BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
----------------------
LÊ BÌNH DƢƠNG
DẠY HỌC XÁC SUẤT THỐNG KÊ Ở CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TRONG QUÂN ĐỘI THEO
HƢỚNG TĂNG CƢỜNG RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
SIÊU NHẬN THỨC CHO HỌC VIÊN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
HÀ NỘI - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
----------------------
LÊ BÌNH DƢƠNG
DẠY HỌC XÁC SUẤT THỐNG KÊ Ở CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TRONG QUÂN ĐỘI THEO
HƢỚNG TĂNG CƢỜNG RÈN LUYỆN KỸ NĂNG SIÊU NHẬN THỨC CHO HỌC VIÊN
Chuyên ngành: Lí luận và Phƣơng pháp dạy học bộ môn Toán Mã số: 9.14.01.11
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. TRẦN LUẬN
2. TS. PHAN THỊ LUYẾN
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
kết quả được trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2019
Tác giả luận án
Lê Bình Dƣơng
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo TS.
Trần Luận và cô giáo TS. Phan Thị Luyến những người đã tận tình hướng dẫn, dìu
dắt tác giả trong suốt thời gian qua.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong và ngoài Viện Khoa học Giáo
dục Việt Nam đã hết lòng dạy bảo và đóng góp những ý kiến quý báu để tác giả
hoàn thành Luận án.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Viện Khoa học Giáo dục Việt
Nam, Phòng Quản lý khoa học, Đào tạo và Hợp tác quốc tế đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi nhất cho tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại Viện.
Tác giả xin trân trọng cám ơn sự tạo điều kiện, giúp đỡ từ phía Bộ Quốc
Phòng, Đoàn 871 – TCCT, Trường Đại học Chính trị và nhiều cơ quan, đơn vị trong
quá trình làm luận án.
Cuối cùng, tác giả xin chân thành cám ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình
luôn động viên, giúp đỡ tạo điều kiện để tác giả hoàn thành Luận án này.
Do điều kiện chủ quan và khách quan, bản luận án chắc chắn còn thiếu sót.
Tác giả rất mong nhận được những ý kiến phản hồi để tiếp tục hoàn thiện, nâng cao
chất lượng Luận án.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2019
Tác giả luận án
Lê Bình Dƣơng
NH NG CỤM TỪ VIẾT TẮT S DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Stt Viết tắt Viết đầy đủ
BGD&ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo 1
2 DH Dạy học
3 ĐC Đối chứng
4 ĐH Đại học
5 GV Giảng viên, Giáo viên
6 GQNV Giải quyết nhiệm vụ
7 GQVĐ Giải quyết vấn đề
8 HS Học sinh
9 HV Học viên
10 KN Kĩ năng, kỹ năng
11 NT Nhận thức
12 NXB Nhà xuất bản
13 PPDH Phương pháp dạy học
14 QĐ Quân đội
15 QS Quân sự
16 SGK Sách giáo khoa
17 SNT Siêu nhận thức
18 SQ Sĩ quan
19 SQQĐ Sĩ quan quân đội
20 SV Sinh viên
21 TH Toán học
22 TK Thống kê
23 TN Thực nghiệm
24 Tr Trang
25 XS Xác suất
26 XSTK Xác suất thống kê
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu .......................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 16
4. Khách thể nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................... 16
5. Giả thuyết khoa học ....................................................................................... 16
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 16
7. Luận điểm bảo vệ ........................................................................................... 17
8. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 17
9. Đóng góp của luận án ..................................................................................... 17
10. Cấu trúc luận án ........................................................................................... 18
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ....................................................... 19
1.1. Siêu nhận thức ............................................................................................ 19
1.1.1. Quan điểm về siêu nhận thức ................................................................ 19
1.1.2. Kỹ năng siêu nhận thức ........................................................................ 23
1.1.3. Mối quan hệ giữa nhận thức và siêu nhận thức ..................................... 39
1.1.4. Đặc điểm, chức năng, vai trò và đánh giá SNT ..................................... 46
1.2. Dạy học toán theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV ............... 53
1.2.1. Quan niệm về DH toán theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT ...... 53
1.2.2. Quá trình rèn luyện KN SNT cho HV ................................................... 62
1.2.3. Tổ chức DH theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV .......... 63
1.3. Cơ hội rèn luyện KN SNT trong DH XSTK ở các trường ĐH trong QĐ ..... 68
1.3.1. Đặc điểm cơ bản của HV trong nhà trường ĐH trong QĐ ..................... 68
1.3.2. Đặc điểm, vai trò của môn XSTK trong nhà trường QĐ ....................... 73
1.3.3. Cơ hội rèn luyện KN SNT trong DH môn XSTK .................................. 75
1.4. Thực trạng dạy học XSTK ở một số trường ĐH trong QĐ .......................... 77
1.4.1. Mục tiêu khảo sát.................................................................................. 77
1.4.2. Đối tượng và thời gian khảo sát ............................................................ 77
1.4.3. Phương pháp khảo sát ........................................................................... 77
1.4.4. Kết quả khảo sát và phân tích ............................................................... 77
1.5. Kết luận chương 1 ....................................................................................... 85
Chƣơng 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC XSTK Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC
TRONG QUÂN ĐỘI THEO HƢỚNG TĂNG CƢỜNG RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
SIÊU NHẬN THỨC CHO HỌC VIÊN ..................................................................... 86
2.1. Một số định hướng xây dựng và thực hiện các biện pháp sư phạm .............. 86
2.2. Một số biện pháp sư phạm góp phần tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV
qua dạy học XSTK ở các trường ĐH trong QĐ .................................................. 87
2.2.1. Biện pháp 1: Rèn luyện cho HV KN dự đoán, lập kế hoạch thông qua các
hoạt động tìm hiểu vấn đề, chuyển đổi ngôn ngữ, liên tưởng và huy động kiến
thức đã có để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra. .................................................. 87
2.2.2. Biện pháp 2: Đặt câu hỏi định hướng góp phần rèn luyện các KN SNT
cho HV trong dạy học môn XSTK................................................................ 101
2.2.3. Biện pháp 3: Rèn luyện KN SNT cho HV thông qua hoạt động giải quyết
nhiệm vụ học tập trong dạy học môn XSTK ................................................. 107
2.2.4. Biện pháp 4: Thiết kế và tổ chức DH một số tình huống sai lầm qua đó
rèn cho HV khả năng giám sát và đánh giá. .................................................. 119
2.2.5. Biện pháp 5: Sử dụng hình thức DH theo dự án nhằm tạo cơ hội cho HV
thực hiện các hoạt động dự đoán, lập kế hoạch, giám sát và đánh giá khi vận
dụng kiến thức XSTK vào giải quyết các nhiệm vụ thực tế. .......................... 132
2.3. Kết luận chương 2 ..................................................................................... 140
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ................................................................. 141
3.1. Mục đích, yêu cầu, nội dung thực nghiệm sư phạm ................................... 141
3.1.1. Mục đích ............................................................................................ 141
3.1.2. Yêu cầu .............................................................................................. 141
3.1.3. Nhiệm vụ thực nghiệm ....................................................................... 141
3.1.4. Nội dung thực nghiệm sư phạm .......................................................... 141
3.2. Thời gian, đối tượng, quy trình và phương pháp đánh giá thực nghiệm sư phạm. 142
3.2.1. Thời gian, đối tượng thực nghiệm sư phạm ......................................... 142
3.2.2. Quy trình tổ chức thực nghiệm sư phạm ............................................. 143
3.2.3. Phương pháp đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm .......................... 143
3.3. Tiến trình thực nghiệm sư phạm ................................................................ 146
3.3.1. Thực nghiệm sư phạm vòng 1 ............................................................. 146
3.3.2. Thực nghiệm sư phạm vòng 2 ............................................................. 150
3.4. Kết luận chương 3 ..................................................................................... 159
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 160
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
...................................................................................................................................... 161
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 162
A. TIẾNG VIỆT .............................................................................................. 162
B. TIẾNG NƯỚC NGOÀI ............................................................................... 167
PHẦN PHỤ LỤC .............................................................................................................
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Sơ đồ:
Sơ đồ 1.1. Mô hình siêu nhận thức của J.H.Flavell [85] ........................................... 6
Sơ đồ 1.2. Mô hình siêu nhận thức của Ann.Brown [85] .......................................... 8
Sơ đồ 1.3. Mô hình phân cấp quá trình siêu nhận thức của Tobias và Everson [125] .. 10
Sơ đồ 1.4. Khung nhấn mạnh tính chất năng động và vòng tròn của hoạt động giải
quyết vấn đề [94]. ................................................................................. 36
Sơ đồ 1.5. Chiến lược giải quyến vấn đề ................................................................ 37
Sơ đồ 1.6. Mô hình chức năng của siêu nhận thức của Wilson [138] .................... 47
Sơ đồ 1.7. Sự đan xen giữa NT và SNT trong quá trình DH theo hướng tăng cường
rèn luyện KN SNT ................................................................................ 57
Sơ đồ 1.8. Vai trò của người dạy và người học trong việc phát triển SNT của Teri
Rysz [122] ............................................................................................ 65
Sơ đồ 1.9. Vai trò của người học trong việc phát triển SNT ................................... 66
Bảng:
Bảng 1.1. Mô tả các kĩ năng SNT .......................................................................... 24
Bảng 1.2. Sự khác nhau giữa NT và SNT .............................................................. 39
Bảng 1.3. Những hoạt động SNT hay NT trong quá trình GQVĐ theo Artzt và
Armour- Thomas [63]............................................................................. 43
Bảng 1.4. Bảng đánh giá giám sát sự hiểu biết của Tobias và Everson [124] ......... 51
Bảng 1.5. Bảng tương quan giữa hoạt động dự đoán và thực hiện của Gama [85] .. 52
Bảng 1.6. Thang phân loại giá trị điểm của Gama [85] .......................................... 52
Bảng 1.7. Thang Phân loại giá trị điểm dựa theo thang phân loại của Gama .......... 52
Bảng 1.8. Cơ hội rèn luyện KN SNT qua nội dung XSTK ..................................... 76
Bảng 1.9. Ý kiến của GV về việc rèn luyện KN cho HV........................................ 78
Bảng 1.10. Ý kiến của GV về các KN GV thường rèn luyện cho HV .................... 78
Bảng 1.11. Ý kiến của GV về các KN có vai trò đối với nghề nghiệp của HV ....... 79
Bảng 1.12. Ý kiến của cán bộ quản lý HV về việc rèn luyện KN cho HV .............. 80
Bảng 1.13. Ý kiến của cán bộ quản lý về các KN GV thường rèn luyện cho HV ... 81
Bảng 1.14. Ý kiến của cán bộ quản lý về các KN có vai trò đối với nghề nghiệp của HV... 82
Bảng 1.15. Ý kiến của HV về việc GV rèn luyện KN cho HV ............................... 83
Bảng 1.16. Ý kiến của HV về các KN GV thường rèn luyện cho HV .................... 83
Bảng 1.17. Ý kiến của HV về các KN có vai trò đối với nghề nghiệp của HV ....... 84
Bảng 2.1. Bảng kế hoạch công việc, sơ đồ công việc .......................................... 135
Bảng 2.2. Phân công nhiệm vụ ............................................................................ 138
Bảng 3.1. Bảng phân phối tần số điểm kiểm tra chất lượng (X) của nhóm lớp TN và
ĐC vòng 1 (trước TN) .......................................................................... 146
Bảng 3.2. Bảng phân phối tần số điểm kiểm tra chất lượng (X) của nhóm lớp TN và
ĐC vòng 1 (sau TN) ............................................................................. 148
Bảng 3.3. Phân bố tần số điểm kiểm tra chất lượng (X)của lớp TN và ĐC vòng 2
(trước TN) ............................................................................................ 150
Bảng 3.4. Bảng phân phối tần số điểm (X) của lớp TN và ĐC sau TN sư phạm vòng 2 ... 152
Bảng 3.5. Bảng xếp hạng điểm kiểm tra sau khi TN 2 vòng ................................. 154
Bảng 3.6. Bảng kết quả TN 2 vòng theo tiêu chuẩn Mann - Whitney ................... 154
Bảng 3.7. Bảng phân phối tần số điểm dự đoán trung bình (X) của lớp TN và đối
ĐC thực nghiệm sư phạm vòng 2. ......................................................... 154
Bảng 3.8. Bảng phân phối tần số điểm đánh giá trung bình (X) của lớp TN và ĐC
sau thực nghiệm sư phạm vòng 2. ......................................................... 156
Bảng 3.9 Bảng phân phối tần số điểm khảo sát trung bình (X) của lớp TN và ĐC
sau TN sư phạm vòng 2. ....................................................................... 157
Bảng 3.10. Bảng kết quả khảo sát sau TN sư phạm vòng 2. ................................. 158
Biểu đồ:
Biểu đồ 3.1. Biểu đồ cột so sánh trước TN1......................................................... 146
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ cột so sánh sau TN1 ............................................................ 149
Biểu đồ 3.3. Biểu đồ cột so sánh trước TN2......................................................... 150
Biểu đồ 3.4. Biểu đồ cột so sánh sau TN2 ............................................................ 152
Biểu đồ 3.5. Biểu đồ cột so sánh kết quả dự đoán sau TN2 .................................. 155
Biểu đồ 3.6. Biểu đồ cột so sánh kết quả đánh giá sau TN2 ................................ 156
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và xu thế của thời đại
đặt ra cho giáo dục nói chung và giáo dục ĐH nói riêng những yêu cầu mới. Những
đòi hỏi mới của xã hội và thị trường lao động đối với Giáo dục ĐH là cần đào tạo
đội ngũ nhân lực có năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc, năng lực
GQVĐ và năng lực sáng tạo.
Về mục tiêu cụ thể đối với giáo dục ĐH cũng được Nghị quyết nhấn mạnh:
“Tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất
và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học; hoàn thiện mạng
lưới các cơ sở giáo dục ĐH, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với
quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào
tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu
cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc và hội nhập quốc tế”. Đồng thời tiếp tục đổi mới PPDH theo hướng hiện đại;
khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc; phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, KN của người học. Tập trung dạy cách
học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để mọi người tự học, tự cập nhật và
đổi mới tri thức, KN, phát triển năng lực [5].
Yêu cầu xây dựng QĐ nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại”, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, đặt ra yêu cầu khách quan phải nâng
cao chất lượng đào tạo đội ngũ SQ trong các học viện, nhà trường QĐ. Nghị quyết số
86/NQ - ĐUQSTƯ về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới cũng chỉ rõ là
“Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và bồi dưỡng năng lực tư duy, rèn
luyện năng lực hoạt động thực tiễn cho người học” [13].
1.2. Khi HV học ở bậc ĐH thì cần phải xử lý kiến thức theo cách khác với cách xử
lý ở bậc tiểu học và trung học. Trước đó, ở trường trung học, HV đã học cách xây
dựng kiến thức; họ hình thành các khái niệm, KN có được và học cách xử lý thông
tin. Ở trường ĐH, kiến thức phức tạp hơn ở trường trung học, vấn đề cần nghiên
cứu ít được hướng dẫn và trợ giúp, và thông tin được giới thiệu nhiều hơn. Ngoài ra,
2
các vấn đề đặt ra thường không được xác định rõ ràng và khó giải quyết hơn. Để
đáp ứng tình huống này, HV phải có khả năng xử lý đồng thời nhiều khái niệm, KN
và thông tin phức tạp hơn, kiến thức cần tổ chức tốt hơn.
Đối với HV trong các trường ĐH trong QĐ thì việc phát triển NT, phát triển tư duy
cho HV – các SQ tương lai là một mục tiêu quan trọng của quá trình đào tạo SQQĐ.
Phát triển tư duy góp phần giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu về chất lượng đội ngũ sĩ
quan ngày càng cao, khối lượng tri thức cần tiếp thu không ngừng tăng lên với thời gian
đào tạo có hạn. Để giải quyết mâu thuẫn này cần chú trọng hình thành cho HV cách học,
cách tư duy để HV có phương pháp khoa học trong lĩnh hội tri thức và điều quan trọng là
vận dụng được các tri thức đã có vào giải quyết hiệu quả các vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn. Để thành công, HV phải có khả năng lập kế hoạch cho các hoạt động học tập và
thực hiện chúng một cách có hệ thống và có trật tự, theo dõi và đánh giá việc học của
chính họ và phản ánh về nó. Tất cả các KN nói trên là các thành phần của KN SNT. Như
vậy việc phát triển NT cho HV cũng cần có sự hỗ trợ của SNT.
Thực tiễn ở nhà trường QĐ hiện nay cho thấy, trong học tập có không ít
HV còn thụ động, đối phó, thể hiện sự thiếu tích cực, chủ động, tư duy xuôi chiều,
dập khuôn theo phương án có sẵn. Hiện tượng học cầm chừng, học thuộc nhưng
không hiểu bản chất, khả năng vận dụng kiến thức yếu còn diễn ra khá phổ biến.
Nhiều HV tốt nghiệp ra trường chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của nghề nghiệp. Để
khắc phục tình trạng trên, việc nghiên cứu tìm ra cách học, các biện pháp phù hợp
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường QĐ hiện nay là
cần thiết. Do đó, việc nghiên cứu SNT để vận dụng trong DH có thể giúp GV và
HV nâng cao hiệu quả dạy và học, góp phần giúp HV tăng cường tính tự chủ, tìm
tòi, phát hiện trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, hình thành KN, áp dụng được kiến
thức và KN học được trong nhà trường vào cuộc sống.
1.3. Lý thuyết XS và TK là một chuyên ngành thuộc ngành TH, giữ vị trí quan
trọng và ngày càng được ứng dụng rộng rãi, hiệu quả trong nhiều lĩnh vực khoa học
tự nhiên, khoa học xã hội, kinh tế, QS, y học…. XSTK là môn khoa học có tính ứng
dụng cao, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề đặc biệt là những vấn đề của thực tiễn.
Chính vì vậy, đây là môn học có nhiều cơ hội tốt để rèn luyện KN SNT.
3
Hiện nay, nội dung và PPDH môn XSTK ở các Trường ĐH trong QĐ còn một
số vấn đề bất cập. Thực tiễn cho thấy, người học còn thụ động trong cách học, chưa
có định hướng học tập hợp lí và chưa thấy được ý nghĩa của môn học cho chuyên
môn, nghiệp vụ của mình. Việc nghiên cứu nội dung DH môn XSTK, PPDH sao
cho phù hợp, hiệu quả với mục tiêu đào tạo của các Trường ĐH trong QĐ nhằm
tăng cường khả năng giải quyết các nhiệm vụ học tập, các vấn đề cho hoạt động QS
là vấn đề được đặt ra có tính cấp thiết.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn tên đề tài nghiên cứu là: “Dạy học xác
suất thống kê ở các trƣờng đại học trong quân đội theo hƣớng tăng cƣờng rèn
luyện kỹ năng siêu nhận thức cho học viên”.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Tổng quan nghiên cứu về siêu nhận thức
2.1.1. Tình hình nghiên ở nước ngoài
A) Lịch sử nghiên cứu về siêu nhận thức
Hoạt động SNT được tiếp cận từ bình diện tâm lí học. Khái niệm “Siêu nhận
thức” bắt đầu được sử dụng từ những nghiên cứu của nhà tâm lí học Flavell từ năm
1976. Theo Larkin (2010), có hai giai đoạn rõ ràng trong nghiên cứu SNT: “Giai
đoạn thứ nhất từ nghiên cứu tâm lý xã hội, trong đó giải quyết bối cảnh xã hội và
văn hóa của nhận thức siêu nhận thức, dựa trên nghiên cứu của L.Vưgotsky. Giai
đoạn thứ hai, nghiên cứu tập trung vào xử lý thông tin và nhận thức đã chiếm ưu
thế kể từ những năm 1970” [78].
Lịch sử nghiên cứu trước đó cho thấy, đã có một số nghiên cứu về những khía
cạnh khác nhau của SNT.
Descartes (1596-1650) thừa nhận tầm quan trọng của việc kiểm tra quá trình
NT của chính mình để đạt được một mục đích hay mục tiêu [119].
John Locke (1632 - 1704), đã đề cập đến sự phát triển ổn định về khả năng tự
phản ánh của trẻ em trong quá trình tư duy [113].
Nhà tâm lý học Xô viết L.Vưgotsky (1896 - 1934) dù không đề cập đến khái
niệm SNT nhưng các nghiên cứu của ông đã hướng tới việc giúp HS GQVĐ, cách
xử lý khi đứng trước một tình huống mới. L.Vưgotsky đã đề xuất mô thức mà ông
4
gọi là “phát triển nhân tạo”, coi giáo dục như là sự phát triển có tính nhân tạo của
đứa trẻ “Nền giáo dục không chỉ tự hạn định ở việc gây ảnh hưởng lên tiến trình
phát triển mà nó còn tái cơ cấu lại một cách căn bản mọi chức năng hành xử của
đứa trẻ”. Sự phân tích mô thức này đã đưa L.Vưgotsky tới chỗ khám phá ra rằng,
công việc chiếm lĩnh các hệ thống tri thức tồn tại của các tác động bên ngoài (là
SGK hoặc những điểm trình bày của GV) khiến cho người học tự tiến hành các
thao tác đó, tạo điều kiện dễ dàng cho người học có ý thức và lĩnh hội các quá
trình NT của chính bản thân mình. Tiến trình tự điều chỉnh này diễn ra dễ dàng
hơn nhờ luyện tập bởi các chuyên gia. Trong những điều kiện đó, người học có thể
tiến hành các quá trình NT riêng của mình đồng thời với việc chiếm lĩnh có chủ ý
(tức là chiếm lĩnh cả việc kiểm soát) quá trình đó. Như vậy, có thể nói L.Vưgotsky
đã đặt cơ sở cho các nghiên cứu SNT sau này [65].
Tiếp tục phát triển học thuyết tâm lý học của L.Vưgotsky, Galpêrin (1902-
1988) đã đề ra và khẳng định giả thuyết của mình: "Luận điểm chủ yếu của giả
thuyết này là coi hoạt động tâm lí kết quả của việc chuyển các hành động vật chất
bên ngoài vào lĩnh vực phản ánh - vào lĩnh vực tri giác, biểu tượng và khái niệm.
Quá trình di chuyển ấy tiến hành theo một số bước. Ở mỗi bước có sự phản ánh
mới, một lần tái hiện hành động và sự cải tổ một cách có hệ thống hành động
đó"[18]. Từ phân tích hành động, Galperin đã xác lập được 5 bước của một hành
động trí tuệ từ dạng bên ngoài chuyển vào và được rút gọn ở bên trong. Trong
nghiên cứu này, ông đã phát hiện một hiện tượng hết sức quan trọng và có thể coi là
cơ sở của lý thuyết SNT: Trong suốt quá trình hành động được triển khai, thường
xuyên diễn ra sự phân cực đặc thù thành: đối tượng để suy nghĩ (tức là bản thân
hành động, vật liệu của nó) và ý nghĩ về đối tượng đó. Galperin coi chính ý nghĩ này
như hành động tinh thần của chủ thể đối với đối tượng để suy nghĩ. Theo Galpêrin:
“Một hành động được tập luyện theo một mẫu cho trước, thì phải thường xuyên so
với mẫu đó; nói cái khác, thành phần của một hành động như thế nhất thiết phải
bao gồm vừa cả quá trình thực hiện lẫn sự kiểm tra nữa”.
Từ những năm 1970, các nhà nghiên cứu về tâm lý học NT và giáo dục đã
nghiên cứu sự phát triển của SNT và vai trò của SNT trong hoạt động NT [123].
5
Flavell (1976, 1979), với tư cách là cha đẻ sáng lập của SNT, đã phân chia
SNT thành kiến thức SNT, giám sát và điều chỉnh tích cực các quá trình NT.
Flavell [81] đã đưa ra thuật ngữ “Siêu nhận thức” vào năm 1976 nhằm nói đến
vấn đề NT về NT của bản thân một người. Bên cạnh vấn đề khái niệm SNT không
được xác định rõ ràng, thuật ngữ SNT thường được sử dụng thay thế cho việc tự
điều chỉnh và tự điều chỉnh việc học, hoặc được coi là đan xen với tự điều chỉnh
[77]. Theo Dinsmore, tự điều chỉnh và tự điều chỉnh việc học là những khái niệm
bắt nguồn từ nghiên cứu NT xã hội và chịu ảnh hưởng của hành vi thần kinh, trong
khi SNT có nguồn gốc từ nghiên cứu phát triển NT. Một sự khác biệt giữa tự điều
chỉnh và SNT liên quan đến việc kích thích sự tự NT trong một người học. Trong tự
điều chỉnh, môi trường kích thích NT, nhưng trong SNT, tâm trí của cá nhân được
coi là yếu tố khởi xướng sự tự NT. Việc áp dụng tự điều chỉnh vào việc học ở
trường học đã dẫn đến lý thuyết tự điều chỉnh việc học. Theo lý thuyết tự điều chỉnh
việc học, sự tương tác giữa NT, SNT và động lực là rất quan trọng đối với hiệu quả
học tập [134]. Tuy nhiên, Dinsmore và cộng sự cho rằng SNT, tự điều chỉnh và tự
điều chỉnh việc học không nên được coi là các cấu trúc đồng nghĩa, mặc dù chúng
có một liên kết khái niệm chung.
Nghiên cứu về sự phát triển của SNT đã tập trung vào hai vấn đề:
1) SNT đến từ đâu? 2) Khi nào nó xuất hiện lần đầu tiên và nó phát triển từ đó như thế nào?
Để trả lời cho vấn đề thứ nhất, một số bằng chứng đã được tìm thấy rằng lý
thuyết về tâm trí có thể được coi là tiền thân của kiến thức SNT, trong khi kiến thức
SNT có thể được coi là tiền thân cần thiết của KN SNT của một người [123].
Để trả lời cho vấn đề thứ hai, trong một nghiên cứu dài hạn của trẻ từ 2 đến 20
tuổi, Schneider và Pressley (1997) tìm thấy bằng chứng cho thấy sự phát triển chiến
lược bộ nhớ bắt đầu trước khi học tiểu học và tiếp tục đến tuổi trưởng thành [110]. Từ
nghiên cứu này và các nghiên cứu tiếp theo, người ta đã đi đến kết luận hoạt động SNT
của trẻ đã xuất hiện từ giai đoạn mẫu giáo và sẽ phát triển đến tuổi trưởng thành.
Nghiên cứu trong luận án này được thực hiện từ góc độ phát triển NT và đặc
biệt sẽ tập trung vào SNT, KN SNT.
6
Câu hỏi cơ bản được đặt ra là: SNT hoặc KN SNT có thể dạy được và phát
triển được hay không?
Các nghiên cứu của nhiều tác giả (Bandura, 1986; Bransford và cộng sự,
1986; Borkowski và cộng sự, 1987; Garner, 1990; Schunk, 1990; Kuhn và cộng sự,
1997; Cromley, 2000; Daley, 2002; Hofer & Yu, 2003; Sperling và cộng sự, 2004;
Israel, 2007) đã khẳng định là có thể. Tuy nhiên, họ cho rằng việc cài đặt KN SNT
vào người học cần phải thận trọng và SNT phát triển chậm và khó dạy [129].
Nhiều nghiên cứu về các KN SNT liên quan đến một lĩnh vực hoặc nhiệm vụ
cụ thể. Các nhiệm vụ được sử dụng thường xuyên nhất là các nhiệm vụ GQVĐ và
các nhiệm vụ nghiên cứu văn bản hoặc hiểu văn bản. Nghiên cứu trong luận án này
tập trung về các KN SNT liên quan đến giải quyết nhiệm vụ học tập, GQVĐ.
B) Một số mô hình SNT
Các nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khác nhau đã đưa ra những mô hình SNT
khác nhau.
a) Mô hình của J.H Flavell
Flavell [82] đã đưa ra các thành phần của SNT và nêu lên những đặc trưng
của chúng, bao gồm: Kiến thức SNT, những kinh nghiệm SNT, những mục tiêu và
nhiệm vụ, những hoạt động và các chiến lược:
Sơ đồ 1.1. Mô hình siêu nhận thức của J.H.Flavell [88]
7
Kiến thức SNT là hiểu biết của một người về các quá trình NT, ý thức của bản
thân về khả năng NT của mình hay của người khác (Ví dụ: Tôi giỏi Vật lý nhưng
bạn A giỏi Hóa học hơn tôi). Flavell chỉ ra rằng kiến thức SNT chủ yếu gồm những
yếu tố và sự tương tác trong các cách thức tác động đến phương hướng và kết quả
của quá trình NT. Ông chia kiến thức SNT thành ba loại:
- Kiến thức cá nhân, liên quan đến kiến thức và niềm tin của một người về sự
khác biệt giữa các cá nhân hay trong chính cá nhân đó. Kiến thức cá nhân có thể
được phân loại thành niềm tin về sự khác biệt trong chính cá nhân (Ví dụ, một
người nhận thấy mình học tốt môn Toán hơn là môn Ngữ Văn), niềm tin về sự khác
biệt giữa các cá nhân (Ví dụ, một trong những người bạn của tôi nhạy cảm về mặt
xã hội hơn so với những người khác) và niềm tin về phổ biến của NT (ví dụ, có
nhiều mức độ và loại hiểu biết khác nhau).
- Kiến thức nhiệm vụ bao gồm hai loại: kiến thức SNT về nhu cầu và mục tiêu
của nhiệm vụ NT và kiến thức về thông tin có sẵn trong quá trình gặp phải một vấn
đề cụ thể. Thông tin này có thể không chính xác hoặc không đầy đủ và Flavell cho
rằng khả năng nhận ra thông tin đó không đầy đủ là điều rất quan trọng.
- Kiến thức chiến lược bao gồm các hành động hoặc chiến lược cụ thể hiệu
quả có sẵn để đạt được mục tiêu. Kiến thức chiến lược cho chúng ta sự hiểu biết về
các chiến lược và sử dụng chiến lược nào là hiệu quả để hướng tới mục tiêu.
Kiến thức SNT giúp người học có cái nhìn khái quát, toàn diện về quá trình
học tập, về những điểm mạnh và điểm yếu của bản thân; những phương pháp khắc
phục hay những điều kiện hỗ trợ cho việc học. Do đó, kiến thức SNT có vai trò
quan trọng trong quá trình GQNV. Nó có thể giúp người học lựa chọn, đánh giá,
nhìn nhận lại hoặc huỷ bỏ các nhiệm vụ, mục tiêu và chiến lược NT; hạn chế những
khó khăn hay những bước đi sai lầm khi GQVĐ.
Kinh nghiệm SNT là những kinh nghiệm của quá trình NT hay những yếu tố
ảnh hưởng đi kèm với quá trình NT. Đó là những kinh nghiệm thành công hay thất
bại khi giải quyết một nhiệm vụ và người học ý thức được về nó trước, trong hoặc
sau khi thực hiện một nhiệm vụ mới. Theo Flavell, kinh nghiệm SNT thường xuất
8
hiện trong các tình huống quan trọng đòi hỏi người học phải ý thức nghiêm túc, suy
ngẫm để đưa ra quyết định.
Mục tiêu hay nhiệm vụ đề cập tới những mục tiêu thực tế của những nỗ lực NT.
Ví dụ: HS cần đọc và hiểu một chủ đề chuẩn bị cho bài kiểm tra sắp tới, khi đó HS cần
sử dụng những kiến thức SNT làm nền tảng để có được kinh nghiệm SNT mới.
Chiến lược NT đề cập đến việc sử dụng phương pháp, kĩ thuật riêng nhằm hỗ
trợ người học đạt được mục tiêu đặt ra.
Các thành tố trên đây có nội dung, chức năng, nhiệm vụ riêng song có mối
quan hệ hỗ trợ tác động qua lại lẫn nhau, cùng hướng tới mục tiêu chung là phát huy
kết quả DH. Khả năng của mỗi người để điều chỉnh các kết quả khác nhau của NT
phụ thuộc vào hoạt động và sự tương tác giữa các thành phần này.
b) Mô hình của Ann Brown
Brown [72] đã chia SNT thành hai bộ phận:
- Kiến thức về NT (phản ánh có ý thức về khả năng và những hoạt động NT
của bản thân)
- Sự điều chỉnh NT (Tự điều chỉnh trong quá trình giải quyết nhiệm vụ).
Sơ đồ 1.2. Mô hình siêu nhận thức của Ann.Brown [88]
9
- Kiến thức NT có đặc điểm: Ổn định; Có thể nói ra; Có thể sai lầm;Phụ thuộc
vào độ tuổi.
- Sự điều chỉnh NT có đặc điểm: Không ổn định; Không thường được nói ra;
Phụ thuộc vào nhiệm vụ và tình huống.
Kiến thức NT trả lời cho câu hỏi chúng ta biết những gì? Chúng ta tích luỹ
được những gì thông qua tương tác với môi trường và xã hội. Nó thường ổn định,
có thể nói ra, cũng có thể sai lầm và phụ thuộc vào độ tuổi. Ann Brown cũng phân
loại kiến thức SNT thành 3 thành tố: kiến thức thông báo (declatative knowledge) -
biết những gì; kiến thức tiến trình (procedural knowledge) - biết như thế nào và kiến
thức điều kiện (conditional knowledge) - biết khi nào và tại sao.
Sự điều chỉnh NT bao gồm những hoạt động được dùng để bao quát và điều
chỉnh việc học. Quá trình này bao gồm hoạt động lập kế hoạch trước khi thực hiện,
giám sát quá trình đó và kiểm tra kết quả. Sự điều chỉnh này có những đặc điểm như
không ổn định, không phụ thuộc vào độ tuổi mà phụ thuộc chủ yếu vào các nhiệm
vụ và tình huống.
Trong mô hình của Ann Brown, hai thành tố kiến thức NT và sự điều chỉnh
NT có những đặc điểm riêng nhưng có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy nhau
và thúc đẩy hoạt động NT của người học.
Mô hình này nhấn mạnh các quá trình điều hành, nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc kiểm soát quá trình nhận thức. Hơn nữa, Brown chỉ ra những đặc điểm
quan trọng của sự điều chỉnh nhận thức, cần phải được quan tâm và vận dụng vào
nghiên cứu giảng dạy.
c) Mô hình của Tobias & Everson
Tobias và Everson cũng cho rằng SNT là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các
yếu tố như: KN, kiến thức (hiểu biết về NT), giám sát quá trình NT và quá trình học
của một người cũng như điều khiển quá trình đó. Tuy nhiên, hai ông tổ chức mô
hình SNT của mình theo kiểu phân cấp, coi việc giám sát kiến thức/sự hiểu biết là
nền tảng cho các yếu tố trên [122].
10
Sơ đồ 1.3. Mô hình phân cấp quá trình siêu nhận thức
của Tobias và Everson [122]
Giám sát sự hiểu biết là khả năng biết được bản thân biết những gì và không
biết những gì. Trong nghiên cứu của mình, các ông cho rằng nếu người học không
phân biệt được chính xác những gì họ biết và không biết thì khó có thể tham gia vào
các hoạt động mang tính SNT như đánh giá việc học của chính mình, lập kế hoạch
hay điều khiển quá trình học tập đó. Ngược lại, những người nhận biết được kiến
thức của bản thân, họ biết đâu là kiến thức trọng tâm mà họ cần đạt đến. Từ đó, họ
có thể sử dụng một cách có hiệu quả thời gian, các biện pháp cho những nhiệm vụ
của mình, giúp cho việc học có hiệu quả hơn.
Theo Tobias và Everson, công việc đầu tiên của HS chính là lập kế hoạch. Hoạt
động này bao gồm xác định mục tiêu học tập, thời gian học tập, dự kiến sản phẩm
…Tiếp theo, HS cần lựa chọn chiến lược, phương pháp GQNV học tập phù hợp; Đánh
giá việc học bao gồm đánh giá quá trình và đánh giá kết quả đạt được so với mục tiêu
đặt ra; đây là việc quan trọng nhằm giúp HS có cơ sở để điều chỉnh việc học của mình.
Tobias và Everson lấy giám sát sự hiểu biết làm nền tảng cho các hoạt động
khác, có nghĩa trong quá trình học tập, người học cần chủ động theo dõi mức độ
hiểu của bản thân ở từng giai đoạn khác nhau, theo dõi hiệu quả của các phương
pháp được sử dụng để lựa chọn phương pháp tối ưu.
11
Yếu tố chi phối cả quá trình này chính là sự kiểm soát (Control). Hoạt động
kiểm soát nhằm điều phối quá trình học tập hay GQNV của chính bản thân khi đó
người học có thể đưa ra quyết định tiếp tục hay dừng lại khi hướng đi nào đó không
còn phù hợp với mục tiêu.
Ngoài các mô hình SNT trên, các nhà nghiên cứu khác cũng đưa ra các loại
mô hình khác nhau như: Beyer (1988) cho rằng SNT gồm ba thành tố (Lập kế
hoạch; giám sát và đánh giá); Marzano, R.J. (1998), chia SNT thành 3 yếu tố chủ
yếu là: NT; lập kế hoạch và đặt mục tiêu; xem xét và điều chỉnh; Wilson (1998)
chia SNT thành ba thành tố (Nhận biết, đánh giá và điều chỉnh); Anderson (2002)
chia SNT thành 5 thành tố ( Chuẩn bị và lập kế hoạch cho việc học; lựa chọn và sử
dụng những chiến lược học tập; theo dõi việc sử dụng chiến lược; phối hợp đa dạng
các chiến lược và đánh giá việc sử dụng chiến lược và việc học). Một số nhà nghiên
cứu cho rằng SNT bao gồm có kiến thức SNT, sự kiểm soát và điều chỉnh SNT; một
số nhà nghiên cứu khác lại thống nhất cho rằng SNT bao gồm kiến thức SNT,
những quy tắc của SNT và kinh nghiệm về SNT.
Từ các mô hình khác nhau đã nói ở trên, luận án tập trung vào hai thành phần
của SNT gồm kiến thức về NT và sự điều chỉnh NT (kiểm soát NT).
2.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Có thể nói rằng các nghiên cứu sâu về SNT ở Việt Nam hiện tại là chưa nhiều.
Theo tác giả Phạm Thành Nghị [40], khái niệm "Siêu nhận thức" được đề cập dưới
các thuật ngữ như "tự NT" hay "tư duy về tư duy". Trong đề tài của Hồ Thị Hương
[31] đã hệ thống lại những quan điểm về SNT, giới thiệu và phân tích các mô hình
SNT của một số tác giả kinh điển trên thế giới cũng như làm nổi bật chức năng và
tầm quan trọng của lý thuyết SNT trong DH.
Trong môn Anh văn có nghiên cứu của Trần Thị Lan Anh [3], nghiên cứu của
Nguyễn Thành Đức, Trịnh Hồng Tính [16]. Các nghiên cứu này trình bày về các
khái niệm và một số nghiên cứu về SNT cũng như ứng dụng lý thuyết này trong dạy
các nội dung khác nhau của chuyên ngành Anh văn. Từ kết quả điều tra về việc sử
dụng những chiến lược NT và SNT, các tác giả kết luận rằng việc sử dụng những
chiến lược SNT áp dụng cho việc đọc hiểu sẽ giúp HS học tập hiệu quả hơn.
12
Trong môn Toán, có nghiên cứu của Nguyễn Văn Thanh [53], đã đưa ra các
bước trong giải quyết một vấn đề, một số ví dụ cụ thể về việc ứng dụng SNT trong
DH toán tỉ lệ thức cho hs lớp 7. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hương Lan [36], giới
thiệu một số nghiên cứu trên thế giới về vai trò của SNT trong DH môn toán, so
sánh các hoạt động trong GQVĐ và các thành tố của SNT và cho rằng việc dạy
SNT trong môn toán là cần thiết. Nghiên cứu của Lê Trung Tín [57] đã xác định
chức năng của SNT và vận dụng lý thuyết SNT vào DH Toán ở trường phổ thông.
Nghiên cứu của Cao Thị Hà, Nguyễn Văn Thanh [21] tập trung vào một số nội dung
cơ bản như: SNT và những thành tố cơ bản của SNT; khả năng vận dụng lí luận về
SNT vào DH toán.
Công trình nghiên cứu đáng kể nhất của tác giả Hoàng Xuân Bính [4] đã đưa
ra khá đầy đủ hệ thống các quan điểm về SNT, rèn luyện KN SNT nhằm bồi dưỡng
năng lực phát hiện và GQVĐ cho HS trong DH hình học không gian ở trường trung
học phổ thông. Sự khác biệt giữa nghiên cứu của tác giả luận án với công trình
nghiên cứu của tác giả Hoàng Xuân Bính (bảo vệ tháng 4 năm 2019) được thể hiện
ở bảng dưới đây:
Tác giả Hoàng Xuân Bính [4] Luận án NCS Lê Bình Dƣơng
Hướng SNT SNT
nghiên cứu
Quan niệm Quan niệm về SNT theo Brown Quan niệm về SNT theo Flavell,
SNT A.L. J.H.
Kĩ năng Hiểu KN SNT theo Brown A.L. Không nói rõ KN SNT hiểu theo
SNT quan điểm nào
Rèn luyện KN SNT cho HV thông Bồi dưỡng năng lực phát hiện và
Trọng tâm qua DH XSTK GQVĐ cho HS thông qua DH
hình học không gian.
Đối tượng HV các trường ĐH trong QĐ HS trường Trung học phổ thông
Xác định rõ được cơ hội phát triển Cơ hội SNT thông qua môn XSTK
13
Như vậy, hướng nghiên cứu của tác giả luận án và công trình nghiên cứu của
tác giả Hoàng Xuân Bính là giống nhau nhưng nội dung trọng tâm nghiên cứu là
khác nhau.
Trong nghiên cứa về DH tiểu học của Th.S Hoàng Thị Tuyết [63], tác giả cho
rằng người học tốt luôn có một loạt các chiến lược mà họ có thể sử dụng, tự họ có
thể biết cách GQVĐ, cách thiết lập mục đích, đánh giá sự tiến bộ của bản thân,
cũng như đánh giá xem mình hiểu được tài liệu không. Người học có thể dùng các
dạng sơ đồ để học tập, đọc, ôn tập tài liệu có mục đích và rèn luyện KN cho tới khi
họ thành thạo.
Tóm lại, các nghiên cứu trong nước đã hệ thống lại những nội dung cơ bản
liên quan đến lý thuyết SNT như khái niệm, KN, các chiến lược và đã có một số
nghiên cứu đi vào các phân môn cụ thể, song chưa có một số lượng công trình đáng
kể nghiên cứu về áp dụng SNT vào DH môn toán.
2.2. Cơ hội phát triển siêu nhận thức qua dạy học XSTK
XSTK là một trong những ngành khoa học được ứng dụng rộng rãi, phong phú
trong khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học giáo dục, trong các ngành Kinh tế,
Kỹ thuật, QS, y học và nhiều lĩnh vực khác. Do vậy, việc nghiên cứu giảng dạy
XSTK như thế nào cho hiệu quả đồng thời nâng cao khả năng vận dụng TH vào
thực tế cuộc sống cho người học đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước quan tâm.
Chương trình giảng dạy XSTK tập trung vào việc phân tích dữ liệu và lý
thuyết XS để xây dựng các KN suy luận, cụ thể ngoại suy và dự báo. Nhiều lý
thuyết và công thức được xem như là công cụ để trả lời các câu hỏi liên quan đến
các tình huống về những gì HV chưa được tiếp xúc.
Các khái niệm XSTK hiện nay bao hàm trong nghiên cứu TH từ mẫu giáo đến trung
học cũng như trong trường ĐH và đang dần dần được chấp nhận như là TH quan trọng đối
với mỗi HS (Shaughnessy, 1992). Bởi vì đây là lĩnh vực của TH, một lĩnh vực GQVĐ, nó
giúp cho việc nghiên cứu về cách HV làm việc thông qua các tình huống mới lạ.
Shaughnessy [117] nhận thấy rằng việc giảng dạy GQVĐ thành công đòi hỏi
NT của HS, suy nghĩ của họ về NT và gợi ý rằng tự giám sát và điều chỉnh nên trở
14
thành một ưu tiên cho các GV, và SNT là suy nghĩ cụ thể về quá trình NT của chính
mình và sự tiến bộ được thực hiện trong việc GQVĐ như thế nào. "Đối với những
lý do này, chúng tôi tin rằng có nhiều điều thu được từ việc nghiên cứu những tác
động của việc GQVĐ xác suất đối với GQVĐ nói chung".
Theo Lester (1989), để hiểu rõ hơn tại sao người học mắc sai lầm tương tự
trong khi học tập để suy luận về tổng thể dựa trên cơ sở dữ liệu thu thập được, điều
đó là cần thiết để nhìn xa hơn các yếu tố NT, bao gồm cả SNT [119].
SNT thường được nghiên cứu gắn liền với GQVĐ mà bản thân nó gây khó
khăn cho nhiều HV vì các lý do khác nhau. XS và TK là một lĩnh vực GQVĐ, đây
là một yếu tố thích hợp để tìm tòi khám phá. Theo Shaughnessy "các khía cạnh SNT
được đưa vào một cách khéo léo tập trung vào các vấn đề liên quan đến XS và
TK. . . . Và vấn đề ngẫu nhiên là những ví dụ tốt về vấn đề áp dụng "[117].
Nghiên cứu của Teri Rysz [119] khẳng định SNT một yếu tố cần thiết cho sự
thành công trong các khoá học XS và TK cơ bản. SNT giúp HV NT được thế mạnh
và điểm yếu về NT của mình và sử dụng chúng để theo dõi sự tiến bộ trong quá
trình GQVĐ, họ sẽ hiểu rõ hơn về khái niệm XS và TK.
Theo Schunk (2008), SNT có liên quan đến sự phát triển NT và có quan hệ với
tuổi của một người. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy rằng ngay cả khi người học có
thể giám sát việc học của họ, họ thường không làm như vậy [115].
Flavell (1979) trong mô hình giả định của ông về SNT rằng SNT và NT khác
nhau về nội dung và chức năng của chúng, và tương tự nhau về hình thức và chất
lượng. Cả NT và SNT đều có thể nhu nhận được, bị lãng quên, đúng hoặc không
chính xác, v.v ... Flavell giải thích rằng SNT không phải là một quá trình tự động
cũng không phải là cách suy nghĩ tự phát đối với hầu hết người học. Thay vào đó,
SNT là kết quả của sự phát triển hệ thống NT và tích lũy kinh nghiệm trong việc
biến suy nghĩ thành đối tượng của suy nghĩ; người học cần được dạy và khuyến
khích cách thường xuyên nghĩ về suy nghĩ của họ [82].
Desoete (2007) cho rằng quá trình dạy và học toán có thể được cải thiện nếu
có nhiều thời gian hơn cho hướng dẫn SNT, các KN SNT có thể dạy được thông
qua việc thực hiện chương trình giảng dạy hoặc thông qua các khóa học. Nghiên
15
cứu của Desoete cho thấy các KN SNT phải được dạy một cách rõ ràng và không
thể phát triển được chỉ trong một bài học [74].
Qua các nghiên cứu, SNT và KN SNT có thể xuất hiện từ khá sớm ở tuổi mẫu
giáo và phát triển ở các giai đoạn về sau. Tuy nhiên sự phát triển này không phải là
tự động, tự phát đối với hầu hết mọi người, có thể thu nhận được thông qua DH, có
thể bị lãng quên. Dù người học có một số KN SNT nhưng họ cũng không thường
xuyên sử dụng. Do đó, cần có sự rèn luyện thông DH để các KN SNT được hình
thành một cách ổn định.
Như vậy, từ những nghiên cứu trên cho thấy có thể rèn luyện cho HV KN
SNT thông qua việc GQVĐ, GQNV đặt ra của môn học XSTK. Vì SNT là cái tất
yếu phải đi theo quá trình GQNV học tập, GQVĐ. Bất kì một quá trình giải quyết
một nhiệm vụ học tập, GQVĐ nào đều có khả năng phát triển KN SNT. Đặc điểm
XSTK là gắn rất chặt với thực tiễn, nội dung thực tiễn và vấn đề luôn nảy sinh từ
thực tiễn. Cho nên môn XSTK hoàn toàn có cơ hội để phát triển KN SNT, XSTK có
thể được coi như là phương tiện chuyển tải để GV rèn luyện KN SNT cho HV.
Trên thế giới, mới có công trình nghiên cứu của Teri Rysz (2004) sử dụng
phương pháp nghiên cứu định tính để xác định các chiến lược SNT của HS khi
học về XSTK cơ sở. Thông qua phỏng vấn 7 SV trong lớp học XSKT cơ sở về các
chiến lược họ sử dụng khi học và kiểm tra để đánh giá mối quan hệ giữa SV có
chiến lược SNT với kết quả học tập. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các SV có kết
quả thấp có thể sử dụng một cách hạn chế hoặc không sử dụng chiến lược SNT.
Tuy nhiên, những SV có sử dụng chiến lược SNT rõ ràng thì có một sự hiểu biết
XS, TK tốt hơn [119].
Ở trong nước, có nhiều công trình nghiên cứu việc DH XSTK ở bậc cao đẳng,
ĐH tập trung vào các chủ đề: Vận dụng TH vào thực tiễn cho SV sư phạm (luận án
của Phan Thị Tình); tăng cường khả năng nghiên cứu khoa học cho SV thể dục thể
thao (luận án của Tạ Hữu Hiếu); DH dự án cho SV khối kinh tế, kỹ thuật (luận án
của Trần Thị Hoàng Yến); Phát triển năng lực suy luận TK cho SV cao đẳng
chuyên nghiệp (luận án của Hoàng Nam Hải); DH Xác suất Thống kê theo hướng
tăng cường vận dụng TH vào thực tiễn cho HS khối Kinh tế, Kỹ thuật (luận án của
16
Nguyễn Thị Hà); DH Xác suất Thống kê ở trường ĐH Y (luận án của Đào Hồng
Nam); DH Thống kê ở Trường ĐH Cảnh sát nhân dân theo hướng gắn với thực tiễn
nghề nghiệp (luận án của Võ Thị Huyền). Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đề
cập đến một cách có hệ thống việc rèn luyện KN SNT trong DH XSTK cho HV các
trường ĐH trong QĐ.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là đề xuất một số biện pháp DH môn XSTK theo hướng
tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV ở một số trường ĐH trong QĐ.
4. Khách thể nghiên cứu, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình DH XSTK ở Trường ĐH trong QĐ.
- Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp DH môn XSTK cho HV các trường
ĐH trong QĐ theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu trong DH XSTK ở một số
Trường ĐH trong QĐ.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các biện pháp trong DH môn XSTK theo hướng tăng cường
rèn luyện KN SNT cho HV ở các trường ĐH trong QĐ một cách phù hợp, thì chẳng
những làm cho HV hiểu rõ hơn các tri thức môn học, mà còn rèn luyện được các
KN dự đoán, lập kế hoạch, giám sát, đánh giá rất cần thiết cho HV.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Những nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được thể hiện qua việc trả lời các câu
hỏi khoa học sau đây:
- Quan niệm về SNT, KN SNT như thế nào? Chân dung HV có SNT là gì?
- DH XSTK theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV được quan
niệm như thế nào? Quy trình và cách thức tổ chức là gì?
- Thực trạng, nhu cầu DH XSTK theo hướng rèn luyện KN môn học và KN
SNT ở các trường ĐH trong QĐ ra sao? Cơ hội phát triển SNT cho HV qua môn
XSTK có không?
- Có thể đề xuất một số biện pháp DH môn XSTK theo hướng tăng cường rèn
luyện KN SNT cho HV ở một số trường ĐH trong QĐ?
17
- Những biện pháp đề xuất có khả thi và hiệu quả không?
7. Luận điểm bảo vệ
- Cơ hội phát triển SNT, KN SNT thông qua môn học XSTK cho HV ở các
trường ĐH trong QĐ.
- Tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp rèn luyện KN SNT trong luận án
cho HV ở một số trường ĐH trong QĐ.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa các nguồn tư liệu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra thực tiễn: Phỏng vấn, quan sát, dùng phiếu điều tra để
tìm hiểu thực trạng dạy và học XSTK tại một số trường ĐH trong QĐ.
- Phương pháp thống kê toán học: Dùng các phép toán TK để xử lý các số liệu
thu thập được trong quá trình điều tra và thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm sư phạm ở một số trường
ĐH trong QĐ nhằm kiểm định giả thuyết khoa học, kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu
quả của các biện pháp đề xuất.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của các chuyên gia về các vấn đề thuộc
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
9. Đóng góp của luận án
- Hệ thống hoá các quan niệm về SNT, KN SNT, làm rõ các thành phần KN
SNT cụ thể, phân biệt giữa NT và SNT ở một số khía cạnh, làm rõ một số biểu hiện
của HV có KN SNT.
- Đưa ra quan niệm DH theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT; Quy trình,
cách tổ chức DH toán theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV.
- Phân tích thực trạng DH XSTK ở một số trường ĐH trong QĐ; làm rõ
nhu cầu phát triển KN SNT và xác định cơ hội rèn luyện KN SNT cho HV
trong DH XSTK.
- Đề xuất một số biện pháp sư phạm trong DH XSTK ở một số trường ĐH
trong QĐ theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV.
18
- Bước đầu chứng minh tính khả thi và tính hiệu quả của các biện pháp sư
phạm đã đề xuất.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho GV giảng dạy môn XSTK ở các
trường ĐH trong QĐ.
10. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2. Một số biện pháp dạy học XSTK ở trường ĐH trong QĐ theo hướng
tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
19
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Siêu nhận thức
1.1.1. Quan điểm về siêu nhận thức
Flavell đã đưa ra thuật ngữ “Siêu nhận thức” vào năm 1976 nhằm nói đến vấn
đề NT về NT của bản thân một người.
Theo một số nhà nghiên cứu, khái niệm SNT không được xác định rõ ràng,
được mô tả thiếu sự gắn kết và là một khái niệm với 'biên mờ' [123].
Các tác giả Roebers, Cimeli, Röthlisberger, và Neuenschwander cho rằng thực
tế có sự phức tạp của khái niệm SNT là vì một số thuật ngữ như tự điều chỉnh việc
học, học tập phản ánh, kiểm soát điều hành và SNT thường được sử dụng thay thế
cho nhau đối với cùng một hiện tượng [109].
