MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................. 4

CHƯƠNG I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN

VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI PHÁT TRIỂN NGÀNH

CÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM ............................................................... 7

I. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài .......... 7

1. Khái niệm và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài ...................... 7

2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài ............................................ 8

II. Sự cần thiết phải tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát

triển ngành Công nghiệp Việt Nam ................................................................. 9

1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với quá trình CNH của các nước đang

phát triển

...................................................................................................................9

2.Thực trạng ngành Công nghiệp Việt Nam và nhu cầu thu hút vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài ................................................................................. ..12

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO

NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM ....................................................... ..23

I. Qui mô và cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp

Việt Nam ...................................................................................................... ..23

1. Qui mô đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp .......... ..23

1

2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp .......... ..25

2.1 Cơ cấu theo chuyên ngành ............................................................. ..25

2.2 Cơ cấu theo hình thức đầu tư ......................................................... ..27

2.3 Cơ cấu theo địa bàn ......................................................................... ..28

2.4 Cơ cấu theo đối tác đầu tư .............................................................. 29

II. Tình hình thu hút và sử dụng FDI của một số chuyên ngành Công

nghiệp

1. Công nghiệp dầu khí ........................................................................... 31

2. Công nghiệp nặng ............................................................................... 38

3. Công nghiệp nhẹ ................................................................................. 51

4. Công nghiệp thực phẩm ...................................................................... 58

III. Những đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sự phát triển của

ngành Công nghiệp Việt Nam ...................................................................... 63

IV. Một số tồn tại, hạn chế đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành

Công nghiệp Việt Nam ................................................................................. 69

CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT

FDI VÀO CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

I. Mục tiêu và định hướng phát triển Ngành công nghiệp trong thời gian tới

1. Mục tiêu phát triển ngành Công nghiệp Việt Nam ......................... 76

2. Định hướng phát triển ngành Công nghiệp Việt Nam..................... 76

II. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả nguồn

2

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp trong thời gian tới

........................................................................................................................... 78

KẾT LUẬN ................................................................................................... ..92

3

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... ..94

LỜI NÓI ĐẦU

Trước đòi hỏi của thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như

những chuyển biến của bối cảnh quốc tế, Việt Nam đã tiến hành quá trình CNH,

HĐH nhằm thực hiện công cuộc đổi mới một cách toàn diện hơn. Tuy nhiên, do

xuất phát điểm của nước ta quá thấp, kém nhiều so với các nước trong khu vực

và trên thế giới, chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì chúng ta không thể thu

hẹp khoảng cách trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất, quản lý kinh doanh và

nhất là chất lượng sản phẩm, kỹ năng thâm nhập của hàng hoá nước ta vào thị

trường khu vực và thị trường thế giới. Trong điều kiện đó, để tiến hành CNH -

HĐH đất nước, đảm bảo duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế, thu hẹp khoảng

cách của nước ta và các nước trong khu vực, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào

phục vụ chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam là hết sức quan

trọng.

Thực tế cho thấy, trong mấy năm gần đây, dưới sự tác động tích cực của quá

trình cải cách môi trường đầu tư và kinh doanh, các biện pháp khuyến khích và

hỗ trợ của nhà nước, sự chủ động tích cực và sáng tạo của các doanh nghiệp

công nghiệp sản xuất Việt Nam đã đạt được những kết quả nổi bật đóng góp một

phần không nhỏ cho quá trình CNH, HĐH của đất nước (tốc độ tăng trưởng bình

quân của ngành công nghiệp khá cao (13,9%, tỷ trọng của công nghiệp trong

GDP liên tục tăng từ mức 23,5% năm 1996 lên mức 31,9% năm 2001...). Mà

đầu tư nước ngoài là một tác nhân quan trọng trong sự tăng trưởng này.

Cùng với chủ trương mở cửa của Đảng và Nhà nước, với Luật Đầu tư nước

ngoài (1987) đã từng bước tạo ra môi trường hấp dẫn để thu hút ngày càng nhiều

vốn đầu tư và làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam ngày

một đạt hiệu quả hơn. Ngay từ năm 1998, ngành Công nghiệp đã đặt việc thu hút

đầu tư trực tiếp nước ngoài trong chiến lược phát triển của mình. Nguồn vốn

đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài tính đến cuối năm 2002 đạt 22,16 tỷ USD:

4

trong đó thời kỳ 1996-2000 đạt 11,6 tỷ USD, tăng 30% so với 5 năm trước với tỉ

trọng vốn trong tổng nguồn vốn ĐTNN không ngừng tăng lên, từ 41,5% giai

đoạn 1988-1990, lên 52,7% giai đoạn 1991-1995 và 60,3% giai đoạn 1996-

2002. Vốn thực hiện trong lĩnh vực này cũng đạt tỉ lệ cao nhất so với các lĩnh

vực khác và tỉ trọng tăng dần từ 46% thời kì 1998-1990 lên 56% thời kì 1991-

1995 và tăng lên 73% thời kì 1996-2002. Ngoài ra, tỷ trọng về doanh thu, xuất

khẩu hay số lao động đều cao hơn so với các ngành khác. Tuy nhiên trong tình

hình trong nước và thế giới có nhiều những thuận lợi và khó khăn khiến cho việc

thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp vẫn còn

nhiều hạn chế cần tháo gỡ, giải quyết.

Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề, em đã mạnh dạn chọn đề tài khoá

luận: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam: Thực

trạng và giải pháp” nhằm mục đích trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn thực

trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành công nghiệp của nước

ta hơn một thập kỷ qua, rút ra những kết luận cần thiết, đề ra chủ trương và một

hệ thống các giải pháp để thu hút và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn FDI vào

ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.

Phương pháp nghiên cứu của em là diễn giải - quy nạp: đưa ra những số

liệu thống kê của từng lĩnh vực trong ngành Công nghiệp để phân tích, đánh giá,

và kết luận.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương:

Chương I: Sự cần thiết phải tăng tường thu hút nguồn vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài vào Ngành Công nghiệp Việt Nam

Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công

nghiệp Việt Nam

Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp

nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới

5

Qua bài viết này, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Phạm

Thị Mai Khanh, giảng viên Khoa Kinh tế Ngoại thương, Trường Đại học Ngoại

thương, người đã tận tình chỉ bảo, góp ý chu đáo để em có thể từng bước hoàn

thành bài viết của mình.

Hà Nội tháng 5 năm

2003

Sinh viên thực

hiện

6

Lê Thanh Hương

CHƯƠNG I

SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN

VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO QUÁ TRÌNH

PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

I. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC

NGOÀI

1. Khái niệm và bản chất đầu tư trực tiếp nước ngoài

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là hình thức

đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ

lớn vốn đầu tư vào các dự án, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành các

doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại. Sự ra đời và phát

triển của nó là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động

quốc tế. Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư trực tiếp

nước ngoài. Nhìn chung đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem xét như một

hoạt động kinh doanh ở đó có yếu tố di chuyển vốn quốc tế và kèm theo sự di

chuyển vốn là chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và các ảnh hưởng kinh

tế xã hội khác đối với nước nhận đầu tư.

Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài có

thể được hiểu như là việc các tổ chức, các cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào

Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp

nhận để hợp tác với bên Việt Nam hoặc tự mình tổ chức các hoạt động sản xuất

kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.

Dưới góc độ kinh tế có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức di

chuyển vốn quốc tế trong đó người sở hữu đồng thời trực tiếp tham gia điều

hành và quản lý hoạt động sử dụng vốn đầu tư.

7

Về bản chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản, một

hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn

bổ sung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của

các công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay. Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là

“tư bản thừa” xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng thực chất của vấn đề

đó là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan, khi mà quá trình

tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu

tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội, đến

độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy

mô sản xuất trên phạm vi quốc tế.

2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài

- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết

định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi.

Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng

buộc về chính trị, không để lại gánh nặng cho nền kinh tế.

- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là

doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên

doanh tuỳ theo tỷ lệ vốn góp của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ

đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số

lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên

nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% còn lại do nước chủ nhà nắm giữ.

Trong khi đó Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối

với hình thức 100% vốn nước ngoài và quy định bên nước nước ngoài phải góp

tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.

- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận

được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý,... là những

mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được.

- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ

8

đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, nó còn bao

gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như

vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.

II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP

NƯỚC NGOÀI VÀO QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP

VIỆT NAM

Để làm rõ hơn vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá

trình CNH, HĐH của Việt Nam nói chung và Ngành Công nghiệp nói riêng, dưới

đây xin dành riêng một mục đề cập đến vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở

các nước đang phát triển trong bối cảnh hiện nay.

1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với quá trình CNH của các nước đang phát

triển

Có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến mức độ thành công khi thực hiện CNH

của các nước đang phát triển trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, trong số đó có

bốn yếu tố cơ bản nhất được xem là điều kiện quyết định khả năng thực hiện CNH

của các nước đang phát triển là vốn; công nghệ; kỹ thuật; nguồn nhân lực; cải

cách thể chế (thị trường, hội nhập...). Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình hoạt

động kinh tế hội tụ tương đối đầy đủ tiềm năng của bốn yếu tố trên. Có thể lý giải

tiềm năng đó như sau:

Lịch sử phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài cho thấy thái độ của các nước

tiếp nhận đầu tư là từ thái độ phản đối (xem đầu tư trực tiếp là công cụ cướp bóc

đối với thuộc địa), đến thái độ buộc phải chấp nhận, đến thái độ hoan

nghênh...Trong điều kiện thế giới hiện nay đầu tư trực tiếp được mời chào,

khuyến khích mãnh liệt. Trên thực tế đang diễn ra trào lưu cạnh tranh quyết liệt

trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặc dù, hiện còn nhiều tranh luận,

còn những ý kiến khác nhau về vai trò, về mặt tích cực, tiêu cực...của đầu tư trực

tiếp nước ngoài đối với nước tiếp nhận đầu tư, nhưng chỉ điểm qua nhu cầu, qua

trào lưu cạnh tranh thu hút cũng đủ cho ta khẳng định rằng đầu tư trực tiếp nước

9

ngoài hiện nay, đối với các nước nhận đầu tư, có tác dụng tích cực là chủ yếu, đa

phần các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài khi thực hiện đều đưa lại lợi ích cho

nước nhận đầu tư. Đối với nhiều nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đóng

vao trò là điều kiện, là cơ hội, là cửa ngõ giúp thoát khỏi tình trạng của một nước

nghèo, bước vào quỹ đạo của sự phát triển và thực hiện công nghiệp hoá. Vậy

xuất phát từ những kỳ vọng nào mà hầu hết các nước đang phát triển lại có nhu

cầu lớn về đầu tư trực tiếp nước ngoài như vậy?

Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng giải quyết có hiệu quả

những khó khăn về vốn cho công nghiệp hoá. Đối với các nước nghèo, vốn được

xem là yếu tố cơ bản, là điều kiện khởi đầu quan trọng để thoát khỏi đói nghèo và

phát triển kinh tế. Thế nhưng, đã là nước nghèo thì khả năng tích luỹ vốn hay huy

động vốn trong nước để tập trung cho các mục tiêu cần ưu tiên là rất khó khăn, thị

trường vốn trong nước lại chưa phát triển. Trong điều kiện của thời kỳ đầu tiến

hành công nghiệp hoá, nhìn chung các nước đang phát triển đều gặp rất hiều khó

khăn: mức sống thấp, khả năng tích luỹ kém, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, công

nghệ kỹ thuật lạc hậu, mức đầu tư thấp nên kém hiệu quả, ít có điều kiện để xâm

nhập, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thiếu khả năng tiếp cận với khoa học kỹ

thuật tiên tiến của thế giới...Giải pháp của các nước đang phát triển lúc này là tìm

đến với các nguồn đầu tư quốc tế. Trước khi tiến hành đầu tư các nhà đầu tư nước

ngoài thường có sẵn một số điều kiện cơ bản như vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản

lý, khả năng thị trường...tức là nhà đầu tư đã dự báo được phần nào hiệu quả có

thể thu được đồng vốn đầu tư. Hay nói cách khác, các nhà đầu tư chỉ xin phép

triển khai dự án khi họ tính toán thấy độ rủi ro ít và khả năng thu lợi cao. Đây là

điểm ưu thế hơn hẳn của loại vốn đầu tư trực tiếp so với các loại vốn vay khác.

Thứ hai, thông qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước tiếp nhận

đầu tư có thể tiếp nhận được những kỹ thuật mới, những công nghệ tiến tiến, góp

phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp nói riêng và phát

triển kinh tế nói chung. Đồng thời, tạo ra các điều kiện kinh tế-kỹ thuật cho việc

10

thực hiện cuộc cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng

tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ...Để thực hiện một số dự án đầu tư có hiệu quả

(khả năng sinh lời lớn, thu hồi vốn nhanh) nhiều nhà đầu tư đã chọn một số lĩnh

vực xây dựng cơ sở hạ tầng như viễn thông, tin học công nghiệp...như là điều kiện

cho việc thực hiện các dự án đầu tư của mình. Bên cạnh đó, chính phủ các nước

nhận đầu tư cũng thường có nhiều chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư

bỏ vốn đầu tư vào một số lĩnh vực của công nghiệp, cơ sở hạ tầng quan trọng hy

vọng thúc đẩy nhanh sự phát triển của các lĩnh vực này. Như vậy đầu tư trực tiếp

nước ngoài tạo ra điều kiện để góp phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng của

những nước nhận đầu tư.

Thứ ba, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể thu hút một lượng lớn

lao động trực tiếp và tạo ra nhiều việc làm cho các dịch vụ tương ứng. Thông qua

việc thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể làm cho đội ngũ cán

bộ của nước nhận đầu tư qua việc tham gia vào hoạt động của liên doanh mà

trưởng thành hơn về năng lực quản lý phù hợp với nền sản xuất hiện đại; hình

thành một lực lượng công nhân kỹ thuật hành nghề; tăng nguồn thu cho ngân

sách.

Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài có các điều kiện cần thiết cho việc tạo

lập một hệ thống thị trường phù hợp với yêu cầu của một nền sản xuất công

nghiệp hoá, tiếp cận và mở rộng được thị trường mới; tăng cường quan hệ hợp tác

kinh tế quốc tế v.v...Hình thành được các khu chế xuất, khu công nghiệp chủ lực;

tạo ra các điều kiện cơ bản cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi

nước, đặc biệt đối với các nước đang phát triển.

Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang phát triển đóng

vai trò như một cửa ngõ giúp các nước này thoát khỏi những khó khăn về điều

kiện kinh tế-xã hội, đưa các nước đang phát triển bước vào quỹ đạo của sự phát

triển và của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nền kinh tế Việt

Nam cũng đang từng bước phát triển, trong đó ngành Công nghiệp Việt Nam đóng

11

một vai trò không nhỏ, vậy thực trạng ngành Công nghiệp Việt Nam trước nhu

cầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ra sao sẽ được đề cập đến trong phần

sau.

2. Thực trạng Ngành Công nghiệp Việt Nam hiện nay và nhu cầu thu hút

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Trong giai đoạn 1996-2001, tổng giá trị sản lượng công nghiệp đạt khoảng 997

ngàn tỷ đồng và có tốc độ tăng trưởng bình quân 13,9%/năm. Trong thời gian đầu,

do môi trường kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi nên mức tăng

trưởng giá trị sản xuất công nghiệp đạt cao: 14,2% vào năm 1996 và 13,8% vào

năm 1997. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1998, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài

chính tiền tệ khu vực, làm cho thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, trong khi đó nhu

cầu thị trường trong nước tăng chậm, nên tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công

nghiệp chỉ đạt 12,5% vào năm 1998 và 11,6% vào năm 1999. Từ năm 2000 đến

nay, tình hình kinh tế trong nước và khu vực đã có nhiều chuyển biến tích cực và

dần thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng; đồng thời với những cải cách mạnh mẽ về

môi trường kinh doanh, đầu tư trong nước và tác động của các biện pháp kích cầu,

nên phát triển công nghiệp đã bắt đầu phục hồi trở lại, đạt được tốc độ tăng trưởng

cao.Trong giai đoạn 1996-2001, các thành phần kinh tế hoạt động trong công

nghiệp đều tăng trưởng khá, song khu vực công ngiệp quốc doanh tăng thấp hơn

so với khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và công nghiệp ngoài quốc

doanh. Tuy nhiên, kể từ năm 2000, xu hướng tăng trưởng công nghiệp theo các

thành phần kinh tế đã có sự thay đổi: khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài bắt đầu giảm dần trong khi đó khu vực công nghiệp trong nước bắt đầu tăng

dần. Có một số lý do như sau: Do vốn đầu tư nước ngoài là từ các nước châu Á

nên mặc dù Việt Nam không nằm trong tâm cơn bão tài chính tiền tệ khu vực,

nhưng cuộc khủng hoảng này đã giáng một đòn mạnh vào đầu tư nước ngoài của

Việt Nam. Do cuộc khủng hoảng này, các công ty, tập đoàn quốc tế rơi vào tình

trạng khó khăn về tài chính nên họ đã rút vốn đầu tư ra khỏi các nước được đầu tư

12

trong đó có Việt Nam. Tình hình cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên

thế giới và trong khu vực đang ngày càng trở nên rất gay gắt. Cộng đồng quốc tế

đánh giá môi trường đầu tư của Việt Nam còn chưa hấp dẫn, có nhiều rủi ro, chi

phí đầu tư cao, hệ thống tài chính ngân hàng chưa hoàn thiện, sức mua của thị

trường Việt Nam còn chưa cao, chưa tương xứng với một nước có 80 triệu dân..

30

25

20

15

T è c ® é (

10

%

)

5

0

1996

1997

1998

1999

2000

2001

9th¸ng2002

Tæng sè(%)

Quèc doanh(%)

Ngoμi quèc doanh(%)

§Çu t− n−íc ngoμi(%)

Đồ thị 1: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp theo thành phần kinh tế

( Nguồn: Nghiên cứu kinh tế số 294, tháng 11/ 2002)

Mặc dù phát triển công nghiệp trong thời gian qua đạt nhiều kết quả tích cực:

tỷ trọng công nghiệp trong GDP tiếp tục thay đổi theo hướng tăng dần, đã tăng

lên đáng kể từ mức 23,2% năm 1996 lên mức 31,9% năm 2001, góp phần quan

trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế; Cơ cấu công nghiệp dịch chuyển

mạnh từ nền công nghiệp hướng nội, thay thế nhập khẩu sang nền công nghiệp

hướng ngoại, định hướng xuất khẩu song trước yêu cầu đòi hỏi của quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế đã đến gần và thực tế phát triển công nghiệp những năm

qua cũng đã đặt ra nhiều vấn đề:

* Hiệu quả sản xuất công nghiệp giảm

Phát triển công nghiệp trong thời gian qua chủ yếu mới chỉ là phát triển theo

chiều rộng, gia công, lắp ráp là chủ yếu, chưa chú trọng đầu tư và phát triển

13

công nghiệp theo chiều sâu, nâng tỷ trọng chế biến sâu, đảm bảo cung cấp

nguyên nhiên vật liệu đầu vào và dịch vụ hạ tầng hợp lý nên hiệu quả sản xuất

công nghiệp chưa ổn định và thiếu vững chắc. Phần lớn các sản phẩm công

nghiệp có sức cạnh tranh kém trên thị trường. Mức chênh lệch giữa tốc độ tăng

giá trị sản xuất công nghiệp và tốc độ tăng giá trị gia tăng công nghiệp có xu

hướng doãng rộng ra. Sự tăng trưởng của nhiều ngành công nghiệp như: chế

biến thực phẩm và đồ uống, dệt, may, da giày, sản phẩm thép và kim loại mầu,

máy móc thiết bị cơ khí, sản phẩm thiết bị điện, hoá chất, phân bón, lốp ô tô, ô

tô, xe máy, giấy, hàng điện tử, sản phẩm nhựa...chủ yếu phụ thuộc vào nguồn

nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu có giá thành cao và luôn có xu hướng

tăng trong những năm qua. Nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước chưa đáp

ứng nhu cầu của nhiều ngành công nghiệp chế biến như: nguyên liệu nhựa sản

xuất trong nước mới đáp ứng được 10% nhu cầu; khoảng 20%-30% vải sản

xuất trong nước đáp ứng đủ yêu cầu may mặc xuất khẩu; nguyên phụ liệu giầy-

da sản xuất trong nước chỉ chiếm 25-30% nhu cầu; phần lớn cácloại nguyên

liệu chính phục vụ sản xuất các sản phẩm kỹ thuật điện phải nhập khẩu; sản

xuất phôi thép trong nước chỉ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu...Điều này làm hạn

chế khả năng tăng giá trị nội địa sản xuất công nghiệp và góp phần làm cho

hiệu quả sản xuất công nghiệp giảm.

* Trình độ công nghệ trang thiết bị lạc hậu

Thực trạng công nghệ trong một số ngành công nghiệp hiện đanglà một vấn

đề đáng lo ngại hạn chế năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Cụ thể là:

trình độ công nghệ và thiết bị của ngành điện tử thấp hơn so với các nước trong

khu vực khoảng từ 15-20 năm. Phần lớn các thiết bị công nghệ của ngành cơ

khí đã qua sử dụng trên 20 năm, lạc hậu về kỹ thuật, độ chính xác kém, quy mô

sản xuất khép kín, thiếu sự chuyên môn hoá. Công nghệ và thiết bị sản xuất

động cơ diezel chủ yếu được đầu tư từ những năm 60 và 70 và có tỷ lệ đầu tư

đổi mới rất hạn chế. Khoảng 30% sản lượng clinker được tạo ra từ những nhà

14

máy có công nghệ cũ kỹ và lạc hậu và trình độ công nghệ sản xuất ở hầu hết

các cơ sở nghiền xi măng đầu ở mức dưới trung bình. Phần lớn thiết bị công

nghệ sản xuất giấy in báo, giấy bao bì lạc hậu từ 3-5 thập kỷ, sản xuất giấy in,

viết đã qua sử dụng trên 20 năm. Công nghệ lạc hậu được đầu tư từ vài chục

năm trước với qui mô nhỏ trong ngành thép chiếm khoảng 53% sản lượng toàn

ngành, công nghệ tiến tiến chiếm khoảng 31%. Trình độ công nghệ và thiết bị

sản xuất các loại hoá chất cơ bản hiện tại rất lạc hậu và có quy mô sản xuất nhỏ

từ vài trăm tấn/ năm đến tối đa từ vài chục ngàn tấn/ năm trong khi đó quy mô

sản xuất của các nước trong khu vực đã đạt được từ hàng chục ngàn tấn/năm

đến hàng trăm ngàn tấn/ năm. Máy móc và công nghệ sản xuất phân bón hầu

hết là lạc hậu, đã sử dụng trên 25-30 năm (trừ công nghệ sản xuất xút, sản

phẩm cao su, ắc quy, pin, chất tẩy rửa, hoá mỹ phẩm trong những năm qua đã

được tiến hành đầu tư đổi mới và áp dụng công nghệ mới loại trung bình tiên

tiến). Các nhà máy sợi dệt-nhuộm trong ngành dệt may mới thay thế được

khoảng 30% công nghệ-thiết bị hiện đại, còn lại khoảng 70% công nghệ-thiết

bị đã sử dụng trên 20 năm và hầu như đã hết khấu hao.

Ngoài ra, vấn đề chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế. Kết quả khảo sát

gần đây ở 90 doanh nghiệp công nghiệp với 147 công nghệ được chuyển giao

cho thấy, chất lượng và hiệu quả chuyển giao công nghệ còn hạn cế do thiếu sự

lựa chọn công nghệ tối ưu, trình độ công nghệ chưa phù hợp và đặc biệt là giá

trị chuyển giao phần mềm về bí quyết công nghệ còn rất thấp (tỉ lệ phần mềm

chỉ chiếm 17%, đầu tư trang thiết bị 83%). Do đó, nhìn chung khả năng vận

hành công nghệ mới còn nhiều hạn chế; trình độ hiểu biết và kỹ năng thực hành

của đội ngữ kỹ sư, cán bộ kỹ thụat và công nhân vận hành còn yếu kém; hiệu

suất sử dụng thực tế chỉ đạt tối đa 70-80% công suất, nhiều dây chuyền thiết bị

đã qua sử dụng có ứng dụng công nghệ tự động điều khiển trong ngành dệt

nhưng chỉ đạt hiệu suất sử dụng 50-60%.

Có thể đánh giá chung trình độ công nghệ và trang thiết bị sản xuất của ngành

15

công nghiệp nước ta ở mức trung bình yếu (không kể các doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài) so với các nước công nghiệp phát triển là lạc hậu từ 2 đến 3

thế hệ: tỷ lệ trang thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu và trung bình chiếm 60-70%,

công nghệ tiến tiến và hiện đại khoảng 30-40%. Điều này là một trong những

nguyên nhân chính làm giảm đáng kể năng suất và sức cạnh tranh của các sản

phẩm công nghiệp khi hội nhập.

* Chất lượng và năng suất lao động công nghiệp thấp

Lao động công nghiệp hiện còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lực lượng

lao động của cả nước. Trình độ lao động, trình độ nghề nghiệp trong ngành

công nghiệp chưa thể đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của quá trình phát triển

công nghiệp trong thời gian tới và là một trong những nguyên nhân quan trọng

làm hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất và quản lý ở các

doanh nghiệp. Hiện có khoảng 73% của lực lượng lao động công nghiệp không

có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Tỷ lệ này cao nhất trong ngành công nghiệp

khai thác (80%) và thấp nhất trong ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt

và nước (41%). Ngoài ra, tỷ lệ đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và kỹ sư chưa

phù hợp. Tỷ lệ đại học/ trung cấp/ công nhân kỹ thuật là 1/0,83/4,7 trong khi

của thế giới tỷ lệ đại học/ trung cấp/ công nhân kỹ thuật là 1/2,5/3,5.

