MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn........................................................................................................ i
MỤC LỤC........................................................................................................ ii
MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI................................................ 7
1.1. Một số vấn đề thi pháp học ...................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm về Thi pháp học..................................................................... 7
1.1.2. Các bình diện thi pháp cơ bản trong sáng tạo văn học ……………..... 8
1.2. Thi pháp văn học trung đại ……………………………………….……... 12
1.2.1. Tính ước lệ …………………………………………………….……... 13
1.2.2. Tính quy phạm ……………………………………………………... ... 14
1.2.3. Tính phi ngã ……………………………………………….………….. 14
1.2.4. Thiên nhiên trong thơ văn trung đại ………………………………...... 14
1.2.5. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong văn
học trung đạị………………………………...……………..………………… 15
1.2.6 Con người trong văn thơ trung đại …….………...……………….…… 16
1.3 Một số vấn đề về thi pháp thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ
Tú Xương ……………………………………………………………….….. 18
1.3.1. Một số vấn đề về thi pháp Nguyễn Khuyến……………………….….. 18
1.3.2. Một số vấn đề về thi pháp Tú Xương .…………............................….. . 26
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG DẠY HỌC THƠ TRUNG ĐẠI TRONG
NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY VÀ ĐỊNH HƢỚNG ĐỔI
MỚI TỪ HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP……………………………..… 39
2.1 Thực trạng dạy học thơ trung đại trong nhà trường phổ thông hiện nay…. 39
2.1.1. Thực trạng học thơ trung đại nói chung trong nhà trường
phổ thông hiện nay……………………………………………..……………. 39
2.1.2. Thực trạng dạy học “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và
4
“Thương vợ” của Tú Xương…………….………………………………….. . 41
2.2. Những định hướng đổi mới khi giảng dạy hai bài thơ “Thu điếu”
của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương từ hướng tiếp
cận thi pháp………………………………………………………………….. 43
2.2.1.Dạy bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ” của
Tú Xương từ hướng tiếp cận thi pháp thơ trung đại……………………..…… 43
2.2.2.Dạy bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của
Tú Xương theo đặc điểm thi pháp tác giả……………………………………. 45
2.2.3. Kết hợp một cách hợp lí với các phưong pháp dạy học các
tác phẩm văn chương…………………………………………………………. 66
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM DẠY BÀI “THU ĐIẾU” (NGUYỄN
KHUYẾN) VÀ “THƢƠNG VỢ” (TÚ XƢƠNG) TỪ HƢỚNG TIẾP
CẬN THI PHÁP……………………………………………………………... 72
3.1 Mục đích thực nghiệm…………………………………………………….. 72
3.2 Những khó khăn, thuận lợi đặt ra khi dạy “Thu điếu” của Nguyễn
Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương theo hướng tiếp cận thi pháp……… 72
3.2.1 Khó khăn……………………………………………………………….. 72
3.2.2 Thuận lợi …………………………………………………………….… 75
3.3 Thiết kế giáo án thực nghiệm dạy học bài “Thu điếu” củaNguyễn
Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương ………………………… ……..… 76
3.3.1 Bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến………………………………. … 76
3.3.2. Bài “Thương vợ” của Tú Xương ………………………………….… 87
3.4. Tổ chức thực nghiệm……………………………………………..….... 96
3.4.1. Chọn lớp thực nghiệm……………………………………………….. 96
3.4.2. Dạy thực nghiệm ……………………………………………………... 96
3.5. Kết quả thực nghiệm ……………………………………………...……. 97
3.5.1 Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả với đối tượng khảo
sát là giáo viên ………………………………………………………...…….. 97
3.5.2. Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả với đối tượng khảo 5
sát là học sinh…………………………………………………………….…. 98
3.5.3. Đánh giá kết quả…………………………………………………....... 99
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ …………………….……….………… 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………..……………… 103
6
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học có vị trí quan trọng đặc thù trong việc bồi đắp tâm hồn, hình thành
nhân cách học sinh. Văn học trang bị những cảm xúc nhân văn, giúp con người
hướng tới chân - thiện - mỹ. Nhờ có văn học mà đời sống tinh thần của con người
ngày càng giàu có, phong phú, tinh tế hơn. Tâm hồn trở nên bớt chai sạn, thờ ơ,
bàng quan trước những số phận, cảnh đời diễn ra xung quanh mình hàng ngày,
trước thiên nhiên và tạo vật. Điều này càng quan trọng khi chúng ta đang sống
trong guồng quay hối hả của cuộc sống hiện đại, văn học bồi đắp cho học sinh
lòng yêu nước, thái độ trân trọng truyền thống, và ngôn ngữ mẹ đẻ... Thời nào
cũng vậy, tác phẩm văn học chân chính có khả năng kì diệu là thanh lọc tâm hồn
con người, làm người “gần người hơn”.
Mặc dầu có vị trí, chức năng quan trọng đặc biệt như vậy nhưng trong thời
đại của nền kinh tế thị trường nhu cầu nhân lực, do tâm lí thực dụng của học sinh
hiện nay trong việc chọn ngành, nghề cho mình có thu nhập cao, nên hiện nay
đang xuất hiện tình trạng nhiều học sinh không thích học môn Ngữ văn. Các em
coi các môn khoa học tự nhiên, ngoại ngữ, Tin học là những hành trang bước vào
thế kỷ. Với thực tế trên đã khiến cho nhiều học sinh vốn đã không thích học môn
Ngữ văn, đặc biệt là những học sinh thi các khối thi có các môn khoa học tự
nhiên, càng có “cớ” để lạnh nhạt, hờ hững với môn học này nhất là khi học các
tác phẩm khó như các tác phẩm thơ trung đại. Vì vậy, chất lượng môn Văn ngày
càng đi xuống ở tình trạng báo động. Học sinh rất chán học văn, giáo viên không
còn tâm huyết để dạy, đặc biệt là trong những giờ học tác phẩm văn học trung
đại. Xét về lịch sử phát triển văn học, giai đoạn văn học trung đại Việt Nam là
một giai đoạn có vị trí hết sức quan trọng trong tiến trình vận động của nền văn
học nước nhà. Những nền móng vững chắc của văn học dân tộc được xây dựng và
và gìn giữ ngót mười thế kỉ là một tài sản hết sức quý báu đối với các thời kì phát
triển tiếp sau của kiến trúc thượng tầng xã hội. Và trong nhà trường trung học phổ
thông văn học trung đại chiếm một dung lượng khá lớn. Dù vậy, vẫn còn không ít 7
những khía cạnh của văn học trung đại cho đến ngày nay không khỏi làm cho
chúng ta băn khoăn, trăn trở. Để góp phần rút ngắn con đường khám phá giá trị
của văn học trung đại, theo xu hướng chung hiện nay là tiếp cận theo hướng thi
pháp học.
Hiện nay, trong các nhà trường phổ thông đang tiến hành đổi mới phương
pháp dạy học một cách tích cực trong đó việc dạy học văn từ hướng tiếp cận thi
pháp đang diễn ra sâu rộng. Dạy văn theo hướng tiếp cận thi pháp học đang thấm
vào từng tiết học và bước đầu đã có những kết quả. Việc vận dụng phương pháp
này vào dạy văn ở nước ta hiện nay có nhiều điều kiện tốt để thực hiện. Việc phổ
biến tri thức thi pháp học trong nhà trường đã có bề dày khoảng 20 năm. Từ
những vấn đề trên, kết hợp khát khao muốn khám phá cái hay, cái đẹp trong văn
học trung đại qua những tác phẩm của Nguyễn Khuyến và Tú Xương – là hai cây
đại thụ lớn của văn học trung đại, sáng tác của hai ông đã kết tinh nhiều giá trị
thời đại, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn
Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp. Với đề
tài này, chúng tôi muốn tìm đến một cách dạy thích hợp, mang tính khoa học và
nghệ thuật, góp phần nâng cao hiệu quả một giờ giảng dạy văn chương, hình
thành khả năng cảm thụ văn chương một cách toàn diện, từ đó bồi dưỡng cho học
sinh tình yêu đời với môn học này, chúng tôi mong muốn đề tài sẽ góp một phần
nhỏ vào quá trình hiện đại hóa việc dạy học môn Ngữ văn hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đề tài “Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học
phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp” được chúng tôi xem xét và nghiên cứu
lịch sử vấn đề theo hai hướng chính sau:
Thứ nhất: tìm hiểu những tài liệu nghiên cứu liên quan đến thi pháp học.
Thứ hai: tìm hiểu các tài liệu nghiên cứu liên quan đến con người và sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến và Tú Xương.
8
2.1. Thi pháp học
Một số tác giả nghiên cứu phương pháp giảng văn theo quan điểm tiếp cận
thi pháp thể loại, thể tài của tác phẩm. Có thể kể đến các công trình: Vấn đề giảng
dạy tác phẩm văn học theo loại thể (Trần Thanh Đạm - Chủ biên), Mấy vấn đề
phương pháp giảng dạy - nghiên cứu văn học dân gian (Hoàng Tiến Tựu), Mấy
vấn đề phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam (Nguyễn Sĩ Cẩn), Tác phẩm trữ
tình và phương pháp giảng dạy (Nguyễn Thanh Hùng), Phân tích tác phẩm văn
học từ góc độ thi pháp (Nguyễn Thị Dư Khánh),... Nhìn bao quát, những công
trình này đều chủ yếu giới thiệu cách vận dụng đặc trưng thi pháp thể loại, thể tài
vào phân tích hình tượng, kết cấu, ngôn ngữ để làm sáng tỏ tư tưởng chủ đề và
giá trị nghệ thuật của tác phẩm trong khi giảng văn. Các tác giả nêu lên những
phương pháp, biện pháp giảng dạy cụ thể như: đọc, phân tích, giảng giải, rút ra
các khâu, các bước trong quá trình tìm hiểu, phân tích một tác phẩm thuộc thể
loại nhất định, còn cách thức trình bày trước học sinh chưa được nói đến. Cũng có
một vài tác giả cũng có chú ý tiếp cận, phân tích giảng văn trên bình diện thi pháp
tác phẩm nhưng chỉ như là gợi ra một hướng mở.
2.2. Nguyễn Khuyến và Tú Xương
Là hai tác gia trào phúng xuất sắc, con người và sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Khuyến và Tú Xương đã trở thành đối tượng nghiên cứu của lịch sử văn
học, phê bình văn học và lí luận văn học. Qua quá trình phân tích, tổng hợp,
chúng tôi có thể kể đến những công trình nghiên cứu về con người cũng như sự
nghiệp thơ văn của Nguyễn Khuyến và Tú Xương như sau:
2.2.1. Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến được biết đến với tư cách là một nhà thơ từ rất sớm, ngay
từ những năm đầu của thế kỷ XX. Thơ nôm của ông đã được giới thiệu trên tạp
chí Nam Phong và cuốn sách: Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm xuất
bản 1925 cũng đã giới thiệu 7 bài thơ nôm của Nguyễn Khuyến. Từ đó trở đi
Nguyễn Khuyến luôn là một nhà thơ được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Tiếp sau Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm thì trong cuốn sách nổi 9
tiếng Việt Nam Văn học sử yếu (Nha học chính Đông Pháp xuất bản . H. 1943) đã
xếp Nguyễn Khuyến vào hàng ngũ các nhà thơ trào phúng nổi tiếng của văn học
dân tộc. Hay trong cuốn Văn thơ Nguyễn Khuyến (Bộ Giáo dục xuất bản. H.
1957) còn phong cho ông là một nhà thơ trào phúng Việt Nam có tiếng cười độc
đáo. Bộ sách Văn học sử quan trọng nhất của văn học cổ trung đại Lược thảo lịch
sử văn học Việt Nam (gồm 3 tập của nhóm Lê Quý Đôn, Xây dựng xuất bản. H.
1957) đã dành 20 trang để nghiên cứu về Nguyễn Khuyến với tư cách là một nhà
thơ trào phúng lớn. Bài viết của Nguyễn Huệ Chi cũng có những nhận xét về con
người Tam Nguyên Yên Đổ: con người đó cũng không quên nhìn lại mình tự vấn
mình như một kẻ sỹ chân chính thầm để những giọt nước mắt chảy vào trong và
đành cười nhạo thân phận lơ láo tỉnh say, say tỉnh của mình. Sự đa dạng và thống
nhất trên quá trình chuyển động của một phong cách và dấu hiệu chuyển mình
của tư duy thơ dân tộc. Bài Nguyễn Khuyến trong bối cảnh văn hoá xã hội Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đầu XX của tác giả Trần Quốc Vượng ( Theo thi hào
Nguyễn Khuyến đời và thơ) cho thấy sau khi chán ngán quan trường, Nguyễn
Khuyến cáo quan về quê làm một cụ nghè sống cuộc đời như “phỗng đá”, “anh
giả điếc”, “mù loà”, “mẹ mốc”, “gái goá”. Sống như vậy dường như nhà thơ
muốn chạy trốn cuộc đời, chạy trốn giai cấp mà ông đã phục vụ quá nửa đời
mình. Riêng về mảnh đất thi pháp học về tác giả, Trần Đình Sử cũng đã có bài
nghiên cứu về nhà thơ Tam nguyên Yên Đỗ đăng trong tập sách “Thế giới nghệ
thuật thơ” của ông. Bài viết của giáo sư Trần Đình Sử có tính chất khoa học sâu
sắc và có ý nghĩa như là bước định hướng về việc nghiên cứu sâu rộng hơn tác giả
Nguyễn Khuyến đối với những ai quan tâm đến tác gia văn học trung đại này. Bài
viết “Thơ Nguyễn Khuyến, từ quan niệm nghệ thuật về con người đến không –
thời gian nghệ thuật” của tác giả Hoàng Dục cũng tiếp cận thơ Nguyễn Khuyến từ
thi pháp.
2.2.2. Tú Xương
Những công trình, bài nghiên cứu chuyên luận về tiểu sử, sự nghiệp của Tú
Xương như: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XIX của 10
Nguyễn Lộc (phần viết về Tú Xương), Tú Xương – tác phẩm và giai thoại của Đỗ
Huy Vinh, Thơ Tú Xương của Phạm Vĩnh, Trần Tế Xương về tác gia và tác phẩm
của Nguyễn Văn Sỹ,… Những công trình, bài viết đánh giá, bình luận về nội
dung, nghệ thuật qua các sáng tác của Tú Xương, nổi lên như: Thơ văn Trần Tế
Xương – tác phẩm và lời bình của Tuấn Thành, Anh Vũ, các bài viết chuyên luận
“Thơ văn Tú Xương” của Đỗ Đức Hiểu, “Nghệ thuật Tú Xương” của Trần Thanh
Mai – Trần Tuấn Lộ, “Hiện thực và trữ tình trong thơ Tú Xương” của Nguyễn
Tuân… Riêng về thi pháp học, tác giả Hồ Giang Long với cuốn sách Thi pháp
thơ Tú Xương. Trong cuốn sách này, tác giả Hồ Giang Long đã đưa ra các phạm
trù về thi pháp như quan niệm về con người, không gian nghệ thuật, giọng điệu
trong thơ Tú Xương.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu cũng như chuyên luận đều mang tính
khoa học cao và góp phần làm sáng lên giá trị nghệ thuật, giá trị nội dung hiện
thực, trữ tình trong thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Ở đó con người và tác
phẩm của Nguyễn Khuyến và Tú Xương được khẳng định và phân tích. Các công
trình, bài viết nghiên cứu đã giúp tôi có định hướng để tiếp tục nghiên cứu đề tài
nhằm hoàn thành đề tài có chất lượng hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung
học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp nhằm góp phần đổi mới phương pháp
dạy học Ngữ Văn, nâng cao hiệu quả giảng dạy qua đó bồi dưỡng năng lực nhận
thức và tình yêu đối với văn học của học sinh, luận văn xin đề xuất phương pháp
dạy hai bài thơ cụ thể: Thu điếu (Nguyễn Khuyến) và Thương vợ (Tú Xương)
trong chương trình Ngữ văn 11, ban cơ bản.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định đề tài có
những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây:
11
- Giải quyết một số vấn đề lý luận về thi pháp học, thi pháp thơ trung đại, thi pháp
thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ Tú Xương.
- Tìm hiểu thực trạng dạy học tác phẩm thơ trung đại
- Đề xuất phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận thi pháp.
- Thiết kế thể nghiệm giáo án bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ
của Tú Xương theo hướng tiếp cận thi pháp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc trưng thi pháp học, thi pháp văn
học trung đại, thi pháp Nguyễn Khuyến và thi pháp Tú Xương.
+ Định hướng đổi mới dạy bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú
Xương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Nghiên cứu lí luận về dạy học tác phẩm văn chương theo hướng tiếp cận thi pháp.
+ Vận dụng vào dạy Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh, thống kê, phân tích.
- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm .
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng dạy học thơ trung đại trong nhà trường trung học phổ
thông hiện nay và định hướng đổi mới từ hướng tiếp cận thi pháp
Chương 3: Thực nghiệm dạy bài “Thu điếu” (Nguyễn Khuyến) và “Thương vợ”
(Tú Xương) từ hướng tiếp cận thi pháp
12
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề về thi pháp học
1.1.1. Khái niệm về thi pháp học
Từ việc hiểu thi pháp theo nhiều cách khác nhau nên hiện nay cũng có rất
nhiều cách hiểu về thi pháp học. Có ý kiến cho rằng thi pháp học là khoa học
nghiên cứu thi pháp. Có ý kiến lại cho rằng thi pháp học nghiên cứu hình thức
nghệ thuật của văn học và từ hình thức chỉ ra nội dung văn học. Hay thi pháp học
là khoa học nghiên cứu văn học như một nghệ thuật. Hay "Thi pháp học là khoa
học nghiên cứu thi ca (văn học) với tư cách là một nghệ thuật." (V. Girmunxki).
Todorop trong công trình Thi pháp học (1975) định nghĩa thi pháp là những quy
tắc chung mà người ta sử dụng để sáng tác ra tác phẩm văn học cụ thể.
Vinogradop xác định “Thi pháp học là một khoa học nghiên cứu các hình thức,
các dạng thức, các phương tiện, phương thức tổ chức tác phẩm sáng tác ngôn từ,
các kiểu cấu trúc, các thể loại tác phẩm nhằm nắm bắt … không chỉ là các hiện
tượng của ngôn từ văn học, mà còn là bản thân các phương diện hình tượng
khác nhau nhất của cơ cấu tác phẩm văn học và sáng tác văn học dân gian”(
Phong cách học, Lí luận ngôn từ văn học, Thi pháp học M.,1963). Trần Đình Sử
đã đưa ra định nghĩa về thi pháp học như sau : “Thi pháp học là bộ môn nghiên
cứu tất cả mọi phương diện của hình thức nghệ thuật, mọi nguyên tắc, phương
tiện tạo thành nghệ thuật cũng như sự vận động, phát triển lịch sử của chúng”
[16; 8 ]. Từ điển thuật ngữ văn học ( Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi) định nghĩa “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức là hệ thống
các phương thức, phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ
thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống
hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự cấu thành thế giới nghệ
thuật, ấn tượng thẩm mĩ và chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật”.[6; 304]
Từ những định nghĩa nêu trên, ta có thể thống nhất cách hiểu về thi pháp
học như sau: thi pháp học là một bộ môn khoa học đặc thù nghiên cứu thi pháp, 13
tức nghiên cứu các phương tiện nghệ thuật tạo nên tác phẩm nghệ thuật ngôn từ
trong sự thống nhất toàn vẹn của nó.
1.1.2. Các bình diện thi pháp cơ bản trong sáng tạo văn học
Từ cách hiểu về thi pháp học như trên, vậy dạy một tác phẩm văn học theo
hướng thi pháp học cần chú ý 6 bình diện thi pháp trong sáng tạo văn học:
1.1.2.1. Thi pháp nhân vật
Nhân vật là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Thi pháp học xem xét nhân
vật ở ba khía cạnh: tính cách nhân vật, quan niệm nghệ thuật về con người, nghệ
thuật tả nhân vật.
+ Nhân vật và sự miêu tả nhân vật: con người là đối tượng miêu tả chủ yếu của
văn học trong các phương thức trữ tình, tự sự và kịch dù trực tiếp hay gián tiếp.
Nhân vật có tên Kiều hoặc Kim Trọng hoặc không có tên như mụ dì ghẻ, tiểu
đồng, ông quán. Nhân vật được sáng tạo, hư cấu để khái quát và biểu hiện tư
tưởng, thái độ đối với cuộc sống. Ca ngợi nhân vật là ca ngợi cuộc đời, lên án
nhân vật là phê phán đời. Xót xa cho nhân vật là xót xa đời. Tìm hiểu nhân vật là
tìm hiểu về cuộc đời và con người, tìm hiểu tư tưởng tình cảm của tác giả đối với
con người.
Trong thơ trữ tình, có nhân vật trữ tình: con người tự bộc lộ nỗi niềm trước
cuộc sống. Trong kịch, con người tự bộc lộ qua hành động ngôn ngữ của mình.
Trong tác phẩm tự sự (truyện, kí) nhân vật là con người được kể, tả ra bằng lời
của nhà văn.
Nói chung, nhân vật được miêu tả bằng các phương tiện văn học, tức bằng
ngôn từ. Miêu tả bao gồm tả cảnh ngụ tình, diễn tả cảm xúc, tường thuật, kể sự
việc… gọi chung là hình thức của văn học.
Miêu tả trong văn học khác với miêu tả trong các khoa học khác thường chỉ
cần đạt sự chính xác, khách quan. Ở đây miêu tả nhằm hai mục đích: gợi ra hiện
tượng cuộc sống và gợi ra sự cảm thụ và bộc lộ cái nhìn của tác giả. Từ đó nhà
văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người.
14
+ Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc cảm nhận thẩm mĩ khi xây
dựng nhân vật. Quan niệm đó chi phối nhà văn khi miêu tả nhân vật và các bộ
phận khác của tác phẩm (kể cả lời dẫn truyện.v.v..). Đây là kiểu thi pháp cơ bản
nhất của văn học nghệ thuật. Thực tế có hai quan niệm về con người: một là con
người như một phạm trù tư tưởng, chính trị, đạo đức xã hội; hai là con người như
một phạm trù thẩm mĩ. Quan niệm thứ hai chủ yếu là quan niệm của văn nghệ sĩ.
Nàng Kiều là nhân vật có nội tâm phong phú nhưng nàng chỉ biết nhớ người thân
trong hiện tại, không ưa sống trong hồi tưởng và sống với quá khứ như các nhân
vật tiểu thuyết hiện đại sau này. Đó là do quan niệm nghệ thuật về con người của
Nguyễn Du chưa đạt tới như thời hiện đại.
Nghiên cứu thi pháp nhân vật khác với công việc phân tích nhân vật. Phân
tích nhân vật là chỉ ra các nội dung đựơc thể hiện trong nhân vật như tính cách,
ngoại hình, phẩm chất, niềm vui, nỗi buồn, lí tưởng… Trái lại khi nghiên cứu thi
pháp nhân vật, ta phải khám phá cách cảm nhận con người qua việc miêu tả nhân
vật. Tất nhiên, khi ta đã tìm hiểu thi pháp nhân vật thì việc phân tích nhân vật sẽ
sâu sắc hơn, toàn diện hơn.
1.1.2.2. Thi pháp không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là trường nhìn được mở ra từ một điểm nhìn, cách
nhìn. Mỗi tác phẩm có một không gian do tác giả lựa chọn và miêu tả. Là một
hiện tượng nghệ thuật, không gian nghệ thuật mang tính ước lệ giàu ý nghĩa cảm
xúc. Trong ngôn ngữ dân tộc, không gian đã được mã hoá thành ý nghĩa đời sống,
chẳng hạn “cao cả, thấp hèn, nông cạn, sâu sắc, thiên vị, chính trực, ngay thẳng,
quanh co, đại lượng, hẹp hòi…”. Người ta đã mượn ý niệm về không gian để
miêu tả con người. Đó là không gian nghệ thuật chung của mọi người. Mỗi nhà
văn nhà thơ lại chọn hoặc sáng tạo cho mình một không gian riêng. Không gian
nghệ thuật gồm có: không gian sự kiện, không gian bối cảnh, không gian tâm lý,
không gian kể chuyện .
1.1.2.3. Thi pháp thời gian nghệ thuật
15
Thời gian kể chuyện gồm có: thời gian được trần thuật (hình tượng thời
gian), và thời gian trần thuật (thời gian kể chuyện). Tìm hiểu hình tượng thời
gian, cần quan tâm ý nghĩa của các thời: quá khứ, hiện tại, tương lai, độ đo thời
gian của các nhân vật… Tìm hiểu thời gian trần thuật, cần lưu ý cấp độ thời gian
như: trật tự kể với thời gian sự kiện, thời lưu (độ dài các sự kiện được tính bằng
câu), tần xuất (số lần lặp lại). Các thủ pháp thời gian như: trì hoãn, giãn cách, đảo
tuyến, chêm xen, hoán vị, đồng hiện, bỏ lửng, che giấu, đón trước.
1.1.2.4. Thi pháp kết cấu văn bản
Kết cấu tác phẩm thực chất là tác giả mở lối cho người đọc đi vào dòng sự
kiện, dòng đời. Bố trí điểm nhìn cho công chúng sao cho dễ thấy được chiều rộng
và chiều sâu của câu chuyện nhằm thấy được ý nghĩa nhân sinh cần thiết cho con
người. Nói chung, nghệ thuật kết cấu tác phẩm văn học có mấy phương tiện sau:
+ Hệ thống hình tượng nhân vật, sự kiện và các chi tiết. Đó là sự sắp xếp tương
quan nhân vật chính phụ, chính diện – phản diện, lựa chọn và sắp xếp chi tiết,
tình tiết, hoàn cảnh, đồ vật sao cho ý nghĩa hình tượng nổi lên.
+ Hệ thống điểm nhìn và tổ chức văn bản. Tổ chức cái nhìn và hệ thống điểm
nhìn, trước hết cho chính mình. Điểm nhìn nghĩa là: câu chuyện diễn ra dưới con
mắt của ai (nhà văn/ nhân vật trữ tình/ nhân vật chính/ nhân vật phụ hoặc phối
hợp hai người kể). Mỗi điểm nhìn có ý nghĩa khác nhau mặc dù cùng một câu
chuyện ấy thôi. Hệ thống điểm nhìn đặt trong không gian và thời gian (nhìn từ
hiện tại hay quá khứ, nhìn về quãng thời gian nào? Thậm chí còn đứng ở tương
lai giả định nhìn về hiện tại hoặc quá khứ. Nhìn từ xa hay ở gần, trên cao xuống
hay dưới lên… Nhìn một cách chủ quan (từ trạng thái tâm lí) hay khách quan (ghi
chép, trần thuật kiểu phóng sự). Nói cách đơn giản là văn bản bắt đầu từ đâu? Có
hai kiểu mở đầu: văn học dân gian thường bắt đầu câu chuyện theo trình tự tự
nhiên, nhân quả. Văn học hiện đại có thể bắt đầu từ bất cứ điểm nhìn nào theo ý
đồ tác giả. Sau khi xác định điểm nhìn, tức xác định chủ thể kể chuyện thì văn
bản diễn ra theo ngôi thứ thích hợp (anh ấy, lão ta, hắn… ) với giọng điệu thân
16
mật hay nghiêm trang tuỳ quan hệ của người kể với nhân vật. Trong thơ trữ tình,
điểm nhìn từ bên trong và còn nương theo nguyên tắc âm nhạc nữa.
Hình thức kết cấu văn học rất đa dạng và cũng phụ thuộc vào thể loại, riêng
đối với thơ luật thì còn phải theo kết cấu định sẵn ví dụ thơ Đường luật, lục bát,
song thất lục bát. v.v… Sự tích cực chủ động sáng tạo của nhà văn làm phong phú
nhiều kiểu kết cấu thú vị.
1.1.2.5. Thi pháp chi tiết nghệ thuật
Mỗi hình tượng nghệ thuật được thêu dệt nên bằng nhiều chi tiết lớn nhỏ
khác nhau. Những đối tượng miêu tả như nhân vật, cảnh vật, môi trường… tạo
nên bằng hình dáng, đường nét, âm thanh, thuộc tính chọn lọc mà tác giả cho là
cần thiết nhất, quan trọng nhất, loại bỏ những cái rườm rà không cần thiết. Chi
tiết là những bộ phận nhỏ, tự nó đứng riêng thì không có ý nghĩa, nhưng khi kết
lại nó biểu hiện một ý nghĩa của tác phẩm. Chi tiết chính là điểm nhìn, thể hiện
quan niệm nghệ thuật và tâm hồn tác giả đối với đối tượng đó. Thi pháp học hiện
đại khám phá tính quan niệm qua hệ thống các chi tiết nghệ thuật của thế giới
nghệ thuật. Quan sát nhiều chi tiết cùng loại hoặc lặp đi lặp lại, ta thấy nó có một
lớp ý nghĩa nào đó – bởi tác giả quan tâm và rung cảm với nó. Các chi tiết nghệ
thuật bao gồm các loại màu sắc, âm thanh, đồ vật, đường nét, chất liệu…tạo thành
các thế giới nghệ thuật khác nhau về chất. Chi tiết nghệ thuật biểu hiện phẩm chất
thẩm mĩ của thế giới nghệ thuật và cũng biểu hiện niềm rung cảm của tác giả.
