BÁO CÁO TỐT NGHIỆP

Đề tài

" Văn bia lăng các vua Nguyễn "

1

MỤC LỤC

A - MỞ ĐẦU ......................................................................................................4

1. Mục đích và ý nghĩa đề tài ...............................................................................4

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................5

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................6

4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................6

5. Kết cấu đề tài ...................................................................................................7

Chương 1: Giới thiệu chung về các lăng vua Nguyễn ..........................................7

Chương 2: Khảo sát văn bia lăng các vua Nguyễn ...............................................7

Chương 3: Giá trị của văn bia các lăng vua Nguyễn ............................................7

B - NỘI DUNG ...................................................................................................9

2.1.1. Văn bia triều Nguyễn ............................................................................... 29

2.1.2. Văn bia lăng các vua Nguyễn ................................................................... 33

Hình 1: Bia lăng Gia Long .............................................................................. 36

Hình 2: Bia lăng Minh Mạng .......................................................................... 37

Hình 3: Bia lăng Thiệu Trị .............................................................................. 37

Hình 4: Bia lăng Tự Đức ................................................................................. 38

Hình 5: Nhà bia lăng Đồng Khánh ................................................................. 39

Hình 6: Nhà bia lăng Khải Định ..................................................................... 39

2.2.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 39

2.2.2. Phiên âm .................................................................................................. 42

Ngự chế thánh đức thần công bi ký .................................................................... 42

Hiếu tử tự Hoàng đế, thần Hạo cẩn chí .............................................................. 43

2.2.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 43

CHÚ THÍCH: .................................................................................................. 47

2.3.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 51

2.3.2. Phiên âm .................................................................................................. 59

Ngự chế thánh đức thần công bi kí .................................................................... 59

2.3.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 65

Ngự chế bài văn bia ghi đức thánh công thần .................................................... 65

CHÚ THÍCH: .................................................................................................. 72

2

2.4.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 73

2.4.2. Phiên âm ................................................................................................. 81

Xương Lăng thánh đức thần công bi .................................................................. 81

2.4.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 87

Bia thánh đức thần công ở Xương Lăng ............................................................ 87

CHÚ THÍCH.................................................................................................... 95

2.5.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 97

2.5.2. Phiên âm ................................................................................................ 109

Khiêm cung kí ................................................................................................. 109

2.5.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 118

Bài kí ở Khiêm Cung ....................................................................................... 118

CHÚ THÍCH: ................................................................................................ 130

2.6.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................. 134

2.6.2. Phiên âm ................................................................................................ 137

Tư Lăng thánh đức thần công bi ...................................................................... 137

2.6.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 139

Bia thánh đức thần công ở Tư Lăng ................................................................. 139

CHÚ THÍCH: ................................................................................................ 142

2.7.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................. 143

2.7.2. Phiên âm ................................................................................................ 147

Hiếu tử tự Hoàng đế thần Điển cẩn chí. ........................................................... 149

2.7.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 149

Bia đức thánh công thần ở Ứng lăng ............................................................... 149

3.1. Giá trị lịch sử ............................................................................................ 153

3.2. Giá trị văn học .......................................................................................... 157

3.3. Giá trị mỹ thuật ......................................................................................... 159

3.4. Giá trị về ngôn ngữ và chữ viết ................................................................. 161

C - KẾT LUẬN ............................................................................................... 163

Đường vô xứ Huế quanh quanh ....................................................................... 163

D - PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................ 166

Hình 1: Cổng chính đi vào điện Minh Thành (lăng Gia Long) .................. 166

3

Hình 3: Voi và ngựa đá ở sân chầu (lăng Gia Long). ................................... 167

Hình 7 : Bi đình lăng Thiệu Trị .................................................................... 170

Hình 9: Đường dẫn vào Hồng Trạch Môn ................................................... 172

Hình 11: Cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp bên cạnh hồ Lưu Khiêm .................. 173

Hình 13: Hồ Lưu Khiêm với Xung Khiêm Tạ và ......................................... 175

Hình 15: Một góc sân chầu nhìn từ phía sau (lăng Đồng Khánh) ............... 177

Hình 17: Lăng Khải Định nhìn từ phía trước .............................................. 179

Hình 18: Hoa văn và nghệ thuật trang trí trên tường (lăng Khải Định)..... 180

I. SÁCH .......................................................................................................... 180

II. BÁO - TẠP CHÍ ....................................................................................... 181

III. TỪ ĐIỂN – TỰ ĐIỂN ............................................................................. 182

Hueá, thaùng 5 naêm 2010 .............................................................................. 183

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ........................................... 184

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN .............................................. 185

MỤC LỤC ...................................................................................................... 187

A - MỞ ĐẦU

1. Mục đích và ý nghĩa đề tài

Cố đô Huế, một trong những trung tâm văn hóa, lịch sử của Việt Nam.

Không những thế, Huế còn là một quần thể di tích sánh hàng với những kì quan

thế giới. Với diện tích không lớn nhưng Huế với vẻ độc đáo vĩ đại riêng của

4

mình như “bục đứng của một nhạc trưởng giữa một giàn giao hưởng không gian

bất tận” [24,tr177]. Thiên nhiên nơi đây có vẻ hấp dẫn lạ kì: núi xuống tận bình

nguyên, biển vào sâu thành đầm phá, đồi thông xanh lặng lẽ đối điện với đô thị

ồn ào, náo nhiệt, những ngọn đồi như đang ngủ giấc ngàn thu, dòng sông Hương

cứ êm đềm chảy ... Vượt qua con sông này là vùng lăng mộ của các đế vương-

nơi an nghỉ của những con người một thời đầy quyền lực. Sự hòa điệu giữa

những nét cổ kính mang dấu ấn dân tộc với những nét hiện đại của nền văn minh

mới đã mang đến cho Huế một hơi thở vừa quen vừa lạ làm say đắm lòng người.

Đặc biệt trong những năm gần đây, với những thành tựu của công cuộc đổi

mới, sức sống của mảnh đất này dường như trỗi dậy và bừng cháy. Những giá trị

văn hóa truyền thống được đánh thức, đặc biệt là các di tích lăng tẩm đế vương.

Đó là sự sáng tạo góp sức của chính những con người Huế và cả những người

quan tâm đến nền văn hóa Huế. Huế hôm nay và mai sau mãi mãi là một bài thơ

đô thị, là kho sử liệu quý giá cần được nghiên cứu và phát huy.

Với hơn ba năm sống trên đất cố đô đầy huyền thoại, chúng tôi cảm thấy

mình cần phải làm gì đó để góp phần vào sức sống đang trỗi dậy của cố đô, của

nền văn hóa phi vật thể đang ngày càng chứng tỏ giá trị và sức cuốn hút của

mình. Lăng tẩm các vua nhà Nguyễn và các văn bia ở đó đã thực sự thu hút sự

chú ý của những người học ngành Hán Nôm như chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi đã

mạnh dạn chọn đề tài này. Đây không chỉ là cơ hội để chúng tôi làm quen với

công tác nghiên cứu khoa học mà còn là dịp để ứng dụng những điều đã học vào

thực tế. Chúng tôi hy vọng rằng, kết quả của đề tài này sẽ là góp phần vào việc

nghiên cứu, đánh giá giá trị văn hóa của Huế ngày càng chính xác và phong phú

hơn.

2. Lịch sử vấn đề

Huế vốn là nơi giao thoa của hai nền văn hóa Đông Sơn và Sa Huỳnh. Nói

đến văn hóa Huế, chúng ta cần phải có cái nhìn toàn diện và xuyên suốt tiến trình

lịch sử bởi vì văn hóa Huế có một truyền thống lâu đời. Nhưng ngày nay, khi

nhắc đến các di tích lịch sử ở Huế, người ta thường nghĩ ngay đến lâu đài, cung

điện, lăng tẩm, thành quách...Bởi vì đây là một quần thể di tích đồ sộ và nhờ có

quần thể di tích này mà Huế trở nên nổi tiếng, được vinh danh là di sản văn hóa

5

nhân loại. Đặc biệt lăng tẩm của các bậc đế vương trong mắt của du khách và các

nhà nghiên cứu lịch sử- văn hóa luôn gợi cho chúng ta sự tò mò. Các công trình

nghiên cứu về các lăng vua có thể nói là rất nhiều. Có những công trình nghiên

cứu mang tính khái quát như “Lăng tẩm Huế- một kì quan” và “Kiến trúc cố đô

Huế” của Phan Thuận An, “Quần thể di tích Huế di sản Việt Nam” của Thái

Công Nguyên; Có những công trình nghiên cứu chuyên biệt về một lăng như tác

phẩm “lăng của hoàng đế Minh Mạng” của Mai Khắc Ứng...Đó là chưa kể đến

các bài nghiên cứu trên các tạp chí như: “Lăng Gia Long” trên tạp chí BAVH tập

X năm 1923, “Lăng Minh Mạng”- BAVH tập VII, bản dịch bài văn bia trên lăng

Gia Long- BAVH tập X năm 1923, bản dịch bài văn bia của lăng Minh Mạng -

BAVH tập VII, bản dịch bài văn bia lăng Tự Đức trên tạp chí sông Hương số 46

(T4-1991)...Nhìn chung, đề tài chúng tôi đang nghiên cứu chưa phải là sự mới

mẻ trong công tác nghiên cứu lăng tẩm ở Huế, nhưng mục đích của đề tài là sự

tổng hợp lại có hệ thống những văn bia hay còn gọi là “thánh đức thần công bi” ở

các lăng vua Nguyễn.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Lịch sử với những thăng trầm của nó đã giữ lại cho hậu thế những gì cần

giữ lại và xóa đi những cái không cần thiết. Đó cũng giống như trong mười ba

đời vua sau chỉ có 7 lăng tẩm của các vua Nguyễn vẫn còn giá trị và đang tồn tại.

Trong đề tài này, đối tượng được nghiên cứu là các “thánh đức thần công bi” ở

sáu khu lăng tẩm. Đó là Thiên Thọ lăng của vua Gia Long, Hiếu lăng của vua

Minh Mạng, Xương lăng của vua Thiệu Trị, Khiêm lăng của vua Tự Đức, Tư

Lăng của vua Đồng Khánh và Ứng lăng của vua Khải Định.

Phạm vi nghiên cứu: Đây là đề tài thực địa nên sự cần thiết của nó là bản

nguyên văn chữ Hán của bài văn bia và phần dịch nghĩa. Phạm vi đề tài không

nằm ngoài sự khảo sát và đánh giá về cả nội dung và hình thức của các bài văn

bia.

4. Phương pháp nghiên cứu

Cũng như các công trình nghiên cứu khác, phương pháp nghiên cứu được

sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài là công tác điền dã, thu thập và xử lí tài

liệu. Các phương pháp cụ thể như sau:

6

- Khảo sát thực địa: chúng tôi tiến hành ghi chép, đối chiếu, chụp ảnh 6 văn

bia lăng vua Nguyễn hiện còn ở Huế

- Thu thập tài liệu: chúng tôi tiến hành thu thập những tài liệu như sách báo,

tạp chí, các tư liệu liên quan đến các lăng và văn bia của các lăng, sau đó tra cứu,

đối chiếu và xử lí nguồn tài liệu ấy. Sau đó, có sự tổng hợp đánh giá chung về nội

dung và hình thức nghệ thuật của văn bia các lăng vua Nguyễn. Từ đó, rút ra

những kết luận và đề xuất ý kiến góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị

của loại di sản văn hóa này.

5. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài chúng tôi được chia làm 3 chương

Chương 1: Giới thiệu chung về các lăng vua Nguyễn

Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu khái quát về các lăng Thiên Thọ

Lăng, Hiếu Lăng, Xương Lăng, Khiêm Lăng, Tư Lăng và Ứng Lăng với các nội

dung như vị trí địa lý, quá trình xây dựng, vị trí của mỗi lăng trong di sản văn

hóa Huế.

Chương 2: Khảo sát văn bia lăng các vua Nguyễn

Đây là phần trọng tâm của đề tài khóa luận. Chúng tôi tiến hành khảo sát 6

bài văn bia ở 6 lăng đã nêu theo thứ tự thời gian và được trình bày theo thứ tự

:nguyên văn chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa, chú thích.

Chương 3: Giá trị của văn bia các lăng vua Nguyễn

Trong chương này, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu giá trị của các văn bia bởi

giá trị của nó ở rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về mặt lịch sử, văn học, thẩm

mỹ...Đồng thời, đề xuất những ý kiến về việc bảo tồn và phát huy giá trị của loại

di sản văn hóa này.

Mặc dù đã rất cố gắng và được thừa hưởng thành quả của người đi trước

nhưng khóa luận cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được quý

thầy cô chỉ bảo thêm để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.

7

8

B - NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC LĂNG VUA NGUYỄN

1.1. Lăng vua Gia Long

Lăng vua Gia Long hay còn gọi là lăng Thiên Thụ 天 授 陵 (hoặc Thiên

Thọ) ở địa phận xã Định Môn 定 門, phủ Thừa Thiên nay là xã Thiên Thọ 天 授,

huyện Hương Trà 香 茶, tỉnh Thừa Thiên Huế 承 天 化, cách trung tâm thành

phố Huế khoảng 20 km.

Lịch sử xây dựng lăng rất phức tạp vì đây không chỉ có lăng vua Gia Long

mà còn có lăng của nhiều người thân của vua bao gồm lăng Trường Phong của

chúa Nguyễn Phúc Chú, lăng Quang Hưng của một bà vợ chúa Nguyễn Phúc

Tần, lăng Vĩnh Mậu của một bà vợ chúa Nguyễn Phúc Thái, lăng Thoại Thánh

của mẹ vua Gia Long, lăng Hoàng Cô của Thái trưởng Công chúa Long Thành

(chị ruột vua Gia Long), lăng Thiên Thọ Hữu của Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu

(vợ thứ của vua Gia Long và là sinh mẫu của vua Minh Mạng) và lăng Thừa

Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ chính của vua Gia Long). Quần thể lăng tẩm này có

chu vi đến 11.234,40m [20,tr.177] và được xây dựng vào những thời điểm khác

nhau. Ngay cả lăng của vua và chính hậu cũng không phải xây cùng một thời

điểm mà xây kéo dài nhiều năm dưới ba đời vua từ Gia Long đến Thiệu Trị.

Vào năm 1814, sau khi người vợ chính của vua Gia Long là Thừa Thiên

Cao Hoàng Hậu mất, nhà vua bàn với đình thần về việc làm một hiệp lăng để

song táng hai người về sau vào một chỗ theo lệ “càn khôn hiệp đức”. Lê Duy

Thanh, Tống Phúc Lương và Phạm Như Đăng là những người xem đất và lựa

chọn. Ngày 18-5-1814, việc xây lăng được tiến hành, bao gồm 300 người trong

các đội quân Sanh Thiết, 274 người trong các đội thủy quân và dân làng Phú Bài.

Theo thuật phong thủy mà nói thì lăng Gia Long ở vào vị trí hết sức thuận

lợi. Khi đứng sau tẩm và thẳng trên trục của nó ta thấy xa xa có một ngọn núi

tròn trịa, trên đầu có chòm cây thông mọc rải rác, đó chính là Thiên Thọ Sơn.

Đây là ngọn núi cao nhất trong vùng. Ngoài ra ở bên trái có 14 ngọn là Thanh

9

Sơn, Ất Sơn, Diên Sơn, Bình Sơn, Bảo Sơn, Yên Sơn, Hưng Sơn, Hòa Sơn, Xuân

Sơn, Phương Sơn, Cẩm Sơn, Nhân Sơn, Mậu Sơn và Đại Tượng. Bên phải lăng

cũng có 14 ngọn núi, đó là các ngọn: Bạch Sơn, Ngọc Sơn, Thạch Bàn, Thịnh

Sơn, Bích Sơn, Trinh Sơn, Kim Sơn, Lẫm Sơn, Tam Bút, Trấn Sơn, Thụy Sơn,

Thuận Sơn, Đoài Sơn và Mỹ Sơn. Phía sau lăng còn có các núi Bắc Sơn, Hùng Sơn, Quý Sơn, Thành Sơn, Tiểu tượng(1). Các ngọn núi này đều có tên với ý

nghĩa báo điềm lành. Vùng vườn lăng được bao quanh bởi hai dòng suối: dòng

thứ nhất tụ hợp tất cả những dòng nước chảy từ bên trái lăng xuống, tạo thành

một khúc quanh chạy ngang trước tẩm mộ, tại đây có mở rộng ra bằng cách tạo

thành một hồ bán nguyệt và chảy đến trước điện Minh Thành thì bẻ quanh trở lại

tạo nên một khúc ngoặt đột ngột để chảy thẳng đến lăng thứ hậu vua Gia Long;

dòng nước tiếp tục chảy đến một cái hồ vuông, trước lăng của thân mẫu vua Gia

Long và đến trước tháp mộ của Thái Trưởng công chúa, chị của nhà vua, như vậy

hồ nầy đã kết nối mọi người trong gia đình với nhau. Hồ này được gọi là Hồ Dài.

Còn hồ thứ hai được gọi là “Suối Trường Phong”, phát nguyên từ Nhuệ Sơn,

chảy quanh núi Thiên Thọ, chạy dọc về phía bên phải, theo lăng Trường Phong

tạo thành hình bán nguyệt trước lăng rồi hợp lưu với Hồ Dài. Không một suối

nào đâm thẳng trước mặt lăng mà chảy bao quanh lăng.

Lăng Gia Long không có vòng la thành bao quanh, các lâu đài đình tạ cũng

không có, “nó đơn giản và hoành tráng như cuộc đời một võ tướng” [1,tr.176].

Các công trình kiến trúc hầu như không sơn son thếp vàng và chạm trổ tinh xảo.

Điện Minh Thành 明 成 殿 xây trên Bạch Sơn, nơi thờ vua và chính hậu cũng

không trang trí rườm rà. Đáng chú ý là các con rồng đều đắp bằng vôi gạch chứ

không được chạm bằng đá như các lăng về sau. Phía trước làm bái đình 7 cấp xây

bằng đá núi, mỗi cấp có 3 bệ đá, 6 lan can hình rồng uốn, tả hữu tường gạch.

Trước bái đình là sân ngoài có 4 tượng viên biền đứng hầu bằng đá, tượng 6

thị vệ đá, ngựa đá, voi đá 2 con. Có các cột trụ xây gạch để giới hạn vùng đất

tẩm, trang 321-322. Còn theo Đại Nam thực lục tập I thì có đến 36 ngọn với những tên gọi khác với

những tên núi vừa nêu ở trên.

cấm của lăng ở xung quanh khu lăng, ngày xưa có 85 cột, vào năm 1859, chỉ còn (1) Theo BAVH, tập VII, trang 346 và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 13, quyển 216, phần lăng

10

42 cột, ngày nay đa số đều bị hư hỏng, còn lại khoảng chục cột .

 Bi đình 碑 停 được xây dựng trên núi Thanh Sơn và nhìn chung đơn

giản hơn so với các nhà bia khác. Trên trần nhà bia cũng như các cột nhà bia hiện

nay được nâng cấp trùng tu lại, được sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Ngoài ra, bi

đình được trùng thiềm lợp ngói phẳng, chung quanh xây tường, trước xây bệ

gạch 9 cấp, tả hữu lan can rộng. Bia đá được dựng trong bi đình cao 2,8m, rộng

1,52m, chân dài 1,88m, cao 0,8m, chữ bia khắc theo kiểu chữ chân phương.

Trước đây, tấm bia này bị nứt, chữ trên văn bia không nhìn thấy rõ và đa phần bị

mất, nay bia đã được tu sửa. Mặt bia được quét vôi trắng. Những họa tiết trên

mặt bia tuy không giữ được hiện trạng xưa nhưng không mất hẳn. Trước đây,

tấm bia toàn bộ đều bằng đá cẩm thạch màu xám hơi xanh, trang trí những hình

chạm trổ thanh nhã. Nay toàn bộ văn bia là màu trắng của vôi lẫn với màu của

vật liệu xi-măng. Những họa tiết trên bia có nhiều điểm khác biệt so với các văn

bia khác. Trên trán bia là hình một con rồng lớn với nhiều họa tiết mây uốn lượn

rất đẹp. Phía trên của thân bia là hình hai con rồng nhỏ quay đuôi về phía mặt

trời; hai dọc bên thân bia, mỗi bên có hai con rồng và hai con giao xen kẽ nhau,

hai con quay đầu lên và hai con quay đầu xuống; phía dưới của thân bia, giữa là

hình hoa văn nhiều đỉnh núi. Ngoài ra, ở thân bia còn có sự phối trí của nhiều

hình hoa văn cây lá với nhiều hình thức trang trí khác nhau. Hai tai bia được

chạm hình hoa văn lớn. Hai nách bia có độ rộng và dày gần bằng tai bia, được

chạm ở mỗi bên hình một con rồng nhỏ. Chân bia ở phần trên cùng được trang trí

hình các hoa văn liên tiếp; phần giữa có 3 hình hoa văn cây lá tròn; bên dưới lại

có hình một đầu rồng; dưới cùng của chân bia ở mặt trước và sau có 3 hình hoa

văn cây lá; hai mặt bên của chân bia cũng có 3 họa tiết như vậy. Đó là toàn bộ

họa tiết trang trí ở mặt trước của tấm bia. Mặt sau hoàn toàn trống trừ hai tai bia

và hai nách bia có họa tiết như ở mặt trước. Nếu so với các bi đình khác, văn bia

ở lăng Gia Long được dựng ở nơi thoáng đãng, bốn phía có 4 cửa lớn thông ra

ngoài, đó là chưa kể các ô cửa sổ. Bài văn trên bia do vua Minh Mạng ngự chế

vào ngày Bính thìn tháng 7 năm Minh Mạng nguyên niên, nhằm ngày 10 tháng 8

năm 1820.

1.2. Lăng vua Minh Mạng

11

Khu đất mà ngày nay xây dựng lăng Minh Mạng là khu đất sau nhiều lần

lựa chọn mới được chấp nhận. Bởi theo quan niệm trong triết học phương Đông-

Kinh dịch, khi chết chôn ở một chỗ đất êm ả, trong lành thì sẽ “kết” và ảnh

hưởng đến hạnh phúc thịnh vượng của con cháu đời sau thuộc dòng. Cho nên,

các vua chúa nhà Nguyễn thường coi trọng ngôi đất được chọn làm sinh phần.

Vào năm Minh Mạng thứ 7 (tức năm 1826), nhà vua mới 35 tuổi đã sai các quan

giỏi địa lý trong triều lập thành từng nhóm đi coi đất để chuẩn bị xây lăng cho

mình. Sau nhiều lần lựa chọn với các nhóm như nhóm Nguyễn Văn Bảng, nhóm

Khâm Thiên Giám, nhóm Nguyễn Xuân Thục...không thống nhất và có nhiều ý

kiến khác nhau, mãi đến năm Canh tý (1840), ông Lê Văn Đức, Hiệp biện đại

học sĩ, Thượng thư bộ công kiêm quản Hàn lâm viện, sau nhiều năm tìm kiếm đã

chọn được một ngôi đất nằm bên triền phía Đông núi Cẩm Kê. Tháng 4-1840,

trên đường từ lăng Thiên Thọ trở về ngã ba Bằng Lăng, thuyền ngự dừng lại

trước thôn La Khê, làng An Bằng, nhà vua nói với các vị đại thần: “ Núi này

phong thủy rất tốt, từ trước chưa ai tìm ra, nay mới xem được chỗ đất ấy, thật

đáng vui mừng” [11,tr176] và đổi tên vùng núi Cẩm Kê thành ra Hiếu Sơn. Vua

sai các đại thần Trương Đăng Quế, Bùi Công Huyên đem Giám thành vệ lên tiến

hành việc khảo sát địa thế, đo đạc đất đai. Họ vẽ toàn bộ núi đồi, khe suối, sông

ngòi ở đây, và sơ đồ các dự án kiến trúc từ La thành, bửu thành, điện, lầu, đình,

tạ, đường viện cho đến những nơi đào hồ, làm cầu, dựng cửa...Xem xong nhà vua

rất đắc ý.

Lăng được khởi công xây dựng vào ngày Đinh sửu tháng 7 năm Canh tý.

Nhưng sau đó bị ngập mưa nên hoàng đế phải cho dừng công việc đến tháng 9

mới giao cho Bộ công huy động binh điền trở lại công trường.

“Công việc ở núi Hiếu trước đây phải bắt dương binh làm, nhưng ta nghĩ,

khi ấy đương tiết gặp mưa, đã chuẩn cho cuối tháng nghỉ việc nên hôm trước đã

cho về cả. Xét ra thành bao ấy rất quan trọng mà công trình xây đắp không phải

mươi ngày mà xong được. Tất cả phải dự định khơi đào trước để thành thể thế thì

sau này mới làm có thể đỡ khó nhọc đôi chút, huống chi nơi ấy là núi cao, nếu có

mưa ngập cũng không quản ngại. Vậy phải ra quản vệ một người, suất đội bốn

người, biền binh 200 người, cứ theo bọn Khâm Thiên, Giám thành chỉ bảo, ở

12

chính giữa nơi thành bao núi ấy liều lượng nhà xưởng ở trên rồi ra công khai đào,

dài 5 trượng, ngang dưới 3 trượng, sâu một trượng hoặc 7,8 thước. Nếu khi còn

khô ráo thì đào sâu dần, nếu có mạch nước ở núi chảy ra thì tùy thế khơi một cái

ngôi nhỏ để khi thấm nước chảy thông ra núi cốt cho khô ráo sạch sẽ. Về việc

phát quản vệ cho đến binh đinh, định cứ một tháng thay đổi một lần [11;tr176].

Bốn tháng làm việc thổ mộc, đã xây dựng được phần lớn vòng la thành và

giải quyết xong mặt bằng đến ngày 21 tháng Chạp năm Canh tý (1840), vua

Minh Mạng qua đời, hưởng thọ 51 tuổi. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, ngày Bính

thìn tháng 2 năm Tân sửu (1841) cho trực tiếp xây dựng sơn lăng.

Khu lăng có một chiều sâu hun hút (từ Đại Hồng Môn đến điểm tận cùng

của La thành cách nhau đến 700 m).Vòng La thành tuy cao nhưng cũng không

hạn chế được tầm nhìn từ trong lăng ra đến vùng núi non đẹp đẽ ở xa xa bên

ngoài. Đứng ở cầu Hữu Bật nhìn về phía nam, cảnh vật núi non cây cỏ in bóng

xuống đáy hồ Trừng Minh trông như bức tranh thủy mặc. Bên trong La thành,

hơn 40 công trình lớn nhỏ được bố trí đối xứng nhau từng cặp qua trục chính

xuyên tâm lăng. Tất cả được xếp theo một trật tự chặt chẽ, có hệ thống, giống

như tình trạng xã hội đương thời, một xã hội được tổ chức theo chính sách trung

ương tập quyền của chế độ quân chủ tôn sùng Nho học đến mức tối đa. Bố cục

kiến trúc ấy cũng nói lên cá tính và phong cách của vua Minh Mạng.

Bửu thành 保 城 xây theo hình tròn biểu thị vua là mặt trời, là đấng chí tôn

có quyền chi phối toàn bộ xã hội quân chủ ấy.

Ở phần trước lăng, mật độ kiến trúc thưa, thoáng. Càng vào sâu, mật độ

kiến trúc càng dày. Các nhà kiến trúc thời ấy đã đưa ba khu kiến trúc ở lăng Gia

Long nằm theo chiều ngang nhập làm một, cho nằm theo chiều dọc trong một

trục duy nhất ở lăng Minh Mạng. Họ cũng khôn khéo lợi dụng được thế đất và

các ngọn đồi để nâng chiều cao của các công trình kiến trúc.

Điện Sùng Ân 崇 慇 殿 là một công trình ghép hai ngôi nhà rường lại với

nhau tạo thành một không gian đồng nhất. Nhà trước thường gọi là tiền điện hay

chính tích. Tiền tích gồm năm gian hai chái đơn. Chính tích hai gian ba chái kép.

Điện Sùng Ân là nơi để thờ cha mẹ vua, là một công trình chính ở Hiếu lăng cho

13

nên, ở đây có bộ vì chồng sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Hai bên điện là Đông phối

điện và Tây phối điện, là ngôi nhà phối thuộc của điện dùng để văn võ bá quan

túc trực mỗi khi có việc phải lên lăng. Phía sau điện Sùng Ân là Hoàng Trạch

Môn 黃 宅 門, đó là giới hạn kết thúc khu thành vuông của điện, mở ra không

gian thứ ba. Và, lớp mái ở đây được nâng bởi các dải cổ diềm có chia nhiều ô.

Minh Lâu 明 婁 cách Hoàng Trạch Môn bởi một hồ sen, hai bên có cầu Tả phụ

và Hữu bật xuống thấp gần mặt nước hồ Trường Minh 長 明 湖 nên càng gây ấn

tượng lồng lộng xa vời. Từ sau sân Minh Lâu tiếp nối sân đầu cầu được liếp bằng

đá Thanh. Thật ra, đây là một con đường đá vắt qua hồ Tân Nguyệt 津月湖 để

vào Bửu thành. Hai đầu có hai bộ cửa đồng trụ gọi là Phương Môn 方 門và Nghi

Môn 儀 門. Qua một khoảng sân là núi Bửu Thành 保 城 山, thi hài vua được

quàng ở đây. Đó là tất cả kết cấu, bố cục toàn thể lăng Minh Mạng. Nó được bao

bọc bởi hai hồ bán nguyệt hai bên cây cối xanh tươi bốn mùa tạo nên sự thoáng

mát và uy nghi. Tất cả mọi bệ đá ở tầng cấp đều có rồng chầu hổ phục, các kèo

và mái uốn lượn đầu rồng mang phong cách Á Đông. Đặc biệt, ở tất cả các công

trình đều được trang trí hoa quả và thơ ở đầu vách theo từng ô.

Nhìn chung, kiến trúc lăng Minh Mạng có một sự uy nghi, bề thế. Nó hấp

dẫn mọi người bởi phong cảnh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp và hài hòa, nhất là

vào buổi chiều tà từ trên lăng nhìn xuống Hương Giang, quả thật rất dịu êm và

thoải mái.

 Về tấm bia “thánh đức thần công” thì được xây trong một gian nhà có

mái chồng lợp ngói lưu ly vàng, nền lát gạch hoa, trước sau đều một bệ đá có 3

cấp, tả hữu lan can rồng. Bia đá thân cao 2,88m, rộng 1,52m, chân dài 1,96m và

cao 1,08m, chữ bia mạ vàng. Bia được khắc chữ cả hai mặt trước sau và đều

được trang trí. Trán bia là hình một con rồng mây lớn được trang trí cân đối và

đẹp. Thân bia ở trên là hình “lưỡng long triều nguyệt”, dưới cũng là hình rồng

nhưng hướng về đỉnh núi. Dọc hai bên thân bia được trang trí bằng họa tiết hình

rồng, xen kẽ là họa tiết mây uốn lượn xung quanh. Chân bia cũng là sự phối hợp

14

giữa họa tiết dây lá ở trên, dưới chân và hình rồng ở giữa. Nhà bia đặt gần sân

chầu, có hai cửa lớn, một thông với sân chầu, một thông ra Hiển Đức Môn. Trần

bia phẳng, không có nhiều họa tiết cầu kì; toàn bộ nhà bia được trùng tu, sơn son

thiếp vàng rất rực rỡ. Nếu so sánh nhà bia này với nhà bia lăng Gia Long thì gần

giống nhau. Còn so với các nhà bia được xây dựng sau này như nhà bia lăng Tự

Đức, nhà bia lăng Khải Định... thì nhà bia này vẫn mang lối kiến trúc cũ, không

có sự mới lạ mang dáng dấp hiện đại như các nhà bia về sau.

1.3. Lăng vua Thiệu Trị

Sau khi ở trên ngai vàng 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh mất ngày 4-11-

1847 giữa lúc mới 41 tuổi. Trong khi hấp hối nhà vua đã dặn người con trai sắp

lên nối ngôi rằng: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận

tiện, để dân binh dễ làm công việc. Con đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt

đầu từ Hiếu Lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cất cho

kiệm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân”

[11,tr176].

Sau khi vua cha băng hà, vua Tự Đức liền cho các thầy địa trong triều đi coi

đất để xây lăng. Họ tìm được địa cuộc tốt tại chân một dãy núi thấp thuộc làng

Cư Chánh 居正社 huyện Hương Thủy 香水縣, cách Kinh thành không xa như

hai lăng vua tiền nhiệm. Sau đó, núi ấy được đặt tên là núi Thuận Đạo 順道山 và

lăng ấy được gọi là Xương Lăng 昌陵.

Vào ngày 11-2-1848, vua Tự Đức sai một võ tướng đại thần trong triều là

Vũ Văn Giai 武文解, sung chức đổng lý, đứng ra coi sóc công tác kiến trúc lăng.

Nhà vua dặn cứ 10 ngày một lần ông phải báo cáo về cho vua biết công việc xây

lăng đã tiến hành đến đâu. Đồng thời làm theo lời trối trăn của vua cha, vua Tự

Đức cũng căn dặn Vũ Văn Giai phải bắt chước cách làm “toại đạo” giống như

trên lăng Minh Mạng, còn việc kiến trúc các công trình mang tính thờ phụng ở

lăng như đình, các, viện... thì phải bắt chước theo quy chế của lăng Gia Long, và

tùy theo địa thế tại chỗ để châm chước định liệu mà làm.

Toại đạo 隧道, tức là đường hầm ngầm đưa quan tài nhà vua vào huyệt mộ,

15

được xây vào ngày 24-3-1848.

Số binh lính và thợ thuyền do triều đình huy động lên đây làm việc rất

đông, cho nên, chỉ sau 3 tháng thi công, các công trình kiến trúc chính trong lăng

đã làm xong. Trong một bài dụ của vua Tự Đức viết vào tháng 5-1848, có đoạn

nói: “Nay mọi việc đã đâu vào đấy, sớm cáo hoàn thành”. Ngày 14-6-1848, tức là

10 ngày trước khi làm lễ an táng vua cha, vua Tự Đức thân hành lên lăng để kiểm

tra công việc một lần cuối. Mặc dù vua Thiệu Trị đã dặn là phải làm lăng như thế

nào cho “kiệm ước”, không nên “lao phí đến tài lực của binh dân”, và rồi trong

bài văn bia ở Xương Lăng vua Tự Đức đã nhắc lại điều đó và nói thêm rằng “lời

vàng ngọc ấy văng vẳng bên tai, con nhỏ này đâu dám trái chí”; nhưng hôm ấy

lên xem thấy “công trình có phần phiền phức to lớn”, nhà vua vẫn tỏ ra thỏa mãn.

Sau khi vua Thiệu Trị băng hà, quan tài nhà vua được quàn tại điện Long

An trong cung Bảo Định (ở bờ bắc Ngự Hà), mãi đến gần 8 tháng sau mới đưa

lên an táng ở lăng.

Riêng tấm bia “Thánh đức thần công” 聖德神功 với bài ký do vua Tự Đức

viết thì mãi đến 5 tháng sau, tức là ngày 19-11-1848 mới được dựng. Như vậy, từ

ngày bắt đầu (11-2-1848) đến ngày hoàn tất, lăng Thiệu Trị đã được thi công

trong vòng chưa đầy 10 tháng.

Ngoài ra, ở gần lăng Thiệu Trị còn có 3 ngôi lăng một khác nữa của những

người trong gia đình nhà vua. Nằm chếch chếch ở phía trước là lăng Hiếu Đông

của mẹ vua (bà Hồ Thị Hoa). Gần phía sau bên trái là Xương Thọ Lăng của vợ

vua (bà Từ Dũ). Và không xa phía trước bên trái là khu lăng “tảo thương” 早殤,

trong đó có nhiều ngôi mộ của các con vua Thiệu Trị chết lúc còn nhỏ (tảo

thương nghĩa là chết sớm). Như vậy nhiều thành viên trong gia đình nhà vua đã

được an táng quây quần bên nhau.

Vua Tự Đức đã cho xây dựng lăng Thiệu Trị theo mô thức kiến trúc và phần

lớn ý đồ do vua cha để lại. Trước thời điểm xây dựng lăng này, ở Huế chỉ mới có

hai lăng Gia Long và Minh Mạng mà thôi. Khi còn tại vị, vua Thiệu Trị đã tham

khảo nghệ thuật kiến trúc lăng tẩm của hai vua tiền nhiệm để đưa ra đồ án xây

dựng ngôi nhà vĩnh cửu, nơi mình sẽ an giấc ngàn thu.

16

Ngày nay, mới nhìn qua, người ta dễ có cảm tưởng rằng lăng Thiệu Trị đơn

sơ, nhưng nếu xét kỹ, chúng ta sẽ thấy các nhà kiến trúc bấy giờ đã có một ý thức

cao khi thiết kế, xây dựng, và các công trình không kém phần dồi dào và bề thế.

So với hai lăng Gia Long và Minh Mạng, khu lăng thứ ba này ở tại một địa

điểm gần hơn đối với kinh thành. Về bố cục các công trình kiến trúc trên mặt

bằng tổng thể, nếu lăng Minh Mạng đã ghép ba trục của lăng Gia Long lại làm

một trục duy nhất, thì lăng Thiệu Trị lại dung hòa hai mô thức trên bằng cách

thiết kế thành hai trục: Trục lăng nằm bên phải và trục tẩm (khu vực điện thờ)

nằm bên trái. Hai trục cách nhau chừng 100m. Nói cách khác, các nhà kiến trúc

lăng Thiệu Trị đã cắt phần giữa của lăng Minh Mạng (điện thờ) đặt riêng ra một

bên và nối hai phần trước và sau của lăng ấy lại với nhau làm một. Dĩ nhiên, về

các đơn vị công trình kiến trúc riêng lẻ thì có thêm bớt, đổi thay đôi chút, nhưng

cách xây Bửu thành, Toại đạo, các cầu bằng đá, nghi môn, nghê đồng và mấy cái

hồ bán nguyệt thì giống ở lăng Minh Mạng.

Lăng Thiệu Trị khác lăng vua cha ở chỗ không xây La thành, nhưng lại

giống lăng Gia Long trong việc lợi dụng những dãy núi đồi chung quanh để làm

một vòng La thành thiên nhiên rộng lớn. Trong vòng La thành bao la hùng vĩ

này, lăng Thiệu Trị dựa lưng vào chân núi Thuận Đạo 順道 gần trước mặt lăng là

cả một vùng đất bằng phẳng với cây cỏ xanh tươi và ruộng đồng mơn mởn trải

dài từ bờ sông Hương đến tận cầu Lim.

Về phương diện phong thủy, lăng Thiệu Trị ở vào vị thế “sơn thủy chi giao”

山水之交. Lăng quay mặt về hướng tây bắc, một hướng chưa bao giờ được dùng

trong các công trình kiến trúc lớn ở Huế bấy giờ. Phía trước, cách lăng chừng

1km, bên phải có đồi Vọng Cảnh 望景山, bên trái có núi Ngọc Trản 玉琖 chầu

về trước lăng theo vị thế “tả thanh long hữu bạch hổ”. Ngọn núi Chằm cách đó

khoảng 8km đứng làm “tiền án” cho khu vực lăng, trong khi động Bàu Hồ ở gần

hơn lại làm bình phong thiên nhiên cho khu vực tẩm. Ở đằng sau, ngoài ngọn núi

Kim Ngọc ở xa xa, người xưa còn đắp một mô cao lớn để làm “hậu chẩm” cho

lăng. Trong phạm vi lăng tẩm ấy, có ba chiếc hồ bán nguyệt là hồ Điện, hồ

17

Nhuận Trạch 潤 澤 湖 và hồ Ngưng Thúy 凝 翠 湖, cùng dòng khe từ hồ Thủy

Tiên 水 仙 湖chảy ra bên phải, giao lưu với nhau bằng những đường cống xây

ngầm dưới các lối đi.

Như vậy ta thấy thiên nhiên và kiến trúc ở lăng Thiệu Trị liên quan với

nhau một cách mật thiết. Trầm mặc mà thanh thoát, lăng Thiệu Trị khiêm tốn ẩn

mình giữa chốn núi đồi rộng lớn dưới bầu trời bao la.

Xét về phương diện trang trí mỹ thuật, các nghệ nhân bấy giờ đã thể hiện

nhiều hình ảnh và thơ văn lên trên mặt gỗ và mặt đá ở điện Biểu Đức 表德殿, Bi

Đình 碑 停, Bái Đình 拜 停... bằng những đường nét chạm khắc khá sâu và sắc

cạnh để tạo ra được những hình khối nổi rõ. Nghệ thuật trang trí bằng men pháp lam

cũng được sử dụng nhiều trong lăng này, nhất là tại khu vực điện thờ.

 Bia “thánh đức thần công” ở lăng vua Thiệu Trị được dựng trong một

gian được lợp ngói lưu ly, trước sau có 1 bệ đá đều 11 cấp, lan can hình rồng

uốn. Nhà bia ở đây hiện nay đang bị xuống cấp trầm trọng, chỉ còn tấm bia là

nguyên vẹn. Bia thân cao 2,88m, rộng 1,52m, chân dài 2,16m, cao 0,92m, có

nhiều họa tiết đặc trưng. Trán bia vẫn là hình rồng mây lớn với những họa tiết

sóng mây nhẹ nhàng. Phần trên của thân bia là hình “lưỡng long triều nguyệt”;

hai dọc thân bia mỗi bên có 3 con rồng; bên dưới là hình hai con rồng hướng về

đỉnh núi có hình mặt trời ở trên; thân bia cũng có sự pha trộn các họa tiết dây lá

khác giống như các tấm bia còn lại. Hai tai bia và hai nách bia được chạm một

con rồng nhỏ. Chân bia có họa tiết dây lá dài lẫn ngắn xen kẽ nhau, giữa lại có

họa tiết ô vuông nối liền từng cặp rất mới lạ, bên dưới chân bia vẫn là hình

“lưỡng long triều nguyệt”, ở các góc cột chân bia còn có các họa tiết mây. Mặt

sau của tấm bia hoàn toàn trống. Bài văn bia khắc trên bia do vua kế nhiệm là Tự

Đức ngự chế, vẫn còn nguyên nét, được khắc lặn, chữ khắc đẹp và có pha một

chút nét chữ thảo.

1.4. Lăng vua Tự Đức

Lăng Tự Đức là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc thời

Nguyễn. Ông vua thi sĩ Tự Đức (1848-1883) đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ

18

xứng đáng với ngôi vị của mình, phù hợp với sở thích và nguyện vọng của con

người có học vấn uyên thâm và lãng tử bậc nhất trong hàng vua chúa nhà

Nguyễn. Lăng tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng

陽 春 上 社, tổng Cư Chánh 居 正 總 (nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân,

thành phố Huế).

Với 36 năm trị vì, Tự Đức là ông vua tại vị lâu nhất trong số 13 vua nhà

Nguyễn. Ông tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, con trai thứ hai của vua Thiệu

Trị. Theo luật thế tập của chế độ phong kiến, lẽ ra anh trai ông là Hồng Bảo mới

là người nối ngôi. Nhưng do tài năng thấp kém, tính khí ngông nghênh nên Hồng

Bảo bị vua cha phế truất khỏi ngôi Tiềm để, Hồng Nhậm được đưa lên ngai vàng

trở thành vua Tự Đức - một vị vua, một nhà thơ hiền lành, thương dân, yêu nước

nhưng thể chất yếu đuối, tính cách có phần bạc nhược và bi quan.

Làm vua trong bối cảnh xã hội khó khăn, bên ngoài giặc ngoại xâm tấn

công, bên trong huynh đệ lục đục giành nhau ngôi báu, bản thân nhà vua lại đau

ốm, bệnh hoạn nên không có con. Tự Đức quả là một số phận của những bi kịch

éo le. Để trốn tránh cuộc đời khắc nghiệt đó, Tự Đức cho xây dựng khu lăng tẩm

này như một hành cung thứ hai để tiêu sầu và phòng lúc “ra đi bất chợt”, bởi như

vua từng nói: “người khỏe còn lo chuyện bất thường huống chi kẻ yếu!” (Khiêm

cung ký) .

Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt cho

công trình. Nhưng sau khởi nghĩa Chày vôi do anh em Đoàn Hữu Trưng khởi

xướng, vua cho đổi tên thành Khiêm Cung, sau khi vua mất gọi là Khiêm Lăng

謙 陵.

Bố cục khu lăng gồm 2 phần chính, bố trí trên 2 trục dọc song song với

nhau, cùng lấy núi Giáng Khiêm 降 謙 山 ở phía trước làm tiền án, núi Dương

Xuân 陽春 山làm hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm 流 謙 湖 làm yếu tố minh đường.

Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn. Ở đó quanh năm có

suối chảy, thông reo, muôn chim ca hát. Yếu tố được tôn trọng triệt để trong lăng

Tự Đức là sự hài hòa của đường nét. Không có những con đường thẳng tắp, đầy

19

góc cạnh như các kiến trúc khác, thay vào đó là con đường lát gạch Bát Tràng bắt

đầu từ cửa Vụ Khiêm 務 謙 門 đi qua trước Khiêm Cung Môn 謙 宮 門 rồi uốn

lượn quanh co ở phía trước lăng mộ và đột ngột khuất vào những hàng cây sứ đại

thụ ở gần lăng Hoàng hậu Lệ Thiên Anh. Sự sáng tạo của con người hài hòa với

cảnh quan tự nhiên tạo nên một khung cảnh thơ mộng, diễm lệ. Trong cái quyến

rũ của mây nước, hương hoa đó, người ta như quên đi rằng đó là lăng tẩm của

một người quá cố mà ngỡ là thiên đường của cỏ cây, của thi ca và mộng tưởng...

Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có

chữ Khiêm trong tên gọi. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ sơn thần, du

khách đi trên con đường chính dẫn vào khu vực điện thờ, nơi trước đây là chỗ

nghỉ ngơi, giải trí của vua. Thoạt tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ

các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung

Môn - một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ

Lưu Khiêm ở đằng trước. Hồ Lưu Khiêm nguyên là một con suối nhỏ chảy trong

khu vực lăng, được đào rộng thành hồ. Đó là yếu tố “minh đường” để “tụ thủy”,

“tích phúc”, đồng thời là nơi để thả hoa sen tạo cảnh. Giữa hồ có đảo Tịnh

Khiêm 並 謙 島 với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú

hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ 沖 謙 榭 và Dũ Khiêm Tạ 愈 謙

榭, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách... Ba cây cầu Tuần Khiêm 循

謙, Tiễn Khiêm 踐 謙 và Do Khiêm由 謙 bắt qua hồ dẫn người ta đến đồi thông

bạt ngàn và đảo xanh ngát hương cỏ hoa, như đưa họ sang thế giới thần tiên,

mộng ảo ngay giữa chốn đời thường.

Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi

đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm 和 謙 殿 để vua làm việc, nay là nơi thờ

cúng bài vị của vua và Hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm 法 謙 và Lễ

Khiêm 禮 謙 dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện

Lương Khiêm 良 謙 殿, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ

20

vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm

Đường 溫 謙 堂 - nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có

nhà hát Minh Khiêm 明 謙 để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà

hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn. Có một hành lang từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì

Khiêm Viện 池 謙 院 và Y Khiêm Viện 依 謙 院 là chỗ ở của các cung phi theo hầu

nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng

Khiêm Viện 從 謙 院, Dụng Khiêm Viện用 謙 院và vườn nuôi nai của vua.

Ra khỏi khu vực tẩm điện, du khách theo con đường quanh co dẫn sang khu

lăng mộ. Ngay sau Bái Đình 拜 停 với hai hàng tượng quan viên văn võ uy nghi

là Bi Đình 碑 停 với tấm bia bằng đá Thanh nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm

cung ký” 謙 宮 記 do nhà vua soạn thảo vào năm 1871, đến năm 1875 mới được

khắc vào bia đá. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên

đã viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức thần công” trong các lăng khác.

Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương

nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình. Tự Đức muốn dùng tấm bia

khổng lồ đó để kể công và nhận tội trước lịch sử. Ông tự nhận tội mình: “Không

sáng suốt trong việc biết người, ấy là của ta; dùng người không đúng chỗ, cũng là

tội của ta; hàng trăm việc không làm được; đều là tội của ta cả...” và ông nhường

cho sử sách đời sau đánh giá công, tội của mình. Tiếp sau tấm bia kia, hai trụ

biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng quyền uy và tài đức của nhà vua cùng

với hồ Tiểu Khiêm 小 謙 湖 hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa

tội, thì đúng là Tự Đức thật chu toàn đối với việc đón nhận cái chết. Mới hay, Tự

Đức là hiện thân sự thâm thúy siêu tuyệt của Nho gia! Giờ đây, yên nghỉ trong

ngôi nhà bằng đá bên trong bửu thành, giữa một rừng thông vi vu gió lộng hẳn

nhà vua hoàn toàn mãn nguyện với sự dàn xếp, lựa chọn cho cái chết của mình.

Ông vua thi sĩ đã nằm xuống giữa một không gian của thơ và nhạc, của sự

yên bình trong tổng thể kiến trúc trác tuyệt về nghệ thuật xây dựng lăng tẩm thời

21

Nguyễn. Người đời sau mỗi khi đứng trước khung cảnh thơ mộng này, ai cũng

nghĩ đến một câu thơ đề tặng “ngôi nhà vĩnh cửu” của vua Tự Đức với sự tâm

đắc, ngưỡng mộ:

“Tứ bề núi phủ mây phong

Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên”

Trong các bi đình thì bi đình ở lăng Tự Đức là bề thế nhất với hình vẽ

những con rồng và sóng mây quấn lấy những cây cột lớn màu vàng. Nếu nhìn tư

xa, tưởng như bi đình được xây hai tầng.

 Bia ở lăng Tự Đức là một tấm bia đồ sộ. Trán bia được chạm hình một

con rồng mây lớn với sự cân đối của mặt rồng ở chính giữa và những đường uốn

cong của đuôi rồng ra phía trước. Thân bia cao 3,05m, rộng 2,06m, trên và dưới

thân bia là hình “lưỡng long triều nguyệt”, dọc hai bên thân bia, mỗi bên có chạm

hình 2 con rồng. Lòng bia dài 1,66m, khắc 69 dòng chữ Hán (mặt trước 34 dòng

và mặt sau là 35 dòng) kể cả dòng lạc khoản. Bệ bia dài 2,8m, cao 0,99m, dày

1,67m, cũng được trang trí bằng các họa tiết hình cây và ô vuông xen kẽ, phía

dưới có hình một con rồng lớn. Nách bia dài 0,77m, chỗ dày nhất là 0,21m. Mỗi

nách bia là hình một con rồng nhỏ. Chân bia được là theo kiểu sập chân quỳ như

ở các bia khác. Cột chân bia cao 0,695m. Đây có thể xem là tấm bia lớn nhất

trong các tấm bia khảo sát. Nhà bia ở đây nổi bật với kiểu vẽ hình rồng trên bốn

cột trụ lớn bên trong, được quét vôi màu vàng. Nhà bia được xây rất cao và

thoáng, 4 phía có 4 cánh cửa lớn hình vòm, xung quanh lại có tường thấp bao

quanh, đứng ở nhà bia có thể nhìn thấy các công trình kiến trúc khác. Bài văn

được khắc trên bia do chính vua Tự Đức ngự chế, nó được xem là bài văn bia độc

đáo nhất trong các bài văn bia ở các lăng.

1.5. Lăng vua Đồng Khánh

Đồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Ðường, con trai cả của Kiên Thái

Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai (1845-1876), người sinh thành 3 vị vua: Kiến

Phúc (1883-1884), Hàm Nghi (1884-1885) và Đồng Khánh (1886-1888). Ca dao

Huế từng nói về vương nghiệp của ba ông vua này:

Một nhà sinh đặng ba vua

Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài.

22

Ðồng Khánh là anh cả nhưng lại được đưa lên ngai vàng sau cùng. Bấy giờ,

khi vua Hiệp Hòa bị giết (1883), Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường lập

Hoàng tử Ưng Ðăng (con nuôi vua Tự Đức, em thứ hai của Ưng Ðường) lên làm

vua, lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Ở ngôi được 8 tháng thì Kiến Phúc qua đời, em

trai là Ưng Lịch được kế vị, đặt niên hiệu Hàm Nghi. Hàm Nghi trị vì được một

năm thì kinh đô thất thủ (5-7-1885), phải rời ngai vàng theo Tôn Thất Thuyết ra

Sơn phòng Tân Sở, phát chiếu Cần Vương kháng Pháp. Triều thần và chính phủ

bảo hộ đưa anh trai Hàm Nghi vào ngai vàng đang để trống, đó là Ðồng Khánh.

Ðồng Khánh làm vua được 3 năm thì qua đời vào giữa tuổi 25. Nhà vua không ngờ

mình chết sớm như vậy nên chưa hề lo nghĩ đến sinh phần mai sau của mình. Lăng

Ðồng Khánh hiện hữu, thực chất là nơi vua Ðồng Khánh tá túc vĩnh viễn trong

điện thờ thân phụ của ông. Sự ra đời của khu lăng tẩm này khá nhiều trắc trở.

Sau khi lên ngôi, Ðồng Khánh thấy lăng mộ của cha mình ở Cư Sĩ chưa có

điện thờ nên sai Bộ Công dựng điện Truy Tư cạnh đó để thờ cha. Điện Truy Tư

khởi công vào tháng 2 năm 1888, đến tháng 10 năm đó hoàn tất về căn bản.

Ðồng Khánh rước bài vị của Kiên Thái Vương về thờ trong điện, đồng thời tiếp

tục hoàn chỉnh công trình. Thế nhưng, trong khi công việc kiến trúc đang tiếp tục

thì Ðồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành Thái (1889-1907) kế

vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên không thể

xây cất lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm, đành lấy điện Truy Tư追 思 殿 đổi

làm Ngưng Hy 凝 希 殿để thờ vua Ðồng Khánh. Thi hài nhà vua cũng được an

táng đơn giản trên quả đồi có tên là Hộ Thuận Sơn, cách điện Ngưng Hy 30m về

phía Tây. Toàn bộ khu lăng tẩm được gọi tên là Tư Lăng 思 陵.

Tháng 8 năm 1916, sau khi lên ngôi được 3 tháng, vua Khải Ðịnh (1916-

1925), con trai vua Ðồng Khánh đã tu sửa điện thờ và xây cất lăng mộ cho cha

mình. Toàn bộ khu lăng mộ từ Bái Đình, Bi Đình đến Bửu Thành và Huyền

Cung đều được kiến thiết dưới thời Khải Ðịnh, đến tháng 7-1917 mới hoàn

thành. Riêng điện Ngưng Hy cùng Tả Hữu Tùng Viện; Tả Hữu Tùng Tự tiếp tục

được tu sửa cho đến năm 1923.

Ra đời trong quá trình dài như thế, lăng Ðồng Khánh mang dấu ấn hai

23

trường phái kiến trúc của hai thời điểm lịch sử khác nhau. Nếu phong cách cổ

truyền thực sự dừng chân trong kiến trúc lăng Tự Đức và phong cách hiện đại

được thể hiện rõ nét trong kiến trúc lăng Khải Định sau này thì lăng Ðồng Khánh

là một bước trung chuyển. Sự tồn tại khá biệt lập của hai khu vực lăng và tẩm

càng làm rõ thêm điều này. Ở khu vực tẩm điện, nhìn tổng thể, các công trình vẫn

mang dáng xưa: lối kiến trúc trùng thiềm điệp ốc ở chính điện và các nhà cửa phụ

thuộc, vẫn những hàng cột sơn son thếp vàng lộng lẫy với đồ án trang trí tứ linh,

tứ quý... quen thuộc. Ðáng chú ý là điện Ngưng Hy, một công trình vốn được coi

là nơi bảo lưu bậc nhất nghệ thuật sơn son thếp vàng, nghệ thuật sơn mài nổi

tiếng của Việt Nam. Trên các đố bản ở nội thất là hàng loạt các ô hộc trang trí

các đề tài mai điểu, tùng lộc, liên áp, trúc tước... bằng sơn mài, ghép khảm và

chạm nổi. Ðặc biệt trong chính điện còn có 24 đố bản vẽ các bức tranh trong điển

tích Nhị thập tứ hiếu kể về những tấm gương hiếu thảo ở Trung Hoa.

