HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN HƯƠNG XUÂN
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2023
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN HƯƠNG XUÂN
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ Mã số: 934 04 10
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS, TS. NGUYỄN NGỌC TOÀN 2. PGS, TS. ĐỖ ANH ĐỨC
HÀ NỘI - 2023
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
Tác giả
Trần Hương Xuân
ii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ......................................................................................................... 13 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............................................. 13 1.2. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............... 27 1.3. Những vấn đề được lựa chọn nghiên cứu và khung phân tích ........................ 31
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC ...................................................... 34 2.1. Khái quát về giáo dục đại học công lập và quản lý tài chính các trường đại học công lập ........................................................................................................... 34 2.2. Đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ................................................................ 55 2.3. Kinh nghiệm đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trên thế giới .. 72 Chương 3: THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM ....................................... 78 3.1. Khái quát về các trường đại học công lập ở Việt Nam và vấn đề đổi mới giáo dục đại học theo hướng tự chủ và nâng cao chất lượng các trường đại học công lập ......... 78 3.2. Thực trạng đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam ........................ 85 3.3. Đánh giá chung về đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam..... 126
Chương 4: GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM ..................................... 131 4.1. Bối cảnh mới đối với quản lý tài chính các trường đại học công lập ở Việt Nam . 131 4.2. Quan điểm về đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập ở Việt Nam .. 136 4.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập ở Việt Nam trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ........................................................................................................... 139 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 156 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................... 158 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 159 PHỤ LỤC ................................................................................................................ 170
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Danh mục các chữ viết tắt tiếng Việt
Cụm từ viết tắt Nguyên nghĩa
CĐT Chi đầu tư
CQNN Cơ quan nhà nước
CSVC Cơ sở vật chất
CTĐT Chương trình đào tạo
CTX Chi thường xuyên
DVSNC Dịch vụ sự nghiệp công
ĐHCL Đại học công lập
ĐVSNCL Đơn vị sự nghiệp công lập
ĐVSX-DV-CGCN Đơn vị sản xuất - dịch vụ - chuyển giao công nghệ
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
GDĐH Giáo dục đại học
KH&CN Khoa học và công nghệ
KH&ĐT Kế hoạch và đầu tư
NLĐ Người lao động
NN Nhà nước
NSNN Ngân sách nhà nước
NSTW Ngân sách trung ương
QLTC Quản lý tài chính
PVCĐ Phục vụ cộng đồng
UBND Ủy ban nhân dân
2. Danh mục các chữ viết tắt tiếng Anh
Chữ viết tắt Nguyên nghĩa tiếng Anh Nguyên nghĩa tiếng Việt
ADB Asian Development Bank Ngân hàng phát triển Châu Á
WB The World Bank Ngân hàng Thế giới
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Trung bình quy mô và tỷ trọng nguồn NSNN cấp cho các trường ĐHCL ở
Việt Nam qua các giai đoạn ....................................................................................... 93
Bảng 3.2. Trung bình nguồn thu từ đào tạo và tỷ trọng thu từ đào tạo trên tổng nguồn
thu các trường ĐHCL ở Việt Nam qua các giai đoạn .............................................. 100
Bảng 3.3. Đổi mới mô hình quản lý sử dụng nguồn tài chính các trường ĐHCL ở Việt
Nam khi thực hiện cơ chế tự chủ tài chính .............................................................. 106
Bảng 3.4. Đổi mới quản lý phân phối kết quả tài chính các trường ĐHCL ở Việt Nam
qua các giai đoạn thực hiện cơ chế tự chủ tài chính ................................................ 109
Bảng 3.5. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL ở 2 giai đoạn..................... 112
Bảng 3.6. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL phân loại theo vị trí địa lý 114
Bảng 3.7. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL phân loại theo định hướng phát
triển .......................................................................................................................... 116
Bảng 3.8. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL có hoặc không có ĐVSX-DV-
CGCN thuộc và trực thuộc ....................................................................................... 118
Bảng 4.1. Mức trần học phí đối với các cơ sở GDĐH công lập chưa tự bảo đảm chi
thường xuyên ............................................................................................................ 135
Bảng 4.2. Mức trần học phí đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập chưa tự bảo
đảm chi thường xuyên .............................................................................................. 143
Bảng 4.3: Mô hình Quỹ đổi mới đề xuất cho giáo dục đại học ở Việt Nam ........... 144
v
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1. Sự phát triển số lượng các trường ĐHCL và ngoài công lập ................ 79
Biểu đồ 3.2. Sự phát triển số lượng sinh viên các trường ĐHCL và ngoài công lập 80
Biểu đồ 3.3. Sự phát triển số lượng giảng viên trường ĐHCL và ngoài công lập.... 81
Biểu đồ 3.4. Số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ trong hệ thống GDĐH .............. 82
Biểu đồ 3.5. Sự phát triển của hệ thống GDĐH công lập giai đoạn 1996 - 2002 ..... 91
Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ chi tiêu công cho GDĐH tính trên GDP ở một số nước trên thế
giới năm 2016 ........................................................................................................... 92
Biểu đồ 3.7. Xu hướng tăng nguồn tài chính ngoài NSNN của các ....................... 103
Biểu đồ 3.8. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL ở 2 giai đoạn thực hiện cơ
chế tự chủ ................................................................................................................. 113
Biểu đồ 3.9. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL phân loại theo vị trí địa lý . 115
Biểu đồ 3.10. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL theo ............................ 117
Biểu đồ 3.11. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL có hoặc không có ĐVSX-
DV-CGCN thuộc và trực thuộc khi thực hiện cơ chế tự chủ ................................... 119
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1.1. Khung phân tích luận án ............................................................................ 33
Hình 2.1. Xu hướng đổi mới cơ chế phân bố NSNN cho các trường ĐHCL ............ 58
Hình 2.2. Xu hướng đổi mới chính sách học phí giáo dục ĐHCL ............................ 59
Hình 2.3. Xu hướng đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính do NSNN cấp .......... 62
Hình 3.1. Quy trình phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL ở Việt Nam .................. 87
Hình 3.2. Đổi mới mô hình phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL ở Việt Nam ...... 88
Hình 4.1. Mô hình huy động các nguồn lực của Công ty BK-Holdings.................. 154
Hình 4.2. Mô hình hoạt động của các doanh nghiệp thuộc Trường Đại học Đông Á ... 155
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Với vai trò cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế, giáo dục đại
học (GDĐH) được xem như là một bộ phận của cơ sở hạ tầng xã hội, là nền tảng quan
trọng và là điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững của mỗi
quốc gia. Ở Việt Nam, vấn đề nâng cao chất lượng GDĐH được coi là quốc sách hàng đầu.
Ngày 15/01/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 69/QĐ-TTg phê duyệt
đề án "Nâng cao chất lượng GDĐH giai đoạn 2019-2025" với mục tiêu tổng thể là "tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ, thực chất về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển
giao công nghệ của hệ thống GDĐH đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực; góp phần nâng cao
chất lượng và năng suất lao động, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, tăng cường năng lực
cạnh tranh của quốc gia trong khu vực và trên thế giới".
Trước đây, các trường đại học ở Việt Nam đều là trường công lập, thuộc sở hữu
nhà nước và được Chính phủ tài trợ toàn bộ để thực hiện cung cấp dịch vụ đào tạo đại
học - một loại hàng hóa công có ngoại ứng tích cực quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế. Từ khi Nhà nước Việt Nam chấp nhận phát triển hệ thống trường đại học tư
nhân (năm 1988) cho đến nay, số lượng và quy mô các trường đại học tư thục ngày càng
phát triển [102]. Việt Nam hiện có 242 trường đại học bao gồm 176 trường công lập, 66
trường tư thục và dân lập, 05 trường có 100% vốn nước ngoài. Mặc dù vẫn đóng vai trò
chủ đạo trong hệ thống GDĐH cả về quy mô và chất lượng đào tạo, các trường đại học
công lập (ĐHCL) ở Việt Nam đang phải cố gắng nhiều hơn trong cuộc cạnh tranh với
nhau và với các trường đại học tư nhân xuất phát từ tính chất đặc biệt của dịch vụ GDĐH,
vừa mang lại lợi ích công cộng vừa đem đến lợi ích cá nhân của người học, và do đó chịu
sự điều tiết của thị trường.
Trước xu thế đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế, Việt Nam cũng đã có nhiều cải
cách trong lĩnh vực GDĐH, đúng theo tinh thần của Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày
02/11/2005 của Chính phủ về Đề án “Đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH ở Việt Nam giai
đoạn 2006-2020”. Trên tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội
nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GĐ&ĐT)
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, cùng với việc ban hành và thực hiện Nghị
quyết 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ về việc thí điểm đổi mới cơ chế hoạt
2
động đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL giai đoạn 2014-2017, Nhà nước đã xác định tự chủ
đại học là xu hướng tất yếu và các trường ĐHCL buộc phải thích nghi với môi trường hoạt
động mới: đào tạo gắn với nhu cầu của xã hội - nhu cầu của thị trường lao động. Như vậy,
về cơ bản các trường ĐHCL được trao quyền tự chủ nhưng đồng thời, phải chịu nhiều áp
lực cạnh tranh vốn có của kinh tế thị trường.
Tự chủ đại học có 04 nội dung chủ yếu là: (1) Tự chủ về học thuật, (2) Tự chủ về
tổ chức bộ máy, (3) Tự chủ về nhân sự, (4) Tự chủ về tài chính. Trong đó, tự chủ tài chính
đóng vai trò nền tảng để thực hiện hiệu quả và bền vững các nội dung còn lại của tự chủ
đại học. Trong bối cảnh này, việc đổi mới quản lý tài chính (QLTC) hướng tới hình thành
một cơ chế QLTC phù hợp, là môi trường thuận lợi cho các trường ĐHCL huy động
nguồn thu, nâng cao năng lực tự chủ tài chính, đảm bảo quá trình tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của các trường được thực hiện đầy đủ, khách quan, công bằng và minh bạch, vừa
giảm sự can thiệp của Nhà nước lại vừa phải đảm bảo chất lượng GDĐH, là vấn đề cấp
thiết hiện nay.
Trong quá trình đổi mới và thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập (ĐVSNCL) ở Việt Nam qua các giai đoạn: từ Nghị định số 10/2002/NĐ-
CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu; đến Nghị
định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các ĐVSNCL; tiếp đó được
thay thế bởi Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của
ĐVSNCL; và mới đây là Nghị định số 60/2021/NĐ-CP được ban hành nhằm khắc phục
những hạn chế của Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, các trường ĐHCL ở Việt Nam vẫn đang
đối mặt với nhiều thách thức về huy động nguồn tài chính như: nguồn tài chính từ ngân
sách nhà nước (NSNN) bị hạn chế, nguồn thu sự nghiệp không đảm bảo, sự phân chia
nguồn tài chính công giữa các trường chưa công bằng [35]. Bên cạnh đó, cùng với quá
trình đổi mới QLTC các trường ĐHCL, việc huy động, phân phối và sử dụng nguồn tài
chính của các trường đã thực sự góp phần nâng cao chất lượng GDĐH hay chưa, những
đổi mới trong QLTC các trường đại học ĐHCL đã tác động đến mức tự chủ và chất lượng
các trường như thế nào, vẫn là những vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu.
Từ các lý do trên, tác giả lựa chọn nội dung “Đổi mới quản lý tài chính các trường
đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Về lý luận: Xác định cơ sở lý luận về đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong điều
kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH, tác động của đổi mới QLTC đến mức tự chủ và
chất lượng trường ĐHCL; tác động của các yếu tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các
trường ĐHCL đến mức độ đổi mới QLTC các trường.
Về thực tiễn: Đề xuất quan điểm và giải pháp đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở
góc độ quản lý nhà nước, có xem xét đến các yếu tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của
các trường có khả năng ảnh hưởng đến đổi mới QLTC các trường ĐHCL; bên cạnh đó
đề xuất một số giải pháp định hướng cho các trường trong việc vận dụng cơ chế QLTC
mà Nhà nước để thiết kế cơ cấu nguồn tài chính và cơ cấu chi phù hợp, góp phần hướng
mục tiêu việc đổi mới QLTC các trường ĐHCL đến mục tiêu đáp ứng yêu cầu tự chủ và
nâng cao chất lượng GDĐH ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Một là, tổng thuật các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhằm xác định
rõ nội dung đã được nghiên cứu và có thể kế thừa, những nội dung chưa được giải quyết
và những khoảng trống nghiên cứu, từ đó xác định câu hỏi nghiên cứu và định hướng
nghiên cứu của đề tài.
Hai là, hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về đổi mới QLTC các
trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH, làm cơ sở khoa học để
phân tích thực trạng đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam.
Ba là, trên cơ sở khung phân tích đã xây dựng, luận án phân tích và đánh giá thực
trạng đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam trong điều kiện tự chủ và nâng cao
chất lượng GDĐH, đánh giá thực trạng mối quan hệ tác động của đổi mới QLTC đến
mức tự chủ và chất lượng của các trường, xác định những kết quả đã đạt được, những
hạn chế và nguyên nhân của hạn chế, làm cơ sở để xác định quan điểm và đề xuất giải
pháp tiếp tục đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam.
Bốn là, trên cơ sở xác định bối cảnh mới có liên quan và những quan điểm trong
việc đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong giai đoạn tới, căn cứ những bài học kinh
nghiệm đã rút ra, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc đổi mới QLTC
các trường ĐHCL trong thời gian vừa qua, đề tài đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm
4
tiếp tục đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam trong điều kiện tự chủ và nâng cao
chất lượng GDĐH.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề đổi mới QLTC các trường ĐHCL đáp
ứng yêu cầu tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về chủ thể quản lý: Vấn đề đổi mới QLTC các trường ĐHCL được nghiên cứu
chủ yếu dưới góc độ quản lý nhà nước với chủ thể quản lý là Chính phủ. Việc đổi mới
QLTC của lãnh đạo trường ĐHCL cũng được đề cập ở góc độ là căn cứ thực tế để Chính
phủ đổi mới cơ chế chính sách tạo điều kiện cho đổi mới QLTC của các trường đạt mục
tiêu tự chủ và nâng cao chất lượng.
- Về nội dung: Đổi mới QLTC các trường ĐHCL được tiếp cận gồm các nội dung:
(1) đổi mới huy động nguồn tài chính, (2) đổi mới sử dụng nguồn tài chính và (3) đổi mới
phân phối kết quả tài chính của các trường đáp ứng yêu cầu của tự chủ và nâng cao chất
lượng GDĐH, được xem xét chủ yếu ở việc chuyển đổi qua các mô hình khác nhau trong
quá trình đổi mới về mặt cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với 03 nội dung này.
- Về không gian: Luận án thu thập và phân tích dữ liệu về đổi mới QLTC tại 17
trường ĐHCL ở Việt Nam đã thực hiện đánh giá theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường
đại học ban hành kèm theo Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 của Bộ
trưởng Bộ GĐ&ĐT ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường
đại học, được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT ngày 30/10/2012 của
Bộ trưởng Bộ GĐ&ĐT; và Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT ngày 19/5/2017 của Bộ
GĐ&ĐT ban hành Quy định về kiểm định chất lượng cơ sở GDĐH.
- Về thời gian:
+ Luận án phân tích thực trạng đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam thông
qua so sánh quy định về cơ chế, chính sách của Nhà nước trong các văn bản pháp lý liên
quan được ban hành trước năm 2021, từ đó đánh giá sự phù hợp của quá trình đổi mới
QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam so với xu hướng chung về đổi mới QLTC các trường
ĐHCL trên thế giới. Các mốc thời gian khi phân tích từng nội dung đổi mới QLTC có thể
không trùng khớp với nhau.
5
+ Dữ liệu thu thập được của 17 trường ĐHCL là dữ liệu từ các Báo cáo tự đánh
giá, báo cáo Ba công khai của các trường từ 2012 đến 2021. Dựa trên bộ dữ liệu này, luận
án phân tích, đánh giá thực trạng kết quả của đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt
Nam qua một quá trình đổi mới theo hướng mở rộng quyền tự chủ và nâng cao chất lượng
GDĐH. Quan điểm và giải pháp đổi mới QLTC các trường ĐHCL được đề xuất cho giai
đoạn tới năm 2030, tầm nhìn 2035.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận của luận án
Việc nghiên cứu đề tài luận án dựa trên cơ sở lý luận về QLTC các ĐVSNCL,
với nền tảng là lý thuyết về QLTC công, được thực hiện trong bối cảnh Nhà nước không
còn duy trì vai trò kiểm soát toàn bộ mà trao quyền tự chủ ngày càng mở rộng cho các
ĐVSNCL (trong đó có các trường ĐHCL). Việc thay đổi về mặt thể chế này chính là
việc chuyển từ mô hình quản lý công truyền thống sang mô hình quản lý công mới (New
Public Management - NPM) với đặc trưng là: (i) khuyến khích “thị trường hóa” một số
hoạt động của khu vực công; (ii) cơ chế quản lý chuyển dần sang dựa vào kết quả; (iii)
trao quyền tự chủ trong quản lý cho người đứng đầu các tổ chức công; (iv) tách biệt
chức năng quản lý, giám sát với chức năng cung ứng dịch vụ; và (v) lấy khách
hàng/người dân làm trung tâm [84].
Theo đó, sự thay đổi vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực GDĐH sẽ dẫn đến yêu
cầu đổi mới QLTC đối với các trường ĐHCL để tạo môi trường thuận lợi cho các trường
phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và nâng cao chất lượng hoạt động. Vấn đề
QLTC và đổi mới QLTC các trường ĐHCL được xem xét ở các khía cạnh huy động,
phân phối và sử dụng nguồn tài chính của đơn vị, nhưng không còn chỉ quan tâm đến
góc độ cân đối thu - chi của QLTC công truyền thống, mà quan trọng hơn là hiệu quả
hoạt động của các trường với chức năng cung ứng dịch vụ công về đào tạo, nghiên cứu
khoa học (NCKH) và phục vụ cộng đồng (PVCĐ), thể hiện ở kết quả tài chính trong
năm của các trường, đề cao tính năng động trong quản lý các trường ĐHCL hướng đến
mô hình quản lý theo kiểu công ty (university cooperation), đảm bảo phát triển bền
vững và nâng cao chất lượng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử để nghiên cứu các vấn đề, bảo đảm tính toàn diện, tính hệ thống, tính logic và tính
6
thực tiễn; đồng thời quán triệt các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới tổ chức
và quản lý hướng tới bảo đảm và nâng cao chất lượng các ĐVSNCL, trong đó có các
trường ĐHCL.
4.2.2. Cách tiếp cận nghiên cứu
- Tiếp cận hệ thống
Tiếp cận hệ thống được sử dụng trong đánh giá các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
và các nhân tố thuộc tính nội tại của các trường ĐHCL có khả năng ảnh hưởng đến mức
độ đổi mới QLTC, mức tự chủ cũng như chất lượng các trường. Các nhân tố vĩ mô bao
gồm: thể chế kinh tế - xã hội; trình độ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia; xu thế hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực giáo dục… Các nhân tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của
các trường gồm có: tuổi của trường; quy mô của trường; vị trí địa lý của trường, định hướng
phát triển của trường; sự hiện diện của đơn vị sản xuất - dịch vụ - chuyển giao công nghệ
(ĐVSX-DV-CGCN) thuộc và trực thuộc… Các nhân tố vĩ mô hay vi mô đều có thể tác
động tích cực hoặc tiêu cực đến đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ
và nâng cao chất lượng GDĐH.
Tiếp cận hệ thống cũng được sử dụng trong đánh giá tác động của các chỉ tiêu phản
ánh đổi mới QLTC đến mức tự chủ và chất lượng các trường đại học ĐHCL. Từ những
vấn đề lý thuyết, tiếp cận theo hướng diễn dịch sẽ giúp suy ra giả định về tác động tích cực
hay tiêu cực của chỉ tiêu phản ánh đổi mới QLTC đến mức tự chủ và chất lượng của các
trường. Sau đó, từ thực tiễn sinh động, tiếp cận theo hướng quy nạp sẽ giúp đưa ra kết luận
và khái quát thành một giả thuyết đã được chứng minh.
Điều này cho thấy, cách tiếp cận hệ thống có ý nghĩa quan trọng nhằm hình thành
bức tranh tổng thể về mối quan hệ giữa đổi mới QLTC các trường ĐHCL với các nhân tố
ảnh hưởng đến nó cũng như mối quan hệ tác động của nói đến mức tự chủ và chất lượng
của các trường.
- Tiếp cận điển hình (nghiên cứu trường hợp)
Số lượng các trường ĐHCL ở Việt Nam là tương đối lớn, do đó đề tài sẽ lựa chọn
thu thập dữ liệu về QLTC của một số trường ĐHCL đã được kiểm định chất lượng theo
quy định hiện hành. Các trường đại học được lựa chọn để thống kê dữ liệu báo cáo có địa
điểm nằm ở các vùng kinh tế khác nhau trên cả nước, trực thuộc các cơ quan chủ quản khác
nhau (trực thuộc Bộ GĐ&ĐT, các Bộ chủ quản, các Đại học vùng, Đại học Quốc gia, Ủy
ban nhân dân các tỉnh).
7
- Tiếp cận định tính kết hợp với tiếp cận định lượng
Tiếp cận định tính xem xét đổi mới QLTC các trường ĐHCL bằng cách thăm dò,
mô tả, giải thích dựa trên khảo sát kinh nghiệm, nhận thức, động cơ thúc đẩy, dự định,
hành vi, thái độ của các nhà quản lý với vai trò là chủ thể QLTC GDĐH. Tiếp cận định
tính do đó có thể hướng chúng ta đến việc xây dựng giả thuyết và các lý giải, hỗ trợ cho
việc xây dựng mô hình và phân tích các kết quả nghiên cứu định lượng.
Tiếp cận định lượng xem xét đổi mới QLTC các trường ĐHCL theo cách có thể
đo lường/đánh giá thông qua một số biến số cụ thể, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến
mức tự chủ và chất lượng của các trường ĐHCL làm cho chúng thay đổi theo một xu
hướng nhất định, thể hiện qua kết quả kiểm định các mô hình hồi quy đa biến.
4.2.3. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
a) Phương pháp thu thập dữ liệu
Luận án sử dụng phương pháp thống kê để thu thập và xử lý dữ liệu thứ cấp từ số
liệu thống kê của Bộ GĐ&ĐT, các bộ chủ quản, "Báo cáo tự đánh giá cơ sở giáo dục"
dùng để đăng ký kiểm định chất lượng giáo dục công khai trên website của 17 trường
ĐHCL đã được kiểm định chất lượng theo quy định, và thông tin “Ba công khai” trên
website của các trường, với bộ dữ liệu thu thập được gồm 86 quan sát nằm trong khoảng
thời gian từ năm 2012 đến năm 2021. Căn cứ khung lý thuyết về đổi mới QLTC các trường
ĐHCL theo hướng tiếp cận của luận án, các chỉ tiêu (biến số) được tác giả thu thập, tính
toán và chọn lọc đưa vào bộ dữ liệu (được thể hiện rõ ở Phụ lục 1.3); gồm có:
- Thứ nhất, các chỉ tiêu (biến số) phản ánh đổi mới QLTC các trường ĐHCL gồm:
+ Các chỉ tiêu (biến số) phản ánh đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính của các
trường ĐHCL; trong đó có biến MTC (mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên) là
biến số vừa đo lường đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính, vừa là biến số đo lường
khả năng tự chủ tài chính của các trường.
+ Các chỉ tiêu (biến số) phản ánh đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính của các
trường ĐHCL.
- Thứ hai, các chỉ tiêu (biến số) phản ánh chất lượng các trường ĐHCL gồm:
+ Chỉ tiêu (biến số) phản ánh chất lượng đào tạo;
+ Chỉ tiêu (biến số) phản ánh chất lượng NCKH;
+ Chỉ tiêu (biến số) phản ánh chất lượng PVCĐ.
- Thứ ba, các biến số phản ánh một số nhân tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của
8
trường ĐHCL có khả năng ảnh hưởng đến mức độ đổi mới QLTC, mức tự chủ cũng như
chất lượng các trường (các biến kiểm soát).
Việc lựa chọn các biến số thích hợp trong tập hợp các chỉ tiêu (biến số) nêu trên để
đưa vào mô hình hồi quy đa biến nhằm đánh giá đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong
điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH còn cần phải sử dụng kỹ thuật phân tích
tương quan nhằm phát hiện sớm mối quan hệ tuyến tính giữa các cặp chỉ tiêu (biến số).
b) Phương pháp phân tích dữ liệu
* Phương pháp phân tích định tính:
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Luận án sử dụng phương pháp này trong xây
dựng cơ sở lý thuyết của đề tài luận án. Phương pháp này cũng được sử dụng để phân
tích thông tin, số liệu thu thập được về đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở hai phương
diện: đổi mới trong cơ chế, chính sách của Nhà nước và kết quả thực hiện cơ chế, chính
sách đó của các trường ĐHCL, từ đó tổng hợp để đưa ra kết luận về xu hướng đổi mới,
những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Phương pháp so sánh: Luận án sử dụng phương pháp này để đánh giá sự đổi mới
trong cơ chế, chính sách của Nhà nước về QLTC các trường ĐHCL thông qua việc so sánh
các quy định về QLTC mà Nhà nước ban hành trong phạm vi thời gian nghiên cứu, trên các
khía cạnh cụ thể: quản lý huy động nguồn tài chính, quản lý sử dụng nguồn tài chính, quản lý
phân phối kết quả tài chính trong năm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Luận án sử dụng phương pháp này khi tổng
quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến QLTC và đổi mới QLTC các trường
ĐHCL của các quốc gia trên thế giới, từ đó tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn và rút
ra những bài học thành công hay thất bại, có thể được xem xét, cân nhắc để đưa ra những
giải pháp phù hợp với bối cảnh của Việt Nam.
* Phương pháp phân tích định lượng
- Phương pháp thống kê mô tả (Descriptive statistic) là phương pháp sử dụng
để tính toán, tóm tắt, trình bày những thông tin cơ bản của dữ liệu, phục vụ quá trình
nghiên cứu thực nghiệm và phân tích những số liệu thống kê đó. Luận án sử dụng
phương pháp này để mô tả một cách tổng quát đặc điểm của mẫu khảo sát. Bên cạnh
đó, thống kê mô tả cũng được sử dụng để xem xét các mối quan hệ có thể có giữa các
biến bằng cách sử dụng bảng kết hợp (custom tables). Thống kê mô tả gồm thống kê
trung bình và thống kê tần số:
9
+ Thống kê trung bình: thường được sử dụng với các biến định lượng, dùng để
thống kê các chỉ số phân tích như giá trị trung bình (mean), giá trị lớn nhất, nhỏ nhất
(max, min), độ lệch chuẩn (standard deviation)...
+ Thống kê tần số: thường được áp dụng cho các biến định tính như vị trí địa lý,
định hướng phát triển, sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN thuộc/trực thuộc trường...,
dùng để cung cấp thông tin mức độ (tần số) các chỉ số xuất hiện trong tập mẫu và làm nổi
bật các mối quan hệ có thể có giữa các biến.
- Thống kê suy luận (Inferential statistics): Luận án sử dụng phương pháp phân
tích tương quan và phân tích hồi quy tuyến tính để phân tích mối quan hệ giữa đổi mới
QLTC với mức tự chủ và chất lượng các trường ĐHCL, từ đó đưa ra hàm ý chính sách
cho Nhà nước về vấn đề đổi mới QLTC các trường ĐHCL, cũng như giải pháp cho các
trường trong việc thực hiện cơ chế QLTC của Nhà nước, trong bối cảnh tự chủ đại học
và yêu cầu nâng cao chất lượng GDĐH.
+ Phương pháp phân tích tương quan Pearson: Khi phân tích mối quan hệ giữa
các biến số phản ánh đổi mới QLTC với các biến số phản ánh chất lượng của trường
ĐHCL, luận án sử dụng kỹ thuật phân tích tương quan Pearson (hệ số tương quan của
Pearson) để đo lường mối tương quan tuyến tính giữa các biến quan tâm. Nó cung cấp
thông tin về độ lớn của mối tương quan, cũng như hướng của mối quan hệ. Nhờ vào kết
quả phân tích tương quan, tác giả có thể lựa chọn các biến độc lập có mối quan hệ tương
quan chặt với các biến phụ thuộc để đưa vào mô hình hồi quy đa biến, nhằm đánh giá
tác động mang tính nhân - quả của đổi mới QLTC đến mức tự chủ và đến chất lượng
của trường ĐHCL, đồng thời giúp phát hiện sớm hiện tượng đa cộng tuyến khi các biến
độc lập có tương quan chặt với nhau để loại bỏ những biến không phù hợp ra khỏi mô
hình dự kiến.
+ Sử dụng kiểm định One - Way ANOVA để so sánh các nhóm trường theo các tiêu chí
phân loại khác nhau: 1. Tuổi của trường, 2. Quy mô của trường, 3. Vị trí địa lý của trường, 4.
Định hướng phát triển của trường, 5. Sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN thuộc/trực thuộc; từ
đó thấy được sự khác biệt về mức độ đổi mới QLTC, khả năng tự chủ tài chính và chất lượng
của các nhóm trường.
+ Mô hình hồi quy bội được sử dụng để phân tích đánh giá tác động của đổi mới
QLTC đến mức tự chủ và chất lượng các trường ĐHCL. Trên cơ sở khung lý thuyết đã xây
dựng về các chỉ tiêu đánh giá đổi mới QLTC các trường ĐHCL, nghiên cứu sinh xây dựng
10
hàm hồi quy bội để mô tả mối quan hệ và sự tác động của đổi mới QLTC đến mức tự chủ và
chất lượng các trường ĐHCL.
Theo đó, đối với các mô hình chỉ có biến độc lập, trong tập hợp các biến được thu
thập dữ liệu từ báo cáo tự đánh giá của các trường ĐHCL (Phụ lục 1.3) tác giả dựa vào
bảng phân tích tương quan Pearson (Phụ lục 3.7) để lựa chọn các biến độc lập có tương
quan tuyến tính với biến phụ thuộc tương ứng và không có hiện tượng đa cộng tuyến, cụ
thể như sau:
Để đo lường chất lượng các trường ĐHCL, nghiên cứu sinh lựa chọn sử dụng các
biến phụ thuộc: Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào (DTBDV); Số sinh viên tốt nghiệp
đại học chính quy (SVTN); Tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết
cho công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_DU); Tỷ lệ SV thừa nhận chỉ học được một
phần kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_1PHAN);
Tổng số GS, PGS, TS của trường (GSTS); Số lượng bài báo khoa học trong năm (BBKH);
Tổng số công trình khoa học hoàn thành (đề tài, bài báo, sách) trong năm (TCTKH); Số
đơn vị máu huy động hằng năm (HIENMAU).
Để đo lường kết quả đổi mới QLTC của các trường ĐHCL, nghiên cứu sinh lựa chọn
sử dụng các biến độc lập đưa vào các mô hình như: NSNN cấp (NSNN_CAP), Thu từ đào
tạo (THU_DT), Thu khác (THU_KHAC), Tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN (NNS),
Mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC); Chi cho con người (CCN), Chi hoạt
động chuyên môn quản lý (CMQL), Chi cho sinh viên (CHI_SV), Chi cho PVCĐ (PVCĐ),
Chi cho NCKH (NCKH), Chi bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực (NNL), Chi cho cơ sở
vật chất (CSVC).
Riêng biến Mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC=Tổng thu hoạt
động sự nghiệp/Tổng chi hoạt động thường xuyên) vừa có thể coi là biến độc lập khi đánh
giá các yếu tố tác động đến chất lượng trường ĐHCL, vừa có thể coi là biến phụ thuộc
khi đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến năng lực tự chủ các các trường.
Các mô hình cụ thể được lựa chọn như sau:
Biến phụ thuộc Biến độc lập
I. Mô hình hồi quy đánh giá tác - QM
động của đổi mới QLTC đến mức
MTC - NSNN_CAP - THU_DT tự chủ nguồn kinh phí chi thường
- NNL xuyên
- CHI_SV
11
STT Biến phụ thuộc phản ánh chất lượng trường ĐHCL
Biến độc lập phản ánh đổi mới QLTC
Mô hình 1 DTBDV
Mô hình 2
SVTN (phản ánh cả chất lượng PVCĐ)
Mô hình 3 KTKN_DU Phản ánh chất lượng đào tạo
Mô hình 4
KTKN_1PHAN
II. Mô hình hồi quy đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến chất lượng trường ĐHCL Mô hình 5 GSTS
Mô hình 6
BBKH
Phản ánh chất lượng NCKH
Mô hình 7 TCTKH
- MTC - THU_KHAC - CHI_SV - NNL - CSVC - THU_NNS - CCN - CMQL - CHI_SV - NNL - NSNN_CAP - THU_DT - THU_KHAC - CMQL - NNL - THU_DT - CCN - NNL - CSVC - MTC - CCN - CMQL - NCKH - NNL - NNS - CCN - CMQL - NCKH - NNL - MTC - CCN - CMQL - NCKH - NNL
Mô hình 8 HIENMAU
Phản ánh chất lượng PVCĐ - MTC - CCN - CHI_SV
12
Đối với mô hình có biến độc lập và có thêm cả các biến kiểm soát, ngoài việc sử
dụng các biến độc lập như trên, nghiên cứu sinh dùng thêm các biến kiểm soát như: Tuổi
của trường (TU), Quy mô trường (QM), Vị trí địa lý của trường (VTĐL), Định hướng phát
triển của trường (DHPT); Sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN thuộc/trực thuộc
(DVSXDV); Phân loại mức tự chủ (PLMTC).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
5.1. Đóng góp về mặt lý luận
- Luận án góp phần vào việc xây dựng khung lý thuyết về đổi mới QLTC các
trường ĐHCL ở góc nhìn đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông qua
xem xét những chuyển đổi trong vận dụng các mô hình khác nhau ở từng nội dung QLTC;
đóng góp nhất định cho cơ sở lý luận về đổi mới QLTC tài chính các ĐVSNCL nói chung
và đổi mới QLTC các trường ĐHCL nói riêng.
- Luận án cũng xây dựng được các mô hình hồi quy và phân tích định lượng về
mối quan hệ giữa đổi mới QLTC với mức tự chủ và chất lượng trường ĐHCL.
5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
- Việc đánh giá tác động của các yếu tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các
trường đến mức độ đổi mới QLTC, mức tự chủ cũng như chất lượng các trường là căn cứ
thực tiễn để Chính phủ cải tiến môi trường chính sách, pháp luật về QLTC các trường
ĐHCL, tạo sân chơi công bằng và cạnh tranh lành mạnh giữa các trường đại học, nhằm
đạt được mục tiêu chiến lược trong phát triển nền kinh tế xã hội nói chung, hệ thống
GDĐH nói riêng.
- Việc đánh giá tác động của các chỉ tiêu phản ánh đổi mới quản lý tải chính đến
mức tự chủ và chất lượng của các trường ĐHCL sẽ là căn cứ thực tiễn định hướng cho
các trường ĐHCL vận dụng cơ chế, chính sách của Nhà nước để thiết kế cơ cấu nguồn
thu, cơ cấu chi tiêu hợp lý nhằm đạt được mục tiêu chiến lược của trường trong từng giai
đoạn phát triển, đáp ứng yêu cầu tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH.
- Những giải pháp được đề xuất trong đề tài được áp dụng vào thực tiễn sẽ có tác
dụng góp phần thúc đẩy việc thực hành đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam trong
điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH. Kết quả nghiên cứu có thể là tài liệu tham
khảo có giá trị cho một số đơn vị sự nghiệp và các trường ĐHCL ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
4 chương 12 tiết.
13
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Các nghiên cứu về quản lý tài chính và đổi mới quản lý tài chính giáo
dục đại học
Vũ Thị Thanh Thủy (2012) trong nghiên cứu “Quản lý tài chính các trường đại
học công lập ở Việt Nam” đã đưa ra những quan điểm về QLTC các trường ĐHCL, đặc
biệt là QLTC theo hướng tự chủ tài chính. Tác giả đã xây dựng được một số chỉ tiêu
đánh giá QLTC các trường ĐHCL như: tỷ lệ tăng thu nhập cho cán bộ, giảng viên; tỷ
trọng đầu tư trang thiết bị trong tổng chi; tỷ lệ tiết kiệm chi; tỷ trọng từng nguồn thu; tỷ
lệ chênh lệch thu chi trong đào tạo; tỷ trọng chi cho NCKH, mức độ sai phạm trong
QLTC, tỷ lệ thất thoát tài chính… Trong đó có một số chỉ tiêu gần với các tiêu chí phản
ánh chất lượng cơ sở đào tạo, được tác giả sử dụng làm tiêu chí đánh giá QLTC các
trường như: tỷ lệ công trình NCKH đăng tải trên tạp chí quốc tế/ giáo viên, tỷ lệ công
trình NCKH sinh viên được giải, tỷ lệ chương trình đào tạo (CTĐT) liên kết nước ngoài
hoặc công nhận quốc tế [113].
Trương Thị Hiền (2017) trong luận án tiến sĩ “QLTC tại các trường ĐHCL trực
thuộc bộ GĐ&ĐT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện tự chủ”, đã nghiên
cứu vấn đề lý luận về QLTC tại các trường ĐHCL và thực tiễn QLTC tại 4 trường ĐHCL
trực thuộc Bộ GĐ&ĐT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả kết luận rằng QLTC
trong các trường đại học phức tạp và liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau, việc đổi
mới công tác QLTC chỉ có thể thực hiện khi công tác tổ chức nhân sự, công tác chuyên
môn nghiệp vụ được đổi mới đồng thời, và những quyết định QLTC của các trường đại
học cần được đưa ra trong bối cảnh quyền tự chủ ngày càng mở rộng của các trường. Luận
án cũng chỉ ra một loạt các chỉ tiêu phản ánh mức độ tự chủ tài chính của trường như: mức
tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên, cơ cấu nguồn tài chính, cơ cấu các khoản chi, chỉ
số về cơ sở vật chất (CSVC), thu nhập tăng thêm của người lao động (NLĐ), suất đầu tư
trên một sinh viên, tỷ lệ giảng viên/ sinh viên, số lượng và chất lượng của bài báo khoa
học. Các chỉ tiêu này có thể hỗ trợ đánh giá mức độ đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong
điều kiện tự chủ. Tuy nhiên, trong số các chỉ tiêu này, cũng có một số chỉ tiêu không trực
14
tiếp đo lường mức độ tự chủ của trường đại học, mà thực chất là các chỉ tiêu để đánh giá
chất lượng của trường, chẳng hạn như: tỷ lệ giảng viên/ sinh viên, số lượng và chất lượng
của bài báo khoa học [109].
Lê Văn Dụng (2017) trong nghiên cứu “Quản trị tài chính tại các trường ĐHCL
ngành y ở Việt Nam”, trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận về quản trị tài chính với chủ
thể quản lý là bản thân các trường đại học, phân tích thực trạng quản trị tài chính của 5
trường ĐHCL ngành y tế, tác giả nhấn mạnh việc xác định chi phí đào tạo và quản trị chi
phí để đảm bảo nguồn kinh phí và phát triển của trường đại học. Đồng thời, việc tăng
cường huy động nguồn tài chính từ khu vực tư nhân vào phát triển dịch vụ khám chữa
bệnh và đào tạo của trường và việc xây dựng cơ chế hợp tác kinh tế giữa trường đại học
và bệnh viện cũng được tác giả đề xuất. Ngoài ra, việc nâng cao hiệu lực của quy chế chi
tiêu nội bộ để đảm bảo chất lượng đào tạo, NCKH và thu nhập tăng thêm cho NLĐ [54].
Phạm Thị Thanh Vân (2017), “QLTC nội bộ các trường ĐHCL ở Việt Nam” nghiên
cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về QLTC nội bộ trong các trường ĐHCL ở Việt Nam
với nội dung QLTC ở góc độ vi mô của cơ sở GDĐH gồm: quản lý thu, quản lý chi và quản
lý tài sản theo quy trình từ lập kế hoạch tài chính, tổ chức thực hiện đến kiểm tra, kiểm
soát. Tác giả cũng xem xét 3 công cụ chủ yếu trong QLTC nội bộ các trường đại học: hệ
thống kiểm soát nội bộ, kế toán quản trị, kiểm toán nội bộ. Nghiên cứu cũng chỉ ra các
nhân tố ảnh hưởng đến QLTC nội bộ các trường ĐHCL gồm các nhân tố bên ngoài như cơ
chế và chính sách của Nhà nước, hội nhập quốc tế, trình độ phát triển kinh tế xã hội và mức
thu nhập của người dân; và các nhân tố bên trong như chiến lược phát triển của trường, các
công cụ QLTC nội bộ, tổ chức bộ máy quản trị, kỹ năng quản trị và lãnh đạo, và năng lực
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ QLTC nội bộ [84].
Nguyễn Thị Mai Lan (2019) nghiên cứu về “Quản trị tài chính tại các trường đại học
trực thuộc Bộ Công thương trong điều kiện tự chủ. Quản trị tài chính các trường ĐHCL trong
điều kiện tự chủ bao gồm quản trị nguồn thu, quản trị chi phí, quản trị tài sản và quản trị kết
quả tài chính. Các nội dung này được thực hiện trong chu trình lập kế hoạch, tổ chức thực
hiện và đánh giá. Nghiên cứu tập trung vào quản trị tài chính ở góc độ vi mô của cơ sở
GDĐH, với tư cách là đơn vị cung cấp dịch vụ trong điều kiện tự chủ. Tác giả đề xuất một
khung đánh giá quản trị tài chính trường đại học, bao gồm: tiêu chí về quy trình hoạt động
(tính đầy đủ, tính minh bạch, tính tuân thủ), tiêu chí về đầu ra (tổng số thu, tốc độ tăng thu,
15
cơ cấu thu, tổng chi, cơ cấu chi, chi phí bình quân, tỷ trọng vốn vay đầu tư xây dựng cơ bản)
và tiêu chí về kết quả (số sinh viên tốt nghiệp, tỷ lệ sinh viên có việc làm, chất lượng đào tạo,
kết quả tài chính, thu nhập bình quân) [76].
Lê Thế Tuyên (2020) nghiên cứu về “QLTC các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Tài
chính”. Nghiên cứu tập trung vào QLTC từ góc độ của Bộ Tài chính và các trường ĐHCL
trực thuộc Bộ, bao gồm quản lý huy động nguồn lực tài chính, phân bổ và sử dụng nguồn
lực tài chính, kiểm soát tài chính, và tổ chức hoạt động của bộ máy QLTC. Nghiên cứu
phân tích và đánh giá thực trạng QLTC dựa trên các văn bản pháp lý và quá trình thực hiện
của Bộ Tài chính và các trường ĐHCL trực thuộc Bộ [50].
Bài báo “Những thách thức về QLTC của các tổ chức GDĐH ở Georgia”,
Kasradze và cộng sự (2019) cho rằng: trình độ phát triển của một nền khoa học và giáo
dục có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Mặc dù đã có những
cải cách gần đây, hệ thống giáo dục ở Georgia vẫn đối mặt với bất cập và nhiều thách
thức trong việc cung cấp nguồn nhân lực có trình độ học vấn cao và cạnh tranh. Điều này
làm cho việc củng cố hệ thống giáo dục thì quốc gia trở thành yếu tố quan trọng để tham
gia vào cuộc cạnh tranh toàn cầu. Mặt khác, nguồn vốn và sự quản lý hiệu quả của các
cơ sở GDĐH ảnh hưởng đến hoạt động của toàn hệ thống. Do đó, áp lực nâng cao hiệu
quả QLTC là cơ sở bảo đảm trình độ phát triển của khoa học và giáo dục - yếu tố quyết
định năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Tuy nhiên, nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng gia tăng nguồn tài chính cho hệ thống giáo dục qua các năm không
đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng giáo dục, mà quan trọng hơn là cần có chiến
lược cải cách đúng đắn, đi đôi với phân bổ hợp lý nhằm phát huy hiệu quả các nguồn lực
tài chính trong hệ thống giáo dục [44].
Trong bài báo “Nghiên cứu về đổi mới QLTC ở các trường cao đẳng và đại học
trong tình hình mới” của Liang (2019), tác giả chỉ ra rằng công tác QLTC của các trường
đại học đang đối diện với một số vấn đề nổi bật, bao gồm cấu trúc hệ thống QLTC không
phù hợp, hệ thống kiểm soát nội bộ không hiệu quả, hệ thống thông tin chậm trễ và quan
điểm quản lý lạc hậu. Vì vậy, tác giả đề xuất một số giải pháp để nâng cao năng lực QLTC
ở các trường cao đẳng và đại học, bao gồm: (1) Hoàn thiện hệ thống quản lý ngân sách tài
chính trong việc lập kế hoạch, quản lý, thực hiện, giám sát và đánh giá; (2) Thiết lập một
hệ thống kiểm soát tài chính nội bộ hiệu quả và minh bạch; (3) Thu hút và đào tạo nhân tài
về QLTC; (4) Xây dựng một mô hình QLTC linh hoạt bằng cách phát triển hệ thống thông
16
tin tài chính; (5) Thay đổi tư duy và quan điểm quản lý để thực hiện quản lý tập trung kết
hợp với phân cấp QLTC [56].
Lê Thị Minh Ngọc (2017) trong nghiên cứu “Đổi mới cơ chế tài chính đối với các
trường ĐHCL ở Việt Nam” đã phân tích cơ chế tài chính áp dụng cho các trường ĐHCL
gồm: (1) Huy động nguồn tài chính, (2) Phân bổ nguồn kinh phí từ NSNN, (3) Tự chủ tài
chính, và (4) Kiểm soát tài chính. Tác giả tập trung nghiên cứu về cơ chế tự chủ tài chính,
phân bổ nguồn kinh phí từ NSNN và chính sách học phí trong các trường ĐHCL. Trong
đó, chính sách học phí được coi là một phần quan trọng trong việc huy động nguồn tài
chính cho các trường. Tác giả đề cập đến bốn nội dung của tự chủ tài chính bao gồm: Tự
chủ trong quản lý và khai thác nguồn thu, tự chủ trong quản lý chi tiêu, tự chủ trong phân
phối kết quả tài chính trong năm và tự chủ trong quản lý và sử dụng tài sản của trường. Các
nội dung này cũng là mục tiêu mà QLTC của trường đại học cần đạt được. Nghiên cứu này
cũng đề xuất một số thước đo để đánh giá mức độ tự chủ tài chính của trường ĐHCL, bao
gồm mức độ tự chủ về nguồn thu, mức độ tự chủ về quản lý chi tiêu, hiệu quả sử dụng vốn
NSNN, hiệu suất đầu tư trên mỗi sinh viên, và thu nhập tăng thêm của NLĐ. Đây là những
chỉ số đề xuất để đánh giá mức độ đổi mới QLTC của các trường ĐHCL, vì mục tiêu chính
của đổi mới QLTC là tăng cường tự chủ tài chính [51].
1.1.2. Các nghiên cứu về quản lý huy động nguồn tài chính trường đại học
công lập
Bài báo “Tài trợ cho các tổ chức GDĐH: Kinh nghiệm của các trường ĐHCL
Jordan” của Al-Hamadeen và cộng sự (2019) phân tích sự phụ thuộc đáng kể của các
trường ĐHCL ở Jordan vào nguồn thu nhập từ hoạt động của bản thân của trường, so với
sự tài trợ từ bên ngoài, để đáp ứng các hoạt động thường xuyên của trường. Trung bình,
77% tổng nguồn thu của các cơ sở GDĐH được đề xuất từ học phí, trong khi chỉ có khoảng
13% nguồn thu từ trợ cấp của chính phủ. Nghiên cứu này cho thấy các nhà quản lý tại các
cơ sở giáo dục ĐHCL đối mặt với các thách thức cơ bản trong việc đảm bảo nguồn tài
chính bền vững, bao gồm hạn chế về nguồn thu từ nghiên cứu, tư vấn và giảng dạy, sự
không ổn định của nguồn tài trợ từ chính phủ và chiến lược đầu tư hạn chế và thiếu chiều
sâu. Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra sự liên kết quan trọng giữa quy mô, tuổi và vị trí địa
lý của các trường đại học và cơ cấu nguồn thu của nó. Bài báo cung cấp những gợi ý chính
sách quan trọng cho các nhà quy hoạch và quản lý GDĐH trong bối cảnh tác động của các
yếu tố này đến cơ cấu nguồn thu giữa các cơ sở GDĐH [4].
17
Bài báo “Tài trợ cho GDĐH và bình đẳng về cơ hội giáo dục ở Swaziland” của
Akinkugbe (2000) đề cập đến các thách thức trong việc quản lý nguồn tài trợ cho các trường
đại học trong tình hình khủng hoảng tài chính và lo ngại về QLTC để duy trì chất lượng
GDĐH. Tác giả xem xét các dòng tài chính trong hệ thống giáo dục ở Swaziland, tập trung
vào việc tính toán đóng góp của các hộ gia đình cho chi phí giáo dục dưới hình thức học
phí. Nghiên cứu cho thấy các nguồn tài chính cho hệ thống giáo dục phụ thuộc chủ yếu vào
các nguồn truyền thống như chính phủ, cộng đồng địa phương, gia đình người học. Tác giả
còn nhận thấy rằng các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp tư nhân, tập đoàn và viện trợ
nước ngoài cũng cung cấp nguồn tài trợ bổ sung cho hệ thống GDĐH. Nghiên cứu trường
hợp Swaziland, ông cũng nhận thấy việc chính phủ trợ cấp cho GDĐH nhiều hơn so với
giáo dục phổ thông, gây ra sự không cân bằng về cơ hội giáo dục trong hệ thống giáo dục.
Tác giả kết luận rằng các biện pháp chia sẻ chi phí có thể được áp dụng trong GDĐH để
cân bằng lại cơ chế tài trợ cho GDĐH [1].
Trong nghiên cứu “Kinh tế chính trị về chia sẻ chi phí trong GDĐH: Trường hợp
của Jordan”, Kanaan và cộng sự (2011) nhấn mạnh đến quản lý nguồn tài chính của các
trường đại học công ở Jordan. Nghiên cứu này tiếp cận mô hình tài trợ cho hệ thống
GDĐH ở Jordan và tập trung vào việc đánh giá tính đầy đủ, hiệu quả và công bằng của
hệ thống này để xác định những điểm mạnh và điểm yếu. Các tác giả lập luận rằng mức
chi tiêu công thấp cho GDĐH là một trở ngại chính đối với hệ thống giáo dục ở Jordan,
và điều này dẫn đến yêu cầu bù đắp từ gia đình người học. Trong bối cảnh này, nghiên
cứu của họ cũng nhấn mạnh rằng sự gia tăng đáng kể về số lượng sinh viên đã dẫn đến
sự hy sinh về chất lượng giáo dục, mặc dù mức chi tiêu công cho GDĐH tăng lên. Tuy
nhiên, các tác giả chỉ ra rằng các trường đại học công ở Jordan đã thay đổi cách lựa chọn
nguồn tài chính khác dễ tiếp cận hơn, do sự giảm bớt trợ cấp từ NSNN. Việc cắt giảm
nguồn tài trợ từ chính phủ đã tạo áp lực lớn hơn đối với các trường đại học công để "xem
xét lại cơ chế tài chính của họ và trở nên hiệu quả hơn" trong việc sử dụng nguồn tài
chính của mình. Các tác giả nhấn mạnh rằng một lựa chọn tài chính mới đã xuất hiện
trong hệ thống GDĐH ở Jordan thông qua việc áp dụng cơ chế "chia sẻ chi phí". Phương
pháp tiếp cận này được lấy cảm hứng từ mô hình "chương trình song song" của các trường
đại học tư thục được áp dụng trong các trường đại học công. Do đó, nguồn thu nhập quan
trọng cho các trường đại học công đã được đề xuất từ học phí của người học, tuy nhiên,
điều này có tác động tiêu cực ở mức độ xã hội. Nghiên cứu giải thích rằng cách tiếp cận
18
tài chính mới mà các trường đại học ở Jordan áp dụng đã đặt ra hai vấn đề quan trọng:
thứ nhất, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận GDĐH,
và thứ hai, chất lượng giáo dục bị giảm sút. Các tác giả cũng đưa ra một số đề xuất để hỗ
trợ hệ thống GDĐH ở Jordan, bao gồm việc khuyến khích văn hóa quyên góp từ thiện và
thiết lập các cơ chế tài chính sáng tạo để tận dụng nguồn tài chính từ tiết kiệm tư nhân
mà không bị ảnh hưởng của rủi ro tối đa hóa lợi nhuận [43].
Trong bài báo “Tài trợ cho GDĐH ở Châu Âu: Các vấn đề và thách thức”, tác giả
Moladovan và cộng sự (2012) đã tiến hành khảo sát các vấn đề đương đại liên quan đến
tài trợ GDĐH ở mức độ vĩ mô. Ông và đồng nghiệp cung cấp một phân tích toàn diện về
những thách thức dài hạn được dự đoán sẽ ảnh hưởng đến GDĐH do sự suy thoái kinh tế
gia tăng. Bằng cách phân tích chi tiêu công và tư nhân của 27 quốc gia châu Âu, kết quả
cho thấy, trung bình, các quốc gia châu Âu đã chi gần 5% GDP của họ cho chi tiêu công
cho giáo dục từ năm 2004 đến 2008, trong khi chỉ có trung bình 0,7% GDP của họ là chi
tiêu tư nhân cho giáo dục. Nghiên cứu kết luận rằng, vì nguồn nhân lực chất lượng cao
và sự đổi mới là kết quả quan trọng nhất của hệ thống GDĐH ở châu Âu, cần phải đầu tư
nhiều nguồn lực hơn trong tương lai. Các tác giả đề xuất rằng ít nhất 2% GDP của Liên
minh châu Âu nên được dành cho GDĐH, để các cơ sở GDĐH có thể duy trì vai trò quan
trọng của mình trong thời gian dài [64].
Trong luận án tiến sĩ kinh tế “Điều chỉnh cơ cấu tài chính đầu tư cho giáo dục
ĐHCL ở Việt Nam” của Bùi Phụ Anh (2015), tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
quản lý nguồn thu và cơ cấu tài chính hợp lý để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của các
trường đại học trong thời đại mới. Ngoài việc đầu tư đúng đắn từ các nguồn tài chính,
cần sử dụng các nguồn lực này một cách hiệu quả để đáp ứng các yêu cầu về chất lượng
giảng viên, cán bộ quản lý, phương pháp đào tạo, CSVC và cung cấp cơ hội lựa chọn
CTĐT phù hợp. Tuy nhiên, ở luận án cũng nhận thấy rằng chưa có sự hệ thống hóa về
các nguồn tài chính tài chính có thể huy động và cơ cấu huy động nguồn thu tài chính
cho giáo dục ĐHCL. Việc đánh giá cơ cấu phân bổ và sử dụng nguồn tài chính cho các
mục đích khác nhau cũng chưa được thực hiện một cách rõ ràng, đặc biệt là thiếu dữ liệu
về cơ cấu huy động và sử dụng nguồn tài chính của các trường ĐHCL trong hệ thống
giáo dục Việt Nam [16].
Trong luận án tiến sĩ “Huy động nguồn tài chính ngoài NSNN cho giáo dục ĐHCL
ở Việt Nam” của Trần Trọng Hưng (2016), tác giả tập trung vào việc phân tích sự cần
19
thiết triển khai và tăng cường huy động nguồn tài chính từ bên ngoài ngân sách cho các
trường ĐHCL. Luận án này cũng đánh giá thực trạng huy động nguồn tài chính từ ngoài
NSNN của các trường ĐHCL tại Việt Nam, nhằm nhận diện được các thành tựu, hạn chế
và vấn đề hiện tại làm giảm khả năng thu hút nguồn lực xã hội hóa và giảm hiệu quả sử
dụng nguồn tài chính cho các CTĐT, NCKH và PVCĐ. Từ việc đánh giá các nhân tố ảnh
hưởng đến huy động nguồn tài chính ngoài NSNN, bao gồm nhân tố nội tại và nhân tố
bên ngoài. Tác giả đề xuất một giải pháp cốt lõi để huy động nguồn tài chính ngoài NSNN
cho các trường ĐHCL, đó là hướng tới kết quả và chất lượng hoạt động của trường để
đảm bảo phát triển nguồn tài chính bền vững [106].
Trong luận án tiến sĩ kinh tế “Phân tích tình hình huy động và sử dụng nguồn lực
tài chính trong các cơ sở giáo dục ĐHCL ở Việt Nam hiên nay” của Đào Ngọc Nam
(2017), tác giả nhận thấy trong bối cảnh nguồn lực tài chính từ NSNN hạn chế và nguồn
lực tài chính từ bên ngoài mang lại nhiều hệ lụy, việc huy động và sử dụng nguồn tài
chính cho đầu tư phát triển giáo dục ĐHCL trở thành một vấn đề quan trọng. Phân tích
tình hình huy động và sử dụng nguồn tài chính trong mỗi cơ sở giáo dục ĐHCL là một
yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục. Tác giả đề xuất rằng phân tích tình
hình huy động và sử dụng nguồn lực tài chính là quá trình sử dụng các phương tiện và kỹ
thuật phân tích để đánh giá thực trạng chất lượng huy động và sử dụng nguồn lực tài
chính, liên kết với mục tiêu và nhiệm vụ của mỗi cơ sở giáo dục ĐHCL. Thực hiện điều
này sẽ giúp cung cấp thông tin kịp thời và thích hợp giúp các nhà QLTC trong các cơ sở
giáo dục ĐHCL đưa ra quyết định huy động và sử dụng nguồn lực tài chính một cách
đúng đắn và hiệu quả. Tác giả cũng đưa ra một số chỉ tiêu phân tích như tổng thu (phản
ánh quy mô nguồn lực tài chính) và tỷ trọng từng nguồn huy động (phản ánh cơ cấu nguồn
lực tài chính), cùng các chỉ tiêu phân tích tình hình sử dụng nguồn lực tài chính như tổng
chi (phản ánh quy mô chi tiêu) và tỷ lệ từng khoản chi (phản ánh cơ cấu chi) [26].
Trong luận án “Chính sách thu hút nguồn tài chính ngoài NSNN cho các trường đại
học Việt Nam” của Lê Hồng Việt (2017), tác giả đã phân tích chi tiết về cơ sở lý luận và kinh
nghiệm thực tiễn liên quan đến chính sách của nhà nước về việc thu hút nguồn tài chính
ngoài NSNN cho các trường ĐHCL. Tác giả đi vào chi tiết về tình hình tài chính hiện tại của
các trường ĐHCL và chính sách nhà nước liên quan đến việc thu hút nguồn tài chính ngoài
NSNN cho các trường này ở Việt Nam. Chính sách này được phân loại dựa trên đối tượng
20
tạo nguồn tài chính hỗ trợ cho các trường đại học: (1) Chính sách thu hút nguồn tài chính từ
người học, (2) Chính sách thu hút nguồn tài chính từ các tổ chức mua và sử dụng dịch vụ của
trường, (3) Chính sách thu hút nguồn tài chính từ các đối tượng khác. Tác giả đánh giá các
chính sách này dựa trên ba tiêu chí: hiệu lực, hiệu quả và bền vững, từ đó xác định các thành
công, giới hạn và nguyên nhân của chúng. Từ đó, luận án đề xuất một số nhóm giải pháp
nhằm hoàn thiện chính sách của nhà nước về việc thu hút nguồn tài chính ngoài NSNN cho
giáo dục ĐHCL ở Việt Nam [48].
Nguồn thu từ học phí được nhận định là nguồn tài chính quan trọng của các trường
ĐHCL sau nguồn tài chính từ NSNN, bởi vậy, chính sách học phí là một vấn đề đáng quan
tâm của các trường. Đối với chính sách học phí ĐHCL, các nghiên cứu đã phân tích và chỉ
ra những hạn chế, chẳng hạn như mức học phí thấp, không dựa trên chi phí và chất lượng
đào tạo, chưa đảm bảo cơ chế cạnh tranh giữa các trường. Ví dụ, trong luận án tiến sĩ
“Chính sách học phí đại học của Việt Nam” của Trần Quang Hùng (2016), tác giả cho rằng
mức học phí đại học cần phản ánh trách nhiệm chia sẻ chi phí giữa Nhà nước và người học.
Nếu nguồn thu từ học phí và NSNN không đủ để bù đắp chi phí của các trường đại học,
điều này có thể dẫn đến tình trạng quá tải số học sinh/giáo viên trong khi CSVC còn hạn
chế, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Người học chỉ chấp nhận mức học phí cao hơn khi
nhà trường đảm bảo các yếu tố liên quan đến chất lượng đào tạo như CSVC, CTĐT, tỷ lệ
giáo viên/học sinh và khả năng có việc làm sau khi tốt nghiệp. Luận án đã tổng hợp các
khái niệm liên quan đến chính sách học phí đại học, rút ra bài học từ kinh nghiệm về chính
sách học phí ĐHCL ở các quốc gia trên thế giới, phân tích tình hình hiện tại của chính sách
học phí ĐHCL ở Việt Nam và đánh giá học phí ĐHCL theo quan điểm của người học về
các nội dung liên quan đến chính sách học phí ĐHCL chính quy. Cuối cùng, tác giả đưa ra
các khuyến nghị để hoàn thiện chính sách học phí ĐHCL ở Việt Nam: (i) Trong dài hạn,
Nhà nước nên thực hiện lộ trình loại bỏ "mức trần học phí", (ii) Trong giai đoạn áp dụng
"mức trần học phí", các trường ĐHCL vẫn được phép tăng học phí vượt trần, Nhà nước sẽ
thu thuế trên phần chênh lệch giữa học phí trần và học phí thực tế, (iii) Chính sách học phí
cần được quy định riêng cho từng nhóm ngành đào tạo đại học, (iv) Nhà nước cần nâng
cao hoạt động đảm bảo chất lượng của các trường đại học, khuyến khích kiểm định chất
lượng độc lập, kiểm định theo vùng và xếp hạng các trường đại học, (v) Nhà nước cần tiếp
tục duy trì và cải thiện chính sách hỗ trợ học phí, tín dụng ưu đãi cho sinh viên có hoàn
cảnh khó khăn, (vi) Thiết lập hội đồng kiểm tra học phí tại các trường đại học [104].
21
Trong luận án tiến sĩ kinh tế của Trương Thị Hằng (2019) có tiêu đề “Giải pháp
phát triển nguồn lực tài chính cho giáo dục ĐHCL ở Việt Nam”, tác giả đã xây dựng một
khung lý thuyết về phát triển nguồn lực tài chính cho giáo dục ĐHCL ở Việt Nam, tập
trung vào vai trò của các cơ quan nhà nước (CQNN) và các cơ sở giáo dục ĐHCL trong
quá trình này. Nghiên cứu đã đánh giá tình hình phát triển nguồn lực tài chính cho giáo dục
ĐHCL ở Việt Nam dựa trên việc phân loại các trường thành hai nhóm, tùy thuộc vào mức
độ tự chủ tài chính: nhóm các cơ sở tự chủ một phần về tài chính và nhóm các cơ sở tự chủ
hoàn toàn về tài chính. Kết quả phân tích đã cho thấy sự khác biệt về chính sách và các chỉ
tiêu phản ánh sự phát triển nguồn lực tài chính giữa hai nhóm trường này, bao gồm định
mức học phí, tỷ trọng nguồn thu từ học phí trong tổng nguồn lực tài chính, hệ số tự chủ tài
chính, và hệ số tự bền vững về tài chính [143]. Bằng việc sử dụng phương pháp phân tích
nhân tố và mô hình hồi quy đa biến, nghiên cứu đã kiểm định tác động của các yếu tố đến
mức học phí kỳ vọng của người học, nhằm đánh giá mức độ tác động của từng yếu tố thuộc
đặc điểm của cơ sở GDĐH (bao gồm tổ chức và điều phối chương trình, giảng viên, nội
dung chương trình, phương pháp giảng dạy, CSVC và kỹ năng tích lũy) đến mức học phí
kỳ vọng. Nghiên cứu cũng đã phân tích sự khác biệt trong mức học phí kỳ vọng theo ngành
học và theo mức thu nhập của bố mẹ sinh viên, trong khi không tìm thấy sự khác biệt về
mức học phí kỳ vọng dựa trên giới tính và khu vực cư trú của sinh viên. Các kết luận này
có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chính sách học phí cho giáo dục ĐHCL. Nghiên
cứu đã đề xuất hai nhóm giải pháp: nhóm giải pháp về đổi mới chính sách từ phía Nhà
nước nhằm tăng cường huy động, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính
cho giáo dục ĐHCL; và nhóm giải pháp về đổi mới công tác huy động, quản lý và sử dụng
nguồn lực tài chính từ phía các cơ sở giáo dục ĐHCL [108].
