Điều trị sẹo lồi bằng nội và ngoại khoa

BS. Trần Thị Thanh Mai

BV. Da Liễu

TÓM TẮT:

Sẹo lồi là sự tăng sinh collagen da lành tính, nhưng đôi khi đau và/hoặc ngứa,

thường là do sự đáp ứng quá thừa của mô với chấn thương. Mặc dù lành tính,

nhưng gây ảnh hưởng về mặt xã hội và tâm lý lên bệnh nhân nên phải được xem

xét. Sẹo lồi thường thứ phát từ xỏ tai và các qui trình phẫu thuật khác, Không có

liệu pháp duy nhất nào luôn luôn thành công. Những liệu pháp thông dụng sẽ được

bàn đến ở bài này. Một vài trong số những liệu pháp nội khoa bao gồm

corticosteroids, interferon, 5-fluorouracil, và imiquimod. Trước tiên là cắt bỏ và

phẫu thuật lạnh là những biện pháp ngoại khoa chủ yếu. Xạ trị và các biện pháp

vật lý khác cũng được bàn.

CÁC TỪ KHÓA: corticosteroids, excision, 5-fluorouracil, imiquimod, interferon,

keloids.

Sẹo lồi là sự tăng sinh collagen da lành tính thường là do sự đáp ứng quá thừa của

mô với tổn thương da. Tuy nhiên, cũng gặp sẹo lồi tiên phát không có tiền sử chấn

thương tại điểm đó. Sẹo lồi thường ngứa và/hoặc đau, mặc dù lành tính, nhưng

chúng xâm lấn vào vùng da kề cận bình thường về lâm sàng.

Do xỏ tai, những người nữ trẻ thường có tần suất sẹo lồi cao hơn nam giới. Những

người trên 65 tuổi hiếm khi bị sẹo lồi, tuy nhiên, vì những thủ thuật ở giữa ngực và

shunt động mạch vành ngày càng nhiều, nên tần suất sẹo lồi vùng ức tăng ở những

người cao tuổi.

Điều trị sẹo lồi có nhiều mức độ thành công khác nhau. Không có một cách duy

nhất nào luôn luôn thành công. Nhiều báo cáo điều trị thành công trong y văn là

không đúng sự thật, điều này được chứng minh qua những nghiên cứu lâm sàng

ngẫu nhiên. Có những mô hình động vật cũng được sử dụng cho nghiên cứu lâm

sàng. Nhiều cách điều trị nội khoa, ngoại khoa, xạ trị và vật lý thường dùng phổ

biến trong điều trị sẹo lồi sẽ được bàn trong bài này.

Dự phòng là nguyên tắc đầu tiên trong điều trị sẹo lồi.

- Không nên tiến hành những thủ thuật thẩm mỹ không cần thiết ở những người

sẹo lồi (những bênh nhân chỉ có sẹo lồi ở dái tai không được coi là những người

tạo sẹo lồi).

- Nên tránh những thủ thuật tối đa ở giữa ngực, những vùng tổn thương da hậu

phẫu phải được điều trị bằng những kháng sinh thích hợp để tránh nhiễm trùng.

-Tất cả những vết thương do phẫu thuật phải được đóng lại với độ căng bình

thường nếu có thể, không nên cắt ngang khoảng cách giữa các khớp và nên cắt da

theo hình elip nằm ngang theo cùng hướng với đường căng của da.

ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA.

Tiêm steroid

Một trong những tiêu chuẩn lâu dài cho điều trị sẹo lồi và cách điều trị thường

dùng nhất, là tiêm triamcinolon acetonid (10-40 mg/ml). Phải báo trước cho bệnh

nhân rằng vùng tiêm thuốc có thể bị mất sắc tố và tình trạng này kéo dài 6 – 12

tháng. Việc tiêm triamcinolon gây đau cho bệnh nhân vì thế cần sử dụng EMLA

hoặc L-M-Y ( lọai thuốc này trước đây có tên là ELA-Max) 1-2 giờ trước khi tiêm

triamcinolon . Ngòai ra để giúp bệnh nhân chịu được nhiều mũi tiêm và giảm bớt

đau do sẹo cũng cần tiêm lidocaine chứa epinephrine xung quanh sẹo trước khi

tiêm triamcinolon .Sau mỗi lần tiêm, phải thử ống tiêm coi kim có bị nghẹt hay

không. Do. độ cứng của mô sẹo nên sự đâm kim vào mô sẹo sẽ có tác động như

việc đâm kim để lấy mẫu sinh thiết bằng kim khiến kim bị nghẽn.Phải đâm kim và

bơm triamcinolon vào đến tận lớp nhủ bì, nơi tạo ra chất collagenase. Không nên

tiêm steroid vào mô dưới da vì có thể làm teo lớp mỡ bên dưới. Sự kết tụ của chất

