VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ XUÂN PHƯƠNG

ĐỐI CHIẾU MỆNH ĐỀ QUAN HỆ TIẾNG ANH

VÀ CÁC BIỂU THỨC TƯƠNG ỨNG TRONG TIẾNG VIỆT

Ngành: Ngôn ngữ học so sánh-đối chiếu

Mã số: 9 22 2024

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Vũ Thị Thanh Hương

HÀ NỘI – 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,

kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và

chưa từng công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.

Tôi xin cam đoan luận án được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm

túc và kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước đã được tiếp thu

một cách chân thực, cẩn trọng, có trích nguồn dẫn cụ thể trong luận án.

Hà Nội, ngày tháng năm 2023

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

i

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i

MỤC LỤC ..................................................................................................................... ii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... iv

DANH MỤC BẢNG .................................................................................................... v

DANH MỤC BIỂU ĐỒ .............................................................................................. vi

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LÝ

THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..................................................................... 9

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 9

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về MĐQH trên thế giới ........................................ 9

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về MĐQH ở Việt Nam ...................................... 16

1.2. Cơ sở lý thuyết ......................................................................................... 23

1.2.1. Các vấn đề lý thuyết về MĐQH ............................................................ 23

1.2.2. Các vấn đề lý thuyết về ngôn ngữ học đối chiếu .................................. 43

1.2.3. Các vấn đề lý thuyết về dịch thuật ........................................................ 46

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 51

Chương 2 ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC – NGỮ NGHĨA CỦA MỆNH ĐỀ QUAN

HỆ TRONG TIẾNG ANH ....................................................................................... 53

2.1. Đặc điểm cấu trúc của MĐQH trong tiếng Anh ...................................... 53

2.1.1. Đặc điểm hình thái cú pháp ................................................................... 53

2.1.2. Đặc điểm chức năng cú pháp ................................................................ 59

2.1.3. Phương tiện liên kết ............................................................................... 78

2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa ................................................................................. 82

2.2.1. Quan hệ ngữ nghĩa giữa danh từ trung tâm và MĐQH ......................... 83

ii

2.3.2. Quan hệ ngữ nghĩa liên mệnh đề ........................................................... 91

Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 94

Chương 3 ĐỐI CHIẾU CHUYỂN DỊCH MỆNH ĐỀ QUAN HỆ TIẾNG

ANH SANG TIẾNG VIỆT ....................................................................................... 96

3.1. Các quan hệ tương đương chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt

......................................................................................................................... 96

3.1.1. Cơ sở phân tích tương đương dịch thuật MĐQH tiếng Anh sang tiếng

Việt .................................................................................................................. 96

3.1.2. Tương đương về hình thức .................................................................... 98

3.1.3. Tương đương về nghĩa biểu hiện ........................................................ 124

3.2. Các kiểu tương đương của MĐQH tiếng Anh và biểu thức tiếng Việt . 130

3.2.1. Phân loại mức độ tương đương chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang

tiếng Việt ....................................................................................................... 130

3.2.2. Mức độ tương đương chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt

....................................................................................................................... 133

Tiểu kết Chương 3 ......................................................................................... 149

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 152

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ....................... 157

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 158

iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Trạng ngữ A:

Bổ ngữ C:

Tân ngữ trực tiếp DO:

Đại từ quan hệ ĐTQH:

Tân ngữ gián tiếp IO:

Mệnh đề quan hệ MĐQH:

Tân ngữ O:

Giới từ Prep:

Chủ ngữ S:

Động từ V:

[[ ]]: Ký hiệu của MĐQH

iv

Bảng 2.1: Vị trí của MĐQH trong mệnh đề chính .................................................... 55

Bảng 2.2: Vị trí của MĐQH với danh từ trung tâm .................................................. 57

Bảng 2.3: Chức năng cú pháp của danh từ trung tâm ............................................... 61

Bảng 2.4: Chức năng cú pháp của ĐTQH ................................................................. 63

Bảng 2.5: ĐTQH làm chủ ngữ .................................................................................. 66

Bảng 2.6: ĐTQH làm tân ngữ trực tiếp ..................................................................... 68

DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1: ĐTQH trong tiếng Anh ............................................................................. 30

Bảng 2.7: Mối quan hệ chức năng cú pháp giữa danh từ trung tâm và ĐTQH

Bảng 2.8: Loại MĐQH theo ĐTQH .......................................................................... 80

Bảng 2.9: MĐQH theo ngữ nghĩa ............................................................................. 83

Bảng 2.10: Đặc điểm ngữ nghĩa của MĐQH hạn định ............................................ 89

Bảng 3.1: Các kiểu tương đương dịch thuật ............................................................. 97

Bảng 3.2: Các cấu trúc tiếng Việt được dùng để dịch MĐQH tiếng Anh ................ 98

Bảng 3.3: MĐQH được dịch bằng cầu trúc động ngữ .............................................. 99

Bảng 3.4: MĐQH được dịch bằng cấu trúc có "mà" .............................................. 103

Bảng 3.5: MĐQH tiếng Anh được dịch thành mệnh đề độc lập tiếng Việt ............ 110

Bảng 3.6: MĐQH được dịch thành Danh từ + động ngữ ........................................ 116

Bảng 3.7: MĐQH được dịch thành Danh từ + động ngữ ........................................ 117

Bảng 3.8: MĐQH được dịch thành cấu trúc Danh từ + mệnh đề ........................... 120

Bảng 3.9: Tổng kết mô hình cấu trúc MĐQH tiếng Anh và các biểu thức tương

đương dịch thuật trong tiếng Việt ........................................................................... 123

Bảng 3.10: Bảng thống kê tương đương nghĩa quá trình giữa MĐQH tiếng Anh và

bản dịch tiếng Việt .................................................................................................. 126

Bảng 3.11: MĐQH theo mức độ tương đương chuyển dịch ................................... 134

Bảng 3.12: Tương đương chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt về hình

thức .......................................................................................................................... 135

Bảng 3.13: MĐQH tiếng Anh được chuyển dịch sang tiếng Việt với mức độ tương

đương cao ................................................................................................................ 135

Bảng 3.14: Bảng thống kê MĐQH được dịch tương đương sang tiếng Việt về nghĩa

biểu hiện .................................................................................................................. 142

……………………………………………………...…………………….….76

v

Biểu đồ 1.1 Tổng kết về mệnh đề ............................................................................. 26

Biểu đồ 1.2 Cụm danh từ chứa bổ ngữ danh từ ........................................................ 37

Biểu đồ 1.3. Cụm danh từ chứa MĐQH .................................................................. 38

Sơ đồ 1.1. Khung lý thuyết phân tích đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa của MĐQH

tiếng Anh ……………………………………………………………….…….….43

Biểu đồ 2.1. ĐTQH sở hữu ....................................................................................... 74

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

vi

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Những năm gần đây chứng kiến xu hướng hội nhập ngày càng sâu và

rộng, thể hiện rõ ở sự giao thoa văn hóa giữa các nước với nhau, trong đó

ngôn ngữ là một trong những biểu hiện rõ nhất. Chính vì vậy, việc học ngoại

ngữ trở thành nhu cầu chung của toàn xã hội. Không thể phủ nhận rằng việc

học một thứ tiếng nước ngoài mang đến những cơ hội nghề nghiệp đáng mơ

ước, trong đó có lĩnh vực dịch thuật. Bởi chức năng cơ bản của ngôn ngữ là

công cụ phản ánh tư duy, mà tư duy con người mang tính phổ quát còn

phương thức diễn đạt chúng lại có những tính đặc thù của từng ngôn ngữ.

Về mặt lý luận, mệnh đề quan hệ (MĐQH) tiếng Anh đã được nghiên

cứu rất nhiều trong các công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Anh. Các

nhà ngữ pháp học thuộc trường phái ngữ pháp truyền thống như Jespersen

[51], Quirk và các cộng sự [84], [85], [86], v.v. xem xét MĐQH tiếng Anh

dưới góc độ cấu trúc trong các công trình nghiên cứu của mình. Ngoài ra,

MĐQH tiếng Anh cũng được nghiên cứu dưới góc nhìn của các nhà ngôn ngữ

học theo trường phái ngữ pháp chức năng như Halliday [41], Givon [37],

Huddleston và Pullum [45], v.v. về chức năng nghĩa của MĐQH trong câu và

cụm danh từ.

Ở Việt Nam, các vấn đề liên quan đến MĐQH tiếng Anh được giảng dạy

phổ biến trong các giáo trình ngữ pháp tiếng Anh áp dụng các tất cả các cấp

học, đặc biệt là ở các cơ sở đào tạo chuyên sâu về ngoại ngữ tiếng Anh. Tuy

vậy, trên thực tế, ở Việt Nam hiện chưa có công trình nghiên cứu nào hệ

thống về cấu trúc – ngữ nghĩa của MĐQH tiếng Anh, cũng như xem xét

MĐQH tiếng Anh trong mối liên hệ với các biểu thức tiếng Việt về cả hai

phương diện là hình thức và nội dung.

Về mặt thực tiễn, dịch thuật là một trong những công việc rất phát triển

trong thời đại ngày nay, vì vậy bộ môn dịch thuật đã được đưa vào chương

1

trình giảng dạy của nhiều trường đại học về ngôn ngữ cũng như kinh tế,

thương mại,…Việc dịch từ ngôn ngữ nước ngoài sang tiếng Việt đòi hỏi

người biên - phiên dịch phải đáp ứng đầy đủ các kỹ năng và kiến thức cần

thiết. Tuy nhiên, trong khi thực hành bộ môn biên dịch ở trường đại học,

chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết sinh viên đều lúng túng khi dịch MĐQH từ

tiếng Anh sang tiếng Việt. Quan sát quá trình dạy và học các học phần Biên,

Phiên dịch ở trường Đại học Thương mại, chúng tôi có một số nhận xét và đặt

vấn đề như sau:

1. Khi dịch văn bản từ tiếng Anh sang tiếng Việt, sinh viên gặp nhiều

khó khăn do giữa hai ngôn ngữ tồn tại rất nhiều điểm khác biệt. Nhìn chung,

trong quá trình dịch, sinh viên thường phụ thuộc vào văn bản gốc, dẫn đến

việc khó đảm bảo được tính tự nhiên của bản dịch.

2. Đặc biệt, do trong tiếng Việt không có MĐQH trong khi cấu trúc này

lại được sử dụng rất phổ biến trong tiếng Anh nên người dịch thường gặp

nhiều lúng túng khi dịch MĐQH từ tiếng Anh sang tiếng Việt.

3. Vậy câu hỏi đặt ra là làm thế nào có thể biểu đạt một cách đầy đủ trên

các bình diện ngữ pháp và ngữ nghĩa MĐQH trong tiếng Anh sang tiếng Việt.

Vấn đề chúng tôi nghiên cứu thực chất là vấn đề về việc so sánh sự không

tương ứng của một hiện tượng ngữ pháp cụ thể giữa hai ngôn ngữ. Trong

tiếng Anh, MĐQH là một cấu trúc diễn đạt phổ biến, là một hệ thống ngữ

pháp thuần nhất đã định hình từ lâu. Ngược lại, hiện tượng này trong tiếng

Việt nếu có cũng chỉ là tiềm ẩn, không xuất hiện thành một tiểu hệ thống

riêng biệt. Vì vậy việc gặp khó khăn về cơ sở lý luận trong nghiên cứu và

thực tế công việc là điều không thể tránh khỏi. Cũng đã có một số công trình

nghiên cứu chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt, nhưng quy mô

ngữ liệu còn hạn chế và nguồn ngữ liệu được lấy từ sách giáo khoa với tính

trang trọng cao, nên kết quả nghiên cứu có thể chưa đủ tin cậy. Do đó việc

2

nghiên cứu đề tài “Đối chiếu mệnh đề quan hệ tiếng Anh và các biểu thức

tương ứng trong tiếng Việt” có ý nghĩa cả về lý thuyết và thực tiễn.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Vận dụng khung lý thuyết kết hợp lý thuyết của ngữ pháp mô tả và ngữ

pháp chức năng hệ thống, luận án tiến hành mô tả đặc điểm cấu trúc hình

thức, ngữ nghĩa của MĐQH tiếng Anh. Luận án cũng thực hiện nghiên cứu

đối chiếu chuyển dịch các MĐQH tiếng Anh và các biểu thức tương ứng

trong tiếng Việt nhằm góp phần làm rõ mức độ tương đương chuyển dịch

MĐQH từ tiếng Anh sang tiếng Việt.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra, luận án phải thực hiện các nhiệm

vụ sau:

(1) Tổng quan tình hình nghiên cứu và xác lập cơ sở lý thuyết cho luận án;

(2) Khảo sát những đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa của MĐQH tiếng Anh

trên tư liệu một số tác phẩm văn học Anh thế kỷ 20.

(3) Đối chiếu tương đương chuyển dịch các MĐQH tiếng Anh và các biểu

thức tương ứng trong bản dịch tiếng Việt của các tác phẩm.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu của luận án là MĐQH trong tiếng Anh trích được

lấy từ ba tác phẩm văn học tiếng Anh (ngữ nguồn) và các biểu thức tương ứng

trong bản dịch tiếng Việt (ngữ đích).

Phạm vi nghiên cứu của luận án giới hạn ở đặc điểm cấu trúc – ngữ

nghĩa của các MĐQH hoàn chỉnh, có sử dụng ĐTQH có chức năng làm định

tố cho danh từ trung tâm của danh ngữ trong tiếng Anh và các biểu thức

tương ứng của chung trong câu dịch tiếng Việt. Theo đó, các MĐQH có chức

năng khác (chẳng hạn, làm thành phần câu độc lập hoặc bổ sung thông tin cho

3

mệnh đề) không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án (xem thêm phần Cơ sở

lý thuyết – Chương 1).

Cụ thể là, các đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa của MĐQH tiếng Anh được

hạn định trong phạm vi như sau:

a. Đặc điểm cấu trúc của MĐQH tiếng Anh: Trên cơ sở lý thuyết của

ngữ pháp mô tả, MĐQH thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án là MĐQH

hoàn chỉnh, nghĩa là có đầy đủ các thành tố chính của một mệnh đề trong

tiếng Anh, với các thành viên tham gia kết cấu gồm chủ ngữ, vị ngữ và các

phụ tố đi kèm. Các thành phần này được xem xét về mặt hình thức của mô

hình kết cấu tạo nên MĐQH. Đồng thời, luận án cũng chỉ tập trung mô tả cấu

trúc của loại MĐQH với vai trò định tố, bổ nghĩa cho danh từ trung tâm và có

sử dụng ĐTQH. Từ đó, có thể loại trừ các loại MĐQH khác, không thuộc

phạm vi nghiên cứu.

b. Đặc điểm ngữ nghĩa của MĐQH tiếng Anh: Về mặt ngữ nghĩa, luận

án vận dụng lý thuyết ngữ pháp chức năng hệ thống để nhận diện và phân loại

MĐQH tiếng Anh theo chức năng ngữ nghĩa của MĐQH hạn định (defining)

và không hạn định (non – defining) trong mối quan hệ giữa MĐQH với danh

từ trung tâm và mệnh đề chính.

c. Đối chiếu chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt: Luận án xác

định phương thức đối chiếu một chiều với tiếng Anh là ngữ nguồn và tiếng

Việt là ngữ đích, từ đó tìm hiểu mức độ tương đương giữa MĐQH tiếng Anh

và các biểu đạt tương ứng trong tiếng Việt dựa trên hai tiêu chí là hình thức

(cấu trúc) và nghĩa biểu hiện (nghĩa quá trình) trong bản gốc tiếng Anh và bản

dịch tiếng Việt.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận án, chúng tôi phối hợp sử dụng các phương pháp khảo

sát, nghiên cứu khác nhau.

4

(1) Phương pháp miêu tả được dùng để phân tích đặc điểm cấu trúc-ngữ

nghĩa của MĐQH trong tiếng Anh. Đặc điểm cấu trúc của MĐQH tiếng Anh

trong luận án được miêu tả dựa trên các tiêu chí về hình thái cú pháp, chức

năng cú pháp và phương tiện liên kết. Ngoài ra, luận án cũng trình bày cụ thể

về đặc điểm ngữ nghĩa của MĐQH tiếng Anh theo tính hạn định của MĐQH

và trong quan hệ về nghĩa với các thành phần có liên quan.

(2) Phương pháp đối chiếu dịch thuật được dùng để đối chiếu MĐQH

trong tiếng Anh và các biểu đạt tương ứng trong bản dịch tiếng Việt. Luận án

phân tích đối chiếu một chiều để tìm ra những biểu đạt tương đương và không

tương đương về mặt hình thức và nghĩa biểu hiện trong tiếng Việt.

(3) Ngoài ra, luận án cũng sử dụng các thủ pháp nghiên cứu khác như

phân loại, thống kê nhằm cung cấp thông tin định lượng cần thiết cho việc mô

tả, nhận xét, đánh giá về đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa, tần suất sử dụng, v.v.

của MĐQH tiếng Anh và các biểu thức tương ứng của chúng trong tiếng

Việt..

4.2. Ngữ liệu nghiên cứu

Ngữ liệu nghiên cứu của luận án được lấy từ ba tác phẩm văn học nổi

tiếng của các tác giả bản ngữ Anh và Mỹ trong thế kỷ 20 và các bản dịch

tiếng Việt của các dịch giả nổi tiếng và đã được các nhà xuất bản uy tín xuất

bản tại Việt Nam. Đó là các tác phẩm “To Kill a Mocking Bird” (Giết con

chim nhại) của Harper Lee, “The Great Gatsby” (Gatsby vĩ đại) của nhà văn

Scott Fitzgerald và “To the Lighthouse” (Đến ngọn hải đăng) của Virginia

Woolf.

Tác phẩm “To Kill a Mocking Bird” (Giết con chim nhại) của nhà văn

người Mỹ, Harper Lee được xuất bản vào năm 1960 và đã giành được giải

thưởng văn học Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1961; đây là cuốn tiểu

thuyết nằm trong danh sách bán chạy nhất thế giới với hàng chục triệu bản và

được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Bản dịch tiếng Việt “Giết con chim

nhại” do dịch giả Huỳnh Kim Anh – Phạm Viêm Phương thực hiện chuyển

5

ngữ, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Văn học. Cuốn sách dịch này đã được

tái bản nhiều lần, chứng tỏ sự đón nhận nhiệt tình từ phía độc giả.

Tác phẩm “The Great Gatsby” (Gatsby vĩ đại) do tác giả người Mỹ Scott

Fitzgerald sáng tác và được xuất bản lần đầu năm 1925. Tiểu thuyết này cũng

nhiều lần được chuyển thể thành kịch và phim ảnh của Hollywood. Năm

2007, cuốn sách được bình chọn là một trong top 10 tác phẩm văn học vĩ đại

nhất mọi thời đại trong cuộc khảo sát do tạp chí Time tổ chức, tổng hợp từ ý

kiến của các nhà văn nổi tiếng. Tác phẩm này cũng được tái bản nhiều lần và

dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tại Việt Nam, tiểu thuyết này đã được

xuất bản nhiều lần với bản dịch của các dịch giả khác nhau cùng những nét

dịch riêng như dịch giả Mặc Đỗ với lần xuất bản đầu tiên năm 1956, dịch giả

Hoàng Cường năm 1985, Trịnh Lữ năm 2009 và một số dịch giả khác. Trong

đó, bản dịch của dịch giả Hoàng Cường nhận được nhiều phản hồi rất tích cực

từ độc giả yêu thích tác phẩm và cũng là bản dịch được tái bản nhiều lần.

Trong luận án này, chúng tôi sử dụng bản dịch “Gatsby vĩ đại” của dịch giả

Hoàng Cường, do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2020.

Tiểu thuyết “To the Lighthouse” (Đến ngọn hải đăng) của nữ nhà văn

người Anh, Virginia Woolf được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1927 và đến

nay đã được tái bản nhiều lần. Một năm sau đó, tác phẩm nhận được giải

thưởng Heinemann Northcliffe và giải Femina Vie Heureuse dành cho tác

phẩm nước ngoài. Trong cuộc bình chọn các tiểu thuyết xuất sắc nhất mọi

thời đại của văn học Anh do BBC tổ chức năm 2015, với sự tham gia đánh giá

của 82 nhà phê bình văn học, tác phẩm “To the Lighthouse” nằm trong top 10

tác phẩm nổi bật nhất, cho thấy giá trị và đóng góp của tác phẩm cho nền văn

học Anh. Tác phẩm này đã được dịch giả Nguyễn Vân Hà dịch sang tiếng

Việt và Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2016. Tác phẩm đã được độc giả

nhiệt tình đón nhận với hàng nghìn bản in bán hết trong thời gian ngắn.

Về chất lượng các bản dịch, chúng tôi đánh giá đây là nguồn ngữ liệu

đáng tin cậy và chính xác cao do đây đều là những bản dịch được xuất bản bởi

6

các nhà xuất bản uy tín, và được tái bản nhiều lần, đặc biệt là khi nghiên cứu

về vấn đề chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt.

Dựa vào tiêu chí nhận diện (xem trang 27), chúng tôi đã xác định được

542 cấu trúc chứa MĐQH trong tiếng Anh và 542 biểu thức dịch tương ứng

trong tiếng Việt. Sau khi thống kê và phân loại theo loại MĐQH, hình thức và

chức năng của ĐTQH, chúng tôi thực hiện phân tích để tìm hiểu đặc điểm cấu

trúc và đặc điểm ngữ nghĩa của MĐQH. Trong luận án này, chúng tôi chỉ lựa

chọn phân tích các MĐQH có chức năng định ngữ và loại trừ các loại MĐQH

khác. Các MĐQH trong luận án được thể hiện bằng dấu [[ ]].

Dựa trên ngữ liệu nghiên cứu trích xuất từ các tác phẩm văn học, chúng

tôi có thể chỉ ra được những đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa của MĐQH tiếng

Anh và các biểu thức tương ứng trong tiếng Việt được áp dụng trong hoạt

động dịch thuật Anh – Việt.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

5.1. Đóng góp về mặt lý luận

Luận án đã tổng kết các quan niệm, phân tích làm rõ thêm khái niệm

MĐQH trong tiếng Anh; miêu tả cụ thể các đặc điểm cấu trúc-ngữ nghĩa của

MĐQH tiếng Anh; khảo sát các biểu thức chuyển dịch tương ứng của chúng

trong tiếng Việt.

5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn

Luận án đã thiết lập được bảng đối chiếu MĐQH tiếng Anh và các

phương thức diễn đạt tương ứng trong tiếng Việt, tổng kết tần suất, mô hình

biểu đạt về cấu trúc và ngữ nghĩa của MĐQH tiếng Anh trong tương quan với

tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu này có thể ứng dụng vào việc dịch thuật nói

chung và dịch câu có chứa MĐQH từ tiếng Anh sang tiếng Việt nói riêng.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Nghiên cứu này có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và ứng dụng thực tiễn.

Về lý luận: Nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa

của MĐQH trong tiếng Anh và các biểu thức diễn đạt tương ứng trong tiếng Việt.

7

Về thực tiễn: Với kết quả nghiên cứu này, luận án sẽ là tài liệu tham

khảo hữu ích cho các hoạt động nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy, học tập

tiếng Anh và tiếng Việt nói chung, MĐQH tiếng Anh và các biểu thức tương

ứng trong tiếng Việt nói riêng.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần chính văn của luận án gồm có ba

chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề lý thuyết liên

quan đến đề tài. Luận án trình bày các nội dung về tình hình nghiên cứu trong

và ngoài nước liên quan đến đề tài; cơ sở lý luận về MĐQH trong ngôn ngữ

học và xác định quan điểm nghiên cứu của luận án, dựa vào đó xác lập khung

lý thuyết phù hợp để phân tích, đối chiếu MĐQH tiếng Anh và các biểu thức

diễn đạt tương ứng trong tiếng Việt.

Chương 2: Đặc điểm cấu trúc-ngữ nghĩa của MĐQH tiếng Anh. Luận án

tổng kết các yếu tố giúp xác định và phân loại MĐQH tiếng Anh. Từ đó, thực

hiện phân tích, khảo sát đặc điểm của MĐQH tiếng Anh từ hướng tiếp cận

cấu trúc và ngữ nghĩa.

Chương 3: Đối chiếu chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt.

Các bình diện và hình thức tương đương dịch thuật được tổng kết một cách hệ

thống trong luận án, làm cơ sở khảo sát các phương thức dịch MĐQH tiếng

Anh sang tiếng Việt.

Ngoài ra, luận án còn có mục tài liệu tham khảo, ngữ liệu nghiên cứu và

phụ lục.

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Trong chương này, luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu

trong và ngoài nước liên quan đến MĐQH và trình bày các quan điểm lý

thuyết có liên quan, qua đó hình thành khung lý thuyết cho nghiên cứu của

luận án. Các nội dung lý thuyết bao gồm những lý luận chung về mệnh đề phụ

và MĐQH, lý luận về đối chiếu ngôn ngữ và tương đương trong dịch thuật.

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

MĐQH là một mệnh đề phụ được kết nối với mệnh đề chính nhờ ĐTQH.

ĐTQH trong tiếng Anh được sử dụng với chức năng thay thế cho các danh từ

chỉ người, động vật, sự vật, sự việc cũng như làm phương tiện liên kết các

mệnh đề trong câu phức. MĐQH còn được gọi là mệnh đề tính ngữ

(adjectival clause) vì nó là một mệnh đề phụ được dùng để bổ nghĩa hoặc giải

thích thêm cho thành phần đứng trước nó (tiền ngữ - antecedent).

MĐQH là một hiện tượng ngữ pháp phổ biến trong nhiều ngôn ngữ khác

nhau của các quốc gia, do vậy đó là một vấn đề nghiên cứu thu hút sự quan

tâm của nhiều nhà nghiên cứu và học giả cả trên thế giới và tại Việt Nam. Các

tác giả đã đi sâu nghiên cứu và có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này.

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về mệnh đề quan hệ trên thế giới

Tiếp cận MĐQH từ góc độ ngôn ngữ học, các công trình được phân chia

thành một số nhánh nghiên cứu, cụ thể là nhánh nghiên cứu có tính lý luận,

nghiên cứu đối chiếu, nghiên cứu dịch thuật và nghiên cứu ứng dụng..

1.1.1.1. Các nghiên cứu có tính lý luận

Trong quá trình nghiên cứu về các hiện tượng ngữ pháp, các nhà ngôn

ngữ học đã xem xét MĐQH tiếng Anh dưới nhiều góc độ khác nhau và theo

các trường phái khác nhau.

9

Các nhà nghiên cứu thuộc trường phái ngữ pháp tạo sinh, với đại diện là

Chomsky, đã đặt nền móng đầu tiên về triết lý và phương pháp cho việc tìm

hiểu về cấu trúc cú pháp của ngôn ngữ từ năm 1957 cùng ấn phẩm “Syntactic

Structure” (Cấu trúc cú pháp) [28]. Các nhà ngữ pháp tạo sinh nhận định

MĐQH là một thành tố của cụm danh từ phức và bổ nghĩa cho danh từ trung

tâm trong cụm danh từ đó. [29]

Đại diện cho trường phái ngữ pháp mô tả, trong cuốn sách “A Grammar

of Contemporary English”, Quirk và Greenbaum đã thiết lập một quan điểm

hiện đại trong nghiên cứu ngôn ngữ học với mục tiêu mô tả hệ thống ngữ

pháp của ngôn ngữ, cho phép người bản ngữ có thể hiểu và sử dụng ngôn ngữ

đó một cách hiệu quả [86]. Quirk và cộng sự đưa ra định nghĩa về tính hạn

định và không hạn định, sau đó, họ đã quyết định xếp MĐQH vào nhóm hậu

bổ tố của cụm danh từ phức. [86] Đồng thời, các nhà ngữ pháp mô tả cũng

định nghĩa quan hệ đẳng lập và phục thuộc nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa

các mệnh đề trong một câu phức.

Trường phái ngữ pháp chức năng hệ thống, kết hợp mô tả cấu trúc ngữ

pháp của ngôn ngữ với chức năng của nó trong ngữ cảnh, do M.A.K. Halliday

khởi xướng từ những năm 1960 và được ứng dụng phổ biến trong nghiên cứu

ngôn ngữ học nói chung và ngữ pháp nói riêng. Theo quan điểm của ngữ pháp

chức năng hệ thống, MĐQH có thể giữ chức năng hậu bổ tố trong cấu trúc

kinh nghiệm của cụm danh ngữ hoặc cấu trúc ngữ nghĩa của cụm; đồng thời

MĐQH cũng là mệnh đề phụ thuộc chi tiết hóa trong cấu trúc tổ hợp mệnh đề

trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau cũng như quan hệ logic-ngữ nghĩa. [41]

Ngoài ra, còn có thêm các công trình nghiên cứu có ý nghĩa được thực

hiện nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý thuyết về MĐQH trong tiếng Anh và

các ngôn ngữ khác được một số nhà nghiên cứu thực hiện, tiêu biểu như Kuno

[59], Lehmann [64], [65] và Moravcsic [75].

10

Bên cạnh các nghiên cứu mang tính nền tảng về ngữ pháp tiếng Anh,

nhánh nghiên cứu lý luận cũng tập trung vào tìm hiểu đặc điểm cú pháp của

MĐQH trong các ngôn ngữ khác nhau. Ví dụ như luận án tiến sỹ của tác giả

Kyu-Suk Shin “Characteristics of the Relative Clause in Korean and the

Problems Second Language Learners Experience in Acquiring the Relative

Clause” (Đặc điểm MĐQH trong tiếng Hàn và các vấn đề người học ngoại

ngữ hai gặp phải khi thụ đắc MĐQH) [90]. Trong công trình này, tác giả tập

trung mô tả các đặc điểm đặc trưng hình thái-chức năng của MĐQH trong

tiếng Hàn bao gồm trật tự các thành tố trong cụm động từ thể hiện mối liên hệ

giữa các âm vị ngữ pháp trong chuỗi thời gian và trải nghiệm theo các quy tắc

ngữ pháp chặt chẽ. Nghiên cứu đồng thời kết hợp nhánh nghiên cứu liên quan

tới việc thụ đắc MĐQH của người học ngoại ngữ với một số đề xuất nâng cao

hiệu quả hoạt động giảng dạy ngữ pháp tiếng Hàn. Trong công trình “The

syntactic complexity of Russian relative clauses” (Độ phức tạp cú pháp của

MĐQH tiếng Nga), nhóm tác giả Roger Levy, Evelina Fedorenko và Edward

Gibson [67] tiến hành bốn thí nghiệm đọc trực tuyến để kiểm tra khả năng

hiểu MĐQH tiếng Nga nhằm làm rõ những dự đoán dựa trên lý thuyết kỳ

vọng và lý thuyết ghi nhớ. Kết quả nghiên cứu khẳng định những dự đoán

quan trọng của lý thuyết kỳ vọng về số lần đọc các động từ của MĐQH và

những dự đoán căn bản của lý thuyết ghi nhớ về khó khăn trong xử lý các tân

ngữ cụm danh từ đầu MĐQH. Từ đó, nghiên cứu đặt ra yêu cầu phải tổng hợp

kiến thức về các lý thuyết dựa trên kỳ vọng và lý thuyết dựa trên ghi nhớ để

xây dựng một lý thuyết hoàn chỉnh về độ phức tạp cú pháp của MĐQH tiếng

Nga. Một số tác giả khác cũng thực hiện các nghiên cứu về đặc điểm của

MĐQH trong các ngôn ngữ ít phổ biến hơn như tiếng Ba Tư, tiếng Idoma,

v.v, có thể kể đến như Rasekh-Mahand [87], Grosu và Hoshi [40], cũng như

Otgonsuren [82].

11

1.1.1.2. Các nghiên cứu đối chiếu

Nhánh nghiên cứu đối chiếu MĐQH trong các ngôn ngữ khác nhau cũng

là một trong những lĩnh vực nghiên cứu thu hút sự quan tâm của nhiều học giả

với những công trình tiêu biểu như “Rethinking the typology of relative

clauses” của Comrie [31], trong đó tác giả đối chiếu cú pháp của MĐQH

trong rất nhiều ngôn ngữ Âu – Á như tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng

Nhật, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, v.v.; “Free Choice Free Relative Clauses in Italian

and Romanian” (MĐQH tự do trong tiếng Ý và tiếng Rumani) của các tác giả

Ivano Caponigro và Anamaria Falaus [25] tiến hành phân tích sâu đặc điểm

cú pháp – âm vị của MĐQH trong tiếng Ý và tiếng Rumani, từ đó tìm ra điểm

tương đồng và khác biệt trong cú pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của MĐQH

trong hai ngôn ngữ đó trong đối chiếu với tiếng Anh. Đặc biệt, còn nghiên

cứu của tác giả Herrmann [43], [44] nghiên cứu đối chiếu MĐQH trong

phương ngữ Anh tại các khu vực khác nhau trong quần đảo Anh.

Rộng hơn, các nhà ngôn ngữ học đã thực hiện nhiều nghiên cứu hình thái

học về các phương thức quan hệ trong 172 ngôn ngữ, gồm các tác giả Comrie

[30], Culy [33], Downing [35], Givón [37], Keenan [53], Keenan & Comrie

[54], Lehmann [64], Smits [93], và Vries [99]. Qua việc đối chiếu hình thái

MĐQH trong các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới, các tác giả đã đưa ra tổng

kết về đặc điểm hình thái phổ thông mà hầu như tất cả các ngôn ngữ trên thế

giới đều có, trong đó có MĐQH.

1.1.1.3. Các nghiên cứu về dịch thuật

Trên thế giới, có nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu đối chiếu chuyển

dịch MĐQH tiếng Anh sang các ngôn ngữ bản địa. Một số tác giả cũng đã

thực hiện khảo sát MĐQH trong một số văn bản, tài liệu và đề xuất một số

phương thức dịch. Có thể kể ra nghiên cứu điển hình như luận án tiến sỹ của

Al-Goot Abdalla Al Awad Salim “Problems of Translating English Relative

Clauses into Arabic Among EFL Sudanese Universities” (Những vấn đề trong

12

chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Ả rập ở các trường đại học tại

Sudan) [88]. Tác giả đã thực hiện phân tích đối chiếu chuyển dịch MĐQH

như là một thành tố của hai ngôn ngữ được nghiên cứu. Nghiên cứu sử dụng

một bài kiểm tra với các câu được thiết kế cụ thể chứa năm loại MĐQH tiếng

Anh và tiếng Ả rập bao gồm ba loại MĐQH tiếng Anh và hai loại MĐQH

tiếng Ả rập. Tác giả sử dụng phần mềm SPSS để phân tích dữ liệu và đo

lường sự khác biệt giữa các sinh viên về trình độ học vấn, giới tính và hướng

chuyển dịch. Kết quả cho thấy loại MĐQH khó nhất đối với các sinh viên là

MĐQH không hạn định tiếng Ả rập. Dựa trên các kết quả nghiên cứu, tác giả

đưa ra một số đề xuất cho việc dạy và học tiếng Anh và tiếng Ả rập. Nghiên

cứu của Leenakitti và Pongpairoj “A Study of Translation of Relative Clauses

from English into Thai” (Nghiên cứu dịch thuật MĐQH từ tiếng Anh sang

tiếng Thái) [63] tìm hiểu các phương thức được sử dụng để dịch MĐQH tiếng

Anh với các ĐTQH ‘who’, ‘which’ và ‘that’ sang tiếng Thái. Nghiên cứu sử

dụng ngữ liệu gồm 348 cặp câu từ hai cuốn tiểu thuyết tiếng Anh và bản dịch

tiếng Thái. Tác giả đặt giả thuyết các phương thức dịch được sử dụng có thể

chia thành hai nhóm: dịch nghĩa đen với ĐTQH và dịch có điều chỉnh. Để

phân tích ngữ liệu, nghiên cứu sử dụng mô hình xây dựng dựa trên các

phương thức dịch của Chesterman (1997), bổ sung thêm các thủ pháp dịch có

điều chỉnh của Nida (1964) và Saibua (2007). Kết quả nghiên cứu chứng

minh hai phương thức dịch chính được sử dụng để dịch MĐQH tiếng Anh

sang tiếng Thái là dịch nghĩa đen và dịch có điều chỉnh, trong đó dịch nghĩa

đen thể hiện các cấu trúc ngữ dụng song song giữa MĐQH tiếng Anh và tiếng

Thái, còn dịch có điều chỉnh nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ.

Adam Anshori với “An Analysis of Embedded Clauses in Sidney Sheldon's

NOTHING LASTS FOREVER and Their Translation in Indonesian” (Phân

tích mệnh đề bị bao trong “Không có gì mãi mãi” của Sidney Sheldon và bản

dịch tiếng Indonesia) [20] nghiên cứu dịch thuật các mệnh đề bị bao với các

13

ĐTQH ‘who’, ‘that’ và ‘which’ sang tiếng Bahasa Indonesia. Mẫu nghiên cứu

gồm 91 ĐTQH được thu thập từ một cuốn tiểu thuyết. Kết quả cho thấy bản

dịch các mệnh đề bị bao tiếng Anh với ĐTQH có thể được phân loại thành ba

nhóm: 1) được dịch sang ĐTQH ‘yang’ trong tiếng Indonesia, 2) được dịch

sang ĐTQH khác và 3) không được dịch (không tương đương). Phương thức

dịch phổ biến nhất với tỷ lệ 89.01% là dịch sang mệnh đề bị bao trong tiếng

Indonesia với ĐTQH ‘yang’.

1.1.1.4. Các nghiên cứu ứng dụng

Xử lý và hiểu nghĩa MĐQH cũng là một hướng nghiên cứu phổ biến với

công trình như luận án tiến sỹ “Factors Affecting Relative Clause Processing

in Mandarin” [102] (Các yếu tố ảnh hưởng tới xử lý MĐQH trong tiếng

Trung) của tác giả Fuyun Wu. Nghiên cứu tìm hiểu phương thức xử lý

MĐQH tiếng Trung của các độc giả Trung Quốc, cụ thể là ảnh hưởng của các

yếu tố nơi trích dẫn, cấu hình động và vị trí loại từ đối với phân tích cú pháp

MĐQH tiếng Trung. Tác giả đã thực hiện nghiên cứu khối liệu mở rộng để

khám phá phân bổ và tần suất của mỗi yếu tố trong các MĐQH trích từ khối

liệu, sau đó tác giả tiến hành thí nghiệm về xử lý MĐQH tiếng Trung của độc

giả trực tuyến. Kết quả nghiên cứu khối liệu và thí nghiệm hành vi cho thấy

một loạt các yếu tố cú pháp, ngữ nghĩa và diễn ngôn phối hợp với nhau định

hướng quá trình xử lý MĐQH tiếng Trung. Nhóm tác giả Willem Mak,

Wietske Vonk và Herbert Schriefers đã thực hiện nghiên cứu “Discourse

structure and relative clause processing” [101] (Xử lý cấu trúc diễn ngôn và

MĐQH). Nghiên cứu đề ra giả thuyết về chủ đề tác động tới sự ưu tiên sử

dụng các MĐQH chủ ngữ. Giả thuyết tuyên bố thực thể có tính chủ đề nhất

trong MĐQH sẽ được lựa chọn làm chủ ngữ. Theo quy tắc, tiền ngữ của

MĐQH sẽ được chọn làm chủ ngữ của MĐQH vì đó là chủ đề của MĐQH.

Tuy nhiên, khi cụm đồng từ trong MĐQH cũng có tính chủ đề, tiền ngữ sẽ

không còn được ưu tiên làm chủ ngữ. Thông qua hai thí nghiệm, các tác giả

14

thử nghiệm các MĐQH với một đại từ nhân xưng và vị trí diễn ngôn của cụm

danh từ trong MĐQH. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố diễn ngôn định

hướng quá trình xử lý tại cấp độ câu. Bên cạnh đó còn có các nghiên cứu khác

của các tác giả như Andrews [19], Humphreys [46], Yun [105], Maia và các

tác giả [71], Troyer và các tác giả [96], Szterman và Friedmann [94],

Liversedge [68].

Đã có một số tác giả thực hiện nhiều công trình về thụ đắc MĐQH trong

hoạt động dạy và học ngôn ngữ trên thế giới. Điển hình là, “The analysis of

students’ error using relative clause” [60] (Phân tích lỗi sử dụng MĐQH của

sinh viên) của tác giả Stevyara Rismawathy Kusdianty. Nghiên cứu tìm hiểu

các loại lỗi MĐQH và tập trung vào lỗi về một số ĐTQH. Tác giả sử dụng

phương pháp nghiên cứu định tính với hai công cụ thu thập dữ liệu gồm quan

sát bài kiểm tra viết của sinh viên để xác định việc sử dụng ĐTQH và phỏng

vấn để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến lỗi áp dụng ĐTQH của sinh viên. Kết

quả nghiên cứu cho thấy sinh viên mắc lỗi phổ biến với ĐTQH “who” với

33.6%. Các lỗi với ĐTQH “whom”, “which”, “whose” có tỷ lệ xấp xỉ nhau.

Nguyên nhân dẫn đến lỗi sau là do ảnh hưởng của chuyển dịch liên ngôn và

ảnh hưởng của tiếng bản ngữ đối với cách phát âm và viết ĐTQH. Các tác giả

Yumiko Yamaguchi và Satomi Kawaguchi với “Development of relative clause

constructions in English L2” [103] (Phát triển khả năng xây dựng MĐQH

trong học ngoại ngữ tiếng Anh) tìm hiểu phương thức phát triển khả năng xây

dựng MĐQH trong quá trình thụ đắc tiếng Anh như là một ngoại ngữ. Nghiên

cứu được thực hiện trong hai năm, tiến hành ghi âm định kỳ phần nói sản sinh

tức thời của học sinh tiểu học Nhật Bản, học tiếng Anh trong môi trường tự

nhiên và quá trình phát triển các cấu trúc MĐQH được so sáng với quá trình

thu đắc các cấu trúc âm vị và cú pháp tiếng Anh khác. Kết quả nghiên cứu cho

thấy một số loại cấu trúc MĐQH phát sinh từ những giai đoạn đầu trong quá

15

trình thụ đắc ngoại ngữ tiếng Anh. Ngoài ra, còn có các nghiên cứu khác của

Marefat [72], Ozeki và Shirai [83], Arseneau và các tác giả [21].

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về MĐQH ở Việt Nam

Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã có một số công trình phân tích về

MĐQH trong quá trình tìm hiểu các khía cạnh của ngôn ngữ. Tuy nhiên, cho

đến nay, vẫn chưa có tài liệu nghiên cứu chuyên môn về tiếng Việt nào khẳng

định chắc chắn sự có mặt của MĐQH trong tiếng Việt. Do đó, hầu hết các công

trình nghiên cứu của các học giả đều tập trung tìm hiểu về MĐQH trong ngôn

ngữ nước ngoài. Khác với các nghiên cứu trên thế giới, các tác giả Việt Nam

chủ yếu nghiên cứu MĐQH từ góc độ ngôn ngữ học với các nhánh nghiên cứu

về phân tích MĐQH trong một ngôn ngữ nước ngoài và tìm hiểu các cấu trúc

tương đương trong tiếng Việt, có nhánh nghiên cứu thiên về ngôn ngữ học ứng

dụng tìm hiểu MĐQH trong quá trình dạy và học ngoại ngữ và đường hướng

nghiên cứu về dịch thuật MĐQH từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt.

1.1.2.1. Các nghiên cứu đối chiếu

Luận án tiến sỹ ngữ văn “Phân tích đối chiếu mệnh đề phụ trong câu

tiếng Pháp và tiếng Việt” [17] của Nguyễn Lân Trung trình bày các loại mệnh

đề phụ trong tiếng Pháp và tiếng Việt, trong đó tác giả chỉ dành một phần rất

nhỏ để mô tả mệnh đề phụ quan hệ trong tiếng Pháp còn mệnh đề phụ tiếng

Việt được tổng kết theo cấp độ chức năng và cấp độ ngữ nghĩa và không đề

cập tới MĐQH tiếng Việt. Nghiên cứu tiến hành phân tích đối chiếu mệnh đề

phụ tiếng Pháp và tiếng Việt theo chức năng như chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ,

bổ ngữ và định ngữ. Trong tiếng Pháp, cụm chủ-vị làm định ngữ của danh từ

được liên kết bằng hệ thống các ĐTQH, với sự lựa chọn ĐTQH phụ thuộc

vào cấu trúc cú pháp hay chức năng mà nó đảm nhiệm trong mệnh đề phụ,

vào quan hệ của nó với động từ của mệnh đề phụ và vào bản chất ngữ pháp

của danh từ hay đại từ mà nó thay thế. Tương ứng, trong tiếng Việt, mệnh đề

phụ định ngữ thuộc loại định ngữ miêu tả, là cụm chủ-vị đứng sau danh từ. Về

16

mặt ý nghĩa, cụm chủ-vị làm mệnh đề phụ định ngữ có thể có quan hệ trực

tiếp hoặc gián tiếp với từ tiền vị mà nó bổ nghĩa. Các quan hệ từ trong tiếng

Việt có số lượng hạn chế và được sử dụng không phân biệt mối quan hệ cú

pháp của từ tiền vị với mệnh đề phụ. Trong nghiên cứu này, tác giả cũng thực

hiện khảo sát cách chuyển dịch mệnh đề phụ trong câu tiếng Pháp và tiếng

Việt trên ngữ liệu một số tác phẩm văn học song ngữ Pháp-Việt. Đối với

mệnh đề phụ định ngữ, luận án nghiên cứu các giải pháp chuyển dịch theo hệ

thống ĐTQH từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và việc sử dụng các quan hệ từ

trong tiếng Việt. Luận án đưa ra tổng kết giải pháp chuyển dịch từ tiếng Pháp

sang tiếng Việt được sử dụng phổ biến nhất là lược bỏ ĐTQH do sự chênh

lệch lớn về số lượng ĐTQH tiếng Pháp và quan hệ từ trong tiếng Việt. Phạm

Xuân Mai với luận án tiến sỹ ngữ văn “Câu phức phụ thuộc định ngữ trong

tiếng Nga và những hiện tượng trong tiếng Việt” [10] tập trung vào nghiên

cứu câu phức phụ thuộc với ĐTQH định ngữ mở rộng danh từ và loại câu với

một ĐTQH cụ thể trong tiếng Nga để phân tích đối chiếu. Trong nghiên cứu

này, tác giả đã khảo sát cấu trúc ngữ nghĩa – cú pháp của câu phức phụ thuộc

định ngữ tiếng Nga để làm sáng tỏ sự tương đồng và khác biệt trong các

phương thức thể hiện cùng một ý nghĩa định ngữ và chức năng của yếu tố

cùng loại thuộc cấu trúc ngôn ngữ trong tiếng Nga và tiếng Việt. Luận án đã

làm rõ những lý thuyết tiêu biểu về quan hệ định ngữ trong tiếng Nga và tiếng

Việt, cụ thể là trong tiếng Nga, quan hệ định ngữ thuộc từ được xác định và

phân tích ở cấp độ câu phức còn trong tiếng Việt không đề cập tới quan hệ

định ngữ ở cấp độ câu phức mà hầu như chỉ giới hạn trong cụm danh ngữ.

Theo tác giả tổng kết, trong tiếng Việt, các phương tiện biểu thị cho quan hệ

liên kết phụ thuộc định ngữ có số lượng rất hạn chế và không được nghiên

cứu độc lập và có hệ thống như trong các ngôn ngữ khác, ngược lại trong

tiếng Nga, các phương tiện chủ yếu thể hiện quan hệ định ngữ giữa các bộ

phận của câu phức phụ thuộc định ngữ là các liên từ và được thể hiện phong

17

phú hơn tiếng Việt rất nhiều. Thông qua khảo sát các câu phức phụ thuộc định

ngữ trên cơ sở ngữ liệu các tác phẩm văn học Nga – Xô viết và Việt Nam

cùng với các bản dịch tương ứng đã xuất bản, tác giả đã đưa ra các mô hình

đối chiếu Nga – Việt của câu phức phụ thuộc định ngữ được phân loại theo

quan hệ ngữ nghĩa giữa vật thể - vật thể, vật thể - tính chất, vật thể - sở hữu,

vật thể - không gian và vật thể - thời gian. Tác giả cũng tập trung nghiên cứu

sâu câu phức phụ thuộc định ngữ với một ĐTQH cụ thể trong tiếng Nga và

các cấu trúc tương đương trong tiếng Việt, hơn nữa, tác giả còn đối chiếu

ngược lại các cấu trúc tương đương tiếng Việt sang tiếng Nga nhằm xác định

cấu trúc biểu hiện ngữ nghĩa tương đương phần phụ định ngữ với ĐTQH đó

trong tiếng Nga có thể có hình thức của cụm danh từ hoặc cụm C-V đảm nhận

một chức năng cú pháp nhất định trong câu; câu đơn; câu phức; hai câu. Dựa

trên kết quả nghiên cứu, tác giả đã đưa ra một số đề xuất nâng cao hiệu quả

giảng dạy và dịch thuật câu phức phụ thuộc định ngữ tiếng Nga cho người

Việt. Hà Thành Chung với luận án tiến sỹ “Cú phân từ định ngữ, trạng ngữ

tiếng Anh và các kết cấu tương đương trong tiếng Việt” [3] tìm hiểu các đặc

trưng về cấu trúc, ngữ nghĩa và ngữ dụng của cú phân từ tiếng Anh và các kết

cấu tương đương trong tiếng Việt, từ đó chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt

của từng ngôn ngữ trong việc cấu tạo và sử dụng các kết cấu đó, đồng thời áp

dụng lý luận về dịch thuật để đánh giá cách dịch các cú phân từ tiếng Anh

trong các tác phẩm văn học sang tiếng Việt của các dịch giả Việt Nam. Tác

giả thực hiện nghiên cứu cú phân từ tiếng Anh dựa trên các đặc điểm kết học,

ngữ nghĩa và ngữ dụng, trong đó tác giả dành một phần nghiên cứu để so sánh

cú quan hệ và cú phân từ định tiếng Anh. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá

khả năng rút gọn của cú quan hệ để tạo thành cú phân từ định ngữ theo hai

loại cú quan hệ hạn định và cú quan hệ không hạn định. Ngoài ra, nghiên cứu

cũng chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa cú phân từ định ngữ tiếng Anh và

ngữ động từ định ngữ trong tiếng Việt bằng cách xây dựng sơ đồ mối tương

18

quan giữa cú quan hệ, cú phân từ định ngữ tiếng Anh và các ngữ động từ và

ngữ động từ định ngữ trong tiếng Việt. Trên cơ sở ngữ liệu một số tác phẩm

văn học tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt, tác giả đã so sánh và nêu lên hai

vấn đền cần lưu ý khi dịch các cú phân từ định ngữ và trạng ngữ tiếng Anh

sang tiếng Việt, bao gồm thay đổi cấu trúc do sự khác biệt về loại hình ngôn

ngữ giữa tiếng Anh và tiếng Việt; và trình tự xuất hiện của các cấu trúc tương

đương với cú phân từ định ngữ và cú phân từ trạng ngữ trong câu văn dịch về

trật tự thời gian hay logic nhất định. Cuối cùng, tác giả đưa ra một số đề xuất

cách dịch cú phân từ định ngữ và trạng ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt phù

hợp với từng loại cú phân từ. Đặc biệt, nghiên cứu còn đề xuất một sơ đồ các

cách dịch chi tiết từng loại cú phân từ định ngữ và trạng ngữ tiếng Anh sang

tiếng Việt, giúp các dịch giả có thể tham khảo để lựa chọn cách dịch phù hợp

nhất trong ngữ cảnh.

1.1.2.2. Các nghiên cứu về dịch thuật

Ở nước ta, đã có một số tác giả thực hiện nghiên cứu về ĐTQH và

MĐQH trong một ngôn ngữ nước ngoài và tìm hiểu các cấu trúc dịch tương

đương sang tiếng Việt. Tác giả Đường Công Minh thực hiện luận án tiến sỹ

với đề tài “Nghiên cứu đại từ quan hệ trong câu tiếng Pháp và các hình thức

biểu đạt ý nghĩa tương đương trong tiếng Việt” [11], tác giả Đặng Thị Toàn

Thư đã thực hiện luận văn ngôn ngữ với đề tài “Đại từ quan hệ trong tiếng

Anh và các cấu trúc tương đương trong tiếng Việt” [15], và tác giả Nguyễn

Thủy Minh xuất bản bài báo “Một số cách dịch các mệnh đề phụ quan hệ

tiếng Anh sang tiếng Việt” [12]. Ngoài ra còn có các nghiên cứu đối chiếu đại

từ/ MĐQH tiếng Nga và tiếng Việt dưới góc nhìn ngôn ngữ học. Trên thực tế,

đa số các tác giả vận dụng phương pháp nghiên cứu thống kê, mô tả và so

sánh hiện tượng ngữ pháp này giữa hai ngôn ngữ. Hơn nữa, tất cả các tác giả

còn tổng hợp tài liệu và phân tích đối chiếu cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa

của MĐQH trong tiếng nước ngoài và tìm hiểu cấu trúc tương đương trong

19

tiếng Việt. Từ đó, họ đưa ra kết luận rằng đại từ/ MĐQH là một hiện tượng ngữ

pháp đặc biệt trong tiếng nước ngoài mà hầu như không có cấu trúc tương đương

hoàn toàn trong tiếng Việt. Các tác giả đã tổng kết và đề xuất một số hình thức

diễn đạt có ý nghĩa tương ứng với MĐQH trong tiếng nước ngoài. Các kết quả

nghiên cứu cho thấy có những phương thức dịch câu có chứa MĐQH sang tiếng

Việt, bao gồm: Lược bỏ ĐTQH; Sử dụng “mà” thay thế cho ĐTQH; Sử dụng

yếu tố hồi chỉ tiền từ; Sử dụng động ngữ kèm yếu tố chỉ thời thể; Biến đổi cấu

trúc cú pháp; và Sử dụng dấu ngoặc đơn hoặc gạch ngang

Về ngữ liệu, đa số các tác giả thực hiện nghiên cứu về phương thức dịch

MĐQH sang tiếng Việt dựa trên các cuốn sách giảng dạy ngữ pháp và giáo

trình tiếng nước ngoài với chú giải tiếng Việt. Ưu điểm của ngữ liệu này là dễ

tìm, dễ so sánh, đối chiếu với cấu trúc chính xác, quy phạm. Tuy nhiên, nhược

điểm chính của ngữ liệu này là các cấu trúc khá gượng ép, không thực sự tự

nhiên như diễn đạt thông thường; hơn nữa, nhiều khả năng các câu chứa

MĐQH trong các ngữ liệu này được tạo ra theo ý kiến chủ quan của người biên

soạn nên khó có thể mang tính khái quát hóa. Ngoài ra, trong nghiên cứu của

mình, tác giả Đặng Thị Toàn Thư sử dụng ngữ liệu là bốn truyện ngắn Ấn Độ.

Tuy được viết nguyên bản bằng tiếng Anh nhưng tác giả của các câu truyện

ngắn này là người Ấn Độ, không phải là người bản ngữ tiếng Anh. Do đó, họ

có thể sử dụng những cấu trúc diễn đạt không thực sự phù hợp với văn phong

của người bản ngữ. Từ đó, khó có thể đưa ra tổng kết chính xác về phương

thức sử dụng MĐQH trong bản gốc cũng như hình thức dịch sang tiếng Việt.

Về phương pháp nghiên cứu, tác giả Đường Công Minh và Đặng Thị

Toàn Thư thực hiện nghiên cứu về phương thức dịch MĐQH theo hai chiều,

từ ngoại ngữ sang tiếng Việt và ngược lại. Từ đó, họ có thể đưa ra quan điểm

thấu triệt hơn, với kết quả thuyết phục hơn. Ngoài ra, tác giả Đặng Thị Toàn

Thư còn mô hình hóa các phương thức dịch giữa hai ngôn ngữ với các cấu

20

trúc rõ ràng, cô đọng giúp cho dịch giả dễ dàng áp dụng trong việc giải quyết

khó khăn khi dịch MĐQH.

Về trình bày kết quả nghiên cứu, đa số các tác giả mới chỉ tổng kết các

phương thức thường được sử dụng để dịch cấu trúc MĐQH giữa hai ngôn ngữ

mà chưa chỉ ra mức độ phổ biến của từng phương thức. Do đó, giá trị của

những phát hiện này có phần hạn chế. Hơn nữa, các tác giả cũng chưa đưa ra

những đề xuất rõ ràng về phương thức nào nên được sử dụng trong từng

trường hợp cụ thể cùng với các điều kiện cụ thể, mang tính thực tế cho dịch

giả áp dụng.

1.1.2.3. Các nghiên cứu ứng dụng

Tại Việt Nam, cũng đã có một số nghiên cứu về MĐQH từ góc độ ngôn

ngữ học ứng dụng trong quá trình thụ đắc ngoại ngữ của người học. Trong

luận văn “Semantic and syntactic problems in using relative clauses in

English of Yendinh high school students” [61] (Những vấn đề về ngữ nghĩa

và cú pháp trong sử dụng MĐQH tiếng Anh của học sinh trường Yên Định)

của Trịnh Đình Lan, tác giả đã tổng quan các tài liệu liên quan và trình bày các

đặc điểm cú pháp và ngữ nghĩa cũng như phân loại MĐQH trong tiếng Anh.

Với mục tiêu tìm hiểu những khó khăn về ngữ nghĩa và cú pháp mà học sinh

thường gặp khi sử dụng MĐQH tiếng Anh, dữ liệu nghiên cứu được thu thập

thông qua một bài kiểm tra gồm ba bài tập cho khách thể nghiên cứu gồm 40

học sinh lớp 10. Kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh thường mắc lỗi sai phổ

biến nhất với ĐTQH “that” (77.5%) do không nhớ kỹ các đặc điểm cú pháp và

ngữ nghĩa và phân biệt được trường hợp sử dụng của “that” và “which” trong

MĐQH tiếng Anh; tỷ lệ lỗi sai trong khi kết hợp câu sử dụng MĐQH cũng khá

lớn (32%) do người học xác định sai vị trí của MĐQH trong câu; 56% mắc lỗi

sai về việc sử dụng MĐQH hạn định và không hạn định. Dựa trên kết quả

nghiên cứu, tác giả đã đưa ra một số đề xuất hữu ích giúp nâng cao hiệu quả

dạy và học tiếng Anh nói chung, MĐQH tiếng Anh nói riêng.

21

Luận văn “A study on 11th form students’ acquisition of English relative

clauses” [8] (Nghiên cứu về độ tiếp thu MĐQH tiếng Anh của học sinh lớp

11) của tác giả Nguyễn Thị Hoa đã nghiên cứu trực tiếp về khả năng thụ đắc

MĐQH tiếng Anh đối với học sinh phổ thông trung học. Nghiên cứu chia đối

tượng học sinh thành hai nhóm với trình độ tiếng Anh khác nhau và tìm hiểu

về khó khăn trong việc xử lý MĐQH thông qua hoạt động xác định những lỗi

sai mà các học sinh lớp 11 tại một trường trung học phổ thông tại Hà Nội mắc

phải khi sử dụng MĐQH. Nghiên cứu được thực hiện trên 65 học sinh thuộc

hai lớp 11 tại trường. Các học sinh được yêu cầu làm một bài kiểm tra với 30

câu hỏi về các loại MĐQH khác nhau bao gồm Chủ ngữ - Chủ ngữ, Chủ ngữ -

Tân ngữ, Tân ngữ - Chủ ngữ và Tân ngữ - Tân ngữ. Kết quả cho thấy học sinh

ở cả hai lớp đều gặp khó khăn với việc xử lý dạng MĐQH Tân ngữ - Chủ ngữ

và Tân ngữ - Tân ngữ với rất ít bằng chứng chứng minh cho bốn giả thuyết về

Cấu trúc Chủ ngữ - Tân ngữ; Cấu trúc Tiếp nhận cụm danh từ; Chức năng

song song và Khó khăn cảm nhận. Ngoài ra, từ kết quả nghiên cứu cho thấy

những học sinh có trình độ tiếng Anh cao hơn có tỷ lệ lỗi sai khi sử dụng

MĐQH ít hơn nhóm còn lại. Tuy nhiên, cả hai nhóm lớp đều mắc phải một số

lỗi sai về MĐQH Tân ngữ - Chủ ngữ và Tân ngữ - Tân ngữ khi làm bài tập.

Sau khi tìm hiểu các nghiên cứu đã được thực hiện về dịch MĐQH,

chúng tôi nhận thấy vấn đề này đã được chú ý tới nhưng số lượng nghiên cứu

vẫn còn hạn chế, đặc biệt là dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Đồng thời, các

nghiên cứu đã thực hiện vẫn còn tồn tại một số nhược điểm quan trọng cần

phải khắc phục. Các nghiên cứu chưa sử dụng nhiều các ngữ liệu là các văn

bản do người bản ngữ sáng tác hoặc biên soạn. Kết quả nghiên cứu được trình

bày rõ ràng nhưng chưa rõ tỷ lệ cụ thể của từng phương thức cũng như chưa

có đề xuất các phương thức dịch phù hợp cho từng bối cảnh cụ thể. Đây chính

là những khoảng trống nghiên cứu mà chúng tôi có thể khai thác trong khi

thực hiện luận án của mình.

22

1.2. Cơ sở lý thuyết

1.2.1. Các vấn đề lý thuyết về MĐQH

1.2.1.1. Các quan niệm về MĐQH

Theo Slim [91], trong tiếng Anh, có hai loại mệnh đề: mệnh đề chính

và mệnh đề phụ. Câu trong tiếng Anh có thể bao gồm một hoặc nhiều mệnh

đề tùy theo loại câu đó là câu đơn, câu phức hay câu ghép. Một câu đơn phải

có ít nhất một mệnh đề. Một điểm cần lưu ý là tất cả các loại câu hoàn chỉnh

đều là mệnh đề trong khi không phải tất cả mệnh đề đều là câu.

Mệnh đề phụ (subordinate clause) bao gồm chủ ngữ và vị ngữ, đóng vai

trò hỗ trợ cho mệnh đề chính mà không đứng riêng thành câu đơn lẻ. Trong khi

mệnh đề chính có ý nghĩa hoàn chỉnh, mệnh đề phụ không có ý nghĩa hoàn

chỉnh. Mệnh đề phụ có chức năng như một từ loại đơn lẻ (danh từ, tính từ hoặc

trạng từ). Các nhà ngữ pháp học vẫn chưa đạt được sự thống nhất về thuật ngữ

và cách thức phân loại mệnh đề phụ. Tuy vậy, cách thức phân loại của

Greenbaum và Quirk [39] có thể là quan điểm được chấp nhận rộng rãi hơn cả.

Theo [39], có ba loại mệnh đề phụ trong tiếng Anh, bao gồm: mệnh đề

danh ngữ (Noun/ Nominal clauses), mệnh đề trạng ngữ (adverbial clauses) và

MĐQH (relative clauses). Ba loại mệnh đề phụ này đều là các phương tiện

biểu đạt mang tính thích ứng cao và sinh ra từ nhiều môi trường, trong đó mỗi

loại mệnh đề lại mang những điểm đặc trưng cụ thể [98].

Mệnh đề danh ngữ có thể đóng vai trò chủ ngữ của câu, chủ ngữ của

động từ, tân ngữ của giới từ, bổ ngữ của chủ ngữ, bổ ngữ của tân ngữ và bổ

ngữ của giới từ. Các mệnh đề danh ngữ trong tiếng Anh thường bắt đầu bằng

các từ nghi vấn như what, when, how, whom, why, whether và whomever

[81]. Opega [81, tr.163] đưa ra một số ví dụ về mệnh đề danh ngữ trong tiếng

Anh như sau:

23

Ví dụ 1:

a. That she was accused of theft was not surprising. (chủ ngữ của câu)

(Việc cô ấy bị buộc tội ăn cắp không đáng ngạc nhiên.)

b. We give honour to whomever deserves it. (bổ ngữ của giới từ)

(Chúng tôi kính trọng bất kỳ ai xứng đáng)

c. I have no doubt in what he says. (tân ngữ của giới từ)

(Tôi không có nghi ngờ gì về những gì anh ta nói)

d. Helping the poor is what he does. (bổ ngữ của chủ ngữ)

(Giúp đỡ người nghèo là những gì anh ta làm)

e. Her father gave her a present. (bổ ngữ của tân ngữ)

(Cha cô ấy tặng cô ấy một món quà)

Nguồn: Opega [81, tr.163]

Trong các ví dụ trên, các mệnh đề danh ngữ trong mỗi câu thể hiện các

chức năng khác nhau.

Trong khi đó, mệnh đề trạng ngữ đề cập tới một chức năng cú pháp cụ

thể trong câu và do đó, đối lập với các chức năng cú pháp khác như chủ ngữ,

tân ngữ và vị ngữ. Mệnh đề trạng ngữ là các thành tố bổ nghĩa cho động từ,

trạng từ, tính từ và câu. Các học giả đã đưa ra nhiều loại mệnh đề trạng ngữ

khác nhau. Theo Quirk và Greenbaum [84], mệnh đề trạng ngữ là các mệnh

đề chỉ thời gian, địa điểm, điều kiện, nhượng bộ, lý do, nguyên nhân, cảnh

huống, mục đích, kết quả, cách thức, và so sánh. Các tác giả cũng nhận định,

tương tự như trạng ngữ, mệnh đề trạng ngữ cũng có thể xuất hiện ở vị trí đầu,

cuối hoặc giữa mệnh đề chính trong tiếng Anh. Sau đây là một số ví dụ về

mệnh đề trạng ngữ trong tiếng Anh [81, tr.165]:

Ví dụ 2:

a. He makes friend, wherever he goes. (nơi chốn)

(Anh ta kết bạn, bất cứ nơi nào anh ta tới)

24

b. After the incident happened, Ade left the country. (thời gian)

(Sau khi sự việc xảy ra, Ade đi khỏi quốc gia đó)

c. I came late because my car broke down. (nguyên nhân)

(Tôi đến muộn vì xe của tôi bị hỏng)

d. She went to the hospital so she could be treated. (mục đích)

(Cô ấy đi bệnh viện để có thể được chữa trị)

e. Although he is old, he still works hard. (nhượng bộ)

(Dù ông ấy lớn tuổi, ông ấy vẫn làm việc chăm chỉ)

f. If he studies hard, he will pass his exams. (điều kiện)

(Nếu anh ta chăm học, anh ta sẽ thi đỗ)

g. She cooks better than her sister. (so sánh)

(Cô ấy nấu ăn ngon hơn chị cô ấy)

h. He drank so much alcohol that he fell into a ditch. (kết quả)

(Anh ta uống nhiều rượu đến mức mà anh ta bị ngã xuống mương)

Nguồn: Opega [81, tr.165]

Slim [51] đã trình bày một tổng kết hoàn chỉnh về mệnh đề trong Biểu

đồ sau:

25

Thành phần của mệnh đề

Mệnh đề

Chủ ngữ Động từ Tân ngữ Bổ ngữ Trạng

(S) (V) (O) (C) ngữ (A)

Hình thức của mệnh đề

Chủ động Bị động Giới hạn Không giới hạn

Loại mệnh đề trong câu

Mệnh đề chính Mệnh đề phụ

Mệnh đề Mệnh đề Mệnh đề

danh ngữ trạng ngữ quan hệ

Nguồn: Slim [91, tr.239]

Biểu đồ 1.1 Tổng kết về mệnh đề

Lyons [70] trình bày một định nghĩa về câu, trong đó ông nhận định

câu có thể được phân loại thành cấu trúc và chức năng như sau:

a. Câu đơn và câu phức, câu ghép và,

b. Câu trần thuật, nghi vấn, cầu khiến, v.v.

Theo Lyons [70], câu đơn gồm một mệnh đề đơn, câu phức tối giản bao

gồm hai mệnh đề trong đó một mệnh đề là mệnh đề phụ và câu ghép tối giản

gồm hai hoặc nhiều mệnh đề có mối quan hệ đẳng lập. Khái niệm chính phụ

và đẳng lập bao hàm khái niệm về MĐQH. Lesley [66] cho rằng mệnh đề phụ

26

có thể xuất hiện ở hai cấp, thứ nhất là tại cấp thành tố của mệnh đề khi mệnh

đề bị bao giữ vị trí thành tố của mệnh đề hoàn chỉnh và thứ hai là các mệnh đề

nằm trong cụm danh từ dưới dạng MĐQH. Biber [23, tr.281] tổng kết ba bộ

phận quan trọng của câu phức có MĐQH là danh từ trung tâm (tiền ngữ),

quan hệ tố (relativizer) là yếu tố tạo dẫn MĐQH và khoảng trống (vị trí của

thành phần thiếu trong MĐQH).

Do đó, MĐQH là việc hình thành câu trên cấp câu đơn từ một hoặc

nhiều thành tố phụ thuộc vào nhau để tạo nghĩa, bao hàm cả phương thức bổ

nghĩa phía sau của cụm danh từ. Theo Lesley [66], mối quan hệ giữa MĐQH

và danh từ mà nó bổ nghĩa có thể thay đổi tùy theo chức năng của mệnh đề đó

trong tham chiếu với danh từ trung tâm. Theo Kroeger [57, tr. 89], “một mệnh

đề nằm trong cụm danh từ dưới dạng bổ ngữ, bổ nghĩa cho mệnh đề là một

loại định ngữ được gọi là MĐQH. MĐQH được hình thành ‘khi một mệnh đề

bị bao thành cụm danh từ của một mệnh đề khác’. Khi cụm danh từ có cùng

sở chỉ xuất hiện trong hai mệnh đề, MĐQH có thể được hình thành bằng cách

bao một mệnh đề trong một mệnh đề khác. [36]

Theo Greenbaum và Quirk [39], MĐQH thường giữ chức năng bổ

nghĩa hạn định hoặc không hạn định cho cụm danh từ và do vậy hành chức

tương tự như tính từ thuộc ngữ (attributive adjective). Ngoài ra, Greenbaum

và Quirk cũng xếp MĐQH danh ngữ (nominal relative clause) vào loại mệnh

đề danh ngữ, trong đó ĐTQH được sát nhập với tiền ngữ. Cũng theo [39],

MĐQH còn sở chỉ đến vị từ hoặc vị ngữ của mệnh đề, toàn bộ mệnh đề hoặc

câu, hay một chuỗi câu dưới hình thức MĐQH câu (sentential relative clause).

Trask [95, tr.238] định nghĩa MĐQH là “một loại mệnh đề, thường là

mệnh đề phụ, có chức năng bổ nghĩa cho cụm danh từ.” Lass [62, tr.184] nhận

định, MĐQH là “bổ ngữ tính từ phụ của cụm danh từ với đại từ nằm trong

cụm danh từ (danh từ trung tâm của mệnh đề).

27

Ví dụ 3:

The man [[who ate fruits]] died a horrible death.

(Người đàn ông [[ăn hoa quả]] bị chết một cách đau đớn)

Trong ví dụ trên, mệnh đề “who ate fruits” bị bao trong mệnh đề chính;

“the man … died a horrible death”. Là bổ ngữ của “the man” và ĐTQH

“who” đồng sở chỉ với “the man” và cũng tự là chủ ngữ. Trong trường hợp

này, danh từ trung tâm và ĐTQH không nhất thiết phải có cùng chức năng

ngữ pháp vì đặc điểm tham chiếu và ngữ pháp không đồng nhất. [62]

Trong luận án này, chúng tôi tiếp nhận quan niệm phổ thông, được nhiều

nhà nghiên cứu thống nhất về MĐQH để triển khai áp dụng trong toàn bộ các

phần sau của luận án. Theo đó, MĐQH là thành phần hậu bổ tố, đứng sau

danh từ trung tâm, thực hiện chức năng bổ nghĩa cho danh từ trung tâm. Như

vậy, MĐQH tạo thành một bộ phận trong thành phần của cấu trúc câu.