1.1.3. Các nghiên cứu về tự chủ tài chính các trường đại học công lập
Nghiên cứu của Nguyễn Chí Hướng (2017) về“Tự chủ tài chính ở Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh” đã chỉ ra sự khác biệt và chứng minh rằng Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh là một ĐVSNCL hoạt động theo tính chất đặc thù
riêng. Điều này có nghĩa là học viện phải cung cấp cả hàng hóa dịch vụ công thuần túy,
đặc thù theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước, cũng như cung cấp các dịch vụ sự nghiệp
công (DVSNC) thông thường trong lĩnh vực giáo dục. Đối với Học viện, dịch vụ công
thuần túy chủ yếu là đào tạo chương trình cao cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng cán bộ
dự nguồn cao cấp, và bồi dưỡng các chương trình khác trong lĩnh vực tổ chức, kiểm tra,
22
dân vận, tuyên giáo, v.v. Tuy nhiên, Học viện vẫn cung cấp các DVSNC thông thường
giống như các cơ sở đào tạo khác, bao gồm các CTĐT cử nhân và sau đại học. Nghiên
cứu cũng đã lượng hóa mối quan hệ giữa các điều kiện tự chủ tài chính với mức độ tự
chủ tài chính, giữa mức độ tự chủ tài chính với hiệu quả tự chủ tài chính tại hệ thống
Học viện. Trong đó, nhân tố chức năng nhiệm vụ đặc thù có mối quan hệ nghịch chiều
với mức độ tự chủ tài chính. Điều này là do nhiệm vụ đặc thù không được tính giá đầy
đủ và chỉ dựa trên mức khoán chi NSNN hàng năm, nếu chỉ tiêu đào tạo được giao tăng
cao, mức độ tự chủ tài chính lại giảm. Các yếu tố khác như CSVC, năng lực quản lý,
trình độ cán bộ có mối quan hệ thuận chiều với mức độ tự chủ tài chính [68].
Trong nghiên cứu của Trần Đức Cân (2012) về “Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài
chính các trường ĐHCL ở Việt Nam”, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định
tính và thống kê mô tả để tập trung nghiên cứu cơ chế tự chủ tài chính của các trường
ĐHCL. Nghiên cứu này đã xem xét cả góc độ vĩ mô, bao gồm cơ chế và chính sách tài
chính của Nhà nước đối với các trường ĐHCL, và góc độ vi mô, bao gồm cơ chế tài chính
do các trường đại học xây dựng. Tác giả đã đề xuất 6 tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn
thiện của cơ chế tự chủ tài chính, bao gồm tính hiệu lực, tính hiệu quả, tính linh hoạt, tính
công bằng, tính ràng buộc tổ chức, và sự thừa nhận từ cộng đồng. Trong đó, tác giả đã đề
xuất một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ban đầu của cơ chế tự chủ tài chính, bao gồm quy
mô và cơ cấu nguồn tài chính, cơ cấu chi, suất đầu tư trên sinh viên, số lượng bài báo và
công trình khoa học, số lượng và cơ cấu đội ngũ giảng viên, tỷ lệ sinh viên/giảng viên,
và diện tích đất đai. Các tiêu chí này sẽ cung cấp gợi ý cho việc xác định mức độ đổi mới
QLTC của các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra
nội dung của cơ chế tự chủ tài chính, bao gồm tự chủ trong quản lý và khai thác nguồn
thu, tự chủ trong quản lý chi tiêu, và tự chủ trong quản lý và sử dụng tài sản của trường.
Tuy nhiên, tác giả không đề cập đến nội dung tự chủ trong phân phối kết quả tài chính
trong năm của trường một cách cụ thể, mà chỉ xem như một phần nhỏ của tự chủ trong
quản lý chi tiêu [100].
1.1.4. Các nghiên cứu về mối quan hệ của tự chủ tài chính và quản lý tài chính
với chất lượng trường đại học công lập
J. Fredericks Volkwein (1986) trong bài báo “Quyền tự chủ của trường và mối
quan hệ của nó với các thước đo chất lượng trường đại học” đã lập luận rằng, mặc dù
việc kiểm soát từ bên ngoài (cụ thể là kiểm soát từ CQNN) đối với trường đại học được
23
đề xuất với mong muốn tiết kiệm chi phí và tránh lãng phí trong cạnh tranh học thuật, thì
việc kiểm soát này sẽ đồng thời mang lại cả lợi ích và chi phí. Đa số nhà nghiên cứu về
hành vi tổ chức tin rằng việc tăng cường hoạt động giám sát sẽ tăng chi phí cho cả người
thực hiện giám sát và người được giám sát. Do đó, hầu hết các nhà quản lý trường đại
học cho rằng việc kiểm soát từ bên ngoài làm giảm hiệu quả và khả năng thích ứng của
trường, cũng như làm giảm hiệu quả GDĐH. Mặc dù có nhiều tài liệu ủng hộ quyền tự
chủ của trường đại học về các vấn đề học thuật, nhân sự, tài chính và chỉ trích gánh nặng
pháp lý và hành chính từ các thủ tục áp đặt của nhà nước liên quan đến mua sắm tập
trung, kiểm toán tài chính, quản lý nhân sự và kiểm soát quỹ của trường, tuy nhiên, hầu
hết các tài liệu này dựa trên ý kiến chứ không phải nghiên cứu thực nghiệm [37].
Để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu "Các trường đại học có quyền tự chủ về tài chính
và học thuật có khả năng thu hút đội ngũ giảng viên uy tín hơn, cạnh tranh thu hút nhiều
sinh viên hơn và thu hút nhiều nguồn tài trợ hơn so với các trường đại học được đối xử
như các CQNN hay không?", tác giả đã phát triển các thước đo về tính linh hoạt trong
học thuật và tài chính, và xem xét mối quan hệ của chúng với các thước đo về chất lượng
và thành công của trường.
Tác giả đã sử dụng dữ liệu từ 86 trường ĐHCL trong tổng số khoảng 120 trường
theo phân loại của Carnegie về các trường đại học nghiên cứu công lập. Thông qua các
kiểm định thống kê, nghiên cứu đã xác định 06 yếu tố tạo nên một thang điểm về quyền
tự chủ học thuật, bao gồm: xác định nhiệm vụ của trường, mở các chương trình đại học,
mở các chương trình sau đại học, đánh giá/hủy chương trình đại học, đánh giá/hủy chương
trình sau đại học, và mở/rút bớt lĩnh vực chuyên môn. Nghiên cứu cũng xác định được
08 yếu tố tạo nên một thang điểm về quyền tự chủ tài chính, bao gồm: tạo ra ngân sách
chi tiết và toàn diện, điều chỉnh ngân sách giữa các hạng mục, giữ và kiểm soát thu nhập
học phí, giữ và kiểm soát các nguồn thu nhập khác, mức thu nhập bổ sung cho giảng viên,
mức thu nhập bổ sung cho nhân viên không giảng dạy, miễn trừ kiểm toán trước chi tiêu,
và phân bổ kết quả tài chính cuối năm cho quỹ giữ lại.
Nghiên cứu giả định rằng các trường đại học đều có nhiều mục tiêu, nhưng chất
lượng nghiên cứu và chất lượng học thuật nổi bật được coi là các mục tiêu quan trọng
nhất. Tác giả đã chọn 04 yếu tố để đo lường chất lượng của trường, bao gồm: chất lượng
giảng viên, chất lượng sinh viên nhập học (khả năng thu hút sinh viên giỏi), mức hỗ trợ
từ chính phủ cho mỗi sinh viên thông thường, và nguồn tài trợ và quà tặng từ cựu sinh
24
viên và các đối tác khác. Ngoài ra, nghiên cứu đã sử dụng 08 biến kiểm soát: Quy mô của
trường (số lượng sinh viên đại học thông thường), tuổi của trường, trạng thái bảo vệ bởi
hiến pháp của bang, trạng thái cờ hiệu, sự hiện diện của các trường y/khoa học nông
nghiệp/kỹ thuật, khác biệt về hỗ trợ dành cho sinh viên từ ngân sách của bang, chỉ số giá
sinh hoạt, và sự tổ chức công đoàn nhân viên.
Nghiên cứu đã đưa ra một số kết quả như sau: Các trường ĐHCL có sự tự do tương
đối khỏi sự kiểm soát của nhà nước sẽ ít phụ thuộc vào nguồn NSNN, phần lớn nguồn tài
chính của họ là từ các nguồn ngoài NSNN, và ngược lại, các trường đại học chịu nhiều
sự kiểm soát tài chính của nhà nước sẽ ít có khả năng phát triển các nguồn tài chính khác
ngoài NSNN. Tuy nhiên, không có bằng chứng rõ ràng rằng các trường đại học có quyền
tự chủ về tài chính và học thuật sẽ có giảng viên chất lượng hơn và thu hút nhiều sinh
viên giỏi hơn. Thay vào đó, mức độ thu hút nguồn tài trợ từ ngân sách bang và quy mô
của trường lại giải thích cho sự khác biệt về chất lượng và thành công của trường. Kết
quả này có thể dẫn tới hai bài học:
(1) Khi nguồn tài trợ từ NSNN là hạn hẹp thì việc trao quyền tự chủ về học thuật
và tài chính cho các trường là cần thiết. Tuy nhiên, việc các trường huy động được nguồn
tài chính với quy mô đủ lớn từ cả nguồn NSNN và nguồn ngoài NSNN mới có khả năng
cải thiện được chất lượng của trường, trong đó dường như nguồn tài trợ từ NSNN lại
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng của trường đại học.
(2) Các trường đại học có quy mô lớn với đội ngũ giảng viên chất lượng và chỉ tiêu
tuyển sinh nhiều sẽ lại càng thu hút nhiều hơn những giảng viên và sinh viên giỏi nhất.
J.G.Hough (1993), trong nghiên cứu “QLTC trong giáo dục”, đã khẳng định
QLTC trong lĩnh vực giáo dục đóng vai trò then chốt trong việc cải thiện chất lượng
giáo dục. Theo đó, hệ thống giáo dục đã được giao phần nào đó quyền tự chủ về kiểm
soát tài chính, và một phần do chính phủ chuyển đổi trách nhiệm tăng cường giám sát
hệ thống này cho công chúng. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở nhiều quốc gia, nguồn NSNN
cấp cho giáo dục là không đủ, tuy nhiên, điều quan trọng hơn là cách các trường sử
dụng nguồn kinh phí này và chính phủ chưa đánh giá được hiệu quả của việc sử dụng
đó. Do đó, tác giả khẳng định rằng nguồn tài chính nhà nước cấp cho giáo dục vẫn tồn
tại sự bất bình đẳng, không tỷ lệ với chất lượng giáo dục. Tác giả cung cấp một số đặc
điểm quan trọng về hệ thống QLTC trong giáo dục, bao gồm việc lập ngân sách và kiểm
soát các chi phí phát sinh. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra những dự báo, bao gồm: (1)
25
QLTC trong GDĐH phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng của nhân viên quản lý chuyên
nghiệp, do đó, các cơ sở giáo dục cần nhanh chóng phát triển kế hoạch đào tạo và bồi
dưỡng nhân viên chuyên nghiệp để thực hiện nhiệm vụ QLTC; (2) Đối với các trường
muốn đề xuất sản phẩm giáo dục có chất lượng cao nhất với chi phí thấp nhất, việc sử
dụng các nguồn lực một cách hiệu quả là điều cần thiết, đảm bảo các cơ sở giáo dục có
đầy đủ trang thiết bị hiện đại phục vụ quá trình giảng dạy, tương đương với hoạt động
sản xuất kinh doanh trên thị trường [38].
Theo báo cáo của UNESCO (1995) về báo cáo “QLTC trong các cơ sở GDĐH ở các
nước Đông Địa Trung Hải”, nghiên cứu đã tìm hiểu về các thay đổi trong chính sách GDĐH
của các quốc gia trong khu vực Đông Địa Trung Hải. UNESCO (1995) khẳng định rằng, để
QLTC có tác động tích cực đến chất lượng giáo dục, chính phủ cần đặc biệt quan tâm đến
năng lực quản lý của các cơ sở GDĐH để sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả. Cụ thể,
(1) cơ chế quản lý trong các cơ sở GDĐH phải được coi như một tổ chức phi lợi nhuận,
với sự can thiệp ít nhất từ phía nhà nước trong quá trình quản lý, điều này trở nên ngày
càng cần thiết để đảm bảo sự tồn tại của các tổ chức này; (2) các quốc gia cần tiến tới
chuyển đổi từ sự chỉ đạo trực tiếp của chính phủ, thông qua kiểm soát trực tiếp đầu vào
và thủ tục hành chính, sang kiểm soát gián tiếp thông qua các hợp đồng đào tạo, trong đó
các tổ chức được yêu cầu chịu trách nhiệm sử dụng nguồn lao động đã được đào tạo thông
qua các hợp đồng đó.
Trong bài báo “Tài trợ cho GDĐH ở các nước đang phát triển”, tác giả Jongbloed
(2000) nhấn mạnh rằng sự tự chủ tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc đổi mới và
nâng cao chất lượng GDĐH. Điều này được thể hiện qua nhiều khía cạnh như khả năng
độc lập trong quyết định huy động vốn từ thị trường tài chính, quyết định cách thức đề xuất
nguồn thu thông qua học phí, hoạt động giảng dạy và hợp đồng nghiên cứu cùng với các
hoạt động khác tạo ra nguồn thu, quyền tự do trong phân bổ nguồn lực tài chính, chính sách
lương thưởng và quyền được giữ lại lợi nhuận nếu có [42].
Nghiên cứu của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB, 2002) về“Chi phí và tài trợ
cho giáo dục: xu hướng và hàm ý chính sách” khẳng định rằng, trong hầu hết các quốc
gia, trợ cấp cho GDĐH thường được cung cấp dưới hình thức tài trợ trực tiếp từ chính
phủ cho các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục như cơ sở hạ tầng, trả lương giảng
viên và nhân viên quản lý. Trong trường hợp không có sự hỗ trợ từ chính phủ, chi phí
hoạt động của các trường sẽ rất cao. ADB đưa ra quan điểm rằng, hạn chế chủ yếu trong
26
việc tuyển sinh vào GDĐH xuất phát từ nguồn cung hạn chế do vị trí địa lý của các
trường, chứ không phải do nhu cầu hạn chế. Việc phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn tài trợ
từ công sẽ giảm tính cạnh tranh về chất lượng giữa các trường. Trên quan điểm chia sẻ
chi phí GDĐH, nếu có điều kiện thích hợp, các tổ chức hoặc cá nhân sẵn lòng đóng góp
tài chính cho GDĐH hoặc chi trả chi phí để đầu tư vào các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng mà con em của họ sẽ được hưởng lợi [7].
Dựa trên phân tích dữ liệu từ 86 quốc gia, ADB đã tìm thấy một mối tương quan
nghịch chiều giữa tỷ lệ tuyển sinh vào GDĐH và tỷ lệ NSNN dành cho GDĐH. Điều này
có nghĩa là ở các quốc gia có tỷ lệ sinh viên đại học cao hơn thì tỷ lệ NSNN chi cho
GDĐH lại thấp hơn. Do đó, ADB nhấn mạnh rằng vấn đề quan trọng nhất trong QLTC
của GDĐH là sự minh bạch của các trường trong việc sử dụng nguồn lực tài chính công.
Điều này giúp xã hội nhìn nhận được sự đóng góp của họ vào NSNN thông qua thuế đã
được nhà nước đầu tư đúng mục đích và nhờ đó con em của họ được thụ hưởng lợi ích từ
sự đóng góp này.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuấn (2015) về “Tác động của công tác QLTC
đến chất lượng GDĐH - nghiên cứu điển hình tại các trường đại học thuộc Bộ Công
thương”, việc QLTC và chất lượng GDĐH đã được phân tích và đánh giá trong hai khía
cạnh sau: (1) mức đầu tư tài chính cho các yếu tố đảm bảo chất lượng và (2) chất lượng
GDĐH. Nghiên cứu tiến hành đánh giá chất lượng GDĐH dựa trên 05 yếu tố: CTĐT, đội
ngũ giảng viên, CSVC, tài liệu học tập và quản lý hoạt động đào tạo. Tác giả cũng chỉ ra
rằng công tác QLTC trong việc nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường đại học gặp
nhiều hạn chế, bao gồm sự phụ thuộc quá mức của nguồn tài chính vào quy mô tuyển sinh,
sự bất đồng đều trong việc sử dụng nguồn lực tài chính cho các yếu tố đảm bảo chất lượng
và thiếu cơ chế tài chính đặc thù cho các trường đại học. Tuy nhiên, khi đánh giá tác động
của QLTC đến chất lượng GDĐH, chỉ tiêu đánh giá chất lượng của các trường chỉ dựa trên
số liệu thống kê kết quả xếp loại học tập (hoặc rèn luyện) của sinh viên dường như là chưa
toàn diện khi chưa căn cứ vào đánh giá của sinh viên hoặc người sử dụng lao động về kiến
thức, kỹ năng mà sinh viên đạt được trong quá trình đào tạo để đáp ứng yêu cầu việc làm
theo ngành học. Ngoài ra, chưa có đánh giá chất lượng GDĐH dựa trên các tiêu chí đánh
giá hoạt động NCKH và PVCĐ - những hoạt động không thể tách rời với hoạt động đào
tạo của các trường đại học [72].
27
Theo Nguyễn Trường Giang (2012) trong bài báo“Giải pháp đổi mới cơ chế tài
chính, nâng cao chất lượng đào tạo đại học”, việc duy trì mức học phí thấp hoặc tăng
mức học phí theo một tỷ lệ cố định là không phù hợp với yêu cầu nâng cao quyền tự chủ
tài chính và cải thiện chất lượng GDĐH. Thay vào đó, mức học phí nên được xác định
dựa trên nhu cầu xã hội đối với các ngành học (bao gồm cả nhu cầu của người học và
người sử dụng lao động), tạo ra một thị trường cạnh tranh giữa các trường đại học để thu
hút người học thông qua việc cải thiện chất lượng dịch vụ giáo dục. Tuy nhiên, do đặc
điểm đặc thù của sản phẩm GDĐH là không thể đánh giá và đo lường chính xác chất
lượng tại thời điểm giao dịch, vì người học không có khả năng tự đánh giá, do đó, nhà
nước cần thiết lập các tiêu chí chất lượng tối thiểu như mức chuẩn để bảo đảm chất lượng
cho các cơ sở GDĐH [78].
Tác giả Nguyễn Thị Hương, Tạ Ngọc Cường (2016) trong bài báo “Tự chủ tài chính
- cơ hội nâng cao chất lượng cho các trường ĐHCL ở Việt Nam” đã thực hiện phân tích về
tác động của tự chủ tài chính đến việc nâng cao chất lượng của trường ĐHCL ở nhiều khía
cạnh. Đầu tiên, việc tự chủ tài chính giúp các trường nâng cao tính chủ động và sáng tạo
trong QLTC, đồng thời tận dụng hiệu quả các nguồn lực có sẵn. Thứ hai, các trường có khả
năng đa dạng hóa nguồn thu và tăng quy mô nguồn tài chính, từ đó tăng cường đầu tư vào
các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng GDĐH như CSVC, trang thiết bị và nguồn
nhân lực. Cuối cùng, việc tăng thu nhập cho giảng viên và nhân viên giúp thu hút và giữ chân
nguồn lao động có chất lượng cao [75].
1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.2.1. Những kết quả đạt được của các công trình nghiên cứu
- Thứ nhất, các nghiên cứu đã làm rõ vai trò của tự chủ đại học, và chỉ ra những
nội dung cơ bản của tự chủ đại học gồm tự chủ về học thuật, tự chủ về tổ chức bộ máy,
tự chủ về nhân sự và tự chủ về tài chính. Trong bối cảnh kinh tế tri thức và cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, khi mà ưu thế cạnh tranh không chỉ dựa vào tiềm lực sẵn có mà
quan trọng hơn là sự thích ứng và tính linh hoạt, thì tự chủ đại học là cho phép các trường
ra quyết định nhanh hơn, năng động hơn khi được bỏ qua các thủ tục xin - cho thông qua
quy trình chậm chạp như trước đây. Cơ chế tự chủ khiến cho các trường phải nâng cao
năng lực QLTC và đổi mới QLTC, không chỉ giúp các trường đạt được hiệu quả vận hành
tốt hơn, mà còn tạo ra môi trường thuận lợi cho các trường đại học thúc đẩy đổi mới và
sáng tạo trong việc thực hiện các chức năng của mình, bao gồm đào tạo, NCKH và PVCĐ.
28
Cụ thể, tự chủ tài chính cũng cho phép các trường tìm kiếm các nguồn thu mới và tăng
cường quy mô nguồn tài chính, từ đó có thể tăng cường đầu tư vào CSVC, trang thiết bị
và nguồn nhân lực, cung cấp một môi trường học tập và nghiên cứu tiên tiến, thu hút
được những giảng viên và nhà nghiên cứu hàng đầu cũng như thu hút người học với quy
mô và chất lượng ngày càng tốt hơn.
- Thứ hai, các công trình đã khẳng định được vai trò quan trọng và tác động tích
cực của QLTC và đổi mới QLTC GDĐH đối với hoạt động của toàn hệ thống GDĐH
nói chung, và đối với chất lượng của trường đại học nói riêng. Vấn đề QLTC của các
trường ĐHCL thích ứng với bối cảnh nâng cao năng lực tự chủ, tiến tới hoạt động như
một doanh nghiệp không vì mục tiêu lợi nhuận, giúp tăng hiệu quả sử dụng các nguồn
lực và tiết kiệm chi phí. Đây là cơ sở đảm bảo trình độ phát triển của khoa học và giáo
dục, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế, quyết định đến năng lực
cạnh tranh và sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu đã cung cấp cơ sở lý luận về QLTC và đổi mới
QLTC các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ. Nội dung QLTC đã được các công trình
đề cập ở nhiều khía cạnh khác nhau, tùy vào chủ thể quán lý và phạm vi nghiên cứu, như:
cơ chế QLTC, cơ chế tự chủ tài chính, quản lý huy động nguồn tài chính, quản lý sử dụng
nguồn tài chính, quản lý kết quả tài chính trong năm, quản lý chi phí, quản lý tài sản….
Một số công trình nghiên cứu đã chỉ ra hệ thống công cụ QLTC các trường đại học ở góc
độ quản lý nhà nước như chính sách tài chính, chế độ kế toán, kiểm toán của Nhà nước
đối với ĐVSNCL - trong đó có các trường ĐHCL, hoặc góc độ QLTC nội bộ như kế
hoạch tài chính, quy chế tài chính nội bộ, hệ thống kiểm soát nội bộ. Bên cạnh đó, các
nghiên cứu cũng chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến QLTC các trường ĐHCL bao gồm
nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài trường đại học. Mặc dù tiếp cận ở góc độ quản lý
nhà nước hay QLTC nội bộ các trường đại học, các vấn đề tồn tại và giải pháp khắc phục
là những đóng góp nhất định cho quá trình đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong bối
cảnh hiện nay.
Thứ tư, không ít công trình nghiên cứu về QLTC các trường ĐHCL ở các quốc
gia, khu vực khác nhau như châu Âu, Hoa Kỳ hoặc một số quốc gia Châu Á, các tác giả
đã cho thấy xu hướng xã hội hóa GDĐH là một xu thế khách quan trên thế giới. Mặc
dù mức độ phụ thuộc vào nguồn NSNN của các trường ĐHCL ở mỗi quốc gia là khác
29
nhau, thì việc tìm kiếm và mở rộng các nguồn tài chính ngoài NSNN của các trường là
cần thiết. Nhưng ở một chiều cạnh khác, một số nghiên cứu đã chỉ ra vai trò quan trọng
của nguồn tài trợ từ chính phủ cho GDĐH là không thể phủ nhận. Ngoài ra, mặc dù việc
gia tăng nguồn tài chính cho hệ thống GDĐH qua các năm là điều kiện cần và đóng vai
trò quan trọng, nó không đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng GDĐH, mà việc phân
bổ và sử dụng nguồn tài chính hợp lý lại đóng vai trò là điều kiện đủ trong cải cách
QLTC hướng tới mục tiêu chất lượng của trường đại học.
Trong khi đó, từ hàng loạt nghiên cứu ở Việt Nam về vấn đề QLTC các trường
ĐHCL, có thể thấy vấn đề quản lý huy động nguồn tài chính các trường ĐHCL cũng
được quan tâm đặc biệt, điều này khẳng định tầm quan trọng của huy động nguồn tài
chính cho GDĐH, có thể được giải thích bằng “mô hình phụ thuộc nguồn lực của tổ chức”
được mô tả bởi Aldrich và Pfeffer (1976)[2], bởi Pfeffer và Salancik (1978)[83], và được
sửa đổi bởi Hall (1982)[30]. Theo mô hình này, “những trường đại học nào cạnh tranh
thành công trong môi trường của mình để thu hút một loại tài nguyên cũng có xu hướng
cạnh tranh thành công để thu hút các loại tài nguyên khác”. Khi các trường huy động
được nguồn lực tài chính dồi dào sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động nguồn giảng viên
và thu hút nguồn sinh viên cả về số lượng và chất lượng.
Thứ năm, một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã đánh giá tác động
của quyền tự chủ tài chính và hiệu quả QLTC đến chất lượng của trường đại học. Tùy theo
góc độ nghiên cứu của các tác giả, một số công trình đã đề xuất hệ thống các chỉ tiêu đánh
giá mức độ tự chủ tài chính hoặc/và đánh giá hiệu quả QLTC. Các chỉ tiêu này có thể đánh
giá hoạt động QLTC của các trường một cách trực tiếp thông qua quy mô, cơ cấu, xu hướng
và mức độ cải thiện nguồn tài chính, chi tiêu cũng như phân phối kết quả tài chính. Bên
cạnh đó, một số công trình đưa ra một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả QLTC hoặc mức tự
chủ tài chính của trường một cách gián tiếp, chẳng hạn như: tỷ lệ giảng viên/sinh viên, số
lượng công trình khoa học, tỷ lệ bài báo quốc tế/giảng viên, số sinh viên tốt nghiệp, số sinh
viên có việc làm… Ở góc độ đánh giá kết quả đầu ra và chất lượng hoạt động, các chỉ tiêu
này thực chất là các chỉ tiêu đo lường chất lượng trường đại học trong thực hiện chức năng
của mình. Mặc dù các chỉ tiêu đo lường mức tự chủ, hiệu quả QLTC và chất lượng trường
đại học có thể được đề xuất ở những mức độ toàn diện hoặc chưa toàn diện, nhưng các
công trình đã xác định được mức độ tác động và thứ tự quan trọng của các yếu tố thuộc về
QLTC đến chất lượng của trường đại học. Đã có những nghiên cứu khẳng định sự cần thiết
có một hệ thống tiêu chuẩn đo lường chất lượng của các cơ sở GDĐH để giúp người học
30
tự đánh giá được chất lượng dịch vụ mà mình đang thụ hưởng, đồng thời giúp nhà nghiên
cứu có đủ tiêu chí đo lường và đánh giá thực trạng mối quan hệ tác động này.
- Thứ sáu, không ít công trình nghiên cứu ở Việt Nam đã chỉ ra những tác động
tích cực của các văn bản pháp quy về QLTC trong trường đại học như: Cùng với sự ra
đời của Luật NSNN số 83/2015/QH13, Nghị định 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ đã ra
đời thay thế Nghị định 43/2006/NĐ-CP về cơ chế tự chủ của các ĐVSNCL, trong đó có
các trường ĐHCL. Nghị định 16 khắc phục nhiều hạn chế của Nghị định 43 theo hướng
khuyến khích các ĐVSNCL nâng cao tự chủ. Những tác động tích cực của chuyển dịch
GDĐH Việt Nam theo hướng tự chủ đã được nhiều nghiên cứu chỉ ra. Từ chỗ toàn thể hệ
thống GDĐH Việt Nam như một trường đại học lớn, chịu sự quản lý nhà nước chặt chẽ
về mọi mặt thông qua Bộ GĐ&ĐT, các trường đại học đã dần được trao quyền tự chủ,
thể hiện qua các văn bản pháp quy của Nhà nước. Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày
02/11/2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn
2006 - 2020 cũng khẳng định tầm quan trọng của việc hoàn thiện chính sách phát triển
GDĐH theo hướng bảo đảm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở GDĐH, sự
quản lý của Nhà nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với GDĐH, theo đó
đổi mới cơ chế quản lý cần chuyển các cơ sở giáo dục ĐHCL sang hoạt động theo cơ chế
tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên
cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính; tiến tới xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế
đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL. Trên tinh thần đó, các công
trình nghiên cứu cũng đã đề xuất nhiều giải pháp đổi mới QLTC các trường ĐHCL đáp
ứng yêu cầu của cơ chế tự chủ.
1.2.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu mà các công trình chưa
giải quyết được
- Khoảng trống về đối tượng nghiên cứu: Các công trình chủ yếu tập trung vào
các đối tượng nghiên cứu như: QLTC; cơ chế tự chủ tài chính; các nội dung của QLTC
như quản lý nguồn thu, quản lý chi phí, quản lý phân phối và sử dụng kết quả tài chính,
quản lý tài sản; các công cụ kế toán và kiểm toán trong QLTC nội bộ các trường ĐHCL.
Vấn đề “đổi mới QLTC” giáo dục ĐHCL được đề cập trong các nghiên cứu ở các khía
cạnh khác nhau, cũng có khi xuất hiện với vai trò là giải pháp để nâng cao hiệu quả
QLTC. Việc coi vấn đề “đổi mới QLTC các trường ĐHCL” là đối tượng nghiên cứu,
với một khung lý thuyết được tổng hợp và xây dựng dựa trên các giải pháp hoàn thiện
QLTC giáo dục ĐHCL đã được đưa ra, thực hiện và mô hình hóa phù hợp với từng giai
31
đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội và của hệ thống GDĐH quốc gia, thì ít thấy công
trình nghiên cứu đề xuất.
- Khoảng trống về nội dung nghiên cứu: Đã xuất hiện những công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước đánh giá mối quan hệ giữa quyền tự chủ tài chính và công tác QLTC
với chất lượng trường ĐHCL bằng các phương pháp và theo các khía cạnh khác nhau, nhưng
tác giả chưa tiếp cận công trình nào nghiên cứu tác động của đổi mới QLTC (thông qua các
chỉ tiêu tài chính trên báo cáo của các trường) đến mức tự chủ và chất lượng các trường
ĐHCL với những chỉ tiêu đo lường đổi mới QLTC khác nhau, trong đó mức tự chủ tài chính
bản thân nó cũng đóng vai trò là một trong những chỉ tiêu đo lường đổi mới QLTC các
trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH.
Ngoài ra, trong các nghiên cứu ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào đánh giá ảnh
hưởng của những yếu tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các trường như tuổi, quy
mô, định hướng phát triển, vị trí địa lý, sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực
thuộc trường đến kết quả đổi mới QLTC, mức tự chủ và chất lượng của các trường ĐHCL
trong quá trình các trường thực hiện cơ chế, chính sách của Nhà nước về QLTC các
trường ĐHCL, trong khi kết quả của việc đánh giá này có thể giúp đưa ra những hàm ý
chính sách trong đổi mới QLTC các trường ĐHCL nhằm đảm bảo tiêu chí công bằng,
minh bạch và tạo động lực phát triến cho các trường ĐHCL.
- Khoảng trống về phương pháp nghiên cứu: Còn thiếu vắng những nghiên cứu
định lượng đánh giá mức độ đổi mới QLTC dựa trên các chỉ tiêu tài chính cụ thể trong
mối quan hệ với các chỉ tiêu phản ánh chất lượng của trường ĐHCL, trong khi mục
tiêu cuối cùng của đổi mới QLTC là nâng cao chất lượng GDĐH. Những nghiên cứu
định lượng đã có thường đánh giá mối quan hệ giữa mức độ tự chủ tài chính với chất
lượng trường đại học, sử dụng dữ liệu điều tra sơ cấp theo thang đo Likert, và chưa
có nghiên cứu nào đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến mức tự chủ và chất lượng
các trường ĐHCL dựa vào nguồn dữ liệu thứ cấp thu thập từ các báo cáo tự đánh giá
dùng để kiểm định chất lượng và báo cáo Ba công khai của các trường.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC LỰA CHỌN NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG PHÂN TÍCH
Căn cứ vào những khoảng trống nêu trên khi đánh giá tổng quan các công trình
nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu
gồm có:
Thứ nhất, luận án làm rõ cơ sở khoa học về đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở
góc độ quản lý nhà nước trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH, từ đó
32
đánh giá thực trạng đổi mới QLTC trường ĐHCL trên phương diện đổi mới cơ chế, chính
sách, pháp luật liên quan đến các nội dung cụ thể của QLTC các trường ĐHCL như: đổi
mới huy động nguồn tài chính, đổi mới sử dụng nguồn tài chính, đổi mới phân phối kết
quả tài chính, có xem xét đến tác động của các yếu tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại
của các trường có thể ảnh hưởng đến kết quả đổi mới QLTC trong điều kiện tự chủ và
nâng cao chất lượng GDĐH như: tuổi, quy mô, vị trí địa lý, định hướng phát triển, sự
hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN.
Thứ hai, luận án đánh giá thực trạng mối quan hệ của đổi mới QLTC với mức tự
chủ và chất lượng trường ĐHCL, trong đó thước đo đổi mới QLTC và thước đo chất
lượng các trường được xây dựng dựa trên các chỉ tiêu đảm bảo chất lượng GDĐH theo
quy định hiện hành. Từ đó xem xét bản chất của những thay đổi tích cực hoặc tiêu cực
về chất lượng các trường liệu có bắt nguồn từ những đổi mới trong QLTC các trường
ĐHCL hay không.
Thứ ba, luận án nhận định những thành tựu, hạn chế, phân tích nguyên nhân của hạn
chế xuất phát từ những nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới QLTC các trường ĐHCL, đồng thời
căn cứ mối quan hệ của các nội dung đổi mới QLTC với mức tự chủ và chất lượng trường
ĐHCL, luận án đề xuất quan điểm, giải pháp tiếp tục đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong
điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả đề xuất khung phân tích cho đề tài luận án như Hình 1.1 dưới đây, nhằm
trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau:
1. Đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng
GDĐH bao gồm những nội dung gì? Những chỉ tiêu nào được sử dụng để đánh giá đổi
mới QLTC của các trường?
2. Thực trạng đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ và nâng
cao chất lượng giáo dục ở Việt Nam hiện nay như thế nào?
3. Các chỉ tiêu phản ánh đổi mới QLTC có tác động như thế nào đến mức tự chủ
và chất lượng của các trường ĐHCL ở Việt Nam?
4. Những nhân tố thể hiện thuộc tính nội tại của các trường có tác động như thế
nào đến kết quả đổi mới QLTC, đến mức tự chủ và đến chất lượng của các trường ĐHCL
ở Việt Nam?
5. Quan điểm và giải pháp tiếp tục đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam
trong thời gian tới như thế nào?
33
Tuổi của trường
Thể chế kinh tế - xã hội
Quy mô của trường
Vị trí địa lý của trường
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia
Định hướng phát triển của trường
Hình 1.1. Khung phân tích luận án
NHÂN TỐ VI MÔ
NHÂN TỐ VĨ MÔ
Xu thế hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giáo dục
Sự hiện diện của đơn vị SX - DV - CGCN thuộc và trực thuộc
Đổi mới cơ chế phân bổ NSNN cho các trường
ĐỔI MỚI QLTC TRƯỜNG ĐHCL
Đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính
MỨC TỰ CHỦ
Đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính ngoài NSNN
Đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính
Đổi mới quản lý sử dụng nguồn NSNN cấp
Đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính ngoài NSNN
Đổi mới quản lý phân phối kết quả tài chính
Số lượng các bài báo khoa học trong năm
Tổng số công trình khoa học hoàn thành
Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
CHẤT LƯỢNGN GHIÊN CỨU
CHẤT LƯỢNG PHỤC VỤ CỘNG ĐỒNG
Só lượng sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy hằng năm Tỷlệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp
Mức huy động nguồn lực tài chính cho các chương trình thiện nguyện
Tỷ lệ SV thừa nhận chỉ học được một phần kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp
Số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ của trường
Mức cung cấp nguồn nhân lực mới cho nền kinh tế (~ Số lượng sinh viên tốt nghiệp đại học hằng năm)
Mức huy động nguồn nhân lực cho hoạt động tình nguyện từ sinh viên và người lao động (VD: số đơn vị máu huy động)
34
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
2.1. KHÁI QUÁT VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP VÀ QUẢN LÝ TÀI
CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
2.1.1. Khái quát về giáo dục đại học công lập
2.1.1.1. Trường đại học công lập
GDĐH được coi là “hệ thống nuôi dưỡng” cho mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
là nguồn cung cấp nhân lực chất lượng cao vô cùng cần thiết cho công tác quản lý, quy
hoạch, thiết kế, giảng dạy và nghiên cứu. Một quốc gia muốn phát triển về khoa học công
nghệ và tăng trưởng về kinh tế thì nhất thiết phải có cả hai yếu tố: một hệ thống GDĐH
tiên tiến và một lực lượng lao động dồi dào. GDĐH còn tạo ra cơ hội học tập suốt đời,
cho phép con người cập nhật các kiến thức và kỹ năng thường xuyên theo nhu cầu của xã
hội. GDĐH cần phải thực hiện nhiệm vụ của mình thông qua các cơ sở GDĐH, bao gồm:
trường cao đẳng, trường đại học, học viện, đại học vùng, đại học quốc gia, viện NCKH
được phép đào tạo trình độ tiến sĩ [84].
Ở Việt Nam, Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật GDĐH quy định: “Cơ sở GDĐH là cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân, thực hiện chức năng đào tạo các trình độ của GDĐH, hoạt động khoa học
và công nghệ (KH&CN), PVCĐ” và “Cơ sở giáo dục ĐHCL do Nhà nước đầu tư, bảo
đảm điều kiện hoạt động và là đại diện chủ sở hữu”.[94] Mặt khác, Luật Viên chức số
58/2010/QH12 ngày 15/11/2010 quy định: “ĐVSNCL là tổ chức do cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy
định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà
nước[91]”. Như vậy, ở Việt Nam, trường ĐHCL là một loại ĐVSNCL hoạt động trong
lĩnh vực GDĐH.
Khi phân loại theo hình thức sở hữu, có hai loại hình trường đại học: trường ĐHCL
và trường đại học tư thục. Các trường ĐHCL được Nhà nước đầu tư CSVC, do đó, các
trường hoạt động trên cơ sở khối tài sản công thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại
diện chủ sở hữu, và được Chính phủ hoặc chính quyền địa phương cấp ngân sách để triển
35
khai các chính sách phát triển GDĐH của cấp quản lý tương ứng [49]. Ngoài nguồn kinh
phí từ các nguồn tài chính công, trong điều kiện xã hội hóa GDĐH, các trường ĐHCL
còn có các khoản đóng góp từ người dân và doanh nghiệp.
Các trường ĐHCL thường có học phí thấp hơn so với các trường đại học tư thục và
có nhiều chính sách hỗ trợ cho sinh viên. Tuy nhiên, đây cũng có thể là điểm yếu của các
trường ĐHCL, vì họ phụ thuộc vào nguồn tài trợ từ chính phủ. Các trường đại học tư thục
thường có học phí cao hơn so với các trường ĐHCL, nhưng đôi khi cũng có thể cung cấp
nhiều cơ hội học bổng và hỗ trợ tài chính cho sinh viên. Các trường đại học tư thục thường
có nguồn tài chính đa dạng hơn so với các trường ĐHCL, nhưng đồng thời cũng có thể
không nhận được sự hỗ trợ tài chính từ chính phủ. Mặc dù vậy, thực tế cho thấy nhiều
trường đại học tư thục cũng có thể được tài trợ bởi chính phủ [41].
Trường ĐHCL đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và xã hội của
mỗi quốc gia. Sự ra đời và hoạt động của các trường ĐHCL thể hiện vai trò của Nhà nước
đối với GDĐH. Các trường ĐHCL giữ vai trò định hướng cho hoạt động và sự phát triển
của hệ thống GDĐH của quốc gia, bao gồm việc định hướng cho phát triển các CTĐT,
NCKH, và các hoạt động khác liên quan đến giáo dục [34]. Từ đó, Nhà nước muốn đầu
tư nhằm đảm bảo lợi ích công về GDĐH và lan tỏa lợi ích này ra toàn xã hội, đảm bảo
tất cả mọi người đều có cơ hội bình đẳng tiếp cận với GDĐH.
Từ những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm như sau: “Trường ĐHCL là
cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, do cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước thành lập, bảo đảm điều kiện hoạt động và là đại diện chủ sở hữu; hoạt động bằng
nguồn NSNN và các nguồn tài chính ngoài NSNN tùy thuộc vào mức độ xã hội hóa GDĐH
của mỗi quốc gia; thực hiện chức năng đào tạo các trình độ của GDĐH, hoạt động
KH&CN, PVCĐ; có vai trò định hướng cho sự phát triển của hệ thống giáo giục đại học
quốc gia và đảm bảo cơ hội bình đẳng tiếp cận GDĐH của người dân”.
2.1.1.2. Đặc điểm của trường đại học công lập trong hệ thống giáo dục
Hoạt động GDĐH của trường ĐHCL không trực tiếp tạo ra của cải, nhưng nó có
tác động trực tiếp đến lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của nền kinh tế, có tính
quyết định tới năng suất lao động xã hội, nó vừa mang những đặc điểm của hoạt động sự
nghiệp đào tạo nói chung, vừa mang những nét riêng liên quan đến cơ sở giáo dục bậc
đại học và tính chất công lập của nó.
36
Một là, dịch vụ GDĐH của trường ĐHCL là một loại hàng hóa công không
thuần túy.
Trong kinh tế học, xét về khía cạnh tiêu dùng, hàng hóa được chia thành hai loại
là hàng hóa tư nhân và hàng hóa công cộng. Hàng hóa tư nhân thuần túy có hai đặc điểm
tiêu dùng: tính cạnh tranh (rivalry) và tính loại trừ (excludability), trong khi hàng hóa
công cộng thuần túy có các đặc điểm: tính không cạnh tranh (non- rivalry) và tính không
loại trừ (non-excludability).[47]
Giáo dục nhìn chung được xem là một loại hàng hóa (dịch vụ) công. Dịch vụ
công là dịch vụ do Nhà nước cung cấp cho người dân thông qua các CQNN, các tổ chức
công lập hoặc qua việc hỗ trợ tài chính cho các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân. Khái
niệm dịch vụ công dựa trên quan điểm cho rằng một số dịch vụ nên được coi như quyền
lợi tối thiểu mà mọi công dân có quyền được hưởng, bất kể họ thuộc thành phần kinh
tế nào, bởi vì những dịch vụ đó liên quan tới quyền con người và tạo ra những ngoại
ứng tích cực liên đới trực tiếp tới quá trình phát triển xã hội và lợi ích công cộng. Ở các
nước phát triển, giáo dục phổ thông (hay còn gọi là giáo dục cơ bản) chủ yếu do Nhà
nước cung cấp hoàn toàn miễn phí cho người dân. Trong trường hợp này dịch vụ giáo
dục phổ thông (giáo dục cơ bản) sẽ mang đặc điểm của hàng hóa công thuần túy: không
cạnh tranh và không loại trừ.
Bản chất của GDĐH là một loại hình dịch vụ đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
cao, có ý thức công dân tốt và có ích cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước
đây, một số nước châu Âu như Anh và Đức, cũng như một số nước xã hội chủ nghĩa
(Liên Xô cũ, Trung Quốc trước năm 1998, và cả Việt Nam trong các thập kỷ 60-90) thực
hiện bao cấp cho cả giáo dục phổ thông và GDĐH. Tuy nhiên, trong hai thập kỷ gần đây,
quá trình đại chúng hóa GDĐH cùng với chi phí dành cho hoạt động đào tạo và NCKH
tăng cao đã dẫn đến một hệ quả là ngân sách quốc gia không thể bao cấp cho GDĐH,
chính sách chia sẻ chi phí GDĐH vì thế cần được thực hiện, và các trường đại học ngày
càng phụ thuộc vào học phí của sinh viên để tồn tại [47]. Ngoài ra, cơ hội việc làm với
thu nhập vượt trội của người tốt nghiệp đại học so với người chưa học đại học làm cho
việc theo đuổi giáo dục bậc đại học trở thành một cuộc đầu tư cho tương lai, và cung cấp
dịch vụ GDDH đã trở thành một thị trường năng động [84].
Như vậy, xu thế vận động của kinh tế thị trường đã chuyển từ quan niệm GDĐH
chỉ mang lợi ích công thuần tuý sang quan niệm GDĐH đem đến cả lợi ích tư nhân dẫn
37
đến khái niệm dịch vụ GDĐH là hàng hóa có thể mua bán trên thị trưởng và thuộc loại
hàng hoa công không thuần túy [27]. Khi đó, dịch vụ GDĐH có đặc điểm của hàng hóa
tư nhân, đó là tính cạnh tranh, vì việc sử dụng dịch vụ này của một người thường ảnh
hưởng đến cơ hội và khả năng sử dụng của những người khác. Nói cách khác, đối với xã
hội, chi phí cận biên của việc có thêm một người đi học không phải là con số không. Mặt
khác, dịch vụ GDĐH có cả tính loại trừ vì nhà cung cấp dịch vụ có thể dễ dàng loại một
người nào đó khỏi tiêu dùng (học tập) nếu họ không đáp ứng các tiêu chí nhất định do
nhà cung cấp đặt ra (chẳng hạn như không trả học phí). Do mang đặc điểm của hàng hóa
tư nhân, đặc biệt là tính loại trừ, dịch vụ GDĐH có thể dễ dàng được cung cấp thông qua
thị trường bởi khu vực tư nhân [76].
Hai là, các hoạt động của trường đại học luôn gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo,
NCKH và các hoạt động dịch vụ khác.
Các hoạt động của trường đại học theo chức năng vốn có của nó thường bao gồm:
(1) Các hoạt động giảng dạy như đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học, sau đại học; (2) Các
hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ gồm có các nghiên cứu theo đơn đặt hàng
của Chính phủ, các Bộ ngành, các doanh nghiệp và các hoạt động nghiên cứu thường
xuyên của các trường đại học; (3) Các hoạt động dịch vụ sự nghiệp khác như các dịch vụ
bồi dưỡng ngắn hạn, tổ chức các kỳ thi cấp chứng chỉ, thi tuyển dụng nhân sự, tư vấn cho
các doanh nghiệp, các dịch vụ phục vụ đào tạo… và hoạt động PVCĐ như bồi dưỡng
nâng cao dân trí cho cộng đồng địa phương, hoạt động tình nguyện…
Tuy nhiên, không thể có sự tách biệt giữa các hoạt động này, mà luôn có sự gắn
kết hết sức chặt chẽ giữa chúng. Thật vậy, trường đại học không chỉ là nơi truyền đạt
kiến thức mà còn là nơi tạo ra tri thức. Ngoài nhiệm vụ giảng dạy, giảng viên đại học
còn phải tham gia NCKH và chuyển giao tri thức. Nhờ tham gia hoạt động NCKH ở vai
trò người thực hiện hoặc người phản biện, đều giúp cho đội ngũ giảng viên và nghiên
cứu viên cập nhật kiến thức phục vụ cho hoạt động giảng dạy của mình. Bởi vậy, chất
lượng đào tạo đại học của các trường phụ thuộc đáng kể vào chất lượng hoạt động
NCKH[76]. Tuy nhiên, NCKH là hoạt động cần nhiều nguồn lực (cả về tài chính và
nhân lực), mang tính rủi ro cao do kết quả nghiên cứu không chắc chắn, khó thu hồi
vốn đầu tư do sự hạn chế về khả năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Do đó, nguồn
tài trợ cho hoạt động này không thể đạt được một cách đơn giản thông qua thị trường,
chẳng hạn thu nhập từ các dịch vụ khoa học hoặc chuyển giao công nghệ. Vì vậy, rất
38
cần có sự tài trợ từ nhà nước, các tổ chức xã hội hoặc các nhà hảo tâm cho hoạt động
NCKH của các trường [49].
Ngoài ra, các hoạt động DVSNC khác thường gắn với thế mạnh và chuyên
ngành ngành đào tạo của trường, nếu khai thác tốt sẽ đem lại nguồn thu đa dạng phục
vụ cho hoạt động thường xuyên của trường, hỗ trợ cho hoạt động giảng dạy và NCKH.
Một số dịch vụ sự nghiệp hỗ trợ đào tạo như dịch vụ căng tin, ký túc xá, photocopy,
tạp hóa… cũng góp phần đem lại môi trường tiện ích hơn cho người học cũng như
giảng viên của trường.
Tính chất phức tạp và gắn kết chặt chẽ của các hoạt động trong trường đại học
cũng đặt ra yêu cầu đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính, sử dụng nguồn tài chính,
xác định kết quả tài chính cho từng hoạt động hướng tới mục tiêu tăng khả năng tự chủ
và nâng cao chất lượng của trường ĐHCL.
Ba là, việc đo lường chất lượng của trường đại học tương đối phức tạp
Việc đánh giá chất lượng của trường đại học thông qua các sản phẩm hoạt động đào
tạo, NCKH và PVCĐ là một việc không đơn giản. Đầu tiên, xét về hoạt động đào tạo, sản
phẩm đầu ra của GDĐH là con người - nguồn nhân lực cung cấp cho nền kinh tế. Việc
đánh giá chất lượng nguồn nhân lực cần phải có thời gian và thông qua quá trình sử dụng
lao động của các tổ chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế, chứ không chỉ đơn thuần thông
qua kết quả học tập và rèn luyện của người học. Điểm số chỉ phản ánh một cách gián tiếp
và thường không đầy đủ các kiến thức, kỹ năng mà người học thu nhận được do phụ thuộc
vào nhiều yếu tố của hệ thống kiểm tra, đánh giá. Trong khi đó, những khía cạnh khác như
thái độ, ý chí, năng lực tự chủ và tự chịu trách nhiệm... mà người học có thể chiếm lĩnh
được từ quá trình học tập, tu dưỡng thường khó được thể hiện một cách toàn diện trong hồ
sơ sinh viên. Tiếp đến, xét về hoạt động NCKH, việc đánh giá chất lượng của hoạt động
này cũng không phải là một điều dễ dàng, khi mà số lượng các sản phẩm khoa học chỉ thể
hiện một phần về hiệu quả của hoạt động, trong khi chất lượng các sản phẩm khoa học lại
khó đánh giá bởi vì việc ứng dụng các tri thức và giá trị khoa học vào thực tiễn thông qua
thương mại hóa gặp nhiều hạn chế. Cuối cùng, chất lượng của hoạt động PVCĐ của các
trường đại học lại càng khó xác định rõ ràng, do các số liệu thống kê thường không đầy đủ,
các tiêu chí đánh giá có phần trừu tượng và những lợi ích mà cộng đồng nhận được dường
như cũng không thể tách rời những lợi ích mà hoạt động đào tạo, NCKH của các trường
đem lại cho xã hội nói chung.
39
Đặc điểm này cho thấy, để đánh giá chất lượng GDĐH cần sử dụng nhiều biến số
khác nhau; ngoài ra nếu điều kiện cho phép thì nên áp dụng phương pháp loại trừ tác
động của các biến số khác nằm ngoài môi trường giáo dục của trường đại học đến chất
lượng nguồn nhân lực để có thể đánh giá chính xác và đầy đủ[53]. Vì vậy, khi đánh giá
tác động của đổi mới QLTC các trường ĐHCL đến chất lượng của trường, cần phải xem
xét, lựa chọn, thu thập thông tin về các tiêu chí đánh giá, chỉ tiêu đo lường chất lượng
một cách tương đối toàn diện.
2.1.1.3. Chất lượng trường đại học công lập và các chỉ tiêu đánh giá
Chất lượng luôn là vấn đề được ưu tiên hàng đầu của tất cả các trường đại học, và
việc phấn đấu nâng cao chất lượng bao giờ cũng được xem là nhiệm vụ quan trọng nhất
của bất kỳ cơ sở đào tạo đại học nào. Mặc dù có tầm quan trọng như vậy nhưng theo phân
tích ở trên, chất lượng vẫn là một khái niệm khó định nghĩa, khó xác định, khó đo lường.
Hiện nay, có một số quan điểm về chất lượng trong GDĐH như: Chất lượng được đánh
giá bằng "Đầu vào", tức là chất lượng giáo dục một trường đại học phụ thuộc vào chất
lượng hay số lượng đầu vào của trường đó. Theo quan điểm này, một trường đại học
tuyển được sinh viên giỏi, có đội ngũ cán bộ giảng dạy uy tin, có nguồn tải chính cần
thiết để trang bị các phòng thí nghiệm, giảng đường, các thiết bị tốt nhất được xem là
trường có chất lượng giáo dục cao; Chất lượng được đánh giả bằng “Đầu ra", tức là chất
lượng giáo dục được thể hiện bằng mức độ hoàn thành công việc của sinh viên tốt nghiệp
hay khả năng cung cấp các hoạt động đào tạo của trường đó; Chất lượng được đánh giá
bằng "Giá trị gia tăng" - chất lượng được xác định bằng giá trị của đầu ra" trừ đi giá trị
của "đầu vào", kết quả thu được là "giá trị gia tăng” mà trường đại học đã đem lại cho
sinh viên; Chất lượng được đánh giá bằng "Giá trị học thuật, quan điểm này đánh giá chất
lượng giáo dục bằng số lượng đội ngũ giáo sư, tiến sĩ có uy tin khoa học, Chất lượng
được đánh giá bằng "Văn hoá tổ chức riêng" tương tự như lĩnh vực công nghiệp và thương
mại; Chất lượng được đánh giá bằng "Kiểm toán", quan điểm này xem trong quá trình
bên trong trường đại học và nguồn thông tin cung cấp cho việc ra quyết định [72].
Nếu đánh giá chất lượng trường ĐHCL bằng “đầu vào” hoặc “đầu ra” kết hợp với
“giá trị học thuật”, đồng thời nhất quán với những tiêu chuẩn và tiêu chí thường được sử
dụng để đánh giá chất lượng các trường đại học theo quy định của nhà nước hiện nay,
chúng ta có thể lựa chọn sử dụng một số chỉ tiêu thích hợp trong tập hợp các các chỉ tiêu
sau để đánh giá:
40
- Thứ nhất, đánh giá chất lượng đào tạo dựa trên các chỉ tiêu như: Điểm trung
bình tuyển sinh đầu vào; Số lượng sinh viên nhập học hằng năm; Số sinh viên tốt nghiệp
đại học chính quy hằng năm; Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đúng ngành đào tạo
sau một năm tốt nghiệp; Tỷ lệ vinh viên có việc làm trái ngành đào tạo; Tỷ lệ tự tạo
được việc làm; Tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công
việc theo ngành tốt nghiệp; Tỷ lệ sinh viên chỉ học được một phần kiến thức, kĩ năng
cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp; Tỷ lệ sinh viên không học được kiến
thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp; Số lượng giáo sư, phó giáo
sư, tiến sĩ của trường…
- Thứ hai, đánh giá chất lượng NCKH dựa trên các chỉ tiêu: Số lượng đề tài NCKH
thực hiện trong năm; Số lượng các công bố khoa học trong năm; Tổng bài báo quốc tế
trong năm; Tổng số công trình khoa học hoàn thành (đề tài, bài báo, sách)…
- Thứ ba, đánh giá chất lượng PVCĐ dựa trên các chỉ tiêu: Mức huy động nguồn
lực tài chính cho các chương trình thiện nguyện; Mức cung cấp nguồn nhân lực mới
cho nền kinh tế (số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy); Mức huy động nguồn nhân
lực cho hoạt động tình nguyện từ sinh viên và NLĐ (số đơn vị máu thu được từ hoạt
động hiến máu nhân đạo hằng năm, số lượt giảng viên và sinh viên tham gia các chương
trình tình nguyện…).
2.1.2. Quản lý tài chính các trường đại học công lập
2.1.2.1. Khái niệm quản lý tài chính trường đại học công lập
Khái niệm quản lý được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, “Quản lý là tổ
chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”[112], “Quản lý là sự tác
động có tổ chức và có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản
lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng và cơ hội của hệ thống nhằm đạt được
các mục tiêu đã đề ra trong điều kiện biến động của môi trường”[24]. “Quản lý là việc
thiết kế và duy trì một môi trường trong đó những người cùng làm việc với nhau có thể
hoàn thành các mục đích, mục tiêu chung”[32]
Tài chính là một phạm trù kinh tế và là một phạm trù lịch sử. Tài chính ra đời
trong những điều kiện lịch sử nhất định, khi có các hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan
xuất hiện và tồn tại. Xét về hình thức, tài chính là cách thức tạo lập, phân bố và sử dụng
nguồn lực của từng chủ thể trong xã hội nhằm đạt được các mục của từng chủ thể đó.
Nguồn lực theo khái niệm rộng là khả năng mà các chủ thể có thể khai thác và sử dụng.
41
Nguồn lực bằng tài chính biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng tiền tệ (nội tệ, ngoại tệ, vàng...)
hoặc tài sản khác ngoài tiền (cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ tài chính khác...), trong đó,
tiền tệ là nguồn tải chính trực tiếp và các tài sản khác được gọi là nguồn tài chính tiềm
năng. Xét về thực chất, tài chính phản ánh hệ thống các quan hệ phân phối của cải xã
hội dưới hình thức giá trị thông qua quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ nhằm đáp
ứng các mục tiêu khác nhau của các chủ thể trong xã hội [51].
Quản lý tài chính là một hệ thống bao gồm các phần tử và mối quan hệ giữa
chúng, được xem xét theo các góc độ khác nhau để giải quyết các vấn đề trung tâm
của hoạt động tài chính. Các phần tử của hệ thống QLTC bao gồm: Thứ nhất, một môi
trường bao gồm các quy phạm đã được thiết kế và duy trì trong đó các chủ thể thực
hiện việc tổ chức và điều khiển hoạt động tài chính. Thứ hai, là các chủ thể trong xã
hội trong mối quan hệ tương tác được thể hiện qua việc thỏa hiệp quyền - lợi ích dựa
trên vai trò, vị thế của các bên. Thứ ba, các hoạt động tạo lập, phân phối và sử dụng
các quỹ tiền tệ là đối tượng của QLTC và sự tương tác giữa chúng theo mối quan hệ
nhân - quả. Thứ tư, mục tiêu QLTC được đặt ra phù hợp với từng giai đoạn và lộ trình
phát triển cụ thể [50].
Mục đích của hệ thống QLTC là đảm bảo cho các hoạt động tài chính vận hành
phù hợp với các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như mong
muốn chủ quan của các chủ thể quản lý trong xã hội. Do đó, hệ thống QLTC cần phải
luôn đổi mới và phát triển để thích ứng với các quy luật khách quan của sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Như vậy, tổng hợp những quan điểm đã trình bày phía trên, khái niệm QLTC
có thể được hiểu là việc thiết kế và duy trì một môi trường bao gồm các quy phạm
điều chỉnh sự tác động qua lại giữa các chủ thể xã hội dựa trên mối tương quan quyền
- lợi ích dựa trên vai trò, vị thế giữa các bên, nhằm tổ chức và điều khiển các hoạt
động tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ để thực hiện các mục tiêu đã đề ra
(cả mục tiêu chung và mục tiêu riêng của các chủ thể tham gia) trong từng giai
đoạn/quá trình phát triển cụ thể.
Vận dụng quan niệm này cùng với định hướng, phạm vi nghiên cứu của luận án,
dưới góc độ quản lý nhà nước, có thể định nghĩa: Quản lý tài chính các trường đại học
công lập là việc thiết kế và duy trì một môi trường chính sách, pháp luật điều chỉnh sự
tác động qua lại giữa nhà nước, trường đại học và các chủ thể khác trong xã hội (sinh
42
viên, các tổ chức, doanh nghiệp…) trên cơ sở mối tương quan quyền và lợi ích giữa các
bên theo phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm trong hệ thống, nhằm tổ chức và điều
khiển các hoạt động liên quan đến việc huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn tài
chính, đáp ứng mục tiêu đã đề ra của các trường ĐHCL trong từng giai đoạn phát triển
kinh tế - xã hội cụ thể.
2.1.2.2. Nội dung quản lý tài chính trường đại học công lập
a) Quản lý huy động nguồn tài chính
Dịch vụ GDĐH mang tính chất của hàng hóa công không thuần túy. Bởi vậy, đứng
trên góc độ đầu tư của các chủ thể trong xã hội dành cho GDĐH, nguồn lực tài chính của
trường ĐHCL có thể được phân loại như sau: (i) nguồn tài chính từ NSNN; (ii) nguồn tài
chính ngoài NSNN gồm: nguồn đóng góp/ chi trả từ người học; nguồn thu từ các hoạt
động NCKH, dịch vụ, sản xuất kinh doanh; nguồn đóng góp tài trợ từ các tổ chức, doanh
nghiệp và cá nhân cho nhà trường; và nguồn tài chính huy động từ vay ngân hàng, đầu tư
của các tổ chức, cá nhân [84]. Vì vậy, quản lý huy động nguồn tài chính cho các trường
ĐHCL sẽ bao gồm: quản lý phân bổ nguồn tài chính từ NSNN và quản lý huy động nguồn
tài chính ngoài NSNN cho các trường.
Quản lý phân bổ nguồn tài chính từ NSNN
Về bản chất, đối với nhà nước, việc quản lý phân bổ nguồn lực tài chính đầu tư/tài
trợ cho các trường ĐHCL chính là biểu hiện của phương thức trao quyền tự chủ đại học
(trong đó có tự chủ về tài chính) mà nhà nước áp dụng, để quản lý đối với hệ thống các
trường ĐHCL. Phương thức trao quyền tự chủ đại học, là mức độ cho phép tự chủ đối
với các yếu tố chi phối trực tiếp đến sự tồn tại và hoạt động của các trường đại học. Mức
độ và hình thức trao quyền tự chủ như thế nào lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố (thể chế
chính trị, hình thái lịch sử, kinh tế, xã hội, xu thế thế giới…), mà nhà nước phải cân nhắc,
tính toán một cách khoa học và chuẩn xác, để đạt được mục tiêu quản lý đề ra trong từng
giai đoạn lịch sử cụ thể[50].
Theo quan điểm này, mức độ trao quyền tự chủ của nhà nước cho các trường ĐHCL
sẽ quyết định đến mức độ tài trợ NSNN cho các trường. Tùy theo tiềm lực của NSNN, mục
tiêu phát triển GDĐH của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ cũng như tính chất đặc thù của
ngành nghề đào tạo, mức độ tài trợ của chính phủ thông qua việc cấp ngân sách cho các
trường ĐHCL là khác nhau, và có thể theo một trong bốn mức độ sau: mức độ 1, chính phủ
không cấp NSNN, các trường ĐHCL tự trang trải chi thường hoạt động xuyên và chi đầu
43
tư phát triển; mức độ 2: chính phủ cấp NSNN cho chi đầu tư phát triển, không tài trợ chi
hoạt động thường xuyên; mức độ 3, chính phủ cấp NSNN cho chi đầu tư phát triển, và tài
trợ một phần chi hoạt động thường xuyên; mức độ 4: chính phủ cấp NSNN tài trợ 100%
kinh phí chi đầu tư phát triển và chi hoạt động thường xuyên.
Nhà nước cấp hay phân bổ ngân sách theo nhiều cách khác nhau. Cách thức
phân bổ ngân sách ảnh hưởng rất lớn đến cách thức mà các trường ĐHCL sử dụng nó.
Đây là quá trình phức tạp và thường gây nhiều tranh luận, mà nguyên nhân là do nguồn
lực NSNN có hạn, trong khi nhu cầu nguồn tài chính cho GDĐH là rất lớn. Trên thế
giới đã đã có nhiều nghiên cứu khác nhau đề xuất các mô hình phân bổ NSNN cho các
trường ĐHCL.