1.1.2.6. Thi pháp lời văn nghệ thuật
Lời văn nghệ thuật là thứ ngôn ngữ đặc biệt, được chưng cất hiện thực ngôn
ngữ toàn dân. Lời văn nghệ thuật khác với lời nói bình thường (phi nghệ thuật).
Lời văn nghệ thuật có tính hình tượng, mỗi lời đều là lời sáng tạo của nhà văn
nhằm hiện thực ý muốn của mình. Lời văn nghệ thuật có tính tổ chức cao, được
lựa chọn theo ý thích, thói quen và khả năng của nhà văn, từ âm thanh, từ ngữ,
nhịp điệu, đoạn và cả bài. Các phương diện của lời văn nghệ thuật là ngữ âm, từ
vựng, cú pháp, biện pháp tu từ.
17
Đặc điểm của lờ văn nghệ thuật nhà văn có một lời văn riêng. Đó là thi
pháp của tác giả, nghĩa là lời văn đã tạo ra một hệ thống lời văn độc đáo. Truyền
thống thi pháp cổ khi bình giảng họ chỉ đi tìm những “nhãn tự, thần cú” – có vẻ
ngẫu nhiên may mắn tác giả viết được câu hay, từ đắt mà làm cho bài thơ, văn
hay. Đến thi pháp học hiện đại lại đi tìm quan niệm của lối sử dụng lời văn ấy –
vì sao tác giả sáng tạo như thế?
Khi phân tích ngôn ngữ thơ, cần lưu ý nhạc điệu, các phương tiện và biện pháp tu
từ, cách dùng từ… Mỗi thể thơ đều có những quy định riêng về bút pháp thể hiện,
ví dụ trong thơ Đường luật đặc biệt là thơ thất ngôn tứ tuyệt, do đặc trưng là dung
lượng ngắn nên ngôn ngữ cực kì hàm súc, và thường có hiện tượng “nhãn tự”
(con mắt thơ- từ ngữ hay, “đắt”).
1.2. Thi pháp văn học trung đại
Văn học trung đại là một giai đoạn lớn trong lịch sử văn học nhân loại và
dân tộc. Văn học trung đại là một giai đoạn lớn trong lịch sử văn học nhân loại và
dân tộc. Văn học trung đại Việt Nam tính từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX là giai
đoạn hình thành và phát triển rực rỡ nhất của văn học Việt Nam, là giai đoạn hình
thành các truyền thống lớn về tưởng và nghệ thuật. Văn học trung đại Việt Nam
chiếm một phần không nhỏ trong chương trình phổ thông. Việc dạy văn học trung
đại sao cho có hiệu quả đang là mục tiêu phấn đấu của giáo viên các cấp. Để hiểu,
truyền thụ cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn học trung đại là một việc không
mấy dễ dàng. Để khám phá giá trị của một tác phẩm văn học trung đại đòi hỏi
giáo viên và học sinh phải có một kiến thức nền về môi trường văn hoá trung đại,
tư tưởng ý thức hệ chính thống thời trung đại, điển cố, điển tích, thể loại văn học
v.v.. Nói như vậy, có nghĩa là để hiểu được văn học trung đại chúng ta phải tiếp
cận từ thi pháp văn học trung đại. Văn học trung đại có thi pháp riêng của nó.
Nắm vững thi pháp văn học trung đại không chỉ có ý nghĩa giúp ta chiếm lĩnh sâu
thêm các tác phẩm văn học trung đại mà còn gián tiếp giúp ta làm sáng tỏ đặc
điểm văn học cổ đại và hiện đại trong thế đối sánh. Đặc trưng của thi pháp văn
học trung đại là: 18
1.2.1. Tính ước lệ
Văn học nghệ thuật không hoàn toàn là đời sống thực tại, không sao chép y
nguyên hiện thực. Tuy trong văn học mọi thời kì đều sử dụng ước lệ nhưng chỉ có
thời kì trung đại ước lệ mới được sử dụng một cách phổ biến, phức tạp và nghiêm
ngặt nên được coi là một đặc trưng về mặt thi pháp. Ước lệ là một quy ước của
cộng đồng người. Họ đặt ra những biểu tượng riêng để thay thế cho các sự vật,
hiện tượng trong cuộc sống thực. Trong nghệ thuật đó là quy ước chung của nghệ
sĩ và độc giả. Đó là khuynh hướng lí tưởng hoá để tạo ra một thế giới nghệ thuật
riêng khác với đời sống thực tại. Cái có thật đi vào nghệ thuật được cách điệu hoá
cao độ. Trong sự cách điệu hoá đó, thiên nhiên chính là chuẩn mực, là khuôn
vàng thước ngọc để đánh giá vẻ đẹp. Vì vậy, các nhà văn đều lấy thiên nhiên để
so sánh với con người để tôn vinh vẻ đẹp. Con người đẹp trong văn chương phải
là tóc mây, mày liễu, mặt hoa, gót sen, cử chỉ, dáng điệu như nghệ sĩ trên sân
khấu. Vì vậy, tả mỹ nhân thì làn thu thuỷ, nét xuân sơn, tóc như mây, da như
tuyết… và người đẹp phải đẹp đến nỗi nghiêng nước nghiêng thành hay chim sa
cá lặn, thậm chí Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình. Cây cối trong văn chương
cũng thế, phải sang trọng như mai, lan, cúc, trúc, hay liễu, tùng, bách, thông…
bởi chúng là những biểu tượng để chỉ những phẩm chất, cốt cách, khí tiết của
người quân tử, của bậc trượng phu; nói đến người thì ngư, tiều, canh, mục; con
vật phổ biến là yến oanh, loan phượng, uyên ương, cò hạc.
Nói chung văn chương thời ấy đa số ước lệ, ít tả thực. Nếu có tả thực thì
chỉ dùng cho những nhân vật phàm tục, phản diện, phi mĩ học như Sở Khanh, Tú
Bà.
1.2.2. Tính quy phạm
Người trung đại quan niệm thời gian là tuần hoàn, đi hết một vòng rồi lại
quay trở về gốc. Vì thế, người ta hết sức coi trọng quá khứ, coi trọng sự khởi đầu,
coi trọng người già, người lớp trước (cổ nhân, tiền bối, tiên sinh). Xã hội hoàng
kim phải là thời Nghiêu Thuấn, chuẩn mực cái đẹp và chân lý cũng nằm ở quá
khứ. Vì thế, văn học trung đại đầy rẫy điển cố, điển tích. Mẫu mực của văn 19
chương là các tác giả đời trước như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị. Đó là tinh
thần sùng cổ, sùng thượng, sùng ngoại, suy tôn Thánh hiền, do vậy tạo tính quy
phạm trong văn học. Việc sử dụng những điển tích trên cũng nhằm mục đích lấy
xưa để nói nay, dùng việc cũ, người cũ để nói việc mới, chuyện nay. Khi sáng tác,
các tác giả cũng vay mượn đề tài, cốt truyện, môtip, có khi cải biên cốt truyện để
tạo nên một tác phẩm mới. Đây là sự tuân theo những kiểu mẫu, khuôn mẫu sẵn
có đó thành công thức.
1.2.3. Tính phi ngã
Thời phong kiến ý thức cá nhân chưa phát triển. Con người luôn được đặt
trong quan hệ ràng buộc với cộng đồng, họ hàng, tầng lớp. Chính vì thế, hôn nhân
không phải là chuyện riêng tư, tự nguyện của hai người mà là vấn đề môn đăng
hộ đối của hai gia đình, dòng họ. Người có văn hóa, giáo dục là người biết thu
nhỏ, hạ thấp “cái tôi” cá nhân của mình lại. Vì thế, trong văn học, yếu tố cá nhân
cũng bị dấu đi, khiến văn chương có tính phi ngã không có dấu ấn “cái tôi” cá
nhân. Nhà văn hiếm khi xưng “tôi”, xưng “ta”, không bộc lộ trực tiếp cảm xúc mà
dùng lối gián tiếp: tả cảnh ngụ tình. Nói chung, họ thường sử dụng các công thức
có sẵn để sáng tác. Tả anh hùng thì phải râu hùm, hàm én, vai năm tấc rộng, thân
mười thước cao, tả mĩ nhân thì làn thu thuỷ nét xuân sơn, hoa ghen, liễu hờn...
1.2.4. Thiên nhiên trong thơ văn trung đại
Trong văn chương xưa, thiên nhiên là yếu tố rất phổ biến và đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc biểu lộ tình cảm, ý chí của con người. Người xưa
coi thiên nhiên là một người bạn để họ tâm tình, thổ lộ. Thiên nhiên chưa được
nhìn nhận như là một khách thể, một hiện thực khách quan của cuộc sống có vẻ
đẹp, giá trị riêng. Thiên nhiên thường chỉ là công cụ, là tư liệu, là cái cớ để nhà
văn ngụ ý giáo huấn:
“Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân tới trăm hoa tươi.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi. 20
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một nhành mai.”
(Mãn Giác)
Cành mai nở trước sân trong đêm cuối xuân vốn là hình ảnh rất đẹp về
đường nét, màu sắc, đặc biệt là bối cảnh. Nhưng có thể đó chỉ là một hình ảnh
ước lệ, một chi tiết hư cấu, một bông hoa nở từ trong tâm hồn thiền sư. Vì thế,
bông hoa ấy không được miêu tả hình xác thực mà chỉ xuất hiện như một công cụ
chuyển tải ý tưởng của nhà thơ: sự sống là bất diệt. Tuổi già, bệnh tật của con
người cũng giống như thời khắc xuân tàn của thiên nhiên không huỷ diệt được sự
sống. Từ đó dẫn đến việc miêu tả thiên nhiên theo bút pháp đặc biệt là không
miêu tả hình xác của cây cỏ núi sông mà thể hiện linh hồn của chúng, tả cảnh ngụ
tình. Thiên nhiên trở thành bình chứa những tượng trưng, ước lệ, ẩn ý.
1.2.5. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong văn học trung đại
1.2.5.1 Thời gian nghệ thuật
Từ kinh nghiệm quan sát trực cảm thế giới người ta có hai nhận thức về
thời gian: thời gian của đời người, của cuộc sống hàng ngày là thời gian tuyến
tính, một đi không trở lại và thời gian của thiên nhiên, đất trời, vũ trụ là thời gian
chu kỳ, tuần hoàn, phi thời gian. Người xưa thường đặt hai loại thời gian này
trong thế đối sánh để làm nổi bật những nỗi niềm, triết lí, hoặc bi kịch của đời
người. Người xưa quan niệm thời gian tuyến tính là thời gian của cuộc đời trần
thế, phàm tục, chứa đầy hình ảnh, màu sắc cụ thể; thời gian chu kỳ là thời gian
của cõi trời, cõi tiên, thế giới thanh cao và bất tử, thấm đẫm tính chất đạo lý, triết
lý.
1.2.5.2. Không gian nghệ thuật
Không gian cũng như thời gian là hình thức tồn tại của thế giới và cuộc
đời. Trong ca dao, không gian chủ yếu là cảnh làng quê, bến nước, gốc đa, hàng
dâm bụt, cảnh sinh hoạt gần gũi thân thiết giản dị.
Trong thơ ca bác học, không gian trở nên trừu tượng hoặc ước lệ. Đó là
không gian vũ trụ vô tận mà cõi trần chỉ là nhỏ bé chật hẹp. Thiếu vắng không 21
gian xã hội cộng đồng và không gian lịch sử. Họ đi tìm núi cao, đám mây trôi,
một con hạc cô đơn, một tiếng chim hót báo hiệu vũ trụ, một bông hoa, một mái
chùa… còn thi nhân/ nhân vật trữ tình thì cô đơn, ngồi lặng, bó gối, hoặc tưới
hoa, ôm cần câu… Không gian tùy thuộc cảm hứng. Càng về sau, nhất là đến cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, không gian thơ mở rộng dần cho nhập cư thêm đủ
mọi loại người bình thường, tầm thường lẫn sang trọng trong xã hội, chẳng hạn
thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương.
Xét về kích thước không gian trong thơ cổ điển ta có thể phân loại như
sau: không gian lên cao - nơi thi nhân đến cho tâm hồn phóng khoáng, ý chí cao
xa, lánh cõi tục nhất thời để được tự do tư tưởng; không gian lữ thứ - quán trọ,
đường xa, cũng lánh đời, tự thử thách rèn luyện bản thân. Không gian nhỏ hẹp:
phòng văn, con thuyền cô độc, tấm rèm, song mai, song trúc. Thi nhân sống một
mình nhưng vẫn nghe ngóng, liên lạc với cuộc đời.
1.2.6. Con người trong văn thơ trung đại
Người xưa quan niệm con người là một phần của thế giới trong trục thiên –
địa – nhân. Vì thế cá nhân được thể hiện trong quan hệ với vũ trụ hơn là trong
quan hệ với xã hội. Thi đề quen thuộc của thơ trữ tình là con người một mình đối
diện, đàm tâm với thiên nhiên vũ trụ. Người anh hùng được nhắc đến với tầm vóc
sánh ngang vũ trụ:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
(Phạm Ngũ Lão)
Toàn bộ xã hội trung đại được nhìn nhận trong một hệ thống tôn giáo đạo
đức. Cho nên con người luôn được nhìn nhận ở phương diện đạo đức luân lý. Vì
thế, văn chương xưa chia xã hội làm hai tuyến: thiện – ác, tốt – xấu. Mục đích,
chức năng nổi bật của văn chương xưa là giáo huấn:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thì tiết hạnh làm câu trau mình.
(Lục Vân Tiên) 22
Chính vì vậy con người sống theo luân lý đạo đức, theo lí trí thì được coi là chân
chính; còn những người sống theo xúc cảm thì bị chê trách. Vì sống theo quy tắc
đạo đức nên con người ngày xưa sống rất trọng tình nghĩa.
Con người thời trung đại không được sống theo cái tôi của riêng mình mà
bị trói buộc bằng những qui tắc, lễ giáo xã hội. Thủ pháp thể hiện tâm lý phổ biến
là thủ pháp ngoại hiện. Tiểu thuyết nặng về hành động, lời nói của nhân vật cùng
với sự kiện, cốt truyện hơn là khai thác tâm lý trực tiếp. Không có ngôn ngữ nhân
vật mà chỉ có lời người viết truyện đặt vào vai truyện. Độc thoại nội tâm theo
nghĩa đích thực lại càng không có. Chú ý đến con người xã hội hơn con người tự
nhiên, chú ý đạo đức hơn trí tuệ và bản năng. Con người do Trời sinh và chịu sự
chi phối của Trời về “tính” và “mệnh”. “Tính”: con người sinh ra vốn mang tính
thiện, sẵn mầm mống nhân, nghĩa, lễ, trí. Nhưng do hoàn cảnh mà nhiều khi bị
nhiễm tính ác vì vậy cần tu thân để hoàn thiện. “Mệnh”: giàu nghèo, sướng khổ,
sống chết là do số Trời. Nhưng con người phải tự chịu trách nhiệm về trí và ngu,
có đức và vô đức.
1.3. Một số vấn đề về thi pháp thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ Tú
Xƣơng
Nếu Nguyễn Khuyến giống như một dấu chấm cảm thán khẳng định tính cổ
điển có sức làm lay động lòng người của văn học trung đại vào giai đoạn cuối
cùng của thời kỳ văn học trung đại Việt Nam thì Tú Xương là người đầu tiên và
cũng là người cuối cùng, đã đưa được không khí thị dân tiền tư bản vào thơ. Là
người chập chững nghiên cứu “thi pháp học”, vì vậy trong luận văn này chỉ là
nghiên cứu bước đầu về thi pháp thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ Tú Xương.
Vì vậy, tôi không tìm hiểu thi pháp thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ Tú
Xương với tất cả những phạm trù thi pháp của nó, mà chỉ xoay quanh những
phạm trù mang tính đặc trưng.
1.3.1. Một số vấn đề về thi pháp thơ Nguyễn Khuyến
Là nhà thơ có tài năng về nhiều mặt đồng thời sống trong giai đoạn đất nước
có nhiều biến động, nhưng tài năng thơ văn của Nguyễn Khuyến vẫn tỏa sáng trên 23
thi đàn dân tộc. Đọc thơ Nguyễn Khuyến chúng ta sẽ cảm nhận sâu sắc về một
tâm hồn yêu nước sâu nặng nhưng cũng rất thầm kín và chân thành. Đóng góp
của ông tuy không rực rỡ như người anh hùng Nguyễn Trãi cũng không vang dội
như tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du với tuyệt tác Truyện Kiều nhưng cái tên
Nguyễn Khuyến đã gắn liền với “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam” và
những dấu ấn riêng trong sáng tác của ông nhất là mảng thơ Nôm đường luật tạo
thành một dấu son trong nền văn học trung đại Việt Nam. Với phạm vi nghiên
cứu của đề tài, dựa trên kết quả nghiên cứu của tác giả Hoàng Dục tôi xin được
trình bày một số vấn đề sau về thi pháp Nguyễn Khuyến trong mảng thơ Nôm
đường luật.
1.3.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người
Trước hết, là một nhà thơ của văn học trung đại Việt Nam, nên quan niệm
nghệ thuật về con người của Nguyễn Khuyến không vượt ra khỏi phạm trù thi
pháp này của thơ ca thời đại ông. Thơ ông vẫn có con người vũ trụ lấy thiên nhiên
làm chuẩn mực của cái đẹp, con người của lí tưởng thẩm mĩ phong kiến và con
người siêu cá thể của nghệ thuật thơ ca. Con người ấy luôn luôn ấp ôm ước mơ,
hoài bão, lí tưởng kẻ sĩ Nho học. Con người thân danh mà chuẩn mực là trung
quân:
Ơn vua chưa chút đền công,
Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời.
(Ngày xuân dặn con cháu)
Thế nhưng, sau khi về Yên Đổ, nhà thơ đã có một quan niệm nghệ thuật về
con người rất khác rất lạ với trước đó. Về náu mình ở chốn quê vùng chiêm trũng
Hà Nam với tâm thế và tư thế “Đời loạn đi về như hạc độc”, nhà thơ khám phá sự
trống rỗng của con người của thời đại nước mất bấy giờ. Chính vì thế, trong thơ
mình ông đã trưng ra hình tượng nghệ thuật những con người ẩn dật, những con
người sống một cách vô nghĩa giữa thời đại trống vắng lí tưởng, một thời đại mà
lí tưởng cũ không còn có giá trị gì còn lí tưởng mới thì cũng không thấy tăm dạng
ở đâu. Ông nhận thức được giá trị của tài năng nhưng không biết đem tài năng 24
của mình đặt để ở đâu! Nguyễn Khuyến nhận thức rõ sự vô tích sự của vốn học
vấn, cái được xem như là tinh tuý nước nhà và là giá trị của con người trí thức
phong kiến. Ông không như một ai đó “hoài tài bất ngộ” mà nhận thức giá trị của
thực tài. Cái nhìn ấy khám phá được bản chất thực của con người thời Nguyễn
mạt.
Sách vở ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
( Ngày xuân dạy con cháu)
Con người ẩn dật nên âm thầm ôm nỗi buồn cô đơn, nỗi đau bất lực và cảm
nghe sự bất an đang dấy lên trong tâm hồn mình. Con người ấy cảm thức rõ sự lật
nhào của mọi giá trị trong thời đại mình.
Vua chèo còn chẳng ra gì,
Quan chèo bôi nhọ khác chi thằng hề.
( Lời vợ phường chèo )
Không còn con người vũ trụ, chẳng còn con người lí tưởng nho học mà chỉ
còn con người trống rỗng. Cho nên, con người đời thường cũng chẳng tốt đẹp gì
hơn. Trong thơ với cái nhìn sâu sắc tận ngọn nguồn bản chất con người thời đại,
Nguyễn Khuyến đã trưng ra trên bề mặt trang thơ của mình hình tượng những con
người gia tộc và con người xã hội đang có sự băng hoại mọi giá trị đạo đức và
rỗng toang, rỗng tuếch về tâm hồn và lí trí. Mừng ông lên lão bảy mươi thì: Tính
ông hay, hay tửu hay tăm, hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa, dù đã bảy mươi
còn khoẻ mạnh, Nhà ông có, có bầu có bạn, có ván cơm xôi, có nồi cơm nếp, mở
ra một tiệc thấy linh đình. Bên cạnh đó ta lại bắt gặp trong thơ Nguyễn Khuyến
hình ảnh con người lo toan hạn hán, mất mùa, nước lụt, nợ nần. Cho dù họ nhẫn
nại số phận vẫn không mỉm cười với họ, ngược lại càng nhấn sâu thêm họ vào
vòng eo nghèo túng quẫn. Công nợ trả chưa xong thì lại phải rối bời trước thiên
tai:
25
Quai Mễ Thanh Liêm đã lụt rồi
Làng ta thôi cũng lụt mà thôi
( Nước lụt Hà Nam ).
Nguyễn Khuyến đã lí giải và đưa ra trong thơ mình một quan niệm con người mới
mẻ. Con người lí tưởng thì trống rỗng, con người đời thường thì bị quay mòng
trong vòng đen tối của đồng tiền thiên tai. Tuy vậy, trong cái nhìn nghệ thuật về
con người của nhà thơ vẫn ánh lên niềm tin về bản chất tốt đẹp của con người.
Đáng quý ở đây là, dù thế nào đi nữa con người ấy vẫn mãi là con người dân tộc.
Con người lặng lẽ giữa chốn thu quê nhà để cảm nghe sắc thu, gió thu, nhạc thu,
hồn thu đất nước trong “Năm gian nhà cỏ thấp le te” (Thu ẩm). Con người cũng
rất mộng mơ thả hồn nương theo bầu trời thu xanh ngắt, hoà nhịp cùng “lá vàng
trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu), chập chờn chấp chới cùng “đóm lập loè” nơi
ngõ tối giữa đêm sâu.
Con người dân tộc là con người trọng tình. Có lẽ thế mà ta không ngạc
nhiên gì khi con người trong thơ Nguyễn Khuyến là con người thấm đẫm tình
cảm bè bạn quê hương. Con người mà sự sống và cái chết bao giờ cũng không
chia lìa cách bức với quê hương. Và cũng không bao giờ đánh mất tình cảm gia
đình.
1.3.1.2. Không gian nghê ̣ thuật
Như trên đã nói, con người trong thơ Nguyễn Khuyến vẫn tiếp nối con
người vũ trụ trong thơ phương Đông, vì thế không gian nghệ thuật trong thơ ông
trước hết là không gian vũ trụ. Không gian vũ trụ bao bọc lấy con người. Con
người hài hoà với thế giới tạo vật, sống chung cùng tạo vật thiên nhiên. Con
người trú ngụ giữa thiên nhiên và thiên nhiên che chở, sẻ chia nỗi niềm cùng con
người.
Con người dân tộc, con người quê hương chỉ có thể ở giữa lòng dân tộc,
sống gắn kết với quê hương. Cho nên, không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn
Khuyến cũng là không gian làng quê. Bước vào không gian thơ của nhà thơ ta
như sống giữa một vùng trời đất quen thuộc rất thực đậm sắc quê hương. Đấy là 26
một khu vườn quê thân thuộc qua bài Bạn đến chơi nhà, hay bức tranh thu rất đặc
trưng của đồng bằng Bắc Bộ như chùm thơ thu. Không gian có hồn nhưng tĩnh
lặng, nhuốm màu sắc tâm hồn và cảm xúc nghệ sĩ. Khác với không gian trừu
tượng, mang tính ước lệ trong thơ trung đại trước ông hay thơ Đường, không gian
thơ của Nguyễn Khuyến là cái làng quê được ngắm nhìn từ một tâm hồn gắn bó,
nặng lòng quê hương và rung động của thi nhân. Không gian trong thơ ông bình
đạm, yên ắng nhưng vẫn phập phồng sự sống và đa chiều. Không gian làng quê
trong thơ Nguyễn Khuyến tràn đầy màu sắc ánh sáng. Nguyễn Khuyến cảm thức
không gian qua các giác quan của một trí tuệ sắc sảo và tâm hồn nghệ sĩ tinh tế.
Không gian làng quê trong thơ ông vì thế mà như một bức hoạ đồng quê tràn đầy
màu sắc và ánh sáng. Nguyễn Khuyến thường phết lên không gian cảnh vật
những gam màu lạnh và nhạt. Màu lạnh và nhạt thường thấy trong tranh thuỷ
mặc. Màu cảm xúc mơ màng và nhuốm tâm trạng bâng khuâng man mác. Có khi
bức tranh linh hoạt đổi màu từ sáng đến tối hoặc nửa sáng nửa tối gây cảm giác
mơ hồ, nhưng lột tả những biến thái tinh vi trong tâm hồn nhà thơ. Tâm hồn nhà
thơ như chông chênh giữa đôi bờ hư thực. Giữa gam màu nhạt ánh sáng u trầm,
nhà thơ chen ngang, điểm vài nét loè loẹt, đậm sáng khiến bức tranh linh hoạt, có
hồn nhưng ý nghĩa nghệ thuật là gây cảm giác nỗi buồn lan thấm vào cảnh vật.
Đó là chiếc lá vàng thu, ánh trăng loe, đóm lập loè trong những bài thơ thu:
Làn áo lóng lánh ánh trăng loe
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
(Thu ẩm )
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
(Thu điếu )
1.3.1.3. Thời gian nghê ̣ thuật
Tương ứng với không gian nghệ thuật và quan niệm con người đã trình bày
trên, trong thơ Nguyễn Khuyến vẫn tồn tại một thời gian vũ trụ và thời gian đời
27
thường.
- Thời gian chảy trôi miên viễn:
Nghĩ lại bực cho dòng nước chảy,
Đi đâu mà chảy cả ngày đêm
(Chơi chùa Long Đội )
Nhà thơ hoài niệm về một thời vàng son của triều đại phong kiến:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục đế chết bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khác hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
( Cuốc kêu cảm hứng )
Có khi là đứng giữa thời gian thực tại mà nhà thơ quay tìm trong dòng quá
khứ hình bóng đẹp đẽ, lộng lẫy của đất nước và một thuở bình an của chính tâm
hồn mình:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
( Thu vịnh )
- Thời gian thực tại: Con người trong thơ Nguyễn Khuyến là con người quê kiểng
và cũng là con người đời thường. Nhà thơ cũng thoát khỏi những lo lắng của thực
tại cuộc sống như những người dân quê khác:
Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa
( Chốn quê )
Thời gian có khi đan xen, ranh giới giữa quá khứ hiên tại và tương lai rất
mơ hồ. Đấy là trường hợp bài thơ “Khóc Dương Khuê” hay “Thu ẩm”.
1.3.1.4. Nguyễn Khuyến – Sự phức điệu trào phúng với trữ tình
28
Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến, mặc dù mức đả kích sâu cay và tính
tập trung, cô đọng khác nhau, song trên phương diện lý tưởng thẩm mĩ và đặc
trưng nghệ thuật, phải nói đã tạo nên một giọng điệu riêng hết sức độc đáo. Thơ
trào phúng có khi vui đùa, châm biếm nhẹ nhàng, bỡn cợt hóm hỉnh: Gặp sư ni,
Thăm vợ cả, Bạn đến chơi nhà,... Có khi nhà thơ đả kích trực diện những lối sống
rởm đời, những kẻ làm tay sai cho giặc: Tiến sĩ giấy, Hỏi thăm quan Tuần mất
cướp, Tặng Đốc học Hà Nam,... Khi khác là tiếng nói cảm thán thương thân và
xót xa trước cả một thời đại: Uống rượu ở vườn Bùi, Hoài cổ, Hội Tây,... Chính
sự đan xen sắc thái trữ tình và trào phúng một cách uyển chuyển, sinh động trong
sáng tác của Nguyễn Khuyến theo nhiều cung bậc trên sẽ dẫn tới sự phức điệu.
Trong thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến có thể xác định được một bộ
phận mà tính chất trào phúng dừng lại ở mức độ vui đùa hóm hỉnh. Bài thơ Gặp
sư ni là một ví dụ. Ngay những bài có tính chất vui đùa này, ẩn sau tiếng cười trào
phúng vẫn là những sắc thái trữ tình nổi bật. Hai yếu tố đó không độc lập với
nhau mà gắn bó mật thiết. Chất trữ tình khiến cho hình tượng trào phúng có chiều
sâu, và chất trào phúng ở trong nhiều tác phẩm, nhất là ở những bài thể hiện
những tình cảm đau thương mất mát lại làm nhẹ đi phần ai oán, nặng nề của
những tình cảm đó, hướng cái nhìn về thực tại, gây dựng lại niềm tin cuộc sống
như trong hai câu đối Vợ thợ nhuộm khóc chồng:
Thiếp kể từ lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều dại điều khôn nhờ bố
đỏ;
Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng con răng trắng, tím gan, tím ruột
với ông xanh.
Rõ ràng đằng sau tấn bi kịch đau đớn kia là một nụ cười đôn hậu, yêu
thương. Đó là cái nhìn nhân bản, khiến cho con người trong đau khổ vẫn thấy cần
phải tồn tại, phải sống cho những ngày sắp tới.
Nguyễn Khuyến còn luôn nhận thức và phát hiện ra những khuyết điểm của
người thân xung quanh mình và chính bản thân mình. Thái độ của tác giả là lòng
nhân hậu, là tình cảm phân đôi thương mà giận, giận mà thương... Như vậy, chính 29
cái nét đôn hậu trong nụ cười ý vị về cuộc sống đã hình thành một đặc điểm trong
thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến tính mực thước, hài hòa giữa sắc thái trữ tình
và sắc thái trào phúng.