Công việc xây dựng lăng tẩm vua Đồng Khánh đã được bắt đầu từ năm cuối

đời vua (1888: khu vực điện Truy Tư sau đổi tên thành điện Ngưng Hy), làm

thêm từ năm đầu thời Thành Thái (1889: khu vực lăng mộ) rồi sửa chữa và mở

rộng quy mô dưới thời Khải Định (các năm 1915, 1917, 1921, 1923).

Trên thực tế, công việc kiến trúc lăng Đồng Khánh đã diễn ra nhiều đợt

trong một giai đoạn lịch sử dài ngót 35 năm (1888-1923) qua 4 thời vua Đồng

Khánh, Thành Thái, Duy Tân và Khải Định.

Về mô thức kiến trúc, lăng Đồng Khánh có khoảng 20 công trình kiến trúc

lớn nhỏ với mật độ tương đối dày. Khu vực tẩm quay về hướng đông nam, ngay

trước mắt có đào hồ bán nguyên để làm yếu tố “minh đường” và ngọn đồi Thiên

An cách đó khoảng 3 km được dùng làm tiền án. Khu vực lăng mộ lại quay về

hướng đông-đông nam, tiền án của nó là núi Thiên Thai...Nếu tượng các quan

viên ở lăng Tự Đức được tạc bằng đá với cỡ người quá thấp, thì ngược lại, tượng

các quan viên ở lăng Đồng Khánh chỉ được đắp bằng vôi gạch với dáng cao

nhưng gầy.

Công trình kiến trúc nổi bật về mặt mỹ thuật ở lăng Đồng Khánh là điện

Ngưng Hy, là một toà nhà kép làm theo kiểu thức chung của loại cung điện Huế,

nhưng ở phần sau lại được gia tăng thêm một toà nhà thứ ba nữa (nhà hậu).

24

Thành ra ở đây có đến 3 hệ thống vì kéo được ghép lại với nhau theo hình chữ

“tam” với hai hệ thống máng xối ở giữa. Mặt bằng thực tế của toà nhà rất rộng,

nhưng trông vẫn gọn gàng xinh xắn, có lẽ nhờ cách trang trí ở nội ngoài thất.

Vật liệu trang trí trên các bờ nóc, bờ quyết, cổ diềm, đầu hồi, đều làm bằng

pháp lam ngũ sắc hoặc đất nung tráng men màu. Được phân khoản trong từng ô

hộc, hàng trăm hình ảnh và câu thơ xen kẽ nhau chạy quanh trên cả toà nhà. Ở đó

người xưa đã diễn tả rất nhiều sinh hoạt cổ truyền và cảnh vật dân gian như ngư

tiều canh mục, cầm kỳ thi tửu, ngư ông đắc lợi...con gà, con rắn, tắc kè, voi,

ngựa, các thứ động vật và cây cỏ thông thường khác. Có giá trị đặc biệt nhất ở

đây là loại đất nung tráng men màu. Loại này được phát triển mạnh ở điện

Ngưng Hy để sau đó ít thấy dùng trong trang trí cung điện và lăng tẩm. Đây là

một loại hình tạo tác thủ công mỹ nghệ đặc sắc và quý hiếm của địa phương.

Bên trong điện, các nghệ nhân đầu thế kỷ đã tạo ra được một không gian

nội thất vàng son lộng lẫy. Hàng trăm hình ảnh và câu thơ được chạm khắc hoặc

viết vẽ lên các panô và hệ thống kiên ba đồ bản. Hệ thống cột kèo tiền điện cũng

sơn son thép vàng. Màu sắc mọi hình ảnh trang trí đều còn đậm đà, chói lọi. Một

loại hình ảnh trang trí độc đáo ở nội thất Ngưng Hy là vẻ cảnh sinh hoạt của 24

câu chuyện trong “Nhị thập tứ hiếu”.

Lăng Ðồng Khánh được xây dựng trong buổi giao thời của lịch sử Việt

Nam nên kiếm trúc lăng đan xem giữa kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian và

kiến trúc mới du nhập. Trong một chừng mực nhất định, kiến trúc lăng đã thành

công trong việc thể nghiệm cái mới, đưa yếu tố dân dã vào trong cung đình khiến

lăng Ðồng Khánh hòa hợp với phong cảnh thôn dã trong vùng.

 Bia lăng Đồng Khánh không có nhiều nét độc đáo như ở các văn bia

khác. Nhà bia được xây dựng xinh xắn trên một diện tích nhỏ. Bên trong là bia đá

cao 3,05m, rộng 1,45m, dày 0,16m. Cũng giống như họa tiết trên văn bia Tự

Đức, bia lăng Đồng Khánh là sự kết hợp giữa họa tiết cây cỏ và rồng, mây. Chỉ

có điểm khác biệt là ở hai tai bia và hai nách bia không được chạm họa tiết rồng

mà là hình hoa văn cách điệu. Bia được khắc ở cả hai mặt với lối chữ chân

phương, rõ ràng và đẹp. Chân bia dày 0,8m, dày 2,07m, cao 0,6m cũng được làm

theo kiểu sập chân quỳ. Bài văn khắc trên bia đá là do vua Khải Định ngự chế để

25

ca tụng công đức vua cha. Nó được làm theo mô-típ cũ là ca tụng khoa trương

mang tính chủ quan của người viết.

1.6. Lăng vua Khải Định

Lăng Khải Định (hay còn gọi là Ứng Lăng 應 陵) nằm dựa lưng vào triền

phía Tây Nam vùng núi Châu Chữ, xưa thuộc địa phận làng Châu Chữ, xã Thủy

Bằng, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên- nay thuộc làng Châu Chữ, xã Thủy

Bằng, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng nằm cách trung tâm thành phố

Huế 10km đường bộ về phía Tây Nam.

Năm 1920, khi các nhà địa lý đương thời đi xem và chọn địa điểm để xây

dựng lăng cho vua Khải Định tại triền núi Châu Chữ thì ở đó đã có một số ngôi

mộ của người Hoa. Triều đình đã ra lệnh phải dời những mộ ấy đi nơi khác. Theo

thuật phong thủy thì lăng Khải Định có vị trí hết sức trang trọng, cửa lăng hướng

về phía Tây- Tây Bắc. Hai dãy vúi Chóp Vung và Kim Sơn cách xa lăng 8 km

chầu vào phía trước, nằm trong tư thế “tả thanh long, hữu bạch hổ”, rồng chầu hổ

phục, tạo nên một thế quy tụ, đăng đối vững chải. Phía trước mặt lăng có dòng

nước chảy từ tả qua hữu (khe Châu Ê) rồi lại rẽ theo lối “chi huyền thủy”, hay

còn gọi là “huyền thủy minh đường” (nhà sáng).

Mỗi công trình kiến trúc ở lăng Khải Định từ hệ thống tường rào, cổng vào

lăng, tả hữu tòng sự đến sân bái đình, bi đình, ba tầng sân trước cung Thiên Định

(gồm tả, hữu trực phòng, điện Khải Thành, Chính cung và Hậu điện) đều được

bố trí một cách cân xứng, đăng đối, thứ tự từ thấp lên cao, từ bậc cấp thứ nhất

đến bậc cấp 127 cuối cùng. Tùy theo địa hình tự nhiên sẵn có hoặc đào đắp, cải

tạo thêm ít nhiều để tạo ra mặt bằng kiến trúc hoàn chỉnh. Ở đây, kiến trúc gắn

liền với thiên nhiên, hòa vào trong sự hùng tráng của núi sông, tạo nên không khí

trang nghiêm, trầm mặc thích hợp với nơi yên nghỉ của một vị vua.

So với các khu lăng mộ khác (lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự

Đức, Đồng Khánh), lăng Khải Định được xây dựng muộn nhất, mặt bằng kiến

trúc hẹp nhất nhưng lại là công trình được xây dựng với sự đòi hỏi về thời gian,

công sức, tiền bạc nhiều nhất. Nếu như lăng Gia Long xây dựng trong 6 năm

(1814-1820), lăng Minh Mạng 4 năm (1840-1843), lăng Thiệu Trị chỉ trong vòng

10 tháng (10-2 đến 19-11-1848)... thì công việc xây lăng Khải Định phải kéo dài

26

đến 11 năm (1920-1931).

Cũng như các vị vua khác, sau khi bước lên ngai vàng được 4 năm, vua

Khải Định bắt đầu lo nghĩ đến việc xây dựng lăng tẩm cho mình, chuẩn bị cho

nơi an nghỉ cuối cùng. Đây là công việc trọng đại của cả triều đình làm hao tốn

sức người sức của. Ngày 4-9-1920, lăng được khởi công xây dựng nhưng ngày 6-

11-1925 thì vua băng hà và khi vua Bảo Đại lên ngôi, công trình mới được tiếp

tục xây dựng, đến năm Bảo Đại VI (1931) mới hoàn thành. Trong suốt 11 năm

ấy, triều đình nhà Nguyễn đã huy động nhiều tù nhân và binh lính ở Huế lên đây

làm việc khổ sai dài hạn như mở đường, phá núi, làm toại đạo, tạo ra mặt bằng

xây dựng lăng ở triền phía Tây của ngọn núi thuộc vùng núi Châu Chữ.

Triều đình đã đưa tất cả các thợ thủ công có tay nghề cao nhất trong “nê

ngõa tượng cục” lên đây làm việc dài hạn. Trong số đó có nhiều nghệ nhân nổi

tiếng như cụ Phan Văn Tấn, cụ Kiểm Khả, cụ Ký Duyệt, cụ Cửu Sùng...nhưng

nổi tiếng nhất là cụ Phan Văn Tấn. Cụ là người họa sĩ tài hoa đã vẽ những bức

họa “Cửu long ẩn vân” trên trần nhà ở cung Thiên Định bằng đôi chân của mình.

Chuyện này đã đi vào giai thoại dân gian xứ Huế. Ngoài ra, còn có những bức

họa ở các mặt tường và trần của Tả hữu trực phòng, các nghệ nhân đã dùng màu

xanh sẫm vẽ lên xi măng để giả đá cẩm thạch, trông như thật.

Với diện tích hàng chục mét vuông, những bức họa long vân trên trần ba

phòng giữa của cung Thiên Định 天 定 宮hiện nay vẫn được đánh giá là những

tác phẩm hội họa mang giá trị thẩm mỹ cao. Ngoài ra, còn có những bức tranh

đắp nổi bằng những mảnh sành sứ được trang trí ở các vị trí xung quanh bốn bức

tường cung Thiên Định cũng làm cho những ai đến đây chiêm ngưỡng đều phải

ngẩn ngơ.

Công việc xây dựng lăng Khải Định được đặt dưới sự điều hành của Triều

quân đô thống phủ Lê Văn Bá. Còn nhà thầu khoán Nguyễn Văn Hưng trông coi

về vật liệu xây dựng. Để thực hiện các công trình kiến trúc của lăng, nhà nước

phong kiến lúc bấy giờ đã phải tăng thuế đinh lên 10% và thuế điền là 30% trên

phạm vi cả nước. Nguyên nhân của sự hao phí là do lăng được xây dựng trên một

sườn núi cao, khi tiến hành thi công thì phu dịch phải bạt nó thành nhiều tầng,

nhiều cấp và những sân lớn để tạo ra một mặt bằng xây dựng. Hơn nữa, các

27

nguyên vật liệu dùng vào để xây dựng đều phải mua từ nước ngoài hay phải vận

chuyển hay phải vận chuyển từ xa đến như: sắt thép, xi măng, ngói ác-đoa, gạch

hoa phải mua từ Pháp. Sành kiểu, sứ tốt, vỏ chai, thủy tinh phải nhập từ Trung

Quốc, Nhật Bản. Còn sành ngang phải chở từ Hà Đông vào. Đây thực sự là một

công trình kiến trúc hao tốn nhiều thời gian và đòi hỏi nhiều công sức lao

động.Chính vì những tốn kém trên đã đẩy cuộc sống của người dân đến cảnh lầm

than, khổ cực.

Trong các lăng tẩm thì lăng Khải Định vẫn có đặc thù rõ nét. Nếu như lăng

Minh Mạng, Tự Đức là những bức tranh hài hòa giữa thiên nhiên và kiến trúc đồ

sộ nằm trên hàng chục hecta đất theo lối kiến trúc cổ thì lăng Khải Định là công

trình kiến trúc đồ sộ nằm trên triền đồi với diện tích chỉ hơn nửa hecta, theo lối

kiến trúc kết hợp giữa Âu và Á. Những dạng vật liệu gỗ, đá, gạch Bát Tràng

thường dùng ở những lăng trước thì ở lăng Khải Định nó được thay thế bởi bê

tông cốt sắt, vôi vữa và gạch caro. Nghệ thuật chạm trổ hoa văn trên gỗ đá cũng

được thay bằng nghệ thuật đắp nổi hoa văn trên tường bằng các mảnh sành sứ

nhiều màu ghép lại, tạo cho lăng dáng vẻ như một tòa lâu đài tổng hợp các kiến

trúc Đông-Tây, kim -cổ. Mặt khác, với tượng đồng bia đá, với cung Thiên Định

giống như một viện bảo tàng. Lăng Khải Định là một tác phẩm mỹ thuật tổng hòa

của nhiều dòng văn hóa, nhiều dòng kiến trúc Á, Âu, kiến trúc Việt Nam cổ điển

và hiện đại: những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ, trụ biểu Tu-

pa của nhà Phật, nhà bia với hình bát giác và vòm cửa theo lối Romance biến

thể... Tất cả phản ánh phong cách thích chưng diện của vua Khải Định lúc sinh

thời, và đánh dấu giai đoạn giao thời giữa hai nền văn hóa Á-Âu của xã hội Việt

Nam hồi đầu thế kỉ XX.

 Cũng như sự độc đáo của nghệ thuật trang trí trong toàn bộ khu lăng

tẩm, văn bia lăng Khải Định mang phong cách riêng với nhiều nét mới lạ. Trán

bia luôn là hình rồng mây nhưng rồng mây ở mặt sau không được chạm trổ tỉ mỉ

như mặt trước. Bia cao 3,89m (kể cả trán bia và chân bia). Thân bia ở mặt trước,

phần trên là hình “lưỡng long triều nguyệt”, dưới cũng là hình hai con rồng

nhưng không phải hướng về mặt nguyệt như ở trên mà là hướng về đỉnh núi, hai

dọc bên thân mỗi bên được chạm hình 2 con rồng quay đầu xuống dưới ngoảnh

28

vào phía trong; mặt sau của thân bia thì phần trên và dưới đều là hình “lưỡng

long triều nguyệt” nhưng điều đặc biệt là rồng ở phần trên và dưới thân bia rất

dài, chạy dọc theo hai thân bia và kéo về hai đầu thân bia. Đây chính là điểm

khác biệt mà ở các văn bia khác không có. Phần tai và nách bia, cả mặt trước và

sau đều được chạm hình rồng. Nách bia dài 0,905m, chỗ dày nhất là 0,23m. Chân

bia dài 2,7m, dày 0,81m, cao 0,78m, cột chân cao 0,51m. Họa tiết ở chân bia

giống ở các bia khác, là sự phối hợp giữa họa tiết rồng ở chính giữa và cây lá ở

phân trên và dưới. Chân cũng theo kiểu sập chân quỳ, ở 4 phía góc chân là hình

đầu rồng lớn như ở các lăng khác. Lòng bia dài 1,1m khắc 22 dòng chính văn ở

mặt trước, còn mặt sau để trống hoàn toàn mặc dù vẫn được trang trí bằng các

họa tiết cầu kì. Bài văn bia được khắc trên đá là do vua Bảo Đại ngự chế. Nhà bia

làm theo kiểu 2 tầng, có 16 cột xung quanh với hình 16 con rồng ở trên các cột,

ngoài ra có thêm 4 cột lớn ở giữa nhưng không có trang trí. Nhà bia có 4 cửa lớn

và rộng. Cũng như toàn bộ khu lăng tẩm, nhà bia làm bằng vật liệu bê-tông là

chủ yếu. Nhìn từ phía trước, nhà bia có sự độc đáo bởi những nét mới lạ cả về

màu sắc, vật liệu và cách trang trí. Đây là tấm bia được dựng trên lăng cuối cùng

của triều đại phong kiến bởi vì mặc dù Bảo Đại là vị vua cuối cùng của triều đại

phong kiến nhưng ông vua này không xây dựng lăng tẩm nên cũng không có văn

bia.

CHƯƠNG 2

KHẢO SÁT VĂN BIA LĂNG CÁC VUA NGUYỄN

2.1. Văn bia triều Nguyễn và văn bia lăng các vua Nguyễn

2.1.1. Văn bia triều Nguyễn

Văn bia là một sản phẩm của đời sống xã hội và là đặc trưng của văn hóa

thời trung đại. Ban đầu, ở Trung Quốc bia chỉ là những cột đá dựng ở cửa miếu

dùng để buộc vật tế sinh và đo bóng mặt trời hay những cột gỗ chôn trên huyệt

mộ để buộc dây hạ quan tài, sau nhân đó mà khắc nên. Qua sự giao thoa giữa các

nền văn hóa gần gũi, văn bia đã được nhân dân các nước xung quanh tiếp nhận

và sáng tạo. Việt Nam cũng nằm trong số đó.

29

Nói về triều Nguyễn, kể từ khi Chúa Tiên (tức Nguyễn Hoàng) vào đất

Thuận Hóa để tránh sự kiểm soát gắt gao của anh rể là Trịnh Kiểm, vùng đất của

nhà chúa đã không ngừng gây dựng và phát triển. Từ đời chúa Nguyễn Ánh trở

về sau dải đất Đàng Trong không còn nhỏ hẹp nữa mà mở rộng dần về phương

Nam rồi đến năm 1802 thì thống nhất. Với chừng ấy thời gian gây dựng, bồi đắp,

triều Nguyễn đã để lại cho nền văn hóa Việt Nam ngày nay những giá trị vật chất

và tinh thần mang dấu ấn của thời đại. Trải qua bao biến cố của lịch sử, ngày nay

những giá trị văn hóa đó đang được nghiên cứu và đánh giá với cái nhìn khách

quan và đầy đủ hơn.Văn bia triều Nguyễn cũng là một trong những giá trị đang

được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.

Văn bia là những bài văn được khắc trên các phiến đá và được dựng ở rất

nhiều nơi như chùa chiền, lăng tẩm, mộ chí, các vị trí quân sự- kinh tế hay ở

những danh lam thắng cảnh nhằm ghi nhớ về một nhân vật, sự kiện hay địa danh,

địa điểm nào đó với mục đích là để hậu thế không quên về lịch sử đã qua. Hiện

tại chưa có con số thống kê chính xác về văn bia triều Nguyễn nhưng có thể đoán

định rằng nếu không kể đến văn bia ở các mộ chí thì văn bia triều Nguyễn lên

đến con số hàng trăm. Nói như vậy là để thấy rằng số lượng văn bia triều Nguyễn

rất đa dạng và phong phú.

Căn cứ vào vị trí đặt văn bia có thể phân loại văn bia triều Nguyễn ra làm

các loại sau:

(cid:0) Văn bia ở đền chùa

Văn bia được dựng ở chùa chiền có thể coi là loại văn bia được dựng sớm

nhất. Điều đặc biệt là các văn bia ở chùa thường do vua ngự chế hoặc những nho

sĩ nổi tiếng đề khắc. Sở dĩ là vì thường các chùa do triều đình bỏ tiền ra xây

dựng, tu bổ hoặc do hàng quan lại, những người giàu có, nổi tiếng muốn cầu

phúc và ghi công đức mà cho xây dựng. Ngoài việc xây dựng, tu bổ, những

người này còn cúng cho chùa tiền bạc hoặc ruộng đất. Ruộng này còn gọi là

ruộng hậu và nó được coi là nơi sản xuất và thu nhập chính của chùa. Ở các chùa

hiện nay vẫn còn những bia hậu ghi công đức của những người đã cống hiến cho

nhà chùa. Điển hình là tấm bia chùa Từ Hiếu. Chùa Từ Hiếu vốn được xây dựng

từ thời chúa Nguyễn, đến thời nhà Tây Sơn cầm quyền chùa đã bị triệt hạ, về sau

30

bà Từ Dũ cho tu bổ lại. Nguyên số ruộng công đức ở chùa này đã lên đến 22 mẫu

2 sào.

Nội dung của các bài văn bia chùa thường nhắc đến các tư tưởng Phật giáo

nhưng song song với nó là các tư tưởng Nho gia, đôi khi còn có xen lẫn tư tưởng

Lão- Mặc. Điều này cho thấy, dưới thời nhà Nguyễn, tư tưởng Phật giáo không

được giai cấp thống trị tin dùng mà nó chỉ là phương tiện tuyên truyền hệ tư

tưởng của chế độ, tuyên truyền cho uy quyền của dòng họ vua. Qua những câu

chuyện hoang đường để dựng nên những ngôi chùa thờ phụng, đó là cách mà giai

cấp thống trị dùng để kích động sự mê tín vốn sẵn có trong dân gian nhằm củng

cố vương quyền. Những tư tưởng Phật giáo đã được giải thích trên lập trường tư

tưởng Nho giáo.

Ở phần cuối các bài văn bia thường là những lời cầu nguyện. Nó cũng

giống như ngày nay người ta lên chùa là cầu xin may mắn, phước lộc. Các văn

bia do vua quan chấp bút thì thường cầu cho nhà yên nước trị, cầu cho dòng họ

mãi vững bền. Trong bài văn bia khắc tại chùa Linh Mụ, chúa Nguyễn Phúc Chu

có viết: Nguyện cho thân quyến xa gần trong dòng họ Nguyễn đều lên pháp hội,

mãi giữ được ngôi phúc chúa, thường tu tạo chùa chiền, nội ngoại thân thuộc đều

chứng bồ đề. Riêng ta thụ được bài kinh quý báu, nhiều năm gặp vận hội lớn. Đất

nước mở mang, nông thương sầm uất, nước giàu binh mạnh, giữ yên nghiệp

nước. Điều đó thật tốt biết bao 願 阮 門 遠 近 宗 親 咸 登 法 會 永 為 福 主 掄

作 伽 籃 內 外 戚 屬 無 彊 之 頌 長 逢 大 有 之 年 土 宇 闢 開 農 商 盛 集 兵

強 國 富 守 業 安 時 以 玆 勝 概

Việc cho xây dựng chùa chiền ngoài mục đích xiển dương công đức vương

triều, nó còn mang ý nghĩa là giữ long mạch giúp cho cơ nghiệp nhà vua vững

bền. Một bộ phận không nhỏ trong các văn bia còn ca ngợi cảnh đẹp của chùa

chiền, thiên nhiên đất nước, qua đó nói lên lòng yêu nước và niềm tự hào của con

người sống trong đời thịnh.

Nội dung chính của các văn bia dựng ở chùa chiền chủ yếu là miêu tả việc

trùng tu xây dựng chùa, cuộc đời đạo hạnh của các vị tổ khai sơn, hay trình bày

những tư tưởng Phật giáo như từ bi, nhân quả, nghiệp chướng...và cuối cùng là

31

những lời cầu nguyện. Có thể nhắc đến những văn bia nổi tiếng ở Huế như: văn

bia trùng tu chùa Linh Sơn (1665), bia chùa Thiên Mụ (1715), bia chùa Quốc Ân

(1729)...

Hình thức chủ yếu của các văn bia chùa là thể loại văn xuôi với ngôn ngữ

trau chuốt, lời văn nhẹ nhàng, ví dụ: bia “Ngự chế thi Thiên Mụ chung thanh

thần kinh đệ thập tứ cảnh” (1846) và “Ngự chế thi Diệu Đế tự” của vua Thiệu

Trị. “Sắc tứ Hà Trung tự Hoán Bích Thiền sư tháp kí minh” của chúa Nguyễn

Phúc Chu dựng ở chùa Quốc Ân...

(cid:0) Văn bia ở các điểm văn hóa giáo dục

Nói đến thành tựu giáo dục thì vương triều Nguyễn là một trong những triều

đại có nhiều thành tựu với hệ thống trường học và lề lối thi cử quy củ, nghiêm

ngặt. Sau những năm loạn lạc chiến tranh, các vua chúa nhà Nguyễn ra sức cải

cách kinh tế, ổn định giáo dục, cho dời Quốc tử giám từ Hà Nội vào kinh đô Phú

Xuân, cho xây dựng ở kinh thành Huế một nhà Văn Miếu (1691). Ở Quốc tử giám

và Văn Miếu, vua cho dựng văn bia. Ở Văn Miếu có 34 bia, trong đó có 32 cái là

văn bia tiến sĩ dùng để khắc tên những người đậu tiến sĩ bắt đầu từ khoa thi Hội

đầu tiên vào năm 1822 đến khoa thi cuối cùng là năm 1919. Hai văn bia còn lại

khắc hai bài dụ của vua Minh Mạng và Thiệu Trị. Bia phía bên trái do vua Minh

Mạng ngự chế với nội dung là phân chia cấp bậc của hàng hoạn quan, răn đe họ

phải yên với chức phận, không được tham dự việc chính trị, không được cậy thế

làm loạn. Bia bên phải do vua Thiệu Trị viết với nội dung răn đe, ngăn chừng hàng

ngoại thích. Cái ý sâu xa ở hai văn bia này là tỏ rõ cho kẻ sĩ biết chính sách trọng

dụng nhân tài và thưởng phạt phân minh của nhà vua. Ở Quốc tử giám có hai văn

bia và đều có nội dung là ca ngợi sự thịnh trị của đất nước, cảnh trường lộng lẫy, tả

cảnh nhộn nhịp, náo nhiệt của trường vào ngày lễ thị học. Tự Đức trong bài văn

bia còn khuyên kẻ sĩ không nên ham chuộng tước lộc của người đời mà phải lo lập

đức, lập công, lập ngôn; vua còn cho rằng nền tảng của việc học là trung với vua,

hiếu kính với cha mẹ. Nói chung, nền giáo dục triều Nguyễn là một nền giáo dục

mang tư tưởng phục cổ và bảo thủ.

(cid:0) Văn bia ở các lăng tẩm vua Nguyễn

Đây là những văn bia ca ngợi vua cha đã mất do các vua kế nhiệm ngự chế.

32

Nó được dựng ngay tại các lăng tẩm của các vua. Nội dung và nghệ thuật của

loại văn bia này sẽ được giới thiệu kĩ ở mục sau.

(cid:0) Văn bia dựng ở các danh lam thắng cảnh, các khu quân sự, kinh tế

Vua Thiệu Trị xếp các cảnh đẹp ở kinh đô làm 20 thắng cảnh, gọi là “thần

kinh nhị thập cảnh”(20 cảnh đẹp ở đất thần kinh). Mỗi thắng cảnh đều có bia

dựng ở đó. Ở các núi chầu xung quanh lăng vua Gia Long cũng có dựng văn bia,

mỗi núi dựng một cái. Người ta thường nhắc đến hai văn bia, một cái dựng ở Phu

Văn Lâu và một cái ở cửa biển Thuận An.

Văn bia dựng ở Phu Văn Lâu có tên “Hương Giang hiểu phiếm” (buổi sáng

chèo thuyền trên sông Hương) do vua Thiệu Trị viết đề ngày tốt tháng 7 năm thứ

3 niên hiệu Thiệu Trị, gồm 147 chữ tả cảnh sông Hương vào buổi sáng sớm vô

cùng thơ mộng và đẹp đẽ, duyên dáng. Bia được dựng trong một nhà bia trang

nhã, xinh xắn phía bên phải Phu Văn Lâu, mặt hướng ra dòng Hương Giang.

Văn bia dựng ở cửa Thuận An có tên “Thuận An tấn kí” hiện nay đang nằm

trong khuôn viên trường tiểu học số 2 Thuận An, có lẽ trước đây nó được dựng ở

gần bờ biển. Bài bia khá dài do vua Tự Đức ngự chế, miêu tả cái thế hiểm trở tự

nhiên của cửa biển cũng như cách bố phòng của quân đội. Hiện nay vết tích của

các đồn lũy vẫn còn. Trong bài văn bia, vua cũng có nhắc đến yếu tố “nhân hòa”

rằng : “Nay cửa biển không phải là không hiểm trở, đồn lũy không phải không

kiên cố, súng ống không phải không đầy đủ tinh xảo, quân lính không phải không

siêng năng luyện tập nhưng hiệu quả của nó chưa hẳn đã giữ được đồn lũy ấy,

sức ấy, để giữ lấy thế hiểm ấy. Cho nên, Mạnh Tử mới nói “thiên thời không

bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa”. Nhà vua đã rất đúng khi coi trọng

yếu tố con người trong việc giữ gìn giang sơn bờ cõi, nhưng đáng tiếc sau này

trong cuộc đối đầu với thực dân Pháp xâm lược, Tự Đức đã bỏ qua sự thuận lợi

của yếu tố “nhân hòa” lúc đó khi mà toàn thể nhân dân đều đồng khởi diệt giặc

khiến dân đen sớm chịu cảnh nô lệ.

2.1.2. Văn bia lăng các vua Nguyễn

Tất cả các bia ở lăng vua đều được dựng trong nhà bia trang nhã. Bi đình

được đặt gần sân chầu. Nếu đi từ cổng lăng vào thì đầu tiên là sân chầu, rồi đến

bi đình và sau đó là các công trình kiến trúc khác. Trong các bia lăng, chỉ có bia

33

lăng Tự Đức là có vị trí đặc biệt là tuy đặt gần sân chầu nhưng sân chầu và bi

đình lại nằm sâu bên trong khu vực lăng, còn các bia ở các lăng khác có vị trí

giống nhau là gần trước cổng đi vào lăng.

Không những được dựng trong một bi đình bề thế, trang nhã, các bia ở các

lăng vua Nguyễn còn được chạm trổ tinh xảo theo nghệ thuật kiến trúc của triều

Nguyễn. Các bi đình đều được xây dựng theo kiểu hai tầng với những nét độc

đáo riêng. Nhà bia lăng Gia Long đơn giản mà thoáng đãng; nhà bia lăng Minh

Mạng lộng lẫy, uy nghiêm; nhà bia lăng Thiệu Trị hài hòa, gần gũi; nhà bia lăng

Tự Đức đồ sộ; nhà bia lăng Đồng Khánh xinh xắn; nhà bia lăng Khải Định hoành

tráng, độc đáo.Trong các bi đình thì bi đình của lăng vua Khải Định độc đáo

nhất, gồm 2 tầng và trên mỗi tầng đều có hình các con rồng uốn lượn xếp sát

nhau, được xây bằng bê tông rất vững vàng.

Các tấm bia thường được làm bằng đá thanh, vừa cao lớn lại được chạm trổ

các họa tiết đặc biệt. Bài văn bia được khắc ở lòng bia, dài và bằng chữ Hán theo

lối chữ chân phương rõ ràng.

Nội dung của các bài văn bia ở các lăng vua là ghi lại tiểu sử của nhà vua;

việc lên ngôi; sự nghiệp; công đức đối với nhân dân, đất nước, việc tang lễ, xây

dựng lăng và cuối cùng là một bài minh dài có thể coi là bản tóm tắt nội dung của

cả văn bia. Trong số các văn bia lăng các vua Nguyễn thì bài bia ở lăng Tự Đức

là dài nhất và độc đáo nhất vì nó là lời “tự bạch”của một ông vua biết mình chưa

hoàn thành trách nhiệm trước tình thế đặc biệt của đất nước.

Về hình dáng, văn bia lăng cũng giống các loại văn bia khác. Đó là một tấm

đá hình chữ nhật lớn, mỗi một tấm bia đều có các phần như trán bia, thân bia,

chân bia, tai bia, nách bia.

Trán bia thường là hình cong bán nguyệt, trên là diềm bia, dưới là mặt bia.

Trán bia luôn được trang trí hình rồng mây rất lớn, mặt rồng ở chính giữa, đuôi rồng

xòe ra và uốn lượn ngay trước mặt rồng theo một đường tròn.

Thân bia là phần quan trọng nhất của bia. Mỗi mặt có lòng bia ở giữa và

diềm bia xung quanh. Diềm bia được trang trí bằng hình dây lá và mỗi văn bia là

một phong cách trang trí khác nhau. Ở thân bia thường được chạm hình những

con rồng nhỏ ở hai dọc thân bia và cả ở phần trên của thân bia. Tùy vào kích cỡ

34

lớn nhỏ của bia ở từng lăng mà số lượng rồng được khắc chạm theo hai dọc thân

bia nhiều hay ít, ví dụ ở văn bia lăng Gia Long có 4 con rồng được khắc ở mỗi

bên dọc thân bia, hai con quay đầu lên và hai con quay đầu xuống xen kẽ nhau; ở

lăng Thiệu Trị thì ở hai dọc thân bia có 3 con rồng ở mỗi bên, ở lăng Đồng Khánh

là 2 con. Phần trên của thân bia ở các lăng đều là hình “lưỡng long triều nguyệt”

nhưng ở lăng Gia Lăng có khác là hai con rồng quay đuôi về phía mặt nguyệt.

Ngoài ra, ở thân bia còn có các họa tiết dây lá dài ngắn khác nhau ở các lăng. Phần

dưới của thân bia ở các lăng thường là hình “lưỡng long triều nguyệt” giống với

phần trên, nhưng lăng Gia Long thì ở phần dưới là hoa văn hình đỉnh núi. Phần

lòng bia ghi chép nội dung của bài văn bia có kèm theo dòng lạc khoản, được viết

đài theo đúng quy củ, chữ viết theo lối chân phương. Ở mặt sau thân bia có khi

được trang trí họa tiết giống như mặt trước và được khắc chữ (bia lăng Minh

Mạng, Khải Định, Tự Đức, Đồng Khánh) nhưng có văn bia thì phía sau để trống

(bia lăng Thiệu Trị, Gia Long).

Tất cả các bia ở các lăng đều có tai bia và nách bia. Tai bia và nách bia có

lúc được chạm khắc các họa tiết mây hoặc hoa lá uốn lượn (văn bia lăng Minh

Mạng) nhưng có lúc lại được chạm khắc 4 con rồng ở 2 tai và 2 nách bia (văn bia

lăng Thiệu Trị), có lúc 2 nách bia chạm rồng, 2 tai bia lại trang trí bằng họa tiết

cây lá (văn bia lăng Gia Long). Tùy vào kích cỡ của văn bia mà tai bia và nách

bia có kích cỡ khác nhau.

Chân bia ở các lăng phần lớn giống nhau về họa tiết, phần giữa của chân

bia là hình con rồng lớn có xen kẽ các họa tiết cây lá dài hoặc ngắn và mây,

ngoài ra còn có họa tiết ô vuông nối liền. Phần trên của chân bia hầu hết đều có

họa tiết và thường là họa tiết cây. Phần bên dưới cũng có họa tiết. Bệ đá phía

dưới không khắc chạm trừ bệ đá ở văn bia lăng Tự Đức là có cách điệu mới lạ

khác hẳn các văn bia khác. Các văn bia này đều có cùng kiểu chân quỳ ở 4 cột

chân.

So với các loại văn bia khác, văn bia ở các lăng tẩm có những điểm cố định

như: bia luôn được dựng trong nhà bia bề thế, chân bia luôn là một khối đá

vuông được khắc chạm chứ không nằm trên một thân rùa như bia chùa hay bia

tiến sĩ, rồng là họa tiết chủ đạo trên các bia này...

35

Văn bia lăng các vua Nguyễn vẫn mang những đặc điểm của văn bia nói

chung nhưng cũng mang những nét riêng của thời đại, nhất là những văn bia

được xây dựng về sau, kiến trúc mang nhiều nét hiện đại và đặc sắc. Đây chính là

những kho tư liệu quý giá có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu văn hóa cổ truyền

của dân tộc và thời đại.

Hình 1: Bia lăng Gia Long

36

Hình 2: Bia lăng Minh Mạng

Hình 3: Bia lăng Thiệu Trị

37

Hình 4: Bia lăng Tự Đức

38

Hình 5: Nhà bia lăng Đồng Khánh

Hình 6: Nhà bia lăng Khải Định

2.2. Văn bia lăng Gia Long

2.2.1. Nguyên văn chữ Hán

御 製 聖 德 神 功 碑

嘉 隆 十 三 年 之 甲 戌 敕 建 天 授 山 陵 其 右 奉 我 皇 妣 高 皇 后

寶 衣 之藏 左 則 壽 陵 也 異 隧而 同 塋 蓋 取 乾 坤 合 德 之 義 越 十

八 年 己 卯 十 二 月 丁 未 駕 崩 聖 壽 五 十 有 八 遺 詔 臣 嗣 皇 帝 位

臣 諒 陰 翼 室 躬 執 通 喪 襲 之 禮 一 遵 治 命 極 錦 繡 之 美 無 珠 玉

之 飾 至 於 經 紀 大 事 雖 殫 四 海 之 富 而 未 敢 以 為 泰 也 今 年 庚

辰 四 月 辛 丑 山 陵 禮 成 對 松 杉 之鬱 顧 江 山 之 綢 繆 仰 惟 聖 德

39

神 功 顯 揚 開 拓 窮 高 極 厚 參 天 兩 地 而 黃 顓 靡 金 石 之 質 華 勛

嗇 喬 松 之 紀 真 遊 縹 緲 攀 號 莫 逮 惟 有 述 前 休 鋪 景 鑠 詔 來 世

而 垂 無 窮 乎 瀉 罔 極 之 悲 伸 不 匱 之 孝 洪 惟 我 太 祖 皇帝 肇 基

王 列 聖 相 承 垂 二 百 載 墉 而 未 茨 樸 而 未 丹 肆 上 蒼 監 于 有

德 篤 生 我 皇 考 世 祖 高 皇 帝 稟 睿 聰 之 姿 濟 英 雄 之 志 妙 齡 遘

閔 圖 存 於 亡 誓 三 矢 以 攘 讎 奮 一 戎 而定 亂 方 其 翠華 南 狩 皇 路

險 傾 順 逆 雖 殊 寡 眾 非 敵 間 關 百 戰 乍 輸 乍 贏 輾 轉 一 隅 旋 失

旋 得 乃 通 質 浪 沙 樓 光 望 閣 玄 豹 隱 乎 濛 霧 神 龍 蟄 于 瀋 淵 而

執 羈 僕 臣 無 懷 晉 社 睹 儀 父 老 日 望 漢 官 則 又 糾 合 忠 良 旋 師

再 駕 投 膠 均 惠 負 石 先 勞 賦 狐 裘 之 濛 戎 之 三 軍 同 澤 經 麥 飯

之 倉卒 而 百 折 不 挫 蓋 其 仁 足 以 被 物 孝 足 以 感 神 文 足 以 附

眾 武 足 以 威 暴 人 謀 既 藏 天 助 者 順 新 平 江 有浹 旬 之 清 流 芹

滁 海 有 崇 朝 之 甘 水 神 武 徵 應不 一而 足 三 靈 協 眷 六 坎 成 夷

故 能 邁 油 雲 躍 沈 川 駸 駸 乎 有 不 可 禦 之 勢 天 聲所 至 霆 馳

覆 彼 鴟 巢 盡 取 其 彀 殲 不 共 之 讎 虜 補 以 紊 之 窮 圖 既 爽 舊 邦

遂 恢 全 越 功 成 治 寶 振 古 有 光 溯 自 甲 午 迄 壬 戌 歷 年 二 十 有

九北 抵 諒 山 南 極 河 仙 闢 地二 十 有 七逮 夫 潤 色 鴻 業 躬 致 太 平

禮 樂 刑 政 之 施 典 章 法 度 之 備 長 壽 承 歡 因 親 教 愛 坤元 起 化 由

家 及 國 通 西 北 之 聘 而 鄰 邦 之 好 永 固 卹 黎 鄭 之後 而 勝 國 之祀

不 廢 其 用兵 之 久收 效 之 大 守 成 之 盡 善 盡 美 殆 非 簡 冊 所 能

40

殫 述 嗚 呼 盛 哉 我 皇 考之 功 莫 德 表 表 在 人如 日 月 之 不可 掩

臣 小子 奉 纂 其 大 略 勒 為 聖 德 神 功 碑 示 文 子 文 孫 世 世 瞻 仰 咸

知 締 構之不 易 思 負 荷 之 維 艱 於 以 憑 藉 持 循 答 揚 我 皇 考

之 光 訓 而 衍 宗 社 億 萬 年 無 疆 之 業 時 明 命 元 年 七 月 丙 辰

日 也 謹 拜 手 稽 首 而為 之 銘 曰

於 穆 維 天 功 德 兼 隆

敷 佑 下 民 始 終 全 美

於 皇 維 聖 聖 人 違 世

極 溺 享 屯 典 則 尚 貽

紫 色 蛙 聲 羹 墻 在 夢

豈 命 之 軍 鈞 石 興 悲

帝 謂 聖 人 顧 瞻 景 山

用 殄 厥 慍 緬 懷 豐 水

王 師 所 至 敬 勒 崇 鴻

如 雷 如 霆 永 昭 來 裔

罪 人 既 得 饗 之 保 之

大 告 武 成 有 燁 其 光

一 十 八 年 奠 我 皇 越

凝 圖 保 治 與 天 無 疆

孝子嗣皇帝臣 謹識

41

2.2.2. Phiên âm

Ngự chế thánh đức thần công bi ký

Gia Long thập tam niên chi Giáp tuất, sắc kiến Thiên Thụ sơn lăng; kỳ hữu

phụng ngã Hoàng tỷ Cao hoàng hậu, bảo y chi tàng, tả tắc Thụ lăng dã. Dị toại

nhi đồng oanh, cái thủ kiền khôn hợp đức chi nghĩa.Việt thập bát niên Kỉ mão

thập nhị nguyệt Đinh vị giá băng. Thánh thọ ngũ thập hữu bát, di chiếu thần tự

Hoàng đế vị. Thần lượng âm dực thất, cung chấp thông táng, đản tập chi lễ, nhất

tuân trị mệnh, cực cẩm tú chi mĩ, vô châu ngọc chi sức. Chí ư kinh kỷ đại sự, tuy

đàn tứ hải chi phú, nhi vị cảm dĩ vi thái dã.Kim niên Canh thìn tứ nguyệt Tân sửu,

sơn lăng lễ thành; đối tùng sâm chi uất thông, cố giang sơn chi trù mậu, ngưỡng

duy thánh đức thần công hiển dương khai thác, cùng cao cực hậu, tham thiên

lưỡng địa. Nhi Hoàng Chuyên mỹ kim thạch chi chất, hoa huân sắc kiều tùng chi

kỷ; chân du phiếu miểu, phàn hào mạc đãi. Duy hữu thuật tiền hưu, phô cảnh

thước, chiếu lai thế nhi thùy vô cùng, thứ hồ tả võng cực chi bi, thân bất quỹ chi

hiếu.Hồng duy ngã Thái Tổ Hoàng đế triệu cơ vương tích. Liệt thánh tương thừa,

thùy nhi bách tải, đường nhi vị tỳ phác nhi vị đan. Tứ thượng thương giám vu

hữu đức, đốc sinh ngã Hoàng khảo Thế Tổ Cao hoàng đế, bẩm duệ thông chi tư,

tế anh hùng chi chí. Diệu linh cấu mẫn, đồ tồn ư vong. Thệ tam thỉ dĩ nhương

thù, phấn nhất nhung nhi định loạn. Phương kỳ thúy hoa nam thú, hoàng lộ hiểm

khuynh; thuận nghịch tuy thù, quả chúng phi địch. Gian quan bách chiến, sạ thâu

sạ doanh, triển chuyển nhất ngung. Tuyền thất tuyền đắc. Nãi thông chất Lãng

Sa, thê quang Vọng Các. Huyền báo ẩn hồ mông vu, thần long trập vu phiên

uyên. Nhi chấp ki bộc thần, vô hoài tấn xã; đổ nghi phụ lão, nhật vọng Hán quan.

Tắc hựu củ hợp trung lương, tuyền sư tái giá, đầu giao quân huệ , phụ thạch tiên

lao. Phú hồ cầu chi mông thú, nhi tam quân đồng trạch, kinh mạch phạn chi

thương tốt. Nhi bách chiết bất tỏa. Cái kì nhân túc dĩ bị vật, hiếu túc dĩ cảm thần,

văn túc dĩ phụ chúng, vũ túc dĩ uy bạo. Nhân mưu ký tàng, thiên trợ giả

thuận.Tân Bình giang hữu tiếp tuần chi thanh lưu; Cần Giờ hải hữu sùng triêu chi

cam thủy. Thần vũ trưng ứng bất nhất nhi túc, tam linh hiệp quyến lục khảm

thành di ; cố năng mại du vân, dược trầm xuyên, xâm hồ hữu bất khả ngự chi

thế. Thiên thanh sở chí, đình trạc tiên trì. Phúc bỉ si sào, tận thủ kỳ cấu. Tiêm bất

42

cộng chi thù lỗ, bổ dĩ vặn chi cùng đồ. Ký sảng cựu bang, toại khôi toàn việt.

Công thành trị bửu, chấn cổ hữu quang. Tố tự Giáp ngọ hất Nhâm tuất, lịch niên

nhị thập hữu cửu; bắc để Lạng Sơn, nam cực Hà Tiên, tịch địa nhị thập hữu thất.

Đãi phù nhuận sắc hồng nghiệp, cung trí thái bình; lễ nhạc hình chính chi thi,

điển chương pháp độ chi bị. Trường Thọ thừa hoan, nhân thân giáo ái; khôn

nguyên khởi hóa, do gia cập quốc. Thông Tây, Bắc chi sính, nhi lân bang chi hảo

vĩnh cố tuất Lê Trịnh chi hậu, nhi thắng quốc chi tự bất phế. Kỳ dụng binh chi

cửu, thu hiệu chi đại, thủ thành chi tận thiện tận mỹ, đãi phi giản sách sở năng

đàn thuật.Ô hô! thịnh tai! ngã Hoàng khảo chi công mạc đức biểu biểu tại nhân

như nhật nguyệt chi bất khả yểm. Thần, tiểu tử, phụng toản kỳ đại lược, lặc vi

thánh đức thần công bi, thị văn tử văn tôn thế thế chiêm ngưỡng; hàm tri đề cấu

chi bất dịch, tư phụ hạ chi duy gian. Ư dĩ bằng tạ trì tuần, thứ đáp dương ngã

Hoàng khảo chi quang huấn, nhi diên tông xã ức vạn niên vô cương chi nghiệp.

Thời Minh Mệnh nguyên niên thất nguyệt Bính thìn nhật dã, cẩn bái thủ khể thủ

nhi vi chi minh viết:

Công đức kiêm long Ô mục duy thiên

Phu hựu hạ dân Thủy chung toàn mỹ

Ô hoàng duy thánh Thánh nhân vi thế

Chửng nịch hanh đồn Điển tắc thượng di

Tử sắc oa thanh Canh tường tại mộng

Khởi mệnh chi vận Điếu thạch hưng bi

Đế vị thánh nhân Cố chiêm cảnh sơn

Dụng điển quyết uấn Diên hoài phong thủy

Vương sư sở chí Kính lặc sùng hồng

Như lôi như đình Vĩnh chiêu lai duệ

Tội nhân ký đắc Hưởng chi bảo chi

Đại cáo vũ thành Hữu diệp kỳ quang

Nhất thập bát niên Điện ngã hoàng việt

Ngưng đồ bảo trị Dữ thiên vô cương

Hiếu tử tự Hoàng đế, thần Hạo cẩn chí

2.2.3. Dịch nghĩa

43

Ngự chế (1) bài văn bia ghi đức thánh công thần (2)*

Năm thứ 13 niên hiệu Gia Long, năm Giáp tuất (3) có sắc ban cho xây

dựng sơn lăng (4) Thiên Thụ, bên phía hữu cất di hài (5) Hoàng tỷ Cao hoàng

hậu (6), bên phía tả để Thọ lăng (7). Hai mộ dù khác nhau nhưng cùng chung

một lăng vì lấy nghĩa càn khôn hợp đức (8).

Qua ngày đinh vị tháng 12 năm thứ mười tám (9), năm Kỉ mão, Hoàng

khảo (10) thăng hà (11), hưởng thọ năm mươi tám tuổi, để di chiếu (12) cho thần

lên nối ngôi hoàng đế. Thần (13) ẩn náu trong nhà dực thất (14), chịu tang chế,

mặc tang phục. Về tang lễ, theo đúng lời dạy bảo của Hoàng khảo, dùng những

gấm thêu rất tốt đẹp nhưng không trang sức châu ngọc. Để xếp đặt việc lớn ấy,

dù thần phải dùng hết của cải trong bốn bể (15) cũng chưa dám cho là quá đáng

vậy.

Ngày Tân sửu tháng 4 năm Canh thìn (16), xong lễ sơn lăng (17). Thần

nhìn thấy những cây thông, cây tùng rậm rạp, đoái trông sông núi quây quần lại

tưởng nhớ đến đức thánh công thần của Hoàng khảo, từng làm vẻ vang tổ tiên,

mở mang bờ cõi, công nghiệp cao dày đã cùng cực, thật đáng sánh cùng Trời

Đất. Nhưng giống với vua Hoàng (18), vua Chuyên (19), không bền bỉ như chất

vàng đá; với vua Hoa (20), vua Huân (21) không sống lâu như cây kiều tùng

(22); Hoàng khảo đã xa chơi tiên cảnh khiến thần kêu khóc, níu lấy nhưng không

thể kịp. Vậy chỉ còn cách là thần kể lại những việc thiện mỹ, bày tỏ những công

nghiệp vĩ đại của Hoàng khảo, để chỉ bảo người đời sau nhớ đến muôn thuở, ngõ

hầu làm giảm bớt lòng bi thương vô cùng và bày tỏ đạo hiếu thảo vô tận của

thần.

Nay nhớ đến Thái tổ Hoàng đế ta (23) nền móng công nghiệp, các liệt

thánh kế tiếp nối nghiệp được hai trăm năm, chẳng khác gì cái nhà mới xây

tường mà chưa lợp mái, gỗ mới đẽo mà chưa quét sơn. Vậy nên trời xanh xét đến

người có đức, sinh ra Hoàng khảo ta. Thế Tổ Cao hoàng đế (24), bẩm thụ tư chất

thông minh, chí khí anh hùng. Từ hồi tuổi trẻ Hoàng khảo đã gặp nhiều điều lo

* Theo bản dịch của L.Cadiere trên tạp chí BAVH tập X năm 1923, trang 398-404.

lắng, mưu sự sống còn trong cảnh nguy vong. Dùng ba mũi tên thề diệt quân thù;

44

dấy một đạo binh quyết dẹp loạn nước. Trong khi cờ thúy hoa (25) nam tiến, cơ

đồ gặp nhiều lúc ngửa nghiêng. Dù thuận mệnh trời khác hẳn kẻ nghịch nhưng

quân ít không địch nổi giặc dòng. Lao đao trăm trận, chợt thắng chợt bại, xoay

xở một phương, vụt được vụt mất. Liền gửi đứa con tin đến nước Lãng Sa (26),

sau qua tạm trú ở thành Vọng Các (27); khác gì bão đen ẩn trong mưa mù, rồng

thần ẩn nấp dưới vực thẳm. Cầm cương ngựa, bầy tôi thường nhớ đến xã tắc Tần

triều (28); trông nghi vệ (29) phụ lão ngày mong thấy quan quân Hán thất (30);

lại tập hợp trung lương (31) dẫn quân về nước.

Đổ rượu xuống sông (32), quân sĩ đều hưởng phần ơn huệ; đội đá vá trời

(33), Hoàng khảo từng gặp cảnh gian lao. Làm bài thơ áo cừu rách nát (34), ba

quân cùng y phục tả tơi, nuốt cơm ngô nhiều lúc vội vàng, trăm lần bại không hề

nao núng.

Chính vì đức nhân đủ thấm vạn vật, đức hiếu đủ cảm thông thần thánh, tài

văn đủ cho dân chúng quy phục, tài võ đủ khiến hung đồ sợ hãi. Mưu người tính

đã hay, lòng trời giúp càng thuận: sông Tân Bình nước trong suốt cả tuần (35),

bể Cần Giờ buổi sáng dâng nước ngọt (36). Tài thần vũ không những chỉ có

riêng điềm hay mà tam linh (37) lại giúp sức để san bằng những hố sâu vực

thẳm. Vậy nên [rồng] vượt mây mù, [cá] qua sông cả, [ngựa] xăm xăm tiến tới,

thế mạnh nào ai dám đương. Tiếng vang đến đâu, sét ran gió cuốn, phá tan tổ cú,

bắt hết chim con. Diệt kẻ thù chẳng đội trời chung, cứu nước nhà thoát cơn bối

rối, đem lại vinh quang cho nước cũ, khôi phục toàn cõi Việt Nam. Thành công

rồi dựng nền bình trị, gương ngàn xưa rạng vẻ sáng ngời. Kể từ năm Giáp Ngọ

đến năm Nhâm Tuất trải việc binh trong 29 năm (38). Bắc từ Lạng Sơn, nam đến

Hà Tiên, mở đất rộng gồm 27 hạt. Kịp tới khi dựng nên sự nghiệp đế vương, đem

lại cảnh thái bình, đặt ra lễ nhạc hình chính, có đủ điển chương pháp độ (39).

Cung Trường Thọ (40) thuận theo ý mẹ, đem đạo hiếu dạy bảo thần dân; cung

Khôn nguyên (41) giáo hóa vợ con, từ việc nhà suy ra việc nước. Giao hiếu với

phương Tây, phương Bắc khiến tình thân thiện được bền vững giữa các lân bang

(42). Thương xót con cháu họ Lê họ Trịnh, để việc phụng thờ của hai dòng họ kia

không bỏ mất. Nói đến những việc dùng binh khá lâu dài, thu được hiệu quả rất

to lớn, thành công rất tốt đẹp, thật không sách nào có thể ghi chép cho hết được.

45

Than ôi! Công đức cao dày của Hoàng khảo ta, rõ rệt trong nhân quần như

mặt trăng, mặt trời, không ai có thể che lấp được.

Thần, tiểu tử (43), biên tập đại lược những công đức ấy, khắc thành bia đức

thánh công thần, khiến con cháu đời này qua đời khác được chiêm ngưỡng, hết

thảy biết việc xây dựng cơ nghiệp không phải dễ dàng, nghĩ đến việc gánh vác

trách nhiệm rất khó nhọc, sẽ nhờ cậy cùng tuân theo đó, mở mang di nghiệp

không bờ bến trong ức muôn năm của tông miếu xã tắc, để đáp lại lời dạy bảo

của Hoàng khảo ta.

Làm văn bia ngày Bính thìn tháng 7 năm đầu niên hiệu Minh Mệnh (44),

thần kính lạy, rập đầu, làm bài minh rằng:

Ôi!chỉ có trời cao vòi vọi,

Giúp dân lành khắp cõi trần gian.

Công lớn thay! đức Thánh Hoàng

Cứu người đắm đuối, phá tan hiểm nghèo.

Tía thắng đỏ, ếch kêu inh ỏi.(45)

Khác gì quân quấy rối gặp thời,

Thánh nhân vâng chịu mệnh trời,

Diệt trừ hung bạo, mới nguôi căm thù.

Vương sư (46) đến như cơn sấm sét,

Trên dưới đều lẫm liệt oai phong.

Tội nhân nay đã dẹp xong,

Gần xa nức tiếng vũ công đại thành (47)

Mười tám năm trị bình toàn quốc,

Định dư đồ giữ nước yên dân,

Sáng ngời công đức thánh nhân,

Trước sau tốt đẹp muôn phần vẹn thay.

Ôi! Hoàng khảo sau ngày vi thế (48),

Phép tắc còn lưu để làm gương,

Giống vua Ngu Thuấn nhớ thương,

Thấy vua Nghiêu ở bên tường trong canh (49)

46

Tôi trông thấy những hình quân thạch (50)

Lòng càng thêm kích thích đau thương

Cảnh sơn (51) nêu đức vua Thang,

Đông phong quyến luyến Văn vương lâu dài (52).

Nay kính cẩn khắc bài bi kí,

Ghi công lao cao quý thánh nhân,

Sáng soi con cháu xa gần,

Phụng thờ tiên tổ nhớ ân cao dày.

Gần xã tắc ngày ngày tươi sáng,

Khiến nhân dân thịnh vượng bình yên,

Việt Nam muôn thuở vững bền,

Khác gì trời đất miên diên (53) không cùng

Hoàng tử nối ngôi hoàng đế, thần Hạo (54) kính cẩn chép.

CHÚ THÍCH:

(1) Ngự chế: do vua làm ra

(2) Làm xong bài văn bia ngày Bính thìn tháng 7 năm đầu niên hiệu Minh

Mạng (10-8-1820) nhưng đến ngày Ất tỵ tháng 8 năm ấy(18-9-1820) mới dựng

bia tại lăng vua Gia Long ở làng Đình Môn, quận Bảng Lảng, tỉnh Thừa Thiên.