Công tác đào tạo và đào tạo lại lực lượng cán bộ, công nhân kỹ thuật chưa

được quan tâm đúng mức, hợp tác đào tạo giữa doanh nghiệp với các cơ sở đào

tạo trường học chưa có hiệu quả dẫn đến tình trạng thừa lao động giản đơn,

thiếu lao động kỹ thuật; chất lượng lao động thấp, lạc hậu, bỡ ngỡ trước kỹ

thuật, quản lý và công nghệ mới. Do trình độ công nghệ và trang bị lạc hậu

cùng với trình độ lao động hạn chế nên năng suất lao động công nghiệp và chất

lượng sản phẩm công nghiệp không cao. Năng suất lao động trung bình trong

ngành công nghiệp tính theo giá trị gia tăng công nghiệp của Việt Nam năm

2001 thấp hơn so với các nước ASEAN khác như: Indonexia 2,5 lần;

16

Philippines 5 lần; Thái Lan 3,8; Singapore 7,3; Singapore 22,8 lần.

* Đầu tư cho công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức và hiệu quả thấp

Tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp mặc dù chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu tư

toàn xã hội, song tổng vốn đầu tư cho công nghiệp chưa đủ để cơ cấu lại ngành.

Cơ cấu đầu tư của các ngành công nghiệp cũng như tỷ trọng vốn tham gia của

các thành phần kinh tế chưa thực sự hướng tới một nền kinh tế thị trường hoà

nhập và cạnh tranh quyết liệt. Nhiều ngành, nhiều lĩnh vực công nghiệp có vai

trò và tác động lớn như cơ khí chế tạo máy móc và thiết bị, công nghiệp

nguyên liệu...chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Trong khi đó có những

chương trình đầu tư lớn trong ngành xi măng, thép không mang lại kết quả như

mong muốn.

Từ những phân tích trên có thể nói công nghiệp nước ta tăng trưởng nhanh

nhưng hiệu quả không cao, xu hướng diễn ra là giá trị sản xuất ngày càng tăng,

nhưng tỷ lệ giá trị tăng thêm trong giá trị sản xuất ngày càng giảm, nếu trước

đây tỷ lệ giá trị tăng thêm khoảng trên dưới 38% thì những năm gần đây giảm

dần còn 32% và nay chỉ còn 30-31%. Nghĩa là chi phí trung gian tăng dần từ

67% lên 69-70%. Nguyên nhân chính là các ngành gia công lắp ráp tăng nhanh

cả về chiều rộng lẫn chiều sâu như: lắp ráp ô tô, xe máy, thiết bị gia đình, hàng

điện tử, gia công kim loại và phụ kiện. Trong khi đó các ngành có tỷ lệ giá trị

tăng thêm lớn lại giảm đi như: khai thác dầu khí, phân bón, hoá chất...

Tất cả những yếu kém trên là nhân tố tiềm ẩn luôn tạo ra khả năng mất ổn

định, làm giảm tính cạnh tranh và không vững chắc của công nghiệp nước ta.

Biết được những nhân tố bất lợi để khắc phục, đồng thời tranh thủ khai thác

triệt để các điều kiện thuận lợi đang có, đó là tình hình chính trị ổn định, đường

lối phát triển kinh tế đúng đắn, những ưu đãi về chính sách đầu tư, đặc biệt là

việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ mở ra cơ hội phát triển

cho ngành công nghiệp cũ và mới trong những năm tới. Theo dự đoán của các

chuyên gia, nhịp độ tăng trưởng công nghiệp của nước ta dự tính trong những

17

năm tới có khả năng đạt từ 14-16%và năm 2003 với mục tiêu 14-14,5% là khả

thi. Riêng khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là khu vực có tốc độ

tăng trưởng cao từ 16-20%. Để đạt kế hoạch tăng trưởng trên, các chuyên gia

đầu tư ước tính năm 2003 cần khoảng 369,6 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư cho các

ngành công nghiệp. Mà nguồn vốn huy động từ nguồn vốn công cộng chỉ đáp

ứng khoảng 53% nhu cầu, vậy gánh nặng sẽ trông chờ nhiều vào các nguồn vốn

đầu tư nước ngoài (47% tương đương khoảng 173,712 nghìn tỷ đồng). (Nguồn:

Báo Đầu tư số 11 ra ngày 5/3/2003).

Các doanh nghiệp FDI vào ngành Công nghiệp tuy mới hoạt động trên thị

trường Việt Nam nhưng đã thể hiện được sức mạnh của mình. Với những ưu

thế về kỹ thuật, công nghệ, khả năng dồi dào về vốn, có kinh nghiệm hoạt động

lâu năm trong nền kinh tế thị trường và lĩnh hội được các bí quyết kinh doanh

từ các công ty mẹ. Các doanh nghiệp FDI thường có quy mô lớn, trình độ trang

bị kỹ thuật hiện đại, khả năng quản lý và điều hành tốt hơn các doanh nghiệp

trong nước.

Tiền lương trả cho người lao động tại các doanh nghiệp FDI cao hơn hẳn các

doanh nghiệp trong nước, góp phần tăng thu nhập cho người lao động. Việc trả

lương cao ở các doanh nghiệp FDI như một nam châm vô hình thu hút dần các

bàn tay khéo léo và trí tuệ người Việt Nam vào làm việc. Tính đến cuối năm

1996, lương bình quân một lao động trong các doanh nghiệp FDI là 91 USD/

tháng, tương đương với khoảng một triệu đồng Việt Nam.

Bên cạnh mục đích các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để tìm kiếm thị

trường tiêu thụ sản phẩm thì phần lớn các doanh nghiệp vào Việt Nam để sử

dụng lao động với giá rẻ hoặc sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ nhằm chế

biến cho xuất khẩu. Một khối lượng lớn sản phẩm của Việt Nam được xuất

khẩu ra thị trường quốc tế bởi các doanh nghiệp FDI, trong đó phần lớn là các

doanh nghiệp liên doanh, đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể, góp phần mở rộng

giao lưu thương mại quốc tế. Tính đến cuối năm 1996, kim ngạch xuất khẩu

18

của các doanh nghiệp FDI là 792 tr. USD, chiếm 33% tổng kim ngạch xuất

khẩu cả nước.

Theo số liệu thống kê, giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp năm 1999 đạt

trên 116 nghìn tỷ đồng, tăng 10,3% so với năm 1998. Trong đó, khu vực doanh

nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng 43,48% toàn ngành, tăng 4,52% (các doanh

nghiệp trực thuộc Bộ Công nghiệp tăng 6,02%). Khu vực doanh nghiệp ngoài

quốc doanh chiếm tỷ trọng 21,7%, tăng 8,8%. Đặc biệt, khu vực có vốn đầu tư

nước ngoài chiếm tỷ trọng 34,75%, tăng khoảng 20%. Giá trị sản lượng toàn

ngành công nghiệp nửa đầu năm 2000 đạt 100.586 tỷ đồng, bằng 54,3% kế

hoạch năm và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tốc độ tăng cao

nhất kể từ năm 1996 (tăng 13,2%), năm 1997 (tăng 13,6%), năm 1998 (tăng

12,6%) và năm 1999 (tăng 10,3%). Trong đó: khu vực doanh nghiệp nhà nước

Trung ương tăng 10,8% (các doanh nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp tăng 14,4%),

khu vực doanh nghiệp nhà nước địa phương tăng 14,6%, khu vực ngoài quốc

doanh tăng 18,5% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,7%.

Nhận thức được vai trò của FDI và tính tất yếu của việc mở cửa thu hút các

nguồn lực bên ngoài, ngành Công nghiệp Việt Nam đã đề ra một số định hướng

thu hút, sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài:

+ Khuyến khích đầu tư vào các dự án phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu

xuất khẩu theo hướng tăng mạnh những sản phẩm công nghệ chế biến, giảm dần

xuất khẩu sản phẩm thô, phát huy nhiều lợi thế so sánh của đất nước. Những ưu

đãi nhằm khuyến khích đầu tư đối với các dự án này bao gồm:

- Dự án xuất khẩu ít nhất 50% sản phẩm được hưởng mức thuế suất thuế thu

nhập doanh nghiệp ưu đãi là 20% trong thời gian 10 năm, được miễn thuế lợi

tức trong thời gian 1 năm kể từ năm kinh doanh có lãi, giảm 50% trong thời gian

tối đa 2 năm tiếp theo. (Điều 46, 48 khoản 1- Luật ĐTNN tại Việt Nam -2000)

- Dự án xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm được hưởng mức thuế suất thuế thu

nhập doanh nghiệp ưu đãi là 15% trong thời gian 12 năm, được miễn giảm thuế

19

lợi tức 2 năm kể từ năm kinh doanh có lãi, giảm 50% trong tối đã 3 năm tiếp

theo. (Điều 46, khoản 2, Điều 48 khoản 2 Luật ĐTNN tại Việt Nam-2000)

- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ xuất khẩu ít nhất 50%, đáp

ứng được các điều kiện quy định, được phép thành lập kho bảo thuế

(Manufacturing Bonded Warehouse) đối với hàng hoá là nguyên liệu, vật tư

nhập khẩu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Hàng hoá đưa vào kho bảo

thuế chưa thuộc diện chịu thuế nhập khẩu.

- Các dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao hoặc xuất khẩu toàn bộ sản phẩm được lựa

chọn hình thức đầu tư thích hợp, kể cả hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước

ngoài.

Ngoài ra, còn ban hành những giải pháp đồng bộ về thuế suất nhập khẩu

chi tiết phụ tùng nhằm khuyến khích mạnh sản xuất hướng vào xuất khẩu.

+ Chú trọng những ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao (tin

học, vật liệu mới, tự động hoá, dầu khí,...)

- Doanh nghiệp có vốn ĐTNN có dự án đầu tư vào các lĩnh vực ứng dụng và

phát triển công nghệ cao, dịch vụ khoa học và công nghệ được áp dụng thuế

suất, thuế thu nhập doanh nghiệp 20% trong thời hạn 10 năm kể từ khi hoạt

động. (Điều 46, khoản 4/ Luật ĐTNN tại Việt Nam-2000)

- Doanh nghiệp có đầu tư vào các hoạt động khoa học và công nghệ, nếu sử

dụng được giao đất thuê để xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ,

thì đối với phần đất này doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về tiền sử dụng đất,

tiền thuê đất và diện tích sử dụng đất.

+ Tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế

xuất:

- Đối với các KCN, KCX, các nhà đầu tư nước ngoài được khuyến khích đầu

tư với chính sách ưu đãi tiền thuê đất, miễn giảm thuế, giảm giá nhiều loại dịch

vụ.

20

- Hỗ trợ về vốn tín dụng đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực cung cấp miễn phí

thông tin trong quá trình khảo sát, lập dự án đầu tư, cung cấp điện nước đến tận

hàng rào dự án. Hỗ trợ kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng kể cả “chính sách”

chi hoa hồng phí và tiền thưởng cao nhất cho người giới thiệu đầu tư.

+ Tiếp tục thu hút ĐTNN trong các lĩnh vực quan trọng: tìm kiếm, thăm dò, và

khai thác dầu khí và phát triển các cơ sở công nghiệp hạ nguồn dầu khí. Thăm

dò khai thác tài nguyên khoáng sản Việt Nam; đầu tư sản xuất phôi thép, hoàn

nguyên quặng, cán thép lá, thép hợp kim, thép hình,...

+ Tập trung khuyến khích các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng lốp ô tô, xe

máy; sản xuất lắp ráp thiết bị xe máy, thiết bị kỹ thuật cho ngành vận tải và cho

các ngành công nghiệp khác.

+ Ưu tiên các dự án điện tử, điện gia dụng chú trọng vào sản xuất linh kiện điện,

điện tử, màn hình vi tính; thiết bị phần mềm tin học, điện tử công nghiệp, phục

vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; các dự án điện gia dụng xuất khẩu trên

80%.

+ Khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực thu hút nhiều lao động như các dự án về

may mặc-da giầy xuất khẩu; sản xuất nguyên liệu, phụ kiện cho may mặc, da

giầy.

Với những định hướng trên, ngành Công nghiệp Việt Nam đã đạt được những

kết quả đáng kể: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp

trong thời gian từ năm 1988 đến 19/10/2002 là 2522 dự án, với 18.217,4 triệu

USD vốn đăng ký, chiếm 59,8% về số dự án và chiếm 42,7% về vốn đăng ký.

Số cơ sở công nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng từ 666 lên 1063 đơn

vị. Điều dó đã góp phần vào tăng giá trị sản xuất toàn ngành năm 2002 lên

14,5%, vừa vượt mục tiêu 14% vừa cao hơn tốc độ tăng 14,2% của năm 2001.

Đến năm 2002 là năm thứ 12 liên tục tăng trưởng công nghiệp đạt được 2 chữ

số, đưa qui mô công nghiệp năm 2002 gấp 4,8 lần năm 1990, một kỷ lục về tốc

độ tăng cao, liên tục và kéo dài mà các thời kì trước chưa bao giờ đạt được. Tuy

21

nhiên bên cạnh đó còn những mặt tồn tại, hạn chế mà ngành Công nghiệp vẫn

chưa khắc phục được, khiến cho dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa

được phát huy hết thực lực của nó cũng như gây ra nhiều khó khăn cho các

doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình triển khai dự án, vì vậy

sau đây xin đi sâu hơn vào thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành

Công nghiệp Việt Nam.

Ngành công nghiệp Việt Nam trong những năm qua đã và đang phát triển với

một phần giúp sức của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như thế nào sẽ

được trình bày cụ thể hơn ở Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài

22

vào ngành Công nghiệp Việt Nam.

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO

NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

I. QUY MÔ VÀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH

CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

1. Quy mô đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp Việt Nam

Trong những năm gần đây, thông qua các hình thức liên doanh hoặc đầu tư

100% vốn nước ngoài, ngành công nghiệp nước ta đã đạt được mục tiêu thu hút

vốn và kỹ thuật của nhiều nước để phát triển, cung cấp ngày càng nhiều hàng

hoá tiêu dùng cho xã hội. Giá trị sản lượng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài (doanh nghiệp FDI) chiếm tỷ trọng 23,8% trong tổng giá trị ngành

công nghiệp của cả nước. Một số ngành quan trọng có năng lực sản xuất tăng

nhanh như ngành thép, ngành lắp ráp ôtô xe máy, điện tử, công nghiệp hàng tiêu

dùng.

Công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất hiện đã trở thành một bộ

phận quan trọng của nền công nghiệp nước ta, đã chiếm tỷ trọng lớn và ngày

một gia tăng nhờ có tốc độ tăng khá cao. Nếu trước đây khu vực này hầu như

không có gì, thì đến nay đã chiếm 35,7% toàn bộ ngành công nghiệp. Tốc độ

tăng của khu vực này nhìn chung cũng cao hơn hẳn tốc độ tăng của công nghiệp

trong nước. Nhờ có sự tăng trưởng cao của công nghiệp khu vực có vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài đã “kéo” tốc độ chung của toàn ngành công nghiệp lên.

Để có thể thấy rõ tác động của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào

ngành Công nghiệp như thế nào xin xem tốc độ tăng trưởng của các khu vực

DNNN, khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn ĐTNN so với toàn ngành

23

trong đồ thị sau.

25

20

)

15

%

10

5

( g n ¨ t é ® c è T

0

1995

1999

2000

2001

2002

Toμn ngμnh Khu vùc DNNN

K hu vùc ngoμi quèc doanh K hu vùc cã vèn §TNN

(Nguồn: Thời báo kinh tế số 17-22/ Ngày 7-2-2003)

Tính đến ngày 20/12/2002 cả nước có 3669 dự án FDI còn hiệu lực với tổng

Đồ thị 2 : Tốc độ tăng của ngành Công nghiệp so với năm trước (%)

vốn đầu tư là 39.104,74 tr.USD, trong đó có 2431 dự án đầu tư vào ngành công

nghiệp với số vốn đầu tư đăng ký (TVĐK) 22.160,753 tr.USD, chiếm 66,3% số

dự án với 56,67% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước. Tổng vốn

đầu tư đăng ký (TVĐK), vốn pháp định (VPĐ) và vốn đầu tư thực hiện (ĐTTH)

thể hiện qua bảng sau:

Bảng 1 : Tình hình FDI vào ngành công nghiệp

(tính đến ngày 20/12/2002, chỉ tính những dự án còn hiệu lực)

FDI Cả nước Ngành công Tỷ lệ % so với tổng số các

nghiệp ngành

Tổng số dự án 3669 2431 66,3

TVĐK (Tr.USD) 39.104,74 22.160,75 56,67

VPĐ (Tr.USD) 18.103,68 10.257,77 56,912

ĐTTH(Tr.USD) 20.739,30 13.343,30 64,338

24

(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)

Những số liệu trên cho thấy FDI vào công nghiệp chiếm hơn một nửa số

dự án FDI của cả nước, trong đó số vốn đăng ký, vốn pháp định hay vốn đầu tư

thực hiện đều chiếm trên 50% so với cả nước. Ngoài ra, tỷ trọng về doanh thu,

xuất khẩu, việc làm cho người lao động đều cao hơn so với các lĩnh vực khác

và theo con số thống kê chưa đầy đủ thì các tỷ lệ đó lần lượt là 79,7%; 69% và

78,8%. Điều này có ý nghĩa rất lớn là chúng ta đã thu hút được phần lớn FDI

vào khu vực sản xuất công nghiệp, phù hợp với mục tiêu thu hút đầu tư nước

ngoài phục vụ chiến lược công nghiệp, hoá hiện đại hoá đất nước.

2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp

2.1 Cơ cấu theo chuyên ngành

Theo số liệu thu thập được, nếu chia Ngành công nghiệp thành 19 chuyên

ngành nhỏ gồm: Cơ khí; Chế biến dầu khí; Dệt - may; Rượu - bia - nước giải

khát; Vật liệu, sản phẩm nội thất xây dựng; Luyện kim; Hoá chất; Điện tử - tin

học; Thực phẩm; Điện và dịch vụ điện; Da - giầy; Nhựa và các sản phẩm nhựa;

Hàng công nghiệp nhẹ; Giấy và các sản phẩm giấy; Khoáng sản, vàng bạc đá

quý; Khai thác than; Dầu thực vật; Thuốc lá; Mỹ phẩm thì ngành Cơ khí đứng

đầu tất cả các ngành về số dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký, vốn đầu tư thực hiện

cũng như doanh thu. Cho đến nay các con số lần lượt là 194 dự án với tổng vốn

đầu tư đăng ký 2,412 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 17,7%; 20,3% vốn đầu tư thực

hiện; 16% về doanh thu.

Tiếp đến là ngành Da - Giầy, xếp thứ nhất về số lượng lao động và kim ngạch

xuất khẩu, thứ ba về doanh thu nhưng vốn đầu tư lại xếp thứ 11 trong số 19

chuyên ngành cơ bản của công nghiệp. Bên cạnh đó là ngành Điện tử - Tin học,

xếp thứ hai về doanh thu (sau Cơ khí) và kim ngạch xuất khẩu (sau Da Giầy),

mặc dù vốn đầu tư xếp thứ 8. Một lĩnh vực thu hút và hấp dẵn các nhà đầu tư

nước ngoài nữa là sản xuất Bia - Rượu - Nước giải khát với số nộp Ngân sách

luỹ kế rất lớn (128tr.USD) trong khi đó các ngành khác có số nộp Ngân sách

25

nhỏ chỉ trên dưới 40 tr.USD.

Nếu phân chia Ngành công nghiệp thành 4 chuyên ngành khác nhau là:

Công nghiệp Dầu khí; Công nghiệp nặng; Công nghiệp nhẹ; Công nghiệp thực

phẩm thì tình hình đầu tư FDI vào các chuyên ngành công nghiệp thể hiện ở

biểu sau:

Bảng 2: Tình hình FDI vào các chuyên ngành công nghiệp

(tính tới ngày 20/12/2002 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)

Số dự án TVĐK VPĐ ĐTTH

(tr.USD) (tr.USD) (tr.USD)

2189 18.887,8 8.991,82 11.430,05 CN

100 100 100 100 %

29 3.195,45 2.184,58 3.510,73 CN dầu khí

1,32 16,9 24,3 30,7 %

975 5.061,29 2.247,40 2.355,69 CN nhẹ

44,5 26,8 25 20,6 %

995 8.195,84 3.482,57 4.167,10 CN nặng

45,5 43,4 38,7 36,5 %

190 2.435,22 1.077,27 1.396,53 CNthựcphẩm

8,68 12,9 12 12,21 %

(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)

Bảng 2 cho thấy, nếu theo số dự án thì ngành công nghiệp nặng đứng đầu

với 995 dự án, chiếm 45,5% tổng số dự án FDI toàn ngành công nghiệp. Tiếp

26

đến là ngành công nghiệp nhẹ, với 975 dự án chiếm 44,5% tổng số dự án FDI

toàn ngành công nghiệp. Ở đây, các dự án tập trung chủ yếu vào lĩnh vực Dệt -

may và Da - giầy. Đây là hai lĩnh vực thu hút nhiều lao động, máy móc thiết bị,

dây chuyền công nghệ không đòi hỏi quá hiện đại mà chỉ ở mức trung bình tiên

tiến. Vốn đầu tư cho một dự án không đòi hỏi quá lớn.

Ngành công nghiệp thực phẩm với 190 dự án (chiếm 8,68%). Đây là

ngành có tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện so với vốn đăng ký cao: 51,3% (sau ngành

công nghiệp dầu khí), tập trung chủ yếu vào lĩnh vực Rượu - Bia - Nước giải

khát.

Cuối cùng là ngành Dầu khí, mặc dù hạn chế về đối tác đầu tư cũng như số

dự án, nhưng đây là ngành có tỷ lệ vốn đầu tư đăng ký trên vốn đầu tư thực

hiện cao nhất: 91,01% và cũng là ngành có tỷ lệ vốn đăng ký bình quân cho

một dự án cao nhất: 110,87 tr.USD/dự án. Đây cũng là ngành có tỷ lệ đóng góp

vào GDP và mức thu nhập bình quân của người lao động cao nhất nước.

2.2 Cơ cấu theo hình thức đầu tư

Trong các hình thức đầu tư, hình thức BOT và Hợp đồng hợp tác kinh doanh

(HĐHTKD) rất khiêm tốn cả về số dự án lẫn vốn đầu tư. Chủ yếu vẫn là hình

thức 100% vốn nước ngoài chiếm 57,6% số dự án, 41,4% vốn đầu tư đăng ký,

43% vốn đầu tư thực hiện và hình thức liên doanh chiếm 39,5% số dự án,

55,2% vốn đăng ký và 56,1% vốn đầu tư thực hiện so với toàn ngành.

Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành công

nghiệp sử dụng nhiều lao động để sản xuất hàng xuất khẩu như dệt may, giày

dép, hàng tiêu dùng, công nghệ chế biến...Khối doanh nghiệp này đã tạo ra hơn

300.000 việc làm.

Đối với hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, nhà đầu tư được chủ động

hơn trong lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, điều hành sản xuất-kinh doanh.

Nhiều doanh nghiệp thực chất là các chi nhánh, các công ty con trong mạng

27

lưới toàn cầu của các công ty đã quốc gia, nên có nhiều thuận lợi trong tiếp cận

thị trường thế giới. Tuy nhiên, vì toàn bộ quá trình kinh doanh do nhà đầu tư

nước ngoài chi phối nên cần có qui định ngăn ngừa họ không trung thực trong

báo cáo tài chính, gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép

các doanh nghiệp trong nước...

Hình thức liên doanh chủ yếu ở các lĩnh vực kinh tế quan trọng như dầu khí,

sản xuất xi măng, sắt thép, hoá chất, lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử...Các liên

doanh đã góp phần vực dậy nhiều ngành công nghiệp Việt Nam (bị suy thoái do

thiếu vốn, thiếu vật tư, công nghệ lạc hậu, mất thị trường...), cung cấp nhiều

sản phẩm quan trọng cho nền kinh tế mà trước đây vẫn phải nhập khẩu. Đội

ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật của Việt Nam làm việc trong các doanh

nghiệp liên doanh đã trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt, tiếp thu được công

nghệ mới, kiến thức và kinh nghiệm quản lí của nước ngoài. Tuy nhiên vẫn còn

hiện tượng một số đối tác nước ngoài trong liên doanh đã khai vống các chi phí

đầu tư, nâng giá thiết bị, máy móc góp vốn và nguyên liệu đầu vào, hạ giá đầu

tư thông qua chuyển giá với công ty mẹ để thu lợi nhuận từ bên ngoài mà bên

phía Việt Nam không có khả năng kiểm soát được.

Ngoài hai hình thức đầu tư chủ yếu vào ngành công nghiệp nói trên, còn có

hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực thăm

dò, khai thác dầu khí. Hình thức này đã góp phần tích cực vào việc phát triển,

hiện đại hoá ngành dầu khí, đồng thời đã tạo điều kiện cho Việt Nam tiến hành

thăm dò đánh giá trên diện tích rộng nguồn tài nguyên dầu khí.

Bên cạnh những kết quả đạt được từ các hình thức đầu tư với nước ngoài thì

ngành Công nghiệp vẫn cần phải cải thiện môi trường đầu tư thuận lợi, thông

thoáng hơn nữa để thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài và tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn này cho hợp lí hơn.

