BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
" Văn bia lăng các vua Nguyễn "
1
MỤC LỤC
A - MỞ ĐẦU ......................................................................................................4
1. Mục đích và ý nghĩa đề tài ...............................................................................4
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................6
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................6
5. Kết cấu đề tài ...................................................................................................7
Chương 1: Giới thiệu chung về các lăng vua Nguyễn ..........................................7
Chương 2: Khảo sát văn bia lăng các vua Nguyễn ...............................................7
Chương 3: Giá trị của văn bia các lăng vua Nguyễn ............................................7
B - NỘI DUNG ...................................................................................................9
2.1.1. Văn bia triều Nguyễn ............................................................................... 29
2.1.2. Văn bia lăng các vua Nguyễn ................................................................... 33
Hình 1: Bia lăng Gia Long .............................................................................. 36
Hình 2: Bia lăng Minh Mạng .......................................................................... 37
Hình 3: Bia lăng Thiệu Trị .............................................................................. 37
Hình 4: Bia lăng Tự Đức ................................................................................. 38
Hình 5: Nhà bia lăng Đồng Khánh ................................................................. 39
Hình 6: Nhà bia lăng Khải Định ..................................................................... 39
2.2.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 39
2.2.2. Phiên âm .................................................................................................. 42
Ngự chế thánh đức thần công bi ký .................................................................... 42
Hiếu tử tự Hoàng đế, thần Hạo cẩn chí .............................................................. 43
2.2.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 43
CHÚ THÍCH: .................................................................................................. 47
2.3.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 51
2.3.2. Phiên âm .................................................................................................. 59
Ngự chế thánh đức thần công bi kí .................................................................... 59
2.3.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 65
Ngự chế bài văn bia ghi đức thánh công thần .................................................... 65
CHÚ THÍCH: .................................................................................................. 72
2
2.4.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 73
2.4.2. Phiên âm ................................................................................................. 81
Xương Lăng thánh đức thần công bi .................................................................. 81
2.4.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 87
Bia thánh đức thần công ở Xương Lăng ............................................................ 87
CHÚ THÍCH.................................................................................................... 95
2.5.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 97
2.5.2. Phiên âm ................................................................................................ 109
Khiêm cung kí ................................................................................................. 109
2.5.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 118
Bài kí ở Khiêm Cung ....................................................................................... 118
CHÚ THÍCH: ................................................................................................ 130
2.6.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................. 134
2.6.2. Phiên âm ................................................................................................ 137
Tư Lăng thánh đức thần công bi ...................................................................... 137
2.6.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 139
Bia thánh đức thần công ở Tư Lăng ................................................................. 139
CHÚ THÍCH: ................................................................................................ 142
2.7.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................. 143
2.7.2. Phiên âm ................................................................................................ 147
Hiếu tử tự Hoàng đế thần Điển cẩn chí. ........................................................... 149
2.7.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 149
Bia đức thánh công thần ở Ứng lăng ............................................................... 149
3.1. Giá trị lịch sử ............................................................................................ 153
3.2. Giá trị văn học .......................................................................................... 157
3.3. Giá trị mỹ thuật ......................................................................................... 159
3.4. Giá trị về ngôn ngữ và chữ viết ................................................................. 161
C - KẾT LUẬN ............................................................................................... 163
Đường vô xứ Huế quanh quanh ....................................................................... 163
D - PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................ 166
Hình 1: Cổng chính đi vào điện Minh Thành (lăng Gia Long) .................. 166
3
Hình 3: Voi và ngựa đá ở sân chầu (lăng Gia Long). ................................... 167
Hình 7 : Bi đình lăng Thiệu Trị .................................................................... 170
Hình 9: Đường dẫn vào Hồng Trạch Môn ................................................... 172
Hình 11: Cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp bên cạnh hồ Lưu Khiêm .................. 173
Hình 13: Hồ Lưu Khiêm với Xung Khiêm Tạ và ......................................... 175
Hình 15: Một góc sân chầu nhìn từ phía sau (lăng Đồng Khánh) ............... 177
Hình 17: Lăng Khải Định nhìn từ phía trước .............................................. 179
Hình 18: Hoa văn và nghệ thuật trang trí trên tường (lăng Khải Định)..... 180
I. SÁCH .......................................................................................................... 180
II. BÁO - TẠP CHÍ ....................................................................................... 181
III. TỪ ĐIỂN – TỰ ĐIỂN ............................................................................. 182
Hueá, thaùng 5 naêm 2010 .............................................................................. 183
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ........................................... 184
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN .............................................. 185
MỤC LỤC ...................................................................................................... 187
A - MỞ ĐẦU
1. Mục đích và ý nghĩa đề tài
Cố đô Huế, một trong những trung tâm văn hóa, lịch sử của Việt Nam.
Không những thế, Huế còn là một quần thể di tích sánh hàng với những kì quan
thế giới. Với diện tích không lớn nhưng Huế với vẻ độc đáo vĩ đại riêng của
4
mình như “bục đứng của một nhạc trưởng giữa một giàn giao hưởng không gian
bất tận” [24,tr177]. Thiên nhiên nơi đây có vẻ hấp dẫn lạ kì: núi xuống tận bình
nguyên, biển vào sâu thành đầm phá, đồi thông xanh lặng lẽ đối điện với đô thị
ồn ào, náo nhiệt, những ngọn đồi như đang ngủ giấc ngàn thu, dòng sông Hương
cứ êm đềm chảy ... Vượt qua con sông này là vùng lăng mộ của các đế vương-
nơi an nghỉ của những con người một thời đầy quyền lực. Sự hòa điệu giữa
những nét cổ kính mang dấu ấn dân tộc với những nét hiện đại của nền văn minh
mới đã mang đến cho Huế một hơi thở vừa quen vừa lạ làm say đắm lòng người.
Đặc biệt trong những năm gần đây, với những thành tựu của công cuộc đổi
mới, sức sống của mảnh đất này dường như trỗi dậy và bừng cháy. Những giá trị
văn hóa truyền thống được đánh thức, đặc biệt là các di tích lăng tẩm đế vương.
Đó là sự sáng tạo góp sức của chính những con người Huế và cả những người
quan tâm đến nền văn hóa Huế. Huế hôm nay và mai sau mãi mãi là một bài thơ
đô thị, là kho sử liệu quý giá cần được nghiên cứu và phát huy.
Với hơn ba năm sống trên đất cố đô đầy huyền thoại, chúng tôi cảm thấy
mình cần phải làm gì đó để góp phần vào sức sống đang trỗi dậy của cố đô, của
nền văn hóa phi vật thể đang ngày càng chứng tỏ giá trị và sức cuốn hút của
mình. Lăng tẩm các vua nhà Nguyễn và các văn bia ở đó đã thực sự thu hút sự
chú ý của những người học ngành Hán Nôm như chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài này. Đây không chỉ là cơ hội để chúng tôi làm quen với
công tác nghiên cứu khoa học mà còn là dịp để ứng dụng những điều đã học vào
thực tế. Chúng tôi hy vọng rằng, kết quả của đề tài này sẽ là góp phần vào việc
nghiên cứu, đánh giá giá trị văn hóa của Huế ngày càng chính xác và phong phú
hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Huế vốn là nơi giao thoa của hai nền văn hóa Đông Sơn và Sa Huỳnh. Nói
đến văn hóa Huế, chúng ta cần phải có cái nhìn toàn diện và xuyên suốt tiến trình
lịch sử bởi vì văn hóa Huế có một truyền thống lâu đời. Nhưng ngày nay, khi
nhắc đến các di tích lịch sử ở Huế, người ta thường nghĩ ngay đến lâu đài, cung
điện, lăng tẩm, thành quách...Bởi vì đây là một quần thể di tích đồ sộ và nhờ có
quần thể di tích này mà Huế trở nên nổi tiếng, được vinh danh là di sản văn hóa
5
nhân loại. Đặc biệt lăng tẩm của các bậc đế vương trong mắt của du khách và các
nhà nghiên cứu lịch sử- văn hóa luôn gợi cho chúng ta sự tò mò. Các công trình
nghiên cứu về các lăng vua có thể nói là rất nhiều. Có những công trình nghiên
cứu mang tính khái quát như “Lăng tẩm Huế- một kì quan” và “Kiến trúc cố đô
Huế” của Phan Thuận An, “Quần thể di tích Huế di sản Việt Nam” của Thái
Công Nguyên; Có những công trình nghiên cứu chuyên biệt về một lăng như tác
phẩm “lăng của hoàng đế Minh Mạng” của Mai Khắc Ứng...Đó là chưa kể đến
các bài nghiên cứu trên các tạp chí như: “Lăng Gia Long” trên tạp chí BAVH tập
X năm 1923, “Lăng Minh Mạng”- BAVH tập VII, bản dịch bài văn bia trên lăng
Gia Long- BAVH tập X năm 1923, bản dịch bài văn bia của lăng Minh Mạng -
BAVH tập VII, bản dịch bài văn bia lăng Tự Đức trên tạp chí sông Hương số 46
(T4-1991)...Nhìn chung, đề tài chúng tôi đang nghiên cứu chưa phải là sự mới
mẻ trong công tác nghiên cứu lăng tẩm ở Huế, nhưng mục đích của đề tài là sự
tổng hợp lại có hệ thống những văn bia hay còn gọi là “thánh đức thần công bi” ở
các lăng vua Nguyễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Lịch sử với những thăng trầm của nó đã giữ lại cho hậu thế những gì cần
giữ lại và xóa đi những cái không cần thiết. Đó cũng giống như trong mười ba
đời vua sau chỉ có 7 lăng tẩm của các vua Nguyễn vẫn còn giá trị và đang tồn tại.
Trong đề tài này, đối tượng được nghiên cứu là các “thánh đức thần công bi” ở
sáu khu lăng tẩm. Đó là Thiên Thọ lăng của vua Gia Long, Hiếu lăng của vua
Minh Mạng, Xương lăng của vua Thiệu Trị, Khiêm lăng của vua Tự Đức, Tư
Lăng của vua Đồng Khánh và Ứng lăng của vua Khải Định.
Phạm vi nghiên cứu: Đây là đề tài thực địa nên sự cần thiết của nó là bản
nguyên văn chữ Hán của bài văn bia và phần dịch nghĩa. Phạm vi đề tài không
nằm ngoài sự khảo sát và đánh giá về cả nội dung và hình thức của các bài văn
bia.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cũng như các công trình nghiên cứu khác, phương pháp nghiên cứu được
sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài là công tác điền dã, thu thập và xử lí tài
liệu. Các phương pháp cụ thể như sau:
6
- Khảo sát thực địa: chúng tôi tiến hành ghi chép, đối chiếu, chụp ảnh 6 văn
bia lăng vua Nguyễn hiện còn ở Huế
- Thu thập tài liệu: chúng tôi tiến hành thu thập những tài liệu như sách báo,
tạp chí, các tư liệu liên quan đến các lăng và văn bia của các lăng, sau đó tra cứu,
đối chiếu và xử lí nguồn tài liệu ấy. Sau đó, có sự tổng hợp đánh giá chung về nội
dung và hình thức nghệ thuật của văn bia các lăng vua Nguyễn. Từ đó, rút ra
những kết luận và đề xuất ý kiến góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị
của loại di sản văn hóa này.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài chúng tôi được chia làm 3 chương
Chương 1: Giới thiệu chung về các lăng vua Nguyễn
Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu khái quát về các lăng Thiên Thọ
Lăng, Hiếu Lăng, Xương Lăng, Khiêm Lăng, Tư Lăng và Ứng Lăng với các nội
dung như vị trí địa lý, quá trình xây dựng, vị trí của mỗi lăng trong di sản văn
hóa Huế.
Chương 2: Khảo sát văn bia lăng các vua Nguyễn
Đây là phần trọng tâm của đề tài khóa luận. Chúng tôi tiến hành khảo sát 6
bài văn bia ở 6 lăng đã nêu theo thứ tự thời gian và được trình bày theo thứ tự
:nguyên văn chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa, chú thích.
Chương 3: Giá trị của văn bia các lăng vua Nguyễn
Trong chương này, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu giá trị của các văn bia bởi
giá trị của nó ở rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về mặt lịch sử, văn học, thẩm
mỹ...Đồng thời, đề xuất những ý kiến về việc bảo tồn và phát huy giá trị của loại
di sản văn hóa này.
Mặc dù đã rất cố gắng và được thừa hưởng thành quả của người đi trước
nhưng khóa luận cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được quý
thầy cô chỉ bảo thêm để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
7
8
B - NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC LĂNG VUA NGUYỄN
1.1. Lăng vua Gia Long
Lăng vua Gia Long hay còn gọi là lăng Thiên Thụ 天 授 陵 (hoặc Thiên
Thọ) ở địa phận xã Định Môn 定 門, phủ Thừa Thiên nay là xã Thiên Thọ 天 授,
huyện Hương Trà 香 茶, tỉnh Thừa Thiên Huế 承 天 化, cách trung tâm thành
phố Huế khoảng 20 km.
Lịch sử xây dựng lăng rất phức tạp vì đây không chỉ có lăng vua Gia Long
mà còn có lăng của nhiều người thân của vua bao gồm lăng Trường Phong của
chúa Nguyễn Phúc Chú, lăng Quang Hưng của một bà vợ chúa Nguyễn Phúc
Tần, lăng Vĩnh Mậu của một bà vợ chúa Nguyễn Phúc Thái, lăng Thoại Thánh
của mẹ vua Gia Long, lăng Hoàng Cô của Thái trưởng Công chúa Long Thành
(chị ruột vua Gia Long), lăng Thiên Thọ Hữu của Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu
(vợ thứ của vua Gia Long và là sinh mẫu của vua Minh Mạng) và lăng Thừa
Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ chính của vua Gia Long). Quần thể lăng tẩm này có
chu vi đến 11.234,40m [20,tr.177] và được xây dựng vào những thời điểm khác
nhau. Ngay cả lăng của vua và chính hậu cũng không phải xây cùng một thời
điểm mà xây kéo dài nhiều năm dưới ba đời vua từ Gia Long đến Thiệu Trị.
Vào năm 1814, sau khi người vợ chính của vua Gia Long là Thừa Thiên
Cao Hoàng Hậu mất, nhà vua bàn với đình thần về việc làm một hiệp lăng để
song táng hai người về sau vào một chỗ theo lệ “càn khôn hiệp đức”. Lê Duy
Thanh, Tống Phúc Lương và Phạm Như Đăng là những người xem đất và lựa
chọn. Ngày 18-5-1814, việc xây lăng được tiến hành, bao gồm 300 người trong
các đội quân Sanh Thiết, 274 người trong các đội thủy quân và dân làng Phú Bài.
Theo thuật phong thủy mà nói thì lăng Gia Long ở vào vị trí hết sức thuận
lợi. Khi đứng sau tẩm và thẳng trên trục của nó ta thấy xa xa có một ngọn núi
tròn trịa, trên đầu có chòm cây thông mọc rải rác, đó chính là Thiên Thọ Sơn.
Đây là ngọn núi cao nhất trong vùng. Ngoài ra ở bên trái có 14 ngọn là Thanh
9
Sơn, Ất Sơn, Diên Sơn, Bình Sơn, Bảo Sơn, Yên Sơn, Hưng Sơn, Hòa Sơn, Xuân
Sơn, Phương Sơn, Cẩm Sơn, Nhân Sơn, Mậu Sơn và Đại Tượng. Bên phải lăng
cũng có 14 ngọn núi, đó là các ngọn: Bạch Sơn, Ngọc Sơn, Thạch Bàn, Thịnh
Sơn, Bích Sơn, Trinh Sơn, Kim Sơn, Lẫm Sơn, Tam Bút, Trấn Sơn, Thụy Sơn,
Thuận Sơn, Đoài Sơn và Mỹ Sơn. Phía sau lăng còn có các núi Bắc Sơn, Hùng Sơn, Quý Sơn, Thành Sơn, Tiểu tượng(1). Các ngọn núi này đều có tên với ý
nghĩa báo điềm lành. Vùng vườn lăng được bao quanh bởi hai dòng suối: dòng
thứ nhất tụ hợp tất cả những dòng nước chảy từ bên trái lăng xuống, tạo thành
một khúc quanh chạy ngang trước tẩm mộ, tại đây có mở rộng ra bằng cách tạo
thành một hồ bán nguyệt và chảy đến trước điện Minh Thành thì bẻ quanh trở lại
tạo nên một khúc ngoặt đột ngột để chảy thẳng đến lăng thứ hậu vua Gia Long;
dòng nước tiếp tục chảy đến một cái hồ vuông, trước lăng của thân mẫu vua Gia
Long và đến trước tháp mộ của Thái Trưởng công chúa, chị của nhà vua, như vậy
hồ nầy đã kết nối mọi người trong gia đình với nhau. Hồ này được gọi là Hồ Dài.
Còn hồ thứ hai được gọi là “Suối Trường Phong”, phát nguyên từ Nhuệ Sơn,
chảy quanh núi Thiên Thọ, chạy dọc về phía bên phải, theo lăng Trường Phong
tạo thành hình bán nguyệt trước lăng rồi hợp lưu với Hồ Dài. Không một suối
nào đâm thẳng trước mặt lăng mà chảy bao quanh lăng.
Lăng Gia Long không có vòng la thành bao quanh, các lâu đài đình tạ cũng
không có, “nó đơn giản và hoành tráng như cuộc đời một võ tướng” [1,tr.176].
Các công trình kiến trúc hầu như không sơn son thếp vàng và chạm trổ tinh xảo.
Điện Minh Thành 明 成 殿 xây trên Bạch Sơn, nơi thờ vua và chính hậu cũng
không trang trí rườm rà. Đáng chú ý là các con rồng đều đắp bằng vôi gạch chứ
không được chạm bằng đá như các lăng về sau. Phía trước làm bái đình 7 cấp xây
bằng đá núi, mỗi cấp có 3 bệ đá, 6 lan can hình rồng uốn, tả hữu tường gạch.
Trước bái đình là sân ngoài có 4 tượng viên biền đứng hầu bằng đá, tượng 6
thị vệ đá, ngựa đá, voi đá 2 con. Có các cột trụ xây gạch để giới hạn vùng đất
tẩm, trang 321-322. Còn theo Đại Nam thực lục tập I thì có đến 36 ngọn với những tên gọi khác với
những tên núi vừa nêu ở trên.
cấm của lăng ở xung quanh khu lăng, ngày xưa có 85 cột, vào năm 1859, chỉ còn (1) Theo BAVH, tập VII, trang 346 và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 13, quyển 216, phần lăng
10
42 cột, ngày nay đa số đều bị hư hỏng, còn lại khoảng chục cột .
Bi đình 碑 停 được xây dựng trên núi Thanh Sơn và nhìn chung đơn
giản hơn so với các nhà bia khác. Trên trần nhà bia cũng như các cột nhà bia hiện
nay được nâng cấp trùng tu lại, được sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Ngoài ra, bi
đình được trùng thiềm lợp ngói phẳng, chung quanh xây tường, trước xây bệ
gạch 9 cấp, tả hữu lan can rộng. Bia đá được dựng trong bi đình cao 2,8m, rộng
1,52m, chân dài 1,88m, cao 0,8m, chữ bia khắc theo kiểu chữ chân phương.
Trước đây, tấm bia này bị nứt, chữ trên văn bia không nhìn thấy rõ và đa phần bị
mất, nay bia đã được tu sửa. Mặt bia được quét vôi trắng. Những họa tiết trên
mặt bia tuy không giữ được hiện trạng xưa nhưng không mất hẳn. Trước đây,
tấm bia toàn bộ đều bằng đá cẩm thạch màu xám hơi xanh, trang trí những hình
chạm trổ thanh nhã. Nay toàn bộ văn bia là màu trắng của vôi lẫn với màu của
vật liệu xi-măng. Những họa tiết trên bia có nhiều điểm khác biệt so với các văn
bia khác. Trên trán bia là hình một con rồng lớn với nhiều họa tiết mây uốn lượn
rất đẹp. Phía trên của thân bia là hình hai con rồng nhỏ quay đuôi về phía mặt
trời; hai dọc bên thân bia, mỗi bên có hai con rồng và hai con giao xen kẽ nhau,
hai con quay đầu lên và hai con quay đầu xuống; phía dưới của thân bia, giữa là
hình hoa văn nhiều đỉnh núi. Ngoài ra, ở thân bia còn có sự phối trí của nhiều
hình hoa văn cây lá với nhiều hình thức trang trí khác nhau. Hai tai bia được
chạm hình hoa văn lớn. Hai nách bia có độ rộng và dày gần bằng tai bia, được
chạm ở mỗi bên hình một con rồng nhỏ. Chân bia ở phần trên cùng được trang trí
hình các hoa văn liên tiếp; phần giữa có 3 hình hoa văn cây lá tròn; bên dưới lại
có hình một đầu rồng; dưới cùng của chân bia ở mặt trước và sau có 3 hình hoa
văn cây lá; hai mặt bên của chân bia cũng có 3 họa tiết như vậy. Đó là toàn bộ
họa tiết trang trí ở mặt trước của tấm bia. Mặt sau hoàn toàn trống trừ hai tai bia
và hai nách bia có họa tiết như ở mặt trước. Nếu so với các bi đình khác, văn bia
ở lăng Gia Long được dựng ở nơi thoáng đãng, bốn phía có 4 cửa lớn thông ra
ngoài, đó là chưa kể các ô cửa sổ. Bài văn trên bia do vua Minh Mạng ngự chế
vào ngày Bính thìn tháng 7 năm Minh Mạng nguyên niên, nhằm ngày 10 tháng 8
năm 1820.
1.2. Lăng vua Minh Mạng
11
Khu đất mà ngày nay xây dựng lăng Minh Mạng là khu đất sau nhiều lần
lựa chọn mới được chấp nhận. Bởi theo quan niệm trong triết học phương Đông-
Kinh dịch, khi chết chôn ở một chỗ đất êm ả, trong lành thì sẽ “kết” và ảnh
hưởng đến hạnh phúc thịnh vượng của con cháu đời sau thuộc dòng. Cho nên,
các vua chúa nhà Nguyễn thường coi trọng ngôi đất được chọn làm sinh phần.
Vào năm Minh Mạng thứ 7 (tức năm 1826), nhà vua mới 35 tuổi đã sai các quan
giỏi địa lý trong triều lập thành từng nhóm đi coi đất để chuẩn bị xây lăng cho
mình. Sau nhiều lần lựa chọn với các nhóm như nhóm Nguyễn Văn Bảng, nhóm
Khâm Thiên Giám, nhóm Nguyễn Xuân Thục...không thống nhất và có nhiều ý
kiến khác nhau, mãi đến năm Canh tý (1840), ông Lê Văn Đức, Hiệp biện đại
học sĩ, Thượng thư bộ công kiêm quản Hàn lâm viện, sau nhiều năm tìm kiếm đã
chọn được một ngôi đất nằm bên triền phía Đông núi Cẩm Kê. Tháng 4-1840,
trên đường từ lăng Thiên Thọ trở về ngã ba Bằng Lăng, thuyền ngự dừng lại
trước thôn La Khê, làng An Bằng, nhà vua nói với các vị đại thần: “ Núi này
phong thủy rất tốt, từ trước chưa ai tìm ra, nay mới xem được chỗ đất ấy, thật
đáng vui mừng” [11,tr176] và đổi tên vùng núi Cẩm Kê thành ra Hiếu Sơn. Vua
sai các đại thần Trương Đăng Quế, Bùi Công Huyên đem Giám thành vệ lên tiến
hành việc khảo sát địa thế, đo đạc đất đai. Họ vẽ toàn bộ núi đồi, khe suối, sông
ngòi ở đây, và sơ đồ các dự án kiến trúc từ La thành, bửu thành, điện, lầu, đình,
tạ, đường viện cho đến những nơi đào hồ, làm cầu, dựng cửa...Xem xong nhà vua
rất đắc ý.
Lăng được khởi công xây dựng vào ngày Đinh sửu tháng 7 năm Canh tý.
Nhưng sau đó bị ngập mưa nên hoàng đế phải cho dừng công việc đến tháng 9
mới giao cho Bộ công huy động binh điền trở lại công trường.
“Công việc ở núi Hiếu trước đây phải bắt dương binh làm, nhưng ta nghĩ,
khi ấy đương tiết gặp mưa, đã chuẩn cho cuối tháng nghỉ việc nên hôm trước đã
cho về cả. Xét ra thành bao ấy rất quan trọng mà công trình xây đắp không phải
mươi ngày mà xong được. Tất cả phải dự định khơi đào trước để thành thể thế thì
sau này mới làm có thể đỡ khó nhọc đôi chút, huống chi nơi ấy là núi cao, nếu có
mưa ngập cũng không quản ngại. Vậy phải ra quản vệ một người, suất đội bốn
người, biền binh 200 người, cứ theo bọn Khâm Thiên, Giám thành chỉ bảo, ở
12
chính giữa nơi thành bao núi ấy liều lượng nhà xưởng ở trên rồi ra công khai đào,
dài 5 trượng, ngang dưới 3 trượng, sâu một trượng hoặc 7,8 thước. Nếu khi còn
khô ráo thì đào sâu dần, nếu có mạch nước ở núi chảy ra thì tùy thế khơi một cái
ngôi nhỏ để khi thấm nước chảy thông ra núi cốt cho khô ráo sạch sẽ. Về việc
phát quản vệ cho đến binh đinh, định cứ một tháng thay đổi một lần [11;tr176].
Bốn tháng làm việc thổ mộc, đã xây dựng được phần lớn vòng la thành và
giải quyết xong mặt bằng đến ngày 21 tháng Chạp năm Canh tý (1840), vua
Minh Mạng qua đời, hưởng thọ 51 tuổi. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, ngày Bính
thìn tháng 2 năm Tân sửu (1841) cho trực tiếp xây dựng sơn lăng.
Khu lăng có một chiều sâu hun hút (từ Đại Hồng Môn đến điểm tận cùng
của La thành cách nhau đến 700 m).Vòng La thành tuy cao nhưng cũng không
hạn chế được tầm nhìn từ trong lăng ra đến vùng núi non đẹp đẽ ở xa xa bên
ngoài. Đứng ở cầu Hữu Bật nhìn về phía nam, cảnh vật núi non cây cỏ in bóng
xuống đáy hồ Trừng Minh trông như bức tranh thủy mặc. Bên trong La thành,
hơn 40 công trình lớn nhỏ được bố trí đối xứng nhau từng cặp qua trục chính
xuyên tâm lăng. Tất cả được xếp theo một trật tự chặt chẽ, có hệ thống, giống
như tình trạng xã hội đương thời, một xã hội được tổ chức theo chính sách trung
ương tập quyền của chế độ quân chủ tôn sùng Nho học đến mức tối đa. Bố cục
kiến trúc ấy cũng nói lên cá tính và phong cách của vua Minh Mạng.
Bửu thành 保 城 xây theo hình tròn biểu thị vua là mặt trời, là đấng chí tôn
có quyền chi phối toàn bộ xã hội quân chủ ấy.
Ở phần trước lăng, mật độ kiến trúc thưa, thoáng. Càng vào sâu, mật độ
kiến trúc càng dày. Các nhà kiến trúc thời ấy đã đưa ba khu kiến trúc ở lăng Gia
Long nằm theo chiều ngang nhập làm một, cho nằm theo chiều dọc trong một
trục duy nhất ở lăng Minh Mạng. Họ cũng khôn khéo lợi dụng được thế đất và
các ngọn đồi để nâng chiều cao của các công trình kiến trúc.
Điện Sùng Ân 崇 慇 殿 là một công trình ghép hai ngôi nhà rường lại với
nhau tạo thành một không gian đồng nhất. Nhà trước thường gọi là tiền điện hay
chính tích. Tiền tích gồm năm gian hai chái đơn. Chính tích hai gian ba chái kép.
Điện Sùng Ân là nơi để thờ cha mẹ vua, là một công trình chính ở Hiếu lăng cho
13
nên, ở đây có bộ vì chồng sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Hai bên điện là Đông phối
điện và Tây phối điện, là ngôi nhà phối thuộc của điện dùng để văn võ bá quan
túc trực mỗi khi có việc phải lên lăng. Phía sau điện Sùng Ân là Hoàng Trạch
Môn 黃 宅 門, đó là giới hạn kết thúc khu thành vuông của điện, mở ra không
gian thứ ba. Và, lớp mái ở đây được nâng bởi các dải cổ diềm có chia nhiều ô.
Minh Lâu 明 婁 cách Hoàng Trạch Môn bởi một hồ sen, hai bên có cầu Tả phụ
và Hữu bật xuống thấp gần mặt nước hồ Trường Minh 長 明 湖 nên càng gây ấn
tượng lồng lộng xa vời. Từ sau sân Minh Lâu tiếp nối sân đầu cầu được liếp bằng
đá Thanh. Thật ra, đây là một con đường đá vắt qua hồ Tân Nguyệt 津月湖 để
vào Bửu thành. Hai đầu có hai bộ cửa đồng trụ gọi là Phương Môn 方 門và Nghi
Môn 儀 門. Qua một khoảng sân là núi Bửu Thành 保 城 山, thi hài vua được
quàng ở đây. Đó là tất cả kết cấu, bố cục toàn thể lăng Minh Mạng. Nó được bao
bọc bởi hai hồ bán nguyệt hai bên cây cối xanh tươi bốn mùa tạo nên sự thoáng
mát và uy nghi. Tất cả mọi bệ đá ở tầng cấp đều có rồng chầu hổ phục, các kèo
và mái uốn lượn đầu rồng mang phong cách Á Đông. Đặc biệt, ở tất cả các công
trình đều được trang trí hoa quả và thơ ở đầu vách theo từng ô.
Nhìn chung, kiến trúc lăng Minh Mạng có một sự uy nghi, bề thế. Nó hấp
dẫn mọi người bởi phong cảnh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp và hài hòa, nhất là
vào buổi chiều tà từ trên lăng nhìn xuống Hương Giang, quả thật rất dịu êm và
thoải mái.
Về tấm bia “thánh đức thần công” thì được xây trong một gian nhà có
mái chồng lợp ngói lưu ly vàng, nền lát gạch hoa, trước sau đều một bệ đá có 3
cấp, tả hữu lan can rồng. Bia đá thân cao 2,88m, rộng 1,52m, chân dài 1,96m và
cao 1,08m, chữ bia mạ vàng. Bia được khắc chữ cả hai mặt trước sau và đều
được trang trí. Trán bia là hình một con rồng mây lớn được trang trí cân đối và
đẹp. Thân bia ở trên là hình “lưỡng long triều nguyệt”, dưới cũng là hình rồng
nhưng hướng về đỉnh núi. Dọc hai bên thân bia được trang trí bằng họa tiết hình
rồng, xen kẽ là họa tiết mây uốn lượn xung quanh. Chân bia cũng là sự phối hợp
14
giữa họa tiết dây lá ở trên, dưới chân và hình rồng ở giữa. Nhà bia đặt gần sân
chầu, có hai cửa lớn, một thông với sân chầu, một thông ra Hiển Đức Môn. Trần
bia phẳng, không có nhiều họa tiết cầu kì; toàn bộ nhà bia được trùng tu, sơn son
thiếp vàng rất rực rỡ. Nếu so sánh nhà bia này với nhà bia lăng Gia Long thì gần
giống nhau. Còn so với các nhà bia được xây dựng sau này như nhà bia lăng Tự
Đức, nhà bia lăng Khải Định... thì nhà bia này vẫn mang lối kiến trúc cũ, không
có sự mới lạ mang dáng dấp hiện đại như các nhà bia về sau.
1.3. Lăng vua Thiệu Trị
Sau khi ở trên ngai vàng 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh mất ngày 4-11-
1847 giữa lúc mới 41 tuổi. Trong khi hấp hối nhà vua đã dặn người con trai sắp
lên nối ngôi rằng: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận
tiện, để dân binh dễ làm công việc. Con đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt
đầu từ Hiếu Lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cất cho
kiệm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân”
[11,tr176].
Sau khi vua cha băng hà, vua Tự Đức liền cho các thầy địa trong triều đi coi
đất để xây lăng. Họ tìm được địa cuộc tốt tại chân một dãy núi thấp thuộc làng
Cư Chánh 居正社 huyện Hương Thủy 香水縣, cách Kinh thành không xa như
hai lăng vua tiền nhiệm. Sau đó, núi ấy được đặt tên là núi Thuận Đạo 順道山 và
lăng ấy được gọi là Xương Lăng 昌陵.
Vào ngày 11-2-1848, vua Tự Đức sai một võ tướng đại thần trong triều là
Vũ Văn Giai 武文解, sung chức đổng lý, đứng ra coi sóc công tác kiến trúc lăng.
Nhà vua dặn cứ 10 ngày một lần ông phải báo cáo về cho vua biết công việc xây
lăng đã tiến hành đến đâu. Đồng thời làm theo lời trối trăn của vua cha, vua Tự
Đức cũng căn dặn Vũ Văn Giai phải bắt chước cách làm “toại đạo” giống như
trên lăng Minh Mạng, còn việc kiến trúc các công trình mang tính thờ phụng ở
lăng như đình, các, viện... thì phải bắt chước theo quy chế của lăng Gia Long, và
tùy theo địa thế tại chỗ để châm chước định liệu mà làm.
Toại đạo 隧道, tức là đường hầm ngầm đưa quan tài nhà vua vào huyệt mộ,
15
được xây vào ngày 24-3-1848.
Số binh lính và thợ thuyền do triều đình huy động lên đây làm việc rất
đông, cho nên, chỉ sau 3 tháng thi công, các công trình kiến trúc chính trong lăng
đã làm xong. Trong một bài dụ của vua Tự Đức viết vào tháng 5-1848, có đoạn
nói: “Nay mọi việc đã đâu vào đấy, sớm cáo hoàn thành”. Ngày 14-6-1848, tức là
10 ngày trước khi làm lễ an táng vua cha, vua Tự Đức thân hành lên lăng để kiểm
tra công việc một lần cuối. Mặc dù vua Thiệu Trị đã dặn là phải làm lăng như thế
nào cho “kiệm ước”, không nên “lao phí đến tài lực của binh dân”, và rồi trong
bài văn bia ở Xương Lăng vua Tự Đức đã nhắc lại điều đó và nói thêm rằng “lời
vàng ngọc ấy văng vẳng bên tai, con nhỏ này đâu dám trái chí”; nhưng hôm ấy
lên xem thấy “công trình có phần phiền phức to lớn”, nhà vua vẫn tỏ ra thỏa mãn.
Sau khi vua Thiệu Trị băng hà, quan tài nhà vua được quàn tại điện Long
An trong cung Bảo Định (ở bờ bắc Ngự Hà), mãi đến gần 8 tháng sau mới đưa
lên an táng ở lăng.
Riêng tấm bia “Thánh đức thần công” 聖德神功 với bài ký do vua Tự Đức
viết thì mãi đến 5 tháng sau, tức là ngày 19-11-1848 mới được dựng. Như vậy, từ
ngày bắt đầu (11-2-1848) đến ngày hoàn tất, lăng Thiệu Trị đã được thi công
trong vòng chưa đầy 10 tháng.
Ngoài ra, ở gần lăng Thiệu Trị còn có 3 ngôi lăng một khác nữa của những
người trong gia đình nhà vua. Nằm chếch chếch ở phía trước là lăng Hiếu Đông
của mẹ vua (bà Hồ Thị Hoa). Gần phía sau bên trái là Xương Thọ Lăng của vợ
vua (bà Từ Dũ). Và không xa phía trước bên trái là khu lăng “tảo thương” 早殤,
trong đó có nhiều ngôi mộ của các con vua Thiệu Trị chết lúc còn nhỏ (tảo
thương nghĩa là chết sớm). Như vậy nhiều thành viên trong gia đình nhà vua đã
được an táng quây quần bên nhau.
Vua Tự Đức đã cho xây dựng lăng Thiệu Trị theo mô thức kiến trúc và phần
lớn ý đồ do vua cha để lại. Trước thời điểm xây dựng lăng này, ở Huế chỉ mới có
hai lăng Gia Long và Minh Mạng mà thôi. Khi còn tại vị, vua Thiệu Trị đã tham
khảo nghệ thuật kiến trúc lăng tẩm của hai vua tiền nhiệm để đưa ra đồ án xây
dựng ngôi nhà vĩnh cửu, nơi mình sẽ an giấc ngàn thu.
16
Ngày nay, mới nhìn qua, người ta dễ có cảm tưởng rằng lăng Thiệu Trị đơn
sơ, nhưng nếu xét kỹ, chúng ta sẽ thấy các nhà kiến trúc bấy giờ đã có một ý thức
cao khi thiết kế, xây dựng, và các công trình không kém phần dồi dào và bề thế.
So với hai lăng Gia Long và Minh Mạng, khu lăng thứ ba này ở tại một địa
điểm gần hơn đối với kinh thành. Về bố cục các công trình kiến trúc trên mặt
bằng tổng thể, nếu lăng Minh Mạng đã ghép ba trục của lăng Gia Long lại làm
một trục duy nhất, thì lăng Thiệu Trị lại dung hòa hai mô thức trên bằng cách
thiết kế thành hai trục: Trục lăng nằm bên phải và trục tẩm (khu vực điện thờ)
nằm bên trái. Hai trục cách nhau chừng 100m. Nói cách khác, các nhà kiến trúc
lăng Thiệu Trị đã cắt phần giữa của lăng Minh Mạng (điện thờ) đặt riêng ra một
bên và nối hai phần trước và sau của lăng ấy lại với nhau làm một. Dĩ nhiên, về
các đơn vị công trình kiến trúc riêng lẻ thì có thêm bớt, đổi thay đôi chút, nhưng
cách xây Bửu thành, Toại đạo, các cầu bằng đá, nghi môn, nghê đồng và mấy cái
hồ bán nguyệt thì giống ở lăng Minh Mạng.
Lăng Thiệu Trị khác lăng vua cha ở chỗ không xây La thành, nhưng lại
giống lăng Gia Long trong việc lợi dụng những dãy núi đồi chung quanh để làm
một vòng La thành thiên nhiên rộng lớn. Trong vòng La thành bao la hùng vĩ
này, lăng Thiệu Trị dựa lưng vào chân núi Thuận Đạo 順道 gần trước mặt lăng là
cả một vùng đất bằng phẳng với cây cỏ xanh tươi và ruộng đồng mơn mởn trải
dài từ bờ sông Hương đến tận cầu Lim.
Về phương diện phong thủy, lăng Thiệu Trị ở vào vị thế “sơn thủy chi giao”
山水之交. Lăng quay mặt về hướng tây bắc, một hướng chưa bao giờ được dùng
trong các công trình kiến trúc lớn ở Huế bấy giờ. Phía trước, cách lăng chừng
1km, bên phải có đồi Vọng Cảnh 望景山, bên trái có núi Ngọc Trản 玉琖 chầu
về trước lăng theo vị thế “tả thanh long hữu bạch hổ”. Ngọn núi Chằm cách đó
khoảng 8km đứng làm “tiền án” cho khu vực lăng, trong khi động Bàu Hồ ở gần
hơn lại làm bình phong thiên nhiên cho khu vực tẩm. Ở đằng sau, ngoài ngọn núi
Kim Ngọc ở xa xa, người xưa còn đắp một mô cao lớn để làm “hậu chẩm” cho
lăng. Trong phạm vi lăng tẩm ấy, có ba chiếc hồ bán nguyệt là hồ Điện, hồ
17
Nhuận Trạch 潤 澤 湖 và hồ Ngưng Thúy 凝 翠 湖, cùng dòng khe từ hồ Thủy
Tiên 水 仙 湖chảy ra bên phải, giao lưu với nhau bằng những đường cống xây
ngầm dưới các lối đi.
Như vậy ta thấy thiên nhiên và kiến trúc ở lăng Thiệu Trị liên quan với
nhau một cách mật thiết. Trầm mặc mà thanh thoát, lăng Thiệu Trị khiêm tốn ẩn
mình giữa chốn núi đồi rộng lớn dưới bầu trời bao la.
Xét về phương diện trang trí mỹ thuật, các nghệ nhân bấy giờ đã thể hiện
nhiều hình ảnh và thơ văn lên trên mặt gỗ và mặt đá ở điện Biểu Đức 表德殿, Bi
Đình 碑 停, Bái Đình 拜 停... bằng những đường nét chạm khắc khá sâu và sắc
cạnh để tạo ra được những hình khối nổi rõ. Nghệ thuật trang trí bằng men pháp lam
cũng được sử dụng nhiều trong lăng này, nhất là tại khu vực điện thờ.
Bia “thánh đức thần công” ở lăng vua Thiệu Trị được dựng trong một
gian được lợp ngói lưu ly, trước sau có 1 bệ đá đều 11 cấp, lan can hình rồng
uốn. Nhà bia ở đây hiện nay đang bị xuống cấp trầm trọng, chỉ còn tấm bia là
nguyên vẹn. Bia thân cao 2,88m, rộng 1,52m, chân dài 2,16m, cao 0,92m, có
nhiều họa tiết đặc trưng. Trán bia vẫn là hình rồng mây lớn với những họa tiết
sóng mây nhẹ nhàng. Phần trên của thân bia là hình “lưỡng long triều nguyệt”;
hai dọc thân bia mỗi bên có 3 con rồng; bên dưới là hình hai con rồng hướng về
đỉnh núi có hình mặt trời ở trên; thân bia cũng có sự pha trộn các họa tiết dây lá
khác giống như các tấm bia còn lại. Hai tai bia và hai nách bia được chạm một
con rồng nhỏ. Chân bia có họa tiết dây lá dài lẫn ngắn xen kẽ nhau, giữa lại có
họa tiết ô vuông nối liền từng cặp rất mới lạ, bên dưới chân bia vẫn là hình
“lưỡng long triều nguyệt”, ở các góc cột chân bia còn có các họa tiết mây. Mặt
sau của tấm bia hoàn toàn trống. Bài văn bia khắc trên bia do vua kế nhiệm là Tự
Đức ngự chế, vẫn còn nguyên nét, được khắc lặn, chữ khắc đẹp và có pha một
chút nét chữ thảo.
1.4. Lăng vua Tự Đức
Lăng Tự Đức là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc thời
Nguyễn. Ông vua thi sĩ Tự Đức (1848-1883) đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ
18
xứng đáng với ngôi vị của mình, phù hợp với sở thích và nguyện vọng của con
người có học vấn uyên thâm và lãng tử bậc nhất trong hàng vua chúa nhà
Nguyễn. Lăng tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng
陽 春 上 社, tổng Cư Chánh 居 正 總 (nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân,
thành phố Huế).
Với 36 năm trị vì, Tự Đức là ông vua tại vị lâu nhất trong số 13 vua nhà
Nguyễn. Ông tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, con trai thứ hai của vua Thiệu
Trị. Theo luật thế tập của chế độ phong kiến, lẽ ra anh trai ông là Hồng Bảo mới
là người nối ngôi. Nhưng do tài năng thấp kém, tính khí ngông nghênh nên Hồng
Bảo bị vua cha phế truất khỏi ngôi Tiềm để, Hồng Nhậm được đưa lên ngai vàng
trở thành vua Tự Đức - một vị vua, một nhà thơ hiền lành, thương dân, yêu nước
nhưng thể chất yếu đuối, tính cách có phần bạc nhược và bi quan.
Làm vua trong bối cảnh xã hội khó khăn, bên ngoài giặc ngoại xâm tấn
công, bên trong huynh đệ lục đục giành nhau ngôi báu, bản thân nhà vua lại đau
ốm, bệnh hoạn nên không có con. Tự Đức quả là một số phận của những bi kịch
éo le. Để trốn tránh cuộc đời khắc nghiệt đó, Tự Đức cho xây dựng khu lăng tẩm
này như một hành cung thứ hai để tiêu sầu và phòng lúc “ra đi bất chợt”, bởi như
vua từng nói: “người khỏe còn lo chuyện bất thường huống chi kẻ yếu!” (Khiêm
cung ký) .
Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt cho
công trình. Nhưng sau khởi nghĩa Chày vôi do anh em Đoàn Hữu Trưng khởi
xướng, vua cho đổi tên thành Khiêm Cung, sau khi vua mất gọi là Khiêm Lăng
謙 陵.
Bố cục khu lăng gồm 2 phần chính, bố trí trên 2 trục dọc song song với
nhau, cùng lấy núi Giáng Khiêm 降 謙 山 ở phía trước làm tiền án, núi Dương
Xuân 陽春 山làm hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm 流 謙 湖 làm yếu tố minh đường.
Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn. Ở đó quanh năm có
suối chảy, thông reo, muôn chim ca hát. Yếu tố được tôn trọng triệt để trong lăng
Tự Đức là sự hài hòa của đường nét. Không có những con đường thẳng tắp, đầy
19
góc cạnh như các kiến trúc khác, thay vào đó là con đường lát gạch Bát Tràng bắt
đầu từ cửa Vụ Khiêm 務 謙 門 đi qua trước Khiêm Cung Môn 謙 宮 門 rồi uốn
lượn quanh co ở phía trước lăng mộ và đột ngột khuất vào những hàng cây sứ đại
thụ ở gần lăng Hoàng hậu Lệ Thiên Anh. Sự sáng tạo của con người hài hòa với
cảnh quan tự nhiên tạo nên một khung cảnh thơ mộng, diễm lệ. Trong cái quyến
rũ của mây nước, hương hoa đó, người ta như quên đi rằng đó là lăng tẩm của
một người quá cố mà ngỡ là thiên đường của cỏ cây, của thi ca và mộng tưởng...
Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có
chữ Khiêm trong tên gọi. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ sơn thần, du
khách đi trên con đường chính dẫn vào khu vực điện thờ, nơi trước đây là chỗ
nghỉ ngơi, giải trí của vua. Thoạt tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ
các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung
Môn - một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ
Lưu Khiêm ở đằng trước. Hồ Lưu Khiêm nguyên là một con suối nhỏ chảy trong
khu vực lăng, được đào rộng thành hồ. Đó là yếu tố “minh đường” để “tụ thủy”,
“tích phúc”, đồng thời là nơi để thả hoa sen tạo cảnh. Giữa hồ có đảo Tịnh
Khiêm 並 謙 島 với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú
hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ 沖 謙 榭 và Dũ Khiêm Tạ 愈 謙
榭, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách... Ba cây cầu Tuần Khiêm 循
謙, Tiễn Khiêm 踐 謙 và Do Khiêm由 謙 bắt qua hồ dẫn người ta đến đồi thông
bạt ngàn và đảo xanh ngát hương cỏ hoa, như đưa họ sang thế giới thần tiên,
mộng ảo ngay giữa chốn đời thường.
Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi
đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm 和 謙 殿 để vua làm việc, nay là nơi thờ
cúng bài vị của vua và Hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm 法 謙 và Lễ
Khiêm 禮 謙 dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện
Lương Khiêm 良 謙 殿, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ
20
vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm
Đường 溫 謙 堂 - nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có
nhà hát Minh Khiêm 明 謙 để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà
hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn. Có một hành lang từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì
Khiêm Viện 池 謙 院 và Y Khiêm Viện 依 謙 院 là chỗ ở của các cung phi theo hầu
nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng
Khiêm Viện 從 謙 院, Dụng Khiêm Viện用 謙 院và vườn nuôi nai của vua.
Ra khỏi khu vực tẩm điện, du khách theo con đường quanh co dẫn sang khu
lăng mộ. Ngay sau Bái Đình 拜 停 với hai hàng tượng quan viên văn võ uy nghi
là Bi Đình 碑 停 với tấm bia bằng đá Thanh nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm
cung ký” 謙 宮 記 do nhà vua soạn thảo vào năm 1871, đến năm 1875 mới được
khắc vào bia đá. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên
đã viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức thần công” trong các lăng khác.
Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương
nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình. Tự Đức muốn dùng tấm bia
khổng lồ đó để kể công và nhận tội trước lịch sử. Ông tự nhận tội mình: “Không
sáng suốt trong việc biết người, ấy là của ta; dùng người không đúng chỗ, cũng là
tội của ta; hàng trăm việc không làm được; đều là tội của ta cả...” và ông nhường
cho sử sách đời sau đánh giá công, tội của mình. Tiếp sau tấm bia kia, hai trụ
biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng quyền uy và tài đức của nhà vua cùng
với hồ Tiểu Khiêm 小 謙 湖 hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa
tội, thì đúng là Tự Đức thật chu toàn đối với việc đón nhận cái chết. Mới hay, Tự
Đức là hiện thân sự thâm thúy siêu tuyệt của Nho gia! Giờ đây, yên nghỉ trong
ngôi nhà bằng đá bên trong bửu thành, giữa một rừng thông vi vu gió lộng hẳn
nhà vua hoàn toàn mãn nguyện với sự dàn xếp, lựa chọn cho cái chết của mình.
Ông vua thi sĩ đã nằm xuống giữa một không gian của thơ và nhạc, của sự
yên bình trong tổng thể kiến trúc trác tuyệt về nghệ thuật xây dựng lăng tẩm thời
21
Nguyễn. Người đời sau mỗi khi đứng trước khung cảnh thơ mộng này, ai cũng
nghĩ đến một câu thơ đề tặng “ngôi nhà vĩnh cửu” của vua Tự Đức với sự tâm
đắc, ngưỡng mộ:
“Tứ bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên”
Trong các bi đình thì bi đình ở lăng Tự Đức là bề thế nhất với hình vẽ
những con rồng và sóng mây quấn lấy những cây cột lớn màu vàng. Nếu nhìn tư
xa, tưởng như bi đình được xây hai tầng.
Bia ở lăng Tự Đức là một tấm bia đồ sộ. Trán bia được chạm hình một
con rồng mây lớn với sự cân đối của mặt rồng ở chính giữa và những đường uốn
cong của đuôi rồng ra phía trước. Thân bia cao 3,05m, rộng 2,06m, trên và dưới
thân bia là hình “lưỡng long triều nguyệt”, dọc hai bên thân bia, mỗi bên có chạm
hình 2 con rồng. Lòng bia dài 1,66m, khắc 69 dòng chữ Hán (mặt trước 34 dòng
và mặt sau là 35 dòng) kể cả dòng lạc khoản. Bệ bia dài 2,8m, cao 0,99m, dày
1,67m, cũng được trang trí bằng các họa tiết hình cây và ô vuông xen kẽ, phía
dưới có hình một con rồng lớn. Nách bia dài 0,77m, chỗ dày nhất là 0,21m. Mỗi
nách bia là hình một con rồng nhỏ. Chân bia được là theo kiểu sập chân quỳ như
ở các bia khác. Cột chân bia cao 0,695m. Đây có thể xem là tấm bia lớn nhất
trong các tấm bia khảo sát. Nhà bia ở đây nổi bật với kiểu vẽ hình rồng trên bốn
cột trụ lớn bên trong, được quét vôi màu vàng. Nhà bia được xây rất cao và
thoáng, 4 phía có 4 cánh cửa lớn hình vòm, xung quanh lại có tường thấp bao
quanh, đứng ở nhà bia có thể nhìn thấy các công trình kiến trúc khác. Bài văn
được khắc trên bia do chính vua Tự Đức ngự chế, nó được xem là bài văn bia độc
đáo nhất trong các bài văn bia ở các lăng.
1.5. Lăng vua Đồng Khánh
Đồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Ðường, con trai cả của Kiên Thái
Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai (1845-1876), người sinh thành 3 vị vua: Kiến
Phúc (1883-1884), Hàm Nghi (1884-1885) và Đồng Khánh (1886-1888). Ca dao
Huế từng nói về vương nghiệp của ba ông vua này:
Một nhà sinh đặng ba vua
Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài.
22
Ðồng Khánh là anh cả nhưng lại được đưa lên ngai vàng sau cùng. Bấy giờ,
khi vua Hiệp Hòa bị giết (1883), Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường lập
Hoàng tử Ưng Ðăng (con nuôi vua Tự Đức, em thứ hai của Ưng Ðường) lên làm
vua, lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Ở ngôi được 8 tháng thì Kiến Phúc qua đời, em
trai là Ưng Lịch được kế vị, đặt niên hiệu Hàm Nghi. Hàm Nghi trị vì được một
năm thì kinh đô thất thủ (5-7-1885), phải rời ngai vàng theo Tôn Thất Thuyết ra
Sơn phòng Tân Sở, phát chiếu Cần Vương kháng Pháp. Triều thần và chính phủ
bảo hộ đưa anh trai Hàm Nghi vào ngai vàng đang để trống, đó là Ðồng Khánh.
Ðồng Khánh làm vua được 3 năm thì qua đời vào giữa tuổi 25. Nhà vua không ngờ
mình chết sớm như vậy nên chưa hề lo nghĩ đến sinh phần mai sau của mình. Lăng
Ðồng Khánh hiện hữu, thực chất là nơi vua Ðồng Khánh tá túc vĩnh viễn trong
điện thờ thân phụ của ông. Sự ra đời của khu lăng tẩm này khá nhiều trắc trở.
Sau khi lên ngôi, Ðồng Khánh thấy lăng mộ của cha mình ở Cư Sĩ chưa có
điện thờ nên sai Bộ Công dựng điện Truy Tư cạnh đó để thờ cha. Điện Truy Tư
khởi công vào tháng 2 năm 1888, đến tháng 10 năm đó hoàn tất về căn bản.
Ðồng Khánh rước bài vị của Kiên Thái Vương về thờ trong điện, đồng thời tiếp
tục hoàn chỉnh công trình. Thế nhưng, trong khi công việc kiến trúc đang tiếp tục
thì Ðồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành Thái (1889-1907) kế
vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên không thể
xây cất lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm, đành lấy điện Truy Tư追 思 殿 đổi
làm Ngưng Hy 凝 希 殿để thờ vua Ðồng Khánh. Thi hài nhà vua cũng được an
táng đơn giản trên quả đồi có tên là Hộ Thuận Sơn, cách điện Ngưng Hy 30m về
phía Tây. Toàn bộ khu lăng tẩm được gọi tên là Tư Lăng 思 陵.
Tháng 8 năm 1916, sau khi lên ngôi được 3 tháng, vua Khải Ðịnh (1916-
1925), con trai vua Ðồng Khánh đã tu sửa điện thờ và xây cất lăng mộ cho cha
mình. Toàn bộ khu lăng mộ từ Bái Đình, Bi Đình đến Bửu Thành và Huyền
Cung đều được kiến thiết dưới thời Khải Ðịnh, đến tháng 7-1917 mới hoàn
thành. Riêng điện Ngưng Hy cùng Tả Hữu Tùng Viện; Tả Hữu Tùng Tự tiếp tục
được tu sửa cho đến năm 1923.
Ra đời trong quá trình dài như thế, lăng Ðồng Khánh mang dấu ấn hai
23
trường phái kiến trúc của hai thời điểm lịch sử khác nhau. Nếu phong cách cổ
truyền thực sự dừng chân trong kiến trúc lăng Tự Đức và phong cách hiện đại
được thể hiện rõ nét trong kiến trúc lăng Khải Định sau này thì lăng Ðồng Khánh
là một bước trung chuyển. Sự tồn tại khá biệt lập của hai khu vực lăng và tẩm
càng làm rõ thêm điều này. Ở khu vực tẩm điện, nhìn tổng thể, các công trình vẫn
mang dáng xưa: lối kiến trúc trùng thiềm điệp ốc ở chính điện và các nhà cửa phụ
thuộc, vẫn những hàng cột sơn son thếp vàng lộng lẫy với đồ án trang trí tứ linh,
tứ quý... quen thuộc. Ðáng chú ý là điện Ngưng Hy, một công trình vốn được coi
là nơi bảo lưu bậc nhất nghệ thuật sơn son thếp vàng, nghệ thuật sơn mài nổi
tiếng của Việt Nam. Trên các đố bản ở nội thất là hàng loạt các ô hộc trang trí
các đề tài mai điểu, tùng lộc, liên áp, trúc tước... bằng sơn mài, ghép khảm và
chạm nổi. Ðặc biệt trong chính điện còn có 24 đố bản vẽ các bức tranh trong điển
tích Nhị thập tứ hiếu kể về những tấm gương hiếu thảo ở Trung Hoa.
Công việc xây dựng lăng tẩm vua Đồng Khánh đã được bắt đầu từ năm cuối
đời vua (1888: khu vực điện Truy Tư sau đổi tên thành điện Ngưng Hy), làm
thêm từ năm đầu thời Thành Thái (1889: khu vực lăng mộ) rồi sửa chữa và mở
rộng quy mô dưới thời Khải Định (các năm 1915, 1917, 1921, 1923).
