MỤC LỤC

Trang

Lời cảm ơn........................................................................................................ i

MỤC LỤC........................................................................................................ ii

MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI................................................ 7

1.1. Một số vấn đề thi pháp học ...................................................................... 7

1.1.1. Khái niệm về Thi pháp học..................................................................... 7

1.1.2. Các bình diện thi pháp cơ bản trong sáng tạo văn học ……………..... 8

1.2. Thi pháp văn học trung đại ……………………………………….……... 12

1.2.1. Tính ước lệ …………………………………………………….……... 13

1.2.2. Tính quy phạm ……………………………………………………... ... 14

1.2.3. Tính phi ngã ……………………………………………….………….. 14

1.2.4. Thiên nhiên trong thơ văn trung đại ………………………………...... 14

1.2.5. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong văn

học trung đạị………………………………...……………..………………… 15

1.2.6 Con người trong văn thơ trung đại …….………...……………….…… 16

1.3 Một số vấn đề về thi pháp thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ

Tú Xương ……………………………………………………………….….. 18

1.3.1. Một số vấn đề về thi pháp Nguyễn Khuyến……………………….….. 18

1.3.2. Một số vấn đề về thi pháp Tú Xương .…………............................….. . 26

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG DẠY HỌC THƠ TRUNG ĐẠI TRONG

NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY VÀ ĐỊNH HƢỚNG ĐỔI

MỚI TỪ HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP……………………………..… 39

2.1 Thực trạng dạy học thơ trung đại trong nhà trường phổ thông hiện nay…. 39

2.1.1. Thực trạng học thơ trung đại nói chung trong nhà trường

phổ thông hiện nay……………………………………………..……………. 39

2.1.2. Thực trạng dạy học “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và

4

“Thương vợ” của Tú Xương…………….………………………………….. . 41

2.2. Những định hướng đổi mới khi giảng dạy hai bài thơ “Thu điếu”

của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương từ hướng tiếp

cận thi pháp………………………………………………………………….. 43

2.2.1.Dạy bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ” của

Tú Xương từ hướng tiếp cận thi pháp thơ trung đại……………………..…… 43

2.2.2.Dạy bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của

Tú Xương theo đặc điểm thi pháp tác giả……………………………………. 45

2.2.3. Kết hợp một cách hợp lí với các phưong pháp dạy học các

tác phẩm văn chương…………………………………………………………. 66

Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM DẠY BÀI “THU ĐIẾU” (NGUYỄN

KHUYẾN) VÀ “THƢƠNG VỢ” (TÚ XƢƠNG) TỪ HƢỚNG TIẾP

CẬN THI PHÁP……………………………………………………………... 72

3.1 Mục đích thực nghiệm…………………………………………………….. 72

3.2 Những khó khăn, thuận lợi đặt ra khi dạy “Thu điếu” của Nguyễn

Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương theo hướng tiếp cận thi pháp……… 72

3.2.1 Khó khăn……………………………………………………………….. 72

3.2.2 Thuận lợi …………………………………………………………….… 75

3.3 Thiết kế giáo án thực nghiệm dạy học bài “Thu điếu” củaNguyễn

Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương ………………………… ……..… 76

3.3.1 Bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến………………………………. … 76

3.3.2. Bài “Thương vợ” của Tú Xương ………………………………….… 87

3.4. Tổ chức thực nghiệm……………………………………………..….... 96

3.4.1. Chọn lớp thực nghiệm……………………………………………….. 96

3.4.2. Dạy thực nghiệm ……………………………………………………... 96

3.5. Kết quả thực nghiệm ……………………………………………...……. 97

3.5.1 Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả với đối tượng khảo

sát là giáo viên ………………………………………………………...…….. 97

3.5.2. Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả với đối tượng khảo 5

sát là học sinh…………………………………………………………….…. 98

3.5.3. Đánh giá kết quả…………………………………………………....... 99

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ …………………….……….………… 101

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………..……………… 103

6

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Văn học có vị trí quan trọng đặc thù trong việc bồi đắp tâm hồn, hình thành

nhân cách học sinh. Văn học trang bị những cảm xúc nhân văn, giúp con người

hướng tới chân - thiện - mỹ. Nhờ có văn học mà đời sống tinh thần của con người

ngày càng giàu có, phong phú, tinh tế hơn. Tâm hồn trở nên bớt chai sạn, thờ ơ,

bàng quan trước những số phận, cảnh đời diễn ra xung quanh mình hàng ngày,

trước thiên nhiên và tạo vật. Điều này càng quan trọng khi chúng ta đang sống

trong guồng quay hối hả của cuộc sống hiện đại, văn học bồi đắp cho học sinh

lòng yêu nước, thái độ trân trọng truyền thống, và ngôn ngữ mẹ đẻ... Thời nào

cũng vậy, tác phẩm văn học chân chính có khả năng kì diệu là thanh lọc tâm hồn

con người, làm người “gần người hơn”.

Mặc dầu có vị trí, chức năng quan trọng đặc biệt như vậy nhưng trong thời

đại của nền kinh tế thị trường nhu cầu nhân lực, do tâm lí thực dụng của học sinh

hiện nay trong việc chọn ngành, nghề cho mình có thu nhập cao, nên hiện nay

đang xuất hiện tình trạng nhiều học sinh không thích học môn Ngữ văn. Các em

coi các môn khoa học tự nhiên, ngoại ngữ, Tin học là những hành trang bước vào

thế kỷ. Với thực tế trên đã khiến cho nhiều học sinh vốn đã không thích học môn

Ngữ văn, đặc biệt là những học sinh thi các khối thi có các môn khoa học tự

nhiên, càng có “cớ” để lạnh nhạt, hờ hững với môn học này nhất là khi học các

tác phẩm khó như các tác phẩm thơ trung đại. Vì vậy, chất lượng môn Văn ngày

càng đi xuống ở tình trạng báo động. Học sinh rất chán học văn, giáo viên không

còn tâm huyết để dạy, đặc biệt là trong những giờ học tác phẩm văn học trung

đại. Xét về lịch sử phát triển văn học, giai đoạn văn học trung đại Việt Nam là

một giai đoạn có vị trí hết sức quan trọng trong tiến trình vận động của nền văn

học nước nhà. Những nền móng vững chắc của văn học dân tộc được xây dựng và

và gìn giữ ngót mười thế kỉ là một tài sản hết sức quý báu đối với các thời kì phát

triển tiếp sau của kiến trúc thượng tầng xã hội. Và trong nhà trường trung học phổ

thông văn học trung đại chiếm một dung lượng khá lớn. Dù vậy, vẫn còn không ít 7

những khía cạnh của văn học trung đại cho đến ngày nay không khỏi làm cho

chúng ta băn khoăn, trăn trở. Để góp phần rút ngắn con đường khám phá giá trị

của văn học trung đại, theo xu hướng chung hiện nay là tiếp cận theo hướng thi

pháp học.

Hiện nay, trong các nhà trường phổ thông đang tiến hành đổi mới phương

pháp dạy học một cách tích cực trong đó việc dạy học văn từ hướng tiếp cận thi

pháp đang diễn ra sâu rộng. Dạy văn theo hướng tiếp cận thi pháp học đang thấm

vào từng tiết học và bước đầu đã có những kết quả. Việc vận dụng phương pháp

này vào dạy văn ở nước ta hiện nay có nhiều điều kiện tốt để thực hiện. Việc phổ

biến tri thức thi pháp học trong nhà trường đã có bề dày khoảng 20 năm. Từ

những vấn đề trên, kết hợp khát khao muốn khám phá cái hay, cái đẹp trong văn

học trung đại qua những tác phẩm của Nguyễn Khuyến và Tú Xương – là hai cây

đại thụ lớn của văn học trung đại, sáng tác của hai ông đã kết tinh nhiều giá trị

thời đại, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn

Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp. Với đề

tài này, chúng tôi muốn tìm đến một cách dạy thích hợp, mang tính khoa học và

nghệ thuật, góp phần nâng cao hiệu quả một giờ giảng dạy văn chương, hình

thành khả năng cảm thụ văn chương một cách toàn diện, từ đó bồi dưỡng cho học

sinh tình yêu đời với môn học này, chúng tôi mong muốn đề tài sẽ góp một phần

nhỏ vào quá trình hiện đại hóa việc dạy học môn Ngữ văn hiện nay.

2. Lịch sử nghiên cứu

Đề tài “Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học

phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp” được chúng tôi xem xét và nghiên cứu

lịch sử vấn đề theo hai hướng chính sau:

Thứ nhất: tìm hiểu những tài liệu nghiên cứu liên quan đến thi pháp học.

Thứ hai: tìm hiểu các tài liệu nghiên cứu liên quan đến con người và sự

nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến và Tú Xương.

8

2.1. Thi pháp học

Một số tác giả nghiên cứu phương pháp giảng văn theo quan điểm tiếp cận

thi pháp thể loại, thể tài của tác phẩm. Có thể kể đến các công trình: Vấn đề giảng

dạy tác phẩm văn học theo loại thể (Trần Thanh Đạm - Chủ biên), Mấy vấn đề

phương pháp giảng dạy - nghiên cứu văn học dân gian (Hoàng Tiến Tựu), Mấy

vấn đề phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam (Nguyễn Sĩ Cẩn), Tác phẩm trữ

tình và phương pháp giảng dạy (Nguyễn Thanh Hùng), Phân tích tác phẩm văn

học từ góc độ thi pháp (Nguyễn Thị Dư Khánh),... Nhìn bao quát, những công

trình này đều chủ yếu giới thiệu cách vận dụng đặc trưng thi pháp thể loại, thể tài

vào phân tích hình tượng, kết cấu, ngôn ngữ để làm sáng tỏ tư tưởng chủ đề và

giá trị nghệ thuật của tác phẩm trong khi giảng văn. Các tác giả nêu lên những

phương pháp, biện pháp giảng dạy cụ thể như: đọc, phân tích, giảng giải, rút ra

các khâu, các bước trong quá trình tìm hiểu, phân tích một tác phẩm thuộc thể

loại nhất định, còn cách thức trình bày trước học sinh chưa được nói đến. Cũng có

một vài tác giả cũng có chú ý tiếp cận, phân tích giảng văn trên bình diện thi pháp

tác phẩm nhưng chỉ như là gợi ra một hướng mở.

2.2. Nguyễn Khuyến và Tú Xương

Là hai tác gia trào phúng xuất sắc, con người và sự nghiệp sáng tác của

Nguyễn Khuyến và Tú Xương đã trở thành đối tượng nghiên cứu của lịch sử văn

học, phê bình văn học và lí luận văn học. Qua quá trình phân tích, tổng hợp,

chúng tôi có thể kể đến những công trình nghiên cứu về con người cũng như sự

nghiệp thơ văn của Nguyễn Khuyến và Tú Xương như sau:

2.2.1. Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến được biết đến với tư cách là một nhà thơ từ rất sớm, ngay

từ những năm đầu của thế kỷ XX. Thơ nôm của ông đã được giới thiệu trên tạp

chí Nam Phong và cuốn sách: Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm xuất

bản 1925 cũng đã giới thiệu 7 bài thơ nôm của Nguyễn Khuyến. Từ đó trở đi

Nguyễn Khuyến luôn là một nhà thơ được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.

Tiếp sau Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm thì trong cuốn sách nổi 9

tiếng Việt Nam Văn học sử yếu (Nha học chính Đông Pháp xuất bản . H. 1943) đã

xếp Nguyễn Khuyến vào hàng ngũ các nhà thơ trào phúng nổi tiếng của văn học

dân tộc. Hay trong cuốn Văn thơ Nguyễn Khuyến (Bộ Giáo dục xuất bản. H.

1957) còn phong cho ông là một nhà thơ trào phúng Việt Nam có tiếng cười độc

đáo. Bộ sách Văn học sử quan trọng nhất của văn học cổ trung đại Lược thảo lịch

sử văn học Việt Nam (gồm 3 tập của nhóm Lê Quý Đôn, Xây dựng xuất bản. H.

1957) đã dành 20 trang để nghiên cứu về Nguyễn Khuyến với tư cách là một nhà

thơ trào phúng lớn. Bài viết của Nguyễn Huệ Chi cũng có những nhận xét về con

người Tam Nguyên Yên Đổ: con người đó cũng không quên nhìn lại mình tự vấn

mình như một kẻ sỹ chân chính thầm để những giọt nước mắt chảy vào trong và

đành cười nhạo thân phận lơ láo tỉnh say, say tỉnh của mình. Sự đa dạng và thống

nhất trên quá trình chuyển động của một phong cách và dấu hiệu chuyển mình

của tư duy thơ dân tộc. Bài Nguyễn Khuyến trong bối cảnh văn hoá xã hội Việt

Nam cuối thế kỷ XIX đầu XX của tác giả Trần Quốc Vượng ( Theo thi hào

Nguyễn Khuyến đời và thơ) cho thấy sau khi chán ngán quan trường, Nguyễn

Khuyến cáo quan về quê làm một cụ nghè sống cuộc đời như “phỗng đá”, “anh

giả điếc”, “mù loà”, “mẹ mốc”, “gái goá”. Sống như vậy dường như nhà thơ

muốn chạy trốn cuộc đời, chạy trốn giai cấp mà ông đã phục vụ quá nửa đời

mình. Riêng về mảnh đất thi pháp học về tác giả, Trần Đình Sử cũng đã có bài

nghiên cứu về nhà thơ Tam nguyên Yên Đỗ đăng trong tập sách “Thế giới nghệ

thuật thơ” của ông. Bài viết của giáo sư Trần Đình Sử có tính chất khoa học sâu

sắc và có ý nghĩa như là bước định hướng về việc nghiên cứu sâu rộng hơn tác giả

Nguyễn Khuyến đối với những ai quan tâm đến tác gia văn học trung đại này. Bài

viết “Thơ Nguyễn Khuyến, từ quan niệm nghệ thuật về con người đến không –

thời gian nghệ thuật” của tác giả Hoàng Dục cũng tiếp cận thơ Nguyễn Khuyến từ

thi pháp.

2.2.2. Tú Xương

Những công trình, bài nghiên cứu chuyên luận về tiểu sử, sự nghiệp của Tú

Xương như: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XIX của 10

Nguyễn Lộc (phần viết về Tú Xương), Tú Xương – tác phẩm và giai thoại của Đỗ

Huy Vinh, Thơ Tú Xương của Phạm Vĩnh, Trần Tế Xương về tác gia và tác phẩm

của Nguyễn Văn Sỹ,… Những công trình, bài viết đánh giá, bình luận về nội

dung, nghệ thuật qua các sáng tác của Tú Xương, nổi lên như: Thơ văn Trần Tế

Xương – tác phẩm và lời bình của Tuấn Thành, Anh Vũ, các bài viết chuyên luận

“Thơ văn Tú Xương” của Đỗ Đức Hiểu, “Nghệ thuật Tú Xương” của Trần Thanh

Mai – Trần Tuấn Lộ, “Hiện thực và trữ tình trong thơ Tú Xương” của Nguyễn

Tuân… Riêng về thi pháp học, tác giả Hồ Giang Long với cuốn sách Thi pháp

thơ Tú Xương. Trong cuốn sách này, tác giả Hồ Giang Long đã đưa ra các phạm

trù về thi pháp như quan niệm về con người, không gian nghệ thuật, giọng điệu

trong thơ Tú Xương.

Nhìn chung các công trình nghiên cứu cũng như chuyên luận đều mang tính

khoa học cao và góp phần làm sáng lên giá trị nghệ thuật, giá trị nội dung hiện

thực, trữ tình trong thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Ở đó con người và tác

phẩm của Nguyễn Khuyến và Tú Xương được khẳng định và phân tích. Các công

trình, bài viết nghiên cứu đã giúp tôi có định hướng để tiếp tục nghiên cứu đề tài

nhằm hoàn thành đề tài có chất lượng hơn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Với đề tài: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung

học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp nhằm góp phần đổi mới phương pháp

dạy học Ngữ Văn, nâng cao hiệu quả giảng dạy qua đó bồi dưỡng năng lực nhận

thức và tình yêu đối với văn học của học sinh, luận văn xin đề xuất phương pháp

dạy hai bài thơ cụ thể: Thu điếu (Nguyễn Khuyến) và Thương vợ (Tú Xương)

trong chương trình Ngữ văn 11, ban cơ bản.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định đề tài có

những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây:

11

- Giải quyết một số vấn đề lý luận về thi pháp học, thi pháp thơ trung đại, thi pháp

thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ Tú Xương.

- Tìm hiểu thực trạng dạy học tác phẩm thơ trung đại

- Đề xuất phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận thi pháp.

- Thiết kế thể nghiệm giáo án bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ

của Tú Xương theo hướng tiếp cận thi pháp.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

+ Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc trưng thi pháp học, thi pháp văn

học trung đại, thi pháp Nguyễn Khuyến và thi pháp Tú Xương.

+ Định hướng đổi mới dạy bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú

Xương.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Nghiên cứu lí luận về dạy học tác phẩm văn chương theo hướng tiếp cận thi pháp.

+ Vận dụng vào dạy Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp so sánh, thống kê, phân tích.

- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm .

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn

được trình bày trong 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài

Chương 2: Thực trạng dạy học thơ trung đại trong nhà trường trung học phổ

thông hiện nay và định hướng đổi mới từ hướng tiếp cận thi pháp

Chương 3: Thực nghiệm dạy bài “Thu điếu” (Nguyễn Khuyến) và “Thương vợ”

(Tú Xương) từ hướng tiếp cận thi pháp

12

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Một số vấn đề về thi pháp học

1.1.1. Khái niệm về thi pháp học

Từ việc hiểu thi pháp theo nhiều cách khác nhau nên hiện nay cũng có rất

nhiều cách hiểu về thi pháp học. Có ý kiến cho rằng thi pháp học là khoa học

nghiên cứu thi pháp. Có ý kiến lại cho rằng thi pháp học nghiên cứu hình thức

nghệ thuật của văn học và từ hình thức chỉ ra nội dung văn học. Hay thi pháp học

là khoa học nghiên cứu văn học như một nghệ thuật. Hay "Thi pháp học là khoa

học nghiên cứu thi ca (văn học) với tư cách là một nghệ thuật." (V. Girmunxki).

Todorop trong công trình Thi pháp học (1975) định nghĩa thi pháp là những quy

tắc chung mà người ta sử dụng để sáng tác ra tác phẩm văn học cụ thể.

Vinogradop xác định “Thi pháp học là một khoa học nghiên cứu các hình thức,

các dạng thức, các phương tiện, phương thức tổ chức tác phẩm sáng tác ngôn từ,

các kiểu cấu trúc, các thể loại tác phẩm nhằm nắm bắt … không chỉ là các hiện

tượng của ngôn từ văn học, mà còn là bản thân các phương diện hình tượng

khác nhau nhất của cơ cấu tác phẩm văn học và sáng tác văn học dân gian”(

Phong cách học, Lí luận ngôn từ văn học, Thi pháp học M.,1963). Trần Đình Sử

đã đưa ra định nghĩa về thi pháp học như sau : “Thi pháp học là bộ môn nghiên

cứu tất cả mọi phương diện của hình thức nghệ thuật, mọi nguyên tắc, phương

tiện tạo thành nghệ thuật cũng như sự vận động, phát triển lịch sử của chúng”

[16; 8 ]. Từ điển thuật ngữ văn học ( Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc

Phi) định nghĩa “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức là hệ thống

các phương thức, phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ

thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống

hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự cấu thành thế giới nghệ

thuật, ấn tượng thẩm mĩ và chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật”.[6; 304]

Từ những định nghĩa nêu trên, ta có thể thống nhất cách hiểu về thi pháp

học như sau: thi pháp học là một bộ môn khoa học đặc thù nghiên cứu thi pháp, 13

tức nghiên cứu các phương tiện nghệ thuật tạo nên tác phẩm nghệ thuật ngôn từ

trong sự thống nhất toàn vẹn của nó.

1.1.2. Các bình diện thi pháp cơ bản trong sáng tạo văn học

Từ cách hiểu về thi pháp học như trên, vậy dạy một tác phẩm văn học theo

hướng thi pháp học cần chú ý 6 bình diện thi pháp trong sáng tạo văn học:

1.1.2.1. Thi pháp nhân vật

Nhân vật là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Thi pháp học xem xét nhân

vật ở ba khía cạnh: tính cách nhân vật, quan niệm nghệ thuật về con người, nghệ

thuật tả nhân vật.

+ Nhân vật và sự miêu tả nhân vật: con người là đối tượng miêu tả chủ yếu của

văn học trong các phương thức trữ tình, tự sự và kịch dù trực tiếp hay gián tiếp.

Nhân vật có tên Kiều hoặc Kim Trọng hoặc không có tên như mụ dì ghẻ, tiểu

đồng, ông quán. Nhân vật được sáng tạo, hư cấu để khái quát và biểu hiện tư

tưởng, thái độ đối với cuộc sống. Ca ngợi nhân vật là ca ngợi cuộc đời, lên án

nhân vật là phê phán đời. Xót xa cho nhân vật là xót xa đời. Tìm hiểu nhân vật là

tìm hiểu về cuộc đời và con người, tìm hiểu tư tưởng tình cảm của tác giả đối với

con người.

Trong thơ trữ tình, có nhân vật trữ tình: con người tự bộc lộ nỗi niềm trước

cuộc sống. Trong kịch, con người tự bộc lộ qua hành động ngôn ngữ của mình.

Trong tác phẩm tự sự (truyện, kí) nhân vật là con người được kể, tả ra bằng lời

của nhà văn.

Nói chung, nhân vật được miêu tả bằng các phương tiện văn học, tức bằng

ngôn từ. Miêu tả bao gồm tả cảnh ngụ tình, diễn tả cảm xúc, tường thuật, kể sự

việc… gọi chung là hình thức của văn học.

Miêu tả trong văn học khác với miêu tả trong các khoa học khác thường chỉ

cần đạt sự chính xác, khách quan. Ở đây miêu tả nhằm hai mục đích: gợi ra hiện

tượng cuộc sống và gợi ra sự cảm thụ và bộc lộ cái nhìn của tác giả. Từ đó nhà

văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người.

14

+ Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc cảm nhận thẩm mĩ khi xây

dựng nhân vật. Quan niệm đó chi phối nhà văn khi miêu tả nhân vật và các bộ

phận khác của tác phẩm (kể cả lời dẫn truyện.v.v..). Đây là kiểu thi pháp cơ bản

nhất của văn học nghệ thuật. Thực tế có hai quan niệm về con người: một là con

người như một phạm trù tư tưởng, chính trị, đạo đức xã hội; hai là con người như

một phạm trù thẩm mĩ. Quan niệm thứ hai chủ yếu là quan niệm của văn nghệ sĩ.

Nàng Kiều là nhân vật có nội tâm phong phú nhưng nàng chỉ biết nhớ người thân

trong hiện tại, không ưa sống trong hồi tưởng và sống với quá khứ như các nhân

vật tiểu thuyết hiện đại sau này. Đó là do quan niệm nghệ thuật về con người của

Nguyễn Du chưa đạt tới như thời hiện đại.

Nghiên cứu thi pháp nhân vật khác với công việc phân tích nhân vật. Phân

tích nhân vật là chỉ ra các nội dung đựơc thể hiện trong nhân vật như tính cách,

ngoại hình, phẩm chất, niềm vui, nỗi buồn, lí tưởng… Trái lại khi nghiên cứu thi

pháp nhân vật, ta phải khám phá cách cảm nhận con người qua việc miêu tả nhân

vật. Tất nhiên, khi ta đã tìm hiểu thi pháp nhân vật thì việc phân tích nhân vật sẽ

sâu sắc hơn, toàn diện hơn.

1.1.2.2. Thi pháp không gian nghệ thuật

Không gian nghệ thuật là trường nhìn được mở ra từ một điểm nhìn, cách

nhìn. Mỗi tác phẩm có một không gian do tác giả lựa chọn và miêu tả. Là một

hiện tượng nghệ thuật, không gian nghệ thuật mang tính ước lệ giàu ý nghĩa cảm

xúc. Trong ngôn ngữ dân tộc, không gian đã được mã hoá thành ý nghĩa đời sống,

chẳng hạn “cao cả, thấp hèn, nông cạn, sâu sắc, thiên vị, chính trực, ngay thẳng,

quanh co, đại lượng, hẹp hòi…”. Người ta đã mượn ý niệm về không gian để

miêu tả con người. Đó là không gian nghệ thuật chung của mọi người. Mỗi nhà

văn nhà thơ lại chọn hoặc sáng tạo cho mình một không gian riêng. Không gian

nghệ thuật gồm có: không gian sự kiện, không gian bối cảnh, không gian tâm lý,

không gian kể chuyện .

1.1.2.3. Thi pháp thời gian nghệ thuật

15

Thời gian kể chuyện gồm có: thời gian được trần thuật (hình tượng thời

gian), và thời gian trần thuật (thời gian kể chuyện). Tìm hiểu hình tượng thời

gian, cần quan tâm ý nghĩa của các thời: quá khứ, hiện tại, tương lai, độ đo thời

gian của các nhân vật… Tìm hiểu thời gian trần thuật, cần lưu ý cấp độ thời gian

như: trật tự kể với thời gian sự kiện, thời lưu (độ dài các sự kiện được tính bằng

câu), tần xuất (số lần lặp lại). Các thủ pháp thời gian như: trì hoãn, giãn cách, đảo

tuyến, chêm xen, hoán vị, đồng hiện, bỏ lửng, che giấu, đón trước.

1.1.2.4. Thi pháp kết cấu văn bản

Kết cấu tác phẩm thực chất là tác giả mở lối cho người đọc đi vào dòng sự

kiện, dòng đời. Bố trí điểm nhìn cho công chúng sao cho dễ thấy được chiều rộng

và chiều sâu của câu chuyện nhằm thấy được ý nghĩa nhân sinh cần thiết cho con

người. Nói chung, nghệ thuật kết cấu tác phẩm văn học có mấy phương tiện sau:

+ Hệ thống hình tượng nhân vật, sự kiện và các chi tiết. Đó là sự sắp xếp tương

quan nhân vật chính phụ, chính diện – phản diện, lựa chọn và sắp xếp chi tiết,

tình tiết, hoàn cảnh, đồ vật sao cho ý nghĩa hình tượng nổi lên.

+ Hệ thống điểm nhìn và tổ chức văn bản. Tổ chức cái nhìn và hệ thống điểm

nhìn, trước hết cho chính mình. Điểm nhìn nghĩa là: câu chuyện diễn ra dưới con

mắt của ai (nhà văn/ nhân vật trữ tình/ nhân vật chính/ nhân vật phụ hoặc phối

hợp hai người kể). Mỗi điểm nhìn có ý nghĩa khác nhau mặc dù cùng một câu

chuyện ấy thôi. Hệ thống điểm nhìn đặt trong không gian và thời gian (nhìn từ

hiện tại hay quá khứ, nhìn về quãng thời gian nào? Thậm chí còn đứng ở tương

lai giả định nhìn về hiện tại hoặc quá khứ. Nhìn từ xa hay ở gần, trên cao xuống

hay dưới lên… Nhìn một cách chủ quan (từ trạng thái tâm lí) hay khách quan (ghi

chép, trần thuật kiểu phóng sự). Nói cách đơn giản là văn bản bắt đầu từ đâu? Có

hai kiểu mở đầu: văn học dân gian thường bắt đầu câu chuyện theo trình tự tự

nhiên, nhân quả. Văn học hiện đại có thể bắt đầu từ bất cứ điểm nhìn nào theo ý

đồ tác giả. Sau khi xác định điểm nhìn, tức xác định chủ thể kể chuyện thì văn

bản diễn ra theo ngôi thứ thích hợp (anh ấy, lão ta, hắn… ) với giọng điệu thân

16

mật hay nghiêm trang tuỳ quan hệ của người kể với nhân vật. Trong thơ trữ tình,

điểm nhìn từ bên trong và còn nương theo nguyên tắc âm nhạc nữa.

Hình thức kết cấu văn học rất đa dạng và cũng phụ thuộc vào thể loại, riêng

đối với thơ luật thì còn phải theo kết cấu định sẵn ví dụ thơ Đường luật, lục bát,

song thất lục bát. v.v… Sự tích cực chủ động sáng tạo của nhà văn làm phong phú

nhiều kiểu kết cấu thú vị.

1.1.2.5. Thi pháp chi tiết nghệ thuật

Mỗi hình tượng nghệ thuật được thêu dệt nên bằng nhiều chi tiết lớn nhỏ

khác nhau. Những đối tượng miêu tả như nhân vật, cảnh vật, môi trường… tạo

nên bằng hình dáng, đường nét, âm thanh, thuộc tính chọn lọc mà tác giả cho là

cần thiết nhất, quan trọng nhất, loại bỏ những cái rườm rà không cần thiết. Chi

tiết là những bộ phận nhỏ, tự nó đứng riêng thì không có ý nghĩa, nhưng khi kết

lại nó biểu hiện một ý nghĩa của tác phẩm. Chi tiết chính là điểm nhìn, thể hiện

quan niệm nghệ thuật và tâm hồn tác giả đối với đối tượng đó. Thi pháp học hiện

đại khám phá tính quan niệm qua hệ thống các chi tiết nghệ thuật của thế giới

nghệ thuật. Quan sát nhiều chi tiết cùng loại hoặc lặp đi lặp lại, ta thấy nó có một

lớp ý nghĩa nào đó – bởi tác giả quan tâm và rung cảm với nó. Các chi tiết nghệ

thuật bao gồm các loại màu sắc, âm thanh, đồ vật, đường nét, chất liệu…tạo thành

các thế giới nghệ thuật khác nhau về chất. Chi tiết nghệ thuật biểu hiện phẩm chất

thẩm mĩ của thế giới nghệ thuật và cũng biểu hiện niềm rung cảm của tác giả.