2.3 Cơ cấu theo địa bàn

Cho tới nay đã có hơn 47 tỉnh thành phố có các dự án đầu tư nước ngoài

28

vào ngành công nghiệp đang hoạt động với tổng số dự án 1.441, tổng vốn đầu

tư đăng ký là 16.138,28 tr.USD.

Bảng 3: Đầu tư vào ngành Công nghiệp theo một số địa phương

(tính đến tháng 8/2002)

Thành phố Vốn ĐTĐK Doanh thu Kinh ngạch XK

Số dự án (tỷ USD) (tỷ USD) (tỷ USD)

TP. Hồ Chí Minh 923 2,98 3,197 0,988

Đồng Nai 389 3,584 1,584 1,86

Bình Dương 274 1,3 0,957

Hà Nội 52 0,567 0,539

Bà Rịa-Vũng Tầu 71 3,683 0,795 2,072

( Nguồn: Vụ Quản lý dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu tư VN )

Các tỉnh thành phía Nam vẫn chiếm ưu thế hơn trong việc thu hút đầu tư trực

tiếp nước ngoài so với các nơi khác do đã có nhiều chính sách thu hút đầu tư

hợp lí, tạo thuận lợi và kịp thời tháo gỡ những khó khăn cho các nhà đầu tư, có

những địa phương đã“trải thảm đỏ” sẵn sàng để đón các nhà đầu tư nước ngoài.

2.4 Cơ cấu theo đối tác đầu tư

Cho tới nay đã có hơn 45 nước và nền kinh tế có dự án đầu tư sản xuất công

nghiệp vào nước ta (không kể các dự án thăm dò khai thác dầu khí). Trong đó,

Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước có vốn đầu tư thực hiện tương đương nhau

nhưng các dự án từ các nhà đầu tư Hàn Quốc đang dẫn đầu về doanh thu, xuất

khẩu và tạo việc làm cho người lao động. Điều này có ý nghĩa là các nhà đầu tư

Hàn Quốc rất chú ý khai thác thị trường lao động rẻ của Việt Nam để gia công

chế biến hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, rất tiếc là cuộc khủng hoảng tài chính tiền

tệ khu vực đã gây ra khủng hoảng kinh tế trầm trọng cho Hàn Quốc và ảnh

29

hưởng xấu tới tình hình đầu tư của Hàn Quốc vào nước ta.

Bảng 4: Tình hình đầu tư vào ngành Công nghiệp theo đối tác đầu tư

(tính đến cuối năm 2001)

Tổng VĐK Tên nước

Số dự án (triệu USD)

Hơn 1,3 tỷ USD 163 2,14 Nhật Bản

151 1.833 Hàn Quốc

262 1.655 Đài Loan

91 1.489 Singapore

12 1.325 Liên bang Nga

71 742,2 Từ 500-1000 triệu USD Hồng Kông

37 709,0 Hoa Kỳ

30 701,3 Malaysia

15 527,8

British Virgin Island

(Nguồn: Vụ Quản lý dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu tư VN)

Các dự án có tổng vốn đăng ký từ 100tr.USD đến dưới 400 tr.USD gồm có

các nước Thái Lan, Anh, Hà Lan, Bermuda, Indonesia, Úc, Pháp, Đan Mạch.

Còn lại là các nước có vốn đầu tư dưới 100 tr.USD, trong đó có 11 nước

và vùng lãnh thổ chỉ có 1 dự án đầu tư. Achentina là nước có một dự án với vốn

đầu tư thấp nhất (120.000 USD).

Về đối tác là các khối kinh tế: Số liệu thống kê cho thấy dẫn đầu vẫn là

những nhà đầu tư từ khối các nước Đông Bắc Á, tiếp đến là các nước ASEAN.

Các nước EU đứng vị trí thứ ba và các nước Đông Âu cũ mà chủ yếu là Liên

Bang Nga đứng ở vị trí thứ tư. Các nhà đầu tư khối Đông Bắc Á không những

dẫn đầu về số dự án, vốn đăng ký mà còn vượt lên hơn hẳn các khối khác về

vốn thực hiện (chiếm 54,8%), doanh thu (61,3%) và nhất là xuất khẩu (tới

30

78,3%). Các nước ASEAN, chủ yếu là Singapore và Malaysia, Thái Lan cũng

có tỷ trọng đầu tư và thực hiện đầu tư khá vào các ngành công nghiệp của nước

ta. Khối các nước EU có tiềm lực công nghiệp mạnh nhưng mức độ huy động

đầu tư công nghiệp vào nước ta cũng chỉ mới ở vị trí thứ ba sau ASEAN. Có

một ý kiến cho rằng do Việt Nam là thị trường kinh tế mới nổi, hệ thống luật,

nhất là luật kinh tế chưa hoàn chỉnh, thủ tục hành chính phức tạp, không minh

bạch, rõ ràng, làm cho các nhà đầu tư phương Tây e ngại. Họ cho rằng khó có

sự cạnh tranh lành mạnh tại Việt Nam, nhất là cạnh tranh với các nhà đầu tư

phương Đông theo kiểu Á Đông. Đây cũng chỉ là một loại ý kiến nhưng chúng

ta cũng vẫn phải nghiên cứu kỹ trong quá trình soạn thảo các Luật và cải cách

hành chính ở nước ta nhằm làm cho môi trường đầu tư của ta hấp dẫn đối với

tất cả các nhà đầu tư trên thế giới.

Trên đây là khái quát chung tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào

ngành công nghiệp nước ta. Sau đây xin trình bày sâu hơn tình hình FDI vào

từng chuyên ngành cụ thể.

II. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG FDI CỦA MỘT SỐ CHUYÊN

NGÀNH CÔNG NGHIỆP

1. Công nghiệp dầu khí

Ngành công nghiệp dầu khí chiếm trên 10% tổng giá trị sản xuất công nghiệp

và trên 20% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Cho tới nay ngoài Công ty liên

doanh Vietsovpetro thực hiện theo Hiệp định của hai Chính phủ Việt Nam và

Liên Xô (cũ) mà hiện nay do cộng hoà liên bang Nga thừa kế đã sản xuất được

hơn 60 triệu tấn dầu thô, hiện đang tiếp tục kinh doanh có hiệu quả, nước ta đã

cấp 47 Giấy phép đầu tư cho ngành công nghiệp dầu khí. Tuy nhiên, hiện tại

chỉ còn 29 dự án có hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký 3.195tr.USD, vốn

pháp định 2.184 tr.USD với vốn đầu tư thực hiện 3.510tr. USD. Lĩnh vực này

đã thu hút trên dưới 1.458 lao động với tổng doanh thu đạt khoảng 201 tr.USD

mỗi năm và đóng góp cho Ngân sách nhà nước một khối lượng đáng kể.

31

Công nghiệp dầu khí bao gồm: hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu

khí; hoạt động chế biến dầu khí và hoạt động dịch vụ dầu khí.

Bảng 5: Tình hình đầu tư vào ngành công nghiệp dầu khí

(tính đến ngày 20/12/2002, chỉ tính những dự án còn hiệu lực)

Số dự TVĐK Vốn Số lao Doanh thu

(tr.USD) án ĐTTH động

HĐ tìm kiếm, thăm 29 1.290 1.262 1.570 1.256,72

dò và khai thác

HĐ chế biến dầu 31 1.925 1.040 1.272 201,598

khí

HĐ dịch vụ dầu khí 4

(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)

Sau đây xin đi sâu vào từng lĩnh vực:

1.1 Hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí

Từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (19/12/1987) tới nay, nước ta

đã cấp Giấy phép đầu tư cho 46 hợp đồng khai thác dầu khí (không kể liên

doanh dầu khí Việt- Xô đã hoạt động trước đó). Cho tới nay có 29 dự án đang

còn hiệu lực hoạt động với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 3,2 tỷ USD gồm các

Hợp đồng chia sản phẩm (PSC), Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), liên

doanh (JV). Theo kết quả rà soát và đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới

đây đã có 18 dự án với tổng vốn đăng ký gần 1,04 tỷ USD đi vào hoạt động sản

xuất kinh doanh, 7 dự án với tổng vốn đăng ký 2,08 tỷ USD đang thực hiện xây

dựng cơ bản và 3 dự án với tổng vốn đăng ký 58 triệu USD chưa triển khai

nhưng có khả năng thực hiện. Đây là lĩnh vực đầu tư có tỷ lệ vốn đầu tư thực

hiện so với vốn đầu tư đăng ký cao nhất (205,9%) và tỷ lệ vốn pháp định thực

32

hiện cũng rất cao (84,5%) và phần lớn vốn đều do nước ngoài đưa vào. Điều

này chứng tỏ rằng các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm tới tiềm năng khai

thác dầu khí của nước ta, nhất là những năm 1989-1996. Tuy nhiên sự quan tâm

này cũng đã giảm. Trong 2 năm 1997 và 1998 chỉ có 2 hợp đồng về thăm dò

khai thác dầu khí được cấp phép, năm 1999 không có dự án nào được cấp phép,

năm 2000 có 4 dự án khai thác thăm dò dầu khí được cấp phép tuy nhiên chỉ

mới có một dự án triển khai thực hiện đó là Hợp đồng hợp tác kinh doanh thăm

dò, khai thác dầu khí lô 102 &106 với vốn đầu tư 5 tr.USD, vốn đầu tư thực

hiện là 820.000 USD, năm 2002 có 2 dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư

đăng ký 29,2 triệu USD.

Thực tế cho thấy, đến nay đã có 20 Hợp đồng tìm kiếm thăm dò dầu khí

kết thúc với số vốn đầu tư khoảng 1,4 tỷ USD, tổng diện tích tìm kiếm thăm dò trên đất liền và trên thềm lục địa khoảng 250.000 km2. Mới chỉ có 2 dự án thăm

dò dầu khí đã có sản phẩm khách hàng, có doanh thu xuất khẩu là Hợp đồng

phân chia sản phẩm dầu khí lô 05-1 mỏ Đại Hùng với Malaysia và Hợp đồng

phân chia dầu khí vùng Bồn Trũng với Singapore.Tổng doanh thu xuất khẩu

của hai hợp đồng này gần 104,5 tr.USD. Năm 2002 nổi bật với dự án dầu khí

Nam Côn Sơn nằm ngoài khơi biển Việt Nam về phía Đông Nam, đây là một

Hợp doanh giữa Tổng Công ty dầu khí Việt Nam với tổ hợp nhà thầu BP (Anh)

và Statoil (Nauy) đã được cấp Giấy phép đầu tư ngày 15/12/2000, với mục tiêu

đưa khí được khai thác từ các mỏ Lan Tây, Lan Đỏ thuộc lô 06.1 qua đường

ống vào bờ với tới các hộ tiêu thụ. Vốn đầu tư của dự án này và dự án khai thác

mỏ Lan Tây, Lan Đỏ là khoảng 1,3 tỷ USD - dự án đầu tư nước ngoài có tổng

vốn đầu tư lớn nhất nước từ trước đến nay

Riêng Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro - con chim đầu đàn của ngành dầu

khí Việt Nam, kể từ tháng 4 năm 1987 đến nay, Vietsovpetro đã khai thác được trên 100 triệu tấn dầu thô và gần 10 tỷ m3 khí đồng hành. Đến đầu năm 1996

33

Liên doanh đã hoàn thành thu hồi vốn (1,5tỷ USD), năm 1998 Vietsovpetro đã khai thác được 12,5 triệu tấn dầu thô và 1 tỷ m3 khí. Từ năm 1991 đến nay,

Liên doanh này đã nộp ngân sách nhà nước Việt Nam hơn 8,2 tỷ USD.

Có thể nói hầu như toàn bộ hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí

của Việt Nam được thực hiện bằng các hình thức hợp tác với nước ngoài, qua

đó đã giải quyết được các yêu cầu về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý,

góp phần tạo lập một ngành công nghiệp mới với trình độ kỹ thuật tiên tiến.

Các dự án đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí đã góp

phần chính xác hoá cấu trúc địa chất các bề trầm tích có triển vọng dầu khí,

phát hiện khoảng 50 cấu tạo có chứa dầu và khí: làm rõ hơn tiềm năng dầu khí

trên đất liền và trên thềm lục địa nước ta. Đồng thời đã xác định và đưa vào

khai thác các mỏ dầu khí thương maị như: Đại Hùng, Hồng Ngọc (rubby),

Rạng Đông, Bunga Kekwa; chuẩn bị khai thác các mỏ: Lan Tây, Lan Đỏ, Rồng

Đôi, Hải Thạch, Emeral... (ngoài các mỏ Bạch Hổ, Rồng do Vietsovpetro điều

hành). Sản lượng dầu khí khai thác tăng dần qua các năm: năm 1986 là 0,04

triệu tấn, năm 1990 là 2,7 triệu tấn, năm 1995 là 7,7 triệu tấn, năm 1999 là 15,5 triệu tấn dầu thô và 1,4 tỷ m3 khí, năm 2000 là 16 triệu tấn dầu thô và 1,5 tỷ m3 khí, năm 2001 là 17 triệu tấn dầu thô và 1,72 tỷ m3 khí, năm 2002 là 17,102 triệu tấn dầu thô và 2,260 triệu m3 khí.

Sự quan tâm cũng như sự tích cực triển khai các dự án thăm dò của các nhà

đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí với số vốn thăm dò thực hiện là 2,656

tỷ USD trong thời gian qua đã giúp Việt Nam dần dần có đủ cơ sở dữ liệu về

trữ lượng dầu khí để có thể xác định chiến lược hình thành và phát triển ngành

công nghiệp chế biến dầu khí của nước ta.

1.2 Hoạt động chế biến dầu khí

Cho tới nay đã có 31 dự án đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế

biến và sử dụng các sản phẩm hoá dầu: sản xuất kinh doanh khí đốt, khí hoá

lỏng, dầu nhờn bôi trơn các loại, tinh lọc dầu và hoá dầu với tổng vốn đầu tư

hơn 1,920 tr.USD, vốn pháp định hơn 1,040 tr.USD, tổng doanh thu là 201,598

34

tr.USD và tạo được 1.272 chỗ làm việc. Kết quả hoạt động này chủ yếu là của

29 dự án nhỏ có vốn đầu tư từ 35 tr.USD trở xuống, sản xuất kinh doanh dầu

nhờn và khí đốt. Mặc dầu các dự án trong lĩnh vực này chưa nhiều nhưng đă

góp phần tạo tiền để mở ra một ngành công nghiệp mới ở nước ta. Ngành công

nghiệp sản xuất chế biến các sản phẩm hoá dầu làm phong phú thêm các sản

phẩm tiêu dùng; đặc biệt sản phẩm khí đốt đã góp phần giải quyết cơ bản chất

đốt cho nhân dân thành phố và đô thị, tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu dầu hoả, tiết

kiệm than, điện và làm văn minh thêm cho công việc nội trợ.

Việc kinh doanh sử dụng sản phẩm hoá dầu và lọc dầu đang ngày càng thúc

đẩy công nghiệp chế biến dầu khí phát triển. Đặc biệt có 3 dự án lớn đó là: một

dự án theo hình thức BOT với đối tác là GSC (điều hành), Ugland A/S, Topsoe

(công nghệ), Klenwort Benson (tài chính) và công ty Hồng Phát sản xuất

methanol trên nhà máy nổi lô 15, có vốn đầu tư 270 tr.USD (được cấp Giấy

phép vào tháng 12/1998). Dự án tiếp theo là Công ty liên doanh lọc dầu Việt-

Nga với vốn đầu tư 1,3 tỷ USD và công suất 6,5 triệu tấn/ năm tại Dung Quất-

Quảng Ngãi (được cấp Giấy phép vào 12/1998), tuy nhiên đã bị ngừng vào năm

2002. Dự án thứ ba là dự án khí Nam Côn Sơn với đường ống dẫn khí 2 pha gồm dẫn khí và dẫn chất lỏng sẽ đi vào hoạt động cung cấp hoảng 11,1 triệu m3

khí/ ngày cho 4 nhà máy nhiệt điện turbin khí Phú Mỹ2, Phú Mỹ 2.2, Phú Mỹ 3

và Phú Mỹ 4 và nhà máy đạm Phú Mỹ 4

Ngoài các dự án lớn nói trên, trong lĩnh vực chế biến dầu khí đã cấp Giấy

phép đầu tư cho các nhà sản xuất chất dẻo DOP công suất 30.000 tấn/ năm, nhà

máy sản xuất chất dẻo PVC công suất 100.000 tấn/ năm, hai nhà máy chế biến

nhựa đường có tổng công suất 300.000 tấn/ năm, khí LPG 130.000 tấn/ năm.

Như vậy, với các dự án đã được cấp Giấy phép đầu tư cho đến hết năm 2002,

lĩnh vực chế biến dầu khí của Việt Nam cũng chủ yếu được thực hiện thông qua

hình thức hợp tác với nước ngoài (đại bộ phận là liên doanh và hợp doanh).

1.3 Hoạt động dịch vụ dầu khí

35

Để đáp ứng việc cung cấp dịch vụ cho hoạt động dầu khí, Chính phủ đã cấp

Giấy phép đầu tư cho một số dự án vận chuyển trực thăng, cung cấp dịch vụ

khoan, xử lý tài liệu dầu khí, cung cấp dịch vụ kỹ thuật và các dịch vụ khác.

Các dự án này có sự phối hợp của các công ty trong nước đã đáp ứng kịp thời

nhu cầu phát triển của ngành dầu khí với chất lượng ngày càng được nâng cao

và đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tại XNLD Vietsopetro hiện có đội tàu hiện đại vào

bậc nhất Việt Nam, có đẳng cấp quốc tế với công suất 97.000 mã lực, gồm 3

tàu cẩu có sức nâng từ 600-1200 tấn; 9 tàu dịch vụ có công suất từ 4000-13.300 mã lực; 3 tàu dịch vụ lặn, 1 tàu cứu hoả có công suất 3.000 m3 nước, dung dịch/

giờ. Với 19 giàn khoan cố định thăm dò và khai thác dầu khí của XNLD

Vietsopetro (từ 1984-nay) đã khẳng định của Việt Nam về cấu tạo và xây lắp

các công trình khẳng định khả năng của Việt Nam về cấu tạo và xây lắp các

công trình biển. Gần đây lắp ráp và xây dựng giàn khai thác mỏ Rạng Đông,

Ruby trên thềm lục địc nam Việt Nam JPVC và Petronas đã chứng tỏ năng lực

của dịch vụ xây lắp công trình biển.

Về dịch vụ bay, có công ty Liên doanh Trực thăng Việt-Pháp (Helivifra) và

Tổng Công ty Bay Dịch vụ Việt Nam (SFC Vietnam). Công ty Helivifra là

công ty liên doanh giữa Công ty Bay Dịch vụ Việt Nam (SFC Vietnam), Tổng

công ty Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) với Công ty Trực thăng Heli Union

của Pháp được thành lập tháng 10/1998, đã cunh cấp dịch vụ trực thăng, hoàn

hảo cho ngành công nghiệp Dầu khí tại Việt Nam và các ngành công nghiệp

khác.

Nhìn chung, trong bối cảnh cụ thể của nước ta hiện nay, đối với lĩnh vực dầu

khí, gồm cả khâu sản xuất và dịch vụ, do yêu cầu lớn về vốn đầu tư, phức tạp

về công nghệ và chuyên sâu về kỹ năng quản lý, có thể nói bước đi của Ngành

dầu khí Việt Nam trong việc tăng cường mở rộng hợp tác với nước ngoài là

hoàn toàn phù hợp và đúng đắn, những dự án theo Luật ĐTNN đã và đang mở

rộng chân trời mới cho ngành Dầu khí Việt Nam. Với những kết quả đạt được

36

từ quá trình hợp tác trên đã đặt ra tiền đề cho những bước phát triển mạnh mẽ

của Ngành dầu khí đất nước, để dần hướng tới đạt được mục tiêu vươn lên làm

chủ công nghệ hiện đại, nội lực ngày càng được phát huy, ngành công nghiệp

dầu khí sẽ góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, CNH, HĐH

đất nước và mau chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế của Việt Nam.

ừ những số liệu và phân tích các lĩnh vực trong công nghiệp dầu khí có thể T

thấy rõ ngành Dầu khí Việt Nam đang từng bước đi lên và đóng vai trò chủ

đạo trong sự phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam. Các nhà đầu tư nước

ngoài rất quan tâm tới tiềm năng khai thác dầu khí của nước ta do chúng ta có

lợi thế về nguồn trữ lượng dầu mỏ khá dồi dào. Những dự án vào lĩnh vực dầu

khí do có yêu cầu lớn về vốn đầu tư, phức tạp về công nghệ và chuyên sâu về

kỹ năng quản lý nên tính đến nay hầu hết các dự án đều là liên doanh với nước

ngoài. Điều này chứng tỏ, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp phần đáng

kể vào sự phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam nói riêng và toàn ngành công

nghiệp nói chung (năm 2001, doanh thu toàn ngành là 54.549 nghìn tỷ đồng,

nộp ngân sách nhà nước 27.135 nghìn tỷ đồng; năm 2002, doanh thu đạt 61.830

tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước 31.512 nghìn tỷ đồng). Từ những đóng góp

đó đã giải quyết một số yêu cầu về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lí và chia

xẻ rủi ro, góp phần tạo lập một ngành công nghiệp mới với trình độ kỹ thuật

tiên tiến.

Những kết quả thu được từ quá trình hợp tác trên đã đặt tiền đề cho những

bước phát triển mạnh của ngành Dầu khí đất nước để dần hướng tới đạt mục

tiêu vươn lên làm chủ công nghiệp hiện đại, nội lực ngày càng phát huy. Trong

thời gian tới, một mặt ngành dầu khí vẫn tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài,

mặt khác từ đó để nâng cao khả năng của ngành dầu khí Việt Nam trong việc tự

tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí trên cơ sở kinh nghiệm tích luỹ được trong

quá trình liên doanh với đối tác nước ngoài.

2. Công nghiệp nặng

37

Kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nước ta đã kêu gọi được

một khối lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp,

trong đó, lĩnh vực công nghiệp nặng chiếm một phần đáng kể về số dự án, tổng

vốn đầu tư cũng như doanh thu...Theo số liệu thống kê của Vụ Quản lý dự án-

Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính đến ngày 20/12/2002 đã có 995 dự án FDI vào lĩnh

vực Công nghiệp nặng còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký (TVĐK) là 8.195

tr.USD, vốn pháp định thực hiện (PĐTH) 3.482 tr.USD và vốn đầu tư thực hiện

(ĐTTH) 4.167 tr.USD.

Bảng 6 : Tình hình FDI vào các lĩnh vực công nghiệp nặng.

(tính tới ngày 20/12/2002)

TVĐK ĐTTH Doanh thu

Số dự án (tr.USD) (tr.USD) (tr.USD)

Qui mô chung 2189 18.886 11.842

Lĩnh vực ô tô 636,6 423 450 11

Sản xuất, lắp ráp xe máy 377 234 521 5

Ngành ô tô, xe máy 200 80 33,5 37

Sản xuất phụ tùng, linh kiện ô tô-xe máy

Sản xuất hàng điện tử 740,5 410 1.549 22

Lĩnh vực tin học 45,95 9 4,5 31 Ngành điện tử-tin học

Ngành sản xuất sắt thép 15 303 252 440

(Nguồn: Vụ QLDA -Bộ KH&ĐT)

Để có thể đánh giá chính xác hơn thực trạng FDI, sau đây xin đi sâu vào

từng lĩnh vực cụ riêng.

2.1 Ngành ôtô, xe máy

2.1.1 Lĩnh vực ôtô

38

Đã có 14 dự án sản xuất, lắp ráp ôtô được cấp Giấy phép đầu tư; trừ 3 dự án

của các công ty Chryster (đã rút Giấy phép), Nissan và VietSin (chưa triển

khai), còn 11 dự án đang hoạt động với vốn đăng ký đạt 636,6 tr.USD, vốn đầu

tư thực hiện đạt 423 tr.USD; công suất thiết kế của 11 liên doanh này là

140.000 ôtô các loại mỗi năm (kể từ năm 2005 là 168.000 ôtô các loại/ năm).

Trong 8 tháng đầu năm 2002 số lượng ô tô các loại được lắp ráp là 17.208

chiếc, trong đó khu vực ĐTNN đóng góp 16.440 chiếc. So với công suất thiết

kế công suất khai thác của các liên doanh này thời gian qua chưa đạt tới 5% và

chỉ chiếm 20-25% thị phần tiêu thụ trong nước. (Báo Đầu tư ra ngày

26/8/2002)

Những dự án đã đầu tư hoàn chỉnh và đang sản xuất ổn định là công ty ôtô

Toyota Việt Nam (liên doanh với Nhật Bản), Công ty ôtô Mekong (liên doanh

với Hàn Quốc), liên doanh ôtô Ngôi Sao (liên doanh với Mitshubisi, Nhật Bản)

và liên doanh ôtô Hoà Bình (Philippines). Các liên doanh khác cũng đã thực

hiện đầu tư trên 70% vốn đăng ký.

Theo đánh giá của một số chuyên gia thì các liên doanh ôtô nếu sản xuất

và tiêu thụ được từ 1.400 xe một năm trở lên là có lãi. Tuy nhiên, hoạt động sản

xuất kinh doanh của các liên doanh lại khác nhau:

(cid:31) Toyota Việt Nam đi vào sản xuất năm 1996 được 222 chiếc, năm

1997 được 1.362 chiếc, năm 1998 sản xuất và tiêu thụ được khoảng 2.000 xe,

lãi trên dưới 7 tr.USD, và ước tính năm 2003 sẽ đạt được doanh số bán 9300 xe

ô tô các loại, chiếm 28% thị phần ô tô Việt Nam, đây là một trong rất ít liên

doanh hoạt động có lãi. Còn lại các liên doanh khác đều trong tình trạng bị thua

lỗ do huy động công suất thấp xa so với công suất thiết kế.