(3) Tức năm 1811.

(4) Phần mộ của vua chúa.

(5) Di hài: hài cốt người chết.

(6) Hoàng tỷ: mẹ vua đã chết.

Cao hoàng hậu: tức Thừa Thiên Cao hoàng hậu, người làng Bùi Xá, huyện

Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, theo cha là quan Tả chưởng dinh Tống Phúc Khuông

vào ở đất Gia Định. Năm Mậu tuất 1778, chúa Nguyễn Ánh nạp làm nguyên phi.

Tháng 3 năm Canh tý 1780, bà sinh Hoàng tử Cảnh. Thừa Thiên Cao hoàng hậu

là vợ thứ nhất của vua Gia Long, đích mẫu của vua Minh Mạng. Thuận Thiên

Cao hoàng hậu là vợ thứ hai của vua Gia Long và là thân mẫu của vua Minh

Mạng, về sau cũng được hợp táng tại lăng Thiên Thụ.

(7) Thọ lăng: sinh phần của vua Gia Long.

47

(8) Càn khôn hợp đức: càn và khôn là hai quẻ trong kinh dịch biểu hiện cho

trời-đất, vợ -chồng, nam -nữ...Đây chỉ mộ song táng.

(9) Ngày 3-2-1820

(10) Hoàng khảo: vua cha đã chết

(11) Thăng hà: vua chết

(12) Di chiếu: tờ chiếu của vua đã chết.

(13) Thần: tiếng tự xưng của vua Minh Mạng đối với vua Gia Long.

(14) Dực thất: nhà làm ở bên trái hoàng cung để vua ở trong khi có tang

cha mẹ.

(15) Tứ hải: nghĩa bóng là khắp nước.

(16) Tức ngày 27-5-1820

(17) Xong lễ an táng vua Gia Long tại sơn lăng Thiên Thụ.

(18) Hoàng: hoàng đế họ Hiên Viên đã làm vua nước Trung Hoa trong 100

năm (2697-2596 trước tây lịch kỉ nguyên).

(19) Chuyên: Chuyên Húc, cháu vua Hoàng đế, làm vua nước Trung Hoa

trong 78 năm (2513 trước tây lịch kỉ nguyên).

(20) Hoa: Trùng Hoa, tên vua Ngu Thuấn đã làm vua Trung Hoa trong 18

năm (2255 trước tây lịch kỉ nguyên) do vua Nghiêu truyền ngôi cho.

(21) Huân: Phóng Huân, tên vua Đường Nghiêu làm vua Trung Hoa trong

100 năm (2356 trước tây lịch kỉ nguyên).

(22) Kiều tùng :cây tùng cao lớn sống rất lâu.Trong sách “sự loại phú” do

ông Ngô Thục đời Tống soạn gồm 30 quyển, mỗi bài phú có một đề riêng như

trời, đất, cây cỏ, muông thú...Trong đó có câu: mỹ bỉ kiều tùng, mạo tư sương

tuyết 美 彼 喬 松 冒 玆 雪 霜 cây tùng tốt đẹp kia, dãi dầu sương tuyết ấy.

(23) Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng tức chúa Tiên (1525-1613) về sau

vua Gia Long truy tôn miếu hiệu: Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế.

(24) Thế Tổ Cao hoàng đế: miếu hiệu của vua Gia Long (1802-1820)

(25) Thúy hoa: cờ vua có cắm lông chim trả màu xanh

(26) Năm 1784, Nguyễn Phúc Ánh ủy giám mục Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau

de Béhaine) (1741-1799) đem hoàng tử Cảnh qua Pháp xin cầu viện.

(27) Năm 1785, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm ở Mỹ

48

Tho. Chúa Nguyễn Phúc Ánh sang tạm trú ở thành Vọng Các (Băng Cốc).

(28) Trong đời nhà Tấn, nước Trung Hoa thường bị nội loạn, ngoại xâm.

Năm 312, vua Tấn Hoài Đế (307-312) bị giặc Hung Nô bắt, những trung thần

như Lưu Côn, Tổ Dịch thường nhớ đến xã tắc nhà Tấn, quyết tâm phục quốc.

(29) Nghi vệ: những đồ nghi trượng và vệ binh của các vua quan.

(30) Vua Hán Quang Vũ (25-57) tức Lưu Tú khi còn làm nguyên soái đem

quân đánh giặc Vương Mãng, được nhân dân tín phục. Những người phụ lão

ngày đêm mong được thấy nghi vệ của vua quan nhà Hán.

(31) Trung lương: những người trung thành và lương thiện.

(32) Trong sách Văn tuyển, Hoàng Thạch Công chép rằng: “Lưu Hoằng

đời nhà Tấn đổ rượu xuống sông để quân sĩ múc nước sông cùng uống. Ôi! Đổ

rượu xuống sông chẳng có mùi gì nhưng quân sĩ cảm động vì đều được hưởng

phần ơn huệ nên đã liều chết đánh giặc”.

(33) Sách Từ nguyên chép rằng: bà Nữ Oa (em gái vua Phục Hy, năm

4480 trước tây lịch kỉ nguyên) luyện đá năm sắc để vá trời. Về sau, người nào

làm những công việc rất to lớn, khó khăn như vãn hồi thế cuộc đều ví như

muốn luyện đá (hoặc đội đá) để vá trời.

(34) Bài thơ Thức vi 式 微 (suy lắm), phong dao nước Bội trong Kinh thi,

quyển 1 có những câu như:

Hồ cừu mông nhung 狐 裘 蒙 戎

Phỉ xa bất đông 匪 車 不 東

Thúc hề!bá hề 叔 兮 伯 兮

Mỹ sở dữ đồng 靡 所 與 同

Nghĩa là: Áo cừu đã rách tả tơi,

Nhưng xe không thể không dời về đông

Chú bác dù chẳng một lòng,

Ta về cứu nước cũng không ngại gì.

Nguyên quan đại phu nước Lê (đời nhà Chu) là Hồ Thương, gặp khi nước

có loạn phải chạy ra nước ngoài, lâu ngày áo cừu đã rách nát. Khi cưỡi xe trở về

49

đông để cứu nước, chú bác trong nhà vẫn chưa đồng tâm nên làm bài thơ trên cho

quân sĩ hát.

(35) Đại nam thực lục quyển 1, trang 35 chép: bát nguyệt Kỷ dậu, khắc

phục Gia Định...Ngưu Chử hà thanh tam nhật (tháng 8 năm Kỷ dậu 1789, chúa

Nguyễn Phúc Ánh khôi phục thành Gia Định...nước sông Bến Nghé trong ba

ngày).

(36) Đại nam thực lục quyển 1 trang 18 chép: ngự chu trương phàm vọng

đông nhi khứ...vọng kiến thủy diện hắc bạch phân lưu, thanh thủy dũng xuất; chu

trung nhất nhân thường nhi cam yên. Đế hỷ, lệnh cấp tứ ngũ đàm nhi hãi hàm

như cố dĩ. (Năm Quý mão 1783, thuyền ngự của chúa Nguyễn Phúc Ánh giương

buồm đi về hướng đông, thấy mặt nước chảy chia ra hai dòng trắng đen, dòng

nước trong vọt lên. Trong thuyền có người nếm thấy nước ngọt. Vua mừng, sai

múc 4,5 chum. Nước bể lại mặn như cũ.)

(37) Tam linh: là trời, đất và người.

(38) Năm Giáp ngọ (1774), tướng nhà Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đánh lấy

thành Phú Xuân, chúa Nguyễn Định Vương cùng cháu là Nguyễn Phúc Ánh chạy

vào Gia Định mưu đồ khôi phục.

(39) Năm Nhâm tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh trở về kinh đô Phú Xuân,

đem vua tôi nhà Tây Sơn làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi đem xử tử tại

pháp trường. Cũng trong năm ấy, Ngài đặt niên hiệu là Gia Long và quốc hiệu là

Việt Nam.

(40) Điển chương pháp độ: phép tắc, hiến chương, pháp luật và chế độ.

(41) Cung Trường Thọ: nhà ở của bà Quốc mẫu Vương thái phi (mẹ của vua Gia

Long)

(42) Cung Khôn Nguyên: nhà ở của vợ vua Gia Long.

(43) Tiểu tử: con nhỏ, tiếng khiêm tốn của vua Minh Mạng dùng để tự

xưng đối với vua Gia Long.

(44) Ngày 10-8-1820.

(45) Tử sắc oa thanh: sắc tía cướp sắc đỏ, tiếng loài ếch nhái ồn ào át các tiếng

khác; cũng như trong đời loạn, quân tà ngụy thắng người trung chính.

(46) Vương sư: quân của vua Chu Vũ Vương đi đánh vua Trụ tàn bạo, gọi

50

là vương sư. Về sau, người ta gọi đội quân của nhà vua là vương sư.

(47) Vũ công đại thành: việc dùng vũ lực đã thành công lớn.

(48) Vi thế: lìa cõi đời.

(49) Bên tường trong canh: vua Thuấn được vua Nghiêu truyền ngôi cho.

Sau khi vua Nghiêu mất, vua Thuấn rất thương nhớ, khi ngồi tưởng tượng thấy

vua Nghiêu ở bên bức tường, khi ăn thấy bóng vua Nghiêu ở trong bát canh.

(50) Quân thạch: những đồ dùng làm đơn vị đo lường, 30 cân là một quân,

4 quân là một thạch. Quân thạch là những đồ khuôn mẫu để lập đức tin trong dân

chúng.

(51) Cảnh sơn: ngọn núi cao ở phía đông nam huyện Văn Lũy, tỉnh Sơn Tây

(Trung Hoa), còn gọi là Thang Vương sơn, trên có miếu thờ vua Thang là vị thánh

quân, thủy tổ nhà Thương (1766-1122 trước tây lịch kỉ nguyên).

(52) Phong thủy: con sông chảy qua kinh đô cũ (Phong đô) của vua Văn

Vương.

(53) Miên diên: lâu dài không dứt

(54) Hạo: tên húy vua Minh Mạng, tên tục từ nhỏ là Đảm, miếu hiệu là

Thánh Tổ Nhân Hoàng đế.

2.3. Văn bia lăng Minh Mạng

2.3.1. Nguyên văn chữ Hán

御 製 聖 德 神 功 碑 記

皇 天 眷 祐 我 大 南 篤 生 神 聖 引 引 翼 翼 於 億 千 萬 世 肇

祖 靖 皇 帝 清 省 發 祥 太 祖 嘉 裕 皇 帝 肇 基 南 服 八 宗 相

傳 誕 受 既 固 暨 我 皇 祖 世 祖 高 皇 帝 承 國 步 之 中 微 應 天

心 之 大 啟 寰 瀛 仰 德 雨 夏 戴 功 夫 當 黎 袟 告 終 偽 西 僣 竊

之 際 乾 綱 既 解 坤 維 告 缺 川 瀆 橫 氾 無 所 歸 會 我 皇 祖

挾 日 月 而 掃 欃 槍 握 靈 符 而 登 寶 袟 肇 修 人 紀 整 齊 二 儀

天 地 以 位 萬 物 以 育 然 自 非 仁 聖 世 出 綏 永 命 于 重 新 振

51

宏 綱 于 再 造 其 何 以 光 前 烈 而 遺 後 嗣 者 哉 我 皇 考 聖 祖

體 天 昌 運 至 孝 純 德 文 武 明 斷 創 述 大 成 厚 澤 豊 功 仁 皇

帝 皇 祖 世 祖 高 皇 帝 之 第 四 子 也 聖 祖 母 仁 宣 慈 慶 太 皇

太 后 以 辛 亥 年 四 月 二 十 三 日 已 酉 時 誕 生 於 嘉 定 之 新

祿 是 時 皇 祖 始 返 旆 于 南 十 有 二 年 進 克 富 春 席 卷 龍 編

遂 復 舊 物 奄 有 天 下 我 皇 考 晨 夕 左 右 踐 履 山 川 歷 艱 難

於 戡 撥 體 憂 勤 於 守 成 凡 事 會 之 卒 應 庶 政 之 圖 回 物 隱

民 情 靡 不 暸 然 洞 悉 諸 艱 歷 識 簡 在 帝 心 一 中 授 受 克 享

天 祿 其 於 社 稷 至 計 久 已 默 有 注 定 矣 嘉 隆 十 五 年 冊 立

為 皇 太 子 時 嘉 定 河 清 上 下 數 百 餘 里 十 八 年 遵 奉 遺 詔

嗣 承 大 統 聖 人 出 治 早 應 嘉 徵 皇 考 以 三 十 陟 帝 位 躬 上

聖 之 姿 撫 盈 成 之 業 聰 明 睿 智 赫 然 有 為 運 量 一 心 彌 綸

萬 化 宅 位 六 載 嘉 定 河 復 清 又 安 獻 瑞 穀 一 稃 二 米 越 九

年 廣 治 得 萬 壽 無 疆 玉 璽 徵 應 不 一 而 足 迺 聖 懷 撝 挹 不

以 符 瑞 自 侈 親 諭 中 外 臣 民 有 曰 朕 宵 衣 旰 食 廑 求 上 理

若 使 百 執 盡 皆 賢 良 人 民 咸 樂 案 堵 河 流 順 軌 年 穀 屢 豐

則 何 瑞 如 之 基 命 宥 密 蓋 如 此 在 御 二 十 一 年 之 間 敬 天

法 祖 勤 政 愛 民 常 如 一 日 若 其 制 治 保 邦 立 經 陳 紀 規 模

廣 大 品 節 周 詳 事 事 皆 有 成 法 祀 天 地 于 南 郊 而 昭 事 之

禮 明 奉 二 祖 以 配 天 而 美 報 之 義 著 籩 豆 筐 篚 袞 晚 龍

52

旂 大 略 玉 戚 朱 干 飾 以 羽 旄 從 以 簫 管 會 虞 夏 商 周 之 典

具 咸 英 韶 護 之 音 禮 備 樂 和 於 斯 為 盛 肇 建 世 廟 以 明 正

統 始 鑄 九 鼎 以 象 成 功 開 吏 修 寶 錄 求 遺 事 補 闕 文 而 大

聖 人 之 道 德 風 烈 之 盛 昭 揭 日 星 長 垂 世 法 天 性 至 孝 歡

奉 慈 寧 出 則 前 導 安 入 則 跪 進 甘 旨 養 以 天 下 備 極 情 文

崇 上 徽 稱 優 隆 禮 數 聖 壽 六 旬 七 旬 大 慶 節 舉 行 盛 典 合

中 外 億 兆 之 歡 心 以 供 孝 奉 天 家 樂 事 自 古 罕 聞 一 孝 之

推 本 於 親 親 而 達 乎 普 率 帝 系 藩 系 以 正 本 支 玉 譜 宗 譜

以 明 世 次 宗 人 府 以 治 政 集 善 堂 以 崇 教 定 文 武 職 制 辨

冠 服 章 采 正 朝 廷 也 作 官 箴 敬 于 有 位 嚴 黨 禁 諭 于 庶

司 正 百 官 也 旌 孝 順 表 節 義 禮 高 年 舉 力 田 又 親 製 訓 條

頒 行 州 里 使 之 家 傳 而 戶 誦 習 熟 禮 義 其 有 關 於 風 俗 教

化 夫 豈 小 哉 內 則 錯 之 以 六 部 綜 之 以 內 閣 機 密 院 以 慎

司 樞 要 都 察 院 以 糾 正 官 方 而 諭 定 內 閣 只 設 三 品 官 機

密 特 簡 派 大 臣 兼 領 都 察 不 得 接 外 官 移 文 所 以 防 微 杜

漸 為 後 世 慮 既 深 且 遠 矣 外 則 省 營 鎮 二 城 而 設 為 三

十 二 直 省 布 按 董 其 事 督 撫 會 其 成 有 監 臨 之 權 無 專 重

之 勢 而 又 三 年 以 計 吏 五 以 民 田 制 有 一 定 之 則 兵 政

有 通 行 之 道 城 郭 關 汍 之 有 其 度 屯 堡 戌 守 之 有 其 規 輕

重 相 制 大 小 相 維 曲 折 精 微 至 纖 至 悉 其 崇 文 也 斧 藻

53

琢 磨 風 會 日 振 典 藉 欽 定 以 明 正 學 詩 書 頒 布 以 惠 士 林

府 縣 莫 不 有 學 鄉 會 間 以 歲 貢 正 字 畫 而 苟 且 之 風 變 釐

文 式 而 固 陋 之 習 除 文 治 昭 回 燦 然 奎 璧 恭 讀 御 製 詩 六

集 御 製 文 二 集 鏗 乎 典 謨 訓 誥 之 音 煥 乎 雅 頌 治 平 之

文 教 大 興 士 風 否 振 天 下 學 者 知 有 圖 藉 典 墳 之 富 文 章

性 命 之 淵 皆 自 上 有 以 鼓 舞 作 成 之 也 其 講 武 也 躬 親 觭

射 講 以 辰 時 撫 循 士 卒 訓 練 有 素 一 凡 營 法 陣 法 以 至

步 戰 水 戰 日 常 操 演 咸 精 其 能 曩 者 黎 孽 首 禍 於 寧 清 黎

逆 卒 變 於 藩 安 高 宣 地 方 土 匪 蠢 勤 安 河 一 帶 暹 寇 來

擾 於 是 命 將 出 師 指 授 方 略 神 謨 睿 算 出 人 意 表 皇 靈 震

薄 天 討 遞 加 左 顧 右 海 沸 山 搖 靡 堅 不 摧 靡 險 不 破 凶

渠 授 首 大 勳 用 集 開 土 拓 遠 極 北 窮 南 幅 員 之 廣 從 古 莫

及 威 令 暢 乎 海 表 聲 靈 振 乎 絕 域 蓋 平 日 有 禮 法 以 治 軍

有 明 斷 以 制 勝 所 以 成 功 速 而 收 效 大 也 若 夫 待 遇 臣 下

曲 加 恩 禮 器 使 群 才 各 得 其 用 有 善 無 微 而 不 錄 有 功

雖 遠 而 弗 遺 抱 滕 榮 施 視 臣 猶 子 分 茅 厚 錫 與 國 同 庥 且

又 光 顯 其 父 母 蔭 錄 其 子 孫 策 勳 邦 國 者 從 祀 於 廟 庭 立

功 疆 場 者 建 碑 於 武 廟 其 仁 義 忠 厚 之 風 超 越 前 古 而 於

惠 養 斯 民 一 事 尤 加 意 焉 耕 藉 養 蠶 以 重 農 桑 之 本 蠲 租

減 稅 以 厚 烝 民 之 生 居 常 則 較 雨 課 晴 行 幸 則 省 風 訓

54

俗 一 有 水 旱 疾 疫 即 發 粟 米 湯 藥 錢 布 以 賑 卹 之 曾 不

靳 費 嘗 於 宮 中 密 禱 為 萬 民 請 命 立 見 轉 災 為 祥 乃 知

愛 民 之 誠 信 天 有 素 也 故 天 下 之 民 老 有 所 養 貧 有 所 濟

自 無 一 人 不 被 其 澤 凡 諸 死 罪 錄 案 奏 聞 親 手 披 覽 又 付

諸 公 議 五 覆 奏 留 獄 歲 斷 定 讞 於 法 司 詳 覆 於 廷 審 比 來

死 囚 寬 減 甚 眾 惠 心 美 政 弘 益 無 方 培 生 靈 之 命 壽 國

家 之 元 氣 久 道 化 成 和 風 翔 洽 美 利 龐 鴻 萬 祥 悉 至 河

安 海 靜 時 和 年 豐 獄 訟 止 息 竊 盜 不 作 渾 渾 噩 噩 誠 已 臻

于 極 治 矣 猗 歟 盛 哉 蓋 其 兼 文 武 聖 神 之 廣 運 大 皇 王 帝

伯 之 鋪 舒 體 具 用 周 開 物 成 務 誠 足 以 通 萬 化 而 至 德 無

疑 行 勤 足 以 敕 萬 幾 而 天 下 無 留 事 億 千 萬 世 而 下 景

仰 剿 平 全 集 備 述 憂 勤 政 要 一 書 垂 示 典 則 足 見 功 與 天

齊 德 與 地 並 聖 人 盛 德 大 業 至 矣 美 矣 而 其 前 代 帝 王 尤

不 可 及 者 大 綱 至 正 家 法 甚 善 宮 侍 九 階 肅 如 朝 廷 無 貴

戚 之 專 無 近 習 之 寵 子 女 凡 百 四 十 二 人 至 德 氤 氳 螽

麟 萃 慶 近 符 皇 祖 遠 過 周 文 而 皆 晨 夕 教 訓 納 以 義 方 凜

遵 軌 度 君 君 臣 臣 父 父 子 子 夫 夫 婦 婦 兄 兄 弟 弟 有 以 奠

我 子 孫 黎 民 於 萬 萬 世 太 和 之 風 天 生 聖 人 以 為 斯 民 正

方 歌 頌 洪 庥 以 長 蒙 至 治 之 澤 明 命 二 十 一 年 四 月 正 值

皇 考 五 旬 大 慶 節 中 外 臣 庶 臚 歡 闕 下 小 子 侍 駕 歷 登 祝

55

假 諸 樓 深 喜 聖 懷 康 豫 壽 算 增 隆 是 年 十 二 月 十 九 日 猶

奉 親 謁 奉 先 殿 忌 時 禮 成 悲 述 數 日 間 違 和 詎 意 乃 以

是 月 二 十 八 日 乙 亥 時 奄 棄 天 下 嗚 呼 痛 哉 遺 命 小 子 嗣

皇 帝 位 嗣 統 以 來 恆 惟 艱 大 是 懼 哀 煢 在 疚 凡 事 必 敬 必

誠 爰 欽 遵 成 命 奉 營 吉 藏 于 安 憑 社 之 孝 山 以 紹 治 元 年

秋 七 月 初 九 日 戊 戌 時 奉 安 梓 宮 用 隧 禮 古 制 也 奉 尊 上

陵 號 曰 孝 陵 追 配 皇 妣 佐 天 儷 聖 端 正 恭 和 篤 慶 慈 徽 明

賢 順 德 仁 皇 后 玄 宅 曰 孝 東 陵 奉 聖 位 合 祀 于 崇 恩 殿 示

同 尊 也 嗚 呼 大 聖 人 之 功 之 德 非 小 子 所 能 殫 述 其 萬 一

顧 念 付 託 之 重 思 創 守 之 艱 謹 奉 表 其 至 德 大 行 勒 諸 貞

以 垂 示 來 世 云 時 紹 治 元 治 元 年 十 二 月 甲 午 日 也 謹 拜

手 稽 首 敘 而 銘 曰

赫 赫 大 南 於 穆 皇 考

皇 皇 天 祐 授 命 維 新

祖 肇 宗 培 以 聖 繼 聖

克 開 厥 後 成 憲 克 遵

世 祖 中 興 河 清 璽 出

奄 有 九 有 瑞 應 駢 臻

創 守 兩 兼 一 心 勤 敬

功 厚 德 茂 萬 化 彌 綸

56

袞 晚 儀 章 賢 不 遺 親

陶 匏 珪 幣 恩 義 周 浹

盡 志 盡 物 治 教 所 先

昭 事 上 帝 永 為 世 法

斟 酌 適 中 廣 開 言 路

式 崇 廟 制 澄 敘 官 方

寶 錄 纂 修 以 箴 以 規

昭 垂 奕 世 率 由 典 常

怡 愉 舜 慕 農 桑 正 本

歡 奉 慈 寧 風 俗 國 綱

霞 觴 計 節 皇 有 訓 彝

龍 袞 趨 庭 庶 民 近 光

合 萬 方 樂 授 職 設 官

媚 祝 遷 齡 分 疆 畫 省

顯 楊 大 孝 兵 制 田 功

四 海 式 型 吏 治 民 政

百 世 本 支 制 度 服 章

萬 年 普 牒 文 書 號 令

統 紀 昭 明 經 紀 悉 陳

銀 潢 慶 合 內 外 交 正

57

聖 學 淵 富 分 茅 錫 爵

屯 乎 粹 精 以 彰 有 功

詩 文 諸 作 榮 加 封 蔭

表 裏 六 經 恩 典 優 隆

賢 科 日 關 矜 育 萬 民

儒 教 風 行 食 饑 飲 渴

士 習 丕 變 養 老 賑 窮

文 治 大 亨 仁 膏 旁 達

坤 闔 乾 開 減 賦 蠲 征

威 靈 震 簿 慎 刑 止 殺

南 北 剿 平 寰 海 蒙 体

西 南 開 拓 咸 歌 利 樂

者 定 武 功 天 地 化 普

載 恢 遠 略 聖 人 功 全

改 土 歸 流 惟 其 不 息

化 行 蠻 貊 所 以 自 然

皇 猷 增 賁 明 效 成 法

聖 澤 龐 鴻 昭 晰 簡 編

待 臣 以 禮 爍 今 振 古

上 下 情 深 耀 後 光 前

58

嗟 余 小 子 綱 正 倫 明

紹 此 丕 基 德 該 福 備

廑 思 繼 述 螽 麟 集 祥

仰 副 洪 慈 百 四 十 二

追 敘 功 德 教 以 義 方

壽 之 豐 碑 和 感 交 萃

億 萬 斯 年 歷 代 帝 王

世 世 守 之 莫 與 之 比

孝 子 嗣 皇 帝 臣 謹 識

2.3.2. Phiên âm

Ngự chế thánh đức thần công bi kí

Hoàng thiên quyến hựu, ngã Đại Nam đốc sinh thần thánh, dẫn dẫn dực dực

ư ức thiên vạn thế. Triệu tổ Tĩnh hoàng đế Thanh tỉnh phát tường. Thái tổ Gia Dụ

Hoàng đế triệu cơ nam phục. Bát tông tương truyền đản thụ ký cố kí. Ngã Hoàng

tổ Thế tổ Cao hoàng đế thừa quốc bộ chi trung vi, ứng thiên tâm chi đại, khải

hoàn doanh ngưỡng đức vũ hạ đái công. Phù! Đương Lê dật cáo chung, Ngụy

Tây thế thiết chi tế, càn khôn cương kí giải, khôn duy cáo khuyết, xuyên độc

hoành phạm vô sở quy hội. Ngã Hoàng tổ hiệp nhật nguyệt nhi tảo sàm thương,

ác linh phù nhi đăng bảo, dật triệu tu nhân kỉ chỉnh tề nhị nghi. Thiên địa dĩ vị,

vạn vật dĩ dục, nhiên tự phi nhân thánh thế xuất, tuy vĩnh mệnh vu trọng tân,

chấn hoành cương vu tái tạo, kì hà dĩ quang tiền liệt nhi di hậu tự giả tai! Ngã

Hoàng khảo Thánh Tổ Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thuần Đức Văn Vũ

Minh Đoán Sáng Thuận Đại Thành Hậu Trạch Phong Công Nhân Hoàng Đế

Hoàng tổ Thế tổ Cao Hoàng đế chi đệ tứ tử dã. Thánh tổ mẫu Nhân Tuyên Từ

Khánh Thái hoàng thái hậu dĩ Tân hợi niên tứ nguyệt nhị thập tam nhật Kỉ dậu

59

thời, đản sinh ư Gia Định chi Tân Lộc thị thời. Hoàng tổ thủy phản bái vu nam.

Thập hữu nhị niên, tiến khắc Phú Xuân, tịch quyển Long Biên, toại phục cựu vật,

yêm hữu thiên hạ. Ngã Hoàng khảo thần tịch tả hữu, tiễn lí sơn xuyên, lịch gian

nan ư kham bát, thể ưu cần ư thủ thành. Phàm sự hội chi tốt ứng, thứ chính chi

đồ, hồi vật ẩn dân tình, mi bất liêu nhiên động tất. Chư gian lịch thức, giản tại đế

tâm nhất trung, thụ thụ khắc hưởng thiên lộc, kỳ ư xã tắc chí kế cửu dĩ mặc hữu

chú định hỹ. Gia Long thập ngũ niên, sách lập vi Hoàng Thái tử. Thời Gia Định

hà thanh thượng hạ số bách dư lí, thập bát niên tuân phụng di chiếu tự thừa đại

thống. Thánh nhân xuất trị, tảo ứng gia trưng. Hoàng khảo dĩ tam thập trắc đế vị,

cung thượng thánh chi tư, phủ doanh thành chi nghiệp, thông minh duệ trí, hách

nhiên hữu vi vận lượng nhất tâm, di luân vạn hóa trạch. Vị lục tái, Gia Định hà

phục thanh, Nghệ An hiến thụy cốc nhất phù nhị mễ; việt cửu niên, Quảng Trị

đắc vạn thọ vô cương ngọc tỉ. Vi ứng bất nhất nhi túc nãi thánh hoài, huy ấp bất

dĩ phù thụy tự xỉ, thân dụ trung ngoại thần dân hữu viết: “ Trẫm tiêu y cán thực,

cẩn cầu thượng lí, nhược sứ bách chấp tận giai hiền lương, nhân dân hàm lạc án,

đổ hà lưu thuận, quỹ niên cốc lũ phong tắc hà thụy như chi! Cơ mệnh hựu mật

cái như thử. Tại ngự nhị thập nhất niên chi gian, kính thiên pháp tổ, cần chính ái

dân, thường như nhất nhật. Nhược kỳ chế trị bảo bang, lập kinh trần kỉ, quy mô

quảng đại, phẩm tiết chu tường, sự sự giai hữu thành pháp, tự thiên địa vu Nam

Giao nhi chiêu sự chi; Lễ minh phụng nhị tổ dĩ phối thiên, nhi mĩ báo chi nghĩa.

Trứ, toản, đậu, khuông, phỉ, cổn vãn, phủ phất, long kỳ, đại lộ, ngọc thích, chu

can, sức dĩ vũ mao, tòng dĩ tiêu quản, hội Ngu Hạ Thương Chu chi điển, cụ hàm

anh thiều hộ chi âm. Lễ bị lạc hòa ư tư vi thịnh. Triệu kiến thế miếu, dĩ minh

chính thống; Thủy chú cửu đỉnh dĩ tượng thành công. Khai sứ quán, tu Thực lục

cầu di sự, bổ khuyết văn nhi đại thánh nhân chi đạo đức. Phong liệt chi thịnh

chiêu yết nhật tinh trường thùy thế pháp. Thiên tính chí hiếu, hoan phụng Từ

Ninh, xuất tắc tiền đạo an, nhập tắc quỵ tiến cam chỉ; Dưỡng dĩ thiên hạ bị cực,

tình văn sùng thượng huy xưng, ưu long lễ số. Thánh thọ lục tuần thất tuần đại

khánh tiết, cử hành thịnh điển, hợp trung ngoại ức triệu chi hoan tâm dĩ cung

hiếu phụng. Thiên gia lạc sự, tự cổ hãn văn. Nhất hiếu chi suy, bản ư thân thân

nhi đạt hồ! Phổ suất đế hệ phiên hệ dĩ chính bản chi, ngọc phổ dĩ minh thế thứ.

60

Tông nhân phủ dĩ trị chính. Tập thiện đường dĩ sùng giáo. Định văn vũ chức, chế

biện quan phục chương thái chính triều đình dã. Tác cung châm kính vu hữu vị,

nghiêm đảng cấm, dụ vu thứ tư, chính bách quan dã. Tinh hiếu thuận, biểu tiết

nghĩa, lễ cao niên, cử lực điền, hựu thân chế huấn điều ban hành châu lí, sứ chi

gia truyền nhi hộ thông tập thục lễ nghĩa. Kỳ hữu quan ư phong tục giáo hóa phù

khởi tiểu tai! Nội tắc thác chi dĩ lục bộ, tông chi dĩ nội các Cơ mật viện dĩ thận tư

xu yếu, Đô sát viện dĩ củ chính quan phương, nhi dụ định Nội các chỉ thiết tam

phẩm quan, cơ mật trì giản phái đại thần khiêm linh, Đô sát bất đắc tiếp ngoại

quan xỉ văn, sở dĩ phòng vi đỗ tiệm vi hậu thế lự kí thâm thả viễn hỹ. Ngoại tắc

tỉnh doanh trấn nhị thành nhi thiết vi tam thập nhị trực tỉnh, bố án đổng kỳ sự đô

phủ hội kỳ thành, hữu giám lâm chi quyền, vô chuyên trọng chi thế, nhi hựu tam

niên dĩ kế sứ, ngũ niên dĩ duyệt dân; Điền chế hữu nhất định chi tắc, binh chính

hữu thông hành chi đạo. Thành quách quan tấn chi hữu kỳ độ, đồn bảo thú thủ

chi hữu kỳ quy, khinh trọng tương chế, đại tiểu tương duy, khúc chiết tinh vi chí

tiêm chí tất. Kỳ sùng văn dã, phủ tảo trác ma phong hội nhật. Chấn điển tạ khâm

định dĩ minh chính học. Thi Thư ban bố dĩ huệ sĩ lâm. Phủ huyện mạc bất hữu

học, hương hội gian dĩ tuế cống chính tự hoạch (họa) nhi cẩu thả chi phong biến

ly văn thức nhi cố lậu chi tập, trừ văn trị chiêu hồi xán nhiên khuê bích. Cung

độc Ngự chế thi lục tập, Ngự chế văn nhị tập, khanh hồ điển mạc huấn cáo chi

âm, hoán hồ nhã tụng tri bình chi tích. Văn giáo đại hưng, sĩ phong phi chấn,

thiên hạ học giả tri hữu đồ tạ điển, phần chi phú văn chương tính mệnh chi uyên,

giai tự thượng hữu dĩ cổ vũ tác thành chi dã. Kỳ giảng vũ dã, cung thân ky xạ,

giảng duyệt dĩ thần thời, phủ tuần sĩ tốt, huấn luyện hữu sách, nhất phàm doanh

pháp trận pháp dĩ chí bộ chiến thủy chiến nhật thường thao diễn hàm tinh. Kỳ

năng nẵng giả lê tịch thủ họa ư ninh thanh. Lê nghịch tốt biến ư Phiên An Cao

Tuyên địa phương sĩ phỉ xuẩn động, An Hà nhất đái, Xiêm khấu lai nhiễu. Ư thị

mệnh tương xuất sư, chỉ thụ phương lược, thần mô duệ toán, xuất nhân ý biểu,

hoàng linh chấn bạc thiên, thảo cứ gia tả cố hữu hễ, hải phất sơn dao, mỵ kiên bất

đồi, mỵ hiểm bất phá, hung cự thụ thủ, đại huân dụng tập, khai thổ thác viễn cực

bắc cùng nam, bức viên chi quảng, tòng cổ mạc cập. Uy linh sướng hồ hải biểu,

thanh linh chấn hồ tuyệt vực. Cái bình nhật hữu lễ pháp dĩ trị quân, hữu minh

61

đoạn dĩ chế thắng, sở dĩ thành công tốc nhi thâu hiệu đại dã. Nhược phù đãi ngộ

thần hạ khúc, gia ân lễ khí, sự quần tài các đắc kỳ dụng; Hữu thiện, vô vi nhi bất

lục; Hữu công tuy viễn nhi phất di. Bão mạch vinh thi thị thần do tử; phân mao

hậu tích, dữ quốc đồng hưu. Thả hựu quang hiển kỳ phụ mẫu, âm lục kỳ tử tôn.

Sách huân bang quốc giả, tòng tự ư miếu đình. Lập công cương trường giả, kiến

bi ư vũ miếu. Kỳ nhân nghĩa trung hậu chi phong siêu việt tiền cổ, nhi ư huệ

dưỡng tư dân, nhất sự ưu gia ý yên. Canh tịch dưỡng tàm, dĩ trọng nông tang chi

bản; Quyên tô giảm thuế, dĩ hậu thừa dân chi sinh. Cư thường tắc giác vũ khóa

tình, hành hạnh tắc tỉnh phong huấn tục. Nhất hữu thủy hạn, tật độ, tức phát túc

mễ, thang dược, tiễn bố dĩ chẩn tuất chi, tăng bất cận phí. Thường ư cung trung

mật, đảo vi vạn dân thỉnh mệnh, lập kiến chuyển tai vi tường. Nãi tri ái dân chi

thành, tín thiên hữu tố dã. Cố thiên hạ chi dân lão hữu sở dưỡng, bần hữu sở tề,

tự vô nhất nhân bất bị kỳ trạch. Phàm chư tử tội lục án tấu văn, thân thủ phi

giám, hựu phó chư công nghị tam ngũ phúc tấu. Lưu ngục, tuế đoạn định nghiện

ư pháp tư, tường phúc ư đình thẩm. Tỉ lai, tử tù khoan hàm thậm chúng. Huệ tâm

mỹ, chính hoằng ích, vô phương bồi sinh linh chi mệnh vĩnh, thọ quốc gia chi

nguyên khí cửu. Đạo hóa thành hòa phong, tường hợp mỹ lợi, bàng hồng vạn

tường tất chí, hà an hải tĩnh, thời hòa niên phong, ngục tụng chỉ tức, thiết đạo bất

tác, hồn hồn ngạc ngạc thành dĩ trăn vu cực trị hỹ. Ô hô! thịnh tai! Cái kỳ kiêm

văn vũ thánh thần chi quảng vận đại hoàng vương đế bá chi phô thư thể câu dụng

chu. Khai vật thành vụ, thành túc dĩ thông vạn hóa nhi chí đức vô nghi hành. Cần

túc dĩ sắc vạn cơ nhi thiên hạ vô lưu sự. Ức thiên vạn thế nhi hạ cảnh ngưỡng

tiễu bình toàn tập bị thuật ưu cần, chính yếu nhất thư thùy thị điển tắc túc kiến

công dữ thiên, tề đức dữ địa tịnh thánh nhân thịnh đức đại nghiệp chí hỹ! mỹ hỹ!

Nhi kỳ tiền đại đế vương ưu bất khả cập, giả: đại cương chí chính gia pháp thậm

thiện, cung thị cửu giai, túc như triều đình, vô quý thích chi chuyên, vô cận tập

chi sủng. Tử nữ phàm bách tứ thập nhị nhân, chí đức nhân uân chung lân tụy

khánh, cận phù hoàng tổ, viễn quá Chu văn nhi giai thần tịch giáo huấn, nạp dĩ

nghĩa phương lẫm tuân quỹ độ. Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử, phu phu,

phụ phụ, huynh huynh, đệ đệ hữu dĩ điện ngã tử tôn lê dân ư vạn vạn thế thái hòa

chi phong thiên sinh thánh nhân dĩ vi tư dân chính phương ca tụng hồng hưu dĩ

62

trường mông chí trị chi trạch. Minh Mệnh nhị thập nhất niên tứ nguyệt chính trị

Hoàng khảo ngũ tuần đại khánh tiết, trung ngoại thần thứ lư hoan khuyết hạ. Tiểu

tử thị giá, lịch đăng chúc hạ chư lâu, thâm hỉ thánh hoài khang dự thọ toán tăng

long, thị niên thập nhị nguyệt thập cửu nhật, do phụng thân yết phụng tiên điện kị

thần; Lễ thành, bi thuật số nhật gian, vĩ hòa cự ý nãi dĩ thị nguyệt nhị thập bát

nhật Ất hợi thời, yêm khí thiên hạ. Ô hô! Thống tai! Di mệnh tiểu tử tự hoàng đế

vị tự thống. Dĩ lai, hằng duy gian đại, thị cụ ai quỳnh tại cứu, phàm sự tất kính tất

thành. Viên khâm tuân thành mệnh, phụng doanh cát tàng vu an bằng đỗ chi Hiếu

Sơn dĩ Thiệu Trị nguyên niên thu thất nguyệt sơ cửu nhật Mậu tuất thời, phụng

an tử cung, dụng toại lễ cổ chế dã. Phụng tôn thượng lăng hiệu viết: Hiếu Lăng.

Truy phối Hoàng tỷ Tá Thiên Lệ Thánh Đoan Chính Cung Hòa Đốc Khánh Từ

Huy Minh Hiền Thuận Đức Nhân Hoàng hậu, huyền trạch viết Hiếu Đông lăng,

phụng thánh vị hợp tự vu Sùng Ân điện, thị đồng tôn dã. Ô hô! đại thánh nhân

chi công chi đức, phi tiểu tử sở năng đạn thuật kỳ vạn nhất, cố niệm phó thác chi

trọng, tư sáng, thủ chi gian, cẩn phụng biểu kỳ chí đức đại hành cần, chư trinh

mân dĩ thùy thị lai thế vân. Thời Thiệu Trị nguyên niên thập nhị nguyệt Giáp ngọ

nhật dã. Cẩn bái thủ khể thủ tự nhi minh viết:

Hách hách đại nam Nhất tâm cần kính

Hoàng hoàng thiên hựu Vạn hóa di luân

Tổ triệu tông bồi Cổn vãn nghi chương

Khắc khai quyết hậu Đào bào khuê tệ

Thế tổ trung hưng Tận chí tận vật

Yêm hữu cửu hữu Chiêu sự thượng đế

Sáng thủ lưỡng kiêm Châm chước thích trung

Công hậu đức mậu Thức sùng miếu chế

Ư mục Hoàng khảo Bảo lục toản tu

Thụ mệnh duy tân Chiêu thùy dịch thế

Dĩ thánh kế thánh Di dụ thuấn mộ

Thành hiến khắc tuân Hoan phụng từ ninh

Hà thanh tỉ xuất Hạ thương kế tiết

Thụy ứng biền trăn Long cổn xu đình

63

Hợp vạn phương lạc Biểu lí lục kinh

Mị chúc thiên linh Hiền khoa nhật quan

Hiển dương đại hiếu Nho giáo phong hành

Tứ hải thức hình Sĩ tập phi biến

Bách thế bản chi Văn trị đại hanh

Vạn niên phổ điệp Khôn cái càn khai

Thống kỉ chiêu minh Uy linh chấn bộ

Ngân hoàng khánh hiệp Nam bắc tiễu bình

Hiền bất di thân Tây nam khai thác

Ân nghĩa chu tiếp Kì định vũ công

Trị giáo sở tiên Tái khôi viễn lược

Vĩnh vi thế pháp Kí thổ quy lưu

Quảng khai ngôn lộ Hóa hành man mạch

Trừng tự quan phương Hoàng du tăng bí

Dĩ châm dĩ quy Thánh trạch bàng hồng

Suất do điển thường Đãi thần dĩ lễ

Nông tang chính bản Thượng hạ tình thâm

Phong tục quốc cương Phân mao tích tước

Hoàng hữu huấn di Dĩ chương hữu công

Thế dân cận quang Vinh gia phong ấm

Thụ thức thiết quan Ân điển ưu long

Phân cương hoạch tỉnh Căng dục vạn dân

Binh chế điền công Thực cơ ẩm khát

Lại trị dân chính Dưỡng lão chẩn cung

Chế độ phục chương Nhân cao bàng đạt

Văn thư hiệu lệnh Giảm phú quyên chinh

Kinh kỉ tất trần Thận hình chỉ sát

Nội ngoại giao chính Hoàn hải mông hưu

Thánh học uyên phú Hàm ca lợi lạc

Thuần hồ túy tinh Thiên địa hóa phổ

Thi văn chư tác Thánh nhân công toàn

64

Duy kỳ bất tức Hòa hoặc giao tụy

Sở dĩ tự nhiên Lịch đại đế vương

Minh hiệu thành pháp Mạc dữ chi tỷ

Chiêu tích giản biên Ta dư tiểu tử

Thước kim chấn cổ Thiệu thử phi cơ

Diệu hậu quang tiền Cẩn tư kế thuật

Cương chính luân minh Ngưỡng phó hồng tư

Đức cai phúc bị Truy tự công đức

Chung lân tập tường Thọ chi phong bi

Bách tứ thập nhị Ức vạn tư niên

Giáo dĩ nghĩa phương

Hiếu tử tự hoàng đế thần Tuyền cẩn thức

2.3.3. Dịch nghĩa

Ngự chế bài văn bia ghi đức thánh công thần *

“Đấng hoàng thiên mến giúp nước Đại Nam ta, chung đúc sinh ra các bậc

thần thánh, nối tiếp tới ức muôn nghìn đời. Đức Triệu tổ Tĩnh hoàng đế, phát tích

ở tỉnh Thanh, đức Thái tổ Gia dụ hoàng đế gây nền ở cõi Nam, tám đời cùng

truyền chịu mệnh đã vững. Đến Hoàng tổ, Thế tổ Cao hoàng đế ta, nhân lúc vận

nước giữa vời suy sút, ứng với lòng trời mở vận, nước ngoài mến đức, khắp nước

đội công. Đương thuở ấy, vận nhà Lê đã hết, Tây Sơn cướp ngôi, trời đã long,

đất cũng lở, sông ngòi tràn ngập, không nơi dồn chứa ! Đức Hoàng tổ ta quét

sạch sao chổi, làm tỏ mặt Trời, mặt Trăng; nhận lấy điềm thiêng, lên giữ ngôi

báu. Sửa sang đạo của người, chỉnh đốn việc trời đất. Do thế, trời đất lại yên

định, vạn vật lại phát sinh. Nhưng nếu (sau đó) không có bậc nhân thánh ra đời,

giữ yên mệnh trời trong lúc làm mới thêm, chấn chỉnh mối lớn trong khi nối dựng

lại, thì lấy đâu làm rạng thêm công trước và để lại cho đời sau ?

Đức Hoàng khảo Thánh tổ Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thuần Đức

Văn Vũ Minh Đoán Sáng Thuật Đại Thành Hậu Trạch Phong Công Nhân Hoàng

đế ta là con thứ tư của Hoàng tổ, Thế tổ Cao hoàng đế. Thánh tổ mẫu, Nhân

* Theo bản dịch của Quốc sử quán triều Nguyễn trong Đại Nam thực lục (2007), NXB Giáo dục.

Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng Thái hậu, năm Tân Hợi, tháng 4, ngày 23, giờ Kỷ

65

dậu sinh ra Hoàng khảo ta ở đất Tân Lộc, tỉnh Gia Định. Lúc ấy Hoàng tổ mới

quay cờ về Nam, 12 năm sau, tiến lấy Phú Xuân, luôn tới Long Biên, thu phục

nghiệp cũ, gồm có cả thiên hạ. Hoàng khảo ta sớm tối theo bên cạnh, qua khắp

các núi sông, trải bao khó nhọc trong sự dẹp yên, lượng biết chăm lo sau khi giữ

nghiệp. Phàm gặp việc phải đối phó, mọi chính sự phải mưu toan, nỗi đau thư-

ơng của mọi người và tình trạng của dân gian, không điều gì là không biết rõ,

hiểu thấu. Qua những bước gian nan thử thách, theo đạo trung truyền nối, để h-

ưởng thụ lộc trời, [Hoàng khảo] đã được vua cha để lòng kén chọn, từ lâu đã

lặng lẽ định sẵn cái kế lớn cho xã tắc. Gia Long năm thứ 15 [1816], sách lập làm

Hoàng thái tử. Lúc ấy, nước sông Gia Định trở nên trong, trên dưới đến hơn mấy

trăm dặm. Năm thứ 18 [1819], tuân theo di chiếu, nối giữ nghiệp lớn. Thánh

nhân ra đời, sớm ứng điềm tốt : Hoàng khảo năm ấy 30 tuổi, lên ngôi vua, vốn có

tư chất bậc thượng thánh, giữ cơ nghiệp đã gây nên, thông minh nhanh nhẹn, tỏ

tài trị nước, vận dụng một lòng, tổ chức muôn việc. Ngài trị vì tới năm thứ 6

[1825], nước sông Gia Định lại trong, tỉnh Nghệ An dâng điềm tốt: mỗi hột lúa,

trong có 2 hột gạo. Năm thứ 9 [1828], tỉnh Quảng Trị tìm được ấn “Vạn thọ vô

cương” bằng ngọc của đời trước. Điềm lành không phải là ít, nhưng lòng vua

vẫn khiêm tốn, không tự cao vì những điềm quý đến. Lời thân dụ quan dân trong

ngoài có nói : “Trẫm dậy sớm ăn trưa, chỉ cầu cho được thịnh trị, vì khiến mọi

người giữ chức đều được hiền lương, nhân dân đều yên vui chỗ ở, nước sông

theo dòng chảy thuận, lúa thóc hằng năm luôn được mùa thì điềm tốt nào bằng

!”. Ngài nghĩ việc rộng rãi, kỹ càng đến như thế! Ở ngôi trong khoảng 21 năm,

kính ý trời, theo phép tổ, chăm việc, yên dân, ngày nào cũng như ngày nào. Về

công việc, đặt trị pháp, giữ đất nước, lập giềng, dựng mối, quy mô rộng rãi to

tát, phẩm tiết đầy đủ, rõ ràng, việc gì cũng có phép tắc. Tế trời đất ở Nam Giao,

đã rõ nghĩa kính thờ ; lễ Tam tổ phối hợp với trời, đã tỏ nghĩa báo đáp. Đồ tế lễ

có đủ biên (1), đậu (2), khuông, phỉ (3), áo mũ, phủ phất (4), đồ nghi vệ có đủ

long kỳ, đại lộ (5), ngọc thích, chu can (6). Trang sức có những đồ vũ, mao (7),

kèm theo có những tiếng tiêu quản (8) ; hợp điển lễ của các đời Ngu, Hạ, Thư-

ơng, Chu, đủ âm nhạc như những tiếng Hàm, Anh, Thiều, Hộ (9). Lễ đủ, nhạc

hoà, đến thế là thịnh. Lại dựng ra Thế miếu để tỏ rõ chính thống ; đúc ra chín

66

đỉnh để tượng trưng thành công. Mở Sử quán, soạn Thực lục, tìm sách cổ còn

sót, bổ những văn còn thiếu, làm cho đạo đức của thánh nhân thêm rộng lớn.

Giáo hoá, công nghiệp, nêu rõ như mặt trời, ngôi sao, để mãi cho đời sau theo

phép. Thiên tính ngài rất hiếu, vua hầu cung Từ Ninh, khi ra thì đón dẫn xe đi,

khi vào thì dâng tiến vật ngon ngọt ; nuôi bằng lộc nước, đủ mọi tình văn, kính

dâng tôn hiệu, đủ bậc lễ số. Gặp tiết Thánh thọ lục tuần, thất tuần đại khánh, thì

cử hành điển lễ long trọng, hợp ức triệu lòng vui của mọi người trong ngoài để

cung vào việc hiếu phụng : việc vui của nhà vua, từ xưa ít thấy. Một lòng hiếu

suy ra, gốc ở mến bậc thân mà đạt ra khắp cõi. Chia ra dòng đế, dòng thân phiên

để định rõ một ngành họ dọc ; làm ra Ngọc phả, Tôn phả để tỏ rõ thứ tự từng

đời. Đặt Tôn nhân phủ để làm công việc chính trị ; dựng Tập thiên đường để đôn

đốc việc dạy người. Định ra các chức văn, võ, chế ra mũ áo, triều phục đó là để

sửa chính triều đình. Làm bài quan châm răn người có ngôi, nghiêm cấm bè

đảng, dụ khắp các chức, đó là để sửa chính trăm quan. Nêu những người hiếu

thuận, khen những kẻ tiết nghĩa, kính lễ những người tuổi cao, biểu dương những

kẻ chăm làm ruộng. Lại thân chế ra những điều dạy dỗ, ban hành khắp các làng

mạc, để cho mọi nhà truyền tụng, tập quen lễ nghĩa. Có công về phong tục, giáo

hoá há phải là nhỏ sao ?

Về việc hành chính, [bên trong], dồn lại ở sáu bộ, tóm lại ở Nội các, có

viện Cơ mật để giữ kỹ then chốt, có viện Đô sát để sửa chữa các quan. Theo lời

dụ định thì : ở Nội các chỉ đặt quan tam phẩm, viện Cơ mật riêng chọn cắt đại

thần kiêm lĩnh, viện Đô sát không được tiếp nhận công văn của quan tỉnh ngoài

đưa vào. Đó là cách phòng giữ từ khi mọi việc chưa xảy, lo cho đời sau thật đã

sâu xa. Bên ngoài thì bỏ bớt doanh thành và trấn thành, mà đặt làm 33 trực tỉnh,

có Bố chính, án sát giữ mọi việc, Tổng đốc, Tuần phủ xem xét việc đã làm nên,

có quyền trông coi, không có thể chuyên trọng. Lại có lệ cứ 3 năm thì xét quan

lại, 5 năm thì duyệt nhân dân ; điền chế thì có phép tắc nhất định, binh chính thì

có đường lối thông thường. Những nơi thành, quách, quan, tấn, đều có chế độ

riêng, những chỗ đồn, bảo, thú, thủ đều có quy mô sẵn, hơn kém giữ lẫn nhau,

lớn nhỏ ràng buộc nhau. Mọi việc rõ ràng, tinh vi, hết sức kỹ lưỡng ! Về sự

chuộng văn học thì sửa sang, mài giũa, phong hội mới dần. Soạn định sách vở để

67

làm sáng tỏ chính học, ban bố Kinh Thi, Kinh Thư để gia ơn cho làng nho. Phủ,

huyện nào cũng có nhà học. Thi Hương, thi Hội xen kẽ từng năm mà tiến cống kẻ

sĩ. Đính chính lối chữ viết mà thói cẩu thả mất hẳn đi. Sửa định cách làm văn mà

lối quê mùa bỏ được hết. Văn tự sáng tỏ, rực rỡ như sao Khuê, sao Bích trên

trời.

Kính đọc 6 tập thơ ngự chế, 2 tập văn ngự chế ; sang sảng những tiếng hay

như Điển, Mô, Huấn, Cáo đời xưa, chói lọi những vết tốt như Nhã, Tụng trị bình

đời trước. Văn giáo rất mở mang, sĩ phong rất phấn chấn, làm cho thiên hạ được

biết nước ta có sự phong phú về sách vở, kinh điển, có nguồn gốc của văn ch-

ương tính mệnh, đều là bởi tự ngài cổ vũ, tác thành cho cả.

Về sự giảng võ thì thân hành cưỡi bắn, giảng duyệt có từng kỳ, vỗ về quân

sĩ, huấn luyện có định sẵn, phàm những phép kết doanh, bày trận cho đến bộ

chiến, thuỷ chiến ngày thường thao diễn đều tinh thạo cả.

Trước đây, đảng sót nhà Lê gây vạ ở Ninh, Thanh (10); tên giặc họ Lê gây

biến ở Phiên An (11), tại địa phương Cao, Tuyên, thổ phỉ quấy rối (12), tại một

dải An - Hà, quân Xiêm lấn sang (13). Ngài liền sai tướng ra quân, chỉ bảo ph-

ương lược, mưu thần chước giỏi, không ai nghĩ tới. Uy linh đã dậy vang, đánh

dẹp qua từng trận, bên này, bên nọ, biển sôi, núi lở, bền đến đâu cũng đập vỡ,

hiểm đến đâu cũng phá tan. Tướng giặc nộp mạng, công lớn được nên. Đất đai

mở xa tới cực Bắc, cùng Nam : bờ cõi rộng rãi, từ trước không có đời nào sánh

kịp. Uy lệnh đạt tới ngoài cõi, tiếng tăm lừng khắp nơi xa. Ấy thật vì ngày thường

có đủ lễ phép để trị các quân, có sự minh đoán để mưu chiến thắng, cho nên

thành công được chóng mà hiệu được to.

Về sự đãi ngộ bề tôi thì đủ ơn, lễ ; lựa dùng người tài, thì ai nấy đều được

thích hợp. Kẻ làm thiện, dù việc nhỏ đến đâu cũng ghi khen, kẻ có công, dù ở xa

đến đâu cũng được biết đến. Ôm gối thân mật, coi bề tôi như con; chia đất thư-

ởng phong, với nước cùng hưởng phúc. Lại còn cho vẻ vang tới cha mẹ, lục dụng

đến con cháu. Ai đã được ghi công vào Nhà nước thì cho phụ thờ ở miếu đình, ai

đã lập công ở cương trường thì cho dựng bia ở Vũ miếu; nhân nghĩa, trung hậu

vượt hẳn các đời xưa.

Về việc gia ơn, nuôi dân, lại càng để ý : cày tịch điền, nuôi tằm, để trọng

68

việc nông tang là gốc; miễn tô, bớt thuế để giúp dân thường sinh sống là đầu.