Nghiên cứu của World Bank (1995)[116] về những ưu tiên và chiến lược cho
giáo dục cũng đã đưa ra 04 mô hình phân bổ NSNN cho các trường đại học, đó là: mô
hình phân bổ ngân sách “dựa trên đàm phán”, mô hình phân bổ ngân sách “dựa trên đầu
vào”, mô hình phân bổ ngân sách “dựa trên đầu ra”, mô hình phân bổ ngân sách “dựa trên
cơ sở chất lượng” [113]
Bikas C.Sanyal và công sự (1999) đã chỉ ra 05 cách thức cung cấp NSNN cho các
trường: cách 1, cấp theo thỏa thuận, dựa trên dự toán ngân sách hoạt động định kỳ của
trường đại học; cách 2, cấp một lần, dựa theo kinh phí được cấp trước đó cộng với một
khoản tăng thêm và các trường được tự chủ sử dụng trong khuôn khổ pháp luật; cách 3,
cấp dựa theo công thức phản ánh các hoạt động đã qua (như số sinh viên, hệ số quy đổi
phản ánh kết quả học tập) và các trường được tự chủ sử dụng; cách 4, trả tiền để mua
dịch vụ học thuật của trường đại học, tức kinh phí được tính dựa trên khả năng hoạt động
của trường trong tương lai, chứ không dựa vào hoạt động đã qua; và cách 5, các trường
bán dịch vụ giảng dạy, nghiên cứu và tư vấn cho nhiều loại khách hàng, cả khu vực công
và khu vực tư [14].
Elena Chernova và cộng sự (2017) khi nghiên cứu thực nghiệm trường hợp Châu
Âu đã tiếp cận ở 03 mô hình: tài trợ dựa trên kết quả hoạt động (performance-based
funding); tài trợ dựa trên công thức (formula-based funding) với 02 mô hình dựa trên đầu
vào và đầu ra; tài trợ dựa trên thương lượng (negotiation) với số tiền tài trợ được xác định
trên cơ sở dữ liệu lịch sử[29].
James Dean Ward và cộng sự (2020) [39] cho rằng tùy vào tình hình chính trị - xã
hội cụ thể, chiến lược phân bổ NSNN cho các trường đại học của các quốc gia thường
44
bao gồm một hoặc nhiều cách tiếp cận sau: (1) tài trợ gia tăng (Incremental Funding), (2)
tài trợ theo công thức (Formula Funding) và (3) tài trợ dựa trên hiệu suất (Performance-
based Funding).
Như vậy, khi xem xét góc độ tài trợ trực tiếp NSNN cho trường ĐHCL với chủ
thể nhận tài trợ là bản thân các trường chứ không phải là người học, có thể tổng hợp các
mô hình phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL mà các quốc gia trên thế giới đã và đang
áp dụng, gồm có:
Thứ nhất, mô hình thương lượng (Negotiated Funding): Việc đàm phán này chủ
yếu dựa trên các yếu tố lịch sử, chính trị hoặc số tiền phân bố tử các năm trước. Ngân
sách thương lượng gồm ngân sách cấp theo hạng mục (Line-item budgets) được cấp dựa
trên cơ sở dự toán của trường; hoặc ngân sách trọn gói (Block grants) được cấp một lần
dựa trên số tiền được phân bổ năm trước cộng thêm một khoản gia tăng theo tỷ lệ chung
cho các trường đại học trong cùng một lĩnh vực, vì vậy mô hình này có thể được gọi là
tài trợ gia tăng (Incremental Funding) [39]. Ngân sách theo hạng mục quy định chặt chẽ
về việc sử dụng nguồn ngân sách theo đúng hạng mục thỏa thuận, việc điều chỉnh ngân
sách từ hạng mục này sang hạng mục khác phải tuân theo quy trình thủ tục phức tạp,
trong khi đó ngân sách trọn gói giúp các trường đại học được chủ động và linh hoạt hơn
trong sử dụng nguồn kinh phí [51].
Thứ hai, mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu vào (Input-based
Formula Funding): Đây là hình thức nguyên thuỷ nhất của tài trợ công thức, dựa trên các
tiêu chỉ như số lượng nhân viên, trình độ của nhân viên và lương nhân viên; số lượng sinh
viên đang theo học và chi phí tính trên mỗi sinh viên… Mô hình này được ưa chuộng hơn
so với mô hình phân bổ ngân sách dựa trên thương lượng, nhưng không đủ khuyến khích
tính hiệu quả. Nó phản ánh được sự khác biệt về nhu cầu chi phí, nhưng không khuyến
khích các trường tiết kiệm chi phí, cũng như hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng.
Thứ ba, mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu ra (Output-based
Formula Funding): Mô hình này gắn việc cấp kinh phí với kết quả thực hiện. Mức
kinh phí được cấp từ NSNN được xác định dựa trên số sinh viên tốt nghiệp. So với
mô hình “dựa trên đầu vào”, cách xác định này cho thấy mức kinh phí được cấp đã
căn cứ nhiều hơn vào hiệu quả giáo dục. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy việc
áp dụng công thức cấp kinh phí “dựa trên đầu ra” dẫn đến việc giảm lượng hao hụt
45
sinh viên và nâng cao hiệu quả của hệ thống giáo dục ĐHCL nói chung, hiệu quả sử
dụng nguồn lực tài chính công cho GDĐH nói riêng [113].
Thứ tư, mô hình tài trợ dựa trên hiệu suất (Performance-based Funding Model):
Các hợp đồng hiệu suất (Performance contracts) được ký giữa trường đại học với
Chính phủ hoặc chính quyền địa phương quy định rõ các chỉ số hiệu suất mục tiêu
(Target performance indicators) mà trường đại học cam kết đạt được bằng cách nhận
được số tiền tài trợ cần thiết. Cơ chế tài trợ này cho phép khả năng đối thoại giữa các
trường đại học và nhà nước, do đó tăng tính minh bạch trong việc phân bổ ngân sách,
cũng như hỗ trợ trường đại học trong việc thiết kế chiến lược phát triển. Không giống
như mô hình tài trợ dựa trên công thức, mô hình dựa trên hiệu suất sử dụng các chỉ số
triển vọng, do đó hướng các trường đại học vào các mục tiêu phát triển đã xác định
trước, phù hợp với điều kiện thực tế của trường cũng như đáp ứng các mục tiêu tổng
quát của quốc gia.
Các chỉ số hiệu suất mục tiêu được mô tả như là kết quả cần đạt được trong khi
trường đại học tự do lựa chọn bất kỳ biện pháp cụ thể nào để đạt được các mục tiêu đó
trong khoảng thời gian đã thỏa thuận. Các mục tiêu có thể là định tính (ví dụ: thúc đẩy
khả năng tiếp cận bình đẳng giữa nam và nữ đối với các học hàm, học vị cao) hoặc định
lượng (ví dụ: tăng tỷ lệ giáo sư nữ). Trong trường hợp các chỉ số mục tiêu là định lượng,
nó có vẻ rất giống các chỉ số được áp dụng trong tài trợ theo công thức dựa trên các yếu
tố đầu ra.
Các hợp đồng hiệu suất (Performance contracts) đôi khi là hình thức cấp NSNN
cho một hoạt động/nội dung đặc biệt (Earmarked Funding) bên cạnh các nội dung thông
thường. Vì vậy, hình thức này không phải lúc nào cũng được thực hiện thường xuyên,
mà có thể được áp dụng trong bối cảnh khẩn cấp (ví dụ trong trường hợp thiên tai, dịch
bệnh) hoặc nhằm hướng tới một mục tiêu đặc thù (ví dụ hợp đồng triển khai thực hiện
một chương trình bồi dưỡng công chức cấp xã thuộc chương trình mục tiêu quốc gia phát
triển nông thôn) [52].
Thứ năm, mô hình tài trợ cạnh tranh (Competitive Funding): Mục tiêu của cơ chế
tài trợ này là thúc đẩy cạnh tranh giữa các trường đại học nhằm nâng cao chất lượng. Chính
phủ sẽ dành một khoản ngân sách nhất định giữ lại ở một cơ quan cấp trung ương như Bộ
GĐ&ĐT, Bộ Tài chính hoặc Ủy ban quốc gia. Khoản ngân sách này sẽ dành để phục vụ
những mục tiêu cụ thể về giảng dạy, nghiên cứu và các nhiệm vụ khác đối với GDĐH.
46
Định kỳ hằng năm, hoặc vài năm một, các trường có thể nộp hồ sơ đăng ký và cạnh tranh
lẫn nhau để giành được ngân sách bổ sung cho hoạt động của mình [96].
Thực tế phân bổ nguồn ngân sách của Chính phủ cho các trường ĐHCL thường là
sự kết hợp của hai hoặc nhiều cách thức nêu trên.
- Nếu như kết hợp giữa mô hình thứ nhất và một vài khía cạnh của mô hình thứ
hai, thì cơ chế này còn mang nặng tính quản lý theo kiểu hành chính, các trường được
phân bổ ngân sách theo yêu cầu và mục tiêu của chính phủ.
- Nếu áp dụng mô hình thứ hai và một vài khía cạnh của mô hình thứ tư, sẽ cho
phép nhà quản trị đại học chủ động hơn trong việc chi tiêu và ưu tiên các nguồn lực cho
hoạt động chuyên môn và mục tiêu của trường.
- Nếu kết hợp giữa mô hình thứ ba và thứ tư, hoặc tùy vào tình hình thực tế có thể
kết hợp thêm cả mô hình thứ năm, trường hợp này phản ánh việc mở rộng nhiều hơn
quyền tự chủ cho các trường ĐHCL và hướng các trường đến mục tiêu hiệu suất và kết
quả hoạt động.
- Nếu kết hợp giữa mô hình thứ tư và thứ năm, các trường đã hoạt động theo định
hướng thị trường, thúc đẩy cạnh tranh, nâng cao chất lượng GDĐH.
Quản lý huy động nguồn tài chính ngoài NSNN
Huy động các nguồn tài chính ngoài NSNN để tài trợ/đầu tư cho các trường
ĐHCL đã trở thành biện pháp phổ biến ở các quốc gia trên thế giới, góp phần giảm gánh
nặng cho NSNN khi giải quyết bài toán về nguồn lực tài chính đáp ứng yêu cầu mở
rộng quy mô, nâng cao chất lượng của các trường đại học trong bối cảnh toàn cầu hóa,
hội nhập quốc tế sâu rộng và cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Tùy tình hình cụ thể của
mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn nhất định mà nguồn tài chính ngoài NSNN được huy
động cho các trường ĐHCL có thể có sự khác nhau về cơ chế. Quản lý huy động nguồn
tài chính ngoài NSNN đối với các trường ĐHCL được luận án xem xét theo các nội
dung cơ bản sau:
(1) Quản lý huy động nguồn đóng góp/ chi trả từ người học:
Học phí là chi phí của người học đóng góp cho trường ĐHCL và ngày càng chiếm
vai trò quan trọng trong đối với việc khai thác nguồn tài chính huy động cho các trường.
Sự đóng góp/chi trả của người học cũng thể hiện sự công bằng trong hưởng thụ GDĐH,
nâng cao ý thức của người học đối với cộng đồng, xã hội, góp phần giảm gánh nặng cho
NSNN. Do đó, trong kinh tế thị trường thì trước hết cần tăng cường khai thác, huy động
nguồn tài chính cho các trường ĐHCL thông qua học phí/chi trả từ người học.
47
Theo Arthur M. Hauptman (2007) [6], để xác định cấu trúc học phí GDĐH ở một
quốc gia, cần xem xét những vấn đề sau:
- Chủ thể xây dựng mức học phí: Đối với các trường ngoài công lập (trường tư
thục), mức học phí đương nhiên do lãnh đạo nhà trường quyết định. Đối với các trường
công lập, có khá nhiều dạng thức khác nhau trong việc xây dựng mức học phí. Trong một
số trường hợp, lãnh đạo trường công lập có trách nhiệm xác định mức học phí, nhưng
thường với sự xét duyệt/quy định của chính phủ.
- Cơ sở để xây dựng mức học phí: một số cơ sở làm nền tảng cho quyết định mức
học phí trường đại học bao gồm: (i) tỷ lệ chi phí trên đầu sinh viên, (ii) mức học phí mà
các trường cùng loại, cùng cấp đang thu, (iii) những chỉ số kinh tế tổng quát (như:
GDP/người hoặc thu nhập bình quân của người dân trong vùng…). Đối với nhiều quốc
gia, mức học phí được xác định như một phần trong chi phí đào tạo cho mỗi sinh viên,
và được coi như khoản thu nhằm bù đắp chi phí đào tạo.
- Chủ thể nắm giữ và sử dụng học phí: Có hai phương thức chính là: (i) các trường
có thể giữ lại học phí, hoặc (ii) gửi đến cơ quan của chính phủ và số tiền đó sẽ quay lại
trường như một phần của ngân sách cấp. Về cơ bản, khi các trường được giữ lại học phí
để sử dụng sẽ tạo động lực cho các trường tăng quy mô tuyển sinh.
- Kiểu cơ cấu học phí: Có rất nhiều kiểu cơ cấu học phí khác nhau một cách đáng
kể trên thế giới, với 04 loại điển hình, đó là: (i) Học phí truyền thống (các trường tự
quyết định mức thu, cũng như tổ chức thu, giữ lại và sử dụng học phí cho hoạt động của
nhà trường từ học phí trực tiếp do sinh viên và gia đình của họ đóng; mức học phí có
thể giống nhau đối với mọi sinh viên, và cũng có thể khác nhau tùy theo ngành, chuyên
ngành học hoặc bậc học); (ii) Học phí do nhà nước cấp (chính phủ thay mặt sinh viên
thanh toán học phí, và thu lại số tiền này từ sinh viên qua hệ thống thuế sau khi họ tốt
nghiệp và có việc làm); (iii) Học phí song song (sinh viên có thể chỉ phải trả một mức
tương đối thấp do nhà nước bao cấp một phần đối với những sinh viên không đủ tiêu
chuẩn để được miễn học phí; nhà nước quản lý việc thu thuế sau khi tốt nghiệp để bù
đắp học phí đối với những sinh viên nằm trong chỉ tiêu được chính phủ thay mặt đóng
học phí bằng cách cấp NSNN cho trường); (iv) Cấu trúc học phí kiểu hai bậc (đa số
sinh viên sẽ trả học phí theo mức đã được nhà nước bao cấp một phần, một số sinh viên
khác sẽ trả học phí theo mức thị trường).
48
(2) Quản lý huy động nguồn thu khác (ngoài học phí):
Trước áp lực về chi phí, không chỉ để đảm bảo duy trì ổn định hoạt động thường
xuyên, mà còn phải tích lũy tăng cường đầu tư, hiện đại hóa CSVC, trang thiết bị, nhằm
không ngừng mở rộng, nâng cao chất lượng đào tạo, NCKH, cung cấp dịch vụ... đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của xã hội, và cũng là để khẳng định thương hiệu của mình, các
trường đại học trên thế giới cũng như Việt Nam đều rất quan tâm khai thác lợi thế sẵn có
của mình để đa dạng hóa các hoạt động hợp tác đào tạo, sản xuất kinh doanh, cung cấp
dịch vụ, nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, nhằm tăng nguồn thu và bảo
đảm bền vững về tài chính. Từ thực tế hoạt động và theo quy định của Chính phủ trong
từng giai đoạn, các trường ĐHCL thường có một số, hoặc tất cả các khoản thu khác (ngoài
nguồn thu từ học phí) sau đây:
- Khoản thu từ hoạt động bồi dưỡng như: mở các lớp, các khóa học, bồi dưỡng
không sử dụng NSNN cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Đây thông thường là các
khóa học cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, rèn luyện kỹ
năng, tay nghề…; và hầu hết các trường đại học trên thế giới, cũng như Việt Nam đều có
nguồn thu đáng kể từ hoạt động này.
- Khoản thu từ KH&CN có được xuất phát từ một trong những chức năng cơ bản của
các trường đại học - là nơi triển khai các NCKH cơ bản và chuyển giao kết quả nghiên cứu
phục vụ xã hội. Ở các nước phát triển, hoạt động NCKH đóng góp một phần không nhỏ trong
cơ cấu nguồn lực tài chính của các trường đại học.
- Khoản thu từ nhận đặt hàng đào tạo, nghiên cứu của Nhà nước, tổ chức và cá
nhân; thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước giao.
- Khoản thu từ hoạt động hỗ trợ đào tạo và kinh doanh, dịch vụ PVCĐ của các
trường đại học hoặc của các doanh nghiệp, trung tâm, tổ chức kinh tế trực thuộc như: ký
túc xá sinh viên; căng tin; nhà sách và nhiều hoạt động khác liên quan đến đời sống sinh
viên; cho thuê CSVC…
- Khoản thu từ đầu tư của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài, để tổ chức hoạt
động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật.
- Nguồn vốn vay của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Đây là nguồn tài chính
phải hoàn trả sau một quá trình sử dụng với chi phí sử dụng là lãi vay.
- Các nguồn tài trợ, viện trợ, quà biếu, tặng, cho của cựu sinh viên, tổ chức, cá
nhân trong nước và nước ngoài.
- Khoản thu từ hoạt động đầu tư tài chính và nguồn thu hợp pháp khác.
49
Nguồn tài chính ngoài NSNN cũng là một bộ phận cấu thành nguồn tài chính của
trường ĐHCL. Bởi vậy, thông thường quản lý huy động các nguồn tài chính ngoài NSNN
cũng cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Việc tuân thủ những nguyên tắc này
là nhằm quản lý đầy đủ và thúc đẩy phân bổ, sử dụng có hiệu quả nguồn lực của các trường
ĐHCL. Theo Lê Xuân Trường (2012), có 04 nguyên tắc đặt ra đối với quản lý nguồn tài
chính ngoài NSNN, đó là: (1) Tuân thủ pháp luật, (2) Phản ánh đầy đủ, minh bạch các
khoản thu ngoài ngân sách , (3) Quản lý tập trung, thống nhất các khoản thu ngoài ngân
sách, (4) Bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với NSNN [55]. Thực chất, việc tuân
thủ những nguyên tắc nêu trên trong việc huy động các nguồn tài chính ngoài NSNN cho
các trường ĐHCL chính là việc các trường đại học thực hiện quyền và lợi ích của mình
theo sự phân cấp trong hệ thống, trong quá trình tương tác với các chủ thể khác trong nền
kinh tế nhằm tổ chức việc tạo lập nguồn tài chính ngoài NSNN cho mình để đáp ứng nhu
cầu trang trải chi phí cũng như nhu cầu đầu tư phát triển, trong một môi trường pháp lý
mà Nhà nước đã xây dựng và duy trì.
b) Quản lý sử dụng nguồn tài chính
Kinh tế học đã chứng minh rằng mỗi chủ thể thực hiện một quyết định đầu tư
thường đi kèm sự đánh đổi, bởi lẽ nguồn lực tài chính của mỗi chủ thể là có hạn, nên khi
đầu tư vào bất kỳ hoạt động nào, cũng có nghĩa là mất đi một nguồn lực tài chính có giá
trị tương tự cho các hoạt động khác. Chính vì vậy mà mục tiêu trọng tâm của quản lý
phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính là phải đảm bảo hiệu quả sử dụng, hay nói cách
khác quản lý phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính phải giúp các chủ thể (nhà nước, nhà
trường) “di chuyển” nguồn lực một cách linh hoạt giữa các hoạt động (chức năng phân
bổ của tài chính), để thích ứng nhanh với sự thay đổi của môi trường nhằm sớm đạt được
mục tiêu đề ra.
Quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN
Theo quan điểm hệ thống, mỗi trường ĐHCL vừa là một thực thể/phần tử tạo nên
hệ thống GDĐH của mỗi quốc gia, vừa là một hệ thống động, với các mục tiêu/sản phẩm
đầu ra cần phải đạt được nhằm thỏa mãn nhu cầu/lợi ích cá nhân của người học và của xã
hội. Để có được sản phẩm đầu ra (R) mong muốn, các trường ĐHCL cần phải có các yếu
tố đầu vào (V), môi trường (M), và cơ chế (C) cho phép kết hợp các yếu tố này (V, R, C,
M). Tùy theo thể chế chính trị, hình thái lịch sử, kinh tế, xã hội…, mà phương thức trao
quyền tự chủ đại học ở mỗi quốc gia là không giống nhau, nhưng thường diễn ra theo
một trong 04 phương thức/mô hình có tính bao quát sau [50]:
50
Phương thức 1 - nhà nước kiểm soát (state control model): nhà nước thực hiện kiểm
soát toàn bộ các yếu tố đầu vào (V), cơ chế (C) và môi trường (M), nhằm bảo đảm các
trường ĐHCL thực hiện đúng chuẩn mực quy định theo hướng kế hoạch hóa tập trung,
với kỳ vọng kết quả đầu ra (R) sẽ đáp ứng yêu cầu mà nhà nước mong đợi. Ưu điểm của
phương pháp này là tạo thuận lợi trong kiểm soát và đầu tư tập trung nguồn lực, dễ dàng
định hướng hoạt động các trường ĐHCL, nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong ngắn hạn
(nhà nước thực hiện phân bổ nguồn lực và quy định các nội dung, mức chi từ NSNN,
buộc các trường ĐHCL phải tuân thủ), nhưng nó lại không khuyến khích sự tự chủ và
trách nhiệm của trường ĐHCL, thậm chí sự can thiệp quá sâu của cơ quan quản lý có thể
dẫn đến nguy cơ tham nhũng và làm xói mòn các nguyên tắc quản trị tốt. Phương thức
này cho thấy mức độ tự chủ trong quản lý phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính của các
trường ĐHCL là rất thấp và gần như không có.
Phương thức 2 - nhà nước giám sát (state-supervising model): nhà nước chỉ kiểm
soát kết quả đầu ra (R), hay thực hiện phân bổ ngân sách theo các yếu tố đầu ra, còn các
yếu tố khác (V, C, M) để cho các trường ĐHCL tự chịu trách nhiệm. Trường ĐHCL được
quyết định các tỷ lệ chi và mức chi cụ thể cho các hoạt động của đơn vị mình. Theo đó,
sự ảnh hưởng của nhà nước đối với các trường ĐHCL mặc dù hạn chế hơn, nhưng vẫn
giữ vai trò quản lý vĩ mô, giám sát hệ thống giáo dục ĐHCL. Phương thức này cho thấy
nhiều ưu điểm hơn Phương thức 1, bởi nó vừa đảm bảo sự quản lý của nhà nước, vừa
khuyến khích được sự tự chủ của các trường ĐHCL.
Phương thức 3 - dựa vào thị trường (market-based model): nhà nước để xã hội,
người sử dụng sản phẩm đầu ra (R) của trường ĐHCL tự đánh giá theo hướng tiếp cận
thị trường, còn các yếu tố khác (V, C, M) để cho các trường ĐHCL tự chịu trách nhiệm.
Khi đó, nhà nước cũng chính là khách hàng thực hiện mua sản phẩm đầu ra của các
trường ĐHCL theo giá thị trường. Phương thức này bảo đảm sự tự chủ cao của các
trường ĐHCL, thúc đẩy cải thiện chất lượng và giảm chi phí đào tạo nhờ cơ chế cạnh
tranh. Tuy nhiên, sự cạnh tranh có thể dẫn tới phân tầng chất lượng và mức học phí
trong hệ thống GDĐH, làm giảm cơ hội tiếp cận dịch vụ GDĐH chất lượng cao của
người nghèo, người yếu thế, cũng như dẫn đến nguy cơ về vai trò của nhà nước bị vô
hiệu hóa và sự bóp méo của thị trường.
Phương thức 4 - quản lý công mới (the new public management): chính là sự kết
hợp của phương thức 1 và phương thức 3, với đặc điểm chung là: tăng cường chức năng
51
quản lý bên trong nhà trường; nhà nước và nhà trường cùng thiết lập các ưu tiên, bao
gồm: hợp đồng hóa quan hệ giữa nhà nước và nhà trường, đánh giá mục tiêu và chỉ số
thực hiện; định hướng khách hàng, tập trung vào chất lượng; giá trị bằng tiền với sự nhấn
mạnh chi phí hoàn trả. Nhà nước theo đuổi chính sách phát triển giá thành tính đúng chi
phí đào tạo, và các hợp đồng nghiên cứu được trao đổi theo thị trường. Đây là mô hình
tự chủ ở mức cao, và nó đòi hỏi năng lực quản lý tốt của cả cấp trường và cấp hệ thống,
nhất là khả năng xác định mục tiêu có thể đánh giá được.
Quản lý sử dụng nguồn tài chính ngoài NSNN
Tương tự như đối với khoản chi sử dụng từ nguồn NSNN, thẩm quyền quyết định
các khoản chi sử dụng từ nguồn tài chính ngoài NSNN của các trường ĐHCL cũng dựa
trên cơ sở mức độ tự chủ tài chính mà nhà nước xác định. Tuy nhiên, dù quyền tự chủ
được giao ở mức nào, thì nhìn chung xu hướng các nước thường giao quyền quyết định
nhiều hơn đối với các khoản chi tiêu từ nguồn tài chính ngoài NSNN cho các trường
ĐHCL. Mức độ tự chủ lớn nhất có thể có là người đứng đầu trường ĐHCL được toàn
quyền quyết định các khoản chi và mức chi trên cơ sở tuân thủ pháp luật. Mức độ tự chủ
thấp hơn là lãnh đạo các trường ĐHCL quyết định mức chi tiêu và các khoản chi trên cơ
sở tuân thủ pháp luật, tuân thủ các tỷ lệ khống chế chi và các mức trần về khoản chi do
CQNN có thẩm quyền quy định.
Đối với các trường ĐHCL, quản lý phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính đầu tư/tài
trợ cho các đơn vị/bộ phận trực thuộc cũng được thực hiện tương tự theo các phương thức/mô
hình mà nhà nước (cơ quan chủ quản) áp dụng để quản lý phân bổ, sử dụng nguồn lực tài
chính đầu tư/tài trợ cho các trường ĐHCL như đã trình bày ở trên, nhưng với quy mô/phạm
vi hẹp hơn. Và về bản chất, thì đó cũng chính là biểu hiện của phương thức trao quyền tự
chủ tài chính trong nội bộ nhà trường (thông qua quy trình, thẩm quyền phân cấp quy định
tại Quy chế chi tiêu nội bộ của các trường đại học học công lập).
Quản lý sử dụng nguồn tài chính thông qua quy định các nội dung chi của
trường ĐHCL
Nội dung hoạt động của trường ĐHCL bao gồm hoạt động thường xuyên, hoạt
động không thường xuyên và hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Do đó, nội dung chi
cũng gồm các khoản chi tương ứng với các hoạt động đó[109], cụ thể:
- Chi thường xuyên: là những khoản chi mang tính liên tục, mang tính chất tiêu
dùng, nhằm trang trải cho các nhu cầu quản lý hành chính, chi hoạt động chuyên môn,
52
chi cho nhân sự trong trường ĐHCL. Nếu xét theo nội dung kinh tế thì chi thường xuyên
bao gồm các khoản sau đây:
+ Chi cho con người: tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp, tiền thưởng, phúc
lợi và các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội. Đây là khoản chi bù đắp hao phí lao động,
đảm bảo quá trình tái sản xuất sức lao động cho giảng viên, NLĐ của trường.
+ Chi hành chính: chi thanh toán dịch vụ, vật tư văn phòng, chi hội nghị, chi đoàn
ra, đoàn vào... Đây là khoản chi mang tính chất gián tiếp, đòi hỏi phải chi đúng, chi đủ,
chi kịp thời và cần phải quản lý tiết kiệm và có hiệu quả.
+ Chi nghiệp vụ chuyên môn: như chi mua giáo trình, tài liệu, hóa chất, mẫu vật phục
vụ thí nghiệm, tổ chức giảng dạy, tổ chức thi tùy theo nhu cầu thực tế của các trường.
+ Chi mua sắm sửa chữa: các khoản chi mua sắm trang thiết bị, chi cho việc sửa
chữa, nâng cấp trường, lớp, bàn ghế, trang thiết bị học cụ trong lớp nhằm đảm bảo điều
kiện CSVC cho việc giảng dạy và học tập.
+ Chi thường xuyên khác.
Chi thường xuyên ở các trường ĐHCL được đảm bảo bởi những khoản thu mang
tính chất thường xuyên như NSNN cấp (bù đắp thiếu hụt khả năng tự chủ chi thường
xuyên của các trường), thu học phí, lệ phí, nguồn thu sự nghiệp khác. Việc phân phối và
sử dụng các nguồn tài chính hợp pháp cho các mục đích chi thường xuyên thường được
các trường tự quyết định thông qua việc ban hành quy chế chi tiêu nội bộ, căn cứ những
quy định của pháp luật liên quan đến các định mức kinh tế kỹ thuật (nếu có) do nhà nước
ban hành.
- Chi không thường xuyên: Là các khoản chi từ nguồn kinh phí NSNN cấp cho các
hoạt động không thường xuyên, các ĐHCL không được tự chủ chi ở các nội dung này mà
chỉ chi theo dự toán đã được NSNN cấp. Khoản chi này không mang tính chất liên tục nó
chỉ phát sinh khi nhà nước giao nhiệm vụ cho các trường ĐHCL. Chi không thường xuyên
trong các trường ĐHCL bao gồm các khoản chi: Chi cho chương trình mục tiêu quốc gia,
chi các đề tài NCKH từ nguồn NSNN cấp, chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất...
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản: Là các khoản chi thuộc nguồn vốn đầu tư phát triển
được NSNN hỗ trợ cho mục tiêu xây dựng, cải tạo, sửa chữa nhà học, giảng đường, ký túc
xá, phòng thí nghiệm, thư viện, nhà làm việc để các trường ĐHCL từng bước hoàn thiện
CSVC phục vụ tốt nhất cho hoạt động đào tạo, NCKH và PVCĐ. Đây là khoản chi chỉ phát
53
sinh khi các trường ĐHCL có các dự án được các cấp có thẩm quyền phê duyệt và nguồn
vốn này được NSNN cấp thông qua thông báo kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản hàng
năm và duyệt chi tiết đến từng hạng mục của từng công trình. Các khoản chi từ nguồn vốn
xây dựng cơ bản tập trung, các trường ĐHCL làm thủ tục và thanh toán trực tiếp cho các
đối tác tham gia thực hiện các công trình thông qua quy trình kiểm soát vốn đầu tư xây
dựng cơ bản tại Kho bạc nhà nước (KBNN).
Các trường ĐHCL được sử dụng các nguồn tài chính đã huy động được (từ nguồn
NSNN và nguồn ngoài NSNN) để trang trải cho các khoản chi phát sinh của nhà trường.
Để sử dụng nguồn tài chính từ NSNN cấp, các trường ĐHCL phải mở tài khoản tại
KBNN và chịu sự kiểm soát các khoản chi từ nguồn NSNN theo quy định pháp luật
hiện hành. KBNN có trách nhiệm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ, điều kiện chi theo đề
nghị của các trường ĐHCL và thực hiện thanh toán các khoản chi từ nguồn NSNN theo
đúng quy định, bao gồm cả chi thường xuyên, chi không thường xuyên và chi đầu tư
xây dựng cơ bản.
Tùy vào mức độ tự chủ của các trường ĐHCL, nguồn tài chính ngoài NSNN của
các trường có thể đủ để trang trải một phần nhu cầu chi thường xuyên, hoặc toàn bộ nhu
cầu chi thường xuyên, hoặc cả nhu cầu chi thường xuyên và chi đầu tư. Nguồn thu ngoài
NSNN có thể được các trường ĐHCL gửi vào tài khoản thanh toán mở tại các ngân hàng
thương mại. Lãnh đạo các trường ĐHCL tự chịu trách nhiệm kiểm soát các khoản chi
đảm bảo đúng lợi ích cho từng hoạt động. Tại các trường ĐHCL hiện nay, việc phân phối
và sử dụng các nguồn thu này giúp các trường chủ động hơn trong việc chi thu nhập tăng
thêm, tăng cường CSVC, giải quyết hài hòa các mặt lợi ích của người học, NLĐ và hỗ
trợ các hoạt động của cộng đồng xã hội. Việc tiết kiệm các khoản chi này có thể sẽ làm
tăng kết quả tài chính hằng năm, tăng tích lũy tài chính cho các trường ĐHCL, đáp ứng
nhu cầu chi tiêu và đầu tư trong tương lai của các trường.
Một yêu cầu căn bản đối với quản lý chi trong các trường ĐHCL là phải có hiệu quả
và tiết kiệm. Nhưng vấn đề tiết kiệm chi không nên được thực hiện bằng mọi giá, hoặc
không nên đánh đổi với chất lượng. Với nguồn tài chính huy động được từ các chủ thể khác
nhau trong xã hội, các trường cần phát huy vai trò tự chủ của mình trong việc phân phối
nguồn lực hợp lý, định hướng và thực hiện cơ cấu chi thích hợp cho từng thời kỳ, hướng
đến mục tiêu chất lượng, hiệu quả và phát triển bền vững.
54
c) Quản lý phân phối kết quả tài chính trong năm
Hàng năm sau khi trang trải các khoản chi phí, các trường ĐHCL tiến hành xác
định chênh lệch thu lớn hơn chi thường xuyên (nếu có), theo công thức sau:
Thu sự nghiệp và NSNN cấp Chi hoạt động Chênh lệch = hoạt động thường xuyên và - thường xuyên và chi thu chi nhiệm vụ Nhà nước đặt hàng Nhà nước đặt hàng
Sau khi xác định nghĩa vụ thuế và các khoản nộp NSNN khác theo quy định, phần
chênh lệch thu lớn hơn chi còn lại, trường ĐHCL được sử dụng để trích lập các quỹ cơ
quan theo quy định. Các trường được chủ động quyết định mức trích lập cho phù hợp với
tình hình thực tế nhưng phải đảm bảo mức trích lập (tối thiểu hoặc tối đa) theo các quy
định của Nhà nước tùy theo mức độ tự chủ các trường. Thông thường, các quỹ của các
trường ĐHCL gồm có:
- Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: Được dùng để bổ sung vốn đầu tư xây dựng
CSVC, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc, chi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật công nghệ, trợ giúp thêm đào tạo, huấn luyện nâng cao tay nghề năng lực công tác
cho cán bộ, viên chức; được sử dụng góp vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước để tổ chức hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được
giao và khả năng của đơn vị theo quy định của pháp luật.
- Quỹ bổ sung thu nhập: Được dùng để chi bổ sung thu nhập trong năm và dự
phòng chi bổ sung thu nhập cho NLĐ năm sau trong trường hợp nguồn thu nhập giảm
sút. Việc chi bổ sung thu nhập cho CBVC trong các trường ĐHCL được thực hiện theo
nguyên tắc gắn với số lượng, chất lượng và hiệu quả công tác.
- Quỹ khen thưởng: Được dùng để thưởng định kỳ hoặc đột xuất cho tập thể, cá nhân
trong và ngoài đơn vị (ngoài chế độ khen thưởng theo quy định của Luật Thi đua khen
thưởng) theo hiệu quả công việc và thành tích đóng góp vào hoạt động của đơn vị. Mức
thưởng do thủ trưởng đơn vị quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
- Quỹ phúc lợi: Dùng để xây dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi, chi cho các
hoạt động phúc lợi tập thể của NLĐ trong đơn vị; trợ cấp khó khăn đột xuất cho NLĐ, kể
cả trường hợp nghỉ hưu, nghỉ mất sức; chi thêm cho NLĐ trong biên chế thực hiện tinh
giản biên chế.
Trường ĐHCL không được trích lập các quỹ cơ quan từ các nguồn kinh phí không
thường xuyên của đơn vị. Việc phân phối kết quả tài chính để trích lập các quỹ và sử dụng
các quỹ do thủ trưởng đơn vị quyết định và theo quy chế chi tiêu nội bộ của các trường.
55
Theo góc độ của QLTC, có thể coi kết quả tài chính trong năm của trường ĐHCL
như một nguồn tài chính hình thành từ kết quả hoạt động của trường. Việc phân bổ, sử
dụng các quỹ được tạo lập từ nguồn này sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu chi của các trường, bao
gồm các mục đích chi ảnh hưởng đến việc đảm bảo chất lượng của trường đại học: chi cho
con người, chi cho đầu tư CSVC, chi đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết… Do đó, yêu cầu
đặt ra đối với công tác quản lý quá trình phân phối kết quả tài chính trong nhà trường là:
thứ nhất, phải đảm bảo đúng các quy định trong cơ chế, chính sách của nhà nước; thứ hai,
đảm bảo tính công khai, minh bạch và đồng thuận; thứ ba, đảm bảo nguyên tắc công bằng
dựa trên số lượng và chất lượng hoạt động của từng đơn vị và cá nhân trong nhà trường;
thứ tư, phải hướng tới sự phát triển bền vững của trường, lấy việc nâng cao chất lượng làm
tiêu chí hàng đầu.
2.2. ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
2.2.1. Khái niệm đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong
điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học
Đổi mới hay canh tân (innovation) là việc hoàn chỉnh và triển khai một sáng chế
để có một kỹ thuật hay sản phẩm sử dụng được. Đổi mới là một công cụ quan trọng để
cải thiện kết quả hoạt động của thị trường, ví dụ giảm chi phí, cải thiện chất lượng, tăng
tốc độ tăng trưởng [79].
Theo phân tích ở phần trên, QLTC trường ĐHCL là việc thiết kế và duy trì một
môi trường chính sách, pháp luật điều chỉnh sự tác động qua lại giữa nhà nước, trường
đại học và các chủ thể khác trong xã hội (sinh viên, các tổ chức, doanh nghiệp…) trên cơ
sở mối tương quan quyền và lợi ích giữa các bên theo phân cấp thẩm quyền và trách
nhiệm trong hệ thống, nhằm tổ chức và điều khiển các hoạt động liên quan đến việc tạo
lập, phân bổ và sử dụng các nguồn tài chính, đáp ứng mục tiêu phát triển các trường
ĐHCL trong từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội cụ thể.
Theo cách tiếp cận này, đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ
và nâng cao chất lượng GDĐH là việc hoàn thiện và triển khai những thay đổi, cải tiến
trong việc thiết kế và duy một môi trường chính sách, pháp luật điều chỉnh sự tác động
qua lại giữa nhà nước, trường đại học và các chủ thể khác trong xã hội trên cơ sở mối
tương quan quyền và lợi ích giữa các bên theo phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm trong
hệ thống, nhằm tổ chức và điều khiển các hoạt động huy động nguồn tài chính, sử dụng
56
nguồn tài chính và phân phối kết quả tài chính của các trường đáp ứng yêu cầu của tự
chủ và nâng cao chất lượng GDĐH.
Hay nói cách khác, đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ và
nâng cao chất lượng GDĐH chính là việc thực hiện những cải tiến, sáng tạo để có một
môi trường chính sách, pháp luật hoàn thiện hơn, nhằm hướng các nội dung QLTC đến
mục tiêu nâng cao năng lực tự chủ và chất lượng GDĐH của các trường ĐHCL.
2.2.2. Nội dung đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong
điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học
2.2.2.1. Đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính
- Đổi mới về cơ chế phân bổ NSNN cho các trường:
Trong xu thế đại chúng hóa GDĐH, sản phẩm dịch vụ GDĐH trở thành hàng hóa
công không thuần túy, thì cách thức nhà nước cấp ngân sách cho GDĐH cũng cần có sự
thay đổi cho phù hợp với điều kiện khách quan. Nghiên cứu của Bikas C.Sanyal (1999),
World Bank (1995), Elena Chernova (2017), James Dean Ward (2020) về các mô hình
phân bổ NSNN cho GDĐH đều cho thấy xu hướng chung của sự dịch chuyển trong cách
thức nhà nước cấp ngân sách cho các trường ĐHCL, từ (1) mô hình thương lượng
(Negotiated Funding), sang (2) mô hình tài trợ theo công thức dựa trên các yếu tố đầu
vào (Input-based Formula Funding), đến (3) mô hình tài trợ theo công thức dựa trên các
yếu tố đầu ra (Output-based Formula Funding), (4) mô hình dựa trên hợp đồng hiệu suất
(Performance-based Funding Model) và cuối cùng là (5) mô hình tài trợ cạnh tranh
(Competitive Funding).
Thực tế cho thấy, trong trường hợp nguồn tài trợ từ NSNN cho GDĐH là dồi dào,
mô hình tài trợ theo công thức dựa trên các yếu tố đầu vào (mô hình 2) hoặc mô hình tài
trợ theo công thức dựa trên các yếu tố đầu ra (mô hình 3) sẽ khả thi; còn khi nguồn NSNN
dành cho giáo GDĐH hạn hẹp, sẽ thường có sự vận dụng kết hợp các mô hình, nhưng xu
hướng đổi mới chung vẫn là hướng tới mô hình tài trợ cạnh tranh để mở rộng quyền tự
chủ của các trường cũng như đảm bảo công bằng, minh bạch trong phân bổ NSNN. Trong
từng giai đoạn có thể sẽ cần có sự kết hợp giữa hai trong năm phương thức nói trên (hoặc
nhiều hơn) để đáp ứng việc cấp nguồn NSNN cho các nhu cầu phức tạp của trường ĐHCL,
cũng như tùy vào mức độ tự chủ thực tế của trường. Thông thường, với xu hướng chung là
ngày càng mở rộng quyền tự chủ, cũng sẽ có sự chuyển dịch trong các kiểu kết hợp các mô
hình phân bổ NSNN như sau:
57
Kiểu Kết hợp Tên mô hình
Kiểu (i) Mô hình (1) Mô hình thương lượng (Negotiated Funding)
Mô hình (2) Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên các yếu tố đầu
vào (Input-based Formula Funding)
Kiểu (ii) Mô hình (1) Mô hình thương lượng (Negotiated Funding)
Mô hình (3) Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên các yếu tố đầu
ra (Output-based Formula Funding)
Kiểu (iii) Mô hình (2) Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên các yếu tố đầu
vào (Input-based Formula Funding)
Mô hình (4) Mô hình dựa trên hợp đồng hiệu suất (Performance-
based Funding Model)
Kiểu (iv) Mô hình (3) Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên các yếu tố đầu
ra (Output-based Formula Funding)
Mô hình (4) Mô hình dựa trên hợp đồng hiệu suất (Performance-
based Funding Model)
Kiểu (v) Mô hình (4) Mô hình dựa trên hợp đồng hiệu suất (Performance-
based Funding Model)
Mô hình (5) Mô hình tài trợ cạnh tranh (Competitive Funding)
Ngoài ra, trong quá trình chuyển tiếp giữa các kiểu kết hợp giữa 2 trong 5 mô hình
như trên, tùy vào độ phức tạp của các hoạt động của trường đại học cũng như sự lựa chọn
của Chính phủ trong việc quy định cơ chế phân bổ NSNN, cũng có thể có sự kết hợp giữa
3 hoặc 4 mô hình.
Nhìn chung, thực tế quản lý phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL ở các quốc gia
là khác nhau, tùy vào tình hình phát triển cũng như định hướng của Nhà nước trong vấn đề
đổi mới tài chính GDĐH. Có lẽ không có một mô hình phân bổ nào được coi là tốt nhất,
mà các quốc gia cần lựa chọn cho mình một mô hình phân bổ phù hợp nhất trong từng giai
đoạn phát triển.
Sự dịch chuyển này chính là biểu hiện của sự đổi mới trong mối quan hệ giữa các
trường ĐHCL với các cơ quan QLTC của chính phủ theo hướng tăng cường, thúc đẩy
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường ĐHCL, và điều này dần sẽ dẫn đến việc
các trường hoạt động chủ yếu tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, chứ không phải
quyền lực/mệnh lệnh về hành chính. Việc tuân thủ theo quy luật của kinh tế thị trường sẽ
dần chuyển vai trò chủ động trong mối quan hệ tương tác này từ phía nhà nước (chủ thể
58
phân bổ nguồn NSNN cấp cho các trường) sang phía các trường ĐHCL (chủ thể thu hút,
huy động nguồn tài trợ từ NSNN) theo cơ chế cạnh tranh.
ii
i
iii
Mô hình thương lượng (Negotiated Funding)
iv
1
Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu vào (Input- based Formula Funding)
Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu ra (Output- based Formula Funding)
2
3
v
Mô hình tài trợ dựa trên hiệu suất (Performance- based Funding Model)
Mô hình tài trợ cạnh tranh (Competitive Funding)
4
5
Hình 2.1. Xu hướng đổi mới cơ chế phân bố NSNN cho các trường ĐHCL
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
59
- Đổi mới về cơ chế huy động nguồn tài chính ngoài NSNN của các trường
Việc mở rộng nội dung các nguồn tài chính của trường ĐHCL theo hướng tự chủ
tài chính là một trong những giải pháp cụ thể để nâng cao năng lực tự chủ và chất lượng
GDĐH. Trước đây, nguồn tài chính của các trường ĐHCL chủ yếu được cung cấp từ
NSNN. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, ngân sách các quốc gia đang gặp
nhiều áp lực từ các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, gây ảnh hưởng đến khả năng tài
trợ ngân sách cho GDĐH. Do đó, việc mở rộng các nguồn tài chính khác ngoài NSNN
cho trường ĐHCL là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng [15].
Thứ nhất, nguồn tài chính chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn tài chính ngoài
NSNN của các trường ĐHCL chính là nguồn thu từ học phí. Trong 04 kiểu cơ cấu học
phí mà Hauptman (2007) [6] đề xuất gồm: (i) Học phí truyền thống, (ii) Học phí do nhà
nước cấp, (iii) Học phí song song và (iv) Học phí kiểu hai bậc, tùy vào điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội mà các quốc gia lựa chọn một kiểu cơ cấu học phí để quy định cách
xác định học phí cho các trường ĐHCL. Theo xu hướng gia tăng quyền tự chủ cho các
trường ĐHCL ở hầu hết các quốc gia hiện nay, sẽ có sự dịch chuyển về cơ cấu học phí
Học phí truyền thống
Học phí do nhà nước cấp
Học phí song song
Học phí kiểu hai bậc
- Chính phủ thay mặt sinh viên thanh toán học phí
- Các trường tự quyết định mức thu học phí theo thị trường
- Một số sinh viên nằm trong chỉ tiêu sẽ được chính phủ thay mặt đóng học phí
- Đa số sinh viên trả học phí theo mức đã được nhà nước bao cấp một phần,
- Một số sinh viên khác sẽ trả học phí theo mức thị trường
- Sinh viên có nghĩa vụ hoàn trả học phí cho nhà nước qua hệ thống thuế sau khi tốt nghiệp và có việc làm
- Mức học phí có thể giống nhau đối với mọi sinh viên, và cũng có thể khác nhau tùy theo ngành, chuyên ngành học hoặc bậc học
- Sinh viên không đủ tiêu chuẩn để được miễn học phí sẽ chỉ phải trả một mức học phí tương đối thấp do nhà nước bao cấp một phần
theo hướng như sau:
Hình 2.2. Xu hướng đổi mới chính sách học phí giáo dục ĐHCL
(Nguồn: Hauptman (2007))
60
Thông thường ở hầu hết các quốc gia, ban đầu Nhà nước bao cấp hoàn toàn cho
GDĐH (Học phí do nhà nước cấp), sau đó số lượng sinh viên được Chính phủ thay mặt
đóng học phí sẽ dần giảm xuống, số lượng sinh viên được Chính phủ hỗ trợ một phần học
phí hoặc phải trả học phí theo mức thị trường ngày càng tăng lên. Trong giai đoạn đầu khi
bắt đầu trao quyền tự chủ cho trường ĐHCL, Chính phủ sẽ vẫn dành một số chỉ tiêu sinh
viên được bao cấp hoàn toàn học phí (ở một số ngành đào tạo cần được khuyến khích phát
triển để đáp ứng nguồn nhân lực theo yêu cầu của xã hội), còn lại nhà nước sẽ đưa ra chính
sách để duy trì mức học phí thấp do GDĐH (Học phí kiểu song song). Mức học phí thấp
(giá dịch vụ đào tạo chưa tính đủ chi phí cấu thành) là do được nhà nước bao cấp một phần
bằng cách cấp ngân sách bù cho phần chênh lệch giữa mức học phí theo thị trường và học
phí theo quy định của nhà nước. Ở giai đoạn sau, khi nhà nước mở rộng xã hội hóa GDĐH
và quyền tự chủ đại học, mức bao cấp chi phí học học tập của nhà nước cho GDĐH ngày
càng giảm đi, đồng thời quyền quyết định của trường ĐHCL về mức thu học phí ngày càng
tăng lên và chịu sự ảnh hưởng của cơ chế thị trường (Học phí kiểu hai bậc rồi đến Học phí
truyền thống). Cùng với xu hướng dịch chuyển/đổi mới cơ cấu học phí như trên, mức học
phí của các trường ĐHCL sẽ dần tăng lên, khi mà người học hoặc gia đình của họ sẽ phải
góp phần chia sẻ ngày càng nhiều hơn trong chi phí đào tạo đại học. Mức độ can thiệp của
nhà nước vào việc quyết định mức học phí của các trường ĐHCL có xu hướng giảm dần,
hướng tới nhà nước không còn điều chỉnh mức học phí của các trường, mà sự điều chỉnh
(hoặc chia sẻ) của nhà nước nhằm đảm bảo công bằng xã hội về chi phí GDĐH thông qua
tài trợ NSNN sẽ chuyển từ sang hình thức tài trợ trực tiếp cho người học thay vì cấp bù học
phí cho các trường.
Thứ hai, việc đổi mới quản lý nguồn tài chính các trường ĐHCL sẽ còn thể hiện ở
việc Nhà nước đưa ra các cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý cho các trường
có thể chủ động đa dạng hóa nguồn thu ngoài NSNN. Ngoài các nguồn tài chính mang
tính chất doanh thu và thu nhập như: học phí của hoạt động đào tạo, thu từ chuyển giao
công nghệ từ hoạt động NCKH, doanh thu cung cấp các dịch vụ tư vấn, tuyển dụng…,
thu nhập từ đầu tư tài chính vào các doanh nghiệp KH&CN trực thuộc trường, từ hoạt
động liên doanh liên kết, cho thuê tài sản công, từ hoạt động tài chính như gửi tiền tiết
kiệm tại ngân hàng thương mại… Còn xuất hiện các nguồn tài chính mang tính chất
nguồn vốn đầu tư mà các trường huy động được như: vay vốn, huy động vốn trên thị
trường tài chính.
61
Tóm lại, đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính các trường ĐHCL trong điều
kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH có thể được hiểu là việc Nhà nước đưa ra
các cơ chế, chính sách nhằm thay đổi cơ cấu nguồn tài chính của các trường theo hướng
đa dạng hóa nguồn thu, tăng quy mô và tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN, đặc biệt
là nguồn thu từ học phí, trong bối cảnh chia sẻ chi phí GDĐH. Tuy nhiên, cần khẳng
định rằng, việc thay đổi cơ cấu nguồn tài chính theo hướng này không đồng nghĩa với
việc vai trò của nguồn tài chính từ NSNN đối với các trường ĐHCL giảm đi, đồng thời,
việc tỷ trọng nguồn NSNN cấp cho các trường (có thể) giảm đi không đồng nghĩa với
việc quy mô nguồn NSNN cấp cho các trường cũng nên/cần giảm đi, bởi vì suy cho
cùng, tổng quy mô nguồn tài chính của các trường có xu hướng tăng lên (không phân
biệt huy động từ nguồn nào) mới chính là mục đích sau cùng của quản lý huy động
nguồn tài chính các trường, nhằm đảm bảo nguồn lực để các trường thực hiện mục tiêu
nâng cao chất lượng GDĐH.
2.2.2.2. Đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính
- Đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN
Như phân tích ở trên, về mặt lý thuyết có 04 phương thức quản lý sử dụng nguồn
NSNN mà chính phủ phân bổ cho các trường ĐHCL tương ứng với mức độ trao quyền
tự chủ đại học ở các quốc gia: (1) nhà nước kiểm soát (state control model), (2) nhà nước
giám sát (state-supervising model), (3) dựa vào thị trường (market-based model), và (4)
quản lý công mới (the new public management)[50]. Việc đổi mới quản lý sử dụng nguồn
tài chính từ NSNN của các trường ĐHCL thể hiện ở việc chính phủ thay đổi/cải tiến từ
việc áp dụng phương thức quản lý này sang phương thức quản lý khác.
Trên thực tế, Phương thức 3 (dựa vào thị trường) hầu như sẽ không được áp dụng
một mình mà thường được kết hợp với Phương thức 1 (nhà nước kiểm soát) để trở thành
Phương thức 4 (quản lý công mới). Điều này xuất phát từ một đặc điểm của dịch vụ
GDĐH là một loại hàng hóa công không thuần túy. Mặc dù quản lý nguồn NSNN tại các
trường ĐHCL dựa trên phương thức dựa vào thị trường với sự điều tiết của quy luật cạnh
tranh và quy luật giá cả sẽ bảo đảm sự tự chủ cao của các trường ĐHCL vì lúc này nhà
nước cũng đóng vai trò là khách hàng thực hiện mua sản phẩm đầu ra của các trường
ĐHCL theo giá thị trường. Tuy nhiên, sự cạnh tranh sẽ tất yếu dẫn việc tới dịch vụ GDĐH
chất lượng cao sẽ có mức học phí cao, điều này làm giảm cơ hội tiếp cận dịch vụ GDĐH
chất lượng cao của người nghèo, người yếu thế. Ngoài ra, quản lý dựa hoàn toàn vào thị
62
trường cũng dẫn đến nguy cơ phát triển tự phát, dẫn đến sự mất cân đối về cơ cấu ngành
nghề đào tạo trong hệ thống GDĐH.
Theo đó, có thể thấy xu hướng đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN
gắn với yêu cầu tự chủ trong GDĐH thường sẽ thay đổi từ Phương thức 1 (nhà nước kiểm
soát) sang Phương thức 2 (nhà nước giám sát) rồi sang Phương thức 4 (quản lý công mới),
với mức độ trao quyền tự chủ cho các trường ngày càng tăng (Hình 2.3).
Nhà nước kiểm soát
Nhà nước giám sát
Quản lý công mới
- Nhà nước phân bổ NSNN đồng thời quy định các nội dung, mức chi từ NSNN, buộc các trường ĐHCL phải tuân thủ theo hướng kế hoạch hóa tập trung.
- Nhà nước chỉ kiểm soát kết quả đầu ra (thực hiện phân bổ ngân sách theo các yếu tố đầu ra)
- Trường ĐHCL được quyết định các tỷ lệ chi và mức chi cụ thể cho các hoạt động của đơn vị mình
- Các trường ĐHCL thực hiện đúng chuẩn mực quy định theo hướng kế hoạch hóa tập trung, với kỳ vọng kết quả đầu ra sẽ đáp ứng yêu cầu mà nhà nước mong đợi.
- Tăng cường chức năng quản lý bên trong nhà trường; nhà nước và nhà trường cùng thiết lập các ưu tiên, bao gồm: hợp đồng hóa quan hệ giữa nhà nước và nhà trường, đánh giá mục tiêu và chỉ số thực hiện; định hướng khách hàng, tập trung vào chất lượng; - Nhà nước theo đuổi chính sách phát triển giá thành tính đủ chi phí đào tạo, và các hợp đồng nghiên cứu, dịch vụ được trao đổi theo giá thị trường.
- Khuyến khích sự tự chủ của các trường ĐHCL - Nhà nước vẫn giữ vai trò quản lý vĩ mô
Mức tự chủ của trường ĐHCL thấp (gần như không có)
- Mức tự chủ của trường ĐHCL cao - Nhà nước vẫn giữ vai trò định hướng thông qua các mục tiêu ưu tiên
Hình 2.3. Xu hướng đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính do NSNN cấp
cho các trường ĐHCL
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ nghiên cứu của Lê Thế Tuyên (2020))
63
- Đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính ngoài NSNN
Đối với nguồn tài chính ngoài NSNN, dù quyền tự chủ được giao ở mức nào, các
trường thường được giao quyền quyết định nhiều hơn so với nguồn tài chính từ NSNN.
Ở mức độ tự chủ thấp hơn, người đứng đầu các trường ĐHCL quyết định định mức chi
tiêu và các khoản chi trên cơ sở tuân thủ các định mức kinh tế kỹ thuật do CQNN có
thẩm quyền quy định. Ở mức độ tự chủ cao hơn, lãnh đạo trường ĐHCL được toàn
quyền quyết định các khoản chi và mức chi trên cơ sở tuân thủ pháp luật. Việc tăng
quyền tự chủ cho các trường trong việc sử dụng nguồn tài chính ngoài NSNN cũng
chính là nội dung đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính ngoài ngân sách mà chính
phủ các nước đang thực hiện, theo đó các trường cũng sẽ gia tăng quyền tự quyết trong
việc xác định mức chi và cơ cấu chi tiêu cho các nội dung khác nhau nhằm đáp ứng
mục tiêu của trường trong từng giai đoạn.
Trước yêu cầu nâng cao chất lượng GDĐH hiện nay, lãnh đạo nhà trường phải
chịu trách nhiệm kiểm soát các khoản chi đảm bảo đúng lợi ích cho từng hoạt động cũng
như luôn hướng đến việc củng cố các yếu tố đảm bảo chất lượng của trường đại học.
Theo đó, việc phân phối và sử dụng các nguồn thu này cần định hướng đến các yếu tố
được xem là có tác dụng tích cực cho việc nâng cao chất lượng GDĐH như: chi cho con
người (gồm có tiền lương, phụ cấp, các khoản trích theo lương, chi thu nhập tăng thêm,
chi khen thưởng phúc lợi), chi phát triển đội ngũ (đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ), chi đầu tư xây dựng hoặc mua sắm tăng cường CSVC, chi cho hoạt động KH&CN…
Bên cạnh đó, việc tiết kiệm chi phí nói chung có thể sẽ làm tăng kết quả tài chính hằng
năm, tăng tích lũy tài chính cho các trường ĐHCL, đáp ứng nhu cầu chi tiêu và đầu tư
trong tương lai của các trường. Tuy nhiên, tiết kiệm ở đây không đồng nghĩa với việc tiết
kiệm bằng mọi giá dẫn đến việc đánh đổi với mục tiêu chất lượng. Việc các trường định
hướng và thực hiện cơ cấu chi tiêu hợp lý chính là một nội dung vận dụng sự đổi mới môi
trường chính sách, pháp luật của nhà nước vào việc đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài
chính của bản thân các trường ĐHCL.
2.2.2.3. Đổi mới quản lý phân phối kết quả tài chính trong năm
Với tư cách là một tổ chức có thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, hằng
năm, sau khi hạch toán đầy đủ các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp NSNN khác
(nếu có), phần chênh lệch thu lớn hơn chi còn lại, trường ĐHCL được chủ động sử dụng
để trích lập các quỹ cơ quan theo quy định. Nhằm đáp ứng yêu cầu tự chủ và nâng cao
64
chất lượng GDĐH, nhà nước cho phép các trường ĐHCL chủ động quyết định mức trích
lập các quỹ nhằm có nguồn tài chính sử dụng cho việc phát triển hoạt động sự nghiệp
hoặc tăng thu nhập, khen thưởng và phúc lợi cho NLĐ, tạo cơ sở cho việc củng cố các
yếu tố đảm bảo chất lượng và nuôi dưỡng các nguồn thu sự nghiệp và phát triển bền vững.
Ở góc độ quản lý nhà nước, Chính phủ sẽ có quy định mức trích lập các quỹ sao
cho phù hợp với mục tiêu chiến lược trong từng giai đoạn. Khi mức độ tự chủ nguồn kinh
phí của các trường ĐHCL ngày càng tăng, khoản chênh lệch thu sự nghiệp lớn hơn chi
hoạt động thường xuyên của các trường cũng có xu hướng tăng lên về quy mô. Chính
phủ lúc này sẽ cần có sự đổi mới trong quy định về mức phân phối kết quả tài chính để
trích lập các quỹ theo xu hướng như sau: Khuyến khích và ưu tiên việc phân phối cho
mục đích phát triển hoạt động sự nghiệp, và khống chế phân phối cho mục đích chi tiêu
tăng thu nhập, phúc lợi cho NLĐ. Tuy nhiên, khi các trường ĐHCL đạt tới mức tự chủ
cả chi hoạt động thường xuyên và chi đầu tư phát triển sự nghiệp và tiến tới hoạt động
giống như mô hình doanh nghiệp, thì quyền tự chủ của các trường sẽ được mở rộng hơn,
thể hiện ở việc nhà nước sẽ không khống chế mức phân phối kết quả tài chính cho mục
đích bổ sung thu nhập cho NLĐ.
Ở góc độ quản lý của trường đại học, khi xem xét kết quả tài chính trong năm với
vai trò là một nguồn tài chính hình thành từ kết quả hoạt động của trường, sau khi được
phân bổ vào các quỹ, việc sử dụng các quỹ sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu chi của các trường,
bao gồm các mục đích chi ảnh hưởng đến việc đảm bảo chất lượng của trường đại học:
chi cho con người, chi cho đầu tư CSVC, chi đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết… Do
đó, yêu cầu đặt ra đối với lãnh đạo nhà trường trong công tác này là ngoài việc phải tuân
thủ cơ chế, chính sách của nhà nước; cần luôn chú trọng đảm bảo tính công khai minh
bạch, đồng thuận và công bằng dựa trên quy chế chi tiêu nội bộ của trường, đồng thời cơ
cấu chi luôn phải hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao chất lượng trong
cơ chế tự chủ.
2.2.3. Chỉ tiêu đánh giá đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập
trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học
Để đánh giá thực trạng và kết quả đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong điều
kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH, luận án tiếp cận bằng cách đánh giá xem hệ
thống cơ chế, chính sách, pháp luật mà Nhà nước đã tạo lập, duy trì và đổi mới trong thời
65
gian vừa qua đã thực sự đem đến (1) công bằng, minh bạch, tạo động lực và giúp cho các
trường (2) cải thiện năng lực tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH hay chưa. Việc đánh
giá này là tương đối khó khăn, khi mà các chỉ tiêu tài chính thu thập được từ báo cáo của
các trường dường như chỉ thể hiện quy mô, cơ cấu huy động và sử dụng nguồn tài chính
của các trường, chứ chưa trực tiếp đánh giá được đổi mới QLTC các trường ĐHCL trên
góc độ quản lý nhà nước.
Để khắc phục vấn đề này, luận án đã sử dụng phương pháp phân tích định lượng
thông qua việc sử dụng dữ liệu thứ cấp thu thập từ báo cáo của tự đánh giá của các trường,
với (1) phương pháp thống kê mô tả để đánh giá tính minh bạch, công bằng, tạo động lực
của cơ chế, chính sách; và (2) phương pháp thống kê suy luận nhằm tìm ra mối quan hệ
tác động của các chỉ tiêu đánh giá đổi mới QLTC tới mức tự chủ và chất lượng của trường
đại học, đồng thời sử dụng (3) kỹ thuật kiểm định khác biệt giá trị trung bình để xem xét
ảnh hưởng của các nhân tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các trường có khả năng
ảnh hưởng đến kết quả đổi mới QLTC, đến mức tự chủ và đến chất lượng các trường
ĐHCL. Từ những đánh giá đó có thể rút ra những kết quả và hạn chế của đổi mới QLTC
các trường ĐHCL.
Việc phân tích định lượng trong nghiên cứu này còn giúp đánh giá chỉ tiêu nào là
quan trọng và có ý nghĩa tích cực đến mức tự chủ và chất lượng các trường, để làm căn cứ
định hướng cho các trường thiết kế cơ cấu thu và cơ cấu chi phù hợp nhằm đạt được mục
tiêu ưu tiên của các trường trong từng giai đoạn. Các chỉ tiêu này không chỉ được xem xét
ở góc độ cơ cấu (tỷ trọng) mà còn ở quy mô của tổng nguồn tài chính, của từng nguồn tài
chính, của từng nội dung chi, bởi vì đôi khi những thay đổi về cơ cấu (tỷ trọng) không có
ý nghĩa quyết định bằng sự thay đổi về quy mô các khoản thu, chi trong mối tương quan
với mức tự chủ và chất lượng của trường ĐHCL. Với cách tiếp cận này, chúng ta có thể
xem xét sử dụng các chỉ tiêu cụ thể sau:
* Các chỉ tiêu đánh giá đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính:
- Tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN
Tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN là tỷ lệ giữa nguồn tài chính ngoài NSNN
và tổng nguồn tài chính của trường ĐHCL. Tỷ trọng này càng cao có nghĩa là trường đại
học có nguồn tài chính đa dạng, đáp ứng xu hướng đổi mới quản lý nguồn tài chính theo
quy định của nhà nước.