mang steroid được biểu hiện dưới dạng cục u màu vàng rất nhạt ở bên dưới điểm

tiêm bị teo. Corticosteroid ức chế alpha2-macroglobulin,một chất có tác dụng ức

chế collagenase. Một khi chu trình này bị ngăn chặn,lượng collagenase sẽ tăngvà

do đó sẽ làm thoái hóa collagen. Nên tiêm trực tiếp vào chỗ sẹo lồi để bệnh nhân ít

bị đau hơn. Nếu dùng ni tơ lỏng làm phù da trước khi tiêm thì việc tiêm cortocoid

vào sẹo sẽ dễ dàng hơn.

Trước khi bắt đầu tiêm triamcinolon vào sẹo, phải báo trước cho bệnh nhân rằng

có thể gặp chứng teo và giãn mao mạch xung quanh chỗ tiêm. Để tránh tái phát

sẹo lồi nên tiêm corticoid cứ mỗi 2-3 tuần một lần

Việc phối hợp điều trị bằng áp lực hoặc tạo lớp silicone gel với tiêm tramcinolon

vào trong sẹo đem lại hiệu quả hơn việc dùng riêng từng liệu pháp.

Điều trị bằng Interferon

Interferon-alpha và gamma ức chế tổng hợp collagen loại I và III bằng cách khử

acid ribonucleic thông tin nội bào. Benman và Flores đã báo cáo tỷ lệ tái phát

18,7% khi tiêm interferon alpha-2b sau khi cắt sẹo lồi so với tỷ lệ tái phát 51% khi

chỉ cắt sẹo lồi mà không tiêm interferon và tỷ lệ tái phát 58% khi điều trị sẹo lồi

phối hợp với tiêm triamcinolon vào sẹo sau phẫu thuật.Liềư lượng tiêm là 1 triệu

đơn vị vào mỗi centimét chiều dài da xung quanh chỗ hậu phẫu, ngay sau khi phẫu

thuật và tiêm nhắc lại 1 đến 2 tuần sau đó. Đối với vết cắt rộng, bệnh nhân phải

được tiền mê bằng acetaminophen để điều trị những triệu chứng giống bệnh cúm

do interferon gây ra. Đối với những bệnh nhân phải cắt bỏ nhiều sẹo lồi hoặc

những sẹo lồi lớn , việc điều trị bằng trị interferon sẽ rất tốn kém.

Điều trị bằng 5-flurouracil

Liệu pháp tiêm chất 5-flurouracil (5-FU) vào sẹo đã được dùng một cách thành

công trong điều trị những sẹo lồi cô lập nhỏ. Nếu tiêm hỗn hợp 0,1 ml

triamcinolone acetonide 10 mg/ml và 0,9 ml 5-FU (50 mg/ml) kết quả sẽ tốt hơn.

Ban đầu tiêm hỗn hợp này 3 lần một tuần, sau đó điều chỉnh tần suất tiêm theo đáp

ứng lâm sàng của người bệnh . Một vết sẹo có kích thước trung bình cần 5-10 lần

tiêm, thường là tiêm mỗi tuần. Một hạn chế lớn của 5-FU là gây đau khi tiêm

khiến bệnh nhân không tuân thủ điều trị.

Điều trị Imiquimod:

Imiquimod 5% dạng kem gây sản xuất tại chỗ interferon tại nơi bôi thuốc. Dựa

trên thông tin này, Berman và Kaufiman đã bôi kem imiquimod hậu phẫu cho 12

bệnh nhân vừa cắt bỏ sẹo lồi. Nên bắt đầu bôi Imiquimod ngay sau khi cắt bỏ sẹo

và bôi hằng ngày liên tục trong 8 tuần. Những bệnh nhân của Berman được đánh

giá 24 tuần sau khi cắt sẹo lồi và không có trường hợp nào tái phát sẹo lồi. Hầu hết

các bệnh nhân đều bị kích ứng từ nhẹ đến nặng do bôi Imiquimod hằng ngày .

