VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ TIẾN ĐỨC

CÁC DI TÍCH THỜI ĐẠI ĐÁ MỚI

Ở HAI TỈNH ĐẮK LẮK VÀ ĐẮK NÔNG

Ngành: Khảo cổ học

Mã số: 9.22.90.17

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHẢO CỔ HỌC

HÀ NỘI - 2021

Công trình được hoàn thành tại:

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Gia Đối

2. PGS.TS. Nguyễn Khắc Sử

Phản biện 1: GS.TS. Trịnh Sinh

Phản biện 2: TS. Ngô Thế Phong

Phản biện 3: PGS.TS. Đặng Hồng Sơn

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp

Học viện họp tại: Học viện Khoa học xã hội, 447 Nguyễn Trãi,

Thanh Xuân, Hà Nội

Vào hồi….giờ…….phút, ngày……tháng……năm 2020

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:

- Thư viện Học viện Khoa học xã hội

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. “Các di tích trung kỳ đá mới ở Đắk Lắk và Đắk Nông: tư liệu và

nhận thức”, tạp chí Khảo cổ học, số 6/2016 (204), tr. 14-24.

2.“Tiền – Sơ sử huyện Ea Súp và huyện Buôn Đôn (tỉnh Đắk Lắk):

Tư liệu và nhận thức”, tạp chí Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, số

4(28)2017, tr. 35 – 44.

3.“Khai quật và bảo tồn di chỉ khảo cổ tiền sử trong hang động núi

lửa C6-1 ở Krông Nô, tỉnh Đắk Lắk”, kỷ yếu hội thảo quốc tế

International integration of conservation, opportunities and

challenges for cultural heritage values, Thành phố Hồ Chí Minh,

tr. 297 – 309, ISBN: 978-604-73-6535-7.

4. “Tư liệu và nhận thức bước đầu về cuộc thám sát di tích hang động

núi lửa C6-1 ở Krông Nô, tỉnh Đắk Nông”, tạp chí Khoa học Đại học

Đà Lạt, tập 8, số 4, 2018, tr. 57 – 76.

5.“Kết quả thăm dò di tích Suối Ba tỉnh Đắk Nông năm 2017”, tạp

chí Khảo cổ học, số 6/2019 (222), tr. 37 – 46, ISSN 0866 – 742.

6.“Kết quả bước đầu khai quật di chỉ khảo cổ hang động núi lửa

Krông Nô, Đắk Nông”, Tuyển tập Báo cáo Hội thảo và Hội nghị Sơ

kết giữa kỳ Chương trình Tây Nguyên 2016 – 2020, Nxb Khoa học tự

nhiên và Công nghệ, ISBN: 978-604-913-801-0

7. “Một số phát hiện mới về di sản Tây Nguyên, Việt Nam”, Kỷ yếu

Hội nghị Nghiên cứu khoa học cơ bản trong “Khoa học Trái Đất và

môi trường”:Những kết quả nghiên cứu mới, Thành phố Hồ Chí

Minh, tr. 247 – 251, ISBN: 978 – 604 – 913 – 958 – 1

8.“Phát hiện di tích thời Đá mới ở Hố Tre, Đắk Lắk”, tạp chí Khoa

học và Công nghệ Việt Nam, tập 62, số 4, tr. 37-42.

9. “Khai quật hang động núi lửa C6-1 Krông Nô (Đắk Nông) – tư

liệu và nhận thức mới về Tiền sử Tây Nguyên”, tạp chí Khảo cổ học,

số 4/2020 (226), tr. 16-30.

10. “Công viên Đại chất Toàn cầu UNESCO Đắk Nông – những giá

trị di sản nổi bật và chặng đường dẫn tới danh hiệu cao quý”, tạp chí

Địa chất, loạt A, số 371-372/2020, tr.1-11.

11. “Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam”, VNU

Journal of Sciences: Earth an Environmental Sciences, Vol 36, No: 1

(2020) 79-92.

Tiếng Anh

12. “New discovery of prehistoric archaeological remnants in

volcanic caves in KrongNo, Dak Nong Province”, Vietnam Journal

of Earth Sciences, no: 39 (2) 2017, 97 – 108

.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông là hai tỉnh phía Nam Tây

Nguyên. Nghiên cứu về các giai đoạn phát triển thời tiền sử tỉnh Đắk

Lắk và tỉnh Đắk Nông cũng chính là nghiên cứu giai đoạn mở đầu

trong diễn trình phát triển văn hóa, xã hội khu vực phía Nam vùng

Tây Nguyên. Những nghiên cứu khảo cổ học tiền sử tỉnh Đắk Lắk,

tỉnh Đắk Nông sẽ góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa, qua

đó cung cấp luận cứ, luận chứng cho chính sách xây dựng khối đại

đoàn kết toàn dân trên cơ sở các bản sắc văn hóa vốn hình thành và

phát triển qua nhiều cộng đồng cùng sinh sống trên cùng mảnh đất;

là tư liệu khoa học có tính pháp lý cho công tác xác định và bảo vệ

chủ quyền dân tộc tại vùng đất biên cương chiến lược của tổ quốc;

cung cấp thông tin chính xác về di tích khảo cổ cho các nhà quản lý

trước khi hoạch định chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển

kinh tế - xã hội của hai tỉnh.

1.2. Cho đến nay, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông

đã phát hiện hơn 100 địa điểm khảo cổ thời đại Đá mới. Mặc dù,

nguồn tư liệu phong phú nhưng hầu hết các công bố về khảo cổ học

thời đại Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông chủ yếu dừng ở

mức độ công bố phát hiện hoặc báo cáo khai quật riêng rẽ của một

số ít di tích được thám sát hoặc khai quật hạn chế. Diễn trình phát

triển cùng đặc trưng văn hóa từng giai đoạn, mối liên hệ giữa các

nhóm cư dân thời đại Đá mới Đắk Lắk, Đắk Nông với nhau và với

vùng lân cận,... vẫn còn là những vấn đề khoa học cần tiếp tục

nghiên cứu sâu hơn.

1.3. Các tỉnh Tây Nguyên, trong đó có tỉnh Đắk Lắk và tỉnh

Đắk Nông, đã, đang và vẫn tiếp tục là trung tâm canh tác cây công

1

nghiệp trọng điểm của cả nước. Hoạt động canh tác cây công nghiệp

diện rộng cùng các dự án xây dựng hồ thủy điện và hồ thủy lợi đe

dọa nghiêm trọng, thậm chí đã phá hủy hoàn toàn nhiều di tích khảo

cổ trong lòng đất. Đây chính là áp lực từ thực tiễn cuộc sống đặt ra,

thúc đẩy những hoạt động nghiên cứu khảo cổ học trên địa bàn các

tỉnh Tây Nguyên cần tiến hành một cách cấp bách và liên tục.