Ngày thường thì suy tính những kỳ mưa, nắng, đi đâu thì xét hỏi phong tục. Khi

có lụt, hạn, tật dịch, liền phát thóc gạo, thuốc thang, tiền, vải để chẩn cấp cho

dân, tuyệt nhiên không ngại phí. Ngài thường ở trong cung mật cầu trời đất: xin

cứu mạng cho muôn dân, sau đó, liền thấy chuyển tai vạ ra điềm tốt. Thế mới biết

lòng ngài thành thực yêu dân, lúc nào cũng tin tưởng ở trời. Cho nên dân trong

thiên hạ: người già được nuôi, người nghèo được giúp, không một người nào là

không được chịu ơn vua.

Về việc hình, phàm những án xử tử tâu lên, ngài thân mở coi, lại giao cho

các quan công đồng bàn bạc, tâu đi, tâu lại, đến dăm ba lần. Những tù lưu giam,

hằng năm đem xử thì đoán định ở Pháp ty, phúc kỹ ở đình thần hợp xét. Gần đây,

những tù bị xử tử được khoan giảm rất nhiều. Tấm lòng tốt, chính sự hay, bao

khắp không hẹp, bồi bổ mệnh mạch cho nhân dân, giữ mãi nguyên khí cho Nhà

nước. Đạo hoá nhuần lâu, trở thành thói tốt ; tung ra những sự vui đẹp, làm lợi

cho khắp mọi người. Điềm tốt, điềm lành hết thảy đưa đến, sông êm, bể lặng,

thời tiết thuận, năm được mùa, kiện tụng dẹp được hết, trộm cướp không xảy ra,

nhân dân thuần hậu, tự nhiên, thật đã tới chỗ thịnh trị cùng cực. Ôi ! Thịnh biết

chừng nào ! ấy cũng vì ngài có đức rộng xa gồm tài văn vũ, thánh thần, làm việc

to tát hơn cả Hoàng, Vương, Đế bá, bản thể đã vẹn đủ, công dụng càng chu đáo.

Khai thông mọi vật, giúp nên việc đời. Lòng thành đủ dung hoà vạn hoá mà bậc

thượng trí không còn việc gì phải nghi, siêng năng đủ chính lý vạn cơ mà trong

thiên hạ không còn việc gì để sót. Muôn ngàn đời sau được coi tới toàn tập “Tiễu

bình” (14)đã thuật đủ chăm lo, bộ sách “Chính yếu” (15)đã để lại phép tắc, đủ

thấy công đức của ngài ngang với trời đất. Đức thịnh và nghiệp lớn của thánh

nhân đến thế là cùng, là đẹp !

Còn có những điều mà các đế vương đời trước càng không thể bằng được,

là : Đại cương đặt ra rất chính, gia pháp đặt ra rất hay, chín cấp bậc trong

cung, nghiêm như chốn triều đình, không một người thân thích nào được chuyên

quyền, không một người gần gũi nào được riêng yêu. Con trai con gái tất cả có

142 người, nhờ ơn sinh, nuôi, sum họp đông đúc, so với gần thì giống như Hoàng

tổ, so với xa thì hơn hẳn Chu Văn. Sớm hôm dạy bảo, trau dồi lẽ phải điều hay,

69

ai nấy đều tuân theo phép tắc. Noi đạo vua, tôi, cha, con, vợ, chồng, anh em, có

thể dựng nên thói tục thái hoà cho con cháu và nhân dân ta đến hàng vạn đời.

Trời sinh bậc thánh để giúp cho dân, chính là lúc nên ca tụng phúc lớn để

đội ơn chí trị lâu dài. Năm Minh Mệnh thứ 21 [1840], tháng tư, chính gặp tiết

Ngũ tuần đại khánh của Hoàng khảo, thần dân trong ngoài vui vầy dưới cửa

cung khuyết. Kẻ tiểu tử (16) này theo hầu, lên các lầu chúc thọ, rất mừng ngài

được vui, mạnh, tuổi thọ thêm tăng. Ngày 19, tháng 12, năm ấy, còn theo ngài

thân đến điện Phụng Tiên lễ kỵ, làm lễ xong, thuật nỗi bi cảm. Trong khoảng vài

hôm sau, ngài se mình, ngờ đâu đến giờ Ất hợi, ngày 28, tháng ấy, ngài từ bỏ cõi

đời ! Than ôi, xót thay !

Vâng theo di mệnh, kẻ tiểu tử này nối ngôi hoàng đế. Từ lúc nối ngôi tới

nay, hằng sợ về công việc khó khăn, to tát ; trong lúc cư tang lo nghĩ, phàm gặp

việc tất phải một lòng thành, kính. Nay tuân theo thành mệnh, sửa lăng ở núi

Hiếu Sơn thuộc xã An Bằng, chọn giờ tuất, ngày mồng 9, tháng 7, mùa thu năm

Thiệu Trị thứ nhất [1841], kính rước linh cữu, theo lễ táng qua đường hầm như

chế độ đời xưa ; dâng đặt tên lăng là Hiếu lăng. Truy phối lăng đức Hoàng tỉ, Tá

Thiên Lệ Thánh Đoan Chính Cung Hoà Đốc Khánh Từ Huy Minh Hiền Thuận

Đức Nhân Hoàng hậu, gọi là lăng Hiếu Đông, kính rước thành vị hợp thờ ở điện

Sùng Ân, để tỏ lòng cùng tôn chuộng.

Than ôi ! Công đức của bậc đại thánh nhân, kẻ tiểu tử này không thể thuật

hết được một trong muôn phần, nhưng nghĩ đến việc phó thác rất hệ trọng, nhớ

đến công gây dựng, giữ gìn rất gian nan, xin kính cẩn nêu rõ những đức hạnh

cao cả, khắc vào bia đá để truyền lại đời sau.

Ngày 15, tháng 12, năm Thiệu Trị thứ nhất [1841], kính cẩn chắp tay, cúi

đầu, viết bài tự sự và làm bài minh rằng :

“Rực rỡ Đại Nam, Dựng, giữ gồm hai,

Trời giúp bền lâu. Công cao, đức rõ.

Tổ, tông gây, đắp. Vẻ vang Hoàng khảo,

Mở cho đời sau. Chịu mệnh, sửa sang ;

Thế tổ trung hưng, Thánh lại nối thánh,

Chín cõi gồm có, Noi đúng phép thường.

70

Sông trong (17), ấn ra (18), Noi theo nề nếp.

Điềm tốt đến cả, Nông tang gốc chính,

Siêng, kính một lòng, Phong tục, mối giềng.

Sắp đặt vạn hóa. Vua có lời dạy.

Áo mũ, nghi chương, Muôn dân noi gương.

Đào bào (19), khuê, tệ (20)… Trao chức, đặt quan,

Hết lòng sắp đủ, Chia cõi, đặt tỉnh,

Kính thờ thượng đế. Binh chế, điền công,

Châm chước đúng mực, Lại trị, dân chính.

Lễ miếu tôn sùng. Chế độ, phục chương (23).

Soạn sách Thực lục, Văn thư, hiệu lệnh,

Truyền làm gương chung. Mọi việc đặt đủ,

Sẵn lòng hiếu mộ, Trong ngoài rõ ràng.

Vui thờ Từ Ninh. Thánh học sâu, rộng,

Tiết thọ, dâng chén, Rất thuần, cực tinh !

Áo rồng, hầu sân. Thơ văn sáng tác,

Chung vui muôn phương, Như lời Lục kinh.

Tuổi tiên chúc thọ. Khoa thi mở dần,

Đại hiếu hiển dương (21) ! Đạo Nho rộng suốt,

Làm gương trăm họ. Sĩ phong đổi thay,

Trăm đời bản chi, Văn trị đẹp tốt !

Muôn năm phả điệp, Xoay chuyển trời đất,

Thống hệ rõ ràng, Uy linh lừng vang.

Họ hàng hoà hiệp. Nam, Bắc đánh dẹp,

Hiền, không nề họ (22) Tây, Nam mở mang.

Ơn nghĩa dồi dào. Vũ công định xong,

Trị giáo theo đó, Mưu xa rộng mở.

Làm phép đời sau. Đổi “thổ”, dùng “lưu” (24),

Rộng đường nói năng, Hoá tới miền rợ.

Dạy quan giữ phép, Đạo vua to tát,

Vừa khuyên vừa răn, Ơn vua rộng, sâu,

71

Lễ, đãi thần hạ, Sử sách chép rõ.

Cảm thông tình nhau. Chói lọi trước sau,

Đất phong, tước ban, Tỏ rạng kim cổ.

Nêu người công trạng. Cương, thường sáng tỏ,

Gia hàm, phong ấm, Phúc đức rộng dài.

Ơn điển long trọng. Con cái vui họp :

Thương, nuôi muôn dân : Trăm bốn mươi hai.

Khát, uống, đói, ăn, Dạy con điều hay,

Nuôi già, cứu khổ Hoà, cảm đều đủ.

Ơn thấm xa gần. Đế vương các đời,

Giảm thuế, tha sưu, Không thể cùng đọ.

Khoan hình, bớt giết. Nay ta, tiểu tử,

Khắp cõi nhờ ơn, Nối giữ cơ đồ,

Vui mừng, ca hát. Chăm lo kế thuật,

Trời đất hoá khắp, Để đáp ơn to.

Công thánh vẹn toàn, Công đức, truy bày,

Cũng vì không nghỉ, Ghi bia để lại.

Cho nên tự nhiên. Ức vạn năm sau,

Công nên, phép thành, Đời đời giữ mãi !”.

Hiếu tử nối ngôi hoàng đế thần Tuyền kính cẩn bày tỏ.

CHÚ THÍCH:

(1) Biên : cái mâm bồng đan bằng tre, có nắp đậy.

(2) Đậu : cái mâm bồng bằng gỗ, có nắp.

(3) Khuông : cái giỏ tre đan hình vuông. Phỉ : giỏ tre hình tròn (dùng đựng

hoa quả, bánh để tế).

(4) Phủ phất : đồ lễ phục (áo xiêm) có thêu.

(5) Long kỳ : cờ thêu rồng. Đại lộ : xe vua đi.

(6) Ngọc thích : cái phủ (búa dài cán), cán chạm ngọc. Chu can : Cái mộc

sơn đỏ.

(7) Vũ, mao : hai thứ đồ dùng trong khi múa, đầu kết bằng lông vũ, lông

72

đuôi trâu.

(8) Tiêu, quản : đồ nhạc : ống tiêu, ống sáo, v.v…

(9) Những khúc nhạc hay đời xưa: Hàm trì: nhạc của Hoàng đế. Ngũ anh:

nhạc của Đế Cố, Thiều: nhạc của vua Thuấn, Hộ: nhạc của vua Thang.

(10) Chỉ Lê Duy Lương nổi dậy ở Ninh Bình và Hưng Hoá năm Minh

Mệnh thứ 14 [1833].

(11) Chỉ Lê Văn Khôi nổi dậy ở Phiên An năm 1833

(12) Chỉ Nông Văn Vân nổi dậy ở Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên

và Lạng Sơn năm 1833.

(13) Chỉ giặc Xiêm chia quân làm năm đạo kéo sang xâm lấn vào năm 1833.

Các sự việc trên đây đều theo tài liệu trong bài tấu của Trương Đăng Quế đề ngày 27

tháng 6 nhuận, năm Minh Mệnh thứ 16 [1835] in ở đầu bộ Khâm định tiểu bình Lư-

ỡng kỳ nghịch phỉ, Chính biên (quyển thủ, quyển I, tờ 1b).

(14) Tức tập Tiễu bình Lưỡng kỳ nghịch phỉ phương lược.

(15) Tức bộ Minh Mệnh chính yếu.

(16) Lời vua Thiệu Trị tự xưng. Các chỗ dưới cũng thế.

(17) Chỉ sông Gia Định, năm 1816, nước trong.

(18) Chỉ ngọc ấn “Vạn thọ vô cương” do tỉnh Quảng Trị phát hiện.

(19) Đào bào : cái bầu bằng sành, dùng đựng rượu tế.

(20) Khuê : ngọc khuê. Tệ : lụa. Hai vật dùng để tế lễ.

(21) Ý nói Minh Mệnh là bậc rất hiếu, làm tỏ rạng tiếng tăm, vẻ vang cha

mẹ.

(22) Ý nói trong họ mà có người hiền tài, liền cất dùng, không bỏ sót.

(23) Phục chương : đồ phẩm phục.

(24) Lưu : tức là chức lưu quan, dùng người nơi khác đến thay thổ quan là

người địa phương.

2.4. Văn bia lăng Thiệu Trị

2.4.1. Nguyên văn chữ Hán

昌 陵 聖 德 神 功 碑

我 大 南 受 天 眷 席 蘿 圖 宇 宙 廣 陳 黎 風 會 振 雄 貉 粵 自 南

73

服 建 邦 積 功 累 仁 二 百 餘 載 暨 我 世 祖 高 皇 帝 經 綸 天 造

恢 廓 帝 紘 我 聖 祖 仁 皇 帝 潤 色 宏 猷 緝 熙 皇 祚 受 此 無 彊

大 歷 服 用 敷 遺 後 人 庥 鴻 惟 我 皇 考 憲 祖 章 皇 帝 統 承 二

祖 之 庥 烈 光 闡 重 熙 之 景 運 道 隆 繼 述 撰 合 清 寧 聖 神 功

德 暉 煥 穹 壤 眇 兹 小 子 曷 足 以 規 天 極 景 暾 輪 顧 性 親 受

付 扥 之 重 日 思 繼 字 之 艱 敬 用 譔 述 鴻 謨 鋪 揚 庥 爍 勒 之

貞 於 以 昭 垂 于 萬 萬 世 嗚 呼 痛 哉 我 皇 考 憲 祖 紹 天

隆 運 至 善 純 孝 寬 明 睿 斷 文 治 武 功 聖 哲 章 皇 帝 皇 祖

考 聖 祖 體 天 昌 運 至 孝 純 德 文 武 明 斷 創 述 大 成 厚 澤 豐

功 仁 皇 帝 長 子 也 皇 祖 妣 佐 天 儷 聖 端 正 恭 和 篤 慶 慈 徽

明 賢 順 德 仁 皇 后 以 嘉 隆 六 年 丁 卯 夏 五 月 十 一 日 壬 子

甲 辰 刻 誕 聖 躬 於 京 城 東 之 春 祿 邑 邸 聖 誕 十 有 三 日 仁

皇 后 僊 馭 升 遐 乃 赤 哀 天 發 孺 性 神 鐘 痛 嗄 哀 啼 淚 血 不

止 世 祖 高 皇 帝 特 奇 之 以 為 後 日 必 能 全 孝 既 月 抱 見 請

名 奉 親 手 御 批 以 日 字 部 欽 賜 蓋 密 有 及 昌 之 卜 矣 皇 考

聰 明 出 類 而 遜 志 敏 學 乾 東 養 止 聖 敬 日 躋 皇 祖 方 以 主

鬯 承 祧 為 念 特 標 大 學 止 於 至 善 一 語 命 之 皇 考 拜 賜 銘

恩 服 膺 至 教 爰 名 堂 曰 止 善 堂 自 號 止 善 主 人 會 神 于 明

新 契 道 于 精 一 聖 學 淵 源 蓋 有 所 自 也 明 命 十 一 年 冊 封

長 慶 公 十 七 年 奉 璽 書 首 攝 親 臺 絛 奏 議 定 章 程 正 譜 系

74

表 廉 能 親 睦 著 於 家 邦 仁 孝 聞 於 天 下 皇 祖 深 為 嘉 悅 眷

注 時 異 數 委 以 裁 决 幾 務 尤 稱 聖 心 社 稷 至 計 默 已 注

定 矣 二 十 一 年 庚 子 冬 十 二 月 二 十 八 日 恭 受 遺 命 越 明

年 辛 丑 正 月 二 十 日 即 皇 帝 位 建 元 紹 治 日 升 初 政 蔚 然

精 明 敬 天 法 祖 勤 政 愛 民 一 以 皇 祖 心 法 為 心 治 法 為 治

嚴 恭 以 奉 郊 祀 誠 愨 以 事 陵 寢 至 德 馨 香 通 于 神 明 孝 山

用 隧 而 天 子 之 禮 隆 廟 號 稱 祖 而 譔 德 之 義 著 泰 壇 陟 配

大 孝 嚴 親 帝 后 同 尊 文 母 格 廟 備 禎 周 之 熙 典 光 翼 夏 之

始 基 孝 乎 純 孝 者 也 尊 事 順 天 高 皇 后 日 侍 歲 朝 怡 愉 色

養 稱 觴 掖 輦 備 至 情 文 合 九 州 之 歡 以 承 歡 集 天 下 之 福

以 為 福 五 代 同 堂 舉 行 晉 尊 慶 典 天 家 盛 事 簡 牒 希 聞 迨

夫 躬 執 通 喪 致 戚 盡 禮 崇 祀 右 陵 豫 配 高 寢 尤 有 以 上 光

我 皇 祖 尊 親 之 大 孝 開 史 局 設 專 員 求 遺 事 補 闕 略 校 正

編 摩 繼 成 列 聖 寔 錄 每 書 一 妴 再 三 盥 說 發 揮 義 例 致 精

致 詳 于 是 前 編 正 編 次 第 告 成 追 述 帝 業 致 艱 難 昭 垂 聖

謨 煥 乎 韙 哉 敦 親 則 優 禮 耆 藩 宴 開 惇 敘 人 家 父 子 之 樂

行 於 朝 廷 體 臣 則 旌 褒 舊 學 寵 眷 親 賢 明 良 喜 起 之 歌 形

於 篇 什 此 歲 開 開 科 一 年 两 榜 增 秋 圍 解 額 廣 州 縣 歲 貢

其 嘉 惠 士 林 者 至 矣 六 部 分 司 三 年 考 績 字 進 眾 職 甄 別

群 倫 其 董 正 治 官 者 詳 矣 蠲 逋 負 減 租 稅 賑 窮 乏 卹 彫 耗

75

初 元 以 後 寬 大 之 詔 歲 不 絕 書 偶 有 水 旱 偏 灸 朝 報 夕 發

勤 支 國 帑 累 萬 盈 千 靳 也 帝 耤 躬 耕 率 先 天 下 御 園 勞 穡

賞 及 農 夫 颁 頒 河 神 廟 聯 以 祈 安 瀾 能 久 安 河 工 以 息 橫

汜 嘗 於 宮 忠 中 為 民 密 禱 嚐 好 通 乎 箕 畢 玄 化 參 乎 亭 毒

堯 欽 文 敬 何 以 加 諸 秋 官 讞 上 反 覆 披 閱 頻 年 審 册 予 以

綬 勾 或 歲 杪 而 釋 縲 囚 或 佳 年 而 寬 大 辟 出 首 者 免 罪 脅

從 者 罔 治 全 活 漢 土 七 八 萬 計 恩 信 行 於 盜 賊 愷 悌 流 於

桁 楊 禹 車 湯 網 亦 不 是 過 修 大 南 會 典 詳 政 體 也 輯 紹 治

文 規 正 字 學 也 開 京 試 武 科 勵 戎 行 也 修 城 堡 礮 壹 嚴 海

防 也 流 官 改 土 著 而 吏 安 官 關 津 減 稅 額 而 民 樂 業 或 因

舊 而 致 詳 有 推 新 而 適 治 憂 深 盧 遠 杜 漸 防 微 戚 畹 不 得

預 政 孝 大 義 而 全 至 恩 洋 夷 不 許 通 鬲 杜 戎 心 而 尊 國 勢

賢 良 忠 義 詔 立 專 祠 所 以 勵 夫 氣 節 籌 幄 安 邊 御 銘 紀 績

所 以 勤 乎 有 功 若 乃 天 縱 多 能 幾 餘 翰 墨 敷 言 為 訓 資 道

開 人 聖 製 文 二 集 詩 四 集 有 御 題 圖 繪 史 論 皇 訓 北 巡 武

功 古 今 體 格 裁 成 輔 相 歷 代 帝 王 諸 集 不 出 六 七 寒 暑 書

成 一 十 四 部 而 止 善 堂 詩 文 會 集 成 於 潛 邸 者 又 十 六 卷

帝 王 傳 授 之 原 朝 廷 政 治 之 迹 寓 於 語 言 文 字 間 乾 苞 坤

符 煥 日 星 發 六 經 之 閫 奧 開 百 代 之 津 梁 鼓 之 舞 之 以 盡

神 為 治 教 休 明 之 一 天 運 會 自 丁 李 陳 黎 以 前 未 之 有 也

76

文 德 既 敷 武 功 載 纘 内 平 土 匪 外 讋 山 巒 左 顧 右 昐 動 有

成 奠 而 於 區 處 鎮 西 一 事 尤 得 禦 戎 上 策 先 是 蠻 民 不 靖

狼 狽 狂 暹 奉 我 皇 考 以 人 覆 物 以 智 燭 幾 先 固 吾 圉 用 康

我 民 積 之 五 年 然 後 命 將 出 師 聲 罪 致 討 暹 虜 乞 憐 臘 酋

歸 命 乃 鍚 之 封 典 下 詔 班 師 蓋 叛 則 震 之 服 則 懷 之 不 究

於 武 不 黷 於 兵 以 為 生 民 計 耳 凡 此 武 功 濟 威 以 德 興 滅

繼 絕 仁 也 禁 暴 安 民 義 也 今 邊 郵 無 烽 火 之 警 海 内 有 衽

席 之 安 將 臣 雍 熙 于 朝 四 民 和 會 于 野 然 後 知 聖 人 之 功

之 德 如 此 宏 博 自 非 聰 明 神 武 而 不 殺 者 孰 能 與 於 此 哉

蓋 至 善 存 諸 聖 學 神 化 發 於 事 功 用 見 於 經 天 緯 地 而 體

則 立 乎 主 敬 道 在 於 繼 志 述 事 而 要 則 隨 物 取 中 明 作 有

功 惇 大 成 裕 為 臣 者 無 怠 修 為 士 者 無 惰 行 為 民 者 無 弛

業 在 家 而 九 族 敘 在 國 而 百 姓 親 在 天 下 而 蠻 夷 格 化 光

六 合 瑞 應 十 成 治 在 七 年 效 及 百 世 盛 德 大 業 至 矣 去 秋

八 月 聖 體 違 和 猶 勉 勉 霄 旰 可 否 萬 幾 批 答 章 疏 不 爽 晷

子 臣 寢 門 侍 疾 虔 奉 愉 顏 方 蘀 日 晉 康 強 以 為 天 下 臣 民

之 福 豈 知 惟 天 難 諶 惟 聖 默 契 密 奉 硃 批 遺 诏 以 子 臣 嗣

大 統 預 宣 顧 命 諸 臣 敬 謹 緘 藏 迨 奉 玉 几 道 揚 握 子 臣 手

慇 懃 訓 諭 子 臣 聞 命 震 驚 五 内 摧 裂 始 知 宸 恩 宥 密 極 深

研 幾 其 於 天 人 性 命 之 原 國 家 長 遠 之 計 尤 若 是 其 安 詳

77

静 暇 正 大 光 明 者 也 九 月 二 十 七 日 癸 卯 疾 大 漸 癸 丑 刻

龍 馭 上 賓 于 乾 成 殿 聖 齡 壽 四 十 一 嗚 呼 痛 哉 攀 髯 號 弓

天 震 地 裂 從 此 小 子 其 何 怙 哉 伏 讀 遺 詔 有 云 勿 謂 善 小

而 不 為 勿 謂 惡 小 而 為 之 至 哉 善 乎 皇 考 寔 受 之 皇 祖 而

以 命 之 小 子 於 乎 悠 哉 小 子 未 有 述 惟 仰 遵 彝 訓 敬 踐 力

行 庶 於 付 畀 之 重 或 可 少 副 焉 皇 考 遺 命 山 陵 不 得 多 費

財 力 玉 音 在 耳 小 子 曷 敢 有 越 厥 志 謹 遵 成 命 奉 于 香 水

南 之 順 道 山 營 建 玄 宮 隧 道 一 遵 成 孝 陵 規 制 餘 以 禮 約

之 於 以 表 揚 皇 考 節 用 愛 民 之 遺 意 敬 卜 今 年 戊 申 夏 五

月 二 十 四 日 丙 申 刻 安 玄 宮 上 陵 曰 昌 陵 橋 山 在 望 崖 谷

同 悲 欲 報 之 德 昊 天 罔 極 嗚 呼 痛 哉 嗣 德 元 年 十 月 甲 子

日 小 子 御 恤 和 淚 謹 拜 手 稽 首 銘 曰

天 眷 大 南 善 止 於 至

篤 生 聖 神 明 明 以 新

赫 赫 二 祖 聖 學 帝 治

烈 光 前 人 專 乎 彌 綸

於 穆 皇 考 對 越 在 郊

之 德 之 純 昭 格 在 廟

聖 以 繼 聖 寶 錄 瑤 編

功 齊 德 均 以 篡 以 紹

78

肇 後 王 章 優 禮 耆 潘

玄 宮 隧 道 親 睦 九 族

稱 天 誄 祖 惇 敘 筳 開

世 室 右 考 支 庶 恩 錄

穹 宇 陟 配 勇 智 股 肱

嚴 親 大 報 龐 碩 心 腹

亦 右 文 母 帝 及 作 歌

遹 追 來 孝 懋 勉 交 勗

心 不 匱 長 忠 義 賢 良

信 承 歡 愛 興 懷 往 躅

宮 朝 寢 問 妥 以 專 祠

愛 深 敬 殫 封 建 厥 福

五 代 同 堂 專 施 濟 眾

德 無 福 完 闓 澤 覃 敷

天 家 樂 事 蠲 租 釋 負

慶 洽 人 寰 潤 涸 繁 枯

徽 稱 榮 鏡 一 民 有 罪

彤 管 流 冊 帝 於 其 愚

生 商 表 德 商 湯 祝 網

百 世 不 刊 夏 禹 泣 辜

79

三 宥 肆 赦 一 年 兩 榜

刑 期 于 無 七 載 九 科

全 活 漢 土 士 林 蔚 彩

七 八 萬 夫 學 海 覃 波

政 本 仁 思 宸 章 倬 漠

治 有 典 則 天 包 地 羅

省 括 于 度 文 經 詩 史

舊 章 是 式 敭 盛 播 和

一 日 二 日 粵 在 初 年

萬 幾 致 敕 西 陲 不 靖

大 計 考 成 思 籹 圖 功

治 官 分 職 徂 惟 求 定

品 備 機 周 赫 我 楦 熊

百 為 整 飭 戢 彼 臬 獍

帝 道 遐 昌 暹 既 服 義

皇 猷 以 寨 臘 乃 歸 命

於 皇 作 人 繼 絕 存 亡

棫 樸 菁 莪 完 師 晏 境

歲 貢 增 廣 煙 火 不 驚

解 額 加 多 室 家 相 慶

80

功 成 纘 武 歲 丁 未 秋

治 大 興 文 力 疾 聽 治

國 安 夷 服 母 忘 天 下

物 阜 民 殷 母 忘 小 子

道 化 翔 洽 遺 詔 手 批

至 和 氤 氳 德 音 在 耳

氳 十 成 紀 煢 煢 眇 徹

盛 巍 堯 勳 易 克 繼 志

治 左 七 年 戴 德 懷 功

上 帝 昭 聞 高 山 仰 止

猶 日 孳 孳 敬 謹 真 珉

弗 倦 于 勤 昭 垂 奕 禩

孝 子 嗣 皇 帝 臣 時 謹 識

2.4.2. Phiên âm

Xương Lăng thánh đức thần công bi

Ngã Đại Nam, thụ thiên quyến tịch, la đồ vũ trụ quảng Trần Lê, phong hội

chấn Hùng Lạc. Việt tự nam phục kiến bang, tích công luỹ nhân nhị bách dư tải

ký. Ngã Thế tổ Cao hoàng đế, kinh luân thiên tạo khôi khoách đế hoành, ngã

Thánh tổ Nhân hoàng đế, nhuận sắc hoành du tập hi, hoàng tộ, thụ thử vô cương

đại lịch phục, dụng phu di hậu nhân hưu hồng. Duy ngã hoàng khảo Hiến tổ

chương hoàng đế, thống thừa nhị tổ chi hưu liệt quang xiển trọng hy chi cảnh vận

đạo long kế thuật soạn hợp thanh ninh thánh thần công đức huy hoán khung

nhưỡng miễu. Tư tiểu tử, hạt túc dĩ quy thiên cực cảnh thôn luân, cố tính thân thụ

phó thác chi trọng nhật, tư kế tự chi gian. Kính dụng soạn thuật hồng mô phô

81

dương, hưu thước lặc chi trinh mân ư dĩ chiêu thuỳ vu vạn vạn thế.

Ô hô! thống tai! Ngã Hoàng khảo Hiến tổ Thiệu Thiên Long Vận Chí Thiện

Thuần Hiếu Khoan Minh Duệ Đoán Văn Trị Vũ Công Thánh Triết Chương hoàng

đế Hoàng tổ Khảo Thánh tổ Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thuần Đức Văn Vũ

Minh Đoạn Sáng Thuật Đại Thành Hậu Trạch Phong Công Nhân hoàng đế trưởng

dã, Hoàng tổ Tỷ Tá Thiên Lệ Thánh Đoan Chính Cung Hoà Đốc Khánh Từ Huy

Minh Hiền Thuận Đức Nhân hoàng hậu, dĩ Gia Long lục niên, Đinh mão hạ ngũ

nguyệt, thập nhất nhật Nhâm tý, Giáp thìn khắc, đản thánh cung ư kinh thành đông

chi Xuân Lộc ấp để. Thánh đản thập hựu, tam nhật, Nhân hoàng hậu tiên ngự

thăng hà, nãi xích ai thiên phát nhụ tính thần chung, thống sá ai đề, lệ huyết bất

chỉ. Thế tổ Cao hoàng đế đặc kì chi, dĩ vi hậu nhật tất năng toàn hiếu, ký nguyệt

bão kiến thỉnh, danh phụng thân thủ ngự phê dĩ Nhật tự bộ khâm tứ. Cái mật hữu

cập xương chi bốc hỹ. Hoàng khảo thông minh xuất loại, nhi tốn chí mẫn học,

Kiền Đông dưỡng, chỉ thánh kính nhật tê. Hoàng tổ phương dĩ chủ sưởng thừa

thiêu vi niệm, đặc tiêu đại học chỉ ư chí thiện nhất ngữ mệnh chi. Hoàng khảo bái

tứ minh ân phục ưng chí giáo viên, danh đường viết: Chỉ thiện đường tự hiệu, chỉ

thiện chủ nhân, hội thần vu minh tân, khế đạo vu tinh nhất, thánh học uyên nguyên

cái hữu sở tự dã. Minh Mệnh thập nhất niên, sách phong Trường Khánh Công.

Thập thất niên phụng tỷ thư, thủ nhiếp thân đài điều tấu nghị định chương trình.

Chính phả hệ biểu liêm năng, thân mục trước ư gia bang, nhân hiếu văn ư thiên hạ.

Hoàng tổ thâm vi gia duyệt, quyến chú đặc dị số uỷ dĩ tài quyết cơ vụ, vưu xứng

thánh tâm. Xã tắc chí kế mặc dĩ chú định hỹ. Nhị thập nhất niên Canh tý đông,

thập nhị nguyệt, nhị thập bát nhật, cung thụ di mệnh. Việt minh niên Tân sửu

chính nguyệt nhị thập nhật, tức hoàng đế, vị kiến nguyên Thiệu Trị nhật thăng. Sơ

chính uý nhiên tinh minh, kính thiên pháp tổ cần chính, ái dân, nhất dĩ hoàng tổ

tâm pháp vi tâm trị pháp vi trị, nghiêm cung dĩ phụng giao tự, thành xác dĩ sự lăng

tẩm chí đức, hinh hương thông vu thần minh. Hiếu Sơn dụng toại nhi thiên tử chi

lễ long, miếu hiệu xưng tổ, nhi soạn đức chi nghĩa trước.

Thái đàn trắc phối đại hiếu nghiêm thân, đế hậu đồng tôn, văn mỗi cách

miếu bị, trinh chu chi hi điển quang dực hạ chi thuỷ cơ hiếu, hồ thuần hiếu giả

dã. Tôn sự Thuận Thiên Cao hoàng hậu, nhật thị tuế triều, di du sắc dưỡng, xứng

82

thương dịch liễn bị chí tình. Văn hợp cửu châu chi hoan dĩ thừa hoan tập thiên hạ

chi phúc dĩ vi phúc, ngũ đại đồng đường, cử hành tấn tôn khánh điển. Thiên gia

thịnh sự giản điệp hy văn đãi phù, cung chấp thông táng trí thích tận lễ, sùng tự

hữu lăng, dự phối cao tẩm vưu hữu dĩ thượng quang ngã hoàng tổ tôn thân chi

đại hiếu. Khai sử cục, thiết chuyên viên cầu di sự, bổ khuyết lược giáo chính biên

ma kế thành Liệt thánh thực lục. Mỗi thư nhất thượng, tái tam quán duyệt, phát

huy nghĩa lệ, trí tinh trí tường. Vu thị Tiền biên, Chính biên thứ đệ cáo thành,

truy thuật đế nghiệp trí gian nan chiêu thuỳ thánh mô, hoán hồ vĩ tai. Đôn thân

tắc ưu lễ kỳ phiên, yến khai đôn, tự nhân gia phụ tử chi lạc hành ư triều đình, thể

thần tắc tinh bao cựu học, sủng quyến thân, hiền minh, lương hỷ khởi chi ca hình

ư thiên thập. Thử tuế khai khai khoa nhất niên lưỡng bảng, tăng thu vi giải ngạch,

quảng châu huyện tuế cống. Kỳ gia huệ sĩ lâm giả chí hỹ. Lục bộ phân ti ty, tam

niên khảo tích tự, tiến chúng chức chân, biệt quần luân kỳ đổng chính trị quan giả

tường hỹ. Quyên bô phụ giảm tô thuế, chẩn cùng phạp, tuất điêu hao sơ nguyên

dĩ hậu, khoan đại chi chiếu, tuế bất tuyệt thư. Ngẫu hữu thuỷ hạn thiên cứu, triều

báo tịch phát cần chi quốc nô luỹ vạn, doanh thiên cận dã. Đế viết cung canh suất

tiên thiên hạ ngự viên lao tường thưởng cập nông phu. Ban hà thần miếu liên dĩ

kỳ an lan, năng Cửu An hà công dĩ tức hoành tỷ. Thường ư cung trung vi dân mật

đảo, thường hiếu thông hồ ky tất huyền hoá tham hồ đình độc. Nghiêu khâm văn

kính hà dĩ gia chư. Thu quan nghiện thượng, phản phúc phi duyệt tần niên, thẩm

sách dư dĩ thụ câu, hoặc tuế miểu nhi thích lụy tù, hoặc giai niên nhi khoan đại

bích, xuất thủ giả miễn tội, hiếp thung tòng giả võng trị, toàn hoạt hán thổ thất

bát vạn kế, ân tín hành ư đạo tặc, khải đễ lưu ư hành, dương Vũ xa Thang võng

diệc bất thị quá. Tu Đại Nam hội điển tường chính thể dã, tập Thiệu Trị văn quy

chính tự học dã. Khai kinh thí vũ khoa lệ nhung hành dã. Tu thành phố nhất

nghiêm hải phòng dã. Lưu quan cải thổ trứ nhi lại an quan quan, tân giảm thuế

ngạch nhi dân lạc nghiệp. Hoặc nhân cựu nhi chí tường, hữu thôi tân nhi thích trị.

Ưu thâm lư viễn, đỗ tiệm, phòng vi thích. Uyển bất đắc dự chính, hiếu đại nghĩa

nhi toàn chí ân, Dương Di bất hứa thông cách đỗ nhung tâm nhi tôn quốc thế.

Hiền lương trung nghĩa chiếu lập chuyên từ sở dĩ lệ phù khí tiết trù ác an biên,

ngự minh kỷ tích sở dĩ cần hồ hữu công .

83

Nhược nãi, thiên túng đa năng, cơ dư hàn mặc phu, ngôn vi huấn tư đạo

khai nhân. Thánh chế văn nhị tập, thi tứ tập, hựu Ngự đề đồ hội, Sử luận, hoàng

huấn Bắc tuần vũ công, cổ kim thể cách tài thành phụ tướng, lịch đại đế vương

chư tập. Bất xuất lục thất hàn thử thư thành nhất thập tứ bộ. Nhi chỉ thiện đường

thi văn hội tập thành ư tiềm để giả, hựu thập lục quyển. Đế vương truyền thụ chi

nguyên, triều đình chính trị chi tích ngụ ư ngữ ngôn. Văn tự gian kiền bao khôn

phù hoán nhật tinh phát lục kinh chi khổn áo, khai bách đại chi tân lương, cổ chi

vũ chi dĩ tận thần vi trị giao hưu minh chi nhất thiên vận hội, tự Đinh, Lý, Trần,

Lê dĩ tiền vị chi hữu dã. Văn đức ký phu vũ công tải toản, nội bình thổ phỉ, ngoại

triếp sơn loan, tả cố hữu yêu động hữu thành điện, nhi ư khu xứ Trấn Tây, nhất

sự vưu đắc ngự nhung thượng sách. Tiên thị Man dân bất tịnh, lang bái cuồng

Xiêm phụng. Ngã Hoàng khảo dĩ nhân phúc vật, dĩ trí chúc cơ, tiên cố ngô ngữ

dụng khang ngã dân, tích chi ngũ niên, nhiên hậu mệnh tướng xuất sư thanh tội

chí thảo, Xiêm lỗ khất, lân Lạp tù quy mệnh. Nãi dương chi phong điển, hạ chiếu

ban sư. Cái bạn tắc chấn chi, phục tắc hoài chi. Bất cứu ư vũ bất độc ư binh dĩ vi

sinh dân kế nhĩ. Phàm thử vũ công, tế uy dĩ đức hưng diệt, kế tuyệt nhân dã. Cấm

bạo an dân, nghĩa dã. Kim biên bưu vô phong hỏa chi cảnh hải, nội hữu nhẫm

tịch chi an, tướng thần ung hy vu triều, tứ dân hoà hội vu dã. Nhiên hậu tri thánh

nhân chi công chi đức như thử hoành bác, tự phi thông minh thần vũ nhi bất sát

giả thục năng, dữ ư thử tai cái chí thiện tồn chư thánh học thần hoá phát ư sự.

Công dụng kiến ư kinh thiên vĩ địa nhi thể tắc lập hồ chủ kính, đạo tại ư kế chí

thuật sự, nhi yêu tắc tuỳ vật thủ trung. Minh tác hữu công đôn đại thành dụ, vi

thần giả vô đãi tu, vi sĩ giả vô đoạ hành, vi dân giả vô trì nghiệp. Tại gia nhi cửu

tộc tự, tại quốc nhi bách tính thân, tại thiên hạ nhi man di cách, hoá quang lục

hợp thụy ứng thập thành, trị tại thất niên hiệu cập bách thế, thịnh đức đại nghiệp

chí hỹ. Khứ thu bát nguyệt, thánh thể vi hoà, do miễn miễn tiêu cán khả phủ vạn

cơ, phê đáp chương sớ, bất sảng quỹ. Tử thần, tẩm môn thị tật kiền phụng du,

nhan phương thác nhật tấn khang cường, dĩ vi thiên hạ thần dân chi phước khởi.

Tri duy thiên nan kham, duy thánh mặc khế mật, phụng chu phê di chiếu dĩ Tử

thần tự đại thống, dự tuyên cố mệnh chư thần, kính cẩn giam tàng. Đãi phụng

ngọc cơ đạo dương ác tử thần thủ ân cần huấn dụ. Tử thần văn mệnh chấn kinh

84

ngũ nội thôi liệt thuỷ tri thần ân hựu mật cực thâm, nghiên cơ ư thiên nhân tính

mệnh chi nguyên, quốc gia trường viễn chi kế, vưu nhược thị kỳ an tường tĩnh

hạ, chính đại quang minh giả dã. Cửu nguyệt, nhị thập thất nhật, Quý mão tật đại

tiệm, Quý sửu khắc long ngự thượng tân vu Càn Thành điện. Thánh linh thọ tứ

thập nhất. Ô hô! Thống tai phan nhiêm hiệu cung, thiên chấn địa liệt tùng, thử

tiểu tử kỳ hà hỗ tai? Phục độc di chiếu, hữu vân: “vật vị thiện tiểu nhi bất vi, vật

vị ác tiểu nhi vi chi”. Chí tai thiện hồ! Hoàng khảo thực thụ chi Hoàng tổ nhi dĩ

mệnh chi tiểu tử. Ô hồ! du tai! Tiểu tử vị hữu thuật duy ngưỡng tuân di huấn kính

tiễn lực hành thứ ư phó ti chi trọng, hoặc khả thiểu phó yên.

Hoàng khảo di mệnh Sơn Lăng bất đắc đa phí tài lực. Ngọc âm tại nhĩ tiểu

tử hạt cảm hữu việt, quyết chí cẩn tuân thành mệnh phụng. Vu hương thuỷ nam

chi Thuận Đạo sơn, doanh kiến huyền cung Toại đạo nhất tuân thành Hiếu Lăng

quy chế, dư dĩ lễ ước chi ư dĩ biểu dương Hoàng khảo tiết dụng ái dân chi vị ý.

Kính bốc kim niên Mậu thân, hạ ngũ nguyệt, nhị thập tứ nhật, Bính thân khắc an

huyền cung thượng lăng, viết Xương Lăng. Kiều Sơn tại vọng nhai cốc đồng bi,

dục báo chi đức hạo thiên võng cực. Ô hô! Thống tai!

Tự Đức nguyên niên, thập nguyệt, Giáp tý nhật, tiểu tử ngự tuất hoà lệ cẩn

bái thủ kê thủ. Minh viết:

Thiên quyến Đại Nam Chiêu cách tại miếu

Đốc sinh thánh thần Bảo lục dao biên

Hách hách nhị tổ Dĩ soán dĩ thiệu

Liệt quang tiền nhân Triệu hậu vương chương

Ư mục hoàng khảo Huyền cung toại đạo

Chi đức chi thuần Xưng thiên luỵ tổ

Thánh dĩ kế thánh Thế thất hữu khảo

Công tề đức quân Khung vũ trắc phối

Thiện chỉ ư chí Nghiêm thân đại báo

Minh minh dĩ tân Diệc hữu văn mẫu

Thánh học đế trị Duật truy lai hiếu

Chuyên hồ di luân Tâm bất quỹ trường

Đối việt tại giao Tín thừa hoan ái

85

Cung triều tẩm vấn Hình kỳ vu vô

Ái thâm kính đàn Toàn hoạt hán thổ

Ngũ đại đồng đường Thất bát vạn phu

Đức vô phúc hoàn Chính bản nhân tư

Thiên gia lạc sự Trị hữu điển tắc

Khánh hiệp nhân hoàn Tỉnh quát vu độ

Huy xưng vinh kính Cựu chương thị thức

Đồng quản lưu sách Nhất nhật nhị nhật

Sinh thương biểu đức Vạn cơ chí sắc

Bách thế bất khan Đại kế khảo thành

Ưu lễ kỳ phan Trị quan phân chức

Thân mục cửu tộc Phẩm bị cơ chu

Đôn tự đình khai Bách vi chỉnh sức

Chi thứ ân lục Đế đạo hà xương

Dũng trí cổ quăng Hoàng du dĩ trại

Bàng thạc tâm phúc Ư hoàng tác nhân

Đế cập tác ca Vực bộc thanh nga

Mậu miễn giao húc Tuế cống tăng quảng

Trung nghĩa hiền lương Giải ngạch gia đa

Hưng hoài vãng độc Nhất niên lưỡng bảng

Thoả dĩ chuyên từ Thất tải cửu khoa

Phong kiến quyết phúc Sĩ lâm uý thể

Chuyên thi tế chúng Học hải đàm ba

Khải trạch đàm phu Thần chương trác mạc

Quyên tô thích phụ Thiên bao địa la

Nhuận hạt phồn khô Văn kinh thi sử

Nhất dân hữu tội Dương thịnh bá hoà

Đế ư kỳ ngu Việt tại sơ niên

Thương thang chúc võng Tây thuỳ bất tịnh

Hạ ngu khấp cô Tư nữ đồ công

Tam hựu tứ xá Tồ duy cầu định

86

Hách ngã tuyên hùng Trị tại thất niên

Trấp bỉ niết cánh Thượng đế chiêu văn

Xiêm ký phục nghĩa Do nhật tư tư

Lạp nãi quy mệnh Phất quyện vu cần

Kế tuyệt tồn vong Tuế đinh mùi thu

Hoàn sư yến cảnh Lực tật thính trị

Yên hoả bất kinh Mẫu vong thiên hạ

Thất gia tướng khánh Mẫu vong tiểu tử

Công thành toản vũ Di chiếu thủ phê

Trị đại hưng văn Đức âm tại nhĩ

Quốc an di phục Quỳnh quỳnh miễu triệt

Vật phụ dân ân Dị khắc kế chí

Đạo hoá tường hiệp Đái đức hoài công

Chí trị hoà huân Cao sơn ngưỡng chỉ

Huân thập thành kỷ Kính cẩn chân dân

Thịnh nguy nghiêu huân Chiêu thuỳ dịch tự.

Hiếu tử tự hoàng đế thần Thì cẩn thức.

2.4.3. Dịch nghĩa

Bia thánh đức thần công ở Xương Lăng *

Nước Đại Nam ta, chịu mệnh trời yêu, ở đất lớn, bờ cõi rộng lớn hơn nhà

Trần nhà Lê, phong hội mở mang hơn đời Hùng đời Lạc. Nhớ tự cõi Nam dựng

nước, lắm đức nhiều dân, đã hơn 2 trăm năm. Kịp đến Thế tổ Cao hoàng đế ta

[Gia Long]: xoay đổi vận trời mở mang bờ cõi. Thánh tổ Nhân hoàng đế ta

[Minh Mạng], sửa sang mưu rộng, nối sang ngôi tôn, nhận lấy cơ nghiệp lớn

lao vô ngần, để lại phúc tốt cho người sau thừa hưởng. Kính nghĩ: Hoàng khảo

Hiến tổ Chương hoàng đế ta [Thiệu Trị]: Nối theo công tốt để lại của 2 vua

trước, mở ra vận lớn sáng tỏ tới 2 lần. Đạo thống tôn trọng việc nối theo, việc

làm hợp với đạo trời đất. Công đức thần thánh, sáng rực đất trời. Nay kẻ tiểu tử

này [Tự Đức], đâu đủ để xét đến chân trời, đo tính bóng sáng mặt trời. Nhưng vì

* Theo bản dịch của Quốc sử quán triều Nguyễn trong Đại Nam thực lục (2007), NXB Giáo dục

thân chịu việc phó thác nặng nề, nhưng nghĩ việc nối dõi khó nhọc. Kính thuật

87

lại mưu mô to lớn, để phô bày đức tốt rỡ ràng - Khắc vào bia đá, để lưu lại rõ rệt

đến muôn muôn đời. Than ôi! Thương thay! Hoàng khảo Hiến tổ [Thiệu Trị],

Thiệu Thiên Long Vận Chí Thiện Thuần Hiếu Khoan Minh Duệ Đoán Văn Tự Vũ

Công Thánh Triết Chương hoàng đế ta, là con trưởng của Hoàng tổ khảo Thánh

tổ Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thần Đức Văn Vũ Minh Đoán Sáng Thuật Đại

Thành Hậu Trạch Phong Công Nhân hoàng đế [Minh Mạng] và Hoàng tổ Tỉ là

Tá Thiên Lệ Thánh (1) Đoan Chính Cung Hoà Đốc Khanh Từ Huy Minh Hiền

Thuận Đức Nhân hoàng hậu vào năm Đinh mão năm Gia Long thứ 6, mùa hạ

tháng 5, ngày 11 là ngày Nhâm tí, giờ Giáp thìn sinh ra ở nhà riêng ấp Xuân Lộc

về phía đông kinh thành. Sinh ra mới được 13 ngày, thì Nhân hoàng hậu mất (2).

Thế mà tấm lòng son tự trời bẩm sinh, tính thương nhớ do thần chung đúc, đau

khóc kêu thương, lệ sa không dứt. Thế tổ Cao hoàng đế [Gia Long] lấy làm kỳ dị,

cho là ngày sau tất làm người con giữ vẹn đạo hiếu. Khi đã đầy tháng, ẵm đến ra

mắt [Thế tổ] xin đặt tên. Được [Thế tổ] tay ngự phê lấy bộ chữ “nhật” 日 để đặt

(3) là ngầm có ý muốn theo như nhà Chu truyền ngôi cho Quý Lịch [tức Vương

Quý] rồi truyền đến Xương [tức Văn Vương](4). Hoàng khảo ta là người thông

minh vượt bậc, mà nhún chí chăm học, cung Kiền đông nuôi dạy, thánh đức ngày

tăng thêm. Ý Hoàng tổ được lấy việc đứng chủ tế tự thừa nối tổ tiên để giao phó

cho, nên trích lấy 1 câu nói ở sách Đại học là: “chỉ ư chí thiện” nghĩa là cốt giữ

điều rất phải để dạy bảo. Hoàng khảo lạy vâng ơn ban ghi nhớ lời dạy, bèn đặt

tên nhà học là nhà Chỉ Thiện, tự đặt tên hiệu là Chí thiện chủ nhân (5), để tinh

thần vào việc sáng đức mới dân, thấu đạo thống khổ tinh vi thuần nhất, thánh

học rộng sâu, căn bản là vì ở đó. Năm Minh Mệnh thứ 11(1830) sách phong làm

Trường Khánh Công. Năm thứ 17 (1836), vâng dụ chỉ đứng đầu giữ công việc

Tôn nhân phủ (6), điều trần tâu bày những việc bàn định chương trình đính

chính lại hệ thống trong ngọc phả, nên khen người thanh liêm, tài năng, tính thân

mục tỏ rõ ở nước nhà, tiếng nhân hiếu vang đồn khắp thiên hạ. Hoàng tổ rất

khen ngợi vui lòng, yêu dấu đặc biệt, thường ủy cho quyết định công việc, càng

được xứng hợp lòng Hoàng tổ (7). Kế lâu dài của nhà đã ngầm quyết định như

vậy. Năm Canh tí (Minh mệnh) thứ 21(1840), mùa đông tháng 12, ngày 28 kính

chịu mệnh lệnh để lại qua năm là năm Tân sửu tháng giêng ngày 20 lên ngôi

88

hoàng đế, đặt năm đầu là niên hiệu Thiệu Trị (8). Chính trị buổi mới như mặt

trời mới mọc, rỡ ràng trong sáng; Kính đạo trời bắt chước tổ, chăm việc nước

yêu thương dân, đều theo tâm pháp của Hoàng tổ để làm lòng, trị pháp của

Hoàng tổ để trị nước; nghiêm kính để thờ phụng tế giao, thành thực để thờ cúng

lăng tẩm; đức tốt thơm lừng thấu đến thần minh. Hiếu Sơn chôn dùng đường

ngầm, mà lễ Ninh Lăng của thiên tử được long trọng, miếu hiệu tôn xưng là Tổ,

mà nghĩa tổ đức của tổ tiên rõ ràng.

Thái Đàn (9) thờ sánh với trời là đối với nghiêm thân (10) có đại hiếu, đế

hậu tôn ngang một bậc thì kính rước ân mẫu lên miếu thờ (11). Có đủ điển sáng

làm điềm lành như nhà Chu, rạng rỡ nền mới giúp cơ nghiệp cho nhà Hạ. Thực

là hiếu hơn các bậc thuần hiếu vậy. Tôn thờ Thuận Thiên Cao hoàng hậu hết lễ,

khi hàng ngày đứng hầu, khi đầu năm đến chầu, phụng dưỡng bằng sắc mặt vui

vẻ; nào dâng chén chúc mới, nào dâng đỡ lên kiệu, tình văn gồm đủ cả mọi bề.

Hợp cuộc vui của 9 châu để dâng vui; gồm mọi phúc của thiên hạ để chúc

phúc. Một nhà sum họp đông đủ 5 đời, cử hành điển lễ tấn tôn huy hiệu. Thực là

thịnh sự của nhà vua, sách vở xưa nay hiếm thấy. Kíp khi để tang trong 3 năm

xót thương tận lễ. Tôn thờ Hữu Lăng (12), dự tính phối hưởng vào điện thờ Cao

hoàng đế, càng tỏ ra tấm lòng đại hiếu của hoàng tổ ta tôn kính bề thân. Mở sử

cục, đặt chuyên viên, tìm việc bỏ sót, bổ thêm việc thiếu, đính chính biên chép nối

làm xong bộ sách “Liệt thánh thực lục”(13). Mỗi khi sách ấy dâng lên, tất phải

2,3 lần rửa tay kính duyệt, phát huy nghĩa và lệ, rất mực tinh tường. Vì thế, sách

Tiền biên, sách Chính biên lần lượt làm xong. Thuật lại sự gây dựng nghiệp đế

rất khó nhọc, tỏ bày mưu mô của liệt thánh đến sau này. Rỡ ràng thay! Tốt đẹp

thay! Về việc hậu đãi người thân, thì ưu lễ các bậc thân phiên tuổi già, mở yến tỏ

tình hòa mục, sự vui thú của cha con trong nhà, làm ra ngay ở triều đình; thể tất

các quan thì nên thưởng các người cựu học, yêu mến mọi bậc thân, hiền, bài ca

hát về vua tôi mừng vui tỏ ra ở trong thiên thập. Liền năm mở khoa thi cử một

năm 2 lần treo bảng, tăng thêm giải ngạch thi hương, rộng mở cống sĩ hàng năm

châu huyện, về việc gia ơn cho bọn học trò đã chu chí vậy; 6 bộ chia ty giữ việc,

3 năm khảo xét bàn công, cất nhắc mọi chức có thứ bậc, phân biệt từng hạng

người về cách trông coi sửa chữa các quan trường đã tường tận vậy (14). Tha

89

trốn thiếu, giảm thuế tô, chẩn cấp người cùng túng, thương xót kẻ điêu háo từ lúc

mới lên ngôi trở về sau, ban xuống chiếu thư khoan rộng, hàng năm không dứt

chép ra. Ngỡ có tai riêng hạn lụt, sáng báo tin thì chiều đã cứu giúp, chi tiêu của

kho trong nước kể có hàng vạn hàng nghìn cũng không tiếc vậy. Thân đi cày

ruộng tịch điền, xướng xuất trước cho thiên hạ làm gương. Vườn ngự chịu khó

gặt lúa, thưởng đến kẻ nông phu. Ban câu đối ở miếu thờ thần hà bá, để cầu cho

sông được êm dòng (15); sai dân công đắp giữ sông Cửu An, để tránh khỏi sự đê

vỡ (16), thường vì dân chúng ngầm khấn ở trong cung. Lòng ưa muốn thông đến

việc gió mưa, đức mầu nhiệm sáng cùng đạo trời đất. Dẫu đến đức khâm kính

như vua Nghiêu vua Văn Vương cũng không hơn được. Hình quan dâng bản xét

án, mở xét kỹ càng nhiều năm. Xét danh sách tội tù, cho được hoãn xử quyết,

hoặc cuối năm mà thả tù giam, hoặc năm nhiều điềm tốt mà khoan rộng tội xử

tử. Kẻ ra thú thì tha tội, kẻ bị bắt hiếp đi theo thì không trị tội. Dân Kinh dân Thổ

được tha cho sống, kể có 7, 8 vạn người. Ân tín đến cả bọn cướp giặc, dễ dãi khắp

đến kẻ tội tù. Dẫu đến nhân trạch như vua Vũ xuống xe khóc người có tội, như vua

Thang cởi bỏ 3 mặt lưới (17) cũng không hơn thế. Sửa bộ “Đại Nam hội điển”

(18), là làm cho chính thể rõ ràng; làm tập “Thiệu Trị văn quy” (19) là dạy cho tự

học được đúng. Mở khoa thi võ ở Kinh là để nghiêm việc phòng bị ngoài biển (20).

Dùng lưu quan để đổi cho thổ quan mà quan lại yên chức nghiệp; giảm ngạch

thuế ở các nơi quan tấn, mà nhân dân vui việc làm ăn. Hoặc nhân cũ mà làm cho

đầy đủ thêm; hoặc thay mới mà thích hợp với trị đạo. Lo sâu nghĩ xa, ngăn chặn

việc mới đốm ra, phòng giữ việc mới mầm mống. Người họ ngoại không được dự

vào chính trị, để giữ nghĩa lớn mà vẹn ơn sâu; người Tây dương không cho đến

thông thương là để chặn lòng mọi rợ mà tôn cao thế nước. Người hiền lương trung

nghĩa, xuống chiếu cho lập đền thờ riêng, cốt để kích khuyến người khí tiết; người

mưu tính dẹp yên cõi ven, được ngự chế bài minh nghị công, cốt để khuyên người

có công.

