MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................. 4
CHƯƠNG I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI PHÁT TRIỂN NGÀNH
CÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM ............................................................... 7
I. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài .......... 7
1. Khái niệm và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài ...................... 7
2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài ............................................ 8
II. Sự cần thiết phải tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát
triển ngành Công nghiệp Việt Nam ................................................................. 9
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với quá trình CNH của các nước đang
phát triển
...................................................................................................................9
2.Thực trạng ngành Công nghiệp Việt Nam và nhu cầu thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài ................................................................................. ..12
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM ....................................................... ..23
I. Qui mô và cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp
Việt Nam ...................................................................................................... ..23
1. Qui mô đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp .......... ..23
1
2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp .......... ..25
2.1 Cơ cấu theo chuyên ngành ............................................................. ..25
2.2 Cơ cấu theo hình thức đầu tư ......................................................... ..27
2.3 Cơ cấu theo địa bàn ......................................................................... ..28
2.4 Cơ cấu theo đối tác đầu tư .............................................................. 29
II. Tình hình thu hút và sử dụng FDI của một số chuyên ngành Công
nghiệp
1. Công nghiệp dầu khí ........................................................................... 31
2. Công nghiệp nặng ............................................................................... 38
3. Công nghiệp nhẹ ................................................................................. 51
4. Công nghiệp thực phẩm ...................................................................... 58
III. Những đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sự phát triển của
ngành Công nghiệp Việt Nam ...................................................................... 63
IV. Một số tồn tại, hạn chế đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành
Công nghiệp Việt Nam ................................................................................. 69
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT
FDI VÀO CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Mục tiêu và định hướng phát triển Ngành công nghiệp trong thời gian tới
1. Mục tiêu phát triển ngành Công nghiệp Việt Nam ......................... 76
2. Định hướng phát triển ngành Công nghiệp Việt Nam..................... 76
II. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả nguồn
2
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp trong thời gian tới
........................................................................................................................... 78
KẾT LUẬN ................................................................................................... ..92
3
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... ..94
LỜI NÓI ĐẦU
Trước đòi hỏi của thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như
những chuyển biến của bối cảnh quốc tế, Việt Nam đã tiến hành quá trình CNH,
HĐH nhằm thực hiện công cuộc đổi mới một cách toàn diện hơn. Tuy nhiên, do
xuất phát điểm của nước ta quá thấp, kém nhiều so với các nước trong khu vực
và trên thế giới, chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì chúng ta không thể thu
hẹp khoảng cách trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất, quản lý kinh doanh và
nhất là chất lượng sản phẩm, kỹ năng thâm nhập của hàng hoá nước ta vào thị
trường khu vực và thị trường thế giới. Trong điều kiện đó, để tiến hành CNH -
HĐH đất nước, đảm bảo duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế, thu hẹp khoảng
cách của nước ta và các nước trong khu vực, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào
phục vụ chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam là hết sức quan
trọng.
Thực tế cho thấy, trong mấy năm gần đây, dưới sự tác động tích cực của quá
trình cải cách môi trường đầu tư và kinh doanh, các biện pháp khuyến khích và
hỗ trợ của nhà nước, sự chủ động tích cực và sáng tạo của các doanh nghiệp
công nghiệp sản xuất Việt Nam đã đạt được những kết quả nổi bật đóng góp một
phần không nhỏ cho quá trình CNH, HĐH của đất nước (tốc độ tăng trưởng bình
quân của ngành công nghiệp khá cao (13,9%, tỷ trọng của công nghiệp trong
GDP liên tục tăng từ mức 23,5% năm 1996 lên mức 31,9% năm 2001...). Mà
đầu tư nước ngoài là một tác nhân quan trọng trong sự tăng trưởng này.
Cùng với chủ trương mở cửa của Đảng và Nhà nước, với Luật Đầu tư nước
ngoài (1987) đã từng bước tạo ra môi trường hấp dẫn để thu hút ngày càng nhiều
vốn đầu tư và làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam ngày
một đạt hiệu quả hơn. Ngay từ năm 1998, ngành Công nghiệp đã đặt việc thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong chiến lược phát triển của mình. Nguồn vốn
đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài tính đến cuối năm 2002 đạt 22,16 tỷ USD:
4
trong đó thời kỳ 1996-2000 đạt 11,6 tỷ USD, tăng 30% so với 5 năm trước với tỉ
trọng vốn trong tổng nguồn vốn ĐTNN không ngừng tăng lên, từ 41,5% giai
đoạn 1988-1990, lên 52,7% giai đoạn 1991-1995 và 60,3% giai đoạn 1996-
2002. Vốn thực hiện trong lĩnh vực này cũng đạt tỉ lệ cao nhất so với các lĩnh
vực khác và tỉ trọng tăng dần từ 46% thời kì 1998-1990 lên 56% thời kì 1991-
1995 và tăng lên 73% thời kì 1996-2002. Ngoài ra, tỷ trọng về doanh thu, xuất
khẩu hay số lao động đều cao hơn so với các ngành khác. Tuy nhiên trong tình
hình trong nước và thế giới có nhiều những thuận lợi và khó khăn khiến cho việc
thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp vẫn còn
nhiều hạn chế cần tháo gỡ, giải quyết.
Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề, em đã mạnh dạn chọn đề tài khoá
luận: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam: Thực
trạng và giải pháp” nhằm mục đích trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn thực
trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành công nghiệp của nước
ta hơn một thập kỷ qua, rút ra những kết luận cần thiết, đề ra chủ trương và một
hệ thống các giải pháp để thu hút và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn FDI vào
ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu của em là diễn giải - quy nạp: đưa ra những số
liệu thống kê của từng lĩnh vực trong ngành Công nghiệp để phân tích, đánh giá,
và kết luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Sự cần thiết phải tăng tường thu hút nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Ngành Công nghiệp Việt Nam
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công
nghiệp Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới
5
Qua bài viết này, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Phạm
Thị Mai Khanh, giảng viên Khoa Kinh tế Ngoại thương, Trường Đại học Ngoại
thương, người đã tận tình chỉ bảo, góp ý chu đáo để em có thể từng bước hoàn
thành bài viết của mình.
Hà Nội tháng 5 năm
2003
Sinh viên thực
hiện
6
Lê Thanh Hương
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI
1. Khái niệm và bản chất đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là hình thức
đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ
lớn vốn đầu tư vào các dự án, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành các
doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại. Sự ra đời và phát
triển của nó là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động
quốc tế. Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Nhìn chung đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem xét như một
hoạt động kinh doanh ở đó có yếu tố di chuyển vốn quốc tế và kèm theo sự di
chuyển vốn là chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và các ảnh hưởng kinh
tế xã hội khác đối với nước nhận đầu tư.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài có
thể được hiểu như là việc các tổ chức, các cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp
nhận để hợp tác với bên Việt Nam hoặc tự mình tổ chức các hoạt động sản xuất
kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
Dưới góc độ kinh tế có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức di
chuyển vốn quốc tế trong đó người sở hữu đồng thời trực tiếp tham gia điều
hành và quản lý hoạt động sử dụng vốn đầu tư.
7
Về bản chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản, một
hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn
bổ sung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của
các công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay. Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là
“tư bản thừa” xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng thực chất của vấn đề
đó là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan, khi mà quá trình
tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu
tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội, đến
độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy
mô sản xuất trên phạm vi quốc tế.
2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết
định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi.
Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng
buộc về chính trị, không để lại gánh nặng cho nền kinh tế.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên
doanh tuỳ theo tỷ lệ vốn góp của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ
đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số
lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên
nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% còn lại do nước chủ nhà nắm giữ.
Trong khi đó Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối
với hình thức 100% vốn nước ngoài và quy định bên nước nước ngoài phải góp
tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận
được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý,... là những
mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được.
- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ
8
đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, nó còn bao
gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như
vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM
Để làm rõ hơn vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá
trình CNH, HĐH của Việt Nam nói chung và Ngành Công nghiệp nói riêng, dưới
đây xin dành riêng một mục đề cập đến vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
các nước đang phát triển trong bối cảnh hiện nay.
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với quá trình CNH của các nước đang phát
triển
Có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến mức độ thành công khi thực hiện CNH
của các nước đang phát triển trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, trong số đó có
bốn yếu tố cơ bản nhất được xem là điều kiện quyết định khả năng thực hiện CNH
của các nước đang phát triển là vốn; công nghệ; kỹ thuật; nguồn nhân lực; cải
cách thể chế (thị trường, hội nhập...). Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình hoạt
động kinh tế hội tụ tương đối đầy đủ tiềm năng của bốn yếu tố trên. Có thể lý giải
tiềm năng đó như sau:
Lịch sử phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài cho thấy thái độ của các nước
tiếp nhận đầu tư là từ thái độ phản đối (xem đầu tư trực tiếp là công cụ cướp bóc
đối với thuộc địa), đến thái độ buộc phải chấp nhận, đến thái độ hoan
nghênh...Trong điều kiện thế giới hiện nay đầu tư trực tiếp được mời chào,
khuyến khích mãnh liệt. Trên thực tế đang diễn ra trào lưu cạnh tranh quyết liệt
trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặc dù, hiện còn nhiều tranh luận,
còn những ý kiến khác nhau về vai trò, về mặt tích cực, tiêu cực...của đầu tư trực
tiếp nước ngoài đối với nước tiếp nhận đầu tư, nhưng chỉ điểm qua nhu cầu, qua
trào lưu cạnh tranh thu hút cũng đủ cho ta khẳng định rằng đầu tư trực tiếp nước
9
ngoài hiện nay, đối với các nước nhận đầu tư, có tác dụng tích cực là chủ yếu, đa
phần các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài khi thực hiện đều đưa lại lợi ích cho
nước nhận đầu tư. Đối với nhiều nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đóng
vao trò là điều kiện, là cơ hội, là cửa ngõ giúp thoát khỏi tình trạng của một nước
nghèo, bước vào quỹ đạo của sự phát triển và thực hiện công nghiệp hoá. Vậy
xuất phát từ những kỳ vọng nào mà hầu hết các nước đang phát triển lại có nhu
cầu lớn về đầu tư trực tiếp nước ngoài như vậy?
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng giải quyết có hiệu quả
những khó khăn về vốn cho công nghiệp hoá. Đối với các nước nghèo, vốn được
xem là yếu tố cơ bản, là điều kiện khởi đầu quan trọng để thoát khỏi đói nghèo và
phát triển kinh tế. Thế nhưng, đã là nước nghèo thì khả năng tích luỹ vốn hay huy
động vốn trong nước để tập trung cho các mục tiêu cần ưu tiên là rất khó khăn, thị
trường vốn trong nước lại chưa phát triển. Trong điều kiện của thời kỳ đầu tiến
hành công nghiệp hoá, nhìn chung các nước đang phát triển đều gặp rất hiều khó
khăn: mức sống thấp, khả năng tích luỹ kém, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, công
nghệ kỹ thuật lạc hậu, mức đầu tư thấp nên kém hiệu quả, ít có điều kiện để xâm
nhập, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thiếu khả năng tiếp cận với khoa học kỹ
thuật tiên tiến của thế giới...Giải pháp của các nước đang phát triển lúc này là tìm
đến với các nguồn đầu tư quốc tế. Trước khi tiến hành đầu tư các nhà đầu tư nước
ngoài thường có sẵn một số điều kiện cơ bản như vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản
lý, khả năng thị trường...tức là nhà đầu tư đã dự báo được phần nào hiệu quả có
thể thu được đồng vốn đầu tư. Hay nói cách khác, các nhà đầu tư chỉ xin phép
triển khai dự án khi họ tính toán thấy độ rủi ro ít và khả năng thu lợi cao. Đây là
điểm ưu thế hơn hẳn của loại vốn đầu tư trực tiếp so với các loại vốn vay khác.
Thứ hai, thông qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước tiếp nhận
đầu tư có thể tiếp nhận được những kỹ thuật mới, những công nghệ tiến tiến, góp
phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp nói riêng và phát
triển kinh tế nói chung. Đồng thời, tạo ra các điều kiện kinh tế-kỹ thuật cho việc
10
thực hiện cuộc cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng
tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ...Để thực hiện một số dự án đầu tư có hiệu quả
(khả năng sinh lời lớn, thu hồi vốn nhanh) nhiều nhà đầu tư đã chọn một số lĩnh
vực xây dựng cơ sở hạ tầng như viễn thông, tin học công nghiệp...như là điều kiện
cho việc thực hiện các dự án đầu tư của mình. Bên cạnh đó, chính phủ các nước
nhận đầu tư cũng thường có nhiều chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư
bỏ vốn đầu tư vào một số lĩnh vực của công nghiệp, cơ sở hạ tầng quan trọng hy
vọng thúc đẩy nhanh sự phát triển của các lĩnh vực này. Như vậy đầu tư trực tiếp
nước ngoài tạo ra điều kiện để góp phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng của
những nước nhận đầu tư.
Thứ ba, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể thu hút một lượng lớn
lao động trực tiếp và tạo ra nhiều việc làm cho các dịch vụ tương ứng. Thông qua
việc thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể làm cho đội ngũ cán
bộ của nước nhận đầu tư qua việc tham gia vào hoạt động của liên doanh mà
trưởng thành hơn về năng lực quản lý phù hợp với nền sản xuất hiện đại; hình
thành một lực lượng công nhân kỹ thuật hành nghề; tăng nguồn thu cho ngân
sách.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài có các điều kiện cần thiết cho việc tạo
lập một hệ thống thị trường phù hợp với yêu cầu của một nền sản xuất công
nghiệp hoá, tiếp cận và mở rộng được thị trường mới; tăng cường quan hệ hợp tác
kinh tế quốc tế v.v...Hình thành được các khu chế xuất, khu công nghiệp chủ lực;
tạo ra các điều kiện cơ bản cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi
nước, đặc biệt đối với các nước đang phát triển.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang phát triển đóng
vai trò như một cửa ngõ giúp các nước này thoát khỏi những khó khăn về điều
kiện kinh tế-xã hội, đưa các nước đang phát triển bước vào quỹ đạo của sự phát
triển và của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nền kinh tế Việt
Nam cũng đang từng bước phát triển, trong đó ngành Công nghiệp Việt Nam đóng
11
một vai trò không nhỏ, vậy thực trạng ngành Công nghiệp Việt Nam trước nhu
cầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ra sao sẽ được đề cập đến trong phần
sau.
2. Thực trạng Ngành Công nghiệp Việt Nam hiện nay và nhu cầu thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong giai đoạn 1996-2001, tổng giá trị sản lượng công nghiệp đạt khoảng 997
ngàn tỷ đồng và có tốc độ tăng trưởng bình quân 13,9%/năm. Trong thời gian đầu,
do môi trường kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi nên mức tăng
trưởng giá trị sản xuất công nghiệp đạt cao: 14,2% vào năm 1996 và 13,8% vào
năm 1997. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1998, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực, làm cho thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, trong khi đó nhu
cầu thị trường trong nước tăng chậm, nên tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công
nghiệp chỉ đạt 12,5% vào năm 1998 và 11,6% vào năm 1999. Từ năm 2000 đến
nay, tình hình kinh tế trong nước và khu vực đã có nhiều chuyển biến tích cực và
dần thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng; đồng thời với những cải cách mạnh mẽ về
môi trường kinh doanh, đầu tư trong nước và tác động của các biện pháp kích cầu,
nên phát triển công nghiệp đã bắt đầu phục hồi trở lại, đạt được tốc độ tăng trưởng
cao.Trong giai đoạn 1996-2001, các thành phần kinh tế hoạt động trong công
nghiệp đều tăng trưởng khá, song khu vực công ngiệp quốc doanh tăng thấp hơn
so với khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và công nghiệp ngoài quốc
doanh. Tuy nhiên, kể từ năm 2000, xu hướng tăng trưởng công nghiệp theo các
thành phần kinh tế đã có sự thay đổi: khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài bắt đầu giảm dần trong khi đó khu vực công nghiệp trong nước bắt đầu tăng
dần. Có một số lý do như sau: Do vốn đầu tư nước ngoài là từ các nước châu Á
nên mặc dù Việt Nam không nằm trong tâm cơn bão tài chính tiền tệ khu vực,
nhưng cuộc khủng hoảng này đã giáng một đòn mạnh vào đầu tư nước ngoài của
Việt Nam. Do cuộc khủng hoảng này, các công ty, tập đoàn quốc tế rơi vào tình
trạng khó khăn về tài chính nên họ đã rút vốn đầu tư ra khỏi các nước được đầu tư
12
trong đó có Việt Nam. Tình hình cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên
thế giới và trong khu vực đang ngày càng trở nên rất gay gắt. Cộng đồng quốc tế
đánh giá môi trường đầu tư của Việt Nam còn chưa hấp dẫn, có nhiều rủi ro, chi
phí đầu tư cao, hệ thống tài chính ngân hàng chưa hoàn thiện, sức mua của thị
trường Việt Nam còn chưa cao, chưa tương xứng với một nước có 80 triệu dân..
30
25
20
15
T è c ® é (
10
%
)
5
0
1996
1997
1998
1999
2000
2001
9th¸ng2002
Tæng sè(%)
Quèc doanh(%)
Ngoμi quèc doanh(%)
§Çu t− n−íc ngoμi(%)
Đồ thị 1: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp theo thành phần kinh tế
( Nguồn: Nghiên cứu kinh tế số 294, tháng 11/ 2002)
Mặc dù phát triển công nghiệp trong thời gian qua đạt nhiều kết quả tích cực:
tỷ trọng công nghiệp trong GDP tiếp tục thay đổi theo hướng tăng dần, đã tăng
lên đáng kể từ mức 23,2% năm 1996 lên mức 31,9% năm 2001, góp phần quan
trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế; Cơ cấu công nghiệp dịch chuyển
mạnh từ nền công nghiệp hướng nội, thay thế nhập khẩu sang nền công nghiệp
hướng ngoại, định hướng xuất khẩu song trước yêu cầu đòi hỏi của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã đến gần và thực tế phát triển công nghiệp những năm
qua cũng đã đặt ra nhiều vấn đề:
* Hiệu quả sản xuất công nghiệp giảm
Phát triển công nghiệp trong thời gian qua chủ yếu mới chỉ là phát triển theo
chiều rộng, gia công, lắp ráp là chủ yếu, chưa chú trọng đầu tư và phát triển
13
công nghiệp theo chiều sâu, nâng tỷ trọng chế biến sâu, đảm bảo cung cấp
nguyên nhiên vật liệu đầu vào và dịch vụ hạ tầng hợp lý nên hiệu quả sản xuất
công nghiệp chưa ổn định và thiếu vững chắc. Phần lớn các sản phẩm công
nghiệp có sức cạnh tranh kém trên thị trường. Mức chênh lệch giữa tốc độ tăng
giá trị sản xuất công nghiệp và tốc độ tăng giá trị gia tăng công nghiệp có xu
hướng doãng rộng ra. Sự tăng trưởng của nhiều ngành công nghiệp như: chế
biến thực phẩm và đồ uống, dệt, may, da giày, sản phẩm thép và kim loại mầu,
máy móc thiết bị cơ khí, sản phẩm thiết bị điện, hoá chất, phân bón, lốp ô tô, ô
tô, xe máy, giấy, hàng điện tử, sản phẩm nhựa...chủ yếu phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu có giá thành cao và luôn có xu hướng
tăng trong những năm qua. Nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước chưa đáp
ứng nhu cầu của nhiều ngành công nghiệp chế biến như: nguyên liệu nhựa sản
xuất trong nước mới đáp ứng được 10% nhu cầu; khoảng 20%-30% vải sản
xuất trong nước đáp ứng đủ yêu cầu may mặc xuất khẩu; nguyên phụ liệu giầy-
da sản xuất trong nước chỉ chiếm 25-30% nhu cầu; phần lớn cácloại nguyên
liệu chính phục vụ sản xuất các sản phẩm kỹ thuật điện phải nhập khẩu; sản
xuất phôi thép trong nước chỉ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu...Điều này làm hạn
chế khả năng tăng giá trị nội địa sản xuất công nghiệp và góp phần làm cho
hiệu quả sản xuất công nghiệp giảm.
* Trình độ công nghệ trang thiết bị lạc hậu
Thực trạng công nghệ trong một số ngành công nghiệp hiện đanglà một vấn
đề đáng lo ngại hạn chế năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Cụ thể là:
trình độ công nghệ và thiết bị của ngành điện tử thấp hơn so với các nước trong
khu vực khoảng từ 15-20 năm. Phần lớn các thiết bị công nghệ của ngành cơ
khí đã qua sử dụng trên 20 năm, lạc hậu về kỹ thuật, độ chính xác kém, quy mô
sản xuất khép kín, thiếu sự chuyên môn hoá. Công nghệ và thiết bị sản xuất
động cơ diezel chủ yếu được đầu tư từ những năm 60 và 70 và có tỷ lệ đầu tư
đổi mới rất hạn chế. Khoảng 30% sản lượng clinker được tạo ra từ những nhà
14
máy có công nghệ cũ kỹ và lạc hậu và trình độ công nghệ sản xuất ở hầu hết
các cơ sở nghiền xi măng đầu ở mức dưới trung bình. Phần lớn thiết bị công
nghệ sản xuất giấy in báo, giấy bao bì lạc hậu từ 3-5 thập kỷ, sản xuất giấy in,
viết đã qua sử dụng trên 20 năm. Công nghệ lạc hậu được đầu tư từ vài chục
năm trước với qui mô nhỏ trong ngành thép chiếm khoảng 53% sản lượng toàn
ngành, công nghệ tiến tiến chiếm khoảng 31%. Trình độ công nghệ và thiết bị
sản xuất các loại hoá chất cơ bản hiện tại rất lạc hậu và có quy mô sản xuất nhỏ
từ vài trăm tấn/ năm đến tối đa từ vài chục ngàn tấn/ năm trong khi đó quy mô
sản xuất của các nước trong khu vực đã đạt được từ hàng chục ngàn tấn/năm
đến hàng trăm ngàn tấn/ năm. Máy móc và công nghệ sản xuất phân bón hầu
hết là lạc hậu, đã sử dụng trên 25-30 năm (trừ công nghệ sản xuất xút, sản
phẩm cao su, ắc quy, pin, chất tẩy rửa, hoá mỹ phẩm trong những năm qua đã
được tiến hành đầu tư đổi mới và áp dụng công nghệ mới loại trung bình tiên
tiến). Các nhà máy sợi dệt-nhuộm trong ngành dệt may mới thay thế được
khoảng 30% công nghệ-thiết bị hiện đại, còn lại khoảng 70% công nghệ-thiết
bị đã sử dụng trên 20 năm và hầu như đã hết khấu hao.
Ngoài ra, vấn đề chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế. Kết quả khảo sát
gần đây ở 90 doanh nghiệp công nghiệp với 147 công nghệ được chuyển giao
cho thấy, chất lượng và hiệu quả chuyển giao công nghệ còn hạn cế do thiếu sự
lựa chọn công nghệ tối ưu, trình độ công nghệ chưa phù hợp và đặc biệt là giá
trị chuyển giao phần mềm về bí quyết công nghệ còn rất thấp (tỉ lệ phần mềm
chỉ chiếm 17%, đầu tư trang thiết bị 83%). Do đó, nhìn chung khả năng vận
hành công nghệ mới còn nhiều hạn chế; trình độ hiểu biết và kỹ năng thực hành
của đội ngữ kỹ sư, cán bộ kỹ thụat và công nhân vận hành còn yếu kém; hiệu
suất sử dụng thực tế chỉ đạt tối đa 70-80% công suất, nhiều dây chuyền thiết bị
đã qua sử dụng có ứng dụng công nghệ tự động điều khiển trong ngành dệt
nhưng chỉ đạt hiệu suất sử dụng 50-60%.
Có thể đánh giá chung trình độ công nghệ và trang thiết bị sản xuất của ngành
15
công nghiệp nước ta ở mức trung bình yếu (không kể các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài) so với các nước công nghiệp phát triển là lạc hậu từ 2 đến 3
thế hệ: tỷ lệ trang thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu và trung bình chiếm 60-70%,
công nghệ tiến tiến và hiện đại khoảng 30-40%. Điều này là một trong những
nguyên nhân chính làm giảm đáng kể năng suất và sức cạnh tranh của các sản
phẩm công nghiệp khi hội nhập.
* Chất lượng và năng suất lao động công nghiệp thấp
Lao động công nghiệp hiện còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lực lượng
lao động của cả nước. Trình độ lao động, trình độ nghề nghiệp trong ngành
công nghiệp chưa thể đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của quá trình phát triển
công nghiệp trong thời gian tới và là một trong những nguyên nhân quan trọng
làm hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất và quản lý ở các
doanh nghiệp. Hiện có khoảng 73% của lực lượng lao động công nghiệp không
có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Tỷ lệ này cao nhất trong ngành công nghiệp
khai thác (80%) và thấp nhất trong ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt
và nước (41%). Ngoài ra, tỷ lệ đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và kỹ sư chưa
phù hợp. Tỷ lệ đại học/ trung cấp/ công nhân kỹ thuật là 1/0,83/4,7 trong khi
của thế giới tỷ lệ đại học/ trung cấp/ công nhân kỹ thuật là 1/2,5/3,5.