1.2.1.2. Nhận diện MĐQH

a. Tiêu chí nhận diện MĐQH

Trong tiếng Anh, Wu [102] đã tổng kết MĐQH là mệnh đề bổ trợ cho

một cụm danh từ. Về cấu trúc, MĐQH bao gồm một mệnh đề và một danh từ

trung tâm. Về ngữ nghĩa, MĐQH chứa một biến giới hạn (bound variable)

bên trong mệnh đề được diễn giải đầy đủ từ danh từ trung tâm. Dựa trên quan

điểm về phân tích chuyển dịch wh- trong ngữ pháp tạo sinh của Chomsky

[29], phân tích phát triển (promotion analysis) của Kayne [52], về mặt cú

pháp, MĐQH thường được thể hiện dưới dạng một cấu trúc trong đó thành

phần trung tâm được rút ra từ bên trong mệnh đề, để lại khoảng trống tại vị trí

ban đầu của nó; cả thành phần trung tâm và khoảng trống đều có cùng chỉ

mục (index) thể hiện mối liên hệ ngữ nghĩa.

Ví dụ 4:

The man [[that visited the department]]

(Người đàn ông [[tới thăm phòng ban đó]])

28

Trong ví dụ trên, MĐQH hạn định “that visited the department” bổ nghĩa

cho danh từ trung tâm “the man” và giữa danh từ trung tâm “the man” và

khoảng trống bên trong mệnh đề có mối quan hệ đồng sở chỉ (co-referential).

MĐQH có thể tập trung vào sở chỉ của danh từ đứng trước theo nhiều

cách khác nhau vì ĐTQH có thể giữ chức năng chủ ngữ, trạng ngữ chỉ nơi

chốn, trạng ngữ chỉ thời gian và tân ngữ trực tiếp. Ví dụ, ĐTQH chỉ là vị từ và

không có chức năng bổ ngữ [66]. Nghĩa là, người nói có thể lựa chọn lược bỏ

ĐTQH khi nó đứng trước chủ ngữ của vị từ phụ.

Dựa trên việc xác lập quan niệm về MĐQH của luận án, có thể xác định

rõ ràng MĐQH trong văn bản dựa trên ba tiêu chí, bao gồm (i) hình thức, (ii)

chức năng và (iii) vị trí của MĐQH.

(i) Tiêu chí hình thức bao gồm việc sử dụng ĐTQH trong MĐQH cùng

dấu câu và mức độ hoàn chỉnh của MĐQH. Trong lý thuyết ngôn ngữ học,

tiêu chí hình thức như vậy rất hiển minh. Theo đó, toàn bộ hệ thống ĐTQH

được sử dụng để tạo dẫn MĐQH hạn định, không có dấu phẩy, trong khi

MĐQH không hạn định được chia tách bởi dấu phẩy và không sử dụng

ĐTQH “that” và zero.

Theo Quirk và Greenbaum [85], trong tiếng Anh, ĐTQH đứng ngay

sau mệnh đề chứa tiền ngữ. ĐTQH có thể giữ chức năng chủ ngữ hoặc tân

ngữ của động từ trong MĐQH. Nếu tiền ngữ là người, ĐTQH là “who” và

“whom”. Nếu tiền ngữ là vật, ĐTQH là “which”. “Whose” có thể sử dụng cho

tiền ngữ chỉ người và vật. “That” cũng được sử dụng cho tiền ngữ chỉ người

và vật. Có hai nhóm ĐTQH: đại từ “wh-“ và “that, zero”. Đại từ “wh-” có

phân biệt giống: “who” được dùng cho người; “which” dùng cho vật (đồ vật

hoặc động vật). Đại từ “wh-” cũng phân biệt cách (case) như “who”, “whom”,

“whose”. Tóm lại, việc lựa chọn ĐTQH tùy thuộc vào ba yếu tố sau:

(1) Mối quan hệ giữa MĐQH và tiền ngữ: Hạn định hoặc không hạn định

(2) Giống của tiền ngữ: người hoặc vật

29

(3) Chức năng của ĐTQH: chủ ngữ, tân ngữ, bổ ngữ hoặc trạng ngữ.

Bảng 1.1: ĐTQH trong tiếng Anh

Hạn định

Không hạn định

Người

Vật

Người

Vật

Who

Which

Who

Which

Cách chủ ngữ

That

That

Whom

Whom

Which

Cách tân ngữ

That

That

Zero

Zero

Whose

Cách sở hữu

Nguồn: Quirk [85, tr.377]

Ngoài ra, còn có một số từ khác được sử dụng để bắt đầu MĐQH như

“where”, “when”, và “why”. “When” và “where” được sử dụng tương ứng với

“at which” hoặc “in which” sau các danh từ chỉ thời gian hoặc địa điểm. “That”

có thể được dùng sau “reason” hoặc lược bỏ và thay thế bằng ĐTQH “why”.

Tuy nhiên, theo nghiên cứu của một số nhà ngữ pháp học như Jespersen

[51], Scheurweghs [89], Jacobsson [48] hay Biber [23], ĐTQH “that” vẫn

được sử dụng trong các MĐQH không hạn định, dù với tần suất khá thấp.

Jespersen [51, tr.341] nhận định “Mệnh đề là hình thức biểu hiện bằng

ngôn ngữ của một mối quan hệ phụ thuộc (dependent nexus) nằm trong mô

hình câu (quan hệ độc lập), do đó là quy tắc bao gồm một động từ hữu định

ngoài chủ ngữ”. Theo đó, với tư cách là mệnh đề, MĐQH cũng cần phải có

chủ ngữ và một động từ hữu định, thể hiện tính hoàn chỉnh của mệnh đề. Tuy

vậy, trong quá trình phát triển và tiếp thụ ngôn ngữ, đã có một số thay đổi

trong quan niệm về MĐQH với sự tồn tại của MĐQH rút gọn. Master [73,

tr.203] định nghĩa việc rút gọn MĐQH là “việc xóa bỏ (và đồng thời biến đổi

về cú pháp) các thành phần nhất định của MĐQH mà không thay đổi ý nghĩa

của mệnh đề”. MĐQH rút gọn có động từ vô định (non-finite) và theo Carter

30

[26], nhiều quy tắc áp dụng được cho các MĐQH hoàn chỉnh, cũng có thể áp

dụng được với MĐQH vô định (MĐQH rút gọn) và MĐQH rút gọn sử dụng

ĐTQH zero. DeCapua [34] định nghĩa MĐQH rút gọn là loại MĐQH không

có cụm động từ hoàn chỉnh.

Ví dụ 5:

The man [[sitting next to Michael]] is his younger brother.

(Người đàn ông [[ngồi cạnh Michael]] là em trai nó)

Đây là MĐQH xác định sở chỉ tới cụm danh từ “the man” và rõ ràng là

đại từ “who” đã được lược bỏ. Cần cẩn trọng khi rút gọn một số thành phần

của mệnh đề và sử dụng phân từ hiện tại “-ing” (thường là phân từ chủ động)

và phân từ quá khứ “-ed”. Chỉ được sử dụng “-ing” và “-ed” với điều kiện là

chủ ngữ của động từ không thì tương tự như sở chỉ của danh từ trung tâm. Ví

dụ, từ “job” trong câu dưới đây là tân ngữ nên không thể rút gọn MĐQH

thành mệnh đề với “-ing”.

Ví dụ 6:

The job [[I am seeking]] must offer challenging tasks.

(Công việc [[tôi đang tìm kiếm]] phải có các nhiệm vụ khó)

Trường hợp rút gọn với thể bị động được thực hiện bằng cách giữ lại

phân từ “-ed” và lược bỏ các thành phần khác của dạng bị động.

Ví dụ 7:

The ship [[loaded with huge containers]] is about to depart.

(Con tàu [[chất đầy công-ten-nơ lớn]] sắp khởi hành)

Đây là câu rút gọn từ “The ship which is loaded with huge containers”.

Carter [26] cũng lưu ý không áp dụng được hình thức rút gọn MĐQH đối với

trong MĐQH hạn định khi ĐTQH giữ chức năng chủ ngữ của MĐQH. Trong

trường hợp này, không thể rút gọn MĐQH được, nhưng nếu ĐTQH là tân

ngữ, lại có thể áp dụng hình thức rút gọn.

31

Ví dụ 8:

I hate people [[who are dishonest and lazy]]. (không thể rút gọn)

(Tôi ghét những người [[không trung thực và lười biếng]])

She returned the money [[I had lent her last month.]] (She returned the

money [[that I had lent her last month.]])

(Cô ấy trả lại số tiền [[mà tôi cho cô ấy vay tháng trước]])

MĐQH rút gọn giúp cô đọng thông tin [22] và sử dụng đa dạng các hình

thức câu bằng cách giảm độ dài của câu.

(ii) Về mặt chức năng, MĐQH trong tiếng Anh có thể giữ chức năng

định ngữ của danh từ trung tâm và bổ sung thông tin cho mệnh đề chính. Theo

Crystal [32, tr.394], MĐQH là “một mệnh đề bổ nghĩa phía sau trong cụm

danh từ và mở rộng ra toàn bộ mệnh đề”. Như vậy, MĐQH trong tiếng Anh

có thể đóng vai trò hậu bổ tố cho một tiền ngữ là danh từ, cụm danh từ hoặc

mệnh đề độc lập. Herrmann [43] nhận định, MĐQH có thể bổ nghĩa cho cụm

danh từ, trong đó, các chỉ dấu quan hệ (relative marker) có thể thực hiện tất cả

các chức năng ngữ pháp trong MĐQH. Như vậy, MĐQH tiếng Anh hành

chức như là một định ngữ trong cụm danh từ. Đây là chức năng phổ biến nhất

của MĐQH trong tiếng Anh.

Theo [85, tr.1118], MĐQH cũng có thể bổ nghĩa cho các cụm hoặc diễn đạt

lớn hơn cụm danh từ, như vị ngữ, mệnh đề hay (một hoặc nhiều) câu. Theo đó,

MĐQH có thể sở chỉ hoặc nhận xét về toàn bộ câu trước đó, chuỗi các mệnh đề

hoặc một diễn ngôn dài [26]. Loại mệnh đề quan hệ này có thể được coi là

trường hợp ngoại lệ khi ĐTQH “which” là đại từ duy nhất trong MĐQH không

sở chỉ tới danh từ trung tâm mà là toàn bộ tiền ngữ. Loại mệnh đề quan hệ này

thường được sử dụng phổ biến trong hội thoại thân mật trong tiếng Anh.

Ví dụ 9:

He came late for the first job interview [[, which created an awful

impression on the recruiters.]]

32

(Anh ta đến muộn trong buổi phỏng vấn xin việc đầu tiên [[, gây ra ấn

tượng xấu đối với những người tuyển dụng]])

Trong câu trên, đại từ “which” cung cấp thông tin về mệnh đề trước đó.

Trong cấu trúc này, ở cuối câu được mệnh đề quan hệ hạn định, phải có dấu phẩy.

Ví dụ 10:

She missed the deadlines for the market research report [[, which

annoyed her supervisor.]]

(Cô ấy nộp báo cáo nghiên cứu thị trường muộn [[điều đó làm cấp trên

của cô ấy tức giận]])

Ví dụ này có thể được diễn đạt thành hai cấu trúc: “She missed the deadlines

for the market research report, and that annoyed her supervisor” hoặc “Her

missing the deadlines for the market research report annoyed her supervisor.”

Trong ví dụ này, nếu không có dấu phẩy ở cuối câu phía trước, danh từ

“report” có thể được xác định và danh từ “report” là nguyên nhân khiến cấp

trên của cô ấy bực tức (annoyed her supervisor).

Với chức năng này, MĐQH không tạo thành cụm danh từ trong cấu trúc,

nên không thể xen vào cấu trúc mà nằm ở bên ngoài lề của câu. Theo [43],

MĐQH với chức năng này phải là MĐQH không hạn định, thường bổ sung

thông tin, mở rộng cho tiền ngữ. Tuy nhiên, các nghiên cứu chuyên sâu của

các nhà ngôn ngữ học đã chứng minh, tần suất sử dụng của MĐQH với chức

năng này trong thực tế khá nhỏ. Do đó, trong luận án này, chúng tôi loại trừ

loại MĐQH với chức năng bổ nghĩa cho tiền ngữ lớn hơn cụm danh từ khỏi

phạm vi nghiên cứu.

(iii) Trong các ngôn ngữ, MĐQH có thể giữ vị trí bên phải, hoặc bên trái

tiền ngữ hay danh từ trung tâm, ngoại trừ MĐQH danh ngữ do nó có chứa tiền

ngữ. Herrmann [43] đã tổng kết từ các nghiên cứu về nhiều ngôn ngữ khác nhau

và đưa ra kết luận: MĐQH trong các ngôn ngữ OV thường nằm bên trái tiền

ngữ/ hậu ngữ trong khi đối với các ngôn ngữ VO, MĐQH thường giữ vị trí bên

33

phải của tiền ngữ. Tiếng Anh là ngôn ngữ có cấu trúc SVO nên trong tiếng Anh,

MĐQH đều ở bên phải, tức là đứng sau tiền ngữ. Theo [39], cụm danh từ phức

trong tiếng Anh gồm ba thành phần chính: danh từ trung tâm, tiền bổ ngữ

(premodification) và hậu bổ ngữ (postmodification), trong đó MĐQH thuộc

nhóm hậu bổ ngữ, nghĩa là đứng sau, bổ nghĩa cho danh từ trung tâm.

Từ ba tiêu chí trên, luận án xác định, MĐQH về hình thức là một mệnh đề

hoàn chỉnh có sử dụng ĐTQH; về chức năng, MĐQH làm định tố (bổ tố) cho

danh từ trung tâm của danh ngữ; về vị trí, MĐQH đứng sau danh từ trung tâm

b. Phân biệt MĐQH với các mệnh đề khác

Trong tiếng Anh, chức năng bổ nghĩa cho cụm danh từ có thể được thực

hiện bởi một số loại mệnh đề khác nhau. Do đó, cần phải xác định sự khác

biệt giữa MĐQH và các loại mệnh đề khác với cùng chức năng, đặc biệt là

các mệnh đề có sử dụng các chỉ tố cùng hình thức như từ wh-word hay “that”.

Burton-Roberts [24] trình bày một số đặc điểm phân biệt MĐQH với hai

loại mệnh đề thường gây nhầm lẫn cho người học tiếng Anh, gồm: mệnh đề

nghi vấn wh- và mệnh đề bổ ngữ danh từ trong cụm danh từ. Ngược lại với

mệnh đề nghi vấn khi có thể là mệnh đề chính hoặc mệnh đề phụ, MĐQH chỉ

có thể là mệnh đề phụ bởi vì MĐQH giữ chức năng bổ tố trong cụm danh từ.

Khi xem xét MĐQH và mệnh đề nghi vấn wh- trong cùng loại mệnh đề phụ,

cũng có thể xác định những điểm khác biệt về chức năng của mệnh đề, vị trí

của khoảng trống và chức năng của cụm wh-.

Burton-Roberts [24] đưa ra ví dụ về mệnh đề nghi vấn wh- như sau:

Ví dụ 11:

Martha enquired [why he wore it on his foot]

(Martha thắc mắc [tại sao anh ta lại đi nó dưới chân])

Mệnh đề “why he wore it on his foot” giữ chức năng tân ngữ của động từ

“enquire”, trong đó “why” là trạng ngữ của cụm động từ.

34

Ví dụ 12:

[How he would fare on the trapeze] preoccupied him.

([Việc làm thế nào anh ta có thể đu trên xà] làm anh ta lo lắng)

Mệnh đề “How he would fare on the trapeze” là chủ ngữ của cấu trúc

câu và “how” là trạng ngữ của cụm động từ.

Ví dụ 13:

It is my affair [what I wear at night].

([Tôi mặc gì buổi đêm] là việc của tôi)

Mệnh đề nghi vấn “what I wear at night” là chủ ngữ ngoại vị (extraposed

subject) và “what” là tân ngữ trực tiếp của động từ “wear”.

Ví dụ 14:

Marcel wasn’t certain [who he sent the flowers to].

(Marcel không biết chắc [anh ấy đã gửi hoa cho ai])

Mệnh đề phụ nghi vấn “who he sent the flowers to” thực hiện chức năng

bổ ngữ cho tính từ “certain” trong cụm tính từ, trong đó “who” là bổ ngữ cho

giới từ “to” trong cụm giới từ.

Ví dụ 15:

The immediate problem was [where they could hide those fritters].

(Vấn đề trước mắt là [họ có thể giấu mấy món rán đó ở đâu])

Mệnh đề “where they could hide those fritters” là vị ngữ của động từ

“was” và “where” là vị ngữ của động từ “hide”.

Ví dụ 16:

The little matter of [who is going to pay for all this] has yet to be

resolved.

(Vấn đề nhỏ về [người sẽ thanh toán cho tất cả những thứ này] vẫn chưa

được giải quyết)

Mệnh đề “who is going to pay for all this” đóng vai trò bổ ngữ của giới

từ “of” và đại từ “who” là chủ ngữ.

35

Trong mệnh đề nghi vấn, các từ wh- là đại từ nghi vấn, còn trong

MĐQH, đó là ĐTQH với vị trí và chức năng cụ thể.

Ví dụ 17:

The trampolines [[which they had bought]]. (which là tân ngữ trực tiếp)

(Những tấm bạt lò xo [[mà họ đã mua]])

The fool [[who lent you a fiver]]. (who là chủ ngữ)

(Tên ngốc [[đã cho bạn vay năm bảng Anh]])

A friend [[whose house we borrowed]]. (whose house là tân ngữ trực

tiếp)

(Người bạn [[cho chúng tôi mượn nhà]])

The usher [[who I showed my ticket to]]. (who là bổ ngữ cho giới từ

“to”)

(Người nhân viên [[mà tôi trình vé cho]])

The place [[where we had that picnic]]. (where là trạng ngữ của cụm

động từ)

(Địa điểm [[nơi chúng tôi đi cắm trại]])

Vậy, có thể nhận thấy, tiêu chí phân biệt giữa MĐQH và mệnh đề phụ

nghi vấn wh- là ở chức năng của mệnh đề và chức năng của từ wh-word.

Để nhận diện MĐQH, không chỉ cần phân tích cấu trúc bên của MĐQH

mà quan trọng hơn là nghiên cứu sự phù hợp của MĐQH trong cấu trúc câu,

cụ thể là cấu trúc của cụm danh từ mà nó giữ chức năng bổ tố (modifier). Do

đó, cần phân biệt giữa MĐQH và mệnh đề that- bổ ngữ danh từ. Theo Burton-

Roberts [24], mệnh đề bổ ngữ danh từ cung cấp thông tin quan trọng về danh

từ trung tâm, tức là nội dung chính xác được thể hiện bởi danh từ trung tâm,

trong khi đó, MĐQH cung cấp những thông tin ngoài lề khác.

Ví dụ 18:

(a) The claim [that syntax is good for the brain].

(Lời khẳng định [rằng cú pháp có lợi cho não]

36

(b) The claim [[with which he ended his lecture]].

(Lời khẳng định [[mà ông ấy dùng để kết thúc bài giảng]])

Mệnh đề (a) là mệnh đề bổ ngữ danh từ vì nó cung cấp thông tin thiết

yếu về danh từ trung tâm “claim”, thể hiện rõ nội dung được trình bày trong

danh từ này, còn mệnh đề (b) là MĐQH vì thông qua mệnh đề này, người tiếp

nhận không thể biết được nội dung cụ thể của danh từ trung tâm “claim”.

Một điểm khác biệt quan trọng giữa MĐQH và mệnh đề bổ ngữ danh từ

là ở mức độ hoàn chỉnh của ý nghĩa (khoảng trống). Trong khi mệnh đề bổ

ngữ danh từ thể hiện ý hoàn chỉnh, tức là không có khoảng trống khi MĐQH

có ĐTQH wh- được đẩy lên đằng trước, để lại khoảng trống trong mệnh đề.

Theo [24], cấu trúc của cụm danh từ chứa mệnh đề bổ ngữ danh từ và

Cụm danh từ

Danh ngữ

Từ chỉ định

Mạo từ

Danh từ

MĐQH được trình bày như sau:

Nguồn: Burton-Roberts [24, tr. 205]

Biểu đồ 1.2 Cụm danh từ chứa bổ ngữ danh từ

37

Cụm danh từ

Danh ngữ

Từ chỉ định

Mạo từ

Danh ngữ

Danh từ

Nguồn: Burton-Roberts [24, tr.206]

Biểu đồ 1.3. Cụm danh từ chứa MĐQH

1.2.1.3. Cơ sở lý thuyết phân tích cấu trúc-ngữ nghĩa MĐQH trong tiếng

Anh

Các nhà ngữ pháp học theo trường phái ngữ pháp mô tả đã thực hiện rất

nhiều nghiên cứu nhằm tìm hiểu về loại hình của MĐQH trong các ngôn ngữ

nói chung và tiếng Anh nói riêng. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu có

ý nghĩa của Quirk [85], Jespersen [51], Biber [23] và Huddleston & Pullum

[45]. Theo đó, MĐQH là thành phần hậu bổ tố của cụm danh từ phức khi đưa

ra khái niệm hạn định và không hạn định. Theo đó, thành phần trung tâm có

thể được coi là một bộ phận chỉ được xác định thông qua phần bổ tố (hạn

định) hoặc có thể là bộ phận được xác định một cách độc lập, tức là phần bổ

tố chỉ bổ sung thêm thông tin và thông tin đó không đóng vai trò thiết yếu

trong việc xác định thành phần trung tâm (không hạn định). [85]

Ví dụ 19:

(a) The woman [[who is approaching us]] seems to be somebody I know.

(Người phụ nữ [[đang đi về phía chúng tôi]] có vẻ như là người tôi quen)

(b) The Bible [[,which has been retranslated,]] remains a bestseller.

(Cuốn Kinh thánh [[đã được dịch lại]], vẫn là cuốn sách bán chạy.)

38

Trong Ví dụ (a), “who is approaching us” là MĐQH hạn định vì nó

giúp xác định danh từ trung tâm “the woman” để phân biệt người đó với

những người khác. MĐQH trong ví dụ (a) đóng vai trò quan trọng đối với

nghĩa của câu nên là một phần thiết yếu của câu. “which has been translated”

trong ví dụ (b) là MĐQH không hạn định vì thông tin mà MĐQH cung cấp

chỉ mang tính bổ sung, không thiết yếu đối với việc xác định danh từ trung

tâm “the Bible”, do đó, có thể lược bỏ MĐQH mà không ảnh hưởng quá lớn

tới nghĩa của câu.

Theo Lucas [69, tr.100-101], các nhà ngữ pháp học truyền thống cho

rằng MĐQH tạo thành một lớp (class), có thể được phân thành hạn định và

không hạn định. Trong khi đó, các nhà ngôn ngữ học thuộc trường phái ngữ

pháp tạo sinh với điển hình là Chomsky [29], Smith [92], Jacobs và

Rosenbaum [47] lại nhìn nhận MĐQH như là một kết cấu (construction) khác

với quan niệm của ngôn ngữ học mô tả. Theo đó, mặc dù có thể có cùng cấu

trúc (structure) bên trong, nhưng MĐQH hạn định phái sinh từ một câu bị bao

bên trong cụm danh từ còn MĐQH không hạn định phái sinh từ một câu đồng

vị ngữ với cụm danh từ. Theo [43, tr.17], các nhà ngữ pháp học tạo sinh cho

rằng MĐQH được tạo thành qua quá trình thay thế đại từ (pronominalization),

lược bỏ (deletion) và chuyển dịch từ wh-. Keyser [55, tr.3] nhận định, MĐQH

được tạo thành trong quá trình trung tâm của cụm danh từ chi phối mệnh đề

có cụm danh từ đồng sở chỉ. Trong đó, cụm danh từ đồng sở chỉ được thay thế

bằng một chỉ dấu quan hệ tương ứng; chỉ dấu quan hệ được chuyển lên vị trí

đầu mệnh đề; và có thể lược bỏ chỉ dấu quan hệ ở vị trí đầu mệnh đề.

Từ quan điểm ngữ pháp chức năng của Halliday [41], MĐQH có thể

đóng vai trò hậu bổ tố trong cụm danh từ (trong cấu trúc kinh nghiệm của

cụm danh từ) hoặc mệnh đề xuống cấp (rankshifted) hay mệnh đề bị bao

(embedded) trong tổ hợp mệnh đề (clause complexes).

39

Về góc độ ngữ nghĩa, MĐQH có thể “có hạn định” (restrictive) hoặc

“không hạn định” (non-restrictive) [66]. McArthur [74] định nghĩa MĐQH hạn

định là “một MĐQH có chức năng ngữ nghĩa xác định rõ hơn danh từ mà mệnh

đề đó bổ nghĩa.” Theo định nghĩa của Yule [104], MĐQH hạn định là mệnh đề

“định nghĩa” hoặc “xác định” tham chiếu của danh từ đứng trước nó. MĐQH

hạn định giúp xác nhận hoặc phân loại người hoặc vật đang được nói tới.

Ví dụ 20:

The woman [[whom John is talking to]] is a teacher.

(Người phụ nữ [[đang nói chuyện với John]] là cô giáo)

Trong ví dụ này, MĐQH “whom John is talking to” xác định tham

chiếu của “the woman” bằng cách nêu rõ “John is talking to”. Thành phần bổ

nghĩa xác định rất cần thiết để xác định “The woman” mà người nói đề cập tới

và phân biệt người người với những người khác trong ngữ cảnh.

Theo Halliday [41], MĐQH hạn định là mệnh đề thực hiện chức năng

bên trong cấu trúc của các cụm danh từ dưới hình thức hậu bổ ngữ trong cụm

danh từ với vai trò chủ ngữ, định ngữ trong cụm danh từ cũng như thành phần

mở rộng quan trọng để định nghĩa, phân định hoặc chỉ rõ. Trong các MĐQH

hạn định, mệnh đề bổ nghĩa bao gồm thông tin cũ hoặc hàm ý trong khi đặc

điểm của thành phần sở chỉ là thông tin mới.

MĐQH không hạn định là mệnh đề có sở chỉ của danh từ trung tâm có

thể được xác định một cách độc lập và bổ ngữ mệnh đề chỉ cung cấp thông tin

bổ sung về sở chỉ là thông tin cũ, còn mệnh đề bổ nghĩa chứa thông tin mới

[57]. MĐQH không hạn định bổ sung thêm thông tin không thực sự cần thiết

để xác định vấn đề mà danh từ bổ nghĩa đang nói tới [74]. Yule [104] định

nghĩa “MĐQH không hạn định đưa thêm thông tin về tiền ngữ. Nó cung cấp

thông tin bổ sung, không phải là thông tin làm rõ.”

Ví dụ 21:

My father [[, who is working in a hotel,]] will retire next year.

40

(Cha tôi, [[người đang làm việc trong một khách sạn]] sẽ nghỉ hưu vào

năm tới)

Trong đó, MĐQH không hạn định “who is working in a hotel” cung cấp

thêm thông tin về “father.” Tuy nhiên, danh tính của người này đã rõ ràng và

xác định nhờ định từ sở hữu “my”. Các thành phần bổ nghĩa chỉ giải thích

thêm và nếu lược bỏ mệnh đề bổ sung thì câu vẫn có nghĩa. Do đó, MĐQH

không hạn định chỉ bổ sung thêm thông tin hoặc mô tả tiền ngữ chứ không

hạn định tiền ngữ như mệnh đề quan hệ xác định. Vì vậy, MĐQH không hạn

định không đóng vai trò quá quan trọng trong câu và có thể lược bỏ.

MĐQH không hạn định trong cả hình thức nói và viết đều được đánh

dấu bằng dấu câu, thường là dấu phẩy, nhưng đôi khi có cả dấu gạch ngang

[41]. MĐQH không hạn định phải bắt đầu bằng từ Wh-word và tên riêng

thường xuất hiện với vai trò danh từ trung tâm trong MĐQH không hạn định

nhưng lại khá hiếm gặp trong mệnh đề hạn định. Kroeger [57] phát biểu, các

cụm từ có lượng từ như “any”, “every” hay “some” chỉ có thể làm danh từ

trung tâm cho MĐQH hạn định mà không được chấp nhận trong MĐQH

không hạn định trong tiếng Anh. Sự khác biệt giữa MĐQH hạn định và không

hạn định trong tiếng Anh được thể hiện trong ví dụ sau:

Ví dụ 22:

a. The police are looking for the man [[who escaped from prison

yesterday.]]

(Cảnh sát đang tìm kiếm người đàn ông [[vượt ngục ngày hôm qua]])

b. The police are looking for John [[who escaped from prison

yesterday]].

(Cảnh sát đang tìm kiếm John [[người đã vượt ngục ngày hôm qua]])

Ví dụ (a) là MĐQH hạn định, còn (b) là không hạn định. Trong ví dụ

(a), MĐQH “who escaped from prison” bổ nghĩa cho cụm “the police are

looking for the man”. MĐQH cũng thể hiện đặc điểm của sở chỉ là thông tin

41

mới, xác định chính xác sở chỉ của cụm danh từ nó bổ nghĩa. Trong ví dụ (b),

tên riêng và từ Wh- - John và who- là thành phần chính bổ sung thêm thông

tin về cụm danh từ mà nó bổ nghĩa mà không cần phải xác định, nghĩa là

“John who escaped from prison yesterday” cung cấp thêm thông tin về tù

nhân trốn trại hiện đang bị cảnh sát truy đuổi.

Điểm khác biệt cơ bản giữa MĐQH hạn định và không hạn định trong

tiếng Anh là cần phải có MĐQH hạn định để xác định chính xác sở chỉ của

cụm danh từ mà nó bổ nghĩa, còn MĐQH không hạn định chỉ bổ sung thêm

thông tin về cụm danh từ nó bổ nghĩa mà không cần phải xác định.

Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi lựa chọn xây dựng khung lý thuyết

phân tích cấu trúc-ngữ nghĩa của MĐQH trong tiếng Anh bằng cách kết hợp

quan điểm của trường phái ngôn ngữ học mô tả và ngôn ngữ học chức năng.

Theo đó, cấu trúc của MĐQH trong tiếng Anh sẽ được phân tích dựa trên

quan điểm của các nhà ngữ pháp học mô tả, với đối tượng chính là MĐQH

định ngữ bởi lẽ phương thức phân loại và nhận diện theo quan điểm này đã có

bề dày phát triển, được trình bày rõ ràng, và được chấp nhận rộng rãi. Đồng

thời, cấu trúc của MĐQH trong tiếng Anh theo quan điểm ngữ pháp mô tả

cũng đã có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Ngoài ra, đặc điểm ngữ

nghĩa của MĐQH trong tiếng Anh được phân tích dựa trên quan điểm của các

nhà ngữ pháp học chức năng với việc so sánh ngữ nghĩa của MĐQH hạn định

và không hạn định. Thêm vào đó, luận án cũng tiến hành phân tích ngữ nghĩa

của MĐQH theo quan điểm của Halliday. Các quan niệm về MĐQH tiếng

Anh của các nhà ngữ pháp học tạo sinh cũng có nhiều điểm thú vị, tuy nhiên,

vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi và chưa đạt được sự đồng thuận giữa các

nhà nghiên cứu. Do đó, các quan niệm này không nằm trong khung lý thuyết

của luận án.

42

Với mệnh đề chính (Kuno [59])

Vị trí của MĐQH

Với danh từ trung tâm (Quirk&Greenbaum [85])

Danh từ trung tâm (Herrmann [43])

Đặc điểm cấu trúc

Chức năng cú pháp

ĐTQH (Keenan&Comrie [54])

MĐQH

Phương tiện liên kết (Quirk&Greenbaum [85])

Quan hệ ngữ nghĩa với danh từ trung tâm (Halliday [41])

Đặc điểm ngữ nghĩa

Quan hệ ngữ nghĩa với mệnh đề chính (Halliday [41])

Sơ đồ 1.1. Khung lý thuyết phân tích đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa

của MĐQH tiếng Anh

1.2.2. Các vấn đề lý thuyết về ngôn ngữ học đối chiếu

1.2.2.1. Khái niệm về ngôn ngữ học đối chiếu

Các nhà ngôn ngữ học trên thế giới như James [50], Krzeszowski [58]

cũng như ở Việt Nam, điển hình là Lê Quang Thiêm [13] đã đưa ra những

khái niệm khác nhau về ngôn ngữ học đối chiếu, tuy nhiên họ cũng đều thống

nhất và cho rằng ngôn ngữ học đối chiếu là một phân ngành ngôn ngữ học

nghiên cứu so sánh hai hay nhiều hơn hai ngôn ngữ bất kỳ để xác định những

điểm giống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ đó, không tính đến vấn đề

các ngôn ngữ được so sánh có quan hệ dòng họ hay thuộc cùng một loại hình

hay không.

Theo [13], ngôn ngữ học đối chiếu là sự nghiên cứu liên ngôn ngữ.

Ngữ liệu được nghiên cứu có thể thuộc các ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích

sống động, đang sử dụng hoặc thậm chí đã chết, nhưng chúng phải là các đại

biểu thích hợp của các ngôn ngữ được nghiên cứu.

43

Như James [50] nhận định, ngôn ngữ học đối chiếu không chỉ đơn

thuần là ngôn ngữ học ứng dụng và thực chất có thể nói là thuộc cả hai lĩnh

vực: ngôn ngữ học lý thuyết (theoretical linguistics) và ngôn ngữ học ứng

dụng (applied linguistics).

1.2.2.2. Nguyên tắc đối chiếu ngôn ngữ

Ngôn ngữ học đối chiếu (contrastive linguistics) giúp xác định cái

giống nhau và khác nhau về mặt cấu trúc, hoạt động và sự phát triển của các

ngôn ngữ theo nguyên tắc đồng đại.

Bùi Mạnh Hùng [9] cho rằng có 5 nguyên tắc cơ bản cần phải được tuân

thủ khi thực hiện đối chiếu ngôn ngữ: (1) Bảo đảm các phương tiện trong hai

ngôn ngữ đối chiếu được miêu tả một cách đầy đủ, chính xác trước khi tiến

hành đối chiếu để tìm ra những điểm giống và khác nhau giữa chúng; (2) Việc

nghiên cứu đối chiếu không chỉ chú ý đến các phương tiện ngôn ngữ một cách

tách biệt mà phải đặt trong hệ thống; (3) Phải xem xét các phương tiện đối

chiếu không chỉ trong hệ thống ngôn ngữ mà còn trong hoạt động giao tiếp; (4)

Phải bảo đảm tính nhất quán trong việc vận dụng các khái niệm và mô hình lý

thuyết để miêu tả các ngôn ngữ được đối chiếu; (5) Phải chú ý cả mức độ gần

gũi về loại hình giữa các ngôn ngữ cần đối chiếu [9, tr.131-146].

1.2.2.3. Phương pháp đối chiếu ngôn ngữ

Ngoài nguyên tắc đối chiếu ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu còn xác định

được phương pháp nghiên cứu thích hợp cho đối chiếu đó là phương pháp

miêu tả và phương pháp so sánh. Theo [9], phương pháp miêu tả trong đối chiếu

là việc xác định đặc trưng khu biệt của các đơn vị, các phạm trù trên cơ sở miêu

tả những cái liên quan trong các ngôn ngữ đối chiếu. Còn phương pháp so sánh

là ―một thuật ngữ rộng hơn phương pháp đối chiếu, vì phương pháp đối chiếu

là một kiểu riêng của phương pháp so sánh. Tuy nhiên, đối chiếu khác với những

kiểu so sánh khác không phải ở chỗ có ngôn ngữ được lấy làm chuẩn hay không,

mà ở mối quan hệ giữa các ngôn ngữ được chọn làm đối tượng so sánh và mục

44

đích của sự so sánh [9, tr.147-161]. Cho nên, theo tác giả, việc phân tích đối

chiếu sẽ gồm hai giai đoạn: miêu tả và đối chiếu, đồng thời, nó được thực hiện

chi tiết hơn thành ba bước cụ thể: (1) miêu tả, (2) xác định những cái có thể đối

chiếu với nhau, (3) đối chiếu. Ngoài ra, tác giả cũng cho rằng tùy theo mục đích

và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đối chiếu, có hai cách tiếp cận cơ bản là nghiên

cứu đối chiếu hai (hay nhiều) chiều và đối chiếu một chiều.

1.2.2.4. Các cách tiếp cận trong đối chiếu ngôn ngữ

Cũng theo Bùi Mạnh Hùng [9], có hai cách tiếp cận chủ yếu trong nghiên

cứu đối chiếu là đối chiếu hai chiều hay đối chiếu một chiều. Tuỳ theo mục đích

và nhiệm vụ cụ thể, người nghiên cứu có thể chọn một trong hai cách tiếp cận này.

Nghiên cứu đối chiếu hai chiều “xem xét các hiện tượng được so sánh của

hai hay nhiều ngôn ngữ trong mối quan hệ qua lại dựa trên một cơ sở so sánh

nhất định” [9, tr.160]. Khi đối chiếu hai chiều, cần chọn cơ sở đối chiếu, nhận

diện các phương tiện ngôn ngữ biểu thị trong các ngôn ngữ đối chiếu, phân tích

các phương tiện biểu hiện của cơ sở đối chiếu trong từng ngôn ngữ, từ đó đối

chiếu để chỉ ra những điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng. Ở đây, không có

ngôn ngữ nào là ngôn ngữ xuất phát, và cũng không có ngôn ngữ nào là ngôn

ngữ đích.

Nghiên cứu đối chiếu một chiều khảo sát ý nghĩa của một hiện tượng

ngôn ngữ nào đó trong một ngôn ngữ rồi khảo sát những phương tiện biểu hiện ý

nghĩa tương ứng trong một ngôn ngữ khác. Trong cách tiếp cận này, có một

ngôn ngữ xuất phát và một ngôn ngữ đích.

Khi bàn về mối quan hệ giữa phân tích đối chiếu (contrastive analysis) và

dịch thuật (translation studies), nhiều nhà ngôn ngữ đã khẳng định mối quan hệ

chặt chẽ giữa đối chiếu và dịch thuật. Theo Halliday và các tác giả: “Dịch thuật

có thể coi là một trường hợp đặc biệt của ngôn ngữ học đối chiếu” [42, tr.112].

Tác giả Lê Quang Thiêm đã khẳng định “Lý luận phiên dịch nghiên cứu những

tương ứng có tính quy luật của hai ngôn ngữ, phát hiện ra những sự trùng hợp và

45

những khác biệt trong các phương tiện biểu hiện ý nghĩa đồng nhất từ văn bản

gốc ra văn bản dịch. Điều đó cũng có nghĩa là từ bản chất, lý luận phiên dịch là

một bộ phận của lý luận ngôn ngữ học và trong thực chất, mục đích và nhiệm vụ

nghiên cứu của nó có mối liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ học đối chiếu, một

phân ngành khoa học, mà có những nhà ngôn ngữ coi là một bộ phận cung cấp

cơ sở lý luận cho lý thuyết phiên dịch.” [14, tr.61]. Theo Garcia N.R., sự quan

tâm ngày càng tăng đối với việc sử dụng kết quả đối chiếu vào dịch thuật đã

khiến nhiều nhà nghiên cứu sử dụng văn bản dịch làm nguồn ngữ liệu cho các

nghiên cứu đối chiếu, tức là đối chiếu các văn bản gốc và bản dịch tương ứng

trong một hoặc nhiều ngôn ngữ khác [38, tr.61]. Đây chính là kiểu nghiên cứu

đối chiếu một chiều. Việc đối chiếu dịch thuật như thế này không chỉ đưa ra

những cách thức và chiến lược dịch, mà còn làm sáng tỏ những đặc điểm cụ thể

của từng ngôn ngữ, giúp xác định những điểm tương đồng và dị biệt giữa hai

ngôn ngữ, tác động của các yếu tố ngôn ngữ và văn hoá đối với dịch thuật.

Dựa trên mục đích nghiên cứu và những cơ sở lý luận về đối chiếu nêu

trên, luận án xác định phương pháp đối chiếu dịch thuật một chiều từ tiếng Anh

sang tiếng Việt. Việc đối chiếu dịch thuật này bắt đầu bằng việc miêu tả, phân

tích các đặc điểm cấu trúc- ngữ nghĩa của mệnh đề quan hệ trong tiếng Anh

(ngôn ngữ nguồn) rồi đối chiếu với các biểu thức tương ứng của chúng trong

tiếng Việt (ngôn ngữ đích) để đánh giá mức độ tương đương.

1.2.3. Các vấn đề lý thuyết về dịch thuật

1.2.3.1. Khái niệm tương đương dịch thuật

Sau nhiều thế kỷ tranh cãi xung quanh chuyện dịch nguyên văn hay dịch

thoáng nghĩa, những năm 60 của thế kỷ XX các nhà nghiên cứu bắt đầu quá trình

phân tích một cách có hệ thống hơn về dịch thuật và nổi bật nhất là vấn đề tương

đương được đưa ra bởi Jakobson [49], Nida [80], Newmark [78] và Koller [56].

Theo Jakobson [49], dịch thuật có thể được coi là quá trình thay thế các

thông điệp trong một ngôn ngữ không phải bằng các đơn vị mã riêng lẻ mà bằng

46

toàn bộ các thông điệp ấy ở một ngôn ngữ khác. Như vậy, dịch thuật là công việc

có liên quan tới hai thông điệp tương đương ở hai hệ mã khác nhau. Jakobson đã

đưa ra một định nghĩa nổi tiếng và cho đến nay vẫn được chấp nhận rộng rãi:

Tương đương trong khác biệt là vấn đề cơ bản nhất của ngôn ngữ và mối quan

tâm cốt lõi của ngôn ngữ học. Do đó tìm hiểu những vấn đề nghĩa và tương đương

phải tập trung vào những khác biệt về cấu trúc và thuật ngữ của các ngôn ngữ.

Newmark cho rằng “Tương đương không phải là để chỉ sự bằng nhau, cân

đối về nghĩa mà là một quy trình dịch và quy tắc dịch” [77, tr. 35]. Catford quan

niệm “vấn đề trung tâm của dịch thuật là đi tìm tương đương ở ngôn ngữ đích, vì

thế công việc chính của lý thuyết dịch là xác định bản chất và điều kiện để đạt

được tương đương trong dịch thuật” [27, tr. 21]. Về hướng tiếp cận tương đương

dịch thuật, Nida [80] đưa ra hai hướng tiếp cận chính là tương đương hình thức

và tương đương động. Newmark [78] tái hiện lại hai cách tiếp cận của Nida với

tên gọi mới là tương đương nghĩa và tương đương giao tiếp. Trong khi đó

Meetham và Hudson lại đưa ra hai hướng tiếp cận khác là tương đương toàn

phần và tương đương bộ phận.

Trong quá trình nghiên cứu dịch thuật, các nhà khoa học đã đưa ra các cấp

độ tương đương, bao gồm tương đương ở cấp độ từ, tương đương ở cấp độ câu,

tương đương ở cấp độ trên câu, tương đương mô hình dịch thuật động, v.v.

Tương đương có thể là tương đương về ngữ nghĩa, ngữ pháp, từ vựng, tương

đương hoàn toàn hay một phần trong văn bản.

Như vậy, tương đương dịch thuật là quy trình chuyển dịch, thay thế một

văn bản trong ngôn ngữ nguồn bằng một văn bản trong ngôn ngữ đích. Khái niệm

tương đương không chỉ đơn thuần là một sản phẩm tương đương ở ngôn ngữ đích

được tái tạo từ ngôn ngữ nguồn mà tương đương còn được hiểu là một quá trình

tái tạo nghĩa tương đương trên nhiều bình diện như: tương đương về ý nghĩa, hình

thức, chức năng… Mặc dù, các quan điểm về tương đương dịch thuật hết sức đa

dạng và là một vấn đề gây nhiều tranh cãi, nhưng để đảm bảo việc tương đương

47

trong dịch thuật cần xây dựng các kiểu tương đương trong dịch thuật.

1.2.3.2. Các kiểu tương đương dịch thuật

Tương đương dịch thuật là một trong những kiến thức trọng tâm được

nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ học định nghĩa và làm rõ. Theo lý thuyết dịch,

tương đương thường được định nghĩa là mối quan hệ giữa văn bản nguồn

(ST) và văn bản đích (TT). Nida [79] phân chia tương đương thành hai loại:

tương đương hình thức (formal) và tương đương động (dynamic), trong đó

tương đương hình thức “chú trọng đến bản chất thông điệp, cả về hình thức

lẫn về nội dung.” [79, tr.129], còn tương đương động dựa trên nguyên tắc

‘hiệu ứng tương đương’, nghĩa là tác động của thông điệp lên độc giả của văn

bản đích phải giống với tác động mà thông điệp gốc đã tạo ra cho độc giả văn

bản nguồn. Koller [56] phân loại tương đương dịch thuật thành năm loại, bao

gồm, tương đương biểu niệm (denotative), tương đương biểu thái

(connotative), tương đương chuẩn văn bản (text-normative), tương đương ngữ

dụng (pragmatic) và tương đương hình thức (formal).

Lê Hùng Tiến [16] tổng kết bốn cách phân loại tương đương phổ biến

gồm: (1) Tương đương dựa trên hình thức (Form-based equivalence); (2) Tương

đương dựa trên ý nghĩa (Meaning-based equivalence); (3) Tương đương dựa trên

chức năng (Function-based equivalence); (4) Tương đương dựa trên số lượng

các phần tương đương (Quantity-based equivalence). Cụ thể là:

(1) Tương đương dựa trên hình thức

Tương đương hình thức là kiểu tương đương được xác định dựa vào

phương tiện biểu đạt ý nghĩa của các ngôn ngữ khác nhau. Tương đương hình

thức trong dịch thuật có thể xuất hiện ở cấp độ từ và cấp độ trên từ. Khi đó, dịch

giả phải quan tâm tới các yếu tố quan trọng khi cân nhắc tương đương của từ

hoặc cụm từ như số, giống và thời thì. Ngoài ra, tương đương hình thức còn

được biểu hiện ở tương đương cấp độ văn bản khi phân tích tương đương giữa

văn bản nguồn và văn bản đích về thông tin và liên kết văn bản. Trong trường

48

hợp này, dịch giả cần quyết định có nên giữ phương thức liên kết và mạch lạc

văn bản trong văn bản dịch tương tự với văn bản gốc dựa trên ba yếu tố chính,

gồm: đối tượng độc giả mục tiêu, mục đích của bản dịch và loại văn bản.

(2) Tương đương dựa trên ý nghĩa

Theo Koller [56], tương đương dựa trên ý nghĩa được chia thành năm loại,

gồm: tương đương biểu vật, tương đương biểu thái, tương đương thể loại văn

bản, tương đương ngữ dụng và tương đương hình thức, trong đó, tương đương

biểu vật và tương đương biểu thái được áp dụng phổ biến hơn cả. Tương đương

biểu vật (denotative) là khi khái niệm trong ngữ nguồn và ngữ đích đều được sử

dụng để diễn đạt cùng một khái niệm, sự vật trong thực tế. Tương đương biểu

thái (connotative) cung cấp thêm giá trị ngoài giá trị biểu vật, tạo nên hiệu quả

giao tiếp với độc giả của bản dịch tương đương với độc giả của bản gốc. Nhằm

đạt được hiệu quả này, dịch giả có thể lựa chọn diễn đạt nội dung văn bản thông

qua hệ thống các phương tiện đồng nghĩa khác nhau.

(3) Tương đương dựa trên chức năng

Tương đương dựa trên chức năng tập trung tạo ra hiệu quả tương đương

của thông điệp đối với đối tượng tiếp nhận. Theo Nida [80], để xác định bản dịch

có trung thành với bản gốc hay không, không nên so sánh cấu trúc hình thức của

bản gốc và bản dịch mà phải so sánh “phản ứng của người tiếp nhận”. Ông cho

rằng trong quá trình dịch thuật, dịch giả phải thực hiện một số điều chỉnh đối với

bản gốc để khiến cho văn bản dịch trở nên dễ hiểu và dễ tiếp nhận hơn đối với

độc giả cũng như đạt được phản ứng mà tác giả dự định. Những điều chỉnh có

thể được thực hiện ở mọi cấp độ: hình vị, từ vựng, cú pháp và diễn ngôn, từ đó

tăng hiệu quả chuyển tải ý nghĩa thông điệp tới đối tượng tiếp nhận.

(4) Tương đương dựa trên số lượng các phần tương đương

Theo hướng tiếp cận định lượng, dựa vào số lượng các phần tương đương

giữa văn bản nguồn và văn bản đích, Munday [76] đã phân chia thành năm loại

hình tương đương. Tương đương một-một là kiểu tương đương trong đó một

49

cách diễn đạt ở ngôn ngữ nguồn chỉ có một cách diễn đạt tương đương ở ngôn

ngữ đích, rất phổ biến trong hệ thống thuật ngữ. Tương đương một-nhiều hơn

một xảy ra khi một cách diễn đạt ở ngôn ngữ nguồn có nhiều cách diễn đạt ở

ngôn ngữ đích. Tương đương một-một bộ phận nhỏ hơn một xảy ra khi trong

ngôn ngữ đích có nhiều cách diễn đạt tương đương với từng nét nghĩa của một

cách diễn đạt trong ngôn ngữ nguồn. Tương đương nhiều-một xuất hiện khi có

nhiều hơn một cách diễn đạt trong ngôn ngữ nguồn như chỉ có một cách diễn đạt

tương đương trong ngôn ngữ đích. Bất tương đương diễn ra khi một cách diễn

đạt trong ngôn ngữ nguồn không có cách diễn đạt tương đương trong ngôn ngữ

đích do có sự khác biệt đáng kể về ngôn ngữ và văn hóa.

Tại Việt Nam, Nguyễn Hồng Cổn [4] đã nhận định “tương đương dịch

thuật là sự trùng hợp hay tương ứng trên một hoặc nhiều bình diện (ngữ âm,

ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng) giữa các đơn vị dịch thuật của văn bản nguồn

và văn bản đích với tư cách vừa là sản phẩm, vừa là phương tiện của dịch thuật

như một quá trình giao tiếp.” Theo đó, tương đương dịch thuật được thể hiện ở

cấp độ văn bản, có thể thay đổi linh hoạt theo số lượng và đặc điểm đặc trưng

của các bình diện tương đương trong từng văn bản nhất định. Theo quan điểm

của Nguyễn Hồng Cổn [4], có bốn bình diện tương đương, bao gồm: tương

đương ngữ âm, tương đương ngữ pháp, tương đương ngữ nghĩa, và tương

đương ngữ dụng. Căn cứ vào bốn bình diện tương đương này, ông đã phân chia

tương đương dịch thuật thành hai nhóm với sáu kiểu tương đương cụ thể.

Tương đương hoàn toàn là các tương đương dịch thuật tương đương với nhau

từ ba bình diện trở lên. Tương đương hoàn toàn gồm hai kiểu: tương đương

hoàn toàn tuyệt đối và tương đương hoàn toàn tương đối. Trong đó, tương

đương hoàn toàn tuyệt đối là tương đương giống nhau trên cả bốn bình diện

ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng và tương đương hoàn toàn tương đối

giống nhau trên ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng do phần lớn các

ngôn ngữ có hệ thống âm vị khác nhau nên rất hiếm có kiểu tương đương hoàn

toàn tuyệt đối. Tương đương bộ phận là các tương đương dịch thuật chỉ tương

50

ứng với nhau trên một hoặc hai bình diện, bao gồm tương đương ngữ pháp-ngữ

nghĩa, tương đương ngữ pháp-ngữ dụng, tương đương ngữ nghĩa-ngữ dụng và

tương đương thuần ngữ dụng.

Tiểu kết chương 1

Trên đây, luận án đã trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu MĐQH

trong nước và trên thế giới. Theo đó, MĐQH là một trong những đề tài thu

hút được sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới với các

nhánh nghiên cứu tập trung vào xây dựng lý thuyết, mô tả đặc điểm của

MĐQH, đối chiếu MĐQH trong các ngôn ngữ khác nhau, cũng như nhánh

nghiên cứu ứng dụng vào dịch thuật, xử lý và vận dụng MĐQH trong các ngữ

cảnh khác nhau. Các nghiên cứu về MĐQH ở Việt cũng đã được thực hiện

với đường hướng chủ yếu là đối chiếu mệnh đề phụ thuộc trong các ngôn ngữ

nước ngoài với các cách thức diễn đạt trong tiếng Việt, chủ yếu là tiếng Nga,

Pháp; đồng thời cũng có nhánh nghiên cứu về dịch thuật MĐQH tiếng nước

ngoài và tiếng Anh sang tiếng Việt, tuy nhiên kết quả nghiên cứu chưa thể

hiện rõ tần suất sử dụng và hình thức cụ thể của các phương thức diễn đạt

MĐQH tiếng Anh trong tiếng Việt. Ngoài ra, cũng có một số nghiên cứu theo

hướng ứng dụng, tìm hiểu những khó khăn, trở ngại trong quá trình dạy và

học tiếng Anh, cụ thể là MĐQH của người học tiếng Anh tại Việt Nam.

Đồng thời, luận án cũng đã hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về MĐQH trong

các ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Anh nói riêng, bao gồm, trình bày các

quan niệm khác nhau về MĐQH từ rộng tới hẹp; tổng kết các tiêu chí giúp

nhận diện MĐQH dựa trên hình thức, chức năng và vị trí của MĐQH. Từ đó,

luận án đã xác lập quan niệm về MĐQH là mệnh đề phụ, về mặt hình thức

MĐQH thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án là mệnh đề hoàn chỉnh, có sử

dụng ĐTQH. Về chức năng, đối tượng nghiên cứu của luận án là MĐQH giữ

chức năng định ngữ, bổ nghĩa cho danh từ trung tâm trong cụm danh từ. Về vị

trí, MĐQH là mệnh đề phụ đứng sau cụm danh từ và bổ sung thông tin cho

cụm danh từ đó.

51

Dựa trên cơ sở lý thuyết về MĐQH theo các trường phái ngôn ngữ học

mô tả, tạo sinh và chức năng, luận án xác lập khung lý thuyết được sử dụng

để phân tích cấu trúc-ngữ nghĩa của MĐQH trong tiếng Anh bằng cách kết

hợp quan điểm của ngữ pháp mô tả và ngữ pháp chức năng. Theo đó, đặc

điểm cấu trúc của MĐQH sẽ được phân tích theo quan điểm của ngôn ngữ

học mô tả và đặc điểm ngữ nghĩa sẽ được xác định dựa trên quan niệm của

ngữ pháp chức năng.

Đồng thời, luận án cũng trình bày cơ sở lý luận về ngôn ngữ học đối

chiếu, làm rõ khái niệm đối chiếu trong ngôn ngữ học với các nguyên tắc và

phương pháp cụ thể. Luận án cũng xác định phương pháp thực hiện nghiên

cứu là mô tả đặc điểm của MĐQH tiếng Anh trong văn bản gốc và đối chiếu

dịch thuật một chiều, dựa trên cứ liệu là văn bản dịch sang tiếng Việt. Theo

đó, ngữ liệu dịch tiếng Việt là cơ sở để so sánh, phân tích, đánh giá mức độ

tương ứng giữa văn bản nguồn và văn bản đích. Hơn nữa, luận án cũng đã làm

rõ một số vấn đề lý thuyết liên quan đến dịch thuật và tương đương dịch

thuật, bao gồm, khái niệm, các hình thức tương đương dịch thuật và các

phương thức cũng như thủ pháp dịch từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích.

Trên cơ sở đó, luận án đưa ra một số nhận định và xác định cơ sở lý luận để

nhận diện, xác định phạm vi và đường hướng nghiên cứu MĐQH tiếng Anh

và các biểu thức tương ứng trong tiếng Việt.

52

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC – NGỮ NGHĨA

CỦA MỆNH ĐỀ QUAN HỆ TRONG TIẾNG ANH

Trong chương này, luận án vận dụng lý thuyết ngữ pháp mô tả kết hợp

với ngữ pháp chức năng nhằm khảo sát các đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa

của MĐQH định ngữ có ĐTQH trong tiếng Anh. Luận án sử dụng phương

pháp mô tả kết hợp định tính và định lượng thông qua các thủ pháp thống kê,

mô tả cấu trúc cú pháp và ngữ nghĩa của MĐQH trong ngữ liệu nghiên cứu.

Đặc điểm cấu trúc của MĐQH tiếng Anh được mô tả dựa trên ba phương

diện: hình thái cú pháp với các đặc điểm về hình thức và dạng cấu trúc của

MĐQH; chức năng cú pháp mô tả chức năng của danh từ trung tâm và ĐTQH

cũng như xác định mối quan hệ về chức năng cú pháp giữa danh từ trung tâm

và ĐTQH trong MĐQH; và phương tiện liên kết giữa danh từ trung tâm và

MĐQH định ngữ thông qua hệ thống các ĐTQH.

Đặc điểm ngữ nghĩa được trình bày dựa trên quan điểm chức năng của

Halliday, phân loại chức năng ngữ nghĩa của MĐQH hạn định và MĐQH

không hạn định trong mối quan hệ về nghĩa giữa MĐQH và danh từ trung tâm

cũng như mệnh đề chính.

2.1. Đặc điểm cấu trúc của MĐQH trong tiếng Anh

2.1.1. Đặc điểm hình thái cú pháp

MĐQH trong tiếng Anh giữ vị trí hậu bổ tố (qualifier) trong cụm danh từ

và có cùng vị trí với các thành phần chức năng khác như chỉ trỏ (deictic), số

đếm (numerative), tính ngữ (epithet) hay phân loại tố (classifier). Tương tự

như các thành phần khác, thành phần hậu bổ tố trong cụm danh từ có chức

năng đặc trưng hóa sự vật (Thing).

Với chức năng hậu bổ tố, MĐQH trong tiếng Anh phải đứng sau danh từ

trung tâm, nhưng vị trí của MĐQH trong cấu trúc mệnh đề chính thì có thể

53

còn phụ thuộc vào một số yếu tố. Theo Kuno [59], MĐQH trong tiếng Anh có

thể nằm ở giữa hoặc cuối mệnh đề chính tùy theo mô hình trật tự từ SVO cơ

bản trong tiếng Anh. Theo đó, với các danh từ trung tâm làm tân ngữ (hoặc bổ

ngữ hay trạng ngữ), MĐQH sẽ đứng sau danh từ trung tâm và nằm ở cuối

mệnh đề chính. MĐQH ở cuối cấu trúc là loại MĐQH dễ tiếp nhận nhất vì vị

trí này kết hợp những lợi điểm của vị trí liền kề giữa danh từ trung tâm và

MĐQH và tính liền mạch của cấu trúc. Theo nhận định của Givon [37], vị trí

liền kề giữa danh từ trung tâm và MĐQH giúp duy trì mối quan hệ đồng sở

chỉ giữa danh từ trung tâm và các chỉ dấu quan hệ (ĐTQH) và tính liền mạch

của cấu trúc hỗ trợ trí nhớ trong quá trình tiếp thu MĐQH [23]. Ngược lại, với

danh từ trung tâm giữ chức năng chủ ngữ trong mệnh đề chính, MĐQH có thể

nằm ngay sau danh từ trung tâm, tức là ở giữa cấu trúc mệnh đề chính. Theo

quan điểm của Kuno [59] và Givon [37], vị trí giữa cấu trúc mệnh đề chính

của MĐQH trong tiếng Anh có ưu điểm là đảm bảo sự liền kề giữa danh từ

trung tâm và MĐQH nhưng nhược điểm của nó là tạo gánh nặng lên trí nhớ

của con người do có thể làm gián đoạn mạch tư duy, xem xét ý nghĩa chính

xác của mệnh đề chính. Như vậy, xét về vị trí của MĐQH trong cấu trúc

mệnh đề chính, có thể khái quát mô hình của MĐQH định ngữ trong tiếng

Anh như sau:

S + V + O/ C/ A + MĐQH (MĐQH ở vị trí cuối câu, bổ nghĩa cho danh

từ trung tâm là tân ngữ, bổ ngữ hoặc trạng ngữ)

S + MĐQH + V + O (MĐQH ở giữa câu, bổ nghĩa cho danh từ trung tâm

là chủ ngữ)

Luận án đã tiến hành thống kê, phân loại các MĐQH thuộc phạm vi

nghiên cứu theo vị trí của MĐQH trong câu trong Bảng sau:

54

Bảng 2.1: Vị trí của MĐQH trong mệnh đề chính

Vị trí của MĐQH

Số lượng 483 59 542 Tỷ lệ (%) 89,1% 10,9% 100,0%

Cuối mệnh đề chính Giữa mệnh đề chính Tổng

Bảng 2.1 cho thấy, MĐQH nằm ở vị trí cuối mệnh đề chính chiếm tỷ lệ

vượt trội với 89,1% trong tổng số 542 MĐQH được nghiên cứu, còn các

MĐQH ở giữ vị trí giữa mệnh đề chính chỉ xuất hiện với tần suất rất nhỏ,

không đáng kể. Tỷ lệ này cũng đã khẳng định tính chính xác của kết quả

nghiên cứu của Biber [23] khi tổng kết rằng MĐQH giữ vị trí cuối mệnh đề

chính là loại MĐQH phổ biến nhất trong các ngôn ngữ SVO như tiếng Anh.

Ví dụ 23:

At the gray tea hour there were always rooms [[that throbbed incessantly

with this low, sweet fever, while fresh faces drifted here and there like rose

petals blown by the sad horns around the floor.]] [3]

Vào những giờ uống trà mờ tối, luôn luôn có những gian buồng [[chìm

đắm liên miên trong cơn sốt nhè nhẹ êm dịu này trong khi những khuôn mặt

tươi tắn trôi giạt đây đó như những cánh hồng bị hơi thổi của những cây kèn

co buồn bã làm tung bay khắp sàn nhà.]] [4]

Trong ví dụ trên, MĐQH “that throbbed incessantly with this low, sweet

fever, while fresh faces drifted here and there like rose petals blown by the

sad horns around the floor” bổ nghĩa cho danh từ trung tâm “rooms” là tân

ngữ của mệnh đề chính, nên nó nằm ở vị trí phía sau danh từ trùng tâm, cuối

mệnh đề chính, Trong trường hợp này, MĐQH cung cấp thông tin, chi tiết

hóa cho danh từ trung tâm – tân ngữ của mệnh đề chính, giúp văn bản trở nên

rõ ràng, giàu thông tin hơn.

55

Ví dụ 24:

There he stood in the parlour of the poky little house [[where she had

taken him,]] waiting for her, while she went upstairs a moment to see a

woman. [5]

Và khi anh đứng đợi bà trong phòng khách của một căn nhà bé nhỏ, chật

trội, [[nơi bà dẫn anh tới,]] còn mình lên gác một lát để gặp một phụ nữ. [6]

Trong ví dụ trên, MĐQH “where she had taken him” bổ nghĩa của danh

từ trung tâm “the parlour of the poky little house” là trạng ngữ của mệnh đề

chính, nên nó nằm ở vị trí liền kề danh từ trung tâm và ở cuối mệnh đề chính.

MĐQH này giải thích thêm cho trạng ngữ, giúp người tiếp nhận thông tin dễ

dàng hiểu rõ nội dung được trình bày trong cấu trúc câu.

Ví dụ 25:

Little Chuck Little, [[whose patience with all living things was

phenomenal,]] said, “Which way did he go, Miss Caroline?” [1]

Thằng Little Chuck Little, [[thằng có một sự kiên nhẫn phi thường dành

cho tất cả các loại sinh vật,]] nói, “Nó chạy đường nào, cô Caroline?” [2]

Từ ví dụ trên, có thể nhận thấy MĐQH “whose patience with all living

things was phenomenal” bổ sung thêm thông tin cho danh từ trung tâm làm

chủ ngữ “Little Chuck Little” và MĐQH này nằm ở vị trí giữa mệnh đề chính,

ngăn cách giữa chủ ngữ và vị ngữ của mệnh đề chính. Do đó, dù chủ ngữ và

vị ngữ của mệnh đề chính rất rõ ràng, dễ hiểu nhưng vẫn có thể gây khó hiểu

ở một chừng mực nào đó vì bị MĐQH làm gián đoạn mạch văn bản.

Ngoài vị trí của MĐQH trong mệnh đề chính, còn có thể xem xét đặc

điểm hình thức của MĐQH dựa trên dấu hiệu phân định giữa danh từ trung

tâm và MĐQH định ngữ, đứng sau bổ nghĩa cho danh từ đó. Theo Quirk và

Greenbaum [85] và Halliday [41], MĐQH có thể đứng liền kề ngay sau danh

từ trung tâm mà nó bổ nghĩa hoặc được phân định bởi dấu câu là dấu phẩy

hoặc gạch ngang. Như vậy, MĐQH có thể đứng liền kề sau danh từ trung tâm

56

hay có dấu hiệu phân định phạm vi của MĐQH sẽ được quyết định bởi tính

chất của thông tin được trình bày trong MĐQH. Nếu thông tin đó giúp thu

hẹp phạm vi sở chỉ của danh từ trung tâm, đóng vai trò thiết yếu đối với ý

nghĩa của cả cấu trúc, MĐQH sẽ đứng liền kề trực tiếp, phía sau danh từ trung

tâm, khi đó, nó đã trở thành một bộ phận của danh từ trung tâm. Ở trường hợp

ngược lại, khi thông tin được truyền tải trong MĐQH chỉ mang tính bổ sung,

làm phong phú thêm nội dung của danh từ trung tâm mà không có tác động

lớn đến ý nghĩa của toàn cấu trúc nếu bị lược bỏ, khi đó, MĐQH có thể được

phân định với danh từ trung tâm bằng dấu câu (dấu phẩy hoặc gạch ngang).

Bảng 2.2: Vị trí của MĐQH với danh từ trung tâm

Số lượng Tỷ lệ (%)

Vị trí của MĐQH với danh từ trung tâm

71,6% 28,4% 100,0% 388 154 542

Liền kề trực tiếp Ngăn cách bởi dấu câu Tổng Dựa vào Bảng 2.2, có thể thấy rằng, các MĐQH giữ vị trí liền kề trực

tiếp với danh từ trung tâm chiếm tỷ lệ áp đảo với 71,6% còn các MĐQH được

phân định với danh từ trung tâm bằng dấu câu chỉ xuất hiện với tần suất khá

khiêm tốn (28,4%).

Ví dụ 26:

There might be lovers [[whose gift it was to choose out the elements of

things and place them together]] and so, giving them a wholeness not theirs in

life, make of some scene, or meeting of people (all now gone and separate),

one of those globed compacted things over which thought lingers, and love

plays. [5]

Có thể có những cặp tình nhân [[mà quà tặng của họ được chọn ra từ

những nguyên tố của các sự vật và được đặt lại bên nhau]], và do vậy đã trao

cho họ một sự toàn vẹn không phải của họ trong đời sống, tạo ra một cảnh

tượng nào đó, hoặc sự gặp gỡ tao ngộ của mọi người (giờ đây tất cả đã ra đi

57

và cách biệt), một trong những điều kết tụ toàn cầu lại đó mà bên trên nó tư

tưởng kéo dài lây lất, và tình yêu vui thú nô đùa. [6]

Trong ví dụ trên, MĐQH “whose gift it was to choose out the elements

of things and place them together” giữ vị trí liền kề trực tiếp ngay sau danh từ

trung tâm “lovers” vì nó đóng vai trò quan trọng là giới hạn phạm vi quy

chiếu của danh từ trung tâm, nhờ đó, người tiếp nhận thông tin có thể xác

định rõ ràng sở chỉ của danh từ trung tâm trong cấu trúc này, thay vì chỉ toàn

bộ lớp từ chung chung. Trong trường hợp này, MĐQH đã trở thành một bộ

phận của danh từ trung tâm với chức năng hậu bổ tố trong cấu trúc kinh

nghiệm của cụm danh từ.

Ví dụ 27:

"Someone had blundered"—Fixing her short-sighted eyes upon her

husband, [[who was now bearing down upon her,]] she gazed steadily until

his closeness revealed to her (the jingle mated itself in her head) that

something had happened, someone had blundered. [5]

“Ai đó đã sai”-bà ngước cặp mắt cận thị lên nhìn chồng, [[người đang

phủ bóng lên bà,]] bà bình tĩnh nhìn cho tới khi sự gần gũi nơi ông hé lộ cho

bà biết (tiếng lanh canh tự nhập lại trong đầu bà) rằng chuyện gì đó đã xảy ra,

ai đó đã phạm sai lầm. [6]

MĐQH “who was now bearing down upon her” trong ví dụ trên bổ

nghĩa cho danh từ trung tâm “her husband” với quy chiếu rất rõ ràng mà cả

tác giả và độc giả đều có thể nhận biết được. Do đó, thông tin được trình

bày trong MĐQH chỉ mang tính bổ sung, miêu tả trạng thái hiện tại của

“chồng bà” và có thể lược bỏ mà không gây ảnh hưởng tới ý nghĩa của toàn

bộ cấu trúc. Trong trường hợp này, MĐQH được ngăn cách với danh từ

trung tâm bằng dấu phẩy.

58

2.1.2. Đặc điểm chức năng cú pháp

Về mặt cú pháp, kết quả khảo sát cho thấy các MĐQH tiếng Anh có sự

khác biệt về chức năng cú pháp của danh từ trung tâm và chức năng cú pháp

của ĐTQH. Trong khi chức năng cú pháp của danh từ trung tâm được xác

định dựa trên mối quan hệ với vị ngữ của mệnh đề chính hoặc câu, chức năng

cú pháp của ĐTQH được xem xét trong mối quan hệ với vị ngữ trong MĐQH.

Ví dụ 28:

Everybody [[who brings his lunch]] put it on top of his desk. [1]

Em nào [[mang bữa trưa theo]] để lên bàn. [2]

Trong ví dụ trên, danh từ trung tâm “everybody” giữ chức năng chủ ngữ

của mệnh đề chính với vị ngữ “put it on top of his desk”; còn ĐTQH “who”

có chức năng cú pháp là chủ ngữ của MĐQH “who brings his lunch”, bổ

nghĩa cho chủ ngữ của mệnh đề chính.

Ví dụ 29:

The bored haughty face [[that she turned to the world]] concealed

something— most affectations conceal something eventually, even though

they don’t in the beginning — and one day I found what it was. [3]

Gương mặt kênh kiệu và buồn chán [[mà Jordan trưng ra với mọi

người]] che đậy một điều gì đó bên trong – hầu hết những tình cảm giả tạo

cuối cùng đều che đậy một cái gì, ngay dù ban đầu người ta không định che

đậy gì cả, – và một hôm tôi phát hiện ra đó là cái gì. [4]

Trong ví dụ trên, danh từ trung tâm “the bored haughty face” có chức

năng chủ ngữ của vị ngữ “concealed …”; trong khi đó ĐTQH “that” lại giữ

chức năng tân ngữ trong MĐQH “that she turned to the world” bổ nghĩa cho

danh từ trung tâm.

2.1.2.1. Chức năng cú pháp của danh từ trung tâm

Tiếng Anh là ngôn ngữ có cấu trúc SVO nên trong tiếng Anh, MĐQH

đều ở bên phải, tức là đứng sau danh từ trung tâm.