Trên thực tế, công việc kiến trúc lăng Đồng Khánh đã diễn ra nhiều đợt
trong một giai đoạn lịch sử dài ngót 35 năm (1888-1923) qua 4 thời vua Đồng
Khánh, Thành Thái, Duy Tân và Khải Định.
Về mô thức kiến trúc, lăng Đồng Khánh có khoảng 20 công trình kiến trúc
lớn nhỏ với mật độ tương đối dày. Khu vực tẩm quay về hướng đông nam, ngay
trước mắt có đào hồ bán nguyên để làm yếu tố “minh đường” và ngọn đồi Thiên
An cách đó khoảng 3 km được dùng làm tiền án. Khu vực lăng mộ lại quay về
hướng đông-đông nam, tiền án của nó là núi Thiên Thai...Nếu tượng các quan
viên ở lăng Tự Đức được tạc bằng đá với cỡ người quá thấp, thì ngược lại, tượng
các quan viên ở lăng Đồng Khánh chỉ được đắp bằng vôi gạch với dáng cao
nhưng gầy.
Công trình kiến trúc nổi bật về mặt mỹ thuật ở lăng Đồng Khánh là điện
Ngưng Hy, là một toà nhà kép làm theo kiểu thức chung của loại cung điện Huế,
nhưng ở phần sau lại được gia tăng thêm một toà nhà thứ ba nữa (nhà hậu).
24
Thành ra ở đây có đến 3 hệ thống vì kéo được ghép lại với nhau theo hình chữ
“tam” với hai hệ thống máng xối ở giữa. Mặt bằng thực tế của toà nhà rất rộng,
nhưng trông vẫn gọn gàng xinh xắn, có lẽ nhờ cách trang trí ở nội ngoài thất.
Vật liệu trang trí trên các bờ nóc, bờ quyết, cổ diềm, đầu hồi, đều làm bằng
pháp lam ngũ sắc hoặc đất nung tráng men màu. Được phân khoản trong từng ô
hộc, hàng trăm hình ảnh và câu thơ xen kẽ nhau chạy quanh trên cả toà nhà. Ở đó
người xưa đã diễn tả rất nhiều sinh hoạt cổ truyền và cảnh vật dân gian như ngư
tiều canh mục, cầm kỳ thi tửu, ngư ông đắc lợi...con gà, con rắn, tắc kè, voi,
ngựa, các thứ động vật và cây cỏ thông thường khác. Có giá trị đặc biệt nhất ở
đây là loại đất nung tráng men màu. Loại này được phát triển mạnh ở điện
Ngưng Hy để sau đó ít thấy dùng trong trang trí cung điện và lăng tẩm. Đây là
một loại hình tạo tác thủ công mỹ nghệ đặc sắc và quý hiếm của địa phương.
Bên trong điện, các nghệ nhân đầu thế kỷ đã tạo ra được một không gian
nội thất vàng son lộng lẫy. Hàng trăm hình ảnh và câu thơ được chạm khắc hoặc
viết vẽ lên các panô và hệ thống kiên ba đồ bản. Hệ thống cột kèo tiền điện cũng
sơn son thép vàng. Màu sắc mọi hình ảnh trang trí đều còn đậm đà, chói lọi. Một
loại hình ảnh trang trí độc đáo ở nội thất Ngưng Hy là vẻ cảnh sinh hoạt của 24
câu chuyện trong “Nhị thập tứ hiếu”.
Lăng Ðồng Khánh được xây dựng trong buổi giao thời của lịch sử Việt
Nam nên kiếm trúc lăng đan xem giữa kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian và
kiến trúc mới du nhập. Trong một chừng mực nhất định, kiến trúc lăng đã thành
công trong việc thể nghiệm cái mới, đưa yếu tố dân dã vào trong cung đình khiến
lăng Ðồng Khánh hòa hợp với phong cảnh thôn dã trong vùng.
Bia lăng Đồng Khánh không có nhiều nét độc đáo như ở các văn bia
khác. Nhà bia được xây dựng xinh xắn trên một diện tích nhỏ. Bên trong là bia đá
cao 3,05m, rộng 1,45m, dày 0,16m. Cũng giống như họa tiết trên văn bia Tự
Đức, bia lăng Đồng Khánh là sự kết hợp giữa họa tiết cây cỏ và rồng, mây. Chỉ
có điểm khác biệt là ở hai tai bia và hai nách bia không được chạm họa tiết rồng
mà là hình hoa văn cách điệu. Bia được khắc ở cả hai mặt với lối chữ chân
phương, rõ ràng và đẹp. Chân bia dày 0,8m, dày 2,07m, cao 0,6m cũng được làm
theo kiểu sập chân quỳ. Bài văn khắc trên bia đá là do vua Khải Định ngự chế để
25
ca tụng công đức vua cha. Nó được làm theo mô-típ cũ là ca tụng khoa trương
mang tính chủ quan của người viết.
1.6. Lăng vua Khải Định
Lăng Khải Định (hay còn gọi là Ứng Lăng 應 陵) nằm dựa lưng vào triền
phía Tây Nam vùng núi Châu Chữ, xưa thuộc địa phận làng Châu Chữ, xã Thủy
Bằng, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên- nay thuộc làng Châu Chữ, xã Thủy
Bằng, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng nằm cách trung tâm thành phố
Huế 10km đường bộ về phía Tây Nam.
Năm 1920, khi các nhà địa lý đương thời đi xem và chọn địa điểm để xây
dựng lăng cho vua Khải Định tại triền núi Châu Chữ thì ở đó đã có một số ngôi
mộ của người Hoa. Triều đình đã ra lệnh phải dời những mộ ấy đi nơi khác. Theo
thuật phong thủy thì lăng Khải Định có vị trí hết sức trang trọng, cửa lăng hướng
về phía Tây- Tây Bắc. Hai dãy vúi Chóp Vung và Kim Sơn cách xa lăng 8 km
chầu vào phía trước, nằm trong tư thế “tả thanh long, hữu bạch hổ”, rồng chầu hổ
phục, tạo nên một thế quy tụ, đăng đối vững chải. Phía trước mặt lăng có dòng
nước chảy từ tả qua hữu (khe Châu Ê) rồi lại rẽ theo lối “chi huyền thủy”, hay
còn gọi là “huyền thủy minh đường” (nhà sáng).
Mỗi công trình kiến trúc ở lăng Khải Định từ hệ thống tường rào, cổng vào
lăng, tả hữu tòng sự đến sân bái đình, bi đình, ba tầng sân trước cung Thiên Định
(gồm tả, hữu trực phòng, điện Khải Thành, Chính cung và Hậu điện) đều được
bố trí một cách cân xứng, đăng đối, thứ tự từ thấp lên cao, từ bậc cấp thứ nhất
đến bậc cấp 127 cuối cùng. Tùy theo địa hình tự nhiên sẵn có hoặc đào đắp, cải
tạo thêm ít nhiều để tạo ra mặt bằng kiến trúc hoàn chỉnh. Ở đây, kiến trúc gắn
liền với thiên nhiên, hòa vào trong sự hùng tráng của núi sông, tạo nên không khí
trang nghiêm, trầm mặc thích hợp với nơi yên nghỉ của một vị vua.
So với các khu lăng mộ khác (lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự
Đức, Đồng Khánh), lăng Khải Định được xây dựng muộn nhất, mặt bằng kiến
trúc hẹp nhất nhưng lại là công trình được xây dựng với sự đòi hỏi về thời gian,
công sức, tiền bạc nhiều nhất. Nếu như lăng Gia Long xây dựng trong 6 năm
(1814-1820), lăng Minh Mạng 4 năm (1840-1843), lăng Thiệu Trị chỉ trong vòng
10 tháng (10-2 đến 19-11-1848)... thì công việc xây lăng Khải Định phải kéo dài
26
đến 11 năm (1920-1931).
Cũng như các vị vua khác, sau khi bước lên ngai vàng được 4 năm, vua
Khải Định bắt đầu lo nghĩ đến việc xây dựng lăng tẩm cho mình, chuẩn bị cho
nơi an nghỉ cuối cùng. Đây là công việc trọng đại của cả triều đình làm hao tốn
sức người sức của. Ngày 4-9-1920, lăng được khởi công xây dựng nhưng ngày 6-
11-1925 thì vua băng hà và khi vua Bảo Đại lên ngôi, công trình mới được tiếp
tục xây dựng, đến năm Bảo Đại VI (1931) mới hoàn thành. Trong suốt 11 năm
ấy, triều đình nhà Nguyễn đã huy động nhiều tù nhân và binh lính ở Huế lên đây
làm việc khổ sai dài hạn như mở đường, phá núi, làm toại đạo, tạo ra mặt bằng
xây dựng lăng ở triền phía Tây của ngọn núi thuộc vùng núi Châu Chữ.
Triều đình đã đưa tất cả các thợ thủ công có tay nghề cao nhất trong “nê
ngõa tượng cục” lên đây làm việc dài hạn. Trong số đó có nhiều nghệ nhân nổi
tiếng như cụ Phan Văn Tấn, cụ Kiểm Khả, cụ Ký Duyệt, cụ Cửu Sùng...nhưng
nổi tiếng nhất là cụ Phan Văn Tấn. Cụ là người họa sĩ tài hoa đã vẽ những bức
họa “Cửu long ẩn vân” trên trần nhà ở cung Thiên Định bằng đôi chân của mình.
Chuyện này đã đi vào giai thoại dân gian xứ Huế. Ngoài ra, còn có những bức
họa ở các mặt tường và trần của Tả hữu trực phòng, các nghệ nhân đã dùng màu
xanh sẫm vẽ lên xi măng để giả đá cẩm thạch, trông như thật.
Với diện tích hàng chục mét vuông, những bức họa long vân trên trần ba
phòng giữa của cung Thiên Định 天 定 宮hiện nay vẫn được đánh giá là những
tác phẩm hội họa mang giá trị thẩm mỹ cao. Ngoài ra, còn có những bức tranh
đắp nổi bằng những mảnh sành sứ được trang trí ở các vị trí xung quanh bốn bức
tường cung Thiên Định cũng làm cho những ai đến đây chiêm ngưỡng đều phải
ngẩn ngơ.
Công việc xây dựng lăng Khải Định được đặt dưới sự điều hành của Triều
quân đô thống phủ Lê Văn Bá. Còn nhà thầu khoán Nguyễn Văn Hưng trông coi
về vật liệu xây dựng. Để thực hiện các công trình kiến trúc của lăng, nhà nước
phong kiến lúc bấy giờ đã phải tăng thuế đinh lên 10% và thuế điền là 30% trên
phạm vi cả nước. Nguyên nhân của sự hao phí là do lăng được xây dựng trên một
sườn núi cao, khi tiến hành thi công thì phu dịch phải bạt nó thành nhiều tầng,
nhiều cấp và những sân lớn để tạo ra một mặt bằng xây dựng. Hơn nữa, các
27
nguyên vật liệu dùng vào để xây dựng đều phải mua từ nước ngoài hay phải vận
chuyển hay phải vận chuyển từ xa đến như: sắt thép, xi măng, ngói ác-đoa, gạch
hoa phải mua từ Pháp. Sành kiểu, sứ tốt, vỏ chai, thủy tinh phải nhập từ Trung
Quốc, Nhật Bản. Còn sành ngang phải chở từ Hà Đông vào. Đây thực sự là một
công trình kiến trúc hao tốn nhiều thời gian và đòi hỏi nhiều công sức lao
động.Chính vì những tốn kém trên đã đẩy cuộc sống của người dân đến cảnh lầm
than, khổ cực.
Trong các lăng tẩm thì lăng Khải Định vẫn có đặc thù rõ nét. Nếu như lăng
Minh Mạng, Tự Đức là những bức tranh hài hòa giữa thiên nhiên và kiến trúc đồ
sộ nằm trên hàng chục hecta đất theo lối kiến trúc cổ thì lăng Khải Định là công
trình kiến trúc đồ sộ nằm trên triền đồi với diện tích chỉ hơn nửa hecta, theo lối
kiến trúc kết hợp giữa Âu và Á. Những dạng vật liệu gỗ, đá, gạch Bát Tràng
thường dùng ở những lăng trước thì ở lăng Khải Định nó được thay thế bởi bê
tông cốt sắt, vôi vữa và gạch caro. Nghệ thuật chạm trổ hoa văn trên gỗ đá cũng
được thay bằng nghệ thuật đắp nổi hoa văn trên tường bằng các mảnh sành sứ
nhiều màu ghép lại, tạo cho lăng dáng vẻ như một tòa lâu đài tổng hợp các kiến
trúc Đông-Tây, kim -cổ. Mặt khác, với tượng đồng bia đá, với cung Thiên Định
giống như một viện bảo tàng. Lăng Khải Định là một tác phẩm mỹ thuật tổng hòa
của nhiều dòng văn hóa, nhiều dòng kiến trúc Á, Âu, kiến trúc Việt Nam cổ điển
và hiện đại: những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ, trụ biểu Tu-
pa của nhà Phật, nhà bia với hình bát giác và vòm cửa theo lối Romance biến
thể... Tất cả phản ánh phong cách thích chưng diện của vua Khải Định lúc sinh
thời, và đánh dấu giai đoạn giao thời giữa hai nền văn hóa Á-Âu của xã hội Việt
Nam hồi đầu thế kỉ XX.
Cũng như sự độc đáo của nghệ thuật trang trí trong toàn bộ khu lăng
tẩm, văn bia lăng Khải Định mang phong cách riêng với nhiều nét mới lạ. Trán
bia luôn là hình rồng mây nhưng rồng mây ở mặt sau không được chạm trổ tỉ mỉ
như mặt trước. Bia cao 3,89m (kể cả trán bia và chân bia). Thân bia ở mặt trước,
phần trên là hình “lưỡng long triều nguyệt”, dưới cũng là hình hai con rồng
nhưng không phải hướng về mặt nguyệt như ở trên mà là hướng về đỉnh núi, hai
dọc bên thân mỗi bên được chạm hình 2 con rồng quay đầu xuống dưới ngoảnh
28
vào phía trong; mặt sau của thân bia thì phần trên và dưới đều là hình “lưỡng
long triều nguyệt” nhưng điều đặc biệt là rồng ở phần trên và dưới thân bia rất
dài, chạy dọc theo hai thân bia và kéo về hai đầu thân bia. Đây chính là điểm
khác biệt mà ở các văn bia khác không có. Phần tai và nách bia, cả mặt trước và
sau đều được chạm hình rồng. Nách bia dài 0,905m, chỗ dày nhất là 0,23m. Chân
bia dài 2,7m, dày 0,81m, cao 0,78m, cột chân cao 0,51m. Họa tiết ở chân bia
giống ở các bia khác, là sự phối hợp giữa họa tiết rồng ở chính giữa và cây lá ở
phân trên và dưới. Chân cũng theo kiểu sập chân quỳ, ở 4 phía góc chân là hình
đầu rồng lớn như ở các lăng khác. Lòng bia dài 1,1m khắc 22 dòng chính văn ở
mặt trước, còn mặt sau để trống hoàn toàn mặc dù vẫn được trang trí bằng các
họa tiết cầu kì. Bài văn bia được khắc trên đá là do vua Bảo Đại ngự chế. Nhà bia
làm theo kiểu 2 tầng, có 16 cột xung quanh với hình 16 con rồng ở trên các cột,
ngoài ra có thêm 4 cột lớn ở giữa nhưng không có trang trí. Nhà bia có 4 cửa lớn
và rộng. Cũng như toàn bộ khu lăng tẩm, nhà bia làm bằng vật liệu bê-tông là
chủ yếu. Nhìn từ phía trước, nhà bia có sự độc đáo bởi những nét mới lạ cả về
màu sắc, vật liệu và cách trang trí. Đây là tấm bia được dựng trên lăng cuối cùng
của triều đại phong kiến bởi vì mặc dù Bảo Đại là vị vua cuối cùng của triều đại
phong kiến nhưng ông vua này không xây dựng lăng tẩm nên cũng không có văn
bia.
CHƯƠNG 2
KHẢO SÁT VĂN BIA LĂNG CÁC VUA NGUYỄN
2.1. Văn bia triều Nguyễn và văn bia lăng các vua Nguyễn
2.1.1. Văn bia triều Nguyễn
Văn bia là một sản phẩm của đời sống xã hội và là đặc trưng của văn hóa
thời trung đại. Ban đầu, ở Trung Quốc bia chỉ là những cột đá dựng ở cửa miếu
dùng để buộc vật tế sinh và đo bóng mặt trời hay những cột gỗ chôn trên huyệt
mộ để buộc dây hạ quan tài, sau nhân đó mà khắc nên. Qua sự giao thoa giữa các
nền văn hóa gần gũi, văn bia đã được nhân dân các nước xung quanh tiếp nhận
và sáng tạo. Việt Nam cũng nằm trong số đó.
29
Nói về triều Nguyễn, kể từ khi Chúa Tiên (tức Nguyễn Hoàng) vào đất
Thuận Hóa để tránh sự kiểm soát gắt gao của anh rể là Trịnh Kiểm, vùng đất của
nhà chúa đã không ngừng gây dựng và phát triển. Từ đời chúa Nguyễn Ánh trở
về sau dải đất Đàng Trong không còn nhỏ hẹp nữa mà mở rộng dần về phương
Nam rồi đến năm 1802 thì thống nhất. Với chừng ấy thời gian gây dựng, bồi đắp,
triều Nguyễn đã để lại cho nền văn hóa Việt Nam ngày nay những giá trị vật chất
và tinh thần mang dấu ấn của thời đại. Trải qua bao biến cố của lịch sử, ngày nay
những giá trị văn hóa đó đang được nghiên cứu và đánh giá với cái nhìn khách
quan và đầy đủ hơn.Văn bia triều Nguyễn cũng là một trong những giá trị đang
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Văn bia là những bài văn được khắc trên các phiến đá và được dựng ở rất
nhiều nơi như chùa chiền, lăng tẩm, mộ chí, các vị trí quân sự- kinh tế hay ở
những danh lam thắng cảnh nhằm ghi nhớ về một nhân vật, sự kiện hay địa danh,
địa điểm nào đó với mục đích là để hậu thế không quên về lịch sử đã qua. Hiện
tại chưa có con số thống kê chính xác về văn bia triều Nguyễn nhưng có thể đoán
định rằng nếu không kể đến văn bia ở các mộ chí thì văn bia triều Nguyễn lên
đến con số hàng trăm. Nói như vậy là để thấy rằng số lượng văn bia triều Nguyễn
rất đa dạng và phong phú.
Căn cứ vào vị trí đặt văn bia có thể phân loại văn bia triều Nguyễn ra làm
các loại sau:
(cid:0) Văn bia ở đền chùa
Văn bia được dựng ở chùa chiền có thể coi là loại văn bia được dựng sớm
nhất. Điều đặc biệt là các văn bia ở chùa thường do vua ngự chế hoặc những nho
sĩ nổi tiếng đề khắc. Sở dĩ là vì thường các chùa do triều đình bỏ tiền ra xây
dựng, tu bổ hoặc do hàng quan lại, những người giàu có, nổi tiếng muốn cầu
phúc và ghi công đức mà cho xây dựng. Ngoài việc xây dựng, tu bổ, những
người này còn cúng cho chùa tiền bạc hoặc ruộng đất. Ruộng này còn gọi là
ruộng hậu và nó được coi là nơi sản xuất và thu nhập chính của chùa. Ở các chùa
hiện nay vẫn còn những bia hậu ghi công đức của những người đã cống hiến cho
nhà chùa. Điển hình là tấm bia chùa Từ Hiếu. Chùa Từ Hiếu vốn được xây dựng
từ thời chúa Nguyễn, đến thời nhà Tây Sơn cầm quyền chùa đã bị triệt hạ, về sau
30
bà Từ Dũ cho tu bổ lại. Nguyên số ruộng công đức ở chùa này đã lên đến 22 mẫu
2 sào.
Nội dung của các bài văn bia chùa thường nhắc đến các tư tưởng Phật giáo
nhưng song song với nó là các tư tưởng Nho gia, đôi khi còn có xen lẫn tư tưởng
Lão- Mặc. Điều này cho thấy, dưới thời nhà Nguyễn, tư tưởng Phật giáo không
được giai cấp thống trị tin dùng mà nó chỉ là phương tiện tuyên truyền hệ tư
tưởng của chế độ, tuyên truyền cho uy quyền của dòng họ vua. Qua những câu
chuyện hoang đường để dựng nên những ngôi chùa thờ phụng, đó là cách mà giai
cấp thống trị dùng để kích động sự mê tín vốn sẵn có trong dân gian nhằm củng
cố vương quyền. Những tư tưởng Phật giáo đã được giải thích trên lập trường tư
tưởng Nho giáo.
Ở phần cuối các bài văn bia thường là những lời cầu nguyện. Nó cũng
giống như ngày nay người ta lên chùa là cầu xin may mắn, phước lộc. Các văn
bia do vua quan chấp bút thì thường cầu cho nhà yên nước trị, cầu cho dòng họ
mãi vững bền. Trong bài văn bia khắc tại chùa Linh Mụ, chúa Nguyễn Phúc Chu
có viết: Nguyện cho thân quyến xa gần trong dòng họ Nguyễn đều lên pháp hội,
mãi giữ được ngôi phúc chúa, thường tu tạo chùa chiền, nội ngoại thân thuộc đều
chứng bồ đề. Riêng ta thụ được bài kinh quý báu, nhiều năm gặp vận hội lớn. Đất
nước mở mang, nông thương sầm uất, nước giàu binh mạnh, giữ yên nghiệp
nước. Điều đó thật tốt biết bao 願 阮 門 遠 近 宗 親 咸 登 法 會 永 為 福 主 掄
作 伽 籃 內 外 戚 屬 無 彊 之 頌 長 逢 大 有 之 年 土 宇 闢 開 農 商 盛 集 兵
強 國 富 守 業 安 時 以 玆 勝 概
Việc cho xây dựng chùa chiền ngoài mục đích xiển dương công đức vương
triều, nó còn mang ý nghĩa là giữ long mạch giúp cho cơ nghiệp nhà vua vững
bền. Một bộ phận không nhỏ trong các văn bia còn ca ngợi cảnh đẹp của chùa
chiền, thiên nhiên đất nước, qua đó nói lên lòng yêu nước và niềm tự hào của con
người sống trong đời thịnh.
Nội dung chính của các văn bia dựng ở chùa chiền chủ yếu là miêu tả việc
trùng tu xây dựng chùa, cuộc đời đạo hạnh của các vị tổ khai sơn, hay trình bày
những tư tưởng Phật giáo như từ bi, nhân quả, nghiệp chướng...và cuối cùng là
31
những lời cầu nguyện. Có thể nhắc đến những văn bia nổi tiếng ở Huế như: văn
bia trùng tu chùa Linh Sơn (1665), bia chùa Thiên Mụ (1715), bia chùa Quốc Ân
(1729)...
Hình thức chủ yếu của các văn bia chùa là thể loại văn xuôi với ngôn ngữ
trau chuốt, lời văn nhẹ nhàng, ví dụ: bia “Ngự chế thi Thiên Mụ chung thanh
thần kinh đệ thập tứ cảnh” (1846) và “Ngự chế thi Diệu Đế tự” của vua Thiệu
Trị. “Sắc tứ Hà Trung tự Hoán Bích Thiền sư tháp kí minh” của chúa Nguyễn
Phúc Chu dựng ở chùa Quốc Ân...
(cid:0) Văn bia ở các điểm văn hóa giáo dục
Nói đến thành tựu giáo dục thì vương triều Nguyễn là một trong những triều
đại có nhiều thành tựu với hệ thống trường học và lề lối thi cử quy củ, nghiêm
ngặt. Sau những năm loạn lạc chiến tranh, các vua chúa nhà Nguyễn ra sức cải
cách kinh tế, ổn định giáo dục, cho dời Quốc tử giám từ Hà Nội vào kinh đô Phú
Xuân, cho xây dựng ở kinh thành Huế một nhà Văn Miếu (1691). Ở Quốc tử giám
và Văn Miếu, vua cho dựng văn bia. Ở Văn Miếu có 34 bia, trong đó có 32 cái là
văn bia tiến sĩ dùng để khắc tên những người đậu tiến sĩ bắt đầu từ khoa thi Hội
đầu tiên vào năm 1822 đến khoa thi cuối cùng là năm 1919. Hai văn bia còn lại
khắc hai bài dụ của vua Minh Mạng và Thiệu Trị. Bia phía bên trái do vua Minh
Mạng ngự chế với nội dung là phân chia cấp bậc của hàng hoạn quan, răn đe họ
phải yên với chức phận, không được tham dự việc chính trị, không được cậy thế
làm loạn. Bia bên phải do vua Thiệu Trị viết với nội dung răn đe, ngăn chừng hàng
ngoại thích. Cái ý sâu xa ở hai văn bia này là tỏ rõ cho kẻ sĩ biết chính sách trọng
dụng nhân tài và thưởng phạt phân minh của nhà vua. Ở Quốc tử giám có hai văn
bia và đều có nội dung là ca ngợi sự thịnh trị của đất nước, cảnh trường lộng lẫy, tả
cảnh nhộn nhịp, náo nhiệt của trường vào ngày lễ thị học. Tự Đức trong bài văn
bia còn khuyên kẻ sĩ không nên ham chuộng tước lộc của người đời mà phải lo lập
đức, lập công, lập ngôn; vua còn cho rằng nền tảng của việc học là trung với vua,
hiếu kính với cha mẹ. Nói chung, nền giáo dục triều Nguyễn là một nền giáo dục
mang tư tưởng phục cổ và bảo thủ.
(cid:0) Văn bia ở các lăng tẩm vua Nguyễn
Đây là những văn bia ca ngợi vua cha đã mất do các vua kế nhiệm ngự chế.
32
Nó được dựng ngay tại các lăng tẩm của các vua. Nội dung và nghệ thuật của
loại văn bia này sẽ được giới thiệu kĩ ở mục sau.
(cid:0) Văn bia dựng ở các danh lam thắng cảnh, các khu quân sự, kinh tế
Vua Thiệu Trị xếp các cảnh đẹp ở kinh đô làm 20 thắng cảnh, gọi là “thần
kinh nhị thập cảnh”(20 cảnh đẹp ở đất thần kinh). Mỗi thắng cảnh đều có bia
dựng ở đó. Ở các núi chầu xung quanh lăng vua Gia Long cũng có dựng văn bia,
mỗi núi dựng một cái. Người ta thường nhắc đến hai văn bia, một cái dựng ở Phu
Văn Lâu và một cái ở cửa biển Thuận An.
Văn bia dựng ở Phu Văn Lâu có tên “Hương Giang hiểu phiếm” (buổi sáng
chèo thuyền trên sông Hương) do vua Thiệu Trị viết đề ngày tốt tháng 7 năm thứ
3 niên hiệu Thiệu Trị, gồm 147 chữ tả cảnh sông Hương vào buổi sáng sớm vô
cùng thơ mộng và đẹp đẽ, duyên dáng. Bia được dựng trong một nhà bia trang
nhã, xinh xắn phía bên phải Phu Văn Lâu, mặt hướng ra dòng Hương Giang.
Văn bia dựng ở cửa Thuận An có tên “Thuận An tấn kí” hiện nay đang nằm
trong khuôn viên trường tiểu học số 2 Thuận An, có lẽ trước đây nó được dựng ở
gần bờ biển. Bài bia khá dài do vua Tự Đức ngự chế, miêu tả cái thế hiểm trở tự
nhiên của cửa biển cũng như cách bố phòng của quân đội. Hiện nay vết tích của
các đồn lũy vẫn còn. Trong bài văn bia, vua cũng có nhắc đến yếu tố “nhân hòa”
rằng : “Nay cửa biển không phải là không hiểm trở, đồn lũy không phải không
kiên cố, súng ống không phải không đầy đủ tinh xảo, quân lính không phải không
siêng năng luyện tập nhưng hiệu quả của nó chưa hẳn đã giữ được đồn lũy ấy,
sức ấy, để giữ lấy thế hiểm ấy. Cho nên, Mạnh Tử mới nói “thiên thời không
bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa”. Nhà vua đã rất đúng khi coi trọng
yếu tố con người trong việc giữ gìn giang sơn bờ cõi, nhưng đáng tiếc sau này
trong cuộc đối đầu với thực dân Pháp xâm lược, Tự Đức đã bỏ qua sự thuận lợi
của yếu tố “nhân hòa” lúc đó khi mà toàn thể nhân dân đều đồng khởi diệt giặc
khiến dân đen sớm chịu cảnh nô lệ.
2.1.2. Văn bia lăng các vua Nguyễn
Tất cả các bia ở lăng vua đều được dựng trong nhà bia trang nhã. Bi đình
được đặt gần sân chầu. Nếu đi từ cổng lăng vào thì đầu tiên là sân chầu, rồi đến
bi đình và sau đó là các công trình kiến trúc khác. Trong các bia lăng, chỉ có bia
33
lăng Tự Đức là có vị trí đặc biệt là tuy đặt gần sân chầu nhưng sân chầu và bi
đình lại nằm sâu bên trong khu vực lăng, còn các bia ở các lăng khác có vị trí
giống nhau là gần trước cổng đi vào lăng.
Không những được dựng trong một bi đình bề thế, trang nhã, các bia ở các
lăng vua Nguyễn còn được chạm trổ tinh xảo theo nghệ thuật kiến trúc của triều
Nguyễn. Các bi đình đều được xây dựng theo kiểu hai tầng với những nét độc
đáo riêng. Nhà bia lăng Gia Long đơn giản mà thoáng đãng; nhà bia lăng Minh
Mạng lộng lẫy, uy nghiêm; nhà bia lăng Thiệu Trị hài hòa, gần gũi; nhà bia lăng
Tự Đức đồ sộ; nhà bia lăng Đồng Khánh xinh xắn; nhà bia lăng Khải Định hoành
tráng, độc đáo.Trong các bi đình thì bi đình của lăng vua Khải Định độc đáo
nhất, gồm 2 tầng và trên mỗi tầng đều có hình các con rồng uốn lượn xếp sát
nhau, được xây bằng bê tông rất vững vàng.
Các tấm bia thường được làm bằng đá thanh, vừa cao lớn lại được chạm trổ
các họa tiết đặc biệt. Bài văn bia được khắc ở lòng bia, dài và bằng chữ Hán theo
lối chữ chân phương rõ ràng.
Nội dung của các bài văn bia ở các lăng vua là ghi lại tiểu sử của nhà vua;
việc lên ngôi; sự nghiệp; công đức đối với nhân dân, đất nước, việc tang lễ, xây
dựng lăng và cuối cùng là một bài minh dài có thể coi là bản tóm tắt nội dung của
cả văn bia. Trong số các văn bia lăng các vua Nguyễn thì bài bia ở lăng Tự Đức
là dài nhất và độc đáo nhất vì nó là lời “tự bạch”của một ông vua biết mình chưa
hoàn thành trách nhiệm trước tình thế đặc biệt của đất nước.
Về hình dáng, văn bia lăng cũng giống các loại văn bia khác. Đó là một tấm
đá hình chữ nhật lớn, mỗi một tấm bia đều có các phần như trán bia, thân bia,
chân bia, tai bia, nách bia.
Trán bia thường là hình cong bán nguyệt, trên là diềm bia, dưới là mặt bia.
Trán bia luôn được trang trí hình rồng mây rất lớn, mặt rồng ở chính giữa, đuôi rồng
xòe ra và uốn lượn ngay trước mặt rồng theo một đường tròn.
Thân bia là phần quan trọng nhất của bia. Mỗi mặt có lòng bia ở giữa và
diềm bia xung quanh. Diềm bia được trang trí bằng hình dây lá và mỗi văn bia là
một phong cách trang trí khác nhau. Ở thân bia thường được chạm hình những
con rồng nhỏ ở hai dọc thân bia và cả ở phần trên của thân bia. Tùy vào kích cỡ
34
lớn nhỏ của bia ở từng lăng mà số lượng rồng được khắc chạm theo hai dọc thân
bia nhiều hay ít, ví dụ ở văn bia lăng Gia Long có 4 con rồng được khắc ở mỗi
bên dọc thân bia, hai con quay đầu lên và hai con quay đầu xuống xen kẽ nhau; ở
lăng Thiệu Trị thì ở hai dọc thân bia có 3 con rồng ở mỗi bên, ở lăng Đồng Khánh
là 2 con. Phần trên của thân bia ở các lăng đều là hình “lưỡng long triều nguyệt”
nhưng ở lăng Gia Lăng có khác là hai con rồng quay đuôi về phía mặt nguyệt.
Ngoài ra, ở thân bia còn có các họa tiết dây lá dài ngắn khác nhau ở các lăng. Phần
dưới của thân bia ở các lăng thường là hình “lưỡng long triều nguyệt” giống với
phần trên, nhưng lăng Gia Long thì ở phần dưới là hoa văn hình đỉnh núi. Phần
lòng bia ghi chép nội dung của bài văn bia có kèm theo dòng lạc khoản, được viết
đài theo đúng quy củ, chữ viết theo lối chân phương. Ở mặt sau thân bia có khi
được trang trí họa tiết giống như mặt trước và được khắc chữ (bia lăng Minh
Mạng, Khải Định, Tự Đức, Đồng Khánh) nhưng có văn bia thì phía sau để trống
(bia lăng Thiệu Trị, Gia Long).
Tất cả các bia ở các lăng đều có tai bia và nách bia. Tai bia và nách bia có
lúc được chạm khắc các họa tiết mây hoặc hoa lá uốn lượn (văn bia lăng Minh
Mạng) nhưng có lúc lại được chạm khắc 4 con rồng ở 2 tai và 2 nách bia (văn bia
lăng Thiệu Trị), có lúc 2 nách bia chạm rồng, 2 tai bia lại trang trí bằng họa tiết
cây lá (văn bia lăng Gia Long). Tùy vào kích cỡ của văn bia mà tai bia và nách
bia có kích cỡ khác nhau.
Chân bia ở các lăng phần lớn giống nhau về họa tiết, phần giữa của chân
bia là hình con rồng lớn có xen kẽ các họa tiết cây lá dài hoặc ngắn và mây,
ngoài ra còn có họa tiết ô vuông nối liền. Phần trên của chân bia hầu hết đều có
họa tiết và thường là họa tiết cây. Phần bên dưới cũng có họa tiết. Bệ đá phía
dưới không khắc chạm trừ bệ đá ở văn bia lăng Tự Đức là có cách điệu mới lạ
khác hẳn các văn bia khác. Các văn bia này đều có cùng kiểu chân quỳ ở 4 cột
chân.
So với các loại văn bia khác, văn bia ở các lăng tẩm có những điểm cố định
như: bia luôn được dựng trong nhà bia bề thế, chân bia luôn là một khối đá
vuông được khắc chạm chứ không nằm trên một thân rùa như bia chùa hay bia
tiến sĩ, rồng là họa tiết chủ đạo trên các bia này...
35
Văn bia lăng các vua Nguyễn vẫn mang những đặc điểm của văn bia nói
chung nhưng cũng mang những nét riêng của thời đại, nhất là những văn bia
được xây dựng về sau, kiến trúc mang nhiều nét hiện đại và đặc sắc. Đây chính là
những kho tư liệu quý giá có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu văn hóa cổ truyền
của dân tộc và thời đại.
Hình 1: Bia lăng Gia Long
36
Hình 2: Bia lăng Minh Mạng
Hình 3: Bia lăng Thiệu Trị
37
Hình 4: Bia lăng Tự Đức
38
Hình 5: Nhà bia lăng Đồng Khánh
Hình 6: Nhà bia lăng Khải Định
2.2. Văn bia lăng Gia Long
2.2.1. Nguyên văn chữ Hán
御 製 聖 德 神 功 碑
嘉 隆 十 三 年 之 甲 戌 敕 建 天 授 山 陵 其 右 奉 我 皇 妣 高 皇 后
寶 衣 之藏 左 則 壽 陵 也 異 隧而 同 塋 蓋 取 乾 坤 合 德 之 義 越 十
八 年 己 卯 十 二 月 丁 未 駕 崩 聖 壽 五 十 有 八 遺 詔 臣 嗣 皇 帝 位
臣 諒 陰 翼 室 躬 執 通 喪 襲 之 禮 一 遵 治 命 極 錦 繡 之 美 無 珠 玉
之 飾 至 於 經 紀 大 事 雖 殫 四 海 之 富 而 未 敢 以 為 泰 也 今 年 庚
辰 四 月 辛 丑 山 陵 禮 成 對 松 杉 之鬱 顧 江 山 之 綢 繆 仰 惟 聖 德
39
神 功 顯 揚 開 拓 窮 高 極 厚 參 天 兩 地 而 黃 顓 靡 金 石 之 質 華 勛
嗇 喬 松 之 紀 真 遊 縹 緲 攀 號 莫 逮 惟 有 述 前 休 鋪 景 鑠 詔 來 世
而 垂 無 窮 乎 瀉 罔 極 之 悲 伸 不 匱 之 孝 洪 惟 我 太 祖 皇帝 肇 基
王 列 聖 相 承 垂 二 百 載 墉 而 未 茨 樸 而 未 丹 肆 上 蒼 監 于 有
德 篤 生 我 皇 考 世 祖 高 皇 帝 稟 睿 聰 之 姿 濟 英 雄 之 志 妙 齡 遘
閔 圖 存 於 亡 誓 三 矢 以 攘 讎 奮 一 戎 而定 亂 方 其 翠華 南 狩 皇 路
險 傾 順 逆 雖 殊 寡 眾 非 敵 間 關 百 戰 乍 輸 乍 贏 輾 轉 一 隅 旋 失
旋 得 乃 通 質 浪 沙 樓 光 望 閣 玄 豹 隱 乎 濛 霧 神 龍 蟄 于 瀋 淵 而
執 羈 僕 臣 無 懷 晉 社 睹 儀 父 老 日 望 漢 官 則 又 糾 合 忠 良 旋 師
再 駕 投 膠 均 惠 負 石 先 勞 賦 狐 裘 之 濛 戎 之 三 軍 同 澤 經 麥 飯
之 倉卒 而 百 折 不 挫 蓋 其 仁 足 以 被 物 孝 足 以 感 神 文 足 以 附
眾 武 足 以 威 暴 人 謀 既 藏 天 助 者 順 新 平 江 有浹 旬 之 清 流 芹
滁 海 有 崇 朝 之 甘 水 神 武 徵 應不 一而 足 三 靈 協 眷 六 坎 成 夷
故 能 邁 油 雲 躍 沈 川 駸 駸 乎 有 不 可 禦 之 勢 天 聲所 至 霆 馳
覆 彼 鴟 巢 盡 取 其 彀 殲 不 共 之 讎 虜 補 以 紊 之 窮 圖 既 爽 舊 邦
遂 恢 全 越 功 成 治 寶 振 古 有 光 溯 自 甲 午 迄 壬 戌 歷 年 二 十 有
九北 抵 諒 山 南 極 河 仙 闢 地二 十 有 七逮 夫 潤 色 鴻 業 躬 致 太 平
禮 樂 刑 政 之 施 典 章 法 度 之 備 長 壽 承 歡 因 親 教 愛 坤元 起 化 由
家 及 國 通 西 北 之 聘 而 鄰 邦 之 好 永 固 卹 黎 鄭 之後 而 勝 國 之祀
不 廢 其 用兵 之 久收 效 之 大 守 成 之 盡 善 盡 美 殆 非 簡 冊 所 能
40
殫 述 嗚 呼 盛 哉 我 皇 考之 功 莫 德 表 表 在 人如 日 月 之 不可 掩
臣 小子 奉 纂 其 大 略 勒 為 聖 德 神 功 碑 示 文 子 文 孫 世 世 瞻 仰 咸
知 締 構之不 易 思 負 荷 之 維 艱 於 以 憑 藉 持 循 答 揚 我 皇 考
之 光 訓 而 衍 宗 社 億 萬 年 無 疆 之 業 時 明 命 元 年 七 月 丙 辰
日 也 謹 拜 手 稽 首 而為 之 銘 曰
於 穆 維 天 功 德 兼 隆
敷 佑 下 民 始 終 全 美
於 皇 維 聖 聖 人 違 世
極 溺 享 屯 典 則 尚 貽
紫 色 蛙 聲 羹 墻 在 夢
豈 命 之 軍 鈞 石 興 悲
帝 謂 聖 人 顧 瞻 景 山
用 殄 厥 慍 緬 懷 豐 水
王 師 所 至 敬 勒 崇 鴻
如 雷 如 霆 永 昭 來 裔
罪 人 既 得 饗 之 保 之
大 告 武 成 有 燁 其 光
一 十 八 年 奠 我 皇 越
凝 圖 保 治 與 天 無 疆
孝子嗣皇帝臣 謹識
41
2.2.2. Phiên âm
Ngự chế thánh đức thần công bi ký
Gia Long thập tam niên chi Giáp tuất, sắc kiến Thiên Thụ sơn lăng; kỳ hữu
phụng ngã Hoàng tỷ Cao hoàng hậu, bảo y chi tàng, tả tắc Thụ lăng dã. Dị toại
nhi đồng oanh, cái thủ kiền khôn hợp đức chi nghĩa.Việt thập bát niên Kỉ mão
thập nhị nguyệt Đinh vị giá băng. Thánh thọ ngũ thập hữu bát, di chiếu thần tự
Hoàng đế vị. Thần lượng âm dực thất, cung chấp thông táng, đản tập chi lễ, nhất
tuân trị mệnh, cực cẩm tú chi mĩ, vô châu ngọc chi sức. Chí ư kinh kỷ đại sự, tuy
đàn tứ hải chi phú, nhi vị cảm dĩ vi thái dã.Kim niên Canh thìn tứ nguyệt Tân sửu,
sơn lăng lễ thành; đối tùng sâm chi uất thông, cố giang sơn chi trù mậu, ngưỡng
duy thánh đức thần công hiển dương khai thác, cùng cao cực hậu, tham thiên
lưỡng địa. Nhi Hoàng Chuyên mỹ kim thạch chi chất, hoa huân sắc kiều tùng chi
kỷ; chân du phiếu miểu, phàn hào mạc đãi. Duy hữu thuật tiền hưu, phô cảnh
thước, chiếu lai thế nhi thùy vô cùng, thứ hồ tả võng cực chi bi, thân bất quỹ chi
hiếu.Hồng duy ngã Thái Tổ Hoàng đế triệu cơ vương tích. Liệt thánh tương thừa,
thùy nhi bách tải, đường nhi vị tỳ phác nhi vị đan. Tứ thượng thương giám vu
hữu đức, đốc sinh ngã Hoàng khảo Thế Tổ Cao hoàng đế, bẩm duệ thông chi tư,
tế anh hùng chi chí. Diệu linh cấu mẫn, đồ tồn ư vong. Thệ tam thỉ dĩ nhương
thù, phấn nhất nhung nhi định loạn. Phương kỳ thúy hoa nam thú, hoàng lộ hiểm
khuynh; thuận nghịch tuy thù, quả chúng phi địch. Gian quan bách chiến, sạ thâu
sạ doanh, triển chuyển nhất ngung. Tuyền thất tuyền đắc. Nãi thông chất Lãng
Sa, thê quang Vọng Các. Huyền báo ẩn hồ mông vu, thần long trập vu phiên
uyên. Nhi chấp ki bộc thần, vô hoài tấn xã; đổ nghi phụ lão, nhật vọng Hán quan.
Tắc hựu củ hợp trung lương, tuyền sư tái giá, đầu giao quân huệ , phụ thạch tiên
lao. Phú hồ cầu chi mông thú, nhi tam quân đồng trạch, kinh mạch phạn chi
thương tốt. Nhi bách chiết bất tỏa. Cái kì nhân túc dĩ bị vật, hiếu túc dĩ cảm thần,
văn túc dĩ phụ chúng, vũ túc dĩ uy bạo. Nhân mưu ký tàng, thiên trợ giả
thuận.Tân Bình giang hữu tiếp tuần chi thanh lưu; Cần Giờ hải hữu sùng triêu chi
cam thủy. Thần vũ trưng ứng bất nhất nhi túc, tam linh hiệp quyến lục khảm
thành di ; cố năng mại du vân, dược trầm xuyên, xâm hồ hữu bất khả ngự chi
thế. Thiên thanh sở chí, đình trạc tiên trì. Phúc bỉ si sào, tận thủ kỳ cấu. Tiêm bất
42
cộng chi thù lỗ, bổ dĩ vặn chi cùng đồ. Ký sảng cựu bang, toại khôi toàn việt.
Công thành trị bửu, chấn cổ hữu quang. Tố tự Giáp ngọ hất Nhâm tuất, lịch niên
nhị thập hữu cửu; bắc để Lạng Sơn, nam cực Hà Tiên, tịch địa nhị thập hữu thất.
Đãi phù nhuận sắc hồng nghiệp, cung trí thái bình; lễ nhạc hình chính chi thi,
điển chương pháp độ chi bị. Trường Thọ thừa hoan, nhân thân giáo ái; khôn
nguyên khởi hóa, do gia cập quốc. Thông Tây, Bắc chi sính, nhi lân bang chi hảo
vĩnh cố tuất Lê Trịnh chi hậu, nhi thắng quốc chi tự bất phế. Kỳ dụng binh chi
cửu, thu hiệu chi đại, thủ thành chi tận thiện tận mỹ, đãi phi giản sách sở năng
đàn thuật.Ô hô! thịnh tai! ngã Hoàng khảo chi công mạc đức biểu biểu tại nhân
như nhật nguyệt chi bất khả yểm. Thần, tiểu tử, phụng toản kỳ đại lược, lặc vi
thánh đức thần công bi, thị văn tử văn tôn thế thế chiêm ngưỡng; hàm tri đề cấu
chi bất dịch, tư phụ hạ chi duy gian. Ư dĩ bằng tạ trì tuần, thứ đáp dương ngã
Hoàng khảo chi quang huấn, nhi diên tông xã ức vạn niên vô cương chi nghiệp.
Thời Minh Mệnh nguyên niên thất nguyệt Bính thìn nhật dã, cẩn bái thủ khể thủ
nhi vi chi minh viết:
Công đức kiêm long Ô mục duy thiên
Phu hựu hạ dân Thủy chung toàn mỹ
Ô hoàng duy thánh Thánh nhân vi thế
Chửng nịch hanh đồn Điển tắc thượng di
Tử sắc oa thanh Canh tường tại mộng
Khởi mệnh chi vận Điếu thạch hưng bi
Đế vị thánh nhân Cố chiêm cảnh sơn
Dụng điển quyết uấn Diên hoài phong thủy
Vương sư sở chí Kính lặc sùng hồng
Như lôi như đình Vĩnh chiêu lai duệ
Tội nhân ký đắc Hưởng chi bảo chi
Đại cáo vũ thành Hữu diệp kỳ quang
Nhất thập bát niên Điện ngã hoàng việt
Ngưng đồ bảo trị Dữ thiên vô cương
Hiếu tử tự Hoàng đế, thần Hạo cẩn chí
2.2.3. Dịch nghĩa
43
Ngự chế (1) bài văn bia ghi đức thánh công thần (2)*
Năm thứ 13 niên hiệu Gia Long, năm Giáp tuất (3) có sắc ban cho xây
dựng sơn lăng (4) Thiên Thụ, bên phía hữu cất di hài (5) Hoàng tỷ Cao hoàng
hậu (6), bên phía tả để Thọ lăng (7). Hai mộ dù khác nhau nhưng cùng chung
một lăng vì lấy nghĩa càn khôn hợp đức (8).
Qua ngày đinh vị tháng 12 năm thứ mười tám (9), năm Kỉ mão, Hoàng
khảo (10) thăng hà (11), hưởng thọ năm mươi tám tuổi, để di chiếu (12) cho thần
lên nối ngôi hoàng đế. Thần (13) ẩn náu trong nhà dực thất (14), chịu tang chế,
mặc tang phục. Về tang lễ, theo đúng lời dạy bảo của Hoàng khảo, dùng những
gấm thêu rất tốt đẹp nhưng không trang sức châu ngọc. Để xếp đặt việc lớn ấy,
dù thần phải dùng hết của cải trong bốn bể (15) cũng chưa dám cho là quá đáng
vậy.
Ngày Tân sửu tháng 4 năm Canh thìn (16), xong lễ sơn lăng (17). Thần
nhìn thấy những cây thông, cây tùng rậm rạp, đoái trông sông núi quây quần lại
tưởng nhớ đến đức thánh công thần của Hoàng khảo, từng làm vẻ vang tổ tiên,
mở mang bờ cõi, công nghiệp cao dày đã cùng cực, thật đáng sánh cùng Trời
Đất. Nhưng giống với vua Hoàng (18), vua Chuyên (19), không bền bỉ như chất
vàng đá; với vua Hoa (20), vua Huân (21) không sống lâu như cây kiều tùng
(22); Hoàng khảo đã xa chơi tiên cảnh khiến thần kêu khóc, níu lấy nhưng không
thể kịp. Vậy chỉ còn cách là thần kể lại những việc thiện mỹ, bày tỏ những công
nghiệp vĩ đại của Hoàng khảo, để chỉ bảo người đời sau nhớ đến muôn thuở, ngõ
hầu làm giảm bớt lòng bi thương vô cùng và bày tỏ đạo hiếu thảo vô tận của
thần.
Nay nhớ đến Thái tổ Hoàng đế ta (23) nền móng công nghiệp, các liệt
thánh kế tiếp nối nghiệp được hai trăm năm, chẳng khác gì cái nhà mới xây
tường mà chưa lợp mái, gỗ mới đẽo mà chưa quét sơn. Vậy nên trời xanh xét đến
người có đức, sinh ra Hoàng khảo ta. Thế Tổ Cao hoàng đế (24), bẩm thụ tư chất
thông minh, chí khí anh hùng. Từ hồi tuổi trẻ Hoàng khảo đã gặp nhiều điều lo
* Theo bản dịch của L.Cadiere trên tạp chí BAVH tập X năm 1923, trang 398-404.
lắng, mưu sự sống còn trong cảnh nguy vong. Dùng ba mũi tên thề diệt quân thù;
44
dấy một đạo binh quyết dẹp loạn nước. Trong khi cờ thúy hoa (25) nam tiến, cơ
đồ gặp nhiều lúc ngửa nghiêng. Dù thuận mệnh trời khác hẳn kẻ nghịch nhưng
quân ít không địch nổi giặc dòng. Lao đao trăm trận, chợt thắng chợt bại, xoay
xở một phương, vụt được vụt mất. Liền gửi đứa con tin đến nước Lãng Sa (26),
sau qua tạm trú ở thành Vọng Các (27); khác gì bão đen ẩn trong mưa mù, rồng
thần ẩn nấp dưới vực thẳm. Cầm cương ngựa, bầy tôi thường nhớ đến xã tắc Tần
triều (28); trông nghi vệ (29) phụ lão ngày mong thấy quan quân Hán thất (30);
lại tập hợp trung lương (31) dẫn quân về nước.
Đổ rượu xuống sông (32), quân sĩ đều hưởng phần ơn huệ; đội đá vá trời
(33), Hoàng khảo từng gặp cảnh gian lao. Làm bài thơ áo cừu rách nát (34), ba
quân cùng y phục tả tơi, nuốt cơm ngô nhiều lúc vội vàng, trăm lần bại không hề
nao núng.
Chính vì đức nhân đủ thấm vạn vật, đức hiếu đủ cảm thông thần thánh, tài
văn đủ cho dân chúng quy phục, tài võ đủ khiến hung đồ sợ hãi. Mưu người tính
đã hay, lòng trời giúp càng thuận: sông Tân Bình nước trong suốt cả tuần (35),
bể Cần Giờ buổi sáng dâng nước ngọt (36). Tài thần vũ không những chỉ có
riêng điềm hay mà tam linh (37) lại giúp sức để san bằng những hố sâu vực
thẳm. Vậy nên [rồng] vượt mây mù, [cá] qua sông cả, [ngựa] xăm xăm tiến tới,
thế mạnh nào ai dám đương. Tiếng vang đến đâu, sét ran gió cuốn, phá tan tổ cú,
bắt hết chim con. Diệt kẻ thù chẳng đội trời chung, cứu nước nhà thoát cơn bối
rối, đem lại vinh quang cho nước cũ, khôi phục toàn cõi Việt Nam. Thành công
rồi dựng nền bình trị, gương ngàn xưa rạng vẻ sáng ngời. Kể từ năm Giáp Ngọ
đến năm Nhâm Tuất trải việc binh trong 29 năm (38). Bắc từ Lạng Sơn, nam đến
Hà Tiên, mở đất rộng gồm 27 hạt. Kịp tới khi dựng nên sự nghiệp đế vương, đem
lại cảnh thái bình, đặt ra lễ nhạc hình chính, có đủ điển chương pháp độ (39).
Cung Trường Thọ (40) thuận theo ý mẹ, đem đạo hiếu dạy bảo thần dân; cung
Khôn nguyên (41) giáo hóa vợ con, từ việc nhà suy ra việc nước. Giao hiếu với
phương Tây, phương Bắc khiến tình thân thiện được bền vững giữa các lân bang
(42). Thương xót con cháu họ Lê họ Trịnh, để việc phụng thờ của hai dòng họ kia
không bỏ mất. Nói đến những việc dùng binh khá lâu dài, thu được hiệu quả rất
to lớn, thành công rất tốt đẹp, thật không sách nào có thể ghi chép cho hết được.
45
Than ôi! Công đức cao dày của Hoàng khảo ta, rõ rệt trong nhân quần như
mặt trăng, mặt trời, không ai có thể che lấp được.
Thần, tiểu tử (43), biên tập đại lược những công đức ấy, khắc thành bia đức
thánh công thần, khiến con cháu đời này qua đời khác được chiêm ngưỡng, hết
thảy biết việc xây dựng cơ nghiệp không phải dễ dàng, nghĩ đến việc gánh vác
trách nhiệm rất khó nhọc, sẽ nhờ cậy cùng tuân theo đó, mở mang di nghiệp
không bờ bến trong ức muôn năm của tông miếu xã tắc, để đáp lại lời dạy bảo
của Hoàng khảo ta.
Làm văn bia ngày Bính thìn tháng 7 năm đầu niên hiệu Minh Mệnh (44),
thần kính lạy, rập đầu, làm bài minh rằng:
Ôi!chỉ có trời cao vòi vọi,
Giúp dân lành khắp cõi trần gian.
Công lớn thay! đức Thánh Hoàng
Cứu người đắm đuối, phá tan hiểm nghèo.
Tía thắng đỏ, ếch kêu inh ỏi.(45)
Khác gì quân quấy rối gặp thời,
Thánh nhân vâng chịu mệnh trời,
Diệt trừ hung bạo, mới nguôi căm thù.
Vương sư (46) đến như cơn sấm sét,
Trên dưới đều lẫm liệt oai phong.
Tội nhân nay đã dẹp xong,
Gần xa nức tiếng vũ công đại thành (47)
Mười tám năm trị bình toàn quốc,
Định dư đồ giữ nước yên dân,
Sáng ngời công đức thánh nhân,
Trước sau tốt đẹp muôn phần vẹn thay.
Ôi! Hoàng khảo sau ngày vi thế (48),
Phép tắc còn lưu để làm gương,
Giống vua Ngu Thuấn nhớ thương,
Thấy vua Nghiêu ở bên tường trong canh (49)
46
Tôi trông thấy những hình quân thạch (50)
Lòng càng thêm kích thích đau thương
Cảnh sơn (51) nêu đức vua Thang,
Đông phong quyến luyến Văn vương lâu dài (52).
Nay kính cẩn khắc bài bi kí,
Ghi công lao cao quý thánh nhân,
Sáng soi con cháu xa gần,
Phụng thờ tiên tổ nhớ ân cao dày.
Gần xã tắc ngày ngày tươi sáng,
Khiến nhân dân thịnh vượng bình yên,
Việt Nam muôn thuở vững bền,
Khác gì trời đất miên diên (53) không cùng
Hoàng tử nối ngôi hoàng đế, thần Hạo (54) kính cẩn chép.
CHÚ THÍCH:
(1) Ngự chế: do vua làm ra
(2) Làm xong bài văn bia ngày Bính thìn tháng 7 năm đầu niên hiệu Minh
Mạng (10-8-1820) nhưng đến ngày Ất tỵ tháng 8 năm ấy(18-9-1820) mới dựng
bia tại lăng vua Gia Long ở làng Đình Môn, quận Bảng Lảng, tỉnh Thừa Thiên.
(3) Tức năm 1811.