Công tác đào tạo và đào tạo lại lực lượng cán bộ, công nhân kỹ thuật chưa
được quan tâm đúng mức, hợp tác đào tạo giữa doanh nghiệp với các cơ sở đào
tạo trường học chưa có hiệu quả dẫn đến tình trạng thừa lao động giản đơn,
thiếu lao động kỹ thuật; chất lượng lao động thấp, lạc hậu, bỡ ngỡ trước kỹ
thuật, quản lý và công nghệ mới. Do trình độ công nghệ và trang bị lạc hậu
cùng với trình độ lao động hạn chế nên năng suất lao động công nghiệp và chất
lượng sản phẩm công nghiệp không cao. Năng suất lao động trung bình trong
ngành công nghiệp tính theo giá trị gia tăng công nghiệp của Việt Nam năm
2001 thấp hơn so với các nước ASEAN khác như: Indonexia 2,5 lần;
16
Philippines 5 lần; Thái Lan 3,8; Singapore 7,3; Singapore 22,8 lần.
* Đầu tư cho công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức và hiệu quả thấp
Tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp mặc dù chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội, song tổng vốn đầu tư cho công nghiệp chưa đủ để cơ cấu lại ngành.
Cơ cấu đầu tư của các ngành công nghiệp cũng như tỷ trọng vốn tham gia của
các thành phần kinh tế chưa thực sự hướng tới một nền kinh tế thị trường hoà
nhập và cạnh tranh quyết liệt. Nhiều ngành, nhiều lĩnh vực công nghiệp có vai
trò và tác động lớn như cơ khí chế tạo máy móc và thiết bị, công nghiệp
nguyên liệu...chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Trong khi đó có những
chương trình đầu tư lớn trong ngành xi măng, thép không mang lại kết quả như
mong muốn.
Từ những phân tích trên có thể nói công nghiệp nước ta tăng trưởng nhanh
nhưng hiệu quả không cao, xu hướng diễn ra là giá trị sản xuất ngày càng tăng,
nhưng tỷ lệ giá trị tăng thêm trong giá trị sản xuất ngày càng giảm, nếu trước
đây tỷ lệ giá trị tăng thêm khoảng trên dưới 38% thì những năm gần đây giảm
dần còn 32% và nay chỉ còn 30-31%. Nghĩa là chi phí trung gian tăng dần từ
67% lên 69-70%. Nguyên nhân chính là các ngành gia công lắp ráp tăng nhanh
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu như: lắp ráp ô tô, xe máy, thiết bị gia đình, hàng
điện tử, gia công kim loại và phụ kiện. Trong khi đó các ngành có tỷ lệ giá trị
tăng thêm lớn lại giảm đi như: khai thác dầu khí, phân bón, hoá chất...
Tất cả những yếu kém trên là nhân tố tiềm ẩn luôn tạo ra khả năng mất ổn
định, làm giảm tính cạnh tranh và không vững chắc của công nghiệp nước ta.
Biết được những nhân tố bất lợi để khắc phục, đồng thời tranh thủ khai thác
triệt để các điều kiện thuận lợi đang có, đó là tình hình chính trị ổn định, đường
lối phát triển kinh tế đúng đắn, những ưu đãi về chính sách đầu tư, đặc biệt là
việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ mở ra cơ hội phát triển
cho ngành công nghiệp cũ và mới trong những năm tới. Theo dự đoán của các
chuyên gia, nhịp độ tăng trưởng công nghiệp của nước ta dự tính trong những
17
năm tới có khả năng đạt từ 14-16%và năm 2003 với mục tiêu 14-14,5% là khả
thi. Riêng khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là khu vực có tốc độ
tăng trưởng cao từ 16-20%. Để đạt kế hoạch tăng trưởng trên, các chuyên gia
đầu tư ước tính năm 2003 cần khoảng 369,6 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư cho các
ngành công nghiệp. Mà nguồn vốn huy động từ nguồn vốn công cộng chỉ đáp
ứng khoảng 53% nhu cầu, vậy gánh nặng sẽ trông chờ nhiều vào các nguồn vốn
đầu tư nước ngoài (47% tương đương khoảng 173,712 nghìn tỷ đồng). (Nguồn:
Báo Đầu tư số 11 ra ngày 5/3/2003).
Các doanh nghiệp FDI vào ngành Công nghiệp tuy mới hoạt động trên thị
trường Việt Nam nhưng đã thể hiện được sức mạnh của mình. Với những ưu
thế về kỹ thuật, công nghệ, khả năng dồi dào về vốn, có kinh nghiệm hoạt động
lâu năm trong nền kinh tế thị trường và lĩnh hội được các bí quyết kinh doanh
từ các công ty mẹ. Các doanh nghiệp FDI thường có quy mô lớn, trình độ trang
bị kỹ thuật hiện đại, khả năng quản lý và điều hành tốt hơn các doanh nghiệp
trong nước.
Tiền lương trả cho người lao động tại các doanh nghiệp FDI cao hơn hẳn các
doanh nghiệp trong nước, góp phần tăng thu nhập cho người lao động. Việc trả
lương cao ở các doanh nghiệp FDI như một nam châm vô hình thu hút dần các
bàn tay khéo léo và trí tuệ người Việt Nam vào làm việc. Tính đến cuối năm
1996, lương bình quân một lao động trong các doanh nghiệp FDI là 91 USD/
tháng, tương đương với khoảng một triệu đồng Việt Nam.
Bên cạnh mục đích các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để tìm kiếm thị
trường tiêu thụ sản phẩm thì phần lớn các doanh nghiệp vào Việt Nam để sử
dụng lao động với giá rẻ hoặc sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ nhằm chế
biến cho xuất khẩu. Một khối lượng lớn sản phẩm của Việt Nam được xuất
khẩu ra thị trường quốc tế bởi các doanh nghiệp FDI, trong đó phần lớn là các
doanh nghiệp liên doanh, đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể, góp phần mở rộng
giao lưu thương mại quốc tế. Tính đến cuối năm 1996, kim ngạch xuất khẩu
18
của các doanh nghiệp FDI là 792 tr. USD, chiếm 33% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước.
Theo số liệu thống kê, giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp năm 1999 đạt
trên 116 nghìn tỷ đồng, tăng 10,3% so với năm 1998. Trong đó, khu vực doanh
nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng 43,48% toàn ngành, tăng 4,52% (các doanh
nghiệp trực thuộc Bộ Công nghiệp tăng 6,02%). Khu vực doanh nghiệp ngoài
quốc doanh chiếm tỷ trọng 21,7%, tăng 8,8%. Đặc biệt, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài chiếm tỷ trọng 34,75%, tăng khoảng 20%. Giá trị sản lượng toàn
ngành công nghiệp nửa đầu năm 2000 đạt 100.586 tỷ đồng, bằng 54,3% kế
hoạch năm và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tốc độ tăng cao
nhất kể từ năm 1996 (tăng 13,2%), năm 1997 (tăng 13,6%), năm 1998 (tăng
12,6%) và năm 1999 (tăng 10,3%). Trong đó: khu vực doanh nghiệp nhà nước
Trung ương tăng 10,8% (các doanh nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp tăng 14,4%),
khu vực doanh nghiệp nhà nước địa phương tăng 14,6%, khu vực ngoài quốc
doanh tăng 18,5% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,7%.
Nhận thức được vai trò của FDI và tính tất yếu của việc mở cửa thu hút các
nguồn lực bên ngoài, ngành Công nghiệp Việt Nam đã đề ra một số định hướng
thu hút, sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài:
+ Khuyến khích đầu tư vào các dự án phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu theo hướng tăng mạnh những sản phẩm công nghệ chế biến, giảm dần
xuất khẩu sản phẩm thô, phát huy nhiều lợi thế so sánh của đất nước. Những ưu
đãi nhằm khuyến khích đầu tư đối với các dự án này bao gồm:
- Dự án xuất khẩu ít nhất 50% sản phẩm được hưởng mức thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp ưu đãi là 20% trong thời gian 10 năm, được miễn thuế lợi
tức trong thời gian 1 năm kể từ năm kinh doanh có lãi, giảm 50% trong thời gian
tối đa 2 năm tiếp theo. (Điều 46, 48 khoản 1- Luật ĐTNN tại Việt Nam -2000)
- Dự án xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm được hưởng mức thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp ưu đãi là 15% trong thời gian 12 năm, được miễn giảm thuế
19
lợi tức 2 năm kể từ năm kinh doanh có lãi, giảm 50% trong tối đã 3 năm tiếp
theo. (Điều 46, khoản 2, Điều 48 khoản 2 Luật ĐTNN tại Việt Nam-2000)
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ xuất khẩu ít nhất 50%, đáp
ứng được các điều kiện quy định, được phép thành lập kho bảo thuế
(Manufacturing Bonded Warehouse) đối với hàng hoá là nguyên liệu, vật tư
nhập khẩu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Hàng hoá đưa vào kho bảo
thuế chưa thuộc diện chịu thuế nhập khẩu.
- Các dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao hoặc xuất khẩu toàn bộ sản phẩm được lựa
chọn hình thức đầu tư thích hợp, kể cả hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài.
Ngoài ra, còn ban hành những giải pháp đồng bộ về thuế suất nhập khẩu
chi tiết phụ tùng nhằm khuyến khích mạnh sản xuất hướng vào xuất khẩu.
+ Chú trọng những ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao (tin
học, vật liệu mới, tự động hoá, dầu khí,...)
- Doanh nghiệp có vốn ĐTNN có dự án đầu tư vào các lĩnh vực ứng dụng và
phát triển công nghệ cao, dịch vụ khoa học và công nghệ được áp dụng thuế
suất, thuế thu nhập doanh nghiệp 20% trong thời hạn 10 năm kể từ khi hoạt
động. (Điều 46, khoản 4/ Luật ĐTNN tại Việt Nam-2000)
- Doanh nghiệp có đầu tư vào các hoạt động khoa học và công nghệ, nếu sử
dụng được giao đất thuê để xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ,
thì đối với phần đất này doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất và diện tích sử dụng đất.
+ Tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế
xuất:
- Đối với các KCN, KCX, các nhà đầu tư nước ngoài được khuyến khích đầu
tư với chính sách ưu đãi tiền thuê đất, miễn giảm thuế, giảm giá nhiều loại dịch
vụ.
20
- Hỗ trợ về vốn tín dụng đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực cung cấp miễn phí
thông tin trong quá trình khảo sát, lập dự án đầu tư, cung cấp điện nước đến tận
hàng rào dự án. Hỗ trợ kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng kể cả “chính sách”
chi hoa hồng phí và tiền thưởng cao nhất cho người giới thiệu đầu tư.
+ Tiếp tục thu hút ĐTNN trong các lĩnh vực quan trọng: tìm kiếm, thăm dò, và
khai thác dầu khí và phát triển các cơ sở công nghiệp hạ nguồn dầu khí. Thăm
dò khai thác tài nguyên khoáng sản Việt Nam; đầu tư sản xuất phôi thép, hoàn
nguyên quặng, cán thép lá, thép hợp kim, thép hình,...
+ Tập trung khuyến khích các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng lốp ô tô, xe
máy; sản xuất lắp ráp thiết bị xe máy, thiết bị kỹ thuật cho ngành vận tải và cho
các ngành công nghiệp khác.
+ Ưu tiên các dự án điện tử, điện gia dụng chú trọng vào sản xuất linh kiện điện,
điện tử, màn hình vi tính; thiết bị phần mềm tin học, điện tử công nghiệp, phục
vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; các dự án điện gia dụng xuất khẩu trên
80%.
+ Khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực thu hút nhiều lao động như các dự án về
may mặc-da giầy xuất khẩu; sản xuất nguyên liệu, phụ kiện cho may mặc, da
giầy.
Với những định hướng trên, ngành Công nghiệp Việt Nam đã đạt được những
kết quả đáng kể: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp
trong thời gian từ năm 1988 đến 19/10/2002 là 2522 dự án, với 18.217,4 triệu
USD vốn đăng ký, chiếm 59,8% về số dự án và chiếm 42,7% về vốn đăng ký.
Số cơ sở công nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng từ 666 lên 1063 đơn
vị. Điều dó đã góp phần vào tăng giá trị sản xuất toàn ngành năm 2002 lên
14,5%, vừa vượt mục tiêu 14% vừa cao hơn tốc độ tăng 14,2% của năm 2001.
Đến năm 2002 là năm thứ 12 liên tục tăng trưởng công nghiệp đạt được 2 chữ
số, đưa qui mô công nghiệp năm 2002 gấp 4,8 lần năm 1990, một kỷ lục về tốc
độ tăng cao, liên tục và kéo dài mà các thời kì trước chưa bao giờ đạt được. Tuy
21
nhiên bên cạnh đó còn những mặt tồn tại, hạn chế mà ngành Công nghiệp vẫn
chưa khắc phục được, khiến cho dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa
được phát huy hết thực lực của nó cũng như gây ra nhiều khó khăn cho các
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình triển khai dự án, vì vậy
sau đây xin đi sâu hơn vào thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành
Công nghiệp Việt Nam.
Ngành công nghiệp Việt Nam trong những năm qua đã và đang phát triển với
một phần giúp sức của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như thế nào sẽ
được trình bày cụ thể hơn ở Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài
22
vào ngành Công nghiệp Việt Nam.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
I. QUY MÔ VÀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH
CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1. Quy mô đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp Việt Nam
Trong những năm gần đây, thông qua các hình thức liên doanh hoặc đầu tư
100% vốn nước ngoài, ngành công nghiệp nước ta đã đạt được mục tiêu thu hút
vốn và kỹ thuật của nhiều nước để phát triển, cung cấp ngày càng nhiều hàng
hoá tiêu dùng cho xã hội. Giá trị sản lượng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (doanh nghiệp FDI) chiếm tỷ trọng 23,8% trong tổng giá trị ngành
công nghiệp của cả nước. Một số ngành quan trọng có năng lực sản xuất tăng
nhanh như ngành thép, ngành lắp ráp ôtô xe máy, điện tử, công nghiệp hàng tiêu
dùng.
Công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất hiện đã trở thành một bộ
phận quan trọng của nền công nghiệp nước ta, đã chiếm tỷ trọng lớn và ngày
một gia tăng nhờ có tốc độ tăng khá cao. Nếu trước đây khu vực này hầu như
không có gì, thì đến nay đã chiếm 35,7% toàn bộ ngành công nghiệp. Tốc độ
tăng của khu vực này nhìn chung cũng cao hơn hẳn tốc độ tăng của công nghiệp
trong nước. Nhờ có sự tăng trưởng cao của công nghiệp khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã “kéo” tốc độ chung của toàn ngành công nghiệp lên.
Để có thể thấy rõ tác động của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
ngành Công nghiệp như thế nào xin xem tốc độ tăng trưởng của các khu vực
DNNN, khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn ĐTNN so với toàn ngành
23
trong đồ thị sau.
25
20
)
15
%
10
5
( g n ¨ t é ® c è T
0
1995
1999
2000
2001
2002
Toμn ngμnh Khu vùc DNNN
K hu vùc ngoμi quèc doanh K hu vùc cã vèn §TNN
(Nguồn: Thời báo kinh tế số 17-22/ Ngày 7-2-2003)
Tính đến ngày 20/12/2002 cả nước có 3669 dự án FDI còn hiệu lực với tổng
Đồ thị 2 : Tốc độ tăng của ngành Công nghiệp so với năm trước (%)
vốn đầu tư là 39.104,74 tr.USD, trong đó có 2431 dự án đầu tư vào ngành công
nghiệp với số vốn đầu tư đăng ký (TVĐK) 22.160,753 tr.USD, chiếm 66,3% số
dự án với 56,67% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước. Tổng vốn
đầu tư đăng ký (TVĐK), vốn pháp định (VPĐ) và vốn đầu tư thực hiện (ĐTTH)
thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1 : Tình hình FDI vào ngành công nghiệp
(tính đến ngày 20/12/2002, chỉ tính những dự án còn hiệu lực)
FDI Cả nước Ngành công Tỷ lệ % so với tổng số các
nghiệp ngành
Tổng số dự án 3669 2431 66,3
TVĐK (Tr.USD) 39.104,74 22.160,75 56,67
VPĐ (Tr.USD) 18.103,68 10.257,77 56,912
ĐTTH(Tr.USD) 20.739,30 13.343,30 64,338
24
(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)
Những số liệu trên cho thấy FDI vào công nghiệp chiếm hơn một nửa số
dự án FDI của cả nước, trong đó số vốn đăng ký, vốn pháp định hay vốn đầu tư
thực hiện đều chiếm trên 50% so với cả nước. Ngoài ra, tỷ trọng về doanh thu,
xuất khẩu, việc làm cho người lao động đều cao hơn so với các lĩnh vực khác
và theo con số thống kê chưa đầy đủ thì các tỷ lệ đó lần lượt là 79,7%; 69% và
78,8%. Điều này có ý nghĩa rất lớn là chúng ta đã thu hút được phần lớn FDI
vào khu vực sản xuất công nghiệp, phù hợp với mục tiêu thu hút đầu tư nước
ngoài phục vụ chiến lược công nghiệp, hoá hiện đại hoá đất nước.
2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp
2.1 Cơ cấu theo chuyên ngành
Theo số liệu thu thập được, nếu chia Ngành công nghiệp thành 19 chuyên
ngành nhỏ gồm: Cơ khí; Chế biến dầu khí; Dệt - may; Rượu - bia - nước giải
khát; Vật liệu, sản phẩm nội thất xây dựng; Luyện kim; Hoá chất; Điện tử - tin
học; Thực phẩm; Điện và dịch vụ điện; Da - giầy; Nhựa và các sản phẩm nhựa;
Hàng công nghiệp nhẹ; Giấy và các sản phẩm giấy; Khoáng sản, vàng bạc đá
quý; Khai thác than; Dầu thực vật; Thuốc lá; Mỹ phẩm thì ngành Cơ khí đứng
đầu tất cả các ngành về số dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký, vốn đầu tư thực hiện
cũng như doanh thu. Cho đến nay các con số lần lượt là 194 dự án với tổng vốn
đầu tư đăng ký 2,412 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 17,7%; 20,3% vốn đầu tư thực
hiện; 16% về doanh thu.
Tiếp đến là ngành Da - Giầy, xếp thứ nhất về số lượng lao động và kim ngạch
xuất khẩu, thứ ba về doanh thu nhưng vốn đầu tư lại xếp thứ 11 trong số 19
chuyên ngành cơ bản của công nghiệp. Bên cạnh đó là ngành Điện tử - Tin học,
xếp thứ hai về doanh thu (sau Cơ khí) và kim ngạch xuất khẩu (sau Da Giầy),
mặc dù vốn đầu tư xếp thứ 8. Một lĩnh vực thu hút và hấp dẵn các nhà đầu tư
nước ngoài nữa là sản xuất Bia - Rượu - Nước giải khát với số nộp Ngân sách
luỹ kế rất lớn (128tr.USD) trong khi đó các ngành khác có số nộp Ngân sách
25
nhỏ chỉ trên dưới 40 tr.USD.
Nếu phân chia Ngành công nghiệp thành 4 chuyên ngành khác nhau là:
Công nghiệp Dầu khí; Công nghiệp nặng; Công nghiệp nhẹ; Công nghiệp thực
phẩm thì tình hình đầu tư FDI vào các chuyên ngành công nghiệp thể hiện ở
biểu sau:
Bảng 2: Tình hình FDI vào các chuyên ngành công nghiệp
(tính tới ngày 20/12/2002 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Số dự án TVĐK VPĐ ĐTTH
(tr.USD) (tr.USD) (tr.USD)
2189 18.887,8 8.991,82 11.430,05 CN
100 100 100 100 %
29 3.195,45 2.184,58 3.510,73 CN dầu khí
1,32 16,9 24,3 30,7 %
975 5.061,29 2.247,40 2.355,69 CN nhẹ
44,5 26,8 25 20,6 %
995 8.195,84 3.482,57 4.167,10 CN nặng
45,5 43,4 38,7 36,5 %
190 2.435,22 1.077,27 1.396,53 CNthựcphẩm
8,68 12,9 12 12,21 %
(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)
Bảng 2 cho thấy, nếu theo số dự án thì ngành công nghiệp nặng đứng đầu
với 995 dự án, chiếm 45,5% tổng số dự án FDI toàn ngành công nghiệp. Tiếp
26
đến là ngành công nghiệp nhẹ, với 975 dự án chiếm 44,5% tổng số dự án FDI
toàn ngành công nghiệp. Ở đây, các dự án tập trung chủ yếu vào lĩnh vực Dệt -
may và Da - giầy. Đây là hai lĩnh vực thu hút nhiều lao động, máy móc thiết bị,
dây chuyền công nghệ không đòi hỏi quá hiện đại mà chỉ ở mức trung bình tiên
tiến. Vốn đầu tư cho một dự án không đòi hỏi quá lớn.
Ngành công nghiệp thực phẩm với 190 dự án (chiếm 8,68%). Đây là
ngành có tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện so với vốn đăng ký cao: 51,3% (sau ngành
công nghiệp dầu khí), tập trung chủ yếu vào lĩnh vực Rượu - Bia - Nước giải
khát.
Cuối cùng là ngành Dầu khí, mặc dù hạn chế về đối tác đầu tư cũng như số
dự án, nhưng đây là ngành có tỷ lệ vốn đầu tư đăng ký trên vốn đầu tư thực
hiện cao nhất: 91,01% và cũng là ngành có tỷ lệ vốn đăng ký bình quân cho
một dự án cao nhất: 110,87 tr.USD/dự án. Đây cũng là ngành có tỷ lệ đóng góp
vào GDP và mức thu nhập bình quân của người lao động cao nhất nước.
2.2 Cơ cấu theo hình thức đầu tư
Trong các hình thức đầu tư, hình thức BOT và Hợp đồng hợp tác kinh doanh
(HĐHTKD) rất khiêm tốn cả về số dự án lẫn vốn đầu tư. Chủ yếu vẫn là hình
thức 100% vốn nước ngoài chiếm 57,6% số dự án, 41,4% vốn đầu tư đăng ký,
43% vốn đầu tư thực hiện và hình thức liên doanh chiếm 39,5% số dự án,
55,2% vốn đăng ký và 56,1% vốn đầu tư thực hiện so với toàn ngành.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành công
nghiệp sử dụng nhiều lao động để sản xuất hàng xuất khẩu như dệt may, giày
dép, hàng tiêu dùng, công nghệ chế biến...Khối doanh nghiệp này đã tạo ra hơn
300.000 việc làm.
Đối với hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, nhà đầu tư được chủ động
hơn trong lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, điều hành sản xuất-kinh doanh.
Nhiều doanh nghiệp thực chất là các chi nhánh, các công ty con trong mạng
27
lưới toàn cầu của các công ty đã quốc gia, nên có nhiều thuận lợi trong tiếp cận
thị trường thế giới. Tuy nhiên, vì toàn bộ quá trình kinh doanh do nhà đầu tư
nước ngoài chi phối nên cần có qui định ngăn ngừa họ không trung thực trong
báo cáo tài chính, gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép
các doanh nghiệp trong nước...
Hình thức liên doanh chủ yếu ở các lĩnh vực kinh tế quan trọng như dầu khí,
sản xuất xi măng, sắt thép, hoá chất, lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử...Các liên
doanh đã góp phần vực dậy nhiều ngành công nghiệp Việt Nam (bị suy thoái do
thiếu vốn, thiếu vật tư, công nghệ lạc hậu, mất thị trường...), cung cấp nhiều
sản phẩm quan trọng cho nền kinh tế mà trước đây vẫn phải nhập khẩu. Đội
ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật của Việt Nam làm việc trong các doanh
nghiệp liên doanh đã trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt, tiếp thu được công
nghệ mới, kiến thức và kinh nghiệm quản lí của nước ngoài. Tuy nhiên vẫn còn
hiện tượng một số đối tác nước ngoài trong liên doanh đã khai vống các chi phí
đầu tư, nâng giá thiết bị, máy móc góp vốn và nguyên liệu đầu vào, hạ giá đầu
tư thông qua chuyển giá với công ty mẹ để thu lợi nhuận từ bên ngoài mà bên
phía Việt Nam không có khả năng kiểm soát được.
Ngoài hai hình thức đầu tư chủ yếu vào ngành công nghiệp nói trên, còn có
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực thăm
dò, khai thác dầu khí. Hình thức này đã góp phần tích cực vào việc phát triển,
hiện đại hoá ngành dầu khí, đồng thời đã tạo điều kiện cho Việt Nam tiến hành
thăm dò đánh giá trên diện tích rộng nguồn tài nguyên dầu khí.
Bên cạnh những kết quả đạt được từ các hình thức đầu tư với nước ngoài thì
ngành Công nghiệp vẫn cần phải cải thiện môi trường đầu tư thuận lợi, thông
thoáng hơn nữa để thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài và tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn này cho hợp lí hơn.
2.3 Cơ cấu theo địa bàn
Cho tới nay đã có hơn 47 tỉnh thành phố có các dự án đầu tư nước ngoài
28
vào ngành công nghiệp đang hoạt động với tổng số dự án 1.441, tổng vốn đầu
tư đăng ký là 16.138,28 tr.USD.