1.1.2.6. Thi pháp lời văn nghệ thuật

Lời văn nghệ thuật là thứ ngôn ngữ đặc biệt, được chưng cất hiện thực ngôn

ngữ toàn dân. Lời văn nghệ thuật khác với lời nói bình thường (phi nghệ thuật).

Lời văn nghệ thuật có tính hình tượng, mỗi lời đều là lời sáng tạo của nhà văn

nhằm hiện thực ý muốn của mình. Lời văn nghệ thuật có tính tổ chức cao, được

lựa chọn theo ý thích, thói quen và khả năng của nhà văn, từ âm thanh, từ ngữ,

nhịp điệu, đoạn và cả bài. Các phương diện của lời văn nghệ thuật là ngữ âm, từ

vựng, cú pháp, biện pháp tu từ.

17

Đặc điểm của lờ văn nghệ thuật nhà văn có một lời văn riêng. Đó là thi

pháp của tác giả, nghĩa là lời văn đã tạo ra một hệ thống lời văn độc đáo. Truyền

thống thi pháp cổ khi bình giảng họ chỉ đi tìm những “nhãn tự, thần cú” – có vẻ

ngẫu nhiên may mắn tác giả viết được câu hay, từ đắt mà làm cho bài thơ, văn

hay. Đến thi pháp học hiện đại lại đi tìm quan niệm của lối sử dụng lời văn ấy –

vì sao tác giả sáng tạo như thế?

Khi phân tích ngôn ngữ thơ, cần lưu ý nhạc điệu, các phương tiện và biện pháp tu

từ, cách dùng từ… Mỗi thể thơ đều có những quy định riêng về bút pháp thể hiện,

ví dụ trong thơ Đường luật đặc biệt là thơ thất ngôn tứ tuyệt, do đặc trưng là dung

lượng ngắn nên ngôn ngữ cực kì hàm súc, và thường có hiện tượng “nhãn tự”

(con mắt thơ- từ ngữ hay, “đắt”).

1.2. Thi pháp văn học trung đại

Văn học trung đại là một giai đoạn lớn trong lịch sử văn học nhân loại và

dân tộc. Văn học trung đại là một giai đoạn lớn trong lịch sử văn học nhân loại và

dân tộc. Văn học trung đại Việt Nam tính từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX là giai

đoạn hình thành và phát triển rực rỡ nhất của văn học Việt Nam, là giai đoạn hình

thành các truyền thống lớn về tưởng và nghệ thuật. Văn học trung đại Việt Nam

chiếm một phần không nhỏ trong chương trình phổ thông. Việc dạy văn học trung

đại sao cho có hiệu quả đang là mục tiêu phấn đấu của giáo viên các cấp. Để hiểu,

truyền thụ cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn học trung đại là một việc không

mấy dễ dàng. Để khám phá giá trị của một tác phẩm văn học trung đại đòi hỏi

giáo viên và học sinh phải có một kiến thức nền về môi trường văn hoá trung đại,

tư tưởng ý thức hệ chính thống thời trung đại, điển cố, điển tích, thể loại văn học

v.v.. Nói như vậy, có nghĩa là để hiểu được văn học trung đại chúng ta phải tiếp

cận từ thi pháp văn học trung đại. Văn học trung đại có thi pháp riêng của nó.

Nắm vững thi pháp văn học trung đại không chỉ có ý nghĩa giúp ta chiếm lĩnh sâu

thêm các tác phẩm văn học trung đại mà còn gián tiếp giúp ta làm sáng tỏ đặc

điểm văn học cổ đại và hiện đại trong thế đối sánh. Đặc trưng của thi pháp văn

học trung đại là: 18

1.2.1. Tính ước lệ

Văn học nghệ thuật không hoàn toàn là đời sống thực tại, không sao chép y

nguyên hiện thực. Tuy trong văn học mọi thời kì đều sử dụng ước lệ nhưng chỉ có

thời kì trung đại ước lệ mới được sử dụng một cách phổ biến, phức tạp và nghiêm

ngặt nên được coi là một đặc trưng về mặt thi pháp. Ước lệ là một quy ước của

cộng đồng người. Họ đặt ra những biểu tượng riêng để thay thế cho các sự vật,

hiện tượng trong cuộc sống thực. Trong nghệ thuật đó là quy ước chung của nghệ

sĩ và độc giả. Đó là khuynh hướng lí tưởng hoá để tạo ra một thế giới nghệ thuật

riêng khác với đời sống thực tại. Cái có thật đi vào nghệ thuật được cách điệu hoá

cao độ. Trong sự cách điệu hoá đó, thiên nhiên chính là chuẩn mực, là khuôn

vàng thước ngọc để đánh giá vẻ đẹp. Vì vậy, các nhà văn đều lấy thiên nhiên để

so sánh với con người để tôn vinh vẻ đẹp. Con người đẹp trong văn chương phải

là tóc mây, mày liễu, mặt hoa, gót sen, cử chỉ, dáng điệu như nghệ sĩ trên sân

khấu. Vì vậy, tả mỹ nhân thì làn thu thuỷ, nét xuân sơn, tóc như mây, da như

tuyết… và người đẹp phải đẹp đến nỗi nghiêng nước nghiêng thành hay chim sa

cá lặn, thậm chí Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình. Cây cối trong văn chương

cũng thế, phải sang trọng như mai, lan, cúc, trúc, hay liễu, tùng, bách, thông…

bởi chúng là những biểu tượng để chỉ những phẩm chất, cốt cách, khí tiết của

người quân tử, của bậc trượng phu; nói đến người thì ngư, tiều, canh, mục; con

vật phổ biến là yến oanh, loan phượng, uyên ương, cò hạc.

Nói chung văn chương thời ấy đa số ước lệ, ít tả thực. Nếu có tả thực thì

chỉ dùng cho những nhân vật phàm tục, phản diện, phi mĩ học như Sở Khanh, Tú

Bà.

1.2.2. Tính quy phạm

Người trung đại quan niệm thời gian là tuần hoàn, đi hết một vòng rồi lại

quay trở về gốc. Vì thế, người ta hết sức coi trọng quá khứ, coi trọng sự khởi đầu,

coi trọng người già, người lớp trước (cổ nhân, tiền bối, tiên sinh). Xã hội hoàng

kim phải là thời Nghiêu Thuấn, chuẩn mực cái đẹp và chân lý cũng nằm ở quá

khứ. Vì thế, văn học trung đại đầy rẫy điển cố, điển tích. Mẫu mực của văn 19

chương là các tác giả đời trước như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị. Đó là tinh

thần sùng cổ, sùng thượng, sùng ngoại, suy tôn Thánh hiền, do vậy tạo tính quy

phạm trong văn học. Việc sử dụng những điển tích trên cũng nhằm mục đích lấy

xưa để nói nay, dùng việc cũ, người cũ để nói việc mới, chuyện nay. Khi sáng tác,

các tác giả cũng vay mượn đề tài, cốt truyện, môtip, có khi cải biên cốt truyện để

tạo nên một tác phẩm mới. Đây là sự tuân theo những kiểu mẫu, khuôn mẫu sẵn

có đó thành công thức.

1.2.3. Tính phi ngã

Thời phong kiến ý thức cá nhân chưa phát triển. Con người luôn được đặt

trong quan hệ ràng buộc với cộng đồng, họ hàng, tầng lớp. Chính vì thế, hôn nhân

không phải là chuyện riêng tư, tự nguyện của hai người mà là vấn đề môn đăng

hộ đối của hai gia đình, dòng họ. Người có văn hóa, giáo dục là người biết thu

nhỏ, hạ thấp “cái tôi” cá nhân của mình lại. Vì thế, trong văn học, yếu tố cá nhân

cũng bị dấu đi, khiến văn chương có tính phi ngã không có dấu ấn “cái tôi” cá

nhân. Nhà văn hiếm khi xưng “tôi”, xưng “ta”, không bộc lộ trực tiếp cảm xúc mà

dùng lối gián tiếp: tả cảnh ngụ tình. Nói chung, họ thường sử dụng các công thức

có sẵn để sáng tác. Tả anh hùng thì phải râu hùm, hàm én, vai năm tấc rộng, thân

mười thước cao, tả mĩ nhân thì làn thu thuỷ nét xuân sơn, hoa ghen, liễu hờn...

1.2.4. Thiên nhiên trong thơ văn trung đại

Trong văn chương xưa, thiên nhiên là yếu tố rất phổ biến và đóng vai trò

hết sức quan trọng trong việc biểu lộ tình cảm, ý chí của con người. Người xưa

coi thiên nhiên là một người bạn để họ tâm tình, thổ lộ. Thiên nhiên chưa được

nhìn nhận như là một khách thể, một hiện thực khách quan của cuộc sống có vẻ

đẹp, giá trị riêng. Thiên nhiên thường chỉ là công cụ, là tư liệu, là cái cớ để nhà

văn ngụ ý giáo huấn:

“Xuân qua trăm hoa rụng,

Xuân tới trăm hoa tươi.

Trước mắt việc đi mãi,

Trên đầu, già đến rồi. 20

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,

Đêm qua sân trước một nhành mai.”

(Mãn Giác)

Cành mai nở trước sân trong đêm cuối xuân vốn là hình ảnh rất đẹp về

đường nét, màu sắc, đặc biệt là bối cảnh. Nhưng có thể đó chỉ là một hình ảnh

ước lệ, một chi tiết hư cấu, một bông hoa nở từ trong tâm hồn thiền sư. Vì thế,

bông hoa ấy không được miêu tả hình xác thực mà chỉ xuất hiện như một công cụ

chuyển tải ý tưởng của nhà thơ: sự sống là bất diệt. Tuổi già, bệnh tật của con

người cũng giống như thời khắc xuân tàn của thiên nhiên không huỷ diệt được sự

sống. Từ đó dẫn đến việc miêu tả thiên nhiên theo bút pháp đặc biệt là không

miêu tả hình xác của cây cỏ núi sông mà thể hiện linh hồn của chúng, tả cảnh ngụ

tình. Thiên nhiên trở thành bình chứa những tượng trưng, ước lệ, ẩn ý.

1.2.5. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong văn học trung đại

1.2.5.1 Thời gian nghệ thuật

Từ kinh nghiệm quan sát trực cảm thế giới người ta có hai nhận thức về

thời gian: thời gian của đời người, của cuộc sống hàng ngày là thời gian tuyến

tính, một đi không trở lại và thời gian của thiên nhiên, đất trời, vũ trụ là thời gian

chu kỳ, tuần hoàn, phi thời gian. Người xưa thường đặt hai loại thời gian này

trong thế đối sánh để làm nổi bật những nỗi niềm, triết lí, hoặc bi kịch của đời

người. Người xưa quan niệm thời gian tuyến tính là thời gian của cuộc đời trần

thế, phàm tục, chứa đầy hình ảnh, màu sắc cụ thể; thời gian chu kỳ là thời gian

của cõi trời, cõi tiên, thế giới thanh cao và bất tử, thấm đẫm tính chất đạo lý, triết

lý.

1.2.5.2. Không gian nghệ thuật

Không gian cũng như thời gian là hình thức tồn tại của thế giới và cuộc

đời. Trong ca dao, không gian chủ yếu là cảnh làng quê, bến nước, gốc đa, hàng

dâm bụt, cảnh sinh hoạt gần gũi thân thiết giản dị.

Trong thơ ca bác học, không gian trở nên trừu tượng hoặc ước lệ. Đó là

không gian vũ trụ vô tận mà cõi trần chỉ là nhỏ bé chật hẹp. Thiếu vắng không 21

gian xã hội cộng đồng và không gian lịch sử. Họ đi tìm núi cao, đám mây trôi,

một con hạc cô đơn, một tiếng chim hót báo hiệu vũ trụ, một bông hoa, một mái

chùa… còn thi nhân/ nhân vật trữ tình thì cô đơn, ngồi lặng, bó gối, hoặc tưới

hoa, ôm cần câu… Không gian tùy thuộc cảm hứng. Càng về sau, nhất là đến cuối

thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, không gian thơ mở rộng dần cho nhập cư thêm đủ

mọi loại người bình thường, tầm thường lẫn sang trọng trong xã hội, chẳng hạn

thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương.

Xét về kích thước không gian trong thơ cổ điển ta có thể phân loại như

sau: không gian lên cao - nơi thi nhân đến cho tâm hồn phóng khoáng, ý chí cao

xa, lánh cõi tục nhất thời để được tự do tư tưởng; không gian lữ thứ - quán trọ,

đường xa, cũng lánh đời, tự thử thách rèn luyện bản thân. Không gian nhỏ hẹp:

phòng văn, con thuyền cô độc, tấm rèm, song mai, song trúc. Thi nhân sống một

mình nhưng vẫn nghe ngóng, liên lạc với cuộc đời.

1.2.6. Con người trong văn thơ trung đại

Người xưa quan niệm con người là một phần của thế giới trong trục thiên –

địa – nhân. Vì thế cá nhân được thể hiện trong quan hệ với vũ trụ hơn là trong

quan hệ với xã hội. Thi đề quen thuộc của thơ trữ tình là con người một mình đối

diện, đàm tâm với thiên nhiên vũ trụ. Người anh hùng được nhắc đến với tầm vóc

sánh ngang vũ trụ:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.

(Phạm Ngũ Lão)

Toàn bộ xã hội trung đại được nhìn nhận trong một hệ thống tôn giáo đạo

đức. Cho nên con người luôn được nhìn nhận ở phương diện đạo đức luân lý. Vì

thế, văn chương xưa chia xã hội làm hai tuyến: thiện – ác, tốt – xấu. Mục đích,

chức năng nổi bật của văn chương xưa là giáo huấn:

Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thì tiết hạnh làm câu trau mình.

(Lục Vân Tiên) 22

Chính vì vậy con người sống theo luân lý đạo đức, theo lí trí thì được coi là chân

chính; còn những người sống theo xúc cảm thì bị chê trách. Vì sống theo quy tắc

đạo đức nên con người ngày xưa sống rất trọng tình nghĩa.

Con người thời trung đại không được sống theo cái tôi của riêng mình mà

bị trói buộc bằng những qui tắc, lễ giáo xã hội. Thủ pháp thể hiện tâm lý phổ biến

là thủ pháp ngoại hiện. Tiểu thuyết nặng về hành động, lời nói của nhân vật cùng

với sự kiện, cốt truyện hơn là khai thác tâm lý trực tiếp. Không có ngôn ngữ nhân

vật mà chỉ có lời người viết truyện đặt vào vai truyện. Độc thoại nội tâm theo

nghĩa đích thực lại càng không có. Chú ý đến con người xã hội hơn con người tự

nhiên, chú ý đạo đức hơn trí tuệ và bản năng. Con người do Trời sinh và chịu sự

chi phối của Trời về “tính” và “mệnh”. “Tính”: con người sinh ra vốn mang tính

thiện, sẵn mầm mống nhân, nghĩa, lễ, trí. Nhưng do hoàn cảnh mà nhiều khi bị

nhiễm tính ác vì vậy cần tu thân để hoàn thiện. “Mệnh”: giàu nghèo, sướng khổ,

sống chết là do số Trời. Nhưng con người phải tự chịu trách nhiệm về trí và ngu,

có đức và vô đức.

1.3. Một số vấn đề về thi pháp thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ Tú

Xƣơng

Nếu Nguyễn Khuyến giống như một dấu chấm cảm thán khẳng định tính cổ

điển có sức làm lay động lòng người của văn học trung đại vào giai đoạn cuối

cùng của thời kỳ văn học trung đại Việt Nam thì Tú Xương là người đầu tiên và

cũng là người cuối cùng, đã đưa được không khí thị dân tiền tư bản vào thơ. Là

người chập chững nghiên cứu “thi pháp học”, vì vậy trong luận văn này chỉ là

nghiên cứu bước đầu về thi pháp thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ Tú Xương.

Vì vậy, tôi không tìm hiểu thi pháp thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ Tú

Xương với tất cả những phạm trù thi pháp của nó, mà chỉ xoay quanh những

phạm trù mang tính đặc trưng.

1.3.1. Một số vấn đề về thi pháp thơ Nguyễn Khuyến

Là nhà thơ có tài năng về nhiều mặt đồng thời sống trong giai đoạn đất nước

có nhiều biến động, nhưng tài năng thơ văn của Nguyễn Khuyến vẫn tỏa sáng trên 23

thi đàn dân tộc. Đọc thơ Nguyễn Khuyến chúng ta sẽ cảm nhận sâu sắc về một

tâm hồn yêu nước sâu nặng nhưng cũng rất thầm kín và chân thành. Đóng góp

của ông tuy không rực rỡ như người anh hùng Nguyễn Trãi cũng không vang dội

như tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du với tuyệt tác Truyện Kiều nhưng cái tên

Nguyễn Khuyến đã gắn liền với “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam” và

những dấu ấn riêng trong sáng tác của ông nhất là mảng thơ Nôm đường luật tạo

thành một dấu son trong nền văn học trung đại Việt Nam. Với phạm vi nghiên

cứu của đề tài, dựa trên kết quả nghiên cứu của tác giả Hoàng Dục tôi xin được

trình bày một số vấn đề sau về thi pháp Nguyễn Khuyến trong mảng thơ Nôm

đường luật.

1.3.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người

Trước hết, là một nhà thơ của văn học trung đại Việt Nam, nên quan niệm

nghệ thuật về con người của Nguyễn Khuyến không vượt ra khỏi phạm trù thi

pháp này của thơ ca thời đại ông. Thơ ông vẫn có con người vũ trụ lấy thiên nhiên

làm chuẩn mực của cái đẹp, con người của lí tưởng thẩm mĩ phong kiến và con

người siêu cá thể của nghệ thuật thơ ca. Con người ấy luôn luôn ấp ôm ước mơ,

hoài bão, lí tưởng kẻ sĩ Nho học. Con người thân danh mà chuẩn mực là trung

quân:

Ơn vua chưa chút đền công,

Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời.

(Ngày xuân dặn con cháu)

Thế nhưng, sau khi về Yên Đổ, nhà thơ đã có một quan niệm nghệ thuật về

con người rất khác rất lạ với trước đó. Về náu mình ở chốn quê vùng chiêm trũng

Hà Nam với tâm thế và tư thế “Đời loạn đi về như hạc độc”, nhà thơ khám phá sự

trống rỗng của con người của thời đại nước mất bấy giờ. Chính vì thế, trong thơ

mình ông đã trưng ra hình tượng nghệ thuật những con người ẩn dật, những con

người sống một cách vô nghĩa giữa thời đại trống vắng lí tưởng, một thời đại mà

lí tưởng cũ không còn có giá trị gì còn lí tưởng mới thì cũng không thấy tăm dạng

ở đâu. Ông nhận thức được giá trị của tài năng nhưng không biết đem tài năng 24

của mình đặt để ở đâu! Nguyễn Khuyến nhận thức rõ sự vô tích sự của vốn học

vấn, cái được xem như là tinh tuý nước nhà và là giá trị của con người trí thức

phong kiến. Ông không như một ai đó “hoài tài bất ngộ” mà nhận thức giá trị của

thực tài. Cái nhìn ấy khám phá được bản chất thực của con người thời Nguyễn

mạt.

Sách vở ích gì cho buổi ấy,

Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.

( Ngày xuân dạy con cháu)

Con người ẩn dật nên âm thầm ôm nỗi buồn cô đơn, nỗi đau bất lực và cảm

nghe sự bất an đang dấy lên trong tâm hồn mình. Con người ấy cảm thức rõ sự lật

nhào của mọi giá trị trong thời đại mình.

Vua chèo còn chẳng ra gì,

Quan chèo bôi nhọ khác chi thằng hề.

( Lời vợ phường chèo )

Không còn con người vũ trụ, chẳng còn con người lí tưởng nho học mà chỉ

còn con người trống rỗng. Cho nên, con người đời thường cũng chẳng tốt đẹp gì

hơn. Trong thơ với cái nhìn sâu sắc tận ngọn nguồn bản chất con người thời đại,

Nguyễn Khuyến đã trưng ra trên bề mặt trang thơ của mình hình tượng những con

người gia tộc và con người xã hội đang có sự băng hoại mọi giá trị đạo đức và

rỗng toang, rỗng tuếch về tâm hồn và lí trí. Mừng ông lên lão bảy mươi thì: Tính

ông hay, hay tửu hay tăm, hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa, dù đã bảy mươi

còn khoẻ mạnh, Nhà ông có, có bầu có bạn, có ván cơm xôi, có nồi cơm nếp, mở

ra một tiệc thấy linh đình. Bên cạnh đó ta lại bắt gặp trong thơ Nguyễn Khuyến

hình ảnh con người lo toan hạn hán, mất mùa, nước lụt, nợ nần. Cho dù họ nhẫn

nại số phận vẫn không mỉm cười với họ, ngược lại càng nhấn sâu thêm họ vào

vòng eo nghèo túng quẫn. Công nợ trả chưa xong thì lại phải rối bời trước thiên

tai:

25

Quai Mễ Thanh Liêm đã lụt rồi

Làng ta thôi cũng lụt mà thôi

( Nước lụt Hà Nam ).

Nguyễn Khuyến đã lí giải và đưa ra trong thơ mình một quan niệm con người mới

mẻ. Con người lí tưởng thì trống rỗng, con người đời thường thì bị quay mòng

trong vòng đen tối của đồng tiền thiên tai. Tuy vậy, trong cái nhìn nghệ thuật về

con người của nhà thơ vẫn ánh lên niềm tin về bản chất tốt đẹp của con người.

Đáng quý ở đây là, dù thế nào đi nữa con người ấy vẫn mãi là con người dân tộc.

Con người lặng lẽ giữa chốn thu quê nhà để cảm nghe sắc thu, gió thu, nhạc thu,

hồn thu đất nước trong “Năm gian nhà cỏ thấp le te” (Thu ẩm). Con người cũng

rất mộng mơ thả hồn nương theo bầu trời thu xanh ngắt, hoà nhịp cùng “lá vàng

trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu), chập chờn chấp chới cùng “đóm lập loè” nơi

ngõ tối giữa đêm sâu.

Con người dân tộc là con người trọng tình. Có lẽ thế mà ta không ngạc

nhiên gì khi con người trong thơ Nguyễn Khuyến là con người thấm đẫm tình

cảm bè bạn quê hương. Con người mà sự sống và cái chết bao giờ cũng không

chia lìa cách bức với quê hương. Và cũng không bao giờ đánh mất tình cảm gia

đình.

1.3.1.2. Không gian nghê ̣ thuật

Như trên đã nói, con người trong thơ Nguyễn Khuyến vẫn tiếp nối con

người vũ trụ trong thơ phương Đông, vì thế không gian nghệ thuật trong thơ ông

trước hết là không gian vũ trụ. Không gian vũ trụ bao bọc lấy con người. Con

người hài hoà với thế giới tạo vật, sống chung cùng tạo vật thiên nhiên. Con

người trú ngụ giữa thiên nhiên và thiên nhiên che chở, sẻ chia nỗi niềm cùng con

người.

Con người dân tộc, con người quê hương chỉ có thể ở giữa lòng dân tộc,

sống gắn kết với quê hương. Cho nên, không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn

Khuyến cũng là không gian làng quê. Bước vào không gian thơ của nhà thơ ta

như sống giữa một vùng trời đất quen thuộc rất thực đậm sắc quê hương. Đấy là 26

một khu vườn quê thân thuộc qua bài Bạn đến chơi nhà, hay bức tranh thu rất đặc

trưng của đồng bằng Bắc Bộ như chùm thơ thu. Không gian có hồn nhưng tĩnh

lặng, nhuốm màu sắc tâm hồn và cảm xúc nghệ sĩ. Khác với không gian trừu

tượng, mang tính ước lệ trong thơ trung đại trước ông hay thơ Đường, không gian

thơ của Nguyễn Khuyến là cái làng quê được ngắm nhìn từ một tâm hồn gắn bó,

nặng lòng quê hương và rung động của thi nhân. Không gian trong thơ ông bình

đạm, yên ắng nhưng vẫn phập phồng sự sống và đa chiều. Không gian làng quê

trong thơ Nguyễn Khuyến tràn đầy màu sắc ánh sáng. Nguyễn Khuyến cảm thức

không gian qua các giác quan của một trí tuệ sắc sảo và tâm hồn nghệ sĩ tinh tế.

Không gian làng quê trong thơ ông vì thế mà như một bức hoạ đồng quê tràn đầy

màu sắc và ánh sáng. Nguyễn Khuyến thường phết lên không gian cảnh vật

những gam màu lạnh và nhạt. Màu lạnh và nhạt thường thấy trong tranh thuỷ

mặc. Màu cảm xúc mơ màng và nhuốm tâm trạng bâng khuâng man mác. Có khi

bức tranh linh hoạt đổi màu từ sáng đến tối hoặc nửa sáng nửa tối gây cảm giác

mơ hồ, nhưng lột tả những biến thái tinh vi trong tâm hồn nhà thơ. Tâm hồn nhà

thơ như chông chênh giữa đôi bờ hư thực. Giữa gam màu nhạt ánh sáng u trầm,

nhà thơ chen ngang, điểm vài nét loè loẹt, đậm sáng khiến bức tranh linh hoạt, có

hồn nhưng ý nghĩa nghệ thuật là gây cảm giác nỗi buồn lan thấm vào cảnh vật.

Đó là chiếc lá vàng thu, ánh trăng loe, đóm lập loè trong những bài thơ thu:

Làn áo lóng lánh ánh trăng loe

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt

(Thu ẩm )

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

(Thu điếu )

1.3.1.3. Thời gian nghê ̣ thuật

Tương ứng với không gian nghệ thuật và quan niệm con người đã trình bày

trên, trong thơ Nguyễn Khuyến vẫn tồn tại một thời gian vũ trụ và thời gian đời

27

thường.

- Thời gian chảy trôi miên viễn:

Nghĩ lại bực cho dòng nước chảy,

Đi đâu mà chảy cả ngày đêm

(Chơi chùa Long Đội )

Nhà thơ hoài niệm về một thời vàng son của triều đại phong kiến:

Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ

Ấy hồn Thục đế chết bao giờ

Năm canh máu chảy đêm hè vắng

Sáu khác hồn tan bóng nguyệt mờ

Có phải tiếc xuân mà đứng gọi

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.

( Cuốc kêu cảm hứng )

Có khi là đứng giữa thời gian thực tại mà nhà thơ quay tìm trong dòng quá

khứ hình bóng đẹp đẽ, lộng lẫy của đất nước và một thuở bình an của chính tâm

hồn mình:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào

( Thu vịnh )

- Thời gian thực tại: Con người trong thơ Nguyễn Khuyến là con người quê kiểng

và cũng là con người đời thường. Nhà thơ cũng thoát khỏi những lo lắng của thực

tại cuộc sống như những người dân quê khác:

Năm nay cày cấy vẫn chân thua

Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa

( Chốn quê )

Thời gian có khi đan xen, ranh giới giữa quá khứ hiên tại và tương lai rất

mơ hồ. Đấy là trường hợp bài thơ “Khóc Dương Khuê” hay “Thu ẩm”.

1.3.1.4. Nguyễn Khuyến – Sự phức điệu trào phúng với trữ tình

28

Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến, mặc dù mức đả kích sâu cay và tính

tập trung, cô đọng khác nhau, song trên phương diện lý tưởng thẩm mĩ và đặc

trưng nghệ thuật, phải nói đã tạo nên một giọng điệu riêng hết sức độc đáo. Thơ

trào phúng có khi vui đùa, châm biếm nhẹ nhàng, bỡn cợt hóm hỉnh: Gặp sư ni,

Thăm vợ cả, Bạn đến chơi nhà,... Có khi nhà thơ đả kích trực diện những lối sống

rởm đời, những kẻ làm tay sai cho giặc: Tiến sĩ giấy, Hỏi thăm quan Tuần mất

cướp, Tặng Đốc học Hà Nam,... Khi khác là tiếng nói cảm thán thương thân và

xót xa trước cả một thời đại: Uống rượu ở vườn Bùi, Hoài cổ, Hội Tây,... Chính

sự đan xen sắc thái trữ tình và trào phúng một cách uyển chuyển, sinh động trong

sáng tác của Nguyễn Khuyến theo nhiều cung bậc trên sẽ dẫn tới sự phức điệu.

Trong thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến có thể xác định được một bộ

phận mà tính chất trào phúng dừng lại ở mức độ vui đùa hóm hỉnh. Bài thơ Gặp

sư ni là một ví dụ. Ngay những bài có tính chất vui đùa này, ẩn sau tiếng cười trào

phúng vẫn là những sắc thái trữ tình nổi bật. Hai yếu tố đó không độc lập với

nhau mà gắn bó mật thiết. Chất trữ tình khiến cho hình tượng trào phúng có chiều

sâu, và chất trào phúng ở trong nhiều tác phẩm, nhất là ở những bài thể hiện

những tình cảm đau thương mất mát lại làm nhẹ đi phần ai oán, nặng nề của

những tình cảm đó, hướng cái nhìn về thực tại, gây dựng lại niềm tin cuộc sống

như trong hai câu đối Vợ thợ nhuộm khóc chồng:

Thiếp kể từ lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều dại điều khôn nhờ bố

đỏ;

Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng con răng trắng, tím gan, tím ruột

với ông xanh.

Rõ ràng đằng sau tấn bi kịch đau đớn kia là một nụ cười đôn hậu, yêu

thương. Đó là cái nhìn nhân bản, khiến cho con người trong đau khổ vẫn thấy cần

phải tồn tại, phải sống cho những ngày sắp tới.

