/2003, số 1/2007, số 3/2008, số 4/2009.

21. Tạp chí Thông tin Khoa học pháp lý, số tháng 3/2009

22. TS. Trần Đình Thắng (2009), Xây dựng đội ngũ cán bộ Tư pháp theo yêu cầu của nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà

Nội.

23. Đỗ Gia Thư (2006), Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Luận án

Tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và pháp luật.

24. Toà án nhân dân tối cao (2003), Các quy định hiện hành về tổ chức Tòa án nhân dân,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Toà án nhân dân tối cao (2004), Đào tạo thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao, Đề

tài khoa học.

26. Toà án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo Tổng kết của ngành Tòa án năm 2008.

27. Toà án nhân dân tối cao (2008), Đề án xây dựng Tòa án khu vực của Tòa án Nhân

dân tối cao năm 2008.

28. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sâm (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong

nhà trườn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

30. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2008), Lý luận dạy đại học, Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

31. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2008), Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo,

Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

32. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2009), Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý

giáo dục, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

33. Từ điển Giáo dục học (2001), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

34. Từ điển Tiếng Việt (1999), Nxb Đà Nẵng.

35. www.wikipedia.org: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Tiếng Việt .

36. www.cpv.org.vn: Trang thông tin điện tử Chính phủ.