(4) Phần mộ của vua chúa.
(5) Di hài: hài cốt người chết.
(6) Hoàng tỷ: mẹ vua đã chết.
Cao hoàng hậu: tức Thừa Thiên Cao hoàng hậu, người làng Bùi Xá, huyện
Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, theo cha là quan Tả chưởng dinh Tống Phúc Khuông
vào ở đất Gia Định. Năm Mậu tuất 1778, chúa Nguyễn Ánh nạp làm nguyên phi.
Tháng 3 năm Canh tý 1780, bà sinh Hoàng tử Cảnh. Thừa Thiên Cao hoàng hậu
là vợ thứ nhất của vua Gia Long, đích mẫu của vua Minh Mạng. Thuận Thiên
Cao hoàng hậu là vợ thứ hai của vua Gia Long và là thân mẫu của vua Minh
Mạng, về sau cũng được hợp táng tại lăng Thiên Thụ.
(7) Thọ lăng: sinh phần của vua Gia Long.
47
(8) Càn khôn hợp đức: càn và khôn là hai quẻ trong kinh dịch biểu hiện cho
trời-đất, vợ -chồng, nam -nữ...Đây chỉ mộ song táng.
(9) Ngày 3-2-1820
(10) Hoàng khảo: vua cha đã chết
(11) Thăng hà: vua chết
(12) Di chiếu: tờ chiếu của vua đã chết.
(13) Thần: tiếng tự xưng của vua Minh Mạng đối với vua Gia Long.
(14) Dực thất: nhà làm ở bên trái hoàng cung để vua ở trong khi có tang
cha mẹ.
(15) Tứ hải: nghĩa bóng là khắp nước.
(16) Tức ngày 27-5-1820
(17) Xong lễ an táng vua Gia Long tại sơn lăng Thiên Thụ.
(18) Hoàng: hoàng đế họ Hiên Viên đã làm vua nước Trung Hoa trong 100
năm (2697-2596 trước tây lịch kỉ nguyên).
(19) Chuyên: Chuyên Húc, cháu vua Hoàng đế, làm vua nước Trung Hoa
trong 78 năm (2513 trước tây lịch kỉ nguyên).
(20) Hoa: Trùng Hoa, tên vua Ngu Thuấn đã làm vua Trung Hoa trong 18
năm (2255 trước tây lịch kỉ nguyên) do vua Nghiêu truyền ngôi cho.
(21) Huân: Phóng Huân, tên vua Đường Nghiêu làm vua Trung Hoa trong
100 năm (2356 trước tây lịch kỉ nguyên).
(22) Kiều tùng :cây tùng cao lớn sống rất lâu.Trong sách “sự loại phú” do
ông Ngô Thục đời Tống soạn gồm 30 quyển, mỗi bài phú có một đề riêng như
trời, đất, cây cỏ, muông thú...Trong đó có câu: mỹ bỉ kiều tùng, mạo tư sương
tuyết 美 彼 喬 松 冒 玆 雪 霜 cây tùng tốt đẹp kia, dãi dầu sương tuyết ấy.
(23) Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng tức chúa Tiên (1525-1613) về sau
vua Gia Long truy tôn miếu hiệu: Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế.
(24) Thế Tổ Cao hoàng đế: miếu hiệu của vua Gia Long (1802-1820)
(25) Thúy hoa: cờ vua có cắm lông chim trả màu xanh
(26) Năm 1784, Nguyễn Phúc Ánh ủy giám mục Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau
de Béhaine) (1741-1799) đem hoàng tử Cảnh qua Pháp xin cầu viện.
(27) Năm 1785, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm ở Mỹ
48
Tho. Chúa Nguyễn Phúc Ánh sang tạm trú ở thành Vọng Các (Băng Cốc).
(28) Trong đời nhà Tấn, nước Trung Hoa thường bị nội loạn, ngoại xâm.
Năm 312, vua Tấn Hoài Đế (307-312) bị giặc Hung Nô bắt, những trung thần
như Lưu Côn, Tổ Dịch thường nhớ đến xã tắc nhà Tấn, quyết tâm phục quốc.
(29) Nghi vệ: những đồ nghi trượng và vệ binh của các vua quan.
(30) Vua Hán Quang Vũ (25-57) tức Lưu Tú khi còn làm nguyên soái đem
quân đánh giặc Vương Mãng, được nhân dân tín phục. Những người phụ lão
ngày đêm mong được thấy nghi vệ của vua quan nhà Hán.
(31) Trung lương: những người trung thành và lương thiện.
(32) Trong sách Văn tuyển, Hoàng Thạch Công chép rằng: “Lưu Hoằng
đời nhà Tấn đổ rượu xuống sông để quân sĩ múc nước sông cùng uống. Ôi! Đổ
rượu xuống sông chẳng có mùi gì nhưng quân sĩ cảm động vì đều được hưởng
phần ơn huệ nên đã liều chết đánh giặc”.
(33) Sách Từ nguyên chép rằng: bà Nữ Oa (em gái vua Phục Hy, năm
4480 trước tây lịch kỉ nguyên) luyện đá năm sắc để vá trời. Về sau, người nào
làm những công việc rất to lớn, khó khăn như vãn hồi thế cuộc đều ví như
muốn luyện đá (hoặc đội đá) để vá trời.
(34) Bài thơ Thức vi 式 微 (suy lắm), phong dao nước Bội trong Kinh thi,
quyển 1 có những câu như:
Hồ cừu mông nhung 狐 裘 蒙 戎
Phỉ xa bất đông 匪 車 不 東
Thúc hề!bá hề 叔 兮 伯 兮
Mỹ sở dữ đồng 靡 所 與 同
Nghĩa là: Áo cừu đã rách tả tơi,
Nhưng xe không thể không dời về đông
Chú bác dù chẳng một lòng,
Ta về cứu nước cũng không ngại gì.
Nguyên quan đại phu nước Lê (đời nhà Chu) là Hồ Thương, gặp khi nước
có loạn phải chạy ra nước ngoài, lâu ngày áo cừu đã rách nát. Khi cưỡi xe trở về
49
đông để cứu nước, chú bác trong nhà vẫn chưa đồng tâm nên làm bài thơ trên cho
quân sĩ hát.
(35) Đại nam thực lục quyển 1, trang 35 chép: bát nguyệt Kỷ dậu, khắc
phục Gia Định...Ngưu Chử hà thanh tam nhật (tháng 8 năm Kỷ dậu 1789, chúa
Nguyễn Phúc Ánh khôi phục thành Gia Định...nước sông Bến Nghé trong ba
ngày).
(36) Đại nam thực lục quyển 1 trang 18 chép: ngự chu trương phàm vọng
đông nhi khứ...vọng kiến thủy diện hắc bạch phân lưu, thanh thủy dũng xuất; chu
trung nhất nhân thường nhi cam yên. Đế hỷ, lệnh cấp tứ ngũ đàm nhi hãi hàm
như cố dĩ. (Năm Quý mão 1783, thuyền ngự của chúa Nguyễn Phúc Ánh giương
buồm đi về hướng đông, thấy mặt nước chảy chia ra hai dòng trắng đen, dòng
nước trong vọt lên. Trong thuyền có người nếm thấy nước ngọt. Vua mừng, sai
múc 4,5 chum. Nước bể lại mặn như cũ.)
(37) Tam linh: là trời, đất và người.
(38) Năm Giáp ngọ (1774), tướng nhà Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đánh lấy
thành Phú Xuân, chúa Nguyễn Định Vương cùng cháu là Nguyễn Phúc Ánh chạy
vào Gia Định mưu đồ khôi phục.
(39) Năm Nhâm tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh trở về kinh đô Phú Xuân,
đem vua tôi nhà Tây Sơn làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi đem xử tử tại
pháp trường. Cũng trong năm ấy, Ngài đặt niên hiệu là Gia Long và quốc hiệu là
Việt Nam.
(40) Điển chương pháp độ: phép tắc, hiến chương, pháp luật và chế độ.
(41) Cung Trường Thọ: nhà ở của bà Quốc mẫu Vương thái phi (mẹ của vua Gia
Long)
(42) Cung Khôn Nguyên: nhà ở của vợ vua Gia Long.
(43) Tiểu tử: con nhỏ, tiếng khiêm tốn của vua Minh Mạng dùng để tự
xưng đối với vua Gia Long.
(44) Ngày 10-8-1820.
(45) Tử sắc oa thanh: sắc tía cướp sắc đỏ, tiếng loài ếch nhái ồn ào át các tiếng
khác; cũng như trong đời loạn, quân tà ngụy thắng người trung chính.
(46) Vương sư: quân của vua Chu Vũ Vương đi đánh vua Trụ tàn bạo, gọi
50
là vương sư. Về sau, người ta gọi đội quân của nhà vua là vương sư.
(47) Vũ công đại thành: việc dùng vũ lực đã thành công lớn.
(48) Vi thế: lìa cõi đời.
(49) Bên tường trong canh: vua Thuấn được vua Nghiêu truyền ngôi cho.
Sau khi vua Nghiêu mất, vua Thuấn rất thương nhớ, khi ngồi tưởng tượng thấy
vua Nghiêu ở bên bức tường, khi ăn thấy bóng vua Nghiêu ở trong bát canh.
(50) Quân thạch: những đồ dùng làm đơn vị đo lường, 30 cân là một quân,
4 quân là một thạch. Quân thạch là những đồ khuôn mẫu để lập đức tin trong dân
chúng.
(51) Cảnh sơn: ngọn núi cao ở phía đông nam huyện Văn Lũy, tỉnh Sơn Tây
(Trung Hoa), còn gọi là Thang Vương sơn, trên có miếu thờ vua Thang là vị thánh
quân, thủy tổ nhà Thương (1766-1122 trước tây lịch kỉ nguyên).
(52) Phong thủy: con sông chảy qua kinh đô cũ (Phong đô) của vua Văn
Vương.
(53) Miên diên: lâu dài không dứt
(54) Hạo: tên húy vua Minh Mạng, tên tục từ nhỏ là Đảm, miếu hiệu là
Thánh Tổ Nhân Hoàng đế.
2.3. Văn bia lăng Minh Mạng
2.3.1. Nguyên văn chữ Hán
御 製 聖 德 神 功 碑 記
皇 天 眷 祐 我 大 南 篤 生 神 聖 引 引 翼 翼 於 億 千 萬 世 肇
祖 靖 皇 帝 清 省 發 祥 太 祖 嘉 裕 皇 帝 肇 基 南 服 八 宗 相
傳 誕 受 既 固 暨 我 皇 祖 世 祖 高 皇 帝 承 國 步 之 中 微 應 天
心 之 大 啟 寰 瀛 仰 德 雨 夏 戴 功 夫 當 黎 袟 告 終 偽 西 僣 竊
之 際 乾 綱 既 解 坤 維 告 缺 川 瀆 橫 氾 無 所 歸 會 我 皇 祖
挾 日 月 而 掃 欃 槍 握 靈 符 而 登 寶 袟 肇 修 人 紀 整 齊 二 儀
天 地 以 位 萬 物 以 育 然 自 非 仁 聖 世 出 綏 永 命 于 重 新 振
51
宏 綱 于 再 造 其 何 以 光 前 烈 而 遺 後 嗣 者 哉 我 皇 考 聖 祖
體 天 昌 運 至 孝 純 德 文 武 明 斷 創 述 大 成 厚 澤 豊 功 仁 皇
帝 皇 祖 世 祖 高 皇 帝 之 第 四 子 也 聖 祖 母 仁 宣 慈 慶 太 皇
太 后 以 辛 亥 年 四 月 二 十 三 日 已 酉 時 誕 生 於 嘉 定 之 新
祿 是 時 皇 祖 始 返 旆 于 南 十 有 二 年 進 克 富 春 席 卷 龍 編
遂 復 舊 物 奄 有 天 下 我 皇 考 晨 夕 左 右 踐 履 山 川 歷 艱 難
於 戡 撥 體 憂 勤 於 守 成 凡 事 會 之 卒 應 庶 政 之 圖 回 物 隱
民 情 靡 不 暸 然 洞 悉 諸 艱 歷 識 簡 在 帝 心 一 中 授 受 克 享
天 祿 其 於 社 稷 至 計 久 已 默 有 注 定 矣 嘉 隆 十 五 年 冊 立
為 皇 太 子 時 嘉 定 河 清 上 下 數 百 餘 里 十 八 年 遵 奉 遺 詔
嗣 承 大 統 聖 人 出 治 早 應 嘉 徵 皇 考 以 三 十 陟 帝 位 躬 上
聖 之 姿 撫 盈 成 之 業 聰 明 睿 智 赫 然 有 為 運 量 一 心 彌 綸
萬 化 宅 位 六 載 嘉 定 河 復 清 又 安 獻 瑞 穀 一 稃 二 米 越 九
年 廣 治 得 萬 壽 無 疆 玉 璽 徵 應 不 一 而 足 迺 聖 懷 撝 挹 不
以 符 瑞 自 侈 親 諭 中 外 臣 民 有 曰 朕 宵 衣 旰 食 廑 求 上 理
若 使 百 執 盡 皆 賢 良 人 民 咸 樂 案 堵 河 流 順 軌 年 穀 屢 豐
則 何 瑞 如 之 基 命 宥 密 蓋 如 此 在 御 二 十 一 年 之 間 敬 天
法 祖 勤 政 愛 民 常 如 一 日 若 其 制 治 保 邦 立 經 陳 紀 規 模
廣 大 品 節 周 詳 事 事 皆 有 成 法 祀 天 地 于 南 郊 而 昭 事 之
禮 明 奉 二 祖 以 配 天 而 美 報 之 義 著 籩 豆 筐 篚 袞 晚 龍
52
旂 大 略 玉 戚 朱 干 飾 以 羽 旄 從 以 簫 管 會 虞 夏 商 周 之 典
具 咸 英 韶 護 之 音 禮 備 樂 和 於 斯 為 盛 肇 建 世 廟 以 明 正
統 始 鑄 九 鼎 以 象 成 功 開 吏 修 寶 錄 求 遺 事 補 闕 文 而 大
聖 人 之 道 德 風 烈 之 盛 昭 揭 日 星 長 垂 世 法 天 性 至 孝 歡
奉 慈 寧 出 則 前 導 安 入 則 跪 進 甘 旨 養 以 天 下 備 極 情 文
崇 上 徽 稱 優 隆 禮 數 聖 壽 六 旬 七 旬 大 慶 節 舉 行 盛 典 合
中 外 億 兆 之 歡 心 以 供 孝 奉 天 家 樂 事 自 古 罕 聞 一 孝 之
推 本 於 親 親 而 達 乎 普 率 帝 系 藩 系 以 正 本 支 玉 譜 宗 譜
以 明 世 次 宗 人 府 以 治 政 集 善 堂 以 崇 教 定 文 武 職 制 辨
冠 服 章 采 正 朝 廷 也 作 官 箴 敬 于 有 位 嚴 黨 禁 諭 于 庶
司 正 百 官 也 旌 孝 順 表 節 義 禮 高 年 舉 力 田 又 親 製 訓 條
頒 行 州 里 使 之 家 傳 而 戶 誦 習 熟 禮 義 其 有 關 於 風 俗 教
化 夫 豈 小 哉 內 則 錯 之 以 六 部 綜 之 以 內 閣 機 密 院 以 慎
司 樞 要 都 察 院 以 糾 正 官 方 而 諭 定 內 閣 只 設 三 品 官 機
密 特 簡 派 大 臣 兼 領 都 察 不 得 接 外 官 移 文 所 以 防 微 杜
漸 為 後 世 慮 既 深 且 遠 矣 外 則 省 營 鎮 二 城 而 設 為 三
十 二 直 省 布 按 董 其 事 督 撫 會 其 成 有 監 臨 之 權 無 專 重
之 勢 而 又 三 年 以 計 吏 五 以 民 田 制 有 一 定 之 則 兵 政
有 通 行 之 道 城 郭 關 汍 之 有 其 度 屯 堡 戌 守 之 有 其 規 輕
重 相 制 大 小 相 維 曲 折 精 微 至 纖 至 悉 其 崇 文 也 斧 藻
53
琢 磨 風 會 日 振 典 藉 欽 定 以 明 正 學 詩 書 頒 布 以 惠 士 林
府 縣 莫 不 有 學 鄉 會 間 以 歲 貢 正 字 畫 而 苟 且 之 風 變 釐
文 式 而 固 陋 之 習 除 文 治 昭 回 燦 然 奎 璧 恭 讀 御 製 詩 六
集 御 製 文 二 集 鏗 乎 典 謨 訓 誥 之 音 煥 乎 雅 頌 治 平 之
文 教 大 興 士 風 否 振 天 下 學 者 知 有 圖 藉 典 墳 之 富 文 章
性 命 之 淵 皆 自 上 有 以 鼓 舞 作 成 之 也 其 講 武 也 躬 親 觭
射 講 以 辰 時 撫 循 士 卒 訓 練 有 素 一 凡 營 法 陣 法 以 至
步 戰 水 戰 日 常 操 演 咸 精 其 能 曩 者 黎 孽 首 禍 於 寧 清 黎
逆 卒 變 於 藩 安 高 宣 地 方 土 匪 蠢 勤 安 河 一 帶 暹 寇 來
擾 於 是 命 將 出 師 指 授 方 略 神 謨 睿 算 出 人 意 表 皇 靈 震
薄 天 討 遞 加 左 顧 右 海 沸 山 搖 靡 堅 不 摧 靡 險 不 破 凶
渠 授 首 大 勳 用 集 開 土 拓 遠 極 北 窮 南 幅 員 之 廣 從 古 莫
及 威 令 暢 乎 海 表 聲 靈 振 乎 絕 域 蓋 平 日 有 禮 法 以 治 軍
有 明 斷 以 制 勝 所 以 成 功 速 而 收 效 大 也 若 夫 待 遇 臣 下
曲 加 恩 禮 器 使 群 才 各 得 其 用 有 善 無 微 而 不 錄 有 功
雖 遠 而 弗 遺 抱 滕 榮 施 視 臣 猶 子 分 茅 厚 錫 與 國 同 庥 且
又 光 顯 其 父 母 蔭 錄 其 子 孫 策 勳 邦 國 者 從 祀 於 廟 庭 立
功 疆 場 者 建 碑 於 武 廟 其 仁 義 忠 厚 之 風 超 越 前 古 而 於
惠 養 斯 民 一 事 尤 加 意 焉 耕 藉 養 蠶 以 重 農 桑 之 本 蠲 租
減 稅 以 厚 烝 民 之 生 居 常 則 較 雨 課 晴 行 幸 則 省 風 訓
54
俗 一 有 水 旱 疾 疫 即 發 粟 米 湯 藥 錢 布 以 賑 卹 之 曾 不
靳 費 嘗 於 宮 中 密 禱 為 萬 民 請 命 立 見 轉 災 為 祥 乃 知
愛 民 之 誠 信 天 有 素 也 故 天 下 之 民 老 有 所 養 貧 有 所 濟
自 無 一 人 不 被 其 澤 凡 諸 死 罪 錄 案 奏 聞 親 手 披 覽 又 付
諸 公 議 五 覆 奏 留 獄 歲 斷 定 讞 於 法 司 詳 覆 於 廷 審 比 來
死 囚 寬 減 甚 眾 惠 心 美 政 弘 益 無 方 培 生 靈 之 命 壽 國
家 之 元 氣 久 道 化 成 和 風 翔 洽 美 利 龐 鴻 萬 祥 悉 至 河
安 海 靜 時 和 年 豐 獄 訟 止 息 竊 盜 不 作 渾 渾 噩 噩 誠 已 臻
于 極 治 矣 猗 歟 盛 哉 蓋 其 兼 文 武 聖 神 之 廣 運 大 皇 王 帝
伯 之 鋪 舒 體 具 用 周 開 物 成 務 誠 足 以 通 萬 化 而 至 德 無
疑 行 勤 足 以 敕 萬 幾 而 天 下 無 留 事 億 千 萬 世 而 下 景
仰 剿 平 全 集 備 述 憂 勤 政 要 一 書 垂 示 典 則 足 見 功 與 天
齊 德 與 地 並 聖 人 盛 德 大 業 至 矣 美 矣 而 其 前 代 帝 王 尤
不 可 及 者 大 綱 至 正 家 法 甚 善 宮 侍 九 階 肅 如 朝 廷 無 貴
戚 之 專 無 近 習 之 寵 子 女 凡 百 四 十 二 人 至 德 氤 氳 螽
麟 萃 慶 近 符 皇 祖 遠 過 周 文 而 皆 晨 夕 教 訓 納 以 義 方 凜
遵 軌 度 君 君 臣 臣 父 父 子 子 夫 夫 婦 婦 兄 兄 弟 弟 有 以 奠
我 子 孫 黎 民 於 萬 萬 世 太 和 之 風 天 生 聖 人 以 為 斯 民 正
方 歌 頌 洪 庥 以 長 蒙 至 治 之 澤 明 命 二 十 一 年 四 月 正 值
皇 考 五 旬 大 慶 節 中 外 臣 庶 臚 歡 闕 下 小 子 侍 駕 歷 登 祝
55
假 諸 樓 深 喜 聖 懷 康 豫 壽 算 增 隆 是 年 十 二 月 十 九 日 猶
奉 親 謁 奉 先 殿 忌 時 禮 成 悲 述 數 日 間 違 和 詎 意 乃 以
是 月 二 十 八 日 乙 亥 時 奄 棄 天 下 嗚 呼 痛 哉 遺 命 小 子 嗣
皇 帝 位 嗣 統 以 來 恆 惟 艱 大 是 懼 哀 煢 在 疚 凡 事 必 敬 必
誠 爰 欽 遵 成 命 奉 營 吉 藏 于 安 憑 社 之 孝 山 以 紹 治 元 年
秋 七 月 初 九 日 戊 戌 時 奉 安 梓 宮 用 隧 禮 古 制 也 奉 尊 上
陵 號 曰 孝 陵 追 配 皇 妣 佐 天 儷 聖 端 正 恭 和 篤 慶 慈 徽 明
賢 順 德 仁 皇 后 玄 宅 曰 孝 東 陵 奉 聖 位 合 祀 于 崇 恩 殿 示
同 尊 也 嗚 呼 大 聖 人 之 功 之 德 非 小 子 所 能 殫 述 其 萬 一
顧 念 付 託 之 重 思 創 守 之 艱 謹 奉 表 其 至 德 大 行 勒 諸 貞
以 垂 示 來 世 云 時 紹 治 元 治 元 年 十 二 月 甲 午 日 也 謹 拜
手 稽 首 敘 而 銘 曰
赫 赫 大 南 於 穆 皇 考
皇 皇 天 祐 授 命 維 新
祖 肇 宗 培 以 聖 繼 聖
克 開 厥 後 成 憲 克 遵
世 祖 中 興 河 清 璽 出
奄 有 九 有 瑞 應 駢 臻
創 守 兩 兼 一 心 勤 敬
功 厚 德 茂 萬 化 彌 綸
56
袞 晚 儀 章 賢 不 遺 親
陶 匏 珪 幣 恩 義 周 浹
盡 志 盡 物 治 教 所 先
昭 事 上 帝 永 為 世 法
斟 酌 適 中 廣 開 言 路
式 崇 廟 制 澄 敘 官 方
寶 錄 纂 修 以 箴 以 規
昭 垂 奕 世 率 由 典 常
怡 愉 舜 慕 農 桑 正 本
歡 奉 慈 寧 風 俗 國 綱
霞 觴 計 節 皇 有 訓 彝
龍 袞 趨 庭 庶 民 近 光
合 萬 方 樂 授 職 設 官
媚 祝 遷 齡 分 疆 畫 省
顯 楊 大 孝 兵 制 田 功
四 海 式 型 吏 治 民 政
百 世 本 支 制 度 服 章
萬 年 普 牒 文 書 號 令
統 紀 昭 明 經 紀 悉 陳
銀 潢 慶 合 內 外 交 正
57
聖 學 淵 富 分 茅 錫 爵
屯 乎 粹 精 以 彰 有 功
詩 文 諸 作 榮 加 封 蔭
表 裏 六 經 恩 典 優 隆
賢 科 日 關 矜 育 萬 民
儒 教 風 行 食 饑 飲 渴
士 習 丕 變 養 老 賑 窮
文 治 大 亨 仁 膏 旁 達
坤 闔 乾 開 減 賦 蠲 征
威 靈 震 簿 慎 刑 止 殺
南 北 剿 平 寰 海 蒙 体
西 南 開 拓 咸 歌 利 樂
者 定 武 功 天 地 化 普
載 恢 遠 略 聖 人 功 全
改 土 歸 流 惟 其 不 息
化 行 蠻 貊 所 以 自 然
皇 猷 增 賁 明 效 成 法
聖 澤 龐 鴻 昭 晰 簡 編
待 臣 以 禮 爍 今 振 古
上 下 情 深 耀 後 光 前
58
嗟 余 小 子 綱 正 倫 明
紹 此 丕 基 德 該 福 備
廑 思 繼 述 螽 麟 集 祥
仰 副 洪 慈 百 四 十 二
追 敘 功 德 教 以 義 方
壽 之 豐 碑 和 感 交 萃
億 萬 斯 年 歷 代 帝 王
世 世 守 之 莫 與 之 比
孝 子 嗣 皇 帝 臣 謹 識
2.3.2. Phiên âm
Ngự chế thánh đức thần công bi kí
Hoàng thiên quyến hựu, ngã Đại Nam đốc sinh thần thánh, dẫn dẫn dực dực
ư ức thiên vạn thế. Triệu tổ Tĩnh hoàng đế Thanh tỉnh phát tường. Thái tổ Gia Dụ
Hoàng đế triệu cơ nam phục. Bát tông tương truyền đản thụ ký cố kí. Ngã Hoàng
tổ Thế tổ Cao hoàng đế thừa quốc bộ chi trung vi, ứng thiên tâm chi đại, khải
hoàn doanh ngưỡng đức vũ hạ đái công. Phù! Đương Lê dật cáo chung, Ngụy
Tây thế thiết chi tế, càn khôn cương kí giải, khôn duy cáo khuyết, xuyên độc
hoành phạm vô sở quy hội. Ngã Hoàng tổ hiệp nhật nguyệt nhi tảo sàm thương,
ác linh phù nhi đăng bảo, dật triệu tu nhân kỉ chỉnh tề nhị nghi. Thiên địa dĩ vị,
vạn vật dĩ dục, nhiên tự phi nhân thánh thế xuất, tuy vĩnh mệnh vu trọng tân,
chấn hoành cương vu tái tạo, kì hà dĩ quang tiền liệt nhi di hậu tự giả tai! Ngã
Hoàng khảo Thánh Tổ Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thuần Đức Văn Vũ
Minh Đoán Sáng Thuận Đại Thành Hậu Trạch Phong Công Nhân Hoàng Đế
Hoàng tổ Thế tổ Cao Hoàng đế chi đệ tứ tử dã. Thánh tổ mẫu Nhân Tuyên Từ
Khánh Thái hoàng thái hậu dĩ Tân hợi niên tứ nguyệt nhị thập tam nhật Kỉ dậu
59
thời, đản sinh ư Gia Định chi Tân Lộc thị thời. Hoàng tổ thủy phản bái vu nam.
Thập hữu nhị niên, tiến khắc Phú Xuân, tịch quyển Long Biên, toại phục cựu vật,
yêm hữu thiên hạ. Ngã Hoàng khảo thần tịch tả hữu, tiễn lí sơn xuyên, lịch gian
nan ư kham bát, thể ưu cần ư thủ thành. Phàm sự hội chi tốt ứng, thứ chính chi
đồ, hồi vật ẩn dân tình, mi bất liêu nhiên động tất. Chư gian lịch thức, giản tại đế
tâm nhất trung, thụ thụ khắc hưởng thiên lộc, kỳ ư xã tắc chí kế cửu dĩ mặc hữu
chú định hỹ. Gia Long thập ngũ niên, sách lập vi Hoàng Thái tử. Thời Gia Định
hà thanh thượng hạ số bách dư lí, thập bát niên tuân phụng di chiếu tự thừa đại
thống. Thánh nhân xuất trị, tảo ứng gia trưng. Hoàng khảo dĩ tam thập trắc đế vị,
cung thượng thánh chi tư, phủ doanh thành chi nghiệp, thông minh duệ trí, hách
nhiên hữu vi vận lượng nhất tâm, di luân vạn hóa trạch. Vị lục tái, Gia Định hà
phục thanh, Nghệ An hiến thụy cốc nhất phù nhị mễ; việt cửu niên, Quảng Trị
đắc vạn thọ vô cương ngọc tỉ. Vi ứng bất nhất nhi túc nãi thánh hoài, huy ấp bất
dĩ phù thụy tự xỉ, thân dụ trung ngoại thần dân hữu viết: “ Trẫm tiêu y cán thực,
cẩn cầu thượng lí, nhược sứ bách chấp tận giai hiền lương, nhân dân hàm lạc án,
đổ hà lưu thuận, quỹ niên cốc lũ phong tắc hà thụy như chi! Cơ mệnh hựu mật
cái như thử. Tại ngự nhị thập nhất niên chi gian, kính thiên pháp tổ, cần chính ái
dân, thường như nhất nhật. Nhược kỳ chế trị bảo bang, lập kinh trần kỉ, quy mô
quảng đại, phẩm tiết chu tường, sự sự giai hữu thành pháp, tự thiên địa vu Nam
Giao nhi chiêu sự chi; Lễ minh phụng nhị tổ dĩ phối thiên, nhi mĩ báo chi nghĩa.
Trứ, toản, đậu, khuông, phỉ, cổn vãn, phủ phất, long kỳ, đại lộ, ngọc thích, chu
can, sức dĩ vũ mao, tòng dĩ tiêu quản, hội Ngu Hạ Thương Chu chi điển, cụ hàm
anh thiều hộ chi âm. Lễ bị lạc hòa ư tư vi thịnh. Triệu kiến thế miếu, dĩ minh
chính thống; Thủy chú cửu đỉnh dĩ tượng thành công. Khai sứ quán, tu Thực lục
cầu di sự, bổ khuyết văn nhi đại thánh nhân chi đạo đức. Phong liệt chi thịnh
chiêu yết nhật tinh trường thùy thế pháp. Thiên tính chí hiếu, hoan phụng Từ
Ninh, xuất tắc tiền đạo an, nhập tắc quỵ tiến cam chỉ; Dưỡng dĩ thiên hạ bị cực,
tình văn sùng thượng huy xưng, ưu long lễ số. Thánh thọ lục tuần thất tuần đại
khánh tiết, cử hành thịnh điển, hợp trung ngoại ức triệu chi hoan tâm dĩ cung
hiếu phụng. Thiên gia lạc sự, tự cổ hãn văn. Nhất hiếu chi suy, bản ư thân thân
nhi đạt hồ! Phổ suất đế hệ phiên hệ dĩ chính bản chi, ngọc phổ dĩ minh thế thứ.
60
Tông nhân phủ dĩ trị chính. Tập thiện đường dĩ sùng giáo. Định văn vũ chức, chế
biện quan phục chương thái chính triều đình dã. Tác cung châm kính vu hữu vị,
nghiêm đảng cấm, dụ vu thứ tư, chính bách quan dã. Tinh hiếu thuận, biểu tiết
nghĩa, lễ cao niên, cử lực điền, hựu thân chế huấn điều ban hành châu lí, sứ chi
gia truyền nhi hộ thông tập thục lễ nghĩa. Kỳ hữu quan ư phong tục giáo hóa phù
khởi tiểu tai! Nội tắc thác chi dĩ lục bộ, tông chi dĩ nội các Cơ mật viện dĩ thận tư
xu yếu, Đô sát viện dĩ củ chính quan phương, nhi dụ định Nội các chỉ thiết tam
phẩm quan, cơ mật trì giản phái đại thần khiêm linh, Đô sát bất đắc tiếp ngoại
quan xỉ văn, sở dĩ phòng vi đỗ tiệm vi hậu thế lự kí thâm thả viễn hỹ. Ngoại tắc
tỉnh doanh trấn nhị thành nhi thiết vi tam thập nhị trực tỉnh, bố án đổng kỳ sự đô
phủ hội kỳ thành, hữu giám lâm chi quyền, vô chuyên trọng chi thế, nhi hựu tam
niên dĩ kế sứ, ngũ niên dĩ duyệt dân; Điền chế hữu nhất định chi tắc, binh chính
hữu thông hành chi đạo. Thành quách quan tấn chi hữu kỳ độ, đồn bảo thú thủ
chi hữu kỳ quy, khinh trọng tương chế, đại tiểu tương duy, khúc chiết tinh vi chí
tiêm chí tất. Kỳ sùng văn dã, phủ tảo trác ma phong hội nhật. Chấn điển tạ khâm
định dĩ minh chính học. Thi Thư ban bố dĩ huệ sĩ lâm. Phủ huyện mạc bất hữu
học, hương hội gian dĩ tuế cống chính tự hoạch (họa) nhi cẩu thả chi phong biến
ly văn thức nhi cố lậu chi tập, trừ văn trị chiêu hồi xán nhiên khuê bích. Cung
độc Ngự chế thi lục tập, Ngự chế văn nhị tập, khanh hồ điển mạc huấn cáo chi
âm, hoán hồ nhã tụng tri bình chi tích. Văn giáo đại hưng, sĩ phong phi chấn,
thiên hạ học giả tri hữu đồ tạ điển, phần chi phú văn chương tính mệnh chi uyên,
giai tự thượng hữu dĩ cổ vũ tác thành chi dã. Kỳ giảng vũ dã, cung thân ky xạ,
giảng duyệt dĩ thần thời, phủ tuần sĩ tốt, huấn luyện hữu sách, nhất phàm doanh
pháp trận pháp dĩ chí bộ chiến thủy chiến nhật thường thao diễn hàm tinh. Kỳ
năng nẵng giả lê tịch thủ họa ư ninh thanh. Lê nghịch tốt biến ư Phiên An Cao
Tuyên địa phương sĩ phỉ xuẩn động, An Hà nhất đái, Xiêm khấu lai nhiễu. Ư thị
mệnh tương xuất sư, chỉ thụ phương lược, thần mô duệ toán, xuất nhân ý biểu,
hoàng linh chấn bạc thiên, thảo cứ gia tả cố hữu hễ, hải phất sơn dao, mỵ kiên bất
đồi, mỵ hiểm bất phá, hung cự thụ thủ, đại huân dụng tập, khai thổ thác viễn cực
bắc cùng nam, bức viên chi quảng, tòng cổ mạc cập. Uy linh sướng hồ hải biểu,
thanh linh chấn hồ tuyệt vực. Cái bình nhật hữu lễ pháp dĩ trị quân, hữu minh
61
đoạn dĩ chế thắng, sở dĩ thành công tốc nhi thâu hiệu đại dã. Nhược phù đãi ngộ
thần hạ khúc, gia ân lễ khí, sự quần tài các đắc kỳ dụng; Hữu thiện, vô vi nhi bất
lục; Hữu công tuy viễn nhi phất di. Bão mạch vinh thi thị thần do tử; phân mao
hậu tích, dữ quốc đồng hưu. Thả hựu quang hiển kỳ phụ mẫu, âm lục kỳ tử tôn.
Sách huân bang quốc giả, tòng tự ư miếu đình. Lập công cương trường giả, kiến
bi ư vũ miếu. Kỳ nhân nghĩa trung hậu chi phong siêu việt tiền cổ, nhi ư huệ
dưỡng tư dân, nhất sự ưu gia ý yên. Canh tịch dưỡng tàm, dĩ trọng nông tang chi
bản; Quyên tô giảm thuế, dĩ hậu thừa dân chi sinh. Cư thường tắc giác vũ khóa
tình, hành hạnh tắc tỉnh phong huấn tục. Nhất hữu thủy hạn, tật độ, tức phát túc
mễ, thang dược, tiễn bố dĩ chẩn tuất chi, tăng bất cận phí. Thường ư cung trung
mật, đảo vi vạn dân thỉnh mệnh, lập kiến chuyển tai vi tường. Nãi tri ái dân chi
thành, tín thiên hữu tố dã. Cố thiên hạ chi dân lão hữu sở dưỡng, bần hữu sở tề,
tự vô nhất nhân bất bị kỳ trạch. Phàm chư tử tội lục án tấu văn, thân thủ phi
giám, hựu phó chư công nghị tam ngũ phúc tấu. Lưu ngục, tuế đoạn định nghiện
ư pháp tư, tường phúc ư đình thẩm. Tỉ lai, tử tù khoan hàm thậm chúng. Huệ tâm
mỹ, chính hoằng ích, vô phương bồi sinh linh chi mệnh vĩnh, thọ quốc gia chi
nguyên khí cửu. Đạo hóa thành hòa phong, tường hợp mỹ lợi, bàng hồng vạn
tường tất chí, hà an hải tĩnh, thời hòa niên phong, ngục tụng chỉ tức, thiết đạo bất
tác, hồn hồn ngạc ngạc thành dĩ trăn vu cực trị hỹ. Ô hô! thịnh tai! Cái kỳ kiêm
văn vũ thánh thần chi quảng vận đại hoàng vương đế bá chi phô thư thể câu dụng
chu. Khai vật thành vụ, thành túc dĩ thông vạn hóa nhi chí đức vô nghi hành. Cần
túc dĩ sắc vạn cơ nhi thiên hạ vô lưu sự. Ức thiên vạn thế nhi hạ cảnh ngưỡng
tiễu bình toàn tập bị thuật ưu cần, chính yếu nhất thư thùy thị điển tắc túc kiến
công dữ thiên, tề đức dữ địa tịnh thánh nhân thịnh đức đại nghiệp chí hỹ! mỹ hỹ!
Nhi kỳ tiền đại đế vương ưu bất khả cập, giả: đại cương chí chính gia pháp thậm
thiện, cung thị cửu giai, túc như triều đình, vô quý thích chi chuyên, vô cận tập
chi sủng. Tử nữ phàm bách tứ thập nhị nhân, chí đức nhân uân chung lân tụy
khánh, cận phù hoàng tổ, viễn quá Chu văn nhi giai thần tịch giáo huấn, nạp dĩ
nghĩa phương lẫm tuân quỹ độ. Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử, phu phu,
phụ phụ, huynh huynh, đệ đệ hữu dĩ điện ngã tử tôn lê dân ư vạn vạn thế thái hòa
chi phong thiên sinh thánh nhân dĩ vi tư dân chính phương ca tụng hồng hưu dĩ
62
trường mông chí trị chi trạch. Minh Mệnh nhị thập nhất niên tứ nguyệt chính trị
Hoàng khảo ngũ tuần đại khánh tiết, trung ngoại thần thứ lư hoan khuyết hạ. Tiểu
tử thị giá, lịch đăng chúc hạ chư lâu, thâm hỉ thánh hoài khang dự thọ toán tăng
long, thị niên thập nhị nguyệt thập cửu nhật, do phụng thân yết phụng tiên điện kị
thần; Lễ thành, bi thuật số nhật gian, vĩ hòa cự ý nãi dĩ thị nguyệt nhị thập bát
nhật Ất hợi thời, yêm khí thiên hạ. Ô hô! Thống tai! Di mệnh tiểu tử tự hoàng đế
vị tự thống. Dĩ lai, hằng duy gian đại, thị cụ ai quỳnh tại cứu, phàm sự tất kính tất
thành. Viên khâm tuân thành mệnh, phụng doanh cát tàng vu an bằng đỗ chi Hiếu
Sơn dĩ Thiệu Trị nguyên niên thu thất nguyệt sơ cửu nhật Mậu tuất thời, phụng
an tử cung, dụng toại lễ cổ chế dã. Phụng tôn thượng lăng hiệu viết: Hiếu Lăng.
Truy phối Hoàng tỷ Tá Thiên Lệ Thánh Đoan Chính Cung Hòa Đốc Khánh Từ
Huy Minh Hiền Thuận Đức Nhân Hoàng hậu, huyền trạch viết Hiếu Đông lăng,
phụng thánh vị hợp tự vu Sùng Ân điện, thị đồng tôn dã. Ô hô! đại thánh nhân
chi công chi đức, phi tiểu tử sở năng đạn thuật kỳ vạn nhất, cố niệm phó thác chi
trọng, tư sáng, thủ chi gian, cẩn phụng biểu kỳ chí đức đại hành cần, chư trinh
mân dĩ thùy thị lai thế vân. Thời Thiệu Trị nguyên niên thập nhị nguyệt Giáp ngọ
nhật dã. Cẩn bái thủ khể thủ tự nhi minh viết:
Hách hách đại nam Nhất tâm cần kính
Hoàng hoàng thiên hựu Vạn hóa di luân
Tổ triệu tông bồi Cổn vãn nghi chương
Khắc khai quyết hậu Đào bào khuê tệ
Thế tổ trung hưng Tận chí tận vật
Yêm hữu cửu hữu Chiêu sự thượng đế
Sáng thủ lưỡng kiêm Châm chước thích trung
Công hậu đức mậu Thức sùng miếu chế
Ư mục Hoàng khảo Bảo lục toản tu
Thụ mệnh duy tân Chiêu thùy dịch thế
Dĩ thánh kế thánh Di dụ thuấn mộ
Thành hiến khắc tuân Hoan phụng từ ninh
Hà thanh tỉ xuất Hạ thương kế tiết
Thụy ứng biền trăn Long cổn xu đình
63
Hợp vạn phương lạc Biểu lí lục kinh
Mị chúc thiên linh Hiền khoa nhật quan
Hiển dương đại hiếu Nho giáo phong hành
Tứ hải thức hình Sĩ tập phi biến
Bách thế bản chi Văn trị đại hanh
Vạn niên phổ điệp Khôn cái càn khai
Thống kỉ chiêu minh Uy linh chấn bộ
Ngân hoàng khánh hiệp Nam bắc tiễu bình
Hiền bất di thân Tây nam khai thác
Ân nghĩa chu tiếp Kì định vũ công
Trị giáo sở tiên Tái khôi viễn lược
Vĩnh vi thế pháp Kí thổ quy lưu
Quảng khai ngôn lộ Hóa hành man mạch
Trừng tự quan phương Hoàng du tăng bí
Dĩ châm dĩ quy Thánh trạch bàng hồng
Suất do điển thường Đãi thần dĩ lễ
Nông tang chính bản Thượng hạ tình thâm
Phong tục quốc cương Phân mao tích tước
Hoàng hữu huấn di Dĩ chương hữu công
Thế dân cận quang Vinh gia phong ấm
Thụ thức thiết quan Ân điển ưu long
Phân cương hoạch tỉnh Căng dục vạn dân
Binh chế điền công Thực cơ ẩm khát
Lại trị dân chính Dưỡng lão chẩn cung
Chế độ phục chương Nhân cao bàng đạt
Văn thư hiệu lệnh Giảm phú quyên chinh
Kinh kỉ tất trần Thận hình chỉ sát
Nội ngoại giao chính Hoàn hải mông hưu
Thánh học uyên phú Hàm ca lợi lạc
Thuần hồ túy tinh Thiên địa hóa phổ
Thi văn chư tác Thánh nhân công toàn
64
Duy kỳ bất tức Hòa hoặc giao tụy
Sở dĩ tự nhiên Lịch đại đế vương
Minh hiệu thành pháp Mạc dữ chi tỷ
Chiêu tích giản biên Ta dư tiểu tử
Thước kim chấn cổ Thiệu thử phi cơ
Diệu hậu quang tiền Cẩn tư kế thuật
Cương chính luân minh Ngưỡng phó hồng tư
Đức cai phúc bị Truy tự công đức
Chung lân tập tường Thọ chi phong bi
Bách tứ thập nhị Ức vạn tư niên
Giáo dĩ nghĩa phương
Hiếu tử tự hoàng đế thần Tuyền cẩn thức
2.3.3. Dịch nghĩa
Ngự chế bài văn bia ghi đức thánh công thần *
“Đấng hoàng thiên mến giúp nước Đại Nam ta, chung đúc sinh ra các bậc
thần thánh, nối tiếp tới ức muôn nghìn đời. Đức Triệu tổ Tĩnh hoàng đế, phát tích
ở tỉnh Thanh, đức Thái tổ Gia dụ hoàng đế gây nền ở cõi Nam, tám đời cùng
truyền chịu mệnh đã vững. Đến Hoàng tổ, Thế tổ Cao hoàng đế ta, nhân lúc vận
nước giữa vời suy sút, ứng với lòng trời mở vận, nước ngoài mến đức, khắp nước
đội công. Đương thuở ấy, vận nhà Lê đã hết, Tây Sơn cướp ngôi, trời đã long,
đất cũng lở, sông ngòi tràn ngập, không nơi dồn chứa ! Đức Hoàng tổ ta quét
sạch sao chổi, làm tỏ mặt Trời, mặt Trăng; nhận lấy điềm thiêng, lên giữ ngôi
báu. Sửa sang đạo của người, chỉnh đốn việc trời đất. Do thế, trời đất lại yên
định, vạn vật lại phát sinh. Nhưng nếu (sau đó) không có bậc nhân thánh ra đời,
giữ yên mệnh trời trong lúc làm mới thêm, chấn chỉnh mối lớn trong khi nối dựng
lại, thì lấy đâu làm rạng thêm công trước và để lại cho đời sau ?
Đức Hoàng khảo Thánh tổ Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thuần Đức
Văn Vũ Minh Đoán Sáng Thuật Đại Thành Hậu Trạch Phong Công Nhân Hoàng
đế ta là con thứ tư của Hoàng tổ, Thế tổ Cao hoàng đế. Thánh tổ mẫu, Nhân
* Theo bản dịch của Quốc sử quán triều Nguyễn trong Đại Nam thực lục (2007), NXB Giáo dục.
Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng Thái hậu, năm Tân Hợi, tháng 4, ngày 23, giờ Kỷ
65
dậu sinh ra Hoàng khảo ta ở đất Tân Lộc, tỉnh Gia Định. Lúc ấy Hoàng tổ mới
quay cờ về Nam, 12 năm sau, tiến lấy Phú Xuân, luôn tới Long Biên, thu phục
nghiệp cũ, gồm có cả thiên hạ. Hoàng khảo ta sớm tối theo bên cạnh, qua khắp
các núi sông, trải bao khó nhọc trong sự dẹp yên, lượng biết chăm lo sau khi giữ
nghiệp. Phàm gặp việc phải đối phó, mọi chính sự phải mưu toan, nỗi đau thư-
ơng của mọi người và tình trạng của dân gian, không điều gì là không biết rõ,
hiểu thấu. Qua những bước gian nan thử thách, theo đạo trung truyền nối, để h-
ưởng thụ lộc trời, [Hoàng khảo] đã được vua cha để lòng kén chọn, từ lâu đã
lặng lẽ định sẵn cái kế lớn cho xã tắc. Gia Long năm thứ 15 [1816], sách lập làm
Hoàng thái tử. Lúc ấy, nước sông Gia Định trở nên trong, trên dưới đến hơn mấy
trăm dặm. Năm thứ 18 [1819], tuân theo di chiếu, nối giữ nghiệp lớn. Thánh
nhân ra đời, sớm ứng điềm tốt : Hoàng khảo năm ấy 30 tuổi, lên ngôi vua, vốn có
tư chất bậc thượng thánh, giữ cơ nghiệp đã gây nên, thông minh nhanh nhẹn, tỏ
tài trị nước, vận dụng một lòng, tổ chức muôn việc. Ngài trị vì tới năm thứ 6
[1825], nước sông Gia Định lại trong, tỉnh Nghệ An dâng điềm tốt: mỗi hột lúa,
trong có 2 hột gạo. Năm thứ 9 [1828], tỉnh Quảng Trị tìm được ấn “Vạn thọ vô
cương” bằng ngọc của đời trước. Điềm lành không phải là ít, nhưng lòng vua
vẫn khiêm tốn, không tự cao vì những điềm quý đến. Lời thân dụ quan dân trong
ngoài có nói : “Trẫm dậy sớm ăn trưa, chỉ cầu cho được thịnh trị, vì khiến mọi
người giữ chức đều được hiền lương, nhân dân đều yên vui chỗ ở, nước sông
theo dòng chảy thuận, lúa thóc hằng năm luôn được mùa thì điềm tốt nào bằng
!”. Ngài nghĩ việc rộng rãi, kỹ càng đến như thế! Ở ngôi trong khoảng 21 năm,
kính ý trời, theo phép tổ, chăm việc, yên dân, ngày nào cũng như ngày nào. Về
công việc, đặt trị pháp, giữ đất nước, lập giềng, dựng mối, quy mô rộng rãi to
tát, phẩm tiết đầy đủ, rõ ràng, việc gì cũng có phép tắc. Tế trời đất ở Nam Giao,
đã rõ nghĩa kính thờ ; lễ Tam tổ phối hợp với trời, đã tỏ nghĩa báo đáp. Đồ tế lễ
có đủ biên (1), đậu (2), khuông, phỉ (3), áo mũ, phủ phất (4), đồ nghi vệ có đủ
long kỳ, đại lộ (5), ngọc thích, chu can (6). Trang sức có những đồ vũ, mao (7),
kèm theo có những tiếng tiêu quản (8) ; hợp điển lễ của các đời Ngu, Hạ, Thư-
ơng, Chu, đủ âm nhạc như những tiếng Hàm, Anh, Thiều, Hộ (9). Lễ đủ, nhạc
hoà, đến thế là thịnh. Lại dựng ra Thế miếu để tỏ rõ chính thống ; đúc ra chín
66
đỉnh để tượng trưng thành công. Mở Sử quán, soạn Thực lục, tìm sách cổ còn
sót, bổ những văn còn thiếu, làm cho đạo đức của thánh nhân thêm rộng lớn.
Giáo hoá, công nghiệp, nêu rõ như mặt trời, ngôi sao, để mãi cho đời sau theo
phép. Thiên tính ngài rất hiếu, vua hầu cung Từ Ninh, khi ra thì đón dẫn xe đi,
khi vào thì dâng tiến vật ngon ngọt ; nuôi bằng lộc nước, đủ mọi tình văn, kính
dâng tôn hiệu, đủ bậc lễ số. Gặp tiết Thánh thọ lục tuần, thất tuần đại khánh, thì
cử hành điển lễ long trọng, hợp ức triệu lòng vui của mọi người trong ngoài để
cung vào việc hiếu phụng : việc vui của nhà vua, từ xưa ít thấy. Một lòng hiếu
suy ra, gốc ở mến bậc thân mà đạt ra khắp cõi. Chia ra dòng đế, dòng thân phiên
để định rõ một ngành họ dọc ; làm ra Ngọc phả, Tôn phả để tỏ rõ thứ tự từng
đời. Đặt Tôn nhân phủ để làm công việc chính trị ; dựng Tập thiên đường để đôn
đốc việc dạy người. Định ra các chức văn, võ, chế ra mũ áo, triều phục đó là để
sửa chính triều đình. Làm bài quan châm răn người có ngôi, nghiêm cấm bè
đảng, dụ khắp các chức, đó là để sửa chính trăm quan. Nêu những người hiếu
thuận, khen những kẻ tiết nghĩa, kính lễ những người tuổi cao, biểu dương những
kẻ chăm làm ruộng. Lại thân chế ra những điều dạy dỗ, ban hành khắp các làng
mạc, để cho mọi nhà truyền tụng, tập quen lễ nghĩa. Có công về phong tục, giáo
hoá há phải là nhỏ sao ?
Về việc hành chính, [bên trong], dồn lại ở sáu bộ, tóm lại ở Nội các, có
viện Cơ mật để giữ kỹ then chốt, có viện Đô sát để sửa chữa các quan. Theo lời
dụ định thì : ở Nội các chỉ đặt quan tam phẩm, viện Cơ mật riêng chọn cắt đại
thần kiêm lĩnh, viện Đô sát không được tiếp nhận công văn của quan tỉnh ngoài
đưa vào. Đó là cách phòng giữ từ khi mọi việc chưa xảy, lo cho đời sau thật đã
sâu xa. Bên ngoài thì bỏ bớt doanh thành và trấn thành, mà đặt làm 33 trực tỉnh,
có Bố chính, án sát giữ mọi việc, Tổng đốc, Tuần phủ xem xét việc đã làm nên,
có quyền trông coi, không có thể chuyên trọng. Lại có lệ cứ 3 năm thì xét quan
lại, 5 năm thì duyệt nhân dân ; điền chế thì có phép tắc nhất định, binh chính thì
có đường lối thông thường. Những nơi thành, quách, quan, tấn, đều có chế độ
riêng, những chỗ đồn, bảo, thú, thủ đều có quy mô sẵn, hơn kém giữ lẫn nhau,
lớn nhỏ ràng buộc nhau. Mọi việc rõ ràng, tinh vi, hết sức kỹ lưỡng ! Về sự
chuộng văn học thì sửa sang, mài giũa, phong hội mới dần. Soạn định sách vở để
67
làm sáng tỏ chính học, ban bố Kinh Thi, Kinh Thư để gia ơn cho làng nho. Phủ,
huyện nào cũng có nhà học. Thi Hương, thi Hội xen kẽ từng năm mà tiến cống kẻ
sĩ. Đính chính lối chữ viết mà thói cẩu thả mất hẳn đi. Sửa định cách làm văn mà
lối quê mùa bỏ được hết. Văn tự sáng tỏ, rực rỡ như sao Khuê, sao Bích trên
trời.
Kính đọc 6 tập thơ ngự chế, 2 tập văn ngự chế ; sang sảng những tiếng hay
như Điển, Mô, Huấn, Cáo đời xưa, chói lọi những vết tốt như Nhã, Tụng trị bình
đời trước. Văn giáo rất mở mang, sĩ phong rất phấn chấn, làm cho thiên hạ được
biết nước ta có sự phong phú về sách vở, kinh điển, có nguồn gốc của văn ch-
ương tính mệnh, đều là bởi tự ngài cổ vũ, tác thành cho cả.
Về sự giảng võ thì thân hành cưỡi bắn, giảng duyệt có từng kỳ, vỗ về quân
sĩ, huấn luyện có định sẵn, phàm những phép kết doanh, bày trận cho đến bộ
chiến, thuỷ chiến ngày thường thao diễn đều tinh thạo cả.
Trước đây, đảng sót nhà Lê gây vạ ở Ninh, Thanh (10); tên giặc họ Lê gây
biến ở Phiên An (11), tại địa phương Cao, Tuyên, thổ phỉ quấy rối (12), tại một
dải An - Hà, quân Xiêm lấn sang (13). Ngài liền sai tướng ra quân, chỉ bảo ph-
ương lược, mưu thần chước giỏi, không ai nghĩ tới. Uy linh đã dậy vang, đánh
dẹp qua từng trận, bên này, bên nọ, biển sôi, núi lở, bền đến đâu cũng đập vỡ,
hiểm đến đâu cũng phá tan. Tướng giặc nộp mạng, công lớn được nên. Đất đai
mở xa tới cực Bắc, cùng Nam : bờ cõi rộng rãi, từ trước không có đời nào sánh
kịp. Uy lệnh đạt tới ngoài cõi, tiếng tăm lừng khắp nơi xa. Ấy thật vì ngày thường
có đủ lễ phép để trị các quân, có sự minh đoán để mưu chiến thắng, cho nên
thành công được chóng mà hiệu được to.
Về sự đãi ngộ bề tôi thì đủ ơn, lễ ; lựa dùng người tài, thì ai nấy đều được
thích hợp. Kẻ làm thiện, dù việc nhỏ đến đâu cũng ghi khen, kẻ có công, dù ở xa
đến đâu cũng được biết đến. Ôm gối thân mật, coi bề tôi như con; chia đất thư-
ởng phong, với nước cùng hưởng phúc. Lại còn cho vẻ vang tới cha mẹ, lục dụng
đến con cháu. Ai đã được ghi công vào Nhà nước thì cho phụ thờ ở miếu đình, ai
đã lập công ở cương trường thì cho dựng bia ở Vũ miếu; nhân nghĩa, trung hậu
vượt hẳn các đời xưa.
Về việc gia ơn, nuôi dân, lại càng để ý : cày tịch điền, nuôi tằm, để trọng
68
việc nông tang là gốc; miễn tô, bớt thuế để giúp dân thường sinh sống là đầu.
Ngày thường thì suy tính những kỳ mưa, nắng, đi đâu thì xét hỏi phong tục. Khi
có lụt, hạn, tật dịch, liền phát thóc gạo, thuốc thang, tiền, vải để chẩn cấp cho
dân, tuyệt nhiên không ngại phí. Ngài thường ở trong cung mật cầu trời đất: xin
cứu mạng cho muôn dân, sau đó, liền thấy chuyển tai vạ ra điềm tốt. Thế mới biết
lòng ngài thành thực yêu dân, lúc nào cũng tin tưởng ở trời. Cho nên dân trong
thiên hạ: người già được nuôi, người nghèo được giúp, không một người nào là
không được chịu ơn vua.