66
- Mức tự chủ tài chính
Mức tự chủ tài chính của các trường ĐHCL thường được đánh giá bằng mức tự
đảm bảo chi thường xuyên, là chỉ tiêu đo lường đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính
của trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ. Chỉ tiêu này cho biết khả năng tự chủ của các
trường trong việc huy động được nguồn tài chính từ các hoạt động dịch vụ sự nghiệp để
trang trải cho hoạt động thường xuyên. Chỉ tiêu này càng cao thì trường đại học càng tự
chủ và độc lập hơn trong việc quyết định sử dụng nguồn tài chính, từ đó chủ động hướng
tới mục tiêu nâng cao chất lượng GDĐH.
- Tỷ lệ nguồn NSNN cấp trên quy mô nhân sự: Chỉ tiêu này phản ánh suất đầu tư
của NSNN tính trên một nhân sự của trường ĐHCL. Việc so sánh chỉ tiêu này giữa các
nhóm trường có đặc điểm nội tại khác nhau sẽ giúp đánh giá được việc đổi mới cơ chế,
chính sách của nhà nước có thực sự đã tạo ra một môi trường công bằng, minh bạch và
tạo động lực cho các trường nâng cao năng lực tự chủ và chất lượng hay chưa.
- Ngoài các chỉ tiêu tương đối nêu trên, việc đánh giá đổi mới QLTC các trường
ĐHCL còn cần phải sử dụng các chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh quy mô của từng nguồn tài
chính mà các trường ĐHCL huy động được như: Tổng nguồn thu, NSNN cấp, Thu ngoài
NSNN, Thu từ đào tạo, Thu từ nghiên cứu, Thu khác.
* Chỉ tiêu đánh giá đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính
Đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính sẽ được đánh giá thông qua phân tích
các chỉ tiêu phản ánh quy mô và cơ cấu chi của trường ĐHCL:
- Chi cho con người (gồm có tiền lương, phụ cấp, các khoản trích theo lương, chi
thu nhập tăng thêm, chi khen thưởng phúc lợi): Chỉ tiêu này cao thì khả năng đảm bảo
chất lượng của trường ĐHCL sẽ tốt hơn. Điều này có thể giải thích bằng những hiện
tượng tiêu cực có thể xuất hiện trong trường hợp thu nhập của giáo chức thấp hoặc
không xứng đáng với sức lao động như: giảng viên/NLĐ dành thời gian làm thêm để
tăng thu nhập mà không tập trung cống hiến cho hoạt động giảng dạy và NCKH trong
khuôn viên trường; nguy cơ xa rời các giá trị đạo đức trong trường đại học; nguy cơ
tham nhũng, hối lộ, mua điểm[47]. Vì vậy, chỉ tiêu “chi cho con người” được coi là một
tiêu chí đánh giá đổi mới sử dụng nguồn tài chính của trường ĐHCL đáp ứng yêu cầu
nâng cao chất lượng GDĐH.
- Chi hoạt động chuyên môn quản lý: Bất cứ một đơn vị, tổ chức nào muốn vận
hành trơn tru, nhịp nhàng thì hoạt động chuyên môn quản lý nói chung phải được chú
67
trọng. Đây được coi như mạng lưới huyết mạch để các cá nhân, đơn vị trong hệ thống
được kết nối, phối hợp trong giải quyết các nghiệp vụ phục vụ cho hoạt động đào tạo,
nghiên cứu cũng như PVCĐ của trường ĐHCL. Vì vậy chỉ tiêu này cũng phản ánh mức
độ đổi mới trong sử dụng nguồn tài chính phù hợp với yêu cầu, mục tiêu của trường. Việc
tăng hay giảm chỉ tiêu này cũng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong thực tế có thể khi
chất lượng nguồn nhân lực, CSVC được chú trọng hơn thì mức chi cho hoạt động chuyên
môn quản lý có thể có xu hướng giảm xuống.
- Chi phát triển nguồn nhân lực (đào tạo bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn
cho viên chức, NLĐ): Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của viên chức, NLĐ là điều kiện tất
yếu để ổn định và mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng cho cả hoạt động đào tạo, NCKH
và PVCĐ. Đầu tư nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên, nghiệp
vụ chuyên môn cho NLĐ ở các đơn vị chức năng trong nhà trường là một tiêu chí sử dụng
để đánh giá đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính của trường đại học tự chủ.
- Chi cho hoạt động NCKH (chi tài trợ cho các công trình, đề tài NCKH và
chuyển giao công nghệ): Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đầu tư cho nghiên cứu và ứng
dụng khoa học công nghệ, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động khoa học
công nghệ, và gián tiếp đến chất lượng hoạt động giảng dạy của trường ĐHCL. Vì vậy,
khi hướng đến mục tiêu tự chủ và chất lượng của các trường thì chỉ tiêu này cũng là tiêu
chí cần được quan tâm.
- Chi PVCĐ: Hoạt động PVCĐ của trường đại học là những hoạt động gắn liền
với việc giải quyết những vấn đề cụ thể của cộng đồng, góp phần phát triển nhà trường
và xã hội, với mục tiêu tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa trường đại học với doanh
nghiệp, địa phương; nâng cao năng lực thực tiễn đối với đội ngũ cán bộ, viên chức, NLĐ,
người học; góp phần giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống đối với người học; từ đó có tác
dụng tích cực trong việc âng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng theo nhu
cầu xã hội. Bởi vậy, chi cho PVCĐ sẽ là một chỉ tiêu được xem xét để đánh giá đổi mới
quản lý sử dụng nguồn tài chính của trường ĐHCL.
- Chi cho CSVC (chi đầu tư xây dựng cơ bản như nhà văn phòng, nhà giảng đường,
thư viện, căng tin, ký túc xá, ki ốt, …; chi mua sắm sửa chữa tài sản từ nguồn chi thường
xuyên) nhằm tăng cường CSVC, mở rộng khuôn viên cho trường đại học. CSVC là yếu
tố quan trọng đảm bảo cho các hoạt động của cở sở GDĐH được diễn ra thường xuyên,
liên tục và đảm bảo chất lượng.
68
- Chi cho người học (học bổng, hỗ trợ học phí, khen thưởng…): Người học đóng
vai trò là khách hàng sử dụng dịch vụ đào tạo của trường ĐHCL, những khoản chi này
sẽ là động lực giúp chi sinh viên vượt qua hoàn cảnh, phấn đấu đạt kết quả học tập và rèn
luyện cao, cũng là yếu tố thể hiện chất lượng giáo dục đào tạo. Đây cũng có thể là một
trong những tiêu chí thu hút người học trong cuộc cạnh tranh giữa các trường trong hệ
thống GDĐH công lập và cạnh tranh với cả các trường đại học ngoài công lập.
Khi điều kiện tự chủ ngày càng mở rộng, việc đánh giá mức độ tương quan/ảnh
hưởng của các chỉ tiêu này đối với các chỉ tiêu đánh giá mức tự chủ và chất lượng trường
đại học sẽ giúp Chính phủ có những chính sách tài trợ cho các trường ĐHCL phù hợp
với mục tiêu chiến lược của nhà nước trong việc phát triển GDĐH, mà chủ yếu là đối
với các khoản tài trợ từ nguồn NSNN theo cơ chế đặt hàng dựa trên hợp đồng hiệu suất
hoặc theo cơ chế cạnh tranh. Để theo đuổi mục tiêu chất lượng GDĐH, nhà nước có thể
có những định hướng để các trường ĐHCL lựa chọn cơ cấu chi tác động tích cực tới
các yếu tố đảm bảo chất lượng mà các trường cần phải cải thiện theo kết quả đánh giá
trong và đánh giá ngoài.
* Chỉ tiêu đánh giá đổi mới quản lý phân phối kết quả tài chính
Tiêu chí đánh giá đổi mới trong công tác quản lý phân phối kết quả tài chính các
trường ĐHCL chính là những thay đổi trong quy định của Nhà nước về mức phân phối
kết quả tài chính vào các quỹ của cơ quan. Tiêu chí này sẽ cho thấy vai trò điều chỉnh,
định hướng của Nhà nước đến việc phân phối kết quả tài chính của đơn vị theo hướng
giúp các trường đảm bảo khả năng nuôi dưỡng nguồn thu sự nghiệp trong tương lai, tăng
cường năng lực tự chủ và chất lượng GDĐH.
Ngoải ra, cơ chế của Nhà nước về quản lý phân phối kết quả tài chính trong năm sẽ
có ảnh hưởng đến cơ cấu chi của các trường ĐHCL, bởi việc tạo lập và sử dụng các quỹ này
có tác động đến quy mô và cơ cấu chi cho con người (mang tính chất thu nhập) và chi cho
đầu tư phát triển của đơn vị. Vì vậy, để đánh giá kết quả quản lý phân phối kết quả tài chính
cũng cần đánh giá cơ cấu chi của các trường thông qua việc sử dụng một số chỉ tiêu được
trình bày ở phần trên.
Như vậy, có thể thấy các chỉ tiêu định lượng được lựa chọn sử dụng để đánh giá
đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong nghiên cứu này mang tính chất trung gian hơn là
trực tiếp đánh giá đổi mới cơ chế, chính sách của nhà nước về QLTC các trường ĐHCL,
vì mục tiêu cuối cùng của đổi mới QLTC các trường ĐHCL chính là việc đáp ứng yêu
cầu tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH trong bối cảnh hiện nay.
69
2.2.4. Nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới quản lý tài chính trường đại học công lập
2.2.4.1. Nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến đổi mới quản lý tài chính các trường đại
học công lập
Xuất phát từ khái niệm, nội dung của đổi mới QLTC các trường ĐHCL, có thể
thấy một số nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến việc đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong
điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH như sau:
Thứ nhất, thể chế kinh tế - xã hội: Thể chế kinh tế - xã hội là hệ thống pháp chế
gồm: Hiến pháp; các bộ luật; các quy định, các quy tắc, chế định [74], được nhà nước thiết
lập bằng quyền lực chính trị, để thực hiện vai trò quản lý vĩ mô, duy trì sự ổn định cho phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thông qua thể chế kinh tế - xã hội, nhà nước khẳng định
vai trò là chủ thể lớn nhất, quyết định nhất trong việc quản lý xã hội, và là nhân tố cơ bản
nhất giúp cho xã hội tồn tại, hoạt động, phát triển hoặc suy thoái, bảo đảm hài hòa các
quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân, tổ chức trong một trật tự xã hội, hướng tới sự
tổng hòa các lợi ích của cộng đồng. Như vậy, cùng với lý luận về nhà nước, có thể thấy thể
chế là sản phẩm của chế độ xã hội, nó phản ánh sâu sắc bản chất và chức năng của nhà
nước đương quyền, trong đó Hiến pháp được coi là “linh hồn” của một chế độ xã hội. Thể
chế có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ cục bộ tùy thuộc vào sự cải cách, hay đổi mới
các quan hệ kinh tế - xã hội của nhà nước cầm quyền, thích ứng với điều kiện lịch sử quốc
gia và xu thế hội nhập quốc tế. Chính vì vậy mà thể chế có vai trò quyết định, tác động trực
tiếp đến sự hình thành, hoạt động của cơ chế, chính sách về QLTC đối với các ĐVSNCL
nói chung và QLTC các trường ĐHCL nói riêng.
Thứ hai, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia: Trình độ phát triển kinh
tế - xã hội của quốc gia là một trong những nhân tố có tác động đến QLTC các trường
ĐHCL, mà trực tiếp và dễ nhận thấy nhất, đó là tác động đến khả năng huy động nguồn
lực tài chính cho phát triển các trường ĐHCL. Tổ chức UNESCO đã chỉ ra vai trò của giáo
dục trong thời đại ngày nay, và kêu gọi các quốc gia giảm chi phí cho chiến tranh để đầu
tư cho giáo dục. Tuy vậy, một trong những nguyên nhân giải thích cho việc các nước đầu
tư ít cho giáo dục và GDĐH là do kinh tế kém ổn định (khủng hoảng tài chính, kinh tế suy
thoái và tốc độ tăng trưởng âm), khi đó chính phủ thường đặt ra mục tiêu cắt giảm ngân
sách, và lĩnh vực giáo dục nói riêng, các lĩnh vực xã hội nói chung thường là khoản mục
được ưu tiên cắt giảm so với các khoản mục khác khó cắt giảm (như: chi trả nợ, an ninh,
quốc phòng…). Như vậy, ở các nước có nền kinh tế kém phát triển hoặc không ổn định,
70
thì cơ hội/khả năng huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục và GDĐH rõ ràng sẽ
thấp hơn so với các nước có nền kinh tế phát triển cao và ổn định.
Một nguyên nhân khác tác động đến mức độ huy động các nguồn lực tài chính cho
GDĐH, có liên quan chặt chẽ với sự đánh giá của xã hội về những lợi ích mà GDĐH
mang lại (hay nói cách khác, chính tiến trình đại chúng hóa GDĐH đã làm thay đổi quan
niệm cơ bản coi GDĐH có lợi ích công thuần túy, sang quan niệm GDĐH vừa mang lại
lợi ích công và lợi ích tư, và đó chính là luận cứ quan trọng cho việc quyết định đầu tư
nguồn lực tài chính cho GDĐH ở cả giác độ xã hội và tư nhân). Có những quốc gia, nền
văn hóa đánh giá vai trò của GDĐH cao hơn nhiều so với những quốc gia, nền văn hóa
khác, và họ sẽ dành nhiều nguồn lực tài chính hơn để đầu tư cho GDĐH; ngược lại các
quốc gia, nền văn hóa không đánh giá cao, hoặc đánh giá không đúng mức vai trò của
GDĐH, sẽ dành ít nguồn lực tài chính hơn để đầu tư cho GDĐH.
Thứ ba, xu thế hội nhập quốc tế trong lĩnh vực GDĐH: Xu thế hội nhập quốc tế
cũng là nhân tố tác động không nhỏ đến việc thiết lập, thực thi hệ thống QLTC các trường
ĐHCL. Bởi lẽ, là một thực thể của nền kinh tế, hoạt động của các trường ĐHCL không
nằm ngoài sự chi phối của xu hướng đó, và cũng từ lâu các trường đại học luôn được xem
là “cửa ngõ” quan trọng kết nối tri thức, và thúc đẩy hợp tác phát triển giữa các quốc gia
trên thế giới. Xu thế hội nhập quốc tế đặt các trường ĐHCL trước những cơ hội lớn,
nhưng cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ trong triển khai thực
hiện chiến lược phát triển của mình. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với các trường ĐHCL là
phải nâng cao năng lực tự chủ và chất lượng hoạt động để có thể đứng vững trong cạnh
tranh và hội nhập. Gắn liền với vấn đề các trường phải triển khai thực hiện là vấn đề Nhà
nước phải đổi mới QLTC của các trường ĐHCL bằng cách không ngừng hoàn thiện cơ
chế, chính sách làm cho hoạt động QLTC thực sự có tác dụng tích cực và góp phần nâng
cao năng lực tự chủ và chất lượng giáo dục ĐHCL điều kiện hiện nay [50].
2.2.4.2. Nhân tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các trường có thể ảnh
hưởng đến kết quả đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập
- Tuổi của trường: Nghiên cứu của Jaramillo và Melonio (2011)[40] đã cho thấy
những trường ĐHCL lâu đời thường được hưởng một khoản NSNN cao hơn, đồng thời
có được những nguồn tài chính đa dạng hơn. Kinh nghiệm lâu năm trong đào tạo cùng
đội ngũ giảng viên, cán bộ được phát triển trong quãng thời gian dài giúp cho những
71
trường ĐHCL có tiềm lực để mở rộng thêm các ngành nghề đào tạo với quy mô ngành
một tăng thêm, từ đó có thêm các kênh để tăng cường nguồn lực tài chính. Nghiên cứu
của Al-Hamadeen và cộng sự (2019)[4] cũng chỉ ra mối liên hệ giữa tuổi của trường đại
học và cơ cấu nguồn thu của nó.
- Quy mô của trường: Theo Jaramillo và Melonio (2011)[40], Al-Hamadeen và
cộng sự (2019)[4], quy mô đào tạo là một trong những tiêu chí có ảnh hưởng đến nguồn
tài chính của trường ĐH công lập (bao gồm cả nguồn tài chính từ NSNN và ngoài NSNN).
Điều này có nghĩa là những trường có quy mô đào tạo càng lớn, đáp ứng tiêu chuẩn chất
lượng đào tạo theo nhu cầu xã hội thì sẽ có nguồn lực tài chính nhiều hơn. Còn theo đánh
giá của J. Fredericks Volkwein (1986)[37], các trường đại học có quy mô lớn với đội ngũ
giảng viên chất lượng và chỉ tiêu tuyển sinh nhiều sẽ lại càng thu hút nhiều hơn những
giảng viên giỏi và sinh viên có chất lượng đầu vào cao, điều này sẽ tất yếu ảnh hưởng
tích cực đến khả năng thu hút nguồn tài chính từ học phí xuất phát từ khả năng cạnh tranh
và uy tín của trường. Nghiên cứu của Bùi Văn Huyền và cộng sự (2019)[18] cũng chỉ ra
rằng số lượng sinh viên, học viên tuyển mới của các loại hình đào tạo ở các trường ĐHCL
có tác động rất lớn đến nguồn thu của các trường.
- Vị trí địa lý của trường: Alewell (1990)[3] đã chỉ ra rằng, các trường ĐHCL ở
các bang khác nhau của Đức nhận được những mức đầu tư tài chính cũng như có các
nguồn thu khác nhau. Al-Hamadeen và cộng sự (2019)[4] cũng chỉ ra rằng vị trí địa lý là
một trong những nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động nguồn lực tài chính và cơ cấu
nguồn tài chính của các trường đại học. Ngoài ra, (ADB, 2002)[7] đưa ra quan điểm rằng,
khó khăn chủ yếu trong việc tuyển sinh của các trường đại học xuất phát chủ yếu từ khả
năng cung ứng dịch vụ GDĐH bị hạn chế do vị trí địa lý của các trường, điều này sẽ ảnh
hưởng đến việc huy động nguồn tài chính từ học phí của các trường.
- Định hướng phát triển của trường: Theo kinh nghiệm của một số nước châu Á (Hàn
Quốc, Trung Quốc, Malaysia), việc đa dạng hóa các ngành đào tạo kết hợp với quốc tế hóa
CTĐT sẽ giúp các trường đại học nâng cao chất lượng, góp phần tác động đến sự phát triển
của các cơ sở GDĐH (World Bank, 2012)[98]. Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, giai đoạn
2015 - 2017, số lượng tuyển sinh đại học và sau đại học ở các trường phụ thuộc rất nhiều vào
số lượng ngành nghề đào tạo cũng như tính chất của các ngành nghề. Những trường đi theo
định hướng đa ngành thường thu hút được số lượng học viên nhiều hơn so với các trường
đơn ngành, vì vậy mà nguồn thu tài chính cũng có cơ sở để tăng lên nhiều hơn [52]
72
- Sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc trường: ĐVSX-DV-
CGCN dưới hình thức doanh nghiệp KH&CN trong trường đại học trên thế giới từ lâu đã
được biết đến với thuật ngữ: công ty “spin-off” (University Spin-off Company hoặc
Technology Spin-off Company) rất phổ biến ở các nước phát triển. Hình thức công ty
“spin-off” xuất hiện lần đầu tiên ở Vương quốc Anh vào cuối thế kỷ19, sau đó nhanh
chóng phát triển ở Mỹ và Anh từ giữa đến cuối thế kỷ 20, với một mốc quan trọng vào
năm 1980, khi Đạo luật Bayh-Dole được phê duyệt ở Hoa Kỳ nhằm luật hóa hoạt động
của mô hình công ty này. Từ đây, mô hình này nhanh chóng được phát triển ở nhiều nước
như Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản… và trở thành một giải pháp thích hợp cho phép các
trường đại học kiểm chứng, đánh giá được giá trị thực tiễn của các công trình NCKH của
các nhà khoa học, nhà giáo; chuyển giao công nghệ mà vẫn đảm bảo lợi ích lâu dài cho
nhà trường và cá nhân nhà NCKH; hạn chế lãng phí khi những kết quả NCKH có giá trị
thực tiễn cao nhưng không có nguồn lực hỗ trợ để được ứng dụng vào thực tiễn; là chiếc nôi
để sinh viên của trường có cơ hội được vận dụng kiến thức được học trong nhà trường vào
thực tế [66]. Sự hiện diện của các ĐVSX-DV-CGCN thuộc hoặc trực thuộc trường ĐHCL,
cho dù dưới hình thức công ty hay không, sẽ là một nhân tố thúc đẩy đổi mới QLTC các
trường theo hướng đa dạng hóa nguồn thu, nâng cao khả năng tự chủ tài chính và đáp ứng
mục tiêu chất lượng GDĐH.
2.3. KINH NGHIỆM ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CÔNG LẬP TRÊN THẾ GIỚI
2.3.1. Giảm tài trợ từ NSNN và tăng học phí
Mô hình giảm tài trợ và tăng học phí là điển hình nhất của tài chính GDĐH ở Anh.
Vào năm 1980, Chính phủ Anh đã công bố sẽ cắt giảm 15% chi tiêu công cho GDĐH trong
ba năm tiếp theo, là lần đầu tiên có sự cắt giảm tài trợ cho GDĐH kể từ sau Chiến tranh
Thế giới thứ hai. Điều này diễn ra sau việc loại bỏ tài trợ trước đó cho sinh viên quốc tế
không thuộc EU (Williams, 2012[115]; Carpentier, 2012[21]). Vào năm 1990, trợ cấp cho
sinh viên trong nước và EU bắt đầu được thay thế dần bằng các khoản vay; mặt khác, vào
năm 2011 với mức trần học phí tăng gấp ba lần lên 9.000 bảng Anh (Carpentier, 2012)[21]
phần lớn ngân sách chính phủ chi cho giáo dục đã chuyển sang cho sinh viên vay. Như vậy,
khoản vay sinh viên cộng với chính sách phí cao, nguồn lực tài chính từ chính phủ đã
chuyển sang sinh viên, và về lâu dài, khoản chi của chính phủ cho GDĐH sẽ giảm khi các
khoản vay sinh viên được hoàn trả (Choi, 2015)[23].
73
Tại Hoa Kỳ, sau cuộc suy thoái năm 2008, các bang đã giảm tài trợ cho giáo dục với
mức cắt giảm trung bình của tiểu bang là $ 2,026 (khoảng 23%) (Mitchell, Palacios, &
Leachman, 2014[63]). Mặt khác, sau cuộc suy thoái, các cơ sở GDĐH của quốc gia này đã
tăng học phí để giảm tài trợ của chính phủ. Kể từ năm học 2007–2008 đến năm 2014, học
phí tại các trường ĐHCL đã tăng 1.936 USD (khoảng 28%), với chi phí tăng cao hơn ở
Arizona (hơn 80%), và Florida và Georgia (hơn 66%) (Mitchell và cộng sự, 2014)[63].
Ở Úc, cuộc cải cách của Dawkins trong những năm 1980 nhằm mục tiêu tăng
cường chọn lọc các nguồn tài trợ cho giáo dục và sự chuyển đổi gánh nặng tài chính cho
giáo dục từ chính phủ đến khu vực cá nhân và tư nhân. Năm 1989, Chính phủ Hawke đưa
ra quy định sinh viên phải đóng góp khoảng 1/5 chi phí giáo dục. Kể từ đó, tồn tại như
một xu hướng để giảm chi tiêu chính phủ trong ngành giáo dục là sự gia tăng số lượng
học sinh (Long, 2010)[58]. Xu hướng đã buộc các cơ sở GDĐH phải gây quỹ của riêng
họ, với hai các cách tiếp cận phổ biến là cắt giảm chi phí hoạt động và tăng số lượng sinh
viên quốc tế (Long, 2010)[58]. Đến năm 2012, khoảng 60% giảng viên giảng dạy ở các
trường đại học được tuyển dụng theo hợp đồng có thời hạn và trong giai đoạn 1990-2000
số lượng sinh viên nước ngoài tăng từ 24.998 lên 95.607 (Kimber & Ehrich, 2015)[45].
Ở Canada, học phí là một nguồn thu quan trọng của các cơ sở GDĐH. Do có sự
tăng trưởng cả về số lượng sinh viên tuyển sinh và mức học phí nên học phí tại các cơ sở
giáo dục đã tăng từ hơn 670 triệu USD vào năm 1994 lên hơn 2,8 tỷ USD trong năm 2010
(Piché, 2015)[87]. Trong đó, chính phủ quy định mức tăng học phí đối với sinh viên trong
nước và cho phép các cơ sở GDĐH tự xác định mức học phí cạnh tranh cho sinh viên
quốc tế (Piché, 2015)[87].
Chỉ với rất ít ngoại lệ (như Phần Lan, trong hiến pháp đã quy định miễn học phí
cho tất cả học sinh), hầu hết các nước phát triển đã trải qua những thay đổi tương tự như
những gì được mô tả ở trên.
2.3.2. Thị trường hóa, tư nhân hóa và cổ phần hóa giáo dục đại học
Tại Anh, năm 2011 đánh dấu một thời kỳ chính sách GDĐH mới là điều tiết theo
cơ chế thị trường. Theo Choi (2015) giải pháp để thực hiện mục tiêu giảm thâm hụt
ngân sách của chính phủ, tăng nguồn thu cho GDĐH là phải nâng cao chất lượng các
cơ sở GDĐH, đáp ứng ngày càng nhiều hơn nhu cầu của sinh viên, hướng tới chính sách
định hướng thị trường. Tác giả cũng cho rằng, để tăng cường những ảnh hưởng tích cực
74
của cơ chế thị trường, cần xác định thị trường GDĐH là một bộ phận của thị trường
việc làm [23]. Thị trường hóa GDĐH được thể hiện rõ ràng hơn trong nhận định của
Williams (2012): “Việc cắt giảm chi tiêu công năm 2011 thể hiện một sự thay đổi cơ
bản về chính sách giáo dục. Thay vì được đối xử như một dịch vụ công, GDĐH hiện
nay được công nhận một cách rõ ràng là một hoạt động chủ yếu mang lại lợi ích cho
các cá nhân tư nhân” [115].
Ở Phần Lan, các trường đại học là các đơn vị công lập tự chủ hoặc là cơ sở tư
nhân. Với chính sách tự chủ tài chính và ít rào cản về chính sách, nguồn tài trợ bên
ngoài với việc sử dụng vốn và tài sản tài chính trong các cơ sở GDĐH được tăng cường.
Các trường đại học Phần Lan được quy định bao gồm tỷ lệ nhất định của các đại diện
ngoài cơ sở giáo dục trong ban quản trị để nâng cao trách nhiệm quản lý (Melin và cộng
sự, 2015)[62].
Tại Hy Lạp, tháng 5/2010 phải nhận hỗ trợ từ bên ngoài do cuộc khủng hoảng
tài chính. Các chính sách tài khóa thắt chặt được đưa ra để đối phó với thâm hụt tài
chính đã có tác động đáng kể đến giáo dục, bao gồm việc tái cấu trúc các trường đại
học thông qua hoạt động sáp nhập, cắt giảm tài trợ công và kiểm soát tài chính nghiêm
ngặt (Zmas, 2015)[118].
Tại Nhật Bản, Đạo luật Tổng công ty Đại học Quốc gia được ban hành vào năm
2004 để kết hợp các trường đại học quốc gia. Sau khi thành lập các trường đại học đã
nâng cao quyền tự quản và độc lập về tài chính, quan trọng hơn là thay đổi tình trạng tư
pháp của các trường đại học quốc gia, từ các tổ chức công thuộc sở hữu của chính phủ
sang các tổ chức công độc lập (Hanada, 2013)[31].
Tại Úc, cải cách GDĐH Nelson (2000-2008) nhằm chuyển đổi các trường đại học
thành các tổ chức doanh nghiệp theo đuổi lợi nhuận, hiệu quả và năng suất. Trong thời
kỳ đó, nguồn thu học phí từ sinh viên quốc tế được coi là nguồn doanh thu tiềm năng và
việc cung cấp dịch vụ giảng dạy ở nước ngoài được phân loại là “Thương mại dịch vụ”
thay vì “viện trợ” (Long, 2010)[58].
2.3.3. Tài trợ dựa trên hiệu suất
Nguồn vốn dựa trên hiệu suất được lấy từ một ý tưởng tìm kiếm hiệu suất thay vì
các chỉ số truyền thống như dưới dạng nguồn lực đầu vào, quy trình hoặc kiểm toán tài
75
chính. Ngân sách cơ bản được phân bổ về tổ chức, nguồn vốn đó nhằm mục đích thúc
đẩy các tổ chức hoạt động tốt hơn bao gồm tăng cường cả quyền tự chủ và trách nhiệm
(Nisar, 2015[82]; Shin, 2010[97]). Cơ sở lý luận của việc tài trợ dựa trên hiệu suất cũng
là được bắt nguồn từ các khái niệm mới về hiệu quả, hiệu lực và cạnh tranh. Hicks (2012)
cho rằng tính hợp lý của tài trợ dựa trên hiệu suất là quỹ chính phủ nên chuyển đến các
tổ chức hoạt động có hiệu quả để tạo lợi thế cạnh tranh cho các tổ chức này và để kích
thích những tổ chức hoạt động kém hơn cải thiện [33].
Ở Mỹ, các cơ sở GDĐH có mối quan hệ trực tiếp hạn chế với chính phủ liên bang
và do đó tài trợ chủ yếu dựa trên hiệu suất hoạt động ở cấp tiểu bang, với Tennessee là
tiểu bang đầu tiên áp dụng tài trợ dựa trên hiệu suất vào năm 1978 (Nisar, 2015)[82], và
hầu hết các tiểu bang có ít nhất một hình thức tài trợ dựa trên hiệu suất vào đầu những
năm 2000 (Shin, 2010)[97]. Tuy nhiên, các chính sách cụ thể ở các tiểu bang trên khắp
Hoa Kỳ là có sự khác nhau đáng kể, đặc biệt là tỷ lệ NSNN được phân bổ dựa trên kết
quả hoạt động. Ví dụ, ở Tennessee, 100% NSNN dành cho GDĐH được gắn với kinh phí
dựa trên kết quả hoạt động, so với chỉ 10% tổng NSNN được phân phối dựa trên hiệu
suất ở Pennsylvania (Nisar, 2015)[82]. Theo Rabovsky (2012)[95], có một mô hình
chung trong các chỉ số được sử dụng để đo lường hiệu suất, với chỉ số được sử dụng phổ
biến nhất là tỷ lệ tốt nghiệp, tiếp theo là tỷ lệ duy trì, kết quả cho sinh viên thiểu số hoặc
thu nhập thấp và số lượng bằng cấp đã hoàn thành.
Theo báo cáo của Ủy ban châu Âu, ở Đức, Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Anh,
hình thức tài trợ dựa trên hiệu suất được coi là “cực kỳ quan trọng” và ở Hà Lan và Vương
quốc Anh, các tiêu chí liên quan đến đầu ra bao gồm bằng cấp, các khoản tín dụng, đánh
giá, ấn phẩm và trợ cấp cũng được coi là “cực kỳ quan trọng” (Magalhães và cộng sự,
2013)[59]. Bakker (2007) đã so sánh Hà Lan và Vương quốc Anh về chính sách tài trợ
dựa trên hiệu suất của họ. Ở Hà Lan, tài trợ để giảng dạy cho các trường đại học một phần
dựa trên hiệu suất (một nửa ngân sách giảng dạy), một phần dựa trên số tiền cố định trước
đây và một phần dựa trên số lượng tuyển sinh. Ngược lại, ở Anh, việc phân bổ tài trợ
giảng dạy không dựa trên kết quả hoạt động, nhưng tài trợ nghiên cứu về cơ bản là dựa
trên hiệu suất [8].
Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng tài trợ dựa trên hiệu suất dẫn đến
cạnh tranh giữa các cơ sở GDĐH để được phân phối quỹ.
76
2.3.4. Đổi mới quan hệ tài chính giữa chính phủ và chủ thể nhận tài trợ
Bakker (2007) đã xác định hai khía cạnh tài trợ mà các chính phủ chọn để tài trợ
cho GDĐH: một là nguồn tài trợ đầu vào/đầu ra và hai là nguồn tài trợ bên cầu/bên cung.
Đối với khía cạnh đầu vào/đầu ra, chỉ số đầu vào đề cập đến các nguồn lực được sử dụng
và/hoặc các hoạt động được thực hiện bởi các cơ sở GDĐH (ví dụ: số lượng sinh viên
theo học, diện tích sàn được sử dụng) và các chỉ số đầu ra đề cập đến hiệu suất của các
cơ sở giáo dục về mặt giảng dạy và nghiên cứu (ví dụ: Tín chỉ tích lũy, số lượng bằng
cấp được trao, số lượng và chất lượng của các ấn phẩm nghiên cứu và bằng sáng chế được
cấp). Đối với khía cạnh bên cầu/bên cung, nếu tổ chức, người nhận tiền của chính phủ
dưới dạng một lần hoặc vốn dành riêng, thì tài trợ được gọi là tài trợ từ phía cung ứng,
và nếu sinh viên nhận được tài trợ hoặc nếu tổ chức phải nộp đấu thầu tài trợ nghiên cứu,
thì tài trợ được gọi là tài trợ từ phía cầu [8]. Đổi mới tài chính là thuật ngữ được sử dụng
chủ yếu để chỉ các chiến lược mới nhằm tăng cường tài trợ từ phía cầu (Lacy & Tandberg,
2014)[46].
Theo Lacy & Tandberg (2014), một số chính sách đổi mới tài chính ở Mỹ ảnh
hưởng đến cách tài trợ GDĐH, cụ thể là học phí phân quyền, kế hoạch tiết kiệm 529 và
các chương trình hỗ trợ khác trên diện rộng. Ở một số bang ở Mỹ, cho phép các cơ sở
giáo dục tự thiết lập mức học phí riêng, do vậy để thu hút sinh viên, các cơ sở này phải
cạnh tranh nhau về chất lượng. Các kế hoạch tiết kiệm 529 là các kế hoạch tiết kiệm đại
học và trả trước học phí. Với số tiền trong tài khoản tiết kiệm đại học, vốn gốc được đầu
tư và không phải chịu thuế lãi vốn. Khi đăng ký gói học phí trả trước, sinh viên đã mua
các khoản tín dụng trong tương lai với giá hiện tại và do đó cố định một mức học phí
nhất. Cả hai kế hoạch đều được thiết kế để làm cho GDĐH có giá cả phải chăng hơn và
phù hợp hơn, các kế hoạch trên đã cho phép sinh viên chọn trường theo yêu cầu và do đó
tạo cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục để dành sinh viên [46].
2.3.5. Tài trợ cho quốc tế hóa
Ở một số quốc gia, một số tiền lớn được phân bổ cho những nghiên cứu mang tính
cạnh tranh toàn cầu nhằm đạt được thành công được coi như là một chiến lược quốc gia. Ở
Nhật Bản, hai dự án tài trợ được thành lập để hỗ trợ nghiên cứu cạnh tranh quốc tế là Trung
tâm Xuất sắc Thế kỷ XXI (2002 - 2009) và Trung tâm xuất sắc Toàn cầu (2007 - 2014). Một
số dự án tài trợ nhằm mục đích tạo ra các trường đại học và các viện nghiên cứu đẳng cấp
thế giới, ví dụ sáng kiến Trung tâm Quốc tế hàng đầu thế giới 10 năm (Yonezawa & Shimmi,
77
2015)[117]. Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra một số chương trình hỗ trợ nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc quốc tế hóa các trường đại học. Dự án tài trợ 5 năm, tái phát minh Nhật
Bản (2011 - 2016) nhằm mục đích phát triển các tài năng trong giới trẻ Nhật Bản và phát
triển năng lực tham gia quốc tế giữa các trường đại học Nhật Bản. Ngoài các sáng kiến trên,
Chính phủ Nhật đã thiết lập một hệ thống ngân sách để cải thiện khả năng cạnh tranh toàn
cầu của các trường đại học nghiên cứu Nhật Bản bằng cách tập trung vào quản trị và cải
cách quản lý. Theo hệ thống này, chương trình thúc đẩy việc tăng cường các trường đại học
nghiên cứu bắt đầu vào năm 2013 và nhằm mục đích hỗ trợ 22 trường đại học trong 10 năm.
Các quỹ không tài trợ các hoạt động nghiên cứu cụ thể nhưng được phân bổ để hỗ trợ các
đổi mới trong nghiên cứu chiến lược và quản lý (Yonezawa & Shimmi, 2015)[117].
Tại Canada, Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada từng đóng vai trò trung tâm hỗ trợ
các trường đại học Canada phát triển ở nước ngoài. Nó hoạt động như một “nhà tài trợ hào
phóng” đã cho phép các trường đại học tham gia vào các dự án quốc tế dài hạn, quy mô
lớn. Ngoài ra, cơ quan này cũng tăng cường tài trợ gián tiếp cho GDĐH và nghiên cứu
quốc tế thông qua tài trợ của các đơn vị khác như Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc
tế (Trilokekar, 2010)[107].
78
Chương 3
THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
3.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM VÀ
VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THEO HƯỚNG TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
3.1.1. Khái quát về hệ thống trường đại học công lập ở Việt Nam
Ở Việt Nam, hệ thống GDĐH có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, được
chia thành nhiều giai đoạn khác nhau. Cùng với công cuộc Đổi mới toàn diện về kinh tế
- xã hội, năm 1986 Đảng ta đã chỉ đạo ngành GĐ&ĐT thực hiện những bước đổi mới
quan trọng trong hệ thống giáo dục. Khởi đầu với số lượng trường ít ỏi, cho đến nay hệ
thống các trường đại học của Việt Nam đã gia tăng cả về số lượng, quy mô đào tạo, đa
dạng hóa loại hình đào tạo và hình thức sở hữu, qua đó mở rộng cơ hội học tập ở bậc
GDĐH và tiếp cận các CTĐT khác nhau cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, bước
đầu tạo ra động lực cạnh tranh giữa các cơ sở GDĐH để thu hút người học. Trong đó, các
trường thuộc khối công lập giữ vai trò chủ yếu trong mạng lưới các trường đại học Việt
Nam (Biểu đồ 3.1).
Theo thống kê của Bộ GĐ&ĐT (GĐ&ĐT) trong vòng 10 năm từ năm 2010 đến
năm 2020, cả nước đã có 49 cơ sở GDĐH được thành lập mới và nâng cấp, nâng tổng số
cơ sở GDĐH (gọi chung là trường) trong hệ thống lên 237 trường bao gồm 172 trường
công lập, chiếm hơn 72,6% trên tổng số trường đại học, còn lại là 65 trường ngoài công
lập, chiếm 27,4% trên tổng số trường. Điều này cho thấy vai trò chủ đạo của các trường
ĐHCL trong hệ thống GDĐH.
Nguyên nhân dẫn đến việc số lượng trường đại học ngày càng gia tăng xuất phát từ sự
phát triển của dân số và sự tiến bộ của nền kinh tế xã hội. Trình độ dân trí ngày càng cao, nhu
cầu học tập bậc đại học cũng từ đó mà tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh đó, xu hướng đại chúng
hóa GDĐH cũng đang trở thành một xu hướng toàn cầu. Chính vì vậy, việc mở rộng, nâng cấp
các trường đại học ngày càng được đầu tư, chú trọng.
237
237
236
79
250
235
223
219
214
207
204
188
200
172
172
171
170
163
159
156
153
150
138
150
g n ợ ư l
100
ố S
65
65
65
65
60
60
58
54
54
50
50
0
2010- 2011
2011- 2012
2012- 2013
2013- 2014
2014- 2015
2015- 2016
2016 - 2017
2017 - 2018
2018 - 2019
2019 - 2020
Tổng số trường ĐH 188
204
207
214
219
223
235
236
237
237
Số trường ĐHCL
138
150
153
156
159
163
170
171
172
172
Số trường ĐHNCL
50
54
54
58
60
60
65
65
65
65
Biểu đồ 3.1. Sự phát triển số lượng các trường ĐHCL và ngoài công lập
Song song với việc số lượng các trường đại học tăng liên tục trong các năm gần
(Nguồn: Bộ GD & ĐT)
đây thì quy mô sinh viên (Biểu đồ 3.2) và quy mô đội ngũ giảng viên (Biểu đồ 3.3) cũng
không ngừng phát triển.
Dữ liệu thống kê của Bộ GD&ĐT cho thấy số lượng sinh viên trường ĐHCL chiếm
đại đa số (trên 80%) trong tổng số sinh viên toàn ngành. Tuy nhiên, tỷ trọng sinh viên
ĐHCL có xu hướng giảm từ 89,4% (năm học 2013-2014) xuống còn 81,3% (năm học
2019-2020). Trong khi tỷ trọng sinh viên đại học ngoài công lập tăng dần từ 10,6% (năm
học 2013-2014) lên đến 18,7% (năm học 2019-2020).
Số lượng sinh viên tăng từ 1.435,9 nghìn sinh viên (năm học 2010-2011) lên
1.672,9 nghìn sinh viên (năm học 2019-2020) tăng 237 nghìn sinh viên, tăng gấp 1,2 lần.
Giai đoạn 2010 - 2015 là khoảng thời gian có số lượng sinh viên tăng mạnh (cả sinh viên
trường công lập và ngoài công lập), tăng từ 1.435,9 nghìn (năm học 2010-2011) lên
1.824,3 nghìn sinh viên (năm học 2014-2015) tăng 388,4 nghìn sinh viên.
2,000.0
1,800.0
1,600.0
)
1,400.0
1,200.0
V S n ì h g N
(
1,000.0
g n ợ ư l
800.0
ố S
600.0
400.0
200.0
-
2010-
2011-
2012-
2013-
2014-
2015-
2016 -
2017 -
2018 -
2019 -
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
Tổng số SV đại học
1,435.9 1,448.0 1,453.1 1,670.0 1,824.3 1,753.2 1,767.9 1,707.0 1,526.1 1,672.9
Số SV trường ĐHCL
1,246.4 1,258.8 1,275.6 1,493.4 1,596.8 1,520.8 1,523.9 1,439.5 1,261.5 1,359.4
Số SV trường ĐHNCL
189.5
189.2
177.5
176.7
227.6
232.4
244.0
267.5
264.6
313.5
80
Biểu đồ 3.2. Sự phát triển số lượng sinh viên các trường ĐHCL và ngoài công lập
(Nguồn: Bộ GD & ĐT)
Từ năm học 2014-2015 đến 2018-2019 số lượng sinh viên có xu hướng giảm qua
các năm, cả giai đoạn giảm 298,2 nghìn sinh viên. Một nguyên nhân quan trọng của xu
hướng này là do nhu cầu của thị trường lao động Việt Nam hiện nay khiến cho người học
lựa chọn học cao đẳng hoặc học nghề để rút ngắn thời gian học tập và thể tiếp xúc với
công việc nhanh hơn so với việc học đại học. Ngoài ra, việc giảm số lượng sinh viên của
toàn hệ thống chủ yếu là do giảm sinh viên của các trường ĐHCL, còn lượng sinh viên
của các trường đại học ngoài công lập thì vẫn có xu hướng tăng đều qua các năm. Điều
này cho thấy đã có sự cạnh tranh và thu hút người học của các trường đại học ngoài công
lập. Từ năm 2020 trở lại đây thì số lượng sinh viên đại học nói chung và ĐHCL nói riêng
đang có dấu hiệu tăng trở lại. Tuy nhiên, vấn đề cạnh tranh và nâng cao chất lượng giáo
dục cần sự quan tâm thỏa đáng của Nhà nước cũng như bản thân các trường ĐHCL.
81
)
80,000
74,991
73,312
73,132
72,792
69,591
V G n
ì
65,664
65,206
70,000
61,674
59,672
59,232
h g N
57,634
56,990
56,985
(
55,401
60,000
52,689
52,500
50,951
49,932
49,742
g n ợ ư
50,000
l
43,396
ố S
40,000
30,000
16,327
16,142
15,759
15,158
20,000
14,190
12,975
12,706
11,742
9,930
7,555
10,000
0
Năm học
Tổng số giảng viên trong trường đại học
Số giảng viên trường đại học công lập
Số giảng viên trường đại học ngoài công lập
Biểu đồ 3.3. Sự phát triển số lượng giảng viên trường ĐHCL và ngoài công lập
(Nguồn: Bộ GD & ĐT)
Số liệu thống kê của Bộ GD & ĐT (Biểu đồ 3.3) cũng cho thấy tổng số giảng viên
đại học cũng ngày càng tăng lên, giai đoạn 2010 - 2018 tăng khá mạnh từ 50.951 (năm học
2010-2011) giảng viên lên 74.991 giảng viên (năm học 2017-2018), tăng thêm 24.040 giảng
viên và tăng gấp 1,47 lần. Từ năm 2018 trở đi số lượng giảng viên đại học có dấu hiệu giảm
đi. Trong đó số lượng giảng viên của các trường đại học khối công lập có xu hướng tăng/giảm
thất thường, còn số lượng giảng viên khối ngoài công lập thì có xu hướng tăng đều và chưa
có dấu hiệu suy giảm. Điều này cũng có thể xuất phát từ việc các giảng viên khối công lập
có xu hướng đầu quân sang khối ngoài công lập, cho thấy chiến lược thu hút nguồn nhân lực
của khối các trường ngoài công lập đã tạo ra một cuộc cạnh tranh mới trong quá trình nâng
cao chất lượng GDĐH.
Ngoài ra, tính đến năm học 2019-2020, toàn ngành giáo dục có 4.865 giáo sư và phó
giáo sư (chiếm 6,7% tổng số giảng viên), trong đó 542 giáo sư (chiếm 0,7%) và 4.323 phó
giáo sư (chiếm 5,9%). Số lượng tiến sĩ là 21.977, chiếm 30% tổng số giảng viên. Có thể thấy
tổng số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ, có chức danh giáo sư và phó giáo sư ở các cơ sở
GDĐH có xu hướng tăng qua các năm (Biểu đồ 3.4), tuy nhiên tỷ trọng giáo sư, phó giáo sư
trong tổng số giảng viên chưa cao.
Biểu đồ biểu diễn số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ qua
82
i ờ ư g N
25,000
21,977
21,106
20,198
20,000
16,514
13,598
15,000
10,424
9,653
10,000
4,538
4,323
4,139
4,113
5,000
3,317
3,290
2,902
729
574
550
542
536
519
487
0
Giáo sư
2013 - 2014 487
2014 - 2015 536
2015 - 2016 550
2016 - 2017 574
2017 - 2018 729
2018 - 2019 519
2019 - 2020 542
Phó giáo sư
2,902
3,290
3,317
4,113
4,538
4,139
4,323
Tiến sĩ
9,653
10,424
13,598
16,514
20,198
21,106
21,977
Biểu đồ 3.4. Số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ trong hệ thống GDĐH
(Nguồn: Bộ GD & ĐT)
Qua xu hướng phát triển của số lượng trường đại học, số lượng giảng viên và sinh
viên giai đoạn 2010 - 2020, ta thấy quy mô GDĐH ở Việt Nam ngày càng mở rộng. Tuy
nhiên tỷ lệ số sinh viên/một giảng viên ở khối các trường ĐHCL còn khá cao (trung bình
khoảng 23 - 27 sinh viên/một giảng viên), trong khi tỷ lệ số sinh viên/một giảng viên ở
khối các trường đại học ngoài công lập cho thấy mức độ bảo đảm chất lượng tốt hơn rất
nhiều (13-19 sinh viên/một giảng viên). Đây cũng là một yếu tố cần quan tâm trong việc
định hướng quản lý chất lượng của các trường ĐHCL.
Các trường ĐHCL của Việt Nam được hệ thống hóa và phân loại thành các trường
đại học theo ngành dân sự, các trường đại học và học viện quân sự, công an, các trường
Đại học vùng và cấp vùng, Đại học quốc gia, trường đại học địa phương. Hệ thống cơ
cấu quản lý các trường ĐHCL của Việt Nam khá phức tạp và phân tán. Kể từ khi sáp
nhập Bộ Giáo dục và Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp thành Bộ GD & ĐT năm
1990, Bộ GD & ĐT là cơ quan có trách nhiệm quản lý về GD & ĐT ở cấp quốc gia. Tuy
nhiên, Bộ GD & ĐT chỉ chịu trách nhiệm đối với các vấn đề đào tạo và chuyên môn,
trong khi các cơ quan quản lý thực sự sẽ quản lý các vấn đề về tài chính và hoạt động của
các trường ĐHCL.
83
3.1.2. Đổi mới giáo dục đại học theo hướng tự chủ và nâng cao chất lượng các
trường đại học công lập
Theo Báo cáo cập nhật tháng 8/2022 về tình hình kinh tế Việt Nam của WB tại Việt
Nam, để duy trì tăng trưởng kinh tế với tốc độ mong muốn, Việt Nam cần tăng năng suất
ở mức từ 2 - 3% mỗi năm. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, muốn tăng năng suất lao động,
các quốc gia chỉ có thể đạt được bằng cách đầu tư cho hệ thống giáo dục, bởi vì lực lượng
lao động có khả năng cạnh tranh sẽ đem lại hiệu suất cho nền kinh tế trong dài hạn. Báo
cáo ghi nhận rằng, việc đổi mới hệ thống GDĐH là chìa khóa để nâng cao năng suất của
Việt Nam và giúp hoàn thành mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm
2035 và quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 [67].
Trong quá trình đổi mới hệ thống GDĐH, Việt Nam cần cải thiện khả năng tiếp cận
GDĐH tương xứng với các quốc gia đi trước trong khu vực Đông Á. Đến năm 2019, Việt
Nam có khoảng 1,7% dân số được học đại học (tương đương 1,67 triệu sinh viên). Trong
khi đó Malaysia có 4% dân số (khoảng 1,3 triệu sinh viên) và Hàn Quốc có 3,8% dân số
(khoảng 2 triệu sinh viên) nhập học đại học. Về lâu dài, để tương xứng với tỷ lệ tuyển sinh
của quốc gia thu nhập trung bình cao, Việt Nam cần đạt chỉ tiêu tuyển sinh khoảng 3,8 triệu
sinh viên, hơn gấp đôi số sinh viên được tuyển sinh năm 2019 [67].
Như vậy, việc mở rộng quy mô GDĐH đã trở thành xu hướng tất yếu đối với các
quốc gia trên thên giới trong cuộc đua nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế, và
Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Tuy nhiên, sự hạn hẹp về nguồn tài trợ từ
NSNN cho GDĐH đã buộc hệ thống GDĐH phải đổi mới theo hướng nâng cao năng
lực tự chủ của các cơ sở GDĐH nói chung và các trương ĐHCL nói riêng. Việc ban
hành Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về Đề án “Đổi
mới cơ bản và toàn diện GDĐH ở Việt Nam giai đoạn 2006-2020”, Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với ĐVSNCL, Nghị định số
16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL và Nghị quyết
số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở
giáo dục ĐHCL gia đoạn 2014-2017, Nhà nước đã xác định tự chủ đại học là xu hướng
tất yếu và các trường ĐHCL.
84
Hiện nay Bộ GD & ĐT đang xây dựng “Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới
căn bản, toàn diện GĐ&ĐT đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết 29
đã nêu rõ việc đổi mới GDĐH là “tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng
nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của
người học”, với giải pháp: “đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia
đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển GĐ&ĐT” nhằm “đổi
mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng
quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý
chất lượng” [10].
Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/06/2019 của Chính phủ về tăng cường huy động
các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển GĐ&ĐT giai đoạn 2019-2025 cũng đã nêu
quan điểm cần đẩy mạnh xã hội hóa GĐ&ĐT, coi đó là một chỉ tiêu trong định hướng phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, với mục tiêu “tạo bước chuyển biến rõ rệt, thực chất
trong thu hút, sử dụng và quản lý các nguồn lực của các cá nhân, tổ chức ở trong và ngoài
nước đầu tư cho phát triển GĐ&ĐT, nâng cao chất lượng GĐ&ĐT nhân lực đáp ứng yêu
cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế”[22].
Như vậy có thể thấy, công cuộc đổi mới hệ thống giáo dục nói chung và GDĐH ở
Việt Nam nói riêng không thể xa rời mục tiêu cuối cùng là bảo đảm và nâng cao chất lượng
giáo dục đào tạo. Điều này thể hiện ở việc Bộ GD & ĐT đã ban hành các văn bản pháp luật
quy định về kiểm định chất lượng GDĐH qua các thời kỳ: Quyết định số 65/2007/QĐ-
BGDĐT ngày 01/11/2007 quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại
học, được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT ngày 30/10/2012 của Bộ
trưởng Bộ GĐ&ĐT; và mới đây được thay thế bởi Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT ngày
19/05/2017 ban hành quy định về kiểm định chất lượng cơ sở GDĐH, với việc quy định
bộ tiêu chuẩn thuộc 4 lĩnh vực, gồm 25 tiêu chuẩn được chia thành 111 tiêu chí cụ thể.
Ngày 15/01/2019, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 69/QĐ-TTg phê
duyệt đề án nâng cao chất lượng GDĐH giai đoạn 2019-2025, với mục tiêu chung là “Tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ, thực chất về chất lượng đào tạo, NCKH và chuyển giao công
85
nghệ của hệ thống GDĐH đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực; góp phần nâng cao chất lượng
và năng suất lao động, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, tăng cường năng lực cạnh tranh của
quốc gia trong khu vực và trên thế giới”[99].
Tóm lại, cùng với những nỗ lực đổi mới GDĐH theo xu thế chung của thế giới và
yêu cầu hội nhập quốc tế, Nhà nước luôn phải giữ vai trò kiến tạo và hỗ trợ các trường
đại học nói chung và các trường ĐHCL nói riêng thông qua việc xây dựng chính sách,
tạo môi trường thuận lợi để phát triển GDĐH, đẩy mạnh xã hội hóa, huy động và sử dụng
có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho GDĐH. Và do vậy, mục tiêu cuối cùng của đổi
mới QLTC các trường ĐHCL cũng chính là hướng tới đáp ứng yêu cầu nâng cao năng
lực tự chủ và bảo đảm chất lượng GDĐH.
3.2. THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
3.2.1. Thực trạng đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính
3.2.1.1. Đổi mới quản lý phân bổ nguồn ngân sách nhà nước cho các trường
đại học công lập
a) Quy trình phân bổ NSNN cho giáo dục đại học công lập
Ở Việt Nam, phân bổ NSNN cho giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng tuân theo
các quy định trong Luật NSNN (Luật NSNN năm 1996 [88] được sửa đổi năm 1998 [89],
Luật NSNN năm 2002 [90], sau đó được thay thế bởi Luật NSNN năm 2015 [92], xác
định rõ 2 cấp (cấp trung ương và cấp địa phương). Ở cấp trung ương, việc lập phương án
phân bổ ngân sách hoạt động thường xuyên cho GDĐH của các Bộ, cơ quan trung ương
là nhiệm vụ của Bộ Tài chính; lập phương án phân bổ ngân sách cho hoạt động đầu tư
phát triển là nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT). Ở cấp địa phương, Ủy ban
nhân dân (UBND) tỉnh là cơ quan chuyên trách và chịu trách nhiệm phân bổ NSNN cho
các trường đại học của địa phương [77].
Xuất phát từ cấu trúc của hệ thống GDĐH ở Việt Nam, có nhiều bên liên quan
tham gia vào quá trình phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL (Hình 3.1). Về cơ bản, quy
trình phân bổ NSNN gồm các bước sau:
Bước 1: Các trường ĐHCL chuẩn bị kế hoạch hoạt động và dự toán thu chi tài
chính cho năm tài khóa tiếp theo cũng như yêu cầu ngân sách từ Chính phủ trong năm
86
đó. Những trường ĐHCL địa phương sẽ trình dự toán ngân sách tới UBND tỉnh, các
trường ĐHCL thành viên trình dự toán ngân sách cho Đại học vùng hoặc Đại học quốc
gia, các trường đại học trung ương trình dự toán ngân sách tới các Bộ chủ quản.
Bước 2: UBND tỉnh, các Bộ chủ quản, các Đại học do chính phủ quản lý sẽ thảo
luận, thống nhất ngân sách sao cho phù hợp với kế hoạch ngân sách của Bộ GD&ĐT, Bộ
KH&CN (KH&CN), Bộ KH&ĐT và Bộ Tài chính, là những cơ quan chịu trách nhiệm
thu thập thông tin kế hoạch và ước tính ngân sách theo các lĩnh vực hoạt động của các
trường ĐHCL. Những cơ quan này sau đó sẽ xem xét lại dự toán được trình lên và cân
đối với những mục tiêu kinh tế - xã hội được đề ra bởi Chính phủ và sẽ lập phương án
phân bổ NSNN cho các cơ sở GDĐH theo các lĩnh vực hoạt động. Bộ Tài chính sẽ tổng
hợp thông tin để lập, trình Chính phủ dự toán NSNN, phương án phân bổ ngân sách trung
ương (NSTW).
Bước 3: Chính phủ lập và trình Quốc hội thông qua dự toán NSNN và phương án
phân bổ NSTW.
Bước 4: Khi phân bổ ngân sách được phê duyệt, việc quản lý và sử dụng khoản
ngân sách được phân bổ sẽ được tiếp nhận bởi những Bộ chủ quản, Đại học do Chính
phủ quản lý, hoặc UBND tỉnh tùy theo thẩm quyền của các cơ quan này.
Như vậy, việc có nhiều bên liên quan (đặc biệt là các bộ) tham gia vào quá trình
phân bổ Ngân sách cho các trường đại học, làm quá trình phân bổ ngân sách trở nên quá
phức tạp, đồng thời làm cho QLTC của GDĐH trở nên phân tán, thiếu tập trung.
87
Quốc hội
Chính phủ
Bộ KH&ĐT Lập phương án phân bổ chi đầu tư phát triển của NSTW Bộ Tài chính Lập, trình Chính phủ dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW (chịu trách nhiệm chung, trong đó có chi thường xuyên) Bộ GD&ĐT Phối hợp tổng hợp dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW. Kiểm tra theo dõi thực hiện NSNN thuộc ngành phụ trách. Bộ KH&CN Phối hợp tổng hợp dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW (Liên quan đến NS cho hoạt động KH&CN)
UBND tỉnh Đại học do Chính phủ quản lý Bộ, ngành quản lý (bao gồm cả Bộ GD&ĐT)
Các trường đại học Sở Tài chính Trường đại học thành viên
Trường đại học địa phương
Hình 3.1. Quy trình phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL ở Việt Nam
(Nguồn: Bộ GD & ĐT)
b) Đổi mới mô hình phân bổ NSNN cho giáo dục đại học công lập
Những năm vừa qua, Việt Nam đã có nhiều đổi mới nhằm từng bước áp dụng mô
88
hình phân bổ NSNN cho GDĐH phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của quốc
gia và xu hướng hội nhập quốc tế trong GDĐH. Chúng ta có thể thấy quá trình đổi mới cơ
chế phân bổ NSNN cho GDĐH qua các giai đoạn được mô tả và so sánh chi tiết trong Phụ
lục 3.1 dựa trên quy định của các văn bản pháp lý liên quan, và được mô hình hóa ở Hình
3.2 như sau:
Giai đoạn I 1996 - 2002
Giai đoạn II 2003 - 2015
Giai đoạn III 2016 - 2021
- Luật NSNN 2015 - Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015
- Luật NSNN 2002 - Nghị định số 10/2002/NĐ- CP ngày 16/01/2002 - Nghị định số 43/2006/NĐ- CP ngày 25/04/2006
- Luật NSNN 1996 (sửa đổi năm 2018) - Thông tư số 38-TC/NSNN ngày 18/07/1996 - Công văn số 562-TC/HCSN ngày 03/03/1998
Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu vào (Input-based Formula Funding)
- Mô hình thương lượng (Negotiated Funding) theo kiểu tài trợ gia tăng (Incremental Funding) dựa trên dữ liệu lịch sử
- Mô hình thương lượng (Negotiated Funding) theo kiểu tài trợ gia tăng (Incremental Funding) dựa trên dữ liệu lịch sử, một vài khía cạnh của yếu tố đầu vào
Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu ra (Output-based Formula Funding)
Mô hình tài trợ dựa trên hiệu suất (Performance- based Funding Model), dưới hình thức hợp đồng hiệu suất, căn cứ vào khối lượng dịch vụ và đơn giá theo quy định
Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu ra (Output- based Formula Funding)
Hình 3.2. Đổi mới mô hình phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL ở Việt Nam
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
Như vậy theo Hình 3.2, quá trình đổi mới quản lý phân bổ nguồn NSNN cho giáo
dục ĐHCL ở Việt Nam kể từ khi thực hiện cơ chế tự chủ đối với ĐVSNCL chuyển từ Giai
đoạn II (2003-2015) sang Giai đoạn III (2016-2021) là phù hợp với xu hướng chung thường
thấy ở các quốc gia trên thế giới, cụ thể:
89
● Giai đoạn II (2003 - 2015): Giai đoạn này trong thời gian thi hành Luật NSNN
năm 2002, Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng
cho đơn vị sự nghiệp có thu (sau đây gọi là Nghị định 10), sau đó là Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với ĐVSNCL (sau đây gọi là
Nghị định 43). Cơ chế phân bổ NSNN cho giáo dục ĐHCL thực hiện theo kiểu kết hợp
giữa 2 mô hình:
○ Mô hình thương lượng (Negotiated Funding) dựa trên dữ liệu lịch sử theo
kiểu tài trợ gia tăng (Incremental Funding), với đặc điểm về tiêu chí phân bổ được
quy định như sau:
- Đổi với kinh phí cho hoạt động thường xuyên:
+ Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, nhiệm vụ của
năm kế hoạch, chế độ chi tiêu tài chính hiện hành; căn cứ kết quả hoạt động sự nghiệp,
tình hình thu, chi tài chính của năm trước liền kề; trường ĐHCL lập dự toán thu, chi năm
đầu thời kỳ ổn định;
+ Căn cứ mức kinh phí NSNN bảo đảm hoạt động thường xuyên của năm trước
liền kề và nhiệm vụ tăng (hoặc giảm) của năm kế hoạch, đơn vị lập dự toán thu, chi hoạt
động thường xuyên của 2 năm tiếp theo trong thời kỳ ổn định.
- Đối với kinh phí hoạt động không thường xuyên (trong đó có hoạt động đầu tư xây
dựng cơ bản) đơn vị lập dự toán và được phê duyệt hằng năm theo quy định hiện hành.
○ Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu ra (Output-based Formula
Funding):
- Đối với NSNN cấp cho đơn vị theo chế độ đặt hàng để thực hiện các nhiệm vụ
của Nhà nước đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát...) thì được thanh toán theo giá hoặc
khung giá do Nhà nước quy định.
● Giai đoạn III (2016 - 2021): Việc phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL trong
giai đoạn này được thực hiện theo Luật NSNN năm 2015 và Nghị định số 16/2015/NĐ-CP
ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL (sau đây gọi là Nghị định 16). Cơ
chế phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL được chuyển sang mô hình mới có sự kết hợp
giữa 3 mô hình:
○ Mô hình thương lượng (Negotiated Funding) theo kiểu tài trợ gia tăng
(Incremental Funding) dựa trên dữ liệu lịch sử và một vài khía cạnh của yếu tố đầu
vào, thể hiện ở các tiêu chí phân bổ như sau:
90
- Đối với trường ĐHCL do Nhà nước (NN) bảo đảm chi thường xuyên (CTX): Căn
cứ tình hình thực hiện năm hiện hành, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao trong năm kế
hoạch, số lượng người làm việc được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chế độ chi tiêu hiện
hành, đơn vị lập dự toán thu, chi gửi cơ quan quản lý cấp trên theo quy định. NSNN cho
CTX được phân bổ cho các trường ĐHCL theo thời gian ổn định 03 năm và có điều chỉnh
hàng năm khi nhà nước thay đổi nhiệm vụ, cơ chế chính sách theo quy định.
- Đối với trường ĐHCL tự bảo đảm một phần CTX: căn cứ tình hình thực hiện
năm hiện hành, nhiệm vụ của năm kế hoạch, lập kế hoạch về số lượng, khối lượng DVSNC
và dự toán thu, chi (bao gồm cả phần kinh phí NSNN hỗ trợ do giá, phí DVSNC chưa kết
cấu đủ chi phí) báo cáo cơ quan quản lý cấp trên theo quy định.
- Các trường ĐHCL lập dự toán thu, chi phí theo pháp luật về phí, lệ phí, các nhiệm
vụ không thường xuyên theo quy định của Luật NSNN.
