ĐỊA HOÀNG ẨM TỬ

(Tuyên minh luận)

Thành phần:

Can địa hoàng

Ba kích thiên (bỏ tâm)

Sơn thù

Thạch hộc

Nhục thung dung (tẩm rượu sao)

Phụ tử chế

Ngũ vị tử

Nhục quế

Bạch phục linh

Mạch môn (bỏ tâm)

Xương bồ

Viễn chí (bỏ tâm)

(Các vị lượng bằng nhau).

Cách dùng: Tất cả tán bột sắc với nước Sinh khương 5 lát, Đại táo

10 quả, Bạc hà 5 - 7 lá. Uống mỗi lần 8 - 12g (bột), có thể dùng

thuốc thang sắc uống tùy chứng bệnh gia giảm.

Tác dụng: Tư thận âm, bổ thận dương, an thần khai khiếu.

Giải thích bài thuốc:

Can địa hoàng, Sơn thù du: bổ ích thận âm là chủ dược.

Ba kích, Nhục thung dung, Nhục quế, Phụ tử chế: ôn thận tráng

dương, phối hợp với chủ dược làm cho nguyên dương được ôn

dưỡng.

Nhục quế: dẫn hỏa quy nguyên.

Thạch hộc, Mạch môn, Ngũ vị tử: tư bổ âm dịch.

Bạch linh, Xương bồ, Viễn chí: giao thông tâm thận, khai khiếu hóa

đờm.

Bạc hà: lợi yết.

Khương, Táo: hòa vinh vệ.

Tác dụng chung của bài thuốc là một mặt ôn bổ hạ nguyên nhiếp nạp

phù dương, mặt khác có tác dụng khai khiếu hóa đờm, tuyên thông

tâm phế khí.

Ứng dụng lâm sàng:

1. Bài thuốc này chuyên dùng chữa trúng phong không nói được,

hai chân suy yếu. Hiện nay có thể dùng chữa những bệnh như tai

biến mạch máu não, xơ cứng động mạch, có hội chứng bệnh lý thận

âm, thận dương đều hư.

2. Trường hợp chân yếu thiên về thận âm hư các khớp xương

nóng gia Tang chi, Địa cốt bì, Miết giáp để thoái hư nhiệt. Nếu thiên

về thận dương hư, lưng gối đều có cảm giác lạnh, gia Dâm dương

hoắc, Thỏ ty tử, Tiên mao để làm ấm thận dương. Nếu có khí hư gia

Hoàng kỳ, Đảng sâm để bổ khí.

3. Nếu chỉ có chân yếu liệt có thể bỏ Thạch xương bồ, Viễn chí,

Bạc hà.

4. Trường hợp chỉ có âm hư đờm hỏa thịnh bỏ các loại thuốc ôn

táo như Quế, Phụ gia Bối mẫu, Trúc lịch, Đởm tinh, Thiên trúc

hoàng để thanh nhiệt hóa đờm.