Về việc hình, phàm những án xử tử tâu lên, ngài thân mở coi, lại giao cho
các quan công đồng bàn bạc, tâu đi, tâu lại, đến dăm ba lần. Những tù lưu giam,
hằng năm đem xử thì đoán định ở Pháp ty, phúc kỹ ở đình thần hợp xét. Gần đây,
những tù bị xử tử được khoan giảm rất nhiều. Tấm lòng tốt, chính sự hay, bao
khắp không hẹp, bồi bổ mệnh mạch cho nhân dân, giữ mãi nguyên khí cho Nhà
nước. Đạo hoá nhuần lâu, trở thành thói tốt ; tung ra những sự vui đẹp, làm lợi
cho khắp mọi người. Điềm tốt, điềm lành hết thảy đưa đến, sông êm, bể lặng,
thời tiết thuận, năm được mùa, kiện tụng dẹp được hết, trộm cướp không xảy ra,
nhân dân thuần hậu, tự nhiên, thật đã tới chỗ thịnh trị cùng cực. Ôi ! Thịnh biết
chừng nào ! ấy cũng vì ngài có đức rộng xa gồm tài văn vũ, thánh thần, làm việc
to tát hơn cả Hoàng, Vương, Đế bá, bản thể đã vẹn đủ, công dụng càng chu đáo.
Khai thông mọi vật, giúp nên việc đời. Lòng thành đủ dung hoà vạn hoá mà bậc
thượng trí không còn việc gì phải nghi, siêng năng đủ chính lý vạn cơ mà trong
thiên hạ không còn việc gì để sót. Muôn ngàn đời sau được coi tới toàn tập “Tiễu
bình” (14)đã thuật đủ chăm lo, bộ sách “Chính yếu” (15)đã để lại phép tắc, đủ
thấy công đức của ngài ngang với trời đất. Đức thịnh và nghiệp lớn của thánh
nhân đến thế là cùng, là đẹp !
Còn có những điều mà các đế vương đời trước càng không thể bằng được,
là : Đại cương đặt ra rất chính, gia pháp đặt ra rất hay, chín cấp bậc trong
cung, nghiêm như chốn triều đình, không một người thân thích nào được chuyên
quyền, không một người gần gũi nào được riêng yêu. Con trai con gái tất cả có
142 người, nhờ ơn sinh, nuôi, sum họp đông đúc, so với gần thì giống như Hoàng
tổ, so với xa thì hơn hẳn Chu Văn. Sớm hôm dạy bảo, trau dồi lẽ phải điều hay,
69
ai nấy đều tuân theo phép tắc. Noi đạo vua, tôi, cha, con, vợ, chồng, anh em, có
thể dựng nên thói tục thái hoà cho con cháu và nhân dân ta đến hàng vạn đời.
Trời sinh bậc thánh để giúp cho dân, chính là lúc nên ca tụng phúc lớn để
đội ơn chí trị lâu dài. Năm Minh Mệnh thứ 21 [1840], tháng tư, chính gặp tiết
Ngũ tuần đại khánh của Hoàng khảo, thần dân trong ngoài vui vầy dưới cửa
cung khuyết. Kẻ tiểu tử (16) này theo hầu, lên các lầu chúc thọ, rất mừng ngài
được vui, mạnh, tuổi thọ thêm tăng. Ngày 19, tháng 12, năm ấy, còn theo ngài
thân đến điện Phụng Tiên lễ kỵ, làm lễ xong, thuật nỗi bi cảm. Trong khoảng vài
hôm sau, ngài se mình, ngờ đâu đến giờ Ất hợi, ngày 28, tháng ấy, ngài từ bỏ cõi
đời ! Than ôi, xót thay !
Vâng theo di mệnh, kẻ tiểu tử này nối ngôi hoàng đế. Từ lúc nối ngôi tới
nay, hằng sợ về công việc khó khăn, to tát ; trong lúc cư tang lo nghĩ, phàm gặp
việc tất phải một lòng thành, kính. Nay tuân theo thành mệnh, sửa lăng ở núi
Hiếu Sơn thuộc xã An Bằng, chọn giờ tuất, ngày mồng 9, tháng 7, mùa thu năm
Thiệu Trị thứ nhất [1841], kính rước linh cữu, theo lễ táng qua đường hầm như
chế độ đời xưa ; dâng đặt tên lăng là Hiếu lăng. Truy phối lăng đức Hoàng tỉ, Tá
Thiên Lệ Thánh Đoan Chính Cung Hoà Đốc Khánh Từ Huy Minh Hiền Thuận
Đức Nhân Hoàng hậu, gọi là lăng Hiếu Đông, kính rước thành vị hợp thờ ở điện
Sùng Ân, để tỏ lòng cùng tôn chuộng.
Than ôi ! Công đức của bậc đại thánh nhân, kẻ tiểu tử này không thể thuật
hết được một trong muôn phần, nhưng nghĩ đến việc phó thác rất hệ trọng, nhớ
đến công gây dựng, giữ gìn rất gian nan, xin kính cẩn nêu rõ những đức hạnh
cao cả, khắc vào bia đá để truyền lại đời sau.
Ngày 15, tháng 12, năm Thiệu Trị thứ nhất [1841], kính cẩn chắp tay, cúi
đầu, viết bài tự sự và làm bài minh rằng :
“Rực rỡ Đại Nam, Dựng, giữ gồm hai,
Trời giúp bền lâu. Công cao, đức rõ.
Tổ, tông gây, đắp. Vẻ vang Hoàng khảo,
Mở cho đời sau. Chịu mệnh, sửa sang ;
Thế tổ trung hưng, Thánh lại nối thánh,
Chín cõi gồm có, Noi đúng phép thường.
70
Sông trong (17), ấn ra (18), Noi theo nề nếp.
Điềm tốt đến cả, Nông tang gốc chính,
Siêng, kính một lòng, Phong tục, mối giềng.
Sắp đặt vạn hóa. Vua có lời dạy.
Áo mũ, nghi chương, Muôn dân noi gương.
Đào bào (19), khuê, tệ (20)… Trao chức, đặt quan,
Hết lòng sắp đủ, Chia cõi, đặt tỉnh,
Kính thờ thượng đế. Binh chế, điền công,
Châm chước đúng mực, Lại trị, dân chính.
Lễ miếu tôn sùng. Chế độ, phục chương (23).
Soạn sách Thực lục, Văn thư, hiệu lệnh,
Truyền làm gương chung. Mọi việc đặt đủ,
Sẵn lòng hiếu mộ, Trong ngoài rõ ràng.
Vui thờ Từ Ninh. Thánh học sâu, rộng,
Tiết thọ, dâng chén, Rất thuần, cực tinh !
Áo rồng, hầu sân. Thơ văn sáng tác,
Chung vui muôn phương, Như lời Lục kinh.
Tuổi tiên chúc thọ. Khoa thi mở dần,
Đại hiếu hiển dương (21) ! Đạo Nho rộng suốt,
Làm gương trăm họ. Sĩ phong đổi thay,
Trăm đời bản chi, Văn trị đẹp tốt !
Muôn năm phả điệp, Xoay chuyển trời đất,
Thống hệ rõ ràng, Uy linh lừng vang.
Họ hàng hoà hiệp. Nam, Bắc đánh dẹp,
Hiền, không nề họ (22) Tây, Nam mở mang.
Ơn nghĩa dồi dào. Vũ công định xong,
Trị giáo theo đó, Mưu xa rộng mở.
Làm phép đời sau. Đổi “thổ”, dùng “lưu” (24),
Rộng đường nói năng, Hoá tới miền rợ.
Dạy quan giữ phép, Đạo vua to tát,
Vừa khuyên vừa răn, Ơn vua rộng, sâu,
71
Lễ, đãi thần hạ, Sử sách chép rõ.
Cảm thông tình nhau. Chói lọi trước sau,
Đất phong, tước ban, Tỏ rạng kim cổ.
Nêu người công trạng. Cương, thường sáng tỏ,
Gia hàm, phong ấm, Phúc đức rộng dài.
Ơn điển long trọng. Con cái vui họp :
Thương, nuôi muôn dân : Trăm bốn mươi hai.
Khát, uống, đói, ăn, Dạy con điều hay,
Nuôi già, cứu khổ Hoà, cảm đều đủ.
Ơn thấm xa gần. Đế vương các đời,
Giảm thuế, tha sưu, Không thể cùng đọ.
Khoan hình, bớt giết. Nay ta, tiểu tử,
Khắp cõi nhờ ơn, Nối giữ cơ đồ,
Vui mừng, ca hát. Chăm lo kế thuật,
Trời đất hoá khắp, Để đáp ơn to.
Công thánh vẹn toàn, Công đức, truy bày,
Cũng vì không nghỉ, Ghi bia để lại.
Cho nên tự nhiên. Ức vạn năm sau,
Công nên, phép thành, Đời đời giữ mãi !”.
Hiếu tử nối ngôi hoàng đế thần Tuyền kính cẩn bày tỏ.
CHÚ THÍCH:
(1) Biên : cái mâm bồng đan bằng tre, có nắp đậy.
(2) Đậu : cái mâm bồng bằng gỗ, có nắp.
(3) Khuông : cái giỏ tre đan hình vuông. Phỉ : giỏ tre hình tròn (dùng đựng
hoa quả, bánh để tế).
(4) Phủ phất : đồ lễ phục (áo xiêm) có thêu.
(5) Long kỳ : cờ thêu rồng. Đại lộ : xe vua đi.
(6) Ngọc thích : cái phủ (búa dài cán), cán chạm ngọc. Chu can : Cái mộc
sơn đỏ.
(7) Vũ, mao : hai thứ đồ dùng trong khi múa, đầu kết bằng lông vũ, lông
72
đuôi trâu.
(8) Tiêu, quản : đồ nhạc : ống tiêu, ống sáo, v.v…
(9) Những khúc nhạc hay đời xưa: Hàm trì: nhạc của Hoàng đế. Ngũ anh:
nhạc của Đế Cố, Thiều: nhạc của vua Thuấn, Hộ: nhạc của vua Thang.
(10) Chỉ Lê Duy Lương nổi dậy ở Ninh Bình và Hưng Hoá năm Minh
Mệnh thứ 14 [1833].
(11) Chỉ Lê Văn Khôi nổi dậy ở Phiên An năm 1833
(12) Chỉ Nông Văn Vân nổi dậy ở Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên
và Lạng Sơn năm 1833.
(13) Chỉ giặc Xiêm chia quân làm năm đạo kéo sang xâm lấn vào năm 1833.
Các sự việc trên đây đều theo tài liệu trong bài tấu của Trương Đăng Quế đề ngày 27
tháng 6 nhuận, năm Minh Mệnh thứ 16 [1835] in ở đầu bộ Khâm định tiểu bình Lư-
ỡng kỳ nghịch phỉ, Chính biên (quyển thủ, quyển I, tờ 1b).
(14) Tức tập Tiễu bình Lưỡng kỳ nghịch phỉ phương lược.
(15) Tức bộ Minh Mệnh chính yếu.
(16) Lời vua Thiệu Trị tự xưng. Các chỗ dưới cũng thế.
(17) Chỉ sông Gia Định, năm 1816, nước trong.
(18) Chỉ ngọc ấn “Vạn thọ vô cương” do tỉnh Quảng Trị phát hiện.
(19) Đào bào : cái bầu bằng sành, dùng đựng rượu tế.
(20) Khuê : ngọc khuê. Tệ : lụa. Hai vật dùng để tế lễ.
(21) Ý nói Minh Mệnh là bậc rất hiếu, làm tỏ rạng tiếng tăm, vẻ vang cha
mẹ.
(22) Ý nói trong họ mà có người hiền tài, liền cất dùng, không bỏ sót.
(23) Phục chương : đồ phẩm phục.
(24) Lưu : tức là chức lưu quan, dùng người nơi khác đến thay thổ quan là
người địa phương.
2.4. Văn bia lăng Thiệu Trị
2.4.1. Nguyên văn chữ Hán
昌 陵 聖 德 神 功 碑
我 大 南 受 天 眷 席 蘿 圖 宇 宙 廣 陳 黎 風 會 振 雄 貉 粵 自 南
73
服 建 邦 積 功 累 仁 二 百 餘 載 暨 我 世 祖 高 皇 帝 經 綸 天 造
恢 廓 帝 紘 我 聖 祖 仁 皇 帝 潤 色 宏 猷 緝 熙 皇 祚 受 此 無 彊
大 歷 服 用 敷 遺 後 人 庥 鴻 惟 我 皇 考 憲 祖 章 皇 帝 統 承 二
祖 之 庥 烈 光 闡 重 熙 之 景 運 道 隆 繼 述 撰 合 清 寧 聖 神 功
德 暉 煥 穹 壤 眇 兹 小 子 曷 足 以 規 天 極 景 暾 輪 顧 性 親 受
付 扥 之 重 日 思 繼 字 之 艱 敬 用 譔 述 鴻 謨 鋪 揚 庥 爍 勒 之
貞 於 以 昭 垂 于 萬 萬 世 嗚 呼 痛 哉 我 皇 考 憲 祖 紹 天
隆 運 至 善 純 孝 寬 明 睿 斷 文 治 武 功 聖 哲 章 皇 帝 皇 祖
考 聖 祖 體 天 昌 運 至 孝 純 德 文 武 明 斷 創 述 大 成 厚 澤 豐
功 仁 皇 帝 長 子 也 皇 祖 妣 佐 天 儷 聖 端 正 恭 和 篤 慶 慈 徽
明 賢 順 德 仁 皇 后 以 嘉 隆 六 年 丁 卯 夏 五 月 十 一 日 壬 子
甲 辰 刻 誕 聖 躬 於 京 城 東 之 春 祿 邑 邸 聖 誕 十 有 三 日 仁
皇 后 僊 馭 升 遐 乃 赤 哀 天 發 孺 性 神 鐘 痛 嗄 哀 啼 淚 血 不
止 世 祖 高 皇 帝 特 奇 之 以 為 後 日 必 能 全 孝 既 月 抱 見 請
名 奉 親 手 御 批 以 日 字 部 欽 賜 蓋 密 有 及 昌 之 卜 矣 皇 考
聰 明 出 類 而 遜 志 敏 學 乾 東 養 止 聖 敬 日 躋 皇 祖 方 以 主
鬯 承 祧 為 念 特 標 大 學 止 於 至 善 一 語 命 之 皇 考 拜 賜 銘
恩 服 膺 至 教 爰 名 堂 曰 止 善 堂 自 號 止 善 主 人 會 神 于 明
新 契 道 于 精 一 聖 學 淵 源 蓋 有 所 自 也 明 命 十 一 年 冊 封
長 慶 公 十 七 年 奉 璽 書 首 攝 親 臺 絛 奏 議 定 章 程 正 譜 系
74
表 廉 能 親 睦 著 於 家 邦 仁 孝 聞 於 天 下 皇 祖 深 為 嘉 悅 眷
注 時 異 數 委 以 裁 决 幾 務 尤 稱 聖 心 社 稷 至 計 默 已 注
定 矣 二 十 一 年 庚 子 冬 十 二 月 二 十 八 日 恭 受 遺 命 越 明
年 辛 丑 正 月 二 十 日 即 皇 帝 位 建 元 紹 治 日 升 初 政 蔚 然
精 明 敬 天 法 祖 勤 政 愛 民 一 以 皇 祖 心 法 為 心 治 法 為 治
嚴 恭 以 奉 郊 祀 誠 愨 以 事 陵 寢 至 德 馨 香 通 于 神 明 孝 山
用 隧 而 天 子 之 禮 隆 廟 號 稱 祖 而 譔 德 之 義 著 泰 壇 陟 配
大 孝 嚴 親 帝 后 同 尊 文 母 格 廟 備 禎 周 之 熙 典 光 翼 夏 之
始 基 孝 乎 純 孝 者 也 尊 事 順 天 高 皇 后 日 侍 歲 朝 怡 愉 色
養 稱 觴 掖 輦 備 至 情 文 合 九 州 之 歡 以 承 歡 集 天 下 之 福
以 為 福 五 代 同 堂 舉 行 晉 尊 慶 典 天 家 盛 事 簡 牒 希 聞 迨
夫 躬 執 通 喪 致 戚 盡 禮 崇 祀 右 陵 豫 配 高 寢 尤 有 以 上 光
我 皇 祖 尊 親 之 大 孝 開 史 局 設 專 員 求 遺 事 補 闕 略 校 正
編 摩 繼 成 列 聖 寔 錄 每 書 一 妴 再 三 盥 說 發 揮 義 例 致 精
致 詳 于 是 前 編 正 編 次 第 告 成 追 述 帝 業 致 艱 難 昭 垂 聖
謨 煥 乎 韙 哉 敦 親 則 優 禮 耆 藩 宴 開 惇 敘 人 家 父 子 之 樂
行 於 朝 廷 體 臣 則 旌 褒 舊 學 寵 眷 親 賢 明 良 喜 起 之 歌 形
於 篇 什 此 歲 開 開 科 一 年 两 榜 增 秋 圍 解 額 廣 州 縣 歲 貢
其 嘉 惠 士 林 者 至 矣 六 部 分 司 三 年 考 績 字 進 眾 職 甄 別
群 倫 其 董 正 治 官 者 詳 矣 蠲 逋 負 減 租 稅 賑 窮 乏 卹 彫 耗
75
初 元 以 後 寬 大 之 詔 歲 不 絕 書 偶 有 水 旱 偏 灸 朝 報 夕 發
勤 支 國 帑 累 萬 盈 千 靳 也 帝 耤 躬 耕 率 先 天 下 御 園 勞 穡
賞 及 農 夫 颁 頒 河 神 廟 聯 以 祈 安 瀾 能 久 安 河 工 以 息 橫
汜 嘗 於 宮 忠 中 為 民 密 禱 嚐 好 通 乎 箕 畢 玄 化 參 乎 亭 毒
堯 欽 文 敬 何 以 加 諸 秋 官 讞 上 反 覆 披 閱 頻 年 審 册 予 以
綬 勾 或 歲 杪 而 釋 縲 囚 或 佳 年 而 寬 大 辟 出 首 者 免 罪 脅
從 者 罔 治 全 活 漢 土 七 八 萬 計 恩 信 行 於 盜 賊 愷 悌 流 於
桁 楊 禹 車 湯 網 亦 不 是 過 修 大 南 會 典 詳 政 體 也 輯 紹 治
文 規 正 字 學 也 開 京 試 武 科 勵 戎 行 也 修 城 堡 礮 壹 嚴 海
防 也 流 官 改 土 著 而 吏 安 官 關 津 減 稅 額 而 民 樂 業 或 因
舊 而 致 詳 有 推 新 而 適 治 憂 深 盧 遠 杜 漸 防 微 戚 畹 不 得
預 政 孝 大 義 而 全 至 恩 洋 夷 不 許 通 鬲 杜 戎 心 而 尊 國 勢
賢 良 忠 義 詔 立 專 祠 所 以 勵 夫 氣 節 籌 幄 安 邊 御 銘 紀 績
所 以 勤 乎 有 功 若 乃 天 縱 多 能 幾 餘 翰 墨 敷 言 為 訓 資 道
開 人 聖 製 文 二 集 詩 四 集 有 御 題 圖 繪 史 論 皇 訓 北 巡 武
功 古 今 體 格 裁 成 輔 相 歷 代 帝 王 諸 集 不 出 六 七 寒 暑 書
成 一 十 四 部 而 止 善 堂 詩 文 會 集 成 於 潛 邸 者 又 十 六 卷
帝 王 傳 授 之 原 朝 廷 政 治 之 迹 寓 於 語 言 文 字 間 乾 苞 坤
符 煥 日 星 發 六 經 之 閫 奧 開 百 代 之 津 梁 鼓 之 舞 之 以 盡
神 為 治 教 休 明 之 一 天 運 會 自 丁 李 陳 黎 以 前 未 之 有 也
76
文 德 既 敷 武 功 載 纘 内 平 土 匪 外 讋 山 巒 左 顧 右 昐 動 有
成 奠 而 於 區 處 鎮 西 一 事 尤 得 禦 戎 上 策 先 是 蠻 民 不 靖
狼 狽 狂 暹 奉 我 皇 考 以 人 覆 物 以 智 燭 幾 先 固 吾 圉 用 康
我 民 積 之 五 年 然 後 命 將 出 師 聲 罪 致 討 暹 虜 乞 憐 臘 酋
歸 命 乃 鍚 之 封 典 下 詔 班 師 蓋 叛 則 震 之 服 則 懷 之 不 究
於 武 不 黷 於 兵 以 為 生 民 計 耳 凡 此 武 功 濟 威 以 德 興 滅
繼 絕 仁 也 禁 暴 安 民 義 也 今 邊 郵 無 烽 火 之 警 海 内 有 衽
席 之 安 將 臣 雍 熙 于 朝 四 民 和 會 于 野 然 後 知 聖 人 之 功
之 德 如 此 宏 博 自 非 聰 明 神 武 而 不 殺 者 孰 能 與 於 此 哉
蓋 至 善 存 諸 聖 學 神 化 發 於 事 功 用 見 於 經 天 緯 地 而 體
則 立 乎 主 敬 道 在 於 繼 志 述 事 而 要 則 隨 物 取 中 明 作 有
功 惇 大 成 裕 為 臣 者 無 怠 修 為 士 者 無 惰 行 為 民 者 無 弛
業 在 家 而 九 族 敘 在 國 而 百 姓 親 在 天 下 而 蠻 夷 格 化 光
六 合 瑞 應 十 成 治 在 七 年 效 及 百 世 盛 德 大 業 至 矣 去 秋
八 月 聖 體 違 和 猶 勉 勉 霄 旰 可 否 萬 幾 批 答 章 疏 不 爽 晷
子 臣 寢 門 侍 疾 虔 奉 愉 顏 方 蘀 日 晉 康 強 以 為 天 下 臣 民
之 福 豈 知 惟 天 難 諶 惟 聖 默 契 密 奉 硃 批 遺 诏 以 子 臣 嗣
大 統 預 宣 顧 命 諸 臣 敬 謹 緘 藏 迨 奉 玉 几 道 揚 握 子 臣 手
慇 懃 訓 諭 子 臣 聞 命 震 驚 五 内 摧 裂 始 知 宸 恩 宥 密 極 深
研 幾 其 於 天 人 性 命 之 原 國 家 長 遠 之 計 尤 若 是 其 安 詳
77
静 暇 正 大 光 明 者 也 九 月 二 十 七 日 癸 卯 疾 大 漸 癸 丑 刻
龍 馭 上 賓 于 乾 成 殿 聖 齡 壽 四 十 一 嗚 呼 痛 哉 攀 髯 號 弓
天 震 地 裂 從 此 小 子 其 何 怙 哉 伏 讀 遺 詔 有 云 勿 謂 善 小
而 不 為 勿 謂 惡 小 而 為 之 至 哉 善 乎 皇 考 寔 受 之 皇 祖 而
以 命 之 小 子 於 乎 悠 哉 小 子 未 有 述 惟 仰 遵 彝 訓 敬 踐 力
行 庶 於 付 畀 之 重 或 可 少 副 焉 皇 考 遺 命 山 陵 不 得 多 費
財 力 玉 音 在 耳 小 子 曷 敢 有 越 厥 志 謹 遵 成 命 奉 于 香 水
南 之 順 道 山 營 建 玄 宮 隧 道 一 遵 成 孝 陵 規 制 餘 以 禮 約
之 於 以 表 揚 皇 考 節 用 愛 民 之 遺 意 敬 卜 今 年 戊 申 夏 五
月 二 十 四 日 丙 申 刻 安 玄 宮 上 陵 曰 昌 陵 橋 山 在 望 崖 谷
同 悲 欲 報 之 德 昊 天 罔 極 嗚 呼 痛 哉 嗣 德 元 年 十 月 甲 子
日 小 子 御 恤 和 淚 謹 拜 手 稽 首 銘 曰
天 眷 大 南 善 止 於 至
篤 生 聖 神 明 明 以 新
赫 赫 二 祖 聖 學 帝 治
烈 光 前 人 專 乎 彌 綸
於 穆 皇 考 對 越 在 郊
之 德 之 純 昭 格 在 廟
聖 以 繼 聖 寶 錄 瑤 編
功 齊 德 均 以 篡 以 紹
78
肇 後 王 章 優 禮 耆 潘
玄 宮 隧 道 親 睦 九 族
稱 天 誄 祖 惇 敘 筳 開
世 室 右 考 支 庶 恩 錄
穹 宇 陟 配 勇 智 股 肱
嚴 親 大 報 龐 碩 心 腹
亦 右 文 母 帝 及 作 歌
遹 追 來 孝 懋 勉 交 勗
心 不 匱 長 忠 義 賢 良
信 承 歡 愛 興 懷 往 躅
宮 朝 寢 問 妥 以 專 祠
愛 深 敬 殫 封 建 厥 福
五 代 同 堂 專 施 濟 眾
德 無 福 完 闓 澤 覃 敷
天 家 樂 事 蠲 租 釋 負
慶 洽 人 寰 潤 涸 繁 枯
徽 稱 榮 鏡 一 民 有 罪
彤 管 流 冊 帝 於 其 愚
生 商 表 德 商 湯 祝 網
百 世 不 刊 夏 禹 泣 辜
79
三 宥 肆 赦 一 年 兩 榜
刑 期 于 無 七 載 九 科
全 活 漢 土 士 林 蔚 彩
七 八 萬 夫 學 海 覃 波
政 本 仁 思 宸 章 倬 漠
治 有 典 則 天 包 地 羅
省 括 于 度 文 經 詩 史
舊 章 是 式 敭 盛 播 和
一 日 二 日 粵 在 初 年
萬 幾 致 敕 西 陲 不 靖
大 計 考 成 思 籹 圖 功
治 官 分 職 徂 惟 求 定
品 備 機 周 赫 我 楦 熊
百 為 整 飭 戢 彼 臬 獍
帝 道 遐 昌 暹 既 服 義
皇 猷 以 寨 臘 乃 歸 命
於 皇 作 人 繼 絕 存 亡
棫 樸 菁 莪 完 師 晏 境
歲 貢 增 廣 煙 火 不 驚
解 額 加 多 室 家 相 慶
80
功 成 纘 武 歲 丁 未 秋
治 大 興 文 力 疾 聽 治
國 安 夷 服 母 忘 天 下
物 阜 民 殷 母 忘 小 子
道 化 翔 洽 遺 詔 手 批
至 和 氤 氳 德 音 在 耳
氳 十 成 紀 煢 煢 眇 徹
盛 巍 堯 勳 易 克 繼 志
治 左 七 年 戴 德 懷 功
上 帝 昭 聞 高 山 仰 止
猶 日 孳 孳 敬 謹 真 珉
弗 倦 于 勤 昭 垂 奕 禩
孝 子 嗣 皇 帝 臣 時 謹 識
2.4.2. Phiên âm
Xương Lăng thánh đức thần công bi
Ngã Đại Nam, thụ thiên quyến tịch, la đồ vũ trụ quảng Trần Lê, phong hội
chấn Hùng Lạc. Việt tự nam phục kiến bang, tích công luỹ nhân nhị bách dư tải
ký. Ngã Thế tổ Cao hoàng đế, kinh luân thiên tạo khôi khoách đế hoành, ngã
Thánh tổ Nhân hoàng đế, nhuận sắc hoành du tập hi, hoàng tộ, thụ thử vô cương
đại lịch phục, dụng phu di hậu nhân hưu hồng. Duy ngã hoàng khảo Hiến tổ
chương hoàng đế, thống thừa nhị tổ chi hưu liệt quang xiển trọng hy chi cảnh vận
đạo long kế thuật soạn hợp thanh ninh thánh thần công đức huy hoán khung
nhưỡng miễu. Tư tiểu tử, hạt túc dĩ quy thiên cực cảnh thôn luân, cố tính thân thụ
phó thác chi trọng nhật, tư kế tự chi gian. Kính dụng soạn thuật hồng mô phô
81
dương, hưu thước lặc chi trinh mân ư dĩ chiêu thuỳ vu vạn vạn thế.
Ô hô! thống tai! Ngã Hoàng khảo Hiến tổ Thiệu Thiên Long Vận Chí Thiện
Thuần Hiếu Khoan Minh Duệ Đoán Văn Trị Vũ Công Thánh Triết Chương hoàng
đế Hoàng tổ Khảo Thánh tổ Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thuần Đức Văn Vũ
Minh Đoạn Sáng Thuật Đại Thành Hậu Trạch Phong Công Nhân hoàng đế trưởng
dã, Hoàng tổ Tỷ Tá Thiên Lệ Thánh Đoan Chính Cung Hoà Đốc Khánh Từ Huy
Minh Hiền Thuận Đức Nhân hoàng hậu, dĩ Gia Long lục niên, Đinh mão hạ ngũ
nguyệt, thập nhất nhật Nhâm tý, Giáp thìn khắc, đản thánh cung ư kinh thành đông
chi Xuân Lộc ấp để. Thánh đản thập hựu, tam nhật, Nhân hoàng hậu tiên ngự
thăng hà, nãi xích ai thiên phát nhụ tính thần chung, thống sá ai đề, lệ huyết bất
chỉ. Thế tổ Cao hoàng đế đặc kì chi, dĩ vi hậu nhật tất năng toàn hiếu, ký nguyệt
bão kiến thỉnh, danh phụng thân thủ ngự phê dĩ Nhật tự bộ khâm tứ. Cái mật hữu
cập xương chi bốc hỹ. Hoàng khảo thông minh xuất loại, nhi tốn chí mẫn học,
Kiền Đông dưỡng, chỉ thánh kính nhật tê. Hoàng tổ phương dĩ chủ sưởng thừa
thiêu vi niệm, đặc tiêu đại học chỉ ư chí thiện nhất ngữ mệnh chi. Hoàng khảo bái
tứ minh ân phục ưng chí giáo viên, danh đường viết: Chỉ thiện đường tự hiệu, chỉ
thiện chủ nhân, hội thần vu minh tân, khế đạo vu tinh nhất, thánh học uyên nguyên
cái hữu sở tự dã. Minh Mệnh thập nhất niên, sách phong Trường Khánh Công.
Thập thất niên phụng tỷ thư, thủ nhiếp thân đài điều tấu nghị định chương trình.
Chính phả hệ biểu liêm năng, thân mục trước ư gia bang, nhân hiếu văn ư thiên hạ.
Hoàng tổ thâm vi gia duyệt, quyến chú đặc dị số uỷ dĩ tài quyết cơ vụ, vưu xứng
thánh tâm. Xã tắc chí kế mặc dĩ chú định hỹ. Nhị thập nhất niên Canh tý đông,
thập nhị nguyệt, nhị thập bát nhật, cung thụ di mệnh. Việt minh niên Tân sửu
chính nguyệt nhị thập nhật, tức hoàng đế, vị kiến nguyên Thiệu Trị nhật thăng. Sơ
chính uý nhiên tinh minh, kính thiên pháp tổ cần chính, ái dân, nhất dĩ hoàng tổ
tâm pháp vi tâm trị pháp vi trị, nghiêm cung dĩ phụng giao tự, thành xác dĩ sự lăng
tẩm chí đức, hinh hương thông vu thần minh. Hiếu Sơn dụng toại nhi thiên tử chi
lễ long, miếu hiệu xưng tổ, nhi soạn đức chi nghĩa trước.
Thái đàn trắc phối đại hiếu nghiêm thân, đế hậu đồng tôn, văn mỗi cách
miếu bị, trinh chu chi hi điển quang dực hạ chi thuỷ cơ hiếu, hồ thuần hiếu giả
dã. Tôn sự Thuận Thiên Cao hoàng hậu, nhật thị tuế triều, di du sắc dưỡng, xứng
82
thương dịch liễn bị chí tình. Văn hợp cửu châu chi hoan dĩ thừa hoan tập thiên hạ
chi phúc dĩ vi phúc, ngũ đại đồng đường, cử hành tấn tôn khánh điển. Thiên gia
thịnh sự giản điệp hy văn đãi phù, cung chấp thông táng trí thích tận lễ, sùng tự
hữu lăng, dự phối cao tẩm vưu hữu dĩ thượng quang ngã hoàng tổ tôn thân chi
đại hiếu. Khai sử cục, thiết chuyên viên cầu di sự, bổ khuyết lược giáo chính biên
ma kế thành Liệt thánh thực lục. Mỗi thư nhất thượng, tái tam quán duyệt, phát
huy nghĩa lệ, trí tinh trí tường. Vu thị Tiền biên, Chính biên thứ đệ cáo thành,
truy thuật đế nghiệp trí gian nan chiêu thuỳ thánh mô, hoán hồ vĩ tai. Đôn thân
tắc ưu lễ kỳ phiên, yến khai đôn, tự nhân gia phụ tử chi lạc hành ư triều đình, thể
thần tắc tinh bao cựu học, sủng quyến thân, hiền minh, lương hỷ khởi chi ca hình
ư thiên thập. Thử tuế khai khai khoa nhất niên lưỡng bảng, tăng thu vi giải ngạch,
quảng châu huyện tuế cống. Kỳ gia huệ sĩ lâm giả chí hỹ. Lục bộ phân ti ty, tam
niên khảo tích tự, tiến chúng chức chân, biệt quần luân kỳ đổng chính trị quan giả
tường hỹ. Quyên bô phụ giảm tô thuế, chẩn cùng phạp, tuất điêu hao sơ nguyên
dĩ hậu, khoan đại chi chiếu, tuế bất tuyệt thư. Ngẫu hữu thuỷ hạn thiên cứu, triều
báo tịch phát cần chi quốc nô luỹ vạn, doanh thiên cận dã. Đế viết cung canh suất
tiên thiên hạ ngự viên lao tường thưởng cập nông phu. Ban hà thần miếu liên dĩ
kỳ an lan, năng Cửu An hà công dĩ tức hoành tỷ. Thường ư cung trung vi dân mật
đảo, thường hiếu thông hồ ky tất huyền hoá tham hồ đình độc. Nghiêu khâm văn
kính hà dĩ gia chư. Thu quan nghiện thượng, phản phúc phi duyệt tần niên, thẩm
sách dư dĩ thụ câu, hoặc tuế miểu nhi thích lụy tù, hoặc giai niên nhi khoan đại
bích, xuất thủ giả miễn tội, hiếp thung tòng giả võng trị, toàn hoạt hán thổ thất
bát vạn kế, ân tín hành ư đạo tặc, khải đễ lưu ư hành, dương Vũ xa Thang võng
diệc bất thị quá. Tu Đại Nam hội điển tường chính thể dã, tập Thiệu Trị văn quy
chính tự học dã. Khai kinh thí vũ khoa lệ nhung hành dã. Tu thành phố nhất
nghiêm hải phòng dã. Lưu quan cải thổ trứ nhi lại an quan quan, tân giảm thuế
ngạch nhi dân lạc nghiệp. Hoặc nhân cựu nhi chí tường, hữu thôi tân nhi thích trị.
Ưu thâm lư viễn, đỗ tiệm, phòng vi thích. Uyển bất đắc dự chính, hiếu đại nghĩa
nhi toàn chí ân, Dương Di bất hứa thông cách đỗ nhung tâm nhi tôn quốc thế.
Hiền lương trung nghĩa chiếu lập chuyên từ sở dĩ lệ phù khí tiết trù ác an biên,
ngự minh kỷ tích sở dĩ cần hồ hữu công .
83
Nhược nãi, thiên túng đa năng, cơ dư hàn mặc phu, ngôn vi huấn tư đạo
khai nhân. Thánh chế văn nhị tập, thi tứ tập, hựu Ngự đề đồ hội, Sử luận, hoàng
huấn Bắc tuần vũ công, cổ kim thể cách tài thành phụ tướng, lịch đại đế vương
chư tập. Bất xuất lục thất hàn thử thư thành nhất thập tứ bộ. Nhi chỉ thiện đường
thi văn hội tập thành ư tiềm để giả, hựu thập lục quyển. Đế vương truyền thụ chi
nguyên, triều đình chính trị chi tích ngụ ư ngữ ngôn. Văn tự gian kiền bao khôn
phù hoán nhật tinh phát lục kinh chi khổn áo, khai bách đại chi tân lương, cổ chi
vũ chi dĩ tận thần vi trị giao hưu minh chi nhất thiên vận hội, tự Đinh, Lý, Trần,
Lê dĩ tiền vị chi hữu dã. Văn đức ký phu vũ công tải toản, nội bình thổ phỉ, ngoại
triếp sơn loan, tả cố hữu yêu động hữu thành điện, nhi ư khu xứ Trấn Tây, nhất
sự vưu đắc ngự nhung thượng sách. Tiên thị Man dân bất tịnh, lang bái cuồng
Xiêm phụng. Ngã Hoàng khảo dĩ nhân phúc vật, dĩ trí chúc cơ, tiên cố ngô ngữ
dụng khang ngã dân, tích chi ngũ niên, nhiên hậu mệnh tướng xuất sư thanh tội
chí thảo, Xiêm lỗ khất, lân Lạp tù quy mệnh. Nãi dương chi phong điển, hạ chiếu
ban sư. Cái bạn tắc chấn chi, phục tắc hoài chi. Bất cứu ư vũ bất độc ư binh dĩ vi
sinh dân kế nhĩ. Phàm thử vũ công, tế uy dĩ đức hưng diệt, kế tuyệt nhân dã. Cấm
bạo an dân, nghĩa dã. Kim biên bưu vô phong hỏa chi cảnh hải, nội hữu nhẫm
tịch chi an, tướng thần ung hy vu triều, tứ dân hoà hội vu dã. Nhiên hậu tri thánh
nhân chi công chi đức như thử hoành bác, tự phi thông minh thần vũ nhi bất sát
giả thục năng, dữ ư thử tai cái chí thiện tồn chư thánh học thần hoá phát ư sự.
Công dụng kiến ư kinh thiên vĩ địa nhi thể tắc lập hồ chủ kính, đạo tại ư kế chí
thuật sự, nhi yêu tắc tuỳ vật thủ trung. Minh tác hữu công đôn đại thành dụ, vi
thần giả vô đãi tu, vi sĩ giả vô đoạ hành, vi dân giả vô trì nghiệp. Tại gia nhi cửu
tộc tự, tại quốc nhi bách tính thân, tại thiên hạ nhi man di cách, hoá quang lục
hợp thụy ứng thập thành, trị tại thất niên hiệu cập bách thế, thịnh đức đại nghiệp
chí hỹ. Khứ thu bát nguyệt, thánh thể vi hoà, do miễn miễn tiêu cán khả phủ vạn
cơ, phê đáp chương sớ, bất sảng quỹ. Tử thần, tẩm môn thị tật kiền phụng du,
nhan phương thác nhật tấn khang cường, dĩ vi thiên hạ thần dân chi phước khởi.
Tri duy thiên nan kham, duy thánh mặc khế mật, phụng chu phê di chiếu dĩ Tử
thần tự đại thống, dự tuyên cố mệnh chư thần, kính cẩn giam tàng. Đãi phụng
ngọc cơ đạo dương ác tử thần thủ ân cần huấn dụ. Tử thần văn mệnh chấn kinh
84
ngũ nội thôi liệt thuỷ tri thần ân hựu mật cực thâm, nghiên cơ ư thiên nhân tính
mệnh chi nguyên, quốc gia trường viễn chi kế, vưu nhược thị kỳ an tường tĩnh
hạ, chính đại quang minh giả dã. Cửu nguyệt, nhị thập thất nhật, Quý mão tật đại
tiệm, Quý sửu khắc long ngự thượng tân vu Càn Thành điện. Thánh linh thọ tứ
thập nhất. Ô hô! Thống tai phan nhiêm hiệu cung, thiên chấn địa liệt tùng, thử
tiểu tử kỳ hà hỗ tai? Phục độc di chiếu, hữu vân: “vật vị thiện tiểu nhi bất vi, vật
vị ác tiểu nhi vi chi”. Chí tai thiện hồ! Hoàng khảo thực thụ chi Hoàng tổ nhi dĩ
mệnh chi tiểu tử. Ô hồ! du tai! Tiểu tử vị hữu thuật duy ngưỡng tuân di huấn kính
tiễn lực hành thứ ư phó ti chi trọng, hoặc khả thiểu phó yên.
Hoàng khảo di mệnh Sơn Lăng bất đắc đa phí tài lực. Ngọc âm tại nhĩ tiểu
tử hạt cảm hữu việt, quyết chí cẩn tuân thành mệnh phụng. Vu hương thuỷ nam
chi Thuận Đạo sơn, doanh kiến huyền cung Toại đạo nhất tuân thành Hiếu Lăng
quy chế, dư dĩ lễ ước chi ư dĩ biểu dương Hoàng khảo tiết dụng ái dân chi vị ý.
Kính bốc kim niên Mậu thân, hạ ngũ nguyệt, nhị thập tứ nhật, Bính thân khắc an
huyền cung thượng lăng, viết Xương Lăng. Kiều Sơn tại vọng nhai cốc đồng bi,
dục báo chi đức hạo thiên võng cực. Ô hô! Thống tai!
Tự Đức nguyên niên, thập nguyệt, Giáp tý nhật, tiểu tử ngự tuất hoà lệ cẩn
bái thủ kê thủ. Minh viết:
Thiên quyến Đại Nam Chiêu cách tại miếu
Đốc sinh thánh thần Bảo lục dao biên
Hách hách nhị tổ Dĩ soán dĩ thiệu
Liệt quang tiền nhân Triệu hậu vương chương
Ư mục hoàng khảo Huyền cung toại đạo
Chi đức chi thuần Xưng thiên luỵ tổ
Thánh dĩ kế thánh Thế thất hữu khảo
Công tề đức quân Khung vũ trắc phối
Thiện chỉ ư chí Nghiêm thân đại báo
Minh minh dĩ tân Diệc hữu văn mẫu
Thánh học đế trị Duật truy lai hiếu
Chuyên hồ di luân Tâm bất quỹ trường
Đối việt tại giao Tín thừa hoan ái
85
Cung triều tẩm vấn Hình kỳ vu vô
Ái thâm kính đàn Toàn hoạt hán thổ
Ngũ đại đồng đường Thất bát vạn phu
Đức vô phúc hoàn Chính bản nhân tư
Thiên gia lạc sự Trị hữu điển tắc
Khánh hiệp nhân hoàn Tỉnh quát vu độ
Huy xưng vinh kính Cựu chương thị thức
Đồng quản lưu sách Nhất nhật nhị nhật
Sinh thương biểu đức Vạn cơ chí sắc
Bách thế bất khan Đại kế khảo thành
Ưu lễ kỳ phan Trị quan phân chức
Thân mục cửu tộc Phẩm bị cơ chu
Đôn tự đình khai Bách vi chỉnh sức
Chi thứ ân lục Đế đạo hà xương
Dũng trí cổ quăng Hoàng du dĩ trại
Bàng thạc tâm phúc Ư hoàng tác nhân
Đế cập tác ca Vực bộc thanh nga
Mậu miễn giao húc Tuế cống tăng quảng
Trung nghĩa hiền lương Giải ngạch gia đa
Hưng hoài vãng độc Nhất niên lưỡng bảng
Thoả dĩ chuyên từ Thất tải cửu khoa
Phong kiến quyết phúc Sĩ lâm uý thể
Chuyên thi tế chúng Học hải đàm ba
Khải trạch đàm phu Thần chương trác mạc
Quyên tô thích phụ Thiên bao địa la
Nhuận hạt phồn khô Văn kinh thi sử
Nhất dân hữu tội Dương thịnh bá hoà
Đế ư kỳ ngu Việt tại sơ niên
Thương thang chúc võng Tây thuỳ bất tịnh
Hạ ngu khấp cô Tư nữ đồ công
Tam hựu tứ xá Tồ duy cầu định
86
Hách ngã tuyên hùng Trị tại thất niên
Trấp bỉ niết cánh Thượng đế chiêu văn
Xiêm ký phục nghĩa Do nhật tư tư
Lạp nãi quy mệnh Phất quyện vu cần
Kế tuyệt tồn vong Tuế đinh mùi thu
Hoàn sư yến cảnh Lực tật thính trị
Yên hoả bất kinh Mẫu vong thiên hạ
Thất gia tướng khánh Mẫu vong tiểu tử
Công thành toản vũ Di chiếu thủ phê
Trị đại hưng văn Đức âm tại nhĩ
Quốc an di phục Quỳnh quỳnh miễu triệt
Vật phụ dân ân Dị khắc kế chí
Đạo hoá tường hiệp Đái đức hoài công
Chí trị hoà huân Cao sơn ngưỡng chỉ
Huân thập thành kỷ Kính cẩn chân dân
Thịnh nguy nghiêu huân Chiêu thuỳ dịch tự.
Hiếu tử tự hoàng đế thần Thì cẩn thức.
2.4.3. Dịch nghĩa
Bia thánh đức thần công ở Xương Lăng *
Nước Đại Nam ta, chịu mệnh trời yêu, ở đất lớn, bờ cõi rộng lớn hơn nhà
Trần nhà Lê, phong hội mở mang hơn đời Hùng đời Lạc. Nhớ tự cõi Nam dựng
nước, lắm đức nhiều dân, đã hơn 2 trăm năm. Kịp đến Thế tổ Cao hoàng đế ta
[Gia Long]: xoay đổi vận trời mở mang bờ cõi. Thánh tổ Nhân hoàng đế ta
[Minh Mạng], sửa sang mưu rộng, nối sang ngôi tôn, nhận lấy cơ nghiệp lớn
lao vô ngần, để lại phúc tốt cho người sau thừa hưởng. Kính nghĩ: Hoàng khảo
Hiến tổ Chương hoàng đế ta [Thiệu Trị]: Nối theo công tốt để lại của 2 vua
trước, mở ra vận lớn sáng tỏ tới 2 lần. Đạo thống tôn trọng việc nối theo, việc
làm hợp với đạo trời đất. Công đức thần thánh, sáng rực đất trời. Nay kẻ tiểu tử
này [Tự Đức], đâu đủ để xét đến chân trời, đo tính bóng sáng mặt trời. Nhưng vì
* Theo bản dịch của Quốc sử quán triều Nguyễn trong Đại Nam thực lục (2007), NXB Giáo dục
thân chịu việc phó thác nặng nề, nhưng nghĩ việc nối dõi khó nhọc. Kính thuật
87
lại mưu mô to lớn, để phô bày đức tốt rỡ ràng - Khắc vào bia đá, để lưu lại rõ rệt
đến muôn muôn đời. Than ôi! Thương thay! Hoàng khảo Hiến tổ [Thiệu Trị],
Thiệu Thiên Long Vận Chí Thiện Thuần Hiếu Khoan Minh Duệ Đoán Văn Tự Vũ
Công Thánh Triết Chương hoàng đế ta, là con trưởng của Hoàng tổ khảo Thánh
tổ Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thần Đức Văn Vũ Minh Đoán Sáng Thuật Đại
Thành Hậu Trạch Phong Công Nhân hoàng đế [Minh Mạng] và Hoàng tổ Tỉ là
Tá Thiên Lệ Thánh (1) Đoan Chính Cung Hoà Đốc Khanh Từ Huy Minh Hiền
Thuận Đức Nhân hoàng hậu vào năm Đinh mão năm Gia Long thứ 6, mùa hạ
tháng 5, ngày 11 là ngày Nhâm tí, giờ Giáp thìn sinh ra ở nhà riêng ấp Xuân Lộc
về phía đông kinh thành. Sinh ra mới được 13 ngày, thì Nhân hoàng hậu mất (2).
Thế mà tấm lòng son tự trời bẩm sinh, tính thương nhớ do thần chung đúc, đau
khóc kêu thương, lệ sa không dứt. Thế tổ Cao hoàng đế [Gia Long] lấy làm kỳ dị,
cho là ngày sau tất làm người con giữ vẹn đạo hiếu. Khi đã đầy tháng, ẵm đến ra
mắt [Thế tổ] xin đặt tên. Được [Thế tổ] tay ngự phê lấy bộ chữ “nhật” 日 để đặt
(3) là ngầm có ý muốn theo như nhà Chu truyền ngôi cho Quý Lịch [tức Vương
Quý] rồi truyền đến Xương [tức Văn Vương](4). Hoàng khảo ta là người thông
minh vượt bậc, mà nhún chí chăm học, cung Kiền đông nuôi dạy, thánh đức ngày
tăng thêm. Ý Hoàng tổ được lấy việc đứng chủ tế tự thừa nối tổ tiên để giao phó
cho, nên trích lấy 1 câu nói ở sách Đại học là: “chỉ ư chí thiện” nghĩa là cốt giữ
điều rất phải để dạy bảo. Hoàng khảo lạy vâng ơn ban ghi nhớ lời dạy, bèn đặt
tên nhà học là nhà Chỉ Thiện, tự đặt tên hiệu là Chí thiện chủ nhân (5), để tinh
thần vào việc sáng đức mới dân, thấu đạo thống khổ tinh vi thuần nhất, thánh
học rộng sâu, căn bản là vì ở đó. Năm Minh Mệnh thứ 11(1830) sách phong làm
Trường Khánh Công. Năm thứ 17 (1836), vâng dụ chỉ đứng đầu giữ công việc
Tôn nhân phủ (6), điều trần tâu bày những việc bàn định chương trình đính
chính lại hệ thống trong ngọc phả, nên khen người thanh liêm, tài năng, tính thân
mục tỏ rõ ở nước nhà, tiếng nhân hiếu vang đồn khắp thiên hạ. Hoàng tổ rất
khen ngợi vui lòng, yêu dấu đặc biệt, thường ủy cho quyết định công việc, càng
được xứng hợp lòng Hoàng tổ (7). Kế lâu dài của nhà đã ngầm quyết định như
vậy. Năm Canh tí (Minh mệnh) thứ 21(1840), mùa đông tháng 12, ngày 28 kính
chịu mệnh lệnh để lại qua năm là năm Tân sửu tháng giêng ngày 20 lên ngôi
88
hoàng đế, đặt năm đầu là niên hiệu Thiệu Trị (8). Chính trị buổi mới như mặt
trời mới mọc, rỡ ràng trong sáng; Kính đạo trời bắt chước tổ, chăm việc nước
yêu thương dân, đều theo tâm pháp của Hoàng tổ để làm lòng, trị pháp của
Hoàng tổ để trị nước; nghiêm kính để thờ phụng tế giao, thành thực để thờ cúng
lăng tẩm; đức tốt thơm lừng thấu đến thần minh. Hiếu Sơn chôn dùng đường
ngầm, mà lễ Ninh Lăng của thiên tử được long trọng, miếu hiệu tôn xưng là Tổ,
mà nghĩa tổ đức của tổ tiên rõ ràng.
Thái Đàn (9) thờ sánh với trời là đối với nghiêm thân (10) có đại hiếu, đế
hậu tôn ngang một bậc thì kính rước ân mẫu lên miếu thờ (11). Có đủ điển sáng
làm điềm lành như nhà Chu, rạng rỡ nền mới giúp cơ nghiệp cho nhà Hạ. Thực
là hiếu hơn các bậc thuần hiếu vậy. Tôn thờ Thuận Thiên Cao hoàng hậu hết lễ,
khi hàng ngày đứng hầu, khi đầu năm đến chầu, phụng dưỡng bằng sắc mặt vui
vẻ; nào dâng chén chúc mới, nào dâng đỡ lên kiệu, tình văn gồm đủ cả mọi bề.
Hợp cuộc vui của 9 châu để dâng vui; gồm mọi phúc của thiên hạ để chúc
phúc. Một nhà sum họp đông đủ 5 đời, cử hành điển lễ tấn tôn huy hiệu. Thực là
thịnh sự của nhà vua, sách vở xưa nay hiếm thấy. Kíp khi để tang trong 3 năm
xót thương tận lễ. Tôn thờ Hữu Lăng (12), dự tính phối hưởng vào điện thờ Cao
hoàng đế, càng tỏ ra tấm lòng đại hiếu của hoàng tổ ta tôn kính bề thân. Mở sử
cục, đặt chuyên viên, tìm việc bỏ sót, bổ thêm việc thiếu, đính chính biên chép nối
làm xong bộ sách “Liệt thánh thực lục”(13). Mỗi khi sách ấy dâng lên, tất phải
2,3 lần rửa tay kính duyệt, phát huy nghĩa và lệ, rất mực tinh tường. Vì thế, sách
Tiền biên, sách Chính biên lần lượt làm xong. Thuật lại sự gây dựng nghiệp đế
rất khó nhọc, tỏ bày mưu mô của liệt thánh đến sau này. Rỡ ràng thay! Tốt đẹp
thay! Về việc hậu đãi người thân, thì ưu lễ các bậc thân phiên tuổi già, mở yến tỏ
tình hòa mục, sự vui thú của cha con trong nhà, làm ra ngay ở triều đình; thể tất
các quan thì nên thưởng các người cựu học, yêu mến mọi bậc thân, hiền, bài ca
hát về vua tôi mừng vui tỏ ra ở trong thiên thập. Liền năm mở khoa thi cử một
năm 2 lần treo bảng, tăng thêm giải ngạch thi hương, rộng mở cống sĩ hàng năm
châu huyện, về việc gia ơn cho bọn học trò đã chu chí vậy; 6 bộ chia ty giữ việc,
3 năm khảo xét bàn công, cất nhắc mọi chức có thứ bậc, phân biệt từng hạng
người về cách trông coi sửa chữa các quan trường đã tường tận vậy (14). Tha
89
trốn thiếu, giảm thuế tô, chẩn cấp người cùng túng, thương xót kẻ điêu háo từ lúc
mới lên ngôi trở về sau, ban xuống chiếu thư khoan rộng, hàng năm không dứt
chép ra. Ngỡ có tai riêng hạn lụt, sáng báo tin thì chiều đã cứu giúp, chi tiêu của
kho trong nước kể có hàng vạn hàng nghìn cũng không tiếc vậy. Thân đi cày
ruộng tịch điền, xướng xuất trước cho thiên hạ làm gương. Vườn ngự chịu khó
gặt lúa, thưởng đến kẻ nông phu. Ban câu đối ở miếu thờ thần hà bá, để cầu cho
sông được êm dòng (15); sai dân công đắp giữ sông Cửu An, để tránh khỏi sự đê
vỡ (16), thường vì dân chúng ngầm khấn ở trong cung. Lòng ưa muốn thông đến
việc gió mưa, đức mầu nhiệm sáng cùng đạo trời đất. Dẫu đến đức khâm kính
như vua Nghiêu vua Văn Vương cũng không hơn được. Hình quan dâng bản xét
án, mở xét kỹ càng nhiều năm. Xét danh sách tội tù, cho được hoãn xử quyết,
hoặc cuối năm mà thả tù giam, hoặc năm nhiều điềm tốt mà khoan rộng tội xử
tử. Kẻ ra thú thì tha tội, kẻ bị bắt hiếp đi theo thì không trị tội. Dân Kinh dân Thổ
được tha cho sống, kể có 7, 8 vạn người. Ân tín đến cả bọn cướp giặc, dễ dãi khắp
đến kẻ tội tù. Dẫu đến nhân trạch như vua Vũ xuống xe khóc người có tội, như vua
Thang cởi bỏ 3 mặt lưới (17) cũng không hơn thế. Sửa bộ “Đại Nam hội điển”
(18), là làm cho chính thể rõ ràng; làm tập “Thiệu Trị văn quy” (19) là dạy cho tự
học được đúng. Mở khoa thi võ ở Kinh là để nghiêm việc phòng bị ngoài biển (20).
Dùng lưu quan để đổi cho thổ quan mà quan lại yên chức nghiệp; giảm ngạch
thuế ở các nơi quan tấn, mà nhân dân vui việc làm ăn. Hoặc nhân cũ mà làm cho
đầy đủ thêm; hoặc thay mới mà thích hợp với trị đạo. Lo sâu nghĩ xa, ngăn chặn
việc mới đốm ra, phòng giữ việc mới mầm mống. Người họ ngoại không được dự
vào chính trị, để giữ nghĩa lớn mà vẹn ơn sâu; người Tây dương không cho đến
thông thương là để chặn lòng mọi rợ mà tôn cao thế nước. Người hiền lương trung
nghĩa, xuống chiếu cho lập đền thờ riêng, cốt để kích khuyến người khí tiết; người
mưu tính dẹp yên cõi ven, được ngự chế bài minh nghị công, cốt để khuyên người
có công.