Những trường hợp bị kích ứng nặng được ngưng thuốc từ vài ngày cho đến 1 tuần

rồi mới bôi lại. Những bệnh nhân có cá vết mổ rộng, có những vết thương có cấy

ghép da hoặc căng da không nên bôi kem Imiquimod trong 4-6 tuần hậu phẫu, vì

việc bôi imiquimod i sớm thường làm cho chỗ phẫu thuật nở rộng hoặc bị nứt.

Hơn 50% bệnh nhân bị tăng sắc tố tại chỗ điều trị.

Các phuơng pháp điều trị trị nội khoa khác:

-Băng keo Flurandrenolide (Cordran) được dán trên sẹo lồi trong 12-20 giờ một

ngày thường làm cho sẹo lồi mềm dần và phẳng lại. Cordran còn có tác dụng làm

vết sẹo hết ngứa. Dùng lâu dài có thể gây teo da.

-Đối với những sẹo lồi nhỏ, tiêm vào sẹo lồi bleomycin (1mg/ml; 0,1-1 ml) cho

thấy thuốc làm thoái triển hoàn toàn vài sang thương.

-Thuốc mỡ hoặc gel Clobetasol, bôi hai ngày một lần, có thể làm mềm và/hoặc

làm phẳng sẹo lồi,giúp bệnh nhân hết ngứa, hết cảm và cảm giác khó chịu do sẹo

lồi. Dùng lâu dài thuốc sẽ gây mất sắc tố, teo và giãn mạch.

-Tacrolimus là một thành viên mới trong các trang bị điều trị sẹo lồi. Nghiên cứu

của Kim và cọng sự phát hiện có sự tăng gen ung thư gli-l trong các sẹo lồi nhưng

trong các mô sẹo bình thường thì không có hiện tượng này. Vì tacrolimus có thể

ngăn chặn gen ung thư thegli-1 nên được dùng điều trị sẹo lồi với cách dùng 2 lần

/một ngày. Cần có những nghiên cứu lâu dài và lớn hơn để xác định hiệu quả của

liệu pháp này.

- Việc kết hợp điều trị sẹo lồi bằng methotrecate kết hợp với cắt bỏ sẹo phòng

tránh được sự tái phát sẹo. Cho người bệnh uống 15-20 mg methotrexate mỗi lần 4

ngày bắt đầu từ tuần trước phẫu thuật, và liên tục trong 3-4 tháng sau khi vết cắt

lành.

- Dùng Pentoxifyline (Trental) 400 mg ba lần /một ngày cũng khá thành công

trong dự phòng tái phát sẹo lồi đã cắt. Cơ chế tác động của thuốc chưa được hiểu

đầy đủ, nhưng có thể do tuần hoàn tăng, quét sạch những yếu tố tăng trưởng

nguyên bào sợi.

-Colchicine đã được dùng để điều trị và dự phòng tái phát sẹo lồi bằng cách ức chế

tổng hợp collagen, phá vỡ các vi ống, và kích thích collagenase.

-Vì kẽm bôi ngoài da ức chế lysyl oxidase và kích thích collagenase, nên được

dùng để điều trị sẹo lồi, nhưng thành công còn hạn chế.

-Tretinoin bôi hai lần một ngày làm giảm ngứa và những triệu chứng khác của sẹo

lồi, có thể làm thoái triển sẹo lồi một phần nào.

Một số thuốc khác đã được thử nhưng thành công còn hạn chế hoặc tỷ lệ nguy

cơ/lợi ích còn đáng ngờ là verapamil, cyclosporine, methatrexate, D-penicillamine,

và Relaxin tiêm vào sẹo lồi.

ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA

Trước khi cắt bỏ sẹo lồi, bác sĩ phải lưu ý đến những nguy cơ chính đi kèm với sự

tái phát sẹo lồi:

1. Tiền sử gia đình về sẹo lồi (nhất là những người Mỹ gốc Phi);

2. Chỗ phẫu thuật bị nhiễm trùng;

3. Nơi phẫu thuật (nhất là giữa ngực và vai);

4. Loại chấn thương gây ra sẹo (bỏng do nhiệt hoặc hóa chất);

5. Căng da trong thời kỳ hậu phẫu .

6. Da sậm màu nhóm 4-6 theo phân loại Fizpatrick.

Ngoài ra, tỷ lệ tái phát cho thủ thuật cắt bỏ sẹo lồi đơn giản không kèm những biện

pháp phụ trợ hậu phẫu dao động từ 50 – 80%.

Phẫu thuật:

Một trong những qui trình dễ nhất và thường được áp dụng nhất để khử bỏ sẹo lồi

là cắt bỏ rồi tiêm IL corticosteroid. Trước khi cắt, gây tê chỗ cắt bằng hỗn hợp tỉ lệ

5:5 lidocain chứa 2% epinephrin và triamcinolon acetonid 40 mg/ml. Đối với

những sẹo lồi có đáy nông (1 cm hay nhỏ hơn), người ta khuyến cáo cắt đơn giản

rồi mài mòn đáy và khâu lại.. Đối với sẹo lồi có đáy rộng, cần phải ghép da ở chỗ

cắt để khỏi bị căng da. Hầu hết những sẹo lồi đã cắt cần phải điều trị phụ trợ thêm

như : corticosteroid tiêm trong vết thương, băng ép, thuốc silicone gel, kem

imiquimod hoặc tiêm interferon. Vết khâu phải để yên trong 10-14 ngày vì hỗn

hợp lidocaine/steroid để gây tê làm chậm lành vết thương.

Điều trị phức tạp hơn nhiều đối với những sẹo lồi ở dái tai không có cuống và

những sẹo lồi có đáy rộng trên những phần khác của cơ thể. Trước hết phải tạo ra

một vết cắt hình bán nguyệt hoặc giống cái lưỡi ở phần dẹp nhất và bằng phẳng

nhất của sẹo, vết cắt đủ rộng để thấy đáy của sẹo. Vết cắt hình lưỡi này được khâu

vào đáy bằng chỉ nylon cỡ 5 hoặc 6-0, và để yên trong 10 – 14 ngày để tránh vết

thương nứt ra. Điểm hậu phẫu này được tiêm 10 – 40 mg/ml triamcinolon

acetonid, bắt đầu một tuần sau khi cắt chỉ (tiêm sớm hơn, nhất là ở thời đểim cắt

chỉ có thể làm nứt vết thương), và lập lại cứ mỗi 3 tuần x 4 lần để tránh sẹo lồi tái

phát. Phải thông báo cho bệnh nhân rằng điểm tiêm steroid có thể giảm sắc tố

trong 6 tháng hoặc hơn. Băng ép và thuốc dán silicone gel thường là những liệu

pháp phụ trợ quan trọng. Đối với một chỗ hậu phẫu sẹo lồi dái tai, người ta có sẵn

loại băng ép dái tai có đệm silicon. Những loại băng ép này nên được dùng hai

tuần sau khi cắt chỉ vì dùng sớm có thể làm nứt vết thương.

Trong những trường hợp vết sẹo đã cắt không thể khép lại được , bác sĩ có thể

chèn vào bên dưới sẹo lồi chất bành trướng mô .S ự bành trướng mô dần dần cho

phép có thể cắt và đóng sẹo lại, và không làm căng da.

Đối với những bệnh nhân bị sẹo lớn hoặc nhiều, không thể áp dụng thủ thuật cắt

bỏ thì việc bào mòn sẹo cho ngang bằng với da bình thường xung quanh rồi bôi

imiquimod kéo dài trong tám tuần đôi khi cũng thành công nhưng thường bị tăng

sắc tố làm cho vết sẹo có màu không hợp với màu da xung quanh.