(cid:31) Xí nghiệp liên doanh ôtô Hoà Bình từ khi đi vào sản xuất đến năm

1997 đều kinh doanh có lãi (khoảng 7 tr.USD), mấy năm gần đây do lượng xe

tiêu thu giảm nên bị thua lỗ (Riêng năm 1998 tiêu thụ được xấp xỉ 1.000 xe,

gần đạt được điểm hoà vốn - 1.400 xe/ năm).

39

(cid:31) Công ty Mekong có 2 cơ sở lắp ráp: Nhà máy Cửu Long tại TP.Hồ

Chí Minh lắp ráp xe Mêkong và xe FIAT, sản lượng cầm chừng hàng năm là

500 xe. Nhà máy Cổ Loa lắp ráp xe tải xe buýt không tiêu thụ được vì không

phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của Việt Nam, phải đóng cửa từ cuối năm 1998,

cho thôi việc 250 công nhân. Tổng lỗ của Mekông đến nay khoảng trên 9,8

tr.USD và đã tạm ngừng sản xuất.

(cid:31) Các liên doanh khác như VINASTAR, MERCEDES-BENZ Việt

Nam, ISUZU ViệtNam, HINO Việt Nam, VIDACO, VIDAMCO đều kinh

doanh thua lỗ.

(cid:31) Hãng MERCEDES-BENZ đã thông báo tạm ngừng đầu tư tại khu

vực Đông Á; đối tác Việt Nam trong Công ty liên doanh ôtô Việt Nam -

Daewoo xin chuyển nhượng toàn bộ cổ phần cho phía nước ngoài vì không

chịu nổi lỗ quá lớn.

Quy mô sản xuất và tiêu thụ được một sản lượng xe ở mức phù hợp là yếu tố

quyết định hiệu quả kinh tế đối với công nghiệp ôtô. Nhưng điều này dường

như khó có thể thực hiện trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Gần như trong

cùng một thời điểm có quá nhiều dự án lắp ráp ôtô đi vào hoạt động với công

suất thiết kế các nhà máy dựa trên dự báo không chuẩn xác trong khi dung

lượng thị trường Việt Nam rất nhỏ bé và phát triển chậm. Thực tế, mức tiêu thụ

bình quân khoảng 22.000 -23.000 ôtô các loại, nhưng thị phần của các liên

doanh ôtô chỉ chiếm khoảng 25,7% còn lại 74,3% là thị phần cho xe nhập khẩu

nguyên chiếc (trong đó có khoảng 10.000 xe đã qua sử dụng với giá thành rất

thấp). Mặt khác, do vừa mới đầu tư với số vốn lớn, tỷ lệ khấu hao cao trong khi

công suất phát huy chỉ ở mức thấp (dưới 5%), sản lượng tiêu thụ không đáng kể

nên giá thành cuả các liên doanh cao hơn so với giá xe nhập khẩu. Mặc dù hy

vọng có thể có sự tăng trưởng trong tương lai nhưng con số tiêu thụ cũng chỉ có

thể đạt tới 45.000 xe/ năm vào 0năm 2003.

Chúng ta đã có chính sách hạn chế và cấm nhập khẩu xe nguyên chiếc để

40

dành thị trường nội địa cho các doanh nghiệp lắp ráp ôtô. Tuy nhiên, chính sách

này đã chưa được thực thi hiệu quả.

Số lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc nhiều gấp ba lần xe sản xuất trong

nước tiêu thụ được. Điều này đang đe doạ sự phát triển của các liên doanh ôtô

đã được thành lập cũng như các nhà sản xuất phụ tùng xe.

Sự có mặt của hầu hết các hãng sản xuất ôtô nổi tiếng thế giới tại Việt

Nam đã biến thị trường nội địa nước ta thành một thị trường ôtô thế giới thu

nhỏ với quy mô sản xuất và tiêu thụ đang còn qua nhỏ bé so với các trung tâm

ôtô Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản. Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp ôtô

trên thị trường nội địa của nước ta là điều dễ hiểu và đây sẽ là động lực thúc

đẩy ngành công nghiệp ôtô của nước ta phát triển.

2.1.2 Lĩnh vực sản xuất, lắp ráp xe gắn máy

Hiện nay đã có khoảng 5 dự án sản xuất, lắp ráp xe máy được cấp Giấy phép

đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký khoảng 377 tr.USD, vốn thực hiện 234

tr.USD, năng lực sản xuất, lắp ráp là 1.500.000 xe/ năm với hơn 10 kiểu loại xe

khác nhau, trong đó có một công ty 100% vốn nước ngoài của Đài Loan

(VMEP), 4 công ty liên doanh với Nhật Bản, Thái Lan, Lào. Tới nay 3 doanh

nghiệp là Honda Việt Nam, liên doanh lắp ráp xe máy Hưng Yên và VMEP đã

thực hiện đầu tư 150 tr.USD (không kể dây chuyền lắp ráp xe máy của SUZUKI

đã tính cho phần vốn và thực hiện thuộc Liên doanh lắp ráp ôtô VISUCO). Tổng

doanh thu của 3 doanh nghiệp đạt 392 tr.USD và tạo việc làm cho 2.745 lao

động.

Nhìn chung, các dự án lĩnh vực xe máy triển khai tốt, hoạt động của các

doanh nghiệp FDI lắp ráp xe máy đều có lãi, mặc dù có sự cạnh tranh với các

doanh nghiệp lắp ráp 100% vốn trong nước. Sản lượng tiêu thụ xe máy tăng dần:

Năm 1998 tiêu thụ 193.026 xe, năm 1999 tiêu thụ 199.282 xe, năm 2000 tiêu thụ

291.510 xe. Hàng năm, tổng doanh thu đạt từ 390 tr.USD đến 480 tr.USD, nộp

Ngân sách gần 100 tr.USD; tổng số lãi gần 30 tr.USD. Chỉ tính riêng năm 1999,

41

Honda Việt Nam lãi 12, 62 tr.USD và đến nay đã sử dụng 18.000 lao động,

SUZUKI Việt Nam lãi về lắp ráp xe máy 4,8 tr.USD, VMEP lãi 876.590 USD

chỉ có GMN lỗ 100.000 USD nhưng không đáng kể so với số lãi mà Công ty thu

được hai năm trước đó (hơn 4,2 tr.USD).

Chương trình thực hiện nội địa hoá của các doanh nghiệp FDI lắp ráp ôtô,

xe máy đều được quy định trong Giấy phép đầu tư, trong đó năm sản xuất đầu

tiên khoảng 10 - 15% IKD và nâng dần lên từ năm thứ 5 trở đi. Các công ty đã

có nhiều cố gắng thực hiện nội điạ hoá sản phẩm, nhìn chung đạt và vượt yêu

cầu của Giấy phép đầu tư (công ty YAMAHA đạt tỷ lệ nội địa hoá 31,56%,

GMN đạt 31,91%, SUZZUKI đạt 41,63%, HONDA đạt 51,9%, cao nhất là

VMEP đạt từ 61- 63,98% và bắt đầu triển khai sản xuất động cơ tại Việt Nam).

Tuy nhiên, do việc thực hiện nội địa hoá cần đầu tư lớn về vốn, nhà xưởng

thiết bị, công nghệ, trong khi đó số sản phẩm tiêu thụ còn hạn chế (mới đạt gần

20% công suất thiết kế) nên ảnh hưởng lớn đến kế hoạch sản xuất, giá thành sản

phẩm của doanh nghiệp. Mặt khác, thuế nhập khẩu các linh kiện phụ tùng chi

tiết cũng còn có nhiều mâu thuẫn và chưa phù hợp với từng chủng loại để có thể

vừa giúp các doanh nghiệp hạ giá thành lắp ráp hiện nay nhưng cũng khuyến

khích buộc các nhà đầu tư phải tìm nguồn cung cấp chi tiết phụ tùng từ các nhà

sản xuất nội địa, trong đó chủ yếu là từ các doanh nghiệp FDI sản xuất phụ tùng,

linh kiện ôtô xe máy.

2.1.3 Sản xuất phụ tùng, linh kiện ôtô- xe máy

Hiện có 37 doanh nghiệp cơ khí đang hoạt động trong lĩnh vực này, chưa kể

các doanh nghiệp sản xuất săm lốp và ắc quy. Về hình thức đầu tư: có 2 Hợp

đồng hợp tác kinh doanh, 9 liên doanh và 26 doanh nghiệp 100% vốn nước

ngoài. Hầu hết các doanh nghiệp này là những doanh nghiệp nhỏ, di chuyển từ

Nhật Bản và Đài Loan theo các hãng lắp ráp ôtô lớn sang Việt Nam. Phần lớn

các sản phẩm của các doanh nghiệp này là các chi tiết linh kiện sản xuất với kỹ

thuật công nghệ đơn giản: giảm xóc, đồng hồ báo tốc báo xăng, đèn, dây và chi

42

tiết điện, nội thất (ghế, đệm ôtô) và một số chi tiết nhựa. Chưa có doanh nghiệp

sản xuất các bộ phận chính, quan trọng đòi hỏi công nghệ kỹ thuật cao như máy

động lực cho ôtô, xe máy, thân xe...Tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 200 tr.USD,

đã thực hiện đầu tư 80 tr.USD, doanh thu chỉ mới đạt 33,5 tr.USD, có gần 3.000

lao động đang làm việc (tương đương số lao động của 14 liên doanh lắp ráp ôtô

và nhiều hơn số lao động đang làm việc trong 5 doanh nghiệp lắp ráp xe máy).

Do các liên doanh ôtô thua lỗ nên các xí nghiệp cũng bị ảnh hưởng, nhiều xí

nghiệp cũng đang bị thua lỗ và đang giảm lao động.

Thu hút đầu tư vào lĩnh vực sản xuất phụ tùng ôtô xe máy không hạn chế về

số lượng, hình thức đầu tư nhưng các nhà đầu tư nước ngoài đang quan tâm tới

tình hoạt động của chính các doanh nghiệp lắp ráp ôtô xe máy đã đầu tư và các

chính sách điều tiết vĩ mô nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp này phát triển.

Việt Nam còn thiếu các nhà cung cấp phụ tùng, nguyên vật liệu và có rất ít

các nhà cung cấp này đáp ứng được các tiêu chuẩn của các nhà sản xuất ôtô

hiện đang có mặt tại Việt Nam. Để Việt Nam có thể phát triển ngành công

nghiệp ôtô, có thể đuổi kịp các hãng sản xuất phụ tùng nước ngoài và hình

thành các nhà sản xuất phụ tùng trong nước. Tuy nhiên, với môi trường đầu tư

hiện nay ở nước ta không dễ dàng gì thu hút các nhà sản xuất phụ tùng nước

ngoài quyết định đầu tư vào Việt Nam.

2.2 Ngành Điện tử - Tin học

Cho đến nay, đã có hơn 58 dự án được cấp Giấy phép đầu tư, với tổng vốn

đầu tư đăng ký 798,78 tr.USD, vốn pháp định 297,5 tr.USD. Hầu hết các dự án

tập trung vào các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Đồng Nai, TP.Hồ Chí Minh

và một số thành phố khác. năm 1995 năm đạt cao nhất về số dự án được cấp

Giấy phép (14 dự án) cũng như về vốn đầu tư (278 tr.USD) .

2.2.1 Lĩnh vực sản xuất hàng Điện tử

Nếu phân chia ngành công nghiệp thành 19 chuyên ngành nhỏ như trên đã

43

nêu thì công nghiệp Điện tử đứng thứ 8 vể vốn đăng ký nhưng xếp thứ hai về

doanh thu và thứ hai về kim ngạch xuất khẩu (tổng doanh thu luỹ kế là 1.549 tr.

USD trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 954,4 tr.USD). Trong 22 doanh nghiệp

đang hoạt động, có 17 liên doanh và 5 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

Các doanh nghiệp này đã tạo được năng lực sản xuất lắp ráp hàng điện tử các

loại như sau: Tivi màu các loại: 2,0 tr. chiếc/ năm ; Tivi đen trắng 160.000

chiếc /năm; Radio, cassette các loại: 700.000 chiếc/năm; Đèn hình: 1,6 tr.

chiếc/ năm; Linh kiện điện tử các loại 804 đơn vị sản phẩm/ năm.

Nhìn chung, các dự án FDI vào lĩnh vực Điện tử được triển khai nhanh, đúng

tiến độ cam kết, qui mô của các dự án rất lớn, bình quân trên 27 tr.USD/ dự án.

đối tác của Việt Nam trong các liên doanh phần lớn là doanh nghiệp Nhà nước

(chiếm 94% dự án và 96% tổng vốn đầu tư), đối tác nước ngoài là các tập đoàn,

các Công ty lớn có tiếng trên thế giới về Điện - điện tử như MISUBISHI,

SONY, TOSHIBA, JVC, SAMSUNG, LG, PHILIP, FUJIITSU, DAEWOO... có

tiềm lực về tài chính, công nghệ cũng như uy tín lâu năm trong kinh doanh.

Bảng 7: Phân loại dự án theo vốn đầu tư (tính đến cuối năm 2001)

Mức vốn (tr. USD) Số dự án Tỷ lệ phần trăm (%)

Vốn < 5 7 31,8

Vốn từ 5 - 10 5 22,7

Vốn >10 10 45,5

Tổng vốn 22 100,0

(Nguồn: Vụ QLDA- Bộ KH&ĐT)

Bảng số liệu cho thấy, chủ yếu là các dự án có quy mô lớn (có vốn đầu tư

trên 10 tr.USD) chiếm 45,7% số dự án. Các dự án có vốn đầu tư dưới 5 tr.USD

tuy chiếm tới 31,8% số dự án song thực tế chỉ chiếm xấp xỉ 1,16% tổng vốn

đầu tư, còn lại là các dự án có quy mô vốn trung bình từ 5-10 tr.USD (22,7% số

dự án). Trong đó những dự án lớn, đáng chú ý là:

44

-Công ty máy tính Fujitsu Việt Nam tại Đồng Nai, 100% vốn đầu tư của

Nhật Bản với 198,8 tr.USD và vốn pháp định 77,9 tr.USD. Tuy mới thực hiện

đầu tư 17,5 tr.USD nhưng tổng doanh thu của Công ty đã đạt hơn 655 tr.USD

và sản phẩm hoàn toàn cho xuất khẩu, nộp Ngân sách chưa đáng kể nhưng

Công ty đã tạo 1.667chỗ làm việc cho người lao động. Đây là một doanh

nghiệp hoạt động có lợi nhuận và hiệu quả.

-Công ty đèn hình ORION-HANEL tại Hà Nội, một liên doanh với Hàn

Quốc, có vốn đăng ký 178,58 tr.USD, vốn pháp định 51,17 tr.USD trong đó

phía Việt Nam góp 30%. Công ty đã góp xong vốn pháp định, đã thực hiện đầu

tư 166,4 tr.USD đạt doanh thu 217 tr.USD, trong đó xuất khẩu 165,5 tr.USD, đã

nộp Ngân sách gần 12 tr.USD và thu hút 1.346 lao động.

- Công ty điện tử DAEWOO - HANEL tại Hà Nội, vốn đăng ký 52 tr.USD

nhưng đã thực hiện đầu tư 67 tr.USD, trong đó vốn pháp định 14 tr.USD và

phía Việt Nam đã góp 30%. Doanh thu của liên doanh đạt 90 tr.USD trong đó

xuất khẩu đạt 24,5 tr.USD.

- Hai công ty khác có vốn đầu tư tương đối lớn là Công ty điện tử

SAMSUNG VINA, một liên doanh tại TP.Hồ Chí Minh với vốn đầu tư 36,5

tr.USD và Công ty linh kiện điện tử DAEWOO Việt Nam tại Bình Dương với

21,6 tr.USD.

Cho đến nay, hai doanh nghiệp có vốn đầu tư đăng ký lớn nhất vẫn là Công ty

đèn hình OWENHARAL với 178 tr.USD và Công ty sản phẩm máy hình

FUJITSU Việt Nam 198 tr.USD.

Một đặc trưng quan trọng của các dự án FDI trong lĩnh vực điện tử là các sản

phẩm sản xuất ra chủ yếu dùng để xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, điều

này phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế của nước ta. Thực tế cho thấy,

lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực điện tử ngày càng gia tăng thể hiện qua biểu sau:

45

Bảng 8: Tốc độ tăng vốn đầu tư qua các năm.

Năm

Vốn đầu tư (Tr.USD) Tốc độ tăng vốn cố định (%) Tốc độ tăng vốn liên hoàn (%)

1992 8,00 100 100

1993 18,3 225,3 225,3

1994 180,0 2.250 983,6

1995 93,9 1.174 52,2

1996 265,8 3.322,5 283

1997 16,5 206,3 6,2

1998 10,0 125 60,6

(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)

Trong số 22 dự án đang hoạt động, Hàn Quốc đứng đầu về số dự án (7 dự án),

sau đó là Nhật Bản (5 dự án ), Hồng Kông (4dự án), Đài Loan (2 dự án)... Các

nhà đầu tư Hàn Quốc nhanh chân hơn các Công ty điện tử mạnh của Nhật Bản

và của các nước khác, sản phẩm chủ yếu nhằm vào thị trường nội địa. Các công

ty điện tử Nhật Bản tuy chậm chân hơn song đã đưa vào công nghệ hiện đại hơn

và sản phẩm lắp ráp có hướng tới xuất khẩu. Ngoài công ty máy tính Fugitsu,

Công ty Sony Việt Nam liên doanh với Sony Nhật Bản hoạt động cũng hiệu quả.

Vốn đầu tư của Sony Việt Nam chỉ có 16,6 tr.USD nhưng doanh thu đạt tới

132,6 tr.USD và nộp Ngân sách gần 12,5 tr.USD. Đặc biệt, Nhật bản đã đầu tư

một dự án sản xuất các thiết bị điều khiển tự động (Công ty RozeRobotech) tại

Khu công nghiệp Nomura Hải Phòng với vốn đầu tư 46 tr. USD, vốn pháp định

25,5 tr.USD và đã bắt đầu hoạt động có doanh thu.

Ngoài các công ty hàng đầu của Hàn Quốc và Nhật Bản, lĩnh vực đầu tư

sản xuất hàng điện tử ở nuớc ta còn có các nhà đầu tư từ Singapore, Hồng

Kông, Đài Loan, Malaysia. Những nước EU có rất ít dự án đầu tư trong lĩnh

vực này. Hoa Kỳ mới có một dự án sản xuất lắp ráp thiết bị điện tử và viễn

thông tại Tp.Hồ Chí Minh với vốn đầu tư 25 tr.USD nhưng chỉ mới triển khai,

46

chưa có doanh thu.

Tóm lại, hơn 14 năm thực hiện, sản lượng điện tử gia dụng của khu vực

này chiếm khoảng 75% sản lượng toàn ngành, trong đó ti vi chiếm khoảng

48%, riêng máy thu băng, video hoàn toàn do các doanh nghiệp FDI sản xuất.

Các dự án thuộc lĩnh vực này triển khai thực hiện đầu tư theo đúng tiến độ cam

kết, có kinh nhiệm và uy tín với thị trường nội địa. Đối tác nước ngoài là những

tập đoàn mạnh hàng đầu thế giới, có uy tín, năng lực tài chính và có thị trường

và có thị trường đáng kể trên thị trường khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp

100% vốn nước ngoài tại KCN và KCX dễ có điều kiện gia công sản phẩm cho

công ty mẹ như Công ty Fujitsu Việt Nam. Các dự án có quy mô vốn rất lớn,

sản xuất chủ yếu sản phẩm xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu phù hợp với chủ

trương phát triển kinh tế của đất nước. Tốc độ tăng vốn đầu tư FDI vào lĩnh

vực điện tử cũng tăng nhanh và cao, bình quân khoảng 298,25%. Ngoài ra, tỷ lệ

thực hiện vốn đầu tư đạt trên 50%, ghi nhận một nỗ lực rất lớn của bên nước

ngoài và bên Việt nam, cũng như sự tạo điều kiện hết sức thuận lợi của các cấp

thẩm quyền ở các địa phương nơi có dự án tiến hành hoạt động đầu tư và kinh

doanh sản xuất.

2.2.2 Lĩnh vực Tin học

Có 31 dự án đang hoạt động trong lĩnh vực Tin học (hai Hợp đồng hợp tác

kinh, 3 liên doanh và 26 doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài) với tổng

vốn đầu tư 45,95 tr.USD, thực hiện gần 5 tr.USD và doanh thu khoảng 4,5

tr.USD. Đây là những dự án nhỏ, có vốn đầu tư dưới 5 tr.USD (dự án cao nhất

là 4,5 tr.USD, dự án nhỏ nhất 190.000 USD) và chủ yếu làm dịch vụ phát triển

phần mềm cho các hãng lớn của Hoa Kỳ, Singapore, Hồng Kông và một số

nước khác. Tuy có quy mô vốn đầu tư nhỏ nhưng các dự án Tin học của khu

vực này cũng chiếm tới 90% năng lực toàn ngành.

2.3 Ngành sản xuất sắt thép

Hiện có 15 dự án (1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh, 11 liên doanh và 3 doanh

47

nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài) đầu tư vào sản xuất sắt thép nguyên liệu

các loại với tổng vốn đầu tư đăng ký 303 tr.USD, vốn pháp định là 120,15

tr.USD. Phần lớn các dự án trong số này đầu tư vào công đoạn nấu kéo ống

thép từ phôi và sắt phế liệu. Chưa có dự án đầu tư vào tinh luyện quặng ban đầu

để sản xuất phôi. Tổng vốn đầu tư thực hiện của lĩnh vực sản xuất sắt thép là

252 tr.USD và vốn pháp định thực hiện là 110 tr.USD. Tỷ lệ vốn đầu tư thực

hiện trên vốn đăng ký của ngành thép là 83,16% và tỷ lệ vốn pháp định là

91,55%. Đây là một tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư cao so với thực hiện ở những

khu vực khác. Doanh thu ngành thép đạt 440 tr.USD, gấp 1,75 lần vốn đầu tư

thực hiện và tạo được 1.209 chỗ làm việc cho người lao động.

Trước những năm 1990, thép xây dựng và các loại thép khác đều phụ thuộc

vào nhập khẩu. Nhưng từ năm 1991 tới nay, cùng với việc mở rộng sản lượng

thép của các cơ sở sản xuất trong nước, đầu tư nước ngoài đã tạo ra một năng

lực sản xuất thép 1,3 tr.tấn/ năm (chiếm 65% năng lực sản xuất thép của toàn

ngành), đáp ứng nhu cầu về thép ngày càng tăng, nhất là thép xây dựng. Tuy

nhiên, sản lượng thép sản xuất hàng năm chỉ bằng 50-60% công suất thiết kế

(khoảng hơn 650.000-700.000 tấn).

Bảng 9: Sản lượng thép hàng năm ở các doanh nghiệp FDI

1997 1998 1999 2000 2001

Sản lượng thép (nghìn tấn) 398 653 633 1.014 1.253

39,5 50,8 51,7 64,6 65,9

% / sản lượng thép cả nước

(Nguồn : Vụ Quản lý dự án- Bộ Kế hoạch và Đầu tư )

Hoạt động sản xuất kinh doanh toàn ngành thép bị thua lỗ, nhưng các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có lãi vì đã dự đoán được thị trường giá phôi

thép hạ, có điều kiện hạ giá bán nên tiêu thụ tăng. Mặt khác, Nhà nước vẫn có

một số chính sách bảo hộ đối với một số sản phẩm thép, hạn chế nhập khẩu các

48

loại thép mà sản xuất trong nước đã đáp ứng được nên đã tạo thuận lợi về thị

trường nội địa cho các doanh nghiệp ngành thép. Các doanh nghiệp thép của

nước ta do dự đoán sai xu hướng thị trường nên đã nhập khẩu phôi thép với giá

cao, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được dẫn đến thua lỗ.

Về trình độ công nghệ của khu vực sản xuất sắt thép: Nhìn chung, các doanh

nghiệp FDI sản xuất sắt thép vào nước ta đều có công suất nhỏ so với các nhà

máy thép trong khu vực và trên thế giới, trong đó trình độ công nghệ chỉ mới ở

công đoạn luyện, cán thép dây, thép thanh, ống thép và đạt mức trung bình tiên

tiến . Chỉ có Công ty liên doanh thép VINA KYOEI (liên doanh giữa Việt Nam

với Nhật Bản) có công nghệ hiện đại, vốn đầu tư đã thực hiện lớn gấp 2,07 lần

vốn đăng ký ban đầu (vốn đầu tư đăng ký là 69,59 tr.USD, vốn được thực hiện

là 144,11tr.USD) công suất 240.000 tấn thép/năm, có doanh thu lớn nhất

(266,63 tr.USD) và có sản phẩm xuất khẩu tuy kim ngạch còn thấp. FDI vào

sản xuất sắt thép trong thời gian qua chỉ mới tập trung ở công đoạn nấu cán

thép từ phôi nhập khẩu và sắt phế liệu. Sản phẩm nhằm vào thị trường trong

nước là chính, xuất khẩu rất hạn chế. Nhưng nhìn chung, thu hút FDI vào

ngành thép là có hiệu quả. Toàn ngành đã có một năng lực sản xuất tương đối

lớn đáp ứng được nhu cầu thép xây dựng trong nước đang ngày càng tăng cả về

số lượng và chất lượng cũng như chủng loại. Các liên doanh thép đang hoạt

động không có áp lực chuyển hình thức đầu tư thành doanh nghiệp 100% vốn

nước ngoài.

hìn chung, toàn Ngành công nghiệp nặng đáng chú ý là FDI vào lĩnh vực N

sản xuất lắp ráp ôtô xe máy (hiện FDI chiếm 100% về năng lực sản xuất)

tiếp đến là máy biến thế 250 - 1.000 KVA, Điện tử -Tin học, sản xuất thép...