Bảng 3: Đầu tư vào ngành Công nghiệp theo một số địa phương
(tính đến tháng 8/2002)
Thành phố Vốn ĐTĐK Doanh thu Kinh ngạch XK
Số dự án (tỷ USD) (tỷ USD) (tỷ USD)
TP. Hồ Chí Minh 923 2,98 3,197 0,988
Đồng Nai 389 3,584 1,584 1,86
Bình Dương 274 1,3 0,957
Hà Nội 52 0,567 0,539
Bà Rịa-Vũng Tầu 71 3,683 0,795 2,072
( Nguồn: Vụ Quản lý dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu tư VN )
Các tỉnh thành phía Nam vẫn chiếm ưu thế hơn trong việc thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài so với các nơi khác do đã có nhiều chính sách thu hút đầu tư
hợp lí, tạo thuận lợi và kịp thời tháo gỡ những khó khăn cho các nhà đầu tư, có
những địa phương đã“trải thảm đỏ” sẵn sàng để đón các nhà đầu tư nước ngoài.
2.4 Cơ cấu theo đối tác đầu tư
Cho tới nay đã có hơn 45 nước và nền kinh tế có dự án đầu tư sản xuất công
nghiệp vào nước ta (không kể các dự án thăm dò khai thác dầu khí). Trong đó,
Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước có vốn đầu tư thực hiện tương đương nhau
nhưng các dự án từ các nhà đầu tư Hàn Quốc đang dẫn đầu về doanh thu, xuất
khẩu và tạo việc làm cho người lao động. Điều này có ý nghĩa là các nhà đầu tư
Hàn Quốc rất chú ý khai thác thị trường lao động rẻ của Việt Nam để gia công
chế biến hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, rất tiếc là cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ khu vực đã gây ra khủng hoảng kinh tế trầm trọng cho Hàn Quốc và ảnh
29
hưởng xấu tới tình hình đầu tư của Hàn Quốc vào nước ta.
Bảng 4: Tình hình đầu tư vào ngành Công nghiệp theo đối tác đầu tư
(tính đến cuối năm 2001)
Tổng VĐK Tên nước
Số dự án (triệu USD)
Hơn 1,3 tỷ USD 163 2,14 Nhật Bản
151 1.833 Hàn Quốc
262 1.655 Đài Loan
91 1.489 Singapore
12 1.325 Liên bang Nga
71 742,2 Từ 500-1000 triệu USD Hồng Kông
37 709,0 Hoa Kỳ
30 701,3 Malaysia
15 527,8
British Virgin Island
(Nguồn: Vụ Quản lý dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu tư VN)
Các dự án có tổng vốn đăng ký từ 100tr.USD đến dưới 400 tr.USD gồm có
các nước Thái Lan, Anh, Hà Lan, Bermuda, Indonesia, Úc, Pháp, Đan Mạch.
Còn lại là các nước có vốn đầu tư dưới 100 tr.USD, trong đó có 11 nước
và vùng lãnh thổ chỉ có 1 dự án đầu tư. Achentina là nước có một dự án với vốn
đầu tư thấp nhất (120.000 USD).
Về đối tác là các khối kinh tế: Số liệu thống kê cho thấy dẫn đầu vẫn là
những nhà đầu tư từ khối các nước Đông Bắc Á, tiếp đến là các nước ASEAN.
Các nước EU đứng vị trí thứ ba và các nước Đông Âu cũ mà chủ yếu là Liên
Bang Nga đứng ở vị trí thứ tư. Các nhà đầu tư khối Đông Bắc Á không những
dẫn đầu về số dự án, vốn đăng ký mà còn vượt lên hơn hẳn các khối khác về
vốn thực hiện (chiếm 54,8%), doanh thu (61,3%) và nhất là xuất khẩu (tới
30
78,3%). Các nước ASEAN, chủ yếu là Singapore và Malaysia, Thái Lan cũng
có tỷ trọng đầu tư và thực hiện đầu tư khá vào các ngành công nghiệp của nước
ta. Khối các nước EU có tiềm lực công nghiệp mạnh nhưng mức độ huy động
đầu tư công nghiệp vào nước ta cũng chỉ mới ở vị trí thứ ba sau ASEAN. Có
một ý kiến cho rằng do Việt Nam là thị trường kinh tế mới nổi, hệ thống luật,
nhất là luật kinh tế chưa hoàn chỉnh, thủ tục hành chính phức tạp, không minh
bạch, rõ ràng, làm cho các nhà đầu tư phương Tây e ngại. Họ cho rằng khó có
sự cạnh tranh lành mạnh tại Việt Nam, nhất là cạnh tranh với các nhà đầu tư
phương Đông theo kiểu Á Đông. Đây cũng chỉ là một loại ý kiến nhưng chúng
ta cũng vẫn phải nghiên cứu kỹ trong quá trình soạn thảo các Luật và cải cách
hành chính ở nước ta nhằm làm cho môi trường đầu tư của ta hấp dẫn đối với
tất cả các nhà đầu tư trên thế giới.
Trên đây là khái quát chung tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
ngành công nghiệp nước ta. Sau đây xin trình bày sâu hơn tình hình FDI vào
từng chuyên ngành cụ thể.
II. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG FDI CỦA MỘT SỐ CHUYÊN
NGÀNH CÔNG NGHIỆP
1. Công nghiệp dầu khí
Ngành công nghiệp dầu khí chiếm trên 10% tổng giá trị sản xuất công nghiệp
và trên 20% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Cho tới nay ngoài Công ty liên
doanh Vietsovpetro thực hiện theo Hiệp định của hai Chính phủ Việt Nam và
Liên Xô (cũ) mà hiện nay do cộng hoà liên bang Nga thừa kế đã sản xuất được
hơn 60 triệu tấn dầu thô, hiện đang tiếp tục kinh doanh có hiệu quả, nước ta đã
cấp 47 Giấy phép đầu tư cho ngành công nghiệp dầu khí. Tuy nhiên, hiện tại
chỉ còn 29 dự án có hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký 3.195tr.USD, vốn
pháp định 2.184 tr.USD với vốn đầu tư thực hiện 3.510tr. USD. Lĩnh vực này
đã thu hút trên dưới 1.458 lao động với tổng doanh thu đạt khoảng 201 tr.USD
mỗi năm và đóng góp cho Ngân sách nhà nước một khối lượng đáng kể.
31
Công nghiệp dầu khí bao gồm: hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu
khí; hoạt động chế biến dầu khí và hoạt động dịch vụ dầu khí.
Bảng 5: Tình hình đầu tư vào ngành công nghiệp dầu khí
(tính đến ngày 20/12/2002, chỉ tính những dự án còn hiệu lực)
Số dự TVĐK Vốn Số lao Doanh thu
(tr.USD) án ĐTTH động
HĐ tìm kiếm, thăm 29 1.290 1.262 1.570 1.256,72
dò và khai thác
HĐ chế biến dầu 31 1.925 1.040 1.272 201,598
khí
HĐ dịch vụ dầu khí 4
(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)
Sau đây xin đi sâu vào từng lĩnh vực:
1.1 Hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí
Từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (19/12/1987) tới nay, nước ta
đã cấp Giấy phép đầu tư cho 46 hợp đồng khai thác dầu khí (không kể liên
doanh dầu khí Việt- Xô đã hoạt động trước đó). Cho tới nay có 29 dự án đang
còn hiệu lực hoạt động với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 3,2 tỷ USD gồm các
Hợp đồng chia sản phẩm (PSC), Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), liên
doanh (JV). Theo kết quả rà soát và đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới
đây đã có 18 dự án với tổng vốn đăng ký gần 1,04 tỷ USD đi vào hoạt động sản
xuất kinh doanh, 7 dự án với tổng vốn đăng ký 2,08 tỷ USD đang thực hiện xây
dựng cơ bản và 3 dự án với tổng vốn đăng ký 58 triệu USD chưa triển khai
nhưng có khả năng thực hiện. Đây là lĩnh vực đầu tư có tỷ lệ vốn đầu tư thực
hiện so với vốn đầu tư đăng ký cao nhất (205,9%) và tỷ lệ vốn pháp định thực
32
hiện cũng rất cao (84,5%) và phần lớn vốn đều do nước ngoài đưa vào. Điều
này chứng tỏ rằng các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm tới tiềm năng khai
thác dầu khí của nước ta, nhất là những năm 1989-1996. Tuy nhiên sự quan tâm
này cũng đã giảm. Trong 2 năm 1997 và 1998 chỉ có 2 hợp đồng về thăm dò
khai thác dầu khí được cấp phép, năm 1999 không có dự án nào được cấp phép,
năm 2000 có 4 dự án khai thác thăm dò dầu khí được cấp phép tuy nhiên chỉ
mới có một dự án triển khai thực hiện đó là Hợp đồng hợp tác kinh doanh thăm
dò, khai thác dầu khí lô 102 &106 với vốn đầu tư 5 tr.USD, vốn đầu tư thực
hiện là 820.000 USD, năm 2002 có 2 dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư
đăng ký 29,2 triệu USD.
Thực tế cho thấy, đến nay đã có 20 Hợp đồng tìm kiếm thăm dò dầu khí
kết thúc với số vốn đầu tư khoảng 1,4 tỷ USD, tổng diện tích tìm kiếm thăm dò trên đất liền và trên thềm lục địa khoảng 250.000 km2. Mới chỉ có 2 dự án thăm
dò dầu khí đã có sản phẩm khách hàng, có doanh thu xuất khẩu là Hợp đồng
phân chia sản phẩm dầu khí lô 05-1 mỏ Đại Hùng với Malaysia và Hợp đồng
phân chia dầu khí vùng Bồn Trũng với Singapore.Tổng doanh thu xuất khẩu
của hai hợp đồng này gần 104,5 tr.USD. Năm 2002 nổi bật với dự án dầu khí
Nam Côn Sơn nằm ngoài khơi biển Việt Nam về phía Đông Nam, đây là một
Hợp doanh giữa Tổng Công ty dầu khí Việt Nam với tổ hợp nhà thầu BP (Anh)
và Statoil (Nauy) đã được cấp Giấy phép đầu tư ngày 15/12/2000, với mục tiêu
đưa khí được khai thác từ các mỏ Lan Tây, Lan Đỏ thuộc lô 06.1 qua đường
ống vào bờ với tới các hộ tiêu thụ. Vốn đầu tư của dự án này và dự án khai thác
mỏ Lan Tây, Lan Đỏ là khoảng 1,3 tỷ USD - dự án đầu tư nước ngoài có tổng
vốn đầu tư lớn nhất nước từ trước đến nay
Riêng Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro - con chim đầu đàn của ngành dầu
khí Việt Nam, kể từ tháng 4 năm 1987 đến nay, Vietsovpetro đã khai thác được trên 100 triệu tấn dầu thô và gần 10 tỷ m3 khí đồng hành. Đến đầu năm 1996
33
Liên doanh đã hoàn thành thu hồi vốn (1,5tỷ USD), năm 1998 Vietsovpetro đã khai thác được 12,5 triệu tấn dầu thô và 1 tỷ m3 khí. Từ năm 1991 đến nay,
Liên doanh này đã nộp ngân sách nhà nước Việt Nam hơn 8,2 tỷ USD.
Có thể nói hầu như toàn bộ hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí
của Việt Nam được thực hiện bằng các hình thức hợp tác với nước ngoài, qua
đó đã giải quyết được các yêu cầu về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý,
góp phần tạo lập một ngành công nghiệp mới với trình độ kỹ thuật tiên tiến.
Các dự án đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí đã góp
phần chính xác hoá cấu trúc địa chất các bề trầm tích có triển vọng dầu khí,
phát hiện khoảng 50 cấu tạo có chứa dầu và khí: làm rõ hơn tiềm năng dầu khí
trên đất liền và trên thềm lục địa nước ta. Đồng thời đã xác định và đưa vào
khai thác các mỏ dầu khí thương maị như: Đại Hùng, Hồng Ngọc (rubby),
Rạng Đông, Bunga Kekwa; chuẩn bị khai thác các mỏ: Lan Tây, Lan Đỏ, Rồng
Đôi, Hải Thạch, Emeral... (ngoài các mỏ Bạch Hổ, Rồng do Vietsovpetro điều
hành). Sản lượng dầu khí khai thác tăng dần qua các năm: năm 1986 là 0,04
triệu tấn, năm 1990 là 2,7 triệu tấn, năm 1995 là 7,7 triệu tấn, năm 1999 là 15,5 triệu tấn dầu thô và 1,4 tỷ m3 khí, năm 2000 là 16 triệu tấn dầu thô và 1,5 tỷ m3 khí, năm 2001 là 17 triệu tấn dầu thô và 1,72 tỷ m3 khí, năm 2002 là 17,102 triệu tấn dầu thô và 2,260 triệu m3 khí.
Sự quan tâm cũng như sự tích cực triển khai các dự án thăm dò của các nhà
đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí với số vốn thăm dò thực hiện là 2,656
tỷ USD trong thời gian qua đã giúp Việt Nam dần dần có đủ cơ sở dữ liệu về
trữ lượng dầu khí để có thể xác định chiến lược hình thành và phát triển ngành
công nghiệp chế biến dầu khí của nước ta.
1.2 Hoạt động chế biến dầu khí
Cho tới nay đã có 31 dự án đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế
biến và sử dụng các sản phẩm hoá dầu: sản xuất kinh doanh khí đốt, khí hoá
lỏng, dầu nhờn bôi trơn các loại, tinh lọc dầu và hoá dầu với tổng vốn đầu tư
hơn 1,920 tr.USD, vốn pháp định hơn 1,040 tr.USD, tổng doanh thu là 201,598
34
tr.USD và tạo được 1.272 chỗ làm việc. Kết quả hoạt động này chủ yếu là của
29 dự án nhỏ có vốn đầu tư từ 35 tr.USD trở xuống, sản xuất kinh doanh dầu
nhờn và khí đốt. Mặc dầu các dự án trong lĩnh vực này chưa nhiều nhưng đă
góp phần tạo tiền để mở ra một ngành công nghiệp mới ở nước ta. Ngành công
nghiệp sản xuất chế biến các sản phẩm hoá dầu làm phong phú thêm các sản
phẩm tiêu dùng; đặc biệt sản phẩm khí đốt đã góp phần giải quyết cơ bản chất
đốt cho nhân dân thành phố và đô thị, tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu dầu hoả, tiết
kiệm than, điện và làm văn minh thêm cho công việc nội trợ.
Việc kinh doanh sử dụng sản phẩm hoá dầu và lọc dầu đang ngày càng thúc
đẩy công nghiệp chế biến dầu khí phát triển. Đặc biệt có 3 dự án lớn đó là: một
dự án theo hình thức BOT với đối tác là GSC (điều hành), Ugland A/S, Topsoe
(công nghệ), Klenwort Benson (tài chính) và công ty Hồng Phát sản xuất
methanol trên nhà máy nổi lô 15, có vốn đầu tư 270 tr.USD (được cấp Giấy
phép vào tháng 12/1998). Dự án tiếp theo là Công ty liên doanh lọc dầu Việt-
Nga với vốn đầu tư 1,3 tỷ USD và công suất 6,5 triệu tấn/ năm tại Dung Quất-
Quảng Ngãi (được cấp Giấy phép vào 12/1998), tuy nhiên đã bị ngừng vào năm
2002. Dự án thứ ba là dự án khí Nam Côn Sơn với đường ống dẫn khí 2 pha gồm dẫn khí và dẫn chất lỏng sẽ đi vào hoạt động cung cấp hoảng 11,1 triệu m3
khí/ ngày cho 4 nhà máy nhiệt điện turbin khí Phú Mỹ2, Phú Mỹ 2.2, Phú Mỹ 3
và Phú Mỹ 4 và nhà máy đạm Phú Mỹ 4
Ngoài các dự án lớn nói trên, trong lĩnh vực chế biến dầu khí đã cấp Giấy
phép đầu tư cho các nhà sản xuất chất dẻo DOP công suất 30.000 tấn/ năm, nhà
máy sản xuất chất dẻo PVC công suất 100.000 tấn/ năm, hai nhà máy chế biến
nhựa đường có tổng công suất 300.000 tấn/ năm, khí LPG 130.000 tấn/ năm.
Như vậy, với các dự án đã được cấp Giấy phép đầu tư cho đến hết năm 2002,
lĩnh vực chế biến dầu khí của Việt Nam cũng chủ yếu được thực hiện thông qua
hình thức hợp tác với nước ngoài (đại bộ phận là liên doanh và hợp doanh).
1.3 Hoạt động dịch vụ dầu khí
35
Để đáp ứng việc cung cấp dịch vụ cho hoạt động dầu khí, Chính phủ đã cấp
Giấy phép đầu tư cho một số dự án vận chuyển trực thăng, cung cấp dịch vụ
khoan, xử lý tài liệu dầu khí, cung cấp dịch vụ kỹ thuật và các dịch vụ khác.
Các dự án này có sự phối hợp của các công ty trong nước đã đáp ứng kịp thời
nhu cầu phát triển của ngành dầu khí với chất lượng ngày càng được nâng cao
và đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tại XNLD Vietsopetro hiện có đội tàu hiện đại vào
bậc nhất Việt Nam, có đẳng cấp quốc tế với công suất 97.000 mã lực, gồm 3
tàu cẩu có sức nâng từ 600-1200 tấn; 9 tàu dịch vụ có công suất từ 4000-13.300 mã lực; 3 tàu dịch vụ lặn, 1 tàu cứu hoả có công suất 3.000 m3 nước, dung dịch/
giờ. Với 19 giàn khoan cố định thăm dò và khai thác dầu khí của XNLD
Vietsopetro (từ 1984-nay) đã khẳng định của Việt Nam về cấu tạo và xây lắp
các công trình khẳng định khả năng của Việt Nam về cấu tạo và xây lắp các
công trình biển. Gần đây lắp ráp và xây dựng giàn khai thác mỏ Rạng Đông,
Ruby trên thềm lục địc nam Việt Nam JPVC và Petronas đã chứng tỏ năng lực
của dịch vụ xây lắp công trình biển.
Về dịch vụ bay, có công ty Liên doanh Trực thăng Việt-Pháp (Helivifra) và
Tổng Công ty Bay Dịch vụ Việt Nam (SFC Vietnam). Công ty Helivifra là
công ty liên doanh giữa Công ty Bay Dịch vụ Việt Nam (SFC Vietnam), Tổng
công ty Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) với Công ty Trực thăng Heli Union
của Pháp được thành lập tháng 10/1998, đã cunh cấp dịch vụ trực thăng, hoàn
hảo cho ngành công nghiệp Dầu khí tại Việt Nam và các ngành công nghiệp
khác.
Nhìn chung, trong bối cảnh cụ thể của nước ta hiện nay, đối với lĩnh vực dầu
khí, gồm cả khâu sản xuất và dịch vụ, do yêu cầu lớn về vốn đầu tư, phức tạp
về công nghệ và chuyên sâu về kỹ năng quản lý, có thể nói bước đi của Ngành
dầu khí Việt Nam trong việc tăng cường mở rộng hợp tác với nước ngoài là
hoàn toàn phù hợp và đúng đắn, những dự án theo Luật ĐTNN đã và đang mở
rộng chân trời mới cho ngành Dầu khí Việt Nam. Với những kết quả đạt được
36
từ quá trình hợp tác trên đã đặt ra tiền đề cho những bước phát triển mạnh mẽ
của Ngành dầu khí đất nước, để dần hướng tới đạt được mục tiêu vươn lên làm
chủ công nghệ hiện đại, nội lực ngày càng được phát huy, ngành công nghiệp
dầu khí sẽ góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, CNH, HĐH
đất nước và mau chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế của Việt Nam.
ừ những số liệu và phân tích các lĩnh vực trong công nghiệp dầu khí có thể T
thấy rõ ngành Dầu khí Việt Nam đang từng bước đi lên và đóng vai trò chủ
đạo trong sự phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam. Các nhà đầu tư nước
ngoài rất quan tâm tới tiềm năng khai thác dầu khí của nước ta do chúng ta có
lợi thế về nguồn trữ lượng dầu mỏ khá dồi dào. Những dự án vào lĩnh vực dầu
khí do có yêu cầu lớn về vốn đầu tư, phức tạp về công nghệ và chuyên sâu về
kỹ năng quản lý nên tính đến nay hầu hết các dự án đều là liên doanh với nước
ngoài. Điều này chứng tỏ, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp phần đáng
kể vào sự phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam nói riêng và toàn ngành công
nghiệp nói chung (năm 2001, doanh thu toàn ngành là 54.549 nghìn tỷ đồng,
nộp ngân sách nhà nước 27.135 nghìn tỷ đồng; năm 2002, doanh thu đạt 61.830
tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước 31.512 nghìn tỷ đồng). Từ những đóng góp
đó đã giải quyết một số yêu cầu về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lí và chia
xẻ rủi ro, góp phần tạo lập một ngành công nghiệp mới với trình độ kỹ thuật
tiên tiến.
Những kết quả thu được từ quá trình hợp tác trên đã đặt tiền đề cho những
bước phát triển mạnh của ngành Dầu khí đất nước để dần hướng tới đạt mục
tiêu vươn lên làm chủ công nghiệp hiện đại, nội lực ngày càng phát huy. Trong
thời gian tới, một mặt ngành dầu khí vẫn tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài,
mặt khác từ đó để nâng cao khả năng của ngành dầu khí Việt Nam trong việc tự
tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí trên cơ sở kinh nghiệm tích luỹ được trong
quá trình liên doanh với đối tác nước ngoài.
2. Công nghiệp nặng
37
Kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nước ta đã kêu gọi được
một khối lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp,
trong đó, lĩnh vực công nghiệp nặng chiếm một phần đáng kể về số dự án, tổng
vốn đầu tư cũng như doanh thu...Theo số liệu thống kê của Vụ Quản lý dự án-
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính đến ngày 20/12/2002 đã có 995 dự án FDI vào lĩnh
vực Công nghiệp nặng còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký (TVĐK) là 8.195
tr.USD, vốn pháp định thực hiện (PĐTH) 3.482 tr.USD và vốn đầu tư thực hiện
(ĐTTH) 4.167 tr.USD.
Bảng 6 : Tình hình FDI vào các lĩnh vực công nghiệp nặng.
(tính tới ngày 20/12/2002)
TVĐK ĐTTH Doanh thu
Số dự án (tr.USD) (tr.USD) (tr.USD)
Qui mô chung 2189 18.886 11.842
Lĩnh vực ô tô 636,6 423 450 11
Sản xuất, lắp ráp xe máy 377 234 521 5
Ngành ô tô, xe máy 200 80 33,5 37
Sản xuất phụ tùng, linh kiện ô tô-xe máy
Sản xuất hàng điện tử 740,5 410 1.549 22
Lĩnh vực tin học 45,95 9 4,5 31 Ngành điện tử-tin học
Ngành sản xuất sắt thép 15 303 252 440
(Nguồn: Vụ QLDA -Bộ KH&ĐT)
Để có thể đánh giá chính xác hơn thực trạng FDI, sau đây xin đi sâu vào
từng lĩnh vực cụ riêng.
2.1 Ngành ôtô, xe máy
2.1.1 Lĩnh vực ôtô
38
Đã có 14 dự án sản xuất, lắp ráp ôtô được cấp Giấy phép đầu tư; trừ 3 dự án
của các công ty Chryster (đã rút Giấy phép), Nissan và VietSin (chưa triển
khai), còn 11 dự án đang hoạt động với vốn đăng ký đạt 636,6 tr.USD, vốn đầu
tư thực hiện đạt 423 tr.USD; công suất thiết kế của 11 liên doanh này là
140.000 ôtô các loại mỗi năm (kể từ năm 2005 là 168.000 ôtô các loại/ năm).
Trong 8 tháng đầu năm 2002 số lượng ô tô các loại được lắp ráp là 17.208
chiếc, trong đó khu vực ĐTNN đóng góp 16.440 chiếc. So với công suất thiết
kế công suất khai thác của các liên doanh này thời gian qua chưa đạt tới 5% và
chỉ chiếm 20-25% thị phần tiêu thụ trong nước. (Báo Đầu tư ra ngày
26/8/2002)
Những dự án đã đầu tư hoàn chỉnh và đang sản xuất ổn định là công ty ôtô
Toyota Việt Nam (liên doanh với Nhật Bản), Công ty ôtô Mekong (liên doanh
với Hàn Quốc), liên doanh ôtô Ngôi Sao (liên doanh với Mitshubisi, Nhật Bản)
và liên doanh ôtô Hoà Bình (Philippines). Các liên doanh khác cũng đã thực
hiện đầu tư trên 70% vốn đăng ký.
Theo đánh giá của một số chuyên gia thì các liên doanh ôtô nếu sản xuất
và tiêu thụ được từ 1.400 xe một năm trở lên là có lãi. Tuy nhiên, hoạt động sản
xuất kinh doanh của các liên doanh lại khác nhau:
(cid:31) Toyota Việt Nam đi vào sản xuất năm 1996 được 222 chiếc, năm
1997 được 1.362 chiếc, năm 1998 sản xuất và tiêu thụ được khoảng 2.000 xe,
lãi trên dưới 7 tr.USD, và ước tính năm 2003 sẽ đạt được doanh số bán 9300 xe
ô tô các loại, chiếm 28% thị phần ô tô Việt Nam, đây là một trong rất ít liên
doanh hoạt động có lãi. Còn lại các liên doanh khác đều trong tình trạng bị thua
lỗ do huy động công suất thấp xa so với công suất thiết kế.