59

Ví dụ 30:

She married a taciturn man [[who spent most of his time lying in a

hammock by the river wondering if his trot-lines were full.]] [5]

Bà cưới một ông chồng ít nói, [[người dành phần lớn thời gian nằm trên

chiếc võng cạnh bờ sông mà tự hỏi những dây câu của mình đã dính cá hết

chưa.]] [6]

Trong kết cấu câu chứa MĐQH định ngữ, MĐQH cũng có thể có nhiều

vị trí đa dạng. MĐQH có thể bổ nghĩa cho danh từ hoặc cụm danh từ đứng

trước hoặc đứng sau động từ chính của câu. Theo Kuno [59], trong ngôn ngữ

SVO với MĐQH định ngữ, khi MĐQH bổ nghĩa cho chủ ngữ của câu, sẽ xảy

ra hiện tượng “bao trung tâm” (center-embedding), tách biệt chủ ngữ và động

từ chính của câu. Do đó, loại MĐQH này có thể gây khó khăn về nhận thức

và ghi nhớ thông tin cho người tiếp nhận do chủ ngữ và động từ chính của

mệnh đề chính bị xen giữa bởi thông tin bổ sung [59]. Tuy nhiên, Quirk

(1986) đã nhận định, danh từ trung tâm chủ ngữ chỉ chiếm một phần nhỏ

trong tổng số các danh từ trung tâm giữ chức năng cú pháp khác (dẫn theo

[43]). Về mặt phân tích diễn ngôn, Chafe (1994) kết luận, chủ ngữ thường

biểu thị thông tin cụ thể, do đó không cần cụ thể hóa thêm bằng MĐQH (dẫn

theo [43]). Bên cạnh đó, MĐQH định ngữ trong tiếng Anh bổ nghĩa cho các

thành phần hậu động từ, gồm: tân ngữ (O), trạng ngữ (A) hoặc bổ ngữ (C)

được sử dụng phổ biến hơn nhiều so với MĐQH bổ nghĩa cho chủ ngữ. Loại

MĐQH ở cuối cấu trúc câu này giúp đảm bảo vị trí của danh từ trung tâm và

MĐQH liền kề với nhau và không làm gián đoạn cấu trúc, từ đó khiến cho

loại MĐQH này dễ tiếp nhận hơn.

60

Bảng 2.3: Chức năng cú pháp của danh từ trung tâm

Chức năng cú pháp Số lượng Tỷ lệ của danh từ trung tâm

Chủ ngữ 59 10,9%

Tân ngữ 313 57,7%

Trạng ngữ 70 12,9%

Bổ ngữ 100 18,5%

Tổng 542 100,0%

Bảng 2.3 trình bày mức độ phổ biến của các danh từ trung tâm được

MĐQH bổ nghĩa được phân loại theo chức năng cú pháp. Có thể nhận thấy,

MĐQH bổ nghĩa cho danh từ trung tâm là tân ngữ chiếm tỷ lệ lớn nhất với

57,7%, theo sau là MĐQH bổ nghĩa cho trạng ngữ, cung cấp thông tin về thời

gian và địa điểm (12,9%), và MĐQH bổ nghĩa cho bổ ngữ giới từ (18,5%).

Trong khi đó, MĐQH bổ nghĩa cho chủ ngữ, tức là MĐQH đứng trước động

từ chính của cấu trúc chỉ chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn với 10,9%. Kết quả này

có thể được lý giải là do trong cứ liệu văn học, mục đích chính của văn bản là

cung cấp thông tin dồi dào, giàu hình tượng, một cách đơn giản, dễ hiểu đối

với đối tượng độc giả. Vì vậy, tác giả thường ưu tiên sử dụng MĐQH bổ

nghĩa cho các thành phần sau động từ chính của cấu trúc nhằm cung cấp thêm

thông tin cho Thuyết ngữ thay vì Đề ngữ (thường là thông tin mà cả người

viết và người đọc đã biết hoặc được ngầm hiểu).

Ví dụ 31:

MĐQH bổ nghĩa cho chủ ngữ:

Qualities [[that would have saved a ship's company exposed on a

broiling sea with six biscuits and a flask of water—endurance and justice,

foresight, devotion, skill,]] came to his help. [5]

61

Những phẩm chất [[sẽ cứu được cả thủy thủ đoàn đang phơi mình trên

biển cả nóng như thiêu đốt, với sáu cái bánh quy và một bình nước-sự nhẫn

lại, công tâm, lo xa, tận tụy, kỹ năng,]] những thứ ấy đến giúp ông.[6]

Ví dụ 32:

MĐQH bổ nghĩa cho tân ngữ:

Ramsay is one of those men [[who do their best work before they are

forty.]] [5]

Ramsay là một trong số những người [[làm tốt công việc của mình nhất

trước tuổi bốn mươi.]] [6]

Trong cấu trúc có MĐQH định ngữ bổ nghĩa cho chủ ngữ “that would

have saved a ship's company exposed on a broiling sea with six biscuits and a

flask of water—endurance and justice, foresight, devotion, skill,”, MĐQH

đứng trước vị ngữ “came to his help” nên làm tách biệt chủ ngữ và động từ

chính của câu và có thể gây khó khăn trong việc tiếp nhận thông tin quan trọng

được biểu hiện trong câu. Do đó, MĐQH này được diễn đạt sang tiếng Việt

bằng cách nhắc lại chủ ngữ “những thứ ấy” để giúp người tiếp nhận thông tin

xác định được chính xác đối tượng được quy chiếu trong mệnh đề chính. Trong

khi đó, MĐQH bổ nghĩa cho tân ngữ “who do their best work before they are

forty” nằm liền kề với danh từ trung tâm là tân ngữ “one of those men” nhằm

mục đích chi tiết hóa, bổ sung thông tin làm rõ cho danh từ trung tâm nên đối

tượng tiếp nhận thông tin có thể dễ dàng xử lý thông tin một cách liền mạch,

không bị gián đoạn do khoảng cách của đề ngữ và thuyết ngữ.

2.1.2.2. Chức năng cú pháp của ĐTQH

MĐQH cũng có thể được phân loại dựa trên chức năng cú pháp của

ĐTQH thay thế cho danh từ trung tâm. Chức năng cú pháp của ĐTQH được

xem xét trong mối quan hệ với vị ngữ trong MĐQH. Theo Keenan và Comrie

[54], có sáu loại MĐQH được phân loại theo phương thức này trong tiếng

Anh, bao gồm: MĐQH chủ ngữ, tân ngữ trực tiếp, tân ngữ gián tiếp, bổ ngữ

62

gián tiếp (oblique complement), bổ ngữ sở hữu (genitive complement) và tân

ngữ so sánh (object of comparison), trong đó loại MĐQH tân ngữ so sánh là

trường hợp ít phổ biến nhất.

Bảng 2.4: Chức năng cú pháp của ĐTQH

Chức năng cú pháp của ĐTQH Số lượng Tỷ lệ

341 62,9% Chủ ngữ

65 12,0% Tân ngữ trực tiếp

5 0,9% Tân ngữ gián tiếp

86 15,9% Bổ ngữ gián tiếp

45 8,3% Tân ngữ sở hữu

542 100,0% Tổng

Bảng 2.4 trình bày các loại MĐQH được phân loại theo chức năng cú pháp

của danh từ trung tâm được thay thế bởi ĐTQH trong MĐQH. Có thể nhận thấy,

MĐQH có danh từ trung tâm làm chủ ngữ chiếm tỷ lệ lớn nhất với 62,9%, sau

đó là bổ ngữ gián tiếp (15,9%), tân ngữ trực tiếp (12,0%), tân ngữ sở hữu

(8,3%), tân ngữ gián tiếp (0,9%), và tân ngữ so sánh không xuất hiện trong ngữ

liệu nghiên cứu. ĐTQH giữ chức năng bổ ngữ gián tiếp chiếm tỷ lệ lớn thứ hai,

có thể một phần là do chúng tôi gộp số lượng ĐTQH thay thế cho cụm từ chỉ

thời gian và địa điểm và coi chúng có hình thức tương tự như “in which”, “on

which”. Kết quả này cũng chứng minh tính chính xác của lý thuyết về Thang

tiếp nhận cụm danh từ (Noun Phrase Accessibility Hierarchy-NPAH) của

Keenan & Comrie [54] về mức độ tiếp thu của các loại MĐQH từ cao xuống

thấp theo chức năng cú pháp của danh từ trung tâm được thay thế bởi ĐTQH

trong MĐQH. Đồng thời, mức độ phổ biến của các loại MĐQH tương ứng được

thể hiện trong Bảng 2.2 cũng có thể được lý giải là do đặc điểm của thể loại văn

bản văn học là mô tả, cung cấp thông tin một cách cụ thể, giàu ý nghĩa, dễ tiếp

nhận đối với độc giả mục tiêu của văn bản. Trong Thang tiếp cận cụm danh từ

63

(NPAH), MĐQH chủ ngữ nằm ở vị trí đầu tiên nên dễ tiếp thu nhất, do đó, loại

MĐQH này chiếm tỷ lệ áp đảo (62,9%) trong ngữ liệu nghiên cứu. MĐQH tân

ngữ so sánh không có mặt trong ngữ liệu nghiên cứu có thể là do nó nằm ở vị trí

cuối cùng, là loại MĐQH khó tiếp thu nhất với tần suất xuất hiện thấp nhất trong

thực tế, bất kể là ở loại ngôn ngữ nào.

Ví dụ 33:

He wished he could think of something to say to Mrs Ramsay, something

[[which would show her that he was not just a dry prig]] [5]

Anh ước mình có thể nghĩ ra điều gì đó nói với bà Ramsay,[[ cho bà thấy

anh không phải kẻ hợm hĩnh khô khan.]] [6]

Trong ví dụ trên, MĐQH “which would show her that he was not just a

dry prig” bổ nghĩa cho danh từ trung tâm “something”, đồng thời danh từ

trung tâm đó (được thay thế bởi ĐTQH “which”) cũng đóng vai trò chủ ngữ

trong MĐQH hạn định. MĐQH này được sử dụng để cung cấp thông tin chi

tiết hơn về danh từ trung tâm, giúp độc giả hiểu thêm về nội dung của danh từ

trung tâm muốn truyền tải.

Ví dụ 34:

Although his back was to us, we knew he had a slight cast in one of his

eyes, [[which he used to his advantage.]] [1]

Dù ông quay lưng về phía chúng tôi, chúng tôi vẫn biết một mắt ông hơi

lé [[mà ông sử dụng như một lợi thế.]] [2]

MĐQH “which he used to his advantage” để bổ nghĩa cho danh từ trung

tâm “one of his eyes” là MĐQH tân ngữ trực tiếp, trong đó ĐTQH “which”

được sử dụng để thay thế cho danh từ trung tâm trong MĐQH. Chức năng

chính của MĐQH này là chi tiết hóa danh từ trung tâm, cung cấp thông tin cụ

thể về danh từ trung tâm cho đối tượng tiếp nhận thông tin.

Ví dụ 35:

Jem scooped up an armful of dirt, patted it into a mound [[on which he

added another load]], and another until he had constructed a torso. [1]

64

Jem ôm một đống đất, đắp vào một ụ [[rồi thêm tiếp một ôm đất nữa,]]

và một ôm nữa cho đến khi anh tạo xong một bức tượng bán thân. [2]

Trong ví dụ trên, MĐQH bổ ngữ gián tiếp “on which he added another

load” bổ nghĩa cho danh từ trung tâm “a mound”, trong đó danh từ trung tâm

(được thay thế bởi ĐTQH “which”) giữ chức năng bổ ngữ gián tiếp hay bổ

ngữ giới từ đứng sau giới từ “on”, nhằm mục đích cung cấp thêm thông tin về

danh từ trung tâm cho độc giả.

Ví dụ 36:

Thus we came to know Dill as a pocket Merlin [[, whose head teemed

with eccentric plans, strange longings, and quaint fancies.]] [1]

Vì vậy chúng tôi dần xem Dill là một tay Merlin bỏ túi [[, với một cái

đầu đầy những kế hoạch ly kỳ, những khát khao quái lạ, và những tưởng

tượng kỳ quặc.]] [2]

MĐQH không hạn định “whose head teemed with eccentric plans,

strange longings, and quaint fancies” là MĐQH tân ngữ sở hữu bổ nghĩa cho

danh từ trung tâm chỉ người “a pocket Merlin”. Trong ví dụ này, MĐQH tân

ngữ sở hữu được sử dụng để cung cấp thêm thông tin bổ sung, giải thích thêm

cho danh từ trung tâm.

a. ĐTQH làm chủ ngữ

Như đã nói ở trên, mang đặc điểm của mệnh đề, MĐQH cũng có chủ

ngữ và động từ. Do vậy, trong tiếng Anh, ĐTQH thay cho chủ ngữ có ba từ:

“who” thay cho chủ ngữ là một từ chỉ người, “which” thay cho chủ ngữ là từ

chỉ sự vật và “that” thay cho chủ ngữ là từ chỉ cả người và vật. Chúng đều

xuất hiện sau danh từ trung tâm, thay thế cho danh từ trung tâm và làm chủ

ngữ trong mệnh đề phụ. Với chức năng chủ ngữ, ĐTQH bắt buộc phải có mặt

trong MĐQH và ĐTQH chia theo số và ngôi của danh từ trung tâm mà nó

thay thế.

65

Bảng 2.5. ĐTQH làm chủ ngữ

ĐTQH làm chủ ngữ Số lượng Tỷ lệ

who 145 42,5%

which 67 19,6%

that 129 37,8%

Tổng 341 100,0%

Bảng 2.5 thể hiện tỷ lệ ĐTQH với chức năng chủ ngữ theo từng đại từ

“who, which, that”. Theo đó, đại từ “who” chiếm tỷ lệ lớn nhất với 42,5%,

điều này cho thấy trong ngữ liệu nghiên cứu, đại từ “who” chủ yếu thực hiện

chức năng chủ ngữ, theo sau, với tỷ lệ khá đáng kể 37,8% là ĐTQH “that” và

“which” (19,6%). Vậy, trong ba tác phẩm được nghiên cứu, tác giả ưu tiên sử

dụng đại từ “who” để thay thế cho danh từ trung tâm làm chủ ngữ của

MĐQH, có thể là để thể hiện rõ ràng tác nhân của hành động hoặc mô tả bản

chất, đặc điểm của danh từ/ đại từ được thay thế là người nhằm hình tượng

hóa nội dung tác phẩm, thu hút sự chú ý của độc giả.

Ví dụ 37:

Some one [[who had been driving a little behind us]] confirmed this and

the policeman turned away. [3]

(S + who + V’ (+ O’) + V + O)

Một người [[có xe chạy ngay sau xe chúng tôi]] xác nhận cho lời khai

ấy nên viên cảnh sát ngoảnh đi. [4]

Trong ví dụ trên, ĐTQH “who” là chủ ngữ của mệnh đề có động từ

“had been driving …” và thay thế cho danh từ chỉ người “Someone”.

Ví dụ 38:

Her hand [[,which dangles over the side,]] sparkles cold with jewels. [3]

(S + which + V’ (+ O’) + V + O)

66

Bàn tay người đàn bà [[buông thõng bên cạnh cáng]] lấp lánh những

ánh lạnh lẽo của vàng bạc châu báu. [4]

Trong ví dụ trên, ĐTQH “which” là chủ ngữ của mệnh đề có động từ

“dangles” và thay thế cho danh từ chỉ vật “her hand”.

Ví dụ 39:

At first I couldn’t find the source of the high, groaning words [[that

echoed clamorously through the bare garage]]. [3]

(S + V + O + that + V’ + O’)

Thoạt tiên, tôi không hiểu những tiếng rên rỉ [[vang to trong nhà xe

trống trơn]] là ở đâu ra. [4]

Trong ví dụ trên, ĐTQH “that” là chủ ngữ của mệnh đề có động từ

“echoed” và thay thế cho danh từ chỉ vật “words”.

Trong tiếng Anh, nhiều ĐTQH có thể giữ chức năng chủ ngữ của

MĐQH như who, which, hoặc that, tùy thuộc vào loại MĐQH là hạn định hay

không hạn định và danh từ trung tâm có tính động (animacy) hay không.

Ví dụ 40:

One evening we a performance by [[which seemed to have

were privileged to him been his positively

witness last.]]

Sự vật ĐTQH Vị ngữ Chỉ

trỏ

Trong ví dụ trên, MĐQH “which seemed to have been his positively

last” có ĐTQH “which” với chức năng chủ ngữ. Đó là MĐQH hạn định nên

không thể lược bỏ ĐTQH làm chủ ngữ.

Ví dụ 41:

“There’s some folks [[who don’t eat like us,]]” she whispered fiercely,

“but you ain’t called on to contradict ‘em at the table when they don’t. [1]

67

“Có một số người [[không ăn giống nhà mình,]]” bà thì thầm một cách

gay gắt, “nhưng đâu có ai yêu cầu cô rầy rà họ tại bàn ăn khi họ không giống

cô đâu. [2]

Trong ví dụ trên, ĐTQH “who” giữ vai trò chủ ngữ của MĐQH hạn định

“who don’t eat like us” nên không thể lược bỏ mà không ảnh hưởng tới cấu

trúc và ý nghĩa của câu.

b. ĐTQH làm tân ngữ

Trong tiếng Anh, các ĐTQH được sử dụng để thay thế cho tân ngữ là

danh từ (noun objects) hoặc tân ngữ là đại từ (object pronouns). ĐTQH

“whom” thường được dùng thay cho tân ngữ là từ chỉ người. Thay cho vật có

thể dùng “which”. Đại từ “that” lại có thể thay thế cho cả tân ngữ trực tiếp là

người hoặc vật. Các đại từ không thay đổi dạng khi chúng thay thế cho tân

ngữ bất kể giống số.

Bảng 2.6. dưới đây trình bày các ĐTQH với chức năng tân ngữ trực tiếp.

Bảng 2.6: ĐTQH làm tân ngữ trực tiếp

ĐTQH làm tân ngữ trực tiếp Số lượng Tỷ lệ

who 1,6% 1

whom 20,3% 13

which 34,4% 22

that 43,8% 28

Tổng 100,0% 64

Dựa vào Bảng trên, có thể dễ dàng nhận thấy tỷ lệ sử dụng “that” rất

phổ biến trong ngữ liệu nghiên cứu cho thấy tính linh hoạt của ĐTQH này khi

thay thế cho cả người và vật với 43,8%, “which” với 36,8% để thay thế cho

danh từ/ đại từ chỉ vật với chức năng tân ngữ trực tiếp, đứng sau động từ,

“whom” chỉ chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn 20,3% cho thấy trong ngữ liệu nghiên

68

cứu, các tác giả sử dụng văn phong mô tả, trần thuật, thể hiện quan điểm

thông thường.

Ví dụ 42:

It was the man with owl-eyed glasses [[whom I had found marvelling

over Gatsby’s books in the library one night three months before.]] [3]

(S + V + O + whom + S’ + V’)

Đó là người đàn ông đeo đôi kính như mắt cú [[mà tôi đã thấy đứng

sững sờ trước các giá sách trong thư viện của Gatsby vào một đêm cách đây

ba tháng.]] [4]

Trong ví dụ trên, ĐTQH “whom” đã thay thế cho tân ngữ là “the man”

trong mệnh đề sau nên trong mệnh đề đó, có thể lược bỏ tân ngữ “him”.

Ví dụ 43:

Less than two weeks later we found a whole package of chewing gum,

[[which we enjoyed,]] the fact that everything on the Radley Place was poison

having slipped Jem’s memory. [1]

(S + V + O + which + S’ + V’)

Chưa đầy hai tuần sau, chúng tôi nhận được nguyên một gói kẹo cao

su, [[mà chúng tôi cứ thế tận hưởng,]] lời đồn rằng mọi thứ ở khu nhà Radley

đều là thuốc độc đã trôi khỏi ký ức của Jem. [2]

Trong ví dụ trên, ĐTQH “which” đã thay thế cho tân ngữ là “it” trong

mệnh đề sau nên trong mệnh đề đó, có thể lược bỏ tân ngữ “it”.

Ví dụ 44:

Although his back was to us, we knew he had a slight cast in one of his

eyes [[that he used to his advantage.]] [1]

(S + V + O + that + S’ + V’)

Dù ông quay lưng về phía chúng tôi, chúng tôi vẫn biết một mắt ông

hơi lé [[mà ông sử dụng như một lợi thế.]] [2]

69

Trong ví dụ trên, ĐTQH “that” đã thay thế cho tân ngữ là “it” trong

mệnh đề sau nên trong mệnh đề đó, có thể lược bỏ tân ngữ “it”.

Một điều quan trọng là trong tiếng Anh người ta có thể bỏ ĐTQH thay

thế cho tân ngữ trực tiếp mà vẫn không ảnh hưởng đến ngữ pháp và ngữ nghĩa

của câu.

Ví dụ 45:

It can be the Supreme Court of the United States or the humblest J.P.

court in the land, or this honorable court [[you serve.]] [1]

(S + V + O + S’ + V’)

Nó có thể là Tòa án tối cao của nước Mỹ hay tòa sơ thẩm tầm thường

nhất của đất nước này hay chính cái tòa án danh giá [[mà quý vị đang phục vụ

này.]] [2]

Trong ví dụ trên, đại từ “which” hoặc “that” giữ chức năng tân ngữ trực

tiếp của mệnh đề sau đã được lược bỏ mà không khiến câu bị sai ngữ pháp

hay lệch lạc về ý nghĩa. Nội dung câu vẫn được trình bày rõ ràng, dễ hiểu.

ĐTQH có thể giữ chức năng tân ngữ của mệnh đề trong tiếng Anh có thể

là whom, which, hoặc that tùy theo tính hạn định của mệnh đề và tính động

của danh từ trung tâm. Tân ngữ có thể là tân ngữ trực tiếp, tân ngữ gián tiếp

hoặc tân ngữ/ bổ ngữ giới từ theo vị trí của ĐTQH trong mệnh đề với danh từ

trung tâm mà nó thay thế.

Ví dụ 46:

In my younger and more some advice [[that I’ve been turning

vulnerable years my father over in my mind

gave me ever since.]]

Số Sự vật ĐTQH Mệnh đề phụ

đếm

Trong ví dụ trên, ĐTQH “that” là tân ngữ giới từ của cụm động từ gồm

động từ “turning” và giới từ “over”. Trong trường hợp này, cụm động từ

70

không phải là động từ cụm (phrasal verb) có ý nghĩa độc lập với các thành

phần cấu tạo nên nó. Do đó, giới từ thường được đặt ở cuối mệnh đề và có thể

lược bỏ ĐTQH mà không ảnh hưởng tới ý nghĩa của toàn bộ câu.

Ví dụ 47:

Starting from her words [[which she had held

musing she gave meaningless in her mind

meaning to for a long stretch of

time.]]

Số đếm Sự vật ĐTQH Mệnh đề phụ

Trong ví dụ trên, ĐTQH “which” thay thế cho danh từ trung tâm “words”

với chức năng tân ngữ trực tiếp của động từ “held” trong MĐQH hạn định

“which she had held meaningless in her mind for a long stretch of time”.

c. ĐTQH làm bổ ngữ gián tiếp

Trong tiếng Anh, ĐTQH “when” được sử dụng để thay thế cho cụm từ

chỉ thời gian và ĐTQH “where” thay cho cụm từ chỉ nơi chốn, địa điểm.

Ví dụ 48:

For it was extraordinary to think that they had been capable of going on

living all these years [[when she had not thought of them more than once.]] [5]

(S + V + O + cụm từ chỉ thời gian + when + S’ + V’)

Vì thật dị thường khi nghĩ tới chuyện nhà ấy có thể sống tiếp từng ấy

năm [[trong khi bà chẳng nghĩ tới họ quá một lần.]] [6]

Trong ví dụ này, ĐTQH “when” được sử dụng để thay thế cho cụm từ

chỉ thời gian “these years”, do đó, MĐQH phía sau không cần phải lặp lại

cụm từ này nữa.

Ví dụ 49:

But Maycomb would have been closer to the river had it not been for

the nimble-wittedness of one Sinkfield,[[who in the dawn of history operated

an inn where two pig-trails met, the only tavern in the territory.]] [1]

71

(S + V + danh từ chỉ địa điểm + where + S’ + V’)

Nhưng Maycomb sẽ gần sông hơn nếu không vì sự nhanh trí của một

ông Sinkfieid nọ, [[người trong buổi bình minh của lịch sử đã kinh doanh một

quán trọ nơi hai đường mòn gặp nhau, quán rượu duy nhất trong vùng.]] [2]

Trong ví dụ này, ĐTQH “where” được sử dụng để thay thế cho cụm từ

chỉ địa điểm “an inn”, do đó, MĐQH phía sau không cần phải lặp lại cụm từ

này nữa.

Một điểm cần chú ý là ĐTQH “when” và “where” trong tiếng Anh

không bao giờ đi cùng giới từ bởi vì chúng đã thay thế cho cả cụm từ, bao

gồm cả giới từ chỉ thời gian và địa điểm.

MĐQH có sử dụng ĐTQH “where” thường bổ nghĩa cho một danh từ

trung tâm sở chỉ đến một cụm danh từ chỉ địa điểm trong mệnh đề chính.

Ví dụ 50:

With that, Calpurnia led us to the church door [[where we were greeted

by Reverend Sykes]], who led us to the front pew. [1]

Thế là Calpurnia dẫn chúng tôi đến cửa nhà thờ [[nơi Đức cha Sykes đón

chào chúng tôi]], ông dẫn chúng tôi tới hàng ghế đầu. [2]

Trong ví dụ trên, ĐTQH “where” được sử dụng để thay thế cho danh từ

trung tâm chỉ địa điểm “the church door” giữ chức năng trạng ngữ của mệnh

đề chính còn ĐTQH “where” có chức năng trạng ngữ của MĐQH.

Ví dụ 51:

We had strolled to the front yard, [[where Dill stood looking

down the street at the

dreary face of the

Radley Place.]]

Chỉ trỏ Sự vật MĐQH (hậu bổ tố)

ĐTQH Mệnh đề phụ

72

ĐTQH “when” được sử dụng để thay thế cụm từ chỉ thời gian trong

mệnh đề chính.

Ví dụ 52:

John Hale Finch was ten years a time [[when cotton was not

younger than my father, and worth.]]

chose to study medicine at

Chỉ Sự vật MĐQH

trỏ ĐTQH Mệnh đề phụ

Trong ví dụ trên, MĐQH hạn định “when cotton was not worth” bổ

nghĩa cho danh từ trung tâm “time” nhằm cụ thể hóa, chi tiết hóa danh từ

trung tâm nên không thể lược bỏ khỏi câu mà không làm ảnh hưởng tới ý

nghĩa của toàn bộ câu.

Ví dụ 53:

the tradition of living on the twentieth [[,when my father went to

the land remained century Montgomery to read

unbroken until well into law.]]

Chỉ Sự vật MĐQH (hậu bổ tố)

trỏ ĐTQH Mệnh đề phụ

MĐQH không hạn định “when my father went to Montgomery to read

law” đóng vai trò chi tiết hóa cho danh từ trung tâm (sự vật ) “the twentieth

century” là danh từ xác định có mạo từ xác định “the” nên MĐQH chỉ làm

nhiệm vụ bổ sung thêm thông tin cho danh từ trung tâm và có thể lược bỏ mà

không ảnh hưởng tới cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa của câu.

d. ĐTQH thể hiện sở hữu

Trong tiếng Anh, ĐTQH “whose” cũng như các biến thể tương ứng “of

whom”, “of which” có thể thể hiện cách sở hữu trong quan hệ với danh từ

73

trung tâm hoặc cụm danh từ. Trong MĐQH, đứng sau “whose” thường là một

danh từ hoặc cụm danh từ thể hiện sự vật thuộc về một người hoặc vật được

trình bày trong danh từ trung tâm còn trong các biến thể “of which”, “of

whom” thì danh từ hoặc cụm danh từ có thể đứng trước hoặc sau nó. Tổ hợp

ĐTQH+danh từ/ cụm danh từ có thể giữ chức năng chủ ngữ, tân ngữ hoặc bổ

Of which; 13%

Whose; 87%

ngữ của MĐQH.

Biểu đồ 2.1. ĐTQH sở hữu

Từ Biểu đồ 2.1 có thể thấy rằng, ĐTQH “whose” được sử dụng phổ biến

hơn “of which” do trong ngữ liệu nghiên cứu, các tác giả chủ yếu mô tả hình

thức sở hữu của các nhân vật là người hơn là sự vật.

Ví dụ 54:

I received a letter and a snapshot from him. The letter said he had a

new father [[whose picture was enclosed,]] and he would have to stay in

Meridian because they planned to build a fishing boat. [1]

(S + V + O (chỉ người) + whose + S’(vật sở hữu của O) + V’)

74

Tôi nhận một lá thư và một bức ảnh Dill gửi. Lá thư nói nó có ba mới

[[mà nó gửi hình kèm theo]], và chắc nó phải ở lại Meridian vì họ lên kế

hoạch đóng một cái thuyền đánh cá. [2]

Trong ví dụ này, ĐTQH “whose” được sử dụng để liên kết vật sở hữu

“picture” với chủ sở hữu “father” đứng trước nó.

Ví dụ 55:

A curious contest, [[the nature of which eluded me,]] was developing

between my father and the sheriff. [1]

(S (chỉ vật) + N’(sở hữu của N) + of which + V’ + V + O)

Một cuộc ganh đua kỳ cục, [[mà bản chất của nó tôi không hiểu ra,]]

đang phát triển giữa bố tôi và ông cảnh sát trưởng. [2]

Trong ví dụ này, ĐTQH “of which” được sử dụng để liên kết sở hữu

“nature” với chủ sở hữu “contest” đứng trước nó.

Ví dụ 56:

Atticus, [[whose collar seemed to worry him.]]

ĐTQH+danh từ (vật sở hữu) Cụm động từ

Hậu bổ tố Sự vật

Trong ví dụ trên, ĐTQH “whose” có chức năng như là tính từ sở hữu

trong MĐQH.

2.1.2.3. Quan hệ liên kết về chức năng cú pháp giữa danh từ trung tâm và

ĐTQH

Có thể nhận thấy rằng khi xem xét MĐQH tiếng Anh, cả danh từ trung

tâm và ĐTQH đều có các chức năng cú pháp cụ thể trong mối quan hệ với

thành phần vị ngữ của mệnh đề tương ứng. Danh từ trung tâm và ĐTQH có

thể có cùng chức năng cú pháp là chủ ngữ hay tân ngữ nhưng trong phạm vi

mệnh đề khác nhau, hoặc cũng có trường hợp chức năng của danh từ trung

tâm và ĐTQH không giống nhau. Từ đó, cấu trúc câu chứa MĐQH có thể

mang nhiều hình thức biến thể khá đa dạng dựa trên chức năng cú pháp của

75

hai thành phần này. Các biến thể hình thức của câu chứa MĐQH trong tiếng

Anh theo chức năng cú pháp của danh từ trung tâm và ĐTQH được trình bày

trong Bảng sau:

Bảng 2.7: Mối quan hệ chức năng cú pháp giữa danh từ trung tâm và

ĐTQH

TT Chức năng cú pháp Chức năng cú Số lượng Tỷ lệ

của danh từ trung tâm pháp của ĐTQH

8,9% 48 Chủ ngữ 1. Chủ ngữ

0,4% 2 Tân ngữ 2. Chủ ngữ

1,1% 6 Tân ngữ giới từ 3. Chủ ngữ

0,6% 3 Tân ngữ sở hữu 4. Chủ ngữ

Chủ ngữ 207 38,2% 5. Tân ngữ

8,3% 45 Tân ngữ trực tiếp 6. Tân ngữ

0,6% 3 Tân ngữ gián tiếp 7. Tân ngữ

4,1% 22 Tân ngữ giới từ 8. Tân ngữ

6,6% 36 Tân ngữ sở hữu 9. Tân ngữ

0,4% 2 Chủ ngữ 10. Trạng ngữ

0,4% 2 Tân ngữ trực tiếp 11. Trạng ngữ

0,2% 1 Tân ngữ gián tiếp 12. Trạng ngữ

0,2% 1 Tân ngữ sở hữu 13. Trạng ngữ

9,8% 53 Trạng ngữ 14. Trạng ngữ

15,7% 85 Chủ ngữ 15. Bổ ngữ

3,0% 16 Tân ngữ trực tiếp 16. Bổ ngữ

0,2% 1 Tân ngữ gián tiếp 17. Bổ ngữ

0,9% 5 Tân ngữ giới từ 18. Bổ ngữ

0,7% 4 Tân ngữ sở hữu 19. Bổ ngữ

542 100,0% Tổng

76

Bảng 2.7 thể hiện các loại MĐQH được xác định dựa trên mối quan hệ

về chức năng cú pháp của danh từ trung tâm và ĐTQH. Theo đó, với mỗi

chức năng cú pháp của một thành phần, ta lại có một biến thể của MĐQH,

điều này chứng tỏ tính đa dạng về hình thức và chức năng của MĐQH trong

tiếng Anh. Tuy nhiên, có thể nhận thấy các loại MĐQH được phân chia theo

phương thức này có tỷ lệ chênh lệch rất lớn, thể hiện mức độ phổ biến của

từng chức năng của danh từ trung tâm và ĐTQH. Dựa vào Bảng 2.7, có thể

tổng kết rằng các chức năng cú pháp chủ yếu của cả danh từ trung tâm và

ĐTQH trong MĐQH tiếng Anh là Chủ ngữ, Tân ngữ, Bổ ngữ và Trạng ngữ.

Kết luận này cũng tương đồng với kết quả của các nghiên cứu trước đây của

Keenan & Comrie [54], Biber [23], Givon [37], Kuno [59], Huddleston &

Pullum [45], v.v.

Ví dụ 57:

The transactions in Montana copper [[that made him many times a

millionaire]] found him physically robust but on the verge of soft-

mindedness. [3]

Những cuộc mua bán các mỏ vàng ở Montana [[giúp ông trở thành người

mấy mươi lần triệu phú,]] đã làm cho ông cường tráng về thể chất nhưng

mềm yếu về tâm hồn. [4]

Trong ví dụ trên, cả danh từ trung tâm “the transactions in Montana

copper” và ĐTQH “that” đều giữ chức năng chủ ngữ, trong đó MĐQH “that

made him many times a millionaire” có mục đích chi tiết hóa cho danh từ

trung tâm làm chủ ngữ của câu.

Ví dụ 58:

It was as if the water floated off and set sailing thoughts [[which had

grown stagnant on dry land]], and gave to their bodies even some sort of

physical relief. [5]

77

Việc đó y như thể nước dâng lên, đẩy những suy nghĩ [[đã trở lên chây ỳ

trên mảnh đất khô cằn ra khơi]] và khiến cơ thể họ có được sự khuây khỏa

thể chất nào đó. [6]

MĐQH “which had grown stagnant on dry land” với ĐTQH “which”

làm chủ ngữ bổ nghĩa cho danh từ trung tâm “thoughts” giữ chức năng tân

ngữ, đứng sau động từ “set sailing”

Ví dụ 59:

Again, as I had often met it in my own church, I was confronted with the

Impurity of Women doctrine [[that seemed to preoccupy all clergymen.]] [1]

Một lần nữa, như tôi thường thấy trong nhà thờ của chúng tôi, tôi gặp

phải học thuyết về sự ô uế của phụ nữ [[vốn có vẻ như ám ảnh mọi tu sĩ.]] [2]

Đây là cấu trúc câu chứa MĐQH bổ nghĩa cho bổ ngữ “the Impurity of

Women doctrine”, trong đó ĐTQH “that” đóng vai trò chủ ngữ của MĐQH.

2.1.3. Phương tiện liên kết

Theo Quirk [85], MĐQH là mệnh đề phụ được liên kết với mệnh đề

chính thông qua phương tiện liên kết là hệ thống các ĐTQH với chức năng

thay thế cho danh từ trung tâm trong mệnh đề chính. Đặc điểm của danh từ

trung tâm quyết định ĐTQH được sử dụng để thay thế cho nó. Những đặc

điểm này bao gồm: từ ngữ chỉ người hay vật, và chức năng cú pháp. ĐTQH

đánh dấu và hợp cách (case-marking and agreement) về tính động (animacy)

với danh từ trung tâm. ĐTQH đánh dấu cách gồm who, whom và whose, còn

who và which thể hiện tính động (chỉ người hoặc vật) [85].

Ví dụ 60:

If her husband required sacrifices (and indeed he did) she cheerfully

offered up to him Charles Tansley [[, who had snubbed her little boy.]] [5]

Nếu chồng bà yêu cầu hiến tế (và thực sự ông đã làm thế) thì bà sẽ vui

mừng dâng Charles Tansley, [[kẻ làm bẽ mặt con bà,]] cho ông. [6]

78

Trong ví dụ trên ĐTQH “who” với chức năng chủ ngữ của MĐQH, thay

thế cho danh từ trung tâm chỉ người.

Ví dụ 61:

I realized that her eyes, wide with jealous terror, were fixed not on Tom,

but on Jordan Baker[[, whom she took to be his wife]]. [3]

Tôi nhận ra hai con mắt bà ta, trợn trừng lên vì một nỗi kinh hoàng bởi

lòng ghen, không nhìn Tom mà nhìn thẳng vào Jordan Baker [[mà bà ta tưởng

là vợ Tom.]] [4]

ĐTQH “whom” giữ chức năng tân ngữ của MĐQH “whom she took to

be his wife” thay thế cho danh từ trung tâm chỉ người “Jordan Baker”.

Ví dụ 62:

Mr. Gilmer was writing on one of the yellow pads on his table, trying to

outdo the court reporter, [[whose hand was jerking rapidly]]. [1]

Ông Gilmer đang viết lên một trang của xấp giấy vàng trên bàn ông ta,

cố vượt qua người ghi biên bản [[vẫn đang múa tay như gió.]] [2]

Trong ví dụ trên, ĐTQH sở hữu “whose” được sử dụng để chỉ ý sở hữu

của danh từ trung tâm “the court reporter”.

Ví dụ 63:

Right side up but violently shorn of one wheel, rested a new coupé

[[which had left Gatsby’s drive not two minutes before.]] [3]

Một chiếc hai cửa mới toanh [[vừa mới rời khỏi vườn nhà Gatsby trước

đó hai phút]] bây giờ nằm kẹt ở cái rãnh ven đường: chiếc xe không đổ nhưng

gãy mất một bánh. [4]

Với chức năng chủ ngữ của MĐQH “which had left Gatsby’s drive not

two minutes before”, ĐTQH “which” được sử dụng để thay thế cho danh từ

trung tâm đứng trước nó “a new coupe”.

Chức năng cú pháp của danh từ trung tâm cũng quyết định ĐTQH nào

được sử dụng. Các ĐTQH who, which, that có thế được sử dụng để đại diện

79

cho danh từ trung tâm với chức năng chủ ngữ, ĐTQH whom, which, that thay

cho danh từ trung tâm làm tân ngữ, when và where thay thế cho cụm từ chỉ

thời gian và địa điểm với chức năng trạng ngữ, v.v.

Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu MĐQH dựa

trên phương tiện liên kết là ĐTQH, là dấu hiệu giúp nhận diện MĐQH một

cách rõ ràng trong văn bản.

Bảng 2.8: Loại MĐQH theo ĐTQH

Loại MĐQH theo ĐTQH Số lượng Tỷ lệ

160 29,5% that

147 27,1% who

120 22,1% which

39 7,2% whose

23 4,2% whom

35 6,5% where

18 3,3% when

542 100,0% Tổng

Bảng 2.8 thể hiện cụ thể tần suất ĐTQH được sử dụng trong các tác

phẩm thuộc ngữ liệu nghiên cứu. Tần suất sử dụng MĐQH “that” đứng đầu

trong tổng số câu chứa MĐQH với 29,5%. ĐTQH “that” được dùng để thay

thế cho cả người và cả vật, từ đó thể hiện tính linh hoạt trong trường hợp sử

dụng của đại từ này. Đây cũng chính là lý do vì sao mệnh đề “that” lại có tỷ lệ

phổ biến như vậy trong ngữ liệu nghiên cứu.

Ví dụ 64:

The windows were ajar and gleaming white against the fresh grass

outside [[that seemed to grow a little way into the house.]] [5]

Các cánh cửa sổ mở hé, trắng lấp lánh trên nền cỏ tươi mát bên ngoài

và cỏ [[dường như mọc len cả vào trong nhà một chút.]] [6]

80

Trong ví dụ này, mệnh đề “that” được sử dụng để thay thế cho danh từ chỉ

vật đứng trước nó, tương tự như “which”. Với tư cách là ĐTQH, đại từ “that”

cũng được vận dụng để giải thích thêm cho danh từ trung tâm “the fresh grass

outside” trong với một cấu trúc ngắn gọn, mạch lạc, tạo dấu ấn với độc giả.

Có thể nhận thấy rằng ĐTQH “who” chiếm vị thế đáng kể với sự góp

mặt trong 147 mệnh đề để thay thế cho danh từ hoặc đại từ chỉ người. Do nội

dung của các tác phẩm được nghiên cứu đều lấy bối cảnh từ đời sống hàng

ngày, nên các danh từ hoặc đại từ chỉ người xuất hiện với tần suất dày đặc. Đó

chính là lý do tỷ lệ xuất hiện của MĐQH “who” chiếm 27,1 %.

Ví dụ 65:

When Uncle Jack caught me, he kept me laughing about a preacher

[[who hated going to church so much that every day he stood at his gate in his

dressing-gown, smoking a hookah and delivering five-minute sermons to any

passers-by [[who desired spiritual comfort.]] [1]

Khi chú Jack bắt gặp tôi, chú khiến tôi phá lên cười về chuyện một tay

thuyết giáo [[rất ghét đi nhà thờ đến độ mỗi ngày ông đều mặc áo khoác ngủ

đứng ở cổng, hút bát điếu và nói những bài thuyết giáo năm phút cho bất cứ

khách qua đường nào [[cần sự thư thái tinh thần.]] [2]

Trong ví dụ trên, có thể dễ dàng nhận thấy MĐQH “who” xuất hiện hai

lần để thay thế ngay cho danh từ trung tâm là danh từ chỉ người “a preacher”

và “passers-by” với mục đích bổ sung thêm thông tin, mô tả chi tiết về người

đó, giúp cho câu văn trở nên hình tượng hơn, rõ nét hơn. Từ đó, độc giả có thể

có những hình dung chi tiết hơn về người được đề cập tới trong ngữ cảnh. Ví

dụ này cũng thể hiện cách thức sử dụng linh hoạt của MĐQH “who” khi nó

không bị giới hạn số lần xuất hiện trong cùng một câu, tùy thuộc vào số lượng

mệnh đề nằm trong câu đó.

Cũng theo Bảng 2.8, mệnh đề “which” cũng xuất hiện phổ biến trong

ngữ liệu nghiên cứu với tỷ lệ 22,1%. Tỷ lệ này cũng khá dễ lý giải do đặc

81

trưng của thể loại văn bản văn học là trình bày nội dung với nhiều tìm tòi sáng

tạo, có tính hình tượng, có hàm nghĩa sâu sắc, phong phú. Do đó, việc sử

dụng mệnh đề “which” để thay thế cho vật hoặc động vật với tần suất lớn

cũng là điều dễ hiểu.

Ví dụ 66:

They look out of no face but, instead, from a pair of enormous yellow

spectacles [[which pass over a nonexistent nose.]] [1]

Hai con mắt của bác sĩ T. J. Eckleburg không nằm trên một bộ mặt nào

cả, mà chúng nhìn mọi người qua một cặp kính vàng kếch sù [[đặt trên mỗi

cái mũi khuyết.]] [2]

Trong ví dụ trên, mệnh đề “which” được sử dụng để thay thế cho danh

từ trung tâm chỉ vật “spectacles” với mục đích cụ thể là mở rộng câu, bổ sung

thêm mệnh đề diễn đạt hình tượng, cung cấp thêm thông tin mô tả nhằm tránh

gây nhàm chán cho độc giả.

2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa

Từ quan điểm ngữ pháp chức năng của Halliday [41], MĐQH có thể

đóng vai trò hậu bổ tố trong cụm danh từ (trong cấu trúc kinh nghiệm của

cụm danh từ) hoặc mệnh đề xuống cấp (rankshifted) hay mệnh đề bị bao

(embedded) trong tổ hợp mệnh đề (clause complexes). Dựa vào mối quan hệ

ngữ nghĩa của MĐQH với các thành phần bên trong cụm danh từ và với cấu

trúc bên ngoài (mệnh đề chính), chúng tôi có thể xác định đặc điểm của

MĐQH trong tiếng Anh.

Trong tiếng Anh, MĐQH có thể được chia thành MĐQH hạn định và

MĐQH không hạn định. MĐQH hạn định có chứa một định đề mà người nói

cho rằng người nghe có biết hay có thể tiếp cận được, không phải là thông tin

mới gây tranh cãi, mang tính thách thức đối với người nghe. Còn MĐQH

không hạn định chuyển tải thông tin nền theo chủ đề mà người nói có thể cho

là hữu ích đối với người nghe theo nhiều cách khác nhau.

82

Bảng 2.9: MĐQH theo ngữ nghĩa

MĐQH theo ngữ nghĩa Số lượng Tỷ lệ

MĐQH hạn định 73,6% 399

MĐQH không hạn định 26,4% 143

Tổng 100,0%

Bảng 2.9 thể hiện tỷ lệ của hai loại MĐQH hạn định và không hạn định

trong ngữ liệu nghiên cứu, trong đó MĐQH hạn định chiếm tỷ lệ lớn hơn với

73,6%, nghĩa là đa số các MĐQH trong ngữ liệu nghiên cứu chủ yếu nhằm

mục đích cung cấp thông tin quan trọng cho các thành phần mà nó bổ nghĩa,

và do đó, nó là bộ phận bắt buộc, không thể lược bỏ những mệnh đề đó mà

không ảnh hưởng tới nghĩa của cả câu.

Cả hai loại mệnh đề đều có thể bổ nghĩa cho cả danh từ xác định và

danh từ có quy chiếu không xác định, từ đó hình thành đặc điểm ngữ nghĩa

của MĐQH

2.2.1. Quan hệ ngữ nghĩa giữa danh từ trung tâm và MĐQH

Đặc điểm ngữ nghĩa của MĐQH được thể hiện trong mối liên hệ với danh

từ trung tâm, do đó, thông qua việc phân tích đặc điểm của danh từ trung tâm

trên ngữ liệu nghiên cứu, chúng tôi có thể rút ra một số kết luận có ý nghĩa.

2.2.1.1. MĐQH không hạn định

MĐQH không hạn định là những cấu trúc bổ nghĩa cho danh từ có quy

chiếu đã được xác định đối với cả người nói và người nghe.

Ví dụ 67:

We squandered our first nickels on the House of Horrors, [[which scared

us not at all]]; we entered the black seventh-grade room and were led around

by the temporary ghoul in residence and were made to touch several objects

alleged to be component parts of a human being. [1]

83

Chúng tôi tiêu những đồng năm xu đầu tiên của mình ở Ngôi nhà kinh

hoàng [[, vốn chẳng làm tụi tôi sợ chút nào]], tụi tôi bước vào phòng lớp bảy

đen thui và được dẫn đi loanh quanh bởi một con ma cà rồng tạm thời trong

đó và được hướng dẫn rờ vào những món được cho là bộ phận cấu thành con

người. [2]

Trong ví dụ này, MĐQH “which scared us not at all” bổ nghĩa cho danh

từ riêng “House of Horrors” với quy chiếu đã được xác định trước đối với

người tiếp nhận phát ngôn nên MĐQH đứng sau nó không có tính xác định.

Ví dụ 68:

Sometimes a shadow moved against a dressingroom blind above, gave

way to another shadow, an indefinite procession of shadows [[, who rouged

and powdered in an invisible glass.]] [3]

Có bóng ai thỉnh thoảng di động đằng sau tấm rèm buông xuống ở cửa sổ

một gian buồng trên gác, rồi tiếp đến một bóng ai khác – một chuỗi nối tiếp vô

tận những bóng người [[đến trang điểm trước một tấm gương vô hình.]] [4]

Trong ví dụ này, sự vật “shadows” được nhắc đến lần đầu tiên trong

ngữ cảnh nên MĐQH “who rouged and powdered in an invisible glass” có

chức năng cung cấp thêm một số thông tin mang tính xác định cho danh từ.

MĐQH không hạn định cung cấp thêm thông tin bổ sung về một thành

phần của mệnh đề chính (có thể là cụm danh từ hoặc lớn hơn cụm danh từ)

nhưng không có ý nghĩa xác định thành phần đó. MĐQH không hạn định có

mặt trong cấu trúc câu hay không thì ý nghĩa của mệnh đề chính vẫn giữ

nguyên, không thay đổi. Do đó, mệnh đề chính và MĐQH có thể được nhìn

nhận là hai phát ngôn tách biệt.

Ví dụ 69:

Atticus and my uncle [[, who went to school at home,]] knew

everything—at least, what one didn’t know the other did. [1]

84

Bố Atticus và chú tôi [[, người học tại nhà,]] biết mọi thứ - ít ra, những

gì người này không biết thì người kia biết. [2]

Trong ví dụ trên, MĐQH “who went to school at home” là MĐQH

không hạn định, chỉ bổ sung thêm thông tin chi tiết hóa cho danh từ trung tâm

là chủ ngữ của mệnh đề chính. Nếu lược bỏ MĐQH thì ý nghĩa của mệnh đề

chính vẫn không bị ảnh hưởng.

Trong MĐQH không hạn định có ĐTQH giữ chức năng chủ ngữ của

mệnh đề, ĐTQH thường được sử dụng là “who” khi danh từ trung tâm chỉ

người và “which” thay thế cho danh từ trung tâm chỉ vật.

Ví dụ 70:

Tim Johnson was the property of Mr. Harry Johnson [[, who drove the

Mobile bus and lived on the southern edge of town.]] [1]

Tim Johnson là tài sản của ông Harry Johnson [[, người lái xe buýt

Mobile và sống ở mé Nam thị trấn.]] [2]

Trong ví dụ trên, MĐQH không hạn định cung cấp thêm thông tin cho

tân ngữ của mệnh đề chính “Harry Johnson” sở chỉ đến người với chức năng

Sự vật và cụm động từ làm hậu bổ tố.

Như vậy, khi Sự vật là hành thể (actor) của hành động trong cụm danh

từ, MĐQH không hạn định cung cấp thêm thông tin cho một thành phần của

mệnh đề chính mà có sở chỉ là người, còn khi danh từ trung tâm là vật, thành

phần của mệnh đề chính có thể được thay thế bằng một ĐTQH quy chiếu đến

Sự vật đó đóng vai trò danh từ trung tâm trong cụm danh từ với mục đích

nhấn mạnh.

Ví dụ 71:

…, and the skulls of small birds, while it drew from the long frilled strips

of seaweed pinned to the wall a smell of salt and weeds [[, which was in the

towels too, gritty with sand from bathing.]] [5]

85

… sọ của những con chim nhỏ và kéo từ những dải rong biển dài loăn

xoăn đinh trên tường ra mùi muối và rong rêu [[, cái mùi cũng đọng lại trong

những chiếc khăn tắm dính đầy cát.]] [6]

Trong trường hợp MĐQH làm tân ngữ giới từ, quan hệ ngữ nghĩa giữa

mệnh đề chính và MĐQH không hạn định thường tương ứng với hai mệnh đề

độc lập.

Ví dụ 72:

He used all his money for a ticket, boarded the train as he had done

many times, coolly chatted with the conductor [[, to whom Dill was a familiar

sight]] [1]

Nó đã tiêu hết số tiền nó có để mua vé, lên xe lửa như nó đã làm nhiều

lần, tỉnh bơ nói chuyện với người soát vé [[, mà Dill vốn là một hình ảnh quen

thuộc.]] [2]

Trong các MĐQH không hạn định có ĐTQH là bổ ngữ cho danh từ trung

tâm làm tân ngữ của mệnh đề chính, không thể lược bỏ ĐTQH “whom” hoặc

“which”.

Ví dụ 73:

The gold necklace [[, which was Italian,]] or the opal necklace [[, which

Uncle James had brought her from India]]; or should she wear her amethysts? [5]

Chiếc vòng vàng [[của Ý]], hay chiếc vòng ngọc mắt mèo [[của chú

James cầm ở Ấn Độ về cho bà]]; hay bà nên đeo chiếc vòng thạch anh tím của

mình. [6]

2.3.1.2. MĐQH hạn định

MĐQH hạn định là kết cấu có chức năng bổ nghĩa cho danh từ để xác

định rõ cho người đọc hay người nghe đối tượng đang được nói đến. Danh từ

được bổ nghĩa có thể có quy chiếu hoặc không có quy chiếu. Tùy theo ngữ

cảnh, quy chiếu có thể là người, sự vật, hiện tượng … duy nhất có mặt trong

ngữ cảnh hay chỉ là một trong số các cá thể có cùng những đặc điểm nhất định.

86

Trong tiếng Anh, có các mạo từ đi cùng với danh từ, trong đó a/an là

mạo từ không hạn định, the là mạo từ xác định và zero không có mạo từ. Mạo

từ “the” có thể đi kèm với danh từ đếm được số ít, số nhiều và danh từ không

đếm được. Khi đi kèm với danh từ đếm được số ít và không đếm được, nó là

dấu hiệu để xác định danh từ được nhắc đến có quy chiếu là người, vật, sự

kiện hay khái niệm duy nhất trong ngữ cảnh.

Ví dụ 74:

The sharp jut of a wall accounted for the detachment of the wheel

[[which was now getting considerable attention from half a dozen curious

chauffeurs.]] [3]

Cái mố tường đột ngột nhô ra là nguyên nhân làm cho bánh xe bị gãy rời [[,

và bây giờ nó đang được khoảng gần chục con người tò mò ngắm nghía.]] [4]

Có thể thấy “the detachment of the wheel” là sự kiện duy nhất có mặt

trong ngữ cảnh, không còn sự kiện nào khác. Như vậy mạo từ “the” được

dùng để chỉ các danh từ có quy chiếu đã được xác định cho cả người đưa ra

thông tin và người tiếp nhận thông tin.

Mặt khác, mạo từ “a/an” chỉ đi với danh từ đếm được số ít với nghĩa là

“một”, đề cập đến một cá thể nào đó thuộc chủng loại mà danh từ nhắc tới và

chưa được xác định cụ thể.

Ví dụ 75:

Her mother had found her packing her bag one winter night to go to

New York and say goodbye to a soldier [[who was going overseas.]] [3]

Một tối mùa đông, mẹ nàng bắt gặp con gái đang chuẩn bị hành trang đi

New York để tiễn một chàng sĩ quan [[sắp đi phục vụ ở nước ngoài.]] [4]

Trong ví dụ này, mạo từ “a” được sử dụng khi đối tượng là danh từ đếm

được số ít được nhắc đến lần đầu. Ở đây, tác giả chỉ đưa ra một thông tin

nhằm thông báo có người đọc biết quy chiếu mới thuộc loại nào. MĐQH

87

trong ví dụ trên chỉ có chức năng mô tả, cung cấp thêm đặc điểm cho người

chứ không có chức năng nhận dạng người đó cho người đọc.

Các danh từ chung cũng là những danh từ có quy chiếu không hạn định

dưới dạng các danh từ đếm được số nhiều đi với mạo từ zero có quy chiếu

mang tính chất chung, bao quát cả một lớp cá thể.

Ví dụ 76:

They got into automobiles [[which bore them out to Long Island.]] [3]

Họ nhảy lên xe [[rồi xe đưa họ đến Long Island.]] [4]

Trong ví dụ trên, “automobiles” không có quy chiếu cụ thể mà chỉ được

dùng để chỉ khái niệm chung, trong đó “automobiles” là một tập hợp số nhiều

không hạn định và tác giả cũng không có ý bao hàm tất cả những chiếc xe mà

họ đi lên.

Danh từ đồng quy chiếu trong các MĐQH hạn định có thể không có

quy chiếu. Đó có thể là danh từ ám chỉ một cá nhân mang tính giả thuyết.

Ví dụ 77:

“Anybody [[who went up to the house once]] oughta not to still run

every time he passes it,” I said to the clouds above. [1]

“Bất cứ ai [[từng đi tới nhà đó]] hẳn không phải chạy mỗi khi đi ngang

qua đó,” tôi nói với đám mây trên trời. [2]

Danh từ trung tâm “anybody” trong ví dụ trên không có quy chiếu cụ

thể nên MĐQH hạn định “who went up to the house once” được sử dụng với

mục đích cung cấp thông tin giúp độc giả xác định được ý nghĩa của danh từ

mà tác giả muốn trình bày trong cấu trúc câu này.

Theo [41], MĐQH hạn định là loại MĐQH bị bao và giữ chức năng là

một thành tố bên trong cấu trúc cụm danh từ. Theo đó, MĐQH hạn định có

chức năng bành trướng nhằm xác định, hạn chế hoặc cụ thể hóa cho danh từ

trung tâm trong cụm danh từ đứng trước MĐQH.

88

Về ngữ nghĩa, MĐQH hạn định có thể có chi tiết hóa, mở rộng hoặc

tăng cường cho danh từ trung tâm trong cụm danh từ mà nó bổ nghĩa.

Bảng 2.10: Đặc điểm ngữ nghĩa của MĐQH hạn định

Ngữ nghĩa của MĐQH hạn định Số lượng Tỷ lệ

Chi tiết hóa 365 91,5%

Mở rộng 16 4,0%

Tăng cường 18 4,5%

Tổng 399 100,0%

Bảng 2.10 thể hiện tỷ lệ MĐQH hạn định với các chức năng ngữ nghĩa

khác nhau. Có thể nhận thấy, MĐQH hạn định có chức năng chính là chi tiết

hóa danh từ trung tâm với tỷ lệ áp đảo (91,5%) còn hai chức năng mở rộng và

tăng cường chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể.

Ví dụ 78:

It was the kind of voice [[that the ear follows up and down as if each

speech is an arrangement of notes that will never be played again.]] [3]

Giọng nói ấy [[làm tai người nghe cứ phải đưa lên đưa xuống như thể

mỗi câu là cả một sự sắp xếp những nốt nhạc không bao giờ lặp lại nữa.]] [4]

Trong ví dụ trên, MĐQH hạn định “that the ear follows up and down as

if each speech is an arrangement of notes that will never be played again” có

chức năng chi tiết hóa, bổ sung thông tin quan trọng cho danh từ trung tâm

“voice”, do đó, không thể lược bỏ MĐQH này mà không làm ảnh hưởng tới ý

nghĩa của cả cụm danh từ. Thành phần quan hệ trong MĐQH hạn định nhận

định lại thành phần trước đó.

Ví dụ 79:

Unlike Gatsby and Tom Buchanan, I had no girl [[whose disembodied

face floated along the dark cornices and blinding signs.]] [3]

89

Không như Gatsby và Tom Buchanan, tôi không có một người bạn gái

nào [[mà gương mặt lướt qua loang loáng trên các gờ mái nhà tối đen và

những dòng chữ quảng cáo sáng chói.]] [4]

Trong ví dụ trên, MĐQH hạn định “whose disembodied face floated

along the dark cornices and blinding signs” không đặc trưng hóa tiếp danh từ

trung tâm “girl” hình thành nên phạm vi của nó mà lại bổ sung một phạm vi

mới có liên hệ với nó. MĐQH hạn định này bổ sung thêm thông tin mới cho

danh từ trung tâm “girl” đứng trước nó.

Ví dụ 80:

There was a man Dill had heard of who had a boat that he rowed across

to a foggy island [[where all these babies were.]] [1]

Dill nghe nói có một người đàn ông với chiếc xuồng chuyên chèo

thuyền tới một hòn đảo đầy sương mù [[nơi tất cả em bé ở đó.]] [2]

Trong ví dụ trên, mối quan hệ giữa danh từ trung tâm “island” và

MĐQH “where all these babies were” là mối quan hệ chu cảnh chỉ địa điểm,

trong đó nét nghĩa chu cảnh đang định vị chính trong MĐQH.

Ví dụ 81:

But there came a day [[when Atticus told us he’d wear us out if we

made any noise in the yard and commissioned Calpurnia to serve in his

absence if she heard a sound out of us.]] [1]

Nhưng đến một hôm [[bố Atticus nói với chúng tôi bố sẽ phạt nếu

chúng tôi làm ồn trong sân và giao cho Calpurnia thực hiện nhiệm vụ khi ông

vắng mặt nếu bà nghe chúng tôi nói tiếng nào.]] [2]

Trong ví dụ trên, quan hệ chu cảnh được giải thích trong danh từ trung

tâm và MĐQH đóng chức năng hậu bổ tố. Danh từ trung tâm “day” vốn đã có

nét nghĩa tăng cường, thể hiện mối quan hệ chu cảnh chỉ thời gian nên

MĐQH hạn định đứng sau nó có thể nhắc lại mối quan hệ chu cảnh với

ĐTQH “when” sở chỉ thời gian. Trong trường hợp này, MĐQH hạn định tăng

90

cường có thể được diễn đạt lại với hình thức giống như các MĐQH hạn định

chi tiết hóa nhưng cần phải có giới từ. MĐQH hạn định “when Atticus told us

he’d wear us out if we made any noise in the yard and commissioned Calpurnia

to serve in his absence if she heard a sound out of us” có thể được diễn đạt

thành “on which Atticus told us he’d wear us out if we made any noise in the

yard and commissioned Calpurnia to serve in his absence if she heard a sound

out of us” mà không có ảnh hưởng gì tới ý nghĩa của toàn bộ cấu trúc.

2.3.2. Quan hệ ngữ nghĩa liên mệnh đề

Theo quan điểm ngữ pháp chức năng, mối quan hệ giữa mệnh đề và tổ

hợp mệnh đề được xem xét trên hai bình diện: kiểu phụ thuộc lẫn nhau (type

of interdependency) và mối quan hệ logic-ngữ nghĩa (logico-semantic

relations) [41]. Trên bình diện kiểu phụ thuộc, MĐQH có mối quan hệ bổ

nghĩa phụ thuộc với thành phần chi phối là mệnh đề chính. Ở đây, chúng ta có

thể tìm hiểu đặc điểm ngữ nghĩa giữa mệnh đề chính và mệnh đề phụ. Xét về

mối liên kết ngữ nghĩa, chỉ có mệnh đề không hạn định mới có mối liên kết

nào đó với mệnh đề chính.

Ví dụ 82:

I was tired of playing Tom Rover [[, who suddenly lost his memory in

the middle of a picture show and was out of the script until the end, when he

was found in Alaska.]] [1]

Tôi chán đóng vai Tom Rover [[, người bất chợt mất trí nhớ giữa một

buổi chiếu phim và biến khỏi kịch bản cho đến đoạn cuối, khi người ta tìm

thấy nó ở Alaska.]] [2]

Trong ví dụ trên MĐQH không hạn định “who suddenly … in Alaska” là

một mệnh đề khá dài bổ nghĩa cho danh từ trung tâm “Tom Rover”. Trong đó,

MĐQH là mệnh đề phụ thuộc bị bao trong cụm danh từ đóng vai trò tân ngữ

của cấu trúc câu.

91

Xét về mối quan hệ logic-ngữ nghĩa, mối quan hệ giữa MĐQH không

hạn định và mệnh đề chính là mối quan hệ chi tiết hóa (elaboration) còn mối

quan hệ giữa MĐQH hạn định với mệnh đề chính là quan hệ mở rộng chêm

chi tiết hóa. Trong chi tiết hóa, mệnh đề này mô tả hay cụ thể hóa về nghĩa

cho mệnh đề kia. MĐQH không đưa thêm thành phần mới vào trong nội dung

mà chỉ đưa ra một sự đặc trưng hóa hơn nữa cho điều đã sẵn có, dùng những

từ khác xác định lại nó, cụ thể hóa nó một cách rõ ràng hơn, hoặc bổ sung

thêm nhận xét hoặc đặc điểm có tính mô tả.

Ví dụ 83:

The young Greek, Michaelis, [[who ran the coffee joint beside the

ashheaps]] was the principal witness at the inquest. [3]

Anh thanh niên Hy Lạp Michaelis, [[mở quán ăn gần mấy cái đồi đất

tro,]] là nhân chứng chính trong cuộc điều tra. [4]

MĐQH không hạn định “who ran the coffee joint beside the ashheaps”

trong ví dụ trên có mối quan hệ chi tiết hóa với mệnh đề chính vì nó bổ sung

thêm thông tin cho danh từ trung tâm “The young Greek, Michaelis” giữ vai

trò chủ ngữ, một thành tố của mệnh đề chính.

Trong mối quan hệ phụ thuộc chi tiết hóa giữa MĐQH và mệnh đề

chính, MĐQH không hạn định thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án có thể

được phân loại thành hai nhóm để xem xét một cách rõ ràng.

(i) MĐQH có “which” (hoặc “that”), “who” hoặc “whose” mà phạm vi

của nó là một cụm danh từ.

Ví dụ 84:

Mayella’s hostility [[, which had subsided to grudging neutrality,]] flared

again. “You makin‘ fun o’me agin, Mr. Finch?” [1]

Vẻ thù địch của Mayella [[, vốn đã dịu xuống mức độ trung lập miễn

cưỡng,]] lại bùng lên. “Ông lại giễu cợt tôi nữa hả, ông Finch?” [2]

92

Trong ví dụ trên, MĐQH không hạn định “which had subsided to

grudging neutrality” có phạm vi là một cụm danh từ, bổ nghĩa cho danh từ

trung tâm “Mayella’s hostility” là chủ ngữ nên MĐQH bị khoanh lại bằng

cách sử dụng dấu phẩy để ngăn cách để đứng trực tiếp sau danh từ trung tâm

với mục đích tránh gây khó hiểu cho người tiếp nhận thông tin.

(ii) MĐQH có “when” hoặc “where” có cách diễn đạt thời gian hay địa

điểm trong phạm vi của nó.

Ví dụ 85:

He did not know that it was already behind him, somewhere back in that

vast obscurity beyond the city [[, where the dark fields of the republic rolled

on under the night.]] [3]

Anh đâu biết rằng nó đã rớt lại đằng sau anh rồi, ở một chỗ nào đó trong

khoảng tối mênh mông bên kia thành phố [[, nơi những cánh đồng sẫm đen

của nước cộng hoà trải ra trong đêm tối.]] [4]

Mối quan hệ giữa MĐQH hạn định và mệnh đề chính được gọi là mở rộng

chêm chi tiết hóa, theo đó, chêm là lồng ghép mệnh đề như là một thành tố nội

bộ của cấu trúc của một cụm từ và chính cụm từ này lại là thành tố của mệnh đề.

Chức năng của nó là cụ thể hóa thành viên của lớp từ được chỉ định bởi danh từ

chính. Trong ví dụ dưới đây, “who was with him” xác định rõ “the girl”.

Ví dụ 86:

The girl [[who was with him]] got into the papers too because her arm

was broken. [3]

Cô gái [[ngồi trên xe cùng với anh ấy]] cũng bị đưa lên báo, vì cô ta bị

gãy tay. [4]

Như vậy, MĐQH chỉ có một chức năng logic-ngữ nghĩa duy nhất là chi

tiết hóa cho danh từ. MĐQH hạn định là một bộ phận thiết yếu để tạo nên sự

hoàn chỉnh về nghĩa cho câu, còn MĐQH không hạn định thì không bắt buộc.

93

Tiểu kết Chương 2

Dựa trên nguồn ngữ liệu, luận án đã phân tích và mô tả đặc điểm cấu

trúc và ngữ nghĩa của MĐQH tiếng Anh.

Về mặt cấu trúc, MĐQH định ngữ có ĐTQH trong tiếng Anh có thể

được phân loại dựa trên ba tiêu chí: đặc điểm hình thái cú pháp, đặc điểm

chức năng cú pháp và phương tiện liên kết. Về hình thái cú pháp, MĐQH là

thành phần hậu bổ tố, là một thành phần của cụm danh từ, đứng sau danh từ

trung tâm nhằm đặc trưng hóa Sự vật (danh từ trung tâm). Hình thái cú pháp

của MĐQH được xác định dựa vào vị trí của MĐQH trong mệnh đề chính

cũng như vị trí của MĐQH với danh từ trung tâm. Về chức năng cú pháp,

MĐQH trong tiếng Anh đều đứng sau danh từ trung tâm mà nó cung cấp

thông tin chi tiết hóa hoặc mở rộng. Xét về chức năng cú pháp của danh từ

trung tâm trong MĐQH, có thể có sáu loại MĐQH trong tiếng Anh, gồm,

MĐQH chủ ngữ, tân ngữ trực tiếp, tân ngữ gián tiếp, bổ ngữ gián tiếp, bổ ngữ

sở hữu và tân ngữ so sánh được sắp xếp theo mức độ tiếp thu từ dễ tới khó.

Như vậy, MĐQH chủ ngữ là loại MĐQH dễ tiếp thu nhất, cũng như phổ biến

nhất trong tiếng Anh và MĐQH tân ngữ so sánh không xuất hiện trong ngữ

liệu nghiên cứu do đây là loại MĐQH khó tiếp thu nhất nên trong ngữ liệu

văn bản văn học, tác giả sẽ ưu tiên sử dụng ngôn ngữ hình tượng, cụ thể, dễ

hiểu đối với độc giả của văn bản. Tùy theo chức năng cú pháp của tiền ngữ

mà dấu câu được sử dụng để giúp khoanh vùng MĐQH, theo đó, MĐQH bổ

nghĩa cho danh từ trung tâm làm chủ ngữ thường nằm giữa hai dấu phẩy giúp

người tiếp nhận thông tin xác định chính xác nội dung mà tiền ngữ muốn

truyền tải. Xét về phương tiện liên kết, MĐQH trong tiếng Anh được liên kết

với mệnh đề chính thông qua hệ thống các ĐTQH với chức năng thay thế cho

tiền ngữ và loại ĐTQH được sử dụng dựa vào hai đặc điểm: tính động của

tiền ngữ và chức năng cú pháp của tiền ngữ.

94

Về đặc điểm ngữ nghĩa của MĐQH trong tiếng Anh, luận án xem xét

mối quan hệ ngữ nghĩa của MĐQH với các thành phần bên trong cụm danh từ

và với mệnh đề chính. Xét quan hệ ngữ nghĩa giữa danh từ trung tâm và

MĐQH trong cụm danh từ, chúng tôi xác định quy chiếu của danh từ trung

tâm với MĐQH không hạn định và MĐQH hạn định. Trong đó, danh từ trung

tâm trong MĐQH không hạn định có quy chiếu đã được xác định hoặc ngầm

hiểu với cả người đưa ra thông tin và người tiếp nhận thông tin; còn với

MĐQH hạn định, danh từ trung tâm có thể có quy chiếu hoặc không có quy

chiếu vì chức năng chính của MĐQH hạn định là cung cấp thông tin cần thiết,

giúp xác định ý nghĩa được danh từ trung tâm thể hiện. Xét quan hệ logic-ngữ

nghĩa giữa MĐQH và mệnh chính, MĐQH có chức năng chi tiết hóa phụ

thuộc, cung cấp thông tin cụ thể, chi tiết về mệnh đề chính, chủ yếu là dưới

hình thức MĐQH không hạn định.

Để tạo lập cơ sở cho việc nghiên cứu chuyển dịch MĐQH tiếng Anh

sang tiếng Việt, luận án đã thực hiện phân tích và tổng kết các đặc điểm cấu

trúc – ngữ nghĩa của MĐQH trong tiếng Anh. Về cấu trúc, MĐQH tiếng Anh

là hậu bổ tố trong cụm danh từ, đứng sau bổ nghĩa cho tiền ngữ. Về phương

diện ngữ nghĩa, MĐQH tiếng Anh có chức năng chính là phụ thuộc chi tiết

hóa một thành phần của mệnh đề chính.

95

Chương 3

ĐỐI CHIẾU CHUYỂN DỊCH

MỆNH ĐỀ QUAN HỆ TIẾNG ANH SANG TIẾNG VIỆT

Trong Chương 2, chúng tôi đã tổng hợp và phân loại các MĐQH tiếng

Anh trong nguyên bản ba tác phẩm văn học dựa vào đặc điểm cú pháp – ngữ

nghĩa. Trong Chương này, chúng tôi sẽ khảo sát tương đương dịch thuật các

MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt qua bản dịch đã được xuất bản của các dịch

giả. Theo đó, mỗi chiến lược với cách chuyển dịch từng loại MĐQH sẽ được

phân tích, miêu tả khái quát.

Khi dịch MĐQH tiếng Anh, biểu thức tiếng Việt tương ứng được sử

dụng để diễn đạt cùng ý nghĩa sẽ phụ thuộc vào vai trò của danh từ trung tâm,

ĐTQH được sử dụng trong văn bản nguồn, loại MĐQH và đôi khi là quyết

định cá nhân của dịch giả.