○ Mô hình tài trợ dựa trên hiệu suất (Performance-based Funding Model)
- Đối với trường ĐHCL tự bảo đảm chi đầu tư và CTX, trường ĐHCL tự bảo đảm
CTX: hằng năm căn cứ đơn giá (đã tính đủ chi phí), số lượng, khối lượng DVSNC có sử
dụng NSNN được NN đặt hàng, lập dự toán gửi cơ quan quản lý cấp trên theo quy định.
- Lúc này khái niệm nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng đã được thay bằng khái niệm
DVSNC có sử dụng NSNN, nên khoản NSNN chi cho các dịch vụ này mang tính chất
thanh toán trên quan hệ hợp đồng hơn là tính chất cấp phát kinh phí thực hiện nhiệm vụ.
○ Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu ra (Output-based Formula
Funding):
- Bản chất của mô hình này chính là một trường hợp của mô hình tài trợ dựa trên hiệu
suất, khi mà các tiêu chí đánh giá hiệu suất có thể định lượng được (ví dụ như số sinh viên
tốt nghiệp, số giảng viên được bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ...).
- Đối với trường ĐHCL tự bảo đảm một phần CTX: căn cứ tình hình thực hiện
năm hiện hành, nhiệm vụ của năm kế hoạch, lập kế hoạch về số lượng, khối lượng DVSNC
và dự toán thu, chi (bao gồm cả phần kinh phí NSNN hỗ trợ do giá, phí DVSNC chưa kết
cấu đủ chi phí) báo cáo cơ quan quản lý cấp trên theo quy định. Như vậy, việc thực hiện
cấp NSNN hỗ trợ cho các trường khi cung cấp DVSNC với giá chưa tính đủ chi phí căn
cứ vào dữ liệu đầu ra về số lượng, khối lượng DVSNC hoàn thành.
● Tuy nhiên, có một thực tế ở Việt Nam là trong giai đoạn trước đó: Giai đoạn I
(1996 - 2002) đã từng áp dụng mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu vào
91
(Input-based Formula Funding), được xem như mô hình có tác dụng tích cực hơn đến việc
thúc đẩy hiệu suất của các trường so với mô hình thương lượng, nhưng sau đó không được
sử dụng nữa mà lại thay thế bằng mô hình thương lượng theo kiểu tài trợ gia tăng dựa trên
dữ liệu lịch sử là chủ yếu, trong giai đoạn từ năm 2003 đến nay. Việc “đổi mới” này có vẻ đi
ngược xu hướng chung của các quốc gia trong quá trình đổi mới QLTC GDĐH công lập.
Điều này có thể giải thích bằng thực trạng là hệ thống GDĐH công lập ở Việt Nam phát triển
với tốc độ quá nhanh trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2002, số lượng trường ĐHCL
tăng từ 96 trường lên đến 179 trường (tăng gấp 1,86 lần); trong khi số lượng sinh viên trường
ĐHCL tăng từ 509,3 nghìn sinh viên lên đến 908,8 nghìn sinh viên (tăng gấp 1,78 lần) (Biểu
đồ 3.5), gây áp lực lên chi tiêu công cho GDĐH, khiến cho mô hình tài trợ NSNN theo công
200
1000
908.8
179
873
168
900
180
795.6
thức dựa trên yếu tố đầu vào không còn khả thi nữa.
n ê i v h n
g n ờ ư r T
148
734.9
800
160
ì
662.8 682.3
131
700
140
123
i s n h g N
110
600
120
509.3
96
500
100
400
80
300
60
200
40
100
20
0
0
1 9 9 6 1 9 9 7 1 9 9 8 1 9 9 9 2 0 0 0 2 0 0 1 2 0 0 2
1 9 9 6 1 9 9 7 1 9 9 8 1 9 9 9 2 0 0 0 2 0 0 1 2 0 0 2
Năm
Năm
Biểu đồ 3.5. Sự phát triển của hệ thống GDĐH công lập giai đoạn 1996-2002
(Nguồn: Bộ GD & ĐT)
Nguồn tài trợ từ NSNN cho các trường ĐHCL được phân bổ theo từng năm, tỷ
trọng tài trợ cao hay thấp tùy thuộc và khả năng thu và cơ cấu chi của NSNN. Thực tế
cho thấy tốc độ tăng chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục đào tạo của Việt Nam trong thời
gian qua chưa đáp ứng nhu cầu thực tế khi quy mô đào tạo ngày càng tăng lên cũng như
giá cả thị trường có nhiều biến động. Vì vậy, chi tiêu công cho giáo dục đào tạo nói chung
và cho GDĐH nói riêng trong những năm qua thực chất bị giảm xuống, hay nói cách khác
Nhà nước mới đầu tư để duy trì hệ thống giáo dục quốc dân, chưa đầu tư phát triển tương
xứng với nhiệm vụ mà nền kinh tế - xã hội đặt ra cho ngành giáo dục đào tạo [77].
Tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục hàng năm của Việt Nam ở mức xấp xỉ 20%, tương
đương trên 5% GDP. Đây là mức đầu tư tương đối cao so với nhiều nước trên thế giới, kể cả
92
các nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn Việt Nam. Tuy nhiên, chi NSNN cho giáo
dục chủ yếu dành cho hệ thống giáo dục phổ thông; chi NSNN cho GDĐH lại đang ở mức
thấp hơn nhiều so với các nước với mức khoảng 0,33% GDP (năm 2016)[81], và có xu
hướng giảm đi, chỉ còn khoảng 0,23% GDP (năm 2019), chiểm 4,9% tổng chi NSNN cho
giáo dục[25]. Mức đầu tư này thấp hơn khá nhiều so với các nước trong khu vực (0,6 -
1%)[5], và thấp hơn cả mức bình quân chung của thế giới (Biểu đồ 3.6). Bởi vậy, cho đến
nay, việc tài trợ NSNN cho chi thường xuyên của các trường ĐHCL không thể quay lại mô
2.00%
1.89%
1.80%
1.63%
1.54%
1.60%
1.40%
1.29% 1.25% 1.22%
1.13%
1.20%
1.00% 1.00%
1.00%
0.87%
0.80%
0.64%
0.57%
0.60%
0.33%
0.40%
0.20%
0.00%
hình tài trợ theo công thức được nữa.
Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ chi tiêu công cho GDĐH tính trên GDP ở một số nước trên
thế giới năm 2016 (Nguồn: Ngân hàng thế giới (2020))[65]
Theo dữ liệu thu thập được từ Báo cáo tự đánh giá phục vụ kiểm định chất lượng
của 17 trường ĐHCL ở Việt Nam trong mẫu nghiên cứu, trong giai đoạn từ 2012 - 2021,
nguồn NSNN cấp bình quân cho các trường cũng như tỷ trọng nguồn NSNN cấp trong
tổng nguồn thu của các trường có xu hướng giảm. Cụ thể: trung bình nguồn NSNN cấp
cho một trường ĐHCL hằng năm giai đoạn 2017 - 2012 là 51,43 tỷ đồng, giảm 11,7% so
với giai đoạn 2012 - 2016; đồng thời tỷ trọng nguồn NSNN cấp trong tổng nguồn thu của
các trường ĐHCL giai đoạn 2017 - 2021 là 30,9%, giảm 3,08% so với giai đoạn 2012 -
2016 (Bảng 3.1).
93
Bảng 3.1. Trung bình quy mô và tỷ trọng nguồn NSNN cấp cho các trường ĐHCL
ở Việt Nam qua các giai đoạn
Tỷ trọng nguồn NSNN Trung bình nguồn NSNN cấp cấp trong tổng Giai đoạn cho 1 trường ĐHCL hằng năm nguồn thu của trường (tỷ đồng) ĐHCL
2012 - 2016 58,24 33,98%
2017 - 2021 51,43 30,90%
(Nguồn: Báo cáo tự đánh giá, Báo cáo ba công khai của các trường ĐHCL)
Nguồn kinh phí từ NSNN cấp cho các trường ĐHCL ở Việt Nam ngày càng hạn
hẹp cũng là một nguyên nhân dẫn tới những vấn đề tồn tại khác trong việc quản lý phân
bổ nguồn tài chính từ NSNN cho các trường ĐHCL hiện nay:
- Một là, cơ chế phân bổ NSNN phức tạp, manh mún: xuất phát từ thực tế là đầu
tư cho cơ sở GDĐH không chỉ phụ thuộc vào mức chi NSNN mà còn bị chi phối bởi
nhiều yếu tố khác như vị thế của cơ quan chủ quản, sự phân cấp phân quyền trong quản
lý, đồng thời có quá nhiều bên liên quan trong việc phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL
(Bộ GD&ĐT, Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT, Bộ KH&CN, các bộ chủ quản, UBND tỉnh đối
với trường ĐHCL địa phương) (Hình 3.1), theo đó sẽ có nhiều kênh khác nhau để phân
bổ NSNN cho các mục đích chi khác nhau của các trường (chi hoạt động thường xuyên,
chi đầu tư và chi không thường xuyên khác).
- Hai là, vấn đề bất bình đẳng trong phân bổ NSNN: Việc phân bổ NSNN cho chi
hoạt động thường xuyên của các trường căn cứ mô hình thương lượng dựa trên dữ liệu
lịch sử là chủ yếu. Vì vậy, có thể xảy ra sự bất bình đẳng trong việc phân bổ NSNN giữa
các nhóm trường, cụ thể như sau:
+ Bất bình đẳng theo tuổi, quy mô, vị trí địa lý của trường: Thực trạng này ủng
hộ kết quả nghiên cứu của Al-Hamadeen và cộng sự (2019) [4] về tài trợ cho các trường
ĐHCL Jordan khi chỉ ra mối quan hệ giữa quy mô, tuổi và vị trí địa lý và cơ cấu nguồn
tài chính của các trường ĐHCL. Cụ thể:
Phân tích tương quan giữa nguồn NSNN cấp (NSNN_CAP) với Tuổi (TU), Quy
mô (QM) của các trường ĐHCL trong mẫu nghiên cứu (17 trường ĐHCL) (Phụ lục 3.7)
cho thấy nguồn NSNN cấp cho các trường có mối quan hệ cùng chiều với tuổi của trường
với hệ số tương quan = 0,327 và độ tin cậy 99% (p.value = 0,000), đồng thời cũng có mối
94
quan hệ thuận chiều với quy mô của trường với hệ số tương quan = 0.284 và độ tin cậy
99% (p.value = 0,008). Như vậy, các trường có quy mô lớn, lịch sử phát triển lâu đời thì
về cơ bản sẽ đàm phán được nguồn phân bổ NSNN, đặc biệt là NSNN cấp cho chi thường
xuyên, lớn hơn so với các trường có quy mô nhỏ và tuổi còn trẻ.
Sử dụng kiểm định One-Way ANOVA để phân tích khác biệt trung bình của mức
tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) và của nguồn NSNN cấp (NSNN_CAP)
giữa nhóm trường ở vị trí địa lý (VTDL) khác nhau (Phụ lục 3.8), ta thấy: nhóm trường
ĐHCL thuộc 2 vùng đồng bằng châu thổ (Sông Hồng và Sông Cửu Long) có trung bình
nguồn NSNN cấp (64.613,5 triệu đồng), lớn hơn gấp 1,78 lần so với trung bình nguồn
NSNN cấp cho nhóm trường ở vùng kinh tế khác (36.111,9 triệu đồng). Điều này cũng
tất yếu dẫn tới trung bình mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên của nhóm trường
thuộc 2 vùng đồng bằng (74,3%) thấp hơn nhóm trường ở các vùng kinh tế khác (88,3%).
Như vậy có thể thấy rằng đang có sự ưu tiên đầu tư NSNN cho các trường ĐHCL ở 2
vùng đồng bằng Sông Hồng và Sông Cửu Long, là những vùng có vị trí địa lý được xem
là thuận lợi hơn so với các vùng khác trong việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung,
phát triển GDĐH nói riêng. Trong trường hợp này, mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường
xuyên của các trường thuộc các vùng kinh tế khác cao hơn các trường ở 2 vùng đồng
bằng, chưa hẳn đã là một dấu hiệu tích cực trong QLTC của các trường này, bởi nó xuất
phát từ việc tài trợ NSNN chưa công bằng, dẫn tới việc các trường thuộc các vùng kinh
tế kém thuận lợi hơn buộc phải nỗ lực nhiều hơn nhằm tự trang trải hoạt động thường
xuyên bằng nguồn thu sự nghiệp của mình.
+ Bất bình đẳng theo định hướng phát triển của trường: Sử dụng kiểm định One-
Way ANOVA để phân tích khác biệt trung bình của Tỷ lệ NSNN cấp/quy mô nhân sự
(TLNSQM) giữa 02 nhóm trường: nhóm trường “định hướng ứng dụng” (UD) và nhóm
trường “định hướng nghiên cứu - ứng dụng” (NC_UD) (Phụ lục 3.9) cho thấy trong giai
đoạn 2012 - 2021, suất đầu tư NSNN cho 01 nhân viên ở trường ĐH theo định hướng
ứng dụng (trung bình 204,906 triệu đồng/người/năm) cao hơn so với các trường có định
hướng nghiên cứu - ứng dụng (trung bình 62,187 triệu đồng/người/năm). Như vậy, các
trường ĐHCL không có định hướng nghiên cứu dường như đang được Chính phủ ưu ái
hơn trong việc cấp NSNN so với các trường có định hướng nghiên cứu. Trong khi đó,
hoạt động nghiên cứu lại đóng vai trò quan trọng cốt lõi, và là nền tảng cho việc ứng dụng
95
KHCN vào đời sống. Vì vậy, Chính phủ cần có sự cân nhắc trong cơ cấu đầu tư theo tiêu
chí định hướng phát triển của các trường ĐHCL trong những trường hợp cần thiết và phù
hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội nói chung, giữ mối quan tâm tới các trường
có định hướng nghiên cứu, làm cơ sở cho việc phát triển bền vững của hệ thống GDĐH.
- Ba là, việc phân bổ NSNN mang tính bình quân cào bằng: Với sự ra đời của Nghị
định 16/2015/NĐ-CP, cơ chế phân bổ NSNN đã có sự kết hợp giữa mô hình thương lượng
với mô hình tài trợ dựa trên hiệu suất, cùng một vài khía cạnh của mô hình tài trợ theo
công thức dựa trên kết quả đầu ra theo lộ trình tính giá DVSNC có sử dụng kinh phí
NSNN. Tuy nhiên, phân tích tương quan giữa tỷ lệ NSNN cấp/quy mô nhân sự
(TLNSQM) với quy mô của các trường (QM) cho thấy tỷ lệ NSNN cấp/quy mô nhân sự
của trường có mối quan hệ ngược chiều với quy mô của trường với hệ số tương quan = -
0,227 và độ tin cậy 95% (p.value = 0,039) (Phụ lục 3.7), hay nói cách khác ở các trường
có quy mô nhân sự càng lớn thì suất đầu tư NSNN trên một nhân sự lại càng nhỏ. Nguyên
nhân của thực tế này là do quy mô nguồn NSNN đầu tư cho GDĐH của Việt Nam còn
hạn hẹp và chưa tương xứng với tốc độ phát triển của hệ thống trường ĐHCL, vì vậy,
mặc dù tiêu chí phân bổ NSNN đã có sự thay đổi nhưng nguồn tài chính từ NSNN mà
các trường nhận được, đặc biệt là NSNN cấp cho cho các hoạt động không thường xuyên,
cũng không tránh khỏi mang tính bình quân cào bằng, chưa thực sự thúc đẩy nâng cao
năng lực cạnh tranh của các trường ĐHCL.
3.2.1.2. Đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước
cho các trường đại học công lập
a) Đổi mới quan niệm về hoạt động sự nghiệp và mở rộng nguồn thu ngoài ngân
sách nhà nước
Cùng với việc đổi mới cơ chế tài chính đối với các ĐVSNCL nói chung, các trường
ĐHCL nói riêng, Nhà nước dần mở rộng nội dung các nguồn tài chính của trường ĐHCL
theo hướng tự chủ tài chính nhằm khuyến khích các trường nâng cao năng lực tự chủ và
hướng tới nâng cao chất lượng, phát triển bền vững. Điều này được thể hiện trong các văn
bản quy định cơ chế tự chủ tài chính cho các ĐVSNCL từ Nghị định 10 đến Nghị định 43
và Nghị định 16, được mô tả và so sánh cụ thể qua các giai đoạn ở Phụ lục 3.2. Theo đó,
trong giai đoạn 2003 - 2021, Chính phủ đã có 2 lần đổi mới cơ chế QLTC đối với các
ĐVSNCL, dần mở rộng các nguồn tài chính ngoài NSNN cho các trường ĐHCL theo hướng
nâng cao quyền tự chủ tài chính của các trường. Cụ thể như sau:
96
- Giai đoạn 2003 - 2006: Nghị định 10 được ban hành đã quy định những nguồn
tài chính ngoài NSNN mà các trường ĐHCL có thể huy động gồm có: Phần được để lại
từ số phí, lệ phí thuộc NSNN do đơn vị thu theo quy định; Thu từ hoạt động sản xuất,
cung ứng dịch vụ; Các khoản thu sự nghiệp khác theo quy định của pháp luật (nếu có);
Nguồn khác theo quy định của pháp luật như viện trợ, vay nợ, quà biếu, tặng (nếu có).
- Giai đoạn 2007 - 2015: Nghị định 43 ra đời thay thế cho Nghị định 10, đã quy
định một số nguồn tài chính khác mà trường ĐHCL tự bảo đảm chi phí hoạt động và
trường ĐHCL tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động có thể huy động bao gồm:
Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn huy động của cán bộ, viên chức trong
đơn vị; Nguồn vốn liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
theo quy định của pháp luật. Theo đó, khoản lãi được chia từ các hoạt động liên doanh,
liên kết, lãi tiền gửi ngân hàng được quy định như một nguồn thu sự nghiệp của đơn
vị. Khi Nghị định 16 được ban hành năm 2015, các nguồn tài chính này được quy định
rõ hơn về bản chất khi được xếp loại là các nguồn huy động từ các giao dịch tài chính
của ĐVSNCL có hoạt động dịch vụ. Điều này cho thấy cơ chế tài chính đã dần mở
rộng quyền tự chủ của các trường ĐHCL, không chỉ trong việc huy động nguồn thu
mang tính chất thu nhập, mà còn huy động nguồn tài chính trên thị trường tài chính
đáp ứng nhu cầu phát triển của trường, đưa các trường có khả năng tự chủ cao dần
hướng tới hoạt động như doanh nghiệp.
- Trong thời kỳ 2003 - 2015 (Nghị định 10 và Nghị định 43), nguồn kinh phí thực
hiện các nhiệm vụ do CQNN có thẩm quyền đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát,
nhiệm vụ khác) được xếp vào nguồn NSNN cấp cho các trường ĐHCL trong thực hiện
nhiệm vụ được giao, mang tính chất chỉ huy - chấp hành, chưa được coi là một nguồn thu
từ hoạt động sự nghiệp của đơn vị. Sự ra đời của Nghị định 16 đã chính thức hóa khái
niệm “DVSNC” và “Giá DVSNC”, coi hoạt động sự nghiệp công của các ĐVSNCL nói
chung và các trường ĐHCL nói riêng là một loại “dịch vụ”, và khách hàng sử dụng dịch
vụ bao gồm cả người dân và Chính phủ. Lúc này xuất hiện nguồn thu từ hoạt động
DVSNC theo mức giá được xác định theo quy định của pháp luật, bao gồm cả nguồn
NSNN đặt hàng cung cấp DVSNC theo giá tính đủ chi phí.
- Trước năm 2016, theo quy định của Nghị định 10 và Nghị định 43, chỉ có quy
định về “mức thu” mà chưa có khái niệm “giá DVSNC”. Trong giai đoạn 2016 - 2021,
97
Nghị định 16 đã quy định giá đối với DVSNC có sử dụng kinh phí NSNN và không sử
dụng kinh phí NSNN. Theo Nghị định 16, giá DVSNC không sử dụng kinh phí NSNN
được các ĐVSNCL được xác định theo cơ chế thị trường, bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý,
có tích lũy theo quy định của pháp luật đối với từng lĩnh vực. Tuy nhiên, theo quy định
của mục a, Khoản 1, Điều 9 của Nghị định 16 thì đối với các trường ĐHCL tự bảo đảm
chi thường xuyên và chi đầu tư và các trường ĐHCL tự bảo đảm chi thường xuyên, giá
của dịch vụ đào tạo (mặc dù lúc này là DVSNC không sử dụng kinh phí NSNN) lại chưa
hoàn toàn được xác định theo cơ chế thị trường, mà được xác định theo quy định pháp
luật về giá - cụ thể là quy định về học phí.
b) Đổi mới chính sách học phí nhằm thay đổi cơ cấu nguồn tài chính của giáo dục
đại học công lập
Trong các nguồn tài chính ngoài NSNN của trường ĐHCL, nguồn thu từ học phí
(thu từ đào tạo) là nguồn thu hoạt động sự nghiệp công chiếm tỉ trọng đáng kể (trung bình
khoảng 70% nguồn thu ngoài NSNN theo thống kê từ các trường ĐHCL trong mẫu
nghiên cứu giai đoạn 2012-2021). Về nguyên tắc, học phí là khoản duy nhất mà người
học phải trả để nhận được dịch vụ đào tạo với chất lượng và trình độ mà cơ sở đào tạo đã
cam kết [92].
Nguồn thu này của các trường ĐHCL chịu ảnh hưởng bởi các quy định của chính
sách học phí cho GDĐH qua các thời kỳ. Với xu hướng đại chúng hóa, và do đó cần phải
xã hội hóa GDĐH, việc gia tăng phần “chia sẻ” của người học và gia đình của họ là tất
yếu cùng với việc gia tăng quyền tự chủ tài chính của các trường ĐHCL. Việt Nam cũng
đã có những đổi mới trong chính sách học phí GDĐH trong những năm qua, làm căn cứ
để các trường ĐHCL huy động nguồn tài chính quan trọng này cho hoạt động của mình.
Cụ thể như sau:
Giai đoạn trước năm 1998:
Trước năm 1987, tất cả các sinh viên đại học được trợ cấp hoàn toàn. Trong giai
đoạn này, GDĐH theo cơ chế chỉ huy tập trung, phi thị trường chi phối, các chương trình
GDĐH có mục tiêu đáp ứng nhu cầu lao động của các Bộ cụ thể. Từ 1987 đến 1994, Bộ
GD&ĐT cho phép một số trường ĐHCL tuyển thêm sinh viên, với điều kiện các sinh viên
được tuyển thêm phải trả học phí (đầu vào dựa vào kết quả kì thi đại học). Kể từ năm 1994,
hầu hết sinh viên phải đóng học phí (trừ một số ngành được nhà nước bao cấp). Trước năm
1998, mức học phí cao nhất là 120.000 VND/ tháng.
98
Giai đoạn 1998 - 2009:
Theo Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg ngày 31/3/1998 về việc thu và sử dụng học
phí ở các cơ sở GĐ&ĐT công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân (Quyết định 70),
Chính phủ quy định khung học phí áp dụng cho hệ chính qui tập trung ở cơ sở giáo dục -
đào tạo công lập bậc đại học từ 50.000 đến 180.000 đồng/tháng/sinh viên, và không thay
đổi trong suốt giai đoạn 1998 - 2009 trong khi trong thời gian này Nhà nước đã điều chỉnh
lương tối thiểu 4 lần nên tỷ trọng chi tiền lương cho giáo viên tăng lên tương ứng. Do
vậy, các cơ sở giáo dục thiếu kinh phí cho các hoạt động đào tạo và quản lý nhà trường.
Nhiều trường đại học, cao đẳng tự quy định thêm các khoản thu khác ngoài học phí.
Giai đoạn 2010 - 2015:
Ngày 14/05/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 49/2010/NĐ-CP quy định về
miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở
giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 -
2015 (Nghị định 49). Việc quy định lộ trình học phí 5 năm tại Nghị định này đã giúp
người học chủ động tài chính trong suốt quá trình học tập. Ngày 15/11/2010 Bộ GD&ĐT,
Bộ Tài chính và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư liên tịch số
29/2010/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH hướng dẫn một số điều của Nghị định 49, tạo
điều kiện thuận lợi để các trường triển khai thực hiện. Nghị định này đã giúp tăng nguồn
thu cho các trường, giảm bớt thủ tục hành chính về miễn giảm học phí cho sinh viên.
Về khung học phí, Nghị định 49 đã điều chỉnh đáng kể so với Quyết định 70, đã
có sự phân biệt về khung học phí giữa các ngành nghề đào tạo khác nhau có tính đến suất
đầu tư cho sinh viên, theo đó các trường đại học khối ngành khoa học cơ bản được thu
học phí cao hơn so với đào tạo khối ngành kinh tế (Phụ lục 3.10). Ngoài ra, so với Quyết
định 70, Nghị định 49 đã xây dựng được cơ chế mở đối với việc xác định mức học phí
cho các chương trình chất lượng cao, giúp các trường chủ động hơn trong việc xây dựng
và thực hiện các CTĐT hướng tới chuẩn quốc tế.
Thực tế cho thấy, mức học phí nói trên là rất thấp, không đủ bù đắp chi thưởng
xuyên. Căn cứ vào thẩm tra báo cáo quyết toán hàng năm của các trường thì học phí chỉ
đạt từ 50 - 60% mức chi thường xuyên tối thiểu/sinh viên, đến hết năm 2015 mức thu học
phí chỉ đáp ứng được khoảng 40% - 50% chi phí đào tạo cần thiết. Mức học phí thấp,
99
được áp dụng đồng đều cho các cơ sở GDĐH, không phân biệt cơ sở có thương hiệu, cơ
sở tự đảm bảo và đảm bảo một phần chi phí hoạt động, không theo kịp thời giá và mức
điều chỉnh lương tối thiểu cho NLĐ dẫn đến nhiều trưởng đại học không muốn chuyển
sang mô hình tự đảm bảo chi phí hoạt động vì sẽ mất đi một phần hỗ trợ từ NSNN, hoặc
buộc phải ban hành các khoản thu ngoài quy định, tạo ra sự thiếu công khai, minh bạch
về nguồn thu và sử dụng nguồn thu trong đơn vị.
Giai đoạn 2015 - 2021:
Ngày 02/10/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 86/2015/NĐ - CP quy định về
cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và
chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học
2020 - 2021 (Nghị định 86). Theo Nghị định trên, mức trần học phí được quy định cụ thể
đối với các CTĐT đại trà trình độ đại học tại các cơ sở giáo dục công lập tự bảo đảm kinh
phí chi thường xuyên và chi đầu tư (Phụ lục 3.11), các cơ sở giáo dục công lập chưa tự
bảo đảm kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư, áp dụng theo các khối ngành, chuyên
ngành đào tạo từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021 (Phụ lục 3.12), kể cả các
cơ sở GDĐH được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện thí điểm đổi mới cơ
chế hoạt động giai đoạn 2014 - 2017.
Theo Nghị định 86, học phí đào tạo đại học và giáo dục nghề nghiệp thực hiện theo
phương thức giáo dục thường xuyên áp dụng mức không vượt quá 150% mức thu học phí
so với hệ đào tạo chính quy tương ứng cùng trình độ đào tạo, nhóm ngành, chuyên ngành và
nghề đào tạo theo CTĐT đại trà tại cơ sở GDĐH và giáo dục nghề nghiệp chưa thực hiện tự
chủ chi thường xuyên và chi đầu tư.
Nghị định cũng nêu rõ nguyên tắc xác định học phí. Cụ thể, học phí của các cơ sở
GDĐH, giáo dục nghề nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư theo
quy định của Chính phủ được xác định trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức
chi phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành và lộ trình tính đủ chi phí đào tạo. Còn đối với
các cơ sở GDĐH, giáo dục nghề nghiệp công lập chưa tự bảo đảm chi thường xuyên và chi
đầu tư theo quy định của Chính phủ, học phí được xác định trên cơ sở tính toán có sự cân
đối giữa hỗ trợ của Nhà nước và đóng góp của người học, thực hiện theo lộ trình giảm dần
bao cấp của Nhà nước. Các cơ sở giáo dục phải công bố công khai mức học phí cho cả
khóa học đối với GDĐH, giáo dục nghề nghiệp.
100
Như vậy có thể thấy trong khoảng thời gian hơn 30 năm, chính sách học phí
GDĐH ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi, cùng với tiến trình thay đổi cơ chế tự chủ tài
chính đối với các ĐVSNCL, đổi mới các kiểu cơ cấu học phí từ Học phí do nhà nước
cấp (trước năm 1987) sang Học phí song song (một số sinh viên nằm trong chỉ tiêu
của một số ngành được Nhà nước thay mặt đóng học phí, những sinh viên còn lại trả
một mức học phí tương đối thấp do được nhà nước bao cấp một phần) (từ năm 1987
đến năm 2009), sau đó chuyển sang Học phí kiểu hai bậc (đa số sinh viên trả học phí
theo mức được nhà nước bao cấp một phần, một số sinh viên trả học phí theo giá thị
trường) (giai đoạn 2010-2021). Việc đổi mới chính sách học phí của Việt Nam về cơ
bản đang tuân theo xu hướng đổi mới chung về cơ cấu học phí của các nước trên thế
giới (Xem Hình 2.2).
Việc thay đổi chính sách học phí GDĐH theo xu hướng này về lý thuyết có tác dụng
làm tăng nguồn thu từ đào tạo (thu học phí) của các trường ĐHCL, đồng thời sẽ làm tăng
cả tỷ trọng nguồn thu từ đào tạo trong tổng nguồn thu của các trường. Tuy nhiên, theo tính
toán từ dữ liệu thu thập được từ Báo cáo tự đánh giá phục vụ kiểm định chất lượng và
báo cáo Ba công khai của 17 trường ĐHCL ở Việt Nam trong mẫu nghiên cứu, trong giai
đoạn từ 2012 - 2021 có thể thấy sự gia tăng về nguồn thu từ đào tạo của các trường, cụ
thể giai đoạn 2017-2021 (trung bình 99,39 tỷ đồng/trường/năm) cao hơn so với giai đoạn
2012-2016 (trung bình 81,52 tỷ đồng/trường/năm), nhưng tỷ trọng nguồn thu từ đào tạo
trên tổng nguồn thu của các trường lại có xu hướng giảm nhẹ từ 50,76% (giai đoạn 2012-
2016) xuống 48,94% (giai đoạn 2017-2021) (Bảng 3.2). Nguyên nhân của thực trạng này
cũng xuất phát từ chính sách học phí của Việt Nam trong thời gian này.
Bảng 3.2. Trung bình nguồn thu từ đào tạo và tỷ trọng thu từ đào tạo trên tổng
nguồn thu các trường ĐHCL ở Việt Nam qua các giai đoạn
Trung bình nguồn thu từ đào Tỷ trọng thu từ đào tạo
Giai đoạn tạo 1 trường ĐHCL hằng năm trên tổng nguồn thu các
(tỷ đồng) trường ĐHCL
81,52 50,76% 2012 - 2016
99,39 48,94% 2017 - 2021
(Nguồn: Báo cáo tự đánh giá, Báo cáo ba công khai của các trường ĐHCL)
101
Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có tỷ lệ đóng góp của người học
và gia đình cho GDĐH qua việc đóng học phí là cao so với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Điều này phù hợp với chính sách “chia sẻ chi phí” trong GDĐH bằng việc huy
động sự đóng góp của người học và các tổ chức cá nhân trong xã hội trong chi phí đào tạo.
Việc quy định cơ chế tự chủ cho ĐVSNCL theo Nghị định 16 cùng với lộ trình tính giá
DVSNC có sử dụng kinh phí NSNN, buộc các trường ĐHCL sẽ dần dần phải tiến đến tính
đủ chi phí đào tạo kết cấu trong học phí. Tuy nhiên, chính sách học phí của Việt Nam giai
đoạn này vẫn đang quy định mức trần học phí đối với GDĐH công lập, mặc dù mức trần
học phí có sự điều chỉnh tăng dần qua các năm nhưng nhìn chung còn thấp (khoảng 13% -
25% giai đoạn 2010 - 2015 theo Nghị định 49; và chỉ còn khoảng 10% giai đoạn 2015 -
2021 theo Nghị định 86), chưa tương xứng với chi phí đào tạo thực tế của các nhóm ngành
và các loại hình đào tạo ở bậc đại học. Điều này dẫn đến mâu thuẫn: Nhà nước khuyến
khích các trường ĐHCL nâng cao năng lực tự chủ tài chính nhưng vẫn trói buộc các trường
bằng quy định trần học phí.
Như vậy, trong thời gian qua Nhà nước duy trì mức học phí thấp cho sinh viên,
nhưng đồng thời lại giảm tỷ trọng nguồn NSNN cho GDĐH, điều này khiến cho phần
chi phí đào tạo được “chia sẻ” lên vai trường ĐHCL ngày càng tăng lên, khiến cho các
trường phải nỗ lực tìm cách mở rộng những nguồn thu khác ngoài học phí và nguồn
NSNN cấp để có thể trang trải cho hoạt động của trường. Đây là một động lực nhưng
cũng là một thách thức đối với các trường ĐHCL trong quá trình phát triển, vừa đáp ứng
yêu cầu tự chủ, vừa bảo đảm nâng cao chất lượng GDĐH hiện nay. Đây cũng chính là
nguyên nhân giải thích cho thực trạng được nhắc đến ở trên: mặc dù quy mô thu từ đào
tạo tăng nhưng tỷ trọng thu từ đào tạo trong tổng nguồn thu của các trường ĐHCL có xu
hướng giảm đi.
Một số trường ĐHCL, trong quá trình nỗ lực nhằm chia sẻ chi phí đào tạo, thay vì
tăng nguồn thu từ các dịch vụ sự nghiệp khác, lại cố gắng tăng quy mô tuyển sinh để
trang trải chi phí hoạt động. Tuy nhiên, giải pháp này chỉ có tác dụng khi quy mô nhân
sự của trường không đổi hoặc tăng chậm hơn so với tốc độ tăng quy mô tuyển sinh, chưa
kể việc để tăng quy mô đào tạo thì trong một số trường hợp các trường có thể sẽ phải hạ
thấp điểm tuyển sinh đầu vào. Lúc này, gia tăng quy mô tuyển sinh sẽ ảnh hưởng đến các
yếu tố bảo đảm chất lượng của trường đại học, bao gồm tỷ lệ giảng viên/sinh viên và chất
lượng đầu vào của sinh viên.
102
Dù các trường đại học xoay sở theo cách nào, thì về bản chất, phần gánh nặng chia
sẻ chi phí đặt sang phía trường ĐHCL chính là phần chi phí mà vô hình chung người
giảng viên phải gánh chịu, do thu nhập từ tiền lương không tương xứng với công sức lao
động bỏ ra (cho cả hoạt động giảng dạy, NCKH và các hoạt động dịch vụ sự nghiệp khác
của nhà trường) trong mối tương quan với các ngành nghề khác trong xã hội. Chưa kể
việc duy trì mức học phí thấp dưới mức chi phí đào tạo, mang tính chất bình quân đối với
tất cả các đối tượng sinh viên của các trường ĐHCL, không có sự phân biệt giữa sinh
viên có hoàn cảnh khó khăn, có thu nhập thấp với sinh viên thuộc gia đình trung lưu, có
thu nhập cao. Trong khi đó thực tế cho thấy tỷ lệ sinh viên của các gia đình trung lưu có
thu nhập cao, chiếm tỷ trọng không nhỏ trong các cơ sở GDĐH. Điều này dẫn đến một
thực tế là chính sách học phí thấp của Việt Nam đang “trợ cấp” ngược cho người giàu.
c) Thực trạng đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính ngoài NSNN của các trường
ĐHCL
Trong giai đoạn 2012 - 2021, các trường ĐHCL ở Việt Nam thực hiện tự chủ tài
chính theo Nghị định 43 và Nghị định 16. Quan sát Biểu đồ 3.7, chúng ta thấy với chủ
trương tự chủ đại học và đổi mới cơ chế tự chủ theo hướng mở rộng dần nguồn thu ngoài
NSNN, xu hướng chung của đa số trường ĐHCL là gia tăng nguồn tài chính ngoài NSNN
250,000
250,000
200,000
200,000
150,000
150,000
100,000
100,000
50,000
50,000
-
-
60,000 50,000 40,000 30,000 20,000 10,000 -
2012 2013 2014 2015 2016
2012 2013 2014 2015 2016
2013 2014 2015 2016 2017
TDH LAM NGHIEP
TDH KIEN TRUC HA NOI
TDH LUAT (DAI HOC HUE)
500,000
200,000
250,000
400,000
200,000
150,000
300,000
150,000
100,000
200,000
100,000
50,000
100,000
50,000
-
-
-
2014 2015 2016 2017 2018
20142015 20162017 2018
2018 2019 2020 2021 2022
TDH TRA VINH
TDH NOI VU HA NOI
TDH HAI PHONG
qua các năm.
100,000
80,000
60,000
40,000
20,000
-
38,000 36,000 34,000 32,000 30,000 28,000 26,000
2018 2019 2020 2021
35,000 30,000 25,000 20,000 15,000 10,000 5,000 -
2016 2017 2018 2019 2020
2016 2017 2018 2019 2020
TDH KINH TE VÀ QTKD (DH THAI NGUYEN)
TDH THAI BINH
TDH TAI CHINH QUAN TRI KINH DOANH
200,000
60,000
250,000
200,000
150,000
40,000
150,000
100,000
100,000
20,000
50,000
50,000
-
-
-
2016 2017 2018 2019 2020
2017 2018 2019 2020 2021
2017 2018 2019 2020
TDH KINH TE (DH ĐA NANG)
TDH KHOA HOC (DH THAI NGUYEN)
TDH KHOA HOC XHNV (DHQGHN)
250,000
200,000
200,000
150,000
150,000
100,000
100,000
50,000
50,000
700,000 600,000 500,000 400,000 300,000 200,000 100,000
-
-
2018 2019 2020 2021
-
2017 2018 2019 2020 2021
2017 2018 2019 2020
TDH HONG DUC
TDH NGAN HANG TP HCM
TDH NGOAI THUONG
103
Biểu đồ 3.7. Xu hướng tăng nguồn tài chính ngoài NSNN của các
trường ĐHCL ở Việt Nam
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Báo cáo tự đánh giá của các trường)
Việc gia tăng nguồn tài chính ngoài NSNN qua các năm có thể coi là một xu hướng
tích cực vì đây là điều kiện để các trường gia tăng mức tự chủ. Mặc dù hầu hết các trường
ĐHCL đều nỗ lực mở rộng nguồn thu ngoài NSNN, vẫn có sự khác biệt về tỷ trọng nguồn
tài chính ngoài NSNN và mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên giữa các nhóm
trường phân loại theo vị trí địa lý, định hướng phát triển và tình trạng hiện diện của
ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc trường. Cụ thể như sau:
- Sử dụng kiểm định One-Way ANOVA để phân tích khác biệt trung bình của tỷ
trọng nguồn tài chính ngoài NSNN (NNS) và mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường
xuyên (MTC) giữa các nhóm trường ở vị trí địa lý (VTDL) khác nhau (Phụ lục 3.13), ta
thấy: nhóm trường ĐHCL thuộc 2 vùng đồng bằng châu thổ (Sông Hồng và Sông Cửu
Long) có trung bình tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN (NNS) là 63,3%, nhỏ hơn
104
nhóm trường ở vùng kinh tế khác (trung bình 75,9%). Điều này cũng tất yếu dẫn tới trung
bình mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) của nhóm trường thuộc 2 vùng
đồng bằng (74,3%) thấp hơn nhóm trường ở các vùng kinh tế khác (88,3%). Thực tế này
cho thấy, mặc dù quy mô nguồn tài chính ngoài NSNN của các trường nói chung đều có
xu hướng tăng lên, thì dường như các trường ĐHCL ở các vùng có vị trí địa lý thuận lợi
hơn ít phải nỗ lực hơn trong việc gia tăng tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN, xuất
phát từ nguyên nhân là: các trường ĐHCL ở vùng địa lý thuận lợi không chỉ dễ dàng gia
tăng quy mô nguồn tài chính ngoài NSNN mà còn dễ dàng trong thu hút nguồn NSNN
cấp cho các trường.
- Sử dụng kiểm định One-Way ANOVA để phân tích khác biệt trung bình của tỷ
trọng nguồn tài chính ngoài NSNN (NNS) và mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên
(MTC) giữa các nhóm trường có định hướng phát triển (DHPT) khác nhau (Phụ lục 3.14),
ta thấy: nhóm trường ĐHCL có định hướng phát triển Nghiên cứu và Ứng dụng (NC_UD)
có trung bình tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN (NNS) là 85,1%, cao gấp 1,37 lần
nhóm trường theo định hướng ứng dụng (UD) (trung bình 75,9%). Bởi vậy, trung bình mức
tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) của nhóm trường (NC_UD) (103,6%) cũng
cao gấp 1,46 lần nhóm trường (UD) (trung bình 70,9%). Thực tế này có thể là do các trường
ĐHCL theo định hướng NC_UD có hoạt động NCKH mạnh hơn, do đó nguồn thu từ
chuyển giao công nghệ, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh sẽ cao hơn
các trường không có định hướng nghiên cứu. Nhìn từ góc độ này có thể thấy ưu thế của
các trường có định hướng nghiên cứu trong khả năng mở rộng nguồn tài chính ngoài NSNN
để nâng cao năng lực tự chủ của mình.
- Sử dụng kiểm định One-Way ANOVA để phân tích khác biệt trung bình của
tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN (NNS) và mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường
xuyên (MTC) giữa các nhóm trường có và không có ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực
thuộc (Phụ lục 3.15), ta thấy: nhóm trường có ĐVSX-DV-CGCN có trung bình tỷ
trọng nguồn tài chính ngoài NSNN (NNS) là 77,2%, cao gấp 1,32 lần nhóm trường
không có ĐVSX-DV-CGCN (trung bình 58,6%). Điều này cũng tất yếu dẫn tới trung
bình mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) của nhóm trường có ĐVSX-
DV-CGCN (94,8%) cao gấp 1,48 lần nhóm trường không có ĐVSX-DV-CGCN (trung
bình 63,9%). Như vậy, có thể thấy rằng sự hiện diện của các ĐVSX-DV-CGCN thuộc
105
và trực thuộc cho thấy trường ĐHCL đã có sự quan tâm và chiến lược chuyên môn
hóa trong hoạt động sản xuất, cung cấp dịch vụ cũng như chuyển giao công nghệ, từ
đó có thể gia tăng năng suất và hiệu quả của những hoạt động này, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc gia tăng nguồn thu ngoài NSNN và mức tự chủ của các trường.
3.2.2. Thực trạng đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính
Để thấy rõ được xu hướng đổi mới trong quản lý sử dụng nguồn tài chính đối với
các trường ĐHCL ở Việt Nam, tác giả đã lập bảng so sánh các nội dung quy định liên
quan đến vấn đề này (nội dung chi, quyền của ĐVSNCL về mức chi, phương thức chi)
qua các giai đoạn thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các ĐVSNCL theo Nghị định
10, Nghị định 43 và Nghị định 16 (Phụ lục 3.3). Từ so sánh này, có thể nhận định về đổi
mới quản lý sử dụng nguồn tài chính các trường ĐHCL theo 2 nguồn chính là nguồn NSNN
cấp và nguồn tài chính ngoài NSNN như sau:
- Thứ nhất, đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN:
Cùng với quá trình đổi mới quản lý phân bổ nguồn NSNN cho giáo dục ĐHCL
ở Việt Nam giai đoạn thực hiện cơ chế tự chủ 2003 - 2021 từ mô hình thương lượng
(Negotiated Funding) kết hợp với mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu
ra (Output-based Formula Funding) (giai đoạn 2003 - 2015, Nghị định 10 và Nghị
định 43), sang mô hình mới có sự kết hợp mô hình thương lượng (Negotiated
Funding) với mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu ra (Output-based
Formula Funding) và mô hình tài trợ dựa trên hiệu suất (Performance-based
Funding Model) (giai đoạn 2016 - 2021, Nghị định 16), cơ chế quản lý sử dụng
nguồn tài chính do NSNN cấp cho các trường ĐHCL cũng có sự đổi mới tương ứng,
phù hợp với xu hướng đổi mới chung trên thế giới (Xem Hình 2.3). Cụ thể, việc
quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN đối với các trường ĐHCL ở Việt Nam có
sự chuyển đổi từ mô hình kết hợp giữa Nhà nước kiểm soát và Nhà nước giám sát
(giai đoạn 2003 - 2015) sang theo đuổi mô hình “Quản lý công mới” (là sự kết hợp
của mô hình Nhà nước kiểm soát với mô hình Dựa vào thị trường) (giai đoạn 2016
- 2021), thể hiện ở Bảng 3.3 sau:
106
Bảng 3.3. Đổi mới mô hình quản lý sử dụng nguồn tài chính các trường ĐHCL ở
Việt Nam khi thực hiện cơ chế tự chủ tài chính
Giai đoạn 2003 - 2015 Giai đoạn 2016 - 2021
(Nghị định 10 và Nghị định 43) (Nghị định 16)
- Nhà nước quy định chi tiết các nội dung chi từ NSNN thuộc chi thường
xuyên, chi không thường xuyên, chi đầu tư. Tuy nhiên, Nghị định 16 quy
định các nội dung chi rõ ràng chi tiết hơn, gọi tên đúng bản chất kinh tế hơn Đều
(xuất hiện khái niệm “Chi đầu tư”), chỉ rõ cụ thể nguồn tài chính sử dụng mang
cho từng nội dung chi. đặc
- Nhà nước quy định mức chi cho một số nội dung có sử dụng nguồn NSNN điểm
cấp như: chi tiền lương (dựa vào lương cấp bậc, chức vụ do Nhà nước quy của mô
định, hoặc đơn giá tiền lương trong đơn giá sản phẩm được cơ quan có thẩm hình
quyền phê duyệt, hoặc dựa vào chế độ tiền lương trong doanh nghiệp nhà “Nhà
nước...), đơn giá sản phẩm dịch vụ do Nhà nước đặt hàng; các tiêu chuẩn, nước
định mức kinh tế - kỹ thuật để xác định mức chi cho các nội dung cụ thể... kiểm
soát” - Nhà nước vẫn giữ vai trò định hướng, quản lý vĩ mô.
- Nhà nước vẫn xem xét cấp bù nguồn kinh phí còn thiếu cho các trường có
mức tự chủ thấp trong một số trường hợp.
Kết hợp với Kết hợp với
“Nhà nước giám sát” “Dựa vào thị trường”
- Nhà nước chủ yếu kiểm soát kết - Tăng cường chức năng quản lý
quả đầu ra, các trường ĐHCL được bên trong nhà trường:
trao quyền (ở các mức độ khác nhau) + Trường ĐHCL tự bảo đảm CTX và
trong việc: chi đầu tư (CĐT) được chủ động xây
Đổi mới + Quyết định các tỷ lệ chi và mức chi dựng danh mục các dự án đầu tư,
cụ thể cho một sô hoạt động của đơn quyết định dự án đầu tư trên cơ sở
vị mình (hoạt động chuyên môn, danh mục dự án đầu tư đã được phê
quản lý, chi thu nhập tăng thêm...); duyệt;
+ Quyết định phương thức chi: khoán + Trường ĐHCL được chủ động sử
dụng các nguồn tài chính giao tự chi cho các đơn vị trực thuộc...
chủ, trong đó có của nguồn hỗ trợ từ - Nhà nước khuyến khích sự tự chủ
107
Giai đoạn 2003 - 2015 Giai đoạn 2016 - 2021
(Nghị định 10 và Nghị định 43) (Nghị định 16)
NSNN để chi thường xuyên; của các trường bằng cách trao
quyền: + Trường ĐHCL tự bảo đảm tiền
+ Tự đảm bảo tiền lương tăng thêm lương tăng thêm từ nguồn thu của
cho NLĐ trong trường hợp NN có đơn vị trong trường hợp Nhà nước
điều chỉnh tiền lương từ nguồn thu sự điều chỉnh tiền lương;
nghiệp và các nguồn tài chính hợp + Trường ĐHCL được quyết định
pháp khác; mức chi hoạt động chuyên môn quản
+ Quyết định mua sắm, sửa chữa lớn lý cao hơn hoặc thấp hơn định mức
do CQNN có thẩm quyền ban hành tài sản theo quy định của pháp luật...
và quy định trong quy chế chi tiêu
nội bộ (có khống chế mức tối đa đối
với Trường ĐHCL có mức tự chủ
thấp: tự bảo đảm 1 phần hoặc chưa
tự bảo đảm CTX)
- Hợp đồng hóa quan hệ giữa Nhà
nước và nhà trường, đánh giá mục
tiêu và chỉ số thực hiện: NN đặt
hàng Trường ĐHCL cung cấp các
DVSNC theo giá tính đủ chi phí, tập
trung vào hiệu suất và chất lượng.
- Nhà nước theo đuổi chính sách
phát triển giá thành tính đủ chi phí
theo lộ trình cụ thể, để từ đó các hợp
đồng nghiên cứu, hợp đồng dịch vụ
hướng tới trao đổi theo giá thị
trường.
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
108
- Thứ hai, đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính ngoài NSNN: Cùng với việc
đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN vào các mục đích chi khác nhau, trong
đó có chi thường xuyên, thì các ĐVSNCL nói chung và các trường ĐHCL nói riêng nếu
xác định phương án tự chủ càng cao thì càng có quyền tự chủ cao trong việc quyết định
mức chi tiền lương, các khoản chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý. Sự đổi mới trong
cơ chế như vậy sẽ tạo hành lang cho các trường ĐHCL có thể tự điều chỉnh cơ cấu chi
của mình sao cho phù hợp với yêu cầu của Nhà nước trong việc nâng cao mức tự chủ
cũng như đảm bảo chất lượng GDĐH. Việc tìm ra cơ cấu chi của phù hợp của các trường
với những đặc điểm nội tại khác nhau có thể được gợi ý từ việc phân tích những chỉ tiêu
phản ánh đổi mới cơ cấu chi của các trường và tác động của chúng tới mức tự chủ và tới
chất lượng của trường đại học. Tuy nhiên, cơ cấu chi của các trường còn phụ thuộc một
phần vào cơ chế của Nhà nước về quản lý phân phối kết quả tài chính trong năm, bởi nó
có tác động đến cơ cấu chi cho con người (mang tính chất thu nhập) và chi cho đầu tư
phát triển của đơn vị. Vì vậy, trước khi xem xét đánh giá thực tế kết quả đổi mới quản lý
sử dụng nguồn tài chính thông qua cơ cấu chi của các trường, ta cần có cái nhìn tổng quan
về thực trạng đổi mới quản lý phân phối kết quả tài chính các trường ĐHCL qua phân
tích dưới đây.
3.2.3. Thực trạng đổi mới quản lý phân phối kết quả tài chính
Để đánh giá sự đổi mới trong quản lý phân phối kết quả tài chính của các trường
ĐHCL ở Việt Nam qua các giai đoạn, tác giả tiến hành so sánh quy định của Chính phủ
đối với quá trình này trong các văn bản quy định cơ chế tự chủ tài chính của các ĐVSNCL
qua các giai đoạn: Nghị định 10, Nghị định 43 và Nghị định 16 (Xem Phụ lục 3.4). Kết
quả so sánh cho thấy, cơ chế phân phối kết quả tài chính để trích lập các quỹ của ĐVSNCL
nói chung và của trường ĐHCL nói riêng được đổi mới qua các giai đoạn cụ thể như sau:
109
Bảng 3.4. Đổi mới quản lý phân phối kết quả tài chính các trường ĐHCL ở Việt
Nam qua các giai đoạn thực hiện cơ chế tự chủ tài chính
Thứ tự ưu 1 2 3 4 5 tiên
Nghị định Quỹ tiền Quỹ Dự phòng Quỹ Phát Quỹ Khen 10 lương, tiền ổn định thu triển hoạt thưởng và động sự nhập. (2002 – công Phúc lợi nghiệp 2006)
ĐVSNCL ≤ 2,5 lần mức tiền
lương tối tự bảo đảm chi phí
X X X thiểu chung
ĐVSNCL ≤ 2 lần mức
tự bảo đảm tiền lương
1 phần chi tối thiểu
phí chung
Nghị định Quỹ phát Quỹ Khen Quỹ dự Thu nhập tăng 43 triển hoạt thưởng và phòng ổn thêm (2007- động sự Phúc lợi định thu
2015) nghiệp nhập.
ĐVSNCL
tự bảo đảm X ≤ 3 tháng chi phí hoạt tiền lương, động: tiền công và Tổng mức thu
thu nhập tăng thêm ≥ 25% kết quả tài chính
X
bình quân thực hiện trong năm. ĐVSNCL tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động
nhập ≤ 3 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm do NN quy định
ĐVSNCL do NSNN Tổng quỹ tiền lương thực tế Không trích Không trích
đảm bảo lập ≤2 lần quỹ tiền lập
toàn bộ lương cấp bậc,
110
Thứ tự ưu 1 2 3 4 5 tiên
chức trong năm kinh phí
do NN quy hoạt động
định
Quỹ khen Nghị định Quỹ phát Quỹ
16 triển hoạt Quỹ bổ sung phát Quỹ khác thưởng và Quỹ phúc (2016- động sự thu nhập triển lợi 2021) nghiệp HĐSN
ĐVSNCL
tự bảo đảm X ≤ 3 tháng CTX và tiền lương, CĐT tiền công Phần ≥25% ≤ 3 lần quỹ tiền thực hiện chênh lương ngạch, ĐVSNCL trong năm lệch thu bậc, chức vụ và tự bảo đảm của đơn vị lớn hơn các khoản phụ CTX chi còn cấp lương do lại (nếu NN quy định. có) sau ≤ 2 tháng ≤ 2 lần quỹ tiền Theo quy tiền lương, khi đã trích lập lương ngạch, ĐVSNCL tiền công các quỹ tự bảo đảm ≥ 15% bậc, chức vụ và định của pháp luật thực hiện
các khoản phụ cấp lương do 1 phần CTX trong năm của đơn vị NN quy định.
Không quy ≤ 1 lần quỹ tiền lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp lương do ≤ 1 tháng tiền lương, tiền công thực hiện ĐVSNCL do Nhà nước bảo ≥5% định Nhà nước quy trong năm đảm CTX
định. của đơn vị
(Chú thích: X là không khống chế mức trích lập) (Nguồn: Tác giả tổng hợp)
111
- Trước hết là đổi mới về thứ tự ưu tiên trích lập các quỹ: Có sự đổi mới từ Nghị
định 10 ưu tiên việc chi trả thu nhập cho NLĐ (Quỹ tiền lương, tiền công; Quỹ Dự phòng
ổn định thu nhập, Quỹ Khen thưởng và Phúc lợi), chưa ưu tiên Quỹ Phát triển hoạt động
sự nghiệp vì thứ tự trích lập để sau cùng; sang Nghị định 43 đã ưu tiên trích lập Quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp đầu tiên (bắt đầu khống chế mức trích lập tối thiểu), sau đó mới
chi trả Thu nhập tăng thêm, trích lập Quỹ Khen thưởng, Phúc lợi (có khống chế mức tối
đa) và Quỹ dự phòng ổn định thu nhập. Sau cùng, Nghị định 16 vẫn duy trì việc ưu tiên
phân phối kết quả tài chính vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp (khống chế mức trích
tối thiểu cho từng mức độ tự chủ tài chính) rồi mới đến các quỹ liên quan đến thu nhập
của NLĐ (Quỹ bổ sung thu nhập, Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi) (có khống chế mức
tối đa cụ thể cho từng mức tự chủ) và các quỹ khác theo quy của pháp luật, Phần chênh
lệch thu lớn hơn chi còn lại (nếu có) sau khi đã trích lập các quỹ lại tiếp tục được ưu tiên
bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.
Điều này cho thấy Nhà nước đã đổi mới cơ chế nhằm định hướng các ĐVSNCL
dần chuyển sang chú trọng đến việc tích lũy để đầu tư phát triển hoạt động sự nghiệp, ưu
tiên hơn việc nâng cao thu nhập cho NLĐ, mặc dù 2 nội dung này đều có ý nghĩa quan
trọng cho sự ổn định và phát triển của đơn vị. Trong trường hợp kết quả tài chính trong
năm của đơn vị là thấp, thì Nhà nước cho phép đơn vị ưu tiên chi bổ sung thu nhập để ổn
định đời sống cho NLĐ.
- Thứ hai là đổi mới về biên độ khống chế mức trích lập các quỹ: Nghị định 43 đã
quy định thêm mức trích lập tối thiểu với Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, tối đa với
các quỹ tiền lương thực tế, Quỹ Khen thưởng và Phúc lợi. Đến Nghị định 16, các mức
khống chế này đã được quy định cụ thể cho từng mức độ tự chủ khác nhau của các
ĐVSNCL, trong đó có trường ĐHCL.
Những đổi mới nêu trên là phù hợp với xu hướng chung khi Chính phủ các nước
có chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa GDĐH công lập trong bối cảnh đại chúng hóa tiến
tới phổ cập hóa GDĐH nhằm mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế.
Và việc phân phối kết quả tài chính trong năm của các trường ĐHCL đã tạo ra thêm
một nguồn tài chính để nâng cao đời sống NLĐ và tái đầu tư cho phát triển hoạt động
sự nghiệp của trường đại học, và do đó sẽ góp phần làm thay đổi cơ cấu sử dụng nguồn
tài chính vào các mục đích chi của các trường, hướng tới những mục tiêu và yêu cầu cụ
112
thể trong từng giai đoạn, đặc biệt là đáp ứng yêu cầu của cơ chế tự chủ và đảm bảo chất
lượng GDĐH.
Từ những đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính và quản lý phân phối kết
quả tài chính, Chính phủ đã tạo ra môi trường cơ chế chính sách thuận lợi để các
ĐVSNCL nói chung và các trường ĐHCL nói riêng trong việc quyết định cơ cấu chi của
mình, các trường ĐHCL ở Việt Nam đã có những kết quả nhất định trong việc thực hiện
những đổi mới này của Chính phủ. Trước hết, có thể xem xét xu hướng thay đổi cơ cấu
chi của các trường giữa hai giai đoạn trước và sau khi thực hiện Nghị định 16, khi phân
tích số liệu thu thập được từ Báo cáo tự đánh giá và Báo cáo ba công khai của các trường
trong mẫu nghiên cứu.
Bảng 3.5. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL ở 2 giai đoạn
thực hiện cơ chế tự chủ
ĐVT: Triệu đồng/năm
Giai đoạn Tỷ trọng Giai đoạn Tỷ trọng Thay đổi
2012 - 2016 bình quân 2017 - 2021 bình quân tỷ trọng
CCN 62.005,78 40,50% 68.820,41 42,34% 1,83%
CMQL 39.157,66 25,58% 49.917,70 30,71% 5,13%
CHI_SV 3.041,79 1,99% 4.828,71 2,97% 0,98%
PVCD 5.063,23 3,31% 3.183,31 1,96% -1,35%
NCKH 7.981,36 5,21% 11.431,55 7,03% 1,82%
NNL 1.539,37 1,01% 1.425,99 0,88% -0,13%
CSVC 26.823,86 17,52% 13.843,22 8,52% -9,01%
CHI_KHAC 7.481,40 4,89% 9.106,42 5,60% 0,72%
Tổng chi 153.094,43 100,00% 162.557,31 100,00%
(Nguồn: Báo cáo tự đánh giá và Báo cáo ba công khai của các trường ĐHCL thuộc mẫu nghiên cứu)
113
4.89%
5.60%
CCN
0.88%
CMQL
8.52%
1.96%
1.01% 17.52%
CHI_SV
7.03%
40.50%
42.34%
PVCD
5.21%
NCKH
NNL
2.97%
30.71%
CSVC
3.31% 1.99%
25.58%
CHI_KHAC
Giai đoạn 2012 - 2016 Giai đoạn 2017 - 2022
Biểu đồ 3.8. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL ở 2 giai đoạn thực hiện
cơ chế tự chủ (Nguồn: Số liệu tính toán của tác giả từ mẫu nghiên cứu)
Quan sát Bảng 3.5 và Biểu đồ 3.8 có thể đánh giá cơ cấu chi của các trường ĐHCL
qua hai giai đoạn có đặc điểm sau: Chi cho con người (CCN) chiếm tỷ trọng nhiều nhất
(40,5% và 42,34%), sau đó đến Chi cho chuyên môn, quản lý (CMQL) (25,58% và
30,71%), Chi cho CSVC (CSVC) (17,52% và 8,52%), Chi cho NCKH (NCKH) (5,21%
và 7,03%). Các nội dung chi có cơ cấu tương đối nhỏ gồm Chi PVCĐ (PVCĐ) (3,31%
và 1,96%), Chi cho sinh viên (CHI_SV) (1,99% và 2,97%) và Chi phát triển nguồn nhân
lực (NNL) (1,01% và 0,88%). Như vậy có thể nói là tỷ trọng các khoản chi mang tính
chất thu nhập của NLĐ và chi cho hoạt động chuyên môn quản lý của các trường ĐHCL
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu chi (khoảng 70% tổng chi của đơn vị).
Tỷ trọng các nội dung chi có xu hướng tăng lên gồm có: Tăng nhiều nhất là tỷ
trọng chi cho chuyên môn quản lý (tăng 5,13%), tiếp đó tăng nhẹ là chi cho con người
(tăng 1,83%), chi cho NCKH (tăng 1,82%), chi cho sinh viên (tăng 0,98%) và chi khác
(tăng 0,72%). Tỷ trọng các nội dung chi có xu hướng giảm đi gồm có: Giảm nhiều nhất
là tỷ trọng chi cho CSVC (giảm 9,01%), sau đó là tỷ trọng chi cho PVCĐ (giảm 1,35%)
và chi cho phát triển nguồn nhân lực (giảm 0,13%). Từ xu hướng tăng giảm tỷ trọng chi
tiêu của các trường ĐHCL, có thể cho chúng ta phán đoán rằng, giai đoạn trước năm 2016
Nhà nước và các trường ĐHCL có sự ưu tiên và chú trọng nhiều hơn đến chi cho đầu tư
phát triển (chi cho CSVC) và chi cho phát triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn sau năm
2016 khi mà quy mô và chất lượng của CSVC và NNL dần ổn định hơn, thì các trường
114
chăm lo nhiều hơn đến thu nhập của NLĐ (chi cho con người), đồng thời tỷ trọng chi cho
chuyên môn quản lý và chi cho sinh viên có xu hướng tăng cũng phù hợp với xu hướng
chung là tăng quy mô đào tạo của hầu hết các trường.
a) Khác biệt về cơ cấu chi của 2 nhóm trường phân loại theo vị trí địa lý:
Bảng 3.6. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL phân loại theo vị trí địa lý ĐVT: Triệu đồng/năm
Thuộc
Thuộc
So sánh quy
vùng ĐBSH
Tỷ trọng
vùng kinh
Tỷ trọng
mô chi
và SCL
bình quân
tế khác
bình quân
DB/KHAC
(DB)
(KHAC)
(lần)
CCN
82.516,86
43,62%
41.040,97
36,70%
2,01
CMQL
50.692,38
26,79%
39.543,78
35,36%
1,28
CHI_SV
4.318,83
2,28%
4.131,42
3,69%
1,05
PVCD
5.516,99
2,92%
1.030,37
0,92%
5,35
NCKH
13.977,59
7,39%
4.415,03
3,95%
3,17
NNL
1.590,07
0,84%
1.258,68
1,13%
1,26
CSVC
22.037,53
11,65%
11.696,55
10,46%
1,88
0,98
CHI_KHAC
8.542,99
4,52%
8.707,99
7,79%
Tổng chi
189.193,22
100,00%
111.824,79
100,00%
1,69
bình quân
(Nguồn: Báo cáo tự đánh giá và Báo cáo ba công khai của các trường ĐHCL
thuộc mẫu nghiên cứu)
Quan sát Bảng 3.6 ta thấy, quy mô chi bình quân của các trường ĐHCL ở hai vùng
đồng bằng châu thổ Sông Hồng và Sông Cửu Long (189.193,22 triệu đồng/năm) cao hơn
hẳn (gấp 1,69 lần) so với các trường ở các vùng kinh tế khác (111.824,79 triệu đồng/năm),
theo đó, quy mô chi cho con người của các trường thuộc vùng đồng bằng cũng cao gấp
2,01 lần; chi cho chuyên môn quản lý cao gấp 1,28 lần; chi cho CSVC cao gấp 1,88 lần;
đặc biệt chi cho PVCĐ cao cấp 5,35 lần; chi cho NCKH cao gấp 3,17 lần so với các
trường ở vùng khác.