(cid:31) Xí nghiệp liên doanh ôtô Hoà Bình từ khi đi vào sản xuất đến năm
1997 đều kinh doanh có lãi (khoảng 7 tr.USD), mấy năm gần đây do lượng xe
tiêu thu giảm nên bị thua lỗ (Riêng năm 1998 tiêu thụ được xấp xỉ 1.000 xe,
gần đạt được điểm hoà vốn - 1.400 xe/ năm).
39
(cid:31) Công ty Mekong có 2 cơ sở lắp ráp: Nhà máy Cửu Long tại TP.Hồ
Chí Minh lắp ráp xe Mêkong và xe FIAT, sản lượng cầm chừng hàng năm là
500 xe. Nhà máy Cổ Loa lắp ráp xe tải xe buýt không tiêu thụ được vì không
phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của Việt Nam, phải đóng cửa từ cuối năm 1998,
cho thôi việc 250 công nhân. Tổng lỗ của Mekông đến nay khoảng trên 9,8
tr.USD và đã tạm ngừng sản xuất.
(cid:31) Các liên doanh khác như VINASTAR, MERCEDES-BENZ Việt
Nam, ISUZU ViệtNam, HINO Việt Nam, VIDACO, VIDAMCO đều kinh
doanh thua lỗ.
(cid:31) Hãng MERCEDES-BENZ đã thông báo tạm ngừng đầu tư tại khu
vực Đông Á; đối tác Việt Nam trong Công ty liên doanh ôtô Việt Nam -
Daewoo xin chuyển nhượng toàn bộ cổ phần cho phía nước ngoài vì không
chịu nổi lỗ quá lớn.
Quy mô sản xuất và tiêu thụ được một sản lượng xe ở mức phù hợp là yếu tố
quyết định hiệu quả kinh tế đối với công nghiệp ôtô. Nhưng điều này dường
như khó có thể thực hiện trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Gần như trong
cùng một thời điểm có quá nhiều dự án lắp ráp ôtô đi vào hoạt động với công
suất thiết kế các nhà máy dựa trên dự báo không chuẩn xác trong khi dung
lượng thị trường Việt Nam rất nhỏ bé và phát triển chậm. Thực tế, mức tiêu thụ
bình quân khoảng 22.000 -23.000 ôtô các loại, nhưng thị phần của các liên
doanh ôtô chỉ chiếm khoảng 25,7% còn lại 74,3% là thị phần cho xe nhập khẩu
nguyên chiếc (trong đó có khoảng 10.000 xe đã qua sử dụng với giá thành rất
thấp). Mặt khác, do vừa mới đầu tư với số vốn lớn, tỷ lệ khấu hao cao trong khi
công suất phát huy chỉ ở mức thấp (dưới 5%), sản lượng tiêu thụ không đáng kể
nên giá thành cuả các liên doanh cao hơn so với giá xe nhập khẩu. Mặc dù hy
vọng có thể có sự tăng trưởng trong tương lai nhưng con số tiêu thụ cũng chỉ có
thể đạt tới 45.000 xe/ năm vào 0năm 2003.
Chúng ta đã có chính sách hạn chế và cấm nhập khẩu xe nguyên chiếc để
40
dành thị trường nội địa cho các doanh nghiệp lắp ráp ôtô. Tuy nhiên, chính sách
này đã chưa được thực thi hiệu quả.
Số lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc nhiều gấp ba lần xe sản xuất trong
nước tiêu thụ được. Điều này đang đe doạ sự phát triển của các liên doanh ôtô
đã được thành lập cũng như các nhà sản xuất phụ tùng xe.
Sự có mặt của hầu hết các hãng sản xuất ôtô nổi tiếng thế giới tại Việt
Nam đã biến thị trường nội địa nước ta thành một thị trường ôtô thế giới thu
nhỏ với quy mô sản xuất và tiêu thụ đang còn qua nhỏ bé so với các trung tâm
ôtô Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản. Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp ôtô
trên thị trường nội địa của nước ta là điều dễ hiểu và đây sẽ là động lực thúc
đẩy ngành công nghiệp ôtô của nước ta phát triển.
2.1.2 Lĩnh vực sản xuất, lắp ráp xe gắn máy
Hiện nay đã có khoảng 5 dự án sản xuất, lắp ráp xe máy được cấp Giấy phép
đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký khoảng 377 tr.USD, vốn thực hiện 234
tr.USD, năng lực sản xuất, lắp ráp là 1.500.000 xe/ năm với hơn 10 kiểu loại xe
khác nhau, trong đó có một công ty 100% vốn nước ngoài của Đài Loan
(VMEP), 4 công ty liên doanh với Nhật Bản, Thái Lan, Lào. Tới nay 3 doanh
nghiệp là Honda Việt Nam, liên doanh lắp ráp xe máy Hưng Yên và VMEP đã
thực hiện đầu tư 150 tr.USD (không kể dây chuyền lắp ráp xe máy của SUZUKI
đã tính cho phần vốn và thực hiện thuộc Liên doanh lắp ráp ôtô VISUCO). Tổng
doanh thu của 3 doanh nghiệp đạt 392 tr.USD và tạo việc làm cho 2.745 lao
động.
Nhìn chung, các dự án lĩnh vực xe máy triển khai tốt, hoạt động của các
doanh nghiệp FDI lắp ráp xe máy đều có lãi, mặc dù có sự cạnh tranh với các
doanh nghiệp lắp ráp 100% vốn trong nước. Sản lượng tiêu thụ xe máy tăng dần:
Năm 1998 tiêu thụ 193.026 xe, năm 1999 tiêu thụ 199.282 xe, năm 2000 tiêu thụ
291.510 xe. Hàng năm, tổng doanh thu đạt từ 390 tr.USD đến 480 tr.USD, nộp
Ngân sách gần 100 tr.USD; tổng số lãi gần 30 tr.USD. Chỉ tính riêng năm 1999,
41
Honda Việt Nam lãi 12, 62 tr.USD và đến nay đã sử dụng 18.000 lao động,
SUZUKI Việt Nam lãi về lắp ráp xe máy 4,8 tr.USD, VMEP lãi 876.590 USD
chỉ có GMN lỗ 100.000 USD nhưng không đáng kể so với số lãi mà Công ty thu
được hai năm trước đó (hơn 4,2 tr.USD).
Chương trình thực hiện nội địa hoá của các doanh nghiệp FDI lắp ráp ôtô,
xe máy đều được quy định trong Giấy phép đầu tư, trong đó năm sản xuất đầu
tiên khoảng 10 - 15% IKD và nâng dần lên từ năm thứ 5 trở đi. Các công ty đã
có nhiều cố gắng thực hiện nội điạ hoá sản phẩm, nhìn chung đạt và vượt yêu
cầu của Giấy phép đầu tư (công ty YAMAHA đạt tỷ lệ nội địa hoá 31,56%,
GMN đạt 31,91%, SUZZUKI đạt 41,63%, HONDA đạt 51,9%, cao nhất là
VMEP đạt từ 61- 63,98% và bắt đầu triển khai sản xuất động cơ tại Việt Nam).
Tuy nhiên, do việc thực hiện nội địa hoá cần đầu tư lớn về vốn, nhà xưởng
thiết bị, công nghệ, trong khi đó số sản phẩm tiêu thụ còn hạn chế (mới đạt gần
20% công suất thiết kế) nên ảnh hưởng lớn đến kế hoạch sản xuất, giá thành sản
phẩm của doanh nghiệp. Mặt khác, thuế nhập khẩu các linh kiện phụ tùng chi
tiết cũng còn có nhiều mâu thuẫn và chưa phù hợp với từng chủng loại để có thể
vừa giúp các doanh nghiệp hạ giá thành lắp ráp hiện nay nhưng cũng khuyến
khích buộc các nhà đầu tư phải tìm nguồn cung cấp chi tiết phụ tùng từ các nhà
sản xuất nội địa, trong đó chủ yếu là từ các doanh nghiệp FDI sản xuất phụ tùng,
linh kiện ôtô xe máy.
2.1.3 Sản xuất phụ tùng, linh kiện ôtô- xe máy
Hiện có 37 doanh nghiệp cơ khí đang hoạt động trong lĩnh vực này, chưa kể
các doanh nghiệp sản xuất săm lốp và ắc quy. Về hình thức đầu tư: có 2 Hợp
đồng hợp tác kinh doanh, 9 liên doanh và 26 doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài. Hầu hết các doanh nghiệp này là những doanh nghiệp nhỏ, di chuyển từ
Nhật Bản và Đài Loan theo các hãng lắp ráp ôtô lớn sang Việt Nam. Phần lớn
các sản phẩm của các doanh nghiệp này là các chi tiết linh kiện sản xuất với kỹ
thuật công nghệ đơn giản: giảm xóc, đồng hồ báo tốc báo xăng, đèn, dây và chi
42
tiết điện, nội thất (ghế, đệm ôtô) và một số chi tiết nhựa. Chưa có doanh nghiệp
sản xuất các bộ phận chính, quan trọng đòi hỏi công nghệ kỹ thuật cao như máy
động lực cho ôtô, xe máy, thân xe...Tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 200 tr.USD,
đã thực hiện đầu tư 80 tr.USD, doanh thu chỉ mới đạt 33,5 tr.USD, có gần 3.000
lao động đang làm việc (tương đương số lao động của 14 liên doanh lắp ráp ôtô
và nhiều hơn số lao động đang làm việc trong 5 doanh nghiệp lắp ráp xe máy).
Do các liên doanh ôtô thua lỗ nên các xí nghiệp cũng bị ảnh hưởng, nhiều xí
nghiệp cũng đang bị thua lỗ và đang giảm lao động.
Thu hút đầu tư vào lĩnh vực sản xuất phụ tùng ôtô xe máy không hạn chế về
số lượng, hình thức đầu tư nhưng các nhà đầu tư nước ngoài đang quan tâm tới
tình hoạt động của chính các doanh nghiệp lắp ráp ôtô xe máy đã đầu tư và các
chính sách điều tiết vĩ mô nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp này phát triển.
Việt Nam còn thiếu các nhà cung cấp phụ tùng, nguyên vật liệu và có rất ít
các nhà cung cấp này đáp ứng được các tiêu chuẩn của các nhà sản xuất ôtô
hiện đang có mặt tại Việt Nam. Để Việt Nam có thể phát triển ngành công
nghiệp ôtô, có thể đuổi kịp các hãng sản xuất phụ tùng nước ngoài và hình
thành các nhà sản xuất phụ tùng trong nước. Tuy nhiên, với môi trường đầu tư
hiện nay ở nước ta không dễ dàng gì thu hút các nhà sản xuất phụ tùng nước
ngoài quyết định đầu tư vào Việt Nam.
2.2 Ngành Điện tử - Tin học
Cho đến nay, đã có hơn 58 dự án được cấp Giấy phép đầu tư, với tổng vốn
đầu tư đăng ký 798,78 tr.USD, vốn pháp định 297,5 tr.USD. Hầu hết các dự án
tập trung vào các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Đồng Nai, TP.Hồ Chí Minh
và một số thành phố khác. năm 1995 năm đạt cao nhất về số dự án được cấp
Giấy phép (14 dự án) cũng như về vốn đầu tư (278 tr.USD) .
2.2.1 Lĩnh vực sản xuất hàng Điện tử
Nếu phân chia ngành công nghiệp thành 19 chuyên ngành nhỏ như trên đã
43
nêu thì công nghiệp Điện tử đứng thứ 8 vể vốn đăng ký nhưng xếp thứ hai về
doanh thu và thứ hai về kim ngạch xuất khẩu (tổng doanh thu luỹ kế là 1.549 tr.
USD trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 954,4 tr.USD). Trong 22 doanh nghiệp
đang hoạt động, có 17 liên doanh và 5 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Các doanh nghiệp này đã tạo được năng lực sản xuất lắp ráp hàng điện tử các
loại như sau: Tivi màu các loại: 2,0 tr. chiếc/ năm ; Tivi đen trắng 160.000
chiếc /năm; Radio, cassette các loại: 700.000 chiếc/năm; Đèn hình: 1,6 tr.
chiếc/ năm; Linh kiện điện tử các loại 804 đơn vị sản phẩm/ năm.
Nhìn chung, các dự án FDI vào lĩnh vực Điện tử được triển khai nhanh, đúng
tiến độ cam kết, qui mô của các dự án rất lớn, bình quân trên 27 tr.USD/ dự án.
đối tác của Việt Nam trong các liên doanh phần lớn là doanh nghiệp Nhà nước
(chiếm 94% dự án và 96% tổng vốn đầu tư), đối tác nước ngoài là các tập đoàn,
các Công ty lớn có tiếng trên thế giới về Điện - điện tử như MISUBISHI,
SONY, TOSHIBA, JVC, SAMSUNG, LG, PHILIP, FUJIITSU, DAEWOO... có
tiềm lực về tài chính, công nghệ cũng như uy tín lâu năm trong kinh doanh.
Bảng 7: Phân loại dự án theo vốn đầu tư (tính đến cuối năm 2001)
Mức vốn (tr. USD) Số dự án Tỷ lệ phần trăm (%)
Vốn < 5 7 31,8
Vốn từ 5 - 10 5 22,7
Vốn >10 10 45,5
Tổng vốn 22 100,0
(Nguồn: Vụ QLDA- Bộ KH&ĐT)
Bảng số liệu cho thấy, chủ yếu là các dự án có quy mô lớn (có vốn đầu tư
trên 10 tr.USD) chiếm 45,7% số dự án. Các dự án có vốn đầu tư dưới 5 tr.USD
tuy chiếm tới 31,8% số dự án song thực tế chỉ chiếm xấp xỉ 1,16% tổng vốn
đầu tư, còn lại là các dự án có quy mô vốn trung bình từ 5-10 tr.USD (22,7% số
dự án). Trong đó những dự án lớn, đáng chú ý là:
44
-Công ty máy tính Fujitsu Việt Nam tại Đồng Nai, 100% vốn đầu tư của
Nhật Bản với 198,8 tr.USD và vốn pháp định 77,9 tr.USD. Tuy mới thực hiện
đầu tư 17,5 tr.USD nhưng tổng doanh thu của Công ty đã đạt hơn 655 tr.USD
và sản phẩm hoàn toàn cho xuất khẩu, nộp Ngân sách chưa đáng kể nhưng
Công ty đã tạo 1.667chỗ làm việc cho người lao động. Đây là một doanh
nghiệp hoạt động có lợi nhuận và hiệu quả.
-Công ty đèn hình ORION-HANEL tại Hà Nội, một liên doanh với Hàn
Quốc, có vốn đăng ký 178,58 tr.USD, vốn pháp định 51,17 tr.USD trong đó
phía Việt Nam góp 30%. Công ty đã góp xong vốn pháp định, đã thực hiện đầu
tư 166,4 tr.USD đạt doanh thu 217 tr.USD, trong đó xuất khẩu 165,5 tr.USD, đã
nộp Ngân sách gần 12 tr.USD và thu hút 1.346 lao động.
- Công ty điện tử DAEWOO - HANEL tại Hà Nội, vốn đăng ký 52 tr.USD
nhưng đã thực hiện đầu tư 67 tr.USD, trong đó vốn pháp định 14 tr.USD và
phía Việt Nam đã góp 30%. Doanh thu của liên doanh đạt 90 tr.USD trong đó
xuất khẩu đạt 24,5 tr.USD.
- Hai công ty khác có vốn đầu tư tương đối lớn là Công ty điện tử
SAMSUNG VINA, một liên doanh tại TP.Hồ Chí Minh với vốn đầu tư 36,5
tr.USD và Công ty linh kiện điện tử DAEWOO Việt Nam tại Bình Dương với
21,6 tr.USD.
Cho đến nay, hai doanh nghiệp có vốn đầu tư đăng ký lớn nhất vẫn là Công ty
đèn hình OWENHARAL với 178 tr.USD và Công ty sản phẩm máy hình
FUJITSU Việt Nam 198 tr.USD.
Một đặc trưng quan trọng của các dự án FDI trong lĩnh vực điện tử là các sản
phẩm sản xuất ra chủ yếu dùng để xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, điều
này phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế của nước ta. Thực tế cho thấy,
lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực điện tử ngày càng gia tăng thể hiện qua biểu sau:
45
Bảng 8: Tốc độ tăng vốn đầu tư qua các năm.
Năm
Vốn đầu tư (Tr.USD) Tốc độ tăng vốn cố định (%) Tốc độ tăng vốn liên hoàn (%)
1992 8,00 100 100
1993 18,3 225,3 225,3
1994 180,0 2.250 983,6
1995 93,9 1.174 52,2
1996 265,8 3.322,5 283
1997 16,5 206,3 6,2
1998 10,0 125 60,6
(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)
Trong số 22 dự án đang hoạt động, Hàn Quốc đứng đầu về số dự án (7 dự án),
sau đó là Nhật Bản (5 dự án ), Hồng Kông (4dự án), Đài Loan (2 dự án)... Các
nhà đầu tư Hàn Quốc nhanh chân hơn các Công ty điện tử mạnh của Nhật Bản
và của các nước khác, sản phẩm chủ yếu nhằm vào thị trường nội địa. Các công
ty điện tử Nhật Bản tuy chậm chân hơn song đã đưa vào công nghệ hiện đại hơn
và sản phẩm lắp ráp có hướng tới xuất khẩu. Ngoài công ty máy tính Fugitsu,
Công ty Sony Việt Nam liên doanh với Sony Nhật Bản hoạt động cũng hiệu quả.
Vốn đầu tư của Sony Việt Nam chỉ có 16,6 tr.USD nhưng doanh thu đạt tới
132,6 tr.USD và nộp Ngân sách gần 12,5 tr.USD. Đặc biệt, Nhật bản đã đầu tư
một dự án sản xuất các thiết bị điều khiển tự động (Công ty RozeRobotech) tại
Khu công nghiệp Nomura Hải Phòng với vốn đầu tư 46 tr. USD, vốn pháp định
25,5 tr.USD và đã bắt đầu hoạt động có doanh thu.
Ngoài các công ty hàng đầu của Hàn Quốc và Nhật Bản, lĩnh vực đầu tư
sản xuất hàng điện tử ở nuớc ta còn có các nhà đầu tư từ Singapore, Hồng
Kông, Đài Loan, Malaysia. Những nước EU có rất ít dự án đầu tư trong lĩnh
vực này. Hoa Kỳ mới có một dự án sản xuất lắp ráp thiết bị điện tử và viễn
thông tại Tp.Hồ Chí Minh với vốn đầu tư 25 tr.USD nhưng chỉ mới triển khai,
46
chưa có doanh thu.
Tóm lại, hơn 14 năm thực hiện, sản lượng điện tử gia dụng của khu vực
này chiếm khoảng 75% sản lượng toàn ngành, trong đó ti vi chiếm khoảng
48%, riêng máy thu băng, video hoàn toàn do các doanh nghiệp FDI sản xuất.
Các dự án thuộc lĩnh vực này triển khai thực hiện đầu tư theo đúng tiến độ cam
kết, có kinh nhiệm và uy tín với thị trường nội địa. Đối tác nước ngoài là những
tập đoàn mạnh hàng đầu thế giới, có uy tín, năng lực tài chính và có thị trường
và có thị trường đáng kể trên thị trường khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài tại KCN và KCX dễ có điều kiện gia công sản phẩm cho
công ty mẹ như Công ty Fujitsu Việt Nam. Các dự án có quy mô vốn rất lớn,
sản xuất chủ yếu sản phẩm xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu phù hợp với chủ
trương phát triển kinh tế của đất nước. Tốc độ tăng vốn đầu tư FDI vào lĩnh
vực điện tử cũng tăng nhanh và cao, bình quân khoảng 298,25%. Ngoài ra, tỷ lệ
thực hiện vốn đầu tư đạt trên 50%, ghi nhận một nỗ lực rất lớn của bên nước
ngoài và bên Việt nam, cũng như sự tạo điều kiện hết sức thuận lợi của các cấp
thẩm quyền ở các địa phương nơi có dự án tiến hành hoạt động đầu tư và kinh
doanh sản xuất.
2.2.2 Lĩnh vực Tin học
Có 31 dự án đang hoạt động trong lĩnh vực Tin học (hai Hợp đồng hợp tác
kinh, 3 liên doanh và 26 doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài) với tổng
vốn đầu tư 45,95 tr.USD, thực hiện gần 5 tr.USD và doanh thu khoảng 4,5
tr.USD. Đây là những dự án nhỏ, có vốn đầu tư dưới 5 tr.USD (dự án cao nhất
là 4,5 tr.USD, dự án nhỏ nhất 190.000 USD) và chủ yếu làm dịch vụ phát triển
phần mềm cho các hãng lớn của Hoa Kỳ, Singapore, Hồng Kông và một số
nước khác. Tuy có quy mô vốn đầu tư nhỏ nhưng các dự án Tin học của khu
vực này cũng chiếm tới 90% năng lực toàn ngành.
2.3 Ngành sản xuất sắt thép
Hiện có 15 dự án (1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh, 11 liên doanh và 3 doanh
47
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài) đầu tư vào sản xuất sắt thép nguyên liệu
các loại với tổng vốn đầu tư đăng ký 303 tr.USD, vốn pháp định là 120,15
tr.USD. Phần lớn các dự án trong số này đầu tư vào công đoạn nấu kéo ống
thép từ phôi và sắt phế liệu. Chưa có dự án đầu tư vào tinh luyện quặng ban đầu
để sản xuất phôi. Tổng vốn đầu tư thực hiện của lĩnh vực sản xuất sắt thép là
252 tr.USD và vốn pháp định thực hiện là 110 tr.USD. Tỷ lệ vốn đầu tư thực
hiện trên vốn đăng ký của ngành thép là 83,16% và tỷ lệ vốn pháp định là
91,55%. Đây là một tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư cao so với thực hiện ở những
khu vực khác. Doanh thu ngành thép đạt 440 tr.USD, gấp 1,75 lần vốn đầu tư
thực hiện và tạo được 1.209 chỗ làm việc cho người lao động.
Trước những năm 1990, thép xây dựng và các loại thép khác đều phụ thuộc
vào nhập khẩu. Nhưng từ năm 1991 tới nay, cùng với việc mở rộng sản lượng
thép của các cơ sở sản xuất trong nước, đầu tư nước ngoài đã tạo ra một năng
lực sản xuất thép 1,3 tr.tấn/ năm (chiếm 65% năng lực sản xuất thép của toàn
ngành), đáp ứng nhu cầu về thép ngày càng tăng, nhất là thép xây dựng. Tuy
nhiên, sản lượng thép sản xuất hàng năm chỉ bằng 50-60% công suất thiết kế
(khoảng hơn 650.000-700.000 tấn).
Bảng 9: Sản lượng thép hàng năm ở các doanh nghiệp FDI
1997 1998 1999 2000 2001
Sản lượng thép (nghìn tấn) 398 653 633 1.014 1.253
39,5 50,8 51,7 64,6 65,9
% / sản lượng thép cả nước
(Nguồn : Vụ Quản lý dự án- Bộ Kế hoạch và Đầu tư )
Hoạt động sản xuất kinh doanh toàn ngành thép bị thua lỗ, nhưng các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có lãi vì đã dự đoán được thị trường giá phôi
thép hạ, có điều kiện hạ giá bán nên tiêu thụ tăng. Mặt khác, Nhà nước vẫn có
một số chính sách bảo hộ đối với một số sản phẩm thép, hạn chế nhập khẩu các
48
loại thép mà sản xuất trong nước đã đáp ứng được nên đã tạo thuận lợi về thị
trường nội địa cho các doanh nghiệp ngành thép. Các doanh nghiệp thép của
nước ta do dự đoán sai xu hướng thị trường nên đã nhập khẩu phôi thép với giá
cao, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được dẫn đến thua lỗ.
Về trình độ công nghệ của khu vực sản xuất sắt thép: Nhìn chung, các doanh
nghiệp FDI sản xuất sắt thép vào nước ta đều có công suất nhỏ so với các nhà
máy thép trong khu vực và trên thế giới, trong đó trình độ công nghệ chỉ mới ở
công đoạn luyện, cán thép dây, thép thanh, ống thép và đạt mức trung bình tiên
tiến . Chỉ có Công ty liên doanh thép VINA KYOEI (liên doanh giữa Việt Nam
với Nhật Bản) có công nghệ hiện đại, vốn đầu tư đã thực hiện lớn gấp 2,07 lần
vốn đăng ký ban đầu (vốn đầu tư đăng ký là 69,59 tr.USD, vốn được thực hiện
là 144,11tr.USD) công suất 240.000 tấn thép/năm, có doanh thu lớn nhất
(266,63 tr.USD) và có sản phẩm xuất khẩu tuy kim ngạch còn thấp. FDI vào
sản xuất sắt thép trong thời gian qua chỉ mới tập trung ở công đoạn nấu cán
thép từ phôi nhập khẩu và sắt phế liệu. Sản phẩm nhằm vào thị trường trong
nước là chính, xuất khẩu rất hạn chế. Nhưng nhìn chung, thu hút FDI vào
ngành thép là có hiệu quả. Toàn ngành đã có một năng lực sản xuất tương đối
lớn đáp ứng được nhu cầu thép xây dựng trong nước đang ngày càng tăng cả về
số lượng và chất lượng cũng như chủng loại. Các liên doanh thép đang hoạt
động không có áp lực chuyển hình thức đầu tư thành doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài.
hìn chung, toàn Ngành công nghiệp nặng đáng chú ý là FDI vào lĩnh vực N
sản xuất lắp ráp ôtô xe máy (hiện FDI chiếm 100% về năng lực sản xuất)
tiếp đến là máy biến thế 250 - 1.000 KVA, Điện tử -Tin học, sản xuất thép...