1.4. Trên cơ sở kế thừa, hệ thống các tư liệu đã phát hiện và

công bố, đặc biệt là những phát hiện mới trong vài năm gần đây trên

địa bàn tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông; kết hợp so sánh với các tư liệu

khảo cổ học mới phát hiện trong khu vực và các vùng lân cận, chúng

tôi hy vọng luận án “Các di tích thời đại Đá mới ở hai tỉnh Đắk Lắk

và Đắk Nông” vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có những đóng góp nhất

định về mặt nhận thức khoa học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích: phác dựng bức tranh lịch sử văn hóa thời đại

Đá mới tại tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông trong dòng chảy chung

của lịch sử dân tộc.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Hệ thống hóa tư liệu và kết quả nghiên cứu về thời đại Đá

mới tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Đắk Nông.

- Tìm hiểu đặc trưng cơ bản, tính chất, niên đại, chủ nhân, các

giai đoạn phát triển thời đại Đá mới ở hai tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk

Nông, góp phần làm rõ đặc tính địa phương và con đường phát triển

của thời đại Đá mới ở vùng này.

- Phân tích so sánh các di tích và di vật tiêu biểu thời đại Đá

mới ở tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông với các di tích xung quanh

nhằm phác thảo đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tổ chức xã hội

của cư dân thời đại Đá mới vùng này, cũng như đánh giá giá trị lịch

2

sử - văn hóa của thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông

trong bối cảnh rộng hơn.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu: các di tích và di vật thời đại Đá

mới đã phát hiện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông

3.2. Phạm vi nghiên cứu

* Về không gian: địa giới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông

* Về thời gian: tập trung vào thời đại Đá mới, khung niên đại

khoảng từ 10.000 năm đến 3.000 năm cách ngày nay.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án

4. 1. Phương pháp luận: vận dụng cơ sở lý luận, phương pháp

duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích các thông tin tư

liệu thu thập được; sử liệu hóa các tư liệu khảo cổ; phác thảo diễn

trình phát triển và phục dựng bối cảnh văn hóa – xã hội thời đại Đá

mới tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Đắk Nông trong trong dòng chảy chung của

lịch sử vùng Tây Nguyên nói riêng và đất nước nói chung.

4.2. Cách tiếp cận:

* Cách tiếp cận chuyên ngành: Tài liệu khảo cổ học, cùng các

phương pháp đặc thù của ngành khảo cổ học đóng vai trò chủ đạo

trong quá trình thực hiện luận án.

* Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng phương pháp tiếp cận liên

ngành, đa ngành: Địa - khảo cổ, địa - văn hóa, khảo cổ - nhân học so

sánh, … Kết quả các phương pháp thuộc khối ngành khoa học tự

nhiên như phương pháp phân tích độ từ cảm, phân tích thành phần

thạch học, … là nguồn dữ liệu đầu vào tin cậy của luận án.

* Cách tiếp cận đồng đại - lịch đại: Cách tiếp cận đồng đại

được sử dụng nhằm tìm hiểu mối liên hệ giữa các cộng đồng cư dân

thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông với các cư dân

3

đương đại vùng Tây Nguyên, các vùng khác trong nước. Cách tiếp

cận lịch đại xác định vị trí của thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk, tỉnh

Đắk Nông trong diễn trình phát triển thời tiền – sơ sử của tỉnh Đắk

Lắk, tỉnh Đắk Nông và rộng hơn toàn vùng Tây Nguyên

Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp

nghiên cứu truyền thống trong khảo cổ học: điều tra, khai quật, phân

loại di tích-di vật, kỹ thuật chế tác công cụ… để xác định đặc điểm,

tính chất, niên đại và quá trình phát triển của các di tích, di vật.

- Phương pháp so sánh đồng đại, lịch đại

- Ngoài ra, luận án còn sử dụng kết hợp các phương pháp, kết

quả nghiên cứu của các ngành khoa học khác, như: phân tích niên đại bằng C14, AMS, phân tích bào tử phấn hoa, …

4.4. Lý thuyết áp dụng

4.4.1. Các lý thuyết về sự thích nghi của con người với tự

nhiên: Thuyết sinh thái văn hóa; Lý thuyết hình thái kinh tế khai thác

và cư trú của Binford

4.42. Nhóm lý thuyết về các tổ chức xã hội thời nguyên thủy:

Phân kỳ thời đại lịch sử của Ph. Ăngghen; Các mô hình tiến triển

chính trị – xã hội trong lịch sử của E.R.Service

5. Đóng góp mới của luận án

- Cập nhật và tổng hợp các tài liệu khảo cổ học thời đại Đá mới

ở hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông.

- Xác định đặc điểm cơ bản di tích, di vật, niên đại các giai

đoạn phát triển của thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông; đặc

biệt làm rõ sự tồn tại của cơ tầng Trung kỳ Đá mới tại lưu vực sông

Srêpốk – nền tảng tại chỗ tạo nên giai đoạn Hậu kỳ Đá mới phát triển

rực rỡ tại khu vực phía Nam Tây Nguyên.

- Luận án bước đầu phục dựng bối cảnh, đời sống kinh tế - văn

4

hóa - xã hội các cộng đồng cư dân thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và

Đắk Nông trên cơ sở mối quan hệ giữa con người – thiên nhiên – con

người; xác định vị trí của thời đại Đá mới trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

và Đắk Nông trong bối cảnh khu vực và trong dòng chảy chung của

lịch sử dân tộc tại thời điểm có ý nghĩa bản lề trong hình thành các

giá trị truyền thống của vùng Tây Nguyên.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Luận án đưa ra những giả thuyết trên cơ sở các tài liệu khảo cổ

học mới nhất, có ý nghĩa tham khảo cho những nghiên cứu tiếp theo

về những khoảng trống nhận thức thời tiền sử tỉnh Đắk Lắk và Đắk

Nông nói riêng, vùng Tây Nguyên nói chung.

Luận án cung cấp những thông tin mới cập nhật có hệ thống và

cơ sở khoa học cho các nhà quản lý văn hóa, và các cán bộ bảo tàng

trong công tác bảo vệ, nghiên cứu và phát huy giá trị di sản khảo cổ

học tiền sử trên tại tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông.

Luận án chứng minh tính liên tục, đặc trưng thời đại Đá mới tại

tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông, là một bộ phận không thể tách rời của

thời đại Đá mới vùng Tây Nguyên và có mối quan hệ mật thiết, tiếp

thu giá trị văn hóa của các cư dân đồng đại các vùng lân cận. Đây là

luận điểm phục vụ trực tiếp công tác tuyên giáo, xây dựng khối đại

đoàn kết, khẳng định chủ quyền dân tộc tại nơi đây.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận; nội dung luận án gồm 3

chương:

Chương 1. Tổng quan tư liệu;

Chương 2. Đặc điểm thời đại Đá mới hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông;

Chương 3. Cư dân, đời sống vật chất, tinh thần và các mối quan

hệ văn hóa

5

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TƢ LIỆU

1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên, văn hóa – xã hội khu vực

nghiên cứu

1.1.1. Điều kiện tự nhiên

Tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông là hai tỉnh ở phía Nam Tây

Nguyên, đầu nguồn của hệ thống sông Srêpốk, sông Đồng Nai và

một phần hệ thống sông Ba, nằm trong khung tọa độ địa lý kinh độ Đông 107012’06’’ - 108059'37", vĩ độ Bắc 11045'45" - 13025'06", tổng diện tích tự nhiên là 19.640,97km2.

Tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông nằm sườn phía Tây Nam dãy

Trường Sơn, địa hình bao gồm các ngọn núi cao hùng vĩ, hiểm trở

nối với các cao nguyên bằng phẳng rộng lớn, xen kẽ các dải đồng

bằng thấp trũng dọc theo lưu vực các dòng sông lớn. Nhìn chung, địa

hình tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông gồm 3 dạng địa hình: địa hình

vùng núi, địa hình vùng cao nguyên và địa hình vùng thấp. Nằm

trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, đất đai màu mỡ, hệ thống

sông hồ dày đặc; thảm động thực vật trên địa bàn nghiên cứu khá

phong phú về thành phần loài, mang đậm màu sắc bản địa.

Do ảnh hưởng của địa hình, độ cao và hệ thống thủy văn nên

toàn tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông phân thành nhiều tiểu vùng địa

lý với những đặc trưng tự nhiên có sự khác biệt tương đối. Về cơ bản,

các tiểu vùng cùng thuộc chung một khu vực địa lý Tây Nguyên với

đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, sự phân hóa môi

trường tự nhiên quá nhiều.

Điều kiện tự nhiên luôn tác động đến phương thức kiếm sống,

cách thức tổ chức xã hội của các cộng đồng cư dân. Sự khác biệt giữa

các tiểu vùng trong cùng một khu vực địa lý dẫn đến sự đa dạng

6

trong thống nhất về cách thức lựa chọn địa bàn sống, mật độ dân cư

và phương thức thích nghi của các cộng đồng cư dân tiền sử tỉnh Đắk

Lắk và tỉnh Đắk Nông.

Thiên nhiên ưu đãi là điều kiện cơ bản đảm bảo sự tồn tại và

phát triển của các cộng đồng cư dân tiền sử tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk

Nông. Bên cạnh đó, vị trí địa lý thuận lợi cũng là một trong những

yếu tố tác động tích cực đến sự giao lưu giữa các cộng đồng cư dân

giai đoạn thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông không chỉ trong

phạm vi nội vùng mà còn kết nối với các tỉnh Tây Nguyên khác, với

vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, miền Đông Nam Bộ.

1.1.2. Khái quát đặc điểm văn hóa - xã hội khu vực nghiên cứu

Đắk Lắk và Đắk Nông là những tỉnh có nhiều tộc người sinh

sống, với gần 50 tộc người, trong đó người Kinh chiếm đa số trên

tổng số dân toàn tỉnh. Riêng 4 tộc người: Êđê, J’rai, M’nông và Mạ là

các tộc người tại chỗ

1.2. Quá trình phát hiện, nghiên cứu và những vấn đề đặt ra

1.2.1. Quá trình phát hiện

* Giai đoạn trước năm 1975: Nghiên cứu về khảo cổ học Đắk

Lắk và Đắk Nông, còn tương đối hạn chế, bao gồm: phát hiện đàn đá

Ndut Lieng Krak cùng một công cụ ghè đẽo của G.Codomi và một

cuộc khảo sát sơ bộ năm 1974 của các nhà khảo cổ Việt Nam tại di

tích Drai xi (huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk)

* Giai đoạn từ năm 1975 đến nay: một loạt các chương trình

nghiên cứu Tây Nguyên, trong đó có tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông

được thực hiện, hệ thống. Tính đến đầu năm 2019, tổng cộng trên địa

bàn nghiên cứu, đã phát hiện 100 địa điểm khảo cổ học thời đại Đá

mới (tỉnh Đắk Lắk có 35 địa điểm, tỉnh Đắk Nông có 65 địa điểm),

trong đó: Các địa điểm giai đoạn Trung kỳ Đá mới gồm: 14 địa điểm

7

và 86 địa điểm giai đoạn Hậu kỳ Đá mới.

Mặc dù nhiều địa điểm khảo cổ thời đại Đá mới được phát hiện

nhưng hầu hết chỉ là những phát hiện trên bề mặt, chỉ có 16 địa điểm

được đào thám sát, khai quật, có tài liệu di vật gắn với địa tầng.

1.2.2. Kết quả nghiên cứu

* Phác thảo bức tranh lịch sử - văn hóa giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông: Trên cơ sở các phát hiện, kết

hợp kết quả các cuộc khai quật, đào thám sát tại một số di tích, bằng

phương pháp so sánh loại hình học, các nhà khảo cổ học đã chứng

minh sự tồn tại của văn hóa Buôn Triết thuộc khung niên đại Hậu kỳ

Đá mới tại tỉnh Đắk Lắk. Một số nhà nghiên cứu đề ra giả thuyết về

sự tồn tại đồng thời của 03 đới văn hóa thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới trên địa bản tỉnh Đắk Lắk. Một số nhà khoa học đề xuất khả

năng thành lập các văn hóa khảo cổ mới bên cạnh văn hóa Buôn Triết

: Văn hóa Buôn Ma Thuột tại cao nguyên Buôn Ma Thuột ; văn hóa

khảo cổ Taipêr phân bố ở phía Bắc Đắk Lắk và phía Nam Gia Lai với

đại diện là Cư K’tur (Đắk Lắk), Tai Pêr (Gia Lai) .

Đời sống kinh tế của cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk

Lắk và tỉnh Đắk Nông bước đầu được phục dựng. Đó là sự tồn tại

của một nền nông nghiệp dùng cuốc với nhiều loại hình cuốc khác

nhau phân bố trên các kiểu địa hình khác nhau.

Trình độ phát triển kỹ thuật chế tác đồ đá cùng sự phân công

lao động xã hội và quan hệ giao lưu giữa các cộng đồng là tiền đề

nảy sinh và hình thành các các công xưởng chế tác đồ đá trên toàn

Tây Nguyên giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Tại tỉnh Đắk Lắk, trong thời

gian này xuất hiện hệ thống công xưởng Cư K’tur với các đại diện

tiêu biểu là Cư K’tur, T’Sham A, Thanh Sơn, Bản Thái,...

*Một trong những thành tựu nghiên cứu khảo cổ học thời đại

8

Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông đáng chú ý nhất trong

những năm gần đây là việc phát hiện, khai quật và nghiên cứu các

di tích khảo cổ học giai đoạn Trung kỳ Đá mới. Đặc biệt, những phát

hiện di tồn khảo cổ học tiền sử trong hang động núi lửa Krông Nô

năm 2017 bổ sung thêm một không gian cư trú độc đáo của cư dân

tiền sử Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung: cư trú trong không

gian hang động núi lửa. Kết quả khai quật di tích hang C6-1 cung

cấp khung tham chiếu có giá trị khoa học phục vụ nghiên cứu thời

đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông nói riêng, vùng Tây Nguyên

nói chung.

1.2.3. Những vấn đề đặt ra

- Không gian phân bố, đặc trưng, nội hàm văn hóa các văn

hóa khảo cổ hay các nhóm di tích thời đại Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk

và tỉnh Đắk Nông chưa được làm sáng rõ. Một số giả thuyết về các

nhóm di tích/đới văn hóa/văn hóa khảo cổ được nêu ra nhưng chưa

đủ cơ sở khoa học để đạt được sự đồng thuận giữa các nhà nghiên

cứu.