FDI chiếm 60 -100% năng lực sản xuất.

Ngành công nghiệp nặng đã thu hút hàng ngàn lao động, doanh thu đạt hơn

1,5 tr.USD mỗi năm, đóng góp cho Ngân sách một khoản đáng kể. Riêng lĩnh

vực sản xuất láp ráp ôtô, mỗi năm thu hút hơn 3.056 lao động, doanh thu đạt

49

521 tr.USD, xuất khẩu đạt 13,5 tr.USD và nộp Ngân sách hơn 22 tr.USD, tiếp

đến là lĩnh vực sản xuất lắp ráp xe máy và Điện tử - Tin học...

Bảng 10: Tổng hợp doanh thu của các dự án FDI.

(tính đến 31/12/2001) Đơn vị: Tr. USD

Năm 1991-1996 1997 1998 1999 2000 2001

C N 2078 1862 2570 3026 3565 3057

C N nặng 676 713 1290 1678 2011 1844

32,57 38,30 50,19 55,47 56,42 60,33

CN nặng/Chủ nhiệm (%)

(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)

Bảng 10 cho thấy doanh thu của Ngành công nghiệp nặng rất lớn, chiếm

hơn 50% doanh thu của toàn Ngành công nghiệp và ngày càng tăng nhanh.

Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập đối với ngành công nghiệp nặng nói

riêng và toàn ngành nói chung. Phần lớn các dự án trong lĩnh vực đầu tư chỉ

dừng lại ở công nghệ gia công lắp ráp sản phẩm, còn hầu hết linh kiện vẫn phải

nhập khẩu như trong lĩnh vực ô-tô. Nhà nước chưa có việc tính toán kĩ càng để

đưa ra con số dự báo chuẩn xác về dung lượng thị trường Việt Nam nên gây ra

sự mất cân đối trong cung và cầu như: lĩnh vực ô tô có quá nhiều dự án lắp ráp

đưa vào hoạt động trong cùng một thời điểm với công suất thiết kế lớn trong khi

thị trường Việt Nam rất nhỏ và phát triển chậm; hay ngành thép nhập khẩu phôi

thép với giá cao nhưng sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được dẫn đến tình

trạng thua lỗ của các doanh nghiệp.

Vấn đề thời sự hiện nay là vẫn phải có những biện pháp, chính sách cụ thể

hơn cho từng lĩnh vực để giúp các doanh nghiệp định hướng được hoạt động

kinh doanh một cách hiệu quả hơn.

3. Ngành công nghiệp nhẹ

50

Tính đến ngày 20/12/2002, có 975 dự án FDI trong ngành công nghiệp nhẹ

đang hoạt động với tổng vốn đăng ký 5.061tr USD, vốn pháp định 2.247tr.

USD và đã thực hiện đầu tư 2.355tr USD. Tỷ lệ so với toàn ngành như sau:

44,54% số dự án và 26,8% tổng vốn đầu tư.

Bảng 11: Tình hình FDI vào các lĩnh vực công nghiệp nhẹ

(tính đến tháng 12/ 2001)

Tổng VĐK Doanh thu Kim ngạch XK Số LĐ

Số dự án (tỷ USD) (tr. USD) (tr. USD) (người)

Ngành Dệt may 184 1,85 671,5 60.000

Ngành Da-Giầy 94 601,75 1.070,3 967,94 67.144

Các lĩnh vực 111 350 212,6 162,7 12.000

khác

(Nguồn: Vụ Quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Để phân tích sâu hơn tình hình FDI vào ngành công nghiệp nhẹ, dưới đây

xin trình bày tình hình FDI vào một số lĩnh vực tiêu biểu như sau:

3.1 Ngành Dệt - may

Ngành Dệt -may hiện có 184 dự án với số vốn đăng ký đạt gần 1,85 tỷ

USD, vốn thực hiện đạt 341,09 tr.USD, tổng doanh thu đạt khoảng 1,46 tỷ

USD, tạo việc làm cho gần 50.000 lao động trực tiếp và hàng ngàn lao động

gián tiếp khác. Nhìn chung toàn ngành công nghiệp, Dệt-may có tổng doanh

thu đứng thứ năm (sau Điện tử- Tin học, Cơ khí, Da-giầy, Rượu- Bia- Nước

giải khát các loại); kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 671,5 tr.USD, đứng thứ 3 (sau

Da-giầy, Điện tử-Tin học) và chiếm tỉ trọng 19,4% xuất khẩu của khu vực FDI.

Về nộp Ngân sách, Dệt-may xếp ở vị trí thứ 5 nhưng về thu hút lao động xếp

thứ 2 (sau Da-giầy) chiếm tỷ trọng 23,8% lao động của cả khu vực.

51

Có thể phân ngành Dệt-may thành 4 nhóm nhỏ: nhóm Sợi-Dệt-Nhuộm;

nhóm May mặc; nhóm phụ liệu và sản phẩm dệt khác. Trong đó gần 85% vốn

đầu tư tập trung ở các dự án sản xuất liên hợp sợi-dệt-nhuộm-may, hai phân

ngành còn lại chiếm tỷ trọng 15% và chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ. Tỷ lệ

vốn thực hiện của các dự án nhỏ khá cao, trên 66,7% nhưng về số vốn tuyệt đối

chỉ chiếm 20,8%. Trong các phân nhóm thì May mặc thu hút lao động nhiều

nhất tới 30.422 người (67,4%) và cũng đạt kim ngạch xuất khẩu khá: 321,8

tr.USD (47,9%) tương đương kim ngạch xuất khẩu của nhóm sợi -dệt-nhuộm.

Các doanh nghiệp nhỏ của ngành Dệt -may chỉ thực hiện đầu tư 132 tr.USD,

nhưng triển khai sớm, nhanh chóng đi vào họat động sản xuất kinh doanh, tạo

việc làm cho hơn 28.036 người lao động, doanh thu đạt 291 tr.USD và xuất

khẩu đạt 277,3 tr.USD. Rõ ràng, những doanh nghiệp nhỏ này đã góp phần

không nhỏ trong việc giải quyết việc làm và tăng kim ngạch xuất khẩu cho đất

nước.

Ngành công nghiệp Dệt-may là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động,

đầu tư thấp, triển khai nhanh và thích hợp với những nước đang phát triển như

nước ta. Việc thu hút vốn FDI vào ngành này không những góp phần tăng năng

lực sản xuất mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu tới EU, Mỹ, Nhật Bản và

một số thị trường phi hạn ngạch khác. Nhìn chung các dự án trong lĩnh vực Dệt

-may triển khai tốt, công nghệ đồng bộ từ khâu sản xuất Sợi đến khâu in,

nhuộm, hoàn tất sản phẩm; máy móc thiết bị đạt trình độ công nghệ trung bình

trong khu vực, một số tuy đã qua sử dụng song vẫn còn hiệu quả tốt, chất lưọng

sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Công nghệ may tiên tiến, đồng bộ từ khâu

tạo mẫu mã sản phẩm đến khâu hoàn tất sản phẩm, có nhiều sản phẩm may đạt

tiêu chuẩn quốc tế như: áo lót phụ nữ, áo Jacket, áo Comple, đồ bơi...Nhìn

chung, các dự án trong lĩnh vực này có phương pháp quản lý tiên tiến, phát huy

được năng lực sản xuất nên thời gian thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa, các doanh

nghiệp cũng có chính sách đào tạo tương đối tốt nên đội ngũ lao động trưởng

52

thành nhanh chóng, tiếp thu tốt công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến.

3.2 Ngành Da-Giầy

Chế biến da và sản xuất giầy dép của Việt Nam trở thành một trong những

ngành công nghiệp chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ sau

những năm 1985 khi hàng loạt xí nghiệp ra đời thực hiện những hợp đồng gia

công may mũ, giầy và sản xuất một số loại giầy thể thao, giầy bảo hộ lao động

cho Liên Xô và các nước Đông Âu. Khi khối này tan rã, thiếu đơn đặt hàng;

ngành Da-Giầy mới hình thành đã rơi vào tình trạng khó khăn do năng lực sản

xuất không đồng bộ, sản phẩm chủ yếu là bán thành phẩm (mũ, giầy), nguyên

liệu và mẫu mã phụ thuộc hoàn toàn vào đơn đặt hàng của nước ngoài và cung

không còn nữa. Tuy nhiên, đây là ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng

sử dụng nhiều lao động và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Nhà nước

ta đã tạo cơ hội cho ngành Da -Giầy tiếp nhận làn sóng di chuyển các xí nghiệp

sản xuất giầy dép xuất khẩu của Đài Loan, Hàn Quốc, Hong Kong và một số

nước khác sang nước ta vào đầu những năm của thập kỷ 90.

Cho đến nay, có 94 dự án FDI vào ngành Da-Giầy đang hoạt động với

tổng vốn đăng ký 601,75 tr.USD, vốn pháp định 272,51 tr.USD và đã thực hiện

341,09 tr.USD chiếm 56,68% so với vốn đăng ký, đây là tỷ lệ thực hiện đầu tư

cao. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp đạt 1.070,3 tr.USD, trong đó xuất

khẩu hơn 90% (967,94 tr.USD) và đã thu hút tới 67.144 lao động. Ngành Da-

Giầy hiện đứng đầu tất cả các ngành về tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu

(chiếm 27,9% tỷ trọng xuất khẩu của toàn bộ công nghiệp FDI) và cũng đứng

đầu về tạo việc làm cho người lao động (chiếm 35,3% tỷ trọng về lao động).

Phần lớn các dự án Da-Giầy có quy mô đầu tư nhỏ, dưới 5tr. USD (chiếm

tới 77,65% số dự án của ngành Da-Giầy). Dự án có vốn đầu tư lớn không nhiều.

Cụ thể theo mức vốn đầu tư như sau:

Bảng 12: Tình hình FDI vào ngành Da - Giầy

53

Loại quy mô Số dự án Vốn ĐTĐK Vốn ĐTTH Doanh thu

(tr.USD) (tr.USD) (tr.USD) (tr.USD)

Trên 100 1 120,26 86,13 20,01

40-100 2 115,05 87,35 367,89

10-40 10 181,93 81,51 270,76

5-10 8 53,3 12,39 144,68

Dưới 5 73 131,21 73,71 266,96

(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)

Đặc biệt có một số dự án lớn như sau:

D.a.1 Công ty TNHH cổ phần PouYuen Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh,

100% vốn của Hông Kong, sản xuất giầy thể thao, Giầy dép du lịch, khuôn,

phụ liệu giầy và bao bì. Vốn đăng ký của doanh nghiệp là 120,26 tr.USD, vốn

pháp định 36 tr.USD. Tới nay Công ty đã thực hiện đầu tư 86,1 tr.USD, trong

đó đã thực hiện xong phần vốn góp. Tổng doanh thu của công ty là 20 tr.USD

trong đó doanh thu xuất khẩu gần 19 tr.USD, có 7.079 người làm việc.

D.a.2 Công ty Hưng Nghiệp cổ phần TNHH Pouchen Việt Nam tại Đồng

Nai, cũng 100% vốn HongKong, sản xuất kinh doanh giầy thể thao, cấu kiện

giầy, phụ liệu giầy cho xuất khẩu. Vốn đầu tư dăng ký là 74 tr.USD, vốn pháp

định 36 tr.USD. Công ty đã thực hiện đầu tư 44,2 tr.USD và cũng đã xong phần

vốn góp, tổng doanh thu đạt hơn 85 tr.USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu hơn

84 tr. USD và tạo việc làm cho 9.095 người lao động. Hiện nay, Công ty đang

xin chuyển thành xí nghiệp chế xuất 100% và xin được hưởng mọi quy chế ưu

đãi như đối với Khu chế xuất.

D.a.3 Công ty TNHH TaeKwangViNa, tại Đồng Nai. Đây là doanh nghiệp

100% vốn Hàn Quốc, với vốn đầu tư là 41tr.USD, vốn pháp định 12 tr.USD,

sản xuất giầy thể thao xuất khẩu và phụ liệu giầy. Tới nay, doanh nghiệp đã

thực hiện đầu tư 43tr.USD, doanh thu đạt 282,5 tr.USD, trong đó xuất khẩu

54

279,5 tr.USD (gần gấp 7 lần vốn đầu tư) và thu hút 8.790 người lao động.

Một số dự án có quy mô vừa như Công ty giầy Đồng Nai-Việt Vinh (vốn

đầu tư là 34 tr.USD); Công ty giầy Samyang Việt Nam (vốn đầu tư 30,5

tr.USD); Công ty ChangShin Việt Nam sản xuất giầy thể thao (vốn đầu tư 25

tr.USD) đều có doanh thu và kim ngạch xuất khẩu cao.

Tới nay hầu hết các hãng lớn nhất, nổi tiếng nhất thế giới như: Nike,

Adidas, Bata, Reebox, Fila... đã đầu tư vào Việt Nam. Sản phẩm của khối đầu

tư nước ngoài này thường là cao cấp. Vì vậy sản phẩm của các cơ sở thuộc

thành phần kinh tế khác của nước ta còn kém sản phẩm của họ về chất lượng,

chủng loại cũng như mẫu mã.

Khác với những ngành khác, sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn FDI

thường cạnh tranh với các sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước, các sản

phẩm da giầy của khu vực FDI hầu như không cạnh tranh với các sản phẩm sản

xuất tiêu thụ trong nước, không gây ứ đọng. Thiết bị, công nghệ đầu tư vào Việt

Nam của các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực Da- Giầy đều thuộc loại trình độ

trung bình và hiện đại, công nghệ phần lớn thuộc loại tiên tiến.

Ngành Da-Giầy sử dụng rất nhiều lao động, lao động cho ngành này đào

tạo nhanh nhưng yêu cầu kỹ luật cao. Người lao động làm việc trong các doanh

nghiệp có vốn FDI thường là từ nông thôn, số lượng dân gốc thành thị ít hơn vì

chế độ làm việc rất vất vả, thường phải làm thêm giờ, lương tháng thuộc loại

trung bình và thấp. Bên cạnh đó các doanh nghiệp này thường thực hiện biện

pháp quản lý rất nghiêm ngặt, cấp dưới phục tùng tuyệt đối lệnh của cấp trên,

trách nhiệm của từng cấp được quy định rõ ràng và phải chịu hoàn toàn trách

nhiệm trong lĩnh vực mình phụ trách. Công nhân trước khi đào tạo tay nghề

được học cách ăn, cách giao tiếp, cách đi lại và biết cách sử dụng đúng những

dụng cụ sinh hoạt trong và ngoài xí nghiệp. FDI vào ngành Da-Giầy đã giải

quyết rất nhiều việc làm cho người lao động, đóng góp đáng kể vào Ngân sách

nhà nước, đưa vào Việt Nam máy móc thiết bị tiên tiến cùng với phương thức

55

quản lý nghiêm ngặt và hiệu quả. Tuy nhiên, công nghệ sử dụng chủ yếu vẫn ở

mức trung bình, công nhân liên tục phaỉ làm thêm giờ, sức lao động bị tận dụng

quá mức. Một số doanh nghiệp chưa bảo đảm điều kiện làm việc cho người lao

động, lương của người lao động quá thấp và thường sử dụng số lao động di

chuyển từ nông thôn lên thành phố và các Khu công nghiệp để tìm việc làm.

Cũng như các ngành sản xuất khác, ngành Da-Giầy cũng bị ảnh hưởng bởi

cuộc khủng hoảng kinh tế: nhu cầu tiêu dùng giảm, sức mua hạn chế, gây ứ

đọng, các đơn hàng xuất khẩu bị cắt giảm và đã có một số doanh nghiệp thu

hẹp sản xuất, sa thải công nhân. Khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã làm

cho bản tệ mất giá và làm cho lợi thế so sánh giá nhân công rẻ, chi phí sản xuất

thấp tại nước ta không còn là yếu tố cạnh tranh so với ngay cả nước chính quốc

đã có đầu tư tại Việt Nam. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm giảm FDI

vào ngành Da- Giầy trong mấy năm gần đây và cả trong một vài năm tới.

Không giống ngành Dệt-may, ngành Da-Giầy không có hiện tượng và

cũng không có áp lực chuyển đổi hình thức đầu tư từ liên doanh sang doanh

nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc ngược lại.

3.3 FDI vào lĩnh vực sản xuất hàng công nghiệp nhẹ khác

Lĩnh vực sản xuất hàng công nghiệp nhẹ khác bao gồm các dự án sản xuất

hàng công nghiệp nhẹ thủ công mỹ nghệ, đồ gia dụng (bao gồm đồ gỗ, trang trí

nội thất, đồ làm bếp...) đồ chơi, các sản phẩm tiêu dùng phục vụ thể thao, giải

trí, du lịch...Có 111dự án (1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh, 18 liên doanh và 92

doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài). Lĩnh vực này phần lớn là các dự án nhỏ,

chiếm tỷ lệ 10,4% về số dự án so với toàn ngành, nhưng tổng vốn đầu tư của cả

nhóm chỉ chiếm 8,64%.

Tới nay, khu vực công nghiệp này đã thực hiện đầu tư 150,9 tr.USD (đạt

43% vốn đăng ký), doanh thu 212,6 tr.USD, kim ngạch xuất khẩu 162,7

tr.USD, nộp Ngân sách nhà nước gần 2,5 tr.USD, thu hút hơn 12.000 lao động.

Các dự án FDI trong lĩnh vực này đã góp phần làm phong phú và đa dạng các

56

sản phẩm tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Có khá nhiều dự án hoạt động tốt, có

lãi như Xí nghiệp liên doanh mắt kính Sài Gòn- Leningard, Công ty TNHH

Pilot-Tokai Việt Nam (sản xuất bút viết, bật lửa ga), Công ty sản xuất đầu gậy

đánh golf xuất khẩu tại TP.Hồ Chí Minh, Công ty InYen ViNa (sản xuất dụng

cụ về điện)...Cũng có một số lớn doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ do sản xuất

ra số lượng sản phẩm lớn nhưng không có thị trường tiêu thụ sản phẩm dẫn đến

nguồn hàng còn tồn đọng nhiều. Hiện tại, đối với lĩnh vực này, nước ta không

hạn chế trong việc cấp Giấy phép đầu tư và cũng không hạn chế hình thức đầu

ua những con số và phân tích ở trên có thể thấy trong mấy năm gần đây tư. Q

mặc dù FDI vào ngành công nghiệp nói riêng và vào nền kinh tế nước ta

nói chung đang có xu hướng giảm cả về dự án lẫn quy mô vốn đầu tư, nhưng

đối với lĩnh vực công nghiệp nhẹ vẫn là lĩnh vực thu hút được nhiều dự án đầu

tư FDI và là lĩnh vực có hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Các dự án

triển khai đúng tiến độ, hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi, đóng góp cho

Ngân sách nhà nước hàng chục tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao

động, mà trong đó phải kể tới ngành Dệt - may, Da - giầy. ...

Bảng 13: Tình hình FDI vào công nghiệp nhẹ

(tính đến 30/12/2001) Đơn vị:Tr.USD

Năm 1992-1996 1997 1998 1999 2000 2001

Vốn ĐTTH 646,86 435,61 379,63 209,86 186,43 2.068

Nn góp vốn 327,63 268,09 170,34 85,79 73,88 32,62

Vốn PĐTH 388,15 291,37 194,09 102,92 75,87 1.785

Doanh thu 769,05 585,37 790,92 860,57 880,68 896,20

Xuất khẩu 580,24 448,32 568,41 708,30 647,35 573,10

(Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT)

Như vậy so với ngành công nghiệp nặng thì đầu tư trực tiếp nước ngoài vào

ngành công nghiệp nhẹ có những kết quả khả quan hơn, không có nhiều các

57

doanh nghiệp bị thua lỗ. Đó là do đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp nhẹ

không đòi hỏi nguồn vốn quá lớn, hơn nữa lại tận dụng được tối đa nguồn lao

động dồi dào trong nước với trình độ tay nghề không cao, công nghệ và kĩ thuật

không phức tạp, đặc biệt là đối với các lĩnh vực thủ công mỹ nghệ sẽ phát huy

được kĩ nghệ truyền thống của văn hoá đất nước. Việc thúc đẩy thu hút đầu tư

vào ngành công nghiệp nhẹ cũng là một trong những định hướng của nhà nước

ta trong quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.

4. Ngành công nghiệp thực phẩm

Tính đến ngày 20/12/2002, số dự án đang hoạt động trong ngành công

nghiệp thực phẩm là 190 dự án, chiếm 8,68 % số dự án FDI của toàn ngành

công nghiệp; tổng số vốn đăng ký 2.281 tr.USD (chiếm 14,13%); vốn pháp

định 953,6 tr.USD. Tới nay, các doanh nghiệp đã thực hiện đầu tư 1.396

tr.USD, đạt tỷ lệ 57,33% so với vốn đăng ký, đây là tỉ lệ thực hiện cao.

Các lĩnh vực tiêu biểu trong ngành công nghiệp thực phẩm như sau:

4.1 Sản xuất Bia

Mặc dù phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt khá cao nhưng Bia là lĩnh vực hấp

dẫn nhất đối với đầu tư nước ngoài cũng như đầu tư của các địa phương trong

nước. Giống như lĩnh vực ôtô, hiện nay nước ta đã có hầu hết các hãng sản xuất

bia danh tiếng trên thế giới hoạt động. Do chính sách chỉ cho phép đầu tư theo

quy hoạch phát triển của ngành nên ta chỉ cấp Giấy phép cho 13 dự án liên

doanh. Không có chủ trương cấp Giấy phép cho hình thức đầu tư 100% vốn

nước ngoài. Tình hình đầu tư của lĩnh vực này như sau:

Đã có 1 dự án bị rút Giấy phép đầu tư đó là Liên doanh sản xuất bia Tam

Phúc ở Hà Bắc, hai liên doanh báo cáo kinh doanh thua lỗ và đã được chuyển

hình thức đầu tư sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là Công ty Forster‘s

Tiền Giang và Công ty bia Rồng Vàng, còn lại 10 liên doanh đang có Giấy

phép hoạt động. Tổng vốn đầu tư đăng ký của 12 dự án đang được phép hoạt

58

động là 700,8 tr.USD, vốn pháp định là 282 tr.USD, trong đó 10 liên doanh có

vốn đầu tư 597,8 tr.USD, vốn pháp định 232 tr.USD; hai doanh nghiệp 100%

vốn nước ngoài có vốn đầu tư 103 tr.USD, vốn pháp định 50 tr.USD. Tổng

công suất đăng ký của khu vực FDI là 643 tr lít/ năm (chiếm 48% công suất

toàn ngành), nhưng hiện nay chỉ mới huy động khoảng 167 tr.lít/ năm bằng

25% công suất thiết kế và bằng 26% công suất huy động của toàn ngành (sản

lượng bia năm 1999: 148tr.lít chiếm 22,8%; năm 2000: 174,3 tr.lít chiếm 24,0%

sản lượng cả nước).

Mặc dù có sự sôi động trong việc xin cấp phép đầu tư nhưng cho tới nay

chỉ mới có 8/12 dự án thực hiện đầu tư gần 250 tr.USD, doanh thu luỹ kế đạt

756 tr.USD (gấp ba lần vốn đầu tư), xuất khẩu 6,3 tr.USD, nộp Ngân sách

114,8 tr.USD và thu hút 2.344 lao động. Những liên doanh thực hiện đầu tư và

hoạt động nhanh là Nhà máy bia Heineken Việt Nam đã đầu tư 84,3 tr.USD,

doanh thu đạt 537 tr.USD và nộp Ngân sách 74 tr.USD, đứng đầu danh sách

các doanh nghiệp FDI về nộp Ngân sách trong cả nước. Tuy nhiên, Bia

Heineken cũng có báo cáo lỗ, nhưng số lỗ 923.016 USD không đáng kể so với

doanh thu. Hai liên doanh bia với Đan Mạch là Công ty bia Huế và Công ty Bia

Đông Nam Á đều hoạt động tốt, có lãi và có sự hợp tác tốt giữa các bên tham

gia liên doanh. Đặc biệt kinh doanh thua lỗ có Công ty bia Tiền Giang, đối tác

nước ngoài là Công ty Forster’s của Úc, vào hoạt động từ khá sớm, vốn đầu tư

ban đầu là 43 tr.USD, nay đã tăng lên 52 tr.USD, doanh thu đạt 79 tr.USD

nhưng báo cáo tổng lỗ lên tới hơn 14 tr.USD nhưng Công ty vẫn yêu cầu tăng

vốn đầu tư mở rộng sản xuất. Phía Việt Nam tham gia liên doanh bị lỗ, lại

không có vốn để góp tiếp, tỷ lệ tham gia trong vốn pháp định bị giảm và đã

phải bán cổ phần của mình cho nước ngoài. Liên doanh chuyển thành doanh

nghiệp 100% vốn nước ngoài. Ngoài Công ty bia Tiền Giang, đối tác nước

ngoài khác tại Đà Nẵng là Công ty TNHH Forster’s Đà Nẵng cũng trong tình

trạng tương tự (lỗ 2,7 tr.USD) và cũng xin chuyển thành doanh nghiệp 100%

vốn nước ngoài. Đây là một trong những chiến lược xâm nhập và thâu tóm thị

59

trường của các Công ty đa quốc gia và hiện tượng này cũng đang dần bộc lộ

trong một số lĩnh vực đầu tư khác.