Cái tôi trữ tình tác giả góp phần tạo cho thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến
có bản sắc độc đáo. Nhận thức ra sự bất lực của chính bản thân và cả lớp người
cùng thế hệ, Nguyễn Khuyến châm biếm, phê phán, chê trách những mặt hạn chế
của lớp người đó. Vì thế trong đối tượng bị phê phán kia có chính hình bóng con
người nhà thơ. Khi Nguyễn Khuyến chỉ trích ông phỗng đá bất lực, ngơ ngác
trước cuộc đời thì ngay sau đó nhà thơ có sự đồng cảm : Duyên hội ngộ là duyên
tuổi tác, chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác (Ông Phỗng đá) ; khi nêu rõ mâu
thuẫn nội tâm đến thành xót xa của anh giả điếc thì đồng thời nhà thơ khẳng
định: Lối điếc ấy sau này em muốn học, lại còn khao khát, tự hào: Điếc như thế ai
không muốn điếc; khi châm biếm sâu cay các vị khoa bảng hư danh: Nghĩ rằng
đồ thật hóa đồ chơi (Tiến sĩ giấy) thì tác giả liên hệ sâu sắc tới bản thân mình:
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ, Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng! (Tự trào);
còn khi Nguyễn Khuyến coi bọn vua quan như một phường chèo qua lời vợ anh
phường chèo thì cũng là lúc nhà thơ chua chát nhận ra rằng: Sách vở ích gì cho
buổi ấy – Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già (Ngày xuân dặn các con). Từ đây có thể
thấy rằng chính sự đồng cảm của tác giả với đối tượng nghệ thuật làm cho thơ
trào phúng của Nguyễn Khuyến trở nên chân thực hơn, ông gửi gắm vào đó tất cả
nỗi buồn thương và niềm tâm sự riêng.
Như vậy, chính sự xuất hiện và xâm nhập mạnh mẽ các yếu tố trữ tình vào
mảng thơ trào phúng chứng tỏ càng thấy rõ mặt trái của cuộc đời, càng khinh ghét
nó thì Nguyễn Khuyến càng đau buồn hơn, nhất là khi nhà thơ thấy bất lực trước
xu thế xã hội ngày càng trở nên đen bạc, trớ trêu. Nguyễn Khuyến tỏ ra vừa
thương, vừa giận thói đời, bọn người đời đã không còn giữ được bản tính chân –
thiện – mỹ nữa. Tâm trạng phân đôi, vừa giận vừa thương ấy có thể thấy rõ qua
câu đối Tặng người học trò cũ đi làm cho Tây :
Hay thật là hay đáo để ! Bảo một đàng quàng một nẻo; 30
Thôi thế thời thôi cũng được ! Phi đằng nọ tắc đằng kia.
Châm biếm, trào phúng mà sao tác giả còn độ lượng quá, nhân ái quá ! Phải
chăng Nguyễn Khuyến sinh ra vốn để làm một người nghệ sĩ gắn bó, yêu thương
con người và để thành nhà thơ trữ tình chỉ muốn hát những lời dịu ngọt. Nhưng
trước cảnh nhiễu nhương của xã hội, dòng thơ trữ tình Nguyễn Khuyến không thể
cuồn cuộn nổi lên những con sóng giận dữ. Chính chất trữ tình đã quy tụ, hướng
tâm mọi nguồn cảm hứng của Nguyễn Khuyến về một mối. Và có lẽ chính tấm
lòng đôn hậu, yêu thương con người đã làm cho thơ trào phúng của Nguyễn
Khuyến chưa thật sắc nhọn, đích đáng như lối thơ trào phúng của Tú Xương, Hồ
Xuân Hương.
1.3.2. Một số vấn đề về thi pháp thơ Tú Xương
Tản Đà – một nhà thơ nổi tiếng tài năng và "ngông" của giai đoạn sau đã
phải phát biểu: "Trong những thi sĩ tiền bối, tôi khâm phục nhất Tú Xương". Vũ
Trọng Phụng – nhà thơ hàng đầu trong những của những năm 30 cũng viết "Tú
Xương là bậc thần thơ thánh chữ". Sự nghiệp thơ của Tú Xương không chỉ được
đánh giá cao ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Giáo sư Albert Smith (Anh) viết:
"Tú Xương xứng đáng đứng vào hàng những nhà thơ trào phúng lớn của thế
giới". Tiến sĩ văn chương Jean-Curier (Pháp) cũng cho rằng: "Trong bầu trời thơ
ca Việt Nam từ xưa đến nay, nếu chọn lấy năm ngôi sao sáng nhất thì Tú Xương
là một trong năm ngôi sao ấy". Bằng tiếng nói thông thường, bằng những câu cửa
miệng của người bình dân, Tú Xương sáng tác những tác phẩm đặc sắc. Đó là tài
nghệ của ông mà sau này chỉ có Nguyễn Bính sánh được. Tính chất trào phúng
vốn có nguồn gốc sâu xa trong bản tính của con người Việt Nam, đến Tú Xương
đã được sử dụng triệt để và tung hoành như một lợi khí sắc bén. Tiếng cười trong
thơ Tú Xương mạnh mẽ, luôn tạo nên những "cú chết bất ngờ" cho kẻ nào bị ông
đả kích.
Tú Xương, cũng như Vũ Trọng Phụng sau này, có biệt tài đưa những mảng
hiện thực gần như trần trụi của cuộc sống vào trong thơ văn, vậy mà lại tạo ra
được những tác phẩm hay đến mức thần tình.Tú Xương mất đã gần 90 năm 31
nhưng văn thơ của ông đối với chúng ta hôm nay vẫn gần gũi, vẫn sống động vô
cùng. Nỗi đau đời, những trăn trở riêng chung, tiếng cười đã kết tinh trong bút
pháp tài tình của ông tạo thành phong cách hết sức độc đáo đưa ông lên vị trí một
trong những nhà thơ lớn nhất của dân tộc. Sự tài tình, độc đáo đó được thể hiện
như sau:
1.3.2.1. Quan niệm về con người trong thơ Tú Xương
* Con người làm trò
Con người làm trò là con người không xuất hiện một cách bình thường, tự
nhiên như nó vốn có mà xuất hiện trong tư thế đang “diễn trò”, đang hài hước
hóa chính mình. Nếu ở Nguyễn Khuyến con người đã mất đi dáng vẻ nghiêm
trang, đạo mạo nhưng vẫn chưa thực sự xuất hiện như một con người làm trò.
Con người làm trò là một phương diện quan niệm độc đáo được Tú Xương thể
hiện từ những góc nhìn khác nhau. Có người làm trò để che đậy, lấp liếm đi một
điều gì đó; có người làm trò để mua vui, để cười đời; nhưng cũng có kẻ đang tự
biến mình thành một vai hề trong mắt người khác mà bản thân không nhận ra...
Tú Xương coi mọi cử chỉ, mọi hành động và mọi lời nói của một số người chẳng
qua chỉ là sự diễn trò, sự đóng vai giữa sân khấu cuộc đời để che đậy bản chất của
họ mà thôi như trong bài Hát tuồng :
Nào có ra chi một lũ tuồng,
Cũng hò, cũng hét, cũng y uông.
Dẫu rằng dối được đàn con trẻ,
Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn.
Ngay câu đầu tác giả đã lên tiếng mạt sát và phủ nhận. Bởi vì con người ở
đây không xuất hiện trong dáng vẻ bình thường mà đang tự lố bịch hóa bản thân,
cố làm đủ trò hò, hét, y tuông... để che đậy giá trị thật về nhân cách. Trong con
mắt nhà thơ, những người này chỉ là một lũ tuồng nhập vai vụng về, trơ trẽn,
không dối lừa được ai.
Trong số những nhân vật chủ động làm trò để che đậy bản chất, ta còn bắt
gặp những hình ảnh cụ thể hơn. Đấy là những bà luôn lên mặt phu nhân rồi nay 32
chùa này, mai chùa khác như quyết tâm tu thân nhưng thực chất thì "Ngón đĩ
thõa bà nào cũng nhất". Đấy là những tên "Khi thầy số, lúc thầy lang " để lừa lọc
nhưng ra đường vẫn "Thầy thầy tớ tớ xênh xang, Phong lưu đài các giống ông
hoàng".
Xã hội Việt Nam vốn chỉ quen với cái đẹp của yếm thắm quần thâm, áo dài
khăn đóng... Nhưng khi văn hóa phương Tây xâm nhập vào thì cách ăn mặc ấy bị
pha tạp và thay đổi. Do vậy trào lưu văn minh hóa đã làm nhà thơ khó chịu. Độc
đáo, thú vị nhất là chính Tú Xương tự biến mình thành một con người làm trò.
Ông hay nhập vai vào một ai đó để cười cợt. Cả đời long đong bút mực vẫn
không một lần có chỗ trong chốn quan trường. Nhà thơ tạm quên đi nỗi đau hỏng
thi để vào vai làm quan mà diễn trò trước mặt vợ con :
Một ngọn đèn xanh mấy quyển vàng,
Bốn con làm lính bố làm quan.
Câu thơ, câu phú, sưu cùng thuế,
Nghiên mực, nghiên son, tổng với làng.
Nước quạt chưa xong, con nhảy ngựa,
Trống hầu chưa dứt, bố lên thang.
(Quan tại gia)
* Con người hữu danh vô tài
Con người hữu danh vô tài là con người đỗ đạt, có chức tước, địa vị trong
bộ máy cai trị phong kiến nhưng kém về tài năng và học vấn. Cuộc đời Tú Xương
tuy ngắn ngủi nhưng ông lại chứng kiến một giai đoạn đổi thay sâu sắc chưa từng
có của lịch sử, xã hội. Một giai đoạn thời thế đảo điên, nho phong tàn tạ, sĩ khí
tiêu điều, bút lông thất thế, bút chì được thời. Có đồng tiền trong tay, ai giỏi xoay
xở, xu nịnh, giỏi nhịn nhục quỳ gối sẽ nghiễm nhiên có quyền cao chức trọng.
Các kỳ thi tuyển nhân tài vẫn cứ được mở đều đặn hàng năm, hàng kỳ nhưng đấy
không phải là nơi để đãi cát tìm vàng nữa. Hạng người hữu danh vô tài mọc lên
như nấm. Nếu Nguyễn Khuyến vô cùng thất vọng, chán ngán và buồn bực trước
sự vô thực, vô tài của con người hữu danh. Nhưng xét cho cùng ông là người 33
trong cuộc. Vì thế sự đả kích của ông rất sâu cay nhưng nhìn chung lời lẽ vẫn nhẹ
nhàng, chừng mực. Tú Xương lại khác, con người tài hoa này đã chấp nhận lận
đận một đời vời bút nghiên để mong có tên trong bảng vàng. Thế nhưng ước mơ
đó không bao giờ hiện diện. Mọi khổ đau, uất ức không thành danh được dồn nén
để cuối cùng ông trút lên hạng người hữu danh vô tài bằng những lời lẽ, mạt sát,
xỉ vả vô cùng cay độc.
* Con người trượt chuẩn
Con người trượt chuẩn là con người không còn tuân theo những chuẩn mực
vốn có đã hình thành từ truyền thống mà trượt ra ngoài mọi phép tắc đạo đức đã
được xã hội quy định. Con người trượt chuẩn theo Tú Xương, trước hết là con
người trượt ra khỏi vị trí, danh phận vốn có của mình. Nếu trước đây nhìn vào vẻ
bề ngoài là có thể xác định được vị trí, danh phận của con người thì bây giờ mọi
thứ đều đảo lộn. Đồng tiền có thể giúp một tên bợm già khoác lên mình cái vẻ
phong lưu đài các giống ông hoàng . Nếu trước đây những người có học vị được
xã hội trọng vọng thì bây giờ Ông nghè ông cống cũng nằm co . Trong khi đó, kẻ
vô học có thể tự xưng là thầy đồ và cũng làm oai như ai.
Nếu như trước đây việc đỗ đạt, việc được cờ biển vua ban chỉ đến với
người có tài thực thụ thì bây giờ kẻ bất tài cũng có thể đạt được vinh hạnh này :
Nghe văn mà gớm cho ông mãi,
Cờ biển vua ban cũng lạ đời...
(Ông tiến sĩ mới)
Tú Xương đã quan niệm xã hội mình đang sống là một xã hội mà hầu như
mọi tiêu chí để định giá con người đều trở nên vô nghĩa. Người ta không thể nhận
ra đâu là giá trị thật của họ nữa, trắng đen, sang hèn lẫn lộn. Nguyên nhân dẫn
đến tình trạng nói trên là do con người dựa vào sức mạnh đồng tiền để bước ra
khỏi vị trí của mình mà leo lên bậc cao hơn. Và khi đứng vào vị trí mới này buộc
họ phải diễn, phải nhập vai để che đậy giá trị thực của mình.
34
Con người trượt chuẩn theo Tú Xương còn là hiện tượng con người trượt ra
khỏi những chuẩn mực đạo đức qui định. Tầng lớp quan lại hèn hạ dùng sức
mạnh vật chất để tiến thân như trong bài Năm mới chúc nhau
Nho sĩ đánh mất cả cái tiết tháo cương trực thẳng thắn mà họ đã từng giáo
huấn :
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo,
Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi.
(Than đạo học)
Thầy tu lợi dụng cửa Phật để làm điều phi pháp, biến nơi tôn nghiêm này
thành chốn hành lạc :
Thấp thoáng bên đèn, lên bóng cậu,
Thướt tha dưới án, nguýt sư ông.
Chị em thủ thỉ đêm thanh vắng,
Chẳng sướng gì hơn lúc thượng đồng.
(Ông sư và mấy ả lên đồng)
Quan lại, nho sĩ, thầy tu là ba bộ mặt tiêu biểu cho những chuẩn mực, phép
tắc đạo đức của xã hội. Nhưng giờ những con người ấy đã trượt ra khỏi những
chuẩn mực đạo đức tối thiểu mà mình phải có.
Tú Xương còn đi sâu miêu tả sự trượt chuẩn trong quan hệ giữa người với
người. Tú Xương thấy rõ sức mạnh của đồng tiền trong sự điều tiết quan hệ tình
cảm xã hội. Một khi chuẩn mực bên ngoài xã hội bị vi phạm thì trong gia đình
mọi nề nếp, kỷ cương của gia phong cũng đảo lộn. Vì đồng tiền mà cha con, vợ
chồng khinh nhau. Vì đồng tiền mà người ta trở nên ích kỷ, ác độc ngay cả với
chính vợ mình :
Nhà kia lỗi phép, con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
(Đất Vị Hoàng)
Bên cạnh sự chi phối của đồng tiền, Tú Xương còn phát hiện ra mối liên
quan giữa lối sống buông thả, hưởng lạc và sự trượt chuẩn của con người. Vì ham 35
thú vui xác thịt mà vợ không thủy chung với chồng. Tệ hại hơn, họ còn phạm
phải tội loạn luân như tằng tịu với con rể, với nhà sư :
Chép miệng bà nuôi to cái dại,
Phờ râu ông rể ẵm con so.
(Mẹ vợ với chàng rể)
Quan niệm con người trượt chuẩn đã tác động đến các yếu tố khác trong tư
tưởng và biện pháp nghệ thuật của Tú Xương. Tú Xương không hề ngần ngại tự
bôi nhọ mình. Ông chê cười người khác “vừa dốt lại vừa ngu” nhưng ông lại tự
nhận “ngơ ngơ ngẩn ngẩn, hóa ra đần”. Ông mỉa mai người khác “nghe văn mà
gớm cho ông mãi” nhưng cho mình là hạng “ sách vở mập mờ, văn chương lóng
ngóng”. Ông đả kích lối sống buông thả nhưng bản thân ông đã từng “Cao lâu
thường ăn quỵt, thổ đĩ lại chơi lường”… Sở dĩ Tú Xương tự bôi nhọ mình như
vậy là vì ông nhận thức rất rõ rằng: một khi mọi chuẩn mực, phép tắc đều bị vi
phạm, cá nhân nhà thơ tự biến thành một đối tượng trượt chuẩn, nhằm tạo cơ hội
thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình và nhân đó mà phản ứng lại xã hội. Khi
con người đã trượt chuẩn thì bản thân nó không còn giá trị nữa. Chính điều này đã
khiến Tú Xương có cách xưng hô miệt thị chỉ là “thằng”, “đứa” theo tác giả Hồ
Giang Long, trong cuốn Thi pháp thơ Tú Xương, đã thống kê tần số các đại từ tỏ
ý miệt thị khoảng 50 lần. Ngoài ra, Tú Xương còn dùng một hệ thống cụm từ
mang nghĩa phủ định hoặc tỏ ý ngạc nhiên để gợi liên tưởng đến một sự thay đổi
nào đó: nào có ra gì, chẳng biết gì, chả hơn gì, nào có ra chi, người đâu như, cũng
lạ đời, ai ngờ, thoạt nhác trông ra ngỡ,… Hệ thống cụm từ ở trên đã tô đậm ấn
tượng về sự trượt chuẩn, sự mất phẩm giá của các nhân vật mà ông miêu tả.
Quan niệm con người trượt chuẩn thể hiện cái nhìn của Tú Xương trước
thời cuộc. Trượt chuẩn là dấu hiệu đầu tiên trong quá trình băng hoại về đạo đức
con người trước sự Âu hóa văn minh. Con người trượt chuẩn mà Tú Xương đề
cập sẽ trở thành con người tha hóa trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Nam Cao,…
* Con người thị tài 36
Con người thị tài là con người tự đề cao tài năng của bản thân. Dù không
thành đạt nhưng con người thị tài trong nhà thơ vẫn luôn luôn trỗi dậy và nó giúp
nhà thơ ngẩng cao đầu mà cười cợt chứ không chịu cúi mình. Tú Xương đàm tiếu
nhiều về sự hỏng thi nhưng xem ra ông còn kín đáo cắt nghĩa nguyên nhân thất
bại của mình:
Văn chương ngoại hạn quan không chấm
(Gần Tết than việc nhà)
Qua cách lí giải ở trên, Tú Xương vẫn rất cao ngạo. Ông tự cho mình là thứ
văn “ngoại hạn”. Con người thị tài trong Tú Xương còn được thể hiện qua thái độ
mỉa mai của ông đối với những con người hữu danh vô tài. Để thể hiện con người
thị tài Tú Xương hay dùng đại từ “ông” qua đó khẳng định vị trí của mình cao
hơn đời: Ông trông lên bảng thấy tên ông, Ông nốc rượu vào ông nói ngông,
Ông thương, ông tiếc, hóa ông phiền…
1.3.2.2. Không gian nghệ thuật trong thơ Tú Xương
* Không gian trường thi
Trong sáng tác của Tú Xương, ông nhiều lần nhắc đến không gian trường
thi. Đây không phải ngẫu nhiên trong sáng tạo nghệ thuật. Qua thất bại của đời
mình và qua những gì ông thu thập được sau những lần “lều chõng”, Tú Xương
miêu tả không gian trường thi để thể hiện quan niệm trước cuộc đời. Không gian
trường thi là sự cắt nghĩa cho đời mình. Sau gần mười thế kỷ huy hoàng, đến thời
Tú Xương, Nho học Việt Nam suy tàn thảm hại trước cuộc xâm lăng của thực dân
Pháp. Ông đã từng than thở:
Đạo học ngày nay đã chán rồi,
Mười người đi học chín người thôi.
(Than đạo học)
Trong cảm nhận của Tú Xương, không gian trường thi là nơi gây ra oan
nghiệp của đời mình. Bởi vậy theo Nguyễn Tuân: “Hầu hết những phú và thơ Tú
Xương có dính đến chủ đề thi cử thường thấy trùm lên một màu ảm đạm” . Tú
Xương miêu tả không gian trường thi như một sự cắt nghĩa cho xã hội mà mình 37
đang sống. Không gian trường thi trong thơ Tú Xương chính là xã hội đương thời
thu nhỏ. Ở đây có sự nhố nhăng của buổi giao thời, sự xuống cấp, trượt chuẩn của
con người và đặc biệt có cả sự chế ngự của đồng tiền, tranh giành đầy phàm tục:
Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa
(Khoa Canh Tý)
Qua sáng tác của Tú Xương, không gian trường thi còn là nỗi nhục mất
nước. Là dân của đất nước mất chủ quyền, Tú Xương cũng như bao người khác,
mang trong mình nỗi đau đớn tủi nhục của thân phận nô lệ và ông tìm cách thể
hiện tâm trạng này qua không gian trường thi. “Lễ xướng danh khoa thi Đinh
Dậu” và “Giễu người thi đỗ” là hai thi phẩm miêu tả cái nhục của thân phận nô
lệ khi bước vào không gian trường thi.
* Không gian tết
Đọc thơ xuân của Tú Xương ta không chỉ bắt gặp cảnh đón Tết tưng bừng
của thiên hạ mà còn thấy đồ Tết đầy ắp cả không gian: rượu cúc, trà sen, bánh
trưng, giò lụa,… Nhưng nhà thơ lại không nhằm tái hiện không khí Tết. Với cái
nhìn độc đáo, tác giả xem không gian Tết là không gian Tú Xương dành cho con
người làm trò trong thơ ông. Bởi vì hơn bất cứ ngày bình thường nào, trong ngày
Tết, những thói xấu, thói rởm đời, lố lăng, mới càng biểu hiện nổi bật. Nếu như
người đời mong đợi, háo hức với Tết bao nhiêu thì nhà thơ lại lạnh nhạt, hờ hững
và chán nản với nó bấy nhiêu. Nếu như người đời vẫn hi vọng, tin tưởng vào sự
thay đổi, sự khác lạ nào đó trong năm mới thì nhà thơ cho rằng :
Năm mới khác gì năm cũ, van người bán muối với mua vôi.
(Câu đối Tết)
Như vậy dù gắng gượng vui xuân cùng thiên hạ, tác giả cũng không thoát
ra khỏi bi kịch cuộc đời. Sao nhà thơ có thể vui vẻ đón Tết được trong cảnh nhà
nghèo, trong thất bại cay đắng của cuộc đời. Hơn nữa, Tú Xương cũng giống như
một số tác giả cùng thời, mang tâm trạng ưu thời mẫn thế nhưng cảm thấy cái bất
lực của mình, cái vô dụng của mình, vì không đánh giá được lực lượng của quần
38
chúng đấu tranh, vì thấy mình lẻ loi cô độc trước một lực lượng thống trị đàn áp
tưởng như quá mạnh, trước một đội ngũ Việt gian và tay sai quá đông.
* Không gian hưởng lạc
Không gian hưởng lạc trong thơ Tú Xương là những nơi ăn chơi nổi tiếng
thời bấy giờ như Hoàng Thao, Phố Giầy, Tràng Lạc, Viễn Lai,... Gắn với thứ
không gian hưởng lạc là thái độ chơi hết mình của nhà thơ. Tuy nhiên, Tú Xương
không hề coi vấn đề hưởng lạc là mục đích và triết lý sống của bản thân. Ông coi
ăn chơi là một thói xấu (Một trà một rượu một đàn bà. Ba thứ lăng nhăng nó hại
ta), do đó đã cường điệu lên để phản ứng lại xã hội.
* Không gian đêm tối
Không gian đêm tối là không gian của nỗi lòng, của tâm trạng. Cho nên
cũng là buồn chán bực bội, tức tối thường ngày khi vào đây thì không còn cái
ngoa ngoắt, ác ý, cay độc nữa. Tất cả được nhà thơ cảm nhận bằng chiều sâu của
tâm hồn, nhẹ nhàng, lắng đọng. Ta không còn nghe tác giả lớn tiếng chửi đời mà
chỉ còn nghe lời trách nhẹ nhàng qua ẩn ý:
Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả,
Việc gì mà thức một mình ta.
(Chợt giấc)
Đêm tối đối với Tú Xương không chỉ là không gian đời tư giúp ông trở về
với con người thực mà còn là hình tượng nghệ thuật mang ý nghĩa ẩn dụ. Hình
ảnh bóng đêm trong thơ ông làm ta liên tưởng đến xã hội bế tắc không lối thoát
lúc bấy giờ. Không gian đêm tối đổ ập xuống cuộc đời người dân mất nước Tú
Xương. Nhưng điều đáng quý là giữa thăm thẳm mịt mù kia nhà thơ luôn tìm
cách thắp sáng.
1.3.2.3. Thơ Tú Xương – Giọng điệu và phương thức thể hiện
* Giọng tâm tình
Giọng điệu tâm tình sẽ nảy sinh khi nhà thơ có sự bộc lộ cái tôi trong lòng.
Tác giả chân thành tự đưa mình vào thơ như một khách thể và nói về mình một
cách tự nhiên: 39
Một tuồng rách rưới con như bố,
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng.
(Thăm bạn nghèo)
Thơ trữ tình Tú Xương xuất hiện khá nhiều từ ngữ mang dấu ấn phong
cách khẩu ngữ. Khẩu ngữ xuất hiện khiến cho thơ Tú Xương mang tính tự nhiên,
bỗ bã, thân mật và gần gũi: con mụ (Tiền bạc phó thác cho con mụ kiếm), mẹ mày
(Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay – Thưng đấu nhờ trông một mẹ mày), mẹ đĩ (No
ấm chưa qua vành mẹ đĩ),…
Giọng tâm tình còn được biểu hiện qua việc sử dụng đậm đặc các đại từ
nhân xưng. Để thể hiện thế giới cảm xúc cũng như tâm trạng của nhân vật trữ
tình, tác giả đã sử dụng hàng loạt đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất:
- Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi
- Ta nghĩ như ta có dại gì.
- Ta chẳng ra chi chớ đợi chờ.
...
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các đại từ ngôi thứ hai, ngôi thứ ba để bày tỏ
tâm trạng :
- Hay mình thấy tớ : nay Hàng Thao, mai Phố Giấy mà bụng mình ghen.
- Xưa nay em vẫn chịu ngài.
- Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo.
- ...
* Giọng cười biến hóa
Phần lớn các nhà nghiên cứu đều xác định tiếng cười trong thơ ông không
phải tiếng cười đơn nhất một giọng mà là tiếng cười lắm cung bậc nhiều sắc thái.
Nguyễn Đình Chú cho rằng: Tú Xương làm cho tiếng cười trong thơ mình trở lên
đặc sắc vào loại nhất trong thơ ca dân tộc. Nói đặc sắc nhất cũng là để nói đến cái
bản sắc riêng, cái tính đa thanh lắm giọng. Đỗ Đức Hiểu khẳng định: giọng thơ
trào phúng của Tú Xương biến đổi nhiều vẻ từ bài này sang bài khác. Có những
nụ cười nhẹ nhàng, dí dỏm, những nụ cười mỉa mai, chua chát, độc địa, đập thẳng 40
vào bọn xu thời, cũng có tiếng cười đau lòng, cười ra nước mắt. Đúng vậy, thơ Tú
Xương có giọng cười biến hóa khôn lường. Tùy theo đối tượng, hoàn cảnh mà
nhà thơ có những cảm xúc và điệu cười khác nhau.
Tiếng cười trong thơ ông có khi hài hước bông lơn, có khi gay gắt dữ
dội như bài Để vợ chơi nhăng, lại có khi trữ tình và trào phúng đan xen vào nhau
như các bài: Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu, Đi hát mất ô, Cảm Tết... Ở đây
những sắc thái cười nói trên không phải chỉ biến đổi qua từng bài mà còn thể hiện
tập trung trong một tác phẩm cụ thể. Mặc dù có sự biến hóa như vậy nhưng xuyên
suốt thơ ông vẫn nổi lên một giọng cười chủ đạo, không thể lẫn. Đó là tiếng cười
sắc sảo, dữ dội, cay độc và đáo để không giống như tiếng cười thâm thúy, nhẹ
nhàng, hóm hỉnh và chừng mực như Nguyễn Khuyến. Giọng điệu đó được biểu
hiện qua các yếu tố: kết cấu, cách sử dụng đại từ nhân xưng. Một số thủ pháp
nghệ thuật như chơi chữ, cường điệu, tương phản.
* Chất giọng dân gian
Chất giọng dân gian trong thơ Tú Xương được tạo nên từ các yếu tố sau
đây:
+ Sự tiếp thu hệ thống hình tượng nghệ thuật và hệ thống thành ngữ, tục ngữ. Bên
cạnh hệ thống hình tượng, thơ Tú Xương còn tiếp thu một khối lượng lớn thành
ngữ. Theo tác giả Hồ Giang Long trong Thi pháp thơ Tú Xương thì kết quả bước
đầu cho thấy, ông đã đưa gần 50 thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ mình dưới
những dạng thức khác nhau. Có khi ông đưa chúng vào dạng nguyên vẹn. Có khi
ông rút lại chỉ còn hai, ba từ. Nhưng có lẽ độc đáo và ấn tượng nhất là các trường
hợp ông chia tách, đảo vị trí từ hoặc chen từ vào để thêm nghĩa:
- Lửa lồng lên chuột phải đùn ra (Cháy nhà ra mặt chuột)
- Được voi tấp tảnh lại đòi tiên (Được voi đòi tiên)
Tú Xương vận dụng tục ngữ, thành ngữ vào thơ nhằm hai mục đích chủ
yếu. Mục dích thứ nhất, ông mượn ngay nội dung của chúng trực tiếp làm ý diễn
đạt. Ở trường hợp này, các thành ngữ, tục ngữ có vai trò làm ý chính hoặc một
phần ý của câu, như: Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi; Chuyện dai như chão 41
rách; Đắt hàng như thể mớ tôm tươi; sinh năm đẻ bẩy được vuông tròn… Mục
đích thứ hai, ông dùng chúng để làm điểm tựa cho ý thơ. Ở đây, tác giả chỉ đưa ra
vài tín hiệu tối thiểu để cho người đọc thiết lập được câu thành ngữ cần liên
tưởng. Tài năng vận dụng ngôn ngữ dân tộc đã khiến cho thơ của tác giả trào
phúng này có một chất giọng dân gian khó lẫn.