Theo Monteith (1990), chính vì khó khăn trong việc xác định khái niệm SNT
mà hầu hết các nhà nghiên cứu đều né tránh các định nghĩa chính thức và thay vào
đó chọn mô tả SNT theo chức năng và đặc điểm của nó (Dẫn theo [87]).
Các nhà nghiên cứu về SNT theo các hướng khác nhau đã cố gắng khái niệm
hóa để làm rõ hơn về SNT.
Những nghiên cứu đầu tiên về SNT nằm trong tâm lí học phát triển nghiên cứu
về trí nhớ. Cách nghiên cứu này được Flavel (1976), Brown (1978), Livingston
(1979) thực hiện từ những năm 1970. Họ đã cố gắng xác định SNT, tập trung chủ
yếu vào mối quan hệ giữa kiến thức của cá nhân về trí nhớ của họ và khả năng ghi
nhớ. Những nỗ lực này nhằm mục đích mô tả các thuật ngữ “siêu trí nhớ”, “Siêu
nhận thức” và ảnh hưởng của chúng đến bộ nhớ [94].
Flavell (1976) với tư cách là người sáng lập SNT đã mô tả SNT là kiến thức
của một người, sự giám sát và điều chỉnh tích cực các quá trình NT. Theo ông, SNT
đề cập đến: “Sự hiểu biết của cá nhân liên quan đến quá trình NT của bản thân, các
sản phẩm và những yếu tố khác có liên quan trong đó còn đề cập đến việc theo
giám sát tích cực, điều chỉnh kết quả và sắp xếp các quá trình này để luôn hướng
tới mục tiêu đặt ra” [81]. Flavell nhấn mạnh đến khía cạnh kiến thức, sự hiểu biết
về bản thân, nhấn mạnh vai trò của SNT trong việc giám sát, điều chỉnh các hoạt
động trong quá trình NT.
20
Brown (1978) tiếp tục phát triển mô tả của Flavell bằng cách thêm hai khái
niệm. Theo Brown, SNT bao gồm kiến thức về NT và sự điều chỉnh về NT [71].
Kiến thức về NT bao gồm kiến thức khai báo, kiến thức thủ tục và kiến thức điều
kiện. Sự điều chỉnh về NT là biểu thị của việc lập kế hoạch, giám sát và đánh giá
NT [114]. Định nghĩa của Brown nhấn mạnh khía cạnh quan trọng của ý thức về
kiến thức và sự hiểu biết của bản thân.
Nghiên cứu tập trung vào SNT như một thành phần của trí nhớ, hiểu biết, GQVĐ
và tự kiểm soát. Các nhà nghiên cứu về SNT thực hiện theo hướng này như Kluwe
(1982), Kurtz và Borkowski (1984), Wellman (1985). Các chủ đề quan tâm trong
nghiên cứu bao gồm các KN SNT hoặc kiểm soát điều hành trong quá trình GQVĐ.
Kluwe (1982) đã xác định hai đặc điểm sau đây của SNT. Thứ nhất, cá nhân
sở hữu kiến thức về suy nghĩ của chính mình cũng như suy nghĩ của người khác, và
thứ hai, một cá nhân có thể giám sát và điều chỉnh suy nghĩ của chính mình [92].
Kurtz và Borkowski (1984) chia SNT thành hai thành phần liên quan, cụ thể là
kiến thức SNT và kiểm soát SNT. Kiến thức SNT đề cập đến các KN, chiến lược và
tài nguyên cần thiết để làm chủ một nhiệm vụ. Kiểm soát SNT đề cập đến các chiến
lược như giám sát sự hiểu biết, dự đoán kết quả, lập kế hoạch cho các hoạt động học
tập và sửa đổi [95].
Wellman (1985) cho rằng SNT là một hình thức của NT, là quá trình tư duy
bậc hai hay cấp độ tư duy cao hơn, nó liên quan đến hoạt động điều khiển bên ngoài
quá trình NT [131].
Các nghiên cứu SNT theo hướng này tập trung vào lựa chọn và áp dụng các
chiến lược và do đó SNT là điều kiện tiên quyết để sử dụng chiến lược hiệu quả.
Khi các chiến lược được thực hiện, hiệu quả của chúng được theo dõi và đánh giá,
dẫn đến mở rộng và hoàn thiện kiến thức chiến lược cụ thể [111].
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa SNT và tự điều chỉnh việc học đã tập
trung vào một số khía cạnh của SNT như phản ánh, tự đánh giá và tự quản lý NT.
Các nhà nghiên cứu về SNT theo hướng này như Paris and Winograd (1990),
Ertmer and Newby (1996).
21
Theo Paris và Winograd (1990), SNT đề cập đến hai đặc điểm thiết yếu là tự
đánh giá và tự quản lý NT. Tự đánh giá là những phản ánh cá nhân về trạng thái
kiến thức và khả năng của chính họ. Tự đánh giá trả lời các câu hỏi về biết những
gì, cách suy nghĩ như thế nào và áp dụng kiến thức hoặc chiến lược khi nào. Tự
quản lý đề cập đến SNT trong hành động, nghĩa là SNT có thể điều phối với các
khía cạnh NT trong việc GQVĐ như thế nào. Tự quản lý được phản ánh trong các
kế hoạch mà người học thực hiện trước khi nắm bắt một nhiệm vụ, trong các điều
chỉnh khi GQNV và trong các sửa đổi sau khi thực hiện nhiệm vụ [103].
Ertmer và Newby (1996) thêm phản ánh như một chiến lược NT thiết yếu và
là một khía cạnh quan trọng của SNT. Ertmer và Newby cho rằng phản ánh giữa vai
trò kép, cụ thể là phản ánh trên hành động và phản ánh trong hành động. Phản ánh
trên hành động chỉ ra một quá trình hành động giúp cá nhân cảm nhận được những
trải nghiệm trước đó với mục tiêu cải thiện suy nghĩ và hành động hiện tại và tương
lai. Phản ánh trong hành động cho thấy sự kiểm soát quá trình học tập thông qua lập
kế hoạch, giám sát và đánh giá trong khi quá trình học tập đang diễn ra [79].
Các nghiên cứu về SNT đã được mở rộng để không những chỉ NT về NT, mà
còn bao gồm các trạng thái tình cảm như động lực, niềm tin.
Theo Schoenfeld (1992), SNT là suy nghĩ về suy nghĩ của bản thân và nó bao
gồm ba khía cạnh quan trọng sau đây: Kiến thức về quá trình suy nghĩ của bản thân,
kiểm soát hoặc tự điều chỉnh, niềm tin và trực giác.
Simons (1996) đã mô tả SNT gồm thành ba thành phần, đó là kiến thức SNT,
kiểm soát điều hành (hoặc KN SNT) và tư tưởng SNT (hoặc niềm tin) [73].
Mặc dù có sự khác biệt tồn tại trong các định nghĩa nêu trên, nhưng hai thành
phần luôn được nhấn mạnh: cụ thể là kiến thức về NT và kiểm soát cá nhân trong
quá trình NT.
Trong luận án này, chúng tôi thống nhất quan niệm SNT theo Brown: SNT
bao gồm kiến thức về NT và sự điều chỉnh về NT. Kiến thức về NT bao gồm kiến
thức khai báo, kiến thức thủ tục và kiến thức điều kiện. Sự điều chỉnh về NT là biểu
thị của việc lập kế hoạch, giám sát và đánh giá NT.
22
Kiến thức SNT đề cập đến kiến thức về các nhiệm vụ NT, các chiến lược và
kiến thức mà cá nhân sở hữu về bản thân và người khác [82]. Kiến thức SNT bao
gồm kiến thức khai báo, kiến thức thủ tục và kiến thức điều kiện.
- Kiến thức khai báo: "Biết cái gì" - là kiến thức về quá trình học tập của chính
mình và về các chiến lược học tập. Kiến thức khai báo liên quan đến kiến thức, KN
và chiến lược cần thiết để hoàn thành một nhiệm vụ thành công trong nhiều điều
kiện khác nhau.
- Kiến thức thủ tục: "Biết làm như thế nào" - là kiến thức về các kĩ năng và các
chiến lược được sử dụng và cách sử dụng chúng. Kiến thức về thủ tục đề cập đến loại
kiến thức cần thiết để GQNV và do đó trả lời câu hỏi về cách GQNV như thế nào.
- Kiến thức điều kiện: "Biết khi nào" - là kiến thức về lý do và thời điểm các
chiến lược học tập nên được sử dụng. Kiến thức điều kiện là kiến thức liên quan đến
thời điểm một hành động NT là phù hợp, hoặc biết khi nào và tại sao nên sử dụng
kiến thức khai báo và thủ tục.
Sự điều chỉnh NT đề cập đến một tập hợp các hoạt động giúp người học kiểm
soát việc học tập của họ. Mặc dù có một số các thành phần khác nhau của điều
chỉnh NT được đưa ra, tuy nhiên các nghiên cứu đều thống nhất rằng sự điều chỉnh
NT có ba thành phần cơ bản bao gồm lập kế hoạch, giám sát và đánh giá.
- Lập kế hoạch bao gồm thiết lập mục tiêu, phân tích nhiệm vụ như đọc lướt
văn bản và tự hỏi về các yêu cầu của nhiệm vụ, chọn chiến lược hoặc thủ tục để đạt
được mục tiêu và xác định các khó khăn có thể gặp phải trong quá trình thực hiện.
- Giám sát đề cập đến nhận thức về sự tiến triển, sự hiểu biết, hiệu quả của các
chiến lược hoặc kế hoạch đang được thực hiện và toàn bộ quá trình thực hiện nhiệm vụ
của người học. Nghiên cứu chỉ ra rằng khả năng giám sát chậm phát triển thậm chí đối
với cả người lớn, nhưng nó có thể được cải thiện với việc đào tạo và thực hành.
- Đánh giá đề cập đến việc kiểm tra tiến độ được thực hiện hướng tới mục tiêu,
xem lại kết quả và hiệu quả của kinh nghiệm học tập, xem xét lại mục tiêu và kết
luận, quyết định làm thế nào để cải thiện trong thời gian tiếp theo.
Brown (1987) đã phân biệt quan trọng giữa kiến thức về NT và sự điều chỉnh
về NT. Sự điều chỉnh NT chính là mặt thể hiện KN SNT.
23
1.1.2. Kỹ năng siêu nhận thức
1.1.2.1. Kỹ năng siêu nhân thức, cấu trúc kỹ năng SNT
Kể từ khi Flavell giới thiệu khái niệm về SNT năm 1976, hầu hết các tác giả đồng
ý rằng cấu trúc SNT có thể được phân thành hai thành phần kiến thức và KN [99].
Kiến thức SNT có thể được mô tả như những kiến thức, NT và sự hiểu biết sâu
sắc hơn về quá trình NT của chính mình và các sản phẩm [81].
KN SNT có thể được xem như là sự kiểm soát tự nguyện của một người thông
qua quá trình NT của mình [72].
KN SNT liên quan đến các kiến thức về thủ tục cần thiết cho việc điều chỉnh
thực tế và kiểm soát các hoạt động học tập của một người [124].
Theo Flavell: KN SNT là các chiến lược áp dụng có ý thức hoặc tự động trong
quá trình học tập, hoạt động NT và giao tiếp để điều khiển quá trình NT trước, trong
hoặc sau một hoạt động NT ([81], [82]).
Chúng tôi thống nhất hiểu KN SNT theo Brown: KN SNT đề cập đến khả năng
kiểm soát, giám sát và tự điều chỉnh các hoạt động diễn ra khi học tập và GQVĐ [71].
KN SNT cho phép người học sử dụng kiến thức có trước để thiết lập một
chiến lược tiếp cận một nhiệm vụ học tập, thực hiện các bước cần thiết để GQVĐ,
phản ánh và đánh giá kết quả, và sửa đổi cách tiếp cận khi cần thiết. KN SNT dựa
trên sự kết hợp giữa hiểu biết với hành động của bản thân, đối chiếu với những kinh
nghiệm trong quá khứ, định hướng hành động trong tình huống hiện tại.
Số lượng các KN SNT được các nhà nghiên cứu phân chia không đồng nhất.
Theo Brown [72], Desoete [73] đã phân chia kĩ năng SNT gồm có: Dự đoán,
lập kế hoạch, giám sát và đánh giá. Theo Fogarty [85], các kĩ năng siêu nhận thức
cơ bản bao gồm: Xây dựng kế hoạch, giám sát sự hiểu biết, đánh giá. Van der Stel
[123] phân chia KN SNT thành: Định hướng, lập kế hoạch, đánh giá, sửa chữa và
phản ánh. Còn theo Veenman [125], các kĩ năng SNT cơ bản bao gồm: Phân tích
nhiệm vụ, lập kế hoạch, giám sát, kiểm tra và phản ánh.
Trên cơ sở nghiên cứu sự phân chia các KN SNT của các nhà nghiên cứu ở
trên, trong luận án này tập trung vào bốn KN SNT gồm: Dư đoán, lập kế hoạch,
giám sát và đánh giá.
24
Khi đứng trước một vấn đề hay nhiệm vụ cần giải quyết, người học sẽ làm một
bản phác thảo về vấn đề này. Trong trường hợp này, người học sẽ áp dụng một KN
hướng dẫn thực hiện ban đầu về nhiệm vụ, đó là hoạt động dự đoán (định hướng) về
nhiệm vụ trước khi thực hiện. Hoạt động dự đoán cho các nhiệm vụ như đọc phát
biểu vấn đề, xác định thông tin nào đã cho, yêu cầu là gì và dự đoán kết quả hợp lý.
Sau khi có định hướng ban đầu về vấn đề cần giải quyết, người học cần tiến hành
hoạt động lập kế hoạch cụ thể cho các nhiệm vụ, thiết kế kế hoạch hành động từng
bước để GQVĐ là đặc thù của các nhiệm vụ GQVĐ. Trong quá trình GQNV,
GQVĐ người học cần giám sát việc thực hiện có theo kế hoạch đề ra hay chưa và
có hướng tới kết quả mong muốn hay không? Sau khi GQNV cần đánh giá lại quá
trình thực hiện để kiểm tra tiến độ, kết quả và hiệu quả của việc thực hiên hướng tới
mục tiêu. Những nghiên cứu khác nhau đưa ra các thành phần KN SNT khác nhau.
Các KN SNT trên sẽ được trình bày chi tiết trong bảng dưới đây:
Bảng 1.1. Mô tả các kĩ năng SNT
KN Mô tả Các hoạt động cụ thể
Dự đoán có thể được mô tả như Đọc vấn đề, đọc lại một lần Dự đoán
những KN cho phép suy nghĩ về nữa để hiểu thấu đáo hơn
những mục tiêu học tập, đặc điểm Lựa chọn thông tin quan trọng
học tập thích hợp và thời gian có có liên quan
thể.
Ngoài ra, dự đoán còn liên kết các
vấn đề nhất định với các vấn đề
khác, phát triển trực giác về những
điều kiện tiên quyết để thực hiện Biểu diễn trên một hình vẽ Kết nối các thông tin Xác định yêu cầu Xác định những gì đã biết Xác định mức độ khó khăn và
một nhiệm vụ và phân biệt rõ ràng khả năng thành công
và thực tế những khó khăn trong
giải quyết vấn đề TH [99].
Xác định sự quen thuộc và vấn đề có liên quan Uớc tính kết quả có thể
Trong khi thực hiện các hoạt động trên, người học có thể nhận thấy được mình có hiểu vấn đề không? Thấy được mối liên hệ giữa yêu cầu
cần giải quyết với thông tin đã biết như thế nào? Thấy được sự quen thuộc với vấn đề đã biết nào? Có thể giải quyết được vấn đề không? Khó khăn của vấn đề, khả năng mắc sai lầm ở chỗ nào?
25
Dự đoán chính là hoạt động kiểm soát ban đầu để biết bản thân có gi,
hiểu vấn đề như thế nào, hiểu vấn đề có liên quan ra sao.
Lập kế hoạch là suy nghĩ trước phải Xác định mục tiêu Lập kế
hành động như thế nào, khi nào, và Chia vấn đề thành các nhiệm hoạch
tại sao để đạt được mục đích thông vụ nhỏ hơn
qua một chuỗi các mục tiêu phụ dẫn Chọn dữ liệu có liên quan
đến các mục tiêu chính của vấn đề Chọn tính toán cần thiết
[91]. Lựa chọn các bước liên quan
Lập kế hoạch liên quan tới việc Lựa chọn kiến thức có liên
phân tích một bối cảnh hay nhớ lại quan
kiến thức KN tên miền cụ thể có Tìm các mối quan hệ (công
liên quan và trình tự các bước thức) giữa các đại lượng
GQVĐ. Đưa ra một giải pháp
Trong khi thực hiện các hoạt động trên, người học có thể nhận thấy
được mình xác định đúng mục tiêu không? Việc phân chia thành các
nhiệm vụ nhỏ có thực hiện được không? Việc phân chia đó có thiếu sót
gì không? Kiến thức liên quan đến từng nhiệm vụ nhỏ như thế nào?
Lập kế hoạch chính là hoạt động kiểm soát một cách cụ thể, rõ ràng để
hoạt động NT đạt được mục tiêu.
Giám sát có thể được mô tả như sự Chính xác trong tính toán Giám sát
kiểm soát tự điều chỉnh các KN NT Ghi chú liên quan đến vấn đề
được sử dụng trong việc thực hiện Thứ tự các bước thực hiện
thực tế, để xác định các vấn đề và Hành động theo kế hoạch
sửa đổi kế hoạch ([72], [121]). Giám sát quá trình thực hiện
Giám sát để lựa chọn các KN thích Kiểm tra tính toán
hợp và điều chỉnh hành vi khi yêu Kiểm tra câu trả lời với các kết
cầu nhiệm vụ thay đổi, biết sử dụng quả ước tính
các hiểu biết về kiến thức đã có và Kiểm tra kết quả
chọn cách học tập thích hợp [102]. Đề cập đến phát biểu vấn đề
trong câu trả lời
Phản ánh câu trả lời một cách
rõ ràng và chính xác.
26
Giám sát gắn liền với các hoạt động dự đoán, lập kế hoạch và thực hiện
kế hoạch. Trong khi người học lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch đôi lúc
cần ngừng lại để xem có tuân thủ và thực hiện đầy đủ các bước chưa?
Tính toán và kết quả đã chính xác chưa? Các bước của kế hoạch có
hướng tới mục tiêu không?
Đánh giá, có thể xem là những phản Tóm lược câu trả lời và phản Đánh giá
ánh được thực hiện sau khi một sự ánh các câu trả lời
kiện đã xảy ra, từ đó nhìn vào Phản ánh về những gì đã giải
những gì đã làm có dẫn đến một kết quyết và được giải quyết như
quả mong muốn hay không [72]. thế nào.
Cụ thể đánh giá phản ánh kết quả Đưa ra một kết luận đề cập đến
và sự hiểu biết về các vấn đề và sự nhiệm vụ
phù hợp của kế hoạch, thực hiện Liên kết đến các vấn đề trong
các phương pháp giải cũng như về tương lai
tính đầy đủ của các câu trả lời trong Liên kết đến các vấn đề khác
bối cảnh của vấn đề ([90], [127]).
Trong khi thực hiện và sau khi thực hiện các hoạt động trên, người học
cần đánh giá kết quả thực hiện đáp ứng đầy đủ mục tiêu chưa? Nếu
chưa thì cần điều chỉnh ở khâu nào? Nếu đáp ứng được đầy đủ mục
tiêu thì tổng kết lại để vận dụng cho các trường hợp tương tự ra sao?
Đánh giá quá trình thực hiện có khó khăn, sai sót gì? Có lỗ hổng gì về
kiến thức cần phải khắc phục? Đánh giá là sự kiểm soát toàn bộ quá
trình thực hiện và điều chỉnh nếu cần thiết.
Ví dụ 1.1: B52 là loại máy bay rất to, dễ bắn trúng, nhưng được trang bị tới 8 động cơ
cũng như những phương tiện an toàn khác nên dù có bị bắn trúng thì nó vẫn rất khó bị
rơi. XS để bắn 1 quả tên lửa trúng B52 từ khoảng cách gần là 2/3; trong đó vì phần thân
to hơn, dày hơn nên XS trúng thân là 1/2; XS trúng mỗi cánh mỏng hơn là 1/4. Khi
trúng thân, XS để máy bay rơi là 1/3, còn khi trúng 1 cánh, XS để máy bay rơi là 1/2.
Bắn 1 quả tên lửa không đối không vào B-52. Tính XS máy bay rơi.
Hoạt Định hƣớng Hoạt động tiến hành
27
động
Đọc vấn đề Đọc vấn đề một cách cẩn thận và diễn giải nếu cần Dự
thiết. Đọc lại một lần nữa để hiểu thấu đáo hơn. đoán
Lựa chọn thông tin có XS để bắn 1 quả tên lửa trúng B52 từ khoảng cách
liên quan (Nhắc lại vấn gần là 2/3; XS trúng thân là 1/2; XS trúng mỗi cánh là
đề theo cách hiểu của 1/4. Khi trúng thân, XS để máy bay rơi là 1/3, còn khi
bản thân) trúng 1 cánh, XS để máy bay rơi là 1/2. Tính XS máy
bay rơi.
Biểu diễn trên một hình
vẽ/ Điền thông tin cần
thiết
Xác định yêu cầu Tính XS máy bay rơi khi bắn 1 quả tên lửa.
Xác định những gì đã + Biết XS bắn trúng máy bay B-52 là 2/3;
được biết: + XS bắn trúng thân là 1/2; với XS máy bay rơi là 1/3.
+ XS bắn trúng mỗi cánh là 1/4; với XS máy bay rơi
là 1/2.
Xác định sự quen thuộc Bài toán yêu cầu tính XS của biến cố “Máy bay
và vấn đề có liên quan rơi”. Biến cố này có liên quan đến các biến cố “bắn
trúng thân” hoặc “bắn trúng cánh” có XS đã biết.
Xác định mức độ khó Vấn đề khó khăn của bài toán là cần xác định quan
khăn và ước tính khả hệ giữa biến cố cần tính XS và biến cố đã có XS.
năng thành công Qua mối quan hệ đó thì cần dùng định lí nào, công
thức nào.
Xác định mục tiêu Cần tính được XS máy bay rơi khi bắn 1 quả tên Lập kế
lửa: P(A) hoạch
28
Trong đó: A là biến cố “Máy bay rơi”.
Chia vấn đề thành các + Cần lưu ý bài toán cần hiểu được có 2 khả năng:
nhiệm vụ nhỏ hơn bắn trúng hoặc trượt;
+ Khi bắn trượt thì các XS các biến cố “bắn trúng
thân” hoặc “bắn trúng cánh” sẽ bằng 0;
+ Khi bắn trúng thì các XS của các biến cố “bắn
trúng thân” hoặc “bắn trúng cánh” sẽ được cho như
phát biểu bài toán.
Chọn kiến thức, các + Bước 1: Tính P(A) khi bắn “trúng” hoặc “trượt”.
bước có liên quan/Chọn + Bước 2: Tính XS của A trong trường hợp đã bắn
tính toán cần thiết trúng: “trúng thân” hoặc “trúng cánh”.
Tìm các mối quan hệ + Qua các bước như phân tích trên, việc tính P(A) sẽ
(công thức) giữa các đại liên quan đến XS có điều kiện: Điều kiện khi “trúng”
lượng hoặc “trượt”; điều kiện “trúng thân” hoặc “trúng
cánh”. Từ đó có thể suy đoán được cần dùng công
thức XS điều kiện, công thức toàn phần hoặc công
thức Bayes.
+ Như vậy cần tính XS của biến cố A theo các biến
cố đã biết sau: T là biến cố “Bắn trúng máy bay”,
P(T) = 2/3;
là biến cố “Bắn trượt máy bay”. H1 là biến cố “Bắn trúng thân”, P(H1) = 1/2; H2 là biến cố “Bắn trúng cánh phải”, P(H2) = 1/4; H3 là biến cố “Bắn trúng cánh trái”, P(H3) = 1/4; Mối quan hệ của các biến cố có thể được mô tả theo sơ đồ sau:
Công thức cần sử dụng Ta nhận thấy: T, lập thành hệ biến cố đầy đủ; H1,
giữa các đại lượng H2, H3 là hệ biến cố đầy đủ. Việc xảy ra của biến cố A
29
cùng với một trong các biến cố của hệ trên, Do đó ta
cần phải tính XS của A theo công thức XS toàn phần.
Đưa ra một giải pháp: + Bước 1: Tính P(A) khi bắn “trúng” hoặc “trượt”:
+ Bước 2: Tính XS của A trong trường hợp đã bắn
trúng: .
Để đơn giản, đặt B = (A/T) là biến cố “Máy bay rơi
khi bắn trúng”.
Do đó:
Ý nghĩa của kết quả bài Dưới góc nhìn XS dự báo khả năng máy bay rơi khi
toán bắn trúng 1 quả tên lửa là xấp xỉ 27,8%.
Thực tế hoạt động giám sát không tiến hành tách rời với các hoạt động dự đoán và Giám
lặp kế hoạch mà nó được tiến hành song hành cùng các hoạt động trên. Trong quá sát
trình tiến hành hoạt động dự đoán, lập kế hoạch và thực hiện giải quyết bài toán,
HV cần tiến hành giám sát các hoạt động thông qua các câu hỏi:
Các bước GQVĐ là gì? Có tuân thủ thứ tự các bước không? Có bỏ quên bước
nào hay không? Tính toán có chính xác hay không? Trong các bước đã nêu để
giải bài toán, bước nào là khó khăn nhất? Khi thực hiện bước này sẽ gặp phải
khó khăn gì? Có những cách nào để giải quyết khó khăn này? Ta lựa chọn cách
giải quyết nào? Tại sao lại chọn cách giải quyết này? Định lí, quy tắc nào áp
dụng được cho bài toán này. Có cần điều chỉnh, thay đổi, bổ sung, cách giải
quyết bài toán này không?
Sau khi thực hiện các bước trên, người học tự đánh giá quá trình thực hiện: Đánh
+ Có phân chia được các bước GQVĐ không. giá
30
+ Có xác định được mối liên hệ giữa cái đã biết và cái cần tìm dưới dạng sơ đồ
mô tả không?
+ Khó khăn của bài toán chính là phân chia được các bước và mối liên hệ giữa
cái đã biết và cái cần tìm để đưa ra kiến thức cần giải quyết là công thức XS đầy
đủ. Từ đánh giá về lời giải, xác định được ý nghĩa và khả năng vận dụng cho các
vấn đề tương tự. Trong trường hợp này cái cần tìm là XS của biến cố A và ;
biến cố A hoặc xảy ra cùng với hệ biến cố đầy đủ nên cần dùng công thức
XS đầy đủ. Đây chính là mấu chốt quan trọng để giải quyết được bài toán cũng
như khả năng vận dụng cho những vấn đề tương tự mà HV cần hiểu rõ.
SNT diễn ra trong đầu của một con người, tức là chủ thể chứ không phải ai
khác. Người học tự nhìn về mình, tự giám sát, đánh giá về mình. Giám sát ở đây
cũng là tự mình giám sát và thực chất là giám sát kế hoạch, giám sát các hoạt động
có tiến hành theo kế hoạch không, có sai sót gì không? Tự đánh giá là điều không
đơn giản vì sức ỳ của thói quen, sức ỳ của trí tuệ và sức ỳ của tư duy. Nếu trình độ
thấp sẽ không tự đánh giá được, không biết đúng sai hoặc độ tin cậy không cao.
1.1.2.2. Thành phần kỹ năng siêu nhận thức
a) Kĩ năng dự đoán
Dự đoán cho phép suy nghĩ về những mục tiêu, đặc điểm và thời gian có thể,
lường trước được những khó khăn của nhiệm vụ, liên kết các vấn đề nhất định với
các vấn đề khác, phát triển trực giác về những điều kiện tiên quyết để thực hiện một
nhiệm vụ và phân biệt rõ ràng những khó khăn thực tế trong GQVĐ TH. Trong hoạt
động dự đoán, HV phải tìm hiểu thông tin, sự kiện liên quan đến vấn đề, phải suy
nghĩ về những khó khăn, bất lợi và những điều kiện thuận lợi. Sau đó, đưa ra những
ước lượng ban đầu về nhiệm vụ cần thực hiện.
KN dự đoán có các KN thành phần sau đây:
+ KN định hướng
+ KN diễn giải
+ KN kết nối thông tin
+ KN liên kết vấn đề
+ KN phân tích bài toán
31
+ KN ước lượng
b) Kĩ năng lập kế hoạch
Lập kế hoạch là suy nghĩ trước phải hành động như thế nào, khi nào, và tại sao
để đạt được mục đích thông qua một chuỗi các mục tiêu phụ dẫn đến các mục tiêu
chính. Lập kế hoạch bao gồm việc xác định rõ các mục tiêu cần đạt được, xây dựng
một chiến lược tổng thể để đạt được các mục tiêu đặt ra.
Đối với giải quyết một bài toán, việc lập kế hoạch trước khi thực hiện sẽ giúp
HV chủ động hướng giải quyết và lường được những thuận lợi hoặc khó khăn. Để
lập được kế hoạch giải thì HV phải tự đặt ra và tự trả lời được hàng loạt các câu hỏi
như bài toán đã cho thuộc dạng toán nào? Tương tự, bài toán nào đã biết? Phương
pháp giải bài này là gì? Tại sao lại áp dụng phương pháp này mà không áp dụng
phương pháp kia? Bài toán này có yếu tố gì đặc biệt? Khai thác và sử dụng giả thiết
của bài toán như thế nào? Cũng như liên tưởng, huy động những kiến thức liên quan
nào? Giả thiết và kết luận của bài toán có mối liên hệ gì với nhau?... Để từ đó chọn
lựa đưa ra hướng giải và lập kế hoạch giải quyết bài toán một cách tối ưu nhất. Khi
GQNV học tập, việc lập kế hoạch sẽ giúp HV biết phát huy thế mạnh, thuận lợi và
khắc phục các khó khăn, hạn chế như thời gian, công việc, điều kiện, phương tiện
hỗ trợ, kiến thức sẵn có,…để mỗi HV lập cho mình một thời gian biểu, một kế
hoạch cụ thể cho việc học tập.
KN lập kế hoạch có các KN thành phần sau đây:
+ KN xác định mục tiêu
+ KN phân chia
+ KN lựa chọn chiến lược GQNV;
+ KN lựa chọn tri thức phương pháp
+ KN lựa chọn kiến thức tiền đề để GQNV
+ KN sắp xếp
Tóm lại, HV biết định hướng và lập kế hoạch sẽ hạn chế đến mức tối đa những
tình trạng bị động, thiếu sự chuẩn bị trước, biết cách vượt qua được những khó khăn
thử thách, cho hiệu quả học tập cao hơn.
c) Kĩ năng giám sát
Giám sát để lựa chọn các KN thích hợp và điều chỉnh hành vi khi nhận thấy có
32
vấn đề nào đó trong quá trình GQNV hoặc yêu cầu nhiệm vụ thay đổi. Trong khi
thực hiện mục tiêu học tập, HV luôn phải chú ý đến việc theo giám sát và điều
chỉnh công việc, nhiệm vụ mà mình đang thực hiện xem có đúng với tiến độ đề ra
hay không, cần phải điều chỉnh, bổ sung vấn đề gì không, các kết quả đạt được
trong quá trình học tập như thế nào? HV phải biết phát hiện và sửa chữa sai lầm.
Trong quá trình thực hiện có khó khăn gì không? Nếu có khó khăn vương mắc thì
HV phải làm thế nào? Cần đến sự trợ giúp nào? Trong quá trình giải quyết một bài
toán, HV phải luôn tự hỏi mình cần chú ý đến điều gì? Trong quá trình thực hiện,
HV luôn phải tự chú ý đến tính sáng tạo, tính hợp lý và thêm bớt, thay đổi sao cho
phù hợp với thực tế khi GQNV, GQVĐ.
KN giám sát có các KN thành phần sau đây:
+ KN phát hiện vấn đề (phát hiện mâu thuẫn, khó khăn);
+ KN nhận biết;
+ KN so sánh, đối chiếu;
+ KN giám sát quá trình GQNV;
+ KN theo dõi và đưa ra phương pháp giải quyết phù hợp trong từng tính
huống cụ thể.
d) Kĩ năng đánh giá
Đánh giá là những phản ánh được thực hiện sau khi một sự kiện đã xảy ra, từ
đó nhìn vào những gì đã làm có dẫn đến một kết quả mong muốn hay không. Đánh
giá là việc làm cần thiết của mỗi HV trong quá trình học tập nói chung cũng như
trong quá trình giải một bài toán nói riêng. Đánh giá sẽ giúp HV nhìn nhận lại trong
quá trình học tập của mình, những gì đạt được, chưa đạt được và những nguyên
nhân dẫn đến kết quả đó.
HV đánh giá, điều chỉnh về nhiều khía cạnh của việc học như phát hiện ra
những lỗ hổng về kiến thức để kịp thời bổ sung, làm sâu sắc thêm kiến thức của bản
thân; nhận thấy hướng đi, cách làm hiện tại có phù hợp với mục tiêu đặt ra không;
Việc HV biết điều chỉnh sẽ hạn chế tối đa học theo kiểu thử - sai; giúp HV không
chỉ NT được chính bản thân mình mà còn NT được về người khác cũng như những
thay đổi về cách thức thực hiện của những nhiệm vụ NT khác nhau. Đánh giá đúng,
33
điều chỉnh hoạt động kịp thời là những KN cần thiết cho việc học tập và cho sự
thành trong cuộc sống.
KN đánh giá quá trình GQNV học tập có các KN thành phần sau đây:
+ KN duyệt lại các bước lập luận (lập luận có đúng quy tắc hay không);
+ KN xem xét các cách GQNV, GQVĐ;
+ KN lựa chọn cách GQNV, GQVĐ tối ưu (đối với trình độ của HV);
+ KN phát hiện và sửa chữa sai lầm;
+ KN phản ánh kết quả thực hiện;
+ KN tổng hợp, khái quát.
1.1.2.3. Các biểu hiện của HV có kĩ năng SNT
Như đã nói ở trên, SNT là một hoạt động rất khó đo lường, nhận biết. Để phát hiện
ra hoạt động này, người ta thường sử dụng hai hình thức: quan sát và phỏng vấn. Để
nhận biết HV có KN SNT ở mức độ như thế nào có thể thông qua các biểu hiện sau:
a) HV có KN SNT biểu hiện trong học tập
Biểu hiện 1: Về hoạt động dự đoán
- Biết được nhiệm vụ/bài tập này thuộc loại nào?
- Biết diễn giải, phân tích để làm rõ nhiệm vụ như thế nào?
- Biết liên kết khi GQNV?
- Biết ước lượng mức độ khó khăn của nhiệm vụ?
- Biết ước lượng khả năng giải quyết được nhiệm vụ và thời gian cần thiết như
thế nào?
Biểu hiện 2: Về hoạt động lập kế hoạch
- Biết mục tiêu cần đạt là gì?
- Biết chia mục tiêu thành những nhiệm vụ nhỏ?
- Biết cần phải huy động những kiến thức nào để GQNV đặt ra?
- Biết sắp xếp theo một trình tự để GQNV?
- Biết lường trước khó khăn, cách thức giải quyết khó khăn đó?
- Biết tìm nguồn giúp đỡ là gì?
Biểu hiện 3: Về hoạt động giám sát
- Biết mình chưa hiểu về nhiệm vụ ở chỗ nào?
34
- Biết theo dõi tiến độ, điều chỉnh kế hoạch, thời gian cho phù hợp.
- Biết phát hiện các vấn đề mâu thuẫn trong khi GQNV.
- Biết phát hiện và sửa chữa sai lầm trong khi GQNV.
Biểu hiện 4: Về hoạt động đánh giá
- Biết những việc mà mình đang làm có hiệu quả không?
- Biết mình học được điều gì qua từng nhiệm vụ?
- Biết đây có phải là cách tốt nhất để GQNV hay không?
- Biết tại sao mình không giải quyết được vấn đề đặt ra?
- Biết mình có cần phải thay đổi cách thức làm việc để đạt hiệu quả hơn không?
Biểu hiện 5: Về hoạt động nhận thức
- Hiểu mình biết điều gì và chưa biết điều gì?
- Biết tiếp cận với nhiệm vụ như thế nào?
- Biết làm gì khi GQNV?
- Biết làm gì khi không hiểu về nhiệm vụ?
- Biết phải làm gì khi gặp khó khăn?
b) HV có KN SNT biểu hiện trong công tác
Khi HV có KN SNT sẽ có những biểu hiện trong công tác và GQNV ở những
khía cạnh sau:
- Có thể nghĩ ra nhiều cách để nâng cao khả năng, hiệu quả học tập của bản thân.
- Làm việc có kế hoạch và tuân theo kế hoạch một cách khoa học.
- Có thể đứng từ góc độ khách quan để quan sát toàn bộ những gì đang xảy ra
thay vì chỉ quan tâm đến những cái nhỏ nhặt.
- Có khả năng tự đánh giá bản thân từ góc nhìn khách quan về cách giải quyết
tình huống trong từng tình huống cụ thể.
- Có thể nhận ra những sai lầm của mình, rút kinh nghiệm và không mắc sai
lầm tương tự nữa.
- Mong muốn nghe những lời góp ý từ người có kiến thức, kinh nghiệm để
giúp cải thiện điểm yếu của bản thân.
Những biểu hiện trên của HV có KN SNT vừa là căn cứ để nhận biết vừa là
những hoạt động GV cần rèn luyện cho HV trong quá trình DH.
35
1.1.2.4. Mối quan hệ giữa KN SNT với hoạt động GQNV học tập trong học môn Toán
Polya [105] cho rằng "việc giải quyết một vấn đề có nghĩa là tìm cách thoát
khỏi khó khăn, một con đường xung quanh trở ngại, việc đạt được mục tiêu mà
không phải là ngay lập tức có thể đạt được". Polya [107] cho rằng chủ đề chính của
việc giải toán là GQVĐ và điều quan trọng trong DH là dạy cho HS suy nghĩ (tư
duy). Để làm được điều này, ông phát triển một lý thuyết gồm bốn giai đoạn người
ta nên tham gia vào GQVĐ. Bốn giai đoạn tiếp cận của Polya là: 1. Tìm hiểu và
nhận biết vấn đề; 2. Tìm giải pháp; 3. Thực hiện giải pháp; 4. Nhìn lại.
Giai đoạn đầu tiên: Tìm hiểu và nhận biết vấn đề. Để GQVĐ, là phải có sự
hiểu biết liên quan đến các vấn đề mà họ cần phải giải quyết. Chẳng hạn, để giải bài
toán chứng minh, HS cần phải biết đề bài đã cho những gì (giả thiết) và cần chứng
minh điều gì, sự kết nối giữa các giả thiết đề bài cho.
Giai đoạn thứ hai: Lập kế hoạch, yêu cầu suy nghĩ về việc đi tìm một giải
pháp như thế nào. Đây có thể coi là giai đoạn phác thảo. Trong giai đoạn này, người
GQVĐ sẽ nghĩ về các quy tắc, các thuật toán, hoặc định lý nào có thể giúp ích trong
việc GQVĐ. Những ý tưởng hay đều dựa trên kinh nghiệm và cần đến những KT
trước đây. Vào những lúc đó, người ta có thể nhớ lại một vấn đề trước tương tự
hoặc đơn giản hơn họ đã từng làm.
Giai đoạn thứ ba: Thực hiện, là khi một người tiến hành kế hoạch của mình.
Đây là thời gian cá nhân nhận ra liệu kế hoạch mà họ tiến hành có được thực hiện
hay không. Nếu kế hoạch mà cá nhân đã đưa ra không làm việc thì cá nhân này có
thể xem lại hai giai đoạn đầu tiên, là sự hiểu biết và lập kế hoạch. GQVĐ không
đơn giản chỉ là thực hiện thứ tự từng giai đoạn trên mà lặp đi lặp lại cho đến khi vấn
đề được giải quyết.
Giai đoạn 4: Xem lại, đây là "giai đoạn quan trọng và có tính hướng dẫn đối
với công việc" [106], nhưng thường bị bỏ qua. G. Polya cho rằng "Bằng cách nhìn
lại các giải pháp đã hoàn thành, bằng cách xem xét lại và kiểm tra lại kết quả và con
đường (cách) dẫn đến nó, họ có thể củng cố kiến thức và phát triển khả năng của
mình để GQVĐ" [107]. Như vậy, giai đoạn 4 chính là quá trình SNT.
Fernandez, Hadaway and Wilson [80] cung cấp một mô hình GQVĐ (Sơ đồ
1.4), trong đó bao gồm bốn giai đoạn của Polya và thêm quá trình quản lý, những
36
nhà giáo dục như Schoenfeld, Flavell và Brown gọi là SNT.
Sơ đồ 1.4. Khung nhấn mạnh tính chất năng động và vòng tròn
của hoạt động giải quyết vấn đề [97].
Để giải quyết một nhiệm vụ học tập, một vấn đề, không chỉ là một quá trình từ
trên xuống đơn giản gồm bốn giai đoạn, mà trong thực tế tất cả các giai đoạn được
xen kẽ, quay vòng, trộn lẫn và được tiến hành song song những phát hiện mới có xu
hướng thay đổi kế hoạch tổng thể. Quá trình quản lý ở đây cũng chính là hoạt động
kiểm soát hay sự điều chỉnh NT. Do đó, quá trình quản lý là thành phần có liên
quan đến KN SNT. Khi giải quyết một nhiệm vụ học tập, GQVĐ đòi hỏi phải có
quá trình quản lý hay sự kiểm soát các hoạt động NT, nghĩa là cần các KN dự đoán,
lập kế hoạch, giám sát, đánh giá. KN dự đoán giúp người học tìm hiểu vấn đề, mức
độ hiểu biết, những kiến thức có liến quan, những vấn đề có liên quan hoặc tương
tự. KN lập kế hoạch và giám sát hỗ trợ người học lập kế hoạch và triển khai kế
hoạch được tốt hơn. KN đánh giá giúp người học xem lại hoặc đánh giá lại toàn bộ
quá trình thực hiện. Như vậy, quá trình quản lý hay cụ thể là các KN SNT tham gia
hỗ trợ trong tất cả các giai đoạn GQNV học tập. Nếu có KN SNT tốt thì sẽ chúng
hỗ trợ việc GQNV học tập, GQVĐ được tốt. Ngược lai, từ việc giải quyết các
37
nhiệm vụ học tập là cơ hội để rèn luyện các KN SNT cho HV.
Trên cơ sở lược đồ của Polya, chúng tôi đưa ra chiến lược giải quyết một
nhiệm vụ học tập nhằm rèn luyện KN SNT và được thể hiện bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.5. Chiến lược giải quyến vấn đề
Chiến lược giải quyết một nhiệm vụ học tập cần thực hiện các hoạt động: Trước
tiên cần xác định được mục tiêu hoặc nhiệm vụ cần hoàn thành; sau đó lập kế hoạch
thực hiện; tiếp theo lựa chọn chiến lược hoặc là các phương pháp và thực hiện chiến
lược đó; sau khi thực hiện chiến lược đó cần đánh giá. Nếu thực hiện thành công thì
cần đánh giá xem đã hoàn thành mục tiêu chưa. Nếu thất bại thì cần xem lại chiến
lược đã sử dụng, điều chỉnh chiến lược và thực hiện cho đến khi thành công.
Ví dụ 1.2: Hai xạ thủ mỗi người bắn một viên đạn vào bia với XS trúng bia tương
ứng là 0,8 và 0,9. Tính XS để bia bị trúng đạn.
Giải:
Bước 1: Xác định mục tiêu, nhiệm vụ: Mục tiêu của bài toán là tính XS của biến cố
“Bia bị trúng đạn”.
Bước 2: Lập kế hoạch: Trong bài toán này, XS bắn trúng của người thứ nhất và
người thứ 2 tương ứng là 0,8 và 0,9.
38
Do đó, để tính được XS của biến cố “Bia bị trúng đạn” trước tiên cần mô tả các biến
cố cần thiết, tìm ra mối quan hệ giữa các biến cố.
Gọi Ai là biến cố “xạ thủ thứ i bắn trúng bia”(i=1,2), P(A1)=0,8; P(A2)=0,9.
Gọi A là biến cố “bia bị trúng đạn”.
Nhiệm vụ cần thực hiện là đi tìm mối quan hệ giữa biến cố A và các biến cố A1, A2.
Bước 3: Lựa chọn phương pháp thực hiện:
Có những cách nào để biểu diễn biến cố A theo các biến cố A1, A2?
+ Cách hiểu thứ nhất: Bia bị trúng đạn khi có ít nhất 1 người bắn trúng. Nghĩa là:
Biến cố A xảy ra khi có ít nhất 1 trong 2 biến cố A1, A2 xảy ra.
Hay nói cách khác:
Để tính được XS của A, cần sử dụng công thức XS của tổng các biến cố
xung khắc từng đôi một.
+ Cách hiểu thứ hai: Bia bị trúng đạn khi hoặc người thứ nhất bắn trúng hoặc người
thứ hai bắn trúng. Nghĩa là: Biến cố A xảy ra khi biến cố A1 hoặc A2 xảy ra. Hay nói
cách khác:
Để tính được XS của A, cần sử dụng công thức XS của tổng các biến cố A1 và A2.
= 0,8 + 0,9 – 0,8.0,9 = 0,98
+ Ngoài hai cách hiểu trên mà hầu hết HV sẽ lựa chọn trong quá trình giải quyết bài
toán, có thể gợi ý để HV suy nghĩ theo cách ngược lại (Biến cố đối).
Ngược với bia bị trúng đạn là bia không bị trúng đạn. Mà bia không bị trúng đạn khi
cả hai người cùng bắn trượt. Hay nói cách khác, biến cố xảy ra khi và
cùng xảy ra. Do đó:
Bước 3: Điều chỉnh và lựa chọn phương pháp tối ưu: Trong quá trình thực hiện cần
theo dõi chi tiết các nội dung đã thực hiện, xem xét hướng đi đã đúng chưa, cần điều
39
chỉnh hướng đi từ bước nào. Xem xét có bị sai trong khi tính toán, vận dụng công thức
có đúng không. Có thể chia sẻ, thảo luận nhóm để lựa chọn phương pháp phù hợp.
Bước 4: Đánh giá: Nhìn lại quá trình thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện, đánh
giá mức độ hoàn thành mục tiêu.
Tóm lại, để giải quyết một nhiệm cụ học tập hay GQVĐ thì phải trải qua các
quá trình (hiểu vấn đề, lập kế hoạch, triển khai kế hoạch, xem lại) và các quá trình
này xen kẽ, được tiến hành song song tạo thành một vòng tròn khép kín và luôn có
sự quản lý ở từng giai đoạn, vòng tròn này được gọi là SNT (theo Schoenfeld và
Flavell). Khi HV có kiến thức và kiểm soát các quá trình NT riêng của họ thì kết
quả học tập được nâng cao bất kể lĩnh vực học tập nào.
1.1.3. Mối quan hệ giữa nhận thức và siêu nhận thức
1.1.3.1. Sự khác nhau giữa NT và SNT
Theo [82], SNT và NT tương tự nhau về hình thức và chất lượng: Cả NT và
SNT đều có thể nhu nhận được, bị lãng quên, đúng hoặc không chính xác, v.v ...
Để hiểu sâu sắc hơn về SNT, chúng ta cần cần phân biệt được những khía
cạnh căn bản của NT và SNT đươc thể hiện dưới bảng sau:
Bảng 1.2. Sự khác nhau giữa NT và SNT
Nhận thức Siêu nhận thức
NT là hiểu được điều gì đó, tiếp SNT bao gồm kiến thức về NT và Quan
thu được những kiến thức về điều điều chỉnh về NT. Kiến thức về NT điểm
gì đó, hiểu biết những quy luật về bao gồm kiến thức khai báo, kiến
những hiện tượng, quá trình nào thức thủ tục và kiến thức điều kiện.
đó” [17]. Điều chỉnh về NT là biểu thị của
việc lập kế hoạch, giám sát và đánh
giá NT.
Đi song song cùng hoạt động NT, Mục tiêu Mục tiêu NT là nhằm giải quyết
một nhiệm vụ NT, giải quyết hỗ trợ hoạt động NT đạt hiệu quả.
nhiệm vụ đặt ra.
Đối tượng của NT là về những thứ Đối tượng của SNT là kiến thức, Đối
trong cả thế giới thực và hình ảnh KN và thông tin về NT (một phần tƣợng
40
tinh thần của chúng (ví dụ, đối của thế giới tinh thần) [82].
tượng, con người, sự kiện, hiện
tượng vật lý, dấu hiệu, v.v., KN
xử lý các thực thể này và thông tin
về các nhiệm vụ) [82].
NT có chức năng GQVĐ và mang SNT dùng để điều chỉnh định Chức
lại kết quả khi GQVĐ. hướng NT của cá nhân trong năng
GQVĐ hay thực hiện nhiệm vụ.
Ví dụ: khi đọc một tài liệu, người Ví dụ: Khi người đọc nhận thấy
đọc dùng các KN đọc để hiểu tài mình không hiểu nội dung đang
liệu đó (NT) đọc; họ có thể dừng lại suy ngẫm,
liên hệ với kiến thức đã có liên
quan đến nội dung và loại bỏ sự
phân tâm trong quá trình đọc
(SNT).
KN SNT đề cập đến khả năng kiểm Kĩ năng KN NT là tất cả các hình thức
hiểu biết và NT, như cảm nhận, soát, giám sát và tự điều chỉnh các
ghi nhớ, suy luận, phán đoán, hoạt động diễn ra khi học tập và
tưởng tượng và GQVĐ. Từ đó có GQVĐ.
thể hiểu đơn giản, KN NT là kiến
thức mà người ta có được và khả
năng để học kiến thức mới (theo
[104]).
KN NT gồm có các KN: Hiểu biết KN SNT gồm có: Dự đoán; Lập kế
về số; Hiểu biết về kí hiệu phép hoạch; Giám sát; Đánh giá [73].
toán; Hiểu biết về hệ thống số;
Thủ tục tính toán; Hiểu ngôn ngữ
Toán; Hiểu ngữ cảnh; Diễn tả;
Lựa chọn thông tin liên quan;
41
Hiểu ý nghĩa của số [73].
KN NT giúp người học xử lý, KN SNT được sử dụng để giám sát
thao tác và lưu trữ thông tin [82]. tiến trình NT trong một nhiệm vụ
NT [82].
KN NT giúp người học: Thu nhận KN SNT giúp người học: Tự kiểm
thông tin; Xử lí thông tin; Lưu tra kết quả các bước học tập; Điều
trữ thông tin [10]. chỉnh kế hoạch, phương pháp học
tập [10].
KN NT là điều cần thiết để thực KN SNT là cần thiết để hiểu cách
hiện các nhiệm vụ [114]. NT liên thức thực hiện nhiệm vụ [114].
quan đến việc thực hiện [90]. SNT liên quan đến việc lựa chọn
và lập kế hoạch những việc cần
thực hiện và giám sát những gì
đang được thực hiện [90].
Ví dụ: Những KN dùng để đọc tài Ví dụ: những KN cần để theo dõi
liệu (KN NT). mức độ hiểu của bản thân về tài
liệu đó (KN SNT).
Chiến lược NT là tập hợp những Chiến lược SNT đề cập đến việc Chiến
chiến lược thuộc về tinh thần giám sát có ý thức và điều chỉnh lƣợc
được từng cá nhân lựa chọn, sử chiến lược NT của một người để
dụng và điều khiển trong một môi đạt được các mục tiêu cụ thể. Ví
trường học tập đặc biệt để giúp dụ, khi người học tự đặt những câu
việc tiếp thu ngôn ngữ và KN dễ hỏi về việc học tập của mình và sau
dàng hơn và để đạt được các mục đó họ quan sát việc trả lời những
tiêu tốt hơn [75]. câu hỏi này như thế nào [83].
Chiến lược NT đề cập đến việc sử Chiến lược SNT liên quan đến các
dụng những phương pháp, kĩ thuật chiến lược nhằm mục đích phân
riêng nhằm hỗ trợ người học đạt tích, theo dõi, đánh giá, lập kế
được mục tiêu đặt ra [76]. hoạch và tổ chức quá trình học tập
42
của chính mình [76].
Trong lĩnh vực TH, các chiến Chiến lược SNT cơ bản là: Kết nối
lược NT là các quá trình khám thông tin mới với kiến thức cũ; Đặt
phá đặc thù hoặc các quy trình câu hỏi; Lựa chọn chiến lược tư
khái quát như đọc vấn đề, diễn duy; Lập kế hoạch, giám sát và
giải, hình dung, đặt giả thuyết, đánh giá các quy trình suy nghĩ
ước lượng, tính toán và kiểm tra [70].
vấn đề.
Các chiến lược NT thức hỗ trợ Chiến lược SNT thì kiểm soát tiến
để thực hiện tiến trình NT. trình NT.
Chiến lược NT là những chiến Chiến lược SNT đề cập đến các
lược hỗ trợ cá nhân hoàn thành quy trình kiểm soát hoặc điều
một mục tiêu cụ thể ([98], [89]). chỉnh như lập kế hoạch, giám sát
và đánh giá, mà các cá nhân sử
dụng để đảm bảo rằng mục tiêu cụ
thể được thực hiện ([98], [89]).
Mặc dù sự phân biệt lý thuyết có thể được tạo ra giữa SNT và NT, nhưng
trong thực tế khi thực hiện một nhiệm vụ học tập hay GQVĐ, người học liên tục
thực hiện xen kẽ giữa các quá trình SNT và NT [78]. SNT là tự NT về bản thân, có
lúc SNT đứng tách ra khỏi NT, có lúc lại gắn chặt với NT. Chính vì vậy, rất nhiều
nhà nghiên cứu thừa nhận việc phân biệt NT và SNT không dễ dàng.
1.1.3.2. Hoạt động NT và SNT trong quá trình GQNV học tập
Để phân biệt các hoạt động NT và SNT, Artzt and Armour-Thomas' (1992)
coi các hoạt động SNT có thể được biểu hiện bởi các diễn đạt về vấn đề hoặc về
quá trình GQVĐ, trong khi đó hoạt động NT được biểu hiện bởi các hành động
thể hiện cho quá trình thực hiện [68].
