LUẬN VĂN:

Đẩy nhanh việc xây dựng khu kinh

tế Dung Quất – Chu Lai

Lời nói đầu

Nghị quyết đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ mục tiêu

chiến lược 10 năm 2001-2010 của đất nước ta là: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá, tập trung xây dựng có chon lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng với

công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị lại kỹ thuật, công nghệ

tiên tiến cho ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phòng

đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để tiến đến năm

2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Với mục tiêu đó, trong định

hướng phát triển vùng, nghị quyết đại hội IX của Đảng cũng đã khẳng định “ Đẩy

nhanh việc xây dựng khu kinh tế Dung Quất – Chu Lai”.

Hướng theo xu hướng chung vào mục tiêu của Đảng và Nhà Nước, là một sinh

viên sắp ra trường, đang trong thời kì thực tập tốt nghiệp em cũng muốn đóng góp một

phần nhỏ của mình vào mục tiêu đó. Trong bài em thể hiện quy hoạch phát triển công

nghiệp và kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển khu công nghiệp Dung Quất.

Phần I

Lý luận chung về phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển khu

công nghiệp

Chương I: Khái luận chung về khu công nghiệp và phát triển

khu công nghiệp.

I-Khái niệm khu công nghiệp:

Khu công nghiệp là không gian kinh tế trong đó hoạt động sản xuất công nghiệp giữ

chức năng chủ yếu của phần lớn dân cư. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện nay thì

việc hình thành các khu công nghiệp là tất yếu và mục đích của các khu công nghiệp có thể

chuyên môn hoá sản xuất theo các hướng sau: sản xuất nguyên nhiên liệu, năng lượng; sản

xuất công nghiệp hàng loạt; sản xuất phụ tùng và bán thành phẩm; sản xuất các sản phẩm

công nghiệp cuối cùng.

Hiện nay tên gọi khu công nghiệp cần phân biệt: khu nghiệp được Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt và khu công ngiệp do các địa phương phê duyệt. Để có điều kiện phát triển,

một không gian kinh tế cần xem xét đến các yếu tố quy hoạch, các động thái phát triển.

Trong hơn 10 năm đổi mới, trên lãnh thổ Viêt Nam đã hình thành các không gian kinh

tế theo hướng mở, phát huy các lợi thế trong nước, hướng xuất khẩu. Đến thời điểm hiện

nay, các không gian kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: theo cấp hành chính

hiện đã phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế xã hội dến 2010 của 15 tỉnh, thành phố. Về

quy hoạch vùng với 61 tỉnh, thành phố chia làm 8 vùng kinh tế, 3 vùng kinh tế trọnh điểm

ở 3 miền, trên 70 khu công nghiệp hoạt động theo Nghị định 36/CP (trong đó có 6 khu chế

xuất, một khu công nghiệp cao Hoà Lạc, một công viên phần mềm Quang Trung), một khu

kinh tế mở Chu Lai, từ năm 1994 đến nay hình thành 18 khu kinh tế cửa khẩu ở 15 tỉnh

biên giới đất liền, 15 khu kinh tế quốc phòng, bước đầu hình thành các khu kinh tế biển và

hải đảo trên thềm lục địa Việt Nam.

II- Khái niệm phát triển khu công nghiệp:

1- Khái niệm phát triển khu công nghiệp:

Phát triển khu công nghiệp là phát huy những lợi thế về vị trí địa lý và cảng biển, cùng

với nguồn tài nguyên về vật liệu xây dựng, khoáng sản, nông hải sản và nguồn lao động

tương đối dồi dào là điều kiện hình thành và phát triển khu công nghiệp.

Tập trung các nguồn lực cho phát triển công nghiệp của vùng, hướng vào các ngành

công nghiệp chế biến, nông lâm hải sản như chế biến mía đường, công nghiệp thực phẩm,

công nghiệp chế biến tổng gỗ chế biến hải sản xuất khẩu… gắn sản xuất với tìm kiếm và

mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng,

công nghiệp khai khoáng, công nghiệp cơ khí,luyện kim… cần được phát triển mạnh để

phục vụ tiêu dùng và phục vụ phát triển các khu công nghiệp.

Phát triển một số ngành công nghiệp mới như lọc hoá dầu, luyện thép, đóng tầu, điện

tử, hình thành các khu công nghiệp tập trung.

Chọn một số sản phẩm mũi nhọn thuộc ngành công nghiệp khai khoáng chế biến thực

phẩm, để tập trung đầu tư bằng công nghệ tiên tiến tạo ra hàng hoá chất lượng cao, đáp

ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao ở trong nước và tham gia xuất khẩu.

Coi trọng đầu tư chiều sâu, ưu tiên phát triển quy mô vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến

hiện đại. Đồng thời xây dựng mới nhiều khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, liên kết

liên doanh với nước ngoài để phát triển công nghiệp. Coi công nghiệp là trọnh tâm đột phá

trong phát triển kinh tế của địa bàn đến năm 2010.

2- Các yếu tố tác động đến sự phát triển khu công nghiệp

2.1. Vị trí địa lý và địa hình:

Vị trí địa lý và địa hình là những nhân tố ảnh hưởng lớn tới bố trí sản xuất, xây dựng các

công trình, ảnh hưởng trực tiếp tới sử dụng các loại tàI nguyên lao động, vật tư, tiền vốn.

Địa hình ảnh hưởng lớn tới việc bố trí các công trình công nghiệp, ảnh hưởng tới thiết kế,

thi công các công trình xây dựng. ở những vùng có địa hình phức tạp, núi non hiểm trở, chi

phí cho thăm dò khảo sát và đầu tư phát triển rất lớn. Địa hình còn là nguyên nhân tạo nên

sự chênh lệch về các chi phí trong xây dựng đường xá, cầu cống và vận tải.

2.2. Khí hậu,thuỷ văn:

Khí hậu, thuỷ văn có sự phân li theo vùng là tác nhân ảnh hưởng rất lớn đến sự phân bố

và phát triển các ngành Kinh tế Quốc dân, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và

thuỷ sản chịu tác động của yếu tố khí hậu ở nước ta tuy đặc điểm chung khí hậu nhiệt đới

gió mùa nóng ẩm mưa nhiều xong sự phân hoá của khí hậu khá rõ theo lãnh thổ là nguyên

nhân hình thành mhiều tiểu vùng khí hậu, tạo điều kiện để phát triển chuyên canh cây

trồng, vật nuôi một cách đa dạng với năng xuất khác nhau và tốn kém chi phí khác nhau.

2.3. Sự khác biệt giữa tài nguyên đất:

Sự khác biệt giữa tài nguyên đất tạo nên sự phát triển nông nghiệp đa dạng và trình độ

phát triển rất khác nhau theo vùng. Đất lâm nghiệp tập trung chủ yếu ở vùng chậm phát

triển, nhu cầu lâm sản lớn hơn ở các vùng đồng bằng, đô thị. Đất cao, địa chất công trình

tốt tập trung ở dải Trung Du nhưng lao động kĩ thuật lại tập trung ở vùng đồng bằng nên sự

hấp dẫn các nhà đầu tư tới hai vùng này ở mức độ khác nhau.

2.4. Sự khác biệt về các đặc điểm dân số, lao động và các vấn đề xã hội trên từng địa bàn

lãnh thổ có ý nghĩa quan trọng đối với hình thành cơ cấu kinh tế.

Do điều kiện về tự nhiên và lịch sử phát triển kinh tế và sự phân bố dân cư trên các vùng

khác nhau: đó là sự khác nhau về mật độ dân số, về cơ cấu dân số, về trình độ lao động, về

đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán sinh hoạt và sản xuất xã hội. Do đó, việc sử dụng và

phát huy vai trò của người lao động là rất khác nhau. Tỷ lệ lao động nam và nữ, cơ cấu lao

động theo lứa tuổi khác nhau cũng ảnh hưởng nhiều tới chi phí lao động. Tất cả những

điều đó đều là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới có sự chênh lệch năng suất lao động giữa các

vùng. Đối với những vùng đô thị hoặc vùng đồng bằng có lịch sử phát triển kinh tế văn

hoá từ lâu, nơi tập trung nhiều người có tay nghề cao là điều kiện để phân bố những ngành

đòi hỏi lao động có kĩ thuật, kĩ năng, kĩ xảo và ở đó tạo ra những sản phẩm có giá trị kinh

tế cao và đóng góp nhiều cho Quốc gia. Ngược lại, ở trung du miền núi chậm phát triển là

nơi khó khăn, tập trung ít lực lượng lao động kĩ thuật nên năng suất lao động, hiệu quả

kinh tế trong nhiều trường hợp thường thấp hơn so với các vùng phát triển và đô thị.

2.5. Sự khác biệt về mức độ phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng của mỗi lãnh thổ:

Mức độ phát triển sản xuất thường gắn liền với kết cấu hạ tầng. Mức độ tập trung các

cơ sở sản xuất, tập trung các cơ sở kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là điều kiện thuận lợi hấp

dẫn các nhà đầu tư, lại còn làm cho các nhà đầu tư tập trung ở mức độ cao hơn

ở cá vùng phát triển tập trung nhiều đầu mối giao thông, có sẵn các điều kiện phát triển

sản xuất, do đó các hoạt động kinh tế sống động hơn, các hoạt động văn hoá - nghệ thuật

cũng ở trình độ cao hơn so với vùng chậm phát triển.

Chương II: Khái niệm chung quy hoạch phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng

phục vụ phát triển khu công nghiệp

I- Khái niệm quy hoạch phát triển vùng

1- Khái niệm quy hoạch vùng:

Quy hoạch là một hoạt động nhằm cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế xã hội của

vùng về mặt không gian của quá trình tái sản xuất xã hội diễn ra trên lãnh thổ thông qua

việc xác định các cơ sở sản xuất, phục vụ đời sống của dân cư trên lãnh thổ một cách hợp

lý để đạt hiệu quả cao.

2- Khái niệm quy hoạch phát triển vùng

Quy hoạch phát triển vùng là một khâu quan trọng trong quy trình kế hoạch hoá lãnh

thổ, bắt đầu từ đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội vùng đến quy hoạch phát

triển và được cụ thể hoá bằng kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn thực hiện trên địa

bàn lãnh thổ. Phạm vi quy hoạch phát triển vùng bao gồm nhiều loại: trên phạm vi cả

nước, từ ngành kinh tế lớn, vùng kinh tế hành chính (tỉnh, huyện), vùng kinh tế ngành

chuyên môn hoá hay vùng kinh tế đặc thù hoặc vùng kinh tế trọng điểm.

3-ý nghĩa quy hoạch phát triển vùng đến xây dựng khu công nghiệp để phát triển kinh tế

xã hội

Quy hoạch phát triển vùng có ý nghĩa hết sức quan trọng để phát triển kinh tế xã hội của

các vùng và của cả nước. Kinh nghiệm của các nước cho thấyquy hoạch phát triển vùng là

căn cứ không thể thiếu để quy hoạch phát triển các ngành ,phát triển đô thị, nông thôn, các

đơn vị kinh tế cơ sở, để tổ chức phân bố và sử dụng mọi nguồn lực tự nhiên, kinh tế, xã hội

trên lãnh thổ.

Quy hoạch phát triển vùng là căn cứ quan trọng để vạch các kế hoạch phát triển kinh tế-

xã hội trên lãnh thổ, và là chỗ dựa để thực hiện việc quản lý Nhà nước về việc thực hiện

chính sách, pháp luật, hạn chế tình trạng tự phát không theo quy hoạch, gây lãng phí nguồn

lực xã hội và giảm hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh

tế.

Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, quy hoạch phát triển vùng đúng

đắn với những chính sách thích hợp cho phát triển sẽ cho phép thực hiện sự chuyển đổi

nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của mỗi vùng theo hướng sử dụng nguồn lực có hiệu

quả hơn. Chuyển dần lao động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp, dịch vụ.Không

ngừng nâng cao, năng suất lao động, thu nhập cho người dân.Từng bước đưa nền kinh tế

thoát khỏi tình trạng thuần nông, tạo điều kiện mở rộng thị trường để phát triển sản xuất

trong cả nước.

4-Mục đích và tính chất của quy hoạch phát triển vùng

4.1. Mục đích chủ yếu của quy hoạch:

Phát triển kinh tế-xã hội là phục vụ cho công tác điều hành và chỉ đạo vĩ mô về phát

triển kinh tế và cung cấp những căn cứ cần thiết cho hoạt động kinh tế-xã hội của dân cư

trong vùng, cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư trong vùng.Giúp các cơ quan lãnh đạo

và quản lý các cấp có căn cứ khoa học để đưa ra các chủ trương chính sách, các kế hoạch

phát triển cũng như các giải pháp chỉ đậo điều hành, phát triển kinh tế- xã hội, giúp dân cư

trong vùng, các nhà đầu tư hiểu rõ tiềm năng kinh tế-xã hội trong vùng đó.

4.2. Yêu cầu quy hoạch:

Yêu cầu quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội vùng phải đáp ứng được yêu cầu tăng

cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ, đáp ứng đòi hỏi của kinh tế thị trường,

sử dụng nguồn lực có hiệu quả, ứng dụng tiến bộ công nghiệp kỹ thuật, tạo ra môi trường

phát triển vùng ổn định, bền vững.

4.3. Tính chất của quy hoạch:

Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội vùng là một quá trình biến động có trọng điểm cho

từng thời kỳ. Do đó quy hoạch phải đề cập được nhiều phương án, phải thường xuyên cập

nhật, bổ xung thông tin tư liệu cần thiết để có giải pháp điều chỉnh kịp thời cho phù hợp

với thực tế, quy hoạch vùng không chỉ xây dựng một lần là xong.

Quy hoạch phát triển vùng là kết quả của quá trình nghiên cứu, đề xuất và lựa chọn khác

nhau cho các giải pháp khác nhau.

II- Khái niệm quy hoạch phát triển công nghiệp:

Quy hoạch phát triển công nghiệp là tổng kết, đánh giá về cơ cấu phân ngành công

nghiệp, sản phẩm mũi nhọn và sức cạnh tranh trên thị trường của nó.

Tổng kết, đánh giá về phân bố không gian công nghiệp, bao gồm cả các khu, cụm công

nghiệp, (có bao nhiêu khu công nghiệp, thực hiện được thế nào, sắp tới có phát triển thêm

nữa không?).

Tổng kết, đánh giá về phát triển công nghiệp nông thôn (đánh giá các chủ trương, chính

sách về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở khu vực nông thôn gắn với việc giải

quyết việc làm và thu hút lao động, phát triển ngành nghề và tạo nguyên liệu cho công

nghiệp chế biến, ...).

Tổng kết, đánh giá về các chương trình và dự án ưu tiên.

Tổng kết,đánh giá về các giải pháp và chính sách đã thực hiện để phát triển công nghiệp.

III-Khái niệm quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng

1- Khái niệm kết cấu hạ tầng:

Kết cấu hạ tầng là toàn bộ những yếu tố vật chất, tinh thần, cơ chế và tổ chức gắn liền

với sản xuất xã hội làm thành môi trường thuận lợi để nền kinh tế vận động và tăng trưởng

bình thường.Trong một Quốc gia, kết cấu hạ tầng có thể bao gồm cả hệ thống hành chính

và quản lý Nhà nước, hệ thống quy tắc thể chế và pháp chế, hệ thống tài chính tiền tệ và dự

trữ Quốc gia, tổ chức bộ máy và cơ chế kinh tế-xã hội, trình độ quản lý, trình độ dân trí

của người dân…

Nhóm kết cấu hạ tầng: Là nhóm ngành mà kết quả hoạt động của nó không phải là sản

phẩm vật chất cụ thể mà là dịch vụ đảm bảo điều kiện cho sự phát triển của vùng và các

ngành trong cơ cấu vùng.Vì thế nhóm kết cấu hạ tầng được ví như hệ thống tuần hoàn của

lãnh thổ tiếp nối giữa các cơ sở sản xuất –dân cư để làm cho cơ thể vùng được hoạt động

bình bình thường. Không chỉ với những bộ phận trong vùng mà còn là cầu nối giữa vùng

với thị trường ngoài vùng. Những vùng có kết cấu hạ tầng phát triển thì có sức thu hút đầu

tư hơn hẳn các vùng khác, do tiét kiệm được chi phí xây dựng, các công trình phục vụ

công cộng, các công trình bảo vệ môi trường, cây xanh, xử lý nước thải…

2- Phân loại kết cấu hạ tầng:

Kết cấu hạ tầng kinh tế: là hệ thống các công trình vật chất kĩ thuật phục vụ cho sự phát

triển của các ngành, các lĩnh vực trong nền Kinh tế Quốc dân.

Kết cấu hạ tầng xã hội là toàn bộ hệ thống các công trình vật chất kĩ thuật phục vụ cho

các hoạt động văn hoá, xã hội, bảo đảm cho việc thoả mãn và nâng cao trình độ dân trí,

văn hoá tinh thần của dân cư, đồng thời cũng là điều kiện chung cho quá trình tái sản xuất

sức lao động và nâng cao trình độ lao động xã hội.

3- Đặc điểm, tính chất của các công trình kết cấu hạ tầng:

Kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước tạo cơ sở và tiền đề cho sản xuất như xây dụng

giao thông với chất lượng tốt, đồng bộ để mở đường cho phát triển một vùng kinh tế mới

hay khu kinh tế mới… Yếu tố nhà ở, điện, nước, thông tin liên lạc, cần phải chuẩn bị trước

cho việc hình thành điểm dân cư, đảm bảo đời sống người lao động. Tuy nhiên yếu tố đi

trước của kết cấu hạ tầng.

Dịch vụ kết cấu hạ tầng có tính chất cộng đồng cao, phục vu cho cả cộng đồng dân cư

mà không phân biệt thành phần kinh tế, tầng lớp dân cư hay giai cấp xã hội... Chính vì vậy

mà ta nói dịc vụ của kết cấu hạ tầng là dịch vụ công cộng xã hội mang tính phối hợp lại để

đảm bảo công bằng và không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội.

Hoạt động của kết cấu hạ tầng đòi hỏi tính đồng bộ cao, vì vậy để nâng cao hiệu quả sử

dụng vốn đầu tư kết cấu hạ tầng thì phải tính đến sự phối hợp giữa các công trình kết cấu

hạ tầng về thời gian xây dựng, công suất thiết kế và thời gian sử dụng nhằm gia tăng giá

trị đột biến, thúc đẩy phát triển của vùng lãnh thổ.

Phần II

Thực trạng về quy hoạch phát triển công nghiệp

và kết cấu hạ tầng của khu

công nghiệp Dung Quất

Chương I: Tiềm năng và nguồn lực của Tỉnh ảnh hưởng tới phát triển công nghiệp và

kết cấu hạ tầng

I- Điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng của Tỉnh Quảng Ngãi

1-Vị trí địa lý kinh tế:

Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có diện tích tự nhiên là 5131,51 Km2, dân số1216,6 nghìn người, chiếm 1,55% diện tích và 1,62%

dân số cả nước. Về hành chính tỉnh Quãng Ngãi hiện có 1 thị xã, 13 huyện cả miền núi và

trung du đồng bằng ven biển. Có bờ biển dài . Phía bắc giáp tỉnh Quãng Tín, Phía

Nam giáp tỉnh Bình Định, phía Tây giáp tỉnh KonTum, phía đông giáp biển Đông.

Tỉnh Quãng Ngãi ở vào trung độ của đất nước, nằm trên trục giao thông Bắc Nam về

đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Các quốc lộ 14B và 24 nối các

cảng biển đến Tây Nguyên và tương lai gần nối với hệ thống đường xuyên á qua Lào, đông

bắc Campuchia, Thái Lan, Miama, là cửa ngõ ra biển của Tây Nguyên và các nước trên

đến các nước vùng bắc á. Vị trí địa lý là lợi thế quan trọng tạo điều kiện cho tỉnh mở rộng

giao lưu kinh tế với các tỉnh trong vùng Duyên Hải, Tây Nguyên và cả nước, kích thích và

lôi kéo các ngành kinh tế trong tỉnh phát triển. Đồng thời cũng đặt cho tỉnh những thách

thức phải vượt qua để phát triển nhanh nền kinh tế nhất là những ngành mũi nhọn theo thế

mạnh đặc thù có ý nghĩa thúc đẩy tỉnh và các tỉnh khác.

2- Điều kiện tự nhiên, địa hình:

Địa hình tương đối phức tạp, chủ yếu là đồi núi thấp (thấp dần từ Tây sang Đông). Phía

Tây của tỉnh giáp với dãy Trường Sơn, tiếp đến là địa hình núi thấp và đồi xen kẽ đồng

bằng, thỉnh thoảng có núi chảy ra sát biển. Lãnh thổ bị chia cắt theo các bồn lưu vực, lưu

vực sông Trà Khúc, sông Trà Bồng, sông Trà Cầu, mỗi lưu vực sông ở hạ lưu đều tạo

thành các dải đồng bằng ven biển nhỏ hẹp. Địa hình đồng bằng nghiêng nên rất dễ bị rửa

trôi, dẫn đến đất bị bạc mầu và mặn hoá. Ngoài ra là cồn cát ven biển có độ dốc không đối

xứng giữa hai sườn Đông và Tây.

Vùng đồng bằng ven biển nhỏ hẹp theo hạ lưu các sông và bị chia cắt thành nhiều

mảnh nhỏ. Ven biển có nhiều đầm, vịnh, cửa biển, chứa đựng nhiều nguyên liệu cho công

nghiệp chế biến.

Các sông ngòi không lớn, có độ dốc cao, ngắn, chảy từ đông sang tây, hàm lượng phù

sa thấp, nhưng tiềm năng thuỷ điện lớn. Độ che phủ của rừng đến nay chỉ còn khoảng trên

40% nên hàng năm, các sông này gây lũ lụt sa bồi, thuỷ phá nghiêm trọng. Ngược lại, mùa

khô nước các sông cạn kiệt, thiếu nước tưới. Chênh lệch giữa lưu lượng lũ và lưu lượng

kiệt đến trên 1000 lần. Khí hậu quanh năm nóng, nhiệt độ trung bình hằng năm 250C- 270C, lượng mưa giảm

dần từ Bắc vào Nam, khô hạn thường xuyên xảy ra và gần như địa hình cả tỉnh đều chịu

ảnh hưởng của gió Lào.

3- Cơ sở hạ tầng:

3.1. Hệ thống giao thông:

- Đường bộ: Hệ thống giao thông quốc gia gồm đường bộ và đường sắt xuyên Việt chạy

dài theo các tỉnh xuyên suốt theo trục giao thông Bắc-Nam.

+ Đường số 9 từ Đông Hà qua Lao Bảo sang Xavanakhet (Hạ Lào) và chạy dài tới

Đông Bắc Thái Lan.

+ Đường 12 từ Cảng Vũng áng qua Quãng Bình sang Thà Khẹt đến Đông Bắc Thái

Lan.

+ Đường 19 nối Cảng Quy Nhơn với Thị xã Plâyku qua cửa khẩu Đức Cơ nối với

vùng Đông Bắc Campuchia.

+ Quốc lộ 24 từ Thạch Trụ (km 1068 quốc lộ 1A) qua Quãng Ngãi đến Kon Tum dài

168Km.

+ Hệ thống giao thông nội tỉnh cũng được chú trọnh phát triển.

- Đường hàng không: Tỉnh Quãng Ngãi cũng có sân bay nhưng chưa lớn, đang được xây

dựng và nâng cấp.

- Đường thuỷ: Hệ thống sông ngòi tuy ngắn, nhưng cũng giúp ích cho giao thông nội bộ và

giao thông nối với các tỉnh trong vùng Kinh Tế Trọng Điểm Miền Trung. Và có cả Cảng

biển phục vụ chu chuyển hàng hoá đang được đầu tư nâng cấp.

3.2. Thông tin liên lạc:

100% số huyện có tổng đài điện tử, có thể liên lạc thuận tiện ở trong nước với nước ngoài.

100% số xã có điện thoại, bình quân điện thoại là 28 máy/1000 dân.

3.3. Điện, nước, thuỷ lợi:

- Đến năm 2000, 70% số huyện trong vùng đã có điện lưới Quốc Gia và tỷ lệ xã có điện là

79,8% thấp hơn tỷ lệ xã có điện của toàn quốc (85,8%).

- Nước sạch mới đáp ứng được cho các thị trấn, thành phố: ở nông thôn chưa có hệ thống

cung cấp nước sạch. Nguồn nước ngầm trong vùng bị hạn chế.

- Hệ thống thuỷ lợi đã được chú trọng phát triển nhưng do thiếu vốn nên chưa đáp ứng đủ

yêu cầu. Một số công trình chất lượng thấp, vì vậy tình trạng thiếu nước dẫn đến hạn hán

xảy ra ở nhiều nơi, gây hậu quả nghiêm trọng cho sản xuất và đời sống.