Điều này xuất phát từ nguyên nhân là quy mô của các trường ĐHCL ở các vùng
đồng bằng thường lớn hơn các ở các vùng khác, dẫn đến quy mô chi các hoạt động thường
xuyên (như chi tiền lương và thu nhập, chi chuyên môn quản lý) và chi cho đầu tư xây
115
dựng cơ bản, tăng cường CSVC của các trường cũng cao hơn tương ứng. Hơn thế, chi cho
NCKH của các trường ở vùng đồng bằng cao hơn rất nhiều so với ở vùng khác, xuất phát
từ 2 nguyên nhân: thứ nhất, phân bổ NSNN cho hoạt động NCKH của các trường thông
qua các đề tài khoa học cấp Bộ trở lên có phần ưu tiên hơn cho các trường ở vùng đồng
bằng; thứ hai, bản thân các trường ĐHCL ở hai vùng đồng bằng có điều kiện để thành lập
các nhóm nghiên cứu mạnh từ đội ngũ nhân lực hung hậu hơn, và môi trường NCKH của
các trường ở đây cũng năng động hơn do cần đáp ứng nhu cầu của thị trường và điều kiện
phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Ngoài ra, chi cho hoạt động PVCĐ cao gấp 5.35
lần chứng tỏ các trường ở vùng đồng bằng có nhiều cơ hội hơn trong việc phát huy vai trò
và trách nhiệm xã hội của mình, xuất phát từ những thuận lợi của vị trí địa lý trong việc
kết nối, huy động nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực cho hoạt động PVCĐ so với các
trường ở vùng khác.
Khác
Đồng bằng
4.52%
1.13%
CCN
7.79%
CMQL
0.84%
11.65%
10.46%
3.95% 0.92%
CHI_SV
36.70%
7.39%
43.62%
PVCD
3.69%
NCKH
NNL
2.92%
2.28%
CSVC
26.79%
35.36%
CHI_KHAC
Biểu đồ 3.9. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL phân loại theo vị trí địa
lý (Nguồn: Số liệu tính toán của tác giả từ mẫu nghiên cứu)
Xét về cơ cấu chi (Biểu đồ 3.9), tỷ trọng chi cho con người của các trường ĐHCL
ở hai vùng đồng bằng Sông Hồng và Sông Cửu Long (43,62%) cao hơn 6,91% so với các
trường ở vùng khác (36,70%). Bù lại, các trường ở vùng khác lại có tỷ trọng chi cho hoạt
động chuyên môn quản lý (35,36%) cao hơn 8,57%; tỷ trọng chi cho sinh viên (3,69%)
cao hơn 1,41%; tỷ trọng chi cho phát triển nguồn nhân lực (1,13%) cao hơn 0,29% so với
các trường ở hai vùng đồng bằng. Như vậy có thể nói, với quy mô chi nhỏ hơn, các trường
ở vùng vị trí địa lý ít thuận lợi hơn có xu hướng phải ưu tiên cho cho các hoạt động
chuyên môn quản lý nhiều hơn là chi các khoản mang tính chất thu nhập (chi cho con
116
người). Điều này cũng có thể được giải thích bằng việc các trường ở vị trí địa lý thuận
lợi sẽ có kết quả tài chính trong năm cao hơn so với các trường ở vùng khác, là điệu kiện
cần để có thể phân phối kết quả tài chính đó vào Quỹ tiền lương tăng thêm cho NLĐ, và
do đó quy mô và tỷ trọng chi cho con người của các trường ở đây cao hơn rõ rệt.
Bên cạnh đó, do đặc thù vị trí địa lý nên số sinh viên có hoàn cảnh khó khăn sẽ tập
trung nhiều hơn ở các trường có vị trí địa lý kém thuận lợi hơn (do chi phí sinh hoạt thấp
hơn), dẫn đến tỷ trọng chi cho sinh viên (chủ yếu là nguồn cấp bù hỗ trợ học phí từ
NSNN) ở các vùng kinh tế khác cao hơn so với các trường ở hai vùng đồng bằng. Ngoài
ra, Chính phủ cũng ưu tiên phân bổ NSNN cho bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ
nguồn nhân lực của các trường ở vùng vị trí địa lý ít thuận lợi hơn, nên tỷ trọng chi cho phát
triển NNL của các trường này cao hơn các trường có vị trí địa lý thuận lợi. Ở góc độ này
cho thấy cơ cấu chi của các trường ở các vùng địa lý khác nhau là khá phù hợp với điều kiện
thực tế cũng như trình độ phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
b) Khác biệt về cơ cấu chi của 2 nhóm trường phân loại theo định hướng phát triển:
Bảng 3.7. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL phân loại theo định hướng
phát triển
ĐVT: Triệu đồng/năm
Tỷ trọng Nghiên cứu - Tỷ trọng So sánh Ứng dụng bình quân Ứng dụng bình quân tỷ trọng
CCN 60.697,71 38,24% 82.773,46 51,57% 13,33%
CMQL 46.084,20 29,04% 47.318,96 29,48% 0,45%
CHI_SV 4.488,84 2,83% 3.584,26 2,23% -0,60%
PVCD 4.529,69 2,85% 1.784,01 1,11% -1,74%
NCKH 10.500,37 6,62% 9.781,96 6,09% -0,52%
NNL 1.052,09 0,66% 2.588,19 1,61% 0,95%
CSVC 20.291,86 12,78% 11.982,09 7,47% -5,32%
CHI_KHAC 11.074,44 6,98% 688,59 0,43% -6,55%
Tổng chi 158.719,19 100,00% 160.501,52 100,00% bình quân
(Nguồn: Báo cáo tự đánh giá và Báo cáo ba công khai của các trường ĐHCL
thuộc mẫu nghiên cứu)
117
1.61%
0.43%
CCN
6.09%
6.98%
7.47%
CMQL
1.11% 2.23%
0.66% 12.78%
CHI_SV
38.24%
PVCD
6.62%
51.57%
NCKH
2.85%
29.48%
NNL
2.83%
CSVC
29.04%
CHI_KHAC
Nghiên cứu - Ứng dụng Ứng dụng
Biểu đồ 3.10. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL theo định hướng phát triển (Nguồn: Số liệu tính toán của tác giả từ mẫu nghiên cứu)
Quan sát Bảng 3.7 và Biểu đồ 3.10 ta thấy tổng quy mô chi bình quân không có
nhiều chênh lệch giữa hai nhóm trường: theo định hướng ứng dụng (UD) (158.719,19
triệu đồng/năm) và theo định hướng nghiên cứu - ứng dụng (NC_UD) (160.501,52 triệu
đồng/năm). Điều đáng chú ý ở đây là quy mô chi cho con người (CNN) của các trường
theo định hướng NC_UD (82.773,46 triệu đồng/năm) cao gấp 1,36 lần so với chỉ tiêu này
ở các trường theo định hướng UD (60.697,71 triệu đồng/năm). Về mặt tỷ trọng thì chi
cho con người của các trường NC_UD là 51,57% cao hơn 13,33% so với các trường UD,
chủ yếu bù đắp cho phần ít hơn trong tỷ trọng chi cho CSVC (ít hơn 5,32%) và tỷ trọng
chi khác (ít hơn 6,55%) so với các trường UD. Như vậy, với tỷ trọng chi cho con người
rất lớn, trên 50% tổng cơ cấu chi, các trường ĐHCL theo định hướng NC_UD cho thấy
hiệu quả tài chính cao hơn hẳn so với các trường chỉ thuần theo định hương UD, có nghĩa
là với kết quả tài chính cao hơn, các trường NC_UD có điều kiện để phân phối cho thu
nhập tăng thêm của NLĐ nhiều hơn, do đó cải thiện thu nhập cho NLĐ tốt hơn các trường
chỉ có định hướng UD. Điều này có thể cho chúng ta một nhận định về tầm quan trọng
của việc chú trọng cho hoạt động NCKH trong trường đại học, và nó dường như là yếu
tố then chốt cho sự phát triển bền vững của các trường.
118
c) Khác biệt về cơ cấu chi của 2 nhóm trường có hoặc không có sự hiện diện của
ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc
Quan sát Bảng 3.8 và Biểu đồ 3.11 ta thấy quy mô chi bình quân của các
trường có ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc (193.928,07 triệu đồng/năm), cao
gấp 1,58 lần so với các trường không có sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN
(122.804,50 triệu đồng/năm), trong đó, chi cho con người cao gấp 1,44 lần. Điều này
cho thấy, bản thân các trường có ĐVSX-DV-CGCN thường có quy mô lớn, nên quy
mô chi tiêu thường lớn hơn hẳn các trường không có ĐVSX-DV-CGCN, bởi vậy,
mặc dù tỷ trọng chi cho con người là 40,41%, thấp hơn so với các trường không có
ĐVSX-DV-CGCN (44,2%) nhưng quy mô chi cho con người của các trường có
ĐVSX-DV-CGCN lại lớn hơn rất nhiều.
Bảng 3.8. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL có hoặc không có ĐVSX-
DV-CGCN thuộc và trực thuộc
ĐVT: Triệu đồng/năm
So sánh Tỷ trọng Tỷ trọng Có Không quy mô bình quân bình quân Có/Không
CCN 78.367,62 40,41% 54.275,49 44,20% 1,44
CMQL 56.834,97 29,31% 35.497,67 28,91% 1,60
CHI_SV 5.610,39 2,89% 2.818,52 2,30% 1,99
PVCD 6.497,46 3,35% 964,62 0,79% 6,74
NCKH 14.807,64 7,64% 5.594,57 4,56% 2,65
NNL 1.846,73 0,95% 1.060,81 0,86% 1,74
CSVC 24.103,77 12,43% 11.747,83 9,57% 2,05
CHI_KHAC 5.859,50 3,02% 10.844,98 8,83% 0,54
Tổng chi 193.928,07 100,00% 122.804,50 100,00% 1,58 bình quân
(Nguồn: Báo cáo tự đánh giá và Báo cáo ba công khai của các trường ĐHCL
thuộc mẫu nghiên cứu)
119
Không
Có
CCN
3.02%
CMQL
8.83%
CHI_SV
0.86% 9.57%
0.95% 12.43% 3.35%
PVCD
4.56%
40.41%
7.64%
44.20%
NCKH
NNL
2.89%
28.91%
CSVC
29.31%
0.79%
2.30%
CHI_KHAC
Biểu đồ 3.11. Cơ cấu chi bình quân của các trường ĐHCL có hoặc không có
ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc khi thực hiện cơ chế tự chủ (Nguồn: Số liệu tính toán của tác giả từ mẫu nghiên cứu)
Ngoài chi cho con người, thì tỷ trọng chi của các nội dung khác của các trường có
ĐVSX-DV-CGCN đều cao hơn so với các trường không có ĐVSX-DV-CGCN, và đương
nhiên quy mô cũng cao hơn đáng kể, cụ thể: chi cho CMQL cao gấp 1,6 lần; chi cho SV
cao gấp 1,99 lần; chi cho NCKH cao gấp 2,65 lần; chi cho phát triển nguồn nhân lực cao
gấp 1,74 lần; chi cho CSVC cao gấp 2,05 lần; đặc biệt là chi cho PVCĐ cao gấp 6,74 lần
so với các trường không có ĐVSX-DV-CGCN. Thực tế này đã cho thấy rằng, các trường
có ĐVSX-DV-CGCN thường rất chú trọng đến chi cho NCKH và chi cho CSVC, đây là hai
tiền đề để các trường có điều kiện tốt cho việc mở rộng quy mô đào tạo cũng như thành lập
các ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc nhằm có sự chuyên môn hóa nhất định trọng việc
triển khai các hoạt động DVSNC và thương mại hóa sản phẩm NCKH, đem lại nguồn thu
ngoài NSNN cho nhà trường, nhằm gia tăng mức tự chủ của trường. Ngoài ra, với điều kiện
nguồn thu tốt, các trường này có cơ hội để phát huy chức năng PVCĐ của mình, minh chứng
bằng quy mô và tỷ trọng chi cho PVCĐ của các trường này cao hơn một cách ấn tượng so
với các trường không có ĐVSX-DV-CGCN.
3.2.4. Đánh giá tác động của đổi mới quản lý tài chính đến mức tự chủ và chất
lượng các trường đại học công lập ở Việt Nam
Với bộ số liệu thu thập và tính toán từ Báo cáo tự đánh giá sử dụng để kiểm định
chất lượng của 17 trường ĐHCL thuộc các vùng địa lý khác nhau, thuộc các định hướng
120
phát triển khác nhau, cũng như thuộc các đơn vị chủ quản khác nhau (các bộ ngành, các
Đại học trực thuộc Chính phủ hoặc UBND các tỉnh), với bộ dữ liệu thu thập được gồm
86 quan sát nằm trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2022 tác giả đã lựa chọn
các chỉ tiêu đo lường kết quả đổi mới QLTC các trường ĐHCL (biến độc lập) và các chỉ
tiêu đo lường chất lượng GDDH của các trường (biến phụ thuộc), bên cạnh đó có các
biến nguyên nhân thuộc về nhân tố nội tại của các trường ĐHCL có khả năng ảnh hưởng
đến đổi mới QLTC và đến chất lượng của các trường (xem Phụ lục 1.2). Tác giả đã sử
dụng phần mềm SPSS phân tích tương quan Pearson (xem Phụ lục 3.7), để có phán đoán
về mối tương quan của các biến độc lập với các biến phụ thuộc, từ đó lựa chọn một số
mô hình hồi quy đa biến để đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến chất lượng của
trường ĐHCL ở Việt Nam.
Riêng biến Mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) vừa có thể coi là
biến độc lập khi đánh giá các yếu tố tác động đến chất lượng trường ĐHCL, vừa có thể
coi là biến phụ thuộc khi đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến năng lực tự chủ của
các trường.
Ngoài ra, tác giả sử dụng phân tích khác biệt giá trị trung bình bằng kiểm định
One - Way ANOVA để so sánh mức tự chủ hoặc chất lượng giữa các nhóm trường phân
loại theo các tiêu chí: VTDL, DHPT, DVSXDV, PLMTC.
3.2.4.1. Tác động của đổi mới quản lý tài chính đến mức tự chủ trường đại
học công lập
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm mô hình hồi quy đánh giá tác động của các chỉ
tiêu đổi mới QLTC đến Mức tự chủ chi thường xuyên (MTC) của các trường ĐHCL ở
Việt Nam (Phụ lục 3.16) cho thấy, với độ tin cậy 95%:
- Biến Nguồn NSNN cấp (NSNN_CAP) tác động mạnh nhất và ngược chiều tới
biến Mức tự chủ chi thường xuyên (MTC) (hệ số hồi quy chuẩn hóa β = - 0,508). Như vậy,
nếu các điều kiện khác không thay đổi, khi quy mô nguồn tài trợ từ NSNN cho các trường
càng giảm đi, mức tự chủ của các trường sẽ càng tăng lên. Điều này hoàn toàn phù hợp
với lý thuyết. Tuy nhiên trong một số trường hợp, nếu các nguồn thu ngoài NSNN của
trường không có xu hướng tăng, thì việc cắt giảm nguồn NSNN cấp cho các trường có
thể làm cho các trường ĐHCL sẽ có mức tự chủ tăng lên một cách “bất đắc dĩ” vì tỷ trọng
nguồn tài chính ngoài NSNN tăng lên trong khi quy mô tổng nguồn thu của trường giảm.
121
- Biến Thu từ đào tạo (THU_DT) tác động mạnh thứ hai và thuận chiều tới Mức tự
chủ chi thường xuyên (MTC) (β = 0,278). Nếu các điều kiện khác không thay đổi thì nguồn
thu từ hoạt động đào tạo của trường (thu từ học phí) là yếu tố quan trọng quyết định đến khả
năng gia tăng mức tự chủ của trường đại học. Hay nói cách khác, để gia tăng mức tự chủ
nguồn kinh phí chi thường xuyên, trước hết các trường cần quan tâm đến việc gia tăng nguồn
thu từ học phí.
- Biến Chi cho phát triển nguồn nhân lực (NNL) tác động mạnh thứ ba và thuận
chiều tới Mức tự chủ chi thường xuyên (MTC) (β = 0,242). Điều này cho thấy, việc sử
dụng nguồn tài chính vào việc bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn của NLĐ có
tác động tích cực đến mức tự chủ của trường. Điều này là phù hợp, khi mà nguồn nhân
lực chất lượng cao sẽ giúp trường đại học có thể khai thác được nhiều nguồn thu ngoài
NSNN từ cung cấp dịch vụ sự nghiệp phù hợp với chuyên môn, cũng như thu hút nguồn
tài chính từ NCKH và chuyển giao công nghệ, và thu hút sinh viên làm cơ sở gia tăng
nguồn thu từ học phí.
* So sánh MTC giữa các nhóm trường ĐHCL:
Quan sát bảng thống kê mô tả khác biệt giá trị trung bình mức tự chủ chi thường
xuyên của các nhóm trường phân loại theo các tiêu chí ở Phụ lục 3.18, ta thấy:
- Trung bình MTC của các trường ở hai vùng đồng bằng (có VTDL thuận lợi hơn)
(74,3%) lại thấp hơn các trường ở vùng kinh tế khác (88,3%), cho thấy MTC cao của các
trường hiện nay không quyết định bởi sự thuận lợi của VTDL mà đang quyết định bởi
mức độ ưu tiên tài trợ từ NSNN của Chính phủ.
- Trung bình MTC của các trường có định hướng Nghiên cứu - ứng dụng (103,6%)
cao hơn các trường chỉ theo định hướng Ứng dụng (70,9%), cho thấy tầm quan trọng của
hoạt động NCKH và nền tảng mà nó xác lập cho sự gia tăng nguồn thu sự nghiệp, mức tự
chủ và sự phát triển bền vững.
- Trung bình MTC của các trường có sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN (94,8%)
cao hơn các trường không có các đơn vị này (63,9%), cho thấy việc thành lập các ĐVSX-
DV-CGCN thuộc và trực thuộc trường sẽ tạo tiền đề cho việc gia tăng năng lực tự chủ của
trường ĐHCL.
3.2.4.2. Tác động của đổi mới quản lý tài chính đến chất lượng trường đại học
công lập
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm mô hình hồi quy đánh giá tác động của các chỉ tiêu
đổi mới QLTC đến chất lượng các trường ĐHCL ở Việt Nam (Phụ lục 3.17) cho thấy:
122
a) Tác động của đổi mới QLTC đến chất lượng đào tạo
* Mô hình 1: Đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến chỉ tiêu Điểm trung bình
tuyển sinh đầu vào (DTBDV):
- Biến Thu khác (THU_KHAC) tác động mạnh nhất và thuận chiều tới Điểm trung
bình tuyển sinh đầu vào (DTBDV) (β = 0,388). Nguồn thu từ dịch vụ sự nghiệp khác (ngoài
đào tạo và NCKH) của trường có thể làm gia tăng uy tín và khả năng thu hút người học ứng
tuyển khiến điểm tuyển sinh đầu vào tăng lên. Ngoài ra nguồn thu sự nghiệp và nguồn tài trợ
khác như viện trợ, hiến tặng dồi dào có thể hạn chế việc nhà trường cố gắng tăng nguồn thu
bằng cách mở rộng quy mô đào tạo quá nhanh, điều này giúp duy trì và gia tăng chất lượng
đầu vào của sinh viên.
- Biến Chi cho người học (CHI_SV) tác động mạnh thứ hai và ngược chiều tới
Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào (DTBDV) (β = - 0,315). Về lý thuyết, các khoản chi
cho người học như: hỗ trợ miễn giảm học phí cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn hoặc
gia đình chính sách, học bổng khuyến khích học tập, khen thưởng… sẽ khuyến khích người
học tiếp cận với GDĐH, làm tăng số lượng người học ứng tuyển, làm tăng điểm tuyển sinh
đầu vào. Tuy nhiên, nghiên cứu thực nghiệm này lại cho thấy CHI_SV lại có tác động
ngược chiều đến DTBĐV, điều này có thể thấy nỗ lực của Chính phủ trong quá trình đại
chúng hóa GDĐH, tạo sự bình đẳng về cơ hội tiếp cận GDĐH của người nghèo, có hoàn
cảnh khó khăn, dường như lại không có tác dụng tích cực đến chất lượng đầu vào của sinh
viên các trường ĐHCL.
- Biến Chi cho CSVC (CSVC) tác động mạnh thứ ba và ngược chiều tới Điểm trung
bình tuyển sinh đầu vào (DTBDV) (β = - 0,302). Điều này cho thấy việc đầu tư CSVC
trong ngắn hạn chưa có tác động tích cực đến chất lượng đào tạo, ngược lại, việc các trường
mở rộng khuôn viên sẽ có xu hướng mở rộng quy mô tuyển sinh đầu vào, vì vậy có khả
năng phải hạ thấp điểm tuyển sinh đầu vào. Tuy nhiên về dài hạn, khi nguồn thu từ phát
triển quy mô trường đạt mức độ nhất định (lượng đổi) sẽ có tác dụng cải thiện chất lượng
đầu vào (chất đổi).
- Biến Chi cho phát triển nguồn nhân lực (NNL) tác động mạnh thứ tư và thuận
chiều tới Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào (DTBDV) (β = 0,249). Việc tăng chi cho
phát triển nguồn nhân lực có tác động làm tăng chất lượng đầu vào của sinh viên. Điều này
có thể được giải thích bằng mô hình phụ thuộc nguồn lực của tổ chức do Aldrich và Pfeffer
khởi xướng, theo đó các trường cạnh tranh thành công để huy động nguồn tài chính dành
123
cho phát triển nguồn nhân lực sẽ có xu hướng cạnh tranh thành công để thu hút sinh viên
cả về số lượng và chất lượng.
* Mô hình 2: Đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến chỉ tiêu Số sinh viên tốt
nghiệp đại học chính quy (SVTN):
Biến Thu ngoài NSNN (THU_NNS) tác động mạnh nhất và thuận chiều tới Số sinh
viên tốt nghiệp đại học chính quy (SVTN) (β = 0,573). Biến Chi cho chuyên môn quản lý
(CMQL) tác động mạnh thứ hai và thuận chiều tới Số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy
(SVTN) (β = 0,251). Như vậy số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy có quan hệ tỷ lệ
thuận với nguồn tài chính ngoài NSNN mà các trường huy động được và quy mô chi cho
hoạt động chuyên môn quản lý của trường. Điều này là phù hợp bởi nguồn thu ngoài NSNN
thể hiện khả năng tự chủ tài chính của trường, và chi tiêu cho hoạt động chuyên môn quản
lý gia tăng trên đà gia tăng quy mô đào tạo của trường đại học.
* Mô hình 3 và Mô hình 4: Đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến chỉ tiêu Tỷ
lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp
(KTKN_DU) và Tỷ lệ sinh viên chỉ học được một phần kiến thức, kĩ năng cần thiết cho
công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_1PHAN):
- Mô hình 3 cho thấy: Biến Nguồn NSNN cấp (NSNN_CAP) tác động mạnh nhất
(β = - 0,515) và biến Thu khác (THU_KHAC) tác động mạnh thứ hai (β = - 0,513), và cả
hai biến đều tác động ngược chiều tới Tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần
thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_DU).
- Trong khi đó Mô hình 4 lại chỉ ra rằng: Biến Thu từ đào tạo (THU_DT) tác động
thuận chiều tới Tỷ lệ sinh viên chỉ học được một phần kiến thức, kĩ năng cần thiết cho
công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_1PHAN) (β = 0,379).
- Ngoài ra, phân tích tương quan (Phụ lục 3.7) cũng cho thấy: quy mô trường đại học
(QM) có quan hệ ngược chiều với Tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần
thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_DU) với hệ số tương quan = -0,324 và
độ tin cậy 99% (p.value = 0,007).
Như vậy, những nỗ lực của trường nhằm tăng quy mô nguồn thu từ NSNN, từ đào
tạo, và thu khác từ các hoạt động sự nghiệp của trường lại làm giảm tỷ lệ sinh viên thừa nhận
có đủ kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp; tăng tỷ lệ sinh viên
thừa nhận chỉ học được một phần kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt
nghiệp. Điều này cho thấy, với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, yêu cầu của xã hội
124
về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao và đa dạng, CTĐT của các trường đang
không đáp ứng kịp tốc độ này. Việc mở rộng quy mô của trường và gia tăng các nguồn tài
chính (từ NSNN và ngoài NSNN) dường như lại làm các trường giảm sự quan tâm đến công
tác phát triển CTĐT, và việc chú trọng phát triển theo chiều rộng trong ngắn hạn đã có sự
đánh đổi nhất định với đầu tư chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng.
* Mô hình 5: Đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến chỉ tiêu Tổng Giáo sư, Phó
giáo sư, Tiến sĩ (GSTS):
Biến Chi cho phát triển nguồn nhân lực (NNL) tác động mạnh nhất và thuận chiều
tới Tổng số giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ (GSTS) (β = 0,386). Biến Chi cho con người
(CCN) tác động mạnh thứ hai và thuận chiều tới Tổng số giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ
(GSTS) (β = 0,317). Điều này cho thấy chi tiêu của trường ĐHCL cho bồi dưỡng nâng
cao năng lực chuyên môn để phát triển nguồn nhân lực cũng như việc cải thiện thu nhập
cho NLĐ đã có tác dụng tích cực đến việc thu hút và gia tăng số lượng giảng viên xuất
sắc với học hàm, học vị cao; ở khía cạnh khác thì đời sống giảng viên ổn định sẽ giúp họ
yên tâm trau dồi chuyên môn để nâng cao chất lượng giảng dạy.
b) Tác động của đổi mới QLTC đến chất lượng NCKH
* Mô hình 6 và Mô hình 7: Đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến chỉ tiêu
Tổng bài báo khoa học (BBKH), Tổng số công trình khoa học (TCTKH) cho thấy:
- Biến Chi cho NCKH (NCKH) tác động mạnh nhất và thuận chiều tới Tổng số
công trình khoa học (TCTKH) (β = 0,575).
- Biến Thu ngoài NSNN (NNS) (β = 0,256) và Biến Chi phát triển nguồn nhân
lực (NNL) (β = 0,237) đều tác động thuận chiều tới Tổng bài báo khoa học (BBKH).
- Biến Chi cho chuyên môn quản lý (CMQL) có tác động thuận chiều tới cả hai chỉ
tiêu: Tổng bài báo khoa học (BBKH) (β = 0,397) và Tổng số công trình khoa học (TCTKH)
(β = 0,288).
Như vậy có thể thấy, việc gia tăng nguồn thu ngoài NSNN là động lực để nâng
cao chất lượng hoạt động NCKH của các trường; đồng thời, chi cho NCKH và các khoản
chi mang tính chất chuyên môn như bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực, chi cho hoạt
động chuyên môn quản lý cũng có tác động tích cực đến chất lượng hoạt động NCKH
của trường.
c) Tác động của đổi mới QLTC đến chất lượng PVCĐ
Mặc dù nội dung của hoạt động PVCĐ của trường đại học là rất rộng, nằm ngoài các
125
hoạt động thiện nguyện, và xét ở một góc độ nào đó thì bao hàm cả hoạt động đào tạo, NCKH
và các dịch vụ sự nghiệp khác. Mặc dù số liệu thống kê của các trường tiếp cận dưới góc độ
Báo cáo tự đánh giá cơ sở đào tạo và Báo cáo ba công khai có thể còn hạn chế và chưa toàn
diện, nhưng cũng có thể đánh giá được thực trạng ở một mức độ nhất định. Tác giả lựa chọn
Mô hình 8: Đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến Số đơn vị máu thu được từ hoạt động
hiến máu nhân đạo trong năm (HIENMAU) và Mô hình 2: Đánh giá tác động của đổi mới
QLTC đến Số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy (SVTN) (xét trên quan điểm là mức độ
cung cấp nguồn nhân lực mới cho nền kinh tế)
Biến Chi cho sinh viên CHI_SV tác động thuận chiều tới Số đơn vị máu thu được
từ hoạt động hiến máu nhân đạo trong năm (HIENMAU) (β = 0,828). Biến Thu ngoài
NSNN (THU_NNS) (β = 0,573 và Biến Chi cho chuyên môn quản lý (CMQL) (β = 0,251)
đều có tác động thuận chiều tới Số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy (SVTN). Như
vậy có thể thấy, nguồn thu ngoài NSNN là điều kiện để các trường có thể gia tăng chất
lượng PVCĐ, đồng thời, các khoản chi cho sinh viên và chi cho hoạt động chuyên môn
quản lý sẽ là động lực để huy động sự đóng góp của phía nhân viên nhà trường cũng như
phía người học vào hoạt động PVCĐ.
Ngoài ra, qua các mô hình hồi quy đa biến đánh giá tác động của các chỉ tiêu phản
ánh đổi mới QLTC đến chất lượng của trường ĐHCL, đều không tìm thấy bằng chứng
chứng minh sự tác động của mức tự chủ (MTC) đến chất lượng của các trường. Tuy nhiên,
phân tích tương quan cho thấy biến tổng nguồn thu (TNT) có quan hệ thuận chiều với hầu
hết các biến đo lường chất lượng trường đại học như BBKH, TCTKH, GSTS, DTBDV,
SVTN, HIENMAU với hệ số tương quan dương và độ tin cậy 99% (p.value < 0,01).
* So sánh chất lượng giữa các nhóm trường ĐHCL:
Quan sát bảng thống kê mô tác khác biệt giá trị trung bình của một số chỉ tiêu phản
ánh chất lượng giữa các nhóm trường phân loại theo các tiêu chí ở Phụ lục 3.19, ta thấy
mặc dù sự khác biệt là không rõ rệt, nhưng có xu hướng như sau:
- Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào (DTBDV) của nhóm trường có mức tự chủ
cao (từ 70% trở lên) lại thấp hơn DTBDV của nhóm trường có mức tự chủ thấp hơn (dưới
70%), cho thấy, việc gia tăng mức tự chủ của các trường ĐHCL không đồng nghĩa với việc
gia tăng chất lượng của trường.
- Trung bình tổng số công trình khoa học hoàn thành trong năm (TCTKH) (309,9
công trình/năm) của nhóm trường theo định hướng Nghiên cứu - Ứng dụng cao hơn so với
126
nhóm trường chỉ có định hướng Ứng dụng (256,4 công trình/năm), cho thấy, các trường có
định hướng nghiên cứu sẽ có ưu thế hơn trong việc nâng cao chất lượng hoạt động NCKH.
- Trung bình tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công
việc theo ngành đào tạo (KTKN_DU) của nhóm trường có ĐVSX-DV-CGCN (65,9%) cao
hơn nhóm trường không có sự hiện diện của các đơn vị này (63,1%), cho thấy việc thành
lập các ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc trường ĐHCL nếu có đủ điều kiện, sẽ là
một yếu tố tích cực nâng cao chất lượng đào tạo của trường.
3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
3.3.1. Những kết quả đạt được của đổi mới quản lý tài chính các trường đại
học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học
a. Kết quả về đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính
Thứ nhất, trong giai đoạn thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các ĐVSNCL
(2003-2021), nhà nước đã đổi mới mô hình phân bổ nguồn NSNN cho GDĐH công lập
phù hợp với xu hướng đổi mới hiện nay trên thế giới. Mô hình phân bổ NSNN mới từ sau
khi Luật NSNN 2015 và Nghị định 16 được ban hành có bổ sung thêm Mô hình tài trợ
dựa trên hiệu suất (Performance-based Funding Model), ngoài Mô hình thương lượng
(Negotiated Funding) dựa trên dữ liệu lịch sử và một vài khía cạnh của yếu tố đầu vào theo
kiểu tài trợ gia tăng, và Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu ra (Output-
based Formula Funding), đã mở rộng hơn quyền tự chủ của các trường, hướng đến gần
với sự điều tiết của thị trường hơn, đồng thời kích thích các trường hướng tới hiệu suất
và chất lượng hoạt động.
Thứ hai, cùng với việc đổi mới cơ chế QLTC đối với ĐVSNCL, Chính phủ đã mở
rộng các nguồn tài chính ngoài NSNN cho các trường theo hướng nâng cao quyền tự chủ
cho các trường, ngoài các nguồn thu mang tính chất doanh thu và thu nhập, còn có các
nguồn tài chính huy động từ hoạt động liên doanh, liên kết, huy động vốn, vay vốn… và
lãi được chia từ các giao dịch tài chính.
Thứ ba, Nghị định 16 đã chính thức hóa khái niệm “DVSNC” và “Giá DVSNC”, coi
hoạt động sự nghiệp công của các ĐVSNCL nói chung và các trường ĐHCL nói riêng là
một loại “dịch vụ”, và khách hàng sử dụng dịch vụ bao gồm cả người dân và Chính phủ.
127
Thứ tư, chính sách học phí đã được đổi mới theo xu hướng chung về thay đổi cơ
cấu học phí GDĐH trên thế giới từ “Học phí do nhà nước bao cấp” (trước năm 1987)
sang “Học phí song song” (giai đoạn 1987-2009), sau đó là “Học phí kiểu hai bậc” (giai
đoạn 2010-2021), dần hướng học phí đến gần việc xác định theo giá thị trường, làm cho
quy mô nguồn thu từ đào tạo của các trường ĐHCL tăng lên.
Thứ năm, trong giai đoạn áp dụng cơ chế tự chủ theo Nghị định 43 và Nghị định 16
của Chính phủ với chủ trương mở rộng dần nguồn thu ngoài NSNN, đa số các trường ĐHCL
gia tăng nguồn tài chính ngoài NSNN. Tỷ trọng nguồn thu ngoài NSNN của nhóm trường
có vị trí địa lý thuận lợi, nhóm trường có định hướng nghiên cứu kết hợp ứng dụng và nhóm
trường có ĐVSX-DV-NCKH cao hơn so với nhóm còn lại. Đồng thời những trường có quy
mô càng lớn thì thu hút được càng nhiều nguồn tài chính ngoài NSNN.
b. Kết quả về đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính
- Thứ nhất, cơ chế quản lý sử dụng nguồn tài chính do NSNN cấp cho các trường
ĐHCL có sự đổi mới tương ứng, phù hợp với xu hướng đổi mới chung trên thế giới từ mô
hình kết hợp giữa “Nhà nước kiểm soát” và “Nhà nước giám sát” (giai đoạn 2003 - 2015)
sang theo đuổi mô hình “Quản lý công mới” (là sự kết hợp của mô hình “Nhà nước kiểm
soát” với mô hình “Dựa vào thị trường”) (giai đoạn 2016 - 2021).
- Thứ hai, các trường ĐHCL ngày càng có quyền tự chủ nhiều hơn trong việc quyết
định cấu chi của mình sao cho phù hợp với yêu cầu của NN trong việc nâng cao mức tự chủ
cũng như đảm bảo chất lượng GDĐH.
c. Kết quả về đổi mới quản lý phân phối kết quả tài chính trong năm
- Thứ nhất, với định hướng nâng cao năng lực tự chủ và chất lượng hoạt động sự
nghiệp của ĐVSNCL nói chung và trường ĐHCL nói riêng, Chính phủ đã đổi mới cơ chế
nhằm định hướng các ĐVSNCL dần chuyển sang chú trọng đến việc tích lũy để đầu tư
phát triển hoạt động sự nghiệp, ưu tiên hơn việc nâng cao thu nhập cho NLĐ, bằng việc
đổi mới thứ tự ưu tiên trích lập các quỹ và mức khống chế tổi thiểu (đối với Quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp) và mức tối đa (đối với với các quỹ khác). Trong trường hợp
kết quả tài chính trong năm của ĐVSNCL là thấp, thì NN cho phép ĐVSNCL ưu tiên chi
bổ sung thu nhập để ổn định đời sống cho NLĐ.
- Thứ hai, việc nâng cao quyền tự quyết của các trường ĐHCL trong việc phân
phối và sử dụng kết quả tài chính cũng tạo điều kiện để các trường có thể điều chỉnh cơ
cấu chi của mình nhằm đạt được mục tiêu tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH.
128
3.3.2. Những hạn chế cơ bản trong đổi mới quản lý tài chính các trường đại
học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học
a. Hạn chế về đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính
- Thứ nhất, hiện nay quy trình phân bổ NSNN cho GDĐH còn rất phức tạp và có
nhiều bên liên quan: Chính phủ, các bộ chuyên ngành (Bộ Tài chính, Bộ KH& ĐT, Bộ
KH&CN), Bộ GD&ĐT với vai trò là phụ trách ngành GD&ĐT, các Bộ hoặc Đại học chủ
quản (đối với trường ĐHCL trung ương) hoặc UBND tỉnh (đối với trường ĐHCL địa
phương).
- Thứ hai, chi tiêu công cho GDĐH của Việt Nam hiện thấp hơn nhiều so với các
nước trong khu vực và thấp hơn cả mức bình quân chung trên thế giới. Theo đó, tỷ trọng
nguồn NSNN cấp trong tổng nguồn thu của các trường có xu hướng giảm.
- Thứ ba, vẫn còn có sự bất bình đẳng trong phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL
theo quy mô, tuổi, vị trí địa lý và định hướng phát triển. Hiện đang có sự ưu tiên về quy
mô nguồn NSNN cấp cho các trường có quy mô lớn, lịch sử lâu đời, vị trí địa lý thuận
lợi và có định hướng phát triển ứng dụng.
- Thứ tư, xét về suất đầu tư NSNN trên đầu nhân sự (tỷ lệ NSNN cấp trên quy mô
nhân sự), thì thấy rằng việc phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL còn mang tính bình
quân cào bằng, nhất là NSNN cấp cho các hoạt động không thường xuyên.
- Thứ năm, mặc dù quy mô nguồn thu từ đào tạo (thu học phí) của các trường
ĐHCL có xu hướng tăng lên do mở rộng tuyển sinh, tỷ trọng nguồn thu từ đào tạo trên
tổng nguồn thu của các trường lại có xu hướng giảm do NN chủ trương duy trì chính sách
học phí thấp, dẫn đến thực trạng “trợ cấp” ngược cho người giàu.
- Thứ sáu, chính sách học phí theo Nghị định 49 (giai đoạn 2010-2015) và Nghị
định 86 (giai đoạn 2015-2021) đã dẫn đến mâu thuẫn: Nhà nước khuyến khích các trường
ĐHCL nâng cao năng lực tự chủ tài chính nhưng vẫn trói buộc các trường bằng quy định
trần học phí. Đối với các trường ĐHCL có khả năng tự chủ tài chính cao (tự bảo đảm chi
đầu tư và chi thường xuyên hoặc tự bảo đảm chi thường xuyên) thì dịch vụ đào tạo đã trở
thành DVSNCL không được NSNN hỗ trợ, nhưng giá của dịch vụ này (học phí) lại chưa
được xác định theo cơ chế thị trường. Điều này làm xuất hiện phần chi phí đào tạo mà
trường ĐHCL buộc phải chung vai “chi sẻ”, ảnh hưởng đến thu nhập của NLĐ thuộc
trường, cũng như chất lượng GDĐH do giải pháp tăng nguồn thu để trang trải chi phí từ
mở rộng quy mô đào tạo.
129
b. Hạn chế về đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính
- Thứ nhất, việc đổi mới cơ chế của Nhà nước về quản lý sử dụng nguồn tài chính
từ NSNN của các trường ĐHCL mặc dù đã chuyển từ mô hình “Nhà nước kiểm soát kết
hợp với Nhà nước giám sát” sang mô hình Quản lý công mới: “Nhà nước kiểm soát” kết
hợp với “Dựa vào thị trường”, tuy nhiên vai trò kiểm soát của Nhà nước vẫn còn rất chặt
chẽ thông qua việc quy định về tiêu chuẩn, định mức chi phí, tạo thói quen phụ thuộc vào
quy định của Nhà nước mà thiếu sự chủ động sáng tạo của các trường trong việc xác định
mức chi phù hợp, thỏa đáng khi mời giảng viên, chuyên gia ngoài trường thực hiện các
nhiệm vụ đào tạo, NCKH, cũng như trả chi phí (công tác phí, tiếp khách…) cho cá nhân
thuộc trường phù hợp với giá thị trường.
- Thứ hai, cơ cấu chi thực tế bình quân của các trường so sánh giữa 2 giai đoạn
thực hiện cơ chế tự chủ (trước và sau khi Nghị định 16 được ban hành) không có sự thay
đổi rõ rệt. Dường như các trường chưa có sự quan tâm đánh giá tác động của cơ cấu chi
tiêu đến việc cải thiện mức tự chủ và nâng cao chất lượng của trường nên cũng chưa có
chiến lược chủ động thiết kế một cơ cấu chi phù hợp lý nhất khi theo đuổi những mục
tiêu cụ thể trong từng giai đoạn phát triển.
c. Hạn chế về đổi mới quản lý phân phối kết quả tài chính trong năm
Cũng giống như vấn đề quản lý sử dụng nguồn tài chính, việc phân phối kết quả tài
chính trong năm của các trường ĐHCL có tốt hay không lại phụ thuộc nhiều vào vấn đề
QLTC nội bộ của các trường, và phụ thuộc vào chính quy mô nguồn tài chính và quy mô
kết quả tài chính lớn hay nhỏ của trường. Mặc dù có những đổi mới của Nhà nước về cơ
chế phân phối kết quả tài chính trong năm của các trường ĐHCL nhằm định hướng ưu tiên
phân phối cho mục đích đầu tư hơn là mục đích chi tiêu, thì kết quả của sự đổi mới này
không thể hiện đồng đều đối với tất cả các trường ĐHCL, mà dường như chỉ thể hiện rõ ở
những trường có quy mô lớn, nguồn lực tài chính dồi dào hơn.
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
- Thứ nhất, hệ thống GDĐH của Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại cơ chế bộ chủ
quản, dẫn tới quy trình phân bổ NSNN hiện nay còn khá phức tạp. Các trường ĐHCL
ngoài chịu sự quản lý chung của Bộ GD & ĐT với vai trò là bộ phụ trách ngành, còn chịu
sự quản lý trực tiếp của các Bộ chủ quản.
- Thứ hai, chi tiêu của NSNN cho GDĐH hiện nay của Việt Nam còn thấp hơn
nhiều so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới một phần là do trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam vẫn còn trong nhóm các nước đang phát triển với thu nhập
130
trung bình, và dường như chưa có sự ưu tiên đúng mức của Chính phủ trong việc dành
mức đầu tư phù hợp cho GDĐH.
- Thứ ba, việc tồn tại sự bất bình đẳng và xu hướng phân bổ mang tính bình quân
cào bằng trong quản lý phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL xuất phát từ cơ chế phân
bổ NSNN cho các trường ĐHCL ở Việt Nam hiện nay vẫn còn chủ yếu dựa trên cơ chế
đàm phán là chủ yếu. Quy mô và tỷ trọng nguồn NSNN đầu tư cho GDĐH hạn hẹp khiến
cho việc áp dụng mô hình phân bổ NSNN dựa trên công thức đầu ra, hoặc dựa trên hợp
đồng hiệu suất còn nhiều hạn chế. Mô hình phân bổ NSNN dựa trên cơ chế cạnh tranh
hầu như chưa được áp dụng. Ngoài ra, dường như cơ chế đàm phán trong phân bổ NSNN
khiến cho việc phân bổ của Nhà nước chưa được cân nhắc giữa các nhóm trường có ưu
thế và yếu thế hơn về quy mô, bề dày lịch sử, vị trí địa lý hay định hướng phát triển, làm
thiếu đi sự điều tiết của Nhà nước đối với dịch vụ đào tạo đại học - một loại hàng hóa
công không thuần túy.
- Thứ tư, tỷ trọng nguồn thu từ học phí của các trường có xu hướng giảm do Nhà
nước vẫn đang duy trì quy định về mức trần học phí đối với giáo dục công lập, chưa cho
phép các trường tự chủ hoàn toàn được xác định học phí theo cơ chế thị trường, bởi vậy
“giá dịch vụ đào tạo có tính đủ chi phí” thì chủ yếu là chi phí này đang được xác định
dựa trên việc nhà trường trả thù lao cho giảng viên, NLĐ chưa tương xứng với mức giá
chung trên thị trường lao động.
- Thứ năm, những đổi mới trong cơ chế của Nhà nước về quản lý sử dụng nguồn
tài chính và phân phối kết quả tài chính trong năm hiện chưa có kết quả rõ rệt trong việc
thay đổi cơ cấu chi tiêu bình quân của các trường ĐHCL qua các giai đoạn có thể xuất
phát từ trình độ quản lý của bản thân các trường, cũng như thói quen từ lâu được hưởng
sự bao cấp về nguồn tài chính cũng như sự kiểm soát chặt chẽ trong chi tiêu làm cho sự
năng động sáng tạo của các trường ĐHCL dường như còn nhiều hạn chế, và việc chủ
động thiết kế cơ cấu chi tiêu hợp lý nhằm theo đuổi mục tiêu chiến lược hiện chưa được
các trường quan tâm đúng mức.
- Thứ sáu, còn thiếu các nghiên cứu thực nghiệm nhằm đánh giá những tác động
của đổi mới QLTC đến mức tự chủ và chất lượng của trường ĐHCL, hoặc đánh giá những
nhân tố thể hiện thuộc tính nội tại của các trường có thể ảnh hưởng đến kết quả đổi mới
QLTC, đến mức tự chủ và chất lượng của các trường, để từ đó Nhà nước cũng như bản
thân các trường có những đổi mới thích hợp trong chính sách QLTC hướng tới mục tiêu
phát triển hệ thống GDĐH nói chung và mục tiêu của các trường nói riêng.
131
Chương 4
GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁCTRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG
LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
4.1. BỐI CẢNH MỚI ĐỐI VỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM
4.1.1. Xu hướng phát triển của giáo dục đại học
Để đánh giá về quy mô phát triển GDĐH của một quốc gia, Martin Trow (1974)
đã đề nghị sử dụng các khái niệm và tiêu chí như sau: GDĐH tinh hoa (Elite Higher
Education) khi tổng tỷ lệ nhập học (Gross Enrollment Ratio - GER) dưới 15%, GDĐH
đại chúng (Mass Higher Education) khi GER từ 15% đến 50%, GDĐH phổ cập
(Universal Higher Education) khi GER vượt 50%. Tổng tỉ lệ nhập học (GER) là một
thành phần của Chỉ số Giáo dục. Nó thể hiện số lượng học sinh/sinh viên theo học một
cấp giáo dục nhất định theo phần trăm số người trong độ tuổi chính thức của trình độ giáo
dục đó. Về lý thuyết, GER có thể vượt quá 100% bởi vì một số sinh viên ghi danh có thể
ở ngoài độ tuổi chính thức[111].
Chúng ta biết rằng GDĐH Hoa Kỳ đã trở thành nền GDĐH đại chúng từ những
năm 1920 và trở thành nền GDĐH phổ cập từ khoảng thập niên 1970 của thế kỷ trước.
Còn ở Châu Âu, mặc dù quan niệm GDĐH tinh hoa vẫn được duy trì đến các thập niên
cuối thế kỷ 20, thì đến đầu thập niên 1990 Vương quốc Anh đã có nền GDĐG đại chúng
với tỷ lệ GER đạt 29%, và vượt ngưỡng dưới của GDĐH phổ cập vào đầu thế kỷ 21. Tuy
nhiên tổng tỷ lệ nhập học (GER) cấp giáo dục sau phổ thông của Việt Nam mới chỉ đạt
ngưỡng dưới của GDĐH đại chúng (15%) vào năm 2004[47], đạt 28,6% năm 2019, thấp
hơn nhiều so với Hàn Quốc (trên 98%), Trung Quốc (trên 53%) và Malaysia (43%), đồng
thời thấp hơn rõ rệt so với tỷ lệ nhập học (GER) bình quân 55,1% của các quốc gia thu
nhập trung bình cao[67].
Như vậy, xu hướng đại chúng hóa GDĐH đã trở thành xu hướng tất yếu đối với
các quốc gia trên thên giới trong cuộc đua nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế,
và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Trong suốt giai đoạn vừa qua, GDĐH
Việt Nam, đặc biệt là hệ thống GDĐH công lập đã đạt được những thành tựu to lớn trên
các phương diện đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội; sáng
tạo tri thức mới đáp ứng làm nền tảng cho đào tạo cũng như ứng dụng vào đời sống, cũng
132
như chung tay thể hiện trách nhiệm xã hội của mình khi đóng góp không nhỏ vào hoạt
động PVCĐ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các
trường ĐHCL ở Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những thách thức từ sự phát triển
nhanh chóng của khoa học công nghệ; sự thiếu hụt về nguồn tài chính; mức độ bao phủ
thấp và bất bình đẳng trong tiếp cận GDĐH; đến những yếu kém trong trình độ quản lý
nội bộ; khả năng tự chủ trên các phương diện tổ chức, nhân sự, tài chính và học thuật; và
vấn đề đảm bảo và nâng cao chất lượng của các trường ĐHCL.
Hiện nay Bộ GD&ĐT Việt Nam đang chủ trì xây dựng chiến lược tổng thể phát
triển GDĐH giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó hệ thống GDĐH
của Việt Nam phải có khả năng đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước đồng thời hội nhập với hệ thống GDĐH thế giới, từ đó góp phần
quan trọng thúc đẩy năng lực cạnh tranh của quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. Một
trong những trụ cột được đề cập đến trong thảo luận xây dựng chiến lược đó là phải bảo
đảm tài chính bền vững cho GDĐH. Bởi vậy, với vai trò chủ đạo trong hệ thống GDĐH
quốc gia, vấn đề đổi mới QLTC các trường ĐHCL hướng đến năng lực tự chủ và chất
lượng của các trường vẫn đang là vấn đề mang tính thời sự hiện nay.
4.1.2. Cơ chế tự chủ tài chính mới đối với đơn vị sự nghiệp công lập
Ngày 21/6/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2021/NĐ-CP về cơ chế tự
chủ tài chính của ĐVSNCL (Nghị định 60) thay thế cho Nghị định 16. So với Nghị định
16, những điểm mới của Nghị định 60 gồm có:
- Thứ nhất, cụ thể hóa chủ trương, định hướng về cải cách tiền lương theo Nghị
quyết số 19-NQ/TW và Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương đối
với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và NLĐ trong doanh nghiệp; theo
đó, sửa đổi về cơ chế tính toán, chi trả tiền lương; tạo động lực khuyến khích ĐVSNCL
khai thác nguồn thu, nâng cao mức độ tự chủ tài chính[13].
Trước đây, Nghị định 16 quy định ĐVSNCL chi trả tiền lương theo ngạch, bậc,
chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với đơn vị sự nghiệp công
(không phân biệt đơn vị tự bảo đảm kinh phí hoạt động và đơn vị do NSNN hỗ trợ một
phần hay hỗ trợ toàn bộ chi phí hoạt động). Việc chi trả thu nhập tăng thêm của NLĐ sẽ
căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính trong năm (sau khi tính toán cân đối chênh lệch
thu, chi, nộp các khoản thuế cho Nhà nước theo quy định, mới được sử dụng từ quỹ bổ
sung thu nhập tăng thêm cho NLĐ). Điều này chưa khuyến khích ĐVSNCL và NLĐ tăng
cường khai thác nguồn thu ngoài NSNN.
133
Thực hiện định hướng đổi mới theo Nghị quyết số 19-NQ/TW (đối với đơn vị
đã tự chủ về tài chính, được trả lương theo kết quả hoạt động. Đối với đơn vị tự bảo
đảm một phần chi thường xuyên, thực hiện trả lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản
phụ cấp theo quy định hiện hành; đối với phần tăng thu, tiết kiệm chi, được trích lập
các quỹ bổ sung thu nhập và phát triển hoạt động sự nghiệp...)[12], Nghị định 60 đã
quy định, từ thời điểm thực hiện chế độ tiền lương mới theo Nghị quyết số 27-NQ/TW,
ĐVSNCL tự chủ ở mức cao (đơn vị tự bảo đảm chi đầu tư và chi thường xuyên, đơn
vị tự bảo đảm chi thường xuyên) được trả lương theo kết quả hoạt động như doanh
nghiệp; đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên hoặc đơn vị do NSNN bảo đảm
chi thường xuyên chi trả tiền lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp
theo quy định hiện hành.
- Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về xác định mức độ tự chủ tài chính của
ĐVSNCL. Trước đây, việc xác định mức độ tự chủ tài chính của đơn vị chưa phân biệt
theo mức độ tự chủ về nguồn thu và nhiệm vụ chi các hoạt động dịch vụ. Nghị định 60
quy định việc phân loại mức độ tự chủ tài chính của ĐVSNCL trên cơ sở tách bạch rõ
hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao và hoạt động kinh doanh dịch
vụ của ĐVSNCL.
Đối với ĐVSNCL tự bảo đảm một phần chi thường xuyên, Nghị định đã bổ sung
quy định thành 03 nhóm đơn vị, gồm: Đơn vị tự bảo đảm trên 70% chi thường xuyên;
đơn vị tự bảo đảm từ 30% đến dưới 70% chi thường xuyên; đơn vị tự bảo đảm dưới 30%
chi thường xuyên. Việc quy định các nhóm đơn vị để đảm bảo công bằng trong việc quy
định mức chi, trích lập và sử dụng các quỹ, phù hợp với nguồn tài chính của đơn vị; nhóm
đơn vị tự bảo đảm từ 70% đến dưới 100% chi thường xuyên được khuyến khích hơn để
nâng dần mức độ tự chủ lên tự bảo đảm chi thường xuyên. Quy định các nhóm đơn vị
cũng là để tạo điều kiện cho đơn vị chủ động quản lý và sử dụng nguồn tài chính khi học
phí đã chuyển sang cơ chế giá theo quy định của Luật Giá".
Đồng thời, để phù hợp với mức độ tự chủ của từng loại hình đơn vị và vừa bảo
đảm không ảnh hưởng đến quản lý, điều hành ngân quỹ Nhà nước, Nghị định 60 đã quy
định đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên được mở tài khoản tại ngân hàng thương mại
đối với các khoản thu từ hoạt động sự nghiệp, hoạt động kinh doanh, dịch vụ. Đơn vị tự
bảo đảm một phần chi thường xuyên được mở tài khoản tại ngân hàng thương mại đối
với các khoản thu, chi hoạt động dịch vụ không sử dụng NSNN.
134
- Thứ ba, bổ sung nguyên tắc NSNN hỗ trợ ĐVSNCL: (i) Đối với ĐVSNCL tự bảo
đảm một phần chi thường xuyên, NSNN hỗ trợ chi thường xuyên sau khi đơn vị đã sử
dụng nguồn thu sự nghiệp để thực hiện nhiệm vụ, cung ứng DVSNC thuộc danh mục
DVSNC sử dụng NSNN; (ii) Đối với ĐVSNCL do NSNN bảo đảm chi thường xuyên,
việc giao dự toán chi NSNN trên cơ sở nhiệm vụ được Nhà nước giao và thực hiện theo
mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 19-NQ/TW: Đến năm 2025, giảm bình quân 10% chi
trực tiếp từ NSNN cho ĐVSNCL so với giai đoạn 2016-2020.
- Thứ tư, bổ sung quy định cụ thể về tự chủ trong hoạt động liên doanh, liên kết.
Nghị định 16 chưa quy định cụ thể các hình thức liên doanh liên kết và việc phân phối
kết quả chênh lệch thu - chi từ hoạt động liên doanh, liên kết của ĐVSNCL. Theo Nghị
quyết số 19-NQ/TW, có cơ chế tài chính phù hợp để huy động mọi nguồn lực xã hội đầu
tư cho lĩnh vực DVSNC, nhất là cho y tế và giáo dục, kể cả hình thức hợp tác công - tư,
liên doanh, liên kết; để đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất chung về việc phân phối kết
quả từ hoạt động liên doanh liên kết của ĐVSNCL theo Luật Quản lý, sử dụng tài sản
công và Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.
- Thứ năm, quy định theo hướng trao quyền tự chủ đầy đủ cho các đơn vị theo
mức độ tự chủ tài chính. ĐVSNCL tự chủ tài chính ở mức cao (tự bảo đảm chi đầu tư
và chi thường xuyên hoặc tự bảo đảm chi thường xuyên) được chủ động hơn trong quyết
định mức chi hoạt động chuyên môn, quản lý phù hợp với nguồn tài chính của đơn vị
và phải quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ. Ngoài ra, để đầu tư, nâng cao chất lượng
và tăng quy mô hoạt động sự nghiệp, từng bước hoàn thiện việc tổ chức hoạt động dịch
vụ, các đơn vị này được vay vốn của các tổ chức tín dụng để đầu tư, xây dựng CSVC
và tự chịu trách nhiệm trả nợ vay theo quy định của pháp luật.
- Thứ sáu, bổ sung quy định về tự chủ về tài chính của ĐVSNCL trong lĩnh vực y
tế - dân số; GĐ&ĐT; giáo dục nghề nghiệp.
Lĩnh vực DVSNC rất phức tạp và đa dạng, mỗi ngành, lĩnh vực đều có những đặc
thù riêng. Vì vậy, trước đây, Chính phủ ban hành Nghị định 16 làm Nghị định khung và
yêu cầu các bộ quản lý ngành, lĩnh vực chủ trì, xây dựng cơ chế tự chủ riêng phù hợp với
đặc điểm của từng, ngành lĩnh vực. Tuy nhiên, kể từ khi Nghị định 16 được ban hành đến
nay, các bộ quản lý ngành, lĩnh vực đều chưa hoàn thành nhiệm vụ này (trừ lĩnh vực
KH&CN do Bộ KH&CN chủ trì và lĩnh vực sự nghiệp kinh tế do Bộ Tài chính chủ trì),
135
nhất là đối với 2 ngành, lĩnh vực DVSNC chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các DVSNC
là giáo dục đào tạo và y tế.
4.1.3. Chính sách học phí mới
Ngày 27/8/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 81/2021/NĐ-CP (Nghị định
81) quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo, thay thế Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015. Nghị
định 81 vẫn quy định mức trần học phí của các cơ sở GDĐH công lập, có sự điều chỉnh
theo nhóm trường mức độ tự chủ khác nhau và được quy định theo từng nhóm ngành
(Khoản 2, Điều 11, Nghị định 81). Theo đó, mức trần học phí đối với các CTĐT của các
cơ sở GDĐH công lập chưa đảm bảo chi thường xuyên được quy định cụ thể như sau:
Bảng 4.1. Mức trần học phí đối với các cơ sở GDĐH công lập chưa tự bảo đảm chi
thường xuyên
Đơn vị: nghìn đồng/sinh viên/ tháng
Khối ngành
2022-2023 2023-2024 2024-2025 2025-2026
Khoa học GĐ&ĐT giáo viên
1.250
1.410
1.590
1.790
Nghệ thuật
1.200
1.350
1.520
1.710
Kinh doanh và quản lý,
1.250
1.410
1.590
1.790
pháp luật
Khoa học sự sống, khoa học
1.350
1.520
1.710
1.930
tự nhiên
Toán và thống kê, máy tính và công
1.450
1.640
1.850
2.090
nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật, kỹ
thuật, sản xuất và chế biến, kiến trúc và
xây dựng, nông lâm nghiệp và thủy sản,
thú y
Các khối ngành sức khỏe
1.850
2.090
2.360
2.660
Y dược
2.450
2.760
3.110
3.500
(Nguồn: Nghị định 81/2021/NĐ-CP)
Dựa trên mức trần học phí này, các cơ sở GDĐH có thể tự xác định được mức học
phí tối đa của các CTĐT theo các tiêu chí sau:
136
- Cơ sở GDĐH công lập tự bảo đảm chi thường xuyên: Mức học phí được xác định
tối đa bằng 2 lần mức trần học phí đối với các cơ sở GDĐH công lập chưa tự bảo đảm
chi thường xuyên tương ứng với từng khối ngành và từng năm học;
- Cơ sở GDĐH công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư: Mức học phí
được xác định tối đa bằng 2,5 lần mức trần học phí đối với các cơ sở GDĐH công lập chưa
tự bảo đảm chi thường xuyên tương ứng với từng khối ngành và từng năm học.
- Đối với CTĐT của cơ sở GDĐH công lập đạt mức kiểm định chất lượng CTĐT
theo tiêu chuẩn do Bộ GĐ&ĐT quy định hoặc đạt mức kiểm định chất lượng CTĐT theo
tiêu chuẩn nước ngoài hoặc tương đương, cơ sở GDĐH được tự xác định mức thu học
phí của chương trình đó trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật do cơ sở giáo dục ban
hành, thực hiện công khai giải trình với người học, xã hội.
- Mức trần học phí đối với đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ của các cơ sở GDĐH công lập
được xác định bằng mức trần học phí đào tạo đại học quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều
này nhân hệ số 1,5 đối với đào tạo thạc sĩ, nhân hệ số 2,5 đối với đào tạo tiến sĩ tương
ứng với từng khối ngành đào tạo của từng năm học theo các mức độ tự chủ.
- Mức học phí đào tạo hình thức vừa làm vừa học; đào tạo từ xa được xác định
trên cơ sở chi phí hợp lý thực tế với mức thu không vượt quá 150% mức thu học phí so
với hệ đào tạo chính quy tương ứng.
- Trường hợp học trực tuyến, cơ sở GDĐH xác định mức thu học phí trên cơ sở
chi phí phát sinh thực tế hợp lý, tối đa bằng mức học phí của cơ sở GDĐH tương ứng
từng khối ngành theo mức độ tự chủ. (Khoản 2, Điều 11, Nghị định 81).
Như vậy, mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định 60 quy định cụ thể hơn và mở
rộng hơn cơ chế tự chủ của các ĐVSNCL, trong đó có các trường ĐHCL, đồng thời cũng
ban hình chính sách học phí mới theo Nghị định 81, tuy nhiên về cơ bản vẫn có sự khống
chế về mức trần học phí đối với các trường ĐHCL.
4.2. QUAN ĐIỂM VỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM
Trong những năm gần đây cơ chế, chính sách về QLTC cho GDĐH ở Việt Nam
đã có nhiều đổi mới nhằm tăng cường tính tự chủ, đặc biệt là tự chủ về tài chính. Tuy
nhiên trong báo cáo đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Đầu tư cho GĐ&ĐT chưa hiệu quả. Chính
sách, cơ chế tài chính cho GĐ&ĐT chưa phù hợp”[9]. Về phương hướng, nhiệm vụ,
137
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nêu rõ quan điểm:
“Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã
hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển GĐ&ĐT. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong đầu tư phát triển GĐ&ĐT, NSNN chi cho GĐ&ĐT tối thiểu ở mức 20% tổng
chi ngân sách; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế,
chính sách giá dịch vụ giáo dục - đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo
dục nghề nghiệp và GDĐH”[11].
Nghị quyết số Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện GĐ&ĐT đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế cũng nhấn mạnh “Đổi mới căn bản, toàn diện GĐ&ĐT là đổi mới những
vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào
tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở
tất cả các bậc học, ngành học”[10].
Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/06/2019 của Chính phủ về tăng cường huy động
các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển GĐ&ĐT giai đoạn 2019-2025 cũng đã nêu
quan điểm cần đẩy mạnh xã hội hóa GĐ&ĐT, coi đó là một chỉ tiêu trong định hướng phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, với mục tiêu “tạo bước chuyển biến rõ rệt, thực chất
trong thu hút, sử dụng và quản lý các nguồn lực của các cá nhân, tổ chức ở trong và ngoài
nước đầu tư cho phát triển GĐ&ĐT, nâng cao chất lượng GĐ&ĐT nhân lực đáp ứng yêu
cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế”[22].
Trên tinh thần các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới trong lĩnh vực
giáo dục đào tạo nói chung và đổi mới QLTC các trường ĐHCL nói riêng, thông qua kết
quả nghiên cứu thực trạng được trình bày trong Chương 3, tác giả rút ra một số quan điểm
dưới góc nhìn của người nghiên cứu về vấn đề đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt
Nam trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH như sau:
Quan điểm 1: Quy mô nguồn tài chính có vai trò quan trọng hơn mức tự chủ
tài chính của các trường ĐHCL
Mức tự chủ tài chính của các trường ĐHCL là một chỉ tiêu tương đối thể hiện khả
năng tự trang trải chi phí hoạt động các trường hay nói cách khác là khả năng cân đối thu
138
- chi của các trường. Tuy nhiên mức tự chủ nguồn kinh phí của trường đại học không
phải là yếu tố quyết định đến chất lượng của các trường ĐHCL, mà thực tế cho thấy tổng
quy mô nguồn tài chính của trường, cho dù được huy động từ nguồn NSNN hay ngoài
NSNN mới là nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc đảm bảo chất lượng GDĐH.