Lại còn, trời bẩm sinh ra nhiều tài năng, khi rỗi việc để ý văn nghệ, nói ra
làm khuôn mẫu mà bảo cho người sau. Ngự chế 2 tập văn, 4 tập thơ, lại có
những tập: Ngự đề đồ hội, Sử luận, Hoàng huấn, Bắc tuần võ công, Cổ kim thể
cách (21), Tài thành phụ tướng, Lịch đại đế vương, không đầy 6, 7 năm, mà làm
90
xong 14 bộ sách. Lại tập “Chỉ thiện đường thi văn hội”, làm ra từ khi ở nơi phủ
đệ, có 16 quyển nữa. Những nguồn gốc truyền thụ của đế vương, những việc
chính trị của triều đình, đều ngự ở trong lời nói và văn tự cả. Những thi văn ấy
như là đồ sông Hà, thư sông Lạc tỏ bày như ánh sáng của mặt trời của ngôi sao,
mở tỏ sự huyền bí của 6 kinh, mở ra đường lối dìu dắt cho trăm đời sau này. Cổ
vũ hết lòng là một vận hội lớn chính trị và giáo hóa đều tốt đẹp tươi sáng, từ
Đinh, Lý, Trần, Lê trở về trước, chưa có bao giờ. Văn đức đã nên võ công lại
nối, bên trong dẹp yên bọn thổ phỉ, bên ngoài thuyết phục bọn sơn man. Trông
bên hữu nhìn bên tả, làm việc gì đều có mưu chước sẵn sàng, mà về việc khu xử
với thành Trấn tây, lại càng thấy mưu chước xử trí bọn giặc rất giỏi. Trước đây,
dân Man làm loạn, nương tựa vào nước Xiêm ngông cuồng. Hoàng Khảo ta dùng
điều nhân để che trùm mọi vật, dùng điều trí để xét rõ thời cơ, trước hãy giữ
vững bờ cõi của ta, làm cho dân ta mạnh khỏe, lâu mãi đến 5 năm, rồi mới sai
tướng ra quân, kể tội ra mà đánh, thì giặc Xiêm van lạy, người Lạp quy hàng.
Bèn ban cho phong điền, xuống chiếu rút quân. Vì là phản bội thì đánh cho biết
sợ, theo phục thì vỗ về cho nhớ ơn. Không theo đuổi về nghề võ, không càn nhảm
về việc binh, cốt để làm kế cho dân được sống yên mà thôi. Phàm những võ công
ấy, đều là lấy đức để giúp uy dựng lại nước bị diệt, nối cho dòng đã tuyệt, đó là
điều nhân; cấm kẻ tàn bạo để giữ yên dân, đó là điều nghĩa. Nay cõi ven không
có việc khói lửa cảnh cấp; trong nước được yên nơi chiếu chăn; các tướng yên
vui ở triều đình; tứ dân hòa hợp ở đồng ruộng. Thế mới biết công đức của thành
nhân rộng lớn đến như thế. Nếu không là bậc thông minh thần võ không hay giết
người thì ai được dự vào đấy ư! Vì là lòng chỉ thiện gốc ở thánh học, được thần
diệu phát ra việc làm. Về công dụng thì hiện ra ở việc sửa sang đất mà thể chất
thì do ở lòng chủ kính; về đạo lý thì cốt ở nối chí trước theo việc xưa, mà cốt yếu
thì tùy việc giữ mức trung. Sáng tỏ chuẩn tắc để nên công, đôn hậu rộng lớn để
sửa tục. Kẻ làm tôi sửa mình không lười, người học trò học hành không biếng.
Kẻ làm dân không trễ nải nghề nghiệp. Ở trong nhà thì 9 họ hòa mục, ở trong
nước thì trăm họ thân yêu, đối với thiên hạ thì mán mọi phục tùng. Đức hòa sáng
khắp sáu cõi, điềm lành ứng hiện mười phần. Trị nước trong 7 năm, công hiệu
đến trăm đời. Thực là đức thịnh nghiệp lớn lắm vậy. Mùa thu tháng 8 năm ngoái,
91
thánh thể không được khỏe, ngài vẫn còn chăm chắm khuya sớm quyết định
muôn việc, phê đáp chương sớ, giờ phút không sai. Con nhỏ này, nằm ở ngoài
cửa hầu bệnh, kính hầu làm vui. Đương mong ngày tiến lên mạnh khỏe, để đem
phúc lại cho thần dân cả thiên hạ. Ngờ đâu mệnh trời khó tin, duy ở lòng thánh
ngầm biết, vâng châu phê tờ chiếu để lại, cho con là thần này nối mối lớn, truyền
bảo sẵn cho các cố mạng đại thần, kính cẩn dán kín cất đi. Tới khi bệnh nặng tựa
kỷ ngọc nói ra mệnh lệnh cuối cùng, ngài cầm tay con là thần này cặn kẽ dạy
bảo. Con là thần này nghe được mệnh lệnh rất kính sợ, gan ruột như xé vò, mới
biết lòng Ngài nghĩ ngợi rất kín đáo, tính việc rất sâu, về cội gốc tính mệnh của
trời và người, về mưu kế lâu dài của nhà nước, ngài rất bình tĩnh rõ ràng nhàn
rỗi và quang minh chính đại đến như thế vậy.
Ngày 27 tháng 9 là ngày Quý mão, bệnh nặng quá, đến giờ Sửu. Ngài cưỡi
rồng lên chầu trời ở điện Kiền Thành, Ngài hưởng thọ 41 tuổi. Than ôi! Thương
thay! Vịn râu rồng, ôm cung khóc, đất lở trời long. Từ đây trở đi, người con nhỏ
này biết trông cậy vào đâu? Kính đọc tờ chiếu để lại, có câu nói: “chớ bảo điều
thiện ấy nhỏ mà chẳng làm, chớ bảo điều ác ấy nhỏ mà cứ làm”. Rất phải lắm
thay! Lời nói ấy là hoàng khảo nghe được ở Hoàng tổ mà nay dạy lại cho kẻ con
nhỏ này. Than ôi xa dài thay! Con nhỏ này tuy chưa có thể kịp được, nhưng kính
theo lời dạy, cố gắng thực hành, may ra việc giao phó nặng nề, hoặc có thể đáp
lại được chút ít vậy.
Hoàng khảo có dặn lại rằng: “Sơn Lăng không nên làm hao phí tài lực
nhiều”. Lời vàng ngọc ấy văng vẳng bên tai, con nhỏ này đâu dám trái chí. Kính
tuân thành mệnh, ở núi Thuận Đạo phía Nam sông Hương sửa đào con đường
ngầm thông tới huyệt chôn, theo đúng như quy chế ở Hiếu lăng. Còn các việc đều
lấy lễ mà hạn chế, để nên tỏ cái ý dè dặt tiêu dùng thương yêu nhân dân của
hoàng khảo để lại vậy. Đã kính bói chọn được năm nay là năm Mậu thân, tháng
5, ngày 24 là ngày Bính thân, giờ Bính thân, yên táng vào huyệt, dâng tên lăng là
Xương Lăng. Núi Kiều Sơn (22) ở đó ngóng trông, nơi núi hang cũng đều thương
xót, muốn báo đền đức lớn, như trời rộng không cùng. Than ôi thương thay!
Năm Tự Đức thứ 1 [1848], tháng 10, ngày Giáp tý (23), con là thần này
ngậm thương giỏ nước mắt kính cẩn chắp tay rập đầu.
92
Bài minh rằng:
Trời yêu nước Nam, giáng sinh thánh thần,
Rỡ ràng hai tổ, rạng công người xưa,
Kính nghĩ Hoàng khảo, đức lớn tinh thuần,
Thánh lại nối thánh, công ngang đức lầy,
Hay đến rất mực, sáng đức mới dân,
Đạo học chính trị, nhiều tài sửa sang.
Hưởng phối đàn Giao, rạng đến nhà miếu,
Quyển ngọc sách vàng dốc lòng theo nối,
Theo chế đế vương, đường ngầm hạ huyệt,
Xưng tổ là “trời” tôn khảo [cha] lên miếu
Phối hưởng với trời, nghiêm thân [cha] báo đức,
Văn mẫu [mẹ] cũng tôn trọn niềm hiếu thảo.
Lòng hiếu không thiếu, Trương Tín (24) hầu vui,
Đế chầu thăm hỏi, rất kính yêu,
Năm đời đủ mặt, đức nhiều phúc tròn,
Nhà vua vui vẻ, thiên hạ chúc mừng,
Tiếng tốt gương tỏ, quản đỏ (25) lưu danh
Sánh đức Giản Định (26) trăm đời vẫn còn.
Trọng thân phiên già, thân yêu chín họ,
Tiệc đãi họ hàng, bổ dụng chi phái,
Khỏe làm chân tay, già làm lòng bụng,
Lại làm bài ca, vua đi khuyên bảo,
Trung nghĩa, hiền lương, nhớ công người cũ,
Làm đền thờ riêng, dựng nên phúc lớn.
Rộng ơn cứu giúp, huệ trạch khắp ban,
Giảm tô tha nợ, dân khổ tưới nhuần,
Một người có tội, thương xót là Ngu,
Mở ba mắt lưới, nhân như vua Thang,
Khóc người có tội, như vua Vũ xưa,
Tha tội xá lỗi, mong không dùng hình,
93
Hán, thổ nhờ sông, bảy tám vạn người.
Chính vốn nhân ân, trị có khuôn phép,
Nghĩ đúng mới làm, noi theo phép cũ,
Một ngày hai ngày, muôn việc kính cẩn,
Khảo tích xét công, chia quan giữ chức,
Đầy đủ cơ mưu, sửa sang trăm việc,
Đạo đức sâu xa, mưu mô tín thực.
Nhân tài đào tạo, rạng rỡ nhường bao!
Như thơ Vực bốc, như thơ Thanh Nga (27)
Tuế cống rộng lối, ngạch đỗ thêm nhiều,
Một năm hai bảng, bảy năm chín khoa,
Học trò rạng vẻ, ngành học rộng ơn,
Văn chương rạng rỡ, Trời đất bao la,
Văn kinh thi sử, tỏ ra thịnh hòa.
Vào khoảng năm đầu, cõi tây làm loạn,
Nghĩ kế dẹp yên, để được bình định,
Quân mạnh sai đi, giết kẻ bạo ngược,
Xiêm đã phục tùng, Lạp cũng quy thuận,
Nước mất dựng lên, dòng tuyệt lối lại,
Quân lính vẹn toàn, cõi đất yên lặng,
Khói lửa không lo, cửa nhà vui vẻ.
Công vũ nối mạnh, nền văn chấn hưng,
Trong yên ngoài phục, của giàu dân đông,
Đạo hóa thấm khắp, khi hòa thịnh nhiều,
Mười phần thịnh trị vời vợi công cao,
Bảy năm trị nước, đức thấu đến trời,
Hàng ngày làm việc, rất mực siêng chăm.
Mùa thu đinh mùi, gượng sức coi việc,
Không quên thiên hạ, không quên con nhỏ,
Di chiếu tay phê, đức âm còn đó,
Vò võ một mình, sao hay nối chí,
94
Đội đức nhớ công, núi cao trông ngóng
Bia đá tạc ghi, bao năm tỏ rõ!...
Hiếu tử nối ngôi hoàng đế, Thần Thì kính ghi!
CHÚ THÍCH
(1) Mẹ vua Thiệu Trị là bà Hồ Thị Hoa
(2) Thực lục ghi: “Hiến tổ Thiệu thiên Long vận, Chí thiện Thuần hiếu,
Khoan minh Duệ đoán, Văn trị Vũ công, Thánh triết Chương hoàng đế. Tên húy là
Miên Tông, 綿宗, lại húy là Tuyền 日旋 tên tự là... sinh ngày Nhâm tí, 11 tháng 5,
năm Đinh mão, Thế tổ Cao hoàng đế Gia Long năm thứ 6 (Thanh, Gia Khánh năm
thứ 12) [1807], là con trưởng của Thánh tổ Nhân hoàng đế. Mẹ là Thuận Đức
Nhân hoàng hậu họ Hồ, sinh nhà vua ở ấp Xuân Lộc phía đông Kinh thành (sau
này lập nên chùa Diệu Đế ở ngay chỗ đất ấy). Vua sinh ra được 13 ngày thì mẫu
hậu mất, vua khóc thương mãi không thôi, Thuận thiên Cao hoàng hậu đem về
nuôi ở trong cung (Thực lục, Tập VI, 2007, tr 20)
(3) Thế tổ Cao hoàng đế đến thăm, mừng, nói: “Trẻ con mới sinh ra mà
biết khóc thương, là tính trời sinh, ngày sau thế nào cũng giữ trọn đạo hiếu”. Ẵm
đến, Thế tổ phán cho lấy chữ về bộ “nhật” 日 để đặt tên (Thực lục, tập VI, 2007,
tr 20)
(4) Thái Vương nhà Chu có 3 con trai, con trưởng là Thái Bá, con thứ là
Ngu Trọng (tức là Trọng Ung) con út là Quý Lịch (tức Vương Quý). Quý Lịch
lấy vợ là Thái Nhâm, sinh con là Xương có thánh đức, Thái Bá và Ngu Trọng
biết ý Thái vương muốn lập Quý Lịch để truyền đến con là Xương (Xương là
Văn Vương sau này), 2 người bèn trốn đi. Sau Thái Vương chết, Quý Lịch lập
lên, Quý Lịch chết, Xương lập lên tức là Văn Vương.
(5) Đầu năm Minh Mệnh, đến nhà học đọc sách. Thánh tổ Nhân hoàng đế
dụ bảo cho biết đạo trị nước, bình thiên hạ cốt ở chí thiện của sách Đại học; nhân
thể đặt tên cho nhà học ấy là Chỉ Thiện đường 止善堂 (Thực lục tập Vi, 2007, tr
20)
(6) Phủ trông coi các việc trong họ hoàng tộc
95
(7) Năm thứ 17 [1836], tháng 8, vâng tỷ thư kiêm nhiếp chức Tôn nhân
phủ Tả tôn chính giữ việc định chương trình, chính phả hệ, ban giáo lệnh, xếp đặt
tước lộc, nêu ra những người liêm khiết tài năng, đức tốt ở Tôn nhân phủ mỗi
ngày một nổi tiếng (Thực lục tập Vi, 2007, tr 20)
(8) Từ ngày 19 tháng ấy về trước là năm Minh Mệnh thứ 22; từ ngày 20 trở
về sau là năm Thiệu Trị thứ nhất (Thực Lục, tập VI, tr21)
(9) Thái đàn: là đàn tế trời.
(10) Nghiêm thân: là cha.
(11) Văn mẫu: tức là Thái tự, là vợ Văn vương mẹ sinh ra Vũ vương nhà
Chu.
(12) Hữu lăng: tức lăng Thuận Thiên Cao hoàng hậu, sinh ra Minh Mệnh
(13) Mùa đông tháng 10 năm Thiệu Trị thứ 1 “bắt đầu đặt quan và thuộc
viên ở Sử quán...” (Thực lục, tập VI, tr 240)
(14) Tháng 11 năm Thiệu Trị thứ 4: Chia định những tào cục trong các cơ
quan , quy định số lượng quan lại và chức trách trong các Bộ, Ty (Thực lục, Tập VI,
tr 681- 687).
(15) Mùa xuân tháng 2 năm thứ 2, ban biển vàng đề chữ “Niên khánh an
lan”, lại làm câu đối (có những chữ: Niên niên dạn đắc hà lưu thuận; Xứ xứ hải
hân tuế cốc phong). Sai quan địa phương chế khắc đem treo ở miếu thờ thần sông
ở Sơn Tây, mong cho nước sông chảy thuận (Thực lục, tập VI, tr 312)
(16) Mùa xuân, tháng 3 năm Thiệu Trị thứ 2, “sai đại thần trong Kinh và
ngoài tỉnh tính liệu việc làm thuận tiện về sông Cửu An” (Thực lục, tập VI,
tr330)
(17) Vua Vũ nhà Hạ đi đường thấy người có tội xuống xe hỏi han rồi
thương khóc. Vua Thang nhà Thương thấy người đánh lưới chim, vây lưới 4 mặt,
vua Thang sai cởi ra 3 mặt chỉ để 1 mặt thôi.
(18) Mùa hạ, tháng 5, năm Thiệu Trị thứ 3 vua sai biên tập bộ Đại Nam hội
điển. Vua xuống dụ rằng: Nhà nước đặt ra chế độ, tất phải chép ra thành sách rõ
ràng, khiến cho có thể truyền mãi lâu dà. Phép của Nghiêu, Thuấn rõ rệt ở thiên
“điển”, thiên “mô”; chính của Văn, Vũ chép ở phương sách, đều làm nên mực
cho đời sau” (Thực Lục, tập VI, tr 507).
96
(19) Mùa xuân, tháng giêng năm Thiệu Trị thứ 5, sai làm bộ Thiệu Trị văn
quy (Thực lục, tập VI, tr 704 - 705)
(20) Mùa hạ tháng 6 năm Thiệu Trị thứ 6, Bộ binh dâng điều lệ trường thi
võ ở kinh về ngày thi, phép thi ba kỳ, Về việc chọn phái quan trường, ngày ra
bảng thi, lễ ban yến, việc bổ dụng... Bắt đầu mở trường thi võ ở kinh đô, lấy đỗ
52 người... (Thực lục, tập VI, tr 888 -898 & tr 903).
(21) Tháng 2 năm Thiệu Trị thứ 7, vua cho khắc in bộ Cổ kim thể cách
(gồm hơn 70 thể, được 157 bài thơ) (Thực lục, tập VI, tr 980 )
(22) Kiều sơn: Trên núi này có mả vua Hoàng đế. Đây mượn để chỉ lăng
của Thiệu Trị.
(23) Mùa đông, tháng 10, ngày Giáp tý dựng bia Thánh đức thần công ở
Xương Lăng (Thực Lục tập XXVII, 1973, tr133).
(24) Trương Tín: tên một cung của nhà Hán, chỗ hoàng thái hậu ở.
(25) Quản đỏ: tức là quản bút đỏ, nữ sử ngày xưa dùng để biên chép
khuyên răn.
(26) Giản Định: vợ vua Đế Cốc, nuốt trứng của chim Huyền Điểu, rồi có thai,
sinh ra ông Tiết, sau con cháu ông Tiết sinh ra vua Thang nhà Thương.
(27) Vực Bốc, Thanh Nga: Tên 2 bài thơ trong Kinh thi, đều khen Chu Văn
Vương gây dựng được nhiều nhân tài.
2.5. Văn bia lăng Tự Đức
2.5.1. Nguyên văn chữ Hán
謙 宮 記
天 氣 輕 清 故 能 悠 久 風 雲 雨 露 無 常 形 固 不 必 說 若
有 形 雖 大 如 地 亦 有 時 坼 圮 明 如 日 月 亦 有 時 闕 昃 晦 蝕
他 如 山 高 海 深 金 堅 石 確 皆 其 為 物 之 最 卓 卓 者 亦 不 能
無 崩 涸 銷 爛 之 虞 何 況 於 人 乎 哉 人 之 於 生 死 大 矣 然 亦
常 矣 顏 夭 彭 壽 夷 善 跖 惡 其 生 者 固 自 不 同 其 死 者 無 不
同 也 蓋 不 朽 者 名 也 無 不 朽 者 身 也 又 何 汲 汲 乎 身 後 事
97
惟 葬 者 藏 也 所 以 別 於 禽 獸 禮 也 亦 情 也 君 即 位 而 為
歲 一 漆 之 藏 焉 予 敢 違 先 王 之 制 彊 者 猶 憂 靡 常 矧 弱 者
何 敢 必 予 稟 受 甚 薄 初 生 時 已 為 母 氏 病 痛 累 旬 月 始 愈
自 母 不 謹 潔 母 訓 不 悛 恐 昏 憒 纔 到 三 歲 已 屏 斥 絕 乳 氣
惟 躬 自 撫 育 自 是 羸 疾 牽 延 婁 危 殆 朝 夕 懷 抱 劬 勞 極 矣
能 言 行 即 已 握 炭 頻 畫 于 牆 壁 人 異 之 問 答 謂 寫 狀 字 蓋
俗 稱 進 士 及 弟 為 狀 元 而 今 得 於 母 言 云 總 角 已 命 就 傳
讀 書 小 學 之 間 已 放 然 屬 對 吟 何 知 聲 律 皇 考 嚴 而 慈
小 子 自 幼 至 成 童 因 行 輩 過 得 失 答 責 止 一 次 數 下 而 已
然 甚 敬 憚 不 數 訓 訓 必 勉 時 建 詩 對 頗 蒙 色 笑 一 日 戲 問
眾 子 汝 某 名 何 義 各 以 意 對 不 知 是 否 小 子 率 爾 據 所 學
訓 詁 以 洪 為 重 大 任 負 荷 以 對 奉 顧 而 微 哂 曰 重 負 者 何
樵 薪 耶 太 后 慈 而 嚴 日 常 教 以 應 對 進 退 之 節 務 合 禮 度
不 許 嬉 遊 每 旦 出 外 舍 學 問 近 午 方 入 有 失 記 怠 惰 譴 責
隨 之 若 未 熟 必 令 兀 坐 熟 讀 方 止 否 則 雖 戲 劇 近 前 亦 未
許 一 看 小 子 幸 資 鍾 毓 幼 稍 頻 讀 小 學 開 心 之 類 半 日 間
已 爛 熟 一 卷 亦 畏 嚴 訓 故 爾 幸 少 笞 責 過 重 不 得 不 笞 笞
已 復 泣 皇 考 每 幸 必 攜 隨 常 茂 園 始 完 亦 從 與 居 皇 考 奉
旨 秋 審 冊 不 敢 輕 委 于 人 親 自 寫 奏 章 夜 深 亦 小 子 侍
側 呼 字 便 寫 是 歲 纔 周 星 適 皇 考 初 受 璽 遭 大 故 之 詰 朝
98
眾 妾 子 未 暇 召 獨 先 召 小 子 入 皇 福 殿 護 付 明 年 命 出 居
潛 邸 後 更 名 善 慶 堂 也 便 講 習 又 明 年 遇 邦 交 鉅 典 將 命
充 京 守 尋 復 隨 駕 北 巡 預 執 事 一 路 往 還 朝 夕 隨 御 營 又
明 年 錫 封 公 爵 出 府 納 姬 正 志 學 之 年 也 雖 已 有 室 猶 常
召 入 侍 內 庭 邇 陪 御 筳 賜 予 特 厚 有 至 夜 深 始 出 者 或 遇
敕 諭 大 文 字 亦 令 檢 校 御 筆 應 制 賦 詩 則 數 焉 有 時 方 侍
膳 賜 食 亦 命 放 箸 即 席 成 詠 使 宮 嬪 捧 御 筳 文 寶 函 慎
于 座 許 其 取 用 待 不 疑 恩 至 屋 小 子 何 敢 踰 則 詠 成 即 以
方 御 用 玉 碗 連 餘 飯 賜 之 曰 兒 食 此 以 承 餘 慶 有 時 侑 觴
奏 樂 鼓 吹 歌 舞 翕 如 也 亦 命 即 事 口 占 小 子 勉 承 即 得
一 絕 立 取 御 用 金 玉 指 環 以 賜 之 曰 此 不 足 珍 今 賜 爾 無
忝 爾 所 生 一 句 爾 其 念 哉 小 子 拜 受 銘 心 鏤 骨 焉 且 予
是 時 始 讀 四 書 詩 書 猶 未 竟 略 習 詩 多 不 成 語 第 以 兄 弟
中 或 怠 或 幼 讀 稍 識 字 時 幸 而 敏 應 故 特 蒙 過 愛 所 以 為
父 母 之 量 罔 極 之 德 也 寔 則 學 殖 貧 腹 笱 空 空 然 蓋 以 自
為 皇 孫 至 為 皇 子 凡 充 師 傳 者 無 巨 儒 名 士 克 稱 斯 選 率
多 老 秀 才 堇 堪 訓 蒙 者 已 縱 有 問 難 亦 無 所 啟 導 又 見 其
夙 慧 以 為 可 保 無 累 遂 安 於 閒 識 虛 課 焉 耳 予 亦 苦 無 多
書 未 能 深 解 不 知 以 此 為 樂 而 以 騎 射 為 樂 本 由 少 年 氣
習 使 然 然 而 漸 進 亦 不 自 知 其 所 以 然 也 至 如 以 他 事 獲
99
槳 亦 難 盡 述 即 如 侍 射 屢 能 命 中 叔 弟 行 侍 衛 輩 所 共 見
知 至 謂 凡 御 用 弓 矢 聽 兒 擇 適 以 習 諸 器 物 後 豈 誰 貽 有
知 者 已 默 識 其 大 意 一 日 侍 射 于 禁 園 有 太 后 侍 予 已 發
四 矢 尚 持 一 矢 奉 面 諭 爾 射 此 矢 務 中 鵠 以 慰 爾 母 心
小 子 承 命 即 彎 弧 發 矢 幸 亦 如 旨 聖 心 本 自 深 遠 非 炎 涼
徒 所 可 測 予 亦 視 之 闊 然 未 嘗 留 意 有 忌 競 者 若 罔 聞 有
勸 人 閣 習 政 事 者 曰 有 兄 在 性 又 寡 言 多 羞 凡 非 至 親 故
雖 親 蕃 大 臣 入 朝 相 遇 亦 罕 致 詞 作 熊 如 夫 人 之 為 者 以
故 人 亦 寡 交 予 亦 樂 安 於 澹 拙 也 氣 血 弱 身 體 常 瘐 方 此
少 年 無 事 而 嗣 續 猶 艱 難 慰 父 母 之 望 甚 愧 焉 予 猶 是 粗
疏 未 以 為 意 近 冠 年 六 月 忽 出 痘 毒 甚 危 劇 賴 父 母 多 方
醫 禱 八 月 始 愈 攝 限 未 滿 面 痂 未 落 但 甚 瞻 戀 力 疾 趨 謝
于 朝 行 跪 猶 傾 跌 蒙 免 拜 又 取 止 善 堂 會 集 賜 之 曰 心 法
治 法 都 在 此 爾 學 而 踐 焉 又 召 入 內 殿 賜 見 太 后 許 捋 龍
鬚 不 覺 涕 泗 交 下 蓋 久 睽 也 又 從 容 賜 御 製 倣 虞 舜 卿 雲
歌 率 以 原 作 有 韻 檢 奏 蒙 厚 加 獎 賞 因 譴 閣 臣 以 失 檢 之
故 未 幾 皇 考 不 預 即 于 是 月 下 旬 至 于 九 月 下 旬 同 諸 兄
弟 大 臣 常 直 粟 禁 中 侍 醫 藥 問 起 居 辰 也 雨 澇 雖 元 氣
未 復 亦 冒 涉 寒 水 日 夜 衣 巾 不 敢 解 寢 食 俱 滅 倦 甚 則 倚
枉 假 寐 聞 宣 召 魂 不 附 體 即 隨 中 使 趨 侍 皆 分 固 當 然 不
100
會 自 念 惟 冀 日 慶 安 長 聆 訓 迪 詎 意 昊 天 弗 弗 據 已 遺 大
投 艱 于 沖 藐 人 嗚 呼 痛 哉 以 少 年 初 政 不 暗 悉 典 故 人 情
茫 昧 焉 惴 慄 焉 深 惟 弗 克 負 荷 又 人 胞 姊 延 福 長 公 主 不
幸 隨 薨 恐 重 傷 母 心 龜 勉 慰 解 一 行 間 多 故 驟 集 于 弱 質
疾 復 大 作 幾 至 委 頓 尚 賴 皇 祖 皇 考 德 澤 在 人 也 深 內 有
皇 太 后 整 肅 宮 闈 外 有 舊 德 諸 大 臣 布 列 朝 郡 協 心 匡 贊
凜 遵 成 憲 逡 巡 十 年 間 幸 無 大 過 雖 有 不 念 鞠 子 哀 不 得
已 從 公 論 伸 大 義 為 社 稷 計 粟 布 之 謠 寔 深 慚 痛 周 公 之
過 非 孟 子 誰 諒 之 噫 有 無 是 心 抑 為 群 小 所 誤 何 遽 至 自
栽 一 時 亦 難 盡 暴 百 世 有 青 吏 在 予 何 心 焉 大 抵 事 後 諭
人 予 不 能 無 恨 于 好 事 之 輩 為 此 類 也 若 能 觀 夫 後 來 委
曲 成 就 於 諸 孤 而 不 可 得 者 則 予 心 亦 可 以 對 于 天 下 矣
他 若 草 竊 姦 冗 有 時 煽 惑 亦 迄 無 事 皆 資 眾 力 也 予 何 能
焉 嗚 呼 愚 而 狃 安 昧 于 牖 戶 衣 袈 之 戒 能 臣 宿 將 亦 已 太
半 凋 射 幾 能 恢 我 皇 考 海 防 之 遺 訓 用 躋 予 于 無 過 之 地
皇 天 乃 降 厚 罰 以 警 我 君 臣 逖 焉 重 洋 萬 餘 里 風 馬 牛 不
相 及 之 歐 州 人 而 素 有 舊 之 富 浪 沙 國 者 師 船 突 如 其 來
棄 好 尋 仇 侵 我 邊 鄙 恃 船 堅 駁 利 肆 其 吞 噬 遏 于 廣 南 軼
于 嘉 定 北 圻 喜 亂 姦 民 亦 因 而 蟄 動 承 平 日 久 人 不 知 戰
干 城 保 章 有 幾 人 焉 以 致 山 海 群 盜 內 姦 外 寇 暗 相 綈 串
101
滋 蔓 所 至 風 靡 誰 與 保 吾 境 矧 可 保 吾 民 不 得 已 征 繕 以
從 事 而 民 益 騷 然 瘁 止 不 得 已 因 虜 求 成 遣 使 與 約 耆 儒
碩 輔 慨 然 往 不 審 何 故 而 容 易 成 言 以 還 率 將 累 朝 艱
難 闢 聚 之 土 地 人 民 一 旦 盡 棄 與 敵 其 於 擇 禍 取 輕 以 子
固 爭 使 不 辱 君 命 果 如 是 乎 使 朕 與 慦 遣 一 老 無 可 奈 何
相 對 飲 泣 已 甘 得 罪 於 尊 廟 天 下 沒 者 不 得 完 志 業 存 者
長 戚 戚 莫 之 能 雲 是 孰 階 之 厲 也 若 謂 棄 已 失 轉 已 危 不
如 是 安 保 其 往 夫 棄 之 者 若 有 功 則 失 之 者 固 有 過 若 失
之 者 未 定 過 則 棄 之 者 何 謂 功 二 者 必 有 能 辨 者 況 如 彼
既 失 之 我 能 復 之 曰 功 宜 矣 彼 既 失 之 我 隨 棄 之 功 嗚 呼
在 安 可 逆 億 以 為 智 誣 祝 以 為 功 而 私 議 者 猶 為 之 辭 不
恤 國 是 無 怪 乎 日 益 側 情 事 務 增 煩 不 知 人 心 曾 不 隱 痛
然 而 知 人 不 明 予 罪 也 用 人 不 稱 亦 予 罪 也 凡 百 不 舉 皆
予 罪 也 不 得 已 巽 以 行 權 冀 其 小 息 天 下 自 此 始 多 事 矣
回 思 當 日 羽 檄 交 馳 機 務 填 委 日 夜 寢 饋 失 節 如 痴 如 醉
至 今 驚 魂 猶 未 定 而 羸 疾 日 更 加 其 又 不 幸 卒 遭 急 病 絕
而 復 蘇 於 是 頭 運 目 眩 腳 軟 腹 滯 諸 虛 症 悉 見 祭 祀 不 能
親 問 政 不 能 勤 而 咎 謗 所 由 來 加 也 誠 恐 一 旦 奄 忽 智 不
狐 若 為 羞 乃 太 吏 預 相 地 得 於 陽 春 上 曠 土 廷 臣 覆 視 曰
宜 蓋 從 術 家 云 者 於 予 何 顧 哉 又 謂 是 年 甲 子 是 月 丙 子
102
皆 合 宜 起 辨 乃 俯 從 營 建 焉 於 是 有 司 名 事 其 事 效 其 勞
高 因 高 下 因 下 經 營 相 度 修 理 補 削 於 是 磽 确 鑿 蓁 落 而
城 池 宮 殿 樓 閣 亭 榭 院 廡 湖 島 咸 出 焉 合 位 置 而 相 聯 絡
也 正 中 為 吾 永 宅 庚 山 甲 向 不 陵 不 墳 止 留 平 地 作 低 塋
相 來 必 令 從 霸 陵 用 瓦 器 而 已 其 脈 來 之 山 曰 引 謙 勞 謙
蹈 謙 隆 謙 居 謙 履 謙 自 遠 而 近 也 其 右 山 繚 以 牆 開 樓 門
曰 謙 宮 門 之 內 外 設 四 廡 曰 前 殿 曰 和 謙 殿 為 後 日 香 火
憑 依 之 所 後 殿 曰 良 謙 殿 為 供 奉 安 輿 承 歡 之 所 殿 之 東
曰 鳴 謙 堂 備 臨 幸 奏 樂 也 殿 之 西 曰 溫 謙 堂 置 尚 方 服 御
也 宮 門 禮 謙 法 謙 臣 工 宿 直 處 也 兩 殿 之 後 右 設 四 院 曰
從 謙 用 謙 依 謙 持 謙 嬪 御 隨 侍 處 也 後 殿 後 聊 一 小 閣 曰
益 謙 卑 而 足 以 望 近 景 也 前 門 前 別 建 堂 廊 曰 至 謙 狹 而
足 以 祀 諸 舊 姬 也 水 之 小 者 小 謙 池 也 作 新 月 樣 橫 正 局
前 淺 而 涸 堇 堪 積 雨 從 青 烏 術 也 水 之 大 者 流 謙 湖 也 縈
迴 灣 轉 自 右 及 左 深 而 清 夏 不 竭 秋 不 溢 蓋 因 深 田 以 鑿
成 又 設 竇 以 放 廡 外 田 蓄 洩 素 其 故 也 湖 半 成 而 群 魚 已
發 發 然 然 不 勝 數 不 待 埔 畜 蓋 因 勢 而 利 導 之 故 也 又 于
湖 頭 而 畔 有 水 自 地 中 流 出 觀 其 石 則 無 隙 可 尋 而 水 常
泠 泠 然 有 聲 瀏 瀏 最 清 注 于 湖 日 夜 不 停 寔 由 天 成 疑 有
伏 泉 而 難 明 也 因 于 是 處 略 構 水 陸 廠 舍 架 以 竹 葺 以 茅
103
足 蔽 暑 雨 泊 小 船 二 亦 曰 順 謙 隱 謙 時 因 風 月 歷 泛 于 湖
採 君 子 花 歌 愛 蓮 曲 爽 然 無 他 欲 蓋 滿 湖 惟 植 此 花 而 已
也 湖 之 旁 架 起 二 榭 其 一 兩 層 梢 高 而 爽 是 曰 沖 謙 其 一
三 層 層 層 愈 低 頗 狹 亦 適 是 曰 愈 謙 午 風 月 夜 足 以 垂 鉤
湖 之 中 酌 省 工 役 量 留 土 石 築 一 大 島 豎 三 小 亭 命 之 曰
雅 謙 標 謙 樂 謙 累 之 以 山 石 蔭 之 以 花 木 為 磴 為 峒 為 林
為 谷 飛 禽 走 獸 以 聚 以 畜 而 孔 雀 鳴 白 兔 伏 錦 雞 宿 名 適
其 所 矣 湖 之 上 間 跨 三 橋 曰 循 謙 煎 謙 由 謙 以 濟 不 通 而
水 陸 自 相 連 屬 矣 其 左 山 山 之 腳 體 謙 亭 在 焉 設 榭 堋 為
榭 場 也 山 之 腰 執 謙 齋 傍 焉 翼 以 廊 以 通 于 樓 也 山 之 巔
彌 謙 樓 聳 焉 稍 軒 豁 可 以 遠 望 也 包 之 以 羅 城 宛 轉 起 伏
隨 山 勢 而 施 設 也 然 猶 是 人 工 未 若 四 面 群 山 連 延 環 抱
望 之 若 壁 若 障 不 偏 不 漏 是 之 謂 天 然 羅 城 也 外 門 凡 三
曰 務 謙 自 謙 尚 謙 內 門 凡 六 曰 必 謙 柔 謙 撝 謙 能 謙 牧 謙
廉 謙 皆 門 名 也 乃 隨 其 宜 布 其 類 為 豆 棚 為 花 棧 為 果 徑
為 蔬 畦 為 鹿 洞 為 魚 沿 雖 山 土 似 乎 堯 瘠 而 栽 之 亦 易 茂
奐 之 亦 易 給 其 亦 地 氣 使 然 耶 總 名 之 曰 謙 宮 後 亦 必 謂
之 謙 陵 又 令 建 神 祀 列 祀 典 錫 封 誥 亦 稱 之 為 謙 山 神 云
大 凡 名 必 顧 義 飛 徒 名 也 夫 何 以 吾 之 謙 而 使 某 山 某 水
某 堂 某 室 亦 皆 從 之 而 為 謙 彼 其 何 咎 乎 哉 又 果 何 知
104
乎 哉 併 而 強 加 之 名 果 已 能 安 乎 哉 而 吾 何 取 於 謙 乎 哉
其 謙 之 為 謙 果 誠 乎 哉 夫 謙 者 驚 也 讓 也 有 而 不 居 屈 己
下 物 者 也 以 予 之 蒙 恥 負 罪 如 是 謙 莫 大 焉 屈 莫 甚 有 何
才 能 功 德 而 不 居 乎 第 以 素 尚 樸 淡 位 雖 黃 屋 而 心 常
若 布 素 除 是 服 章 之 外 無 毫 葩 麗 抑 亦 有 而 不 居 之 義 也
加 以 自 營 此 宮 之 日 雷 震 和 謙 殿 亂 民 惑 眾 犯 闕 天 譴 人
怨 不 期 薦 至 予 心 尚 何 有 哉 而 不 敢 不 謙 也 惟 知 始 終 一
徑 殫 竭 心 思 幸 可 維 持 補 救 萬 一 則 其 謙 者 豈 敢 不 誠 乎
故 因 而 儘 名 之 亦 欲 隨 觸 隨 感 用 自 省 戒 并 自 眨 之 非 如
愚 溪 非 愚 而 并 愚 辱 之 則 遑 問 彼 之 安 然 與 否 非 敢 必 何
虧 何 益 何 害 何 福 而 為 此 趨 避 也 且 予 之 作 是 宮 者 原 念
例 有 別 廟 又 有 陵 寢 不 有 豫 制 厥 後 臣 子 率 循 典 故 難 免
遙 阻 煩 勞 故 并 而 節 之 誠 欲 便 而 更 便 況 此 處 又 是 山 源
之 最 下 者 從 前 諸 陵 獨 為 甚 近 水 土 平 善 無 茂 林 峻 嶺 頗
易 施 工 殿 宇 雖 多 而 獨 有 和 謙 良 謙 彌 謙 別 構 新 林 餘 皆
掇 取 舊 屋 移 彼 就 此 而 其 工 役 猶 至 三 年 始 成 一 切 營 善
勞 賜 之 需 且 以 百 萬 計 則 其 勞 費 為 何 如 豈 予 所 得 已 也
嗚 呼 其 視 成 子 高 之 言 能 不 內 媿 哉 既 成 乃 親 奉 慈 駕 臨
幸 陳 御 宴 進 歌 舞 又 賜 內 外 庭 臣 妾 同 樂 之 體 群 情 也 予
豈 好 多 儀 為 哉 然 亦 將 效 司 空 表 聖 賦 詩 酌 酒 於 其 中 非
105
特 歌 哭 與 聚 於 斯 也 已 是 後 時 因 清 明 輦 謁 陵 順 路 駐
蹕 擷 甘 芳 擇 鮮 肥 調 珍 羞 供 歡 奉 云 耳 時 因 苦 熱 舒 煩 暫
往 觀 省 一 年 中 不 過 二 三 度 不 遑 暇 焉 或 值 南 郊 大 祀 未
能 親 執 玉 帛 將 事 則 于 玆 遙 拜 放 竹 宮 故 事 少 伸 微 虔 登
高 四 望 面 郊 壇 背 靈 姥 寺 可 以 明 吾 平 生 之 向 背 也 生 未
能 盡 禮 死 亦 得 以 永 朝 矣 右 近 昌 陵 左 對 文 廟 足 以 慰 吾
思 慕 欽 仰 之 忱 他 年 魂 魄 得 以 永 依 始 終 一 道 而 已 至 若
新 墳 舊 塚 四 面 纍 纍 多 少 故 人 半 登 鬼 錄 又 有 不 知 公 卿
凡 庶 碌 碌 皆 如 是 猶 登 北 邙 望 蒿 里 白 楊 悲 風 終 古 無 已
凡 一 生 營 營 切 切 者 果 何 為 哉 又 何 必 指 新 豊 道 而 致 慨
焉 也 所 可 慨 者 學 未 成 志 未 副 虛 名 不 足 以 抵 寔 罪 弱
質 不 足 以 幹 蘩 務 致 今 淪 殭 未 復 邊 患 未 平 嗣 續 艱 遲 為
天 暇 得 人 難 憑 誰 幹 蠱 徒 以 天 生 真 性 知 能 未 昧 雖 疾 惡
太 甚 情 鬱 太 深 未 免 時 或 躁 怒 亦 必 有 故 然 凡 事 每 從 寬
厚 不 敢 妄 取 為 故 久 秉 生 剎 之 權 而 未 嘗 不 由 司 敗 案 成
而 擅 剎 一 也 以 至 悲 喜 亦 不 甚 形 向 來 予 所 最 悲 者 惟 侍
疾 之 秋 皇 考 疾 大 漸 惟 幾 忽 然 瞑 眩 左 右 侍 者 皆 遠 避 獨
予 升 御 床 親 灌 藥 涕 泗 被 面 狂 遽 呼 號 幸 而 陽 氣 漸 回 復
得 小 延 侍 間 至 寧 陵 日 帥 諸 皇 親 大 臣 護 梓 宮 安 于 玄 宮
畢 磕 首 大 慟 攀 戀 其 側 幾 不 自 覺 有 其 身 矣 諸 大 臣 請 出
106
亦 不 之 覺 東 閣 大 學 士 武 春 謹 乃 執 手 擁 出 成 人 生 之 最
悲 者 莫 此 若 他 則 或 因 見 聞 忠 臣 孝 子 之 事 不 覺 悽 然 泣
下 至 于 哽 咽 不 能 卒 讀 發 聲 者 其 餘 人 所 悲 者 予 不 甚 悲
人 所 喜 者 予 不 甚 喜 今 孝 讀 書 但 苦 不 暇 不 求 甚 解 不 能
疆 記 敬 有 得 亦 不 敢 勦 說 雷 同 凡 著 詩 文 直 寫 胸 臆 不 假
思 索 雕 琢 惜 勤 政 殿 大 學 士 張 登 桂 每 謂 純 乎 雖 一 言 半
識 亦 足 為 平 生 知 己 故 舊 其 可 忘 乎 予 嘗 謂 歷 代 締 王 賢
庸 不 少 若 以 功 名 言 則 漢 文 不 及 唐 太 以 德 性 言 則 唐
太 又 遠 不 及 漢 文 此 亦 天 賦 非 可 疆 而 能 予 非 敢 薄 唐 太
但 竊 願 效 漢 文 耳 故 事 事 務 寔 孳 孳 以 養 民 固 本 為 念
日 夕 決 幾 判 事 目 覽 乎 手 批 不 遺 餘 力 雖 亦 不 免 有 聲 色
禽 化 之 娛 仍 亦 不 過 尋 常 消 遣 不 計 有 無 寔 不 敢 毫 有 病
民 妨 政 然 而 企 未 能 蓋 由 予 德 不 足 以 化 俗 才 不 足 以 作
人 志 大 而 識 寡 求 重 而 應 輕 況 且 今 之 世 界 風 俗 是 何 世
界 風 俗 不 但 偏 方 列 國 爭 尚 功 利 詐 力 即 文 獻 之 邦 公 卿
士 庶 亦 間 多 貪 刻 欺 飾 習 以 城 風 張 薄 功 掩 厚 過 甘 小 利
安 大 害 苟 有 一 人 一 國 異 之 則 眾 共 愚 之 毀 之 誠 有 甚 於
春 秋 戰 國 之 世 雖 孔 孟 復 生 亦 末 如 之 也 已 矣 夫 以 大 清
尊 國 而 亦 不 能 自 強 則 其 他 尚 可 言 哉 今 予 內 無 繼 體 之
歡 外 多 難 平 之 事 眇 然 一 身 憂 咎 叢 致 常 人 之 晴 猶 不 堪
107
此 貺 於 予 乎 惟 以 一 誠 以 御 百 虛 所 恃 者 幾 何 其 亦 自 信
夫 有 天 而 已 而 予 所 信 者 非 敢 盡 信 夫 運 數 之 天 而 特 信
夫 道 理 之 天 則 亦 惟 盡 吾 心 焉 而 已 矣 盡 吾 心 焉 則 謙 所
以 保 泰 吾 不 敢 不 從 而 居 謙 以 盡 乎 人 事 泰 所 以 著 謙 吾
亦 不 敢 不 勉 其 致 泰 以 彰 乎 天 道 是 則 柔 克 而 剛 克 存 焉
謙 卑 而 受 謙 係 焉 不 但 不 相 反 亦 莫 不 相 因 以 成 是 之 謂
天 道 下 濟 君 子 有 終 者 歟 自 非 飽 經 憂 患 其 孰 與 我 知 而
與 我 言 亦 無 可 與 歸 處 則 將 來 觀 者 又 何 煩 哉 是 以 疚 心
若 志 匪 朝 伊 夕 不 覺 有 似 乎 狂 狷 者 微 聖 人 誰 為 起 予 亦
將 待 惟 天 與 聖 以 完 予 志 不 敢 以 不 可 為 而 不 為 不 可 化
而 不 化 一 日 亦 思 盡 一 日 之 責 焉 耳 今 予 所 紀 寔 只 皆 予
所 獨 知 而 眾 莫 得 知 以 少 伸 予 志 於 天 下 若 夫 事 狀 得 失
自 有 吏 筆 予 不 傲 至 於 文 法 詞 葩 無 足 論 也 後 來 幸 哉 能
副 予 志 予 將 必 有 以 續 之 不 然 誰 其 續 之 亦 宜 深 諒 予 心
慎 毋 事 文 飾 為 也 人 為 銘 以 自 敬 云 銘 曰
陽 春 之 上 兮
惟 予 之 宅 矣
山 卑 而 地 僻 兮
亦 狀 予 謙 意 以 自 責 矣
誰 與 予 同 心 以 完 予 志 兮
108
噫 求 之 而 未 獲 矣
惟 天 其 鋻 兮
我 心 有 如 此 石 矣
嗣 德 二 十 四 年 六 月 御 製 至 二 十 八 年 四 御 筆
2.5.2. Phiên âm
Khiêm cung kí
Thiên khí khinh thanh, cố năng du cửu. Phong vân vũ lộ vô thường hình, cố
bất tất thuyết. Nhược hữu hình, tuy đại như địa diệc hữu thời sách bĩ; minh như
nhật nguyệt, diệc hữu thời khuyết trắc hối thực. Tha như sơn cao, hải thâm, kim
kiên, thạch xác giai kỳ vi vật chi tối trác trác giả, diệc bất năng vô băng hạo tiêu
lạn chi ngu, hà huống ư nhân hồ tai! Nhân chi ư sinh tử đại hĩ, nhiên diệc thường
hĩ! Nhan yểu, Bành thọ, Di thiện, Chích ác, kỳ sinh giả cố tự bất đồng, kỳ tử giả
vô bất đồng dã. Cái bất hủ giả danh dã, vô bất hủ giả thân dã; hựu hà cấp cấp hồ
thân hậu sự. Duy táng giả tàng dã, sở dĩ biệt ư cầm thú; lễ dã, diệc tình dã. Quân
tức vị nhi vi bì, tuế nhất tất chi tàng yên. Dư cảm vi tiên vương chi chế!Cường
giả do ưu, mĩ thường thẩn nhược giả hà cảm tất? Dư bẩm thụ thậm bạc. Sơ sinh
thời dĩ vi mẫu thị bệnh, thống lũy tuần nguyệt thủy dũ. Tự mẫu bất cẩn khiết,
mẫu huấn bất thuân. Khủng hôn hối, tài đáo tam tuế, dĩ bình xích tuyệt nhũ khí,
duy cung tự phủ dục. Tự thị, luy tật khiên diên lũ nguy đãi, triêu tịch hoài bão cù
lao cực hỹ. Năng ngôn hành tức dĩ ác thán tần họa vu tường bích, nhân dị chi
vấn, đáp vị tả trạng tự, cái tục xưng tiến sĩ cập đệ vi trạng nguyên, nhi kim đắc ư
mẫu ngôn vân. Tổng giác, dĩ mệnh tựu truyền độc thư. Tiểu học chi gian, dĩ
phóng nhiên thuộc đối ngâm vịnh, hà tri thanh luật!Hoàng khảo nghiêm nhi từ.
Tiểu tử tự ấu chí thành đồng nhân hành bối quá đắc thất, đáp trách chỉ nhất thứ
số hạ nhi dĩ, nhiên thậm kính đạn. Bất sổ huấn, huấn tất miễn. Thời kiến thi đối,
phả mông sắc tiếu. Nhất nhật hí vân: “Chúng tử, nhữ mỗ danh hà nghĩa ?” Các dĩ
ý đối, bất tri thị phủ. Tiểu tử suất nhĩ cứ sở học huấn hỗ, dĩ “hồng vi trọng đại,
Nhậm vi phụ hà” dĩ đối. Phụng cố nhi vi thẩn, viết: “Trọng phụ giả, hà tiều tân
da?” Thái hậu từ nhi nghiêm, nhật thường giáo dĩ ứng đối tiến thoái chi tiết, vụ
109
hợp lễ độ. Mỗi đán xuất ngoại xá học vấn, cận ngọ phương nhập. Hữu thất ký đãi
nọa, khiển trách tùy chi; nhược vị thục, tất linh ngộ tọa, thục độc phương chỉ, phủ
tắc tuy hý kịch cận tiền, diệc vị hứa nhất khan. Tiểu tử hạnh tư chung dục ấu sảo,
tần độc tiểu học, khai tâm chi loại, bán nhật gian dĩ lạn thục nhất quyến, diệc úy
nghiêm huấn, cố nhĩ hạnh thiểu si trách; quá trọng, bất đắc bất si, si dĩ hậu khấp.
Hoàng khảo mỗi hạnh tất huề tùy. Thường Mậu viên thủy hoàn, diệc tùng dữ cư.
Hoàng khảo phụng chỉ duyệt thu thẩm sách, bất cảm khinh ủy vu nhân, thân tự tả
tấu chương, dạ thâm diệc linh tiểu tử thị trắc, hô tự tiện tả. Thị tuế tài chu tinh
thích, Hoàng khảo sơ thụ tỷ, tao đại cố chi! Cật triêu chúng thiếp tử vị hạ triệu,
độc tiên triệu tiểu tử nhập Hoàng Phúc điện hộ thị. Minh niên mệnh xuất cư tiềm
để, hậu cánh danh Thiện Khánh đường dã, tiện giảng tập. Hựu minh niên ngộ
bang giao cự điển, tương mệnh sung kinh thủ, tầm phục tùy giá bắc tuần, dự chấp
sự. Nhất lộ vãng hoàn, triêu tịch tùy ngự doanh. Hựu minh niên, tích phong công
tước, xuất phủ nạp cơ, chính khí học chi niên dã. Tuy dĩ hữu thất, do thường triệu
nhập thị nội đình, di bồi ngự diên, tứ dư đặc hậu, hữu chí dạ thâm thủy xuất giả.
Hoặc ngộ sắc dụ đại văn tự diệc linh kiểm hiệu ngự bút, ứng chế phú thi tắc sổ
yên. Hữu thì phương thị thiên, tứ thực, diệc mệnh phóng trợ, tức tịch thành vịnh,
sử cung tần phủng ngự diên văn bảo hàm thận vu tọa, hứa kì thủ dụng. Đãi bất
nghi ân chí ốc! Tiểu tử hà cảm du, tắc vịnh thành, tức dĩ phương ngự dụng ngọc
uyển liên dư phạn tứ chi, viết: “Nhi thực thử dĩ thừa dư khánh”. Hữu thì, hựu
thương tấu nhạc, cổ xuy, ca vũ hấp như dã, diệc mệnh tức sự khẩu chiếm. Tiểu tử
miễn thừa, tức đắc nhất tuyệt. Lập thư ngự dụng kim ngọc chỉ hoàn dĩ tứ chi,
viết: “Thử bất túc trân! Kim tứ nhĩ vô thiểm sở sinh nhất cú, nhĩ kỉ niệm tai”.
Tiểu tử bái thụ, minh tâm lũ cốt yên. Thả dư thị thì thủy độc Tứ thư, Thi thư do
vị cánh lược tập, thi đa bất thành ngữ; đệ dĩ huynh đệ trung hoặc đãi hoặc ấu, độc
sảo thức tự, thì hạnh nhi mẫn ứng, cố đặc mông quá ái sở dĩ vi phụ mẫu chi
lượng, võng cực chi đức dã! Thực tắc học thận bần, phúc tư không không nhiên!
Cái dĩ tự vi hoàng tôn chí vi hoàng tử, phàm sung sư truyện giả vô cự nho danh sĩ
khắc xứng tư tuyển; suất đa lão tú tài cẩn kham huấn mông giả dĩ; túng hữu vấn
nan, diệc vô sở khải đạo, hựu kiến kỳ túc tuệ dĩ vi khả bảo vô lụy, toại an ư nhàn
chức hư khóa yên nhĩ! Dư diệc khổ vô đa thư, vị năng thâm giải, bất tri dĩ thử vi
110
lạc nhi dĩ kì xạ vi lạc, bản do thiếu niên khí tập sử nhiên. Nhiên nhi tiếm tiến,
diệc bất tự tri kỳ sở dĩ nhiên dã. Chí như dĩ tha sự hoạch tưởng diệc nan tận thuật.
Tức như thị xạ lũ năng mệnh trung thúc đệ hành thị vệ bối sở cộng kiến tri. Chí
vị; “Phàm ngự dụng cung thỉ, thính nhi trạch thích dĩ tập. Chư khí vật hậu khởi
thùy di?” Hữu tri giả dĩ mặc thức kỳ đại ý. Nhất nhật thị xạ vu cấm viên, hữu
Thái hậu thị. Dư dĩ phát tứ thỉ, thượng trì nhất thỉ, phụng diện dụ: “Nhĩ xạ thử thỉ
vụ trúng hộc dĩ úy nhĩ mẫu tâm”. Tiểu tử thừa mệnh, tức loan hồ, phát thỉ, hạnh
diệc như chỉ. Thánh tâm bản tự thâm viễn, phi viêm lương đồ sở khả trắc. Dư diệc
thị chi khoát nhiên vị thường lưu ý hữu kị cạnh giả. Nhược võng văn hữu khuyến
nhập các duyệt tập chính sự giả, viết: “ Hữu huynh tại”. Tính hựu quả ngôn đa tu,
phàm phi chí thân cố, tuy thân phiên đại thần, nhập triều tương ngộ diệc hãn trí từ,
tác thái như phu nhân chi vi giả. Dĩ cố nhân diệc quả giao; dư diệc lạc an ư đạm
chuyết dã. Khí huyết nhược, thân thể thường sấu, phương thử thiếu niên vô sự nhi
tự tục do gian nan, úy phụ mẫu chi vọng, thậm quỹ yên. Dư do thị thô sơ, vị dĩ vi
ý. Cận quan niên, lục nguyệt hốt xuất đậu độc thậm nguy kịch, lại phụ mẫu đa
phương y đảo, bát nguyệt thủy dũ. Nhiếp hạn vị mãn, diện gia vị lạc, đản thậm
chiêm luyến, lực tật xu tạ vu triều, hành quỵ do khuynh trật, mông miễn bái. Hựu
thủ “Chỉ Thiện đường hội tập” tứ chi, viết: “Tâm pháp trị pháp đô tại thử, nhĩ học
nhi tiễn yên”. Hựu triệu nhập nội điện tứ kiến Thái hậu, hứa loát long tu, bất giác
thế tứ giao hạ cái cửu khuê dã. Hựu thung dung tứ duyệt ngự chế phỏng Ngu
Thuấn “Khanh vân ca”; suất dĩ nguyên tác hữu vận kiểm tấu, mông hậu gia tường
thưởng, nhân khiển. Các thần dĩ thất kiểm chi cố. Vị kỷ, Hoàng khảo bất dự, tức
vu thị nguyệt hạ tuần chí vu cửu nguyệt hạ tuần, đồng chư huynh đệ, đại thần
thường trực túc cấm trung, thị y dược, vấn khởi cư. Thì dã vũ lạo, tuy nguyên khí
vị phục diệc mạo thiệp hàn thủy, nhật dạ y cân bất cảm giải, tẩm thực câu diệt.