Lại còn, trời bẩm sinh ra nhiều tài năng, khi rỗi việc để ý văn nghệ, nói ra

làm khuôn mẫu mà bảo cho người sau. Ngự chế 2 tập văn, 4 tập thơ, lại có

những tập: Ngự đề đồ hội, Sử luận, Hoàng huấn, Bắc tuần võ công, Cổ kim thể

cách (21), Tài thành phụ tướng, Lịch đại đế vương, không đầy 6, 7 năm, mà làm

90

xong 14 bộ sách. Lại tập “Chỉ thiện đường thi văn hội”, làm ra từ khi ở nơi phủ

đệ, có 16 quyển nữa. Những nguồn gốc truyền thụ của đế vương, những việc

chính trị của triều đình, đều ngự ở trong lời nói và văn tự cả. Những thi văn ấy

như là đồ sông Hà, thư sông Lạc tỏ bày như ánh sáng của mặt trời của ngôi sao,

mở tỏ sự huyền bí của 6 kinh, mở ra đường lối dìu dắt cho trăm đời sau này. Cổ

vũ hết lòng là một vận hội lớn chính trị và giáo hóa đều tốt đẹp tươi sáng, từ

Đinh, Lý, Trần, Lê trở về trước, chưa có bao giờ. Văn đức đã nên võ công lại

nối, bên trong dẹp yên bọn thổ phỉ, bên ngoài thuyết phục bọn sơn man. Trông

bên hữu nhìn bên tả, làm việc gì đều có mưu chước sẵn sàng, mà về việc khu xử

với thành Trấn tây, lại càng thấy mưu chước xử trí bọn giặc rất giỏi. Trước đây,

dân Man làm loạn, nương tựa vào nước Xiêm ngông cuồng. Hoàng Khảo ta dùng

điều nhân để che trùm mọi vật, dùng điều trí để xét rõ thời cơ, trước hãy giữ

vững bờ cõi của ta, làm cho dân ta mạnh khỏe, lâu mãi đến 5 năm, rồi mới sai

tướng ra quân, kể tội ra mà đánh, thì giặc Xiêm van lạy, người Lạp quy hàng.

Bèn ban cho phong điền, xuống chiếu rút quân. Vì là phản bội thì đánh cho biết

sợ, theo phục thì vỗ về cho nhớ ơn. Không theo đuổi về nghề võ, không càn nhảm

về việc binh, cốt để làm kế cho dân được sống yên mà thôi. Phàm những võ công

ấy, đều là lấy đức để giúp uy dựng lại nước bị diệt, nối cho dòng đã tuyệt, đó là

điều nhân; cấm kẻ tàn bạo để giữ yên dân, đó là điều nghĩa. Nay cõi ven không

có việc khói lửa cảnh cấp; trong nước được yên nơi chiếu chăn; các tướng yên

vui ở triều đình; tứ dân hòa hợp ở đồng ruộng. Thế mới biết công đức của thành

nhân rộng lớn đến như thế. Nếu không là bậc thông minh thần võ không hay giết

người thì ai được dự vào đấy ư! Vì là lòng chỉ thiện gốc ở thánh học, được thần

diệu phát ra việc làm. Về công dụng thì hiện ra ở việc sửa sang đất mà thể chất

thì do ở lòng chủ kính; về đạo lý thì cốt ở nối chí trước theo việc xưa, mà cốt yếu

thì tùy việc giữ mức trung. Sáng tỏ chuẩn tắc để nên công, đôn hậu rộng lớn để

sửa tục. Kẻ làm tôi sửa mình không lười, người học trò học hành không biếng.

Kẻ làm dân không trễ nải nghề nghiệp. Ở trong nhà thì 9 họ hòa mục, ở trong

nước thì trăm họ thân yêu, đối với thiên hạ thì mán mọi phục tùng. Đức hòa sáng

khắp sáu cõi, điềm lành ứng hiện mười phần. Trị nước trong 7 năm, công hiệu

đến trăm đời. Thực là đức thịnh nghiệp lớn lắm vậy. Mùa thu tháng 8 năm ngoái,

91

thánh thể không được khỏe, ngài vẫn còn chăm chắm khuya sớm quyết định

muôn việc, phê đáp chương sớ, giờ phút không sai. Con nhỏ này, nằm ở ngoài

cửa hầu bệnh, kính hầu làm vui. Đương mong ngày tiến lên mạnh khỏe, để đem

phúc lại cho thần dân cả thiên hạ. Ngờ đâu mệnh trời khó tin, duy ở lòng thánh

ngầm biết, vâng châu phê tờ chiếu để lại, cho con là thần này nối mối lớn, truyền

bảo sẵn cho các cố mạng đại thần, kính cẩn dán kín cất đi. Tới khi bệnh nặng tựa

kỷ ngọc nói ra mệnh lệnh cuối cùng, ngài cầm tay con là thần này cặn kẽ dạy

bảo. Con là thần này nghe được mệnh lệnh rất kính sợ, gan ruột như xé vò, mới

biết lòng Ngài nghĩ ngợi rất kín đáo, tính việc rất sâu, về cội gốc tính mệnh của

trời và người, về mưu kế lâu dài của nhà nước, ngài rất bình tĩnh rõ ràng nhàn

rỗi và quang minh chính đại đến như thế vậy.

Ngày 27 tháng 9 là ngày Quý mão, bệnh nặng quá, đến giờ Sửu. Ngài cưỡi

rồng lên chầu trời ở điện Kiền Thành, Ngài hưởng thọ 41 tuổi. Than ôi! Thương

thay! Vịn râu rồng, ôm cung khóc, đất lở trời long. Từ đây trở đi, người con nhỏ

này biết trông cậy vào đâu? Kính đọc tờ chiếu để lại, có câu nói: “chớ bảo điều

thiện ấy nhỏ mà chẳng làm, chớ bảo điều ác ấy nhỏ mà cứ làm”. Rất phải lắm

thay! Lời nói ấy là hoàng khảo nghe được ở Hoàng tổ mà nay dạy lại cho kẻ con

nhỏ này. Than ôi xa dài thay! Con nhỏ này tuy chưa có thể kịp được, nhưng kính

theo lời dạy, cố gắng thực hành, may ra việc giao phó nặng nề, hoặc có thể đáp

lại được chút ít vậy.

Hoàng khảo có dặn lại rằng: “Sơn Lăng không nên làm hao phí tài lực

nhiều”. Lời vàng ngọc ấy văng vẳng bên tai, con nhỏ này đâu dám trái chí. Kính

tuân thành mệnh, ở núi Thuận Đạo phía Nam sông Hương sửa đào con đường

ngầm thông tới huyệt chôn, theo đúng như quy chế ở Hiếu lăng. Còn các việc đều

lấy lễ mà hạn chế, để nên tỏ cái ý dè dặt tiêu dùng thương yêu nhân dân của

hoàng khảo để lại vậy. Đã kính bói chọn được năm nay là năm Mậu thân, tháng

5, ngày 24 là ngày Bính thân, giờ Bính thân, yên táng vào huyệt, dâng tên lăng là

Xương Lăng. Núi Kiều Sơn (22) ở đó ngóng trông, nơi núi hang cũng đều thương

xót, muốn báo đền đức lớn, như trời rộng không cùng. Than ôi thương thay!

Năm Tự Đức thứ 1 [1848], tháng 10, ngày Giáp tý (23), con là thần này

ngậm thương giỏ nước mắt kính cẩn chắp tay rập đầu.

92

Bài minh rằng:

Trời yêu nước Nam, giáng sinh thánh thần,

Rỡ ràng hai tổ, rạng công người xưa,

Kính nghĩ Hoàng khảo, đức lớn tinh thuần,

Thánh lại nối thánh, công ngang đức lầy,

Hay đến rất mực, sáng đức mới dân,

Đạo học chính trị, nhiều tài sửa sang.

Hưởng phối đàn Giao, rạng đến nhà miếu,

Quyển ngọc sách vàng dốc lòng theo nối,

Theo chế đế vương, đường ngầm hạ huyệt,

Xưng tổ là “trời” tôn khảo [cha] lên miếu

Phối hưởng với trời, nghiêm thân [cha] báo đức,

Văn mẫu [mẹ] cũng tôn trọn niềm hiếu thảo.

Lòng hiếu không thiếu, Trương Tín (24) hầu vui,

Đế chầu thăm hỏi, rất kính yêu,

Năm đời đủ mặt, đức nhiều phúc tròn,

Nhà vua vui vẻ, thiên hạ chúc mừng,

Tiếng tốt gương tỏ, quản đỏ (25) lưu danh

Sánh đức Giản Định (26) trăm đời vẫn còn.

Trọng thân phiên già, thân yêu chín họ,

Tiệc đãi họ hàng, bổ dụng chi phái,

Khỏe làm chân tay, già làm lòng bụng,

Lại làm bài ca, vua đi khuyên bảo,

Trung nghĩa, hiền lương, nhớ công người cũ,

Làm đền thờ riêng, dựng nên phúc lớn.

Rộng ơn cứu giúp, huệ trạch khắp ban,

Giảm tô tha nợ, dân khổ tưới nhuần,

Một người có tội, thương xót là Ngu,

Mở ba mắt lưới, nhân như vua Thang,

Khóc người có tội, như vua Vũ xưa,

Tha tội xá lỗi, mong không dùng hình,

93

Hán, thổ nhờ sông, bảy tám vạn người.

Chính vốn nhân ân, trị có khuôn phép,

Nghĩ đúng mới làm, noi theo phép cũ,

Một ngày hai ngày, muôn việc kính cẩn,

Khảo tích xét công, chia quan giữ chức,

Đầy đủ cơ mưu, sửa sang trăm việc,

Đạo đức sâu xa, mưu mô tín thực.

Nhân tài đào tạo, rạng rỡ nhường bao!

Như thơ Vực bốc, như thơ Thanh Nga (27)

Tuế cống rộng lối, ngạch đỗ thêm nhiều,

Một năm hai bảng, bảy năm chín khoa,

Học trò rạng vẻ, ngành học rộng ơn,

Văn chương rạng rỡ, Trời đất bao la,

Văn kinh thi sử, tỏ ra thịnh hòa.

Vào khoảng năm đầu, cõi tây làm loạn,

Nghĩ kế dẹp yên, để được bình định,

Quân mạnh sai đi, giết kẻ bạo ngược,

Xiêm đã phục tùng, Lạp cũng quy thuận,

Nước mất dựng lên, dòng tuyệt lối lại,

Quân lính vẹn toàn, cõi đất yên lặng,

Khói lửa không lo, cửa nhà vui vẻ.

Công vũ nối mạnh, nền văn chấn hưng,

Trong yên ngoài phục, của giàu dân đông,

Đạo hóa thấm khắp, khi hòa thịnh nhiều,

Mười phần thịnh trị vời vợi công cao,

Bảy năm trị nước, đức thấu đến trời,

Hàng ngày làm việc, rất mực siêng chăm.

Mùa thu đinh mùi, gượng sức coi việc,

Không quên thiên hạ, không quên con nhỏ,

Di chiếu tay phê, đức âm còn đó,

Vò võ một mình, sao hay nối chí,

94

Đội đức nhớ công, núi cao trông ngóng

Bia đá tạc ghi, bao năm tỏ rõ!...

Hiếu tử nối ngôi hoàng đế, Thần Thì kính ghi!

CHÚ THÍCH

(1) Mẹ vua Thiệu Trị là bà Hồ Thị Hoa

(2) Thực lục ghi: “Hiến tổ Thiệu thiên Long vận, Chí thiện Thuần hiếu,

Khoan minh Duệ đoán, Văn trị Vũ công, Thánh triết Chương hoàng đế. Tên húy là

Miên Tông, 綿宗, lại húy là Tuyền 日旋 tên tự là... sinh ngày Nhâm tí, 11 tháng 5,

năm Đinh mão, Thế tổ Cao hoàng đế Gia Long năm thứ 6 (Thanh, Gia Khánh năm

thứ 12) [1807], là con trưởng của Thánh tổ Nhân hoàng đế. Mẹ là Thuận Đức

Nhân hoàng hậu họ Hồ, sinh nhà vua ở ấp Xuân Lộc phía đông Kinh thành (sau

này lập nên chùa Diệu Đế ở ngay chỗ đất ấy). Vua sinh ra được 13 ngày thì mẫu

hậu mất, vua khóc thương mãi không thôi, Thuận thiên Cao hoàng hậu đem về

nuôi ở trong cung (Thực lục, Tập VI, 2007, tr 20)

(3) Thế tổ Cao hoàng đế đến thăm, mừng, nói: “Trẻ con mới sinh ra mà

biết khóc thương, là tính trời sinh, ngày sau thế nào cũng giữ trọn đạo hiếu”. Ẵm

đến, Thế tổ phán cho lấy chữ về bộ “nhật” 日 để đặt tên (Thực lục, tập VI, 2007,

tr 20)

(4) Thái Vương nhà Chu có 3 con trai, con trưởng là Thái Bá, con thứ là

Ngu Trọng (tức là Trọng Ung) con út là Quý Lịch (tức Vương Quý). Quý Lịch

lấy vợ là Thái Nhâm, sinh con là Xương có thánh đức, Thái Bá và Ngu Trọng

biết ý Thái vương muốn lập Quý Lịch để truyền đến con là Xương (Xương là

Văn Vương sau này), 2 người bèn trốn đi. Sau Thái Vương chết, Quý Lịch lập

lên, Quý Lịch chết, Xương lập lên tức là Văn Vương.

(5) Đầu năm Minh Mệnh, đến nhà học đọc sách. Thánh tổ Nhân hoàng đế

dụ bảo cho biết đạo trị nước, bình thiên hạ cốt ở chí thiện của sách Đại học; nhân

thể đặt tên cho nhà học ấy là Chỉ Thiện đường 止善堂 (Thực lục tập Vi, 2007, tr

20)

(6) Phủ trông coi các việc trong họ hoàng tộc

95

(7) Năm thứ 17 [1836], tháng 8, vâng tỷ thư kiêm nhiếp chức Tôn nhân

phủ Tả tôn chính giữ việc định chương trình, chính phả hệ, ban giáo lệnh, xếp đặt

tước lộc, nêu ra những người liêm khiết tài năng, đức tốt ở Tôn nhân phủ mỗi

ngày một nổi tiếng (Thực lục tập Vi, 2007, tr 20)

(8) Từ ngày 19 tháng ấy về trước là năm Minh Mệnh thứ 22; từ ngày 20 trở

về sau là năm Thiệu Trị thứ nhất (Thực Lục, tập VI, tr21)

(9) Thái đàn: là đàn tế trời.

(10) Nghiêm thân: là cha.

(11) Văn mẫu: tức là Thái tự, là vợ Văn vương mẹ sinh ra Vũ vương nhà

Chu.

(12) Hữu lăng: tức lăng Thuận Thiên Cao hoàng hậu, sinh ra Minh Mệnh

(13) Mùa đông tháng 10 năm Thiệu Trị thứ 1 “bắt đầu đặt quan và thuộc

viên ở Sử quán...” (Thực lục, tập VI, tr 240)

(14) Tháng 11 năm Thiệu Trị thứ 4: Chia định những tào cục trong các cơ

quan , quy định số lượng quan lại và chức trách trong các Bộ, Ty (Thực lục, Tập VI,

tr 681- 687).

(15) Mùa xuân tháng 2 năm thứ 2, ban biển vàng đề chữ “Niên khánh an

lan”, lại làm câu đối (có những chữ: Niên niên dạn đắc hà lưu thuận; Xứ xứ hải

hân tuế cốc phong). Sai quan địa phương chế khắc đem treo ở miếu thờ thần sông

ở Sơn Tây, mong cho nước sông chảy thuận (Thực lục, tập VI, tr 312)

(16) Mùa xuân, tháng 3 năm Thiệu Trị thứ 2, “sai đại thần trong Kinh và

ngoài tỉnh tính liệu việc làm thuận tiện về sông Cửu An” (Thực lục, tập VI,

tr330)

(17) Vua Vũ nhà Hạ đi đường thấy người có tội xuống xe hỏi han rồi

thương khóc. Vua Thang nhà Thương thấy người đánh lưới chim, vây lưới 4 mặt,

vua Thang sai cởi ra 3 mặt chỉ để 1 mặt thôi.

(18) Mùa hạ, tháng 5, năm Thiệu Trị thứ 3 vua sai biên tập bộ Đại Nam hội

điển. Vua xuống dụ rằng: Nhà nước đặt ra chế độ, tất phải chép ra thành sách rõ

ràng, khiến cho có thể truyền mãi lâu dà. Phép của Nghiêu, Thuấn rõ rệt ở thiên

“điển”, thiên “mô”; chính của Văn, Vũ chép ở phương sách, đều làm nên mực

cho đời sau” (Thực Lục, tập VI, tr 507).

96

(19) Mùa xuân, tháng giêng năm Thiệu Trị thứ 5, sai làm bộ Thiệu Trị văn

quy (Thực lục, tập VI, tr 704 - 705)

(20) Mùa hạ tháng 6 năm Thiệu Trị thứ 6, Bộ binh dâng điều lệ trường thi

võ ở kinh về ngày thi, phép thi ba kỳ, Về việc chọn phái quan trường, ngày ra

bảng thi, lễ ban yến, việc bổ dụng... Bắt đầu mở trường thi võ ở kinh đô, lấy đỗ

52 người... (Thực lục, tập VI, tr 888 -898 & tr 903).

(21) Tháng 2 năm Thiệu Trị thứ 7, vua cho khắc in bộ Cổ kim thể cách

(gồm hơn 70 thể, được 157 bài thơ) (Thực lục, tập VI, tr 980 )

(22) Kiều sơn: Trên núi này có mả vua Hoàng đế. Đây mượn để chỉ lăng

của Thiệu Trị.

(23) Mùa đông, tháng 10, ngày Giáp tý dựng bia Thánh đức thần công ở

Xương Lăng (Thực Lục tập XXVII, 1973, tr133).

(24) Trương Tín: tên một cung của nhà Hán, chỗ hoàng thái hậu ở.

(25) Quản đỏ: tức là quản bút đỏ, nữ sử ngày xưa dùng để biên chép

khuyên răn.

(26) Giản Định: vợ vua Đế Cốc, nuốt trứng của chim Huyền Điểu, rồi có thai,

sinh ra ông Tiết, sau con cháu ông Tiết sinh ra vua Thang nhà Thương.

(27) Vực Bốc, Thanh Nga: Tên 2 bài thơ trong Kinh thi, đều khen Chu Văn

Vương gây dựng được nhiều nhân tài.

2.5. Văn bia lăng Tự Đức

2.5.1. Nguyên văn chữ Hán

謙 宮 記

天 氣 輕 清 故 能 悠 久 風 雲 雨 露 無 常 形 固 不 必 說 若

有 形 雖 大 如 地 亦 有 時 坼 圮 明 如 日 月 亦 有 時 闕 昃 晦 蝕

他 如 山 高 海 深 金 堅 石 確 皆 其 為 物 之 最 卓 卓 者 亦 不 能

無 崩 涸 銷 爛 之 虞 何 況 於 人 乎 哉 人 之 於 生 死 大 矣 然 亦

常 矣 顏 夭 彭 壽 夷 善 跖 惡 其 生 者 固 自 不 同 其 死 者 無 不

同 也 蓋 不 朽 者 名 也 無 不 朽 者 身 也 又 何 汲 汲 乎 身 後 事

97

惟 葬 者 藏 也 所 以 別 於 禽 獸 禮 也 亦 情 也 君 即 位 而 為

歲 一 漆 之 藏 焉 予 敢 違 先 王 之 制 彊 者 猶 憂 靡 常 矧 弱 者

何 敢 必 予 稟 受 甚 薄 初 生 時 已 為 母 氏 病 痛 累 旬 月 始 愈

自 母 不 謹 潔 母 訓 不 悛 恐 昏 憒 纔 到 三 歲 已 屏 斥 絕 乳 氣

惟 躬 自 撫 育 自 是 羸 疾 牽 延 婁 危 殆 朝 夕 懷 抱 劬 勞 極 矣

能 言 行 即 已 握 炭 頻 畫 于 牆 壁 人 異 之 問 答 謂 寫 狀 字 蓋

俗 稱 進 士 及 弟 為 狀 元 而 今 得 於 母 言 云 總 角 已 命 就 傳

讀 書 小 學 之 間 已 放 然 屬 對 吟 何 知 聲 律 皇 考 嚴 而 慈

小 子 自 幼 至 成 童 因 行 輩 過 得 失 答 責 止 一 次 數 下 而 已

然 甚 敬 憚 不 數 訓 訓 必 勉 時 建 詩 對 頗 蒙 色 笑 一 日 戲 問

眾 子 汝 某 名 何 義 各 以 意 對 不 知 是 否 小 子 率 爾 據 所 學

訓 詁 以 洪 為 重 大 任 負 荷 以 對 奉 顧 而 微 哂 曰 重 負 者 何

樵 薪 耶 太 后 慈 而 嚴 日 常 教 以 應 對 進 退 之 節 務 合 禮 度

不 許 嬉 遊 每 旦 出 外 舍 學 問 近 午 方 入 有 失 記 怠 惰 譴 責

隨 之 若 未 熟 必 令 兀 坐 熟 讀 方 止 否 則 雖 戲 劇 近 前 亦 未

許 一 看 小 子 幸 資 鍾 毓 幼 稍 頻 讀 小 學 開 心 之 類 半 日 間

已 爛 熟 一 卷 亦 畏 嚴 訓 故 爾 幸 少 笞 責 過 重 不 得 不 笞 笞

已 復 泣 皇 考 每 幸 必 攜 隨 常 茂 園 始 完 亦 從 與 居 皇 考 奉

旨 秋 審 冊 不 敢 輕 委 于 人 親 自 寫 奏 章 夜 深 亦 小 子 侍

側 呼 字 便 寫 是 歲 纔 周 星 適 皇 考 初 受 璽 遭 大 故 之 詰 朝

98

眾 妾 子 未 暇 召 獨 先 召 小 子 入 皇 福 殿 護 付 明 年 命 出 居

潛 邸 後 更 名 善 慶 堂 也 便 講 習 又 明 年 遇 邦 交 鉅 典 將 命

充 京 守 尋 復 隨 駕 北 巡 預 執 事 一 路 往 還 朝 夕 隨 御 營 又

明 年 錫 封 公 爵 出 府 納 姬 正 志 學 之 年 也 雖 已 有 室 猶 常

召 入 侍 內 庭 邇 陪 御 筳 賜 予 特 厚 有 至 夜 深 始 出 者 或 遇

敕 諭 大 文 字 亦 令 檢 校 御 筆 應 制 賦 詩 則 數 焉 有 時 方 侍

膳 賜 食 亦 命 放 箸 即 席 成 詠 使 宮 嬪 捧 御 筳 文 寶 函 慎

于 座 許 其 取 用 待 不 疑 恩 至 屋 小 子 何 敢 踰 則 詠 成 即 以

方 御 用 玉 碗 連 餘 飯 賜 之 曰 兒 食 此 以 承 餘 慶 有 時 侑 觴

奏 樂 鼓 吹 歌 舞 翕 如 也 亦 命 即 事 口 占 小 子 勉 承 即 得

一 絕 立 取 御 用 金 玉 指 環 以 賜 之 曰 此 不 足 珍 今 賜 爾 無

忝 爾 所 生 一 句 爾 其 念 哉 小 子 拜 受 銘 心 鏤 骨 焉 且 予

是 時 始 讀 四 書 詩 書 猶 未 竟 略 習 詩 多 不 成 語 第 以 兄 弟

中 或 怠 或 幼 讀 稍 識 字 時 幸 而 敏 應 故 特 蒙 過 愛 所 以 為

父 母 之 量 罔 極 之 德 也 寔 則 學 殖 貧 腹 笱 空 空 然 蓋 以 自

為 皇 孫 至 為 皇 子 凡 充 師 傳 者 無 巨 儒 名 士 克 稱 斯 選 率

多 老 秀 才 堇 堪 訓 蒙 者 已 縱 有 問 難 亦 無 所 啟 導 又 見 其

夙 慧 以 為 可 保 無 累 遂 安 於 閒 識 虛 課 焉 耳 予 亦 苦 無 多

書 未 能 深 解 不 知 以 此 為 樂 而 以 騎 射 為 樂 本 由 少 年 氣

習 使 然 然 而 漸 進 亦 不 自 知 其 所 以 然 也 至 如 以 他 事 獲

99

槳 亦 難 盡 述 即 如 侍 射 屢 能 命 中 叔 弟 行 侍 衛 輩 所 共 見

知 至 謂 凡 御 用 弓 矢 聽 兒 擇 適 以 習 諸 器 物 後 豈 誰 貽 有

知 者 已 默 識 其 大 意 一 日 侍 射 于 禁 園 有 太 后 侍 予 已 發

四 矢 尚 持 一 矢 奉 面 諭 爾 射 此 矢 務 中 鵠 以 慰 爾 母 心

小 子 承 命 即 彎 弧 發 矢 幸 亦 如 旨 聖 心 本 自 深 遠 非 炎 涼

徒 所 可 測 予 亦 視 之 闊 然 未 嘗 留 意 有 忌 競 者 若 罔 聞 有

勸 人 閣 習 政 事 者 曰 有 兄 在 性 又 寡 言 多 羞 凡 非 至 親 故

雖 親 蕃 大 臣 入 朝 相 遇 亦 罕 致 詞 作 熊 如 夫 人 之 為 者 以

故 人 亦 寡 交 予 亦 樂 安 於 澹 拙 也 氣 血 弱 身 體 常 瘐 方 此

少 年 無 事 而 嗣 續 猶 艱 難 慰 父 母 之 望 甚 愧 焉 予 猶 是 粗

疏 未 以 為 意 近 冠 年 六 月 忽 出 痘 毒 甚 危 劇 賴 父 母 多 方

醫 禱 八 月 始 愈 攝 限 未 滿 面 痂 未 落 但 甚 瞻 戀 力 疾 趨 謝

于 朝 行 跪 猶 傾 跌 蒙 免 拜 又 取 止 善 堂 會 集 賜 之 曰 心 法

治 法 都 在 此 爾 學 而 踐 焉 又 召 入 內 殿 賜 見 太 后 許 捋 龍

鬚 不 覺 涕 泗 交 下 蓋 久 睽 也 又 從 容 賜 御 製 倣 虞 舜 卿 雲

歌 率 以 原 作 有 韻 檢 奏 蒙 厚 加 獎 賞 因 譴 閣 臣 以 失 檢 之

故 未 幾 皇 考 不 預 即 于 是 月 下 旬 至 于 九 月 下 旬 同 諸 兄

弟 大 臣 常 直 粟 禁 中 侍 醫 藥 問 起 居 辰 也 雨 澇 雖 元 氣

未 復 亦 冒 涉 寒 水 日 夜 衣 巾 不 敢 解 寢 食 俱 滅 倦 甚 則 倚

枉 假 寐 聞 宣 召 魂 不 附 體 即 隨 中 使 趨 侍 皆 分 固 當 然 不

100

會 自 念 惟 冀 日 慶 安 長 聆 訓 迪 詎 意 昊 天 弗 弗 據 已 遺 大

投 艱 于 沖 藐 人 嗚 呼 痛 哉 以 少 年 初 政 不 暗 悉 典 故 人 情

茫 昧 焉 惴 慄 焉 深 惟 弗 克 負 荷 又 人 胞 姊 延 福 長 公 主 不

幸 隨 薨 恐 重 傷 母 心 龜 勉 慰 解 一 行 間 多 故 驟 集 于 弱 質

疾 復 大 作 幾 至 委 頓 尚 賴 皇 祖 皇 考 德 澤 在 人 也 深 內 有

皇 太 后 整 肅 宮 闈 外 有 舊 德 諸 大 臣 布 列 朝 郡 協 心 匡 贊

凜 遵 成 憲 逡 巡 十 年 間 幸 無 大 過 雖 有 不 念 鞠 子 哀 不 得

已 從 公 論 伸 大 義 為 社 稷 計 粟 布 之 謠 寔 深 慚 痛 周 公 之

過 非 孟 子 誰 諒 之 噫 有 無 是 心 抑 為 群 小 所 誤 何 遽 至 自

栽 一 時 亦 難 盡 暴 百 世 有 青 吏 在 予 何 心 焉 大 抵 事 後 諭

人 予 不 能 無 恨 于 好 事 之 輩 為 此 類 也 若 能 觀 夫 後 來 委

曲 成 就 於 諸 孤 而 不 可 得 者 則 予 心 亦 可 以 對 于 天 下 矣

他 若 草 竊 姦 冗 有 時 煽 惑 亦 迄 無 事 皆 資 眾 力 也 予 何 能

焉 嗚 呼 愚 而 狃 安 昧 于 牖 戶 衣 袈 之 戒 能 臣 宿 將 亦 已 太

半 凋 射 幾 能 恢 我 皇 考 海 防 之 遺 訓 用 躋 予 于 無 過 之 地

皇 天 乃 降 厚 罰 以 警 我 君 臣 逖 焉 重 洋 萬 餘 里 風 馬 牛 不

相 及 之 歐 州 人 而 素 有 舊 之 富 浪 沙 國 者 師 船 突 如 其 來

棄 好 尋 仇 侵 我 邊 鄙 恃 船 堅 駁 利 肆 其 吞 噬 遏 于 廣 南 軼

于 嘉 定 北 圻 喜 亂 姦 民 亦 因 而 蟄 動 承 平 日 久 人 不 知 戰

干 城 保 章 有 幾 人 焉 以 致 山 海 群 盜 內 姦 外 寇 暗 相 綈 串

101

滋 蔓 所 至 風 靡 誰 與 保 吾 境 矧 可 保 吾 民 不 得 已 征 繕 以

從 事 而 民 益 騷 然 瘁 止 不 得 已 因 虜 求 成 遣 使 與 約 耆 儒

碩 輔 慨 然 往 不 審 何 故 而 容 易 成 言 以 還 率 將 累 朝 艱

難 闢 聚 之 土 地 人 民 一 旦 盡 棄 與 敵 其 於 擇 禍 取 輕 以 子

固 爭 使 不 辱 君 命 果 如 是 乎 使 朕 與 慦 遣 一 老 無 可 奈 何

相 對 飲 泣 已 甘 得 罪 於 尊 廟 天 下 沒 者 不 得 完 志 業 存 者

長 戚 戚 莫 之 能 雲 是 孰 階 之 厲 也 若 謂 棄 已 失 轉 已 危 不

如 是 安 保 其 往 夫 棄 之 者 若 有 功 則 失 之 者 固 有 過 若 失

之 者 未 定 過 則 棄 之 者 何 謂 功 二 者 必 有 能 辨 者 況 如 彼

既 失 之 我 能 復 之 曰 功 宜 矣 彼 既 失 之 我 隨 棄 之 功 嗚 呼

在 安 可 逆 億 以 為 智 誣 祝 以 為 功 而 私 議 者 猶 為 之 辭 不

恤 國 是 無 怪 乎 日 益 側 情 事 務 增 煩 不 知 人 心 曾 不 隱 痛

然 而 知 人 不 明 予 罪 也 用 人 不 稱 亦 予 罪 也 凡 百 不 舉 皆

予 罪 也 不 得 已 巽 以 行 權 冀 其 小 息 天 下 自 此 始 多 事 矣

回 思 當 日 羽 檄 交 馳 機 務 填 委 日 夜 寢 饋 失 節 如 痴 如 醉

至 今 驚 魂 猶 未 定 而 羸 疾 日 更 加 其 又 不 幸 卒 遭 急 病 絕

而 復 蘇 於 是 頭 運 目 眩 腳 軟 腹 滯 諸 虛 症 悉 見 祭 祀 不 能

親 問 政 不 能 勤 而 咎 謗 所 由 來 加 也 誠 恐 一 旦 奄 忽 智 不

狐 若 為 羞 乃 太 吏 預 相 地 得 於 陽 春 上 曠 土 廷 臣 覆 視 曰

宜 蓋 從 術 家 云 者 於 予 何 顧 哉 又 謂 是 年 甲 子 是 月 丙 子

102

皆 合 宜 起 辨 乃 俯 從 營 建 焉 於 是 有 司 名 事 其 事 效 其 勞

高 因 高 下 因 下 經 營 相 度 修 理 補 削 於 是 磽 确 鑿 蓁 落 而

城 池 宮 殿 樓 閣 亭 榭 院 廡 湖 島 咸 出 焉 合 位 置 而 相 聯 絡

也 正 中 為 吾 永 宅 庚 山 甲 向 不 陵 不 墳 止 留 平 地 作 低 塋

相 來 必 令 從 霸 陵 用 瓦 器 而 已 其 脈 來 之 山 曰 引 謙 勞 謙

蹈 謙 隆 謙 居 謙 履 謙 自 遠 而 近 也 其 右 山 繚 以 牆 開 樓 門

曰 謙 宮 門 之 內 外 設 四 廡 曰 前 殿 曰 和 謙 殿 為 後 日 香 火

憑 依 之 所 後 殿 曰 良 謙 殿 為 供 奉 安 輿 承 歡 之 所 殿 之 東

曰 鳴 謙 堂 備 臨 幸 奏 樂 也 殿 之 西 曰 溫 謙 堂 置 尚 方 服 御

也 宮 門 禮 謙 法 謙 臣 工 宿 直 處 也 兩 殿 之 後 右 設 四 院 曰

從 謙 用 謙 依 謙 持 謙 嬪 御 隨 侍 處 也 後 殿 後 聊 一 小 閣 曰

益 謙 卑 而 足 以 望 近 景 也 前 門 前 別 建 堂 廊 曰 至 謙 狹 而

足 以 祀 諸 舊 姬 也 水 之 小 者 小 謙 池 也 作 新 月 樣 橫 正 局

前 淺 而 涸 堇 堪 積 雨 從 青 烏 術 也 水 之 大 者 流 謙 湖 也 縈

迴 灣 轉 自 右 及 左 深 而 清 夏 不 竭 秋 不 溢 蓋 因 深 田 以 鑿

成 又 設 竇 以 放 廡 外 田 蓄 洩 素 其 故 也 湖 半 成 而 群 魚 已

發 發 然 然 不 勝 數 不 待 埔 畜 蓋 因 勢 而 利 導 之 故 也 又 于

湖 頭 而 畔 有 水 自 地 中 流 出 觀 其 石 則 無 隙 可 尋 而 水 常

泠 泠 然 有 聲 瀏 瀏 最 清 注 于 湖 日 夜 不 停 寔 由 天 成 疑 有

伏 泉 而 難 明 也 因 于 是 處 略 構 水 陸 廠 舍 架 以 竹 葺 以 茅

103

足 蔽 暑 雨 泊 小 船 二 亦 曰 順 謙 隱 謙 時 因 風 月 歷 泛 于 湖

採 君 子 花 歌 愛 蓮 曲 爽 然 無 他 欲 蓋 滿 湖 惟 植 此 花 而 已

也 湖 之 旁 架 起 二 榭 其 一 兩 層 梢 高 而 爽 是 曰 沖 謙 其 一

三 層 層 層 愈 低 頗 狹 亦 適 是 曰 愈 謙 午 風 月 夜 足 以 垂 鉤

湖 之 中 酌 省 工 役 量 留 土 石 築 一 大 島 豎 三 小 亭 命 之 曰

雅 謙 標 謙 樂 謙 累 之 以 山 石 蔭 之 以 花 木 為 磴 為 峒 為 林

為 谷 飛 禽 走 獸 以 聚 以 畜 而 孔 雀 鳴 白 兔 伏 錦 雞 宿 名 適

其 所 矣 湖 之 上 間 跨 三 橋 曰 循 謙 煎 謙 由 謙 以 濟 不 通 而

水 陸 自 相 連 屬 矣 其 左 山 山 之 腳 體 謙 亭 在 焉 設 榭 堋 為

榭 場 也 山 之 腰 執 謙 齋 傍 焉 翼 以 廊 以 通 于 樓 也 山 之 巔

彌 謙 樓 聳 焉 稍 軒 豁 可 以 遠 望 也 包 之 以 羅 城 宛 轉 起 伏

隨 山 勢 而 施 設 也 然 猶 是 人 工 未 若 四 面 群 山 連 延 環 抱

望 之 若 壁 若 障 不 偏 不 漏 是 之 謂 天 然 羅 城 也 外 門 凡 三

曰 務 謙 自 謙 尚 謙 內 門 凡 六 曰 必 謙 柔 謙 撝 謙 能 謙 牧 謙

廉 謙 皆 門 名 也 乃 隨 其 宜 布 其 類 為 豆 棚 為 花 棧 為 果 徑

為 蔬 畦 為 鹿 洞 為 魚 沿 雖 山 土 似 乎 堯 瘠 而 栽 之 亦 易 茂

奐 之 亦 易 給 其 亦 地 氣 使 然 耶 總 名 之 曰 謙 宮 後 亦 必 謂

之 謙 陵 又 令 建 神 祀 列 祀 典 錫 封 誥 亦 稱 之 為 謙 山 神 云

大 凡 名 必 顧 義 飛 徒 名 也 夫 何 以 吾 之 謙 而 使 某 山 某 水

某 堂 某 室 亦 皆 從 之 而 為 謙 彼 其 何 咎 乎 哉 又 果 何 知

104

乎 哉 併 而 強 加 之 名 果 已 能 安 乎 哉 而 吾 何 取 於 謙 乎 哉

其 謙 之 為 謙 果 誠 乎 哉 夫 謙 者 驚 也 讓 也 有 而 不 居 屈 己

下 物 者 也 以 予 之 蒙 恥 負 罪 如 是 謙 莫 大 焉 屈 莫 甚 有 何

才 能 功 德 而 不 居 乎 第 以 素 尚 樸 淡 位 雖 黃 屋 而 心 常

若 布 素 除 是 服 章 之 外 無 毫 葩 麗 抑 亦 有 而 不 居 之 義 也

加 以 自 營 此 宮 之 日 雷 震 和 謙 殿 亂 民 惑 眾 犯 闕 天 譴 人

怨 不 期 薦 至 予 心 尚 何 有 哉 而 不 敢 不 謙 也 惟 知 始 終 一

徑 殫 竭 心 思 幸 可 維 持 補 救 萬 一 則 其 謙 者 豈 敢 不 誠 乎

故 因 而 儘 名 之 亦 欲 隨 觸 隨 感 用 自 省 戒 并 自 眨 之 非 如

愚 溪 非 愚 而 并 愚 辱 之 則 遑 問 彼 之 安 然 與 否 非 敢 必 何

虧 何 益 何 害 何 福 而 為 此 趨 避 也 且 予 之 作 是 宮 者 原 念

例 有 別 廟 又 有 陵 寢 不 有 豫 制 厥 後 臣 子 率 循 典 故 難 免

遙 阻 煩 勞 故 并 而 節 之 誠 欲 便 而 更 便 況 此 處 又 是 山 源

之 最 下 者 從 前 諸 陵 獨 為 甚 近 水 土 平 善 無 茂 林 峻 嶺 頗

易 施 工 殿 宇 雖 多 而 獨 有 和 謙 良 謙 彌 謙 別 構 新 林 餘 皆

掇 取 舊 屋 移 彼 就 此 而 其 工 役 猶 至 三 年 始 成 一 切 營 善

勞 賜 之 需 且 以 百 萬 計 則 其 勞 費 為 何 如 豈 予 所 得 已 也

嗚 呼 其 視 成 子 高 之 言 能 不 內 媿 哉 既 成 乃 親 奉 慈 駕 臨

幸 陳 御 宴 進 歌 舞 又 賜 內 外 庭 臣 妾 同 樂 之 體 群 情 也 予

豈 好 多 儀 為 哉 然 亦 將 效 司 空 表 聖 賦 詩 酌 酒 於 其 中 非

105

特 歌 哭 與 聚 於 斯 也 已 是 後 時 因 清 明 輦 謁 陵 順 路 駐

蹕 擷 甘 芳 擇 鮮 肥 調 珍 羞 供 歡 奉 云 耳 時 因 苦 熱 舒 煩 暫

往 觀 省 一 年 中 不 過 二 三 度 不 遑 暇 焉 或 值 南 郊 大 祀 未

能 親 執 玉 帛 將 事 則 于 玆 遙 拜 放 竹 宮 故 事 少 伸 微 虔 登

高 四 望 面 郊 壇 背 靈 姥 寺 可 以 明 吾 平 生 之 向 背 也 生 未

能 盡 禮 死 亦 得 以 永 朝 矣 右 近 昌 陵 左 對 文 廟 足 以 慰 吾

思 慕 欽 仰 之 忱 他 年 魂 魄 得 以 永 依 始 終 一 道 而 已 至 若

新 墳 舊 塚 四 面 纍 纍 多 少 故 人 半 登 鬼 錄 又 有 不 知 公 卿

凡 庶 碌 碌 皆 如 是 猶 登 北 邙 望 蒿 里 白 楊 悲 風 終 古 無 已

凡 一 生 營 營 切 切 者 果 何 為 哉 又 何 必 指 新 豊 道 而 致 慨

焉 也 所 可 慨 者 學 未 成 志 未 副 虛 名 不 足 以 抵 寔 罪 弱

質 不 足 以 幹 蘩 務 致 今 淪 殭 未 復 邊 患 未 平 嗣 續 艱 遲 為

天 暇 得 人 難 憑 誰 幹 蠱 徒 以 天 生 真 性 知 能 未 昧 雖 疾 惡

太 甚 情 鬱 太 深 未 免 時 或 躁 怒 亦 必 有 故 然 凡 事 每 從 寬

厚 不 敢 妄 取 為 故 久 秉 生 剎 之 權 而 未 嘗 不 由 司 敗 案 成

而 擅 剎 一 也 以 至 悲 喜 亦 不 甚 形 向 來 予 所 最 悲 者 惟 侍

疾 之 秋 皇 考 疾 大 漸 惟 幾 忽 然 瞑 眩 左 右 侍 者 皆 遠 避 獨

予 升 御 床 親 灌 藥 涕 泗 被 面 狂 遽 呼 號 幸 而 陽 氣 漸 回 復

得 小 延 侍 間 至 寧 陵 日 帥 諸 皇 親 大 臣 護 梓 宮 安 于 玄 宮

畢 磕 首 大 慟 攀 戀 其 側 幾 不 自 覺 有 其 身 矣 諸 大 臣 請 出

106

亦 不 之 覺 東 閣 大 學 士 武 春 謹 乃 執 手 擁 出 成 人 生 之 最

悲 者 莫 此 若 他 則 或 因 見 聞 忠 臣 孝 子 之 事 不 覺 悽 然 泣

下 至 于 哽 咽 不 能 卒 讀 發 聲 者 其 餘 人 所 悲 者 予 不 甚 悲

人 所 喜 者 予 不 甚 喜 今 孝 讀 書 但 苦 不 暇 不 求 甚 解 不 能

疆 記 敬 有 得 亦 不 敢 勦 說 雷 同 凡 著 詩 文 直 寫 胸 臆 不 假

思 索 雕 琢 惜 勤 政 殿 大 學 士 張 登 桂 每 謂 純 乎 雖 一 言 半

識 亦 足 為 平 生 知 己 故 舊 其 可 忘 乎 予 嘗 謂 歷 代 締 王 賢

庸 不 少 若 以 功 名 言 則 漢 文 不 及 唐 太 以 德 性 言 則 唐

太 又 遠 不 及 漢 文 此 亦 天 賦 非 可 疆 而 能 予 非 敢 薄 唐 太

但 竊 願 效 漢 文 耳 故 事 事 務 寔 孳 孳 以 養 民 固 本 為 念

日 夕 決 幾 判 事 目 覽 乎 手 批 不 遺 餘 力 雖 亦 不 免 有 聲 色

禽 化 之 娛 仍 亦 不 過 尋 常 消 遣 不 計 有 無 寔 不 敢 毫 有 病

民 妨 政 然 而 企 未 能 蓋 由 予 德 不 足 以 化 俗 才 不 足 以 作

人 志 大 而 識 寡 求 重 而 應 輕 況 且 今 之 世 界 風 俗 是 何 世

界 風 俗 不 但 偏 方 列 國 爭 尚 功 利 詐 力 即 文 獻 之 邦 公 卿

士 庶 亦 間 多 貪 刻 欺 飾 習 以 城 風 張 薄 功 掩 厚 過 甘 小 利

安 大 害 苟 有 一 人 一 國 異 之 則 眾 共 愚 之 毀 之 誠 有 甚 於

春 秋 戰 國 之 世 雖 孔 孟 復 生 亦 末 如 之 也 已 矣 夫 以 大 清

尊 國 而 亦 不 能 自 強 則 其 他 尚 可 言 哉 今 予 內 無 繼 體 之

歡 外 多 難 平 之 事 眇 然 一 身 憂 咎 叢 致 常 人 之 晴 猶 不 堪

107

此 貺 於 予 乎 惟 以 一 誠 以 御 百 虛 所 恃 者 幾 何 其 亦 自 信

夫 有 天 而 已 而 予 所 信 者 非 敢 盡 信 夫 運 數 之 天 而 特 信

夫 道 理 之 天 則 亦 惟 盡 吾 心 焉 而 已 矣 盡 吾 心 焉 則 謙 所

以 保 泰 吾 不 敢 不 從 而 居 謙 以 盡 乎 人 事 泰 所 以 著 謙 吾

亦 不 敢 不 勉 其 致 泰 以 彰 乎 天 道 是 則 柔 克 而 剛 克 存 焉

謙 卑 而 受 謙 係 焉 不 但 不 相 反 亦 莫 不 相 因 以 成 是 之 謂

天 道 下 濟 君 子 有 終 者 歟 自 非 飽 經 憂 患 其 孰 與 我 知 而

與 我 言 亦 無 可 與 歸 處 則 將 來 觀 者 又 何 煩 哉 是 以 疚 心

若 志 匪 朝 伊 夕 不 覺 有 似 乎 狂 狷 者 微 聖 人 誰 為 起 予 亦

將 待 惟 天 與 聖 以 完 予 志 不 敢 以 不 可 為 而 不 為 不 可 化

而 不 化 一 日 亦 思 盡 一 日 之 責 焉 耳 今 予 所 紀 寔 只 皆 予

所 獨 知 而 眾 莫 得 知 以 少 伸 予 志 於 天 下 若 夫 事 狀 得 失

自 有 吏 筆 予 不 傲 至 於 文 法 詞 葩 無 足 論 也 後 來 幸 哉 能

副 予 志 予 將 必 有 以 續 之 不 然 誰 其 續 之 亦 宜 深 諒 予 心

慎 毋 事 文 飾 為 也 人 為 銘 以 自 敬 云 銘 曰

陽 春 之 上 兮

惟 予 之 宅 矣

山 卑 而 地 僻 兮

亦 狀 予 謙 意 以 自 責 矣

誰 與 予 同 心 以 完 予 志 兮

108

噫 求 之 而 未 獲 矣

惟 天 其 鋻 兮

我 心 有 如 此 石 矣

嗣 德 二 十 四 年 六 月 御 製 至 二 十 八 年 四 御 筆

2.5.2. Phiên âm

Khiêm cung kí

Thiên khí khinh thanh, cố năng du cửu. Phong vân vũ lộ vô thường hình, cố

bất tất thuyết. Nhược hữu hình, tuy đại như địa diệc hữu thời sách bĩ; minh như

nhật nguyệt, diệc hữu thời khuyết trắc hối thực. Tha như sơn cao, hải thâm, kim

kiên, thạch xác giai kỳ vi vật chi tối trác trác giả, diệc bất năng vô băng hạo tiêu

lạn chi ngu, hà huống ư nhân hồ tai! Nhân chi ư sinh tử đại hĩ, nhiên diệc thường

hĩ! Nhan yểu, Bành thọ, Di thiện, Chích ác, kỳ sinh giả cố tự bất đồng, kỳ tử giả

vô bất đồng dã. Cái bất hủ giả danh dã, vô bất hủ giả thân dã; hựu hà cấp cấp hồ

thân hậu sự. Duy táng giả tàng dã, sở dĩ biệt ư cầm thú; lễ dã, diệc tình dã. Quân

tức vị nhi vi bì, tuế nhất tất chi tàng yên. Dư cảm vi tiên vương chi chế!Cường

giả do ưu, mĩ thường thẩn nhược giả hà cảm tất? Dư bẩm thụ thậm bạc. Sơ sinh

thời dĩ vi mẫu thị bệnh, thống lũy tuần nguyệt thủy dũ. Tự mẫu bất cẩn khiết,

mẫu huấn bất thuân. Khủng hôn hối, tài đáo tam tuế, dĩ bình xích tuyệt nhũ khí,

duy cung tự phủ dục. Tự thị, luy tật khiên diên lũ nguy đãi, triêu tịch hoài bão cù

lao cực hỹ. Năng ngôn hành tức dĩ ác thán tần họa vu tường bích, nhân dị chi

vấn, đáp vị tả trạng tự, cái tục xưng tiến sĩ cập đệ vi trạng nguyên, nhi kim đắc ư

mẫu ngôn vân. Tổng giác, dĩ mệnh tựu truyền độc thư. Tiểu học chi gian, dĩ

phóng nhiên thuộc đối ngâm vịnh, hà tri thanh luật!Hoàng khảo nghiêm nhi từ.

Tiểu tử tự ấu chí thành đồng nhân hành bối quá đắc thất, đáp trách chỉ nhất thứ

số hạ nhi dĩ, nhiên thậm kính đạn. Bất sổ huấn, huấn tất miễn. Thời kiến thi đối,

phả mông sắc tiếu. Nhất nhật hí vân: “Chúng tử, nhữ mỗ danh hà nghĩa ?” Các dĩ

ý đối, bất tri thị phủ. Tiểu tử suất nhĩ cứ sở học huấn hỗ, dĩ “hồng vi trọng đại,

Nhậm vi phụ hà” dĩ đối. Phụng cố nhi vi thẩn, viết: “Trọng phụ giả, hà tiều tân

da?” Thái hậu từ nhi nghiêm, nhật thường giáo dĩ ứng đối tiến thoái chi tiết, vụ

109

hợp lễ độ. Mỗi đán xuất ngoại xá học vấn, cận ngọ phương nhập. Hữu thất ký đãi

nọa, khiển trách tùy chi; nhược vị thục, tất linh ngộ tọa, thục độc phương chỉ, phủ

tắc tuy hý kịch cận tiền, diệc vị hứa nhất khan. Tiểu tử hạnh tư chung dục ấu sảo,

tần độc tiểu học, khai tâm chi loại, bán nhật gian dĩ lạn thục nhất quyến, diệc úy

nghiêm huấn, cố nhĩ hạnh thiểu si trách; quá trọng, bất đắc bất si, si dĩ hậu khấp.

Hoàng khảo mỗi hạnh tất huề tùy. Thường Mậu viên thủy hoàn, diệc tùng dữ cư.

Hoàng khảo phụng chỉ duyệt thu thẩm sách, bất cảm khinh ủy vu nhân, thân tự tả

tấu chương, dạ thâm diệc linh tiểu tử thị trắc, hô tự tiện tả. Thị tuế tài chu tinh

thích, Hoàng khảo sơ thụ tỷ, tao đại cố chi! Cật triêu chúng thiếp tử vị hạ triệu,

độc tiên triệu tiểu tử nhập Hoàng Phúc điện hộ thị. Minh niên mệnh xuất cư tiềm

để, hậu cánh danh Thiện Khánh đường dã, tiện giảng tập. Hựu minh niên ngộ

bang giao cự điển, tương mệnh sung kinh thủ, tầm phục tùy giá bắc tuần, dự chấp

sự. Nhất lộ vãng hoàn, triêu tịch tùy ngự doanh. Hựu minh niên, tích phong công

tước, xuất phủ nạp cơ, chính khí học chi niên dã. Tuy dĩ hữu thất, do thường triệu

nhập thị nội đình, di bồi ngự diên, tứ dư đặc hậu, hữu chí dạ thâm thủy xuất giả.

Hoặc ngộ sắc dụ đại văn tự diệc linh kiểm hiệu ngự bút, ứng chế phú thi tắc sổ

yên. Hữu thì phương thị thiên, tứ thực, diệc mệnh phóng trợ, tức tịch thành vịnh,

sử cung tần phủng ngự diên văn bảo hàm thận vu tọa, hứa kì thủ dụng. Đãi bất

nghi ân chí ốc! Tiểu tử hà cảm du, tắc vịnh thành, tức dĩ phương ngự dụng ngọc

uyển liên dư phạn tứ chi, viết: “Nhi thực thử dĩ thừa dư khánh”. Hữu thì, hựu

thương tấu nhạc, cổ xuy, ca vũ hấp như dã, diệc mệnh tức sự khẩu chiếm. Tiểu tử

miễn thừa, tức đắc nhất tuyệt. Lập thư ngự dụng kim ngọc chỉ hoàn dĩ tứ chi,

viết: “Thử bất túc trân! Kim tứ nhĩ vô thiểm sở sinh nhất cú, nhĩ kỉ niệm tai”.

Tiểu tử bái thụ, minh tâm lũ cốt yên. Thả dư thị thì thủy độc Tứ thư, Thi thư do

vị cánh lược tập, thi đa bất thành ngữ; đệ dĩ huynh đệ trung hoặc đãi hoặc ấu, độc

sảo thức tự, thì hạnh nhi mẫn ứng, cố đặc mông quá ái sở dĩ vi phụ mẫu chi

lượng, võng cực chi đức dã! Thực tắc học thận bần, phúc tư không không nhiên!

Cái dĩ tự vi hoàng tôn chí vi hoàng tử, phàm sung sư truyện giả vô cự nho danh sĩ

khắc xứng tư tuyển; suất đa lão tú tài cẩn kham huấn mông giả dĩ; túng hữu vấn

nan, diệc vô sở khải đạo, hựu kiến kỳ túc tuệ dĩ vi khả bảo vô lụy, toại an ư nhàn

chức hư khóa yên nhĩ! Dư diệc khổ vô đa thư, vị năng thâm giải, bất tri dĩ thử vi

110

lạc nhi dĩ kì xạ vi lạc, bản do thiếu niên khí tập sử nhiên. Nhiên nhi tiếm tiến,

diệc bất tự tri kỳ sở dĩ nhiên dã. Chí như dĩ tha sự hoạch tưởng diệc nan tận thuật.

Tức như thị xạ lũ năng mệnh trung thúc đệ hành thị vệ bối sở cộng kiến tri. Chí

vị; “Phàm ngự dụng cung thỉ, thính nhi trạch thích dĩ tập. Chư khí vật hậu khởi

thùy di?” Hữu tri giả dĩ mặc thức kỳ đại ý. Nhất nhật thị xạ vu cấm viên, hữu

Thái hậu thị. Dư dĩ phát tứ thỉ, thượng trì nhất thỉ, phụng diện dụ: “Nhĩ xạ thử thỉ

vụ trúng hộc dĩ úy nhĩ mẫu tâm”. Tiểu tử thừa mệnh, tức loan hồ, phát thỉ, hạnh

diệc như chỉ. Thánh tâm bản tự thâm viễn, phi viêm lương đồ sở khả trắc. Dư diệc

thị chi khoát nhiên vị thường lưu ý hữu kị cạnh giả. Nhược võng văn hữu khuyến

nhập các duyệt tập chính sự giả, viết: “ Hữu huynh tại”. Tính hựu quả ngôn đa tu,

phàm phi chí thân cố, tuy thân phiên đại thần, nhập triều tương ngộ diệc hãn trí từ,

tác thái như phu nhân chi vi giả. Dĩ cố nhân diệc quả giao; dư diệc lạc an ư đạm

chuyết dã. Khí huyết nhược, thân thể thường sấu, phương thử thiếu niên vô sự nhi

tự tục do gian nan, úy phụ mẫu chi vọng, thậm quỹ yên. Dư do thị thô sơ, vị dĩ vi

ý. Cận quan niên, lục nguyệt hốt xuất đậu độc thậm nguy kịch, lại phụ mẫu đa

phương y đảo, bát nguyệt thủy dũ. Nhiếp hạn vị mãn, diện gia vị lạc, đản thậm

chiêm luyến, lực tật xu tạ vu triều, hành quỵ do khuynh trật, mông miễn bái. Hựu

thủ “Chỉ Thiện đường hội tập” tứ chi, viết: “Tâm pháp trị pháp đô tại thử, nhĩ học

nhi tiễn yên”. Hựu triệu nhập nội điện tứ kiến Thái hậu, hứa loát long tu, bất giác

thế tứ giao hạ cái cửu khuê dã. Hựu thung dung tứ duyệt ngự chế phỏng Ngu

Thuấn “Khanh vân ca”; suất dĩ nguyên tác hữu vận kiểm tấu, mông hậu gia tường

thưởng, nhân khiển. Các thần dĩ thất kiểm chi cố. Vị kỷ, Hoàng khảo bất dự, tức

vu thị nguyệt hạ tuần chí vu cửu nguyệt hạ tuần, đồng chư huynh đệ, đại thần

thường trực túc cấm trung, thị y dược, vấn khởi cư. Thì dã vũ lạo, tuy nguyên khí

vị phục diệc mạo thiệp hàn thủy, nhật dạ y cân bất cảm giải, tẩm thực câu diệt.