Ví dụ 1.3: Khi tôi đang tiến hành GQVĐ tôi có thể nhận ra rằng vấn đề đó phức
tạp hơn là tôi nghĩ ban đầu (SNT). Tôi có thể nghĩ rằng tốt nhất là nên quay lại
43
từ đầu (SNT), vì thế tôi đọc lại vấn đề tin chắc rằng mình đã hiểu đầy đủ vấn đề
(NT). Nếu không gặp phải khó khăn gì tôi có thể tiến hành cho đến đích (NT),
nếu xuất hiện khó khăn không giải quyết được, tôi phải cân nhắc việc tìm kiếm
con đường khác để đến đích (SNT) [120].
Khung NT - SNT của Artzt và Armour- Thomas (Phụ lục 9), việc phân tích sơ
bộ những hoạt động nào là SNT hay NT trong quá trình GQVĐ trong TH được thể
hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 1.3. Những hoạt động SNT hay NT trong quá trình GQVĐ theo Artzt và
Armour- Thomas [68]
Nhận thức Siêu nhận thức
HS đọc vấn đề hoặc nghe người Hoạt động Đọc vấn
nào đó đọc vấn đề. HS đó có thể đề
đọc thầm vấn đề hoặc đọc to vấn
đề cho nhóm đó.
HS cân nhắc kiến thức nào phù hợp Hiểu vấn
với vấn đề: Kiến thức đó bao gồm đề
sự nhận biết về ngôn ngữ, ngữ
nghĩa và sơ đồ có trong vấn đề theo
cách diễn đạt vấn đề ở dạng khác
của mình.
HS phân tích vấn đề thành các yếu Phân
tố cơ bản và kiểm tra các mối liên tích vấn
hệ tường minh hay ẩn giữa những đề
điều đã cho và các mục tiêu cần
giải quyết của các vấn đề.
HS lựa chọn các bước GQVĐ và Lập kế
chiến lược kết hợp các bước đó hoạch
sao cho có khả năng dẫn đến lời
giải nếu được thực hiện. Ngoài ra
HS có thể đánh giá tình trạng của
44
giải pháp và có thể quyết định
thay đổi nếu cần thiết.
HS rời khỏi vấn đề để tự hỏi mình Thăm dò HS thực hiện chiến lược thử và
sai. HS thực hiện một loạt các tính những gì đã làm được trong quá
toán thiếu sự rõ ràng cho công trình thăm dò. Đưa ra các đề xuất
việc. Không có một trình tự tường về những gì cần thử tiếp theo trong
minh cho các hoạt động của HS. cuộc thăm dò. Đánh giá tình trạng
thăm dò.
HS thực hiện một chiến lược phát Trong tiến trình thực hiện HS có Thực
triển từ sự hiểu biết, phân tích các thể tạm rút ra khỏi công việc để hiện
quyết định và phán đoán về kế xem xét những gì đã thực hiện
hoạch của mình. Thực hiện một được và sẽ dẫn đến đâu.
loạt các tính toán tuần tự và mạch
lạc. Có bằng chứng về một quy
trình có trật tự.
HS đánh giá kết quả của công việc Xác
bằng cách kiểm tra các họat động nhận
tính toán. Làm lại các thao tác tính
toán đã làm trước đó để kiểm tra
xem chúng đã được thực hiện
đúng chưa.
Trong mô tả khung NT - SNT của Artzt và Armour- Thomas có sự phân tách
giữa bước hiểu vấn đề và bước phân tích vấn đề. Tuy nhiên, hai bước này gắn chặt với
nhau, có thể coi hiểu vấn đề là sự khởi đầu của bước phân tích vấn đề, còn phân tích để
hiểu vấn đề sâu hơn. Do đó, có thể gộp hai bước này thành bước phân tích vấn đề.
Ví dụ 1.4: XS để một khẩu pháo bắn trúng mục tiêu ở mỗi lần bắn là 0,6. Biết rằng
XS mục tiêu bị tiêu diệt khi trúng một, hai, ba phát đạn tương ứng là 0,2 ; 0,6 và
1,0. Tính XS mục tiêu bị tiêu diệt sau ba lần bắn độc lập.
Khi đó hoạt động GQVĐ có thể tiến hành theo các bước như sau:
Bước đọc vấn đề: HV đọc vấn đề ( NT)
45
Bước phân tích: HV nghĩ rằng mục tiêu sẽ bị tiêu diệt nếu như xảy ra một trong
ba trường hợp: Bắn trúng 1 viên; trúng 2 viên; trúng cả 3 viên. Do đó, biến cố bắn
trúng mục tiêu sẽ bằng tổng 3 biến cố trúng 1 viên; trúng 2 viên; trúng cả 3 viên (SNT).
Bước lập kế hoạch: HV cần thực hiện được 3 nhiệm vụ nhỏ là tính được XS
để trúng 1 viên; trúng 2 viên; trúng cả 3 viên. Bắn 3 viên đạn, mỗi viên có XS như
nhau nên đây là dãy phép thử Bernoulli. Do đó có thể sử dụng công thức Bernoulli
để tính (SNT).
Bước thăm dò (NT): HV tiến hành thăm dò
Gọi là biến cố sau 3 lần bắn có đúng j viên trúng mục tiêu, ( ).
Áp dụng công thức Becnuli, ta có: ;
;
Gọi H là biến cố mục tiêu bị tiêu diệt theo giả thiết ta có: .
Do B1, B2, B3 xung khắc nên:
Bước xác nhận (SNT): HV xem xét lại quá trình suy nghĩ của mình và phát
hiện ra trong lời giải có sự liên hệ giữa XS diệt mục tiêu với số viên đạn trúng mục
tiêu. Tuy nhiên, trong tính toán lại không thấy sử dụng đến XS khi trúng một, hai,
ba phát đạn tương ứng là 0,2 ; 0,6 và 1,0. Vì vậy, HV quyết định thay đổi hướng tìm
kiếm khác (SNT).
Bước phân tích: HV nhận thấy trong lời giải thăm dò trên thì biến cố H xảy ra
khi một trong các biến cố B1, B2, B3 xảy ra và dẫn đến sai lầm. Ở đây biến cố H xảy
ra cùng với một biến cố trong 3 biến cố B1, B2, B3. Do đó cần sử dụng công thức XS
đầy đủ. Tuy nhiên, các biến cố B1, B2, B3 chưa phải là hệ biến cố đầy đủ nên cần bổ
sung thêm biên cố để được hệ đầy đủ (SNT).
Bước thực hiện (NT):
Gọi là biến cố sau 3 lần bắn có đúng j viên trúng mục tiêu, ( ).
Áp dụng công thức Becnuli, ta có:
; ;
46
;
Gọi H là biến cố mục tiêu bị tiêu diệt theo giả thiết ta có:
; ; ; .
Các biến cố lập thành một nhóm đầy đủ các biến cố.
Áp dụng công thức XS toàn phần ta có:
P(H)=0,064.0+0,228.0,2+0,432.0,6+0,216.1 P(H) = 0,5208.
Bước xác nhận (NT): Trong lời giải vừa thực hiện đã có sự liên kết giữa các
XS đã cho và các biến cố H xảy ra cùng với hệ biến cố đầy đủ B0, B1, B2, B3 nên
hướng GQVĐ là đúng, tính toán là chính xác (NT).
Như vậy, có thể thấy giữa NT và SNT có mối liên kết chặt chẽ không tách rời
nhưng có thể phân biệt một cách tương đối. Những hoạt động NT là đối tượng của
SNT, SNT dựa trên NT; có NT thì mới có quá trình SNT và ngược lại SNT hỗ
trợ NT đạt hiệu quả hơn. Mục đích của NT là hiểu được điều gì hay giải quyết
một nhiệm vụ, SNT đứng bên ngoài NT, hỗ trợ NT đạt hiệu quả. Trong bối cảnh
giải quyết một nhiệm vụ học tập, NT và SNT không hoạt động độc lập tách rời,
giữa chúng luôn có sự tác động qua lại, đan xen và hỗ trợ nhau trong suốt quá trình
thực hiện. Cả NT và SNT đều đóng vai trò thiết yếu trong học tập hiệu quả nhưng
mỗi loại có một vai trò riêng. Rất khó để có SNT đầy đủ trong một miền mà không
có kiến thức NT cụ thể về miền đó. Về KN SNT, không thể tham gia lập kế hoạch
mà không thực hiện các hoạt động NT, chẳng hạn như tạo ra các bước GQVĐ và
sắp xếp các bước đó. Tương tự, không thể kiểm tra kết quả của một phép tính mà
không so sánh kết quả với ước tính của nó hoặc tính toán lại kết quả theo cách khác.
1.1.4. Đặc điểm, chức năng, vai trò và đánh giá SNT
1.1.4.1. Đặc điểm của hoạt động SNT
Đặc điểm của SNT là:
- SNT luôn đi cùng NT, hỗ trợ để NT đạt hiệu quả hơn. SNT đứng bên ngoài
nhìn vào quá trình NT, kiểm soát quá trình NT.
47
- Giám sát tích cực và chủ động quá trình NT trong mối quan hệ với các nhiệm
vụ học tập.
- Điều chỉnh quá trình NT để luôn hướng tới mục tiêu đặt ra.
- Người học tự tìm tòi các giải pháp, các chiến lược hiệu quả để GQNV học tập
- Đánh giá quá trình và kết quả đạt được so với mục tiêu đã đặt ra.
Tóm lại, đặc điểm của SNT là NT về quá trình suy nghĩ của bản thân và có
nguồn gốc từ bên trong đầu của con người gắn với các hoạt động trí tuệ.
1.1.4.2 Chức năng của SNT
Theo Wilson [133], SNT có ba chức năng cơ bản:
- Chức năng NT (awareness function)
- Chức năng đánh giá (evaluation function)
- Chức năng điều chỉnh (regulation function)
Sơ đồ 1.6. Mô hình chức năng của siêu nhận thức của Wilson [133]
Chức năng NT của SNT liên quan đến sự NT của bản thân trong quá trình học
tập, về những kiến thức vốn có, hiểu biết về những chiến lược học tập và những yêu
cầu trong khi GQVĐ hay những tình huống riêng.
Như vậy, chức năng NT giúp người học nhận biết được chính bản thân mình,
về những gì mình biết hay chưa biết. Chức năng NT là cơ sở cho các chức năng còn
lại (đánh giá và điều chỉnh) được thực hiện hiệu quả hơn.
Chức năng đánh giá của SNT đề cập đến sự phê phán về điểm mạnh và điểm
yếu trong quá trình tư duy của một người ở những tình huống cụ thể. Trong đó, mỗi
người có thể đưa ra nhận xét của mình về hiệu quả tư duy và việc lựa chọn các
chiến lược. Qua các tiêu chí đánh giá, người học nhìn lại quá trình học tập của mình
48
và biết được mức độ hoàn thành đã đạt yêu cầu chưa. Tự đánh giá đóng vai trò quan
trọng trong đánh giá vì tự đánh giá là người học chủ động xem xét lại quá trình, kết
quả học tập của mình để tự điều chỉnh cách học, xác định động cơ học tập và lập kế
hoạch để tự nâng cao kết quả học tập.
Chức năng điều chỉnh của SNT diễn ra khi các cá nhân điều chỉnh quá trình tư
duy của mình. Họ sử dụng các KN SNT để điều khiển kiến thức và tư duy. Đồng
thời, họ suy ngẫm về hiểu biết của chính mình về bản thân, về các chiến lược (làm
cách nào và tại sao lại có thể sử dụng các chiến lược đó).
Như vậy, với những chức năng trên SNT giúp chúng ta ý thức được về bản
thân, về nhiệm vụ cũng như tiến trình thực hiện, cách điều chỉnh và đánh giá để
nhiệm vụ đó được thực hiện có hiệu quả hơn. SNT được hình thành trên cơ sở
những việc làm có kế hoạch. Vì thế, SNT không những mang lại kết quả tốt hơn mà
còn giúp chúng ta hình thành các KN tư duy và tính chủ động để GQVĐ.
1.1.4.3. Vai trò của SNT trong dạy học
Nghiên cứu về việc SNT trợ giúp HS như thế nào trong việc GQVĐ của mình
và GV quan tâm như thế nào đến việc dạy SNT.
Wang (1990) và các cộng sự phát hiện ra rằng, SNT đứng đầu trong số 200
yếu tố ảnh hưởng đến kết quả việc học. Họ chỉ ra rằng các KN SNT là khả năng kết
hợp với thông điệp quan trọng trước kiến thức, suy luận, và giám sát hoặc đánh giá
hiệu suất cá nhân chứng minh trong quá trình đọc [130].
Artz và Armour-Thomas (1998) đã nghiên cứu SNT của GV sau một thời gian
DH Toán. Sau một học kỳ quan sát bảy GV Toán mới vào nghề, dựa trên quan sát,
kế hoạch bài học, và băng ghi hình/ghi âm của cuộc phỏng vấn có cấu trúc, họ kết
luận rằng SNT của GV có ảnh hưởng đến khả năng GQVĐ của HS. Nói cách khác,
một người GV phải nắm rõ các chiến lược SNT và có KN SNT thì mới có thể dạy
HS của mình một cách hiệu quả [69].
Taraban (2000) và các cộng sự khám phá mối quan hệ giữa các KN SNT và
kết quả học tập giữa các HS. Họ nghiên cứu các chiến lược SNT thường được sử
dụng bởi các HS và những chiến lược là hữu ích cho thành tích học tập của họ. Phát
49
hiện của họ cho thấy rằng chiến lược SNT cho việc đọc hiểu có thể cải thiện kết quả
học tập của HS [118].
Teong (2000) đã tiến hành một nghiên cứu thử nghiệm trên 40 HS Singapore
độ tuổi 11, 12 về những ảnh hưởng của việc dạy SNT đến khả năng GQVĐ của HS.
Nghiên cứu chia các HS thành 2 nhóm: nhóm thử nghiệm và nhóm đối chứng. Các
kết quả của nghiên cứu này chứng minh rằng có sự tiến bộ đáng kể trong nhóm thử
nghiệm, các HS nhóm TN có nhiều khả năng giải quyết bài toán hơn nhóm ĐC.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nếu chỉ biết chiến lược SNT là gì thì không đủ để
GQVĐ, HS cần có khả năng để biết khi nào là thích hợp để sử dụng và làm thế nào
để sử dụng chúng một cách hiệu quả [120].
Teri Rysz (2004) sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để xác định các
chiến lược SNT của HS khi học về cơ sở TK, các khái niệm XS và khi GQVĐ, một
mình hoặc với các SV khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các HS có kết quả
trên trung bình có thể sử dụng một cách hạn chế hoặc không sử dụng chiến lược
SNT. Tuy nhiên, những SV có sử dụng chiến lược SNT rõ ràng có một sự hiểu biết
XS, TK tốt hơn [119].
Desoete A. (2007) nghiên cứu hiệu quả của việc DH Toán thông qua KN
SNT trên 32 HS lớp 3 và lớp 4 ở Bỉ. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng có bằng
chứng chứng tỏ DH Toán thông qua rèn luyện SNT là thực sự có ích. Nghiên cứu
này cũng chỉ rõ, việc áp dụng SNT dạy Toán cho HS phụ thuộc vào xếp hạng của
GV, tới 22,2%. Nghiên cứu đề xuất rằng muốn dạy SNT cho HS thì GV cần thiết
kế các phương pháp đa dạng, bao gồm các câu hỏi để có một bức tranh khái quát
về KN SNT [74].
Qua một số nghiên cứu, có thể thấy rằng các tác giả đều đưa ra những bằng
chứng chứng tỏ rằng SNT giúp ích cho quá trình học tập của người học. Tuy nhiên,
mức độ sử dụng SNT như thế nào còn khác nhau giữa các cá nhân và còn phụ thuộc
vào cả GV của họ nữa.
1.1.4.4. Đánh giá SNT
SNT là một hoạt động rất khó đo lường, nhận biết. Để phát hiện ra hoạt động
này, người ta thường sử dụng hai hình thức: quan sát và phỏng vấn.
50
Quan sát các đối tượng nghiên cứu trong một hoàn cảnh cụ thể để xem các
phản ứng. Tuy nhiên, việc này không thể chỉ ra một cách rõ ràng các hoạt động
SNT bởi quan sát chỉ thấy được những biểu hiện ra bên ngoài mà không thấy được
quá trình suy nghĩ của đối tượng.
Phỏng vấn làm rõ hơn quá trình suy nghĩ để cho ra kết quả của đối tượng được
nghiên cứu. Tuy nhiên, việc này phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người được
phỏng vấn bởi họ có thể thay đổi những suy nghĩ đang/ đã diễn ra trong đầu mình
cho phù hợp với ý muốn của mình mà người phỏng vấn không biết được.
Chuyên khảo "Metacognition for the classroom and beyond: differentiation
and support for learners" của tổ chức SESS (Special Education Support Service)
[116] đưa ra các kĩ thuật đánh giá kiến thức siêu nhận thức như sau:
- Nói chuyện với HS về kiến thức SNT, lắng nghe HS khi họ nói chuyện về
NT và học tập của mình (đánh giá không chính thức).
- Tổ chức thảo luận về các nội dung kiến thức của bài học, hỏi một số câu hỏi,
lắng nghe câu trả lời và nói chuyện với HS, từ đó ước tính chiều sâu kiến thức của
HS (đánh giá chính thức).
- Tự đánh giá: HS có cơ hội để đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của chính mình.
- Sử dụng danh mục đánh giá (portfolio assessment): người học suy nghĩ về
công việc của mình và tự đánh giá theo những thông tin trong danh mục đánh giá.
Nhưng những kĩ thuật này mới dừng lại ở việc đánh giá định tính SNT và
thường là đánh giá không chính thức.
Tobias và Everson (1996) đã tạo ra một công cụ đánh giá tập trung vào thành
phần giám sát sự hiểu biết của siêu nhận thức [121]. Đầu tiên, cần đặt câu hỏi xem
liệu HS có biết một điều gì đó hay không và sau đó thách thức HS đó bằng một
nhiệm vụ hoặc một câu hỏi mà có thể chứng minh HS đó đã đúng trong đánh giá
của mình. Ví dụ: Một HS được hỏi xem có biết nghĩa của một từ nào đó không, sau
đó được gợi ý đưa ra định nghĩa của từ đó. Trong một kịch bản định hướng nhiệm
vụ, HS được trình bày với một vấn đề toán học, được hỏi liệu HS có thể giải quyết
vấn đề đó và tại một số thời điểm sau đó, được kiểm tra bằng các hỏi các câu hỏi để
GQVĐ. HS được trình bày bởi hệ thống các câu hỏi như vậy và sau khi trả lời tất cả
51
các câu hỏi đó, HS được giao cho một thách thức với mỗi câu hỏi. Bằng cách thu
thập một số đánh giá cơ bản có ý nghĩa, bản đánh giá giám sát sự hiểu biết cho ta
một thống kê sơ lược về NT người học về kiến thức của chính mình. Với mỗi đánh
giá của người học được cho tương ứng như sau:
- Người học nói rằng họ biết và thực sự thực hiện được: (a)[+ +]
- Người học nói rằng họ không biết nhưng vượt qua được thách thức: (b)[- +]
- Người học nói rằng họ biết nhưng thất bại khi bị thách thức: (c)[+ -]
- Người học nói rằng họ không biết và thực sự không thực hiện được: (d)[- -].
Bảng 1.4. Bảng đánh giá giám sát sự hiểu biết của Tobias và Everson [121]
Đánh giá của HS Kết quả thực hiện Biết Không biết
Làm được (a) [+ +] (a) [- +]
Không làm được (a) [+ -] (a) [- -]
Sau đó kết quả đánh giá giám sát sự hiểu biết được tính bằng công thức đơn
giản: ((a + d) −(b + c))/(a + b + c + d). Con số này luôn nằm trong khoảng từ -1 đến
1. Kết quả là 1 thu được khi b và c đều bằng 0, tức là khi học sinh không bao giờ sai
trong việc đánh giá kiến thức của mình. Ngược lại, kết quả là -1 thu được đối với
một học sinh luôn sai trong việc đánh giá kiến thức của mình. Kết quả bằng 0 sẽ thu
được khi số lần học sinh đánh giá sai kiến thức của mình bằng số lần đánh giá đúng.
Dựa trên cách đánh giá của Tobias và Everson (1996), Gama [88] đưa ra các
phương pháp đánh giá kĩ năng SNT của học sinh, phân tích những lợi ích và những
nguyên nhân sai lầm và hạn chế của những phương pháp này. Cách đánh giá KN
giám sát như sau:
Hoạt động dự đoán: Được chia làm 3 mức: Không làm được; Làm được một
phần; Làm được.
Hoạt động thực hiện: Được chia làm 3 mức: Không làm đúng; làm đúng 1
phần; làm đúng.
Khi đó mối tương quan giữa hoạt động dự đoán và hoạt động thực hiện được
cho điểm bởi bảng sau:
52
Bảng 1.5. Bảng tương quan giữa hoạt động dự đoán và thực hiện của Gama [88]
Dự đoán Không làm được Làm được 1 phần Làm được
Thực hiện Không làm được 1 -0.5 -1
Làm được 1 phần -0.5 1 -0.5
Làm được -1 -0.5 1
Phân loại kết quả điểm trung bình được chia thành 3 mức
Bảng 1.6. Thang phân loại giá trị điểm của Gama [88]
Giá trị điểm Phân loại Sự giải thích
[-1, -0.25) Mức thấp Người học không ước tính một cách chính xác
kiến thức của mình trong phần lớn các tình huống
[-0.25, 0,5) Mức trung Người học đôi khi ước tính một cách chính xác,
bình nhưng thường xuyên ước tính sai một phần hoặc
sai hoàn toàn
[0.5, 1] Mức cao Người học phần lớn ước lượng chính xác kiến
thức của mình
Cách đánh giá của Gama được chúng tôi sử dụng để đánh giá một phần trong
phần đánh giá kết quả thực nghiệm. Tuy nhiên, trong thang phân loại chia mức
trung bình trong một khoảng giá trị quá lớn, từ [-0.25, 0,5) chiếm hầu hết các giá trị
điểm. Do đó, chúng tôi lấy thang phân loại chia làm 4 mức như sau:
Bảng 1.7. Thang Phân loại giá trị điểm dựa theo thang phân loại của Gama
Giá trị điểm Phân loại Sự giải thích
Mức rất HV hầu như không ước tính một cách chính xác [-1; -0,5) thấp kiến thức của mình trong phần lớn các tình huống
HV thường xuyên ước tính sai một phần hoặc [-0,5; 0) Mức thấp hoàn toàn sai
Mức trung HV đôi khi ước tính một cách chính xác hoặc ước [0; 0,5) bình tính sai một phần
[0,5; 1] Mức cao HV phần lớn ước lượng chính xác kiến thức của mình
53
Để đánh giá SNT, các phương pháp khác nhau để đánh giá các KN SNT đã
được phát triển. Các phương pháp này khác nhau về cách thức và thời điểm đánh
giá diễn ra. Đối với cách đánh giá các KN SNT, phương pháp phỏng vấn được thực
hiện, phương pháp này thường được thực hiện ở hai dạng: phương pháp gián tiếp và
trực tiếp [125]. Phương thức gián tiếp là phương pháp đánh giá được sử dụng trước
hoặc sau khi GQNV thông qua bảng câu hỏi và các cuộc phỏng vấn. Phương thức
trực tiếp là các phương thức đánh giá các KN SNT diễn ra trong quá trình GQNV
thông qua quan sát có hệ thống, phân tích giao thức suy nghĩ. Sự khác biệt cơ bản
giữa phương pháp gián tiếp và phương pháp trực tiếp là các biện pháp gián tiếp chỉ
dựa vào tự báo cáo từ người học, trong khi các biện pháp trực tiếp liên quan đến mã
hóa hành vi của người học theo các tiêu chí được xác định bên ngoài [126].
1.2. Dạy học toán theo hƣớng tăng cƣờng rèn luyện KN SNT cho HV
1.2.1. Quan niệm về DH toán theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT
1.2.1.1. Kĩ năng, rèn luyện kĩ năng
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về KN thường tiếp cận vấn đề theo một
trong hai hướng sau đây:
- Tiếp cận KN dưới góc độ kĩ thuật, thao tác của hành động của con người
trong quá trình hoạt động:
Tác giả Trần Trọng Thủy khi bàn về KN đã viết: “KN là mặt kỹ thuật của
hành động. Con người nắm được cách thức hành động - tức là kỹ thuật của hành
động là có KN" [62].
Tác giả Thái Duy Tuyên: “Mỗi KN bao gồm một hệ thống thao tác trí tuệ và thực
hành; thực hiện trọn vẹn hệ thống này sẽ đảm bảo đạt được mục đích đã đặt ra” [61].
- Tiếp cận KN gắn với năng lực hành động của con người:
N.Đ.Lê-vi-tôp “KN là sự thực hiện có kết quả một động tác hay một hoạt động
phức tạp bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn có tính đến điều
kiện của nó” (Dẫn theo [43]).
Theo tác giả A.G. Côvaliôp: “KN là phương thức thực hiện các hành động phù
hợp với mục đích và điều kiện của hành động" [9].
54
Trong từ điển Tâm lí học [17], “KN là năng lực vận dụng có kết quả những tri
thức đã được chủ thể lĩnh hội về phương thức hành động để thực hiện những nhiệm
vụ tương ứng”.
Tác giả Đặng Thành Hưng quan niệm rằng: “KN là những dạng chuyên biệt
của năng lực nhằm thực hiện hành động cá nhân. Năng lực luôn được xem xét trong
mối quan hệ với một dạng hoạt động nhất định. Năng lực phải được cấu thành bởi
ba yếu tố căn bản: tri thức về lĩnh vực hoạt động và cách tiến hành; KN tiến hành
hoạt động; những điều kiện tâm lý để tổ chức thực hiện tri thức và KN trong một cơ
cấu thống nhất và có định hướng cụ thể"[30].
Khi bàn về KN, cần lưu ý một số điểm sau đây:
- KN trước hết là mặt kỹ thuật của một thao tác hay một hành động nhất định,
không có KN chung chung, trừu tượng, tách rời hành động cá nhân của con người.
Khi nói tới KN là nói tới một hành động cụ thể đạt tới mức đúng đắn và thuần thục
nhất định.
- Thành phần của KN bao gồm tri thức, kinh nghiệm đã có, quá trình thực hiện
hành động, sự kiểm soát thường xuyên trực tiếp của ý thức và kết quả của hành động.
- Tiêu chuẩn để xác định sự hình thành và mức độ phát triển của KN là: tính
chính xác, tính thành thạo, tính linh hoạt và sự phối hợp nhịp nhàng các động tác
trong hành động. Hành động chưa thể trở thành KN nếu hành động đó còn vụng về,
mất nhiều công sức và thời gian để triển khai.
Chúng tôi thống nhất cách hiểu kỹ năng theo Nguyễn Quang Uẩn: “KN là khả
năng thực hiện có kết qủa một hành động hay một hoạt động nào đó b ng cách lựa
chọn và vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp
với những điều kiện thực tiễn cho ph p”[64].
Các nhà tâm lý học đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về quá trình hình
thành KN. Tuy nhiên, họ đều đi đến một kết luận thống nhất rằng: KN được hình
thành trong hoạt động. Nghĩa là, để hình thành được KN con người cần phải trải
qua một quá trình rèn luyện, thông qua việc thực hiện các hành động, thao tác để đạt
được đến mức độ thành thạo và linh hoạt. Chủ thể phải luyện tập qua các bước nhất
định để hình thành KN và KN ổn định khi chủ thể thực hiện hành động có kết quả
trong mọi điều kiện khác nhau của thực tiễn.
55
Theo từ điển Tiếng Việt [44], rèn luyện là “luyện tập nhiều lần trong thực tế
để đạt tới những phẩm chất hay trình độ vững vàng, thông thạo”. Rèn luyện KN là
sự luyện tập KN đó nhiều lần trong môi trường luyện tập ổn định tạo nên sự thay
đổi từng bước để hình thành và phát triển KN đó từ thấp đến cao, từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện.
Tác giả Abdoublina đã coi bản chất của sự rèn luyện KN là hướng đến việc
hình thành KN là trước nhất, sau đó là củng cố KN hoặc là nâng cao, phát triển KN
đạt đến một mức độ mới hơn về “chất” [1]. Tác giả Gonobolin cho rằng: Rèn luyện
KN là sự thực hiện một số thao tác trong một dạng hoạt động được lặp đi, lặp lại
nhiều lần với mục đích nắm vững chúng dựa trên NT và được hỗ trợ bởi sự kiểm
soát và điều chỉnh của ý thức [19]. Ngoài ra, khi bàn về mối quan hệ của việc rèn
luyện KN trong quá trình đào tạo, các tác giả cho rằng: việc phát triển KN phải
thông qua các hoạt động dạy và học bằng việc thực hiện các thao tác, động tác đó
nhiều lần, quá trình này gọi là quá trình rèn luyện KN.
Như vậy, rèn luyện KN được hiểu là sự luyện tập KN đó nhiều lần để hình
thành và phát triển KN đó tới mức độ vững vàng, thông thạo.
Từ quan niệm về rèn luyện KN trên, chúng tôi thống nhất hiểu: Rèn luyện KN
SNT cho HV là việc tổ chức các hoạt động DH nh m luyện tập các KN SNT lặp đi
lặp lại nhiều lần trong môi trường học tập nhất định tạo nên sự thay đổi từng bước
để hình thành và phát triển KN đó tới trình độ vững vàng, thông thạo.
KN SNT của HV được hình thành và phát triển bằng nhiều con đường khác
nhau, có thể được hình thành một cách tự phát trong quá trình học tập, cũng có
thể hình thành một cách khoa học dưới sự hướng dẫn rèn luyện của GV thông qua
DH bộ môn hoặc có thể được hình thành qua trải nghiệm của HV trong các hoạt
động xã hội … Các con đường hình thành bằng nhiều cách khác nhau nhưng thông
qua hoạt động DH và bằng con đường DH trong môi trường đào tạo sẽ đạt hiệu quả
cao hơn.
Thông qua hoạt động DH, GV có thể tiến hành rèn luyện KN SNT cho HV
thông qua các nội dung sau: Rèn luyện theo dạng thực hiện các nội dung học; Rèn
56
luyện theo dạng thực hiện các bài tập, nhiệm vụ; Rèn luyện theo dạng thực hiện các
dự án nhỏ; Rèn luyện theo dạng thực hiện các bài tập nghiên cứu khoa học.
Thông qua việc lồng ghép vào bài dạy các hoạt động sư phạm, GV sẽ rèn
luyện cho HV những KN SNT nhằm giúp cho HV hiểu được bản thân nắm được nội
dung gì, còn yếu ở nội dung gì để chủ động khắc phục đồng thời giúp HV cách tiếp
cận nội dung mới, vấn đề mới một cách chủ động, tích cực trong học tập.
1.2.1.2. Dạy học toán theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT
Theo nghĩa thông thường, DH được hiểu là truyền thụ một điều gì đó cho
người khác, là sự truyền kiến thức hoặc lý thuyết, hoặc thực hành. Ngoài ra, còn có
quan niệm cho rằng: DH là truyền một thông điệp. Quan niệm như vậy khó chấp
nhận vì nó đơn giản hóa hành vi DH thành hoạt động truyền thông tin.
Theo từ điển Tiếng Việt [44] quan niệm về DH: “DH là dạy văn hóa theo
những chương trình nhất định”.
Theo tác giả Bùi Tuấn Anh, DH là quá trình hoạt động tích cực, là sự tác động
qua lại giữa GV và HV trong quá trình đào tạo [2].
Chúng tôi đồng quan điểm với tác giả Đỗ Ngọc Đạt: “DH là khái niệm chỉ
hoạt động chung của người dạy và người học, hai hoạt động này song song tồn tại
và phát triển trong cùng một quá trình thống nhất là quá trình DH”[14].
Theo tác giả Phan Trọng Ngọ [41], quá trình DH là chuỗi liên tiếp các hành
động DH của người dạy và người học đan xen và tương tác với nhau trong khoảng
không gian và thời gian nhất định, nhằm thực hiện các nhiệm vụ DH.
Quá trình DH là hoạt động có mục đích, có tổ chức, phối hợp thống nhất giữa
người dạy và người học nhằm trang bị kiến thức, KN, phát triển khả năng tư duy
sáng tạo, giáo dục những phẩm chất nhân cách cần thiết cho người học đáp ứng yêu
cầu của xã hội và lĩnh vực hoạt động tương lai. DH bao giờ cũng diễn ra theo một
quá trình.
Cấu trúc của quá trình DH gồm có mục đích rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ, có
chương trình nội dung xác định, có cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật bảo đảm kết quả
đào tạo theo yêu cầu của xã hội và lĩnh vực hoạt động tương lai. Chức năng của quá
trình DH là hình thành hệ thống kiến thức, KN cho người học. Trên cơ sở đó phát
57
triển trí tuệ, giáo dục nhân cách, chuẩn bị tâm lý cho họ bước vào cuộc sống, công
tác mới.
Dựa trên quá trình DH môn Toán hiện nay, chúng tôi quan niệm rằng; DH
toán theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT là việc tổ chức các hoạt động DH
tiến hành b ng cách xác định rõ yêu cầu, làm rõ ý đồ và thực hiện các kỹ thuật để
lồng gh p vào nội dung bài dạy những hoạt động cần thiết nh m rèn luyện các KN
SNT cho HV.
Trong DH theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT, việc tổ chức các hoạt
động DH được tiến hành luôn có sự đan xen giữa hoạt động NT và SNT. Hoạt động
NT được tiến hành theo trình tự các nội dung của chương trình, nội dung bài học
nhằm giúp HV thu nhận thông tin, xử lí thông tin và ghi nhớ thông tin. Còn SNT
tham gia đan xen vào từng nội dung nhằm kiểm soát NT trong từng nội dung đó.
Sự đan xen giữa NT và SNT trong quá trình DH theo hướng tăng cường rèn
luyện KN SNT được thể hiện dưới dạng sơ đồ dưới đây.
Nhận thức
Nội dung 1
Siêu
Nội dung 2 nhận
thức
Nội dung N
Sơ đồ 1.7. Sự đan xen giữa NT và SNT trong quá trình DH theo hướng tăng cường
rèn luyện KN SNT
Như vậy, NT trong quá trình DH được tiến hành theo chiều dọc, còn SNT
đứng bên ngoài NT tham gia đan xen theo chiều ngang nhằm kiểm soát, hỗ trợ đề
NT hiệu quả hơn.
58
Từng nội dung trong bài học có thể là: Khái niệm, định lí, quy tắc hay một
nhiệm vụ cần giải quyết. Trong DH, NT hướng tới việc hình thành khái niệm, định
lí, quy tắc hay thực hiện việc GQNV đặt ra.
Trong DH hình thành khái niệm, thì SNT hướng tới việc hiểu khái niệm đó thuộc
loại nào, có những đặc điểm gì, cách nhận dạng và thể hiện khái niệm đó ra sao.
Ví dụ 1.5: Trong DH các định nghĩa về XS, cần làm rõ đặc điểm điều kiện vận
dụng, ưu nhược điểm của từng định nghĩa; sai lầm có thể mắc phải. Chẳng hạn:
* Định nghĩa cổ điển về XS:
Ƣu điểm Nhƣợc điểm
Để tính XS của biến cố ta không cần Điều kiện kết quả của phép thử phải duy
phải tiến hành phép thử (chỉ tiến hành nhất và đồng khả năng, số khả năng xảy
giả định). ra là hữu hạn. Thông thường thì tính
Ngoài ra nếu đáp ứng được đầy đủ các đồng khả năng của các kết cục được suy
yêu cầu của định nghĩa thì nó cho phép ra từ tính đối xứng. Chẳng hạn, khi tung
ta tìm được một cách chính xác giá trị đồng xu hay tung xúc xắc thì ta có thể
của XS. giả thiết nó cân đối và đồng chất. Tuy
nhiên, các bài toán trong đó ta có thể đưa
ra các giả thiết về tính đối xứng rất hiếm
khi gặp trong thực tế.
* Định nghĩa TK về XS:
Ƣu điểm Nhƣợc điểm
Không đòi hỏi những điều kiện đồng khả Phải tiến hành rất nhiều quan sát để tính
năng như đối với định nghĩa cổ điển. Nó tần suất, nếu tần suất không ổn định thì
hoàn toàn dựa vào các quan sát thực tế không tính áp dụng được, nếu tần suất
để làm cơ sở kết luận về XS xảy ra của ổn định thì XS chỉ là giá trị xấp xỉ của
một biến cố. tần suất.
Trong DH định lí, quy tắc thì SNT hướng tới việc hiểu có định lí, quy tắc
những tính chất gì, ý nghĩa và cách vận dụng ra sao;
Ví dụ 1.6: Trong DH quy tắc cộng và quy tắc nhân của phần giải tích tổ hợp thì HV
rất dễ nhầm lẫn khi vận dụng hai quy tắc này. Vì vậy, DH học theo hướng tăng
59
cường rèn luyện KN SNT cần hướng tới việc hiểu ý nghĩa, cách vận dụng của từng
quy tắc để HV vận dụng chính xác được mỗi quy tắc trong từng trường hợp cụ thể.
Đối với định lí cộng XS thì HV cần phải chú ý đến tính xung khắc hay không xung
khắc của các biến cố; Đối với định lí nhân XS thì cần chú ý đến tính độc lập hay
phụ thuộc của các biến cố; Đối với công thức XS đầy đủ cần chú ý đến tính xảy ra
đồng thời của biến cố với một biến cố trong hệ đầy đủ; Đối với công thức Bayes cần
hiểu ý nghĩa hậu nghiệm của XS.
Trong DH giải quyết nhiệm vụ học tập, GQVĐ thì SNT hướng tới việc hiểu
nhiệm vụ, vấn đề hay kiến thức có liên quan là gì, các bước giải quyết, loại của bài
toán, khó khăn cần giải quyết, đánh giá quá trình thực hiện và kết quả thực hiện,
điều chỉnh khi cần thiết.
Ví dụ 1.7: Bắn hai lần độc lập với nhau, mỗi lần một viên đạn vào cùng một bia. XS
trúng đích của viên đạn thứ nhất là 0,8 và của viên đạn thứ 2 là 0,5. Sau khi bắn,
quan trắc viên báo có một vết đạn ở bia. Tìm XS để vết đạn đó là vết đạn của viên
đạn thứ hai.
Hoạt động của GV Hoạt động của HV
Yêu cầu của bài toán là gì? Tìm XS để vết đạn đó là vết đạn của viên đạn thứ hai
Khi bắn 2 viên đạn, có Cả hai viên đạn đều không trúng bia; Cả hai viên đạn
những trường hợp nào xảy đều trúng bia; Viên thứ nhất trúng bia còn viên thứ
ra ? hai không trúng bia, Viên thứ hai trúng bia viên thứ
nhất không trúng bia.
Những biến cố cần mô tả Ai là biến cố “viên thứ i bắn trúng mục tiêu”, i=1,2.
trong bài toán là gì? là biến cố “cả hai viên đạn đều không trúng bia”;
là biến cố “cả hai viên đạn đều trúng bia”;
là biến cố “viên thứ nhất trúng bia còn viên thứ
hai không trúng bia”;
là biến cố “viên thứ hai trúng bia viên thứ nhất
không trúng bia”;
H là biến cố “có một viên đạn trúng bia”.
60
Những biến cố nào XS đã
biết?
Quan hệ giữa các biến cố ?
Biến cố H phụ thuộc vào biến cố
Những biến cố có XS còn Biến cố và H có XS còn thiếu.
thiếu để giải quyết vấn đề là
gì?
Mục tiêu của bài toán là gì? Tính XS để vết đạn đó là vết đạn của viên đạn thứ
hai, khi biết có một vết đạn ở bia.
Do đó: cần tính:
Để giải bài toán này cần sử Do là XS có điều kiện nên cần sử dụng
dụng những kiến thức nào? công thức XS có điều kiện, công thức Bayes:
Các bước cần tiến hành giải - Tính ;
quyết là gì? - Tính ;
- Tính ;
- Tính
Cách thức GQVĐ là gì? - Do độc lập nên:
; ;
; .
- Do H phụ thuộc vào biến cố , nên:
; ; ; .
- Do H xảy ra cùng một trong các biến cố:
là một nhóm đầy đủ. Nên áp dụng công
thức đầy đủ, ta có:
61
- Theo Bayes, XS để vết đạn ở bia là vết đạn của
viên thứ hai là:
- Khó khăn của bài toán là ở việc mô tả các biến cố, chuyển từ yêu cầu của bài toán
thành tính XS: . Do H phụ thuộc vào các biến cố nhưng lại yêu
cầu tính XS của khi H đã biết. Đây chính là tính chất hậu nghiệm cần áp dụng
công thức Bayes cần nhấn mạnh để HV có thể áp dụng cho các tình huống tương tự.
- Đối với bài toán này, nhiều HV sẽ giải quyết theo cách khác như sau:
. Gọi Ai là biến cố “viên thứ i bắn trúng mục tiêu”, i = 1, 2;
Gọi H là biến cố “có một viên đạn trúng bia”.
Khi đó cần tính: .
Tuy nhiên, A1, A2 không phải là hệ biến cố đầy đủ nên không thể sử dụng công thức
Bayes. Trong trường hợp này có thể sử dụng công thức XS có điều kiện:
;
Ta có:
+ Tính:
+ Tính:
Do đó: .
Trong cách giải này cách gọi biến cố đơn giản hơn cách giải trước rất nhiều.
Tuy nhiên, khó khăn ở đây là phải xác định được: ; Hơn nữa, trong
trường hợp nếu sử dụng công thức: thì việc tính
sẽ khó thực hiện do H không xảy ra cùng với A1 hoặc A2. Đây chính là lí do không
sử dụng được công thức Bayes.
62
Trong quá trình DH môn Toán, GV chú trọng xác định rõ từng nội dung có thể
rèn luyện được những KN SNT nào, từ đó chú ý đến việc thiết kế bài dạy, các kỹ
thuật dạy để có thể rèn được các KN SNT đó.
Để DH môn Toán theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV, cần vận
dụng một số hình thức hay phương pháp giảng dạy như sau:
- DH theo định hướng hoạt động: Bản chất của DH định hướng hoạt động là
hướng HV vào hoạt động giải quyết các nhiệm vụ tình huống, KN được hình thành
trong hoạt động nên nó hoàn toàn phù hợp với DH Toán theo hướng tăng cường rèn
luyện KN SNT cho HV.
- DH theo dự án: DH theo dự án là một hình thức đặc thù của quan điểm DH
định hướng hành động. Trong đó HV thực hiện các nhiệm vụ phức hợp một cách tự
lực, kết hợp lý thuyết và thực hành thông qua các dự án học tập [10].
- DH phát hiện và GQVĐ: DH phát hiện và GQVĐ là PPDH trong đó GV tạo ra
những tình huống có vấn đề, điều khiển HV phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích
cực, chủ động, sáng tạo để GQVĐ và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện KN
và đạt được những mục đích học tập khác.
1.2.2. Quá trình rèn luyện KN SNT cho HV
Theo một số nhà tâm lý học như V.A. Cruchetxki, Phạm Minh Hạc,
N.Đ.Lêvitôv, A.V.Petrôvxki, Trần Quốc Thành cho rằng: quá trình hình thành KN
hành động bao gồm 3 bước (theo [37]):
- Bước 1: NT đầy đủ về mục đích, cách thức và điều kiện hành động
- Bước 2: Quan sát mẫu và làm thử theo mẫu
- Bước 3: Luyện tập để tiến hành các hành động theo đúng yêu cầu và điều
kiện hành động nhằm đạt được mục đích đề ra.
Theo tác giả Schraw [114], để thúc đẩy SNT cần thực hiện các bước: Nâng
cao hiểu biết về SNT, nâng cao kiến thức về NT, nâng cao KN SNT, tạo môi trường
thuận lợi thúc đẩy SNT. Dựa trên các quan điểm đó, chúng tôi cho rằng quá trình
rèn luyện KN SNT bao gồm các bước như sau:
Bước 1: Nâng cao kiến thức về SNT, KN SNT và rèn luyện KN SNT cho HV.
Đây là bước góp phần làm nâng cao hiểu biết về SNT theo bước 1 của Shraw. Để
63
nâng cao kiến thức về SNT, GV cần làm rõ ý nghĩa, vai trò của KN SNT trong học
tập, trong lĩnh vực nghề nghiệp, trong cuộc sống, từ đó, HV thấy được nhu cầu cần
thiết phải rèn luyện KN SNT.
Bước 2: Truyền đạt KN SNT cơ bản cho HV. Đây là bước góp phần nâng cao
kiến thức về NT và nâng cao KN SNT. Để rèn luyện được KN SNT cho HV trước
tiên GV cần truyền đạt cho HV hiểu rõ các KN SNT và cách thức thể hiện chúng ra
sao trong học tập, qua trải nghiệm. Có thể biểu diễn hoặc mô hình hóa các KN SNT
cho đến khi HV hiểu và thực hành được một cách cụ thể, qua đó HV biết quy trình
thực hiện và các bước tiến hành.
Bước 3: Thiết kế các bài tập, các tình huống sư phạm, tình huống thực tế
khuyến khích HV vận dụng KN SNT. Bước này góp phầm tạo môi trường thuận lợi
thúc đẩy SNT. Để nắm vững KN, HV cần liên tục thực hành KN đó. GV và HV tạo
ra các tình huống sư phạm trong học tập, tình huống thực tế trong lĩnh vực nghề
nghiệp, trong cuộc sống để HV thực hành luyện tập KN SNT. GV khuyến khích và
tạo cơ hội cho HV được thực hành các KN SNT cho đến khi thành thạo.
Bước 4: Kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện KN SNT của HV. Kiểm tra,
đánh giá kết quả rèn luyện KN SNT của HV là rất quan trọng. Thông qua việc kiểm
tra, đánh giá giúp HV nhận ra được những ưu, nhược điểm. Qua đó, GV có thể bổ
sung những kiến thức còn yếu và thiếu, giúp HV hoàn thiện hơn về KN SNT.
1.2.3. Tổ chức DH theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV
KN SNT chỉ có thể được hình thành, phát triển thông qua hoạt động và bằng
hoạt động, thông qua hoạt động DH và bằng con đường DH trong môi trường đào
tạo sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Hơn nữa, KN SNT cũng không tồn tại độc lập mà có
mối quan hệ mật thiết với KN môn học. Vì vậy, GV cần chú ý tổ chức DH theo
hướng lồng ghép trong từng bài học để phát triển KN SNT kết hợp trong quá trình
hình thành và phát triển KN môn học cho HV.
Việc lồng ghép rèn luyện KN SNT cho HV trong DH một nội dung TH nói
chung và trong DH XSTK nói riêng có thể thực hiện như sau:
- Công bố mục tiêu bài học và mục tiêu phát triển KN SNT cần lồng ghép để
64
HV định hướng hành động, GV cần nêu rõ mục tiêu kiến thức KN môn học và các
KN SNT mà HV cần rèn luyện qua bài học.
- Tổ chức các tình huống DH để hình thành kiến thức, KN môn học và rèn
luyện KN SNT cho HV. GV tổ chức các tình huống DH trong đó chứa đựng tình
huống có vấn đề buộc người học phải tích cực tham gia rèn luyện KN SNT. Khi tổ
chức DH, GV không chỉ chú trọng nội dung kiến thức mà còn phải quan tâm các
phương pháp tiến hành, hệ thống các hoạt động, thao tác tương ứng nhằm tổ chức,
dẫn dắt từng bước thực hiện để hình thành KN SNT cho HV.
- Củng cố kiến thức, KN. GV tổng kết lại những kiến thức, KN HV đã được
học, giải thích ý nghĩa khi HV học được những kiến thức này. GV yêu cầu HV tự
tổng kết lại xem đã học được kiến thức gì? Nắm được kiến thức gì? Những kiến
thức nào thiếu sót cần ghi rõ để lên kế hoạch tự bổ sung. GV làm rõ những KN SNT
được lồng ghép qua từng hoạt động như thế nào.
- Kết thúc nội dung học. GV nhận xét, đánh giá về quá trình học tập, tham gia
hoạt động và ý thức rèn luyện KN SNT của HV. Định hướng cho HV hoạt động tự
học, tự rèn luyện thông qua hệ thống bài tập, tình huống, dự án để HV phát triển
KN tốt nhất.
DH rèn luyện KN SNT trước hết là cách tổ chức huấn luyện của GV với
những biện pháp được phối hợp hợp lí, phù hợp trình độ của HV, với điều kiện
giảng dạy của nhà trường. Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV, HV cần tự giác,
tích cực tự rèn luyện để hình thành KN SNT cho bản thân. Do đó, trong quá trình
rèn luyện, HV cần NT đúng ý nghĩa, vai trò của KN SNT đối với việc học tập và
nghề nghiệp của mình trong tương lai, có động cơ rèn luyện đúng đắn, HV phải
biến quá trình rèn luyện thành quá trình tự rèn luyện.
Trong quá trình tổ chức DH theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT cho
HV, vai trò của GV và HV được thể hiện theo hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: GV đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn còn HV đóng vai trò chủ
động, tự giác, tích cực tự điều khiển quá trình rèn luyện của bản thân. Vai trò của
người dạy và người học trong việc phát triển SNT được thể hiện qua sơ đồ sau:
65
Ngƣời dạy Ngƣời học
Định hướng/Hướng dẫn Nghiên cứu, tìm tòi
Tổ chức Thực hiện
Trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra Tự kiểm tra Tự điều chỉnh
Sơ đồ 1.8. Vai trò của người dạy và người học trong việc phát triển SNT của Teri
Rysz [119]
Trong giai đoạn này HV dù có sự chủ động trong quá trình học tập nhưng lại
có sự thụ động trong việc rèn luyện dưới sự dẫn dắt của GV, cho nên hiệu quả rèn
luyện sẽ không cao, giai đoạn 1 thì chỉ hình thành được một phần nhỏ KN SNT.
Giai đoạn 2: HV đóng cả 2 vai trò vừa là người dạy vừa là người học trong
quá rèn luyện KN SNT. Đây là giai đoạn quan trọng nhất để HV biến quá trình rèn
luyện thành quá trình tự rèn luyện. Có như vậy, quá trình rèn luyện KN SNT của
HV mới đạt kết quả cao. Giai đoạn 2 là giai đoạn người học chủ động hoàn toàn từ
việc tổ chức đến thực hiện, người học tự tổ chức (có thể theo đinh hướng của GV,
có thể do bản thân tự đặt ra) và tự thực hiện, tự giám sát, đánh giá toàn bộ quá trình
thực hiện của bản thân.
66
Ngƣời học
Định hướng/Hướng dẫn Nghiên cứu, tìm tòi
Tổ chức Thực hiện
Trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra Tự kiểm tra Tự điều chỉnh
Sơ đồ 1.9. Vai trò của người học trong việc phát triển SNT
HV có thể rèn luyện KN SNT trong giai đoạn này theo các hình thức: tự đặt
câu hỏi và tự trả lời, giải quyết các nhiệm vụ do giao viên hoặc do bản thân đặt ra.
Đặc biệt hình thức DH theo dự án là hình thức hiệu quả để thực hiện giai đoạn này.
Đây là hình thức vừa tạo cơ hội tốt để HV có thể thực hiện được tất cả các KN SNT
vừa là cơ hội để HV vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, bước đầu làm quen
với giải quyết các vấn đề thực tiễn. Tuy nhiên, đây là hình thức đòi hỏi HV phải bỏ
công sức và thời gian thực hiện nhiều. Do đó, GV cần căn cứ vào nội dung học, vào
khả năng, vào điều kiện cụ thể của HV để đưa ra những dự án, từ dự án nhỏ và vừa
đến dự án lớn một cách phù hợp.
Có thể rèn luyện KN SNT, thông qua các hình thức DH: Đặt câu hỏi; khai thác
tình huống sai lầm; DH GQVĐ; DH theo dự án.
Trong quá trình DH, để rèn luyện cho HV khả năng dự đoán, lập kế hoạch học
tập, giám sát, đánh giá, điều chỉnh quá trình NT và quá trình học của bản thân, GV
có thể sử dụng phối hợp các biện pháp, các kĩ thuật sau:
- Làm mẫu và giải thích cho HV cách thức theo dõi, điều chỉnh, đánh giá
quá trình tư duy của chính mình: GV sẽ cùng HV: Tìm hiểu xem kiến thức nền
có liên quan; thảo luận để dự đoán, lập kế hoạch GQVĐ. GV trao đổi với HV:
Cách tìm kiếm và liên kết các thông tin quan trọng; cách nhìn ra điểm khởi đầu
67
và những khâu then chốt để giải bài toán; cách đưa ra những dự đoán; cách phát
triển các giả thuyết; cách điều chỉnh chuyển hướng khi gặp khó khăn; cách đánh
giá lời giải, đánh giá quá trình giải, rút ra được ý nghĩa và khả năng vận dụng
cho vấn đề tương tự.
- Sử dụng các câu hỏi yêu cầu HV suy nghĩ, xem x t về vốn kiến thức, kinh
nghiệm của bản thân từ đó đưa ra lựa chọn phương hướng GQVĐ: Để giải bài toán
này cần sử dụng những kiến thức, khái niệm, tính chất, định lí, quy tắc nào? Đã
từng gặp vấn đề tương tự và cách GQVĐ đó như thế nào?
- Sử dụng các câu hỏi yêu cầu HV xác định mục tiêu, lập kế hoạch cho hoạt
động học tập: Hãy nêu các bước cần tiến hành để giải bài toán?
- Sử dụng các câu hỏi yêu cầu HV giám sát, điều chỉnh quá trình NT của bản
thân: Trong các bước đã nêu để giải bài toán, bước nào là khó khăn nhất? Tại sao?
Khi thực hiện bước này sẽ gặp phải khó khăn gì? Có những cách nào để giải quyết
khó khăn này? Ta lựa chọn cách giải quyết nào? Tại sao lại chọn cách giải quyết
này? Tại sao định lí, quy tắc… không áp dụng được cho bài toán này. Ta có thể điều
chỉnh, thay đổi, bổ sung, cải tiến… như thế nào để có thể áp dụng vào bài toán này?
- Sử dụng các câu hỏi yêu cầu HV phải đánh giá quá trình NT, quá trình học
tập và kết quả đạt được so với mục tiêu, kế hoạch đề ra: Trong giờ học đã làm được
những việc gì? Chưa làm được việc gì? Hãy lập kế hoạch giải quyết những việc còn
chưa làm được.