II- Tiềm năng và nguồn lực của Tỉnh Quảng Ngãi

1- Nguồn nhân lực, tiềm năng con người, công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học kỹ

thuật:

Tính đến năm 2000, dân số trong Tỉnh là khoảng 1216600 người, chiếm khoảng

12,69% của dân số trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, và chiếm 1,62% dân số cả nước. Mật độ dân số trung bình của tỉnh là 237 người/km2 xấp xỉ mật độ trung bình của cả

nước. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên toàn tỉnh là 0,83%/năm. Trong tỉnh có 30 dân tộc anh em

sinh sống, đong nhất là người Kinh, chiếm 80% dân số của toàn vùng. Tỷ lệ cư dân sống ở

thành thị là 26%. Dân số trong tỉnh thuộc diện trẻ, gần 50% trong độ tuổi lao động.

Tổng lao động thường xuyên của tỉnh là 614851 người, trong đó số lao động được đào

tạo chính quy có bằng cấp từ công nhân kĩ thuật đến đại học và trên đại học là 40201

người chiếm 6,53% tổng số lao động thường xuyên. Số cán bộ khoa học có trình độ đại

học trở lên phần lớn tạp trung trong khu vực quốc doanh. Kỹ năng của đội ngũ lao động

chưa cao, lao động thủ công chưa qua lao động còn phổ biến. Để đáp ứng yêu cầu phát

triển công nghiệp trong tương lai, nguồn lao động này cần được đào tạo, đào tạo lại, bổ

sung cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt cần thích nghi với cơ chế thị trường.

Hiện nay, số lao động đang có yêu cầu chuyển mạnh từ nông nghiệp sang công nghiệp

rất lớn. Phát triển công nghiệp nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho số lao động đó cũng là

một yêu cầu đặt ra cho công nghiệp. Nguồn lao động dồi dào vừa là một thế mạnh, vừa là

một sức ép phát triển công nghiệp giải quyết công ăn việc làm. Vấn đề này đặt ra cho việc

lựa chọn phát triển các ngành công nghiệp vừa thu hút được nhiều lao động, đồng thời vừa

có công nghệ hiện đại, thích hợp, đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do

đó có thể nói để đảm bảo cho phát triển công nghiệp theo yêu cầu, vấn đề phát triển nguồn

nhân lực về chất lượng cần được chú trọng và đặt lên hàng đầu.

2-Tiềm năng đất:

2.1. Quỹ đất và cơ cấu đất

a) Đất nông nghiệp.

Hiện có 797.44ha, tiềm năng có thể phát triển thêm 228.125ha dự kiến phát triển

thêm đến năm 2010 là 188.800ha (trong đó đến năm 2005 là 85.200ha). trong đất nông

nghiệp, chú trọng phát triển thêm cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả đến năm 2010 là

79.300ha trong tiềm năng của loại đất này là 94.033ha.

b) Đất lâm nghiệp

Diện tích đất có rừng hiện có trong toàn vùng là 789.267ha, tiềm năng phát triển

thêm 225.545ha, trong đó 74.374ha rừng phục hồi tái sinh và 151.171ha rừng trồng và

vườn ươm.

c) Đất chưa sử dụng

Hiện còn 111.711ha chiếm 38,94% diện tích tự nhiên. Sâu khi đưa vào sản xuất

nông, lâm, ngư nghiệp, diện tích chưa sử dụng giảm xuống còn 28,84% vào năm 2005 và

22,08% vào năm 2010.

2.2. Hệ số sử dụng đất

Nhìn chung tỉnh Quảng Ngãi cũng như các tỉnh miền Trung có tài nguyên đất thuộc

loại nghèo so với cả nước. Tuy nhiên diện tích tự nhiên không phải là nhỏ nhưng do cấu

tạo địa hình nên diện tích đất canh tác ít và chất lượng đất xấu. Địa hình dốc, đồng bằng

nhỏ hẹp ở ven biển, không thuận lợi cho việc cơ giới hoá nông nghiệp. Hệ số sử dụng đất

năm 2000 của tỉnh là 1,2 lần.

2.3. Nguồn nguyên liệu từ nông lâm ngư nghiệp

a) Trồng trọt

Do địa hình dốc, đất bị rửa trôi nhiều nên đất trồng trọt xấu. Sản xuất nông nghiệp chưa

có chuyển biến mạnh.Chưa hình thành được những vùng chyên canh trồng cây công

nghiệp. Diện tích trồng cây lương thực ít. Cây thuốc lá có điều kiện phát triển, nhưng do

khả năng tiêu thụ thấp nên không mở rộng được diện tích. Các cây công nghiệp lâu năm có

tiềm năng lớn như dừa, cao su, điều, hồ tiêu, đều có khả năng phát triển mạnh trong tương

lai diện tích trồng cây ăn quả ít và phân tán chỉ có 29.260ha.

b) Chăn nuôi

Chăn nuôi của tỉnh phát triển chậm do điều kiện tự nhiên và khí hậu không thuận

lợi cho phát triển đàn gia súc. Trong vùng không có nhiều đồng cỏ lớn, thiếu nước. Chưa

hình thành được trang trại chăn nuôi lớn, chăn nuôi tập trung chủ yếu ở các hộ gia đình.

c)Lâm nghiệp

Tính đến đầu năm 2000 vùng có 1.198.267ha đất rừng chiếm 20,19% diện tích rừng

toàn quốc. Diện tích rừng tự nhiên chiếm 80% diện tích rừng của vùng và chiếm 19,67%

diện tích rừng tự nhiên toàn quốc. Diện tích rừng trồng là 330.226ha, chiếm 30,2% diện

tích rừng trồng toàn quốc và chiếm 15,1% diện tích rừng toàn vùng.

d) Thuỷ hải sản

Tiềm năng tài nguyên thuỷ, hải sản của tỉnh khá phong phú. Bờ biểm dài, trữ lượng

hải sản cho phép hàng năm có thể khai thác khoảng 300.000 tấn, ven biển có nhiều bãi

triều, đầm phá, đó là những nơi thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản nước lợ.

Việc khai thác thuỷ sản chưa tương xứng với tiềm năng. Cũng như các vùng khác,

những đổi mới trong chính sách của Nhà nước đang có tác động tích cực tới sự phát triển

của thuỷ sản. Hệ thống cảng biển còn chưa đáp ứng yêu cầu. Việc chế biến thuỷ sản để

nâng cao chất lượng thương phẩm cũng còn nhiều hạn chế. ở một số vùng ven biển, môi

trường bị suy thoái, nguồn lợi thuỷ sản cũng bị đe doạ suy giảm.

2.4. Tài nguyên khoán sản

Do có cấu tạo địa chất phức tạp, mức độ thăm dò khảo sát còn rất thấp. Bản đồ địa

chất được lập ở tỷ lệ 1/200.000, sau đó tiến hành lập bản đồ 1/50.000. Việc đánh giá trữ

lượng tài nguyên mới ở mức độ dự báo cấp C1, C2, rất ít mỏ có trữ lượng cấp cao. Công tác

thăm dò địa chất những năm gần đây đã làm sáng tỏ thêm những khoáng sản có triển vọng

cần được đầu tư để có thể khai thác. Các loại khoáng sản của tỉnh: than bùn; bốcxít; quặng

sắt; vàng gốc và sa khoáng; nước khoáng; dầu khí…

2.5. Tài nguyên nước

Do nguồn nước mưa cung cấp hàng năm ít, cùng với địa hình dốc nên khả năng

thấm và giữ nước mưa kém, dẫn đến tình trạng nước ngầm cung cấp kém. Nguồn nước

mặt đóng vai trò quan trọng trong việc giữ cân bằng sinh thái của cả vùng, ngoài ra nó còn

là nguồn cung cấp chủ yếu nước cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của toàn vùng, nhưng

không được dồi dào như những vung khác. Mặc dù hệ thống sông có diện tích lưu vực và

lưu lượng dòng chẩy lớn, thuỷ chế của hệ thống sông này rất thất thường. Tuy vậy do địa

hình dốc lớn, sông suối ngắn nên có thể xây dựng các công trình thuỷ điện cỡ vừa và nhỏ.

III- Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Quảng Ngãi

1- Tổng sản phẩm GDP

Năm 2000, tổng sản phẩm GDP toàn vùng theo giá so sánh năm 1994 đạt 2221,2 tỷ

đồng. Cơ cấu GDP theo các nghành kinh tế (năm 2000) là: nông, lâm nghiệp 34,36%; công

nghiệp và xây dựng 21,62%; dịch vụ 44,02%. Cơ cấu này so sánh với cơ cấu chung của

toàn quốc thì tỷ trọng công nghiệp và xây dựng còn thấp.

2- Cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế là cơ cấu: dịch vụ và thương mại; nông, lâm, thuỷ sản; công nghiệp

và xây dựng. Đến thời điểm năm 2000, theo giá so sánh năm 1994, cơ cấu kinh tế của tỉnh

như sau:

 Dịch vụ và thương mại: 44,02%

CN-XD 22%

DV-TM 44%

N-L-TS 34%

 Nông, lâm, thuỷ sản: 34,36%

 Công nghiệp và xây dựng: 21,62%

Cơ câu GDP của tỉnh năm 2000

3- Thu chi ngân sách

Thu ngân sách của tỉnh đạt 464,9 tỷ đồng chiếm 0,63% của tổng thu ngân sách nhà

nước và chiếm 6,5% tổng thu ngân sách của miền Trung.

Chi ngân sách năm 1998, chi ngân sách của tỉnh là 403,6 tỷ đồng chiếm 0,5% của

tổng chi ngân sách nhà nước 7,8% tổng thu ngân sách của miền Trung.

4- Xuất nhập khẩu:

Tổng giá trị xuất khẩu của Tỉnh năm 2000 là 8,28 triệu USD chiếm 0,06% giá trị

xuất khẩu toàn quốc. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hải sản chiếm 20% giá trị xuất khẩu.

Ngoài ra, Tỉnh còn xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp, thủ công nghiệp. Thị trường xuất

khẩu chính là các nước Châu á: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước EU.

Nhập khẩu của tỉnh tăng chậm từ 8,28 triệu USD năm 1995 lên 9,72 triệu USD năm

2000 chiếm 0,06 tổng giá trị nhập khẩu của cả nước. Tốc độ tăng bình quân giá trị nhập

khẩu thấp, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất chiếm hơn 10% giá trị nhập

khẩu của cả nước.

5- Vốn đầu tư

Năm 1999, tổng vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh là 953,0 triệu đồng, chiếm 9,7%

tổng vốn đầu tư của toàn vùng. Tốc độ tăng bình quân của tổng vốn đầu tư của toàn xã hội

giai đoạn 1996-2000 là 8%/năm. Đầu tư vào tỉnh bằng nhiều nguồn vốn khác nhau. Khối

lượng đầu tư và cơ cấu đầu tư chưa được hợp lý: năm 1999, vốn thu hút đầu tư vào công

nghiệp chiếm 45% tổng vốn đầu tư của Tỉnh, vốn đầu tư vào các ngành dịch vụ chiếm

35,3% tổng vốn đầu tư của tỉnh, trong khi đầu tư trực tiếp vào sản xuất nông, lâm, ngư

nghiệp thấp chỉ chiếm 14,5% tổng vốn đầu tư của Tỉnh.

IV- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn chủ yếu của vùng và từng địa phương

trong vùng so sánh với cả nước và vùng kinh tế khác

1- Thuận lợi

1.1 .Về điều kiện tự nhiên

Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở cách hai đầu Nam Bắc do đó được hưởng lợi thế là tiếp

nhận những ảnh hưởng tốt của hai miền. Tuy vị trí trải dài và chiều ngang nhỏ hẹp, địa

hình vùng Tỉnh Quảng Ngãi có đủ ba vùng: Miền núi, trung du, đồng bằng và ven biển.

Tỉnh Quảng Ngãi nằm giữa hành lang giao thông Nam Bắc, là vùng chuyển hàng

hoá, nguyên vật liệu của 20 tỉnh Bắc Bộ với các tỉnh Nam Bộ, thông qua hệ thống đường

sắt, đường bộ, đường thuỷ khá hoàn chỉnh nối liền cảng biển Hải Phòng với các cảng ở

Nam Bộ.

Tỉnh Quảng Ngãi có mối quan hệ trực tiếp với 3 vùng kinh tế lớn của cả nước (Tây

Nguyên, Đông Nam Bộ, Khu Bốn Cũ), đặc biệt là Tây Nguyên, một vùng có nhiều tiềm

năng về cung cấp các loại nguyên liệu từ nông, lâm nghiệp, trong đó quan trọng là các cây

công nghiệp lâu năm có giá trị xuất khẩu lớn. Ngoài ra, Tỉnh Quảng Ngãi có vị trí đặc biệt

quan trọng, là cửa ngõ tuyến hành lang Đông Tây có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh

tế xã hội, thúc đẩy giao lưu kinh tế, hợp tác mọi mặt với nước Lào, Campuchia, Thái Lan.

Hệ thống sông ngòi tuy ngắn, nhưng Tỉnh có 3 con sông tương đối lớn như: Trà

Bồng, Trà Khúc, Sông Vệ vừa là nguồn cung cấp nước ngọt cho sản xuất nông nghiệp và

sinh hoạt, vừa là mạch máu giao thông thuỷ thuận tiện vừa điều hoà khí hậu cho toàn Tỉnh

nhất là các trung tâm đô thị, các khu công nghiệp tập trung.

Tỉnh Quảng Ngãi có hệ thống núi đá vôi chạy dài gần như suốt toàn bộ tỉnh, là nguồn

cung cấp vật liệu xây dựng quý giá, có khả năng đáp ứng đủ yêu cấu phát triển giao thông

và sản xuất vật liệu xây dựng.

Điều kiện tự nhiên đầy đủ với các yếu tố sông, đồng bằng, đồi núi và biển, cùng với vị

trí thuận lợi đã tạo ra cho Tỉnh Quảng Ngãi phát triển công nghiệp theo hướng CNH, HĐH

tuy không vượt trội như các Tỉnh ĐBSH nhưng cũng có rất nhiều tiềm năng.

1.2 . Về nguồn lực con người

Dân số và nguồn lao động Tỉnh Quảng Ngãi cũng là một thế mạnh. Với dân số toàn

vùng là 1216,6 triệu người, chiếm 0,15% dân số toàn quốc. Tỷ lệ phát triển dân số xấp xỉ

0,94%.

Tỉnh Quảng Ngãi là vùng dân cư có trình độ dân trí và trình độ tay nghề của người

lao động ở mức trung bình so với các Tỉnh khác. Vùng có một số trường Đại học, Viện

nghiên cứu, trường đào tạo công nhân khá hoàn chỉnh. Trong những năm đổi mới.

1.3 . Điều kiện cơ sở hạ tầng:

Cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh. Hệ thống điện và đường giao thông nông thôn

đến tận xã, thôn và không ngừng được nâng cấp. Hệ thồng trường học, trạm y tế, nhà văn

hóa, chợ… cũng thuộc loại phát triển so với những vùng khác.

Giao thông vận tải thuận lợi, nằm trên hệ thống đường giao thông huyết mạch của

cả nước gắn với các sân bay cùng hệ thống cảng biển hiện đại, đồng thời có hệ thống

đường ngang nối liền các tỉnh trong vùng với Tây Nguyên, tạo điều kiện để phát triển và

giao lưu kinh tế.

2- Khó khăn

Bên cạnh những yếu tố thuận lợi trên đây, Tỉnh Quảng Ngãi cũng còn có nhiều khó

khăn và hạn chế, xuất phát từ đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của vùng.

2.1 . Điều kiện tự nhiên

Ruộng đất đã ít lại manh mún và phân tán, rất khó khăn trong quá trình cơ giới hoá,

điện khí hoá nông nghiệp.

Địa hình tỉnh có độ dốc lớn, thấp dần từ Tây sang Đông, do đó sông suối ngắn,

cùng với khí hậu trong vùng tương đối khắc nghiệt, mưa lụt vào mùa mưa và khô hạn nặng

vào mùa khô, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp.

Quá trình phá rừng là nguyên nhân hình thành một số lượng lớn diện tích đất trồng,

đồi núi trọc và làm cho môi trường diễn biến theo xu thế ngày càng xấu. Tiềm năng đất lớn

nhưng khả năng sử dụng rất hạn chế do đất xấu, tầng đất nông, độ dốc lớn và hầu hết phân

bổ ở các vùng kinh tế phát triển quá chậm.

Sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản nhiều nơi do thiếu kỹ thuật hoặc do phát

triển quá mức đã gánh lấy hậu quả về môi trường.

Tài nguyên của tỉnh còn nghèo. Tuy có nhiều loại khoáng sản nhưng trữ lượng thấp,

nằm rải rác ở nhiều địa phương nên khó triển khai khai thác ở quy mô công nghiệp.

2.2 . Về nguồn lực

Đại bộ phận dân cư nông thôn chỉ thạo làm nông nghiệp, ít am hiểu về công nghiệp

và dịch vụ.

Trình độ cơ giới hoá khâu làm đất và các khâu thu hoạch khác kém hơn nhiều so

với các vùng khác. Tuy có tình trạng dư thừa lao động nông nghiệp ở một số tỉnh nhưng

việc tuyển dụng lao động cho các trung tâm, khu công nghiệp cũng bị hạn chế vì trình độ

văn hoá. Kỹ năng nghề nghiệp của số lao động này lại không đáp ứng được yêu cầu của

các loại hoạt động công nghiệp và dịch vụ.

2.3 . Cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng nhất là hệ thống giáo thông, tuy có vị trí thuận lợi và đã hình thành

đầy đủ các mạng tuyến nhưng chất lượng chưa cao. Các điều kiện hạ tầng khác tuy đã hình

thành nhưng thiếu đồng bộ, thiếu sự tham gia đầu tư của nước ngoài, do vậy còn lạc hậu

chưa đáp ứng được tốt cho nhu cầu phát triển.

Hệ thống thuỷ lợi đã được chú trọng phát triển, nhưng thiếu vốn nên chưa đáp ứng

được yêu cầu. Một số công trình chất lượng thấp, vì vậy tình trạng thiếu nước, dẫn đến hạn

hán xẩy ra ở nhiều nơi, gây hậu quả nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp và đời sống.

2.4 . Cơ cấu kinh tế

Điểm xuất phát về kinh tế Tỉnh Quảng Ngãi nói chung là thấp, năm 2000 tổng sản

phẩm GDP của tỉnh đạt 23.166,5 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng CNH nói chung là chậm và chưa hợp lý, chưa tương xứng với

tiềm năng (nông, lâm, thuỷ sản 26,7%, công nghiệp 27%, dịch vụ 45,45%). Tiềm lực kinh

tế, thu ngân sách ở khu vực nông thôn còn rất hạn chế.

Do điểm xuất phát về kinh tế thấp, tốc độ tăng trưởng GDP chậm, cùng với mấy

năm gần đây thiên tai liên tiếp dẫn đến đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ hộ

đói nghèo ở tỉnh còn cao: 1,87% (cả nước là 14,45%), tuy vậy tỷ lệ này còn thấp hơn ở

vùng núi phía Bắc: 24,29%, Tây Nguyên: 20,29%.

ChươngII: Hiện trạng công nghiệp và kết cấu hạ tầng

của tỉnh Quảng Ngãi

I- Quá trình phát triển

So với các vùng trong cả nước , công nghiệp tỉnh đạt mức phát triển trung bình tiên

tiến , chỉ đứng sau hai trung tâm công nghiệp lớn của cả nước là vùng 2 và vùng 5, nhưng

phát triển vượt trội so với các vùng còn lại . trước khi thống nhất đất nước kinh tế của

vùng này kém phát triển và mới chỉ hình thành một số cơ sở công nghiệp nhỏ ở các địa

phương trong tỉnh.sau năm 1975, công nghiệp được phát triển ở khắp cả 10 tỉnh trong

vùng, tuy cũng có mức độ khác nhau nhưng đã bao gồm tất cả các ngành và lĩnh vực sản

xuất công nghiệp (đặc biệt là tỉnh Quảng Ngãi) như khai thác khoáng sản, công nghiệp cơ

khí công nghiệp luyện kim, hoá chất lắp giáp và sản xuất các mặt hàng tiêu dùng, sản xuất

và phân phối điện nước… tỷ trọng công nghiệp trong GDP của mối địa phương từng bước

được nâng lên.

Theo số liệu thống kê những năm gần đây tỷ trọng công nghiệp của tỉnh luôn chiếm

ở mức khoảng 4% so với giá trị sản xuất công nghiệp toàn quốc, tốc độ tăng trưởng bình

quân 9,17%/năm.trong đó cao nhất vẫn là ngành chế biến nông lâm thuỷ sản, chiếm tới

60% trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp toàn vùng. Tiếp đến là ngành dệt may, giày

da khoảng 13%, sản xuất vật liệu xây dựng trên 10,5%. Ngành công nghiệp cơ bản bao

gồm nhiều phân ngành nhỏ như cơ khí luyện kim, điện tử tin học, hoá chất, nhưng chiếm

xấp xỉ chỉ 11%. Công nghiệp khai thác chỉ chiếm khoảng 3%. điều đó chứng tỏ công

nghiệp của tỉnh nói chung và của vùng 3 nói chung chủ yếu dựa trên nền tảng nguồn

nguyên liệu tại chỗ từ nông, lâm, ngư nghiệp.

II- Hiện trạng phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng của tỉnh giai đoạn 1995-2000

1- Cơ sở sản xuất công nghiệp

Cơ sở sản xuất công nghiệp không có sự thay đổi lớn trong 5 năm qua. Năm 1999

so với năm 1995 chỉ tăng khoảng 9%. Sau 3 năm tăng liên tiếp, năm 1998 số cơ sở sản

xuất có sự giảm so với năm 1997, nhưng năm 1999 lại có sự tăng trưởng cao so với năm

1998, tăng thêm 307 cơ sở, trong đó số cơ ngoài quốc doanh chiếm chủ yếu (trên 90%). Số

lượng các công nghiệp quốc doanh chỉ chiếm khoảng 0,25-0,3%, trong đó đa phần là quốc

doanh địa phương. Số lượng có sở công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rất nhỏ, mặc dù

có sự gia tăng tuyệt đối lớn nhưng do số lượng quá nhỏ bé so với các cơ sở ngoại quốc

doanh. Tuy nhiên cơ cấu về số lượng các doạng nghiệp theo thành phần kinh tế này không

phản ánh quy mô của công nghiệp theo giá trị sản xuất , vì các doanh nghiệp ngoại quốc

doanh tuy nhiều về số lượng nhưng quy mô thường rất nhỏ. Còn các cơ sở công nghiệp

quốc doanh và đầu tư nước ngoài thì ngược lại, số lượng ít nhưng quy mô thường gấp

nhiều lần so với các cơ sở ngoài quốc doanh.

2- Lao động công nghiệp

Tổng số lao động công nghiệp của cả tỉnh là 30.887 người, đứng thứ 5 trong vùng

3. Trong đó ngành khai thác là 3.606 người; ngành chế biến là 27.182 người; ngành điện

nước là 99 người.

Xét theo cơ cấu ngành công nghiệp thì ngành chế biến có số lao động đông nhất,

chiếm tới 88% tổng số lao động toàn tỉnh.

Xét cơ cấu theo thành phần kinh tế ta thấy, số lao động công nghiệp thuộc thành

phần ngoài quốc doanh chiếm đa số, bình quân khoảng 65-70% số lao động công nghiệp

toàn tỉnh.

Lao động của thành phần có vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ nhỏ, chỉ khoảng

dưới 2%. Chất lượng lao động nhìn chung không cao, đặc biệt là khu vực ngoài quốc

doanh, do lao động của khu vực này tập trung chủ yếu ở lĩnh vực chế biến nông , lâm, thuỷ

sản, mà công nghệ sử dụng của những ngành này vẫn ở tình trạng lạc hậu.

3- Cơ cấu công nghiệp :

So với cơ cấu chung của toàn quốc, cơ cấu công nghiệp của vùng có những sự khác

biệt lớn trong khu công nghiệp khai thác của toàn quốc chiếm tới khoảng 14% giá trị

SXCN thì ở vùng 3, phân ngành này chỉ chiếm có gần 3% ngược lại, phân ngành chế biến

nông, lâm , thủy sản chung của toàn quốc chi là khoảng 30% -36% thì ở vùng 3, lại lên tới

trên 50%. Công nghiệp cơ bản, mức trung bình của toàn quốc là khoảng 23%. nhữnh năm

gần đây đang có su hướng tăng cao, đạt tới 28% ( năm 2000) thì ở vùng 3, chỉ là khoảng

10% Điều này chứng tỏ, các ngành công nghiệp của vùng 3mới chỉ được phát triển trên cơ

sở các nguồn lực tại chỗ từ nông, lâm nghiệp

4- Phân bố công nghiệp trong vùng:

Như trên đã nói, tổng số cơ sở sản xuất công nghiệp toàn tỉnh là 84.503 cơ sở,).