Quyện thậm, tắc ỷ trụ giả mị; văn tuyên triệu hồn bất phụ thể, tức tùy trung sứ xu
thị. Giai phận cố đương nhiên, bất tằng tự niệm; duy kí nhật khánh an, trường
linh huấn địch...Cự ý hạo thiên phất điệu cự dĩ di đại đầu gian vu xung mạo nhân.
Ô hô thống tai! Ô hô thống tai...Dĩ thiếu niên sơ chính, bất ám tất điển cố nhân
tình. Mang muội yên! Chúy lật yên! Thâm duy phất phất khắc phụ hà! Hựu nhân
bào tỷ Diên Phúc trưởng công chúa bất hạnh tùy hoăng, khủng trọng thương mẫu
111
tâm, mãnh miễn úy giải. Nhất hành gian đa cố sậu tập vu nhược chất, tật phục đại
tác, kỷ chí ủy đốn. Thượng lại Hoàng tổ, Hoàng khảo đức trạch tại nhân dã thâm,
nội hữu Hoàng thái hậu chỉnh túc cung vi ngoại hữu cựu đức chư đại thần bố liệt
triều quận, hiệp tâm khuông tán lẫm tuân thành hiến, thuân tuần thập niên gian,
hạnh vô đại quá. Tuy hữu bất niệm cúc tử ai, bất đắc dĩ tùng công luận, thân đại
nghĩa vi xã tắc kế. Túc bố chi dao, thực thâm tàm thống! Chu công chi quá, phi
Mạnh Tử thùy lượng chi? Y! Hữu vô thị tâm? Ức vị quần tiểu sở ngộ, hà cừ chí
tự tài? Nhất thì diệc nan tận bộc, bách thế hữu thanh sử tại, dư hà tâm yên? Đại
để sự hậu luận nhân, dư bất năng vô hận vu hiếu sự chi bối vi thử loại dã. Nhược
năng quan phù hậu lai ủy khúc thành tựu ư chư cô nhi bất khả đắc giả, tắc dư tâm
diệc khả dĩ đối vu thiên hạ hỹ. Tha nhược thảo thiết, gian nhũng hữu thì phiến
hoặc, diệc ngật vô sự, giai tư chúng lực dã, dư hà năng yên! Ô hô! Ngu nhi nữu
an, muội vu dũ hộ y giả chi giới! Năng thần túc tướng diệc dĩ thái bán điêu tạ, kỷ
năng khôi ngã Hoàng khảo hải phòng chi di huấn, dụng tể dư vu vô quá chi địa.
Hoàng thiên nãi giáng hậu phạt dĩ cảnh ngã quân thần địch yên. Trùng dương vạn
dư lý, phong mã ngưu bất tường cập chi Âu Châu nhân, nhi tố hữu cựu chi Phú
Lãng Sa quốc giả sư thuyền đột như kỳ lai, khí hảo tầm cừu xâm ngã biên, bỉ thị
thuyền kiên bác lợi, tứ kì thôn phệ, át vu Quảng Nam, dật vu Gia Định. Bắc Kỳ
hỉ loạn, gian nhân diệc nhân chi trập động. Thừa bình nhật cửu, nhân bất tri
chiến. Can thành bảo chướng hữu kỷ nhân yên. Dĩ trí sơn hải quần đạo, nội gian
ngoại khấu ám tương đề xuyến tư mạn sở chí phong phỉ. Thùy dữ bảo ngô cảnh,
thẩn khả bảo ngô dân? Bất đắc dĩ chinh thiện, dĩ tùng sự chi dân ích tao nhiên tụy
chỉ. Bất đắc dĩ nhân lỗ cầu thành, khiển sứ dữ ước. Kỳ nho thạc phụ khái nhiên
thỉnh vãng. Bất thẩm hà cố nhi dung dị thành ngôn dĩ hoàn suất tương lũy triều
gian nan tịch tụ chi thổ địa nhân dân nhất đán tận khí dữ địch. Kỳ ư trạch họa thủ
khinh, dĩ tử cố tranh, sứ bất nhục quân mạnh, quả như thị hồ? Sử trẫm dữ ngận di
nhất lão vô khả nại hà, tương đối ẩm khấp, dĩ cam đắc tội ư tôn miếu, thiên hạ!
Một giả bất đắc hoàn chí nghiệp, tồn giả trường thích thích mạc chi năng vân.
Thị thục giai chi lệ dã? Nhược vị khí dĩ thất, chuyển dĩ nguy, bất như thị an bảo
kỳ vãng. Phù! Khí chi giả nhược hữu công, tắc thất chi giả cố hữu quá. Nhược
thất chi giả vị định quá, tắc khí chi giả hà vị công? Nhị giả tất hữu năng biện giả.
112
Huống như bỉ ký thất chi, ngã năng phục chi, viết công nghi hĩ. Bỉ ký thất chi,
ngã tùy khí chi công ô hô tại an khả nghịch ức dĩ vi trí, vu chúc dĩ vi công? Nhi
tư nghị giả do vi chi từ bất tuất quốc, thị vô quái hồ? Nhật ích trắc tình, sự vụ
tăng phiền. Bất tri nhân tâm tằng bất ẩn thống? Nhiên nhi tri nhân bất minh dư
tội dã; Dụng nhân bất xứng diệc dư tội dã; Phàm bách bất cử giai dư tội dã. Bất
đắc dĩ tốn dĩ hành quyền, ký kỳ tiểu tức; Thiên hạ tự thử thủy đa sự hỹ. Hồi tư
đương nhật, vũ hịch giao trì, cơ vụ điền ủy, nhật dạ tẩm quỹ thất tiết, như si như
túy. Chí kim kinh hồn do vị định, nhi luy tật nhật cánh gia, kỳ hựu bất hạnh tốt,
tao cấp bệnh tuyệt nhi phục tô. Ư thị đầu vận mục huyễn, cước nhuyễn phúc trệ,
chư hư chứng tất kiến. Tế tự bất năng thân, vấn chính bất năng cần, nhi cữu bá sở
do lai gia dã.Thành khủng nhất đán yêm hốt, trí bất hồ nhược vi tu. Nãi linh thái
sử dự tướng địa, đắc ư Duơng Xuân thượng khoáng thổ. Đình thần phúc thị, viết:
“Nghi!” Cái tùng thuật gia vân giả, ư dư hà cố tai! Hựu vị thị niên Giáp tý, thị
nguyệt Bính tý, giai hợp nghi khởi biện, nãi phủ tùng dinh kiến yên. Ư thị hữu tư
danh sự kỳ sự, hiệu kì lao. Cao nhân cao, hạ nhân hạ, kinh dinh tương độ, tu lý
bổ tước; Ư thị nghiêu xác tạc trăn mãng lạc, nhi thành trì, cung điện, lâu các,
đình tạ, viện vũ, hồ đảo hàm xuất yên, hợp vị trí nhi tương liên lạc dã. Chính
trung vi ngô vĩnh trạch, Canh sơn Giáp hướng, bất lăng bất phần, chỉ lưu bình
địa, tác đê oanh, tương lai tất linh tùng bá lăng dụng ngõa khí nhi dĩ. Kỳ mạch lai
chi sơn viết Dẫn Khiêm, Lao Khiêm, Đạo Khiêm, Long Khiêm, Cư Khiêm, Lý
Khiêm, tự viễn nhi cận dã. Kỳ hữu sơn liêu dĩ tường khai lâu môn viết Khiêm
Cung môn. Tiền điện viết Hòa Khiêm điện, vi hậu nhật hương hỏa bằng y chi sở.
Hậu điện chi viết Luơng Khiêm điện vi cộng phụng an dữ thừa hoan chi sở điện
chi đông viết Minh Khiêm Đường, bị lâm hạnh tấu nhạc dã. Điện chi tây viết Ôn
Khiêm Đường, trí thượng phương phục ngự dã. Cung môn chi nội ngoại thiết tứ
vũ, viết Lễ Khiêm, Pháp Khiêm, thần công túc trực xứ dã. Lưỡng điện chi hậu
hữu thiết tứ viện viết Tùng Khiêm, Dụng Khiêm,Y Khiêm,Trì Khiêm, tần ngự
tùy thị xứ dã. Hậu điện hậu, liên nhất tiểu các viết Ích Khiêm, ty nhi túc dĩ vọng
cận cảnh dã. Tiền môn tiền, biệt kiến đường lang viết Chí Khiêm, hiệp nhi túc dĩ
tự chư cựu cơ dã. Thủy chi tiểu giả Tiểu Khiêm trì dã, tác tân nguyệt dạng hoành
chính cục tiền, thiển nhi hạc, cẩn kham tích vũ, tùng thanh ô thuật dã. Thủy chi
113
đại giả, Lưu Khiêm hồ dã, oanh hồi loan chuyển tự hữu cập tả, thâm nhi thanh,
hạ bất kiệt, thu bất dật, cái nhân thâm điền dĩ tạo thành; hựu thiết đậu dĩ phóng
phủ ngoại điền, súc tiết tố kỳ cố dã. Hồ bán thành nhi quần ngư dĩ phát phát
nhiên nhiên, bất thắng số, bất đãi bổ súc, cái nhân thế nhi lợi đạo chi cố dã. Hựu
vu hồ đầu nhi bạn hữu thủy tự địa trung lưu xuất; quan kỳ thạch tắc vô khích khả
tầm, nhi thủy thường lãnh lãnh nhiên, hữu thanh lưu lưu tối thanh chú vu hồ, nhật
dạ bất đình. Thực do thiên thành, nghi hữu phục tuyền nhi nan minh dã. Nhân vu
thị xứ lược cấu thủy lục xưởng xá, giá dĩ trúc, tập dĩ mao, túc tế thử vũ, bạc tiểu
thuyền nhị diệc viết Thuận Khiêm, Ổn Khiêm. Thì nhân phong nguyệt lịch phiếm
vu hồ, thái quân tử hoa, ca ái liên khúc, sảng nhiên vô tha dục, cái mãn hồ duy
thực thử hoa nhi dĩ dã. Hồ chi bàng, giá khởi nhị tạ, kỳ nhất lưỡng tằng, sảo cao
nhi sảng, thị viết Xung Khiêm, kỳ nhất tam tằng, tằng tằng dũ đê phả hiệp diệc
thích thị viết Dũ Khiêm; ngọ phong nguyệt dạ túc dĩ thùy điếu. Hồ chi trung,
chước tỉnh công dịch lượng lưu thổ thạch, trúc nhất đại đảo, thụ tam tiểu đình,
mệnh chi viết Nhã Khiêm, Tiêu Khiêm, Lạc Khiêm. Lũy chi dĩ sơn thạch, ấm chi
dĩ hoa mộc, vi đắng, vi động, vi lâm, vi cốc, phi cầm tẩu thú, dĩ tụ dĩ súc, nhi
khổng tước minh, bạch thố phục, cẩm kê túc, danh thích kì sở hĩ. Hồ chi thượng
gian khóa tam kiều, viết Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm, Do Khiêm, dĩ tế bất thông nhi
thủy lục tự tương liên thuộc hỹ. Kỳ tả sơn sơn chi cước, Thể Khiêm đình tại yên,
thiết xạ bằng vi xạ trường dã. Sơn chi yêu, Chấp Khiêm trai bạng yên, dực dĩ
lang dĩ thông vu lâu dã. Sơn chi điền, Di Khiêm lâu tủng yên, sảo hiên khê khả dĩ
viễn vọng dã. Bao chi dĩ la thành, uyển chuyển khởi phục, tùy sơn thế nhi thi
thiết dã. Nhiên do thị nhân công, vị nhược tứ diện quần sơn liên diên hoàn bão,
vọng chi nhược bích, nhược chướng, bất thiên bất lậu; thị chi vị thiên nhiên la
thành dã. Ngoại môn phàm tam viết Vụ Khiêm, Tự Khiêm, Thượng Khiêm; nội
môn phàm lục viết Tất Khiêm, Nhu Khiêm, Huy Khiêm, Năng Khiêm, Mục
Khiêm, Liêm Khiêm, giai môn danh dã. Nãi tùy kỳ nghi bố kỳ loại, vi đậu bằng,
vi hoa sạn, vi quả kính, vi sơ huề, vi lộc động, vi ngư diên. Tuy sơn thổ tự hồ
nghiêu tích, nhi tài chi diệc dị mậu, hoán chi diệc dị cấp, kỳ diệc địa khí sử nhiên
da? Tổng danh chi viết Khiêm cung, hậu diệc tất vị chi Khiêm lăng hựu lệnh
kiến thần tự liệt tự điển tích phong cáo diệc xưng chi vi Khiêm Sơn thần vân. Đại
114
phàm danh tất cố nghĩa, phi đồ danh dã. Phù ! Hà dĩ ngô chi khiêm nhi sử mỗ
sơn, mỗ thủy, mỗ đường, mỗ thất diệc giai tùng chi nhi vi khiêm? Bỉ kỳ hà cữu
hồ tai? Hựu quả hà tri hồ tai? Tính nhi cường gia chi danh, quả dĩ năng an hồ tai?
Nhi ngô hà thủ ư khiêm hồ tai? Kỳ khiêm chi vi khiêm quả thành hồ tai? Phù!
Khiêm giả kính dã, nhượng dã, hữu nhi bất cư, khuất dĩ hạ vật giả dã. Dĩ dư chi
mông sỉ, phụ tội như thị, khiêm mạc đại yên, khuất mạc thậm yên! Hữu hà tài
năng công đức nhi bất cư hồ? Đệ dĩ tố thượng phác đạm, vị tuy hoàng ốc nhi tâm
thường nhược bố tố, trừ thị phục chương chi ngoại, vô hào ba lệ, ức diệc hữu nhi
bất cư chi nghĩa dã? Gia dĩ tự dinh thử cung chi nhật, lôi chấn Hòa Khiêm điện,
loạn dân hoặc chúng phạm khuyết, thiên khiển dân oán bất kỳ tiến chí; Dư tâm
thượng hà hữu tai nhi bất cảm bất khiêm dã. Duy tri thủy chung nhất kính đạn,
kiệt tâm tư, hạnh khả duy trì bổ cứu vạn nhất, tắc kì khiêm giả khởi cảm bất
thành hồ! Cố nhân nhi tận danh chi, diệc dục tùy xúc tùy cảm, dụng tự tỉnh giới
tính tự biếm dã. Phi như Ngu Khê phi ngu nhi tính ngu, nhục chi, tắc hoàng vấn
bỉ chi an nhiên dữ phủ. Phi cảm tất hà khuy hà ích, hà hại hà phúc, nhi vi thử xu
tị dã. Thả dư chi tác thị cung giả, nguyên niệm lệ hữu biệt miếu, hựu hữu lăng
tẩm; Bất hữu dự chế, quyết hậu thần tử suất tuần điển cố, nan miễn dao trở phiền
lao. Cố tính nhi tiết chi, thành dục tiện nhi cánh tiện. Huống thử xứ hựu thị sơn
nguyên chi tối hạ giả, tùng tiền chư lăng độc vị thậm cận, thủy thổ bình thiện, vô
mậu lâm tuấn lĩnh, phả dị thi công. Điện vũ tuy đa, nhi độc hữu Hòa Khiêm,
Lương Khiêm, Di Khiêm biệt cấu tân tài, dư giai xuyết thủ cựu ốc, di bỉ tựu thử,
nhi kỳ công dịch do chí tam niên thủy thành. Nhất thiết dinh thiện lao tứ chi nhu
thả dĩ bách vạn kê tắc kỳ lao phí vi hà như, khởi dư sở đắc dĩ dã. Ô hô! Kỳ thị
Thành Tử Cao chi ngôn năng bất nội quý tai!
Ký thành, nãi thân phụng từ giá lâm hạnh, trần ngự yến, tiến ca vũ, hựu tứ
nội ngoại đình thần thiếp đồng lạc chi, thể quần tình dã, dư khởi hiếu đa nghi vi
tai! Nhiên diệc tương hiệu Tư Không Biểu Thánh, phú thi chước tửu ư kỳ trung,
phi đặc ca khốc dữ tụ ư tư dã dĩ. Thị hậu thì, nhân thanh minh dịch liễn yết lăng
thuận lộ trú tất, hiệt cam phương, trạch tiên phi, điều trân tu cung hoan phụng
vân nhĩ. Thì nhân khổ nhiệt thư phiền, tạm vãng quan tĩnh, nhất niên trung bất
quá nhị tam dộ bất hoàng hạ yên. Hoặc trị Nam Giao đại tự, vị năng thân chấp
115
ngọc bạch tương sự, tắc vu tư dao bái, phỏng Trúc Cung cố sự thiểu thân vi kiền.
Đăng cao tứ vọng, diện Giao Đàn, bối Linh Mụ tự, khả dĩ minh ngô bình
sinh chi hướng bối dã; Sinh vị năng tận lễ, tử diệc đắc dĩ vĩnh triều hĩ. Hữu cán
Xương Lăng, tả đối Văn Miếu, túc dĩ úy ngô tu mộ khâm ngưỡng chi tầm, tha
niên hồn phách đắc dĩ vĩnh y, thủy chung nhất đạo nhi dĩ! Chí nhược tân phần
cựu trũng tứ diện lũy lũy, đa thiểu cố nhân bán đăng quỷ lục; hưu hữu bất...Do
đăng Bắc Mang vọng Hao Lý, bạch dương bi phong chung cổ vô dĩ. Phàm nhất
sinh, doanh doanh thiết thiết giả quả hà vi tai? Hựu hà tất chỉ Tân Phong đạo nhi
trí khái yên dã.
Sở khả khái giả học vị thành, chí vị phó, hư danh bất túc dĩ để thực tội,
nhược chất bất túc dĩ để thực tội, nhược cương vị phục, biên hoạn vị bình, tự tục
gian trì, vi thiên hạ đắc nhân nân bằng thùy cán! Cổ đồ dĩ thiên sinh chân tín, tri
năng vị muội, tuy tật ác thái thậm, tình uất thái thâm, vị miễn thì hoặc táo nộ,
diệc tất hữu cố nhiên. Phàm sự mỗi tùng khoan hậu, bất cảm vọng thủ vi cố. Cửu
bình sinh sát chi quyển, nhi vị thường bất do tư bại án thành nhi thiện sát nhất
nhân dã. Dĩ chí bi hỷ, diệc bất thậm hình.
Hướng lai dư sở tối bi giả duy thị tật chi thu. Hoàng khảo tật đại tiệm duy
kỷ, hốt nhiên sinh huyễn. Tả hữu thị giả giai viễn tị, độc dư thăng ngự sàng, thân
quán ngự dược, thế tứ bị diện, cuồng cự hô hào, hạnh nhi dương khí tiệm hồi,
phục đắc thiểu diên thị gian. Chí ninh lăng nhật, soái chư hoàng thân đại thần hộ
tử cung an vu huyền cung tất cái (khái) thủ đại đống, phan luyến kỳ trắc, cơ bất
tự giác hữu kỳ thân hỹ. Chư đại thần thỉnh xuất diệc bất chi giác. Đông Các đại
học sĩ Vũ Xuân Cẩn nãi chấp thủ ủng xuất. Thành nhân sinh chi tối bi giả mạc
thử. Nhược tha, tắc hoặc nhân kiến văn trung thần hiếu tử chi sự, bất giác thê
nhiên khấp hạ, chí vu ngạnh yết bất năng tốt độc phát thanh giả kỳ dư, nhân sở bi
giả dư bất thậm bi, nhân sở hỷ giả dư bất thậm hỷ.
Kim hiếu độc thư, đản khổ bất hạ. Bất cầu thậm giải, bất năng cường ký;
Cẩu hữu đắc diệc bất cảm tiểu thuyết lôi đồng. Phàm trứ thi văn, trực tả hung ức,
bất giả tứ sách điêu trác. Tích Cần Chính điện đại học sĩ Trương Đăng Quế mỗi
vị : “Thuần hồ thiên phận”. Tuy nhất ngôn bán thức, diệc túc vi bình sinh tri kỷ
cố cựu kỳ khả vong hồ! Dư thường vị lịch đại đế vương hiền dung bất thiểu.
116
Nhược dĩ công danh ngôn, tắc Hán Văn bất cập Đường Thái; Dĩ đức tính ngôn,
tắc Đường Thái hậu viễn bất cập Hán Văn; Thử diệc thiên phú, phi khả cưỡng
nhi năng. Dư phi cảm bạc Đường Thái, đản thiết nguyện hiệu Hán Văn nhĩ. Cố
sự sự vụ thực, tư tư dĩ dưỡng dân cố bản vi niệm. Nhật tịch quyết cơ phán sự.
Mục lãm thủ phê, bất di dư lực. Tuy diệc bất miễn hữu thanh sắc cầm hóa chi
ngu, nhưng diệc bất miễn hữu tầm thường tiêu khiển, bất kê hữu vô, thực bất cảm
hào hữu bệnh dân, phương chính. Nhiên nhi xí vị năng, cái do dư đức bất túc dĩ
hóa tục, tài bất túc dĩ tác nhân; Chí đại nhi thức quả, cầu trọng nhi ứng khinh...
Huống cụ kim chi thế giới phong tục, thị hà thế giới phong tục ? Bất đản
thiên phương liệt quốc tranh thượng công lợi trá lực, tức văn hiến chi bang, công
khanh sĩ thứ diệc gian đa tham khắc khi sức, tập dĩ thành phong. Trương bạc
công, yểm hậu quá, cam tiểu lợi, an đại hại. Cẩu hữu nhất nhân nhất quốc dị chi,
tắc chúng côngngu chi hủy chi; Thành hữu thậm ư Xuân Thu Chiến Quốc chi thế.
Tuy Khổng Mạnh phục sinh diệc mạt như chi hà dã dĩ hĩ! Phù ! Dĩ đại Thanh tôn
quốc nhi diệc bất năng tự cường, tắc kì tha thượng khả ngôn tai! Kim dư nội vô
kế thể chi hoan, ngoại đa nan bình chi sự, điểu nhiên nhất thân ưu cữu tùng trí.
Thường nhân chi tình do bất kham thử, huống ư dư hồ! Duy dĩ nhất thành dĩ ngự
bách hư. Sở thị giả kỷ hà kỳ diệc tự tín phù hữu thiên nhi dĩ. Nhi dư sở tín giả phi
cảm tận tín phù vận số chi thiên, nhi đặc tín phù đạo lí chi thiên. Tín đạo lý chi
tiên tắc diệc duy tận ngô tâm yêm nhi dĩ hỹ. Tận ngô tâm yên, tắc khiêm sở dĩ
bảo thái, ngô bất cảm bất tùng nhi cư khiêm dĩ tận hồ nhân sự. Thái sở dĩ trứ
khiêm, ngô diệc bất cảm bất miễn kỳ trí thái dĩ chương hồ thiên đạo.
Thị tắc “nhu khắc” nhi “cương khắc” tồn yên. Khiêm ty nhi thụ khiêm hệ
yên. Bất đản bất tương phản diệc mạc bất tương nhân dĩ thành. Thị chi vị thiên đạo
hạ tế, quân tử hữu chung giả dư. Tự phi bảo kinh ưu hoạn, kỳ thục dữ ngã tri nhi
dữ ngã ngôn chi? Diệc vô khả dữ quy xứ, tức tương lai quan giả hựu hà phiền tai!
Thị dĩ cữu tâm khổ chí mĩ triêu y tịch, bất giác hữu tự hồ cuồng quyến giả. Vi
thánh nhân thùy vi khởi dư? Dư diệc tương đãi. Duy thiên dữ thánh dĩ hoàn dư chí;
Bất cảm dĩ bất khả vi nhi bất vi, bất khả hóa nhi bất hóa, nhất nhật diệc tư nhất
nhật chi trách yên nhĩ.
Kim dư sở kỷ thực chỉ giai dư sở độc tri nhi chúng mạc đắc tri, dĩ thiểu thân
117
dư chí ư thiên hạ; Nhược phù sự trạng đắc thất tự hữu sử bút, dư bất ngạo. Chí ư
văn pháp từ ba vô túc luận dã. Hậu lai hạnh hoặc năn phó dư chí, dư tương tất
hữu dĩ tục chi; Bất nhiên, thùy kỳ tục chi, diệc nghi thâm lượng dư tâm, thận vô
sự văn sức vi dã. Nhân vi minh dĩ tự kính vân. Minh viết:
Dương Xuân chi thượng hề
Duy dư chi trạch hỹ
Sơn ty nhi địa tịch hề
Diệc trạng dư khiêm ý dĩ tự trách hỹ
Thùy dũ dư đồng tâm dĩ hoàn dư chí hề
Y! Cầu chi nhi vị hoạch hỹ
Duy thiên kì giám hề,
Ngã tâm hữu như thử thạch hỹ.
Tự Đức nhị thập tứ niên lục nguyệt ngự chế
Tự Đức nhị thập bát niên tứ nguyệt ngự bút.
2.5.3. Dịch nghĩa
Bài kí ở Khiêm Cung*
Khí trời nhẹ và trong nên được bền lâu, còn gió mây mưa móc không có hình
dáng ổn định nên chẳng cần nói đến. Nếu có hình dáng thì tuy lớn như trái đất
cũng có khi nứt ra từng mảnh nhỏ, sáng như mặt trời mặt trăng cũng có lúc khuyết
xế che khuất âm u ...Lại như núi cao, biển sâu, vàng bền, đá cứng đều là những vật
trác tuyệt nhưng cũng không thể không lo đến đổ nát, cạn khô, hao mòn tan vỡ,
huống hồ con người? Sống chết đối với con người là việc lớn nhưng cũng là việc
bình thường. Nhan Hồi (1) chết non, Bành Tổ (2) sống lâu, Bá Di (3)hiền lành,
Đạo Chích (4) tàn ác, sống vốn chẳng giống nhau nhưng chết thì không thể không
giống nhau được. Bởi vì cái không mất là danh mà cái không thể không mất ấy là
thân, đó là lý do vì sao phải gấp lo việc chết! Chôn là cất giấu, nhưng khác với
loài cầm thú là ở chỗ lễ nghi và tình cảm mà thôi. Lệ xưa vua lên ngôi liền làm
quan tài, hằng năm đem ra sơn một lớp rồi cất, ta nay đâu dám làm trái phép tắc
* Theo bản dịch “Khiêm cung kí”của Phan Hứa Thụy, được trích dẫn trong tư liệu “Hồ sơ về lăng vua Tự Đức”ở Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế.
của các đấng tiên vương ? Người khỏe còn lo chuyện bất thường huống chi kẻ
118
yếu!
Ta vốn bẩm sinh thể chất yếu đuối, lúc mới sinh ta, mẹ ta ốm đau hàng mấy
tháng mới khỏi, vú nuôi ta lại không được cẩn thận sạch sẽ, mẹ ta bảo ban mà
chẳng nghe, vì sợ ta bị tối tăm nên mới lên ba đã vội ngăn không cho ta bú nữa,
rồi một mình mẹ ta tự tay bồng ẵm lấy. Ta từ đó ốm đau cứ kéo dài và đã từng
nguy cấp, mẹ ta sớm chiều ôm ấp hết sức khó nhọc.
Lúc mới biết nói biết đi, ta đã từng cầm than vẽ vào tường,có người lấy làm
lạ hỏi, ta trả lời là viết chữ “Trạng”, bởi vì tiến sĩ cập đệ tục gọi là trạng nguyên
(5), ngày nay biết được việc ấy là do mẹ ta kể lại cả .
Lúc bắt đầu chừa tóc (6), mẹ ta bảo ta hãy tìm thầy để học tập, ngay khi
đang học vỡ lòng ta đã làm được chúc đối, nhưng ngâm vịnh thì nào đã biết gì
đến thanh luật. Cha ta nghiêm nhưng rất hiền từ, kẻ tiểu tử này (7) từ thưở mới
sinh đến thời niên thiếu, nhân chỉ một lần vì tính ham chơi bè bạn mà bị đánh
roi, nhưng từ đó về sau ta rất kính sợ. Cha ta thường ít bảo ban mà đã bảo ban
ắt ta cố gắng, lúc xem thơ và câu đối ta làm thì người tỏ ra vui vẻ lắm. Một hôm
cha ta hỏi đùa các con : “con tên là gì và ý nghĩa của nó ra sao?” Mọi người tùy
ý mà trả lời chẳng biết đúng sai thế nào cả. Tiểu tử này cứ theo những điều đã
học mà lý giải, nói: “Hồng là nặng nề, lớn lao; Nhậm là gánh vác”. Đáp xong
cha ta ngoảnh lại cười rồi nói đùa rằng: “gánh gì mà nặng, gánh củi à?”
Thái hậu (8) hiền từ nhưng nghiêm. Thường ngày người dạy ta cách đi
đứng nói năng cho phải phép, chẳng cho chơi lêu lổng, mỗi sáng ra học ở nhà
ngoài đến gần trưa mới được vào, nếu có lãng quên lười biếng hay uể oải thì
cũng tùy từng tội mà quở mắng. Nếu chưa thuộc bài thì người bắt ngồi học cho
đến thuộc mới thôi, bằng không thì tuy có múa hát ngay trước mắt cũng chưa cho
xem.
Tiểu tử này may nhờ được đùm bọc nuôi nấng, thuở bé học khá sáng, các
loại sách vỡ lòng cấp tiểu học thì chỉ cần nửa ngày đã thuộc cả quyển. Được vậy
cũng vì quá kính sợ sự giáo huấn nghiêm túc, cho nên là cũng may là ít bị đánh
roi. Khi có lỗi nặng tất cũng không tránh khỏi ngọn roi, nhưng đánh xong mẹ ta
lại khóc.
Hoàng khảo (9) mỗi khi đi đâu đều dắt ta theo, vườn Thường Mậu vừa mới
119
lập xong cũng cho ta theo cùng ở. Hoàng khảo duyệt xét án mùa thu (10)chẳng
dám khinh suất giao cho ai, tự thân viết tấu đến thâu đêm nhưng vẫn sai ta hầu
bên cạnh để người đọc cho mà chép.
Năm ấy sắp hết, cha ta mới nhận lãnh ấn ngọc (11),gặp lúc việc hệ trọng,
sáng ra chưa kịp gọi ai chỉ riêng gọi ta vào điện Hoàng Phúc để hầu hạ. Năm
sau bảo ta ra ở tiềm để (12), sau đổi tên là Thiện Khánh đường, để tiện việc học
tập. Lại năm sau, gặp việc bang giao quan trọng, người lại sung ta vào chức lưu
kinh (13), nhưng sau lại sai ta theo xa giá ra bắc rồi cho cùng tham gia nhiều
công việc. Trên đường đi và về, sớm tối ta đều được theo hầu ở ngự dinh. Lại
năm sau nữa ta được phong tước Công rồi cho ta ra ở phủ riêng và cưới vợ, ấy
là năm ta đang chí tâm với việc học.
Tuy đã có gia đình nhưng Hoàng khảo vẫn cho đòi vào hầu ở nội điện, cho
ngồi hầu trong các bữa ăn, ân tứ của người đối với ta rất hậu, có đêm đến khuya
khoắt mới được lui ra. Hoặc có khi sắc dụ hay những văn kiện lớn lao người
cũng đều sai ta kiểm lại bài của người. Còn như ứng chế phú thơ, ấy là việc
thường. Có lần người cho ta hầu cơm, cho cùng ăn, giữa bữa ăn cũng sai buông
đũa để ngâm vịnh, lại còn sai bọn cung tần bưng đồ tứ bửu (14) bày ngay chỗ
ngồi cho ta lựa lấy mà dùng, ơn mưa móc đến như thế thật không còn nghi ngờ
gì nữa, tiểu tử này đâu dám vượt ra ngoài khuôn phép. Làm thơ xong, người lấy
chén ngọc sớt đồ ăn ban cho và nói : “Con ăn cái này là thừa hưởng phần
thưởng ta ban”. Có khi đang giữa tiệc rượu có tấu nhạc ca múa như thế cũng
bảo ta làm thơ tức sự. Ta vâng lệnh làm một bài dâng lên, người lấy chiếc nhẫn
vàng mặt ngọc ban cho rồi nói: “Vật này chưa đủ gọi là quý, nay ban cho con
với một lời là đừng làm thẹn lây kẻ đã sinh ra con, con nên ghi nhớ!” Ta lạy
nhận và ghi tạc lời dạy vào tâm cốt. Thật ra lúc ấy ta mới bắt đầu học Tứ Thư,
Kinh Thi, Kinh Thư hiểu còn chưa trọn, thơ nhiều khi làm chưa nên câu, trong số
anh em ta hoặc vì lười biếng, hoặc đang nhỏ, duy ta có phần hiểu biết hơn, may
thay ứng đối nhanh nhẹn nên được yêu thương quá đặc biệt. Thật ân đức của bậc
cha mẹ quả không cùng. Thực lòng cái học của ta chưa đến đâu, ruột còn trống
không, nhưng từ khi làm hoàng tôn rồi đến làm hoàng tử, phàm những người
được sung vào chức sư phó (15) đều không phải là những bậc cự nho tăm tiếng
120
xứng đáng với sự tuyển chọn mà phần lớn là những ông tú già chỉ kham nổi việc
dạy trẻ con, nên có hỏi những câu khó khăn thì họ cũng không lí giải được. Mặt
khác vì thấy ta sớm sáng trí, để khỏi liên lụy vì trách nhiệm nên họ cứ lần lữa yên
thân với cái hư chức nhàn nhã ấy. Ta cũng khổ là không có nhiều sách, chưa có
hiểu biết sâu sắc nên chưa biết lấy sách làm niềm vui mà lấy việc cưỡi ngựa bắn
tên làm thú, ấy là do tính khí tuổi trai trẻ. Nhưng rồi sức học tự nhiên ngày càng
tấn tới mà chính bản thân ta cũng chẳng nhìn ra được, còn như các việc khen
thưởng khác thì khó mà kể hết được. Như việc đi hầu bắn, ta thường bắn trúng,
các chú các em ta cùng bọn thị vệ đi theo hầu đều từng chứng kiến. Đến như việc
Hoàng khảo bảo: “Phàm đồ cung tên ngự dụng, thích thứ nào con cứ việc chọn
lấy mà tập luyện, những thứ khí giới ấy ngày sau còn biết để cho ai? Có người biết
đã ngầm hiểu ý của cha ta.
Một ngày nọ ta theo hầu bắn ở Cấm viên, có thái hậu theo hầu, ta đã bắn
bốn cái tên, còn giữ một cái, cha ta đã ngoảnh lại bảo: Con hãy bắn mũi tên kia
đi sao cho trúng đích để an ủi lòng mẹ con. Ta vâng lệnh trương cung nhã tên và
may sao được ứng như lời dạy. Lòng thánh nhân vốn rất sâu xa, kẻ hời hợt làm
sao hiểu được, ta cũng xem đấy là việc tự nhiên, biết đâu đã có người ghen ghét.
Nếu có ai khuyên hãy vào nội các tập tành việc chính, ta thường trả lời đã có anh
ta đấy.
Tính ta lại ít nói, hay thẹn thuồng, cho nên không phải bạn chí thân, dù là
thân cận đại thần gặp nhau lúc vào triều thì cũng ít khi bàn việc quan hay lên
mặt như kẻ khác, do đó hầu như ta có rất ít người để giao thiệp nhưng ta vẫn cứ
yên vui sống trong lặng lẽ và vụng về ấy.
Khí huyết ta vốn yếu đuối, thân thể thường gầy gò, trong lúc tuổi trẻ đang
yên ổn này mà việc nối dõi còn khó có thể an ủi được lòng mong chờ của cha mẹ,
thật quá hổ thẹn, nhưng đang buổi đầu ta chưa quan tâm lắm.
Gần đến tuổi trưởng thành, vào tháng sáu bỗng mắc bệnh đậu mùa rất nguy
kịch, nhờ cha mẹ hết sức thuốc thang cầu đảo, tháng tám mới khỏi. Thời hạn điều
trị chưa xong, vảy trên mặt chưa rụng nhưng vì lòng quá mong nhớ nên gượng
bệnh vào chầu, đi và quỳ còn run chân nên được cho miễn lạy, lại ban cho sách
Chỉ Thiện Đường Hội Tập và cha ta còn dạy rằng: Tâm pháp và trị pháp đều ở cả
121
trong đó, con hãy học lấy mà làm theo. Lại triệu vào nội điện cho gặp Thái hậu,
vừa gặp nước mắt bỗng chảy dài vì đã lâu ngày mới được gặp lại. Lúc rảnh rỗi
cha ta thường cho ta đọc lại thơ ngự chế, phỏng theo bài Khánh Vân Ca của Ngu
Thuấn (16), noi theo vần trong nguyên tác mà lục soát lại rồi tâu lên, ta được khen
thưởng rất hậu, nhân vậy người liền quở các quan nội các về việc kiểm soát không
kỹ lưỡng.
Chưa bao lâu, Hoàng khảo không được khỏe từ hạ tuần tháng chín, ta cùng
với anh em, đại thần chầu chực trong cung cấm để hầu thuốc thang và thăm hỏi.
Bấy giờ đang là mùa mưa lụt, tuy sức ta chưa bình phục hẳn, ta vẫn lặn lội rét
mướt, ngày đêm khăn áo chẳng dám cỡi, việc ăn nghỉ đều tiết giảm, mỏi mệt quá
thì dựa cột chợp mắt một tý. Bỗng nghe tuyên triệu mà hồn bất phụ thể rồi kíp
theo sứ vào chầu, tất cả đều là phận sự, tất nhiên ta chẳng lưu ý gì, chỉ mong có
ngày sức khỏe Hoàng khảo chóng bình phục để được nghe dạy bảo dài lâu, nào
ngờ ý trời chẳng thương đã vội giao cho đứa con mọn này công việc lớn lao và
khó khăn. Than ôi đau đớn thay!
Tuổi đang trẻ lại mới tập làm việc chính, chưa hiểu thấu đáo hết việc xưa
người nay, nên chi rất đỗi mông muội, rất đỗi run sợ, âu lo e không kham nổi.
Lại nhân chị ta là công chúa Diên Phước chẳng may qua đời, sợ mẹ ta quá đỗi
đau lòng nên ta hết sức an ủi và khuyên giải.
Thể chất vốn yếu đuối mà cùng một lúc bao nhiêu chuyện dồn dập khiến
bệnh cũ tái phát dữ dội, đến nỗi đã mấy phen nguy khốn. Nhờ Hoàng tổ Hoàng
khảo ta đức trạch quá sâu dày với mọi người, trong có Hoàng thái hậu sắp đặt
cung vi, ngoài có các cựu đại thần đức độ sửa sang việc triều quận, đồng lòng
giúp rập, kính vâng noi theo nếp cũ, trong mười năm may không có lỗi gì to tát.
Tuy có bao giờ mà không nghĩ việc nuôi con là khó nhọc, nhưng bất đắc dĩ
phải theo công luận làm cho rõ nghĩa lớn và tất cả đều vì xã tắc, lại nhớ tới câu
ca lúa vải (17) thật hết sức hổ thẹn và đau xót. Lỗi của Chu Công mà không có
Mạnh Tử thì ai tha thứ cho (18)? Lòng ta có như thế không? Hay ta vì bọn nhỏ
nhen mà bị mê hoặc? Sao ta vội vàng đến nỗi tự quyết đoán làm vậy, nhất thời
cũng khó giãi bày hết được, trăm năm còn có sử xanh, ta nỡ nào! Đại khái sau
việc xảy ra mới bàn đến người, ta không thể không giận bọn hiếu sự về những
122
việc ấy. Cứ xem ngày sau ta uốn mình để làm nên việc đối với bọn mồ côi (19)
mà không thể được thì lòng ta cũng có thể tỏ rõ cùng thiên hạ rồi. Còn như việc
giặc cướp trong ngoài có lúc làm mê loạn lòng người nhưng rồi cũng yên, ấy là
nhờ vào sức mọi người chứ mình ta thì chẳng làm gì được.
Ôi! Dốt nát mà quen sống yên ổn, mông muội mà ở chốn nhà cao cửa rộng
chẳng biết phòng bị, tôi tài tướng giỏi cũng đã tàn tạ hơn phân nửa, mấy ai có
thể khôi phục lời di huấn về việc canh giữ biên cương của cha ta để giúp ta bước
ra khỏi vòng tội lỗi? Trời cao lại trừng phạt nặng nề để răn dạy vua tôi ta. Người
Châu Âu xa cách trùng dương ngoài vạn dặm, phong tục chẳng giống nhau, mà
nước Pháp vốn là nơi quen biết cũ, bỗng đưa quân lính thuyền bè đến, bỏ tình
hòa hiếu mà tìm cách xâm lấn bờ cõi, chúng cậy tàu bền súng tốt giày xéo để
hòng nuốt chửng đất Quảng Nam, phá phách đất Gia Định. Đất bắc vốn ưa làm
loạn nhân thể cũng nổi lên. Hưởng thái bình đã lâu ngày, dân không biết chiến
đấu, canh thành giữ chốt nào được mấy người? Khiến đất nước đầy trộm cướp,
trong gian ngoài giặc, chúng lén lút cấu kết với nhau ngày càng tràn lan. Chúng
đến đâu thì tàn hại như gió bão, thử hỏi biết cùng ai để bảo vệ bờ cõi của ta
huống chi là bảo vệ dân ta? Bất đắc dĩ phải đánh qua loa cho xong chuyện
nhưng dân thì ngày càng quấy nhiễu. Để thôi mệt nhọc, nhân giặc cầu hòa ta
đành phải sai sứ cùng chúng hội ước. Những nhà nho lão thành, những đại thần
uy vọng đều lấy làm bùi ngùi và xin đi, rồi chẳng hiểu sao quá dễ dãi trong việc
thương thuyết rồi trở về. Các triều đã dày công khó nhọc mở mang đất đai tụ họp
dân chúng, bỗng nhiên một sớm thảy giao cho địch. Họ đã chọn lấy cái họa nhỏ
nên đã dùng cái chết để khỏi nhục mạng vua (20), quả như thế chăng? Khiến ta
cùng với một bề tôi thân cận (21) chẳng làm sao hơn, chỉ còn biết nhìn nhau mà
nuốt nước mắt, đành đắc tội với tông miếu và thiên hạ. Kẻ mất chẳng hoàn thành
được ý chí và sự nghiệp; Người còn thì đằng đẵng xót thương lo lắng không sao
khuây được. Đó là cái dẫn đến chỗ thảm khốc. Nếu cho rằng đành bỏ cái đã mất
để lo xoay xở cái nguy mới hiện ra, thật không làm như thế thì làm sao giữ được
việc đã qua? Than ôi! Nếu bỏ là có công tất mất là có tội, nếu mất mà chưa cho
là tội thì sao bỏ lại gọi là có công? Hai điều ấy chắc có thể phân biệt được. Kẻ
kia làm mất nay ta thu lại được mới nên gọi là công, huống hồ kẻ kia làm mất, ta
123
lại hùa theo mà bỏ luôn, ôi công sao? Sao có thể lo lường trái đến vậy mà cho là
trí, dối trá như vậy mà cho là công? Những kẻ bàn luận riêng tư còn cho như thế,
nên họ chối bỏ chẳng đoái nghĩ gì đến nước nhà. Thế nên chẳng lạ gì họ ngày
càng uể oải, trốn tránh. Do đó chính sự ngày càng phiền phức, không biết lòng
người có từng thổn thức đau đớn hay không? Nhưng không sáng suốt trong việc
biết người ấy là tội của ta; Dùng người không đúng chỗ cũng là tội của ta; Hàng
trăm việc không làm được đều là tội của ta cả. Bất đắc dĩ phải thuận theo quyền
mà hành động, những mong được một phút nghỉ ngơi nhưng thiên hạ từ đó bắt
đầu sinh ra lắm chuyện. Nhớ lại buổi ấy, tin chiến trường tới tấp, việc quan yếu
bộn bề, ngày càng thêm gầy ốm, chẳng may mang bệnh hiểm nghèo, chết đi sống
lại. Từ đấy, đầu váng mắt hoa, chân chùn bụng trệ, các hư chứng đều hiện ra cả,
không thể thân hành tế tự được, không thể chăm lo chính sự được. Vì thế, lỗi lầm
ngày càng nhiều để người ta có điều chê trách.
Ta thực sự sợ một mai chết đi, thì tự hổ thẹn trí khôn không bằng con cáo
(22), mới sai quan Thái sử xem đất trước, chọn được chỗ cao ráo ở làng Dương
Xuân Thượng. Đình thần xét lại toàn bộ cho rằng được. Đấy là theo nhà phương
thuật, chứ ta có quan tâm gì lắm đâu! Lại bàn: năm ấy Giáp tý, tháng ấy Bính tý
đều hợp, nên bắt đầu xây dựng. Ta liền nghe theo. Từ đấy, các quan chức có trách
nhiệm, người nào việc nấy, cố gắng nhọc nhằn. Nhân chỗ cao mà đắp lên, nhân
chỗ thấp mà đào xuống; đo đạc dựng xây, sửa sang thêm bớt. Thế rồi, lật đất đá,
chặt bụi bờ, dần dần hiện ra thành quách, ao hồ, cung điện, lầu gác, đình tạ, viện
vũ, gò đảo, hợp vị trí mà liên lạc với nhau. Chính giữa là ngôi nhà lâu dài của ta,
ngồi Vị Canh trông hướng Giáp (23), không xây lăng, không đắp nấm, chỉ để một
khoảnh đất bằng một cái huyệt cạn; sau này tất phải bắt chước Bá Lăng (24), chỉ
dùng đồ sành sứ mà thôi...
Những núi đưa mạch đất từ xa đến gần, gọi là Dẫn Khiêm, Lao Khiêm, Đạo
Khiêm, Long Khiêm, Cư Khiêm, Lý Khiêm. Núi bên phải có tường bao bọc, mở
một cửa lầu, gọi là cửa Khiêm Cung. Điện phía trước gọi là điện Hòa Khiêm, sẽ
làm chỗ hương khói nương tựa về sau này. Điện phía sau gọi là điện Lương
Khiêm, làm chỗ nghỉ ngơi những lúc đi chơi. Phía Đông điện ấy có nhà Minh
Khiêm, để khi đến thăm nghe đàn hát xem diễn tuồng. Phía Tây điện ấy có nhà
124
Ôn Khiêm để các đồ quần áo ta dùng. Phía trong và ngoài cửa cung, dựng bốn
ngôi nhà là Công Khiêm, Cung Khiêm, Lễ Khiêm, Pháp Khiêm, là nơi quan lại
và thợ thuyền túc trực. Đằng sau hai điện, bên phải dựng bốn viện, gọi là Tùng
Khiêm, Dụng Khiêm, Y Khiêm,Trì Khiêm, là nơi các phi tần theo hầu ở tạm. Liền
đằng sau điện sau có một gác nhỏ gọi là Ích Khiêm, tuy thấp nhưng đủ để đứng
xem các cảnh gần quanh. Ngay đằng trước cửa trước dựng một nhà cầu gọi là
Chí Khiêm, tuy hẹp nhưng đủ để thờ cúng các cung nữ cũ.
Chỗ nước nhỏ gọi là ao Tiểu Khiêm, làm như hình trăng non, nằm ngang
trước chính cục, nông mà khô, chỉ để chứa nước mưa, theo phép của nhà phong
thủy vậy. Chỗ nước lớn gọi là hồ Lưu Khiêm, uốn khúc quanh co từ phải sang
trái, sâu mà trong, hè không khô, thu không đầy, do lợi dụng chỗ ruộng trũng
mà đào thêm, lại xây cống thông để tháo nước ra ruộng ngoài; việc giữ nước và
tháo nước đã sẵn có. Hồ mới đào được một nửa, mà các giống cá đã sinh sôi nảy
nở không biết bao nhiêu mà kể, chẳng đợi phải bắt vào để nuôi vì cái thế sẵn có
lợi để dẫn cá đến vậy.
Lại ở bờ đá đầu hồ có nguồn nước từ trong đất chảy ra; nhìn kỹ thì không
thấy kẽ hở mà nước luôn có tiếng róc rách, trong leo lẻo, rót vào hồ ngày đêm
không dứt, quả thật do trời sinh ; ngờ có suối ngầm mà khó biết rõ. Nhân ở chỗ ấy
dựng sơ sài cái nhà xưởng nửa dưới nước nửa trên bờ sườn tre lợp tranh, đủ che
mưa nắng cho hai chiếc thuyền đậu, cũng gọi là Thuận Khiêm, Ôn Khiêm. Thỉnh
thoảng, gặp buổi trăng thanh gió mát, dong chơi khắp hồ, hái hoa quân tử, hát
khúc Ái liên (25), sảng khoái biết bao, không còn ham muốn gì khác, vì khắp hồ
chỉ trồng một loài hoa ấy mà thôi.
Ở bên hồ, dựng hai nhà mát; một cái hai tầng, hơi cao và thoáng, gọi là
Xung Khiêm; một cái ba tầng, từng tầng càng lên cao càng thấp và hẹp, cũng
vừa vặn và gọi là Dũ Khiêm; đêm trăng trưa gió, đủ để buông câu. Ở trong hồ
thì giảm bớt công trình xây dựng, để lại đất đá, đắp một hòn đảo lớn, làm ba
đình nhỏ, cho tên là Nhã Khiêm, Tiêu Khiêm, Lạc Khiêm. Chồng chất đá núi, che
rợp cây hoa, đắp bậc, đắp gò làm rừng làm hốc, chim bay thú chạy, tụ họp chăn
nuôi, mà chim công kêu, thỏ trắng nấp, gà gấm đậu...con nào cũng có chỗ thích
hợp khoảng trên hồ, bắc ba cầu, gọi là Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm, Do Khiêm để
125
giúp việc giao thông , cho đường bộ đường thủy liền nhau. Dưới chân núi bên
trái, đình Thể Khiêm ở đấy, dựng tường bia làm nơi tập bắn. Lưng núi, nhà đọc
sách Chấp Khiêm đứng cheo leo, có hành lang thông với lầu Di Khiêm chót vót
trên đỉnh núi, mái hiên rộng rãi có thể trông xa...
La thành bao quanh, ngoằn ngoèo nhấp nhô, xây dựng theo thế núi. Nhưng
đó cũng chỉ là do sức người, chưa bằng bốn mặt núi non liên tiếp vây bọc, như
vách như tường, không nghiêng không hở; ấy gọi là la thành thiên tạo vậy!
Ngoài cửa có ba cửa gọi là Vụ Khiêm, Tự Khiêm, Thượng Khiêm; Trong cửa có
sáu cửa gọi là Tất Khiêm, Nhu Khiêm, Huy Khiêm, Năng Khiêm, Mục Khiêm,
Liêm Khiêm; ấy đều tên các cửa. Rồi tùy chỗ thích hợp mà chia cho các loại: làm
giàn đậu, làm vòm hoa, trồng cây trái, trồng rau dưa, làm động hươu, làm ao
cá...Tuy đất núi dường như cằn cỗi nhưng trồng trọt cũng dễ tốt tươi, chăn nuôi
cũng dễ dư dùng, chắc do khí đất khiến nên như thế chăng? Tên chung gọi là
Khiêm Cung, sau tất gọi là Khiêm Lăng. Lại sai dựng đền thờ thần, xếp vào tự
điển, ban cho sắc phong, gọi là thần Núi Khiêm.
Nói chung, tên phải có nghĩa chứ không phải tên suông. Ấy vậy, sao lại lấy
cái khiêm của ta mà bắt núi kia, sông kia, nhà kia, điện kia cũng phải khiêm
theo?Chúng có lỗi gì đâu? Chúng có biết gì đâu? Đặt tên ép uổng như thế, chúng
có thật chịu yên như thế không? Mà ta sao lại lấy chữ “khiêm” làm tên? Mà gọi
là “khiêm” thì có thực không? Này đây:“Khiêm” là kính cẩn, “khiêm” là nhún
nhường, có địa vị mà không ở, tự khuất mình dưới người. Ta đã chịu xấu hổ
mang tội như thế, nhún nhường còn gì hơn, khuất mình còn gì hơn nữa? Nào có
tài năng công đức gì mà không khiêm? Ta vốn chuộng sự thật thà nhạt nhẽo, địa
vị tuy ở nhà vàng mà lòng thường như kẻ mặc áo vải trắng. Trừ đồ lễ phục đại
triều lộng lẫy ra, ta không dùng chút gì hoa lệ. Phải chăng đó cũng là cái nghĩa
“có địa vị mà không ở”?
Hơn nữa, từ ngày xây dựng cung này, sét đánh điện Hòa Khiêm, bọn làm
loạn dụ dỗ dân phạm cửa cung, trời trách người oán bỗng dưng đưa đến như thế,
lòng ta còn có gì nữa mà chẳng dám không khiêm! Chỉ biết trước sau một niềm
lo âu kính cẩn, dốc hết tâm tư, may ra có thể giữ gìn cứu vãn trong muôn một, thì
cái khiêm ấy há dám không chân thành sao? Cho nên nhân đó, tất cả đều lấy từ
126
khiêm mà đặt tên, cũng muốn tùy theo xúc động và tình cảm để tự khuyên răn, tự
chê trách. Chẳng phải như Ngu Khê (26) không ngu mà cứ bảo là ngu để làm
nhục, thì có rảnh đâu mà hỏi nó có chịu yên với tên ấy chăng? Ta cũng chẳng
dám chắc đâu là thiếu, đâu là thừa, đâu là rủi, đâu là may để mà theo hay tránh!
Vả lại, ta làm cung này, nguyên vì nghĩ rằng lệ thường vua thì có miếu riêng,
lại có lăng tẩm; Nếu ta không dự tính xây cất, về sau tôi con cứ theo điển cố, khó
tránh khỏi xa xôi phiền phức, cho nên ta gộp lại mà bớt đi, thực lòng muốn đã tiện
lợi lại gần hơn, đất nước đều bằng phẳng tốt lành, không có rừng rậm núi cao, hơi
dễ thi công, điện vũ tuy nhiều nhưng chả có Hòa Khiêm, Lương Khiêm và Di
Khiêm đều dựng bằng vật liệu mới. Ngoài ra, đều chọn lấy ở các nhà cũ, đem chỗ
nọ đến chỗ này, thế mà công việc ba năm mới xong. Nhu cầu về vật hạng và khen
thưởng kể hàng trăm vạn, thì công lao và phí tổn đến nhường nào, nhưng ta đâu
thể dừng được! Than ôi! Xem như câu nói của Thành Tử Cao trong lòng há
chẳng hổ thẹn sao?
Khi lăng đã hoàn tất, ta bèn thân rước Thái hậu lên thăm, bày yến tiệc,
dâng hát múa. Lại cho cả vợ các quan trong, quan ngoài cùng dự lễ lạc thành.
Ấy là thể theo ý muốn của mọi người, chứ ta có thích đặt bày lễ nghi lắm chuyện
đâu! Ta cũng chỉ muốn bắt chước Tư Không Biểu Thánh (27) uống rượu ngâm
thơ trong ấy, chứ chẳng phải chỉ làm nơi tụ tập, hát múa, khóc lóc mà thôi (28).
Về sau này, mỗi lần nhân lễ thánh minh, đi xe lên thăm viếng các lăng tẩm tiện
đường ghé lại nghỉ, tìm thứ ngọt thơm, chọn đồ tươi béo, làm món ngon quý kính
dâng bề trên. Thỉnh thoảng, gặp khi nóng bức, để trút nỗi bực dọc, tạm lên ngắm
cảnh. Mỗi năm chẳng qua lên 2,3 lần mà cũng không rỗi thay! Hay gặp ngày lễ
lớn Nam Giao, chưa thể tự cầm ngọc bạch đứng tế thì ta ở cung này lạy vọng từ
xa, bắt chước chuyện cũ Trúc Cung để tỏ chút lòng thành (29).