Phẫu thuật lạnh

Thủ thuật làm đông lạnh sẹo lồi bằng nitrogen lỏng làm hư hoại tế bào và các mao

mạch. Sự thiếu oxy làm mô bị họai tử , bị tróc ra và xẹp xuống. Nếu thời gian làm

tan mảng sẹo lồi đã được đông lạnh lớn hơn 25 giây sẽ dẫn đến hiện tượng giảm

sắc tố thứ phát do tế bào melanin bị hủy hoại, nhất làở những người có da thuộc

nhóm 4-6 theo phân loại của Fizpatrick.Việc thực hiện hai chu kỳ làm tan mảng

sẹo đã được đóng băng, mỗi chu kỳ kéo dài 15-20 giây, trong 8-10 lần, , mỗi lần

cách nhau 3 tuần, thường làm xẹp sẹo hoàn toàn ở hơn một nửa số bệnh nhân được

điều trị bằng phẫu thuật lạnh. Nếu kết hợp với chích IL steroid trong khi phẫu

thuật lạnh thì tỉ lệ bệnh nhân có đáp ứng với điều trị là 84%. Nhiều bệnh nhân

không trở lại tái khám sau phẫu thuật do đau sau mổ và vết thương chậm lành.

Hiện tượng mất sắc tố thường kéo dài nhiều năm.

Xạ trị

Tia phóng xạ được dùng như một đơn liệu pháp hoặc kết hợp với phẫu thuật để dự

phòng tái phát sẹo lồi sau khi cắt bỏ. Khi được dùng như đơn liệu pháp, tia phóng

xạ thường không hiệu quả lắm (tỉ lệ tái phát 5-100%) trừ khi được dùng với liều

cao, tuy nhiên, điều này có thể gây nên hiện tượng carcinom tế bào gai của da tại

điểm điều trị 15-30 năm sau trị liệu. Một trường hợp carcinom phần tủy tuyến giáp

đã được mô tả ở một bé trai 11 tuổi tám năm sau khi cắt sẹo lồi ở cầm và chiếu xạ

phẫu thuật.Việc điều trị xạ trị như một đơn liệu pháp cũng đạt được hiệu quả trong

việc làm giảm ngứa, giảm giảm đau và cảm giác căng của sẹo lồi.

Chiếu xạ sẽ hiệu quả hơn nếu được áp dụng sau hai tuần đầu sau khi cắt bỏ sẹo(là

thời gian mà các nguyên bào sợi đang phát triển). Liều chiếu xạ thường dùng là

300 rads (5Gy) bốn lần/ngày x bốn đến năm ngày hoặc 500 rads (5Gy) x bốn

lần/ngày x ba ngày bắt đầu từ ngày phẫu thuật. Không nên điều trị cho trẻ em bằng

chiếu xạ, hoặc nếu đó là lựa chọn điều trị duy nhất khả thi, thì phải che chắn các

hành xương để tránh làm chậm sự phát triển xương.

Kết hợp chiếu xạ trước và sau mổ cũng không hiệu quả gì hơn chiếu xạ sau mổ

.Phương pháp chiếu xạ khe hở bằng Irridium 192 sau khi cắt bỏ sẹo có tỷ lệ tái

phát 21% ở 783 bệnh nhân sẹo lồi.

Do sự phân phối lượng phóng xạ trong xạ trị từng đợt ngắn đến đúng mục tiêu

điều trị hơn phát xạ tia từ bên ngoài nên phương pháp xạ trị từng đợt ngắn liều cao

được dùng để điều trị sẹo lồi sau khi cắt sẹo. Xạ trị từng đợt ngắn liều cao được

dùng với liều 1200 Gy, chiếu làm bốn đợt trong 24 giờ đầu tiên sau phẫu thuật,tỉ lệ

tái phát là 4,7%.(ứng với tám bệnh nhân , trong đó có 5/147 bệnh nhân (3,4%)

được cắt bỏ sẹo lồi rồi dùng điều trị từng đợt ngắn liều cao và 3/22 bệnh nhân

được điều trị bằng điều trị từng đợt ngắn liều cao đơn thuần). 88-94% bệnh nhân

được điều trị bằng phẫu thuật phối hợp với điều trị từng đợt ngắn liều cao đạt kết

quả thẩm mỹ tốt hoặc rất tốt . Tất cả các bệnh nhân đều có đáp ứng với điều trị

từng đợt ngắn liều cao : giảm ngứa,bớt đỏ da, hoặc giảm cảm giác bỏng. Như

vậy,xạ trị từng đợt ngắn liều cao kết hợp với cắt bỏ sẹo dường như đem lại sự an

toàn và hiệu quả trong điều trị sẹo lồi và dự phòng tái phát.