- Thiếu hụt những nguồn tài liệu nhân chủng, tài liệu phân

tích niên đại tuyệt đối, tài liệu và khí hậu và môi trường... dẫn đến

hạn chế trong phục dựng bối cảnh, chủ nhân, đời sống kinh tế -

văn hóa – xã hội của các cộng đồng cư dân thời đại Đá mới tại các

tỉnh Nam Tây Nguyên.

- Hạn chế trong phân tách và xác định mối liên hệ cũng như

nguồn gốc của các giai đoạn phát triển trong thời đại Đá mới. Các

mức phát triển sớm – muộn trong các giai đoạn Trung kỳ Đá mới,

Hậu kỳ Đá mới cùng mối liên hệ giữa hai giai đoạn phát triển liền kề

này còn bỏ ngỏ. Riêng giai đoạn Sơ kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh

Đắk Nông vẫn chưa có phát hiện rõ ràng.

9

- Mối liên hệ giữa các cộng đồng cư dân thời đại Đá mới tỉnh

Đắk Lắk và Đắk Nông với các cư dân đồng đại vùng Tây Nguyên và

vùng khác trong cả nước đã được một số công trình nghiên cứu đề

cập. Tuy nhiên, vì hạn chế trong nghiên cứu đặc điểm thời đại Đá

mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông nên nhận thức vị trí của thời đại Đá

mới các địa phương này trong quá trình Đá mới hóa vùng Tây

Nguyên và lịch sử phát triển chung cả dân tộc cũng hạn chế

1.3. Tiểu kết chƣơng 1

Điều kiện tự nhiên các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông không chỉ

thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển của con người mà còn là yếu tố

tạo nên sự đặc trưng trong đời sống của các cộng đồng cư dân vùng

phía Nam Tây Nguyên thời đại Đá mới. Thông qua mối quan hệ

tương quan tất yếu giữa tự nhiên – con người; điều kiện tự nhiên là

yếu tố quan trọng tạo nên tính đặc trưng văn hóa địa phương. Chương

một trình bày những nét cơ bản về địa – văn hóa tỉnh Đắk Lắk và

Đắk Nông, làm tiền đề cho những phân tích tiếp theo về cách thức tác

động và dấu ấn của môi trường tự nhiên đến đời sống cư dân tiền sử

hai tỉnh phía Nam Tây Nguyên

Cho đến nay, tổng cộng 100 di tích thời đại Đá mới tỉnh Đắk

Lắk và Đắk Nông đã được phát hiện và công bố, trong đó, 16 di tích

được đào thám sát hoặc khai quật (06 di tích giai đoạn Trung kỳ Đá

mới và 10 di tích giai đoạn Hậu kỳ Đá mới). Đây là nguồn dữ liệu

phong phú, góp phần làm sáng rõ những vấn đề khoa học còn đặt ra

trong nhận thức thời đại Đá mới khu vực phía Nam Tây Nguyên như:

các giai đoạn phát triển; đặc điểm và nội hàm các giai đoạn phát

triển, các nhóm di tích; bối cảnh, đời sống của các cộng đồng cư

dân.... Đây cũng chính là nhiệm vụ cụ thể của luận án và sẽ được

triển khai trong các chương tiếp theo.

10

CHƢƠNG 2

ĐẶC ĐIỂM THỜI ĐẠI ĐÁ MỚI

TỈNH ĐẮK LẮK VÀ ĐẮK NÔNG

Giai đoạn Sơ kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu vẫn chưa có

phát hiện rõ ràng. Vì vậy, trong phạm vi tài liệu hạn chế, luận án chỉ

trình bày các đặc điểm về giai đoạn Trung kỳ Đá mới và giai đoạn

Hậu kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu. Những nhận thức về giai

đoạn Sơ kỳ Đá mới tại tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông sẽ được bổ sung.

2.1. Giai đoạn Trung k Đá mới

2.1.1. Đặc điểm di tích

2.1.1.1. Không gian phân bố

Tuy phân bố rải rác tại nhiều tiểu vùng địa lý nhưng đều tập

trung tại lưu vực sông Srêpốk. Các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới

thường phân bố theo cụm, trên các gò đất ven sông hoặc trong các

hang động cùng hệ thống.

2.1.1.2. Cấu tạo tầng văn hóa

Cấu tạo tầng văn hóa các di tích ngoài trời chủ yếu một lớp văn

hóa. Trên bề mặt một số di tích Trung kỳ Đá mới, sưu tập được các

hiện vật mài toàn thân nhưng vết tích cư trú giai đoạn Hậu kỳ Đá mới

không hiện hữu trong địa tầng các hố khai quật. Quá trình thành tạo

tầng văn hóa ở các di tích ngoài trời chủ yếu do sự phong hóa các vật

liệu địa chất, cùng phế thải của các hoạt động sống của con người.

Trong các di tích hang động núi lửa, địa tầng được bảo tồn nguyên

vẹn và phức tạp hơn so với địa tầng các di tích ngoài trời. Do diện

tích hẹp nên mức độ tập trung di tồn khảo cổ trong tầng văn hóa di

tích hang động lớn hơn rất nhiều so với các di tích ngoài trời.

2.1.1.3. Các loại hình di tích trong tầng văn hóa

11

Giai đoạn Trung kỳ Đá mới, tại các di tích ngoài trời, chỉ phát

hiện được cụm đá xếp tập trung, không thấy dấu vết bếp, mộ táng...

Tại các di tích trong hang động, các loại hình di tích trong tầng văn

hóa đa dạng hơn, gồm: bếp lửa, mộ táng, nhưng chưa tìm thấy các

cụm đá xếp tập trung.

2.1.1.4. Tính chất di tích

Các di tích giai đoạn giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại khu vực

nghiên cứu đa số đều có chức năng cư trú với 13/14 di tích, ngoại trừ

di tích C6’. Một số ít là nơi vừa cư trú vừa để mộ (di chỉ cư trú - mộ

táng), vừa cư trú vừa chế tác công cụ đá (di chỉ cư trú - xưởng).

2.1.1.5. Tàn tích động, thực vật

Tài liệu về tàn tích động, thực vật thời đại Đá mới tỉnh Đắk

Lắk và Đắk Nông chủ yếu tìm thấy tại các di tích giai đoạn Trung kỳ

Đá mới. Đặc biệt do điều kiện môi trường mà tàn tích động thực vật

được bảo quản gần như nguyên vẹn trong hang động núi lửa.