Lên cao trông bốn phía, trước mặt là đàn Nam Giao, sau lưng là chùa
Thiên Mụ (30), có thể tỏ rõ niềm trông dựa của đời ta; sống chưa trọn lễ thì chết
cũng được chầu hầu mãi mãi. Bên hữu gần Xương Lăng, bên tả đối Văn Miếu, đủ
để an ủi tấm lòng nhung nhớ ngưỡng mộ của ta. Về sau, hồn phách có chỗ nương
tựa lâu dài, thủy chung một đạo mà thôi vậy! Đến như ít nhiều mả mới mồ xưa
ngổn ngang bốn mặt, một nửa người quen đã ghi tên vào sổ quỷ; lại có những kẻ,
127
chẳng biết khanh tướng hay thường dân, nhung nhúc đều thế cả. Nào có khác gì
lên núi Bắc Mang (31) trông về Hao Lý (32), ngọn gió bi thương trên cây dương
trắng muôn thuở không thôi!
Thế thì con người ta suốt một đời căm căm cúi cúi, nào có làm được gì đâu!
Vả lại, cần gì phải trỏ đạo Tân Phong mà ngậm ngùi (33)? Điều ta ngậm ngùi là
học chưa thành chí chưa thỏa, danh hão chưa đủ để trừ tội thực, sức yếu chưa
đủ để làm việc nặng. Đến nay, đất mất chưa lấy lại được, và giặc ngoài chưa dẹp
trừ xong; nói dõi muộn mằn, khó nhờ ai đảm đương việc nước. Chỉ may được
tính trời chân thật, trí óc chưa mờ, tuy bệnh tật quá nhiều, uất giận quá sâu,
không khỏi có lúc giận dữ là lẽ cố nhiên. Phàm việc gì cũng theo lòng khoan hậu,
không dám làm càn. Cho nên, cầm quyền sát sinh đã lâu mà chưa từng tự tiện
giết một người nào khi bộ hình chưa kết thành án. Đến cả vui buồn cũng không
để lộ ra ngoài mặt.
Từ trước tới nay, điều đau xót nhất của ta là dạo mùa thu chầu ốm. Hoàng
khảo bệnh nặng gần mất, bỗng chốc ngất đi. Những kẻ chầu hầu tả hữu đều lánh
xa, riêng mình ta trèo lên giường ngự, tự tay đổ thuốc, nước mắt đầm đìa, vừa
cuống cuồng lay gọi, may mà khí dương trở lại dần, để được hầu hạ hỏi thăm ít
lâu...Vào ngày ninh lăng (34), ta dẫn đầu các hoàng thân và đại thần rước quan
tài yên vị ở huyền cung xong, dập đầu thương khóc, quyến luyến một bên, cơ hồ
không tự biết là có thân mình nữa!Các đại thần mời ra, ta cũng chẳng hay.
Đông các đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn (35) bèn cầm tay dắt ra... Quả thật, điều đau
xót nhất trên đời ta không gì bằng lúc ấy! Ngoài ra, khi xem các chuyện tôi trung
con hiếu, tự nhiên rơi nước mắt cảm thương, đến nỗi nghẹn ngào không đọc ra
tiếng. Còn những gì người ta đau xót thì ta không đau xót lắm, những gì người ta
vui thích thì ta không vui thích lắm.
Nay ham đọc sách, khổ nỗi không rảnh rang...Chẳng cần hiểu kỹ (36)
không thể nhớ lâu. Nếu có được cũng không dám lấy của người làm của mình
hay nói hùa theo họ. Hễ làm thơ làm văn thì tả thẳng điều mình cảm xúc suy
nghĩ, không chắp nhặt trau chuốt. Xưa Cần Chính điện đại học sĩ là Trương
Đăng Quế có lần nói: “hoàn toàn do bản tính trời sinh”. Tuy lời ấy chỉ đúng với
ta có một nửa nhưng cũng đủ làm kẻ tri kỉ trên đời, ta quên sao được người cố
128
cựu ấy!
Ta thường cho rằng đế vương các đời người hay kẻ dở không ít. Nếu lấy
công danh mà nói thì Hán Văn Đế không thể bằng Đường Thái Tông (37); nếu
lấy đức tính mà nói thì Đường Thái Tông không bằng Hán Văn Đế. Đó cũng là
do trời phú cho chứ con người không thể gượng làm ra được. Ta không dám chê
Đường Thái Tông, chỉ trộm bắt chước Hán Văn Đế mà thôi... Cho nên mọi việc
ta đều cốt lấy thực chất, cứ chăm chắm nuôi dân, vững gốc. Ngày đêm xem xét
công việc, miệng đọc tay phê, không bỏ thừa sức. Tuy ta cũng không tránh khỏi
cái vui về hát ca, sắc đẹp, săn bắn, tiền tài, nhưng chẳng qua là việc tiêu khiển
bình thường, chẳng kể có hay không, chứ dám đâu tơ hào quấy nhiễu nhân dân,
làm hư chính trị! Điều ta mong mỏi mà chưa được, vì đức ta không đủ để đổi
thay thói tục, tài ta không đủ để thành tựu cho người. Chí lớn mà kiến thức nông,
mong nhiều nhưng chỉ được ít.
Huống chi phong tục của thế giới ngày nay là phong tục của thế giới nào?
Chẳng những các nước phương xa đua nhau chuộng công lợi, dối gian, sức
mạnh, mà ngay cả công khanh sĩ thứ của các nước văn hiến cũng lắm kẻ tham
lam xảo trá, khắc bạc, tập dần thành thói quen; khoe công ít, giấu lỗi to, tham lợi
nhỏ, chịu hại lớn. Nếu có một người trong một nước nào đó lấy thế làm lạ thì
chúng cho là ngu rồi chê bai. Thật quá hơn thời Xuân Thu Chiến Quốc (38), dù
cho ông Khổng ông Mạnh sống lại nữa cũng chẳng làm sao được! Kìa xem như
Đại Thanh là một nước lớn mà không tự cường nỗi thay, thì còn nói gì đến các
nước khác!
Nay ta, trong thì không có cái vui về người nối dõi, ngoài thì nhiều chuyện
khó dep nỗi bất bằng; một mình cô quạnh lo trách đổ vào. Thường tình người ta
không chịu nỗi cảnh ngộ ấy, huống chi ta! Ta chỉ lấy một niềm thành thực để chế
ngự trăm điều rỗng không. Thế thì ta trông cậy vào cái gì? Cũng là tự tin có trời
mà thôi! Không phải ta dám tin ở ông trời có vận số, mà chỉ riêng tin ở ông trời
đạo lý. Tin ở ông trời có đạo lý thì cũng chỉ dốc hết lòng mình mà thôi. Nếu ta
dốc hết mình, thì khiêm có thể giữ cho yên, nên ta chẳng dám chẳng theo đó mà
khiêm cho trọn đạo làm người. Nhưng có yên được thì khiêm mới tỏ rõ, nên ta
cũng không dám không cố gắng được yên để tỏ rõ đạo trời vậy.
129
Thế thì “nhu khắc” và “cương khắc” làm cho tồn tại, mà “khiêm ty” và
“thụ khiêm” quan hệ với nhau. Chúng chẳng những không trái nhau mà còn
nương vào nhau để hình thành. Thế gọi là “đạo trời đi xuống, người quân tử có
chỗ trọn vẹn” vậy (39). Nếu không phải là người từng chịu hoạn nạn lo âu, thì
ai biết cho ta và cùng ta thổ lộ? Nếu không phải là người cùng một chí hướng
mục đích với ta thì ngày sau kẻ nào xem đến chẳng khỏi bực mình. Cho nên, ta
đau lòng khổ chí suốt ngày thâu đêm, bỗng dưng giống như đứa điên cuồng. Họa
may thánh nhân mới nâng đỡ được ta, nên ta đành chờ đợi. Chỉ có trời và thánh
mới thực hiện trọn vẹn được chí của ta. Nhưng ta đâu dám vì không thể làm được
mà lại không làm, không thể cảm hóa được mà lại không cảm hóa. Hễ còn một
ngày thì cũng lo hết trách nhiệm trong vòng một ngày.
Nay, ta ghi lại sự thật chỉ một mình ta biết chứ không ai được biết, để giải
tỏa cái chí của ta một phần nào cùng thiên hạ. Còn công việc của ta, được mất
hay dở thế nào đã có ngòi bút sử gia, ta chẳng dám rườm lời. Đến như những
văn chương thì chẳng cần bàn luận làm gì! Về sau, may gặp người theo đuổi cái
chí của ta thì ta ắt sẽ cho nối dõi. Nếu không như thế, ai là người tiếp tục cũng
nên xét kỹ cho lòng ta, chứ đừng chỉ chuộng bề ngoài hoa mỹ. Nhân đó, ta làm
bài minh để tự răn. Minh rằng:
Trên chốn Dương Xuân chừ!
Ngôi nhà ta ở đấy,
Núi thấp mà đất hoang vắng chừ!
Hình dung sự nhún nhường của ta để tự trách vậy.
Ai cùng lòng với ta để vẹn chí của ta chừ!
Ôi ! Cầu mong mà chẳng thấy,
Chỉ trời soi xét cho ta chừ!
Lòng ta khác gì bia đá ấy.
Văn làm vào tháng sáu năm Tự Đức thứ 24
Chữ viết vào tháng bốn năm Tự Đức thứ 28.
CHÚ THÍCH:
(1) Nhan Hồi: tự Tử Uyên, còn gọi là Nhan Uyên, là một vị học trò xuất sắc
130
của Khổng Tử, ông chết năm mới 31 tuổi.
(2) Bành Tổ: là một nhân vật thời thượng cổ của Trung Quốc, tương truyền
ông sống trên 800 tuổi.
(3) Bá Di: con vua Cô Trúc, ông từng khuyên Võ Vương đừng đi đánh vua
Trụ, Võ Vương không nghe, đánh thắng dựng nên nhà Chu, Bá Di cùng Thúc Tề
giận bỏ lên núi Thú Dương rồi không về nữa.
(4) Đạo Chích: tên một kẻ trộm đời vua Hoàng đế, ăn trộm rất tinh vi, nghe
tiếng ai cũng phải sợ.
(5) Trạng nguyên: từ gọi người đứng đầu trong bậc tam khôi theo chế độ thi
cử thời phong kiến.
(6) Chỉ độ tuổi bắt đầu đi học, vì từ đó mới chừa tóc.
(7) Tiểu tử: tiếng tự xưng của vua với cha mẹ.
(8) Thái hậu: đây chỉ mẹ vua Tự Đức, tức bà Từ Dũ.
(9) Hoàng khảo: cha vua Tự Đức, tức Thiệu Trị.
(10) Án mùa thu: nguyên văn là thu thẩm. Thời nhà Nguyễn, án tử hình từ
các tỉnh gởi về thì cứ đến mùa thu bộ Hình mới mang ra xét lại rồi trình lên vua.
Do đó, án mùa thu ở đây chỉ những án nặng.
(11) Chỉ việc bàn giao ấn ngọc (ngọc tỉ) của vua Minh Mạng truyền lại.
(12) Tiềm để: ngôi nhà dành cho Thái tử ở trước khi lên ngôi.
(13) Lưu kinh: giữ kinh đô. Khi nhà vua đi xa thường cử một người thân tín
ở lại kinh thay vua giải quyết mọi việc và giữ gìn kinh đô, đó là chức lưu kinh.
(14) Tứ bửu: bốn thứ đồ dùng quý dành cho nhà vua là giấy, mực, nghiên,
bút.
(15) Sư phó: từ gọi người dạy cho vua hoặc hoàng tử học.
(16) Khánh vân ca: tên một ca khúc mà quần thần dùng ca ngợi ân đức vua
Thuấn.
(17) Lúa Vải: do chữ “đẩu tốc xích bố” nghĩa là thúng lúa thước vải. Đây
lấy ý từ một bài dân ca đại ý chê Hán Văn Đế và Hoài Nam Vương, hai anh em
con của Hán Cao Tổ vì lợi ích nhỏ mà hại nhau. Đây vua Tự Đức muốn ám chỉ ý
anh em bất hòa gây cảnh nồi da xáo thịt.
(18) Tức Chu Công Đán, chú của Thành Vương. Thành Vương lên ngôi
131
nhưng tuổi nhỏ, Chu Công làm nhiếp chính, bọn hoàng thân như Quản, Thái ghen
tị vu cho Chu Công muốn tiếm vị, Chu Công nghe lấy làm sợ nên phải bỏ trốn.
Thành Vương biết chuyện cho triệu về, bọn Quản, Thái sợ nên xúi Võ Canh chống
lại, Chu Công cầm quân đánh bại chúng, về sau Mạnh Tử đã hết lời ca ngợi Chu
Công trong tác phẩm của ông.
(19) Đây chỉ con của Hồng Bảo, người anh cả của vua Tự Đức, vì không
được truyền ngôi nên nổi lên chống lại, sau cô thế phải xin đầu hàng nhưng cũng
bị hạ ngục rồi chết, con cái ông cũng phải đổi sang họ mẹ là họ Đinh.
(20) Chỉ Phan Thanh Giản.
(21) Chỉ Trương Đăng Quế.
(22) Tục ngữ cổ: “ Hồ dinh tam quật”, cáo một lần đào 3 cái hang để khi
săn đuổi thì dễ trốn thoát. Lại có truyền thuyết nói con cáo lúc sắp chết tìm một
nơi để nằm, quay đầu về núi.
(23) Vị Canh: góc Tây Bắc
Hướng Giáp: Đông Nam
(24) Bá Lăng: lăng của vua Văn Đế nhà Hán, ở phía Đông huyện Trường
An, tỉnh Thiểm Tây ngày nay.
(25) Hoa sen là hoa quân tử. Chu Đôn Di tự Mậu Thúc là một nhà nho nổi
tiếng đời Tống. Ông viết bài “Ái liên thuyết”, phân biệt 3 thứ hoa: cúc là ẩn dật,
mẫu đơn là hoa phú quý, sen là hoa quân tử.
(26) Liễu Tông Nguyên (773-819), nhà thơ- nhà văn đời Đường, người Hà
Đông (nay là huyện Tề, tỉnh Sơn Tây), đỗ tiến sĩ năm 793, làm quan trong triều,
thực hiện nhiều cải cách bị bọn thủ cựu có thế lực chống đối, phải chịu biếm ra
làm Tư Mã Vĩnh Châu, rồi Liễu Châu (815). Ông làm nhà ở khe Diễm, đặt tên là
Ngu Khê, phía Tây Nam huyện Linh Lăng (Hồ Nam).
(27) Tư Không Đồ (837-908), tự Biểu Thánh, người ở Ngu Hương, Hà
Trung (nay huyện Ngu Hương tỉnh Sơn Tây), thi đỗ tiến sĩ cuối đời Hàm Thông
(860-874) nhà Đường, làm Trung thư xá nhân, rồi lánh về ở ẩn ở núi Trung Điêu,
hang Vương Quan, hiệu Nhị Nhục cư sĩ. Ông dựng Hưu đình cùng bạn bè ngâm
thơ uống rượu, bàn luận văn chương. Chu Toàn Trung vời ra làm Thượng Thư bộ
Lễ, ông từ chối.
132
(28) Nghĩa là nơi ở thường, vui chơi và chôn cất.
(29) Trúc Cung : cung làm bằng tre của Hán Vũ Đế dựng, cách đàn Nam
Giao 3 dặm. Đến kì tế, sáng sớm vua ra khỏi Trúc Cung, xây về hướng Đông lạy
Mặt Trời; buổi chiều thì xây mặt về hướng Tây Nam để lạy Mặt Trăng, cũng gọi
là Trai Cung.
(30) Nguyên văn là Linh Mụ tự. Vua Tự Đức vì hiếm muộn, thường cầu
đảo, nên kiêng tránh chữ “thiên”. Triều đình bàn đổi làm Tiên Mụ nhưng vua Tự
Đức chọn tên Linh Mụ, vì “linh” là thiêng mà giọng Huế “thiên” là thiêng.
(31) Bắc Mang hay Mang Sơn, tên núi. Cách trung tâm Lạc Dương (tỉnh Hà
Nam, Trung Quốc) khoảng 11 dặm. Đời Đông Hán, năm Kiến Vũ thứ hai (34),
Cung Vương Chỉ chết chôn ở đây, sau thành nơi tẩm mộ của công hầu khanh
tướng, nhất là danh thần đời Đường (618-907).
(32) Hao lý: tức làng Hao ở phía Nam núi Thái Sơn (Trung Quốc). Một bài
“Vãn ca” (hát đưa người chết trong tang lễ) thời xưa: “người chết, hồn phách về
Hao lý. Theo điển: Điền Hoành tự sát, môn nhân xót thương làm 2 bài vãn ca
Giới lộ và Hao lý, nói đời ngắn ngủi như sương đầu ngọn cây kiêu và ánh nắng
ban mai. Đời Hán, Lý Diên Niên chia ra: giới lộ hát đưa vương công, quý nhân,
Hao lý hát đưa sĩ đại phu, thứ nhân. Cũng như hò đưa linh của ta.
(33) Hán Cao Tổ Lưu Bang sau khi diệt nhà Tần, định đóng đô ở Trường
An nhưng cha ông lại muốn về đất Phong là làng quê. Cao Tổ bèn xây dựng
thành trì, đường sá, nhà cửa, đình chùa...cho giống hệt đất Phong, lại dời dân đất
Phong đến ở, đặt tên là ấp Tân Phong.
(34) Ninh lăng: an táng thi hài vua tại lăng mộ.
(35) Vũ Xuân Cẩn (1772-1852) người huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, làm
quan trải 4 triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Tự Đức, từng giữ chức
Tổng đốc Bình Phú, Thượng Thư bộ Hình, Hàn lâm viện học sĩ, Đông Các đại
học sĩ, quản lý các việc bộ Lại, kiêm lãnh Quốc Tử Giám, Quốc Sủ Quán tổng
tài...Năm Đinh Mùi 1847, Tự Đức mới lên ngôi, ông đã dâng sớ xin khai phục
cho con cháu hoàng tử Cảnh, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Lê Chất với lời
lẽ trung hậu, kích thiết. Vua Tự Đức chấp nhận, thực hiện dần. Ông cũng là nhạc
phụ của vua. Sau khi mất, ông được tặng “ Tứ triều nguyên lão”, thụy Văn Đoan,
133
liệt thờ vào miếu Hiền Lương từ năm 1858.
(36) Bắt chước cách đọc sách của Gia Cát Lượng chỉ cần nắm đại lược,
hiểu cái cốt lõi chứ không cần phải thuộc làu từng chi tiết.
(37) Hán Văn Đế (179-156 TrCN) tên Lưu Hằng, do đại thần Chu Bột lập
sau thời gian Cao hậu Lã Trĩ nhiếp chính. Ông nhân từ, cung kiệm, làm cho
phong tục thuần hậu, đất nước giàu có. Đường Thái Tông (627-650) tên Lý Thế
Dân, vua thứ hai của nhà Đường, con của Cao tổ Lý Uyên. Ông thông minh mẫn
tiệp, văn võ song toàn, giảm hình án, bớt thuế khóa, trọng đãi nhân tài, mở mang
bờ cõi, đất nước thanh bình.
(38) Nhà Chu đến khi dời về Lạc Dương đóng đô gọi là Đông Chu (770-
255 TrCN), là thời kì đen tối, loạn lạc. Sử chia ra hai giai đoạn gọi là Xuân Thu
(770-746 TrCN) và Chiến Quốc (746-255 TrCN)
(39) Quẻ Khảm trong Kinh Dịch: “ Khiêm hanh, quân tử hữu chung”(nhún
nhường thì thông suốt, người quân tử có chỗ trọn vẹn). Lời thoán có câu: “Khiêm
hanh, thiên đạo hạ tế nhi quang minh, địa đạo ti nhi thượng hành” (khiêm thì
thông suốt, đạo trời đi xuống mà sáng tỏ, đạo đất thấp mà đi lên)
2.6. Văn bia lăng Đồng Khánh
2.6.1. Nguyên văn chữ Hán
思 陵 聖 德 神 功 碑
帝 王 握 乾 符 闢 坤 珍 有 創 業 者 有 守 成 者 有 中 興 者 巍 巍
焉 皇 皇 焉 聖 德 神 功 皆 足 以 垂 于 不 朽 我 大 南 受 天 眷 席
蘿 圖 粵 自 南 服 開 基 積 功 累 仁 之 百 餘 載 祖 肇 尊 培 神
傳 聖 繼 創 業 守 成 規 模 備 矣 鴻 惟 我 皇 考 景 尊 純 皇 帝
承 列 聖 創 守 之 休 緒 適 當 國 步 多 艱 而 挺 然 銳 志 中 興
奠 國 基 于 磐 泰 功 德 輝 煥 穹 壤 式 至 于 今 日 休 藐 茲 小
134
子 保 有 丕 緒 敬 用 鋪 景 鑠 勒 之 貞 於 以 垂 示 萬 世 永 不
沒 焉 奉 我 皇 考 皇 祖 翼 尊 英 皇 帝 皇 二 子 也 原 親 潘 皇
叔 父 純 毅 堅 太 王 長 子 皇 叔 母 太 王 妃 裴 氏 以 嗣 德
十 七 年 甲 子 春 正 月 丙 寅 十 二 日 甲 寅 辛 未 辰 誕 聖 於
京 城 東 春 陽 舊 邸 十 八 年 奉 我 皇 祖 特 命 善 妃 阮 廷 氏
于 宮 中 養 之 英 明 敏 哲 穎 異 不 凡 深 為 我 皇 祖 所 眷 注 三
十 二 年 出 閣 命 營 堂 于 侍 衛 處 之 右 名 正 蒙 堂 養 正 聖 功
原 有 自 矣 三 十 三 年 庚 辰 冬 十 月 準 於 京 城 之 效 忠 坊 建
邸 以 居 之 三 十 六 年 癸 未 春 正 月 十 一 日 冊 封 堅 江 郡 公
咸 宜 元 年 乙 酉 夏 五 月 京 城 有 事 我 皇 考 晦 跡 民 間 兩 國
大 臣 迎 而 立 之 秋 八 月 十 一 日 即 皇 帝 位 于 太 和 殿 建 元
同 慶 清 明 初 政 如 日 方 升 內 整 權 綱 外 敦 鄰 好 敬 天 而 擬
行 郊 祀 法 祖 而 恪 守 舊 章 孝 奉 兩 宮 恩 孚 慶 譜 體 臣 以 禮
御 下 以 寬 親 征 授 略 顒 聖 武 之 布 昭 著 詩 綴 文 仰 宸 奎 之
彪 炳 旌 忠 言 於 諫 疏 悟 理 學 於 經 延 勤 政 愛 民 緩 刑 平 獄
與 夫 廣 科 場 以 惠 多 士 蠲 逋 欠 以 綏 四 方 慶 節 推 恩 春 韶
布 令 恭 同 慶 寔 錄 善 政 班 班 成 有 思 而 無 斁 故 當
雲 雷 辰 節 而 能 撐 持 大 局 撫 禦 群 方 轉 危 為 安 紹 休 前 烈
中 興 之 美 史 不 絕 書 雖 漢 光 武 黎 莊 尊 殆 不 是 過 天 下 臣
民 方 翹 首 以 觀 德 化 之 成 詎 知 天 意 難 諶 三 年 戊 子 十 二
135
月 十 六 日 癸 巳 不 豫 二 十 五 大 漸 二 十 七 日 甲 辰 甲 戌 辰
龍 馭 上 賓 于 乾 成 殿 聖 齡 壽 二 十 有 五 己 丑 年 三 月 戊 辰
十 九 日 甲 子 任 辰 奉 寧 玄 宮 于 香 水 縣 楊 春 上 社 久 安 處
恭 上 陵 名 曰 思 陵 小 子 辰 方 沖 幼 事 出 權 宜 頌 聖 德 謹 以
六 字 題 神 道 猶 留 鈌 文 使 我 皇 考 之 功 之 德 不 見 於 天 下
後 世 嗚 呼 痛 哉 玆 小 子 丕 承 大 統 業 奉 加 上 尊 謚 曰 景 尊
配 天 明 運 孝 德 仁 武 偉 功 弘 烈 聰 哲 敏 惠 純 皇 帝 橋 山 在
望 瞻 戀 彌 殷 受 命 工 部 重 加 修 理 砌 石 屋 豎 碑 亭 而 勤 之
銘
子 臣 嗣 皇 帝 謹 拜 手 稽 首 銘 曰
天 眷 大 南 丕 基 祗 紹
聖 繼 神 傳 初 政 清 明
春 京 定 鼎 敬 天 以 寔
三 百 餘 年 率 祖 脩 行
於 穆 皇 考 兩 宮 奉 養
聖 德 配 天 孝 念 純 誠
中 興 明 運 親 睦 九 族
周 道 燦 然 董 正 百 官
聖 功 蒙 養 體 臣 以 禮
天 造 屯 亨 御 下 以 寬
136
神 武 不 殺 炳 炳 麟 麟
至 仁 勝 殘 科 場 恩 設
龍 跡 逋 欠 蠲 除
鴻 膺 垣 安 士 途 以 廣
武 功 既 抗 民 漠 以 舒
文 治 一 新 平 獄 綬 刑
經 延 論 道 施 惠 行 慶
諫 疏 留 神 純 王 之 心
風 雅 其 詩 純 王 之 政
典 謨 其 文 嗣 服 三 載
宸 奎 睿 漢 振 刷 百 為
啟 定 元 年 九 月 二 十 一 日 孝 子 嗣 皇 帝 臣 拜 識
2.6.2. Phiên âm
Tư Lăng thánh đức thần công bi
Đế vương ác càn phù tịch khôn trân, hữu sáng nghiệp giả, hữu thủ thành
giả, hữu trung hưng giả, nguy nguy yên! Hoàng hoàng yên! Thánh đức thần công
giai túc dĩ thùy vu bất hủ. Ngã Đại Nam thụ thiên quyến, tịch la đồ việt tự nam
phục khai cơ. Tích công lũy nhân chi bách dư tái. Tổ triệu tôn bồi, thần truyền
thánh kế, sáng nghiệp thủ thành, quy mô bị hỹ. Hồng duy ngã Hoàng khảo Cảnh
Tôn Thuần Hoàng đế thừa liệt thánh sáng thủ chi hưu tự thích. Đương quốc bộ đa
gian nhi đĩnh nhiên duệ chí trung hưng điện quốc cơ vu bàn thái. Công đức huy
hoán, khung nhưỡng thức, chí vu kim nhật hưu mạo. Tư tiểu tử bảo hữu phi tự,
kính dụng phô dương cảnh thước lặc chi trinh mân ư dĩ thùy thị vạn thế vĩnh bất
một yên. Phụng ngã Hoàng khảo Hoàng tổ Dực Tôn Anh Hoàng đế hoàng nhị tử
137
dã. Nguyên thân phiên Hoàng thúc phụ Thuần Nghị Kiên Thái Vương trưởng tử .
Hoàng thúc mẫu Thái vương phi Bùi Thị dĩ Tự Đức thập thất niên Giáp tý xuân
chính nguyệt Bính dần thập nhị nhật Giáp dần Canh mùi thì đản thánh ư kinh
thành đông xuân dương cựu để. Thập bát niên, phụng ngã Hoàng tổ đặc mệnh
Thiện phi Nguyễn Đình Thị vu cung trung dưỡng chi. Anh minh mẫn triết, dĩnh
dị bất phàm, thâm vi ngã Hoàng tổ sở quyến chú. Tam thập nhị niên, xuất các
mệnh doanh đường vu thị vệ xứ chi hữu, danh chính mông đường dưỡng chính.
Thánh công nguyên hữu tự hỹ. Tam thập tam niên Canh thìn đông thập nguyệt,
chuẩn ư kinh thành chi hiệu trung phường kiến để dĩ cư chi. Tam thập lục niên,
Quý mùi xuân chính nguyệt thập nhất nhật sách phong Kiên Giang Quận công.
Hàm Nghi nguyên niên Ất dậu hạ ngũ nguyệt, kinh thành hữu sự, ngã Hoàng
khảo hối tích dân gian, lưỡng quốc đại thần nghinh nhi vị chi. Thu bát nguyệt
thập nhất nhật, tức Hoàng đế vị vu Thái Hòa điện. Kiến nguyên Đồng Khánh
thanh minh sơ chính như nhật phương thăng, nội chỉnh quyền cương, ngoại đôn
lân hảo, kính thiên nhi nghĩ hành giao, tự pháp tổ nhi khác thủ cựu chương, hiếu
phụng lưỡng cung, nhân phù khánh phổ, thể thần dĩ lễ, ngự hạ dĩ khoan, thân
chinh thụ lược, ngung thánh vũ chi bố chiêu, trứ thi xuyết văn ngưỡng thần khuê
chi bưu, bính tinh trung ngôn ư gián sơ, ngộ lí học ư kinh, duyên cần chính ái
dân, hoãn hình bình ngục, dữ phù quảng liêu trường dĩ huệ đa sĩ, quyên bô khiếm
dĩ tuy tứ phương khánh tiết, suy ân xuân thiều. Bố lệnh cung khoát đồng khánh
thực lục, thiện chính ban ban thành hữu tư nhi vô dịch. Cố đương vân lôi chấn
thời tiết nhi năng xanh trì đại cục, phủ ngự quần phương, chuyển nguy thành an,
thiệu hưu tiền liệt trung hưng chi mỹ lại bất tuyệt thư. Tuy Hán Quang Vũ, Lê
Trang Tôn đãi bất thị quá. Thiên hạ thần dân phương kiều thủ dĩ quan đức hóa
chi thành, cự tri thiên ý nan kham. Tam niên Mậu tý thập nhị nguyệt thập lục
nhật Quý tỵ bất dự nhị thập ngũ đại tiệm, nhị thập thất nhật Giáp thìn, Giáp tuất
thời long ngự thượng tân vu Càn Thành điện. Thánh linh thọ nhị thập hữu ngũ,
Kỷ sửu niên tam nguyệt Mậu thìn, thập cửu nhật Giáp tý, Nhâm thìn thời phụng
ninh huyền cung vu Hương Thủy huyện Dương Xuân Thượng xã Cửu An xứ.
Cung thượng lăng danh viết Tư Lăng tiểu tử thời phương xung ấu, sự xuất quyền
nghi, tụng thánh đức cẩn dĩ lục tự đề thần đạo do lưu khuyết văn sử ngã Hoàng
138
khảo chi công chi đức bất kiến ư thiên hạ hậu thế. Ô hô! thống tai! Tư tiểu tử phi
thừa đại thống nghiệp phụng gia thượng tôn ích viết: Cảnh Tôn Phối Thiên Minh
Vận Hiếu Đức Nhân Vũ Vĩ Công Hoằng Liệt Thông Triết Mẫn Huệ Thuần
Hoàng đế kiều sơn tại vọng chiêm luyến, di ân thụ mệnh công bộ trọng gia tu lí
thiết thạch ác thụ bi đình chi minh. Tử thần tự hoàng đế Tuấn cẩn bái thủ khể thủ
minh viết:
Thiên quyến đại Nam Chí nhân thắng tàn
Thánh kế thần truyền Long đà tích kiệm
Xuân kinh định đỉnh Hồng ưng viên an
Tam bách dư niên Vũ công kí kháng
Ư mục hoàng khảo Văn trị nhất tân
Thánh đức phối thiên Kinh cận luân đạo
Trung hưng minh vận Gián sơ lưu thần
Chu đạo xán nhiên Phong nhã kỳ thi
Thánh công mông dưỡng Điển mô kỳ văn
Thiên tạo truân hanh Thần khuê duệ hán
Phi cơ chi thiệu Bính bính lân lân
Sơ chính thanh minh Khoa trường ân thiết
Kính thiên dĩ thực Bô khiếm quyên trừ
Suất tổ du hành Sĩ đồ dĩ quảng
Lưỡng cung phụng dưỡng Dân mạc dĩ thư
Hiếu niệm thuần thành Bình ngục thụ hình
Thân mục cửu tộc Thi huệ hành khánh
Đổng chính bách quan Thuần vương chi tâm
Thể thần dĩ lễ Thuần vương chi chính
Ngự hạ dĩ khoan Tự phục tam tái
Thần vũ bất sát Chấn loát bách vi
Khải Định nguyên niên cửu nguyệt nhị thập nhất nhật hiếu tử tự hoàng đế
thần bái thức.
2.6.3. Dịch nghĩa
Bia thánh đức thần công ở Tư Lăng
139
Bậc đế vương nhận lấy sự linh thiêng của trời, mở mang đất quý chính là
người có thể lập nên nghiệp lớn, giữ được thành công và là người có thể đưa đến
sự hưng thịnh. Lồng lộng thay! Rực rỡ thay! Công đức của người sánh ngang
thần thánh, đủ để lại đời sau danh bất hủ. Nước Đại Nam ta nhận sự yêu vì của
trời, dựa vào cây cỏ mà trù liệu khai cơ ở phía nam. Tích công lũy nhân cho hậu
thế; đời trước xây dựng, đời sau bồi đắp; thần truyền thánh nối lập nên cơ
nghiệp và giữ lấy thành công, quy mô thật đầy đủ. Lớn lao thay Hoàng khảo ta,
Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế kế thừa cơ nghiệp của liệt thánh đã sáng lập, giữ gìn
nó mà nối tiếp dòng đích. Đang khi đất nước trải qua nhiều khó khăn mà ứng
phó nhanh nhẹn, thẳng thắn. Chí trung hưng yên định nước nhà vững như đá lớn.
Công đức thật rực rỡ lớn lao, đến nay vẫn còn dấu tích. Nay kẻ tiểu tử này gánh
vác sự nối tiếp lớn lao ấy, kính cẩn tạo nên những thứ tốt đẹp bày tỏ điều ấy để
hậu thế mãi mãi không quên.
Hoàng khảo ta là con thứ hai của Dực Tông Anh Hoàng đế. Ngài vốn là
con trưởng của Thân Phiên Hoàng thúc phụ Thuần Nghị Kiên Thái Vương.
Hoàng thúc mẫu Thái Vương phi Bùi Thị năm Giáp tý tức năm Tự Đức thứ 17,
mùa xuân tháng giêng Bính dần, ngày 12 Giáp dần, giờ Tân mùi thì sinh ra ngài
ở phía đông kinh thành, phủ Xuân Dương cũ. Năm thứ 18, phụng theo ý của
Hoàng tổ khảo đặc mệnh cho Thiện phi Nguyễn Đình Thị đưa vào cung nuôi
dưỡng. Ngài vốn là bậc anh minh mẫn triết, đĩnh dị khác thường, rất được
Hoàng tổ yêu quý. Năm thứ 32, Ngài được cho ra ngoài các học tập, dựng ngôi
nhà ở phía hữu xứ Thị Vệ lấy tên là Chánh Mông đường để rèn luyện sự chính
chắn. Ơn thánh từ đó mà có vậy.
Mùa đông tháng 10 Canh thìn năm thứ 33, chuẩn cho xây dựng phủ ở phường
Hiệu Trung trong kinh thành để làm nhà ở. Ngày 11, tháng giêng mùa xuân Quý mùi
năm 36, Ngài được sách phong làm Kiên Giang Quận Công.
Năm đầu niên hiệu Hàm Nghi, tháng 5 mùa hạ Ất dậu, kinh thành có biến
(1). Hoàng khảo ta lưu về nơi thôn dã, đại thần hai nước (2) nghênh đón mà lập
nên. Ngày 11 tháng 8 mùa thu, Hoàng đế lên ngôi ở điện Thái Hòa. Năm đầu
niên hiệu Đồng Khánh, bắt đầu từ tiết thanh minh nền chính trị bắt đầu sáng tỏ
(3), bên trong thì chấn chỉnh quyền hành, lề lối, bên ngoài thì giao hảo với các
140
nước láng giềng, kính trời mà bắt chước đời xưa làm lễ tế, tế tự theo nếp cũ của
tổ tiên mà kính trọng giữ lấy cựu chương; Hiếu phụng hai cung, ban ân rộng
khắp, đối đãi với bề tôi bằng lễ, cai trị dân chúng bằng lòng khoan, tự mình đưa
ra phương lược, nghiêm cẩn khi bố cáo rõ ràng với thánh vũ, các tác phẩm thơ
văn nối tiếp văn vẻ ở chốn thần khuê (4) vời vợi, biểu dương kẻ trung tín ở việc
nghe lời can gián không thân gần, ngộ được lí lẽ nhờ đọc kinh sách; Người lại
chăm lo chính sự, thương yêu dân chúng, giảm bớt hình ngục, mở rộng khoa
trường để ban ơn cho kẻ sĩ, tha thuế còn tồn đọng từ những năm trước để bốn
phương được yên vui. Người ban ân để có điều tốt đẹp, ban lệnh cung kính xem
xét Đại Nam thực lục. Hoàng khảo giỏi chính sự nhờ sự suy nghĩ không biết
chán. Cho nên, đương khi sét đánh mây vần (5) mà có thể làm chủ đại cuộc, phủ
dụ các phương, chuyển nguy thành an, nối tiếp sự tốt đẹp, yên bình từ đời trước
lại không bỏ việc thi thư. Dù Hán Quang Đế, Lê Trang Tôn (6) cũng không hơn
vậy. Thần dân trong thiên hạ ngẩng trông mà quan sát sự thành công của việc
đức hóa, chẳng ngờ ý trời khó đoán.
Ngày 16 Quý tỵ tháng 12 năm Mậu tý thứ 3, Ngài không dự việc chính. Đến
ngày 25 bệnh nguy kịch. Giờ Giáp tuất, ngày Giáp thìn 27, nhà vua băng hà ở điện
Càn Thành, thọ 25 tuổi. Giờ Nhâm thân, ngày Giáp tý 19, tháng 3 Mậu thìn, năm
Kỉ sửu phụng đưa táng vào huyền cung ở xứ Cửu An, xã Dương Xuân Thượng,
huyện Hương Thủy, dâng đặt tên lăng là Tư Lăng. Kẻ tiểu tử còn thơ ấu, cẩn trọng
quyền nghi, ca tụng công đức chỉ khiêm tốn lấy sáu chữ để đề cao thần đạo thì
cũng giống như lưu lại những điều không rõ ràng khiến công đức của Hoàng khảo
ta đời sau không thấy rõ.
Than ôi! Đau xót thay! Nay kẻ tiểu tử kế thừa đại nghiệp, kính dâng tên
thụy là Cảnh Tôn Phối Thiên Minh Vận Hiếu Đức Nhân Vũ Vĩ Công Hoằng Liệt
Thông Triết Mẫn Huệ Thuần Hoàng đế. Ở kiều sơn ngóng trông thương nhớ,
thừa ơn mưa móc mà nhận mệnh cho Bộ Công tu sửa lại lăng và dựng bài minh
ở bi đình.
Thần hoàng đế kế vị là Tuấn kính cẩn bái lạy dập đầu làm bài minh
sau:
141
Trời thương nước Nam Lấy nhân thắng tàn
Thánh kế thần truyền Dấu tích long đà
Kinh đô yên định Hồng ưng yên ổn
Hơn ba trăm năm Vũ công đã dẹp
Đẹp thay Hoàng khảo Văn trị đã hay
Thánh đức sánh trời Kéo dài luân đạo
Vận sáng yên bình Can gián lưu thần
Đạo Chu rực rỡ Phong Nhã Thi Thư
Thánh công chăm lo Điển mô văn học
Thiên tạo khó thông Trên cao thấu hiểu
Nghiệp lớn vừa nối Chói lọi, rực rỡ
Buổi đầu thanh minh Khoa trường ân bày
Kính trời thành thật Tha thuế miễn thuế
Theo phép tổ tiên Sĩ đồ rộng mở
Phụng dưỡng hai cung Dân sống thư thái
Lòng hiếu thành thực Hình giảm ngục yên
Hòa mục dòng họ Ra ơn làm phúc
Chỉnh đốn bách quan Tấm lòng Thuần Vương
Thể thần bằng lễ Chính trị Thuần Vương
Cai trị trọng khoan Đời sau vẫn nhớ
Thần vũ không giết Cổ vũ vạn đời.
Ngày 21 tháng 9 năm đầu niên hiệu Khải Định.
Hiếu tử hoàng đế nối ngôi thần kính cẩn bái tạ.
CHÚ THÍCH:
(1) Kinh thành có biến: vua Hàm Nghi cùng đại thần Tôn Thất Thuyết khởi
nghĩa vào đêm mồng 4 rạng sáng ngày mồng 5 tháng 7 năm 1885. Nhưng do thế
giặc mạnh, quân của vua Hàm Nghi và Tôn thất Thuyết thiếu vũ khí, lương thực,
đạn dược, lại tấn công trong đêm tối nên cuộc khởi nghĩa đã bị thất bại.
(2) Đại thần hai nước: ý chỉ phái chủ hòa của triều đình nhà Nguyễn và
quân Pháp thương thuyết đưa vua Đồng Khánh lên ngôi.
142
(3) Ngày vua Đồng Khánh lên ngôi cũng là ngày Tôn Thất Thuyết nhân
danh Vua Hàm Nghi ra lời kêu gọi và phát động khởi nghĩa Cần Vương. Kể từ
lúc vua Đồng Khánh lên ngôi, mọi việc đều nằm dưới sự chỉ huy của quân Pháp
nên không có vấn đề lớn gì xảy ra trong triều đình.
(4) Chốn thần khuê: chỉ nơi cao sang, cung vua
(5) Chỉ đất nước trong cơn hỗn loạn.
(6) Hán Quang Vũ Đế 漢 光 武 帝; (6 TCN – 57), húy là Lưu Tú 劉 秀, tự
Văn Thúc 文叔 là vị hoàng đế sáng lập nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Là dòng dõi xa của nhà Hán và từng tham gia khởi nghĩa Lục Lâm chống lại
chính quyền Vương Mãng, Hán Quang Vũ Đế đã ly khai khỏi chính quyền mới
của Lục Lâm, đánh bại các lực lượng cát cứ và thống nhất quốc gia, mở ra thời
kỳ thịnh trị của Trung Quốc sau nhiều năm biến động.
Lê Trang Tôn (1533-1548) 藜 莊 宗, húy Lê Duy Ninh藜 唯 寧. Niên
hiệu Nguyên Hòa, con Lê Chiêu Tông (1506-1526), mẹ là Phạm Thị Ngọc
Quỳnh. Sau khi nhà Lê bị nhà Mạc cướp ngôi, các cựu thần nhà Lê đã tôn phò Lê
Trang Tôn là dòng dõi của vua Lê lên ngôi, lập lại địa vị của nhà Lê.
2.7. Văn bia lăng Khải Định
2.7.1. Nguyên văn chữ Hán
應 陵 聖 德 神 功 碑
我 大 南 南 服 肇 基 神 傳 聖 繼 於 萬 斯 年 偉 績 豐 功 深
仁 厚 澤 彰 彰 然 為 可 繼 也 鴻 惟 我 皇 考 先 皇 帝 皇 祖 考 景
尊 純 皇 帝 皇 長 子 也 皇 祖 母 坤 儀 皇 太 后 以 咸 宜 元 年 乙
酉 秋 九 月 丙 戌 初 一 日 丙 申 甲 戌 辰 誕 聖 神 龍 噴 水 天 命
固 有 在 也 同 慶 三 年 奉 我 皇 祖 賓 天 辰 我 皇 考 年 方 四 歲
天 日 姿 表 頻 異 非 常 自 以 沖 齡 讓 美 養 誨 成 泰 十 八 年 晉
封 奉 化 郡 公 營 弟 于 楊 品 社 今 安 定 宮 維 新 三 年 晉 封 一
143
字 公 有 志 青 藩 無 心 皇 七 久 矣 十 年 適 因 國 步 多 艱 貴 保
護 政 府 暨 本 國 政 府 奉 于 安 定 宮 迎 立 之 丙 辰 下 四 月 十
七 日 即 皇 帝 位 于 太 和 殿 建 元 啟 定 清 明 初 政 煥 然 一
新 敬 天 法 祖 體 臣 睦 親 勤 政 愛 民 緩 刑 平 獄 歲 荒 籌 賑
以 蘇 民 瘼 歐 戰 慕 義 以 篤 邦 交 北 巡 觀 風 定 民 心 也 西
駕 敦 鄰 承 先 志 也 其 本 於 純 孝 至 性 則 祇 承 列 廟 歡 奉 兩
宮 思 創 業 之 艱 難 之 舉 行 興 國 慶 念 緬 中 興 之 前 列 而 加
上 純 廟 徽 稱 一 孝 立 而 萬 善 從 覲 耿 光 而 揚 大 烈 尤 且 豊
水 燕 貽 建 元 儲 以 壯 根 本 濛 泉 養 正 命 西 學 以 廣 見 聞 凡
關 於 廟 堂 籌 畫 其 為 民 生 國 計 至 深 遠 矣 辰 復 煥 發 天 章
怡 宸 翰 墨 奉 見 於 聖 製 詩 文 諸 集 皆 聖 人 至 教 耶 刑 巍 有
成 煥 有 文 猗 歟 休 哉 當 此 夕 明 辰 會 始 終 與 貴 保 護 誠 信
相 孚 致 能 總 幹 攬 權 綱 同 大 局 紹 休 前 烈 垂 裕 後 皆 十 年
之 間 善 政 班 班 咸 有 思 而 無 斁 天 下 臣 民 方 翹 首 以 觀 德
化 之 成 迺 奉 宵 旰 勞 神 績 憂 成 病 十 年 乙 丑 二 月 一 日 不 預
九 月 丙 戌 十 五 日 疾 大 漸 二 十 日 甲 午 丁 卯 時 龍 御 上 賓
于 建 中 樓 奉 安 梓 宮 于 乾 成 殿 聖 齡 壽 四 十 有 一 十 一
月 日 請 命 郊 廟 奏 達 兩 尊 宮 親 率 輔 政 親 臣 皇 親 尊 人 文
武 臣 工 恭 詣 凡 筳 恭 上 尊 謚 徽 稱 曰 嗣 天 嘉 運 聖 明 神 智
仁 孝 誠 敬 貽 謀 承 烈 宣 皇 帝 廟 號 弘 尊 十 二 月 十 八 日 辛
144
巳 牌 奉 寧 玄 宮 于 香 水 縣 朱 渚 社 朱 鷖 處 万 年 局 恭 上 陵
名 曰 應 陵 是 陵 也 奉 我 皇 考 在 御 日 龜 正 協 吉 爰 命 鳩 工
營 築 特 賜 山 名 曰 應 順 山 前 建 宮 曰 天 定 宮 內 建 殿 曰 啟
成 殿 上 奉 聖 像 內 安 寶 龕 其 位 置 整 肅 規 制 林 嚴 皆 奉 栽
自 聖 心 本 欲 開 國 民 工 藝 之 前 途 晉 外 國 考 察 之 偉 觀 為
千 萬 世 受 堅 基 礎 非 以 誇 壯 嚴 也 乾 御 當 陽 臣 民 顒 望 鼎
湖 雲 暗 崖 谷 同 悲 鳴 呼 慵 哉 欲 報 之 德 皇 天 罔 極 小 子 未
有 述 維 維 一 一 欽 遵 成 命 弗 敢 越 厥 志 命 工 部 遵 愿 籌 識
繼 續 營 築 玆 則 眾 工 甫 集 百 事 告 成 對 松 楸 之 忽 鬱 顧 江
山 之 迴 環 仰 惟 聖 德 神 功 與 天 地 並 藐 茲 小 子 曷 足 以 規
天 極 景 燉 輪 惟 荷 付 托 之 重 念 繼 序 之 間 敬 用 宣 揚 其 懿
鑠 之 貞 玫 於 以 垂 示 無 窮 以 少 伸 紹 述 之 孝 思 于 萬 一 云
耳 辰 保 大 元 年 九 月 十 六 日 孝 子 嗣 皇 帝 臣 殄 拜 于 稽 首
銘 曰
我 南 建 國 聖 人 應 運
仁 厚 聞 基 不 偶 其 生
聖 神 相 繼 於 穆 皇 考
萬 世 賴 之 德 協 帝 王
五 百 昌 期 州 年 韜 養
黃 河 一 清 晦 而 愈 彰
145
龜 應 堯 書 早 定 大 計
龍 非 晉 殿 冊 立 儲 宮
正 統 丕 承 乃 命 遊 學
皇 疇 懋 建 正 養 蒙 功
敬 承 烈 廟 洞 察 辰 机
孝 奉 兩 宮 幹 回 大 局
親 睦 慶 普 國 體 以 尊
優 體 臣 工 朝 綱 乃 肅
勤 政 愛 民 文 明 政 憲
緩 刑 平 獄 因 時 變 通
內 治 修 明 新 舊 並 用
外 交 敦 睦 功 德 兼 陵
臨 軒 策 士 正 要 一 書
止 輦 受 言 班 班 可 紀
宸 文 煥 發 巍 乎 煥 乎
國 粹 保 存 善 矣 美 矣
嫠 正 宮 方 鼎 湖 龍 法
廣 開 民 智 白 雲 悠 悠
西 駕 北 巡 詹 望 靡 及
傳 為 盛 軌 鬱 然 忪 楸
146
此 山 此 河 勤 之 貞 玫
如 帶 如 礪 傳 于 永 世
孝 子 嗣 皇 帝 臣 殄 謹 誌
2.7.2. Phiên âm
Ứng Lăng thánh đức thần công bi
Ngã Đại Nam nam phục triệu cơ, thần truyền thánh kế ư vạn tư niên, vĩ tích
phong công thâm nhân hậu trạch, chương chương nhiên vi khả kế dã. Hồng duy
ngã Hoàng khảo Tiên Hoàng đế, Hoàng Tổ khảo Cảnh tôn Thuần Hoàng đế
hoàng trưởng tử dã. Hoàng tổ Mẫu Khôn Nghi Hoàng Thái hậu. Dĩ Hàm Nghi
nguyên niên Ất dậu thu cửu nguyệt (Bính tuất), sơ nhất nhật (Bính thân), Giáp
tuất thời. Đản thánh, thần long phún thuỷ, thiên mệnh cố hữu tại dã. Đồng Khánh
tam niên, phụng ngã Hoàng tổ tân thiên thời, ngã Hoàng khảo niên phương tứ
tuế, thiên nhật tư biểu, tần dị phi thường, tự dĩ trúng linh nhượng mỹ dưỡng hối.
Thành Thái thập bát niên tấn phong Phụng Hoá quận công, doanh đệ vu Dương
Phẩm xã, kim An Định cung - Duy Tân tam niên tấn phong, nhất tự công hữu chí
thanh phiên vô tâm hoàng thất cửu hỷ. Thập niên thích nhân quốc bộ đa gian,
quý bảo hộ chính phủ kỵ bản quốc chính phủ, phụng vu An Định cung nghinh lập
chi. Bính thìn hạ tứ nguyệt thập thất nhật tức Hoàng đế vị vu Thái Hoà điện, kiến
nguyên Khải Định. Thanh minh sơ chính, hoán nhiên nhất tân, kính thiên pháp
tổ, thể thần mục thân, cần chính ái dân, hoãn hình bình ngục, tuế hoang trù chẩn
dĩ tô dân mạc. Âu chiến mộ nghĩa dĩ đốc bang giao. Bắc tuần quan phong định
dân tâm dã. Tây giá đôn lân thừa tiên chí dã. Kỳ bản ư thuần hiếu chí tính tắc kỳ
thừa liệt miếu, hoan phụng lưỡng cung, tư sáng nghiệp chi gian nan chi cử hành
hưng quốc khánh niệm, miến trung hưng chi tiền liệt nhi gia thượng Thuần miếu,
huy xưng nhất hiếu lập nhi vạn thiện tùng, cận cảnh quang nhi dương đại liệt,
vưu thả phong thuỷ yên di, kiến nguyên chủ dĩ tráng, căn bản mông tuyền dưỡng
chính, mệnh Tây học dĩ quảng kiến văn. Phàm quan ư ư miếu đường trù hoạch,
kỳ vi dân sinh quốc kế chí thâm viễn hỷ. Thời phục hoán phát thiên chương di
thần hàn mặc, phụng kiến ư thánh chế thi văn chư tập, giai thánh nhân chí giáo
da hình nguy hữu thành hoán hữu văn kỳ dư hưu tai! Đương thử tịch minh thời
147
hội thuỷ chung dư quý bảo hộ thành tín tương phù, trí năng tổng cán lãm quyền
cương, cương đồng đại cục, thiệu hưu tiền liệt thuỳ dụ hậu giai thập niên chi gian
thiện chính ban ban hàm hữu tư nhi vô dịch, thiên hạ thần dân phương kiều thủ dĩ
quan đức hoá chi thành. Nãi phụng tiêu cán lao thần tích ưu thành bệnh. Thập
niên Ất sửu nhị nguyệt nhất nhật bất dự, cửu nguyệt Bính tuất thập ngũ nhật tật
đại tiệm. Nhị thập nhật giáp ngọ Đinh mão thời long ngự thượng tân vu Kiến
Trung lâu, phụng an tử cung vu Càn Thành điện, thánh linh thọ tứ thập hữu nhất.
Thập nhất nguyệt nhật thỉnh mệnh giao miếu. Tấu đạt lưỡng tôn cung, thân suất
phụ chính thân thần, hoàng thân tôn nhân văn võ thần công cung nghệ phàm diên
cung thượng tôn thuỵ huy xưng viết: Tự Thiên Gia Vận Thánh Minh Thần Trí
Nhân Hiếu Thành Kính Di Mưu Thừa Liệt Tuyên Hoàng Đế miếu hiệu hoằng
tôn. Thập nhị nguyệt thập bát nhật tân tỵ bài phụng ninh huyền cung vu Hương
Thuỷ huyện, Châu Chữ xã, Châu Ê xứ Vạn Niên cuộc; cung thượng lăng danh
viết: Ứng Lăng thị danh dã. Phụng ngã Hoàng khảo tại ngự nhật quy chính hiệp
cát viên mệnh cưu công doanh trúc, đặc tứ sơn danh viết: Ứng Thuận sơn, tiền
kiến cung viết: Thiên Định cung, nội kiến điện viết Khải Thành điện, thượng
phụng thánh tượng, nội an bảo khám, kỳ vị trí chỉnh túc, quy chế sâm nghiêm,
giai phụng tài tự thánh tâm bản dục khai quốc dân công nghệ chi tiền đồ, tấn
ngoại quốc khảo sát chi vĩ quan, vi thiên vạn thế thụ kiên cơ sở, phi dĩ khoa tráng
nghiêm dã. Càn ngự đương dương, thần dân ngung vọng, đỉnh hồ vân ám, nhai
cốc đồng bi. Ô hô thống tai ! Dục báo chi đức hoàng thiên võng cực, tiểu tử vị hữu
thuật duy duy nhất nhất khâm tuân thành mệnh, phất cảm việt quyết chí mệnh
Công Bộ tuân nguyện trù thức, kế tục doanh trúc tư tắc, chúng công phủ tập, bách
sự cáo thành, đối tùng thu chi hốt uất, cố giang sơn chi hồi hoàn, ngưỡng duy
thánh đức thần công dữ thiên đại tịnh mạo. Tư tiểu tử hạt túc dĩ quy thiên cực,
cảnh đôn luân duy hà phó thác chi. Trọng niệm kế tự chi gian, kính dụng tuyên
dương kỳ ý, thước chi trinh mân ư dĩ thuỳ thị vô cùng, dĩ thiểu thân thiệu thuật chi
hiếu. Tư vu vạn nhất vân nhĩ. Thời Bảo Đại nguyên niên cửu nguyệt thập lục
nhật, hiếu tử tự Hoàng đế thần Điển bái vu khể thủ, minh viết:
Ngã Nam kiến quốc Thánh thần tương kế
Nhân hậu khai cơ Vạn thế lại chi
148
Ngũ bách xương kỳ Tây giá Bắc tuân
Hoàng Hà nhất thanh Truyền vi thịnh quỹ
Thánh nhân ứng vận Tảo dịnh đại kế
Bất ngẫu kỳ sinh Sách lập trừ cung
Ư mục Hoàng khảo Nãi mệnh du học
Đức hiệp đế vương Chính dưỡng mông công
Châu niên thao dưỡng Động sát thần cơ
Hối nhi dụ chương Nãi hồi đại cuộc
Quy ứng nghiêu thư Quốc thể dĩ tôn
Long phi Tấn điện Triều cương nãi túc
Chính thống phi thừa Văn minh chính hiến
Hoàng trù mậu kiến Nhân thời biến thông
Kính thừa liệt miếu Tân cựu tịnh dụng
Hiếu phụng lưỡng cung Công đức kiêm lăng
Thân mục khánh phổ Chính yếu nhất thư
Ưu thể thần công Ban ban khả kỷ
Cần chính ái dân Nguy hồ, hoán hồ
Hoãn hình bình ngục Thiện hỷ, mỹ hỷ.