+ Cách ví von so sánh
Ngoài việc vận dụng hình thức ví von so sánh có sẵn trong thành ngữ, Tú
Xương còn có cách diễn đạt riêng của mình:
- Râu rậm như chổi,
Đầu to tày giành.
- Đầu như lươn đất mà không lấm
- Cổ cong mặt lệnh người đâu thế.
Hệ thống hình ảnh so sánh trong thơ Tú Xương gần gũi với những gì thô
giáp, xù xì của cuộc sống thường nhật. Chính vì thế thơ ông không còn vẻ trang
trọng, kiểu cách và uyên bác thường thấy của văn học viết nữa mà mang một chất
giọng dân gian gần gũi và bình dị.
Tiểu kết
Thi pháp học là bộ môn khoa học vô cùng cần thiết cho hoạt động nghiên
cứu văn học nói chung và cho hoạt động dạy học tác phẩm văn chương trong nhà
trường nói riêng. Nó góp phần đưa môn Văn trong nhà trường trở về đúng nghĩa
một môn khoa học, đồng thời cũng là một bộ môn nghệ thuật. Việc vận dụng
những thành tựu khoa học của thi pháp học vào dạy học tác phẩm văn chương
trong nhà trường sẽ là một cách dạy hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của bộ
môn. Việc áp dụng lí thuyết của thi pháp học vào dạy một tác phẩm văn chương
cụ thể là một yêu cầu cấp thiết, nhất là khi nhìn vào thực trạng dạy học văn nói
chung và dạy học tác phẩm thơ trung đại nói riêng trong giai đoạn này, đó cũng là
một cách thay đổi tư duy dạy văn truyền thống đã và đang dần mất đi vị trí và vai
trò của mình trong hệ thống giáo dục quốc dân.
42
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG DẠY HỌC THƠ TRUNG ĐẠI TRONG NHÀ TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY VÀ ĐỊNH HƢỚNG ĐỔI MỚI TỪ
HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP
2.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại trong nhà trƣờng trung học phổ thông hiện
nay
2.1.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại nói chung trong nhà trường trung học
phổ thông hiện nay
Để giải mã được nội dung, tư tưởng của tác phẩm cần thiết phải tiếp cận
hình thức nghệ thuật của nó. Bởi tác phẩm văn học là chỉnh thể thống nhất của hai
mặt hình thức và nội dung. Hình thức là sự biểu hiện của nội dung, là cách thể
hiện nội dung. Nội dung trong tác phẩm văn học cần phải được suy ra từ hình
thức, đó là “hình thức mang tính nội dung” (Trần Đình Sử). Vì vậy phương pháp
chủ yếu của thi pháp học là phương pháp hình thức, có thể hiểu “Phương pháp
hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn
học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mĩ của nó” (Nguyễn Văn Dân). Khi tìm
hiểu một tác phẩm văn học chủ thể tiếp nhận cần phải nắm vững mối quan hệ
biện chứng giữa hình thức và nội dung bởi “Trong tác phẩm nghệ thuật, tư tưởng
và hình thức phải hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như là tâm hồn và thể xác,
nếu hủy diệt hình thức thì cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và ngược lại cũng
vậy ” và “Khi hình thức là biểu hiện của nội dung thì nó gắn chặt với nội dung tới
mức là nếu tách nó khỏi nội dung có nghĩa là hủy diệt bản thân nội dung và
ngược lại tách nội dung ra khỏi hình thức, có nghĩa là tiêu diệt hình thức ” (
Belinxki) [11; 256]. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy văn, không ít cách dạy,
cách học vi phạm nguyên tắc tách nội dung ra khỏi hình thức. Học tác phẩm văn
học nhưng thoát ly văn bản. Trong nhà trường phổ thông có rất nhiều hiện tượng
dạy tác phẩm văn chương nhưng lại tìm hiểu qua loa văn bản, học sinh học đôi
khi chỉ học lướt qua văn bản, giáo viên thì chỉ coi trọng tìm “ý”, vì thế mới có
tình trạng dạy thơ không cần thuộc, dạy truyện không không cần kể mà chỉ nêu ý 43
chính ( Nguyễn Viết Chữ) [3; 9]. Đặc biệt là khi dạy đến những tác phẩm thơ
trung đại, việc dạy và học thơ trung đại Việt Nam đến nay vẫn còn là nỗi khổ của
người giáo viên trung học phổ thông. Như chúng ta đã biết, để khám phá, tìm hiểu
cái hay, cái đẹp của một một bài thơ trung đại thì không chỉ đòi hỏi ở người giáo
viên cần phải có sự hiểu biết sâu sắc những kiến thức về thi pháp thời đại, thi
pháp tác giả, thể loại văn học,… mà còn đòi hỏi người học sinh cũng phải có
những kiến thức nhất định về những vấn đề trên. Đây là một đòi hỏi chỉ có thể
thực hiện ở những học sinh yêu thích, say mê tìm hiểu tác phẩm văn học. Trong
bối cảnh hiện nay, còn được mấy học sinh yêu thích bộ môn này trong một lớp!
Vì vậy mà giáo viên chỉ đơn giản là truyền thụ kiến thức một chiều thiên về nội
dung hoặc tìm ra những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc rồi truyền thụ cho học sinh
mà không chú ý đến khát vọng, tâm lý học sinh. Việc tìm hiểu tác phẩm quá chú
trọng nội dung tư tưởng tác phẩm trong dạy học văn trong một thời gian dài đã
gây hậu quả nghiêm trọng. Một thực trạng nữa trong dạy học văn hiện nay là còn
một bộ phận giáo viên chưa thực sự tâm huyết, say mê với nghề nghiệp, lên lớp
theo phương pháp cũ, thiếu sáng tạo, hấp dẫn. Đặc thù của các môn khoa học xã
hội là nội dung kiến thức được trình bày trong sách giáo khoa, sách giáo viên nên
nếu giáo viên không chịu khó đổi mới, sáng tạo thì dễ đi vào con đường mòn là
trình bày lại nội dung cố định. Chúng tôi đã dự nhiều giờ thao giảng và nhận thấy
giáo viên chỉ cố gắng trình bày lại những điều có sẵn trong sách giáo khoa, vì thế
giờ học rơi vào tình trạng hình thức. Ngay cả giờ giảng được đánh giá là thành
công thì tính chất độc diễn của giáo viên thể hiện khái rõ nét. Thậm chí có giờ
dạy diễn ra sôi nổi, nhưng thực chất chỉ là một màn kịch diễn ra khéo léo, tất cả
được giáo viên tập dượt trước, cả những câu hỏi bài cũ, và chỉ định học sinh nào
phát biểu. Nhiều giáo viên được khen là hay nhưng thực chất là diễn thuyết hay.
Học sinh học xong là kiến thức cứ trôi đi tuồn tuột.
Tuy nhiên, để đổi mới phương pháp giảng dạy thành công, nếu chỉ có sự nỗ
lực của giáo viên thì không đem lại kết quả mà quan trọng cần có sự hưởng ứng
tích cực từ phía học sinh. Thói quen học tập thụ động, đối phó của học sinh là một 44
rào cản lớn đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Hiện nay học sinh
phải học nhiều môn, các em không có điều kiện đầu tư thời gian đích đáng cho tất
cả các môn sinh ra tình trạng học lệch. Học theo phương pháp mới đòi hỏi các em
phải đầu tư thời gian để làm bài tập, tham khảo tài liệu, thu thập, xử lý thông tin
khoa học. Đa số học sinh không có đủ tài liệu cần thiết và chưa hình thành tư duy
phản biện, độc lập trong học tập. Những khó khăn từ hai phía thầy và trò khiến
cho việc đổi mới phương pháp dạy học rơi vào vòng luẩn quẩn, hình thức, ít có
chuyển biến mạnh và hiệu quả chưa cao.
Từ thực trạng trên, có thể thấy môn Ngữ văn trong nhà trường trung học
phổ thông hiện nay đang mất đi rất nhiều sức hấp dẫn đối với học sinh. Để lí giải
điều này là cả một vấn đề không đơn giản. Từ chương trình, nội dung đến phương
pháp giảng dạy của giáo viên cũng như tâm lí học tập của học sinh cũng cần phải
xem xét.
2.1.2. Thực trạng dạy học “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ”
của Tú Xương
Nguyễn Khuyến, Tú Xương là hai trong những cây đại thụ của nền văn học
dân tộc. Tuy bóng mát của cây đại thụ ấy không rợp bóng thời gian suốt bao thế
kỷ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, nhưng gốc rễ của nó đã ăn sâu vào đất Việt,
góp phần tạo nên tâm hồn dân Việt. Hai bài thơ: “Thu điếu” – Nguyễn Khuyến
và “Thương vợ” – Tú Xương hiện nay được xếp vào chương trình sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 11 trung học phổ thông. Qua thực tiễn dạy học hai bài thơ này,
hầu hết giáo viên và học sinh đều rất hứng thú khi tìm hiểu. Sự hứng thú đến từ
phong cách hai tác giả và những đặc sắc nghệ thuật điển hình trong hai bài thơ.
Là một giáo viên và cũng đã từng trải qua thời gian trên ghế nhà trường phổ
thông, nhưng qua quan sát, mỗi lần thầy và trò tìm hiểu hai bài thơ này, không khí
học tập trở lên vô cùng sôi nổi, nhẹ nhàng. Dù được sáng tác trong một giai đoạn
lịch sử cách đây đã gần một thế kỷ, nhưng dường như những vấn đề mà tác giả
nêu ra trong hai bài thơ vẫn vô cùng ý nghĩa. Với “Thu điếu”, người đọc thấy
được bức tranh làng cảnh Việt Nam cũng như khung cảnh sinh hoạt của nông 45
thôn Việt Nam đầy màu sắc, đường nét, âm thanh, sức sống như nó vẫn tồn tại,
mà ủ kín trong đó là cái hồn muôn đời của con người, đất nước Việt Nam. Hay ở
cái xã hội đã có luật bất thành văn đối với người phụ nữ: “Xuất giá tòng phu”, đối
với quan hệ vợ chồng thì “phu xướng, phụ tuỳ” thế mà trong bài “Thương vợ” có
một nhà thơ dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình
là quân ăn bám vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn giám tự nhận
khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao. Nhan đề Thương vợ
chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa
thể hiện đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của tâm hồn Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả
không chỉ biết thương vợ mà còn biết ơn vợ, không chỉ lên án thói đời mà còn là
để trách bản thân. Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm
khuyết, càng thương yêu, quý trọng vợ hơn. Tình yêu thương, quý trọng vợ là
cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung
đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc
của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương vừa mới lạ, độc đáo vẫn rất
gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc. Chúng ta
không thể nào quên được hình ảnh bà Tú – một người vợ đảm đang, tháo vát, giàu
đức hi sinh. Bà tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam. Hai bài thơ như một tiếng
chuông nhẹ nhàng đánh thức lương tri của mỗi người về sự thiêng liêng của tình
cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trước những vẻ đẹp bình dị của quê
hương. Chính vì vậy khi dạy học hai bài thơ này đọng lại trong lòng các em
những suy nghĩ về cuộc sống, giáo dục các em về tình nghĩa sâu nặng đối với quê
hương, gia đình đặc biệt lòng biết ơn sâu sắc trước sự hi sinh lớn lao của người
phụ nữ trong gia đình.
Tuy nhiên khi dạy học hai bài thơ này, qua một thời gian dài vẫn tồn tại
nhiều hạn chế. Đặc biệt là trước khi Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương cải cách
sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học. Cách dạy cũ chỉ chú trọng về
phần nội dung Đó là cảnh thu và tình thu trong bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến.
Đó là tình thương yêu, quý trọng vợ của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi 46
vất vả gian truân, và những đức tính cao đẹp của bà Tú, qua đó thấy được tâm sự
và nhân cách cao đẹp của Tú Xương trong bài Thương vợ. Phần nghệ thuật bị coi
nhẹ và được xem xét một cách lẻ tẻ, không có hệ thống. Hiện nay, trong xu thế
đổi mới phương pháp dạy học, tình hình dạy học văn nói chung và hai bài thơ trên
nói riêng có nhiều khả quan hơn. Nhiều phương pháp mới được sử dụng nhằm
tiếp cận văn bản một cách toàn diện hơn. Nhưng vì đây là hai bài thơ thuộc văn
học trung đại, viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật, là những bài thơ tiêu biểu
của Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Một bài thơ nhỏ phải hòa vào “dòng chảy ”
nghệ thuật chung trong toàn bộ sáng tác của nhà thơ và những đặc điểm thi pháp
thời đại. Học sinh chưa được tiếp cận với toàn bộ sáng tác của Nguyễn Khuyến và
Tú Xương, chưa nắm được thi pháp thời đại, vì vậy cái nhìn toàn diện, khái quát
về hai bài thơ này để đánh giá một vấn đề cụ thể bị mất đi. Giáo viên đã chú trọng
tìm hiểu những nét đặc sắc nghệ thuật của hai bài thơ nhưng có lẽ vẫn bỏ sót
nhiều yếu tố quan trọng do nhiều nguyên nhân. Phần sau của luận văn xin được
bổ xung thêm những yếu tố này nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học hai
bài thơ.
2.2. Những định hƣớng đổi mới khi dạy hai bài thơ “Thu điếu” của Nguyễn
Khuyến và “Thƣơng vợ” của Tú Xƣơng từ hƣớng tiếp cận thi pháp
2.2.1. Dạy bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương
từ hướng tiếp cận thi pháp thơ trung đại
Dạy học Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương có cái
khó của nó, bởi nó chỉ là một bài thơ nhỏ trong một mảng thơ Nôm khá lớn của
hai nhà thơ. Nếu không tiếp cận với văn học trung đại một cách khái quát thì dễ
rơi vào chuyện “Thầy bói xem voi”. Khi dạy những bài thơ này, dù thời lượng
hạn hẹp, chúng ta cũng không thể bỏ qua việc giới thiệu một cách khái quát nhất
về một số phương diện như thi pháp văn học trung đại (giới thiệu một số nội dung
liên quan như đề tài, bút pháp, thi liệu, quan niệm về thiên nhiên,…). Với cách
dạy từ hướng thi pháp thì việc giúp học sinh nắm được những đặc điểm cơ bản về
thi pháp thời đại chính là chìa khóa để giải mã một bài thơ cụ thể như thế này. 47
Thu điếu (Nguyễn Khuyến), Thương vợ (Tú Xương) là những bài thơ tiêu biểu
nhất của mảng thơ nôm trung đại Việt Nam. Tất nhiên vì thời gian có hạn, chúng
ta không thể đi giới thiệu tất cả các đặc điểm về thi pháp của văn học trung đại
mà chỉ chú trọng nhấn mạnh những đặc điểm nghệ thuật được sử dụng nhiều nhất
trong hai bài thơ mà thôi. Có thể tập trung vào các khía cạnh như đề tài, thể loại,
bút pháp, thi liệu, ngôn ngữ, hình ảnh,… Đây sẽ tạo nền tảng cơ sở để tìm hiểu
bài thơ một cách khoa học và có hệ thống. Dựa vào các đặc trưng thi pháp thơ
trung đại như đã trình bày ở trên ta có thể thấy trong bài Thu điếu (Nguyễn
Khuyến) mang những nét chung của thơ ca trung đại trên những bình diện sau:
+ Đề tài: mùa thu là một đề tài quen thuộc. Trước Nguyễn Khuyến đã có rất
nhiều nhà thơ viết về đề tài này.
+ Thể thơ: Thu điếu được viết theo hình thức thể thơ Nôm thất ngôn bát cú đường
luật. Với lối viết giản dị, dễ hiểu của thể thơ thì bài thơ cũng tuân thủ một cách
chặt chẽ theo hình thức luật đường như số câu, số chữ, niêm, luật, đối, vần,…
Điều này tạo cho các bài thơ một kết cấu chặt chẽ, mực thước, cổ điển.
+ Bút pháp: bài thơ cũng sử dụng những bút pháp quen thuộc của văn học trung
đại như lấy động để tả tĩnh, lấy cảnh ngụ tình, cảnh thu được ghi lại một cách ước
lệ, tượng trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật.
+ Thi liệu: thơ viết về mùa thu của văn học Trung đại Việt Nam thường miêu tả
cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Hình ảnh như trời thu, trăng thu, nước thu,
gió thu, sương thu, lá mùa thu, khói thu, ngõ trúc,... đều đã trở nên quá quen
thuộc và như là một công thức cho người sáng tác. Có thể coi đây là tính ước lệ
của bài thơ.
+ Âm hưởng: âm hưởng chung của thơ về mùa thu thường là buồn. Thu điếu đã
không là một ngoại lệ. Đọc kĩ bài thơ này, chúng ta rất dễ dàng nhận ra âm hưởng
chung của chúng là buồn, một nỗi buồn man mác bâng khuâng và với rất nhiều
những căn cớ, nguồn cơn. Cũng là mùa thu làm thơ, cũng là mùa thu câu cá cũng
là mùa thu uống rượu đấy nhưng xem ra tất cả chỉ là cái cớ cho một điều gì đó lớn
hơn mà ta thường bắt gặp ở các nhà thơ ở ẩn khác. 48
Với bài Thương vợ của Tú Xương dấu ấn của thi pháp thơ trung đại được thể hiện
trên các bình diện sau:
+ Đề tài: viết về người vợ. Trong thơ trung đại Việt Nam đã có nhà thơ viết đề
tài này. Chúng ta đã từng biết đến một Khuê ai lục của Ngô Thì Sỹ khóc người vợ
yêu qua đời giữa lúc đầu xanh tuổi trẻ, một Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn
Du thương tiếc người vợ đã khuất, những câu thơ dứt ruột của Tự Đức và trước
Tú Xương một chút là câu đối khóc vợ chứa chan tình người của Nguyễn
Khuyến. Ngoài ra còn phải kể đến Cao Bá Quát, Bùi Hữu Nghĩa, Phạm Văn
Nghị.
+ Thể thơ: là một bài thơ Nôm được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật
tuân thủ chặt chẽ theo đề, thực, luận, kết, bình đối.
+ Ngôn ngữ: giản dị, dễ hiểu.
2.2.2. Dạy bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương theo
đặc điểm thi pháp tác giả
Đây là một nguyên tắc mà người nghiên cứu và dạy học tác phẩm văn học từ
góc độ thi pháp cần chú ý. Mỗi một tác phẩm văn học dẫu thuộc cùng một thể loại
nhất định cũng là một vũ trụ thu nhỏ, một sáng tạo mà nhà văn phải nung nấu cả
đời. Nếu không chú ý đến việc khám phá cái riêng của thi pháp tác giả, bức tranh
văn học sẽ nghèo nàn, đơn điệu cả về bố cục và màu sắc, dễ ra lò theo lối công
nghiệp hàng loạt, triệt tiêu phần cá nhân, tính sáng tạo của con người. Trong khi
đó vận động của dòng chảy văn học ngày càng khẳng định tính chói sáng phẩm
chất sáng tạo như một đặc điểm sống còn của người viết. Vì vậy dạy bài Thu điếu
của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương theo đặc điểm thi pháp tác giả
là cần thiết không thể bỏ qua.
2.2.2.1. Dạy bài Thu điếu theo đặc điểm thi pháp thơ Nguyễn Khuyến
Thi pháp thơ Nguyễn Khuyến là những nét nghệ thuật sáng tạo đặc sắc mang
dấu ấn Nguyễn Khuyến vượt ra ngoài những quy phạm của văn học trung đại.
Trong bài thơ Thu điếu nét đắc trưng thi pháp thơ Nguyễn Khuyến là được thể
hiện ở những bình diện sau: 49
+ Thi đề: Nguyễn Khuyến phá vỡ tính ước lệ ngay từ thi đề. Nếu như thơ ca cổ
nói đến mùa thu thì thường đó là hình ảnh của một bức tranh thu có tính chất khái
quát, phổ quát với âm hưởng buồn sầu rất chung chung thì ở đây, qua thi phẩm,
nhà thơ đã đưa chúng ta về với không - thời gian của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ,
rất cụ thể và sinh động, không lẫn với bất kì bức tranh thu nào. Từ điểm nhìn
không gian làng Vị Hạ, Nguyễn Khuyến đã mô tả mùa thu của vùng đồng chiêm
trũng hết sức gần gũi và thân quen.
+ Thi hứng: Các nhà thơ xưa thường tìm cảm hứng trong cảnh vật Trung Hoa,
như sông Xích Bích, hồ Động Đình, bến Tầm Dương, sông Tiêu Tương, bến
Phong Kiều,... Nhưng trong các thi phẩm Nguyễn Khuyến tuyệt nhiên không thấy
có các cảnh Trung Hoa, hay các cảnh xây dựng theo tưởng tượng, mà những cảnh
quen thuộc thường ngày của nông thôn Việt Nam đã đem đến nguồn thi hứng
trong thơ ông. Sở dĩ như vậy là vì gần suốt đời mình, ông đã gắn bó với thôn quê,
hòa hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà. Hơn ai hết Nguyễn Khuyến đã cảm nhận
được là không có mùa thu nào trên đất nước ta đẹp như mùa thu xứ Bắc. Mùa
mưa vừa ngớt, không khí bắt đầu khô ráo, những ao chuôm, sông hồ đầy nước
giống như mặt gương bầu trời xanh trong cao rộng, gió heo may se se lạnh, sắc lá
đổi màu,… Mùa thu cũng là mùa câu, đây là một thú vui tao nhã của những người
dân thôn quê khi rảnh rang việc đồng áng. Đêm thu, dưới trăng sáng, các cụ già
thôn dã có thú vui uống rượu thưởng trăng. Hình ảnh các cụ già say sưa với
những cần câu trúc và ngồi điềm tĩnh hưởng thụ vị cay nồng của rượu là những
nguồn thi hứng để Nguyễn Khuyến sáng tác ra những kiệt tác này. Nếu Thu vịnh
tập trung miêu tả hồn thu đất Việt. Thu ẩm phác họa về khí thu Việt Nam thì Thu
điếu là bức tranh sống động của làng cảnh Việt Nam.
+ Thi liệu: nhiều nhà thơ xưa khi miêu tả mùa thu thường chọn những thi liệu rất
quen thuộc như tả cây ngô đồng, hoa cúc,… Trong bài Thu điếu, Nguyễn Khuyến
đã tránh được công thức ước lệ đó. Cảnh trong bài vẫn là trời nước, gió, trúc –
những thi liệu quen thuộc nhưng ở đây lại là những hình ảnh trời thu xanh ngắt,
ngõ trúc quanh co, ao thu bé tẻo teo,... Nói chung các hình ảnh thơ ở đây hiện lên 50
với đặc điểm chung là rất sinh động, cụ thể, rất riêng của vùng đồng chiêm trũng
nơi quê hương tác giả. Điểm mới ở đây là vẫn có “cảnh cũ” nhưng hồn thơ thì đã
vượt ra khỏi khuôn sáo thi tứ cổ điển .
+ Ngôn ngữ nghệ thuật: phá vỡ tính ước lệ trong chùm thơ thu còn thể hiện rất rõ
ở hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật. Nghệ thuật sử dụng tiếng Việt của tác giả đã đạt
đến sự tinh tế, điêu luyện. Bài thơ không dùng điển cố, điển tích hoặc từ ngữ khó
hiểu. Thấy rất rõ là trong bài thơ này, Nguyễn Khuyến đã sử dụng dày đặc những
từ thuần Việt trong sáng, dể hiểu, giàu sức gợi: xanh ngắt, lạnh lẽo, trong veo, bé
tẻo teo, gợn tí, vèo, lơ lửng, vắng teo, bèo. Ở đây các từ được khai thác để diễn
đạt các cảm giác khác nhau về mùa thu. Mùa thu hiện lên qua các giác quan. Mắt
nhìn thấy: màu vàng của lá thu, màu xanh ngắt của trời thu, nước trong veo, làn
sóng xanh biếc, ngõ quanh co, vắng vẻ. Tai nghe thấy tiếng bay vèo của chiếc lá
vàng trước gió, tiếng cá đớp dưới lớp bèo. Tất cả góp phần khắc hoạ bức tranh
mùa thu đồng bằng Bắc Bộ rất điển hình, rất riêng. Nhưng điều tuyệt diệu ở đây
là dùng từ ngữ thuần Việt mà người đọc vẫn cảm nhận được ở đấy sự tinh tế, tao
nhã, cái tao nhã của một con người đa cảm và khả năng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của
trời đất, vũ trụ, của mùa thu. Vần eo ở bài Thu điếu là một sáng tạo của Nguyễn
Khuyến tạo cảm giác thu nhỏ, xa vắng. Hẳn trong thơ ca cổ về mùa thu không có
được điều tuyệt diệu này.
Ngoài ra, các từ láy được sử dụng trong bài thơ góp phần tạo nên ấn tượng
nhẹ nhàng, chậm chạp, yên tĩnh, vắng vẻ của cảnh thu: lạnh lẽo, tẻo teo, lơ lửng.
Cảnh thu được nhìn từ quan điểm của một nhà nho ẩn dật đã được diễn tả bằng
yếu tố tạo hình, tạo ấn tượng của từ ngữ rất thành công.
+ Không gian nghệ thuật: nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến
đón nhận từ cái không gian thoáng đãng, mênh mông, bát ngát, với cặp mắt
hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được “ Trời thu
xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung
cảnh thiên nhiên rộng rãi, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ
51
gói gọn trong một ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng
quê của Nguyễn Khuyến:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bài thơ mở ra không gian nghệ thuật đầy thi vị, đầy ắp không khí của làng
cảnh đồng bằng Bắc Bộ. Vì đi câu cá nên điểm xuất phát của cảm hứng là chiếc
“ao thu”. Ao là hình ảnh thân thuộc, bình dị ở làng quê xứ Bắc. Nguyễn Khuyến
chọn ao thu để khơi nguồn thi hứng. Chiếc ao thu trong tấm lòng yêu thương và
rung cảm thẩm mĩ của Nguyễn Khuyến đẹp và gợi cảm như một tác phẩm mĩ
thuật. Chiếc ao thu ấy lạnh lẽo một cách đầy chất thơ. Từ “ lạnh lẽo” đặc tả khí
lạnh của ao nước mùa thu, dường như cái lạnh ấy thấm sâu vào da thịt con người.
Tính từ “trong veo” đã tuyệt đối hóa độ trong của nước, đồng thời còn gợi ra độ
thanh sạch, sự bất động, tĩnh lặng của mặt ao. Đã vắng những cơn mưa rào xối xả
của mùa hạ, nước trong ao thu thấm cái lạnh của heo may mà lắng trong đến độ
như được lọc, trong vắt, trong veo đến tận đáy. Bầu trời như lặng gió và có rất
nhiều nắng, rất sáng, nước trong ao mới có độ “trong veo” như thế! Mới chỉ nói
tới nước thu mà ta đã thấy trời thu, nắng thu, gió thu, ta đã thấy được độ hàm súc,
tinh tế trong cách dùng từ của Nguyễn Khuyến với thể thơ Đường. Trước mắt
người đọc là một khoảng không gian mùa thu trong sáng và tĩnh lặng vô cùng.
Hai âm “eo” được gieo trong một câu khiến cho cảm giác về cái lạnh và sự ngưng
đọng ấy của không gian càng trở nên tuyệt đối, đồng thời còn gợi ra không gian
nhỏ hẹp của chiếc ao. Không gian mùa thu tiếp tục mở ra với hình ảnh “lá vàng”
là một hình ảnh mang tính ước lệ trong thơ ca cổ. Nhưng hình ảnh “lá vàng” trong 52
bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến lại mang dáng dấp riêng của tác giả khi
miêu tả về mùa thu. Một chiếc lá vàng rời cành bởi làn gió rất nhẹ của mùa thu,
xoay xoay rồi liệng vèo xuống mặt nước. Đó là một chi tiết rất thực, rất sống
động của cảnh sắc mùa thu ở làng cảnh Việt Nam. Sau này trong bài Đây mùa thu
tới, Xuân Diệu viết:
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Cái sắc vàng của mùa thu tạo nên không gian nghệ thuật mang dáng vẻ tươi sáng
như chiếc áo “mơ phai” khoác cho mùa thu làm cho không gian thêm tươi tắn, dịu
nhẹ mang nét thu điển hình cho quê hương Việt Nam. Trong Thu điếu, sắc vàng
ấy cũng vậy. Nó làm cho không gian như sáng bừng lên, gợi ra trời thu, gió thu,
nắng thu. Cái sắc vàng của lá thu ấy, Xuân Diệu đã từng nhận xét: Cái thú vị của
bài Thu điếu ở cái điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời,
xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang qua chiếc lá thu rơi. Hai câu thơ thực đối
nhau rất chỉnh, các sự vật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gió thổi làm sóng
gợn, làm lá rơi. Các tính từ, trạng từ “biếc”, „tí‟, “vàng”, “khẽ”, “vèo” được sử
dụng một cách hợp lí, giàu chất tạo hình, vừa tạo ra bức tranh màu sắc thanh nhã,
có xanh có vàng, vừa gợi được sự uyển chuyển, sinh động của tạo vật, lại vừa cho
thấy tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của thi nhân. Nguyễn Khuyến phải rất nhạy cảm,
tinh tế thì mới chớp được những biến động tinh vi của tạo vật, thì mới có thể nhận
biết được cảnh vật xung quanh chuyển động chỉ “hơi”, “khẽ”. Đó là sự chuyển
động “ hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ, khẽ khàng của chiếc lá vàng, là sự
mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao. Cả hình và tiếng đều cực
nhỏ. Cuối hai câu thực là hai từ đối nhau “tí”, “vèo” – một từ nói lên cái cực nhỏ
của hình khối, một từ nói lên cái cực nhỏ của âm thanh. Không gian tĩnh lặng cứ
tăng dần theo từng cấp độ: “hơi gợn tí”, “khẽ đưa vèo”. Không gian động mà tĩnh,
hữu thanh mà vô thanh. Tác giả đã rất thành công với bút pháp nghệ thuật lấy
động để tả cái tĩnh lặng của mùa thu, để ghi lại nét thu, hồn thu của quê hương xứ
sở. Đây là bút pháp quen thuộc của các nhà thơ trung đại. Nhưng ở Nguyễn 53
Khuyến, ông dùng cái động để tả cái tĩnh và trong cái tĩnh bao giờ cũng có cái
động như trong bài Thu ẩm vẫn có “đóm lập lòe”, “ánh trăng loe”, “lóng lánh”.