Các cơ sở sản xuất được phân bố ở hầu hết các ngành công nghiệp. Tuy nhiên, tập trung

chủ yếu ở các nhóm chế biến nông, lâm, thuỷ s nhất vùng ( ản. Đây cũng là ngành có giá

trị SXCN lớn, các ngành công nghiệp cơ bản như luyện kim, điện tử tin học và ngành sản

suất , phân phối điện, nước, ga là nhữg ngành có ít cơ sở sản xuất, đồng thời cũng là

những ngành có giá trị SXCN thấp trong cơ cấu của vùng.Công nghiệp dệt, may. da dày và

sản xuất vật liệu xây dựng là những ngành khá phát triển, với cơ cấu giá trị SXCN tương

ứng là 18.14% và 12.32% trong cơ cấu của vùng ( số liệu năm 2000).

5- Hoạt động đầu tư cho công nghiệp:

Vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong vùng năm 2000 đạt 4.350,85tỷ đồng , tăng

gần 23% so với năm 1999. Trong đó, vốn đầu tư ngân sách chỉ giao động khoảng 14-15,

vốn tự có của các cơ sở khoảng 30%, còn laị là vốn vay.

Xét cơ cấu đầu tư theo các phân ngành công nghiệp thì vốn đầu tư cho công nghiệp

năm 2000 đạt 2.22.405trệu đồng, chỉ tăng có 7% so với năm1999. Trong đó, đầu tư cho

công nghiệp khai thác chỉ khoảng 3%.Đầu tư cho công nghiệp chế biến đã tăng từ 85,46%

(1999) lên 91,82% (2000). Ngược lại, đầu tư cho công nghiệp sản xuất và phân phối điện,

nước, ga lại giảm từ 11,82%(1999) xuống còn 5,56%(2000).

Xét cơ cấu đầu tư theo các thành phần kinh tế thì tỷ trọng vốn đầu tư cho công

nghiệp trong tổng vốn đầu tư của các đơn vị quốc doanh trung ương cho vùng 3 đã giảm tư

38%(1999) xuống còn 36,21% (2000). Các doanh nghiệp quốc doanh địa phương còn

giảm mạnh hơn tư 43,66%(1999) xuống còn 55,56%(2000). Điều đó chứng tỏ , những năm

gần đây khu vực ngoài quốc doanh đã chú trọng đầu tư cho công nghiệp nhiều hơn.

Trong tổng vốn đầu tư cho công nghiệp của các doanh nghiệp trong vùng khu vực

quốc doanh tương ứng đã giảm tỷ trọng từ 39,24% (1999) xuống còn 32,71%(2000)và chủ

yếu đầu tư cho các ngành công nghiệp chế biến. Công nghiệp khai thác hầu như không

được đầu tư, số lượg vốn đầu tư chỉ chiếm chưa đầy 1% trong tổng vốn đầu tư của khu

vực này.

III- Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về công nghiệp và kết cấu hạ tầng

Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý nhà nước về công nghiệp được quy

định trong thông tư Liên bộ 18/TTB giữa Ban tổ chức cán bộ Chính phủ và Bộ công

nghiệp cho các cơ sở công nghiệp còn nhiều bất cập. Đây là hạn chế chung cho cả nước

chứ không riêng gì tỉnh Quảng Ngãi, thể hiện ở một số khía cạnh sau:

Có quá nhiều đầu mối thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp trên

địa bàn như sở kế hoạch đầu tư thì quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Sở

công nghiệp chỉ quản lý các doanh nghiệp trong nước. Riêng khu công nghiệp nông thôn

lại đang có sự chồng chéo trong chức năng quản lý giữa Sở Nông nghiệp và phát triển

nông thôn và sở Công nghiệp.

 Biên chế hoạt động của các sở Công nghiệp trong tỉnh tạm ổn, song biên chế và tổ

chức hoạt động của các phòng công nghiệp cấp quận, huyện còn nhiều bấp cập…

tình trạnh phổ biến là gộp, ghép giữa các chức năng quản lý về công nghiệp, xây

dựng, giao thông, trong cùng một tổ chức với biên chế rất hạn chế.

 Vẫn còn tồn tại kiểu quản lý doanh nghiệp theo cấp chủ quản (nhiều doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nhưng lại có các chủ quản là các sở

không phải là công nghiệp, thậm chí là UBND tỉnh hoặc tỉnh uỷ) và có phần phân

biệt giữa công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương, nên chức năng

quản lý nhà nước không được thực hiện triệt để, nhiều lĩnh vực bị bỏ sót hoặc

chồng chéo.

 Chức năng quản lý nhà nước mới chỉ được thực hiện khá hoàn chỉnh ở một số

lĩnh vực như quản lý điện năng và quản lý tài nguyên, vật liệu nổ công nghiệp.

Các chức năng khác không được thực hiện đầy đủ do có sự chông chéo trong

phân công giữa các chuyên ngành và lẫn lộn giữa chức năng quản lý nhà nước và

chức năng quản lý sản xuất kinh doanh.

 Mối quan hệ giữa các sở Công nghiệp và Bộ công nghiệp quá lỏng lẻo. Phản ánh

chung của các sỏ công nghiệp là hiệu quả quản lý của Bộ đối với các sở là quá ít,

một phần do những hạn chế của Thông tư 18, một phần do lực lượng cán bộ của

Bộ theo rõi công nghiệp của các địa phương quá mỏng. Những bất cập này cần

được nhanh chóng khắc phục.

IV- Nhận xét đánh giá chung

1- Thành tựu:

Công nghiệp đã được phát triển ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực trong tỉnh. Tốc độ

tăng trưởng giá trị SXCN giai đoạn 1996-2000 đạt thấp, thấp hơn mức bình quân chung

của cả nước.

Đã tận dụng được một số thế mạnh của vùng về nguồn nguyên liệu tại chỗ, đặc biệt

là nguồn nguyên liệu từ nông, lâm, thuỷ sản và các loại khoáng sản, kể cả các nguồn

khoáng và nguồn lao động tại chỗ, nên đã tạo được mội số ngành công nghiệp mũi nhọn

như chế biến nông, lâm, thuỷ sản, dệt may, giầy da và vật kiêu xây dựng.

Các địa phương đã năng động thể hiện ở việc có những chính sách đúng, phù hợp

trong việc tìm kiếm thị trường, thu hút đầu tư cả trong nước và ngoài nước để phát triển

sản xuất, trên cơ sở các tiềm năng sẵn có và thế mạng của chính mình.

2- Tồn tại

Nhìn chung chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có của vùng, các nguồn

lực từ nông, lâm, thuỷ sản đã được tập trung khai thác, nhưng hiệu quả còn chưa cao. Sản

xuất còn manh mún, thậm chí nguyên liệu đánh bắt và nuôi trồng đã không được chế biến

tại chỗ mà phải chuyển đi các vùng khác. Đặc biệt là nguồn lực con người chưa được khai

thác triệt để.

Hiệu quả của dự án đầu tư chưa cao, chưa tương xứng với số vốn bỏ ra. Vốn đầu tư

cho khu vực của vùng tuy có tăng về giá trị tuyệt đối, nhưng giảm về tỷ trọng so với tổng

đầu tư của tỉnh.

Có sự mất cân đối trong nội bộ các ngành công nghiệp so cới cơ cấu chung của toàn

quốc. Công nghiệp khai thác, sản xuất và phân phối điện nước quá nhỏ bé so với cơ cấu

chung của cả tỉnh.

Thu hút đầu tư nước ngoài còn yếu. Tỷ trọng GDP công nghiệp của vùng chủ yếu

do khu vực kinh tế trong nước đóng góp.

Thiếu sự liên kết giữa các huyện trong tỉnh ở một số ngành công nghiệp có cùng

chung tiềm năng như sản xuất mía đường, chế biến thuỷ hải sản, sản xuất vật liệu xây

dựng…

Quản lý nhà nước về công nghiệp còn nhiều bất cập. Hiện trạng chồng chéo trong

chức năng giữa một số cơ quan của tỉnh vẫn thường xẩy ra và chưa có giải pháp khắc

phục. Công nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là sản xuất tiểu thủ công nghiệp vẫn còn

phát triển chủ yếu là tự phát.

Đầu tư cho công nghiệp của khu vực quốc doanh (cả TW và địa phương) có xu

hướng giảm dần.nguồn vốn đầu tư cho tỉnh từ nguồn ngân sách về giá trị tuyệt đối có tăng

nhưng tỷ trọng trong tổng đầu tư thì lại giảm. nguồn đầu tư vốn tự có cũng có xu hướng

tương tự. điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp chủ yếu hoạt động bằng vốn vay tín dụng.

Chương III: Thực trạng và những vấn đề đặt ra với việc quy hoạch phát triển khu

công nghiệp Dung Quất.

I- Thực trạng phát triển- những thành tựu và tồn tại

1- Vài nét về lịch sử hình thành khu công nghiệp Dung Quất.

Quãng Ngãi từ xưa vốn là mãnh đất giàu truyền thống cách mạng. Trong sự nghiệp đổi

mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tiến hành công nhgiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Quãng

Ngãi đã nổ lực vươn lên, khắc phục nhiều khó khăn, đồng thời tranh thủ sự chi viện của

Trung Ương, sự giúp đỡ của các tỉnh bạn đã xây dựng công trình đại thuỷ nông Thạch

Nham, tạo ra sự phát triển bước đầu về kinh tế-xã hội.

Sau ngày tái lập tỉnh, với điểm xuất phát thấp do kết cấu hạ tầng yếu kém, nền kinh tế

chủ yếu vẫn là nông nghiệp, Đảng bộ và nhân dân Quãng Ngãi đang nổ lực và quyết tâm

vươn lên đưa tỉnh nhà trở thành tỉnh có công nghiệp phát triển. Xuất phát từ điều kiện tự

nhiên ưu đãi, có điều kiện thuận lợi để xây dựng một cảng biển nước sâu với quy mô lớn ở

khu vực Dung Quất, tháng 6 năm 1993 Tỉnh Uỷ, Hội đồng nhân dân đã có chủ trương và

UBND tỉnh Quãng Ngãi đã thành lập ban chủ nhiệm chương trình 693 nghiên cứu về cảng

nước sâu Dung Quất. Các nhà khoa học đã hợp tác với các công ty tư vấn đầu tư của Nhật

Bản để nghiên cứu khảo sát, thu thập tài liệu xây dựng dự án, mong muốn tìm con đường

phát triển công nghiệp gắn với cảng biển nước sâu.

Tỉnh đã chủ động phối hợp với các bộ ngành Trung Ương tiến hành điều tra khảo sát,

chụp không ảnh, xây dựng bản đồ khu vực Dung Quất và các vùng lân cận, xúc tiến lập

quy hoạch chung khu công nghiệp Dung Quất. Ngày 19 tháng 9 năm 1994, Thủ Tướng Võ

Văn Kiệt đã thị sát vùng Dung Quất, chỉ thị cho nghiên cứu, khảo sát lập quy hoạch khu

công nghiệp tập trung và cảng biển nước sâu Dung Quất và tìm địa điểm cho nhà máy lọc

dầu số 1. Ngày 9 tháng 11 năm 1994. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số

658/TTg về địa điểm về nhà máy lọc dầu số 1 và quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm miền

Trung Việt Nam. Việc hình thành khu công nghiệp Dung Quất và nhà máy lọc dầu số 1 là

yếu tố then chốt có tính quyết định, là động lực để thúc đẩy Miền Trung từng bước rút

ngắn sự cách biệt về phát triển kinh tế so với hai đầu đất nước. Tỉnh Quãng Ngãi và Quãng

Nam có điều kiện để phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ, có nhiều cơ hội để

nhanh chóng xoá đói giảm nghèo, tụt hậu, hướng tới tương lai tốt đẹp.

Về tính chất, theo quy hoạch đã được phê duyệt thì “ khu công nghiệp Dung Quất là

khu công nghiệp lọc và hoá dầu đầu tiên của cả nước; nơi đây sẽ tập trung nhiều ngành

công nghiệp có quy mô lớn, gắn liền với cảng biển nước sâu Dung Quất và sân bay quốc tế

Chu Lai; là trung tâm kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi trong vùng kinh tế trọng điểm miền

Trung và có ý nghĩa quan trọng về quốc phòng”.

Về quy mô, theo quyết định phê duyệt khu công nghiệp Dung Quất của Thủ tướng

Chính phủ bao gồm khoảng 14.000 ha, trong đó có 10.300 ha thuộc phạm vi của huyện

Bình Sơn, huyện Sơn Tịnh ( Quảng Ngãi ); còn lại 3.700 ha nằm trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam. Bắt đầu từ mũi Kỳ Hà thuộc Quảng Nam ( bao gồm cả sân bay Chu Lai ) đến mũi

Co Co thuộc Quảng Ngãi, khu công nghiệp Dung Quất đựơc xây dựng chủ yếu trên địa

bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi và một phần đất thuộc phía Nam huyện Núi Thành,

tỉnh Quảng Nam .

Về sử dụng đất, trong 14.000 ( trong phạm vi 9 xã với 70.000 dân ); đất công nghiệp

3.180 ha ( địa bàn Quảng Nam: 751 ha; địa bàn Quảng Ngãi; 2.429 ha ; đất giao thông; 300 ha; Cảng Dung Quất có diện tích mặt nước hữu ích; 4 km2; diện tích đất phát triển

cảng 600 ha (kho bãi, dịch vụ phụ trợ).

- Vị trí kinh tế của vùng Dung Quất:

Địa điểm Dung Quất nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (ranh giới từ Huế

đến Nha Trang) mà hạt nhân là trục Liên Chiểu- Dung Quất; là 1 trong 3 vùng kinh tế

trọng điểm của cả nước.

Miền kinh tế trọng điểm miền trung ở vào vị trí trung độ của cả nước với trên 1.000

km bờ biển và hàng trăm đảo lớn nhỏ, có nhiều cảng nước sâu, gần đường hàng hải Quốc

Tế, là bao lon của nước ta ra Thái Bình Dương, là đầu mối của hệ thống giao thông đường

bộ, đường sắt Bắc Nam và các trục Đông- Tây nối với Tây Nguyên và tương lai với Lào-

Thái Lan trong hệ thống đường xuyên á.

Trong vùng có nhiều khoáng sản: cát thuỷ tinh, cao lanh đá granit, vạt liệu xây dụng

dồi dào, ngoài ra còn nhiều vàng, than đá, nước khoáng…

Đất đai cho phép phát triển nông nghiệp đa dạng cả trồng trọt chăn nuôi và thuỷ hải

sản là nguyên liệu tốt cho công nghiệp chế biến.

Vùng có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hoá nổi tiếng, nhiều bãi tắm

thuận lợi cho phát triển du lịch, dịch vụ.

Trong vùng, còn có nhiều vùng đất thuận lợi cho phát triển công nghiệp mà không

ảnh hưởng đến đất nông nghiệp; có nguồn nước ngọt phong phú từ các sông Thu Bồn- Vũ

Gia, sông Tam Kỳ- Trà Bồng, với hệ thống kênh của đập hồ Phú Ninh, Thạch Nham. Nằm

trong hệ thống điện Quốc Gia thống nhát đến nay, đã có đủ điều kiện cung cấp điện từ

trạm 500 KV Dà Nẵng.

Vùng Dung Quất đang được quy hoạch, xác định là một trong những điểm hội đủ các

lợi thế kể trên.

- Quy hoạch khu công nghiệp Dung Quất:

Trên quan điểm phát triển các hạt nhân để thúc đẩy phát triển kinh tế vùng Trung bộ và

Tây Nguyên, hoà đồng trong sự phát triển chung của cả nước, Dung Quất được chọn là

một vùng phát triển mạnh công nghiệp, tạo động lực đột phá cho miền Trung.

Hiện nay, cơ sở hạ tầng hầu như chưa có gì, nhưng xét về tiềm năng, có đủ các điều

kiện về vị trí địa lý, đất đai cung cấp điện, nước, có điều kiện xây dựng cảng, sân bay giao

thông đường sắt, đường bộ, có nguồn lao động lớn, là những điều kiện quan trọng để phát

triển thành vùng công nghiệp lớn.

Trong quy hoạch về sơ bộ bố trí khu công nghiệp Dung Quất trên địa bàn của 19 xã

thuộc Bình Sơn và Sơn Tịnh với tổng diện tích 29.000 ha trong đó có 10.600 ha chưa sử

dụng tương đối bằng phẳng.

Cụm công nghiệp Dung Quất được bố trí:

Khu A: Diện tích 600 ha với một cảng nước sâu đảm bảo xây dựng cảng 4 chức năng:

dầu khí- công ten nơ- thương mại (tổng hợp)- dịch vụ. Giai độan 1 công suất 20-30 triệu

tấn. Giai đoạn 2 công suất 50-60 (có thể 100) triệu tấn. Nhà máy lọc dầu 6,5 triệu tấn (ở

giai đoạn 1).

Khu B: Diện tích 300 ha là khu công nghiệp luyện thép công suất 2 triệu tấn/năm và các

nhà máy phục vụ.

Khu C: Diện tích 400 ha là khu công nghiệp nhẹ, dệt may mặc, điện tử và tiểu thủ công

nghiệp.

Khu D: Diện tích 400 ha là khu công nghiệp chế biến nông lâm hải sản.

Xây dựng cụm công nghiệp Dung Quất sẽ kéo theo các ngành công nghiệp khác của

tỉnh Quảng Ngãi như : đường, bia, vật liệu xây dựng và dịch vụ cùng phát triển, đồng thời

ra đời và phát triển thành phố Vạn Tường quy mô từ 4-12 (vạn người)(2000-2010).

Dự tính giai đoạn đầu, đột phá là nhà máy lọc dầu (trước năm 2000) 200ha, khu D

khoảng 50ha được xây dựng các xí nghiệp. Giai đoạn sau (2010), khu A tăng lên 400ha;

khu B tăng lên 100ha; khu C tăng lên 100 ha; khu D tăng lên 100ha.

Cùng với việc xây dựng các khu công nghiệp là việc xây dựng các công trình hạ

tầng quan trọng khác như cảng Dung Quất, sân bay quốc tế Chu Lai, các tuyến đường nối

với đường bộ, đường sắt quốc gia, nâng cấp quốc lộ 24 và xây dựng các tuyến đường nội

bộ.

Như vậy, nhà máy lọc dầu đã nằm trong quy hoạch phát triển của vùng trọng điểm

trung bộ và giữ vai trò quan trọng trong quy hoạch.

Về địa điểm nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhà máy lọc dầu 6,5 triệu tấn/ năm tại Dung

Quất là nhà máy đầu tiên được chọn địa điểm tại vùng cảng theo quy hoạch nên được ưu

tiên lựa chọn trong phạm vi rộngchung quanh vùng cảng sao cho đảm bảo được các yêu

cầu kĩ thuật của công nghệ trước mắt và lâu dài và tính khả thi về kinh tế của dự án nhưng

đồng thời cũng phải dành chỗ cảng cho các mục tiêu khác như quy hoạch và không gây ô

nhiễm môi trường (đặc biệt là cảng)

Bốn địa điểm của dự án đưa ra lựa chọn hiện chỉ có một địa điểm được khảo sát sơ bộ, vì

vậy khó có thể xét địa điểm nào là tốt nhất. Việc so sánh các địa điểm dựa trên những số

liệu đầu vào rất sơ bộ, vì vậy khó có thể xét địa điểm nào là tốt nhất. Việc so sánh các địa

điểm dựa trên những số liệu đầu vào rất msơ bộ với nhiều giả thiết còn đang bàn cải và

như vậy những kết luận đưa ra chưa có cơ sở, cần được bổ xung kỹ hơn.

Về cảng nhập và xuất đầu đề nghị xét trong tổng thểquy hoạch của cảng, nhà máy lọc dầu

chỉ sử dụng 1 phần cảng (13 triệu tấn/ năm) trong số 50-60 triệu tấn thì nhà máy chỉ chịu

một phần vốn tương ứng là hợp lý hơn việc đầu tư toàn bộ hoặc không tính đầu tư.

Các đầu tư khác về kết cấu hạ tầng (không kể cảng) phục vụ riêng cho nhà máy thì không

nên đặt vấn đề tách riêng.

Với địa điểm Dung Quất, bất cứ 1 công trình nào xây dựng đầu tiên cũng sẽ gặp khó khăn

tương tự nhiều phải xây dựng hạ tầng cơ sở từ đầu. Riêng đối với lọc dầu phải cộng thêm

một khó klhăn lớn khác là xa thị trường (thị trường trong nước tập trung ở miền Bắc 30%,

miền Nam 50%, miền Trung chỉ 10%). Nừu chọn Dung Quất là nhà máy lọc dầu thứ nhất

thì còn gặp một khó khăn lớn khác là thời gian xây dựng (yên cầu xong trước năm 2000).

Với khó khăn này làm cho tính khả thi hiện tại của dự án bị giảm. Vì vậy tính khả thi của

dự án thiên về là nhà máy lọc dầu thứ 2 (dành chỗ cho nhà máy lọc dầu) khi cảng Dung

Quất đã hoạt động.

2- Những thành tựu đạt được

2.1.Trước năm 1996

Khu vực Dung Quất chủ yếu là các đồi cát với các hoạt động chủ yếu là sản xuất

nông nghiệp và khai thác hải sản năng suất thấp; chưa có cơ sở công nghiệp đáng kể ngoài

một số cơ sở như kho tàng, bến cảng khu vực Kỳ Hà và sân bay Chu Lai, cũng như khu

vực Sa Kỳ ở phía Nam. Khu vực Kỳ Hà có cơ sở phá dỡ tàu biển và luyện thép bằng sắt

vụn do Quân khu 5 quản lý kết hợp với việc quản lý khai thác cảng Kỳ Hà (cảng quân sự

hiện nay).

Về dân số và lao động Dung Quất có khoảng 139.513 người, chủ yếu là lao động nông

nghiệp và ngư nghiệp. Lao động công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp không đáng kể, lao

động dịch vụ thương nghiệp còn ít và chủ yếu ở hai thị trấn Châu Ô (Quảng Ngãi) và Núi

Thành (Quảng Nam).

Về cơ sở hạ tầng, ngoài một số tuyến, công trình đầu mối như giao thông quốc lộ 1A,

đường sắt Bắc Nam, sân bay Chu Lai, cảng Kỳ Hà, tuyến cao áp 110 KV dọc quốc lộ 1A

và các tuyến trung áp 15KV ngoài khu vực Dung Quất; còn trong khu vực quy hoạch cơ sở

hạ tầng phục vụ kinh tế phục vụ công nghiệp và đô thị chưa có. Các cơ sở hạ tầng xã hội

còn thấp kém, các công trình công công như trường học, trạm y tế…chủ yếu là công trình

1 tầng cấp IV bán kiên cố và tạm thời.

2.2. Từ năm 1996 – 2001.

Năm năm qua được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, sự giúp đỡ của các Bộ

ngành Trung ương, sự chỉ đạo trực tiếp của tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, phối hợp với Ban

quản lý khu công nghiệp Dung Quất và các Sở ban ngành trong tỉnh… khu công nghiệp

Dung Quất đã được khởi công và bắt đầu hoàn thành.

2.2.1.Các quy hoạch đã được phê duyệt

- Quy hoạch mặt bằng khu công nghiệp Dung Quất- Chu Lai 14.000 ha.

- Quy hoạch chi tiết khu tái định cư; Gò Đường, Đông Hoà, Đồng Lớn, Giếng Hồ, Đồng

Rướn, Tây Trà Bồng, Hàm Rồng, An Phú…

- Quy hoạch chi tiết các khu nghĩa địa Bình Trị, Bình Đông, Hàm Rồng, Gò Đường, Bình

Hoà.

- Quy hoạch chi tiết sử dụng đất khu công nghiệp phía Tây sông Trà Bồng (Nam Chu Lai)

2.100 ha.

- Quy hoạch chi tiết khu công nghiệp phía Đông Dung Quất: 5.054 ha.

- Quy hoạch chung đô thị Vạn Tường với 2.400 ha, quy mô dân số năm 2005 khoảng

28.000 dân và năm 2010 khoảng 120.000 dân.

- Quy hoạch xây dựng khu dân cư và chuyên gia nhà máy lọc dầu số 1.

- Quy hoạch xây dựng khu trung tâm phía Bắc Thành phố Vạn Tường: 180 ha và khu trung

tâm phía Nam thành phố Vạn Tường 750 ha.

