Điều trị ung thư gan

bằng sóng cao tần (RFA)

Gan là vị trí thường gặp của u ác tính nguyên phát và từ chỗ khác di căn đến. Điều

trị chủ yếu là phẫu thuật cắt gan và rất hiếm trường hợp được ghép gan. Tuy

nhiên, các khối u gan đa phần (> 75%) là không thể phẫu thuật được vì u quá lớn

hoặc nhiều khối u nhỏ nằm rải rác ở cả hai thùy gan, xâm lấn vào các mạch máu

lớn hay các tổ chức quan trọng khác nên việc phẫu thuật thường nguy hiểm.

Do vậy, hiện nay trên thế giới có nhiều phương pháp điều trị thay thế đã ra đời

như thuyên tắc động mạch gan (HAE – Hepatic arterial embolization), hoặc hoá trị

- thuyên tắc (TACE – Transarterial chemoembolization), chích cồn qua da (PEI –

percutaneous ethanol injection), điều trị nhiệt đông (cryotherapy) qua da, nội soi

hay mở bụng, hủy u bằng cách dùng sóng cao tần (RFA – Radiofrequency

ablation)…Ở đây chúng tôi chỉ tập trung vào việc ứng dụng RFA trong điều trị

ung thư gan nguyên phát và u di căn gan.

1. RFA là gì?

- RFA (Radiofrequency Ablation) là phương pháp hủy khối u bằng nhiệt gây ra do

bởi sự ma sát của các i-ôn trong mô dưới tác động của dòng điện xoay chiều có tần

số nằm trong khoảng sóng âm thanh (200-1200 MHz). Dòng điện từ máy được

truyền vào khối u qua một điện cực dạng kim (needle electrode), dòng sóng radio

được truyền vào đầu kim và sinh nhiệt. Nhiệt do ma sát làm khô mô xung quanh

dẫn đến làm mất nước trong tế bào và hoại tử đông khối u.

Sóng radio được truyền vào đầu kim và sinh nhiệt để phá hủy u

2. Hiệu quả và lợi ích

- Tùy thuộc vào kích thước của khối u, RFA có thể được thực hiện 1 hay nhiều lần

với mục đích hủy toàn bộ khối u. Thông thường, tổn thương có kích thước dưới 3

cm đòi hỏi 1 hoặc 2 lần điều trị, những tổn thương trên 4 cm có thể cần đến 5 hoặc

6 lần điều trị để có được ranh giới an toàn của việc điều trị ung thư (cách bờ khối u

≥1 cm). Việc quyết định điều trị lại cho bệnh nhân khi có bằng chứng còn sót mô

ung thư trên hình ảnh chụp cắt lớp điện toán sau 1 tháng.

- Trong ung thư gan nguyên phát, khi kích thước u nhỏ (<3,5>

Theo các báo cáo trên thế giới, thủ thuật này rất ít khi gây biến chứng nặng, tỉ lệ

biến chứng nhẹ khoảng 2-3%.

3. Quy trình thực hiện điều trị ung thư gan bằng sóng radio dưới hướng dẫn

của siêu âm

- Sau khi đã có chẩn đoán xác định là ung thư gan nguyên phát hoặc từ vị trí khác

di căn đến, thực hiện các xét nghiệm như một trường hợp chuẩn bị phẫu thuật

thông thường, bác sĩ phẫu thuật sẽ đánh giá tình trạng bệnh để xét chỉ định và đưa

ra kế hoạch điều trị. Thủ thuật thường được thực hiện trong phòng hình ảnh can

thiệp (interventional room) hoặc tại phòng mổ (RFA qua da dưới hướng dẫn của

siêu âm, qua nội soi ổ bụng hoặc mổ hở). Thủ thuật được thực hiện qua da, qua nội

soi ổ bụng hoặc ngay trong lúc mổ bụng.

- RFA qua da với an thần nhẹ và gây tê tại chỗ, sau khi rạch một vết nhỏ trên da,

kim điện cực được đưa vào vị trí u đã xác định trước dưới hướng dẫn của siêu âm

hoặc chụp điện toán cắt lớp (CT-scan), khi vị trí kim đã chắc chắn (đầu kim đâm

xuyên vào khối u khoảng 10 mm), thì kích hoạt máy để sinh nhiệt, thời gian hoạt

động của máy khoảng 6 phút. Thời gian thực hiện thủ thuật trung bình cho 1 đợt

điều trị kéo dài từ 20 đến 30 phút.

- Sau thủ thuật bệnh nhân được nằm theo dõi tại phòng hồi sức hoặc hậu phẫu

khoảng 6 giờ, dùng thuốc giảm đau, kháng sinh dự phòng và bệnh nhân có thể

xuất viện ngay trong ngày.

4. Chỉ định

- RFA là một phương pháp điều trị u gan đang được nghiên cứu, và đến nay vẫn

chưa có chỉ định rõ ràng. RFA vẫn bị giới hạn ở những bệnh nhân quá chỉ định cắt

gan.

- Có ≤4 tổn thương nhỏ (<5>

* Tình trạng chung kém

* Xơ gan hoặc suy gan nhẹ và trung bình

* Vị trí u hoặc phân bố u làm cản trở việc cắt u

* Ung thư gan tái phát (tương đối)

* Bệnh nhân từ chối phẫu thuật

- Hủy u hỗ trợ trong lúc cắt gan không có khả năng cắt hết hoàn toàn u.

- Có ung thư gan nhỏ (<5>

- Có ≤4 tổn thương di căn nhỏ (<5>

5. Chống chỉ định

- Bệnh ngoài da vùng thực hiện thủ thuật

- Thời gian sống thêm dưới 6 tháng

- Có bệnh ác tính khác đang tiến triển

- Xơ gan hoặc suy gan nặng

- Tăng áp lực tĩnh mạch cửa hoặc huyết khối tĩnh mạch cửa

- Rối loạn tâm thần

- Dưới 18 tuổi

- Đang mang thai

- Bệnh phổi nặng

- Nhiễm trùng nặng

- Rối loạn đông máu kháng trị

- Tổn thương lớn (>5 cm) (tương đối)

- Nhiều tổn thương (>4 tổn thương) (tương đối)

- U nằm cạnh mạch máu lớn, màng ngoài tim, cơ hoành, hoặc tạng khác (tương

đối)