FDI chiếm 60 -100% năng lực sản xuất.
Ngành công nghiệp nặng đã thu hút hàng ngàn lao động, doanh thu đạt hơn
1,5 tr.USD mỗi năm, đóng góp cho Ngân sách một khoản đáng kể. Riêng lĩnh
vực sản xuất láp ráp ôtô, mỗi năm thu hút hơn 3.056 lao động, doanh thu đạt
49
521 tr.USD, xuất khẩu đạt 13,5 tr.USD và nộp Ngân sách hơn 22 tr.USD, tiếp
đến là lĩnh vực sản xuất lắp ráp xe máy và Điện tử - Tin học...
Bảng 10: Tổng hợp doanh thu của các dự án FDI.
(tính đến 31/12/2001) Đơn vị: Tr. USD
Năm 1991-1996 1997 1998 1999 2000 2001
C N 2078 1862 2570 3026 3565 3057
C N nặng 676 713 1290 1678 2011 1844
32,57 38,30 50,19 55,47 56,42 60,33
CN nặng/Chủ nhiệm (%)
(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)
Bảng 10 cho thấy doanh thu của Ngành công nghiệp nặng rất lớn, chiếm
hơn 50% doanh thu của toàn Ngành công nghiệp và ngày càng tăng nhanh.
Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập đối với ngành công nghiệp nặng nói
riêng và toàn ngành nói chung. Phần lớn các dự án trong lĩnh vực đầu tư chỉ
dừng lại ở công nghệ gia công lắp ráp sản phẩm, còn hầu hết linh kiện vẫn phải
nhập khẩu như trong lĩnh vực ô-tô. Nhà nước chưa có việc tính toán kĩ càng để
đưa ra con số dự báo chuẩn xác về dung lượng thị trường Việt Nam nên gây ra
sự mất cân đối trong cung và cầu như: lĩnh vực ô tô có quá nhiều dự án lắp ráp
đưa vào hoạt động trong cùng một thời điểm với công suất thiết kế lớn trong khi
thị trường Việt Nam rất nhỏ và phát triển chậm; hay ngành thép nhập khẩu phôi
thép với giá cao nhưng sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được dẫn đến tình
trạng thua lỗ của các doanh nghiệp.
Vấn đề thời sự hiện nay là vẫn phải có những biện pháp, chính sách cụ thể
hơn cho từng lĩnh vực để giúp các doanh nghiệp định hướng được hoạt động
kinh doanh một cách hiệu quả hơn.
3. Ngành công nghiệp nhẹ
50
Tính đến ngày 20/12/2002, có 975 dự án FDI trong ngành công nghiệp nhẹ
đang hoạt động với tổng vốn đăng ký 5.061tr USD, vốn pháp định 2.247tr.
USD và đã thực hiện đầu tư 2.355tr USD. Tỷ lệ so với toàn ngành như sau:
44,54% số dự án và 26,8% tổng vốn đầu tư.
Bảng 11: Tình hình FDI vào các lĩnh vực công nghiệp nhẹ
(tính đến tháng 12/ 2001)
Tổng VĐK Doanh thu Kim ngạch XK Số LĐ
Số dự án (tỷ USD) (tr. USD) (tr. USD) (người)
Ngành Dệt may 184 1,85 671,5 60.000
Ngành Da-Giầy 94 601,75 1.070,3 967,94 67.144
Các lĩnh vực 111 350 212,6 162,7 12.000
khác
(Nguồn: Vụ Quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Để phân tích sâu hơn tình hình FDI vào ngành công nghiệp nhẹ, dưới đây
xin trình bày tình hình FDI vào một số lĩnh vực tiêu biểu như sau:
3.1 Ngành Dệt - may
Ngành Dệt -may hiện có 184 dự án với số vốn đăng ký đạt gần 1,85 tỷ
USD, vốn thực hiện đạt 341,09 tr.USD, tổng doanh thu đạt khoảng 1,46 tỷ
USD, tạo việc làm cho gần 50.000 lao động trực tiếp và hàng ngàn lao động
gián tiếp khác. Nhìn chung toàn ngành công nghiệp, Dệt-may có tổng doanh
thu đứng thứ năm (sau Điện tử- Tin học, Cơ khí, Da-giầy, Rượu- Bia- Nước
giải khát các loại); kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 671,5 tr.USD, đứng thứ 3 (sau
Da-giầy, Điện tử-Tin học) và chiếm tỉ trọng 19,4% xuất khẩu của khu vực FDI.
Về nộp Ngân sách, Dệt-may xếp ở vị trí thứ 5 nhưng về thu hút lao động xếp
thứ 2 (sau Da-giầy) chiếm tỷ trọng 23,8% lao động của cả khu vực.
51
Có thể phân ngành Dệt-may thành 4 nhóm nhỏ: nhóm Sợi-Dệt-Nhuộm;
nhóm May mặc; nhóm phụ liệu và sản phẩm dệt khác. Trong đó gần 85% vốn
đầu tư tập trung ở các dự án sản xuất liên hợp sợi-dệt-nhuộm-may, hai phân
ngành còn lại chiếm tỷ trọng 15% và chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ. Tỷ lệ
vốn thực hiện của các dự án nhỏ khá cao, trên 66,7% nhưng về số vốn tuyệt đối
chỉ chiếm 20,8%. Trong các phân nhóm thì May mặc thu hút lao động nhiều
nhất tới 30.422 người (67,4%) và cũng đạt kim ngạch xuất khẩu khá: 321,8
tr.USD (47,9%) tương đương kim ngạch xuất khẩu của nhóm sợi -dệt-nhuộm.
Các doanh nghiệp nhỏ của ngành Dệt -may chỉ thực hiện đầu tư 132 tr.USD,
nhưng triển khai sớm, nhanh chóng đi vào họat động sản xuất kinh doanh, tạo
việc làm cho hơn 28.036 người lao động, doanh thu đạt 291 tr.USD và xuất
khẩu đạt 277,3 tr.USD. Rõ ràng, những doanh nghiệp nhỏ này đã góp phần
không nhỏ trong việc giải quyết việc làm và tăng kim ngạch xuất khẩu cho đất
nước.
Ngành công nghiệp Dệt-may là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động,
đầu tư thấp, triển khai nhanh và thích hợp với những nước đang phát triển như
nước ta. Việc thu hút vốn FDI vào ngành này không những góp phần tăng năng
lực sản xuất mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu tới EU, Mỹ, Nhật Bản và
một số thị trường phi hạn ngạch khác. Nhìn chung các dự án trong lĩnh vực Dệt
-may triển khai tốt, công nghệ đồng bộ từ khâu sản xuất Sợi đến khâu in,
nhuộm, hoàn tất sản phẩm; máy móc thiết bị đạt trình độ công nghệ trung bình
trong khu vực, một số tuy đã qua sử dụng song vẫn còn hiệu quả tốt, chất lưọng
sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Công nghệ may tiên tiến, đồng bộ từ khâu
tạo mẫu mã sản phẩm đến khâu hoàn tất sản phẩm, có nhiều sản phẩm may đạt
tiêu chuẩn quốc tế như: áo lót phụ nữ, áo Jacket, áo Comple, đồ bơi...Nhìn
chung, các dự án trong lĩnh vực này có phương pháp quản lý tiên tiến, phát huy
được năng lực sản xuất nên thời gian thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa, các doanh
nghiệp cũng có chính sách đào tạo tương đối tốt nên đội ngũ lao động trưởng
52
thành nhanh chóng, tiếp thu tốt công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến.
3.2 Ngành Da-Giầy
Chế biến da và sản xuất giầy dép của Việt Nam trở thành một trong những
ngành công nghiệp chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ sau
những năm 1985 khi hàng loạt xí nghiệp ra đời thực hiện những hợp đồng gia
công may mũ, giầy và sản xuất một số loại giầy thể thao, giầy bảo hộ lao động
cho Liên Xô và các nước Đông Âu. Khi khối này tan rã, thiếu đơn đặt hàng;
ngành Da-Giầy mới hình thành đã rơi vào tình trạng khó khăn do năng lực sản
xuất không đồng bộ, sản phẩm chủ yếu là bán thành phẩm (mũ, giầy), nguyên
liệu và mẫu mã phụ thuộc hoàn toàn vào đơn đặt hàng của nước ngoài và cung
không còn nữa. Tuy nhiên, đây là ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
sử dụng nhiều lao động và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Nhà nước
ta đã tạo cơ hội cho ngành Da -Giầy tiếp nhận làn sóng di chuyển các xí nghiệp
sản xuất giầy dép xuất khẩu của Đài Loan, Hàn Quốc, Hong Kong và một số
nước khác sang nước ta vào đầu những năm của thập kỷ 90.
Cho đến nay, có 94 dự án FDI vào ngành Da-Giầy đang hoạt động với
tổng vốn đăng ký 601,75 tr.USD, vốn pháp định 272,51 tr.USD và đã thực hiện
341,09 tr.USD chiếm 56,68% so với vốn đăng ký, đây là tỷ lệ thực hiện đầu tư
cao. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp đạt 1.070,3 tr.USD, trong đó xuất
khẩu hơn 90% (967,94 tr.USD) và đã thu hút tới 67.144 lao động. Ngành Da-
Giầy hiện đứng đầu tất cả các ngành về tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu
(chiếm 27,9% tỷ trọng xuất khẩu của toàn bộ công nghiệp FDI) và cũng đứng
đầu về tạo việc làm cho người lao động (chiếm 35,3% tỷ trọng về lao động).
Phần lớn các dự án Da-Giầy có quy mô đầu tư nhỏ, dưới 5tr. USD (chiếm
tới 77,65% số dự án của ngành Da-Giầy). Dự án có vốn đầu tư lớn không nhiều.
Cụ thể theo mức vốn đầu tư như sau:
Bảng 12: Tình hình FDI vào ngành Da - Giầy
53
Loại quy mô Số dự án Vốn ĐTĐK Vốn ĐTTH Doanh thu
(tr.USD) (tr.USD) (tr.USD) (tr.USD)
Trên 100 1 120,26 86,13 20,01
40-100 2 115,05 87,35 367,89
10-40 10 181,93 81,51 270,76
5-10 8 53,3 12,39 144,68
Dưới 5 73 131,21 73,71 266,96
(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)
Đặc biệt có một số dự án lớn như sau:
D.a.1 Công ty TNHH cổ phần PouYuen Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh,
100% vốn của Hông Kong, sản xuất giầy thể thao, Giầy dép du lịch, khuôn,
phụ liệu giầy và bao bì. Vốn đăng ký của doanh nghiệp là 120,26 tr.USD, vốn
pháp định 36 tr.USD. Tới nay Công ty đã thực hiện đầu tư 86,1 tr.USD, trong
đó đã thực hiện xong phần vốn góp. Tổng doanh thu của công ty là 20 tr.USD
trong đó doanh thu xuất khẩu gần 19 tr.USD, có 7.079 người làm việc.
D.a.2 Công ty Hưng Nghiệp cổ phần TNHH Pouchen Việt Nam tại Đồng
Nai, cũng 100% vốn HongKong, sản xuất kinh doanh giầy thể thao, cấu kiện
giầy, phụ liệu giầy cho xuất khẩu. Vốn đầu tư dăng ký là 74 tr.USD, vốn pháp
định 36 tr.USD. Công ty đã thực hiện đầu tư 44,2 tr.USD và cũng đã xong phần
vốn góp, tổng doanh thu đạt hơn 85 tr.USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu hơn
84 tr. USD và tạo việc làm cho 9.095 người lao động. Hiện nay, Công ty đang
xin chuyển thành xí nghiệp chế xuất 100% và xin được hưởng mọi quy chế ưu
đãi như đối với Khu chế xuất.
D.a.3 Công ty TNHH TaeKwangViNa, tại Đồng Nai. Đây là doanh nghiệp
100% vốn Hàn Quốc, với vốn đầu tư là 41tr.USD, vốn pháp định 12 tr.USD,
sản xuất giầy thể thao xuất khẩu và phụ liệu giầy. Tới nay, doanh nghiệp đã
thực hiện đầu tư 43tr.USD, doanh thu đạt 282,5 tr.USD, trong đó xuất khẩu
54
279,5 tr.USD (gần gấp 7 lần vốn đầu tư) và thu hút 8.790 người lao động.
Một số dự án có quy mô vừa như Công ty giầy Đồng Nai-Việt Vinh (vốn
đầu tư là 34 tr.USD); Công ty giầy Samyang Việt Nam (vốn đầu tư 30,5
tr.USD); Công ty ChangShin Việt Nam sản xuất giầy thể thao (vốn đầu tư 25
tr.USD) đều có doanh thu và kim ngạch xuất khẩu cao.
Tới nay hầu hết các hãng lớn nhất, nổi tiếng nhất thế giới như: Nike,
Adidas, Bata, Reebox, Fila... đã đầu tư vào Việt Nam. Sản phẩm của khối đầu
tư nước ngoài này thường là cao cấp. Vì vậy sản phẩm của các cơ sở thuộc
thành phần kinh tế khác của nước ta còn kém sản phẩm của họ về chất lượng,
chủng loại cũng như mẫu mã.
Khác với những ngành khác, sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn FDI
thường cạnh tranh với các sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước, các sản
phẩm da giầy của khu vực FDI hầu như không cạnh tranh với các sản phẩm sản
xuất tiêu thụ trong nước, không gây ứ đọng. Thiết bị, công nghệ đầu tư vào Việt
Nam của các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực Da- Giầy đều thuộc loại trình độ
trung bình và hiện đại, công nghệ phần lớn thuộc loại tiên tiến.
Ngành Da-Giầy sử dụng rất nhiều lao động, lao động cho ngành này đào
tạo nhanh nhưng yêu cầu kỹ luật cao. Người lao động làm việc trong các doanh
nghiệp có vốn FDI thường là từ nông thôn, số lượng dân gốc thành thị ít hơn vì
chế độ làm việc rất vất vả, thường phải làm thêm giờ, lương tháng thuộc loại
trung bình và thấp. Bên cạnh đó các doanh nghiệp này thường thực hiện biện
pháp quản lý rất nghiêm ngặt, cấp dưới phục tùng tuyệt đối lệnh của cấp trên,
trách nhiệm của từng cấp được quy định rõ ràng và phải chịu hoàn toàn trách
nhiệm trong lĩnh vực mình phụ trách. Công nhân trước khi đào tạo tay nghề
được học cách ăn, cách giao tiếp, cách đi lại và biết cách sử dụng đúng những
dụng cụ sinh hoạt trong và ngoài xí nghiệp. FDI vào ngành Da-Giầy đã giải
quyết rất nhiều việc làm cho người lao động, đóng góp đáng kể vào Ngân sách
nhà nước, đưa vào Việt Nam máy móc thiết bị tiên tiến cùng với phương thức
55
quản lý nghiêm ngặt và hiệu quả. Tuy nhiên, công nghệ sử dụng chủ yếu vẫn ở
mức trung bình, công nhân liên tục phaỉ làm thêm giờ, sức lao động bị tận dụng
quá mức. Một số doanh nghiệp chưa bảo đảm điều kiện làm việc cho người lao
động, lương của người lao động quá thấp và thường sử dụng số lao động di
chuyển từ nông thôn lên thành phố và các Khu công nghiệp để tìm việc làm.
Cũng như các ngành sản xuất khác, ngành Da-Giầy cũng bị ảnh hưởng bởi
cuộc khủng hoảng kinh tế: nhu cầu tiêu dùng giảm, sức mua hạn chế, gây ứ
đọng, các đơn hàng xuất khẩu bị cắt giảm và đã có một số doanh nghiệp thu
hẹp sản xuất, sa thải công nhân. Khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã làm
cho bản tệ mất giá và làm cho lợi thế so sánh giá nhân công rẻ, chi phí sản xuất
thấp tại nước ta không còn là yếu tố cạnh tranh so với ngay cả nước chính quốc
đã có đầu tư tại Việt Nam. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm giảm FDI
vào ngành Da- Giầy trong mấy năm gần đây và cả trong một vài năm tới.
Không giống ngành Dệt-may, ngành Da-Giầy không có hiện tượng và
cũng không có áp lực chuyển đổi hình thức đầu tư từ liên doanh sang doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc ngược lại.
3.3 FDI vào lĩnh vực sản xuất hàng công nghiệp nhẹ khác
Lĩnh vực sản xuất hàng công nghiệp nhẹ khác bao gồm các dự án sản xuất
hàng công nghiệp nhẹ thủ công mỹ nghệ, đồ gia dụng (bao gồm đồ gỗ, trang trí
nội thất, đồ làm bếp...) đồ chơi, các sản phẩm tiêu dùng phục vụ thể thao, giải
trí, du lịch...Có 111dự án (1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh, 18 liên doanh và 92
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài). Lĩnh vực này phần lớn là các dự án nhỏ,
chiếm tỷ lệ 10,4% về số dự án so với toàn ngành, nhưng tổng vốn đầu tư của cả
nhóm chỉ chiếm 8,64%.
Tới nay, khu vực công nghiệp này đã thực hiện đầu tư 150,9 tr.USD (đạt
43% vốn đăng ký), doanh thu 212,6 tr.USD, kim ngạch xuất khẩu 162,7
tr.USD, nộp Ngân sách nhà nước gần 2,5 tr.USD, thu hút hơn 12.000 lao động.
Các dự án FDI trong lĩnh vực này đã góp phần làm phong phú và đa dạng các
56
sản phẩm tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Có khá nhiều dự án hoạt động tốt, có
lãi như Xí nghiệp liên doanh mắt kính Sài Gòn- Leningard, Công ty TNHH
Pilot-Tokai Việt Nam (sản xuất bút viết, bật lửa ga), Công ty sản xuất đầu gậy
đánh golf xuất khẩu tại TP.Hồ Chí Minh, Công ty InYen ViNa (sản xuất dụng
cụ về điện)...Cũng có một số lớn doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ do sản xuất
ra số lượng sản phẩm lớn nhưng không có thị trường tiêu thụ sản phẩm dẫn đến
nguồn hàng còn tồn đọng nhiều. Hiện tại, đối với lĩnh vực này, nước ta không
hạn chế trong việc cấp Giấy phép đầu tư và cũng không hạn chế hình thức đầu
ua những con số và phân tích ở trên có thể thấy trong mấy năm gần đây tư. Q
mặc dù FDI vào ngành công nghiệp nói riêng và vào nền kinh tế nước ta
nói chung đang có xu hướng giảm cả về dự án lẫn quy mô vốn đầu tư, nhưng
đối với lĩnh vực công nghiệp nhẹ vẫn là lĩnh vực thu hút được nhiều dự án đầu
tư FDI và là lĩnh vực có hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Các dự án
triển khai đúng tiến độ, hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi, đóng góp cho
Ngân sách nhà nước hàng chục tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao
động, mà trong đó phải kể tới ngành Dệt - may, Da - giầy. ...
Bảng 13: Tình hình FDI vào công nghiệp nhẹ
(tính đến 30/12/2001) Đơn vị:Tr.USD
Năm 1992-1996 1997 1998 1999 2000 2001
Vốn ĐTTH 646,86 435,61 379,63 209,86 186,43 2.068
Nn góp vốn 327,63 268,09 170,34 85,79 73,88 32,62
Vốn PĐTH 388,15 291,37 194,09 102,92 75,87 1.785
Doanh thu 769,05 585,37 790,92 860,57 880,68 896,20
Xuất khẩu 580,24 448,32 568,41 708,30 647,35 573,10
(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)
Như vậy so với ngành công nghiệp nặng thì đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
ngành công nghiệp nhẹ có những kết quả khả quan hơn, không có nhiều các
57
doanh nghiệp bị thua lỗ. Đó là do đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp nhẹ
không đòi hỏi nguồn vốn quá lớn, hơn nữa lại tận dụng được tối đa nguồn lao
động dồi dào trong nước với trình độ tay nghề không cao, công nghệ và kĩ thuật
không phức tạp, đặc biệt là đối với các lĩnh vực thủ công mỹ nghệ sẽ phát huy
được kĩ nghệ truyền thống của văn hoá đất nước. Việc thúc đẩy thu hút đầu tư
vào ngành công nghiệp nhẹ cũng là một trong những định hướng của nhà nước
ta trong quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
4. Ngành công nghiệp thực phẩm
Tính đến ngày 20/12/2002, số dự án đang hoạt động trong ngành công
nghiệp thực phẩm là 190 dự án, chiếm 8,68 % số dự án FDI của toàn ngành
công nghiệp; tổng số vốn đăng ký 2.281 tr.USD (chiếm 14,13%); vốn pháp
định 953,6 tr.USD. Tới nay, các doanh nghiệp đã thực hiện đầu tư 1.396
tr.USD, đạt tỷ lệ 57,33% so với vốn đăng ký, đây là tỉ lệ thực hiện cao.
Các lĩnh vực tiêu biểu trong ngành công nghiệp thực phẩm như sau:
4.1 Sản xuất Bia
Mặc dù phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt khá cao nhưng Bia là lĩnh vực hấp
dẫn nhất đối với đầu tư nước ngoài cũng như đầu tư của các địa phương trong
nước. Giống như lĩnh vực ôtô, hiện nay nước ta đã có hầu hết các hãng sản xuất
bia danh tiếng trên thế giới hoạt động. Do chính sách chỉ cho phép đầu tư theo
quy hoạch phát triển của ngành nên ta chỉ cấp Giấy phép cho 13 dự án liên
doanh. Không có chủ trương cấp Giấy phép cho hình thức đầu tư 100% vốn
nước ngoài. Tình hình đầu tư của lĩnh vực này như sau:
Đã có 1 dự án bị rút Giấy phép đầu tư đó là Liên doanh sản xuất bia Tam
Phúc ở Hà Bắc, hai liên doanh báo cáo kinh doanh thua lỗ và đã được chuyển
hình thức đầu tư sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là Công ty Forster‘s
Tiền Giang và Công ty bia Rồng Vàng, còn lại 10 liên doanh đang có Giấy
phép hoạt động. Tổng vốn đầu tư đăng ký của 12 dự án đang được phép hoạt
58
động là 700,8 tr.USD, vốn pháp định là 282 tr.USD, trong đó 10 liên doanh có
vốn đầu tư 597,8 tr.USD, vốn pháp định 232 tr.USD; hai doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài có vốn đầu tư 103 tr.USD, vốn pháp định 50 tr.USD. Tổng
công suất đăng ký của khu vực FDI là 643 tr lít/ năm (chiếm 48% công suất
toàn ngành), nhưng hiện nay chỉ mới huy động khoảng 167 tr.lít/ năm bằng
25% công suất thiết kế và bằng 26% công suất huy động của toàn ngành (sản
lượng bia năm 1999: 148tr.lít chiếm 22,8%; năm 2000: 174,3 tr.lít chiếm 24,0%
sản lượng cả nước).
Mặc dù có sự sôi động trong việc xin cấp phép đầu tư nhưng cho tới nay
chỉ mới có 8/12 dự án thực hiện đầu tư gần 250 tr.USD, doanh thu luỹ kế đạt
756 tr.USD (gấp ba lần vốn đầu tư), xuất khẩu 6,3 tr.USD, nộp Ngân sách
114,8 tr.USD và thu hút 2.344 lao động. Những liên doanh thực hiện đầu tư và
hoạt động nhanh là Nhà máy bia Heineken Việt Nam đã đầu tư 84,3 tr.USD,
doanh thu đạt 537 tr.USD và nộp Ngân sách 74 tr.USD, đứng đầu danh sách
các doanh nghiệp FDI về nộp Ngân sách trong cả nước. Tuy nhiên, Bia
Heineken cũng có báo cáo lỗ, nhưng số lỗ 923.016 USD không đáng kể so với
doanh thu. Hai liên doanh bia với Đan Mạch là Công ty bia Huế và Công ty Bia
Đông Nam Á đều hoạt động tốt, có lãi và có sự hợp tác tốt giữa các bên tham
gia liên doanh. Đặc biệt kinh doanh thua lỗ có Công ty bia Tiền Giang, đối tác
nước ngoài là Công ty Forster’s của Úc, vào hoạt động từ khá sớm, vốn đầu tư
ban đầu là 43 tr.USD, nay đã tăng lên 52 tr.USD, doanh thu đạt 79 tr.USD
nhưng báo cáo tổng lỗ lên tới hơn 14 tr.USD nhưng Công ty vẫn yêu cầu tăng
vốn đầu tư mở rộng sản xuất. Phía Việt Nam tham gia liên doanh bị lỗ, lại
không có vốn để góp tiếp, tỷ lệ tham gia trong vốn pháp định bị giảm và đã
phải bán cổ phần của mình cho nước ngoài. Liên doanh chuyển thành doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài. Ngoài Công ty bia Tiền Giang, đối tác nước
ngoài khác tại Đà Nẵng là Công ty TNHH Forster’s Đà Nẵng cũng trong tình
trạng tương tự (lỗ 2,7 tr.USD) và cũng xin chuyển thành doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài. Đây là một trong những chiến lược xâm nhập và thâu tóm thị
59
trường của các Công ty đa quốc gia và hiện tượng này cũng đang dần bộc lộ
trong một số lĩnh vực đầu tư khác.