- Khuyến khích HV tham gia vào các cuộc thảo luận: Trong các cuộc thảo
luận đó yêu cầu HV phải nêu được rõ ràng, mạch lạc ý đồ thực hiện GQVĐ của
mình để các HV khác nhận xét, đánh giá. Qua đó HV tự xem xét, đánh giá, điều
chỉnh lại những suy nghĩ của mình.
- Đầu mỗi buổi học GV ghi những kiến thức cần học, cuối mỗi buổi học GV
tổng kết lại những kiến thức HV đã được học, giải thích ý nghĩa khi HV học được
những kiến thức này: Việc làm này sẽ cung cấp cho HV hệ thống kiến thức cần thiết
và chuẩn bị những điều kiện cần và đủ cho tiến trình học tập sắp tới. GV cần giải
thích mục đích, ý nghĩa của việc học kiến thức đó gồm cả mục đích mang tính lí
thuyết và tính thực tế.
68
- Yêu cầu HV ghi “nhật kí học tập”: HV ghi vào “nhật kí học tập” tất cả
những gì đã học được sau mỗi buổi học cả về mặt kiến thức và NT; ghi lại những
việc đã làm được và chưa làm được so với mục tiêu kế hoạch đã đề ra. HV thưởng
xuyên xem lại “nhật kí học tập” để tự đánh giá sự tiến bộ của bản thân.
(Minh họa việc DH theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT được trình bày
cụ thể trong phụ lục 6).
1.3. Cơ hội rèn luyện KN SNT trong DH XSTK ở các trƣờng ĐH trong QĐ
1.3.1. Đặc điểm cơ bản của HV trong nhà trường ĐH trong QĐ
1.3.1.1. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi
Lứa tuổi HV đào tạo SQ cấp phân đội hầu hết từ 18 đến 22 tuổi. Xét về sự
phân định lứa tuổi, đây là lứa tuổi thanh niên trẻ trung, sung sức, dồi dào về thể
chất, tinh thần, đồng thời cũng mang sắc thái của lứa tuổi người lớn, người trưởng
thành. Lứa tuổi này là lứa tuổi dễ dàng hình thành nhanh chóng các phản xạ, nhất là
hệ thống các phản xạ có điều kiện phức tạp đáp ứng cho hoạt động sống của cơ thể.
Đây là cơ sở cho việc hình thành tri thức, KN trong quá trình DH.
1.3.1.2. Đặc điểm hoạt động học tập của HV đào tạo SQQĐ
Hoạt động học tập của HV đào tạo SQQĐ có những đặc điểm cơ bản sau:
* Hoạt động học tập của HV là hoạt động hướng tới mục tiêu, yêu cầu đào tạo
của nhà trường QĐ
Mục tiêu, yêu cầu đào tạo sĩ quan trong các nhà trường QĐ là hướng tới xây
dựng người SQQĐ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng
Cộng sản Việt Nam, với Tổ quốc, với nhân dân; quyết tâm phấn đấu theo con
đường xã hội chủ nghĩa, gắn bó với sự nghiệp chiến đấu và xây dựng QĐ, có ý thức
tổ chức kỷ luật, tinh thần chủ động, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
được giao. Có tư duy sáng tạo, trình độ kiến thức bậc ĐH và KN QS, chuyên môn
kỹ thuật, năng lực hoạt động theo yêu cầu cương vị công tác. Có phong cách dân
chủ tập thể, chính qui, đoàn kết. Có đạo đức, lối sống lành mạnh, khiêm tốn giản dị,
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gắn bó với quần chúng; có sức khoẻ phù hợp
với cương vị công tác [6].
69
HV đào tạo SQQĐ sau khi tốt nghiệp ra trường là người trực tiếp tổ chức,
chỉ đạo, duy trì mọi mặt hoạt động của cấp dưới và phân đội thuộc quyền. Họ có
trách nhiệm bảo đảm cho mọi mặt hoạt động của đơn vị diễn ra ăn khớp, phối
hợp nhịp nhàng theo đúng mệnh lệnh của người chỉ huy, yêu cầu của điều lệnh,
điều lệ và kỷ luật QĐ; tạo cho mọi tổ chức và cá nhân trong toàn đơn vị có sự
thống nhất về ý chí và hành động tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng
lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Như vậy, so với các trường đào tạo ĐH ngoài QĐ mục tiêu, yêu cầu đào tạo
SQQĐ có sự khác biệt, mang tính đặc thù. HV phải học tập nắm vững hệ thống tri
thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ QS, kiến
thức chuyên ngành ở trình độ ĐH. Đồng thời nắm được hệ thống những tri thức,
KN, kỹ xảo về quản lý, giáo dục, chỉ huy bộ đội và hình thành hệ thống các phẩm
chất về chính trị, đạo đức, lối sống người SQQĐ để sau khi ra trường có thể thực
hiện được chức trách, nhiệm vụ của người lãnh đạo, chỉ huy hoạt động QS.
* Hoạt động học tập của HV đào tạo SQQĐ diễn ra dưới nhiều hình thức
Hoạt động học tập của HV trong nhà trường QĐ diễn ra dưới nhiều hình thức;
không gian rộng, thời gian không kể ngày đêm với cường độ cao, căng thẳng và
phức tạp, được chia thành các hình thức cơ bản như: Hoạt động học tập trên lớp;
hoạt động học tập trên thao trường bãi tập; hoạt động học tập ngoại khoá; hoạt động
tự học tại doanh trại,…Hoạt động học tập của HV diễn ra đan xen giữa hoạt động
học tập trên thao trường, bãi tập với học tập trên giảng đường, phòng thí nghiệm.
Tính chất phức tạp trong học tập của HV do đặc trưng của hoạt động QS qui định,
hoạt động QS là hoạt động đặc biệt, trong đó người quân nhân sử dụng các phương
tiện, vũ khí, kỹ thuật để thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.
* Phương thức, phương tiện học tập của HV đào tạo SQQĐ mang tính đặc thù
Phương thức, phương tiện học tập của HV đào tạo SQQĐ có tính đặc thù. Ở chỗ,
phương thức học tập không chỉ trên sách vở, thư viện, phòng thí nghiệm mà chủ yếu
trên vũ khí, trang bị kỹ thuật chiến đấu của bộ đội, như các loại súng, đạn, bom, mìn,
xe tăng, pháo cao xạ, ra đa, tên lửa… diễn ra trong một không gian rộng, ở trên thao
trường, bãi tập, địa hình dã ngoại khác nhau.
70
* Hoạt động học tập của HV đào tạo SQQĐ có tổ chức chặt chẽ, diễn ra trong môi
trường kỷ luật nghiêm ngặt
Quá trình đào tạo sĩ quan ở các nhà trường QĐ được tổ chức chặt chẽ cả về
nội dung, chương trình, thời gian đào tạo và duy trì mọi mặt hoạt động theo đúng
chế độ điều lệnh, điều lệ QĐ. Thông qua đó tạo ra môi trường học tập, rèn luyện có
tác động tích cực đến việc hình thành cho HV phong cách, tác phong hoạt động
khoa học, phát triển ở họ tính kỷ luật, tác phong chỉ huy độc lập, quyết đoán, mưu
trí, linh hoạt, sáng tạo.
Tóm lại, hoạt động học tập của HV đào tạo SQQĐ có nét đặc thù riêng, khác
tập của HV. Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động học tập của HV, ngoài việc
với HS, SV bên ngoài, những đặc thù này ảnh hưởng, chi phối đến hoạt động học
trang bị cho HV hệ thống kiến thức liên quan đến nghề nghiệp thì việc rèn luyện các
KN cần thiết cho HV là rất quan trọng.
1.3.1.3. Vấn đề hình thành KN học tập của HV sĩ quan nhà trường QĐ
Theo tác giả Lê Duy Tuấn [60], KN học tập là trình độ sử dụng các kiến thức, kỹ
xảo học tập đã có vào giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ học tập trong những tình
huống, hoàn cảnh học tập mới.
Như vậy, KN học tập của HV là trình độ sử dụng có hiệu quả các kiến thức, kỹ
xảo học tập đã có vào giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ học tập trong những tình huống,
hoàn cảnh học tập mới đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo ở nhà trường sĩ quan QĐ.
KN học tập xét về chức năng, là phương tiện NT của HV.
Xét về nội dung, KN học tập của HV là một hệ thống phức tạp với các nhóm
KN học tập cụ thể khác nhau. Có những KN chung cho hoạt động học tập và KN
riêng cho từng môn học. Trong quá trình học tập HV phải sử dụng nhiều KN, tương
ứng với mỗi hoạt động học tập có các KN của nó.
Theo [60] các KN học tập cơ bản của HV đào tạo SQQĐ, bao gồm:
Nhóm KN NT, bao gồm: KN định hướng, xác định vấn đề học tập; KN tiến
hành các thao tác trí tuệ và kết hợp các thao tác trí tuệ của HV; KN sử dụng công
cụ, phương tiện GQVĐ học tập… Trong các KN NT, KN tiến hành và kết hợp các
KN thao tác trí tuệ để phân tích tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá, cụ
71
thể hoá, hệ thống tri thức, KN, kỹ xảo được trang bị theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo
của HV là quan trọng nhất.
Nhóm KN tiến hành các hành động học tập, bao gồm: KN nghe giảng, ghi chép,
xêmina thực hành, làm bài tập, tự học, kiểm tra, đánh giá quá trình học tập: KN đánh
giá hành vi học tập của cá nhân và người khác, KN tiếp nhận sự đánh giá của người
khác về việc học của mình, KN so sánh kết quả học tập của bản thân trong từng giai
đoạn và so sánh kết quả học tập của mình với người khác. Đây là các KN quan trọng,
nhờ các KN này HV có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ học tập.
Nhóm KN xây dựng và thực hiện kế hoạch học tập, bao gồm: KN lập kế hoạch,
KN xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp học tập phù hợp, và trình tự công việc
cần làm, phân phối thời gian, sắp xếp thời gian cho từng công việc và KN quản lý thời
gian nghỉ trong học tập. Nhờ có các KN này HV học tập một cách chủ động, dễ dàng,
bố trí công việc và thời gian một cách hợp lý, khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho HV
học tập đạt kết quả cao.
Ngoài các nhóm KN trên, HV còn có nhóm KN giao tiếp, quan hệ và nhóm KN
quản lý học tập…đây cũng là các nhóm KN quan trọng trong hệ thống các KN học tập
của HV.
KN học tập là công cụ để học tập, là điều kiện bảo đảm cho HV tiếp thu kiến thức,
hình thành KN, kỹ xảo nghề nghiệp QS nhanh, hiệu quả và mang tính sáng tạo cao.
Tác giả Phạm Minh Hạc đã luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc
nắm vững tri thức về phương pháp lĩnh hội, KN, kỹ xảo học tập. Ông khẳng định:
nắm vững về tri thức về phương pháp đồng nghĩa với nắm vững cách học, đó là
điều kiện số một để học tập có kết quả [23].
Có thể khẳng định rằng, KN học tập là thành phần quan trọng của HV đào tạo
SQQĐ. Thiếu KN học tập, HV sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình tiếp thu kiến
thức, KN, kỹ xảo nghề nghiệp, khó thích ứng với môi trường học tập trong nhà
trường QĐ và khó đạt được kết quả như mong muốn.
Như vậy, việc hình thành các KN học tập cho HV sĩ quan nhà trường QĐ
theo [60] là rất quan trọng để đạt được mục tiêu theo yêu cầu đào tạo. Trong các
72
nhóm KN cần hình thành theo tác giả Lê Duy Tuấn thì bao hàm các KN NT và KN
SNT như: dự đoán, lập kế hoạch, giám sát, đánh giá và tự điều chỉnh.
1.3.1.4. Vai trò của KN SNT đối với HV sĩ quan nhà trường QĐ
Qua nghiên cứu về SNT, chúng tôi nhận thấy KN SNT có những vai trò đối
với HV ở trường ĐH trong QĐ thể hiện trên một số nội dung sau:
Thứ nhất, hiểu và vận dụng được các KN SNT sẽ giúp HV định hướng và lập
được kế hoạch học tập một cách khoa học. Lập kế hoạch để xác định rõ các mục
tiêu cần đạt được, xây dựng một chiến lược tổng thể đạt được các mục tiêu đặt ra.
Như vậy, HV sẽ hạn chế đến mức tối đa những tình huống thử và sai khiến HV bị
động. HV đào tạo SQQĐ sau khi tốt nghiệp ra trường là người trực tiếp tổ chức, chỉ
đạo, duy trì mọi mặt hoạt động của cấp dưới và phân đội thuộc quyền, đồng thời
phải chấp hành nghiêm điều lệnh, điều lệ, chế độ qui định của đơn vị, yêu cầu về sự
tôn trọng và phục tùng tập thể, phục tùng mệnh lệnh cấp trên. Cho nên, trong hoạt
động công các rất cần đến tính làm việc có kế hoạch và theo kế hoạch.
Thứ hai, hiểu và vận dụng được các KN SNT sẽ giúp HV giám sát, đánh giá và
điều chỉnh về nhiều khía cạnh của việc học như phát hiện ra lỗ hổng về kiến thức để
kịp thời bổ sung, củng cố thêm kiến thức cho bản thân; nhận biết được hướng đi,
cách làm hiện tại có phù hợp với mục tiêu đặt ra hay không. Đánh giá đúng và điều
chỉnh hoạt động kịp thời là những KN cần thiết mà nhà trường cần trang bị cho HV.
Khả năng giám sát, đánh giá tự điều chỉnh kế hoạch và các hoạt động của bản thân
là rất cần thiết khi HV ra trường công tác trong môi trường QS.
Thứ ba, HV có được những KN SNT có thể đưa ra phương pháp giải quyết phù
hợp hoặc lựa chọn được phương pháp tối ưu trong từng tình huống cụ thể. KN SNT
giúp HV tìm ra phương pháp giải quyết một tình huống có cấu trúc giống với tình
huống ban đầu hoặc một tình huống có cấu trúc gần giống với tình huống ban đầu
hoặc một tình huống có cấu trúc hoàn toàn mới so với tình huống ban đầu. Hoạt động
QS sau khi HV ra trường là hoạt động đặc biệt, gắn liền với yếu tố chiến tranh như:
căng thẳng ác liệt, tính khẩn trương, sự bất ngờ của tình huống chiến đấu, sự hy sinh
xương máu. Do đó, nó đòi hỏi sự cân nhắc kĩ càng, không nóng vội để lựa chọn
phương pháp giải quyết phù hợp, có như vậy mới giảm được sự tổn thất hy sinh.
73
Thứ tư, HV có được những KN SNT sẽ tích cực, chủ động trong học tập,
không bị động khi gặp vấn đề mới. HV có KN SNT sẽ biết cách củng cố kiến thức
vững chắc và biết cách liên hệ kiến thức với nhau để GQNV mới. Việc liên hệ giữa
kiến thức cũ và kiến thức mới và phối hợp nhuần nhuyễn, hợp lí chúng với nhau
giúp HV có cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về các vấn đề, độc lập suy nghĩ tìm
hướng giải quyết mà không bị bỡ ngỡ trước tình huống mới. Khi HV ra công tác,
việc chấp hành nghiêm điều lệnh, điều lệ, chế độ qui định của đơn vị, yêu cầu về sự
tôn trọng và phục tùng tập thể, phục tùng mệnh lệnh cấp trên dễ tạo ra sức ỳ trong
tư duy, tư duy khuôn mẫu, tư duy theo đường mòn. Khi HV có KN SNT tốt sẽ hạn
chế được những nhược điểm này. Thêm nữa, hoạt đông trong lĩnh vực QS có tính
biến động cao, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ngờ, khó lường và yêu cầu đòi hỏi khắt khe
của nghề nghiệp cũng đòi hỏi phải có KN SNT để không bị động với những tình
huống mới.
Thứ năm, HV có KN SNT sẽ phát triển tư duy phản biện. Tư duy phản biện
được hình thành và phát triển thông qua việc rèn luyện KN giám sát và đánh giá.
Khi HV có tư duy phản biện sẽ biết nhìn nhận tiếp thu những góp ý từ người khác,
tự nhìn nhận về bản thân để điều chỉnh cho phù hợp; đồng thời cũng có khả năng
nhìn nhận và góp ý cho người khác. Như vậy, HV sẽ phát triển khả năng phê bình
và tự phê bình của bản thân, là khả năng quan trọng của SQ trong QĐ.
1.3.2. Đặc điểm, vai trò của môn XSTK trong nhà trường QĐ
1.3.2.1. Đặc điểm của môn XSTK
XSTK nghiên cứu những quy luật ẩn trong những hiện tượng ngẫu nhiên. Lý
thuyết XSTK là hệ thống lý thuyết nhằm tìm ra những quy luật trong các hiện tượng
tưởng chừng như ngẫu nhiên, không quy luật. Do đó, đặc điểm của XSTK là: “phát
hiện cái ổn định trong cái có vẻ bất định, cái tất yếu trong cái ngẫu nhiên b ng
phương pháp TH” [29].
Môn XSTK có hai phần tương đối độc lập về cấu trúc nhưng gắn rất chặt về nội
dung. Phần lý thuyết XS nhằm phát hiện và nghiên cứu tính quy luật của các hiện
tượng ngẫu nhiên. Các kiến thức về lý thuyết XS là cơ sở trực tiếp cho quá trình phân
tích và suy luận TK trong phần TK toán, đồng thời trang bị cho HV những kiến thức
74
cơ bản phục vụ cho các môn học chuyên ngành khác như: Lý thuyết bắn, Dân số
học, Xã hội học…Phần TK bao gồm: Cơ sở lý thuyết về mẫu ngẫu nhiên, các
phương pháp trong TK mô tả nhằm đưa ra các đặc trưng chính của số liệu, phần
TK suy diễn giúp đưa ra các suy diễn về tổng thể sử dụng các thông tin từ mẫu,
trong đó có bài toán ước lượng tham số tổng thể và kiểm định giả thuyết TK, bài
toán hồi quy và tương quan.
1.3.2.2. Vai trò của XSTK trong các trường ĐH trong QĐ
XSTK giúp làm giảm tính chủ quan và tăng cường tính khách quan. Mọi
nghiên cứu xã hội đều có giới hạn về thời gian, tài chính, không gian, độ tin cậy nên
hầu như không có nghiên cứu nào có thể “vươn tới” mọi đối tượng cần nghiên cứu
hay có thể đạt được độ chính xác tuyệt đối. XSTK có các biện pháp dự đoán, dự báo
toàn bộ nhóm đối tượng nào đó từ một mẫu nghiên cứu với số lượng nhất định.
XSTK giúp nhà nghiên cứu khái quát hóa ra cái chung, cái tổng quát.
Việc DH XSTK tại các trường ĐH trong QĐ còn góp phần vào việc thực hiện
những mục tiêu đào tạo lớn.
- XSTK trang bị cho các SQQĐ những tri thức về TH cho quá trình thu
thập và xử lý thông tin của đời sống xã hội sẽ được tiếp tục nghiên cứu trong các
môn khác như: Lý thuyết bắn súng bộ binh, pháo phòng không, rada, tên lửa; TK
xã hội học,…
- XSTK góp phần vào việc giáo dục con người mới trong quá trình đào tạo tại
các trường ĐH trong QĐ. Giảng dạy SXTK cho HV, ngoài việc đạt được mục tiêu
DH (ở một mức độ nhất định, tuỳ theo các cấp độ, chương trình học) về phát triển
tư duy lôgic, KN giải toán của người học, còn góp phần rèn luyện nhân cách người
học, giúp người học củng cố thêm những KN rất cần thiết trong cuộc sống. Đó là sự
nhanh nhẹn, nhạy cảm, khả năng tư duy sắc bén, sự phán đoán chính xác, sự khoa
học. Điều này rất cần đối với HV sĩ quan trong các nhà trường QĐ.
- XSTK góp phần hình thành và phát triển thế giới quan khoa học cho HV:
Sự phát hiện ra hiện tượng ngẫu nhiên cũng có tính quy luật, có thể NT được
bằng những phương pháp nhất định sẽ là yếu tố quan trọng trong việc hình thành
75
thế giới quan khoa học. Việc đưa XSTK vào giảng dạy tại các trường ĐH trong QĐ
đã cung cấp thêm phương tiện mới góp phần vào việc hình thành thế giới quan khoa
học của HV.
- XSTK góp phần rèn luyện phẩm chất đạo đức của người lao động mới:
XSTK góp phần hình thành và phát triển cho HV những phẩm chất đạo đức
của người lao động mới như: tính cẩn thận, chu đáo, chính xác, thái độ kiên trì vượt
khó, phong cách làm việc có tính toán, mong muốn đạt được cái tối ưu…Đây là
những phẩm chất rất cần đối với HV sĩ quan trong các nhà trường QĐ.
Như vậy, qua môn học này HV được trang bị thêm không chỉ kiến thức TH mà
còn cả phép tư duy biện chứng; thấy được mối quan hệ trong cặp phạm trù “ngẫu
nhiên và tất nhiên”; hiểu được rằng cái ngẫu nhiên cũng có quy luật.
1.3.3. Cơ hội rèn luyện KN SNT trong DH môn XSTK
Nội dung môn học XSTK được giảng dạy ở các trường ĐH trong QĐ chủ yếu
bao gồm những kiến thức cơ bản của XS: biến cố, XS, biến ngẫu nhiên và phân
phối XS, các số đặc trưng của biến ngẫu nhiên…; Một số kiến thức về TK ứng
dụng: lý thuyết mẫu, ước lượng tham số, kiểm định giả thuyết TK, … Thời gian
giành cho môn học XSTK ở các trường không giống nhau, thông thường ở các
trường có thời lượng là 45 tiết, một số trường có thời lượng 60 tiết.
Trên cơ sở nội dung chương trình môn XSTK ở Trường Sĩ quan Chính trị
(Phụ lục 1) được phân bổ thời gian: 60 tiết (Lý thuyết: 31 tiết; Bài tập: 18 tiết; Ôn
tập: 8 tiết; Thi: 3 tiết), cơ hội để rèn các KN dự đoán (KN 1), KN lập kế hoạch (KN
2), KN giám sát (KN 3), KN đánh giá (KN 4) được tích (dấu x) ở các nội dung thể
hiện ở bảng dưới đây:
76
Bảng 1.8. Cơ hội rèn luyện KN SNT qua nội dung XSTK
KN SNT có thể rèn luyện
KN 1 x x x x x x x KN 1 KN 2 x x x x x x x KN 2 KN3 x x x x x x x KN3 KN4 x x x x x x KN4
x x x x x x KN 1 x x x KN 1 x x KN 1 x x x x x x x KN 2 x x x KN 2 x x KN 2 x x x x x x KN3 KN3 x x KN3 x x x x x KN4 KN4 x x KN4 x
x x x x
x 21 x 21 x 17 x 15 Nội dung Chƣơng 1 : Khái niệm cơ bản về xác suất 1.1. Giải tích tổ hợp 1.2. Bài tập 1.3. Xác suất của biến cố 1.4. Bài tập 1.5. Quan hệ giữa các biến cố 1.6. Các công thức xác suất 1.7. Bài tập Chƣơng 2: Biến ngẫu nhiên và Quy luật phân phối 2.1. Định nghĩa và phân loại biến ngẫu nhiên 2.2. Quy luật phân phối của biến ngẫu nhiên 2.3. Bài tập 2.4. Các số đặc trưng của biến ngẫu nhiên 2.5. Bài tập 2.6. Một số phân phối thông dụng Chƣơng 3: Lý thuyết mẫu 3.1. Phƣơng pháp mẫu 3.2. Thống kê, một số thống kê đặc trƣng 3.3. Bài tập Chƣơng 4: Ƣớc lƣợng tham số 4.1. Ƣớc lƣợng điểm 4.2. Ƣớc lƣợng khoảng 4.3. Bài tập Chƣơng 5: Kiểm định giả thiết thống kê 5.1. Các khái niệm 5.2. Kiểm định giả thiết về kỳ vọng (trung bình) 5.3. Một số bài toán kiểm định giả thiết liên quan tới xác suất (tỷ lệ) 5.4. Bài tập Ôn tập + Thi viết Tần số
77
Qua bảng TK trên cho thấy có đến hơn 80% nội dung chương trình XSTK có
thể rèn luyện được các KN SNT, tần số rèn luyện KN dự đoán 21 lần, lập kế hoạch
21 lần, giám sát 17 lần, đánh giá 15 lần. Như vậy, nội dung XSTK hoàn toàn có cơ
hội để có thể rèn các KN SNT cho HV.
1.4. Thực trạng dạy học XSTK ở một số trƣờng ĐH trong QĐ
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát nhằm tìm hiểu thực trạng về dạy và học môn
XSTK cho HV ở một số trường ĐH trong QĐ theo hướng rèn luyện KN môn học
và rèn luyện KN SNT.
1.4.1. Mục tiêu khảo sát
Sau khi nghiên cứu cơ sở lý luận, chúng tôi xây dựng phiếu điều tra GV, cán
bộ quản lí HV và HV nhằm đánh giá thực trạng dạy và học XSTK của GV và HV
trong trường ĐH trong QĐ theo hướng rèn luyện KN môn học, rèn luyện KN SNT
và sự cần thiết của việc rèn luyện KN SNT. Kết quả khảo sát thực trạng là cơ sở đề
xuất biện pháp DH XSTK theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV ở các
trường ĐH trong QĐ.
1.4.2. Đối tượng và thời gian khảo sát
Chúng tôi đã tiến hành điều tra 32 GV, 46 cán bộ quản lý HV và 600 HV đào tạo
SQ tại 5 trường ĐH trong QĐ: Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Pháo binh,
Học viện Hậu cần, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Học viện Phòng không Không quân.
Thời gian khảo sát tháng 5/2016.
1.4.3. Phương pháp khảo sát
Để khảo sát thực trạng dạy và học môn XSTK đối với HV đào tạo sĩ quan
trong các trường ĐH trong QĐ, chúng tôi tiến hành những công việc sau:
- Trực tiếp tiến hành tìm hiểu việc dạy và học môn XSTK thông qua việc dự
giờ, thăm lớp, trao đổi với GV, cán bộ quản lý HV;
- Phát phiếu điều tra cho GV, cán bộ quản lý HV và HV nhằm thu số lượng
thông tin cần thiết về vấn đề dạy, học XSTK theo hướng tăng cường rèn luyện KN
SNT và sự cần thiết của việc rèn KN SNT cho HV ở các trường ĐH trong QĐ.
1.4.4. Kết quả khảo sát và phân tích
a) Đối với giảng viên
Đội ngũ GV là một trong những nhân tố quan trọng góp phần quyết định chất
lượng của môn học. Để xác định được những nét cơ bản về thực trạng giảng dạy môn
78
XSTK cho HV đào tạo SQ trong một số trường ĐH trong QĐ, chúng tôi đã tiến hành
điều tra với 32 GV giảng dạy môn XSTK tại 05 trường nói trên. Kết quả như sau:
Nhằm tìm hiểu vai trò của việc rèn luyện KN cho HV, ở câu hỏi 3, phụ lục 2
“Theo Thầy (Cô) việc rèn luyện các KN cho HV có quan trọng không ?” thì thu
được kết quả như sau:
Bảng 1.9. Ý kiến của GV về việc rèn luyện KN cho HV
Không quan trọng Ít quan trọng Quan trọng Rất quan trọng
SL % SL % SL % SL %
0 0 0 0 13 40,6 19 59,4
Từ kết quả bảng trên cho thấy tất cả đều chọn rất quan trọng (59,4%) hoặc quan
trọng (40,6%) và không có ý kiến nào chọn không quan trọng, ít quan trọng. Kết quả
cho thấy GV các trường ĐH trong QĐ đều đánh giá cao mức độ quan trọng của việc
rèn luyện KN cho HV.
Nhằm tìm hiểu việc rèn luyện các KN cho HV trong quá trình lên lớp của GV, ở
câu hỏi 4, phụ lục 2 “Khi giảng dạy môn XSTK, Thầy (Cô) thường rèn luyện các
KN nào ?” thì thu được kết quả như sau:
Bảng 1.10. Ý kiến của GV về các KN GV thường rèn luyện cho HV
TT Các KN Không bao giờ SL(%) Thỉnh thoảng SL(%) Thường xuyên SL(%)
Rất thường xuyên SL(%) 8(25) KN tính toán 4(12,5) 20(62,5) 0(0) 1
KN huy động công thức để giải 3(9,3) 22(68,8) 7(21,9) 0(0) 2
bài tập
KN thu thập, mô tả, tổ chức và 0(0) 17(53) 12(37,7) 3(9,3) 3
trình bày dữ liệu
0(0) 7(21,9) 21(65,6) 4(12,5) 4
KN phân tích, xử lí, diễn giải và kết luận
KN tiến hành và kết hợp các 5
0(0) 6(18,8) 15(46,9) 11(34,3)
thao tác trí tuệ để phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá, cụ thể hoá
79
Từ kết quả bảng trên cho thấy, đối với các KN 1, 2, 5 được GV sử dụng
thường xuyên và rất thường xuyên ở mức cao (trên 80%) và đây là các KN NT cần
thiết cho việc GQVĐ. Đối với các KN 3, 4 được các GV sử dụng thường xuyên và
rất thường xuyên ở mức trung bình (trên dưới 50%) và đây là các KN xử lí số liệu
trong phần TK.
Nhằm tìm hiểu việc xác định vai trò của việc hình thành một số KN SNT cho
nghề nghiệp tương lai của HV, ở câu hỏi 5, phụ lục 2 “Theo Thầy (Cô), ngoài các
KN nói trên, việc rèn luyện các KN sau có vai trò như thế nào đối với nghề nghiệp
tương lai của HV?” thì thu được kết quả như sau:
Bảng 1.11. Ý kiến của GV về các KN có vai trò đối với nghề nghiệp của HV
Không Rất Ít quan Quan quan quan trọng trọng TT Các KN trọng trọng SL(%) SL(%) SL(%) SL(%)
KN định hướng, xác định vấn đề 0(0) 1(3,1) 24(75) 7(21,9) 1
2 KN xác định mục tiêu, nội dung, 0(0) 0(0) 30(93,8) 2(6,2) nhiệm vụ
3 KN lập kế hoạch thực hiện mục tiêu, 0(0) 0(0) 28(87,5) 4(12,5) nhiệm vụ, phân phối thời gian
3 KN xác định và lựa chọn phương 0(0) 1(3,1) 27(84,4) 4(12,5) pháp phù hợp
4 KN giám sát sự hiểu biết của bản
thân khi thực hiện nhiệm vụ và điều 0(0) 1(3,1) 30(93,8) 1(3,1)
chỉnh khi cần thiết
5 KN nhìn lại quá trình thực hiện và
đánh giá kết quả thực hiện so với 0(0) 0(0) 26(81,3) 6(18,7) mục tiêu đặt ra, đánh giá mức độ
hoàn thành mục tiêu.
80
Từ kết quả bảng trên cho thấy GV chọn ý kiến quan trọng và rất quan trọng ở
mức cao (trên 90%), không có ý kiến nào chọn không quan trọng, có rất ít ý kiến
quan trọng. Kết quả cho thấy GV các trường ĐH trong QĐ đều đánh giá cao mức độ
quan trọng của việc hình thành một số KN SNT cho nghề nghiệp tương lai của HV
b) Đối với quản lý học viên
Cán bộ quản lý HV là những SQ đã tốt nghiệp các trường đào tạo SQ trong QĐ,
đã có thời gian công tác ở các lĩnh vực khác nhau nên có sự hiểu biết và nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Chúng tôi đã tiến hành điều tra với 46 cán bộ quản lý HV tại trường nói trên. Kết
quả như sau:
Nhằm tìm hiểu vai trò của việc rèn luyện KN cho HV, ở câu hỏi 1, phụ lục 3
“Theo đồng chí việc rèn luyện các KN cho HV có quan trọng không ?” thì thu được
kết quả như sau:
Bảng 1.12. Ý kiến của cán bộ quản lý HV về việc rèn luyện KN cho HV
Không quan trọng Ít quan trọng Quan trọng Rất quan trọng
SL % SL % SL % SL %
0 0 0 0 14 30,4 32 69,6
Từ kết quả bảng trên cho thấy tất cả đều chọn rất quan trọng (69,6%) hoặc
quan trọng (30,4%) và không có ý kiến nào chọn không quan trọng, ít quan
trọng. Kết quả cho thấy cán bộ quản lý HV các trường ĐH trong QĐ đều đánh
giá cao mức độ quan trọng của việc rèn luyện KN cho HV.
Nhằm tìm hiểu vai trò của việc rèn luyện các KN cho HV khi dạy môn XSTK,
ở câu hỏi 2, phụ lục 3 “ Theo đồng chí, khi dạy học XSTK, việc rèn luyện các KN
sau có vai trò như thế nào đối với HV?” thì thu được kết quả như sau:
81
Bảng 1.13. Ý kiến của cán bộ quản lý về các KN GV thường rèn luyện cho HV
Không Ít quan Quan Rất quan
quan trọng trọng trọng TT Các KN trọng
SL(%) SL(%) SL(%) SL(%)
KN tính toán 0(0) 0(0) 25(54) 21(46) 1
KN huy động công thức để giải 2 0(0) 2(4,4) 26(56,5) 18(39,1) bài tập
3 KN thu thập, mô tả, tổ chức và 0(0) 4(8,7) 19(41,3) 23(50) trình bày dữ liệu
4 KN phân tích, xử lí, diễn giải và 0() 4(8,7) 13(28,3) 29(63) kết luận
5 KN tiến hành và kết hợp các
thao tác trí tuệ để phân tích, 0(0) 3(6,5) 17(37) 26(56,5) tổng hợp, so sánh, khái quát
hoá, trừu tượng hoá, cụ thể hoá
Từ kết quả bảng trên cho thấy hầu hết cán bộ quản lý HV đều chọn rất quan
trọng hoặc quan trọng ở mức cao (trên 90%) và không có ý kiến nào chọn không
quan trọng. Kết quả cho thấy cán bộ quản lý HV các trường ĐH trong QĐ đều đánh
giá cao mức độ quan trọng của việc rèn luyện KN NT cho HV trong DH XSTK.
Nhằm tìm hiểu việc xác định vai trò của việc hình thành một số KN SNT cho
nghề nghiệp tương lai của HV, ở câu hỏi 3, phụ lục 3 “Theo đồng chí, ngoài các KN
nói trên, việc rèn luyện các KN sau có vai trò như thế nào đối với nghề nghiệp
tương lai của HV?” thì thu được kết quả như sau:
82
Bảng 1.14. Ý kiến của cán bộ quản lý về các KN có vai trò đối với nghề nghiệp của HV
Các KN TT Ít quan trọng SL(%) Rất quan trọng SL(%)
Không quan trọng SL(%) 0(0) Quan trọng SL(%) 2(4,4) 24(52,2) 20(43,4) 1 KN định hướng, xác định vấn đề
2 KN xác định mục tiêu, nội dung, 0(0) 1(2,2) 25(54,4) 20(43,4) nhiệm vụ
3 KN lập kế hoạch thực hiện mục tiêu, 0(0) 0(0) 19(41,3) 27(58,7) nhiệm vụ, phân phối thời gian
4 KN xác định và lựa chọn phương 0(0) 2(4,4) 23(50) 21(45,6) pháp phù hợp
5 KN giám sát sự hiểu biết của bản
thân khi thực hiện nhiệm vụ và điều 0(0) 3(6,5) 23(50) 20(43,5)
chỉnh khi cần thiết
6 KN nhìn lại quá trình thực hiện và
đánh giá kết quả thực hiện so với 0(0) 1(2,2) 24(52.2) 21(25,6) mục tiêu đặt ra, đánh giá mức độ
hoàn thành mục tiêu.
Từ kết quả bảng trên cho thấy hầu hết cán bộ quản lý HV đều chọn rất quan
trọng hoặc quan trọng ở mức cao (trên 90%) và không có ý kiến nào chọn không
quan trọng. Kết quả cho thấy cán bộ quản lý HV các trường ĐH trong QĐ đều đánh
giá cao mức độ quan trọng của việc việc hình thành một số KN SNT cho nghề nghiệp
tương lai của HV.
c) Đối với học viên
Chúng tôi đã tiến hành điều tra với 600 HV đào tạo SQ tại 05 trường nói trên.
Kết quả như sau:
Nhằm tìm hiểu việc xác định vai trò của việc rèn luyện KN của HV, ở câu hỏi 1,
phụ lục 4 “Theo đồng chí việc rèn luyện các KN cho HV có quan trọng không ?” thì
thu được kết quả như sau:
83
Bảng 1.15. Ý kiến của HV về việc GV rèn luyện KN cho HV
Không quan trọng Ít quan trọng Quan trọng Rất quan trọng
SL % SL % SL % SL %
7 1,1 16 2,7 328 54,7 249 41,5
Từ kết quả bảng trên cho thấy tất cả đều chọn rất quan trọng (41,5%) hoặc quan
trọng (54,7%) và có rất ít ý kiến chọn không quan trọng (1,1%), ít quan trọng(2,7%).
Kết quả cho thấy HV các trường ĐH trong QĐ đều đánh giá cao mức độ quan trọng
của việc rèn luyện KN.
Nhằm tìm hiểu mức độ rèn luyện các KN của HV khi học môn XSTK, ở câu
hỏi 2, phụ lục 4 “ Khi học môn XSTK, các đồng chí thường được rèn luyện các KN
nào?” thì thu được kết quả như sau:
Bảng 1.16. Ý kiến của HV về các KN GV thường rèn luyện cho HV
TT Các KN Không bao giờ SL(%) Thỉnh thoảng SL(%) Thường xuyên SL(%) Rất thường xuyên SL(%)
KN tính toán 26(4,8) 85(14,2) 316(52,7) 173(28,3) 1
2 KN huy động công thức để 15(2,6) 62(10,3) 329(54,8) 194(32,3) giải bài tập
3 KN thu thập, mô tả, tổ chức 42(7) 274(45,7) 219(36,5) 65(10,8) và trình bày dữ liệu
4 KN phân tích, xử lí, diễn giải 37(6,2) 237(39,5) 197(32,8) 129(21,5) và kết luận
5 KN tiến hành và kết hợp các
thao tác trí tuệ để phân tích, 31(5,2) 104(17,3) 311(51,8) 4(25,7) tổng hợp, so sánh, khái quát
hoá, trừu tượng hoá, cụ thể hoá
Từ kết quả bảng trên cho thấy, đối với các KN 1, 2, 5 được HV sử dụng thường
xuyên và rất thường xuyên ở mức cao (trên 75%) và đây là các KN NT cần thiết của HV
cho việc GQVĐ. Đối với các KN 3, 4 được các HV sử dụng thường xuyên và rất thường
xuyên ở mức trung bình (trên 50%) và đây là các KN xử lí số liệu trong phần TK.
84
Nhằm tìm hiểu mức độ rèn luyện một số KN SNT của HV khi học môn XSTK,
ở câu hỏi 3, phụ lục 4 “Theo đồng chí, ngoài các KN nói trên, việc rèn luyện các KN
sau các đồng chí thường thực hiện như thế nào?” thì thu được kết quả như sau:
Bảng 1.17. Ý kiến của HV về các KN có vai trò đối với nghề nghiệp của HV
TT Các KN Không bao giờ SL(%) Thỉnh thoảng SL(%) Thường xuyên SL(%) Rất thường xuyên SL(%)
KN định hướng, xác định 1 26(4,3) 85(14,2) 316(52,7) 173(28,8) vấn đề
2 15(2,5) 94(15,7) 338(56,3) 153(25,5) KN xác định mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ
KN lập kế hoạch thực hiện 3
mục tiêu, nhiệm vụ, phân 147(24,5) 284(47,3) 117(19,5) 52(8,7)
phối thời gian
KN xác định và lựa chọn 4 39(6,5) 132(22) 245(40,8) 184(30,7) phương pháp phù hợp
KN giám sát sự hiểu biết của 5
bản thân khi thực hiện nhiệm 126(21) 268(44,7) 145(24,1) 61(10,2)
vụ và điều chỉnh khi cần thiết
6 KN nhìn lại quá trình thực
hiện và đánh giá kết quả
thực hiện so với mục tiêu đặt 106(17,7) 294(49) 135(22,5) 65(10,8)
ra, đánh giá mức độ hoàn
thành mục tiêu.
Từ kết quả bảng trên cho thấy, đối với các KN 1, 2, 4 được HV sử dụng thường
xuyên và rất thường xuyên ở mức cao (trên 70%) và đây là các KN cần thiết cho HV
trong việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ cần thực hiện. Đối với các KN 3, 5, 6 được
các HV sử dụng thường xuyên và rất thường xuyên ở mức thấp (dưới 35%) và đây là
các KN xử cần thiết cho HV trong việc lập kế hoạch GQNV, đánh giá kết quả thực
hiện và điều chỉnh khi cần thiết. Kết quả cho thấy, số lượng HV quan tâm đến các
KN SNT ở mức chưa cao.
85
1.5. Kết luận chƣơng 1
Chương 1 của luận án đã nghiên cứu được những vấn đề sau đây:
- Hệ thống hoá các quan niệm về SNT, thống nhất quan điểm về SNT, KN
SNT theo Brown A.L., làm rõ các KN SNT cụ thể, phân biệt giữa NT và SNT ở một
số khía cạnh, làm rõ một số biểu hiện của HV có KN SNT.
- Đưa ra quan niệm DH theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT; Quy trình,
cách tổ chức DH toán theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV.
- Phân tích thực trạng DH XSTK ở một số trường ĐH trong QĐ; làm rõ
nhu cầu phát triển KN SNT và xác định cơ hội rèn luyện KN SNT cho HV
trong DH XSTK.
Những kết quả nghiên cứu trên đây là cơ sở lý luận và thực tiễn để chúng tôi
đề xuất một số biện pháp DH XSTK theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT cho
HV ở một số trường ĐH trong QĐ trong chương 2.
86
Chƣơng 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC XSTK Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC
TRONG QUÂN ĐỘI THEO HƢỚNG TĂNG CƢỜNG RÈN LUYỆN KỸ
NĂNG SIÊU NHẬN THỨC CHO HỌC VIÊN
2.1. Một số định hƣớng xây dựng và thực hiện các biện pháp sƣ phạm
Nội dung chính của chương này là đề xuất một số biện pháp sư phạm nhằm
tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV ở các trường ĐH trong QĐ.
Định hƣớng 1. Các biện pháp sư phạm cần bám sát mục tiêu, nội dung
chương trình đào tạo môn XSTK cho HV trong trường ĐH trong QĐ.
Các biện pháp sư phạm phải căn cứ vào mục tiêu, nội dung, phương pháp DH
môn XSTK ở các trường ĐH trong QĐ; các yếu tố khai thác phải nằm trong khuôn
khổ kiến thức, KN của chương trình; phù hợp với kế hoạch giảng dạy và hình thức
tổ chức DH của nhà trường và môn học; phải xác định được các nội dung XSTK có
cơ hội để hình thành và rèn luyện KN SNT cho HV, nội dung phải chứa đựng tình
huống bộc lộ những mâu thuẫn, khó khăn, chướng ngại NT và những sai lầm
thường gặp trong DH; biên soạn hệ thống câu hỏi, bài tập và nhiệm vụ học tập khác
phù hợp với nội dung chương trình và khả năng tiếp nhận của HV.
Định hƣớng 2. Các biện pháp sư phạm phải phù hợp với xu thế đổi mới và
cần bám sát vào yêu cầu PPDH ở bậc ĐH hiện nay, đồng thời các biện pháp phải có
tính khả thi và góp phần đổi mới PPDH ở bậc ĐH.
Trong xu thế mới, PPDH ở bậc ĐH gắn liền với ngành nghề đào tạo và thực tế
xã hội; PPDH ở bậc ĐH tiếp cận với phương pháp khoa học; PPDH ở bậc ĐH kích
thích cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của HV; PPDH ở bậc ĐH phải rất đa
dạng. Các biện pháp sư phạm đưa ra phải xuất phát từ thực trạng của việc DH môn
XSTK ở các trường ĐH trong QĐ đảm bảo khả thi, có thể thực hiện được trong điều
kiện thực tế của nhà trường, năng lực của GV, làm tăng hứng thú cũng như kết quả
học tập của HV trong học tập môn XSTK.
Định hƣớng 3. Các biện pháp sư phạm cần góp phần quan trọng trong việc
nâng cao khả năng tiếp thu kiến thức khoa học của môn XSTK.
87
Do đặc thù của môn XSTK, có hệ thống lý thuyết chặt chẽ, bài tập phong phú
đa dạng và gắn chặt với thực tế nên việc học và GQNV học tập giúp cho HV có
được phương pháp tư duy, phương pháp suy luận, phương pháp GQVĐ một cách
khoa học. Chính vì vậy các biện pháp sư phạm đưa ra cần góp phần hình thành cho
HV cách học, cách GQNV học tập, GQVĐ giúp HV nắm vững các tri thức, KN cần
thiết của môn học. Ngoài ra cần giúp HV hiểu cách học, tự giác để thâm nhập vào
đối tượng học tập chiếm lĩnh tri thức mới, biết cách tự học, tự GQVĐ sẽ có ý nghĩa
quan trọng trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Định hƣớng 4. Các biện pháp sư phạm thể hiện việc nâng cao khả năng vận
dụng KN SNT cho HV.
Các biện pháp sư phạm ngoài việc góp phần quan trọng vào việc làm cho HV
nắm vững các tri thức và KN của môn học thì cần phải thể hiện rõ ý tưởng, mục
đích góp phần rèn luyện KN SNT cho HV. Việc rèn luyện KN SNT cho HV cần
thực hiện bằng các cách thức khác nhau nhằm giúp việc rèn luyện được luyện tập
nhiều lần, bởi nhiều hoạt động khác nhau dẫn đến KN SNT được củng cố, phát triển
bền vững và có thể vận dụng được vào GQNV học tập.
2.2. Một số biện pháp sƣ phạm góp phần tăng cƣờng rèn luyện KN SNT cho
HV qua dạy học XSTK ở các trƣờng ĐH trong QĐ
2.2.1. Biện pháp 1: Rèn luyện cho HV KN dự đoán, lập kế hoạch thông qua các
hoạt động tìm hiểu vấn đề, chuyển đổi ngôn ngữ, liên tưởng và huy động kiến
thức đã có để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
Mục đích của biện pháp
Biện pháp này nhằm hình thành cho HV khả năng tìm hiểu vấn đề, những yêu
cầu cần giải quyết và những thông tin đã cho, chuyển đổi từ ngôn ngữ thông thường
sang ngôn ngữ TH XSTK. Từ đó, có thể huy động các kiến thức cần thiết đã có để
GQNV học tập. Đây là biện pháp quan trọng góp phần định hướng và đưa ra các
biện pháp GQNV học tập.
Biện pháp này góp phần bồi dưỡng các KN dự đoán, lập kế hoạch.
88
Cơ sở khoa học của biện pháp
Theo Tobias và Everson, nếu người học không phân biệt được chính xác
những gì họ biết và những gì họ không biết thì khó có thể tham gia vào các hoạt
động mang tính SNT như lập kế hoạch, đánh giá việc học của chính mình, hay giám
sát quá trình học tập đó. Ngược lại, những người nhận biết được kiến thức của bản
thân, họ biết đâu là kiến thức trọng tâm mà họ cần đạt đến. Từ đó, họ có thể sử dụng
một cách có hiệu quả thời gian, các biện pháp cho những nhiệm vụ của mình, giúp
cho việc học có hiệu quả hơn [122].
Theo G.Polya, việc nhớ lại có chọn lọc các tri thức là sự huy động, việc làm
cho chúng thích ứng với bài toán đang giải là sự tổ chức. Việc dùng công cụ nào để
giải quyết, huy động những kiến thức gì còn phụ thuộc vào khả năng biết lựa chọn
của người học. Người học đã tích lũy được những kiến thức ấy trong trí nhớ, giờ
đây rút ra và vận dụng một cách thích hợp để giải bài toán [46].
Có thể hiểu “huy động” là việc nhớ lại có chọn lọc các kiến thức mà mình đã
có thích ứng với một vấn đề đặt ra mà mình cần giải quyết trong vốn tri thức của
bản thân. TH là một môn khoa học có tính logic, hệ thống và kế thừa rất cao. Mọi
kiến thức TH đều xây dựng chặt chẽ và có cơ sở rất rõ ràng. Tri thức trước chuẩn bị
cho tri thức sau, tri thức sau dựa vào tri thức trước, tất cả như những mắt xích liên
kết với nhau một cách chặt chẽ [28].
Như vậy, có thể khẳng định vai trò của hoạt động tìm hiểu vấn đề, chuyển đổi
ngôn ngữ, liên tưởng và huy động kiến thức là hết sức quan trọng và cần thiết để rèn
luyện các KN dự đoán, lập kế hoạch GQVĐ. Nếu không có các khả năng này thì rõ
ràng người học sẽ gặp nhiều khó khăn để giải được các bài toán và tiếp cận với nội
dung mới một cách hiệu quả.
Cách thức tổ chức thực hiện biện pháp
Để hình thành cho HV KN dự đoán, lập kế hoạch thông qua các hoạt động tìm
hiểu vấn đề, chuyển đổi ngôn ngữ, liên tưởng và huy động kiến thức đã có để
GQNV học tập, các hoat động cần thực hiện:
a) Tìm hiểu vấn đề: Tìm hiểu vấn đề cần nắm được các yếu tố như:
Những cái đã cho: Là các giá trị được biết đến và sẽ được sử dụng để GQVĐ.
89
Mục tiêu cần đạt: Các mục tiêu của một vấn đề là những gì yêu cầu chúng ta
phải tìm.
Những ẩn số: Những ẩn số là các đại lượng trong các vấn đề đề cập đến,
nhưng giá trị của chúng không được phát biểu rõ ràng. Chúng cần phải được tìm ra
để đạt được mục tiêu.
Các quan hệ: Các mối quan hệ của một vấn đề là những câu kết nối những cái
đã biết, các ẩn số, và các mục tiêu. Chúng là những câu mô tả mối liên hệ giữa các
yếu tố.
Các biểu thức: Là các biểu diễn TH của các mối quan hệ. Từ các quan hệ và
biểu thức có thể dẫn đến giải quyết mục tiêu cần đạt.
Ví dụ 2.1: Ba xạ thủ mỗi người bắn 1 viên đạn với XS bắn trúng mục tiêu của từng
người tương ứng là 0,7; 0,8 và 0,9. Tính các XS của các biến cố:
- Có đúng hai người bắn trúng?
- Có ít nhất một người bắn trượt?
GV HV
Yêu cầu của bài toán? Bài toán cần tính XS của các biến cố:
“Có đúng hai người bắn trúng”;
“Có ít nhất một người bắn trượt”
Có những biến cố nào? Biến Ai là biến cố “xạ thủ thứ i bắn trúng mục tiêu”;
cố nào đã biết XS? A là biến cố “Có đúng hai người bắn trúng”;
B là biến cố “Có ít nhất một người bắn trượt”.
P(A1)= 0,7; P(A2)= 0,8 ; P(A3) = 0,7.
Mục tiêu của bài toán? Tính: ,
Mối quan hệ giữa biến cố A Ta có thể biểu diễn A dưới dạng:
và các biến cố đã biết XS
Tính XS các biến cố A
= 0,7.0,8.(1 - 0,9) + 0,7.(1 - 0,8).0,9 +(1- 0,7).0,8.0,9
= 0,398.
90
Mối quan hệ giữa biến cố B Biến cố B có khá nhiều trường hợp xảy ra.
và các biến cố đã biết XS
Tính XS các biến cố B Việc biểu diễn B theo các biến cố A1, A2, A3 khá phức tạp và việc tính toán sẽ gặp nhiều khó khăn. Khi biến cố B càng phức tạp thì biến cố đối sẽ càng
đơn giản. Ta có là biến cố “ cả ba người bắn trúng”
và .
P(B) = 1- P( ) = 1- P(A1A2A3)
= 1 - 0,7.0,8.0,9 = 0,496
Qua bài toán trến, GV có thể - Xác định yêu cầu
cho HV tổng kết lại các bước - Xác định yếu tố đã biết
thực hiện - Tìm mối quan hệ giữa yêu cầu và yếu tố đã biết
- Xác định kiến thức có liên quan
- Giải quyết bài toán
Trong quá trình thực hiện Ví dụ 2.1, các hoạt động rèn luyện KN dự đoán
được thực hiện ở khâu: Đọc hiểu vấn đề; xác định các thông tin đã cho; xác định
yêu cầu của bài toán; mô tả các biến cố; xác định XS của biến cố đã cho; xác định
khó khăn của bài toán; xác định khả năng giải quyết được bài toán.
Các hoạt động rèn luyện KN lập kế hoạch được thực hiện ở khâu: Xác định
mục tiêu của bài toán; mối quan hệ giữa biến cố A, B, và các biến cố ;
xác định kiến thức có liên quan như công thức cộng, công thức nhân, biến cố độc,
biến cố xung khắc, biến cố đối; giải quyết khó khăn; xác định trình tự giải quyết;
giải quyết bài toán.
Ví dụ 2.2: Có n khẩu đội pháo bắn vào cùng một mục tiêu độc lập với nhau, XS diệt
mục tiêu của mỗi khẩu là 0.7. Hãy tính số khẩu đội pháo n để sao cho XS của biến
cố “mục tiêu bị tiêu diệt” lớn hơn 90%?
GV HV
Yêu cầu của bài toán? Bài toán cần tìm n để XS của biến cố “mục tiêu
bị tiêu diệt” lớn hơn 90%
91
Có những biến cố nào? là biến cố “khẩu đội thứ i diệt được mục
tiêu”; B là biến cố “mục tiêu bị tiêu diệt”
Những biến cố đã nào đã biết XS?
Mục tiêu của bài toán? Tìm n khi biết
Nhận xét về mối quan hệ giữa biến Việc biểu diễn B theo các biến cố A1, A2, …,
cố B và các biến cố A1, A2, …, An An rất phức tạp.
Quan hệ của Biến cố đối là biến cố “không khẩu pháo nào và các biến cố A1,
tiêu diệt được mục tiêu” thì đơn giản hơn rất nhiều và A2, …, An
.
Tính XS các biến cố Do các khẩu pháo hoạt động độc lập nên:
.
Từ đó suy ra XS của biến cố B là:
.