Nội trị tu minh Đỉnh hồ long khứ
Ngoại giao đôn mục Bạch vân du du
Lâm hiên sách sỹ Chiêm vọng my cập
Chỉ tiễn thụ ngôn Uất nhiên tùng thu
Thần văn hoán phát Thử sơn thử hà
Quốc tuý bảo tồn Như đái như lệ
Ly chính cung phương Cần chi trinh mân
Quảng khai dân trí Truyền vu vĩnh thế
Hiếu tử tự Hoàng đế thần Điển cẩn chí.
2.7.3. Dịch nghĩa
Bia đức thánh công thần ở Ứng lăng
Nước Đại Nam ta từ khi gây dựng cơ đồ ở phương Nam, thánh thần kế tục
149
nhau kể đã vạn năm, công lao vĩ đại, nhân trạch dồi dào, rực rỡ hiển hách vô
cùng, thật đáng truyền tụng. Hoàng khảo ta là con trưởng của Hoàng tổ khảo
Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế và Khôn Nghi Hoàng thái Hậu. Ngài sinh giờ Giáp
tuất, ngày Bính thân mồng 1 tháng 9 Bính tuất mùa thu năm Ất dậu, niên hiệu
Hàm Nghi năm đầu (1885), lúc ấy có rồng phun nước, ấy là mệnh trời đã định
vậy. Niên hiệu Đồng Khánh thứ 3 (1888), lúc Hoàng tổ chầu trời thì Hoàng khảo
ta mới có 4 tuổi. Tuy vậy, tư chất ngày càng biểu hiện, đỉnh dị phi thường. Từ
thuở nhỏ đã khiêm tốn ẩn náu. Niên hiệu Thành Thái thứ 8 (1906), được phong
Phụng Hóa Quận công, phủ đệ dựng ở xã Dương Phẩm, nay là An Định cung.
Niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909), được phong tước Nhất Tự công, xếp vào hàng
hoàng thân gần gũi nhưng không có lòng ở nhà vàng đã lập. Năm thứ 10, vận
nước đang hồi gian nan, Chính phủ bảo hộ ra lệnh cho Chính phủ ta vâng đến
cung An Định đón về lập lên ngôi.
Ngày 17 tháng 4, mùa Hạ năm Bính thìn, lên ngôi Hoàng đế ở điện Thái
Hòa, lấy làm năm đầu niên hiệu Khải Định, việc chính trị buổi đầu sáng sủa,
kính theo phép trời, nếp tổ thể theo bầy tôi, hòa mục người thân, chăm lo chính
sự, thương dân, khoan hình giảm ngục, khai hoang phát chẩn đỡ, thu thuế dân
cùng. Người Châu Âu gây nhiễu thì dùng nghĩa để bang giao, tuần thú ra Bắc để
xem xét phong tục và ổn định lòng dân; qua Tây vốn để vẹn tình láng giềng như ý
cũ. Ngài vốn là người hiếu thuận, lo tế tự liệt miếu, chăm sóc hai cung. Vì nghĩ
việc mở nghiệp là khó nhọc mà dấy lên cử hành quốc khánh. Nhớ việc trung
hưng của Liệt thánh mà lo dựng thêm Thuần miếu, tôn xưng một chữ hiếu mà
muôn tốt đều theo, sáng sủa xiển dương công lớn, vả linh ứng cũng dành cho,
nên việc kiến nguyên càng thịnh, căn bản là do biết nhún nhường dưỡng chí ngay
thẳng. Ban lệnh mở Tây học để mở rộng điều tai nghe mắt thấy, phàm khi ở miếu
đường thì lo trù hoạch quốc kế dân sinh đến sâu xa. Khi rảnh rỗi lại chăm vào
chữ nghĩa văn chương, nay kính xem lại những tập thơ văn thánh chế thì đấy
thảy đều là những lời dạy bảo chí tình của bậc Thánh nhân, bóng bẩy cao xa, lời
lời sáng đẹp, thật tốt thay!
Đang thời buổi hỗn loạn, trước sau vẫn tỏ niềm chân thành, tin tưởng với
chính quyền bảo hộ, đầy đủ năng lực để xem xét quyền hành và chăm lo đại
150
cuộc, nối chí cha ông, cúi xem con cháu thiên hạ nhân dân đều tốt đẹp. Ấy là do
hiệu quả của đức hóa vậy. Vì quá lao thần tổn trí, quá lo âu mà dần dần thành
bệnh, tháng 2 năm Ất sửu thứ 10, Ngài không dự việc chính nữa. Ngày 15 tháng
9 Bính tuất, bệnh nặng dần, đến giờ Đinh mão ngày Giáp ngọ 20, Hoàng khảo
cưỡi rồng chầu trời tại lầu Kiến Trung. Kính quàn tử cung tại điện Càn Thành
thọ 41 tuổi.
Qua tháng 11 kính cáo giáo miếu và tấu đạt hai cung, tự thân hành cùng phụ
chính thân thần, tôn nhân, bề tôi văn võ kính tán dương công đức, dâng thụy và
miến hiệu là Tự Thiên Gia Vận Thánh Minh Thần Trí Nhân Hiếu Thành Kính Di
Mưu Thừa Liệt Tuyên Hoàng Đế. Ngày Tân tỵ 18 tháng 12, kính đưa linh cửu
nhập huyền cung tại xứ Châu Ê thuộc làng Châu Chữ, huyện Hương Thủy, kính
dâng tên lăng là Ứng Lăng, tức lăng này.
Kính vâng lời dạy của Hoàng khảo lúc tại vị từng xem và cho đây là đất tốt
nên đã sai thi công xây dựng, ban tên núi là Ứng Thuận Sơn. Phía trước dựng
cung gọi là Thiên Định cung, phía trong xây điện gọi là điện Khải Thành, trên
thờ Thánh tượng; trong cùng là khám thờ, vị trí ngay ngắn, quy mô trang
nghiêm, tất cả đều kính y như khuôn khổ đã định trước. Thánh tôn vốn cùng mở
mang công nghệ cho nên ra nước ngoài để khảo sát từ cái lớn lao đến ngàn vạn
cái nhỏ nhặt chứ chẳng phải đi để khoa trương gì. Thật chí tình thay! Nay trời đã
cho rồi, thần dân buồn bã, mây tuôn đỉnh đồ, hang hẻm sầu bi, than ôi đau đớn
thay! Những muốn báo đền đức trạch nhưng trời cao nào thấu. Tiểu tử chưa thể
nói hết, chỉ nhất nhất tuân mệnh chẳng dám làm sai. Nay lệnh cho Bộ Công y
như kế hoạch cũ, tiếp tục xây cất lăng này. Thợ thuyền tụ họp, nay việc đã
thành, đứng ngắm tùng thông rậm rạp, nghoảnh nhìn đồi núi trập trùng, ngưỡng
mong công đức thánh thần hài hòa cùng sự trang nghiêm của trời đất. Tiểu tử
này đâu đủ sức noi chí trời, buổi đầu vâng mệnh chủ nguyên tuần hành sự phó
thác lớn lao ấy. Bởi nặng niềm âu lo việc kế tục là khó khăn, kính tuyên dương
công đức tốt đẹp, đem khắc vào đá tốt để truyền rõ đến muôn đời và cũng để tỏ rõ
lòng hiếu thảo của đứa con hiếu này trong muôn một vậy.
Ngày 16 tháng 5 niên hiệu Bảo Đại năm đầu, đứa con hiếu nối ngôi Hoàng
đế, thần là Điển kính lạy rập đầu làm bài minh rằng:
151
Trời dựng nước Nam. Sửa sang chính trị,
Nhân trạch mở nang, Dân trí mở mang.
Thánh thần kế tục Sang Tây ra Bắc,
Muôn đời tựa nương Phép tắc rõ ràng.
Năm trăm năm tốt. Sớm định kế lớn,
Hoàng Hà nước trong, Sách lập các cung.
Thánh nhân gặp vận, Sai đi du học,
Chẳng phải ngẫu sinh. Công nghệ mở mang.
Ôi nay Hoàng khảo, Xem xét thời cơ,
Đức hợp đế vương Quan tâm đại cuộc.
Bao năm mài chí Quốc thể đề cao,
Ân vẫn rõ ràng. Kỉ cương nghiêm túc.
Sách Nghiêu vừa ứng, Văn hiến lẫy lừng,
Điện tấn hiệu rồng Gặp khi bế tắc
Lớn lao chính thống Cũ mới đều dùng
Tươi tốt ngai vàng. Kiện toàn công đức.
Kính theo phép tổ Chính yếu sách rồng,
Hiếu thờ hai cung. Rõ ràng ghi chép.
Hòa thân người họ, Cao đẹp sáng trong,
Đãi kẻ có công. Toàn thiện toàn mỹ
Yêu cầu cần mẫn, Bồ đỉnh hiện rồng,
Hình ngục khoan hồng. Bàng bạc mây trắng,
Sửa sang nội trị, Chẳng kịp ngoảnh trông.
Ngoại giao nhu thuần. Tốt tươi tùng bách ,
Xem xét sĩ tốt, Này núi này sông.
Ngừng giá hỏi han, Như đất như đá,
Văn võ sáng chói, Kính khắc đôi dòng,
Quốc túy giữ gìn. Để truyền mãi mãi.
Đứa con hiếu là Điển nối ngôi Hoàng đế kính chép.
CHƯƠNG 3
GIÁ TRỊ CỦA VĂN BIA CÁC LĂNG VUA NGUYỄN
152
3.1. Giá trị lịch sử
Lịch sử với những giai đoạn thăng trầm của nó đã để lại nhiều dấu ấn đối
với đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội. Các sử gia xưa và nay đã ghi lại những
giai đoạn thăng trầm ấy để hậu thế biết rõ hơn về quá khứ dân tộc. Và các vị vua
nhà Nguyễn trong vai trò là người chấp bút trên các văn bia dựng ở các lăng tẩm
đã không chỉ là người có quyền uy tối thượng trên của cả nước nữa mà còn đóng
vai trò là những sử gia viết về những nhân vật, những sự kiện gần gũi mình. Dù
những đánh giá của các vị vua có khách quan hay không thì đó vẫn là những tư
liệu lịch sử quý giá để người đời sau xác nhận lại lịch sử và nhân vật lịch sử.
Trước hết, có thể coi các bài văn bia này là cứ liệu mang tính chính xác cao
về tiểu sử của một vị vua. Không chỉ viết niên hiệu, tên húy, tên thụy, ngày giờ
sinh của vua mà thông qua các bài văn này có thể biết thêm đôi điều về nhân thân
của ông vua. Các sử gia có thể chép nhầm các thông tin trên nhưng con viết cho
cha thì không thể không viết đúng. Ví như trong bài văn bia của lăng Khải Định,
vua Bảo Đại đã viết về tiểu sử vua cha như sau: “Hồng duy ngã Hoàng khảo Tiên
Hoàng đế, Hoàng Tổ khảo Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế hoàng trưởng tử dã,
Hoàng Tổ mẫu Khôn Nghi Hoàng Thái hậu dĩ Hàm Nghi nguyên niên Ất dậu thu
cửu nguyệt Bính tuất, sơ nhất nhật Bính thân, Giáp tuất thời” - 鴻 惟 我 皇考
先 皇 帝 皇 祖 考 景 尊 純 皇 帝 皇 長 子 也 皇 祖 母 坤 儀 皇 太 后 以 咸 宜
元 年 乙 酉 秋 九 月 丙 戌 初 一 日 丙 申 甲 戌 辰 --Hoàng khảo ta là con
trưởng của Hoàng Tổ khảo Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế và Khôn Nghi Hoàng
Thái hậu. Ngài sinh giờ Giáp tuất, ngày Bính thân mồng 1 tháng 9 Bính tuất mùa
thu năm Ất dậu, niên hiệu Hàm Nghi năm đầu. Ở đoạn khác cũng có nói: “Tháng
2 năm Ất sửu thứ 10, ngài không dự việc chính nữa. Ngày 15 tháng 9 năm Bính
tuất, bệnh nặng dần, đến giờ Đinh mão, ngày Giáp ngọ 20, Hoàng khảo cưỡi rồng
chầu trời tại lầu Kiến Trung. Kính quan tử cung tại điện Càn Thành, thánh thọ 41
tuổi.(十年 乙 丑 二 月一 日 不 預 九 月 丙 戌 十 五 日 疾 大 漸二 十 日 甲
午丁 卯 時 龍 御 上賓 于 建 中樓 奉 安 梓 宮 于 乾 成 殿 聖 齡 壽 四 十 有
153
一 ). Những đoạn tương tự như trên đều có ở tất cả các bài văn bia. Trong các bài
ngự chế văn bia, các vua đã nhắc đến mục đích viết là để hậu thế biết và ghi nhớ
công lao của các bậc Tiên đế. Có lẽ vì vậy mà các bài văn đã viết rất tỉ mỉ, gọn
gàng mà dễ hiểu. Cho nên có thể nói dựng bia là để ca ngợi công đức nhưng
không phải lúc nào cũng sử dụng lời văn bóng bẩy, hoa mỹ.
Mỗi một triều đại phong kiến cũng như mỗi một đời vua trị vì đều có những
ảnh hưởng nhất định với xã hội. Và dù ảnh hưởng đó tiêu cực hay tích cực thì
lịch sử luôn công bằng với những gì đã đi qua. Xã hội ngày nay đang nhìn nhận
lại quá khứ trong bối cảnh cụ thể của nó để có những đánh giá chính xác và đúng
đắn. Triều Nguyễn và vai trò lịch sử của nó cũng đang là vấn đề được xem xét
lại. Việc ghi chép lịch sử là công việc của các sử gia nhưng không phải sử gia
nào cũng ghi chép đúng sự thật khách quan của lịch sử. Và nếu ai đó đọc “Đại
Nam thực lục” hay “Đại Nam nhất thống chí” cũng sẽ nhận ra quan điểm lịch sử
vào giai đoạn dưới triều Nguyễn luôn thống nhất với quan điểm của chính vua tại
ngôi. Đọc các văn bia, điều đầu tiên chúng ta cảm nhận được chính là: ca ngợi là
cảm hứng chủ đạo. Công đức các vị vua đã được cường điệu quá mức. Gia Long
là người gây dựng lại cơ nghiệp dòng nhà Nguyễn, trải qua không ít khó khăn
trước khi chiến thắng nhà Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, công của đức vua đã được
vua Minh Mạng cho là: 蓋 其 仁 足 以 被 物 孝 足 以 感 神 文 足 以 附 眾 武
足 以 威 暴 - Đức nhân của Ngài đủ phổ cập vạn vật, đức hiếu đủ cảm thần
thánh, tài văn đủ cho dân chúng quy phục, tài võ đủ khiến hung đồ sợ hãi. Hay
như vua Thiệu Trị, ông lên ngôi khi mọi vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội đã
được bình ổn dưới thời Gia Long và Minh Mạng nhưng trong bài bia viết về ông,
vua Tự Đức đã ca ngợi vua cha là : “Ở trong nhà thì 9 họ hòa mục, ở trong nước
thì trăm họ thân yêu, đối với thiên hạ thì miễn mọi phục tùng. Đức hòa sáng khắp
sáu cõi, điềm lành ứng hiện mười phần. Trị nước trong 7 năm, công hiệu đến
trăm đời. Thực là đức thịnh nghiệp lớn lắm vậy” - 在 家而 九 族 敘 在 國 而 百
姓 親 在 天 下 而 蠻 夷 格 化 光 六 合 瑞 應 十 成 治 在 七 年 效 及 百 世 盛
154
德 大 業 至 矣. Rõ ràng, sự ca ngợi này là quá mức. Cho nên tính xác thực của
văn bia không lớn.
Trong các văn bia mà chúng tôi khảo sát, chỉ riêng văn bia Tự Đức là vừa
kể công vừa kể tội. Xưa nay, chúng ta chỉ biết đến quyền uy tối thượng của một
hoàng đế chứ ít được nghe tâm lý tình cảm thực sự của một người được coi là
đấng chí tôn. Nhưng đọc “Khiêm cung kí” thì chúng ta sẽ hiểu hơn về một nhân
vật lịch sử mang nhiều tai tiếng trong lịch sử nhà nước phong kiến. Đây là văn
bia đặc sắc và có ý nghĩa nhất, bởi không chỉ do nội dung của nó mà còn do tính
đặc biệt của nó nữa. Vua Tự Đức không có con nên văn bia trên lăng ông là do
chính tay nhà vua viết. Nhà vua đã không hề khoe khoang công mình trước lịch
sử mà ông có những giây phút hối hận với những việc đã xảy ra. Những gì mà
ông tự nói lên đã khiến cho người ta không khỏi khâm phục. Làm vua trong vòng
36 năm giữa lúc đất nước có nhiều biến động phức tạp, Tự Đức đã không tránh
khỏi sự chê trách của mọi người; cho nên bài văn bia được coi như là lời giãi bày
của ông trước bao biến cố xảy ra đối với đất nước và dân tộc.
Đầu tiên, vua Tự Đức nói về việc lên ngôi của mình là do được vua cha yêu
thương, mỗi lần vua Thiệu Trị ra ngoài chơi đều cho ông theo hầu, ân huệ vua
cha ban không ít như được dự việc xét án mùa thu, được ban thức ăn, được khen
tài văn chương ... và khi được gọi vào nghe đọc di chiếu thì “hồn bất phụ thể rồi
kíp theo sứ vào chầu, tất cả đều là phận sự, tất nhiên ta chẳng lưu ý gì...” Tự Đức
cho là phận sự nhưng thực việc “phế trưởng lập thứ” này đã không khỏi bị thiên
hạ bàn tán. Về sau, khi khởi nghĩa “Chày vôi” nổ ra dưới chiêu bài tôn phò “Ngũ
đại hoàng tôn”, vua đã cho giết Hồng Bảo như là một biện pháp cứng rắn để tiêu
trừ mầm họa. Khi nhắc đến điều này, Tự Đức viết: “Lòng ta có như thế không?
Hay ta vì bọn nhỏ nhen mà bị mê hoặc? sao ta vội vàng đến nỗi tự quyết đoán
như vậy, nhất thời cũng khó giãi bày được hết, trăm năm còn có sử xanh, ta nỡ
nào!”. Việc tranh giành ngôi báu mà anh em tàn sát lẫn nhau thì đời nào cũng có
nhưng không mấy ai tự nhận lỗi về mình, nhất là viết trên văn bia lưu truyền hậu
thế như vua Tự Đức.
Nhà vua luôn muốn làm một ông vua giỏi, được ca tụng nhưng chính những
việc làm của ông đôi lúc đi ngược lại điều mong muốn ấy. Ban đầu, khi thực dân
155
Pháp xâm lược Đà Nẵng, Tự Đức cho quân đội hiệp lực cùng nhân dân chiến
đấu, tạm thời đẩy lui quân địch. Đó là lúc cao trào yêu nước của nhân dân lên
cao, thể hiện lòng quyết tâm chiến thắng. Nhưng khi Pháp chuyển hướng đánh
thành Gia Định, do những nguyên nhân khác nhau, quân triều đình thất bại và
vua từ đó cũng bắt đầu lúng trước sự bùng cháy của lòng yêu nước ở khắp các
địa phương. Biết thế không đương nổi, nhà vua đã vội vàng nhân nhượng với
giặc. Nhà vua đã biện minh cho hành động của mình là: “Hưởng thái bình đã lâu
ngày, dân không biết chiến đấu, canh thành giữ chốt nào được mấy người, khiến
đất nước đầy trộm cướp, trong gian ngoài giặc, chúng lén lút cấu kết với nhau
tràn lan, chúng đến đâu thì tàn hại như gió bão, thử hỏi biết cùng ai để bảo vệ bờ
cõi của ta huống chi là việc bảo vệ dân ta? Bất đắc dĩ phải đánh qua loa cho xong
chuyện, nhưng dân thì ngày càng quấy nhiễu. Để thôi mệt nhọc, nhân giặc cầu
hòa ta đành phải sai sứ cùng chúng hội ước, những nhà nho lão thành, những đại
thần uy vọng đều lấy làm bùi ngùi và xin đi, rồi chẳng hiểu sao lại quá dễ dãi
trong việc thương thuyết mà trở về. Các triều đã dày công mở mang đất đai, tụ
họp dân chúng, bỗng nhiên một sớm thảy giao cho địch, họ đã chọn lấy cái họa
nhỏ, lấy cái chết để khỏi nhục mạng vua, quả như thế chăng?”承 平 日 久 顏 不
知 戰 干 城 保 章 有 幾 人 焉 以 致 山 海 群 盜 內 姦 外 寇 暗 相 綈 串 滋 蔓
所 至 風 靡 誰 與 保 吾 境 矧 可 保 吾 民 不 得 已 征 繕 以 從 事 而 民 益 騷
然 瘁 止 不 得 已 因 虜 求 成 遣 使 與 約 耆 儒 碩 輔 慨 然 謂 往 不 審 何 故
而 容 易 成 言 以 還 率 將 累 朝 艱 難 闢 聚 之 土 地 人 民 旦 盡 棄 敵 其 於
擇 禍 取 輕 以 子 固 爭 使 不 辱 君 命. Tiếp đó, các cuộc đấu tranh nổ ra là để
chống Pháp thì được cho là quấy nhiễu, cuối cùng đã cùng giặc đàn áp chính
nhân dân mình. Thời cuộc thay đổi, gươm giáo không đánh lại được súng đạn
nhưng ít ra khi vận hội chưa hết, lòng dân vẫn mong ngóng thì vua không nên
vội vàng chấp nhận thỏa hiệp. Càng về già, vua càng bạc nhược, bi quan, yếm
thế, sống hưởng thụ mà bỏ quên thần dân đang bị đàn áp, bóc lột. Dân Nam Kì
“xương rơi máu đổ” là để bảo vệ sơn hà xã tắc nhưng vua thì cho xây dựng
156
Khiêm Cung nguy nga, lộng lẫy để vui chơi, lại tăng thuế gấp nhiều lần khiến
dân tình điêu đứng. Ngay chính tên “Khiêm Cung” cũng đã là một sự đối lập
với bên trong được xây dựng cầu kì hơn 50 công trình hao người tốn của. Và
chính nhà vua cũng phải tự nhận: “Không sáng suốt trong việc biết người, ấy là
tội của ta; dùng người không đúng chỗ, cũng là tội của ta; hằng trăm việc không
làm được đều là tội của ta cả...” Đây dù sao cũng là lời thú tội rất thành thực
của một ông vua trị vì lâu nhất dưới thời Nguyễn, khác với những lời ca tụng tẻ
nhạt, khoa trương như ở các bài văn bia khác. Ông cũng không che giấu nhược
điểm của mình “đức ta không đủ để thay đổi phong tục, tài ta không đủ để
thành tựu cho mọi người. Chí lớn mà kiến thức nông, mong nhiều nhưng chỉ
được ít”. Nhưng dù sao cái ý muốn “bắt chước Hán Vũ Đế” của nhà vua cũng
rất đáng trân trọng.
Mỗi bài văn bia có một giá trị riêng đối với lịch sử. Nghiên cứu về những
văn bia này cũng là cách tiếp cận gần hơn với quá khứ.
3.2. Giá trị văn học
Trước hết, văn bia lăng các vua Nguyễn có thể nói là bản ghi chép sơ lược
về cuộc đời và sự nghiệp của một vị vua. Rất rõ ràng và đầy đủ từ tiểu sử đến
công lao sự nghiệp, mỗi bài văn đã khiến cho người đọc mường tượng như mình
đang được tận mắt chứng kiến cuộc đời đầy sống động của những nhân vật lịch
sử thời trước. Không cần nhiều chi tiết, cũng không cần những lời hoa mỹ, rườm
rà, bài văn đã thể hiện rõ nhân sinh quan của chính người viết. Không có những
va chạm kịch tính giữa các nhân vật nhưng những bài văn bia mang đến cho
người đọc những giây phút hồi hộp đến kì lạ. Đó có lẽ là vì xưa nay bàn luận về
chuyện vua chúa không phải là điều dễ nói, nhất là trong xã hội cũ. Không chỉ sơ
lược về cuộc đời mà Tự Đức trong “Khiêm cung kí” còn bộc lộ tâm sự kín đáo
của một vị vua ngồi trên ngai vàng lâu nhất trong lịch sử vương triều Nguyễn
trong tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động. Đó là những điều
không dễ gì nói ra. Điều đặc biệt là nó lại được khắc lên bia đá để lưu truyền đời
sau. Dân gian có câu “trăm năm bia đá cũng mòn, nghìn năm bia miệng vẫn còn
trơ trơ” nhưng “bia miệng” người ta có thể nói trăm chiều xuôi ngược, còn bia đá
lại là sự khẳng định chân thực, nhất là nó lại do chính người trong cuộc viết nên.
157
Những lời tâm sự của một vị vua sắp đi vào cõi "Thiên Thai" rất sâu lắng bởi nó
được đúc kết qua những bước thăng trầm của cuộc đời nhà vua theo dòng lịch sử;
không ngại ngần khi tự nhận sai lầm và khuyết điểm, vua Tự Đức khiến người
đọc không khỏi ngạc nhiên và ngưỡng mộ về sự dũng cảm trước lịch sử. Bởi vậy,
trong các bài văn bia thì “Khiêm cung kí” vẫn là văn bia đặc biệt nhất.
Qua bài văn bia, người đọc có thể theo chân tác giả trở về với tuổi thơ đầy
ắp kỉ niệm đẹp đẽ và hồn nhiên. Từng cử chỉ, từng lời nói của đấng sinh thành
như những mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Ai cũng có thời thơ ấu, ai
cũng được cha mẹ yêu thương, đó là điều mà các vị vua kế nhiệm muốn nói đến
dù họ là vua hay là ai đi nữa. Qua cảm quan chủ quan của người viết, sự ấm áp,
yêu thương của người cha kính mến vẫn còn đó dù người đã mất và trong ý thức
đó là điều không dễ gì lãng quên.
Bài văn còn là nơi gửi gắm tình phụ tử rất đỗi thiêng liêng và cao quý. Tình
phụ tử, mẫu tử là những mẫu mực đạo đức rất được coi trọng trong bất kì xã hội
nào, nhất là trong xã hội phong kiến. Một đứa con bất hiếu không thể là một bề
tôi trung, đó là quan niệm của Nho gia. Chữ “hiếu” luôn đi kèm với chữ “ trung”
như để nhắc nhở con người phải biết trọn đạo làm con và đạo làm tôi. Dù thực
tế, tình cảm cha con có mặn nồng hay không nhưng điều mà người đọc có thể
cảm nhận chính là sự hiếu thuận của người con đối với cha. Khi cha khỏe mạnh
thì luôn vấn an sức khỏe, khi cha lâm bệnh thì ở bên hầu hạ, chăm sóc, khi cha
mất thì đau xót và tận lễ. Vua Minh Mạng đã bày tỏ tâm trạng đau đớn của mình
khi vua cha mất như thế này: “Thần nhìn thấy những cây thông, cây tùng rậm
rạp, đoái trông sông núi quây quần lại tưởng nhớ đến đức thánh công thần của
Hoàng khảo, từng làm vẻ vang tổ tiên, mở mang bờ cõi, công nghiệp cao dày đã
cùng cực, thật đáng sánh cùng Trời Đất. Nhưng giống với vua Hoàng, vua
Chuyên, không bền bỉ như chất vàng đá; với vua Hoa, vua Huân không sống lâu
như cây kiều tùng; Hoàng khảo đã xa chơi tiên cảnh khiến thần kêu khóc, níu lấy
nhưng không thể kịp. Vậy chỉ còn cách là thần kể lại những việc thiện mỹ, bày tỏ
những công nghiệp vĩ đại của Hoàng khảo, để chỉ bảo người đời sau nhớ đến
muôn thuở, ngõ hầu làm giảm bớt lòng bi thương vô cùng và bày tỏ đạo hiếu
thảo vô tận của thần”. Đây không chỉ là tâm trạng riêng của vua Minh Mạng mà
158
là tâm trạng chung của các vị vua kế nhiệm khi cha mất. Có thể coi đây là bản
tình ca về tình phụ tử trước thử thách thời gian và lịch sử.
Mỗi bài văn như một bản nhạc gia hưởng nhiều cung bậc hòa quyện lẫn
nhau. Có được như vậy là nhờ tác giả đã có vốn kiến thức sâu rộng, tài nghệ văn
chương và sự khéo léo trong việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu như
phóng đại, khoa trương, sử dụng điển tích, điển cố, ước lệ tượng trưng...Đây đều
là những thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu trong văn học chữ hán. Ngoài ra, các tác
giả đã rất tài tình khi biết nhào nặn không gian- thời gain nghệ thuật co giãn theo
hướng đa chiều mà không hề cảm thấy lộn xộn hay rối rắm. Mạch cảm xúc theo
đó mà biến thiên khiến các bài văn có sự nhịp nhàng cần thiết.
3.3. Giá trị mỹ thuật
Văn bia là một tác phẩm thành văn được ghi trên đá. Do tính quan trọng và
có sự ảnh hưởng lớn mang tính lịch sử nên văn bia thường được chăm chút về
mặt mĩ thuật.
Một đặc điểm dễ nhận thấy ở văn bia các lăng vua Nguyễn là các văn bia
đều có dáng cao to, trông rất uy nghi và hoành tráng như một tượng đài. Bia
Minh Mạng thân cao 2,88m, rộng 1,52m, bệ bia dài 1,96m và cao 1,08m ; bia
Thiệu Trị thân cao 2,88m, rộng1,52m, bệ bia dài 2,16m, cao 0,92m... Những tấm
bia được coi nhỏ nhất là văn bia ở lăng Gia Long cao 2,8m, rộng 1,52m, bệ bia
dài 1,88m, cao 0,8m; văn bia Đồng Khánh cao 3,05m, rộng 1,45m, dày 0,16m, bệ
bia dày 0,8m, dài 2,07m, cao 0,6m.
Cùng với các kiến trúc khác trong lăng mộ, văn bia chính là sự thể hiện sự
trang trọng, tôn nghiêm nơi yên nghỉ của nhà vua. Khác với văn bia thời Lý (cao
2,5 x1,7m, dày 0,29m) ngoài ý nghĩa và văn phong trong nội dung được ghi trên
văn bia, hình thức to lớn của bia còn nhằm khẳng định tinh thần độc lập tự chủ,
bản sắc văn hóa riêng của nước Đại Việt bên cạnh nước Đại Tống luôn có mưu
đồ bá quyền, các văn bia của lăng vua Nguyễn là sự khẳng định về một triều đại
có nhiều thành tựu và dấu ấn trong lịch sử đất nước, là sự khẳng định công lao và
vị trí của mỗi vị vua đối với dân tộc. Trên trán bia và diềm bia luôn được trang trí
bằng họa tiết rồng và hoa văn rất đẹp.
Trán bia luôn là hình một con rồng lớn với những đường uốn lượn rất bay
159
bổng, điệu nghệ cùng với những sóng mây xung quanh. Phần trên của thân bia
luôn là hình “lưỡng long triều nguyệt”, có khi bên dưới thân bia cũng có như văn
bia lăng Đồng Khánh. Mặt nguyệt (hay Mặt Trời) có nhiều tia sắc nhọn trong như
ngọn lửa thiêng, bảo vệ sự trong sạch nơi lăng tẩm, đó cũng là biểu tượng của
vương quyền. Mặt nguyệt thời Nguyễn khác mặt nguyệt các thời khác. Thời Lý:
mặt nguyệt là một vòng tròn sáng, nhọn ở đỉnh đầu. Thời Trần thường thay bằng
hình chữ Phật (hán tự) hình vuông. Thời Lê là hình Mặt Trời có tia. Thời Mạc là
một vòng tròn ngoài có thêm 1 đến 3 vòng tròn đồng tâm làm nổi rõ hình tượng
mặt nguyệt.
Bệ bia của các văn bia là một khối đá nguyên, dáy và rất vững chắc với ý
tưởng xây dựng một quốc gia vững mạnh, kỷ cương xứng danh nước Đại Nam
sánh vai nước Đại Thanh phía Bắc. Các bệ bia ở lăng giống nhau, chỉ có bệ bia ở
lăng Tự Đức có tạo đường rãnh uốn lượn ở bề mặt trước làm cho bệ bia tăng
thêm phần mềm mại. Nó khác với văn bia các chùa hay văn bia tiến sĩ thường có
hình rùa đội bia được đặt lên bệ đá và cũng khác với bệ bia các thời trước. Thời
Lý, bệ bia được chạm khắc hình rồng rắn quấn lấy nhau và đầu luôn vươn lên với
ý nghĩa thiêng liêng. Thời Trần, bệ bia thường được khắc hình rùa với ý tưởng
nhấn mạnh về một xã hội ổn định, phát triển và trường tồn.
Cột chân bia được làm theo kiểu sập chân quỳ, trông rất vững chải và trang
nghiêm, phù hợp với một triều đại được gây dựng lại từ trong chiến tranh loạn
lạc, cát cứ. Nhưng đây không phải là đặc điểm riêng biệt của bia ở các lăng vua
Nguyễn mà bia ở chùa hay các vị trí quân sự, giáo dục cũng có đặc điểm này, có
thể đây là đặc trưng của bia thời Nguyễn.
Hoa văn ở trên các bia được chạm khắc tỉ mỉ, hài hòa, cân xứng. Nó là kết
quả sự phối hợp giữa bàn tay và khối óc của người thợ khắc để tạo nên những nét
vẽ tuyệt đẹp. Mỹ thuật được thể hiện trên bia đá mang dáng dấp của nền mỹ thuật
thời đại. Càng về sau, mỹ thuật thể hiện trên bia nói riêng và toàn bộ lăng tẩm nói
chung là sự kết hợp giữa mỹ thuật phương Đông và phương Tây, giữa cái nhuần
nhụy, mềm mại, dịu dàng và cái rắn chắc, khỏe khoắn.
Giá trị mỹ thuật là một trong những giá trị mà hệ thống văn bia Việt Nam
nói chung và văn bia của các lăng vua Nguyễn nói riêng đã để lại cho chúng ta
160
ngày nay. Đó là bằng chứng hiện hữu nhất cho chúng ta biết thêm về mỹ thuật
của một thời đại và góp phần khẳng định thêm giá trị đích thực của bia đá.
3.4. Giá trị về ngôn ngữ và chữ viết
Trong những giá trị mà văn bia mang lại cho văn hóa cổ truyền dân tộc
không thể không nhắc đến giá trị về ngôn ngữ, chữ viết và thể loại. Bởi những
thể loại khác nhau sẽ chuyển tải những nội dung khác nhau, quy định ngôn ngữ
phù hợp với nội dung và hình thức thể hiện nó. Sự phong phú về thể loại cũng
chính là sự phong phú về nội dung.
Nhắc đến thể loại là nhắc đến một phạm trù thuộc hình thức của tác phẩm.
Bia đá là một tác phẩm thành văn và thể loại của nó đã được nhắc đến ngay đầu
đề bài văn bia: thánh đức thần công bi kí, Khiêm cung kí...Thể loại được nhắc
đến ở đây là kí. Đây là thể loại dùng để phản ánh những vấn đề, sự kiện, con
người có thật, điển hình, luôn cố gắng đảm bảo tính chân thực, chính xác của nội
dung. Chính đặc điểm này đã thể hiện sự tin cậy cần thiết đối với những thông tin
mà văn bia chuyển tải. Những nhân vật mà các văn bia nhắc đến không phải là
kết quả của sự sáng tạo bằng nghệ thuật hư cấu của người chấp bút mà đó là
những con người có thật, những nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử có thật. Nói
rằng các văn bia được viết theo thể kí nhưng không phải toàn bộ bài văn là một
câu chuyện được viết theo lối trần thuật mà có sự pha trộn giữa nghệ thuật kể
chuyện và những áng thơ trữ tình. Trong 6 bài văn bia thì 5 bài là ở phần cuối có
bài thơ dài mỗi câu bốn chữ, chỉ có ở “Khiêm cung kí” là bài thơ cuối được viết
gần giống thể phú, chỉ có 8 câu và rất giàu cảm xúc.
Về chữ viết, tất cả các bài văn bia đều được viết bằng chữ Hán. Do những
nguyên nhân khác nhau, đến lúc này chữ Hán vẫn giữ địa vị độc tôn trong nền
văn tự nước nhà. Chữ Hán trên các văn bia được viết theo lối chữ chân, rõ đẹp.
Chính tầm quan trọng của các văn bia nên việc khắc chữ được thực hiện rất tỉ mỉ
và nghiêm cẩn. Đây là những mẫu mực về chữ viết được khắc trên đá của thời
đại trước.
Về ngôn ngữ, các tấm bia được khắc vào những thế kỉ XIX, XX nên ngôn
ngữ ở đây rất gần với ngôn ngữ hiện đại. Ngoài ra, bằng việc mượn các điển tích,
điển cố Trung Quốc, ngôn ngữ mang tính cô đọng, hàm súc. Hầu hết các bài văn
161
bia đều sử dụng điển tích, điển cố. Vua Minh Mạng chỉ dùng 4 từ “canh tường tại
mộng” để nói lên lòng thương nhớ của mình đối với người cha đã mất cũng
giống như ngày xưa lúc vua Nghiêu mất, vua Thuấn tưởng tượng thấy vua
Nghiêu ở bên bức tường, khi ăn thấy bóng vua Nghiêu trong bát canh; chỉ 2 từ
“vương sư” cũng đủ để nói lên khí thế tiến quân như vũ bão của vua Gia Long
giống với khí thế trừ bạo ngày xưa của đội quân Chu Vũ Vương. Vua Tự Đức chỉ
dùng cụm từ “Vũ xa Thang võng” mà nói lên được lòng nhân từ của vua Thiệu
Trị đối với dân chúng... Các vị vua đã sử dụng tính đa nghĩa, hội ý của chữ Hán,
đặc biệt là hệ thống điển tích, điển cố Trung Quốc để rút gọn lời mà ý lại sâu xa.
Hàng loạt những nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử lấy từ lịch sử Trung Quốc đã
được nhắc đến như: Chu Công, Hán Quang Đế, Nhan Hồi, Bành Tổ, Bá Di, Đạo
Chích, Tư Không Biểu Thánh, Hán Văn Đế, Đường Thái Tông, Ngu Khê, Tân
Phong, Giản Định, Phong Thủy... Các điển tích, điển cố được sử dụng rất nhuần
nhuyễn, đa dạng và sinh động. Điều này cho thấy, tài văn chương của các vị vua
không hề thua kém các bậc túc Nho. Ngôn từ, câu kéo được lựa chọn kĩ càng và
trau chuốt. Những trợ từ ngữ khí, từ cảm thán được sử dụng để biểu đạt sắc thái
tình cảm cộng với những thủ pháp lặp lại, thay thế khiến những bài văn có sự
sinh động cần thiết.
Tóm lại, văn bia ở đây không đơn thuần là sự ca tụng công đức mà còn mang
những giá trị về nghệ thuật biểu hiện. Trên những mặt nhất định, văn bia là sự
thể hiện tài năng của người viết và người khắc.
162
C - KẾT LUẬN
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Cố đô Huế đã đi vào lòng người Việt và du khách nước ngoài chính bằng những
cảnh trí thiên nhiên, dân dã mà không kém phần thú vị và hấp dẫn. Thiên nhiên nơi
đây là nguồn cảm hứng của nhiều thi nhân và là nơi dừng chân của những ai muốn có
thời gian nghỉ ngơi thật bình yên và thoải mái. Những nét văn hóa cổ truyền nơi đây
cũng thu hút khách tham quan tìm hiểu, khám phá. Ai đã đến Huế sẽ không dễ quên
hình ảnh của con người Huế chân thành, mộc mạc và hiếu khách, không quên vốn ẩm
thực đa dạng, cầu kì, hấp dẫn, không quên núi Ngự sông Hương với những vẻ đẹp
khó cưỡng lại sự tò mò, khám phá, càng không thể quên những danh lam thắng cảnh,
những di tích lịch sử. Đến đâu trên mảnh đất cố đô này, du khách cũng bắt gặp cảnh
đẹp hết sức nhẹ nhàng, tinh tế mang phong cách riêng của vùng đất nhiều sông lắm
núi. Nào là sông, là biển, là suối nước nóng, là chùa chiền, di tích văn hóa giáo dục, di
tích lịch sử... Ngày nay, người ta khẳng định Huế là thành phố của du lịch, là điểm
đến quen thuộc của du khách trong và ngoài nước.
Góp phần vào sự phát triển của cố đô Huế hôm nay, không thể không kể
đến giá trị của hệ thống di tích lịch sử đồ sộ mà kinh đô Phú Xuân xưa đã in dấu
hơn một thế kỉ thời đại vàng son của vương triều Nguyễn. Đại Nội với những
cung điện lộng lẫy, cảnh trí thiên nhiên có sự chăm chút của bàn tay con người
mang lại cảm giác trang nghiêm như sống lại những giờ phút huy hoàng trong
lịch sử; những cung điện xây dựng ở những vùng quê yên tĩnh dành cho vua ngự
giá khi “vi hành” như mời gọi du khách đến thưởng ngoạn; đặc biệt là hệ thống
lăng tẩm của các vua chúa với nghệ thuật trang trí đặc sắc. Mỗi lăng tẩm là một
phát hiện kì thú về mỗi vị vua và đặc trưng nghệ thuật mang tính thời đại. Nhận
xét về lăng tẩm của các vua Nguyễn, ông Phạm Quỳnh trong “Mười ngày ở Huế”
đăng trên tạp chí Nam Phong ra số tháng 10 năm 1918 có viết: “Lăng đây là cả
một tòa thành, cả một vùng núi, chớ không phải là một khoảng dăm ba sào, một
khu vài ba mẫu. Lăng đây là gồm cả màu trời sắc nước, núi cao rừng rậm, gió
thổi ngọn cây, suối reo hang đá, chớ không phải một cái nấm con con của tay
163
người xây dựng. Lăng đây là bức cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp ghép thêm một cảnh
nhân tạo tuyệt khéo. Lăng đây là cái nhân công tô điểm cho sơn thủy, khiến cho
có một cái hồn não nùng, u uất, như phảng phất trong cung điện âm thầm, như rì
rào trên ngọn thông hiu hắt. Không biết lấy lời gì mà tả được cái cảm lạ, êm đềm
vô cùng, ảo não vô cùng, nó chìm đắm người khách du quan trong cái cảnh tĩnh
mịch u sầu ấy. Trong thế giới chắc còn lắm nơi lăng tẩm đẹp đẽ hơn nhiều, như ở
Ấn Độ có cái mả bà chúa toàn bằng ngọc thạch, ở Âu Châu cũng có lắm nơi mộ
địa u sầm. Nhưng không đâu cái công dựng đặt của người ta với cái vẻ thiên
nhiên của trời đất khéo điều hòa nhau bằng ở đây, cung điện đền tạ cùng một
màu một sắc như núi non, như cây cỏ; tưởng như cây cỏ ấy, núi non ấy phải có
đình tạ ấy, cung điện ấy mới là xứng, mà cung điện ấy, đình tạ ấy phải có núi non
ấy, cây cỏ ấy mới là hợp vậy”.
Quả thật nếu đến Huế mà không tham quan các lăng tẩm thì chưa phải đã
đến Huế. Và sẽ là sai lầm nếu cho rằng nơi án táng thi thể người chết thì có gì mà
xem bởi vì lăng tẩm ở đây không mang cái vẻ buồn rầu, u tịch, tang tóc đau
thương mà ngược lại đó là sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người. Mỗi khu
lăng tẩm đều có địa thế cách xa khu dân cư, lại được bao bọc bởi một dải thiên
nhiên hùng vĩ tạo nên sự trang nghiêm và độc đáo.
Trải qua bao biến cố của lịch sử và sự bào mòn của thời gian, những di tích
lịch sử đang bị xuống cấp trầm trọng. Chỉ tính đến các khu vực lăng tẩm, ở
những khu lăng mộ gần thành phố và thu hút nhiều khách tham quan, các công
trình kiến trúc trong lăng được trùng tu và bảo vệ, còn những lăng mộ có vị trí
cách xa trung tâm như lăng Gia Long thì việc bảo vệ trùng tu đã không được chú
ý đúng mức. Việc bảo vệ ở những nơi này chỉ là chiếu lệ. Lăng mộ dần mất đi vẻ
trang nghiêm và yên tĩnh. Giá trị của các di tích lịch sử văn hóa không phải được
đánh giá trên tiêu chí có nhiều khách tham quan hay không mà ở chỗ nó có giá trị
như thế nào đối với nền văn hóa cổ truyền dân tộc. Do vậy, những khu lăng mộ
hiện còn ở Huế nói chung và những văn bia nói riêng cần được bảo vệ một cách
đúng mực. Trong tương lai, rất mong các cơ quan có thẩm quyền lưu ý đến việc
trùng tu tất cả các khu lăng mộ và những công trình kiến trúc trong lăng để thế hệ
sau được chiêm ngưỡng các giá trị văn hóa hiện tồn và cũng là để góp phần bảo
164
vệ sự tốt đẹp của nền văn hóa Việt.
Hệ thống lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn ngày nay đang thu hút sự tìm hiểu,
khám phá của du khách trong và ngoài nước. Và trong rất nhiều hiện vật còn ở lại với
thời gian thì những tấm bia đá là bằng chứng cụ thể nhất bằng ngôn ngữ cho biết về
những nhân vật lịch sử một thời có nhiều ảnh hưởng đến xã hội phong kiến. Văn bia ở
các lăng vua Nguyễn không chỉ mang giá trị lịch sử- là bản đối chứng về lịch sử dân
tộc một thời đã qua mà còn chứa đựng những giá trị văn học, nghệ thuật rất được
quan tâm và trân trọng.
Với phạm vi nghiên cứu của đề tài “Khảo sát văn bia lăng các vua
Nguyễn”, chúng tôi mới giải quyết được một phần nhỏ về văn bia và giá trị của
nó mà thôi. So với những giá trị mà hệ thống văn bia các lăng vua Nguyễn để lại
thì kết quả nghiên cứu mà đề tài này mang lại còn quá ít. Những giá trị của văn
bia như giá trị thẩm mỹ, giá trị về thể loại, chữ viết chưa được đi sâu nghiên cứu.
Nhưng do thời gian và trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên chưa đạt được kết
quả cao. Hy vọng, những hạn chế này sẽ được các công trình nghiên cứu khác bổ
sung.
Nghiên cứu văn bia lăng các vua Nguyễn, chúng tôi mong muốn được góp
phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu, khám phá và khôi phục những giá trị văn hóa lịch sử
của dân tộc. Hy vọng đây là những viên gạch nhỏ cho nhiều công trình nghiên cứu
có quy mô lớn và đầy đủ hơn. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do tầm hiểu biết
còn hạn chế, phương pháp nghiên cứu còn sơ sài, chắc chắn không tránh khỏi sai
sót, mong các bậc túc Nho chỉ bảo thêm.
165
D - PHỤ LỤC ẢNH
Hình 1: Cổng chính đi vào điện Minh Thành (lăng Gia Long)
Hình 2: Một góc của sân chầu (lăng Gia Long)
166
Hình 3: Voi và ngựa đá ở sân chầu (lăng Gia Long).
Hình 4: Từ Bi đình đến Hiển Đức môn (lăng Minh Mạng)
167
Hình 5: Cảnh trước hồ Tân Nguyệt (lăng Minh Mạng)
Hình 6: Cầu Thông Minh Chính Trực nối Minh Lâu
168
và Mộ Vua (lăng Minh Mạng)
169
Hình 7 : Bi đình lăng Thiệu Trị
170
Hình 8: Kỳ lân ở một bên của sân chầu (lăng Thiệu Trị)
171
Hình 9: Đường dẫn vào Hồng Trạch Môn
và Điện Biểu Đức (lăng Thiệu Trị)
Hình 10: Trụ biểu ở lăng Tự Đức
172
Hình 11: Cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp bên cạnh hồ Lưu Khiêm
(lăng Tự Đức)
173
Hình 12: Điện Hòa Khiêm (lăng Tự Đức)
174
Hình 13: Hồ Lưu Khiêm với Xung Khiêm Tạ và
Dũ Khiêm Tạ (lăng Tự Đức)
175
Hình 14: Toàn cảnh bi đình và sân chầu lăng Đồng Khánh
176
Hình 15: Một góc sân chầu nhìn từ phía sau (lăng Đồng Khánh)
177
Hình 16: Bàn thờ vua đặt trong điện Khải Thành (lăng Khải Định)
178
Hình 17: Lăng Khải Định nhìn từ phía trước
179
Hình 18: Hoa văn và nghệ thuật trang trí trên tường (lăng Khải Định)
E - TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. SÁCH
1. Phan Thuận An, (2008), Lăng tẩm Huế- một kì quan, NXB Thuận Hóa, Huế.
2. Phan Thuận An, (1997), Thần kinh nhị thập cảnh- thơ vua Thiệu Trị, NXB
Thuận Hóa, Huế.
3. Phan Thuận An, (2008), Huế xưa và nay- di tích và thắng cảnh, NXB Văn
hóa thông tin.
4. Phạm Văn Khoái, (1998), Giáo trình Hán Nôm dành cho du lịch, NXB
ĐHQG Hà Nội.
5. Thái Văn Kiểm, (1994), Cố đô Huế, NXB Đà Nẵng.
6. Dương Quảng Hàm, (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo Dục trung
tâm học liệu.
7. Thái Công Nguyên, (1999), Quần thể di tích Huế di sản Việt Nam, Trung
tâm bảo tồn di tích cố đô Huế.
8. Nội các triều Nguyễn, (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 13,
NXB Thuận Hóa.
9. Quốc sử quán triều Nguyễn, (1960), Đại Nam nhất thống chí, tập Kinh sư,
Nha văn hóa Bộ Giáo Dục, Sài Gòn.
10. Quốc sử quán triều Nguyễn, (2007), Đại Nam thực lục, toàn tập, NXB Giáo
Dục.
11. Trần Đức Anh Sơn, (2004), Huế- triều Nguyễn một cái nhìn, NXB Thuận
Hóa.
12. Mai Khắc Ứng, (1993), Lăng của hoàng đế Minh Mạng, NXB Thuận Hóa,
Huế.
13. Mai Khắc Ứng, (2002), Kinh đô Huế, NXB Thuận Hóa, Huế.
14. Lê Trí Viễn, (1985), Ngữ văn Hán Nôm, NXB Giáo Dục.
180
II. BÁO - TẠP CHÍ
15. Phan Thuận An, “Huế đẹp”, BAVH Tập X, Tr 405-415, NXB Thuận Hóa,
Huế.
16. L.Cadiere, “Lăng Gia Long”, BAVH Tập X (1923), Tr 319-369, NXB
Thuận Hóa, Huế
17. L.Cadiere, “Lễ tang vua Gia Long”, BAVH Tập X (1923), Tr 370-397, NXB
Thuận Hóa, Huế.
18. L.Cadiere, “Bia ở lăng Gia Long”, BAVH Tập X (1923), Tr 398-404, NXB
Thuận Hóa, Huế.
19. H.Cosrat, “Lễ đăng quang của vua Đồng Khánh”, BAVH Tập VII, Tr 457-
463, NXB Thuận Hóa, Huế.
20. M.Delamarre, “Bia lăng Minh Mạng”, BAVH Tập VII, Tr 290-456, NXB
Thuận Hóa, Huế.
21. Nguyễn Xuân Hoa, “Văn hóa Huế- một năng lực mới đang chuyển động”,
tạp chí sông Hương số 119 (1-1999), Tr 68-70, NXB Thuận Hóa, Huế.
22. Lê Nguyễn Lưu, “Lăng mộ- một loại hình di tích xứ Huế”, tạp chí sông
Hương số 119 (1-1999), Tr 61-62, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa
Thiên Huế.
23. Trịnh Khắc Mạnh, (1993), “Thể loại văn bia Việt Nam”, Tạp chí Hán Nôm
số 4, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc Gia.
24. Trần Đức Anh Sơn, “Về những di tích lịch sử ở Huế và vùng phụ cận”, tạp
chí sông Hương số 122 (T4-1999), Tr 49-58,Hội liên hiệp văn học nghệ
thuật Thừa Thiên Huế.
25. Phan Hứa Thụy, “Bản dịch Khiêm cung kí”, tạp chí sông Hương số 46 (4-
1991), Tr 58-61.
26. Tư liệu: Hồ sơ về các lăng vua Nguyễn, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô
Huế.
181
27. Liễu Thượng Văn, “Huế- di sản văn hóa nhân loại”, Tạp chí sông Hương số
119 (1-1999), Tr 65-67, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế.
III. TỪ ĐIỂN – TỰ ĐIỂN
28. Vĩnh Cao - Nguyễn Phố (2001), “Từ lâm Hán Việt từ điển”, NXB Thuận
Hóa, Huế.
29. Thiều Chửu, (2003), “Hán Việt tự điển”, NXB Thanh Niên.
30. Bửu Kế, (1999), “Từ điển Hán Việt Từ Nguyên”, NXB Thuận Hóa, Huế.
182
Chuùng toâi xin chaân thaønh caûm ôn quyù coâ
thaày khoa Ngöõ vaên, caùc anh chò laøm vieäc ôû
Trung taâm Baûo toàn di tích coá ñoâ Hueá cuøng gia
ñình vaø baïn beø ñaõ giuùp ñôõ, ñoäng vieân trong
quaù trình thöïc hieän ñeà taøi. Ñaëëc bieät, chuùng
toâi xin göûi loøng tri aân ñeán thaày giaùo höôùng
daãn laø ThS. Phan Ñaêng ñaõ chæ baûo taän tình
trong suoát thôøi gian hoaøn thaønh khoùa luaän.
Hueá, thaùng 5 naêm 2010
Ngöôøi vieát
Ñinh Thò Toan
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
35,36,37,167-175
1-34,38-166,176-181
MỤC LỤC
trang
A - MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Mục đích và ý nghĩa đề tài ............................................................................... 4
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6
5. Kết cấu đề tài ................................................................................................... 7
B - NỘI DUNG ................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC LĂNG VUA NGUYỄN ............ 9
1.1. Lăng vua Gia Long ....................................................................................... 9
1.2. Lăng vua Minh Mạng ................................................................................. 11
1.3. Lăng vua Thiệu Trị ..................................................................................... 15
1.4. Lăng vua Tự Đức ........................................................................................ 18
1.5. Lăng vua Đồng Khánh ................................................................................ 22
1.6. Lăng vua Khải Định.................................................................................... 26
CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT VĂN BIA LĂNG CÁC VUA NGUYỄN ................. 29
2.1. Văn bia triều Nguyễn và văn bia lăng các vua Nguyễn ............................... 29
2.1.1. Văn bia triều Nguyễn ............................................................................... 29
2.1.2. Văn bia lăng các vua Nguyễn ................................................................... 33
2.2. Văn bia lăng Gia Long ............................................................................... 39
2.2.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 39
2.2.2. Phiên âm .................................................................................................. 42
2.2.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 43
2.3. Văn bia lăng Minh Mạng ............................................................................ 51
2.3.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 51
2.3.2. Phiên âm .................................................................................................. 59
2.3.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 65
2.4. Văn bia lăng Thiệu Trị ................................................................................ 73
2.4.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 73
2.4.2. Phiên âm ................................................................................................. 81
2.4.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 87
2.5. Văn bia lăng Tự Đức ................................................................................. 97
2.5.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 97
2.5.2. Phiên âm ................................................................................................ 109
2.5.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 118
2.6. Văn bia lăng Đồng Khánh ......................................................................... 134
2.6.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................. 134
2.6.2. Phiên âm ................................................................................................ 137
2.6.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 139
2.7. Văn bia lăng Khải Định ............................................................................ 143
2.7.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................. 143
2.7.2. Phiên âm ................................................................................................ 147
2.7.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 149
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ CỦA VĂN BIA CÁC LĂNG VUA NGUYỄN ........... 152
3.1. Giá trị lịch sử ............................................................................................ 153
3.2. Giá trị văn học .......................................................................................... 157
3.3. Giá trị mỹ thuật ......................................................................................... 159
3.4. Giá trị về ngôn ngữ và chữ viết ................................................................. 161
C - KẾT LUẬN ............................................................................................... 163
D - PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................ 166
E - TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 180