
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 489 - THÁNG 4 - SỐ 2 - 2020
145
không tìm thấy điều này trong kết quả nghiên
cứu của chúng tôi những người chăm sóc trẻ
bỏng có được nhận thông tin về sơ cứu bỏng thì
thực hành sơ cứu bỏng đạt 71,4% so với người
không được nhận thông tin sơ cứu bỏng chỉ đạt
28,6% nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê với p >0,05.
Kiến thức là yếu tố tác động trực tiếp tới thực
hành; Nếu kiến thức về tai nạn bỏng và cách
phòng tránh, sơ cứu chưa đúng và chưa đầy đủ,
sẽ trở thành rào cản dẫn đến sự chậm trễ trong
sơ cứu ban đầu và tiếp cận dịch vụ y tế để có
thể hạn chế tử vong và phòng tránh biến chứng.
V. KẾT LUẬN
Thực hành sơ cứu bỏng tại nhà của người dân
tỉnh Bình Định còn thấp; số người có thực hành
sơ cứu bỏng cho trẻ ở mức độ đạt chiếm 23%. Có
mối liên quan giữa kiến thức của những người
chăm sóc trẻ và thực hành sơ cứu bỏng tại nhà
cho trẻ; những người có kiến thức ở mức độ đạt
thì thực hành sơ cứu bỏng đạt cao hơn gấp 4,2
lần so với những người kiến thức ở mức độ không
đạt, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Xây dựng kế hoạch Chương trình phòng chống
tai nạn thương tích trẻ em tại địa phương cần
tăng cường hoạt động truyền thông giáo dục sơ
cứu bỏng nhiệt tại cộng đồng, tập trung hướng
dẫn chi tiết các bước sơ cứu ngay sau khi tai nạn
bỏng xảy ra và nhấn mạnh tầm quan trng của
việc làm mát vết bỏng bằng nước sạch, mát, thời
gian cần thiết để làm mát vết bỏng và khuyến cáo
không sử dụng các phương pháp không khoa hc
bôi trực tiếp lên vùng bỏng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Vũ Anh (2006), "Tình hình chấn thương và
các yếu tố ảnh hưởng ở trẻ dưới 18 tuổi tại 6 tinh
Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Trị, Thừa Thiên
Huế, cần Thơ, Đồng Tháp", Tạp chí Y tế Công
cộng. 5(5), tr. 27.
2. Vũ Mạnh Độ (2008), "Nhận xét chăm sóc sơ cứu
bỏng ban đầu người bệnh bỏng đến khám và điều trị
tại khoa Chấn thương bệnh viện ĐK Nam Định
10/2006 ‐ 08/2007", Nâng cao sức khỏe người Việt.
3. Thái Quang Hùng (2006), "Dịch tể hc chấn
thương do bỏng ở bệnh nhân nhập viện điều trị tại
bệnh viện Daklak 1998 ‐ 2002", Tạp chí Y tế Công
cộng. 3(3), tr. 23-26.
4. Nguyễn Như Lâm, Phạm Hồ Điệp và Chu Anh
Tuấn (2015), "Đánh giá thực trạng sơ cấp cứu,
vận chuyển bệnh nhân bỏng hàng loạt tại các một
số cơ sở y tế", Tạp chí Y hc thảm ha và bỏng. 2
5. Nguyễn Thị Hải Lê và các cộng sự. (2017),
"Mối liên quan giữa tiếp cận với truyền thông và
kiến thức phòng lây nhiễm HPV ở phụ nữ 15-49
tuổi: Kết quả từ một can thiệp tại Chí Linh, Hải
Dương", Tạp chí Y hc dự phòng. 27(5), tr. 177-185.
6. Lâm Thị Thu Tâm, Susan Norwood và Trần
Thiện Trung (2013), "Kiến thức và thái độ của
người dân về sơ cứu bỏng tại quận Tân Phú, thành
phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Y hc thành phố Hồ Chi
MInh. 17(4), tr. 223-228.
7. Alomar, M., Rouqi, F. A., and Eldali, A.
(2016), "Knowledge, attitude, and belief
regarding burn first aid among caregivers
attending pediatric emergency medicine
departments", Burns. 42(4), pp. 938-43.
8. Chirongoma, F., Chengetanai, S., and
Tadyanemhandu, C. (2017), "First aid practices,
beliefs, and sources of information among
caregivers regarding paediatric burn injuries in
Harare, Zimbabwe: A cross-sectional study",
Malawi Med J. 29(2), pp. 151-154.
9. Cox, S. G., et al. (2015), "A review of
community management of paediatric burns",
Burns. 41(8), pp. 1805-1810.
ĐẶT STENT TRỰC TIẾP HẸP THÂN CHÍNH ĐỘNG MẠCH VÀNH TRÁI:
NHÂN TRƯỜNG HỢP ĐẦU TIÊN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Nguyễn Thượng Nghĩa*
TÓM TẮT35
Hẹp thân chính động mạch vành (ĐMV) trái không
được bảo vệ (unprotected left main stenosis) là một
bệnh lý ĐMV nặng và trầm trng mà các bác sĩ (BS)
tim mạch thường ít nhận ra trên lâm sàng. Tiên lượng
trước mắt và dài hạn của bệnh lý này nếu không được
điều trị không mấy khả quan. Theo y văn, bệnh lý này
*Bệnh viện Chợ Rẫy
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thượng Nghĩa
Email: nghia2000@gmail.com
Ngày nhận bài: 5.2.2020
Ngày phản biện khoa hc: 3.4.2020
Ngày duyệt bài: 8.4.2020
thường được điều trị bằng phẫu thuật bắc cầu nối
ĐMV. Can thiệp hẹp thân chính ĐMV trái không được
bảo vệ vẫn còn bàn cãi. Gần đây, với sự phát triển
nhanh chóng của ngành Tim mạch hc can thiệp thì
can thiệp Hẹp thân chính ĐMV trái không được bảo vệ
bằng cách nong & đặt stent thân chính ĐMV trái
không còn là chống chỉ định tuyệt đối. Hiện nay, nhiều
BS Tim mạch hc can thiệp trên thế giới đã thực hiện
nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Tại bệnh viện Chợ
Rẫy, chúng tôi lần đầu tiên đã thành công trong đặt
stent trực tiếp để điều trị một bệnh nhân (BN) Hẹp
thân chính ĐMV trái không được bảo vệ và nhận thấy
rằng đây là một biện pháp điều trị khả thi và mang lại
kết quả tốt trên một số BN thích hợp.