Tim n Để tìm được n cần dựa vào điều kiện: XS biến
cố B lớn hơn 90% , nghĩa là
Vậy phải bắn ít nhất 2 khẩu pháo thì XS của
biến cố “mục tiêu bị tiêu diệt” lớn hơn 90%. - Xác định yêu cầu Qua bài toán trến, GV có thể cho
HV tổng kết lại các bước thực hiện - Xác định yếu tố đã biết
- Tìm mối quan hệ giữa yêu cầu và yếu tố đã
biết
- Xác định kiến thức có liên quan
- Giải quyết bài toán
Trong quá trình thực hiện Ví dụ 2.2, các hoạt động rèn luyện KN dự đoán
được thực hiện ở khâu: Đọc hiểu vấn đề; xác định các thông tin đã cho; xác định
yêu cầu của bài toán; mô tả các biến cố; xác định XS của biến cố đã cho; xác định
khó khăn của bài toán; xác định khả năng giải quyết được bài toán.
92
Các hoạt động rèn luyện KN lập kế hoạch được thực hiện ở khâu: Xác định
mục tiêu của bài toán; mối quan hệ giữa biến cố B, và các biến cố ; xác
định kiến thức có liên quan như công thức nhân, biến cố độc, biến cố đối; giải quyết
khó khăn; xác định trình tự giải quyết; giải quyết bài toán.
Qua việc hướng dẫn các bước thực hiện và tổng kết lại các bước đã thực hiện
sẽ giúp HV định hướng được các KN dự đoán và lập kế hoạch.
b) Chuyển đổi ngôn ngữ
Trong DH toán nói chung và XSTK nói riêng thì việc rèn luyện cho HV khả
năng chuyển đổi ngôn ngữ là hết sức cần thiết, cần phải làm cho HV hiểu được giữa
ngôn ngữ thông thường và ngôn ngữ XSTK là không đồng nhất. Một đối tượng có
thể có nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Do đó, ngôn ngữ của chúng cũng
khác nhau. Tuy nhiên, nếu năng lực chuyển đổi ngôn ngữ tốt thì người học có thể
nắm bắt được đối tượng này một cách thuận lợi. Trên cơ sở đó người học cần nắm
được bản chất vấn đề để mô tả tình huống thông thường theo ngôn ngữ XSTK.
Để giải được một bài toán XSTK, HV cần thực hiện được các bước sau:
Bước 1: Mô tả các yêu cầu từ ngôn ngữ thông thường sang ngôn ngữ TH XSTK.
Bước 2: Giải bài toán XSTK.
Bước 3: Chuyển kết quả lời giải bài toán XSTK sang ngôn ngữ thông thường.
Ví dụ 2.3. Một chiến sỹ tập bắn một loại súng và được bắn mỗi ngày 10 viện đạn
với XS trúng vòng 10 mỗi lần bắn là 0,1. Nếu 1 tháng (30 ngày) chiến sỹ đó tập bắn
thì trung bình có bao nhiêu ngày chiến sỹ đó bắn trúng vòng 10?
Để giải bài toán này đòi hỏi HV phải có khả năng chuyển đổi ngôn ngữ tốt,
cần phải biết chuyển đổi yêu cầu dưới dạng ngôn ngữ thông thường thành yêu cầu
dưới dạng TH. Nói cách khác, HV phải có khả năng chuyển đổi từ ngôn ngữ bằng
lời sang ngôn ngữ TH.
Khi đó lời giải bài toán này như sau:
Bước 1: Mô tả các yêu cầu từ ngôn ngữ thông thường sang ngôn ngữ TH XSTK.
Gọi X là số ngày chiến sỹ bắn trúng vòng 10. Khi đó X là biến ngẫu nhiên
tuân theo phân phối nhị thức B(30; p) với p là XS bắn trúng vòng 10 mỗi ngày. Hay
nói cách khác, p là XS bắn 10 viên thì có ít nhất 1 viên trúng vòng 10.
93
Yêu cầu "tính số ngày trung bình bắn trúng vòng 10" cần phải hiểu dưới dạng
ngôn ngữ XS chính là yêu cầu tính kỳ vọng EX.
Bước 2: Giải bài toán XSTK.
Theo công thức Berloulli, ta có:
Ta có EX = np = 30.p = 30.0,65132 = 19,539.
Bước 3: Chuyển kết quả lời giải bài toán XSTK sang ngôn ngữ thông thường.
Như vậy trung bình mỗi tháng có khoảng 20 ngày bằn trúng vòng 10.
Trong quá trình thực hiện Ví dụ 2.3, các hoạt động rèn luyện KN dự đoán
được thực hiện ở khâu: Đọc hiểu vấn đề; xác định các thông tin đã cho; xác định
yêu cầu của bài toán; mô tả biến ngẫu nhiên X; xác định quy luật phân phối XS của
X; chuyển đổi từ ngôn ngữ thông thường sang ngôn ngữ TH XSTK.
Các hoạt động rèn luyện KN lập kế hoạch được thực hiện ở khâu: Xác định
mục tiêu của bài toán; xác định kiến thức có liên quan như phân phối nhị thức, công
thức Berloulli, kỳ vọng của biến ngẫu nhiên; xác định trình tự giải quyết; giải quyết
bài toán; Chuyển kết quả lời giải bài toán XSTK sang ngôn ngữ thông thường.
Ví dụ 2.4: Trong chiến tranh công nghệ cao, ngụy trang bằng mục tiêu giả có ý
nghĩa hết sức quan trọng vì nó có thể chia bớt số bom đạn phải hứng chịu cho các
mục tiêu thật khác. Trong khu vực phòng thủ thành phố, nhiều trận địa giả được bố
trí xen kẽ với các trận địa thật. Ngày đầu tiên oanh tạc thành phố, địch phá T = 25
trận địa thật và G = 11 trận địa giả. Nếu tỉ lệ G : T bằng hoặc vợt quá 1/2 thì các
trận địa giả được xem là đạt yêu cầu. Với mức ý nghĩa 0,05 có thể coi các trận địa
giả đạt yêu cầu hay chưa?
Để giải bài toán có tính thực tế này đòi hỏi HV phải có khả năng chuyển đổi
ngôn ngữ thông thường thành yêu cầu dưới dạng TH.
Bước 1: Mô tả các yêu cầu từ ngôn ngữ thông thường sang ngôn ngữ TH XSTK.
Gọi p là tỉ lệ trận địa giả bị phá so với tổng số trận địa bị phá.
Bài toán yêu cầu kiểm tra xem “trận địa giả có đạt yêu cầu hay không”, hay
cần kiểm tra xem tỉ lệ G : T có bằng hoặc lớn hơn 0,5 hay không. Điều đó có nghĩa
94
cần kiểm tra giả thuyết p có lớn hơn hoặc bằng 1/3 hay không. Như vậy ta cần đi
kiểm tra các giả thuyết và đối thuyết sau:
Giả thuyết
Đối thuyết với mức ý nghĩa .
Bước 2: Giải bài toán XSTK.
Để kiểm định giả thuyết trên, tiêu chuẩn kiểm định là:
Trong đó: n = 11 + 25 = 36, X = 11 và . Thay vào công thức trên, ta có:
Với α = 0,05 có tra bảng phân phối N(0, 1): xα = 1,64
Ta thấy Z < xα nên chấp nhận giả thuyết
Bước 3: Chuyển kết quả lời giải bài toán XSTK sang ngôn ngữ thông thường.
Vậy chấp nhận giả thuyết có nghĩa là chấp nhận trận địa giả đạt yêu
cầu với mức ý nghĩa α = 0,05.
Trong quá trình thực hiện Ví dụ 2.4, các hoạt động rèn luyện KN dự đoán
được thực hiện ở khâu: Đọc hiểu vấn đề; xác định các thông tin đã cho; xác định
yêu cầu của bài toán; xác định được bài toán thuộc dạng kiểm định giả thuyết về tỉ
lệ; chuyển đổi từ ngôn ngữ thông thường sang ngôn ngữ TH XSTK.
Các hoạt động rèn luyện KN lập kế hoạch được thực hiện ở khâu: Xác định
mục tiêu của bài toán; xác định kiến thức có liên quan như tiêu chuẩn kiểm định giả
thuyết, mức ý nghĩa, phân phối N(0;1), điều kiện chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết;
xác định trình tự giải quyết; giải quyết bài toán; Chuyển kết quả lời giải bài toán
XSTK sang ngôn ngữ thông thường.
95
c) Liên tưởng và huy động kiến thức
Trong quá trình giải một bài toán thì không phải tất cả các kiến thức cũ, tri
thức cũ đều cần phải huy động hết. Tuỳ vào đặc điểm cụ thể của từng bài toán mà
người học cần phải huy động những kiến thức liên quan đến bài toán đó. Việc cần
huy động những kiến thức gì, những định lý, hệ quả, tính chất nào, điều đó còn phụ
thuộc rất lớn vào khả năng lựa chọn, chọn lọc của người giải.
Ví dụ 2.5: XS để một khẩu pháo bắn trúng mục tiêu ở mỗi lần bắn là 0,6. Xác định
XS mục tiêu bị tiêu diệt sau ba lần bắn độc lập. Biết rằng XS mục tiêu bị tiêu diệt
khi trúng một, hai, ba phát đạn tương ứng là 0,2 ; 0,6 và 1,0.
Đối với bài toán này HV cần phải đọc kỹ yêu cầu của đề bài để có thể liên
tưởng đến việc mình cần sử dụng những công thức tính XS nào đã học?
Yêu cầu "Xác định XS mục tiêu bị tiêu diệt sau ba lần bắn độc lập" có nghĩa là
trong 3 lần bắn để tiêu diệt được mục tiêu thì cần có ít nhất 1 lần bắn trúng mục
tiêu. Khi bắn 3 lần độc lập, có 4 trường hợp xảy ra là: không có lần nào trúng, có 1
lần trúng, có 2 lần trúng và có 3 lần trúng. Khả năng diệt được mục tiêu phụ thuộc
vào 1 trong 4 trường hợp trên. Như vậy, đây là biến cố xảy ra cùng với 1 trong 4
biến cố, do đó HV có thể liên tưởng đến công thức XS đầy đủ. Do đó bài toán có
thể được giải quyết nhờ sử dụng công thức XS đầy đủ.
Gọi là biến cố sau 3 lần bắn có đúng j viên trúng mục tiêu, ( ).
Áp dụng công thức Bernulli cho trường hợp: n=3; p=0,6; q=0,4, ta có:
; ; ;
Gọi H là biến cố mục tiêu bị tiêu diệt theo giả thiết ta có:
; ; ; .
lập thành một nhóm đầy đủ các biến cố.
Áp dụng công thức XS đầy đủ ta có:
P(H) = 0,064.0+0,228.0,2+0,432.0,6+0,216.1 = 0,5208.
96
Vậy XS mục tiêu bị tiêu diệt sau ba lần bắn độc lập là: 0,5208.
Trong quá trình thực hiện Ví dụ 2.5, các hoạt động rèn luyện KN dự đoán
được thực hiện ở khâu: Đọc hiểu vấn đề; xác định các thông tin đã cho; xác định
yêu cầu của bài toán; liên tưởng đến công thức XS đầy đủ thông qua các trường hợp
xảy ra; mô tả các biến cố; xác định khả năng giải quyết được bài toán.
Các hoạt động rèn luyện KN lập kế hoạch được thực hiện ở khâu: Xác định
mục tiêu của bài toán; mối quan hệ giữa biến cố H và các biến cố ; xác
định kiến thức có liên quan như công thức XS đầy đủ, công thức Becnoulli; xác
định trình tự giải quyết; giải quyết bài toán.
Sự liên tưởng của mỗi người đều không giống nhau, đối với người có nền tảng
tri thức tốt thì sự liên tưởng bao giờ cũng tốt hơn; do đó đứng trước một bài toán họ
có thể liên tưởng đến nhiều công cụ khác nhau để giải quyết nó. Vì vậy họ có cơ hội
để so sánh ưu điểm, nhược điểm của từng cách giải, nhận thấy được tính ưu việt của
chúng, từ đó có thể đúc rút thêm nhiều kinh nghiệm quý báu. Còn đối với người học
có học lực trung bình thì việc giải được một bài toán theo một cách duy nhất cũng
đã là một sự khó khăn.
Ví dụ 2.6: Một tiểu đội có 9 người trong đó có 2 người A, B. Từ 9 người đó cần
chọn ra 4 người để xếp làm 4 công việc khác nhau. Hỏi có bao nhiêu cách chọn và
xếp 4 người vào 4 công việc mà luôn có 2 người A và B được chọn?
Đối với HV có khả năng liên tưởng tốt thì việc giải bài toán này không quá
khó khăn và có thể giải theo nhiều cách khác nhau; chẳng hạn:
Cách 1. Chọn 4 người trong đó có 2 người A và B và xếp vào 4 công việc.
- Số cách chọn A là 1, số cách chon B là 1 và số cách chọn 2 người con lại là
(cách)
- Số cách xếp 4 người vừa chọn vào 4 công việc là (cách).
Vậy tổng số cách chọn và xếp 4 người trong đó có 2 người A, B là: 21x24 =
504 (cách)
Cách 2. Chọn và xếp công việc cho 4 người
- Số cách xếp 2 công việc cho 2 người A, B là: (cách).
97
- Số cách chọn 2 người trong 7 người và xếp 2 công việc còn lại: (cách)
Vậy tổng số cách chọn và xếp 4 người trong đó có 2 người A, B là: 12x42 =
504 (cách)
Cách 3. Có thể giải bài quyết bài toán bằng cách chọn gián tiếp
- Tổng số cách chọn và xếp 4 người từ 9 người là: (cách)
- Tổng số cách chọn và xếp 4 người không có A, B là: (cách)
- Tổng số cách chọn và xếp 4 người chỉ có A là: (cách)
- Tổng số cách chọn và xếp 4 người chỉ có B là: (cách)
Vậy tổng số cách chọn và xếp 4 người trong đó có 2 người A, B là:
3024 – 840 – 840 - 840 = 504 (cách)
Đứng trước một bài toán cụ thể, do KN SNT khác nhau nên có người liên
tưởng được nhiều định lý, mệnh đề, bài toán phụ này, hệ quả kia..., những tri thức
này có khả năng tìm ra hướng giải quyết cho bài toán. Có người chỉ liên tưởng được
đến một số ít định lý, mệnh đề, bài toán phụ,... mà thôi. Sức liên tưởng và huy động
phụ thuộc vào khả năng tích luỹ kiến thức có tính chất lâu dài và phụ thuộc vào sự
nhạy cảm trong khâu phát hiện vấn đề. Khi tiếp cận nhiều tình huống như vậy sẽ
làm cho KN SNT thường xuyên được luyện tập.
Ví dụ 2.7 : Đơn vị pháo phòng không A đã đánh 45 trận và bắn rơi được 8 máy bay.
Đơn vị pháo phòng không B đã đánh 52 trận và bắn rơi được 12 máy bay. Lần này 2
đơn vị bố trí đội hình không xa nhau, khi máy bay địch đến đều nổ súng và kết quả đã
hạ được 1 máy bay. Tình thế hiện trường không có chứng cứ nào để khẳng định đơn vị
nào bắn rơi. Hãy xem xét đơn vị nào đã bắn rơi máy bay đó.
Để giải được bài toán này thì các kiến thức mà HV cần phải huy động là
không được rõ ràng. Yêu cầu của bài toán là “Hãy xem xét đơn vị nào đã bắn rơi máy
bay đó” không chỉ rõ đó là xét xem XS đơn vị nào bắn rơi máy bay là cao hơn. Đây là
XS bắn rơi máy bay của từng đơn vị khi đã biết có 1 máy bay bị bắn rơi. Đó chính là
XS hậu nghiệm, do đó cần phải dùng công thức Bayes. Các kiến thức cần huy động ở
đây bao gồm:
- Biến cố ngẫu nhiên, hệ biến cố đầy đủ.
98
- Công thức XS đầy đủ.
- Công thức XS điều kiện, công thức Bayes.
Khi đã định hướng được cần phải huy động những kiến thức gì thì HV có học lực
trung bình khá cũng có thể giải được bài toán. Khi đó lời giải của bài toán như sau:
Gọi H1 là biến cố “ Đơn vị A bắn rơi máy bay”;
Gọi H2 là biến cố “ Đơn vị B bắn rơi máy bay”;
Gọi C là biến cố “ Máy bay bị rơi”.
Yêu cầu của bài toán cần tính P(H1/C), P(H2/C) và cần phải so sánh để đi đến
kết luận của bài toán.
Đối với bài toán này, ta cần xấp xỉ P(H1), P(H2) với tần suất của nó, nói cách
. khác:
Giả sử việc máy bay rơi chỉ do 1 đơn vị gây ra.
Khi đó, biến cố C xảy ra khi biến cố H1 hoặc H2 xảy ra; H1 và H2 là hệ đầy đủ
của C.
Theo công thức Bayes:
;
+ Do máy bay rơi chỉ do 1 đơn vị gây ra, nên
+
+
. +
Từ đó, theo quan điểm XS thì khả năng máy bay rơi do đơn vị B bắn trúng là
cao hơn.
Ví dụ 2.8: Một chiếc xe con được điều động gấp về hậu phương làm nhiệm vụ đặc
biệt. Nhìn độ mòn bề ngoài và mức độ cũ mới khác nhau của lốp, các lốp xe được
đánh giá đảm bảo an toàn trên đường đi với XS là 0,95; 0,9; 0,9 và 0,8. Việc hỏng
của các lốp xem là độc lập với nhau.
a) Tìm quy luật phân phối của số lốp xe an toàn trong chuyến đi.
99
b) Tính số lốp xe an toàn trung bình, độ lệch chuẩn.
Bài toán chỉ rõ cần phải huy động, liên tưởng đến các khái niệm, công thức gì.
Do đó đối với một HV có năng lực học tập trung bình cũng có thể giải được. Các
kiến thức cần huy động ở đây bao gồm:
- Khái niệm đại lượng ngẫu nhiên rời rạc.
- Khái niệm bảng phân phối XS.
- Khái niệm về hàm phân phối và cách tìm hàm phân phối.
- Công thức tính kỳ vọng EX.
- Công thức tính phương sai DX, độ lệch chuẩn.
Việc huy động các kiến thức này là nằm trong khả năng của một HV có năng
lực học tập trung bình, các kiến thức cần huy động đã rất rõ ràng.
Khi đó lời giải của bài toán như sau: Gọi X là số lốp xe an toàn trong chuyến
đi, X là biến ngẫu nhiên rời rạc với các giá trị có thể có X = 0, 1, 2, 3, 4. Gọi Ai là
biến cố “lốp thứ i an toàn”, i = 1, 2, 3, 4.
Ta thu được bảng phân phối XS của số lốp xe an toàn:
0 1 2 3 4 X
0,0001 0,0041 0,0571 0,3231 0,6156 P
Số lốp xe an toàn trung bình chính là EX:
100
Độ lệch chuẩn:
Ví dụ 2.9: Tuy rất dễ bỏ lỡ thời cơ bắn đón tên lửa hành trình (TLHT) nhưng người ta
nhận thấy chúng thường bay thành từng nhóm vài quả theo kiểu “Con nọ bám đuôi con
kia”, nên người ta tập trung hoả lực chủ yếu vào những tên lửa đi sau. Từ đó việc xác
định giãn cách giữa các tên lửa là hết sức có ý nghĩa. Giả sử số liệu từ 1 số nhóm
TLHT phóng từ tầu 2 ngày qua như sau: 130, 150, 160, 190, 150, 180, 170, 190 (mét).
Xác định khoảng giãn cách trung bình với độ tin cậy 95%.
Đối với bài toán này HV cần phải huy động các kiến thức chủ yếu sau đây:
- Khái niệm mẫu ngẫu nhiên.
- Công thức tính giá trị trung bình (kỳ vọng mẫu).
- Khái niệm phương sai mẫu, phương sai mẫu hiệu chỉnh, độ lệch chuẩn, độ
lệch mẫu hiệu chỉnh và công thức tính của chúng.
- Phân phối Student.
- Bài toán ước lượng khoảng của kỳ vọng (trung bình).
Khi đã huy động được các kiến thức trên thì lời giải bài toán như sau:
Bài toán cần xác định khoảng ước lượng của khoảng giãn cách trung bình.
Do độ lệch chuẩn chưa biết nên ta sử dụng công thước ước lượng:
(*)
Kích thước mẫu n = 8.
Với độ tin cậy 0,95 có:
Do n = 8 < 30 nên tra bảng phân phối Student với 7 bậc tự do và giá trị tới
hạn 0,025 có
101
Thay số vào (*) ta có khoảng ước lượng cần tìm là:
Vậy với độ tin cậy 0,95 khoảng ước lượng cho khoảng giãn cách trung bình giữa
các TLHT là: (147,126; 182,874).
Nếu biện pháp một là qua quá trình GQNV học tập, GQVĐ mà HV rèn luyện
KN SNT trong các hoạt động rồi tự thân phát triển KN SNT thì biện pháp thứ 2 sẽ
thể hiện các tác động sư phạm của GV trong quá trình đó.
2.2.2. Biện pháp 2: Đặt câu hỏi định hướng góp phần rèn luyện các KN SNT cho
HV trong dạy học môn XSTK.
Mục đích của biện pháp
Mục đích của biện pháp này là định hướng suy nghĩ và thúc đẩy hoạt động
SNT của người học, khơi dậy ở HV tính tích cực, chủ động khi tiếp cận một vấn đề,
một nội dung mới, thông qua KN đặt câu hỏi là chủ yếu, đồng thời cũng góp phần
rèn luyện một số KN khác. Câu hỏi đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp HV
xác định các quá trình tư duy, để xem xét các kết nối giữa các ý tưởng và để xây
dựng sự hiểu biết mới khi họ đang tìm giải pháp có ý nghĩa đối với họ.
Biện pháp này góp phần bồi dưỡng cả bốn KN: dự đoán, lập kế hoạch, giám
sát, đánh giá.
Cơ sở khoa học của biện pháp
Theo Filippone, đặt câu hỏi là phương pháp giảng dạy thống trị trong lớp học,
đặt câu hỏi là kỹ thuật giảng dạy quan trọng nhất đang được sử dụng ngày nay.
Thuộc tính lớn nhất của câu hỏi là nó kích thích tư duy trong lớp học, [100].
Ratner [108] xem việc đặt câu hỏi về các thông tin và giả định đã cho là một
khía cạnh quan trọng của trí thông minh. Người học nên đặt câu hỏi cho mình trước
và trong khi đọc tài liệu học tập. HV sẽ tạm dừng thường xuyên để xác định xem họ
có hiểu được khái niệm; họ có thể liên kết kiến thức đang học với kiến thức đã học;
có thể đưa ra các ví dụ khác; và họ có thể liên kết khái niệm chính với các khái
niệm khác.
102
Và công trình của Wilen [132] cho thấy phần lớn các câu hỏi được hỏi bởi các
GV là các câu hỏi về NT ở mức độ thấp yêu cầu HS tập trung vào việc ghi nhớ và
nhớ lại thông tin thực tế chứ không phải là các câu hỏi nhằm nâng cao sự hiểu biết
của HS sâu sắc hơn.
Theo [100], GV đặt câu hỏi vì nhiều lý do: Đặt câu hỏi giúp người học tích
cực tham gia các bài học; Trong khi trả lời các câu hỏi, người học có cơ hội bày tỏ
công khai ý tưởng và suy nghĩ của mình; Đặt câu hỏi cho phép các người học nghe
lời giải thích khác nhau của tài liệu, của HV khác; Đặt câu hỏi giúp GV giữ được
tốc độ bài học và kiểm soát hành vi của HV; Đặt câu hỏi giúp GV đánh giá việc học
của HV và GV điều chỉnh bài học khi cần thiết.
Như vậy, các nghiên cứu khẳng định đặt câu hỏi đóng vai trò quan trọng trong
việc định hướng, kích thích sự tương tác, tư duy và học tập của người học. Đặt câu
hỏi được GV sử dụng nhiều trong giờ học, tuy nhiên phần lớn các câu hỏi là câu hỏi
về NT ở mức độ thấp yêu cầu người học tập trung vào việc ghi nhớ và nhớ lại thông
tin chứ không phải là các câu hỏi về NT ở mức độ cao, câu hỏi rèn luyện KN SNT.
Cách thức tổ chức thực hiện biện pháp
Sử dụng đặt câu hỏi như một cách thức thúc đẩy SNT trong dạy học XSTK
cần phải được thực hành một cách thường xuyên. Câu hỏi có tác dụng phát triển
SNT cho HV trong dạy học môn XSTK có thể tập trung vào các dạng sau: câu hỏi
nghi vấn, câu hỏi thảo luận, câu hỏi cần lý giải, câu hỏi đánh giá, câu hỏi mở.
Trong quá trình sử dụng “đặt câu hỏi”, ta cần lưu ý những vấn đề sau:
Một số hình thức thảo luận có sử dụng đặt câu hỏi, đó là: Thảo luận cả lớp (tất
cả nói cho nhau nghe, và mọi người lắng nghe một HV nói); Thảo luận trong một
nhóm nhỏ (khoảng 5-10 người); và Thảo luận nhóm hai người.
Những nội dung có thể sử dụng trong quá trình dạy học có đặt câu hỏi khi thảo
luận: Các khái niệm toán học; Các bài toán tính toán; Phương pháp giải quyết và
các chiến lược GQVĐ; Suy luận toán học; Các thuật ngữ toán học, các ký hiệu toán
học, các định nghĩa toán học; và Các hình thức trình bày lời giải.
Một số cách thức để thúc đẩy HV trao đổi trong quá trình dạy học là: Phát
biểu lại những gì đã nghe được; Yêu cầu HV xác định lại sự lý giải của một HV
103
trong lớp; Yêu cầu HV tranh luận để tác động sự lý giải của mình với sự lý giải của
các HV khác trong lớp; Khuyến khích HV tham gia nhiều hơn trong các hoạt động
khác; và GV nên có những khoảng thời gian chờ đợi các câu trả lời từ HV.
Khi sử dụng chiến lược đặt câu hỏi, một số kỹ thuật GV có thể sử dụng trong
quá trình dạy học đó là: tạo sự chú ý khi đưa ra câu hỏi bắt đầu (câu dẫn vào vấn
đề), cần có thời gian chờ hợp lý cho mỗi câu hỏi được đưa ra, khuyến khích HV đặt
câu hỏi tự hỏi và câu hỏi học hỏi, sử dụng sự nhầm lẫn để khuyến khích học sinh
suy nghĩ và tiến hành sửa lỗi,…
Hệ thống câu hỏi đặt ra có thể là những câu hỏi liên tiếp, được sắp đặt với
dụng ý câu hỏi trước gợi ý cho việc trả lời câu hỏi sau. Ngoài ra, GV có thể đặt
những vấn đề và thiết kế những câu hỏi nhỏ để dẫn dắt HV dần dần giải quyết được
vấn đề đó.
Đặt câu hỏi tương ứng với các hoạt động sẽ góp phần rèn luyện KN SNT,
chẳng hạn
Hoạt Các dạng câu h i động
Tôi đã đọc vấn đề một cách cẩn thận chưa? đã hiểu thấu đáo bài toán chưa? Dự
Những thông tin quan trọng đã cho là gì? những thông tin còn thiếu để đoán
GQNV là gì?
Yêu cầu của bài toán là gì?
Có thể mô tả các thông tin cần thiết trên một hình vẽ không?
Đã bao giờ GQNV như thế này trước đây? Tôi nên sử dụng công thức nào?
Để giải quyết bài toán thì khó khăn là gì? Khả năng giải quyết được không?
Mất bao nhiêu thời gian để giải quyết nó?
Mục đích của bài toán là gì? Lập kế
Để giải quyết được bài toán cần giải quyết các nhiệm vụ nhỏ nào? hoạch
Các bước cần tiến hành để giải bài toán là gì?
Để giải bài toán này cần sử dụng những kiến thức, khái niệm, tính chất,
định lí, quy tắc nào? Đã từng gặp vấn đề tương tự và cách GQVĐ đó như
thế nào?
Có giải pháp để giải quyết bài toán không?
104
Các bước giải quyết là gì? Có tuân thủ thứ tự các bước không? Có bỏ Giám
quên bước nào hay không? Tính toán có chính xác hay không? Đã kiểm sát
tra các tính toán hay chưa? Câu trả lời và các kết quả tính toán đã thực
hiện đủ theo yêu cầu hay chưa? Trong các bước đã nêu để giải bài toán,
bước nào là khó khăn nhất? Khi thực hiện bước này sẽ gặp phải khó khăn
gì? Có những cách nào để giải quyết khó khăn này? Ta lựa chọn cách giải
quyết nào? Tại sao lại chọn cách giải quyết này?
Đánh giá mức độ giải quyết. Đánh
+ Phương pháp giải quyết có chính xác không? giá
+ Các tính toán được thực hiện đã chính xác chưa?
+ Tôi có mắc sai lầm gì không? Tại sao tôi mắc những sai lầm đó? Có thể
tránh những sai lầm thời gian tiếp theo như thế nào?
+ Tôi đã sử dụng một phương pháp thích hợp để giải quyết chưa?
+ Có các cách giải quyết nào khác không?
+ Khả năng vận dụng cách giải quyết bài toán cho các vấn đề nào tương tự?
Trong quá trình hướng dẫn HV giải quyết một bài toán XSTK nào đó, GV có thể
đặt câu hỏi định hướng suy nghĩ để rèn luyện các KN SNT như sau.
Ví dụ 2.10: Một khu vực bố trí các trận địa với số lượng trận địa thật và trận địa giả
theo tỉ lệ 30% và 70%. Một nhóm 4 chiến sỹ được cử đi trinh sát ngẫu nhiên 1 trận
địa. Giả sử khả năng đoán đúng của mỗi người là 0,8. Biết rằng trong 4 chiến sỹ có
3 chiến sỹ kết luận thật và 1 kết luận giả. Tính XS để trận địa đó là thật.
Để hướng dẫn HV định hướng suy nghĩ, GV có thể đặt câu hỏi như sau:
Hoạt Câu h i của GV Câu trả lời mong đợi của HV động
Những thông tin quan Số lượng trận địa thật là 30%, trận địa giả là Dự
trọng đã cho là gì? 70%. Khả năng đoán đúng của mỗi chiến sỹ đoán
trinh sát là 0,8.
Yêu cầu của bài toán là Tính xs để trận địa đó là thật, khi biết 4 chiến sỹ
có 3 chiến sỹ kết luận thật và 1 kết luận giả. gì?
105
Bài toán có những biến cố Biến cố H = “Trận địa quan sát là thật” , K =
nào? “Trận địa quan sát là giả”, T =“khả năng đoán
đúng của mỗi chiến sỹ”, A = “có 3 chiến sỹ
kết luận trận địa thật; 1 kết luận giả”.
Những biến cố nào XS đã P(H) = 0,3; P(K) = 0,7; P(T) = 0,8
biết?
Những biến cố có XS còn Biến cố A có XS còn thiếu. XS của biến cố A
thiếu để GQVĐ là gì? phụ thuộc vào biến cố H, K và T.
Đã bao giờ GQVĐ như Bài toán yêu cầu tính xs của biến cố H, khi
thế này trước đây? Tôi biết biến cố A đã xảy ra. Đây là biến cố có
nên sử dụng công thức điều kiện. Do đó, cần sử dụng đến công thức
nào? XS có điều kiện.
Để giải quyết bài toán Vấn đề khó khăn của bài toán là cần xác định
thì vấn đề khó khăn là gì? quan hệ giữa XS có điều kiện của biến cố cần
tính XS và biến cố đã có XS.
Mục tiêu của bài toán Cần tính được XS: P(H/A) Lập kế
là gì? hoạch
Để giải quyết được bài Bài toán có 2 khả năng: trận địa thật hoặc giả;
toán cần giải quyết các + Khi trận địa đó là thật thì cần tính được XS
nhiệm vụ nhỏ nào? của biến cố “4 chiến sỹ có 3 chiến sỹ kết luận
thật và 1 kết luận giả”;
+ Khi trận địa đó là giả thì cần tính được XS
của biến cố “4 chiến sỹ có 3 chiến sỹ kết luận
thật và 1 kết luận giả”.
Để giải bài toán này XS cần tính là: P(H/A). Do đó cần sử dụng
cần sử dụng những kiến công thức XS có điều kiện hoặc công thức
thức, khái niệm, tính chất, Bayes
định lí, quy tắc nào?
106
Các bước cần tiến hành Theo Bayes: , để tính
để giải bài toán là gì?
được P(H/A) cần tính được P(A/H) và P(A).
Có giải pháp để giải Bước 1: Tính P(A/H)
quyết bài toán không? P(A/H) có thể hiểu là “XS có 3 chiến sỹ đoán
đúng, 1 chiến sỹ đoán sai”.
Theo công thức Bernoulli:
Bước 2: Tính P(A)
Do A xảy ra cùng với biến cố H và K nên:
.
có thể hiểu là “XS có 3 chiến sỹ
đoán sai, 1 chiến sỹ đoán đúng”.
Theo công thức Bernoulli:
Do đó:
Dưới góc nhìn XS, khi có 3 chiến sỹ kết luận
là thật, 1 chiến sỹ kết luận giả thì khả năng
trận địa đó là thật xấp xỉ 87,273%.
Trong quá trình tiến hành hoạt động dự đoán, lập kế hoạch và thực hiện giải
quyết bài toán, HV cần tiến hành giám sát các hoạt động thông qua các câu hỏi. Khi
giải xong cần tiến hành đánh giá và nhìn lại quá trình giải để xem xét tính chính xác
của phương pháp giải, tính chính xác của các bước giải, sự chính xác của tính toán, các
kiến thức đã được sử dụng. Nếu sai cần điều chỉnh như thế nào cho hợp lý.
107
Các hoạt động trên được tiến hành trong giờ học không nhất thiết phải tách rời
và theo trình tự mà nó được tiến hành đan xen lẫn nhau một cách linh hoạt để phù
hợp với tình huống cụ thể nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng giờ giảng.
Đặt câu hỏi rèn luyện KN SNT đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng,
kích thích sự tương tác, tư duy và học tập của người học. Câu hỏi chất lượng cao
dẫn đến cuộc trao đổi chất lượng cao. Cho dù đó là GV hay HV đặt ra câu hỏi, nên
đặt câu hỏi mở nếu có thể và dẫn đến thảo luận. Để có câu trả lời hiệu quả, cả HV
và GV phải hiểu các yêu cầu về NT của các câu hỏi.
Việc đặt câu hỏi trong DH nhằm rèn luyện một số KN SNT góp phần nâng cao
chất lượng DH, đặc biệt là phát triển tư duy cho HV. HV có KN SNT phát triển tốt
có thể nghĩ về một vấn đề hoặc tiếp cận một nhiệm vụ học tập, chọn chiến lược phù
hợp, đưa ra quyết định về một quá trình hành động để GQVĐ hoặc GQNV thành
công. Nếu GV dùng toàn bộ thời gian cho HV làm những bài tập mang tính rèn KN
thì HV sẽ thấy rất mệt mỏi và điều đó cản trở sự phát triển trí tuệ của họ. Nhưng
nếu GV khêu gợi được động cơ thích hợp của HV bằng cách ra những bài toán hợp
trình độ, giúp họ giải chúng bằng cách đặt ra những câu hỏi gợi ý thì người thầy có
thể mang lại cho họ niềm hứng thú của sự suy nghĩ độc lập và những phương tiện
để đạt được kết quả.
2.2.3. Biện pháp 3: Rèn luyện KN SNT cho HV thông qua hoạt động giải quyết
nhiệm vụ học tập trong dạy học môn XSTK
Mục đích của biện pháp
Giải quyết nhiệm vụ học tập hay GQVĐ là một phần quan trọng của hoạt động
trí tuệ của cá nhân. GQNV học tập trong TH được dạy cho người học để phát triển
khả năng trong việc giải quyết các nhiệm vụ trong cuộc sống thực tế. Bằng cách học
GQNV học tập hay GQVĐ trong TH, người học có được cách suy nghĩ, thói quen
của sự kiên trì và ham hiểu biết, tự tin trong những tình huống không quen thuộc.
GQNV học tập hay GQVĐ có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tư duy và các
KN TH cho HV, giúp cho HV rèn luyện được các KN cần thiết như khả năng tìm
hiểu, nhận biết vấn đề, lập kế hoạch, kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh...
Biện pháp này góp phần bồi dưỡng cả bốn KN: dự đoán, lập kế hoạch, giám
sát, đánh giá.
108
Cơ sở khoa học của biện pháp
Các nghiên cứu về SNT đã chứng minh rằng có một mối tương quan chặt chẽ
giữa GQNV học tập hay GQVĐ và SNT. Nó đã được xác định bởi nhiều nhà nghiên
cứu rằng một yếu tố quan trọng trong quá trình GQNV học tập, GQVĐ là SNT.
Schoenfeld [113] cho rằng GQVĐ là một nỗ lực cực kỳ phức tạp của con
người liên quan đến sự tương tác phức tạp giữa NT và SNT. Ssự thành công hay
thất bại của việc GQVĐ của một người dựa trên sự kết hợp của bốn yếu tố chính là:
nguồn (cơ sở tri thức), chiến lược heuristic (GQVĐ), kiểm soát (giám sát và tự điều
chỉnh, các khía cạnh của SNT) và niềm tin.
Thất bại trong việc GQVĐ nói chung là kết quả của thất bại trong việc lựa
chọn phương pháp hiệu quả nhất, tổ chức các hoạt động TH, hiểu được vấn đề, phân
tích, giám sát và kiểm soát các hoạt động được thực hiện. [128].
Trong việc GQVĐ, các khung được tạo ra để mô hình từng bước quá trình.
Hầu hết các công thức của một khung GQVĐ đều cho thấy một số mối quan hệ với
các giai đoạn GQVĐ của G. Polya. G. Polya [107] cho rằng quá trình GQVĐ gồm
có bốn giai đoạn không thể tách rời là: 1. Tìm hiểu và nhận biết vấn đề; 2. Tìm giải
pháp; 3. Thực hiện giải pháp; 4. Nhìn lại. Tuy nhiên, GQVĐ không đơn giản là thực
hiện thứ tự bốn giai đoạn, ta có thể chuyển qua các giai đoạn nếu thích hợp. Giai
đoạn 1 và 2 được lặp đi lặp lại trong quá trình GQVĐ. Khi thực hiện giải pháp đưa
ra, phải liên tục kiểm tra sự tiến triển của nó, để xác định xem việc thực hiện có
hướng tới giải pháp đúng không. Nếu giải pháp đặt ra không thành công thì phải
quyết định làm gì tiếp theo.
Dựa trên lược đồ của G. Polya, Garofalo & Lester [90] đã đề xuất khung NT,
SNT để GQNV khác nhau trong TH. Khung này bao gồm bốn thành phần: 1. Định
hướng; 2. Tổ chức; 3. Thực hiện; 4. Đánh giá. Bốn thành phần này tương ứng với
bốn giai đoạn GQVĐ của G. Polya. Tuy nhiên, Lester và cộng sự cũng phân biệt
khung SNT của mình với lược đồ của G. Polya vì ông tin rằng rằng "mô hình của
ông ngụ ý để mô tả các các thành phần NT về một số điểm trong quá trình GQVĐ
mà hành động SNT có thể xảy ra ".
109
Như vậy có thể khẳng định GQVĐ, GQNV học tập và SNT có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Thông qua hoạt động GQVĐ, GQNV học tập có thể rèn luyện được
các KN SNT và HV khi có KN SNT sẽ giúp cho việc giải quyết hiệu quả hơn.
Cách thức tổ chức thực hiện biện pháp
Với mỗi bài học:
Bước 1: GV xác định kiến thức sẽ vận dụng;
Bước 2: GV xác định KN, KN SNT cần trang bị cho HV;
Bước 3: GV thiết kế tình huống chứa đựng khó khăn, chướng ngại;
Bước 4: GV hướng dẫn HV hiểu về các bước thực hiện;
Bước 5: GV tổ chức hướng dẫn và tập luyện cho HV tìm hiểu và nhận biết vấn
đề, tìm giải pháp và đánh giá tự điều chỉnh sau khi thực hiên giải pháp.
a) Hướng dẫn HV thực hiện hoạt động tìm hiểu và nhận biết vấn đề
Trong dạy GQNV học tập, GQVĐ có thể rèn luyện được các KN SNT thông
qua thực hiện hoạt động. Trước tiên, GV tập luyện cho HV thực hiện hoạt động tìm
hiểu và nhận biết nhiệm vụ đặt ra, nhằm phân tích làm rõ ý nghĩa quan trọng của
việc hiểu các thông tin với việc tìm ra cách giải.
Để hình thành KN SNT dự đoán trong hoạt động tìm hiểu và nhận biết vấn đề
cho HV , GV cần chuyển hoá thành các câu hỏi. Cụ thể:
Đã hiểu thấu đáo bài toán chưa? Yêu cầu của bài toán là gì? Những thông
tin quan trọng đã cho là gì? thông tin còn thiếu để giải quyết được là gì?
Để có thể tìm được giải pháp, yêu cầu đầu tiên với HV là phải hiểu và nhận
biết được nhiệm vụ. Giải pháp không thể đưa ra được nếu người học không hiểu và
nhận biết được nhiệm vụ. Đây là giai đoạn nhận dạng và phát biểu nhiệm vụ. Ở giai
đoạn này phải đi sâu phân tích vấn đề, làm rõ, hiểu rõ các thông tin đã cho và thông
tin cần tìm.
Có thể mô tả các thông tin cần thiết trên một hình vẽ không?
Đây là giai đoạn xác định và giải thích thông tin là một giai đoạn cầu nối để có
thể liên kết các thông tin và các kiến thức đã biết để tìm phương hướng phù hợp.
Xác định và giải thích thông tin có thể sử dụng các hình ảnh trực quan, có thể tạo ra
những tình huống cụ thể đơn giản hơn để hiểu được những thông tin phức tạp.
110
Đã bao giờ GQNV như thế này trước đây? Để giải quyết bài toán thì khó
khăn là gì? Khả năng giải quyết được không?
Giai đoạn này cần kết nối vấn đề với kiến thức đã có và đưa ra những dự đoán
sơ lược ban đầu về nhiệm vụ cần giải quyết.
b) Hướng dẫn HV thực hiện hoạt động tìm giải pháp
Đây cũng có thể được coi là giai đoạn phác thảo hay nói cách khác là giai
đoạn lập kế hoạch GQNV. Giai đoạn xây dựng kế hoạch là một giai đoạn cần thiết
không thể thiếu để thực hiện giải pháp.
Để hình thành cho HV KN SNT lập kế hoạch trong hoạt động tìm giải pháp,
GV cần chuyển hoá thành các câu hỏi. Cụ thể:
Mục đích của bài toán là gì?
Trên cơ sở xác định rõ mục đích của bài toán đặt ra sẽ định hướng các giải
pháp cần thực hiện.
Đã từng gặp vấn đề tương tự và cách GQNV đó như thế nào?
Trong giai đoạn này, HV cần nghĩ ra các quy tắc, các thuật toán, các định lý,
các vấn đề, các bài toán nào đó họ đã từng biết sẽ rất hữu ích.
Để giải quyết được bài toán cần giải quyết các nhiệm vụ nhỏ nào?
Khi giải quyết một nhiệm phức tạp cần tách vấn đề khởi điểm thành nhiều
vấn đề (giai đoạn, bước) nhỏ quy tụ vào nó và dẫn dắt đến chỗ tìm ra điều cần
biết. Để tìm được phương án hiệu quả giải quyết một tình huống NT phức tạp, HV
cần biết phân nhỏ các yếu tố của nhiệm vụ.
Để giải bài toán này cần sử dụng những kiến thức, khái niệm, tính chất, định
lí, quy tắc nào?
HV thực hiện các hoạt động liên tưởng đến các kiến thức liên quan, huy động
các kiến thức đã biết, chuyển đổi ngôn ngữ, biến đổi đối tượng, phân tích mối liên
hệ giữa các thông tin, kết nối kiến thức để tìm giải pháp.
Các bước cần tiến hành để giải bài toán là gì? Có giải pháp để giải quyết
bài toán không?
Đây là giai đoạn xác định cách thức GQNV, HV kết nối các kiến thức và các
thông tin với nhau để chọn lựa giải pháp phù hợp. Việc tìm tòi cách thức suy nghĩ
111
giải quyết tình huống cụ thể được tạo ra sẽ làm tiền đề giúp HV dự đoán, định
hướng và đưa đến cách thức GQNV tổng quát đặt ra.
c) Hướng dẫn HV thực hiện hoạt động thực hiện giải pháp
Sau khi hiểu nhiệm vụ đặt ra, tìm giải pháp là đến bước thực hiện giải pháp. Thực
hiện giải pháp là giai đoạn biến kế hoạch thành hành động. Đây là giai đoạn nhận ra
liệu kế hoạch mà ta đã đưa ra có tiến hành được không. Nếu kế hoạch ta đã đưa ra
không tiến hành được thì có thể xem lại giai đoạn tìm hiểu vấn đề và tìm giải pháp.
Giai đoạn trình bày giải pháp là giai đoạn thực hiện các bước đã lập ở giai
đoạn xây dựng kế hoạch, trong quá trình thực hiện phải rà soát, sửa chữa và điều
chỉnh giải pháp trong trường hợp cần thiết.
d) Hướng dẫn HV nhìn lại giải pháp
Theo G. Polya [107], một trong các bước cần thực hiện trong quá trình giải một
bài toán là bước 4: nhìn lại giải pháp. Đây là một bước cần thiết và bổ ích, nhưng
thường bị người học bỏ qua.
Giai đoạn nhìn lại là cách tự đánh giá tốt nhất cần dạy cho HV; bởi nó không
chỉ đánh giá tính hợp lý của việc giải quyết mà còn đánh giá hoạt động tư duy của
chính người học.
Để hình thành cho HV KN đánh giá và tự điều chỉnh trong giai đoạn nhìn lại,
GV chuyển hoá thành các câu hỏi khi đánh giá, giúp HV làm quen với các câu hỏi
đó khi đánh giá một lời giải. Cụ thể:
Đánh giá về hoạt động tìm hiểu vấn đề, tìm giải pháp:
+ Cách xác định và giải thích thông tin đã phù hợp chưa?
+ Việc xác định mục tiêu và chia nhỏ nhiệm vụ đã hợp lí chưa? Việc phân chia
các trường hợp đã đầy đủ chưa? Có cách chia nhỏ khác không?
+ Cách GQNV đã chính xác chưa? Có phương pháp giải quyết khác tốt
hơn không?
Đánh giá về hoạt động thực hiện giải pháp:
+ Kết quả có đúng không? Các bước tính toán có chính xác không? Các bước
biến đổi có đúng không?
112
+ Lời giải đã xét đầy đủ các trường hợp chưa? Lập luận chặt chẽ chưa? Trình
bày đã khoa học, hợp lí chưa?
Có thể nói, những yêu cầu này là những tiêu chí giúp HV so sánh, đối chiếu
xem xét, đánh giá một lời giải. Để HV thành thạo với việc đánh giá, có được KN tự
đánh giá, GV nên tận dụng cơ hội, tạo ra tình huống để HV có cơ hội thực hiện việc
rèn luyện các thao tác đánh giá.
Các hoạt động trên được tiến hành trong giờ học không nhất thiết phải tách rời
và tuần tự theo trình tự mà nó được tiến hành đan xen lẫn nhau một cách linh hoạt
để phù hợp với tình huống cụ thể nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng giờ giảng.
Ví dụ 2.11: XS đánh trúng tàu khu trục địch của mỗi tên lửa X-31A phóng từ máy
bay SU-30MK là p = 0,3. Biết rằng muốn tiêu diệt được tàu khu trục địch cần ít
nhất một quả tên lửa X-31A trúng mục tiêu. Cần bắn bao nhiêu quả tên lửa X-31A
để XS tiêu diệt tàu khu trục địch lớn hơn 0,9.
Lời giải:
Giai Câu h i định hƣớng rèn Câu trả lời mong đợi đoạn luyện các KN SNT
Đã hiểu cặn kẽ bài toán XS đánh trúng tàu khu trục của mỗi quả tên Tìm
chưa? Những thông tin lửa X-31A là p = 0,3. hiểu
quan trọng đã cho là gì? Muốn tiêu diệt được tàu khu trục cần ít nhất vấn đề
một quả tên lửa X-31A bắn trúng.
Yêu cầu của bài toán là Tính n là số quả tên lửa X-31A cần bắn để XS
gì? tiêu diệt tàu khu trục lớn hơn 0,9.
Những biến cố cần mô tả Biến cố Ai = “Quả thứ i trúng tàu khu trục
trong bài toán là gì? địch” , B = “Tàu khu trục địch bị diệt”.
Những biến cố nào XS đã P(A1) = P(A2) = P(A3) = ... = 0,3.
biết?
Những biến cố có XS còn Biến cố B có XS còn thiếu. XS của biến cố B
thiếu để giải quyết là gì? phụ thuộc vào XS của các biến cố Ai và n.
Dạng của vấn đề là gì? Bài toán tính XS của biến cố B phụ thuộc
nhiều biến cố.
113
Mục tiêu của bài toán Cần tìm n: P(B) > 0,9.
là gì?
Để giải quyết được bài Để tìm được n cần thực hiện các nhiệm vụ: Tìm giải pháp
toán cần giải quyết các + Tính P(B) ;
nhiệm vụ nhỏ nào? + Tìm n từ quan hệ: P(B) > 0,9.
Để giải bài toán này Mỗi lần phóng 1 quả tên lửa X-31A có đặc
cần sử dụng những kiến điểm:
thức, khái niệm, tính + Chỉ có 2 khả năng: đánh trúng hoặc không
chất, định lí, quy tắc nào? trúng.
+ XS trúng mỗi lần là p = 0,3.
Như vậy ta có thể coi đây là dãy n phép thử
Bernoulli. Do đó có thể sử dụng công thức
Bernoulli.
Cách thức GQVĐ là Biến cố B = “Tàu khu trục địch bị diệt” nó
gì? tương đương với biến cố “Có ít nhất 1 lần
bắn trúng”.
Do đó: P(B) chính là XS để trong n lần bắng
có ít nhất 1 lần bắn trúng.
Trong đó: là XS
trong n lần bắn có i lần trúng.
Ta thấy biểu thức trên phải tính khá nhiều
công thức.
Các bước cần tiến hành Bước 1: Tính P(B) Thực
để giải bài toán là gì? hiện Ta có: là biến cố: “Tàu khu trục địch
giải không bị diệt”, biến cố này tương đương với
pháp biến cố “không có lần nào bắn trúng”, do đó:
114
Bước 2: Tìm n sao cho: P(B) > 0,9.
Do n nguyên dương, nên .
Vậy cần phóng ít nhất 7 quả tên lửa X-31A để
XS tiêu diệt tàu khu trục địch lớn hơn 0,9.
+ Từ cách giải trên ta thấy, n tăng thì P(B) tăng. Do đó, muốn XS diệt tàu Nhìn
khu trục càng lớn thì cần tăng số lần bắn. lại giải
+ Có thể áp dụng bài toán trên cho các bài toán tương tự như: số lần bắn pháp
pháo, số máy thu sóng…
+ Từ bài toán có thể đưa ra một số công thức: ;
+ Khi giải xong cần tiến hành đánh giá và nhìn lại quá trình giải để xem xét
tính chính xác của phương pháp giải, tính chính xác của các bước giải, sự
chính xác của tính toán, các kiến thức đã được sử dụng. Nếu sai cần điều
chỉnh như thế nào cho hợp lí.
Trong quá trình thực hiện Ví dụ 2.11, các hoạt động rèn luyện KN dự đoán
được thực hiện gắn liền với giai đoạn tìm hiểu vấn đề; Các hoạt động rèn luyện KN
lập kế hoạch gắn liền với giai đoạn tìm giải pháp và thực hiện giải pháp; Các hoạt
động rèn luyện KN giám sát được tiến hành gắn liền với các giai đoạn tìm hiểu vấn
đề, tìm giải pháp, thực hiện giải pháp; Các hoạt động rèn luyện KN đánh giá gắn
liền với giai đoạn nhìn lại giải pháp.
Ví dụ 2.12: Theo trinh sát trận địa của ta nhận định một chiếc máy bay tiêm kích
của địch có thể tấn công trận địa phòng ngự của ta từ hai hướng, hướng 1 với XS là
0,6 hướng 2 với XS là 0,4. Trận địa phòng ngự có 4 khẩu pháo được bố trí để trên
115
từng hướng đều có. Biết XS diệt máy bay của mỗi khẩu pháo là 0,7 và các khẩu
pháo hoạt động độc lập với nhau. Tính XS diệt máy bay địch của các phương án bố
trí 4 khẩu pháo trên các hướng.
Giai Câu h i định hƣớng rèn Câu trả lời mong đợi đoạn luyện các KN SNT
Đã hiểu cặn kẽ bài toán Máy bay có thể tấn công trận địa phòng ngự từ Tìm
chưa? Những thông tin hai hướng, hướng 1 với XS là 0,6; hướng 2 với hiểu
quan trọng đã cho là gì? XS là 0,4. vấn đề
Trận địa phòng ngự có 4 khẩu pháo. XS diệt
máy bay của mỗi khẩu pháo là 0,7.
Yêu cầu của bài toán là Tính XS diệt máy bay địch của các phương án
gì? bố trí 4 khẩu pháo trên các hướng.
Những biến cố cần mô tả Biến cố A=“Máy bay xuất hiện ở hướng 1”;
trong bài toán là gì? B= “Máy bay xuất hiện ở hướng 2”;
H= “Máy bay bị tiêu diệt”.
Những biến cố nào XS đã P(A)=0,6; P(B)=0,4.
biết? XS diệt máy bay của mỗi khẩu pháo p = 0,7.
Những biến cố có XS còn Biến cố H có XS còn thiếu.
thiếu để giải quyết là gì? Biến cố H phụ thuộc vào biến cố A xảy ra
hoặc biến cố B xảy ra và các phương án bố trí.
Dạng của vấn đề là gì? Bài toán tính XS của biến cố H phụ thuộc
biến cố A và B.
Mục tiêu của bài toán Cần tìm : P(H).
là gì?
Các phương án bố trí +Phương án 1: 3 khẩu pháo đặt tại hướng 1, Tìm giải pháp
của bài toán là gì? 1 khẩu pháo đặt tại hướng 2.