- Cắm mốc quy hoạch khu công nghiệp (34km) với 15 biển báo.

2.2.2. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật

a) Hệ thống giao thông

- Đã hoàn thành cơ bản việc xây dựng kết cấu hạ tầng gai đoạn một của KCN Dung Quất

và thành phố Vạn Tường với tổng số vốn đầu tư gần 1000 tỷ đồng.

- Đã đầu tư xây dựng hai tuyến đường chính nối từ trục giao thông Bắc- Nam vào KCN

Dung Quất và các đường giao thông chính trong thành phố Vạn Tường với tổng số 60,96

km đưòng giao thông và đã đưa sử dụng 55 km đường giao thông và một bến cảng chuyên

dùng cho tàu 10.000 tấn.

Cụ thể như sau:

+Tuyến đường phía Bắc nối quốc lộ 1A với cảng Dung Quất và nhà máy lọc dầu số

1 dài 20,3 km đã hoàn thành và phát huy tác dụng.

Tuyến đường phía Nam :nối quốc lộ 1A với Bình Long và nhà máy lọc dầu số 1 dài

9,16km đã đưa vào sử dụng.

+Đường công vụ Bình Hiệp – Dung Quất (11km) đã hoàn thành và đưa vào sử dụng

phục vụ tốt quá trình thi công xây dựng.b

b)Hệ thống cảng Dung Quất : Liên doanh Vietros đã khởi công xây dựng đê chắn sóng,

cảng xuất sản phẩm và chuẩn bị thủ tục đưa vào vận hành Bến cảng chuyên dụng số 1

phục vụ thi công đáp ứng tầu trọng tải 1 vạn- 1,5 vạn DWT. Đang hoàn chỉnh dự án đàu tư

2 bến cảng tổng hợp cho tầu 3 vạn tấn. Một số doanh nghiệp hàng hải đang có kế hoạch

đầu tư phát triển bãi, kho tàng gắn với cảng.

Bến cảng số 1 đã cơ bản hoàn thành

Đang xây dựng đê chắn sóng dài 1,6 km

Đang lập dự án khả thi xây dựng bến cảng số 2 cảng tổng hợp theo phương thức

BOT.

c)Đường hàng không :tên cơ sở 2 tuyến đường băng hiện có ( 3020 m x 45m và 2080 m

x…m), sân bay Chu Lai sẽ được ngành hàng không đầu tư khôi phục và đưa vào hoạt động

vào năm 2003 và sẽ tiếp tục triển khai đầu tư nâng cấp từng bước trở thành sân bay quốc

tế.

d)Hệ thống cấp nước

Đã hoàn thành nhà máy nước 15.000m3 / ngày, lắp đặt xong tuyến đường ống dẫn

nước phục vụ xây dựng NMLD số 1, tuyến đường ống đến khu vực cảng, thành phố Vạn Tường. Đang dự kiến nâng cấp nhà máy nước lên 1000.000m3/ngày đem theo sự phát triển

của KCN Dung Quất .

e)Hệ thống cấp nước

Đã hoàn thành nhà máy nước 15.000m3/ ngày, lắp đặt xong tuyến đường ống dẫn

nước phục vụ xây dựng NMLD số 1, tuyến đường ồng đến khu vực cảng, thành phố Vạn Tường. Đang dự kiến nâng cấp nhà máy nước lên 100.000m3/ngày đêm theo sự phát triển

của KCN Dung Quất.

f)Hệ thống cấp điện

Đã hoàn thành điện 110KV/25MVA, đường dây 110KV Nước Mặn – Bình Trị(

trung tâm KCN). Trạm 220KV /63MVA và đường dây220KV mạch kép từ trạm 500 KV

Cầu Đỏ - Đà Nẵng về trạm 220KV nước Mặn.

f)Hệ thống thông tin liên lạc

Hoàn thành Bưu điện Dung Quất với tổng đài điện tử 512 số, cột ăng ten cao 40m

phủ sóng điện thoại di động toàn KCN Dung Quất .Chuẩn bị khởi công xây dựng 3 trạm

viễn thông và tổng đài điện tử HOST 8.632 số bằng nguồn vốn ODA.

2.2.3.Hệ thống hạ tầng xã hội

Đi đôi với việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật, đã tiến hành xây dựng các công trình hạ

tầng xã hội phục vụ nhu cầu ăn ở sinh hoạt, học tập cho công nhân,chuyên gia khu công

nghiệp.

Đang xây dựng trung tâm đào tạo lao động kỹ thuật khu công nghiệp Dung Quất với quy

mô 1.000 học viên.

Đang chuẩn bị xây dựng bệnh viện 100 giường.

Đang xây dựng trung tâm Monitoring môi trường cho khu công nghiệp Dung Quất .

Thoả thuận địa điểm để lập các dự án khu vui chơi giải trí, nhà hàng, khách sạn, nhà

nghỉ, khu văn hoá thể thao tại thành phố Vạn Tường.

Tiếp tục thực hiện dự án rừng phòng hộ môi trường cảnh quan khu công nghiệp

Dung Quất :chăm sóc 48,5 ha rừng phòng hộ đã trồng trong năm 2001 và chuẩn bị trồng

mới 100 ha rừng phòng hộ và cảnh quan khu công nghiệp .

Tổ chức điều ta khảo sát, khảo sát những vấn đề khảo cổ, thực trạng kinh tế – xã hội,

phong tục tập quán phục vụ di dân và xử lý thông tin kết quả điều tra xã hội học .

2.3. Công việc chuyển dân, giải phóng mặt bằng, xây dựng các khu tái định cư

Phối hợp với chính quyền địa phương, đã tổ chức di chuyển được 791 hộ giải phóng

mặt bằng trên 400 ha cho nhà máy lọc dầu số 1 và các công trình khác trong khu công

nghiệp .

Xây dựng 9 khu tái định cư và các khu dãn dân, diện tích 100 ha, năng lực thiết kế

2000 hộ, xây dựng 5 nghĩa địa diện tích 14,6 ha, năng lực thiết kế 1572 mộ, cải táng

khoảng 7000 ngôi mộ.

Xây dựng các chính đền bù, giải toả, phối hợp cùng các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến

độ giải phóng mặt bằng.Tổ chức vận động nhân dân thực hiện di dời, tái định cư, bàn giao

mặt bằng cho các chủ đầu tư với diện tích 1040 ha.

Công tác kiểm kê, áp giá đền bù:

+ Tổng số hồ sơ được áp giá đền bù gần 7000 hồ sơ + số hộ phải di chuyển hơn 1000

hộ, trong đó 783 hộ với 3340 khẩu vào khu tái định cư, 254 hộ với 1070 nhân khẩu

chài dân

+ Tổng kinh phí đã chi trả gần 100 tỷ đồng

+ Số mồ mả được di dời ra khỏi mặt bằng 8650 ngôi mộ

+ Bình quân đền bù 92,3 triệu đồng/ hộ

- Tổ chức điều tra khảo sát những vấn đề khảo cổ ,thực trạng kinh tế – xã hội , phong

tục tập quán phục vụ di dân và xử lý thông tin kết quả điều tra xã hội học.

- Phối hợp với UBND tỉnh Quảng Ngãi , các chủ đầu tư đưa các chương trình hỗ trợ

,các dự án cải tảo đồng ruộng giúp cho các hộ dân phải di chuyển đến khu tái định

cư nhanh chóng ổn định đời sống, sản xuất.

2.4. Về thu hút đầu tư:

Thực hiện quy hoạch chung, trong hơn năm năm qua qua đã thu hút được một khối

lượng vốn đầu tư tương đối lớn từ các nguồn vốn trong nước như vốn đầu tư từ ngân sách

nhà nước khoảng gần 600 tỉ đồng, vốn đầu tư từ các doanh nghiệp như điện lực , bưu chính

viễn thông khoảng 400 tỉ đồng : vốn liên doanh xây dựng nhà máy lọc dầu với tổng vốn

góp khoảng 440 triệu USD, kế hoạch đầu tư là 376 triệu USD , đến hết năm 2001 đã thực

hiện khoảng 75 triệu USD, bằng 17% vốn góp và bằng 5,77% so với tổng vốn đầu tư.

Đến nay đã có 14 dự án được cấp phép đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất (

chủ yếu trong 2 năm 2000 và 2001 ) với vốn 1534 triệu USD và hơn 350 tỉ VND.Trong số

các dự án được cấp phép, có 3 dự án đã đi vào sản xuất, 2 dự án hoàn thành san nền và

đang thi công ,2 dự án giải phóng xong mặt bằng.

Dự án Nhà máy lọc dầu số 1

Dự án liên doanh giữa tổng công ty dầu khí Việt Nam và tập đoàn Zarubeznhef đầu

tư với tổng vốn đầu tư 1,5 tỷ USD công suất 130.000 thùng ngày ( tương đương với 6,5

triệu tấn/năm). Công ty liên doanh Vietross trực tiếp điều hành, dự kiến năm 2005 hoàn

thành và dưa vào sử dụng .

- Mặt bằng chính của nhà máy lọc dầu số 1 đã hoàn thành. Các gói thầu của dự án nhà máy

lọc dầu đã xong bước đấu thầu, trong đó có một số gói thầu đang thi công .Riêng gói thầu

5A ( đê chắn sóng ) đã khởi công từ ngày 28/03/2001 nhưng đến nay còn đang trong giai

đoạn thiết kế kỹ thuật chi tiết và gói thầu số 1 đang chờ Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

- Sự hoàn thiện một bước hệ thống hạ tầng trong khu công nghiệp Dung Quất kết hợp với

việc nhà máy lọc dầu số 1 chuyển sang giai đoạn triển khai đồng loạt các gói thầu công

nghệ , bước đầu đã tạo ra sức hút mạnh mẽ trong việc đầu tư theo dự án các công trình sản

xuất như: dự án sản xuất nhựa PP, PE, Sợi tổng hợp PS, sản xuất chất tẩy rửa công nghiệp

LAB, nhà máy EN Parafin …

- Trong mặt bằng nhà máy các hạng mục công trình đang được thi công : san lấp mặt bằng

bể chứa sản phẩm , xây tường rào nhà máy, khu bể chứa dầu thô và bể chứa sản phẩm , đê

chắn sóng.

Dự án nhà máy kết cấu thép

Tổng vốn đầu tư của dự án là 20 triệu USD do Công ty liên doanh xây dựng Việt

Nga đầu tư , đang hoàn thành các thủ tục cần thiết để tiến hành xây dựng nhà máy.

Các dự án kinh doanh cơ sở hạ tầng

- Dự án kinh doanh cơ sở hạ tầng khu dân cư và chuyên gia NMLD số 1 do Công ty

xây dựng Sông Đà 6 (48 ha ), tổng vốn đầu tư 32,5 tỷ đồng và Tổng công ty miền

Trung ( 34 ha ) , tổng vốn đầu tư 26 tỷ đồng.

- Dự án kinh doanh cơ sở hạ tầng khu hoá dầu quy mô 600 ha, tổng vốn đầu tư 35

triệu USD, giai đoạn 1 (50 ha ) do liên doanh giữa tập đoàn AMATA và Công ty

phát triển cơ sở hạ tầng Quảng Ngãi tổng vốn đầu tư 4,2 triieụ USD.

- Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp vật liệu xây

dựng khu công nghiệp phía đông Dung Quất ( 53,8 ha ) tổng vốn đầu tư 48,8 tỷ

đồng do Công ty xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng tổng công ty xây dựng số

1 đầu tư.

Các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh

- Nhà máy sản xuất nhựa đường Kỳ Hà do liên doanh Việt – Mỹ (JaguarAsphalt ),

tổng vốn đầu tư 122 triệu USD .

- Nhà máy sản xuất gạch Block do Công ty xây dựng 72 thuộc Tổng công ty xây

dựng miền Trung ,tổng vốn đầu tư 8,3 tỷ đồng, công suất 20 triệu viên/năm .

- Nhà máy tháo dỡ tàu biển Kỳ Hà ( liên doanh Việt Nhật ), tổng vốn đầu tư 6 triệu

USD .

- Dự án kho bãi hàng hoá ( 15 ha ) do công ty cổ phần thiết bị Hàng hải – Tổng công

ty hàng hải Việt Nam , tổng vốn đầu tư 45 tỷ đồng.

- Dự án khu du lịch (5 ha )do doanh nghiệp tư nhân Quang Châu, tổng vốn đầu tư 18

tỷ đồng.

- Dự án xây dựng khu sản xuất phụ trợ 04 ha do Công ty thiết kế và xây dựng dầu khí

thuộc Tổng Công ty dầu khí Việt Nam thực hiện ,tổng vốn đầu tư 15,3 tỷ đồng.

- Dự án nhà máy gạch Dung Quất 2 công suất 20 triệu viên/năm do Công ty xây dựng

đô thị và khu công nghiệp thuộc Tổng Công ty xây dựng Hà Nội thực hiện ,tổng

vốn đầu tư 11,2 tỷ đồng.

- Dự án đầu tư xây dựng bến số 1 cảng tổng hợp Dung Quất theo hình thức BOT quy

mô công suất 1 vạn DWT (giai đoạn 1), vốn đầu tư 200 tỷ đồng.

- Dự án bến cảng số 2 cảng tổng hợp Dung Quất theo hình thức BOT quy mô công

suất cặp tàu 1 vạn DWT (giai đoạn 1 ), vốn đầu tư 200 tỷ đồng.Đang lập dự án tiền

khả thivà xây dựng bến tạm đẻ phục vụ thi công đê chắn sóng.

- Nhà máy nước giai đoạn 2 :100.000m3/ngày , vốn đầu tư 47,5 triệu USD ,của đầu tư

Liên doanh VINACONEX và 4 doanh nghiệp Đức , đang đàm phán để chọn

phương án khả thi.

- Dự án sản xuất Polypropylene, quy mô 100.000 tấn/năm, tổng vốn đầu tư 100 triệu

USD ,chủ đầu tư là công ty Liên doanh VIETTROSS.

- Một số dư án công nghiệp nặng gắn với cảng biển nước sâu (luyện cán thép, đóng

sửa tàu biển, sản xuất thiết bị nặng … )

Việc thực hiện quản lý đầu tư và xây dựng của ban quan lý khu công nghiệp Dung

Quất với tư cách là cơ quan chủ đầu tư có nhiều tiến bộ.Ban Quản lý khu công nghiệp

Dung Quất đã đề xuất và tranh thủ sự ủng hộ của tỉnh để tháo gỡ các vướng mắc thuộc

thẩm quyền quản lý Nhà nước trên lãnh thổ như giải quyết đền bù, tái định cư, ban hành

một số cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất trong thời kỳ

2002 – 2005, phối hợp với các Bộ ngành xúc tiến các dự án và xây dựng chương trình phát

triển có liên quan như: điều chỉnh các phân khu chức năng và thúc đẩy hoàn chỉnh quy

hoạch chi tiết cảng Dung Quất thuộc cụm cảng số 3 – Trung Trung Bộ: về chủ trương xây

dựng kè đê chắn cát cảng Dung Quất , khôi phục và đưa sân bay Chu Lai vào khai thác

cuối năm 2002 hoặc đầu năm 2003 …

Ban quản lý KCN Dung Quất thực hiện kế hoạch 6 tháng đầu năm 2002:

- Đầu tư từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước đạt 48,5% kế hoạch năm 2002:

Thực hiện quyết định số196/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, quyết định số

156/2001/QĐ-BKH ngày 28/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc giao chỉ tiêu kế

hoạch và dự toán Ngân sách Nhà nước năm 2002, Ban quản lý khu công nghiệp Dung

Quất đã triển khai kế hoạch nhà nước ngay từ đầu năm như : Giao kế hoạch cho ban dự án

đầu tư và công trình công cộng; quyết định giao dự toán thu chi ngân sách nhà nước cho

các đơn vị trực thuộc; phê duyệt tiến độ và yêu cầu giá trị khối lượng thực hiện kế hoạch

vốn thuộc nguồn vốn Ngân sách Nhà nước năm 2002; ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và

xây dựng phù hợp với thực tế và cơ chế chính sách của Nhà nước;quy định về tổ chức và

quản lý tài chính-kế toán Ban quản lý khu công nghiệp Dung Quất với vai trò là đơn vị dự

toán cấp I thuộc bộ tài chính (hiên nay đang trình Bộ tài chính phương án khoán chi hành

chính thí điểm năm 2002 theo ý kiến chỉ đạo của chính phủ). Ban quản lý các dự án Đầu tư

và Công trình công cộng và các đơn vị trực thuộc đã tập trung bám sát nhiệm vụ chính trị

được giao tổ chức ra quân thực hiện kế hoạch từ đầu năm, tạo khí thế thi đua sôi nổi, khắc

phục khó khăn phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ năm 2002.

Kết quả thực hiện 6 tháng đầu năm 2002, toàn ban đã thực hiện được 38,378 tỷ

đồng đạt kế hoạch năm 2002, trong đó vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 38,376 tỷ đạt

48,93% kế hoạch năm 2002, chi sự nghiệp đào tạo 300 triệu đồng đạt 50% kế hoạch năm,

vốn chương trình 5 triệu ha rừng đã thực hiện được 200 triệu đồng gồm các hạng mục thiết

kế lâm sinh, chăm sóc, bảo vệ rừng, chuẩn bị cây giồng…

Về tình hình kêu gọi vốn đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất, 6 tháng đầu năm

đã cấp 3 giấy phép đầu tư với tổng vốn 132 tỷ đồng sử dụng 115 ha đất công nghiệp.

Đạt được kế quả trên là do các nguyên nhân :

Thứ nhất, Ban đã được Chính phủ giao kế hoạch sớm, tạo điều kiện thuận lợi trong

việc triển khai thực hiện, Ban quản lý khu công nghiệp Dung Quất tổ chức giao kế hoạch

cho các đơn vị, xây dựng các quy chế, quy trình quản lý, biển pháp tổ chức thực hiện, đề ra

tiến độ thực hiện với những chỉ tiêu cụ thể nhằm phấn đấu hoàn thành cac chỉ tiêu kế

hoạch nhà nước giao năm 2002.

Thứ hai, Ban đã có nhiều biện pháp tích cực, hiệu quả, chỉ đạo tập trung, trọng

điểm, thường xuyên kiểm tra, giám sát, giải quyết các vấn đề vướng mắc trong quá trình tổ

chức thi công, đảm bảo công trình thi công có chất lượng, đúng quy định của nhà nước về

đầu tư và xây dựng, thực hiện nhiệm vụ chính trị của Ban đã đạt được những kết quả quan

trọng trong quản lý điều hành, tổ chức kêu gọi đầu tư, xây dựng cơ chế chính sách…

Thứ ba, bước đầu tạo ra những điều kiện cần thiết để hoàn thành các chỉ tiêu Nhà

nước năm 2002 : thực hiện đúng chỉ tiêu về xây dựng cơ bản theo danh mục công trình, cơ

cấu vốn; chuẩn bị các điều kiện cơ bản về cơ sở vật chất, bộ máy, kế hoạch để tổ chức thi

tuyển khai giảng 300 học sinh, ưu tiên cho con em của các xã trong khu công nghiệp Dung

Quất phải di dời. Trong thu hút đầu tư đã tạo ra những hành lang pháp lý có sức hấp dẫn

cao, Chính phủ và các bộ, ngành trung ương đã quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ tạo hành lang

pháp lý, cơ cơ chế chính sách, từng bước tạo ra những cơ sở hạ tầng quan trong đưa ra

những cơ sở hạ tầng quan trọng đưa vào xây dựng, khai thác sử dụng như : sân bay Chu

Lai tiến hành cải tạo đưa vào sử dụng năm 2003, hệ thống đường sắt Dốc Sỏi- cảng Dung

Quất dang lập dự án tiện khả thi, quy hoạch hệ thống hạ tầng Cảng Dung Quất, xây dựng

kè chắn cát … xây dựng phân khu công nghiệp Sài Gòn –Dung Quất, tạo ra một cụm công

nghiệp hoàn chỉnh nhằm thu hút các ngành công nghiệp dệt- may trong nước đầu tư và các

ngành công nghiệp khác.

Tuy nhiên, trong 6 tháng thực hiện kế hoạch, Ban vãn có một số vấn đề bấp cập sau:

 Công tác giải toả mặt bằng vẫn còn khó khăn vướng mắc, gây không ít khó khăn

cho các nhà đầu tư và quá trình triển khai xây dựng các dự án trong khu công

nghiệp.

 Quá trình tổ chức thi công còn nhiều vấn đề cần chấn chỉnh, công tác tư vấn,

khâu tổ chức thực hiện, công tác giải ngân vốn còn nhiều thủ tục chưa thông

thoáng, còn chậm.

 Vốn dự án 5 triệu ha rừng do Bộ tài chính thông báo chậm, đến nay chưa giải

ngân được làm ảnh hưởng đến kế hoạch triển khai năm 2002 của dự án.

 Tình hình đầu tư vào khu công nghiệp còn hạn chế, các dự án đã cấp giấy phép

triển khai chậm còn chờ đợi vào tiến độ xây dựng nhà máy lọc dầu số 1.

 Công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư chưa đi vào chiều sâu.

 Công tác tổ chức bộ máy chưa ổn định, luôn phải điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu

của sự phát triển khu công nghiệp Dung Quất mà bản chấ của nó là khu kinh tế

tổng hợp.

 Tình hình quản lý quy hoạch – môi trường trong khu công nghiệp Dung Quất

còn nhiều khó khăn phức tạp, hành lang pháp lý chưa đủ để Ban thực hiện chức

năng này, còn lệ thuộc vào chính quyền xã, huyện, tỉnh.

3- Một số tồn tại

3.1.Việc thực hiện đầu tư một số hạng mục cơ bản theo quy hoạch chung của Quyết định

207/TT ngày 11 tháng 4 năm 1996 còn chậm.

Về thực chất khu công nghiệp Dung Quất được hình thành trên cơ sở xây dựng nhà

máy lọc dầu số 1 gắn với việc xây dựng cảng chuyên dụng và tổng hợp Dung Quất và từng

bước sẽ thu hút thêm các ngành công nghiệp khác…Trong các công trình cơ bản đó , nhà

máy lọc dầu số 1 là một trọng điểm phát triển để lôi kéo sự phát triển của toàn khu, song

đến nay triển khai chậm so với dự kiến .Nhà máy này , theo dự kiến có công suất 6,5 triệu

tấn /năm sẽ bát đầu vận hành vào năm 2001 ,nay lại xác định lại mốc thời gian là tháng

10/2004 , như vậy dự án này chậm lại khoảng 3 năm so với dự kiến đề ra ban đầu và chậm

khoảng 6 tháng so với tiến độ của liên doanh .

Việc triển khai các gói thầu đều chậm bao gồm cả thủ tục đầu tư lẫn việc triển khai

đền bù – giải phóng mặt bằng và tổ chức thi công ) đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình

thu hút đầu tư cungx như khai thác các hệ thống hạ tầng đã và đang được đầu tư trong khu

Dung Quất. Gói thầu liên quan đến thiết kế, chế tạo lắp đặt thiết bị cho nhà máy vẫn chưa

được ký kết ( gói thầu số 2 – khu bể chứa dầu, gói thầu số 4- phao rót dầu không bến mới

hoàn thành việc đấu thầu : gói 5B- cảng xuất sản phẩm đang đánh giá hồ sơ mời thầu ; gói

thầu 5A- đê chắn sóng, nhà thầu đã àm lễ khởi công từ cuối tháng 3/2001, triển khai chậm

)

Quy hoạch chi tiết cảng Dung Quất thuộc cụm cảng số 3 chưa được thông qua , ảnh

hưởng đến tiến độ xây dựng cảng này.

Theo quy hoạch tại Dung Quất sẽ xây dựng một hệ thống cảng biển nước sâu , gòm cả

cảng dầu khí và các cảng tổng hợp , đảm bảo đến năm 2010 lượng hàng hoá tổng hợp qua

cảng Dung Quất đạt 2-2,5 triệu tấn. Song đến nay ngoài bến cảng số 1 đã hoàn thành, sẵn

sàng đưa vào sử dụng: nhiều doanh nghiệp khác cũng đã đăng ký đầu tư phát triển cảng ,

nhưng còn chờ quy hoạch chi tiét được thông qua.

Một vấn đề kỹ thuật nữa có liên quan đến việc phát triển cảng biển nước sâu là cần

sớm có có kè chắn cát tại phía Tây sông trà Bồng cho cảng Dung Quất .Kè chắn cát này là

điều kiện cấp bách để một loạt nhà máy đóng mới, sửa chữa tàu thuyền, nhà máy luyện

thép nhà máy sản xuất xi măng… được triển khai.