Nguyễn Khuyến còn luôn nhận thức và phát hiện ra những khuyết điểm của

người thân xung quanh mình và chính bản thân mình. Thái độ của tác giả là lòng

nhân hậu, là tình cảm phân đôi thương mà giận, giận mà thương... Như vậy, chính 29

cái nét đôn hậu trong nụ cười ý vị về cuộc sống đã hình thành một đặc điểm trong

thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến tính mực thước, hài hòa giữa sắc thái trữ tình

và sắc thái trào phúng.

Cái tôi trữ tình tác giả góp phần tạo cho thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến

có bản sắc độc đáo. Nhận thức ra sự bất lực của chính bản thân và cả lớp người

cùng thế hệ, Nguyễn Khuyến châm biếm, phê phán, chê trách những mặt hạn chế

của lớp người đó. Vì thế trong đối tượng bị phê phán kia có chính hình bóng con

người nhà thơ. Khi Nguyễn Khuyến chỉ trích ông phỗng đá bất lực, ngơ ngác

trước cuộc đời thì ngay sau đó nhà thơ có sự đồng cảm : Duyên hội ngộ là duyên

tuổi tác, chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác (Ông Phỗng đá) ; khi nêu rõ mâu

thuẫn nội tâm đến thành xót xa của anh giả điếc thì đồng thời nhà thơ khẳng

định: Lối điếc ấy sau này em muốn học, lại còn khao khát, tự hào: Điếc như thế ai

không muốn điếc; khi châm biếm sâu cay các vị khoa bảng hư danh: Nghĩ rằng

đồ thật hóa đồ chơi (Tiến sĩ giấy) thì tác giả liên hệ sâu sắc tới bản thân mình:

Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ, Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng! (Tự trào);

còn khi Nguyễn Khuyến coi bọn vua quan như một phường chèo qua lời vợ anh

phường chèo thì cũng là lúc nhà thơ chua chát nhận ra rằng: Sách vở ích gì cho

buổi ấy – Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già (Ngày xuân dặn các con). Từ đây có thể

thấy rằng chính sự đồng cảm của tác giả với đối tượng nghệ thuật làm cho thơ

trào phúng của Nguyễn Khuyến trở nên chân thực hơn, ông gửi gắm vào đó tất cả

nỗi buồn thương và niềm tâm sự riêng.

Như vậy, chính sự xuất hiện và xâm nhập mạnh mẽ các yếu tố trữ tình vào

mảng thơ trào phúng chứng tỏ càng thấy rõ mặt trái của cuộc đời, càng khinh ghét

nó thì Nguyễn Khuyến càng đau buồn hơn, nhất là khi nhà thơ thấy bất lực trước

xu thế xã hội ngày càng trở nên đen bạc, trớ trêu. Nguyễn Khuyến tỏ ra vừa

thương, vừa giận thói đời, bọn người đời đã không còn giữ được bản tính chân –

thiện – mỹ nữa. Tâm trạng phân đôi, vừa giận vừa thương ấy có thể thấy rõ qua

câu đối Tặng người học trò cũ đi làm cho Tây :

Hay thật là hay đáo để ! Bảo một đàng quàng một nẻo; 30

Thôi thế thời thôi cũng được ! Phi đằng nọ tắc đằng kia.

Châm biếm, trào phúng mà sao tác giả còn độ lượng quá, nhân ái quá ! Phải

chăng Nguyễn Khuyến sinh ra vốn để làm một người nghệ sĩ gắn bó, yêu thương

con người và để thành nhà thơ trữ tình chỉ muốn hát những lời dịu ngọt. Nhưng

trước cảnh nhiễu nhương của xã hội, dòng thơ trữ tình Nguyễn Khuyến không thể

cuồn cuộn nổi lên những con sóng giận dữ. Chính chất trữ tình đã quy tụ, hướng

tâm mọi nguồn cảm hứng của Nguyễn Khuyến về một mối. Và có lẽ chính tấm

lòng đôn hậu, yêu thương con người đã làm cho thơ trào phúng của Nguyễn

Khuyến chưa thật sắc nhọn, đích đáng như lối thơ trào phúng của Tú Xương, Hồ

Xuân Hương.

1.3.2. Một số vấn đề về thi pháp thơ Tú Xương

Tản Đà – một nhà thơ nổi tiếng tài năng và "ngông" của giai đoạn sau đã

phải phát biểu: "Trong những thi sĩ tiền bối, tôi khâm phục nhất Tú Xương". Vũ

Trọng Phụng – nhà thơ hàng đầu trong những của những năm 30 cũng viết "Tú

Xương là bậc thần thơ thánh chữ". Sự nghiệp thơ của Tú Xương không chỉ được

đánh giá cao ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Giáo sư Albert Smith (Anh) viết:

"Tú Xương xứng đáng đứng vào hàng những nhà thơ trào phúng lớn của thế

giới". Tiến sĩ văn chương Jean-Curier (Pháp) cũng cho rằng: "Trong bầu trời thơ

ca Việt Nam từ xưa đến nay, nếu chọn lấy năm ngôi sao sáng nhất thì Tú Xương

là một trong năm ngôi sao ấy". Bằng tiếng nói thông thường, bằng những câu cửa

miệng của người bình dân, Tú Xương sáng tác những tác phẩm đặc sắc. Đó là tài

nghệ của ông mà sau này chỉ có Nguyễn Bính sánh được. Tính chất trào phúng

vốn có nguồn gốc sâu xa trong bản tính của con người Việt Nam, đến Tú Xương

đã được sử dụng triệt để và tung hoành như một lợi khí sắc bén. Tiếng cười trong

thơ Tú Xương mạnh mẽ, luôn tạo nên những "cú chết bất ngờ" cho kẻ nào bị ông

đả kích.

Tú Xương, cũng như Vũ Trọng Phụng sau này, có biệt tài đưa những mảng

hiện thực gần như trần trụi của cuộc sống vào trong thơ văn, vậy mà lại tạo ra

được những tác phẩm hay đến mức thần tình.Tú Xương mất đã gần 90 năm 31

nhưng văn thơ của ông đối với chúng ta hôm nay vẫn gần gũi, vẫn sống động vô

cùng. Nỗi đau đời, những trăn trở riêng chung, tiếng cười đã kết tinh trong bút

pháp tài tình của ông tạo thành phong cách hết sức độc đáo đưa ông lên vị trí một

trong những nhà thơ lớn nhất của dân tộc. Sự tài tình, độc đáo đó được thể hiện

như sau:

1.3.2.1. Quan niệm về con người trong thơ Tú Xương

* Con người làm trò

Con người làm trò là con người không xuất hiện một cách bình thường, tự

nhiên như nó vốn có mà xuất hiện trong tư thế đang “diễn trò”, đang hài hước

hóa chính mình. Nếu ở Nguyễn Khuyến con người đã mất đi dáng vẻ nghiêm

trang, đạo mạo nhưng vẫn chưa thực sự xuất hiện như một con người làm trò.

Con người làm trò là một phương diện quan niệm độc đáo được Tú Xương thể

hiện từ những góc nhìn khác nhau. Có người làm trò để che đậy, lấp liếm đi một

điều gì đó; có người làm trò để mua vui, để cười đời; nhưng cũng có kẻ đang tự

biến mình thành một vai hề trong mắt người khác mà bản thân không nhận ra...

Tú Xương coi mọi cử chỉ, mọi hành động và mọi lời nói của một số người chẳng

qua chỉ là sự diễn trò, sự đóng vai giữa sân khấu cuộc đời để che đậy bản chất của

họ mà thôi như trong bài Hát tuồng :

Nào có ra chi một lũ tuồng,

Cũng hò, cũng hét, cũng y uông.

Dẫu rằng dối được đàn con trẻ,

Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn.

Ngay câu đầu tác giả đã lên tiếng mạt sát và phủ nhận. Bởi vì con người ở

đây không xuất hiện trong dáng vẻ bình thường mà đang tự lố bịch hóa bản thân,

cố làm đủ trò hò, hét, y tuông... để che đậy giá trị thật về nhân cách. Trong con

mắt nhà thơ, những người này chỉ là một lũ tuồng nhập vai vụng về, trơ trẽn,

không dối lừa được ai.

Trong số những nhân vật chủ động làm trò để che đậy bản chất, ta còn bắt

gặp những hình ảnh cụ thể hơn. Đấy là những bà luôn lên mặt phu nhân rồi nay 32

chùa này, mai chùa khác như quyết tâm tu thân nhưng thực chất thì "Ngón đĩ

thõa bà nào cũng nhất". Đấy là những tên "Khi thầy số, lúc thầy lang " để lừa lọc

nhưng ra đường vẫn "Thầy thầy tớ tớ xênh xang, Phong lưu đài các giống ông

hoàng".

Xã hội Việt Nam vốn chỉ quen với cái đẹp của yếm thắm quần thâm, áo dài

khăn đóng... Nhưng khi văn hóa phương Tây xâm nhập vào thì cách ăn mặc ấy bị

pha tạp và thay đổi. Do vậy trào lưu văn minh hóa đã làm nhà thơ khó chịu. Độc

đáo, thú vị nhất là chính Tú Xương tự biến mình thành một con người làm trò.

Ông hay nhập vai vào một ai đó để cười cợt. Cả đời long đong bút mực vẫn

không một lần có chỗ trong chốn quan trường. Nhà thơ tạm quên đi nỗi đau hỏng

thi để vào vai làm quan mà diễn trò trước mặt vợ con :

Một ngọn đèn xanh mấy quyển vàng,

Bốn con làm lính bố làm quan.

Câu thơ, câu phú, sưu cùng thuế,

Nghiên mực, nghiên son, tổng với làng.

Nước quạt chưa xong, con nhảy ngựa,

Trống hầu chưa dứt, bố lên thang.

(Quan tại gia)

* Con người hữu danh vô tài

Con người hữu danh vô tài là con người đỗ đạt, có chức tước, địa vị trong

bộ máy cai trị phong kiến nhưng kém về tài năng và học vấn. Cuộc đời Tú Xương

tuy ngắn ngủi nhưng ông lại chứng kiến một giai đoạn đổi thay sâu sắc chưa từng

có của lịch sử, xã hội. Một giai đoạn thời thế đảo điên, nho phong tàn tạ, sĩ khí

tiêu điều, bút lông thất thế, bút chì được thời. Có đồng tiền trong tay, ai giỏi xoay

xở, xu nịnh, giỏi nhịn nhục quỳ gối sẽ nghiễm nhiên có quyền cao chức trọng.

Các kỳ thi tuyển nhân tài vẫn cứ được mở đều đặn hàng năm, hàng kỳ nhưng đấy

không phải là nơi để đãi cát tìm vàng nữa. Hạng người hữu danh vô tài mọc lên

như nấm. Nếu Nguyễn Khuyến vô cùng thất vọng, chán ngán và buồn bực trước

sự vô thực, vô tài của con người hữu danh. Nhưng xét cho cùng ông là người 33

trong cuộc. Vì thế sự đả kích của ông rất sâu cay nhưng nhìn chung lời lẽ vẫn nhẹ

nhàng, chừng mực. Tú Xương lại khác, con người tài hoa này đã chấp nhận lận

đận một đời vời bút nghiên để mong có tên trong bảng vàng. Thế nhưng ước mơ

đó không bao giờ hiện diện. Mọi khổ đau, uất ức không thành danh được dồn nén

để cuối cùng ông trút lên hạng người hữu danh vô tài bằng những lời lẽ, mạt sát,

xỉ vả vô cùng cay độc.

* Con người trượt chuẩn

Con người trượt chuẩn là con người không còn tuân theo những chuẩn mực

vốn có đã hình thành từ truyền thống mà trượt ra ngoài mọi phép tắc đạo đức đã

được xã hội quy định. Con người trượt chuẩn theo Tú Xương, trước hết là con

người trượt ra khỏi vị trí, danh phận vốn có của mình. Nếu trước đây nhìn vào vẻ

bề ngoài là có thể xác định được vị trí, danh phận của con người thì bây giờ mọi

thứ đều đảo lộn. Đồng tiền có thể giúp một tên bợm già khoác lên mình cái vẻ

phong lưu đài các giống ông hoàng . Nếu trước đây những người có học vị được

xã hội trọng vọng thì bây giờ Ông nghè ông cống cũng nằm co . Trong khi đó, kẻ

vô học có thể tự xưng là thầy đồ và cũng làm oai như ai.

Nếu như trước đây việc đỗ đạt, việc được cờ biển vua ban chỉ đến với

người có tài thực thụ thì bây giờ kẻ bất tài cũng có thể đạt được vinh hạnh này :

Nghe văn mà gớm cho ông mãi,

Cờ biển vua ban cũng lạ đời...

(Ông tiến sĩ mới)

Tú Xương đã quan niệm xã hội mình đang sống là một xã hội mà hầu như

mọi tiêu chí để định giá con người đều trở nên vô nghĩa. Người ta không thể nhận

ra đâu là giá trị thật của họ nữa, trắng đen, sang hèn lẫn lộn. Nguyên nhân dẫn

đến tình trạng nói trên là do con người dựa vào sức mạnh đồng tiền để bước ra

khỏi vị trí của mình mà leo lên bậc cao hơn. Và khi đứng vào vị trí mới này buộc

họ phải diễn, phải nhập vai để che đậy giá trị thực của mình.

34

Con người trượt chuẩn theo Tú Xương còn là hiện tượng con người trượt ra

khỏi những chuẩn mực đạo đức qui định. Tầng lớp quan lại hèn hạ dùng sức

mạnh vật chất để tiến thân như trong bài Năm mới chúc nhau

Nho sĩ đánh mất cả cái tiết tháo cương trực thẳng thắn mà họ đã từng giáo

huấn :

Sĩ khí rụt rè gà phải cáo,

Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi.

(Than đạo học)

Thầy tu lợi dụng cửa Phật để làm điều phi pháp, biến nơi tôn nghiêm này

thành chốn hành lạc :

Thấp thoáng bên đèn, lên bóng cậu,

Thướt tha dưới án, nguýt sư ông.

Chị em thủ thỉ đêm thanh vắng,

Chẳng sướng gì hơn lúc thượng đồng.

(Ông sư và mấy ả lên đồng)

Quan lại, nho sĩ, thầy tu là ba bộ mặt tiêu biểu cho những chuẩn mực, phép

tắc đạo đức của xã hội. Nhưng giờ những con người ấy đã trượt ra khỏi những

chuẩn mực đạo đức tối thiểu mà mình phải có.

Tú Xương còn đi sâu miêu tả sự trượt chuẩn trong quan hệ giữa người với

người. Tú Xương thấy rõ sức mạnh của đồng tiền trong sự điều tiết quan hệ tình

cảm xã hội. Một khi chuẩn mực bên ngoài xã hội bị vi phạm thì trong gia đình

mọi nề nếp, kỷ cương của gia phong cũng đảo lộn. Vì đồng tiền mà cha con, vợ

chồng khinh nhau. Vì đồng tiền mà người ta trở nên ích kỷ, ác độc ngay cả với

chính vợ mình :

Nhà kia lỗi phép, con khinh bố,

Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.

(Đất Vị Hoàng)

Bên cạnh sự chi phối của đồng tiền, Tú Xương còn phát hiện ra mối liên

quan giữa lối sống buông thả, hưởng lạc và sự trượt chuẩn của con người. Vì ham 35

thú vui xác thịt mà vợ không thủy chung với chồng. Tệ hại hơn, họ còn phạm

phải tội loạn luân như tằng tịu với con rể, với nhà sư :

Chép miệng bà nuôi to cái dại,

Phờ râu ông rể ẵm con so.

(Mẹ vợ với chàng rể)

Quan niệm con người trượt chuẩn đã tác động đến các yếu tố khác trong tư

tưởng và biện pháp nghệ thuật của Tú Xương. Tú Xương không hề ngần ngại tự

bôi nhọ mình. Ông chê cười người khác “vừa dốt lại vừa ngu” nhưng ông lại tự

nhận “ngơ ngơ ngẩn ngẩn, hóa ra đần”. Ông mỉa mai người khác “nghe văn mà

gớm cho ông mãi” nhưng cho mình là hạng “ sách vở mập mờ, văn chương lóng

ngóng”. Ông đả kích lối sống buông thả nhưng bản thân ông đã từng “Cao lâu

thường ăn quỵt, thổ đĩ lại chơi lường”… Sở dĩ Tú Xương tự bôi nhọ mình như

vậy là vì ông nhận thức rất rõ rằng: một khi mọi chuẩn mực, phép tắc đều bị vi

phạm, cá nhân nhà thơ tự biến thành một đối tượng trượt chuẩn, nhằm tạo cơ hội

thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình và nhân đó mà phản ứng lại xã hội. Khi

con người đã trượt chuẩn thì bản thân nó không còn giá trị nữa. Chính điều này đã

khiến Tú Xương có cách xưng hô miệt thị chỉ là “thằng”, “đứa” theo tác giả Hồ

Giang Long, trong cuốn Thi pháp thơ Tú Xương, đã thống kê tần số các đại từ tỏ

ý miệt thị khoảng 50 lần. Ngoài ra, Tú Xương còn dùng một hệ thống cụm từ

mang nghĩa phủ định hoặc tỏ ý ngạc nhiên để gợi liên tưởng đến một sự thay đổi

nào đó: nào có ra gì, chẳng biết gì, chả hơn gì, nào có ra chi, người đâu như, cũng

lạ đời, ai ngờ, thoạt nhác trông ra ngỡ,… Hệ thống cụm từ ở trên đã tô đậm ấn

tượng về sự trượt chuẩn, sự mất phẩm giá của các nhân vật mà ông miêu tả.

Quan niệm con người trượt chuẩn thể hiện cái nhìn của Tú Xương trước

thời cuộc. Trượt chuẩn là dấu hiệu đầu tiên trong quá trình băng hoại về đạo đức

con người trước sự Âu hóa văn minh. Con người trượt chuẩn mà Tú Xương đề

cập sẽ trở thành con người tha hóa trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Vũ

Trọng Phụng, Nam Cao,…

* Con người thị tài 36

Con người thị tài là con người tự đề cao tài năng của bản thân. Dù không

thành đạt nhưng con người thị tài trong nhà thơ vẫn luôn luôn trỗi dậy và nó giúp

nhà thơ ngẩng cao đầu mà cười cợt chứ không chịu cúi mình. Tú Xương đàm tiếu

nhiều về sự hỏng thi nhưng xem ra ông còn kín đáo cắt nghĩa nguyên nhân thất

bại của mình:

Văn chương ngoại hạn quan không chấm

(Gần Tết than việc nhà)

Qua cách lí giải ở trên, Tú Xương vẫn rất cao ngạo. Ông tự cho mình là thứ

văn “ngoại hạn”. Con người thị tài trong Tú Xương còn được thể hiện qua thái độ

mỉa mai của ông đối với những con người hữu danh vô tài. Để thể hiện con người

thị tài Tú Xương hay dùng đại từ “ông” qua đó khẳng định vị trí của mình cao

hơn đời: Ông trông lên bảng thấy tên ông, Ông nốc rượu vào ông nói ngông,

Ông thương, ông tiếc, hóa ông phiền…

1.3.2.2. Không gian nghệ thuật trong thơ Tú Xương

* Không gian trường thi

Trong sáng tác của Tú Xương, ông nhiều lần nhắc đến không gian trường

thi. Đây không phải ngẫu nhiên trong sáng tạo nghệ thuật. Qua thất bại của đời

mình và qua những gì ông thu thập được sau những lần “lều chõng”, Tú Xương

miêu tả không gian trường thi để thể hiện quan niệm trước cuộc đời. Không gian

trường thi là sự cắt nghĩa cho đời mình. Sau gần mười thế kỷ huy hoàng, đến thời

Tú Xương, Nho học Việt Nam suy tàn thảm hại trước cuộc xâm lăng của thực dân

Pháp. Ông đã từng than thở:

Đạo học ngày nay đã chán rồi,

Mười người đi học chín người thôi.

(Than đạo học)

Trong cảm nhận của Tú Xương, không gian trường thi là nơi gây ra oan

nghiệp của đời mình. Bởi vậy theo Nguyễn Tuân: “Hầu hết những phú và thơ Tú

Xương có dính đến chủ đề thi cử thường thấy trùm lên một màu ảm đạm” . Tú

Xương miêu tả không gian trường thi như một sự cắt nghĩa cho xã hội mà mình 37

đang sống. Không gian trường thi trong thơ Tú Xương chính là xã hội đương thời

thu nhỏ. Ở đây có sự nhố nhăng của buổi giao thời, sự xuống cấp, trượt chuẩn của

con người và đặc biệt có cả sự chế ngự của đồng tiền, tranh giành đầy phàm tục:

Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa

(Khoa Canh Tý)

Qua sáng tác của Tú Xương, không gian trường thi còn là nỗi nhục mất

nước. Là dân của đất nước mất chủ quyền, Tú Xương cũng như bao người khác,

mang trong mình nỗi đau đớn tủi nhục của thân phận nô lệ và ông tìm cách thể

hiện tâm trạng này qua không gian trường thi. “Lễ xướng danh khoa thi Đinh

Dậu” và “Giễu người thi đỗ” là hai thi phẩm miêu tả cái nhục của thân phận nô

lệ khi bước vào không gian trường thi.

* Không gian tết

Đọc thơ xuân của Tú Xương ta không chỉ bắt gặp cảnh đón Tết tưng bừng

của thiên hạ mà còn thấy đồ Tết đầy ắp cả không gian: rượu cúc, trà sen, bánh

trưng, giò lụa,… Nhưng nhà thơ lại không nhằm tái hiện không khí Tết. Với cái

nhìn độc đáo, tác giả xem không gian Tết là không gian Tú Xương dành cho con

người làm trò trong thơ ông. Bởi vì hơn bất cứ ngày bình thường nào, trong ngày

Tết, những thói xấu, thói rởm đời, lố lăng, mới càng biểu hiện nổi bật. Nếu như

người đời mong đợi, háo hức với Tết bao nhiêu thì nhà thơ lại lạnh nhạt, hờ hững

và chán nản với nó bấy nhiêu. Nếu như người đời vẫn hi vọng, tin tưởng vào sự

thay đổi, sự khác lạ nào đó trong năm mới thì nhà thơ cho rằng :

Năm mới khác gì năm cũ, van người bán muối với mua vôi.

(Câu đối Tết)

Như vậy dù gắng gượng vui xuân cùng thiên hạ, tác giả cũng không thoát

ra khỏi bi kịch cuộc đời. Sao nhà thơ có thể vui vẻ đón Tết được trong cảnh nhà

nghèo, trong thất bại cay đắng của cuộc đời. Hơn nữa, Tú Xương cũng giống như

một số tác giả cùng thời, mang tâm trạng ưu thời mẫn thế nhưng cảm thấy cái bất

lực của mình, cái vô dụng của mình, vì không đánh giá được lực lượng của quần

38

chúng đấu tranh, vì thấy mình lẻ loi cô độc trước một lực lượng thống trị đàn áp

tưởng như quá mạnh, trước một đội ngũ Việt gian và tay sai quá đông.

* Không gian hưởng lạc

Không gian hưởng lạc trong thơ Tú Xương là những nơi ăn chơi nổi tiếng

thời bấy giờ như Hoàng Thao, Phố Giầy, Tràng Lạc, Viễn Lai,... Gắn với thứ

không gian hưởng lạc là thái độ chơi hết mình của nhà thơ. Tuy nhiên, Tú Xương

không hề coi vấn đề hưởng lạc là mục đích và triết lý sống của bản thân. Ông coi

ăn chơi là một thói xấu (Một trà một rượu một đàn bà. Ba thứ lăng nhăng nó hại

ta), do đó đã cường điệu lên để phản ứng lại xã hội.

* Không gian đêm tối

Không gian đêm tối là không gian của nỗi lòng, của tâm trạng. Cho nên

cũng là buồn chán bực bội, tức tối thường ngày khi vào đây thì không còn cái

ngoa ngoắt, ác ý, cay độc nữa. Tất cả được nhà thơ cảm nhận bằng chiều sâu của

tâm hồn, nhẹ nhàng, lắng đọng. Ta không còn nghe tác giả lớn tiếng chửi đời mà

chỉ còn nghe lời trách nhẹ nhàng qua ẩn ý:

Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả,

Việc gì mà thức một mình ta.

(Chợt giấc)

Đêm tối đối với Tú Xương không chỉ là không gian đời tư giúp ông trở về

với con người thực mà còn là hình tượng nghệ thuật mang ý nghĩa ẩn dụ. Hình

ảnh bóng đêm trong thơ ông làm ta liên tưởng đến xã hội bế tắc không lối thoát

lúc bấy giờ. Không gian đêm tối đổ ập xuống cuộc đời người dân mất nước Tú

Xương. Nhưng điều đáng quý là giữa thăm thẳm mịt mù kia nhà thơ luôn tìm

cách thắp sáng.

1.3.2.3. Thơ Tú Xương – Giọng điệu và phương thức thể hiện

* Giọng tâm tình

Giọng điệu tâm tình sẽ nảy sinh khi nhà thơ có sự bộc lộ cái tôi trong lòng.

Tác giả chân thành tự đưa mình vào thơ như một khách thể và nói về mình một

cách tự nhiên: 39

Một tuồng rách rưới con như bố,

Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng.

(Thăm bạn nghèo)

Thơ trữ tình Tú Xương xuất hiện khá nhiều từ ngữ mang dấu ấn phong

cách khẩu ngữ. Khẩu ngữ xuất hiện khiến cho thơ Tú Xương mang tính tự nhiên,

bỗ bã, thân mật và gần gũi: con mụ (Tiền bạc phó thác cho con mụ kiếm), mẹ mày

(Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay – Thưng đấu nhờ trông một mẹ mày), mẹ đĩ (No

ấm chưa qua vành mẹ đĩ),…

Giọng tâm tình còn được biểu hiện qua việc sử dụng đậm đặc các đại từ

nhân xưng. Để thể hiện thế giới cảm xúc cũng như tâm trạng của nhân vật trữ

tình, tác giả đã sử dụng hàng loạt đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất:

- Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi

- Ta nghĩ như ta có dại gì.

- Ta chẳng ra chi chớ đợi chờ.

...

Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các đại từ ngôi thứ hai, ngôi thứ ba để bày tỏ

tâm trạng :

- Hay mình thấy tớ : nay Hàng Thao, mai Phố Giấy mà bụng mình ghen.

- Xưa nay em vẫn chịu ngài.

- Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo.

- ...

* Giọng cười biến hóa

Phần lớn các nhà nghiên cứu đều xác định tiếng cười trong thơ ông không

phải tiếng cười đơn nhất một giọng mà là tiếng cười lắm cung bậc nhiều sắc thái.

Nguyễn Đình Chú cho rằng: Tú Xương làm cho tiếng cười trong thơ mình trở lên

đặc sắc vào loại nhất trong thơ ca dân tộc. Nói đặc sắc nhất cũng là để nói đến cái

bản sắc riêng, cái tính đa thanh lắm giọng. Đỗ Đức Hiểu khẳng định: giọng thơ

trào phúng của Tú Xương biến đổi nhiều vẻ từ bài này sang bài khác. Có những

nụ cười nhẹ nhàng, dí dỏm, những nụ cười mỉa mai, chua chát, độc địa, đập thẳng 40

vào bọn xu thời, cũng có tiếng cười đau lòng, cười ra nước mắt. Đúng vậy, thơ Tú

Xương có giọng cười biến hóa khôn lường. Tùy theo đối tượng, hoàn cảnh mà

nhà thơ có những cảm xúc và điệu cười khác nhau.

Tiếng cười trong thơ ông có khi hài hước bông lơn, có khi gay gắt dữ

dội như bài Để vợ chơi nhăng, lại có khi trữ tình và trào phúng đan xen vào nhau

như các bài: Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu, Đi hát mất ô, Cảm Tết... Ở đây

những sắc thái cười nói trên không phải chỉ biến đổi qua từng bài mà còn thể hiện

tập trung trong một tác phẩm cụ thể. Mặc dù có sự biến hóa như vậy nhưng xuyên

suốt thơ ông vẫn nổi lên một giọng cười chủ đạo, không thể lẫn. Đó là tiếng cười

sắc sảo, dữ dội, cay độc và đáo để không giống như tiếng cười thâm thúy, nhẹ

nhàng, hóm hỉnh và chừng mực như Nguyễn Khuyến. Giọng điệu đó được biểu

hiện qua các yếu tố: kết cấu, cách sử dụng đại từ nhân xưng. Một số thủ pháp

nghệ thuật như chơi chữ, cường điệu, tương phản.

* Chất giọng dân gian

Chất giọng dân gian trong thơ Tú Xương được tạo nên từ các yếu tố sau

đây:

+ Sự tiếp thu hệ thống hình tượng nghệ thuật và hệ thống thành ngữ, tục ngữ. Bên

cạnh hệ thống hình tượng, thơ Tú Xương còn tiếp thu một khối lượng lớn thành

ngữ. Theo tác giả Hồ Giang Long trong Thi pháp thơ Tú Xương thì kết quả bước

đầu cho thấy, ông đã đưa gần 50 thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ mình dưới

những dạng thức khác nhau. Có khi ông đưa chúng vào dạng nguyên vẹn. Có khi

ông rút lại chỉ còn hai, ba từ. Nhưng có lẽ độc đáo và ấn tượng nhất là các trường

hợp ông chia tách, đảo vị trí từ hoặc chen từ vào để thêm nghĩa:

- Lửa lồng lên chuột phải đùn ra (Cháy nhà ra mặt chuột)

- Được voi tấp tảnh lại đòi tiên (Được voi đòi tiên)

Tú Xương vận dụng tục ngữ, thành ngữ vào thơ nhằm hai mục đích chủ

yếu. Mục dích thứ nhất, ông mượn ngay nội dung của chúng trực tiếp làm ý diễn

đạt. Ở trường hợp này, các thành ngữ, tục ngữ có vai trò làm ý chính hoặc một

phần ý của câu, như: Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi; Chuyện dai như chão 41

rách; Đắt hàng như thể mớ tôm tươi; sinh năm đẻ bẩy được vuông tròn… Mục

đích thứ hai, ông dùng chúng để làm điểm tựa cho ý thơ. Ở đây, tác giả chỉ đưa ra

vài tín hiệu tối thiểu để cho người đọc thiết lập được câu thành ngữ cần liên

tưởng. Tài năng vận dụng ngôn ngữ dân tộc đã khiến cho thơ của tác giả trào

phúng này có một chất giọng dân gian khó lẫn.