+Phương án 2: 2 khẩu pháo đặt tại hướng 1,
2 khẩu pháo đặt tại hướng 2.
+Phương án 3: 1 khẩu pháo đặt tại hướng 1, 3
khẩu pháo đặt tại hướng 2.
116
Để giải quyết được bài Mỗi phương án có 2 tình huống: Máy bay
toán cần giải quyết các xuất hiện ở hướng thứ nhất và hướng thứ hai.
nhiệm vụ nhỏ nào? + Cần tính được XS của biến cố: “Máy bay bị
tiêu diệt khi xuất hiện ở hướng thứ nhất”.
+ Cần tính được XS của biến cố: “Máy bay bị
tiêu diệt khi xuất hiện ở hướng thứ hai”.
Để giải bài toán này Biến cố H phụ thuộc vào biến cố A xảy ra hoặc
cần sử dụng những kiến biến cố B xảy ra và từng phương án bố trí. Đây
thức, khái niệm, tính chất, là hệ 2 biến cố đầy đủ nên cần sử dụng công
định lí, quy tắc nào? thức XS đầy đủ.
Các bước cần tiến hành Theo công thức XS đầy đủ:
để giải bài toán là gì? ,
để tính được P(H) cần tính được P(H/A) và
P(H/B).
Cách thức giải quyết Phương án 1: 3 khẩu pháo đặt tại hướng 1, 1 Thực
theo phương án 1 là gì? khẩu pháo đặt tại hướng 2. hiện
+ Bước 1: Tính P(H/A) giải
Biến cố (H/A) = “Máy bay bị tiêu diệt khi pháp
xuất hiện ở hướng 1”.
Hướng 1 có 3 khẩu pháo, nên biến cố (H/A)
tương đương với biến cố “Có ít nhất 1 khẩu
pháo diệt được máy bay”
Do đó .
+ Bước 2: Tính P(H/B)
Biến cố (H/B) = “Máy bay bị tiêu diệt khi
xuất hiện ở hướng 2”.
Hướng 2 chỉ có 1 khẩu pháo, nên biến cố
(H/B) tương đương với biến cố “Có 1 khẩu
pháo diệt được máy bay”
Do đó .
+ Bước 3: Tính P(H)
117
Theo công thức XS đầy đủ:
Cách thức giải quyết Phương án 2: 2 khẩu pháo đặt tại hướng 1, 2
theo phương án 2 là gì? khẩu pháo đặt tại hướng 2.
+ Bước 1: Tính P(H/A)
Biến cố (H/A) = “Máy bay bị tiêu diệt khi
xuất hiện ở hướng 1”.
Hướng 1 có 2 khẩu pháo, nên biến cố (H/A)
tương đương với biến cố “Có ít nhất 1 khẩu
pháo diệt được máy bay”.
Do đó .
+ Bước 2: Tính P(H/B)
Biến cố (H/B) = “Máy bay bị tiêu diệt khi
xuất hiện ở hướng 2”.
Hướng 2 cũng có 2 khẩu pháo, tương tự trên
sẽ tình được:
.
+ Bước 3: Tính P(H)
Theo công thức XS đầy đủ:
Cách thức giải quyết Phương án 3: 1 khẩu pháo đặt tại hướng 1, 3
theo phương án 3 là gì? khẩu pháo đặt tại hướng 2.
+ Bước 1: Tính P(H/A)
Biến cố (H/A) = “Máy bay bị tiêu diệt khi
xuất hiện ở hướng 1”.
Hướng 1 chỉ có 1 khẩu pháo, nên biến cố
(H/A) tương đương với biến cố “Có 1 khẩu
pháo diệt được máy bay”
Do đó .
118
+ Bước 2: Tính P(H/B)
Biến cố (H/B) = “Máy bay bị tiêu diệt khi
xuất hiện ở hướng 2”.
Hướng 2 có 3 khẩu pháo, nên biến cố (H/B)
tương đương với biến cố “Có ít nhất 1 khẩu
pháo diệt được máy bay”
Do đó .
+ Bước 3: Tính P(H)
Theo công thức XS đầy đủ:
Có nhận xét gì về các + Các phương án bố trí có XS diệt máy bay Nhìn
phương án? đều trên 80%. lại giải
+ Phương án 2 có XS lớn nhất. Cho nên dưới pháp
góc nhìn XS việc bố trí theo phương án 2 tốt
hơn phương án 1 và phương án 3.
+ Do phương án 2 là tốt nhất nên trong
trường hợp, khác phương án bố trí chia đều
lực lượng các hướng nên được lựa chọn.
Phương án bố trí khác + Phương án 4: 4 khẩu pháo đặt tại hướng 1,
là gì? Hiệu quả của chúng 0 khẩu pháo đặt tại hướng 2.
ra sao? Tương tự có thể tính được:
+ Phương án 5: 0 khẩu pháo đặt tại hướng 1,
4 khẩu pháo đặt tại hướng 2.
Tương tự có thể tính được:
Như vậy, về mặt XS có thể thấy hiệu quả của
2 phương án này không cao.
Khi giải xong cần tiến hành đánh giá và nhìn lại quá trình giải để xem xét
tính chính xác của phương pháp giải, tính chính xác của các bước giải, sự
chính xác của tính toán, các kiến thức đã được sử dụng. Nếu sai cần điều
chỉnh như thế nào cho hợp lí.
119
e. Kết luận
GQNV học tập là cơ hội tốt để rèn luyện một số KN SNT góp phần nâng cao
chất lượng DH, đặc biệt là phát triển tư duy cho HV. HV có KN SNT phát triển tốt
có thể nghĩ về một vấn đề hoặc tiếp cận một nhiệm vụ học tập, chọn chiến lược phù
hợp, và đưa ra quyết định về một quá trình hành động để giải quyết các vấn đề hoặc
GQNV thành công.
GV có thể rèn luyện một số KN SNT cho HV trong quá trình DH GQNV học
tập theo một số cách như sau:
- GV thường xuyên nhắc nhở HV sau mỗi bước tính toán cần kiểm tra lại kết
quả xem kết quả có khớp không, có phù hợp không, hoặc đối chiếu với thực tế xem
có gì bất hợp lí không.
- GV khéo léo cài đặt, lựa chọn các bài toán có nhiều khả năng khi giải HV
thường mắc sai lầm, hoặc lựa chọn lời giải có chứa sai lầm, yêu cầu HV tìm ra chỗ
sai, nguyên nhân sai lầm và sửa chữa lại các sai lầm đó.
- Chú trọng sử dụng những bài toán có nhiều cách giải, nhiều cách tiếp cận để
HV xem xét, đánh giá các cách giải và lựa chọn cách giải tối ưu.
- Tổ chức cho HV nhìn lại lời giải, suy xét đúng – sai, tính hợp lý, sự đầy đủ
của các bài toán; tổ chức cho HV khai thác hệ thống bài toán và tập luyện cho họ
mở rộng, phát triển theo các hướng khác nhau.
2.2.4. Biện pháp 4: Thiết kế và tổ chức DH một số tình huống sai lầm qua đó rèn
cho HV khả năng giám sát và đánh giá.
Mục đích của biện pháp
XSTK là công cụ quan trọng để giải quyết các vấn đề của nhiều lĩnh vực trong
thực tế. Nhưng XSTK là môn học khó, nội dung XSTK chứa rất nhiều công thức
quy tắc dễ gây nhầm lẫn cho HV trong quá trình học tập. Việc cung cấp cho HV
những tình huống sai lầm là một cách tốt để HV có thể tự kiểm tra về năng lực, mức
độ tiếp thu kiến thức của mình. Thông qua những tình huống sai lầm, ngoài việc
giúp HV hiểu sâu thêm nội dung bài học thì điều rất quan trọng là tạo cơ hội để HV
rèn luyện khả năng giám sát, đánh giá và tự điều chỉnh. Giúp HV hiểu và tránh
được sai lầm khi vận dụng các kiến thức XSTK vào GQNV học tập.
Biện pháp này góp phần bồi dưỡng các KN: Giám sát, đánh giá.
120
Cơ sở khoa học của biện pháp
Quá trình tiếp thu tri thức sẽ hiệu quả hơn nếu người học tự phân tích những
sai lầm đã mắc phải. Để tìm được sai lầm trong các lời giải, người học cần phân tích
từng bước, đối chiếu, so sánh với các kiến thức toán học đã có từ trước. Từ đó,
người học sẽ nắm được nguyên nhân của những sai lầm, hiểu được bản chất của vấn
đề, nguyên nhân dẫn đến sai lầm.
I.A.Komensky khẳng định “Bất kỳ một sai lầm nào cũng có thể làm cho HS
kém đi nếu không chú ý đến sai lầm đó, bằng cách hướng dẫn HS nhận ra và sửa
chữa, khắc phục sai lầm” (dẫn theo [39]).
G. Polya đã nói “Con người phải biết học ở những sai lầm và những thiếu sót
của mình” [35].
Theo A.A.Stoliar cho rằng: “Không được tiếc thời gian để phân tích trên giờ
học các sai lầm của HS”(dẫn theo [39]).
Theo Victor [128], sai lầm trong tìm hiểu vấn đề, phân tích, giám sát và kiểm
soát các hoạt động được thực hiện dẫn đến thất bại trong việc GQVĐ.
Artz và Armor-Thomas [68] chỉ ra rằng lý do chính nằm ẩn đằng sau sai lầm
của HS trong việc GQVĐ là họ không thể giám sát được quá trình tinh thần của
mình trong khi GQVĐ.
Như vậy có thể thấy thất bại hay sai lầm trong GQNV học tập đều có liên
quan đến khả năng giám sát, kiểm soát các hoạt động suy nghĩ của bản thân. Việc
khắc phục sai lầm là cần thiết, học hỏi qua sai lầm cũng là một cách tốt để hiểu sâu
và tránh những sai lầm không đáng có khi GQNV học tập.
Cách thức tổ chức thực hiện biện pháp
Do đặc điểm của môn học nên các khái niệm, định lý của XSTK còn mang
tính trừu tượng nên HV cảm thấy học môn này thấy khó, việc hiểu ý nghĩa hay
bản chất của các khái niệm còn mơ hồ, chưa chắc chắn dẫn tới HV hiểu không
trọn vẹn, thậm chí hiểu sai lệch bản chất khái niệm, định lý.
GV khéo léo cài đặt, lựa chọn các bài toán có nhiều khả năng khi giải HV
thường mắc sai lầm, hoặc lựa chọn lời giải có chứa sai lầm, yêu cầu HV tìm ra chỗ
sai, nguyên nhân sai lầm và sửa chữa lại các sai lầm đó.
121
Với mỗi bài học:
Bước 1: GV xác định kiến thức sẽ vận dụng;
Bước 2: GV thiết kế tình huống chứa đựng những yếu tố dễ mắc sai lầm;
Bước 3: GV tổ chức cho HV tìm hiểu, nhận biết, đánh giá sai lầm;
Bước 4: GV tổ chức cho HV thảo luận tìm giải pháp điều chỉnh sai lầm đó.
Để giải được một bài toán XSTK, thông thường quy trình cần thực hiện được
các bước sau:
Bước 1: Mô tả các yêu cầu từ ngôn ngữ thông thường sang ngôn ngữ TH XSTK.
Bước 2: Giải bài toán XSTK.
Bước 3: Chuyển kết quả lời giải bài toán XSTK sang ngôn ngữ thông thường.
Trong quá trình giải quyết các vấn đề của môn học XSTK, HV thường mắc
phải hai loại sai lầm: Thứ nhất, sai lầm trong quá trình chuyển đổi bài toán từ ngôn
ngữ thông thường sang ngôn ngữ TH XSTK và ngược lại (sai lầm ở bước 1 và bước
3); Thứ hai, sai lầm trong giải bài toán XSTK (sai lầm ở bước 2).
Vì vậy, GV trong quá trình DH XSTK chú ý lồng ghép các tình huống sai lầm,
tìm nguyên nhân và đề ra hướng khắc phục các sai lầm đó là một hoạt động quan trọng.
a) Sai lầm trong quá trình chuyển đổi bài toán từ ngôn ngữ thông thường sang
ngôn ngữ toán học XSTK và ngược lại:
- Sai lầm trong quá trình chuyển đổi bài toán từ ngôn ngữ thông thường sang
ngôn ngữ TH XSTK (Bước 1) là sai lầm gặp phải trong bước xây dựng mô hình TH
cho bài toán. Trong bước này, sai lầm trong việc "mã hoá", chuyển những yếu tố,
đối tượng trong bài toán thành các kí hiệu TH, các diễn đạt bằng lời theo ngôn ngữ
thông thường thành diễn đạt bằng ngôn ngữ TH.
- Sai lầm trong việc chuyển kết quả TH (sau khi giải bài toán XSTK kết quả
thu được thường sẽ thể hiện bằng ngôn ngữ TH) sang dạng diễn đạt bằng ngôn ngữ
thông thường (Bước 3).
GV có thể đưa ra một số tình huống dễ mắc sai lầm để HV xem xét tìm ra lỗi,
đánh giá lỗi đó là gì và cần điều chỉnh như thế nào.
122
Ví dụ 2.13. Có 2 chiến sỹ tập bắn, mỗi chiến sỹ bắn một viên đạn vào cùng một bia.
XS bắn trúng bia của chiến sỹ thứ nhất là 0,7 và chiến sỹ thứ hai là 0,5. Tính XS để
bia bị trúng đạn.
GV HV
Lời giải như sau: Trong ví dụ này có 2 lỗi sai:
- Lỗi thứ nhất là: Gọi A là biến cố “XS bia bị Gọi là biến cố “Chiến sỹ thứ i bắn
trúng đạn” mà đúng ra phải là A là biến cố trúng bia”.
“bia bị trúng đạn”. Đây là lỗi thường gặp mà Gọi A là biến cố “XS bia bị trúng
HV mắc phải khi không hiểu rõ ý nghĩa của đạn”. Thế thì
biến cố và XS. Biến cố là 1 khả năng có thể
xảy ra của 1 phép thử; còn XS của biến cố là
1 số cho biết khả năng xảy ra của biến cố Do độc lập nên trong phép thử. Chỉ có thể nói XS của biến
cố, không thể nói biến cố của XS.
- Lỗi thứ hai là: XS “để viên đạn trúng bia” Vậy XS “để viên đạn trúng bia” là là 0,85 mà đúng ra là XS “để bia bị trúng 0,85. đạn” là 0,85. Rõ ràng “để bia bị trúng đạn” Hãy nhận x t về lời giải trên? và “để viên đạn trúng bia” là khác nhau.
Như vậy, đây là sai lầm trong việc chuyển
kết quả TH sang diễn đạt kết quả bằng ngôn
ngữ thông thường.
Trong quá trình thực hiện Ví dụ 2.13, hoạt động rèn luyện KN giám sát thông
qua khâu đọc và tìm ra hai lỗi sai trong lời giải; Hoạt động rèn luyện KN đánh giá
thông qua khâu xác định được nguyên nhân và điều chỉnh các lỗi sai đó.
Ví dụ 2.14. Cự ly phát hiện mục tiêu trên không của một đài ra đa là đại lượng ngẫu
nhiên liên tục X có phân bố chuẩn: , đơn vị của X là km. Có thể nói
gì về cự ly phát hiện mục tiêu trên không của một đài ra đa?
123
GV HV
HV thường trả lời như sau: Từ Cách trả lời trên là sai. Từ giả thiết đã cho
giả thiết đã cho có thể nói cự ly nghĩa là . Nguyên
phát hiện mục tiêu trên không nhân sai chính là chưa hiểu được ý nghĩa tham số
của một đài ra đa là 250km. trong phân phối chuẩn ( trong phân phối
Hãy xem nhận x t về cách trả chuẩn là kỳ vọng. Nó đặc trưng cho giá trị trung lời trên? bình của biến ngẫu nhiên).
Câu trả lời đúng: Từ giả thiết đã cho có thể nói
cự ly phát hiện mục tiêu trên không trung bình
của một đài ra đa là 250km. Và cự ly phát hiện
của đài ra đa dao động quanh 250km với độ lệch
tiêu chuẩn 10km.
Trong quá trình thực hiện Ví dụ 2.14, hoạt động rèn luyện KN giám sát thông
qua khâu đọc và tìm ra lỗi sai trong câu trả lời; Hoạt động rèn luyện KN đánh giá
thông qua khâu xác định được nguyên nhân và điều chỉnh các lỗi sai đó.
Ví dụ 2.15. Đài rađa phát hiện đúng mục tiêu, nếu tỉ lệ báo động lầm không vượt
quá . Để kiểm tra xem đài rađa có phát hiện đúng mục tiêu hay không, trung
đoàn rađa phòng không tổ chức kiểm tra ngẫu nhiên đài rađa đó 520 lần và thấy có
12 lần đài rađa báo động lầm. Với mức ý nghĩa hãy quyết định xem khi đài
rađa báo động thì có hay không mục tiêu trong vùng quan sát?
GV HV
Trong ví dụ này sai lầm ở chỗ khi kết luận Lời giải:
Gọi p là XS báo động lầm của đài chấp nhận giả thiết H0 và chuyển sang kết
luận thành ngôn ngữ thông thường là: khi đài rađa.
rađa báo động thì không có mục tiêu trong Trong đó:
vùng quan sát. .
Đây là sai lầm mắc phải trong việc chuyển Do kết quả TH sang diễn đạt kết quả bằng ngôn
124
Do đó, dẫn đến bài toán kiểm định giả ngữ thông thường. Lỗi sai này do không hiểu
thuyết sau đây: ý nghĩa của giả thuyết H0 và đối thiết K.
Ý nghĩa của là có mục tiêu
Tiêu chuẩn kiểm định: trong vùng quan sát ; là
không có mục tiêu trong vùng quan sát. Do
đó cần kết luận là : với mức có thể kết luận
khi đài rađa báo động thì có mục tiêu trong
vùng quan sát.
Ta có: , tra bảng
phân phối ta tìm được:
Do nên chấp nhận giả thiết H0
và ta bác bỏ đối giả thiết K.
Vậy với mức có thể kết luận
khi đài rađa báo động thì không có
mục tiêu trong vùng quan sát.
Hãy nhận x t về lời giải trên?
b) Sai lầm trong giải bài toán XSTK
HV thường mắc một số sai lầm thường gặp trong giải bài toán XSTK khi vận
dụng sai khái niệm, định lý, công thức hoặc suy luận sai.
*) Sai lầm trong các bài toán tính XS
Ví dụ 2.16: Tung con xúc xắc cân đối 2 lần. Tìm XS để tổng số chấm trên 2 mặt của
2 con xúc xắc đó là 7.
GV HV
Có 2 lời giải như sau: Cả 2 lời giải trên đều sai.
Lời giải thứ nhất: Tổng số chấm của Nguyên nhân: Vì các kết cục đưa ra không
xuất hiện trên mặt 2 con xúc sắc có 11 đồng khả năng, HV chưa hiểu đúng về không
kết cục là 2, 3, 4,…, 12. Chỉ có một gian mẫu. Không gian mẫu là tập hợp bao
125
kết cục thuận lợi cho tổng là 7. gồm tất cả các kết quả có thể có của phép
thử. Kết quả của phép thử ở đây là con xúc Do vậy XS P = . xắc thứ nhất xuất hiện mặt nào, con xúc xắc
Lời giải thứ hai: Mỗi con xúc xắc có 6 thứ hai xuất hiện mặt nào, chứ không phải là
khả năng xuất hiện, nên có tất cả 36 tổng số chấm xuất hiện trên mặt hai con xúc
kết cục có thể xay ra. Có 3 kết cục xắc.
thuận lợi cho tổng bằng 7 là (1,6), Lời giải đúng: Để giải “chính xác” bài toán,
(2,5), (3,4). ta phải đếm tất cả các cặp số có kể đến thứ tự
giữa lần 1 và lần 2 tung con xúc xắc. Tổng số Vậy .
kết cục bây giờ là 36 và 6 kết cục thuận lợi là Hãy nhận x t về các lời giải trên? (1,6), (2,5), (3,4), (6,1), (5,2), (4,3).
Vậy
Ví dụ 2.17: Một vũ khí có XS bắn trúng mục tiêu trong điều kiện nhất định là 0,8.
Có người nói rằng trong điều kiện nhất định được thoả mãn nếu bắn 10 phát thì
chắc chắn có 8 phát trúng mục tiêu. Điều đó đúng không?
GV HV
Khi được hỏi thì hầu hết đều trả lời Nếu khẳng định như vậy là sai vì: Khả năng
điều đó là đúng. bắn trúng mục tiêu trong điều kiện nhất định
Hãy nhận x t về kết luận trên? là 0,8; nếu bắn 10 phát thì số lần trúng mục
tiêu là 0 là 1,…, là 9 thậm chí là 10; nhưng
số phát trúng có khả năng cao nhất là 8;
XS để 8 lần bắn trúng mục tiêu là:
XS không bằng 1 để khẳng định được bắn 10
lần thì chắc chắn có 8 lần trúng mục tiêu.
Ví dụ 2.18: Giả sử có một loại bệnh mà tỷ lệ người mắc bệnh là 1/1000. Giả sử có
một loại xét nghiệm, mà ai mắc bệnh khi xét nghiệm cũng ra phản ứng dương tính,
nhưng tỷ lệ phản ứng dương tính nhầm là 5% (tức là trong số những người không bị
bệnh có 5% số người thử ra phản ứng dương tính). Hỏi khi một người xét nghiệm bị
phản ứng dương tính, thì khả năng mắc bệnh của người đó là bao nhiêu?
126
GV HV
Khi được hỏi, phần lớn đã trả Nếu ký hiệu K là biến cố “bị bệnh”; D là biến cố
lời 95% (=100% - 5%). “phản ứng dương tính”. Ta thấy:
Hãy nhận x t về kết luận trên? + (D/K) là biến cố “có phản ứng dương tính khi mà
bị bệnh”. P(D/K) = 1.
là biến cố “có phản ứng dương tính khi mà +
không bị bệnh”.
P( ) = 5% = 0,05.
+ (K/D) là biến cố “bị bệnh khi có phản ứng dương
tính”.
Yêu cầu của bài toán chính là đi tính P(K/D).
Vậy sai lầm ở đây chính là việc nhầm lẫn trong suy
luận khi biết biến cố “có phản ứng dương tính khi mà
không bị bệnh” có XS là 5% thì suy ra XS của biến cố
“bị bệnh khi có phản ứng dương tính” là 95%.
Hay nói cách khác là sai lầm khi suy luận:
từ P( ) = 5%
.
Để tính P(K/D) ta dùng công thức Bayes: Công thức Bayes rất đơn giản
nhưng có ý nghĩa rất sâu xa,
một trong các lỗi thường gặp Ta có : P(D/K) = 1 ; P(K) = 1/1000 ; phải là nhầm lẫn giữa P(A|B) , P( ) = 5/100 và P(B|A), hoặc cho rằng
P(A|B) = P(B|A).
= (1/1000).1 + (999/1000).(5/100) 51/1000
Vậy P(K/D) = (1/1000).1 : (51/1000) 0,02 = 2%
Như vậy, khi xét nghiệm ra dương tính, XS để thực
sự mắc bệnh chỉ có 2% chứ không phải là 95% như
suy luận của nhiều người.
127
Ví dụ 2.19: Một chiến sĩ bắn một mục tiêu di động, khả năng bắn trúng mục tiêu
mỗi lần tỉ lệ nghịch với khoảng cách bắn. Chiến sĩ đó bắn lần đầu ở khoảng cách
200m với XS trúng mục tiêu 50%. Nếu bị trượt, anh ta bắn viên thứ hai ở khoảng
cách 300m. Nếu lại trượt nữa, anh ta cố bắn viên thứ ba ở khoảng cách 500m. Tính
XS để chiến sĩ đó tiêu diệt được mục tiêu.
GV HV
Lời giải như sau: Sai lầm ở là coi các biến cố Bi là các biến
cố độc lập nên đã sử dụng công thức nhân Gọi là biến cố “Chiến sĩ bắn trúng
XS. Thực chất các biến cố Bi là là phụ mục tiêu ở lần bắn thứ i”, i = 1, 2, 3.
thuộc, khi B1 xảy ra thì các biến cố còn lại Gọi A là biến cố “Chiến sĩ tiêu diệt
không được thực hiện nữa. Khi B1 không được mục tiêu”.
xảy ra thì biến cố B2 được tiến hành. là biến cố “Chiến sĩ không tiêu diệt
Điều chỉnh lời giải như sau: được mục tiêu”.
Gọi Bi là biến cố “Chiến sĩ bắn trúng mục
tiêu ở lần bắn thứ i”, i = 1, 2, 3.
Gọi k là hệ số tỉ lệ của XS bắn mỗi lần Gọi A là biến cố “Chiến sĩ tiêu diệt được
so với khoảng cách. mục tiêu”.
Theo bài ra, ta có: là biến cố “Chiến sĩ không tiêu diệt được
mục tiêu”
Gọi k là hệ số tỉ lệ của XS bắn mỗi lần so Do đó :
với khoảng cách.
Theo bài ra, ta có:
Do đó: XS để chiến sĩ đó tiêu diệt được mục
tiêu là:
.
Hãy nhận x t về lời giải trên?
128
Do đó, XS để chiến sĩ đó tiêu diệt được mục
tiêu là :
Mặc dù kết quả của hai lời giải như nhau,
nhưng lời giải ban đầu đã mắc khá nhiều lỗi
để có kết quả đúng.
Những sai lầm thường mắc phải trong phần XS có thể khai thác như:
- Sai lầm trong tính toán; Sử dụng nhầm lẫn quy tắc cộng và quy tắc nhân;
Không biết khi nào dùng chỉnh hợp, khi nào dùng tổ hợp.
- Hiểu sai về không gian mẫu.
- Tính sai số phần tử của không gian mẫu và biến cố.
- Áp dụng sai các công thức về XS.
- Chưa phân biệt được biến cố độc lập, biến cố phụ thuộc và biến cố xung khắc.
- Chưa hiểu đúng ý nghĩa của trung bình, trung vị, phương sai, độ lệch chuẩn.
- Chưa phân biệt được khái niệm và tính chất của hàm mật độ, hàm phân phối.
*) Sai lầm trong các bài toán tính thống kê
Ví dụ 2.20: Trong chiến dịch Bão táp Sa mạc, Liên quân dùng 447 quả tên lửa hành
trình (TLHT), trong đó có 380 quả trúng mục tiêu. Trong chiến dịch chống Nam Tư,
Liên quân dự định dùng 900 quả TLHT. Giả sử các điều kiện chiến tranh không có
những thay đổi cơ bản. Hãy ước lượng số lần trúng mục tiêu của các tên lửa được sử
dụng với độ tin cậy 95%.
GV HV
X t lời giải như sau: Sai lầm trong lời giải trên là chưa hiểm rõ ý
Gọi p là tỉ lệ trúng mục tiêu của TLHT nghĩa các con số, điều kiện của bài toán;
Khi đó khoảng ước lượng của XS p chưa hiểu bài toán yêu cầu là gì.
Sửa chữa sai lầm: với độ tin cậy 1 - có dạng (A; B)
Gọi p là tỉ lệ trúng mục tiêu của TLHT trong với:
chiến dịch Bão táp Sa mạc;
129
Gọi X là số lần trúng mục tiêu của TLHT. ; Khi đó khoảng ước lượng của XS p với độ
tin cậy 1 - có dạng (A; B) với:
; Trong đó:
; n = 900; p0 =
được tra 1 - = 0,95 ⟹ = 0,05; Trong đó:
ở bảng phân phối N(0;1) sao cho: ; n = 477; p0 =
. ⟹ được tra ở 1 - = 0,95 ⟹ = 0,05;
Khi đó khoảng ước lượng của XS p là bảng phân phối N(0;1) sao cho: (A; B) với: . ⟹
Khi đó khoảng ước lượng của XS p là (A; B)
với:
Vậy tỉ lệ trúng mục tiêu nằm trong
khoảng (0,827; 0,873).
Hãy nhận x t về lời giải trên?
Khoảng ước lượng của p là (0,817; 0,883)
Do điều kiện chiến tranh không có thay đổi
cơ bản, nên có thể coi khoảng ước lượng của
tỉ lệ trúng mục tiêu của TLHT trong chiến
dịch chống Nam Tư cũng là (0,817; 0,873).
Khoảng ước lượng số lần trúng mục tiêu của
các tên lửa được sử dụng với độ tin cậy 95% là:
0,817.900 < X < 0,883.900
⟺ 735,3 < X < 794,7
Vậy khoảng ước lượng số lần trúng mục tiêu
của các tên lửa được sử dụng với độ tin cậy
95% nằm trong khoảng: [736; 794] (quả).
130
Ví dụ 2.21: Để đánh giá tình trạng sẵn sàng chiến đấu, Ban chỉ huy Tiểu đoàn cho báo
động đột xuất và tính thời gian từ lúc phát lệnh báo động đến lúc có thể nhả đạn bắn
máy bay địch. Trước kia, thời gian chuẩn bị đó của Tiểu đoàn là 2 phút 30 giây với độ
lệch chuẩn là 30 giây. Lần này, 1 mẫu gồm 6 khẩu đội được chọn ngẫu nhiên và kết
quả là thời gian trung bình là 3 phút 10 giây. Với mức ý nghĩa α = 0,05 và với phương
sai không đổi có thể coi thời gian chuẩn bị chiến đấu tăng lên đáng kể so với trước đây?
GV HV
Xét hai lời giải như sau: Nhìn lời giải thứ nhất thì hoàn toàn thấy hợp
Lời giải thứ nhất: Gọi X là thời gian lý. Tuy nhiên, yêu cầu của bài toán là đi
kiểm định giả thiết về thời gian chuẩn bị sẵn chuẩn bị chiến đấu, thì .
sàng chiến đấu tăng lên so với trước đây. Ta có :
Như vậy sai lầm trong lời giải trên là chưa
nhận diện được loại yêu cầu của bài toán. Khoảng ước lượng của thời gian
chuẩn bị chiến đấu trung bình μ với α
= 0,05 là:
(*)
Với = 0,05
⟹
. ⟹
Thay số vào (*) ta được ước lượng
của μ với độ tin cậy 0,95 là :
Vậy với độ tin cậy 0,95 thì khoảng
ước lượng của thời gian chuẩn bị sẵn
. sàng chiến đấu μ là:
131
Giá trị 2,5 không nằm trong khoảng
trên nên với mức ý nghĩa α = 0,05 có
thể coi thời gian chuẩn bị chiến đấu
tăng lên.
Hãy nhận x t về lời giải trên?
Lời giải thứ hai: Nhìn lời giải thứ hai thì đã thực hiện bài toán
Gọi X là thời gian chuẩn bị chiến đấu, kiểm định giải thiết như yêu cầu. Tuy nhiên,
bài toán cho con số ban đầu là 2 phút 30 giây thì .
và cần kiểm định giả thiết thời gian có tăng Ta kiểm định giả thiết H0:
hay không. Như vậy sai lầm ở đây là thiết lập với K: ở
sai giả thiết cần kiểm định. mức α = 0,05.
Sửa chữa sai lầm: Tiêu chuẩn kiểm định là:
Gọi X là thời gian chuẩn chiến đấu, thì
.
với K: Ta kiểm định giả thiết H0:
ở mức α = 0,05.
Ta có :
Tiêu chuẩn kiểm định là:
Ta có :
Với = 0,05 ⟹
. ⟹
Do nên bác bỏ giả thiết H0, chấp nhận
Với = 0,05 ⟹ đối giả thiết K: ở mức α =
. ⟹ 0,05. Điều này có nghĩa là thời gian
chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu trước đây , Do nên bác bỏ giả thiết H0:
ít hơn so với hiện tại. Như vậy với chấp nhận đối giả thiết K: ở mức α =
mức ý nghĩa α = 0,05 có thể coi thời 0,05. Như vậy với mức ý nghĩa α = 0,05 có thể
gian chuẩn bị chiến đấu tăng lên. coi thời gian chuẩn bị chiến đấu tăng lên.
132
Những sai lầm thường mắc phải trong phần TK có thể khai thác như:
- Sai lầm trong sử dụng công thức ước lượng khoảng, công thức kiểm
định giả thiết.
- Sai lầm trong lựa chọn các số để thay vào công thức.
- Sai lầm khi tra bảng phân phối chuẩn, phân phối Student,..
- Sai lầm khi chuyển kết luận giữa bài toán theo ngôn ngữ thông thường với
kết luận bài toán TK.
Chú ý khi thực hiện biện pháp:
Xuất phát từ các sai lầm thường gặp của HV trong một số tình huống cụ thể
trong quá trình giảng dạy XSTK, GV cần thiết thiết kế các tình huống chứa đựng
tình huống sai lầm mang tính điển hình mà HV thường mắc phải để HV được thử
thách với những sai lầm đó nhằm giúp HV hiểu rõ hơn về XSTK, đồng thời rèn
luyện cho HV khả năng giám sát, đánh giá và điều chỉnh thông qua các tình huống
sai lầm đó.
2.2.5. Biện pháp 5: Sử dụng hình thức DH theo dự án nhằm tạo cơ hội cho HV
thực hiện các hoạt động dự đoán, lập kế hoạch, giám sát và đánh giá khi vận
dụng kiến thức XSTK vào giải quyết các nhiệm vụ thực tế.
Mục đích của biện pháp
DH theo dự án là hình thức DH gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành
động, nhà trường và xã hội, phát huy tính tích cực, tính tự lực, tính trách nhiệm của
cá nhân và nhóm. Việc DH theo dự án đối với môn XSTK sẽ giúp HV phát triển các
KN dự đoán, lập kế hoạch, giám sát, đánh giá và tự điều chỉnh, giúp HV tích cực
chủ động trong việc xây dựng kiến thức, hình thành KN SNT trong quá trình thực
hiện dự án.
Biện pháp này góp phần bồi dưỡng cả bốn KN: dự đoán, lập kế hoạch, giám
sát và đánh giá.
Cơ sở khoa học của biện pháp
Theo [10] thì: “Dạy học theo dự án là một hình thức DH, trong đó HS thực
hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực
hành, tự lực lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá kết quả. Hình thức làm việc chủ
133
yếu là theo nhóm, kết quả dự án là những sản phẩm hành động có thể giới thiệu
được”. Định nghĩa này đã chỉ ra đặc điểm của DH theo dự án có thể góp phần hình
thành các thành phần KN SNT cho HV.
Theo [67], trong DH theo dự án, SV thực sự được chủ động trong quá trình
học tập. Khi tham gia vào việc thực hiện các dự án học tập, SV được chủ động đề
xuất vấn đề và độc lập nghiên cứu để mang lại khám phá mới, kích thích được động
cơ và hứng thú học tập, tăng cường khả năng nghiên cứu của SV, khuyến khích tính
sáng tạo, phát triển năng lực phát hiện và GQVĐ, phát triển tư duy bậc cao. DH
theo dự án không chỉ giúp SV nắm được các kiến thức cơ bản cũng như những kiến
thức chuyên sâu, hiểu biết thực tiễn mà còn phát triển một số KN như khả năng giao
tiếp, khả năng lãnh đạo, khả năng đánh giá, hợp tác…, đó chính là sự chuẩn bị hành
trang cho họ trong sự nghiệp học tập suốt đời và đối mặt với các thử thách trong
cuộc sống sau này.
Như vậy, DH theo dự án không chỉ giúp HV nắm được các kiến thức môn học
mà còn phát triển một số KN như khả năng GQNV phức hợp, khả năng lập kế
hoạch, thực hiện và đánh giá kết quả, khả năng lãnh đạo. Việc tổ chức thực hiện
hoạt động theo dự án bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Trong DH XSTK,
GV có vai trò định hướng, trợ giúp, tổ chức hoạt động, kiểm soát, đánh giá,
điều chỉnh. Còn HV tiến hành các hoạt động như: nghiên cứu lý thuyết, tiến
hành phân tích yêu cầu bài toán, khảo sát thực tế, điều tra lấy số liệu, tổng hợp
số liệu, phân tích và xử lý số liệu để giải quyết bài toán đặt ra.
Cách thức tổ chức thực hiện biện pháp
Những nội dung của môn XSTK có thể giảng dạy theo hình thức DH theo dự án:
- Nội dung về: “Biến cố và XS”
- Nội dung về: “Biến ngẫu nhiên và luật phân phối”
- Nội dung về: “Bài toán ước lượng khoảng”.
- Nội dung về: “Bài toán kiểm định giả thiết”.
Căn cứ vào đặc điểm của DH theo dự án, chúng tôi đưa ra quy trình DH theo
dự án đối với môn XSTK như sau:
134
Giai đoạn 1: Chọn chủ đề và xác định mục tiêu dự án
Mục đích của giai đoạn này là đưa ra được chủ đề của dự án, từ đó xác định rõ
mục tiêu của dự án. Các hoạt động của GV và HV trong giai đoạn này được thể
hiện cụ thể như sau:
- Chọn chủ đề và xác định tên của dự án có thể do GV, hoặc GV và HV thảo
luận đưa ra.
- GV cần xác định nội dung của bài học để xây dựng chủ đề của dự án sao cho
phù hợp với nội dung môn học, phù hợp với khả năng của HV, phù hợp với điều
kiện thực tiễn. GV phải xác định được các kiến thức, KN mà HV cần đạt được trong
quá trình thực hiện dự án; lường trước được những khó khăn mà HV có thể gặp
trong quá trình thực hiện dự án. Đi đôi với việc xác định chủ đề chung của dự án,
GV cũng cần xác định rõ thời gian của dự án, các mốc quan trọng.
- Hoạt động chia nhóm: GV nên hướng dẫn và tạo điều kiện để HS tự chọn
nhóm làm việc của mình để cho phù hợp và thuận lợi trong quá trình thực hiện dự
án. HV được bố trí vào các nhóm từ 6 - 8 thành viên, bầu nhóm trưởng và thư ký
của nhóm.
- HV hình thành ý tưởng và xác định mục tiêu dự án: Trong bước này các
nhóm họp để đưa ra các ý tưởng của bản thân; thảo luận để tự đề xuất các ý tưởng
nhằm cụ thể hoá dự án theo mục tiêu chung đã được đề ra.
- HV xác định rõ mục tiêu dự án của nhóm: Có thể ngay từ đầu các nhóm HV
thảo luận và đưa ra các ý kiến riêng, những ý tưởng liên quan đến chủ đề, mục tiêu
của dự án.
Kết quả của giai đoạn một chính là mục tiêu dự án, bản phác thảo các ý tưởng
xung quanh dự án.
Giai đoạn 2: Lập kế hoạch dự án
- GV phải có hệ thống câu hỏi định hướng trong việc xây kế hoạch cho việc thực
hiện dự án.
- HV lập kế hoạch sơ bộ: HV cùng thảo luận đưa ra được chủ đề của dự án,
xác định những công việc cần thực hiện, đưa ra các nội dung cần nghiên cứu xung
quanh chủ đề của dự án.
135
- HV xác định sơ đồ nhiệm vụ: dự án có thể được chia thành nhiều phần việc,
trong đó mỗi cá nhân hoặc nhóm chịu trách nhiệm một phần. Ở phần này, sơ đồ
nhiệm vụ cần chi tiết, rõ ràng để dễ theo dõi cũng như đánh giá kết quả phần việc
của cá nhân hay nhóm. Trong việc lập kế hoạch dự án cần chú ý xây dựng tiến trình
thực hiện các nhiệm vụ một cách cụ thể và có trình tự nhất định, đồng thời các công
việc đó phải được xác định rõ thời hạn thực hiện, nguồn tài liệu và PP tiến hành.
Bảng 2.1. Bảng kế hoạch công việc, sơ đồ công việc
Nhiệm vụ Nội dung Nguồn tài liệu PP tiến hành Thời gian bắt đầu Thời gian hoàn thành Ngƣời thực hiện
Nhiệm vụ 1
NV 1.1
NV 1.2
NV 1.3
Nhiệm vụ 2
….
- GV cần chú ý kiểm tra định hướng giải quyết dự án của HV, đặc biệt chú ý
tới phương pháp thực hiện dự án. GV có thể hướng dẫn và điều chỉnh lại nếu nhóm
HV đi chệch hướng.
- HV chỉnh sửa kế hoạch: dựa vào sự phản hồi của GV nhóm HV xem xét lại
kế hoạch cũng như phương pháp thực hiện dự án của nhóm.
Kết quả của giai đoạn này là kế hoạch chi tiết của nhóm và sơ đồ giao nhiệm
vụ cho cá nhân hoặc nhóm nhỏ.
Giai đoạn 3: Thực hiện dự án
- Đây là giai đoạn HV tự lực thực hiện dự án, tự đưa ra các quyết định để tổ chức
công việc dưới sự giám sát, hướng dẫn của GV và với sự hỗ trợ lẫn nhau của các thành
viên trong nhóm, HV sẽ độc lập nghiên cứu, vận dụng các kiến thức và kinh nghiệm
của mình để giải quyết các nhiệm vụ được giao.
- Mỗi nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn này yêu cầu HV phải hoàn tất một cách
dứt khoát đối với chuỗi các phần việc, có sự chia sẻ giữa các thành viên trong
136
nhóm. Trong suốt tiến trình thực hiện, các thành viên trong nhóm nên dành thời
gian để xem lại mục đích dự án nhằm điều chỉnh kịp thời, đồng thời cũng để quá
trình thực hiện tiếp theo không bị lạc hướng. Các thành viên trong nhóm cũng cần
thường xuyên có ý kiến phản hồi, tự đánh giá hoặc đánh giá lẫn nhau. Các ý kiến đó
có thể đến từ bản thân mỗi thành viên, có thể đến từ bạn bè, GV.
- Tiến tới hoàn thành dự án: Kết quả cuối cùng của một dự án chính là sản phẩm,
bài trình bày hoặc buổi biểu diễn trước lớp. Các thành viên trong nhóm cần thống nhất
nội dung cũng như hình thức của bài trình bày để tiến tới hoàn thành sản phẩm.
- Trong toàn bộ giai đoạn này hoạt động của GV là giám sát và điều chỉnh
giúp HV đạt được mục tiêu của dự án đã đề ra.
Kết quả của giai đoạn này chính là sản phẩm của dự án mà nội dung cơ bản
của nó là kiến thức, KN được tạo ra cho mỗi cá nhân HV, là một vấn đề thực tiễn
được giải quyết.
Giai đoạn 4: Tổng hợp và đánh giá
- HV hoàn thành dự án và cũng là hoàn tất sản phẩm. Sản phẩm của dự án có
thể được trình bày trong nhóm, giữa các nhóm, trước lớp; GV và các nhóm khác có
thể đưa ra các ý kiến phản hồi mang tính xây dựng.
- Hoạt động đánh giá sản phẩm trình bày vấn đề cần giải quyết, về mục tiêu cụ
thể, về quá trình làm việc cá nhân, nhóm, phương pháp GQVĐ, đặc biệt là kết quả
thu được của toàn nhóm, của cá nhân sau khi vấn đề đã được giải quyết về kiến
thức, KN, cách làm việc mà mỗi cá nhân tiếp nhận được, phát triển được.
Ví dụ 2.22: Khi dạy bài “ Ước lượng TK”, dự án đưa ra liên quan tới bài toán: Ước
lượng về giá trị trung bình tổng thể của biến ngẫu nhiên; Ước lượng về giá trị tỷ lệ
tổng thể của biến ngẫu nhiên.
Giai đoạn 1: Chọn chủ đề và xác định mục tiêu dự án
GV nêu dự án “Vấn đề sử dụng thuốc lá của cán bộ đang công tác tại trường ĐH A”.
HV có hai tiết làm việc với GV trên lớp, 1 tuần tự lập và 2 tiết trình bày báo
cáo kết quả.
137
*)Mục tiêu của dự án: Sau khi hoàn thành dự án, HV đạt được các mục tiêu sau:
- Về kiến thức:
+ Hiểu biết được một số vấn đề có liên quan đến thuốc lá.
+ Hiểu được cách vận dụng các bài toán ước lượng TK vào giải quyết một vấn
đề nào đó của thực tế.
+ Nắm và giải được các dạng bài toán thực tế liên quan đến ước lượng TK.
- Về KN: Hình thành và phát triển cho HV các KN:
+ Phân tích, tổng hợp, dự đoán, lập kế hoạch, đánh giá và tự điều chỉnh.
+ Thu thập và xử lý thông tin, tìm kiếm thông tin, làm việc theo nhóm.
- Về thái độ:
+ Tự giác, chủ động, độc lập trong học tập, tự chịu trách nhiệm trước nhóm.
+ Rèn tính kiên trì, cẩn thận, tự tin và làm việc có kế hoạch.
*) Nhiệm vụ dự án:
+ Tìm hiểu về tác hại của thuốc lá (từ các chất độc có trong thuốc lá), những
bệnh mà con người thường mắc phải khi hút thuốc lá.
+ Ước lượng được tỉ lệ HV sử dụng thuôc lá, số lượng thuốc trung bình một HV
sử dụng trong 1 đơn vị thời gian, tỷ lệ người hút thuốc bị mắc một bệnh T.
+ Chia lớp thành các nhóm gồm từ 6 đến 8 HV. Các nhóm bầu nhóm trưởng,
thư kí. GV giao nhiệm vụ cho HV tìm hiểu tình huống thực tiễn, tìm hiểu các vấn
đề xã hội liên quan đến thuốc lá, tìm hiểu cách giải quyết bài toán.
+ HV xác định nội dung của dự án và sản phẩm của dự án: dựa vào mục tiêu
chung của dự án, dựa vào những nhiệm vụ mà GV giao; HV đưa ra các nội dung cụ
thể của dự án cần tìm hiểu và hoạt động tương ứng, các loại sản phẩm cần có.
Ở giai đoạn này, sản phẩm chính là tên của dự án với mục tiêu được xác định
cụ thể.
Giai đoạn 2: Lập kế hoạch thực hiện dự án
+ Dựa vào nội dung của dự án mà HV lập kế hoạch thực hiện, xác định các
nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm như: việc thu thập tài liệu (việc
tìm kiếm thông tin trên mạng, trên sách báo, thư viện…); lập kế hoạch điều tra,
phân công điều tra tình hình hút thuốc trong dân cư sống trên địa bàn tự chọn lựa,
138
tìm hiểu bệnh liên quan đến thuốc lá và số người mắc bệnh này (có hút và không
hút thuốc lá). Các công việc trên được thể hiện trên sơ đồ và bảng phân công nhiệm
vụ với sự phân công cụ thể đến từng cá nhân hoặc nhóm nhỏ. Dưới đây là một ví dụ
về bảng phân công nhiệm vụ:
Bảng 2.2. Phân công nhiệm vụ
Nhiệm Nội dung Thời gian Nguồn tài PP tiến Ngƣời
vụ thực hiện liệu hành thực hiện
NV 1 Tìm hiểu về 3 ngày - Sách báo - Đọc tài Nhóm 1
thuốc lá - Thông tin liệu, tra cứu
trên mạng trên mạng
NV 1.1 Tìm hiểu về cấu 3 ngày - Sách báo - Đọc tài HV A, B
tạo, nguồn gốc - Thông tin liệu, tra cứu thực hiện
của thuốc lá trên mạng trên mạng
NV 1.2 Tìm hiểu các tác 3 ngày - Sách báo - Đọc tài HV C, D
hại của thuốc lá - Thông tin liệu, tra cứu thực hiện
trên mạng trên mạng
NV 1.3 Tìm hiểu các 3 ngày - Sách báo - Đọc tài HV E, G
bệnh mà thuốc - Thông tin liệu, tra cứu thực hiện
lá gây ra trên mạng trên mạng
NV 2 Điều tra lấy số 3 ngày - Thông tin - Điều tra, Nhóm 2
liệu ở trường tra cứu
ĐH A.
…. …. …. …. ….. …..
+ Sau khi thảo luận và thống nhất kế hoạch, mỗi thành viên trong nhóm đều có
một kế hoạch riêng (dưới dạng bảng hoặc theo một cách nào đó) để tự theo dõi tiến
trình làm việc của bản thân và của cả nhóm.
+ GV kiểm tra kế hoạch dự án, nếu nhận thấy HV đi đúng hướng dự án thì tiếp
tục cho nhóm thực hiện bước tiếp theo; nếu không thì góp ý để nhóm điều chỉnh lại.
139
GV cũng kiểm tra kế hoạch của từng HV (qua bảng phân công nhiệm vụ) và góp ý
cho từng người.
+ Nhóm và từng HV chỉnh sửa kế hoạch: dựa vào các thông tin từ GV và từ
những người khác.
Kết quả của giai đoạn này là kế hoạch chung của nhóm và kế hoạch của từng
nhóm nhỏ hoặc cá nhân.
Giai đoạn 3: Thực hiện kế hoạch
Quá trình làm việc của nhóm HV được thể hiện qua các bước sau:
+ HV thu thập thông tin có lien quan đến thuốc lá từ sách báo ở thư viện, từ
mạng Internet,…
+ HV điều tra lấy số liệu theo các nhiệm vụ đã đề ra với bảng câu hỏi đã chuẩn
bị sẵn. Các câu hỏi trong bản điều tra được soạn thảo theo một số tiêu chí (bản điều
tra có thể bao gồm họ tên người được điều tra, địa chỉ, tuổi, có hút thuốc không, hút
mỗi ngày bao nhiêu điếu, hút bao nhiêu năm, mắc phải những bệnh nào...).
+ Từ các thông tin thu thập được, HV tổng hợp ý kiến và các phương án
GQVĐ. Sau đó nhóm họp thảo luận để xác định lại các thông tin, số liệu đã thu thập
được. Vận dụng các kiến thức đã có căn cứ vào các câu hỏi định hướng của GV để
ước lượng TK những yêu cầu đặt ra.
+ Từ số liệu đã thu thập được, từ những tính toán theo số liệu TK, HV đưa ra
những kết luận theo yêu cầu của dự án.
+ Kết quả được đưa ra báo cáo trên PowerPoint.
Giai đoạn 4: Tổng hợp và đánh giá.
+ HV trình bày về quá trình thực hiện qua các giai đoạn, về xây dựng và triển
khai kế hoạch.
+ HV tự đánh giá quá trình thực hiện và kết quả thực hiện, rút kinh nghiệm.
+ GV đánh giá quá trình và kết quả công việc.
+ Từ kết quả sản phẩm dự án ở trên, dựa trên kết quả vừa tính toán cho các kết
luận về các vấn đề thực tiễn nghiên cứu.
+ GV kết luận và hệ thống lại toàn bộ mặt lý thuyết cho HV. GV đánh giá việc
thực hiện dự án của HV, có kết hợp sự đánh giá của chính HV.
140
2.3. Kết luận chƣơng 2
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn (ở chương 1), để thực hiện DH
XSTK theo hướng tăng cường rèn luyên KN SNT cho HV ở các trường ĐH trong
QĐ, chúng tôi đã đưa ra 4 định hướng và từ đó đề xuất được 5 biện pháp sư phạm:
Biện pháp 1: Rèn luyện cho HV KN dư đoán, lập kế hoạch thông qua các hoạt động
tìm hiểu vấn đề, chuyển đổi ngôn ngữ, liên tưởng và huy động kiến thức đã có để
giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
Biện pháp 2: Đặt câu hỏi định hướng góp phần rèn luyện các KN SNT cho HV
trong dạy học môn XSTK.
Biện pháp 3: Rèn luyện KN SNT cho HV thông qua các giai đoạn của hoạt động
GQVĐ trong dạy học môn XSTK.
Biện pháp 4: Thiết kế và tổ chức DH một số tình huống sai lầm qua đó rèn cho HV
khả năng giám sát, đánh giá và tự điều chỉnh.
Biện pháp 5: Sử dụng hình thức DH theo dự án nhằm tạo cơ hội cho HV thực hiện
các hoạt động dự đoán, lập kế hoạch, giám sát đánh giá và tự điều chỉnh khi vận
dụng kiến thức XSTK vào giải quyết các nhiệm vụ thực tế.
Các biện pháp sư phạm trên đây đều thực hiện DH theo phương châm: Tổ
chức tập luyện cho người học thông qua một số ví dụ thích hợp và lặp lại nhiều lần
để hình thành KN cho HV. Mỗi biện pháp đều có chức năng và vai trò nhất định trong
quá trình DH theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT. Đồng thời, các biện pháp có
mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động, hỗ trợ lẫn nhau, từ việc định hướng hoạt
động, vận dụng vào GQNV, GQVĐ trong từng nội dung học tập đến việc tự vận dụng
giải quyết các nhiệm vụ thực tế. Thực hiện đồng bộ các biện pháp trong quá trình DH
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả DH môn XSTK cho HV các trường ĐH trong QĐ.
141
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Mục đích, yêu cầu, nội dung thực nghiệm sƣ phạm
3.1.1. Mục đích
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành nhằm mục đích kiểm nghiệm tính đúng
đắn của giả thuyết khoa học đã nêu ra trong luận án qua thực tiễn DH; bước đầu
đánh giá tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp sư phạm được đề xuất trong
chương 2;
Đánh giá tác động của việc tiến hành DH có sử dụng các biện pháp sư phạm
đề xuất trong luận án đến việc thực hiện mục tiêu học tập nội dung môn XSTK nói
riêng, đáp ứng mục tiêu DH nói chung.
3.1.2. Yêu cầu
Thực nghiệm sư phạm phải đảm bảo tính khách quan của các thực nghiệm.
Thực nghiệm phù hợp với đối tượng HV, sát với tình hình thực tế DH.
3.1.3. Nhiệm vụ thực nghiệm
- Biên soạn tài liệu thực nghiệm và tiến hành dạy thực nghiệm;
- Thực nghiệm một số biện pháp sư phạm đã đề xuất trong chương 2;
- Thu thập, xử lý các kết quả thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi và hiệu quả
của các biện pháp đã đề xuất.
3.1.4. Nội dung thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm đợt 1: Chúng tôi tiến hành thực nghiệm các biện pháp 1, biện
pháp 2, biện pháp 3. Mục đích của lần thực nghiệm này nhằm thực hiện các thử
nghiệm ban đầu, qua đó rút kinh nghiệm, điều chỉnh, hoàn thiện nội dung, bổ sung
thêm biện pháp để thực hiện tốt hơn cho các lần thử nghiệm sau.
Thực nghiệm đợt 2: Chúng tôi tiến hành thực nghiệm các biện pháp 1, biện
pháp 2, biện pháp 3, biện pháp 4.