Quyện thậm, tắc ỷ trụ giả mị; văn tuyên triệu hồn bất phụ thể, tức tùy trung sứ xu

thị. Giai phận cố đương nhiên, bất tằng tự niệm; duy kí nhật khánh an, trường

linh huấn địch...Cự ý hạo thiên phất điệu cự dĩ di đại đầu gian vu xung mạo nhân.

Ô hô thống tai! Ô hô thống tai...Dĩ thiếu niên sơ chính, bất ám tất điển cố nhân

tình. Mang muội yên! Chúy lật yên! Thâm duy phất phất khắc phụ hà! Hựu nhân

bào tỷ Diên Phúc trưởng công chúa bất hạnh tùy hoăng, khủng trọng thương mẫu

111

tâm, mãnh miễn úy giải. Nhất hành gian đa cố sậu tập vu nhược chất, tật phục đại

tác, kỷ chí ủy đốn. Thượng lại Hoàng tổ, Hoàng khảo đức trạch tại nhân dã thâm,

nội hữu Hoàng thái hậu chỉnh túc cung vi ngoại hữu cựu đức chư đại thần bố liệt

triều quận, hiệp tâm khuông tán lẫm tuân thành hiến, thuân tuần thập niên gian,

hạnh vô đại quá. Tuy hữu bất niệm cúc tử ai, bất đắc dĩ tùng công luận, thân đại

nghĩa vi xã tắc kế. Túc bố chi dao, thực thâm tàm thống! Chu công chi quá, phi

Mạnh Tử thùy lượng chi? Y! Hữu vô thị tâm? Ức vị quần tiểu sở ngộ, hà cừ chí

tự tài? Nhất thì diệc nan tận bộc, bách thế hữu thanh sử tại, dư hà tâm yên? Đại

để sự hậu luận nhân, dư bất năng vô hận vu hiếu sự chi bối vi thử loại dã. Nhược

năng quan phù hậu lai ủy khúc thành tựu ư chư cô nhi bất khả đắc giả, tắc dư tâm

diệc khả dĩ đối vu thiên hạ hỹ. Tha nhược thảo thiết, gian nhũng hữu thì phiến

hoặc, diệc ngật vô sự, giai tư chúng lực dã, dư hà năng yên! Ô hô! Ngu nhi nữu

an, muội vu dũ hộ y giả chi giới! Năng thần túc tướng diệc dĩ thái bán điêu tạ, kỷ

năng khôi ngã Hoàng khảo hải phòng chi di huấn, dụng tể dư vu vô quá chi địa.

Hoàng thiên nãi giáng hậu phạt dĩ cảnh ngã quân thần địch yên. Trùng dương vạn

dư lý, phong mã ngưu bất tường cập chi Âu Châu nhân, nhi tố hữu cựu chi Phú

Lãng Sa quốc giả sư thuyền đột như kỳ lai, khí hảo tầm cừu xâm ngã biên, bỉ thị

thuyền kiên bác lợi, tứ kì thôn phệ, át vu Quảng Nam, dật vu Gia Định. Bắc Kỳ

hỉ loạn, gian nhân diệc nhân chi trập động. Thừa bình nhật cửu, nhân bất tri

chiến. Can thành bảo chướng hữu kỷ nhân yên. Dĩ trí sơn hải quần đạo, nội gian

ngoại khấu ám tương đề xuyến tư mạn sở chí phong phỉ. Thùy dữ bảo ngô cảnh,

thẩn khả bảo ngô dân? Bất đắc dĩ chinh thiện, dĩ tùng sự chi dân ích tao nhiên tụy

chỉ. Bất đắc dĩ nhân lỗ cầu thành, khiển sứ dữ ước. Kỳ nho thạc phụ khái nhiên

thỉnh vãng. Bất thẩm hà cố nhi dung dị thành ngôn dĩ hoàn suất tương lũy triều

gian nan tịch tụ chi thổ địa nhân dân nhất đán tận khí dữ địch. Kỳ ư trạch họa thủ

khinh, dĩ tử cố tranh, sứ bất nhục quân mạnh, quả như thị hồ? Sử trẫm dữ ngận di

nhất lão vô khả nại hà, tương đối ẩm khấp, dĩ cam đắc tội ư tôn miếu, thiên hạ!

Một giả bất đắc hoàn chí nghiệp, tồn giả trường thích thích mạc chi năng vân.

Thị thục giai chi lệ dã? Nhược vị khí dĩ thất, chuyển dĩ nguy, bất như thị an bảo

kỳ vãng. Phù! Khí chi giả nhược hữu công, tắc thất chi giả cố hữu quá. Nhược

thất chi giả vị định quá, tắc khí chi giả hà vị công? Nhị giả tất hữu năng biện giả.

112

Huống như bỉ ký thất chi, ngã năng phục chi, viết công nghi hĩ. Bỉ ký thất chi,

ngã tùy khí chi công ô hô tại an khả nghịch ức dĩ vi trí, vu chúc dĩ vi công? Nhi

tư nghị giả do vi chi từ bất tuất quốc, thị vô quái hồ? Nhật ích trắc tình, sự vụ

tăng phiền. Bất tri nhân tâm tằng bất ẩn thống? Nhiên nhi tri nhân bất minh dư

tội dã; Dụng nhân bất xứng diệc dư tội dã; Phàm bách bất cử giai dư tội dã. Bất

đắc dĩ tốn dĩ hành quyền, ký kỳ tiểu tức; Thiên hạ tự thử thủy đa sự hỹ. Hồi tư

đương nhật, vũ hịch giao trì, cơ vụ điền ủy, nhật dạ tẩm quỹ thất tiết, như si như

túy. Chí kim kinh hồn do vị định, nhi luy tật nhật cánh gia, kỳ hựu bất hạnh tốt,

tao cấp bệnh tuyệt nhi phục tô. Ư thị đầu vận mục huyễn, cước nhuyễn phúc trệ,

chư hư chứng tất kiến. Tế tự bất năng thân, vấn chính bất năng cần, nhi cữu bá sở

do lai gia dã.Thành khủng nhất đán yêm hốt, trí bất hồ nhược vi tu. Nãi linh thái

sử dự tướng địa, đắc ư Duơng Xuân thượng khoáng thổ. Đình thần phúc thị, viết:

“Nghi!” Cái tùng thuật gia vân giả, ư dư hà cố tai! Hựu vị thị niên Giáp tý, thị

nguyệt Bính tý, giai hợp nghi khởi biện, nãi phủ tùng dinh kiến yên. Ư thị hữu tư

danh sự kỳ sự, hiệu kì lao. Cao nhân cao, hạ nhân hạ, kinh dinh tương độ, tu lý

bổ tước; Ư thị nghiêu xác tạc trăn mãng lạc, nhi thành trì, cung điện, lâu các,

đình tạ, viện vũ, hồ đảo hàm xuất yên, hợp vị trí nhi tương liên lạc dã. Chính

trung vi ngô vĩnh trạch, Canh sơn Giáp hướng, bất lăng bất phần, chỉ lưu bình

địa, tác đê oanh, tương lai tất linh tùng bá lăng dụng ngõa khí nhi dĩ. Kỳ mạch lai

chi sơn viết Dẫn Khiêm, Lao Khiêm, Đạo Khiêm, Long Khiêm, Cư Khiêm, Lý

Khiêm, tự viễn nhi cận dã. Kỳ hữu sơn liêu dĩ tường khai lâu môn viết Khiêm

Cung môn. Tiền điện viết Hòa Khiêm điện, vi hậu nhật hương hỏa bằng y chi sở.

Hậu điện chi viết Luơng Khiêm điện vi cộng phụng an dữ thừa hoan chi sở điện

chi đông viết Minh Khiêm Đường, bị lâm hạnh tấu nhạc dã. Điện chi tây viết Ôn

Khiêm Đường, trí thượng phương phục ngự dã. Cung môn chi nội ngoại thiết tứ

vũ, viết Lễ Khiêm, Pháp Khiêm, thần công túc trực xứ dã. Lưỡng điện chi hậu

hữu thiết tứ viện viết Tùng Khiêm, Dụng Khiêm,Y Khiêm,Trì Khiêm, tần ngự

tùy thị xứ dã. Hậu điện hậu, liên nhất tiểu các viết Ích Khiêm, ty nhi túc dĩ vọng

cận cảnh dã. Tiền môn tiền, biệt kiến đường lang viết Chí Khiêm, hiệp nhi túc dĩ

tự chư cựu cơ dã. Thủy chi tiểu giả Tiểu Khiêm trì dã, tác tân nguyệt dạng hoành

chính cục tiền, thiển nhi hạc, cẩn kham tích vũ, tùng thanh ô thuật dã. Thủy chi

113

đại giả, Lưu Khiêm hồ dã, oanh hồi loan chuyển tự hữu cập tả, thâm nhi thanh,

hạ bất kiệt, thu bất dật, cái nhân thâm điền dĩ tạo thành; hựu thiết đậu dĩ phóng

phủ ngoại điền, súc tiết tố kỳ cố dã. Hồ bán thành nhi quần ngư dĩ phát phát

nhiên nhiên, bất thắng số, bất đãi bổ súc, cái nhân thế nhi lợi đạo chi cố dã. Hựu

vu hồ đầu nhi bạn hữu thủy tự địa trung lưu xuất; quan kỳ thạch tắc vô khích khả

tầm, nhi thủy thường lãnh lãnh nhiên, hữu thanh lưu lưu tối thanh chú vu hồ, nhật

dạ bất đình. Thực do thiên thành, nghi hữu phục tuyền nhi nan minh dã. Nhân vu

thị xứ lược cấu thủy lục xưởng xá, giá dĩ trúc, tập dĩ mao, túc tế thử vũ, bạc tiểu

thuyền nhị diệc viết Thuận Khiêm, Ổn Khiêm. Thì nhân phong nguyệt lịch phiếm

vu hồ, thái quân tử hoa, ca ái liên khúc, sảng nhiên vô tha dục, cái mãn hồ duy

thực thử hoa nhi dĩ dã. Hồ chi bàng, giá khởi nhị tạ, kỳ nhất lưỡng tằng, sảo cao

nhi sảng, thị viết Xung Khiêm, kỳ nhất tam tằng, tằng tằng dũ đê phả hiệp diệc

thích thị viết Dũ Khiêm; ngọ phong nguyệt dạ túc dĩ thùy điếu. Hồ chi trung,

chước tỉnh công dịch lượng lưu thổ thạch, trúc nhất đại đảo, thụ tam tiểu đình,

mệnh chi viết Nhã Khiêm, Tiêu Khiêm, Lạc Khiêm. Lũy chi dĩ sơn thạch, ấm chi

dĩ hoa mộc, vi đắng, vi động, vi lâm, vi cốc, phi cầm tẩu thú, dĩ tụ dĩ súc, nhi

khổng tước minh, bạch thố phục, cẩm kê túc, danh thích kì sở hĩ. Hồ chi thượng

gian khóa tam kiều, viết Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm, Do Khiêm, dĩ tế bất thông nhi

thủy lục tự tương liên thuộc hỹ. Kỳ tả sơn sơn chi cước, Thể Khiêm đình tại yên,

thiết xạ bằng vi xạ trường dã. Sơn chi yêu, Chấp Khiêm trai bạng yên, dực dĩ

lang dĩ thông vu lâu dã. Sơn chi điền, Di Khiêm lâu tủng yên, sảo hiên khê khả dĩ

viễn vọng dã. Bao chi dĩ la thành, uyển chuyển khởi phục, tùy sơn thế nhi thi

thiết dã. Nhiên do thị nhân công, vị nhược tứ diện quần sơn liên diên hoàn bão,

vọng chi nhược bích, nhược chướng, bất thiên bất lậu; thị chi vị thiên nhiên la

thành dã. Ngoại môn phàm tam viết Vụ Khiêm, Tự Khiêm, Thượng Khiêm; nội

môn phàm lục viết Tất Khiêm, Nhu Khiêm, Huy Khiêm, Năng Khiêm, Mục

Khiêm, Liêm Khiêm, giai môn danh dã. Nãi tùy kỳ nghi bố kỳ loại, vi đậu bằng,

vi hoa sạn, vi quả kính, vi sơ huề, vi lộc động, vi ngư diên. Tuy sơn thổ tự hồ

nghiêu tích, nhi tài chi diệc dị mậu, hoán chi diệc dị cấp, kỳ diệc địa khí sử nhiên

da? Tổng danh chi viết Khiêm cung, hậu diệc tất vị chi Khiêm lăng hựu lệnh

kiến thần tự liệt tự điển tích phong cáo diệc xưng chi vi Khiêm Sơn thần vân. Đại

114

phàm danh tất cố nghĩa, phi đồ danh dã. Phù ! Hà dĩ ngô chi khiêm nhi sử mỗ

sơn, mỗ thủy, mỗ đường, mỗ thất diệc giai tùng chi nhi vi khiêm? Bỉ kỳ hà cữu

hồ tai? Hựu quả hà tri hồ tai? Tính nhi cường gia chi danh, quả dĩ năng an hồ tai?

Nhi ngô hà thủ ư khiêm hồ tai? Kỳ khiêm chi vi khiêm quả thành hồ tai? Phù!

Khiêm giả kính dã, nhượng dã, hữu nhi bất cư, khuất dĩ hạ vật giả dã. Dĩ dư chi

mông sỉ, phụ tội như thị, khiêm mạc đại yên, khuất mạc thậm yên! Hữu hà tài

năng công đức nhi bất cư hồ? Đệ dĩ tố thượng phác đạm, vị tuy hoàng ốc nhi tâm

thường nhược bố tố, trừ thị phục chương chi ngoại, vô hào ba lệ, ức diệc hữu nhi

bất cư chi nghĩa dã? Gia dĩ tự dinh thử cung chi nhật, lôi chấn Hòa Khiêm điện,

loạn dân hoặc chúng phạm khuyết, thiên khiển dân oán bất kỳ tiến chí; Dư tâm

thượng hà hữu tai nhi bất cảm bất khiêm dã. Duy tri thủy chung nhất kính đạn,

kiệt tâm tư, hạnh khả duy trì bổ cứu vạn nhất, tắc kì khiêm giả khởi cảm bất

thành hồ! Cố nhân nhi tận danh chi, diệc dục tùy xúc tùy cảm, dụng tự tỉnh giới

tính tự biếm dã. Phi như Ngu Khê phi ngu nhi tính ngu, nhục chi, tắc hoàng vấn

bỉ chi an nhiên dữ phủ. Phi cảm tất hà khuy hà ích, hà hại hà phúc, nhi vi thử xu

tị dã. Thả dư chi tác thị cung giả, nguyên niệm lệ hữu biệt miếu, hựu hữu lăng

tẩm; Bất hữu dự chế, quyết hậu thần tử suất tuần điển cố, nan miễn dao trở phiền

lao. Cố tính nhi tiết chi, thành dục tiện nhi cánh tiện. Huống thử xứ hựu thị sơn

nguyên chi tối hạ giả, tùng tiền chư lăng độc vị thậm cận, thủy thổ bình thiện, vô

mậu lâm tuấn lĩnh, phả dị thi công. Điện vũ tuy đa, nhi độc hữu Hòa Khiêm,

Lương Khiêm, Di Khiêm biệt cấu tân tài, dư giai xuyết thủ cựu ốc, di bỉ tựu thử,

nhi kỳ công dịch do chí tam niên thủy thành. Nhất thiết dinh thiện lao tứ chi nhu

thả dĩ bách vạn kê tắc kỳ lao phí vi hà như, khởi dư sở đắc dĩ dã. Ô hô! Kỳ thị

Thành Tử Cao chi ngôn năng bất nội quý tai!

Ký thành, nãi thân phụng từ giá lâm hạnh, trần ngự yến, tiến ca vũ, hựu tứ

nội ngoại đình thần thiếp đồng lạc chi, thể quần tình dã, dư khởi hiếu đa nghi vi

tai! Nhiên diệc tương hiệu Tư Không Biểu Thánh, phú thi chước tửu ư kỳ trung,

phi đặc ca khốc dữ tụ ư tư dã dĩ. Thị hậu thì, nhân thanh minh dịch liễn yết lăng

thuận lộ trú tất, hiệt cam phương, trạch tiên phi, điều trân tu cung hoan phụng

vân nhĩ. Thì nhân khổ nhiệt thư phiền, tạm vãng quan tĩnh, nhất niên trung bất

quá nhị tam dộ bất hoàng hạ yên. Hoặc trị Nam Giao đại tự, vị năng thân chấp

115

ngọc bạch tương sự, tắc vu tư dao bái, phỏng Trúc Cung cố sự thiểu thân vi kiền.

Đăng cao tứ vọng, diện Giao Đàn, bối Linh Mụ tự, khả dĩ minh ngô bình

sinh chi hướng bối dã; Sinh vị năng tận lễ, tử diệc đắc dĩ vĩnh triều hĩ. Hữu cán

Xương Lăng, tả đối Văn Miếu, túc dĩ úy ngô tu mộ khâm ngưỡng chi tầm, tha

niên hồn phách đắc dĩ vĩnh y, thủy chung nhất đạo nhi dĩ! Chí nhược tân phần

cựu trũng tứ diện lũy lũy, đa thiểu cố nhân bán đăng quỷ lục; hưu hữu bất...Do

đăng Bắc Mang vọng Hao Lý, bạch dương bi phong chung cổ vô dĩ. Phàm nhất

sinh, doanh doanh thiết thiết giả quả hà vi tai? Hựu hà tất chỉ Tân Phong đạo nhi

trí khái yên dã.

Sở khả khái giả học vị thành, chí vị phó, hư danh bất túc dĩ để thực tội,

nhược chất bất túc dĩ để thực tội, nhược cương vị phục, biên hoạn vị bình, tự tục

gian trì, vi thiên hạ đắc nhân nân bằng thùy cán! Cổ đồ dĩ thiên sinh chân tín, tri

năng vị muội, tuy tật ác thái thậm, tình uất thái thâm, vị miễn thì hoặc táo nộ,

diệc tất hữu cố nhiên. Phàm sự mỗi tùng khoan hậu, bất cảm vọng thủ vi cố. Cửu

bình sinh sát chi quyển, nhi vị thường bất do tư bại án thành nhi thiện sát nhất

nhân dã. Dĩ chí bi hỷ, diệc bất thậm hình.

Hướng lai dư sở tối bi giả duy thị tật chi thu. Hoàng khảo tật đại tiệm duy

kỷ, hốt nhiên sinh huyễn. Tả hữu thị giả giai viễn tị, độc dư thăng ngự sàng, thân

quán ngự dược, thế tứ bị diện, cuồng cự hô hào, hạnh nhi dương khí tiệm hồi,

phục đắc thiểu diên thị gian. Chí ninh lăng nhật, soái chư hoàng thân đại thần hộ

tử cung an vu huyền cung tất cái (khái) thủ đại đống, phan luyến kỳ trắc, cơ bất

tự giác hữu kỳ thân hỹ. Chư đại thần thỉnh xuất diệc bất chi giác. Đông Các đại

học sĩ Vũ Xuân Cẩn nãi chấp thủ ủng xuất. Thành nhân sinh chi tối bi giả mạc

thử. Nhược tha, tắc hoặc nhân kiến văn trung thần hiếu tử chi sự, bất giác thê

nhiên khấp hạ, chí vu ngạnh yết bất năng tốt độc phát thanh giả kỳ dư, nhân sở bi

giả dư bất thậm bi, nhân sở hỷ giả dư bất thậm hỷ.

Kim hiếu độc thư, đản khổ bất hạ. Bất cầu thậm giải, bất năng cường ký;

Cẩu hữu đắc diệc bất cảm tiểu thuyết lôi đồng. Phàm trứ thi văn, trực tả hung ức,

bất giả tứ sách điêu trác. Tích Cần Chính điện đại học sĩ Trương Đăng Quế mỗi

vị : “Thuần hồ thiên phận”. Tuy nhất ngôn bán thức, diệc túc vi bình sinh tri kỷ

cố cựu kỳ khả vong hồ! Dư thường vị lịch đại đế vương hiền dung bất thiểu.

116

Nhược dĩ công danh ngôn, tắc Hán Văn bất cập Đường Thái; Dĩ đức tính ngôn,

tắc Đường Thái hậu viễn bất cập Hán Văn; Thử diệc thiên phú, phi khả cưỡng

nhi năng. Dư phi cảm bạc Đường Thái, đản thiết nguyện hiệu Hán Văn nhĩ. Cố

sự sự vụ thực, tư tư dĩ dưỡng dân cố bản vi niệm. Nhật tịch quyết cơ phán sự.

Mục lãm thủ phê, bất di dư lực. Tuy diệc bất miễn hữu thanh sắc cầm hóa chi

ngu, nhưng diệc bất miễn hữu tầm thường tiêu khiển, bất kê hữu vô, thực bất cảm

hào hữu bệnh dân, phương chính. Nhiên nhi xí vị năng, cái do dư đức bất túc dĩ

hóa tục, tài bất túc dĩ tác nhân; Chí đại nhi thức quả, cầu trọng nhi ứng khinh...

Huống cụ kim chi thế giới phong tục, thị hà thế giới phong tục ? Bất đản

thiên phương liệt quốc tranh thượng công lợi trá lực, tức văn hiến chi bang, công

khanh sĩ thứ diệc gian đa tham khắc khi sức, tập dĩ thành phong. Trương bạc

công, yểm hậu quá, cam tiểu lợi, an đại hại. Cẩu hữu nhất nhân nhất quốc dị chi,

tắc chúng côngngu chi hủy chi; Thành hữu thậm ư Xuân Thu Chiến Quốc chi thế.

Tuy Khổng Mạnh phục sinh diệc mạt như chi hà dã dĩ hĩ! Phù ! Dĩ đại Thanh tôn

quốc nhi diệc bất năng tự cường, tắc kì tha thượng khả ngôn tai! Kim dư nội vô

kế thể chi hoan, ngoại đa nan bình chi sự, điểu nhiên nhất thân ưu cữu tùng trí.

Thường nhân chi tình do bất kham thử, huống ư dư hồ! Duy dĩ nhất thành dĩ ngự

bách hư. Sở thị giả kỷ hà kỳ diệc tự tín phù hữu thiên nhi dĩ. Nhi dư sở tín giả phi

cảm tận tín phù vận số chi thiên, nhi đặc tín phù đạo lí chi thiên. Tín đạo lý chi

tiên tắc diệc duy tận ngô tâm yêm nhi dĩ hỹ. Tận ngô tâm yên, tắc khiêm sở dĩ

bảo thái, ngô bất cảm bất tùng nhi cư khiêm dĩ tận hồ nhân sự. Thái sở dĩ trứ

khiêm, ngô diệc bất cảm bất miễn kỳ trí thái dĩ chương hồ thiên đạo.

Thị tắc “nhu khắc” nhi “cương khắc” tồn yên. Khiêm ty nhi thụ khiêm hệ

yên. Bất đản bất tương phản diệc mạc bất tương nhân dĩ thành. Thị chi vị thiên đạo

hạ tế, quân tử hữu chung giả dư. Tự phi bảo kinh ưu hoạn, kỳ thục dữ ngã tri nhi

dữ ngã ngôn chi? Diệc vô khả dữ quy xứ, tức tương lai quan giả hựu hà phiền tai!

Thị dĩ cữu tâm khổ chí mĩ triêu y tịch, bất giác hữu tự hồ cuồng quyến giả. Vi

thánh nhân thùy vi khởi dư? Dư diệc tương đãi. Duy thiên dữ thánh dĩ hoàn dư chí;

Bất cảm dĩ bất khả vi nhi bất vi, bất khả hóa nhi bất hóa, nhất nhật diệc tư nhất

nhật chi trách yên nhĩ.

Kim dư sở kỷ thực chỉ giai dư sở độc tri nhi chúng mạc đắc tri, dĩ thiểu thân

117

dư chí ư thiên hạ; Nhược phù sự trạng đắc thất tự hữu sử bút, dư bất ngạo. Chí ư

văn pháp từ ba vô túc luận dã. Hậu lai hạnh hoặc năn phó dư chí, dư tương tất

hữu dĩ tục chi; Bất nhiên, thùy kỳ tục chi, diệc nghi thâm lượng dư tâm, thận vô

sự văn sức vi dã. Nhân vi minh dĩ tự kính vân. Minh viết:

Dương Xuân chi thượng hề

Duy dư chi trạch hỹ

Sơn ty nhi địa tịch hề

Diệc trạng dư khiêm ý dĩ tự trách hỹ

Thùy dũ dư đồng tâm dĩ hoàn dư chí hề

Y! Cầu chi nhi vị hoạch hỹ

Duy thiên kì giám hề,

Ngã tâm hữu như thử thạch hỹ.

Tự Đức nhị thập tứ niên lục nguyệt ngự chế

Tự Đức nhị thập bát niên tứ nguyệt ngự bút.

2.5.3. Dịch nghĩa

Bài kí ở Khiêm Cung*

Khí trời nhẹ và trong nên được bền lâu, còn gió mây mưa móc không có hình

dáng ổn định nên chẳng cần nói đến. Nếu có hình dáng thì tuy lớn như trái đất

cũng có khi nứt ra từng mảnh nhỏ, sáng như mặt trời mặt trăng cũng có lúc khuyết

xế che khuất âm u ...Lại như núi cao, biển sâu, vàng bền, đá cứng đều là những vật

trác tuyệt nhưng cũng không thể không lo đến đổ nát, cạn khô, hao mòn tan vỡ,

huống hồ con người? Sống chết đối với con người là việc lớn nhưng cũng là việc

bình thường. Nhan Hồi (1) chết non, Bành Tổ (2) sống lâu, Bá Di (3)hiền lành,

Đạo Chích (4) tàn ác, sống vốn chẳng giống nhau nhưng chết thì không thể không

giống nhau được. Bởi vì cái không mất là danh mà cái không thể không mất ấy là

thân, đó là lý do vì sao phải gấp lo việc chết! Chôn là cất giấu, nhưng khác với

loài cầm thú là ở chỗ lễ nghi và tình cảm mà thôi. Lệ xưa vua lên ngôi liền làm

quan tài, hằng năm đem ra sơn một lớp rồi cất, ta nay đâu dám làm trái phép tắc

* Theo bản dịch “Khiêm cung kí”của Phan Hứa Thụy, được trích dẫn trong tư liệu “Hồ sơ về lăng vua Tự Đức”ở Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế.

của các đấng tiên vương ? Người khỏe còn lo chuyện bất thường huống chi kẻ

118

yếu!

Ta vốn bẩm sinh thể chất yếu đuối, lúc mới sinh ta, mẹ ta ốm đau hàng mấy

tháng mới khỏi, vú nuôi ta lại không được cẩn thận sạch sẽ, mẹ ta bảo ban mà

chẳng nghe, vì sợ ta bị tối tăm nên mới lên ba đã vội ngăn không cho ta bú nữa,

rồi một mình mẹ ta tự tay bồng ẵm lấy. Ta từ đó ốm đau cứ kéo dài và đã từng

nguy cấp, mẹ ta sớm chiều ôm ấp hết sức khó nhọc.

Lúc mới biết nói biết đi, ta đã từng cầm than vẽ vào tường,có người lấy làm

lạ hỏi, ta trả lời là viết chữ “Trạng”, bởi vì tiến sĩ cập đệ tục gọi là trạng nguyên

(5), ngày nay biết được việc ấy là do mẹ ta kể lại cả .

Lúc bắt đầu chừa tóc (6), mẹ ta bảo ta hãy tìm thầy để học tập, ngay khi

đang học vỡ lòng ta đã làm được chúc đối, nhưng ngâm vịnh thì nào đã biết gì

đến thanh luật. Cha ta nghiêm nhưng rất hiền từ, kẻ tiểu tử này (7) từ thưở mới

sinh đến thời niên thiếu, nhân chỉ một lần vì tính ham chơi bè bạn mà bị đánh

roi, nhưng từ đó về sau ta rất kính sợ. Cha ta thường ít bảo ban mà đã bảo ban

ắt ta cố gắng, lúc xem thơ và câu đối ta làm thì người tỏ ra vui vẻ lắm. Một hôm

cha ta hỏi đùa các con : “con tên là gì và ý nghĩa của nó ra sao?” Mọi người tùy

ý mà trả lời chẳng biết đúng sai thế nào cả. Tiểu tử này cứ theo những điều đã

học mà lý giải, nói: “Hồng là nặng nề, lớn lao; Nhậm là gánh vác”. Đáp xong

cha ta ngoảnh lại cười rồi nói đùa rằng: “gánh gì mà nặng, gánh củi à?”

Thái hậu (8) hiền từ nhưng nghiêm. Thường ngày người dạy ta cách đi

đứng nói năng cho phải phép, chẳng cho chơi lêu lổng, mỗi sáng ra học ở nhà

ngoài đến gần trưa mới được vào, nếu có lãng quên lười biếng hay uể oải thì

cũng tùy từng tội mà quở mắng. Nếu chưa thuộc bài thì người bắt ngồi học cho

đến thuộc mới thôi, bằng không thì tuy có múa hát ngay trước mắt cũng chưa cho

xem.

Tiểu tử này may nhờ được đùm bọc nuôi nấng, thuở bé học khá sáng, các

loại sách vỡ lòng cấp tiểu học thì chỉ cần nửa ngày đã thuộc cả quyển. Được vậy

cũng vì quá kính sợ sự giáo huấn nghiêm túc, cho nên là cũng may là ít bị đánh

roi. Khi có lỗi nặng tất cũng không tránh khỏi ngọn roi, nhưng đánh xong mẹ ta

lại khóc.

Hoàng khảo (9) mỗi khi đi đâu đều dắt ta theo, vườn Thường Mậu vừa mới

119

lập xong cũng cho ta theo cùng ở. Hoàng khảo duyệt xét án mùa thu (10)chẳng

dám khinh suất giao cho ai, tự thân viết tấu đến thâu đêm nhưng vẫn sai ta hầu

bên cạnh để người đọc cho mà chép.

Năm ấy sắp hết, cha ta mới nhận lãnh ấn ngọc (11),gặp lúc việc hệ trọng,

sáng ra chưa kịp gọi ai chỉ riêng gọi ta vào điện Hoàng Phúc để hầu hạ. Năm

sau bảo ta ra ở tiềm để (12), sau đổi tên là Thiện Khánh đường, để tiện việc học

tập. Lại năm sau, gặp việc bang giao quan trọng, người lại sung ta vào chức lưu

kinh (13), nhưng sau lại sai ta theo xa giá ra bắc rồi cho cùng tham gia nhiều

công việc. Trên đường đi và về, sớm tối ta đều được theo hầu ở ngự dinh. Lại

năm sau nữa ta được phong tước Công rồi cho ta ra ở phủ riêng và cưới vợ, ấy

là năm ta đang chí tâm với việc học.

Tuy đã có gia đình nhưng Hoàng khảo vẫn cho đòi vào hầu ở nội điện, cho

ngồi hầu trong các bữa ăn, ân tứ của người đối với ta rất hậu, có đêm đến khuya

khoắt mới được lui ra. Hoặc có khi sắc dụ hay những văn kiện lớn lao người

cũng đều sai ta kiểm lại bài của người. Còn như ứng chế phú thơ, ấy là việc

thường. Có lần người cho ta hầu cơm, cho cùng ăn, giữa bữa ăn cũng sai buông

đũa để ngâm vịnh, lại còn sai bọn cung tần bưng đồ tứ bửu (14) bày ngay chỗ

ngồi cho ta lựa lấy mà dùng, ơn mưa móc đến như thế thật không còn nghi ngờ

gì nữa, tiểu tử này đâu dám vượt ra ngoài khuôn phép. Làm thơ xong, người lấy

chén ngọc sớt đồ ăn ban cho và nói : “Con ăn cái này là thừa hưởng phần

thưởng ta ban”. Có khi đang giữa tiệc rượu có tấu nhạc ca múa như thế cũng

bảo ta làm thơ tức sự. Ta vâng lệnh làm một bài dâng lên, người lấy chiếc nhẫn

vàng mặt ngọc ban cho rồi nói: “Vật này chưa đủ gọi là quý, nay ban cho con

với một lời là đừng làm thẹn lây kẻ đã sinh ra con, con nên ghi nhớ!” Ta lạy

nhận và ghi tạc lời dạy vào tâm cốt. Thật ra lúc ấy ta mới bắt đầu học Tứ Thư,

Kinh Thi, Kinh Thư hiểu còn chưa trọn, thơ nhiều khi làm chưa nên câu, trong số

anh em ta hoặc vì lười biếng, hoặc đang nhỏ, duy ta có phần hiểu biết hơn, may

thay ứng đối nhanh nhẹn nên được yêu thương quá đặc biệt. Thật ân đức của bậc

cha mẹ quả không cùng. Thực lòng cái học của ta chưa đến đâu, ruột còn trống

không, nhưng từ khi làm hoàng tôn rồi đến làm hoàng tử, phàm những người

được sung vào chức sư phó (15) đều không phải là những bậc cự nho tăm tiếng

120

xứng đáng với sự tuyển chọn mà phần lớn là những ông tú già chỉ kham nổi việc

dạy trẻ con, nên có hỏi những câu khó khăn thì họ cũng không lí giải được. Mặt

khác vì thấy ta sớm sáng trí, để khỏi liên lụy vì trách nhiệm nên họ cứ lần lữa yên

thân với cái hư chức nhàn nhã ấy. Ta cũng khổ là không có nhiều sách, chưa có

hiểu biết sâu sắc nên chưa biết lấy sách làm niềm vui mà lấy việc cưỡi ngựa bắn

tên làm thú, ấy là do tính khí tuổi trai trẻ. Nhưng rồi sức học tự nhiên ngày càng

tấn tới mà chính bản thân ta cũng chẳng nhìn ra được, còn như các việc khen

thưởng khác thì khó mà kể hết được. Như việc đi hầu bắn, ta thường bắn trúng,

các chú các em ta cùng bọn thị vệ đi theo hầu đều từng chứng kiến. Đến như việc

Hoàng khảo bảo: “Phàm đồ cung tên ngự dụng, thích thứ nào con cứ việc chọn

lấy mà tập luyện, những thứ khí giới ấy ngày sau còn biết để cho ai? Có người biết

đã ngầm hiểu ý của cha ta.

Một ngày nọ ta theo hầu bắn ở Cấm viên, có thái hậu theo hầu, ta đã bắn

bốn cái tên, còn giữ một cái, cha ta đã ngoảnh lại bảo: Con hãy bắn mũi tên kia

đi sao cho trúng đích để an ủi lòng mẹ con. Ta vâng lệnh trương cung nhã tên và

may sao được ứng như lời dạy. Lòng thánh nhân vốn rất sâu xa, kẻ hời hợt làm

sao hiểu được, ta cũng xem đấy là việc tự nhiên, biết đâu đã có người ghen ghét.

Nếu có ai khuyên hãy vào nội các tập tành việc chính, ta thường trả lời đã có anh

ta đấy.

Tính ta lại ít nói, hay thẹn thuồng, cho nên không phải bạn chí thân, dù là

thân cận đại thần gặp nhau lúc vào triều thì cũng ít khi bàn việc quan hay lên

mặt như kẻ khác, do đó hầu như ta có rất ít người để giao thiệp nhưng ta vẫn cứ

yên vui sống trong lặng lẽ và vụng về ấy.

Khí huyết ta vốn yếu đuối, thân thể thường gầy gò, trong lúc tuổi trẻ đang

yên ổn này mà việc nối dõi còn khó có thể an ủi được lòng mong chờ của cha mẹ,

thật quá hổ thẹn, nhưng đang buổi đầu ta chưa quan tâm lắm.

Gần đến tuổi trưởng thành, vào tháng sáu bỗng mắc bệnh đậu mùa rất nguy

kịch, nhờ cha mẹ hết sức thuốc thang cầu đảo, tháng tám mới khỏi. Thời hạn điều

trị chưa xong, vảy trên mặt chưa rụng nhưng vì lòng quá mong nhớ nên gượng

bệnh vào chầu, đi và quỳ còn run chân nên được cho miễn lạy, lại ban cho sách

Chỉ Thiện Đường Hội Tập và cha ta còn dạy rằng: Tâm pháp và trị pháp đều ở cả

121

trong đó, con hãy học lấy mà làm theo. Lại triệu vào nội điện cho gặp Thái hậu,

vừa gặp nước mắt bỗng chảy dài vì đã lâu ngày mới được gặp lại. Lúc rảnh rỗi

cha ta thường cho ta đọc lại thơ ngự chế, phỏng theo bài Khánh Vân Ca của Ngu

Thuấn (16), noi theo vần trong nguyên tác mà lục soát lại rồi tâu lên, ta được khen

thưởng rất hậu, nhân vậy người liền quở các quan nội các về việc kiểm soát không

kỹ lưỡng.

Chưa bao lâu, Hoàng khảo không được khỏe từ hạ tuần tháng chín, ta cùng

với anh em, đại thần chầu chực trong cung cấm để hầu thuốc thang và thăm hỏi.

Bấy giờ đang là mùa mưa lụt, tuy sức ta chưa bình phục hẳn, ta vẫn lặn lội rét

mướt, ngày đêm khăn áo chẳng dám cỡi, việc ăn nghỉ đều tiết giảm, mỏi mệt quá

thì dựa cột chợp mắt một tý. Bỗng nghe tuyên triệu mà hồn bất phụ thể rồi kíp

theo sứ vào chầu, tất cả đều là phận sự, tất nhiên ta chẳng lưu ý gì, chỉ mong có

ngày sức khỏe Hoàng khảo chóng bình phục để được nghe dạy bảo dài lâu, nào

ngờ ý trời chẳng thương đã vội giao cho đứa con mọn này công việc lớn lao và

khó khăn. Than ôi đau đớn thay!

Tuổi đang trẻ lại mới tập làm việc chính, chưa hiểu thấu đáo hết việc xưa

người nay, nên chi rất đỗi mông muội, rất đỗi run sợ, âu lo e không kham nổi.

Lại nhân chị ta là công chúa Diên Phước chẳng may qua đời, sợ mẹ ta quá đỗi

đau lòng nên ta hết sức an ủi và khuyên giải.

Thể chất vốn yếu đuối mà cùng một lúc bao nhiêu chuyện dồn dập khiến

bệnh cũ tái phát dữ dội, đến nỗi đã mấy phen nguy khốn. Nhờ Hoàng tổ Hoàng

khảo ta đức trạch quá sâu dày với mọi người, trong có Hoàng thái hậu sắp đặt

cung vi, ngoài có các cựu đại thần đức độ sửa sang việc triều quận, đồng lòng

giúp rập, kính vâng noi theo nếp cũ, trong mười năm may không có lỗi gì to tát.

Tuy có bao giờ mà không nghĩ việc nuôi con là khó nhọc, nhưng bất đắc dĩ

phải theo công luận làm cho rõ nghĩa lớn và tất cả đều vì xã tắc, lại nhớ tới câu

ca lúa vải (17) thật hết sức hổ thẹn và đau xót. Lỗi của Chu Công mà không có

Mạnh Tử thì ai tha thứ cho (18)? Lòng ta có như thế không? Hay ta vì bọn nhỏ

nhen mà bị mê hoặc? Sao ta vội vàng đến nỗi tự quyết đoán làm vậy, nhất thời

cũng khó giãi bày hết được, trăm năm còn có sử xanh, ta nỡ nào! Đại khái sau

việc xảy ra mới bàn đến người, ta không thể không giận bọn hiếu sự về những

122

việc ấy. Cứ xem ngày sau ta uốn mình để làm nên việc đối với bọn mồ côi (19)

mà không thể được thì lòng ta cũng có thể tỏ rõ cùng thiên hạ rồi. Còn như việc

giặc cướp trong ngoài có lúc làm mê loạn lòng người nhưng rồi cũng yên, ấy là

nhờ vào sức mọi người chứ mình ta thì chẳng làm gì được.

Ôi! Dốt nát mà quen sống yên ổn, mông muội mà ở chốn nhà cao cửa rộng

chẳng biết phòng bị, tôi tài tướng giỏi cũng đã tàn tạ hơn phân nửa, mấy ai có

thể khôi phục lời di huấn về việc canh giữ biên cương của cha ta để giúp ta bước

ra khỏi vòng tội lỗi? Trời cao lại trừng phạt nặng nề để răn dạy vua tôi ta. Người

Châu Âu xa cách trùng dương ngoài vạn dặm, phong tục chẳng giống nhau, mà

nước Pháp vốn là nơi quen biết cũ, bỗng đưa quân lính thuyền bè đến, bỏ tình

hòa hiếu mà tìm cách xâm lấn bờ cõi, chúng cậy tàu bền súng tốt giày xéo để

hòng nuốt chửng đất Quảng Nam, phá phách đất Gia Định. Đất bắc vốn ưa làm

loạn nhân thể cũng nổi lên. Hưởng thái bình đã lâu ngày, dân không biết chiến

đấu, canh thành giữ chốt nào được mấy người? Khiến đất nước đầy trộm cướp,

trong gian ngoài giặc, chúng lén lút cấu kết với nhau ngày càng tràn lan. Chúng

đến đâu thì tàn hại như gió bão, thử hỏi biết cùng ai để bảo vệ bờ cõi của ta

huống chi là bảo vệ dân ta? Bất đắc dĩ phải đánh qua loa cho xong chuyện

nhưng dân thì ngày càng quấy nhiễu. Để thôi mệt nhọc, nhân giặc cầu hòa ta

đành phải sai sứ cùng chúng hội ước. Những nhà nho lão thành, những đại thần

uy vọng đều lấy làm bùi ngùi và xin đi, rồi chẳng hiểu sao quá dễ dãi trong việc

thương thuyết rồi trở về. Các triều đã dày công khó nhọc mở mang đất đai tụ họp

dân chúng, bỗng nhiên một sớm thảy giao cho địch. Họ đã chọn lấy cái họa nhỏ

nên đã dùng cái chết để khỏi nhục mạng vua (20), quả như thế chăng? Khiến ta

cùng với một bề tôi thân cận (21) chẳng làm sao hơn, chỉ còn biết nhìn nhau mà

nuốt nước mắt, đành đắc tội với tông miếu và thiên hạ. Kẻ mất chẳng hoàn thành

được ý chí và sự nghiệp; Người còn thì đằng đẵng xót thương lo lắng không sao

khuây được. Đó là cái dẫn đến chỗ thảm khốc. Nếu cho rằng đành bỏ cái đã mất

để lo xoay xở cái nguy mới hiện ra, thật không làm như thế thì làm sao giữ được

việc đã qua? Than ôi! Nếu bỏ là có công tất mất là có tội, nếu mất mà chưa cho

là tội thì sao bỏ lại gọi là có công? Hai điều ấy chắc có thể phân biệt được. Kẻ

kia làm mất nay ta thu lại được mới nên gọi là công, huống hồ kẻ kia làm mất, ta

123

lại hùa theo mà bỏ luôn, ôi công sao? Sao có thể lo lường trái đến vậy mà cho là

trí, dối trá như vậy mà cho là công? Những kẻ bàn luận riêng tư còn cho như thế,

nên họ chối bỏ chẳng đoái nghĩ gì đến nước nhà. Thế nên chẳng lạ gì họ ngày

càng uể oải, trốn tránh. Do đó chính sự ngày càng phiền phức, không biết lòng

người có từng thổn thức đau đớn hay không? Nhưng không sáng suốt trong việc

biết người ấy là tội của ta; Dùng người không đúng chỗ cũng là tội của ta; Hàng

trăm việc không làm được đều là tội của ta cả. Bất đắc dĩ phải thuận theo quyền

mà hành động, những mong được một phút nghỉ ngơi nhưng thiên hạ từ đó bắt

đầu sinh ra lắm chuyện. Nhớ lại buổi ấy, tin chiến trường tới tấp, việc quan yếu

bộn bề, ngày càng thêm gầy ốm, chẳng may mang bệnh hiểm nghèo, chết đi sống

lại. Từ đấy, đầu váng mắt hoa, chân chùn bụng trệ, các hư chứng đều hiện ra cả,

không thể thân hành tế tự được, không thể chăm lo chính sự được. Vì thế, lỗi lầm

ngày càng nhiều để người ta có điều chê trách.

Ta thực sự sợ một mai chết đi, thì tự hổ thẹn trí khôn không bằng con cáo

(22), mới sai quan Thái sử xem đất trước, chọn được chỗ cao ráo ở làng Dương

Xuân Thượng. Đình thần xét lại toàn bộ cho rằng được. Đấy là theo nhà phương

thuật, chứ ta có quan tâm gì lắm đâu! Lại bàn: năm ấy Giáp tý, tháng ấy Bính tý

đều hợp, nên bắt đầu xây dựng. Ta liền nghe theo. Từ đấy, các quan chức có trách

nhiệm, người nào việc nấy, cố gắng nhọc nhằn. Nhân chỗ cao mà đắp lên, nhân

chỗ thấp mà đào xuống; đo đạc dựng xây, sửa sang thêm bớt. Thế rồi, lật đất đá,

chặt bụi bờ, dần dần hiện ra thành quách, ao hồ, cung điện, lầu gác, đình tạ, viện

vũ, gò đảo, hợp vị trí mà liên lạc với nhau. Chính giữa là ngôi nhà lâu dài của ta,

ngồi Vị Canh trông hướng Giáp (23), không xây lăng, không đắp nấm, chỉ để một

khoảnh đất bằng một cái huyệt cạn; sau này tất phải bắt chước Bá Lăng (24), chỉ

dùng đồ sành sứ mà thôi...

Những núi đưa mạch đất từ xa đến gần, gọi là Dẫn Khiêm, Lao Khiêm, Đạo

Khiêm, Long Khiêm, Cư Khiêm, Lý Khiêm. Núi bên phải có tường bao bọc, mở

một cửa lầu, gọi là cửa Khiêm Cung. Điện phía trước gọi là điện Hòa Khiêm, sẽ

làm chỗ hương khói nương tựa về sau này. Điện phía sau gọi là điện Lương

Khiêm, làm chỗ nghỉ ngơi những lúc đi chơi. Phía Đông điện ấy có nhà Minh

Khiêm, để khi đến thăm nghe đàn hát xem diễn tuồng. Phía Tây điện ấy có nhà

124

Ôn Khiêm để các đồ quần áo ta dùng. Phía trong và ngoài cửa cung, dựng bốn

ngôi nhà là Công Khiêm, Cung Khiêm, Lễ Khiêm, Pháp Khiêm, là nơi quan lại

và thợ thuyền túc trực. Đằng sau hai điện, bên phải dựng bốn viện, gọi là Tùng

Khiêm, Dụng Khiêm, Y Khiêm,Trì Khiêm, là nơi các phi tần theo hầu ở tạm. Liền

đằng sau điện sau có một gác nhỏ gọi là Ích Khiêm, tuy thấp nhưng đủ để đứng

xem các cảnh gần quanh. Ngay đằng trước cửa trước dựng một nhà cầu gọi là

Chí Khiêm, tuy hẹp nhưng đủ để thờ cúng các cung nữ cũ.

Chỗ nước nhỏ gọi là ao Tiểu Khiêm, làm như hình trăng non, nằm ngang

trước chính cục, nông mà khô, chỉ để chứa nước mưa, theo phép của nhà phong

thủy vậy. Chỗ nước lớn gọi là hồ Lưu Khiêm, uốn khúc quanh co từ phải sang

trái, sâu mà trong, hè không khô, thu không đầy, do lợi dụng chỗ ruộng trũng

mà đào thêm, lại xây cống thông để tháo nước ra ruộng ngoài; việc giữ nước và

tháo nước đã sẵn có. Hồ mới đào được một nửa, mà các giống cá đã sinh sôi nảy

nở không biết bao nhiêu mà kể, chẳng đợi phải bắt vào để nuôi vì cái thế sẵn có

lợi để dẫn cá đến vậy.

Lại ở bờ đá đầu hồ có nguồn nước từ trong đất chảy ra; nhìn kỹ thì không

thấy kẽ hở mà nước luôn có tiếng róc rách, trong leo lẻo, rót vào hồ ngày đêm

không dứt, quả thật do trời sinh ; ngờ có suối ngầm mà khó biết rõ. Nhân ở chỗ ấy

dựng sơ sài cái nhà xưởng nửa dưới nước nửa trên bờ sườn tre lợp tranh, đủ che

mưa nắng cho hai chiếc thuyền đậu, cũng gọi là Thuận Khiêm, Ôn Khiêm. Thỉnh

thoảng, gặp buổi trăng thanh gió mát, dong chơi khắp hồ, hái hoa quân tử, hát

khúc Ái liên (25), sảng khoái biết bao, không còn ham muốn gì khác, vì khắp hồ

chỉ trồng một loài hoa ấy mà thôi.

Ở bên hồ, dựng hai nhà mát; một cái hai tầng, hơi cao và thoáng, gọi là

Xung Khiêm; một cái ba tầng, từng tầng càng lên cao càng thấp và hẹp, cũng

vừa vặn và gọi là Dũ Khiêm; đêm trăng trưa gió, đủ để buông câu. Ở trong hồ

thì giảm bớt công trình xây dựng, để lại đất đá, đắp một hòn đảo lớn, làm ba

đình nhỏ, cho tên là Nhã Khiêm, Tiêu Khiêm, Lạc Khiêm. Chồng chất đá núi, che

rợp cây hoa, đắp bậc, đắp gò làm rừng làm hốc, chim bay thú chạy, tụ họp chăn

nuôi, mà chim công kêu, thỏ trắng nấp, gà gấm đậu...con nào cũng có chỗ thích

hợp khoảng trên hồ, bắc ba cầu, gọi là Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm, Do Khiêm để

125

giúp việc giao thông , cho đường bộ đường thủy liền nhau. Dưới chân núi bên

trái, đình Thể Khiêm ở đấy, dựng tường bia làm nơi tập bắn. Lưng núi, nhà đọc

sách Chấp Khiêm đứng cheo leo, có hành lang thông với lầu Di Khiêm chót vót

trên đỉnh núi, mái hiên rộng rãi có thể trông xa...

La thành bao quanh, ngoằn ngoèo nhấp nhô, xây dựng theo thế núi. Nhưng

đó cũng chỉ là do sức người, chưa bằng bốn mặt núi non liên tiếp vây bọc, như

vách như tường, không nghiêng không hở; ấy gọi là la thành thiên tạo vậy!

Ngoài cửa có ba cửa gọi là Vụ Khiêm, Tự Khiêm, Thượng Khiêm; Trong cửa có

sáu cửa gọi là Tất Khiêm, Nhu Khiêm, Huy Khiêm, Năng Khiêm, Mục Khiêm,

Liêm Khiêm; ấy đều tên các cửa. Rồi tùy chỗ thích hợp mà chia cho các loại: làm

giàn đậu, làm vòm hoa, trồng cây trái, trồng rau dưa, làm động hươu, làm ao

cá...Tuy đất núi dường như cằn cỗi nhưng trồng trọt cũng dễ tốt tươi, chăn nuôi

cũng dễ dư dùng, chắc do khí đất khiến nên như thế chăng? Tên chung gọi là

Khiêm Cung, sau tất gọi là Khiêm Lăng. Lại sai dựng đền thờ thần, xếp vào tự

điển, ban cho sắc phong, gọi là thần Núi Khiêm.

Nói chung, tên phải có nghĩa chứ không phải tên suông. Ấy vậy, sao lại lấy

cái khiêm của ta mà bắt núi kia, sông kia, nhà kia, điện kia cũng phải khiêm

theo?Chúng có lỗi gì đâu? Chúng có biết gì đâu? Đặt tên ép uổng như thế, chúng

có thật chịu yên như thế không? Mà ta sao lại lấy chữ “khiêm” làm tên? Mà gọi

là “khiêm” thì có thực không? Này đây:“Khiêm” là kính cẩn, “khiêm” là nhún

nhường, có địa vị mà không ở, tự khuất mình dưới người. Ta đã chịu xấu hổ

mang tội như thế, nhún nhường còn gì hơn, khuất mình còn gì hơn nữa? Nào có

tài năng công đức gì mà không khiêm? Ta vốn chuộng sự thật thà nhạt nhẽo, địa

vị tuy ở nhà vàng mà lòng thường như kẻ mặc áo vải trắng. Trừ đồ lễ phục đại

triều lộng lẫy ra, ta không dùng chút gì hoa lệ. Phải chăng đó cũng là cái nghĩa

“có địa vị mà không ở”?

Hơn nữa, từ ngày xây dựng cung này, sét đánh điện Hòa Khiêm, bọn làm

loạn dụ dỗ dân phạm cửa cung, trời trách người oán bỗng dưng đưa đến như thế,

lòng ta còn có gì nữa mà chẳng dám không khiêm! Chỉ biết trước sau một niềm

lo âu kính cẩn, dốc hết tâm tư, may ra có thể giữ gìn cứu vãn trong muôn một, thì

cái khiêm ấy há dám không chân thành sao? Cho nên nhân đó, tất cả đều lấy từ

126

khiêm mà đặt tên, cũng muốn tùy theo xúc động và tình cảm để tự khuyên răn, tự

chê trách. Chẳng phải như Ngu Khê (26) không ngu mà cứ bảo là ngu để làm

nhục, thì có rảnh đâu mà hỏi nó có chịu yên với tên ấy chăng? Ta cũng chẳng

dám chắc đâu là thiếu, đâu là thừa, đâu là rủi, đâu là may để mà theo hay tránh!

Vả lại, ta làm cung này, nguyên vì nghĩ rằng lệ thường vua thì có miếu riêng,

lại có lăng tẩm; Nếu ta không dự tính xây cất, về sau tôi con cứ theo điển cố, khó

tránh khỏi xa xôi phiền phức, cho nên ta gộp lại mà bớt đi, thực lòng muốn đã tiện

lợi lại gần hơn, đất nước đều bằng phẳng tốt lành, không có rừng rậm núi cao, hơi

dễ thi công, điện vũ tuy nhiều nhưng chả có Hòa Khiêm, Lương Khiêm và Di

Khiêm đều dựng bằng vật liệu mới. Ngoài ra, đều chọn lấy ở các nhà cũ, đem chỗ

nọ đến chỗ này, thế mà công việc ba năm mới xong. Nhu cầu về vật hạng và khen

thưởng kể hàng trăm vạn, thì công lao và phí tổn đến nhường nào, nhưng ta đâu

thể dừng được! Than ôi! Xem như câu nói của Thành Tử Cao trong lòng há

chẳng hổ thẹn sao?

Khi lăng đã hoàn tất, ta bèn thân rước Thái hậu lên thăm, bày yến tiệc,

dâng hát múa. Lại cho cả vợ các quan trong, quan ngoài cùng dự lễ lạc thành.

Ấy là thể theo ý muốn của mọi người, chứ ta có thích đặt bày lễ nghi lắm chuyện

đâu! Ta cũng chỉ muốn bắt chước Tư Không Biểu Thánh (27) uống rượu ngâm

thơ trong ấy, chứ chẳng phải chỉ làm nơi tụ tập, hát múa, khóc lóc mà thôi (28).

Về sau này, mỗi lần nhân lễ thánh minh, đi xe lên thăm viếng các lăng tẩm tiện

đường ghé lại nghỉ, tìm thứ ngọt thơm, chọn đồ tươi béo, làm món ngon quý kính

dâng bề trên. Thỉnh thoảng, gặp khi nóng bức, để trút nỗi bực dọc, tạm lên ngắm

cảnh. Mỗi năm chẳng qua lên 2,3 lần mà cũng không rỗi thay! Hay gặp ngày lễ

lớn Nam Giao, chưa thể tự cầm ngọc bạch đứng tế thì ta ở cung này lạy vọng từ

xa, bắt chước chuyện cũ Trúc Cung để tỏ chút lòng thành (29).