+ Cách ví von so sánh

Ngoài việc vận dụng hình thức ví von so sánh có sẵn trong thành ngữ, Tú

Xương còn có cách diễn đạt riêng của mình:

- Râu rậm như chổi,

Đầu to tày giành.

- Đầu như lươn đất mà không lấm

- Cổ cong mặt lệnh người đâu thế.

Hệ thống hình ảnh so sánh trong thơ Tú Xương gần gũi với những gì thô

giáp, xù xì của cuộc sống thường nhật. Chính vì thế thơ ông không còn vẻ trang

trọng, kiểu cách và uyên bác thường thấy của văn học viết nữa mà mang một chất

giọng dân gian gần gũi và bình dị.

Tiểu kết

Thi pháp học là bộ môn khoa học vô cùng cần thiết cho hoạt động nghiên

cứu văn học nói chung và cho hoạt động dạy học tác phẩm văn chương trong nhà

trường nói riêng. Nó góp phần đưa môn Văn trong nhà trường trở về đúng nghĩa

một môn khoa học, đồng thời cũng là một bộ môn nghệ thuật. Việc vận dụng

những thành tựu khoa học của thi pháp học vào dạy học tác phẩm văn chương

trong nhà trường sẽ là một cách dạy hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của bộ

môn. Việc áp dụng lí thuyết của thi pháp học vào dạy một tác phẩm văn chương

cụ thể là một yêu cầu cấp thiết, nhất là khi nhìn vào thực trạng dạy học văn nói

chung và dạy học tác phẩm thơ trung đại nói riêng trong giai đoạn này, đó cũng là

một cách thay đổi tư duy dạy văn truyền thống đã và đang dần mất đi vị trí và vai

trò của mình trong hệ thống giáo dục quốc dân.

42

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG DẠY HỌC THƠ TRUNG ĐẠI TRONG NHÀ TRƢỜNG

TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY VÀ ĐỊNH HƢỚNG ĐỔI MỚI TỪ

HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP

2.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại trong nhà trƣờng trung học phổ thông hiện

nay

2.1.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại nói chung trong nhà trường trung học

phổ thông hiện nay

Để giải mã được nội dung, tư tưởng của tác phẩm cần thiết phải tiếp cận

hình thức nghệ thuật của nó. Bởi tác phẩm văn học là chỉnh thể thống nhất của hai

mặt hình thức và nội dung. Hình thức là sự biểu hiện của nội dung, là cách thể

hiện nội dung. Nội dung trong tác phẩm văn học cần phải được suy ra từ hình

thức, đó là “hình thức mang tính nội dung” (Trần Đình Sử). Vì vậy phương pháp

chủ yếu của thi pháp học là phương pháp hình thức, có thể hiểu “Phương pháp

hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn

học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mĩ của nó” (Nguyễn Văn Dân). Khi tìm

hiểu một tác phẩm văn học chủ thể tiếp nhận cần phải nắm vững mối quan hệ

biện chứng giữa hình thức và nội dung bởi “Trong tác phẩm nghệ thuật, tư tưởng

và hình thức phải hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như là tâm hồn và thể xác,

nếu hủy diệt hình thức thì cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và ngược lại cũng

vậy ” và “Khi hình thức là biểu hiện của nội dung thì nó gắn chặt với nội dung tới

mức là nếu tách nó khỏi nội dung có nghĩa là hủy diệt bản thân nội dung và

ngược lại tách nội dung ra khỏi hình thức, có nghĩa là tiêu diệt hình thức ” (

Belinxki) [11; 256]. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy văn, không ít cách dạy,

cách học vi phạm nguyên tắc tách nội dung ra khỏi hình thức. Học tác phẩm văn

học nhưng thoát ly văn bản. Trong nhà trường phổ thông có rất nhiều hiện tượng

dạy tác phẩm văn chương nhưng lại tìm hiểu qua loa văn bản, học sinh học đôi

khi chỉ học lướt qua văn bản, giáo viên thì chỉ coi trọng tìm “ý”, vì thế mới có

tình trạng dạy thơ không cần thuộc, dạy truyện không không cần kể mà chỉ nêu ý 43

chính ( Nguyễn Viết Chữ) [3; 9]. Đặc biệt là khi dạy đến những tác phẩm thơ

trung đại, việc dạy và học thơ trung đại Việt Nam đến nay vẫn còn là nỗi khổ của

người giáo viên trung học phổ thông. Như chúng ta đã biết, để khám phá, tìm hiểu

cái hay, cái đẹp của một một bài thơ trung đại thì không chỉ đòi hỏi ở người giáo

viên cần phải có sự hiểu biết sâu sắc những kiến thức về thi pháp thời đại, thi

pháp tác giả, thể loại văn học,… mà còn đòi hỏi người học sinh cũng phải có

những kiến thức nhất định về những vấn đề trên. Đây là một đòi hỏi chỉ có thể

thực hiện ở những học sinh yêu thích, say mê tìm hiểu tác phẩm văn học. Trong

bối cảnh hiện nay, còn được mấy học sinh yêu thích bộ môn này trong một lớp!

Vì vậy mà giáo viên chỉ đơn giản là truyền thụ kiến thức một chiều thiên về nội

dung hoặc tìm ra những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc rồi truyền thụ cho học sinh

mà không chú ý đến khát vọng, tâm lý học sinh. Việc tìm hiểu tác phẩm quá chú

trọng nội dung tư tưởng tác phẩm trong dạy học văn trong một thời gian dài đã

gây hậu quả nghiêm trọng. Một thực trạng nữa trong dạy học văn hiện nay là còn

một bộ phận giáo viên chưa thực sự tâm huyết, say mê với nghề nghiệp, lên lớp

theo phương pháp cũ, thiếu sáng tạo, hấp dẫn. Đặc thù của các môn khoa học xã

hội là nội dung kiến thức được trình bày trong sách giáo khoa, sách giáo viên nên

nếu giáo viên không chịu khó đổi mới, sáng tạo thì dễ đi vào con đường mòn là

trình bày lại nội dung cố định. Chúng tôi đã dự nhiều giờ thao giảng và nhận thấy

giáo viên chỉ cố gắng trình bày lại những điều có sẵn trong sách giáo khoa, vì thế

giờ học rơi vào tình trạng hình thức. Ngay cả giờ giảng được đánh giá là thành

công thì tính chất độc diễn của giáo viên thể hiện khái rõ nét. Thậm chí có giờ

dạy diễn ra sôi nổi, nhưng thực chất chỉ là một màn kịch diễn ra khéo léo, tất cả

được giáo viên tập dượt trước, cả những câu hỏi bài cũ, và chỉ định học sinh nào

phát biểu. Nhiều giáo viên được khen là hay nhưng thực chất là diễn thuyết hay.

Học sinh học xong là kiến thức cứ trôi đi tuồn tuột.

Tuy nhiên, để đổi mới phương pháp giảng dạy thành công, nếu chỉ có sự nỗ

lực của giáo viên thì không đem lại kết quả mà quan trọng cần có sự hưởng ứng

tích cực từ phía học sinh. Thói quen học tập thụ động, đối phó của học sinh là một 44

rào cản lớn đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Hiện nay học sinh

phải học nhiều môn, các em không có điều kiện đầu tư thời gian đích đáng cho tất

cả các môn sinh ra tình trạng học lệch. Học theo phương pháp mới đòi hỏi các em

phải đầu tư thời gian để làm bài tập, tham khảo tài liệu, thu thập, xử lý thông tin

khoa học. Đa số học sinh không có đủ tài liệu cần thiết và chưa hình thành tư duy

phản biện, độc lập trong học tập. Những khó khăn từ hai phía thầy và trò khiến

cho việc đổi mới phương pháp dạy học rơi vào vòng luẩn quẩn, hình thức, ít có

chuyển biến mạnh và hiệu quả chưa cao.

Từ thực trạng trên, có thể thấy môn Ngữ văn trong nhà trường trung học

phổ thông hiện nay đang mất đi rất nhiều sức hấp dẫn đối với học sinh. Để lí giải

điều này là cả một vấn đề không đơn giản. Từ chương trình, nội dung đến phương

pháp giảng dạy của giáo viên cũng như tâm lí học tập của học sinh cũng cần phải

xem xét.

2.1.2. Thực trạng dạy học “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ”

của Tú Xương

Nguyễn Khuyến, Tú Xương là hai trong những cây đại thụ của nền văn học

dân tộc. Tuy bóng mát của cây đại thụ ấy không rợp bóng thời gian suốt bao thế

kỷ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, nhưng gốc rễ của nó đã ăn sâu vào đất Việt,

góp phần tạo nên tâm hồn dân Việt. Hai bài thơ: “Thu điếu” – Nguyễn Khuyến

và “Thương vợ” – Tú Xương hiện nay được xếp vào chương trình sách giáo

khoa Ngữ văn lớp 11 trung học phổ thông. Qua thực tiễn dạy học hai bài thơ này,

hầu hết giáo viên và học sinh đều rất hứng thú khi tìm hiểu. Sự hứng thú đến từ

phong cách hai tác giả và những đặc sắc nghệ thuật điển hình trong hai bài thơ.

Là một giáo viên và cũng đã từng trải qua thời gian trên ghế nhà trường phổ

thông, nhưng qua quan sát, mỗi lần thầy và trò tìm hiểu hai bài thơ này, không khí

học tập trở lên vô cùng sôi nổi, nhẹ nhàng. Dù được sáng tác trong một giai đoạn

lịch sử cách đây đã gần một thế kỷ, nhưng dường như những vấn đề mà tác giả

nêu ra trong hai bài thơ vẫn vô cùng ý nghĩa. Với “Thu điếu”, người đọc thấy

được bức tranh làng cảnh Việt Nam cũng như khung cảnh sinh hoạt của nông 45

thôn Việt Nam đầy màu sắc, đường nét, âm thanh, sức sống như nó vẫn tồn tại,

mà ủ kín trong đó là cái hồn muôn đời của con người, đất nước Việt Nam. Hay ở

cái xã hội đã có luật bất thành văn đối với người phụ nữ: “Xuất giá tòng phu”, đối

với quan hệ vợ chồng thì “phu xướng, phụ tuỳ” thế mà trong bài “Thương vợ” có

một nhà thơ dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình

là quân ăn bám vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn giám tự nhận

khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao. Nhan đề Thương vợ

chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa

thể hiện đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của tâm hồn Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả

không chỉ biết thương vợ mà còn biết ơn vợ, không chỉ lên án thói đời mà còn là

để trách bản thân. Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm

khuyết, càng thương yêu, quý trọng vợ hơn. Tình yêu thương, quý trọng vợ là

cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung

đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc

của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương vừa mới lạ, độc đáo vẫn rất

gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc. Chúng ta

không thể nào quên được hình ảnh bà Tú – một người vợ đảm đang, tháo vát, giàu

đức hi sinh. Bà tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam. Hai bài thơ như một tiếng

chuông nhẹ nhàng đánh thức lương tri của mỗi người về sự thiêng liêng của tình

cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trước những vẻ đẹp bình dị của quê

hương. Chính vì vậy khi dạy học hai bài thơ này đọng lại trong lòng các em

những suy nghĩ về cuộc sống, giáo dục các em về tình nghĩa sâu nặng đối với quê

hương, gia đình đặc biệt lòng biết ơn sâu sắc trước sự hi sinh lớn lao của người

phụ nữ trong gia đình.

Tuy nhiên khi dạy học hai bài thơ này, qua một thời gian dài vẫn tồn tại

nhiều hạn chế. Đặc biệt là trước khi Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương cải cách

sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học. Cách dạy cũ chỉ chú trọng về

phần nội dung Đó là cảnh thu và tình thu trong bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến.

Đó là tình thương yêu, quý trọng vợ của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi 46

vất vả gian truân, và những đức tính cao đẹp của bà Tú, qua đó thấy được tâm sự

và nhân cách cao đẹp của Tú Xương trong bài Thương vợ. Phần nghệ thuật bị coi

nhẹ và được xem xét một cách lẻ tẻ, không có hệ thống. Hiện nay, trong xu thế

đổi mới phương pháp dạy học, tình hình dạy học văn nói chung và hai bài thơ trên

nói riêng có nhiều khả quan hơn. Nhiều phương pháp mới được sử dụng nhằm

tiếp cận văn bản một cách toàn diện hơn. Nhưng vì đây là hai bài thơ thuộc văn

học trung đại, viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật, là những bài thơ tiêu biểu

của Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Một bài thơ nhỏ phải hòa vào “dòng chảy ”

nghệ thuật chung trong toàn bộ sáng tác của nhà thơ và những đặc điểm thi pháp

thời đại. Học sinh chưa được tiếp cận với toàn bộ sáng tác của Nguyễn Khuyến và

Tú Xương, chưa nắm được thi pháp thời đại, vì vậy cái nhìn toàn diện, khái quát

về hai bài thơ này để đánh giá một vấn đề cụ thể bị mất đi. Giáo viên đã chú trọng

tìm hiểu những nét đặc sắc nghệ thuật của hai bài thơ nhưng có lẽ vẫn bỏ sót

nhiều yếu tố quan trọng do nhiều nguyên nhân. Phần sau của luận văn xin được

bổ xung thêm những yếu tố này nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học hai

bài thơ.

2.2. Những định hƣớng đổi mới khi dạy hai bài thơ “Thu điếu” của Nguyễn

Khuyến và “Thƣơng vợ” của Tú Xƣơng từ hƣớng tiếp cận thi pháp

2.2.1. Dạy bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương

từ hướng tiếp cận thi pháp thơ trung đại

Dạy học Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương có cái

khó của nó, bởi nó chỉ là một bài thơ nhỏ trong một mảng thơ Nôm khá lớn của

hai nhà thơ. Nếu không tiếp cận với văn học trung đại một cách khái quát thì dễ

rơi vào chuyện “Thầy bói xem voi”. Khi dạy những bài thơ này, dù thời lượng

hạn hẹp, chúng ta cũng không thể bỏ qua việc giới thiệu một cách khái quát nhất

về một số phương diện như thi pháp văn học trung đại (giới thiệu một số nội dung

liên quan như đề tài, bút pháp, thi liệu, quan niệm về thiên nhiên,…). Với cách

dạy từ hướng thi pháp thì việc giúp học sinh nắm được những đặc điểm cơ bản về

thi pháp thời đại chính là chìa khóa để giải mã một bài thơ cụ thể như thế này. 47

Thu điếu (Nguyễn Khuyến), Thương vợ (Tú Xương) là những bài thơ tiêu biểu

nhất của mảng thơ nôm trung đại Việt Nam. Tất nhiên vì thời gian có hạn, chúng

ta không thể đi giới thiệu tất cả các đặc điểm về thi pháp của văn học trung đại

mà chỉ chú trọng nhấn mạnh những đặc điểm nghệ thuật được sử dụng nhiều nhất

trong hai bài thơ mà thôi. Có thể tập trung vào các khía cạnh như đề tài, thể loại,

bút pháp, thi liệu, ngôn ngữ, hình ảnh,… Đây sẽ tạo nền tảng cơ sở để tìm hiểu

bài thơ một cách khoa học và có hệ thống. Dựa vào các đặc trưng thi pháp thơ

trung đại như đã trình bày ở trên ta có thể thấy trong bài Thu điếu (Nguyễn

Khuyến) mang những nét chung của thơ ca trung đại trên những bình diện sau:

+ Đề tài: mùa thu là một đề tài quen thuộc. Trước Nguyễn Khuyến đã có rất

nhiều nhà thơ viết về đề tài này.

+ Thể thơ: Thu điếu được viết theo hình thức thể thơ Nôm thất ngôn bát cú đường

luật. Với lối viết giản dị, dễ hiểu của thể thơ thì bài thơ cũng tuân thủ một cách

chặt chẽ theo hình thức luật đường như số câu, số chữ, niêm, luật, đối, vần,…

Điều này tạo cho các bài thơ một kết cấu chặt chẽ, mực thước, cổ điển.

+ Bút pháp: bài thơ cũng sử dụng những bút pháp quen thuộc của văn học trung

đại như lấy động để tả tĩnh, lấy cảnh ngụ tình, cảnh thu được ghi lại một cách ước

lệ, tượng trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật.

+ Thi liệu: thơ viết về mùa thu của văn học Trung đại Việt Nam thường miêu tả

cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Hình ảnh như trời thu, trăng thu, nước thu,

gió thu, sương thu, lá mùa thu, khói thu, ngõ trúc,... đều đã trở nên quá quen

thuộc và như là một công thức cho người sáng tác. Có thể coi đây là tính ước lệ

của bài thơ.

+ Âm hưởng: âm hưởng chung của thơ về mùa thu thường là buồn. Thu điếu đã

không là một ngoại lệ. Đọc kĩ bài thơ này, chúng ta rất dễ dàng nhận ra âm hưởng

chung của chúng là buồn, một nỗi buồn man mác bâng khuâng và với rất nhiều

những căn cớ, nguồn cơn. Cũng là mùa thu làm thơ, cũng là mùa thu câu cá cũng

là mùa thu uống rượu đấy nhưng xem ra tất cả chỉ là cái cớ cho một điều gì đó lớn

hơn mà ta thường bắt gặp ở các nhà thơ ở ẩn khác. 48

Với bài Thương vợ của Tú Xương dấu ấn của thi pháp thơ trung đại được thể hiện

trên các bình diện sau:

+ Đề tài: viết về người vợ. Trong thơ trung đại Việt Nam đã có nhà thơ viết đề

tài này. Chúng ta đã từng biết đến một Khuê ai lục của Ngô Thì Sỹ khóc người vợ

yêu qua đời giữa lúc đầu xanh tuổi trẻ, một Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn

Du thương tiếc người vợ đã khuất, những câu thơ dứt ruột của Tự Đức và trước

Tú Xương một chút là câu đối khóc vợ chứa chan tình người của Nguyễn

Khuyến. Ngoài ra còn phải kể đến Cao Bá Quát, Bùi Hữu Nghĩa, Phạm Văn

Nghị.

+ Thể thơ: là một bài thơ Nôm được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật

tuân thủ chặt chẽ theo đề, thực, luận, kết, bình đối.

+ Ngôn ngữ: giản dị, dễ hiểu.

2.2.2. Dạy bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương theo

đặc điểm thi pháp tác giả

Đây là một nguyên tắc mà người nghiên cứu và dạy học tác phẩm văn học từ

góc độ thi pháp cần chú ý. Mỗi một tác phẩm văn học dẫu thuộc cùng một thể loại

nhất định cũng là một vũ trụ thu nhỏ, một sáng tạo mà nhà văn phải nung nấu cả

đời. Nếu không chú ý đến việc khám phá cái riêng của thi pháp tác giả, bức tranh

văn học sẽ nghèo nàn, đơn điệu cả về bố cục và màu sắc, dễ ra lò theo lối công

nghiệp hàng loạt, triệt tiêu phần cá nhân, tính sáng tạo của con người. Trong khi

đó vận động của dòng chảy văn học ngày càng khẳng định tính chói sáng phẩm

chất sáng tạo như một đặc điểm sống còn của người viết. Vì vậy dạy bài Thu điếu

của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương theo đặc điểm thi pháp tác giả

là cần thiết không thể bỏ qua.

2.2.2.1. Dạy bài Thu điếu theo đặc điểm thi pháp thơ Nguyễn Khuyến

Thi pháp thơ Nguyễn Khuyến là những nét nghệ thuật sáng tạo đặc sắc mang

dấu ấn Nguyễn Khuyến vượt ra ngoài những quy phạm của văn học trung đại.

Trong bài thơ Thu điếu nét đắc trưng thi pháp thơ Nguyễn Khuyến là được thể

hiện ở những bình diện sau: 49

+ Thi đề: Nguyễn Khuyến phá vỡ tính ước lệ ngay từ thi đề. Nếu như thơ ca cổ

nói đến mùa thu thì thường đó là hình ảnh của một bức tranh thu có tính chất khái

quát, phổ quát với âm hưởng buồn sầu rất chung chung thì ở đây, qua thi phẩm,

nhà thơ đã đưa chúng ta về với không - thời gian của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ,

rất cụ thể và sinh động, không lẫn với bất kì bức tranh thu nào. Từ điểm nhìn

không gian làng Vị Hạ, Nguyễn Khuyến đã mô tả mùa thu của vùng đồng chiêm

trũng hết sức gần gũi và thân quen.

+ Thi hứng: Các nhà thơ xưa thường tìm cảm hứng trong cảnh vật Trung Hoa,

như sông Xích Bích, hồ Động Đình, bến Tầm Dương, sông Tiêu Tương, bến

Phong Kiều,... Nhưng trong các thi phẩm Nguyễn Khuyến tuyệt nhiên không thấy

có các cảnh Trung Hoa, hay các cảnh xây dựng theo tưởng tượng, mà những cảnh

quen thuộc thường ngày của nông thôn Việt Nam đã đem đến nguồn thi hứng

trong thơ ông. Sở dĩ như vậy là vì gần suốt đời mình, ông đã gắn bó với thôn quê,

hòa hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà. Hơn ai hết Nguyễn Khuyến đã cảm nhận

được là không có mùa thu nào trên đất nước ta đẹp như mùa thu xứ Bắc. Mùa

mưa vừa ngớt, không khí bắt đầu khô ráo, những ao chuôm, sông hồ đầy nước

giống như mặt gương bầu trời xanh trong cao rộng, gió heo may se se lạnh, sắc lá

đổi màu,… Mùa thu cũng là mùa câu, đây là một thú vui tao nhã của những người

dân thôn quê khi rảnh rang việc đồng áng. Đêm thu, dưới trăng sáng, các cụ già

thôn dã có thú vui uống rượu thưởng trăng. Hình ảnh các cụ già say sưa với

những cần câu trúc và ngồi điềm tĩnh hưởng thụ vị cay nồng của rượu là những

nguồn thi hứng để Nguyễn Khuyến sáng tác ra những kiệt tác này. Nếu Thu vịnh

tập trung miêu tả hồn thu đất Việt. Thu ẩm phác họa về khí thu Việt Nam thì Thu

điếu là bức tranh sống động của làng cảnh Việt Nam.

+ Thi liệu: nhiều nhà thơ xưa khi miêu tả mùa thu thường chọn những thi liệu rất

quen thuộc như tả cây ngô đồng, hoa cúc,… Trong bài Thu điếu, Nguyễn Khuyến

đã tránh được công thức ước lệ đó. Cảnh trong bài vẫn là trời nước, gió, trúc –

những thi liệu quen thuộc nhưng ở đây lại là những hình ảnh trời thu xanh ngắt,

ngõ trúc quanh co, ao thu bé tẻo teo,... Nói chung các hình ảnh thơ ở đây hiện lên 50

với đặc điểm chung là rất sinh động, cụ thể, rất riêng của vùng đồng chiêm trũng

nơi quê hương tác giả. Điểm mới ở đây là vẫn có “cảnh cũ” nhưng hồn thơ thì đã

vượt ra khỏi khuôn sáo thi tứ cổ điển .

+ Ngôn ngữ nghệ thuật: phá vỡ tính ước lệ trong chùm thơ thu còn thể hiện rất rõ

ở hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật. Nghệ thuật sử dụng tiếng Việt của tác giả đã đạt

đến sự tinh tế, điêu luyện. Bài thơ không dùng điển cố, điển tích hoặc từ ngữ khó

hiểu. Thấy rất rõ là trong bài thơ này, Nguyễn Khuyến đã sử dụng dày đặc những

từ thuần Việt trong sáng, dể hiểu, giàu sức gợi: xanh ngắt, lạnh lẽo, trong veo, bé

tẻo teo, gợn tí, vèo, lơ lửng, vắng teo, bèo. Ở đây các từ được khai thác để diễn

đạt các cảm giác khác nhau về mùa thu. Mùa thu hiện lên qua các giác quan. Mắt

nhìn thấy: màu vàng của lá thu, màu xanh ngắt của trời thu, nước trong veo, làn

sóng xanh biếc, ngõ quanh co, vắng vẻ. Tai nghe thấy tiếng bay vèo của chiếc lá

vàng trước gió, tiếng cá đớp dưới lớp bèo. Tất cả góp phần khắc hoạ bức tranh

mùa thu đồng bằng Bắc Bộ rất điển hình, rất riêng. Nhưng điều tuyệt diệu ở đây

là dùng từ ngữ thuần Việt mà người đọc vẫn cảm nhận được ở đấy sự tinh tế, tao

nhã, cái tao nhã của một con người đa cảm và khả năng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của

trời đất, vũ trụ, của mùa thu. Vần eo ở bài Thu điếu là một sáng tạo của Nguyễn

Khuyến tạo cảm giác thu nhỏ, xa vắng. Hẳn trong thơ ca cổ về mùa thu không có

được điều tuyệt diệu này.

Ngoài ra, các từ láy được sử dụng trong bài thơ góp phần tạo nên ấn tượng

nhẹ nhàng, chậm chạp, yên tĩnh, vắng vẻ của cảnh thu: lạnh lẽo, tẻo teo, lơ lửng.

Cảnh thu được nhìn từ quan điểm của một nhà nho ẩn dật đã được diễn tả bằng

yếu tố tạo hình, tạo ấn tượng của từ ngữ rất thành công.

+ Không gian nghệ thuật: nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến

đón nhận từ cái không gian thoáng đãng, mênh mông, bát ngát, với cặp mắt

hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được “ Trời thu

xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung

cảnh thiên nhiên rộng rãi, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ

51

gói gọn trong một ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng

quê của Nguyễn Khuyến:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tựa gối buông cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Bài thơ mở ra không gian nghệ thuật đầy thi vị, đầy ắp không khí của làng

cảnh đồng bằng Bắc Bộ. Vì đi câu cá nên điểm xuất phát của cảm hứng là chiếc

“ao thu”. Ao là hình ảnh thân thuộc, bình dị ở làng quê xứ Bắc. Nguyễn Khuyến

chọn ao thu để khơi nguồn thi hứng. Chiếc ao thu trong tấm lòng yêu thương và

rung cảm thẩm mĩ của Nguyễn Khuyến đẹp và gợi cảm như một tác phẩm mĩ

thuật. Chiếc ao thu ấy lạnh lẽo một cách đầy chất thơ. Từ “ lạnh lẽo” đặc tả khí

lạnh của ao nước mùa thu, dường như cái lạnh ấy thấm sâu vào da thịt con người.

Tính từ “trong veo” đã tuyệt đối hóa độ trong của nước, đồng thời còn gợi ra độ

thanh sạch, sự bất động, tĩnh lặng của mặt ao. Đã vắng những cơn mưa rào xối xả

của mùa hạ, nước trong ao thu thấm cái lạnh của heo may mà lắng trong đến độ

như được lọc, trong vắt, trong veo đến tận đáy. Bầu trời như lặng gió và có rất

nhiều nắng, rất sáng, nước trong ao mới có độ “trong veo” như thế! Mới chỉ nói

tới nước thu mà ta đã thấy trời thu, nắng thu, gió thu, ta đã thấy được độ hàm súc,

tinh tế trong cách dùng từ của Nguyễn Khuyến với thể thơ Đường. Trước mắt

người đọc là một khoảng không gian mùa thu trong sáng và tĩnh lặng vô cùng.