Thông thường, kết cấu chủ - vị bổ nghĩa cho danh từ là đơn vị phụ, được

lồng vào câu, là đơn vị làm rõ nghĩa cho danh từ, và nằm trong một cụm danh

từ. Về phương diện chức năng, trong phần lớn các trường hợp, nó là một bộ

phận của danh từ giữ chức năng định ngữ và có sự đồng nhất biểu vật với

danh từ trung tâm.

3.1. Các quan hệ tương đương chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt

3.1.1. Cơ sở phân tích tương đương dịch thuật MĐQH tiếng Anh sang

tiếng Việt

Dựa trên sự có mặt/ vắng mặt của bốn bình diện tương đương gồm: (i)

Tương đương ngữ âm; (ii) Tương đương ngữ pháp; (iii) Tương đương ngữ

nghĩa; và (iv) Tương đương ngữ dụng, tác giả Nguyễn Hồng Cổn [4] đã phân

chia quan hệ tương đương giữa các đơn vị dịch thuật thành hai nhóm lớn với

sáu kiểu tương đương như sau:

96

Bảng 3.1: Các kiểu tương đương dịch thuật

Các kiểu đơn vị tương Các bình diện tương đương

đương dịch thuật Ngữ âm Ngữ pháp Ngữ nghĩa Ngữ dụng

Hoàn tuyệt đối + + + +

Toàn tương đối - + + +

ngữ pháp - ngữ - + + -

Bộ nghĩa

phận ngữ nghĩa - ngữ - - + +

dụng

ngữ pháp - ngữ dụng - + - +

thuần ngữ dụng - - +

Nguồn: Tổng hợp từ Nguyễn Hồng Cổn [4]

Tuy nhiên, trong luận án này, do phân tích tương đương theo hình thức

và nội dung là quá rộng và đối tượng khảo sát không phải là câu mà là

MĐQH, nên chúng tôi không phân biệt các kiểu tương đương như Nguyễn

Hồng Cổn. Thay vào đó, chúng tôi xác định cụ thể phạm vi khảo sát cách dịch

tương đương MĐQH giữa văn bản nguồn và văn bản đích dựa trên hai tiêu

chí: Tương đương về ngữ pháp (hình thức biểu hiện của MĐQH) và Tương

đương về nghĩa biểu hiện. Như vậy, luận án trước hết tập trung phân tích và

đánh giá mức độ tương đương về hình thức vì đây là đặc điểm dễ nhận diện

nhất của ngôn ngữ, trong đó chúng tôi chú trọng đến tương đương về mặt cấu

trúc cú pháp. Sau đó, chúng tôi thực hiện phân tích nghĩa biểu hiện (nghĩa quá

trình) theo quan điểm của Halliday [41] để xác định mức độ tương đương của

đơn vị dịch trong văn bản nguồn và văn bản đích.

Khảo sát 542 câu chứa MĐQH tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt, ngữ

liệu cho thấy MĐQH tiếng Anh (ngữ nguồn) có thể được chuyển dịch sang tiếng

97

Việt (ngữ đích) bằng các phương thức dịch tương đương khác nhau trên cơ sở

các kiểu tương đương: tương đương hình thức và tương đương ngữ nghĩa.

3.1.2. Tương đương về hình thức

Trong phần này, chúng tôi thực hiện khảo sát đối chiếu về mặt hình

thức các MĐQH tiếng Anh và các biểu đạt tương ứng trong bản dịch tiếng

Việt để rút ra các tương đương hình thức có thể có khi dịch MĐQH tiếng Anh

sang tiếng Việt.

Ngữ liệu được sử dụng làm cơ sở đối chiếu là các câu chứa MĐQH

trong các tác phẩm tiếng Anh và cấu trúc của câu tương ứng trong các bản

dịch tiếng Việt.

Đầu tiên, chúng tôi thống kê và phân tích các cấu trúc tiếng Việt được

sử dụng để dịch tất cả các MĐQH tiếng Anh được khảo sát. Từ đó, chúng tôi

lập thành bảng so sánh tần suất sử dụng của các hình thức tương ứng tiếng

Việt của MĐQH tiếng Anh trong các bản dịch.

Kết quả thống kê tần suất các cấu trúc tương ứng của tiếng Việt được

dùng để dịch các câu chứa MĐQH tiếng Anh được trình bày trong Bảng 3.2

sau đây.

Bảng 3.2: Các cấu trúc tiếng Việt được dùng để dịch MĐQH tiếng Anh

Cấu trúc tiếng Việt Số lượng Tỷ lệ (%)

Danh từ + mà + mệnh đề 14,6% 79

8,1% 44 Danh từ +  + mệnh đề

Danh từ + động ngữ 8,5% 46

Danh từ + tính ngữ 2,2% 12

Mệnh đề độc lập 11,3% 61

Động ngữ 34,9% 189

Tính ngữ 7,4% 40

Cấu trúc khác 13,1% 71

98

Tổng 542 100

Bảng 3.2 cho thấy, MĐQH tiếng Anh được chuyển dịch thành động ngữ

trong tiếng Việt chiếm tỷ lệ lớn nhất với 34,9%, cấu trúc sử dụng hư từ “mà”

cũng được sử dụng với tần suất khá đáng kể với 14,6%, mệnh đề độc lập cũng

là một trong những cấu trúc phổ biến trong tiếng Việt được sử dụng để

chuyển dịch MĐQH tiếng Anh với 11,3%, các cấu trúc còn lại có tần suất sử

dụng gần như xấp xỉ nhau từ 8,5% đến 7,4%. Các cấu trúc khác được dùng để

chuyển dịch MĐQH chiếm 13,1% và còn lại là cấu trúc Danh từ + tính ngữ

với tỷ trọng thấp nhất với 2,2%.

Sau đây, chúng tôi sẽ phân tích cụ thể các cấu trúc tương ứng tiếng Việt

được sử dụng để chuyển dịch cấu trúc chứa MĐQH tiếng Anh dựa trên ngữ

liệu nghiên cứu.

3.1.2.1. MĐQH tiếng Anh được dịch thành cấu trúc động ngữ trong tiếng

Việt

Bảng 3.2 cho thấy tỷ lệ MĐQH tiếng Anh được dịch thành động ngữ

trong tiếng Việt chiếm tỷ lệ áp đảo với 34,9%, chứng tỏ cấu trúc này được sử

dụng rất phổ biến để dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt, trong đó chiếm

đa số là các MĐQH có ĐTQh làm chủ ngữ. (xem Bảng 3.3)

Bảng 3.3: MĐQH được dịch bằng cầu trúc động ngữ

MĐQH có ĐTQH là Số lượng Tỷ lệ

Chủ ngữ 180 95,2%

Tân ngữ trực tiếp 5 2,6%

Tân ngữ sở hữu 2 1,1%

Trạng ngữ 2 1,1%

Tổng 189 100,0%

Bảng 3.3 trình bày tỷ lệ MĐQH tiếng Anh được dịch sang cấu trúc động

ngữ trong tiếng Việt trên cơ sở chức năng cú pháp của ĐTQH. Có thể nhận

99

thấy, các MĐQH có ĐTQH giữ chức năng chủ ngữ chiếm tỷ lệ áp đảo với

95,2%, còn các MĐQH với ĐTQH giữ chức năng tân ngữ trực tiếp, tân ngữ

sở hữu và trạng ngữ được dịch sang cấu trúc động ngữ trong tiếng Việt chỉ

được sử dụng với tần suất vô cùng khiêm tốn từ 1% đến 2%. Do đó, có thể kết

luận, cấu trúc động ngữ trong tiếng Việt được sử dụng để dịch MĐQH với

ĐTQH giữ chức năng chủ ngữ.

Các MĐQH có ĐTQH giữ chức năng chủ ngữ được chuyển dịch thành

động ngữ trong tiếng Việt có thể là MĐQH hạn định hoặc MĐQH không hạn

định, mà chủ yếu là MĐQH hạn định.

Ví dụ 87:

Miss Caroline smiled, blew her nose, said, “Thank you, darlings,”

dispersed us, opened a book and mystified the first grade with a long narrative

about a toadfrog [[that lived in a hall.]] [1]

Cô Caroline mỉm cười, chùi mũi, nói, "Cảm ơn các em," bảo chúng tôi

về chỗ, mở sách ra và làm mê hoặc cả lớp một này bằng một câu chuyện kể

dài về con cóc [[sống trong tòa lâu đài.]] [2]

Trong ví dụ trên, MĐQH hạn định “that lived in a hall” bổ nghĩa cho

danh từ trung tâm “a toadfrog” nhằm mục đích chi tiết hóa, cụ thể hóa danh từ

trung tâm. Trong MĐQH này, ĐTQH “that” giữ chức năng chủ ngữ của

MĐQH và được chuyển dịch sang tiếng Việt thành động ngữ “sống trong tòa

lâu đài”. Nhờ vậy, người tiếp nhận thông tin có thể có cơ sở xác định rõ “con

cóc” trong câu ví dụ là con cóc cụ thể nào, chứ không phải là một con cóc

chung chung nào đó, không rõ ràng.

Ví dụ 88:

…when she admonished them so very severely about that wretched

atheist [[who had chased them—or, speaking accurately, been invited to stay

with them—in the Isle of Skye. ]] [5]

100

…khi bà nghiêm nghị quở trách chúng về chuyện gã vô thần khốn khổ

[[đã rượt đuổi chúng- hay chính xác hơn, là đã được mời tới cùng chúng-trên

đảo Skye.]] [6]

MĐQH hạn định “who had chased them—or, speaking accurately, been

invited to stay with them—in the Isle of Skye” trong ví dụ trên khá dài, cung

cấp nhiều thông tin chi tiết hóa cho danh từ trung tâm “that wretched atheist”

với các thông tin có tầm quan trọng cao, giúp người tiếp nhận thông tin minh

xác sở chỉ của danh từ trung tâm mà tác giả muốn thể hiện. MĐQH này được

chuyển dịch thành động ngữ “đã rượt đuổi chúng- hay chính xác hơn, là đã

được mời tới cùng chúng-trên đảo Skye” trong tiếng Việt, thể hiện rõ danh từ

trung tâm chính là Hành thể của hành động “chase” trong tiếng Anh.

Đồng thời, các MĐQH không hạn định cũng có thể được chuyển dịch

thành động ngữ trong tiếng Việt, tuy nhiên tần suất của cấu trúc này thấp hơn

nhiều so với MĐQH hạn định.

Ví dụ 89:

Jem [[, who hadn’t been near Miss Maudie’s scuppernong arbor since

last summer,]] [[and who knew Miss Maudie wouldn’t tell Atticus if he had,]]

issued a general denial. [1]

Jem [[, vốn chưa hề đến gần dàn nho của cô Maudie từ mùa hè rồi]], [[và

cũng biết cô Maudie sẽ không nói lại với bố Atticus nếu anh có làm gãy,]] đã

đưa ra những lời phủ nhận chung. [2]

Câu ví dụ trên chứa hai MĐQH không hạn định với danh từ trung tâm là

tên riêng “Jem” làm chủ ngữ của câu và động từ chính của câu là “issued a

general denial” với vị trí cách khá xa chủ ngữ do bị ngăn cách bởi hai MĐQH

không hạn định “who hadn’t been near Miss Maudie’s scuppernong arbor

since last summer” và “who knew Miss Maudie wouldn’t tell Atticus if he

had”. Hai MĐQH này có chức năng chi tiết hóa danh từ trung tâm, giúp độc

giả có thể tiếp nhận được thông tin đầy đủ, rõ ràng về danh từ trung tâm

101

“Jem”. Cả hai MĐQH không hạn định này đều được dịch thành động ngữ

trong tiếng Việt với sự đánh dấu thời thì nhờ hư từ “vốn”, “cũng”.

Ví dụ 90:

We squandered our first nickels on the House of Horrors [[, which scared

us not at all.]] [1]

Chúng tôi tiêu những đồng năm xu đầu tiên của mình ở Ngôi nhà kinh

hoàng [[, vốn chẳng làm tụi tôi sợ chút nào.]] [2]

Trong ví dụ trên, MĐQH không hạn định “which scared us not at all” bổ

nghĩa cho danh từ riêng “House of Horrors”, trong đó, ĐTQH “which” giữ

chức năng cú pháp làm chủ ngữ của MĐQH. MĐQH này cung cấp thêm

thông tin bổ sung cho danh từ trung tâm, giúp độc giả có thêm kiến thức về

danh từ trung tâm. MĐQH này được chuyển dịch sang tiếng Việt thành động

ngữ “vốn chẳng là tụi tôi sợ chút nào” cũng được đánh dấu về thời, thì nhờ sự

xuất hiện của hư từ chỉ thời thể “vốn”. Đồng thời, về mặt ý nghĩa, MĐQH này

cũng thể hiện nghĩa khá thú vị với sự đối lập giữa danh từ trung tâm “Ngôi

nhà kinh hoàng” nhưng lại không “làm tụi tôi sợ chút nào.”

Các MĐQH tiếng Anh được chuyển dịch thành động ngữ trong tiếng

Việt đều có ĐTQH “who”, “which”, “that” giữ chức năng chủ ngữ của

MĐQH, còn các ĐTQH có chức năng khác trong MĐQH chiếm tỷ lệ không

đáng kể nên chúng tôi loại trừ khỏi nhóm hình thức tương đương này.

Như vậy, có thể tổng kết mô hình khái quát của cấu trúc này như sau:

S + V + O + who/ which/ that + V’ + O’

 S + V + O + V’ + O’

S + , who/ which + V’ + O’, + V + O

 S + , V’ + O’, + V + O

102

3.1.2.2. MĐQH tiếng Anh được dịch sang cấu trúc “mà + Mệnh đề” trong

tiếng Việt

Theo Bảng 3.2, cấu trúc có từ “mà” (mà + Mệnh đề) trong tiếng Việt

cũng được các dịch giả sử dụng với tần suất khá phổ biến để dịch các cấu trúc

chứa MĐQH trong tiếng Anh. Qua khảo sát ngữ liệu nghiên cứu, chúng tôi

nhận thấy cấu trúc có “mà” chủ yếu được sử dụng để dịch các MĐQH tiếng

Anh có ĐTQH giữ chức năng tân ngữ trực tiếp (DO); tân ngữ gián tiếp đứng

sau giới từ (prep) và tân ngữ sở hữu, như được thể hiện trong Bảng 3.4.

Bảng 3.4: MĐQH được dịch bằng cấu trúc có "mà"

Chức năng cú pháp của ĐTQH Số lượng Tỷ lệ

Chủ ngữ 3,8% 3

Tân ngữ trực tiếp 49,4% 39

Tân ngữ gián tiếp 22,8% 18

Tân ngữ sở hữu 17,7% 14

Trạng ngữ 6,3% 5

Tổng 100,0% 79

Bảng 3.4 thể hiện chức năng cú pháp của ĐTQH trong MĐQH được

dịch sang tiếng Việt sử dụng cấu trúc với từ “mà”. Theo đó, MĐQH với

ĐTQH giữ chức năng tân ngữ trực tiếp chiếm tỷ lệ áp đảo với 49,4%, sau đó

là tân ngữ gián tiếp (22,8%), tân ngữ sở hữu (17,7%) và hai chức năng còn lại

là chủ ngữ và trạng ngữ xuất hiện với tấn suất không đáng kể. Kết quả này

cho thấy cấu trúc “mà” trong tiếng Việt chủ yếu được sử dụng để dịch MĐQH

có ĐTQH thay thế cho danh từ trung tâm là tân ngữ trực tiếp (đứng sau động

từ) với chức năng cung cấp thông tin chi tiết hóa cho danh từ trung tâm. Đây

cũng là điều dễ hiểu vì đặc trưng của văn bản văn học là diễn đạt ý nghĩa bằng

từ ngữ giàu hình tượng, rõ ràng, cụ thể, hấp dẫn đối tượng độc giả mục tiêu.

103

a. Cấu trúc ĐTQH với chức năng tân ngữ trực tiếp được dịch thành cấu trúc

có “mà” trong tiếng Việt

Các ĐTQH “who”, “whom”, “which”, “that” với chức năng tân ngữ

trực tiếp trong MĐQH tiếng Anh cũng có thể được chuyển dịch sang cấu trúc

tương ứng tiếng Việt sử dụng “mà”

Ví dụ 91:

Less than two weeks later we found a whole package of chewing gum,

[[which we enjoyed,]] the fact that everything on the Radley Place was poison

having slipped Jem’s memory. [1]

Chưa đầy hai tuần sau, chúng tôi nhận được nguyên một gói kẹo cao

su, [[mà chúng tôi cứ thế tận hưởng,]] lời đồn rằng mọi thứ ở khu nhà Radley

đều là thuốc độc đã trôi khỏi ký ức của Jem. [2]

Trong trường hợp này, ĐTQH “which” thực hiện chức năng tân ngữ

trực tiếp của động từ “enjoyed” trong MĐQH thay thế cho danh từ “package

of chewing gum”. Với cấu trúc MĐQH dạng câu đơn, đơn giản, ngắn gọn như

ví dụ này, chúng ta có thể dịch “which” thành “mà” trong khi vẫn đảm bảo

thông tin được truyền đạt liền mạch, không bị gián đoạn do MĐQH phải diễn

đạt trúc trắc, dài dòng.

Ví dụ 92:

And so it happened that on a warm windy evening I drove over to East

Egg to see two old friends [[whom I scarcely knew at all.]] [3]

Và thế là vào một buổi chiều nóng nực và lộng gió, tôi lái xe sang East

Egg thăm hai người bạn cũ [[mà tôi không hiểu biết gì mấy.]] [4]

ĐTQH “whom” thay thế cho “two old friends” làm tân ngữ trực tiếp

của động từ “knew” trong MĐQH cũng được dịch thành “mà.”

Mô hình khái quát của cấu trúc tương ứng này được tổng kết như sau:

S + V + DO + who/ whom/ which/ that + V’ + O’

 S + V + DO + mà + V’ + O’

104

b. Cấu trúc ĐTQH với chức năng tân ngữ gián tiếp được dịch thành cấu trúc

có “mà”

Các ĐTQH “who”, “whom” và “which” thường đứng đằng sau giới từ

với vai trò tân ngữ gián tiếp hoặc trạng ngữ chỉ địa điểm cho động từ trong

MĐQH tiếng Anh. Với chức năng này, “whom” và “which” được dịch thành

“mà” có tỷ lệ phổ biến nhất.

Ví dụ 93:

…, but was bound to be heard of later when his Prolegomena [[of

which Mr Tansley had the first pages]] in proof with him if Mr Ramsay would

like to see them. [5]

… nhưng nhất định sau này sẽ được nghe nói tới Charles Tansley cho

ra mắt cuốn Prolegomena viết về một nhánh toán học hay triết học gì đó [[mà

anh ta luôn cầm theo vài trang]] đề phòng khi ông Ramsay muốn xem [6]

Trong ví dụ này, MĐQH bắt đầu bằng giới từ và ĐTQH “of which”

được sử dụng để thay thế cho “his Prolegomena”. Khi chuyển dịch MĐQH

này sang tiếng Việt, dịch giả đã tái cấu trúc lại trật tự từ của bản gốc giúp cho

bản dịch trở nên dễ hiểu, logic hơn và dịch “of which” thành “mà”. Trong

trường hợp này, chúng ta thường sẽ cần một phương tiện để liên kết mệnh đề

phụ với mệnh đề chính và dịch giả đã lựa chọn sử dụng “mà” để tạo sự logic

giữa nội dung và ngữ cảnh của văn bản. Thông tin trong văn bản trở nên rõ

ràng hơn và dễ hiểu hơn đối với độc giả.

Ví dụ 94:

A reluctant elevator boy went for a box full of straw and some milk [[to

which he added on his own initiative a tin of large hard dog biscuits.]] [3]

Người bồi trông thang máy làu bàu đi kiếm một cái hộp độn đầy rơm,

một ít sữa, [[mà tự anh đem về thêm một hộp bánh bích quy cho chó to tướng

và cứng như đá.]] [4]

105

Trong ví dụ này, động từ “add” trong MĐQH cần hai tân ngữ: tân ngữ

trực tiếp “a tin of …” và tân ngữ gián tiếp “some milk” thông qua một giới từ

“to”. Câu này có thể được mô hình hóa như sau:

S + V + IO + (prep. + whom) + S’ + V’

 S + V + IO + mà + S’ + V’

c. Cấu trúc ĐTQH với chức năng tân ngữ sở hữu được dịch thành “mà”

Các ĐTQH “whose”, “of which” đóng vai trò tân ngữ sở hữu trong

MĐQH tiếng Anh cũng có thể được dịch thành “mà” trong cấu trúc tiếng Việt

với tần suất sử dụng tương đối phổ biến với 17,7%.

Ví dụ 95:

But the officers of the court, the ones present—Atticus, Mr. Gilmer,

Judge Taylor sound asleep, and Bert, were the only ones [[whose behavior

seemed normal.]] [1]

Nhưng các viên chức của tòa án, những người có mặt - bố Atticus, ông

Gilmer, quan tòa Taylor có vẻ say ngủ, và Bert, là những người duy nhất [[mà

cách cư xử có vẻ bình thường.]] [2]

Trong ví dụ trên, MĐQH hạn định “whose behavior seemed normal”

thực hiện chức năng chi tiết hóa cho danh từ trung tâm “the only ones”. Trong

đó, ĐTQH “whose” được dịch thành “mà” thể hiện sự liên kết giữa danh từ

trung tâm và thông tin được trình bày trong MĐQH như là một thuộc tính của

danh từ trung tâm, thu hẹp phạm vi nội dung mà danh từ trung tâm thể hiện.

Cấu trúc này có thể mô hình hóa như sau:

S + V + O + whose + N + V’ + O’

 S + V + O + mà + S’ + V’ + O’

Ví dụ 96:

A curious contest [[, the nature of which eluded me,]] was developing

between my father and the sheriff. [1]

106

Một cuộc ganh đua kỳ cục [[, mà bản chất của nó tôi không hiểu ra,]]

đang phát triển giữa bố tôi và ông cảnh sát trưởng. [2]

Ví dụ trên thể hiện MĐQH không hạn định “the nature of which eluded

me” với chức năng mở rộng, bổ sung thêm thông tin cho danh từ trung tâm “a

curious contest” làm chủ ngữ của câu. MĐQH không hạn định này được dịch

sang tiếng Việt sử dụng cấu trúc “mà” nhằm giúp người tiếp nhận thông tin

phân định rõ ràng ranh giới giữa danh từ trung tâm (chủ ngữ của câu) và

MĐQH cung cấp thông tin mở rộng, không thực sự thiết yếu đối với ý nghĩa

của toàn câu và có thể lược bỏ MĐQH trong trường hợp này mà không khiến

độc giả hiểu sai hay không hiểu ý nghĩa của câu.

MĐQH không hạn định bổ nghĩa cho chủ ngữ của câu có thể được mô

hình hóa như sau:

S +, N + of which/ whom + V’ + V + O

=> S + , mà + N + của + đại từ + V’ + V + O

d. Cấu trúc ĐTQH với chức năng chủ ngữ được dịch thành “mà”

Các ĐTQH “who”, “which” và “that” đóng vai trò chủ ngữ của MĐQH

trong tiếng Anh cũng có thể được dịch thành “mà” trong cấu trúc tiếng Việt,

tuy tần suất có thể thấp hơn so với chức năng tân ngữ gián tiếp.

Ví dụ 97:

There was an excitement in her voice that men [[who had cared for

her]] found difficult to forget. [3]

Giọng nàng mới có một sức quyến rũ [[mà những ai đã đem lòng yêu

nàng]] không nào quên được. [4]

Trong ví dụ này, ĐTQH “who” được sử dụng để thay thế cho danh từ

trung tâm “men” với chức năng chủ ngữ của MĐQH của cụm vị ngữ “had

cared for her”. Ở trường hợp này, dịch giả đã lựa chọn dịch “who” thành

“mà” do cấu trúc câu và các từ ngữ cấu thành câu khá đơn giản, dễ hiểu nên

107

kể cả khi dịch như vậy, thì bản dịch vẫn đảm bảo đủ ý, rõ ràng, minh bạch,

phù hợp với độc giả phổ thông.

Ví dụ 98:

He was one of the few men of science [[who never terrified me,]]

probably because he never behaved like a doctor. [1]

Chú là một trong số vài con người khoa học [[mà không hề làm tôi

khiếp sợ,]] có lẽ vì chú chưa bao giờ cư xử như một bác sĩ. [2]

Trong trường hợp này, ĐTQH “who” được sử dụng để thay thế cho tiền

từ “one of the few men of science” và dịch giả cũng quyết định dịch thành

“mà” do cấu trúc đơn giản, với thông tin rõ ràng, khó có khả năng gây hiểu

lầm không đáng có cho độc giả. Chúng ta có thể mô hình hóa cấu trúc này

như sau:

S + V + O + who/ which/ that + V’ + O’

 S + V + O + mà + V’ + O’

e. Cấu trúc ĐTQH với chức năng trạng ngữ được dịch thành “mà”

Các MĐQH hạn định với chức năng bành trướng tăng cường, thể hiện

mối quan hệ chu cảnh về thời gian và địa điểm giữa MĐQH và danh từ trung

tâm, sử dụng ĐTQH “when” và “where” thường được dịch sang tiếng Việt

thành cấu trúc “mà”. Bảng 3.4 cho thấy tỷ lệ sử dụng cấu trúc này vô cùng

khiêm tốn so với các trường hợp khác với chỉ 6,3%.

Ví dụ 99:

I said I would like it very much, which was a lie, but one must lie under

certain circumstances and at all times [[when one can’t do anything about

them.]] [1]

Tôi nói tôi rất thích, đó là lời nói dối, nhưng người ta phải nói dối trong

những tình huống nào đó và vào mọi lúc [[mà người ta chẳng thể thay đổi gì

được nó.]] [2]

108

Trong ví dụ trên, MĐQH hạn định “when one can’t do anything about

them” giữ chức năng tăng cường cho nội dung của mệnh đề chính diễn đạt

mối quan hệ thời gian và ĐTQH “when” được sử dụng để thay thế cho cụm từ

chỉ thời gian “at all times” với ý nghĩa chi tiết hóa, thu hẹp phạm vi nội dung

của danh từ trung tâm.

Ví dụ 100:

… I slunk off in the direction of the cocktail table — the only place in

the garden [[where a single man could linger without looking purposeless and

alone.]] [3]

… tôi đành lẩn đi về phía bàn rượu, chỗ độc nhất trong khu vườn [[mà

một người đàn ông lẻ loi có thể ngồi nán lại mà không có vẻ là cô đơn và

không biết dùng thời gian của mình làm gì.]] [4]

MĐQH “where a single man could linger without looking purposeless

and alone” đóng vai trò chi tiết hóa cho danh từ trung tâm “the only place in

the garden” giải thích mối quan hệ chu cảnh chỉ địa điểm giữa MĐQH và

danh từ trung tâm.

3.1.2.3. MĐQH tiếng Anh được dịch thành mệnh đề độc lập trong tiếng Việt

Theo Halliday [41], MĐQH là thành phần hậu bổ tố, đứng sau danh từ

trung tâm nên nó là thành phần bị xuống cấp và thành phần phụ thuộc. Theo

đó, MĐQH là mệnh đề phụ, có mối quan hệ với mệnh đề chính thông qua đơn

vị tạo dẫn là ĐTQH. Dựa vào ngữ liệu nghiên cứu, có thể nhận thấy, MĐQH

tiếng Anh cũng có thể được dịch thành mệnh đề độc lập, tức là thành phần

ngang cấp với danh từ trung tâm trong tiếng Việt, với 11,3% trong tổng số

542 câu chứa MĐQH tiếng Anh và 542 câu dịch tiếng Việt. (xem Bảng 3.2)

Các MĐQH tiếng Anh được chuyển dịch thành mệnh đề độc lập trong

tiếng Việt có thể là MĐQH hạn định hoặc MĐQH không hạn định với các

ĐTQH được sử dụng đa dạng.

109

Bảng 3.5: MĐQH tiếng Anh được dịch thành mệnh đề độc lập tiếng Việt

MĐQH tiếng Anh Số lượng Tỷ lệ

MĐQH hạn định 47,5% 29

MĐQH không hạn định 52,5% 32

Tổng 100,0% 61

Bảng 3.5 cho thấy, MĐQH hạn định và MĐQH không hạn định được

chuyển dịch thành mệnh đề độc lập trong tiếng Việt với tỷ lệ xấp xỉ tương

đương với nhau và không có sự chênh lệch lớn. Như vậy, có thể kết luận rằng

cấu trúc mệnh đề độc lập trong tiếng Việt có thể tương ứng với MĐQH tiếng

Anh bất kể tính hạn định của MĐQH.

Ví dụ 101:

While he cleaned and bandaged my knuckles, he entertained me with a

tale about a funny nearsighted old gentleman who had a cat named Hodge,

and [[who counted all the cracks in the sidewalk when he went to town.]] [1]

Trong khi chú rửa và băng những đốt ngón tay cho tôi, chú giải thích cho

tôi bằng câu truyện về ông già cận thị ngộ nghĩnh có một con mèo tên Hodge,

và [[ông ta đếm tất cả các vết nứt trên lề đường khi ông ta đi bộ xuống thị

trấn.]] [2]

Câu ví dụ trên chứa hai MĐQH và mỗi MĐQH lại được chuyển dịch

sang tiếng Việt bằng các cấu trúc khác nhau. MĐQH hạn định “who counted

all the cracks in the sidewalk when he went to town” được chuyển dịch thành

mệnh đề độc lập “ông ta đếm tất cả các vết nứt trên lề đường khi ông ta đi bộ

xuống thị trấn” trong tiếng Việt. MĐQH hạn định này giúp thu hẹp phạm vi

sở chỉ của danh từ trung tâm “a funny nearsighted old gentleman”, khiến cho

độc giả dễ dàng xác định thông tin giàu hình tượng được thể hiện bởi danh từ

trung tâm. Vị trí của MĐQH “who counted all the cracks in the sidewalk

when he went to town” cách danh từ trung tâm bởi một MĐQH khác nên đây

110

có lẽ là nguyên nhân lý giải cho việc dịch giả sử dụng một mệnh đề độc lập để

chuyển dịch ý nghĩa của MĐQH này. Mục đích chính là tránh gây khó hiểu

cho độc giả khi cung cấp quá nhiều thông tin, đồng thời hạn chế liệt kê khiến

diễn đạt ý trở nên trúc trắc, thiếu tự nhiên. Trong cấu trúc mệnh đề độc lập

tiếng Việt này, ĐTQH “who” với chức năng cú pháp là chủ ngữ được chuyển

dịch thành “ông ta”, vẫn sở chỉ tới danh từ trung tâm “ông già cận thị ngộ

nghĩnh” và cung cấp thêm thông tin chi tiết hóa danh từ trung tâm đó.

Ví dụ 102:

I tortured myself and decided that if I married Jem and Dill had a sister

[[whom he married]] our children would be double first cousins. [1]

Tôi vắt óc một hồi và kết luận rằng nếu tôi cưới Jem và Dill có một đứa

em gái [[và cậu ta cưới em gái đó]] thì con cái của tụi tôi là anh em họ đôi. [2]

Cấu trúc câu ví dụ trên khá phức tạp với nhiều loại mệnh đề khác nhau,

bao gồm MĐQH chính, MĐQH, mệnh đề đồng vị ngữ, v.v. Thông tin được

trình bày trong cấu trúc câu này cũng rất đa dạng nên có thể gây khó khăn cho

độc giả trong việc hiểu rõ ý nghĩa của câu. Do đó, MĐQH hạn định “whom he

married” chi tiết hóa danh từ trung tâm “a sister” được chuyển dịch thành

mệnh đề độc lập tiếng Việt “và cậu ta cưới em gái đó”, trong đó mệnh đề

tiếng Việt được nâng lên cùng cấp với mệnh đề chứa danh từ trung tâm với

mối quan hệ đồng đẳng, liên kết với nhau bởi từ “và”. Trong mệnh đề tiếng

Việt này, ĐTQH “whom” với chức năng tân ngữ được chuyển dịch thành “em

gái đó”, nhắc lại danh từ trung tâm và thêm thành phần chỉ trỏ “đó” để giúp

độc giả xác định được đích thể của hành động “cưới” trong mệnh đề này là

người nào. Khác với MĐQH tiếng Anh “whom he married”, trong mệnh đề

độc lập tiếng Việt, với chức năng tân ngữ nên đích thể “em gái đó” được định

vị đứng sau động từ “cưới” thay vì ĐTQH “whom” đứng trước cấu trúc Chủ -

vị “he married” trong tiếng Anh. Dù vậy, ý nghĩa của toàn bộ cấu trúc câu vẫn

111

khá khó hiểu do độc giả có thể gặp khó khăn trong việc xác định tính logic

giữa các thông tin được trình bày trong các mệnh đề khác nhau.

Ví dụ 103:

They became part of that unreal but penetrating and exciting universe

[[which is the world seen through the eyes of love.]] [5]

Họ là một phần của cái vũ trụ không thật nhưng thông suốt và lý thú,

[[và thế gian trong đó được nhìn qua con mắt tình yêu.]] [6]

Trong ví dụ trên, MĐQH hạn định “which is the world seen through the

eyes of love” được chuyển dịch thành mệnh đề độc lập “và thế gian trong đó

được nhìn qua con mắt tình yêu” trong tiếng Việt. Trong trường hợp này,

mệnh đề trong bản dịch tiếng Việt được nâng cấp lên tương đương với mệnh

đề chính với mối quan hệ đồng đẳng, bổ sung thêm thông tin, thông qua việc

sử dụng liên từ “và” thể hiện quan hệ đồng đẳng giữa hai mệnh đề. Cấu trúc

MĐQH tiếng Anh và mệnh đề độc lập tiếng Việt cũng không thực sự tương

đương về hình thức khi ĐTQH “which” với chức năng chủ ngữ lại được

chuyển dịch thành trạng ngữ “trong đó” sở chỉ tới danh từ trung tâm “vũ trụ”.

Có thể nhận thấy danh từ trung tâm trong ví dụ này “that unreal but

penetrating and exciting universe” là cấu trúc đa biến gồm các yếu tố Chỉ trỏ

(that) + ba Tính ngữ (unreal, penetrating và exciting) + Sự vật (universe)

trong đó ba tính ngữ lại có mối quan đối lập với liên từ “but” cũng như bổ

sung với liên từ “and” nên ý nghĩa của danh từ trung tâm này khá dài và phức

tạp, dễ gây khó hiểu cho độc giả. Do đó, đây có thể là lý do vì sao MĐQH

“which is the world seen through the eyes of love” với chức năng hậu bổ tố

đứng sau danh từ trung tâm được chuyển dịch thành mệnh đề độc lập, giúp

độc giả dễ dàng tiếp nhận được thông tin chi tiết hóa cho danh từ trung tâm.

Ví dụ 104:

Maybe you got some friend [[that I could telephone for]], George? [3]

112

Chắc ông có bạn chứ, ông George? [[Có ai không nào để tôi gọi dây nói

báo cho.]] [4]

Câu ví dụ trên có hình thức là câu hỏi với MĐQH “that I could telephone

for” bổ nghĩa cho danh từ trung tâm “some friend” được trích dẫn từ một cuộc

hội thoại giữa phát ngôn thể và tiếp ngôn thể (George). Trong ví dụ này,

mệnh đề chính “Maybe you got some friend” và MĐQH hạn định “that I

could telephone for” được chuyển dịch thành hai câu riêng biệt trong tiếng

Việt. Trong hội thoại với mục đích giao tiếp, việc sử dụng các cấu trúc ngắn

gọn, đơn giản với thông tin minh tường, dễ tiếp nhận là điều cần thiết. Do

vậy, câu phức chứa MĐQH hạn định trong trường hợp này được diễn đạt

thành hai câu hỏi đơn được xem là giải pháp hiệu quả, đảm bảo rõ ràng thông

tin trọng tâm của cấu trúc. MĐQH “that I could telephone for” được chuyển

dịch thành câu nghi vấn, nhấn mạnh vào thông tin cần biết là “một người bạn

cụ thể của ông George”. Kết cấu Chủ-vị trong MĐQH được chuyển dịch

thành mệnh đề chỉ mục đích, bắt đầu bằng “để”.

Ví dụ 105:

I took him into the pantry [[where he looked a little reproachfully at the

Finn.]] [1]

Tôi dẫn Gatsby vào gian bếp. [[Anh nhìn chị giúp việc của tôi với vẻ

trách móc.]] [2]

Ví dụ trên cho thấy MĐQH hạn định “where he looked a little

reproachfully at the Finn” được tách thành câu đơn khi chuyển dịch sang tiếng

Việt. Có thể nhận thấy bản dịch tiếng Việt đã lược bỏ hoàn toàn ý nghĩa của

ĐTQH “that” trong câu “Anh nhìn chị giúp việc của tôi với vẻ trách móc” với

mối quan hệ duy nhất giữa hai câu là “Gatsby” và đại từ thay thế “anh” trong câu

thứ hai. MĐQH “where he looked a little reproachfully at the Finn” bổ nghĩa cho

danh từ trung tâm “the pantry” với chức năng cung cấp thông tin về chu cảnh

của hành động. Trong MĐQH tiếng Anh, trọng tâm là chu cảnh chỉ địa điểm với

113

ĐTQH “where”, còn trong tiếng Việt, thành phần được nhấn mạnh là chủ thể

của hành động, đó là “Gatsby” trong mệnh đề chính. Đồng thời, có thêm một

điểm khác biệt giữa bản gốc và bản dịch trong trường hợp này là đích thể trong

mệnh đề chính là đại từ “him” còn trong bản dịch tiếng Việt lại chỉ rõ đích danh

tên riêng “Gatsby” nhằm giúp độc giả liên hệ chính xác đích thể của hành động

chính là Gatsby mà không phải là một người nào khác.

Bên cạnh đó, MĐQH không hạn định trong tiếng Anh cũng được chuyển

dịch thành mệnh đề độc lập trong tiếng Việt với tỷ lệ gần như tương ứng với

MĐQH hạn định.

Ví dụ 106:

As he lived in Mobile, he could not inform on me to school authorities,

but he managed to tell everything he knew to Aunt Alexandra, [[who in turn

unburdened herself to Atticus]], [[who either forgot it or gave me hell,

whichever struck his fancy.]] [1]

Vì nó sống ở Mobile, nó không thể thông tin về tôi cho ban giám hiệu

trường, nhưng tìm cách nói mọi thứ nó biết cho bác Alexandra, [[rồi bà lại kể

hết cho bố Atticus nghe]], [[ông hoặc quên nó hoặc trách mắng tôi, tùy theo

cái gì đánh vào trí tưởng tượng của ông.]] [2]

Trong ví dụ trên, có sự xuất hiện của hai MĐQH với cấp độ khác nhau.

MĐQH không hạn định “who in turn unburdened herself to Atticus” bổ nghĩa

cho danh từ trung tâm là tên riêng “Aunt Alexandra” với quan hệ là mệnh đề

phụ, chi tiết hóa cho danh từ trung tâm trong mệnh đề chính “he managed to

tell everything he knew to Aunt Alexandra”, đồng thời nó cũng là mệnh đề

chính chi phối MĐQH không hạn định phụ thuộc “who either forgot it or gave

me hell, whichever struck his fancy” bổ nghĩa cho danh từ trung tâm

“Atticus”. Cả hai MĐQH không hạn định này đều được chuyển dịch thành

mệnh đề độc lập trong tiếng Việt. ĐTQH “who” với chức năng chủ ngữ trong

114

cả hai MĐQH đều được chuyển dịch sang tiếng Việt bằng cách sử dụng đại từ

sở chỉ tới danh từ trung tâm và có hợp giống với danh từ trung tâm.

Ví dụ 107:

There was no color in his face except at the tip of his nose, [[which was

moistly pink.]] [3]

Mặt nó không có sắc màu trừ chóp mũi, [[chỗ đó có màu hồng ẩm ướt.]] [4]

Ví dụ trên sử dụng MĐQH không hạn định “which was moistly pink” bổ

nghĩa cho danh từ trung tâm “his nose” và được chuyển dịch thành mệnh đề

độc lập trong tiếng Việt. Trong ví dụ này, MĐQH mang nét nghĩa mở rộng,

cung cấp thêm thông tin mới cho danh từ trung tâm. ĐTQH “which” với chức

năng chủ ngữ, được sử dụng để thay thế cho danh từ trung tâm chỉ vật “his

nose” và được dịch thành danh từ “chỗ đó” quy chiếu đến một địa điểm với

cùng chức năng chủ ngữ trong MĐQH.

Ví dụ 108:

She looked at him reading the little book with his legs curled; the little

book [[whose yellowish pages she knew]], without knowing what was written

on them. [5]

Nó nhìn ông đang đọc cuốn sách nhỏ với đôi chân gập lại; [[nó biết cuốn

sách có những trang màu vàng nhạt đó]] nhưng không biết trong đó viết gì. [6]

Trong ví dụ trên, MĐQH không hạn định “whose yellowish pages she

knew” bổ nghĩa cho danh từ trung tâm “the little book” với ĐTQH sở hữu

“whose”. MĐQH này được chuyển dịch thành mệnh đề độc lập trong tiếng

Việt. Trong bản dịch tiếng Việt, trật tự các thành phần của cụm danh từ được

thay đổi vị trí, không giữ nguyên giống bản gốc, trong đó, danh từ trung tâm

“cuốn sách” được chuyển vị trí xuống sau động từ và đóng vai trò hiện tượng

trong quá trình tri nhận “biết”. Thành phần chỉ trỏ “đó” được sử dụng để quy

chiếu tới danh từ trung tâm đã được nhắc đến lần đầu trong mệnh đề chính

115

trước đó, ĐTQH sở hữu “whose” không được chuyển dịch mà được thay thế

bằng động từ trong quá trình hiện hữu “có”.

Như vậy, có thể nhận thấy rằng, cả MĐQH hạn định và không hạn định

trong tiếng Anh đều có thể được chuyển dịch thành mệnh đề độc lập trong

tiếng Việt. Các yếu tố cần xem xét khi sử dụng hình thức dịch tương đương

này bao gồm: kết cấu của danh từ trung tâm, mức độ phức tạp về cấu trúc và ý

nghĩa của mệnh đề chính, thể loại văn bản với mục đích và trọng tâm cụ thể

cũng như trọng điểm thông tin quan trọng cần nhấn mạnh.

3.1.2.4. MĐQH tiếng Anh được dịch thành cấu trúc Danh từ + động ngữ

Theo Bảng 3.2, cấu trúc Danh từ + động ngữ cũng được sử dụng để dịch

MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt với tỷ lệ tương đối phổ biến (8,5%). Rõ

ràng là các MĐQH tiếng Anh được dịch sang cấu trúc này trong tiếng Việt

chủ yếu phải là MĐQH có ĐTQH giữ chức năng chủ ngữ của mệnh đề. Do

đó, có thể phân loại các MĐQH tiếng Anh với cấu trúc chuyển dịch này theo

MĐQH hạn định và không hạn định với tỷ lệ như sau:

Bảng 3.6: MĐQH được dịch thành Danh từ + động ngữ

(xét theo loại MĐQH)

MĐQH tiếng Anh Số lượng Tỷ lệ

MĐQH hạn định 43,5% 20

MĐQH không hạn định 56,5% 26

Tổng 100,0% 46

Dựa vào Bảng 3.6, có thể thấy rằng tỷ lệ MĐQH hạn định và không hạn

định được dịch thành cấu trúc Danh từ + động ngữ không chênh lệch nhiều,

nghĩa là cấu trúc này có thể áp dụng một cách dễ dàng trong hoạt động

chuyển dịch MĐQH từ tiếng Anh sang tiếng Việt.

Cấu trúc Danh từ + động ngữ được sử dụng để diễn đạt MĐQH từ tiếng

Anh sang tiếng Việt thực ra là việc dịch ĐTQH trong mệnh đề đó. Như vậy,

cũng cần xác định các ĐTQH được sử dụng trong các MĐQH này.

116

Bảng 3.7: MĐQH được dịch thành Danh từ + động ngữ

(phân loại theo ĐTQH)

MĐQH có ĐTQH là Số lượng Tỷ lệ

27 58,7% who

1 2,2% whom

9 19,6% which

1 2,2% that

5 10,9% whose

3 6,5% where

Tổng 46 100,0%

Bảng 3.7 tỷ lệ MĐQH tiếng Anh được dịch thành Danh từ + động ngữ

phân loại theo ĐTQH. Có thể thấy rằng MĐQH có ĐTQH “who” được dịch

tương đương thành cấu trúc Danh từ + động ngữ trong tiếng Việt chiếm tỷ lể

áp đảo với 58,7%, theo sau là ĐTQH “which” với 19,6%, “whose” với 10,9%

và các ĐTQH còn lại với tần suất sử dụng khá khiếm tốn. MĐQH tiếng Anh

được dịch thành cấu trúc Danh từ + động ngữ, về thực chất chính là khi

ĐTQH với chức năng chủ ngữ của MĐQH được chuyển dịch thành danh từ,

thường là danh từ chung, trong đó ĐTQH “who” được dịch thành danh từ

chung chỉ cả lớp lớn “người” hoặc “những người”, “which” được dịch thành

danh từ “điều”, “thứ” hoặc “những điều”, “những thứ”, v.v. hợp số với danh

từ trung tâm.

Ví dụ 109:

It was times like these when I thought my father, [[who hated guns and

had never been to any wars,]] was the bravest man who ever lived. [1]

Những lúc như thế tôi đã nghĩ bố tôi, [[người ghét súng ống và chưa hề

dự cuộc chiến nào,]] là người đàn ông can đảm nhất trên đời. [2]

117

Trong ví dụ trên, MĐQH không hạn định “who hated guns and had

never been to any wars” bổ nghĩa cho danh từ trung tâm “my father” có quy

chiếu xác định mà cả người cung cấp thông tin và người tiếp nhận thông tin

đều rõ ràng. Do đó, MĐQH được dịch sang cấu trúc Danh từ + động ngữ

trong tiếng việt với ĐTQH “who” được dịch tương đương thành danh từ

chung chỉ toàn bộ lớp “người”.

Ví dụ 110:

All we had was Simon Finch, a fur-trapping apothecary from Cornwall

[[whose piety was exceeded only by his stinginess.]] [1]

Chúng tôi chỉ có mỗi Simon Finch, một tay bào chế thuốc bẫy thú lấy

lông gốc từ Cornwall, [[người chỉ để cho thói keo kiệt vượt trội hơn so với

lòng mộ đạo của mình.]] [2]

Có thể thấy, trong ví dụ trên có MĐQH không hạn định “whose piety

was exceeded only by his stinginess” cung cấp thêm thông tin bổ sung cho

danh từ trung tâm là tên riêng “Simon Finch” với sở chỉ rõ ràng. ĐTQH được

sử dụng trong trường hợp là ĐTQH “whose”, với MĐQH dưới dạng câu bị

động. Tuy nhiên, khi được dịch sang tiếng Việt, nhằm đảm bảo diễn đạt thông

tin một cách tự nhiên, dễ hiểu đối với độc giả, dịch giả đã thay đổi dạng bị

động thành chủ động với việc dịch ĐTQH “whose” thành danh từ chung chỉ

cả lớp “người”. Nhờ đó, bản dịch tiếng Việt của MĐQH này trở nên thuần

Việt hơn, dễ cảm thụ hơn, phù hợp hơn đối với thể loại văn học.

Ví dụ 111:

And, turning to walk back the other way, up the drive, Mr Bankes was

alive to things [[which would not have struck him]] had not those sandhills

revealed to him the body of his friendship lying with the red on its lips laid up

in peat—for instance, Cam, the little girl, Ramsay's youngest daughter. [5]

Và khi quành lại theo hướng khác, theo lối xe chạy, thì ông Bankes ngộ

ra nhiều điều, [[những điều sẽ không hạ gục ông]] nếu mấy đồi cát kia cho

118

ông thấy có thể tình bạn của mình nằm đó, với sắc đỏ trên môi, giữa bãi than

bùn-như Cam, cô con gái nhỏ tuổi nhất của ông Ramsay, chẳng hạn. [6]

MĐQH “which would not have struck him” trong ví dụ trên là MĐQH

hạn định, giúp thu hẹp phạm vi sở chỉ của danh từ trung tâm “things” với

ĐTQH “which” thay thế cho danh từ trung tâm, giữ chức năng chủ ngữ của

MĐQH. MĐQH này được dịch sang tiếng Việt bằng cấu trúc Danh từ + động

ngữ, trong đó ĐTQH “which” được dịch thành danh từ chung quy chiếu đến

lớp “những điều”, đồng thời danh từ này cũng có dạng số nhiều do thay thế

cho danh từ trung tâm số nhiều “things”.

Ví dụ 112:

At the request of Mr. Gatsby we are going to play for you Mr. Vladimir

Tostoff’s latest work [[which attracted so much attention at Carnegie Hall last

May.]] [3]

Thưa quý vị, theo yêu cầu của ông Gatsby, dàn nhạc chúng tôi sẽ trình

diễn hầu quý vị tác phẩm mới nhất của Vladimir Tostoff, [[một nhạc phẩm đã

làm cho người nghe tại hội trường Carnegie trong tháng Năm vừa qua phải xì

xào thán phục.]] [4]

Trong trường hợp này, “which” được sử dụng để thay thế cho danh từ

trung tâm “latest work” và làm chủ ngữ trong MĐQH không hạn định “which

attracted so much attention at Carnegie Hall last May”. Danh từ trung tâm

mang ý nghĩa rất cụ thể, rõ ràng sở hữu và sở chỉ nên dịch giả quyết định sử

dụng cấu trúc Danh từ + động ngữ, chuyển dịch ĐTQH “which” thành danh

từ chung “một nhạc phẩm” như là một phương tiện liên kết về mục đích giữa

hai mệnh đề chính và mệnh đề phụ.

3.1.2.5. MĐQH tiếng Anh được dịch thành cấu trúc Danh từ + mệnh đề

trong tiếng Việt

Theo khảo sát MĐQH tiếng Anh và các câu dịch tương ứng trong tiếng

Việt, có thể thấy rằng MĐQH có thể được dịch sang tiếng Việt thông qua cấu

119

trúc Danh từ + mệnh đề, được áp dụng đối với các MĐQH có ĐTQH giữ các

chức năng khác ngoài chức năng chủ ngữ. Theo số liệu thống kê trong Bảng

3.2, tần suất sử dụng cấu trúc Danh từ + mệnh đề trong tiếng Việt để chuyển

dịch tương đương MĐQH tiếng Anh chiếm tỷ lệ khá đáng kể với 8,1%.

Để tìm hiểu trường hợp áp dụng cấu trúc Danh từ + mệnh đề để chuyển

dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt, có thể phân loại MĐQH theo các

ĐTQH được sử dụng để tạo dẫn MĐQH như sau:

Bảng 3.8: MĐQH được dịch thành cấu trúc Danh từ + mệnh đề

(phân loại theo ĐTQH)

MĐQH có ĐTQH là Số lượng Tỷ lệ

9,1% 4 who

15,9% 7 which

6,8% 3 that

4,5% 2 whose

27,3% 12 when

36,4% 16 where

100,0% 44 Tổng

Từ Bảng 3.8, có thể nhận thấy sự chênh lệch khá đáng kể về tỷ lệ các

MĐQH với ĐTQH cụ thể, được chuyển dịch thành cấu trúc Danh từ + mệnh

đề trong tiếng Việt. Theo đó, MĐQH “where” chiếm tỷ lệ lớn nhất với 36,4%,

theo sau là “when” với 27,3%, “which” (15,9%) và các ĐTQH còn lại xuất

hiện với tần suất rất nhỏ.

Ví dụ 113:

This is a valley of ashes — a fantastic farm [[where ashes grow like

wheat into ridges and hills and grotesque gardens]]; [[where ashes take the

forms of houses and chimneys and rising smoke]] and, finally, with a

120

transcendent effort, of men [[who move dimly and already crumbling through

the powdery air.]] [3]

Cả một vùng thung lũng này bị chìm ngập dưới một lớp bụi dày xám như

tro, trông chẳng khác nào một trang trại quái đản, [[nơi tro mọc lên như lúa

mì, thành gò, thành đống, thành những vườn tược kì quái]], [[nơi tro mang

hình những ngôi nhà, những ống khói lò sưởi và cả làn khói toả ra từ những

ống khói ấy]], và cuối cùng với một cố gắng vượt bậc, nó mang hình những

con người xám ngoét [[lờ mờ di động hoặc chỉ chực khuỵu ngã trong một bầu

không khí mù mịt.]] [4]

Câu ví dụ trên có chứa ba MĐQH trong đó hai MĐQH đầu tiên có sử

dụng ĐTQH “where” và đều được dịch sang cấu trúc Danh từ + mệnh đề

trong tiếng Việt. ĐTQH “where” trong hai MĐQH này đều có cùng sở chỉ tới

danh từ trung tâm “a fantastic farm” và đều được dịch thành danh từ chung

chỉ địa điểm “nơi”. Chức năng của hai MĐQH này là chi tiết hóa cho danh từ

trung tâm, giúp cung cấp thêm thông tin miêu tả cụ thể danh từ trung tâm, nhờ

đó, hấp dẫn độc giả với nội dung đầy đủ, giàu hình tượng.

Ví dụ 114:

That spring [[when we found a crokersack full of turnip greens]], Atticus

said Mr. Cunningham had more than paid him. [1]

Mùa xuân năm đó [[khi chúng tôi tìm thấy một chiếc túi đầy củ cải]]

Atticus nói rằng ông Cunningham đã trả nhiều tiền hơn cho ông ta. [2]

Trong ví dụ trên, MĐQH không hạn định “when we found a crokersack

full of turnip greens” bổ nghĩa cho danh từ trung tâm chỉ thời gian “that spring”

và được dịch thành cấu trúc Danh từ + mệnh đề trong tiếng Việt. ĐTQH

“when” với sở chỉ thời gian được dịch thành danh từ chung chỉ thời gian “khi”,

giúp truyền tải được đầy đủ thông tin, bổ sung cho hiểu biết của độc giả về

danh từ trung tâm “mùa xuân năm đó” một cách ngắn gọn, xúc tích.

121

Ví dụ 115:

What damned rot they talk, thought Charles Tansley, laying down his

spoon precisely in the middle of his plate, [[which he had swept clean.]] [5]

Họ nói chuyện gì ngớ ngấn thế không biết, Charles Tansley nghĩ, đặt thìa

của minh xuống giữa đĩa, [[nơi anh ta vét sạch sẽ như quyết dùng hết bữa ăn

của mình.]] [6]

Ví dụ trên có MĐQH “which he had swept clean” là thành phần hậu bổ

tố cho danh từ trung tâm “his plate” với chức năng chi tiết hóa cho danh từ

trung tâm. Tuy nhiên, khi được dịch sang tiếng Việt, dịch giả đã sử dụng danh

từ chỉ vị trí “nơi” để chuyển dịch ĐTQH “which”. Điều này cho thấy cách

nhìn nhận khác nhau của tác giả và dịch giả về danh từ trung tâm của mệnh đề

đó. Với ĐTQH “which”, tác giả có thể chỉ muốn quy chiếu đến danh từ “his

plate”, trong khi đó, dịch giả lại cho rằng “nơi” được sử dụng để thay thế cho

cả cụm trạng ngữ “in the middle of his plate”, do vậy, dịch giả mới sử dụng

danh từ chung chỉ địa điểm để chuyển dịch ĐTQH “which” sang tiếng Việt

trong trường hợp này. Từ đây, có thể xác định rằng trong một số trường hợp

nhất định, tác giả của bản gốc và dịch giả của bản dịch có thể không có cùng

quan điểm về nội dung sở chỉ của danh từ trung tâm trong MĐQH, dẫn tới các

phương thức biểu đạt khác nhau.

Dựa trên kết quả nghiên cứu trên ngữ liệu nghiên cứu, chúng tôi đưa ra

tổng kết so sánh đối chiếu các cấu trúc phổ biến của MĐQH tiếng Anh và

những cấu trúc tương ứng trong tiếng Việt về mặt hình thức trong Bảng 3.9

sau đây. Đây là một hình thức mô hình hóa các cấu trúc tương ứng, làm cơ sở

để áp dụng vào thực tiễn nghiên cứu và dịch thuật một cách hiệu quả.

122

Bảng 3.9. Tổng kết mô hình cấu trúc MĐQH tiếng Anh và các biểu thức tương đương dịch thuật trong tiếng Việt

Tiếng Việt Tiếng Anh T

T

S + V + O/Adv + Giới từ + + S’+ V’+ (O’) S + V + O/(Adv) + mà, zero, hư từ, hồi chỉ + S’

(whom/which) + V’ + O’ 1

ĐTQH

ĐTQH + S’+ V’+ (O’) + V + (O) S + mà/zero/hồi chỉ + S’+ V’ + (O’) + V + (O) 2 S +

S + mà/zero/hư tư + V’ + (O’) + V + (O) 3 S + who/which/that + V’ + (O’) + V + (O)

S + V + O + mà/ zero/hư từ/ hồi chỉ + V’ + O’ 4 S + V + O + who/which/that + V’ + O’

123

3.1.3. Tương đương về nghĩa biểu hiện

Luận án tiến hành khảo sát các MĐQH tiếng Anh trong văn bản nguồn

được chuyển dịch tương đương sang biểu hiện của kiểu quá trình nào theo

quan điểm của Halliday [41]. Theo [41, tr.224-310], có thể phân loại vị ngữ

(còn gọi là vị tố - predicator) theo sáu kiểu quá trình mà vị ngữ đó đóng vai

trò trung tâm, bao gồm:

- Các quá trình vật chất (material) là các quá trình hành động với một

Hành thể bắt buộc và một Đích thể tùy thuộc.

- Các quá trình tinh thần (mental) là các quá trình cảm giác, tri giác và tri

nhận với hai tham thể là Cảm thể và Hiện tượng.

- Các quá trình quan hệ (relational) là các quá trình tồn tại, thể hiện mối

quan hệ Đương thể - Thuộc tính hay Đồng nhất thể - Bị đồng nhất thể.

- Các quá trình hành vi (behavioural), chuyển tiếp giữa các sự thể vật

chất và các sự thể tinh thần.

- Các quá trình ngôn từ (verbal-tức sử dụng ngôn từ, bao gồm nói năng và

cảm nghĩ), chuyển tiếp giữa các quá trình tinh thần và các quá trình quan hệ.

- Các quá trình hiện hữu (existential-gồm sự tồn tại, sự xuất hiện, sự tiêu

biến), chuyển tiếp giữa các quá trình vật chất và các quá trình quan hệ.

Trong tiếng Việt, Diệp Quang Ban [1] cũng đã tổng kết chức năng biểu

hiện, diễn đạt kinh nghiệm của câu dưới góc nhìn ngữ pháp chức năng. Theo

đó, câu với chức năng biểu hiện trình bày những sự thể trong các lĩnh vực mà

con người có thể nhận biết được nhờ trải nghiệm của mình [1, tr.32]. Ông

cũng phân chia các sự thể thành các kiểu khái quát, tương đương với các kiểu

quá trình theo phân loại của Halliday [41], với các sự thể vật chất, tinh thần,

quan hệ, hành vi, ngôn từ và tồn tại [1].

Cụ thể, trong phần này, chúng tôi khảo sát xem các MĐQH mang nghĩa

quá trình có được chuyển dịch tương đương sang cùng nghĩa quá trình tương

ứng hay không.

124

Ví dụ 116: Tương đương về nghĩa biểu hiện

Besides being the sassiest, most disrespectful mutts [[who ever passed

her way]], we were told that it was quite a pity our father had not remarried

after our mother’s death. [1]

Ngoài việc bảo chúng tôi là những đứa đần độn láu cá nhất, xấc xược

nhất [[từng đi ngang qua nhà bà]], bà còn bảo rằng thật tội nghiệp cho chúng

tôi vì bố Atticus không tái hôn sau khi mẹ tôi mất. [2]

Tiêu chí Văn bản nguồn Văn bản đích

Tương đương dịch Đối chiếu với

thuật văn bản nguồn

Nghĩa biểu hiệu Nghĩa quá trình: Nghĩa quá trình: vật +

vật chất chất

Tương đương Kết luận

Ví dụ 117: Không tương đương về nghĩa biểu hiện

He returned to Saint Stephens only once, to find a wife, and with her

established a line [[that ran high to daughters.]] [1]

Ông chỉ trở lại Saint Stephens một lần, để tìm vợ, và ông đã cùng bà tạo

dựng một dòng họ [[với nhiều con gái.]] [2]

Tiêu chí Văn bản nguồn Văn bản đích

Tương đương dịch Đối chiếu với

thuật văn bản nguồn

Nghĩa biểu hiệu Nghĩa quá trình: Nghĩa quá trình: -

vật chất quan hệ

Kết luận Không tương

đương

125

Dựa vào kết quả khảo sát, đối chiếu nghĩa biểu hiện của MĐQH trong

tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt dựa trên nghĩa quá trình theo quan điểm của

Halliday [41], chúng tôi có thể tổng kết về mức độ tương đương về nghĩa biểu

hiện theo quá trình giữa văn bản nguồn và văn bản đích như sau:

Bảng 3.10: Bảng thống kê tương đương nghĩa quá trình giữa MĐQH

tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt

TT Văn bản nguồn Văn bản đích Số lượng

Vật chất

Tinh thần

Quan hệ

Hành vi

Phát ngôn

Vật chất Tinh thần Quan hệ Hành vi Phát ngôn Hiện hữu Tinh thần Vật chất Quan hệ Hành vi Phát ngôn Hiện hữu Quan hệ Vật chất Tinh thần Hành vi Phát ngôn Hiện hữu Hành vi Vật chất Tinh thần Phát ngôn Vật chất Quan hệ Tương đương nghĩa biểu hiện + - - - - - + - - - - - + - - - - - + - - + - - 236 20 24 5 2 27 86 5 8 1 2 3 45 10 8 1 1 15 1 2 2 11 1 2 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

126

Hiện hữu

Hành vi Hiện hữu Vật chất Tinh thần Quan hệ 25 26 27 28 29 - + - - - 1 15 3 1 3

Theo Bảng 3.10, có thể nhận thấy, các MĐQH tiếng Anh trong văn bản

nguồn chủ yếu thể hiện quá trình vật chất và cũng được chuyển dịch tương

đương thành quá trình vật chất trong tiếng Việt với tỷ lệ gần 50% trong tổng

số MĐQH thuộc phạm vi nghiên cứu, theo sau là MĐQH với nghĩa quá trình

tinh thần với mức độ tương đương chuyển dịch sang tiếng Việt chiếm tỷ lệ

khá cao với 86 câu, tương đương nghĩa quá trình quan hệ có tần suất tương

đối phổ biến trong 45 câu, còn các MĐQH với nghĩa quá trình còn lại và mức

độ tương đương giữa văn bản tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt chỉ chiếm tỷ lệ

không đáng kể.

Ví dụ 118: Tương đương về nghĩa quá trình tinh thần

Little Chuck Little was another member of the population [[who didn’t

know where his next meal was coming from]], but he was a born gentleman. [1]

Little Chuck là một thành viên khác trong lớp [[không biết bữa ăn kế tiếp

của nó từ đâu tới]], nhưng nó là một quý ông bẩm sinh. [2]

Tiêu chí Văn bản nguồn Văn bản đích

Nghĩa biểu hiệu Nghĩa quá trình: Đối chiếu với văn bản nguồn +

tinh thần Tương đương dịch thuật Nghĩa quá trình: tinh thần

Tương đương

Kết luận

Ví dụ 119: Tương đương về nghĩa quá trình quan hệ

We pushed aside curtains [[that were like pavilions]], and felt over

innumerable feet of dark wall for electric light switches. [3]

Chúng tôi gạt những tấm rèm cửa [[to như những cánh buồm]], sờ soạng

trên không biết bao nhiêu thước tường tối đen để tìm nút bật đèn. [4]

127

Tiêu chí Văn bản nguồn Văn bản đích

Nghĩa biểu hiệu Nghĩa quá trình: Đối chiếu với văn bản nguồn +

quan hệ Tương đương dịch thuật Nghĩa quá trình: quan hệ

Tương đương

Kết luận

Ví dụ 120: Tương đương về nghĩa quá trình hành vi

Who will not secretly rejoice when the hero puts his armour off, and

halts by the window and gazes at his wife and son, [[who very distant at first,

gradually come closer and closer, till lips and book and head are clearly

before him]], though still lovely and unfamiliar from the intensity of his

isolation and the waste of ages and the perishing of the stars, and finally

putting his pipe in his pocket and bending his magnificent head before her—

who will blame him if he does homage to the beauty of the world? [5]

Ai mà không bí mật vui mừng khi người hùng cởi bỏ giáp trụ, dừng lại

bên cửa sổ, ngắm vợ con mình,[[ những người thoạt đầu ở rất xa dần dà tiến

lại gần hơn, gần hơn nữa, cho tới khi đôi môi, cuốn sách, và đầu họ hiện ra rõ

ràng trước mặt ông]], dù vẫn đáng yêu và xa lạ trước cường độ cách biệt, sự

phí hoài tuổi tác và tàn lụi của các vì sao nơi ông, kẻ cuối cùng cũng nhét tẩu

vào túi rồi cúi cái đầu tráng lệ của mình trước vợ - người có đổ lỗi cho ông

không nếu ông nghiêng mình kính cẩn trước vẻ đẹp của thế gian này? [6]

Tiêu chí Văn bản nguồn Văn bản đích

Tương đương dịch Đối chiếu với

thuật văn bản nguồn

Nghĩa biểu hiệu Nghĩa quá trình: Nghĩa quá trình: +

hành vi hành vi

Kết luận Tương đương

128

Ví dụ 121: Tương đương về nghĩa quá trình phát ngôn

So Jem received most of his information from Miss Stephanie Crawford,

a neighborhood scold, [[who said she knew the whole thing.]] [1]

Vậy Jem nhận hầu hết thông tin từ cô Stephanie Crawford, một hàng

xóm gắt gỏng, [[người nói mình biết toàn bộ câu chuyện này.]] [2]

Tiêu chí Văn bản nguồn Văn bản đích

Tương đương dịch Đối chiếu với

thuật văn bản nguồn

Nghĩa biểu hiệu Nghĩa quá trình: Nghĩa quá trình: +

phát ngôn phát ngôn

Tương đương Kết luận

Ví dụ 122: Tương đương về nghĩa quá trình hiện hữu

He lit Daisy’s cigarette from a trembling match, and sat down with her

on a couch far across the room [[where there was no light save what the

gleaming floor bounced in from the hall.]] [3]

Khi anh châm thuốc cho Daisy, que diêm anh cầm run run. Anh ngồi xuống

cạnh Daisy trên một chiếc đi văng ở cuối gian phòng, [[chỗ đó không có ánh

sáng nào khác ngoài ánh sáng ở hành lang hắt qua sàn gỗ bóng loáng.]] [4]

Tiêu chí Văn bản nguồn Văn bản đích

Tương đương dịch Đối chiếu với

thuật văn bản nguồn

Nghĩa biểu hiệu Nghĩa quá trình: Nghĩa quá trình: +

hiện hữu hiện hữu

Kết luận Tương đương

129

3.2. Các kiểu tương đương của MĐQH tiếng Anh và biểu thức tiếng Việt

3.2.1. Phân loại mức độ tương đương chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang

tiếng Việt

Dựa vào hai tiêu chí được trình bày ở trên, chúng tôi phân loại các mức

độ tương đương chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt như sau:

a. Tương đương cao: Các MĐQH được đánh giá là có mức độ tương

đương cao nếu đáp ứng cả hai tiêu chí.

Ví dụ 123:

We had strolled to the front yard, [[where Dill stood looking down the

street at the dreary face of the Radley Place.]] [1]

Chúng tôi đã đi dạo đến sân trước, [[nơi Dill đang đứng nhìn xuống

đường ở bộ mặt thê lương của Radley Place.]] [2]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Cấu trúc/ hình ĐTQH+mệnh đề Danh từ + mệnh

thức đề Tương đương cao

Nghĩa biểu hiện Quá trình vật chất Quá trình vật chất

Ví dụ trên được chuyển dịch tương đương ở mức độ cao về cả hình thức/

cấu trúc bên ngoài cũng như nghĩa biểu hiện quá trình vật chất.

Ví dụ 124:

Replying to her in the same language, Mr Bankes said, "No, not at all,"

and Mr Tansley, [[who had no knowledge of this language,]] even spoke thus

in words of one syllable, at once suspected its insincerity. [5]

Ông Bankes liền đáp lời bà theo cùng cách, “Không, không hề”, còn anh

Tansley, [[người chẳng có kiến thức gì về ngôn ngữ này,]] thậm chí chẳng nói

một từ đơn âm, lập tức nghi ngờ tính giả dối của câu chuyện. [6]

130

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Cấu trúc/ hình ĐTQH+động ngữ Danh từ + động

thức ngữ Tương đương cao

Nghĩa biểu hiện Quá trình quan hệ Quá trình quan hệ

Mức độ tương đương dịch thuật MĐQH trong ví dụ trên được đánh giá

là tương đương cao do có sự tương hợp cả về tiêu chí hình thức và nghĩa quá

trình quan hệ.

b. Tương đương: Ngoài ra, các MĐQH được đánh giá là tương đương

nếu chỉ đáp ứng được một trong hai tiêu chí hoặc là về hình thức, hoặc là về

nghĩa biểu hiện.

Ví dụ 125:

Suddenly I wasn’t thinking of Daisy and Gatsby any more but of this

clean, hard, limited person [[who dealt in universal skepticism.]] [3]

Bỗng nhiên tôi không còn nghĩ gì đến Daisy hoặc Gatsby nữa, mà chỉ

nghĩ đến con người nhỏ nhắn, rắn chắc và hèn mọn này, [[con người hoài nghi

hết thảy mọi thứ trên đời.]] [4]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Cấu trúc/ hình ĐTQH+động ngữ Danh từ + động

ngữ thức Tương đương Nghĩa biểu hiện Quá trình quan hệ Quá trình tinh

thần

Ví dụ này được chuyển dịch tương đương về hình thức bên ngoài với cấu

trúc ĐTQH/ Danh từ + động ngữ. Tuy nhiên có sự không tương đồng về

nghĩa biểu hiện khi MĐQH tiếng Anh thể hiện nghĩa quá trình quan hệ trong

khi bản dịch tiếng Việt mang nghĩa quá trình tinh thần.

131

Ví dụ 126:

Since he belonged, even at the age of six, to that great clan [[which cannot

keep this feeling separate from that, but must let future prospects, with their

joys and sorrows, cloud what is actually at hand,]] since to such people even in

earliest childhood any turn in the wheel of sensation has the power to

crystallise and transfix the moment upon which its gloom or radiance rests. [5]

Dù chỉ mới lên sáu, nó thuộc về một gia tộc lớn, [[nơi những người trong

đó không thể kềm giữ được cảm giác này, mà phải để cho viễn cảnh tương lai

với những vui buồn che khuất đi những gì thật sự diễn ra trước mắt, ]] vì đối

với họ, thậm chí khi đang còn thơ ấu, bất kỳ một biến chuyển nào trong cảm

giác đều có khả năng kết tinh lại và xuyên thấu qua cái khoảnh khắc chứa

đựng sự rực rỡ hay u ám đó. [6]

tương Tiếng Anh Tiếng Việt tương

Mức độ đương

ĐTQH+động ngữ Danh từ + mệnh trúc/ hình

đề Tương đương

Quan hệ đương Cấu thức Nghĩa biểu hiện Quá trình vật chất Quá trình vật chất

MĐQH tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt trong ví dụ trên mang cùng

nghĩa quá trình vật chất, nhưng hình thức thể hiện ý nghĩa đó lại có sự khác

biệt giữa văn bản nguồn và văn bản đích. Do đó, nó chỉ được đánh giá ở mực

độ tương đương, chứ không phải là tương đương cao.

c. Không tương đương: Các MĐQH được đánh giá là dịch không tương

đương khi không đáp ứng cả hai tiêu chí với lý do bất khả dịch hoặc dịch giả

quyết định sử dụng các phương thức diễn đạt khác.