NHỮNG LIỆU PHÁP VẬT LÝ

Băng ép

Băng ép gradient (Jobst) là một phương tiện hỗ trợ điều trị sẹo lồi sau mổ để

phòng tránh tái phát . Phương pháp này còn được dùng để điều trị sẹo lồi sau khi

bôi một loại steroid mạnh hoặc dùng băng keo flurandrenolide. Phương pháp dùng

băng keo flurandrenolide giúp làm giảm kích thước và độ dày của sẹo lồi bằng

cách làm giảm các tế bào bón tại nơi tổn thương (lọai tế bào này thường tăng số

lượng trong sẹo lồi) và làm giảm phóng thích histamin (chất này cũng thường tăng

trong sẹo lồi). Băng ép làm giảm alpha-macroglobulin, chất ức chế phân cắt

collagenase của collagen.Một số cơ chế tác dụng khác của điều trị bằng băng ép là

: làm giảm hydrat hóa sẹo, dẫn đến sự làm bền vững tế bào bón và tân sinh mạch

cũng như sản xuất khuôn nội bào, hoặc sự thiếu oxy đáng kể dẫn đến thoái hóa

nguyên bào sợi và collagen.

Một số phương pháp băng ép thường được dùng trong điều trị sẹo lồi là băng ace,

băng thun, băng nén (Coban), băng dán tai, băng có ống hỗ trợ.

Vì băng ép là một liệu pháp lâu dài, bệnh nhân thường không tuân thủ điều trị tốt

do thời gian trị liệu kéo dài .

Cột thắt

Cột thắt sẹo có thể được dùng cho những sẹo lồi có cuống ở những vị trí không thể

cắt được hoặc bệnh nhân không cho cắt. Một loại chỉ khâu không hấp thụ 4-0 được

cột chặt quanh đáy sẹo và được thay chỉ mỗi tuần. Những cọng chỉ này ngày càng

ăn sâu vào gốc sẹo, làm cho gốc sẹo bị rơi ra. Một số trường hợp cần dùng thêm

thuốc giảm đau (Acetominophen) vài ngày sau khi thắt. Vải băng ép chỉ tồn tại

trong vài tháng, vì thể, để đạt hiệu quả tối đa, phải thay băng trước khi băng bị

rách.

Laser

Việc sử dụng laser để điều trị sẹo lồi có kết quả không nhất quán. Laser argon

được dùng đầu tiên để điều trị sẹo lồi.Phương pháp này có vẻ thành công đối với

những sẹo lồi mới, đang sinh mạch; tuy nhiên những nghiên cứu mới đây không

chứng minh bất kỳ sự cải thiện nào của sẹo lồi khi được điều trị bằng laser argon

ngoại trừ sự giảm ngứa và giảm các triệu chứng khác trong vài tháng.

Laser carbon dioxide, khi được dùng như đơn liệu pháp, có tỉ lệ tái phát 40-90%.

Ngay cả khi được kết hợp với IL corticosteroidssau mổ , phương pháp này vẫn còn

có tỉ lệ tái phát khá cao. Công dụng chủ yếu của laser carbon dioxide là làm dẹp

sẹo lồi lớn để chúng có thể được điều trị bằng những biện pháp khác.

Laser neodymium; yttrium-aluminum-arnet (Nd: YAG) 1064-nm dường như có

ảnh hưởng đến chuyển hóa collagen. Laser này ức chế một cách chọn lọc không

ảnh hưởng đến các nguyên bào sợi hoặc sự sao chép DNA. Một khảo sát trong 3

năm ở hai trong số nhiều bệnh nhân cho thấy laser này làm mềm sẹo, giảm kích

thước, làm màu da bình thường. Nhưng do kích thước mẫu chọn để khảo sát qúa

nhỏ, nên những kết quả trên không thể được loại suy cho một số lượng bệnh nhân

lớn hơn. Một nghiên cứu khác cho thấy có hiện tượng cải thiện sẹo lồi ở 16/17

bệnh nhân được điều trị bằng laser NdLYAG nhưng không thấy bàn đến việc theo

dõi bệnh nhân.