Hai âm “eo” được gieo trong một câu khiến cho cảm giác về cái lạnh và sự ngưng

đọng ấy của không gian càng trở nên tuyệt đối, đồng thời còn gợi ra không gian

nhỏ hẹp của chiếc ao. Không gian mùa thu tiếp tục mở ra với hình ảnh “lá vàng”

là một hình ảnh mang tính ước lệ trong thơ ca cổ. Nhưng hình ảnh “lá vàng” trong 52

bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến lại mang dáng dấp riêng của tác giả khi

miêu tả về mùa thu. Một chiếc lá vàng rời cành bởi làn gió rất nhẹ của mùa thu,

xoay xoay rồi liệng vèo xuống mặt nước. Đó là một chi tiết rất thực, rất sống

động của cảnh sắc mùa thu ở làng cảnh Việt Nam. Sau này trong bài Đây mùa thu

tới, Xuân Diệu viết:

Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng

Cái sắc vàng của mùa thu tạo nên không gian nghệ thuật mang dáng vẻ tươi sáng

như chiếc áo “mơ phai” khoác cho mùa thu làm cho không gian thêm tươi tắn, dịu

nhẹ mang nét thu điển hình cho quê hương Việt Nam. Trong Thu điếu, sắc vàng

ấy cũng vậy. Nó làm cho không gian như sáng bừng lên, gợi ra trời thu, gió thu,

nắng thu. Cái sắc vàng của lá thu ấy, Xuân Diệu đã từng nhận xét: Cái thú vị của

bài Thu điếu ở cái điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời,

xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang qua chiếc lá thu rơi. Hai câu thơ thực đối

nhau rất chỉnh, các sự vật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gió thổi làm sóng

gợn, làm lá rơi. Các tính từ, trạng từ “biếc”, „tí‟, “vàng”, “khẽ”, “vèo” được sử

dụng một cách hợp lí, giàu chất tạo hình, vừa tạo ra bức tranh màu sắc thanh nhã,

có xanh có vàng, vừa gợi được sự uyển chuyển, sinh động của tạo vật, lại vừa cho

thấy tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của thi nhân. Nguyễn Khuyến phải rất nhạy cảm,

tinh tế thì mới chớp được những biến động tinh vi của tạo vật, thì mới có thể nhận

biết được cảnh vật xung quanh chuyển động chỉ “hơi”, “khẽ”. Đó là sự chuyển

động “ hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ, khẽ khàng của chiếc lá vàng, là sự

mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao. Cả hình và tiếng đều cực

nhỏ. Cuối hai câu thực là hai từ đối nhau “tí”, “vèo” – một từ nói lên cái cực nhỏ

của hình khối, một từ nói lên cái cực nhỏ của âm thanh. Không gian tĩnh lặng cứ

tăng dần theo từng cấp độ: “hơi gợn tí”, “khẽ đưa vèo”. Không gian động mà tĩnh,

hữu thanh mà vô thanh. Tác giả đã rất thành công với bút pháp nghệ thuật lấy

động để tả cái tĩnh lặng của mùa thu, để ghi lại nét thu, hồn thu của quê hương xứ

sở. Đây là bút pháp quen thuộc của các nhà thơ trung đại. Nhưng ở Nguyễn 53

Khuyến, ông dùng cái động để tả cái tĩnh và trong cái tĩnh bao giờ cũng có cái

động như trong bài Thu ẩm vẫn có “đóm lập lòe”, “ánh trăng loe”, “lóng lánh”.

Trong bài Thu vịnh, trên cái nền phẳng lặng của thiên nhiên lại nổi nên một âm

thanh độc đáo: “Một tiếng trên không ngỗng nước nào”.

Hai câu luận nhà thơ tiếp tục sử dụng vần “eo” nhưng không gian không bị

giới hạn mà đã mở rộng theo chiều rộng, chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng

rãi cho cảnh vật. Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa

thu. Trong các bài thơ thu, Nguyễn Khuyến thường nhắc tới “Trời thu xanh ngắt

mấy từng cao” (Thu vịnh) hay “ Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Thu ẩm). Màu

da trời xanh ngắt thật là đẹp, tạo cảm giác không gian như cao hơn, xa hơn. Trên

nền trời xanh ngắt ấy, những áng mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà “lơ

lửng”, ngõ xóm quanh co… Tất cả hiện lên đều thân thương nhuốm màu sắc thôn

quê Việt Nam. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thấy được những nét

quê tĩnh lặng, êm ả như vậy. Trời sang thu, không khí giá lạnh, đường làng cũng

vắng vẻ. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” không bóng người qua lại. Nguyên

từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng “vắng teo” thì có nghĩa là cảnh vắng

tanh vắng ngắt, không chút cử động, không chút âm thanh, không một bóng

người. Bởi thế, hai câu thơ gợi ra sự trống vắng, nỗi cô đơn trong lòng người. Sau

này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt đựơc những nét điển hình

đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:

Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò

Trên nền cảnh thu ấy xuất hiện một chiếc thuyền câu lẻ loi, đơn chiếc, bé

nhỏ. Số từ chỉ số ít “một chiếc” kết hợp với từ láy “tẻo teo” khiến cho chiếc

thuyền càng nhỏ bé hơn, như co lại thành một nét chấm trên nền ao cũng bé xíu

và trong tận đáy.

Tóm lại, không gian mở ra với bầu trời xanh ngắt, tầng mây lơ lửng. Dưới

mặt đất có ao nước lạnh lẽo, những làn sóng xanh biếc gợn nhẹ, những đám béo,

và dưới lớp bèo là những con cá chứng tỏ sự hiện diện của nó bằng việc đớp động 54

dưới chân bèo, chiếc thuyền câu mà trên đó, chắc hẳn người câu đang ngồi. Trên

bờ là một cái ngõ nhỏ có hàng trúc quanh có, vắng vẻ. Các yếu tố không gian

tổng hợp lại thành một bức tranh thu điển hình ở nông thôn Bắc Bộ.

+ Thời gian nghệ thuật: xét về mùa, đây là mùa thu, khi thiên nhiên, đất trời ở

Bắc Bộ đẹp nhất, mát mẻ, dễ chịu nhất trong năm. Nhưng thời gian trong cảm

nhận của con người ở đây dường như ngưng đọng. Các hoạt động của nhịp điệu

chậm chạp: chỉ là sóng gợn lăn tăn, lá vàng khẽ bay trong gió, mây lơ lửng, ngõ

vắng teo, tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Người ngồi câu cũng có tư thế gần

như bất động: “Tựa gối buông cần lâu chẳng được”. Nhịp thời gian ngưng đọng

đó gợi ấn tượng về sự nhàn nhã của cuộc sống ẩn dật.

Như vậy, Nguyễn Khuyến đã vẽ ra một bức tranh thu hài hòa giữa màu sắc

và âm thanh, giữa tĩnh và động, giữa cảnh thu và tình thu gợi nhiều xúc cảm cho

người đọc. Làng cảnh Việt Nam hiện lên qua bài thơ với những nét tươi sáng,

thanh đạm, hồn hậu; với những hình ảnh giản dị mà thi vị biết bao; với những âm

thanh trong trẻo có tính chất vang ngân của những cặp vần. Mỗi hình ảnh, đường

nét, âm thanh đều thấm đượm tâm hồn thi nhân. Một nhà thơ yêu quê hương làng

cảnh đến say đắm. Đọc thơ ông, người đọc như thấy thêm yêu quê hương đất

nước mình hơn, thấy những hình ảnh nông thôn Việt Nam hiện lên trước mặt

không lẫn vào đâu được. Điều đó tạo nên phong cách thơ khác biệt trong làng quê

Việt Nam – thơ Nguyễn Khuyến.

+ Con người: bức tranh mùa thu sẽ là thiếu nếu không có hình ảnh của con người.

Bài thơ hiện rõ hình ảnh của con người thi nhân. Nếu trong thơ ca trước đó, tính

ước lệ, quy phạm khiến cho hình ảnh của tác giả thường mờ nhạt, khó có thể cụ

thể trong giọng điệu, cảm xúc thì ở bài thơ này, hình ảnh thi hào Nguyễn Khuyến

hiện lên rất rõ. Hơn thế, đó là hình ảnh của một con người với tâm trạng thế tình

vời vợi, khôn khuây. Tập trung thể hiện rõ trong cặp câu thơ kết với tư thế “tựa

gối buông cần” – tư thế co lại, như thu nhỏ mình để tránh cái “lạnh lẽo” giữa “ao

thu”. Có tài liệu cho rằng trong câu “Tựa gối buông cần lâu chẳng được” từ

“ôm” chứ không phải là “buông”. Nhưng theo từ điển Việt Nam thì “buông” hay 55

hơn cho “ôm” mà lại phù hợp với tính cách và tình thế của nhà thơ hơn. Trong

những ngày từ quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đó là thú vui của nhà thơ để hòa

mình vào thiên nhiên mà quên đi những bận lòng với nước non cho tâm hồn thanh

thản. “Buông” là thả lỏng để cho tâm hồn thư thái. Vì vậy “ôm” không phù hợp

với hoàn cảnh của Nguyễn Khuyến. Từ “buông” mang đến cho câu thơ hiệu quả

nghệ thuật cao hơn.

Âm thanh “cá đâu đớp động dưới chân bèo” vừa gợi sự mơ hồ, vừa gợi sự

giật mình thảng thốt, ngơ ngác tìm kiếm. Tiếng động nhẹ duy nhất đã phá tan

không gian yên tĩnh, vắng lặng của cảnh thu và tâm hồn tác giả. Chi tiết cá đớp

động dưới chân bèo khi “tựa gối buông cần lâu chẳng được” có thể tác giả đang

theo đuổi những ý nghĩ thầm kín, riêng tư nào đó nên “lâu chẳng được” chỉ khi

tiếng cá đớp động mới kéo người câu cá trở lại với việc câu cá của mình. Ngày

xưa uống rượu, thưởng trăng, câu cá không chỉ là cái thú của thi nhân, không đơn

thuần chỉ là việc kiếm ăn, là thú vui tiêu khiển thời gian mà còn là cái cớ để họ

bày tỏ việc khác. Cũng có người lấy việc câu cá để đợi thời như Lã Vọng ngồi

câu cá bên sông Vị Thủy đã gặp Văn Vương – một người xứng đáng để ông ta

phò tá. Vì thế nhà thơ Bạch Cư Dị đời Đường đã có câu thơ:

Câu người, không câu cá

Bảy mươi, gặp Văn Vương

Đời nhà Hán, Nghiêm Tử Lăng cũng lấy việc đi câu cá để từ chối việc đi

làm quan với nhà Hán. Rồi Khương Tử Nha câu cá bằng lưỡi câu thẳng. Vậy là

trong thơ văn có truyền thống lấy việc câu cá để từ chối việc làm quan và coi việc

câu cá là “câu người” để chờ thời. Vì vậy đằng sau tư thế “tựa gối buông cần” là

cả tấm lòng của tác giả, là tâm trạng không yên trước thực tại đất nước. Thời thế

thay đổi quá nhanh, non sông mất vào tay giặc mà mình thì không thể làm gì để

giúp đời, giúp nước. Sống làm một ẩn sĩ giữa thời buổi đất nước đang bị thực dân

Pháp xâm lược nên ông không thể ung dung đi câu như một ẩn sĩ thực thụ mà để

tránh đời để quên đi những bận lòng mà hòa vào thiên nhiên, non nước của quê

hương không vương giàu sang, phú quý. Hai câu kết đã góp phần bộc lộ đôi nét 56

về chân dung tác giả. Trong những tự tình qua các bài về thu, Nguyễn Khuyến và

Đỗ Phủ đều có những tâm sự đau buồn như nhau. Nhưng nếu Đỗ Phủ đã dùng

những hình tượng trong thiên nhiên làm bối cảnh, để miêu tả rõ ràng những uất

hận trong đời ông thì Nguyễn Khuyến dùng cảnh thu tượng trưng cho những nỗi

niềm chán nản, tủi nhục của mình một cách xa xôi.

Không chỉ với Đỗ Phủ, thơ Nguyễn Khuyến khác mà đối với thơ mùa thu

của những nhà thơ thế hệ 1930 – 1945, thơ Nguyễn Khuyến cũng khác và vẫn xúc

động lòng người hơn. Mỗi năm khi hoa cúc nở giữa những chiếc lá vàng rơi, khi

gió heo may hiu hắt dưới vầng trăng trong sáng, một số thi sĩ thế hệ 1930 – 1945

cũng cảm thấy rạo rực cần mượn thi ca để bộc lộ những nỗi hoài niệm riêng tư.

Hoặc than khóc cho kiếp duyên dang dở như bà Tương Phố trong “Giọt lệ thu”:

Trời thu ám ảnh một mình

Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em

Trăng thu bóng ngả bên thềm

Tình thu ai để duyên em bẽ bàng?

Hoặc lắng nghe hồn mình ngơ ngác, đơn côi giữa mùa thu như Lưu Trọng

Lư trong Tiếng thu. Hoặc duyên dáng mơ màng như Xuân Diệu trong bài Đây

mùa thu tới.

Tóm lại, Thu điếu là sự thể hiện một trong những nét đặc sắc của nghệ thuật

phương Đông: lấy động tả tĩnh. Để gợi cái yên ắng của cảnh vật, cái tĩnh lặng của

tâm trạng, tác giả đã đưa vào bức tranh một nét động duy nhất “cá đâu đớp động

đưới chân bèo”. Dù vẫn theo một số nguyên tắc tả cảnh của thi pháp thơ cổ điển

nhưng nhà thơ đã vượt lên những hình thức ước lệ khi nói về mùa thu như “sen

tàn, cúc nở”, “lá ngô đồng rụng”. Nguyễn Khuyến đã đưa vào thơ những hình ảnh

rất thực của cảnh vật quê hương. Vì thế cảnh thu trong thơ Nguyễn Khuyến tuy

đơn sơ nhưng vô cùng gợi cảm tạo nên những rung động sâu sắc trong lòng người

đọc. Nhìn lại các bài thơ mùa thu ngày xưa. Thu hứng của Đỗ Phủ là một trong

thi phẩm tài tử nhất đời Đường, bút pháp miêu tả kỳ diệu, chuyên dùng những

hình tượng trong thiên nhiên làm bối cảnh trợ lực để tự tình những nỗi uất hận 57

bình sinh của tác giả. Còn ngày nay vào thế kỷ XIX ở nước ta, các bài thơ Thu

vịnh, Thu ẩm nhất là bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến là những bài thơ Nôm

tuyệt tác trứ danh được người đời truyền tụng cho đến ngày nay. Tuy xây dựng

theo những quy luật gò bó, chặt chẽ của thơ Đường luật mà bao nhiêu tình ý, cảnh

trí Việt Nam đã được giao thoa một cách dung dị, uyển chuyển chưa từng thấy.

2.2.2.2. Dạy bài Thương vợ theo đặc điểm thi pháp thơ Tú Xương

Những nét nghệ thuật sáng tạo đặc sắc mang dấu ấn thi pháp thơ Tú Xương

vượt ra ngoài những quy phạm của văn học trung đại trong bài thơ Thương vợ

được thể hiện ở những bình diện sau:

+ Đề tài: người vợ. Trong thơ trung đại Việt Nam, các nhà thơ ít khi viết về cuộc

sống tình cảm đời tư của mình, càng hiếm khi viết về người vợ. Thơ văn xưa coi

trọng mục đích giáo huấn, dùng văn thơ để dạy đời, tỏ chí “văn dĩ tải đạo”, “thi

dĩ ngôn chí”, với những đề tài phổ biến như: chí làm trai, nợ công danh, chí kinh

bang tế thế hoặc những ưu tư về thời cuộc. Cũng trong xã hội xưa, vị thế của

người phụ nữ ít được coi trọng, thậm chí còn bị coi rẻ. Vì vậy, rất ít nhà thơ viết

về người vợ. Và có viết về họ chỉ khi họ đã qua đời. Chúng ta đã từng biết đến

một Khuê ai lục của Ngô Thì Sỹ khóc người vợ yêu qua đời giữa lúc đầu xanh

tuổi trẻ, một Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn Du thương tiếc người vợ đã

khuất, những câu thơ dứt ruột của Tự Đức và trước Tú Xương một chút là câu đối

khóc vợ chứa chan tình người của Nguyễn Khuyến. Các nhà thơ trung đại Việt

Nam viết về vợ mình không nhiều, mà chủ yếu lại là văn tế và câu đối khóc người

đã khuất. Chỉ có một số nhà thơ như Cao Bá Quát, Bùi Hữu Nghĩa, Phạm Văn

Nghị là có viết về vợ mình ngay lúc đang sống. Nhưng viết nhiều nhất và hay

nhất, mà lại là về một người vợ đang còn hiện hữu trên đời thì có lẽ Trần Tế

Xương là tác giả tiêu biểu hơn cả. Và nếu có làm văn tế thì cũng là văn tế sống vợ

không phải để tiếc thương mà để cười thương, ngợi ca người bạn đời của mình.

+ Bút pháp, giọng điệu: Trần Tế Xương chủ yếu là một nhà thơ trào phúng, trào

phúng chuyên nghiệp. Những bài thơ nghiêng về trữ tình như Sông Lấp, Áo bông

che bạn, Thương vợ không nhiều, nhưng bài nào cũng xuất chúng. Thương vợ lại 58

tiêu biểu cho sự hòa hợp giữa hai phẩm chất nghệ thuật nổi bật trong sáng tác của

ông: trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là chính, là cơ bản. Bà Tú là một đề

tài khá quen thuộc trong thơ Tú Xương, hình ảnh bà đã đi vào sáng tác của ông

trong các bài như: Đau mắt, Văn tế sống vợ, Tự cười mình, Hỏi mình... và Thương

vợ. Những bài thơ này cho chúng ta thấy, bên cạnh một Tú Xương trào phúng sắc

sảo, ngang ngạnh, tinh quái, khác đời là một Tú Xương khác rất mực đằm thắm,

biết tự hạ mình để làm đẹp người khác. Không phải lúc nào con người ấy cũng

chế giễu, cười người, cay độc mà nhiều lúc ông vẫn để cho lòng mình sâu lắng lại

và bật ra những bài thơ chứa chan tình cảm, giàu sự suy tư, dằn vặt.

+ Nhân vật trữ tình trong bài thơ: Thương vợ viết về bà Tú nhưng thực ra lại có

sự song hành của cả hai hình tượng: hình tượng bà Tú được thể hiện một cách nổi

bật trực tiếp và hình tượng ông Tú được khắc hoạ một cách gián tiếp nấp sau

người vợ nhưng vẫn khá rõ nét. Thực chất Tú Xương viết thơ để ca ngợi vợ và

muốn khắc hoạ hình ảnh một ông “chồng thừa” vô trách nhiệm chứ không hề có ý

đề cao mình nhưng vô hình chung vẫn hiển hiện trong bài thơ một nhân cách cao

đẹp của người chồng và từ đó là một quan niệm khác biệt về người vợ so với

truyền thống.

+ Thể thơ: là một bài thơ Nôm được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật.

Thơ Nôm Đường luật đến Tú Xương đã trải qua một thời gian phát triển khá dài,

nó liên tục được cách tân từ thời Nguyễn Trãi. Đến Tú Xương, ông chính là

người đã đem đến cho thể loại văn học đã được Việt hóa cao độ này những phá

cách mới mẻ giàu giá trị nghệ thuật. Ông không lấy nguyên mẫu một bài thơ

đường luật Trung Hoa mà ông đã sáng tạo rất lớn trong bài thơ của mình. Thơ

Đường đấy, cũng đề, thực, luận, kết, thất ngôn bát cú nhưng không một chút

khệnh khạng, chỉnh tề, mũ cao áo dài đạo mạo mà gần gũi thân thương như lời

nói hàng ngày. Mặc dù có kết cấu chặt chẽ nhưng nghệ thuật bình đối và việc

chọn lọc từ ngữ tinh giản đã giúp cho những hình ảnh được xây dựng có sức gợi

tả nổi bật. Tài năng của Tú Xương là ở chỗ đã đưa được vào trong thể thơ gò bó

này rất nhiều chi tiết chân thực và sinh động từ cuộc sống một cách rất tự nhiên. 59

Việc tận dụng một cách triệt để những thế mạnh của thể thơ đã khiến cho mỗi từ

ngữ, mỗi hình ảnh đều trở nên chói sáng mà nhịp thơ vẫn phát triển hài hòa, nhịp

nhàng. Tinh hoa của một thể thơ phát triển và dân tộc hóa đã gần một nghìn năm

được kết tinh lại trong một con người, trong một bài thơ. Thương vợ chính là dấu

nối giữa hai thế kỷ thơ Việt, nối truyền thống với hiện đại.

Tên gốc của bài thơ là Tặng bà Tú. Chồng tặng vợ thì không thể cao giọng.

Nhưng cũng không được phép quá xuề xòa, thô thiển vì tình yêu lòng quý trọng.

Cũng vì mình là một trí thức, một nhà thơ ông Tú chọn đúng giọng điệu, tìm về

cội nguồn dân tộc. Vì thế nét tiêu biểu của bài thơ Nôm đường luật này là từ ngữ

giản dị, giàu sức biểu cảm, vận dụng thành công hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân

gian. Nhưng giản dị được nâng lên tới bác học, tầm thi hào.

+ Chất liệu dân gian: chất liệu dân gian của bài thơ được thể hiện không chỉ có

giọng điệu, ngôn ngữ mà còn là hình ảnh, cảm xúc, quan niệm thẩm mĩ.

- Về ngôn ngữ: bài thơ được viết bằng chữ Nôm, thứ chữ ghi âm tiếng Việt. Mà

các từ ngữ trong bài thơ đều là những từ ngữ hết sức giản dị, dễ hiểu, gần gũi với

ngôn ngữ giao tiếp thường ngày của nhân dân. Đặc biệt ngay câu thơ mở đầu cất

lên thật tự nhiên, dường như không chút gọt giũa mà nói được bao điều về hình

ảnh và công việc làm ăn của bà Tú:

Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Câu thơ ngắn gọn đã phản ánh một cách cụ thể, chi tiết không gian, địa điểm và

công việc làm ăn của bà Tú. Tên thật của bà là Phạm Thị Mẫn, quê ở Lương

Đường, Hải Dương, nhưng sinh tại Nam Định. Bà chuyên buôn bán gạo ở bến

sông để nuôi gia đình. Hai từ “quanh năm” nói lên được nỗi vất vả, tần tảo của bà

Tú triền miên hết ngày này đến ngày khác, tháng này đến tháng khác, năm này

đến năm khác... Vòng quay của thời gian vô tận đã cuốn bà vào cuộc vật lộn mưu

sinh đầy vất vả. Cách tính thời gian như thế vừa nói được nỗi lo toan khó nhọc

của bà Tú, lại vừa là cách ông Tú tỏ lòng biết ơn công lao tần tảo sớm hôm của

vợ mình. Biện pháp tăng cấp ý được sử dụng để diễn tả sự vất vả, từ thời gian

(quanh năm), nghề nghiệp (buôn thúng bán mẹt), cho đến không gian, địa điểm 60

làm ăn: “mom sông”. Mom sông là một nơi chênh vênh, ba bề là nước, nó gợi lên

sự nguy hiểm, bất trắc, vốn không phải là nơi dành để buôn bán bình thường. Bởi

vậy hơn ai hết, Tú Xương hiểu rõ mục đích của nỗi vất vả đó nơi người vợ. Bởi

vậy, ẩn sau mỗi lời thơ nôm na bình dị là một niềm cảm thông, thương mến sâu

lắng.

Nuôi đủ năm con với một chồng

Đôi quang gánh cuộc đời trên vai bà Tú thật quá nặng. Một mình bà phải nuôi đến

sáu miệng ăn, đó là chưa kể đến chính bản thân mình. Đây là cách tính công, đề

cao công lao của vợ một cách chi li, rất mực ân tình của Tú Xương. Mẹ nuôi con

mà không có chồng giúp sức, tuy vất vả nhưng còn là chuyện thường tình, dẫu

sao cũng là thiên chức của người phụ nữ. Điều lạ là cả đến ông Tú bà cũng phải

nuôi. Quả thực đây là một sự vô lý, bất công khi gánh nặng gia đình dồn hết lên

vai bà. Tú Xương đã tách ra làm hai vế tạo thành cái gánh nặng năm con với một

chồng, để thấy rõ cái công ơn của bà với gia đình và với riêng ông. Nhưng gánh

nặng dường như nghiêng lệch, trĩu nặng hơn về một bên, phía một mình ông

chồng vô tích sự nhưng lại đa sự nhiều hơn năm đứa con thơ, khiến câu thơ cũng

như oằn hẳn về phía cuối. Cách kể công cho vợ như vậy thật là độc đáo, thật là Tú

Xương. Nhà thơ đã tự hạ mình xuống mức thấp hơn cả lũ con, đứng riêng ra một

bên, vì ông là một thứ chồng đặc biệt mà bà Tú phải nuôi riêng. Liên từ “với”

nghe thật buồn, thật hài hước, thật hổ thẹn và thảm hại. “Nuôi đủ” ông không chỉ

là đảm bảo những nhu cầu như một người bình thường mà còn là đủ thứ cao sang

tốn kém, đủ cả mọi đòi hỏi sở thích ăn chơi đàn đúm của ông. Nuôi một người ăn

chơi phong lưu “ngựa xe chẳng có lúc nào ngơi”, nổi tiếng có “nòi tình”, lại còn

suốt đời theo đòi thi cử công danh như vậy thật khác hẳn với việc nuôi con, và có

lẽ còn tốn kém hơn cả năm đứa con thơ. Theo quan niệm truyền thống thì kẻ làm

trai phải để chí ở công danh, sự nghiệp, thông qua con đường khoa cử làm quan,

còn chuyện bếp núc gia đình thì phó mặc cho người phụ nữ. Đã có biết bao thầy

đồ nghèo nhờ vợ tảo tần cơm áo mà thành danh. Xã hội ấy có biết bao “ông quan

ăn lương vợ”, biết bao ông chồng ăm bám mà vẫn lên mặt hành hạ vợ con. Thói 61

gia trưởng, sĩ diện khiến cho mấy ai dám hạ mình nói thẳng, nói thật cái hoàn

cảnh ăn bám, vô tích sự của mình. Nhưng đã có một Tú Xương đầy dũng cảm

dám vất bỏ cái nếp nghĩ cổ hủ đề cao người đàn ông, khinh rẻ người phụ nữ, dám

bêu ra trước thiên hạ những kém cỏi, sĩ diện hão đó để tôn vinh công lao người

vợ, để sống thật với những cảm xúc, suy nghĩ của chính mình. Sự khác đời, khác

với với truyền thống của nhà thơ chính là ở chỗ đó. Những người khác cho đó là

chuyện thường tình, chuyện tất yếu, còn Tú Xương nhận thức rõ ràng về sự thừa

ra, vô lý của mình. Mặc cảm “con người thừa” là mặc cảm của thế hệ Tú Xương,

đã rõ nét từ Nguyễn Khuyến (Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh chọe / Tưởng rằng

đồ thật hóa đồ chơi; Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ / Thế cũng bia xanh,

cũng bảng vàng), nhưng lại càng rõ nét hơn, hiện thực hóa hơn ở nhà thơ thành

Nam, ông đã đẩy “con người thừa” thành con người nhỏ bé thảm hại và không

ngần ngại phủ định mình, tầm thường hóa bản thân mình ở mức thấp nhất. Trước

ông chưa có một nhà thơ nào vượt qua nổi ý thức tự trọng của một nhà nho để bày

ra trước mọi người những hạn chế của mình. Nhưng đó dường như không phải

chủ đích của ông. Điều ông muốn thể hiện khi dám vất bỏ cái sĩ diện hão của kẻ

“dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” chính là xuất phát từ lòng tri ân với người vợ đã

hết lòng vì ông, biết đền bù lại bằng cái tình, bằng tấm lòng trân trọng, biết ơn nỗi

vất vả mệt nhọc của bà. Nói lên được điều đó đối với một người chồng trong một

xã hội coi thường người phụ nữ thật không phải điều dễ dàng. Tấm lòng ấy thật

đáng yêu, đáng trân trọng biết bao! Câu thơ tả thực chất chứa ý vị tự trào mà lại

cay đắng, xót xa, cười ra nước mắt.

Như vậy, hai câu mở đầu bằng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên đã đặc tả sự nhẫn

nại, đảm đang của bà Tú trước gánh nặng gia đình. Qua đó nhà thơ gián tiếp bày

tỏ sự biết ơn đối với người vợ tần tảo của mình.

- Về hình ảnh thơ: các hình ảnh lấy chất liệu từ văn học dân gian: "thân cò lặn

lội". Trong ca dao, hình ảnh con cò, thân cò thường nói về thân phận người phụ

nữ lam lũ, vất vả, chịu thương, chịu khó.

62

Con cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non...

Con cò trong ca dao là một sự lựa chọn hình tượng rất nghệ thuật. Con cò

trong cảnh đi kiếm ăn mặt ruộng, bờ sông trông đã tội nghiệp gầy lêu khêu, bước

lững thững, một thân một mình biểu tượng cho người phụ nữ lao động tần tảo,

một nắng hai sương, lếch thếch, lủi thủi. Câu thơ của Tú Xương có sự kế thừa đầy

sáng tạo. Ca dao nói theo chiều thuận “cái cò lặn lội...”, Tú Xương lại nói theo

chiều đảo “lặn lội thân cò”. Cái ý ngược xuôi, bươn trải nổi lên rõ nét trong phép

đảo ngữ ấy. Không phải là “cái cò” nữa mà là “thân cò”. Từ cụ thể mà Tú Xương

đã nâng lên tầm khái quát về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Chữ

“thân” luôn gợi cảm giác nhỏ bé tội nghiệp, bơ vơ chịu đựng. Nữ sĩ Xuân Hương

khi xưa đã từng ngậm ngùi viết:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Ở người phụ nữ xưa, “thân” luôn gắn với “phận”, chính vì vậy mà thi hào

Nguyễn Du đã bao lần phải thốt lên:

Đau đớn thay phận đàn bà.

Và nàng Kiều của ông trong những tháng ngày nhơ nhuốc đã phải tạm cúi đầu

chấp nhận số phận:

Thân lươn bao quản lấm đầu

Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.

Ca dao mới có không gian “bờ sông” trống vắng, lộng gió. Câu thơ của Tú

Xương có cả không gian và thời gian. “Quãng vắng” đêm trường, có cả màn đêm

tăm tối để cho bà Tú thành cái “thân cò” mà đi ăn đêm. Nhân gian đã từng ái ngại

biết bao cho “thân gái dặm trường” – ái ngại cho thân gái một mình trên đường

xa. Còn đây bà Tú phải lặn lội một mình trên quãng đường xa. Biết bao cái cực

nhọc đằng sau từ “lặn lội”, biết bao nhiêu sự cô đơn, lẻ loi nguy hiểm trên “quảng

đường xa”! Lúc cần không biết đâu mà nương tựa, chưa nói tới hiểm nguy bất

trắc đối với thân gái một mình. Ý thơ không dừng ở đó. Câu thơ Tú Xương vừa 63

phảng phất ca dao nhưng lại vừa rất đường thi “ý tại ngôn ngoại”. “Cái cò” trong

ca dao nỉ non, ai oán trong tiếng khóc và dòng lệ, còn bà Tú biết hi sinh nên

chẳng nhiều lời, cứ âm thầm, lặn lội, một mình mình biết, một mình mình hay.