Về công nghệ: Nhìn chung các dự án sản xuất bia đều có công nghệ tiên
tiến, sản phẩm có chất lượng đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng. Tuy nhiên, thị
trường trong nước bị hạn chế vì phải cạnh tranh quyết liệt với bia của các
doanh nghiệp trong nước, trong khi chưa mở rộng được thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, chi phí về quảng cáo tiếp thị quá lớn cũng là một nguyên nhân gây lỗ
cho các doanh nghiệp FDI.
Thực tế cho thấy, hiện nay năng lực sản xuất bia khoảng 1.225 tr.lít/ năm,
đã bão hoà đối với thị trường nội địa. Mặt khác, các công ty bia nội cũng có bí
quyết công nghệ, chất lượng bia đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng, được người
tiêu dùng đánh giá cao, luôn giữ được thị phần khoảng 45-50%, có khả năng
đầu tư mở rộng sản xuất. Do đó hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp có vốn FDI trong lĩnh vực bia đang gặp khó khăn.
4.2 Nước giải khát các loại
Bao gồm tất cả các dự án FDI sản xuất nước khoáng, nước giải khát có ga
nước hoa quả, nước tinh lọc tăng lực...
Hiện có 33 dự án được cấp Giấy phép đầu tư trong đó có 30 dự án đang
hoạt động, 2 dự án chưa thực hiện đầu tư là Công ty TNHH Seppa Việt Nam
được cấp Giấy phép đầu tư 21/11/2000 và Công ty nước giải khát và nước
khoáng Hoà Bình được cấp Giấy phép đầu tư 31/1/2001;
Trong 30 dự án đang hoạt động có 1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh, 18 liên
doanh và 11 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài với tổng vốn đầu tư 472,4
tr.USD và vốn pháp định 215,3 tr.USD. trong số này có 8 dự án liên doanh và
Hợp dồng hợp tác khai thác sản xuất nước khoáng tại một số suối nước khoáng
của các địa phương như Kim Bôi, Thái Nguyên, Quảng Trị, Trường Xuân
(Khánh Hoà), Long An, Hà Tĩnh...có vốn đầu tư nhỏ từ 70.000 USD đến 12,2
60
tr.USD. Đặc biệt lĩnh vực sản xuất nước giải khát có ga có hai hãng nổi tiếng
thế giới là Công ty CoCaCoLa 3 dự án với tổng vốn đầu tư 262,9 tr.USD, đã
trực tiếp tuyển dụng và đào tạo hơn 2000 nhân viên,mang lại việc làm gián tiếp
cho gần 25.000 người trong các ngành cung ứng và mạng lưới phân phối nước
giải khát; Công ty nước giải khát quốc tế IBC vốn đầu tư 137,3 tr.USD doanh
thu đạt 204,7 tr.USD, xuất khẩu 26,3 tr.USD, nộp Ngân sách 13 tr.USD và có
4.653 lao động đang làm việc.
Đối với lĩnh vực sản xuất nước giải khát, chính sách thu hút đầu tư trong
thời gian qua của nước ta không hạn chế cả về hình thức đầu tư cũng như việc
cấp giấy phép. Hiện nay, tổng công suất thiết kế của khu vực này đạt 802 tr.lít/
năm, nhưng công suất huy động hàng năm chỉ 214 tr.lít (bằng 27% công suất
thiết kế). Tương tự như trong lĩnh vực sản xuất bia, các liên doanh sản xuất
nước giải khát cũng báo cáo thua lỗ. Tổng lỗ tính đến tháng 12/ 2000 là 53,6
tr.USD, trong đó Liên doanh Cocacola Việt Nam (Chương Dương) vốn đầu tư
đăng ký 182,5 tr.USD và Cocacola Non Nước Đà Nẵng vốn đầu tư 25 tr.USD
đều báo cáo thua lỗ, đã được chuyển sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
và Cocacola Ngọc Hồi cũng đang xin chuyển đổi hình thức. Phía Việt Nam
trong Công ty liên doanh Pepsi cũng đã chuyển một phần vốn vay của mình
cho phía nước ngoài do bị lỗ không trả nợ được, giảm tỉ lệ góp vốn pháp định
từ 30% xuống còn 18,5%.
Nhìn chung, nguyên nhân gây ra thua lỗ là của các doanh nghiệp FDI là do
các nhà đầu tư nước ngoài tính khấu hao lớn trong khi sản lượng sản xuất thấp,
một số dự án tính giá thiết bị có vốn đầu tư cao hơn nhiều so với giá trị thực.
Riêng đối với các doanh nghiệp sản xuất bia, nước giải khát còn do chi phí tiếp
thị, quảng cáo cao, bán phá giá sản phẩm để dành thị trường. Gây thua lỗ và
tăng vốn đầu tư, đây chỉ là những biện pháp đầu tiên để gạt bỏ đối tác là nước
chủ nhà trong liên doanh nằm trong chiến lược cạnh tranh lâu dài để dành vị trí
độc quyền trong sản xuất và trong thị trường tiêu thụ của các công ty đa quốc
61
gia.
4.3 Sản xuất Rượu
Hiện có 7 dự án FDI được cấp Giấy phép trong lĩnh vực sản xuất rượu với
tổng vốn đăng ký 29,4 tr.USD, vốn pháp định 16,7 tr.USD; trong đó có 4 liên
doanh và 3 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các dự án đầu tư sản xuất
rượu đều là những dự án nhỏ, dự án có vốn đầu tư lớn nhất (10 tr.USD) là Công
ty rượu Champane Matxcova tại Đồng Nai; dự án có vốn đầu tư nhỏ nhất là Xí
nghiệp liên doanh sản xuất rượu Napoleon xuất khẩu với số vốn đầu tư 370.000
USD tại TP. Hồ Chí Minh.
Đã có 5/7 dự án thực hiện đầu tư với số vốn thực hiện là 17 tr.USD, nhưng
chỉ mới có hai doanh nghiệp có doanh thu (472.000USD) là Công ty Hiram
Walker Bình Tây và Công ty sản xuất rượu nho Allied Domecq Spirit&Wine
Ninh Thuận, cả hai đều là liên doanh giữa Việt Nam với Hà Lan.
Nhìn chung, sản xuất rượu vẫn còn gặp khó khăn trong tiêu thụ: thị trường
xuất khẩu bị hạn chế; thị trường nội địa chủ yếu tiêu thụ ở khu vực đô thị
nhưng bị hàng nhập khẩu cạnh tranh, thị trường nông thôn rộng lớn nhưng
cũng không cạnh tranh được với rượu nếp nấu theo phương pháp truyền thống
trong dân gian. Hơn nữa giá rượu của các doanh nghiệp FDI vẫn còn cao trong
khi đó thu nhập của người dân còn thấp. Rượu là một mặt hàng tiêu thụ đặc biệt
nên không thể kích cầu để thúc đẩy đầu tư, nhưng vẫn luôn là một mặt hàng
tiêu dùng cần thiết trong cuộc sống. Khi mức sống của người dân được nâng
cao thì nhu cầu về các loại rượu chất lượng cao, ít có hại cho sức khoẻ sẽ tăng.
Một thực tế mà nước ta cần lưu ý đó là tỷ trọng loại rượu thực phẩm, rượu
thuốc có tác dụng tốt cho sức khoẻ và sử dụng nguyên liệu nông sản, cây
thuốc... còn thấp, tỷ lệ sản phẩm rượu có độ cồn cao vẫn chiếm chủ yếu.
óm lại, nguồn FDI vào ngành công nghiệp thực phẩm trong mấy năm gần
T
đây ngày càng tăng, tuy nhiên cũng như ngành công nghiệp nặng, do chưa
năm bắt được thị trường tiêu thụ sản phẩm, chưa hiểu được tâm lí người tiêu
62
dùng nên vẫn có nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ. Điều này càng đòi hỏi sự
nghiên cứu sâu rộng hơn của các nhà đầu tư về thị trường Việt Nam boỉ vì đây
là một trong số lĩnh vực sản xuất hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư nước
ngoài, đặc biệt là sản xuất bia và nước giải khát vì tính lợi nhuận cao và khả
năng tiêu thụ lớn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam trong hơn
15 năm qua đã đáp ứng về cơ bản những mục tiêu đề ra, tạo dựng những cơ sở
ban đầu quan trọng cho sự nghiệp mới mẻ và khó khăn, góp phần vào sự phát
triển của Ngành Công nghiệp Việt Nam trong quá trình CND, HĐH của nước
ta. Vậy những đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ngành Công
nghiệp như thế nào xin được đề cập ở mục sau.
III. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Qua phân tích tình hình FDI vào ngành công nghiệp Việt Nam trong
những năm qua cho thấy FDI đã đóng góp phần quan trọng cho Ngành Công
nghiệp, thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Các doanh nghiệp có vốn FDI đã góp phần bổ sung nguồn
vốn quan trọng cho sự phát triển của ngành Công nghiệp
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm một tỷ lệ lớn trong ngành công nghiệp
(48,7% vốn đăng ký và 57,5% vốn thực hiện) đặc biệt là ngành công nghiệp
dầu khí và công nghiệp nặng. Trong ngành công nghiệp dầu khí, trừ Liên doanh
VietsoPetro có tỷ lệ đóng góp vốn của bên Việt Nam cao còn lại hầu hết chi phí
cần thiết cho hoạt động thăm dò, tìm kiếm dầu khí là từ vốn FDI. Trong ngành
công nghiệp nặng, vốn FDI chiếm 40-50% vốn đầu tư. Trong các liên doanh
giữa Việt Nam với nước ngoài, phía Việt Nam chỉ góp được trên dưới 30% vốn
pháp định chủ yếu dưới dạng giá trị sử dụng đất, còn lại hơn 70% vốn pháp
định là của phía nước ngoài.
63
Không những thế, hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài còn giúp cho các
doanh nghiệp trong ngành Công nghiệp hoàn thành chỉ tiêu đóng góp cho Ngân
sách nhà nước (6-7%): năm 1994 đạt 621 tr.USD, năm 1995 đạt 737 tr.USD và
năm 1996-2000 trung bình đạt 1.000 tr.USD/năm. Trong đó riêng ngành Dầu
khí chiếm gần 60%, ngành công nghiệp chế biến chiếm 30% tổng số nộp Ngân
sách nhà nước của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thể nói đây
cũng là nguồn thu ngoại tệ quan trọng góp phần tích cực trong việc làm cân đối
cán cân thanh toán của doanh nghiệp, trong đó có cả việc mua sắm các thiết bị
phục vụ cho sự phát triển của ngành và cho công cuộc CHN, HĐH của đất
nước
Thứ 2: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo ra những
năng lực sản xuất mới, phương thức sản xuất-kinh doanh mới, làm cho cơ
cấu của Ngành Công nghiệp từng bước chuyển biến tốt hơn
Trong những năm gần đây, thông qua các hình thức liên doanh hoặc đầu tư
100% vốn nước ngoài, ngành công nghiệp nước ta đã đạt được mục tiêu thu hút
vốn và kỹ thuật của nhiều nước để phát triển, cung cấp ngày càng nhiều hàng
hoá tiêu dùng cho xã hội. Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn tạo
ra hơn 25% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Sự đóng góp của đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã chi phối đáng kể quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nước ta. Tỷ trọng công nghiệp tăng lên và đang ngày càng chiếm ưu thế
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước
ngoài với vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế thể hiện tương đối rõ nét
trong thực tế vừa qua.
Sự chuyển biến về tỷ trọng của công nghiệp trong GDP, gần như đồng biến
với tỷ trọng GDP của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP của ngành công
nghiệp. Điều này chứng tỏ rằng, trong số các nhân tố ảnh hưởng, đầu tư trực
tiếp nước ngoài không những có vai trò rất quan trọng trong phát triển công
nghiệp, mà nó còn có tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
64
tế nước ta theo hướng hình thành một cơ cấu kinh tế CNH, HĐH.
40
35
30
25
20
15
10
% g n ä r t û T
5
0 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
FDI t r ong CN
CN t r ong GDP
Đồ thị 3: So sánh tỷ trọng FDI trong CN và tỷ trọng CN trong GDP
(Nguồn: Viện kinh tế học Việt Nam)
Các doanh nghiệp FDI tuy mới hoạt động trên thị trường Việt Nam nhưng đã
thể hiện được sức mạnh của mình. Với những ưu thế về kỹ thuật, công nghệ, khả
năng dồi dào về vốn, có kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong nền kinh tế thị
trường và lĩnh hội được các bí quyết kinh doanh từ các công ty mẹ.Các doanh
nghiệp FDI thường có quy mô lớn, trình độ trang bị kỹ thuật hiện đại, khả năng
quản lý và điều hành tốt hơn các doanh nghiệp trong nước.
Đặc biệt, FDI đã tạo nên nhiều ngành nghề, sản phẩm mới như khai thác dầu
khí, sản xuất ôtô xe máy, điện tử - viễn thông... góp phần thoả mãn nhu cầu
trong nước cũng như làm tăng đáng kể năng lực ngành công nghiệp Việt Nam.
Hiện nay, năng lực sản xuất của khu vực FDI chiếm 100% về khai thác dầu thô,
sản xuất ôtô xe máy, biến thế 250-1000KVA, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà nhiệt
độ, máy thu thanh, đầu video và một số hàng điện tử khác; nguyên liệu nhựa.
Trong công nghiệp Dệt - may, FDI chiếm 100% về năng lực sản xuất sợi PE,
PES, 55% về kéo sợi; 50% sản lượng vải; 45% sản phẩm may và 35% về giày
dép. FDI còn chiếm 60% về cán thép, 26% về xi măng, 40% về thuốc trừ sâu,
15% về phân bón các loại. Thông qua FDI đã hình thành bước đầu hệ thống Khu
65
công nghiệp, Khu chế xuất. Đây là hướng đi đúng nhằm góp phần phân bổ công
nghiệp hợp lý, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Thứ ba: Tiếp nhận được những kỹ thuật mới, những công nghệ tiến
tiến, góp phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp nói
riêng và phát triển kinh tế nói chung
Hoạt động FDI vào ngành công nghiệp kéo theo nó là hoạt động chuyển
giao công nghệ vào Việt Nam. Hơn 12 năm qua, các nhà đầu tư nước ngoài đã
đưa vào Việt Nam nhiều công nghệ tiên tiến, hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực
sản xuất lắp ráp ôtô xe máy, Điện tử -Tin học, Ngành Dầu khí...Các nhà đầu tư
nước ngoài không chỉ đưa vào Việt Nam máy móc thiết bị hiện đại mà còn giúp
người lao động Việt Nam làm quen và biết cách sử dụng chúng. Có những dây
chuyền công nghệ, máy móc thiết bị nếu không có bên nước ngoài giúp đỡ thì
thời gian để chúng ta vận hành chạy thử có khi tới vài chục năm thậm chí hàng
trăm năm. Điển hình là ngành dầu khí và ngành sản xuất lắp ráp ôtô xe máy.
Trong ngành dầu khí, nhiều thiết bị, dây chuyền công nghệ nổi tiếng trên thế
giới như BHP Petrecum CRA của Úc... đã được đưa vào Việt Nam để tiến hành
thăm dò và khai thác dầu khí. Trong lĩnh vực ôtô xe máy, dây chuyền công
nghệ hiện đại của các hãng nổi tiếng như Ford, Honda, Suzuki, Yamaha...có
công suất thiết kế 140.000 xe ôtô/ năm (mà thực tế chưa khai thác được 5%);
công suất thiết kế xe máy đạt 1,5 tr.xe/năm.
Bên cạnh đó, ngành công nghiệp điện tử với các đối tác nước ngoài là các
tập đoàn các công ty đa quốc gia có uy tín và có tiếng trên thế giới như: Sony,
Matsushita, Toshiba, JVC, Fujtsu, Philips, Samsung, LG... đã đưa vào Việt Nam
các dây chuyền công nghệ hiện đại với công suất thiết kế cao. Hiện khu vực
FDI chiếm 100% về sản xuất thiết bị máy tính văn phòng; 78% thiết bị truyền
thống, radio, tivi; 76, 4% thiết bị y tế chính xác...
Thứ tư: Việc tăng cường thu hút ĐTNN hướng về xuất khẩu của nhà
nước đã tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường, nâng cao
66
năng lực xuất khẩu của ngành Công nghiệp Việt Nam
Sản phẩm của các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trong ngành công
nghiệp luôn đạt chất lượng cao, mẫu mã, chủng loại rất phong phú đa dạng, đáp
ứng được nhu cầu trong nước cũng như ở nước ngoài. Đặc biệt là sản phẩm của
ngành Dệt-May, Da-Giầy, Điện tử, chế biến thực phẩm... đã xâm nhập và có thị
phần đáng kể trên thị trường quốc tế như Châu Âu, Mỹ...Sản phẩm của các
doanh nghiệp này góp phần thoả mãn nhu cầu trong nước, thay thế hàng nhập
khẩu và hướng xuất khẩu. Rất nhiều doanh nghiệp có tỷ lệ xuất khẩu trên 80%,
tổng kim ngạch xuất khẩu tăng dần. Nếu kể cả dầu thô thì giá trị hàng hoá xuất
khẩu của khu vực có vốn FDI năm 1994 đạt 27% tổng kim ngạch xuất khẩu của
cả nước, năm 1995 đạt 24,7% và năm 1996 đạt 24,5%. Riêng năm 1997 đạt gần
1,8 tỷ USD, năm 1999 đạt gần 2,58 tỷ USD, thời kỳ 1996-2001 đạt trên 10,4 tỷ
USD, tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả
nước, và chỉ riêng 3 tháng đầu năm2003 kim ngạch xuất khẩu của các doanh
nghiệp FDI đã tăng 36%. Trong đó, giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp
chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các ngành có vốn
FDI:
Bảng 14: Giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp có vốn FDI
so với các ngành khác.
1991-1995 1996 1997 1998 1999 2000
Ngành Công nghiệp 718,1 766,3 1.094 1.493 1.495 952,9
(tr.USD)
% so với các ngành 77,62 84,17 82% 91,67 92,12 94,43
(Nguồn: Vụ Quản lý dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu tư )
Trong một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, xuất
khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đã chiếm tới 42% xuất khẩu hàng giầy
67
dép; 25% hàng may mặc; 84% xuất khẩu hàng điện tử, máy vi tính và linh kiện.
Giá trị xuất khẩu của FDI trong công nghiệp đã góp phần làm tỷ lệ xuất
khẩu so với doanh thu của khu vực có vốn FDI tăng nhanh qua các năm: Năm
1995 đạt 16,3%; năm 1996 đạt 28,7%; tăng vọt lên 50,7% năm 1998 và 56%
vào năm 1999.
Thứ năm: Hoạt động các dự án ĐTNN đã tạo ra một số lượng lớn chỗ
làm việc có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy
việc nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam.
FDI đã tạo thêm việc làm cho khoảng 30-32 vạn lao động thường xuyên và
hàng chục vạn lao động thời vụ, giảm bớt tình trạng thất nghiệp và thiếu việc
làm ở cả thành thị và nông thôn.
Mặt khác, thông qua việc thu hút lao động xã hội, người lao động Việt Nam
được đào tạo và nâng cao tay nghề. Đặc biệt là lao động trong các doanh
nghiệp FDI, hiện tại có khoảng 16-17 vạn người. Lao động trong các doanh
nghiệp này không những được đào tạo nâng cao trình độ kỹ thuật mà còn được
tiếp cận với các phương pháp tổ chức và quản lý tiên tiến, được học tập tác
phong lao động công nghiệp và rèn luyện ý thức tổ chức và kỹ thuật lao động
phù hợp với quy trình sản xuất hiện đại. Thu nhập của công nhân lao động
trong các doanh nghiệp này cũng rất cao, bình quân 100USD/ tháng (riêng
ngành dầu khí 692 USD/ tháng, các ngành ôtô xe máy, điện tử - tin học từ 70-
80 USD/ tháng).
FDI nói chung và FDI trong ngành công nghiệp nói riêng đã thực sự góp
phần biến tiềm năng về lao động của Việt Nam trở thành hiện thực.
Những đóng góp của FDI vào Ngành Công nghiệp trong giai đoạn qua đã
góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành phù hợp với chiến lược phát triển
CNH, HĐH mà nhà nước đề ra. Tuy nhiên với thời gian chưa phải là dài, với số
vốn kinh nghiệm chưa phong phú nên đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ngành
68
Công nghiệp Việt Nam không tránh khỏi những hạn chế, tồn tại.
IV. MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, FDI vào công nghiệp Việt Nam
còn tồn tại một số vấn đề sau:
Một là: Công tác quy hoạch nói chung, quy hoạch liên quan đến thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp còn chậm,
chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể.
Do quy hoạch ngành và một số sản phẩm quan trọng làm chậm hoặc chưa
có, lại dựa trên một số dự báo thiếu chuẩn xác chưa lường hết diễn biến phức
tạp của thị trường...nên đã cấp phép đầu tư nước ngoài vào một số lĩnh vực và
sản phẩm ngành công nghiệp vượt quá nhu cầu hiện tại như các dự án bia, nước
giải khát có ga, sản phẩm nghe nhìn, điện tử gia dụng, lắp ráp ôtô, chất tẩy
rửa...Tình hình trên cộng với ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu
vực đã làm cho công suất huy động của nhiều sản phẩm ngành công nghiệp
thuộc khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt thấp như ôtô 5%; xe máy, máy
giặt, tủ lạnh trên 30%. Việc cấp phép những năm đầu còn chạy theo số lượng,
thiên về thay thế nhập khẩu; tuy có bổ sung hàng hoá cho thị trường, tiết kiệm
ngoại tệ nhập khẩu, nhưng tình trạng này kéo dài dẫn đến một số sản phẩm
chèn ép sản xuất trong nước.
Cũng do thiếu quy hoạch cụ thể về sử dụng kết hợp các nguồn vốn nên chủ
trương đối với một số dự án liên quan đến một số sản phẩm quan trọng hoặc
lĩnh vực nhạy cảm của ngành công nghiệp là chưa rõ ràng, xảy ra tình trạng các
địa phương phải chờ xin ý kiến của các cơ quan Trung ương mất nhiều thời
gian. Mặt khác, dẫn đến việc xử lý chủ trương đối với dự án không nhất quán,
có lúc cho phép đầu tư nước ngoài nhưng có lúc lại để đầu tư trong nước tự
làm.
Các Khu công nghiệp đã thành lập do thiếu thiết kế kết cấu hạ tầng kinh tế
69
-xã hội, chưa đủ sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nên mới chỉ lấp kín được gần
30% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. Nhiều KCN ở miền Bắc và
miền Trung tỷ lệ cho thuê đất rất thấp (Khu công nghiệp Nomurai- Hải Phòng
chưa lấp đầy 10%). Quy hoạch tổng thể của nhiều địa phương, nhiều KCN đã
được phê duyệt nhưng thiếu quy hoạch chi tiết, dẫn đến bị động trong việc lựa
chọn địa điểm đầu tư. Giá phí sử dụng cơ sở hạ tầng trong các KCN cao đã triệt
tiêu lợi thế về giá thuê đất rẻ trong các KCN.
Hai là: Một số mục tiêu trước mắt và lâu dài đặt ra nhưng các liên
doanh chưa thực hiện được.
+Mục tiêu chuyển dần từ lắp ráp bằng linh kiện nước ngoài sang lắp ráp
bằng các linh kiện trong nước là chủ yếu vẫn chưa đủ điều kiện thực hiện.
Chương trình nội địa hoá các sản phẩm điện tử, ôtô, xe máy hầu như không tiến
triển được.
Nguyên nhân chính là do việc thực hiện nội địa hoá cần đầu tư lớn về vốn,
nhà xưởng, thiết bị công nghệ trong khi đó số sản phẩm tiêu thụ còn hạn chế
(2%-20% công suất thiết kế) nên ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất, giá thành
sản phẩm của doanh nghiệp. Một số liên doanh chưa ký hợp đồng chuyển giao
công nghệ nên việc đào tạo kỹ thuật cho công nhân Việt Nam cũng chậm lại
làm chậm chương trình nội địa hoá. Bên cạnh đó, một số lĩnh vực sản xuất lắp
ráp như điện tử, viễn thông...dây chuyền công nghệ rất hiện đại chỉ sau 4 đến 6
năm là lạc hậu cần đổi mới song giá lại cao không dễ gì thay đổi và khấu hao
trong một thời gian ngắn do đó việc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá gặp nhiều khó
khăn.
+ Việc góp vốn bằng máy móc, công nghệ trong các liên doanh chưa thực
hiện một cách trung thực, nghiêm túc. Một số đối tác là nhà đầu tư nước ngoài
đưa vào liên doanh những máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu trung bình tiên
tiến. Một số khác nâng giá thiết bị máy móc góp vào liên doanh cao hơn giá trị
thực của nó. Đây cũng là một hạn chế của nước ta vì chưa có một đội ngũ
70
chuyên gia am hiểu và có trình độ để đánh giá chất lượng công nghệ, Bên Việt
Nam tham gia liên doanh cũng bị hạn chế về trình độ khoa học công nghệ.
+Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam với động cơ kiếm lợi
nhuận và nhằm vào thị trường tiêu thụ nội địa gần 80 triệu dân. Nhưng một
mặt, quy mô của thị trường Việt Nam còn nhỏ bé, sức mua rất thấp, nhất là các
vùng nông thôn; mặt khác, nước ta lại chủ trương khuyến khích đầu tư hướng
về xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp bị ràng buộc bởi điều kiện xuất khẩu trên
80% và phải tự cân đối ngoại tệ... nên tính khả thi của dự án không cao. Nhiều
lĩnh vực đầu tư có sức hấp dẫn nhưng vào thời điểm hiện nay đã và đang bão
hoà như: lắp ráp ôtô xe máy, điện tử gia dụng, sắt thép xây dựng, xi măng...
Ba là: Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài vào ngành Công nghiệp có một số
bất hợp lý, dẫn đến hiệu quả kinh tế của khu vực đầu tư nước ngoài chưa
cao.
Chiều hướng tăng tỷ trọng vốn FDI trong lĩnh vực công nghiệp là tốt. Tuy
nhiên, tỷ trọng vốn FDI vào các dự án thay thế nhập khẩu, hướng vào nội địa
còn cao, nhất là các dự án của EU, Mỹ, Nhật Bản; số doanh nghiệp thực hiện
xuất khẩu trên 80% còn hạn chế, một số doanh nghiệp đã xin Nhà nước hạ tỷ lệ
này xuống thấp hơn hoặc giãn thời gian thực hiện dài hơn.
Đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào các KCN ở những địa phương có
điều kiện thuận lợi (TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hà Nội...), tuy có góp phần
làm cho các vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ tăng trưởng cao, tạo động lực lôi
kéo các vùng khác phát triển, nhưng cũng làm cho chênh lệch kinh tế - xã hội
giữa các vùng ngày càng lớn. Đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng hầu như không
đáng kể đến khu vực miềm núi phía Bắc, một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên
và đồng bằng sông Cửu Long. Hơn nữa, tỷ lệ đỗ vỡ phải rút Giấy phép đầu tư ở
các địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn cao hơn địa bàn khác.
Chủ trương đa phương hoá nguồn vốn FDI chưa được thực hiện tốt. Vốn
đầu tư từ các nước Châu Á chiếm tới gần 67%, trong đó ASEAN gần 23%;
71
trong khi vốn đầu tư từ Tây- Bắc Âu, Bắc Mỹ còn thấp (các nước EU chiếm
12,9%; Mỹ và Canada chiếm 4%); các nước G7 (trừ Nhật Bản) mới chiếm
khoảng 12%. Do vậy, FDI ở nước ta bị ảnh hưởng lớn khi các nước xung quanh
lâm vào khủng hoảng.
Một số doanh nghiệp FDI đưa vào Việt Nam các dây chuyền công nghệ
quá hiện đại, công suất sử dụng thấp cho nên rất phí. Ngược lại, không ít các
nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam công nghệ lạc hậu, trung bình tiên
tiến như ở lĩnh vực Dệt -may, Da -Giầy. Đối tác nước ngoài chủ yếu là các
nước trong khu vực, các nước ASEAN (23% vốn đầu tư), hiện các nước này
đang tiến hành đổi mới công nghệ nên họ chuyển giao công nghệ trung bình
tiên tiến sang Việt Nam. Nếu Việt Nam không cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề này thì
nguy cơ Việt Nam sẽ là bãi thải công nghệ của các nước ASEAN. Hơn nữa,
nước ta thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật để có thể giám định, cũng như
tìm đúng công nghệ mình cần mà chuyển giao công nghệ chủ yếu do bên nước
ngoài giới thiệu và thực hiện. Nước ta thiếu kế hoạch và chiến lược cụ thể nên
hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra lẻ tẻ, khập khiễng.
Bốn là: Các điều kiện kinh tế-xã hội còn nhiều bất cập
+ Thị trường vốn phát triển chậm, thị trường chứng khoán chưa hình thành
nên đã hạn chế khả năng đáp ứng yêu cầu vốn vay của các thành phần kinh tế,
trong đó có doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.
+ Chi phí đầu tư ở Việt Nam cao hơn so với một số nước trong khu vực, do
đó không phải là địa điểm lý tưởng để đầu tư. Theo điều tra của Jetro tại 24
thành phố thuộc 14 nước Châu Á tại thời điểm tháng 12/1999 thì lương công
nhân ở Việt Nam cao gấp 1,6 lần tại Jakarta; giá điện gấp 2 lần Thượng Hải và
Bangkok; cước vận chuyển cao gấp đôi Singapore và Kualalumpua; cước phí
điện thoại quốc tế cao gấp đôi các nước khác và thuế thu nhập cá nhân tại Việt
Nam là cao nhất, trên cả Thượng Hải... Đã hạn chế việc sử dụng lao động Việt
Nam vào các cương vị quản lý điều hành doanh nghiệp vì trả cả lương và thuế
72
cho người Việt Nam cao hơn hai đến ba lần so với lao động thuê ở các nước
trong khu vực.
+ Vẫn còn tồn tại việc áp dụng chi phí hai giá phân biệt giữa doanh nghiệp
trong nước và doanhnghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài phải trả giá điện, nước, cước phí điện thoại, giá vé đi lại
và các dịch vụ khác cao hơn các doanh nghiệp trong nước.
+ Cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội còn nhiều hạn chế (giao thông vận tải, điện
nước, các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, giải trí cho đối tượng nước
ngoài...)
+ Việc cung cấp nguyên liệu phụ tùng tại chỗ cho các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài gặp khó khăn và không ổn định, ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất
kinh doanh và làm tăng giá thành sản phẩm. Theo Jetro, Việt Nam hầu như
không có phụ tùng có thể sử dụng được; 3/ 4 số doanh nghiệp do Jetro điều tra
chỉ tự cung cấp được nguyên liệu phụ tùng tại chỗ dưới 20%. Khả năng cung
cấp lao động kỹ thuật, có tay nghề cao ở Việt Nam rất hạn chế.
+ Các địa phương chưa chú trọng đến công tác đào tạo lao động cung cấp cho
các doanh nghiệp mà việc này các doanh nghiệp phải tự tổ chức thực hiện từ
cách ăn mặc, tác phong làm việc cho đến cách thức sử dụng máy móc của
người lao động. Việc này dẫn đến một số doanh nghiệp FDI không làm đúng
quy định và Luật lao động của Nhà nước. Mặt khác, chưa có sự kết hợp chặt
chẽ giữa địa phương và doanh nghiệp FDI trên địa bàn về việc đào tạo công
nhân kỹ thuật cho nên có sự bất cập về số lượng cũng như chất lượng người lao
động. Một vấn đề nữa là thái độ đối xử của chủ đầu tư nước ngoài với người
lao động Việt Nam chưa công bằng cả trong cách cư xử lẫn tiền lương. Một cán
bộ kỹ thuật nước ngoài có mức lương gấp 10-13 lần tổng lương của 10 lao
động Việt Nam. Đây đó vẫn xảy ra tình trạng chủ đầu tư nước ngoài có hành vi
xúc phạm lao động Việt Nam. Công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có
vốn FDI thường phải làm thêm giờ và rất vất vả, quy định của doanh nghiệp rất
73
khắt khe. Đây cũng là một trong những lý do tại sao tỷ trọng lao động từ nông
thôn tới làm việc trong các doanh nghiệp FDI cao trong khi lao động thành thị
lại thấp. Bên cạnh đó, mục tiêu nâng cao trình độ tay nghề cho lao động Việt
Nam cũng chưa đạt được yêu cầu.
Thực tế người lao động Việt Nam kém về trình độ và hạn chế về nhận thức,
lao động chưa qua đào tạo chiếm 60-70%; hoạt động của Công đoàn trong các
liên doanh chưa làm trọn vai của mình. Nguyên nhân chính là do công tác đào
tạo cán bộ quản lý FDI từ Trung ương đến địa phương, công tác đào tạo công
nhân kỹ thuật chưa được quan tâm đúng mức; các cơ quan cử người vào liên
doanh thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý, hầu như khoán trắng.
Năm là: Nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bị thua lỗ dẫn tới mức
nộp Ngân sách Nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với thực lực của nó
Theo báo cáo điều tra hoạt động của doanh nghiệp Nhật Bản JETRO công
bố, số công ty làm ăn ở Việt Nam thua lỗ năm 1998 tới 56% (trong khi tỷ lệ
trung bình điều tra 5 nước ASEAN là 35%); ước tính tỷ lệ này năm 1999 còn
32%; số công ty có doanh thu năm sau cao hơn năm trước giảm dần; số công ty
muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh chỉ chiếm 51%. Tình hình trên ảnh
hưởng tiêu cực đến các nhà đầu tư tiềm năng.
Nguyên nhân chủ yếu là do nhà đầu tư không lường hết được sự biến động
của thị trường quốc tế cũng như dự báo thiếu chính xác dung lượng thị trường
Việt Nam. Gần như cùng một lúc có quá nhiều dự án FDI đi vào hoạt động ở
cùng một lĩnh vực dẫn đến hàng hoá ứ đọng không tiêu thụ được, công suất sử
dụng rất thấp như lĩnh vực ô tô. Một số doanh nghiệp khác hạch toán chưa phù
hợp như đưa toàn bộ chi phí hình thành dự án vào ngay năm đầu kinh doanh, tỷ
lệ khấu hao cao, chi phí dành cho quảng cáo tiếp thị lớn nên giá thành cao. Bên
cạnh đó cũng có một số doanh nghiệp của các Công ty đa quốc gia, các tập
đoàn lớn “lỗ giả nhưng lãi thật”, công ty con ở Việt Nam lỗ song công ty mẹ ở
nước ngoài lại có lãi, dẫn đến đóng nộp Ngân sách rất hạn chế.
74
Nhiều liên doanh kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ, Bên Việt Nam không tiếp tục
liên doanh được đành bán lại phần vốn góp của mình, xẩy ra tình trạng các liên
doanh chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài (như Liên doanh nước giải
khát Coca-Cola; Công Công ty liên doanh ô tô Việt Nam-Daewoo xin chuyển
nhượng toàn bộ cổ phần cho phía nước ngoài vì không chịu nổi lỗ quá lớn...)
Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực tài chính của bên Việt Nam hạn chế,
khả năng trình độ quản lý cũng có hạn. Cho nên khi gặp khó khăn cần bàn bạc
giải quyết Bên Việt Nam thường lúng túng thoái thác cho Bên nước ngoài. Hơn
nữa, các liên doanh thường thua lỗ 4-5 năm đầu, yêu cầu tăng vốn góp, tiếp tục
mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nhưng phía Việt Nam không đáp ứng
được đành chuyển phần vốn góp của mình cho bên nước ngoài.
Trên đây là những phân tích, đánh giá tình hình FDI vào ngành công nghiệp
Việt Nam trong thời gian qua đồng thời đã nêu ra những ưu điểm và những tồn
tại, hạn chế của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ đó sẽ đưa ra
một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành công nghiệp
75
Việt Nam trong thời gian tới.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI
VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI
I. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP
TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Mục tiêu phát triển Ngành công nghiệp trong thời gian tới
Đối với Việt Nam thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và
quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học-
công nghệ cao, tạo ra năng suất lao động xã hộ cao. Mục tiêu lâu dài của CNH,
HDH là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng
an ninh vưng chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh
Mục tiêu trung hạn là ra sức phấn đấu đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản
trở thành mộ nước công nghiệp, do đó tốc độ phát triển công nghiệp phải đạt
cao (trên 12%/năm) trong nhiều năm, năm 2020 giá trị gia tăng công nghiệp
trong GDP đạt trên 40%.
2. Định hướng phát triển Ngành công nghiệp trong thời gian tới
-Phát triển công nghiệp nhằm khai thác hết tiềm năng của nền kinh tế. Công
nghiệp cần hướng mạnh về xuất khẩu.
-Phát triển công nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội thông qua
quá trình cơ giới hoá, tự động hoá, hoá học hoá...
76
- Chiến lược phát triển dài hạn công nghiệp cần xác định được cơ cấu công
nghiệp hợp lý, lựa chọn các ngành công nghiệp chiến lược quan trọng để có
chính sách nuôi dưỡng và phát triển các ngành có lợi thế so sánh và có khả năng
cạnh tranh trong tương lai trên thị trường khu vực và thế giới.
Cụ thể như sau:
+ Phát triển mạnh những ngành công nghiệp ta đang có lợi thế về nguồn nhân
lực và tài nguyên, nhằm tạo ra những khởi động tốt cho phát triển công nghiệp
như: Ngành Dệt - May; Ngành công nghiệp chế biến hướng về xuất khẩu, đặc
biệt là chế biến sâu các sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản, những vùng có quy mô
sản phẩm hàng hoá nguyên liệu lớn; Ngành công nghiệp khai thác dầu khí.
+ Nuôi dưỡng và phát triển các nghành công nghiệp quan trọng có sức cạnh
tranh mạnh mẽ. Đó là: Ngành công nghiệp cơ khí chế tạo và Ngành công
nghiệp điện tử và công nghệ thông tin.
+ Phát triển có chọn lọc những ngành công nghiệp nặng, nhằm tạo ra nguyên
liệu cơ bản cho công nghiệp, đồng thời phát huy các lợi thế về tài nguyên. Đó
là các ngành: Công nghiệp lọc, hoá dầu; Công nghiệp luyện kim. Tạo tiền đề
cho phát triển các ngành khác như Cơ khí, chế tạo, đóng tàu, sản xuất ôtô và
một số ngành công nghiệp khác.
Để đạt được mục tiêu và định hướng này, ngành Công nghiệp cần có những
tháo gỡ tích cực hơn trong quá trình thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài và tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn đó. Sau đây, xin kiến nghị một số
giải pháp.
II. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Hoàn thiện thêm một bước về luật pháp, cơ chế chính sách về ĐTNN.
1.1 Bộ Công nghiệp cần có quy hoạch và đệ trình danh mục các lĩnh vực,
77
ngành, địa bàn cần khuyến khích và ưu đãi đầu tư lên Chính phủ để nhằm thu
hút FDI đúng hướng.
- Cần khuyến khích mạnh mẽ ĐTNN vào các ngành công nghiệp chế biến xuất
khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, năng lượng, những ngành ta
có thế mạnh về nguyên liệu (như lĩnh vực Dầu khí) và lao động (như lĩnh vực
Dệt-may, Da-Giầy,...). Thực hiện thuế nhập khẩu thực sự khuyến khích các
doanh nghiệp công nghệ cao sản xuất cơ khí, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo,
đặc biệt là công nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện và nguyên liệu để giúp các
doanh nghiệp sản xuất ô tô, lắp ráp xe gắn máy hạ giá thành sản phẩm, vừa giúp
các doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm ở thị trường nội địa vừa hướng ra xuất
khẩu.
- Thu hút đầu tư, áp dụng những chính sách ưu đãi để lấp đầy các KCN, KCX
đã được thành lập và khai thác các vùng kinh tế trọng điểm mới. Ngoài các KCN
nhỏ, các cụm công nghiệp để giãn các nhà máy tại các thành phố lớn, cần xem
xét chặt chẽ việc thành lập các KCN mới. Trước mắt cần rà soát các KCN đã có
quyết định thành lập để dừng hoặc giãn tiến độ xây dựng những KCN không đủ
yếu tố khả thi, chỉ thành lập KCN mới khi hội đủ điều kiện. Nên quy hoạch và
xây dựng các KCN tập trung cho các vùng kinh tế trọng điểm (gần trung tâm
giao dịch buôn bán, đường xá giao thông thuận lợi, gần vùng cung cấp nguyên,
nhiên liệu...) để tạo sức đột phá, các địa bàn khác cần đầu tư có chọn lọc tránh
dàn trải và bất hợp lý. Hiện nay, cả nước đã có 61 KCN, tập trung chủ yếu ở
TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Hà Nội, Đà Nẵng...Nhìn chung, hoạt
động đầu tư vào KCN chưa thực sự sôi động, tỷ lệ lấp đầy KCN còn thấp (KCN
Nomurai-Hải Phòng, chưa lấp đầy 10% diện tích cho thuê...). Để tạo thuận lợi
thu hút đầu tư vào KCN, cần thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho các doanh nghiệp KCN; bảo đảm các công trình hạ tầng kỹ thuật (đường xá,
điện, nước, thông tin liên lạc...) đến tận hàng rào các KCN; ưu đãi ở mức cao
nhất các dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với KCN (nhà ở cho công nhân,
trường học, trường dạy nghề, cơ sở khám chữa bệnh, thương mại và các dịch vụ
78
đời sống của các thành phần kinh tế).
Cần lựa chọn một vài địa phương có điều kiện địa lý, kinh tế-xã hội thuận lợi
để thành lập khu kinh tế và tập trung đầu tư đúng mức cả về vốn, con người. Tổ
chức và có cơ chế chính sách phù hợp để xây dựng thành công các khu kinh tế
này.
Tiếp đến là Khu chế xuất (KCX), hoạt động của các KCX thời gian qua kém
hiệu quả, có nhiều khu triển khai chậm hoặc không triển khai được và xin
chuyển thành KCN để có thể linh hoạt trong đầu tư. Trong thời gian tới, nước ta
cần tập trung đẩy nhanh hoạt động của các KCX đã được thành lập bằng các
chính sách ưu đãi, khuyến khích hơn, đồng thời tạm ngừng thành lập các KCX
mới.
1.2 Xử lý một cách linh hoạt các định hướng đối với từng lĩnh vực đầu tư trong
ngành Công nghiệp
- Một số lĩnh vực hiện nay năng lực sản xuất đã bão hoà với thị trường nội địa.
Một mặt, cần hạn chế hoặc tạm thời chưa cấp phép cho các dự án mới như sản
xuất bia... mặt khác, cần chuyển hướng thu hút đầu tư như lĩnh vực Điện tử - Tin
học: hướng tập trung sẽ là điện tử công nghiệp và phát triển phần mềm, phần
cứng trong Tin học, hạn chế sản xuất lắp ráp điện tử tiêu dùng. Lĩnh vực sản
xuất nước giải khát, hướng thu hút FDI sẽ là: tập trung đầu tư vào lĩnh vực sản
xuất nước giải khát không có ga, nước hoa quả cho tiêu dùng nội địa và cho xuất
khẩu; hạn chế đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nước giải khát có ga...Một mặt đi vào
khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến (sản xuất lắp ráp ôtô xe máy, khai thác
dầu khí...); mặt khác, chú trọng công nghệ thích hợp, máy móc thiết bị đã qua sử
dụng (với điều kiện thiết bị đó không gây ô nhiễm môi trường hoặc có hại cho
sức khoẻ công nhân) để tận dụng giá trị sử dụng còn lại, tạo thêm công ăn việc
làm cho người lao động trong một số lĩnh vực nhất định (Da giầy, Dệt - may...).
- Việc thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bổ sung sửa đổi được
Quốc hội thông qua tháng 6/2000 và Nghị định số 24/2000 hướng dẫn thực hiện
79
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực từ tháng 7 năm 2000; cùng với
các Thông tư hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài; thêm vào đó, việc ký kết
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã tác động tích cực đến tâm lý các nhà đầu tư,
mở rộng thị trường xuất khẩu và trao đổi hàng hoá cho các doanh nghiệp, tạo
thuận lợi cho thu hút vốn FDI trong thời gian tới. Vì vậy,Chính phủ cần gấp rút
có những chính sách khuyến khích, ưu đãi và tăng cường đầu tư cho các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh trong một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao
(như Dệt - may, Da giầy...). Để trong tương lai không xa, các doanh nghiệp FDI
trong các lĩnh vực này sẽ là đại diện của Việt Nam có đủ năng lực về tài chính,
công nghệ... cạnh tranh trên trường quốc tế.
- Việc bảo hộ sản xuất trong nước đối với những doanh nghiệp mới đi vào sản
xuất còn nhiều lúng túng. Nhiều doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu có nguy cơ
phải đóng cửa do chính sách của Nhà nước ta chưa khuyến khích tiêu dùng hàng
trong nước đã sản xuất được, đạt tiêu chuẩn quốc tế; điển hình là trường hợp
Công ty Mitsui ViNa sản xuất nguyên liệu PVC...
- Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động trong ngành công
nghiệp gặp nhiều khó khăn cả về thị trường tiêu thụ lẫn sự cạnh tranh gay gắt
của hàng ngoại nhập. Điển hình có ngành sản xuất và lắp ráp ô tô, đây là ngành
mới đầu tư vào Việt Nam với dây chuyền công nghệ hiện đại, công suất thiết kế
rất lớn song thực tế công suất chưa phát huy hết 5%, thị trường tiêu thụ hạn chế
(20-25%), do đó, để ngành này phát triển cần kết hợp đồng thời hai chính sách:
một mặt, tăng thuế nhập khẩu nguyên chiếc lên 200%, mặt khác bỏ thuế tiêu thụ
đặc biệt, điều chỉnh thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng theo từng giai đoạn và
thực hiện các biện pháp nhằm giúp các doanh nghiệp hạ giá thành lắp ráp tại
Việt Nam. Trên cơ sở đã tồn tại và đứng vững trên thị trường nội địa, ngành
công nghiệp ô tô Việt Nam mới có thể phát triển bền vững trong tiến trình hội
nhập quốc tế.
1.3 Đẩy nhanh lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá thống
80
nhất cho đầu tư trong nước và ĐTNN
- Trong năm 2003, cần tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hoá,
dịch vụ để sau 1 hoặc 2 năm về cơ bản áp dụng một mặt bằng thống nhất một số
giá, phí cho các doanhnghiệp có vốn FDI. Hiện nay còn nhiều khác biệt trong
đối xử giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải trả giá
điện, nước, cước phí điện thoại, giá vé đi lại, và cá dịch vụ cao hơn các doanh
nghiệp trong nước. Điều này tạo ra một môi trường cạnh tranh không lành mạnh
khiến nhà đầu tư nước ngoài còn thấy e ngại.
- Bên cạnh việc kiểm soát độc quyền và giảm ngay các dịch vụ có giá quá cao
của các doanh nghiệp độc quyền hiện nay, cần lưu ý giảm chi phí các sản phẩm
trung gian cho sản xuất công nghiệp.
Hiện tại các ngành công nghiệp hỗ trợ để sản xuất các bộ phận, linh kiện của
ta rất yếu, nhất là trong điện tử gia dụng. Trong khi đây là lĩnh vực thu hút nhiều
lao động vừa giản đơn vừa lành nghề. Một bộ phận đòi hỏi trình độ lao động có
kỹ năng cao rất thích hợp với cơ cấu lao động của Việt Nam . Kinh nghiệm của
Trung Quốc cho thấy đối với các nhà ĐTNN, tỉ lệ sản xuất các bộ phận, linh
kiện trong nước càng cao càng tốt để giảm giá thành và nâng cao hiệu quả cũng
như sức cạnh tranh. Điều này có lẽ khác với nhận thức của một số người, trong
đó có cả những nhà hoạch định chính sách, khi cho rằng các công ty đa quốc gia
thường không muốn tăng tỉ lệ nội địa hóa để đưa linh kiện từ ngoài vào.
Vì thế trước mắt ta không nên tiếp tục dùng biện pháp hành chính hay thuế
quan ép buộc các công ty đa quốc gia tăng tỉ lệ nội địa hoá mà phải phát triển
công nghệ hỗ trợ trong nước để có thể cung cấp nhanh, rẻ các bộ phận, linh kiện
chất lượng cao. Muốn vậy, Việt Nam phải có ngay một kế hoạch tạo bước đột
phá tăng nhanh việc sản xuất linh kiện mà ta có lợi thế cạnh tranh trước hết ở ba
vùng kinh tế trọng điểm từ khâu thiết kế, sản xuất, tiếp thị, cung cấp nguyên
liệu, linh kiện, phụ tùng, dịch vụ sửa chữa. lao động có tay nghề...Việc này, theo
kinh nghiệm của thế giới, chủ yếu nên dựa vào các doanh nghiệp có qui mô nhỏ
81
và vừa trên cơ sở hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Cần hết sức lưu ý đến các biện pháp để các công ty đa quốc gia không di
chuyển các cơ sở sản xuất của họ từ Việt Nam sang các nước ASEAN khác sau
khi AFTA được thực hiện đầy đủ vào năm 2006. Gần đây các biện pháp tăng
thuế, hạn chế hạn ngạch nhập khẩu (xe máy, ô tô...) để ép các công ty tăng tỉ lệ
nội địa hoá không được các nhà ĐTNN, thậm chí cả chính phủ của họ ủng hộ
cho dù mục tiêu của chính sách này về lâu dài là đúng. Trong tình hình hiện nay
nên cân nhắc có lựa chọn cho tự do nhập khẩu, miễn thuế những loại linh kiện
mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh để giảm giá thành lắp ráp, vừa duy trì khả
năng cạnh tranh với các nước ASEAN vừa giữ chân các công ty đa quốc gia.
1.4 Sửa đổi, ổn định một số luật thuế
- Nhiều doanh nghiệp FDI tiếp tục kiến nghị Chính phủ về những bất cập
trong chính sách thuế chưa khuyến khích sản xuất, chế tạo sản phẩm trong nước,
đặc biệt là việc áp dụng thuế VAT làm đội giá thành sản phẩm quá cao, không
được thị trường chấp nhận, buộc một số doanh nghiệp phải sản xuất cầm chừng,
điển hình là các doanh nghiệp sản xuất hàng điện gia dụng (máy điều hoà, tủ
lạnh).