Thực nghiệm đợt 3: Chúng tôi tiến hành dạy thực nghiệm 5 biện pháp đã nêu ở
chương 3 của luận án.
Việc thực nghiệm sư phạm được tiến hành trong cả quá trình giảng dạy học
phần XSTK ở trường Sĩ quan Chính trị và Học viện Khoa học Quân sự. Nội dung
142
chương trình môn XSTK tiến hành thực nghiệm sư phạm được trình bày cụ thể
trong Bảng 1.8 và Phụ lục 1. Thời lượng tiến hành thực nghiệm sư phạm đối với
học phần XSTK ở Trường Sĩ quan Chính trị là: Lý thuyết: 31 tiết; Bài tập: 18 tiết; ở
Học viện Khoa học Quân sự là: Lý thuyết: 30 tiết; Bài tập: 15 tiết.
Trong thực nghiệm sư phạm chúng tôi không thể đề cập hết tất cả các kỹ thuật,
thao tác, hoạt động...của các biện pháp; thậm chí có biện pháp cũng chỉ đề cập đến
một khía cạnh nào đó. Bởi vậy, quan điểm của chúng tôi là lựa chọn những nội dung
trong chương trình XSTK thuận lợi cho việc rèn luyện KN SNT cho HV. HV các nhóm
thực nghiệm và đối chứng được kiểm tra sơ bộ NT trước khi tiến hành thực
nghiệm; sau thực nghiệm được đánh giá sơ bộ về hiệu quả tiếp cận tri thức lý
thuyết môn học; đánh giá khả năng sử dụng KN SNT của HV trong vận dụng
kiến thức môn XSTK vào GQVĐ qua đối chiếu kết quả hai nhóm thực nghiệm
và đối chứng.
3.2. Thời gian, đối tƣợng, quy trình và phƣơng pháp đánh giá thực nghiệm sƣ phạm
3.2.1. Thời gian, đối tượng thực nghiệm sư phạm
Căn cứ vào những yêu cầu cụ thể của luận án, chúng tôi tiến hành thực nghiệm
theo hai vòng (gồm 3 đợt).
- Vòng 1 (Đợt 1 và đợt 2):
+ Đợt 1: Từ tháng 08 đến tháng 10 năm 2016 thực nghiệm đợt 1 với 2 lớp
CT21C (quân số 56), lớp CT21D (quân số 56) tại trường Sĩ quan Chính trị. GV dạy
lớp thực nghiệm là tác giả luận án.
+ Đợt 2: Từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2016 thực nghiệm đơt 2 với 2 lớp,
gồm 1 lớp thực nghiệm 34TS1 (quân số 20) và 1 lớp đối chứng 34TS2 (quân số 20)
tại trường Học viện Khoa học Quân sự. GV dạy lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
là thạc sĩ Nguyễn Văn Đại.
Vòng 2 (Đợt 3): Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2017 thực nghiệm đợt 3 với 2
lớp, gồm 1 lớp thực nghiệm CT22G (quân số 52) và 1 lớp đối chứng CT22A (quân
số 52) tại trường Sĩ quan Chính trị. GV dạy lớp thực nghiệm là tác giả luận án và
GV dạy lớp đối chứng là thạc sĩ Hoàng Thị Kim Ngọc.
143
3.2.2. Quy trình tổ chức thực nghiệm sư phạm
TN sư phạm được tiến hành theo quy trình sau:
- Chọn lớp TN và ĐC có chất lượng học tập của HV tương đương nhau.
- Tổ chức tập huấn cho GV dạy TN. Nội dung tập huấn cho GV TN gồm
những vấn đề sau đây:
+ Mục đích TN sư phạm và cách thức tiến hành.
+ Giới thiệu sơ lược cơ sở của việc xác định và rèn luyện một số KN SNT, GV
được tập huấn phải nắm vững các biện pháp DH theo hướng tăng cường rèn luyện
KN SNT cho HV trong DH XSTK.
+ GV tham gia dạy TN được yêu cầu tìm hiểu kĩ kế hoạch bài học và tiến trình
DH do chúng tôi thiết kế rồi cùng trao đổi về các vấn đề liên quan để dạy theo đúng
tiến trình đó đối với các lớp TN và dạy theo cách thông thường đối với các lớp ĐC
(dạy theo giáo án do GV soạn).
- Tiến hành dạy các tiết TN sư phạm tại các lớp học.
- Tiến hành phỏng vấn HV và GV sau giờ học để kiểm chứng và rút kinh
nghiệm những mặt không thể đo được qua bài kiểm tra hoặc những đề xuất của GV.
- Cho HV làm các bài kiểm tra và phân tích kết quả thu được.
3.2.3. Phương pháp đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm
3.2.3.1. Nội dung đánh giá
Đánh giá tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp tăng cường rèn luyện KN
SNT cho HV trong DH XSTK. Chúng tôi đánh giá trên cơ sở:
- Không khí lớp học, sự hứng thú, khả năng tiếp thu bài của HV với các biện
pháp đề xuất trong luận án.
- Sự hiểu biết của HV về kiến thức lý thuyết của bài học và khả năng vận dụng
kiến thức cơ bản vào giải quyết các bài toán theo yêu cầu.
- Khả năng sử dụng KN SNT vào giải quyết các vấn đề GV đưa ra.
3.2.3.2. Phương pháp đánh giá TN sư phạm
Để đánh giá những nội dung trên, chúng tôi sử dụng các công cụ sau:
a) Kiểm tra tự luận:
Nhằm đánh giá mức độ lĩnh hội kiến thức của HV qua các tiết học. Kiểm tra
144
kiến thức của từng cá nhân của lớp TN và lớp ĐC thông qua bài kiểm tra tự luận
sau TN. Nội dung kiểm tra dựa vào mục tiêu các giờ học trong kế hoạch bài học và
đặc biệt có những bài tập để đánh giá hiệu quả của việc rèn luyện KN SNT nhằm
nâng cao khả năng GQVĐ cho HV. Tất cả các bài kiểm tra được chấm theo thang
điểm thống nhất từ 0 đến 10. Kết quả những bài kiểm tra này được xử lý theo điểm
số trung bình cộng của cả đợt đó.
b) Phiếu khảo sát dành cho HV:
Để đánh giá mức độ NT, nắm bắt hiểu biết của HV về kiến thức lý thuyết và
khả năng sử dụng KN SNT trong quá trình GQVĐ, chúng tôi sử dụng phiếu hỏi
dành cho HV với các câu hỏi kiểm tra sự hiểu biết của HV về kiến thức của tiết học,
về sự hứng thú học tập và cách sử dụng KN SNT.
c) Quan sát trong lớp học: Được sử dụng nhằm mục đích tiếp nhận thông tin phản
hồi của HV về việc tiếp thu kiến thức cũng như KN sử dụng trong học tập. Trong
đó, chúng tôi đặc biệt chú ý đến cách HV ghi chép, cách học tập, giao tiếp trao đổi
với GV và HV khác. Các dữ liệu thu thập trong quan sát được phân tích cùng với
các dữ liệu thu được trong phiếu hỏi.
d) Phỏng vấn:
Để có thông tin về tác động của việc sử dụng các biện pháp tăng cường rèn
luyện KN SNT cho HV trong DH XSTK, chúng tôi sử dụng phương pháp phỏng vấn
nhằm làm sáng tỏ những thông tin về những vấn đề khó xác định được qua quan sát
và phiếu hỏi như mức độ hấp dẫn của các biện pháp... Những phỏng vấn này được
tiến hành theo cách trò chuyện hoặc hỏi qua phiếu với những câu hỏi định hướng, kết
hợp với quan sát những biểu hiện bên ngoài của đối tượng. Kết quả phỏng vấn được
xử lý và được phân tích định tính.
e) Phương pháp thống kê Toán học:
Sau khi chấm các bài kiểm tra HV, các số liệu về điểm kiểm tra được tập hợp
và xử lý theo công thức toán TK. Chúng tôi sử dụng một số công thức sau:
1) Điểm trung bình:
Trong đó, là số bài (số HV) là điểm trung bình; Xi là điểm đạt được;
đạt được điểm tương ứng ở mỗi lần kiểm tra; k là số nhóm điểm khác nhau; n là
kích thước mẫu (tổng số HV được kiểm tra).
145
2) Phương sai được tính theo công thức:
3) Độ lệch chuẩn:
Độ lệch chuẩn cho biết độ phân tán của tập hợp điểm số xoay quanh giá trị
trung bình. Chỉ số S càng thấp thì độ phân tán quanh giá trị điểm trung bình càng ít,
độ tập trung của điểm quanh giá trị trung bình cao.
4) Kiểm định giả thuyết về so sánh hai giá trị trung bình của hai mẫu độc lập (khi
chưa biết phương sai):
+ Với mẫu lớn (nTN, nDC > 30) thì kiểm định bằng tiêu chuẩn kiểm định:
+ Với mẫu bé (một trong hai số nTN, nDC < 30) thì kiểm định bằng tiêu chuẩn
kiểm định:
Phương sai chung:
5) Kiểm định giả thuyết về sự khác nhau giữa các phương sai khi sử dụng hai
phương pháp bằng tiêu chuẩn kiểm định nếu
hoặc nếu
6) Kiểm định Mann-Whitney về so sánh hai giá trị trung bình của hai mẫu độc lập.
Tiêu chuẩn kiểm định:
, là tổng hạng của điểm TN và DC.
146
3.3. Tiến trình thực nghiệm sƣ phạm
3.3.1. Thực nghiệm sư phạm vòng 1
3.3.1.1. Phân tích chất lượng HV trước khi tiến hành TN sư phạm (vòng 1)
*) Đợt 1: Do đây là lần TN nhằm thực hiện các thử nghiệm ban đầu về các biện
pháp đề xuất, qua đó rút kinh nghiệm, sắp xếp, điều chỉnh nội dung và cách thức
tiến hành cho phù hợp hơn, bổ sung thêm biện pháp để thực hiện tốt hơn cho các lần
thử nghiệm sau. Cho nên kết quả TN của đợt 1 chúng tôi sẽ không đưa vào luận án.
*) Đợt 2: Để tiến hành chọn mẫu TN chúng tôi đã tiến hành cho HV làm bài kiểm
tra chất lượng môn toán phần tổ hợp ở chương trình phổ thông là phần gắn chặt chẽ
với phần XS và phân tích kết quả kiểm tra, chúng tôi chọn được 2 nhóm TN và ĐC
có số lượng tương đương nhau (24 HV lớp 34TS1 lớp thực nghiệm và 24 HV lớp
34TS2 thuộc lớp đối chứng của trường Học viện Khoa học Quân sự).
Bảng 3.1. Bảng phân phối tần số điểm kiểm tra chất lượng (X) của nhóm lớp TN và
ĐC vòng 1 (trước TN)
Số HV 3 4 5 6 7 8 9 10 S2 S X
24 1 2 4 5 6 3 2 1 6.458 2.955 1.719 ni (TN)
Từ số liệu kết quả kiểm tra trên, ta có biểu đồ cột so sánh kết quả kiểm tra chất
lượng trước khi tiến hành TH sư phạm giữa 2 lớp TN và đối chứng như sau:
24 1 3 4 4 6 4 1 1 6.333 3.014 1.736 ni (ĐC)
Biểu đồ 3.1. Biểu đồ cột so sánh trước TN1
147
Biểu đồ cho độ cao của các cột chất lượng điểm trong biểu đồ là gần bằng
nhau, điều này chứng tỏ chất lượng của nhóm lớp thực nghiệm và nhóm lớp đối
chứng là tương đương nhau.
Để đánh giá sự tương đương hay khác nhau giữa điểm trung bình của hai lớp
tiến hành thực nghiệm, cần kiểm định giả thiết: H0: “Điểm trung bình hai lớp TN và
ĐC tương đương nhau“, với mức ý nghĩa 0,05.
Do nTN = nDC = 24 < 30, nên tiêu chuẩn kiểm định:
Phương sai chung:
Kết luận: Chấp nhận giả thiết . Vậy điểm trung bình của lớp TN và lớp ĐC
là tương đương với mức ý nghĩa 5%.
3.3.1.2. Nội dung TN sư phạm vòng 1
Để phân tích kết quả của lớp TN, chúng tôi tiến hành các bước như sau:
- Bước 1: Dạy giáo án TN và quan sát HV học tập trên lớp để đánh giá mức độ
hứng thú, khả năng tiếp thu kiến thức của HV.
- Bước 2: Tổ chức kiểm tra bài tự luận cho HV lớp TN và lớp ĐC sau khi GV
dạy xong các biện pháp theo hướng rèn luyên KN SNT.
- Bước 3: Tổ chức phát phiếu điều tra đối với GV và HV, phỏng vấn GV và
HV sau tiết học TN sư phạm.
3.3.1.3. Kết quả TN sư phạm vòng 1
1) Về định tính:
Tiến hành quan sát tất cả các tiết học TN sư phạm của lớp TN và ĐC, thông
qua quan sát, ghi chép các hoạt động chính của GV và HV, trao đổi với GV sau mỗi
tiết dạy để rút kinh nghiệm và trao đổi với HV để kiểm tra sự hứng thú, khả năng
148
tiếp thu bài của HV với các bài giảng được thực hiện theo các quy trình và biện
pháp đã đề xuất trong luận án, chúng tôi nhận thấy:
• Đối với GV: Sau khi trao đổi với GV về tài liệu TN, GV tiến hành thực hiện
giáo án TN và cho ý kiến nhận xét về tài liệu TN. GV nắm được các KN SNT, sử
dụng các biện pháp nhằm rèn luyện các KN SNT cho HV.
• Đối với HV: HV lớp TN tập trung, thảo luận sôi nổi hơn so với lớp ĐC do
trong quá trình nghe giảng HV phải hoạt động nhiều hơn để thực hiện các nhiệm vụ
học tập dưới sự tổ chức, hướng dẫn, gợi ý, điều chỉnh tiếp của GV. HV ở lớp TN
nắm được các KN SNT và được rèn luyện các KN này một cách bài bản, được chủ
động vào quá trình tìm tòi, liên tưởng, huy động kiến thức để xây dựng kế hoạch
giải bài toán, chủ động giám sát và điều chỉnh trong quá trình thực hiện và tự đánh
giá quá trình GQVĐ.
2) Về định lượng:
Để đánh giá hiệu quả của các biện pháp đề ra trong luận án chúng tôi yêu cầu
HV của nhóm lớp thực nghiệm và nhóm lớp đối chứng làm bài kiểm tra, mỗi bài
trong thời gian 90 phút bằng kiến thức tổng hợp của chương trình XSTK. Kết quả
như sau:
Bảng 3.2. Bảng phân phối tần số điểm kiểm tra chất lượng (X) của nhóm lớp TN và
ĐC vòng 1 (sau TN)
Số HV 3 4 5 6 7 8 9 10 S2 S X
24 0 1 3 5 6 5 2 2 7,042 2.476 1.574 ni (TN)
24 2 3 5 5 4 3 1 1 6 3.304 1.818 ni (ĐC)
Biểu đồ so sánh kết quả của hai nhóm
Từ số liệu kết quả kiểm tra trên, ta có biểu đồ cột so sánh kết quả giữa 2 lớp
TN và đối chứng như sau:
149
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ cột so sánh sau TN1
So sánh điểm trung bình của hai nhóm
+) Trước hết ta kiểm định phương sai của lớp TN và lớp ĐC với giả thuyết:
Ho: “Sự khác nhau giữa các phương sai ở lớp TN và lớp ĐC là không đáng kể”.
Đại lượng kiểm định F được tính như sau:
Giá trị tới hạn tìm trong bảng phân phối F ứng với mức = 0,05 và với
các bậc tự do ta được .
Ta thấy Chấp nhận giả thiết H0. Có nghĩa là sự chênh lệch phương
sai giữa lớp TN và lớp ĐC tương đương, không có sự khác biệt.
+) Hơn nữa có thể lấy mức ý nghĩa 0,05 kiểm định giả thiết:
H0: “Điểm trung bình hai lớp TN và ĐC là tương đương nhau”.
H1: “Điểm trung bình lớp TN cao hơn lớp ĐC”.
Do nTN = nDC = 24 < 30, nên tiêu chuẩn kiểm định:
Phương sai chung:
150
Kết luận: Với mức ý nghĩa 5% thì giả thiết bị bác bỏ, chấp nhận đối giả
thiết H1. Vậy điểm trung bình của lớp TN cao hơn lớp ĐC với mức ý nghĩa 5%.
3.3.2. Thực nghiệm sư phạm vòng 2
3.3.2.1. Phân tích chất lượng HV trước khi tiến hành TN sư phạm (vòng 2)
Qua TN sư phạm vòng 1, tác giả rút kinh nghiệm, điều chỉnh những hạn chế
của các biện pháp sao cho đảm bảo tính khả thi hơn. Để tiến hành chọn mẫu TN sư
phạm, chúng tôi đã tiến hành cho HV làm bài kiểm tra chất lượng và phân tích kết
quả kiểm tra. Chúng tôi chọn được 2 lớp, lớp thực nghiệm là CT22G có quân số 52,
lớp đối chứng là CT22A có quân số 52 tại trường Sĩ quan Chính trị. Kết quả kiểm
tra của HV nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng như sau:
Bảng 3.3. Phân bố tần số điểm kiểm tra chất lượng (X)của lớp TN và ĐC vòng 2
(trước TN)
Số HV 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 X
52 2 3 2 5 8 9 8 9 4 2 ni (TN)
52 2 2 4 6 7 10 6 8 5 2 ni (ĐC)
Biểu đồ so sánh kết quả của hai nhóm
Từ số liệu kết quả kiểm tra trên, ta có biểu đồ cột so sánh kết quả giữa 2 lớp
TN và đối chứng như sau:
Biểu đồ 3.3. Biểu đồ cột so sánh trước TN2
151
Để đánh giá sự tương đương hay khác nhau giữa điểm trung bình của hai lớp,
cần kiểm định giả thiết: H0: “Điểm trung bình hai lớp TN và ĐC là tương đương
nhau”, với mức ý nghĩa 0,05.
Do nTN = nDC = 52 > 30, nên tiêu chuẩn kiểm định:
Từ số liệu trên, ta tính được:
Kết luận: Chấp nhận giả thiết . Vậy điểm trung bình của lớp TN và lớp ĐC
là tương đương với mức ý nghĩa 5%.
3.3.2.2. Nội dung TN sư phạm vòng 2
Để phân tích kết quả của lớp TN, chúng tôi tiến hành các bước như sau:
- Bước 1: Dạy giáo án thực nghiệm và quan sát HV học tập trên lớp để đánh
giá mức độ hứng thú, khả năng tiếp thu kiến thức của HV.
- Bước 2: Tổ chức kiểm tra bài tự luận cho HV lớp TN và lớp ĐC sau khi GV
dạy xong các biện pháp theo hướng rèn luyên KN SNT.
- Bước 3: Tổ chức phát phiếu điều tra đối với GV và HV, phỏng vấn GV và
HV sau tiết học thực nghiệm sư phạm.
3.3.2.3. Kết quả TN sư phạm vòng 2
1) Về định tính:
Tiến hành quan sát tất cả các tiết học TN sư phạm của lớp TN và ĐC, thông
qua quan sát, ghi chép các hoạt động chính của GV và HV, trao đổi với GV sau mỗi
tiết dạy để rút kinh nghiệm và trao đổi với HV để kiểm tra sự hứng thú, khả năng
tiếp thu bài của HV với các bài giảng được thực hiện theo các biện pháp đã đề xuất
trong luận án, chúng tôi nhận thấy:
Các tiến trình DH được soạn thảo phù hợp với thực tế DH. HV được chú trọng
hơn trong việc rèn luyện KN SNT nhằm định hướng cách học, cách GQVĐ cho
152
HV. Không khí lớp học của nhóm lớp TN sôi nổi và HV tích cực chủ động hơn đối
với lớp ĐC. Đối với lớp ĐC, lớp học trầm, HV gần như thụ động tiếp thu kiến thức
do GV truyền đạt. Ngược lại, đối với lớp TN, HV tích cực hỏi và trả lời ý kiến do
GV đưa ra, HV tiếp thu tốt, tích cực hơn, khả năng liên tưởng, huy động KT để phát
hiện vấn để sau đó GQVĐ nhanh và phù hợp hơn.
2) Về định lƣợng:
a) Kết quả học tập sau thực nghiệm
Cũng như TN sư phạm vòng 1, chúng tôi tiến hành cho HV làm bài kiểm tra 90
phút (có phụ lục kèm theo) để đánh giá chất lượng học tập của 2 lớp, kết quả như sau:
Bảng 3.4. Bảng phân phối tần số điểm (X) của lớp TN và ĐC sau TN sư phạm vòng 2
Số HV 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 X
ni 52 0 1 2 5 6 8 11 9 6 4 (TN)
ni 52 1 2 6 4 10 10 6 5 5 3 (ĐC)
Biểu đồ so sánh kết quả của hai nhóm:
Từ số liệu kết quả kiểm tra trên, ta có đồ cột so sánh kết quả giữa 2 lớp TN và
đối chứng như sau:
Biểu đồ 3.4. Biểu đồ cột so sánh sau TN2
153
So sánh điểm trung bình của hai nhóm
+) Kiểm định phương sai của lớp TN và lớp ĐC với mức ý nghĩa 0,05:
Giả thiết Ho: “Sự khác nhau giữa các phương sai ở lớp TN và lớp ĐC là
không đáng kể”.
Đại lượng kiểm định F được tính như sau:
Từ số liệu ở bảng trên ta tính được:
Giá trị tới hạn tìm trong bảng phân phối F ứng với mức = 0,05 và với
các bậc tự do ta được .
Ta thấy Chấp nhận giả thiết H0. Có nghĩa là sự chênh lệch phương
sai giữa lớp TN và lớp ĐC tương đương, không có sự khác biệt.
+) Kiểm định trung bình của lớp TN và lớp ĐC với mức ý nghĩa 0,05:
Giả thiết H0: “Điểm trung bình hai lớp TN và ĐC là tương đương nhau”.
Đối thiết H1: “Điểm trung bình lớp TN cao hơn lớp ĐC”.
Do nTN = nDC = 52 > 30, nên tiêu chuẩn kiểm định:
Từ số liệu trên, ta tính được:
Kết luận: Với mức ý nghĩa 5% thì giả thiết bị bác bỏ, chấp nhận đối giả
thiết H1. Vậy điểm trung bình của lớp TN cao hơn lớp ĐC với mức ý nghĩa 5%.
+) Nhằm đánh giá một cách khách quan về kết quả kiểm định sau 02 vòng
thực nghiệm, ta tiến hành thêm phương pháp Mann - Whitney, với = 0,05 , để
kiểm định giả thiết:
Giả thiết H0: “Điểm trung bình hai lớp TN và ĐC là tương đương nhau”.
Đối thiết H1: “Điểm trung bình lớp TN cao hơn lớp ĐC”.
154
Bảng 3.5. Bảng xếp hạng điểm kiểm tra sau khi TN 2 vòng
Cộng 5 6 7 8 9 10 3
TN 1 2 0 4 1 3 5 6 5 2 2
ĐC 2 3 5 5 4 3 1 1
TN TN1 R1 = 685 R2 = 491 Hạng 1,5 4,5 10,5 19,5 29,5 38,5 44 47
TN 0 1 2 5 6 8 11 9 6 4
ĐC 1 2 6 4 10 10 6 5 5 3
TN2 R1= 3029,5 R2= 2430,5 Hạng 1 3 8,5 17 29,5 46,5 64 79,5 92 101
Bảng 3.6. Bảng kết quả TN 2 vòng theo tiêu chuẩn Mann - Whitney
T1 = R1 - 1 = R1- T2 = R2 - 2 = R2 - Kết luận Số liệu
TN1 97 -97 48,497 2,00 > 1,65 Bác bỏ H0
TN2 299,5 -299,5 153,818 1,947 > 1,65 Bác bỏ H0
Kết quả tính toán từ Bảng 4.5 và Bảng 4.6 cho thấy với mức ý nghĩa 0,05 các
giá trị kiểm định đều bác bỏ giả thiết H0, một lần nữa khẳng định về có sự khác
nhau về điểm số giữa lớp TN và lớp ĐC. Điều này chứng tỏ sau khi được rèn luyện
KN SNT thì HV lớp TN có kết quả học môn XSTK cao hơn HV lớp ĐC.
b) Khả năng giám sát kiến thức
*) Khả năng dự đoán:
Trong bài kiểm tra có đưa ra yêu cầu đối với mỗi bài toán: Trước khi làm bài
hãy dự đoán các khả năng có thể làm được hay không. Kết quả của việc dự đoán và
thực hiện có điểm trung bình dự đoán kết quả khảo sát như sau:
Bảng 3.7. Bảng phân phối tần số điểm dự đoán trung bình (X) của lớp TN và đối
ĐC thực nghiệm sư phạm vòng 2.
Điểm X
[-1; -0,75) 2 3 [-0,75; -0,5) 3 5 [-0,5; -0,25) 6 12 [-0,25; 0) 8 11 [0; 0,25) 12 8 [0,25; 0,5) 11 7 [0,5; 0,75) 6 4 [0,75; 1] 4 2 ni (TN) ni (ĐC)
155
Biểu đồ so sánh kết quả của hai nhóm:
Từ số liệu kết quả dự đoán trong bài kiểm tra trên, ta có đồ cột so sánh kết quả
giữa 2 lớp TN và đối chứng như sau:
Biểu đồ 3.5. Biểu đồ cột so sánh kết quả dự đoán sau TN2
So sánh điểm trung bình của hai nhóm
+) Kiểm định trung bình của lớp TN và lớp ĐC với mức ý nghĩa 0,05:
Giả thiết H0: “Điểm trung bình hai lớp TN và ĐC là tương đương nhau”.
Đối thiết H1: “Điểm trung bình lớp TN cao hơn lớp ĐC”.
Do nTN = nDC = 52 > 30, nên tiêu chuẩn kiểm định:
Từ số liệu trên, ta tính được:
Kết luận: Với mức ý nghĩa 5% thì giả thiết bị bác bỏ, chấp nhận đối giả thiết
H1. Vậy điểm dự đoán trung bình của lớp TN cao hơn lớp ĐC với mức ý nghĩa 5%.
+) Với thì theo bảng phân loại: lớp ĐC được xếp
vào nhóm khả năng dự đoán thấp, còn lớp TN được xếp vào nhóm khả năng dự
đoán trung bình.
156
*) Khả năng đánh giá:
Trong bài kiểm tra có đưa ra yêu cầu đối với mỗi bài toán: Sau khi làm bài
hãy đánh giá các khả năng có thể làm đúng hay không. Kết quả của việc đánh giá và
thực hiện có điểm trung bình đánh giá kết quả khảo sát như sau:
Bảng 3.8. Bảng phân phối tần số điểm đánh giá trung bình (X) của lớp TN và ĐC
sau thực nghiệm sư phạm vòng 2.
[-1; [-0,75; [-0,5; [-0,25; [0; [0,25; [0,5; [0,75; Điểm X 0) -0,75) -0,5) -0,25) 0,25) 0,5) 0,75) 1]
7 2 4 5 11 12 7 4 ni (TN)
12 3 6 10 8 6 5 2 ni (ĐC)
Biểu đồ so sánh kết quả của hai nhóm:
Từ số liệu kết quả đánh giá trong bài thi trên, ta có đồ cột so sánh kết quả giữa
2 lớp TN và đối chứng như sau:
Biểu đồ 3.6. Biểu đồ cột so sánh kết quả đánh giá sau TN2
So sánh điểm trung bình của hai nhóm
+) Kiểm định trung bình của lớp TN và lớp ĐC với mức ý nghĩa 0,05:
Giả thiết H0: “Điểm trung bình hai lớp TN và ĐC là tương đương nhau”.
Đối thiết H1: “Điểm trung bình lớp TN cao hơn lớp ĐC”.
157
Do nTN = nDC = 52 > 30, nên tiêu chuẩn kiểm định:
Từ số liệu trên, ta tính được:
Kết luận: Với mức ý nghĩa 5% thì giả thiết bị bác bỏ, chấp nhận đối giả thiết
H1. Vậy điểm đánh giá trung bình của lớp TN cao hơn lớp ĐC với mức ý nghĩa 5%.
+) Với thì theo bảng phân loại: lớp ĐC được xếp
vào nhóm khả năng đánh giá thấp, còn lớp TN được xếp vào nhóm khả năng đánh
giá trung bình.
c) Khả năng sử dụng kỹ năng SNT
Sau khi cho hai lớp TN và ĐC làm bài kiểm tra, chúng tôi tiến hành khảo sát
các hoạt động đã tiến hành trong quá trình làm bài kiểm tra để đánh giá việc sử
dụng KN SNT (Bản khảo sát trong phụ lục). Thang điểm cho như sau:
1 : Không thực hiện; 2: Ít thực hiện; 3: Thường thực hiện; 4: Luôn thực hiện.
Kết quả khảo sát cho dưới bảng sau:
Bảng 3.9 Bảng phân phối tần số điểm khảo sát trung bình (X) của lớp TN và ĐC
sau TN sư phạm vòng 2.
Kỹ năng Lớp [3;4) [4;5) [5;6) [6;7) [7;8) [8;9) [9;10)
Dự đoán Lập kế hoạch Giám sát Đánh giá TN ĐC TN ĐC TN ĐC TN ĐC 2 3 1 2 3 4 2 4 5 7 5 6 5 9 4 6 6 10 5 11 6 9 5 11 9 11 10 12 10 11 10 11 11 9 11 9 12 9 12 8 13 8 12 7 11 7 12 7 6 4 8 5 5 3 7 5
158
So sánh điểm trung bình của hai nhóm
Kiểm định trung bình của lớp TN và lớp ĐC với mức ý nghĩa 0,05:
Giả thiết H0: “Điểm trung bình hai lớp TN và ĐC là tương đương nhau”.
Đối thiết H1: “Điểm trung bình lớp TN cao hơn lớp ĐC”.
Bảng 3.10. Bảng kết quả khảo sát sau TN sư phạm vòng 2.
Kỹ năng Lớp S2 Kết luận
TN 7.134615 2.746229 Dự 1.719 > 1,65 Bác bỏ H0 đoán ĐC 6.576923 2.724852
TN 7.288462 2.601433 Lập kế 1.952 > 1,65 Bác bỏ H0 hoạch ĐC 6.673077 2.566198
TN 6.961538 2.802413 Giám 1.821 > 1,65 Bác bỏ H0 sát ĐC 6.365385 2.77034
TN 7.230769 2.631976 Đánh 2.118 > 1,65 Bác bỏ H0 giá ĐC 6.538462 2.921598
Kết quả tính toán từ Bảng 4.7 và Bảng 4.8 cho thấy với mức ý nghĩa 0,05 các
giá trị kiểm định đều bác bỏ giả thiết H0. Điều này chứng tỏ sau khi được rèn luyện
KN SNT thì HV lớp TN sử dụng các KN SNT trong quá trình GQVĐ nhiều hơn
HV lớp ĐC.
Tóm lại, với việc sử dụng các phương pháp kiểm định giữa các lớp có học
lực tương đương, kết quả chỉ ra sự hiệu quả của phương pháp thực nghiệm, và
phương pháp này có tính ổn định với các lớp thực nghiệm khác nhau, ở các thời
điểm khác nhau.
159
3.4. Kết luận chƣơng 3
TN sư phạm đã kiểm chứng được các vấn đề cụ thể sau đây:
Việc xác định và xây dựng một số KN SNT nói trên là phù hợp giữa lý thuyết
và thực tiễn.
Các KN SNT giúp cho HV khi học tập, GQNV, GQVĐ được hiệu quả hơn
và hoàn toàn có thể rèn luyện được.
Các biện pháp rèn luyện KN SNT cho HV trong DH XSTK được đưa ra trong
luận án là hoàn toàn phù hợp và khả thi.
Kết quả học tập của HV sau khi được rèn luyện các KN SNT được nâng lên
một cách rõ rệt. Đặc biệt là khả năng GQVĐ và khả năng tự chủ, tự giác học tập
được cải thiện đáng kể.
Các biện pháp nêu trên cho thấy KN SNT có hiệu quả trong DH XSTK và
hoàn toàn có thể rèn luyện được cho HV.
160
KẾT LUẬN
Trong quá trình nghiên cứu, luận án đã đạt được các kết quả chính sau đây:
1) Luận án đã tổng quan được những vấn đề lý luận có liên quan đến lý thuyết
SNT, KN SNT. Đặc biệt, luận án đã phân biệt những nét cơ bản giữa NT và SNT;
Xác định một số KN SNT cần thiết có thể rèn luyện cho HV trong DH XSTK ở
các trường ĐH trong QĐ. Đưa ra được các quan điểm, quá trình và cách tổ chức
DH toán theo hướng tăng cường rèn luyện KN SNT cho HV, làm rõ cơ hội rèn
luyện KN SNT cho HV trường ĐH trong QĐ qua môn XSTK.
2) Thông qua việc điều tra ở 5 trường ĐH trong QĐ, luận án đã làm rõ một số
nét căn bản của tình hình DH XSTK ở các trường ĐH trong QĐ, sự cần thiết của
việc rèn luyện KN SNT cho HV.
3) Luận án đề xuất được năm biện pháp DH XSTK theo định hướng tăng
cường rèn luyện KN SNT cho HV ở các trường ĐH trong QĐ. Năm biện pháp
được trình bày theo một cấu trúc thống nhất (Mục đích, ý nghĩa của biện pháp;
Cơ sở khoa học của biện pháp; Cách thức thực hiện biện pháp và chú ý khi sử
dụng biện pháp).
4) Luận án đã tổ chức thực nghiệm sư phạm để minh họa tính khả thi và hiệu
quả của những biện pháp sư phạm được đề xuất. Kết quả thực nghiệm sư phạm cho
thấy các biện pháp sư phạm được đề xuất bước đầu có tính khả thi và thu được hiệu
quả tốt.
Trên cơ sở các kết quả đã đạt được về mặt lý luận và thực tiễn, có thể khẳng
định: Giả thuyết khoa học của Luận án là chấp nhận được, mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu Luận án đã hoàn thành. Những đóng góp của luận án có thể triển khai,
vận dụng trong thực tế DH XSTK cho HV ở các trường ĐH trong QĐ.
161
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Lê Bình Dƣơng (2013), Giúp sinh viên hiểu sâu khái niệm xác suất thông qua
những tình huống sai lầm và nghịch lí về xác suất, Tạp chí Giáo dục, số 318, kì
2, tháng 9, tr.49-51.
2. Lê Bình Dƣơng – Mai Thị Hiền (2016), Một số mô hình siêu nhận thức và vận
dụng các mô hình siêu nhận thức trong dạy học toán, Tạp chí Giáo dục, số đặc
biệt, tháng 4, tr.97- 101
3. Lê Bình Dƣơng (2017), Một số kĩ năng siêu nhận thức có thể phát triển trong
dạy học xác suất thống kê, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 140, tháng 5, tr.45-48.
4. Lê Bình Dƣơng (2018), Biện pháp đặt câu hỏi góp phần rèn luyện kĩ năng siêu
nhận thức cho học viên trong dạy học môn Xác suất Thống kê, Tạp chí Khoa học
Giáo dục Việt Nam, năm thứ 14, số 02, tháng 02, tr.55-59.
5. Lê Bình Dƣơng (2018), Rèn luyện kĩ năng siêu nhận thức cho học viên thông
qua hoạt động giải quyết vấn đề trong dạy học môn Xác suất và Thống kê, Tạp
chí Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 09, tháng 9, tr.62-66.
6. Lê Bình Dƣơng (2019), Dạy học Xác suất Thống kê theo hướng tăng cường rèn
luyện kĩ năng siêu nhận thức cho học viên, Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt
Nam, số 19, tháng 7, tr.13-18.
162
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT
[1]. Abdoubliana, O.A. (1980), Hình thành cho sinh viên những kỹ năng sư phạm
trong việc tổ chức công tác giáo dục học sinh, NXB Giáo dục Hà Hội.
[2]. Bùi Tuấn Anh (2012), Cơ sở tâm lý học của phát triển tư duy sang tạo ở học
viên sĩ quan trong nhà trường quân đội, luận án tiến sĩ tâm lý học, Học viện
Chính trị.
[3]. Trần Thị Lan Anh (2009), Huấn luyện chiến lược siêu nhận thức và sử dụng
hoạt động phụ đạo nh m nâng cao kỹ năng giao tiếp với sự lưu ý đặc biệt tới
phụ âm, Đại học Hà Nội.
[4]. Hoàng Xuân Bính (2019), Rèn luyện kĩ năng SNT nh m bồi dưỡng năng lực
phát hiện và giải quyết vấn đề cho học sinh trong dạy học hình học không gian
ở trường THPT, Luận án tiến sĩ khoa học giáo dục, Trường Đại học Vinh.
[5]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban chấp
hành Trung ương khóa XI số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
[6]. Bộ tổng tham mưu (2000), Điều lệ công tác nhà trường, NXB Quân đội nhân
dân, Hà nội.
[7]. Lê Hải Châu (1961), Toán học gắn với thực tiễn và đời sống sản xuất, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
[8]. Trần Đức Chiển (2007), Rèn luyện tư duy thống kê cho học sinh trong dạy học
Thống kê - Xác suất ở môn toán trung học phổ thông, Luận án tiến sĩ giáo dục
học, Viện chiến lược và Chương trình giáo dục, Hà Nội.
[9]. Côvaliov A. G. (1971), Tâm lí học cá nhân, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[10]. Nguyễn Văn Cường - Bernd Meier (2005), Hội thảo tập huấn: Phát triển năng
lực thông qua phương pháp và phương tiện dạy học mới, BGD&ĐT - Dự án
đào tạo giáo viên trung học cơ sở, Hà Nội.
163
[11]. Nguyễn Văn Cường - Bernd Meier (2010), Một số vấn đề chung về đổi mới
phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông, BGD&ĐT - Dự án Phát
triển giáo dục trung học phổ thông.
[12]. Đanilôp M. A., Xcatkin M.N. (1980), Lí luận dạy học của trường phổ thông,
[13]. Đảng uỷ quân sự trung ương (2007), Nghị quyết về công tác giáo dục – đào
NXB Giáo dục, Hà Nội.
tạo trong tình hình mới, NXB Quân đội nhân dân, Hà nội.
[14]. Đỗ Ngọc Đạt (1977), Tiếp cận hiện đại hoạt động dạy học, NXB Đại học
Quốc Gia, Hà Nội.
[15]. Phạm Gia Đức, Nguyễn Mạnh Cảng, Bùi Huy Ngọc, Vũ Dương Thụy (2001),
Phương pháp dạy học môn Toán, Tập 1,2, NXB Giáo dục.
[16]. Nguyễn Thành Đức, Trịnh Hồng Tính (2011), Mức độ sử dụng các chiến lược
đọc nhận thức và siêu nhận thức của sinh viên chuyên ngành Anh văn, tạp chí
KH – ĐH Cần Thơ.
[17]. Vũ Dũng (2008), Từ điển Tâm lý học, NXB Từ điển Bách khoa.
[18]. P.Ia. Galperin, Theo bài báo “Phát triển các công trình nghiên cứu quá trình hình
thành hành động trí tuệ” (Trong Tâm lý học Liên Xô, Tuyển tập các bài báo).
[19]. Gonobolin, F.N. (1971), Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên, tập 1,
NXB Giáo dục Hà Nội.
[20]. Guare, R. & Dawnson, P. (2015), Phương pháp học tập thông minh, NXB Dân
trí, (Đỗ Minh Hường dịch).
[21]. Cao Thị Hà, Nguyễn Văn Thanh (2016), Kĩ năng siêu nhận thức - những vấn
đề lí luận và khả năng vận dụng vào quá trình dạy học toán, Tạp chí Giáo dục
số 329.
[22]. Nguyễn Thị Thu Hà (2014), Dạy học Xác suất và thống kê theo hướng tăng
cường vận dụng toán học vào thực tiễn cho SV khối Kinh tế, Kỹ Thuật, Luận án
tiến sĩ khoa học giáo dục, Đại học sư phạm Hà Nội.
[23]. Phạm Minh Hạc (1989), Tâm lý học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[24]. Hoàng Nam Hải (2013), Phát triển năng lực suy luận Thống kê cho SV cao
đẳng chuyên nghiệp, Luận án tiến sĩ giáo dục học, Trường Đại học Vinh.
164
[25]. Bùi Hiền (2015). Từ điển Giáo dục học. NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
[26]. Tạ Hữu Hiếu (2010), Dạy học môn Thống kê toán học theo hướng vận dụng
trong nghiên cứu khoa học cho sinh viên các trường đại học thể dục thể thao,
Luận án tiến sĩ giáo dục học, Đại học Sư phạm Hà Nội.
[27]. Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức (2015), Lí luận dạy học đại học, NXB Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
[28]. Ngô Tất Hoạt (2012), Nâng cao hiệu quả dạy học Xác suất - Thống kê ở
trường Đại học sư phạm kỹ thuật theo hướng bồi dưỡng một số thành tố năng
lực kiến tạo kiến thức cho sinh viên, Luận án tiến sĩ giáo dục học, Đại học Vinh.
[29]. Đỗ Mạnh Hùng (1993), Nội dung và phương pháp dạy học một số yếu tố của
lý thuyết Xác suất cho học sinh chuyên toán ở bậc phổ thông trung học Việt Nam,
Luận án Phó tiến sĩ khoa học Sư phạm – Tâm lý, Hà Nội.
[30]. Đặng Thành Hưng (1994), Quan niệm về xu thế phát triển phương pháp dạy
học trên thế giới, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
[31]. Hồ Thị Hương (2013), Nghiên cứu lý thuyết siêu nhận thức và đề xuất khả
năng ứng dụng trong giáo dục Trung học, Đề tài cấp Viện, Viện Khoa học Giáo
dục Việt Nam.
[32]. Võ Thị Huyền (2016), Dạy học Thống kê ở Trường Đại học Cảnh sát nhân
dân theo hướng gắn với thực tiễn nghề nghiệp, Luận án tiến sĩ khoa học giáo
dục, Đại học Sư phạm Hà Nội.
[33]. Nguyễn Tuấn Khanh (2017). Rèn luyện kỹ năng học tập cho sinh viên trong
đào tạo theo tín chỉ, Luận án tiến sĩ khoa học giáo dục, Viện Khoa học Giáo
dục Việt Nam.
[34]. Trần Kiều (1988), Nội dung và phương pháp dạy học Thống kê mô tả trong
chương trình toán cải cách ở trường phổ thông cơ sở Việt Nam, Luận án Phó
tiến sĩ khoa học giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
[35]. Nguyễn Bá Kim, Vũ Dương Thụy (1997), Phương pháp dạy học môn Toán,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
[36]. Nguyễn Thị Hương Lan (2013), “Vai trò của siêu nhận thức trong dạy học
môn Toán”, Tạp chí Giáo dục, số 319.
165
[37]. Nguyễn Thị Chim Lang (2009), Rèn luyện Kỹ năng sử dụng công nghệ thông
tin- Truyền thông nh m phát triển KNHT của học sinh cuối cấp tiểu học, Luận
án tiến sĩ Giáo dục học, Viên Khoa học giáo dục Việt Nam.
[38]. Đào Hồng Nam (2014), Dạy học Xác suất - Thống kê ở trường Đại học Y,
Luận án tiến sĩ khoa học giáo dục, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
[39]. Bùi Văn Nghị (2008). Phương pháp dạy học những nội dung cụ thể môn
Toán. NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[40]. Phạm Thành Nghị (2011), Giáo trình Tâm lý học giáo dục, NXB Đại học quốc
gia Hà Nội.
[41]. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và PPDH trong nhà trường, NXB Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
[42]. Phan Trọng Ngọ (2012), Cơ sở triết học và tâm lý học của đổi mới phương
pháp dạy học trong trường phổ thông, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[43]. Nguyễn Thị Nhân (2015), Rèn luyện kĩ năng dạy học cho sinh viên đại học sư
phạm theo tiếp cận linh hoạt trong thực tập sư phạm, Luận án tiến sĩ giáo dục
học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
[44]. Hoàng Phê (1996), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
[45]. G. Polya (1995), Toán học và những suy luận có lý, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[46]. G. Polya (1997), Giải bài toán như thế nào?, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[47]. G. Polya (1997), Sáng tạo Toán học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[48]. Phạm Đức Quang - Lê Anh Vinh (Đồng chủ biên) (2018), Thiết kế và tổ chức
dạy học tích hợp môn Toán ở trường phổ thông, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
[49]. X. Rogiers (1996), Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các
năng lực ở nhà trường, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[50]. Nguyễn Văn Sơn (2012). Quá trình hình thành động cơ nghề nghiệp của học
viên sĩ quan ở nhà trường quân đội hiện nay, Luận án tiến sĩ tâm lí học, Học viện
Chính trị Quân sự.
[51]. Đặng Đức Thắng (2003). Lý luận dạy học ĐH quân sự, NXB Quân đội nhân dân.
[52]. Đỗ Thị Thanh (2015), Xác định và luyện tập một số dạng hoạt động nhận
thức cho học sinh trong dạy học hình học ở trường trung học phổ thông, Luận án
Tiến sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.
166
[53]. Nguyễn Văn Thanh (2012). Rèn luyện kĩ năng SNT cho HS lớp 7 trong dạy
Toán về tỉ lệ thức, Tạp chí Giáo dục số 290.
[54]. Đỗ Đức Thái (Chủ biên) (2018), Dạy học phát triển năng lực môn toán trung
học phổ thông, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[55]. Nguyễn Duy Tiến, Vũ Viết Yên (2003), Lý thuyết xác suất, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[56]. Phan Thị Tình (2011)Tăng cường vận dụng toán học vào thực tiễn trong dạy học
môn Xác suất thống kê và môn Quy hoạch tuyến tính cho sinh viên toán Đại học
Sư phạm, Luận án tiến sĩ giáo dục học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
[57]. Lê Trung Tín (2016), Vận dụng lí thuyết SNT trong dạy học môn toán ở trường
trung học phổ thông, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Số 4.
[58]. Phạm Văn Trạo (2009), Xây dựng và thực hiện chuyên đề chuẩn bị dạy học
Xác suất- thống kê ở trung học phổ thông cho sinh viên toán Đại học Sư phạm,
Luận án tiến sĩ giáo dục học, Viện chiến lược và chương trình giáo dục, Hà Nội.
[59]. Nguyễn Vĩnh Trung, Lê Thu Giang (dịch) (2007). Phương pháp học tập tối
ưu, NXB tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
[60]. Lê Duy Tuấn (2010). Cơ sở tâm lý của tính tích cực học tập ở học viên đào tạo sĩ
quan quân đội, Luận án tiến sĩ tân lí học, Học viện Chính trị Quân sự.
[61]. Thái Duy Tuyên (1992), Một số vấn đề hiện đại lý luận dạy học, Viện Khoa
học Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
[62]. Trần Trọng Thủy (1970), Tâm lý học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[63]. Hoàng Thị Tuyết, “Các chiến lược dạy tự nhiên - xã hội ở tiểu học”, Website:
gdthhcmup.edu.vn
[64]. Nguyễn Quang Uẩn (2010), Tuyển tập nghiên cứu về Tâm lý – Giáo dục, NXB
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[65]. L.X. Vưgôtxki (1997), Tuyển tập tâm lí học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[66]. Franz Emanuel Weinert (chủ biên) (1998), Sự phát triển nhận thức học tập và
giảng dạy (dịch: Việt Anh - Nguyễn Hoài Bão), NXB Giáo dục, Hà Nội.
[67]. Trần Thị Hoàng Yến (2011), Dạy học theo dự án môn Xác suất và thống kê ở
trường đại học (chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật), Luận án tiến sĩ giáo dục học,
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
167
B. TIẾNG NƢỚC NGOÀI
[68]. Artz, A.F. and Armour-Thomas, E. (1992). Development of a cognitive-
metacognitive framework for protocol analysis of mathematical problem
solving in small groups. Cognition and Instruction, 9, 137-175.
[69]. Artzt, A. F. and Armour-Thomas, E. (1998). Mathematics teaching as problem
solving: A framework for studying teacher metacognition underlying
instructional practice in mathematics. Instructional Science 26(1/2): 5–25.
[70]. Blakey, E., & Spence, S. (1990). Developing metacognition. Eric
Reproduction Services No. ED327218.
[71]. Brown, A. L. (1978), Knowing when, where and how to remember: a problem
of metacognition, Advances in instructional psychology vol 1.
[72]. Brown, A. L. (1987), Metacognition, excutive control, self - regulation and
other more mysterious machanisms, in F. E Weinert.
[73]. Desoete, A. (2001). Off-line metacognition in children with mathematics
learning disabilities, Faculteit Psychologie en Pedagogische Wetenschappen.
[74]. Desoete, A. (2007). Evaluating and improving the mathematics teaching-
learning process through metacogintion, Journal of Research in Educational
Psychology, N.13 Vol 5(3).
[75]. Derry, S. J., & Murphy, D. A. (1986). Designing systems that train learning
ability: From theory to practice. Review of Educational Research, 56, 1-39.
[76]. Dörnyei, Z. (1995). On the teachability of communication strategies. TESOL
quarterly 29(1), 55-85.
[77]. Dinsmore, D.L., Alexander, P.A., & Loughlin, S.M. (2008). Focusing the
conceptual lens on metacognition, self-regulation, and self-regulated learning.
Educational Psychology Review, 20, 391-409.
[78]. Du Toit, D. S. (2013). The effect of metacognitive intervention on learner
metacognition and achievement in mathematics, Faculty of Education,
University of the Free State Bloemfontein.
[79]. Ertmer, P., & Newby, T. (1996). The expert learner:Strategic,self-regulated
and reflective. Instructional Science, 24(1), 1-24
168
[80]. Fernandez, M. L., Hadaway, N. & Wilson, J. W. (1994). Problem solving:
Managing it all. The Mathematics Teacher, Vol. 87, No. 3, pp. 195 - 199.
[81]. Flavell, J.H. (1976), Metacognitive aspects of problem solving, The nature of
intelligence.
[82]. Flavell, J.H. (1979), Metacognition and cognitive monitoring: a new area of
cognitive developmental inquiry, American psychology.
[83]. Flavell, J.H. (1981). Monitoring social cognitive enterprises: Something else
that may develop in the area of social cognition. In Flavell, J.H. & Ross, L.
(Eds). Social cognitive development: Frontiers and possible futures.
Cambridge: Cambridge University Press.
[84]. Flavell, J.H. (1987), Speculations about the nature and development of
metacognition, in FE Weisert & LH Kluwe (Eds) metacogniton, motivation and
understanding, Hillslade, N.J, Erlbaum.
[85]. Fogarty, R. (1994). How to teach for metacognition. Palatine, IL: IRI/Skylight
Publishing.
[86]. Fortunato, I., Hecht, D., Tittle, C.K. and Alvarez, L. (1991), „Metacognition
[87]. Fransman, J. S. (2014). Mathematics teachers’ metacognitive skills and
and problem solving‟, Arithmetic Teacher 39(4), 38–40.
mathematical language in the teaching-learning of trigonometric functions in
township schools, Potchefstroom Campus of the North-West University.
[88]. Gama, C. (2004), Intergrating metacognition instruction in Interactive
learning environments, submitted for the degree of D.phil university of Sussex.
[89]. Garner, R. (1987). Metacognition and Reading Comprehension. Norwood,
NJ: Ablex.
[90]. Garofolo, J., & Lester, F.K. (1985). Metacognition, cognitive monitoring, and
mathematical performance. Journal for Research in Mathematics Education, 16,
163-176.
[91]. Greeno, J.G. & Riley, M.S. (1987). Processes and Development of
Understanding. In .E. Weinert & R.H. Kluwe (Eds.), Metacognition,
Motivation, and Understanding (pp. 289-313). Hillsdale, NJ: Erlbaum.
169
[92]. Hacker, D. J., Dunlosky, J. and Graesser, A. (1998). Definitions and
empirical foundations. Metacognition in educational theory and practice, pp. 1-
23. Erlbaum , Mahwah, NJ.
[93]. Hacker, D. J., Dunlosky, J. (2009). Handbook of metacognition in education,
Routlegde, NewYork.
[94]. Kuhn, D., & Dean, D. J. (2000). Metacognition: A bridge between cognitive
psychology and educational practice. Theory into Practice, 43(4).
[95]. Kurtz, B., & Borkowski, J. (1984). Children's metacognition: Exploring
relations among knowledge, process and motivational variables. Journal of
Experimental Child Psychology, 37(2), 335-354.
[96]. Kuzle, A. (2011). Preservice teachers’ patterns of metacognitive beharvior
University of Georgia.
during mathmatics problem solving in a dynamic geometry environment. The
[97]. Kiong, P.L.N., Hwa Tee Yong & Lau Sie Hoe (2007). Mathematics problem
solving of form four students, Universiti Teknologi MARA Sarawak.
[98]. Livingston, J.A. (1997). Metacognition: an overview.
[99]. Lucangeli, D., Cornoldi, C., & Tellarini, M. (1998). Metacognition and
learning disabilties in mathematics. In T.E. Scruggs & M.A. Mastropieri (Eds.),
Advances in Learning and Behavioural Disabilities (pp.219-244). Greenwich:
JAI Press Inc.
[100]. Mehmet, A. (2006). The role of questioning in the classroom.
Gaziosmanpaşa University Faculty of Education , 81-103.
[101]. Moshman, D. & Schraw, G. (1995), Metacognitive theories, Educational
psychology Review.
[102]. Montague, M. (1998). Research on Metacognition in Special Education. In
T.E. Scruggs & M.A. Mastropieri (Eds.), Advances in Learning and
Behavioural Disabilities (pp.151-183). Greenwich: JAI Press Inc.
[103]. Paris, S., & Winograd, P. (1990). Promoting metacognition and motivation
of exceptional children. Remedial and Special Education, 11(6), 7-15.
170
[104]. Paul, G., Qiuqiong, H. & Albert, P. (2013). Cognitive Skills, Noncognitive
Skills, and the Employment and Wages of Young Adults in Rural China.
[105]. Polya, G. (1965), Mathematical discovery: On understanding, learning, and
teaching problem solving (vol. 2). New York, NY: John Wiley & Sons, Inc.
[106]. Polya, G. & Kilpatrick, J. (1974). The Stanford mathematics problem book
with hints and solutions. Teachers College Press.