Hình ảnh bà Tú là hình ảnh đẹp đẽ của biết bao người phụ nữ Việt Nam, bình dị,

tần tảo, hy sinh cả cuộc đời cho gia đình, cho chồng con... Chính hình ảnh đẹp đẽ,

gần gũi, ấy tạo được sự đồng cảm, xúc động sâu sắc của người đọc nhiều thế hệ.

Ta như thấy đằng sau mỗi câu chữ là ánh mắt lo âu đầy ăn năn tự vấn của người

chồng đang dõi theo bóng dáng lẻ loi, lam lũ của người vợ trên con đường gập

gềnh sương gió, giữa thời buổi của sự bon chen và tình đời bạc bẽo.

- Sử dụng linh hoạt các thành ngữ dân gian, cách nói dân gian: cha ông xưa đã

dặn “Con ơi nhớ lấy câu này, Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”. Vậy mà bà Tú

phải qua sông trên con đò như thế. Và hơn thế nữa, nhiều lần bà phải lời qua,

tiếng lại, eo sèo, giằng co, chen lấn rồi mới được xuống đò. Ông Tú đổi từ “đầy”

thành “đông”, kết hợp với mấy từ tượng hình, tượng thanh, tạo nên câu thơ có

hình, có giọng: eo sèo mặt nước, vừa quá tải, vừa hỗn độn, chòng chành rất đáng

sợ. Đi một mình phải “lặn lội khi quãng vắng”, đến chỗ nhiều người thì “eo sèo”.

Chỗ nào, lúc nào bà cũng gặp nguy hiểm, trăm ngàn cay đắng. Chỉ đảo nhẹ một

cấu trúc câu tạo sự cân đối theo thể luật đường, chỉ thay một vài chữ trong kho

tàng tiếng nói dân gian, “nhà thơ đất Vị Hoàng đã sáng tạo được một hình tượng

thẩm mỹ tuyệt vời chân thực, giản dị, tự nhiên thấm đẫm chất dân tộc, rất gần gũi,

sống mãi trong không gian và thời gian. Khi nhìn ngắm, chúng ta thấy rung rinh,

ẩn hiện biết bao hình hài, đường nét chung của vạn triệu bà mẹ, người chị Việt

Nam ngày ấy cũng như bây giờ. Những bà mẹ, người chị gian nan, vất vả hơn

nhiều những “con cò, con vạc” thủa xưa.

Nếu ở hai câu đề và hai câu thực, nhà thơ còn đứng ngoài để miêu tả, thì

đến hai câu luận Tú Xương đã nhập thân vào nhân vật để diễn tả một cách chân

tình nỗi niềm sâu kín của bà Tú. Người chồng đầy tình nghĩa này đã phân thân ở

nhiều điểm nhìn khác nhau để nhìn cho thấu, cho hết công lao thầm lặng của

người vợ: 64

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Câu thơ của Tú Xương lại phảng phất lời ăn tiếng nói của nhân gian với

những thành ngữ được sử dụng rất tự nhiên “một duyên, hai nợ”, “năm nắng,

mười mưa”. Duyên và nợ là hai khái niệm đối lập nhau . Theo cách hiểu dân gian,

duyên là điều tốt đẹp, là sự hòa hợp tự nhiên, còn nợ là gánh nặng, là trách nhiệm

mà con người ta bị vướng mắc phải. Duyên là sự may mắn, còn nợ là sự rủi ro. Ở

đây, khi lấy ông Tú, may mắn bà Tú chỉ hưởng có một mà rủi ro lại gấp đôi, tức

là sung sướng thì ít ỏi mà khổ cực thì lại nhiều. Dù vậy, bà coi đó là cái phận, cái

định mệnh mà ông trời đã áp đặt sẵn cho mình. Vì thế, bà cam chịu, chấp nhận

“âu đành phận”, “dám quản công”, không kêu ca mà âm thầm chịu đựng. Bà sẵn

sàng vượt qua “ năm nắng mười mưa” – những nỗi khó khăn chồng chất mà

không dám “ quản công”, tự nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo gia đình. Ở

đây là “năm nắng mười mưa” chứ không phải như trong thành ngữ “một nắng hai

sương”. Vậy điều gì giúp bà vượt qua “năm, mười” mưa nắng, mưa nắng của

cuộc đời, mưa nắng của cái tính ngang ngược, đành hanh mà không ít lần ông Tú

gây ra. Đó chính là cái tình, cái nghĩa vợ chồng. Điều kỳ diệu là người mẹ, người

vợ đó không hề ý thức rằng đó là sự hy sinh. Như bao người phụ nữ Việt Nam

khác, bà làm mọi việc một cách tự nhiên, âm thầm, không hề đòi hỏi, oán trách.

Dám quản công vừa là thái độ không hề ngần ngại, lại vừa chứa đựng cả cái ý

khiêm nhường, không muốn nhắc đến sự khó nhọc của mình. Có một thời, các

ông chồng nho sĩ chỉ việc nằm dài, dùi mài kinh sử chờ ngày đỗ đạt làm quan còn

bao nhiêu công việc mưu sinh trong gia đình đều phó mặc trong tay người vợ.

Không những phải lo cho chồng đủ tiền ăn học, lo cho gia đình, lo cho con cái

được đầy đủ, người vợ nhiều khi phải lo tiền cho chồng ăn chơi, đánh bài, đánh

bạc, vui thú bạn bè, nhiều khi phải chịu cực khổ, cay đắng, buôn sông bán chợ,

chân lấm tay bùn mà không bao giờ hé răng phàn nàn, vì họ cho là thiên chức của

người phụ nữ mà ở đây điển hình là bà Tú. Cách nói cam chịu số phận là cách

ông Tú cảm thương thay cho vợ chứ bà đâu có tính đếm công lao của mình. Hình 65

tượng bà Tú như càng trở nên vị tha, nhân hậu hơn qua mỗi dòng thơ. Tú Xương

cũng rất có tài dùng số từ để làm tăng giá trị của hình ảnh, câu chữ. Phép đếm:

một - hai - năm - mười là cách nói dồn góp, làm tăng cấp những cực nhọc chồng

chất trong cuộc đời lam lũ của bà Tú. Nhưng tất cả dịu lắng đi trong sự chấp

nhận, bao dung, nhẫn nhịn, vị tha của bà Tú. Đằng sau hình ảnh bà Tú lam lũ, cực

nhọc mà đảm đang, tháo vát là hình ảnh ông Tú đầy cảm thông, chia sẻ, trân trọng

người vợ. Nếu ông không hiểu, không biết ơn, trân trọng sâu sắc bà Tú thì làm

sao ông có thể viết lên những dòng thơ nặng trĩu tâm tình như vậy.

- Chất liệu dân gian còn được thể hiện qua khẩu ngữ đời thường: vẫn là cách nói

dân gian, nghĩ sao nói vậy, không còn nuột nà, ý nhị mà ông dùng tiếng chửi –

chửi mát:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không!

Tú Xương nhập thân vào bà Tú để chửi, để rủa chính thói đời bạc bẽo, trách cứ sự

vô tích sự của mình. Thói đời là những nếp cư xử , hành động xấu chung mà

người đời hay mắc phải. Thói đời mà Tú Xương muốn nói đến ở đây là tư tưởng

trọng nam khinh nữ, là thói vô tâm của các ông chồng với vợ. Thói xấu ấy cũng

đã thấm vào người ông Tú, khiến ông ăn ở bạc với vợ, sống thiếu trách nhiệm, đổ

mọi gánh nặng lên đôi vai người vợ. Như vậy, ông Tú không chỉ chửi chung thói

đời mà còn chửi chính bản thân mình. Đây là lời chửi mang đặc trưng riêng của

Tú Xương. Nhà thơ dùng lời ăn tiếng nói của dân gian “cha mẹ” – một cách chửi

có giọng điệu chanh chua, nanh nọc, gay gắt, quyết liệt, lôi cả gốc rễ tông giống

của vấn đề ra mà chửi. Đó chính là biểu hiện của cá tính sắc sảo Tú Xương. Khép

lại bài thơ là một tiếng rủa. Nhà thơ thay vợ mà rủa rằng có chồng mà chồng hờ

hững thì còn tệ hơn cả không có chồng. Có thể hiểu câu đó nghĩa là ông chồng

mà sống vô tích sự, vô trách nhiệm với gia đình thì ông ta sống cũng như chết rồi.

Nghĩ lại trong thời đại Tú Xương sống, thiếu gì những ông chồng lêu lổng, chỉ

quen hách dịch ăn bám vợ, không thỏa mãn thì dở trò gia trưởng đánh đập vợ.

Chẳng bao giờ nghĩ cho vợ, nghĩ ăn bám vợ. Người vợ đối với họ thực chất đã 66

biến thành một kiểu nô lệ đặc biệt – nô lệ mà không bị gọi là nô lệ, vẫn được gọi

là bu nó, mẹ nó, bà nó. Nhưng ông Tú thì khác, ông đã nhận thức và gạt bỏ cái “sĩ

diện hão” đó đi để mà “tự vả vào miệng mình”. Đó mới thực là cái đáng quý,

đáng trân trọng! Tú Xương đã vượt qua cái hạn chế của tầng lớp và thời đại mình

để đi thẳng, nhìn thẳng vào vấn đề. Vì vậy, lời chửi ấy không chỉ để chửi mình

mà còn để chửi đời. Ông tự chửi thói đời sĩ diện kiểu thầy đồ nghèo ăn bám vợ

của mình, thói gia trưởng chỉ biết ngồi than vãn sự đời, phó mặc tất cả cho người

phụ nữ, thực chất trở thành gánh nặng cho vợ, cho con. Rõ ràng ở đây đã thể hiện

sự thức nhận của một con người biết vượt lên khỏi cái hạn chế của tầng lớp và

thời đại mình để cảm thông với những kiếp người quanh mình. Vì vậy, lời chửi ấy

không chỉ để dành trách mình mà còn để chửi đời, chửi cả cái xã hội lố lăng, giả

dối đã sản sinh ra cái thứ chồng hờ hững... Chính cái xã hội thực dân nửa phong

kiến ấy đã đẻ ra thói đời bạc bẽo, những kẻ hợm hĩnh sống trên lưng người khác,

xã hội ấy đã đẩy một Trần Tế Xương tài hoa xuất chúng vào bước đường cùng,

khiến người vợ vốn “ung dung, tính hạnh khoan hòa”, “con gái nhà dòng” của

ông phải cực khổ, vất vả. Ý nghĩa tố cáo xã hội trở nên nổi bật ở câu kết bài thơ

và man mác trong toàn bài, nóng hổi hơi thở thời đại. Lời chửi cuối bài thơ như

càng khẳng định thêm tình cảm của ông Tú đối với bà Tú. Người chồng ấy tuy ăn

bám vợ con nhưng thực chất không hề “ăn ở bạc”, không hề “hờ hững”, mà

ngược lại dù bất lực trước hoàn cảnh nhưng vẫn luôn dõi theo, cảm thông, sẻ chia,

biết ơn vợ. Thương vợ mà cũng chính là thương hại cho chính bản thân mình. Bài

thơ kết thúc thật độc đáo và bất ngờ, vừa thấm đẫm cái bi, cái bất hạnh, lại cay

đắng, vừa thẫm đẫm cái hài hước, cái cười nuốt nước mắt vào trong. Bao nhiêu là

cung bậc tình cảm của cuộc đời hiển hiện trong những câu thơ giản dị, khiêm

nhường, tự nhiên ấy.

- Ngoài ra, chất liệu dân gian còn được thể hiện ở tâm trạng, tình cảm của nhân

vật trữ tình: từ toàn bộ bài thơ, thấy ngầm ẩn hình ảnh tác giả - một người ý thức

sâu sắc và chua chát về sự bất lực của mình, đồng thời, dành cho người vợ tần tảo

niềm yêu thương, trân trọng, cảm thông, cảm thương và sự tri ân sâu sắc. Còn bà 67

Tú, ta không thầy bà "phát ngôn" trong bài thơ, nhưng chính sự "im lặng" ấy đã

nói lên tất cả, về tình nghĩa, về sự thủy chung, về đức hy sinh thầm lặng... Tình

cảm vợ chồng tình nghĩa, thủy chung gắn bó đó cũng rất gần gũi với điệu tình

cảm, với quan niệm thẩm mĩ của dân gian.

Thương vợ là bài thơ ngắn gọn, súc tích, có ngôn ngữ giản dị, giọng thơ ân

tình, hóm hỉnh đã khắc họa chân dung bà Tú – người vợ tảo tần đảm đang, chịu

thương chịu khó, giàu đức hi sinh vì chồng con, mang vẻ đẹp truyền thống của

người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời thấy được yêu thương, trân trọng, cảm thông,

cảm thương và sự tri ân sâu sắc của Tú Xương đối với vợ mình. Bài thơ còn thể

hiện ý nghĩa tố cáo sâu sắc xã hội đương thời.

Nếu Tú Xương viết về người vợ đang khỏe mạnh, đang lặn lội giữa chợ đời

để kiếm ăn thì gần một trăm năm sau Nguyễn Duy lại viết về vợ khi bà bị ốm qua

bài Vợ ốm. Tuy điểm nhìn khác nhau nhưng suy nghĩ, tâm sự của hai nhà thơ gặp

nhau đến bất ngờ. Trong bài Thương vợ, Tú Xương khen bà Tú nhiều lắm: bà tần

tảo, bà chịu thương chịu khó. Nguyễn Duy cũng vậy, ông không chỉ thấy vợ mình

đảm đang mà còn tài ba nữa:

Nghìn tay nghìn việc không tên

Mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng

Không chỉ gặp nhau ở cách nhìn, cách nghĩ yêu thương kính phục người vợ

thương yêu của mình mà hai thi nhân còn gặp nhau ở chỗ hiểu mình, hiểu vợ.

Nguyễn Duy cũng thú nhận sự “bất tài” của mình khi vợ “ngã bệnh ngang”:

Cha con chúa chổm loanh quanh

Anh như nguyên thủ tanh bành quốc gia.

Giữ chức “nguyên thủ” của một gia đình mà để “tanh bành” thì cũng khác gì ông

Tú “có như không”.

2.2.3. Kết hợp một cách hợp lí với các phương pháp dạy học các tác phẩm văn

chương

2.2.3.1. Phương pháp đọc sáng tạo là nền tảng để học sinh tiếp cận nội dung và

nắm bắt những đặc điểm về nghệ thuật của bài thơ 68

Trong một giờ dạy học tác phẩm văn chương phương pháp đọc là một trong

những phương pháp quan trọng nhất. Mục đích của phương pháp này là phát

triển được sự cảm thụ sâu sắc và tạo được sự cảm thụ trực tiếp của trò với tác

phẩm văn học nghệ thuật [ 4; 19), giúp cho các em từ những tiếp xúc ban đầu với

văn bản nghệ thuật mà hình thành những sự thể nghiệm nghệ thuật, từ đó có cách

tiếp cận sâu sắc và toàn diện đối với tác phẩm nghệ thuật. Đối với mỗi tác phẩm

văn học, có thể nhận thức nó một cách đầy đủ hay không thì việc đọc tác phẩm là

yếu tố quyết định. Ngay bản thân khi đọc một tác phẩm nghệ thuật đã có những

tác động to lớn về các giác quan và cảm xúc. Việc chú ý nghe từng từ, từng câu

hay giọng điệu cũng đã gây lên rất nhiều cảm xúc và kích hoạt những hoạt động

trí tuệ như hình dung, tưởng tượng, đánh giá tác phẩm. Đặc biệt cách đọc diễn

cảm có một tác động to lớn đối với cả người đọc và người nghe. Khi đọc đúng

giọng điệu của tác phẩm văn học thì hiệu quả nghệ thuật sẽ rất lớn, bởi chính

giọng điệu cũng là một phương diện nghệ thuật của tác phẩm.

Khi dạy hai bài thơ này, việc đọc văn bản trên lớp là vô cùng quan trọng.

Nhiều giáo viên bỏ qua việc đọc trên lớp mà chỉ dặn dò học sinh đọc trước ở nhà.

Điều đó là hết sức sai lầm, bởi kể cả khi học sinh đã đọc và soạn bài ở nhà rồi thì

việc bỏ qua việc đọc trên lớp sẽ làm mất đi tâm thế và sự hứng thú ban đầu cực

kỳ quan trọng khi tìm hiểu tác phẩm. Hơn nữa giọng điệu của một tác phẩm văn

học chính là một yếu tố nghệ thuật cần phải được phát hiện qua quá trình đọc.

Chính vì thế trong thời lượng hạn hẹp giáo viên có gắng hướng dẫn học sinh đọc

diễn cảm ít nhất một lần trên lớp, có thể chọn một số em có giọng đọc tốt. Trước

khi gọi học sinh đọc bài thơ, giáo viên cần cho học sinh xác định giọng điệu của

bài thơ hoặc định hướng cho học sinh vì ở bài khác nhau lại có giọng điệu riêng.

Chẳng hạn với Nguyễn Khuyến trong Thu điếu cần được đọc với giọng chậm, nhẹ

nhàng, trầm tĩnh. Nhịp ngắt chủ yếu là 2/2/3 (hoặc 4/3). Chú ý nhấn giọng vào

những từ, cụm từ như: trong veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng,

quanh co, tựa gối buông cần. Với Tú Xương, giọng điệu trong Thương vợ giọng

đọc xót xa, thương cảm khi viết về thân phận và cuộc sống lam lũ, vất vả của bà 69

Tú. Hai câu luận đọc với giọng ngậm ngùi, nhấn vào các chữ âu đành phận như

một tiếng thở dài. Hai câu kết đọc với giọng mạnh hơn, bật lên ngữ điệu của tiếng

chửi, vừa mỉa mai, tự trào, vừa cay đắng, thấm thía bi kịch. Yêu cầu khi đọc trước

hết là phải đọc to rõ ràng và khó nhất phải thể hiện đúng giọng điệu. Đọc

diễn cảm là một công việc rất khó, ngoài yếu tố có năng khiếu về giọng đọc,

người đọc cũng phải có những hiểu biết nhất định về tác phẩm, đặc biệt là phải

nắm được cảm hứng chủ đạo của tác phẩm đó. Hoạt động đọc quyết định một

phần không nhỏ tới kết quả giờ dạy, chính vì thế hướng dẫn học sinh đọc thành

công một văn bản văn học cũng là một thành công của giáo viên.

2.2.3.2. Kết hợp một cách hợp lý các phương pháp xã hội học, phương pháp so

sánh văn học và ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng đồ dùng dạy học nhằm

nâng cao hiệu quả giờ dạy

Dù một giờ dạy học tác phẩm văn chương theo quan điểm, khuynh hướng

nào chúng ta không nên tuyệt đối hóa hay lạm dụng một phương pháp dạy học mà

cần có sự kết hợp một cách hợp lý, nhuần nhuyễn nhiều phương pháp khác nhau.

Với đề tài: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ

thông theo hướng tiếp cận thi pháp, ngoài việc sử dụng phương pháp hình thức là

phương pháp chủ đạo, cần phối hợp với các phương pháp xã hội học, phương

pháp so sánh văn học một cách đúng mực. Nếu chỉ sử dụng phương pháp hình

thức khi tìm hiểu một văn bản nghệ thuật mà bỏ qua phương pháp xã hội học thì

một tác phẩm văn học sẽ trở lên lạc lõng và khó hiểu đối với học sinh, bởi mỗi tác

phẩm văn học đều ra đời trong những bối cảnh lịch sử xã hội, văn hóa cụ thể,

những yếu tố đó được phản ánh thông qua lăng kính của mỗi nhà văn và đi vào

tác phẩm. Vì thế muốn nghiên cứu một tác phẩm văn chương cụ thể không thể

không tìm đến bối cảnh và nhà văn. Dạy về hai bài thơ không thể không tìm hiểu

về hai tác giả và hoàn cảnh sống của hai ông cũng như hoàn cảnh lịch sử, xã hội,

văn hóa lúc bấy giờ. Nếu không biết về hoàn cảnh sinh thời của Nguyễn Khuyến,

Tú Xương thì không thể hiểu được những tâm sự của hai nhà thơ qua hai thi

phẩm. Nguyễn Khuyến là một trong những đại diện lớn nhất và cuối cùng của 70

Văn học Trung đại Việt Nam chứng kiến bước thăng trầm bi thương vào loại bậc

nhất của lịch sử dân tộc, tận mắt trông thấy sự thất bại của triều đình nhà Nguyễn

và các phong trào yêu nước trước một kẻ thù hoàn toàn xa lạ. Sống trong một thời

đại khủng hoảng toàn diện, đặc biệt là sự khủng hoảng về hệ tư tưởng văn hoá,

những biến loạn trong lòng dân tộc, Nguyễn Khuyến hẳn nhiên mang nặng nhiều

suy tư, trăn trở, những đau đớn,day dứt nội tâm giữa một bên là sứ mệnh phò vua,

làm quan thời nhiễu nhương với một bên là ủng hộ - tham gia phong trào khởi

nghĩa hay xu nịnh chạy theo gót giặc? Để rồi, cuối cùng, ông chọn con đường

dũng thoái, cáo bệnh từ quan về quê như rất nhiều nhà nho đương thời bấy giờ.

Ông về ẩn dật tại quê hương: Yên Đổ - Bình Lục - Hà Nam. Đây là một quãng

thời gian có ý nghĩa rất quan trọng trong cả cuộc đời của ông. Bản thân ông là

một đại nho với khát vọng lớn lao là được mang tài năng của mình ra để phục vụ

triều đại, phục vụ nhân dân, đất nước. Tuy thế, hoà ước Patơnốt năm 1884 đã dập

tắt cái chí hành đạo sục sôi trong con người ông. Đây là một nỗi đau đớn vò xé

tâm can ông trong suốt quãng thời gian còn lại. Lựa chọn con đường ẩn dật và

con đường ấy đã đưa Nguyễn Khuyễn đến những sáng tạo thi ca bất hủ. Song trở

đi trở lại trong thơ ca Nguyễn Khuyến giai đoạn này là nỗi trăn trở, day dứt đến

đớn đau của một sự lựa chọn cuộc đời mãi mãi chẳng thể nào xong xuôi. Bao

nhiêu dự tính, mơ ước giờ đây chỉ còn có thể gửi gắm, kí thác vào thơ văn, vào

không gian trời nước của quê hương. Những tháng ngày dưỡng hối ấy đã cho ông

những giây phút thanh thản và sự bảo tồn một tiết tháo đáng trân trọng. Ông được

chung lòng mình vào cùng với cuộc sống thôn quê, khắc hoạ và mô tả cuộc sống

quê hương với bao điều thân quen và giản dị. Ông hướng lòng mình lên với thiên

nhiên, với vũ trụ mà nghiệm suy về bao lẽ nhân sinh, những sự thay đổi thời cuộc

đến chóng mặt mà đã có lúc ông dường như không thể chịu đựng được. Và như

vậy, ông chỉ nhàn được thể xác còn tâm hồn lớn lao kia vẫn đau đáu hướng về thế

tục trong bao khát vọng và thất vọng. Tất cả được thể hiện trong một giọng điệu

thâm trầm, kín đáo mà hết sức thâm thúy. Vì thế cũng không có gì khó hiểu khi ta

71

bắt gặp nhà thơ đi câu cá mà trong khoảng lặng giật mình hỏi “Cá đâu đớp động

dưới chân bèo.”

Với Tú Xương, cuộc đời ngắn ngủi có 37 năm của ông đã nằm gọn trong một

giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Trước lúc ông ra đời 3 năm thì 6 tỉnh Nam

Kỳ mất trọn cho Pháp. Tú Xương sinh ra và lớn lên trong bối cảnh sục sôi và bi

thương đó. Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả 8 lần. Sau 3 lần

hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ ông mới đậu tú tài không sao lên nổi

cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Sống trong một xã hội ngột ngạt, đầy

những điều xấu xa, nhũng nhiễu của tầng lớp quan lại cùng với việc ông bất mãn

về việc hỏng thi của mình. Ở đây trong xã hội phong kiến xưa, quan niệm đã là sĩ

tử thì phải đỗ đạt công danh là một điều đã in sâu vào trong máu thịt của mỗi

người đi học chữ thánh hiền. Tú Xương biết trong thời buổi này, có đỗ đạt ra làm

quan thì cũng chỉ là hữu danh vô thực nhưng ông không sao rứt ra được cái vòng

khoa cử luẩn quẩn ấy. Thế nên có lẽ ông càng cay cú, càng ngạo đời, chán nản

trước cuộc đời, càng mỉa mai và căm uất. Đập vào mắt Tú Xương là cảnh cuộc

sống lố lăng, kì quặc của buổi giao thời. Vì vậy thơ ông Tú mỉa mai, ngạo đời là

điều không lạ. Ông ngạo cuộc đời nhưng chắc rằng ông cũng đau xót lắm. Ông

đau xót, tức tối cho một xã hội ngập tràn những điều xấu xa. Ông cũng như nhà

thơ Nguyễn Khuyến, không biết làm gì để giúp cho người, cho đời. Ông là một

đấng nam nhi, là trụ cột cho gia đình, ấy vậy mà ông không giúp gì được cho vợ

con mà còn như một đứa con cao cấp của bà Tú. Vốn dĩ là một chàng trai chốn thị

thành nổi tiếng hào hoa phong lưu nay chẳng khác chi một người sống nhờ vợ. Lẽ

nào nhà thơ không thất vọng về bản thân mình, chỉ biết dùng văn chương để lớn

tiếng phê phán, để chửi mình, chửi đời qua hai câu cuối trong bài Thương vợ. Là

một thanh niên tuổi còn trẻ, sống ở nơi đô thị xô bồ và cả đời lận đận trong khoa

cử. Vì thế ta bắt gặp ở Tú Xương một giọng điệu sắc bén, lồ lộ chứ không kín

đáo, ý nhị, thâm trầm như giọng điệu trong thơ Nguyễn Khuyến. Như vậy có hiểu

được bối cảnh thời đại cũng như hoàn cảnh sống của mỗi nhà thơ thì học sinh sẽ

dễ tiếp cận với tác phẩm và hiểu nó một cách toàn diện, thấu đáo hơn. 72

Khi dạy một tác phẩm văn chương, phương pháp so sánh trong văn học có

vai trò rất quan trọng, qua so sánh có thể đánh giá tác phẩm được tìm hiểu một

cách khách quan hơn, qua đó nâng cao khả năng đánh giá, và tầm hiểu biết của

người học. Chẳng hạn khi dạy bài Thu điếu có thể so sánh với những tác phẩm

cùng viết về đề tài mùa thu trong văn học trung đại. Mùa thu là đề tài quen thuộc

của thi ca. Thơ viết về mùa thu trong văn học Trung đại Việt Nam thường miêu tả

cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ, tượng

trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của Nguyễn

Khuyến cũng mang nét thi pháp ấy. Nhưng với gần suốt đời mình, ông gắn bó

với thôn quê, hòa hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà nên cảnh vật làng quê trong

thơ ông hiện lên rất chân thực, giản dị, tinh tế. Đọc Thu điếu, ta bắt gặp một bức

tranh thu đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc Bộ, quê hương của nhà thơ. Đấy

chính là nét mới mẻ của tác phẩm so với thi pháp truyền thống của văn học Trung

đại Việt Nam. Từ đây, người đọc cảm nhận được ở Nguyễn Khuyến không chỉ là

tài quan sát tinh tế mà còn là tình yêu, sự gắn bó với quê hương, đất nước của nhà

thơ. Có thể so sánh đề tài thương vợ trong bài Thương vợ của Tú Xương với văn

học trung đại. Như đã trình bày ở trên thì thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết

về người vợ khi đang còn sống càng hiếm hoi hơn. Trần Tế Xương lại khác.

Trong sáng tác của ông, có hẳn một đề tài về bà Tú gồm cả thơ, văn tế, câu đối.

Bà từng chịu vất vả, gian truân trong cuộc đời, nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là

ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân

trọng của chồng. Cũng từ đây, người đọc cảm nhận được tình cảm thương yêu,

quý trọng của ông Tú dành cho vợ mình.

Công nghệ thông tin đem lại lợi thế rất lớn cho hoạt động dạy học nói chung

và dạy học văn nói riêng. Ngoài việc làm cho giờ học tiết kiệm được thời gian, sự

ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học còn góp phần sinh động hóa giờ học,

biến những kiến thức khô cứng trở lên sinh động, dễ hiểu hơn. Đối với dạy học

tác phẩm văn chương thì phương pháp trực quan là cực kì quan trọng, nó góp

phần nâng cao sự liên tưởng, tưởng tượng cho người học. Lấy ví dụ khi học đoạn 73

trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giờ học sẽ sâu

lắng, giàu chất văn hơn khi học sinh được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của dòng sông

Hương thơ mộng của xứ Huế được chiếu trên máy tính. Dạy truyện ngắn Vợ

chồng A Phủ của Tô Hoài mà chiếu cho các em một đoạn phim của bộ phim

chuyển thể dựa trên tác phẩm này sẽ góp phần giúp các em hiểu rõ hơn về thân

phận của người dân Tây Bắc dưới chế độ thực dân, phong kiến tay sai với những

tên chủ nô làm mưa, làm gió ở Hồng Ngài. Đặc biệt khi dạy một tác phẩm viết về

đề tài mùa thu như bài Thu điếu thì những bức tranh về mùa thu có sự tác động

mạnh mẽ đối với giác quan và xúc cảm của người đọc, ngoài tính nghệ thuật,

những bức tranh này còn thể hiện vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước đặc biệt giúp cho

giờ học trở lên sinh động và thú vị hơn rất nhiều (giáo viên có thể tự thiết kế

những bức tranh này hoặc tìm trên mạng internet). Với bài Thương vợ (Tú

Xương), giáo viên có thể sử dụng một số hình ảnh minh họa về Tú Xương, bà Tú

điều đó có tác dụng kích thích sự liên tưởng, tưởng tượng của các em, nuôi dưỡng

xúc cảm và niềm ham thích khám phá tác phẩm. Đặc biệt trong việc dạy học một

tác phẩm thơ thì còn gì tuyệt vời hơn là học sinh được nghe một bài đọc mẫu của

một nghệ sĩ chuyên nghiệp biểu diễn, điều đó sẽ tạo cho học sinh những ấn tượng

vô cùng quan trọng về tác phẩm. Đây cũng chính là một biện pháp dạy học cơ

bản có thể áp dụng với mọi môn học, và tính hiệu quả của nó đã được chứng

minh.

