intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài khoa học và công nghệ cấp Trường: Nghiên cứu cải thiện khả năng tạo lực nâng của phương tiện bay kích cỡ nano, loại cánh đập

Chia sẻ: Mucnang000 Mucnang000 | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:81

39
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là xây dựng một công cụ phù hợp để phân tích động học của phương tiện qua đó có thể tối ưu hóa lực nâng (lift) trên cánh. Nghiên cứu này được thực hiện trên một vật thể bay loại cánh đập có bộ khung mềm dẻo (flexible skeleton) và có kích thước theo tiêu chuẩn nano (Flapping wing Nano aerial vehicles-FWNAV). Dựa trên tính chất mềm dẻo của phương tiện, nguyên mẫu được nghiên cứu để kết hợp hai chế độ rung cộng hưởng - uốn và xoắn - để tái tạo quỹ đạo cánh côn trùng. Mô hình đề xuất sử dụng Bond Graph, một ngôn ngữ giao diện người dùng đồ họa vì nó rất phù hợp để mô phỏng một hệ đa vật lý như trong trường hợp này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài khoa học và công nghệ cấp Trường: Nghiên cứu cải thiện khả năng tạo lực nâng của phương tiện bay kích cỡ nano, loại cánh đập

  1. ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT BÁO CÁO TỔNG KẾT  ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG  NGHIÊN CỨU CẢI THIỆN KHẢ NĂNG TẠO LỰC  NÂNG CỦA PHƯƠNG TIỆN BAY KÍCH CỠ NANO,  LOẠI CÁNH ĐẬP Mã số: T2019­06­116 Chủ nhiệm đề tài: TS. ĐOÀN LÊ ANH
  2. Le Anh Doan, Eric Cattan, Sebastien Grondel 2 Đà Nẵng, 08/2020
  3. ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT BÁO CÁO TỔNG KẾT  ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG NGHIÊN CỨU CẢI THIỆN KHẢ NĂNG TẠO LỰC  NÂNG CỦA PHƯƠNG TIỆN BAY KÍCH CỠ NANO,  LOẠI CÁNH ĐẬP Mã số: T2019­06­116   Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài               Chủ nhiệm đề  tài                           (ký, họ tên, đóng dấu)                                    (ký, họ tên)                                                                                          
  4. Le Anh Doan, Eric Cattan, Sebastien Grondel 4
  5. Danh sách các thành viên tham gia nghiên cứu đề tài L.A.  Doan  received  the  B.S.   degree   in mechatronic   engineering  from Danang University of Technology, Danang, Vietnam, in 2008  and   the   M.S.   degree   in   mechanical   engineering   from   National  Kaohsiung University of Applied Sciences, Kaohsiung, Taiwan, in  2012. He received the Ph.D. degree in micro and nanotechnologies,  acoustics   and   telecommunications  at   Polytechnic   University   of  Hauts­de­France, Valenciennes, France. From 2012 to 2014, he was  a   lecturer  at  the   University  of  Technology  and  Education  ­  The  University   of   Danang,   Danang,   Vietnam.   His   research   interest  includes the mobiles robots, micro and nano air vehicles. S.  Grondel  (IEMN)   received   the   M.S.   and   Ph.D.   degrees   in  electronical   and   acoustical   Engineering   from   Valenciennes  University, France, in 1997 and 2000, respectively. Between 2001  and   2010,   he   worked   as   a   research   Associate   at   the   Electronic,  Microelectronic   and   Nanoelectronic   department   of   Valenciennes  University, focusing on health monitoring of aeronautic structures  using   elastic   guided   waves   and   multi­array   piezoelectric  transducers. Since 2011, he is a Professor in the same department  and   teacher   at   the   engineering   school   ENSIAME.   