2.1.2. Đặc điểm di vật

Di vật bao gồm: đồ đá, đồ gốm, đồ xương. Tổng cộng 39.377

hiện vật được phát hiện trong tầng văn hóa các di tích Trung kỳ Đá

mới khu vực nghiên cứu. Đồ đá chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong tổng số di

vật khai quật được (90% – 100%). Đồ gốm mặc dù số lượng không

nhiều nhưng được tìm thấy tại 5/7 di tích, chỉ sau đồ đá về diện phân

bố. Đồ xương chỉ được bảo tồn trong tầng văn hóa hang C6-1

2.1.2.1. Đồ đá

* Chất liệu: đa dạng, trong đó, Basalte và Silic là hai loại chất

liệu đá được sử dụng nhiều nhất, phổ biến nhất trong chế tạo công cụ

đá giai đoạn này. Nguồn nguyên liệu đá được khai thác tại chỗ, sẵn

có do cấu tạo địa chất quy định

* Kỹ thuật chế tác: nổi bật là kỹ thuật ghè đẽo hai mặt, trong đó

12

một mặt ghè chủ yếu, tập trung nhiều vết ghè hơn mặt đối diện. Kỹ

thuật bổ cuội được sử dụng để tách các mảnh tách có một mặt phẳng.

Kỹ thuật ghè đẽo trên các công cụ giai đoạn Trung kỳ Đá mới ở khu

vực nghiên cứu phảng phất truyền thống Hoà Bình nhưng phát triển ở

trình độ cao hơn. Kỹ thuật mài đã xuất hiện trong giai này nhưng còn

ở mức độ sơ khai, mài hạn chế phần lưỡi, chưa mài lan thân. Kỹ thuật

đục được phản ánh qua các hiện vật đá tròn có lỗ.

* Loại hình di vật: chủ yếu là các công cụ lao động hoặc phế

vật, phế liệu của quá trình chế tác công cụ lao động, chưa tìm thấy đồ

trang sức. Căn cứ kỹ thuật chế tác, chúng tôi chia công cụ lao động

thành các nhóm: (1) Nhóm công cụ ghè đẽo; (2) Nhóm công cụ mài;

(3) Nhóm công cụ/dụng cụ sử dụng không qua chế tác; (4) Phác vật;

(5) Đá nguyên liệu và phế liệu (6) Các loại hình khác.

Đồ đá trong các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới khu vực

nghiên cứu có nguồn gốc tại chỗ, thống nhất với nhau tạo thành một

tập hợp hoàn chỉnh với những đặc điểm riêng. Nhóm rìu hình bầu

dục, rìu ngắn, rìu mài lưỡi với mức độ phổ biến trong các di tích, thể

hiện rõ nét phong cách mỹ thuật – kỹ thuật chế tác đá đương thời nên

có thể coi là những loại hình di vật đá phản ánh đặc trưng của đồ đá

trong các di tích ở khu vực nghiên cứu giai đoạn Trung kỳ Đá mới.

Hình dáng và kỹ thuật chế tác những loại hình di vật này có nhiều nét

giống truyền thống Hoà Bình nhưng ở trình độ phát triển cao hơn.

Bên cạnh nét truyền thống được bảo lưu, những yếu tố phát triển mới

đã bắt đầu nảy sinh ngay trong bộ sưu tập di vật đá các di tích giai

đoạn Trung kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu.

2.1.2.2. Đồ gốm

Phát hiện 1.138 mảnh gốm trong địa tầng các di tích giai đoạn

Trung kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu, không có đồ gốm nguyên vẹn.

13

* Chất liệu: Gốm thô, bở rời không chắc, mỏng, làm từ đất sét

chưa lọc kỹ, pha sạn sỏi nhỏ. Xương gốm màu nâu sẫm. Áo gốm chủ

yếu màu nâu đỏ hoặc xám đen, một số ít màu xám trắng, được vuốt

nhẵn nhưng vẫn lộ rõ các hạt cát mịn pha lẫn. Độ nung gốm thấp, độ

kết dính giữa các nguyên liệu trong xương gốm, giữa áo gốm và

xương gốm thấp, rất nhiều mảnh gốm bị bong tróc lớp áo gốm.

* Loại hình: Đại đa số các mảnh gốm đều là mảnh thân. Quan

sát một số mảnh thân có thể nhận thấy chúng thuộc về nhóm đồ

đựng, đun nấu có đường kính thân không lớn, khoảng 15- 20 cm.

* Kỹ thuật: Đồ gốm giai đoạn này được nặn bằng tay, không

chế tạo bằng bàn xoay, bề mặt vuốt nhẵn nhưng không tạo thành lớp

miết láng như đồ gốm giai đoạn sau. Đồ gốm được nung ngoài trời,

nhiệt độ nung thấp nên độ kết dính của gốm không cao.

* Hoa văn trang trí: Hoa văn trang trí hiếm thấy, chủ yếu là

hoa văn kỹ thuật, gồm: Văn thừng, văn chải và văn chấm lỗ.

2.1.2.3. Đồ xương

Đồ xương được tìm thấy tại hang C6-1 là các công cụ mũi

nhọn, gồm 35 chiếc, được mài nhẵn một đầu.

2.1.3. Niên đại và các giai đoạn phát triển Trung kỳ Đá mới

2.1.3.1. Niên đại Kết quả phân tích C14 từ 17 mẫu than thu thập từ tầng văn hóa các di tích hang C6-1, hang C6, Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm, cho

khung niên đại tồn tại của các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới tỉnh

Đắk Lắk và Đắk Nông là từ 7.000 – 4.000 năm BP.

2.1.3.2. Các giai đoạn phát triển

- Giai đoạn sớm: là thời điểm khởi đầu của giai đoạn Trung kỳ

Đá mới tại khu vực nghiên cứu. Các di tích thuộc giai đoạn này là

mức dưới hang C6-1 và mức dưới cùng của di tích Thôn Tám.

14

- Giai đoạn giữa: có tính chất gần với giai đoạn sớm nhưng có

một số tiến triển mới. Đại diện tiêu biểu giai đoạn này là mức trên tầng văn hóa di tích C6-1 có hai niên đại C14 là 5.070±20BP và 4.680±20BP (Sau hiệu chỉnh là 5.815BP và 5.391 BP) và lớp dưới

của Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm, lớp trên Thôn Tám

- Giai đoạn muộn: là giai đoạn bắt đầu nảy sinh các yếu tố Hậu

kỳ Đá mới, gồm hai lớp đào bên trên của di tích Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm. Niên đại C14 của các lớp trên di tích Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm cho kết quả khoảng 4.000 năm BP.

2.2. Giai đoạn Hậu k Đá mới

2.2.1. Đặc điểm di tích

2.2.1.1. Không gian phân bố

Các di tích Hậu kỳ Đá mới phân bố ở nhiều địa hình, trên tất cả

tiểu vùng địa lý khác nhau, bên cạnh các nguồn nước, gồm các hồ lớn

hoặc ven các dòng sông, suối không cạn nước mùa khô.

2.2.1.2. Cấu tạo tầng văn hóa

Tầng văn hóa tương đối đồng nhất, được cấu tạo từ lớp đất

Basalte phong hóa tại chỗ, màu nâu đỏ hoặc nâu sẫm, cứng, dày

trung bình khoảng 0,3 – 0,7m, trong đó hầu như không phát hiện dấu

tích thực vật hay di cốt người, dấu vết than tro. Hầu hết các địa tầng

đều chỉ một tầng văn hóa, không nhận thấy lớp phân cách giữa các

lớp văn hóa (trừ di tích Cư Ktur).