Để có một giờ dạy học văn thành công người giáo viên cần rất nhiều yếu tố,

nhưng yếu tố quan trọng nhất là sự tổng hợp các phương pháp dạy học một cách

khoa học và xác định đâu là phương pháp chính, đâu là phương pháp kết hợp. Đó

là quan điểm tiếp cận đồng bộ một tác phẩm văn chương trên nhiều phương diện,

một sự kết hợp hài hòa các phương pháp hình thức, lịch sử phát sinh, cấu trúc văn

bản và lịch sử chức năng và ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng đồ dùng dạy

học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn, tăng hứng thú học tập của học

sinh. Một phương pháp tiếp cận khoa học như vậy được xây dựng từ nhận thức

đúng đắn về nguồn gốc của văn học, về bản chất cấu trúc và sinh mệnh của tác 74

phẩm văn chương và đó cũng là sự vận động nhuần nhuyễn những quan điểm

khách quan và khoa học về sáng tác và tiếp nhận văn chương vào việc tìm hiểu

một tác phẩm văn chương cụ thể [10; 250].

Tiểu kết

Với đề tài: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung

học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp, chúng tôi muốn đưa ra những biện

pháp dạy học cụ thể, thiết thực,có cơ sở khoa học, đó là sự vận dụng những lí

thuyết của khoa học thi pháp và bộ môn lí luận và phương pháp giảng dạy vào

việc dạy một tác phẩm cụ thể. Ngoài mục đích để dạy học hai bài thơ này một

cách hiệu quả nhất, đồng thời luận văn cũng muốn góp phần đưa ra một hướng

dạy học tác phẩm văn chương một cách có hệ thống ,thực sự mang tính khoa học

và nghệ thuật .

75

CHƢƠNG 3

THỰC NGHIỆM DẠY BÀI “THU ĐIẾU” (NGUYỄN KHUYẾN) VÀ

“THƢƠNG VỢ” (TÚ XƢƠNG) TỪ HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP

3.1. Mục đích thực nghiệm

Việc dạy thực nghiệm bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của

Tú Xương theo hướng tiếp cận thi pháp nhằm những mục đích sau:

- Kiểm chứng, xác nhận tính đúng đắn và tính khả thi của việc dạy học hai bài thơ

này theo hướng tiếp cận thi pháp.

- Kiểm chứng, xác nhận tính đúng đắn của giả thuyết khoa học đã đề xuất: Nếu

từ hướng tiếp cận thi pháp, vận dụng vào việc dạy học hai bài thơ Thu điếu của

Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương trong chương trình Ngữ văn trung

học phổ thông sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy hoc.

- Tiếp thu ý kiến phản hồi từ phía giáo viên và học sinh trong quá trình thực

nghiệm để điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện những đề xuất đổi mới về

cách khai thác tác phẩm, cách tổ chức hoạt động dạy học cho học sinh.

- Đi đến những kết luận có căn cứ về kết quả nghiên cứu, là gợi ý để người

nghiên cứu có thể tiếp tục suy nghĩ về phương pháp dạy học các tác phẩm khác

theo hướng tiếp cận thi pháp.

3.2. Những khó khăn, thuận lợi đặt ra khi dạy Thu điếu của Nguyễn Khuyến

và Thương vợ của Tú Xƣơng theo hƣớng tiếp cận thi pháp

3.2.1. Khó khăn

Đây là hai bài thơ trong số bài thơ Nôm đường luật xuất sắc nhất trong văn

học trung đại nói chung và của hai tác giả nói riêng. Hai bài thơ được viết từ hai

bút pháp khác nhau: Nguyễn Khuyến viết theo một bút pháp nhẹ nhàng, ý nhị, kín

đáo, thâm trầm, sâu lắng còn Tú Xương lại viết bằng bút pháp tự trào thẳng thắn

đả kích sâu cay không cần dấu diếm, tế nhị. Đây là hai bút pháp nghệ thuật trái

ngược nhau của hai nhà thơ cùng thế hệ. Ít nhiều làm nổi bật được bút pháp nghệ

thuật của hai nhà thơ trong tác phẩm cụ thể là một điều không mấy dễ dàng. Hơn

nữa, hai bài thơ này được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với nhiều 76

nét nghệ thuật đặc sắc đằng sau đó là vẻ đẹp nhân cách cũng như tâm sự nhà thơ.

Vì vậy, để tiếp cận một cách toàn diện hình thức nghệ thuật của văn bản để đi đến

giá trị nội dung của bài thơ thì như đã nói ở trên người dạy và người học ít nhiều

phải nắm được đặc trưng của thi pháp văn học trung đại, thi pháp tác giả cũng

như ý thức hệ tư tưởng trong thời kỳ trung đại,… Đó là đòi hỏi mà ít học sinh

thực hiện được.

Một khó khăn nữa mà chúng ta rất hay gặp trong giảng dạy hai bài thơ này

là: chỉ trong một tiết (45 phút) phải tìm hiểu một cách kĩ càng thấu đáo giá vẻ đẹp

của một bài thơ Nôm đường luật với nhiều những yếu tố nghệ thuật quan trọng.

Nội dung mang triết lý, tư tưởng sâu xa khó hiểu. Vậy để khám phá hết cái hay,

cái đẹp của bài thơ đòi hỏi sự chuẩn bị kĩ càng của cả giáo viên và học sinh trước

khi lên lớp và trong giờ học.

Là một văn bản thường trực trong sách giáo khoa môn Văn trung học phổ

thông đã nhiều năm nay, nhưng khi dạy hai bài thơ này, nhiều giáo viên thường

kêu là khó dạy. Khó bởi vì hai bài thơ này tập trung nhiều thủ pháp nghệ thuật

vừa truyền thống lại vừa có sự phá cách đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư

chuyên môn. Ngoài sự hiểu biết về thi pháp văn học trung đại, thi pháp thể loại,

thi pháp tác giả là những cơ sở tìm hiểu bài thơ thì để đi đến giá trị nội dung tư

tưởng của tác phẩm, người giáo viên phải lựa chọn phương pháp, biết khêu gợi

hứng thú cho học sinh. Bản thân học sinh ngày nay rất chán nản khi học văn nhất

là những tác phẩm văn học trung đại. Các em, phần lớn không có sự chuẩn bị bài

ở nhà. Có một thực tế là khi giáo viên yêu cầu các em đọc và soạn bài trước ở nhà

nhưng các em soạn bài rất chống đối. Hiện nay trên thị trường vì có rất nhiều sách

tham khảo nên các em có thể mua tham khảo. Các em dựa vào sách tham khảo

vẫn có thể soạn bài mà không cần đọc tác phẩm.

3.2.2. Thuận lợi

Khi tìm hiểu bài này, chúng ta có một số thuận lợi. Thuận lợi thứ nhất là cả

Nguyễn Khuyến, cả Tú Xương đều là những nhà thơ xuất sắc trong văn học trung

đại, có rất nhiều “kênh” để tìm hiểu về hai tác giả này, thứ hai là hai bài thơ khá 77

tiêu biểu được phổ biến rộng rãi. Đó là những nền tảng thuận lợi để tiếp cận hai

bài thơ. Thứ ba là cả hai bài thơ này đều được viết dười hình thức thơ Nôm đường

luật, bên cạnh cái khó của nó thì cũng có một điều khá thuận lợi là lối diễn đạt

khá giản dị, dễ hiểu. Có thể nói mỗi khi dạy đến hai bài này, giờ học trở lên sôi

nổi hơn hẳn so với những bài khác trong văn học trung đại, sự hứng thú của học

sinh cũng như của giáo viên chính là yếu tố quan trọng để có một giờ dạy thực sự

hiệu quả. Hơn nữa nội dung của bài học có phần lại rất gần gũi với đời sống chính

vì thế học sinh thuận lợi hơn khi tiến hành tìm hiểu.

Khi dạy hai bài thơ này này, giáo viên có nhiều thuận lợi, bởi Nguyễn

Khuyến, Tú Xương cũng như những sáng tác của hai ông nói chung và hai bài thơ

nói riêng được nghiên cứu trong thời gian rất dài. Thành tựu nghiên cứu về vấn đề

này là rất phong phú và đa dạng, vì thế người giáo viên có thể tranh thủ những

thành tựu nghiên cứu đó vào hoạt động dạy học. Hơn nữa, do hai bài thơ này

được đưa vào chương trình khá lâu, vì thế kinh nghiệm giảng dạy của hai bài này

là khá nhiều, mỗi giáo viên có thể tự rút ra kinh nghiệm cho mình trong mỗi lần

dạy hoặc có thể học hỏi lẫn nhau.

Đối tượng là học sinh lớp 11, ở lứa tuổi này các em đã có những hiểu biết

nhất định về các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu về đạo đức, thuần phong mĩ

tục của dân tộc, vì thế việc tiếp cận hai bài thơ Nôm cũng không quá khó khăn.

Trên đây là một số những thuận lợi và khó khăn cơ bản khi dạy hai bài thơ

theo hướng tiếp cận thi pháp học. Để làm cho giờ dạy có kết quả tốt nhất, không

còn cách nào khác là phải dựa vào sự cố gắng của cả giáo viên và học sinh, người

giáo viên cần không ngừng học tập, tìm tòi những phương pháp dạy học mới để

thực sự có một cách dạy khoa học và giàu tính nghệ thuật.

3.3. Thiết kế giáo án thực nghiệm dạy học bài “Thu điếu” của Nguyễn

Khuyến và “Thƣơng vợ” của Tú Xƣơng.

3.3.1. Bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến

78

Tiết 6: THU ĐIẾU (Nguyễn Khuyến)

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

- Cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh thu điển hình cho mùa thu làng cảnh Việt

Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ.

- Vẻ đẹp tâm hồn thi nhân tấm lòng yêu thiên nhiên, quê hương đất nước,

tâm trạng thời thế.

-Thấy được tài năng thơ Nôm của Nguyễn Khuyến với bút pháp nghệ thuật

tả cảnh, tả tình, nghệ thuật gieo vần, sử dụng từ ngữ.

2. Về kĩ năng

- Đọc – hiểu một tác phẩm trữ tình, bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ, bồi

dưỡng năng lực cảm thụ thẩm mĩ.

- Làm quen với hướng tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp.

3. Thái độ

- Trân trọng tài năng của Nguyễn Khuyến và bồi đắp thêm tình yêu thiên

nhiên, yêu quê hương đất nước.

B. CHUẨN BỊ BÀI HỌC

1. Giáo viên

1.1. Dự kiến biện pháp tổ chức cho học sinh cảm thụ tác phẩm

- Tổ chức cho học sinh đọc diễn cảm bài thơ

- Định hướng cho học sinh phân tích, cắt nghĩa, khái quát hóa bằng các

phương pháp nêu vấn đề, phân tích, thảo luận nhóm, vấn đáp, thuyết trình.

- Tổ chức cho học sinh tự bộc lộ, tự nhận thức.

1.2. Giáo viên chuẩn bị các tư liệu, tài liệu có liên quan

1.3. Giáo viên chuẩn bị các phương tiện dạy học

- Máy tính, máy chiếu (Projector), các trang giáo án điện tử, sách giáo khoa.

2. Học sinh

- Chủ động soạn bài, thực hiện yêu cầu của giáo viên, sưu tầm tư liệu, tranh ảnh,

bảng phụ của nhóm. 79

C. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC

1. Ổn định lớp

2. Kiểm tra bài cũ

3. Bài mới

* Giới thiệu bài

* Nội dung bài mới

Hoạt động của giáo viên Hoạt động Kiến thức cần đạt

của học sinh

I.HĐ1: HƢỚNG DẪN HỌC I. TIỂU DẪN

SINH TÌM HIỂU TIỂU DẪN 1. Tác giả

+ HS đọc - Nguyễn Khuyến (1835- + Gọi học sinh đọc phần tiểu

SGK nêu các 1909) hiệu là Quế Sơn . dẫn rút ra ý chính về tiểu sử và

ý - Sinh ở Ý Yên -Nam Định sự nghiệp sáng tác.

-Tác giả nhưng lớn lên sống chủ yếu + Thuyết giảng thêm, kết hợp

- Tác phẩm : ở quê nội xã Yên Đổ- huyện với kênh hình: Tất cả những

-Nội dung Bình Lục -tỉnh Hà Nam. phẩm chất cao quý ấy, bằng con

sáng tác - Xuất thân trong một gia mắt xanh của một nhà thơ, Xuân

đình nhà nho nghèo, Nguyễn Diệu đã nhận ra qua tấm ảnh

Khuyến là người thông minh chụp bức vẽ chân dung của ông:

, học giỏi đỗ đầu cả ba kì thi “Bức ảnh cụ Nguyễn Khuyến

( Tam nguyên Yên Đỗ ) cầm chén rượu hạt mít này tôi

- Sáng tác của ông còn lại yêu quý lắm. Người cụ đẹp, đôi

khoảng trên 800 bài, chủ yếu lông mày và đôi mắt đa tình hơn

là thơ. Sáng tác cả bằng chữ trong thơ cụ […], đầu đội khăn

Hán, chữ Nôm (Thơ Nôm lượt nghiêm trang, dáng vẻ đàng

và câu đối). hoàng trịnh trọng như như các

- Thơ Nguyễn Khuyến nói nhà nho xưa, như ánh lên tài hoa

lên tình yêu quê hương, gia chứ chẳng khô khan chút nào

80

[…]. Tôi quý trọng cái chén đình, bạn bè, phản ánh cuộc

rượu hạt mít thanh cao trong sống khổ cực, thuần hậu,

những ngón tay thanh nhã này ở chất phát của nông dân,

ảnh cụ Tam nguyên Yên Đổ. châm biếm, đả kích bọn thực

Trong thời thế ấy nó là một dân xâm lược, tầng lớp

thách thức, một đắc ý, một sáng thống trị đồng thời bộc lộ

tạo”. tấm lòng ưu ái với đất nước.

+ Chốt một vài ý + Theo dõi  Nguyễn Khuyến là người

và ghi nhanh tài năng, là một nhà nho có

cốt cách thanh cao, thâm

trầm, có tấm lòng yêu nước

thương dân sâu sắc.

2. Tác phẩm (bài thơ)

+ Gọi một học sinh trình bày + Trình bày + Hoàn cảnh: được viết sau

ngắn gọn về hoàn cảnh sáng tác, ngắn gọn về khi ông cáo quan về ở ẩn.

xuất xứ bài thơ bài thơ. hoàn cảnh + Xuất xứ: Câu cá mùa thu

+ Thuyết giảng thêm việc sáng tác, nằm trong chùm thơ thu của

Nguyễn Khuyến chọn con xuất xứ bài Nguyễn Khuyến, chùm thơ

đường cáo quan về hưu khi đất thơ. được đánh giá là “nức danh

nước rơi vào tay thực dân Pháp. nhất” của thơ Nôm Nguyễn

Khuyến

+ Bài thơ viết về đề tài gì? Em + Nêu đề tài + Đề tài: mùa thu – quen

có nhận xét gì về đề tài này và nhận xét. thuộc trong văn học truyền

trong văn học truyền thống ? thống nhưng lại mang lại

+Thuyết giảng thêm về đề tài mang vẻ đẹp mới lạ.

mùa thu trong thơ ca truyền

thống và sự sáng tạo của

Nguyễn Khuyến trong đề tài

81

này.

+ Bài thơ được viết theo hình + Xác định + Thể loại: thơ Nôm Đường

thức thể thơ nào? Trình bày hiểu thể thơ và luật.

biết của em về thể thơ đó? một số đặc

+ Thuyết giảng thêm về thơ thơ điểm của thể

Nôm thất ngôn bát cú đường thơ.

luật.

+ Định hướng: Bài thơ cần được

đọc với giọng chậm, nhẹ nhàng,

trầm tĩnh. Nhịp ngắt chủ yếu là

2/2/3 (hoặc 4/3). Chú ý nhấn

giọng vào những từ, cụm từ như:

trong veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí,

khẽ đưa vèo, lơ lửng, quanh co,

tựa gối buông cần.

+ Yêu cầu một học sinh đọc thể + Đọc theo

định hướng nghiệm.

+ Giáo viên đọc diễn cảm lại của giáo viên

bài thơ

+ Mạch cảm xúc, tâm trạng của + Nêu mạch + Kết cấu

nhân vật trữ tình trong bài thơ? cảm xúc - Cảnh sắc mùa thu (6 câu

+ Chốt, ghi bảng hoặc màn hình + Nghe, ghi đầu)

vở - Tâm sự của nhà thơ (2 câu

cuối)

III. HĐ 2: HƢỚNG DẪN HS II. ĐỌC HIỂU CHI TIẾT

ĐỌC HIỂU CHI TIẾT VĂN BẢN

1. Cảnh sắc mùa thu

+ Vẻ đẹp cổ điển của mùa thu + Phân tích + Một bức tranh thu cổ điển

82

muôn đời được gợi ra qua bài vể đẹp cổ với:

thơ? điển của bức - Thi liệu quen thuộc: nước

tranh thu. thu, trời thu, lá thu, người

câu cá.

- Bút pháp của thơ cổ điển,

lấy cái động để thức dậy cái

tĩnh. Một không gian tĩnh

lặng đến mức gần như tuyệt

đối mới có thể thấy rõ cái

hơi gợn tí của sóng biếc mặt

ao và chút khẽ đưa của lá

vàng. Tĩnh đến độ cả con

người và thiên nhiên như

cùng giật mình bởi âm thanh

“Cá đâu đớp động dưới chân

bèo”.

+ Những nét thu thanh sơ, gần + Phát hiện, + Đường nét trong bức tranh

gũi, quen thuộc, gợi hồn quê dân phân tích thu cũng thật mảnh mai, tinh

dã? Không gian và những đường không gian tế: Đường bao thanh mảnh

nét, chuyển động trong bức và những của rặng trúc, đường gợn của

tranh thu? đường nét, lượn sóng ao thu. Sự chuyển

chuyển động động: sóng hơi gợn tí, lá

trong bức vàng khẽ đưa vèo, tầng mây

tranh thu. lơ lửng, cá đớp động dưới

chân bèo nhẹ nhàng , rất

+ Sự hoà phối màu sắc tinh tế + Nhận xét khẽ .

trong bức tranh đó? về sự phối + Và sự hoà phối của màu

màu trong sắc đã đạt đến sự “thú vị”.

83

bức tranh. Có màu xanh của ao, xanh

của trúc, xanh của trời, xanh

của bèo và có một màu vàng

đâm ngang của chiếc lá thu

rơi. Chỉ thoáng một chiếc

lá vàng gọi hồn thu vĩnh cửu

trong thơ thu sách vở, các

màu xanh trong Thu điếu

thật dân dã, mang đậm nét

+ Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ + Phân tích hồn quê.

của tác giả? nghệ thuật sử + Nghệ thuật sử dụng ngôn

dụng ngôn từ của tác giả:

ngữ của tác - Sử dụng dày đặc những từ

giả. thuần Việt trong sáng, dễ

hiểu, giàu sức gợi và người

đọc vẫn cảm nhận được ở

đấy sự tinh tế, tao nhã, cái

tao nhã của một con người

đa cảm và khả năng chiêm

ngưỡng vẻ đẹp của trời đất,

vũ trụ, của mùa thu: xanh

ngắt, lạnh lẽo, trong veo, bé

tẻo teo, gợn tí, vèo, lơ lửng,

vắng teo, bèo

- Các từ láy vừa tạo hình,

vừa gợi cảm; những tính từ

và các từ chỉ mức độ tạo nên

ấn tượng nhẹ nhàng, chậm

84

chạp, yên tĩnh, vắng vẻ của

cảnh thu như: lạnh lẽo, trong

veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí,

khẽ đưa vèo, lơ lửng, xanh

ngắt, vắng teo, quanh co

- Việc lựa chọn vần “eo” gợi

cảm nhận một cái gì mỗi lúc

+ Trên cơ sở học sinh phát biểu, + Khái quát một thu hẹp diện tích.

giáo viên tổng hợp, chốt lại nội lại vẻ đẹp * Tiểu kết: Cảnh thu đẹp

dung cơ bản. của bức tranh nhưng tĩnh lặng, đượm buồn,

+ Từ sự phân tích trên, em hãy thu trong 6 có hài hòa giữa màu sắc và

khái quát lại vẻ đẹp bức tranh câu đầu. âm thanh, giữa tĩnh và động

thu trong 6 câu đầu. gợi nhiều xúc cảm cho người

+ Chuyển: “Cảnh nào cảnh đọc. Làng cảnh Việt Nam

chẳng đeo sầu”, bức tranh cảnh hiện lên qua bài thơ với

thu đã hé mở cho chúng ta tình những nét tươi sáng, thanh

thu của người trong cảnh. Đó là đạm, hồn hậu; với những

tâm trạng u hoài, một tâm hồn hình ảnh giản dị mà thi vị

yên tĩnh, một cõi lòng vắng lặng, biết bao; với những âm

mênh mang, thăm thẳm, một nỗi thanh trong trẻo có tính chất

cô đơn. Gam màu lạnh của sắc vang ngân của những cặp

xanh nước, xanh sóng, xanh vần. Mỗi hình ảnh, đường

trời,… được tỏa ra từ khí thu hay nét, âm thanh đều thấm

cái lạnh trong lòng nhà thơ đang đượm tâm hồn thi nhân. Một

lan toả ra cảnh vật? nhà thơ yêu quê hương làng

Tâm trạng đó được thể hiện tập cảnh đến say đắm. Đọc thơ

trung trong 2 câu cuối. ông, người đọc như thấy

thêm yêu quê hương đất

85

nước mình hơn, thấy những

hình ảnh nông thôn Việt

Nam hiện lên trước mặt

không lẫn vào đâu được.

Điều đó tạo nên phong cách

thơ khác biệt trong làng quê

Việt Nam – thơ Nguyễn

Khuyến.

2. Tâm sự của nhà thơ

+ Hình ảnh con người trong hai câu + Phát hiện + Hình ảnh con người xuất

cuối được miêu tả trong tư thế như chi tiết miêu hiện trong tư thế “tựa gối

thế nào? Hãy phân tích. tả hình ảnh buông cần” – tư thế co lại,

con người và như thu nhỏ mình để tránh

phân tích. cái “lạnh lẽo” giữa “ao thu”.

+ Có tài liệu cho rằng trong câu: + Thảo luận “Buông”: thả lỏng để cho

“Tựa gối buông cần lâu chẳng tâm hồn thư thái hay hơn từ

được”. Ở đây “ôm” hay hơn là “ôm”. Trong những ngày từ

“buông”. Quan điểm của em? quan lui về ở ẩn, mùa thu

+ Bút pháp nghệ thuật được sử + Phát hiện câu cá, đó là thú vui của nhà

dụng trong câu cuối? bút pháp thơ để hòa mình vào thiên

+ GV mở rộng thêm cho học nghệ thuật nhiên mà quên đi những bận

sinh: Như ta đã biết, khi câu cá được sử dụng lòng với nước non cho tâm

thì con người ta cảm thấy thoải trong câu hồn thanh thản.

mái nhất. Nhưng ở đây, lòng tác cuối và phân + Âm thanh “cá đâu đớp

giả đang đầy tâm trạng, trầm tích. động dưới chân bèo” vừa là

ngâm suy lặng. Vậy là trong thơ bút pháp lấy động tả tĩnh,

văn có truyền thống lấy việc câu vừa là bút pháp lấy cảnh ngụ

cá để từ chối việc làm quan và tình để vừa gợi sự tĩnh lặng

86

coi việc câu cá là “câu người” để trong không gian và trong

chờ thời. Vì vậy đằng sau tư thế lòng người, vừa gợi sự mơ

“tựa gối buông cần” là cả tấm hồ, vừa gợi sự giật mình

lòng của tác giả, là tâm trạng thảng thốt, ngơ ngác tìm

không yên trước thực tại đất kiếm. Chi tiết cá đớp động

nước. Thời thế thay đổi quá dưới chân bèo khi “tựa gối

nhanh, non sông mất vào tay buông cần lâu chẳng được”

giặc mà mình thì không thể làm có thể tác giả đang theo đuổi

gì để giúp đời, giúp nước. Sống những ý nghĩ thầm kín, riêng

làm một ẩn sĩ giữa thời buổi đất tư nào đó nên “lâu chẳng

nước đang bị thực dân Pháp xâm được” chỉ khi tiếng cá đớp

lược nên ông không thể ung động mới kéo người câu cá

dung đi câu như một ẩn sĩ thực trở lại với việc câu cá của

thụ mà để tránh đời để quên đi mình.

những bận lòng mà hòa vào  Tiểu kết: sống làm một

thiên nhiên, non nước của quê ẩn sĩ giữa thời buổi đất nước

hương không vương giàu sang, đang bị thực dân Pháp xâm

phú quý. Hai câu kết đã góp lược nên ông không thể ung

phần bộc lộ đôi nét về chân dung dung đi câu như một ẩn sĩ

tác giả. thực thụ mà để tránh đời để

+ Vậy, từ việc phân tích trên + Khái quát quên đi những bận lòng mà

giúp em hiểu thêm về con người hòa vào thiên nhiên, non

nhà thơ như thế nào? nước của quê hương không

vương giàu sang, phú quý.

Qua đó, người đọc cảm nhận

được một tấm lòng thiết tha

gắn bó với quê hương đất

nước, một tấm lòng yêu

87

nước thầm kín mà vẫn không

kém phần sâu sắc.

III. HĐ 3: HƢỚNG DẪN HS III. TỔNG KẾT

TỔNG KẾT 1. Giá trị nghệ thuật

+ Nhận xét về sự vận động + Nhận xét * Điểm nhìn: từ gần đến cao

điểm nhìn nghệ thuật. Từ điểm xa rồi từ cao xa trở lại gần.

nhìn ấy, tác giả đã bao quát cảnh * Không gian mùa thu, cảnh

thu như thế nào? sắc mùa thu mở rộng ra

+ Khái quát vẻ đẹp cổ điển và sự + Khái quát nhiều hướng sinh động. Mùa

sáng tạo trong bài thơ? thu được miêu tả rất điển

hình .

* Bài thơ vừa mang nét đẹp

cổ điển, vừa có những nét

mới, thể hiện những sáng tạo

nghệ thuật đặc sắc của tác

giả.

+ Vẻ đẹp cổ điển: Tác giả sử

dụng thi đề, thi ảnh, thi bút

quen thuộc của thơ cổ.

- Về thi đề, viết về mùa thu

với cảnh uống ruợu, ngâm

vịnh, câu cá,... là đề tài quen

thuộc trong thơ ca trung đại

Việt Nam.

- Về thi ảnh, thơ ca trung đại

khi nói về mùa thu thường

có những hình ảnh ước lệ

như thu thiên, thu thuỷ, thu

88

diệp,.. Ở Thu điếu cũng có

những yếu tố này.

- Về thi bút, tác giả sử dụng

bút pháp nghệ thuật lấy động

tả tĩnh rất quen thuộc trong

nghệ thuật phương Đông

(câu thơ "cá đâu đớp động

dưới chân bèo")

+ Những sáng tạo nổi bật

của tác giả.

- Thơ xưa khi viết về mùa

thu thường sử dụng những

hình ảnh ước lệ như sen tàn,

cúc nở, lá ngô đồng rụng,

rừng phong lá đỏ,.. Nguyễn

Khuyến, khi viết về mùa thu

đã sáng tạo trong những

công thức, ước lệ đem đến

cho cảnh thu những nét vẽ

hiện thực hơn, hình ảnh, từ

ngữ đậm đà chất dân tộc..

- Ngôn ngữ trong sáng, giản

dị nhưng cũng rất tinh tế.

Đặc biệt vần "eo" được

Nguyễn Khuyến sử dụng rất

thần tình.

2. Giá trị nội dung

+ Xác định chủ đề tư tưởng của + Xác định + Đây là bài thơ tinh tế sắc

89

bài thơ? chủ đề tư sảo của nhà thơ về bức tranh

tưởng bài thu ở đồng bằng Bắc Bộ.

thơ. + Bài thơ giúp người đọc

hiểu và trân trọng tấm lòng

của nhà thơ đối với quê

hương đất nước.

D. CỦNG CỐ - DẶN DÒ

- Học thuộc lòng bài thơ

- Đưa câu hỏi luyện tập để học sinh về nhà làm: Điểm nhìn bài Thu điếu có

gì đặc sắc so với hai bài thơ thu khác trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến?

- Nhắc các em đọc lại bài cũ và chuẩn bị bài mới.