His   current  research   activities   include   modeling   and   control   of   macro­   and  micro­  mechatronic   systems   through  the  use  of  the  Bond  Graph  methodology. He contributes on the design and development of a  nano   flying   insect   called   ``OVMI''   as   well   as   on   new   ionic  polymers   actuators.   He   has   authored   more   than   70   published  journal and conference papers related to smart material, ultrasonic  and mechatronic. He is an elected member of the national Research  evaluation   in   Electronics   field   (CNU   63)   and   belongs   to   the  Editorial Board of the Horizon Research Publishing Coorporation.  He is  also a fellow  member of the French Acoustical(SFA) and  5
  6. Electronic Electrotechnic and Automatic (EEA) Societies. E  Cattan, 55 years (eric.cattan@uphf.fr). In 1993, he obtained a  PhD in optics and photonics at the University of Paris Sud (Orsay),  and in 1994, he became a University lecturer in section 28 and was  assigned to the laboratory of Advanced Ceramic Materials (UPHF).  He   has   published   one   hundred   and   fifty   papers   in   the   field   of  piezoelectric   thin   film,   micro­transducers   and   NAV.   After  obtaining  an accreditation  to supervise  research in 2001,  he  was  appointed   University   Professor   in   2002   at   the   University   of  Polytechnic Hauts de France Since 2002, he has been conducting  research   at   the   Institute   of   Electronics,   Microelectronics   and  Nanotechnology,   and   since   September   2005,   his   research   has  focused   on   bio­inspired   microsystems.   Before   that,   his   research  activities concerned the growth and characterization of ferroelectric  piezoelectric   thin   films,   as   well   as   their   integration   in  microsystems. In 2011, he took over the management of a research  group made up of thirteen professors and university lecturers. He is  leader   of   the   OVMI   project   (Object   Volant   Mimant   l'Insecte),  which was awarded with a golden micron in Besançon in 2014. 6
  7. Mục lục: Danh mục hình vẽ: 7
  8. Danh mục bảng biểu: 8
  9. Danh sách chữ viết tắt MAV: phương tiện bay theo tiêu chuẩn kích cỡ micro NAV: phương tiện bay theo tiêu chuẩn kích cỡ nano 9
  10. UAVs: phương tiện bay không người lái 10
  11. ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG CỘNG HOÀ XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG ĐH SƯ PHẠM KỸ THUẬT Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Thông tin chung: ­ Tên đề tài: nghiên cứu cải thiện khả năng tạo lực nâng của phương tiện bay  kích cỡ nano, loại cánh đập ­ Mã số: T2019­06­116 ­ Chủ nhiệm: TS. Đoàn Lê Anh ­ Thành viên tham gia:  ­ Cơ quan chủ trì: Đại học Sư phạm Kỹ thuật – Đại học Đà Nẵng ­ Thời gian thực hiện: 12 tháng 2. Mục tiêu:  Trong những thập kỉ  gần đây, viễn cảnh có được những khả  năng bay đặc biệt   của các loại chim nhỏ hay côn trùng đã thúc đẩy rất nhiều những nghiên cứu về  vật thể  bay loại cánh đập (flapping wings). Tuy nhiên, khi thiết kế  một nguyên  mẫu như vậy, các nhà thiết kế phải trải qua một loạt các giải pháp thiết kế phản   ánh sự đa dạng của côn trùng để xác định sự kết hợp chính xác của các tham số  mà có thể  đáp  ứng yêu cầu của họ. Để  giảm bớt gánh nặng này, mục đích của  bài báo là xây dựng một công cụ phù hợp để phân tích động học của phương tiện  qua đó có thể tối ưu hóa lực nâng (lift) trên cánh. Nghiên cứu này được thực hiện   trên một vật thể bay loại cánh đập có bộ  khung mềm dẻo (flexible skeleton) và  có kích thước theo tiêu chuẩn nano (Flapping wing Nano aerial vehicles­FWNAV).   Dựa trên tính chất mềm dẻo của phương tiện, nguyên mẫu được nghiên cứu để  kết hợp hai chế độ rung cộng hưởng ­ uốn và xoắn ­ để tái tạo quỹ đạo cánh côn  trùng. Mô hình đề xuất sử dụng Bond Graph, một ngôn ngữ giao diện người dùng   đồ  họa vì nó rất phù hợp để  mô phỏng một hệ  đa vật lý như  trong trường hợp   này. 3. Tính mới và sáng tạo: 11