Ví dụ 127:

He seemed dedicated to one course and motivated by an invisible force

[[that was inching him toward us.]] [1]

132

Tim Johnson tiến tới rất chậm, nhưng nó không đùa giỡn hoặc ngửi cành

lá, có vẻ như nó chăm chú theo một hướng đi và bị đẩy bởi một lực vô hình

[[về phía chúng tôi.]] [2]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Cấu trúc/ hình ĐTQH+động ngữ Trạng ngữ Không tương thức đương Nghĩa biểu hiện Quá trình vật chất Quá trình quan hệ

MĐQH trong ví dụ trên được chuyển dịch sang tiếng Việt với sự khác

biệt cả về hình thức, cả về nghĩa biểu hiện quá trình. Do đó, nó được đánh giá

là không tương đương.

Ví dụ 128:

Thoroughly frightened, she telephoned Mr. Link at his store, [[which

was not too far from his house.]] [1]

Quá sợ hãi, chị điện thoại cho ông Link ở cửa hàng. [2]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Cấu trúc/ hình ĐTQH+tính ngữ Không dịch Không tương thức đương Nghĩa biểu hiện Quá trình quan hệ Không dịch

Trong ví dụ trên, MĐQH “which was not too far from his house” được

lược bỏ, không dịch, do đó không có cơ sở để đánh giá mức độ tương đương

chuyển dịch. Vì vậy, nó được coi là không tương đương.

3.2.2. Mức độ tương đương chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt

Qua khảo sát 542 câu chứa MĐQH tiếng Anh và 542 câu dịch tiếng Việt

tương ứng, chúng tôi tổng hợp được các MĐQH theo mức độ tương đương

dịch thuật trong Bảng 3.11 sau đây.

133

Bảng 3.11: MĐQH theo mức độ tương đương chuyển dịch

Số lượng Mức độ tương đương Tổng số MĐQH

a.Tương đương cao 75 75

b. Tương đương b1. Tương đương hình thức 27 346 b2. Tương đương ngữ nghĩa 319

c. Không tương đương 121 121

Tổng 542

Theo Bảng 3.11, số lượng các MĐQH được chuyển dịch sang tiếng Việt

với mức độ tương đương cao là 75 MĐQH, 346 MĐQH được chuyển dịch

với mức độ tương đương, trong đó có 27 MĐQH tương đương về hình thức

biểu đạt và 319 MĐQH được chuyển dịch tương đương về nghĩa biểu hiện và

121 MĐQH được chuyển dịch không tương đương cả về hình thức và ngữ

nghĩa. Dựa vào dữ liệu thống kê và kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng

số lượng các MĐQH được chuyển dịch tương đương về ngữ nghĩa chiếm tỷ lệ

vượt trội so với các MĐQH được chuyển dịch với mức độ tương đương khác.

Điều này cũng khá dễ lý giải do mục tiêu trọng yếu của hoạt động chuyển

dịch là truyền tải được đúng nội dung thông tin mà tác giả muốn thể hiện còn

thông tin đó được thể hiện dưới hình thức nào thì không có quy định quá khắt

khe mà tùy thuộc vào quyết định của dịch giả.

3.2.2.1. MĐQH tiếng Anh được chuyển dịch sang tiếng Việt với mức độ

tương đương cao

Dưới đây, chúng tôi khảo sát các MĐQH tiếng Anh được dịch tương

đương sang tiếng Việt về cả hình thức và nghĩa biểu hiện.

Về mặt hình thức, MĐQH tiếng Anh có thể được chuyển dịch sang tiếng

Việt qua các cấu trúc như sau:

134

Bảng 3.12: Tương đương chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng

Việt về hình thức

Tiếng Anh Tiếng Việt

AV1 ĐTQH + mệnh đề Danh từ + mệnh đề

AV2 ĐTQH + động ngữ Danh từ + động ngữ/ tính ngữ

Theo Bảng 3.12, có thể nhận thấy hai cấu trúc MĐQH tiếng Anh có thể

chuyển dịch tương đương sang tiếng Việt về mặt hình thức khi ĐTQH được

dịch thành danh từ và thành phần bổ sung là mệnh đề hay động ngữ hoặc tính

ngữ.

Dựa vào Bảng 3.12, chúng tôi thống kê số lượng MĐQH được chuyển

dịch tương đương sang tiếng Việt về cả hình thức và nghĩa quá trình theo hai

cấu trúc như trên.

Bảng 3.13: MĐQH tiếng Anh được chuyển dịch sang tiếng Việt với

mức độ tương đương cao

Hình thức

AV1 AV2 Tổng số

Quá trình

22 21 43 Vật chất

3 9 12 Tinh thần

3 8 11 Quan hệ

0 1 1 Hành vi

4 2 6 Phát ngôn

1 1 2 Hiện hữu

33 42 75 Tổng

Bảng 3.13 cho thấy, MĐQH tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt với mức

độ tương đương cao chủ yếu biểu thị quá trình vật chất, phản ánh thế giới vật lí

135

với các tham thể cụ thể đóng vai trò Hành thể và đích thể của hành động với

tần suất sử dụng chiếm hơn 50% tổng số MĐQH thuộc cả hai cấu trúc.

Ví dụ 129: Tương đương cao trong chuyển dịch cấu trúc MĐQH AV1

với nghĩa quá trình vật chất

Begun long years ago, their friendship had petered out on a Westmorland

road, [[where the hen spread her wings before her chicks]]; after which

Ramsay had married, and their paths lying different ways, there had been,

certainly for no one's fault, some tendency, when they met, to repeat.[5]

Tình bạn đó bắt đầu từ nhiều năm về trước, đuối dần trên con đường ở

Westmoreland, [[nơi con gà mái mẹ xòe cánh bảo vệ đàn con]]; sau đấy ông

Ramsay lấy vợ, và con đường của họ rẽ hai ngả khác nhau, dĩ nhiên, chẳng ai

có lỗi, khi có xu hướng lặp đi lặp lại mỗi lần họ giáp mặt. [6]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Danh từ + mệnh đề Tương đương

cao Nghĩa biểu hiện Quá trình vật chất Quá trình vật chất

Ví dụ 130: Tương đương cao trong chuyển dịch cấu trúc MĐQH AV1

với nghĩa quá trình tinh thần

In addition to all these I can remember that Faustina O’brien came there

at least once and the Baedeker girls and young Brewer, who had his nose shot

off in the war, and Mr. Albrucksburger and Miss Haag, his fiancee, and

Ardita FitzPeters and Mr. P. Jewett, once head of the American Legion, and

Miss Claudia Hip, with a man reputed to be her chauffeur, and a prince of

something, whom we called Duke, and [[whose name, if I ever knew it, I have

forgotten.]] [3]

Ngoài tất cả những người ấy ra, tôi còn nhớ Faustina O’Brien đã đến đấy

ít nhất một lần cùng với các cô gái nhà Baedeker và chàng thanh niên Brewer

bị mất mũi trong chiến tranh. Tôi nhớ còn có Albrucksburger với vị hôn thê

136

của ông ta là cô Haag, có vợ chồng Ardita Fitz-Peter và ông P. Jewett, người

có một thời đã từng làm chủ tịch Hội cựu chiến binh Mỹ, có cô Claudia Hip đi

cùng với một ông mà người ta bảo là tài xế của cô, và một ông hoàng gì đó

mà người ta gọi là Công tước – [[tên của ông hoàng này nếu như tôi có biết

thì nay cũng quên mất rồi.]] [4]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ

đương tương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Danh từ + mệnh đề Tương đương

cao Nghĩa biểu hiện Quá trình tinh thần Quá trình tinh thần

Ví dụ 131: Tương đương cao trong chuyển dịch cấu trúc MĐQH AV1

với nghĩa quá trình quan hệ

Daisy began to sing with the music in a husky, rhythmic whisper,

bringing out a meaning in each word [[that it had never had before and would

never have again.]] [3]

Daisy bắt đầu hát khe khẽ theo tiếng nhạc bằng một giọng trầm trầm,

thướt tha, làm nổi nghĩa của từng lời ca [[như nó chưa bao giờ có và sẽ không

bao giờ có nữa.]] [4]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Danh từ + mệnh đề Tương đương

cao Nghĩa biểu hiện Quá trình quan hệ Quá trình quan hệ

Ví dụ 132: Tương đương cao trong chuyển dịch cấu trúc MĐQH AV1

với nghĩa quá trình phát ngôn

But Dill got him the third day, [[when he told Jem that folks in Meridian

certainly weren’t as afraid as the folks in Maycomb, that he’d never seen such

scary folks as the ones in Maycomb.]] [1]

137

Nhưng Dill khích được anh ấy vào ngày thứ ba, [[khi nó nói với Jem

rằng dân Meridian chắc chắn không sợ hãi như dân Maycomb, rằng nó chưa

từng thấy dân nào nhát như dân Maycomb.]] [2]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Danh từ + mệnh đề Tương đương Nghĩa biểu hiện Quá trình phát Quá trình phát cao ngôn ngôn

Ví dụ 133: Tương đương cao trong chuyển dịch cấu trúc MĐQH AV1

với nghĩa quá trình hiện hữu

There was a man Dill had heard of who had a boat that he rowed across

to a foggy island [[where all these babies were]]; you could order one— [1]

Dill nghe nói có một người đàn ông với chiếc xuồng chuyên chèo thuyền

tới một hòn đảo đầy sương mù [[nơi tất cả em bé ở đó]], mày có thể đặt hàng

một đứa. [2]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Danh từ + mệnh

đề Tương đương cao Nghĩa biểu hiện Quá trình hiện Quá trình hiện

hữu hữu

Ví dụ 134: Tương đương cao trong chuyển dịch cấu trúc MĐQH AV2

với nghĩa quá trình vật chất

And, turning to walk back the other way, up the drive, Mr Bankes was

alive to things [[which would not have struck him had not those sandhills

138

revealed to him the body of his friendship lying with the red on its lips laid up

in peat.]] [5]

Và khi quành lại theo hướng khác, theo lối xe chạy, thì ông Bankes ngộ

ra nhiều điều, [[những điều sẽ không hạ gục ông nếu mấy đồi cát kia cho ông

thấy có thể tình bạn của mình nằm đó, với sắc đỏ trên môi, giữa bãi than

bùn.]] [6]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + động ngữ Danh từ + động ngữ Tương đương

cao Nghĩa biểu hiện Quá trình vật chất Quá trình vật chất

Ví dụ 135: Tương đương cao trong chuyển dịch cấu trúc MĐQH AV2

với nghĩa quá trình tinh thần

It was times like these when I thought my father, [[who hated guns and

had never been to any wars]], was the bravest man who ever lived. [1]

Những lúc như thế tôi đã nghĩ bố tôi, [[người ghét súng ống và chưa hề

dự cuộc chiến nào]], là người đàn ông can đảm nhất trên đời. [2]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + động Danh từ + động

ngữ ngữ Tương đương cao Nghĩa biểu hiện Quá trình tinh Quá trình tinh

thần thần

Ví dụ 136: Tương đương cao trong chuyển dịch cấu trúc MĐQH AV2

với nghĩa quá trình quan hệ

…, and the skulls of small birds, while it drew from the long frilled strips

of seaweed pinned to the wall a smell of salt and weeds, [[which was in the

towels too, gritty with sand from bathing.]] [5]

139

…, rồi mặt trời chiếu vào lũ dơi, vào những mảnh flannel, mũ rơm, bình

mực, lọ sơn, lũ bọ, sọ của những con chim nhỏ và kéo từ những dải rong biển

dài loăn xoăn đinh trên tường ra mùi muối và rong rêu, [[cái mùi cũng đọng

lại trong những chiếc khăn tắm dính đầy cát.]] [6]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + động Danh từ + tính

ngữ ngữ Tương đương cao

Nghĩa biểu hiện Quá trình quan hệ Quá trình quan hệ

Ví dụ 137: Tương đương cao trong chuyển dịch cấu trúc MĐQH AV2

với nghĩa quá trình phát ngôn

Following the scatter of swift-flying birds in the sky they stepped

through the gap in the high hedge straight into Mr Ramsay, [[who boomed

tragically at them, "Someone had blundered!"]] [5]

Theo hướng đàn chim đang vội vã dáo dác bay tản mác trên trời, họ đi

qua khoảng trống nơi bờ giậu cao thẳng về phía ông Ramsay, [[người đang bi

thảm gầm lên với họ, “Ai đó đã sai”.]] [6]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + động Danh từ + động

ngữ ngữ Tương đương cao Nghĩa biểu hiện Quá trình phát Quá trình phát

ngôn ngôn

140

3.2.2.2. MĐQH tiếng Anh được dịch tương đương sang tiếng Việt

Theo khảo sát, có tới 346 MĐQH được dịch tương đương sang tiếng

Việt, đáp ứng một trong hai tiêu chí về hình thức hoặc nghĩa biểu hiện. Trong

đó, số lượng MĐQH được chuyển dịch tương đương về nghĩa là chủ yếu,

chiếm hơn 90% số MĐQH thuộc nhóm này. Do tiếng Anh và tiếng Việt khác

biệt về loại hình ngôn ngữ với những đặc điểm đặc trưng riêng biệt, nên

tương đương về hình thức chiếm tỷ lệ không đáng kể cũng là điều dễ hiểu.

Hơn nữa, do các MĐQH được đánh giá về mức độ tương đương trong chuyển

dịch với đối sánh là bản dịch tiếng Việt nên điều này cũng lý giải được tỷ lệ

áp đảo của tương đương về nghĩa.

a. Tương đương về hình thức

Ví dụ 138:

Only Gatsby, the man who gives his name to this book, was exempt from

my reaction — Gatsby, who represented everything for [[which I have an

unaffected scorn.]] [3]

Chỉ chừa ra có Gatsby, người được lấy tên đặt cho cuốn sách này, một

con người tiêu biểu cho tất cả [[những gì tôi thành thật khinh bỉ.]] [4]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Danh từ + mệnh đề Tương đương Nghĩa biểu hiện Quá trình quan hệ Quá trình tinh thần

Trong ví dụ trên, cả MĐQH tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt đều có

cùng cấu trúc bao gồm ĐTQH được chuyển dịch thành danh từ + mệnh đề

nhưng thể hiện nghĩa quá trình khác nhau. Trong khi MĐQH trong văn bản

nguồn trình bày quá trình quan hệ sở hữu thì văn bản đích lại thể hiện quá

trình tinh thần, chỉ cảm giác “khinh bỉ”.

141

Ví dụ 139:

The rest of us walked out on the porch, [[where Sloane and the lady

began an impassioned conversation aside.]] [3]

Tất cả chúng tôi bước ra thềm, [[nơi ông Sloane và bà khách nói chuyện

với nhau rất hăng.]] [4]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ

đương tương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Danh từ + mệnh đề Tương

đương Nghĩa biểu hiện Quá trình hiện hữu Quá trình vật chất

b. Tương đương về nghĩa biểu hiện

Với mục tiêu lớn nhất của quá trình dịch là đảm bảo truyền tải đầy đủ và

chính xác nội dung của văn bản, dịch giả đã áp dụng nhiều phương thức dịch

khác nhau, đặc biệt là các hình thức/ cấu trúc diễn đạt khác nhau để đảm bảo

trung thành trong cung cấp thông tin tới độc giả. Đặc biệt là trong hoạt động

dịch văn học, đòi hỏi sử dụng nhiều hình thức, cấu trúc đa dạng để diễn đạt

thông tin, nhằm thu hút độc giả, yêu cầu mà dịch giả cần phải đáp ứng ngoài

đầy đủ, chính xác còn phải trình bày bằng những hình thức hấp dẫn. Do đó,

loại tương đương về nghĩa biểu hiện, nghĩa quá trình có tỷ lệ rất đáng kể trong

hoạt động dịch thuật MĐQH từ tiếng Anh sang tiếng Việt.

Bảng 3.14: Bảng thống kê MĐQH được dịch tương đương sang tiếng

Việt về nghĩa biểu hiện

Quá trình Số lượng MĐQH

Vật chất 193

Tinh thần 74

Quan hệ 34

Hành vi 0

Phát ngôn 5

142

Hiện hữu 13

Tổng 319

Dựa vào Bảng 3.14, có thể thấy rằng MĐQH chủ yếu được sử dụng để

thể hiện nghĩa quá trình vật chất với tỷ lệ chiếm khoảng 60% tổng số MĐQH

thuộc nhóm này, theo sau là quá trình tinh thần, còn các quá trình khác chỉ có

tần suất rất hạn chế.

Ví dụ 140:

So they were sent for walks together, and she was told, with that faint

touch of irony [[that made Mrs Ramsay slip through one's fingers]], that she

had a scientific mind. [5]

Thế là họ đã được sắp xếp di dạo với nhau, và người ta đã bảo với cô,

với sự châm biếm mơ hồ [[khiến cho bà Ramsay trượt qua những kẻ tay của

người ta]], rằng cô có một đầu óc khoa học. [6]

tương Tiếng Anh Tiếng Việt tương

Mức độ đương

Quan hệ đương Hình thức Động ngữ

ĐTQH + động ngữ Tương đương

Nghĩa biểu hiện Quá trình vật chất Quá trình vật chất

Ví dụ 141:

For the sail, upon which James had his eyes fixed until it had become to

him like a person [[whom he knew]], sagged entirely; there they came to a

stop, flapping about waiting for a breeze, in the hot sun, miles from shore,

miles from the Lighthouse. [5]

Vì cánh buồm mà James đã dán mắt vào cho tới khi nó trở thành một con

người [[mà James biết rõ]] đã hoàn toàn chùng xuống; họ đã dừng lại, nhìn

quanh quất chờ đợi một cơn gió nổi lên dưới ánh mặt trời nóng rực, nhiều

dặm cách xa bờ biển, nhiều dặm cách xa ngọn hải đăng. [6]

143

tương Tiếng Anh Tiếng Việt tương

Mức độ đương

Tương đương ĐTQH + mệnh đề Mà + mệnh đề tinh trình trình tinh

Quan hệ đương Hình thức Nghĩa biểu hiện Quá thần Quá thần

Ví dụ 142:

But I am slow-thinking and full of interior rules [[that act as brakes on

my desires.]] [3]

Nhưng tôi vốn chậm nghĩ và là người mang đầy những phép tắc [[như

những cái phanh kìm hãm các ước muốn của tôi.]] [4]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + động ngữ Tính ngữ Tương đương Nghĩa biểu hiện Quá trình quan hệ Quá trình quan hệ

Ví dụ 143:

The following week the knot-hole yielded a tarnished medal. Jem

showed it to Atticus, [[who said it was a spelling medal]], that before we were

born the Maycomb County schools had spelling contests and awarded medals

to the winners. [1]

Tuần kế tiếp lỗ bọng đó chứa một huy chương xỉn màu. Jem đưa nó cho

bố Atticus xem, [[ông nói đó là huy chương đánh vần]], rằng trước khi tụi tôi

ra đời các trường ở hạt Maycomb có những cuộc thi đánh vần và thưởng huy

chương cho người thắng cuộc. [2]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ

đương tương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Mệnh đề Tương

đương Nghĩa biểu hiện Quá trình phát ngôn Quá trình phát ngôn

144

Ví dụ 144:

The only completely stationary object in the room was an enormous

couch [[on which two young women were buoyed up as though upon an

anchored balloon.]] [3]

Vật duy nhất hoàn toàn bất động trong gian phòng là một chiếc đi văng

lớn [[có hai phụ nữ trẻ đang tựa lưng y như đang ngồi trong chiếc giỏ treo của

một khinh khí cầu bị néo vào cột.]] [4]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Mệnh đề Tương đương Nghĩa biểu hiện Quá trình quan hệ Quá trình hiện hữu

3.2.2.3. MĐQH tiếng Anh được dịch không tương đương sang tiếng Việt

Dựa vào số liệu thống kê trong Bảng 3.12, có thể thấy rằng kiểu không

tương đương trong chuyển dịch MĐQH từ tiếng Anh sang tiếng Việt cũng

chiếm một tỷ lệ đáng chú ý trong tổng số MĐQH thuộc phạm vi nghiên cứu.

Với nhiều đặc điểm đặc trưng về loại hình ngôn ngữ của tiếng Anh và tiếng

Việt, có nhiều điểm khác biệt về trật tự từ, cấu trúc cú pháp, v.v. trong diễn

đạt thông tin. Đồng thời, cũng có thể do tư duy xử lý, tiếp nhận thông tin của

người bản ngữ tiếng Anh và người Việt không thực sự tương đồng nên cấu

tạo câu, mệnh đề và cụm từ cũng có thể có sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ với

thông tin trọng tâm khác nhau. Điều này có thể lý giải cho tần suất tương đối

phổ biến của hiện tượng không tương đương trong chuyển dịch MĐQH tiếng

Anh sang tiếng Việt, đặc biệt là vẫn chưa có quan điểm nào khẳng định chắc

chắn về sự tồn tại rõ ràng của MĐQH trong tiếng Việt.

Ví dụ 145:

He felt many things, something in particular that excited him and

disturbed him for reasons [[which he could not give.]] [5]

145

Anh ta cảm nhận được nhiều điều, điều gì đó cụ thể khiến anh hào hứng

và bối rối vì những lý do [[không thể nêu ra.]] [6]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Động ngữ Không tương

đương Nghĩa biểu hiện Quá trình vật chất Quá trình phát ngôn

Ví dụ 146:

So off they strolled down the garden in the usual direction, past the

tennis lawn, past the pampas grass, to that break in the thick hedge, guarded

by red hot pokers like brasiers of clear burning coal, [[between which the blue

waters of the bay looked bluer than ever.]] [5]

Vậy nên bọn họ rảo bước dọc theo khu vườn như thường lệ, băng qua

sân quần vợt, băng qua cánh đồng hoang, đi qua bờ giậu dày, được lùm hoa

loa kèn đuốc trông như đống nồi chứa đầy than đỏ bảo vệ, và [[giữa cảnh ấy

là làn nước xanh của con vịnh, xanh hơn bao giờ hết.]] [6]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Tính ngữ Không tương Nghĩa biểu hiện Quá trình tinh Quá trình quan hệ đương thần

Ví dụ 147:

Apart from the habit of exaggeration [[which they had from her,]] and

from the implication (which was true) that she asked too many people to stay,

and had to lodge some in the town, … [5]

146

Ngoại trừ thói phóng khoáng [[mà lũ trẻ học được từ bà]] và từ cái ngụ ý

rằng bà mời quá nhiều người tới rồi phải để vài người vào thị trấn ở (cái này

thì đúng), … [6]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Mà + mệnh đề Không tương

đương Nghĩa biểu hiện Quá trình quan hệ Quá trình vật chất

Ví dụ 148:

The bar, [[where we glanced first,]] was crowded but Gatsby was not

there. [3]

Jordan và tôi [[trước hết đến quầy rượu]]. Quầy rượu đông kịt nhưng

không có Gatsby ở đấy. [4]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + mệnh đề Động ngữ Không tương Nghĩa biểu hiện Quá trình tinh Quá trình vật chất đương thần

Ví dụ 149:

‘She had a fight with a man [[who says he’s her husband’]] [3]

Bà ấy vừa mới cãi lộn với một ông [[tự nhận là chồng bà ấy.]] [4]

tương Tiếng Anh Tiếng Việt tương

Mức độ đương

Quan hệ đương Hình thức Động ngữ

Không tương đương trình phát Quá trình quan hệ

ĐTQH + động ngữ Nghĩa biểu hiện Quá ngôn

147

Ví dụ 150:

The shock [[that followed this declaration]] found voice in a sustained

“Ah-h-h!” as the door of the coupe swung slowly open. [3]

Nỗi kinh ngạc [[do lời tuyên bố ấy gây ra]] thể hiện bằng một tiếng “A-

à-à!” kéo dài trong khi cửa chiếc xe bị nạn từ từ mở ra. [4]

Quan hệ tương Tiếng Anh Tiếng Việt Mức độ tương

đương đương

Hình thức ĐTQH + động Mệnh đề

ngữ Không tương

đương Nghĩa biểu hiện Quá trình vật Quá trình hiện

chất hữu

Như vậy, các MĐQH tiếng Anh có thể được chuyển dịch sang tiếng Việt

ở các mức độ tương đương khác nhau tùy thuộc vào việc nó có đáp ứng được

các tiêu chí đánh giá, gồm hình thức và nghĩa biểu hiện hay không. Nếu đáp

ứng được đồng thời cả hai tiêu chí, mức độ tương đương chuyển dịch được

đánh giá ở mức độ cao, tức là MĐQH tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt đều

được diễn đạt theo cấu trúc tương đồng, có đầy đủ các thành phần và thể hiện

cùng nghĩa quá trình. Nếu chỉ một trong hai tiêu chí được đáp ứng, trường

hợp đó có thể đánh giá là có tương đương, hoặc về hình thức, hoặc về nghĩa

quá trình. Còn lại, nếu không đáp ứng được cả hai tiêu chí, đó gọi là hiện

tượng không tương đương khi MĐQH tiếng Anh được chuyển dịch sang tiếng

Việt bằng những cấu trúc diễn đạt khác với nguyên bản và đồng thời nghĩa

biểu hiện của văn bản nguồn và văn bản đích cũng không có sự tương đồng.

148

Tiểu kết Chương 3

Trên cơ sở các đặc điểm vê cấu trúc và ngữ nghĩa của MĐQH tiếng Anh

và các biểu thức tương ứng trong tiếng Việt diễn đạt cùng ý nghĩa, luận án đã

tiến hành khảo sát đối chiếu chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt.

Trên cơ sở hai tiêu chí hình thức và nghĩa biểu hiện, luận án thực hiện phân

tích quan hệ tương đương giữa MĐQH tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt của

các mệnh đề đó. Về hình thức, MĐQH định ngữ, có ĐTQH trong tiếng Anh

có thể được chuyển dịch thành các cấu trúc tiếng Việt tương ứng tùy thuộc

vào việc ĐTQH có được dịch hay được lược bỏ cũng như chức năng cú pháp

của ĐTQH, chủ ngữ, tân ngữ hay trạng ngữ của MĐQH. Theo đó, có thể chia

các cấu trúc tiếng Việt tương ứng với được sử dụng để chuyển dịch MĐQH

định ngữ tiếng Anh thành hai nhóm: có dịch và lược bỏ ĐTQH trong văn bản

gốc. Cụ thể là, nhóm cấu trúc không dịch ĐTQH chiếm tỷ lệ lớn hơn nhiều so

với nhóm còn lại. Trong đó, cấu trúc động ngữ thường được áp dụng để diễn

đạt MĐQH từ tiếng Anh sang tiếng Việt với tỷ lệ 34,9% trong tổng số MĐQH

được phân tích, đặc biệt phổ biến với MĐQH có ĐTQH giữ chức năng cú

pháp làm chủ ngữ của mệnh đề. Trong trường hợp này, cần chú ý đến việc sử

dụng các hư từ chỉ thời thể để truyền đạt chính xác thông tin được đánh dấu

về thời thể trong văn bản gốc. Cấu trúc tiếng Việt với hư từ “mà” cũng có tần

suất sử dụng khá phổ biến trong hoạt động chuyển dịch MĐQH tiếng Anh

sang tiếng Việt, khi ĐTQH đóng vai trò tân ngữ của MĐQH. Với tỷ lệ xấp xỉ

cấu trúc “mà” được sử dụng để chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng

Việt, mệnh đề độc lập cũng là một biểu thức tương ứng đặc biệt được áp dụng

bất kể MĐQH là hạn định hay không hạn định. Với hình thức này, MĐQH có

thể được nâng cấp lên ngang hàng với mệnh đề chính và được tạo dựng mối

quan hệ với mệnh đề chính thông qua các liên từ chỉ quan hệ đồng đẳng.

Ngoài ra, còn có trường hợp MĐQH được dịch thành một câu riêng biệt, đáp

ứng yêu cầu của phát ngôn cũng như tùy thuộc vào mức độ phức tạp, lượng

thông tin được thể hiện trong danh từ trung tâm, cũng như trọng tâm thông tin

được truyền đạt trong câu. Hơn nữa, MĐQH tiếng Anh cũng có thể được

149

chuyển dịch thành các cấu trúc Danh từ + động ngữ, Danh từ + mệnh đề và

một số cấu trúc khác trong tiếng Việt tùy thuộc vào chức năng cú pháp của

ĐTQH trong MĐQH là chủ ngữ, tân ngữ hay trạng ngữ và loại ĐTQH cụ thể

được sử dụng trong MĐQH đó.

Thêm vào đó, luận án cũng tiến hành khảo sát, đánh giá tương đương

chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng Việt dựa trên cơ sở nghĩa biểu hiện,

nghĩa quá trình theo quan điểm ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday.

Theo đó, các quá trình được biểu hiện trong MĐQH được chia thành sáu kiểu:

vật chất, tinh thần, quan hệ, hành vi, phát ngôn và hiện hữu. Qua việc khảo

sát, thống kê hiện tượng tương đương và không tương đương về nghĩa biểu

hiện của MĐQH tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt của nó, có thể nhận thấy

tương đương nghĩa quá trình vật chất chiếm tỷ lệ lớn nhất với số lượng 236

MĐQH trong tổng số 542 MĐQH trong ngữ liệu nghiên cứu, vượt xa các loại

tương đương khác. Theo sau là tương đương nghĩa quá trình tinh thần được

trình bày trong cả MĐQH tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt, tiếp đó là tương

đương nghĩa quá trình quan hệ với tần suất tương đối phổ biến, còn lại là các

kiểu tương đương nghĩa quá trình khác, với tỷ lệ khá khiêm tốn.

Dựa vào hai tiêu chí phân tích quan hệ tương đương chuyển dịch MĐQH

tiếng Anh sang tiếng Việt gồm tương đương về hình thức và tương đương về

nghĩa biểu hiện, chúng tôi thực hiện tổng kết các kiểu tương đương thông qua

việc đánh giá văn bản gốc và văn bản dịch có đáp ứng được hai tiêu chí nêu

trên không. Mức độ tương đương cao diễn ra trong trường hợp cả MĐQH

tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt đều đáp ứng cả hai tiêu chí: hình thức và

nghĩa quá trình, nghĩa là thông tin trong cả văn bản nguồn và văn bản đích

đều được diễn đạt bằng cấu trúc tương đồng và thể hiện cùng kiểu nghĩa quá

trình. Nếu văn bản nguồn và văn bản đích chỉ có thể đáp ứng một trong hai

tiêu chí thì có thể xác định là chúng là tương đương với nhau, trong đó, có thể

phân thành hai tiểu nhóm gồm: tương đương về hình thức và tương đương về

nghĩa biểu hiện. Theo khảo sát, thống kê, kiểu tương đương về nghĩa biểu

hiện chiếm tỷ lệ áp đảo với số lượng 319 MĐQH trong tổng số 542 MĐQH

150

trong ngữ liệu nghiên cứu, do dịch giả thường áp dụng các thủ pháp dịch đa

dạng để truyền tải thông tin đầy đủ, chính xác từ văn bản nguồn sang văn bản

đích mà không có những quy tắc khắt khe, giới hạn về hình thức diễn đạt.

Cuối cùng, hiện tượng không tương đương cũng diễn ra khi cả MĐQH trong

văn bản tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt không đáp ứng được tiêu chí nào.

Với tần suất tương đối trong số liệu thống kê, có thể thấy rằng, hiện tượng

không tương đương cũng là một vấn đề đáng chú ý trong chuyển dịch MĐQH

từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Lý do dẫn đến hiện tượng này có thể là sự khác

biệt về loại hình ngôn ngữ giữa tiếng Anh và tiếng Việt với nhiều điểm đặc

trưng về trật tự từ, cấu trúc câu, mệnh đề, cụm từ cũng như phong cách tư duy

xử lý, tiếp nhận thông tin của người bản ngữ tiếng Anh và tiếng Việt. Thêm

vào đó, còn có thể có sự ảnh hưởng từ thể loại văn bản khi văn bản văn học

thường ưu tiên những diễn đạt hình tượng để biểu đạt thông tin thay vì chỉ áp

dụng các quy tắc nghiêm ngặt cho mọi trường hợp.

151

KẾT LUẬN

Với kết cấu ba chương, luận án đã phác họa bức tranh tổng thể về

MĐQH trong tiếng Anh và các biểu thức tương ứng được sử dụng để diễn đạt

ý nghĩa của MĐQH sang tiếng Việt. Nhằm mục đích tìm hiểu các đặc điểm về

cấu trúc và ngữ nghĩa của MĐQH trong tiếng Anh được các tác giả bản ngữ

tiếng Anh sử dụng trong các tác phẩm văn học, từ đó đối chiếu với các cấu

trúc biểu đạt ý nghĩa tương ứng trong tiếng Việt của các dịch giả người Việt,

luận án đã khảo sát 542 câu chứa MĐQH định ngữ, có ĐTQH trong tiếng

Anh và 542 câu tiếng Việt được dịch từ tiếng Anh. Để thực hiện các mục đích

nghiên cứu, luận án đã sử dụng cơ sở lý thuyết gồm lý thuyết về MĐQH của

Quirk (1986); lý thuyết về ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday (2004);

Thang tiếp cận cụm danh từ của Keenan & Comrie (1977); Lý thuyết về so

sánh đối chiếu của Bùi Mạnh Hùng (2008) và Lý thuyết về dịch thuật của

Nguyễn Hồng Cổn (2001).

1. Luận án đã tổng thuật được một cách khá bao quát về tình hình nghiên

cứu MĐQH tiếng Anh và các cấu trúc tương ứng trong tiếng Việt cũng như

những vấn đề lý luận cơ bản về MĐQH trong tiếng Anh. Trên cơ sở tiếp thu

có chọn lọc và phê phán, luận án đã có một số điều chỉnh, bổ sung cần thiết và

lấy đó làm cơ sở để trình bày quan điểm nghiên cứu nhằm cung cấp một

khung lý thuyết tương đối hợp lý để nghiên cứu MĐQH tiếng Anh và các

biểu thức tương ứng trong tiếng Việt.

2. Luận án đã tập trung giải quyết một số nội dung chính như: đi sâu tìm

hiểu các đặc điểm của MĐQH từ góc độ cấu trúc và ngữ nghĩa, trình bày và

giải thích tần suất sử dụng của các loại MĐQH trong tiếng Anh cũng như liên

hệ với các phương thức biểu đạt ý nghĩa tương ứng trong tiếng Việt. Về mặt

cấu trúc, MĐQH tiếng Anh có thể được nhận diện nhờ đặc điểm hình thái cú

pháp, đặc điểm chức năng cú pháp và phương tiện liên kết. Về hình thái cú

pháp MĐQH định ngữ trong tiếng Anh đều đứng sau danh từ trung tâm mà nó

152

chi tiết hóa hoặc mở rộng. Xét về chức năng cú pháp, danh từ trung tâm trong

MĐQH có thể giữ vai trò chủ ngữ, tân ngữ trực tiếp, tân ngữ gián tiếp, bổ ngữ

gián tiếp, bổ ngữ sở hữu và tân ngữ so sánh được sắp xếp theo mức độ tiếp thu

từ cao xuống thấp. Như vậy, MĐQH chủ ngữ là loại MĐQH dễ tiếp thu nhất,

cũng như phổ biến nhất trong tiếng Anh và MĐQH tân ngữ so sánh không xuất

hiện trong ngữ liệu nghiên cứu do đây là loại MĐQH khó tiếp thu nhất nên

trong ngữ liệu văn bản văn học, tác giả sẽ ưu tiên sử dụng ngôn ngữ hình

tượng, cụ thể, dễ hiểu đối với độc giả của văn bản. Thêm vào đó, ĐTQH cũng

có thể giữ các chức năng khác nhau trong MĐQH, gồm: chủ ngữ, tân ngữ trực

tiếp, tân ngữ gián tiếp, bổ ngữ giới từ, tân ngữ sở hữu và tân ngữ so sánh. Dựa

trên phương tiện liên kết, MĐQH trong tiếng Anh được liên kết với mệnh đề

chính thông qua hệ thống các ĐTQH với chức năng thay thế cho danh từ trung

tâm mà nó bổ nghĩa và loại ĐTQH được sử dụng dựa vào hai đặc điểm: tính

động của danh từ trung tâm và chức năng cú pháp của danh từ trung tâm.

Về mặt chức năng, MĐQH tiếng Anh có thể thực hiện hai chức năng:

chức năng ngữ nghĩa và chức năng cú pháp.

Về đặc điểm ngữ nghĩa của MĐQH trong tiếng Anh, luận án xem xét

mối quan hệ ngữ nghĩa của MĐQH với các thành phần bên trong cụm danh từ

và với mệnh đề chính. Đặc điểm ngữ nghĩa của MĐQH được thể hiện bằng

MĐQH hạn định và không hạn định. Theo đó, MĐQH hạn định giúp giới hạn

quy chiếu của tiền ngữ và cung cấp thông tin quan trọng nhằm chi tiết hóa

tiền ngữ, còn MĐQH không hạn định bổ sung, giải thích thêm cho tiền ngữ.

Xét quan hệ ngữ nghĩa giữa danh từ trung tâm và MĐQH trong cụm danh từ,

luận án xác định quy chiếu của danh từ trung tâm với MĐQH không hạn định

và MĐQH hạn định. Trong đó, danh từ trung tâm trong MĐQH không hạn

định có quy chiếu đã được xác định hoặc ngầm hiểu với cả người đưa ra

thông tin và người tiếp nhận thông tin; còn với MĐQH hạn định, danh từ

trung tâm có thể có quy chiếu hoặc không có quy chiếu vì chức năng chính

153

của MĐQH hạn định là cung cấp thông tin cần thiết, giúp xác định ý nghĩa

được danh từ trung tâm thể hiện. Xét quan hệ logic-ngữ nghĩa liên mệnh đề,

MĐQH có quan hệ chi tiết hóa phụ thuộc, cung cấp thông tin cụ thể, chi tiết

về mệnh đề chính, chủ yếu là dưới hình thức MĐQH không hạn định.

Đồng thời, luận án cũng đã thực hiện phân tích đối chiếu chuyển dịch

MĐQH tiếng Anh và các biểu thức tương ứng trong tiếng Việt theo mức độ

tương đương trên hai phương diện: hình thức và nghĩa biểu hiện. Về hình

thức, MĐQH tiếng Anh là hậu bổ tố trong cụm danh từ, đứng sau bổ nghĩa

cho danh từ, được đối chiếu với các phương thức biểu đạt cùng ý nghĩa trong

tiếng Việt dựa trên ĐTQH với chức năng cú pháp cụ thể. Về nghĩa biểu hiện,

MĐQH tiếng Anh có thể thể hiện nghĩa quá trình vật chất, tinh thần, quan hệ,

hành vi, phát ngôn và hiện hữu, và các biểu thức dịch tiếng Việt tương ứng

cũng thể hiện những kiểu quá trình tương tự như vậy. Dựa vào khả năng đáp

ứng hai tiêu chí đánh giá mức độ tương đương, gồm: hình thức và nghĩa biểu

hiện, có thấy rằng mức độ tương đương với một trong hai tiêu chí được đáp

ứng là hiện tượng phổ biến nhất trong chuyển dịch MĐQH định ngữ, có

ĐTQH từ tiếng Anh sang tiếng Việt với kiểu tương đương về nghĩa biểu

chiếm tỷ lệ chênh lệch rất lớn so với các kiểu tương đương còn lại. Ngoài ra,

cũng xuất hiện hiện tượng không tương đương trong chuyển dịch MĐQH

tiếng Anh sang các biểu thức diễn đạt tiếng Việt do những khác biệt về loại

hình ngôn ngữ, các quy tắc ngữ pháp đặc trưng, tư duy xử lý, tiếp nhận thông

tin, v.v... giữa tiếng Anh và tiếng Việt.

So với kết quả của các nghiên cứu trước đây đã được tổng quan trong

Chương 1, luận án đã kết hợp các quan điểm nghiên cứu khác nhau về

MĐQH với sự phân chia hệ thống, hợp lý và đa chiều hơn. Luận án đã trình

bày cụ thể về tần suất sử dụng của các loại MĐQH khác nhau trên cứ liệu

nghiên cứu là văn bản văn học, từ đó có thể nhận thấy mức độ phổ biến và

mục đích sử dụng của từng loại MĐQH trong thể loại văn bản đó. Luận án

154

cũng đã tổng kết được một cách bao quát các cấu trúc biểu đạt trong tiếng

Việt tương ứng với từng loại MĐQH trong tiếng Anh.

Dựa vào các kết quả nghiên cứu, có thể rút ra một số kết luận về đặc

điểm của MĐQH tiếng Anh và các phương thức biểu đạt tương ứng của nó

trong tiếng Việt:

Có thể thấy MĐQH được sử dụng rất phổ biến trong văn học, được

chứng minh bằng số lượng MĐQH xuất hiện trong ba tác phẩm văn học thuộc

ngữ liệu nghiên cứu. Tất cả các MĐQH tiếng Anh giữ chức năng định ngữ, có

sử dụng ĐTQH trong khuôn khổ nghiên cứu của luận án đều được dịch sang

tiếng Việt thông qua các phương thức biểu đạt khác nhau, tùy thuộc vào loại

ĐTQH, tính hạn định của MĐQH, chức năng cú pháp và phạm vi nghĩa của

danh từ trung tâm được MĐQH bổ nghĩa.

Trong cả hai ngôn ngữ, MĐQH đều giữ vị trí đứng sau danh từ trung tâm

mà nó bổ nghĩa với chức năng chi tiết hóa cho danh từ trung tâm, giúp cho

diễn ngôn văn học trở nên sáng tạo, giàu hình tượng, miêu tả chi tiết hơn để

hấp dẫn độc giả. Việc sử dụng số lượng lớn MĐQH cùng với việc kết hợp các

loại MĐQH đa dạng trong cùng một diễn ngôn chỉ có thể xuất hiện trong các

tác phẩm văn học hơn là trong ngôn ngữ đời thường vì trên thực tế, các diễn

ngôn đời thường thường đơn giản, ngắn gọn hơn, với mục tiêu chính là truyền

đạt được thông tin rõ ràng, xúc tích đến người tiếp nhận thông qua các

phương thức biểu đạt đơn giản.

Do trong tiếng Việt không có cấu trúc tương đương hoàn toàn với cấu

trúc MĐQH tiếng Anh nên việc chuyển dịch MĐQH tiếng Anh sang tiếng

Việt được thực hiện thông qua các biểu thức có cùng chức năng để truyền tải

cùng nội dung với MĐQH. Chức năng được nói đến ở đây bao hàm cả chức

năng cú pháp và chức năng ngữ nghĩa.

Luận án lựa chọn tìm hiểu về MĐQH tiếng Anh giữ chức năng định ngữ

theo sự có mặt của ĐTQH vì những lý do như đã được đề cập trong Chương

155

1. Tuy nhiên, MĐQH còn có thể được nhận diện dựa vào các dấu hiệu khác

ngoài ĐTQH, nên cũng có thể thực hiện thêm các nghiên cứu về các loại

MĐQH khác.

Luận án chỉ giới hạn phạm vi khối ngữ liệu nghiên cứu trong ba tác

phẩm văn học nổi tiếng và bản dịch tiếng Việt của nó nên kết quả nghiên cứu

có thể chưa mang tính đại diện hoàn toàn. Nghiên cứu sau này có thể dựa vào

khối ngữ liệu lớn hơn, bao quát hơn để đưa ra được những tổng kết mang tính

phổ quát hơn.

Trong khuôn khổ luận án, MĐQH được phân tích và đối chiếu với tiếng

Việt trong ngữ liệu là diễn ngôn văn học, trong khi đó, MĐQH là một hiện

tượng ngữ pháp khá phổ biến trong tiếng Anh. Vì vậy, nghiên cứu tương lai

có thể tìm hiểu về đặc điểm của MĐQH tiếng Anh trong các loại ngữ liệu

khác, như văn bản khoa học, hành chính, v.v.

Nghiên cứu về MĐQH trong các ngôn ngữ nói chung và trong tiếng

Anh nói riêng vẫn luôn là đề tài nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà

nghiên cứu. Do hạn chế về thời gian, khả năng nghiên cứu, cũng như một

số bình luận mang tính chủ quan, luận án vẫn còn nhiều thiếu sót. Do đó,

chúng tôi mong muốn nhận được những góp ý về mặt khoa học của các nhà

nghiên cứu để nâng cao hơn nữa chất lượng của luận án. Chúng tôi xin

chân thành cảm ơn!

156

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Thị Xuân Phương (2022), Nghiên cứu đặc điểm mệnh đề

quan hệ tiếng Anh và các cấu trúc tương đương trong tiếng Việt, Đề tài

NCKH cấp trường, Trường Đại học Thương mại.

2. Nguyễn Thị Xuân Phương (2022), Về chuyển dịch mệnh đề quan hệ

từ tiếng Anh sang tiếng Việt, Tạp chí Dạy và học ngày nay, Số kì 1-1/2022.

3. Nguyen Thi Xuan Phuong (2023), Syntactic Functions of Relative

Clauses in English, IOSR Journal of Humanities and Social Science (IOSR-

JHSS) Volume 28, Issue 4, Series 5 (April, 2023) 41-47.

4. Nguyen Thi Xuan Phuong (2023), Semantic Characteristics of

Relative Clauses in English, Asian Journal of Social Sciences, Arts and

Humanities, Vol. 11, No. 1, 2023, 1-7.

157

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tiếng Việt

1. Diệp Quang Ban (2004). Ngữ pháp Việt Nam - Phần câu. NXB Giáo dục.

2. Diệp Quang Ban. (2005). Ngữ pháp tiếng Việt. NXB Giáo dục.

3. Hà Thành Chung (2007). Cú phân từ định ngữ, trạng ngữ tiếng Anh và các

kết cấu tương đương trong tiếng Việt. Luận án TS, Trường Đại học Khoa

học xã hội và Nhân văn.

4. Nguyễn Hồng Cổn (2001). Về vấn đề tương đương trong dịch thuật. Tạp

chí Ngôn ngữ, 11.

5. Cao Xuân Hạo (1998). Ngữ pháp chức năng tiếng Việt: quyển I: Câu trong

tiếng Việt. NXB Giáo dục.

6. Cao Xuân Hạo (2004). Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng. NXB Giáo

dục.

7. Nguyễn Văn Hiệp (2009). Cú pháp tiếng Việt. NXB Giáo dục Việt Nam.

8. Nguyễn Thị Hoa (2017). A study on 11th form students’ acquisition of

English relative clauses. Luận văn ThS, Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN.

9. Bùi Mạnh Hùng (2008). Ngôn ngữ học đối chiếu. NXB Khoa học xã hội.

10. Phạm Xuân Mai (2002). Câu phức phụ thuộc định ngữ trong tiếng Nga và

những hiện tượng trong tiếng Việt. Luận án TS, Đại học Khoa học xã hội

và Nhân văn.

11. Đường Công Minh (1996). Nghiên cứu đại từ quan hệ trong câu tiếng

Pháp và các hình thức biểu đạt ý nghĩa tương đương trong tiếng Việt.

Luận án TS, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

12. Nguyễn Thủy Minh (2002). Một số cách dịch các mệnh đề phụ quan hệ tiếng

Anh sang tiếng Việt. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ, XVIII (2).

13. Lê Quang Thiêm (1989). So sánh đối chiếu các ngôn ngữ. NXB Đại học

và trung học chuyên nghiệp.

158

14. Lê Quang Thiêm (2022). Nghiên cứu đối chiếu liên ngôn ngữ & văn hoá

với phát triển. NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

15. Đặng Thị Toàn Thư (2000). Đại từ quan hệ trong tiếng Anh và các cấu

trúc tương đương trong tiếng Việt. Luận văn ThS, Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn.

16. Lê Hùng Tiến (2010). Tương đương dịch thuật và tương đương trong dịch

Anh – Việt. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ, 26.

17. Nguyễn Lân Trung (2001). Phân tích đối chiếu mệnh đề phụ trong câu tiếng

Pháp và tiếng Việt. Luận án TS, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

18. Hoàng Văn Vân (2005). Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt, mô tả theo

quan điểm ngữ pháp chức năng hệ thống. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.

B. Tiếng Anh

19. Andrews, G. (2006). Relational processing and working memory capacity

in comprehension of relative clause sentences. Memory & Cognition,

34(6), 1325-1340.

20. Anshori, A. (2016). An Analysis of Embedded Clauses in Sidney

Sheldon's NOTHING LASTS FOREVER and Their Translation in

Indonesian. Journal of English and Education, 1(1), 55-67.

21. Arseneau, R. v. (2018). Improving the mastery of relative clause in French

l1 secondary classes: The effects of an intervention based on verbal

interactions on written syntactic structures. L1-Educational Studies in

Language and Literature, 18, 1-29.

22. Biber, D. (1988). Variation across speech and writing. Cambridge:

Cambridge University Press.

23. Biber, D., Stig, J., Leech, G., Conrad, S., & Finegan, E. (1999). Longman

Grammar of Spoken and Written English. Harlow: Longman.

24. Burton-Roberts, N. (2011). Analysing sentences: An introduction to

English Syntax (3rd ed.). Edinburgh: Pearson Education.

159

25. Caponigro, I., & Falaus, A. (2017). Free Choice, Free Relative Clauses in

Italian and Romanian. Natural Language and Linguistic Theory, 1, 200-221.

26. Carter, R., & Carthy, M. (2006). Cambridge Grammar of English.

Cambridge: Cambridge University Press.

27. Catford, J. (1967). A linguistic theory of translation. Oxford: Oxford

University Press.

28. Chomsky, A. N. (1957). Syntactic Structures. Gravenhage: Mouton & Co.,

N.V.

29. Chomsky, A. N. (1977). On Wh-movement. In T. &. P.Cullicover (Ed.),

Formal Syntax (pp. 71-132). New York: New York Academic Press.

30. Comrie, B. (1989). Language Universals and Linguistic Typology: Syntax

and Morpology. Chicago: The University of Chicago Press.

31. Comrie, B. (1998). Rethinking the Typology of Relative Clauses.

Language Design, 1, 59-86.

32. Crystal, D. (2003). A Dictionary of linguistics and phonetics (5th ed.).

USA, UK, Australia: Blackwell Publishing.

33. Culy, C. (1990). The Syntax and Semantics of Internally Headed Relative

Clauses. Luận án TS, Stanford University.

34. DeCapua, A. (2017). Grammar for teachers: A guide to American English

for native and non-native speakers (2nd ed.). New York: Springer.

35. Downing, B. (1978). Some Universals of Relative Clause Structure. In

J.Greenberg (Ed.), Universals of Human Language (Vols. 4, Syntax, pp.

375-418). California: Stanford University Press.

36. Finegan, E. (2000). Language: Its Structure and Use (4th ed.). Australia:

Thomas Wadsworth.

37. Givón, T. (1984). Syntax, a Functional-Typological Approach.

Amsterdam: John Benjamins.

160

38. Gracia, N. (2021). Contrastive Linguistics and Translation Studies

Interconnected: The Corpus-based Approach. Linguistics and Translation

Studies - Translation Studies and Linguistics, 1, 393-406.

39. Greenbaum, S., & Quirk, R. (1990). A Student's Grammar of the English

Language. London: Longman Group Limited.

40. Grosu, A., & Hoshi, K. (2016). On the unified analysis of three types of

relative clause construction in Japanese, and on the “salient reading” of the

internally headed type. A reply to Erlewine & Gould . Glossa: a journal of

general linguistics, 3(1), 1-16.

41. Halliday, M. (2014). Introduction to Functional Grammar (4th ed.).

London: Routledge.

42. Halliday, M., Angus, M., & Strevens, P. (1964). The Linguistic Sciences

and Language Teaching. London: Longman.

43. Herrmann, T. (2002). Relative clauses in dialects of English: A typological

approach. Luận án TS, Albert Ludwigs Universitat.

44. Herrmann, T. (2005). Relative clauses in English dialects of the British Isles.

In Volume 1 Agreement, Gender, Relative Clauses: Agreement, Gender,

Relative Clauses (pp. 21-124). Berlin, New York: Mouton de Gruyter.

45. Huddleston, R., & Pullum, G. (2002). The Cambridge Grammar of the

English Language. Cambridge: Cambridge University Press.

46. Humphreys, G. v. (2016). Similarity-based competition in relative clause

production and comprehension. Journal of Memory and Language, 200-221.

47. Jacobs, R., & Rosenbaum, S. (1968). English transformation grammar.

Waltham, Massachusets: Ginn.

48. Jacobsson, B. (1963). On the use of that in nonrestrictive relative clauses.

Moderna Sprak, 57, 406-416.

49. Jakobson, R. (1959). On Linguistic Aspects of Translation. In On

Translation. Harvard University Press.

161

50. James, C. (1980). Contrastive analysis. London, New York: Longman.

51. Jespersen, O. (1954). A Modern English Grammar on Historical

Principles, Part V, Syntax (Vol. V). Copenhagen: Ejnar Munksgaard.

52. Kayne, R. (1994). The Antisymmetry of Syntax. MIT Press.

53. Keenan, E. (1985). Relative Clauses. In Language Typology and Syntactic

Description (Vol. II. Complex Constructions, pp. 141-170). Cambridge:

Cambridge University Press.

54. Keenan, E., & Comrie, B. (1977). Noun Phrase Accessibility and

Universal Grammar. Linguistic Inquiry, 8, 63-99.

55. Keyser, S. (1975). A partial history of the relative clause in English. In J.

Grimshaw (Ed.), Papers in the history and structure of English. University

of Massachusets Occasional Papers in Linguistics No 1 (pp. 1-33).

Amherst: University of Massachusetts.

56. Koller, W. (1990). Equivalence in translation theory, . Heidenberg: Quelle

Und Meyer.

57. Kroeger, P. (2005). Analyzying Grammar: An Introduction. Cambridge:

Cambridge University Press.

58. Krzeszowski, T. (1990). Contrasting languages: The scope of contrastive

linguistics. Berlin, New York: Mouton de Gruyter.

59. Kuno, S. (1974). The position of relative clauses and conjunction.

Linguistic Inquiry, 5, 117-136.

60. Kusdianty, S. R. (2016). The analysis of students’ error using relative

clause. Indonesian EFL Journal, 2(1).

61. Lan, T. Đ. (2011). Semantic and syntactic problems in using relative

clauses in English of Yendinh high school students. Luận văn ThS, Đại học

Ngoại ngữ, ĐHQGHN.

62. Lass, R. (1987). The Shape of English: Structure and History. London:

L.M.Dent and Sons.

162

63. Leenakitti, N., & Pongpairoj, N. (2019). A Study of Translation of

Relative Clauses from English into Thai. PASAA, 58, 95-130.

64. Lehmann, C. (1984). Der Relativsatz: Typologie seiner Strukturen,

Theorie seiner Funktionen, Kompendium seiner Grammatik. Tubingen:

Gunter Narr.

65. Lehmann, C. (1988). Towards a typology of clause linkage. In Clause

combining in grammar and discourse (pp. 181-225). John Benjamins.

66. Lesley, J. (2000). Discovering Languages: The Structure of Modern

English. Polgrave: Macmillan.

67. Levy, R., Fedorenko, E., & Gibson, E. (2013). The Syntactic Complexity

of Russian Relative Clauses. J Mem Lang, 69(4), 461-496.

68. Liversedge, S. (2002). The influence of only on syntactic processing of

“long” relative clause sentences. The Quarterly Journal of Experimental

Psychology, 55A(1), 225-240.

69. Lucas, M. (1974). The surface structure of relative clauses. Linguistics: An

International Review, 139, 83-120.

70. Lyons, J. (2009). Language and Linguistics: An Introduction. Cambridge:

Cambridge University Press.

71. Maia, M. v. (2007). Early and late preferences in relative clause

attachment in Portuguese and Spanish. Journal of Portuguese Linguistics,

5/6, 227-250.

72. Marefat, H. v. (2015). Semantic Priming Effect on Relative Clause

Attachment Ambiguity Resolution in L2. Applied Research on English

Language, 4(2).

73. Master, P. (2002). Relative clause reduction in technical research articles.

In E. &. (Eds.) (Ed.), New perspectives on grammar teaching second and

foreign language classrooms (pp. 201-231). Mahwah, NJ: Lawrance

Erlbaum Associates.

163

74. McArthur, T. (1992). The Oxford Companion to the English Language.

Oxford: Oxford University Press.

75. Moravcsic, E. (2006). An Introduction to Syntax Fundamentals of

Syntactic Analysis. London: Continuum.

76. Munday, J. (2001). Introducing translation studies: Theories and

applications. London: Routledge.

77. Newmark, P. (1981). Approaches to translation. Oxford: Pergamon Press.

78. Newmark, P. (1988). A textbook of translation. Prentice Hall International.

79. Nida, E. (1964). Towards a Science of Translating: With Special

Reference to Principles and Procedures Involved in Bible Translating.

Brill: Leiden.

80. Nida, E., & Taber, C. (1982). The Theory and Practice Translation. Brill:

Leiden.

81. Opega, Y. (2005). English Grammar and Usage. Makurdi: Aboki.

82. Otgonsuren, T. (2017). Case Markers in Mongolian: A Means for

Encoding Null Constituents in Noun Phrase and Relative Clause.

Advances in Language and Literary Studies, 8(1).

83. Ozeki, H., & Shirai, Y. (2007). Does The Noun Phrase Accessibility

Hierarchy Predict The Difficulty Order In The Acquisition Of Japanese

Relative Clauses? Studies in Second Language Acquisition, 29(2), 169-196.

84. Quirk, R., & Greenbaum, S. (1973). Comprehensive Grammar of English.

London: Longman.

85. Quirk, R., & Greenbaum, S. (1986). A University Grammar of English.

Esset: Longman.

86. Quirk, R., Greenbaum, S., Leech, G., & Svartvik, J. (1972). A Grammar of

Contemporary English. UK: Longman.

87. Rasekh-Mahand, M. v. (2016). A corpus-based analysis of relative clause

extraposition in Persian. Ampersand, 3, 21-31.

164

88. Salim, A.-G. A. (2016). Problems of Translating English Relative Clauses

into Arabic Among EFL Sudanese Universities. Luận án TS, Sudan

University of Science and Technology.

89. Scheurweghs, G. (1961). Present-Day English Syntax. London.

90. Shin, K.-S. (2003). Characteristics of the Relative Clause in Korean and

the Problems Second Language Learners Experience in Acquiring the

Relative Clause. Luận án TS, Curtin University of Technology.

91. Slim, M. (2004). Explore Good English Grammar. London: A.D.R

Limited.

92. Smith, C. (1964). Determiners and relative clauses in a generative

grammar of English. Language, 40, 37-52.

93. Smits, R. (1988). The Relative and Cleft Constructions of the Germanic

and Romance. Luận án TS, Katholieke Universiteit Brabant. Foris,

Dordrecht.

94. Szterman, R., & Friedmann, N. (2014). Relative clause reading in hearing

impairment: different profiles of syntactic impairment. Frontiers in

Psychology, 5.

95. Trask, L. (1993). A Dictionary of Grammatical Terms in Linguistics.

London: Routledge.

96. Troyer, M. v. (2011). Storage and computation in syntax: Evidence from

relative clause priming. Proceedings of the Third Annual Conference of

the Cognitive Science Society.

97. Umaru, J. Y., & John, M. O. (2014). Studies in Agatu Adverb Clauses.

Journal of Education and Leadership Development, 6(1), 55-74.

98. Umaru, J., & John, M. (2014). Studies in Agatu Adverb Clauses. Journal

of Education and Leadership Development, 6(1), 55-74.

99. Vries, M. (2002). The Syntax of Relativization. The Netherlands: LOT.

165

100. Willem, M. v. (2008). Discourse structure and relative clause

processing. Memory & Cognition, 36(1), 170-181.

101. Willem, M., Wietske, V., & Schriefers, H. (2008). Discourse structure

and relative clause processing. Memory & Cognition, 36 (1), 170-181.

102. Wu, F. (2009). Factors Affecting Relative Clause Processing in

Mandarin. Luận án TS, University of Southern California.

103. Yamaguchi, Y., & Kawaguchi, S. (2016). Development of relative

clause constructions in English L2. International Journal of Applied

Linguistics and English Literature, 5(1), 85-93.

104. Yule, G. (1998). Explaining English Grammar. Oxford: Oxford

University Press.

105. Yun, J. v. (2015). Uncertainty in processing relative clauses across East

Asian languages. East Asian Linguist, 24, 113-148.

C. Ngữ liệu nghiên cứu

1. Harper, L. (2010), To Kill a Mocking Bird, Grand Central Publishing,

New York.

2. Harper, L., Huỳnh Kim Oanh & Phạm Viêm Phương dịch (2008), Giết con

chim nhại, NXB Nhã Nam.

3. Scott Fitzgerald, F. (2021), The Great Gatsby, Clydesdale.

4. Scott Fitzgerald, F., Hoàng Cường dịch (2020), Gatsby vĩ đại, NXB Văn

học.

5. Woolf, V. (1981), To the Lighthouse, Harvest Books.

6. Woolf, V., Nguyễn Vân Hà dịch (2016), Đến ngọn hải đăng, NXB Văn

học.

166

TT

PHỤ LỤC

Tiếng Anh

Tiếng Việt

TT

1

543

Tôi vẫn cho rằng tất cả là do nhà Ewell, nhưng Jem, lớn tôi bốn tuổi, lại bảo chuyện này đã bắt đầu từ trước đó rất lâu

2

544

Ở Anh, Simon tức tối trước việc bách hại những người tự xưng là tín đồ phái Giám lý dưới tay các đạo hữu cấp tiến hơn của họ và vì Simon cũng nhận mình là tín đồ Giám Lý nên ông ta tìm đường vượt Đại Tây Dương đến Philadelphia, sau đó đến Jamaica, rồi đến Mobile, và lên đến Saint Stephens.

3

545 Chị Alexandra của bố là người họ Finch vẫn ở lại Landing

4

546

I maintain that the Ewells started it all, but Jem, who was four years my senior, said it started long before that. In England, Simon was irritated by the persecution of those who called themselves Methodists at the hands of their more liberal brethren, and as Simon called himself a Methodist, he worked his way across the Atlantic to Philadelphia, thence to Jamaica, thence to Mobile, and up the Saint Stephens. Their sister Alexandra was the Finch who remained at the Landing she married a taciturn man who spent most of his time lying in a hammock by the river wondering if his trot-lines were full.

bà cưới một ông chồng ít nói, người dành phần lớn thời gian nằm trên chiếc võng cạnh bờ sông mà tự hỏi những dây câu của mình đã dính cá hết chưa.

5

She gave the money to Dill, who went to the picture show twenty times on it

547 Bà cho Dill số tiền đó, nhờ thế nó đi xem phim được hai mươi lần.

6

548

7

549

people’s chickens and household pets were found mutilated; although the culprit was Crazy Addie, who eventually drowned himself in Barker’s Eddy, people still looked at the Radley Place, unwilling to discard their initial suspicions. As he lived in Mobile, he could not inform on me to school authorities, but he managed to tell everything he knew to Aunt Alexandra, who in turn unburdened herself to Atticus, who either forgot it or gave me hell, whichever struck his fancy.

người ta tìm thấy gà và những thú cưng trong nhà bị chặt khúc; dù thủ phạm là Addie điên, tên này sau cũng đã tự trầm ở vũng xoáy Barker, nhưng người ta vẫn nhìn vào nhà Radley, không hề muốn dẹp bỏ những nghi ngờ ban đầu của họ. Vì nó sống ở Mobile, nó không thể thông tin về tôi cho ban giám hiệu trường, nhưng tìm cách nói mọi thứ nó biết cho bác Alexandra, rồi bà lại kể hết cho bố Atticus nghe, ông hoặc quên nó hoặc trách mắng tôi, tùy theo cái gì đánh vào trí tưởng tượng của ông.

8

550

Atticus kept us in fits that evening, gravely reading columns of print about a man who sat on a flagpole for no discernible reason, which was reason enough for Jem to spend the following Saturday aloft in the treehouse.

"Atticus đã giữ chúng tôi lại trong buổi tối hôm đó, chăm chú đọc các cột báo về một người đàn ông người ngồi trên cột cờ mà không có lý do rõ ràng, đó là lý do đủ cho Jem để dành ngày thứ Bảy tuần sau trên mái nhà trên cây. "

9

551

10

552

vậy Jem nhận hầu hết thông tin từ cô Stephanie Crawford, một hàng xóm gắt gỏng, người nói mình biết toàn bộ câu chuyện này. Em nào về nhà ăn cơm trưa giơ tay lên?” Cô Caroline nói, cắt ngang cơn bực bội mới mẻ của tôi đối với Calpurnia.

11

553 Em nào mang bữa trưa theo để lên bàn.

12

554

So Jem received most of his information from Miss Stephanie Crawford, a neighborhood scold, who said she knew the whole thing. “Everybody who goes home to lunch hold up your hands,” said Miss Caroline, breaking into my new grudge against Calpurnia. “Everybody who brings his lunch put it on top of his desk.” “Anybody who went up to the house once oughta not to still run every time he passes it,” I said to the clouds above.

“Bất cứ ai từng đi tới nhà đó hẳn không phải chạy mỗi khi đi ngang qua đó,” tôi nói với đám mây trên trời.

13 Atticus summoned Calpurnia, who returned bearing the syrup pitcher.

555 Bố Atticus gọi bà Calpurnia, bà quay lại mang theo bình xi rô.

I

14

556

“Có một số người ăn không giống nhà mình,” bà thì thầm mộtcách gay gắt, “nhưng đâu có ai yêu cầu cô rầy rà họ tại bàn ăn khi họ không giống cô đâu.

15

“There’s some folks who don’t eat like us,” she whispered fiercely, “but you ain’t called on to contradict ‘em at the table when they don’t.

557

Little Chuck Little was another member of the population who didn’t know where his next meal was coming from, but he was a born gentleman.

Little Chuck là một thành viên khác trong lớp không biết bữa ăn kế tiếp của nó từ đâu tới, nhưng nó là một quý ông bẩm sinh.

16

558

17

559

18

560

19

561

Bố không biết có chủ đất nào quanh đây chịu giao cho bọn trẻ bất cứ thú săn nào mà cha chúng có thể bắn được bố Atticus và chú tôi, người học tại nhà, biết mọi thứ - ít ra, những gì người này không biết thì người kia biết. Suốt cả năm, tan học trước Jem ba mươi phút, anh còn phải ở lại đến ba giờ, bao giờ tôi cũng chạy ngang nhà Radley thật nhanh, không dừng lại cho đến khi an toàn tới được hàng hiên nhà tôi. Cecil Jacobs, sống ở cuối phố chúng tôi, cạnh bưu điện, mỗi ngày đi bộ đường vòng hơn một cây số đến trường để tránh nhà Radley và nhà bà Herry Lafayette Dubose.

20

562

Bà Dubose sống cách nhà tôi hai căn; dư luận hàng xóm đều cho rằng bà Dubose là bà già xấu xa nhất trên đời.

21

563

I don’t know of any landowner around here who begrudges those children any game their father can hit.” Atticus and my uncle, who went to school at home, knew everything—at least, what one didn’t know the other did. As the year passed, released from school thirty minutes before Jem, who had to stay until three o’clock, I ran by the Radley Place as fast as I could, not stopping until I reached the safety of our front porch. Cecil Jacobs, who lived at the far end of our street next door to the post office, walked a total of one mile per school day to avoid the Radley Place and old Mrs.Henry Lafayette Dubose. Mrs. Dubose lived two doors up the street from us; neighborhood opinion was unanimous that Mrs. Dubose was the meanest old woman who ever lived. I was tired of playing Tom Rover, who suddenly lost his memory in the middle of a picture show and was out of the script until the end, when he was found in Alaska.

22

564

“A Hot Steam’s somebody who can’t get to heaven, just wallows around on lonesome roads an‘ if you walk through him, when you die you’ll be one too, an’ you’ll go around at night suckin‘ people’s breath-”

Tôi chán đóng vai Tom Rover, người bất chợt mất trí nhớ giữa một buổi chiếu phim và biến khỏi kịch bản cho đến đoạn cuối, khi người ta tìm thấy nó ở Alaska. Hồn nóng là một người không lên thiên đàng được, chỉ mải mê loanh quanh trên những con đường vắng vẻ và nếu mày đi xuyên qua hắn, thì chết mày cũng thành một thứ như vậy, rồi mày sẽ lang thang suốt đêm hút hơi thở của người khác

23

565 Tôi miễn cưỡng đóng vai đủ loại phụ nữ có trong kịch bản.

24

566

25

567

I reluctantly played assorted ladies who entered the script. The three of us were the boys who got into trouble; I was the probate judge, for a change; Dill led Jem away and crammed him beneath the steps, poking him with the brushbroom. Jem would reappear as needed in the shapes of the sheriff, assorted townsfolk, and Miss Stephanie Crawford, who had more to say about the Radleys than anybody in Maycomb.

26

568

She was a widow, a chameleon lady who worked in her flower beds in an old straw hat and men’s coveralls, but after her five o’clock bath she would appear on the porch and reign over the street in magisterial beauty.

Bộ ba chúng tôi là những đứa trẻ vướng vào rắc rối; tôi là quan tòa xác định di chúc, để thay đổi không khí; Dill dẫn Jem đi và ấn anh ngồi xuống bên dưới những bậc thềm, lấy chổi thọc anh. Jem trở lại khi cần trong bộ dạng cảnh sát trưởng, dân thị trấn các loại, và trong vai cô Stephanie Crawford, người có nhiều chuyện để kể về nhà Radley hơn bất cứ ai ở Maycomb. Cô là một quả phụ, một phụ nữ với bề ngoài thường xuyên thay đổi, người chăm sóc những luống hoa trong chiếc mũ rơm cũ và bộ đồ lao động của đàn ông, nhưng sau buổi tắm lúc năm giờ cô sẽ xuất hiện ở cổng và thống trị cả con phố trong vẻ đẹp đầy uy quyền.

II

Jem nhìn lên lề đường chỗ Dill, nó gật đầu.

27

569

28

570

Tôi trở lại và nhìn quanh cung đường vắng ngắt. Thỉnh thoảng tôi nhìn về phía Jem, đang kiên nhẫn tìm cách đặt lá thứ lên bệ cửa sổ.

29

571

30

572

31

573

32

Jem looked up at Atticus, who shook his head. “She’s just fussing,” he said.

Jem looked up the sidewalk to Dill, who nodded. I returned and gazed around the curve at the empty road. Occasionally I looked back at Jem, who was patiently trying to place the note on the window sill. We eased in beside Miss Maudie, who looked around. “Where were you all, didn’t you hear the commotion?” The following week the knot-hole yielded a tarnished medal. Jem showed it to Atticus, who said it was a spelling medal, that before we were born the Maycomb County schools had spelling contests and awarded medals to the winners. Jem asked Atticus if he remembered anybody who ever won one, and Atticus said no.

574

33

575

34

576

35

577

36

578

37

579

I went so far as to pay a nickel for the privilege of rubbing my head against the head of Miss Rachel’s cook’s son, who was afflicted with a tremendous ringworm. Long ago, in a burst of friendliness, Aunty and Uncle Jimmy produced a son named Henry, who left home as soon as was humanly possible, married, and produced Francis. He was one of the few men of science who never terrified me, probably because he never behaved like a doctor. When Uncle Jack caught me, he kept me laughing about a preacher who hated going to church so much that every day he stood at his gate in his dressing-gown, smoking a hookah and delivering five-minute sermons to any passers-by who desired spiritual comfort. they were from Atticus, who had written Uncle Jack to get them for us, and they were what we had asked for.