Quan điểm 2: Nguồn tài chính từ NSNN vẫn luôn đóng vai trò rất quan trọng
đối với các trường ĐHCL
Đi theo xu thế đại chúng hóa và phổ cập hóa GDĐH trên thế giới, việc gia tăng
nhanh chóng quy mô GDĐH đã tạo áp lực lên NSNN, khiến cho nguồn NSNN đầu tư
cho GDĐH ở Việt Nam giảm đi về cả quy mô và tỷ trọng. Điều này dẫn đến quan điểm
chia sẻ chi phí đào tạo và việc nâng cao quyền tự chủ cho các trường ĐHCL ở Việt Nam.
Trong hoàn cảnh này, mặc dù năng lực tự chủ của các trường vẫn đang được đề cao và
khuyến khích, tầm quan trọng của nguồn NSNN đầu tư cho các trường ĐHCL vẫn không
thể nào phủ nhận, xuất phát từ tính chất của dịch vụ đào tạo đại học của các trường ĐHCL
là một loại hàng hóa công không thuần túy. Các trường cần thực hiện tự chủ khi thực sự
sẵn sàng và không khuyến khích tự chủ tài chính bằng mọi giá, đồng thời cần phát huy
trường ĐHCL không đồng nghĩa với việc gia tăng chất lượng của trường.
vai trò của nguồn tài trợ Chính phủ cho GDĐH, bởi việc gia tăng mức tự chủ tài chính của các
Quan điểm 3: Đổi mới quản lý phân bổ nguồn NSNN cho GDĐH công lập cần
gắn với đổi mới quan hệ tài chính giữa Chính phủ và chủ thể nhận tài trợ
Tài trợ của Chính phủ cho GDĐH có thể được thực hiện theo hình thức tài trợ từ
phía cung (Chính phủ đóng vai trò chủ động) hoặc tài trợ từ phía cầu (đối tượng nhận tài
trợ đóng vai trò chủ động). Điều này có thể được hiểu là nếu trường đại học nhận tài trợ
một lần từ NSNN theo hình thức thương lượng hoặc theo công thức dựa trên các yếu tố
đầu vào hoặc đầu ra, hoặc tài trợ dành riêng cho nhiệm vụ đặt thù thì được gọi là tài trợ
từ phía cung, còn nếu sinh viên trực tiếp nhận tài trợ theo nhu cầu hoặc trường đại học
phải đấu thầu để nhận tài trợ nghiên cứu thì được gọi là tài trợ từ phía cầu. Đổi mới cơ
chế phân bổ nguồn NSNN cấp cho các trường ĐHCL ở Việt Nam cần gắn với các chiến
lược mới nhằm tăng cường tài trợ từ phía cầu.
Quan điểm 4: Chính phủ cần ưu tiên cấp NSNN cho mục đích đầu tư phát triển
hơn là mục đích chi tiêu cho hoạt động
Với việc duy trì vai trò quản lý vĩ mô và điều tiết của Nhà nước đối với lĩnh vực
GDĐH, nhằm đảm bảo phục vụ cho mục tiêu nâng cao lợi ích công mà hàng hóa công
139
GDĐH đem lại cho nền kinh tế, Nhà nước trong vai trò là chủ sở hữu của các trường
ĐHCL nên hướng tới việc ưu tiên cấp NSNN cho mục đích đầu tư phát triển hơn là mục
đích chi tiêu cho hoạt động, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của trường,
Quan điểm 5: Chính phủ cần định hướng cho các trường ĐHCL lựa chọn đúng
các mục tiêu chiến lược trong ngắn hạn và dài hạn để có quyết định phù hợp trong mở
rộng nguồn thu
Trong ngắn hạn, việc gia tăng quy mô đào tạo và mức tự chủ tài chính ở một số
trường hợp có thể tác động theo chiều hướng tiêu cực đến chất lượng trường đại học,
nhưng trong dài hạn thì sự thay đổi về lượng sẽ tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất. Vì
vậy cần định hướng cho các trường ĐHCL có kế hoạch tăng nguồn thu từ hoạt động đào
tại bằng cách mở rộng quy mô, đồng thời các trường cần chú ý đến các yếu tố đảm bảo
chất lượng trong dài hạn.
Quan điểm 6: Việc các trường ĐHCL thiết kế mức chi và cơ cấu chi hợp lý quan
trọng hơn nỗ lực bằng mọi cách nhằm cắt giảm chi phí
Việc nâng cao kết quả tài chính của trường ĐHCL là tiền đề cho việc gia tăng thu
nhập cho NLĐ và có tích lũy sử dụng cho việc tái đầu tư phát triển hoạt động sự nghiệp.
Để nâng cao kết quả tài chính của trường ĐHCL, việc thực hành tiết kiệm chi phí là cần
thiết, nhưng không phải là cứu cánh cho tự chủ tài chính trong GDĐH. Mức chi tiêu và
cơ cấu chi tiêu hợp lý của các trường nhằm củng cố các yếu tố đảm bảo chất lượng và
nuôi dưỡng nguồn thu là hết sức cần thiết.
4.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TIẾP TỤC ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI
CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ
CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Bên cạnh những phân tích định tính nhằm đánh giá thực trạng đổi mới cơ chế,
chính sách của nhà nước về QLTC các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ và nâng cao
chất lượng GDĐH theo tiêu chí công bằng, minh bạch và tạo động lực cho các trường,
kết quả nghiên cứu thực nghiệm tác động của những chỉ tiêu đánh giá kết quả đổi mới
QLTC các trường ĐHCL đến mức tự chủ và chất lượng của các trường sẽ là căn cứ để
Nhà nước có những góc nhìn thực tế hơn trong đổi mới cơ chế, chính sách QLTC nhằm
đạt được những mục tiêu chung của ngành; đồng thời mối quan hệ tác động này cũng là
căn cứ để Nhà nước định hướng các trường đại học trong thiết kế cơ cấu thu - chi phù
hợp với mục tiêu riêng của mình trong từng giai đoạn. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của những
140
nhân tố thuộc tính nội tại của các trường ĐHCL tạo ra sự khác biệt về kết quả đổi mới
QLTC, năng lực tự chủ tài chính và chất lượng của các trường ĐHCL sẽ là những chỉ báo
để NSNN điều chỉnh những ưu tiên trong tài trợ nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các
trường trong hệ thống GDĐH, đồng thời để các trường có kế hoạch thay đổi những nhân
tố đó (nếu được) theo hướng có lợi cho trường trong cạnh tranh và phát triển.
Xuất phát từ cơ sở lý thuyết ở Chương 2 và phân tích thực trạng đổi mới QLTC
các trường ĐHCL ở Việt Nam trong Chương 3, tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia
đi trước, và trên quan điểm về đổi mới QLTC các trường ĐHCL phù hợp với bối cảnh
mới, tác giả đề xuất một số giải pháp để tiếp tục đổi mới QLTC GDĐH công lập ở Việt
Nam trong thời gian tới như sau:
4.3.1. Nhóm giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước
4.3.1.1. Tăng cường áp dụng mô hình tài trợ dựa trên hiệu suất trong phân bổ
nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học công lập
Cơ sở đề xuất giải pháp:
- Cơ sở lý thuyết: Cơ chế tài trợ NSNN dựa trên hiệu suất cho phép khả năng đối
thoại giữa các trường đại học và nhà nước, do đó tăng tính minh bạch trong việc phân bổ
ngân sách, cũng như hỗ trợ trường đại học trong việc thiết kế chiến lược phát triển. Không
giống như mô hình tài trợ dựa trên thương lượng hoặc dựa trên công thức, mô hình tài
trợ dựa trên hiệu suất sử dụng các chỉ số triển vọng, do đó hướng các trường đại học vào
các mục tiêu phát triển đã xác định trước, phù hợp với điều kiện thực tế của trường cũng
như đáp ứng các mục tiêu tổng quát của quốc gia.
- Cơ sở thực tiễn:
+ Tài trợ dựa trên hiệu suất cho GDĐH ở Việt Nam thường không được dùng cho
các nhiệm vụ thường xuyên mà được sử dụng để cấp NSNN cho một hoạt động/nhiệm
vụ đặc biệt, có thể được áp dụng trong bối cảnh khẩn cấp (thiên tai, dịch bệnh) hoặc nhằm
hướng tới một mục tiêu đặc thù (ví dụ: điều tra, khảo sát phục vụ công tác thống kê; thực
hiện nhiệm vụ thuộc chương trình mục tiêu quốc gia…) hoặc một số nhiệm vụ không
thường xuyên khác, mang tính chất đặt hàng nhưng nhiều khi chưa được thể hiện dưới
dạng hợp đồng mà là giao nhiệm vụ.
141
+ Nhiều quốc gia phát triển trên thế giới đã coi hình thức tài trợ dựa trên hiệu suất
là “cực kỳ quan trọng”, chẳng hạn như ở Hà Lan và Vương quốc Anh. Một số nhà nghiên
cứu đã chỉ ra rằng tài trợ dựa trên hiệu suất dẫn đến việc các cơ sở GDĐH có động thái
cạnh tranh để nhận được nguồn phân bổ từ NSNN. Ở khía cạnh này có thể thấy, mô hình
tài trợ dựa trên hiệu suất đã có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy xu hướng chuyển
dần tài trợ NSNN cho giáo dục ĐHCL từ tài trợ từ phía cung sang tài trợ từ phía cầu.
Nội dung của giải pháp:
- Chính phủ cần tăng cường áp dụng mô hình tài trợ dựa trên hiệu suất trong phân
bổ NSNN cho các trường ĐHCL, trong đó quan hệ tài chính giữa Chính phủ và trường
đại học cần được xác định trên cơ sở hợp đồng hiệu suất (Performance contracts), áp dụng
cho cả nội dung tài trợ cho các hoạt động thường xuyên theo chức năng của trường đại
học (đào tạo, NCKH, PVCĐ), khi đó Nhà nước đóng vai trò là khách hàng sử dụng
DVSNC bình đẳng như những khách hàng khác trong nền kinh tế.
- Chính phủ hoặc chính quyền địa phương quy định rõ các chỉ số hiệu suất mục
tiêu (Target performance indicators) mà trường đại học cam kết đạt được khi nhận được
số tiền tài trợ từ ngân sách trung ương hoặc ngân sách địa phương. Các chỉ số hiệu suất
mục tiêu cần tập trung vào các chỉ số đảm bảo chất lượng trong thực hiện các chức năng
của trường đại học như: tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp, tỷ lệ sinh viên có việc làm sau một
năm tốt nghiệp, số lượng giảng viên được bồi dưỡng nâng cao năng lực ngoại ngữ; số
lượng và chất lượng công trình khoa học hợp tác nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề
kinh tế - xã hội của địa phương.
- Do trình độ phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung và trình độ phát triển
cũng như khả năng tự chủ của các trường ĐHCL ở Việt Nam hiện nay, việc tài trợ NSNN
cho giáo dục ĐHCL ở Việt Nam trong thời gian tới vẫn phù hợp với việc kết hợp các mô
hình tài trợ khác nhau như kinh nghiệm ở Hà Lan (Bakker, 2007)[8], chẳng hạn: tài trợ
cho hoạt động đào tạo của trường ĐHCL có thể một phần dựa trên hợp đồng hiệu suất
(Chính phủ hoặc chính quyền địa phương đặt hàng đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu
thực tế), một phần dựa trên mô hình thương lượng (cấp bù NSNN cho dịch vụ đào tạo
khi giá chưa tính đủ chi phí) và một phần dựa trên dữ liệu đầu vào (ví dụ số lượng tuyển
sinh thuộc diện được nhà nước tài trợ hoàn toàn chi phí học tập).
142
4.3.1.2. Tài trợ theo cơ chế cạnh tranh cho giáo dục đại học theo mô hình “Quỹ
đổi mới”
Cơ sở đề xuất giải pháp:
- Cơ sở lý thuyết: Xu hướng đổi mới quản lý phân bổ NSNN cho GDĐH của của
các quốc gia trên thế giới là đổi mới từ mô hình thương lượng sang mô hình tài trợ theo
công thức (dựa trên yếu tố đầu vào hoặc đầu ra), mô hình tài trợ dựa trên hiệu suất và
cuối cùng là mô hình tài trợ cạnh tranh hoặc có sự kết hợp giữa một vài mô hình này
trong từng giai đoạn phát triển (Xem hình 2.1).
- Cơ sở thực tiễn:
+ Còn tồn tại sự bất bình đẳng và xu hướng phân bổ mang tính bình quân cào bằng
trong quản lý phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL xuất phát từ cơ chế phân bổ NSNN
cho các trường ĐHCL ở Việt Nam hiện nay vẫn còn chủ yếu dựa trên cơ chế đàm phán
là chủ yếu.
+ Cơ chế tài trợ cạnh tranh cho GDĐH ở Việt Nam hiện chưa được phổ biến,
chủ yếu thể hiện ở hình thức đấu thầu để nhận tài trợ cho nhiệm vụ nghiên cứu có sẵn
do Nhà nước mời thầu. Hình thức tài trợ thông qua cạnh tranh giữa các trường nhằm
huy động nguồn tài trợ công cho mục đích cụ thể của trường thì hiện tại hầu như chưa
được áp dụng.
Nội dung của giải pháp:
Quỹ đổi mới được gọi là Quỹ cạnh tranh hoặc Quỹ tài trợ cải thiện chất lượng.
Các quỹ này thường được giải ngân theo từng kỳ dựa trên cơ chế cạnh tranh bằng cách
sử dụng một quy trình minh bạch, từ việc đệ trình các hồ sơ đề xuất ý tưởng đổi mới, đến
việc đánh giá lựa chọn ý tưởng, sau đó là phê duyệt của Hội đồng quản lý[114].
Việc sử dụng Quỹ đổi mới như một phương pháp tiếp cận tài trợ cạnh tranh để
thúc đẩy việc đổi mới nhằm cải thiện chất lượng các trường đại học là một việc làm đã
từng được thực hiện ở một số quốc gia đang phát triển từ hơn hai thập kỷ trước, được biết
đến với hàng loạt các quỹ đổi mới do WB khởi xướng trải dài khắp 4 châu lục và bao gồm
28 chương trình riêng biệt.
Ngày nay, việc kiểm định CTĐT và đánh giá các cơ sở GDĐH là những hoạt động
cần thiết mà hầu hết các quốc gia đang áp dụng để nâng cao chất lượng các trường đại học.
Nhưng chỉ riêng việc đó thì không đủ để thực hiện mục đích nâng cao chất lượng của các
trường. Để đạt được hiệu quả đầy đủ trong việc nâng cao chất lượng các trường đại học,
143
quy trình kiểm định và đánh giá cơ sở GDĐH cần được bổ sung bằng việc tìm các nguồn
tài chính thích hợp để tài trợ cho các kế hoạch hành động nhằm đạt được các mục tiêu chiến
lược đã đề ra. Các quỹ đổi mới có thể giúp giải quyết yêu cầu này, đúng như những gì được
mô tả trong một quy trình đầy đủ của việc kiểm định và đánh giá ngoài các trường đại học
như trong Bảng 4.2 dưới đây[20]:
Bảng 4.2. Mức trần học phí đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập chưa tự bảo đảm chi thường xuyên
ĐẦU RA BÊN THỰC HIỆN MỤC ĐÍCH
Báo cáo tự Bộ máy quản lý - Trách nhiệm giải trình cho các bên liên quan;
đánh giá trường đại học - Chuẩn bị cho đánh giá ngoài;
- Tự nhận thức.
- Đảm bảo chất lượng;
Báo cáo đánh Cơ quan kiểm định - Phản hồi khách quan;
giá ngoài độc lập - Xác định điểm mạnh và điểm yếu của
tổ chức.
- Công khai thông tin về hiệu quả hoạt
Chứng nhận Cơ quan bên ngoài động của tổ chức và việc tuân thủ các
tiêu chuẩn.
Kế hoạch Bộ máy quản lý - Xác định sứ mạng, mục tiêu, vai trò và
chiến lược trường đại học những ưu tiên của tổ chức.
Kế hoạch Bộ máy quản lý - Các bước cụ thể để đạt được các mục hành động trường đại học tiêu chiến lược. phát triển
Quyết định tài
Quỹ đổi mới - Hỗ trợ tài chính cho những hành động chiến lược và sự đổi mới
trợ cho những đề xuất đổi mới
(Nguồn: Carlos Marquis (2000))
Từ những kinh nghiệm đã được rút ra trong thực hiện triển khai Quỹ đổi mới thông
qua khảo sát của WB và nhận định một số vấn đề thực trạng về nguồn tài chính cho
GDĐH ở Việt Nam, tác giả đề xuất một mô hình Quỹ đổi mới được cho là phù hợp với
Việt Nam ở hiện tại như sau (Bảng 4.3):
144
Bảng 4.3: Mô hình Quỹ đổi mới đề xuất cho giáo dục đại học ở Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay
STT
Bên tham gia
Chi tiết
Công việc cần thực hiện
Các nội dung tổ chức quản lý và vận hành
Thành lập Hội đồng quản lý
Xác định nguồn tài chính hình thành quỹ
1
Thiết lập quỹ
- Bộ GĐ&ĐT, Bộ tài chính, Bộ KH&ĐT; - Các trường đại học; - Các hiệp hội nghề nghiệp; - Đại diện các tổ chức sử dụng lao động.
Xác định cơ cấu tài trợ
thuận chiến
Thỏa khung lược của quỹ
Thành viên gồm: - Đại diện Bộ GĐ&ĐT, Bộ tài chính, Bộ KH&ĐT; - Đại diện các trường đại học; - Đại diện các hiệp hội nghề nghiệp; - Đại diện các tổ chức sử dụng lao động. Quỹ đổi mới được hình thành từ các nguồn chủ yếu sau: - Tài trợ từ NSNN (nguồn vốn dành cho chi đầu tư cho GDĐH) - Tài trợ từ nguồn ODA từ các đối tác đa phương (VD: Ngân hàng Thế giới - WB, Ngân hàng Phát triển châu Á - ADB…) và song phương (VD: Nhật Bản, Anh, Bỉ, Đan Mạch, Hàn Quốc, Pháp…) - Tài trợ từ các doanh nghiệp trong nền kinh tế với vai trò là người hưởng lợi từ quá trình đổi mới của các trường đại học thông qua việc đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực theo nhu cầu. - Quỹ tài trợ 80-90% chi phí cho dự án; - Trường đại học tham gia với mức vốn đối ứng khoảng 10- 20% (có thể bằng tiền hoặc hiện vật) - Xác định khung chiến lược bao gồm các mục tiêu chiến lược cụ thể đối với hệ thống GDĐH ở Việt Nam: + Tự chủ đại học;
145
STT
Bên tham gia
Chi tiết
Công việc cần thực hiện
Các nội dung tổ chức quản lý và vận hành
trong
Thỏa thuận ban đầu về nguyên tắc vận hành của quỹ
+ Năng lực quản lý; + NCKH; + Chất lượng giảng dạy; + Thành lập doanh nghiệp KH&CN trường đại học… - Thỏa thuận cụ thể về các nội dung liên quan đến quy trình đánh giá dự án, huấn luyện đào tạo, giải quyết khiếu nại, xử phạt, đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ.
2
Hội đồng quản lý
Thông báo tuyển chọn dự án đổi mới
- Thực hiện mỗi năm 1 lần trước kỳ nghỉ hè của các năm học
Thông báo trên các phương tiện thông tin đại trang chúng, web chính thức của quỹ
3
Lập hồ sơ báo cáo khả thi cho dự án đổi mới
nhóm Các ứng viên thiết kế các đề xuất đổi mới
Các nhóm gia chuyên học thuật, đơn vị hành chính, nhóm học viên
4
“Ban đổi mới” hoặc hội đồng đánh giá do nhà trường lập ra
Các trường đại học lựa chọn dự án khả thi phù hợp với mục tiêu chiến lược
5
đồng Hội giám khảo đánh giá lựa chọn dự án
đồng Hội giám khảo gồm các Tiểu ban đánh giá theo lĩnh vực - Các nhóm
Đánh giá lựa chọn các dự án tốt nhất trong giới hạn số lượng các dự án được phép đệ trình Sử dụng cơ chế bình duyệt để lựa chọn các dự án phù hợp với các mục tiêu chiến lược mà
- Yêu cầu các trường đại học tham gia tiếp cận nguồn tài trợ của quỹ thành lập “Ban đổi mới” chịu trách nhiệm khuyến khích việc đề xuất ý tưởng; hỗ trợ hướng dẫn nhóm làm hồ sơ xin tài trợ; được đào tạo quản lý các hoạt động của Quỹ trong khuôn viên trường như một hoạt động phụ trợ Chú trọng hướng đến việc đổi mới nhằm khắc phục các điểm yếu được chỉ ra qua hoạt động kiểm định và đánh giá ngoài, hướng tới mục tiêu chiến lược và những ưu tiên của trường * Tiêu chuẩn đủ điều kiện tham gia: - Trường đại học có kế hoạch chiến lược - Trường đại học đã được đánh giá ngoài
146
STT
Bên tham gia
Chi tiết
Công việc cần thực hiện
Các nội dung tổ chức quản lý và vận hành
Nhà nước đang theo đuổi
chuyên gia đánh giá về kỹ thuật
- Số lượng sinh viên tuyển sinh hằng năm từ 1.500 trở lên - Hồ sơ dự án đã được trường đại học chủ quản phê duyệt - Vốn đối ứng bằng tiền hoặc hiện vật từ 10-20% * Tiêu chuẩn chất lượng dự án (tham khảo cách tính điểm trước đây của Việt Nam trong chương trình tài trợ của WB)14 - Tính phù hợp (trọng số: 43%) - Mức độ tác động (trọng số: 33%) - Tính khả thi (trọng số: 24%) * Hạn mức giải ngân cho 1 dự án (có thể quy định bằng số tuyệt đối hoặc tỉ lệ % so với tổng số vốn được giải ngân của đợt tuyển chọn) * Đánh giá 2 bước đối với các dự án có quy mô tài trợ ở mức cao và các ứng viên có năng lực thể chế chênh lệch đáng kể (nhằm hạn chế sự không công bằng do ảnh hưởng của chênh lệch năng lực của trường đại học) - Bước 1: tài trợ thí điểm để đánh giá tính khả thi - Bước 2: tài trợ đầy đủ
6
Hội đồng quản lý
Đánh giá lại kết quả tuyển chọn của Hội đồng giám khảo
- Căn cứ vào mục tiêu quỹ - Xem xét yếu tố thành kiến ảnh hưởng đến kết quả cạnh tranh
Ban lãnh đạo xem xét lại kết quả tuyển chọn và ra quyết định tài trợ
quyết
7
Giải khiếu nại
Hội đồng quản lý
Cần có tài liệu hướng dẫn chi tiết các quy định làm tham chiếu để giải quyết khiếu nại
Xử lý các vấn đề khiếu nại khi có nhóm ứng viên cho rằng quyết định của Hội đồng giám
147
STT
Bên tham gia
Chi tiết
Công việc cần thực hiện
Các nội dung tổ chức quản lý và vận hành
khảo và Hội đồng quản lý là công không bằng
8
Xử phạt vi phạm
Hội đồng quản lý
Xử lý các dự án đi lệch mục tiêu và chậm tiến độ
9
Đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ
Phản hồi của các bên liên quan
- Hội đồng quản lý - Cơ quan kiểm toán độc lập - Đại điện Bộ GĐ&ĐT, Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT - Đại diện các trường đại học - Đại diện cơ quan sử dụng lao động - Đánh giá của cơ quan tài trợ nguồn tài chính
- Đình chỉ việc giải ngân theo tiến độ - Đình chỉ việc tham gia của trường đại học chủ quản trong 1 hoặc 2 năm Sử dụng một số biến để lượng hóa và đo lường hiệu quả hoạt động của quỹ: - Số lượng các các CTĐT trong lựa chọn chiến lược được cập nhật và phát triển; - Tỷ lệ tăng lên của sinh viên trúng tuyển vào các CTĐT được lựa chọn chiến lược; - Mức tăng của điểm trung bình chung học tập của sinh viên; - Thời gian chờ đợi trung bình của sinh viên tốt nghiệp đến khi trúng tuyển việc làm đầu tiên; - Thời gian học tập trung bình cần thiết để sinh viên tốt nghiệp;
Mặc dù mô hình Quỹ đổi mới không còn là mô hình mới mẻ trong các công cụ
phân bổ nguồn tài chính công cho GDĐH, nhưng những tác dụng và ưu điểm vốn có
của một mô hình tài trợ dựa trên sự cạnh tranh lành mạnh của các trường đại học trong
việc thu hút nguồn tài chính sẽ là bằng chứng thuyết phục về việc cân nhắc tiếp tục áp
dụng mô hình này với những điều chỉnh phù hợp với bối cảnh hiện nay ở Việt Nam.
Mô hình Quỹ đổi mới được áp dụng sẽ giúp làm tăng tính hiệu quả, minh bạch trong
phân phối nguồn lực từ NSNN cho chi đầu tư ở các trường ĐHCL, đồng thời là công
cụ để khuyến khích những nỗ lực của bản thân các trường đại học trong việc thu hút
148
nguồn tài chính từ trong nước cũng như nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn ODA từ các
đối tác đa phương và song phương cho các sáng kiến đổi mới nhằm nâng cao chất lượng
GDĐH ở Việt Nam.
4.3.1.3. Xóa bỏ quy định mức trần học phí, cới trói cho trường đại học công lập
trong việc xác định giá dịch vụ đào tạo
Cơ sở đề xuất giải pháp:
- Cơ sở lý thuyết: Xu hướng chung của GDĐH công lập trên thế giới là đổi mới
chính sách học phí từ mô hình “học phí do NSNN cấp” sang mô mình “học phí song
song”, tiếp đó là mô hình “học phí kiểu hai bậc” và cuối cùng là “học phí kiểu truyền
thống”. Theo đó, ở mức tự chủ cao, các trường ĐHCL có quyền quyết định mức thu học
phí theo cơ chế thị trường (Xem Hình 2.2).
- Cơ sở thực tiễn: Việc đổi mới chính sách học phí của Việt Nam về cơ bản đang
tuân theo xu hướng đổi mới chung về cơ cấu học phí của các nước trên thế giới. Chính
phủ Việt Nam đã mở rộng quyền tự chủ cho các trường ĐHCL tự chủ chi thường xuyên
và chi đầu tư và các trường tự chủ chi thường xuyên, có xu hướng cắt giảm tài trợ từ
NSNN cho GDĐH, nhưng vẫn trói buộc các trường bằng quy định trần học phí. Điều này
dẫn đến tỷ trọng bình quân nguồn thu từ đào tạo của các trường ĐHCL ở Việt Nam có
xu hướng giảm, trong khi đây được coi là nguồn thu sự nghiệp quan trọng nhất giúp các
trường nâng cao tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN để thực hiện mục tiêu tự chủ tài
chính của mình.
Nội dung của giải pháp:
Nhà nước muốn thực hiện chủ trương hỗ trợ nhằm nâng cao khả năng tiếp cận
GDĐH cho người dân cần cân nhắc lựa chọn tổng hòa các giải pháp, thay thế cho quy
định mức trần học phí như hiện nay:
- Xóa bỏ mức trần học phí quy định trong chính sách học phí hiện nay, thay thế
bằng mức giá tham khảo để các trường có căn cứ chỉ dẫn để quyết định mức học phí
phù hợp.
- Ưu tiên hỗ trợ trực tiếp chi phí học tập cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó
khăn bằng các giải pháp khác như: Tín dụng sinh viên, học bổng dựa trên nhu cầu
(Needbased - Scholarship).
149
Song song với việc tiến tới xóa bỏ trần học phí, chương trình tín dụng sinh viên và
các chương trình học bổng cũng cần được cải thiện theo hướng cao hơn và đảm bảo một
số nhóm đối tượng có thể được vay và/hoặc giành được học bổng đủ để chi trả cho 100%
học phí lẫn sinh hoạt phí. Quyết định 1656/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/12/2019 quy định mức tín dụng là 2,5 triệu VND/sinh viên/tháng về
cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu này đối với sinh viên theo học những chương trình đại trà
tại các trường công[99]. Nhưng nếu muốn tăng học phí đủ mức bù đắp chi phí nhằm mục
tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, thì mức tín dụng này mới chỉ đáp ứng cơ bản được phần
học phí mà người học phải đóng góp, chưa đảm bảo hỗ trợ mức sinh hoạt phí chi sinh viên.
Phần hỗ trợ còn lại trong chi phí đơn vị nếu không có sự đầu tư từ nguồn NSNN thì sẽ tạo
áp lực lớn lên người học và gia đình của họ. Do vậy, việc áp dụng đồng thời chính sách
tăng học phí và tăng hỗ trợ là phù hợp với cơ chế “2 cao” (học phí cao - hỗ trợ cao) đã được
nhiều học giả đề xuất trước đây[52]. Ngoài ra, mở rộng chính sách tín dụng sinh viên cũng
là một giải pháp giúp hợp lý hóa xu hướng cắt giảm đầu tư NSNN cho GDĐH, giảm áp
lực cho NSNN khi nhà nước theo đuổi nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội khác, bởi vì, sinh
viên sau khi tốt nghiệp và có việc làm sẽ có nghĩa vụ hoàn trả lại khoản tín dụng vào NSNN.
4.3.1.4. Chuẩn bị những điều kiện tiền đề cho thị trường hóa, tư nhân hóa và
cổ phần hóa giáo dục đại học
Cơ sở đề xuất giải pháp:
- Cơ sở lý thuyết: hoạt động GDĐH của các trường ĐHCL mang tính chất hàng
hóa công không thuần túy, nghĩa là lợi ích tư của người học sẽ được thể hiện trước khi
đánh giá được lợi ích công. Chính vì mang đặc điểm của hàng hóa tư nhân với tính cạnh
tranh và tính loại trừ nên Chính phủ có thể hướng đến thị trường hóa GDĐH và coi đây
là một bộ phận của thị trường việc làm (Choi, 2015)[23].
- Cơ sở thực tiễn: Xuất phát từ bài học kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới
khi áp dụng chính sách điều tiết GDĐH theo cơ chế thị trường, trong trường hợp chính phủ
theo đuổi mục tiêu giảm thâm hụt NSNN, tăng nguồn thu từ dịch vụ đào tạo và các hoạt động
sản xuất, dịch vụ khác của các trường nhằm nâng cao chất hượng của các trường ĐHCL và
linh hoạt đáp ứng ngày càng nhiều hơn nhu cầu đa dạng của người học.
Nội dung của giải pháp:
- Nhà nước ban hành chính sách tự chủ tài chính với ít rào cản, trao quyền tự chủ
cao cho các trường trong việc huy động các nguồn tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau,
150
nhiều khách hàng khác nhau trong đó có Chính phủ, đồng thời mở rộng quyền sở hữu
các tài sản tài chính cho các trường ĐHCL (theo kinh nghiệm của Phần Lan) (Melin và
cộng sự, 2015)[62].
- Tái cấu trúc các trường đại học thông qua hoạt động sáp nhập, thành lập các tập
đoàn/tổng công ty GDĐH có năng lực tự chủ tốt và có tiềm năng tài chính dồi dào, từ
đó thay đổi tình trạng tư pháp của các trường ĐHCL, từ các ĐVSNCL thuộc sở hữu của
chính phủ sang các tổ chức công độc lập (theo kinh nghiệm của Nhật Bản) (Hanada,
2013) [31].
- Tư nhân hóa, cổ phần hóa GDĐH với định hướng các trường theo đuổi hiệu quả,
năng suất, chất lượng, hướng tới việc xuất khẩu GDĐH, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế trong lĩnh vực GDĐH đồng thời khai thác nguồn thu học phí từ sinh viên quốc tế (theo
kinh nghiệm của Úc) (Long, 2010)[58].
4.3.2. Nhóm giải pháp định hướng cho các trường đại học công lập trong triển
khai thực hiện cơ chế, chính sách quản lý tài chính của Nhà nước
4.3.2.1. Nhà nước khuyến khích các trường đại học công lập tăng quy mô nguồn
tài chính từ nhiều nguồn khác nhau, đồng thời tuyên truyền và định hướng cho các
trường nhằm thiết kế cơ cấu nguồn thu, cơ cấu chi tiêu phù hợp với mục tiêu chiến
lược trong từng giai đoạn
Cơ sở đề xuất giải pháp:
- Cơ sở lý thuyết: Nguồn tài chính có thể huy động cho GDĐH là rất đa dạng. Với
cơ chế tự chủ GDĐH, các trường đại học có cơ hội khai thác nhiều nguồn tài chính khác
nhau phục vụ cho hoạt động thường xuyên cũng như nhu cầu đầu tư phát triển của trường.
- Cơ sở thực tiễn: Nghiên cứu thực nghiệm mô hình hồi quy cho thấy quy mô tổng
nguồn tài chính có tác động tích cực đến hầu hết các chỉ tiêu phản ánh chất lượng của
trường ĐHCL, đồng thời, các chỉ tiêu phản ánh đổi mới QLTC các trường ĐHCL có mối
quan hệ tác động nhất định đến mức tự chủ cũng như đến từng chỉ tiêu chất lượng của
trường.
Nội dung của giải pháp:
Với vai trò là chủ thể quản lý nhà nước, Chính phủ và chính quyền địa phương
không thể thực hiện thay cho các trường trong việc triển khai các quy định thuộc về cơ
chế quản lý, nhưng cần có những biện pháp tuyên truyền, khuyến khích các trường ĐHCL
có những định hướng phù hợp nhằm đạt được các mục tiêu của đổi mới QLTC các trường
ĐHCL trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH, cụ thể:
151
- Đối với nguồn tài chính từ NSNN, các trường cần chủ động hơn trong việc
huy động nguồn tài chính quan trọng này cho hoạt động của trường bằng cách tận
dụng những quy định cởi mở trong cơ chế, chính sách của Nhà nước: (1) chú trọng
củng cố những tiêu chí để hoàn thiện năng lực về mọi khía cạnh của trường như quy
mô và chất lượng nguồn nhân lực, năng lực tài chính, năng lực chuyên môn… để có
ưu thế trong đấu thầu cạnh tranh thực hiện nhiệm vụ khoa học, đồng thời (2) phát huy
năng lực đổi mới sáng tạo bằng những ý tưởng đổi mới khả thi hướng đến chất lượng
của trường để cạnh tranh thu hút nguồn tài trợ từ những quỹ công tài trợ theo cơ chế
cạnh tranh (nếu có).
- Về xác định cơ cấu nguồn thu và cơ cấu chi tiêu:
+ Nếu trường theo đuổi mục tiêu nâng cao chất lượng đầu vào của sinh viên bằng
cách cải thiện chỉ tiêu Điểm trung bình tuyển sính đầu vào (DTBDV): Trong ngắn hạn,
nên tăng tỷ trọng nguồn thu khác từ các hoạt động DVSNC (THU_KHAC) chứ không
thực hiện việc mở rộng nguồn thu từ học phí; đổng thời tăng tỷ trọng chi cho phát triển
nguồn nhân lực (NNL), việc tăng tỷ trọng đầu tư cho cơ sở vật chât (CSVC) trong ngắn
hạn không có tác động tích cực đến chất lượng đầu vào của sinh viên.
+ Nếu các trường muốn cải thiện số lượng sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy
thì cần huy động mạnh các nguồn thu ngoài NSNN (NNS) để trang trải cho hoạt động
của trường trong điều kiện nguồn NSNN hạn hẹp, đồng thời chú trọng đến chi cho hoạt
động chuyên môn, quản lý (CMQL) nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như hỗ
trợ sinh viên trong quá trình học tập.
+ Về cơ bản việc tăng quy mô các nguồn tài chính ngoài NSNN xuất phát từ việc
tăng quy mô đào tạo của trường đại học thực tế lại tác động ngược chiều tới tỷ lệ sinh
viên thừa nhận có đủ kiến thức, kỹ năng theo ngành đào tạo (KTKN_DU), và tỷ lệ thuận
với tỷ lệ sính viên chỉ học được một phần kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo
ngành tốt nghiệp (KTKN_1PHAN), vì vậy, song song với việc tăng quy mô đào tạo thì
các trường cần phải chú trọng phát triển CTĐT.
+ Các trường đặt mục tiêu tăng chất lượng giảng viên, nhà khoa học thì cần tăng
tỷ trọng Chi cho phát triển nguồn nhân lực (NNL) và Chi cho con người (CCN).
+ Để đạt mục tiêu nâng cao chất lượng NCKH, các trường cần điều chỉnh tỷ trọng
nguồn thu từ nguồn ngoài NSNN (NNS) là chủ yếu, bởi NSNN cấp cho NCKH chủ yếu
phục vụ cho các nhiệm vụ NCKH cụ thể/đặc thù do nhà nước giao hoặc đặt hàng, mang
tính chất không thường xuyên, còn nguồn thu ngoài NSNN sẽ phục vụ cho hoạt động
152
NCKH mang tính chất thường xuyên của trường. Ngoài ra, chất lượng NCKH của trường
còn chịu tác động tích cực từ Chi cho NCKH (NCKH), Chi cho chuyên môn quản lý
(CMQL).
+ Tỷ trọng nguồn thu ngoài NSNN (NNS) có tác động tích cực đến chất lượng PVCĐ
của trường, trong khí đó các trường muốn thúc đẩy hoạt động PVCĐ từ sự góp sức của người
học và NLĐ trong trường thì cần tăng Chi cho sinh viên CHI_SV và Chi cho chuyên môn
quản lý (CMQL).
Để xác định cơ cấu thu và cơ cấu chi hợp lý, các trường phải sử dụng đồng thời
nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có tổ chức hệ thống thông tin tài chính để phản ánh,
ghi nhận kịp thời các khoản thu, chi theo từng nội dung, và thường xuyên tổ chức phân
tích, đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm, trên cơ sở đó đề ra biện pháp tăng cường quản
lý, điều chỉnh về quy mô, cơ cấu nguồn thu và chi tiêu của trường.
4.3.2.2. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập và
vận hành các doanh nghiệp khoa học công nghệ trong trường đại học công lập
Cơ sở đề xuất giải pháp:
- Cơ sở lý thuyết: Doanh nghiệp KH&CN trong trường đại học trên thế giới được
biết đến với thuật ngữ: công ty “spin-off” (University Spin-off Company hoặc
Technology Spin-off Company) rất phổ biến ở các nước phát triển. Hình thức công ty
“spin-off” xuất hiện lần đầu tiên ở Vương quốc Anh vào cuối thế kỷ XIX với sự xuất hiện
của nhiều công ty công nghệ được thành lập bởi các trường đại học nghiên cứu tiên phong
trong cách mạng công nghiệp, mà điển hình là hai trung tâm khoa học Cambridge và
Oxford. Cho đến giữa thế kỷ XX, mô hình các công ty với đồng sở hữu của nhà khoa học
và trường đại học tiếp tục được phát triển và nhiều tập đoàn công nghệ lớn đã được phát
triển và duy trì đến ngày nay. Mô hình này nhanh chóng phát triển ở Mỹ và Anh từ giữa
đến cuối thế kỷ XX, với một mốc quan trọng vào năm 1980, khi Đạo luật Bayh-Dole
được phê duyệt ở Hoa Kỳ nhằm luật hóa hoạt động của mô hình công ty này. Từ đây, mô
hình này nhanh chóng được phát triển ở nhiều nước như Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản…
và trở thành một giải pháp thích hợp cho phép nhà khoa học vừa giữ được tài sản trí tuệ,
vừa thu được lợi nhuận, đồng thời cơ sở nghiên cứu cũng được hưởng lợi ích lâu dài.
- Cơ sở thực tiễn: Nghiên cứu thực nghiệm của luận án đã chỉ ra: những trường
ĐHCL có sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc sẽ có mức tự chủ cao
hơn, thu hút được nguồn tài trợ từ NSNN nhiều hơn, cũng như có chất lượng đào tạo tốt
hơn khi mà tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc theo
153
ngành đào tạo (KTKN_DU) của nhóm trường có ĐVSX-DV-CGCN cao hơn nhóm trường
không có sự hiện diện của các đơn vị này.
- Cơ sở về chính sách: Điều 6 Nghị định 109/2022/NĐ-CP quy định về Doanh
nghiệp KH&CN trong cơ sở GDĐH như sau:
+ Cơ sở GDĐH được thành lập doanh nghiệp theo pháp luật về doanh nghiệp, phù
hợp với định hướng phát triển của cơ sở GDĐH. Doanh nghiệp trong cơ sở GDĐH đủ
điều kiện theo quy định được đăng ký chứng nhận doanh nghiệp KH&CN.
+ Cơ sở giáo dục ĐHCL được góp vốn bằng tài sản trí tuệ là kết quả nhiệm vụ
KH&CN có nguồn gốc NSNN đã được cơ quan có thẩm quyền giao quản lý sử dụng để
liên doanh, liên kết nếu đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật về KH&CN, pháp
luật về quản lý, sử dụng tài sản công, pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về doanh
+ Cơ sở giáo dục ĐHCL được giao quyền sử dụng theo hình thức ghi tăng tài sản,
nghiệp và pháp luật có liên quan khác.
cơ sở GDĐH tư thục được giao quyền sở hữu tài sản và phải hoàn trả giá trị tài sản là kết
quả của nhiệm vụ KH&CN được hình thành từ nhiệm vụ KH&CN có nguồn gốc NSNN
theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản
công. Việc thương mại hóa và đăng ký chứng nhận doanh nghiệp KH&CN thực hiện theo
+ Các quy định trên không áp dụng đối với trường hợp kết quả KH&CN thuộc
quy định của pháp luật.
phạm vi bí mật nhà nước.
Nội dung của giải pháp:
- Nhà nước khuyến khích các trường thành lập doanh nghiệp theo quy định hiện
hành, khuyến nghị các trường vận dụng mô hình huy động nguồn lực cho doanh nghiệp
thuộc trường theo mô hình của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đầu tư và
Phát triển Công nghệ Bách Khoa Hà Nội (BK-Holdings) (Hình 4.1) Theo mô hình này,
nguồn vốn huy động cho doanh nghiệp thuộc trường ĐHCL sẽ gồm có vốn góp của bản
thân nhà trường (từ kết quả hoạt động của trường là chủ yếu), các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước (cán bộ, viên chức thuộc trường, thành viên hội đồng trường, các nhà đầu
tư cá nhân, các doanh nghiệp…), các nhà khoa học (thông qua giá trị của các công trình
NCKH). Theo đó, hình thức sở hữu của doanh nghiệp thuộc trường đại học có thể là công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh, công ty cổ phần. Về nguồn nhân lực sử dụng
cho doanh nghiệp, có thể tận dụng luôn nguồn nhân lực trong nhà trường, nhất là các nhà
khoa học, các nhà giáo và cả sinh viên, học viên của trường. Các doanh nghiệp này có thể
154
hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu, ươm tạo và thương mại hoá các sản phẩm khoa học
- công nghệ của nhà trường; cung cấp các dịch vụ đào tạo thích nghi kỹ năng nghề và cập
nhật kiến thức theo yêu cầu xã hội; và các dịch vụ tư vấn như phù hợp với thế mạnh của
chuyên ngành đào tạo; nhận uỷ thác các nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước, triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh…
(Nguồn: http://www.bkholdings.com.vn/vn/Gioi-thieu.html)
Hình 4.1. Mô hình huy động các nguồn lực của Công ty BK-Holdings
- Nhà nước định hướng cho các trường ĐHCL nghiên cứu vận dụng mô hình hoạt
động “Nhà trường - Sinh viên - Công ty” giống như mô hình USE Model của Trường Đại
học Đông Á - Đà Nẵng (Hình 4.2) đối với doanh nghiệp thuộc trường đại học. Hệ thống
“Nhà trường - Sinh viên - Công ty” là một mô hình giáo dục mới tại Việt Nam. Theo mô
hình này, Trường Đại học Đông Á thành lập các công ty để sinh viên và giáo viên có thể
vừa học tập, nghiên cứu, vừa làm việc. Sinh viên khi học tại trường có thể học một buổi
lý thuyết tại giảng đường, buổi còn lại sẽ học ở công trường và doanh nghiệp. Đây là mô
hình hỗ trợ cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, nâng cao đời sống cho giảng viên,
tạo công ăn việc làm và thu nhập cho sinh viên trong thời gian học tại trường[73]. Mô
hình “Nhà trường - Sinh viên - Công ty” được đánh giá là mô hình doanh nghiệp trong
trường đại học có triết lý đào tạo mới mẻ, độc đáo, đó là “phục vụ sinh viên trong học
tập, nghiên cứu và trải nghiệm thực tiễn”[103]. Đây là một gợi ý tốt trong bối cảnh hiện
nay khi hầu hết các trường ĐHCL ở Việt Nam hiện nay đang lấy sinh viên, người học
làm trung tâm. Theo mô hình này, sinh viên sẽ là người được truyền thụ kiến thức, được
tham gia hoạt động NCKH trên giảng đường; đồng thời sinh viên cũng là người được
tham gia thực hành, thực tập, làm việc ngay trong chính doanh nghiệp thuộc trường.
155
Hình 4.2. Mô hình hoạt động của các doanh nghiệp thuộc Trường Đại học Đông Á
(Nguồn: http://donga.edu.vn)
Việc xây dựng doanh nghiệp KH&CN trực thuộc trường ĐHCL nếu thành công
sẽ phát huy những ưu điểm vốn có của mô hình này, cụ thể là:
- Thứ nhất: kiểm chứng, đánh giá được giá trị thực tiễn của các công trình NCKH
của các nhà khoa học, nhà giáo;
- Thứ hai: chuyển giao công nghệ mà vẫn đảm bảo lợi ích lâu dài cho nhà trường
và cá nhân nhà NCKH;
- Thứ ba: hạn chế lãng phí khi những kết quả NCKH có giá trị thực tiễn cao nhưng
không có nguồn lực hỗ trợ để được ứng dụng vào thực tiễn;
- Thứ tư: là chiếc nôi để sinh viên của trường có cơ hội được vận dụng kiến thức
được học trong nhà trường vào thực tế.
- Thứ năm: chuyên môn hóa trong hoạt động sản xuất, dịch vụ, chuyển giao công
nghệ sẽ tạo điều kiện cho việc đa dạng hóa và tăng quy mô nguồn tài chính của các trường
trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
156
KẾT LUẬN
Giáo dục - đào tạo là lĩnh vực luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát
triển của mọi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là với những nước đang phát triển như Việt
Nam. Sau hơn 35 năm đổi mới, giáo dục Việt Nam đã hoàn thành chiến lược phát triển
giáo dục giai đoạn 2011 - 2020, và đang bước tiếp trên con đường thực hiện những nhiệm
vụ của chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn mới - giai đoạn 2021- 2030. Thực hiện
chủ trương, chính sách đổi mới nền giáo dục, mà cụ thể là chiến lược đổi mới GDĐH của
Đảng và Nhà nước, các trường ĐHCL giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Với xu thế phát triển mạnh mẽ nền kinh tế tri thức trên thế giới, và cùng với đó là
xu hướng đại chúng hóa và tiến trình xã hội hóa GDĐH ngày càng được đẩy mạnh, vấn
đề Đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng
cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam vẫn là vấn đề mang tính thời sự, bởi tài chính
là nhân tố quan trọng được coi là “huyết mạch” phục vụ cho các hoạt động của các trường
đại học.
Xuyên suốt quá trình nghiên cứu đề tài luận án từ tổng quan các công trình nghiên
cứu có liên quan, xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu, phân tích và đánh giá
thực trạng và đề xuất các giải pháp, luận án đã đạt được các mục tiêu nghiên cứu. Cụ thể,
luận án đã giải quyết được các vấn đề cơ bản sau:
Một là, hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về đổi mới QLTC ở
trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH, làm cơ sở khoa học để
phân tích thực trạng đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam.
Hai là, trên cơ sở khung phân tích đã xây dựng, luận án phân tích và đánh giá
thực trạng đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam trong điều kiện tự chủ và
nâng cao chất lượng GDĐH; đánh giá thực trạng mối quan hệ tác động của đổi mới
QLTC đến mức tự chủ và chất lượng của các trường; có xem xét đến tác động của các
yếu tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các trường có thể ảnh hưởng đến kết quả
đổi mới QLTC trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH. Từ đó, luận án
xác định những kết quả đã đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế làm
cơ sở để xác định quan điểm và đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới QLTC các trường
ĐHCL ở Việt Nam.
Ba là, trên cơ sở xác định bối cảnh mới có liên quan và những quan điểm trong
việc đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong giai đoạn tới, căn cứ những bài học kinh
157
nghiệm đã rút ra, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc đổi mới QLTC
các trường ĐHCL trong thời gian vừa qua, luận án đã đề xuất hai nhóm giải pháp chủ
yếu nhằm tiếp tục đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam trong điều kiện tự chủ
và yêu cầu nâng cao chất lượng GDĐH gồm: (1) nhóm giải pháp về đổi mới cơ chế quản
lý của Nhà nước và (2) nhóm giải pháp định hướng cho các trường ĐHCL trong triển
khai thực hiện cơ chế, chính sách QLTC của nhà nước.
Việc mở rộng quyền tự chủ cho các trường đại học sẽ mang lại kết quả giáo dục
tốt hơn và có tác động trực tiếp đến năng suất thị trường lao động. Tự chủ đại học đã gỡ
bỏ sự phụ thuộc của các trường ĐHCL vào nguồn tài chính từ NSNN và yêu cầu nỗ lực
lớn hơn từ phía các trường để đa dạng hóa nguồn thu từ quyền tự chủ mà trường có được.
Đây vẫn là vấn đề then chốt và trở thành mục tiêu của đổi mới QLTC của các trường
ĐHCL ở Việt Nam, khi mà quy mô nguồn tài chính là điều kiện quan trọng nhất để các
trường thiết kế chi tiêu và đầu tư nhằm theo đuổi mục tiêu chiến lược của mình, cho dù
là nâng cao năng lực tự chủ hay là củng cố chất lượng hoạt động. Việc Chính phủ tiếp
tục đổi mới QLTC các trường ĐHCL thông qua hoàn thiện cơ chế, chính sách theo hướng
tạo môi trường pháp lý minh bạch, công bằng sẽ là động lực để các trường ĐHCL có
những biện pháp cụ thể nhằm từng bước cải thiện các tiêu chuẩn và tiêu chí đảm bảo chất
lượng mà Bộ GD & ĐT quy định, đáp ứng công tác đánh giá, kiểm định nhằm đảm bảo
chất lượng các trường đại học hiện nay./.
158
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Tran Huong Xuan (2019), “Mobilizing financial resources for public higher
education under the current autonomy mechanism in Vietnam”, International
Finance and Accounting Research Conference “Finance and Accounting in
the Fourth Industrial Revolution”, Financial Publishing House, ISBN: 978-
604-79-2279-6.
2. Trần Hương Xuân (2021), “Tài trợ theo cơ chế cạnh tranh đối với giáo dục đại
học thông qua mô hình Quỹ đổi mới”, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, Số 38 (2021).
3. Tran Huong Xuan (2022), “Impacts of Financial Management on Innovation
and Efficiency of Higher Education in Vietnam”. PalArch’s Journal of
Archaeology of Egypt / Egyptology, 19(1), 1697-1718. Retrieved from
https://archives.palarch.nl/index.php/jae/article/view/10949
4. Tran Huong Xuan (2022), “Factors Affecting Student’s Satisfaction with the
Financial Management System of Public Universities in Vietnam”, International
Journal of Multidisciplinary Research and Analysis (IJMRA), Volume 05 Issue
07 July 2022. DOI: 10.47191/ijmra/v5-i7-34.
5. Trần Hương Xuân (2022), “Mối quan hệ giữa đổi mới quản lý tài chính trong
điều kiện tự chủ với chất lượng đào tạo ở trường đại học công lập Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Khoa học Nội vụ, Số 50 (9,10/2022).
159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Akinkugbe, O. (2000), “Higher Education Financing and Equality of Educational
Opportunities in Swaziland”, International Journal of Social Economics, 27(11),
pp. 1074-1097.
[2] Aldrich, H. E., and J. Pfeffer (1976), "Environments of Organizations," Annual
Review of Sociology, Vol. 2. Palo Alto: Annual Review Inc.
[3] Alewell, H. C. K. (1990), “Financing Universities in the Federal Republic of
Germany”, Higher Education Quarterly, 44(2), 123-141.
[4] Al-Hamadeen, Radhi & Alsharairi, Malek. (2014), “Financing Higher Education
Institutions: Experience of the Jordanian Public Universities”, Research Journal
of Finance and Accounting, 5(8), pp. 185-194.
[5] Anh Tú (2023), “Tỉ lệ chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học vẫn rất thấp”,
Chuyên trang Giáo dục Thủ đô, Báo Giáo dục và Thời đại, tại trang
https://giaoducthudo.giaoducthoidai.vn/ti-le-chi-ngan-sach-nha-nuoc-cho-giao-
duc-dai-hoc-van-rat-thap-31762.html, [truy cập ngày 24/07/2023].
[6] Arthur M. Hauptman (2007), “Higher Education Finance: Trends and Issues”, in
James J.F. Forest and Philip G. Altbach (eds.), International Handbook of Higher
Education, Springer, New York, pp. 83 -106.
[7] Asian Development Bank (2002), The Cost and Financing of Education: Trend
and Policy Implication, Education in developing Asia, Volume 3.
[8] Bakker, M. (2007), “Same goals, different strategies: Funding higher education in
England and the Netherlands”, Perspectives: Policy and Practice in Higher
Education, 11(2), 33–39. doi: 10.1080/13603100701258974.
[9] Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2011), Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam.
[10] Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
[11] Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam.
160
[12] Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW
ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống
tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập.
[13] Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2018), Nghị quyết số 27-NQ/TW
ngày 21/05/2018 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về cải cách chính sách tiền
lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động
trong doanh nghiệp.
[14] Bikas C. Sanyal, Micheala Martin, Susan D’ Antoni (1999), Quản lý trường đại
học trong giáo dục đại học, Tài liệu dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[15] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Đề án đổi mới cơ chế tài chính của giáo dục và
đào tạo giai đoạn 2009 - 2014.
[16] Bùi Phụ Anh (2015), Điều chỉnh cơ cấu tài chính đầu tư cho giáo dục đại học
công lập ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
[17] Bùi Quang Hùng, Trần Thị Thanh Hải, Trần Hoàng Tâm, and Đào Thị Minh
Huyền (2021), “Hiệu quả quản lý tài chính tại các trường đại học công lập theo
hướng tự chủ”, Tạp chí Tài chính, 2 (4), tr.31-39.
[18] Bùi Văn Huyền và cộng sự (2018), “Huy động nguồn lực tài chính cho giáo dục
đại học công lập ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, Kỳ 1 - Tháng 12/2018, tr.54-57.
[19] Cao Thành Văn (2018), Cơ chế quản lý tài chính ở Trường Đại học Y dược Cần
Thơ, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
[20] Carlos Marquis (2000), “Innovation Funds for Universities.” Discussion Paper,
Africa Region, Washington D.C: World Bank, truy cập tại:
www.worldbank.org/afr/teia/tools; tr1, tr2, tr3
[21] Carpentier, V. (2012), “Public-private substitution in higher education: Has cost
sharing gone too far?” Higher Education Quarterly, 66(4), 363–390. doi:
10.1111/j.1468-2273.2012. 00534.x.
[22] Chính phủ (2019), Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/ 06/2019 về tăng cường huy
động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn
2019-2025.
[23] Choi, S. (2015), “Meritocratic epistemic communities: An alternative policy
paradigm for higher education”. Higher Education Quarterly, 69(1), 58–78. doi:
10.1111/hequ.12047.
161
[24] D. Torrington (1994), Tiếp xúc mặt đối mặt trong quản lý, NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
[25] D.Ngân (2023), “Đầu tư cho giáo dục đại học của Việt Nam qua góc nhìn của
chuyên gia quốc tế”, Báo điện tử Đầu tư, thuộc nhóm báo của Báo Đầu tư, tại trang
https://baodautu.vn/dau-tu-cho-giao-duc-dai-hoc-cua-viet-nam-qua-goc-nhin-
cua-chuyen-gia-quoc-te-d188271.html, [truy cập ngày 23/06/2023].
[26] Đào Ngọc Nam (2017), Phân tích tình hình huy động và sử dụng nguồn lực tài
chính trong các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam hiên nay, Luận án
tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
[27] David D. Dill (2005), “The Public Good, the Public Interest, and Public Higher
Education”, The Conference Recapturing the “Public” in Pubic Higher
Education, The Graduate Center - City University of New York, New York, pp.
2-5.
[28] Đỗ Đức Kiên (2019), “Nghiên cứu tác động của tự chủ tài chính đến chất
lượng bệnh viện công lập tại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, (704), tr.57-60.
[29] Elena Chernova, Tite Akhobadze, Aleksandra Malova, Andrey Saltan (2017),
“Higher Education Funding Models and Institutional Effectiveness: Empirical
Research of European Experience and Russian Trends”, Voprosy
Obrazovaniya/ Educational Studies Moscow, Moscow.
[30] Hall, R. H. (1982), Organizations: Structure and Process, Prentice-Hall, Inc.,
Englewood Cliffs.
[31] Hanada, S. (2013), “Japan’s higher education incorporation policy: A
comparative analysis of three stages of national university governance”, Journal
of Higher Education Policy and Management, 35(5), 537–552. doi:
10.1080/1360080X.2013.825414.
edn,
[32] Harold Koontz, Heinz Weihrich (1998) Essentials of Management, 8th
McGraw-Hill Co., USA.
[33] Hicks, D. (2012), “Performance-based university research funding systems”,
Research Policy, 41(2), 251–261. doi: 10.1016/j.respol.2011.09.007.
[34] Hoàng Thị Lộc (2019), “Vai trò nhiệm vụ của các trường Đại học công lập”,
Trang web của Khoa Kế toán - Kiểm toán, Trường Đại học Kinh tế Nghệ An, tại
trang https://dhktna.edu.vn/dv-10/tin-tuc-su-kien-67/vai-tro-nhiem-vu-cua-cac-
162
truong-dai-hoc-cong-lap-3059.aspx, [truy cập ngày 26/7/2022)]
[35] Hồng Lộc (2019), “Nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện cơ chế tự chủ
đối với các trường đại học công lập”, Báo Kiểm toán, ngày 19/3/2019.
[36] Illmeyer, M.; Grosch, D.; Kittler, M.; Pamela Priess. P. (2017), “The impact of
financial management on innovation”, Entrepreneurship and Sustainability,
Issues 5(1): 58-71. http://doi.org/10.9770/jesi.2017.5.1(5).
[37] J. Fredericks Volkwein (1986), “Campus Autonomy and its Relationship to
Measures of University Quality”, The Journal of Higher Education, (57:5),
pp.510-528, DOI: 10.1080/00221546.1986.11778799, published online: 01 Nov
2016, at link: http://dx.doi.org/10.1080/00221546.1986.11778799.
[38] J.G. Hough (1993), Financial Management in Education (a part of UNESCO's
Regular Programme activity on educational planning and management of 1990-
1991), Loughborough University, U.K.
[39] James Dean Ward, Elizabeth, Davidson, Pisacreta, Benjamin, Weintraut, Martin
Kurzweil (2020), An Overview of State Higher Education Funding Approaches -
Lessons and Recommendations, Ithaka S+R, New York.
[40] Jaramillo, Adriana và Melonio, Thomas (Eds) (2011), “Breaking even or
breaking through: reaching financial sustainability while providing high quality
standards in Higher Education in the Middle East and North Africa”.
[41] John. A (1985), Public School: Issues in Budgeting and Financial Management,
Transaction Publisher, New Brunswich, NJ, USA.
[42] Jongbloed, B. (2000), “The funding of higher education in developing
countries”, Management and Policy in Higher Education, 32, pp. 13-42
[43] Kanaan, T., Al-Salamat, M., and Hanania, M. (2011), “Political Economy of
Cost-sharing in Higher Education: The case of Jordan”, Prospects, 41(1) (March),
pp. 23-45.
[44] Kasradze, Tea & Antia, Vakhtang & Gulua, Ekaterine (2019), “Challenges of
Financial Management of the Higher Education Institutions in Georgia”,
European Journal of Economics and Business Studies, 5. 187.
10.26417/ejes.v5i1.p187-206.
[45] Kimber, M., & Ehrich, L. C. (2015), “Are Australia’s universities in deficit? A
tale of generic managers, audit culture and casualisation”, Journal of Higher
163
Education Policy and Management, 37(1), 83–97. doi:
10.1080/1360080X.2014.991535.
[46] Lacy, T. A., & Tandberg, D. A. (2014),”Rethinking policy diffusion: The
interstate spread of “finance innovations.” Research in Higher Education, 55(7),
627– 649. doi: 10.1007/ s11162-014-9330-2.
[47] Lâm Quang Thiệp (2008), Xu hướng đại chúng hóa giáo dục đại học và sự thay
đổi một số quan niệm và chính sách (Thế giới và Việt Nam), Viện Nghiên cứu giáo
dục - Trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
[48] Lê Hồng Việt (2017), Chính sách thu hút nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà
nước cho các trường đại học công lập ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
[49] Lê Hồng Việt, Phạm Vũ Thắng (2014), “Chính sách tăng cường nguồn tài chính
ngoài ngân sách nhà nước ở các trường đại học công lập - kinh nghiệm quốc tế và bài
học cho Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (200), tr.88-93.
[50] Lê Thế Tuyên (2020), Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc
Bộ Tài chính, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
[51] Lê Thị Minh Ngọc (2017), Đổi mới cơ chế tài chính đối với các trường đại học công
lập ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội.
[52] Lê Trung Thành (2022), Một số giải pháp đột phá về chính sách tài chính nhằm
phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2035, Báo
cáo tổng hợp đề tài thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ trọng điểm cấp
quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
[53] Lê Văn Ái, Lâm Bá Hòa (2010), “Chất lượng giáo dục đại học - nhân tố quyết
định cho tăng trưởng kinh tế”, Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Mô hình tăng trưởng
kinh tế Việt Nam: Thực trạng và lựa chọn cho giai đoạn 2011-2020”, NXB Đại
học Kinh tế quốc dân, tr. 69-75.
[54] Lê Văn Dụng (2017), Quản trị tài chính tại các trường đại học công lập ngành
y ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[55] Lê Xuân Trường (2012), Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị
sự nghiệp giáo dục đại học và cao đẳng công lập, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
bộ (Bộ Tài chính).
164
[56] Liang, Lulu. (2019), “Research on the Innovation of Financial Management in
Colleges and Universities under the New Situation”, Journal of Economics and
Public Finance, (5), p509. 10.22158/jepf.v5n4p509.
[57] Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội (2010), Thông tư liên tịch số 29/2010/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH
ngày 15/11/2010 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 49/2010/NĐ-
CP ngày 14/05/2010 của Chính phủ quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi
phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015.
[58] Long, B. (2010), “Losing sight of Humboldt: A synoptic review of Australian
government policy over the last 35 years”. Journal of Further and Higher
Education, 34(3), 451–465. doi: 10.1080/0309877X.2010.484151.
[59] Magalhães, A., Veiga, A., Ribeiro, F. M., Sousa, S., & Santiago, R. (2013),
“Creating a common grammar for European higher education governance”,
Higher Education, 65(1), 95–112. doi: 10.1007/s10734-012-9583-7.
[60] Malcolm Prowolm & Eric Morgan (2005), Financial Management and Control
in Higher Education, Routledge Publisher, New York, USA.
[61] Martin Trow (1974), "Problem in the Transition from Elite to Mass Higher
Education", in Policíes for Higher Education, from General Report on the
Conference on Future Structures of Post-Secondary Education, Organisation for
Economic Cooperation and Development, Paris.
[62] Melin, G., Zuijdam, F., Good, B., Angelis, J., Enberg, J., Fikkers, D.,… & Zegel, S.
(2015), “Towards a future proof system for higher education and research in Finland”,
Retrieved September 20, 2016, from http://www.minedu.fi/export/
sites/default/OPM/Julkaisut/2015/ liitteet/okm11.pdf.
[63] Mitchell, M., Palacios, V., & Leachman, M. (2014), “States are still funding
higher education below pre-recession levels”, Washington, D.C.: Center on
Budget and Policy Priorities.
[64] Moladovan, M. L., Moldovan, I., and Alexandra, N. (2012), “Financing Higher
Education in Europe: Issues and Challenges”, Procedia-Social and Behavioral
Sciences, 51, pp. 938-942.