Thành phố Vạn Tường, một đô thị mới được quy hoạch trong lòng khu Dung Quất,

có diện tích chung lên tới 2.400 ha. Theo dự kiến, đây sẽ là thành phố đầu tiên được xây

dựng theo các chuẩn mực hiện đại, song hiện nay, trong thành phố này mới chỉ có mạng

lưới giao thông nội thị ,nhưng chưa có lao động trong khu Dung Quất đến ở. Những trung

tâm văn hoá thể thao thương mại –du lịch, trạm thu phát truyền hình còn là phác thảo trong

quy hoạch thành phố. Cần phải quy haọch lại dân cư và điều chỉnh các khu dân cư hiện có

theo hướng đô thị hoá .

3.2. Việc phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội còn thiếu đồng bộ, chưa

đáp ứng yêu cầu thu hút vốn đầu tư đến từng cụm công nhgiệp và chưa chủ động vịc đa

dạng hoá việc huy động các nguồn lực khácngoài vốn ngân sách Nhà nước vào quá trình

phát triển hệ thống hạ tầng trong khu công nhgiệp.

Hệ thống hạ tầng bên ngoài khu Dung Quất còn kém phát triển và chậm được cải

thiện, việc đi lại của các nhà đầu tư còn gặp nnhiều trở ngại; môi trường đầu tư và thị

trường của khu vực miền Trung còn nhiều yếu tố rủi ro đã gây tâm lý lo ngại cho các nhf

đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.

3.3. Hành lang pháp lý, mô hình tổ chức và cơ chế quản lý chưa đáp ứng yêu cầu.

Do ý đồ về mô hình phát triển Dung Quất chưa rõ dẫn đến lúng túng trong quy

hoạch chi tiết và hậu quả là dẫn đến lúng túng trong quy hoạch chi tiết về đầu tư phát triển

hạ tầng khu Dung Quất

Do mô hình tổ chức, cơ chế quản lý và chính sách phát triển chưa rõ, chưa đồng bộ,

chưa đủ hành lang pháp lý (vẫn đang áp dụng mô hình khu công nghiệp theo nghi định

36/CP) dẫn đến lúng túng giữa quan hệ quản lý trực tiếp theo dự án của ban quản lý và

quản lý kinh tế- xã hội của 2 tỉnh; không rõ cái nào Ban quản lý khu công nghiệp Dung

Quất chịu trách nhiệm, cái nào UBND 2 tỉnh chịu trách nhiệm, cái nào cần sự phối hợp

giữa Ban quản lý và 2 tỉnh. Thí dụ: khi đưa cầu cảng số 1 vào hoạt động thì tầu muốn vào

cảng phải đến Liên doanh để xin phép và lại ra Đà Nẵng làm cảng vụ rồi quay vào Quy

Nhơn làm thủ tục hải quan… nên các hoạt động phát triển của khu công nghiệp Dung Quất

vẫn nằm trong tình trạng bị động, lúng túng. Việc đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất

còn chưa thật sự hấp dẩntên nhiều mặt: cơ chế chính sách bước đầu đã có khuyến khích,

ưu đãi, nhưng hạ tầng kĩ thuật bên trong khu công nghiệp chưa đồng bộ, việc đầu tư còn

nhiều yếu tố rủi ro, lại nằm trong điều kiện đi lại- dịch vụ rất khó khăn… nên việc thu hút

các ngành công nhgiệp khác ngoài công nghiệp lọc hoá dầu còn hạn chế.

Cơ chế, chính sách thu hút đầu tư không đồng bộ, thiếu thống nhất giữa ban quản lý

khu Dung Quất với 2 tỉnh Quãng Nam và Quãng Ngãi.

Không có sự chỉ đạo tập trung thống nhất việc quy hoạch và phát triển hạ tầng kỹ

thuật ngoài hàng rào khu Dung Quất. Ban quản lý chỉ lo phát triển trong hàng rào (khác

với tất cả hàng rào đã có trong các khu công nghiệp ở Việt Nam vì trong hàng rào không

có dân), ngoài hàng rào cái thì Bộ lo, cái thì tỉnh lo, có đâu làm đó, thiếu đồng bộ, mạnh ai

người ấy làm(Dung Quất, Quãng Nam, Quãng Ngãi cạnh tranh nhau) làm cho sức lan toả

từ Dung Quất đến các vùng phụ cận đáng ra là tích cực lại trơ thành tiêu cực.

II- Các vấn đề đặt ra đối với sự phát triển khu công nghiệp Dung Quất trong tương

lai

1- Xác lập lại mô hình phát triển khu công nghiệp Dung Quất trong tương lai

Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng, có xác định đúng tính chất, vị trí vai tro của khu

này thì mới có định hướng đúng, biện pháp thực thi hữu hiệu và cơ chế chính sách đầu tư

và quản lý thích hợp.

Theo quy chế khu công nghiệp , khu chế xuất, khu công nghệ cao (KCN, KCX,

KCNC )ban hành kèm theo nghị định 36/CP của chính phủ thì Dung Quất không đơn giản

chỉ là KCN.Từ thực tế thấy rằng, đối với Dung Quất ,tên gọi là KCN,nhưng không phải

như các KCN khác , vì bên trong nó ngoài các KCN tập trung còn có cả cảng, có sân bay,

có các điểm dân cư và đô thị, có cả một phần diện tích làm nông nghiệp … .Hơn nữa, quy

mô của Dung Quất lại quá lớn tới 14.000 ha trong khi tổng diện tích của 68 KCN của cả

nước mới có 11.800 ha (số liệu cuối năm 2001). Do đó cơ chế quản lý vận hành khu Dung

Quất theo quy chế của KCN hiện nay là chưa phù hợp cần phải có một quy chế khác thích

hợp hơn.Nừu áp dụng quy chế KCN , KCX ,KCNC cho Dung Quất thì cũng như để Dung

Quất mang một chiếc áo quá chật, không phù hợp với tầm vóc và quy mô của nó . Do vậy

có ý kiến cho rằng cần nhanh chóng chuyển đổi Dung Quất từ KCN thành khu kinh tế. Có

như vậy Dung Quất mới có thể tiến nhanh, tiến kịp với yêu cầu phát triển.

Như vậy Dung Quất không phải là một khu công nghiệp đơn thuần mà nó là một

khu kinh tế tổng hợp. Do đó, vấn đề phất triển đồng bộ theo các bước đi thích hợp với các

định hướng phát triển cho các phân nghành và từng phân khu của khu kinh tế tổng hợp này

cần được xác định rõ. Có xác định dúng vấn đề này thì mới có thề xúc tiến đầu tư nhanh

chóng và xác đinhj cơ chế chính sách rõ dàng.

Chẳng hạn thành phố Vạn Tường đã đựoc quy hoạch song song với việc xây dựng

tuyến trục giao thông chính trong đô thị này, các công trình hạ tầng xã hội khác đang được

đầu tư như Trường đào tạo công nhân kỹ thuật, Bệnh viện , Trung tâm khảo sát môi trường

, trạm thu phát truyền hình … .Để thực sự là thành phố, quy hoạch phát triển nó phải thực

sự gắn với sự phát triển của các phân ngành và phân khu khác trong phạm vi Dung Quất .

Đồng thời phải có một cơ chế quản lý đầu tư phát triển thích hợp gắn với quá trình phát

triển của đô thị này với tổng thể phát triển chung của khu kinh tế Dung Quất .

Từ các vấn đề trên, trong tầm nhìn dài hạn cần điều chỉnh định hướng quy hoạch

tổng thể và đầu tư dể đưa khu công nghiệp Dung Quất trở thành một khu kinh tế tổng hợp

theo đúng tính chất và vai trò của nó.

2- Giải quyết vấn đề quan hệ giữa khu kinh tế Dung Quất với việc hình thành khu kinh tế

mở (KTM) Chu Lai .

Ngay từ 1998 (sau hai năm theo quyết định phê duyệt quy hoạch chung khu công

nghiệp Dung Quất ), thưc hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII, Chính phủ đã chỉ đạo

các ngành , các địa phương triển khai nghiên cứu và hình thành đặc khu kinh tế ở Việt

Nam . Ngày 10 tháng 7 năm 1999, Văn phòng Trung ương Đảng đã thông báo số

232/TP/TW về ý kiến của Bộ Chính trị “đồng ý chủ trương triển khai xây dựng thí điểm

mô hình khu kinh tế mở Chu Lai tại tỉnh Quảng Nam ”; sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã

có quyết định số 204/1999/QĐ- TTg ngày 18 /10/1999 thành lập Bản Chỉ đạo xây dựng

KTM Chu Lai do Phó Thủ tướng làm Trưởng ban dưới sự tham gia của lãnh đạo một số bộ

ngành có liên quan….Hiện nay đề án về KTM Chu Lai đang được Chính phủ xem xét.

Như vậy là vùng kinh tế trọng điểm miền Trung , thuộc địa bàn tỉnh Quảng Nam

đang nghiên cứu để hình thành một khu kinh tế mở. Địa bàn đang nghiên cứu để hình

thành khu KTM Chu Lai lá một phần diện tích của khu công nghiệp Dung Quất đã được

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 207/TTg ngày 11 tháng 4 năm 1996 .Như

vậy , nếu khu KTM Chu Lai thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam và vừa có một khu công

nghiệp tương đương như một khu kinh tế tổng hợp (đã được hình thành và đang trong xây

dựng ) thuộc địa bàn Quảng Ngãi .Giữa 2 khu này có một bộ phận lãnh thổ được sử dụng

chung là sân bay Chu Lai và có 2 cảng biển là Cảng Kỳ Hà và Cảng Dung Quất . Chính vì

vậy mà trong khi nghiên cứu đề án hình thành khu KTM Chu Lai có những ý kiến đề nghị

so sánh hiệu quả việc xây dựng khu KTM Chu Lai theo phương án có cảng Kỳ Hà và

không có cảng Kỳ Hà, phương án có khu Chu Lai riêng biệt và phương án có một khu bao

gồm cả Dung Quất – Chu Lai như Chiến lược kinh tế xã hội Việt Nam đén năm 2010 đã

nêu .Qua phân tích ,đã có ý kiến cho rằng ads dụng cơ chế khu kinh tế mở có cả Chu Lai

và Dung Quất có thể sẽ mang hiệu quả hơn .

Đối với khu Dung Quất , nếu theo Quyết định 207/ttg bao gồm cả cảng Kỳ Hà và

sân bay Chu Lai , hoậc giả sử khi đè án khu KTM Chu Lai được phê duyệt , cảng Kỳ Hà

và sân bay Chu Lai thuộc về khu kinh tế mở Chu Lai và sân bay Chu Lai là sân bay phục

vụ chung cho cả khu KTM Chu Lai và khu kinh tế Dung Quất . Trong trường hợp đó tính

chất khu Dung Quất vẫn là một khu kinh tế tổng hợp có quy mô khá lớn vì :

Thứ nhất , về diện tích , nếu không tính phần diện tích của cảng Kỳ Hà và sân bay

Chu Lai thì diện tích của khu Dung Quất vẫn còn trên 10.000ha tương đương với diện tích

68 khu công nghiệp đã được cấp phép hình thành của cả nước cộng lại .

Thứ hai , thực tế phát triển 5 năm qua ,cùng với việc phát triển nhà máy lọc dầu, ở

đây đã và đang triển khai xây dựng cảng nước sâu chuyên dụng và tổng hợp ; xây dựng hạ

tầng các khu công nghiệp trong Dung Quất ;bộ khung trong đo thị Vạn Tường đã hình

thành và nhiều công trình hạ tầng kinh tế ,xã hội dã được xây dựng …Bộ mặt của một khu

kinh tế tổng hợp ở Dung Quất đã và đang hình thành , đòi hỏi cần có một cơ chế quản lý

và khung pháp lý thích hợp .

3- Nghiên cứu thiết lập khung cơ chế chính sách , mô hình quản lý thích hợp với sự phát

triển của Dung Quất .

Để thúc đẩy nhanh quá trình hình thành khu kinh tế Dung Quất cần phải luận chứng

và xác định mô hình phát triển của khu Dung Quất cho phù hợp. Đồng thời cũng phải

nghiên cứu thiêts lập mô hình quản lý với khung pháp lý thích hợp đối với môtj khu kinh

tế tổng hợp quy mô tương đối lớn. Có như vậy mới tạo được môi trường thuận lợi về thể

chế quản lý xúc tiến và kêu gọi đầu tư tốt hơn. Khung pháp lý này có thể bao gồm các

nhóm vấn đề lớn sau:

1) Xây dựng quy hoạch tổng thể khu Dung Quất theo hướng xây dựng khu kinh tế

tổng hợp Dung Quất. Trong quy hoạch tổng thể này sẽ luận chứng mô hình và chức

năng của khu kinh tế Dung Quất trong tổng thể phát triển kinh tế của cả nước và

của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; đưa ra các định hướng phát triển các

ngành và lĩnh vực, tổ chức lãnh thổ các khu chức năng; định hướng đầu tư và xác

định bước đi theo các giai đoạn đến năm 2020…

2) Nghiên cứu đè xuất các cơ chế chính sách ưu đãi đặc biệt, kể cả cơ chế chính sách

đối với khu KTM để áp dụng cho khu kinh tế Dung Quất, tạo môi trường thuận lợi

thu hút các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước không chỉ đầu tư các dự án có

liên quan đến công nghiệp lọc dầu mà cả các ngành công nghiệp khác.

3) Nghiên cứu đề xuất cơ chế quản lý Nhà nước đặc thù phù hợp với vị trí và quy mô

của khu kinh tế Dung Quất.

Các vấn đề đặt ra ở trên sẽ được luận chứng cụ thể trong báo cáo nghiên cứu tổng

hợp của dự án này.

Phần thứ 3

Giải pháp về quy hoạch phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển

khu công nghiệp Dung Quất

I- Vị trí động lực của khu Dung Quất và tổng thể phát triển kt-xh khu vực miền

trung và cả nước.

1- Các lợi thế tạo động lực thúc đẩy nhanh quá trình hình thành khu kinh tế Dung Quất.

1.1. Lợi thế về vị trí địa lý.

Khu kinh tế Dung Quất – với quy mô 14 nghìn ha, nằm trên địa bàn 2 tỉnh quảng

nam và quảng ngãi là các tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng của miền trung việt nam, với

ưu thế gần quốc lộ 1A và đường sắt bắc nam có quốc lộ 24 nối với tây nguyên và các nước

nhỏ thuộo tiểu vùng sông mê kông và là một trong 5 tuyến đường ngang đông tây của hệ

thống đường xuyên á qua việt nam(Dung Quất – ngọc hồi-pakse-udon). xét về mặt địa lý

Dung Quất thực sự là trung tâm điểm của Việt Nam gắn với ĐNá.

Toàn bộ diện tích đất công nghiệp của khu kinh tế Dung Quất đều nằm ở độ cao từ

4,5 đến 15m so với mực nước lũ của trận lũ lớn nhất thế kỷ và có địa chất tốt đảm bảo cho

việc xây dựng các công trình công nhiệp vĩnh cửu.

1.2. Lợi thế về phát triển cảng biển nước sâu.

Vịnh Dung Quất với diện tích mắt nước hữu ích khoảng 4 km2, có độ sâu trung bình

từ 10-19m, nằm sát cac tuyến hàng hải quan trọng nhất cách tuyến hàng hải quốc tế 90 km,

cách tuyến hàng hải thuỷ nội khoảng 30 km và là nơi hội tụ các điều kiện để hình thành 1

cảng nước sâu quy mô lớn. Đây là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành và phát

triển khu kinh tế này. theo quy hoach đã được thủ tướng chính phủ phê duyệt, tại đây sẽ

xây dựng một cảng nước sâu đa chức năng (gồm các cụm cảng dầu khí, cảng tổng hợp và

cảng chuyên dùng), có năng lực vận chuyển hàng hoá lớn nhất Việt Nam (chỉ riệng nhà

máy lọc dầu số 1 đã là 13 triệu tấn giai đoạn 1).

1.3. Lợi thế về phát triển sân bay.

Sân bay Chu Lai hiện chưa được khai thác sử dụng là sâu bay có điều kiện và có

khả năng phát triển với quy mô lớn. Lại nằm trên đường hàng không quốc tế cách các

trung tâm kinh tế lớn nhất của khu vực khoảng 1000-2000km(hồng kông, sinhgapore,

bangkok).

Với những ưu thế trên, chính phủ đã quyết định chọn Dung Quất làm khu công

nghiệp lọc hoá dầu đầu tiên của cả nước. Tiền đề quyết định sự ra đời của cảng Dung Quất

và khu công nghiệp tổng hợp Dung Quất là chọn địa điểm nhà máy lọc dầu. Cùng với lọc

dầu, có thể phát triển thành cụm công nghiệp tổng hợp bao gồm các loại hình như công

nghiệp luyện kim, cơ khí đóng tầu, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến,… các ngành

công nghiệp quy mô lớn này đã được phát triển gắn với cảng biển nước sâu Dung Quất,

sân bay quốc tế Chu Lai và đô thị mới Vạn Tường.

1.4. Dung Quất là nơi được hưởng thụ nhiều chính sách ưu đãi của nhà nước và là nơi có

chi phí đầu tư tương đối thấp :

Sau thời gian miễn giảm giá thuê đất đối với các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước

ngoài (FDI) là 150 USD/ha/năm và doang nghiệp đầu tư theo luật khuyến khích đầu tư

trong nước là 500.000 Vnd/ha/năm được áp dụng cho những dự án vào đầu tư tại Dung

Quất trước năm 2006.

Dung Quất là khu công nghiệp có nhiều điều kiện thuận lợi để cơ chế một cửa-tại

chỗ được thực thi một cách hiệu quả nhất : Ban quản lý khu công nghiệp Dung Quất được

uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư cho dự án đầu tư nước ngoài có số vốn lên đến 40 triệu

USD ; là cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký hợp đồng BOT, BTO (cả trong nước và

nước ngoài), được cấp giấy phép đầu tư trong nước đối với cac dự án nhóm B và C, tiếp

nhận vốn ngân sách nhà nước, vốn ODA và các nguồn vốn tín dụng ưu đãi. Nhà đầu tư chỉ

phải quan hệ trực tiếp với Ban quản lý khu công nghiệp Dung Quất để có được giấy phép

đầu tư mà không phải quan hệ với các cơ quan có thẩm quyền liên quan khác.

Tóm lại, khu kinh tế Dung Quất hội đủ các nhân tố cho việc hình thành một khu

kinh tế tổng hợp : Có cảng biển nước sâu, sân bay quốc tế, quốc lộ 1A và đường xuyên á,

có đô thị mới được xây dựng theo tiêu chuẩn của một thành phố văm minh, hiện đại và

đang được nhà nước ta quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng và có nhiều chính sách ưu đãi để

đầu tư phát triển.

2- Vị trí kinh tế trong tương lai

Ngày 6 tháng 8 năm1996, thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định 519/TTg

phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng thời kỳ 1996-2010,

trong đó xác định : công nghiệp vùng trọng điểm miền trung cần đi với tốc độ nhanh, cơ

cấu công nghiệp cần được điều chỉnh hợp lý theo hướng nhanh chóng hình thành các nhóm

công nghiệp mũi nhọn, có lợi thế về nguyên liệu và thị trường, gắn với quy mô vừa và nhỏ,

thiết bị và công nghệ tiên tiến, hiện đại. Coi công nghiệp là trọng tâm đột phá trong pơhát

triển kinh tế của vùng đến năm 2010, đưa vai trò vị trí ngành công nghiệp cửa vùng ngày

càng tăng trong tổng thể của vùng. Đây là những chủ trưong chính xác, dẫ được phản ánh

trong các quy hoạch của vùng, nhằm phát triển công nghiệp và các khu công nghiệp, đi

đầu trong việc thực hiện chủ trương này là việc thúc đẩy nhanh quá trình hình thanh khu

kinh tế Dung Quất, tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế của khu vực niềm trung và cả nước.

Nhà máy lọc dầu số 1 gắn với cảng Dung Quất là hạt nhân, tạo ra khu công nghiệp

lọc hoá dầu đầu tiên của cả nước, tập trung nhiều ngành công nghiệp có quy mô lớn. Khi

triển khai nxây dựng nhà máy lọc dầu số 1, đồng hành với nó là xây dựng bến cảng dịch vụ

dầu khí, cảng mềm nhận dầu thô, đê chắn sóng, tuyến đường ống, bể chứa san phẩm khu

chuyên gia… cùng với xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 là việc tập trung đầu tư xây dựng

kết cấu hạ tầng, khu công nghiệp, các phân khu chức năng, bưu chính viễn thông, đô thị

Vạn Tường, bến cảng, sân bay Chu Lai…

Các dự án trong khu công nghiệp Dung Quất với số vốn đầu tư trong giai đoạn đầu

lên đến gần 2 tỷ USD, sẽ tác động nhiều tới mặt phát triển kinh tế xã hội của vùng. Cơ cấu

kinh tế của tỉnh cũng sẽ thay đổi cơ bản, từ nông nghiệp- dịch vụ- công nghiệp chuyển

sang công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp. Nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội được cải thiện như

giải quyết việc làm, tăng ngân sách, cải thiện cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị, tăng kim

ngạch xuất khẩu…

Phát triển khu kinh tế Dung Quất gắn với khu công nghiệp Núi Thành, cảng Kỳ Hà,

sân bay Chu Lai tạo thành khu kinh tế tổng hợp lớn nhất của miền Trung, có ý nghĩa lớn

đối với miền Trung, Tây Nguyên và cả nước. Đón trước sự ra đời của cụm công nghiệp

Dung Quất theo hướng tổ chức không gian một cách hợp lý từ Dung Quất đến thị xã

Quãng Ngãi, tỉnh Quãng Ngãi đã xây dựng một dự án quy hoạch tam giác kinh tế thị xã

Quãng Ngãi-Sa Kỳ- Cổ Lũy. Từ thị xã Quãng Ngãi đến Mỹ Khê qua Cổ Lũy còn trở thành

một khu vui chơi giải trí cho ncác chuyên gia và công nhân làm việc tại khu công nghiệp

Dung Quất và sau đó là cho cả thành phố Vạn Tường.

Cùng với việc hình thành khu tam giác kinh tế trên là việc tập trung xây dựng khu

công nghiệp mía đường và công nghệ sau mía đường ở thị xã Quãng Ngãi bao gồm nhà

máy 2.000 tấn mía cây/ ngày hiện có và sẽ xây dựng thêm một nhà máy đường công suất

3.500 tấn mía cây/ ngày. Như vậy, ở đây sẽ có cụm mía đường công suất 5.500 tấn

mía/ngày; xây dựng một nhà máy rượu và cồn cao cấp; nâng cấp và mở rộng nhà máy

bánh kẹo hiện nay để có công suất cao hơn, nhằm đáp ứng cho khu công nghiệp Dung

Quất và cả vụng. Mở rộng nhà máy bia hiện nay đã sản xuất gần gấp đôi công suất thiết kế

ban đầu, từ 6 triệu lít/năm sẽ đưa lên 10 triệu lít/năm. ngoài ra đã có dây chuyền sản xuất

nước khoáng, công suất 36 triệu lít/năm đi vào sản xuất.

Để phục vụ cho việc đầu tư xây dựng lớn tại khu kinh tế Dung Quất, trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi đã hình thành khu công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng ở phía bắc của

tam giác kinh tế Quảng Ngãi-Sa Kỳ-Cổ Luỹ. đó là các nhà máy sản xuất gạch tuynen có

công suất thiết kế 15 triệu viên/năm và sẽ được mở rộng lên gấp đôi; nhà máy nghiền

clinker thành xi măng mác cao, công suất 10 vạn tấn/năm. xây dựng khu sản xuất đá, cát

sỏi và một xí nghiệp liên doanh với cộng hoà liên bang Đức để sản xuất đá granit xuất

khẩu.

II- Mối quan kệ giữa việc hình thành khu kinh tế mở Chu Lai và khu kinh tế tổng

hợp Dung Quất

1- Tổng quan kinh nghiệp về việc hình thành khu kinh tế mở.

Lịch sử xây dựng các khu kinh tế mở hoặc đặc khu (còn được hiểu như là khu kinh

tế đặc biệt) đã có chiều dài nhiều thế kỷ với các loại hình rất khác nhau. Thương cảng tự

do đầu tiên được xây dựng ở Italia vào năm 1574. đặc biệt những năm sau chiến tranh thế

giới lần thứ II, do có những nhu cầu thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tạo dựng

những khu vực có điều kiện môi trường hấp dẫn, các nước đã hình thành nhiều khu kinh tế

phát triển. Khu chế xuất đầu tiên được xây dựng tại sân bay Shanon thuộc cộng hoà Ailen

vào năm 1959.các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển trong những năm 70

và 80 đã tiến hành theo hướng này nhằm hình thành cac khu kinh tế mở và đặc khu. Trong

những năm 80 trung quốc đã rất thành công trong việc hình thành các khu kinh tế mở hoặc

đặc khu (hay còn gọi là đặc khu kinh tế).