2.2.1.3. Các loại hình di tích trong tầng văn hóa

Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, các loại hình di tích trong tầng văn

bao gồm: vết tích bếp lửa, dấu tích lỗ chân cột và mộ táng (mộ chum,

vệt gốm vụn, các vệt thổ hoàng kéo dài)

2.2.1.4. Tính chất di tích

Các di tích đa số đều có chức năng cư trú. Một số ít là nơi vừa

15

cư trú vừa để mộ (di chỉ - mộ táng), vừa cư trú vừa chế tác công cụ

đá (di chỉ - xưởng, công xưởng), hoặc nơi chôn dấu. Tại khu vực

nghiên cứu, giai đoạn này xuất hiện hệ thống công xưởng Cư K’tur.

2.2.2. Đặc điểm di vật

2.2.2.1. Đồ đá

* Chất liệu: đa dạng, có nguồn gốc tại chỗ. Đá Basalte là chất

liệu chế tác công cụ lao động chủ yếu của giai đoạn này. Tại các di

tích thuộc công xưởng Cư K’tur, đá Opal và Phtanite được sử dụng.

* Kỹ thuật chế tác: phát triển hoàn thiện về kỹ thuật ghè đẽo,

mài, đánh bóng, khoan và xuất hiện kỹ thuật cưa

* Loại hình: Tổ hợp di vật đá phong phú về loại hình, nhiều về

số lượng. Dựa vào chức năng, có thể chia di vật đá thành 2 nhóm loại

hình chính, gồm:

Nhóm công cụ lao động bao gồm: rìu, bôn, cuốc, cưa, dao,

đục, công cụ hình lưỡi liềm, nạo, chì lưới, bàn đập khắc rãnh, đá có

lỗ, đá ghè/mài tròn, chày nghiền, bàn mài, hòn ghè.

Đồ trang sức bằng đá phát hiện với số lượng ít hơn rất nhiều

so với công cụ đá, bao gồm các mảnh vòng.

2.2.2.2 Đồ gốm

Đồ gốm chủ yếu là các mảnh vỡ, mật độ thưa thớt. Số lượng

đồ gốm còn nguyên dáng rất ít, gồm chum mộ và bàn xoa gốm.

* Chất liệu: Gốm cứng, chắc, xương gốm có màu sẫm, thành

phần sét mịn pha bã thực vật, hạt sạn cát kích thước rất nhỏ. Có thể

phân thành hai loại: 1) Loại gốm pha nhiều hạt cát nhỏ, bở rời, tương

tự gốm giai đoạn Trung kỳ Đá mới; 2) Loại gốm mịn, bề mặt còn lớp

áo nhẵn mịn, miết láng. Kỹ thuật pha chế đất sét tương đối kỹ, được

làm bằng kỹ thuật nặn tay, hoặc bằng dải cuộn có hỗ trợ bàn đập hòn

kê, sử dụng bàn xoa gốm để miết láng bề mặt.

16

* Loại hình: đa dạng về loại hình, phong phú về chức năng sử

dụng, gồm: 1) Đồ gốm phục vụ sinh hoạt thường nhật; 2) đồ gốm sử

dụng trong chôn cất người chết; 3) đồ gốm tham gia chế tạo đồ gốm.

Kiểu miệng gốm chủ yếu là miệng loe; kiểu miệng thẳng và miệng

khum ít được tìm thấy. Chân đế gắn liền với đáy, gồm 2 kiểu: 1) Kiểu

dáng thẳng hơi chõi, mép chân đế ve tròn hoặc tương đối 2) kiểu loe

choãi, mép chân đế nhọn.

* Hoa văn trang trí: gồm hoa văn kỹ thuật truyền thống lẫn

hoa văn mỹ thuật hoặc kết hợp nhiều loại hoa văn.

2.2.3. Niên đại và các giai đoạn phát triển Hậu kỳ Đá mới

2.2.3.1. Niên đại

Khung niên đại giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk và

tỉnh Đắk Nông trong khoảng 3.000 -4.000 năm BP.

2.2.3.2. Các giai đoạn phát triển

Mức sớm: bảo lưu phong cách loại hình và các dấu vết kỹ thuật

giai đoạn Trung kỳ Đá mới trong chế tác công cụ đá. Đại diện giai

đoạn này là di tích Dhă Prông, lớp sớm di tích Cư K’tur, địa điểm Cư

Pơng, Ea Khiết,....

Mức muộn: phổ biến các loại hình công cụ mài nhẵn toàn thân,

hình dáng cân đối, tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn kỹ thuật và mỹ

thuật. Gốm cứng, chắc, được miết bóng, trang trí đồ án hoa văn kết

hợp.... Bên cạnh công cụ lao động, tìm thấy những loại hình di vật có

tính thẩm mỹ cao, có giá trị biểu trưng. Đại diện giai đoạn này là

Buôn Triết, T’Sham A, lớp trên di tích Cư K’tur,....

Địa tầng di tích Cư K’tur thể hiện rõ nét sự phân hóa giữa hai

mức phát triển sớm – muộn nhưng không tìm thấy lớp vô sinh phân

cách giữa hai hai mức. Vì vậy, sự phát triển sớm – muộn của giai

đoạn Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông có tính liên tục.

17

2.3. Đặc điểm thời đại Đá mới tại hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông

2.3.1. Tính liên tục giữa các giai đoạn thời đại Đá mới khu vực

nghiên cứu

Gữa các giai đoạn Trung kỳ Đá mới và giai đoạn Hậu kỳ Đá mới

tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông có mối quan hệ nguồn gốc của một quá

trình phát triển văn hóa. Các di tích Trung kỳ Đá mới lưu vực sông

Srêpốk nhiều khả năng là một trong các nguồn hợp tạo dựng văn hóa

giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông.

2.3.2. Đặc thù khu vực

Sinh tồn trong môi trường hệ sinh thái nhiệt đới phổ tạp, yếu tố

“rừng cao nguyên” đậm nét trong đời sống, tạọ nên đặc thù khu vực

trong văn hóa cư dân thời đại Đá mới khu vực nghiên cứu, bảo lưu

lâu dài giá trị cơ bản của dạng thức văn hóa truyền thống.

2.4. Tiểu kết Chƣơng II

Giai đoạn Trung kỳ Đá mới tồn tại trong khung niên đại 7.000

– 4.000 năm BP, với các di tích ngoài trời và trong hang động núi

lửa, phân bố trong cùng một không gian thuộc lưu vực hệ thống sông

Srêpốk, tương đồng với nhau về mặt cảnh quan di tích, cấu tạo tầng

văn hóa và tính chất di tích. Công cụ được chế tác tại chỗ; đa dạng,

phong phú về chất liệu và loại hình. Yếu tố truyền thống văn hóa Hòa

Bình phần nào đó vẫn được bảo lưu nhưng thể hiện ở trình độ phát

triển cao hơn và mang nét đặc thù địa phương. Giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới phân bố trên tất cả các tiểu vùng địa lý, trong khoảng thời gian

từ 4.000 – 3.000 năm BP. Diễn trình thời đại Đá mới ở khu vực

nghiên cứu là quá trình diễn ra liên tục, phản ảnh sự thích nghi, chính

phục thiên nhiên của cư dân nơi đây và bảo lưu lâu dài mối quan hệ

bền vững giữa con người – tự nhiên. Các di tích giai đoạn Trung kỳ

Đá mới là nguồn hợp tạo nên sự phát triển giai đoạn Hậu kỳ Đá mới.