Trong bài Thu vịnh, trên cái nền phẳng lặng của thiên nhiên lại nổi nên một âm
thanh độc đáo: “Một tiếng trên không ngỗng nước nào”.
Hai câu luận nhà thơ tiếp tục sử dụng vần “eo” nhưng không gian không bị
giới hạn mà đã mở rộng theo chiều rộng, chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng
rãi cho cảnh vật. Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa
thu. Trong các bài thơ thu, Nguyễn Khuyến thường nhắc tới “Trời thu xanh ngắt
mấy từng cao” (Thu vịnh) hay “ Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Thu ẩm). Màu
da trời xanh ngắt thật là đẹp, tạo cảm giác không gian như cao hơn, xa hơn. Trên
nền trời xanh ngắt ấy, những áng mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà “lơ
lửng”, ngõ xóm quanh co… Tất cả hiện lên đều thân thương nhuốm màu sắc thôn
quê Việt Nam. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thấy được những nét
quê tĩnh lặng, êm ả như vậy. Trời sang thu, không khí giá lạnh, đường làng cũng
vắng vẻ. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” không bóng người qua lại. Nguyên
từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng “vắng teo” thì có nghĩa là cảnh vắng
tanh vắng ngắt, không chút cử động, không chút âm thanh, không một bóng
người. Bởi thế, hai câu thơ gợi ra sự trống vắng, nỗi cô đơn trong lòng người. Sau
này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt đựơc những nét điển hình
đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Trên nền cảnh thu ấy xuất hiện một chiếc thuyền câu lẻ loi, đơn chiếc, bé
nhỏ. Số từ chỉ số ít “một chiếc” kết hợp với từ láy “tẻo teo” khiến cho chiếc
thuyền càng nhỏ bé hơn, như co lại thành một nét chấm trên nền ao cũng bé xíu
và trong tận đáy.
Tóm lại, không gian mở ra với bầu trời xanh ngắt, tầng mây lơ lửng. Dưới
mặt đất có ao nước lạnh lẽo, những làn sóng xanh biếc gợn nhẹ, những đám béo,
và dưới lớp bèo là những con cá chứng tỏ sự hiện diện của nó bằng việc đớp động 54
dưới chân bèo, chiếc thuyền câu mà trên đó, chắc hẳn người câu đang ngồi. Trên
bờ là một cái ngõ nhỏ có hàng trúc quanh có, vắng vẻ. Các yếu tố không gian
tổng hợp lại thành một bức tranh thu điển hình ở nông thôn Bắc Bộ.
+ Thời gian nghệ thuật: xét về mùa, đây là mùa thu, khi thiên nhiên, đất trời ở
Bắc Bộ đẹp nhất, mát mẻ, dễ chịu nhất trong năm. Nhưng thời gian trong cảm
nhận của con người ở đây dường như ngưng đọng. Các hoạt động của nhịp điệu
chậm chạp: chỉ là sóng gợn lăn tăn, lá vàng khẽ bay trong gió, mây lơ lửng, ngõ
vắng teo, tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Người ngồi câu cũng có tư thế gần
như bất động: “Tựa gối buông cần lâu chẳng được”. Nhịp thời gian ngưng đọng
đó gợi ấn tượng về sự nhàn nhã của cuộc sống ẩn dật.
Như vậy, Nguyễn Khuyến đã vẽ ra một bức tranh thu hài hòa giữa màu sắc
và âm thanh, giữa tĩnh và động, giữa cảnh thu và tình thu gợi nhiều xúc cảm cho
người đọc. Làng cảnh Việt Nam hiện lên qua bài thơ với những nét tươi sáng,
thanh đạm, hồn hậu; với những hình ảnh giản dị mà thi vị biết bao; với những âm
thanh trong trẻo có tính chất vang ngân của những cặp vần. Mỗi hình ảnh, đường
nét, âm thanh đều thấm đượm tâm hồn thi nhân. Một nhà thơ yêu quê hương làng
cảnh đến say đắm. Đọc thơ ông, người đọc như thấy thêm yêu quê hương đất
nước mình hơn, thấy những hình ảnh nông thôn Việt Nam hiện lên trước mặt
không lẫn vào đâu được. Điều đó tạo nên phong cách thơ khác biệt trong làng quê
Việt Nam – thơ Nguyễn Khuyến.
+ Con người: bức tranh mùa thu sẽ là thiếu nếu không có hình ảnh của con người.
Bài thơ hiện rõ hình ảnh của con người thi nhân. Nếu trong thơ ca trước đó, tính
ước lệ, quy phạm khiến cho hình ảnh của tác giả thường mờ nhạt, khó có thể cụ
thể trong giọng điệu, cảm xúc thì ở bài thơ này, hình ảnh thi hào Nguyễn Khuyến
hiện lên rất rõ. Hơn thế, đó là hình ảnh của một con người với tâm trạng thế tình
vời vợi, khôn khuây. Tập trung thể hiện rõ trong cặp câu thơ kết với tư thế “tựa
gối buông cần” – tư thế co lại, như thu nhỏ mình để tránh cái “lạnh lẽo” giữa “ao
thu”. Có tài liệu cho rằng trong câu “Tựa gối buông cần lâu chẳng được” từ
“ôm” chứ không phải là “buông”. Nhưng theo từ điển Việt Nam thì “buông” hay 55
hơn cho “ôm” mà lại phù hợp với tính cách và tình thế của nhà thơ hơn. Trong
những ngày từ quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đó là thú vui của nhà thơ để hòa
mình vào thiên nhiên mà quên đi những bận lòng với nước non cho tâm hồn thanh
thản. “Buông” là thả lỏng để cho tâm hồn thư thái. Vì vậy “ôm” không phù hợp
với hoàn cảnh của Nguyễn Khuyến. Từ “buông” mang đến cho câu thơ hiệu quả
nghệ thuật cao hơn.
Âm thanh “cá đâu đớp động dưới chân bèo” vừa gợi sự mơ hồ, vừa gợi sự
giật mình thảng thốt, ngơ ngác tìm kiếm. Tiếng động nhẹ duy nhất đã phá tan
không gian yên tĩnh, vắng lặng của cảnh thu và tâm hồn tác giả. Chi tiết cá đớp
động dưới chân bèo khi “tựa gối buông cần lâu chẳng được” có thể tác giả đang
theo đuổi những ý nghĩ thầm kín, riêng tư nào đó nên “lâu chẳng được” chỉ khi
tiếng cá đớp động mới kéo người câu cá trở lại với việc câu cá của mình. Ngày
xưa uống rượu, thưởng trăng, câu cá không chỉ là cái thú của thi nhân, không đơn
thuần chỉ là việc kiếm ăn, là thú vui tiêu khiển thời gian mà còn là cái cớ để họ
bày tỏ việc khác. Cũng có người lấy việc câu cá để đợi thời như Lã Vọng ngồi
câu cá bên sông Vị Thủy đã gặp Văn Vương – một người xứng đáng để ông ta
phò tá. Vì thế nhà thơ Bạch Cư Dị đời Đường đã có câu thơ:
Câu người, không câu cá
Bảy mươi, gặp Văn Vương
Đời nhà Hán, Nghiêm Tử Lăng cũng lấy việc đi câu cá để từ chối việc đi
làm quan với nhà Hán. Rồi Khương Tử Nha câu cá bằng lưỡi câu thẳng. Vậy là
trong thơ văn có truyền thống lấy việc câu cá để từ chối việc làm quan và coi việc
câu cá là “câu người” để chờ thời. Vì vậy đằng sau tư thế “tựa gối buông cần” là
cả tấm lòng của tác giả, là tâm trạng không yên trước thực tại đất nước. Thời thế
thay đổi quá nhanh, non sông mất vào tay giặc mà mình thì không thể làm gì để
giúp đời, giúp nước. Sống làm một ẩn sĩ giữa thời buổi đất nước đang bị thực dân
Pháp xâm lược nên ông không thể ung dung đi câu như một ẩn sĩ thực thụ mà để
tránh đời để quên đi những bận lòng mà hòa vào thiên nhiên, non nước của quê
hương không vương giàu sang, phú quý. Hai câu kết đã góp phần bộc lộ đôi nét 56
về chân dung tác giả. Trong những tự tình qua các bài về thu, Nguyễn Khuyến và
Đỗ Phủ đều có những tâm sự đau buồn như nhau. Nhưng nếu Đỗ Phủ đã dùng
những hình tượng trong thiên nhiên làm bối cảnh, để miêu tả rõ ràng những uất
hận trong đời ông thì Nguyễn Khuyến dùng cảnh thu tượng trưng cho những nỗi
niềm chán nản, tủi nhục của mình một cách xa xôi.
Không chỉ với Đỗ Phủ, thơ Nguyễn Khuyến khác mà đối với thơ mùa thu
của những nhà thơ thế hệ 1930 – 1945, thơ Nguyễn Khuyến cũng khác và vẫn xúc
động lòng người hơn. Mỗi năm khi hoa cúc nở giữa những chiếc lá vàng rơi, khi
gió heo may hiu hắt dưới vầng trăng trong sáng, một số thi sĩ thế hệ 1930 – 1945
cũng cảm thấy rạo rực cần mượn thi ca để bộc lộ những nỗi hoài niệm riêng tư.
Hoặc than khóc cho kiếp duyên dang dở như bà Tương Phố trong “Giọt lệ thu”:
Trời thu ám ảnh một mình
Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng thu bóng ngả bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng?
Hoặc lắng nghe hồn mình ngơ ngác, đơn côi giữa mùa thu như Lưu Trọng
Lư trong Tiếng thu. Hoặc duyên dáng mơ màng như Xuân Diệu trong bài Đây
mùa thu tới.
Tóm lại, Thu điếu là sự thể hiện một trong những nét đặc sắc của nghệ thuật
phương Đông: lấy động tả tĩnh. Để gợi cái yên ắng của cảnh vật, cái tĩnh lặng của
tâm trạng, tác giả đã đưa vào bức tranh một nét động duy nhất “cá đâu đớp động
đưới chân bèo”. Dù vẫn theo một số nguyên tắc tả cảnh của thi pháp thơ cổ điển
nhưng nhà thơ đã vượt lên những hình thức ước lệ khi nói về mùa thu như “sen
tàn, cúc nở”, “lá ngô đồng rụng”. Nguyễn Khuyến đã đưa vào thơ những hình ảnh
rất thực của cảnh vật quê hương. Vì thế cảnh thu trong thơ Nguyễn Khuyến tuy
đơn sơ nhưng vô cùng gợi cảm tạo nên những rung động sâu sắc trong lòng người
đọc. Nhìn lại các bài thơ mùa thu ngày xưa. Thu hứng của Đỗ Phủ là một trong
thi phẩm tài tử nhất đời Đường, bút pháp miêu tả kỳ diệu, chuyên dùng những
hình tượng trong thiên nhiên làm bối cảnh trợ lực để tự tình những nỗi uất hận 57
bình sinh của tác giả. Còn ngày nay vào thế kỷ XIX ở nước ta, các bài thơ Thu
vịnh, Thu ẩm nhất là bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến là những bài thơ Nôm
tuyệt tác trứ danh được người đời truyền tụng cho đến ngày nay. Tuy xây dựng
theo những quy luật gò bó, chặt chẽ của thơ Đường luật mà bao nhiêu tình ý, cảnh
trí Việt Nam đã được giao thoa một cách dung dị, uyển chuyển chưa từng thấy.
2.2.2.2. Dạy bài Thương vợ theo đặc điểm thi pháp thơ Tú Xương
Những nét nghệ thuật sáng tạo đặc sắc mang dấu ấn thi pháp thơ Tú Xương
vượt ra ngoài những quy phạm của văn học trung đại trong bài thơ Thương vợ
được thể hiện ở những bình diện sau:
+ Đề tài: người vợ. Trong thơ trung đại Việt Nam, các nhà thơ ít khi viết về cuộc
sống tình cảm đời tư của mình, càng hiếm khi viết về người vợ. Thơ văn xưa coi
trọng mục đích giáo huấn, dùng văn thơ để dạy đời, tỏ chí “văn dĩ tải đạo”, “thi
dĩ ngôn chí”, với những đề tài phổ biến như: chí làm trai, nợ công danh, chí kinh
bang tế thế hoặc những ưu tư về thời cuộc. Cũng trong xã hội xưa, vị thế của
người phụ nữ ít được coi trọng, thậm chí còn bị coi rẻ. Vì vậy, rất ít nhà thơ viết
về người vợ. Và có viết về họ chỉ khi họ đã qua đời. Chúng ta đã từng biết đến
một Khuê ai lục của Ngô Thì Sỹ khóc người vợ yêu qua đời giữa lúc đầu xanh
tuổi trẻ, một Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn Du thương tiếc người vợ đã
khuất, những câu thơ dứt ruột của Tự Đức và trước Tú Xương một chút là câu đối
khóc vợ chứa chan tình người của Nguyễn Khuyến. Các nhà thơ trung đại Việt
Nam viết về vợ mình không nhiều, mà chủ yếu lại là văn tế và câu đối khóc người
đã khuất. Chỉ có một số nhà thơ như Cao Bá Quát, Bùi Hữu Nghĩa, Phạm Văn
Nghị là có viết về vợ mình ngay lúc đang sống. Nhưng viết nhiều nhất và hay
nhất, mà lại là về một người vợ đang còn hiện hữu trên đời thì có lẽ Trần Tế
Xương là tác giả tiêu biểu hơn cả. Và nếu có làm văn tế thì cũng là văn tế sống vợ
không phải để tiếc thương mà để cười thương, ngợi ca người bạn đời của mình.
+ Bút pháp, giọng điệu: Trần Tế Xương chủ yếu là một nhà thơ trào phúng, trào
phúng chuyên nghiệp. Những bài thơ nghiêng về trữ tình như Sông Lấp, Áo bông
che bạn, Thương vợ không nhiều, nhưng bài nào cũng xuất chúng. Thương vợ lại 58
tiêu biểu cho sự hòa hợp giữa hai phẩm chất nghệ thuật nổi bật trong sáng tác của
ông: trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là chính, là cơ bản. Bà Tú là một đề
tài khá quen thuộc trong thơ Tú Xương, hình ảnh bà đã đi vào sáng tác của ông
trong các bài như: Đau mắt, Văn tế sống vợ, Tự cười mình, Hỏi mình... và Thương
vợ. Những bài thơ này cho chúng ta thấy, bên cạnh một Tú Xương trào phúng sắc
sảo, ngang ngạnh, tinh quái, khác đời là một Tú Xương khác rất mực đằm thắm,
biết tự hạ mình để làm đẹp người khác. Không phải lúc nào con người ấy cũng
chế giễu, cười người, cay độc mà nhiều lúc ông vẫn để cho lòng mình sâu lắng lại
và bật ra những bài thơ chứa chan tình cảm, giàu sự suy tư, dằn vặt.
+ Nhân vật trữ tình trong bài thơ: Thương vợ viết về bà Tú nhưng thực ra lại có
sự song hành của cả hai hình tượng: hình tượng bà Tú được thể hiện một cách nổi
bật trực tiếp và hình tượng ông Tú được khắc hoạ một cách gián tiếp nấp sau
người vợ nhưng vẫn khá rõ nét. Thực chất Tú Xương viết thơ để ca ngợi vợ và
muốn khắc hoạ hình ảnh một ông “chồng thừa” vô trách nhiệm chứ không hề có ý
đề cao mình nhưng vô hình chung vẫn hiển hiện trong bài thơ một nhân cách cao
đẹp của người chồng và từ đó là một quan niệm khác biệt về người vợ so với
truyền thống.
+ Thể thơ: là một bài thơ Nôm được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật.
Thơ Nôm Đường luật đến Tú Xương đã trải qua một thời gian phát triển khá dài,
nó liên tục được cách tân từ thời Nguyễn Trãi. Đến Tú Xương, ông chính là
người đã đem đến cho thể loại văn học đã được Việt hóa cao độ này những phá
cách mới mẻ giàu giá trị nghệ thuật. Ông không lấy nguyên mẫu một bài thơ
đường luật Trung Hoa mà ông đã sáng tạo rất lớn trong bài thơ của mình. Thơ
Đường đấy, cũng đề, thực, luận, kết, thất ngôn bát cú nhưng không một chút
khệnh khạng, chỉnh tề, mũ cao áo dài đạo mạo mà gần gũi thân thương như lời
nói hàng ngày. Mặc dù có kết cấu chặt chẽ nhưng nghệ thuật bình đối và việc
chọn lọc từ ngữ tinh giản đã giúp cho những hình ảnh được xây dựng có sức gợi
tả nổi bật. Tài năng của Tú Xương là ở chỗ đã đưa được vào trong thể thơ gò bó
này rất nhiều chi tiết chân thực và sinh động từ cuộc sống một cách rất tự nhiên. 59
Việc tận dụng một cách triệt để những thế mạnh của thể thơ đã khiến cho mỗi từ
ngữ, mỗi hình ảnh đều trở nên chói sáng mà nhịp thơ vẫn phát triển hài hòa, nhịp
nhàng. Tinh hoa của một thể thơ phát triển và dân tộc hóa đã gần một nghìn năm
được kết tinh lại trong một con người, trong một bài thơ. Thương vợ chính là dấu
nối giữa hai thế kỷ thơ Việt, nối truyền thống với hiện đại.
Tên gốc của bài thơ là Tặng bà Tú. Chồng tặng vợ thì không thể cao giọng.
Nhưng cũng không được phép quá xuề xòa, thô thiển vì tình yêu lòng quý trọng.
Cũng vì mình là một trí thức, một nhà thơ ông Tú chọn đúng giọng điệu, tìm về
cội nguồn dân tộc. Vì thế nét tiêu biểu của bài thơ Nôm đường luật này là từ ngữ
giản dị, giàu sức biểu cảm, vận dụng thành công hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân
gian. Nhưng giản dị được nâng lên tới bác học, tầm thi hào.
+ Chất liệu dân gian: chất liệu dân gian của bài thơ được thể hiện không chỉ có
giọng điệu, ngôn ngữ mà còn là hình ảnh, cảm xúc, quan niệm thẩm mĩ.
- Về ngôn ngữ: bài thơ được viết bằng chữ Nôm, thứ chữ ghi âm tiếng Việt. Mà
các từ ngữ trong bài thơ đều là những từ ngữ hết sức giản dị, dễ hiểu, gần gũi với
ngôn ngữ giao tiếp thường ngày của nhân dân. Đặc biệt ngay câu thơ mở đầu cất
lên thật tự nhiên, dường như không chút gọt giũa mà nói được bao điều về hình
ảnh và công việc làm ăn của bà Tú:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Câu thơ ngắn gọn đã phản ánh một cách cụ thể, chi tiết không gian, địa điểm và
công việc làm ăn của bà Tú. Tên thật của bà là Phạm Thị Mẫn, quê ở Lương
Đường, Hải Dương, nhưng sinh tại Nam Định. Bà chuyên buôn bán gạo ở bến
sông để nuôi gia đình. Hai từ “quanh năm” nói lên được nỗi vất vả, tần tảo của bà
Tú triền miên hết ngày này đến ngày khác, tháng này đến tháng khác, năm này
đến năm khác... Vòng quay của thời gian vô tận đã cuốn bà vào cuộc vật lộn mưu
sinh đầy vất vả. Cách tính thời gian như thế vừa nói được nỗi lo toan khó nhọc
của bà Tú, lại vừa là cách ông Tú tỏ lòng biết ơn công lao tần tảo sớm hôm của
vợ mình. Biện pháp tăng cấp ý được sử dụng để diễn tả sự vất vả, từ thời gian
(quanh năm), nghề nghiệp (buôn thúng bán mẹt), cho đến không gian, địa điểm 60
làm ăn: “mom sông”. Mom sông là một nơi chênh vênh, ba bề là nước, nó gợi lên
sự nguy hiểm, bất trắc, vốn không phải là nơi dành để buôn bán bình thường. Bởi
vậy hơn ai hết, Tú Xương hiểu rõ mục đích của nỗi vất vả đó nơi người vợ. Bởi
vậy, ẩn sau mỗi lời thơ nôm na bình dị là một niềm cảm thông, thương mến sâu
lắng.
Nuôi đủ năm con với một chồng
Đôi quang gánh cuộc đời trên vai bà Tú thật quá nặng. Một mình bà phải nuôi đến
sáu miệng ăn, đó là chưa kể đến chính bản thân mình. Đây là cách tính công, đề
cao công lao của vợ một cách chi li, rất mực ân tình của Tú Xương. Mẹ nuôi con
mà không có chồng giúp sức, tuy vất vả nhưng còn là chuyện thường tình, dẫu
sao cũng là thiên chức của người phụ nữ. Điều lạ là cả đến ông Tú bà cũng phải
nuôi. Quả thực đây là một sự vô lý, bất công khi gánh nặng gia đình dồn hết lên
vai bà. Tú Xương đã tách ra làm hai vế tạo thành cái gánh nặng năm con với một
chồng, để thấy rõ cái công ơn của bà với gia đình và với riêng ông. Nhưng gánh
nặng dường như nghiêng lệch, trĩu nặng hơn về một bên, phía một mình ông
chồng vô tích sự nhưng lại đa sự nhiều hơn năm đứa con thơ, khiến câu thơ cũng
như oằn hẳn về phía cuối. Cách kể công cho vợ như vậy thật là độc đáo, thật là Tú
Xương. Nhà thơ đã tự hạ mình xuống mức thấp hơn cả lũ con, đứng riêng ra một
bên, vì ông là một thứ chồng đặc biệt mà bà Tú phải nuôi riêng. Liên từ “với”
nghe thật buồn, thật hài hước, thật hổ thẹn và thảm hại. “Nuôi đủ” ông không chỉ
là đảm bảo những nhu cầu như một người bình thường mà còn là đủ thứ cao sang
tốn kém, đủ cả mọi đòi hỏi sở thích ăn chơi đàn đúm của ông. Nuôi một người ăn
chơi phong lưu “ngựa xe chẳng có lúc nào ngơi”, nổi tiếng có “nòi tình”, lại còn
suốt đời theo đòi thi cử công danh như vậy thật khác hẳn với việc nuôi con, và có
lẽ còn tốn kém hơn cả năm đứa con thơ. Theo quan niệm truyền thống thì kẻ làm
trai phải để chí ở công danh, sự nghiệp, thông qua con đường khoa cử làm quan,
còn chuyện bếp núc gia đình thì phó mặc cho người phụ nữ. Đã có biết bao thầy
đồ nghèo nhờ vợ tảo tần cơm áo mà thành danh. Xã hội ấy có biết bao “ông quan
ăn lương vợ”, biết bao ông chồng ăm bám mà vẫn lên mặt hành hạ vợ con. Thói 61
gia trưởng, sĩ diện khiến cho mấy ai dám hạ mình nói thẳng, nói thật cái hoàn
cảnh ăn bám, vô tích sự của mình. Nhưng đã có một Tú Xương đầy dũng cảm
dám vất bỏ cái nếp nghĩ cổ hủ đề cao người đàn ông, khinh rẻ người phụ nữ, dám
bêu ra trước thiên hạ những kém cỏi, sĩ diện hão đó để tôn vinh công lao người
vợ, để sống thật với những cảm xúc, suy nghĩ của chính mình. Sự khác đời, khác
với với truyền thống của nhà thơ chính là ở chỗ đó. Những người khác cho đó là
chuyện thường tình, chuyện tất yếu, còn Tú Xương nhận thức rõ ràng về sự thừa
ra, vô lý của mình. Mặc cảm “con người thừa” là mặc cảm của thế hệ Tú Xương,
đã rõ nét từ Nguyễn Khuyến (Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh chọe / Tưởng rằng
đồ thật hóa đồ chơi; Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ / Thế cũng bia xanh,
cũng bảng vàng), nhưng lại càng rõ nét hơn, hiện thực hóa hơn ở nhà thơ thành
Nam, ông đã đẩy “con người thừa” thành con người nhỏ bé thảm hại và không
ngần ngại phủ định mình, tầm thường hóa bản thân mình ở mức thấp nhất. Trước
ông chưa có một nhà thơ nào vượt qua nổi ý thức tự trọng của một nhà nho để bày
ra trước mọi người những hạn chế của mình. Nhưng đó dường như không phải
chủ đích của ông. Điều ông muốn thể hiện khi dám vất bỏ cái sĩ diện hão của kẻ
“dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” chính là xuất phát từ lòng tri ân với người vợ đã
hết lòng vì ông, biết đền bù lại bằng cái tình, bằng tấm lòng trân trọng, biết ơn nỗi
vất vả mệt nhọc của bà. Nói lên được điều đó đối với một người chồng trong một
xã hội coi thường người phụ nữ thật không phải điều dễ dàng. Tấm lòng ấy thật
đáng yêu, đáng trân trọng biết bao! Câu thơ tả thực chất chứa ý vị tự trào mà lại
cay đắng, xót xa, cười ra nước mắt.
Như vậy, hai câu mở đầu bằng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên đã đặc tả sự nhẫn
nại, đảm đang của bà Tú trước gánh nặng gia đình. Qua đó nhà thơ gián tiếp bày
tỏ sự biết ơn đối với người vợ tần tảo của mình.
- Về hình ảnh thơ: các hình ảnh lấy chất liệu từ văn học dân gian: "thân cò lặn
lội". Trong ca dao, hình ảnh con cò, thân cò thường nói về thân phận người phụ
nữ lam lũ, vất vả, chịu thương, chịu khó.
62
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non...
Con cò trong ca dao là một sự lựa chọn hình tượng rất nghệ thuật. Con cò
trong cảnh đi kiếm ăn mặt ruộng, bờ sông trông đã tội nghiệp gầy lêu khêu, bước
lững thững, một thân một mình biểu tượng cho người phụ nữ lao động tần tảo,
một nắng hai sương, lếch thếch, lủi thủi. Câu thơ của Tú Xương có sự kế thừa đầy
sáng tạo. Ca dao nói theo chiều thuận “cái cò lặn lội...”, Tú Xương lại nói theo
chiều đảo “lặn lội thân cò”. Cái ý ngược xuôi, bươn trải nổi lên rõ nét trong phép
đảo ngữ ấy. Không phải là “cái cò” nữa mà là “thân cò”. Từ cụ thể mà Tú Xương
đã nâng lên tầm khái quát về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Chữ
“thân” luôn gợi cảm giác nhỏ bé tội nghiệp, bơ vơ chịu đựng. Nữ sĩ Xuân Hương
khi xưa đã từng ngậm ngùi viết:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Ở người phụ nữ xưa, “thân” luôn gắn với “phận”, chính vì vậy mà thi hào
Nguyễn Du đã bao lần phải thốt lên:
Đau đớn thay phận đàn bà.
Và nàng Kiều của ông trong những tháng ngày nhơ nhuốc đã phải tạm cúi đầu
chấp nhận số phận:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
Ca dao mới có không gian “bờ sông” trống vắng, lộng gió. Câu thơ của Tú
Xương có cả không gian và thời gian. “Quãng vắng” đêm trường, có cả màn đêm
tăm tối để cho bà Tú thành cái “thân cò” mà đi ăn đêm. Nhân gian đã từng ái ngại
biết bao cho “thân gái dặm trường” – ái ngại cho thân gái một mình trên đường
xa. Còn đây bà Tú phải lặn lội một mình trên quãng đường xa. Biết bao cái cực
nhọc đằng sau từ “lặn lội”, biết bao nhiêu sự cô đơn, lẻ loi nguy hiểm trên “quảng
đường xa”! Lúc cần không biết đâu mà nương tựa, chưa nói tới hiểm nguy bất
trắc đối với thân gái một mình. Ý thơ không dừng ở đó. Câu thơ Tú Xương vừa 63
phảng phất ca dao nhưng lại vừa rất đường thi “ý tại ngôn ngoại”. “Cái cò” trong
ca dao nỉ non, ai oán trong tiếng khóc và dòng lệ, còn bà Tú biết hi sinh nên
chẳng nhiều lời, cứ âm thầm, lặn lội, một mình mình biết, một mình mình hay.