  12. Bản thân mô hình là điểm sáng tạo vì nó là một mô hình tham số phân tán và dựa  trên một cấu trúc micro mềm dẻo. 4. Tóm tắt kết quả nghiên cứu: Trong nghiên cứu này này, chúng ta đã xây dựng thành công một mô hình Bond  Graph dành cho một FWNAV. Mô hình được trình bày mang tính mới bởi vì được  xây dựng cho một vật thể  bay kích cỡ  rất nhỏ  lại còn là loại có khung xương  mềm dẻo. Từ mô hình này bốn chế độ  hoạt động đã được tìm thấy. Thông qua   phân tích, hai trong số chúng kh thích hợp cho việc tạo lực nâng, hai chế độ  còn  lại thì thành công trong việc tái tạo quỹ  đạo cánh côn trùng qua đó có thể  thấy  được khả năng cải tạo lực nâng của chúng. 5. Tên sản phẩm:  Hai bài báo khoa học đăng trên tạp chí uy tín và một phần mềm mô phỏng trên  máy tính. Năm  Stt Tên sản phẩm Thông tin sản phẩm công  Chú thích bố Tuyển tập hội nghị  quốc tế ICERA  2019 thuộc nhóm  Kinematic analysis of a  Scopus – Lecture  resonant flexible­wing nano  1 Notes in Networks  2019 Scopus air vehicle using a Bond  Graph approach and Systems  (Tr.455­461), ISSN:  2367­3370, Volume  104, Năm 2019. Kỷ yếu hội nghị  Tối ưu hóa lực nâng của vật  toàn quốc về Cơ  thể bay khung mềm dẻo có  khí và Chế tạo năm  Hội nghị  2 kích thước theo tiêu chuẩn  2019 nano dựa trên phân tích cộng  2019 (Tr.88­93),  Quốc gia hưởng uốn và xoắn ISBN: 978­604­73­ 7275­1 năm 2020. Phần mềm cho  phép dự đoán quỹ  Sử dụng trên  Phần mềm mô phỏng máy  3 đạo chuyển động  2019 nền phần  tính cánh và lực nâng  mềm 20SIM được tạo ra 6. Hiệu quả, phương thức chuyển giao kết quả nghiên cứu và khả năng áp  dụng: Làm nền tảng cho những nghiên cứu tiếp sau. 12
  13. 7. Hình ảnh, sơ đồ minh họa chính  Thông tin cụ thể có thể được tìm thấy trong tài liệu đính kèm                                                                                                   Ngày        tháng        năm   Hội đồng KH&ĐT đơn vị Chủ nhiệm đề tài (ký, họ và tên) (ký, họ và tên) XÁC NHẬN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT INFORMATION ON RESEARCH RESULTS 1. General information: Project title: Optimize lift of a flexible nano air vehicle based on analysing of  bending and twisting resonances Code number: T2019­06­116 Coordinator: Dr. Đoàn Lê Anh Implementing   institution:   University   of   Technology   and   Education   –  University of Danang Duration: from  08/2019 to 08/2020 2. Objective(s):  In recent decades, the prospect of exploiting the exceptional flying capacities of  insects has prompted much research on the elaboration of flapping­wing nano air  13
  14. vehicles (FWNAV). However, when designing such a prototype, designers have to  wade through a vast array of design solutions that reflects the wide variety of flying  insects to identify the correct combination of parameters to meet their requirements.  To alleviate this burden, the purpose of this paper is to develop a suitable tool to  analyze the kinematic of a resonant flexible­wing nano air vehicle. The proposed  tool uses a Bond Graph formalism because it is well suited to simulating multi­ physical systems. Moreover, the prototype studied combines two resonant vibration  modes – bending and twisting – to reproduce insect wing kinematics. This could be  considered as the key to optimize the generated lift. 1. Creativeness and innovativeness: The model itself is original as it is a distributed­parameter model and is based on a  flexible micro­structure. 