Về công nghệ: Nhìn chung các dự án sản xuất bia đều có công nghệ tiên

tiến, sản phẩm có chất lượng đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng. Tuy nhiên, thị

trường trong nước bị hạn chế vì phải cạnh tranh quyết liệt với bia của các

doanh nghiệp trong nước, trong khi chưa mở rộng được thị trường xuất khẩu.

Ngoài ra, chi phí về quảng cáo tiếp thị quá lớn cũng là một nguyên nhân gây lỗ

cho các doanh nghiệp FDI.

Thực tế cho thấy, hiện nay năng lực sản xuất bia khoảng 1.225 tr.lít/ năm,

đã bão hoà đối với thị trường nội địa. Mặt khác, các công ty bia nội cũng có bí

quyết công nghệ, chất lượng bia đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng, được người

tiêu dùng đánh giá cao, luôn giữ được thị phần khoảng 45-50%, có khả năng

đầu tư mở rộng sản xuất. Do đó hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh

nghiệp có vốn FDI trong lĩnh vực bia đang gặp khó khăn.

4.2 Nước giải khát các loại

Bao gồm tất cả các dự án FDI sản xuất nước khoáng, nước giải khát có ga

nước hoa quả, nước tinh lọc tăng lực...

Hiện có 33 dự án được cấp Giấy phép đầu tư trong đó có 30 dự án đang

hoạt động, 2 dự án chưa thực hiện đầu tư là Công ty TNHH Seppa Việt Nam

được cấp Giấy phép đầu tư 21/11/2000 và Công ty nước giải khát và nước

khoáng Hoà Bình được cấp Giấy phép đầu tư 31/1/2001;

Trong 30 dự án đang hoạt động có 1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh, 18 liên

doanh và 11 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài với tổng vốn đầu tư 472,4

tr.USD và vốn pháp định 215,3 tr.USD. trong số này có 8 dự án liên doanh và

Hợp dồng hợp tác khai thác sản xuất nước khoáng tại một số suối nước khoáng

của các địa phương như Kim Bôi, Thái Nguyên, Quảng Trị, Trường Xuân

(Khánh Hoà), Long An, Hà Tĩnh...có vốn đầu tư nhỏ từ 70.000 USD đến 12,2

60

tr.USD. Đặc biệt lĩnh vực sản xuất nước giải khát có ga có hai hãng nổi tiếng

thế giới là Công ty CoCaCoLa 3 dự án với tổng vốn đầu tư 262,9 tr.USD, đã

trực tiếp tuyển dụng và đào tạo hơn 2000 nhân viên,mang lại việc làm gián tiếp

cho gần 25.000 người trong các ngành cung ứng và mạng lưới phân phối nước

giải khát; Công ty nước giải khát quốc tế IBC vốn đầu tư 137,3 tr.USD doanh

thu đạt 204,7 tr.USD, xuất khẩu 26,3 tr.USD, nộp Ngân sách 13 tr.USD và có

4.653 lao động đang làm việc.

Đối với lĩnh vực sản xuất nước giải khát, chính sách thu hút đầu tư trong

thời gian qua của nước ta không hạn chế cả về hình thức đầu tư cũng như việc

cấp giấy phép. Hiện nay, tổng công suất thiết kế của khu vực này đạt 802 tr.lít/

năm, nhưng công suất huy động hàng năm chỉ 214 tr.lít (bằng 27% công suất

thiết kế). Tương tự như trong lĩnh vực sản xuất bia, các liên doanh sản xuất

nước giải khát cũng báo cáo thua lỗ. Tổng lỗ tính đến tháng 12/ 2000 là 53,6

tr.USD, trong đó Liên doanh Cocacola Việt Nam (Chương Dương) vốn đầu tư

đăng ký 182,5 tr.USD và Cocacola Non Nước Đà Nẵng vốn đầu tư 25 tr.USD

đều báo cáo thua lỗ, đã được chuyển sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài

và Cocacola Ngọc Hồi cũng đang xin chuyển đổi hình thức. Phía Việt Nam

trong Công ty liên doanh Pepsi cũng đã chuyển một phần vốn vay của mình

cho phía nước ngoài do bị lỗ không trả nợ được, giảm tỉ lệ góp vốn pháp định

từ 30% xuống còn 18,5%.

Nhìn chung, nguyên nhân gây ra thua lỗ là của các doanh nghiệp FDI là do

các nhà đầu tư nước ngoài tính khấu hao lớn trong khi sản lượng sản xuất thấp,

một số dự án tính giá thiết bị có vốn đầu tư cao hơn nhiều so với giá trị thực.

Riêng đối với các doanh nghiệp sản xuất bia, nước giải khát còn do chi phí tiếp

thị, quảng cáo cao, bán phá giá sản phẩm để dành thị trường. Gây thua lỗ và

tăng vốn đầu tư, đây chỉ là những biện pháp đầu tiên để gạt bỏ đối tác là nước

chủ nhà trong liên doanh nằm trong chiến lược cạnh tranh lâu dài để dành vị trí

độc quyền trong sản xuất và trong thị trường tiêu thụ của các công ty đa quốc

61

gia.

4.3 Sản xuất Rượu

Hiện có 7 dự án FDI được cấp Giấy phép trong lĩnh vực sản xuất rượu với

tổng vốn đăng ký 29,4 tr.USD, vốn pháp định 16,7 tr.USD; trong đó có 4 liên

doanh và 3 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các dự án đầu tư sản xuất

rượu đều là những dự án nhỏ, dự án có vốn đầu tư lớn nhất (10 tr.USD) là Công

ty rượu Champane Matxcova tại Đồng Nai; dự án có vốn đầu tư nhỏ nhất là Xí

nghiệp liên doanh sản xuất rượu Napoleon xuất khẩu với số vốn đầu tư 370.000

USD tại TP. Hồ Chí Minh.

Đã có 5/7 dự án thực hiện đầu tư với số vốn thực hiện là 17 tr.USD, nhưng

chỉ mới có hai doanh nghiệp có doanh thu (472.000USD) là Công ty Hiram

Walker Bình Tây và Công ty sản xuất rượu nho Allied Domecq Spirit&Wine

Ninh Thuận, cả hai đều là liên doanh giữa Việt Nam với Hà Lan.

Nhìn chung, sản xuất rượu vẫn còn gặp khó khăn trong tiêu thụ: thị trường

xuất khẩu bị hạn chế; thị trường nội địa chủ yếu tiêu thụ ở khu vực đô thị

nhưng bị hàng nhập khẩu cạnh tranh, thị trường nông thôn rộng lớn nhưng

cũng không cạnh tranh được với rượu nếp nấu theo phương pháp truyền thống

trong dân gian. Hơn nữa giá rượu của các doanh nghiệp FDI vẫn còn cao trong

khi đó thu nhập của người dân còn thấp. Rượu là một mặt hàng tiêu thụ đặc biệt

nên không thể kích cầu để thúc đẩy đầu tư, nhưng vẫn luôn là một mặt hàng

tiêu dùng cần thiết trong cuộc sống. Khi mức sống của người dân được nâng

cao thì nhu cầu về các loại rượu chất lượng cao, ít có hại cho sức khoẻ sẽ tăng.

Một thực tế mà nước ta cần lưu ý đó là tỷ trọng loại rượu thực phẩm, rượu

thuốc có tác dụng tốt cho sức khoẻ và sử dụng nguyên liệu nông sản, cây

thuốc... còn thấp, tỷ lệ sản phẩm rượu có độ cồn cao vẫn chiếm chủ yếu.

óm lại, nguồn FDI vào ngành công nghiệp thực phẩm trong mấy năm gần

T

đây ngày càng tăng, tuy nhiên cũng như ngành công nghiệp nặng, do chưa

năm bắt được thị trường tiêu thụ sản phẩm, chưa hiểu được tâm lí người tiêu

62

dùng nên vẫn có nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ. Điều này càng đòi hỏi sự

nghiên cứu sâu rộng hơn của các nhà đầu tư về thị trường Việt Nam boỉ vì đây

là một trong số lĩnh vực sản xuất hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư nước

ngoài, đặc biệt là sản xuất bia và nước giải khát vì tính lợi nhuận cao và khả

năng tiêu thụ lớn.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam trong hơn

15 năm qua đã đáp ứng về cơ bản những mục tiêu đề ra, tạo dựng những cơ sở

ban đầu quan trọng cho sự nghiệp mới mẻ và khó khăn, góp phần vào sự phát

triển của Ngành Công nghiệp Việt Nam trong quá trình CND, HĐH của nước

ta. Vậy những đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ngành Công

nghiệp như thế nào xin được đề cập ở mục sau.

III. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

VÀO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Qua phân tích tình hình FDI vào ngành công nghiệp Việt Nam trong

những năm qua cho thấy FDI đã đóng góp phần quan trọng cho Ngành Công

nghiệp, thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

Thứ nhất: Các doanh nghiệp có vốn FDI đã góp phần bổ sung nguồn

vốn quan trọng cho sự phát triển của ngành Công nghiệp

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm một tỷ lệ lớn trong ngành công nghiệp

(48,7% vốn đăng ký và 57,5% vốn thực hiện) đặc biệt là ngành công nghiệp

dầu khí và công nghiệp nặng. Trong ngành công nghiệp dầu khí, trừ Liên doanh

VietsoPetro có tỷ lệ đóng góp vốn của bên Việt Nam cao còn lại hầu hết chi phí

cần thiết cho hoạt động thăm dò, tìm kiếm dầu khí là từ vốn FDI. Trong ngành

công nghiệp nặng, vốn FDI chiếm 40-50% vốn đầu tư. Trong các liên doanh

giữa Việt Nam với nước ngoài, phía Việt Nam chỉ góp được trên dưới 30% vốn

pháp định chủ yếu dưới dạng giá trị sử dụng đất, còn lại hơn 70% vốn pháp

định là của phía nước ngoài.

63

Không những thế, hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài còn giúp cho các

doanh nghiệp trong ngành Công nghiệp hoàn thành chỉ tiêu đóng góp cho Ngân

sách nhà nước (6-7%): năm 1994 đạt 621 tr.USD, năm 1995 đạt 737 tr.USD và

năm 1996-2000 trung bình đạt 1.000 tr.USD/năm. Trong đó riêng ngành Dầu

khí chiếm gần 60%, ngành công nghiệp chế biến chiếm 30% tổng số nộp Ngân

sách nhà nước của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thể nói đây

cũng là nguồn thu ngoại tệ quan trọng góp phần tích cực trong việc làm cân đối

cán cân thanh toán của doanh nghiệp, trong đó có cả việc mua sắm các thiết bị

phục vụ cho sự phát triển của ngành và cho công cuộc CHN, HĐH của đất

nước

Thứ 2: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo ra những

năng lực sản xuất mới, phương thức sản xuất-kinh doanh mới, làm cho cơ

cấu của Ngành Công nghiệp từng bước chuyển biến tốt hơn

Trong những năm gần đây, thông qua các hình thức liên doanh hoặc đầu tư

100% vốn nước ngoài, ngành công nghiệp nước ta đã đạt được mục tiêu thu hút

vốn và kỹ thuật của nhiều nước để phát triển, cung cấp ngày càng nhiều hàng

hoá tiêu dùng cho xã hội. Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn tạo

ra hơn 25% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Sự đóng góp của đầu

tư trực tiếp nước ngoài đã chi phối đáng kể quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nước ta. Tỷ trọng công nghiệp tăng lên và đang ngày càng chiếm ưu thế

trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước

ngoài với vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế thể hiện tương đối rõ nét

trong thực tế vừa qua.

Sự chuyển biến về tỷ trọng của công nghiệp trong GDP, gần như đồng biến

với tỷ trọng GDP của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP của ngành công

nghiệp. Điều này chứng tỏ rằng, trong số các nhân tố ảnh hưởng, đầu tư trực

tiếp nước ngoài không những có vai trò rất quan trọng trong phát triển công

nghiệp, mà nó còn có tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh

64

tế nước ta theo hướng hình thành một cơ cấu kinh tế CNH, HĐH.

40

35

30

25

20

15

10

% g n ä r t û T

5

0 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000

FDI t r ong CN

CN t r ong GDP

Đồ thị 3: So sánh tỷ trọng FDI trong CN và tỷ trọng CN trong GDP

(Nguồn: Viện kinh tế học Việt Nam)

Các doanh nghiệp FDI tuy mới hoạt động trên thị trường Việt Nam nhưng đã

thể hiện được sức mạnh của mình. Với những ưu thế về kỹ thuật, công nghệ, khả

năng dồi dào về vốn, có kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong nền kinh tế thị

trường và lĩnh hội được các bí quyết kinh doanh từ các công ty mẹ.Các doanh

nghiệp FDI thường có quy mô lớn, trình độ trang bị kỹ thuật hiện đại, khả năng

quản lý và điều hành tốt hơn các doanh nghiệp trong nước.

Đặc biệt, FDI đã tạo nên nhiều ngành nghề, sản phẩm mới như khai thác dầu

khí, sản xuất ôtô xe máy, điện tử - viễn thông... góp phần thoả mãn nhu cầu

trong nước cũng như làm tăng đáng kể năng lực ngành công nghiệp Việt Nam.

Hiện nay, năng lực sản xuất của khu vực FDI chiếm 100% về khai thác dầu thô,

sản xuất ôtô xe máy, biến thế 250-1000KVA, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà nhiệt

độ, máy thu thanh, đầu video và một số hàng điện tử khác; nguyên liệu nhựa.

Trong công nghiệp Dệt - may, FDI chiếm 100% về năng lực sản xuất sợi PE,

PES, 55% về kéo sợi; 50% sản lượng vải; 45% sản phẩm may và 35% về giày

dép. FDI còn chiếm 60% về cán thép, 26% về xi măng, 40% về thuốc trừ sâu,

15% về phân bón các loại. Thông qua FDI đã hình thành bước đầu hệ thống Khu

65

công nghiệp, Khu chế xuất. Đây là hướng đi đúng nhằm góp phần phân bổ công

nghiệp hợp lý, nâng cao hiệu quả đầu tư.

Thứ ba: Tiếp nhận được những kỹ thuật mới, những công nghệ tiến

tiến, góp phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp nói

riêng và phát triển kinh tế nói chung

Hoạt động FDI vào ngành công nghiệp kéo theo nó là hoạt động chuyển

giao công nghệ vào Việt Nam. Hơn 12 năm qua, các nhà đầu tư nước ngoài đã

đưa vào Việt Nam nhiều công nghệ tiên tiến, hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực

sản xuất lắp ráp ôtô xe máy, Điện tử -Tin học, Ngành Dầu khí...Các nhà đầu tư

nước ngoài không chỉ đưa vào Việt Nam máy móc thiết bị hiện đại mà còn giúp

người lao động Việt Nam làm quen và biết cách sử dụng chúng. Có những dây

chuyền công nghệ, máy móc thiết bị nếu không có bên nước ngoài giúp đỡ thì

thời gian để chúng ta vận hành chạy thử có khi tới vài chục năm thậm chí hàng

trăm năm. Điển hình là ngành dầu khí và ngành sản xuất lắp ráp ôtô xe máy.

Trong ngành dầu khí, nhiều thiết bị, dây chuyền công nghệ nổi tiếng trên thế

giới như BHP Petrecum CRA của Úc... đã được đưa vào Việt Nam để tiến hành

thăm dò và khai thác dầu khí. Trong lĩnh vực ôtô xe máy, dây chuyền công

nghệ hiện đại của các hãng nổi tiếng như Ford, Honda, Suzuki, Yamaha...có

công suất thiết kế 140.000 xe ôtô/ năm (mà thực tế chưa khai thác được 5%);

công suất thiết kế xe máy đạt 1,5 tr.xe/năm.

Bên cạnh đó, ngành công nghiệp điện tử với các đối tác nước ngoài là các

tập đoàn các công ty đa quốc gia có uy tín và có tiếng trên thế giới như: Sony,

Matsushita, Toshiba, JVC, Fujtsu, Philips, Samsung, LG... đã đưa vào Việt Nam

các dây chuyền công nghệ hiện đại với công suất thiết kế cao. Hiện khu vực

FDI chiếm 100% về sản xuất thiết bị máy tính văn phòng; 78% thiết bị truyền

thống, radio, tivi; 76, 4% thiết bị y tế chính xác...

Thứ tư: Việc tăng cường thu hút ĐTNN hướng về xuất khẩu của nhà

nước đã tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường, nâng cao

66

năng lực xuất khẩu của ngành Công nghiệp Việt Nam

Sản phẩm của các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trong ngành công

nghiệp luôn đạt chất lượng cao, mẫu mã, chủng loại rất phong phú đa dạng, đáp

ứng được nhu cầu trong nước cũng như ở nước ngoài. Đặc biệt là sản phẩm của

ngành Dệt-May, Da-Giầy, Điện tử, chế biến thực phẩm... đã xâm nhập và có thị

phần đáng kể trên thị trường quốc tế như Châu Âu, Mỹ...Sản phẩm của các

doanh nghiệp này góp phần thoả mãn nhu cầu trong nước, thay thế hàng nhập

khẩu và hướng xuất khẩu. Rất nhiều doanh nghiệp có tỷ lệ xuất khẩu trên 80%,

tổng kim ngạch xuất khẩu tăng dần. Nếu kể cả dầu thô thì giá trị hàng hoá xuất

khẩu của khu vực có vốn FDI năm 1994 đạt 27% tổng kim ngạch xuất khẩu của

cả nước, năm 1995 đạt 24,7% và năm 1996 đạt 24,5%. Riêng năm 1997 đạt gần

1,8 tỷ USD, năm 1999 đạt gần 2,58 tỷ USD, thời kỳ 1996-2001 đạt trên 10,4 tỷ

USD, tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả

nước, và chỉ riêng 3 tháng đầu năm2003 kim ngạch xuất khẩu của các doanh

nghiệp FDI đã tăng 36%. Trong đó, giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp

chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các ngành có vốn

FDI:

Bảng 14: Giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp có vốn FDI

so với các ngành khác.

1991-1995 1996 1997 1998 1999 2000

Ngành Công nghiệp 718,1 766,3 1.094 1.493 1.495 952,9

(tr.USD)

% so với các ngành 77,62 84,17 82% 91,67 92,12 94,43

(Nguồn: Vụ Quản lý dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu tư )

Trong một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, xuất

khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đã chiếm tới 42% xuất khẩu hàng giầy

67

dép; 25% hàng may mặc; 84% xuất khẩu hàng điện tử, máy vi tính và linh kiện.

Giá trị xuất khẩu của FDI trong công nghiệp đã góp phần làm tỷ lệ xuất

khẩu so với doanh thu của khu vực có vốn FDI tăng nhanh qua các năm: Năm

1995 đạt 16,3%; năm 1996 đạt 28,7%; tăng vọt lên 50,7% năm 1998 và 56%

vào năm 1999.

Thứ năm: Hoạt động các dự án ĐTNN đã tạo ra một số lượng lớn chỗ

làm việc có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy

việc nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam.

FDI đã tạo thêm việc làm cho khoảng 30-32 vạn lao động thường xuyên và

hàng chục vạn lao động thời vụ, giảm bớt tình trạng thất nghiệp và thiếu việc

làm ở cả thành thị và nông thôn.

Mặt khác, thông qua việc thu hút lao động xã hội, người lao động Việt Nam

được đào tạo và nâng cao tay nghề. Đặc biệt là lao động trong các doanh

nghiệp FDI, hiện tại có khoảng 16-17 vạn người. Lao động trong các doanh

nghiệp này không những được đào tạo nâng cao trình độ kỹ thuật mà còn được

tiếp cận với các phương pháp tổ chức và quản lý tiên tiến, được học tập tác

phong lao động công nghiệp và rèn luyện ý thức tổ chức và kỹ thuật lao động

phù hợp với quy trình sản xuất hiện đại. Thu nhập của công nhân lao động

trong các doanh nghiệp này cũng rất cao, bình quân 100USD/ tháng (riêng

ngành dầu khí 692 USD/ tháng, các ngành ôtô xe máy, điện tử - tin học từ 70-

80 USD/ tháng).

FDI nói chung và FDI trong ngành công nghiệp nói riêng đã thực sự góp

phần biến tiềm năng về lao động của Việt Nam trở thành hiện thực.

Những đóng góp của FDI vào Ngành Công nghiệp trong giai đoạn qua đã

góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành phù hợp với chiến lược phát triển

CNH, HĐH mà nhà nước đề ra. Tuy nhiên với thời gian chưa phải là dài, với số

vốn kinh nghiệm chưa phong phú nên đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ngành

68

Công nghiệp Việt Nam không tránh khỏi những hạn chế, tồn tại.

IV. MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP

NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, FDI vào công nghiệp Việt Nam

còn tồn tại một số vấn đề sau:

Một là: Công tác quy hoạch nói chung, quy hoạch liên quan đến thu

hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp còn chậm,

chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể.

Do quy hoạch ngành và một số sản phẩm quan trọng làm chậm hoặc chưa

có, lại dựa trên một số dự báo thiếu chuẩn xác chưa lường hết diễn biến phức

tạp của thị trường...nên đã cấp phép đầu tư nước ngoài vào một số lĩnh vực và

sản phẩm ngành công nghiệp vượt quá nhu cầu hiện tại như các dự án bia, nước

giải khát có ga, sản phẩm nghe nhìn, điện tử gia dụng, lắp ráp ôtô, chất tẩy

rửa...Tình hình trên cộng với ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu

vực đã làm cho công suất huy động của nhiều sản phẩm ngành công nghiệp

thuộc khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt thấp như ôtô 5%; xe máy, máy

giặt, tủ lạnh trên 30%. Việc cấp phép những năm đầu còn chạy theo số lượng,

thiên về thay thế nhập khẩu; tuy có bổ sung hàng hoá cho thị trường, tiết kiệm

ngoại tệ nhập khẩu, nhưng tình trạng này kéo dài dẫn đến một số sản phẩm

chèn ép sản xuất trong nước.

Cũng do thiếu quy hoạch cụ thể về sử dụng kết hợp các nguồn vốn nên chủ

trương đối với một số dự án liên quan đến một số sản phẩm quan trọng hoặc

lĩnh vực nhạy cảm của ngành công nghiệp là chưa rõ ràng, xảy ra tình trạng các

địa phương phải chờ xin ý kiến của các cơ quan Trung ương mất nhiều thời

gian. Mặt khác, dẫn đến việc xử lý chủ trương đối với dự án không nhất quán,

có lúc cho phép đầu tư nước ngoài nhưng có lúc lại để đầu tư trong nước tự

làm.

Các Khu công nghiệp đã thành lập do thiếu thiết kế kết cấu hạ tầng kinh tế

69

-xã hội, chưa đủ sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nên mới chỉ lấp kín được gần

30% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. Nhiều KCN ở miền Bắc và

miền Trung tỷ lệ cho thuê đất rất thấp (Khu công nghiệp Nomurai- Hải Phòng

chưa lấp đầy 10%). Quy hoạch tổng thể của nhiều địa phương, nhiều KCN đã

được phê duyệt nhưng thiếu quy hoạch chi tiết, dẫn đến bị động trong việc lựa

chọn địa điểm đầu tư. Giá phí sử dụng cơ sở hạ tầng trong các KCN cao đã triệt

tiêu lợi thế về giá thuê đất rẻ trong các KCN.

Hai là: Một số mục tiêu trước mắt và lâu dài đặt ra nhưng các liên

doanh chưa thực hiện được.

+Mục tiêu chuyển dần từ lắp ráp bằng linh kiện nước ngoài sang lắp ráp

bằng các linh kiện trong nước là chủ yếu vẫn chưa đủ điều kiện thực hiện.

Chương trình nội địa hoá các sản phẩm điện tử, ôtô, xe máy hầu như không tiến

triển được.

Nguyên nhân chính là do việc thực hiện nội địa hoá cần đầu tư lớn về vốn,

nhà xưởng, thiết bị công nghệ trong khi đó số sản phẩm tiêu thụ còn hạn chế

(2%-20% công suất thiết kế) nên ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất, giá thành

sản phẩm của doanh nghiệp. Một số liên doanh chưa ký hợp đồng chuyển giao

công nghệ nên việc đào tạo kỹ thuật cho công nhân Việt Nam cũng chậm lại

làm chậm chương trình nội địa hoá. Bên cạnh đó, một số lĩnh vực sản xuất lắp

ráp như điện tử, viễn thông...dây chuyền công nghệ rất hiện đại chỉ sau 4 đến 6

năm là lạc hậu cần đổi mới song giá lại cao không dễ gì thay đổi và khấu hao

trong một thời gian ngắn do đó việc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá gặp nhiều khó

khăn.

+ Việc góp vốn bằng máy móc, công nghệ trong các liên doanh chưa thực

hiện một cách trung thực, nghiêm túc. Một số đối tác là nhà đầu tư nước ngoài

đưa vào liên doanh những máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu trung bình tiên

tiến. Một số khác nâng giá thiết bị máy móc góp vào liên doanh cao hơn giá trị

thực của nó. Đây cũng là một hạn chế của nước ta vì chưa có một đội ngũ

70

chuyên gia am hiểu và có trình độ để đánh giá chất lượng công nghệ, Bên Việt

Nam tham gia liên doanh cũng bị hạn chế về trình độ khoa học công nghệ.

+Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam với động cơ kiếm lợi

nhuận và nhằm vào thị trường tiêu thụ nội địa gần 80 triệu dân. Nhưng một

mặt, quy mô của thị trường Việt Nam còn nhỏ bé, sức mua rất thấp, nhất là các

vùng nông thôn; mặt khác, nước ta lại chủ trương khuyến khích đầu tư hướng

về xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp bị ràng buộc bởi điều kiện xuất khẩu trên

80% và phải tự cân đối ngoại tệ... nên tính khả thi của dự án không cao. Nhiều

lĩnh vực đầu tư có sức hấp dẫn nhưng vào thời điểm hiện nay đã và đang bão

hoà như: lắp ráp ôtô xe máy, điện tử gia dụng, sắt thép xây dựng, xi măng...

Ba là: Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài vào ngành Công nghiệp có một số

bất hợp lý, dẫn đến hiệu quả kinh tế của khu vực đầu tư nước ngoài chưa

cao.

Chiều hướng tăng tỷ trọng vốn FDI trong lĩnh vực công nghiệp là tốt. Tuy

nhiên, tỷ trọng vốn FDI vào các dự án thay thế nhập khẩu, hướng vào nội địa

còn cao, nhất là các dự án của EU, Mỹ, Nhật Bản; số doanh nghiệp thực hiện

xuất khẩu trên 80% còn hạn chế, một số doanh nghiệp đã xin Nhà nước hạ tỷ lệ

này xuống thấp hơn hoặc giãn thời gian thực hiện dài hơn.

Đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào các KCN ở những địa phương có

điều kiện thuận lợi (TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hà Nội...), tuy có góp phần

làm cho các vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ tăng trưởng cao, tạo động lực lôi

kéo các vùng khác phát triển, nhưng cũng làm cho chênh lệch kinh tế - xã hội

giữa các vùng ngày càng lớn. Đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng hầu như không

đáng kể đến khu vực miềm núi phía Bắc, một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên

và đồng bằng sông Cửu Long. Hơn nữa, tỷ lệ đỗ vỡ phải rút Giấy phép đầu tư ở

các địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn cao hơn địa bàn khác.

Chủ trương đa phương hoá nguồn vốn FDI chưa được thực hiện tốt. Vốn

đầu tư từ các nước Châu Á chiếm tới gần 67%, trong đó ASEAN gần 23%;

71

trong khi vốn đầu tư từ Tây- Bắc Âu, Bắc Mỹ còn thấp (các nước EU chiếm

12,9%; Mỹ và Canada chiếm 4%); các nước G7 (trừ Nhật Bản) mới chiếm

khoảng 12%. Do vậy, FDI ở nước ta bị ảnh hưởng lớn khi các nước xung quanh

lâm vào khủng hoảng.

Một số doanh nghiệp FDI đưa vào Việt Nam các dây chuyền công nghệ

quá hiện đại, công suất sử dụng thấp cho nên rất phí. Ngược lại, không ít các

nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam công nghệ lạc hậu, trung bình tiên

tiến như ở lĩnh vực Dệt -may, Da -Giầy. Đối tác nước ngoài chủ yếu là các

nước trong khu vực, các nước ASEAN (23% vốn đầu tư), hiện các nước này

đang tiến hành đổi mới công nghệ nên họ chuyển giao công nghệ trung bình

tiên tiến sang Việt Nam. Nếu Việt Nam không cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề này thì

nguy cơ Việt Nam sẽ là bãi thải công nghệ của các nước ASEAN. Hơn nữa,

nước ta thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật để có thể giám định, cũng như

tìm đúng công nghệ mình cần mà chuyển giao công nghệ chủ yếu do bên nước

ngoài giới thiệu và thực hiện. Nước ta thiếu kế hoạch và chiến lược cụ thể nên

hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra lẻ tẻ, khập khiễng.

Bốn là: Các điều kiện kinh tế-xã hội còn nhiều bất cập

+ Thị trường vốn phát triển chậm, thị trường chứng khoán chưa hình thành

nên đã hạn chế khả năng đáp ứng yêu cầu vốn vay của các thành phần kinh tế,

trong đó có doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.

+ Chi phí đầu tư ở Việt Nam cao hơn so với một số nước trong khu vực, do

đó không phải là địa điểm lý tưởng để đầu tư. Theo điều tra của Jetro tại 24

thành phố thuộc 14 nước Châu Á tại thời điểm tháng 12/1999 thì lương công

nhân ở Việt Nam cao gấp 1,6 lần tại Jakarta; giá điện gấp 2 lần Thượng Hải và

Bangkok; cước vận chuyển cao gấp đôi Singapore và Kualalumpua; cước phí

điện thoại quốc tế cao gấp đôi các nước khác và thuế thu nhập cá nhân tại Việt

Nam là cao nhất, trên cả Thượng Hải... Đã hạn chế việc sử dụng lao động Việt

Nam vào các cương vị quản lý điều hành doanh nghiệp vì trả cả lương và thuế

72

cho người Việt Nam cao hơn hai đến ba lần so với lao động thuê ở các nước

trong khu vực.

+ Vẫn còn tồn tại việc áp dụng chi phí hai giá phân biệt giữa doanh nghiệp

trong nước và doanhnghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài phải trả giá điện, nước, cước phí điện thoại, giá vé đi lại

và các dịch vụ khác cao hơn các doanh nghiệp trong nước.

+ Cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội còn nhiều hạn chế (giao thông vận tải, điện

nước, các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, giải trí cho đối tượng nước

ngoài...)

+ Việc cung cấp nguyên liệu phụ tùng tại chỗ cho các doanh nghiệp đầu tư

nước ngoài gặp khó khăn và không ổn định, ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất

kinh doanh và làm tăng giá thành sản phẩm. Theo Jetro, Việt Nam hầu như

không có phụ tùng có thể sử dụng được; 3/ 4 số doanh nghiệp do Jetro điều tra

chỉ tự cung cấp được nguyên liệu phụ tùng tại chỗ dưới 20%. Khả năng cung

cấp lao động kỹ thuật, có tay nghề cao ở Việt Nam rất hạn chế.

+ Các địa phương chưa chú trọng đến công tác đào tạo lao động cung cấp cho

các doanh nghiệp mà việc này các doanh nghiệp phải tự tổ chức thực hiện từ

cách ăn mặc, tác phong làm việc cho đến cách thức sử dụng máy móc của

người lao động. Việc này dẫn đến một số doanh nghiệp FDI không làm đúng

quy định và Luật lao động của Nhà nước. Mặt khác, chưa có sự kết hợp chặt

chẽ giữa địa phương và doanh nghiệp FDI trên địa bàn về việc đào tạo công

nhân kỹ thuật cho nên có sự bất cập về số lượng cũng như chất lượng người lao

động. Một vấn đề nữa là thái độ đối xử của chủ đầu tư nước ngoài với người

lao động Việt Nam chưa công bằng cả trong cách cư xử lẫn tiền lương. Một cán

bộ kỹ thuật nước ngoài có mức lương gấp 10-13 lần tổng lương của 10 lao

động Việt Nam. Đây đó vẫn xảy ra tình trạng chủ đầu tư nước ngoài có hành vi

xúc phạm lao động Việt Nam. Công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có

vốn FDI thường phải làm thêm giờ và rất vất vả, quy định của doanh nghiệp rất

73

khắt khe. Đây cũng là một trong những lý do tại sao tỷ trọng lao động từ nông

thôn tới làm việc trong các doanh nghiệp FDI cao trong khi lao động thành thị

lại thấp. Bên cạnh đó, mục tiêu nâng cao trình độ tay nghề cho lao động Việt

Nam cũng chưa đạt được yêu cầu.

Thực tế người lao động Việt Nam kém về trình độ và hạn chế về nhận thức,

lao động chưa qua đào tạo chiếm 60-70%; hoạt động của Công đoàn trong các

liên doanh chưa làm trọn vai của mình. Nguyên nhân chính là do công tác đào

tạo cán bộ quản lý FDI từ Trung ương đến địa phương, công tác đào tạo công

nhân kỹ thuật chưa được quan tâm đúng mức; các cơ quan cử người vào liên

doanh thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý, hầu như khoán trắng.

Năm là: Nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bị thua lỗ dẫn tới mức

nộp Ngân sách Nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với thực lực của nó

Theo báo cáo điều tra hoạt động của doanh nghiệp Nhật Bản JETRO công

bố, số công ty làm ăn ở Việt Nam thua lỗ năm 1998 tới 56% (trong khi tỷ lệ

trung bình điều tra 5 nước ASEAN là 35%); ước tính tỷ lệ này năm 1999 còn

32%; số công ty có doanh thu năm sau cao hơn năm trước giảm dần; số công ty

muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh chỉ chiếm 51%. Tình hình trên ảnh

hưởng tiêu cực đến các nhà đầu tư tiềm năng.

Nguyên nhân chủ yếu là do nhà đầu tư không lường hết được sự biến động

của thị trường quốc tế cũng như dự báo thiếu chính xác dung lượng thị trường

Việt Nam. Gần như cùng một lúc có quá nhiều dự án FDI đi vào hoạt động ở

cùng một lĩnh vực dẫn đến hàng hoá ứ đọng không tiêu thụ được, công suất sử

dụng rất thấp như lĩnh vực ô tô. Một số doanh nghiệp khác hạch toán chưa phù

hợp như đưa toàn bộ chi phí hình thành dự án vào ngay năm đầu kinh doanh, tỷ

lệ khấu hao cao, chi phí dành cho quảng cáo tiếp thị lớn nên giá thành cao. Bên

cạnh đó cũng có một số doanh nghiệp của các Công ty đa quốc gia, các tập

đoàn lớn “lỗ giả nhưng lãi thật”, công ty con ở Việt Nam lỗ song công ty mẹ ở

nước ngoài lại có lãi, dẫn đến đóng nộp Ngân sách rất hạn chế.

74

Nhiều liên doanh kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ, Bên Việt Nam không tiếp tục

liên doanh được đành bán lại phần vốn góp của mình, xẩy ra tình trạng các liên

doanh chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài (như Liên doanh nước giải

khát Coca-Cola; Công Công ty liên doanh ô tô Việt Nam-Daewoo xin chuyển

nhượng toàn bộ cổ phần cho phía nước ngoài vì không chịu nổi lỗ quá lớn...)

Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực tài chính của bên Việt Nam hạn chế,

khả năng trình độ quản lý cũng có hạn. Cho nên khi gặp khó khăn cần bàn bạc

giải quyết Bên Việt Nam thường lúng túng thoái thác cho Bên nước ngoài. Hơn

nữa, các liên doanh thường thua lỗ 4-5 năm đầu, yêu cầu tăng vốn góp, tiếp tục

mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nhưng phía Việt Nam không đáp ứng

được đành chuyển phần vốn góp của mình cho bên nước ngoài.

Trên đây là những phân tích, đánh giá tình hình FDI vào ngành công nghiệp

Việt Nam trong thời gian qua đồng thời đã nêu ra những ưu điểm và những tồn

tại, hạn chế của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ đó sẽ đưa ra

một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành công nghiệp

75

Việt Nam trong thời gian tới.

CHƯƠNG III

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI

VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

TRONG THỜI GIAN TỚI

I. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP

TRONG THỜI GIAN TỚI

1. Mục tiêu phát triển Ngành công nghiệp trong thời gian tới

Đối với Việt Nam thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình

chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và

quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một

cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp

tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học-

công nghệ cao, tạo ra năng suất lao động xã hộ cao. Mục tiêu lâu dài của CNH,

HDH là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật

hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình

độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng

an ninh vưng chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh

Mục tiêu trung hạn là ra sức phấn đấu đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản

trở thành mộ nước công nghiệp, do đó tốc độ phát triển công nghiệp phải đạt

cao (trên 12%/năm) trong nhiều năm, năm 2020 giá trị gia tăng công nghiệp

trong GDP đạt trên 40%.

2. Định hướng phát triển Ngành công nghiệp trong thời gian tới

-Phát triển công nghiệp nhằm khai thác hết tiềm năng của nền kinh tế. Công

nghiệp cần hướng mạnh về xuất khẩu.

-Phát triển công nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội thông qua

quá trình cơ giới hoá, tự động hoá, hoá học hoá...

76

- Chiến lược phát triển dài hạn công nghiệp cần xác định được cơ cấu công

nghiệp hợp lý, lựa chọn các ngành công nghiệp chiến lược quan trọng để có

chính sách nuôi dưỡng và phát triển các ngành có lợi thế so sánh và có khả năng

cạnh tranh trong tương lai trên thị trường khu vực và thế giới.

Cụ thể như sau:

+ Phát triển mạnh những ngành công nghiệp ta đang có lợi thế về nguồn nhân

lực và tài nguyên, nhằm tạo ra những khởi động tốt cho phát triển công nghiệp

như: Ngành Dệt - May; Ngành công nghiệp chế biến hướng về xuất khẩu, đặc

biệt là chế biến sâu các sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản, những vùng có quy mô

sản phẩm hàng hoá nguyên liệu lớn; Ngành công nghiệp khai thác dầu khí.

+ Nuôi dưỡng và phát triển các nghành công nghiệp quan trọng có sức cạnh

tranh mạnh mẽ. Đó là: Ngành công nghiệp cơ khí chế tạo và Ngành công

nghiệp điện tử và công nghệ thông tin.

+ Phát triển có chọn lọc những ngành công nghiệp nặng, nhằm tạo ra nguyên

liệu cơ bản cho công nghiệp, đồng thời phát huy các lợi thế về tài nguyên. Đó

là các ngành: Công nghiệp lọc, hoá dầu; Công nghiệp luyện kim. Tạo tiền đề

cho phát triển các ngành khác như Cơ khí, chế tạo, đóng tàu, sản xuất ôtô và

một số ngành công nghiệp khác.

Để đạt được mục tiêu và định hướng này, ngành Công nghiệp cần có những

tháo gỡ tích cực hơn trong quá trình thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài và tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn đó. Sau đây, xin kiến nghị một số

giải pháp.

II. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG THỜI GIAN TỚI

1. Hoàn thiện thêm một bước về luật pháp, cơ chế chính sách về ĐTNN.

1.1 Bộ Công nghiệp cần có quy hoạch và đệ trình danh mục các lĩnh vực,

77

ngành, địa bàn cần khuyến khích và ưu đãi đầu tư lên Chính phủ để nhằm thu

hút FDI đúng hướng.

- Cần khuyến khích mạnh mẽ ĐTNN vào các ngành công nghiệp chế biến xuất

khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, năng lượng, những ngành ta

có thế mạnh về nguyên liệu (như lĩnh vực Dầu khí) và lao động (như lĩnh vực

Dệt-may, Da-Giầy,...). Thực hiện thuế nhập khẩu thực sự khuyến khích các

doanh nghiệp công nghệ cao sản xuất cơ khí, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo,

đặc biệt là công nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện và nguyên liệu để giúp các

doanh nghiệp sản xuất ô tô, lắp ráp xe gắn máy hạ giá thành sản phẩm, vừa giúp

các doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm ở thị trường nội địa vừa hướng ra xuất

khẩu.

- Thu hút đầu tư, áp dụng những chính sách ưu đãi để lấp đầy các KCN, KCX

đã được thành lập và khai thác các vùng kinh tế trọng điểm mới. Ngoài các KCN

nhỏ, các cụm công nghiệp để giãn các nhà máy tại các thành phố lớn, cần xem

xét chặt chẽ việc thành lập các KCN mới. Trước mắt cần rà soát các KCN đã có

quyết định thành lập để dừng hoặc giãn tiến độ xây dựng những KCN không đủ

yếu tố khả thi, chỉ thành lập KCN mới khi hội đủ điều kiện. Nên quy hoạch và

xây dựng các KCN tập trung cho các vùng kinh tế trọng điểm (gần trung tâm

giao dịch buôn bán, đường xá giao thông thuận lợi, gần vùng cung cấp nguyên,

nhiên liệu...) để tạo sức đột phá, các địa bàn khác cần đầu tư có chọn lọc tránh

dàn trải và bất hợp lý. Hiện nay, cả nước đã có 61 KCN, tập trung chủ yếu ở

TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Hà Nội, Đà Nẵng...Nhìn chung, hoạt

động đầu tư vào KCN chưa thực sự sôi động, tỷ lệ lấp đầy KCN còn thấp (KCN

Nomurai-Hải Phòng, chưa lấp đầy 10% diện tích cho thuê...). Để tạo thuận lợi

thu hút đầu tư vào KCN, cần thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

cho các doanh nghiệp KCN; bảo đảm các công trình hạ tầng kỹ thuật (đường xá,

điện, nước, thông tin liên lạc...) đến tận hàng rào các KCN; ưu đãi ở mức cao

nhất các dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với KCN (nhà ở cho công nhân,

trường học, trường dạy nghề, cơ sở khám chữa bệnh, thương mại và các dịch vụ

78

đời sống của các thành phần kinh tế).

Cần lựa chọn một vài địa phương có điều kiện địa lý, kinh tế-xã hội thuận lợi

để thành lập khu kinh tế và tập trung đầu tư đúng mức cả về vốn, con người. Tổ

chức và có cơ chế chính sách phù hợp để xây dựng thành công các khu kinh tế

này.

Tiếp đến là Khu chế xuất (KCX), hoạt động của các KCX thời gian qua kém

hiệu quả, có nhiều khu triển khai chậm hoặc không triển khai được và xin

chuyển thành KCN để có thể linh hoạt trong đầu tư. Trong thời gian tới, nước ta

cần tập trung đẩy nhanh hoạt động của các KCX đã được thành lập bằng các

chính sách ưu đãi, khuyến khích hơn, đồng thời tạm ngừng thành lập các KCX

mới.

1.2 Xử lý một cách linh hoạt các định hướng đối với từng lĩnh vực đầu tư trong

ngành Công nghiệp

- Một số lĩnh vực hiện nay năng lực sản xuất đã bão hoà với thị trường nội địa.

Một mặt, cần hạn chế hoặc tạm thời chưa cấp phép cho các dự án mới như sản

xuất bia... mặt khác, cần chuyển hướng thu hút đầu tư như lĩnh vực Điện tử - Tin

học: hướng tập trung sẽ là điện tử công nghiệp và phát triển phần mềm, phần

cứng trong Tin học, hạn chế sản xuất lắp ráp điện tử tiêu dùng. Lĩnh vực sản

xuất nước giải khát, hướng thu hút FDI sẽ là: tập trung đầu tư vào lĩnh vực sản

xuất nước giải khát không có ga, nước hoa quả cho tiêu dùng nội địa và cho xuất

khẩu; hạn chế đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nước giải khát có ga...Một mặt đi vào

khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến (sản xuất lắp ráp ôtô xe máy, khai thác

dầu khí...); mặt khác, chú trọng công nghệ thích hợp, máy móc thiết bị đã qua sử

dụng (với điều kiện thiết bị đó không gây ô nhiễm môi trường hoặc có hại cho

sức khoẻ công nhân) để tận dụng giá trị sử dụng còn lại, tạo thêm công ăn việc

làm cho người lao động trong một số lĩnh vực nhất định (Da giầy, Dệt - may...).

- Việc thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bổ sung sửa đổi được

Quốc hội thông qua tháng 6/2000 và Nghị định số 24/2000 hướng dẫn thực hiện

79

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực từ tháng 7 năm 2000; cùng với

các Thông tư hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài; thêm vào đó, việc ký kết

Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã tác động tích cực đến tâm lý các nhà đầu tư,

mở rộng thị trường xuất khẩu và trao đổi hàng hoá cho các doanh nghiệp, tạo

thuận lợi cho thu hút vốn FDI trong thời gian tới. Vì vậy,Chính phủ cần gấp rút

có những chính sách khuyến khích, ưu đãi và tăng cường đầu tư cho các doanh

nghiệp sản xuất kinh doanh trong một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao

(như Dệt - may, Da giầy...). Để trong tương lai không xa, các doanh nghiệp FDI

trong các lĩnh vực này sẽ là đại diện của Việt Nam có đủ năng lực về tài chính,

công nghệ... cạnh tranh trên trường quốc tế.

- Việc bảo hộ sản xuất trong nước đối với những doanh nghiệp mới đi vào sản

xuất còn nhiều lúng túng. Nhiều doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu có nguy cơ

phải đóng cửa do chính sách của Nhà nước ta chưa khuyến khích tiêu dùng hàng

trong nước đã sản xuất được, đạt tiêu chuẩn quốc tế; điển hình là trường hợp

Công ty Mitsui ViNa sản xuất nguyên liệu PVC...

- Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động trong ngành công

nghiệp gặp nhiều khó khăn cả về thị trường tiêu thụ lẫn sự cạnh tranh gay gắt

của hàng ngoại nhập. Điển hình có ngành sản xuất và lắp ráp ô tô, đây là ngành

mới đầu tư vào Việt Nam với dây chuyền công nghệ hiện đại, công suất thiết kế

rất lớn song thực tế công suất chưa phát huy hết 5%, thị trường tiêu thụ hạn chế

(20-25%), do đó, để ngành này phát triển cần kết hợp đồng thời hai chính sách:

một mặt, tăng thuế nhập khẩu nguyên chiếc lên 200%, mặt khác bỏ thuế tiêu thụ

đặc biệt, điều chỉnh thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng theo từng giai đoạn và

thực hiện các biện pháp nhằm giúp các doanh nghiệp hạ giá thành lắp ráp tại

Việt Nam. Trên cơ sở đã tồn tại và đứng vững trên thị trường nội địa, ngành

công nghiệp ô tô Việt Nam mới có thể phát triển bền vững trong tiến trình hội

nhập quốc tế.

1.3 Đẩy nhanh lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá thống

80

nhất cho đầu tư trong nước và ĐTNN

- Trong năm 2003, cần tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hoá,

dịch vụ để sau 1 hoặc 2 năm về cơ bản áp dụng một mặt bằng thống nhất một số

giá, phí cho các doanhnghiệp có vốn FDI. Hiện nay còn nhiều khác biệt trong

đối xử giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải trả giá

điện, nước, cước phí điện thoại, giá vé đi lại, và cá dịch vụ cao hơn các doanh

nghiệp trong nước. Điều này tạo ra một môi trường cạnh tranh không lành mạnh

khiến nhà đầu tư nước ngoài còn thấy e ngại.

- Bên cạnh việc kiểm soát độc quyền và giảm ngay các dịch vụ có giá quá cao

của các doanh nghiệp độc quyền hiện nay, cần lưu ý giảm chi phí các sản phẩm

trung gian cho sản xuất công nghiệp.

Hiện tại các ngành công nghiệp hỗ trợ để sản xuất các bộ phận, linh kiện của

ta rất yếu, nhất là trong điện tử gia dụng. Trong khi đây là lĩnh vực thu hút nhiều

lao động vừa giản đơn vừa lành nghề. Một bộ phận đòi hỏi trình độ lao động có

kỹ năng cao rất thích hợp với cơ cấu lao động của Việt Nam . Kinh nghiệm của

Trung Quốc cho thấy đối với các nhà ĐTNN, tỉ lệ sản xuất các bộ phận, linh

kiện trong nước càng cao càng tốt để giảm giá thành và nâng cao hiệu quả cũng

như sức cạnh tranh. Điều này có lẽ khác với nhận thức của một số người, trong

đó có cả những nhà hoạch định chính sách, khi cho rằng các công ty đa quốc gia

thường không muốn tăng tỉ lệ nội địa hóa để đưa linh kiện từ ngoài vào.

Vì thế trước mắt ta không nên tiếp tục dùng biện pháp hành chính hay thuế

quan ép buộc các công ty đa quốc gia tăng tỉ lệ nội địa hoá mà phải phát triển

công nghệ hỗ trợ trong nước để có thể cung cấp nhanh, rẻ các bộ phận, linh kiện

chất lượng cao. Muốn vậy, Việt Nam phải có ngay một kế hoạch tạo bước đột

phá tăng nhanh việc sản xuất linh kiện mà ta có lợi thế cạnh tranh trước hết ở ba

vùng kinh tế trọng điểm từ khâu thiết kế, sản xuất, tiếp thị, cung cấp nguyên

liệu, linh kiện, phụ tùng, dịch vụ sửa chữa. lao động có tay nghề...Việc này, theo

kinh nghiệm của thế giới, chủ yếu nên dựa vào các doanh nghiệp có qui mô nhỏ

81

và vừa trên cơ sở hợp tác đầu tư với nước ngoài.

Cần hết sức lưu ý đến các biện pháp để các công ty đa quốc gia không di

chuyển các cơ sở sản xuất của họ từ Việt Nam sang các nước ASEAN khác sau

khi AFTA được thực hiện đầy đủ vào năm 2006. Gần đây các biện pháp tăng

thuế, hạn chế hạn ngạch nhập khẩu (xe máy, ô tô...) để ép các công ty tăng tỉ lệ

nội địa hoá không được các nhà ĐTNN, thậm chí cả chính phủ của họ ủng hộ

cho dù mục tiêu của chính sách này về lâu dài là đúng. Trong tình hình hiện nay

nên cân nhắc có lựa chọn cho tự do nhập khẩu, miễn thuế những loại linh kiện

mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh để giảm giá thành lắp ráp, vừa duy trì khả

năng cạnh tranh với các nước ASEAN vừa giữ chân các công ty đa quốc gia.

1.4 Sửa đổi, ổn định một số luật thuế

- Nhiều doanh nghiệp FDI tiếp tục kiến nghị Chính phủ về những bất cập

trong chính sách thuế chưa khuyến khích sản xuất, chế tạo sản phẩm trong nước,

đặc biệt là việc áp dụng thuế VAT làm đội giá thành sản phẩm quá cao, không

được thị trường chấp nhận, buộc một số doanh nghiệp phải sản xuất cầm chừng,

điển hình là các doanh nghiệp sản xuất hàng điện gia dụng (máy điều hoà, tủ

lạnh).