Hình ảnh bà Tú là hình ảnh đẹp đẽ của biết bao người phụ nữ Việt Nam, bình dị,
tần tảo, hy sinh cả cuộc đời cho gia đình, cho chồng con... Chính hình ảnh đẹp đẽ,
gần gũi, ấy tạo được sự đồng cảm, xúc động sâu sắc của người đọc nhiều thế hệ.
Ta như thấy đằng sau mỗi câu chữ là ánh mắt lo âu đầy ăn năn tự vấn của người
chồng đang dõi theo bóng dáng lẻ loi, lam lũ của người vợ trên con đường gập
gềnh sương gió, giữa thời buổi của sự bon chen và tình đời bạc bẽo.
- Sử dụng linh hoạt các thành ngữ dân gian, cách nói dân gian: cha ông xưa đã
dặn “Con ơi nhớ lấy câu này, Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”. Vậy mà bà Tú
phải qua sông trên con đò như thế. Và hơn thế nữa, nhiều lần bà phải lời qua,
tiếng lại, eo sèo, giằng co, chen lấn rồi mới được xuống đò. Ông Tú đổi từ “đầy”
thành “đông”, kết hợp với mấy từ tượng hình, tượng thanh, tạo nên câu thơ có
hình, có giọng: eo sèo mặt nước, vừa quá tải, vừa hỗn độn, chòng chành rất đáng
sợ. Đi một mình phải “lặn lội khi quãng vắng”, đến chỗ nhiều người thì “eo sèo”.
Chỗ nào, lúc nào bà cũng gặp nguy hiểm, trăm ngàn cay đắng. Chỉ đảo nhẹ một
cấu trúc câu tạo sự cân đối theo thể luật đường, chỉ thay một vài chữ trong kho
tàng tiếng nói dân gian, “nhà thơ đất Vị Hoàng đã sáng tạo được một hình tượng
thẩm mỹ tuyệt vời chân thực, giản dị, tự nhiên thấm đẫm chất dân tộc, rất gần gũi,
sống mãi trong không gian và thời gian. Khi nhìn ngắm, chúng ta thấy rung rinh,
ẩn hiện biết bao hình hài, đường nét chung của vạn triệu bà mẹ, người chị Việt
Nam ngày ấy cũng như bây giờ. Những bà mẹ, người chị gian nan, vất vả hơn
nhiều những “con cò, con vạc” thủa xưa.
Nếu ở hai câu đề và hai câu thực, nhà thơ còn đứng ngoài để miêu tả, thì
đến hai câu luận Tú Xương đã nhập thân vào nhân vật để diễn tả một cách chân
tình nỗi niềm sâu kín của bà Tú. Người chồng đầy tình nghĩa này đã phân thân ở
nhiều điểm nhìn khác nhau để nhìn cho thấu, cho hết công lao thầm lặng của
người vợ: 64
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Câu thơ của Tú Xương lại phảng phất lời ăn tiếng nói của nhân gian với
những thành ngữ được sử dụng rất tự nhiên “một duyên, hai nợ”, “năm nắng,
mười mưa”. Duyên và nợ là hai khái niệm đối lập nhau . Theo cách hiểu dân gian,
duyên là điều tốt đẹp, là sự hòa hợp tự nhiên, còn nợ là gánh nặng, là trách nhiệm
mà con người ta bị vướng mắc phải. Duyên là sự may mắn, còn nợ là sự rủi ro. Ở
đây, khi lấy ông Tú, may mắn bà Tú chỉ hưởng có một mà rủi ro lại gấp đôi, tức
là sung sướng thì ít ỏi mà khổ cực thì lại nhiều. Dù vậy, bà coi đó là cái phận, cái
định mệnh mà ông trời đã áp đặt sẵn cho mình. Vì thế, bà cam chịu, chấp nhận
“âu đành phận”, “dám quản công”, không kêu ca mà âm thầm chịu đựng. Bà sẵn
sàng vượt qua “ năm nắng mười mưa” – những nỗi khó khăn chồng chất mà
không dám “ quản công”, tự nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo gia đình. Ở
đây là “năm nắng mười mưa” chứ không phải như trong thành ngữ “một nắng hai
sương”. Vậy điều gì giúp bà vượt qua “năm, mười” mưa nắng, mưa nắng của
cuộc đời, mưa nắng của cái tính ngang ngược, đành hanh mà không ít lần ông Tú
gây ra. Đó chính là cái tình, cái nghĩa vợ chồng. Điều kỳ diệu là người mẹ, người
vợ đó không hề ý thức rằng đó là sự hy sinh. Như bao người phụ nữ Việt Nam
khác, bà làm mọi việc một cách tự nhiên, âm thầm, không hề đòi hỏi, oán trách.
Dám quản công vừa là thái độ không hề ngần ngại, lại vừa chứa đựng cả cái ý
khiêm nhường, không muốn nhắc đến sự khó nhọc của mình. Có một thời, các
ông chồng nho sĩ chỉ việc nằm dài, dùi mài kinh sử chờ ngày đỗ đạt làm quan còn
bao nhiêu công việc mưu sinh trong gia đình đều phó mặc trong tay người vợ.
Không những phải lo cho chồng đủ tiền ăn học, lo cho gia đình, lo cho con cái
được đầy đủ, người vợ nhiều khi phải lo tiền cho chồng ăn chơi, đánh bài, đánh
bạc, vui thú bạn bè, nhiều khi phải chịu cực khổ, cay đắng, buôn sông bán chợ,
chân lấm tay bùn mà không bao giờ hé răng phàn nàn, vì họ cho là thiên chức của
người phụ nữ mà ở đây điển hình là bà Tú. Cách nói cam chịu số phận là cách
ông Tú cảm thương thay cho vợ chứ bà đâu có tính đếm công lao của mình. Hình 65
tượng bà Tú như càng trở nên vị tha, nhân hậu hơn qua mỗi dòng thơ. Tú Xương
cũng rất có tài dùng số từ để làm tăng giá trị của hình ảnh, câu chữ. Phép đếm:
một - hai - năm - mười là cách nói dồn góp, làm tăng cấp những cực nhọc chồng
chất trong cuộc đời lam lũ của bà Tú. Nhưng tất cả dịu lắng đi trong sự chấp
nhận, bao dung, nhẫn nhịn, vị tha của bà Tú. Đằng sau hình ảnh bà Tú lam lũ, cực
nhọc mà đảm đang, tháo vát là hình ảnh ông Tú đầy cảm thông, chia sẻ, trân trọng
người vợ. Nếu ông không hiểu, không biết ơn, trân trọng sâu sắc bà Tú thì làm
sao ông có thể viết lên những dòng thơ nặng trĩu tâm tình như vậy.
- Chất liệu dân gian còn được thể hiện qua khẩu ngữ đời thường: vẫn là cách nói
dân gian, nghĩ sao nói vậy, không còn nuột nà, ý nhị mà ông dùng tiếng chửi –
chửi mát:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!
Tú Xương nhập thân vào bà Tú để chửi, để rủa chính thói đời bạc bẽo, trách cứ sự
vô tích sự của mình. Thói đời là những nếp cư xử , hành động xấu chung mà
người đời hay mắc phải. Thói đời mà Tú Xương muốn nói đến ở đây là tư tưởng
trọng nam khinh nữ, là thói vô tâm của các ông chồng với vợ. Thói xấu ấy cũng
đã thấm vào người ông Tú, khiến ông ăn ở bạc với vợ, sống thiếu trách nhiệm, đổ
mọi gánh nặng lên đôi vai người vợ. Như vậy, ông Tú không chỉ chửi chung thói
đời mà còn chửi chính bản thân mình. Đây là lời chửi mang đặc trưng riêng của
Tú Xương. Nhà thơ dùng lời ăn tiếng nói của dân gian “cha mẹ” – một cách chửi
có giọng điệu chanh chua, nanh nọc, gay gắt, quyết liệt, lôi cả gốc rễ tông giống
của vấn đề ra mà chửi. Đó chính là biểu hiện của cá tính sắc sảo Tú Xương. Khép
lại bài thơ là một tiếng rủa. Nhà thơ thay vợ mà rủa rằng có chồng mà chồng hờ
hững thì còn tệ hơn cả không có chồng. Có thể hiểu câu đó nghĩa là ông chồng
mà sống vô tích sự, vô trách nhiệm với gia đình thì ông ta sống cũng như chết rồi.
Nghĩ lại trong thời đại Tú Xương sống, thiếu gì những ông chồng lêu lổng, chỉ
quen hách dịch ăn bám vợ, không thỏa mãn thì dở trò gia trưởng đánh đập vợ.
Chẳng bao giờ nghĩ cho vợ, nghĩ ăn bám vợ. Người vợ đối với họ thực chất đã 66
biến thành một kiểu nô lệ đặc biệt – nô lệ mà không bị gọi là nô lệ, vẫn được gọi
là bu nó, mẹ nó, bà nó. Nhưng ông Tú thì khác, ông đã nhận thức và gạt bỏ cái “sĩ
diện hão” đó đi để mà “tự vả vào miệng mình”. Đó mới thực là cái đáng quý,
đáng trân trọng! Tú Xương đã vượt qua cái hạn chế của tầng lớp và thời đại mình
để đi thẳng, nhìn thẳng vào vấn đề. Vì vậy, lời chửi ấy không chỉ để chửi mình
mà còn để chửi đời. Ông tự chửi thói đời sĩ diện kiểu thầy đồ nghèo ăn bám vợ
của mình, thói gia trưởng chỉ biết ngồi than vãn sự đời, phó mặc tất cả cho người
phụ nữ, thực chất trở thành gánh nặng cho vợ, cho con. Rõ ràng ở đây đã thể hiện
sự thức nhận của một con người biết vượt lên khỏi cái hạn chế của tầng lớp và
thời đại mình để cảm thông với những kiếp người quanh mình. Vì vậy, lời chửi ấy
không chỉ để dành trách mình mà còn để chửi đời, chửi cả cái xã hội lố lăng, giả
dối đã sản sinh ra cái thứ chồng hờ hững... Chính cái xã hội thực dân nửa phong
kiến ấy đã đẻ ra thói đời bạc bẽo, những kẻ hợm hĩnh sống trên lưng người khác,
xã hội ấy đã đẩy một Trần Tế Xương tài hoa xuất chúng vào bước đường cùng,
khiến người vợ vốn “ung dung, tính hạnh khoan hòa”, “con gái nhà dòng” của
ông phải cực khổ, vất vả. Ý nghĩa tố cáo xã hội trở nên nổi bật ở câu kết bài thơ
và man mác trong toàn bài, nóng hổi hơi thở thời đại. Lời chửi cuối bài thơ như
càng khẳng định thêm tình cảm của ông Tú đối với bà Tú. Người chồng ấy tuy ăn
bám vợ con nhưng thực chất không hề “ăn ở bạc”, không hề “hờ hững”, mà
ngược lại dù bất lực trước hoàn cảnh nhưng vẫn luôn dõi theo, cảm thông, sẻ chia,
biết ơn vợ. Thương vợ mà cũng chính là thương hại cho chính bản thân mình. Bài
thơ kết thúc thật độc đáo và bất ngờ, vừa thấm đẫm cái bi, cái bất hạnh, lại cay
đắng, vừa thẫm đẫm cái hài hước, cái cười nuốt nước mắt vào trong. Bao nhiêu là
cung bậc tình cảm của cuộc đời hiển hiện trong những câu thơ giản dị, khiêm
nhường, tự nhiên ấy.
- Ngoài ra, chất liệu dân gian còn được thể hiện ở tâm trạng, tình cảm của nhân
vật trữ tình: từ toàn bộ bài thơ, thấy ngầm ẩn hình ảnh tác giả - một người ý thức
sâu sắc và chua chát về sự bất lực của mình, đồng thời, dành cho người vợ tần tảo
niềm yêu thương, trân trọng, cảm thông, cảm thương và sự tri ân sâu sắc. Còn bà 67
Tú, ta không thầy bà "phát ngôn" trong bài thơ, nhưng chính sự "im lặng" ấy đã
nói lên tất cả, về tình nghĩa, về sự thủy chung, về đức hy sinh thầm lặng... Tình
cảm vợ chồng tình nghĩa, thủy chung gắn bó đó cũng rất gần gũi với điệu tình
cảm, với quan niệm thẩm mĩ của dân gian.
Thương vợ là bài thơ ngắn gọn, súc tích, có ngôn ngữ giản dị, giọng thơ ân
tình, hóm hỉnh đã khắc họa chân dung bà Tú – người vợ tảo tần đảm đang, chịu
thương chịu khó, giàu đức hi sinh vì chồng con, mang vẻ đẹp truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời thấy được yêu thương, trân trọng, cảm thông,
cảm thương và sự tri ân sâu sắc của Tú Xương đối với vợ mình. Bài thơ còn thể
hiện ý nghĩa tố cáo sâu sắc xã hội đương thời.
Nếu Tú Xương viết về người vợ đang khỏe mạnh, đang lặn lội giữa chợ đời
để kiếm ăn thì gần một trăm năm sau Nguyễn Duy lại viết về vợ khi bà bị ốm qua
bài Vợ ốm. Tuy điểm nhìn khác nhau nhưng suy nghĩ, tâm sự của hai nhà thơ gặp
nhau đến bất ngờ. Trong bài Thương vợ, Tú Xương khen bà Tú nhiều lắm: bà tần
tảo, bà chịu thương chịu khó. Nguyễn Duy cũng vậy, ông không chỉ thấy vợ mình
đảm đang mà còn tài ba nữa:
Nghìn tay nghìn việc không tên
Mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng
Không chỉ gặp nhau ở cách nhìn, cách nghĩ yêu thương kính phục người vợ
thương yêu của mình mà hai thi nhân còn gặp nhau ở chỗ hiểu mình, hiểu vợ.
Nguyễn Duy cũng thú nhận sự “bất tài” của mình khi vợ “ngã bệnh ngang”:
Cha con chúa chổm loanh quanh
Anh như nguyên thủ tanh bành quốc gia.
Giữ chức “nguyên thủ” của một gia đình mà để “tanh bành” thì cũng khác gì ông
Tú “có như không”.
2.2.3. Kết hợp một cách hợp lí với các phương pháp dạy học các tác phẩm văn
chương
2.2.3.1. Phương pháp đọc sáng tạo là nền tảng để học sinh tiếp cận nội dung và
nắm bắt những đặc điểm về nghệ thuật của bài thơ 68
Trong một giờ dạy học tác phẩm văn chương phương pháp đọc là một trong
những phương pháp quan trọng nhất. Mục đích của phương pháp này là phát
triển được sự cảm thụ sâu sắc và tạo được sự cảm thụ trực tiếp của trò với tác
phẩm văn học nghệ thuật [ 4; 19), giúp cho các em từ những tiếp xúc ban đầu với
văn bản nghệ thuật mà hình thành những sự thể nghiệm nghệ thuật, từ đó có cách
tiếp cận sâu sắc và toàn diện đối với tác phẩm nghệ thuật. Đối với mỗi tác phẩm
văn học, có thể nhận thức nó một cách đầy đủ hay không thì việc đọc tác phẩm là
yếu tố quyết định. Ngay bản thân khi đọc một tác phẩm nghệ thuật đã có những
tác động to lớn về các giác quan và cảm xúc. Việc chú ý nghe từng từ, từng câu
hay giọng điệu cũng đã gây lên rất nhiều cảm xúc và kích hoạt những hoạt động
trí tuệ như hình dung, tưởng tượng, đánh giá tác phẩm. Đặc biệt cách đọc diễn
cảm có một tác động to lớn đối với cả người đọc và người nghe. Khi đọc đúng
giọng điệu của tác phẩm văn học thì hiệu quả nghệ thuật sẽ rất lớn, bởi chính
giọng điệu cũng là một phương diện nghệ thuật của tác phẩm.
Khi dạy hai bài thơ này, việc đọc văn bản trên lớp là vô cùng quan trọng.
Nhiều giáo viên bỏ qua việc đọc trên lớp mà chỉ dặn dò học sinh đọc trước ở nhà.
Điều đó là hết sức sai lầm, bởi kể cả khi học sinh đã đọc và soạn bài ở nhà rồi thì
việc bỏ qua việc đọc trên lớp sẽ làm mất đi tâm thế và sự hứng thú ban đầu cực
kỳ quan trọng khi tìm hiểu tác phẩm. Hơn nữa giọng điệu của một tác phẩm văn
học chính là một yếu tố nghệ thuật cần phải được phát hiện qua quá trình đọc.
Chính vì thế trong thời lượng hạn hẹp giáo viên có gắng hướng dẫn học sinh đọc
diễn cảm ít nhất một lần trên lớp, có thể chọn một số em có giọng đọc tốt. Trước
khi gọi học sinh đọc bài thơ, giáo viên cần cho học sinh xác định giọng điệu của
bài thơ hoặc định hướng cho học sinh vì ở bài khác nhau lại có giọng điệu riêng.
Chẳng hạn với Nguyễn Khuyến trong Thu điếu cần được đọc với giọng chậm, nhẹ
nhàng, trầm tĩnh. Nhịp ngắt chủ yếu là 2/2/3 (hoặc 4/3). Chú ý nhấn giọng vào
những từ, cụm từ như: trong veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng,
quanh co, tựa gối buông cần. Với Tú Xương, giọng điệu trong Thương vợ giọng
đọc xót xa, thương cảm khi viết về thân phận và cuộc sống lam lũ, vất vả của bà 69
Tú. Hai câu luận đọc với giọng ngậm ngùi, nhấn vào các chữ âu đành phận như
một tiếng thở dài. Hai câu kết đọc với giọng mạnh hơn, bật lên ngữ điệu của tiếng
chửi, vừa mỉa mai, tự trào, vừa cay đắng, thấm thía bi kịch. Yêu cầu khi đọc trước
hết là phải đọc to rõ ràng và khó nhất phải thể hiện đúng giọng điệu. Đọc
diễn cảm là một công việc rất khó, ngoài yếu tố có năng khiếu về giọng đọc,
người đọc cũng phải có những hiểu biết nhất định về tác phẩm, đặc biệt là phải
nắm được cảm hứng chủ đạo của tác phẩm đó. Hoạt động đọc quyết định một
phần không nhỏ tới kết quả giờ dạy, chính vì thế hướng dẫn học sinh đọc thành
công một văn bản văn học cũng là một thành công của giáo viên.
2.2.3.2. Kết hợp một cách hợp lý các phương pháp xã hội học, phương pháp so
sánh văn học và ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng đồ dùng dạy học nhằm
nâng cao hiệu quả giờ dạy
Dù một giờ dạy học tác phẩm văn chương theo quan điểm, khuynh hướng
nào chúng ta không nên tuyệt đối hóa hay lạm dụng một phương pháp dạy học mà
cần có sự kết hợp một cách hợp lý, nhuần nhuyễn nhiều phương pháp khác nhau.
Với đề tài: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ
thông theo hướng tiếp cận thi pháp, ngoài việc sử dụng phương pháp hình thức là
phương pháp chủ đạo, cần phối hợp với các phương pháp xã hội học, phương
pháp so sánh văn học một cách đúng mực. Nếu chỉ sử dụng phương pháp hình
thức khi tìm hiểu một văn bản nghệ thuật mà bỏ qua phương pháp xã hội học thì
một tác phẩm văn học sẽ trở lên lạc lõng và khó hiểu đối với học sinh, bởi mỗi tác
phẩm văn học đều ra đời trong những bối cảnh lịch sử xã hội, văn hóa cụ thể,
những yếu tố đó được phản ánh thông qua lăng kính của mỗi nhà văn và đi vào
tác phẩm. Vì thế muốn nghiên cứu một tác phẩm văn chương cụ thể không thể
không tìm đến bối cảnh và nhà văn. Dạy về hai bài thơ không thể không tìm hiểu
về hai tác giả và hoàn cảnh sống của hai ông cũng như hoàn cảnh lịch sử, xã hội,
văn hóa lúc bấy giờ. Nếu không biết về hoàn cảnh sinh thời của Nguyễn Khuyến,
Tú Xương thì không thể hiểu được những tâm sự của hai nhà thơ qua hai thi
phẩm. Nguyễn Khuyến là một trong những đại diện lớn nhất và cuối cùng của 70
Văn học Trung đại Việt Nam chứng kiến bước thăng trầm bi thương vào loại bậc
nhất của lịch sử dân tộc, tận mắt trông thấy sự thất bại của triều đình nhà Nguyễn
và các phong trào yêu nước trước một kẻ thù hoàn toàn xa lạ. Sống trong một thời
đại khủng hoảng toàn diện, đặc biệt là sự khủng hoảng về hệ tư tưởng văn hoá,
những biến loạn trong lòng dân tộc, Nguyễn Khuyến hẳn nhiên mang nặng nhiều
suy tư, trăn trở, những đau đớn,day dứt nội tâm giữa một bên là sứ mệnh phò vua,
làm quan thời nhiễu nhương với một bên là ủng hộ - tham gia phong trào khởi
nghĩa hay xu nịnh chạy theo gót giặc? Để rồi, cuối cùng, ông chọn con đường
dũng thoái, cáo bệnh từ quan về quê như rất nhiều nhà nho đương thời bấy giờ.
Ông về ẩn dật tại quê hương: Yên Đổ - Bình Lục - Hà Nam. Đây là một quãng
thời gian có ý nghĩa rất quan trọng trong cả cuộc đời của ông. Bản thân ông là
một đại nho với khát vọng lớn lao là được mang tài năng của mình ra để phục vụ
triều đại, phục vụ nhân dân, đất nước. Tuy thế, hoà ước Patơnốt năm 1884 đã dập
tắt cái chí hành đạo sục sôi trong con người ông. Đây là một nỗi đau đớn vò xé
tâm can ông trong suốt quãng thời gian còn lại. Lựa chọn con đường ẩn dật và
con đường ấy đã đưa Nguyễn Khuyễn đến những sáng tạo thi ca bất hủ. Song trở
đi trở lại trong thơ ca Nguyễn Khuyến giai đoạn này là nỗi trăn trở, day dứt đến
đớn đau của một sự lựa chọn cuộc đời mãi mãi chẳng thể nào xong xuôi. Bao
nhiêu dự tính, mơ ước giờ đây chỉ còn có thể gửi gắm, kí thác vào thơ văn, vào
không gian trời nước của quê hương. Những tháng ngày dưỡng hối ấy đã cho ông
những giây phút thanh thản và sự bảo tồn một tiết tháo đáng trân trọng. Ông được
chung lòng mình vào cùng với cuộc sống thôn quê, khắc hoạ và mô tả cuộc sống
quê hương với bao điều thân quen và giản dị. Ông hướng lòng mình lên với thiên
nhiên, với vũ trụ mà nghiệm suy về bao lẽ nhân sinh, những sự thay đổi thời cuộc
đến chóng mặt mà đã có lúc ông dường như không thể chịu đựng được. Và như
vậy, ông chỉ nhàn được thể xác còn tâm hồn lớn lao kia vẫn đau đáu hướng về thế
tục trong bao khát vọng và thất vọng. Tất cả được thể hiện trong một giọng điệu
thâm trầm, kín đáo mà hết sức thâm thúy. Vì thế cũng không có gì khó hiểu khi ta
71
bắt gặp nhà thơ đi câu cá mà trong khoảng lặng giật mình hỏi “Cá đâu đớp động
dưới chân bèo.”
Với Tú Xương, cuộc đời ngắn ngủi có 37 năm của ông đã nằm gọn trong một
giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Trước lúc ông ra đời 3 năm thì 6 tỉnh Nam
Kỳ mất trọn cho Pháp. Tú Xương sinh ra và lớn lên trong bối cảnh sục sôi và bi
thương đó. Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả 8 lần. Sau 3 lần
hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ ông mới đậu tú tài không sao lên nổi
cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Sống trong một xã hội ngột ngạt, đầy
những điều xấu xa, nhũng nhiễu của tầng lớp quan lại cùng với việc ông bất mãn
về việc hỏng thi của mình. Ở đây trong xã hội phong kiến xưa, quan niệm đã là sĩ
tử thì phải đỗ đạt công danh là một điều đã in sâu vào trong máu thịt của mỗi
người đi học chữ thánh hiền. Tú Xương biết trong thời buổi này, có đỗ đạt ra làm
quan thì cũng chỉ là hữu danh vô thực nhưng ông không sao rứt ra được cái vòng
khoa cử luẩn quẩn ấy. Thế nên có lẽ ông càng cay cú, càng ngạo đời, chán nản
trước cuộc đời, càng mỉa mai và căm uất. Đập vào mắt Tú Xương là cảnh cuộc
sống lố lăng, kì quặc của buổi giao thời. Vì vậy thơ ông Tú mỉa mai, ngạo đời là
điều không lạ. Ông ngạo cuộc đời nhưng chắc rằng ông cũng đau xót lắm. Ông
đau xót, tức tối cho một xã hội ngập tràn những điều xấu xa. Ông cũng như nhà
thơ Nguyễn Khuyến, không biết làm gì để giúp cho người, cho đời. Ông là một
đấng nam nhi, là trụ cột cho gia đình, ấy vậy mà ông không giúp gì được cho vợ
con mà còn như một đứa con cao cấp của bà Tú. Vốn dĩ là một chàng trai chốn thị
thành nổi tiếng hào hoa phong lưu nay chẳng khác chi một người sống nhờ vợ. Lẽ
nào nhà thơ không thất vọng về bản thân mình, chỉ biết dùng văn chương để lớn
tiếng phê phán, để chửi mình, chửi đời qua hai câu cuối trong bài Thương vợ. Là
một thanh niên tuổi còn trẻ, sống ở nơi đô thị xô bồ và cả đời lận đận trong khoa
cử. Vì thế ta bắt gặp ở Tú Xương một giọng điệu sắc bén, lồ lộ chứ không kín
đáo, ý nhị, thâm trầm như giọng điệu trong thơ Nguyễn Khuyến. Như vậy có hiểu
được bối cảnh thời đại cũng như hoàn cảnh sống của mỗi nhà thơ thì học sinh sẽ
dễ tiếp cận với tác phẩm và hiểu nó một cách toàn diện, thấu đáo hơn. 72
Khi dạy một tác phẩm văn chương, phương pháp so sánh trong văn học có
vai trò rất quan trọng, qua so sánh có thể đánh giá tác phẩm được tìm hiểu một
cách khách quan hơn, qua đó nâng cao khả năng đánh giá, và tầm hiểu biết của
người học. Chẳng hạn khi dạy bài Thu điếu có thể so sánh với những tác phẩm
cùng viết về đề tài mùa thu trong văn học trung đại. Mùa thu là đề tài quen thuộc
của thi ca. Thơ viết về mùa thu trong văn học Trung đại Việt Nam thường miêu tả
cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ, tượng
trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của Nguyễn
Khuyến cũng mang nét thi pháp ấy. Nhưng với gần suốt đời mình, ông gắn bó
với thôn quê, hòa hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà nên cảnh vật làng quê trong
thơ ông hiện lên rất chân thực, giản dị, tinh tế. Đọc Thu điếu, ta bắt gặp một bức
tranh thu đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc Bộ, quê hương của nhà thơ. Đấy
chính là nét mới mẻ của tác phẩm so với thi pháp truyền thống của văn học Trung
đại Việt Nam. Từ đây, người đọc cảm nhận được ở Nguyễn Khuyến không chỉ là
tài quan sát tinh tế mà còn là tình yêu, sự gắn bó với quê hương, đất nước của nhà
thơ. Có thể so sánh đề tài thương vợ trong bài Thương vợ của Tú Xương với văn
học trung đại. Như đã trình bày ở trên thì thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết
về người vợ khi đang còn sống càng hiếm hoi hơn. Trần Tế Xương lại khác.
Trong sáng tác của ông, có hẳn một đề tài về bà Tú gồm cả thơ, văn tế, câu đối.
Bà từng chịu vất vả, gian truân trong cuộc đời, nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là
ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân
trọng của chồng. Cũng từ đây, người đọc cảm nhận được tình cảm thương yêu,
quý trọng của ông Tú dành cho vợ mình.
Công nghệ thông tin đem lại lợi thế rất lớn cho hoạt động dạy học nói chung
và dạy học văn nói riêng. Ngoài việc làm cho giờ học tiết kiệm được thời gian, sự
ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học còn góp phần sinh động hóa giờ học,
biến những kiến thức khô cứng trở lên sinh động, dễ hiểu hơn. Đối với dạy học
tác phẩm văn chương thì phương pháp trực quan là cực kì quan trọng, nó góp
phần nâng cao sự liên tưởng, tưởng tượng cho người học. Lấy ví dụ khi học đoạn 73
trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giờ học sẽ sâu
lắng, giàu chất văn hơn khi học sinh được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của dòng sông
Hương thơ mộng của xứ Huế được chiếu trên máy tính. Dạy truyện ngắn Vợ
chồng A Phủ của Tô Hoài mà chiếu cho các em một đoạn phim của bộ phim
chuyển thể dựa trên tác phẩm này sẽ góp phần giúp các em hiểu rõ hơn về thân
phận của người dân Tây Bắc dưới chế độ thực dân, phong kiến tay sai với những
tên chủ nô làm mưa, làm gió ở Hồng Ngài. Đặc biệt khi dạy một tác phẩm viết về
đề tài mùa thu như bài Thu điếu thì những bức tranh về mùa thu có sự tác động
mạnh mẽ đối với giác quan và xúc cảm của người đọc, ngoài tính nghệ thuật,
những bức tranh này còn thể hiện vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước đặc biệt giúp cho
giờ học trở lên sinh động và thú vị hơn rất nhiều (giáo viên có thể tự thiết kế
những bức tranh này hoặc tìm trên mạng internet). Với bài Thương vợ (Tú
Xương), giáo viên có thể sử dụng một số hình ảnh minh họa về Tú Xương, bà Tú
điều đó có tác dụng kích thích sự liên tưởng, tưởng tượng của các em, nuôi dưỡng
xúc cảm và niềm ham thích khám phá tác phẩm. Đặc biệt trong việc dạy học một
tác phẩm thơ thì còn gì tuyệt vời hơn là học sinh được nghe một bài đọc mẫu của
một nghệ sĩ chuyên nghiệp biểu diễn, điều đó sẽ tạo cho học sinh những ấn tượng
vô cùng quan trọng về tác phẩm. Đây cũng chính là một biện pháp dạy học cơ
bản có thể áp dụng với mọi môn học, và tính hiệu quả của nó đã được chứng
minh.