5. Research results: In this study, we have successfully built a Bond Graph model for a FWNAV. The  model presented is novel because it is built for a very small flying object but also  has a flexible skeleton. From this model four operating modes were found. Through  analysis,   two   of   them   are   not   suitable   for   lift   generation,   the   other   two   are  successful in reproducing the insect wing trajectories through which their ability to  lift can be seen. 6. Products: Two paper published on prestigious proceeding. One is with Scopus index. A simulation program works with 20SIM software. 7.   Effects,   transfer   alternatives   of   reserach  results   and  applicability:  As   the  foundation for further research. 14
  15. 15
  16. Phần mở đầu Con người luôn bị thu hút bởi thiên nhiên được định nghĩa chung là thực vật, động  vật, cảnh quan, và các đặc điểm và sản phẩm khác của trái đất [1]. Đặc biệt, các  kỹ năng đặc biệt được sử dụng bởi các loài để thích nghi hoàn hảo với môi trường  đã thu hút được rất nhiều sự chú ý. Không có gì đáng ngạc nhiên khi rất nhiều sáng   kiến và đổi mới của con người được lấy cảm hứng từ sự đa dạng và hiệu quả đáng  kinh ngạc của thiên nhiên. Công việc được trình bày ở đây góp phần vào xu hướng   này và đề cập đến máy bay không người lái. Ngành máy bay không người lái ngày càng thu hút được nhiều sự chú ý [2], tên tiếng   anh là (UAV), được làm phong phú hơn bởi các ý tưởng lấy cảm hứng từ  thiên   nhiên để  giúp nâng cao hiệu quả. Đối mặt với nhu cầu về các phương tiện bay có   khả  năng hoạt động trong môi trường kín và hạn chế, các UAV đã trở  nên ngày  càng nhỏ  nhỏ. Hơn nữa, các cơ  chế  bay đã phát triển từ  cánh cố  định hoặc cánh  quay sang cánh đập và cánh rung tương  ứng bắt chước các loài chim và côn trùng  nhỏ. Tùy thuộc vào kích thước và trọng lượng của chúng, các UAV thu nhỏ  này  thường được phân thành hai loại: MAV1 và NAV2. Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ  [3], [4], vẫn có sự  chênh lệch đáng kể về hiệu  suất giữa MAV và NAV hiện có và các sinh vật trong tự  nhiên về  khả  năng tải  trọng, khả năng cơ động và quan trọng nhất là thời gian bay. Có ba lý do chính cho  những hạn chế này. Đầu tiên, sao chép chuyển động cánh của những sinh vật bay   trong tự  nhiên không phải là một nhiệm vụ dễ  dàng. Trên thực tế, động học cánh  của côn trùng và chim nhỏ  rất phức tạp. Bằng cách định thời gian đảo chiều hành   trình của cánh một cách độc lập hoặc đồng thời, những sinh vật này có thể  kiểm   soát hướng của chúng cũng như cải thiện lực nâng và lực đẩy [5]. Thứ hai, được coi là thử thách khó khăn nhất, hệ số Reynolds (Re) thấp dẫn đến khí   động học không ổn định ảnh hưởng đến quá trình bay của các phương tiện bay cỡ  nhỏ  [6], [7]. Cuối cùng, do kích thước nhỏ  hơn, cần phải đập cánh nhanh hơn và   nhiều năng lượng hơn để  duy trì chuyến bay, điều này cũng đòi hỏi mật độ  năng  lượng cao hơn. Rõ ràng là vẫn còn nhiều chỗ để cải thiện và vì vậy, đối với đề tài  16