Đề nghị Quốc hội xem xét sửa đổi Luật thuế VAT, đưa ra ngoài diện đối tượng

áp dụng thuế VAT các máy móc thiết bị nhập khẩu để tạo tài sản cố định của các

doanh nghiệp FDI .

Đối với những mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, phải có biện pháp khấu

trừ thuế VAT đầu vào cho các doanh nghiệp (hiện nay không thể khấu trừ vì sản

phẩm không thuộc điều chỉnh của thuế VAT).

- Cần xem xét việc miễn thuế nhập khẩu đối với phụ tùng thay thế trong các

dây chuyền công nghệ sản xuất đồng bộ và các loại máy móc hiện đại, máy

chính xác trong thời gian ổn định từ 5-10 năm. Miễn giảm thuế đối với nguyên

liệu, vật tư nhập khẩu phục vụ cho sản xuất thử.

- Quy định lại thời hạn tạm miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập

82

khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu là 80 ngày. Đơn giản thủ tục hoàn thuế cho

doanh nghiệp, đảm bảo thời gian làm thủ tục hoàn thuế không quá 30 ngày kể từ

khi cơ quan có thẩm quyền nhận được công văn xin hoàn thế.

- Bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với doanh nghiệp

FDI, cho doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế theo luật mới đồng thời đảm

bảo nguyên tắc không hồi tố, nghĩa là những quy định của luật cũ có lợi cho

doanh nghiệp đã được cấp Giấy phép trước ngày luật mới có hiệu lực thì doanh

nghiệp được hưởng theo luật cũ.

- Một số doanh nghiệp sản xuất đồ điện gia dụng như các Công ty điện tử

Sony, JVC, Công ty Amtronics (Toshiba), LG - Meca, Carier, phản ánh việc áp

dụng Thông tư 1994/1998 của Bộ Tài chính về đánh thuế nhập khẩu linh kiện

theo tỉ lệ nội địa hoá đối với sản phẩm này sau năm 2000 không hợp lý, vì trong

nước hiện nay hầu như không sản xuất được linh kiện. Đề nghị Quốc hội xem

xét cho phép các doanh nghiệp kéo dài thời gian chuẩn bị điều kiện nội địa hoá

sản phẩm tới năm 2003 chưa áp dụng các biện pháp bắt buộc nội địa hoá đối với

các sản phẩm trong nước chưa đủ điều kiện thực hiện.

- Đề nghị Quốc hội xem xét cho phép Chính phủ điều tiết bằng các biện

pháp phi thuế quan đối với những sản phẩm mà doanh nghiệp trong nước đã sản

xuất đáp ứng nhu cầu về số lượng cũng như chất lượng, hạn chế nhập khẩu.

- Việc ban hành một số văn bản thiếu cân nhắc như Thông tư 40/2000 của Bộ

Tài chính hướng dẫn thi hành Quyết định 176/1999/QĐ -TTg của Thủ tướng

Chính phủ, Thông tư 45/2000/TT-TCHQ về lệ phí hải quan đã gây trở ngại lớn

cho sản xuất của các doanh nghiệp, lãng phí thời gian của doanh nghiệp và các

cơ quan Nhà nước, dẫn đến việc phải bãi bỏ các văn bản trên ngay sau khi ban

hành, ảnh hưởng tới niềm tin của doanh nghiệp vào đường lối nhất quán của

Nhà nước ta trong thu hút đầu tư nước ngoài

1.5. Giảm nhẹ các thủ tục hành chính

Giờ đây sức cạnh tranh không phải chỉ ở giá thành và chất lượng mà còn phụ

83

thuộc khả năng tiếp thị và tốc độ cung cấp. Trong đó tốc độ cung cấp lại phụ

thuộc một phần rất quan trọng vào tốc độ xử lý hành chính mà rất tiếc là tốc độ

này ở ta rất chậm, có lẽ tệ nhất trong các nước ASEAN.

Theo điều tra của Tổ chức Xúc tiến thương mại của Nhật Bản (JETRO) năm

2002, 42% các doanhnghiệp Nhật được hỏi nói rằng khó khăn lớn nhất của họ

tại Việt Nam là thủ tục hành chính, trong khi con số này ở Thái Lan chỉ 13%,

Philippines 18% và Indonesia 22%. Một ví dụ cụ thể: Nhật hàng năm nhập khẩu

hơn 500 tỉ yen (4 tỉ USD) sản phẩm quần áo có nguyên liệu là len đan. Do vậy

len đan xuất khẩu từ Nhật để gia công ở nước ngoài khi nhập thành phẩm trở lại

chỉ bị đánh thuế nhẹ. Có tới 80% sản phẩm gia công theo cách này được nhập

khẩu từ Trung Quốc, còn nhập khẩu từ Việt Nam không đáng kể. Nguyên nhân

chính là do thủ tục hải quan của ta quá rắc rối, tốc độ xử lý chậm trong khi điều

kiện chi phí lao động cho gia công ở Trung Quốc và Việt Nam ngang nhau.

Các cơ quan hành chính các cấp nên có thái độ đối xử với doanh nghiệp

thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp FDI như cách chính

quyền tỉnh Bình Dương đang làm. Đó là tinh thần phục vụ doanh nghiệp và lo

cái lo của doanh nghiệp.

2. Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý doanh

nghiệp, công chức nhà nước, và công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, phương pháp hoạt động kinh tế đối ngoại, trình độ ngoại ngữ và

tay nghề kỹ thuật cao, đủ khả năng để đáp ứng tốt yêu cầu thu hút và quản lý

hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài .

2.1 Chú trọng công tác cán bộ, đào tạo công nhân có tay nghề cao phù hợp

với yêu cầu của các nhà đầu tư, kịp thời tham gia lao động khi có nhu cầu ở

các KCN, KCX

Trong hoạt động FDI, công tác cán bộ đặc biệt quan trọng vì cán bộ vừa tham

gia hoạch định chính sách, vừa là người vận dụng luật pháp, chính sách để xử

lý tác nghiệp hàng ngày liên quan đến mọi hoạt động FDI. Cán bộ quản lý Việt

84

Nam trong các liên doanh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của

Nhà nước Việt Nam, của doanh nghiệp Việt Nam, của người lao động; đảm bảo

cho doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật. Do đó, phải đặc biệt chú

trọng đến công tác đào tạo nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực,

trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức Nhà nước các cấp, đôị ngũ cán bộ

Việt Nam trong các doanh nghiệp FDI.

- Có những doanh nghiệp FDI thuộc ngành cơ khí không tuyển nổi một

công nhân kỹ thuật dưới 30 tuổi có tay nghề bậc 5. Hầu hết lao động trực tiếp

của các doanh nghiệp FDI đều tuyển từ các vùng nông thôn, chưa qua đào tạo.

Các nhà quản lý nước ngoài đều có đánh giá chung là lao động Việt Nam tuy

chịu khó và cần cù nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp ít, không có tác phong

công nghiệp cho nên năng suất lao động rất thấp. Để hoạt động đầu tư trực tiếp

nước ngoài có hiệu quả, đạt được mục tiêu đề ra, vấn đề quan trọng là chúng ta

không thể không có kế hoạch, quy hoạch đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật để

vừa đáp ứng kịp thời cho nhu cầu trước mắt, vừa chuẩn bị một cách cơ bản và

lâu dài cho loại hoạt động này.

Trước mắt nhà nước cần xây dựng Quy chế cán bộ Việt Nam tham gia Hội

đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh, trong đó cần quy định rõ tiêu

chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi

của cán bộ trong và sau thời gian làm việc tại các doanh nghiệp FDI; chế độ

báo cáo, kiểm tra. Hiện nay, Ban Tổ chức Trung ương đang phối hợp với các

Bộ liên quan (trong đó có Bộ Công nghiệp) nghiên cứu chuyên đề quan trọng

này, để trình Bộ chính trị.

- Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đào tạo

chính quy cán bộ làm công tác FDI, cán bộ quản lý các doanh nghiệp có vốn

FDI, trong ngành công nghiệp .

- Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thường

xuyên việc tập huấn số cán bộ Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các liên

85

doanh trong ngành công nghiệp, trang bị kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ,

luật pháp cũng như những kinh nghiệm cần thiết nhất cho họ.

- Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh-Xã hôị, Uỷ

ban Nhân dân cấp tỉnh, Ban quản lý KCN tổ chức đào tạo công công nhân lành

nghề làm việc cho các doanh nghiệp FDI. Thực tế cho thấy, công tác đào tạo

của nước ta những năm qua còn nhiều bất hợp lý, tỷ lệ Đại học/ trung học là

4/1 trong khi đó ở các nước tiên tiến, tỷ lệ đó là 1/6, điều đó dẫn đến tình trạng

“thừa thầy thiếu thợ “ như hiện nay (theo số liệu thống kê trong ngành công

nghiệp Tp. Hồ Chí Minh, tỷ lệ cán bộ kinh tế/ công nhân lành nghề là 4/1).

Công nhân có trình độ tay nghề cao không nhiều, lao động chủ yếu chưa qua

đào tạo (chiếm 60-70%).

2.2 Cùng với các chính sách linh hoạt về vấn đề chuyển giao công nghệ trong

ngàng Công nghiệp, cần phải có các chế độ ưu đãi phù hợp đối với các cán bộ

nghiên cứu khoa học

Hoạt động hợp tác đầu tư kèm theo nó là hoạt động chuyển giao công nghệ

(CGCN) vào Việt Nam. Muốn xây dựng xã hội Xã hội Chủ nghĩa, trước hết cần

xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước nhà. Muốn vậy, CGCN là con

đường ngắn nhất và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, do nôn nóng và thiếu hiểu biết

nên trong thời gian qua nước ta đã cho chuyển giao nhiều dây chuyền công nghệ

lạc hậu từ 40-60 năm và nước ta có nguy cơ trở thành bãi thải công nghệ của các

nước trong khu vực và trên thế giới; năng lực sản xuất thì không hiệu qủa. Một

số công nghệ lại quá hiện đại, công nhân Việt Nam không kịp tiếp nhận, làm

quen trong một thời gian ngắn cho nên phải thuê chyên gia nước ngoài; các dây

chuyền công nghệ này lại không phát huy hết công suất thiết kế.

Do đó để hoạt động CGCN đạt hiệu quả, Nhà nước cần đầu tư kinh phí cho

công tác nghiên cứu ứng dụng cho các Viện nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, các

trường Đại học... Có chính sách về lương và các chế độ kèm theo cho cán bộ

nghiên cứu khoa học. Đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật đủ trình độ tiếp thu

86

kinh nghiệm quản lý và vận hành các dây chuyền công nghệ, tiến tới làm chủ

công nghệ đó. Năm 2001, dự tính đầu tư cho khoa học công nghệ khoảng 2,3%

tổng chi Ngân sách, song theo dự tính với nguồn kinh phí này cũng chỉ đủ đáp

ứng được 40-50% nhu cầu hoạt động của ngành khoa học công nghệ. Các cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền cũng cần có sự quan tâm đúng mức các công

trình nghiên cứu khoa học công nghệ trong địa bàn, thực hiện tốt, nhanh làm thủ

tục thẩm định, xét duyệt các dự án bằng cách phối hợp với ngân hàng... khuyến

khích các doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết với các Viện nghiên cứu, các

trung tâm, các trường Đại học cùng đầu tư, nghiên cứu, ứng dụng các đề tài

nghiên cứu khoa học.

Muốn tiến hành phát triển mạnh ngành Công nghiệp, cần có thiết bị, dây

chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại... hoạt động CGCN có thể đáp ứng được

yêu cầu đó. Song, để hoạt động CGCN đạt được hiệu quả và phục vụ cho nhu

cầu thiết thực của ngàng cũng như của cả nước, một trong những đòi hỏi cơ bản

là nước ta cần có một trình độ khoa học công nghệ nhất định.

3. Sớm hình thành một thị trường vốn đồng bộ, tạo ra khả năng đa dạng hoá

trong huy động vốn cho đầu tư.

- Nhà nước phải tạo điều kiện để các doanh nghiệp FDI được tiếp cận thị

trường vốn; được vay tín dụng kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng

hoạt động ở Việt Nam, tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của các

dự án và có thể bảo đảm bằng tài sản của các Công ty mẹ ở nước ngoài; được

phép thí điểm phát hành cổ phiếu, trái phiếu ở thị trường trong và ngoài nước để

thu hút thêm vốn đầu tư.

- Phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn

đầu tư bằng các nguồn huy động dài hạn như: trái phiếu, cổ phiếu; tiến tới thực

hiện cổ phần hoá doanh nghiệp FDI. Sớm ban hành các quy định về cầm cố, thế

chấp, bảo lãnh để đẩy nhanh việc giải ngân vốn vay của các doanh nghiệp FDI;

có quy định cụ thể về hoạt động của các quỹ đầu tư.

87

- Xây dựng Quy chế quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp FDI; ban

hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo

điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp; đồng thời bảo đảm sự

quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp.

- Cho phép các doanh nghiệp FDI được chuyển nhượng và thế chấp quyền sử

dụng đất để vay vốn từ các ngân hàng nước ngoài trong quá trình thực hiện các

dự án đầu tư tại Việt Nam .

- Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt buộc khi có

điều kiện; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với

các giao dịch vãng lai.

- Một vấn đề nữa là cân đối ngoại tệ cho các dự án đầu tư nước ngoài. Đây

đang là một thách thức cho sự phát triển các dự án. Nhiều doanh nghiệp triển

khai sớm nhằm vào thị trường trong nước, sản xuất hàng thay thế hàng nhập

khẩu, đã đến thời kỳ phải trả vốn vay trong khi khả năng đáp ứng nhu cầu ngoại

tệ trên của các ngân hàng thương mại rất hạn chế, nhất là vào thời điểm cuối chu

kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.

- Hiện vẫn còn nhiều khác biệt trong đối xử giữa các doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài phải trả giá điện, nước, cước phí điện thoại, giá vé đi lại và các

dịch vụ khác cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Ngược lại, các doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương

tiện vận tải dùng cho sản xuất kinh doanh trong khi đó các ưu đãi này không

được áp dụng cho các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa thuế suất, thuế lợi tức

được áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thấp hơn các

doanh nghiệp trong nước.

Trong thực tế, bù lại chi phí cao, sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài thường đạt chất lượng cao và giá bán cũng cao, khả năng chiếm

lĩnh thị trường tốt hơn. Bởi vậy, trong giai đoạn đầu, lợi nhuận của các doanh

88

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể chưa cao hoặc bị lỗ, nhưng về lâu dài,

họ bù đắp được chi phí để đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi. Năm 1996, số

thuế mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp cho Ngân sách

nhà nước chiếm gần 23% tổng số thu Ngân sách nhà nước là con số không nhỏ.

Thiết nghĩ, vốn đầu tư nhà nước là cần thiết song vốn đầu tư trong nước vẫn là

yếu tố quyết định sự tồn tại, phát triển lâu dài của nền kinh tế nói chung, của

ngành công nghiệp nói riêng. Do đó, trong thời gian tới, một mặt thu hút hơn

nữa vốn đầu tư nóng vào ngành công nghiệp Việt Nam , mặt khác cần có các

chính sách ưu đãi, khuyến khích và hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của

các doanh nghiệp công nghiệp trong nước.

4. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư.

Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần phải được đổi mới về nội dung và

phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có hiệu

quả. Trước hết, cần xác định xúc tiến đầu tư cũng như xúc tiến thương mại là

nhiệm vụ và trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, của Bộ, ngành, các

tỉnh, Ban quản lý các Khu công nghiệp. Cần thành lập bộ phận xúc tiến tại Bộ

Công nghiệp, tổng công ty, các cơ quan đại diện của nước ta tại một số địa bàn

trọng điểm ở nước ngoài để chủ động thu hút đầu tư nước ngoài. Ngân sách nhà

nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng cho công tác vận động, xúc tiến

đầu tư.

Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo

chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc thu hút các nhà đầu tư truyền

thống ở Châu á, ASEAN vào các dự án mà họ có kinh nghiệm và thế mạnh như

công nghiệp chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu...Cần chuyển hướng

mạnh sang Châu âu, Bắc Mỹ nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ kỹ thuật

hiện đại của các Tập đoàn xuyên quốc gia để nâng cao năng lực cạnh tranh của

nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại.

Trên cơ sở quy hoạch ngành, sản phẩm, lãnh thổ và danh mục dự án kêu gọi

89

đầu tư được phê duyệt; Bộ Công nghiệp cùng với các địa phương cần chủ động

tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với dự án, trực

tiếp đối từng tập đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng. Đối với một số dự án

lớn, quan trọng, liên quan đến quôc kế dân sinh, cần chuẩn bị kỹ lưỡng dự án kể

cả việc đề nghị một số nước hỗ trợ lập báo cáo nghiên cứu khả thi. Trên cơ sở

đó, Chính phủ lựa chọn, mời trực tiếp một số Tập đoàn lớn trong ngành để đàm

phán, tham gia đầu tư vào các dự án đó.

Bộ Công nghiệp cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao,

BộThương mại tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế thị trường đầu tư,

chính sách của các nước, các Tập đoàn xuyên quốc gia, các tập đoàn và các công

ty lớn để có chính sách vận động thu hút đầu tư phù hợp. Nghiên cứu luật pháp,

chính sách, biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực

cũng như trên thế giới để kịp thời có đối sách thích hợp.

Cần tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư hiện có dự án đầu tư

đang hoạt động, giúp họ giải quyết các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý

nghĩa quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các

nhà đầu tư mới.

5. Đối với việc lựa chọn các đối tác nước ngoài: cần xác định chiến lược lâu

dài là dành sự ưu tiên hơn cho việc thu hút các nhà đầu tư thuộc các công ty

xuyên quốc gia lớn, thực thụ, tiến tới xoá bỏ tình trạng thu hút các nhà đầu

tư thiếu năng lực hoặc làm trung gian, môi giới đầu tư.

Đặc điểm nổi bật của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vừa qua, phần

lớn không phải xuất phát từ các công ty mẹ, mà là xuất phát từ các công ty thuộc

thế hệ thứ hai, tức là xuất phát từ các chi nhánh công ty nước thứ hai đầu tư vào

nước ta (nước thứ ba), còn quá ít các công ty xuyên quốc gia lớn. Trong khi đó

hầu hết các lĩnh vực trong ngành công nghiệp đều đòi hỏi nhu cầu vốn lớn, trang

thiết bị công nghệ hiện đại (công nghiệp dầu khí, công nghiệp nặng).

Một trong những điều kiện có tính chất quyết định khả năng thu hút các công

90

ty xuyên quốc gia lớn đến đầu tư là phải có các doanh nghiệp đối tác trong nước

đủ mạnh về nhiều mặt. Và, để có được các doanh nghiệp loại này, Nhà nước ta

cần có sự lựa chọn, hỗ trợ, đầu tư, xây dựng tạo cho những điều kiện, cơ hội thử

thách và phát triển. Chúng ta cần có sự đầu tư thoả đáng để sớm hình thành các

tập đoàn kinh tế hùng mạnh làm trụ cột cho sự phát triển kinh tế nước nhà, vừa

đủ sức vươn ra hoạt động có hiệu quả trên thị trường quốc tế.

Tóm lại, để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trong ngành Công

nghiệp, một mặt Bộ Công nghiệp kiến nghị các cơ quan soạn thảo Luật và các

văn bản quy phạm pháp luật tạo điều kiện pháp lý nhằm giúp Bộ Công nghiệp

tiếp cận được nguồn thông tin báo cáo trực tiếp từ các doanh nghiệp công nghiệp

FDI để không ngừng cập nhật thông tin phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước

theo chuyên ngành; mặt khác bản thân ngành cũng phải có những cải cách, thay

đổi mang bản sắc riêng của ngành để tạo hiệu quả thu hút nguồn vốn đầu tư trực

91

tiếp nước ngoài ngày càng cao hơn.

KẾT LUẬN

Chỉ sau hơn một thập kỷ triển khai, đến nay khu vực công nghiệp có vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) đang có vai trò ngày càng quan trọng

trong nền kinh tế Việt Nam. Sự lớn mạnh của khu vực này không những góp

phần thúc đẩy quá trình đổi mới và phát triển các ngành công nghiệp của Việt

Nam theo hướng hiện đại hoá, mà còn góp phần trực tiếp tăng cường khả năng

xuất khẩu của Việt Nam.

Khu vực công nghiệp có vốn ĐTNN bao gồm 4 chuyên ngành: Công

nghiệp Dầu khí; Công nghiệp nặng; Công nghiệp nhẹ và Công nghiệp thực

phẩm. Trong khi công nghiệp dầu khí đang phát triển theo chiều sâu, tạo ra

những sản phẩm mới như năng lượng, khí đốt, dầu nhờn, bột PVC và tiến tới

sản xuất sản phẩm xăng dầu các loại thì công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và

công nghiệp thực phẩm cũng ngày càng lớn mạnh, thu hút ngày càng nhiều vốn

đầu tư nước ngoài (hầu hết các hãng lớn nổi tiếng trên thế giới đều đã đầu tư

vào Việt Nam như các hãng Toyota, Mercedes,...vào lĩnh vực sản xuất ô tô;

Suzuki, Yamaha, Honda,...vào lĩnh vực sản xuất lắp ráp xe máy; Adidas, Bata,

Reebox,... vào lĩnh vực da-giầy; Heneken, Coca-Cola,...vào công nghiệp thực

phẩm...). Chỉ riêng trong 8 tháng đầu năm 2002, trong khi xuất khẩu dầu thô

đạt 1.740 triệu USD, thì kim ngạch xuất khẩu của các ngành khác đạt 2.798

triệu USD.

Công nghiệp có vốn ĐTNN hiện có mặt trong hầu hết các ngành công

nghiệp trọng yếu của Việt Nam, kể cả ngành đóng tàu biển, khai thác

than...Công thiệp có vốn ĐTNN hiện chiếm 100% sản phẩm của 2 ngành dầu

khí và bột ngọt; trên 80% của ngành sản xuất xe máy; trên 90% về sản xuất ô

tô, ti vi và xe đạp; trên 50% trong sản xuất thép...Ngoài ra công nghiệp có vốn

ĐTNN đã và đang tham gia đánh thức các tiềm năng kinh tế ở các địa phương

biến nhiều vùng đất hoang vắng thành các khu công nghiệp lớn. Có thể kể đến

92

những địa phương như Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng,

Hà Nội, TP HCM...

Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy rõ những đóng góp lớn lao của khu

vực công nghiệp có vốn ĐTNN đối với nền kinh tế Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện

nay là, cần tiếp tục có các giải pháp, chính sách, định hướng cụ thể để xoá bỏ

những rào cản, tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi thu hút nguồn vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp. Từ đó có biện pháp hỗ trợ cụ thể và

thiết thực để khu vực công nghiệp này tăng trưởng với nhịp độ cao, trên cơ sở

đó cùng với các khu công nghiệp nhà nước và công nghiệp ngoài quốc doanh

đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH, nhằm thực hiện mục tiêu tới năm 2020 đưa

Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp như mục tiêu đã đề ra.

Mục tiêu giới hạn của bài viết chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu tổng hợp để

minh hoạ một bức tranh tổng quát về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp

FDI trong lĩnh vực công nghiệp mà chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu tài

chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh, lỗ - lãi của từng doanh nghiệp, từng chuyên

ngành nhỏ của khu vực này.

Bài viết của em đã đề cập thực trạng cũng như những tồn tại hạn chế của tình

hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp Việt Nam

và có một số nhận định riêng của bản thân. Tuy nhiên, do hạn chế về kinh

nghiệm cũng như thời gian nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót nhất

định. Rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý của các thầy cô giáo để sửa đổi,

bổ sung, hoàn thiện bài viết, phục vụ tốt cho công cuộc thu hút, sử dụng và quản

lý vốn FDI trong ngành công nghiệp.

93

Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình “ Đầu tư nước ngoài: - Đại học Ngoại Thương.

2. Báo cáo tổng hợp năm 2001/2002 Vụ Quản lý Dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu

tư.

3. Bộ Công nghiệp

- Báo cáo tình hình hoạt động năm 2000 của Bộ Công nghiệp

- Chiến lược và chính sách công nghiệp số 1 và 6 năm 2001.

- Quy hoạch phát triển các ngành Công nghiệp đến năm 2005

4. Các văn bản pháp lý về đầu tư nước ngoài.

5. “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Cơ sở pháp lý - Hiện trạng - cơ hội - triển

vọng” Phan Hữu Thắng, Hoàng Văn Huấn, Nguyễn Anh Tuấn/ Vụ Quản lý

dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

6. “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc CNH, HĐH ở Việt Nam” TS.

Nguyễn Trọng Xuân/ Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia,

Viện Kinh tế học-Xuất bản năm 2002

7. “Dầu khí Việt Nam” Đoàn Thiên Tích-Nguyên Phó Chủ tịch Công đoàn Dầu

khí Khoá I (1993-1998)/ Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

8. Thời báo kinh tế các số: 135 ra ngày 11/11/2002; số 14 ra ngày 24/1/2003;

số 17-22 ra ngày 7/2/2003,

9. Báo Đầu tư ra ngày 30/8/2002; số 11 ra nganỳ 5/3/2003

10.Tạp chí Thương mại/ Bộ Thương mại Số 3+4+5-2003; số 22-23 tháng

2/2003

11. Kinh tế và dự báo số 1, 2 năm 2003

12. Nghiên cứu kinh tế số 294 tháng 11/2002, số 296 tháng 1/2003

13. Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương; số 6/12/2002 / Trung tâm kinh tế Châu

94

Á- Thái Bình Dương (VAPEC)

95