1.1.Về khái niệm:

Cho đến nay, chưa có một định nghĩa chính thức đầy đủ về khu KTM (hay còn gọi

là đặc khu kinh tế). Tuy vậy, có thể thống nhât một cách mô tả rằng khu kinh tế mở là một

địa bàn lãnh thổ, được vận hành theo khuân khổ pháp lý riêng (thường là theo thông lệ

quốc tế), chính quyền sở tại được phân cấp nhiều quyền hạn hơn và trên đó được áp dụng

những cơ chế, chính sách đặc biệt thông thoáng hơn sơo với những khu vực khác của quốc

gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển

sản xuất, kinh doanh-dịch vụ, khuyến khích xuất khẩu để tạo động lực mới cho nền kinh

tế.

1.2. Về các loại hình khu kinh tế mở :

Đến nay trên thế giới đã tồn tại nhiều loại hình về khu KTM, nhưng có thể tập hợp

lại vào hai nhóm chính. Một là các khu kinh tế nhằm một chức năng riêng biệt. Hai là các

khu kinh tế mang tính chất tổng hợp.

Khu kinh tế mang một chức năng riêng biệt như khu thương mại tự do, khu cảng tự

do, khu du lịch tự do, khu bảo thuế, khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu công

nghệ cao…những khu kinh tế có chức năng riêng biệt chủ yếu tập trung vào một mục tiêu,

các cơ chế chính sách cho những khu này cũng tập trung sâu nhằm phát huy tốt đa mục

tiêu đó. Chẳng hạn khu bảo thuế được áp dụng các thuế xuất bằng không đối với hàng hoá

ra vào khu vực này. khu công nghiệp tập trung được cho áp dụng các ưu đãi về đầu tư.

Khu chế xuất được ưu đãi về gia công hàng cho xuất khẩu. Khu công nghệ cao được ưu

đãi về nghiên cứu, triển khai các công nghệ mới, công nghệ cao…

Khu kinh tế mở hoặc đặc khu mang tính chất tổng hợp được hình thành bao gồm

trong nó nhiều khu kinh tế mang chức năng riêng biệt và nhằm tới một mục tiêu tổng hợp

hơn. các cơ chế chính sách trong khu kinh tế mở hoặc đặc khu tổng hợp cũng mang tính

tổng hợp đa dạng hơn. ví dụ khu KTM hoặc đặc khu Thâm Quyến ở Trung Quốc còn gọi

là đặc khu Thâm Quyến, bao gồm trong nó các cơ chế chính sách, các loại hình kinh tế

như một quốc gia với những chế độ gần như riêng biệt đối với Trung Quốc. Các khu kinh

tế phát triển mang tính tổng hợp thường đóng vai trò cửa ngõ của đất nước trong tiến trình

hội nhập quốc tế.

Trung Quốc đã trải qua ba giai đoạn hình thành các khu kinh tế mở. Giai đoạn 1 là

sự hình thành các khu kinh tế Thâm Quyến, Sán Đầu, Hạ Môn, Chu Hải. Giai đoạn 2 là sự

hình thành 14 thành phố mở ở dải ven biển (Thượng Hải, Thiên Tân, Đại Linh, Tân Hoàng

Đảo, Yên Đài…) Giai đoạn 3 là quá trình mở cửa 3 đồng bằng (đồng bằng Châu Giang,

Nam Phúc Kiến, Trường Giang) và thành lập khu phát triển kinh tế Hải Nam. Đồng thời

bên cạnh việc hình thành các khu kinh tế đặc biệt lớn đó, Trung Quốc còn tiến hành xây

dựng loại hình kinh tế đặc biệt ở các cửa khẩu biên giới (khu kinh tế cửa khẩu) như khu

kinh tế dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây, khu kinh tế cửa khẩu Hà Khẩu tỉnh Vân Nam giáp

với Việt Nam.

Thành tựu của quá trình xây dựng các khu kinh tế mở ở Trung Quốc đãgóp phần

quan trọng, quyết định sự phát triển kinh tế của Trung Quốc trong vài thập kỉ. Kể từ khi

cải cách và mở cửa năm 1978, Trung Quốc liên tục duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế

cao: thời kì 1981-1990 đạt 9,3%/ năm; thời kì 1991-1995 đạt 12%/năm. Thời kì 1996-2000

đạt bình quân năm khoảng 7,5%. Với tốc đọ tăng trưởng cao như vậy, cho nên thực lực

kinh tế của Trung Quốc đứng thứ 10 về tổng sản phẩm quốc nội năm 1994 đã vươn lên

đứng thứ 7 năm 1999 và năm 2000 GDP đạt hơn 1.000 tỷ USD.

Tuy nhiên, việc hình thành các khu kinh tế mở ở Trung Quốc cũng có những hạn

chế nhất định như khoảng cách giữa vùng ven biển nơi có những đặc khu kinh tế và nội địa

ngày càng tăng, phá vỡ sự phân công truyền thống giữa các vực ven biển với các khu vực

trong đát liền dẫn đến mats cân đối gay gắt về cung cầu chưa phát triển nhịp nhàng giữa

mở cửa đối ngoại với bảo vệ môi trường.

Một số nước trên thế giới và trong khu vực đã tiến hành xây dựng các khu kinh tế

mở theo những mô hình khác nhau. Hàn Quốc cũng đã có những thành công nhất đinh

trong việc xây dựng các khu kinh tế mở Masan theo hướng sử dụng nguyên liệu bán thành

phẩm trong nước (30% nguyên liệu cho ngành điện tử, 77% nguyên liệu cho ngành dệt

may, 35% nguyên liệu cho ngành chế tạo máy, 37% nguyên liệu cho ngành giầy da).

Trong đó, Philipil đã thất bại trong việc xây dựng khu KTM trong những năm 80.

kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu khoa học và xã hội Philipil chỉ ra rằng tác động

của khu chế xuất đến nền kinh tế trong nước là không đáng kể, 83-93% đầu vào là nguồn

nhập khẩu từ ngoài và việc làm tạo ra cho khu vực công nghiệp chỉ chiếm khoảng 1%.

Kinh nghiệm của Malaixia cũng cho thấy 70% số xí nghiệp của khu xuất khẩu chỉ

sử dụng sản phẩm địa phương để đáp ứng 10% nhu cầu nguyên liêu thô và hàng tiêu

dùng, còn lại là nhập khẩu. điều này cho thấy, nhà đầu tư khi đầu tư vào khu KTM để

chiếm lĩnh thị trường trong nước dưới hình thức nhập khẩu, khai thác chênh lệch về giá do

mức bảo hộ trong nước cao, hơn là đáp ứng mong muốn của nước sở tại.

Tóm lại, có thể rút ra những nét tóm tắt về kinh nghiệm xây dựng khu kinh tế mở

của một số nước theo các nhận định sau:

Một là, việc xay dựng khu kinh tế mở là một giải pháp xuất phát từ nhu cầu phát

triển của quốc gia nói chung và của từng địa phương. trong tiến trình hội nhập quốc tế về

việc thành lập các khu phát triển kinh tế là để thu hút nguồn lực từ bên ngoài, qua đó khơi

dậy tiềm năng trong nước. Nến trong phạm vi quốc gia có thể mở cửa rộng rãi với bên

ngoài thì không cần thiết phải xây dựng khu kinh tế mở với những cơ chế và chính sách

đặc biệt.

Hai là, yếu tố quyết định thành công của việc xây dựng khu kinh tế mở là thời cơ,

địa điểm và con người. Lựa chọn đúng thời điểm xay dựng mới có thể thu hút được nguồn

lực từ bên ngoài. với mỗi quốc gia hoặc mỗi địa phương phải chọn địa điểm đủ hấp dẫn để

hình thành và xây dựng. cần phải có quyết tâm cao trong việc xây dựng khu phát triển kinh

tế. Kết hợp được 3 yếu tố này mới có thể thành công trong việc xây dựng khu kinh tế mở.

Ba là, phải lựa chọn mô hình đúng. với mỗi quốc gia, với mỗi thời điểm cần chọn

cho đúng mô hình xây dựng khu kinh tế mở mới có thể thành công.

Bốn là, chọn lựa ục tiêu và đối tác chính xác. với mỗi mô hình của khu kinh tế mở,

việc lựa chọn đối tác là yếu tố rất quan trọng để có thể thu hút và hấp dẫn được nguồn lực

từ bên ngoài.

2- Sự hạn chế trong việc hình thành khu kinh tế mở Chu Lai.

2.1. Xác định vị trí và vai trò của khu vực Chu Lai

Khu vực Chu Lai nếu tách riêng biệt chỉ là động lực cho sự phát triển riêng của tỉnh

Quảng Nam theo chiều ngang, còn khu vực Chu Lai gắn với sân bay Chu Lai được quy

hoạch là sân bay quốc tế có chức năng phục vụ cho cả vùng, trong đó đặc biệt là khu kinh

tế Dung Quất, vì vậy khả năng phục vụ liên vùng liên tỉnh và quốc tế là rất lớn.

Các đô thị khu vực miền trung như tp đà nẵng, thị xã Hội An; Tam Kỳ; Quảng Ngãi

cung với các thị trấn khác tạo thành chuỗi (hoặc dải) đô thị đã và đang giữ vai trò là toả

kinh tế theo chiều ngang là chủ yếu. Mối liên kết với các tỉnh liền kề thường lỏng lẻo, vì lý

do điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên quy định.(tỉnh nào cũng có biẻn có rừng, có

đồng bằng, có cảng biển); vai trò đa trunh tâm của niềm trung thường tích cực hơn và có

tác động mạnh hơn tới vung xung quanh hơn là vai trò một trung tâm (hay đơn cực) phát

triển.

2.2. Về điều kiện để hình thành một khu kinh tế mở

Khu vưc Chu Lai là khu vực chưa phát triển, hệ thống kết cấu hạ tầng rất lạc hậu,

lại nằm trong khu vực có khí hậu khắc nghiệt, hạn hán lũ lụt thường xảy ra… Do vậy việc

đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu kinh tế mở hét sức khó khăn và vẻ mâtá nhiều thời

gian, trong khi cơ hội không còn nhiều, năm 2006 là thời điểm Việt Nam hội nhập đầy đủ

với các nước ASEAN, do đó việc hình thành thành công một khu kinh tế mở tại đây là một

thách thức rất lớn, tính khả thi không cao.

Mặt khác, ở khu vực Chu Lai thiếu cảng biển nước sâu là điều kiện tối caanf thiết

cho xu hướng toàn cầu hoá mậu dịch quốc tế với đòi hỏi khong ngừng hạ chi phí chuyên

chở đường biển.

Khu vực này chưa có một công trình đầu tư quy mô lớn nào làm tiền đề để hình

thành một khu kinh tée mở, nếu có công trình này sẽ thúc đẩynhanh nhu cầu phát triển hạ

tầng, tiện ích (đường điện nước thông tin liên lạc…) cho khu kinh tế mở.

2.3. Về thủ tục luật pháp áp dụng cho khu kinh tế mở

Để thực sự mơ theo nhu cầu hội nhập, phải có thêm một số cơ chế, chính sách vượt

ntrội về nhiều mặt so với cơ chế, chính sách và pháp luật hiện hành, thậm chí có thể đụng

chạm đến hiến pháp, như vậy ít ra cũng phải có một nghị quyêt cửa Uỷ ban thường vụ

quốc hội; điều này rất không đơn giản trong điều kiện hiện nay.

2.4. Về thời cơ để hình thành và phát triển khu kinh tế mở.

Lộ trình hội nhập của Việt Nam vào AFTA sẽ bắt đầu thực hiện toàn diện trên

phạm vi cả nước vao năm2006, thuế xuất nhập khẩu khi đó chỉ còn từ 0-5%. Việc thực

hiện hiệp định thương mại Việt- Mỹ và nước ta chẩn bị ra nhập WTO làm cho thời điểm

hội nhập ngày càng đến gần. Do vậy, nếu tính cả thời gian để xây dựng kết cấu hạ tầng và

các công tác chuẩn bị khác thì sẽ mất đi yếu tố thời cơ của khu kinh tế mở Chu Lai.

2.5. Các chủ trương của đảng và nhà nước về phát triển khu Dung Quất đã bao gồm một

phần đất đai của khu kinh tế mở Chu Lai.

Theo nghị quyết của quốc hội, quyết định của thủ tướng chính phủ về công trình

trọng điểm xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 tại Dung Quất; Xây dựng hệ thống cảng nước

sâu Dung Quất; … đều đặt trong phạm vi không gian của khu Dung Quất bao gồm cả Chu

Lai. Điều này được lý giải bởi:

Cần phải coi trọng không gian kinh tế hơn là không gian hành chính, liên kết kinh tế

là liên kết để phát triển bền vững theo lãnh thổ. Sân bay là khu vực đặc thù, đây là sân bay

quốc tế không còn riêng địa phương nào.

Cảng biển nước sâu Dung Quất, nhà máy lọc dầu số 1 và sân bay Chu Lai là ba

nhân tố chính gắn kết với nhau, tạo nên sự đồng bộ và bổ sung hỗ trợ cho nhau trong phát

triển, trong đó sự ra đời của nhà máy lọc dầu số 1 là điều kiện quan trọng nhất để sớm khôi

phục sửa chữa sân bay Chu Lai và đây là điều kiện tiên quyết để sân bay này vận hành có

hiệu quả trong giai đoạn đầu tiên.

Việc tách Chu Lai ra khỏi Dung Quất bị vướng vào quyết định hiện hành của nhà

nước.

Như vậy sự thống nhất ranh giới, phạm vi lãnh thổ giữa Dung Quất và Chu Lai như

trong văn kiện đại hội đảng IX cũng như trong các quyết định của thủ tướng chính phủ là

phù hợp, vừa tạo nên sự liên kết , hỗ trợ lẫn nhau, vừa thuận lợi cho việc đầu tư xây dựng

kết cấu hạ tầng ban đầu, sau này khi cần mở rộng để đáp ứng nhu cầu phát triển thì sẽ đề

xuất mở rộng về phía Bắc như trong đề án phát triển khu kinh tế mở Chu Lai- Kỳ Hà như

đã trình cũng không muộn.

3- Đề xuất mô hình phát triển khu kinh tế tổng hợp Dung Quất – Chu Lai

3.1. Căn cứ pháp lý để kiến nghị mô hình phát triển khu kinh tế Dung Quất –Chu Lai.

 Quyết định 519/TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp và kết

cấu hạ tầng thời kỳ 1996-2010, trong đó khu công nghiệp Dung Quất với diện tích

14000 ha.

 Quyết định số 14/1998/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã

hội vùng duyên hải Nam trung bộ đến năm 2010 gồm: Thành phố Đã Nẵng và các

tỉnh Quảng Nam; Quảng Ngãi; Bình Định; Phú Yên; Khánh Hoà. Khu công nghiệp

Dung Quất được nên trong Quy hoạch với diện tích 14000 ha.

 Quyết định số 2020/1999/QĐ-TTg, ngày 12 tháng 10 năm 1999 của thủ tướng

chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt

Nam đến năm 2010, trong đó có nhóm cảng biển trung trung bộ, có cảng biển nước

sâu Dung Quất.

 Quyết định sô 207/TTg ngày 11 tháng 4 năm 1996 phê duyêt khu công nghiệp

Dung Quất với diện tích đất xây dựng là 14000ha. đây là khu công nghiệp lọc hoá

dầu đầu tiên, tập trung các ngành công nghiệp quy mô lớn, gắn với cảng biển nước

sâu Dung Quất, sân bay quốc tế Chu Lai, đô thị mới Vạn Tường, có rừng, biển, có

dân cư sinh sống và giữ vai trò quan trọng về an ninh quốc phòng, cũng như bảo vệ

môi trường sinh thái vùng ven biển.

 Bộ chính trị đã có thông báo số 232/TB-TW ngày 10 tháng 7 năm 1999 về việc xây

dựng khu kinh tế mở Chu Lai.

 Quyết định số 204/1999/QĐ-TTg ngày 18 tháng10 năm1999 của thủ tướng chính

phủ về việc thành lập ban chỉ đạo xây dựng khu kinh tế mở Chu Lai.

 Về mặt quản lý, xuất phát từ yêu cầu thực tế, ban quản lý khu công nghiệp Dung

Quất đã được bổ sung một số chức năng khác với ban quản lý khu công nghiệp các

địa phương như : là đơn vị đầu mối kế hoạch, là cơ quan nhà nước có thẩm quyền

thống nhất quản lý về Quy hoạch, kế hoạch và môi trường; có thẩm quyền ký các

hợp đồng BOT, BT, các dự án nhóm B và C là cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận

nguồn vốn ODA; được quyền hình thành các tổ chức trực thuộc để quản lý các công

trình công cộng trong khu công nghiệp Dung Quất, có tính chất của một khu kinh tế

và đang được vận hành theo xu hướng quản lý một khu kinh tế đặc thù.

3.2. Đề xuất mô hình phát triển khu kinh tế Dung Quất - Chu Lai

Trên cơ sở các văn bản pháp lý trên, kết hợp với thực tiễn đang diễn ra trong quá

trình xây dựng khu công nghiệp Dung Quất, ban quản lý khu công nghiệp Dung Quất

ngoài nhiệm vụ và thẩm quyền được thủ tướng chính phủ giao phải dựa vào sự uỷ quyền

của các bộ, ngành TW và của UBND hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi để thực hiện kế

hoạch đầu tư phát triển khu công nghiệp Dung Quất. Nếu trong một “không gian thống

nhất” lại có quá nhiều đầu mối quản lý trong bối cảnh thủ tục đầu tư còn rườm rà, bộ máy

quản lý còn cồng kềnh sẽ là trở ngại lớn cho các nhà đầu tư. Mặt khác tham khảo ý kiến

của nhiều chuyên gia thuộc các hộ ngành TW, kể cả các chuyên gia tư vấn nước ngoài, đều

có một cái nhìn tương đối đồng thuận là nên hình thành một khu kinh tế tổng hợp Dung

Quất – Chu Lai.

Về tính chất : Đây là khu kinh tế tổng hợp liền vùng, liền khoảng và mang tính chất

“một khu hai cơ chế ”, trong đó gồm hai phân khu : phân khu Chu Lai và phân khu Dung

Quất.

Về phân khu chức năng của Quy hoạch khu công nghiệp Dung Quất, có tính đến

việc gắn thêm các chức năng như đề xuất của khu kinh tế mở Chu Lai, sẽ phân ra thành hai

phân khu trong một khu kinh tế tổng hợp thống nhất, đó là :

 Phân khu Dung Quất thiên về phát triển công nghiệp, mà trước hết là công nghiệp

nặng là trọng tâm, ngoài ra còn phát triển thêm các xí nghiệp công nghiệp bổ trợ

phục vụ cho khu công nghiệp này.

 Phân khu Chu Lai thiên về chức năng thương mại cửa khẩu (cả hàng không và

đường biển) và tập trung phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp sản xuất hàng tiêu

dùng.

Về diện tích : nên giữ nguyên diện tích 14000ha, trong đó thuộc địa phận Quảng Ngãi

là 10300ha, và thuộc địa phận Quảng Nam là 3700ha để dễ đầu tư phát triển hạ tầng ban

đầu. Sau này khi cần mở rộng để đáp ứng nhu cầu phát triển thì đề xuất mở rộng kéo dài

về phía Bắc như đề án về khu kinh tế mở Chu Lai.

Về phạm vi quyền hạn quản lý : hiện nay ban quản lý khu công nghiệp Dung Quất đã

được quy định thống nhất quản lý về Quy hoạch, kế hoạch, môi trường; về quy trình thủ

tục, quy phạm, quy chuẩn đầu tư và xây dựng theo chức năng của cơ quan đầu mối kế

hoạch. Nay phát triển thêm để xây dựng một quy chế quản lý đầu tư – xây dựng và phát

triển khu kinh tế tổng hợp Dung Quất – Chu Lai do chính phủ ban hành (có thể bằng nghị

định) để điều chỉnh toàn bộ các hoạt động nhằm bảo đảm đầu tư xây dựng và mọi hoạt

động theo đúng quy hoạch, kế hoạch và quản lý tốt về môi trường phát triển bền vững,

không bị chia cắt theo địa giới hành chính.

3.3.Về mô hình tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với khu kinh tế Dung Quất –Chu

Lai.

3.3.1.Mô hình tổ chức bộ máy

a)Phương án I : Khu kinh tế Dung Quất – Chu Lai (theo quyết định của thủ tướng chính

phủ).

+ trưởng ban là người có vị trí tương đương với bộ trưởng hoặc chủ tịch tỉnh.

+ 2-3 phó ban tương đương thứ trưởng hoặc phó chủ tịch tỉnh

 1 phó ban thường trực chung

 1 phó ban phụ trách phân khu Dung Quất

 1 phó ban phụ trách phần khu Chu Lai

+ các ban chuyên môn trực thuộc:

Không giống mô hình quản lý khu công nghiệp theo nghị định 36 mà giống như các

cơ quan của bộ hoặc của tỉnh bao gồm các đơn vị hành chính sự nghiệp và kinh doanh trực

thuộc.

b)Phương án II : Khu kinh tế tổng hợp Dung Quất (trong trường hợp thành lập khu kinh tế

mở Chu Lai – Kỳ Hà độc lập tách rời)

+ Trưởng ban có vị trí tương đương bộ trưởng hoặc chủ tịch tỉnh

+2-3 phó ban tương đương thứ trưởng hoặc phó chủ tịch tỉnh

 1 phó ban thường trực chung

 1 phó ban phụ trách quy hoạch, kế hoạch.

 1 phó ban phụ trách đầu tư và vận động xúc tiến đầu tư

+ các ban chuyên môn trực thuộc:

Không giống mô hình quản lý khu công nghiệp theo nghị định 36 mà giống như các

cơ quan của bộ hoặc của tỉnh bao gồm các đơn vị hành chính sự nghiệp và kinh doanh trực

thuộc.

3.3.2. Chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của ban quản lý.

Lâu nay, ban quản lý khu công nghiệp Dung Quất có thẩm quyền hầu như là được

uỷ quyền của tỉnh và các bộ, thường không rõ ràng về các lĩnh vực sau:

+ Điểu chỉnh phân khu chức năng: phải xin phép Bộ xây dựng.

+ Cấp đất – giao đất- cho thuê đất phải do tỉnh giải quyết

+ Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ và duyệt báo cáo đánh giá

tác động môi trường phải do Bộ KH-CN , và MT

+ Thành lập các tổ chức trực thuộc phải do Ban TCCB Chính phủ cho phép và

đồng ý.

+ Không rõ về thẩm quyền tiếp nhận, phân bổ vốn tín dụng Nhà nước đối với các

dự án đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất.

+ Mức độ cấp phép đầu tư trong nước và nước ngoài phải được sự uỷ quyền của

Bộ Kế hoạch và đầu tư hoặc UBND tỉnh.

+ Cấp giấy phép xuất nhập khẩu : phải được uỷ quyền của bộ thương mại.

Do đó, trong chức năng nhiệm vụ của Ban quản lý khu kinh tê Dung Quất cần phải

được trao các quyền hạn rộng hơn, có thẩm quyền một đầu mối trực tiếp với chính phủ để

đủ tầm vóc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước các hoạt động đầu tư đa dạng tại khu

kinh tế, thực sự giảm bớt các thủ tục hành chính, giải quyết nhanh chóng các yêu cầu đầu

3.3.3.về cơ chế quản lý

a) Cơ chế chung

- Theo cơ chế 1 đầu mối kế hoạch trực thuộc chính phủ

- Nếu là phương án trong khu kinh tế có cả khu Chu Lai sẽ áp dụng phương thức “một khu

hai cơ chế”

b) Cơ chế cụ thể một số lĩnh vực

- Về xây dựng quy hoạch dài hạn và tầm nhìn chiến lược (10 năm hoặc 20 năm) phải trình

Thủ tướng chính phủ phê duyệt, trên cơ sở đó Trưởng ban quản lý khu kinh tế sẽ phê duyệt

các quy hoạch chi tiết để thực hiện.

- Về đất đai : Thủ tướng chính phủ giao đất theo quy hoạch và kế hoạch 5 năm hoặc hàng

năm cho ban quản lý để ban quản lý giao đất hoặc cho thuê tại khu kinh tế.

- Căn cứ vào mục tiêu và yêu cầu phát triển, Ban quản lý khu kinh tế sẽ xây dựng danh

mục các công trình ưu tiên đầu tư trong từng kế hoạch 5 năm và hàng năm (phải trong quy

hoạch đã được duyệt) để trình thủ tướng chính phủ phê duyệt.