18

CHƢƠNG 3

CƢ DÂN, ĐỜI SỐNG VẬTCHẤT, TINH THẦN

VÀ MỐI QUAN HỆ VĂN HÓA

3.1. Phân bố dân cƣ

3.1.1. Các nhóm dân cư giai đoạn Trung kỳ Đá mới

* Đặc điểm nhân chủng

Về thành phần nhân chủng, người Krông Nô cổ có nét gần với

người Melanesien và sọ Indonesien vốn phổ biến trong văn hóa Hòa

Bình. Sọ cổ C6-1 rất gần với sọ của những Úc (thổ dân), gần với sọ

cổ Mái đá Nước (văn hóa Hòa Bình), Cồn Cổ Ngựa.... nhưng cách xa

người Mongol, Thái Lan...

* Các nhóm cư dân: Dấu vết các cộng đồng Trung kỳ Đá mới

tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông phân bố trong hang và ngoài trời

cùng thuộc lưu vực sông Srêpốk.

3.1.2. Các nhóm dân cư giai đoạn Hậu kỳ Đá mới

+ Nhóm cư dân cao nguyên Buôn Ma Thuột thuộc giai đoạn

phát triển sớm của Hậu kỳ Đá mới tại khu vực Nam Tây Nguyên.

+ Nhóm cư dân khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk

+ Nhóm cư dân khu vực cao nguyên Đắk Nông

3.2. Hoạt động sản xuất vật chất

3.2.1. Hoạt động kinh tế cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới

Cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu là

những cư dân săn bắn hái lượn theo hình thức khái thực. Tuy nhiên,

tính khái tập cũng phần nào hiện hữu trong hình thái kinh tế khai thác

tự nhiên và cư trú của cư dân giai đoạn này. Họ thể đã biết đến hoạt

động nông nghiệp sơ khai. Thủ công nghiệp chế tác đồ đá, đồ gốm;

có sự giao lưu trao đổi sản phẩm với các nhóm cư dân khác

19

3.2.2. Hoạt động kinh tế của cư dân Hậu kỳ Đá mới

Hoạt động sản xuất có thể là nền kinh tế hỗn hợp, dựa trên nền

tảng khai thác tự nhiên với các hoạt động săn bắt, hái lượm; kết hợp

nền kinh tế sản xuất làm nông nghiệp, thủ công chế tác đồ đá, làm

gốm và trao đổi sản phẩm giữa các cộng đồng. Hệ thống công xưởng

Cư K’tur hình thành trên nền tảng sự phát triển cao trình độ chế tác

công cụ đá và sự phân công lao động xã hội giai đoạn này

3.3. Tổ chức xã hội và đời sống tinh thần

3.3.1. Giai đoạn Trung kỳ Đá mới

Theo cách phân kỳ lịch sử của Ph.Ăngghen, đây là thời kỳ gia

gia đình huyết tộc tồn tại trong các thị tộc. Theo mô hình của

M.D.Sahlin và E.R.Service, giai đoạn Trung kỳ Đá mới tương ứng

thời kỳ tiền Bộ lạc - Bộ lạc. Về cơ bản, xã hội giai đoạn Trung kỳ Đá

mới khu vực nghiên cứu chưa có sự phân hóa giai cấp, tồn tại trên cơ

sở công hữu tư liệu sản xuất quan trọng.

3.3.2. Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới

Theo quan điểm M.D.Sahlin và E.R.Service, các xã hội phân

tầng tồn tại dưới hình thức Bộ lạc (Tribe). Đây là các xã hội tồn tại

trước giai đoạn tiền nhà nước.

3.4. Thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông trong bối

cảnh rộng hơn

3.4.1. Trong không gian Tây Nguyên

Thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông là một bộ phận

không tách rời thời đại Đá mới vùng Tây Nguyên nhưng vẫn có

những điểm khác biệt so với các tỉnh khác của vùng Tây Nguyên. Sự

lan tỏa của yếu tố văn hóa hậu Hòa Bình tại Đắk Lắk và Đắk Nông

thể hiện đậm nét so với các địa phương khác ở Tây Nguyên.

3.4.2. Với vùng duyên hải Nam Trung bộ

20

Mối quan hệ giữa các cư dân Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk

Nông với các cư dân Đá mới các tỉnh Nam Trung bộ một mặt là mối

quan hệ đồng quy văn hóa, mặt khác là mối quan hệ giao lưu – trao

đổi văn hóa trực tiếp giữa các nhóm cư dân đồng đại.

3.4.3. Với miền Đông Nam Bộ

Giữa cư dân Hậu kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu với các cư

dân đồng đại Đông Nam Bộ đã thiết lập mối quan hệ với nhau. Các

sản phẩm bằng đá và đồ gốm đóng vai trò vừa là sản phẩm vật chất

trao đổi vừa là các sản phẩm văn hóa giao lưu.

3.5. Tiểu kết Chƣơng 3

Thời đại Đá mới là thời đại cư dân cổ mở rộng địa bàn sinh

sống, chiếm lĩnh toàn bộ không gian, thích nghi điều kiện tự nhiên với

nhiều nhóm nhỏ cư dân sinh sống trên địa bàn nghiên cứu. Về cơ bản,

các nhóm cư dân này đều cùng chung một cơ tầng văn hóa, phản ánh

đặc trưng văn hóa của thời đại Đá mới khu vực nghiên cứu. Tư liệu

khảo cổ cho thấy đời sống kinh tế phong phú, đa dạng của các cư dân

thời đại Đá mới tại khu vực nghiên cứu. Thời đại Đá mới tại khu vực

nghiên cứu tồn tại trước giai đoạn tiền nhà nước, là thời đại xã hội

chưa có phân hóa giai cấp, tồn tại trên cơ sở công hữu tư liệu sản

xuất quan trọng. Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, tính phân tầng xã hội thể

hiện rõ nét hơn so với giai đoạn Trung kỳ Đá mới. Diễn trình phát

triển thời đại Đá mới tại khu vực nghiên cứu là quá trình phát triển

liên tục từ giai đoạn Trung kỳ đến giai đoạn Hậu kỳ, là bộ phận

không tách rời thời đại Đá mới vùng Tây Nguyên nhưng vẫn có

những điểm khác biệt so với các tỉnh khác của vùng Tây Nguyên.

Các cư dân thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông còn đóng vai

trò cầu nối, trực tiếp tham gia các quan hệ giao lưu – trao đổi văn hóa

với các nhóm cư dân đồng đại tại các khu vực liền kề.