[107]. Polya, G. (1957), How to solve it: A new aspect of mathematical method
(2nd ed.), Princeton, NJ: Princeton.
[108]. Ratner, C. (1991). Vygotsky’s sociohistorical psychology and its
contemporary applications. New York: Plenum Press.
[109]. Roebers, C., Cimeli, P., Röthlisberger, M., & Neuenschwander, R. (2012).
Executive functioning, metacognition, and self-perceived competence in
elementary school children: an explorative study on their interrelations and
their role for school achievement. Metacognition and Learning 7(3), 151-
173.
[110]. Schneider, W., & Pressley, M. (1997). Memory development between two
and twenty, (2nd ed.) Mahwah, NJ: Lawrence Erlbaum Associates.
[111]. Schneider, W., & Lockl, K. (2008). Procedural metacognition in children:
Evidence for developmental trends. Handbook of Metamemory and Memroy, 391-409.
[112]. Schoenfeld, A.H. (1987). What‟s all the fuss about metacognition? In A. H.
Schoenfeld (Ed.), Cognitive science and mathematics education (pp. 189-
215). Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum.
[113]. Schoenfeld, A.H. (1992), Learning to think mathematically: Problem
solving, metacognition, and sense-making in mathematics. In D. Grouws
(Ed.), Handbook for research on mathematics teaching and learning (pp. 334
- 370). New York: MacMillan.
[114]. Schraw, G. (1998), Promoting General Metacognitive Awareness.
Intructional Science. 26 (2), 113-125.
[115]. Schunk, D. H. (2008). Metacognition, self-regulation, and self-regulated
171
learning: Research recommendations. Educational Psychology Review, 20(4),
463-467.
[116]. Special education support services (SESS) (2009), Metacognition for the
classroom and beyond: diffenentiation and support for learners.
[117]. Shaughnessy, J. M. (1985). Problem-solving derailers: The influence of
misconceptions on problem solving performance. In E. A. Silver (Ed.),
Teaching and learning mathematical problem solving: Multiple research
perspectives (pp. 399-416). Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum.
[118]. Taraban, R., Rynerason, K., & Kerr, M. S. (2000). Metacognition and
freshman academic performance. Journal of Developmental Education,
24(1), 12-24.
[119]. Teri Rysz (2004). Metacognition in Learning Elementary Probability and
Statistics, ProQuest Information and Learning Company, 300 North Zeeb
Road, P.O. Box 1346, Ann Arbor, MI 48106-1346.
[120]. Teong Su Kwang (2000), The effect of metacognitive training on the
mathematical word problem solving of Singapore 11-12 year olds in a
computer anverionment, The University of Leeds School of Education.
[121]. Tobias, S., & Everson, H.T. (1996). Assessing metacognitive knowledge
monitoring. In K. Hagtvet (Ed.), Advances in test anxiety research. Vol 7 (pp.
18-31). Hillsdale, NJ: Erlbaum.
[122]. Tobias, S. and Everson, H. T. (2002), Knowing what you know and what you
don't: futher research on netacognitive knowledge monitoring, College
Entrance Examination Board, New York.
[123]. Van der Stel, M. (2011). Development of metacognitive skills in young
adolescents, Legatron Electronic Publishing, Rotterdam.
[124]. Veenman, M. V. J., Wilhelm, P., & Beisheuzen, J. J. (2004). The relation
between intellectual and metacognitive skills from a developmental
perspective. Learning and Instruction, 14, 89–109.
doi:10.1016/j.learninstruc.2003.10.004.
172
[125]. Veenman, M. V. J. (2005). The assessment of metacognitive skills: What can
be learned from multi-method designs? In C. Artelt, & B. Moschner (Eds.),
Lernstrategien und Metakognition: Implikationen für Forschung und Praxis
(pp. 77–99). Münster: Waxmann.
[126]. Veenman. M. V. J. (2007), The assessment of metacognition A matter of
metti – method Designs. European Assoc of Assoc Psychological Assessment
Newletter.
[127]. Vermeer, H. (1997). Sixth-grade students’ mathematical problem solving
behaviour. Motivational variables and gender differences.UFB: Leiden
University.
[128]. Victor, A.M. (2004). The effects of metacognitive instruction on the planning
and academic achievement of first and second grade children. (Doctoral
Thesis). Chicago, IL: Graduate College of the Illinois Istitute of Technology.
[129]. Vos, H. (2001). Metacognition in Higher Education, PhD thesis.
Enschede, The Netherlands, University of Twente.
[130]. Wang, M. C., Haertel, G. D., & Walberg, H. J. (1990). What influences
learning? A content analysis of review literature. Journal of Educational
Research, 84. 30-43.
[131]. Wellman, H. (1985). The origins of metacognition. In D. L. Forrest-Pressley,
G. E. MacKinnon, and T. G. Waller (eds.), Metacognition, Cognition, and
Human Performance, volume 1 - Theoretical Perspectives, chapter 1, pp. 1–
31. Academic Press, Inc.
[132]. Wilen, William W. (1991). Questioning Skills for Teachers, third edition.
National Education Association, Washington DC.
[133]. Wilson, J. (1998), The Nature of Metacognition: What do primary school
problem solvers do? National AREA conference, Melboume University,
Australia.
[134]. Zimmerman, B.J. (1986). Becoming a self-regulated learner: Which are the
key subprocesses? Contemporary Educational Psychology, 11, 307-313.
PHẦN PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
Đề cƣơng chi tiết học phần Xác suất Thống kê
(Thời lƣợng: 60 tiết)
Chƣơng 1 : Khái niệm cơ bản về xác suất
1.1. Giải tích tổ hợp
1.1.1. Quy tắc cộng
1.1.2. Quy tắc nhân
1.1.3. Hoán vị, chỉnh hợp, tổ hợp
1.2. Bài tập
1.3. Xác suất của biến cố
1.3.1. Khái niệm về phép thử và biến cố
1.3.2. Khái niệm về xác suất
1.3.3. Định nghĩa cổ điển về xác suất
1.3.4. Định nghĩa thống kê về xác suất
1.3.5. Các tính chất của xác suất
1.4. Bài tập
1.5. Quan hệ giữa các biến cố
1.5.1. Biến cố kéo theo, biến cố tương đương
1.5.2. Tổng và tích của hai biến cố
1.5.3. Biến cố xung khắc, nhóm biến cố đầy đủ và xung khắc từng đôi
1.5.4. Biến cố đối lập
1.5.5. Hai biến cố độc lập, nhóm biến cố độc lập từng đôi, nhóm biến cố độc
lập toàn phần
1.6. Các công thức xác suất
1.6.1. Công thức cộng xác suất
1.6.2. Xác suất có điều kiện, công thức nhân xác suất
1.6.3. Công thức xác suất đầy đủ
1.6.4. Công thức Bayes
1.6.5. Công thức Bernoulli, số có khả năng nhất
1.7. Bài tập
Chƣơng 2: Biến ngẫu nhiên và Quy luật phân phối
2.1. Định nghĩa và phân loại biến ngẫu nhiên
2.2. Quy luật phân phối của biến ngẫu nhiên
2.2.1. Hàm phân phối và tính chất
2.2.2. Phân phối của biến ngẫu nhiên rời rạc
2.2.3. Phân phối của biến ngẫu nhiên liên tục
2.3. Bài tập
2.4. Các số đặc trƣng của biến ngẫu nhiên
2.4.1. Kỳ vọng toán
2.4.2. Phương sai, độ lệch chuẩn
2.4.3. Trung vị
2.4.5. Mốt
2.5. Bài tập
2.6. Một số phân phối thông dụng
2.6.1. Phân phối nhị thức
2.6.1. Phân phối chuẩn
2.6.3. Phân phối khi bình phương
2.6.4. Phân phối Student
Chƣơng 3: Lý thuyết mẫu
3.1. Phƣơng pháp mẫu
3.1.1. Tổng thể
3.1.2. Mẫu ngẫu nhiên, mẫu cụ thể
3.1.3. Một số phương pháp chọn mẫu
3.1.4. Một số phương pháp mô tả số liệu mẫu
3.2. Thống kê, một số thống kê đặc trƣng
3.2.1. Định nghĩa
3.2.2. Trung bình mẫu
3.2.3. Phương sai mẫu, phương sai điều chỉnh
3.2.4. Tần suất mẫu
3.3. Bài tập
Chƣơng 4: Ƣớc lƣợng tham số
4.1. Ƣớc lƣợng điểm
4.1.1. Các định nghĩa
4.1.2. Ước lượng điểm cho kỳ vọng, phương sai và xác suất
4.2. Ƣớc lƣợng khoảng
4.2.1. Định nghĩa
4.2.2. Ước lượng khoảng cho kỳ vọng và xác suất
4.2.3. Độ chính xác của ước lượng và số quan sát cần thiết
4.3. Bài tập
Chƣơng 5: Kiểm định giả thiết thống kê
5.1. Các khái niệm
5.1.1. Giả thiết thống kê
5.1.2. Tiêu chuẩn kiểm định giả thiết thống kê, miền tiêu chuẩn
5.1.3. Sai lầm loại I, sai lầm loại II
5.1.4. Thủ tục kiểm định giả thiết thống kê
5.2. Kiểm định giả thiết về kỳ vọng (trung bình)
5.2.1. Kiểm định giả thuyết về kỳ vọng (trung bình)
5.2.2. So sánh hai kỳ vọng (trung bình)
5.3. Một số bài toán kiểm định giả thiết liên quan tới xác suất (tỷ lệ)
5.3.1. Kiểm định giả thuyết về xác suất (tỷ lệ)
5.3.2. So sánh hai xác suất (tỷ lệ)
5.4. Bài tập 5
Ôn tập
Thi viết
PHỤ LỤC 2
PHIẾU XIN Ý KIẾN GIẢNG VIÊN
(Phiếu điều tra dành cho giảng viên)
Kính gửi Thầy (Cô) :
Chúng tôi đang nghiên cứu đề tài“Dạy học XSTK ở trường ĐH trong QĐ theo
hướng tăng cường rèn luyện kỹ năng siêu nhận thức cho HV”.
Để phục vụ việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi tiến hành khảo sát việc đánh giá
của GV về vấn đề dạy học XSTK theo hướng rèn luyện KN SNT và thực trạng việc
dạy học XSTK ở trường Đại học trong Quân đội về vấn đề này.
Xin quý Thầy (Cô) vui lòng cho chúng tôi những ý kiếnvề vấn đề này (các
thông tin của Thầy (Cô) cung cấp chỉ có mục đích phục vụ việc nghiên cứu đề tài
khoa học của chúng tôi, không vì mục đích nào khác).
Xin Thầy (Cô) vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân
Họ và tên:…………………………………………………………….
Trường:………………………………………………………………..
Câu h i 1 : Khi giảng dạy môn XSTK, Thầy (Cô) thường :
Rất Không Thỉnh Thường TT Nội dung câu hỏi thường bao giờ thoảng xuyên xuyên
1 Bám sát đề cương chương trình môn
học
Bám sát giáo trình môn học 2
Dạy cho học viên học thuộc công 3
thức, quy trình giải bài tập
4 Đánh giá học phần chủ yếu dựa vào
việc hiểu kiến thức và kỹ năng vận
dụng công thức để giải bài tập
Câu h i 2 : Khi giảng dạy môn XSTK, Thầy (Cô) thường vận dụng phương pháp nào:
Rất Không Thỉnh Thường thường TT Các phương pháp bao giờ thoảng xuyên xuyên
Phương pháp thuyết trình, diễn giải 1
Phương pháp vấn đáp 2
Phương pháp trực quan 3
Phương pháp thảo luận 4
Phương pháp dạy học nêu quyết vấn đề 5
Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề 6
Câu h i 3 : Theo Thầy (Cô) việc rèn luyện các KN cho HV có quan trọng không :
Không quan trọng Ít quan trọng Quan trọng Rất quan trọng
Câu h i 4 : Khi giảng dạy môn XSTK, Thầy (Cô) thường rèn luyện các KN nào :
Rất Không Thỉnh Thường TT Các KN thường bao giờ thoảng xuyên xuyên
KN tính toán 1
KN huy động công thức để giải bài tập 2
KN thu thập, mô tả, tổ chức và trình 3
bày dữ liệu
KN phân tích, xử lí, diễn giải và kết luận 4
KN tiến hành và kết hợp các thao tác trí 5
tuệ để phân tích, tổng hợp, so sánh, khái
quát hoá, trừu tượng hoá, cụ thể hoá
Câu h i 5: Theo Thầy (Cô), ngoài các KN nói trên, việc rèn luyện các KN sau có
vai trò như thế nào đối với nghề nghiệp tương lai của HV:
Các KN TT Ít quan trọng Quan trọng Không quan trọng Rất quan trọng
KN định hướng, xác định vấn đề 1
KN xác định mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ 2
KN lập kế hoạch thực hiện mục tiêu, 3
nhiệm vụ, phân phối thời gian
4 KN xác định và lựa chọn phương pháp
phù hợp
5 KN giám sát sự hiểu biết của bản thân
khi thực hiện nhiệm vụ và điều chỉnh
khi cần thiết
6 KN nhìn lại quá trình thực hiện và
đánh giá kết quả thực hiện so với mục
tiêu đặt ra, đánh giá mức độ hoàn
thành mục tiêu.
6. Các ý kiến khác của Thầy (Cô)
.......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
Xin trân trọng cảm ơn quý Thầy (Cô)!
PHỤ LỤC 3
Phiếu điều tra tình hình dạy học XSTK ở trƣờng Đại học trong Quân đội theo
hƣớng tăng cƣờng rèn luyện KN siêu nhận thức cho HV
(Phiếu điều tra dành cho học viên)
Chúng tôi đang nghiên cứu đề tài“Dạy học XSTK ở trường ĐH trong QĐ theo
hướng tăng cường rèn luyện kỹ năng siêu nhận thức cho HV”.
Để phục vụ việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi tiến hành khảo sát khả năng sử
dụng KN SNT qua môn họcXSTK của HV.
Xin đồng chí vui lòng trả lời các câu hỏi trong phiếu thăm dò ý kiến này (Các
thông tin cung cấp chỉ có mục đích phục vụ việc nghiên cứu đề tài khoa học của
chúng tôi, không vì mục đích nào khác).
Xin đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân
Họ và tên:………………………………………………………..;
Trường:…………………………………………………………..
I. Điều tra việc học môn XSTK
1. Bạn có nhận xét gì về môn XSTK
A. Khó B. Bình thường C. Dễ
2. Bạn có thích học môn XSTK
A. Rất thích B. Thích C. Bình thường D. Không thích
3. Bạn có nhận xét gì về chương trình môn XSTK
A. Rất nặng B. Bình thường C. Nhẹ
4. Bạn dành thời gian học môn XSTK như thế nào?
A. Nhiều B. Bình thường C. B. Ít
5. Bạn có tham khảo thêm các tài liệu liên quan đến môn XSTK không?
A. Thường xuyên B. Khá thường xuyên C. Ít khi D. Không bao giờ
II. Điều tra việc rèn luyện KN qua học môn XSTK
1): Theo đồng chí việc rèn luyện các KN học quan trọng cho việc học tập và cho
công việc sau này như thế nào :
A. Không quan trọng B. Ít quan trọng C. Quan trọng D. Rất quan trọng
2) Khi học môn XSTK, các đồng chí thường được rèn luyện các KN nào :
TT Các KN Không bao giờ Thỉnh thoảng Thường xuyên
Rất thường xuyên 1 KN tính toán
2 KN huy động công thức để giải bài tập
3 KN thu thập, mô tả, tổ chức và trình
bày dữ liệu
4 KN phân tích, xử lí, diễn giải và kết luận
5 KN tiến hành và kết hợp các thao tác trí
tuệ để phân tích, tổng hợp, so sánh, khái
quát hoá, trừu tượng hoá, cụ thể hoá
3) Theo đồng chí, ngoài các KN nói trên, việc rèn luyện các KN sau các đồng chí
thường thực hiện như thế nào?
Các KN TT Không bao giờ Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên
1 KN định hướng, xác định vấn đề
2 KN xác định mục tiêu, nội dung,
nhiệm vụ
3 KN lập kế hoạch thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ, phân phối thời gian
4 KN xác định và lựa chọn phương pháp
phù hợp
5 KN giám sát sự hiểu biết của bản thân
khi thực hiện nhiệm vụ và điều chỉnh
khi cần thiết
6 KN nhìn lại quá trình thực hiện và
đánh giá kết quả thực hiện so với
mục tiêu đặt ra, đánh giá mức độ
hoàn thành mục tiêu.
PHỤ LỤC 4
PHIẾU XIN Ý KIẾN CÁN BỘ QUẢN LÝ
(Phiếu điều tra dành cho cán bộ quản lý)
Kính gửi đồng chí :
Chúng tôi đang nghiên cứu đề tài“Dạy học XSTK ở trường ĐH trong QĐ
theo hướng tăng cường rèn luyện kỹ năng siêu nhận thức cho HV”.
Để phục vụ việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi tiến hành khảo sát việc đánh giá
của cán bộ quản lý về vấn đề dạy học XSTK theo hướng rèn luyện KN SNT và thực
trạng việc dạy học XSTK ở trường Đại học trong Quân đội về vấn đề này.
Xin quý đồng chí vui lòng cho chúng tôi những ý kiến về vấn đề này (các
thông tin của đồng chí cung cấp chỉ có mục đích phục vụ việc nghiên cứu đề tài
khoa học của chúng tôi, không vì mục đích nào khác).
Xin đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân
Họ và tên:…………………………………………………………...
Trường:……………………………………………………………..
Câu h i 1: Theo đồng chí việc rèn luyện các KN cho HV có quan trọng không :
A. Không quan trọng B. Ít quan trọng C. Quan trọng D. Rất quan trọng
Câu h i 2 : Theo đồng chí, khi dạy học XSTK, việc rèn luyện các KN sau có vai trò
như thế nào đối với HV:
TT Các KN Ít quan trọng Quan trọng Rất quan trọng Không quan trọng
KN tính toán 1
KN huy động công thức để giải bài tập 2
KN thu thập, mô tả, tổ chức và trình 3
bày dữ liệu
KN phân tích, xử lí, diễn giải và kết luận 4
KN tiến hành và kết hợp các thao 5
tác trí tuệ để phân tích, tổng hợp, so
sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá,
cụ thể hoá
Câu h i 3: Theo đồng chí, ngoài các KN nói trên, việc rèn luyện các KN sau có vai
trò như thế nào đối với nghề nghiệp tương lai của HV:
Các KN TT Ít quan trọng Quan trọng Rất quan trọng Không quan trọng
KN định hướng, xác định vấn đề 1
KN xác định mục tiêu, nội dung, nhiệm 2
vụ
3 KN lập kế hoạch thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ, phân phối thời gian
4 KN xác định và lựa chọn phương pháp
phù hợp
5 KN giám sát sự hiểu biết của bản thân
khi thực hiện nhiệm vụ và điều chỉnh
khi cần thiết
6 KN nhìn lại quá trình thực hiện và
đánh giá kết quả thực hiện so với mục
tiêu đặt ra, đánh giá mức độ hoàn
thành mục tiêu.
4. Các ý kiến khác của đồng chí
.......................................................................................................................................
Xin trân trọng cảm ơn đồng chí!
PHỤ LỤC 5
(Do quy định nghiêm ngặt về giáo án, nội dung chương trình ở các trường ĐH
trong QĐ nên tác giả luận án xin ph p được trích một phần nhỏ giáo án bài dạy)
Giáo án: Trích bài dạy: Kỳ vọng toán của biến ngẫu nhiên
(Giáo án đối chứng)
A. Mục tiêu
1. Về kiến thức:
Nắm được khái niệm kỳ vọng toán của biến ngẫu nhiên rời rạc, biến ngẫu nhiên liên
tục, các tính chất của kỳ vọng toán của biến ngẫu nhiên, ý nghĩa của số kỳ vọng
toán trong môn XSTK, ứng dụng của kỳ vọng toán trong thực tiễn.
2. Về kĩ năng:
- HV thành thạo trong việc tính số kỳ vọng toán của các biến ngẫu nhiên rời rạc,
biến ngẫu nhiên liên tục.
- Có KN đặt và giải quyết các bài toán đặt ra trong thực tiễn bằng vận dụng các kiến
thức về kỳ vọng toán của biến ngẫu nhiên.
3. Về thái độ:
- Chăm chú nghe giảng, ghi chép đầy đủ
- HV tích cực trong việc tham gia tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh tri thức.
B. Nội dung
Hoạt động Nội dung chính của GV và HV
1. Kỳ vọng
Định nghĩa: Kỳ vọng của biến ngẫu nhiên X kí hiệu
E(X), là số được xác định như sau:
+ Nếu X là bnn rời rạc nhận các giá trị x1, x2,...,xn với
các xác suất tương ứng là p1,p2,...,pn thì:
+ Nếu X là bnn liên tục có hàm mật độ
thì:
VD 1: Hãy tìm kỳ vọng của biến ngẫu nhiên có bảng
phân phối xác suất: GV:Trong VD1 hãy áp
dụng công thức tính kỳ 1 2 3 4 X
vọng của bnn rời rạc. 0,25 0,35 0,05 0,35 P
Ta có:
VD 2: Tìm kỳ vọng của biến ngẫu nhiên liên tục có
hàm mật độ xác suất là: GV: Sử dụng công thức
tính kỳ vọng của bnn liên Giải: Theo định nghĩa kỳ vọng ta có: tục để tính E(X)?
2. Các tính chất của kỳ vọng
i. E(C)=C (C là hằng số).
ii. E(CX)=CE(X).
iii. E(X+Y)=E(X)+E(Y)
iv. Nếu X, Y độc lập thì E(X.Y)=E(X).E(Y)
3. Bản chất của kỳ vọng
Giả sử bnn X ta tiến hành n phép thử, số lần X nhận giá
trị xi tương ứng là ni với i=1, 2, ..,k. Giá trị trung bình
của X được tính theo công thức:
Kết luận: kỳ vọng của biến ngẫu nhiên X xấp xỉ giá trị
trung bình của X, hay E(X) là trung tâm phân phối xác
suất của X.
Từ đó trong thực tế người ta coi E(X) là giá trị trung
bình của X.
VD 3: Một người mua 10.000đ xổ số lô tô. Nếu số mua
trùng với 2 số cuối của giải thì anh ta được 700.000đ,
nếu không trùng thì không được đồng nào. Tìm số tiền
thắng trung bình của một lần chơi?
Giải: Gọi X là số tiền thắng trong một lần chơi, X có
thể nhận những giá trị 0 hoặc 700.000.
GV: Hãy xem X có thể
Ta có nhận những giá trị nào và
Vậy số tiền thắng trung bình của một lần chơi là 7000đ. tính xác suất tương ứng?
VD 4: Độ bền của một sản phẩm (tính theo năm) là biến HV: X có thể nhận những
ngẫu nhiên liên tục X có hàm mật độ xác suất: giá trị 0 hoặc 700.000.
GV: Vì , hãy tính
EX? Tính độ bền trung bình của sản phẩm đó? HV: Ta có: Giải: Ta có:
GV: Độ bền trung bình của
sản phẩm xấp xỉ E(X). Áp
dụng công thức cho biến
ngẫu nhiên liên tục để tính Vậy độ bền trung bình của sản phẩm đó là năm
E(X)?
C. Củng cố kiến thức, kĩ năng
- GV tổng kết lại những kiến thức, KN HV đã được học, giải thích ý nghĩa khi HV
học được những kiến thức này.
PHỤ LỤC 6
(Do quy định nghiêm ngặt về giáo án, nội dung chương trình ở các trường ĐH
trong QĐ nên tác giả luận án xin ph p được trích một phần nhỏ giáo án bài dạy)
Giáo án: Trích bài dạy: Kỳ vọng toán của biến ngẫu nhiên
(Giáo án thực nghiệm)
A. Mục tiêu
1. Về kiến thức:
Nắm được khái niệm kỳ vọng toán của biến ngẫu nhiên rời rạc, biến ngẫu nhiên
liên tục, các tính chất của kỳ vọng toán của biến ngẫu nhiên, ý nghĩa của số kỳ vọng
toán trong môn XSTK, ứng dụng của kỳ vọng toán trong thực tiễn.
2. Về kĩ năng:
- HV thành thạo trong việc tính số kỳ vọng toán của các biến ngẫu nhiên rời rạc,
biến ngẫu nhiên liên tục.
- Có KN đặt và giải quyết các bài toán đặt ra trong thực tiễn bằng vận dụng các
kiến thức về kỳ vọng toán của biến ngẫu nhiên.
- Biết cách kích hoạt kiến thức có trước, định hướng, lập kế hoạch giải quyết
vấn đề, giám sát, đánh giá việc thực hiện.
3. Về thái độ:
- HV tích cực trong việc tham gia tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh tri thức.
- HV tích cực, chủ động rèn luyện, tự rèn luyện để có ki năng thành thạo.
B. Nội dung
1. Đặt vấn đề
Ví dụ 1: Một chiến sỹ bắn n viên đạn vào bia hình tròn có các vòng tính điểm từ
vòng 1 đến vòn 10. Khi bắn trúng các vòng tính điểm thì được điểm tương ứng với
vòng số đó và bắn không trúng thì được 0 điềm. Tính điểm số trung bình đạt được
của chiến sỹ đó?
Hoạt động của GV Hoạt động của HV
Mục đích của bài toán là gì? Tính điểm số trung bình đạt được
Công thức tính trung bình xác định ; như thế nào?
Với ni là số lần giá trị xi xuất hiện, i = 1, 2, .., k;
Có thể giải quyết được bài toán Bài toán khó giải quyết vì các yếu tố chưa xác
không? Cần bao nhiêu thời gian để định
giải quyết?
Khó khăn của bài toán là gi? - Chưa biết rõ n;
- Chưa biết rõ có bao nhiêu lần bắn trúng vòng
1, vòng 2, …, vòng 10 và bao nhiêu lần không
bắn trúng.
Các bước cần để giải quyết bài - Xác định được yêu cầu của bài toán
toán - Xác định được cái đã biết và chưa biết
- Tham số hoá cái chưa biết
- Xác định mối quan hệ giữa yêu cầu vói cái đã
biết và chưa biết
Cách giải quyết bài toán ? Trong công thức
Có thể xác định được:
Gọi: số lần không bắn trúng;
số lần bắn trúng vòng 1; …
số lần bắn trúng vòng 10.
Vậy điểm trung bình là:
Các bước thực hiện đã đầy đủ Học viên xem lại các bước xem có vấn đề gì về
chưa? Có tuân thủ theo các bước các bước và tự đưa ra nhận xét
không? Có sai xót trong quá trình
thực hiện không?
Ý nghĩa của các tỉ số: là tần suất không bắn trúng;
là tần suất băn trúng vòng 1; …;
là tần suất băn trúng vòng 10
Có nhận xét gì khi n đủ lớn khi n đủ lớn thì:
là xác suất không bắn trúng;
là xác suất băn trúng vòng 1; …;
là 10 suất băn trúng vòng 10.
NX:
gọi
là kì vọng của điểm của chiến sỹ
đó.
- GV giới thiệu ý nghĩa của tổng
(*), sau đó GV yêu cầu HV trình
bày khái niệm kỳ vọng toán của
biến ngẫu nhiên theo cách hiểu của
họ.
- GV chính xác hoá khái niệm.
2. Khái niệm kỳ vọng a. Định nghĩa: Kỳ vọng của biến ngẫu nhiên X là một số, kí hiệu là E(X) và được
xác định như sau:
- Nếu là biến ngẫu nhiên rời rạc có bảng phân phối dạng:
X …
P … x1 p1 x2 p2 xn pn
thì:
+ Nếu X là bnn liên tục có hàm mật độ thì:
Ví dụ 2: Tính , biết Y có bảng phân phối xác suất là:
Y 0 1 2
P 0,06 0,38 0,56
Giải: Theo định nghĩa kỳ vọng, ta có:
Ví dụ 3: Tìm kỳ vọng của biến ngẫu nhiên liên tục có hàm mật độ xác suất là:
Giải: Theo định nghĩa kỳ vọng ta có:
b. Các tính chất
i. E(C)=C (C là hằng số).
ii. E(CX)=CE(X). iii. E(X+Y)=E(X)+E(Y)
iv. Nếu X, Y độc lập thì E(X.Y)=E(X).E(Y) c. Bản chất và ý nghĩa thực tiễn của kỳ vọng - Theo ví dụ 1 ở trên, ta có: .
Như vậy, kỳ vọng của biến ngẫu nhiên xấp xỉ với giá trị trung bình số học của
các giá trị quan sát của biến ngẫu nhiên. Nó phản ánh giá trị trung tâm trong phân
phối của biến ngẫu nhiên.
Ví dụ 4: Thời gian chờ mua hàng của khách (tính bằng phút) là biến ngẫu nhiên liên
tục T có hàm mật độ xác suất:
Tính thời gian chờ mua hàng trung bình của khách?
Giải: Thời gian chờ mua hàng trung bình của khách chính là . Ta có:
(phút)
- Đặc biệt, trong thực tế người ta sử dụng số kỳ vọng như là một tiêu chuẩn để căn
cứ vào đó đưa ra đánh giá hay quyết định.
Ví dụ 5: Một người chơi xổ số lô tô 2 số. Người đó bỏ ra 10000 đồng để chơi, nếu số
mua trùng vớí 2 số cuối của giải đặc biệt thì người nhận được 700000 đồng, nếu không
trùng thì không nhận được đồng nào. Tính số tiền trung bình người đó thu được.
Hoạt động của GV Hoạt động của HV
Mục đích của bài toán là gì? Tính số tiền trung bình người đó thu được.
Công thức tính trung bình xác định như ;
thế nào?
Khó khăn của bài toán là gi? - Chưa biết biến ngẫu nhiên X;
- Chưa biết các giá trị có thể của X;
- Chưa biết xác suất X nhận các giá trị đó.
Có thể giải quyết được bài toán không? Bài toán có thể giải quyết được khi xác
Cần bao nhiêu thời gian để giải quyết? định được X.
Các bước cần để giải quyết bài toán - Xác định được yêu cầu của bài toán
- Xác định được cái đã biết và chưa biết
- Tham số hoá cái chưa biết
- Xác định mối quan hệ giữa yêu cầu vói cái
đã biết và chưa biết
Cách giải quyết bài toán ? - Gọi X là số tiền người chơi thu được
(nghìn đồng), X là biến ngẫu nhiên có thể
nhận các giá trị là: 0 và 700.
Bảng phân phối xác suất của X có dạng:
700 0,01 X P
0 0,99 Số tiền trung bình người đó thu được chính là .
Ta có: (nghìn)
Vậy số tiền trung bình người đó thu được
là: 7 nghìn đồng
Các bước thực hiện đã đầy đủ chưa? Có Học viên xem lại các bước xem có vấn đề
tuân thủ theo các bước không? Có sai xót gì về các bước và tự đưa ra nhận xét
trong quá trình thực hiện không?
Nhận xét về kết quả bài toán: - Số tiền trung bình người đó thu được là: 7
nên chơi? nghìn đồng
không nên chơi? - Người chơi bỏ ra 10 nghìn đồng để chơi,
nhận được trung bình 7 nghìn đồng. Vậy sẽ
lỗ 3 nghìn đồng.
Cách khác giải quyết bài toán ? - Gọi X là số tiền lãi người chơi thu được
Nhận xét về các cách giải này? (nghìn đồng), X là biến ngẫu nhiên có thể
có thể sử dụng? nhận các giá trị là: -10 và 690.
Bảng phân phối xác suất của X có dạng:
X -10 690
P 0,99 0,01
Số tiền lãi trung bình người đó thu được
chính là .
Ta có:
Điều này cho thấy nếu người chơi bỏ ra
10000 đồng để chơi thì trung bình họ sẽ lỗ
3000 đồng.
Trong ví dụ này và các ví dụ trước đó GV, HV có thể tiến hành lặp lại các hoạt
động như trong ví dụ 1 để HV biết cách thức tiến hành và tự rèn luyện trong quá
trình GQNV.
C. Củng cố kiến thức, kĩ năng
- GV tổng kết lại những kiến thức, KN HV đã được học, giải thích ý nghĩa khi HV
học được những kiến thức này.
- GV yêu cầu HV tự tổng kết lại xem đã học được kiến thức gì? Nắm được kiến
thức gì? Những kiến thức nào thiếu sót cân ghi rõ để lên kế hoạch tự bổ sung.
- GV làm rõ những KN SNT đã lồng ghép trong từng hoạt động như thế nào.
D. Kết thúc nội dung học
- GV nhận xét, đánh giá về quá trình học tập, tham gia hoạt động và ý thức rèn
luyện KN SNT của HV.
- GV giao cho HV nội dung tự nghiên cứu, tự rèn luyện.
- HV tự luyện tập khi đứng cả trong 2 vai trò GV, HV khi tự đưa ra câu hỏi và tự
trả lời các câu hỏi trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ sau:
Bài toán: Theo TK của một công ty bảo hiểm thì một người 25 tuổi sẽ sống
thêm trên một năm có xác suất là 0,992; còn mất trong vòng một năm tới là 0,008.
Tổ chức bảo hiểm đó đề nghị người đó mua bảo hiểm sinh mạng cho 1 năm với số
tiền chi trả 10 triệu, còn tiền đóng là 100 nghìn. Hỏi lợi nhuận trung bình thu được
của công ty đó là bao nhiêu?
Dự án: Hãy thực hiện dự án học tập liên quan đến bài học trên cơ sở các câu
hỏi định hướng sau: Bạn có hiểu biết gì về xổ số kiến thiết, lô tô, số đề? Bạn đã
từng thử vận may mua vé số (hay xổ số, lô tô, …) để thử vận may trứng thưởng hay
chưa? Bạn có gì về những người xung quanh có tham gia các hoạt động này? Bạn
có nghe đến tệ nạn cờ bạc, cá độ, hay chơi lô đề? Theo bạn có thể mua vé số để
nhanh chóng có lãi và giàu có hay không? Đưa ra một vài con số hay công thức
chứng minh cho quan điểm của mình.
PHỤ LỤC 7
ĐỀ KIỂM TRA THỰC NGHIỆM
ĐỀ 1: ĐỀ KIỂM TRA TRƢỚC ĐỢT THỰC NGHIỆM VÒNG 1
Bài 1 (6 điểm). Cho 8 số: 0; 1; 2; ….; 7.
a/ Hỏi có thể lập được bao nhiêu số gồm 6 chữ số khác nhau trong đó nhất
thiết phải có mặt chữ số 4.
b/ Hỏi có thể lập được bao nhiêu số gồm 10 chữ số trong đó số 4 có mặt ba
lần, các số khác có mặt một lần.
Bài 2 (4 điểm). Chuẩn bị cho kỳ thi kết thúc học phần, giáo viên soạn 40 câu hỏi
khác nhau gồm 5 câu hỏi khó, 15 câu hỏi trung bình, 20 câu hỏi dễ. Từ 40 câu hỏi
đó có thể lập được bao nhiêu đề kiểm tra, mỗi đề gồm 5 câu hỏi khác nhau, sao cho
trong mỗi đề nhất thiết phải có đủ 3 loại câu hỏi (khó, trung bình, dễ) và số câu hỏi
dễ không ít hơn 2?
ĐỀ 2: ĐỀ KIỂM TRA SAU ĐỢT THỰC NGHIỆM VÒNG 1
Bài 1 (2 điểm). Một cụm chặn thu có 30 máy thu, trong đó có 15 máy thu chất
lượng tốt, 10 máy thu chất lượng khá và 5 máy thu chất lượng trung bình. Chọn
ngẫu nhiên 5 máy thu. Hãy tìm xác suất để :
a) Cả 5 máy thu chất lượng tốt.
b) Có ít nhất 1 máy thu chất lượng trung bình.
Bài 2 (2 điểm). Một xạ thủ chỉ có 3 viên đạn, được yêu cầu bắn từng viên cho đến
khi trúng hoặc bắn hết cả 3 viên đạn thì dừng bắn, biết xác suất bắn trúng của mỗi
lần bắn là 0,6. Gọi X là số viên đạn cần bắn.
a. Lập bảng phân phối xác suất của X .
b. Tìm kỳ vọng và phương sai của X.
Bài 3 (2 điểm). Hai quả tên lửa bắn vào một mục tiêu độc lập, xác suất để quả thứ
nhất và quả thứ hai bắn trúng mục tiêu lần lượt là 0,6 ; 0,7. Nếu có một quả trúng
mục tiêu thì mục tiêu bị tiêu diệt với xác suất là 0,8, nếu cả hai quả trúng mục tiêu
thì mục tiêu chắc chắn bị tiêu diệt.
Tìm xác suất mục tiêu bị tiêu diệt.
Bài 4 (2 điểm). Theo báo cáo tổng kết năm học thì tỉ lệ học viên vi phạm kỷ luật là
10%. Người ta nghi ngờ rằng tỉ lệ đó có khả năng cao hơn. Để kiểm tra lại người ta
chọn ngẫu nhiên 36 học viên và theo dõi hồ sơ trong quá trình huấn luyện thấy có 4
người vi phạm kỷ luật. Với mức ý nghĩa 5% hãy cho kết luận về điều nghi ngờ trên.
Bài 5 (2 điểm).Trước ngày bầu cử tổng thống, một cuộc thăm dò dư luận đã được
tiến hành. Người ta phỏng vấn ngẫu nhiên 500 người thì có 300 người nói rằng họ
sẽ bỏ phiếu cho ứng cử viên A. Với độ tin cậy 95% hỏi ứng cử viên A thu được tối
thiểu bao nhiêu phần trăm số phiếu bầu?
ĐỀ 3: ĐỀ KIỂM TRA TRƢỚC ĐỢT THỰC NGHIỆM VÒNG 2
Bài 1 (5 điểm). Tiểu đội có 10 người. Có bao cách xếp thành
a) 1 hàng ngang?
b) 2 hàng ngang, hàng ngang 1- hàng ngang 2, mỗi hàng có 5 người?
Bài 2 (5 điểm). Một tiểu đội có 9 người trong đó có 2 người A, B. Từ 9 người đó
cần chọn ra 4 người để xếp làm 4 công việc khác nhau. Hỏi có bao nhiêu:
a) Cách chọn và xếp 4 người vào 4 công việc?
b) Cách chọn và xếp 4 người vào 4 công việc mà luôn có 2 người A và B được chọn?
ĐỀ 4: ĐỀ KIỂM TRA SAU ĐỢT THỰC NGHIỆM VÒNG 2
Bài 1 (2 điểm). Hai máy bay của địch trong 1 thời điểm của ngày có thể xuất hiện ở
1 trong 4 khu vực A, B, C, D với khả năng như nhau. Tính xác suất để hai máy bay
đó không xuất hiện ở cùng 1 khu vực.
Trước khi giải, hãy dự đoán khả năng giải được bài toán bằng việc chọn 1 trong
các khả năng sau:
1) Không giải được. 2) Giải được 1 phần. 3) Giải được.
Sau khi giải, hãy đánh giá khả năng giải được bài toán bằng việc chọn 1 trong
các khả năng sau:
1) Giải sai. 2) Giải đúng 1 phần. 3) Giải đúng.
Bài 2 (2 điểm). Hai chiến sỹ mỗi người bắn 1 viên đạn vào một mục tiêu ở khoảng
cách 100m với xác suất trúng mục tiêu tương ứng là 0,7 và 0,8. Tính xác suất để
mục tiêu bị trúng đạn.
Trước khi giải, hãy dự đoán khả năng giải được bài toán bằng việc chọn 1 trong
các khả năng sau:
1) Không giải được. 2) Giải được 1 phần. 3) Giải được.
Sau khi giải, hãy đánh giá khả năng giải được bài toán bằng việc chọn 1 trong
các khả năng sau:
1) Giải sai. 2) Giải đúng 1 phần. 3) Giải đúng.
Bài 3 (2 điểm). Theo số liệu thu thập được, một máy bay của địch có thể tập kích
trận địa phòng không T từ 3 hướng A, B, C đã được xác định với xác suất tương
ứng là 0,6; 0,3 và 0,1. Một phương án bố trí lực lượng cho phép diệt máy bay ở các
hướng A, B, C đó với xác suất tương ứng đó là 0,8; 0,7; 0,5. Tính xác suất diệt máy
bay theo phương án đó.
Trước khi giải, hãy dự đoán khả năng giải được bài toán bằng việc chọn 1 trong
các khả năng sau:
1) Không giải được. 2) Giải được 1 phần. 3) Giải được.
Sau khi giải, hãy đánh giá khả năng giải được bài toán bằng việc chọn 1 trong
các khả năng sau:
1) Giải sai. 2) Giải đúng 1 phần. 3) Giải đúng.
Bài 4 (4 điểm). Khảo sát trong 140 đồng chí đi dự hội thao của 1 đơn vị tổ chức lần
này có tới 80 đồng chí không biết bơi. Đánh giá mức độ trầm trọng đó, ban chỉ huy
yêu cầu đồng chí:
a) Hãy ước lượng số cán bộ, chiến sĩ không biết bơi của đơn vị đó, biết rằng quân số
đơn vị là 2100 người với độ tin cậy 98%.
Trước khi giải, hãy dự đoán khả năng giải được bài toán bằng việc chọn 1 trong
các khả năng sau:
1) Không giải được. 2) Giải được 1 phần. 3) Giải được.
Sau khi giải, hãy đánh giá khả năng giải được bài toán bằng việc chọn 1 trong
các khả năng sau:
1) Giải sai. 2) Giải đúng 1 phần. 3) Giải đúng.
b) Với độ tin cậy 98%, có thể cho rằng tỉ lệ không biết bơi của đơn vị đó trên 50%
được không?
Trước khi giải, hãy dự đoán khả năng giải được bài toán bằng việc chọn 1 trong
các khả năng sau:
1) Không giải được. 2) Giải được 1 phần. 3) Giải được.
Sau khi giải, hãy đánh giá khả năng giải được bài toán bằng việc chọn 1 trong
các khả năng sau:
1) Giải sai. 2) Giải đúng 1 phần. 3) Giải đúng.
TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ, ĐC ĐÃ THỰC HIỆN
CÁC HOẠT ĐỘNG NÀO SAU ĐÂY:
ĐC hãy đọc 25 câu mô tả các hoạt động và đánh dấu X để lựa chọn 1 trong 4
trường hợp: Không, Ít khi, Thường thường, luôn luôn.
STT Hoạt động đã thực hiện Không Ít khi Luôn luôn
Thƣờng thƣờng 1 Tôi đọc mỗi vấn đề nhiều hơn một lần.
2 Tôi đánh giá cần bao nhiêu thời gian để
giải quyết mỗi vấn đề
3 Trước khi giải quyết mỗi vấn đề tôi đánh
giá khả năng giải quyết vấn đề đó của
mình (Có thể / Không thể).
4 Tôi đã cố gắng tìm những thông tin đã cho
trong mỗi vấn đề cần đặc biệt chú ý.
5 Tôi đã cố gắng trình bày lại mỗi vấn đề
thành lời theo cách hiểu của riêng tôi.
6 Tôi cố gắng nhớ lại cách giải của các vấn
đề tương tự.
7 Tôi hoàn toàn hiểu các vấn đề yêu cầu
thực hiện là gì.
8 Tôi cố gắng sử dụng các chiến lược (cách
giải) mà tôi biết
9 Khi tôi cố gắng giải quyết vấn đề tôi đặt ra
câu hỏi cho bản thân mình để tập trung
hơn.
10 Tôi đã cố gắng chia vấn đề thành một số
vấn đề nhỏ và sau đó giải quyết chúng.
11 Trong quá trình giải quyết các vấn đề, tôi
dừng lại và kiểm tra các phương pháp giải
để đảm bảo nó là đúng.
12 Tôi đã kiểm tra việc thực hiện các bước
giải quyết các vấn đề.
13 Tôi tự hỏi, liệu tôi đang tiến gần hơn đến
một giải pháp
14 Sau khi giải quyết các vấn đề tôi đã kiểm
tra tất cả các bước và tính toán để đảm bảo
rằng là đúng
15 Sau khi giải quyết các vấn đề tôi tự hỏi,
liệu câu trả lời của tôi có ý nghĩa.
16 Sau khi giải quyết vấn đề tôi đã cố gắng để
tìm một số giải pháp khác.
17 Tôi nhìn lại toàn bộ phương pháp giải của
tôi để kiểm tra xem mình đã làm những gì
các vấn đề yêu cầu.
18 Để hiểu tốt hơn về vấn đề tôi thường vẽ
một hình mô tả hoặc sơ đồ.
19 Để hiểu tốt hơn về vấn đề tôi thường viết
ra dữ liệu quan trọng của nó.
20 Khi tôi giải quyết một vấn đề tôi cố gắng
tìm ra những khía cạnh của nó mà tôi
không hiểu.
21 Khi tôi gặp phải một khó khăn trong việc
giải quyết một vấn đề tôi đọc lại vấn đề.
22 Nếu tôi không thể tiến triển trong việc giải
quyết một vấn đề, tôi cố gắng sử dụng một
số chiến lược khác.
23 Tôi thường cố gắng ghi nhớ những chiến
lược (cách giải) mà tôi sử dụng cho giải
quyết các vấn đề .
24 Khi tôi gặp phải một khó khăn trong việc
giải quyết một vấn đề tôi cố gắng tìm kiếm
sự giúp đỡ
25 Khi tôi không thể giải quyết vấn đề, tôi
xác định các yếu tố của sự khó khăn.
PHỤ LỤC 8
BẢN NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN DẠY THỰC NGHIỆM
Giảng viên: Nguyễn Văn Đại
Đơn vị công tác: Học viện khoa học quân sự.
Ý kiến nhận xét sau quá trình tiến hành dạy thực nghiệm các biện pháp được đề
xuất trong luận án: “Dạy học Xác suất Thống kê ở các trƣờng Đại học trong Quân
đội theo hƣớng tăng cƣờng rèn luyện kĩ năng siêu nhận thức cho học viên”:
XSTK là lĩnh vực có nhiều ứng dụng trong thực tế và là môn học khó đối với
HV. Trong quá trình giảng dạy thực nghiệm môn XSTK ở Học viện khoa học quân
sự theo ý tưởng của luận án, chúng tôi nhận thấy:
Ưu điểm:
Quá trình tiến hành giảng dạy các giáo án TN dưới các hình thức (tích hợp
trong bài học, giao bài tập lớn theo chủ đề, chuẩn bị nội dung thảo luận) chúng tôi
nhận được sự hưởng ứng tích cực của HV.
Trong qúa trình dạy TN đã giúp tôi hiểu sâu sắc thêm như thế nào là SNT và
biết được vai trò quan trọng của các KN SNT.
Các biện pháp rèn luyện KN SNT đưa ra là phù hợp và việc rèn luyện các KN
SNT cho HV trong dạy học XSTK là rất khả thi.
HV học tập tốt hơn nếu được trang bị các KN SNT
Khó khăn:
GV chưa hiểu biết sâu về SNT và các KN SNT, chưa nắm được các biện pháp
rèn luyện KN SNT. Do đó, việc dạy TN ban đầu còn có phần lúng túng, khó khăn.
Để rèn luyện KN SNT cho HV đòi hỏi GV phải đầu tư khá nhiều về mặt thời
gian và công sức, cần có nhiều thời gian cho chuẩn bị bài giảng và trong quá trình
lên lớp.
Đề xuất:
Cần có những buổi tập huấn hoặc nói chuyện chuyên đề về SNT nhằm giup
GV và HV hiểu rõ hơn về SNT và các KN SNT, cũng như các biện pháp rèn luyện
KN SNT.
Ngày 26 tháng 12 năm 2016
Nguyễn Văn Đại
PHỤ LỤC 9
Khung NT - SNT của Artzt và Armour – Thomas ([68]) cho việc phân tích
sơ bộ quá trình GQVĐ trong TH.
Bƣớc Hoạt động
Bƣớc 1 Đọc vấn đề (reading the problem ) Phân loại NT
Mô tả HS đọc vấn đề
Thực hiện HS đọc vấn đề hoặc nghe người nào đó đọc vấn đề HS đó có thể đọc thầm vấn đề hoặc đọc to vấn đề cho nhóm đó.
Bƣớc 2 Hiểu vấn đề (understanding the problem ) SNT
Mô tả HS cân nhắc kiến thức nào phù hợp với vấn đề: Kiến thức đó
bao gồm sự nhận biết về ngôn ngữ, ngữ nghĩa và sơ đồ có trong vấn đề theo cách diễn đạt vấn đề ở dạng khác của mình.
Thực HS có thể thể hiện một số các hành vi sau đây:
hiện a) Diễn đạt lại vấn đề bằng lời của mình;
b) Đòi hỏi làm rõ nghĩa của vấn đề;
c) Biểu diễn vấn đề bằng cách viết các dữ liệu cơ bản hoặc
bằng cách lập bảng hoặc sơ đồ;
d) Nhắc nhở bản thân hoặc người khác về các yêu cầu của vấn đề;
e) Nhớ lại xem liệu mình đã làm một vấn đề tương tự trước đó hay không
f)Thảo luận về sự hiện diện hoặc thiếu vắng các thông tin quan trọng
Bƣớc 3 Phân tích vấn đề (analyzing the problem ) SNT
Mô tả HS phân tích vấn đề thành các yếu tố cơ bản và kiểm tra các
mối liên hệ tường minh hay ẩn giữa những điều đã cho và các
mục tiêu cần giải quyết của các vấn đề
HS nỗ lực đơn giải hóa hoặc biến đổi vấn đề, nỗ lực lựa chọn Thực
cách biến đổi thích hợp có triển vọng trong các điều kiện đó. hiện
Lập kế hoạch (planning ) SNT Bƣớc 4
Mô tả
Thực hiện
HS lựa chọn các bước GQVĐ và chiến lược kết hợp các bước đó sao cho có khả năng dẫn đến lời giải nếu được thực hiện. Ngoài ra HS có thể đánh giá tình trạng của giải pháp và có thể quyết định thay đổi nếu cần thiết. HS mô tả cách tiếp cận dự định sử dụng để GQVĐ. Điều này có thể dưới dạng các bước cần thực hiện hoặc các chiến lược được sử dụng.
Thăm dò (exploring ) NT Bƣớc
5a
Mô tả HS thực hiện chiến lược thử và sai nhằm rút ngắn khoảng cách
giữa những điều đã cho và mục tiêu cần đạt.
Thực hiện HS thực hiện một loạt các tính toán thiếu sự rõ ràng cho công việc. Không có một trình tự tường minh cho các HĐ của HS.
Thăm dò (exploring) SNT Bƣớc
5b
Mô tả HS theo dõi tiến trình của mình hoặc các hành động của người
khác để quyết định xem liệu có tiếp tục hoặc kết thúc công việc
thông qua các thao tác đó. Điều này khác với việc phân tích dạng ở chỗ nó cấu trúc hơn và nó dịch chuyển ra khỏi vấn đề ban đầu.
Nếu một người xuyên suốt thông tin mới trong quá trình khám
phá thì người đó có thể quay trở lại phân tích với hy vọng sử
dụng thông tin đó để hiểu rõ hơn vấn đề đó.
a) HS rời khỏi vấn đề để tự hỏi mình hoặc hỏi người khác Thực
những gì đã làm được trong quá trình thăm dò. hiện
b) HS đưa ra các đề xuất cho những HS khác về những gì cần
thử tiếp theo trong cuộc thăm dò.
c) HS đánh giá tình trạng thăm dò.
Thực hiện (implementing) NT Bƣớc
6a
Mô tả HS thực hiện một chiến lược phát triển từ sự hiểu biết, phân
tích các quyết định và phán đoán về kế hoạch của mình. Không
giống như thăm dò, các hành động của HS được đặc trưng bởi
chất lượng của hệ thống và sự thận trọng trong việc biến đổi những điều đã cho thành các mục tiêu cần đạt của vấn đề.
HS thực hiện một loạt các tính toán tuần tự và mạch lạc. Có bằng chứng về một quy trình có trật tự. Thực hiện
Thực hiện (implementing) SNT
HS tham gia vào cùng một loại quá trình SNT như trong giai Bƣớc 6b Mô tả
đoạn thăm dò (SNT) và GQVĐ, theo tiến trình các hành động
của mình. Tuy nhiên không giống như giai đoạn thăm dò, các
quyết định SNT được xây dựng, kiểm tra hoặc sửa đổi những
quyết định được xem xét trước đó. Hơn nữa, HS có thể dịch
chuyển các nguồn tài nguyên GQVĐ của mình, ấn định thời
gian GQVĐ.
Trong tiến trình thực hiện HS có thể tạm rút ra khỏi công việc đã xem xét những gì đã thực hiện được và sẽ dẫn đến đâu. Thực hiện
Xác nhận (verifying) NT
HS đánh giá kết quả của công việc bằng cách kiểm tra các họat Bƣớc 7a Mô tả
động tính toán.
HS làm lại các thao tác tính toán đã làm trước đó để kiểm tra Thực
xem chúng đã được thực hiện đúng chưa. hiện
Xác nhận (verifying) SNT
HS đánh giá lời giải bằng cách nhận xét xem liệu kết quả đó có Bƣớc 7b Mô tả
phản ánh được việc hiểu, phân tích, lập kế hoạch để GQVĐ
không. HS cần phát hiện mâu thuẫn, không nhất quán trong sự
đối chiếu đó, HS đưa ra các quyết định mới để sửa lại các mâu
thuẫn đã phát hiện. Khả năng nhận xét suy nghĩ của mình trên
cơ sở đánh giá thông tin là một chỉ báo khác của năng lực tự
điều chỉnh.
Thực Sau khi đã đạt được lời giải hoặc một phần lời giải, HS có thể
hiện nhìn lại công việc của mình theo một số cách:
a) HS kiểm tra quá trình GQVĐ xem liệu điều đó có ý nghĩa không.
b) HS kiểm tra xem liệu lời giải có thỏa mãn các điều kiện của
các vấn đề không.
c) HS giải thích cho các bạn cùng nhóm lời giải đã đạt được như thế nào.
Nhìn và nghe (watching and listening) Bƣớc 8
Không phân loại
Mô tả
Phạm trù này liên quan đến những HS làm việc với người khác. HS chú tâm đến các ý tưởng và công việc của người khác.
HS nghe và xem khi các thành viên của nhóm mới hoặc viết.
Thực hiện