- Ban quản lý khu kinh tế ban hành cơ chế đầu tư kinh doanh đất có hạ tầng tại đô thị Vạn

Tường thưo quy hoạch chi tiết được phê duyệt và kế hoạch giao đất hàng năm.

3.3.4.chính sách phát triển

a) áp dụng chính sách thí điểm của khu kinh tế mở cho toàn bộ khu kinh tế Dung Quất –

Chu Lai

b) Là đơn vị áp dụng một số khoản thu ngân sách : thu phí – lệ phí, các khoản thu sự

nghiệp (học phí, viện phí …) và cân đối các khoản chi đầu tư phát triển hàng năm theo kế

hoạch được thủ tướng chính phủ giao.

c) Các khoản chi của khu kinh tế. Ngoài các khoản chi thường xuyên và chi đầu tư xây

dựng, được ngân sách đầu tư trong kế hoạch hàng năm cho yêu cầu chi sự nghiệp (các hoạt

động đơn vị sự nghiệp như trường học, bệnh viện và các hoạt động công cộng như duy tu

cơ sở hạ tầng, điện chiếu sáng công cộng, vệ sinh môi trường công cộng …), chi cho công

tác xúc tiến đầu tư.

3.3.5. các công trình trọng điểm đầu tư bằng vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc từ ngân

sách.

a) Hạ tầng giao thông và cảng biển

b) Hạ tầng điện công cộng.

c) Hạ tầng cấp thoát nước và xử lý nước thải, chất rắn.

d) Hạ tầng xã hội.

III- Định hướng phát triển khu kinh tế tổng hợp Dung Quất – Chu Lai đến năm 2010

và tầm nhìn 2020.

1- Quan điểm phát triển

Việc xây dựng Quy hoạch khu kinh tế tổng hợp Dung Quất cần quán triệt các quan

điểm cụ thể sau :

 Khai thác và phát huy triệt để những lợi thế hiện có, mà trước hết là lợi thế về cảng

biển nước sâu, sân bay quốc tế, công nghiệp lọc hoá dầu và các ngành công nghiệp mũi

nhọn khác để đẩy nhanh sự hình thành và phát triển khu kinh tế làm động lực thúc đẩy

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá miền Trung và cả nước là hành trang để

Quảng Ngãi và Quảng Nam bước vào thế kỷ XXI.

 Phát triển khu kinh tế Dung Quất trên quan điểm mở rộng và hội nhập thị trường các

nước trong khu vực và thế giới, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, thích ứng với môi

trường cạnh tranh quốc tế, giữ vững an ninh quốc phòng dải hành lang ven biển

 Gắn kết bằng các quy hoạch cụ thể giữa việc xây dựng phát triển khu Dung Quất với

vùng duyên hải Nam Trung Bộ và cả Tây Nguyên , với các nước láng giềng phía Tây

(Campuchia - Lào - Thailan ), nhằm xây dựng Dung Quất thành cửa ngỏ của đất nước

lên phía Tây và ra phía Đông.

 Tập trung xây dựng cơ sở vật chất toàn diện ,vững chắc ,đồng bộ ,xây dựng đô thị mới

hiện đại ,văn minh . Thực hiện cơ chế năng động để phát triển tất cả các loại hình sản

xuất kinh doanh và các hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ,…đặc biệt chú ý tới

phát triển công nghiệp chế biến xuất khẩu và hát triển du lịch để phát huy tối đa các

nguồn lực trong và ngoài nước .

 Phát triển khu kinh tế Dung Quất phải đảm bảo hiệu quả tổng hợp , cả kinh tế , chính trị

, xã hội an ninh quốc phòng , bảo vệ môi trường ,mở rộng quan hệ đối ngoại khu vực

và quốc tế .

 Cơ chế chính sách được áp dụng tại khu kinh tế Dung Quất phải thực sự ưu đãi ,khuyến

khích , ổn định lâu dài , tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước

yên tâm bỏ vốn vào phát triển sản xuất kinh doanh trong khuân khổ pháp lý hiện hành

và ngày càng hoàn thiện.

 Thực hiện quản lý tập trung thống nhất , thủ tục hành chính đơn giản nhanh gọn thuận

lợi , một đầu mối , tạo môi trường thông thoáng cho mọi hoạt đọng sản xuất kinh doanh

, dịch vụ tại khu kinh tế tổng hợp thông qua thương cảng lớn Dung Quất và không cảng

Chu Lai .

2- Phương hướng và mục tiêu phát triển

2.1.Hình ảnh khu kinh tế Dung Quất –Chu Lai trong tầm nhìn 2020.

2.1.1. Phác hoạ hình ảnh của khu kinh tế Dung Quất –Chu Lai trong tầm nhìn 2020.

Nhìn nhận từ khía cạnh quốc tế,khu vực và xu hướng hình thành các đo thị lớn và

các khu vực tập trung công nghiệp của Việt nam có thể thấy hình ảnh của khu kinh tế

Dung Quất –Chu Lai trong tổng thể phát triển của cả nước đén năm 2020 với các đặc trưng

sau:

+ Trọng điểm là tập trung phát triển công nghiệp nặng , đặc biệt là công nghiệp hoá dầu

và sau hoá dầu lớn nhất cả nước , đòng thời cũng là một cực phát triển của vùng kinh tế

trọng điểm Miền Trung-Huế-Đà Nẵng –Dung Quất . Tương lai sẽ là một trung tâm phát

triển công nghiệp và đô thị trong vùng kinh tế trọng điểm .

+ Đầu mối giao lưu quốc tế quan trọng của cực phía nam vùng kinh tế trọng điểm miền

Trung và của quốc gia .Trong vùng có sân bay quốc tế , cảng biển tổng hợp và chuyên

dùng phục vụ xuất nhập khẩu hành hoá cho khu vực miền Trung , Nam Lào , Đông Bắc

Thái Lan và Mianma.

+Trong tầm nhìn dài hạn , các nước trong khu vực đặc biệt là Nhật Bản đang dành sự

quan tâm nhiều đến sự phát triển của khu vực Nam Lào-Đông Bắc Campuchia và miền

Trung Việt Nam gắn với việc mở đường xuyên á theo các hành lang Đông -Tây .Cảng

nước sâu Dung Quất sẽ là cửa Vào –Ra ở miền Trung góp phần quan trọng phát triển

quan hệ quốc tế của cả nước .

+ Có thị trường rộng lớn là Tây Trung Nguyên Nam Lào ,Đông Bắc Thái Lan,khu kinh

tế Dung Quất thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế , cung ứng các sản phẩm công

nghiệp , trung chuyển các mặt hàng xuất nhập khẩu, trao đổi các mặt hàng nông sản ,

hải sản …

+ Thành phố Vạn Tường sau những năm 2020 sẽ là đơn vị mới có kiến trúc hiện đại

với các chức năng sau:

- Là đô thị trung tâm cấp quốc gia ,trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm

Miền Trung , có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển đô thị quốc gia .

- Là trung tâm công nghiệp , dịch vụ thương mại , tài chính ngân hàng nghiên

cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ hoá dầu và các sản phẩm sau hoá dâù là thành

phố du lịch và nghỉ dưỡng ven biển lớn của cả nước , đầu mối giao thông , viễn

thông quan trọng trong vùng , quốc gia và quốc tế.

- Là một trong những địa bàn giữ vai trò chiến lược quan trọng về quốc phòng

an ninh của khu vực nam Trung Bộ ,Tây Nguyên .

+ Về cơ sở vật chất kỹ thuật : Mạng lưới kết cấu hạ tầng của thành phố có hệ thống

giao thông hiện đại , đảm bảo được các yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá , hiện

đại hoá : Hệ thống cảng nước sâu đi vào hoạt động với trang thiết bị hiện đại , đưa công

nghệ vận chuyển conteiner trở thành công nghệ vận chuyển chủ yếu để đảm bảo hiệu

quả kinh tế và môi trường . Cảng hàng không có khả năng tiếp nhận các loại máy bay

hiện đại , có các đường bay đến các thành phố trên thế giới . Bưu chính viễn thông trở

thành trung tâm hiện đại của cả nước ; công nghệ thông tin tryền hình phát triển mạnh

trong hoạt động như một công cụ chính của quá trình điêù hành kinh tế –xã hội . Các

khu dân cư với các toà nhà cao tầng thụ hưởng môi trường ven biển . Các khu vui chơi

giải trí và chăm sóc sức khoẻ được phát triển trên phạm vi toàn thành phố , đáp ứng

yêu cầu mọi tầng lớp dân cư . Có sân bay trượt thăng hoặc sân bay tắc xi phục vụ

khách du lịch và nghỉ dưỡng.

2.1.2.Phương hướng và mục tiêu đầu tư phát triển khu kinh tế Dung Quất đến năm 2010

a) Phương hướng chung:

- Khai thác lợi thế so sánh , sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng tài nguyên và nguồn nhân

lực để phát triển kinh tế với tốc độ nhanh. Gắn tăng trưởng kinh tế với đảm bảo phát triển

xã hội một cách bền vững ; tiết kiệm để tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển ; đẩy nhanh sự

chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh và vùng theo hướng CNH,HĐH mà khoa học công

nghệ là nền tảng.

- Thúc đẩy nhanh chóng việc hoàn thành nhà máy lọc dầu số 1 .

- Tiếp tục xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội .

- Bổ sung xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm phát huy mọi nguồn lực và thu

hút đầu tư vào khu Dung Quất . Gắn sản xuất hàng hoá của khu kinh tế Dung Quất với thị

trường quốc tế .

- Phát triển kinh tế kết hợp với tăng cường an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh

thái .

b) Một số mục tiêu trước mắt:

- Hoàn thành nhà máy lọc dầu số 1 vận hành và sử dụng khoảng 4% công suất vào năm

2005, sau đó nâng cấp nhà máy lọc dầu số 1 công suất 6,5 triệu tấn dầu thô lên khoảng 9

triệu tấn , trong đó trong nước cung cấp khoảng 50% nguyên liệu .

Theo quy hoạch vùng này sẽ là vùng công nghiệp lọc , hoá dầu quy mô lớn của đất nước

gắn với công nghiệp sợi tổng hợp , chất dẻo , chất tẩy rửa …

Nhà máy lọc dầu số 1 được xây dựng với công suất 6.5 triệu tấn /năm (trong đó dầu thô

trong nước cung cấp cho nhà máy khoảng 69%) nhằm cung cấp sản phẩm xăng dầu cho

tiêu dùng nội địa , chủ yếu là diezel và gasoline.

Để vận hành nhà máy cần phải có bể chứa dầu , trước mắt xây dựng một số bể có

công suất 120.000lít một bể .

Trong giai đoạn này cần nghiên cứu xây dựng thêm một nhà máy hoá dầu và các cơ

sở sản xuất PP để tận dụng các phụ phẩm của nhà máy lọc dầu số 1 sẽ được đưa vào hoạt

động năm 2004

c) Công nghiệp cơ khí:

Hiện nay vùng KTTĐMT đã có nhà máy cán thép ở Liên Chiểu (Đà Nẵng ) quy mô

khoảng 5 nghìn tấn /năm (năm 1999 đạt sản lượng khoảng 370 tấn ) . Ngoài ra còn có một

số cơ sở kéo cán thép khác ở Lien Chiểu và Ngũ Hành Sơn (sản lượng khoảng 2.4 nghìn

tấn) .Nhà máy cơ khí Phú Xuân (Thừa Thiên Huế )công suất khoảng 200 tấn /năm , vốn

đàu tư 14 tỷ đồng . Các cơ sở cơ khí chủ yếu là sửa chữa và đóng mới tàu loại nhỏ ,thuyền

phục vụ và vận tải và nghề cá ….Nhìn chung các cơ sở sản xuất có quy mô nhỏ , phân tán ,

năng lực yếu , chất lượng sản phẩm thấp.

Trong quy hoạch sẽ đầu tư xây dựng một lò luyện và cán thép tại Dung Quất có

công suất 2 triệu tấn/ năm , sử dụng cảng để nhập nguyên liệu ,đồng thời tận dụng phế

phẩm của các cơ sở khác trong vùng. Sản phẩm là loại sắt ,thép chuyên dùng chủ yếu phục

vụ cho khu công nghiệp và một số tỉnh lân cận .

Trên cơ sở đó xây dựng nhà máy sửa chữa , lắp ráp ô tô .

d) Phá dỡ và sửa chữa tàu thuyền:

Đóng tàu , sửa chữa các loại tàu chuyên dùng cho chở dầu là rất cần thiết cho khu vực

khi công suất lọc , hoá dầu tăng lên . Cần xác định cơ sở phá dỡ tàu ,tái sinh phế liệu , sửa

chữa tàu thuyền và đóng mới tàu tại đây với các hoạt động chính:

 Sửa chữa tàu chở dầu

 Phá dỡ tàu

 Sửa chữa , xây dựng các thiết bị dàn khoang

 Sản xuất , tái sinh phế liệu phục vụ đóng tàu .

e) Công nghiệp năng lượng:

Sẽ xem xét tận dụng nguyên liệu dầu xây dựng nhà máy điện công suất 150MW tại

khu để cung cấp một cách chủ động điện cho nhà máy lọc dầu và tận dụng nguồn điện lưới

quốc gia (dự kiến vào năm 2002).

3.2 ,Phát triển du lịch - dịch vụ - thương mại

Xuất nhập khẩu trong cả vùng năm 2000 đạt trên 550 triệu USD ,tăng 10%, so với

năm1999, trong khi toàn quốc tăng 23%:kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 500 triệu USD tăng

14%;Giá trị xuất khẩu trung bình đầu người đạt khoảng 50 USD(cả nước 150 USD). Tổng

giá trị xuất khẩu của vùng còn thầp so với tiềm năng ; ngoài hải sản đông lạnh có giá trị

xuất khẩu lớn nhất với giá trị trên 140 triệu USD , còn hầu như chưa có sản phẩm hàng

hoá xuất khẩu nào có khối lượng đáng kể .

Giai đoạn 2001-2005 và sau giai đoạn 2006-2010 ,khi nhà máy lọc dầu và các khu

công nghiệp đi vào hoạt động , ngoài việc xuất khẩu sản phẩm dầu , xăng còn phải kể đến

các loại sản phẩm khác như gỗ , cà phê , chè , cao su …từ Tây nguyên và các nước khác và

nhập khẩu trang bị , máy móc , vật tư thông qua cảng Dung Quất .

2.2. Chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn

Khu công nghiệp Dung Quất khác với các khu công nghiệp khác của cả nước là trên

một diện tích rộng lớn 14.000ha bên cạnh hoạt động của công nghiệp thì hoạt động của

nông nghiệp chiếm một diện tích rất lớn . Vấn đề giải phóng mặt bằng để xây dựng cơ sở

công nghiệp ở đây đơn thuần chỉ là chuyển dân ra khỏi những vị trí cần xây dựng đến nơi

định cư mới còn đất đai và tập quán canh tác không đòi hỏi thay đổi. Đây là đặc thù được

đặt ra cho việc qui hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn trong khu.

Chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn sẽ được hướng tới những vấn đề cụ thể

sau:

 Trước tiên là ổn định chỗ ở và sinh hoạt cho dân cư , bao gồm : nhà ở và ác dịch vụ

về học hành , khám , chữa bệnh ,vui chơi giải trí . Tận dụng vốn của các chương

trình lớn của nhà nước như chương trình Định canh định cư , xoá đói giảm nghèo ,

phát triển kinh tế và đầu tư vốn bằng nhiều nguồn khác để ổn định cuộc sống dân cư

trong khu đang canh tác nông nghiệp và hoạt động ngư nghiệp

 Nghiên cứu , phát triển các ngành nghề phù hợp với khả năng khai thác đất đai và

vùng biển để giải quyết việc làm tại chỗ. Kết hợp các ngành nghề truyền thống với

phát triển dịch vụ và du lịch để khai thác nguồn lợi về cảnh quan , môi trường.

 Tạo điều kiện kiện bằng cách đào tạo kỹ thuật ,nâng cao tay nghề cho lao động

nông nghiệp, ưu tiên sử dụng lao động của vùng đã qua đào tạo vào làm trong các

lĩnh vực công nghiệp tại khu.

2.3.Chương trình phát triển các lĩnh vực xã hội.

Phương hướng chung để phát triển về mặt xã hội là trong giai đoạn đầu khu công

nghiệp cần có biện pháp để phát triển giáo dục, y tế và các dịch vụ khác nhất là trong khu

đô thị mới Vạn Tường.

Về giao dục, đào tạo nguồn nhân lực:

Nhu cầu về giáo dục, đào tạo cho khu rất lớn và cấp thiết. Đây là một khu với các

ngành công nghiệp hiện đại và thu hút nhiều lao động lành nghề.Muốn có đội ngũ nhân lực

như vậy chương trình giáo dục ,đào tạo phải hướng tới những vấn đề cụ thể như sau:

 Nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu dân trí, đồng thời đặc biệt chú trọng

đẩy nhanh đào tạo lao động kỹ thuật phục vụ nhiệm vụ phát triển công nghiệp nặng

có công nghệ tiên tiến.

 Trong giai đoạn trước mắt cần ổn định các trường phổ thông cho con em công nhân

viên.Hiện đại hoá trường dạy nghề để nhận vào mỗi năm 1 nghìn học sinh nhằm

đáp ứng nhu cầu trước mắt cho khu công nghiệp .

 Mở các khoá ngắn hạn vừa học vừa thực hành cho những công nhân đang làm việc

để nâng cao trình độ, bổ xung các kiến thức mới và công nghệ mới đòi hỏi.

Về y tế :

Từ nay đến năm 2005 phải xây dựng xong bệnh viện 100 giường để phục vụ sức

khoẻ cho chuyên gia và công nhân viên và gia đình họ.

Thực hiện tôt chủ trương của nhà nước về phát triển y tế cộng đồng và các chương trình

khác.

2.4.Chương trình bảo vệ môi trường

Đây là khu công nghiệp được bố trí các ngành công nghiệp có khả năng gây ô

nhiễm cao về cả đất , nước và không khí.Như vậy ngay từ khi lập quy hoạch đã cần phải

chú ý đặc biệt đến vấn đề này.Những vấn đề cần được quan tâm, đó là:

 Phải quy hoạch hệ thống sử lý chất thải rắn , nước thải cho từng cơ sở sản xuất và

toàn khu ,xây dựng bãi rác hiện đại cho toàn khu.

 Hệ thống quan trắc môi trường thường xuyên cung cấp những thông tin về ô nhiễm

để có cách xử lý kịp thời.

 Trồng và chăm sóc rừng cây tạo vành đai xanh,không gian xanh cho cả khu vực .

 Tạo cảnh quan môi trường hài hoà giữa nơi sản xuất và nơi giải trí .

2.5.Quy hoạch nguồn cung cấp vật liệu xây dựng

Dự kiến quy hoạch đến năm 2010 toàn vùng KTTĐMT sẽ xây dựng một số nhà

máy xi măng và nghiền clinkẻ. Tuy vậy chỉ đáp ứng cho nhu cầu xây dựng ở mức độ thấp .

Còn đối với khu Dung Quất nhu cầu xây dựng cao hơn nhiều , do đó quan điểm phát triển

nguồn vật liệu xây dựng là dựa vào điều kiện có tự sản xuất để cung cấp vật liệu xây dựng

cho khu . Khai thác tối đa nguồn tài nguyên đá , cát của vùng để phục vụ một khối lượng

khổng lồ . Ngoài ra phát triển sản xất gạch xây , gạch men cao cấp để đáp ứng nhu cầu

chất lượng cao của khu.

2.5.1.Nhu cầu cung cấp vật liệu xây dựng

Nhu cầu VLXD bao gồm xi măng , đá , cát các loại , vật liệu lợp ,bê tông phục vụ

cho xây dựng khu công nghiệp và thành phố Vạn Tường được tính toán theo nguồn vốn

đầu tư xây dựng và định mức tiêu hao VLXD cho các hạng mục công trình ,cụ thể :

 Nhu cầu cho xây dựng cơ sở hạ tầng của khu công nghiệp và thành phố Vạn Tường

 Nhu cầu cho xây dựng các nhà máy trong khu và các công trình phụ trợ

 Nhu cầu cho nhà ở của dân đô thị và các vùng phụ cận

 Tính toán cụ thể giai đoạn 2001-2005 nhu cầu cho xây dựng toàn khu khoảng :  Đá : 4.5 triệu m3  Cát : 2.5 triệu m3  Sỏi : 5 triệu m3

2.5.2. Phương án cung ứng vật liệu xây dựng cho khu công nghiệp Dung Quất

Căn cứ vào nhu cầu VLXD , vào tình hình sản xuất hiện nay và nguồn nguyên vật

liệu sản xuất VLXD trên địa bàn … Phương án cung ứng VLXD cho khu công nghiệp

Dung Quất đến năm 2005, như sau:

 Quy hoạch nguồn vật liệu trong khu , xây dựng nhà máy nghiền clinke 10 vạn

tấn/năm và tận dụng xi măng của các nhà máy trong vùng để xây dựng các hạng

mục ban đầu .

 Xây dựng phương án khai thác và cung ứng các loại vật liệu sử dụng trực tiếp

không qua chế biến (đất cát san lấp , cát ,đá , sỏi xây dựng , …)

 Quy hoạch đầu tư mở rộng nâng công suất các cơ sở sản xuất VLXD hiện có trong

địa bàn như mỏ đá , nhà máy gạch , khai thác cát , sỏi .

 Quy hoạch đầu tư xây dựng mới các cơ sở sản xuất vật liệu như gạch tuynen , gạch

men , …

 Xây dựng xí nghiệp liên doanh sản xuất đá granit tại chỗ để cung cấp trực tiếp cho

công nghiệp và xây dựng .

2.6. Quy hoạch phát triển không gian

2.6.1. Phương án khu kinh tế Dung Quất bao gồm cả Chu Lai

- Diện tích đất tự nhiên : 14 nghìn ha (trong phạm vi 9 xã với 70 nghìn dân )

Trong đó :

+ Đất công nghiệp :3180 ha (địa bàn Quảng Nam : 751ha ; địa bàn Quảng Ngãi : 2429

ha )

+Đất đô thị mới (Vạn Tường ) 2400ha (1400ha là đất phát triển)

+Đất sân bay (Chu Lai ) : 2300 ha

+ Đất giao thông : 300 ha

- Cảng Dung Quất +Diện tích mặt nước hữu ích : 4km3

+Diện tích đất phát triển cảng : 600 ha (kho bãi , dịch vụ phụ trợ ) ;

Phân khu chức năng chủ yếu của phương án này bao gồm 4 khu vực chính :

a)KCN phía Đông

+ Chức năng khu công nghiệp lọc hoá dầu , hoá chất và công nghiệp nặng gắn với các

ngành đầu tư và khai thác cảng nước sâu Dung Quất .

+ Diện tích : 5024 ha trong đó đất phát triển nông nghiệp là 1463 ha

Gồm 4 cụm công nghiệp :

 Cụm 1: Công nghiệp lọc dầu

 Cụm 2: Công nghiệp hoá dầu và sau hoá dầu

 Cụm 3: Công nghiệp hoá chất

 Cụm 4: Công nghiệp khác có sử dụng đến mặt biển

Đây là khu công nghiệp nặng , các nhà máy lọc dầu , hoá dầu ,hoá chất luyện cán

thép , đóng và sửa chữa tàu biển , kho ngoại quan và các ngành công nghiệp khác , …

Hình thành hệ thống cảng tổng hợp : Bến rót dầu , xuất dầu, cảng container , cảng

dịch vụ tổng hợp , khai thác tối đa những lợi thế mà thiên nhiên ưu đãi cho khu vực này .

Quy hoạch phát triển các cụm dân cư hiện có và tái định cư tại chỗ theo hướng đô thị

hoá .

Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư :

 Hệ thống dự án điện chiếu sáng đường nối quốc lộ 1A- cảng Dung Quất-tuyến

phía Bắc (vốn ngân sách nhà nước ) .

 Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật các khu dân cư phía Đông sông Trà Bồng

(vốn NSNN).

 Nhà máy lọc dầu số 1.

 Dự án sản xuất Polyproylene.

 Dự án sản xuất ga hoá lỏng (LRG).

 Dự án sản xuất LAB.

 Nhà máy hoá dầu MTBE.

 Nhà máy hoá dầu Cacbon Black (CB).

 Dự án đầu tư xây dựng bến số 1- cảng tổng hợp Dung Quất (BOT giai đoạn 1).

 Nhà máy liên hợp công nghiệp tầu thuỷ.