Chúng tôi chen vào cạnh cô Maudie, lúc đó đang nhìn quanh. “Mấy đứa ở đâu vậy, bộ không nghe thấy vụ lộn xộn này hả?” Tuần kế tiếp lỗ bọng đó chứa một huy chương xỉn màu. Jem đưa nó cho bố Atticus xem, ông nói đó là huy chương đánh vần, rằng trước khi tụi tôi ra đời các trường ở hạt Maycomb có những cuộc thi đánh vần và thưởng huy chương cho người thắng cuộc. Jem hỏi liệu bố Atticus có nhớ ai đã nhận được một cái không, bố Atticus nói không. Jem nhìn bố Atticus, đang đứng lắc đầu. “Cô ấy chỉ làm nhặng xị lên thôi,” ông nói. Tôi đã phải trả hai mươi lăm xu cho đặc ân được cọ xát đầu tôi với đầu đứa con trai người đầu bếp của cô Rachel, đứa bị chứng lác đồng tiền khủng khiếp. Nó không hết. Hồi xưa, trong cơn bột phát tình thân, bác ấy và Jimmy đã cho ra đời một đứa con trai tên Henry, tay này đã bỏ nhà đi ngay khi có đủ khả năng, lập gia đình, và cho ra đời Francis. Chú là một trong số vài con người khoa học mà không hề làm tôi khiếp sợ, có lẽ vì chú chưa bao giờ cư xử như một bác sĩ. Khi chú Jack bắt gặp tôi, chú khiến tôi phá lên cười về chuyện một tay thuyết giáo rất ghét đi nhà thờ đến độ mỗi ngày ông đều mặc áo khoác ngủ đứng ở cổng, hút bát điếu và nói những bài thuyết giáo năm phút cho bất cứ khách qua đường nào cần sự thư thái tinh thần. chúng là của bố Atticus, bố đã viết thư bảo chú Jack mua chúng cho tụi tôi, và chúng là thứ bọn tôi đã hỏi xin.

38

580

When we arrived at the Landing, Aunt Alexandra kissed Uncle Jack, Francis kissed Uncle Jack, Uncle Jimmy shook hands silently with Uncle Jack, Jem and I gave our presents to Francis, who gave us a present.

Khi chúng tôi đến Landing, bác Alexandra hôn chú Jack, Francis hôn chú Jack, bác Jimmy lặng lẽ bắt tay chú Jack, Jem và tôi trao quà của chúng tôi cho Francis, nó cũng cho tụi tôi một món quà.

39

581

As he lived in Mobile, he could not inform on me to school authorities, but he managed to tell everything he knew to Aunt Alexandra, who in turn unburdened herself to Atticus, who either forgot it or gave me hell, whichever struck his fancy.

Vì nó sống ở Mobile, nó không thể thông tin về tôi cho ban giám hiệu trường, nhưng tìm cách nói mọi thứ nó biết cho bác Alexandra, rồi bà lại kể hết cho bố Atticus nghe, ông hoặc quên nó hoặc trách mắng tôi, tùy theo cái gì đánh vào trí tưởng tượng của ông.

III

40

582

While he cleaned and bandaged my knuckles, he entertained me with a tale about a funny nearsighted old gentleman who had a cat named Hodge, and who counted all the cracks in the sidewalk when he went to town.

Trong khi chú rửa và băng những đốt ngón tay cho tôi, chú giải thích cho tôi bằng câu truyện về ông già cận thị ngộ nghĩnh có một con mèo tên Hodge, và ông ta đếm tất cả các vết nứt trên lề đường khi ông ta đi bộ xuống thị trấn.

41

583

Uncle Jack plunged into another long tale about an old Prime Minister who sat in the House of Commons and blew feathers in the air and tried to keep them there when all about him men were losing their heads.

Chú Jack lái sang một câu chuyện dài khác về một vị thủ tướng già ngồi trong Hạ viện thổi những chiếc lông trên không và cố giữ cho chúng ở đó trong khi tất cả những người quanh ông mất bình tĩnh.

42

584

43

585

44

586

45

587

Tim Johnson was the property of Mr. Harry Johnson who drove the Mobile bus and lived on the southern edge of town. Besides being the sassiest, most disrespectful mutts who ever passed her way, we were told that it was quite a pity our father had not remarried after our mother’s death. It was times like these when I thought my father, who hated guns and had never been to any wars, was the bravest man who ever lived. Jem, who hadn’t been near Miss Maudie’s scuppernong arbor since last summer, and who knew Miss Maudie wouldn’t tell Atticus if he had, issued a general denial.

Tim Johnson là tài sản của ông Harry Johnson, người lái xe buýt Mobile và sống ở mé Nam thị trấn. Ngoài việc bảo chúng tôi là những đứa đần độn láu cá nhất, xấc xược nhất từng đi ngang qua nhà bà, bà còn bảo rằng thật tội nghiệp cho chúng tôi vì bố Atticus không tái hôn sau khi mẹ tôi mất. Những lúc như thế tôi đã nghĩ bố tôi, người ghét súng ống và chưa hề dự cuộc chiến nào, là người đàn ông can đảm nhất trên đời. Jem, vốn chưa hề đến gần dàn nho của cô Maudie từ mùa hè rồi, và cũng biết cô Maudie sẽ không nói lại với bố Atticus nếu anh có làm gãy, đã đưa ra những lời phủ nhận chung.

46

588

Lightning rods guarding some graves denoted dead who rested uneasily; stumps of burned-out candles stood at the heads of infant graves.

Những cây cột thu lôi trên một số ngôi mộ cho thấy người chết yên nghỉ không được thoải mái lắm; những mẩu nến thừa đứng ngay đầu các nấm mồ trẻ con.

47

589

48

590

49

591

50

592

With that, Calpurnia led us to the church door where we were greeted by Reverend Sykes, who led us to the front pew. Subdued, I fixed my attention upon Reverend Sykes, who seemed to be waiting for me to settle down. “Will the music superintendent lead us in the first hymn,” he said. I looked at Jem, who was looking at Zeebo from the corners of his eyes. I didn’t believe it either, but we had both heard it. Somewhere, I had received the impression that Fine Folks were people who did the best they could with the sense they had, but Aunt Alexandra was of the opinion, obliquely expressed, that the longer a family had been squatting on one patch of land the finer it was.

Thế là Calpurnia dẫn chúng tôi đến cửa nhà thờ nơi Đức cha Sykes đón chào chúng tôi, ông dẫn chúng tôi tới hàng ghế đầu. Tôi nén lại, dán sự chú ý vào Cha Sykes, người có vẻ như chờ tôi bình tĩnh trở lại. “Sẽ có người phụ trách âm nhạc hướng dẫn chúng ta trong bài thánh ca đầu tiên,” ông nói. Tôi nhìn Jem, anh đang liếc nhìn Zeebo. Tôi cũng chẳng tin, nhưng cả hai chúng tôi đều nghe thấy nó. Ở nơi nào đó, tôi đã có được ấn tượng rằng Những Người Tốt là những người đã làm hết khả năng của họ với ý thức mà họ có, nhưng bác Alexandra có quan điểm được biểu lộ một cách gián tiếp rằng một dòng họ chiếm dụng một khu đất càng lâu dòng họ đó càng tốt hơn

51

593

But Maycomb would have been closer to the river had it not been for the nimble-wittedness of one Sinkfield, who in the dawn of history operated an inn where two pig-trails met, the only tavern in the territory.

Nhưng Maycomb sẽ gần sông hơn nếu không vì sự nhanh trí của một ông Sinkfieid nọ, người trong buổi bình minh của lịch sử đã kinh doanh một quán trọ nơi hai đường mòn gặp nhau, quán rượu duy nhất trong vùng.

IV

52

594

There was indeed a caste system in Maycomb, but to my mind it worked this way:the older citizens, the present generation of people who had lived side by side for years and years, were utterly predictable to one another:

Thực tế ở Maycomb có một sự phân biệt đẳng cấp, nhưng trong suy nghĩ của tôi nó đi theo cách này: những công dân lớn tuổi, thế hệ hiện thời gồm những người sống bên nhau từ bao năm nay, hoàn toàn có thể hiểu nhau

53

595

When Uncle Jack caught me, he kept me laughing about a preacher who hated going to church so much that every day he stood at his gate in his dressing-gown, smoking a hookah and delivering five-minute sermons to any passers-by who desired spiritual comfort.

Khi chú Jack bắt gặp tôi, chú khiến tôi phá lên cười về chuyện một tay thuyết giáo rất ghét đi nhà thờ đến độ mỗi ngày ông đều mặc áo khoác ngủ đứng ở cổng, hút bát điếu và nói những bài thuyết giáo năm phút cho bất cứ khách qua đường nào cần sự thư thái tinh thần.

54

596

While he cleaned and bandaged my knuckles, he entertained me with a tale about a funny nearsighted old gentleman who had a cat named Hodge, and who counted all the cracks in the sidewalk when he went to town.

Trong khi chú rửa và băng những đốt ngón tay cho tôi, chú giải thích cho tôi bằng câu truyện về ông già cận thị ngộ nghĩnh có một con mèo tên Hodge, và ông ta đếm tất cả các vết nứt trên lề đường khi ông ta đi bộ xuống thị trấn.

55

597

This was a group of white-shirted, khaki-trousered, suspendered old men who had spent their lives doing nothing and passed their twilight days doing same on pine benches under the live oaks on the square.

Đây là nhóm các ông già, mặc quần kaki có dây đeo qua vai, áo sơ mi trắng, họ sống cả đời chẳng làm gì và trải qua những tháng ngày tàn tạ bằng việc ngồi trên những băng ghế bằng gỗ thông dưới bóng các cây sồi ở quảng trường.

56

598

Nhân chứng vội vã rời bục và đâm sầm vào bố Atticus, người đã đứng lên để hỏi ông ta.

57

599

những đứa nhỏ hơn bị cảm liên tục và bị nhiễm giun kinh niên; có một quý bà đôi khi đến hỏi Mayella tại sao cô ta không đi học – cô ta viết ra câu trả lời

58

600

59

601

60

602

61

603

62

604

The witness made a hasty descent from the stand and ran smack into Atticus, who had risen to question him. the younger children had perpetual colds and suffered from chronic ground- itch; there was a lady who came around sometimes and asked Mayella why she didn’t stay in school—she wrote down the answer; Mayella looked at her father, who was sitting with his chair tipped against the railing. He sat up straight and waited for her to answer. But Atticus had once told us that in Judge Taylor’s court any lawyer who was a strict constructionist on evidence usually wound up receiving strict instructions from the bench. The Radley Place was inhabited by an unknown entity the mere description of whom was enough to make us behave for days on end; Mrs. Dubose was plain hell. Dill had seen Dracula, a revelation that moved Jem to eye him with the beginning of respect. “Tell it to us,” he said. Thus we came to know Dill as a pocket Merlin, whose head teemed with eccentric plans, strange longings, and quaint fancies.

63

605

The Dewey Decimal System consisted, in part, of Miss Caroline waving cards at us on which were printed “the,” “cat,” “rat,” “man,” and “you.”

Mayella nhìn cha cô, người đang ngồi tại ghế của ông ta và dựa vào thanh chắn. Ông ta ngồi thẳng lên và chờ câu trả lời của cô. Nhưng bố Atticus từng nói với chúng tôi rằng trong phòng xử của quan tòa Taylor bất cứ luật sư nào biết luận giải chặt chẽ các chứng cứ thường rốt cuộc lại nhận những hướng dẫn chính xác từ quan tòa. Tòa nhà Radley là nơi cư ngụ của một thực thể lạ lẫm chỉ cần nghe miêu tả là đủ khiến chúng tôi ngoan ngoãn trong nhiều ngày liên tục, bà Dubose thì chán chết đi được Dill đã xem Dracula, một phát hiện khiến Jem nhìn nó với đôi mắt bắt đầu có vẻ nể nang. “Kể tụi tao nghe đi,” anh ấy nói. Vì vậy chúng tôi dần xem Dill là một tay Merlin bỏ túi, với một cái đầu đầy những kế hoạch ly kỳ, những khát khao quái lạ, và những tưởng tượng kỳ quặc Hệ thống thập phân Dewey, trong chừng mực nào đó, bao gồm việc cô Caroline vung vẩy trước mặt chúng tôi những tấm bảng trên đó viết những chữ như “the“”, “cat”, “rat”, “man” và “you”

V

64

606

Quan tòa quyết định tống bọn quấy rối này đến trường huấn luyện của tiểu bang, nơi thỉnh thoảng bọn trai trẻ được gửi đến không vì lý do gì khác hơn là cung cấp cho chúng thức ăn và chỗ ở tươm tất

65

607

Simon nhìn sự náo loạn giữa miền Nam với miền Bắc với nỗi giận dữ bất lực, vì nó khiến cho con cháu ông bị tước đoạt hết mọi thứ trừ đất đai của chúng, nhưng truyền thống sống bám vào đất vẫn được duy trì đến nhiều thập niên của thế kỷ hai mươi, khi bố tôi, Atticus Finch, đến Montgomery đế học luật, và em trai bố đến Boston học y.

66

The judge decided to send the boys to the state industrial school, where boys were sometimes sent for no other reason than to provide them with food and decent shelter: Simon would have regarded with impotent fury the disturbance between the North and the South, as it left his descendants stripped of everything but their land, yet the tradition of living on the land remained unbroken until well into the twentieth century, when my father, Atticus Finch, went to Montgomery to read law, and his younger brother went to Boston to study medicine.

608

There was a man Dill had heard of who had a boat that he rowed across to a foggy island where all these babies were; you could order one—

Dill nghe nói có một người đàn ông với chiếc xuồng chuyên chèo thuyền tới một hòn đảo đầy sương mù nơi tất cả em bé ở đó, mày có thể đặt hàng một đứa

67

609

Miss Caroline seemed unaware that the ragged, denim-shirted and floursack- skirted first grade, most of whom had chopped cotton and fed hogs from the time they were able to walk, were immune to imaginative literature

Cô Caroline có vẻ không biết rằng bọn lớp một mặc váy bằng bao bột mì và áo sơ mi bằng vải bông sờn rách này, hầu hết đều chặt cây bông và cho heo ăn từ lúc mới biết đi, đã miễn nhiễm với thứ văn chương tưởng tượng.

68

610

He used all his money for a ticket, boarded the train as he had done many times, coolly chatted with the conductor, to whom Dill was a familiar sight, but he had not the nerve to invoke the rule on small children traveling a distance alone if you’ve lost your money the conductor will lend you enough for dinner and your father will pay him back at the end of the line.

Nó đã tiêu hết số tiền nó có để mua vé, lên xe lửa như nó đã làm nhiều lần, tỉnh bơ nói chuyện với người soát vé, mà Dill vốn là một hình ảnh quen thuộc, nhưng ông ta không có đủ can đảm viện dẫn đến luật lệ về việc trẻ em đi xa một mình: nếu bạn mất tiền người soát vé sẽ cho bạn mượn đủ tiền và ba bạn sẽ trả lại cho ông ta vào cuối chặng đường.

69

611

Tôi vắt óc một hồi và kết luận rằng nếu tôi cưới Jem và Dill có một đứa em gái và cậu ta cưới em gái đó thì con cái của tụi tôi là anh em họ đôi.

Sau đó là đại tá Maycomb dũng cảm, người được lấy tên để đặt cho hạt này.

70

612

71

613

72

614

73

615

I tortured myself and decided that if I married Jem and Dill had a sister whom he married our children would be double first cousins. Then came the fearless Colonel Maycomb, for whom the county was named. Routine contentment was: improving our treehouse that rested between giant twin chinaberry trees in the back yard, fussing, running through our list of dramas based on the works of Oliver Optic, Victor Appleton, and Edgar Rice Burroughs. Mr. Radley walked to town at eleven-thirty every morning and came back promptly at twelve, sometimes carrying a brown paper bag that the neighborhood assumed contained the family groceries. Jem, who hadn’t been near Miss Maudie’s scuppernong arbor since last summer, and who knew Miss Maudie wouldn’t tell Atticus if he had, issued a general denial.

Sự thỏa mãn bình thường nghĩa là: cải thiện ngôi nhà trên cây của chúng tôi vốn nằm giữa hai cây xoan khổng lồ sinh đôi ở sân sau, làm rộn mọi chuyện, lược qua danh sách những vở kịch dựa trên tác phẩm của Oliver Optich, Vitor Appleton và Edgar Rice Burroughs. Ông Radley đi bộ xuống thị trấn lúc mười một giờ rưỡi sáng, và trở về vào đúng mười hai giờ, đôi khi xách một túi giấy nâu, mà láng giềng cho hàng tạp phẩm cho gia đình. Jem, vốn chưa hề đến gần dàn nho của cô Maudie từ mùa hè rồi, và cũng biết cô Maudie sẽ không nói lại với bố Atticus nếu anh có làm gãy, đã đưa ra những lời phủ nhận chung.

VI

74

616

“But there is one way in this country in which all men are created equal— there is one human institution that makes a pauper the equal of a Rockefeller, the stupid man the equal of an Einstein, and the ignorant man the equal of any college president.

“Nhưng có một cách thức đến đất nước này mà trong đó mọi người sinh ra đều bình đẳng – có một thể chế của con người khiến một người dân nghèo bình đẳng với một Rockefeller, một kẻ ngu ngốc bình đẳng với một Einstein, và một kẻ dốt nát bình đẳng với bất cứ vị hiệu trưởng trường đại học nào.

75

617

76

618

“Tell you, Atticus,” Cousin Ike would say, “the Missouri Compromise was what licked us, but if I had to go through it agin I’d walk every step of the way there an‘ every step back jist like I did before an’ furthermore we’d whip ‘em this time... now in 1864, when Stonewall Jackson came around by—I beg your pardon, young folks. They persisted in pleading Not Guilty to first-degree murder, so there was nothing much Atticus could do for his clients except be present at their departure, an occasion that was probably the beginning of my father’s profound distaste for the practice of criminal law.

77

619

After consulting a tree to ascertain from its lichen which way was south, and taking no lip from the subordinates who ventured to correct him, Colonel Maycomb set out on a purposeful journey to rout the enemy and entangled his troops so far northwest in the forest primeval that they were eventually rescued by settlers moving inland.

“Nói cho bạn biết, Atticus,” anh họ Ike sẽ nói, “Thỏa hiệp Missouri là thứ khiến chúng tôi cảm thấy khó chịu, nhưng nếu tôi phải đi xuyên qua nó, tôi sẽ đi từng bước trên con đường có một 'người quay lại từng bước như tôi đã làm trước một 'hơn nữa chúng tôi sẽ quất' em lần này ... bây giờ là vào năm 1864, khi Stonewall Jackson đã đến gần — Tôi cầu xin sự thứ lỗi của các bạn, các bạn trẻ. Họ nhất quyết rằng mình không phạm tội giết người cấp độ một, vì vậy bố Atticus không thể làm gì hơn cho thân chủ trừ việc có mặt vào lúc họ lên đường, một vụ xử có lẽ là khởi đầu cho nỗi chán ghét đối với ngạch luật sư hình sự của bố Sau khinghiên cứu địa y của một thân cây để xác định hướng nào là hướng Nam, và bỏ ngoài tai lời khuyên của những thuộc cấp vốn đã mạo muội sửa sai ông,đại tá Maycomb thực hiện một chuyến hành trình cương quyết nhằm đánh tan kẻ thù và khiến binh lính của ông đi lạc về hướng Tây Bắc trong rừng nguyên sinh đến độ cuối cùng được những người khẩn hoang giải cứu khi họ đi sâu vào nội địa.

78

620

Being Southerners, it was a source of shame to some members of the family that we had no recorded ancestors on either side of the Battle of Hastings.

Là dân miền Nam, một số người trong gia tộc thấy xấu hổ vì chúng tôi chẳng có tổ tiên nào được lưu danh ở phía bên này hoặc bên kia trong trận Hasting

79

621

He returned to Saint Stephens only once, to find a wife, and with her established a line that ran high to daughters.

80

622

In addition to all these I can remember that Faustina O’brien came there at least once and the Baedeker girls and young Brewer, who had his nose shot off in the war, and Mr. Albrucksburger and Miss Haag, his fiancee, and Ardita FitzPeters and Mr. P. Jewett, once head of the American Legion, and Miss Claudia Hip, with a man reputed to be her chauffeur, and a prince of something, whom we called Duke, and whose name, if I ever knew it, I have forgotten.

81

623

It was the kind of voice that the ear follows up and down as if each speech is an arrangement of notes that will never be played again.

Ông chỉ trở lại Saint Stephens một lần, để tìm vợ, và ông đã cùng bà tạo dựng một dòng họ với nhiều con gái. Ngoài tất cả những người ấy ra, tôi còn nhớ Faustina O’Brien đã đến đấy ít nhất một lần cùng với các cô gái nhà Baedeker và chàng thanh niên Brewer bị mất mũi trong chiến tranh. Tôi nhớ còn có Albrucksburger với vị hôn thê của ông ta là cô Haag, có vợ chồng Ardita Fitz-Peter và ông P. Jewett, người có một thời đã từng làm chủ tịch Hội cựu chiến binh Mỹ, có cô Claudia Hip đi cùng với một ông mà người ta bảo là tài xế của cô, và một ông hoàng gì đó mà người ta gọi là Công tước – tên của ông hoàng này nếu như tôi có biết thì nay cũng quên mất rồi. Giọng nói ấy làm tai người nghe cứ phải đưa lên đưa xuống như thể mỗi câu là cả một sự sắp xếp những nốt nhạc không bao giờ lặp lại nữa.

VII

82

624

83

625

84

626

85

627

86

628

87

629

88

630

Nó mặc quần soóc bằng vải lanh xanh cài nút vào áo sơ mi, tóc nó trắng như tuyết và ép sát vào đầu như lông vịt; nó lớn hơn tôi một tuổi nhưng tôi cao hơn nó. Tàn tích của những chiếc cọc nhọn làm hàng rào xiêu vẹo ở sân trước - một cái sân "để quét" vốn không bao giờ được quét - nơi cỏ cho gia súc và cỏ thuốc thỏ mọc lan tràn. Chúng tôi rời góc phố, băng qua con đường nhỏ trước nhà Radley, và dừng ngay cổng. Cô Caroline mỉm cười, chùi mũi, nói, "Cảm ơn các em," bảo chúng tôi về chỗ, mở sách ra và làm mê hoặc cả lớp một này bằng một câu chuyện kể dài về con cóc sống trong tòa lâu đài. Khi bố Atticus nhìn xuống tôi, tôi thấy trên mặt ông có một vẻ luôn khiến tôi mong đợi một điều gì đó. Thật ra chúng là một đề tài tìm hiểu bất tận từ từ phát triển thành một bài học, trong đó hàng dặm giấy thủ công và bút sáp được bang Alabama chi trả trong những nỗ lực đầy hảo ý nhưng vô ích của nó nhằm dạy cho tôi về Động lực nhóm. Nó đã thải bỏ cái quần soọc xanh đáng ghét được cài nút vào áo sơ mi và mặc chiếc quần ngắn thực sự có thắt lưng; nó có vẻ to con hơn, không cao hơn,và nói nó đã gặp ba nó.

89

631 Cô yêu mọi thứ mọc trên đất của Chúa, cả cỏ dại.

90

632

91

633

92

634

Bằng một cái búng lưỡi cô làm cái cầu răng giả thò ra, một cử chỉ chân tình có tác dụng thắt chặt tình bạn của chúng tôi. Nghề của bác sĩ Buford là nghề y và nỗi ám ảnh của ông là bất cứ thứ gì lớn lên trong đất, vì vậy ông vẫn nghèo Chúng tôi nhảy qua bức tường thấp ngăn giữa sân của cô Rachel và đường lái xe của chúng tôi.

93 We came to the gate that divided the garden from the back yard.

He wore blue linen shorts that buttoned to his shirt, his hair was snow white and stuck to his head like duckfluff; he was a year my senior but I towered over him. The remains of a picket drunkenly guarded the front yard—a “swept” yard that was never swept—where johnson grass and rabbit-tobacco grew in abundance. We left the corner, crossed the side street that ran in front of the Radley house, and stopped at the gate. Miss Caroline smiled, blew her nose, said, “Thank you, darlings,” dispersed us, opened a book and mystified the first grade with a long narrative about a toadfrog that lived in a hall. When Atticus looked down at me I saw the expression on his face that always made me expect something. Indeed, they were an endless Project that slowly evolved into a Unit, in which miles of construction paper and wax crayon were expended by the State of Alabama in its well-meaning but fruitless efforts to teach me Group Dynamics. He had discarded the abominable blue shorts that were buttoned to his shirts and wore real short pants with a belt; he was somewhat heavier, no taller, and said he had seen his father. She loved everything that grew in God’s earth, even the weeds. With a click of her tongue she thrust out her bridgework, a gesture of cordiality that cemented our friendship. Dr. Buford’s profession was medicine and his obsession was anything that grew in the ground, so he stayed poor. We leaped over the low wall that separated Miss Rachel’s yard from our driveway.

635 Chúng tôi tới cái cổng ngăn cách khu vườn với sân sau.

94

636

There are no clearly defined seasons in South Alabama; summer drifts into autumn, and autumn is sometimes never followed by winter, but turns to a daysold spring that melts into summer again.

95

It was a pocket watch that wouldn’t run, on a chain with an aluminum knife.

637

96

638

Jem pulled out his grandfather’s watch that Atticus let him carry once a week if Jem were careful with it.

Ở Nam Alabama các mùa không được xác định rõ ràng; mùa hè lan sang mùa thu, và mùa thu đôi khi không có mùa đông nối theo sau, mà chuyển sang một mùa xuân ngắn ngủi rồi tan lại vào mùa hè. Nó là chiếc đồng hồ bỏ túi không còn chạy nữa, gắn vào một sợi dây chuyền có con dao nhôm. Jem lôi ra cái đồng hồ của ông nội mà bố Atticus cho anh ấy đeo mỗi tuần một lần nếu anh giữ nó cẩn thận.

VIII

97

639

98

640

Xe cứu hỏa Abbottsville bắt đầu bơm nước lên nhà chúng tôi.; một người đàn ông trên mái chỉ những chỗ cần phun nước nhất. Đơn giản bởi vì bản chất của mỗi công việc, mỗi luật sư trong đời mình ít nhất có một vụ tác động đến cá nhân ông ta.

99

641

Nếu tôi đã từng ấp ủ các khái niệm bí ẩn về những ngọn núi vốn có vẻ ám ảnh các luật sư và quan tòa, thì bác Alexandra sẽ giống với ngọn Everest:

100

642

101

643

102

The Abbottsville fire truck began pumping water on our house; a man on the roof pointed to places that needed it most. Simply by the nature of the work, every lawyer gets at least one case in his lifetime that affects him personally. Had I ever harbored the mystical notions about mountains that seem to obsess lawyers and judges, Aunt Alexandra would have been analogous to Mount Everes I wasn’t supposed to be doing things that required pants. Atticus did not drive a dump-truck for the county, he was not the sheriff, he did not farm, work in a garage, or do anything that could possibly arouse the admiration of anyone.

644

he seemed dedicated to one course and motivated by an invisible force that was inching him toward us.

103

645

This case, Tom Robinson’s case, is something that goes to the essence of a man’s conscience

tôi không có nhiệm vụ làm những việc đòi hỏi mặc quần tây. Bố Atticus không lái xe thùng cho hạt, ông không phải là cảnh sát trưởng, ông không làm nghề nông, làm việc trong một tiệm sửa xe, hoặc làm bất cứ điều gì có thể dấy lên lòng ngưỡng mộ của bất cứ ai. Tim Johnson tiến tới rất chậm, nhưng nó không đùa giỡn hoặc ngửi cành lá, có vẻ như nó chăm chú theo một hướng đi và bị đẩy bởi một lực vô hình về phía chúng tôi. Vụ kiện này, vụ của Tom Robinson, là một chuyện đánh vào cốt lõi của lương tâm con người

104 The one thing that doesn’t abide by majority rule is a person’s conscience.

646 Có một thứ không tuân theo nguyên tắc đa số, đó là lương tâm của con người."

105

647

He was a short, stocky man in a black suit, black tie, white shirt, and a gold watch-chain that glinted in the light from the frostedwindows.

Ông là người thấp, chắc nịch trong bộ đồ đen, nơ đen, và sơ mi trắng, và một dãy đồng hồ vàng lấp lánh trong ánh sáng từ những cửa sổ đầy tuyết.

106

648

Again, as I had often met it in my own church, I was confronted with the Impurity of Women doctrine that seemed to preoccupy all clergymen.

Một lần nữa, như tôi thường thấy trong nhà thờ của chúng tôi, tôi gặp phải học thuyết về sự ô uế của phụ nữ vốn có vẻ như ám ảnh mọi tu sĩ.

107

649

He stood beside a table in front of the pulpit and requested the morning offering, a proceeding that was strange to Jem and me.

Ông đứng cạnh cái bàn trước bục giảng và kêu gọi quyên góp buổi sáng, một nghi thức kỳ lạ với Jem và tôi.

108

650

She was not fat, but solid, and she chose protective garments that drew up her bosom to giddy heights, pinched in her waist, flared out her rear, and managed to suggest that Aunt Alexandra’s was once an hour-glass figure.

Bác không mập, nhưng to con, và bác chọn thứ quần áo bảo vệ nâng ngực của bác tới độ cao chóng mặt, siết chặt eo bác, xòe ra phần mông, và tạo ấn tượng rằng bác Alexandra từng có vóc dáng của một cái đồng hồ cát.

109

651

110

652

The remainder of the afternoon went by in the gentle gloom that descends when relatives appear, but was dispelled when we heard a car turn in the driveway. She never let a chance escape her to point out the shortcomings of other tribal groups to the greater glory of our own, a habit that amused Jem rather than annoyed him

Buổi chiều còn lại trôi qua trong không khí ảm đạm nhè nhẹ vốn thường xảy ra khi có bà con xuất hiện, nhưng tan biến ngay khi chúng tôi nghe tiếng xe hơi quẹo vào lối vào nhà. Bác không bao giờ bỏ lỡ cơ hội chỉ ra những thiếu sót của các nhóm thuộc dòng họ khác nhằm cho thấy sự vinh quang lớn hơn của dòng họ chúng tôi, một thói quen giúp vui cho Jem hơn là làm anh ấy bực mình

IX

111

653

Because its primary reason for existence was government, Maycomb was spared the grubbiness that distinguished most Alabama towns its size.

112

654

113

655

114

656

I so often wondered how she could be Atticus’s and Uncle Jack’s sister that I revived half-remembered tales of changelings and mandrake roots that Jem had spun long ago. It was a sad thing that my father had neglected to tell me about the Finch Family, or to install any pride into his children. I buried my head in it and listened to the small internal noises that went on behind the light blue cloth: his watch ticking, the faint crackle of his starched shirt, the soft sound of his breathing.

Bởi vì lý do chủ yếu cho sự tồn tại của nó là chính phủ, nên Maycomb tránh được cái vẻ bẩn thỉu đặc trưng ở hầu hết các thị trấn Alabama cùng kích cỡ với nó. Tôi cũng thường tự hỏi làm sao bác có thể là chị của bố Atticus và của chú Jack đến độ những câu chuyện chỉ còn nhớ mang máng về việc đánh tráo con và những củ nhân sâm mà Jem đã thêu dệt từ lâu sống lại trong tâm trí tôi. Quả là điều đáng tiếc khi bố tôi quên nói cho tôi biết về Dòng họ Finch, hoặc cài đặt bất cứ lòng tự hào nào vào những đứa con của ông. Tôi vùi đầu vào đó lắng nghe những tiếng động nhỏ bên trong vang ta từ phía sau lớp vải xanh nhạt: đồng hồ của ông đang kêu tích tắc, tiếng lắc rắc mơ hồ của chiếc áo sơ mi hồ bột của ông, âm thanh nhẹ nhàng của hơi thở ông.

115 There was a murmur of glee that died suddenly when Mr. Link Deas said

657 Có tiếng rì rầm vui sướng bất ngờ tắt ngấm khi ông Link Deas nói

116

658

The fake peace that prevailed on Sundays was made more irritating by Aunt Alexandra’s presence.

Sự thanh bình giả tạo vốn phổ biến vào những ngày Chủ nhật càng trở nên khó chịu hơn với sự có mặt của bác Alexandra.

117 Every thing that happens in this town’s out to the Quarters before sundown 118

I don’t know of any law that says they can’t talk.

659 Mọi việc xảy ra trong thị trấn này đều lan tới khu da đen trước khi mặt trời lặn. 660 Em không biết luật nào nói họ không thể nói chuyện.

119

661

To reach the courtroom, on the second floor, one passed sundry sunless county cubbyholes: the tax assessor, the tax collector, the county clerk, the county solicitor, the circuit clerk, the judge of probate lived in cool dim hutches that smelled of decaying record books mingled with old damp cement and stale urine.

Đã đến được phòng xử án trên tầng hai, người ta phải đi qua nhiều phòng nhỏ kín mít khác nhau dành cho các công chức trong hạt: người thẩm định thuế, nhân viên thuế, thứ ký hạt, cố vấn pháp luật, thư ký lưu động, thẩm phán tòa án xử các vụ liên quan đến di chúc sống trong những ô nhỏ tối mờ mát lạnh bốc mùi những tập hồ sơ mục nát trộn lẫn với mùi vị xi măng ẩm thấp cũ kỹ và mùi nước tiểu ngai ngái.

120

662

Just inside the railing that divided the spectators from the court, the witnesses sat on cowhide-bottomed chairs.

Ngay bên trong hàng rào chia tách cử tọa với tòa, nhân chứng ngồi trên những chiếc ghế lót nệm da bò.

121

663

122

664

123

665

124

666

Its windows were merely open spaces in the walls, which in the summertime were covered with greasy strips of cheesecloth to keep out the varmints that feasted on Maycomb’s refuse. Smugness faded from it, replaced by a dogged earnestness that fooled Judge Taylor not at all Judge Taylor was not the kind of figure that ever evoked pity, but I did feel a pang for him as he tried to explain. The old courthouse clock suffered its preliminary strain and struck the hour, eight deafening bongs that shook our bones.

Cửa sổ của nó chỉ là những khoảng trống trên các bức vách, vào mùa hè được che bằng những dải vải mỏng trơn để xua bọn muỗi ruồi sống no đủ trên rác rưởi của Maycomb. Vẻ tự mãn mất dần, thay thế bằng sự bướng bỉnh ương ngạnh hoàn toàn không lừa được quan tòa Taylor Quan tòa Taylor không phải là nhân vật dễ động lòng, nhưng tôi cảm thấy tiếc cho ông khi ông đang cố giải thích. Chiếc đồng hồ cổ của tòa án chịu đựng sự căng thẳng mở đầu và báo giờ, tám tiếng Boong rõ to rung động đến tận xương tủy chúng tôi.

X

125

667

126

668

Mặt hắn có nguyên một vết sẹo lồi chạy ngang qua; răng hắn không những vàng khè mà còn bị sâu nữa; mắt hắn thô lố; miệng lúc nào cũng chảy nước dãi. Gần như đúng lúc Gatsby xưng tên thì một quản gia chạy vội đến bẩm là có điện thoại từ Chicago.

127

669

Thay vào đó nó dựa vào lời khai của hai nhân chứng với chứng cứ không chỉ hết sức đáng nghi ngờ qua chất vấn, mà nó còn hoàn toàn mâu thuẫn với bị cáo.

128

670

129

There was a long jagged scar that ran across his face; what teeth he had were yellow and rotten; his eyes popped, and he drooled most of the time. Almost at the moment when Mr. Gatsby identified himself a butler hurried toward him with the information that Chicago was calling him on the wire. It has relied instead upon the testimony of two witnesses whose evidence has not only been called into serious question on cross-examination, but has been flatly contradicted by the defendant. Mr. Gilmer was writing on one of the yellow pads on his table, trying to outdo the court reporter, whose hand was jerking rapidly.

671

Local opinion held Mr. Underwood to be an intense, profane little man, whose father in a fey fit of humor christened Braxton Bragg, a name Mr. Underwood had done his best to live down.

Ông Gilmer đang viết lên một trang của xấp giấy vàng trên bàn ông ta, cố vượt qua người ghi biên bản vẫn đang múa tay như gió. Quan điểm địa phương cho rằng ông Underwood là một con người nhỏ thó báng bổ, mạnh mẽ, cha ông ta trong một lúc nổi máu hài hước quái dị đã đặt tên thánh cho ông là Braxton Bragg, một cái tên mà ông Underwood đã làm hết sức để mọi người quên đi.

130

672

Tôi nhìn quanh và nhìn lên ông Cunningham, khuôn mặt của ông cũng không để lộ cảm xúc nào.

131

673

132

674

I looked around and up at Mr. Cunningham, whose face was equally impassive. Then he did a peculiar thing. He squatted down and took me by both shoulders. Stunned, Jem and I looked at each other, then at Atticus, whose collar seemed to worry him. We did not speak to him I received a letter and a snapshot from him. The letter said he had a new father whose picture was enclosed, and he would have to stay in Meridian because they planned to build a fishing boat.

133

675

Alabama might go to the Rose Bowl again this year, judging from its prospects, not one of whose names we could pronounce.

Choáng váng, Jem và tôi nhìn nhau, rồi nhìn bố Atticus, có vẻ cái cổ áo đang làm ông bực bội. Chúng tôi không nói gì với ông cả. Tôi nhận một lá thư và một bức ảnh Dill gửi. Lá thư nói nó có ba mới mà nó gửi hình kèm theo, và chắc nó phải ở lại Meridian vì họ lên kế hoạch đóng một cái thuyền đánh cá. Năm nay bang Alabama có thể lại đi đến chung kết ở sân Rose Bowl, đánh giá qua những đội có triển vọng đoạt giải, không có cái tên nào trong số họ mà chúng tôi xác nhận được.

134

676

Lũ con trai trong lớp xông lên để giúp cô. Chúa ơi, tôi nghĩ, cô ấy sợ chuột. Thằng Little Chuck Little, thằng có một sự kiên nhẫn phi thường dành cho tất cả các loại sinh vật, nói, “Nó chạy đường nào, cô Caroline?

135

677

136

678

The male population of the class rushed as one to her assistance. Lord, I thought, she’s scared of a mouse. Little Chuck Little, whose patience with all living things was phenomenal, said, “Which way did he go, Miss Caroline? he was one of those men whose faces never perspired, but now it was shining tan. But the officers of the court, the ones present—Atticus, Mr. Gilmer, Judge Taylor sound asleep, and Bert, were the only ones whose behavior seemed normal.

chúng tôi chưa từng thấy mặt ông đổ mồ hôi, nhưng bây giờ nó bóng sáng màu đồng. Nhưng các viên chức của tòa án, những người có mặt - bố Atticus, ông Gilmer, quan tòa Taylor có vẻ say ngủ, và Bert, là những người duy nhất mà cách cư xử có vẻ bình thường.

XI

137

679

High above us in the darkness a solitary mocker poured out his repertoire in blissful unawareness of whose tree he sat in, plunging from the shrill kee, kee of the sunflower bird to the irascible qua-ack of a bluejay, to the sad lament of Poor Will, Poor Will, Poor Will.

138

680

All we had was Simon Finch, a fur-trapping apothecary from Cornwall whose piety was exceeded only by his stinginess.

Trên đầu chúng tôi trong bóng tối có một con chim nhại lẻ loi đang trút ra toàn bộ tuyệt kỹ nhái giọng của nó trong niềm vui sướng chẳng cần biết chủ của cái cây nó đang đậu là ai, nó đã chuyển từ tiếng kii kii chói tai của chim hướng dương đến tiếng qua-ack giận dữ của con giẻ cái, đến lời than vãn buồn bã của chim đớp mồi. Chúng tôi chỉ có mỗi Simon Finch, một tay bào chế thuốc bẫy thú lấy lông gốc từ Cornwall, người chỉ để cho thói keo kiệt vượt trội hơn so với lòng mộ đạo của mình.

139

681

Chỉ chừa ra có Gatsby, người được lấy tên đặt cho cuốn sách này, một con người tiêu biểu cho tất cả những gì mà tôi thành thật khinh bỉ

140

682 Mặt nó không có sắc màu trừ chóp mũi, chỗ đó có màu hồng ẩm ướt.

141

683

Only Gatsby, the man who gives his name to this book, was exempt from my reaction — Gatsby, who represented everything for which I have an unaffected scorn. There was no color in his face except at the tip of his nose, which was moistly pink. And the Ismays and the Chrysties (or rather Hubert Auerbach and Mr. Chrystie’s wife), and Edgar Beaver, whose hair, they say, turned cotton- white one winter afternoon for no good reason at all.

Có vợ chồng Ismay, vợ chồng Chrystie (hay nói cho đúng hơn là Hubert Auerbach và vợ của Chrystie) và Edgar Beaver. Anh chàng này, như người ta kể, vào một buổi chiều mùa đông, tóc bỗng dưng bạc trắng như bông.

142

684

I have forgotten their names — Jaqueline, I think, or else Consuela, or Gloria or Judy or June, and their last names were either the melodious names of flowers and months or the sterner ones of the great American capitalists whose cousins, if pressed, they would confess themselves to be.

143

685

Unlike Gatsby and Tom Buchanan, I had no girl whose disembodied face floated along the dark cornices and blinding signs, and so I drew up the girl beside me, tightening my arms.

144

686

145

687

I walked out the back way — just as Gatsby had when he had made his nervous circuit of the house half an hour before — and ran for a huge black knotted tree, whose massed leaves made a fabric against the rain. That any one should care in this heat whose flushed lips he kissed, whose head made damp the pajama pocket over his heart!

Tôi quên mất tên những cô gái ấy – có lẽ là Jaqueline hay Consuela, Gloria hoặc Judy hay June gì đó, còn họ thì hoặc là du dương như tên gọi các loài hoa và các tháng, hoặc nghiêm trang hơn, đọc lên nghe giống họ của các nhà đại tư bản Mỹ mà mấy cô gái ấy sẽ thú nhận là bà con với mình nếu ta gạn hỏi. Không như Gatsby và Tom Buchanan, tôi không có một người bạn gái nào mà gương mặt lướt qua loang loáng trên các gờ mái nhà tối đen và những dòng chữ quảng cáo sáng chói, vì vậy tôi kéo về phía mình người con gái đang ngồi cạnh tôi, siết chặt vòng tay tôi. Tôi đi ra bằng cửa sau, – theo đúng lối Gatsby đã ra cách đây nửa giờ trước khi bồn chồn đi vòng quanh nhà – rồi chạy vội đến trú bên một thân cây lớn xù xì, vặn vẹo, tán lá dày kín tạo thành một cái mái che mưa. Trong cái nóng này làm gì có ai bận tâm đến người mà cặp môi đỏ bừng được mình đặt miệng hôn, mà cái đầu tựa vào làm ướt đẫm túi ngực áo ngủ của mình.

146

688

That any one should care in this heat whose flushed lips he kissed, whose head made damp the pajama pocket over his heart!

Trong cái nóng này làm gì có ai bận tâm đến người mà cặp môi đỏ bừng được mình đặt miệng hôn, mà cái đầu tựa vào làm ướt đẫm túi ngực áo ngủ của mình.

XII

147

689

There was a ripe mystery about it, a hint of bedrooms up-stairs more beautiful and cool than other bedrooms, of gay and radiant activities taking place through its corridors, and of romances that were not musty and laid away already in lavender but fresh and breathing and redolent of this year’s shining motor-cars and of dances whose flowers were scarcely withered.

148

690

In addition to all these I can remember that Faustina O’brien came there at least once and the Baedeker girls and young Brewer, who had his nose shot off in the war, and Mr. Albrucksburger and Miss Haag, his fiancee, and Ardita FitzPeters and Mr. P. Jewett, once head of the American Legion, and Miss Claudia Hip, with a man reputed to be her chauffeur, and a prince of something, whom we called Duke, and whose name, if I ever knew it, I have forgotten.

149

691

Indeed, they were an endless Project that slowly evolved into a Unit, in which miles of construction paper and wax crayon were expended by the State of Alabama in itswell-meaning but fruitless efforts to teach me Group Dynamics.

150

692

This is a valley of ashes — a fantastic farm where ashes grow like wheat into ridges and hills and grotesque gardens; where ashes take the forms of houses and chimneys and rising smoke and, finally, with a transcendent effort, of men who move dimly and already crumbling through the powdery air.

151

693

152

694

Ngôi nhà này mang trong lòng nó một điều bí ẩn đầy sức hấp dẫn như một quả cây chín mọng, nó làm cho ta tưởng tượng ra những buồng ngủ trên gác lộng lẫy và dịu mát hơn mọi buồng ngủ khác, những trò nghịch ngợm diễn ra suốt dọc các hành lang, những chuyện tình lãng mạn không khô héo và bị xếp xó như những cánh hoa ép, mà tươi tắn, rộn rã hơi thở, thơm mùi những chiếc xe hơi mới choáng lộn và những điệu nhảy đi kèm với những bông hoa chẳng mấy khi héo tàn. Ngoài tất cả những người ấy ra, tôi còn nhớ Faustina O’Brien đã đến đấy ít nhất một lần cùng với các cô gái nhà Baedeker và chàng thanh niên Brewer bị mất mũi trong chiến tranh. Tôi nhớ còn có Albrucksburger với vị hôn thê của ông ta là cô Haag, có vợ chồng Ardita Fitz-Peter và ông P. Jewett, người có một thời đã từng làm chủ tịch Hội cựu chiến binh Mỹ, có cô Claudia Hip đi cùng với một ông mà người ta bảo là tài xế của cô, và một ông hoàng gì đó mà người ta gọi là Công tước – tên của ông hoàng này nếu như tôi có biết thì nay cũng quên mất rồi. Thật ra chúng là một đề tài tìm hiểu bất tận từ từ phát triển thành một bài học, trong đó hàng dặm giấy thủ công và bút sáp được bang Alabama chi trả trong những nỗ lực đầy hảo ý nhưng vô ích của nó nhằm dạy cho tôi về Động lực nhóm. Cả một vùng thung lũng này bị chìm ngập dưới một lớp bụi dày xám như tro, trông chẳng khác nào một trang trại quái đản, nơi tro mọc lên như lúa mì, thành gò, thành đống, thành những vườn tược kì quái, nơi tro mang hình những ngôi nhà, những ống khói lò sưởi và cả làn khói toả ra từ những ống khói ấy, và cuối cùng với một cố gắng vượt bậc, nó mang hình những con người xám ngoét lờ mờ di động hoặc chỉ chực khuỵu ngã trong một bầu không khí mù mịt. Một tối nọ chúng tôi được ông cho hưởng đặc ân chứng kiến một màn trình diễn có vẻ như là lần cuối cùng của ông, vì chúng tôi đã chờ xem biết bao lâu mà ông không hề làm như vậy lần nữa. Chưa đầy hai tuần sau, chúng tôi nhận được nguyên một gói kẹo cao su, mà chúng tôi cứ thế tận hưởng, lời đồn rằng mọi thứ ở khu nhà Radley đều là thuốc độc đã trôi khỏi ký ức của Jem.

153

695

“Thưa ngài,” Jem nói. “Chúng tôi trân trọng cái….. không, chúng tôi trân trọng mọi thứ mà ngài đặt vào cây cho chúng tôi. Kính thư, Jeremy Atticus Finch.

154

696

One evening we were privileged to witness a performance by him which seemed to have been his positively last, for he never did it again so long as we watched. Less than two weeks later we found a whole package of chewing gum, which we enjoyed, the fact that everything on the Radley Place was poison having slipped Jem’s memory. “Dear sir,” said Jem. “We appreciate the—no, we appreciate everything which you have put into the tree for us. Yours very truly, Jeremy Atticus Finch.” Jem scooped up an armful of dirt, patted it into a mound on which he added another load, and another until he had constructed a torso.

Jem ôm một đống đất, đắp vào một ụ rồi thêm tiếp một ôm đất nữa, và một ôm nữa cho đến khi anh tạo xong một bức tượng bán thân.

XIII

155

697

156

698

157

699

Những sắp xếp bên trong của ngôi nhà Finch biểu thị sự thật thà của Simon và sự tự tin tuyệt đối của ông khi xét đoán con cháu mình. nó cũng chẳng dừng lại vì cha nó, người mà nó cũng chạy lướt qua sát bên; cũng không vì mẹ nó, người gọi to “Cam! Mẹ muốn con lại đây một chút!” trong lúc nó đang chạy qua. …, ông nhìn vợ và con trai, nhìn lại cái chậu hoa phong lữ thảo màu đỏ, nơi thường giúp tô điểm các quá trình suy nghĩ, nơi các quá trình này được sản sinh và viết ra trên lá, như thể là những mẩu giấy ta thường dùng để ghi chú nhằng nhịt trong lúc đọc vội- trong khi nhìn thấy tất cả những điều này, ông trượt một cách êm ái vào sự suy tư được gợi lên bởi một bài báo trong tờ The Times về con số những người Mỹ viếng thăm ngôi nhà của Shakespeare hàng năm.

158

700

Mặt bà có màu áo gối bẩn, và khóe miệng bà loáng nước, nó chảy dần dần như một con sông băng xuống những nếp nhăn hằn sâu bao quanh cằm bà.

159

701

Jem đọc có lẽ được hai mươi phút, trong thời gian đó tôi nhìn vào bệ lò sưởi ấm bồ hóng, nhìn ra ngoài cửa sổ, bất cứ nơi đâu để không phải nhìn bà.

160

The internal arrangements of the Finch house were indicative of Simon’s guilelessness and the absolute trust with which he regarded his offspring. …; she would not stop for her father, whom she grazed also by an inch; nor for her mother, who called "Cam! I want you a moment!" as she dashed past. …, seeing his wife and child, seeing again the urns with the trailing of red geraniums which had so often decorated processes of thought, and bore, written up among their leaves, as if they were scraps of paper on which one scribbles notes in the rush of reading—he slipped, seeing all this, smoothly into speculation suggested by an article in THE TIMES about the number of Americans who visit Shakespeare's house every year. Her face was the color of a dirty pillowcase, and the corners of her mouth listened with wet, which inched like a glacier down the deep grooves enclosing her chin. Jem read for perhaps twenty minutes, during which time I looked at the soot-stained mantelpiece, out the window, anywhere to keep from looking at her.

702

Indeed, she had the whole of the other sex under her protection; for reasons she could not explain, for their chivalry and valour, for the fact that they negotiated treaties, ruled India, controlled finance; finally for an attitude towards herself which no woman could fail to feel or to find agreeable, something trustful, childlike, reverential; which an old woman could take from a young man without loss of dignity, and woe betide the girl—pray Heaven it was none of her daughters!—who did not feel the worth of it, and all that it implied, to the marrow of her bones!

161

703

Indeed, she had the whole of the other sex under her protection; for reasons she could not explain, for their chivalry and valour, for the fact that they negotiated treaties, ruled India, controlled finance; finally for an attitude towards herself which no woman could fail to feel or to find agreeable, something trustful, childlike, reverential; which an old woman could take from a young man without loss of dignity, and woe betide the girl—pray Heaven it was none of her daughters!—who did not feel the worth of it, and all that it implied, to the marrow of her bones!

Thật sự, bà đặt toàn bộ nam giới dưới sự bảo vệ của mình; vì những lý do mà bà không thể lý giải, vì phong cách hào hoa và dũng cảm của họ, vì thực tế rằng họ đã đàm phán những bản hiệp ước, đã thống trị Ấn Độ, đã kiểm soát nền tài chính; cuối cùng là vì một thái độ cư xử mà không người phụ nữ nào lại không cảm thấy dễ chịu, một cái gì đó chân thật, ngây thơ, tôn kính, đối với chính bản thân bà; một thái độ mà một người phụ nữ lớn tuổi có thể tiếp nhận từ một chàng trai trẻ nhưng vẫn không đánh mất đi phẩm giá, và có thể gây ra đau khổ cho một cô gái - tạ ơn trời đất, đó không phải là một trong những đứa con gái của bà! - kẻ không cảm nhận được giá trị của nó, và tất cả những gì mà nó bao hàm, cho tới tận cùng xương tủy của cô ta! Thật sự, bà đặt toàn bộ nam giới dưới sự bảo vệ của mình; vì những lý do mà bà không thể lý giải, vì phong cách hào hoa và dũng cảm của họ, vì thực tế rằng họ đã đàm phán những bản hiệp ước, đã thống trị Ấn Độ, đã kiểm soát nền tài chính; cuối cùng là vì một thái độ cư xử mà không người phụ nữ nào lại không cảm thấy dễ chịu, một cái gì đó chân thật, ngây thơ, tôn kính, đối với chính bản thân bà; một thái độ mà một người phụ nữ lớn tuổi có thể tiếp nhận từ một chàng trai trẻ nhưng vẫn không đánh mất đi phẩm giá, và có thể gây ra đau khổ cho một cô gái - tạ ơn trời đất, đó không phải là một trong những đứa con gái của bà! - kẻ không cảm nhận được giá trị của nó, và tất cả những gì mà nó bao hàm, cho tới tận cùng xương tủy của cô ta!

XIV

162

704

Ihad never thought about it, but summer was Dill by the fishpool smoking string, Dill’s eyes alive with complicated plans to make Boo Radley emerge; summer was the swiftness with which Dill would reach up and kiss me when Jem was not looking, the longings we sometimes felt each other feel.

tôi chưa bao giờ nghĩ về nó, nhưng mùa hè nghĩa là có Dill bên cạnh hồ cá hút sợi thuốc, mắt Dill sống động với những kế hoạch phức tạpđể làm Boo Radley xuất hiện; mùa hè nghĩa là Dill nhanh nhẹn chồm lên hôn tôi khi Jem không để ý, là những khao khát đôi khi chúng tôi cảm thấy đứa kia đang có.

163

705

164

706

165

707

166

708

167

709

168

710

169

711

170

712

171

713

172

714

173

715

174

716

Mrs McNab, tearing the veil of silence with hands that had stood in the wash-tub, grinding it with boots that had crunched the shingle, came as directed to open all windows, and dust the bedrooms. She left the room and returned with a purple-covered book on which Meditations of Joshua S. St. Clair was stamped in gold. The tribe of which Burris Ewell and his brethren consisted had lived on the same plot of earth behind the Maycomb dump, and had thrived on county welfare money for three generations. Although his back was to us, we knew he had a slight cast in one of his eyes which he used to his advantage: Jem’s hand, which was resting on the balcony rail, tightened around it. He drew in his breath suddenly. old shoes, worn-out table radios, picture frames, and fruit jars, under which scrawny orange chickens pecked hopefully. Mayella’s hostility, which had subsided to grudging neutrality, flared again. “You makin‘ fun o’me agin, Mr. Finch?” “But there is one way in this country in which all men are created equal— there is one human institution that makes a pauper the equal of a Rockefeller, the stupid man the equal of an Einstein, and the ignorant man the equal of any college president. It can be the Supreme Court of the United States or the humblest J.P. court in the land, or this honorable court which you serve. I admired the ease and grace with which she handled heavy loads of dainty things. Thoroughly frightened, she telephoned Mr. Link at his store, which was not too far from his house. We squandered our first nickels on the House of Horrors, which scared us not at all; we entered the black seventh-grade room and were led around by the temporary ghoul in residence and were made to touch several objects alleged to be component parts of a human being.

175 “Here’s his heart,” which felt like raw liver.

bà McNab, xé toạt bức màn im lặng với đôi bàn tay đã nhúng vào chậu giặt, nghiền nát nó với đôi ủng đã nghiến trên đá sỏi, tới đó theo chỉ thị để mở mọi cánh cửa sổ ra và quét dọn những căn phòng ngủ. Bác rời phòng và quay lại với một cuốn sách bìa màu tía trên đó có dòng chữ Meditations of Joshua S. St. Clair mạ vàng. Dòng tộc bao gồm Burris Ewell và anh em ông ta đã sống trên cùng mảnh đất phía sau bãi rác Maycomb, và đã sống ngon lành nhờ tiền phúc lợi của hạt suốt ba thế hệ. Dù ông quay lưng về phía chúng tôi, chúng tôi vẫn biết một mắt ông hơi lé mà ông sử dụng như một lợi thế Bàn tay Jem, đang nằm trên thanh ban công, siết chặt lại. Bất chợt anh hít thật sâu. những chiếc giày cũ, radio hỏng, khung hình, bình đựng nước trái cây, bên dưới đó là những con gà con màu cam ốm đói mổ một cách đầy hy vọng. Vẻ thù địch của Mayella, vốn đã dịu xuống mức độ trung lập miễn cưỡng, lại bùng lên. “Ông lại giễu cợt tôi nữa hả, ông Finch?” “Nhưng có một cách thức đến đất nước này mà trong đó mọi người sinh ra đều bình đẳng – có một thể chế của con người khiến một người dân nghèo bình đẳng với một Rockefeller, một kẻ ngu ngốc bình đẳng với một Einstein, và một kẻ dốt nát bình đẳng với bất cứ vị hiệu trưởng trường đại học nào. Nó có thể là Tòa án tối cao của nước Mỹ hay tòa sơ thẩm tầm thường nhất của đất nước này hay chính cái tòa án danh giá mà quý vị đang phục vụ này. Tôi ngưỡng mộ vẻ khoan thai và duyên dáng của bà khi bà xử lý hàng đống công việc vặt vãnh Quá sợ hãi, chị điện thoại cho ông Link ở cửa hàng, ông Link thấy Ewell đang dựa vào hàng rào Chúng tôi tiêu những đồng năm xu đầu tiên của mình ở Ngôi nhà kinh hoàng, vốn chẳng làm tụi tôi sợ chút nào, tụi tôi bước vào phòng lớp bảy đen thui và được dẫn đi loanh quanh bởi một con ma cà rồngtạm thời trong đó và được hướng dẫn rờ vào những món được cho là bộ phận cấu thành con người. “Đây là trái tim,” vốn tạo cảm giác giống lá gan khi còn sống.

717 XV

176

718

After consulting a tree to ascertain from its lichen which way was south, and taking no lip from the subordinates who ventured to correct him, Colonel Maycomb set out on a purposeful journey to rout the enemy and entangled his troops so far northwest in the forest primeval that they were eventually rescued by settlers moving inland.

177

719

Sau khinghiên cứu địa y của một thân cây để xác định hướng nào là hướng Nam, và bỏ ngoài tai lời khuyên của những thuộc cấp vốn đã mạo muội sửa sai ông,đại tá Maycomb thực hiện một chuyến hành trình cương quyết nhằm đánh tan kẻ thù và khiến binh lính của ông đi lạc về hướng Tây Bắc trong rừng nguyên sinh đến độ cuối cùng được những người khẩn hoang giải cứu khi họ đi sâu vào nội địa. Một cuộc ganh đua kỳ cục, mà bản chất của nó tôi không hiểu ra, đang phát triển giữa bố tôi và ông cảnh sát trưởng

178

720

Điều này đủ làm cho Jem phải đi đến góc đường, ở đó anh dừng lại và dựa vào cột đèn, nhìn cánh cổng đong đưa như khùng điên trên bản lề tự chế

179

721

180

722

181

723

182

724

183

725

A curious contest, the nature of which eluded me, was developing between my father and the sheriff. This was enough to make Jem march to the corner, where he stopped and leaned against the light-pole, watching the gate hanging crazily on its homemade hinge. We had strolled to the front yard, where Dill stood looking down the street at the dreary face of the Radley Place. An oppressive odor met us when we crossed the threshold, an odor I had met many times in rain-rotted gray houses where there are coal-oil lamps, water dippers, and unbleached domestic sheets. With that, Calpurnia led us to the church door where we were greeted by Reverend Sykes, who led us to the front pew. Eluding Jordan’s undergraduate who was now engaged in an obstetrical conversation with two chorus girls, and who implored me to join him, I went inside. Boo had drifted to a corner of the room, where he stood with his chin up, peering from a distance at Jem.

Chúng tôi đã đi dạo đến sân trước, nơi Dill đang đứng nhìn xuống đường ở bộ mặt thê lương của Radley Place. Một mùi ngột ngạt đã gặp chúng tôi khi chúng tôi vượt qua ngưỡng, một mùi tôi đã từng gặp nhiều khi trong những ngôi nhà xám xịt vì mưa, nơi có đèn dầu than, nước gáo, và các tấm trong nước chưa tẩy trắng. Thế là Calpurnia dẫn chúng tôi đến cửa nhà thờ nơi Đức cha Sykes đón chào chúng tôi, ông dẫn chúng tôi tới hàng ghế đầu. Anh chàng sinh viên của Jordan lúc này đang nói chuyện với hai cô nữ diễn viên của một đoàn đồng ca, cứ chèo kéo tôi đến với họ. Tôi thoái thác và đi vào trong nhà. Boo đã trôi dạt vào một góc phòng, nơi anh ta chống cằm nhìn lên. từ xa tại Jem.

184

726

John Hale Finch was ten years younger than my father, and chose to study medicine at a time when cotton was not worth growing; but after getting Uncle Jack started, Atticus derived a reasonable income from the law.

John Hale Finch nhỏ hơn bố mười tuổi và chọn học nghề y vào thời điểm mà việc trồng bông vải không còn sinh lợi nữa; nhưng sau khi giúp chú Jack khởi nghiệp, bố Atticus có được thu nhập đáng kể từ nghề luật.

185

727

186

728

187

729

But there came a day when Atticus told us he’d wear us out if we made any noise in the yard and commissioned Calpurnia to serve in his absence if she heard a sound out of us. But Dill got him the third day, when he told Jem that folks in Meridian certainly weren’t as afraid as the folks in Maycomb, that he’d never seen such scary folks as the ones in Maycomb. That spring when we found a crokersack full of turnip greens, Atticus said Mr. Cunningham had more than paid him.

Nhưng đến một hôm bố Atticus nói với chúng tôi bố sẽ phạt nếu chúng tôi làm ồn trong sân và giao cho Calpurnia thực hiện nhiệm vụ khi ông vắng mặt nếu bà nghe chúng tôi nói tiếng nào Nhưng Dill khích được anh ấy vào ngày thứ ba, khi nó nói với Jem rằng dân Meridian chắc chắn không sợ hãi như dân Maycomb, rằng nó chưa từng thấy dân nào nhát như dân Maycomb. Mùa xuân năm đó khi chúng tôi tìm thấy một chiếc túi đầy củ cải Atticus nói rằng ông Cunningham đã trả nhiều tiền hơn cho ông ta.

XVI

188

730

một ngày nào đó khi bà lơ đi, tôi sẽ bỏ đi và nhảy xuống chỗ nước xoáy Barker và rồi bà sẽ hối tiếc.

189

731

Còn tôi thì dành hầu như cả ngày để leo lên tuột xuống, chạy việc vặt cho anh, cung cấp cho anh vật liệu, thức ăn và nước, và khi tôi mang cho anh mền đắp ban đêm thì bố Atticus nói nếu tôi không thèm để ý đến anh, thì Jem sẽ xuống

190

732

191

733

192

734

193

735

194

736

195

737

Một đêm nọ khi tôi và Jem rời hàng hiên nhà cô Rachel thì Dill ngăn tụi tôi lại, “Này, nhìn đằng kia xem.” Jem và tôi đang đi theo quỹ đạo của chúng tôi vào một chiều tháng Mười dịu mát thì cái hốc cây khiến chúng tôi dừng lại. Khi tàu ra đến các cánh đồng mùa xuân, một chiếc xe điện vàng chạy theo nó trong một phút với những hành khách có lẽ đã từng thấy sắc thái huyền ảo của gương mặt nàng tình cờ trên đường phố. Bỗng nhiên tôi không còn nghĩ gì đến Daisy hoặc Gatsby nữa, mà chỉ nghĩ đến con người nhỏ nhắn, rắn chắc và hèn mọn này, con người hoài nghi hết thảy mọi thứ trên đời và đang nhanh nhảu ngả người vào trong vòng tay tôi. Một tối nọ khi bố Atticus đang đọc đến chuyên mục của Windy Seaton thì chuông điện thoại reo. Rõ ràng là Calpurnia đang nhớ lại một Chủ nhật trời mưa khi chúng tôivừa không có bố vừa không có giáo viên trông coi

196

738

Tôi nói rằng tôi rất thích nó, đó là một lời nói dối, nhưng người ta nhất định phải nói dối. hoàn cảnh và mọi lúc khi người ta không thể làm gì với chúng.

197

739

Trong phản ứng ấy, tôi chỉ chừa ra có Gatsby, người được lấy tên đặt cho cuốn sách này, một con người tiêu biểu cho tất cả những gì mà tôi thành thật khinh bỉ.

198

740

Tất nhiên một số buổi chiều khi tôi sẽ chạy vào trong để uống nước, tôi sẽ thấy phòng khách tràn ngập Những quý cô Maycomb, nhấm nháp, thì thầm, quạt, và tôi sẽ được gọi là: “Jean Louise, hãy đến nói chuyện với những người phụ nữ này. "

one of these days when she wasn’t looking I’d go off and drown myself in Barker’s Eddy and then she’d be sorry. I had spent most of the day climbing up and down, running errands for him, providing him with literature, nourishment and water, and was carrying him blankets for the night when Atticus said if I paid no attention to him, Jem would come down. Jem and I were leaving Miss Rachel’s front steps one night when Dill stopped us: “Golly, looka yonder.” Jem and I were trotting in our orbit one mild October afternoon when our knot-hole stopped us again. Then out into the spring fields, where a yellow trolley raced them for a minute with people in it who might once have seen the pale magic of her face along the casual street Suddenly I wasn’t thinking of Daisy and Gatsby any more but of this clean, hard, limited person who dealt in universal skepticism and who leaned back jauntily just within the circle of my arm. Atticus was in the middle of Windy Seaton’s column one evening when the telephone rang. Calpurnia evidently remembered a rainy Sunday when we were both fatherless and teacherless. I said I would like it very much, which was a lie, but one must lie under certain circumstances and at all times when one can’t do anything about them. Only Gatsby, the man who gives his name to this book, was exempt from my reaction — Gatsby, who represented everything for which I have an unaffected scorn. Of course some afternoons when I would run inside for a drink of water, I would find the livingroom overrun with Maycomb ladies, sipping, whispering, fanning, and I would be called: “Jean Louise, come speak to these ladies.”

XVII

199

741

but more profoundly, she ruminated the other problem, of rich and poor, and the things she saw with her own eyes, weekly, daily, here or in London, when she visited this widow, or that struggling wife in person with a bag on her arm, and a note-book and pencil with which she wrote down in columns carefully ruled for the purpose wages and spendings, employment and unemployment, in the hope that thus she would cease to be a private woman whose charity was half a sop to her own indignation, half a relief to her own curiosity, and become what with her untrained mind she greatly admired, an investigator, elucidating the social problem.

200

742

but more profoundly, she ruminated the other problem, of rich and poor, and the things she saw with her own eyes, weekly, daily, here or in London, when she visited this widow, or that struggling wife in person with a bag on her arm, and a note-book and pencil with which she wrote down in columns carefully ruled for the purpose wages and spendings, employment and unemployment, in the hope that thus she would cease to be a private woman whose charity was half a sop to her own indignation, half a relief to her own curiosity, and become what with her untrained mind she greatly admired, an investigator, elucidating the social problem.

201

743

202

744

203

745

204

746

205

747

I’m inclined to reserve all judgments, a habit that has opened up many curious natures to me and also made me the victim of not a few veteran bores. As if he were related to one of those intricate machines that register earthquakes ten thousand miles away. It was on that slender riotous island which extends itself due east of New York My house was at the very tip of the egg, only fifty yards from the Sound, and squeezed between two huge places that rented for twelve or fifteen thousand a season. A national figure in a way, one of those men who reach such an acute limited excellence at twenty-one that everything afterward savors of anti- climax.

206

748

There was a touch of paternal contempt in it, even toward people he liked — and there were men at New Haven who had hated his guts.

nhưng bà còn suy ngẫm tới một vấn đề khác, sâu sắc hơn, về sự khác biệt giàu nghèo, và những điều mà bà tận mắt chứng kiến hàng tuần, hàng ngày, ở đây hay ở London, khi bà ghé thăm người quả phụ này hoặc người vợ đang chật vật kia với một cái giỏ trên tay, và một cuốn sổ với cây bút mà với chúng bà viết vào các cột được kẻ một cách cẩn thận những khoản tiền công và chi tiêu, khi có việc làm và khi thất nghiệp, với niềm hy vọng rằng nhờ đó bà có thể thôi là một phụ nữ mà trong lòng từ thiện của người đó có nửa phần là nhằm xoa dịu lòng căm phẫn, còn nửa phần là để giảm bớt tính hiếu kỳ, để trở thành cái mà bà vô cùng ngưỡng mộ với bộ óc không được trui rèn của mình, một nhà nghiên cứu điều tra có thể lý giải các nan đề xã hội. nhưng bà còn suy ngẫm tới một vấn đề khác, sâu sắc hơn, về sự khác biệt giàu nghèo, và những điều mà bà tận mắt chứng kiến hàng tuần, hàng ngày, ở đây hay ở London, khi bà ghé thăm người quả phụ này hoặc người vợ đang chật vật kia với một cái giỏ trên tay, và một cuốn sổ với cây bút mà với chúng bà viết vào các cột được kẻ một cách cẩn thận những khoản tiền công và chi tiêu, khi có việc làm và khi thất nghiệp, với niềm hy vọng rằng nhờ đó bà có thể thôi là một phụ nữ mà trong lòng từ thiện của người đó có nửa phần là nhằm xoa dịu lòng căm phẫn, còn nửa phần là để giảm bớt tính hiếu kỳ, để trở thành cái mà bà vô cùng ngưỡng mộ với bộ óc không được trui rèn của mình, một nhà nghiên cứu điều tra có thể lý giải các nan đề xã hội. Vì vậy tôi không thích bình phẩm một ai hết. Lối sống ấy đã mở ra cho tôi thấy nhiều bản tính kì quặc, nhưng đồng thời khiến tôi trở thành nạn nhân của không ít kẻ chuyên quấy rầy người khác. Tưởng chừng người ấy giống như những cỗ máy phức tạp ghi lại những trận động đất cách xa hàng vạn dặm. Nó nằm trên hòn đảo thon thả và huyên náo phơi mình theo hướng chính Đông New York. Ngôi nhà của tôi nằm ở đúng đầu quả trứng, cách Eo biển chưa đến năm mươi thước và bị kẹp giữa hai toà nhà đồ sộ cho thuê với giá mười hai hoặc mười lăm nghìn đôla một vụ nghỉ mát. Có thể nói đó là một nhân vật tầm cỡ quốc gia, thuộc loại những kẻ đã đạt tới đỉnh cao của tài năng ở tuổi hai mươi mốt, đến nỗi mọi thành tích sau đấy đều bị lu mờ. Trong dáng điệu ấy có một chút gì đó kênh kiệu kẻ cả, ngay cả đối với những người mà Tom ưa thích. Vì vậy ở New Haven có những kẻ ghét cay ghét đắng Tom.

XVIII

207

749

Turning me around by one arm, he moved a broad flat hand along the front vista, including in its sweep a sunken Italian garden, a half acre of deep, pungent roses, and a snub-nosed motor-boat that bumped the tide offshore.

208

750

209

751

210

752

211

753

It was the kind of voice that the ear follows up and down as if each speech is an arrangement of notes that will never be played again. Tom Buchanan, who had been hovering restlessly about the room, stopped and rested his hand on my shoulder “It’s up to us who are the dominant race to watch out or these other races will have control of things.” We’ve produced all the things that go to make civilization—oh, science and art and all that.

212

754

This is a valley of ashes — a fantastic farm where ashes grow like wheat into ridges and hills and grotesque gardens; where ashes take the forms of houses and chimneys and rising smoke and, finally, with a transcendent effort, of men who move dimly and already crumbling through the powdery air

213

755

They look out of no face but, instead, from a pair of enormous yellow spectacles which pass over a nonexistent nose.

214

756

Tom deferred that much to the sensibilities of those East Eggers, who might be on the train.