Lên cao trông bốn phía, trước mặt là đàn Nam Giao, sau lưng là chùa

Thiên Mụ (30), có thể tỏ rõ niềm trông dựa của đời ta; sống chưa trọn lễ thì chết

cũng được chầu hầu mãi mãi. Bên hữu gần Xương Lăng, bên tả đối Văn Miếu, đủ

để an ủi tấm lòng nhung nhớ ngưỡng mộ của ta. Về sau, hồn phách có chỗ nương

tựa lâu dài, thủy chung một đạo mà thôi vậy! Đến như ít nhiều mả mới mồ xưa

ngổn ngang bốn mặt, một nửa người quen đã ghi tên vào sổ quỷ; lại có những kẻ,

127

chẳng biết khanh tướng hay thường dân, nhung nhúc đều thế cả. Nào có khác gì

lên núi Bắc Mang (31) trông về Hao Lý (32), ngọn gió bi thương trên cây dương

trắng muôn thuở không thôi!

Thế thì con người ta suốt một đời căm căm cúi cúi, nào có làm được gì đâu!

Vả lại, cần gì phải trỏ đạo Tân Phong mà ngậm ngùi (33)? Điều ta ngậm ngùi là

học chưa thành chí chưa thỏa, danh hão chưa đủ để trừ tội thực, sức yếu chưa

đủ để làm việc nặng. Đến nay, đất mất chưa lấy lại được, và giặc ngoài chưa dẹp

trừ xong; nói dõi muộn mằn, khó nhờ ai đảm đương việc nước. Chỉ may được

tính trời chân thật, trí óc chưa mờ, tuy bệnh tật quá nhiều, uất giận quá sâu,

không khỏi có lúc giận dữ là lẽ cố nhiên. Phàm việc gì cũng theo lòng khoan hậu,

không dám làm càn. Cho nên, cầm quyền sát sinh đã lâu mà chưa từng tự tiện

giết một người nào khi bộ hình chưa kết thành án. Đến cả vui buồn cũng không

để lộ ra ngoài mặt.

Từ trước tới nay, điều đau xót nhất của ta là dạo mùa thu chầu ốm. Hoàng

khảo bệnh nặng gần mất, bỗng chốc ngất đi. Những kẻ chầu hầu tả hữu đều lánh

xa, riêng mình ta trèo lên giường ngự, tự tay đổ thuốc, nước mắt đầm đìa, vừa

cuống cuồng lay gọi, may mà khí dương trở lại dần, để được hầu hạ hỏi thăm ít

lâu...Vào ngày ninh lăng (34), ta dẫn đầu các hoàng thân và đại thần rước quan

tài yên vị ở huyền cung xong, dập đầu thương khóc, quyến luyến một bên, cơ hồ

không tự biết là có thân mình nữa!Các đại thần mời ra, ta cũng chẳng hay.

Đông các đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn (35) bèn cầm tay dắt ra... Quả thật, điều đau

xót nhất trên đời ta không gì bằng lúc ấy! Ngoài ra, khi xem các chuyện tôi trung

con hiếu, tự nhiên rơi nước mắt cảm thương, đến nỗi nghẹn ngào không đọc ra

tiếng. Còn những gì người ta đau xót thì ta không đau xót lắm, những gì người ta

vui thích thì ta không vui thích lắm.

Nay ham đọc sách, khổ nỗi không rảnh rang...Chẳng cần hiểu kỹ (36)

không thể nhớ lâu. Nếu có được cũng không dám lấy của người làm của mình

hay nói hùa theo họ. Hễ làm thơ làm văn thì tả thẳng điều mình cảm xúc suy

nghĩ, không chắp nhặt trau chuốt. Xưa Cần Chính điện đại học sĩ là Trương

Đăng Quế có lần nói: “hoàn toàn do bản tính trời sinh”. Tuy lời ấy chỉ đúng với

ta có một nửa nhưng cũng đủ làm kẻ tri kỉ trên đời, ta quên sao được người cố

128

cựu ấy!

Ta thường cho rằng đế vương các đời người hay kẻ dở không ít. Nếu lấy

công danh mà nói thì Hán Văn Đế không thể bằng Đường Thái Tông (37); nếu

lấy đức tính mà nói thì Đường Thái Tông không bằng Hán Văn Đế. Đó cũng là

do trời phú cho chứ con người không thể gượng làm ra được. Ta không dám chê

Đường Thái Tông, chỉ trộm bắt chước Hán Văn Đế mà thôi... Cho nên mọi việc

ta đều cốt lấy thực chất, cứ chăm chắm nuôi dân, vững gốc. Ngày đêm xem xét

công việc, miệng đọc tay phê, không bỏ thừa sức. Tuy ta cũng không tránh khỏi

cái vui về hát ca, sắc đẹp, săn bắn, tiền tài, nhưng chẳng qua là việc tiêu khiển

bình thường, chẳng kể có hay không, chứ dám đâu tơ hào quấy nhiễu nhân dân,

làm hư chính trị! Điều ta mong mỏi mà chưa được, vì đức ta không đủ để đổi

thay thói tục, tài ta không đủ để thành tựu cho người. Chí lớn mà kiến thức nông,

mong nhiều nhưng chỉ được ít.

Huống chi phong tục của thế giới ngày nay là phong tục của thế giới nào?

Chẳng những các nước phương xa đua nhau chuộng công lợi, dối gian, sức

mạnh, mà ngay cả công khanh sĩ thứ của các nước văn hiến cũng lắm kẻ tham

lam xảo trá, khắc bạc, tập dần thành thói quen; khoe công ít, giấu lỗi to, tham lợi

nhỏ, chịu hại lớn. Nếu có một người trong một nước nào đó lấy thế làm lạ thì

chúng cho là ngu rồi chê bai. Thật quá hơn thời Xuân Thu Chiến Quốc (38), dù

cho ông Khổng ông Mạnh sống lại nữa cũng chẳng làm sao được! Kìa xem như

Đại Thanh là một nước lớn mà không tự cường nỗi thay, thì còn nói gì đến các

nước khác!

Nay ta, trong thì không có cái vui về người nối dõi, ngoài thì nhiều chuyện

khó dep nỗi bất bằng; một mình cô quạnh lo trách đổ vào. Thường tình người ta

không chịu nỗi cảnh ngộ ấy, huống chi ta! Ta chỉ lấy một niềm thành thực để chế

ngự trăm điều rỗng không. Thế thì ta trông cậy vào cái gì? Cũng là tự tin có trời

mà thôi! Không phải ta dám tin ở ông trời có vận số, mà chỉ riêng tin ở ông trời

đạo lý. Tin ở ông trời có đạo lý thì cũng chỉ dốc hết lòng mình mà thôi. Nếu ta

dốc hết mình, thì khiêm có thể giữ cho yên, nên ta chẳng dám chẳng theo đó mà

khiêm cho trọn đạo làm người. Nhưng có yên được thì khiêm mới tỏ rõ, nên ta

cũng không dám không cố gắng được yên để tỏ rõ đạo trời vậy.

129

Thế thì “nhu khắc” và “cương khắc” làm cho tồn tại, mà “khiêm ty” và

“thụ khiêm” quan hệ với nhau. Chúng chẳng những không trái nhau mà còn

nương vào nhau để hình thành. Thế gọi là “đạo trời đi xuống, người quân tử có

chỗ trọn vẹn” vậy (39). Nếu không phải là người từng chịu hoạn nạn lo âu, thì

ai biết cho ta và cùng ta thổ lộ? Nếu không phải là người cùng một chí hướng

mục đích với ta thì ngày sau kẻ nào xem đến chẳng khỏi bực mình. Cho nên, ta

đau lòng khổ chí suốt ngày thâu đêm, bỗng dưng giống như đứa điên cuồng. Họa

may thánh nhân mới nâng đỡ được ta, nên ta đành chờ đợi. Chỉ có trời và thánh

mới thực hiện trọn vẹn được chí của ta. Nhưng ta đâu dám vì không thể làm được

mà lại không làm, không thể cảm hóa được mà lại không cảm hóa. Hễ còn một

ngày thì cũng lo hết trách nhiệm trong vòng một ngày.

Nay, ta ghi lại sự thật chỉ một mình ta biết chứ không ai được biết, để giải

tỏa cái chí của ta một phần nào cùng thiên hạ. Còn công việc của ta, được mất

hay dở thế nào đã có ngòi bút sử gia, ta chẳng dám rườm lời. Đến như những

văn chương thì chẳng cần bàn luận làm gì! Về sau, may gặp người theo đuổi cái

chí của ta thì ta ắt sẽ cho nối dõi. Nếu không như thế, ai là người tiếp tục cũng

nên xét kỹ cho lòng ta, chứ đừng chỉ chuộng bề ngoài hoa mỹ. Nhân đó, ta làm

bài minh để tự răn. Minh rằng:

Trên chốn Dương Xuân chừ!

Ngôi nhà ta ở đấy,

Núi thấp mà đất hoang vắng chừ!

Hình dung sự nhún nhường của ta để tự trách vậy.

Ai cùng lòng với ta để vẹn chí của ta chừ!

Ôi ! Cầu mong mà chẳng thấy,

Chỉ trời soi xét cho ta chừ!

Lòng ta khác gì bia đá ấy.

Văn làm vào tháng sáu năm Tự Đức thứ 24

Chữ viết vào tháng bốn năm Tự Đức thứ 28.

CHÚ THÍCH:

(1) Nhan Hồi: tự Tử Uyên, còn gọi là Nhan Uyên, là một vị học trò xuất sắc

130

của Khổng Tử, ông chết năm mới 31 tuổi.

(2) Bành Tổ: là một nhân vật thời thượng cổ của Trung Quốc, tương truyền

ông sống trên 800 tuổi.

(3) Bá Di: con vua Cô Trúc, ông từng khuyên Võ Vương đừng đi đánh vua

Trụ, Võ Vương không nghe, đánh thắng dựng nên nhà Chu, Bá Di cùng Thúc Tề

giận bỏ lên núi Thú Dương rồi không về nữa.

(4) Đạo Chích: tên một kẻ trộm đời vua Hoàng đế, ăn trộm rất tinh vi, nghe

tiếng ai cũng phải sợ.

(5) Trạng nguyên: từ gọi người đứng đầu trong bậc tam khôi theo chế độ thi

cử thời phong kiến.

(6) Chỉ độ tuổi bắt đầu đi học, vì từ đó mới chừa tóc.

(7) Tiểu tử: tiếng tự xưng của vua với cha mẹ.

(8) Thái hậu: đây chỉ mẹ vua Tự Đức, tức bà Từ Dũ.

(9) Hoàng khảo: cha vua Tự Đức, tức Thiệu Trị.

(10) Án mùa thu: nguyên văn là thu thẩm. Thời nhà Nguyễn, án tử hình từ

các tỉnh gởi về thì cứ đến mùa thu bộ Hình mới mang ra xét lại rồi trình lên vua.

Do đó, án mùa thu ở đây chỉ những án nặng.

(11) Chỉ việc bàn giao ấn ngọc (ngọc tỉ) của vua Minh Mạng truyền lại.

(12) Tiềm để: ngôi nhà dành cho Thái tử ở trước khi lên ngôi.

(13) Lưu kinh: giữ kinh đô. Khi nhà vua đi xa thường cử một người thân tín

ở lại kinh thay vua giải quyết mọi việc và giữ gìn kinh đô, đó là chức lưu kinh.

(14) Tứ bửu: bốn thứ đồ dùng quý dành cho nhà vua là giấy, mực, nghiên,

bút.

(15) Sư phó: từ gọi người dạy cho vua hoặc hoàng tử học.

(16) Khánh vân ca: tên một ca khúc mà quần thần dùng ca ngợi ân đức vua

Thuấn.

(17) Lúa Vải: do chữ “đẩu tốc xích bố” nghĩa là thúng lúa thước vải. Đây

lấy ý từ một bài dân ca đại ý chê Hán Văn Đế và Hoài Nam Vương, hai anh em

con của Hán Cao Tổ vì lợi ích nhỏ mà hại nhau. Đây vua Tự Đức muốn ám chỉ ý

anh em bất hòa gây cảnh nồi da xáo thịt.

(18) Tức Chu Công Đán, chú của Thành Vương. Thành Vương lên ngôi

131

nhưng tuổi nhỏ, Chu Công làm nhiếp chính, bọn hoàng thân như Quản, Thái ghen

tị vu cho Chu Công muốn tiếm vị, Chu Công nghe lấy làm sợ nên phải bỏ trốn.

Thành Vương biết chuyện cho triệu về, bọn Quản, Thái sợ nên xúi Võ Canh chống

lại, Chu Công cầm quân đánh bại chúng, về sau Mạnh Tử đã hết lời ca ngợi Chu

Công trong tác phẩm của ông.

(19) Đây chỉ con của Hồng Bảo, người anh cả của vua Tự Đức, vì không

được truyền ngôi nên nổi lên chống lại, sau cô thế phải xin đầu hàng nhưng cũng

bị hạ ngục rồi chết, con cái ông cũng phải đổi sang họ mẹ là họ Đinh.

(20) Chỉ Phan Thanh Giản.

(21) Chỉ Trương Đăng Quế.

(22) Tục ngữ cổ: “ Hồ dinh tam quật”, cáo một lần đào 3 cái hang để khi

săn đuổi thì dễ trốn thoát. Lại có truyền thuyết nói con cáo lúc sắp chết tìm một

nơi để nằm, quay đầu về núi.

(23) Vị Canh: góc Tây Bắc

Hướng Giáp: Đông Nam

(24) Bá Lăng: lăng của vua Văn Đế nhà Hán, ở phía Đông huyện Trường

An, tỉnh Thiểm Tây ngày nay.

(25) Hoa sen là hoa quân tử. Chu Đôn Di tự Mậu Thúc là một nhà nho nổi

tiếng đời Tống. Ông viết bài “Ái liên thuyết”, phân biệt 3 thứ hoa: cúc là ẩn dật,

mẫu đơn là hoa phú quý, sen là hoa quân tử.

(26) Liễu Tông Nguyên (773-819), nhà thơ- nhà văn đời Đường, người Hà

Đông (nay là huyện Tề, tỉnh Sơn Tây), đỗ tiến sĩ năm 793, làm quan trong triều,

thực hiện nhiều cải cách bị bọn thủ cựu có thế lực chống đối, phải chịu biếm ra

làm Tư Mã Vĩnh Châu, rồi Liễu Châu (815). Ông làm nhà ở khe Diễm, đặt tên là

Ngu Khê, phía Tây Nam huyện Linh Lăng (Hồ Nam).

(27) Tư Không Đồ (837-908), tự Biểu Thánh, người ở Ngu Hương, Hà

Trung (nay huyện Ngu Hương tỉnh Sơn Tây), thi đỗ tiến sĩ cuối đời Hàm Thông

(860-874) nhà Đường, làm Trung thư xá nhân, rồi lánh về ở ẩn ở núi Trung Điêu,

hang Vương Quan, hiệu Nhị Nhục cư sĩ. Ông dựng Hưu đình cùng bạn bè ngâm

thơ uống rượu, bàn luận văn chương. Chu Toàn Trung vời ra làm Thượng Thư bộ

Lễ, ông từ chối.

132

(28) Nghĩa là nơi ở thường, vui chơi và chôn cất.

(29) Trúc Cung : cung làm bằng tre của Hán Vũ Đế dựng, cách đàn Nam

Giao 3 dặm. Đến kì tế, sáng sớm vua ra khỏi Trúc Cung, xây về hướng Đông lạy

Mặt Trời; buổi chiều thì xây mặt về hướng Tây Nam để lạy Mặt Trăng, cũng gọi

là Trai Cung.

(30) Nguyên văn là Linh Mụ tự. Vua Tự Đức vì hiếm muộn, thường cầu

đảo, nên kiêng tránh chữ “thiên”. Triều đình bàn đổi làm Tiên Mụ nhưng vua Tự

Đức chọn tên Linh Mụ, vì “linh” là thiêng mà giọng Huế “thiên” là thiêng.

(31) Bắc Mang hay Mang Sơn, tên núi. Cách trung tâm Lạc Dương (tỉnh Hà

Nam, Trung Quốc) khoảng 11 dặm. Đời Đông Hán, năm Kiến Vũ thứ hai (34),

Cung Vương Chỉ chết chôn ở đây, sau thành nơi tẩm mộ của công hầu khanh

tướng, nhất là danh thần đời Đường (618-907).

(32) Hao lý: tức làng Hao ở phía Nam núi Thái Sơn (Trung Quốc). Một bài

“Vãn ca” (hát đưa người chết trong tang lễ) thời xưa: “người chết, hồn phách về

Hao lý. Theo điển: Điền Hoành tự sát, môn nhân xót thương làm 2 bài vãn ca

Giới lộ và Hao lý, nói đời ngắn ngủi như sương đầu ngọn cây kiêu và ánh nắng

ban mai. Đời Hán, Lý Diên Niên chia ra: giới lộ hát đưa vương công, quý nhân,

Hao lý hát đưa sĩ đại phu, thứ nhân. Cũng như hò đưa linh của ta.

(33) Hán Cao Tổ Lưu Bang sau khi diệt nhà Tần, định đóng đô ở Trường

An nhưng cha ông lại muốn về đất Phong là làng quê. Cao Tổ bèn xây dựng

thành trì, đường sá, nhà cửa, đình chùa...cho giống hệt đất Phong, lại dời dân đất

Phong đến ở, đặt tên là ấp Tân Phong.

(34) Ninh lăng: an táng thi hài vua tại lăng mộ.

(35) Vũ Xuân Cẩn (1772-1852) người huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, làm

quan trải 4 triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Tự Đức, từng giữ chức

Tổng đốc Bình Phú, Thượng Thư bộ Hình, Hàn lâm viện học sĩ, Đông Các đại

học sĩ, quản lý các việc bộ Lại, kiêm lãnh Quốc Tử Giám, Quốc Sủ Quán tổng

tài...Năm Đinh Mùi 1847, Tự Đức mới lên ngôi, ông đã dâng sớ xin khai phục

cho con cháu hoàng tử Cảnh, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Lê Chất với lời

lẽ trung hậu, kích thiết. Vua Tự Đức chấp nhận, thực hiện dần. Ông cũng là nhạc

phụ của vua. Sau khi mất, ông được tặng “ Tứ triều nguyên lão”, thụy Văn Đoan,

133

liệt thờ vào miếu Hiền Lương từ năm 1858.

(36) Bắt chước cách đọc sách của Gia Cát Lượng chỉ cần nắm đại lược,

hiểu cái cốt lõi chứ không cần phải thuộc làu từng chi tiết.

(37) Hán Văn Đế (179-156 TrCN) tên Lưu Hằng, do đại thần Chu Bột lập

sau thời gian Cao hậu Lã Trĩ nhiếp chính. Ông nhân từ, cung kiệm, làm cho

phong tục thuần hậu, đất nước giàu có. Đường Thái Tông (627-650) tên Lý Thế

Dân, vua thứ hai của nhà Đường, con của Cao tổ Lý Uyên. Ông thông minh mẫn

tiệp, văn võ song toàn, giảm hình án, bớt thuế khóa, trọng đãi nhân tài, mở mang

bờ cõi, đất nước thanh bình.

(38) Nhà Chu đến khi dời về Lạc Dương đóng đô gọi là Đông Chu (770-

255 TrCN), là thời kì đen tối, loạn lạc. Sử chia ra hai giai đoạn gọi là Xuân Thu

(770-746 TrCN) và Chiến Quốc (746-255 TrCN)

(39) Quẻ Khảm trong Kinh Dịch: “ Khiêm hanh, quân tử hữu chung”(nhún

nhường thì thông suốt, người quân tử có chỗ trọn vẹn). Lời thoán có câu: “Khiêm

hanh, thiên đạo hạ tế nhi quang minh, địa đạo ti nhi thượng hành” (khiêm thì

thông suốt, đạo trời đi xuống mà sáng tỏ, đạo đất thấp mà đi lên)

2.6. Văn bia lăng Đồng Khánh

2.6.1. Nguyên văn chữ Hán

思 陵 聖 德 神 功 碑

帝 王 握 乾 符 闢 坤 珍 有 創 業 者 有 守 成 者 有 中 興 者 巍 巍

焉 皇 皇 焉 聖 德 神 功 皆 足 以 垂 于 不 朽 我 大 南 受 天 眷 席

蘿 圖 粵 自 南 服 開 基 積 功 累 仁 之 百 餘 載 祖 肇 尊 培 神

傳 聖 繼 創 業 守 成 規 模 備 矣 鴻 惟 我 皇 考 景 尊 純 皇 帝

承 列 聖 創 守 之 休 緒 適 當 國 步 多 艱 而 挺 然 銳 志 中 興

奠 國 基 于 磐 泰 功 德 輝 煥 穹 壤 式 至 于 今 日 休 藐 茲 小

134

子 保 有 丕 緒 敬 用 鋪 景 鑠 勒 之 貞 於 以 垂 示 萬 世 永 不

沒 焉 奉 我 皇 考 皇 祖 翼 尊 英 皇 帝 皇 二 子 也 原 親 潘 皇

叔 父 純 毅 堅 太 王 長 子 皇 叔 母 太 王 妃 裴 氏 以 嗣 德

十 七 年 甲 子 春 正 月 丙 寅 十 二 日 甲 寅 辛 未 辰 誕 聖 於

京 城 東 春 陽 舊 邸 十 八 年 奉 我 皇 祖 特 命 善 妃 阮 廷 氏

于 宮 中 養 之 英 明 敏 哲 穎 異 不 凡 深 為 我 皇 祖 所 眷 注 三

十 二 年 出 閣 命 營 堂 于 侍 衛 處 之 右 名 正 蒙 堂 養 正 聖 功

原 有 自 矣 三 十 三 年 庚 辰 冬 十 月 準 於 京 城 之 效 忠 坊 建

邸 以 居 之 三 十 六 年 癸 未 春 正 月 十 一 日 冊 封 堅 江 郡 公

咸 宜 元 年 乙 酉 夏 五 月 京 城 有 事 我 皇 考 晦 跡 民 間 兩 國

大 臣 迎 而 立 之 秋 八 月 十 一 日 即 皇 帝 位 于 太 和 殿 建 元

同 慶 清 明 初 政 如 日 方 升 內 整 權 綱 外 敦 鄰 好 敬 天 而 擬

行 郊 祀 法 祖 而 恪 守 舊 章 孝 奉 兩 宮 恩 孚 慶 譜 體 臣 以 禮

御 下 以 寬 親 征 授 略 顒 聖 武 之 布 昭 著 詩 綴 文 仰 宸 奎 之

彪 炳 旌 忠 言 於 諫 疏 悟 理 學 於 經 延 勤 政 愛 民 緩 刑 平 獄

與 夫 廣 科 場 以 惠 多 士 蠲 逋 欠 以 綏 四 方 慶 節 推 恩 春 韶

布 令 恭 同 慶 寔 錄 善 政 班 班 成 有 思 而 無 斁 故 當

雲 雷 辰 節 而 能 撐 持 大 局 撫 禦 群 方 轉 危 為 安 紹 休 前 烈

中 興 之 美 史 不 絕 書 雖 漢 光 武 黎 莊 尊 殆 不 是 過 天 下 臣

民 方 翹 首 以 觀 德 化 之 成 詎 知 天 意 難 諶 三 年 戊 子 十 二

135

月 十 六 日 癸 巳 不 豫 二 十 五 大 漸 二 十 七 日 甲 辰 甲 戌 辰

龍 馭 上 賓 于 乾 成 殿 聖 齡 壽 二 十 有 五 己 丑 年 三 月 戊 辰

十 九 日 甲 子 任 辰 奉 寧 玄 宮 于 香 水 縣 楊 春 上 社 久 安 處

恭 上 陵 名 曰 思 陵 小 子 辰 方 沖 幼 事 出 權 宜 頌 聖 德 謹 以

六 字 題 神 道 猶 留 鈌 文 使 我 皇 考 之 功 之 德 不 見 於 天 下

後 世 嗚 呼 痛 哉 玆 小 子 丕 承 大 統 業 奉 加 上 尊 謚 曰 景 尊

配 天 明 運 孝 德 仁 武 偉 功 弘 烈 聰 哲 敏 惠 純 皇 帝 橋 山 在

望 瞻 戀 彌 殷 受 命 工 部 重 加 修 理 砌 石 屋 豎 碑 亭 而 勤 之

子 臣 嗣 皇 帝 謹 拜 手 稽 首 銘 曰

天 眷 大 南 丕 基 祗 紹

聖 繼 神 傳 初 政 清 明

春 京 定 鼎 敬 天 以 寔

三 百 餘 年 率 祖 脩 行

於 穆 皇 考 兩 宮 奉 養

聖 德 配 天 孝 念 純 誠

中 興 明 運 親 睦 九 族

周 道 燦 然 董 正 百 官

聖 功 蒙 養 體 臣 以 禮

天 造 屯 亨 御 下 以 寬

136

神 武 不 殺 炳 炳 麟 麟

至 仁 勝 殘 科 場 恩 設

龍 跡 逋 欠 蠲 除

鴻 膺 垣 安 士 途 以 廣

武 功 既 抗 民 漠 以 舒

文 治 一 新 平 獄 綬 刑

經 延 論 道 施 惠 行 慶

諫 疏 留 神 純 王 之 心

風 雅 其 詩 純 王 之 政

典 謨 其 文 嗣 服 三 載

宸 奎 睿 漢 振 刷 百 為

啟 定 元 年 九 月 二 十 一 日 孝 子 嗣 皇 帝 臣 拜 識

2.6.2. Phiên âm

Tư Lăng thánh đức thần công bi

Đế vương ác càn phù tịch khôn trân, hữu sáng nghiệp giả, hữu thủ thành

giả, hữu trung hưng giả, nguy nguy yên! Hoàng hoàng yên! Thánh đức thần công

giai túc dĩ thùy vu bất hủ. Ngã Đại Nam thụ thiên quyến, tịch la đồ việt tự nam

phục khai cơ. Tích công lũy nhân chi bách dư tái. Tổ triệu tôn bồi, thần truyền

thánh kế, sáng nghiệp thủ thành, quy mô bị hỹ. Hồng duy ngã Hoàng khảo Cảnh

Tôn Thuần Hoàng đế thừa liệt thánh sáng thủ chi hưu tự thích. Đương quốc bộ đa

gian nhi đĩnh nhiên duệ chí trung hưng điện quốc cơ vu bàn thái. Công đức huy

hoán, khung nhưỡng thức, chí vu kim nhật hưu mạo. Tư tiểu tử bảo hữu phi tự,

kính dụng phô dương cảnh thước lặc chi trinh mân ư dĩ thùy thị vạn thế vĩnh bất

một yên. Phụng ngã Hoàng khảo Hoàng tổ Dực Tôn Anh Hoàng đế hoàng nhị tử

137

dã. Nguyên thân phiên Hoàng thúc phụ Thuần Nghị Kiên Thái Vương trưởng tử .

Hoàng thúc mẫu Thái vương phi Bùi Thị dĩ Tự Đức thập thất niên Giáp tý xuân

chính nguyệt Bính dần thập nhị nhật Giáp dần Canh mùi thì đản thánh ư kinh

thành đông xuân dương cựu để. Thập bát niên, phụng ngã Hoàng tổ đặc mệnh

Thiện phi Nguyễn Đình Thị vu cung trung dưỡng chi. Anh minh mẫn triết, dĩnh

dị bất phàm, thâm vi ngã Hoàng tổ sở quyến chú. Tam thập nhị niên, xuất các

mệnh doanh đường vu thị vệ xứ chi hữu, danh chính mông đường dưỡng chính.

Thánh công nguyên hữu tự hỹ. Tam thập tam niên Canh thìn đông thập nguyệt,

chuẩn ư kinh thành chi hiệu trung phường kiến để dĩ cư chi. Tam thập lục niên,

Quý mùi xuân chính nguyệt thập nhất nhật sách phong Kiên Giang Quận công.

Hàm Nghi nguyên niên Ất dậu hạ ngũ nguyệt, kinh thành hữu sự, ngã Hoàng

khảo hối tích dân gian, lưỡng quốc đại thần nghinh nhi vị chi. Thu bát nguyệt

thập nhất nhật, tức Hoàng đế vị vu Thái Hòa điện. Kiến nguyên Đồng Khánh

thanh minh sơ chính như nhật phương thăng, nội chỉnh quyền cương, ngoại đôn

lân hảo, kính thiên nhi nghĩ hành giao, tự pháp tổ nhi khác thủ cựu chương, hiếu

phụng lưỡng cung, nhân phù khánh phổ, thể thần dĩ lễ, ngự hạ dĩ khoan, thân

chinh thụ lược, ngung thánh vũ chi bố chiêu, trứ thi xuyết văn ngưỡng thần khuê

chi bưu, bính tinh trung ngôn ư gián sơ, ngộ lí học ư kinh, duyên cần chính ái

dân, hoãn hình bình ngục, dữ phù quảng liêu trường dĩ huệ đa sĩ, quyên bô khiếm

dĩ tuy tứ phương khánh tiết, suy ân xuân thiều. Bố lệnh cung khoát đồng khánh

thực lục, thiện chính ban ban thành hữu tư nhi vô dịch. Cố đương vân lôi chấn

thời tiết nhi năng xanh trì đại cục, phủ ngự quần phương, chuyển nguy thành an,

thiệu hưu tiền liệt trung hưng chi mỹ lại bất tuyệt thư. Tuy Hán Quang Vũ, Lê

Trang Tôn đãi bất thị quá. Thiên hạ thần dân phương kiều thủ dĩ quan đức hóa

chi thành, cự tri thiên ý nan kham. Tam niên Mậu tý thập nhị nguyệt thập lục

nhật Quý tỵ bất dự nhị thập ngũ đại tiệm, nhị thập thất nhật Giáp thìn, Giáp tuất

thời long ngự thượng tân vu Càn Thành điện. Thánh linh thọ nhị thập hữu ngũ,

Kỷ sửu niên tam nguyệt Mậu thìn, thập cửu nhật Giáp tý, Nhâm thìn thời phụng

ninh huyền cung vu Hương Thủy huyện Dương Xuân Thượng xã Cửu An xứ.

Cung thượng lăng danh viết Tư Lăng tiểu tử thời phương xung ấu, sự xuất quyền

nghi, tụng thánh đức cẩn dĩ lục tự đề thần đạo do lưu khuyết văn sử ngã Hoàng

138

khảo chi công chi đức bất kiến ư thiên hạ hậu thế. Ô hô! thống tai! Tư tiểu tử phi

thừa đại thống nghiệp phụng gia thượng tôn ích viết: Cảnh Tôn Phối Thiên Minh

Vận Hiếu Đức Nhân Vũ Vĩ Công Hoằng Liệt Thông Triết Mẫn Huệ Thuần

Hoàng đế kiều sơn tại vọng chiêm luyến, di ân thụ mệnh công bộ trọng gia tu lí

thiết thạch ác thụ bi đình chi minh. Tử thần tự hoàng đế Tuấn cẩn bái thủ khể thủ

minh viết:

Thiên quyến đại Nam Chí nhân thắng tàn

Thánh kế thần truyền Long đà tích kiệm

Xuân kinh định đỉnh Hồng ưng viên an

Tam bách dư niên Vũ công kí kháng

Ư mục hoàng khảo Văn trị nhất tân

Thánh đức phối thiên Kinh cận luân đạo

Trung hưng minh vận Gián sơ lưu thần

Chu đạo xán nhiên Phong nhã kỳ thi

Thánh công mông dưỡng Điển mô kỳ văn

Thiên tạo truân hanh Thần khuê duệ hán

Phi cơ chi thiệu Bính bính lân lân

Sơ chính thanh minh Khoa trường ân thiết

Kính thiên dĩ thực Bô khiếm quyên trừ

Suất tổ du hành Sĩ đồ dĩ quảng

Lưỡng cung phụng dưỡng Dân mạc dĩ thư

Hiếu niệm thuần thành Bình ngục thụ hình

Thân mục cửu tộc Thi huệ hành khánh

Đổng chính bách quan Thuần vương chi tâm

Thể thần dĩ lễ Thuần vương chi chính

Ngự hạ dĩ khoan Tự phục tam tái

Thần vũ bất sát Chấn loát bách vi

Khải Định nguyên niên cửu nguyệt nhị thập nhất nhật hiếu tử tự hoàng đế

thần bái thức.

2.6.3. Dịch nghĩa

Bia thánh đức thần công ở Tư Lăng

139

Bậc đế vương nhận lấy sự linh thiêng của trời, mở mang đất quý chính là

người có thể lập nên nghiệp lớn, giữ được thành công và là người có thể đưa đến

sự hưng thịnh. Lồng lộng thay! Rực rỡ thay! Công đức của người sánh ngang

thần thánh, đủ để lại đời sau danh bất hủ. Nước Đại Nam ta nhận sự yêu vì của

trời, dựa vào cây cỏ mà trù liệu khai cơ ở phía nam. Tích công lũy nhân cho hậu

thế; đời trước xây dựng, đời sau bồi đắp; thần truyền thánh nối lập nên cơ

nghiệp và giữ lấy thành công, quy mô thật đầy đủ. Lớn lao thay Hoàng khảo ta,

Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế kế thừa cơ nghiệp của liệt thánh đã sáng lập, giữ gìn

nó mà nối tiếp dòng đích. Đang khi đất nước trải qua nhiều khó khăn mà ứng

phó nhanh nhẹn, thẳng thắn. Chí trung hưng yên định nước nhà vững như đá lớn.

Công đức thật rực rỡ lớn lao, đến nay vẫn còn dấu tích. Nay kẻ tiểu tử này gánh

vác sự nối tiếp lớn lao ấy, kính cẩn tạo nên những thứ tốt đẹp bày tỏ điều ấy để

hậu thế mãi mãi không quên.

Hoàng khảo ta là con thứ hai của Dực Tông Anh Hoàng đế. Ngài vốn là

con trưởng của Thân Phiên Hoàng thúc phụ Thuần Nghị Kiên Thái Vương.

Hoàng thúc mẫu Thái Vương phi Bùi Thị năm Giáp tý tức năm Tự Đức thứ 17,

mùa xuân tháng giêng Bính dần, ngày 12 Giáp dần, giờ Tân mùi thì sinh ra ngài

ở phía đông kinh thành, phủ Xuân Dương cũ. Năm thứ 18, phụng theo ý của

Hoàng tổ khảo đặc mệnh cho Thiện phi Nguyễn Đình Thị đưa vào cung nuôi

dưỡng. Ngài vốn là bậc anh minh mẫn triết, đĩnh dị khác thường, rất được

Hoàng tổ yêu quý. Năm thứ 32, Ngài được cho ra ngoài các học tập, dựng ngôi

nhà ở phía hữu xứ Thị Vệ lấy tên là Chánh Mông đường để rèn luyện sự chính

chắn. Ơn thánh từ đó mà có vậy.

Mùa đông tháng 10 Canh thìn năm thứ 33, chuẩn cho xây dựng phủ ở phường

Hiệu Trung trong kinh thành để làm nhà ở. Ngày 11, tháng giêng mùa xuân Quý mùi

năm 36, Ngài được sách phong làm Kiên Giang Quận Công.

Năm đầu niên hiệu Hàm Nghi, tháng 5 mùa hạ Ất dậu, kinh thành có biến

(1). Hoàng khảo ta lưu về nơi thôn dã, đại thần hai nước (2) nghênh đón mà lập

nên. Ngày 11 tháng 8 mùa thu, Hoàng đế lên ngôi ở điện Thái Hòa. Năm đầu

niên hiệu Đồng Khánh, bắt đầu từ tiết thanh minh nền chính trị bắt đầu sáng tỏ

(3), bên trong thì chấn chỉnh quyền hành, lề lối, bên ngoài thì giao hảo với các

140

nước láng giềng, kính trời mà bắt chước đời xưa làm lễ tế, tế tự theo nếp cũ của

tổ tiên mà kính trọng giữ lấy cựu chương; Hiếu phụng hai cung, ban ân rộng

khắp, đối đãi với bề tôi bằng lễ, cai trị dân chúng bằng lòng khoan, tự mình đưa

ra phương lược, nghiêm cẩn khi bố cáo rõ ràng với thánh vũ, các tác phẩm thơ

văn nối tiếp văn vẻ ở chốn thần khuê (4) vời vợi, biểu dương kẻ trung tín ở việc

nghe lời can gián không thân gần, ngộ được lí lẽ nhờ đọc kinh sách; Người lại

chăm lo chính sự, thương yêu dân chúng, giảm bớt hình ngục, mở rộng khoa

trường để ban ơn cho kẻ sĩ, tha thuế còn tồn đọng từ những năm trước để bốn

phương được yên vui. Người ban ân để có điều tốt đẹp, ban lệnh cung kính xem

xét Đại Nam thực lục. Hoàng khảo giỏi chính sự nhờ sự suy nghĩ không biết

chán. Cho nên, đương khi sét đánh mây vần (5) mà có thể làm chủ đại cuộc, phủ

dụ các phương, chuyển nguy thành an, nối tiếp sự tốt đẹp, yên bình từ đời trước

lại không bỏ việc thi thư. Dù Hán Quang Đế, Lê Trang Tôn (6) cũng không hơn

vậy. Thần dân trong thiên hạ ngẩng trông mà quan sát sự thành công của việc

đức hóa, chẳng ngờ ý trời khó đoán.

Ngày 16 Quý tỵ tháng 12 năm Mậu tý thứ 3, Ngài không dự việc chính. Đến

ngày 25 bệnh nguy kịch. Giờ Giáp tuất, ngày Giáp thìn 27, nhà vua băng hà ở điện

Càn Thành, thọ 25 tuổi. Giờ Nhâm thân, ngày Giáp tý 19, tháng 3 Mậu thìn, năm

Kỉ sửu phụng đưa táng vào huyền cung ở xứ Cửu An, xã Dương Xuân Thượng,

huyện Hương Thủy, dâng đặt tên lăng là Tư Lăng. Kẻ tiểu tử còn thơ ấu, cẩn trọng

quyền nghi, ca tụng công đức chỉ khiêm tốn lấy sáu chữ để đề cao thần đạo thì

cũng giống như lưu lại những điều không rõ ràng khiến công đức của Hoàng khảo

ta đời sau không thấy rõ.

Than ôi! Đau xót thay! Nay kẻ tiểu tử kế thừa đại nghiệp, kính dâng tên

thụy là Cảnh Tôn Phối Thiên Minh Vận Hiếu Đức Nhân Vũ Vĩ Công Hoằng Liệt

Thông Triết Mẫn Huệ Thuần Hoàng đế. Ở kiều sơn ngóng trông thương nhớ,

thừa ơn mưa móc mà nhận mệnh cho Bộ Công tu sửa lại lăng và dựng bài minh

ở bi đình.

Thần hoàng đế kế vị là Tuấn kính cẩn bái lạy dập đầu làm bài minh

sau:

141

Trời thương nước Nam Lấy nhân thắng tàn

Thánh kế thần truyền Dấu tích long đà

Kinh đô yên định Hồng ưng yên ổn

Hơn ba trăm năm Vũ công đã dẹp

Đẹp thay Hoàng khảo Văn trị đã hay

Thánh đức sánh trời Kéo dài luân đạo

Vận sáng yên bình Can gián lưu thần

Đạo Chu rực rỡ Phong Nhã Thi Thư

Thánh công chăm lo Điển mô văn học

Thiên tạo khó thông Trên cao thấu hiểu

Nghiệp lớn vừa nối Chói lọi, rực rỡ

Buổi đầu thanh minh Khoa trường ân bày

Kính trời thành thật Tha thuế miễn thuế

Theo phép tổ tiên Sĩ đồ rộng mở

Phụng dưỡng hai cung Dân sống thư thái

Lòng hiếu thành thực Hình giảm ngục yên

Hòa mục dòng họ Ra ơn làm phúc

Chỉnh đốn bách quan Tấm lòng Thuần Vương

Thể thần bằng lễ Chính trị Thuần Vương

Cai trị trọng khoan Đời sau vẫn nhớ

Thần vũ không giết Cổ vũ vạn đời.

Ngày 21 tháng 9 năm đầu niên hiệu Khải Định.

Hiếu tử hoàng đế nối ngôi thần kính cẩn bái tạ.

CHÚ THÍCH:

(1) Kinh thành có biến: vua Hàm Nghi cùng đại thần Tôn Thất Thuyết khởi

nghĩa vào đêm mồng 4 rạng sáng ngày mồng 5 tháng 7 năm 1885. Nhưng do thế

giặc mạnh, quân của vua Hàm Nghi và Tôn thất Thuyết thiếu vũ khí, lương thực,

đạn dược, lại tấn công trong đêm tối nên cuộc khởi nghĩa đã bị thất bại.

(2) Đại thần hai nước: ý chỉ phái chủ hòa của triều đình nhà Nguyễn và

quân Pháp thương thuyết đưa vua Đồng Khánh lên ngôi.

142

(3) Ngày vua Đồng Khánh lên ngôi cũng là ngày Tôn Thất Thuyết nhân

danh Vua Hàm Nghi ra lời kêu gọi và phát động khởi nghĩa Cần Vương. Kể từ

lúc vua Đồng Khánh lên ngôi, mọi việc đều nằm dưới sự chỉ huy của quân Pháp

nên không có vấn đề lớn gì xảy ra trong triều đình.

(4) Chốn thần khuê: chỉ nơi cao sang, cung vua

(5) Chỉ đất nước trong cơn hỗn loạn.

(6) Hán Quang Vũ Đế 漢 光 武 帝; (6 TCN – 57), húy là Lưu Tú 劉 秀, tự

Văn Thúc 文叔 là vị hoàng đế sáng lập nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc.

Là dòng dõi xa của nhà Hán và từng tham gia khởi nghĩa Lục Lâm chống lại

chính quyền Vương Mãng, Hán Quang Vũ Đế đã ly khai khỏi chính quyền mới

của Lục Lâm, đánh bại các lực lượng cát cứ và thống nhất quốc gia, mở ra thời

kỳ thịnh trị của Trung Quốc sau nhiều năm biến động.

Lê Trang Tôn (1533-1548) 藜 莊 宗, húy Lê Duy Ninh藜 唯 寧. Niên

hiệu Nguyên Hòa, con Lê Chiêu Tông (1506-1526), mẹ là Phạm Thị Ngọc

Quỳnh. Sau khi nhà Lê bị nhà Mạc cướp ngôi, các cựu thần nhà Lê đã tôn phò Lê

Trang Tôn là dòng dõi của vua Lê lên ngôi, lập lại địa vị của nhà Lê.

2.7. Văn bia lăng Khải Định

2.7.1. Nguyên văn chữ Hán

應 陵 聖 德 神 功 碑

我 大 南 南 服 肇 基 神 傳 聖 繼 於 萬 斯 年 偉 績 豐 功 深

仁 厚 澤 彰 彰 然 為 可 繼 也 鴻 惟 我 皇 考 先 皇 帝 皇 祖 考 景

尊 純 皇 帝 皇 長 子 也 皇 祖 母 坤 儀 皇 太 后 以 咸 宜 元 年 乙

酉 秋 九 月 丙 戌 初 一 日 丙 申 甲 戌 辰 誕 聖 神 龍 噴 水 天 命

固 有 在 也 同 慶 三 年 奉 我 皇 祖 賓 天 辰 我 皇 考 年 方 四 歲

天 日 姿 表 頻 異 非 常 自 以 沖 齡 讓 美 養 誨 成 泰 十 八 年 晉

封 奉 化 郡 公 營 弟 于 楊 品 社 今 安 定 宮 維 新 三 年 晉 封 一

143

字 公 有 志 青 藩 無 心 皇 七 久 矣 十 年 適 因 國 步 多 艱 貴 保

護 政 府 暨 本 國 政 府 奉 于 安 定 宮 迎 立 之 丙 辰 下 四 月 十

七 日 即 皇 帝 位 于 太 和 殿 建 元 啟 定 清 明 初 政 煥 然 一

新 敬 天 法 祖 體 臣 睦 親 勤 政 愛 民 緩 刑 平 獄 歲 荒 籌 賑

以 蘇 民 瘼 歐 戰 慕 義 以 篤 邦 交 北 巡 觀 風 定 民 心 也 西

駕 敦 鄰 承 先 志 也 其 本 於 純 孝 至 性 則 祇 承 列 廟 歡 奉 兩

宮 思 創 業 之 艱 難 之 舉 行 興 國 慶 念 緬 中 興 之 前 列 而 加

上 純 廟 徽 稱 一 孝 立 而 萬 善 從 覲 耿 光 而 揚 大 烈 尤 且 豊

水 燕 貽 建 元 儲 以 壯 根 本 濛 泉 養 正 命 西 學 以 廣 見 聞 凡

關 於 廟 堂 籌 畫 其 為 民 生 國 計 至 深 遠 矣 辰 復 煥 發 天 章

怡 宸 翰 墨 奉 見 於 聖 製 詩 文 諸 集 皆 聖 人 至 教 耶 刑 巍 有

成 煥 有 文 猗 歟 休 哉 當 此 夕 明 辰 會 始 終 與 貴 保 護 誠 信

相 孚 致 能 總 幹 攬 權 綱 同 大 局 紹 休 前 烈 垂 裕 後 皆 十 年

之 間 善 政 班 班 咸 有 思 而 無 斁 天 下 臣 民 方 翹 首 以 觀 德

化 之 成 迺 奉 宵 旰 勞 神 績 憂 成 病 十 年 乙 丑 二 月 一 日 不 預

九 月 丙 戌 十 五 日 疾 大 漸 二 十 日 甲 午 丁 卯 時 龍 御 上 賓

于 建 中 樓 奉 安 梓 宮 于 乾 成 殿 聖 齡 壽 四 十 有 一 十 一

月 日 請 命 郊 廟 奏 達 兩 尊 宮 親 率 輔 政 親 臣 皇 親 尊 人 文

武 臣 工 恭 詣 凡 筳 恭 上 尊 謚 徽 稱 曰 嗣 天 嘉 運 聖 明 神 智

仁 孝 誠 敬 貽 謀 承 烈 宣 皇 帝 廟 號 弘 尊 十 二 月 十 八 日 辛

144

巳 牌 奉 寧 玄 宮 于 香 水 縣 朱 渚 社 朱 鷖 處 万 年 局 恭 上 陵

名 曰 應 陵 是 陵 也 奉 我 皇 考 在 御 日 龜 正 協 吉 爰 命 鳩 工

營 築 特 賜 山 名 曰 應 順 山 前 建 宮 曰 天 定 宮 內 建 殿 曰 啟

成 殿 上 奉 聖 像 內 安 寶 龕 其 位 置 整 肅 規 制 林 嚴 皆 奉 栽

自 聖 心 本 欲 開 國 民 工 藝 之 前 途 晉 外 國 考 察 之 偉 觀 為

千 萬 世 受 堅 基 礎 非 以 誇 壯 嚴 也 乾 御 當 陽 臣 民 顒 望 鼎

湖 雲 暗 崖 谷 同 悲 鳴 呼 慵 哉 欲 報 之 德 皇 天 罔 極 小 子 未

有 述 維 維 一 一 欽 遵 成 命 弗 敢 越 厥 志 命 工 部 遵 愿 籌 識

繼 續 營 築 玆 則 眾 工 甫 集 百 事 告 成 對 松 楸 之 忽 鬱 顧 江

山 之 迴 環 仰 惟 聖 德 神 功 與 天 地 並 藐 茲 小 子 曷 足 以 規

天 極 景 燉 輪 惟 荷 付 托 之 重 念 繼 序 之 間 敬 用 宣 揚 其 懿

鑠 之 貞 玫 於 以 垂 示 無 窮 以 少 伸 紹 述 之 孝 思 于 萬 一 云

耳 辰 保 大 元 年 九 月 十 六 日 孝 子 嗣 皇 帝 臣 殄 拜 于 稽 首

銘 曰

我 南 建 國 聖 人 應 運

仁 厚 聞 基 不 偶 其 生

聖 神 相 繼 於 穆 皇 考

萬 世 賴 之 德 協 帝 王

五 百 昌 期 州 年 韜 養

黃 河 一 清 晦 而 愈 彰

145

龜 應 堯 書 早 定 大 計

龍 非 晉 殿 冊 立 儲 宮

正 統 丕 承 乃 命 遊 學

皇 疇 懋 建 正 養 蒙 功

敬 承 烈 廟 洞 察 辰 机

孝 奉 兩 宮 幹 回 大 局

親 睦 慶 普 國 體 以 尊

優 體 臣 工 朝 綱 乃 肅

勤 政 愛 民 文 明 政 憲

緩 刑 平 獄 因 時 變 通

內 治 修 明 新 舊 並 用

外 交 敦 睦 功 德 兼 陵

臨 軒 策 士 正 要 一 書

止 輦 受 言 班 班 可 紀

宸 文 煥 發 巍 乎 煥 乎

國 粹 保 存 善 矣 美 矣

嫠 正 宮 方 鼎 湖 龍 法

廣 開 民 智 白 雲 悠 悠

西 駕 北 巡 詹 望 靡 及

傳 為 盛 軌 鬱 然 忪 楸

146

此 山 此 河 勤 之 貞 玫

如 帶 如 礪 傳 于 永 世

孝 子 嗣 皇 帝 臣 殄 謹 誌

2.7.2. Phiên âm

Ứng Lăng thánh đức thần công bi

Ngã Đại Nam nam phục triệu cơ, thần truyền thánh kế ư vạn tư niên, vĩ tích

phong công thâm nhân hậu trạch, chương chương nhiên vi khả kế dã. Hồng duy

ngã Hoàng khảo Tiên Hoàng đế, Hoàng Tổ khảo Cảnh tôn Thuần Hoàng đế

hoàng trưởng tử dã. Hoàng tổ Mẫu Khôn Nghi Hoàng Thái hậu. Dĩ Hàm Nghi

nguyên niên Ất dậu thu cửu nguyệt (Bính tuất), sơ nhất nhật (Bính thân), Giáp

tuất thời. Đản thánh, thần long phún thuỷ, thiên mệnh cố hữu tại dã. Đồng Khánh

tam niên, phụng ngã Hoàng tổ tân thiên thời, ngã Hoàng khảo niên phương tứ

tuế, thiên nhật tư biểu, tần dị phi thường, tự dĩ trúng linh nhượng mỹ dưỡng hối.

Thành Thái thập bát niên tấn phong Phụng Hoá quận công, doanh đệ vu Dương

Phẩm xã, kim An Định cung - Duy Tân tam niên tấn phong, nhất tự công hữu chí

thanh phiên vô tâm hoàng thất cửu hỷ. Thập niên thích nhân quốc bộ đa gian,

quý bảo hộ chính phủ kỵ bản quốc chính phủ, phụng vu An Định cung nghinh lập

chi. Bính thìn hạ tứ nguyệt thập thất nhật tức Hoàng đế vị vu Thái Hoà điện, kiến

nguyên Khải Định. Thanh minh sơ chính, hoán nhiên nhất tân, kính thiên pháp

tổ, thể thần mục thân, cần chính ái dân, hoãn hình bình ngục, tuế hoang trù chẩn

dĩ tô dân mạc. Âu chiến mộ nghĩa dĩ đốc bang giao. Bắc tuần quan phong định

dân tâm dã. Tây giá đôn lân thừa tiên chí dã. Kỳ bản ư thuần hiếu chí tính tắc kỳ

thừa liệt miếu, hoan phụng lưỡng cung, tư sáng nghiệp chi gian nan chi cử hành

hưng quốc khánh niệm, miến trung hưng chi tiền liệt nhi gia thượng Thuần miếu,

huy xưng nhất hiếu lập nhi vạn thiện tùng, cận cảnh quang nhi dương đại liệt,

vưu thả phong thuỷ yên di, kiến nguyên chủ dĩ tráng, căn bản mông tuyền dưỡng

chính, mệnh Tây học dĩ quảng kiến văn. Phàm quan ư ư miếu đường trù hoạch,

kỳ vi dân sinh quốc kế chí thâm viễn hỷ. Thời phục hoán phát thiên chương di

thần hàn mặc, phụng kiến ư thánh chế thi văn chư tập, giai thánh nhân chí giáo

da hình nguy hữu thành hoán hữu văn kỳ dư hưu tai! Đương thử tịch minh thời

147

hội thuỷ chung dư quý bảo hộ thành tín tương phù, trí năng tổng cán lãm quyền

cương, cương đồng đại cục, thiệu hưu tiền liệt thuỳ dụ hậu giai thập niên chi gian

thiện chính ban ban hàm hữu tư nhi vô dịch, thiên hạ thần dân phương kiều thủ dĩ

quan đức hoá chi thành. Nãi phụng tiêu cán lao thần tích ưu thành bệnh. Thập

niên Ất sửu nhị nguyệt nhất nhật bất dự, cửu nguyệt Bính tuất thập ngũ nhật tật

đại tiệm. Nhị thập nhật giáp ngọ Đinh mão thời long ngự thượng tân vu Kiến

Trung lâu, phụng an tử cung vu Càn Thành điện, thánh linh thọ tứ thập hữu nhất.

Thập nhất nguyệt nhật thỉnh mệnh giao miếu. Tấu đạt lưỡng tôn cung, thân suất

phụ chính thân thần, hoàng thân tôn nhân văn võ thần công cung nghệ phàm diên

cung thượng tôn thuỵ huy xưng viết: Tự Thiên Gia Vận Thánh Minh Thần Trí

Nhân Hiếu Thành Kính Di Mưu Thừa Liệt Tuyên Hoàng Đế miếu hiệu hoằng

tôn. Thập nhị nguyệt thập bát nhật tân tỵ bài phụng ninh huyền cung vu Hương

Thuỷ huyện, Châu Chữ xã, Châu Ê xứ Vạn Niên cuộc; cung thượng lăng danh

viết: Ứng Lăng thị danh dã. Phụng ngã Hoàng khảo tại ngự nhật quy chính hiệp

cát viên mệnh cưu công doanh trúc, đặc tứ sơn danh viết: Ứng Thuận sơn, tiền

kiến cung viết: Thiên Định cung, nội kiến điện viết Khải Thành điện, thượng

phụng thánh tượng, nội an bảo khám, kỳ vị trí chỉnh túc, quy chế sâm nghiêm,

giai phụng tài tự thánh tâm bản dục khai quốc dân công nghệ chi tiền đồ, tấn

ngoại quốc khảo sát chi vĩ quan, vi thiên vạn thế thụ kiên cơ sở, phi dĩ khoa tráng

nghiêm dã. Càn ngự đương dương, thần dân ngung vọng, đỉnh hồ vân ám, nhai

cốc đồng bi. Ô hô thống tai ! Dục báo chi đức hoàng thiên võng cực, tiểu tử vị hữu

thuật duy duy nhất nhất khâm tuân thành mệnh, phất cảm việt quyết chí mệnh

Công Bộ tuân nguyện trù thức, kế tục doanh trúc tư tắc, chúng công phủ tập, bách

sự cáo thành, đối tùng thu chi hốt uất, cố giang sơn chi hồi hoàn, ngưỡng duy

thánh đức thần công dữ thiên đại tịnh mạo. Tư tiểu tử hạt túc dĩ quy thiên cực,

cảnh đôn luân duy hà phó thác chi. Trọng niệm kế tự chi gian, kính dụng tuyên

dương kỳ ý, thước chi trinh mân ư dĩ thuỳ thị vô cùng, dĩ thiểu thân thiệu thuật chi

hiếu. Tư vu vạn nhất vân nhĩ. Thời Bảo Đại nguyên niên cửu nguyệt thập lục

nhật, hiếu tử tự Hoàng đế thần Điển bái vu khể thủ, minh viết:

Ngã Nam kiến quốc Thánh thần tương kế

Nhân hậu khai cơ Vạn thế lại chi

148

Ngũ bách xương kỳ Tây giá Bắc tuân

Hoàng Hà nhất thanh Truyền vi thịnh quỹ

Thánh nhân ứng vận Tảo dịnh đại kế

Bất ngẫu kỳ sinh Sách lập trừ cung

Ư mục Hoàng khảo Nãi mệnh du học

Đức hiệp đế vương Chính dưỡng mông công

Châu niên thao dưỡng Động sát thần cơ

Hối nhi dụ chương Nãi hồi đại cuộc

Quy ứng nghiêu thư Quốc thể dĩ tôn

Long phi Tấn điện Triều cương nãi túc

Chính thống phi thừa Văn minh chính hiến

Hoàng trù mậu kiến Nhân thời biến thông

Kính thừa liệt miếu Tân cựu tịnh dụng

Hiếu phụng lưỡng cung Công đức kiêm lăng

Thân mục khánh phổ Chính yếu nhất thư

Ưu thể thần công Ban ban khả kỷ

Cần chính ái dân Nguy hồ, hoán hồ

Hoãn hình bình ngục Thiện hỷ, mỹ hỷ.