Để có một giờ dạy học văn thành công người giáo viên cần rất nhiều yếu tố,
nhưng yếu tố quan trọng nhất là sự tổng hợp các phương pháp dạy học một cách
khoa học và xác định đâu là phương pháp chính, đâu là phương pháp kết hợp. Đó
là quan điểm tiếp cận đồng bộ một tác phẩm văn chương trên nhiều phương diện,
một sự kết hợp hài hòa các phương pháp hình thức, lịch sử phát sinh, cấu trúc văn
bản và lịch sử chức năng và ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng đồ dùng dạy
học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn, tăng hứng thú học tập của học
sinh. Một phương pháp tiếp cận khoa học như vậy được xây dựng từ nhận thức
đúng đắn về nguồn gốc của văn học, về bản chất cấu trúc và sinh mệnh của tác 74
phẩm văn chương và đó cũng là sự vận động nhuần nhuyễn những quan điểm
khách quan và khoa học về sáng tác và tiếp nhận văn chương vào việc tìm hiểu
một tác phẩm văn chương cụ thể [10; 250].
Tiểu kết
Với đề tài: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung
học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp, chúng tôi muốn đưa ra những biện
pháp dạy học cụ thể, thiết thực,có cơ sở khoa học, đó là sự vận dụng những lí
thuyết của khoa học thi pháp và bộ môn lí luận và phương pháp giảng dạy vào
việc dạy một tác phẩm cụ thể. Ngoài mục đích để dạy học hai bài thơ này một
cách hiệu quả nhất, đồng thời luận văn cũng muốn góp phần đưa ra một hướng
dạy học tác phẩm văn chương một cách có hệ thống ,thực sự mang tính khoa học
và nghệ thuật .
75
CHƢƠNG 3
THỰC NGHIỆM DẠY BÀI “THU ĐIẾU” (NGUYỄN KHUYẾN) VÀ
“THƢƠNG VỢ” (TÚ XƢƠNG) TỪ HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP
3.1. Mục đích thực nghiệm
Việc dạy thực nghiệm bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của
Tú Xương theo hướng tiếp cận thi pháp nhằm những mục đích sau:
- Kiểm chứng, xác nhận tính đúng đắn và tính khả thi của việc dạy học hai bài thơ
này theo hướng tiếp cận thi pháp.
- Kiểm chứng, xác nhận tính đúng đắn của giả thuyết khoa học đã đề xuất: Nếu
từ hướng tiếp cận thi pháp, vận dụng vào việc dạy học hai bài thơ Thu điếu của
Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương trong chương trình Ngữ văn trung
học phổ thông sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy hoc.
- Tiếp thu ý kiến phản hồi từ phía giáo viên và học sinh trong quá trình thực
nghiệm để điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện những đề xuất đổi mới về
cách khai thác tác phẩm, cách tổ chức hoạt động dạy học cho học sinh.
- Đi đến những kết luận có căn cứ về kết quả nghiên cứu, là gợi ý để người
nghiên cứu có thể tiếp tục suy nghĩ về phương pháp dạy học các tác phẩm khác
theo hướng tiếp cận thi pháp.
3.2. Những khó khăn, thuận lợi đặt ra khi dạy Thu điếu của Nguyễn Khuyến
và Thương vợ của Tú Xƣơng theo hƣớng tiếp cận thi pháp
3.2.1. Khó khăn
Đây là hai bài thơ trong số bài thơ Nôm đường luật xuất sắc nhất trong văn
học trung đại nói chung và của hai tác giả nói riêng. Hai bài thơ được viết từ hai
bút pháp khác nhau: Nguyễn Khuyến viết theo một bút pháp nhẹ nhàng, ý nhị, kín
đáo, thâm trầm, sâu lắng còn Tú Xương lại viết bằng bút pháp tự trào thẳng thắn
đả kích sâu cay không cần dấu diếm, tế nhị. Đây là hai bút pháp nghệ thuật trái
ngược nhau của hai nhà thơ cùng thế hệ. Ít nhiều làm nổi bật được bút pháp nghệ
thuật của hai nhà thơ trong tác phẩm cụ thể là một điều không mấy dễ dàng. Hơn
nữa, hai bài thơ này được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với nhiều 76
nét nghệ thuật đặc sắc đằng sau đó là vẻ đẹp nhân cách cũng như tâm sự nhà thơ.
Vì vậy, để tiếp cận một cách toàn diện hình thức nghệ thuật của văn bản để đi đến
giá trị nội dung của bài thơ thì như đã nói ở trên người dạy và người học ít nhiều
phải nắm được đặc trưng của thi pháp văn học trung đại, thi pháp tác giả cũng
như ý thức hệ tư tưởng trong thời kỳ trung đại,… Đó là đòi hỏi mà ít học sinh
thực hiện được.
Một khó khăn nữa mà chúng ta rất hay gặp trong giảng dạy hai bài thơ này
là: chỉ trong một tiết (45 phút) phải tìm hiểu một cách kĩ càng thấu đáo giá vẻ đẹp
của một bài thơ Nôm đường luật với nhiều những yếu tố nghệ thuật quan trọng.
Nội dung mang triết lý, tư tưởng sâu xa khó hiểu. Vậy để khám phá hết cái hay,
cái đẹp của bài thơ đòi hỏi sự chuẩn bị kĩ càng của cả giáo viên và học sinh trước
khi lên lớp và trong giờ học.
Là một văn bản thường trực trong sách giáo khoa môn Văn trung học phổ
thông đã nhiều năm nay, nhưng khi dạy hai bài thơ này, nhiều giáo viên thường
kêu là khó dạy. Khó bởi vì hai bài thơ này tập trung nhiều thủ pháp nghệ thuật
vừa truyền thống lại vừa có sự phá cách đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư
chuyên môn. Ngoài sự hiểu biết về thi pháp văn học trung đại, thi pháp thể loại,
thi pháp tác giả là những cơ sở tìm hiểu bài thơ thì để đi đến giá trị nội dung tư
tưởng của tác phẩm, người giáo viên phải lựa chọn phương pháp, biết khêu gợi
hứng thú cho học sinh. Bản thân học sinh ngày nay rất chán nản khi học văn nhất
là những tác phẩm văn học trung đại. Các em, phần lớn không có sự chuẩn bị bài
ở nhà. Có một thực tế là khi giáo viên yêu cầu các em đọc và soạn bài trước ở nhà
nhưng các em soạn bài rất chống đối. Hiện nay trên thị trường vì có rất nhiều sách
tham khảo nên các em có thể mua tham khảo. Các em dựa vào sách tham khảo
vẫn có thể soạn bài mà không cần đọc tác phẩm.
3.2.2. Thuận lợi
Khi tìm hiểu bài này, chúng ta có một số thuận lợi. Thuận lợi thứ nhất là cả
Nguyễn Khuyến, cả Tú Xương đều là những nhà thơ xuất sắc trong văn học trung
đại, có rất nhiều “kênh” để tìm hiểu về hai tác giả này, thứ hai là hai bài thơ khá 77
tiêu biểu được phổ biến rộng rãi. Đó là những nền tảng thuận lợi để tiếp cận hai
bài thơ. Thứ ba là cả hai bài thơ này đều được viết dười hình thức thơ Nôm đường
luật, bên cạnh cái khó của nó thì cũng có một điều khá thuận lợi là lối diễn đạt
khá giản dị, dễ hiểu. Có thể nói mỗi khi dạy đến hai bài này, giờ học trở lên sôi
nổi hơn hẳn so với những bài khác trong văn học trung đại, sự hứng thú của học
sinh cũng như của giáo viên chính là yếu tố quan trọng để có một giờ dạy thực sự
hiệu quả. Hơn nữa nội dung của bài học có phần lại rất gần gũi với đời sống chính
vì thế học sinh thuận lợi hơn khi tiến hành tìm hiểu.
Khi dạy hai bài thơ này này, giáo viên có nhiều thuận lợi, bởi Nguyễn
Khuyến, Tú Xương cũng như những sáng tác của hai ông nói chung và hai bài thơ
nói riêng được nghiên cứu trong thời gian rất dài. Thành tựu nghiên cứu về vấn đề
này là rất phong phú và đa dạng, vì thế người giáo viên có thể tranh thủ những
thành tựu nghiên cứu đó vào hoạt động dạy học. Hơn nữa, do hai bài thơ này
được đưa vào chương trình khá lâu, vì thế kinh nghiệm giảng dạy của hai bài này
là khá nhiều, mỗi giáo viên có thể tự rút ra kinh nghiệm cho mình trong mỗi lần
dạy hoặc có thể học hỏi lẫn nhau.
Đối tượng là học sinh lớp 11, ở lứa tuổi này các em đã có những hiểu biết
nhất định về các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu về đạo đức, thuần phong mĩ
tục của dân tộc, vì thế việc tiếp cận hai bài thơ Nôm cũng không quá khó khăn.
Trên đây là một số những thuận lợi và khó khăn cơ bản khi dạy hai bài thơ
theo hướng tiếp cận thi pháp học. Để làm cho giờ dạy có kết quả tốt nhất, không
còn cách nào khác là phải dựa vào sự cố gắng của cả giáo viên và học sinh, người
giáo viên cần không ngừng học tập, tìm tòi những phương pháp dạy học mới để
thực sự có một cách dạy khoa học và giàu tính nghệ thuật.
3.3. Thiết kế giáo án thực nghiệm dạy học bài “Thu điếu” của Nguyễn
Khuyến và “Thƣơng vợ” của Tú Xƣơng.
3.3.1. Bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến
78
Tiết 6: THU ĐIẾU (Nguyễn Khuyến)
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức
- Cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh thu điển hình cho mùa thu làng cảnh Việt
Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ.
- Vẻ đẹp tâm hồn thi nhân tấm lòng yêu thiên nhiên, quê hương đất nước,
tâm trạng thời thế.
-Thấy được tài năng thơ Nôm của Nguyễn Khuyến với bút pháp nghệ thuật
tả cảnh, tả tình, nghệ thuật gieo vần, sử dụng từ ngữ.
2. Về kĩ năng
- Đọc – hiểu một tác phẩm trữ tình, bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ, bồi
dưỡng năng lực cảm thụ thẩm mĩ.
- Làm quen với hướng tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp.
3. Thái độ
- Trân trọng tài năng của Nguyễn Khuyến và bồi đắp thêm tình yêu thiên
nhiên, yêu quê hương đất nước.
B. CHUẨN BỊ BÀI HỌC
1. Giáo viên
1.1. Dự kiến biện pháp tổ chức cho học sinh cảm thụ tác phẩm
- Tổ chức cho học sinh đọc diễn cảm bài thơ
- Định hướng cho học sinh phân tích, cắt nghĩa, khái quát hóa bằng các
phương pháp nêu vấn đề, phân tích, thảo luận nhóm, vấn đáp, thuyết trình.
- Tổ chức cho học sinh tự bộc lộ, tự nhận thức.
1.2. Giáo viên chuẩn bị các tư liệu, tài liệu có liên quan
1.3. Giáo viên chuẩn bị các phương tiện dạy học
- Máy tính, máy chiếu (Projector), các trang giáo án điện tử, sách giáo khoa.
2. Học sinh
- Chủ động soạn bài, thực hiện yêu cầu của giáo viên, sưu tầm tư liệu, tranh ảnh,
bảng phụ của nhóm. 79
C. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ
3. Bài mới
* Giới thiệu bài
* Nội dung bài mới
Hoạt động của giáo viên Hoạt động Kiến thức cần đạt
của học sinh
I.HĐ1: HƢỚNG DẪN HỌC I. TIỂU DẪN
SINH TÌM HIỂU TIỂU DẪN 1. Tác giả
+ HS đọc - Nguyễn Khuyến (1835- + Gọi học sinh đọc phần tiểu
SGK nêu các 1909) hiệu là Quế Sơn . dẫn rút ra ý chính về tiểu sử và
ý - Sinh ở Ý Yên -Nam Định sự nghiệp sáng tác.
-Tác giả nhưng lớn lên sống chủ yếu + Thuyết giảng thêm, kết hợp
- Tác phẩm : ở quê nội xã Yên Đổ- huyện với kênh hình: Tất cả những
-Nội dung Bình Lục -tỉnh Hà Nam. phẩm chất cao quý ấy, bằng con
sáng tác - Xuất thân trong một gia mắt xanh của một nhà thơ, Xuân
đình nhà nho nghèo, Nguyễn Diệu đã nhận ra qua tấm ảnh
Khuyến là người thông minh chụp bức vẽ chân dung của ông:
, học giỏi đỗ đầu cả ba kì thi “Bức ảnh cụ Nguyễn Khuyến
( Tam nguyên Yên Đỗ ) cầm chén rượu hạt mít này tôi
- Sáng tác của ông còn lại yêu quý lắm. Người cụ đẹp, đôi
khoảng trên 800 bài, chủ yếu lông mày và đôi mắt đa tình hơn
là thơ. Sáng tác cả bằng chữ trong thơ cụ […], đầu đội khăn
Hán, chữ Nôm (Thơ Nôm lượt nghiêm trang, dáng vẻ đàng
và câu đối). hoàng trịnh trọng như như các
- Thơ Nguyễn Khuyến nói nhà nho xưa, như ánh lên tài hoa
lên tình yêu quê hương, gia chứ chẳng khô khan chút nào
80
[…]. Tôi quý trọng cái chén đình, bạn bè, phản ánh cuộc
rượu hạt mít thanh cao trong sống khổ cực, thuần hậu,
những ngón tay thanh nhã này ở chất phát của nông dân,
ảnh cụ Tam nguyên Yên Đổ. châm biếm, đả kích bọn thực
Trong thời thế ấy nó là một dân xâm lược, tầng lớp
thách thức, một đắc ý, một sáng thống trị đồng thời bộc lộ
tạo”. tấm lòng ưu ái với đất nước.
+ Chốt một vài ý + Theo dõi Nguyễn Khuyến là người
và ghi nhanh tài năng, là một nhà nho có
cốt cách thanh cao, thâm
trầm, có tấm lòng yêu nước
thương dân sâu sắc.
2. Tác phẩm (bài thơ)
+ Gọi một học sinh trình bày + Trình bày + Hoàn cảnh: được viết sau
ngắn gọn về hoàn cảnh sáng tác, ngắn gọn về khi ông cáo quan về ở ẩn.
xuất xứ bài thơ bài thơ. hoàn cảnh + Xuất xứ: Câu cá mùa thu
+ Thuyết giảng thêm việc sáng tác, nằm trong chùm thơ thu của
Nguyễn Khuyến chọn con xuất xứ bài Nguyễn Khuyến, chùm thơ
đường cáo quan về hưu khi đất thơ. được đánh giá là “nức danh
nước rơi vào tay thực dân Pháp. nhất” của thơ Nôm Nguyễn
Khuyến
+ Bài thơ viết về đề tài gì? Em + Nêu đề tài + Đề tài: mùa thu – quen
có nhận xét gì về đề tài này và nhận xét. thuộc trong văn học truyền
trong văn học truyền thống ? thống nhưng lại mang lại
+Thuyết giảng thêm về đề tài mang vẻ đẹp mới lạ.
mùa thu trong thơ ca truyền
thống và sự sáng tạo của
Nguyễn Khuyến trong đề tài
81
này.
+ Bài thơ được viết theo hình + Xác định + Thể loại: thơ Nôm Đường
thức thể thơ nào? Trình bày hiểu thể thơ và luật.
biết của em về thể thơ đó? một số đặc
+ Thuyết giảng thêm về thơ thơ điểm của thể
Nôm thất ngôn bát cú đường thơ.
luật.
+ Định hướng: Bài thơ cần được
đọc với giọng chậm, nhẹ nhàng,
trầm tĩnh. Nhịp ngắt chủ yếu là
2/2/3 (hoặc 4/3). Chú ý nhấn
giọng vào những từ, cụm từ như:
trong veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí,
khẽ đưa vèo, lơ lửng, quanh co,
tựa gối buông cần.
+ Yêu cầu một học sinh đọc thể + Đọc theo
định hướng nghiệm.
+ Giáo viên đọc diễn cảm lại của giáo viên
bài thơ
+ Mạch cảm xúc, tâm trạng của + Nêu mạch + Kết cấu
nhân vật trữ tình trong bài thơ? cảm xúc - Cảnh sắc mùa thu (6 câu
+ Chốt, ghi bảng hoặc màn hình + Nghe, ghi đầu)
vở - Tâm sự của nhà thơ (2 câu
cuối)
III. HĐ 2: HƢỚNG DẪN HS II. ĐỌC HIỂU CHI TIẾT
ĐỌC HIỂU CHI TIẾT VĂN BẢN
1. Cảnh sắc mùa thu
+ Vẻ đẹp cổ điển của mùa thu + Phân tích + Một bức tranh thu cổ điển
82
muôn đời được gợi ra qua bài vể đẹp cổ với:
thơ? điển của bức - Thi liệu quen thuộc: nước
tranh thu. thu, trời thu, lá thu, người
câu cá.
- Bút pháp của thơ cổ điển,
lấy cái động để thức dậy cái
tĩnh. Một không gian tĩnh
lặng đến mức gần như tuyệt
đối mới có thể thấy rõ cái
hơi gợn tí của sóng biếc mặt
ao và chút khẽ đưa của lá
vàng. Tĩnh đến độ cả con
người và thiên nhiên như
cùng giật mình bởi âm thanh
“Cá đâu đớp động dưới chân
bèo”.
+ Những nét thu thanh sơ, gần + Phát hiện, + Đường nét trong bức tranh
gũi, quen thuộc, gợi hồn quê dân phân tích thu cũng thật mảnh mai, tinh
dã? Không gian và những đường không gian tế: Đường bao thanh mảnh
nét, chuyển động trong bức và những của rặng trúc, đường gợn của
tranh thu? đường nét, lượn sóng ao thu. Sự chuyển
chuyển động động: sóng hơi gợn tí, lá
trong bức vàng khẽ đưa vèo, tầng mây
tranh thu. lơ lửng, cá đớp động dưới
chân bèo nhẹ nhàng , rất
+ Sự hoà phối màu sắc tinh tế + Nhận xét khẽ .
trong bức tranh đó? về sự phối + Và sự hoà phối của màu
màu trong sắc đã đạt đến sự “thú vị”.
83
bức tranh. Có màu xanh của ao, xanh
của trúc, xanh của trời, xanh
của bèo và có một màu vàng
đâm ngang của chiếc lá thu
rơi. Chỉ thoáng một chiếc
lá vàng gọi hồn thu vĩnh cửu
trong thơ thu sách vở, các
màu xanh trong Thu điếu
thật dân dã, mang đậm nét
+ Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ + Phân tích hồn quê.
của tác giả? nghệ thuật sử + Nghệ thuật sử dụng ngôn
dụng ngôn từ của tác giả:
ngữ của tác - Sử dụng dày đặc những từ
giả. thuần Việt trong sáng, dễ
hiểu, giàu sức gợi và người
đọc vẫn cảm nhận được ở
đấy sự tinh tế, tao nhã, cái
tao nhã của một con người
đa cảm và khả năng chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của trời đất,
vũ trụ, của mùa thu: xanh
ngắt, lạnh lẽo, trong veo, bé
tẻo teo, gợn tí, vèo, lơ lửng,
vắng teo, bèo
- Các từ láy vừa tạo hình,
vừa gợi cảm; những tính từ
và các từ chỉ mức độ tạo nên
ấn tượng nhẹ nhàng, chậm
84
chạp, yên tĩnh, vắng vẻ của
cảnh thu như: lạnh lẽo, trong
veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí,
khẽ đưa vèo, lơ lửng, xanh
ngắt, vắng teo, quanh co
- Việc lựa chọn vần “eo” gợi
cảm nhận một cái gì mỗi lúc
+ Trên cơ sở học sinh phát biểu, + Khái quát một thu hẹp diện tích.
giáo viên tổng hợp, chốt lại nội lại vẻ đẹp * Tiểu kết: Cảnh thu đẹp
dung cơ bản. của bức tranh nhưng tĩnh lặng, đượm buồn,
+ Từ sự phân tích trên, em hãy thu trong 6 có hài hòa giữa màu sắc và
khái quát lại vẻ đẹp bức tranh câu đầu. âm thanh, giữa tĩnh và động
thu trong 6 câu đầu. gợi nhiều xúc cảm cho người
+ Chuyển: “Cảnh nào cảnh đọc. Làng cảnh Việt Nam
chẳng đeo sầu”, bức tranh cảnh hiện lên qua bài thơ với
thu đã hé mở cho chúng ta tình những nét tươi sáng, thanh
thu của người trong cảnh. Đó là đạm, hồn hậu; với những
tâm trạng u hoài, một tâm hồn hình ảnh giản dị mà thi vị
yên tĩnh, một cõi lòng vắng lặng, biết bao; với những âm
mênh mang, thăm thẳm, một nỗi thanh trong trẻo có tính chất
cô đơn. Gam màu lạnh của sắc vang ngân của những cặp
xanh nước, xanh sóng, xanh vần. Mỗi hình ảnh, đường
trời,… được tỏa ra từ khí thu hay nét, âm thanh đều thấm
cái lạnh trong lòng nhà thơ đang đượm tâm hồn thi nhân. Một
lan toả ra cảnh vật? nhà thơ yêu quê hương làng
Tâm trạng đó được thể hiện tập cảnh đến say đắm. Đọc thơ
trung trong 2 câu cuối. ông, người đọc như thấy
thêm yêu quê hương đất
85
nước mình hơn, thấy những
hình ảnh nông thôn Việt
Nam hiện lên trước mặt
không lẫn vào đâu được.
Điều đó tạo nên phong cách
thơ khác biệt trong làng quê
Việt Nam – thơ Nguyễn
Khuyến.
2. Tâm sự của nhà thơ
+ Hình ảnh con người trong hai câu + Phát hiện + Hình ảnh con người xuất
cuối được miêu tả trong tư thế như chi tiết miêu hiện trong tư thế “tựa gối
thế nào? Hãy phân tích. tả hình ảnh buông cần” – tư thế co lại,
con người và như thu nhỏ mình để tránh
phân tích. cái “lạnh lẽo” giữa “ao thu”.
+ Có tài liệu cho rằng trong câu: + Thảo luận “Buông”: thả lỏng để cho
“Tựa gối buông cần lâu chẳng tâm hồn thư thái hay hơn từ
được”. Ở đây “ôm” hay hơn là “ôm”. Trong những ngày từ
“buông”. Quan điểm của em? quan lui về ở ẩn, mùa thu
+ Bút pháp nghệ thuật được sử + Phát hiện câu cá, đó là thú vui của nhà
dụng trong câu cuối? bút pháp thơ để hòa mình vào thiên
+ GV mở rộng thêm cho học nghệ thuật nhiên mà quên đi những bận
sinh: Như ta đã biết, khi câu cá được sử dụng lòng với nước non cho tâm
thì con người ta cảm thấy thoải trong câu hồn thanh thản.
mái nhất. Nhưng ở đây, lòng tác cuối và phân + Âm thanh “cá đâu đớp
giả đang đầy tâm trạng, trầm tích. động dưới chân bèo” vừa là
ngâm suy lặng. Vậy là trong thơ bút pháp lấy động tả tĩnh,
văn có truyền thống lấy việc câu vừa là bút pháp lấy cảnh ngụ
cá để từ chối việc làm quan và tình để vừa gợi sự tĩnh lặng
86
coi việc câu cá là “câu người” để trong không gian và trong
chờ thời. Vì vậy đằng sau tư thế lòng người, vừa gợi sự mơ
“tựa gối buông cần” là cả tấm hồ, vừa gợi sự giật mình
lòng của tác giả, là tâm trạng thảng thốt, ngơ ngác tìm
không yên trước thực tại đất kiếm. Chi tiết cá đớp động
nước. Thời thế thay đổi quá dưới chân bèo khi “tựa gối
nhanh, non sông mất vào tay buông cần lâu chẳng được”
giặc mà mình thì không thể làm có thể tác giả đang theo đuổi
gì để giúp đời, giúp nước. Sống những ý nghĩ thầm kín, riêng
làm một ẩn sĩ giữa thời buổi đất tư nào đó nên “lâu chẳng
nước đang bị thực dân Pháp xâm được” chỉ khi tiếng cá đớp
lược nên ông không thể ung động mới kéo người câu cá
dung đi câu như một ẩn sĩ thực trở lại với việc câu cá của
thụ mà để tránh đời để quên đi mình.
những bận lòng mà hòa vào Tiểu kết: sống làm một
thiên nhiên, non nước của quê ẩn sĩ giữa thời buổi đất nước
hương không vương giàu sang, đang bị thực dân Pháp xâm
phú quý. Hai câu kết đã góp lược nên ông không thể ung
phần bộc lộ đôi nét về chân dung dung đi câu như một ẩn sĩ
tác giả. thực thụ mà để tránh đời để
+ Vậy, từ việc phân tích trên + Khái quát quên đi những bận lòng mà
giúp em hiểu thêm về con người hòa vào thiên nhiên, non
nhà thơ như thế nào? nước của quê hương không
vương giàu sang, phú quý.
Qua đó, người đọc cảm nhận
được một tấm lòng thiết tha
gắn bó với quê hương đất
nước, một tấm lòng yêu
87
nước thầm kín mà vẫn không
kém phần sâu sắc.
III. HĐ 3: HƢỚNG DẪN HS III. TỔNG KẾT
TỔNG KẾT 1. Giá trị nghệ thuật
+ Nhận xét về sự vận động + Nhận xét * Điểm nhìn: từ gần đến cao
điểm nhìn nghệ thuật. Từ điểm xa rồi từ cao xa trở lại gần.
nhìn ấy, tác giả đã bao quát cảnh * Không gian mùa thu, cảnh
thu như thế nào? sắc mùa thu mở rộng ra
+ Khái quát vẻ đẹp cổ điển và sự + Khái quát nhiều hướng sinh động. Mùa
sáng tạo trong bài thơ? thu được miêu tả rất điển
hình .
* Bài thơ vừa mang nét đẹp
cổ điển, vừa có những nét
mới, thể hiện những sáng tạo
nghệ thuật đặc sắc của tác
giả.
+ Vẻ đẹp cổ điển: Tác giả sử
dụng thi đề, thi ảnh, thi bút
quen thuộc của thơ cổ.
- Về thi đề, viết về mùa thu
với cảnh uống ruợu, ngâm
vịnh, câu cá,... là đề tài quen
thuộc trong thơ ca trung đại
Việt Nam.
- Về thi ảnh, thơ ca trung đại
khi nói về mùa thu thường
có những hình ảnh ước lệ
như thu thiên, thu thuỷ, thu
88
diệp,.. Ở Thu điếu cũng có
những yếu tố này.
- Về thi bút, tác giả sử dụng
bút pháp nghệ thuật lấy động
tả tĩnh rất quen thuộc trong
nghệ thuật phương Đông
(câu thơ "cá đâu đớp động
dưới chân bèo")
+ Những sáng tạo nổi bật
của tác giả.
- Thơ xưa khi viết về mùa
thu thường sử dụng những
hình ảnh ước lệ như sen tàn,
cúc nở, lá ngô đồng rụng,
rừng phong lá đỏ,.. Nguyễn
Khuyến, khi viết về mùa thu
đã sáng tạo trong những
công thức, ước lệ đem đến
cho cảnh thu những nét vẽ
hiện thực hơn, hình ảnh, từ
ngữ đậm đà chất dân tộc..
- Ngôn ngữ trong sáng, giản
dị nhưng cũng rất tinh tế.
Đặc biệt vần "eo" được
Nguyễn Khuyến sử dụng rất
thần tình.
2. Giá trị nội dung
+ Xác định chủ đề tư tưởng của + Xác định + Đây là bài thơ tinh tế sắc
89
bài thơ? chủ đề tư sảo của nhà thơ về bức tranh
tưởng bài thu ở đồng bằng Bắc Bộ.
thơ. + Bài thơ giúp người đọc
hiểu và trân trọng tấm lòng
của nhà thơ đối với quê
hương đất nước.
D. CỦNG CỐ - DẶN DÒ
- Học thuộc lòng bài thơ
- Đưa câu hỏi luyện tập để học sinh về nhà làm: Điểm nhìn bài Thu điếu có
gì đặc sắc so với hai bài thơ thu khác trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến?