  17. này, người ta quyết định phát triển một MAV có kích thước bằng một con chim nhỏ  và một NAV có kích thước bằng một con côn trùng. Hai nguyên mẫu được phát   triển chủ yếu tại Viện Điện tử, Vi điện tử  và Công nghệ nano (IEMN) [8] nơi các  hệ  thống vi cơ  điện tử  (MEMS) và mạch điện tử  có thể  được chế  tạo bằng các   phương tiện có sẵn. MAV bắt chước con chim ruồi [9], đây là loài chim duy nhất có thể bay lượn. Cánh  của nó được điều khiển bởi một động cơ dòng điện một chiều (DC) được cung cấp  bởi điện áp đối  ứng để  tạo ra một chuyển động đập. NAV bao gồm một cấu trúc  linh hoạt ba chiều được chế  tạo bằng công nghệ  MEMS kết hợp với bộ  truyền   động điện từ cho phép toàn bộ phương tiện rung với tần số cao hơn MAV. Mục tiêu của công việc này là phát triển một phương tiện bay Nano­Air­Cánh đập  cánh tự  động, lấy cảm hứng từ  sinh học. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của việc   giảm kích thước phương tiện và sản xuất NAV là vô cùng khó khăn vì đây là NAV   hoàn toàn linh hoạt đầu tiên [10]. Do đó, chúng tôi đã quyết định làm việc với MAV  trước để  hiểu về chuyến bay, phát triển bảng điện tử  và đảm bảo chuyến bay  ổn  định. Một số  kiến thức và kinh nghiệm thu được sau đó có thể  được chuyển sang   việc phát triển NAV. Báo cáo này được tổ chức như sau: Chương 1 giới thiệu các nghiên cứu trong quá khứ  và hiện tại về UAV nhưng tập   trung nhiều hơn vào MAV và NAV. Thông qua việc so sánh các khái niệm thiết kế  khác nhau, chúng tôi cho thấy rằng thiết kế cánh đập là phù hợp nhất với ứng dụng  của chúng tôi. Sau đó, chúng tôi trình bày các nguyên tắc cơ  bản của chuyến bay  đập cánh, bao gồm động học của cánh và cơ  chế  khí động học không  ổn định.  Chúng tôi đề xuất động học cánh cho các phương tiện của chúng tôi gần với chim   ruồi và côn trùng và tìm thấy một số cơ chế nâng cao khí động học như  hiệu  ứng   Wagner và hiệu ứng khối lượng được thêm vào. Cuối cùng, việc xem xét các MAV   và NAV đập hiện có theo cơ cấu truyền động và cấu trúc của chúng giúp chúng tôi  lựa chọn thiết kế của MAV và NAV của mình. 17
  18. Chương 2 quay trở lại NAV loại cánh đập. Đầu tiên, khái niệm nâng cao lực nâng  mới do D. Faux và các đồng nghiệp của ông phát triển được giới thiệu [10]. Tiếp   theo, cách tiếp cận Bond Graph được điều chỉnh cho phù hợp với khái niệm này và   được sử dụng để mô phỏng động lực học của phương tiện NAV, sau đó trong bước  tối ưu hóa ta tìm được tần số hoạt động mà tại đó lực nâng đạt được là lớn nhất. Cuối cùng, phần kết luận của báo cáo này đã chỉ ra những đóng góp chính của công   trình này và đưa ra một số khuyến nghị cho các hướng nghiên cứu trong tương lai. 1. MAV: Phương tiện bay kích cỡ  Micro, do Cơ  quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến   Quốc phòng (DARPA) khởi xướng vào những năm 1990, là một loại UAV thu nhỏ  với kích thước tối đa là 15 cm và nặng tới 100 g, cũng như  phạm vi hoạt động 10  km và tự trị trong khoảng từ 20 đến 60 phút. 2. NAV: Các phương tiện bay kích cỡ Nano (NAV), chương trình do Cơ quan Dự án   Nghiên cứu Tiên tiến Quốc phòng (DARPA) khởi xướng vào năm 2005, là một loại   UAV thu nhỏ với kích thước tối đa 7,5 cm và tổng trọng lượng cất cánh dưới 10 g. Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu 1. Giới thiệu Máy bay không người lái, tên tiếng anh là unmanned aerial vehicles (UAVs), là một  phương tiện bay mà không có người ngồi trên máy bay. So với máy bay có người   lái, UAV ban đầu được triển khai cho các nhiệm vụ  quá "buồn tẻ, bẩn thỉu hoặc   nguy hiểm" [11] đối với con người. Phương tiện hàng không kích cỡ Micro (MAV),  do Cơ  quan Dự  án Nghiên cứu Tiên tiến Quốc phòng (DARPA) bắt đầu vào năm  1990, là một loại UAV được thu nhỏ bị giới hạn về kích thước, có kích thước tối đa   là 15 cm và trọng lượng lên đến 100 gram. Trước đây chỉ giới hạn cho những người  yêu thích mô hình và đồ chơi trong tay trẻ em, MAV đã sớm nhận được sự quan tâm  của cả quân đội và dân sự vì chúng dễ dàng di chuyển, kín đáo hơn và ít nguy hiểm  hơn trong trường hợp va chạm. Kết quả là, một lượng lớn MAV bay dựa trên các   khái niệm cánh cố định, quay và đập đã có mặt ở nhiều lĩnh vực. 18