21

KẾT LUẬN

Tài liệu khảo cổ học được phát hiện, nghiên cứu và công bố

trong những năm qua đã chứng minh thời đại Đá mới tại tỉnh Đắk

Lắk và tỉnh Đắk Nông trải qua hai giai đoạn phát triển liên tục là giai

đoạn Trung kỳ Đá mới và Hậu kỳ Đá mới.

1. Đặc trưng khảo cổ học giai đoạn Trung kỳ Đá mới khu vực

nghiên cứu phản ánh rõ nét thông qua các đại diện tiêu biểu là di tích

Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm, Buôn Ea Chổ, Hố Tre (tỉnh Đắk Lắk),

Thôn Tám, Tân Lập, hệ thống các di tích hang động núi lửa như di

tích hang C6-1, hang C6’... (Đắk Nông). Các di tích này phân bố tập

trung trên các gò đồi đất thấp gần nguồn nước, cảnh quan bồn địa

trũng thuộc lưu vực sông Srêpốk. Trong đó, một số gò đất là nơi tập

trung sinh sống chủ yếu của cộng đồng bên cạnh các gò đất khác rải

rác xung quanh có dấu vết sự tụ cư mờ nhạt hơn. Riêng tại hang động

núi lửa, cư dân cổ lựa chọn các hang động có cửa hang nguồn gốc

thứ sinh làm nơi sinh sống, tạo nên một loại hình cư trú đặc trưng,

độc đáo. Con người cư trú, kiếm sống, chế tác công cụ và chôn cất

người chết ngay tại nơi sinh sống tạo nên các di tích đa tính chất, kết

hợp giữa hai hoặc ba yếu tố: cư trú – xưởng – mộ táng. Người chết

được chôn cất theo táng thức chôn bó gối, có thể là chôn ngồi bó gối

hoặc chôn nằm bó gối. Kỹ thuật chế tác và hình dáng công cụ đá gợi

lại phong cách đồ đá văn hóa Hòa Bình nhưng ở một trình độ cao

hơn. Kỹ thuật chế tạo đồ đá chủ yếu là kỹ thuật ghè hai mặt, trong đó

tập trung chủ yếu một mặt với số lượng vết ghè trội hơn so với mặt

đối; tạo nên tổ hợp công cụ đá đặc trưng dạng rìu bầu dục, rìu ngắn....

Kỹ thuật mài, cụ thể kỹ thuật mài lưỡi thể hiện qua loại hình rìu mài

lưỡi, công cụ mũi nhọn xương mài đầu nhọn. Gốm thô, cứng, chế tạo

từ đất sét chưa lọc kỹ pha lẫn hạt cát kích thước nhỏ, chức năng đun,

22

nấu, chứa đựng vật dụng. Những cư dân này tồn tại và phát triển

trong khoảng niên đại từ 7.000BP – 4.000BP với các mức sớm muộn

khác nhau giữa các di tích. Từ trong chính quá trình tồn tại và phát

triển, các cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại địa bàn nghiên cứu

bên cạnh việc bảo lưu yếu tố truyền thống, còn từng bước hình thành

các yếu tố giai đoạn Hậu kỳ Đá mới sau này. Các di tích này có khả

năng cùng thuộc một nhóm di tích/văn hóa khảo cổ: nhóm di tích/văn

hóa khảo cổ lưu vực sông Srêpốk. Nhóm các di tích/văn hóa khảo cổ

giai đoạn Trung kỳ Đá mới lưu vực sông Srêpốk là một trong những

nguồn hợp tạo nên giai đoạn Hậu kỳ Đá mới phát triển tại khu vực

phía Nam Tây Nguyên.

2. Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới là giai đoạn chiếm cư, chinh phục

tất cả các tiểu vùng địa lý trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông.

Căn cứ đặc trưng di vật giữa các nhóm di tích phân bố tại các tiểu

vùng địa lý khác nhau, có thể đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của 03

nhóm di tích tương ứng với 03 nhóm cư dân trong giai đoạn này:

Nhóm cư dân vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột thuộc giai đoạn sớm;

nhóm di tích khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk quan hệ chặt chẽ với cư

dân phía Nam tỉnh Gia Lai và nhóm cư dân cao nguyên Đắk Nông và

nam Đắk Lắk hay còn gọi cư dân văn hóa Buôn Triết thuộc giia đoạn

phát triển muộn. Mỗi nhóm cư dân có những nét đặc trưng riêng,

nhưng vẫn có mối quan hệ chặt chẽ và tương đồng với nhau tạo nên

đặc trưng văn hóa chung của tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông trong

giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Tồn tại và phát triển trong khoảng thời

gian từ 4.000 – 3.000BP, cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới có nền

kinh tế đa dạng, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khai thác các nguồn

thiên nhiên với sản xuất nông nghiệp dùng cuốc, kết hợp hoạt động

thủ công và trao đổi sản phẩm. Phân công lao động bước đầu xuất

23

hiện với sự hình thành và phát triển của các hệ thống công xưởng.

Các cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu đã bước

vào giai đoạn xã hội có phân hóa nhưng chưa phân tầng giai cấp.

3. Diễn trình phát triển thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk

Nông diễn ra liên tục, mang đậm dấu ấn kỹ thuật Hòa Bình, thể hiện

rõ nét tính địa phương và tính bảo lưu, là một bộ phận không thể tách

rời của thời đại Đá mới vùng Tây Nguyên nhưng khác biệt với các

địa phương khác trong vùng. Không chỉ là một bộ phận trong không

gian văn hóa vùng Tây Nguyên, các di tích thời đại Đá mới tỉnh Đắk

Lắk và Đắk Nông còn là cầu nối giao lưu văn hóa khi tham gia trực

tiếp mối giao lưu, trao đổi văn hóa với các cư dân đồng đại vùng

Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ; tiếp nhận các làm giàu thêm giá trị

văn hóa vùng Tây Nguyên thời đại Đá mới, đồng thời tạo nên sự hòa

nhập của thời đại Đá mới Tây Nguyên vào dòng chảy lịch sử dân tộc.

4. Những đặc điểm văn hóa của cư dân thời đại Đá mới tỉnh

Đắk Lắk và Đắk Nông có nét tương đồng với văn hóa truyền thống

các dân tộc thiểu số tại chỗ vùng Tây Nguyên trên các lĩnh vực:

phương thức thích ứng môi trường, tổ chức đời sống sản xuất và xã

hội.... Sự tương đồng này có thể do sự tương đồng trong hành vi ứng

xử của các cộng đồng cư dân trong cùng một môi trường sống; nhiều

khả năng có nguồn gốc thế thứ, kế thừa nền tảng giá trị văn hóa hình

thành giá trị văn hóa thời đại Đá mới của các dân tộc thiểu số tại chỗ

vùng Tây Nguyên. Đây là giả thuyết cần nghiên cứu và kiểm chứng

thêm bằng nhiều nguồn tài liệu khác nhau trong tương lai. Nhưng dù

thế nào cũng không thể phủ nhận vai trò có ý nghĩa nền tảng của thời

đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông trong diễn trình phát triển

lịch sử - văn hóa, hình thành bản sắc văn hóa của khu vực phía Nam

Tây Nguyên nói riêng, vùng Tây Nguyên nói chung./.

24