3.3.2. Bài “Thương vợ” của Tú Xương

Tiết 9: THƢƠNG VỢ (Tú Xương)

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

- Cảm nhận được hình ảnh bà Tú: vất vả, đảm đang, thương yêu và lặng lẽ

hi sinh vì chồng con.

- Thấy được tình cảm thương yêu, quý trọng của Tú Xương dành cho người

vợ. Qua những lời tự trào, thấy được vẻ đẹp nhân cách và tâm sự của nhà thơ.

- Nắm được những thành công về nghệ thuật của bài thơ: từ ngữ giản dị,

giàu sức biểu cảm, vận dụng hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân gian, sự kết hợp

giữa giọng điệu trữ tình và tự trào.

2. Về kĩ năng

- Đọc – hiểu một tác phẩm trữ tình, bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ, bồi

dưỡng năng lực cảm thụ thẩm mĩ.

- Làm quen với hướng tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp.

3. Thái độ 90

- Trân trọng tài năng của Tú Xương và bồi đắp thêm tình yêu, sự cảm

thông, trân trọng người phụ nữ trong xã hội.

B. CHUẨN BỊ BÀI HỌC

1. Giáo viên

1.1. Dự kiến biện pháp tổ chức cho học sinh cảm thụ tác phẩm

- Tổ chức cho học sinh đọc diễn cảm bài thơ.

- Định hướng cho học sinh phân tích, cắt nghĩa, khái quát hóa bằng các

phương pháp nêu vấn đề, phân tích, thảo luận nhóm, vấn đáp, thuyết trình.

- Tổ chức cho học sinh tự bộc lộ, tự nhận thức bằng các hoạt động liên hệ,

các bài tập trắc nghiệm và tự luận.

1.2. Giáo viên chuẩn bị các tư liệu, tài liệu có liên quan

1.3. Giáo viên chuẩn bị các phương tiện dạy học

- Máy tính, máy chiếu (Projector), các trang giáo án điện tử, sách giáo khoa.

2. Học sinh

- Chủ động tìm hiểu về tác phẩm từ các nguồn thông tin khác nhau. Sưu

tầm tranh ảnh, tư liệu về tác phẩm. Có thể trình bày những thu hoạch của nhóm.

- Đọc kỹ tác phẩm, xác định đặc điểm thể loại để lựa chọn con đường phân

tích, tìm hiểu tác phẩm. Phân tích bài thơ theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học

bài.

C. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC

1. Ổn định lớp

2. Kiểm tra bài cũ

3. Bài mới

* Giới thiệu bài

* Nội dung bài mới

91

Hoạt động của giáo viên Hoạt động của Kiến thức cần đạt

học sinh

I.HĐ1: HƢỚNG DẪN I. TIỂU DẪN

HỌC SINH TÌM HIỂU 1. Tác giả

+ Trần Tế Xương (1870 – TIỂU DẪN

+ Trình bày 1907), thường được gọi là Tú + Theo em tiểu sử của nhà

những hiểu biết Xương, quê ở làng Vị Xuyên, thơ có những nét đáng chú

cơ bản về tác Mĩ Lộc, Nam định (nay là ý nào để giúp người đọc

giả. phường Vị Hoàng, thành phố hiểu thêm về tác phẩm của

Nam Định). ông? ( khuyến khích học

+ Tú Xương sinh ra và lớn lên sinh giới thuyết những điểm

trong buổi thực dân xâm lược, mở rộng ngoài sách giáo

Hán học đã suy tàn, thân phận khoa từ việc tham khảo các

nhà nho càng thấm thía nỗi tài liệu khác )

nhục của người trí thức nô lệ. + GV nhấn mạnh thêm về

+ Cuộc đời Tú Xương gắn với bối cảnh thời đại – Yếu tố

bi kịch thi cử: Ông học giỏi, tác động rất lớn đến sự

thông minh, nhưng mang cá nghiệp sáng tác của nhà

tính của người nghệ sĩ không thơ.

làm sao khuôn nổi vào các

phép tắc luật lệ của chốn

trường ốc. “Tam khoa chưa

khỏi phạm trường quy”, ông đi

thi từ năm 17 tuổi (1886), đến

lần thứ tư (1894) mới đỗ tú

“rốt bảng” (tú tài thiên thủ - lấy

thêm). Trải bốn khoa thi nữa

cho đến năm 1906, Tú Xương

92

vẫn không sao vượt khỏi danh

+ Sáng tác văn học của Tú vị tú tài.

Xương cần chú ý những + Trình bày + Tú Xương để lại khoảng trên

điểm gì ? ngắn gọn 100 tác phẩm, chủ yếu là thơ

+ Bình chốt Nôm và một số vài văn tế, câu

+ Nghe, ghi đối, phú. Sáng tác của ông gồm

chép. hai mảng: trào phúng và trữ

tình.

+ Bài thơ viết về đề tài gì? 2. Tác phẩm (bài thơ)

Em có nhận xét gì về đề tài + Nêu đề tài và + Đề tài viết về vợ hiếm có

này trong văn học truyền nhận xét. trong văn học trung đại

thống?

- Thuyết giảng thêm về đề

tài này trong văn học trung

đại.

+ Bài thơ được viết theo

+ Nêu thể thơ hình thức thể thơ nào? + Thể thơ Nôm thất ngôn bát

và một số đặc Trình bày hiểu biết của em cú đường luật.

điểm của thể về thể thơ đó?

thơ. + Yêu cầu một học sinh đọc

+ Đọc theo thể nghiệm trên cơ sở định

định hướng của hướng cách đọc: giọng đọc

giáo viên xót xa, thươg cảm khi viết

về thân phận và cuộc sống

lam lũ, vất vả của bà Tú.

Hai câu luận đọc với giọng

ngậm ngùi, nhấn vào các

chữ âu đành phận như một

93

tiếng thở dài. Hai câu kết

đọc với giọng mạnh hơn,

bật lên ngữ điệu của tiếng

chửi, vừa mỉa mai, tự trào,

vừa cay đắng, thấm thía bi

kịch.

+ Giáo viên đọc diễn cảm

lại bài thơ

+ Hướng tìm hiểu bài thơ?

+ Trình bày + Kết cấu theo hình thức thể

hướng tìm hiểu thơ thất ngôn bát cú: đề, thực,

+ Chốt, ghi bảng hoặc màn bài thơ. luận, kết

hình + Nghe, ghi

vở II. HĐ 2: HƢỚNG DẪN

HS ĐỌC HIỂU CHI II. ĐỌC HIỂU CHI TIẾT

TIẾT VĂN BẢN

+ Câu thơ đầu Tú Xương đã 1. Hai câu đề

+ Phát hiện vận dụng thành ngữ nào để + Thành ngữ “quanh năm

thành ngữ dân nói về thời gian làm việc suốt tháng” – được vận dụng

gian được Tú của bà Tú? để chỉ thời gian làm việc liên

Xương vận tục của bà Tú- ngày này qua

dụng trong câu ngày khác, năm này qua năm

mở đầu và phân khác không được nghỉ ngơi.

tích. + “Mom sông” gợi địa điểm

+ Giải thích làm việc như thế nào? + “Mom sông” đây là một phần

đất nhô ra bờ ngoài sông, gợi

sự chênh vênh không vững

chắc nguy hiểm .

94

+ Phép đếm số kết hợp với việc

+ Phép đếm số trong câu tách “năm con với một chồng”

hai có gì đặc biệt? Hiệu quả + Phân tích thành hai vế giống như gánh

nghệ thuật của phép đếm số phép đếm số. nặng cơm áo gia đình đang đè

đó? nặng lên đôi vai bà Tú. Dù vậy,

+ Đọc lời bình của Xuân cuộc sống mưu sinh đầy khó

Diệu về câu thơ này để học khăn, vất vả bà Tú vẫn luôn

sinh thấy rõ hơn hiệu quả đảm đang để lo đủ, chu đáo

nghệ thuật của câu thơ. cho chồng con.

 Công việc buôn bán của bà

+ Bà Tú được giới thiệu Tú nơi bến sông diễn ra liên

trong câu mở đầu như thế + Khái quát tục hết ngày này qua ngày khác

nào? là một công việc cực nhọc,

nguy hiểm nhưng bà tỏ ra đảm

đang, tháo vát lo cho chồng,

cho con.

2. Hai câu thực

+ Hai câu thực, Tú Xương + Hình ảnh “thân cò” (vận

đã vận dụng hình ảnh nào + Chỉ ra hình dụng sáng tạo ca dao) vất

trong ca dao? Em hãy đọc ảnh “con cò” vả, cơ cực, bơ vơ tội nghiệp,

một vài câu ca dao có hình trong ca dao và âm thầm hi sinh gợi nỗi

ảnh đó. đọc một vài câu đau, thân phận thấp kém của

ca dao có hình con người (bà Tú)

+ Phân tích sự sáng tạo của ảnh đó. + Từ láy, đảo ngữ (lặn lội, eo

Tú Xương qua việc vận + Phân tích sèo) nhấn mạnh nỗi gian

dụng hình ảnh đó trong câu truân, vất vả .

thơ của mình? + Tác giả sử dụng nghệ thuật

+ Để khắc họa hình ảnh bà đối về từ ngữ: khi quãng vắng

95

Tú trong hai câu thực, Tú + Phát hiện các (không gian, thời gian rợn

Xương còn sử dụng những tín hiệu nghệ ngợp, eo hút, đầy lo âu) ><

tín hiệu nghệ thuật nào thuật và phân buổi đò đông (chen lấn, xô đẩy,

khác? và phân tích hiệu quả tích hiệu quả sử tranh giành, cãi cọ…) sự

sử dụng? dụng. bươn bả vật lộn với cuộc sống

+ Chốt lại nội dung cơ bản. của bà Tú .

+ Bình thêm: Trong xã hội =>Hai câu thơ nói lên thực

trọng nam khinh nữ, Tú cảnh của bà Tú đồng thời cho

Xương biết ơn, nói lên được thấy tấm lòng xót thương da

những phẩm chất cao quý diết của tác giả đối với vợ.

của người vợ - người phụ

nữ. Đó chính là biểu hiện 3. Hai câu luận

thái độ kính trọng, thương + “Duyên”, “nợ”: vất vả, gian

yêu người phụ nữ. Đây là nan trong công việc bà Tú và

cái mới, cái hiện đại của Tú niềm hạnh phúc trong cuộc

Xương. sống gia đình mà bà được

+ Chuyển ý hưởng.

+ Em hiểu thế nào về + “Nắng mưa” chỉ sự vất vả,

+ Lí giải từ “duyên” và “nợ”? nhọc nhằn

ngữ. + “Môt hai, năm mười” số

lượng phiếm chỉ, thành ngữ + Nét nghệ thuật đặc sắc

chéo, kết hợp nghệ thuật đối trong hai câu luận? + Phát hiện, nói lên sự vất vả gian truân vừa

phân tích các thể hiện được đức tính chịu

tín hiệu nghệ thương, chịu khó vì chồng, vì

thuật trong hai con của bà Tú không phàn nàn,

câu thơ. không than thân, không trách

chồng con, lặng lẽ chấp nhận

96

mọi công việc dù khó khăn, vất

vả.

 Giàu đức hi sinh.

4. Hai câu kết

+ Thói đời ăn ở bạc

- Chửi mình là kẻ ăn ở bạc, hờ

hững trước nỗi lo toan vất vả, + Có người cho rằng hai

tảo tần của vợ, là sự vô tích sự câu kết là Tú Xương tự chửi

+ Trao đổi thảo của mình mình theo em có đúng

luận. - Chửi đời: chửi thói đời đen không?

bạc, giá trị hợp lí của cuộc

sống bị đảo lộn. Người có tài

như Tú Xương không được

chấp nhận rơi vào hoàn cảnh

ăn bám vợ.

- Có chồng hờ hững cũng như

không - Có chồng mà như Bình: chính cái lận đận,

không có, không có thì còn hơn chính những giọt nước mắt

Đây chính là bi kịch, là nỗi đớn thương vợ, chửi đời đã tạo

đau của Tú Xương, nhà thơ tự nên một Tú Xương độc đáo,

nhận mình là người vô tích sự, đầy cá tính và rất đáng

là người thừa cho vợ con. ngưỡng mộ chứ không phải

 Tú Xương nhận lỗi về mình, đã là “đồ bỏ đi” như ông

ăn năn khi thấy mình không từng nhận.

giúp gì được cho gia đình.

Càng cảm thương xót xa cho

sự vất vả của vợ. Một sự xót xa

đau đớn và bất lực trước thời

97

cuộc. Nét đẹp trong tâm hồn, III. HĐ 3: HƢỚNG DẪN HS

nhân cách của Tú Xương. TỔNG KẾT.

III. TỔNG KẾT

1. Giá trị nghệ thuật

+ Đặc sắc nghệ thuật của + Thể thơ: Đường luật, kết cấu

tác phẩm? chặt chẽ, hàm súc

+ Khái quát + Ngôn ngữ: giản dị, từ ngữ

những đặc sắc nôm na rất đỗi quen thuộc

nghệ thuật của trong đời sống hàng ngày.

tác phẩm. + Vận dụng sáng tạo chất liệu

văn học dân gian.

+ Giọng điệu: thân tình, hóm

hỉnh mang những nét tự trào.

Bộc lộ tình cảm tha thiết của

nhà thơ.

 Thể hiện rõ tài thơ Nôm

đường luật của Tú Xương.

2. Giá trị nội dung

Thể hiện giá trị nhân văn

+ Xác định chủ đề tư tưởng của cao đẹp: dựng lên bức chân

bài thơ? dung người vợ vất vả, đảm

+ Xác định chủ đang, chịu thương chịu khó

đề tư tưởng bài điển hình cho người phụ nữ

thơ. Việt Nam. Nhà thơ bày tỏ lòng

thương yêu quý trọng biết ơn

vợ. Qua đó thấy được tâm sự

và nhân cách cao đẹp của nhà

thơ.

98

D. CỦNG CỐ - DẶN DÒ

- Đưa câu hỏi luyện tập để học sinh về nhà làm : Thơ Tú Xương từ cái

tâm mà phát triển thành hai nhánh: trào phúng và trữ tình. Thực ra thơ ông có

tiếng cười mà thấm đượm chất trữ tình với tâm trạng cười cợt mà buồn với nhiều

tâm sự ẩn chứa... Hãy làm sáng tỏ điều đó qua bài Thương vợ.

- Yêu cầu học sinh học thuộc lòng bài thơ

- Nhắc các em đọc lại bài cũ và chuẩn bị bài mới.

3.4. Tổ chức thực nghiệm

3.4.1. Chọn lớp thực nghiệm

Sau khi soạn xong giáo án thể nghiệm, tác giả luận văn đã tiến hành dạy

thực nghiệm ngay tại cơ quan mình đang làm việc: Trường THPT Quốc Tuấn,

An lão, Hải Phòng. Năm học 2012- 2013 , lớp thực nghiệm 11b8, 11b9 với tổng

sĩ số 100 học sinh (ban cơ bản), thời gian thực nghiệm tháng 8, tháng 9 năm

2012. Đây là thời gian mà tiến độ chương trình cũng đến bài này, chính vì thế

khi thực nghiệm sẽ có những thuận lợi khi đánh giá được hiệu quả của bài dạy

thực nghiệm với bài dạy của những giáo viên khác.

3.4.2. Dạy thực nghiệm

Đây là khâu quan trọng nhất bởi đây là sự kiểm nghiệm trung thực nhất đối

những vấn đề lí thuyết. Mọi yếu tố cần được chuẩn bị kĩ lưỡng như: giáo viên

thực nghiệm, đối tượng thực nghiệm, các phương tiện hỗ trợ dạy học.

3.5. Kết quả thực nghiệm

3.5.1. Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả với đối tượng khảo sát là giáo

viên

Sau khi dạy thực nghiệm xong hai tiết, chúng tôi đưa phiếu khảo sát để

kiểm tra kết quả giảng dạy của hai tiết học đó. Đối tượng điều tra: 10 giáo viên

dạy văn lớp trường THPT Quốc Tuấn tham gia dự giờ hai tiết học đó.

Nội dung và kết quả điều tra cụ thể như sau:

99

PHIẾU HỎI Ý KIẾN GIÁO VIÊN SAU GIỜ DẠY THỰC NGHIỆM

Họ và tên giáo viên : ................................. Môn dạy: ………………............

Thời gian: ..................................................................... Lớp dạy :..................

Bài dạy: ............................................................................................................

Người dự giờ: ..................................................................................................

Xin thầy (cô) đóng góp ý kiến cho người dạy về những vấn đề sau về các tiết

dạy “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương:

STT Nội dung điều tra Kết quả trả lời SL %

1 4 40 a. Tốt Mức độ nội dung kiến thức bài

dạy: 4 40 b. Khá

2 20 c. Trung bình

0 0 d. Yếu

2 5 50 a. Tốt Kết hợp phương pháp và sử

dụng phương tiện dạy học 3 30 b. Khá

2 20 c. Trung bình

0 0 d. Yếu

3 4 40 a. Tốt Học sinh trả lời câu hỏi:

4 40 b. Khá

2 20 c. Trung bình

d. Yếu 0 0

4 4 40 a. Tốt Mức độ tích cực học tập của học

sinh: 3 30 b. Khá

3 30 c. Trung bình

0 0 d. Yếu

5 6 60 a. Tốt Hiệu quả của việc rèn tính tích

cực, chủ động học bài, chuẩn bị 2 20 b. Khá

bài trước ở nhà của học sinh trên 2 20 c. Trung bình

cơ sở định của giáo viên: 0 0 d. Yếu

100

Xin chân thành cảm ơn thầy (cô)!

3.5.2. Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả với đối tượng khảo sát là học sinh

Đối tượng điều tra là: 02 lớp 11B8, 11B9 cùng học ban cơ bản, ở trường

THPT Quốc Tuấn, với tổng số học sinh là 100 em.

Nội dung và kết quả điều tra cụ thể như sau:

PHIẾU HỎI Ý KIẾN HỌC SINH SAU GIỜ DẠY THỰC NGHIỆM

Họ và tên giáo viên: ...................................................Môn dạy: .......................

Thời gian: .................................................................. Lớp dạy : ........................

Bài dạy: ...............................................................................................................

Họ và tên học sinh: .............................................................................................

Em hãy đóng góp ý kiến cho người dạy về những vấn đề sau khi học xong

tiết học Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương:

STT Nội dung điều tra Kết quả trả lời SL %

1 45 45 a. Hứng thú Mức độ hứng thú của em khi

học hai bài thơ này: 23 23 b. Bình thường

22 22 c. Chán

10 20 d. Rất chán

2 45 45 a. Dễ trả lời Giáo viên đưa câu hỏi ở mức độ

nào đối với các em? 14 14 b. Khó trả lời

32 32 c. Bình thường

9 9 d. Rất khó

3 38 38 a. Hứng thú Em có hứng thú tìm hiểu

những tác phẩm văn học có định 27 27 b. Bình thường

hướng của giáo viên không? 25 25 c. Chán

10 10 d. Rất chán

4 41 41 a. Dễ hiểu Cách truyền đạt của giáo viên:

29 29 b. Bình thường

101

20 20 c. Khó hiểu

10 10 d. Rất khó hiểu

38 38 5 a. Nhiều lần Trong giờ học tìm hiểu tác phẩm

văn học em tham gia phát biểu 38 38 b. Dưới ba lần

xây dựng bài: 24 24 c. Không lần nào

Xin chân thành cảm ơn em!

3.5.3. Đánh giá kết quả

Sau khi dạy thực nghiệm, kiểm tra kết quả học tập của học sinh, thăm dò ý

kiến của học sinh và giáo viên dự giờ, chúng tôi sơ bộ có những đánh giá sau :

+ Việc vận dụng hướng dạy học này đã đem lại những kết quả ban đầu khả quan

về một số phương diện sau:

- Tỉ lệ học sinh nắm vững kiến thức sau giờ học là khá cao.

- Giờ học tạo được khí thế học tập sôi nổi.

+ Kết quả thăm dò học sinh và giáo viên dự giờ cho thấy những phản hồi tích cực.

Đa số đều thấy cách dạy này mới, khác hẳn với kiểu dạy tác phẩm văn chương

hiện tại. Nếu bình thường hướng khai thác một tác phẩm văn chương là khai thác

về phần nội dung tư tưởng trước, sau đó mới tìm hiểu những nét đặc sắc nghệ

thuật. Nhưng với cách dạy này thì lại đi ngược lại, từ nghệ thuật suy ra nội dung,

hơn nữa nghệ thuật lại được xem xét một cách hệ thống, bám sát những đặc trưng

phong cách nghệ thuật của tác giả. Dạy theo cách này, một tác phẩm văn chương

mới thực sự được giải mã một cách khoa học và được đặt đúng vị trí của một tác

phẩm nghệ thuật đích thực. Hơn nữa sau mỗi giờ học ngoài việc nắm vững kiến

thức của bài học, học sinh còn nắm được một số lí thuyết của thi pháp học, từ đó

dần hình thành năng lực cảm thụ văn học cho học sinh. Vì thế đa số ý kiến đều

tán đồng.

+ Tuy nhiên còn một số ý kiến cho rằng cách dạy học theo hướng này khá khó,

nhất là với đối tượng học sinh yếu kém, hơn nữa với đối tượng học sinh, việc nắm

vững và vận dụng những kiến thức lí thuyết thi pháp học là khá khó khăn. 102

Kết quả thực nghiệm cho thấy, hướng dạy học tác phẩm văn chương theo

hướng bám sát thi pháp tác giả hoàn toàn có thể áp dụng vào thực tiễn, và có thể

trở thành một xu hướng dạy học tiến bộ và hiệu quả cao. Hi vọng với việc phát

huy những thế mạnh, hạn chế và khắc phục dần những nhược điểm, rút kinh

nghiệm sâu sắc, những lần thực nghiệm sau sẽ đạt kết quả cao hơn.

Tiểu kết

Qua hoạt động thiết kế giáo án thể nghiệm, tiến hành dạy thực nghiệm và

đánh giá kết quả thực nghiệm, chúng tôi thấy rằng hướng dạy học tác phẩm văn

chương bám sát thi pháp tác giả hoàn toàn có cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn.

Áp dụng hướng dạy học này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn văn,

hình thành ở người học năng lực giải mã các tác phẩm văn học một cách khoa học

và giàu tính nghệ thuật. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả khả quan ban đầu,

hướng dạy học này vẫn còn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc, hi vọng trong thời

gian tới, với việc điều chỉnh và hoàn thiện đề tài tính khả quan của luận văn sẽ

được nâng cao hơn.

103

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Xuất phát từ yêu cầu hiện đại hóa các môn học trong nhà trường phổ thông,

xuất phát từ yêu cầu khắc phục thực trạng dạy học kém hiệu quả của môn Ngữ

văn nói chung và dạy học tác phẩm thơ trung đại nói riêng, việc đổi mới phương

pháp dạy học là một nhu cầu cấp thiết, mang tính đột phá nhằm đưa môn học này

trở về đúng với vị trí và vai trò của nó trong hệ thống giáo dục quốc dân. Với tinh

thần đổi mới phương pháp như vậy, luận văn muốn tìm đến một hướng dạy phù

hợp, nâng cao tính khoa học và nghệ thuật của một giờ dạy tác phẩm văn chương.

Dựa trên những lí thuyết tiếp cận tác phẩm văn chương của các xu hướng dạy

học hiện đại, với đề tài: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở

trung học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp, luận văn đi sâu vào hướng dạy

học tác phẩm văn chương bám sát thi pháp tác giả, thi pháp văn học trung đại.

Đây là hướng dạy học đi sâu vào văn bản để tìm những nét đặc sắc nghệ thuật của

văn bản, dựa trên những đặc trưng thi pháp thơ trung đại, thi pháp tác giả, từ hình

thức nghệ thuật đó suy ra nội dung và tư tưởng của tác phẩm. Cách dạy này góp

phần làm thay đổi lối mòn trong cách dạy học văn truyền thống là luôn coi trọng

phần nội dung của một tác phẩm văn học, có xu hướng biến tác phẩm văn học

thành một giờ giảng đạo đức hay giờ bàn luận về những vấn đề lịch sử, văn hóa,

xã hội mà coi nhẹ hình thức nghệ thuật của tác phẩm, hoặc nếu có chú ý tìm hiểu

thì cũng chưa thành một hệ thống và không có cơ sở lý thuyết về những đặc trưng

nghệ thuật đó. Hơn nữa với hướng dạy học tác phẩm văn chương theo hướng tiếp

cận thi pháp, ngoài lợi ích là dạy học hiệu quả một tác phẩm cụ thể còn góp phần

trang bị cho học sinh những tri thức về lý thuyết, hình thành năng lực cảm thụ văn

chương, từ đó bồi dưỡng tình yêu đối với môn học này.

Để dạy học thành công bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ

của Tú Xương, luận văn đưa ra một số phương pháp dạy học cụ thể mang tính kết

hợp như: phương pháp đọc sáng tạo, phương pháp xã hội học và so sánh văn học,

kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin. Trong các phương pháp này thì phương 104

pháp dạy học theo hướng tiếp cận thi pháp đóng vai trò chủ đạo, quan trọng nhất.

Các phương pháp dạy học này đã được vận dụng vào bài thiết kế giáo án và đã

được kiểm chứng tính khả thi qua hoạt động dạy thực nghiệm. Kết quả cho thấy

nếu giáo viên chịu khó nghiên cứu sẽ làm cho giờ giảng chất lượng hơn rất nhiều,

cũng là sự đóng góp tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.

2. Khuyến nghị

2.1. Đối với Sở Giáo dục và đào tạo

- Tập huấn cho giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương

theo hướng thi pháp.

- Xây dựng rõ ràng tiêu chí hiệu quả của một giờ dạy văn bản nghệ thuật.

2.2. Đối với nhà trường

- Khuyến khích, động viên kịp thời đối với giáo viên.

- Tổ chức các cuộc hội thảo đề các giáo viên có điều kiện trao đổi kinh nghiệm

chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo hướng

thi pháp.

- Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên có thời gian nghiên cứu và áp dụng việc đổi

mới phương pháp vào việc day học.

2.3. Đối với giáo viên

- Tích cực phát huy đổi mới dạy học tác phẩm văn chương theo hướng thi pháp.

- Thường xuyên dự giờ để trao đổi chuyên môn.

- Tích cực tham gia vào các giờ dạy mẫu nhằm trao đổi kinh nghiệm.

105

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Quốc Anh cùng nhiều tác giả (2010), Hướng dẫn thực hiện chuẩn

kiến thức môn Ngữ Văn lớp 11. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

2. Lê Bảo-Hà Minh Đức-Đỗ Kim Hồi-Nguyễn Hoành Khung- Nguyễn

Xuân Lạc-Nguyễn Đăng Mạnh-Đoàn Đức Phƣơng-Vũ Anh Tuấn-Trần

Thị Băng Thanh-Lã Nhâm Thìn-Trần Khánh Thành-Văn Tâm-

Nguyễn Quốc Túy-Trần Đăng Xuyến-Hoàng Hữu Yên (1997), Giảng

văn Văn học Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo dục

3. Nguyễn Viết Chữ (2009), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương.

Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội .

4. Ngô Viết Dinh (Chọn và chủ biên) (2001), Đến với thơ Nguyễn Khuyến.

NXB Thanh niên.

5. Hà Minh Đức (chủ biên)( 2001), Lí luận văn học. NXB Giáo dục, Hà Nội.

6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên)( 2009),

Từ điển thuật ngữ Văn học. Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội.

7. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Đọc- hiểu tác phẩm văn chương trong nhà

trường. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

8. Nguyễn Văn Huyền (tuyển chọn) (1986), Tú Xương tác phẩm và giai

thoại. Nhà xuất bản Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh.

9. Phan Trọng Luận (2009), Thiết kế bài học Ngữ văn 11.Tập 1, Nhà Giáo

dục.Hà Nội

10. Phan Trọng Luận (2007), Văn học nhà trường, nhận diện, tiếp cận , đổi

mới. Nhà xuất bản Đại học sư phạm, Hà Nội.

11. Phƣơng Lựu ( chủ biên )(2009), Lí luận văn học ( Tập 3)- Tiến trình văn

học. Nhà xuất bản Đại học sư phạm.

106

12. Hồ Giang Long (2006), Thi pháp thơ Tú Xương. Nhà xuất bản Văn học,

Hà Nội.

13. Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ

XIX. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

14. Nguyễn Thị Lƣợm (2010), Luận văn thạc sỹ. Đại học sư phạm Hà Nội.

15. Trần Đình Sử (2001), Một số vấn đề Thi pháp học hiện đại ( Tài liệu

BDTX chu kì 1992-1996 cho giáo viên cấp 2 phổ thông )- Nhà xuấ bản Hà

Nội.

16. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học Trung đại Việt Nam. Nhà xuất

bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

17. Vũ Văn Sỹ (2001), Trần Tế Xương về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản

Giáo dục, Hà Nội.

18. Vũ Thanh (2001) Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản

Giáo dục, Hà Nội.

19. Tuấn Thành, Anh Vũ (2005), Thơ Trần Tế Xương, tác phẩm và những

lời bình. Nhà xuất bản Văn học.

20. Trần Khánh Thành (2012), 125 bài văn hay. Nhà xuất bản đại học quốc

gia Hà Nội

21. Trần Nho Thìn (Chủ biên), 2010, Phân tích tác phẩm Ngữ văn 11, Nhà

xuất bản Việt Nam.

107

NGUỒN TƢ LIỆU THAM KHẢO

1. http://kenhdaihoc.com/forum/archive/index.php/t-5613.html

2. http://diendankienthuc.net

3. http://tuthienbao.com

4. http://onlinenews.vn

5. http://nhungbaivanhay.edu.vn

108