- Nhắc các em đọc lại bài cũ và chuẩn bị bài mới.
3.3.2. Bài “Thương vợ” của Tú Xương
Tiết 9: THƢƠNG VỢ (Tú Xương)
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức
- Cảm nhận được hình ảnh bà Tú: vất vả, đảm đang, thương yêu và lặng lẽ
hi sinh vì chồng con.
- Thấy được tình cảm thương yêu, quý trọng của Tú Xương dành cho người
vợ. Qua những lời tự trào, thấy được vẻ đẹp nhân cách và tâm sự của nhà thơ.
- Nắm được những thành công về nghệ thuật của bài thơ: từ ngữ giản dị,
giàu sức biểu cảm, vận dụng hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân gian, sự kết hợp
giữa giọng điệu trữ tình và tự trào.
2. Về kĩ năng
- Đọc – hiểu một tác phẩm trữ tình, bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ, bồi
dưỡng năng lực cảm thụ thẩm mĩ.
- Làm quen với hướng tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp.
3. Thái độ 90
- Trân trọng tài năng của Tú Xương và bồi đắp thêm tình yêu, sự cảm
thông, trân trọng người phụ nữ trong xã hội.
B. CHUẨN BỊ BÀI HỌC
1. Giáo viên
1.1. Dự kiến biện pháp tổ chức cho học sinh cảm thụ tác phẩm
- Tổ chức cho học sinh đọc diễn cảm bài thơ.
- Định hướng cho học sinh phân tích, cắt nghĩa, khái quát hóa bằng các
phương pháp nêu vấn đề, phân tích, thảo luận nhóm, vấn đáp, thuyết trình.
- Tổ chức cho học sinh tự bộc lộ, tự nhận thức bằng các hoạt động liên hệ,
các bài tập trắc nghiệm và tự luận.
1.2. Giáo viên chuẩn bị các tư liệu, tài liệu có liên quan
1.3. Giáo viên chuẩn bị các phương tiện dạy học
- Máy tính, máy chiếu (Projector), các trang giáo án điện tử, sách giáo khoa.
2. Học sinh
- Chủ động tìm hiểu về tác phẩm từ các nguồn thông tin khác nhau. Sưu
tầm tranh ảnh, tư liệu về tác phẩm. Có thể trình bày những thu hoạch của nhóm.
- Đọc kỹ tác phẩm, xác định đặc điểm thể loại để lựa chọn con đường phân
tích, tìm hiểu tác phẩm. Phân tích bài thơ theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học
bài.
C. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ
3. Bài mới
* Giới thiệu bài
* Nội dung bài mới
91
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của Kiến thức cần đạt
học sinh
I.HĐ1: HƢỚNG DẪN I. TIỂU DẪN
HỌC SINH TÌM HIỂU 1. Tác giả
+ Trần Tế Xương (1870 – TIỂU DẪN
+ Trình bày 1907), thường được gọi là Tú + Theo em tiểu sử của nhà
những hiểu biết Xương, quê ở làng Vị Xuyên, thơ có những nét đáng chú
cơ bản về tác Mĩ Lộc, Nam định (nay là ý nào để giúp người đọc
giả. phường Vị Hoàng, thành phố hiểu thêm về tác phẩm của
Nam Định). ông? ( khuyến khích học
+ Tú Xương sinh ra và lớn lên sinh giới thuyết những điểm
trong buổi thực dân xâm lược, mở rộng ngoài sách giáo
Hán học đã suy tàn, thân phận khoa từ việc tham khảo các
nhà nho càng thấm thía nỗi tài liệu khác )
nhục của người trí thức nô lệ. + GV nhấn mạnh thêm về
+ Cuộc đời Tú Xương gắn với bối cảnh thời đại – Yếu tố
bi kịch thi cử: Ông học giỏi, tác động rất lớn đến sự
thông minh, nhưng mang cá nghiệp sáng tác của nhà
tính của người nghệ sĩ không thơ.
làm sao khuôn nổi vào các
phép tắc luật lệ của chốn
trường ốc. “Tam khoa chưa
khỏi phạm trường quy”, ông đi
thi từ năm 17 tuổi (1886), đến
lần thứ tư (1894) mới đỗ tú
“rốt bảng” (tú tài thiên thủ - lấy
thêm). Trải bốn khoa thi nữa
cho đến năm 1906, Tú Xương
92
vẫn không sao vượt khỏi danh
+ Sáng tác văn học của Tú vị tú tài.
Xương cần chú ý những + Trình bày + Tú Xương để lại khoảng trên
điểm gì ? ngắn gọn 100 tác phẩm, chủ yếu là thơ
+ Bình chốt Nôm và một số vài văn tế, câu
+ Nghe, ghi đối, phú. Sáng tác của ông gồm
chép. hai mảng: trào phúng và trữ
tình.
+ Bài thơ viết về đề tài gì? 2. Tác phẩm (bài thơ)
Em có nhận xét gì về đề tài + Nêu đề tài và + Đề tài viết về vợ hiếm có
này trong văn học truyền nhận xét. trong văn học trung đại
thống?
- Thuyết giảng thêm về đề
tài này trong văn học trung
đại.
+ Bài thơ được viết theo
+ Nêu thể thơ hình thức thể thơ nào? + Thể thơ Nôm thất ngôn bát
và một số đặc Trình bày hiểu biết của em cú đường luật.
điểm của thể về thể thơ đó?
thơ. + Yêu cầu một học sinh đọc
+ Đọc theo thể nghiệm trên cơ sở định
định hướng của hướng cách đọc: giọng đọc
giáo viên xót xa, thươg cảm khi viết
về thân phận và cuộc sống
lam lũ, vất vả của bà Tú.
Hai câu luận đọc với giọng
ngậm ngùi, nhấn vào các
chữ âu đành phận như một
93
tiếng thở dài. Hai câu kết
đọc với giọng mạnh hơn,
bật lên ngữ điệu của tiếng
chửi, vừa mỉa mai, tự trào,
vừa cay đắng, thấm thía bi
kịch.
+ Giáo viên đọc diễn cảm
lại bài thơ
+ Hướng tìm hiểu bài thơ?
+ Trình bày + Kết cấu theo hình thức thể
hướng tìm hiểu thơ thất ngôn bát cú: đề, thực,
+ Chốt, ghi bảng hoặc màn bài thơ. luận, kết
hình + Nghe, ghi
vở II. HĐ 2: HƢỚNG DẪN
HS ĐỌC HIỂU CHI II. ĐỌC HIỂU CHI TIẾT
TIẾT VĂN BẢN
+ Câu thơ đầu Tú Xương đã 1. Hai câu đề
+ Phát hiện vận dụng thành ngữ nào để + Thành ngữ “quanh năm
thành ngữ dân nói về thời gian làm việc suốt tháng” – được vận dụng
gian được Tú của bà Tú? để chỉ thời gian làm việc liên
Xương vận tục của bà Tú- ngày này qua
dụng trong câu ngày khác, năm này qua năm
mở đầu và phân khác không được nghỉ ngơi.
tích. + “Mom sông” gợi địa điểm
+ Giải thích làm việc như thế nào? + “Mom sông” đây là một phần
đất nhô ra bờ ngoài sông, gợi
sự chênh vênh không vững
chắc nguy hiểm .
94
+ Phép đếm số kết hợp với việc
+ Phép đếm số trong câu tách “năm con với một chồng”
hai có gì đặc biệt? Hiệu quả + Phân tích thành hai vế giống như gánh
nghệ thuật của phép đếm số phép đếm số. nặng cơm áo gia đình đang đè
đó? nặng lên đôi vai bà Tú. Dù vậy,
+ Đọc lời bình của Xuân cuộc sống mưu sinh đầy khó
Diệu về câu thơ này để học khăn, vất vả bà Tú vẫn luôn
sinh thấy rõ hơn hiệu quả đảm đang để lo đủ, chu đáo
nghệ thuật của câu thơ. cho chồng con.
Công việc buôn bán của bà
+ Bà Tú được giới thiệu Tú nơi bến sông diễn ra liên
trong câu mở đầu như thế + Khái quát tục hết ngày này qua ngày khác
nào? là một công việc cực nhọc,
nguy hiểm nhưng bà tỏ ra đảm
đang, tháo vát lo cho chồng,
cho con.
2. Hai câu thực
+ Hai câu thực, Tú Xương + Hình ảnh “thân cò” (vận
đã vận dụng hình ảnh nào + Chỉ ra hình dụng sáng tạo ca dao) vất
trong ca dao? Em hãy đọc ảnh “con cò” vả, cơ cực, bơ vơ tội nghiệp,
một vài câu ca dao có hình trong ca dao và âm thầm hi sinh gợi nỗi
ảnh đó. đọc một vài câu đau, thân phận thấp kém của
ca dao có hình con người (bà Tú)
+ Phân tích sự sáng tạo của ảnh đó. + Từ láy, đảo ngữ (lặn lội, eo
Tú Xương qua việc vận + Phân tích sèo) nhấn mạnh nỗi gian
dụng hình ảnh đó trong câu truân, vất vả .
thơ của mình? + Tác giả sử dụng nghệ thuật
+ Để khắc họa hình ảnh bà đối về từ ngữ: khi quãng vắng
95
Tú trong hai câu thực, Tú + Phát hiện các (không gian, thời gian rợn
Xương còn sử dụng những tín hiệu nghệ ngợp, eo hút, đầy lo âu) ><
tín hiệu nghệ thuật nào thuật và phân buổi đò đông (chen lấn, xô đẩy,
khác? và phân tích hiệu quả tích hiệu quả sử tranh giành, cãi cọ…) sự
sử dụng? dụng. bươn bả vật lộn với cuộc sống
+ Chốt lại nội dung cơ bản. của bà Tú .
+ Bình thêm: Trong xã hội =>Hai câu thơ nói lên thực
trọng nam khinh nữ, Tú cảnh của bà Tú đồng thời cho
Xương biết ơn, nói lên được thấy tấm lòng xót thương da
những phẩm chất cao quý diết của tác giả đối với vợ.
của người vợ - người phụ
nữ. Đó chính là biểu hiện 3. Hai câu luận
thái độ kính trọng, thương + “Duyên”, “nợ”: vất vả, gian
yêu người phụ nữ. Đây là nan trong công việc bà Tú và
cái mới, cái hiện đại của Tú niềm hạnh phúc trong cuộc
Xương. sống gia đình mà bà được
+ Chuyển ý hưởng.
+ Em hiểu thế nào về + “Nắng mưa” chỉ sự vất vả,
+ Lí giải từ “duyên” và “nợ”? nhọc nhằn
ngữ. + “Môt hai, năm mười” số
lượng phiếm chỉ, thành ngữ + Nét nghệ thuật đặc sắc
chéo, kết hợp nghệ thuật đối trong hai câu luận? + Phát hiện, nói lên sự vất vả gian truân vừa
phân tích các thể hiện được đức tính chịu
tín hiệu nghệ thương, chịu khó vì chồng, vì
thuật trong hai con của bà Tú không phàn nàn,
câu thơ. không than thân, không trách
chồng con, lặng lẽ chấp nhận
96
mọi công việc dù khó khăn, vất
vả.
Giàu đức hi sinh.
4. Hai câu kết
+ Thói đời ăn ở bạc
- Chửi mình là kẻ ăn ở bạc, hờ
hững trước nỗi lo toan vất vả, + Có người cho rằng hai
tảo tần của vợ, là sự vô tích sự câu kết là Tú Xương tự chửi
+ Trao đổi thảo của mình mình theo em có đúng
luận. - Chửi đời: chửi thói đời đen không?
bạc, giá trị hợp lí của cuộc
sống bị đảo lộn. Người có tài
như Tú Xương không được
chấp nhận rơi vào hoàn cảnh
ăn bám vợ.
- Có chồng hờ hững cũng như
không - Có chồng mà như Bình: chính cái lận đận,
không có, không có thì còn hơn chính những giọt nước mắt
Đây chính là bi kịch, là nỗi đớn thương vợ, chửi đời đã tạo
đau của Tú Xương, nhà thơ tự nên một Tú Xương độc đáo,
nhận mình là người vô tích sự, đầy cá tính và rất đáng
là người thừa cho vợ con. ngưỡng mộ chứ không phải
Tú Xương nhận lỗi về mình, đã là “đồ bỏ đi” như ông
ăn năn khi thấy mình không từng nhận.
giúp gì được cho gia đình.
Càng cảm thương xót xa cho
sự vất vả của vợ. Một sự xót xa
đau đớn và bất lực trước thời
97
cuộc. Nét đẹp trong tâm hồn, III. HĐ 3: HƢỚNG DẪN HS
nhân cách của Tú Xương. TỔNG KẾT.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nghệ thuật
+ Đặc sắc nghệ thuật của + Thể thơ: Đường luật, kết cấu
tác phẩm? chặt chẽ, hàm súc
+ Khái quát + Ngôn ngữ: giản dị, từ ngữ
những đặc sắc nôm na rất đỗi quen thuộc
nghệ thuật của trong đời sống hàng ngày.
tác phẩm. + Vận dụng sáng tạo chất liệu
văn học dân gian.
+ Giọng điệu: thân tình, hóm
hỉnh mang những nét tự trào.
Bộc lộ tình cảm tha thiết của
nhà thơ.
Thể hiện rõ tài thơ Nôm
đường luật của Tú Xương.
2. Giá trị nội dung
Thể hiện giá trị nhân văn
+ Xác định chủ đề tư tưởng của cao đẹp: dựng lên bức chân
bài thơ? dung người vợ vất vả, đảm
+ Xác định chủ đang, chịu thương chịu khó
đề tư tưởng bài điển hình cho người phụ nữ
thơ. Việt Nam. Nhà thơ bày tỏ lòng
thương yêu quý trọng biết ơn
vợ. Qua đó thấy được tâm sự
và nhân cách cao đẹp của nhà
thơ.
98
D. CỦNG CỐ - DẶN DÒ
- Đưa câu hỏi luyện tập để học sinh về nhà làm : Thơ Tú Xương từ cái
tâm mà phát triển thành hai nhánh: trào phúng và trữ tình. Thực ra thơ ông có
tiếng cười mà thấm đượm chất trữ tình với tâm trạng cười cợt mà buồn với nhiều
tâm sự ẩn chứa... Hãy làm sáng tỏ điều đó qua bài Thương vợ.
- Yêu cầu học sinh học thuộc lòng bài thơ
- Nhắc các em đọc lại bài cũ và chuẩn bị bài mới.
3.4. Tổ chức thực nghiệm
3.4.1. Chọn lớp thực nghiệm
Sau khi soạn xong giáo án thể nghiệm, tác giả luận văn đã tiến hành dạy
thực nghiệm ngay tại cơ quan mình đang làm việc: Trường THPT Quốc Tuấn,
An lão, Hải Phòng. Năm học 2012- 2013 , lớp thực nghiệm 11b8, 11b9 với tổng
sĩ số 100 học sinh (ban cơ bản), thời gian thực nghiệm tháng 8, tháng 9 năm
2012. Đây là thời gian mà tiến độ chương trình cũng đến bài này, chính vì thế
khi thực nghiệm sẽ có những thuận lợi khi đánh giá được hiệu quả của bài dạy
thực nghiệm với bài dạy của những giáo viên khác.
3.4.2. Dạy thực nghiệm
Đây là khâu quan trọng nhất bởi đây là sự kiểm nghiệm trung thực nhất đối
những vấn đề lí thuyết. Mọi yếu tố cần được chuẩn bị kĩ lưỡng như: giáo viên
thực nghiệm, đối tượng thực nghiệm, các phương tiện hỗ trợ dạy học.
3.5. Kết quả thực nghiệm
3.5.1. Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả với đối tượng khảo sát là giáo
viên
Sau khi dạy thực nghiệm xong hai tiết, chúng tôi đưa phiếu khảo sát để
kiểm tra kết quả giảng dạy của hai tiết học đó. Đối tượng điều tra: 10 giáo viên
dạy văn lớp trường THPT Quốc Tuấn tham gia dự giờ hai tiết học đó.
Nội dung và kết quả điều tra cụ thể như sau:
99
PHIẾU HỎI Ý KIẾN GIÁO VIÊN SAU GIỜ DẠY THỰC NGHIỆM
Họ và tên giáo viên : ................................. Môn dạy: ………………............
Thời gian: ..................................................................... Lớp dạy :..................
Bài dạy: ............................................................................................................
Người dự giờ: ..................................................................................................
Xin thầy (cô) đóng góp ý kiến cho người dạy về những vấn đề sau về các tiết
dạy “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương:
STT Nội dung điều tra Kết quả trả lời SL %
1 4 40 a. Tốt Mức độ nội dung kiến thức bài
dạy: 4 40 b. Khá
2 20 c. Trung bình
0 0 d. Yếu
2 5 50 a. Tốt Kết hợp phương pháp và sử
dụng phương tiện dạy học 3 30 b. Khá
2 20 c. Trung bình
0 0 d. Yếu
3 4 40 a. Tốt Học sinh trả lời câu hỏi:
4 40 b. Khá
2 20 c. Trung bình
d. Yếu 0 0
4 4 40 a. Tốt Mức độ tích cực học tập của học
sinh: 3 30 b. Khá
3 30 c. Trung bình
0 0 d. Yếu
5 6 60 a. Tốt Hiệu quả của việc rèn tính tích
cực, chủ động học bài, chuẩn bị 2 20 b. Khá
bài trước ở nhà của học sinh trên 2 20 c. Trung bình
cơ sở định của giáo viên: 0 0 d. Yếu
100
Xin chân thành cảm ơn thầy (cô)!
3.5.2. Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả với đối tượng khảo sát là học sinh
Đối tượng điều tra là: 02 lớp 11B8, 11B9 cùng học ban cơ bản, ở trường
THPT Quốc Tuấn, với tổng số học sinh là 100 em.
Nội dung và kết quả điều tra cụ thể như sau:
PHIẾU HỎI Ý KIẾN HỌC SINH SAU GIỜ DẠY THỰC NGHIỆM
Họ và tên giáo viên: ...................................................Môn dạy: .......................
Thời gian: .................................................................. Lớp dạy : ........................
Bài dạy: ...............................................................................................................
Họ và tên học sinh: .............................................................................................
Em hãy đóng góp ý kiến cho người dạy về những vấn đề sau khi học xong
tiết học Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương:
STT Nội dung điều tra Kết quả trả lời SL %
1 45 45 a. Hứng thú Mức độ hứng thú của em khi
học hai bài thơ này: 23 23 b. Bình thường
22 22 c. Chán
10 20 d. Rất chán
2 45 45 a. Dễ trả lời Giáo viên đưa câu hỏi ở mức độ
nào đối với các em? 14 14 b. Khó trả lời
32 32 c. Bình thường
9 9 d. Rất khó
3 38 38 a. Hứng thú Em có hứng thú tìm hiểu
những tác phẩm văn học có định 27 27 b. Bình thường
hướng của giáo viên không? 25 25 c. Chán
10 10 d. Rất chán
4 41 41 a. Dễ hiểu Cách truyền đạt của giáo viên:
29 29 b. Bình thường
101
20 20 c. Khó hiểu
10 10 d. Rất khó hiểu
38 38 5 a. Nhiều lần Trong giờ học tìm hiểu tác phẩm
văn học em tham gia phát biểu 38 38 b. Dưới ba lần
xây dựng bài: 24 24 c. Không lần nào
Xin chân thành cảm ơn em!
3.5.3. Đánh giá kết quả
Sau khi dạy thực nghiệm, kiểm tra kết quả học tập của học sinh, thăm dò ý
kiến của học sinh và giáo viên dự giờ, chúng tôi sơ bộ có những đánh giá sau :
+ Việc vận dụng hướng dạy học này đã đem lại những kết quả ban đầu khả quan
về một số phương diện sau:
- Tỉ lệ học sinh nắm vững kiến thức sau giờ học là khá cao.
- Giờ học tạo được khí thế học tập sôi nổi.
+ Kết quả thăm dò học sinh và giáo viên dự giờ cho thấy những phản hồi tích cực.
Đa số đều thấy cách dạy này mới, khác hẳn với kiểu dạy tác phẩm văn chương
hiện tại. Nếu bình thường hướng khai thác một tác phẩm văn chương là khai thác
về phần nội dung tư tưởng trước, sau đó mới tìm hiểu những nét đặc sắc nghệ
thuật. Nhưng với cách dạy này thì lại đi ngược lại, từ nghệ thuật suy ra nội dung,
hơn nữa nghệ thuật lại được xem xét một cách hệ thống, bám sát những đặc trưng
phong cách nghệ thuật của tác giả. Dạy theo cách này, một tác phẩm văn chương
mới thực sự được giải mã một cách khoa học và được đặt đúng vị trí của một tác
phẩm nghệ thuật đích thực. Hơn nữa sau mỗi giờ học ngoài việc nắm vững kiến
thức của bài học, học sinh còn nắm được một số lí thuyết của thi pháp học, từ đó
dần hình thành năng lực cảm thụ văn học cho học sinh. Vì thế đa số ý kiến đều
tán đồng.
+ Tuy nhiên còn một số ý kiến cho rằng cách dạy học theo hướng này khá khó,
nhất là với đối tượng học sinh yếu kém, hơn nữa với đối tượng học sinh, việc nắm
vững và vận dụng những kiến thức lí thuyết thi pháp học là khá khó khăn. 102
Kết quả thực nghiệm cho thấy, hướng dạy học tác phẩm văn chương theo
hướng bám sát thi pháp tác giả hoàn toàn có thể áp dụng vào thực tiễn, và có thể
trở thành một xu hướng dạy học tiến bộ và hiệu quả cao. Hi vọng với việc phát
huy những thế mạnh, hạn chế và khắc phục dần những nhược điểm, rút kinh
nghiệm sâu sắc, những lần thực nghiệm sau sẽ đạt kết quả cao hơn.
Tiểu kết
Qua hoạt động thiết kế giáo án thể nghiệm, tiến hành dạy thực nghiệm và
đánh giá kết quả thực nghiệm, chúng tôi thấy rằng hướng dạy học tác phẩm văn
chương bám sát thi pháp tác giả hoàn toàn có cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn.
Áp dụng hướng dạy học này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn văn,
hình thành ở người học năng lực giải mã các tác phẩm văn học một cách khoa học
và giàu tính nghệ thuật. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả khả quan ban đầu,
hướng dạy học này vẫn còn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc, hi vọng trong thời
gian tới, với việc điều chỉnh và hoàn thiện đề tài tính khả quan của luận văn sẽ
được nâng cao hơn.
103
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Xuất phát từ yêu cầu hiện đại hóa các môn học trong nhà trường phổ thông,
xuất phát từ yêu cầu khắc phục thực trạng dạy học kém hiệu quả của môn Ngữ
văn nói chung và dạy học tác phẩm thơ trung đại nói riêng, việc đổi mới phương
pháp dạy học là một nhu cầu cấp thiết, mang tính đột phá nhằm đưa môn học này
trở về đúng với vị trí và vai trò của nó trong hệ thống giáo dục quốc dân. Với tinh
thần đổi mới phương pháp như vậy, luận văn muốn tìm đến một hướng dạy phù
hợp, nâng cao tính khoa học và nghệ thuật của một giờ dạy tác phẩm văn chương.
Dựa trên những lí thuyết tiếp cận tác phẩm văn chương của các xu hướng dạy
học hiện đại, với đề tài: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở
trung học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp, luận văn đi sâu vào hướng dạy
học tác phẩm văn chương bám sát thi pháp tác giả, thi pháp văn học trung đại.
Đây là hướng dạy học đi sâu vào văn bản để tìm những nét đặc sắc nghệ thuật của
văn bản, dựa trên những đặc trưng thi pháp thơ trung đại, thi pháp tác giả, từ hình
thức nghệ thuật đó suy ra nội dung và tư tưởng của tác phẩm. Cách dạy này góp
phần làm thay đổi lối mòn trong cách dạy học văn truyền thống là luôn coi trọng
phần nội dung của một tác phẩm văn học, có xu hướng biến tác phẩm văn học
thành một giờ giảng đạo đức hay giờ bàn luận về những vấn đề lịch sử, văn hóa,
xã hội mà coi nhẹ hình thức nghệ thuật của tác phẩm, hoặc nếu có chú ý tìm hiểu
thì cũng chưa thành một hệ thống và không có cơ sở lý thuyết về những đặc trưng
nghệ thuật đó. Hơn nữa với hướng dạy học tác phẩm văn chương theo hướng tiếp
cận thi pháp, ngoài lợi ích là dạy học hiệu quả một tác phẩm cụ thể còn góp phần
trang bị cho học sinh những tri thức về lý thuyết, hình thành năng lực cảm thụ văn
chương, từ đó bồi dưỡng tình yêu đối với môn học này.
Để dạy học thành công bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ
của Tú Xương, luận văn đưa ra một số phương pháp dạy học cụ thể mang tính kết
hợp như: phương pháp đọc sáng tạo, phương pháp xã hội học và so sánh văn học,
kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin. Trong các phương pháp này thì phương 104
pháp dạy học theo hướng tiếp cận thi pháp đóng vai trò chủ đạo, quan trọng nhất.
Các phương pháp dạy học này đã được vận dụng vào bài thiết kế giáo án và đã
được kiểm chứng tính khả thi qua hoạt động dạy thực nghiệm. Kết quả cho thấy
nếu giáo viên chịu khó nghiên cứu sẽ làm cho giờ giảng chất lượng hơn rất nhiều,
cũng là sự đóng góp tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
2. Khuyến nghị
2.1. Đối với Sở Giáo dục và đào tạo
- Tập huấn cho giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương
theo hướng thi pháp.
- Xây dựng rõ ràng tiêu chí hiệu quả của một giờ dạy văn bản nghệ thuật.
2.2. Đối với nhà trường
- Khuyến khích, động viên kịp thời đối với giáo viên.
- Tổ chức các cuộc hội thảo đề các giáo viên có điều kiện trao đổi kinh nghiệm
chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo hướng
thi pháp.
- Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên có thời gian nghiên cứu và áp dụng việc đổi
mới phương pháp vào việc day học.
2.3. Đối với giáo viên
- Tích cực phát huy đổi mới dạy học tác phẩm văn chương theo hướng thi pháp.
- Thường xuyên dự giờ để trao đổi chuyên môn.
- Tích cực tham gia vào các giờ dạy mẫu nhằm trao đổi kinh nghiệm.
105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Quốc Anh cùng nhiều tác giả (2010), Hướng dẫn thực hiện chuẩn
kiến thức môn Ngữ Văn lớp 11. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
2. Lê Bảo-Hà Minh Đức-Đỗ Kim Hồi-Nguyễn Hoành Khung- Nguyễn
Xuân Lạc-Nguyễn Đăng Mạnh-Đoàn Đức Phƣơng-Vũ Anh Tuấn-Trần
Thị Băng Thanh-Lã Nhâm Thìn-Trần Khánh Thành-Văn Tâm-
Nguyễn Quốc Túy-Trần Đăng Xuyến-Hoàng Hữu Yên (1997), Giảng
văn Văn học Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo dục
3. Nguyễn Viết Chữ (2009), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương.
Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội .
4. Ngô Viết Dinh (Chọn và chủ biên) (2001), Đến với thơ Nguyễn Khuyến.
NXB Thanh niên.
5. Hà Minh Đức (chủ biên)( 2001), Lí luận văn học. NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên)( 2009),
Từ điển thuật ngữ Văn học. Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội.
7. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Đọc- hiểu tác phẩm văn chương trong nhà
trường. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Huyền (tuyển chọn) (1986), Tú Xương tác phẩm và giai
thoại. Nhà xuất bản Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh.
9. Phan Trọng Luận (2009), Thiết kế bài học Ngữ văn 11.Tập 1, Nhà Giáo
dục.Hà Nội
10. Phan Trọng Luận (2007), Văn học nhà trường, nhận diện, tiếp cận , đổi
mới. Nhà xuất bản Đại học sư phạm, Hà Nội.
11. Phƣơng Lựu ( chủ biên )(2009), Lí luận văn học ( Tập 3)- Tiến trình văn
học. Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
106
12. Hồ Giang Long (2006), Thi pháp thơ Tú Xương. Nhà xuất bản Văn học,
Hà Nội.
13. Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ
XIX. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
14. Nguyễn Thị Lƣợm (2010), Luận văn thạc sỹ. Đại học sư phạm Hà Nội.
15. Trần Đình Sử (2001), Một số vấn đề Thi pháp học hiện đại ( Tài liệu
BDTX chu kì 1992-1996 cho giáo viên cấp 2 phổ thông )- Nhà xuấ bản Hà
Nội.
16. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học Trung đại Việt Nam. Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Vũ Văn Sỹ (2001), Trần Tế Xương về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
18. Vũ Thanh (2001) Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
19. Tuấn Thành, Anh Vũ (2005), Thơ Trần Tế Xương, tác phẩm và những
lời bình. Nhà xuất bản Văn học.
20. Trần Khánh Thành (2012), 125 bài văn hay. Nhà xuất bản đại học quốc
gia Hà Nội
21. Trần Nho Thìn (Chủ biên), 2010, Phân tích tác phẩm Ngữ văn 11, Nhà
xuất bản Việt Nam.
107
NGUỒN TƢ LIỆU THAM KHẢO
1. http://kenhdaihoc.com/forum/archive/index.php/t-5613.html
2. http://diendankienthuc.net
3. http://tuthienbao.com
4. http://onlinenews.vn
5. http://nhungbaivanhay.edu.vn
108