Nắm lấy cánh tay xoay người tôi lại, Tom duỗi bàn tay to bè khoát một vòng rộng giới thiệu khung cảnh bày ra trước mắt, gộp cả vào trong cái khoát tay ấy một khu vườn chìm kiểu Italia, một phần tư hécta trồng một loại hồng gắt hương, một chiếc xuống máy mũi dẹt nhấp nhô theo sóng nước ngoài khơi. Giọng nói ấy làm tai người nghe cứ phải đưa lên đưa xuống như thể mỗi câu là cả một sự sắp xếp những nốt nhạc không bao giờ lặp lại nữa. Tom Buchanan từ nãy vẫn luôn chân đi loanh quanh gian phòng, bây giờ đứng lại, đặt tay lên vai tôi Chúng ta, nòi giống thống trị, phải coi chừng, nếu không các nòi giống khác sẽ ngoi lên cầm đầu. Chúng ta là những người đã sản xuất ra tất cả những gì tạo nên nền văn minh - nào là khoa học, nghệ thuật, và mọi thứ khác. Cả một vùng thung lũng này bị chìm ngập dưới một lớp bụi dày xám như tro, trông chẳng khác nào một trang trại quái đản, nơi tro mọc lên như lúa mì, thành gò, thành đống, thành những vườn tược kì quái, nơi tro mang hình những ngôi nhà, những ống khói lò sưởi và cả làn khói toả ra từ những ống khói ấy, và cuối cùng với một cố gắng vượt bậc, nó mang hình những con người xám ngoét lờ mờ di động hoặc chỉ chực khuỵu ngã trong một bầu không khí mù mịt. Hai con mắt của bác sĩ T. J. Eckleburg không nằm trên một bộ mặt nào cả, mà chúng nhìn mọi người qua một cặp kính vàng kếch sù đặt trên mỗi cái mũi khuyết. Tom đã chịu chiếu cố đến ý kiến của những người dân East Egg có thể đi cùng chuyến tàu.

215 That’s a dog that’ll never bother you with catching cold.’

757 Giống chó này không bao giờ bị cảm lạnh để làm quý ngài phải vất vả vì nó.

216

758

217

759

Mrs. Wilson had changed her costume some time before and was now attired in an elaborate afternoon dress of cream colored chiffon, which gave out a continual rustle as she swept about the room. The intense vitality that had been so remarkable in the garage was converted into impressive hauteur.

Myrtle Wilson đã thay quần áo. Bây giờ bà ta mặc một kiểu áo rất cầu kì may bằng một thứ sa màu kem kêu sột soạt mỗi khi bà ta lướt thướt chiếc áo đi lại trong phòng. Sức sống hừng hực lồ lộ lúc ở hiệu sửa chữa ôtô đã chuyển thành một vẻ kênh kiệu đầy ấn tượng.

218 The man came after it one day when he was out.

760 Người chủ bộ đồ đến đòi đúng vào hôm hắn vắng nhà.

219

761

Ở nhà bếp có một cái máy trong nửa giờ có thể vắt được hai trăm quả chanh nếu được ngón tay cái của một gia nhân ấn hai trăm lần lên một cái nút nhỏ.

There was a machine in the kitchen which could extract the juice of two hundred oranges in half an hour, if a little button was pressed two hundred times by a butler’s thumb.

XIX

220

762

221

763

Quầy rượu hoạt động nhộn nhịp, các li rượu từng khay bay ra vườn cho đến khi không khí bên ngoài tràn ngập tiếng cười nói, những câu bóng gió vô tình, những lời giới thiệu nghe rồi quên ngay và những cuộc gặp gỡ nồng nhiệt giữa những đám khách nữ không bao giờ thuộc tên nhau. Tôi tin rằng trong đêm đầu tiên sang nhà Gatsby, tôi là một trong số khách ít ỏi đã thực sự được mời .

222 Once there they were introduced by somebody who knew Gatsby.

The bar is in full swing, and floating rounds of cocktails permeate the garden outside, until the air is alive with chatter and laughter, and casual innuendo and introductions forgotten on the spot, and enthusiastic meetings between women who never knew each other’s names. I believe that on the first night I went to Gatsby’s house I was one of the few guests who had actually been invited.

764 Đến đấy rồi, họ được một ai đó đã quen biết Gatsby dẫn vào

223

765

224

766

She held my hand impersonally, as a promise that she’d take care of me in a minute, and gave ear to two girls in twin yellow dresses who stopped at the foot of the steps. ‘I heard that from a man who knew all about him, grew up with him in Germany,

Jordan hờ hững nắm lấy bàn tay tôi như hứa hẹn là một lát nữa sẽ quan tâm đến tôi, rồi cô nghếch tai về phía hai cô gái mặc hai bộ đồ vàng giống nhau vừa mới đứng lại ở dưới chân thềm. Tôi được nghe chuyện ấy từ một người biết rõ ông ta, cùng lớn lên với ông ta tại Đức.

225

767

We were sitting at a table with a man of about my age and a rowdy little girl who gave way upon the slightest provocation to uncontrollable laughter.

Hai chúng tôi đang ngồi ở một chiếc bàn cùng với một chàng trai trạc tuổi tôi và một cô gái nhỏ bé ồn ào, động một tí là cười ngặt nghẽo.

226

768

I was looking at an elegant young rough-neck, a year or two over thirty, whose elaborate formality of speech just missed being absurd.

227

769

228

770

229

771

Vừa vặn đến lúc ấy thì nụ cười tan biến, và tôi thấy trước mặt mình là một gã ngang tàn sang trọng trẻ trung, tuổi ngoài ba mươi, ăn nói cầu kì kiểu cách chỉ quá một chút là thành ngô nghê. Vừa đến nơi là tôi tìm gặp chủ nhân ngay, nhưng hỏi han hai bà khách, họ đều trân trân nhìn tôi với con mắt ngạc nhiên, và khăng khăng quả quyết rằng họ hoàn toàn không biết Gatsby hiện ở đâu, thành thử tôi đành lẩn đi về phía bàn rượu, chỗ độc nhất trong khu vườn mà một người đàn ông lẻ loi có thể ngồi nán lại mà không có vẻ là cô đơn và không biết dùng thời gian của mình làm gì. Từ nãy có những tiếng gì mơ hồ khó hiểu vọng ra từ một gian phòng có nhiều cửa sổ nhìn ra bậc thềm. Anh chàng sinh viên của Jordan lúc này đang nói chuyện với hai cô nữ diễn viên của một đoàn đồng ca, cứ chèo kéo tôi đến với họ. Tôi thoái thác và đi vào trong nhà.

230 231

772 Bà ấy vừa mới cãi lộn với một ông tự nhận là chồng bà ấy. 773 Tôi đến gia nhập đám khách cuối cùng của Gatsby đang xúm xít quanh anh.

232

774

As soon as I arrived I made an attempt to find my host, but the two or three people of whom I asked his whereabouts stared at me in such an amazed way, and denied so vehemently any knowledge of his movements, that I slunk off in the direction of the cocktail table — the only place in the garden where a single man could linger without looking purposeless and alone. For some time confused and intriguing sounds had issued from a long many- windowed room which overhung the terrace. Eluding Jordan’s undergraduate who was now engaged in an obstetrical conversation with two chorus girls, and who implored me to join him, I went inside. ‘She had a fight with a man who says he’s her husband’ I joined the last of Gatsby’s guests who were clustered around him. The familiar expression held no more familiarity than the hand which reassuringly brushed my shoulder.

233

775

In the ditch beside the road, right side up, but violently shorn of one wheel, rested a new coupe which had left Gatsby’s drive not two minutes before.

Cách gọi thân mật suồng sã này không có ý thân mật suồng sã gì hơn cái vỗ vai cốt làm tôi yên tâm. Một chiếc cu-pê mới toanh vừa mới rời khỏi vườn nhà Gatsby trước đó hai phút bây giờ nằm kẹt ở cái rãnh ven đường: chiếc xe không đổ nhưng gãy mất một bánh.

XX

234

776

Endowing with complete isolation the figure of the host who stood on the porch, his hand up in a formal gesture of farewell.

235

777

I even had a short affair with a girl who lived in Jersey City and worked in the accounting department

236

778

I felt a haunting loneliness sometimes, and felt it in others—poor young clerks who loitered in front of windows waiting until it was time for a solitary restaurant dinner

237

779

238

780

239

781

Once I wrote down on the empty spaces of a time-table the names of those who came to Gatsby’s house that summer. They will give you a better impression than my generalities of those who accepted Gatsby’s hospitality The Dancies came too and S. B. Whitebait, who was well over sixty, and Maurice A. Flink and the Hammerheads and Beluga the tobacco importer and Beluga’s girls.

240

782

In addition to all these I can remember that Faustina O’brien came there at least once and the Baedeker girls and young Brewer, who had his nose shot off in the war, and Mr. Albrucksburger and Miss Haag, his fiancee, and Ardita FitzPeters and Mr. P. Jewett, once head of the American Legion, and Miss Claudia Hip, with a man reputed to be her chauffeur, and a prince of something, whom we called Duke, and whose name, if I ever knew it, I have forgotten.

241

783

242

784

243

785

244

786

It appreciated fully the chain of national circumstances which had elicited this tribute from Montenegro’s warm little heart. I drift here and there trying to forget the sad thing that happened to me We passed Port Roosevelt, where there was a glimpse of red-belted ocean- going ships. A small, flat-nosed Jew raised his large head and regarded me with two fine growths of hair which luxuriated in either nostril.

245 He’s the man who fixed the World’s Series back in 1919.’

787

246

788

I was happier on the lawns because I had on shoes from England with rubber nobs on the soles that bit into the soft ground.

Các cửa lớn của toà nhà làm cho hình bóng người chủ nhà tở nên hoàn toàn trơ trọi. Anh ta đang đứng trên bậc thềm, tay giơ lên trong động tác tiễn chào đúng nghi thức. Tôi còn có một chuyện tình nho nhỏ với một cô gái ở Jersey City làm ở phòng kế toán cùng sở Thỉnh thoảng tôi thấy ám ảnh một nỗi cô đơn, và cảm thấy nỗi cô đơn ấy cũng có ở những người khác, những chàng nhân viên trẻ tuổi nghèo nàn thơ thẩn trước tủ kính các cửa hiệu chờ đến giờ đi ăn tối một mình tại một quán ăn bình dân, Một hôm, tôi thử ghi lại tên những người đã đến nhà Gatsby mùa hè năm ấy vào những chỗ trống bên lề một bảng giờ tàu. Những tên ấy sẽ cho các bạn một khái niệm rõ hơn những lời kể chung chung của tôi về những người đã chấp nhận lòng hiếu khách của Gatsby Vợ chồng Dancy cũng đến, rồi có S. B. Whitebait, tuổi đã quá sáu mươi, có Maurice A. Flink, vợ chồng Hammerhead, Beluga, nhà nhập khẩu thuốc lá và mấy cô bạn gái của Beluga. Ngoài tất cả những người ấy ra, tôi còn nhớ Faustina O’Brien đã đến đấy ít nhất một lần cùng với các cô gái nhà Baedeker và chàng thanh niên Brewer bị mất mũi trong chiến tranh. Tôi nhớ còn có Albrucksburger với vị hôn thê của ông ta là cô Haag, có vợ chồng Ardita Fitz-Peter và ông P. Jewett, người có một thời đã từng làm chủ tịch Hội cựu chiến binh Mỹ, có cô Claudia Hip đi cùng với một ông mà người ta bảo là tài xế của cô, và một ông hoàng gì đó mà người ta gọi là Công tước – tên của ông hoàng này nếu như tôi có biết thì nay cũng quên mất rồi. Nó đánh giá được đầy đủ chuỗi hoàn cảnh dân tộc đã làm nảy ra lời ngợi khen này từ trái tim nhỏ bé ấm áp của Montenegro. tôi đi phiêu bạt đây đó cho quên đi sự việc đau buồn đã xảy ra với tôi Chúng tôi qua cảng Roosevelt, nhìn thoáng thấy những chiếc tàu viễn dương sơn quanh thân một vành đai đỏ. Một người Do Thái nhỏ bé, mũi tẹt, ngẩng cái đầu to lên nhìn tôi với hai túm lông mũi thò ra quá dài. Chính lão đã bố trí trước trận chung kết giải quán quân bóng chày thế giới năm 1919. Em thích đi trên cỏ hơn vì em đi giày Anh đế có những cục cao su bám lấy đất mềm.

XXI

247

789

248

790

249

791

250

792

Em mặc một chiếc váy kẻ ô mới, cái váy căng phồng lên một chút khi có gió, và mỗi lần như vậy thì các lá cờ xanh, cờ trắng, cờ đỏ treo trước cửa tất cả các ngôi nhà duỗi thẳng thẳng băng và kêu tút-tút-tút như chê trách. Có những tin đồn xằng bậy về nàng – người ta bảo rằng một tối mùa đông, mẹ nàng bắt gặp con gái đang chuẩn bị hành trang đi New York để tiễn một chàng sĩ quan sắp đi phục vụ ở nước ngoài. Bỗng nhiên tôi không còn nghĩ gì đến Daisy hoặc Gatsby nữa, mà chỉ nghĩ đến con người nhỏ nhắn, rắn chắc và hèn mọn này, con người hoài nghi hết thảy mọi thứ trên đời và đang nhanh nhảu ngả người vào trong vòng tay tôi. Ai mà không bí mật vui mừng khi người hùng cởi bỏ giáp trụ, dừng lại bên cửa sổ, ngắm vợ con mình, những người thoạt đầu ở rất xa dần dà tiến lại gần hơn, gần hơn nữa, cho tới khi đôi môi, cuốn sách, và đầu họ hiện ra rõ rang trước mặt ông, dù vẫn đáng yêu và xa lạ trước cường độ cách biệt, sự phí hoài tuổi tác và tàn lụi của các vì sao nơi ông, kẻ cuối cùng cũng nhét tẩu vào túi rồi cúi cái đầu tráng lệ của mình trước vợ - người có đổ lỗi cho ông không nếu ông nghiêng mình kính cẩn trước vẻ đẹp của thế gian này?

251

793

Hai giờ đêm mà cả một vùng bán đảo rực sáng, ánh sáng hư ảo chan hoà các lùm cây và kéo thành những sợi lấp lánh dài trên các đường dây điện.

252

794

Thoạt tiên tôi tưởng lại có một cuộc vui mới, một buổi dạ hội điên loạn đã biến thành một trò “đi trốn đi tìm” lấy cả toà nhà làm chỗ chơi.

253

795

Sau đấy thì Daisy không chơi bời với giới sĩ quan nữa mà chỉ giao du với một vài anh con trai địa phương ốm o, cận thị, không vào được quân đội.

254

796 Cô gái ngồi trên xe cùng với anh ấy cũng bị đưa lên báo, vì cô ta bị gãy tay.

255 People who do interesting things.

I had on a new plaid skirt also that blew a little in the wind and whenever this happened the red, white and blue banners in front of all the houses stretched out stiff and said TUT-TUT-TUT-TUT in a disapproving way. Wild rumors were circulating about her — how her mother had found her packing her bag one winter night to go to New York and say goodbye to a soldier who was going overseas. Suddenly I wasn’t thinking of Daisy and Gatsby any more but of this clean, hard, limited person who dealt in universal skepticism and who leaned back jauntily just within the circle of my arm. Who will not secretly rejoice when the hero puts his armour off, and halts by the window and gazes at his wife and son, who very distant at first, gradually come closer and closer, till lips and book and head are clearly before him, though still lovely and unfamiliar from the intensity of his isolation and the waste of ages and the perishing of the stars, and finally putting his pipe in his pocket and bending his magnificent head before her— who will blame him if he does homage to the beauty of the world? Two o’clock and the whole corner of the peninsula was blazing with light which fell unreal on the shrubbery and made thin elongating glints upon the roadside wires. At first I thought it was another party, a wild rout that had resolved itself into ‘hide-and-go-seek’ or ‘sardines-inthe-box’ with all the house thrown open to the game. After that she didn’t play around with the soldiers any more but only with a few flat-footed, short-sighted young men in town who couldn’t get into the army at all. The girl who was with him got into the papers too because her arm was broken

797 Những người làm những công việc lí thú.

256

798

257

799

Thăm các phòng trang điểm, phòng bi-a, phòng tắm với bồn tắm chìm; vô tình vào phải một phòng bên trong có một ông khách mặc quần áo ngủ, đầu rối bù, đang tập những động tác chữa bệnh gan trên sàn. Gatsby mở cho chúng tôi xem hai cái tủ đồ sộ và tinh xảo, bên trong treo thành từng dãy những bộ com-lê, những bộ đồ ngủ, những chiếc ca-vát và những xấp sơ-mi từng tá một xếp chồng lên nhau như những viên gạch.

Through dressing rooms and poolrooms, and bathrooms with sunken baths—intruding into one chamber where a dishevelled man in pajamas was doing liver exercises on the floor. He opened for us two hulking patent cabinets which held his massed suits and dressing-gowns and ties, and his shirts, piled like bricks in stacks a dozen high. ‘I’ve got a man in England who buys me clothes.

258

800 Tôi có một người bạn ở bên Anh nhận mua quần áo hộ tôi

XXII

259

801

260

802

261

803

262

804

So với khoảng cách to lớn ngăn cách anh với Daisy thì cái đốm sáng kia có vẻ rất gần nàng, hầu như đụng chạm được tới nàng. Ngay trong buổi chiều hôm nay, hẳn có những lúc Daisy đã không ngang tầm với những ước mơ của anh Anh con trai mặc chiếc áo thun xanh rách, chân đi giày vải, lúc đi tha thẩn ven hồ chiều hôm ấy là James Gatz Anh không bao giờ hiểu nổi cái thủ đoạn pháp lí đã được dùng để chống lại anh chỉ biết là tất cả gia sản rơi hết vào tay Ella Kaye

263

Compared to the great distance that had separated him from Daisy it had seemed very near to her, almost touching her. There must have been moments even that afternoon when Daisy tumbled short of his dreams It was James Gatz, who had been loafing along the beach that afternoon in a torn green jersey and a pair of canvas pants He never understood the legal device that was used against him but what remained of the millions went intact to Ella Kaye.

805

They were a party of three on horseback — Tom and a man named Sloane and a pretty woman in a brown riding-habit, who had been there previously.

Họ có ba người: Tom cùng với một ông tên là Sloane và một phụ nữ kiều diễm mặc quần áo đi ngựa màu nâu đã từng đến chơi đây.

264

806

Sometimes a shadow moved against a dressingroom blind above, gave way to another shadow, an indefinite procession of shadows, who rouged and powdered in an invisible glass.

Có bóng ai thỉnh thoảng di động đằng sau tấm rèm buông xuống ở cửa sổ một gian buồng trên gác, rồi tiếp đến một bóng ai khác – một chuỗi nối tiếp vô tận những bóng người đến trang điểm trước một tấm gương vô hình.

265 Lots of people come who haven’t been invited

807 Nhiều kẻ không được mời mà vẫn cứ đến

266

808

The automobiles which turned expectantly into his drive stayed for just a minute and then drove sulkily away.

267 But I’m the first man who ever made a stable out of a garage

809

268

810

269

811

270

812

271

813

272

814

273

815

Những chiếc xe hơi khấp khởi lăn bánh vào những đường xe chạy trong vườn nhà anh chỉ đỗ lại đúng một phút rồi hậm hực bỏ đi. nhưng tôi là người đầu tiên đã biến nhà xe thành chuồng ngựa. Anh thanh niên Hy Lạp Michaelis, mở quán ăn gần mấy cái đồi đất tro, là nhân chứng chính trong cuộc điều tra. Thoạt tiên, tôi không hiểu những tiếng rên rỉ vang to trong nhà xe trống trơ là ở đâu ra Một người có xe chạy ngay sau xe chúng tôi xác nhận cho lời khai ấy nên viên cảnh sát ngoảnh đi Tom cho xe dừng lại bên cạnh cổng, nhìn lên tầng hai có hai cửa sổ sáng rực ánh đèn giữa các dây nho leo Khi tàu ra đến các cánh đồng mùa xuân, một chiếc xe điện vàng chạy theo nó trong một phút với những hành khách có lẽ đã từng thấy sắc thái huyền ảo của gương mặt nàng tình cờ trên đường phố. Tuy nhiên, các chủ nhà xe không có một ai báo là đã trông thấy Wilson. Vậy có lẽ Wilson có một cách tìm dễ dàng hơn, chắc chắn hơn, để biết cái điều ông muốn biết.

The young Greek, Michaelis, who ran the coffee joint beside the ashheaps was the principal witness at the inquest. At first I couldn’t find the source of the high, groaning words that echoed clamorously through the bare garage Some one who had been driving a little behind us confirmed this and the policeman turned away. Tom stopped beside the porch and looked up at the second floor where two windows bloomed with light among the vines Then out into the spring fields, where a yellow trolley raced them for a minute with people in it who might once have seen the pale magic of her face along the casual street On the other hand no garage man who had seen him ever came forward— and perhaps he had an easier, surer way of finding out what he wanted to know I wanted to go into the room where he lay and reassure him

274

816 Tôi muốn vào phòng anh đang nằm và nói để anh yên tâm

275 Her hand, which dangles over the side, sparkles cold with jewels.

817

Bàn tay người đàn bà buông thõng bên cạnh cáng lấp lánh những ánh lạnh lẽo của vàng bạc châu báu

XXIII

276

818

277

819

278

820

279

821

280

822

281

Perhaps it was he who drove Daisy and Gatsby over to East Egg the night of the accident Probably it was some final guest who had been away at the ends of the earth and didn’t know that the party was over There was an excitement in her voice that men who had cared for her found difficult to forget In my younger and more vulnerable years my father gave me some advice that I’ve been turning over in my mind ever since. At least the terms in which they express them are usually plagiaristic and marred by obvious suppressions.

823

I had a dog — at least I had him for a few days until he ran away — and an old Dodge and a Finnish woman, who made my bed and cooked breakfast and muttered Finnish wisdom to herself over the electric stove.

282

824

283

825

284

826

285

827

286

828

287

829

It was a matter of chance that I should have rented a house in one of the strangest communities in North America And so it happened that on a warm windy evening I drove over to East Egg to see two old friends whom I scarcely knew at all The windows were ajar and gleaming white against the fresh grass outside that seemed to grow a little way into the house. The only completely stationary object in the room was an enormous couch on which two young women were buoyed up as though upon an anchored balloon I looked back at my cousin who began to ask me questions in her low, thrilling voice She was a slender, small breasted girl, with an erect carriage which she accentuated by throwing her body backward at the shoulders like a young cadet.

288

830

Sometimes she and Miss Baker talked at once, unobtrusively and with a bantering inconsequence that was never quite chatter, that was as cool as their white dresses and their impersonal eyes in the absence of all desire.

289

831

It was sharply different from the West where an evening was hurried from phase to phase toward its close in a continually disappointed anticipation or else in sheer nervous dread of the moment itself.

Có lẽ anh ta chính là người đã chở Daisy và Gatsby từ West Egg về East Egg tối hôm xảy ra tai nạn Có lẽ đó là một trong những người khách cuối cùng nào đấy ở tít đầu kia quả đất không biết rằng cuộc vui đã tàn. Giọng nàng mới có một sức quyến rũ mà những ai đã đem lòng yêu nàng không nào quên được Hồi tôi còn nhỏ, ở cái tuổi dễ bị nhiễm các thói hư tật xấu hơn bây giờ, cha tôi có khuyên tôi một điều mà tôi ngẫm mãi cho đến nay Ít ra những lời lẽ mà họ dùng để diễn đạt, thường là cóp nhặt của người khác và mất hết ý nghĩa vì rõ ràng đã bị bớt xén đi nhiều chỗ Tôi có một con chó – ít nhất cũng là trong vài ngày trước khi nó bỏ đi, – một chiếc xe Dodge cũ và một chị giúp việc người Phần Lan để dọn dẹp nhà cửa và vừa sửa soạn bữa sáng cho tôi vừa lẩm bẩm một mình những câu cách ngôn Phần Lan bên bếp điện. Ngẫu nhiên mà ngôi nhà tôi thuê lại nằm ở một trong những cộng đồng kì lạ nhất Bắc Mỹ Và thế là vào một buổi chiều nóng nực và lộng gió, tôi lái xe sang East Egg thăm hai người bạn cũ mà tôi không hiểu biết gì mấy Các cánh cửa sổ mở hé, trắng lấp lánh trên nền cỏ tươi mát bên ngoài và cỏ dường như mọc len cả vào trong nhà một chút. Vật duy nhất hoàn toàn bất động trong gian phòng là một chiếc đi văng lớn có hai phụ nữ trẻ đang tựa lưng y như đang ngồi trong chiếc giỏ treo của một khinh khí cầu bị néo vào cột Tôi quay lại cô em họ tôi khi nàng bắt đầu hỏi chuyện tôi bằng một giọng trầm trầm lôi cuốn. Baker là một cô gái mảnh mai, bộ ngực nhỏ nhắn, thân hình thẳng đuỗn mà cô làm cho nó càng thêm ngay đơ bằng cách ưỡn ngực và đưa vai ra đằng sau y như một thiếu sinh quân Đôi khi Daisy và Baker cùng nói một lúc, nói một cách kín đáo, lửng lơ, cợt nhả, không bao giờ đi đến chỗ huyên thuyên mà chỉ là những lời mát lạnh như các tà áo trắng và đôi mắt trống rỗng không chứa đựng một ham muốn nào hết của họ. Cuộc sống ở đây khác hẳn với miền Tây, nơi các buổi tối diễn ra dồn dập hết phần này đến phần khác cho tới lúc kết thúc, trong sự chờ đón luôn luôn thất vọng hoặc trong nỗi bồn chồn khiếp sợ chính giây phút hiện tại

XXIV

290

832

291

833

292

As if she had asserted her membership in a rather distinguished secret society to which she and Tom belonged. Already it was deep summer on roadhouse roofs and in front of wayside garages, where new red gas-pumps sat out in pools of light, and when I reached my estate at West Egg I ran the car under its shed and sat for a while on an abandoned grass roller in the yard.

834

Occasionally a line of gray cars crawls along an invisible track, gives out a ghastly creak, and comes to rest, and immediately the ash-gray men swarm up with leaden spades and stir up an impenetrable cloud, which screens their obscure operations from your sight.

293

835

A reluctant elevator boy went for a box full of straw and some milk to which he added on his own initiative a tin of large hard dog biscuits

294

836

She came in with such a proprietary haste and looked around so possessively at the furniture that I wondered if she lived here.

Khác nào để cho tôi hiểu rằng nàng nằm trong một cái hội kín khá quý phái mà cả nàng lẫn Tom đều là hội viên Mùa hè đã đến từ lâu trên nóc các quán ăn và trước cửa các hiệu sửa chữa xe cạnh đường với những cột bơm xăng sơn đỏ mới toanh đứng sừng sững trong những vũng ánh sáng. Về đến nhà ở West Egg, tôi cất xe rồi ra sân ngồi một lúc trên một chiếc máy xén cỏ hỏng. Thỉnh thoảng, một đoàn tàu với những toa xe xám xịt trườn trên một con đường vô hình, phát ra một tiếng rít rùng rợn rồi dừng lại. Ngay lập tức, những con người xám ngoét kia tay cầm những chiếc xẻng chì bâu đến nhung nhúc như đàn kiến và làm bốc lên một đám mây dày đặc che kín các hoạt động mờ ám của họ. Người bồi trông thang máy làu bàu đi kiếm một cái hộp độn đầy rơm, một ít sữa, và tự anh đem về thêm một hộp bánh bích quy cho chó to tướng và cứng như đá Catherine đi đứng với vẻ vội vã tự nhiên của người chủ nhà và nhìn các đồ đạc trong phòng với con mắt bà chủ, khiến tôi không biết có phải cô sống ở đây hay không

295 They got into automobiles which bore them out to Long Island.

837 Họ nhảy lên xe rồi xe đưa họ đến Long Island

296

838

297

839

298

840

The sharp jut of a wall accounted for the detachment of the wheel which was now getting considerable attention from half a dozen curious chauffeurs She felt safer on a plane where any divergence from a code would be thought impossile One time he killed a man who had found out that he was nephew to von Hindenburg and second cousin to the devil

299

841

Her expression was curiously familiar — it was an expression I had often seen on women’s faces, but on Myrtle Wilson’s face it seemed purposeless and inexplicable until I realized that her eyes, wide with jealous terror, were fixed not on Tom, but on Jordan Baker, whom she took to be his wife.

300

842

301

843

302

844

Thus far there was no difficulty in accounting for his time — there were boys who had seen a man “acting sort of crazy,” and motorists at whom he stared oddly from the side of the road. After that I felt a certain shame for Gatsby — one gentleman to whom I telephoned implied that he had got what he deserved. It was the man with owl-eyed glasses whom I had found marvelling over Gatsby’s books in the library one night three months before.

Cái mố tường đột ngột nhô ra là nguyên nhân làm cho bánh xe bị gãy rời, và bây giờ nó đang được khoảng gần chục con người tò mò ngắm nghía Cô ta cảm thấy mình được yên ổn hơn trong những giới không thể tưởng tượng là có những hành vi đi chệch khỏi một phép xử thế nhất định Gã đã giết một người vì người này phát hiện ra gã là cháu của Von Hindenburg và là anh em họ xa gì đó với quỷ sứ Vẻ mặt Myrtle có cái gì quen quen kì lạ – đó là một vẻ mặt mà tôi đã hay bắt gặp ở đàn bà, nhưng ở Myrtle Wilson nó có vẻ như vô cớ và không giải thích nổi cho đến khi tôi nhận ra hai con mắt bà ta, trợn trừng lên vì một nỗi kinh hoàng bởi lòng ghen, không nhìn Tom mà nhìn thẳng vào Jordan Baker mà bà ta tưởng là vợ Tom. Cho đến giờ ấy, tính xem Wilson đã dùng thời gian như thế nào không khó – vài đứa trẻ đã nhìn thấy một người “lang thang như người điên”, và vài người lái xe đã gặp ông đứng bên vệ đường đưa mắt nhìn theo họ trừng trừng. Sau đấy, tôi cảm thấy hơi nhục nhã cho Gatsby – một kẻ khi tiếp lời gọi điện thoại của tôi, nói bóng gió với tôi rằng Gatsby bị như thế là đáng đời lắm. Đó là người đàn ông đeo đôi kính như mắt cú mà tôi đã thấy đứng sững sờ trước các giá sách trong thư viện của Gatsby vào một đêm cách đây ba tháng.

XXV

303

845 Một người tên là Bunsen mà tôi có quen hồi ở trường đại học Yale

304

846

305

847

306

848

Ai ở toà soạn nhắc đến tên Gatsby liên quan đến một sự việc nào đấy mà anh ta không chịu tiết lộ hoặc có khi anh ta cũng không biết rõ Tôi đưa mắt nhìn Daisy và Jordan. Daisy đang kinh hoàng nhìn trân trân vào một điểm giữa Gatsby và chồng, còn Jordan thì đã bắt đầu giữ thăng bằng ở chóp cằm mình một vật gì vô hình nhưng làm cô ta chăm chú lắm. Không tài nào tránh khỏi đau buồn khi ta nhìn bằng cặp mắt mới những gì mà ta đã bỏ công sức điều chỉnh của mình vào đó

307 308

A man named Bunsen whom I knew at Yale and Doctor Webster Civet who was drowned last summer up in Maine The man had heard Gatsby’s name around his office in a connection which he either wouldn’t reveal or didn’t fully understand I glanced at Daisy, who was staring terrified between Gatsby and her husband, and at Jordan, who had begun to balance an invisible but absorbing object on the tip of her chin. It is invariably saddening to look through new eyes at things upon which you have expended your own powers of adjustment. I came to a small rectangle of light which I guessed was the pantry window I took him into the drawing-room, where his son lay, and left him there.

849 Tôi thấy một ô ánh sáng nhỏ hình chữ nhật mà tôi đoán là cửa sổ gian bếp 850 Tôi đưa cụ vào phòng khách, chỗ đặt con trai cụ, và để cụ lại đấy.

309

851

A little complacent from growing up in the Carraway house in a city where dwellings are still called through decades by a family’s name.

310

852

Perhaps we possessed some deficiency in common which made us subtly unadaptable to Eastern life.

311

853

The actual founder of my line was my grandfather’s brother who came here in fifty-one, sent a substitute to the Civil War and started the wholesale hardware business that my father carries on today.

312

854

There’s a bird on the lawn that I think must be a nightingale come over on the Cunard or White Star Line.

Hơi tự hào vì được lớn lên trong một ngôi nhà của dòng họ Carraway ở một thành phố mà các ngôi nhà qua bao thập kỉ vẫn còn được gọi bằng tên một dòng họ Có lẽ chúng tôi mắc chung một nhược điểm nào đấy, nó làm cho chúng tôi không thể thích nghi được với cuộc sống miền Đông một cách khó nhận ra. người thực sự sáng lập ra chi họ chúng tôi là em trai ông nội tôi. Người ông ấy của tôi đã đến thành phố này năm 1851, cử người thay mình tham gia cuộc Nội chiến, và khai trương nghề bán buôn đồ ngũ kim. Nghề kinh doanh ấy, cha tôi còn tiếp tục cho đến nay. Trên bãi cỏ có một con chim. Em chắc là một con hoạ mi đã theo chuyến tàu White Star Line hoặc tàu Cunard đến đây

313 Except his wife, who moved close to Tom.

855 Chỉ trừ có vợ của ông. Bà vợ tiến sát lại người Tom.

314

856

She had changed her dress to a brown figured muslin which stretched tight over her rather wide hips as Tom helped her to the platform in New York

315

857

The airedale-changed hands and settled down into Mrs. Wilson’s lap, where she fondled the weather-proof coat with rapture.

316

858

Bà ta đã thay áo, mặc một chiếc áo mút-xơ-lin hoa nâu. Chiếc áo căng trên cặp mông khá đồ sộ khi Tom đỡ bà ta xuống sân ga New York Con vật đổi chủ và cuộn mình nằm gọn trong lòng bà vợ Wilson. Bà vợ Wilson sung sướng vuốt ve bộ lông, chiếc áo khoác ngoài chống mọi thời tiết của con chó Tất cả chúng tôi yên lặng nhìn bà Wilson. Bà ta vén một món tóc rủ xuống mắt, ngoái cổ lại đằng sau nhìn chúng tôi với một nụ cười rực rỡ

317

859 Nghe lỏm được câu hỏi, Myrtle đáp lại bằng những lời thô bạo và tục tĩu.

318

860

We all looked in silence at Mrs. Wilson who removed a strand of hair from over her eyes and looked back at us with a brilliant smile. It came from Myrtle, who had overheard the question and it was violent and obscene. The bottle of whiskey a second one was now in constant demand by all present, excepting Catherine, who ‘felt just as good on nothing at all.’

Chai whisky chai thứ hai bây giờ liên tục chuyển từ tay người nọ sang tay người kia, chỉ trừ có Catherine. Cô này bảo rằng “chẳng cần gì cũng vui rồi”

XXVI

319

861

Vừa đến nơi là tôi tìm gặp chủ nhân ngay, nhưng hỏi han hai bà khách, họ đều trân trân nhìn tôi với con mắt ngạc nhiên, và khăng khăng quả quyết rằng họ hoàn toàn không biết Gatsby hiện ở đâu, thành thử tôi đành lẩn đi về phía bàn rượu, chỗ độc nhất trong khu vườn mà một người đàn ông lẻ loi có thể ngồi nán lại mà không có vẻ là cô đơn và không biết dùng thời gian của mình làm gì.

Jordan mời tôi ngồi cùng với cô xung quanh một cái bàn ở một mé vườn

320

862

321 The bar, where we glanced first, was crowded but Gatsby was not there.

As soon as I arrived I made an attempt to find my host, but the two or three people of whom I asked his whereabouts stared at me in such an amazed way, and denied so vehemently any knowledge of his movements, that I slunk off in the direction of the cocktail table — the only place in the garden where a single man could linger without looking purposeless and alone. Jordan invited me to join her own party who were spread around a table on the other side of the garden

863

Jordan và tôi trước hết đến quầy rượu. Quầy rượu đông kịt nhưng không có Gatsby ở đấy.

322

864 Tôi dẫn Gatsby vào gian bếp. Anh nhìn chị giúp việc của tôi với vẻ trách móc

323

865

324

866

325

867

326

868

Chúng tôi đến phần nhà Gatsby ở gồm một phòng ngủ, một buồng tắm, một phòng làm việc trang trí kiểu Adam. Chúng tôi ngồi lại, uống một li rượu Chartreuse mà Gatsby lấy ở tủ li chìm trong tường ra. Chị giúp việc người Phần Lan của tôi cho biết cách đây một tuần, Gatsby đã sa thải tất cả tôi tớ trong nhà, thay bằng một nửa tá gia nhân mới. Đám gia nhân này không bao giờ vào làng West Egg để bị các nhà buôn mua chuộc mà chỉ gọi điện thoại đặt mua các đồ ăn thức uống với số lượng vừa phải. Tôi đưa mắt nhìn Daisy và Jordan. Daisy đang kinh hoàng nhìn trân trân vào một điểm giữa Gatsby và chồng, còn Jordan thì đã bắt đầu giữ thăng bằng ở chóp cằm mình một vật gì vô hình nhưng làm cô ta chăm chú lắm. Chúng tôi chạm trán một người bác sĩ tay cầm túi cứu thương đang vội vã chạy đến. Nửa giờ trước người ta đi gọi ông với một hi vọng hão huyền.

327

869

Chỉ chừa ra có Gatsby, người được lấy tên đặt cho cuốn sách này, một con người tiêu biểu cho tất cả những gì mà tôi thành thật khinh bỉ

I took him into the pantry where he looked a little reproachfully at the Finn We came to Gatsby’s own apartment, a bedroom and a bath and an Adam study, where we sat down and drank a glass of some Chartreuse he took from a cupboard in the wall. My Finn informed me that Gatsby had dismissed every servant in his house a week ago and replaced them with half a dozen others, who never went into West Egg Village to be bribed by the tradesmen, but ordered moderate supplies over the telephone. I glanced at Daisy, who was staring terrified between Gatsby and her husband, and at Jordan, who had begun to balance an invisible but absorbing object on the tip of her chin. We pushed through the still gathering crowd, passing a hurried doctor, case in hand, who had been sent for in wild hope half an hour ago. Only Gatsby, the man who gives his name to this book, was exempt from my reaction — Gatsby, who represented everything for which I have an unaffected scorn.

328

870

This is a valley of ashes — a fantastic farm where ashes grow like wheat into ridges and hills and grotesque gardens; where ashes take the forms of houses and chimneys and rising smoke and, finally, with a transcendent effort, of men who move dimly and already crumbling through the powdery air.

329

871

330

872

Tom rang for the janitor and sent him for some celebrated sandwiches, which were a complete supper in themselves. Each time I tried to go I became entangled in some wild strident argument which pulled me back

Cả một vùng thung lũng này bị chìm ngập dưới một lớp bụi dày xám như tro, trông chẳng khác nào một trang trại quái đản, nơi tro mọc lên như lúa mì, thành gò, thành đống, thành những vườn tược kì quái, nơi tro mang hình những ngôi nhà, những ống khói lò sưởi và cả làn khói toả ra từ những ống khói ấy, và cuối cùng với một cố gắng vượt bậc, nó mang hình những con người xám ngoét lờ mờ di động hoặc chỉ chực khuỵu ngã trong một bầu không khí mù mịt. Tom bấm chuông gọi người gác cổng lên sai đi mua bánh mì kẹp thịt, loại bánh được quảng cáo rất nhiều mỗi lần tôi định đi thì lại bị mắc vào một vấn đề tranh cãi gay gắt, nó như những sợi dây kéo giật tôi trở lại chiếc ghế đang ngồi

XXVII

331

873

332

874

333

875

334

876

335

877

336

878

337

879

338

880

339

881

340

882

Tôi rút mùi soa lau vết bọt xà phòng trên má ông, nó đã làm tôi bứt rứt suốt cả buổi chiều Theo yêu cầu của ông Gatsby, dàn nhạc chúng tôi sẽ trình diễn hầu quý vị tác phẩm mới nhất của Vladimir Tostoff, một nhạc phẩm đã làm cho người nghe tại hội trường Carnegie trong tháng Năm vừa qua phải xì xào thán phục Đến tám giờ tối, khi trên lòng đường tối đen của các phố Bốn mươi chen chúc những chiếc xe tắc xi chạy hàng năm về phía các rạp hát Vậy là từ ở East Egg đến có cặp vợ chồng Chester Becker và vợ chồng Leech cùng với một người tên là Bunsen mà tôi có quen hồi ở trường đại học Yale. Có bác sĩ Webster Civet, ông này mùa hè năm sau bị chết đuối ở bang Maine. Newton Orchid, người nắm công ty “Những bộ phim tuyệt tác”, có Eckhaust, Clyde Cohen, Don S. Schwartze (con) và Arthur McCarty, tất cả đều dính líu với ngành điện ảnh bằng cách này hay cách khác. Khi anh châm thuốc cho Daisy, que diêm anh cầm run run. Anh ngồi xuống cạnh Daisy trên một chiếc đi văng ở cuối gian phòng, chỗ đó không có ánh sáng nào khác ngoài ánh sáng ở hành lang hắt qua sàn gỗ bóng loáng. Tất cả chúng tôi bước ra thềm, tại đó ông Sloane và bà khách nói chuyện với nhau rất hăng. Tôi đăm đăm nhìn ông ta rồi nhìn sang Tom, anh này cũng vừa mới khám phá ra một chuyện tương tự dính dáng đến mình cách đây chưa đầy một tiếng Anh đâu biết rằng nó đã rớt lại đằng sau anh rồi, ở một chỗ nào đó trong khoảng tối mênh mông bên kia thành phố, nơi những cánh đồng sẫm đen của nước cộng hoà trải ra trong đêm tối. Với con bà, những từ này ngụ ý một niềm vui phi thường, như thể nếu sắp xếp đâu vào đấy, thì chuyến đi này nhất định sẽ diễn ra, và điều kỳ diệu mà cậu hằng mong đợi hết năm này tói năm khác, dường như chỉ sau một đêm, sau một ngày sẽ ra khơi, sẽ nằm trong tầm tay.

341

883

…, vì với những người như thế, ngay từ tuổi ấu thơ, bất cứ bánh xe tuổi thơ nào cũng có sức mạnh kết tinh và ngưng tụ cái khoảng khắc mà nỗi u buồn sự tươi vui ngự trị, nên James Ramsay, đang ngồi trên sàn nhà, cắt hình từ tạp chí minh họạ cửa hàng quân trang, đã gán cho bức hình chiếc tủ lạnh một hạnh phúc vô biên, khi nghe mẹ nói thế.

342

884

Ngoại trừ thói phóng khoáng mà lũ trẻ học được từ bà và từ cái ngụ ý rằng bà mời quá nhiều người tới rồi phải để vài người vào thị trấn ở (cái này thì đúng), … XXVIII

Taking out my handkerchief I wiped from his cheek the remains of the spot of dried lather that had worried me all the afternoon. At the request of Mr. Gatsby we are going to play for you Mr. Vladimir Tostoff’s latest work which attracted so much attention at Carnegie Hall last May Again at eight o’clock, when the dark lanes of the Forties were five deep with throbbing taxi cabs, bound for the theatre district From East Egg, then, came the Chester Beckers and the Leeches, and a man named Bunsen, whom I knew at Yale, and Doctor Webster Civet, who was drowned last summer up in Maine. Newton Orchid, who controlled Films Par Excellence and Eckhaust and Clyde Cohen and Don S. Schwartze (the son) and Arthur McCarty, all connected with the movies in one way or another He lit Daisy’s cigarette from a trembling match, and sat down with her on a couch far across the room where there was no light save what the gleaming floor bounced in from the hall. The rest of us walked out on the porch, where Sloane and the lady began an impassioned conversation aside I stared at him and then at Tom, who had made a parallel discovery less than an hour before He did not know that it was already behind him, somewhere back in that vast obscurity beyond the city, where the dark fields of the republic rolled on under the night. To her son these words conveyed an extraordinary joy, as if it were settled, the expedition was bound to take place, and the wonder to which he had looked forward, for years and years it seemed, was, after a night's darkness and a day's sail, within touch. …, since to such people even in earliest childhood any turn in the wheel of sensation has the power to crystallise and transfix the moment upon which its gloom or radiance rests, James Ramsay, sitting on the floor cutting out pictures from the illustrated catalogue of the Army and Navy stores, endowed the picture of a refrigerator, as his mother spoke, with heavenly bliss. Apart from the habit of exaggeration which they had from her, and from the implication (which was true) that she asked too many people to stay, and had to lodge some in the town, …

343

885

Lúc tuyết bắt đầu rơi và sương mù che phủ đỉnh núi, vị thủ lĩnh kia biết rằng mình phải nằm xuống và chết trước khi trời sang; cái cảm giác đáng lẽ ra không nên làm nhục vị thủ lĩnh ấy lén bò đến bên ông, làm mắt ông mờ đi, và chỉ trong hai phút ông quay lại mái hiên đã khiến ông có bề ngoài bợt bạt của tuổi già héo úa.

344

886

Chúng biết anh ta thích gì nhất-hết đi qua đi lại, đi tới đi lui với ông Ramsay , nói ai giành được cái này, ai đạt được cái kia, ai là “cao thủ hạng nhất” về thơ Latin, ai “rất tuyệt nhưng tôi nghĩ về cơ bản thì không ổn”, ai chẳng còn nghi ngờ gì nữa sẽ là “kẻ tài ba nhất Balliol”, ai sẽ tạm thời chôn vùi tài năng ở Bristol hay Bedford” nhưng nhất định sau này sẽ được nghe nói tới Charles Tansley cho ra mắt cuốn Prolegomena viết về một nhánh toán học hay triết học gì đó mà anh ta luôn cầm theo vài trang đề phòng khi ông Ramsay muốn xem.

345

887

Luôn có việc gì đó phải làm vào đúng thời điểm này, việc gì đó mà bà Ramsay vì lý do riêng đã quyết định phải làm ngay, đó có thể là việc mọi người cứ tiếp tục đùa bỡn, như lúc này đây, nên ta không biết liệu họ có đi qua phòng hút thuốc, phòng tiếp khách, hay lên tầng áp mái hay không.

346

Feelings that would not have disgraced a leader who, now that the snow has begun to fall and the mountain top is covered in mist, knows that he must lay himself down and die before morning comes, stole upon him, paling the colour of his eyes, giving him, even in the two minutes of his turn on the terrace, the bleached look of withered old age. They knew what he liked best—to be for ever walking up and down, up and down, with Mr Ramsay, and saying who had won this, who had won that, who was a "first rate man" at Latin verses, who was "brilliant but I think fundamentally unsound," who was undoubtedly the "ablest fellow in Balliol," who had buried his light temporarily at Bristol or Bedford, but was bound to be heard of later when his Prolegomena of which Mr Tansley had the first pages in proof with him if Mr Ramsay would like to see them, to some branch of mathematics or philosophy saw the light of day. There was always something that had to be done at that precise moment, something that Mrs Ramsay had decided for reasons of her own to do instantly, it might be with every one standing about making jokes, as now, not being able to decide whether they were going into the smoking-room, into the drawing-room, up to the attics.

888

…, when she visited this widow, or that struggling wife in person with a bag on her arm, and a note-book and pencil with which she wrote down in columns carefully ruled for the purpose wages and spendings, …

…, khi bà ghé thăm một bà góa, hay một bà vợ đang vật lộn mưu sinh, với cái giỏ tay, cùng cuốn vở và cây mực chì mà nhờ chúng, bà cần thận ghi lại thành các mục thu chi có chủ đích, việc làm và không làm, …

347

889

348

890

349

891

350

892

One moment more, with her head raised, she listened, as if she waited for some habitual sound, some regular mechanical sound; and then, hearing something rhythmical, half said, half chanted, beginning in the garden, as her husband beat up and down the terrace, something between a croak and a song, she was soothed once more, assured again that all was well, and looking down at the book on her knee found the picture of a pocket knife with six blades which could only be cut out if James was very careful. There was education now to be considered (true, Mrs Ramsay had something of her own perhaps) let alone the daily wear and tear of shoes and stockings which those "great fellows," all well grown, angular, ruthless youngsters, must require. Nothing but an in comparable beauty which she lived behind, and could do nothing to disturb? Starting from her musing she gave meaning to words which she had held meaningless in her mind for a long stretch of time.

Một lúc sau, bà vươn người, lắng nghe, như đang đợi thứ âm thanh quen thuộc, thứ âm thanh cơ học đều đều nào đó, và rồi, khi nghe thất tiếng gì đó nhịp nhàng, nửa nói năng nửa ngân nga vẳng ra từ khu vườn, tỏng lúc chồng bà đánh nhịp và di xuống hàng hiên, tiếng gì đó nửa giống bài hát nửa giống tiếng kêu ộp oạp, thì bà lại thất mình được an ủi, đoắn chắc rằng mọi việc đều ổn, và bà nhìn xuống cuốn sách đang đặt trên đùi, tìm thấy bức hình con dao bỏ túi có sáu lưỡi mà nếu cắt ra thì James phải cẩn thận. Giờ giáo dục là điều cần quan tâm (đúng thế, bà Ramsay hẳn pải có thứ gì đó của riêng bà) chứ không chỉ là chuyện hư mòn hằng ngày của giày tất mà “những gã vĩ đại” kia, tất cả những kể lớn khỏe, cứng đờ, tàn nhẫn kia đều cần đến. Chẳng có gì ngoài vẻ đẹp không sánh nổi mà bà ẩn đằng sau, và không làm gì để cản trở cả? Thảng thốt thoát khỏi sự trầm ngâm, bà gán nghĩa cho những ngôn từ mà mình đã cho là vô nghĩa một hôi lâu trong đầu.

XXIX

351

893

352

…, as if in return, restoring to roses and pinks a lustre which they had not had by day.

894

He stopped to light his pipe, looked once at his wife and son in the window, and as one raises one's eyes from a page in an express train and sees a farm, a tree, a cluster of cottages as an illustration, a confirmation of something on the printed page to which one returns, …

…, rồi trả lại cho hoa hồng và cẩm chướng vẻ quyến rũ mà ban ngày chúng chẳng có. Ông dùng lại châm tẩu, nhìn vợ và con trai trong ô cửa lần nữa, và y như ai đó đang ngồi trên tàu tốc hành, rời mắt khỏi tờ báo nhìn ra ngoài thấy một nông trại, một cái cây, một cụm lều là minh chứng, là lời khẳng định cho đi gì đó hiện diện trên trang báo mà mình khi đã vững tấm lòng rồi thì sẽ quay lại đọc tiếp, …

353

895

Nhưng sau Q là gì? Sau Q là vài chữ nữa mà chữ cuối cùng rất hiếm khi lộ ra trước con mắt phàm tuc, dẫu nó lập lòe ánh đỏ từ xa.

354

896

…, giống như bọn trẻ đi lượm vỏ sò thì cực kỳ ngây thơ và bận bịu với những thứ lặt vặt dưới chân mình, chẳng đề phòng hiểm họa mà ông cảm thấy.

355

897

But after Q? What comes next? After Q there are a number of letters the last of which is scarcely visible to mortal eyes, but glimmers red in the distance. Z is only reached once by one man in a generation. …, divinely innocent and occupied with little trifles at their feet and somehow entirely defenceless against a doom which he perceived, his wife and son, together, in the window. He did not look at the flowers, which his wife was considering, but at a spot about a foot or so above them.

Ông không nhìn hoa, thứ mà vợ ông đang xem xét, mà nhìn vào một điểm cách một thước trên đầu họ.

356

898

Qualities that in a desolate expedition across the icy solitudes of the Polar region would have made him the leader, the guide, the counsellor, whose temper, neither sanguine nor despondent, surveys with equanimity what is to be and faces it, came to his help again.

Những phẩm chất sẽ biến ông thành thủ lĩnh, hoa tiêu, viên cố vấn trong đoàn thám hiểm cô độc đang băng qua chốn quạnh hiu đầy băng tuyết nơi vùng cực, những người không mấy lạc quan nhưng cũng chẳng nản long mà bình thản điều gì sắp xảy ra và đối mặt với nó, những phẩm chất ấy lại dến giúp ông.

357

899

Mắt ông Ramsay đong đầy cảm xúc, thách thức với cường độ bi thương, bắt gặp mắt họ một giây rồi run rẩy khi nhận ra họ; sau đó, ông ta giơ tay lên, nửa hướng tới gương mặt như để xua đi, phủi đi cái nhìn bình thường của họ, trong niềm đau của sự xấu hổ cáu kỉnh, như thể ông ta van họ kiềm nén trong chốc lát điều mà mình biết chẳng kiềm nén được, như thể ông ta tạo ấn tượng với họ về việc ghét bị chen ngang hơi giống trẻ con của mình song ngay cả khi không bị phát hiện ra thì ông ta cũng nhất định vồ lấy thứ cảm xúc ngon lành nào đó - bản đầy tạp âm của những gì mà ông ta thấy xấu hổ nhưng vẫn say đắm ấy - thì ông ta liền quay ngoắt lại, đóng sầm cánh cửa riêng tư của mình trước mặt họ; nên Lily Briscoe và ông Bankes, khó chịu nhìn lên trời, quan sát đàn sáo đá mà Jasper đã dùng súng làm cho tan tác đang đậu trên ngọn mấy cây du.

358

900

His eyes, glazed with emotion, defiant with tragic intensity, met theirs for a second, and trembled on the verge of recognition; but then, raising his hand, half-way to his face as if to avert, to brush off, in an agony of peevish shame, their normal gaze, as if he begged them to withhold for a moment what he knew to be inevitable, as if he impressed upon them his own child- like resentment of interruption, yet even in the moment of discovery was not to be routed utterly, but was determined to hold fast to something of this delicious emotion, this impure perhap sody of which he was ashamed, but in which he revelled—he turned abruptly, slammed his private door on them; and, Lily Briscoe and Mr Bankes, looking uneasily up into the sky, observed that the flock of starlings which Jasper had routed with his gun had settled on the tops of the elm trees. …and yet their going inflicts such a chill on those who watch them that they always try at least to follow them with their eyes as one follows a fading ship until the sails have sunk beneath the horizon.

…mà dấn bước đi tiếp sẽ khiến những ai đưa mắt nhìn theo cảm thấy ớn lạnh, đến nỗi họ chí ít cũng luôn cố đưa mắt nhìn theo, y như ta nhìn theo con thuyền đang mờ dần tới khi những cánh buồm chìm xuống đường chân trời.

XXX

359

901

Tay đan chiếc tất xù màu nâu đo đỏ, đầu nằm một cách ngớ ngẩn trong cái khung tranh mạ vàng, rìa khung được bà trùm chiếc khan màu xanh lục lên, còn bức tranh được chép lại từ bức gốc của Michsael Angelo”, bà Ramsay thả lỏng cung cách trước đó còn khó chịu, nâng đầu con trai và hôn lên trán nó.

360

902

Tiếng pháp có thể không có những từ biểu đạt hết suy nghĩ của người nói, nhưng nói tiếng pháp sẽ buộc người nói tuân theo một trật tự, một sự thống nhất nào đó.

361

903

Luôn có việc gì đó phải làm vào đúng thời điểm này, việc gì đó mà bà Ramsay vì lý do riêng đã quyết định phải làm ngay, đó có thể là việc mọi người cứ tiếp tục đùa bỡn, như lúc này đây, nên ta không biết liệu họ có đi qua phòng hút thuốc, phòng tiếp khách, hay lên tầng áp mái hay không.

362

904

363

905

364

906

365

907

366

908

367

909

Vì chạy cách giá vẽ có vài phân nên Cam không dừng lại chỗ ông Bankes và Lily Briscoe; dù ông Bankes, hẳn rất thích có một đứa con gái, bèn chìa tay ra; … Song ông tự hỏi, vô vàn người bình thường ấy có phải tiêu chuẩn để ta đánh giá phạm vi văn minh hay không? Ở đây, dừng lại một lúc cạnh cái chậu đá trồng phong lữ thảo, ông nhìn thấy, nhưng bây giờ rất xa xôi, vợ và con trai ông, cả hai, phía trong cửa sổ, như bọn trẻ con đang nhặt vỏ sò, cực kỳ vô tư và hoàn toàn bị xâm chiếm bởi những thứ bé nhỏ dưới chân chúng và theo cách nào đó hoàn toàn vô tự vệ không thể chống lại một định mệnh bất hạnh mà ông nhận thức được. Những phẩm chất sẽ biến ông thành thủ lĩnh, hoa tiêu, viên cố vấn trong đoàn thám hiểm cô độc đang băng qua chốn quạnh hiu đầy băng tuyết nơi vùng cực, những người không mấy lạc quan nhưng cũng chẳng nản long mà bình thản điều gì sắp xảy ra và đối mặt với nó, những phẩm chất ấy lại dến giúp ông. Lúc tuyết bắt đầu rơi và sương mù che phủ đỉnh núi, vị thủ lĩnh kia biết rằng mình phải nằm xuống và chết trước khi trời sang; cái cảm giác đáng lẽ ra không nên làm nhục vị thủ lĩnh ấy lén bò đến bên ông, làm mắt ông mờ đi, và chỉ trong hai phút ông quay lại mái hiên đã khiến ông có bề ngoài bợt bạt của tuổi già héo úa. Những phẩm chất sẽ cứu được cả thủy thủ đoàn đang phơi mình trên biển cả nóng như thiêu đốt, với sáu cái bánh quy và một bình nước-sự nhẫn lại, công tâm, lo xa, tận tụy, kỹ năng, những thứ ấy đến giúp ông.

Knitting her reddish-brown hairy stocking, with her head outlined absurdly by the gilt frame, the green shawl which she had tossed over the edge of the frame, and the authenticated masterpiece by Michael Angelo, Mrs Ramsay smoothed out what had been harsh in her manner a moment before, raised his head, and kissed her little boy on the forehead. Perhaps it is bad French; French may not contain the words that express the speaker's thoughts; nevertheless speaking French imposes some order, some uniformity. There was always something that had to be done at that precise moment, something that Mrs Ramsay had decided for reasons of her own to do instantly, it might be with every one standing about making jokes, as now, not being able to decide whether they were going into the smoking-room, into the drawing-room, up to the attics. For Cam grazed the easel by an inch; she would not stop for Mr Bankes and Lily Briscoe; though Mr Bankes, who would have liked a daughter of his own, held out his hand; … Is the lot of the average human being, however, he asked himself, the criterion by which we judge the measure of civilization? Here, stopping for one moment by the stone urn which held the geraniums, he saw, but now far, far away, like children picking up shells, divinely innocent and occupied with little trifles at their feet and somehow entirely defenceless against a doom which he perceived, his wife and son, together, in the window. Qualities that in a desolate expedition across the icy solitudes of the Polar region would have made him the leader, the guide, the counsellor, whose temper, neither sanguine nor despondent, surveys with equanimity what is to be and faces it, came to his help again. Feelings that would not have disgraced a leader who, now that the snow has begun to fall and the mountain top is covered in mist, knows that he must lay himself down and die before morning comes, stole upon him, paling the colour of his eyes, giving him, even in the two minutes of his turn on the terrace, the bleached look of withered old age. Qualities that would have saved a ship's company exposed on a broiling sea with six biscuits and a flask of water—endurance and justice, foresight, devotion, skill, came to his help.

XXXI

368

910

369

911

…, dù không thể nhìn rõ cả vợ lẫn con trai mình, hình ảnh của họ cũng củng cố tinh thần ông, làm cho ông mãn nguyện và thúc đẩy ông nỗ lực đạt tới một sự thấu hiểu hoàn toàn rõ ràng về vấn đề lúc này đang thu hút những năng lượng trong bộ óc tuyệt vời của ông. Mai nhà mình chả có cơ may nào đi thăm ngọn hải đăng đâu, ôm Ramsay cắm cảu bảo.

…, so without his distinguishing either his son or his wife, the sight of them fortified him and satisfied him and consecrated his effort to arrive at a perfectly clear understanding of the problem which now engaged the energies of his splendid mind. There wasn't the slightest possible chance that they could go to the Lighthouse tomorrow, Mr Ramsay snapped out irascibly. 370 There was nobody whom she reverenced as she reverenced him.

912 Bà không sùng kính một ai như đã sùng kính ông.

371

913

Xấu hổ vì thói cáu bẳn dằn dỗi, vì cử chỉ vung tay trong khi mình là thủ lĩnh đứng đầu ba quân, ông Ramsay hơi ngượng ngùng lại chọc cặp chân trần của cậu con trai, và rồi như thể được bà để mặc cho làm thế, cử chỉ đó của cậu khiến bà nhớ một cách kỳ quặc tới sư tử biển ở sở thú, con vật xơi mớ cá của mình xong liền ngã bổ chửng về sau, quẩy mạnh đến nỗi nước trong bể dềnh lên từ bên này sang bên kia, rồi nó lặn vào không khí ban đêm, …

372

914

“Nhưng nó chẳng biết tới vẻ đẹp của mình, không hơn gì một đứa trẻ”, ông Bankes bảo rồi đặt ống nghe lại chỗ cũ, băng ngang phòng để tới xem mấy người thợ làm ăn thế nào với khách sạn đang xây phía sau nhà ông.

373

915

Có một cảm xúc phi thường lớn dần theo từng bước chân bách bộ, một cam xúc đã bắt đầu trong vườn khi anh muốn cầm hộ bà cái giỏ, tăng dần nơi thị trấn khi anh muốn kể cho bà nghe mọi điều về mình, khi anh sắp hiểu ra bản thân, và mọi điều anh từng biết chợt xiêu vẹo đi đôi chút.

Already ashamed of that petulance, of that gesticulation of the hands when charging at the head of his troops, Mr Ramsay rather sheepishly prodded his son's bare legs once more, and then, as if he had her leave for it, with a movement which oddly reminded his wife of the great sea lion at the Zoo tumbling backwards after swallowing his fish and walloping off so that the water in the tank washes from side to side, he dived into the evening air, … "But she's no more aware of her beauty than a child," said Mr Bankes, replacing the receiver and crossing the room to see what progress the workmen were making with an hotel which they were building at the back of his house. Under the influence of that extraordinary emotion which had been growing all the walk, had begun in the garden when he had wanted to take her bag, had increased in the town when he had wanted to tell her everything about himself, he was coming to see himself, and everything he had ever known gone crooked a little.

374

916

Bitter and black, half-way down, in the darkness, in the shaft which ran from the sunlight to the depths, perhaps a tear formed; a tear fell; the waters swayed this way and that, received it, and were at rest.

375

917

376

918

But the number of men who make a definite contribution to anything whatsoever is very small, he said, pausing by the pear tree, well brushed, scrupulously exact, exquisitely judicial. Standing now, apparently transfixed, by the pear tree, impressions poured in upon her of those two men, and to follow her thought was like following a voice which speaks too quickly to be taken down by one's pencil, and the voice was her own voice saying without prompting undeniable, everlasting, contradictory things, so that even the fissures and humps on the bark of the pear tree were irrevocably fixed there for eternity.

Cay đắng, đen tối, lắn xuống nửa chừng trong bóng tối, trong cái ống thông chạy từ phía ánh mặt trời về phía vực sâu, có lẽ một giọt nước mắt thành hình; một giọt nước mắt rơi; dòng nước đong đưa bên này bên kia, đón lấy nó rồi nằm yên. Nhưng số người có đóng góp nhất định cho bất kỳ thứ gì dù sao cũng rất nhỏ, ông Bankes nói và dừng lại cạnh cây lê, chải chuốt bóng mượt, chính xác một cách tỉ mỉ, sang suốt một cách sắc sảo. Cô đứng đó, cạnh cây lê, sửng sốt thấy rõ những ấn tượng về hai người đàn ông đó ụp xuống mình và theo dõi suy nghĩ của mình y như dõi theo một giọng nói quá nhanh, không thể dùng bút chì ghi lại được, mà giọng nói ấy là giọng của chính cô, nó nói mà không gợi lên những thứ mâu thuẫn , vĩnh cửu, không thể chối cãi được, để rồi ngay cả những khe nứt, cục mấu trên vỏ cây lê cũng muốn ở đó mãi mãi.

XXXII

377

919

378

920

Và cô cố tập trung, chứ tâm nghĩ, không phải tới lớp vỏ chạm nổi màu bạc, hay đám lá hình con cá, mà tới chiếc bàn bếp tưởng tượng, một trong những chiếc bàn lớn được kỳ cọ, sơn giả van gỗ và mấu cây, có những phẩm chất như bị năm tháng khỏe như vâm lột trần ra, thứ mắc kẹt đằng kia, nằm chổng bốn vó lên trời. Biết bao lần ông đã nói, “Ramsay là một trong số những người làm tốt công việc của mình nhất trước tuổi bốn mươi.”

379

921

…khi bà nghiêm nghị quở trách chúng về chuyện gã vô thần khốn khổ đã rượt đuổi chúng- hay chinh xác hơn, là đã được mời tới cùng chúng-trên đảo Skye.

380

922

381

923

382

924

Việc đó y như thể nước dâng lên, đẩy những suy nghĩ đã trở lên chây ỳ trên mảnh đất khô cằn ra khơi và khiến cở thể họ có được sự khuây khỏa thể chất nào đó. Họ đều cảm nhận được niềm vui chung, được những con sóng di chuyển khuấy động, được chiếc thuyền rẽ sóng lướt qua, quay ngoắt lại tạo thành một đường cong rồi run rẩy dừng hẳn, buông buồm xuống, khuấy động; và rồi, với bản năng tự nhiên để hoàn tất bức tranh, sau chuyển động mau lẹ đó, cả hai người bọn họ nhìn những đồi cát xa xa, và thay vì niềm vui thì họ thấy tràn ngập một nỗi buồn… Họ đều trọ ở trong làng, vậy là, hết đi ra đi vào, chia tay muộn màng nơi tấm thảm chùi chân đặt ở cửa, nói dăm câu ba điều về món súp về bọn trẻ nhà Ramsay, về chuyện nọ chuyện kia khiến họ thành đồng minh của nhau; để rồi giờ đây khi ông đứng cạnh cô với cung cách phán xét của mình (ông đáng tuổi cha cô, là một nhà thực vật học, một kẻ góa vợ, mình đầy mùi xà phòng, rất cẩn thận và sạch sẽ) thì cô chỉ biết đứng đó.

383

925

Tiếng thì thầm cộc cằn, đôi lúc ngưng lại vì những chiếc tẩu được rút ra rồi nhét vào miệng đã tiếp tục đảm bảo với bà, dù bà không nghe rõ họ nói gì (vì bà ngồi phía trong ô cửa sổ mở ra hàng hiên) là đám đàn ông đang tò chuyện vui vẻ;

384

926

385

927

386

928

Bước qua cánh đồng hoa, đem tới đặt lên ngực bà những nụ hoa vụn vỡ và những chú cừu rơi rụng, với sao sa trong mắt và gió lướt trên tóc bà-anh cầm lấy giỏ của bà. trong khi nhìn thấy tất cả những điều này, ông trượt một cách êm ái vào sự suy tư được gợi lên bởi một bài báo trong tờ The Times về con số những người Mỹ viếng thăm ngôi nhà của Shakespeare hàng năm. “đi nào” Charles nhắc lại lời bà và tự tiện thốt ra những lời đó khiến bà nhăn mặt.

And with a painful effort of concentration, she focused her mind, not upon the silver-bossed bark of the tree, or upon its fish-shaped leaves, but upon a phantom kitchen table, one of those scrubbed board tables, grained and knotted, whose virtue seems to have been laid bare by years of muscular integrity, which stuck there, its four legs in air Times without number, he had said, "Ramsay is one of those men who do their best work before they are forty." …when she admonished them so very severely about that wretched atheist who had chased them—or, speaking accurately, been invited to stay with them—in the Isle of Skye. It was as if the water floated off and set sailing thoughts which had grown stagnant on dry land, and gave to their bodies even some sort of physical relief. They both felt a common hilarity, excited by the moving waves; and then by the swift cutting race of a sailing boat, which, having sliced a curve in the bay, stopped; shivered; let its sails drop down; and then, with a natural instinct to complete the picture, after this swift movement, both of them looked at the dunes far away, and instead of merriment felt come over them some sadness… They had rooms in the village, and so, walking in, walking out, parting late on door-mats, had said little things about the soup, about the children, about one thing and another which made them allies; so that when he stood beside her now in his judicial way (he was old enough to be her father too, a botanist, a widower, smelling of soap, very scrupulous and clean) she just stood there. The gruff murmur, irregularly broken by the taking out of pipes and the putting in of pipes which had kept on assuring her, though she could not hear what was said (as she sat in the window which opened on the terrace), that the men were happily talking; Stepping through fields of flowers and taking to her breast buds that had broken and lambs that had fallen; with the stars in her eyes and the wind in her hair—He had hold of her bag. …he slipped, seeing all this, smoothly into speculation suggested by an article in THE TIMES about the number of Americans who visit Shakespeare's house every year. "Let's go," he said, repeating her words, clicking them out, however, with a self-consciousness that made her wince.

XXXIII

387

929

388

His hands clasped themselves over his capacious paunch, his eyes blinked, as if he would have liked to reply kindly to these blandishments (she was seductive but a little nervous) but could not, sunk as he was in a grey-green somnolence which embraced them all, without need of words, in a vast and benevolent lethargy of well-wishing; …

930

She had in mind at the moment, rich and poor, high and low; the great in birth receiving from her, half grudging, some respect, for had she not in her veins the blood of that very noble, if slightly mythical, Italian house, whose daughters, scattered about English drawing-rooms in the nineteenth century, had lisped so charmingly, had stormed so wildly, and all her wit and her bearing and her temper came from them, and not from the sluggish English, or the cold Scotch;

389

931

390

932

391

933

He wished he could think of something to say to Mrs Ramsay, something which would show her that he was not just a dry prig. Stepping through fields of flowers and taking to her breast buds that had broken and lambs that had fallen; with the stars in her eyes and the wind in her hair—He had hold of her bag. Disappearing as stealthily as stags from the dinner-table directly the meal was over, the eight sons and daughters of Mr and Mrs Ramsay sought their bedrooms, their fastness in a house where there was no other privacy to debate anything, everything; Tansley's tie; the passing of the Reform Bill; sea birds and butterflies; people;

392

934

Strife, divisions, difference of opinion, prejudices twisted into the very fibre of being, oh, that they should begin so early, Mrs Ramsay deplored

393

935

while the sun poured into those attics, which a plank alone separated from each other so that every footstep could be plainly heard and the Swiss girl sobbing for her father who was dying of cancer in a valley of the Grisons, and lit up bats, flannels, straw hats, ink-pots, paint-pots, beetles, and the skulls of small birds, while it drew from the long frilled strips of seaweed pinned to the wall a smell of salt and weeds, which was in the towels too, gritty with sand from bathing.