Nội trị tu minh Đỉnh hồ long khứ

Ngoại giao đôn mục Bạch vân du du

Lâm hiên sách sỹ Chiêm vọng my cập

Chỉ tiễn thụ ngôn Uất nhiên tùng thu

Thần văn hoán phát Thử sơn thử hà

Quốc tuý bảo tồn Như đái như lệ

Ly chính cung phương Cần chi trinh mân

Quảng khai dân trí Truyền vu vĩnh thế

Hiếu tử tự Hoàng đế thần Điển cẩn chí.

2.7.3. Dịch nghĩa

Bia đức thánh công thần ở Ứng lăng

Nước Đại Nam ta từ khi gây dựng cơ đồ ở phương Nam, thánh thần kế tục

149

nhau kể đã vạn năm, công lao vĩ đại, nhân trạch dồi dào, rực rỡ hiển hách vô

cùng, thật đáng truyền tụng. Hoàng khảo ta là con trưởng của Hoàng tổ khảo

Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế và Khôn Nghi Hoàng thái Hậu. Ngài sinh giờ Giáp

tuất, ngày Bính thân mồng 1 tháng 9 Bính tuất mùa thu năm Ất dậu, niên hiệu

Hàm Nghi năm đầu (1885), lúc ấy có rồng phun nước, ấy là mệnh trời đã định

vậy. Niên hiệu Đồng Khánh thứ 3 (1888), lúc Hoàng tổ chầu trời thì Hoàng khảo

ta mới có 4 tuổi. Tuy vậy, tư chất ngày càng biểu hiện, đỉnh dị phi thường. Từ

thuở nhỏ đã khiêm tốn ẩn náu. Niên hiệu Thành Thái thứ 8 (1906), được phong

Phụng Hóa Quận công, phủ đệ dựng ở xã Dương Phẩm, nay là An Định cung.

Niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909), được phong tước Nhất Tự công, xếp vào hàng

hoàng thân gần gũi nhưng không có lòng ở nhà vàng đã lập. Năm thứ 10, vận

nước đang hồi gian nan, Chính phủ bảo hộ ra lệnh cho Chính phủ ta vâng đến

cung An Định đón về lập lên ngôi.

Ngày 17 tháng 4, mùa Hạ năm Bính thìn, lên ngôi Hoàng đế ở điện Thái

Hòa, lấy làm năm đầu niên hiệu Khải Định, việc chính trị buổi đầu sáng sủa,

kính theo phép trời, nếp tổ thể theo bầy tôi, hòa mục người thân, chăm lo chính

sự, thương dân, khoan hình giảm ngục, khai hoang phát chẩn đỡ, thu thuế dân

cùng. Người Châu Âu gây nhiễu thì dùng nghĩa để bang giao, tuần thú ra Bắc để

xem xét phong tục và ổn định lòng dân; qua Tây vốn để vẹn tình láng giềng như ý

cũ. Ngài vốn là người hiếu thuận, lo tế tự liệt miếu, chăm sóc hai cung. Vì nghĩ

việc mở nghiệp là khó nhọc mà dấy lên cử hành quốc khánh. Nhớ việc trung

hưng của Liệt thánh mà lo dựng thêm Thuần miếu, tôn xưng một chữ hiếu mà

muôn tốt đều theo, sáng sủa xiển dương công lớn, vả linh ứng cũng dành cho,

nên việc kiến nguyên càng thịnh, căn bản là do biết nhún nhường dưỡng chí ngay

thẳng. Ban lệnh mở Tây học để mở rộng điều tai nghe mắt thấy, phàm khi ở miếu

đường thì lo trù hoạch quốc kế dân sinh đến sâu xa. Khi rảnh rỗi lại chăm vào

chữ nghĩa văn chương, nay kính xem lại những tập thơ văn thánh chế thì đấy

thảy đều là những lời dạy bảo chí tình của bậc Thánh nhân, bóng bẩy cao xa, lời

lời sáng đẹp, thật tốt thay!

Đang thời buổi hỗn loạn, trước sau vẫn tỏ niềm chân thành, tin tưởng với

chính quyền bảo hộ, đầy đủ năng lực để xem xét quyền hành và chăm lo đại

150

cuộc, nối chí cha ông, cúi xem con cháu thiên hạ nhân dân đều tốt đẹp. Ấy là do

hiệu quả của đức hóa vậy. Vì quá lao thần tổn trí, quá lo âu mà dần dần thành

bệnh, tháng 2 năm Ất sửu thứ 10, Ngài không dự việc chính nữa. Ngày 15 tháng

9 Bính tuất, bệnh nặng dần, đến giờ Đinh mão ngày Giáp ngọ 20, Hoàng khảo

cưỡi rồng chầu trời tại lầu Kiến Trung. Kính quàn tử cung tại điện Càn Thành

thọ 41 tuổi.

Qua tháng 11 kính cáo giáo miếu và tấu đạt hai cung, tự thân hành cùng phụ

chính thân thần, tôn nhân, bề tôi văn võ kính tán dương công đức, dâng thụy và

miến hiệu là Tự Thiên Gia Vận Thánh Minh Thần Trí Nhân Hiếu Thành Kính Di

Mưu Thừa Liệt Tuyên Hoàng Đế. Ngày Tân tỵ 18 tháng 12, kính đưa linh cửu

nhập huyền cung tại xứ Châu Ê thuộc làng Châu Chữ, huyện Hương Thủy, kính

dâng tên lăng là Ứng Lăng, tức lăng này.

Kính vâng lời dạy của Hoàng khảo lúc tại vị từng xem và cho đây là đất tốt

nên đã sai thi công xây dựng, ban tên núi là Ứng Thuận Sơn. Phía trước dựng

cung gọi là Thiên Định cung, phía trong xây điện gọi là điện Khải Thành, trên

thờ Thánh tượng; trong cùng là khám thờ, vị trí ngay ngắn, quy mô trang

nghiêm, tất cả đều kính y như khuôn khổ đã định trước. Thánh tôn vốn cùng mở

mang công nghệ cho nên ra nước ngoài để khảo sát từ cái lớn lao đến ngàn vạn

cái nhỏ nhặt chứ chẳng phải đi để khoa trương gì. Thật chí tình thay! Nay trời đã

cho rồi, thần dân buồn bã, mây tuôn đỉnh đồ, hang hẻm sầu bi, than ôi đau đớn

thay! Những muốn báo đền đức trạch nhưng trời cao nào thấu. Tiểu tử chưa thể

nói hết, chỉ nhất nhất tuân mệnh chẳng dám làm sai. Nay lệnh cho Bộ Công y

như kế hoạch cũ, tiếp tục xây cất lăng này. Thợ thuyền tụ họp, nay việc đã

thành, đứng ngắm tùng thông rậm rạp, nghoảnh nhìn đồi núi trập trùng, ngưỡng

mong công đức thánh thần hài hòa cùng sự trang nghiêm của trời đất. Tiểu tử

này đâu đủ sức noi chí trời, buổi đầu vâng mệnh chủ nguyên tuần hành sự phó

thác lớn lao ấy. Bởi nặng niềm âu lo việc kế tục là khó khăn, kính tuyên dương

công đức tốt đẹp, đem khắc vào đá tốt để truyền rõ đến muôn đời và cũng để tỏ rõ

lòng hiếu thảo của đứa con hiếu này trong muôn một vậy.

Ngày 16 tháng 5 niên hiệu Bảo Đại năm đầu, đứa con hiếu nối ngôi Hoàng

đế, thần là Điển kính lạy rập đầu làm bài minh rằng:

151

Trời dựng nước Nam. Sửa sang chính trị,

Nhân trạch mở nang, Dân trí mở mang.

Thánh thần kế tục Sang Tây ra Bắc,

Muôn đời tựa nương Phép tắc rõ ràng.

Năm trăm năm tốt. Sớm định kế lớn,

Hoàng Hà nước trong, Sách lập các cung.

Thánh nhân gặp vận, Sai đi du học,

Chẳng phải ngẫu sinh. Công nghệ mở mang.

Ôi nay Hoàng khảo, Xem xét thời cơ,

Đức hợp đế vương Quan tâm đại cuộc.

Bao năm mài chí Quốc thể đề cao,

Ân vẫn rõ ràng. Kỉ cương nghiêm túc.

Sách Nghiêu vừa ứng, Văn hiến lẫy lừng,

Điện tấn hiệu rồng Gặp khi bế tắc

Lớn lao chính thống Cũ mới đều dùng

Tươi tốt ngai vàng. Kiện toàn công đức.

Kính theo phép tổ Chính yếu sách rồng,

Hiếu thờ hai cung. Rõ ràng ghi chép.

Hòa thân người họ, Cao đẹp sáng trong,

Đãi kẻ có công. Toàn thiện toàn mỹ

Yêu cầu cần mẫn, Bồ đỉnh hiện rồng,

Hình ngục khoan hồng. Bàng bạc mây trắng,

Sửa sang nội trị, Chẳng kịp ngoảnh trông.

Ngoại giao nhu thuần. Tốt tươi tùng bách ,

Xem xét sĩ tốt, Này núi này sông.

Ngừng giá hỏi han, Như đất như đá,

Văn võ sáng chói, Kính khắc đôi dòng,

Quốc túy giữ gìn. Để truyền mãi mãi.

Đứa con hiếu là Điển nối ngôi Hoàng đế kính chép.

CHƯƠNG 3

GIÁ TRỊ CỦA VĂN BIA CÁC LĂNG VUA NGUYỄN

152

3.1. Giá trị lịch sử

Lịch sử với những giai đoạn thăng trầm của nó đã để lại nhiều dấu ấn đối

với đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội. Các sử gia xưa và nay đã ghi lại những

giai đoạn thăng trầm ấy để hậu thế biết rõ hơn về quá khứ dân tộc. Và các vị vua

nhà Nguyễn trong vai trò là người chấp bút trên các văn bia dựng ở các lăng tẩm

đã không chỉ là người có quyền uy tối thượng trên của cả nước nữa mà còn đóng

vai trò là những sử gia viết về những nhân vật, những sự kiện gần gũi mình. Dù

những đánh giá của các vị vua có khách quan hay không thì đó vẫn là những tư

liệu lịch sử quý giá để người đời sau xác nhận lại lịch sử và nhân vật lịch sử.

Trước hết, có thể coi các bài văn bia này là cứ liệu mang tính chính xác cao

về tiểu sử của một vị vua. Không chỉ viết niên hiệu, tên húy, tên thụy, ngày giờ

sinh của vua mà thông qua các bài văn này có thể biết thêm đôi điều về nhân thân

của ông vua. Các sử gia có thể chép nhầm các thông tin trên nhưng con viết cho

cha thì không thể không viết đúng. Ví như trong bài văn bia của lăng Khải Định,

vua Bảo Đại đã viết về tiểu sử vua cha như sau: “Hồng duy ngã Hoàng khảo Tiên

Hoàng đế, Hoàng Tổ khảo Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế hoàng trưởng tử dã,

Hoàng Tổ mẫu Khôn Nghi Hoàng Thái hậu dĩ Hàm Nghi nguyên niên Ất dậu thu

cửu nguyệt Bính tuất, sơ nhất nhật Bính thân, Giáp tuất thời” - 鴻 惟 我 皇考

先 皇 帝 皇 祖 考 景 尊 純 皇 帝 皇 長 子 也 皇 祖 母 坤 儀 皇 太 后 以 咸 宜

元 年 乙 酉 秋 九 月 丙 戌 初 一 日 丙 申 甲 戌 辰 --Hoàng khảo ta là con

trưởng của Hoàng Tổ khảo Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế và Khôn Nghi Hoàng

Thái hậu. Ngài sinh giờ Giáp tuất, ngày Bính thân mồng 1 tháng 9 Bính tuất mùa

thu năm Ất dậu, niên hiệu Hàm Nghi năm đầu. Ở đoạn khác cũng có nói: “Tháng

2 năm Ất sửu thứ 10, ngài không dự việc chính nữa. Ngày 15 tháng 9 năm Bính

tuất, bệnh nặng dần, đến giờ Đinh mão, ngày Giáp ngọ 20, Hoàng khảo cưỡi rồng

chầu trời tại lầu Kiến Trung. Kính quan tử cung tại điện Càn Thành, thánh thọ 41

tuổi.(十年 乙 丑 二 月一 日 不 預 九 月 丙 戌 十 五 日 疾 大 漸二 十 日 甲

午丁 卯 時 龍 御 上賓 于 建 中樓 奉 安 梓 宮 于 乾 成 殿 聖 齡 壽 四 十 有

153

一 ). Những đoạn tương tự như trên đều có ở tất cả các bài văn bia. Trong các bài

ngự chế văn bia, các vua đã nhắc đến mục đích viết là để hậu thế biết và ghi nhớ

công lao của các bậc Tiên đế. Có lẽ vì vậy mà các bài văn đã viết rất tỉ mỉ, gọn

gàng mà dễ hiểu. Cho nên có thể nói dựng bia là để ca ngợi công đức nhưng

không phải lúc nào cũng sử dụng lời văn bóng bẩy, hoa mỹ.

Mỗi một triều đại phong kiến cũng như mỗi một đời vua trị vì đều có những

ảnh hưởng nhất định với xã hội. Và dù ảnh hưởng đó tiêu cực hay tích cực thì

lịch sử luôn công bằng với những gì đã đi qua. Xã hội ngày nay đang nhìn nhận

lại quá khứ trong bối cảnh cụ thể của nó để có những đánh giá chính xác và đúng

đắn. Triều Nguyễn và vai trò lịch sử của nó cũng đang là vấn đề được xem xét

lại. Việc ghi chép lịch sử là công việc của các sử gia nhưng không phải sử gia

nào cũng ghi chép đúng sự thật khách quan của lịch sử. Và nếu ai đó đọc “Đại

Nam thực lục” hay “Đại Nam nhất thống chí” cũng sẽ nhận ra quan điểm lịch sử

vào giai đoạn dưới triều Nguyễn luôn thống nhất với quan điểm của chính vua tại

ngôi. Đọc các văn bia, điều đầu tiên chúng ta cảm nhận được chính là: ca ngợi là

cảm hứng chủ đạo. Công đức các vị vua đã được cường điệu quá mức. Gia Long

là người gây dựng lại cơ nghiệp dòng nhà Nguyễn, trải qua không ít khó khăn

trước khi chiến thắng nhà Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, công của đức vua đã được

vua Minh Mạng cho là: 蓋 其 仁 足 以 被 物 孝 足 以 感 神 文 足 以 附 眾 武

足 以 威 暴 - Đức nhân của Ngài đủ phổ cập vạn vật, đức hiếu đủ cảm thần

thánh, tài văn đủ cho dân chúng quy phục, tài võ đủ khiến hung đồ sợ hãi. Hay

như vua Thiệu Trị, ông lên ngôi khi mọi vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội đã

được bình ổn dưới thời Gia Long và Minh Mạng nhưng trong bài bia viết về ông,

vua Tự Đức đã ca ngợi vua cha là : “Ở trong nhà thì 9 họ hòa mục, ở trong nước

thì trăm họ thân yêu, đối với thiên hạ thì miễn mọi phục tùng. Đức hòa sáng khắp

sáu cõi, điềm lành ứng hiện mười phần. Trị nước trong 7 năm, công hiệu đến

trăm đời. Thực là đức thịnh nghiệp lớn lắm vậy” - 在 家而 九 族 敘 在 國 而 百

姓 親 在 天 下 而 蠻 夷 格 化 光 六 合 瑞 應 十 成 治 在 七 年 效 及 百 世 盛

154

德 大 業 至 矣. Rõ ràng, sự ca ngợi này là quá mức. Cho nên tính xác thực của

văn bia không lớn.

Trong các văn bia mà chúng tôi khảo sát, chỉ riêng văn bia Tự Đức là vừa

kể công vừa kể tội. Xưa nay, chúng ta chỉ biết đến quyền uy tối thượng của một

hoàng đế chứ ít được nghe tâm lý tình cảm thực sự của một người được coi là

đấng chí tôn. Nhưng đọc “Khiêm cung kí” thì chúng ta sẽ hiểu hơn về một nhân

vật lịch sử mang nhiều tai tiếng trong lịch sử nhà nước phong kiến. Đây là văn

bia đặc sắc và có ý nghĩa nhất, bởi không chỉ do nội dung của nó mà còn do tính

đặc biệt của nó nữa. Vua Tự Đức không có con nên văn bia trên lăng ông là do

chính tay nhà vua viết. Nhà vua đã không hề khoe khoang công mình trước lịch

sử mà ông có những giây phút hối hận với những việc đã xảy ra. Những gì mà

ông tự nói lên đã khiến cho người ta không khỏi khâm phục. Làm vua trong vòng

36 năm giữa lúc đất nước có nhiều biến động phức tạp, Tự Đức đã không tránh

khỏi sự chê trách của mọi người; cho nên bài văn bia được coi như là lời giãi bày

của ông trước bao biến cố xảy ra đối với đất nước và dân tộc.

Đầu tiên, vua Tự Đức nói về việc lên ngôi của mình là do được vua cha yêu

thương, mỗi lần vua Thiệu Trị ra ngoài chơi đều cho ông theo hầu, ân huệ vua

cha ban không ít như được dự việc xét án mùa thu, được ban thức ăn, được khen

tài văn chương ... và khi được gọi vào nghe đọc di chiếu thì “hồn bất phụ thể rồi

kíp theo sứ vào chầu, tất cả đều là phận sự, tất nhiên ta chẳng lưu ý gì...” Tự Đức

cho là phận sự nhưng thực việc “phế trưởng lập thứ” này đã không khỏi bị thiên

hạ bàn tán. Về sau, khi khởi nghĩa “Chày vôi” nổ ra dưới chiêu bài tôn phò “Ngũ

đại hoàng tôn”, vua đã cho giết Hồng Bảo như là một biện pháp cứng rắn để tiêu

trừ mầm họa. Khi nhắc đến điều này, Tự Đức viết: “Lòng ta có như thế không?

Hay ta vì bọn nhỏ nhen mà bị mê hoặc? sao ta vội vàng đến nỗi tự quyết đoán

như vậy, nhất thời cũng khó giãi bày được hết, trăm năm còn có sử xanh, ta nỡ

nào!”. Việc tranh giành ngôi báu mà anh em tàn sát lẫn nhau thì đời nào cũng có

nhưng không mấy ai tự nhận lỗi về mình, nhất là viết trên văn bia lưu truyền hậu

thế như vua Tự Đức.

Nhà vua luôn muốn làm một ông vua giỏi, được ca tụng nhưng chính những

việc làm của ông đôi lúc đi ngược lại điều mong muốn ấy. Ban đầu, khi thực dân

155

Pháp xâm lược Đà Nẵng, Tự Đức cho quân đội hiệp lực cùng nhân dân chiến

đấu, tạm thời đẩy lui quân địch. Đó là lúc cao trào yêu nước của nhân dân lên

cao, thể hiện lòng quyết tâm chiến thắng. Nhưng khi Pháp chuyển hướng đánh

thành Gia Định, do những nguyên nhân khác nhau, quân triều đình thất bại và

vua từ đó cũng bắt đầu lúng trước sự bùng cháy của lòng yêu nước ở khắp các

địa phương. Biết thế không đương nổi, nhà vua đã vội vàng nhân nhượng với

giặc. Nhà vua đã biện minh cho hành động của mình là: “Hưởng thái bình đã lâu

ngày, dân không biết chiến đấu, canh thành giữ chốt nào được mấy người, khiến

đất nước đầy trộm cướp, trong gian ngoài giặc, chúng lén lút cấu kết với nhau

tràn lan, chúng đến đâu thì tàn hại như gió bão, thử hỏi biết cùng ai để bảo vệ bờ

cõi của ta huống chi là việc bảo vệ dân ta? Bất đắc dĩ phải đánh qua loa cho xong

chuyện, nhưng dân thì ngày càng quấy nhiễu. Để thôi mệt nhọc, nhân giặc cầu

hòa ta đành phải sai sứ cùng chúng hội ước, những nhà nho lão thành, những đại

thần uy vọng đều lấy làm bùi ngùi và xin đi, rồi chẳng hiểu sao lại quá dễ dãi

trong việc thương thuyết mà trở về. Các triều đã dày công mở mang đất đai, tụ

họp dân chúng, bỗng nhiên một sớm thảy giao cho địch, họ đã chọn lấy cái họa

nhỏ, lấy cái chết để khỏi nhục mạng vua, quả như thế chăng?”承 平 日 久 顏 不

知 戰 干 城 保 章 有 幾 人 焉 以 致 山 海 群 盜 內 姦 外 寇 暗 相 綈 串 滋 蔓

所 至 風 靡 誰 與 保 吾 境 矧 可 保 吾 民 不 得 已 征 繕 以 從 事 而 民 益 騷

然 瘁 止 不 得 已 因 虜 求 成 遣 使 與 約 耆 儒 碩 輔 慨 然 謂 往 不 審 何 故

而 容 易 成 言 以 還 率 將 累 朝 艱 難 闢 聚 之 土 地 人 民 旦 盡 棄 敵 其 於

擇 禍 取 輕 以 子 固 爭 使 不 辱 君 命. Tiếp đó, các cuộc đấu tranh nổ ra là để

chống Pháp thì được cho là quấy nhiễu, cuối cùng đã cùng giặc đàn áp chính

nhân dân mình. Thời cuộc thay đổi, gươm giáo không đánh lại được súng đạn

nhưng ít ra khi vận hội chưa hết, lòng dân vẫn mong ngóng thì vua không nên

vội vàng chấp nhận thỏa hiệp. Càng về già, vua càng bạc nhược, bi quan, yếm

thế, sống hưởng thụ mà bỏ quên thần dân đang bị đàn áp, bóc lột. Dân Nam Kì

“xương rơi máu đổ” là để bảo vệ sơn hà xã tắc nhưng vua thì cho xây dựng

156

Khiêm Cung nguy nga, lộng lẫy để vui chơi, lại tăng thuế gấp nhiều lần khiến

dân tình điêu đứng. Ngay chính tên “Khiêm Cung” cũng đã là một sự đối lập

với bên trong được xây dựng cầu kì hơn 50 công trình hao người tốn của. Và

chính nhà vua cũng phải tự nhận: “Không sáng suốt trong việc biết người, ấy là

tội của ta; dùng người không đúng chỗ, cũng là tội của ta; hằng trăm việc không

làm được đều là tội của ta cả...” Đây dù sao cũng là lời thú tội rất thành thực

của một ông vua trị vì lâu nhất dưới thời Nguyễn, khác với những lời ca tụng tẻ

nhạt, khoa trương như ở các bài văn bia khác. Ông cũng không che giấu nhược

điểm của mình “đức ta không đủ để thay đổi phong tục, tài ta không đủ để

thành tựu cho mọi người. Chí lớn mà kiến thức nông, mong nhiều nhưng chỉ

được ít”. Nhưng dù sao cái ý muốn “bắt chước Hán Vũ Đế” của nhà vua cũng

rất đáng trân trọng.

Mỗi bài văn bia có một giá trị riêng đối với lịch sử. Nghiên cứu về những

văn bia này cũng là cách tiếp cận gần hơn với quá khứ.

3.2. Giá trị văn học

Trước hết, văn bia lăng các vua Nguyễn có thể nói là bản ghi chép sơ lược

về cuộc đời và sự nghiệp của một vị vua. Rất rõ ràng và đầy đủ từ tiểu sử đến

công lao sự nghiệp, mỗi bài văn đã khiến cho người đọc mường tượng như mình

đang được tận mắt chứng kiến cuộc đời đầy sống động của những nhân vật lịch

sử thời trước. Không cần nhiều chi tiết, cũng không cần những lời hoa mỹ, rườm

rà, bài văn đã thể hiện rõ nhân sinh quan của chính người viết. Không có những

va chạm kịch tính giữa các nhân vật nhưng những bài văn bia mang đến cho

người đọc những giây phút hồi hộp đến kì lạ. Đó có lẽ là vì xưa nay bàn luận về

chuyện vua chúa không phải là điều dễ nói, nhất là trong xã hội cũ. Không chỉ sơ

lược về cuộc đời mà Tự Đức trong “Khiêm cung kí” còn bộc lộ tâm sự kín đáo

của một vị vua ngồi trên ngai vàng lâu nhất trong lịch sử vương triều Nguyễn

trong tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động. Đó là những điều

không dễ gì nói ra. Điều đặc biệt là nó lại được khắc lên bia đá để lưu truyền đời

sau. Dân gian có câu “trăm năm bia đá cũng mòn, nghìn năm bia miệng vẫn còn

trơ trơ” nhưng “bia miệng” người ta có thể nói trăm chiều xuôi ngược, còn bia đá

lại là sự khẳng định chân thực, nhất là nó lại do chính người trong cuộc viết nên.

157

Những lời tâm sự của một vị vua sắp đi vào cõi "Thiên Thai" rất sâu lắng bởi nó

được đúc kết qua những bước thăng trầm của cuộc đời nhà vua theo dòng lịch sử;

không ngại ngần khi tự nhận sai lầm và khuyết điểm, vua Tự Đức khiến người

đọc không khỏi ngạc nhiên và ngưỡng mộ về sự dũng cảm trước lịch sử. Bởi vậy,

trong các bài văn bia thì “Khiêm cung kí” vẫn là văn bia đặc biệt nhất.

Qua bài văn bia, người đọc có thể theo chân tác giả trở về với tuổi thơ đầy

ắp kỉ niệm đẹp đẽ và hồn nhiên. Từng cử chỉ, từng lời nói của đấng sinh thành

như những mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Ai cũng có thời thơ ấu, ai

cũng được cha mẹ yêu thương, đó là điều mà các vị vua kế nhiệm muốn nói đến

dù họ là vua hay là ai đi nữa. Qua cảm quan chủ quan của người viết, sự ấm áp,

yêu thương của người cha kính mến vẫn còn đó dù người đã mất và trong ý thức

đó là điều không dễ gì lãng quên.

Bài văn còn là nơi gửi gắm tình phụ tử rất đỗi thiêng liêng và cao quý. Tình

phụ tử, mẫu tử là những mẫu mực đạo đức rất được coi trọng trong bất kì xã hội

nào, nhất là trong xã hội phong kiến. Một đứa con bất hiếu không thể là một bề

tôi trung, đó là quan niệm của Nho gia. Chữ “hiếu” luôn đi kèm với chữ “ trung”

như để nhắc nhở con người phải biết trọn đạo làm con và đạo làm tôi. Dù thực

tế, tình cảm cha con có mặn nồng hay không nhưng điều mà người đọc có thể

cảm nhận chính là sự hiếu thuận của người con đối với cha. Khi cha khỏe mạnh

thì luôn vấn an sức khỏe, khi cha lâm bệnh thì ở bên hầu hạ, chăm sóc, khi cha

mất thì đau xót và tận lễ. Vua Minh Mạng đã bày tỏ tâm trạng đau đớn của mình

khi vua cha mất như thế này: “Thần nhìn thấy những cây thông, cây tùng rậm

rạp, đoái trông sông núi quây quần lại tưởng nhớ đến đức thánh công thần của

Hoàng khảo, từng làm vẻ vang tổ tiên, mở mang bờ cõi, công nghiệp cao dày đã

cùng cực, thật đáng sánh cùng Trời Đất. Nhưng giống với vua Hoàng, vua

Chuyên, không bền bỉ như chất vàng đá; với vua Hoa, vua Huân không sống lâu

như cây kiều tùng; Hoàng khảo đã xa chơi tiên cảnh khiến thần kêu khóc, níu lấy

nhưng không thể kịp. Vậy chỉ còn cách là thần kể lại những việc thiện mỹ, bày tỏ

những công nghiệp vĩ đại của Hoàng khảo, để chỉ bảo người đời sau nhớ đến

muôn thuở, ngõ hầu làm giảm bớt lòng bi thương vô cùng và bày tỏ đạo hiếu

thảo vô tận của thần”. Đây không chỉ là tâm trạng riêng của vua Minh Mạng mà

158

là tâm trạng chung của các vị vua kế nhiệm khi cha mất. Có thể coi đây là bản

tình ca về tình phụ tử trước thử thách thời gian và lịch sử.

Mỗi bài văn như một bản nhạc gia hưởng nhiều cung bậc hòa quyện lẫn

nhau. Có được như vậy là nhờ tác giả đã có vốn kiến thức sâu rộng, tài nghệ văn

chương và sự khéo léo trong việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu như

phóng đại, khoa trương, sử dụng điển tích, điển cố, ước lệ tượng trưng...Đây đều

là những thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu trong văn học chữ hán. Ngoài ra, các tác

giả đã rất tài tình khi biết nhào nặn không gian- thời gain nghệ thuật co giãn theo

hướng đa chiều mà không hề cảm thấy lộn xộn hay rối rắm. Mạch cảm xúc theo

đó mà biến thiên khiến các bài văn có sự nhịp nhàng cần thiết.

3.3. Giá trị mỹ thuật

Văn bia là một tác phẩm thành văn được ghi trên đá. Do tính quan trọng và

có sự ảnh hưởng lớn mang tính lịch sử nên văn bia thường được chăm chút về

mặt mĩ thuật.

Một đặc điểm dễ nhận thấy ở văn bia các lăng vua Nguyễn là các văn bia

đều có dáng cao to, trông rất uy nghi và hoành tráng như một tượng đài. Bia

Minh Mạng thân cao 2,88m, rộng 1,52m, bệ bia dài 1,96m và cao 1,08m ; bia

Thiệu Trị thân cao 2,88m, rộng1,52m, bệ bia dài 2,16m, cao 0,92m... Những tấm

bia được coi nhỏ nhất là văn bia ở lăng Gia Long cao 2,8m, rộng 1,52m, bệ bia

dài 1,88m, cao 0,8m; văn bia Đồng Khánh cao 3,05m, rộng 1,45m, dày 0,16m, bệ

bia dày 0,8m, dài 2,07m, cao 0,6m.

Cùng với các kiến trúc khác trong lăng mộ, văn bia chính là sự thể hiện sự

trang trọng, tôn nghiêm nơi yên nghỉ của nhà vua. Khác với văn bia thời Lý (cao

2,5 x1,7m, dày 0,29m) ngoài ý nghĩa và văn phong trong nội dung được ghi trên

văn bia, hình thức to lớn của bia còn nhằm khẳng định tinh thần độc lập tự chủ,

bản sắc văn hóa riêng của nước Đại Việt bên cạnh nước Đại Tống luôn có mưu

đồ bá quyền, các văn bia của lăng vua Nguyễn là sự khẳng định về một triều đại

có nhiều thành tựu và dấu ấn trong lịch sử đất nước, là sự khẳng định công lao và

vị trí của mỗi vị vua đối với dân tộc. Trên trán bia và diềm bia luôn được trang trí

bằng họa tiết rồng và hoa văn rất đẹp.

Trán bia luôn là hình một con rồng lớn với những đường uốn lượn rất bay

159

bổng, điệu nghệ cùng với những sóng mây xung quanh. Phần trên của thân bia

luôn là hình “lưỡng long triều nguyệt”, có khi bên dưới thân bia cũng có như văn

bia lăng Đồng Khánh. Mặt nguyệt (hay Mặt Trời) có nhiều tia sắc nhọn trong như

ngọn lửa thiêng, bảo vệ sự trong sạch nơi lăng tẩm, đó cũng là biểu tượng của

vương quyền. Mặt nguyệt thời Nguyễn khác mặt nguyệt các thời khác. Thời Lý:

mặt nguyệt là một vòng tròn sáng, nhọn ở đỉnh đầu. Thời Trần thường thay bằng

hình chữ Phật (hán tự) hình vuông. Thời Lê là hình Mặt Trời có tia. Thời Mạc là

một vòng tròn ngoài có thêm 1 đến 3 vòng tròn đồng tâm làm nổi rõ hình tượng

mặt nguyệt.

Bệ bia của các văn bia là một khối đá nguyên, dáy và rất vững chắc với ý

tưởng xây dựng một quốc gia vững mạnh, kỷ cương xứng danh nước Đại Nam

sánh vai nước Đại Thanh phía Bắc. Các bệ bia ở lăng giống nhau, chỉ có bệ bia ở

lăng Tự Đức có tạo đường rãnh uốn lượn ở bề mặt trước làm cho bệ bia tăng

thêm phần mềm mại. Nó khác với văn bia các chùa hay văn bia tiến sĩ thường có

hình rùa đội bia được đặt lên bệ đá và cũng khác với bệ bia các thời trước. Thời

Lý, bệ bia được chạm khắc hình rồng rắn quấn lấy nhau và đầu luôn vươn lên với

ý nghĩa thiêng liêng. Thời Trần, bệ bia thường được khắc hình rùa với ý tưởng

nhấn mạnh về một xã hội ổn định, phát triển và trường tồn.

Cột chân bia được làm theo kiểu sập chân quỳ, trông rất vững chải và trang

nghiêm, phù hợp với một triều đại được gây dựng lại từ trong chiến tranh loạn

lạc, cát cứ. Nhưng đây không phải là đặc điểm riêng biệt của bia ở các lăng vua

Nguyễn mà bia ở chùa hay các vị trí quân sự, giáo dục cũng có đặc điểm này, có

thể đây là đặc trưng của bia thời Nguyễn.

Hoa văn ở trên các bia được chạm khắc tỉ mỉ, hài hòa, cân xứng. Nó là kết

quả sự phối hợp giữa bàn tay và khối óc của người thợ khắc để tạo nên những nét

vẽ tuyệt đẹp. Mỹ thuật được thể hiện trên bia đá mang dáng dấp của nền mỹ thuật

thời đại. Càng về sau, mỹ thuật thể hiện trên bia nói riêng và toàn bộ lăng tẩm nói

chung là sự kết hợp giữa mỹ thuật phương Đông và phương Tây, giữa cái nhuần

nhụy, mềm mại, dịu dàng và cái rắn chắc, khỏe khoắn.

Giá trị mỹ thuật là một trong những giá trị mà hệ thống văn bia Việt Nam

nói chung và văn bia của các lăng vua Nguyễn nói riêng đã để lại cho chúng ta

160

ngày nay. Đó là bằng chứng hiện hữu nhất cho chúng ta biết thêm về mỹ thuật

của một thời đại và góp phần khẳng định thêm giá trị đích thực của bia đá.

3.4. Giá trị về ngôn ngữ và chữ viết

Trong những giá trị mà văn bia mang lại cho văn hóa cổ truyền dân tộc

không thể không nhắc đến giá trị về ngôn ngữ, chữ viết và thể loại. Bởi những

thể loại khác nhau sẽ chuyển tải những nội dung khác nhau, quy định ngôn ngữ

phù hợp với nội dung và hình thức thể hiện nó. Sự phong phú về thể loại cũng

chính là sự phong phú về nội dung.

Nhắc đến thể loại là nhắc đến một phạm trù thuộc hình thức của tác phẩm.

Bia đá là một tác phẩm thành văn và thể loại của nó đã được nhắc đến ngay đầu

đề bài văn bia: thánh đức thần công bi kí, Khiêm cung kí...Thể loại được nhắc

đến ở đây là kí. Đây là thể loại dùng để phản ánh những vấn đề, sự kiện, con

người có thật, điển hình, luôn cố gắng đảm bảo tính chân thực, chính xác của nội

dung. Chính đặc điểm này đã thể hiện sự tin cậy cần thiết đối với những thông tin

mà văn bia chuyển tải. Những nhân vật mà các văn bia nhắc đến không phải là

kết quả của sự sáng tạo bằng nghệ thuật hư cấu của người chấp bút mà đó là

những con người có thật, những nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử có thật. Nói

rằng các văn bia được viết theo thể kí nhưng không phải toàn bộ bài văn là một

câu chuyện được viết theo lối trần thuật mà có sự pha trộn giữa nghệ thuật kể

chuyện và những áng thơ trữ tình. Trong 6 bài văn bia thì 5 bài là ở phần cuối có

bài thơ dài mỗi câu bốn chữ, chỉ có ở “Khiêm cung kí” là bài thơ cuối được viết

gần giống thể phú, chỉ có 8 câu và rất giàu cảm xúc.

Về chữ viết, tất cả các bài văn bia đều được viết bằng chữ Hán. Do những

nguyên nhân khác nhau, đến lúc này chữ Hán vẫn giữ địa vị độc tôn trong nền

văn tự nước nhà. Chữ Hán trên các văn bia được viết theo lối chữ chân, rõ đẹp.

Chính tầm quan trọng của các văn bia nên việc khắc chữ được thực hiện rất tỉ mỉ

và nghiêm cẩn. Đây là những mẫu mực về chữ viết được khắc trên đá của thời

đại trước.

Về ngôn ngữ, các tấm bia được khắc vào những thế kỉ XIX, XX nên ngôn

ngữ ở đây rất gần với ngôn ngữ hiện đại. Ngoài ra, bằng việc mượn các điển tích,

điển cố Trung Quốc, ngôn ngữ mang tính cô đọng, hàm súc. Hầu hết các bài văn

161

bia đều sử dụng điển tích, điển cố. Vua Minh Mạng chỉ dùng 4 từ “canh tường tại

mộng” để nói lên lòng thương nhớ của mình đối với người cha đã mất cũng

giống như ngày xưa lúc vua Nghiêu mất, vua Thuấn tưởng tượng thấy vua

Nghiêu ở bên bức tường, khi ăn thấy bóng vua Nghiêu trong bát canh; chỉ 2 từ

“vương sư” cũng đủ để nói lên khí thế tiến quân như vũ bão của vua Gia Long

giống với khí thế trừ bạo ngày xưa của đội quân Chu Vũ Vương. Vua Tự Đức chỉ

dùng cụm từ “Vũ xa Thang võng” mà nói lên được lòng nhân từ của vua Thiệu

Trị đối với dân chúng... Các vị vua đã sử dụng tính đa nghĩa, hội ý của chữ Hán,

đặc biệt là hệ thống điển tích, điển cố Trung Quốc để rút gọn lời mà ý lại sâu xa.

Hàng loạt những nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử lấy từ lịch sử Trung Quốc đã

được nhắc đến như: Chu Công, Hán Quang Đế, Nhan Hồi, Bành Tổ, Bá Di, Đạo

Chích, Tư Không Biểu Thánh, Hán Văn Đế, Đường Thái Tông, Ngu Khê, Tân

Phong, Giản Định, Phong Thủy... Các điển tích, điển cố được sử dụng rất nhuần

nhuyễn, đa dạng và sinh động. Điều này cho thấy, tài văn chương của các vị vua

không hề thua kém các bậc túc Nho. Ngôn từ, câu kéo được lựa chọn kĩ càng và

trau chuốt. Những trợ từ ngữ khí, từ cảm thán được sử dụng để biểu đạt sắc thái

tình cảm cộng với những thủ pháp lặp lại, thay thế khiến những bài văn có sự

sinh động cần thiết.

Tóm lại, văn bia ở đây không đơn thuần là sự ca tụng công đức mà còn mang

những giá trị về nghệ thuật biểu hiện. Trên những mặt nhất định, văn bia là sự

thể hiện tài năng của người viết và người khắc.

162

C - KẾT LUẬN

Đường vô xứ Huế quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ

Cố đô Huế đã đi vào lòng người Việt và du khách nước ngoài chính bằng những

cảnh trí thiên nhiên, dân dã mà không kém phần thú vị và hấp dẫn. Thiên nhiên nơi

đây là nguồn cảm hứng của nhiều thi nhân và là nơi dừng chân của những ai muốn có

thời gian nghỉ ngơi thật bình yên và thoải mái. Những nét văn hóa cổ truyền nơi đây

cũng thu hút khách tham quan tìm hiểu, khám phá. Ai đã đến Huế sẽ không dễ quên

hình ảnh của con người Huế chân thành, mộc mạc và hiếu khách, không quên vốn ẩm

thực đa dạng, cầu kì, hấp dẫn, không quên núi Ngự sông Hương với những vẻ đẹp

khó cưỡng lại sự tò mò, khám phá, càng không thể quên những danh lam thắng cảnh,

những di tích lịch sử. Đến đâu trên mảnh đất cố đô này, du khách cũng bắt gặp cảnh

đẹp hết sức nhẹ nhàng, tinh tế mang phong cách riêng của vùng đất nhiều sông lắm

núi. Nào là sông, là biển, là suối nước nóng, là chùa chiền, di tích văn hóa giáo dục, di

tích lịch sử... Ngày nay, người ta khẳng định Huế là thành phố của du lịch, là điểm

đến quen thuộc của du khách trong và ngoài nước.

Góp phần vào sự phát triển của cố đô Huế hôm nay, không thể không kể

đến giá trị của hệ thống di tích lịch sử đồ sộ mà kinh đô Phú Xuân xưa đã in dấu

hơn một thế kỉ thời đại vàng son của vương triều Nguyễn. Đại Nội với những

cung điện lộng lẫy, cảnh trí thiên nhiên có sự chăm chút của bàn tay con người

mang lại cảm giác trang nghiêm như sống lại những giờ phút huy hoàng trong

lịch sử; những cung điện xây dựng ở những vùng quê yên tĩnh dành cho vua ngự

giá khi “vi hành” như mời gọi du khách đến thưởng ngoạn; đặc biệt là hệ thống

lăng tẩm của các vua chúa với nghệ thuật trang trí đặc sắc. Mỗi lăng tẩm là một

phát hiện kì thú về mỗi vị vua và đặc trưng nghệ thuật mang tính thời đại. Nhận

xét về lăng tẩm của các vua Nguyễn, ông Phạm Quỳnh trong “Mười ngày ở Huế”

đăng trên tạp chí Nam Phong ra số tháng 10 năm 1918 có viết: “Lăng đây là cả

một tòa thành, cả một vùng núi, chớ không phải là một khoảng dăm ba sào, một

khu vài ba mẫu. Lăng đây là gồm cả màu trời sắc nước, núi cao rừng rậm, gió

thổi ngọn cây, suối reo hang đá, chớ không phải một cái nấm con con của tay

163

người xây dựng. Lăng đây là bức cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp ghép thêm một cảnh

nhân tạo tuyệt khéo. Lăng đây là cái nhân công tô điểm cho sơn thủy, khiến cho

có một cái hồn não nùng, u uất, như phảng phất trong cung điện âm thầm, như rì

rào trên ngọn thông hiu hắt. Không biết lấy lời gì mà tả được cái cảm lạ, êm đềm

vô cùng, ảo não vô cùng, nó chìm đắm người khách du quan trong cái cảnh tĩnh

mịch u sầu ấy. Trong thế giới chắc còn lắm nơi lăng tẩm đẹp đẽ hơn nhiều, như ở

Ấn Độ có cái mả bà chúa toàn bằng ngọc thạch, ở Âu Châu cũng có lắm nơi mộ

địa u sầm. Nhưng không đâu cái công dựng đặt của người ta với cái vẻ thiên

nhiên của trời đất khéo điều hòa nhau bằng ở đây, cung điện đền tạ cùng một

màu một sắc như núi non, như cây cỏ; tưởng như cây cỏ ấy, núi non ấy phải có

đình tạ ấy, cung điện ấy mới là xứng, mà cung điện ấy, đình tạ ấy phải có núi non

ấy, cây cỏ ấy mới là hợp vậy”.

Quả thật nếu đến Huế mà không tham quan các lăng tẩm thì chưa phải đã

đến Huế. Và sẽ là sai lầm nếu cho rằng nơi án táng thi thể người chết thì có gì mà

xem bởi vì lăng tẩm ở đây không mang cái vẻ buồn rầu, u tịch, tang tóc đau

thương mà ngược lại đó là sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người. Mỗi khu

lăng tẩm đều có địa thế cách xa khu dân cư, lại được bao bọc bởi một dải thiên

nhiên hùng vĩ tạo nên sự trang nghiêm và độc đáo.

Trải qua bao biến cố của lịch sử và sự bào mòn của thời gian, những di tích

lịch sử đang bị xuống cấp trầm trọng. Chỉ tính đến các khu vực lăng tẩm, ở

những khu lăng mộ gần thành phố và thu hút nhiều khách tham quan, các công

trình kiến trúc trong lăng được trùng tu và bảo vệ, còn những lăng mộ có vị trí

cách xa trung tâm như lăng Gia Long thì việc bảo vệ trùng tu đã không được chú

ý đúng mức. Việc bảo vệ ở những nơi này chỉ là chiếu lệ. Lăng mộ dần mất đi vẻ

trang nghiêm và yên tĩnh. Giá trị của các di tích lịch sử văn hóa không phải được

đánh giá trên tiêu chí có nhiều khách tham quan hay không mà ở chỗ nó có giá trị

như thế nào đối với nền văn hóa cổ truyền dân tộc. Do vậy, những khu lăng mộ

hiện còn ở Huế nói chung và những văn bia nói riêng cần được bảo vệ một cách

đúng mực. Trong tương lai, rất mong các cơ quan có thẩm quyền lưu ý đến việc

trùng tu tất cả các khu lăng mộ và những công trình kiến trúc trong lăng để thế hệ

sau được chiêm ngưỡng các giá trị văn hóa hiện tồn và cũng là để góp phần bảo

164

vệ sự tốt đẹp của nền văn hóa Việt.

Hệ thống lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn ngày nay đang thu hút sự tìm hiểu,

khám phá của du khách trong và ngoài nước. Và trong rất nhiều hiện vật còn ở lại với

thời gian thì những tấm bia đá là bằng chứng cụ thể nhất bằng ngôn ngữ cho biết về

những nhân vật lịch sử một thời có nhiều ảnh hưởng đến xã hội phong kiến. Văn bia ở

các lăng vua Nguyễn không chỉ mang giá trị lịch sử- là bản đối chứng về lịch sử dân

tộc một thời đã qua mà còn chứa đựng những giá trị văn học, nghệ thuật rất được

quan tâm và trân trọng.

Với phạm vi nghiên cứu của đề tài “Khảo sát văn bia lăng các vua

Nguyễn”, chúng tôi mới giải quyết được một phần nhỏ về văn bia và giá trị của

nó mà thôi. So với những giá trị mà hệ thống văn bia các lăng vua Nguyễn để lại

thì kết quả nghiên cứu mà đề tài này mang lại còn quá ít. Những giá trị của văn

bia như giá trị thẩm mỹ, giá trị về thể loại, chữ viết chưa được đi sâu nghiên cứu.

Nhưng do thời gian và trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên chưa đạt được kết

quả cao. Hy vọng, những hạn chế này sẽ được các công trình nghiên cứu khác bổ

sung.

Nghiên cứu văn bia lăng các vua Nguyễn, chúng tôi mong muốn được góp

phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu, khám phá và khôi phục những giá trị văn hóa lịch sử

của dân tộc. Hy vọng đây là những viên gạch nhỏ cho nhiều công trình nghiên cứu

có quy mô lớn và đầy đủ hơn. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do tầm hiểu biết

còn hạn chế, phương pháp nghiên cứu còn sơ sài, chắc chắn không tránh khỏi sai

sót, mong các bậc túc Nho chỉ bảo thêm.

165

D - PHỤ LỤC ẢNH

Hình 1: Cổng chính đi vào điện Minh Thành (lăng Gia Long)

Hình 2: Một góc của sân chầu (lăng Gia Long)

166

Hình 3: Voi và ngựa đá ở sân chầu (lăng Gia Long).

Hình 4: Từ Bi đình đến Hiển Đức môn (lăng Minh Mạng)

167

Hình 5: Cảnh trước hồ Tân Nguyệt (lăng Minh Mạng)

Hình 6: Cầu Thông Minh Chính Trực nối Minh Lâu

168

và Mộ Vua (lăng Minh Mạng)

169

Hình 7 : Bi đình lăng Thiệu Trị

170

Hình 8: Kỳ lân ở một bên của sân chầu (lăng Thiệu Trị)

171

Hình 9: Đường dẫn vào Hồng Trạch Môn

và Điện Biểu Đức (lăng Thiệu Trị)

Hình 10: Trụ biểu ở lăng Tự Đức

172

Hình 11: Cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp bên cạnh hồ Lưu Khiêm

(lăng Tự Đức)

173

Hình 12: Điện Hòa Khiêm (lăng Tự Đức)

174

Hình 13: Hồ Lưu Khiêm với Xung Khiêm Tạ và

Dũ Khiêm Tạ (lăng Tự Đức)

175

Hình 14: Toàn cảnh bi đình và sân chầu lăng Đồng Khánh

176

Hình 15: Một góc sân chầu nhìn từ phía sau (lăng Đồng Khánh)

177

Hình 16: Bàn thờ vua đặt trong điện Khải Thành (lăng Khải Định)

178

Hình 17: Lăng Khải Định nhìn từ phía trước

179

Hình 18: Hoa văn và nghệ thuật trang trí trên tường (lăng Khải Định)

E - TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. SÁCH

1. Phan Thuận An, (2008), Lăng tẩm Huế- một kì quan, NXB Thuận Hóa, Huế.

2. Phan Thuận An, (1997), Thần kinh nhị thập cảnh- thơ vua Thiệu Trị, NXB

Thuận Hóa, Huế.

3. Phan Thuận An, (2008), Huế xưa và nay- di tích và thắng cảnh, NXB Văn

hóa thông tin.

4. Phạm Văn Khoái, (1998), Giáo trình Hán Nôm dành cho du lịch, NXB

ĐHQG Hà Nội.

5. Thái Văn Kiểm, (1994), Cố đô Huế, NXB Đà Nẵng.

6. Dương Quảng Hàm, (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo Dục trung

tâm học liệu.

7. Thái Công Nguyên, (1999), Quần thể di tích Huế di sản Việt Nam, Trung

tâm bảo tồn di tích cố đô Huế.

8. Nội các triều Nguyễn, (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 13,

NXB Thuận Hóa.

9. Quốc sử quán triều Nguyễn, (1960), Đại Nam nhất thống chí, tập Kinh sư,

Nha văn hóa Bộ Giáo Dục, Sài Gòn.

10. Quốc sử quán triều Nguyễn, (2007), Đại Nam thực lục, toàn tập, NXB Giáo

Dục.

11. Trần Đức Anh Sơn, (2004), Huế- triều Nguyễn một cái nhìn, NXB Thuận

Hóa.

12. Mai Khắc Ứng, (1993), Lăng của hoàng đế Minh Mạng, NXB Thuận Hóa,

Huế.

13. Mai Khắc Ứng, (2002), Kinh đô Huế, NXB Thuận Hóa, Huế.

14. Lê Trí Viễn, (1985), Ngữ văn Hán Nôm, NXB Giáo Dục.

180

II. BÁO - TẠP CHÍ

15. Phan Thuận An, “Huế đẹp”, BAVH Tập X, Tr 405-415, NXB Thuận Hóa,

Huế.

16. L.Cadiere, “Lăng Gia Long”, BAVH Tập X (1923), Tr 319-369, NXB

Thuận Hóa, Huế

17. L.Cadiere, “Lễ tang vua Gia Long”, BAVH Tập X (1923), Tr 370-397, NXB

Thuận Hóa, Huế.

18. L.Cadiere, “Bia ở lăng Gia Long”, BAVH Tập X (1923), Tr 398-404, NXB

Thuận Hóa, Huế.

19. H.Cosrat, “Lễ đăng quang của vua Đồng Khánh”, BAVH Tập VII, Tr 457-

463, NXB Thuận Hóa, Huế.

20. M.Delamarre, “Bia lăng Minh Mạng”, BAVH Tập VII, Tr 290-456, NXB

Thuận Hóa, Huế.

21. Nguyễn Xuân Hoa, “Văn hóa Huế- một năng lực mới đang chuyển động”,

tạp chí sông Hương số 119 (1-1999), Tr 68-70, NXB Thuận Hóa, Huế.

22. Lê Nguyễn Lưu, “Lăng mộ- một loại hình di tích xứ Huế”, tạp chí sông

Hương số 119 (1-1999), Tr 61-62, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa

Thiên Huế.

23. Trịnh Khắc Mạnh, (1993), “Thể loại văn bia Việt Nam”, Tạp chí Hán Nôm

số 4, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc Gia.

24. Trần Đức Anh Sơn, “Về những di tích lịch sử ở Huế và vùng phụ cận”, tạp

chí sông Hương số 122 (T4-1999), Tr 49-58,Hội liên hiệp văn học nghệ

thuật Thừa Thiên Huế.

25. Phan Hứa Thụy, “Bản dịch Khiêm cung kí”, tạp chí sông Hương số 46 (4-

1991), Tr 58-61.

26. Tư liệu: Hồ sơ về các lăng vua Nguyễn, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô

Huế.

181

27. Liễu Thượng Văn, “Huế- di sản văn hóa nhân loại”, Tạp chí sông Hương số

119 (1-1999), Tr 65-67, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế.

III. TỪ ĐIỂN – TỰ ĐIỂN

28. Vĩnh Cao - Nguyễn Phố (2001), “Từ lâm Hán Việt từ điển”, NXB Thuận

Hóa, Huế.

29. Thiều Chửu, (2003), “Hán Việt tự điển”, NXB Thanh Niên.

30. Bửu Kế, (1999), “Từ điển Hán Việt Từ Nguyên”, NXB Thuận Hóa, Huế.

182

Chuùng toâi xin chaân thaønh caûm ôn quyù coâ

thaày khoa Ngöõ vaên, caùc anh chò laøm vieäc ôû

Trung taâm Baûo toàn di tích coá ñoâ Hueá cuøng gia

ñình vaø baïn beø ñaõ giuùp ñôõ, ñoäng vieân trong

quaù trình thöïc hieän ñeà taøi. Ñaëëc bieät, chuùng

toâi xin göûi loøng tri aân ñeán thaày giaùo höôùng

daãn laø ThS. Phan Ñaêng ñaõ chæ baûo taän tình

trong suoát thôøi gian hoaøn thaønh khoùa luaän.

Hueá, thaùng 5 naêm 2010

Ngöôøi vieát

Ñinh Thò Toan

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

35,36,37,167-175

1-34,38-166,176-181

MỤC LỤC

trang

A - MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1

1. Mục đích và ý nghĩa đề tài ............................................................................... 4

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 5

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 6

4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6

5. Kết cấu đề tài ................................................................................................... 7

B - NỘI DUNG ................................................................................................... 9

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC LĂNG VUA NGUYỄN ............ 9

1.1. Lăng vua Gia Long ....................................................................................... 9

1.2. Lăng vua Minh Mạng ................................................................................. 11

1.3. Lăng vua Thiệu Trị ..................................................................................... 15

1.4. Lăng vua Tự Đức ........................................................................................ 18

1.5. Lăng vua Đồng Khánh ................................................................................ 22

1.6. Lăng vua Khải Định.................................................................................... 26

CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT VĂN BIA LĂNG CÁC VUA NGUYỄN ................. 29

2.1. Văn bia triều Nguyễn và văn bia lăng các vua Nguyễn ............................... 29

2.1.1. Văn bia triều Nguyễn ............................................................................... 29

2.1.2. Văn bia lăng các vua Nguyễn ................................................................... 33

2.2. Văn bia lăng Gia Long ............................................................................... 39

2.2.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 39

2.2.2. Phiên âm .................................................................................................. 42

2.2.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 43

2.3. Văn bia lăng Minh Mạng ............................................................................ 51

2.3.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 51

2.3.2. Phiên âm .................................................................................................. 59

2.3.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 65

2.4. Văn bia lăng Thiệu Trị ................................................................................ 73

2.4.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 73

2.4.2. Phiên âm ................................................................................................. 81

2.4.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 87

2.5. Văn bia lăng Tự Đức ................................................................................. 97

2.5.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 97

2.5.2. Phiên âm ................................................................................................ 109

2.5.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 118

2.6. Văn bia lăng Đồng Khánh ......................................................................... 134

2.6.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................. 134

2.6.2. Phiên âm ................................................................................................ 137

2.6.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 139

2.7. Văn bia lăng Khải Định ............................................................................ 143

2.7.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................. 143

2.7.2. Phiên âm ................................................................................................ 147

2.7.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 149

CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ CỦA VĂN BIA CÁC LĂNG VUA NGUYỄN ........... 152

3.1. Giá trị lịch sử ............................................................................................ 153

3.2. Giá trị văn học .......................................................................................... 157

3.3. Giá trị mỹ thuật ......................................................................................... 159

3.4. Giá trị về ngôn ngữ và chữ viết ................................................................. 161

C - KẾT LUẬN ............................................................................................... 163

D - PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................ 166

E - TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 180