Đề nghị Quốc hội xem xét sửa đổi Luật thuế VAT, đưa ra ngoài diện đối tượng
áp dụng thuế VAT các máy móc thiết bị nhập khẩu để tạo tài sản cố định của các
doanh nghiệp FDI .
Đối với những mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, phải có biện pháp khấu
trừ thuế VAT đầu vào cho các doanh nghiệp (hiện nay không thể khấu trừ vì sản
phẩm không thuộc điều chỉnh của thuế VAT).
- Cần xem xét việc miễn thuế nhập khẩu đối với phụ tùng thay thế trong các
dây chuyền công nghệ sản xuất đồng bộ và các loại máy móc hiện đại, máy
chính xác trong thời gian ổn định từ 5-10 năm. Miễn giảm thuế đối với nguyên
liệu, vật tư nhập khẩu phục vụ cho sản xuất thử.
- Quy định lại thời hạn tạm miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập
82
khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu là 80 ngày. Đơn giản thủ tục hoàn thuế cho
doanh nghiệp, đảm bảo thời gian làm thủ tục hoàn thuế không quá 30 ngày kể từ
khi cơ quan có thẩm quyền nhận được công văn xin hoàn thế.
- Bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với doanh nghiệp
FDI, cho doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế theo luật mới đồng thời đảm
bảo nguyên tắc không hồi tố, nghĩa là những quy định của luật cũ có lợi cho
doanh nghiệp đã được cấp Giấy phép trước ngày luật mới có hiệu lực thì doanh
nghiệp được hưởng theo luật cũ.
- Một số doanh nghiệp sản xuất đồ điện gia dụng như các Công ty điện tử
Sony, JVC, Công ty Amtronics (Toshiba), LG - Meca, Carier, phản ánh việc áp
dụng Thông tư 1994/1998 của Bộ Tài chính về đánh thuế nhập khẩu linh kiện
theo tỉ lệ nội địa hoá đối với sản phẩm này sau năm 2000 không hợp lý, vì trong
nước hiện nay hầu như không sản xuất được linh kiện. Đề nghị Quốc hội xem
xét cho phép các doanh nghiệp kéo dài thời gian chuẩn bị điều kiện nội địa hoá
sản phẩm tới năm 2003 chưa áp dụng các biện pháp bắt buộc nội địa hoá đối với
các sản phẩm trong nước chưa đủ điều kiện thực hiện.
- Đề nghị Quốc hội xem xét cho phép Chính phủ điều tiết bằng các biện
pháp phi thuế quan đối với những sản phẩm mà doanh nghiệp trong nước đã sản
xuất đáp ứng nhu cầu về số lượng cũng như chất lượng, hạn chế nhập khẩu.
- Việc ban hành một số văn bản thiếu cân nhắc như Thông tư 40/2000 của Bộ
Tài chính hướng dẫn thi hành Quyết định 176/1999/QĐ -TTg của Thủ tướng
Chính phủ, Thông tư 45/2000/TT-TCHQ về lệ phí hải quan đã gây trở ngại lớn
cho sản xuất của các doanh nghiệp, lãng phí thời gian của doanh nghiệp và các
cơ quan Nhà nước, dẫn đến việc phải bãi bỏ các văn bản trên ngay sau khi ban
hành, ảnh hưởng tới niềm tin của doanh nghiệp vào đường lối nhất quán của
Nhà nước ta trong thu hút đầu tư nước ngoài
1.5. Giảm nhẹ các thủ tục hành chính
Giờ đây sức cạnh tranh không phải chỉ ở giá thành và chất lượng mà còn phụ
83
thuộc khả năng tiếp thị và tốc độ cung cấp. Trong đó tốc độ cung cấp lại phụ
thuộc một phần rất quan trọng vào tốc độ xử lý hành chính mà rất tiếc là tốc độ
này ở ta rất chậm, có lẽ tệ nhất trong các nước ASEAN.
Theo điều tra của Tổ chức Xúc tiến thương mại của Nhật Bản (JETRO) năm
2002, 42% các doanhnghiệp Nhật được hỏi nói rằng khó khăn lớn nhất của họ
tại Việt Nam là thủ tục hành chính, trong khi con số này ở Thái Lan chỉ 13%,
Philippines 18% và Indonesia 22%. Một ví dụ cụ thể: Nhật hàng năm nhập khẩu
hơn 500 tỉ yen (4 tỉ USD) sản phẩm quần áo có nguyên liệu là len đan. Do vậy
len đan xuất khẩu từ Nhật để gia công ở nước ngoài khi nhập thành phẩm trở lại
chỉ bị đánh thuế nhẹ. Có tới 80% sản phẩm gia công theo cách này được nhập
khẩu từ Trung Quốc, còn nhập khẩu từ Việt Nam không đáng kể. Nguyên nhân
chính là do thủ tục hải quan của ta quá rắc rối, tốc độ xử lý chậm trong khi điều
kiện chi phí lao động cho gia công ở Trung Quốc và Việt Nam ngang nhau.
Các cơ quan hành chính các cấp nên có thái độ đối xử với doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp FDI như cách chính
quyền tỉnh Bình Dương đang làm. Đó là tinh thần phục vụ doanh nghiệp và lo
cái lo của doanh nghiệp.
2. Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý doanh
nghiệp, công chức nhà nước, và công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, phương pháp hoạt động kinh tế đối ngoại, trình độ ngoại ngữ và
tay nghề kỹ thuật cao, đủ khả năng để đáp ứng tốt yêu cầu thu hút và quản lý
hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài .
2.1 Chú trọng công tác cán bộ, đào tạo công nhân có tay nghề cao phù hợp
với yêu cầu của các nhà đầu tư, kịp thời tham gia lao động khi có nhu cầu ở
các KCN, KCX
Trong hoạt động FDI, công tác cán bộ đặc biệt quan trọng vì cán bộ vừa tham
gia hoạch định chính sách, vừa là người vận dụng luật pháp, chính sách để xử
lý tác nghiệp hàng ngày liên quan đến mọi hoạt động FDI. Cán bộ quản lý Việt
84
Nam trong các liên doanh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của
Nhà nước Việt Nam, của doanh nghiệp Việt Nam, của người lao động; đảm bảo
cho doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật. Do đó, phải đặc biệt chú
trọng đến công tác đào tạo nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực,
trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức Nhà nước các cấp, đôị ngũ cán bộ
Việt Nam trong các doanh nghiệp FDI.
- Có những doanh nghiệp FDI thuộc ngành cơ khí không tuyển nổi một
công nhân kỹ thuật dưới 30 tuổi có tay nghề bậc 5. Hầu hết lao động trực tiếp
của các doanh nghiệp FDI đều tuyển từ các vùng nông thôn, chưa qua đào tạo.
Các nhà quản lý nước ngoài đều có đánh giá chung là lao động Việt Nam tuy
chịu khó và cần cù nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp ít, không có tác phong
công nghiệp cho nên năng suất lao động rất thấp. Để hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài có hiệu quả, đạt được mục tiêu đề ra, vấn đề quan trọng là chúng ta
không thể không có kế hoạch, quy hoạch đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật để
vừa đáp ứng kịp thời cho nhu cầu trước mắt, vừa chuẩn bị một cách cơ bản và
lâu dài cho loại hoạt động này.
Trước mắt nhà nước cần xây dựng Quy chế cán bộ Việt Nam tham gia Hội
đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh, trong đó cần quy định rõ tiêu
chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi
của cán bộ trong và sau thời gian làm việc tại các doanh nghiệp FDI; chế độ
báo cáo, kiểm tra. Hiện nay, Ban Tổ chức Trung ương đang phối hợp với các
Bộ liên quan (trong đó có Bộ Công nghiệp) nghiên cứu chuyên đề quan trọng
này, để trình Bộ chính trị.
- Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đào tạo
chính quy cán bộ làm công tác FDI, cán bộ quản lý các doanh nghiệp có vốn
FDI, trong ngành công nghiệp .
- Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thường
xuyên việc tập huấn số cán bộ Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các liên
85
doanh trong ngành công nghiệp, trang bị kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ,
luật pháp cũng như những kinh nghiệm cần thiết nhất cho họ.
- Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh-Xã hôị, Uỷ
ban Nhân dân cấp tỉnh, Ban quản lý KCN tổ chức đào tạo công công nhân lành
nghề làm việc cho các doanh nghiệp FDI. Thực tế cho thấy, công tác đào tạo
của nước ta những năm qua còn nhiều bất hợp lý, tỷ lệ Đại học/ trung học là
4/1 trong khi đó ở các nước tiên tiến, tỷ lệ đó là 1/6, điều đó dẫn đến tình trạng
“thừa thầy thiếu thợ “ như hiện nay (theo số liệu thống kê trong ngành công
nghiệp Tp. Hồ Chí Minh, tỷ lệ cán bộ kinh tế/ công nhân lành nghề là 4/1).
Công nhân có trình độ tay nghề cao không nhiều, lao động chủ yếu chưa qua
đào tạo (chiếm 60-70%).
2.2 Cùng với các chính sách linh hoạt về vấn đề chuyển giao công nghệ trong
ngàng Công nghiệp, cần phải có các chế độ ưu đãi phù hợp đối với các cán bộ
nghiên cứu khoa học
Hoạt động hợp tác đầu tư kèm theo nó là hoạt động chuyển giao công nghệ
(CGCN) vào Việt Nam. Muốn xây dựng xã hội Xã hội Chủ nghĩa, trước hết cần
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước nhà. Muốn vậy, CGCN là con
đường ngắn nhất và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, do nôn nóng và thiếu hiểu biết
nên trong thời gian qua nước ta đã cho chuyển giao nhiều dây chuyền công nghệ
lạc hậu từ 40-60 năm và nước ta có nguy cơ trở thành bãi thải công nghệ của các
nước trong khu vực và trên thế giới; năng lực sản xuất thì không hiệu qủa. Một
số công nghệ lại quá hiện đại, công nhân Việt Nam không kịp tiếp nhận, làm
quen trong một thời gian ngắn cho nên phải thuê chyên gia nước ngoài; các dây
chuyền công nghệ này lại không phát huy hết công suất thiết kế.
Do đó để hoạt động CGCN đạt hiệu quả, Nhà nước cần đầu tư kinh phí cho
công tác nghiên cứu ứng dụng cho các Viện nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, các
trường Đại học... Có chính sách về lương và các chế độ kèm theo cho cán bộ
nghiên cứu khoa học. Đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật đủ trình độ tiếp thu
86
kinh nghiệm quản lý và vận hành các dây chuyền công nghệ, tiến tới làm chủ
công nghệ đó. Năm 2001, dự tính đầu tư cho khoa học công nghệ khoảng 2,3%
tổng chi Ngân sách, song theo dự tính với nguồn kinh phí này cũng chỉ đủ đáp
ứng được 40-50% nhu cầu hoạt động của ngành khoa học công nghệ. Các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cũng cần có sự quan tâm đúng mức các công
trình nghiên cứu khoa học công nghệ trong địa bàn, thực hiện tốt, nhanh làm thủ
tục thẩm định, xét duyệt các dự án bằng cách phối hợp với ngân hàng... khuyến
khích các doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết với các Viện nghiên cứu, các
trung tâm, các trường Đại học cùng đầu tư, nghiên cứu, ứng dụng các đề tài
nghiên cứu khoa học.
Muốn tiến hành phát triển mạnh ngành Công nghiệp, cần có thiết bị, dây
chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại... hoạt động CGCN có thể đáp ứng được
yêu cầu đó. Song, để hoạt động CGCN đạt được hiệu quả và phục vụ cho nhu
cầu thiết thực của ngàng cũng như của cả nước, một trong những đòi hỏi cơ bản
là nước ta cần có một trình độ khoa học công nghệ nhất định.
3. Sớm hình thành một thị trường vốn đồng bộ, tạo ra khả năng đa dạng hoá
trong huy động vốn cho đầu tư.
- Nhà nước phải tạo điều kiện để các doanh nghiệp FDI được tiếp cận thị
trường vốn; được vay tín dụng kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng
hoạt động ở Việt Nam, tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của các
dự án và có thể bảo đảm bằng tài sản của các Công ty mẹ ở nước ngoài; được
phép thí điểm phát hành cổ phiếu, trái phiếu ở thị trường trong và ngoài nước để
thu hút thêm vốn đầu tư.
- Phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn
đầu tư bằng các nguồn huy động dài hạn như: trái phiếu, cổ phiếu; tiến tới thực
hiện cổ phần hoá doanh nghiệp FDI. Sớm ban hành các quy định về cầm cố, thế
chấp, bảo lãnh để đẩy nhanh việc giải ngân vốn vay của các doanh nghiệp FDI;
có quy định cụ thể về hoạt động của các quỹ đầu tư.
87
- Xây dựng Quy chế quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp FDI; ban
hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp; đồng thời bảo đảm sự
quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
- Cho phép các doanh nghiệp FDI được chuyển nhượng và thế chấp quyền sử
dụng đất để vay vốn từ các ngân hàng nước ngoài trong quá trình thực hiện các
dự án đầu tư tại Việt Nam .
- Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt buộc khi có
điều kiện; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với
các giao dịch vãng lai.
- Một vấn đề nữa là cân đối ngoại tệ cho các dự án đầu tư nước ngoài. Đây
đang là một thách thức cho sự phát triển các dự án. Nhiều doanh nghiệp triển
khai sớm nhằm vào thị trường trong nước, sản xuất hàng thay thế hàng nhập
khẩu, đã đến thời kỳ phải trả vốn vay trong khi khả năng đáp ứng nhu cầu ngoại
tệ trên của các ngân hàng thương mại rất hạn chế, nhất là vào thời điểm cuối chu
kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
- Hiện vẫn còn nhiều khác biệt trong đối xử giữa các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài phải trả giá điện, nước, cước phí điện thoại, giá vé đi lại và các
dịch vụ khác cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Ngược lại, các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương
tiện vận tải dùng cho sản xuất kinh doanh trong khi đó các ưu đãi này không
được áp dụng cho các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa thuế suất, thuế lợi tức
được áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thấp hơn các
doanh nghiệp trong nước.
Trong thực tế, bù lại chi phí cao, sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài thường đạt chất lượng cao và giá bán cũng cao, khả năng chiếm
lĩnh thị trường tốt hơn. Bởi vậy, trong giai đoạn đầu, lợi nhuận của các doanh
88
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể chưa cao hoặc bị lỗ, nhưng về lâu dài,
họ bù đắp được chi phí để đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi. Năm 1996, số
thuế mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp cho Ngân sách
nhà nước chiếm gần 23% tổng số thu Ngân sách nhà nước là con số không nhỏ.
Thiết nghĩ, vốn đầu tư nhà nước là cần thiết song vốn đầu tư trong nước vẫn là
yếu tố quyết định sự tồn tại, phát triển lâu dài của nền kinh tế nói chung, của
ngành công nghiệp nói riêng. Do đó, trong thời gian tới, một mặt thu hút hơn
nữa vốn đầu tư nóng vào ngành công nghiệp Việt Nam , mặt khác cần có các
chính sách ưu đãi, khuyến khích và hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp công nghiệp trong nước.
4. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư.
Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần phải được đổi mới về nội dung và
phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có hiệu
quả. Trước hết, cần xác định xúc tiến đầu tư cũng như xúc tiến thương mại là
nhiệm vụ và trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, của Bộ, ngành, các
tỉnh, Ban quản lý các Khu công nghiệp. Cần thành lập bộ phận xúc tiến tại Bộ
Công nghiệp, tổng công ty, các cơ quan đại diện của nước ta tại một số địa bàn
trọng điểm ở nước ngoài để chủ động thu hút đầu tư nước ngoài. Ngân sách nhà
nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng cho công tác vận động, xúc tiến
đầu tư.
Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo
chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc thu hút các nhà đầu tư truyền
thống ở Châu á, ASEAN vào các dự án mà họ có kinh nghiệm và thế mạnh như
công nghiệp chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu...Cần chuyển hướng
mạnh sang Châu âu, Bắc Mỹ nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ kỹ thuật
hiện đại của các Tập đoàn xuyên quốc gia để nâng cao năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại.
Trên cơ sở quy hoạch ngành, sản phẩm, lãnh thổ và danh mục dự án kêu gọi
89
đầu tư được phê duyệt; Bộ Công nghiệp cùng với các địa phương cần chủ động
tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với dự án, trực
tiếp đối từng tập đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng. Đối với một số dự án
lớn, quan trọng, liên quan đến quôc kế dân sinh, cần chuẩn bị kỹ lưỡng dự án kể
cả việc đề nghị một số nước hỗ trợ lập báo cáo nghiên cứu khả thi. Trên cơ sở
đó, Chính phủ lựa chọn, mời trực tiếp một số Tập đoàn lớn trong ngành để đàm
phán, tham gia đầu tư vào các dự án đó.
Bộ Công nghiệp cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao,
BộThương mại tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế thị trường đầu tư,
chính sách của các nước, các Tập đoàn xuyên quốc gia, các tập đoàn và các công
ty lớn để có chính sách vận động thu hút đầu tư phù hợp. Nghiên cứu luật pháp,
chính sách, biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực
cũng như trên thế giới để kịp thời có đối sách thích hợp.
Cần tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư hiện có dự án đầu tư
đang hoạt động, giúp họ giải quyết các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý
nghĩa quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các
nhà đầu tư mới.
5. Đối với việc lựa chọn các đối tác nước ngoài: cần xác định chiến lược lâu
dài là dành sự ưu tiên hơn cho việc thu hút các nhà đầu tư thuộc các công ty
xuyên quốc gia lớn, thực thụ, tiến tới xoá bỏ tình trạng thu hút các nhà đầu
tư thiếu năng lực hoặc làm trung gian, môi giới đầu tư.
Đặc điểm nổi bật của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vừa qua, phần
lớn không phải xuất phát từ các công ty mẹ, mà là xuất phát từ các công ty thuộc
thế hệ thứ hai, tức là xuất phát từ các chi nhánh công ty nước thứ hai đầu tư vào
nước ta (nước thứ ba), còn quá ít các công ty xuyên quốc gia lớn. Trong khi đó
hầu hết các lĩnh vực trong ngành công nghiệp đều đòi hỏi nhu cầu vốn lớn, trang
thiết bị công nghệ hiện đại (công nghiệp dầu khí, công nghiệp nặng).
Một trong những điều kiện có tính chất quyết định khả năng thu hút các công
90
ty xuyên quốc gia lớn đến đầu tư là phải có các doanh nghiệp đối tác trong nước
đủ mạnh về nhiều mặt. Và, để có được các doanh nghiệp loại này, Nhà nước ta
cần có sự lựa chọn, hỗ trợ, đầu tư, xây dựng tạo cho những điều kiện, cơ hội thử
thách và phát triển. Chúng ta cần có sự đầu tư thoả đáng để sớm hình thành các
tập đoàn kinh tế hùng mạnh làm trụ cột cho sự phát triển kinh tế nước nhà, vừa
đủ sức vươn ra hoạt động có hiệu quả trên thị trường quốc tế.
Tóm lại, để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trong ngành Công
nghiệp, một mặt Bộ Công nghiệp kiến nghị các cơ quan soạn thảo Luật và các
văn bản quy phạm pháp luật tạo điều kiện pháp lý nhằm giúp Bộ Công nghiệp
tiếp cận được nguồn thông tin báo cáo trực tiếp từ các doanh nghiệp công nghiệp
FDI để không ngừng cập nhật thông tin phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước
theo chuyên ngành; mặt khác bản thân ngành cũng phải có những cải cách, thay
đổi mang bản sắc riêng của ngành để tạo hiệu quả thu hút nguồn vốn đầu tư trực
91
tiếp nước ngoài ngày càng cao hơn.
KẾT LUẬN
Chỉ sau hơn một thập kỷ triển khai, đến nay khu vực công nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) đang có vai trò ngày càng quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam. Sự lớn mạnh của khu vực này không những góp
phần thúc đẩy quá trình đổi mới và phát triển các ngành công nghiệp của Việt
Nam theo hướng hiện đại hoá, mà còn góp phần trực tiếp tăng cường khả năng
xuất khẩu của Việt Nam.
Khu vực công nghiệp có vốn ĐTNN bao gồm 4 chuyên ngành: Công
nghiệp Dầu khí; Công nghiệp nặng; Công nghiệp nhẹ và Công nghiệp thực
phẩm. Trong khi công nghiệp dầu khí đang phát triển theo chiều sâu, tạo ra
những sản phẩm mới như năng lượng, khí đốt, dầu nhờn, bột PVC và tiến tới
sản xuất sản phẩm xăng dầu các loại thì công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và
công nghiệp thực phẩm cũng ngày càng lớn mạnh, thu hút ngày càng nhiều vốn
đầu tư nước ngoài (hầu hết các hãng lớn nổi tiếng trên thế giới đều đã đầu tư
vào Việt Nam như các hãng Toyota, Mercedes,...vào lĩnh vực sản xuất ô tô;
Suzuki, Yamaha, Honda,...vào lĩnh vực sản xuất lắp ráp xe máy; Adidas, Bata,
Reebox,... vào lĩnh vực da-giầy; Heneken, Coca-Cola,...vào công nghiệp thực
phẩm...). Chỉ riêng trong 8 tháng đầu năm 2002, trong khi xuất khẩu dầu thô
đạt 1.740 triệu USD, thì kim ngạch xuất khẩu của các ngành khác đạt 2.798
triệu USD.
Công nghiệp có vốn ĐTNN hiện có mặt trong hầu hết các ngành công
nghiệp trọng yếu của Việt Nam, kể cả ngành đóng tàu biển, khai thác
than...Công thiệp có vốn ĐTNN hiện chiếm 100% sản phẩm của 2 ngành dầu
khí và bột ngọt; trên 80% của ngành sản xuất xe máy; trên 90% về sản xuất ô
tô, ti vi và xe đạp; trên 50% trong sản xuất thép...Ngoài ra công nghiệp có vốn
ĐTNN đã và đang tham gia đánh thức các tiềm năng kinh tế ở các địa phương
biến nhiều vùng đất hoang vắng thành các khu công nghiệp lớn. Có thể kể đến
92
những địa phương như Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng,
Hà Nội, TP HCM...
Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy rõ những đóng góp lớn lao của khu
vực công nghiệp có vốn ĐTNN đối với nền kinh tế Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện
nay là, cần tiếp tục có các giải pháp, chính sách, định hướng cụ thể để xoá bỏ
những rào cản, tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi thu hút nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp. Từ đó có biện pháp hỗ trợ cụ thể và
thiết thực để khu vực công nghiệp này tăng trưởng với nhịp độ cao, trên cơ sở
đó cùng với các khu công nghiệp nhà nước và công nghiệp ngoài quốc doanh
đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH, nhằm thực hiện mục tiêu tới năm 2020 đưa
Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp như mục tiêu đã đề ra.
Mục tiêu giới hạn của bài viết chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu tổng hợp để
minh hoạ một bức tranh tổng quát về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp
FDI trong lĩnh vực công nghiệp mà chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu tài
chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh, lỗ - lãi của từng doanh nghiệp, từng chuyên
ngành nhỏ của khu vực này.
Bài viết của em đã đề cập thực trạng cũng như những tồn tại hạn chế của tình
hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp Việt Nam
và có một số nhận định riêng của bản thân. Tuy nhiên, do hạn chế về kinh
nghiệm cũng như thời gian nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót nhất
định. Rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý của các thầy cô giáo để sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện bài viết, phục vụ tốt cho công cuộc thu hút, sử dụng và quản
lý vốn FDI trong ngành công nghiệp.
93
Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “ Đầu tư nước ngoài: - Đại học Ngoại Thương.
2. Báo cáo tổng hợp năm 2001/2002 Vụ Quản lý Dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu
tư.
3. Bộ Công nghiệp
- Báo cáo tình hình hoạt động năm 2000 của Bộ Công nghiệp
- Chiến lược và chính sách công nghiệp số 1 và 6 năm 2001.
- Quy hoạch phát triển các ngành Công nghiệp đến năm 2005
4. Các văn bản pháp lý về đầu tư nước ngoài.
5. “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Cơ sở pháp lý - Hiện trạng - cơ hội - triển
vọng” Phan Hữu Thắng, Hoàng Văn Huấn, Nguyễn Anh Tuấn/ Vụ Quản lý
dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
6. “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc CNH, HĐH ở Việt Nam” TS.
Nguyễn Trọng Xuân/ Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia,
Viện Kinh tế học-Xuất bản năm 2002
7. “Dầu khí Việt Nam” Đoàn Thiên Tích-Nguyên Phó Chủ tịch Công đoàn Dầu
khí Khoá I (1993-1998)/ Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
8. Thời báo kinh tế các số: 135 ra ngày 11/11/2002; số 14 ra ngày 24/1/2003;
số 17-22 ra ngày 7/2/2003,
9. Báo Đầu tư ra ngày 30/8/2002; số 11 ra nganỳ 5/3/2003
10.Tạp chí Thương mại/ Bộ Thương mại Số 3+4+5-2003; số 22-23 tháng
2/2003
11. Kinh tế và dự báo số 1, 2 năm 2003
12. Nghiên cứu kinh tế số 294 tháng 11/2002, số 296 tháng 1/2003
13. Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương; số 6/12/2002 / Trung tâm kinh tế Châu
94
Á- Thái Bình Dương (VAPEC)
95