Laser sung màu bước sóng 585-nm đã được dùng một cách thành công để điều trị

sẹo do cắt xương ức (25). Khảo sát cho thấy chiều cao của sẹo có giảm đáng kể,

triệu chứng ngứa và ban đỏ cũng giảm rõ rệt ở hầu hết bệnh nhân và những kết

quả trên kéo dài trong ít nhất sáu tháng. Phối hợp tiêm triamcinolon trong tổn

thương với laser sung màu làm tăng hiệu quả điều trị sẹo lồi.

Thuốc dán gel Silicon

Thuốc dán gel Silicon là một miếng thuốc dán mềm, dạng gel dùng để điều trị sẹo

lồi. Cơ chế tác động của thuốc hình như là một sự kết hợp hydrat hóa với việc làm

thuyên tắc mạch. Ngoài ra TGF beta-2 có thể giảm số lượng khi tiếp xúc với

silicon.Các lọai băng không chứa gel silicone cũng cho kết qủa tương tự. Sẹo lồi

càng mới, bệnh nhân càng trẻ, sự đáp ứng càng tốt. Trẻ em thích phương pháp này

vì miếng dán dạng gel không gây đau. Cần phải điều trị trong 6-12 tháng để đạt

kết quả tốt nhất, nhưng sau vài tháng điều trị hầu hết các bệnh nhân đều không

tuân thủ vì thời gian kéo dài, vì sự bất tiện của việc cắt và đặt miếng gel silicon lên

sẹo. Để dự phòng sự chảy nhão và nhiễm trùng thứ phát chỗ da được dán, chỉ nên

đắp 22-23 giờ một ngày, rồi tháo ra ,chùi sạch vết sẹo mỗi ngày và đảm bảo thông

khí tốt.

Hầu hết các thuốc dán này đều kéo dài 2-3 tuần rồi bắt đầu thoái hóa. Bản thân gel

không hiệu quả bằng miếng dán.

Dùng băng Polyurethane (Curad) 20-22 giờ một ngày làm mềm sẹo lồi và làm

thoái triển sẹo sau 8 tuần điều trị. Thành công tăng gấp ba đến bốn lần nếu

polyurethane được dùng với lực nén.

NHỮNG LIỆU PHÁP TIỀM NĂNG MỚI

Một số những liệu pháp tiềm năng mới:

1. Tia UVA bước sóng dài (340-400nm; UVAl) có thể giúp dự phòng tái phát sẹo

lồi do có khả năng làm giảm các tế bào bón.

2. Quercetin, một flavonol, có tác dụng ức chế sự phát triển và co thắt các nguyên

bào sợi quá thừa trong sẹo.

3. Prostaglandin E2 (Dinoprostone) phục hồi sự sửa chữa vết thương bình thường.

4. Chất tẩy màu mạnh( vì sẹo lồi không có ở bệnh nhân bạch tạng và thoái triển

khi da trên sẹo lồi trở nên trắng ra).

5. Chất ức chế tế bào bón mạnh: những tế bào bón không những tăng trong sẹo lồi

mà còn có quan hệ gần với các nguyên bào sợi ở ngoài bìa bền vững và bị viêm

của sẹo lồi. Vùng thoái triển của sẹo lồi không có liên quan đến nguyên bào sợi -

tế bào bón.

6. Liệu pháp gene.

Kết luận:

Sẹo lồi, một tổn thương lành tính về mặt nội khoa, nhưng thường ác tính về mặt

tâm lý và xã hội,là những tổn thương thứ phát từ một đáp ứng mô liên kết bất

thường ở những người có khuynh hướng tạo sẹo lồi . Sẹo lồi đặt ra một thách thức

lớn cho bác sĩ điều trị vì tỉ lệ tái phát cao và thường không đáp ứng với điều trị.

Mặc dù tiêu chuẩn vàng hiện nay là cắt bỏ sẹo rồi tiêm IL steroid hoặc dùng những

liệu pháp phụ trợ khác, nhưng rất nhiều những chọn lựa điều trị đã chứng minh

cho thấy rằng không có một liệu pháp duy nhất nào đạt hiệu quả 100%. Vì vậy y

học cần phải nghiên cứu tiếp về điều trị sẹo lồi.