  19. Với sự  hạn chế  về  kích thước này, nghiên cứu phải đối mặt với nhiều vấn đề.   Được coi là thử  thách khó khăn nhất, hệ  số  Reynolds thấp (Re) dẫn đến khí động  học không  ổn định  ảnh hưởng đến quá trình bay của các phương tiện bay cỡ  nhỏ  [6]. Ngoài ra, do kích thước nhỏ hơn, mật độ năng lượng cao hơn được yêu cầu. Do   đó, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ  [3], [4], vẫn còn rất nhiều dư  địa để  cải  thiện về  khả  năng tải trọng, khả  năng cơ  động và quan trọng nhất là độ  bền của  chuyến bay. Đối với công việc này, chúng tôi sẽ nghiên cứu trước đây và hiện tại về UAV để có  thể  xác định được thiết kế  của MAV cỡ  chim nhỏ  có thể  hoạt động trong môi  trường kín, hạn chế. 2. Lựa chọn dạng cánh Các MAV hiện tại có thể được chia thành ba loại chính dựa trên cách chúng tạo ra  lực nâng: cánh cố định, cánh quay và cánh đập và được mô tả trong các đoạn sau. 2.1 Cánh cố định UAV cánh cố định tương tự như máy bay. Do tỷ lệ giữa lực đẩy và lực nâng không   đổi, việc điều khiển bay tương đối đơn giản và khung toán học đã được phát triển  hoàn thiện, UAV cánh cố định được trình bày đầu tiên. MAV cánh cố định thích hợp  cho các ứng dụng ngoài trời, nơi ưu tiên thời gian bay tối đa. Một hoặc một số cánh   quạt thường tạo ra lực đẩy về  phía trước. MAV thường yêu cầu một bộ  vi điều   khiển tích hợp để tăng độ ổn định. 19
  20. Hình 1.   Cánh cố định loại cứng và mềm dẻo, (a) Black Widow trong suốt chế tạo   bởi AeroVironment [12], (b) cánh mềm dẻo phát triển bởi University of Florida [13]. Một số nguyên mẫu tồn tại nhưng không có nguyên mẫu nào thuộc phạm vi NAV.  Các phương tiện hiện có có sải cánh lớn hơn 7,5 cm và do đó được coi là MAV.   Một ví dụ  nổi tiếng là AeroVironment Black Widow với sải cánh 15,2 cm  [12],  được phát triển như một phần của chương trình DARPA’s MAV (xem Hình  Hình 1. .a). Nó nặng khoảng 80 g tổng cộng, một nửa trong trọng lượng đó là pin. Được   phát triển trong 4 năm, Black Widow có thời gian hoạt động trong 30 phút và có thể  bay không ngừng trong 17 km với tốc độ từ 38 đến 53 km / h. Cuối cùng, nó cũng có   một camera màu trên bo mạch và một bộ truyền video để truyền tải các video trực   tiếp đến phi công. Một vấn đề quan trọng cánh cố định xảy ra khi tăng góc tấn tới  hạn.  Ở  góc này, lực nâng cực đại đạt được và không khí chạy trên cánh quạt bắt   đầu tách khỏi bề mặt phía trên. Tuy nhiên, nếu góc tấn tiếp tục tăng hơn nữa, dòng   chảy trở nên tách biệt hoàn toàn khỏi bề mặt phía trên và do đó, cánh tạo ra  sự sụt   giảm về lực nâng. Người ta cũng đã chứng minh rằng các cánh mềm dẻo phù hợp  với MAV [14] vì chúng có thể biến đổi hình dạng để phản ứng với môi trường, và  góc tới hạn có thể  tăng lên nhờ  khả  năng điều khiển thụ  động này  [15]. Tài liệu  tham khảo [13], [16]–[19] giới thiệu một số  UAVs với cánh linh hoạt có thể  thích   ứng trong quá trình bay để  nâng cao hệ  số  lực kéo bằng cách đẩy điểm dừng lên   góc tấn cao hơn. Các nghiên cứu cũng cung cấp các mô phỏng số  Động lực học chất lỏng tính toán  (CFD) bằng cách sử dụng các bộ giải dòng chảy như Navier Stokes để cung cấp cái  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2