 Dự án sử lý cấp hai các loại nước thải có dầu và sản phẩm dầu khu công nghiệp

phía Đông Dung Quất.

b) Khu công nghiệp phía tây:

+ Chức năng : khu công nghiệp nhẹ gồm rệt may, cơ khí lắp ráp, điện tử, sản xuất VLXD,

chế biến hàng tiêu dùng và xuất khẩu.

+ Diện tích : 2.100ha, trong đó đất công nghiệp là 957ha;

Khu công nghiệp phía Tây gồm hai xã Bình Chánh và Bình Thành thuộc huyện

Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có diện tích 2100ha Dự ánược giới hạn theo hướng Bắc Nam

từ bãi tắm Khe Hai – Sân bay Chu Lai đến khu dân cư Bỗu Chuốc, theo hướng Đông Tây

từ sông Trà Bồng đến quốc lộ 1A. địa hình tương đối bằng phẳng, nằm trên nền đồi cát, sỏi

thấp, được chia thành hai phần : phía Bắc dốc Sỏi dốc thoải ra biển thuận lợi cho việc thoát

nước ; còn phía Nam dốc Sỏi dốc thoải về sông Trà Bồng, nền đất sỏi cuội thuận lợi cho

xây dựng.

Dân số toàn khu khoảng trên 2 vạn, sinh sống chủ yến bằng nghề nông và ngư

nghiệ, điều kiện kinh tế thấp, còn gặp nhiều khó khăn.

địa hình thuộc phân khu khá bằng phẳng, nền đất tốt thuận lợi cho việc xây dựng các công

trình công nghiệp.

Đất đai phần lớn là đất lâm nghiệp và đất hoang (chiếm trên 67%), đất nông nghiệp

chiếm 25% kém mầu, nhiễm mặn, năng suất nông nghiệp thấp khá thuận lợi cho việc tổ

chức giải phóng mặt bằng.

Về hạ tầng cơ sở : đã xây dựng từ tuyến đường từ Dốc Sỏi đến cảng Dung Quất. Đi

song song là đường sắt đã được quy hoạch, chia phân khu thành hai phần, phía Bắc và phía

Nam Dốc Sỏi.

Đây là khu công nghiệp có tính chất sau lọc dầu, các nhà máy cơ khí, ssửa chữa và

dịch vụ. Những cơ sở chủ yếu sẽ được hình thành tại đây là :

Các cơ sở sản xuất sản phẩm hoá chất, các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến lâm

sản, tập trung các xí nghiệp vừa và nhỏ, ư tiên các ngành sản xuất VLXD, cơ khí sửa chữa

vận tải, công nghiệp chế tạo thiết ị phục vụ đóng tàu, xây dựng các kho bãi trung chuyển

container phục vụ vận chuyển.

đất đai.

Quy hoạch cải tạo 4 cụm dân cư theo hướng đô thị hoá.

c) Khu công nghiệp Chu Lai – Kỳ Hà:

Khu công nghiệp Chu Lai – Kỳ Hà bao gồm mũi Kỳ Hà và sân bay Chu Lai, nằm

trong địa phận huyện Núi Thành tỉnh Quảng Nam.

+Chức năng: công nghiệp quốc phòng, chế xuất và sân bay Chu Lai;

+Diện tích: 3.051ha; trong đó sân bay Chu Lai 2300ha; khu công nghiệp Kỳ Hà: 751ha;

diện tích để phân bố các cơ sở sản xuất công nghiệp khoảng 210ha và diện tích phụ khác

như giao thông, cây xanh,…

Khu Chu Lai – Kỳ Hà sẽ được phát triển theo hướng sau:

 Xây dựng tại đây cụm công nghiệp đa ngành gồm các loại hình công nghiệp: công

nghiệp kỹ thuật cao, phá vỡ tầu thuyền, sửa chữa cơ khí và các ngành công nghiệp

dịch vụ khác. hiện nay tại đây đã có một số cơ sở cán thép nhỏ. Trong tương lai sẽ

xây dựng một khu chế xuất và khu công nghệ cao.

 Cải tạo, nâng cấp sân bay Chu Lai thành sân bay vận tải hàng hoá, hành khách cấp

quốc tế cho miền trung và tây nguyên.

 Quy hoạch phát triển các cụm dân cư hiện có và tái định cư tại chỗ theo hướng đô

thị hoá.

d) Thành phố Vạn Tường

Chức năng là đô thị công nghiệp- dịch vụ; là trung tâm tài chính phục vụ cho sự

phát triển của khu công nghiệp Dung Quất.

Tính chất đáp ứng các tiêu chuẩn và yêu cầu của đô thị văn minh, hiện đại của thế

kỷ XXI (ba yêu cầu hiện đại: về kiến trúc xây dựng, về hạ tầng kĩ thuật và về văn hoá dân

trí) đáp ứng yêu cầu của những nhà đầu tư, những người có thu nhập khá và chuyên gia

nước ngoài.

Diện tích 2400 ha, trong đó đất phát triển nhà ở, cơ quan, các cơ sở dịch vụ- tiện ích

kèm theo là 1400 ha.

Dân số hiện nay là 16000 người, vào năm 2005 sẽ là 60000 người. Năm 2010 có

khoảng 100-120 nghìn dân. Năm 2020 sẽ có khoảng 15-18 vạn người với cơ sở vật chất và

kết cấu hạ tầng đô thị của một thành phố hiện đại.

Thành phố Vạn Tường gắn với quá trình hình thành và phát triển khu kinh tế Dung

Quất, là khu đô thị mới, là thnàh phố công nghiệp, du lịch hiện đại của nước ta vào thế kỷ

XXI, với diện tích khoảng 2400 ha. Quy hoạch đầu tư phát triển khu dân cư cho công

nhân, chuyên gia hiện đại với diện tích 178 ha, qui mô dân số 18000 người. Đến năm 2005

tập trung đầu tư xây dựng khu dân cư và chuyên gia diện tích 82,77 ha, qui mô dân số

11530 người.

Xây dựng hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật.

Xây dựng khu ở hiện đại (đối tượng phục vụ là chuyên gia và công nhân nhà máy

lọc dầu số một và các nhà máy khác).

Xây dựng các công trình công cộng (bệnh viện, trường học, nhà văn hoá, thương

mại, cơ quan,…)

Quy hoạch, cải tạo và trồng mới rừng phòng hộ môi trường xung quanh các cụm

công nghiệp, ngăn cách khu công nghiệp Dung Quất với các khu làng mạc, đồng ruộng

xung quanh và thành phố Vạn Tường.

Danh mục các dự án đầu tư.

Dự án xây dựng rừng phòng hộ môi trường (vốn Ngân sách Nhà nước)

Diều tra cơ bản và Quy hoạch bảo vệ môi trường khu công nghiệp và thành phố

Vạn Tường.

Danh mục các dự án đầu tư

Trung tâm đào tạo lao động kĩ thuật (vốn Ngân sách Nhà nước)

Dự án bệnh viện khu dân cư và chuyên gia nhà máy lọc dầu số một thành phố Vạn

Tường (vốn Ngân sách Nhà nước)

Dự án điện chiếu sáng từ quốc lộ 1A vào thành phố Vạn Tường (tuyến Nam) (vốn

Ngân sách Nhà nước)

Trường mẫu giáo (2 trường)

2.6.2. Các khu trung tâm điều hành và dịch vạ công cộng

Toàn khu bố trí hai trung tâm điều hành công cộng chính: tại Dốc Sỏi và tại khu

công nghiệp phía Đông đảm bảo phục vụ hoạt động nhịp nhàng cho toàn khu.

2.7.Về hạ tầng kĩ thuật

Đường bộ; xây dựng các tuyến đường giao thông trục chính thành phố Vạn Tường,

đường giao thông ven biển, đường trục chính các khu công nghiệp phía Đông, phía Tây và

cảng Dung Quất.

Đường sắt: Lập dự án khả thi tuyến đường sắt từ Dốc Sỏi đến cảng Dung Quất (14

km)

Hệ thống cảng biển: Hoàn thành kế hoạch chi tiết hệ thống cảng biển Dung Quất,

xây dựng hai bến cảng tổng hợp và cảng chuyên dùng, xây dựng kè chắn cát, cảng Dung

Quất.

Cảng Kỳ Hà (tỉnh Quảng Nam). Theo Quy hoạch đến năm 2003 đạt mức 0,3 triệu

tấn/năm và tầu 3000 tấn ra vào. Năm 2010 đạt mức 0,5 triệu tấn/ năm và tầu 3000 tấn ra

vào cảng.

Cảng Dung Quất (Quảng Ngãi ). Cách cảng Liên Chiểu 120 km về phiá nam có

huyện Dung Quất thuộc huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi) có độ sâu từ 6-22m, có nơi sâu tới

30m (phía Đông mũi Nam Trâm). Đây là vịnh có thuận lợi để phát triển cảng nước sâu vào

loại lớn nhất cả nước.

Vịnh Dung Quất nằm không xa quốc lộ 1; đường sắt Thống Nhất và tuyến đường

điện 110 KV (chỉ cách khoảng 10 km), gần sân bay quốc tế Chu Lai . địa hình ven bờ

vịnh là một dải cát vàng.

IV- Một số giải pháp về cơ chế chính sách, quản lý nhà nước đối với khu kinh tế

Dung Quất

1- Những vấn đề chung

Việc nghiên cứu khung pháp lý và mô hình quản lý với những điều kiện ưu đãi đối

với khu kinh tế Dung Quất phải được xây dựng trên cơ sở chính sách đã có trong các văn

bản quy phạm pháp luật, bao gồm cả điều ước quốc tế Việt Nam đã ký kết, nó cũng hàm

chứa cả những nội dung về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế. Tiến hành từng bước vững

chắc và cũng phải tính đến vị trí khá quan trọng trên lĩnh vực quốc phòng và an ninh của

vùng này.

Các giải pháp chính sách đưa ra phải đảm bảo sự đồng bộ, tính tới các loại thị

trường (vốn, đất đai, lao động, dịch vụ tài chính...)

Khung pháp lý này phải được quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật hoặc

là riêng đối với khu Dung Quất, hoặc là chung đối với các khu kinh tế tổng hợp khác của

Quốc gia.

2- Các giải pháp về cơ chế chính sách

a)Cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp:

Trong thị trường hàng hoá sản phẩm, các doanh nghiệp tại khu kinh tế Dung Quất

không phân biệt loại hình doanh nghiệp, đều được bình đẳng trước pháp luật, hoạt động

theo cơ chế thị trường, khuyến khích cạnh tranh và đều có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp

tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ, chỉ trừ những hàng hoá bị cấm theo luật pháp của quốc

gia và công ước thông lệ quốc tế.

Trên địa bàn Dung Quất sẽ có sự ra đời và hoạt động của nhiều loại hình tổ chức,

sản xuất của các tổ chức, sản xuất của các thành phần kinh tế.

Cần rà soát lại các quy định của UBND hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, ban

quản lý Dung Quất và chọn lọc, hợp thức hoá để áp dung chung cho toàn bộ khu Dung

Quất.

Ngoài những cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư được quy định hiện hành cho

khu công nghiệp Dung Quất (là khu vực đặc biệt khuyến khích đầu tư đối với đầu tư nước

ngoài), có cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư ban hành thí điểm riêng cho Dung Quất

đối với những dự án đầu tư từ 2002 đến trước năm 2006 theo hướng như sau:

 Dung Quất là khu vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được áp dụng các chính

sách về thuế như đối với doanh nghiệp đầu tư theo luật khuyến khích đầu tư

nước ngoài.

 Nhà nước bảo đảm đầu tư toàn bộ hệ thống hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội

bên trong khu công nghiệp, bảo đảm cấp điện, nước, viễn thông và các tiện ích

khác đến hàng rào nhà máy. Riêng đường giao thông, sẽ đầu tư bằng vốn Ngân

sách các tuyến trục chính trong các phân khu công nghiệp, bảo đảm có đường

đến từng cụm công nghiệp khoảng 100 ha (nếu là khu công nghiệp có chủ đầu tư

và kinh doanh hạ tầng kĩ thuật) hoặc đến hàng rào các nhà máy cá diện tích

chiếm đất trên 20 ha và thuê đất thô.

 Tất cả các dự án đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất được miễn nộp tiền

thuê đất nguyên thổ tổng cộng là 16 năm và sau thời gian miễn giảm, sẽ được áp

dụng mức giá cho thuê đất thô là 150 USDha/năm đối với đầu tư nước ngoài và

500.000VND/ha/năm đối với đầu tư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước.

Không áp dụng hệ số vị trí, hệ số kết cấu hạ tầng, hệ số ngành nghề vào mức giá

trên.

 Các dự án đáp ứng các yêu cầu về ngành nghề hoặc điều kiện sau đây được

hưởng các ưu đãi đầu tư: ngàh lọc hoá dầu, sau hoá dầu và hoá chất, các dự án

đầu tư khai thác cảng Dung Quất.

Các ưu đãi cụ thể như sau:

 Hỗ trợ 100% giá trị thiệt hại về đất và giá trị cây cối, hoa mầu gắn liền với đất.

 Riêng các dự án đầu tư phát triển hạ tầng kĩ thuật các phân khu công nghiệp hỗ

trợ toàn bộ chi phí đền bù giá trị thiệt hại về đất và cây cối, hoa mầu có trên đất

thuộc phần diện tích dành cho việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng, tiện

ích chung (đường giao thông, điện nước, thoát nước).

 Hỗ trợ cho các doanh nghiệp đào tạo lao động kĩ thuật (bậc 3/7):

300.000VND/người (có hộ khẩu tại hai tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam và phục

vụ trong khu công nghiệp Dung Quất- Chu Lai).

b)Chính sách thuế:

Thuế trên địa bàn khu kinh tế Dung Quất sẽ chú trọng tới phát triển nguồn thu để từ

đó vừa tăng thu cho Ngân sách vừa tăng thu nhập cho công ty, các đơn vị thành viên, kể cả

tư nhân. Trên bình diện tổng thể, hệ thống thuế trên địa bàn khu kinh tế Dung Quất sẽ là hệ

thống thuế ưu đãi, chuyển từ khai thu thuế sang khai nộp thuế.

Thuế thu nhập công ty sẽ được ưu đãi đặc biệt với những doanh nghiệp đầu tư kinh

doanh vào cơ sở hạ tầng. Ưu đãi đối với doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao hoặc sử

dụng nhiều lao động…

Thuế thu nhập cá nhân sẽ áp dụng mức thuế ưu đãi so với các đơn vị ngoàI khu

kinh tế Dung Quất. Mức thuế thu nhập cá nhân được đánh đồng đều cho các cá nhân trong

nước và ngoài nước, những người có thu nhập trên địa bàn khu kinh tế Dung Quất .

c)Các chính sách xuất nhập khẩu, chính sách giá, tài chính doanh nghiệp:

Xuất khẩu được khuyến khích trong khu kinh tế Dung Quất. Các mặt hàng xuất

nhập khẩu trên địa bàn khu kinh tế Dung Quất của các doanh nghiệp được tính ngoài các

hạn ngạch của các mặt hàng đó.

Thực hiện chế độ kế toán và kiểm toán theo chuẩn quốc tế các doanh nghiệp trên

địa bàn một cách công khai tài chính công ty của các doanh nghiệp trên địa bàn khu kinh tế

Dung Quất.

d) Chính sách thị trường:

Chú trọng tới các loại thị trường vốn, thị trường đất đai, thị trường bất động sản

trong khu kinh tế. Mọi đối tượng, mọi thành phần thuê đất đến 70 năm, giá thuê đất được

ưu đãi bằng 50% giá đất cùng loại ngoài khu kinh tế. Các thông lệ quốc tế về sở hữu bản

quyền dược thực hiện trên địa bàn khu kinh tế Dung Quất.

Nghiên cứu hình thành các công ty tài chính trên địa bàn; từng bước hình thành thị

trường chứng khoán trên khu kinh tế Dung Quất.

Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong bồi thường, giải phóng mặt bằng, miễn

giảm giá thuế đất…

Khuyến khích các công ty bất động sản đầu tư vào các công trình hạ tầng trên địa

bàn khu kinh tế Dung Quất để nâng giá trị đất và bán, cho thuê lại quyền sử dụng đất. Tất

cả các hoạt động trên thị trường đất đai đều phải tiến hành công khai.

e) Về phát triển cơ sở hạ tầng:

Để thúc đẩy tiến trình xây dựng cơ sở hạ tầng tại khu kinh tế Dung Quất, các hình

thức vay ưu đãi, BOT, BT, đổi đất lấy công trình được khuyến khích.

f) Nghiên cứu và đề xuất mở rộng chính sách xã hội hoá một số hoạt động trong các lĩnh

vực cung cấp dịch vụ đô thị, y tế, giáo dục, văn hoá,thể dục thể thao:

Quan điểm chung là việc gì các thành phần kinh tế có thể tham gia làm tốt, thì có

chính sách khuyến khích thực hiện.

g) Chính sách huy động vốn đầu tư, bổ sung cho nguồn vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư

hàng năm.

h) Nghiên cứu và đề xuất chính sách thu hút lao động chất xám và chế độ đãi ngộ tương

xứng đối với cán bộ, công chức, chính sách, biện pháp điều chỉnh dân cư, lao động, xử lý

các vấn đề xã hội.

V- Một số kiến nghị để thực hiện quy hoạch

1- Về cơ chế chính sách:

Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương cần sớm có chủ trương chuyển đổi mô

hình tổ chức của khu công nghiệp Dung Quất theo tinh thần nghị quyết Đại hội IX của

Đảng; sớm phê duyệt quy hoạch chi tiết cụm cảng Trung Trung Bộ (trong đó có quy hoạch

chi tiết cụm cảng Dung Quất); UBND tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam cần quan tâm hỗ

trợ và giải quyết nhanh chóng các vấn đề phát triển trong khu công nghiệp Dung Quất: như

đền bù giải toả, trật tự an toàn, vệ sinh môi trường, tái định cư ổn định đời sống nhân

dân…

2- Về vốn

Chính phủ và các bộ,ngành Trung ương cần quan tâm bổ sung vốn cho các dự án có

khối lượng hoàn thành năm 2002 (như đường giao thông trục chính khu dân cư và chuyên

gia nhà máy lọc dầu số 1, trung tâm Monitoring môi trường Dung Quất ) và các dự án cần

thiết (như trung tâm đào tạo lao động kỹ thuật khu công nghiệp Dung Quất, đường ô tô

tuyến nam vào thành phố Vạn Tường, các tuyến đường trục vào khu công nghiệp Dung

Quất phía đông và phía tây, bệnh viện Dung Quất. Trung tâm văn hoá thể thao) phải đẩy

nhanh tiến độ thi công để khai thác, phát huy tác dụng phục vụ cho nhiệm vụ chính trị và

công tác kêu gọi đầu tư.

3- Về đào tạo

Kiến nghị bổ sung chỉ tiêu đào tạo 1000 học sinh cho trường đào tạo nghề Dung

Quất nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân cho các nhà máy đầu tư vào khu công nghiệp

Dung Quất (như nhà máy đóng tầu, dệt may, xi măng…) và kinh phí do dự án rừng (hỗ trợ

trồng cây phân tán, vốn luân chuyển lâm sinh…).

Mục lục

Phần I: Lý luận chung về phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng phục vụ

phát triển khu công nghiệp.

Chương I: Khái luận chung về khu công nghiệp và phát triển khu công

nghiệp.

I- Khái niệm khu công nghiệp:

II- Khái niệm phát triển khu công nghiệp:

1. Khái niệm phát triển khu công nghiệp

2. Các yếu tố tác động đến sự phát triển khu công nghiệp

Chương II:Khái niệm chung quy hoạch phát triển công nghiệp và kết cấu hạ

tầng phục vụ phát triển khu công nghiệp

I- Khái niệm quy hoạch phát triển vùng

1. Khái niệm quy hoạch vùng:

2. Khái niệm quy hoạch phát triển vùng

3. ý nghĩa quy hoạch phát triển vùng đến xây dựng khu công nghiệp để

phát triển kinh tế xã hội.

4. Mục đích và tính chất của quy hoạch phát triển vùng

4.1. Mục đích chủ yếu của quy hoạch:

4.2. Yêu cầu quy hoạch:

4.3. Tính chất của quy hoạch:

II- Khái niệm quy hoạch phát triển công nghiệp

III-Khái niệm quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng

Phần II: Thực trạng về quy hoạch phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng

của khucông nghiệp Dung Quất

Chương I: Tiềm năng và nguồn lực của Tỉnh ảnh hưởng tới phát triển công

nghiệp và kết cấu hạ tầng

I- Điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng của Tỉnh Quảng Ngãi

1.Vị trí địa lý kinh tế:

2. Điều kiện tự nhiên, địa hình:

3. Cơ sở hạ tầng:

3.1. Hệ thống giao thông

3.2. Thông tin liên lạc

3.3. Điện, nước, thuỷ lợi

II- Tiềm năng và nguồn lực của Tỉnh Quảng Ngãi

1. Nguồn nhân lực, tiềm năng con người, công tác đào tạo, nghiên cứu

khoa học kỹ thuật

2. Tiềm năng đất

2.1. Quỹ đất và cơ cấu đất

a) Đất nông nghiệp

b) Đất lâm nghiệp

c) Đất chưa sử dụng

2.2. Hệ số sử dụng đất

2.3. Nguồn nguyên liệu từ nông , lâm, ngư nghiệp

a) Trồng trọt

b) Chăn nuôi

c) Lâm nghiệp

d) Thuỷ hải sản

2.4. Tài nguyên khoáng sản

2.5. Tài nguyên nước

III. Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ngãi

1. Tổng sản phẩm GDP

2. Cơ cấu kinh tế

3. Thu chi ngân sách

4. Xuất nhập khẩu

5. Vốn đầu tư

IV.Đánh giá những thuận lợi và khó khăn, so sánh với các tỉnh khác và các vùng kinh tế

khác

1.Thuận lơi

1.1. Về điều kiện tự nhiên

1.2. Về nguồn lực con người

1.3. Điều kiện cơ sở hạ tầng

2. Khó khăn

2.1. Điều kiện tự nhiên.

2.2. Về nguồn lực cơ sở hạ tầng.

2.3. Cơ cấu kinh tế.

Chương II: hiện trạng công nghiệp và kết cấu hạ tầng của tỉnh Quảng Ngãi.

I .Quá trình phát triển.

II .Hiện trạng phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng của tỉnh giai đoạn 1995-2000

1. Cơ sở sản xuất công nghiệp

2. Lao động công nghiệp

3. Cơ cấu công nghiệp

4. Phân bố công nghiệp

5. Hoạt động đầu tư cho công nghiệp

III. Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về công nghiệp và kết cấu hạ tầng

IV. Nhận xét, đánh giá chung

1.Thành tựu.

2.Tồn tại.

Chương III: Thực trạng và những vấn đề đặt ra với việc quy hoạch phát triển

khu công nghiệp Dung Quất.

I-Thực trạng phát triển- những thành tựu và tồn tại

1. Vài nét về lịch sử hình thành khu công nghiệp Dung Quất

2. Những thành tựu đạt được

3. Một số tồn tại

II. Các vấn đề đặt ra đối với sự phát triển khu Dung Quất trong tương lai

1. Xác lập lại mô hình phát triển khu Dung Quất trong tương lai

2. Mối quan hệ giữa khu kinh tế Dung Quất với việc hình thành khu kinh tế

mở Chu Lai

3. Nghiên cứu thiết lập khung cơ chế chính sách, mô hình quản lý thích

hợp với sự phát triển ở Dung Quất

Phần III. Giải pháp về quy hoạch phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng

phục vụ phát triển khu công nghiệp Dung Quất.

I.Vị trí động lực của khu Dung Quất và tổng thể phát triển kt-xh khu vực miền trung và cả

nước.

1. Các lợi thế tạo động lực thúc đẩy nhanh quá trình hình thành khu kinh tế

Dung Quất.

2. Vị trí kinh tế trong tương lai

II. Mối quan kệ giữa việc hình thành khu kinh tế mở Chu Lai và khu kinh tế tổng hợp Dung

Quất

1.Tổng quan kinh nghiệp về việc hình thành khu kinh tế mở.

2.Sự hạn chế trong việc hình thành khu kinh tế mở Chu Lai.

3.Đề xuất mô hình phát triển khu kinh tế tổng hợp Dung Quất – Chu Lai

III. Định hướng phát triển khu kinh tế tổng hợp Dung Quất – Chu Lai đến năm 2010 và

tầm nhìn 2020.

1. Quan điểm phát triển

2. Phương hướng và mục tiêu phát triển

IV.Một số giải pháp về cơ chế chính sách, quản lý nhà nước đối với khu kinh tế Dung

Quất.

1. Những vấn đề chung

2. Các giải pháp về cơ chế chính sách

V. Một số kiến nghị để thực hiện quy hoạch