394

936

He felt many things, something in particular that excited him and disturbed him …

Ông ta đan tay vào nhau và đặt lên cái bụng bự, mắt hấp háy, như buộc phải tử tế đáp lại lời xu nịnh này (bà thật quyến rũ dù có chút lo lắng) song không thế, vì ông ta bị chìm vào cơn gà gật xanh xám đang ôm lấy tất cả bọn họ, cả ngôi nhà, cả thế giới, tất cả mọi người trong đó, chắng nói lời nào mà cứ thế chìm vào giấc ngủ an lanh, mênh mang và nhân từ, … Vào khoảnh khắc đó, bà chìm vào suy ngẫm, về giàu và nghèo, về cao và thấp; về sự vĩ đại bẩm sinh thừa hưởng từ bà, với nửa phần là ác cảm, và nửa phần là lòng tôn kính, vì hẳn là trong huyết quản của bà đã không có dòng máu cao quý đó, nếu không có ngôi nhà Ý hơi nhuốm vẻ hoang đường, nơi các cô con gái tản mác trong những căn phòng khách kiểu Anh vào thế kỷ mười chín đã rù rì rủ rỉ một cách đáng yêu, đã nổi cơn thịnh nộ một cách điên rồ, và toàn bộ trí thông minh, ngoại hình và tính nết của bà xuất phát từ đó chứ không phải từ người Anh uể oải hay người Tô Cách Lan lạnh lùng; Anh ước mình có thể nghĩ ra điều gì đó nói với bà Ramsay, cho bà thấy anh không phải kẻ hợm hĩnh khô khan. Bước qua cánh đồng hoa, đem tới đặt lên ngực bà những nụ hoa vụn vỡ và những chú cừu rơi rụng, với sao sa trong mắt và gió lướt trên tóc bà-anh cầm lấy giỏ của bà. Hệt như đàn hươu, lũ trẻ nhà Ramsay gồm tám đứa cả trai lẫn gái ăn tối xong liền lẻn về phòng mình, với sự nhanh nhẹn của người ở trong ngôi nhà không có chút riêng tư để bàn luận bất kỳ chuyện gì, mọi chuyện, về cà vạt của Charles Tansley, dự luật cải cách được thông qua, về đám chim biển và lũ bướm, về con người; Sự gây gổ, các phe phái, những khác biệt về ý kiến, những thành kiến bện vào từng thớ sợi của cuộc sống, ôi, chúng bắt đầu mấy thứ đó quá sớm, bà Ramsay xót xa. trong khi đó mặt trời rọi nắng xuống những căn gác mái giống như một mảng ván tách rời khỏi các mảnh khác khiến cho người ta có thể nghe thấy mơ hồ tiếng mỗi bước chân và tiếng khóc của cô gái Thụy Sĩ nhớ thương người cha đang hấp hối vì bệnh ung thư trong một thung lũng ở Grisons và soi sáng những con dơi, những bộ quần áo bằng vải fla-nen, những chiếc nón rơm, những bình mực, những lon sơn, những con ong, và sọ của những con chim nhỏ, trong lúc nó cuốn lên từ những dải rong biển dính vào tường mùi của muối và cỏ dại, cái mùi có cả trong những chiếc khăn tắm còn lợn cợn những cát sau khi tắm. Anh ta cảm nhận được nhiều điều, điều gì đó cụ thể khiến anh hào hứng và bối rối …

XXXIV

395

937

396

938

397

"Someone had blundered"—Fixing her short-sighted eyes upon her husband, who was now bearing down upon her, she gazed steadily until his closeness revealed to her (the jingle mated itself in her head) that something had happened, someone had blundered. …; together with a pile of old magazines, and some tobacco, indeed, whatever she could find lying about, not really wanted, but only littering the room, to give those poor fellows, who must be bored to death sitting all day with nothing to do but polish the lamp and trim the wick and rake about on their scrap of garden, something to amuse them.

939

If her husband required sacrifices (and indeed he did) she cheerfully offered up to him Charles Tansley, who had snubbed her little boy.

398

940

399

941

400

942

401

943

Begun long years ago, their friendship had petered out on a Westmorland road, where the hen spread her wings before her chicks; after which Ramsay had married, and their paths lying different ways, there had been, certainly for no one's fault, some tendency, when they met, to repeat. The gruff murmur, irregularly broken by the taking out of pipes and the putting in of pipes which had kept on assuring her, though she could not hear what was said (as she sat in the window which opened on the terrace), that the men were happily talking; this sound, which had lasted now half an hour and had taken its place soothingly in the scale of sounds pressing on top of her, such as the tap of balls upon bats, the sharp, sudden bark now and then, "How's that? How's that?" of the children playing cricket, had ceased; All of this danced up and down, like a company of gnats, each separate but all marvellously controlled in an invisible elastic net—danced up and down in Lily's mind, in and about the branches of the pear tree, where still hung in effigy the scrubbed kitchen table, symbol of her profound respect for Mr Ramsay's mind, until her thought which had spun quicker and quicker exploded of its own intensity; she felt released Following the scatter of swift-flying birds in the sky they stepped through the gap in the high hedge straight into Mr Ramsay, who boomed tragically at them, "Someone had blundered!"

“ai đó đã sai”-bà ngước cặp mắt cận thị lên nhìn chồng, người đang phủ bóng lên bà, bà bình tĩnh nhìn cho tới khi sự gần gũi nơi ông hé lộ cho bà biết (tiếng lanh canh tự nhập lại trong đầu bà) rằng chuyện gì đó đã xảy ra, ai đó đã phạm sai lầm …;ngoài ra còn một đống báo cũ, ít thuốc lá sợi, thật ra là bất cứ thứ gì bà tìm thấy vương vãi quanh nhà không còn dùng nữa, để đem cho những người bạn nghèo khổ, những người hẳn ngồi chết dí cả ngày không biết làm gì ngoài lau chùi đèn, tỉa bấc đèn và đào bới mảnh vườn sứt sẹo của mình, một việc gì đó khiến họ vui. Nếu chồng bà đòi hỏi vật hiến tế (và thật sự ông ta đã làm thế) bà sẽ hân hoan giao cho ông ấy Charles Tansley, kẻ đã làm cho đứa con trai bé bỏng của bà buồn bã. Tình bạn đó bắt đầu từ nhiều năm về trước, đuối dần trên con đường ở Westmoreland, khi con gà mái mẹ xòe cánh bảo vệ đàn con; sau đấy ông Ramsay lấy vợ, và con đường của họ rẽ hai ngả khác nhau, dĩ nhiên, chẳng ai có lỗi, khi có xu hướng lặp đi lặp lại mỗi lần họ giáp mặt. Tiếng thì thầm cộc cằn, đôi lúc ngưng lại vì những chiếc tẩu được rút ra rồi nhét vào miệng đã tiếp tục đảm bảo với bà, dù bà không nghe rõ họ nói gì (vì bà ngồi phía trong ô cửa sổ mở ra hàng hiên) là đám đàn ông đang trò chuyện vui vẻ; tiếng trò chuyện này đã kéo dài nửa tiếng và nhẹ nhàng trở thành một trong những âm thanh được bà chú ý nhất, tỉ như tiếng bóng vỗ trên mặt vợt, tiếng sủa đột ngột , gay gắt lúc này lúc khác, câu “cú đánh đó thế nào” “cú đánh đó thế nào” đã tắt của bọn trẻ đang chơi bóng chày; Toàn bộ chuyện này nhảy nhót tới lui như đàn muỗi mắt, mỗi con riêng biệt nhưng cả đàn được kiểm soát tuyệt vời trong mạng lưới mềm dẻo vô hình- chuyện này nhảy nhót tới lui trong tâm trí Lily, trên và xung quanh những cành lê, nơi vẫn treo hình nộm chiếc bàn bếp được kỳ cọ, biểu tượng của lòng tôn trọng sâu sắc mà có dành cho tâm trí ông Ramsay, cho tới khi suy nghĩ của cô, thứ đang quanh mòng mỗi lúc một nhanh hơn, nổ tung vì cường độ của đó. Theo hướng đàn chim đang vội vã dáo dác bay tản mác trên trời, họ đi qua khoảng trống nơi bờ giậu cao thẳng về phía ông Ramsay, người đang bi thảm gầm lên với họ, “Ai đó đã sai”.

XXXV

402

944

Mắt ông Ramsay đong đầy cảm xúc, thách thức với cường độ bi thương, bắt gặp mắt họ một giây rồi run rẩy khi nhận ra họ; sau đó, ông ta giơ tay lên, nửa hướng tới gương mặt như để xua đi, phủi đi cái nhìn bình thường của họ, trong niềm đau của sự xấu hổ cáu kỉnh, như thể ông ta van họ kiềm nén trong chốc lát điều mà mình biết chẳng kiềm nén được, như thể ông ta tạo ấn tượng với họ về việc ghét bị chen ngang hơi giống trẻ con của mình song ngay cả khi không bị phát hiện ra thì ông ta cũng nhất định vồ lấy thứ cảm xúc ngon lành nào đó-bản đầy tạp âm của những gì mà ông ta thấy xấu hổ nhưng vẫn say đắm ấy-thì ông ta liền quay ngoắt lại, đóng sầm cánh cửa riêng tư của mình trước mặt họ; …

403

945

404

946

Đêm đến bà vào phòng ngủ của bọn hầu gái và thấy chúng được niêm kín như bếp lò, trừ phòng Marie, cô gái Thụy Sĩ, người thà bước ra đường mà không tắm gội còn hơn ở nơi bí khí, mà ở quê mình, cô ta bảo, “mấy rặng núi đó đẹp lắm”. Ai mà không bí mật vui mừng khi người hùng cởi bỏ giáp trụ, dừng lại bên cửa sổ, ngắm vợ con mình, những người thoạt đầu ở rất xa dần dà tiến lại gần hơn, gần hơn nữa, cho tới khi đôi môi, cuốn sách, và đầu họ hiện ra rõ rang trước mặt ông, dù vẫn đáng yêu và xa lạ trước cường độ cách biệt, sự phí hoài tuổi tác và tàn lụi của các vì sao nơi ông, kẻ cuối cùng cũng nhét tẩu vào túi rồi cúi cái đầu tráng lệ của mình trước vợ - người có đổ lỗi cho ông không nếu ông nghiêng mình kính cẩn trước vẻ đẹp của thế gian này?

405

947

Ông lẻn đi, khi nhìn về phía trước là bờ giậu nơi không biết bao lần đã giúp ông hoàn tất một phần kết nào đó, ông nhìn vợ và con trai, …

406

His eyes, glazed with emotion, defiant with tragic intensity, met theirs for a second, and trembled on the verge of recognition; but then, raising his hand, half-way to his face as if to avert, to brush off, in an agony of peevish shame, their normal gaze, as if he begged them to withhold for a moment what he knew to be inevitable, as if he impressed upon them his own child- like resentment of interruption, yet even in the moment of discovery was not to be routed utterly, but was determined to hold fast to something of this delicious emotion, this impure perhap sody of which he was ashamed, but in which he revelled—he turned abruptly, slammed his private door on them; … She would go into the maids' bedrooms at night and find them sealed like ovens, except for Marie's, the Swiss girl, who would rather go without a bath than without fresh air, but then at home, she had said, "the mountains are so beautiful." Who will not secretly rejoice when the hero puts his armour off, and halts by the window and gazes at his wife and son, who very distant at first, gradually come closer and closer, till lips and book and head are clearly before him, though still lovely and unfamiliar from the intensity of his isolation and the waste of ages and the perishing of the stars, and finally putting his pipe in his pocket and bending his magnificent head before her— who will blame him if he does homage to the beauty of the world? He slipped, seeing before him that hedge which had over and over again rounded some pause, signified some conclusion, seeing his wife and child, …

948

Had he blown his brains out, they asked, had he died the week before they were married—some other, earlier lover, of whom rumours reached one?

407

949

Dumb and staring though they had all sat, the six children whom they used to call after the Kings and Queens of England—the Red, the Fair, the Wicked, the Ruthless—she felt how they raged under it.

408

950

For one moment she felt that if they both got up, here, now on the lawn, and demanded an explanation, why was it so short, why was it so inexplicable, said it with violence, as two fully equipped human beings from whom nothing should be hid might speak, then, beauty would roll itself up; the space would fill; those empty flourishes would form into shape; if they shouted loud enough Mrs Ramsay would return.

Có phải ông ta đã mất trí, họ hỏi, có phải ông ta đã chết vào cái tuần trước khi họ cưới nhau - một người khác, người tình trước đó, kẻ mà những lời đồn đã tới tai? Tất cả bọn chúng ngồi, nhìn đăm đăm và câm lặng, sáu đứa trẻ mà họ từng gọi là những vị vua và những hoàng hậu của nước Anh - Đỏ, Xinh, Xấu tính, Tàn nhẫn - cô cảm thấy chúng giận dữ thế nào dưới lớp vỏ lặng im đó. Trong một khoảnh khắc, cô cảm thấy nếu cả hai người bọn họ đứng lên, ở đây, ngay bây giờ, trên bãi cỏ, và yêu cầu một lời giải thích, rằng vì sao nó ngắn ngủi như thế, vì sao nó bất khả lý giải như thế; nói một cách mạnh bạo, như hai con người được trang bị đầy đủ mà không có thứ gì có thể ẩn trốn được khỏi họ có thể nói ra, khi đó vẻ đẹp sẽ cuộn bản thân nó lại; khoảng trống sẽ tràn đầy; những đường nét uốn lượn trống rỗng đó sẽ tạo thành hình dáng; nếu họ hét đủ to bà Ramsay sẽ quay về.

XXXVI

409

951

410

For the sail, upon which James had his eyes fixed until it had become to him like a person whom he knew, sagged entirely; there they came to a stop, flapping about waiting for a breeze, in the hot sun, miles from shore, miles from the Lighthouse.

952

Only now, as he grew older, and sat staring at his father in an impotent rage, it was not him, that old man reading, whom he wanted to kill, but it was the thing that descended on him—without his knowing it perhaps: that fierce sudden black-winged harpy, with its talons and its beak all cold and hard, that struck and struck at you (he could feel the beak on his bare legs, where it had struck when he was a child) and then made off, and there he was again, an old man, very sad, reading his book.

411

953

412

954

That was the source of her everlasting attraction for him, perhaps; she was a person to whom one could say what came into one's head. Had he not always lurched rather awkwardly past the drawing-room window with some newspaper under his arm, trying to avoid Mrs Ramsay whom for some reason he did not much like?

413

955

"Oh, dear! What a nuisance! Lost again. Don't bother, Mr Tansley. I lose thousands every summer," at which he pressed his chin back against his collar, as if afraid to sanction such exaggeration, but could stand it in her whom he liked, and smiled very charmingly.

414

956

…; she would not stop for her father, whom she grazed also by an inch; nor for her mother, who called "Cam! I want you a moment!" as she dashed past.

415

957

416

958

Vì cánh buồm mà James đã dán mắt vào cho tới khi nó trở thành một con người mà James biết rõ đã hoàn toàn chùng xuống; họ đã dừng lại, nhìn quanh quất chờ đợi một cơn gió nổi lên dưới ánh mặt trời nóng rực, nhiều dặm cách xa bờ biển, nhiều dặm cách xa ngọn hải đăng. Chỉ có điều bây giờ nó đã lớn hơn, và đang ngồi nhìn chằm chằm cha nó trong một cơn giận dữ bất lực, không phải là ông ta, cái người đang đọc ấy, là người mà nó muốn giết, mà là cái đã bất ngờ tấn công nó - có lẽ ông ấy cũng không biết: cái con yêu quái cánh đen dữ tợn bất ngờ xuất hiện đó, với cái mỏ và bộ móng vuốt cứng và lạnh lẽo, cứ bấu sâu, bấu sâu vào bạn (nó có thể cảm thấy cái mỏ trên đôi chân trần của nó, nơi con quái thú đó đã tấn công khi nó còn là một đứa bé) rồi biến đi, và ông ấy lại hiện ra, một ông già, rất buồn, đang đọc sách. Đó là nguồn gốc của sức hấp dẫn bất diệt của bà đối với nó, có lẽ thế; bà là một người mà người ta có thể nói những gì chợt nảy ra trong đầu của mình. Không phải ông đã luôn luôn đi lảo đảo một cách khá kỳ quặc qua cửa sổ phòng khách với một tờ báo nào đó kẹp dưới nách, cố tránh né bà Ramsay, người mà vì lý do nào đó ông không thích hay sao? “Úi chà! Thật là phiền hà! Lại mất nữa rồi. Đừng bận tâm, anh Tansley ạ. Tôi mất đến cả ngàn đôi mỗi mùa hè ấy chứ,” khi nghe tới đó anh ta ấn chiếc cằm của mình xuống cổ áo trở lại, như thể e sợ phải ủng hộ cho một sự phóng đại như thế, nhưng lại có thể chịu đựng được điều đó ở bà, người mà anh ta thích, và mỉm cười rất dễ thương. nó cũng chẳng dừng lại vì cha nó, người mà nó cũng chạy lướt qua sát bên; cũng không vì mẹ nó, người gọi to “Cam! Mẹ muốn con lại đây một chút!” trong lúc nó đang chạy qua. “Trong vài dặm không có đám mây nào đâu” nói đến đây bà có thể thấy anh chàng Charles Tansley … Họ nói chuyện gì ngớ ngấn thế không biết, Charles Tansley nghĩ, đặt thìa của minh xuống giữa đĩa, nơi anh ta vét sạch sẽ như quyết dùng hết bữa ăn của mình, Lily nghĩ (Charles ngồi đối diện với cô, quay lưng về phía cửa sổ ngay giữa khung cảnh bàn ăn).

417

959

Vì thật dị thường khi nghĩ tới chuyện nhà ấy có thể sống tiếp từng ấy năm trong khi bà chẳng nghĩ tới họ quá một lần.

418

960

"There isn't a cloud anywhere within miles," at which she could feel little Charles Tansley, … What damned rot they talk, thought Charles Tansley, laying down his spoon precisely in the middle of his plate, which he had swept clean, as if, Lily thought (he sat opposite to her with his back to the window precisely in the middle of view), he were determined to make sure of his meals. For it was extraordinary to think that they had been capable of going on living all these years when she had not thought of them more than once all that time. Replying to her in the same language, Mr Bankes said, "No, not at all," and Mr Tansley, who had no knowledge of this language, even spoke thus in words of one syllable, at once suspected its insincerity.

Ông Bankes liền đáp lời bà theo cùng cách, “Không, không hề”, còn anh Tansley, người chẳng có kiến thức gì về ngôn ngữ này, thậm chí chẳng nói một từ đơn âm, lập tức nghi ngờ tính giả dối của câu chuyện.

XXXVII

419

961

420

There, in a society where one could say what one liked he would sarcastically describe "staying with the Ramsays" and what nonsense they talked.

962

Since he belonged, even at the age of six, to that great clan which cannot keep this feeling separate from that, but must let future prospects, with their joys and sorrows, cloud what is actually at hand, since to such people even in earliest childhood any turn in the wheel of sensation has the power to crystallise and transfix the moment upon which its gloom or radiance rests.

421

963

422

964

Even the books that had been given her and inscribed by the hand of the poet himself: "For her whose wishes must be obeyed"… Mats, camp beds, crazy ghosts of chairs and tables whose London life of service was done—they did well enough here; and a photograph or two, and books.

Ở đó, trong một xã hội nơi người ta có thể nói ra thứ mà người ta thích, anh ta sẽ diễn tả một cách mỉa mai việc “sống với gia đình Ramsay và những điều phi lý họ đã nói”. Dù chỉ mới lên sáu, nó thuộc về một gia tộc lớn, nơi những người trong đó không thể kềm giữ được cảm giác này, mà phải để cho viễn cảnh tương lai với những vui buồn che khuất đi những gì thật sự diễn ra trước mắt, vì đối với họ, thậm chí khi đang còn thơ ấu, bất kỳ một biến chuyển nào trong cảm giác đều có khả năng kết tinh lại và xuyên thấu qua cái khoảnh khắc chứa đựng sự rực rỡ hay u ám đó. Thậm chí sách người ta cho bà, được chính thi sĩ nọ đề tặng: “tặng bà, người ước gì sẽ được nấy” Thảm chùi chân, giường trọ, bóng ma điên khùng của đám bàn ghế, những thứ có vòng đời phục vụ ở Luân Đơn đã hết-thì ở đây chúng làm việc rất tốt; rối một hai bức hình, sách vở này nọ.

423

965

424

966

425

967

Và khi quành lại theo hướng khác, theo lối xe chạy, thì ông Bankes ngộ ra nhiều điều, những điều sẽ không hạ gục ông nếu mấy đồi cát kia cho ông thấy có thể tình bạn của mình nằm đó, với sắc đỏ trên môi, giữa bãi than bùn-như Cam, cô con gái nhỏ tuổi nhất của ông Ramsay, chẳng hạn. Khi ông đi lên lối xe chạy còn Lily nói có, không, và trích lời bình luận của ông (vì cô yêu tất cả những lời bình luận ấy, yêu thế giới này) thì ông cân nhắc trường hợp của ông Ramsay, thương hại, ghen tị với ông ta, như thể ông thấy ông Ramsay gạt bỏ tất cả vinh quang của sự cô độc và khổ hạnh, những thứ từng đưa ông ta lên đỉnh cao thời trẻ để nhất định chất lên mình những đôi cánh vỗ lật phật và công việc nội trợ kêu cục tác. …, còn sự thật thì không thể thỏa thiệp, và trên con đường đi tới miễn đất hư ảo, nơi hi vọng tươi sáng của ta bị dập tắt, tiếng gào thét yếu ớt của ta bị chìm trong bóng tối (tới đây ông Ramsay đứng thẳng dậy và nheo đôi mắt xanh bé nhỏ nhìn về phái đường chân trời), thì điều ta cần hơn hết là long can đảm, sự thật và sự chịu đựng.

426

968

Giá có sẵn que cời, rìu, hay hay thứ vũ khí nào đó, để đâm một nhát vào ngực và giết ông ngay lúc đó thì James hẳn đã vồ lấy.

427

969

James ghét cha và hất cành cây đang chọc mình ra, thứ cậu thấy thật kỳ quặc, vừa mỉa mai vừa hài hước khi ông dùng để chọc vào chân cậu con út của minh.

And, turning to walk back the other way, up the drive, Mr Bankes was alive to things which would not have struck him had not those sandhills revealed to him the body of his friendship lying with the red on its lips laid up in peat—for instance, Cam, the little girl, Ramsay's youngest daughter. While he walked up the drive and Lily Briscoe said yes and no and capped his comments (for she was in love with them all, in love with this world) he weighed Ramsay's case, commiserated him, envied him, as if he had seen him divest himself of all those glories of isolation and austerity which crowned him in youth to cumber himself definitely with fluttering wings and clucking domesticities. ….; facts uncompromising; and the passage to that fabled land where our brightest hopes are extinguished, our frail barks founder in darkness (here Mr Ramsay would straighten his back and narrow his little blue eyes upon the horizon), one that needs, above all, courage, truth, and the power to endure Had there been an axe handy, a poker, or any weapon that would have gashed a hole in his father's breast and killed him, there and then, James would have seized it Hating his father, James brushed away the tickling spray with which in a manner peculiar to him, compound of severity and humour, he teased his youngest son's bare leg.

XXXVIII

428

970

Thật ra bà muốn bảo vệ toàn thể nam giới, vì những lý do bà không thể giải thích được, vì sự hào hoa và can đảm của họ, vì sự thật là họ đã thu xếp các hiệp ước, cai trị Ấn Độ, kiểm soát thương mại; cuối cùng vì thái độ họ dành cho bà, một thái độ dễ chịu đến nỗi không phụ nữ nào cùng không nhận ra, một thái độ ngây thơ, thành thật, cung kính;…,

429

971

Chính trong chuyến bay thoáng chốc giữa bức tranh và toan vẽ mà ma quỷ xúi dại cô, cô mới hay bị đẩy tới bờ vực nước mất và con đường đi từ ý niệm tới tác phẩm mới thành ra ghê rợn, y hệt một đứa trẻ rơi xuống hành lang tối tăm vậy.

430

972

431

973

Và khi anh đứng đợi bà trong phòng khách của một căn nhà bé nhỏ, chật trội, nơi bà dẫn anh tới, còn mình lên gác một lát để gặp một phụ nữ. Trọ cùng chỗ với cô, ông đã chú ý cô ngăn nắp thế nào, trước bữa sáng và sau khi vẽ ra sao, nên ông tin, cô cô độc, chắc cũng túng bấn, và dĩ nhiên không có làn da hay vẻ quyến rũ của cô nàng Minta Doyle, nhưng trong mắt ông, điều này được hiểu theo nghĩa tốt, nên Lily còn hay ho hơn cô nàng trẻ tuổi kia nhiều.

432

974

Chính trong chuyến bay thoáng chốc giữa bức tranh và toan vẽ mà ma quỷ xúi dại cô, cô mới hay bị đẩy tới bờ vực nước mất và con đường đi từ ý niệm tới tác phẩm mới thành ra ghê rợn, y hệt một đứa trẻ rơi xuống hành lang tối tăm vậy.

433

975

434

976

435

977

436

978

Indeed, she had the whole of the other sex under her protection; for reasons she could not explain, for their chivalry and valour, for the fact that they negotiated treaties, ruled India, controlled finance; finally for an attitude towards herself which no woman could fail to feel or to find agreeable, something trustful, childlike, reverential; … It was in that moment's flight between the picture and her canvas that the demons set on her who often brought her to the verge of tears and made this passage from conception to work as dreadful as any down a dark passage for a child. There he stood in the parlour of the poky little house where she had taken him, waiting for her, while she went upstairs a moment to see a woman. Lodging in the same house with her, he had noticed too, how orderly she was, up before breakfast and off to paint, he believed, alone: poor, presumably, and without the complexion or the allurement of Miss Doyle certainly, but with a good sense which made her in his eyes superior to that young lady. It was in that moment's flight between the picture and her canvas that the demons set on her who often brought her to the verge of tears and made this passage from conception to work as dreadful as any down a dark passage for a child. …—because the thing was completed partly, and partly because distant views seem to outlast by a million years (Lily thought) the gazer and to be communing already with a sky which beholds an earth entirely at rest. …, seeing his wife and child, seeing again the urns with the trailing of red geraniums which had so often decorated processes of thought, and bore, written up among their leaves, as if they were scraps of paper on which one scribbles notes in the rush of reading—he slipped, seeing all this, smoothly into speculation suggested by an article in THE TIMES about the number of Americans who visit Shakespeare's house every year. They became part of that unreal but penetrating and exciting universe which is the world seen through the eyes of love. …, as if it were stroking with its silver fingers some sealed vessel in her brain whose bursting would flood her with delight, she had known happiness, exquisite happiness, intense happiness, …

…-vì bức tranh kia một phần đã xong, một phần vì những cảnh tượng xa xôi kia dường như vượt người nhìn nó cả triệu năm( Lily nghĩ) và hợp nhất với bầu trời, nơi ngắm trái đất đang nằm yên ngơi nghỉ. …, ông nhìn vợ và con trai, nhìn lại cái chậu hoa phong lữ thảo màu đỏ, nơi thường giúp tô điểm các quá trình suy nghĩ, nơi các quá trình này được sản sinh và viết ra trên lá, như thể là những mẩu giấy ta thường dùng để ghi chú nhằng nhịt trong lúc đọc vội- trong khi nhìn thấy tất cả những điều này, ông trượt một cách êm ái vào sự suy tư được gợi lên bởi một bài báo trong tờ The Times về con số những người Mỹ viếng thăm ngôi nhà của Shakespeare hàng năm. Họ là một phần của cái vũ trụ không thật nhưng thông suốt và lý thú, và thế gian trong đó được nhìn qua con mắt tình yêu. …, như thể nó đang dùng những ngón tay bằng bạc cầm một chiếc cốc có gia huy đập vào não bà, bộ não khi nổ tung sẽ khiến bà tràn ngập niềm vui, bà nghĩ mình cũng đã biết tới hạnh phúc, hạnh phúc tuyệt vời, hạnh phúc mãnh liệt, …

XXXIX

437

979

438

980

439

981

Và khi quành lại theo hướng khác, theo lối xe chạy, thì ông Bankes ngộ ra nhiều điều, những điều sẽ không hạ gục ông nếu mấy đồi cát kia cho ông thấy có thể tình bạn của mình nằm đó, với sắc đỏ trên môi, giữa bãi than bùn-như Cam, cô con gái nhỏ tuổi nhất của ông Ramsay, chẳng hạn. Lily Briscoe nhìn bà trôi dạt vào hòn đảo không người lạ lẫm, nơi bám theo người khác thì không thể mà dấn bước đi tiếp … trong bữa ăn trưa ông ta đã nhỏ vào ly của mình một vài giọt gì đó. Chúng lý giải cho, bọn trẻ nghĩ, cái vệt sáng màu vàng hoàng yến trên bộ ria mép và râu cằm bình thường trắng đục màu sữa.

440

982 Bà không thể hiểu kịp những thuật ngữ hàn lâm đang liếng thoắng tuôn ra đó.

441

983

Có lẽ đó là lý do khiến ông Bankes muốn di chuyển ra khỏi tầm nghe, vì gần như ngay lúc ấy ông nói gì đó về việc trời lạnh và đề nghị họ cùng đi tản bộ.

442

984

Miệng mỉm cười, vì đó là một ý tưởng hay ho vừa lóe lên trong đầu bà ngay giây phút này - William và Lily nên lấy nhau - bà cầm lấy chiếc tất

443

985

444

986

445

And, turning to walk back the other way, up the drive, Mr Bankes was alive to things which would not have struck him had not those sandhills revealed to him the body of his friendship lying with the red on its lips laid up in peat—for instance, Cam, the little girl, Ramsay's youngest daughter. Lily Briscoe watched her drifting into that strange no-man's land where to follow people is impossible and yet their going inflicts …. He had slipped into his glass at lunch a few drops of something, which accounted, the children thought, for the vivid streak of canary-yellow in moustache and beard that were otherwise milk white. She could not follow the ugly academic jargon, that rattled itself off so glibly. So, it was probably an excuse of his for moving, for getting out of earshot, that made Mr Bankes almost immediately say something about its being chilly and suggested taking a stroll. Smiling, for it was an admirable idea, that had flashed upon her this very second—William and Lily should marry—she took the heathermixture stocking she carried it erect into any room that she entered Shabby and worn out, and not presumably any longer a sight that filled the eyes with joy, she had better devote her mind to the story of the Fisherman and his Wife (he threw away the leaf that he had picked so peevishly

987

446

988

It was love, distilled and filtered; love that never attempted to clutch its object; but, like the love which mathematicians bear their symbols, or poets their phrases, was meant to be spread over the world and become part of the human gain.

447

989

448

990

How did she exist in that portentous atmosphere where the maid was always removing in a dust-pan the sand that the parrot had scattered, and conversation was almost entirely reduced to the exploits—interesting perhaps, but limited after all—of that bird? Nobody ever held up your Aunt Camilla as a model of virtue that I'm aware of

bà mang nó thẳng vào bất kỳ căn phòng nào mà bà bước vào Tiều tụy và xác xơ, và hẳn nhiên không còn là một hình ảnh phủ đầy đôi mắt với niềm vui nữa, tốt hơn bà nên dành tâm trí mình cho câu chuyện Vợ chồng người ngư phủ ông vứt bỏ chiếc lá mà ông đã bứt một cách cáu kỉnh Đó là thứ tình yêu, đã được chưng cất và tinh lọc; một thứ tình yêu không bao giờ nỗ lực giữ chặt lấy đối tượng của nó; nhưng giống như loại tình yêu mà những nhà toán học dành cho những ký hiệu của họ, hay những thi sĩ dành cho những ngôn từ của họ, hướng tới việc lan trải chúng ra khắp thế gian và biến chúng trở thành một phần của lợi ích nhân loại. Làm thế nào con bé tồn tại được trong bầu không khí phô trương đó, nơi mà người hầu gái luôn luôn cầm cái đồ hốt rác để gom cát mà con vẹt đã vung vẩy khắp nhà, và cuộc chuyện trò cà riềng cà tỏi hầu như chỉ nói về những thành tích - thú vị, có lẽ thế, nhưng nói cho cùng thì quá hạn chế - của con chim đó? Tôi chưa hề thấy người nào xem cô Camilla của bà là một kiểu mẫu về đức hạnh

449 She was the most beautiful woman that I ever saw

991 Cô ấy là người phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng thấy

450

992 Bà không thích bất cứ điều gì nhắc cho bà nhớ rằng bà đã ngồi suy nghĩ.

She disliked anything that reminded her that she had been seen sitting thinking.

XL

451

993

452

994

453

And he seized her hand and raised it to his lips and kissed it with an intensity that brought the tears to her eyes, and quickly he dropped it. And so turning into the lane that led to the house he could see lights moving about in the upper windows.

995

Again she felt the sterility of men, for if she did not do it nobody would do it, and so, giving herself a little shake that one gives a watch that has stopped, the old familiar pulse began beating, as the watch begins ticking— one, two, three, one, two, three.

454

996

it was one of those misjudgments of hers that seemed to be instinctive and to arise from some need of her own rather than of other people's.

455

997

456

998

He felt rigid and barren, like a pair of boots that have been soaked and gone dry so that you can hardly force your feet into them. He could almost pity these mild cultivated people, who would be blown sky high, like bales of wool and barrels of apples, one of these days by the gunpowder that was in him.

Và ông nắm chặt tay bà, nâng nó lên môi và hôn nó đắm đuối khiến mắt bà rưng rưng lệ, rồi ông nhanh chóng buông nó ra. Khi quẹo vào con đường dẫn tới nhà anh đã có thể nhìn thấy những ánh đèn chao động trong những khung cửa sổ tầng trên. Một lần nữa bà cảm thấy sự cằn cỗi vô dụng của những người đàn ông, vì nếu bà không làm điều đó thì chẳng có ai làm cả, và thế là, bà tự lắc khẽ chính mình như một người lắc khẽ một chiếc đồng hồ đã dừng chạy, cái nhịp cũ kỹ quen thuộc bắt đầu đập, như chiếc đồng hồ bắt đầu kêu tích tắc - một, hai, ba, một, hai, ba. đó là một trong những phán đoán sai lầm của bà, nó dường như mang tính bản năng và phát sinh từ một nhu cầu nào đó của chính bà hơn là của những người khác. Ông cảm thấy mình cứng ngắc và khô khan, như một đôi ủng đã bị nhúng nước và đem phơi khô đến mức bạn gần như không thể đút chân vào được. Gần như anh có thể thương hại cho những kẻ có học thức mỏng manh này, những kẻ sẽ bị thổi tung lên bầu trời cao, như những kiện len và những thùng táo bởi thứ thuốc súng nằm trong người anh, một ngày nào đó gần đây.

457 She actually said with an emotion that she seldom let appear

999 Cô thật sự thốt lên với một cảm xúc mà cô ít khi để lộ ra

458

1000

459

1001

There was always something that had to be done at that precise moment, something that Mrs Ramsay had decided for reasons of her own to do instantly she was climbing backwards, upwards, shoving her way up under petals that curved over her

460

1002

So with the house empty and the doors locked and the mattresses rolled round, those stray airs, advance guards of great armies, blustered in, brushed bare boards, nibbled and fanned, met nothing in bedroom or drawing-room that wholly resisted them but only hangings that flapped, wood that creaked, the bare legs of tables, saucepans and china already furred, tarnished, cracked.

461

1003

As she lurched (for she rolled like a ship at sea) and leered (for her eyes fell on nothing directly, but with a sidelong glance that deprecated the scorn and anger of the world—she was witless, she knew it), as she clutched the banisters and hauled herself upstairs and rolled from room to room, she sang.

Luôn có điều gì đó phải được thực hiện vào đúng phóc thời điểm đó, một điều mà bà Ramsay đã quyết định vì những lý do của riêng bà rằng phải làm ngay lập tức bà cảm thấy như đang trèo lui, trèo tới, di động dưới những cánh hoa uốn mình bên trên bà Thế là với ngôi nhà trống rỗng, những cánh cửa khóa chặt và những tấm thảm cuộn lại, những làn gió nhẹ tản mác ấy, những cảnh vệ tiên phong của các đoàn quân lớn, ào ào thổi vào, quét qua những tấm ván trần, nhấm nhẳn và tỏa thành hình rẻ quạt, chẳng gặp thứ gì trong căn phòng ngủ hay phòng khách vốn đã hoàn toàn ghi nhận chúng ngoài những vật treo tường bay phần phật, những đồ gỗ kêu cọt kẹt, những chân bàn trần trụi, những cái chảo và đồ sứ đã đóng đầy cặn cáu, xỉn mờ, nứt vỡ. Khi đang bước chòng chành (vì bà lắc lư như một con tàu trên biển) và đảo mắt quanh (vì bà không nhìn thẳng vào một thứ nào cả mà chỉ liếc qua, một cái liếc mắt mang tính phản kháng sự khinh miệt và giận dữ của thế gian - bà biết rằng mình kém thông minh), khi bám lấy thành cầu thang đu người lên những bậc thang và khi tập tễnh bước từ phòng này sang phòng khác, bà cất tiếng hát.

XLI

462

1004

Flies wove a web in the sunny rooms; weeds that had grown close to the glass in the night tapped methodically at the window pane.

463

1005

But there was a force working; something not highly conscious; something that leered, something that lurched

Những con ruồi dệt thành một tấm lưới trong những căn phòng tràn ánh nắng; những ngọn cỏ, đã nhú lên sát bên cửa sổ trong đêm, khe khẽ vỗ lên lớp kính cửa. Nhưng có một lực lượng nào đó đang hoạt động; một cái gì đó không có ý thức cao cho lắm; một cái gì đó đã đảo mắt liếc qua, một cái gì đó đã tập tễnh lắc lư lui tới.

464

1006 ông hỏi Macalister về mười một con tàu đã phải dạt vào vịnh trong một cơn bão.

he questioned Macalister about the eleven ships that had been driven into the bay in a storm.

465

she wished to move some obstacle that lay upon her tongue and to say

1007

466

1008

467

1009

468

1010

So they were sent for walks together, and she was told, with that faint touch of irony that made Mrs Ramsay slip through one's fingers, that she had a scientific mind The physical sensations that went with the bare look of the steps had become suddenly extremely unpleasant. The Lighthouse was then a silvery, misty-looking tower with a yellow eye, that opened suddenly, and softly in the evening. it was the sense of adventure and escape that she wanted

469 470 eyes that are closing in pain have looked on you. 471 Among them, must be one that was stone blind to her beauty.

nó mong muốn dời được một chướng ngại vật nào đó đang nằm trên lưỡi nó và nói Thế là họ đã được sắp xếp di dạo với nhau, và người ta đã bảo với cô, với sự châm biếm mơ hồ khiến cho bà Ramsay trượt qua những kẻ tay của người ta, rằng cô có một đầu óc khoa học. Những cảm giác vật chất gắn liền với cái vẻ trần trụi của những bậc thềm đột nhiên đã trở nên cực kỳ gây khó chịu. Khi đó ngọn hải đăng là một tòa tháp bạc mù sương với một con mắt màu vàng đột ngột và nhẹ nhàng mở ra vào chiều tối. 1011 điều nó muốn là cái cảm giác phiêu lưu và trốn thoát 1012 những đôi mắt khép lại trong đau đớn đã nhìn vào mình 1013 Trong số chúng, phải có một đôi hoàn toàn mù tịt đối với vẻ đẹp của bà.

472

they could not endure another explosion of the passion that boiled in him

1014

chúng không thể chịu đựng thêm một sự bùng nổ khác của cảm xúc nồng nàn đang sôi sục trong ông

473

1015 Thậm chí sách người ta cho bà, được chính thi sĩ nọ đề tặng…

474

1016

Even the books that had been given her and inscribed by the hand of the poet himself… He was incapable of untruth; never tampered with a fact; never altered a disagreeable word to suit the pleasure or convenience of any mortal being, least of all of his own children, who, sprung from his loins, should be aware from childhood that life is difficult; …

475

1017

…; while the sun poured into those attics, which a plank alone separated from each other so that every footstep could be plainly heard …

476

1018

…, she could not bear incivility to her guests, to young men in particular, who were poor as church mouse, "exceptionally able," her husband said, his great admirers, and come there for a holiday.

Ông không thể sai được, ông không bao giờ chen vào một sự thật nào, không bao giờ thay một từ ngữ khó chịu nào cho phù hợp với lợi ích hay lạc thú của ai, nhất là đối với con cái do ông đẻ ra thì chúng càng phải biết rằng đời khó khăn lắm, … trong khi đó mặt trời rọi nắng xuống những căn gác mái giống như một mảng ván tách rời khỏi các mảnh khác khiến cho người ta có thể nghe thấy mơ hồ tiếng mỗi bước chân …, bà không chịu được sự bất nhã nào dành cho khách khứa, nhất là cho mấy chàng trai nghèo rớt mồng tơi, “tài giỏi khác thường” như chồng bà bảo, những kẻ nhiệt liệt tán tụng ông và đến đây nghỉ.

XLII

477

1019

Indeed, she had the whole of the other sex under her protection; for reasons she could not explain, for their chivalry and valour, for the fact that they negotiated treaties, ruled India, controlled finance; finally for an attitude towards herself which no woman could fail to feel or to find agreeable, something trustful, childlike, reverential; which an old woman could take from a young man without loss of dignity, and woe betide the girl—pray Heaven it was none of her daughters!—who did not feel the worth of it, and all that it implied, to the marrow of her bones!

478

1020

There is a code of behaviour, she knew, whose seventh article (it may be) says that on occasions of this sort it behoves the woman, whatever her own occupation might be, to go to the help of the young man opposite so that he may expose and relieve the thigh bones, the ribs, of his vanity, of his urgent desire to assert himself; as indeed it is their duty, she reflected, in her old maidenly fairness, to help us, suppose the Tube were to burst into flames.

479

1021

480

1022

481

1023

Then Minta Doyle, whose instinct was fine, said bluffly, absurdly, that she did not believe that any one really enjoyed reading Shakespeare. Twenty or thirty young men were blown up in France, among them Andrew Ramsay, whose death, mercifully, was instantaneous.] Night after night, summer and winter, the torment of storms, the arrowlike stillness of fine (had there been any one to listen) from the upper rooms of the empty house only gigantic chaos streaked with lightning could have been heard tumbling and tossing, as the winds and waves disported themselves like the amorphous bulks of leviathans whose brows are pierced by no light of reason, and mounted one on top of another, and lunged and plunged in the darkness or the daylight (for night and day, month and year ran shapelessly together) in idiot games, until it seemed as if the universe were battling and tumbling, in brute confusion and wanton lust aimlessly by itself.

482

1024

And to which did she yield, she thought, sitting between them, gazing at the shore whose points were all unknown to her, and thinking how the lawn and the terrace and the house were smoothed away now and peace dwelt there.

Thật sự, bà đặt toàn bộ nam giới dưới sự bảo vệ của mình; vì những lý do mà bà không thể lý giải, vì phong cách hào hoa và dũng cảm của họ, vì thực tế rằng họ đã đàm phán những bản hiệp ước, đã thống trị Ấn Độ, đã kiểm soát nền tài chính; cuối cùng là vì một thái độ cư xử mà không người phụ nữ nào lại không cảm thấy dễ chịu, một cái gì đó chân thật, ngây thơ, tôn kính, đối với chính bản thân bà; một thái độ mà một người phụ nữ lớn tuổi có thể tiếp nhận từ một chàng trai trẻ nhưng vẫn không đánh mất đi phẩm giá, và có thể gây ra đau khổ cho một cô gái - tạ ơn trời đất, đó không phải là một trong những đứa con gái của bà! - kẻ không cảm nhận được giá trị của nó, và tất cả những gì mà nó bao hàm, cho tới tận cùng xương tủy của cô ta! Cô biết có một quy tắc đạo lý, mà điều thứ bảy trong số đó (có lẽ thế) nói rằng trong những trường hợp như thế này người phụ nữ, bất kể nghề nghiệp của cô ta là gì, có trách nhiệm đi tới và giúp đỡ cho chàng thanh niên đó, để anh ta có thể phơi bày và giải thoát cho những chiếc xương của lòng tự cao tự đại của anh ta, của niềm khát khao khẩn thiết được khẳng định bản thân của anh ta; vì thật sự việc giúp đỡ chúng ta mới chính là bổn phận của họ, nếu giả sử như chiếc tàu điện ngầm bị bốc cháy, cô ngẫm nghĩ, với sự công bằng của một phụ nữ luống tuổi còn trong trắng. Thế rồi Minta Doyle, người có bản năng tốt đẹp, nói một cách tháu cáy, vô lý, rằng cô ta không tin rằng có bất cứ một ai thật sự thích đọc Shakespeare. Hai mươi hoặc ba mươi chàng trai tan xác ở Pháp, Adrew Ramsay nằm trong số đó. Trời đất thương tình, anh chết ngay lập tức. Đêm nối tiếp đêm, hè qua đông đến, sự hoành hành của những cơn bão, sự tĩnh lặng như tờ của ngày trời đẹp (đã từng có ai đó lắng nghe không), từ những căn phòng bên trên của ngôi nhà trống chỉ có thể nghe thấy tiếng giằng giật của những tia chớp lóe khổng lồ, khi những cơn gió và những lượn sóng nô đùa và cưỡi lên nhau như những bầy thủy quái phi lý trí luôn thay hình đổi dạng, và lao sầm vào bóng đêm hay ánh sáng ban ngày (vì đêm và ngày, tháng và năm cùng lướt bên nhau một cách phi hình thể) trong những trò chơi ngốc nghếch cho tới khi dường như vũ trụ cũng vật vã đổ nhào trong sự hỗn mang bạo tàn và khát vọng vô mục đích của chính nó. Và nó đã nhân nhượng điều này, nó nghĩ, trong lúc ngồi ở giữa họ, vừa nhìn đăm đăm vào bờ biển mà tất cả mọi phương hướng đều xa lạ đối với nó, vừa nghĩ thầm, bãi cỏ, sân hiên và ngôi nhà giờ đây đã bị san bằng và thanh bình ngự trị ở đó ra sao.

XLIII

483

1025

484

1026

Thật lạ lùng khi cô nhìn thấy bà ấy rất rõ ràng, đang bước với sự nhanh nhẹn thường lệ băng qua những cánh đồng rồi biến mất giữa những nếp gấp tim tím và mềm mại của chúng, giữa những cụm hoa lan dạ hương hay hoa huệ. Thật lạ lùng khi cô nhìn thấy bà ấy rất rõ ràng, đang bước với sự nhanh nhẹn thường lệ băng qua những cánh đồng rồi biến mất giữa những nếp gấp tim tím và mềm mại của chúng, giữa những cụm hoa lan dạ hương hay hoa huệ.

485

1027

Nó nhìn ông đang đọc cuốn sách nhỏ với đôi chân gập lại; nó biết cuốn sách có những trang màu vàng nhạt đó nhưng không biết trong đó viết gì.

486

It was strange how clearly she saw her, stepping with her usual quickness across fields among whose folds, purplish and soft, among whose flowers, hyacinth or lilies, she vanished. It was strange how clearly she saw her, stepping with her usual quickness across fields among whose folds, purplish and soft, among whose flowers, hyacinth or lilies, she vanished. She looked at him reading the little book with his legs curled; the little book whose yellowish pages she knew, without knowing what was written on them.

1028

There might be lovers whose gift it was to choose out the elements of things and place them together and so, giving them a wholeness not theirs in life, make of some scene, or meeting of people (all now gone and separate), one of those globed compacted things over which thought lingers, and love plays.

487

1029

488

1030

489

1031

490

1032

... so that the monotonous fall of the waves on the beach, …especially when her mind raised itself slightly from the task actually in hand, had no such kindly meaning, but like a ghostly roll of drums remorselessly beat the measure of life, made one think of the destruction of the island and its engulfment in the sea, and warned her whose day had slipped past in one quick doing after another that it was all ephermal as a rainbow—this sound which had been obscured and concealed under the other sounds suddenly thundered hollow in her ears and made her look up with an impulse of terror. He felt many things, something in particular that excited him and disturbed him for reasons which he could not give. The gruff murmur, irregularly broken by the taking out of pipes and the putting in of pipes which had kept on assuring her, though she could not hear what was said (as she sat in the window which opened on the terrace), that the men were happily talking; this sound, which had lasted now half an hour and had taken its place soothingly in the scale of sounds pressing on top of her, such as the tap of balls upon bats, the sharp, sudden bark now and then, "How's that? How's that?" of the children playing cricket, had ceased; Falling in one second from the tension which had gripped her to the other extreme which, as if to recoup her for her unnecessary expense of emotion, was cool, amused, and even faintly malicious, she concluded that poor Charles Tansley had been shed.

Có thể có những cặp tình nhân mà quà tặng của họ được chọn ra từ những nguyên tố của các sự vật và được đặt lại bên nhau, và do vậy đã trao cho họ một sự toàn vẹn không phải của họ trong đời sống, tạo ra một cảnh tượng nào đó, hoặc sự gặp gỡ tao ngộ của mọi người (giờ đây tất cả đã ra đi và cách biệt), một trong những điều kết tụ toàn cầu lại đó mà bên trên nó tư tưởng kéo dài lây lất, và tình yêu vui thú nô đùa. ... bà chú ý tới nó đến nỗi tiếng vỗ đơn điệu của những con song trên bãi biển, …, đặc biệt khi tâm trí bà chớm thoát khỏi công việc mà bà đang làm, tiếng vỗ ấy không có ý nghĩa tử tế, mà như một hồi trống ma quái ăn năn đập nhịp đập cuộc sống, khiến ta nghĩ tới việc phá hủy hòn đảo rồi nhấn chìm nó trong biển nước, và tiếng trò chuyện đó cảnh báo bà, người làm hết việc này việc nọ và có một ngày trôi qua nhanh chóng, rằng tất cả đều phù du như cầu vồng vậy-tiếng trò chuyện này mất, giờ bỗng nổ ầm một cái trong tai bà khiến bà thoáng kinh hãi nhìn lên. Anh ta cảm nhận được nhiều điều, điều gì đó cụ thể khiến anh hào hứng và bối rối vì những lý do không thể nêu ra. Tiếng thì thầm cộc cằn, đôi lúc ngưng lại vì những chiếc tẩu được rút ra rồi nhét vào miệng đã tiếp tục đảm bảo với bà, dù bà không nghe rõ họ nói gì (vì bà ngồi phía trong ô cửa sổ mở ra hàng hiên) là đám đàn ông đang trò chuyện vui vẻ; tiếng trò chuyện này đã kéo dài nửa tiếng và nhẹ nhàng trở thành một trong những âm thanh được bà chú ý nhất, tỉ như tiếng bóng vỗ trên mặt vợt, tiếng sủa đột ngột , gay gắt lúc này lúc khác, câu “cú đánh đó thế nào” “cú đánh đó thế nào” đã tắt của bọn trẻ đang chơi bóng chày; Bà Ramsay vừa thoát khỏi cái ôm ghì của sự căng thẳng liền rơi vào thái cực khác, và như là sự bù đắp cho sự tiêu phí cảm xúc không cần thiết, bà tỏ ra điềm tĩnh, vui vẻ, thậm chí khá hiểm ác khi kết luận rằng anh chàng Charles Tansley tội nghiệp đã bị bỏ rơi.

XLIV

491

1033

The gold necklace, which was Italian, or the opal necklace, which Uncle James had brought her from India; or should she wear her amethysts?

Chiếc vòng vàng của Ý, hay chiếc vòng ngọc mắt mèo của chú James cầm ở Ấn Độ về cho bà; hay bà nên đeo chiếc vòng thạch anh tím của mình.

492 …she could feel little Charles Tansley, who had followed the mout, snigger

1034

493

1035

494

1036

495

1037

496

1038

497

1039

Already ashamed of that petulance, of that gesticulation of the hands when charging at the head of his troops, Mr Ramsay rather sheepishly prodded his son's bare legs once more, and then, as if he had her leave for it, with a movement which oddly reminded his wife of the great sea lion at the Zoo tumbling backwards after swallowing his fish and walloping off so that the water in the tank washes from side to side, he dived into the evening air, which already thinner, was taking the substance from leaves and hedges … All of this danced up and down, like a company of gnats, each separate but all marvellously controlled in an invisible elastic net—danced up and down in Lily's mind, in and about the branches of the pear tree, where still hung in effigy the scrubbed kitchen table, symbol of her profound respect for Mr Ramsay's mind, until her thought which had spun quicker and quicker exploded of its own intensity; And with a painful effort of concentration, she focused her mind, not upon the silver-bossed bark of the tree, or upon its fish-shaped leaves, but upon a phantom kitchen table, one of those scrubbed board tables, grained and knotted, whose virtue seems to have been laid bare by years of muscular integrity, which stuck there, its four legs in air He hated him for coming up to them, for stopping and looking down on them; he hated him for interrupting them; he hated him for the exaltation and sublimity of his gestures; for the magnificence of his head; for his exactingness and egotism (for there he stood, commanding them to attend to him) but most of all he hated the twang and twitter of his father's emotion which, vibrating round them, disturbed the perfect simplicity and good sense of his relations with his mother. …, though to them all there was something in this of the essence of beauty, which called out the manliness in their girlish hearts, and made them, as they sat at table beneath their mother's eyes, honour her strange severity, her extreme courtesy, like a queen's raising from the mud to wash a beggar's dirty foot, …

…bà có thể thấy anh chàng Charles Tansley nhỏ thó vừa theo chân họ ra khỏi phòng đang cười khẩy. Xấu hổ vì thói cáu bẳn dằn dỗi, vì cử chỉ vung tay trong khi mình là thủ lĩnh đứng đầu ba quân, ông Ramsay hơi ngượng ngùng lại chọc cặp chân trần của cậu con trai, và rồi như thể được bà để mặc cho làm thế, cử chỉ đó của cậu khiến bà nhớ một cách kỳ quặc tới sư tử biển ở sở thú, con vật xơi mớ cá của mình xong liền ngã bổ chửng về sau, quẩy mạnh đến nỗi nước trong bể dềnh lên từ bên này sang bên kia, rồi nó lặn vào không khí ban đêm, thứ đã mỏng hơn, thứ đang hít nhựa từ đám lá cây và bờ giậu, … Toàn bộ chuyện này nhảy nhót tới lui như đàn muỗi mắt, mỗi con riêng biệt nhưng cả đàn được kiểm soát tuyệt vời trong mạng lưới mềm dẻo vô hình- chuyện này nhảy nhót tới lui trong tâm trí Lily, trên và xung quanh những cành lê, nơi vẫn treo hình nộm chiếc bàn bếp được kỳ cọ, biểu tượng của lòng tôn trọng sâu sắc mà có dành cho tâm trí ông Ramsay, cho tới khi suy nghĩ của cô, thứ đang quanh mòng mỗi lúc một nhanh hơn, nổ tung vì cường độ của đó. Và cô cố tập trung, chứ tâm nghĩ, không phải tới lớp vỏ chạm nổi màu bạc, hay đám lá hình con cá, mà tới chiếc bàn bếp tưởng tượng, một trong những chiếc bàn lớn được kỳ cọ, sơn giả van gỗ và mấu cây, có những phẩm chất như bị năm tháng khỏe như vâm lột trần ra, thứ mắc kẹt đằng kia, nằm chổng bốn vó lên trời. Nó ghét ông vì ông đã tiến đến, dừng lại và coi thường hai mẹ con họ; nó ghét ông vì cắt ngang họ; nó ghét ông vì cái vẻ hớn hở, cao ngạo trong cử chỉ của ông; sự tráng lệ của cái đầu ông; tinh chính xác và tự cao tự đại của ông (vì ông đang đứng đó, lệnh cho họ phải chú tâm đến mình) nhưng trên hết, nó ghét tiếng tửng tưng, tiếng lích chích của xúc cảm của ông, thứ rung lên quanh họ, làm phiền sự đơn giản hoàn hảo và cảm giác tốt đẹp trong mối quan hệ mẹ con của họ. …, dù với chúng tất cả đều có thứ gì đó liên quan tới bản chất cái đẹp, thứ gợi lên chất nam tính trong trai tim nữ tính của chúng, và khiến chúng, lúc ngồi vào bàn dưới cái nhìn của mẹ, đã tôn vinh sự nghiêm nghị kỳ lạ, vẻ bặt thiệp tột độ của bà, như một nữ hoàng rũ bùn đứng dậy, tới rửa bàn chân bẩn thỉu cho gã ăn mày,.

XLV

498

1040

499

1041

500

1042

501

1043

502

With some irony in her interrogation, for when one woke at all, one's relations changed, she looked at the steady light, the pitiless, the remorseless, which was so much her, yet so little her, which had her at its beck and call (she woke in the night and saw it bent across their bed, stroking the floor), … With some irony in her interrogation, for when one woke at all, one's relations changed, she looked at the steady light, the pitiless, the remorseless, which was so much her, yet so little her, which had her at its beck and call (she woke in the night and saw it bent across their bed, stroking the floor), … So off they strolled down the garden in the usual direction, past the tennis lawn, past the pampas grass, to that break in the thick hedge, guarded by red hot pokers like brasiers of clear burning coal, between which the blue waters of the bay looked bluer than ever. That was the view, she said, stopping, growing greyer-eyed, that her husband loved.

1044

…, and the skulls of small birds, while it drew from the long frilled strips of seaweed pinned to the wall a smell of salt and weeds, which was in the towels too, gritty with sand from bathing.

503

1045

504

1046

505

1047

Với vẻ khôi hài trong lúc cật vấn mình, vì khi ta tỉnh hẳn, thì các mối quan hệ của ta thay đổi, bà nhìn lại luồng sáng chậm rãi kia, thứ ánh sáng không biết thương xót, tàn nhẫn, thứ ánh sáng vừa là bà quá nhiều, vừa là bà quá ít, thứ ánh sáng làm bà tuân phục hoàn toàn (ban đêm bà tỉnh dậy và thấy nó chiếu qua giường vợ chồng bà, rọi xuống sàn), … Với vẻ khôi hài trong lúc cật vấn mình, vì khi ta tỉnh hẳn, thì các mối quan hệ của ta thay đổi, bà nhìn lại luồng sáng chậm rãi kia, thứ ánh sáng không biết thương xót, tàn nhẫn, thứ ánh sáng vừa là bà quá nhiều, vừa là bà quá ít, thứ ánh sáng làm bà tuân phục hoàn toàn (ban đêm bà tỉnh dậy và thấy nó chiếu qua giường vợ chồng bà, rọi xuống sàn), … Vậy nên bọn họ rảo bước dọc theo khu vườn như thường lệ, băng qua sân quần vợt, băng qua cánh đồng hoang, đi qua bờ giậu dày, được lùm hoa loa kèn đuốc trông như đống nồi chứa đầy than đỏ bảo vệ, và giữa cảnh ấy là làn nước xanh của con vịnh, xanh hơn bao giờ hết. Cảnh thế mới là cảnh chứ, bà Ramsay nói và dừng lại, mắt xám hơn, màu mà chồng bà yêu thích. …, rồi mặt trời chiếu vào lũ dơi, vào những mảnh flannel, mũ rơm, bình mực, lọ sơn, lũ bọ, sọ của những con chim nhỏ và kéo từ những dải rong biển dài loăn xoăn đinh trên tường ra mùi muối và rong rêu, cái mùi cũng đọng lại trong những chiếc khan tắm dính đầy cát. Nếu tối nay bà đan xong, nếu cuối cùng họ cũng đi thăm ngọn hải đăng, thì đôi tất kia dành cho đứa bé con người gác đèn biển, cậu bé đang bị chứng lao khớp háng đe dọa; … Sự đơn lẻ của tâm trí khiến bà như chim trời thả hòn đá dò xuống, chính xác thẳng tưng, dĩ nhiên sẽ làm bà buông bỏ đầu óc trước sự thật-một việc làm rất vui vẻ, thoải mái, liên tục, theo cách có lẽ là sai lầm. Nhìn những đồi cát xa xa, ông Bankes nghĩ tới ông Ramsay: nghĩ tới con đường ở Westmorland, nghĩ tới ông Ramsay đang một mình đi dạo dọc con đường ấy, bị sự cô đơn vây lấy - một dáng vẻ rất tự nhiên nơi ông.

506

1048

… tiếng trò chuyện này mất, giờ bỗng nổ ầm một cái trong tai bà khiến bà thoáng kinh hãi nhìn lên.

If she finished it tonight, if they did go to the Lighthouse after all, it was to be given to the Lighthouse keeper for his little boy, who was threatened with a tuberculous hip; … Her singleness of mind made her drop plumb like a stone, alight exact as a bird, gave her, naturally, this swoop and fall of the spirit upon truth which delighted, eased, sustained—falsely perhaps. Looking at the far sand hills, William Bankes thought of Ramsay: thought of a road in Westmorland, thought of Ramsay striding along a road by himself hung round with that solitude which seemed to be his natural air. … this sound which had been obscured and concealed under the other sounds suddenly thundered hollow in her ears and made her look up with an impulse of terror.

XLVI

507

1049

already there are wanderers, confident girls who weave here and there among the stouter and more stable, become for a sharp, joyous moment the centre of a group, and then, excited with triumph, glide on through the sea- change of faces and voices and color under the constantly changing light.

508 all the people in this world haven’t had the advantages that you’ve had

Đã thấy có những cô gái trơ trẽn loăng quăng sà vào đám này một tí đám kia một tí giữa những cô gái khác đẫy đà hơn nên ít xê dịch hơn, bất thần trở thành trung tâm của một nhóm người trong một giây phút vui cười hể hả rồi náo nức vì thắng lợi, lại lướt đi tiếp giữa các gương mặt, các tiếng nói và màu sắc mỗi lúc một khác dưới những ánh đèn không ngừng biến đổi. 1050 không phải ai cũng được hưởng những thuận lợi như con cả đâu.

509

1051

The Carraways are something of a clan, and we have a tradition that we’re descended from the Dukes of Buccleuch,

510

1052

the actual founder of my line was my grandfather’s brother, who came here in fifty-one, sent a substitute to the Civil War, and started the wholesale hardware business that my father carries on to-day.

511

1053

512

1054

513

1055

514

1056

515

1057

516

1058

517

1059

I never saw this great-uncle, but I’m supposed to look like him — with special reference to the rather hard-boiled painting that hangs in father’s office I bought a dozen volumes on banking and credit and investment securities, and they stood on my shelf in red and gold like new money from the mint, promising to unfold the shining secrets that only Midas and Morgan and Maecenas knew. their physical resemblance must be a source of perpetual confusion to the gulls that fly overhead. His family were enormously wealthy — even in college his freedom with money was a matter for reproach — but now he’d left Chicago and come East in a fashion that rather took your breath away I’m going to make a list of all the things I’ve got to get. A massage and a wave, and a collar for the dog, and one of those cute little ash-trays where you touch a spring, and a wreath with a black silk bow for mother’s grave that’ll last all summer. Sometimes they came and went without having met Gatsby at all, came for the party with a simplicity of heart that was its own ticket of admission. The shock that followed this declaration found voice in a sustained “Ah-h- h!” as the door of the coupe swung slowly open.

518

1060

The bored haughty face that she turned to the world concealed something — most affectations conceal something eventually, even though they don’t in the beginning — and one day I found what it was.

Dòng họ Carraway hợp thành một thứ gia tộc riêng và tục truyền chúng tôi thuộc dòng dõi các quận công Buccleuch, người thực sự sáng lập ra chi họ chúng tôi là em trai ông nội tôi. Người ông ấy của tôi đã đến thành phố này năm 1851, cử người thay mình tham gia cuộc Nội chiến, và khai trương nghề bán buôn đồ ngũ kim. Nghề kinh doanh ấy, cha tôi còn tiếp tục cho đến nay. Tôi chưa từng gặp người ông ấy, nhưng hình như tôi giống cụ, nhất là căn cứ vào bức chân dung sơn dầu mô tả một bộ mặt khá sắt đá treo trong phòng giấycủa cha tôi. Tôi mua khoảng một chục cuốn sách nói về công việc ngân hàng, tín dụng và đầu tư. Những cuốn sách ấy xếp thành hàng đỏ rực và vàng choé trên giá sách của tôi như nhữngđồng tiền mới toanh vừa mới đúc, hứa hẹn sẽ tiết lộ cho tôi biết những bí quyết óng ánh mà chỉ Midas, Morgan và Maecenas nắm được. sự giống nhau về hình dạng của chúng hẳn phải làm cho đám hải âu bay lượn bên trên không bao giờ hết băn khoăn lúng túng. Gia đình Tom cực kì giàu có, ngay hồi ở đại học cung cách tiêu xài của Tom cũng đã bị chê trách. Nhưng nay Tom đã rời Chicago đến New York với một bầu đoàn đông đúc đến nỗi làm người ta phải nín hơi kinh ngạc Tôi phải kê thành một bản những thứ cần phải mua. Một máy xoa bóp này, một máy uốn tóc này, một cái vòng cổ cho con chó, một đĩa gạt tàn nho nhỏ xinh xinh có nút bấm bật lò xo và một vòng hoa có dải băng đen để đặt lên mộ mẹ tôi suốt mùa hè. Khách có khi đến rồi về mà chẳng hề gặp chủ nhân. Họ đến dự cuộc vui với sự hồn nhiên được coi là giấy vào cửa. Nỗi kinh ngạc do lời tuyên bố ấy gây ra thể hiện bằng một tiếng “A-à-à!” kéo dài trong khi cửa chiếc xe bị nạn từ từ mở ra. Gương mặt kênh kiệu và buồn chán mà Jordan trưng ra với mọi người che đậy một điều gì đó bên trong – hầu hết những tình cảm giả tạo cuối cùngđều che đậy một cái gì, ngay dù ban đầu người ta không định che đậy gì cả, – và một hôm tôi phát hiện ra đó là cái gì.

XLVII

519

1061

520

1062

521

I am one of the few honest people that I have ever known.

At her first big golf tournament there was a row that nearly reached the newspapers But I am slow-thinking and full of interior rules that act as brakes on my desires

1063

length with

522

1064

523

1065

It was a rich cream color, bright with nickel, swollen here and there in its triumphant hat-boxes and supper-boxes and monstrous toolboxes, and terraced with a labyrinth of wind-shields that mirrored a dozen suns. So he was aware of the bizarre accusations that flavored conversation in his halls.

524 You always have a green light that burns all night at the end of your dock.

1066

525

1067

He had thrown himself into it with a creative passion, adding to it all the time, decking it out with every bright feather that drifted his way.

526

1068

Tại giải đánh gôn lớn đầu tiên mà Jordan tham dự đã xảy ra một chuyện rắc rối suýt nữa thì bị đưa lên báo Nhưng tôi vốn chậm nghĩ và là người mang đầy những phép tắc như những cái phanh kìm hãmcác ước muốn của tôi. tôi tự cho rằng mình là một trong số những người trung thực hiếm hoi mà tôi được biết từ trước đến nay. Chiếc xe sơn màu kem, mạ kền sáng loáng, thân xe dài khủng khiếp với nhiều chỗ phình ra làm ngăn đặt mũ, ngăn đựng đồ ăn đi cắm trại và ngăn đựng dụng cụ, còn trên mui là những thanh chắn gió đan với nhau lằng nhằng rắc rối và lấp lánh phản chiếu dễ đến hàng chục mặt trời. Thì ra Gatsby cũng biết những lời tố cáo quái gở đã được gia giảm vào những lời tán gẫu trong các gian phòng ở nhà anh. Chỗ nhà em lúc nào cũng có một đốm sáng xanh lục, sáng suốt đêm ở đầu bến thuyền. Gatsby đã gieo mình vào ảo giác ấy với một niềm đắm say của kẻ sáng tạo, anh không ngừng làm cho nó đầy đặn thêm lên, điểm tô cho nó bằng tất cả những lông cánh rực rỡ lạc vào tay anh. Vì thế anh đã tưởng tượng ra Jay Gatsby, đúng loại người mà một đứa trẻ mười bảy tuổi có thể nghĩ ra, và anh đã trung thành với khái niệm này cho đến cùng.

527

1069

Trước đó hơn một năm, anh đã lặn lội kiếm sống ở mạn phía nam Hồ Thượng, bắt ngao và đánh cá hoặc làm bất cứ nghề gì đem lại miếng cơm manh chiếu.

528

1070

So he invented just the sort of Jay Gatsby that a seventeen-year-old boy would be likely to invent, and to this conception he was faithful to the end. For over a year he had been beating his way along the south shore of Lake Superior as a clam-digger and a salmon-fisher or in any other capacity that brought him food and bed. Then he drifted back to Lake Superior, and he was still searching for something to do on the day that Dan Cody’s yacht dropped anchor in the shallows alongshore.

529

1071

The transactions in Montana copper that made him many times a millionaire found him physically robust but on the verge of soft-mindedness

530

1072

Daisy began to sing with the music in a husky, rhythmic whisper, bringing out a meaning in each word that it had never had before and would never have again.

Thế là James Gatz lại lang thang bên Hồ Thượng, và hôm chiếc du thuyền của Dan Cody thả neo xuống dải đấtnông ven bờ thì James Gatz vẫn còn đang loay hoay chưa biết nên làm gì. Những cuộc mua bán các mỏ vàng ở Montana giúp ông trở thành người mấy mươi lần triệu phú, đã làm cho ông cường tráng về thể chất nhưng mềm yếu về tâm hồn. Daisy bắt đầu hát khe khẽ theo tiếng nhạc bằng một giọng trầm trầm, thướt tha, làm nổi nghĩa của từng lời ca như nó chưa bao giờ có và sẽ không bao giờ có nữa.

531 What was it up there in the song that seemed to be calling her back inside?

1073 Có cái gì vậy ở trên kia, trong bài hát, tưởng đâu như muốn vẫy gọi nàng ở lại?

532

1074

533

1075

So he waited, listening for a moment longer to the tuning-fork that had been struck upon a star. they would choose this occasion for a scene — especially for the rather harrowing scene that Gatsby had outlined in the garden.

Vì thế anh nán chờ, lắng nghe thêm một lúc cái âm thoa đã được ai đó gõ vào một vì sao trên trời. họ lại chọn dịp này để gây chuyện – nhất là loại chuyện rầy rà mà Gatsby đã vẽ phác ra cho tôi hôm ở ngoài vườn.

XLVIII

534

1076

The prolonged and tumultuous argument that ended by herding us into that room eludes me, though I have a sharp physical memory that, in the course of it, my underwear kept climbing like a damp snake around my legs and intermittent beads of sweat raced cool across my back.

Đến nay tôi không còn nhớ hết những lời lẽ bàn cãi ồn ào và kéo dài cuối cùng đã dẫn đến chỗ lùa chúng tôi vào phòng khách đó, nhưng tôi còn nhớ như in là trong lúc mọi người bàn cãi, chiếc quần lót của tôi cứ như một con rắn lầy nhầy bò leo chung quanh chân tôi, và mồ hôi lạnh từng giọt một lăn đuổi nhau dọc sống lưng tôi.

535 He gave me an aluminum putter that I use to-day.

1077 Hắn cho em một cái gậy đánh gôn bây giờ em vẫn còn dùng.

536

1078

We pushed aside curtains that were like pavilions, and felt over innumerable feet of dark wall for electric light switches

537

1079

At the gray tea hour there were always rooms that throbbed incessantly with this low, sweet fever, while fresh faces drifted here and there like rose petals blown by the sad horns around the floor

538

1080

He stretched out his hand desperately as if to snatch only a wisp of air, to save a fragment of the spot that she had made lovely for him.

539 Maybe you got some friend that I could telephone for, George?

Chúng tôi gạt những tấm rèm cửa to như những cánh buồm, sờ soạng trên không biết bao nhiêu thước tường tối đen để tìm nút bật đèn Vào những giờ uống trà mờ tối, luôn luôn có những gian buồng chìm đắm liên miên trong cơn sốt nhè nhẹ êm dịu này trong khi những khuôn mặt tươi tắn trôi giạt đây đó như những cánh hồng bị hơi thổi của những cây kèn co buồn bã làm tung bay khắp sàn nhà. Anh tuyệt vọng đưa tay ra như muốn thu lấy dù chỉ là một chút không khí, như muốn vớt vát lấy một mảnh nhỏ của xứ sở mà vì anh nàng đã biến thành mĩ lệ. 1081 Chắc ông có bạn chứ, ông George? Có ai không nào để tôi gọi dây nói báo cho.

540

1082

Mặt nước chuyển động thật nhè nhẹ, hầu như khó nhận thấy, bởi luồng nước mới từ đầu bể đổ về cửa tháo nước cuối bể. Làn nước lăn tăn chưa hẳn thành sóng đẩy chiếc đệm chở nặng trôi không đều về phía dưới bể bơi.

541

1083

542

1084

Chỉ một ngọngió nhẹ làm hơi răn mặt nước đã đủ để xáo động con đường đi vô tình của nó với cái gánh nặng vô tình của nó. Gatsby giở xem một cuốn “Kinh tế học” của Clay với con mắt không thần sắc. Anh giật mình khi nghe thấy tiếng chân chị giúp việc làm rung sàn bếp, thỉnh thoảng lại vụng trộm nhìn qua những ô cửa kính mờ hơi sương như thể bên ngoài đang diễn ra một loạt sự việc vô hình nhưng đáng ngại.

There was a faint, barely perceptible movement of the water as the fresh flow from one end urged its way toward the drain at the other. with little ripples that were hardly the shadows of waves, the laden mattress moved irregularly down the pool. A small gust of wind that scarcely corrugated the surface was enough to disturb its accidental course with its accidental burden. Gatsby looked with vacant eyes through a copy of Clay’s ECONOMICS, starting at the Finnish tread that shook the kitchen floor, and peering toward the bleared windows from time to time as if a series of invisible but alarming happenings were taking place outside.

XLIX