Độc tính của thuốc gây tê tại chỗ
Nhiễm độc thuốc gây tê chủ yếu ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung
ương và hệ tim mạch, trong đó, các biểu hiện ở hệ thần kinh trung ương
thường gặp hơn và xảy ra sớm hơn so với các biểu hiện ở hệ tim mạch.
Các loại thuốc gây tê tại chỗ như novocain, lidocain, bupivacain
thường được sử dụng để giảm đau trong các thủ thuật và tiểu phẫu thuật ở
ngoài da và niêm mạc hoặc để phong bế các dây thần kinh cảm giác. Nói
chung, nếu được sử dụng đúng cách, các thuốc này thường chỉ tác dụng tại
chỗ mà ít được hấp thu vào máu nên ít gây tác dụng phụ toàn thân. Bên cạnh
các phản ứng dị ứng, tình trạng nhiễm độc do nồng độ thuốc trong máu cao
quá mức cho phép cũng là một trong các tác dụng phụ thường gặp nhất với
nhóm thuốc này. Sau khi gây tê, nồng độ thuốc tê có thể tăng cao trong máu
vì nhiều lý do khác nhau như thuốc gây tê được tiêm vào mạch máu, tốc độ
tiêm quá nhanh, dùng vượt quá liều quy định hoặc do thuốc hấp thu vào máu
quá nhanh khi gây tê ở một vùng giàu mạch máu (đặc biệt là các vùng niêm
mạc). Khi phong bế thần kinh liên sườn bằng các thuốc gây tê, thuốc cũng
hấp thu nhanh hơn so với khi tiêm dưới da nên nồng độ thuốc trong máu
cũng có thể tăng cao.
Các biểu hiện của nhiễm độc thuốc gây tê
Các biểu hiện nhiễm độc cấp tính thường xảy ra do nồng độ thuốc
tăng nhanh trong máu. Do đó, khi tiêm nhanh một liều nhỏ của thuốc gây tê
cũng có thể gây ra các biểu hiện nhiễm độc cấp tính.
Biểu hiện ở hệ thần kinh trung ương: Các biểu hiện do kích thích hệ
thần kinh trung ương thường xảy ra sớm, giai đoạn muộn là các biểu hiện do
tác dụng ức chế thần kinh của thuốc. Những trường hợp nhẹ hoặc trong giai
đoạn sớm, người bệnh thường có biểu hiện hoa mắt, chóng mặt, ù tai, tê bì
đầu chi, rối loạn vị giác, lú lẫn và buồn ngủ. Trong quá trình tiêm, thầy
thuốc cần liên tục hỏi bệnh nhân về cảm giác của họ, nếu có dấu hiệu nghi
ngờ có nhiễm độc thuốc, cần ngay lập tức ngừng tiêm. Những trường hợp
nặng, người bệnh có thể co giật, mất ý thức, hôn mê, suy hô hấp và ngừng
thở. Tùy thuộc vào loại thuốc và tốc độ tăng của nồng độ thuốc trong máu,
bệnh nhân có thể tỉnh lại sau một thời gian ngắn.
Các biểu hiện ở hệ tim mạch: Ở các trường hợp nhiễm độc nhẹ hoặc
trong giai đoạn sớm, người bệnh thường có nhịp tim nhanh và tăng huyết áp,
đặc biệt là khi thuốc gây tê được tiêm kết hợp với adrenalin. Sau đó người
bệnh thường biểu hiện nhịp tim chậm và tụt huyết áp. Những trường hợp
nặng, người bệnh có trụy tim mạch và rối loạn nhịp tim do tác dụng gây độc
trực tiếp của thuốc tê trên tế bào cơ tim. Nói chung, bupivacain có độc tính
trên cơ tim cao hơn so với lidocain. Rối loạn nhịp tim do thuốc gây tê có thể
rất nặng và dai dẳng, khó điều trị. Nồng độ thuốc gây tê đủ để gây trụy tim
mạch thường cao gấp 4 - 7 lần nồng độ thuốc đủ để gây ra co giật.
Dự phòng
Để giảm thiểu nguy cơ nhiễm độc thuốc gây tê tại chỗ, cần sử dụng
đúng liều thuốc, lựa chọn những thuốc ít độc tính, giảm liều thuốc ở những
người bệnh lớn tuổi hoặc có thể trạng gày yếu, tiêm thuốc chậm và lưu ý rút
pit tông liên tục trong khi tiêm xem có máu ra không để đề phòng tiêm vào
mạch máu. Tiêm thuốc gây tê đồng thời với adrenalin (epinephrin) cũng là
một biện pháp có thể giúp giảm tốc độ hấp thu thuốc vào máu. Các nghiên
cứu cho thấy, việc tiêm phối hợp với adrenalin gây giảm nồng độ tối đa của
thuốc gây tê trong máu khoảng 50%. Adrenalin thường được pha ở nồng độ
1/200.000, với liều tối đa là 200 microgam. Cần lưu ý là việc tiêm phối hợp
với adrenalin sẽ không giúp giảm được độc tính của thuốc gây tê nếu hỗn
hợp thuốc được tiêm vào mạch máu.
Nên đặt sẵn đường truyền tĩnh mạch và chuẩn bị các thuốc và phương
tiện cấp cứu trước khi gây tê. Sau khi gây tê, người bệnh cũng cần được theo
dõi tại cơ sở y tế để phát hiện sớm các độc tính của thuốc có thể xảy ra sau
đó.
Điều trị
Nếu người bệnh có các dấu hiệu nghi ngờ nhiễm độc thuốc gây tê
trong quá trình tiêm, cần ngay lập tức ngừng tiêm và mở đường truyền tĩnh
mạch. Phải đảm bảo thông thoáng đường thở và cho bệnh nhân thở ôxy nồng
độ cao nếu có. Cung cấp đủ ôxy giúp ngăn ngừa tổn thương não, tình trạng
co giật và các rối loạn nhịp tim khó kiểm soát. Nếu bệnh nhân co giật, có thể
dùng diazepam tiêm tĩnh mạch hoặc đặt hậu môn. Các trường hợp hôn mê
phải nhanh chóng đặt ống nội khí quản và cho bệnh nhân thở máy. Nếu bệnh
nhân bị trụy tim mạch, cần điều trị bằng truyền dịch và các thuốc co mạch
như ephedrin. Nếu ephedrin không hiệu quả, có thể dùng adrenalin dung
dịch 1:1000 tiêm dưới da 0,3ml hoặc dung dịch 1:10,000 tiêm tĩnh mạch
chậm 0,5 - 1ml. Điều trị các rối loạn nhịp tim nếu có, ép tim khi có ngừng
tuần hoàn.
Nhiễm độc thuốc gây tê thường có tiên lượng tốt nếu người bệnh được
phát hiện và điều trị sớm. Tình trạng nhiễm độc thường nhanh chóng hồi
phục nếu được điều trị đúng.