[65] Ngân hàng thế giới (2020), “Quản trị và tài trợ của các ưu tiên chính sách giáo
165
dục đại học ở Việt Nam”, in trong Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục Việt Nam 2020 “Tự
chủ trong Giáo dục Đại học - Từ Chính sách đến Thực tiễn”.
[66] Ngô Đức Thế (2014), Thương mại hóa nghiên cứu công nghệ: mô hình công
ty spin-off, cập nhật tại: https://ducthe.wordpress.com.
[67] Ngọc Quỳnh (2022), “WB: Đổi mới giáo dục đại học là chìa khóa để nâng cao
năng suất”, Bnews, tại trang https://bnews.vn/wb-doi-moi-giao-duc-dai-hoc-la-
chia-khoa-de-nang-cao-nang-suat/254071.html, [truy cập ngày 22/08/2022]
[68] Nguyễn Chí Hướng (2017), Tự chủ tài chính ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
[69] Nguyễn Đồng Anh Xuân (2020), Quản lý tài chính tại các trường đại học công
lập trực thuộc Bộ Công thương trong điều kiện thực hiện cơ chế tự chủ tài chính,
Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
[70] Nguyễn Hoàng Phương Thanh (2018), Nghiên cứu ảnh hưởng của những yếu
tố kiểm soát nội bộ tới chất lượng giáo dục đại học của các trường đại học ngoài
công lập Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân,
Hà Nội.
[71] Nguyễn Hồng Liên (2019), Đổi mới công tác quản lý tài chính thực hiện cơ chế
tự chủ tài chính phục vụ yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học
của Đảng và Nhà nước, Đề tài khoa học và công nghệ cấp Đại học, Đại học Thái
Nguyên.
[72] Nguyễn Minh Tuấn (2015), Tác động của công tác quản lý tài chính đến chất lượng
giáo dục đại học - nghiên cứu điển hình tại các trường đại học thuộc Bộ Công thương,
Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
[73] Nguyễn Ngọc Hạnh, Hệ thống “Nhà trường - Sinh viên - Công ty” - Mô hình
mới của Đại học Đông Á, truy cập tại http://donga.edu.vn.
[74] Nguyễn Thanh Tuyền, Nguyễn Lê Anh (2015), “Mối quan hệ hữu cơ giữa thể
chế, cơ chế, chính sách, cơ chế điều hành và hành vi ứng xử”, Tạp chí Phát triển
và Hội nhập, Số 22 (32) - Tháng 05-06/2015.
[75] Nguyễn Thị Hương, Tạ Ngọc Cường (2016), “Tự chủ tài chính - cơ hội nâng cao
chất lượng cho các trường đại học công lập ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, 32(3), tr.18-23.
[76] Nguyễn Thị Mai Lan (2019), Quản trị tài chính tại các trường đại học trực thuộc
166
Bộ Công thương trong điều kiện tự chủ, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Khoa
học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
[77] Nguyễn Thùy Linh (2020), Tăng cường nguồn lực tài chính cho phát triển các
cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học
Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[78] Nguyễn Trường Giang (2012), “Giải pháp đổi mới cơ chế tài chính, nâng cao
chất lượng đào tạo đại học”, Tạp chí Tài chính, Số 12-2012.
[79] Nguyễn Văn Ngọc (2003), Từ điển Kinh tế học, NXB Đại Học Kinh Tế Quốc Dân.
[80] Nguyễn Xuân Trường (2020), Quản lý tài chính tại Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ Quản lý Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
[81] Nhật Hồng (2021), “Học phí đại học thấp: Chúng ta đang trợ cấp ngược cho
người giàu", Báo điện tử Dân trí, tại trang https://dantri.com.vn/giao-duc/hoc-phi-
dai-hoc-thap-chung-ta-dang-tro-cap-nguoc-cho-nguoi-giau-
20211210071200238.htm, [truy cập ngày 13/12/2022].
[82] Nisar, M. A. (2015), “Higher education governance and performance based
funding as an ecology of games”, Higher Education, 69(2), 289–302. doi:
10.1007/s10734-014-9775-4.
[83] Pfeffer, J., and G. R. Salancik (1978), The External Control of Organizations: A
Resource Dependence Perspective, Harper and Row, New York City.
[84] Phạm Thị Thanh Vân (2017), Quản lý tài chính nội bộ các trường đại học công
lập ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
[85] Phạm Xuân Quý (2020), “Quản lý tài chính ở các trường đại học công lập hướng
tới tự chủ”, Tạp chí Tài chính, 2(12), tr.110-119.
[86] Phan Thanh Long (2019), Giáo dục đại học Thế giới và Việt Nam - Tài liệu
chuyên đề Nghiệp vụ sư phạm, Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
[87] Piché, P. G. (2015), “Institutional diversity and funding universities in Ontario:
Is there a link?” Journal of Higher Education Policy and Management, 37(1), 52–
68. doi: 10.1080/1360080X.2014.991537.
[88] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khóa IX, Kỳ họp thứ 9
(1996), Luật ngân sách nhà nước, Luật số 47-L/CTN
167
[89] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khóa X, Kỳ họp thứ 3
(1998), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ngân sách nhà nước, Luật số
06/1998/QH10
[90] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khóa XI, Kỳ họp thứ 2
(2002), Luật ngân sách nhà nước, Luật số 01/2002/QH11.
[91] Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khoá XII, Kỳ họp thứ 8,
Luật Viên chức, Luật số 58/2010/QH12.
[92] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khóa XIII, Kỳ họp thứ 9
(2015), Luật ngân sách nhà nước, Luật số 83/2015/QH13.
[93] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khóa XIII, Kỳ họp thứ 3
(2012), Luật Giáo dục đại học, Luật số 08/2012/QH13.
[94] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khóa XIV, Kỳ họp thứ 6
(2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, Luật số
34/2018/QH14.
[95] Rabovsky, T. M. (2012), “Accountability in higher education: Exploring impacts on
state budgets and institutional spending patterns”, Journal of Public Administration
Research and Theory, 22(4), 675–700. doi: 10.1093/jopart/ mur069.
[96] Salmi, J., & Hauptman, A. M. (2006), “Innovations in tertiary education
financing: A comparative evaluation of allocation mechanisms”, Education
working paper series, 4, 38324.
[97] Shin, J. C. (2010),“Impacts of performance-based accountability on institutional
performance in the US”, Higher Education, 60(1), 47–68. doi: 10.1007/s10734-
009-9285-y.
[98] The World Bank (2012), The World Bank annual report 2012, The World Bank.
[99] Thủ tướng chính phủ (2019), Quyết định số 69/QĐ-TTg phê duyệt đề án nâng
cao chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2019-2025.
[100] Trần Đức Cân (2012), Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính các trường đại học công
lập ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
[101] Trần Khánh Đức (2012), Giáo dục đại học Việt Nam và Thế giới - Giáo trình
dùng cho các khóa bồi dưỡng giảng viên cao đẳng/đại học về nghiệp vụ sư phạm
đại học theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
[102] Tran Manh Hung, Tran Viet Dung (2020), “Research on factors affecting the
168
working motivation of lecturers in Universities today”, Journal of Industry and
Trade, (7), pp. 41-49.
[103] Trần Ngọc Truyền, Thời cơ vàng của doanh nghiệp khoa học và công nghệ
trong trường đại học, truy cập tại http://www.tritri.org.
[104] Trần Quang Hùng (2016), Chính sách học phí đại học của Việt Nam, Luận án
tiến sĩ kinh tế chính trị, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
[105] Trần Quang Trung (2016), “Đổi mới quản lý tài chính ở các trường Đại học
công lập trong bối cảnh thực hiện cơ chế tự chủ tài chính”, Tạp chí Kế toán &
Kiểm toán, (T6/2016).
[106] Trần Trọng Hưng (2016), Huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước
cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài
chính, Hà Nội.
[107] Trilokekar, R. D. (2010), “Internationaleducationassoft power? The
contributions and challenges of Canadian foreign policy to the internationalization
of higher education”, Higher Education, 59(2), 131–147. doi: 10.1007/s10734-
009- 9240-y.
[108] Trương Thị Hằng (2019), Giải pháp phát triển nguồn lực tài chính cho giáo dục
đại học công lập ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
[109] Trương Thị Hiền (2017), Quản lý tài chính tại các trường đại học công lập trực
thuộc bộ Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong điều
kiện tự chủ, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện tài chính, Hà Nội.
[110] UNESCO (1995), Financial Management in higher education institutions for
Eastern Mediterranean countries, Report of a sub-regional workshop, Patras,
Greece.
[111] UNESCO Institute for Statistics (2023), Background Information on Education
Statistics in the UIS Database, tại trang
http://data.uis.unesco.org/ModalHelp/OECD/background-information-education-
statistics-uis-database-en.pdf, [truy cập ngày 23/5/2023].
[112] Viện ngôn ngữ học (2010), Từ điển Tiếng Việt, NXB Phương Đông, Hà Nội.
[113] Vũ Thị Thanh Thủy (2012), Quản lý tài chính các trường đại học công lập ở
Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
169
[114] William Saint (2006), “Innovation Funds for Higher Education: A Users’
Guide for World Bank Funded Projects”, Washington D.C: World Bank, truy cập
tại: www.worldbank.org/curated/en
[115] Williams, G. (2012), “Fifty interesting years: Higher education funding and
financial management 1961–2011”, Perspectives: Policy and Practice in Higher
Education, 16(2), 51–55. doi: 10.1080/13603108.2011.652988.
[116] World Bank (1995), Priorities and strategies for education: A World
Bank review, The World Bank
[117] Yonezawa, A., & Shimmi, Y. (2015), “Transformation of university
governance through internationalization: Challenges for top universities and
government policies in Japan”, Higher Education, 70(2), 173–186. doi:
10.1007/s10734- 015-9863-0.
[118] Zmas, A. (2015), “Financial crisis and higher education policies in Greece:
Between intra- and supranational pressures”, Higher Education, 69(3), 495–508.
doi: 10.1007/s10734-014- 9787-0.
170
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1.1.
DANH SÁCH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
THUỘC MẪU NGHIÊN CỨU
STT
Vị trí địa lý
Tên trường ĐHCL
Tên viết tắt
Cơ quan chủ quản
Năm thành lập
Định hướng phát triển
HPU
2004 Bộ GD&ĐT
Ứng dụng
1
Trường đại học Hải Phòng
Đồng bằng sông Hồng
HDU
1997
Ứng dụng
2
Trường đại học Hồng Đức
UBND tỉnh Thanh Hóa
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
HAU
1969
Bộ XD
3
Đồng bằng sông Hồng
Trường đại học Kiến trúc Hà Nội
Nghiên cứu - Ứng dụng
DUE
1994
4
Đại học Đà Nẵng
Nghiên cứu - Ứng dụng
Trường đại học Kinh tế (Đại học Đà Nẵng)
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
TUEBA
2004
Ứng dụng
5
ĐH Thái Nguyên
Trung du miền núi phía Bắc
Trường đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh (Đại học Thái Nguyên)
Ứng dụng
TNUS
2008
6
ĐH Thái Nguyên
Trung du miền núi phía Bắc
Trường đại học Khoa hoc (Đại học Thái Nguyên)
1995
7
VNU- USSH
ĐHQG Hà Nội
Đồng bằng sông Hồng
Nghiên cứu - Ứng dụng
Trường đại học Khoa hoc xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội)
Ứng dụng
VNUF
1964
8
Trường đại học Lâm nghiêp
Bộ NN&PTNT
Đồng bằng sông Hồng
HUL
2009 Đại học Huế
9
Trường đại học Luật (Đại học Huế)
Nghiên cứu - Ứng dụng
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
10
HUHA
2011
Bộ Nội Vụ
Ứng dụng
Đồng bằng sông Hồng
Trường đại học Nội vụ Hà Nội
171
STT
Vị trí địa lý
Tên trường ĐHCL
Tên viết tắt
Cơ quan chủ quản
Năm thành lập
Định hướng phát triển
BUH
2003
Ứng dụng
11
Đông Nam Bộ
NH Nhà nước Việt Nam
Trường đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh
FTU
1967 Bộ GD&ĐT
12
Đồng bằng sông Hồng
Trường đại học Ngoại Thương
Nghiên cứu - Ứng dụng
UFBA
2012 Bộ tài chính
Ứng dụng
13
Đồng bằng sông Hồng
Trường đại học Tài chính Quản trị kinh doanh
Ứng dụng
TBU
2011
14
UBND Tỉnh Thái Bình
Đồng bằng sông Hồng
Trường đại học Thái Bình
Ứng dụng
HMU
2014
15
UBND TP Hà Nội
Đồng bằng sông Hồng
Trường đại học Thủ đô Hà Nội
Ứng dụng
TVU
2006
16
UBND Tỉnh Trà Vinh
Trường đại học Trà Vinh
Đồng bằng sông Cửu Long
HCMUC
2005
Ứng dụng
17
Bộ VH TT&DL
Đông Nam Bộ
Trường đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh
172
PHỤ LỤC 1.2.
TRƯỜNG ĐHCL THUỘC MẪU ĐIỀU TRA CÓ ĐƠN VỊ SẢN XUẤT - DỊCH VỤ -
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ THUỘC VÀ TRỰC THUỘC
STT
Tên trường
Các đơn vị trực thuộc
Trường Đại học Kiến
- 06 đơn vị thuộc khối lao động sản xuất và chuyển giao công
1
trúc Hà Nội
nghệ.
- Trung tâm Hỗ trợ sinh viên & Quan hệ doanh nghiệp
Trường Đại học
- Trung tâm Nghiên cứu & Tư vấn Du lịch
2
Kinh tế (Đại học Đà
- Trung tâm Phát triển Quản trị & Tư vấn doanh nghiệp
Nẵng)
- Trung tâm nghiên cứu & Phát triển Logistics.
- Trung tâm Đào tạo, tư vấn và chuyển giao công nghệ
Trường Đại học
- Trung tâm Nghiên cứu - Đào tạo Ngôn ngữ và Văn hóa các
3
Khoa học (Đại học
dân tộc thiểu số và vùng núi phía Bắc
Thái Nguyên)
- Viện Khoa học và Công nghệ.
Trường Đại học Lâm
- Trung tâm Dịch vụ
4
nghiêp
- Trung tâm Giống và Lâm nghiệp công nghệ cao
Trường Đại học Luật
- Trung tâm tư vấn pháp luật & đào tạo ngắn hạn
5
(Đại học Huế)
- Trung tâm thực hành luật & khởi nghiệp
Trường Đại học Nội
- Trung tâm dịch vụ công
6
vụ Hà Nội
- Viện nghiên cứu và phát triển
- Viện Đào tạo và Tư vấn doanh nghiệp
- Trung tâm Nghiên cứu, Bồi dưỡng và Tư vấn Kinh tế đối
Trường Đại học
ngoại (FERETCO)
7
Ngoại Thương
- Viện Phát triển Nguồn Nhân lực Việt Nam - Nhật Bản (Viện
VJCC)
- Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Sản xuất dịch vụ
- Trung tâm nghiên cứu thích ứng biến đổi khí hậu và hỗ trợ
phát triển cộng đồng
Trường Đại học Trà
- Trung tâm tư vấn pháp luật Trường Đại học Trà Vinh
8
Vinh
- Bênh viện trường Đại học Trà Vinh
- Vườn ươm doanh nghiệp Tỉnh Trà Vinh
- Công ty TNHH Đại học xanh, Trường Đại học Trà Vinh
- Trung tâm phục vụ cộng đồng
173
PHỤ LỤC 1.3
DANH MỤC CÁC BIẾN ĐƯỢC THU THẬP DỮ LIỆU ĐỂ LỰA CHỌN
ĐƯA VÀO CÁC MÔ HÌNH HỒI QUY
TT
Phân loại
Tên viết tắt
Tên đầy đủ
TU
Tuổi
QM
Quy mô (Tổng nhân sự )
VTDL
Vị trí địa lý
CÁC BIẾN
DHPT
Định hướng phát triển
1
KIỂM SOÁT
Phân loại mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường
PLMTC
xuyên
Sự hiện diện của đơn vị Sản xuất - Dịch vụ -
DVSXDV
Chuyển giao công nghệ thuộc và trực thuộc
TNT
Tổng nguồn thu
NSNN_CAP Ngân sách nhà nước cấp
CÁC BIẾN
Tỷ lệ nguồn ngân sách nhà nước cấp trên quy mô
SỐ/CHỈ TIÊU
TLNSQM
nhân sự (suất đầu tư NSNN trên một nhân sự)
PHẢN ÁNH
THU_NNS
Thu ngoài ngân sách nhà nước
ĐỔI MỚI
2
NNS
Tỷ trọng thu ngoài ngân sách nhà nước
QUẢN LÝ
HUY ĐỘNG
THU_DT
Thu từ đào tạo
NGUỒN TÀI
THU_NCKH Thu từ nghiên cứu
CHÍNH
THU_KHAC Thu khác
MTC
Mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên
TCHI
Tổng chi
CTX
Tổng chi thường xuyên
CÁC BIẾN
Chi cho con người (lương, phụ cấp, thu nhập tăng
CCN
SỐ/CHỈ TIÊU
thêm, khen thưởng phúc lợi…)
PHẢN ÁNH
CMQL
Chi hoạt động chuyên môn, quản lý
ĐỔI MỚI
CHI_SV
Chi cho người học
3
QUẢN LÝ
PVCD
Chi phục vụ cộng đồng
SỬ DỤNG
NCKH
Chi nghiên cứu khoa học
NGUỒN TÀI
NNL
Chi phát triển nguồn nhân lực
CHÍNH
CSVC
Chi cơ sở vật chất
CHI_KHAC Chi khác
174
TT
Phân loại
Tên viết tắt
Tên đầy đủ
BBKH
Tổng bài báo (công bố khoa học) trong năm
CÁC BIẾN
BBQT
Tổng bài báo quốc tế trong năm
SỐ/CHỈ TIÊU
DTCS
Tổng đề tài nghiên cứu cấp cơ sở trong năm
PHẢN ÁNH
DTTCS
Tổng số đề tài trên cấp sơ sở trong năm
4
CHẤT
DTKH
Tổng số đề tài khoa học thực hiện trong năm
LƯỢNG
SACH
Tổng sách xuất bản mới trong năm
NGHIÊN
CỨU KHOA
TCTKH
Tổng số công trình khoa học trong năm
HỌC
GSTS
Tổng Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ
DTBDV
Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào
SVNH
Số sinh viên nhập học hằng năm
SVTN
Số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy
CÁC BIẾN
Tỷ lệ sinh viên có việc làm đúng ngành đào tạo sau
SVCVL
SỐ/CHỈ TIÊU
một năm tốt nghiệp
PHẢN ÁNH
TRAINGANH Tỷ lệ vinh viên có việc làm trái ngành đào tạo
5
CHẤT
TUTAOVL
Tỷ lệ tự tạo được việc làm
LƯỢNG
Tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng
KTKN_DU
ĐÀO TẠO
cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp
Tỷ lệ sinh viên chỉ học được một phần kiến thức, kĩ
KTKN_1PHAN
năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp
Tỷ lệ sinh viên Không học được kiến thức, kĩ năng
KTKN_KO
cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp
Mức huy động nguồn lực tài chính cho các chương
CÁC BIẾN
TUTHIEN
trình thiện nguyện
SỐ/CHỈ TIÊU
PHẢN ÁNH
Số đơn vị máu thu được từ hoạt động hiến máu
HIENMAU
CHẤT
nhân đạo trong năm
6
LƯỢNG
PHỤC VỤ
Số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy (Mức
SVTN
CỘNG
cung cấp nguồn nhân lực mới cho nền kinh tế)
ĐỒNG
175
PHỤ LỤC 3.1
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO CÁC
TRƯỜNG ĐHCL Ở VIỆT NAM
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
1996 -2002
2003 -2006
2007 - 2015
2016 - 2021
- Luật NSNN
- Luật NSNN
- Luật NSNN 2002
- Luật NSNN 2015
1996 và Luật
2002
NSNN sửa đổi
1998
- Thông tư số 38-
- Nghị định số
- Nghị định số
- Nghị định số
TC/NSNN ngày
10/2002/NĐ-CP
43/2006/NĐ-CP
16/2015/NĐ-CP ngày
18/07/1996 hướng
ngày 16/01/2002
ngày 25/04/2006
14/02/2015 quy định cơ
Văn
dẫn xây dựng dự
về chế độ tài
quy định quyền tự
chế tự chủ của đơn vị sự
bản
toán ngân sách
chính áp dụng
chủ, tự chịu trách
nghiệp công lập.
điều
nhà nước năm
cho đơn vị sự
nhiệm về thực hiện
chỉnh
1997.
nghiệp có thu
nhiệm vụ, tổ chức bộ
- Công văn số 562-
máy, biên chế và tài
TC/HCSN ngày
chính đối với đơn vị
03/03/1998 về việc
sự nghiệp công lập
mức chi HCSN
năm 1998
- ĐVSN có thu
- ĐVSN tự bảo đảm
- ĐVSNC tự bảo đảm chi
tự bảo đảm chi
toàn bộ chi phí hoạt
thường xuyên và chi đầu
phí hoạt động
động thường xuyên
tư
thường xuyên
- ĐVSN tự bảo đảm
- ĐVSNC tự bảo đảm chi
- ĐVSN có thu
một phần chi phí
thường xuyên
tự bảo đảm một
hoạt động thường
- ĐVSNC tự bảo đảm
Phân
phần chi phí
xuyên
một phần chi thường
loại
hoạt động
- ĐVSN do NSNN
xuyên
ĐVSN
thường xuyên
bảo đảm toàn bộ chi
- ĐVSNC do NN bảo
CL
phí hoạt động
đảm chi thường xuyên
theo
thường xuyên
(Phân loại ĐVSNC theo
mức độ
(Phân loại
(Phân loại ĐVSN
phương án tự chủ phù
tự chủ
ĐVSN có thu
theo dự toán thu, chi
hợp với kế hoạch và điều
về tài
theo dự toán
được phê duyệt của
kiện thực tế của đơn vị,
chính
thu, chi được
năm đầu thời kỳ ổn
căn cứ lộ trình tính giá
phê duyệt của
định)
dịch vụ sự nghiệp công
năm đầu thời kỳ
(DVSNC) có sử dụng
ổn định)
NSNN)
176
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
1996 -2002
2003 -2006
2007 - 2015
2016 - 2021
- Mô hình tài trợ
- Mô hình
- Mô hình thương
- Mô hình thương lượng
theo công thức
thương lượng
lượng (Negotiated
(Negotiated Funding)
dựa trên yếu tố
Funding) theo kiểu
theo kiểu tài trợ gia tăng
(Negotiated
đầu vào (Input-
Funding) theo
tài trợ gia tăng
(Incremental Funding)
kiểu tài trợ gia
(Incremental
dựa trên dữ liệu lịch sử
based Formula
tăng
Funding) dựa trên
và một vài khía cạnh của
Funding)
(Incremental
dữ liệu lịch sử
yếu tố đầu vào
Funding) dựa
- Kết hợp mô hình tài trợ
trên dữ liệu lịch
dựa trên hiệu suất
Mô
sử, một vài khía
(Performance-based
hình
cạnh của yếu tố
Funding Model), dưới
phân bổ
đầu vào
hình thức hợp đồng hiệu
NSNN
- Kết hợp với
- Kết hợp với mô
suất, căn cứ vào khối
mô hình tài trợ
hình tài trợ theo
lượng dịch vụ và đơn giá
theo công thức
công thức dựa trên
theo quy định, vì vậy
dựa trên yếu tố
yếu tố đầu ra
trong một số trường hợp
đầu ra (Output-
coi như mô hình tài trợ
(Output-based
theo công thức dựa trên
based Formula
Formula Funding)
yếu tố đầu ra (Output-
Funding)
based Formula
Funding)
- NSNN được
- Các trường
- Căn cứ vào chức
- Đối với trường ĐHCL
phân bổ cho chi
ĐHCL căn cứ
năng, nhiệm vụ được
tự bảo đảm chi đầu tư và
hành chính sự
vào chức năng,
cấp có thẩm quyền
CTX, trường ĐHCL tự
nghiệp của các
nhiệm vụ được
giao, nhiệm vụ của
bảo đảm CTX: hằng năm
trường ĐHCL dựa
cấp có thẩm
năm kế hoạch, chế
căn cứ đơn giá (đã tính
trên phân bổ chỉ
quyền giao,
độ chi tiêu tài chính
đủ chi phí), số lượng,
tiêu tuyển sinh và
nhiệm vụ của
hiện hành; căn cứ kết
khối lượng DVSNC có
chi phí trung
năm kế hoạch,
quả hoạt động sự
sử dụng NSNN được
Tiêu chí
bình:
chế độ chi tiêu
nghiệp,
tình hình
NN đặt hàng, lập dự toán
phân bổ
+ Định mức chi
tài chính hiện
thu, chi tài chính của
gửi cơ quan quản lý cấp
cụ thể
cho mỗi sinh viên
hành; căn cứ
năm trước liền kề;
trên theo quy định
được quy định cụ
vào kết quả hoạt
trường ĐHCL lập dự
- Đối với trường ĐHCL
thể theo từng hệ
động tài chính
toán thu, chi năm
tự bảo đảm một phần
và ngành đào tạo
của năm trước
đầu thời kỳ ổn định;
CTX: căn cứ tình hình
(Xem Phụ lục 3.5
liền kề lập dự
xác định phân loại
thực hiện năm hiện
và Phụ lục 3.6)
toán thu, chi
đơn vị sự nghiệp; số
hành, nhiệm vụ của năm
+ Chỉ tiêu tuyển
năm kế hoạch
kinh phí đề nghị
kế hoạch, lập kế hoạch
sinh được tính
gửi cơ quan
NSNN bảo đảm hoạt
về số lượng, khối lượng
177
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
1996 -2002
2003 -2006
2007 - 2015
2016 - 2021
theo: (i) số lượng
quản lý cấp trên.
động thường xuyên
DVSNC và dự toán thu,
và chất lượng
- Trường ĐHCL
- Căn cứ mức kinh
chi (bao gồm cả phần
giảng viên cơ
tự bảo đảm một
phí NSNN bảo đảm
kinh phí NSNN hỗ trợ do
hữu; và (ii) nguồn
phần CTX được
hoạt động
thường
giá, phí DVSNC chưa
lực cơ sở vật chất
ổn định kinh phí
xuyên của năm trước
kết cấu đủ chi phí) báo
của trường
hoạt động
liền kề và nhiệm vụ
cáo cơ quan quản lý cấp
ĐHCL.
thường xuyên
tăng hoặc giảm của
trên theo quy định.
do NSNN cấp
năm kế hoạch, đơn
- Đối với trường ĐHCL
theo định kỳ 03
vị lập dự toán thu,
do NN bảo đảm CTX:
năm và hằng
chi hoạt động thường
Căn cứ tình hình thực
năm được tăng
xuyên của 2 năm tiếp
hiện năm hiện hành,
thêm theo tỷ lệ
theo trong thời kỳ ổn
nhiệm vụ được cấp có
do Thủ tướng
định.
thẩm quyền giao trong
Chính phủ quyết
- Đối với kinh phí
năm kế hoạch, số lượng
định\
hoạt động không
người làm việc được cấp
- Kinh phí thanh
thường xuyên (trong
có thẩm quyền phê
toán cho đơn vị
đó có hoạt động đầu
duyệt, chế độ chi tiêu
theo chế độ đặt
tư XDCB) đơn vị
hiện hành, đơn vị lập dự
hàng để thực
lập dự toán hằng
toán thu, chi gửi cơ quan
hiện các nhiệm
năm theo quy định
quản lý cấp trên theo quy
vụ của Nhà
hiện hành.
định. NSNN cho CTX
nước đặt hàng
- Kinh phí thanh
được phân bổ cho các
(điều tra, quy
toán cho đơn vị theo
trường ĐHCL theo thời
hoạch, khảo
chế độ đặt hàng để
gian ổn định 03 năm và
sát...) theo giá
thực hiện các nhiệm
có điều chỉnh hàng năm
hoặc khung giá
vụ của Nhà nước đặt
khi nhà nước thay đổi
do Nhà nước
hàng (điều tra, quy
nhiệm vụ, cơ chế chính
quy định.
hoạch, khảo sát...)
sách theo quy định.
theo giá hoặc khung
- Lập dự toán thu, chi
giá do Nhà nước
phí theo pháp luật về phí,
quy định.
lệ phí, các nhiệm vụ
không thường xuyên theo
quy định của Luật
NSNN.
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
178
PHỤ LỤC 3.2
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ HUY ĐỘNG NGUỒN TÀI CHÍNH NGOÀI NSNN CÁC
TRƯỜNG ĐHCL Ở VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN
THỰC HIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
2003 - 2006
2007 - 2015
2016 - 2021
- Nghị định số 10/2002/NĐ-CP
- Nghị định số 43/2006/NĐ- CP ngày 25/04/2006 quy
- Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày
Văn bản điều
chỉnh
ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp
định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự
nghiệp công lập
dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công lập
(Nghị định 16)
(Nghị định 10)
(Nghị định 43)
- Kinh phí hoạt động thường xuyên
- Kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên thực hiện
- NSNN cấp chi thường xuyên trên cơ sở số
Kinh phí do NSNN
cấp
đối với đơn vị tự bảo đảm một phần
chức năng, nhiệm vụ đối với đơn vị tự bảo đảm một phần
lượng người làm việc và định mức phân bổ dự
chi phí. - Kinh phí thực hiện
chi phí hoạt động (sau khi đã cân đối nguồn thu sự nghiệp);
toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt (đối với
các đề tài nghiên cứu khoa học cấp
được cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp giao, trong
Nhà nước, cấp Bộ, ngành, chương trình
phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền giao;
ĐVSNC do NN bảo đảm CTX); - Nguồn NSNN hỗ trợ phần chi phí chưa kết cấu
trong giá, phí dịch vụ sự nghiệp công; (đối với
mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ đột xuất khác được cấp
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không
ĐVSNC tự bảo đảm 1
có thẩm quyền giao. - Kinh phí thanh
phải là tổ chức khoa học và công nghệ);
toán cho đơn vị theo chế độ đặt
- Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán
phần chi thường xuyên); - Nguồn NSNN cấp cho các nhiệm vụ không
hàng để thực hiện các nhiệm vụ của
bộ, viên chức; - Kinh phí thực hiện các
thường xuyên (nếu có), gồm:
chương trình mục tiêu quốc gia; - Kinh phí thực hiện các
Nhà nước đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát...) d) Kinh phí cấp để
+ Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không phải là tổ chức
thực hiện tinh giản
nhiệm vụ do CQNN có thẩm quyền đặt hàng (điều tra,
khoa học công nghệ);
179
Giai đoạn 2003 - 2006
Giai đoạn 2007 - 2015
Giai đoạn 2016 - 2021
biên chế theo chế
quy hoạch, khảo sát, nhiệm
+ Kinh phí các chương
vụ khác); (đối với ĐVSN tự
độ do Nhà nước quy định đối với số
trình mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề
bảo đảm chi phí hoạt động
lao động trong biên chế thuộc diện tinh
án khác; + Kinh phí đối ứng thực
giản. - Vốn đầu tư xây
và ĐVSN tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động) - Kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm
hiện các dự án theo quyết định của cấp có thẩm
dựng cơ sở vật chất, mua sắm
quyền giao; - Kinh phí thực hiện chính
quyền; + Vốn đầu tư phát triển;
trang, thiết bị phục vụ hoạt động sự
sách tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định
kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt
nghiệp theo dự án và kế hoạch hàng năm; vốn đối ứng
(nếu có); - Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang
động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
cho các dự án được cấp có thẩm quyền
thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động sự
+ Kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được
phê duyệt.
nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt
cơ quan có thẩm quyền giao;
trong phạm vi dự toán được giao hàng năm;
- Vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước
ngoài được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Kinh phí khác (nếu có).
- Phần được để lại
- Phần được để lại từ số thu
- Nguồn thu phí theo
Nguồn
từ số phí, lệ phí thuộc ngân sách
phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nước theo quy định của
pháp luật về phí, lệ phí được để lại chi theo quy
thu từ hoạt động
sự nghiệp
Nhà nước do đơn vị thu theo quy định.
pháp luật; - Thu từ hoạt động dịch vụ;
định (phần được để lại chi thường xuyên và chi
- Thu từ hoạt động
- Thu từ hoạt động sự nghiệp khác (nếu có);
mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản
sản xuất, cung ứng
- Lãi được chia từ các hoạt động liên doanh, liên kết, lãi tiền gửi ngân hàng (đối với
dịch vụ. - Các khoản thu sự nghiệp khác theo quy định của pháp
phục vụ công tác thu phí); - Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công,
ĐVSN tự bảo đảm chi phí
luật (nếu có).
bao gồm cả nguồn
hoạt động và ĐVSN tự bảo
180
Giai đoạn 2003 - 2006
Giai đoạn 2007 - 2015
Giai đoạn 2016 - 2021
NSNN đặt hàng cung
đảm một phần chi phí hoạt
động).
cấp DVSNC theo giá tính đủ chi phí;
- Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật
(nếu có);
- Nguồn khác theo
- Nguồn viện trợ, tài trợ, quà
- Nguồn viện trợ, tài trợ
Nguồn tài
quy định của pháp luật như viện trợ,
biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật.
theo quy định của pháp luật.
chính khác
- Nguồn khác (đối với ĐVSN
vay nợ, quà biếu, tặng (nếu có).
- Nguồn tài chính từ các giao dịch tài chính gồm:
tự bảo đảm chi phí hoạt
+ Nguồn vốn vay, vốn huy động (đối với
động và ĐVSN tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động), gồm: + Nguồn vốn vay của các tổ
chức tín dụng, vốn huy động của cán bộ, viên chức trong
ĐVSNC có hoạt động dịch vụ) + Lãi được chia từ các hoạt động liên doanh,
đơn vị; + Nguồn vốn liên doanh, liên
liên kết, lãi tiền gửi ngân hàng
kết của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy
định của pháp luật.
- Mức thu phí, lệ
- Mức thu (hoặc khung mức
- DVSNC thuộc danh
Mức thu
dịch vụ
phí và tỷ lệ nguồn thu được để lại đơn
thu) và đối tượng thu phí, lệ phí do CQNN có thẩm quyền
mục thu phí thực hiện theo quy định pháp luật
vị sử dụng theo quy định của Nhà nước.
quy định; và thực hiện chế độ miễn, giảm cho các đối tượng chính sách - xã hội theo quy định của nhà nước.
về phí, lệ phí. Trường ĐHCL được thu phí theo mức thu do CQNN có thẩm quyền quy định.
- Mức thu thực hiện các nhiệm vụ của
- Đối với sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được CQNN đặt
- Giá DVSNC sử dụng kinh phí NSNN được
Nhà nước đặt hàng (điều tra, quy
hàng thì mức thu theo đơn giá do CQNN có thẩm quyền
CQNN có thẩm quyền xác định theo quy định
hoạch, khảo sát...) theo giá hoặc khung
quy định; trường hợp sản phẩm chưa được CQNN có
pháp luật về giá, trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ
giá do Nhà nước quy định.
thẩm quyền quy định giá, thì mức thu được xác định trên
thuật, định mức chi phí, chế độ tiền lương hiện
181
Giai đoạn 2003 - 2006
Giai đoạn 2007 - 2015
Giai đoạn 2016 - 2021
cơ sở dự toán chi phí được cơ
hành và lộ trình tính đủ
quan tài chính cùng cấp thẩm định chấp thuận.
chi phí theo quy định. Trong phạm vi khung giá
- Đối với những hoạt động
DVSNC do CQNN có thẩm quyền quy định,
- Mức thu hoạt động sản xuất, cung
dịch vụ theo hợp đồng với các tổ chức, cá nhân trong và
Trường ĐHCL quyết định mức giá cụ thể cho
ứng dịch vụ do Thủ trưởng đơn vị quyết
ngoài nước, các hoạt động liên doanh, liên kết, đơn vị
từng loại dịch vụ; - Giá DVSNC không sử
định theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp
được quyết định các khoản thu, mức thu cụ thể theo
dụng kinh phí NSNN được trường ĐHCL xác
nguyên tắc bảo đảm đủ bù đắp chi phí và có tích luỹ.
chi phí và có tích luỹ.
định theo cơ chế thị trường, bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích lũy
theo quy định của pháp luật đối với từng lĩnh vực
(riêng dịch vụ giáo dục, đào tạo của trường
ĐHCL thực hiện theo quy định pháp luật về giá
- cụ thể là quy định về học phí).
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
182
PHỤ LỤC 3.3
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ SỬ DỤNG NGUỒN TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐHCL Ở
VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN
CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
2003 - 2006
2007 - 2015
2016 - 2021
- Luật NSNN 2002
- Luật NSNN 2002 - Nghị định số 43/2006/NĐ-
- Luật NSNN 2015 - Nghị định số 16/2015/NĐ-CP
Văn bản điều
chỉnh
- Nghị định số 10/2002/NĐ-CP
CP ngày 25/04/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu
ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL.
ngày 16/01/2002 về chế độ tài
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,
chính áp dụng cho ĐVSN có thu
biên chế và tài chính đối với ĐVSNCL
1. Chi hoạt động thường xuyên
1. Chi thường xuyên; gồm: a) Chi hoạt động theo chức
a) Chi đầu tư từ Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, nguồn vốn
Nội dung chi
theo chức năng, nhiệm vụ được
năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao;
vay và các nguồn tài chính hợp pháp khác (đối với trường ĐHCL
cấp có thẩm quyền giao.
b) Chi phục vụ cho việc thực hiện công việc, dịch
tự bảo đảm CTX và CĐT) b) Chi thường xuyên: Đơn vị
2. Chi hoạt động sản xuất, cung
vụ thu phí, lệ phí; c) Chi cho các hoạt động
được chủ động sử dụng các nguồn tài chính giao tự chủ theo
ứng dịch vụ. 3. Chi thực hiện
dịch vụ (kể cả chi thực hiện nghĩa vụ với NSNN, trích
quy định để chi thường xuyên, trong đó có bao gồm các nội
các đề tài NCKH cấp Nhà nước (NN), cấp Bộ,
khấu hao tài sản cố định theo quy định, chi trả vốn, trả lãi tiền vay theo quy
dung như: chi tiền lương; chi hoạt động chuyên môn, quản lý; trích khấu hao tài sản cố định
định của pháp luật).
theo quy định…
ngành và cấp cơ sở; chương trình
c) Chi nhiệm vụ không thường
mục tiêu quốc gia; chi thực
2. Chi không thường xuyên; gồm: a) Chi thực hiện các nhiệm
xuyên: - Chi thực hiện nhiệm vụ khoa
hiện đơn đặt hàng (điều tra,
vụ khoa học và công nghệ; b) Chi thực hiện chương
học và công nghệ (đối với đơn vị không phải là tổ chức khoa học
quy hoạch, khảo sát...); chi vốn đối ứng thực hiện các dự án
trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức; c) Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia;
công nghệ) - Chi thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề án khác;
có vốn nước
d) Chi thực hiện các nhiệm
- Chi vốn đối ứng thực hiện các
183
Giai đoạn 2003 - 2006
Giai đoạn 2007 - 2015
Giai đoạn 2016 - 2021
ngoài theo quy
vụ do nhà nước đặt hàng
dự án theo quyết định của cấp có
định. 4. Chi thực hiện
(điều tra, quy hoạch, khảo sát, nhiệm vụ khác) theo giá
thẩm quyền; - Chi đầu tư phát triển; mua sắm
tinh giản biên chế theo chế độ
hoặc khung giá do nhà nước quy định;
trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp được cấp có thẩm
do NN quy định. 5. Chi đầu tư
đ) Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn
quyền phê duyệt từ nguồn NSNN cấp;
phát triển, gồm: Chi đầu tư xây
vốn nước ngoài theo quy định;
- Chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ
dựng CSVC, mua sắm trang
e) Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có
công tác thu phí từ nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí
thiết bị, chi thực hiện các dự án đầu tư theo quy
thẩm quyền giao; g) Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do nhà
được để lại chi theo quy định; - Chi nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm quyền giao.
định. 6. Chi thực hiện
nước quy định (nếu có); h) Chi đầu tư xây dựng cơ
các nhiệm vụ đột xuất được cấp có
bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định
thẩm quyền giao. 7. Các khoản chi
thực hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê
khác.
duyệt; i) Chi thực hiện các dự án
từ nguồn vốn viện trợ nước ngoài;
k) Chi cho các hoạt động liên doanh, liên kết;
l) Các khoản chi khác theo quy định (nếu có).
- Thủ trưởng đơn
Quyền
vị được quyết định mức chi
của đơn vị về
mức chi, phương thức chi
quản lý, chi nghiệp vụ cao hơn mức chi do NN quy định tùy
theo nội dung và
- Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, đối với các khoản chi thường xuyên theo quy định, Thủ trưởng đơn vị được quyết định một số mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ cao hoặc thấp hơn mức chi do
a) Chi đầu tư (đối với trường ĐHCL tự bảo đảm CTX và CĐT) - Căn cứ nhu cầu đầu tư và khả năng cân đối các nguồn tài chính, đơn vị chủ động xây dựng danh mục các dự án đầu tư, báo cáo cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Trên cơ sở danh mục dự án đầu tư đã được phê duyệt, đơn
184
Giai đoạn 2003 - 2006
Giai đoạn 2007 - 2015
Giai đoạn 2016 - 2021
hiệu quả công
việc trong phạm vi nguồn tài
chính được sử dụng.
- Khi NN điều chỉnh các quy
định về tiền lương, nâng mức
lương tối thiểu hoặc thay đổi
định mức, chế độ, tiêu chuẩn chi NSNN, đơn
vị sự nghiệp có thu tự trang trải
các khoản chi tăng thêm theo
chính sách chế độ mới.
CQNN có thẩm quyền quy định. - Căn cứ tính chất công việc, thủ trưởng đơn vị được quyết định phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc. - Quyết định đầu tư xây dựng, mua sắm mới và sửa chữa lớn tài sản thực hiện theo quy định của pháp luật và Nghị định 43. - Chi tiền lương, tiền công của ĐVSN tự bảo đảm hoặc bảo đảm một phần CTX: + Đối với những hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ NN giao, chi phí tiền lương, tiền công cho NLĐ, đơn vị tính theo lương cấp bậc, chức vụ do NN quy định; + Đối với những hoạt động cung cấp sản phẩm do NN đặt hàng có đơn giá tiền lương trong đơn giá sản phẩm được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, đơn vị tính theo đơn giá tiền lương quy định. Trường hợp sản phẩm chưa được cơ quan có thẩm quyền quy định đơn giá tiền lương, đơn vị tính theo lương cấp bậc, chức vụ do NN quy định; + Đối với những hoạt động dịch vụ có hạch toán chi phí riêng, thì chi phí tiền lương, tiền công cho NLĐ được áp dụng theo chế độ tiền lương
vị quyết định dự án đầu tư, bao gồm các nội dung về quy mô, phương án xây dựng, tổng mức vốn, nguồn vốn, phân kỳ thời gian triển khai theo quy định của pháp luật về đầu tư. b) Chi thường xuyên: Đơn vị được chủ động sử dụng các nguồn tài chính giao tự chủ (nguồn thu từ hoạt động DVSNC; nguồn thu phí, lệ phí được để lại CTX theo quy định; nguồn NSNN hỗ trợ phần chi phí chưa kết cấu trong giá, phí DVSNC (đối với ĐVSNC tự bảo đảm 1 phần CTX); nguồn thu khác theo quy định) để chi thường xuyên. Một số nội dung chi được quy định như sau: - Chi tiền lương: Đơn vị chi trả tiền lương theo lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do NN quy định đối với ĐVSNC. + Đối với trường ĐHCL tự bảo đảm CTX và CĐT; trường ĐHCL tự bảo đảm CTX: Khi NN điều chỉnh tiền lương, đơn vị tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ nguồn thu của đơn vị (NSNN không cấp bổ sung) + Đối với trường ĐHCL tự bảo đảm một phần CTX, hoặc do NN bảo đảm CTX: Khi NN điều chỉnh tiền lương, đơn vị tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ các nguồn theo quy định; trường hợp còn thiếu, NSNN cấp bổ sung. - Chi hoạt động chuyên môn, quản lý:
185
Giai đoạn 2003 - 2006
Giai đoạn 2007 - 2015
Giai đoạn 2016 - 2021
+ Đối với trường ĐHCL tự bảo đảm CTX và CĐT; trường ĐHCL tự bảo đảm CTX: Căn cứ vào khả năng tài chính, đơn vị được quyết định mức chi cao hơn hoặc thấp hơn định mức do CQNN có thẩm quyền ban hành và quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị; Đối với các nội dung chi chưa có định mức chi theo quy định của CQNN có thẩm quyền: Căn cứ tình hình thực tế, đơn vị xây dựng mức chi cho phù hợp theo quy chế chi tiêu nội bộ và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. + Đối với trường ĐHCL tự bảo đảm một phần CTX, hoặc do NN bảo đảm CTX: Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, đơn vị được quyết định mức chi hoạt động CMQL, nhưng tối đa không vượt quá mức chi do CQNN có thẩm quyền quy định. - Trích khấu hao tài sản cố định theo quy định. Tiền trích khấu
hao tài sản hình thành từ nguồn vốn NSNN hoặc có nguồn gốc từ
trong doanh nghiệp nhà nước. Trường hợp không hạch toán riêng chi phí, đơn vị tính theo lương cấp bậc, chức vụ do NN quy định. - Chi tiền lương, tiền công của ĐVSN do NN bảo đảm CTX: ĐVSN phải bảo đảm chi trả tiền lương cho NLĐ theo lương cấp bậc và chức vụ do NN quy định. - Khi NN điều chỉnh các quy định về tiền lương, nâng mức lương tối thiểu; khoản tiền lương cấp bậc, chức vụ tăng thêm theo chế độ NN quy định do ĐVSN tự bảo đảm từ các khoản thu sự nghiệp và các khoản khác theo quy định của Chính phủ. Trường hợp sau khi đã sử dụng các nguồn trên nhưng vẫn không bảo đảm đủ tiền lương tăng thêm theo chế độ NN quy định, phần còn thiếu sẽ được NSNN xem xét, bổ sung để bảo đảm mức lương tối thiểu chung theo quy định của Chính phủ.
NSNN được hạch toán vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.
c) Chi nhiệm vụ không thường xuyên: Đơn vị chi theo quy định
của Luật NSNN và pháp luật hiện hành đối với nguồn thu phí, lệ phí theo quy định (phần được để lại chi mua sắm, sửa chữa lớn
trang thiết bị, tài sản phục vụ
186
Giai đoạn 2003 - 2006
Giai đoạn 2007 - 2015
Giai đoạn 2016 - 2021
công tác thu phí); nguồn NSNN
cấp cho các nhiệm vụ không thường xuyên (nếu có); nguồn
vốn vay (nếu có), viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.
d) ĐVSNC phải thực hiện đúng
các quy định của Nhà nước về
mức chi, tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô; nhà làm việc;
trang bị điện thoại công vụ tại nhà riêng và điện thoại di động;
chế độ công tác phí nước ngoài; chế độ tiếp khách nước ngoài và hội thảo quốc tế ở Việt Nam.
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
187
PHỤ LỤC 3.4
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ PHÂN PHỐI KẾT QUẢ TÀI CHÍNH TRONG NĂM CỦA
CÁC TRƯỜNG ĐHCL Ở VIỆT NAM KHI THỰC HIỆN
CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH
Giai đoạn 2003 - 2006
Giai đoạn 2007 - 2015
Văn bản điều chỉnh
- Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu
Giai đoạn 2016 - 2021 - Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.
Phân phối kết quả tài chính vào các quỹ
I. Căn cứ vào kết quả tài chính trong năm, Thủ trưởng đơn vị được xác định quỹ tiền lương, tiền công của đơn vị, như sau: 1. Đối với ĐVSN có thu tự bảo đảm chi phí: Hệ số điều chỉnh tăng thêm mức lương tối thiểu không quá 2,5 lần so với mức tiền lương tối thiểu chung do NN quy định. 2. Đối với ĐVSN có thu bảo đảm một phần chi phí: Hệ số điều chỉnh tăng thêm mức lương tối thiểu không quá 2 lần so với mức tiền lương tối thiểu chung do NN quy định. II. Hàng năm, sau khi trang trải toàn bộ chi phí hoạt động và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với NSNN theo quy định của pháp luật; số chênh lệch (nếu có) giữa phần thu sự nghiệp và phần chi tương ứng, Thủ trưởng đơn vị quyết định trích lập các quỹ, sau khi thống nhất
- Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập I. Hàng năm, sau khi trang trải các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp khác theo quy định, phần chênh lệch thu (ngoài các khoản NSNN cấp cho các nhiệm vụ không thường xuyên theo quy định) lớn hơn chi (nếu có), đơn vị được sử dụng theo trình tự như sau: - Trích tối thiểu 25% để lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; - Trả thu nhập tăng thêm cho người lao động + ĐV tự bảo đảm chi phí hoạt động được tự quyết định tổng mức thu nhập tăng thêm cho NLĐ + ĐVSN tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động được quyết định tổng mức thu nhập trong năm cho NLĐ nhưng tối đa không quá 3 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm do nhà nước quy định. - ĐV tự bảo đảm chi phí
I. Hàng năm, sau khi hạch toán đầy đủ các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước khác (nếu có) theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn chi thường xuyên (nếu có), đơn vị được sử dụng theo trình tự như sau: 1. Trích lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: + Tối thiểu 25% đối với Đơn vị tự bảo đảm CTX và CĐT và ĐV tự bảo đảm CTX + Tối thiểu 15% đối với Đơn vị tự bảo đảm 1 phần CTX + Tối thiểu 5% đối với Đơn vị do Nhà nước bảo đảm CTX 2. Trích lập Quỹ bổ sung thu nhập: + Đơn vị tự bảo đảm CTX và CĐT được tự quyết định mức trích (không khống chế mức trích); + ĐV tự bảo đảm CTX trích lập không quá 3 lần quỹ tiền lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp lương do Nhà nước quy định. + ĐV tự bảo đảm 1 phần CTX trích lập không quá 2 lần quỹ
188
Giai đoạn 2016 - 2021
Giai đoạn 2003 - 2006 với tổ chức Công đoàn của đơn vị và được thực hiện theo trình tự như sau: 1. Trích lập Quỹ Dự phòng ổn định thu nhập. 2. Trích lập Quỹ Khen thưởng và Phúc lợi: tối đa không vượt quá 3 tháng lương thực tế bình quân trong năm. 3. Trích lập Quỹ Phát triển hoạt động sự nghiệp sau khi đã trích lập 3 quỹ nêu trên.
Giai đoạn 2007 - 2015 hoạt động và ĐV tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động Trích lập Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ dự phòng ổn định thu nhập. Đối với 2 Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi, mức trích tối đa không quá 3 tháng tiền lương, tiền công và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm. - Đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động: Trường hợp chênh lệch thu lớn hơn chi trong năm bằng hoặc nhỏ hơn một lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm, đơn vị được sử dụng để trả thu nhập tăng thêm cho người lao động trước khi trích lập các quỹ (không quy định mức trích tối thiểu cho Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp) - Đối với ĐVSN do NSNN đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động, phần tiết kiệm được từ khoản chênh lệch thu lớn hơn chi của hoạt động dịch vụ (nếu có), ĐVSN được phép chi trả thu nhập tăng thêm cho NLĐ (tổng quỹ tiền lương thực tế không quá 2 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ do NN quy định), chi khen thưởng, chi phúc lợi, chi tăng cường cơ sở vật chất theo quy định. Có thể lập Quỹ dự phòng ổn định thu nhập nếu xét
tiền lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp lương do Nhà nước quy định. + ĐV do Nhà nước bảo đảm CTX trích lập không quá 1 lần quỹ tiền lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp lương do Nhà nước quy định. 3. Trích lập Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi + Đơn vị tự bảo đảm CTX và CĐT, đơn vị tự bảo đảm CTX: trích lập tối đa không quá 3 tháng tiền lương, tiền công thực hiện trong năm của đơn vị; + ĐV tự bảo đảm 1 phần CTX trích lập trích lập tối đa không quá 2 tháng tiền lương, tiền công thực hiện trong năm của đơn vị; + ĐV do Nhà nước bảo đảm CTX trích lập trích lập tối đa không quá 1 tháng tiền lương, tiền công thực hiện trong năm của đơn vị; - Trích lập Quỹ khác theo quy định của pháp luật; - Phần chênh lệch thu lớn hơn chi còn lại (nếu có) sau khi đã trích lập các quỹ theo quy định được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. - Trường hợp chênh lệch thu lớn hơn chi bằng hoặc nhỏ hơn một lần quỹ tiền lương ngạch, bậc, chức vụ thực hiện trong năm, + Đối với ĐV tự bảo đảm 1 phần CTX: đơn vị được quyết định sử dụng theo trình tự sau: Trích lập Quỹ bổ sung thu nhập; Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, Quỹ khen thưởng,
189
Giai đoạn 2003 - 2006
Giai đoạn 2007 - 2015
Giai đoạn 2016 - 2021
thấy khả năng tiết kiệm kinh phí không ổn định. II. Mức trả thu nhập tăng thêm, trích lập các quỹ do Thủ trưởng ĐVSN quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
Sử dụng các quỹ
Quỹ phúc lợi, Quỹ khác (nếu có). + Đối với ĐV do Nhà nước bảo đảm CTX: đơn vị được quyết định mức trích vào các quỹ cho phù hợp theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. II. Mức trích cụ thể của các quỹ nêu trên và việc sử dụng các quỹ do thủ trưởng đơn vị quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ và phải công khai trong đơn vị. - Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: Để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc; phát triển năng lực hoạt động sự nghiệp; chi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ; đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho người lao động trong đơn vị; góp vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (đối với đơn vị được giao vốn theo quy định) để tổ chức hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và các khoản chi khác (nếu có). - Quỹ bổ sung thu nhập: Để chi bổ sung thu nhập cho người lao động trong năm và dự phòng chi bổ sung thu nhập cho người lao động năm sau trong trường hợp nguồn thu nhập bị giảm. Việc chi bổ sung thu nhập cho người lao động trong đơn vị được thực hiện theo nguyên tắc gắn với số lượng, chất lượng và hiệu quả công tác. Hệ số thu nhập tăng thêm của chức danh
- Trong phạm vi tổng quỹ tiền lương, tiền công được xác định theo mức trên, sau khi thống nhất với tổ chức Công đoàn và được công khai trong đơn vị, Thủ trưởng đơn vị quyết định việc chi trả tiền lương, tiền công theo chất lượng và hiệu quả thực hiện công việc trên nguyên tắc người nào, bộ phận nào có thành tích, có đóng góp làm tăng thu, tiết kiệm chi, có hiệu suất công tác cao thì được trả tiền lương, tiền công cao hơn. - Qũy Dự phòng ổn định thu nhập để bảo đảm thu nhập cho người lao động trong trường hợp nguồn thu bị giảm sút. - Quỹ Khen thưởng được dùng để khen thưởng định kỳ, đột xuất cho tập thể, cá nhân theo kết quả công tác và thành tích đóng góp. Thủ trưởng đơn vị quyết định việc chi Quỹ khen thưởng sau khi thống nhất
1. Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp dùng để đầu tư, phát triển nâng cao hoạt động sự nghiệp, bổ sung vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc, chi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, trợ giúp thêm đào tạo, huấn luyện nâng cao tay nghề năng lực công tác cho cán bộ, viên chức đơn vị; được sử dụng góp vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để tổ chức hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và khả năng của đơn vị và theo quy định của pháp luật. Việc sử dụng Quỹ do thủ trưởng đơn vị quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. 2. Quỹ dự phòng ổn định thu nhập để bảo đảm thu nhập cho người lao động. 3. Quỹ khen thưởng dùng
190
Giai đoạn 2003 - 2006
Giai đoạn 2007 - 2015 để thưởng định kỳ, đột xuất cho tập thể, cá nhân trong và ngoài đơn vị theo hiệu quả công việc và thành tích đóng góp vào hoạt động của đơn vị. Mức thưởng do thủ trưởng đơn vị quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. 4. Quỹ phúc lợi dùng để xây dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi, chi cho các hoạt động phúc lợi tập thể của người lao động trong đơn vị; trợ cấp khó khăn đột xuất cho người lao động, kể cả trường hợp nghỉ hưu, nghỉ mất sức; chi thêm cho người lao động trong biên chế thực hiện tinh giản biên chế. Thủ trưởng đơn vị quyết định việc sử dụng quỹ theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
Giai đoạn 2016 - 2021 lãnh đạo đơn vị sự nghiệp công tối đa không quá 2 lần hệ số thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện của người lao động trong đơn vị. - Quỹ khen thưởng: Để thưởng định kỳ, đột xuất cho tập thể, cá nhân trong và ngoài đơn vị (ngoài chế độ khen thưởng theo quy định của Luật Thi đua khen thưởng) theo hiệu quả công việc và thành tích đóng góp vào hoạt động của đơn vị. Mức thưởng do thủ trưởng đơn vị quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. - Quỹ phúc lợi: Để xây dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi; chi cho các hoạt động phúc lợi tập thể của người lao động trong đơn vị; trợ cấp khó khăn đột xuất cho người lao động, kể cả trường hợp nghỉ hưu, nghỉ mất sức; chi thêm cho người lao động thực hiện tinh giản biên chế.
với tổ chức Công đoàn đơn vị. 3. Quỹ Phúc lợi dùng để xây dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi; chi cho các hoạt động phúc lợi tập thể của người lao động trong đơn vị; trợ cấp khó khăn đột xuất cho người lao động kể cả những trường hợp nghỉ hưu, nghỉ mất sức. Chi thêm cho người lao động trong biên chế khi thực hiện tinh giản biên chế. Thủ trưởng đơn vị quyết định việc sử dụng Quỹ phúc lợi sau khi thống nhất với tổ chức Công đoàn đơn vị. 4. Quỹ Phát triển hoạt động sự nghiệp dùng để đầu tư, phát triển nâng cao hoạt động sự nghiệp, bổ sung vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết bị, nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ; trợ giúp thêm đào tạo, huấn luyện nâng cao tay nghề năng lực công tác cho cán bộ, viên chức trong đơn vị. Việc sử dụng Quỹ Phát triển hoạt động sự nghiệp vào các mục đích trên do Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp quyết định theo quy định của pháp luật.
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
191
PHỤ LỤC 3.5
MỨC CHI HÀNH CHÍNH SỰ NGHIỆP CHO GDĐH
Ở VIỆT NAM NĂM 1997
Mức chi (ĐVT:
Ngành đào tạo
triệu đồng/SV/năm học)
1. Khối nghệ thuật TDTT
8,00
2. Khối tổng hợp, sư phạm
6,30
3. Khối thăm dò địa chất, thủy văn, kỹ thuật mỏ
6,50
4. Khối hàng hải
6,40
5. Khối nông, lâm, thủy sản
5,90
6. Khối Y tế, dược
6,00
7. Khối công nghệ, lương thực và thực phẩm
5,60
8. Khối cơ khí, luyện kim, kỹ thuật nhiệt và điện, kỹ
5,90
thuật xây dựng
9. Khối kỹ thuật bảo quản và vật tư hàng hóa
5,50
10. Khối kỹ thuật điện tử và bưu chính viễn thông
5,30
11. Khối văn hóa thông tin, du lịch
5,40
12. Khối nghiệp vụ quản lý kinh tế, nghiệp vụ kinh
5,20
doanh cơ sở, hành chính pháp lý
13. Đào tạo lại bình quân 3,0 Tr.đ/suất (10 tháng
học/người tính bằng một suất)
(Nguồn: Thông tư số: 38-TC/NSNN ngày 18/07/1996 của Bộ Tài chính)
192
PHỤ LỤC 3.6
MỨC CHI HÀNH CHÍNH SỰ NGHIỆP CHO GDĐH
Ở VIỆT NAM NĂM 1998
Mức chi (ĐVT:
nghìn đồng/SV/năm học)
Bậc/Ngành đào tạo
Dài hạn
Tại chức
tập trung
Bậc đại học
1. Nghệ thuật - thể dục thể thao
8.000
2.000
2. Khối tổng hợp, sư phạm
6.300
1.570
3. Khối thăm dò địa chất, thuỷ văn, khí tượng
6.600
1.620
4. Khối hàng hải
6.400
1.600
5. Khối nông lâm thuỷ sản
5.900
1.470
6. Khối y tế, dược
6.000
1.500
7. Khối công nghệ lương thực, thực phẩm
5.600
1.400
8. Khối luyện kim, kỹ thuật nhiệt và điện,
5.900
1.470
kỹ thuật xây dựng
9. Khối kỹ thuật bảo quản và vật tư hàng hoá
5.500
1.370
10. Khối kỹ thuật điện tử, bưu chính viễn thông
5.300
2.300
11. Khối văn hoá thông tin - du lịch
5.400
1.350
12. Khối nghiệp vụ quản lý kinh tế, nghiệp vụ kinh
5.200
1.300
doanh cơ sở, hành chính pháp lý
4.000
2.600
Bậc Cao học
5.500
4.400
Bậc Nghiên cứu sinh
(Nguồn: Công văn số 562-TC/HCSN ngày 03/3/1998 của Bộ Tài chính)
193
PHỤ LỤC 3.7
PHÂN TÍCH TƯƠNG QUAN PEARSON CỦA CÁC BIẾN TRONG BỘ DỮ LIỆU THU THẬP ĐƯỢC TỪ MẪU NGHIÊN CỨU
Correlations
TU
QM
TNT
NNS
MTC
TCHI
CTX
CCN
NNL
TLN SQM
THU _NNS
THU _DT
MTC C
CMQ L
CHI_ SV
PVC D
NCK H
CSV C
THU _NC KH
THU _KH AC
NSN N_C AP
1
.352**
.567**
.327**
0.149
.501**
0.175
.350**
.753**
.397**
0.144
0.212
.603**
.595**
.746**
.487**
0.157
.767**
.423**
- 0.176
Pearson Correlation
- 0.093
TU
0
0.001
0
0.002
0.171
0
0.106
0.001
0
0.185
0.05
0
0.15
0.105
0
0.394
0
0
0
0
Sig. (2- tailed)
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
N
.352**
1
.819**
.284**
-.223*
.797**
.229*
.752**
0.193
.574**
.223*
.247*
.808**
.793**
.735**
.716**
.375**
.350**
0.128
.680**
.565**
Pearson Correlation
QM
0.001
0
0.008
0.039
0
0.034
0
0.075
0
0.039
0.022
0
0
0.001
0.239
0
0
0
0
0
Sig. (2- tailed)
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
N
0.144
.223*
0.157
.355**
.879**
.403**
0.186
1
.891**
0.098
0.11
0.133
0.112
.274*
0.078
.290**
0.082
- 0.104
- .461**
- .699**
- 0.091
MTC
0
0
0.185
0.039
0.149
0
0.001
0
0.341
0.086
0
0.371
0.312
0.223
0.302
0.011
0.475
0.406
0.007
0.455
Pearson Correlation Sig. (2- tailed)
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
N
.349**
.261*
.543**
0.168
0.06
.536**
.325**
.482**
0.21
.406**
0.158
.308**
.490**
.559**
.485**
.561**
.320**
.221*
.527**
- 0.105
- 0.068
BBKH
0.001
0.015
0
0.122
0.581
0
0.002
0
0.052
0
0.145
0.004
0
0.003
0.336
0.041
0
0.536
0
0
0
Pearson Correlation Sig. (2- tailed)
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
N
.604**
.347**
.281*
0.083
.279*
0.14
.257*
.322**
0.137
0.088
.224*
.372**
.415**
.545**
.289**
0.1
0.017
.258*
.355**
- 0.064
- 0.081
DTKH
0
0.001
0.01
0.454
0.566
0.011
0.208
0.019
0.003
0.218
0.429
0.042
0.001
0
0.008
0.37
0.879
0.018
0.001
0.469
0
Pearson Correlation Sig. (2- tailed)
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
N
.647**
0.177
.516**
.417**
.400**
.409**
0.079
.324**
.627**
.249*
0.014
0.09
.529**
.529**
.536**
.508**
.224*
.676**
.309**
- 0.156
- 0.104
TCTKH
0
0.468
0.002
0
0.021
0.9
0.41
0
0.038
0.151
0
0.004
0.34
0
0.102
0
0
0
0
0
0
Pearson Correlation Sig. (2- tailed)
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
N
194
Correlations
TU
QM
TNT
NNS
MTC
TCHI
CTX
CCN
NNL
TLN SQM
THU _NNS
THU _DT
MTC C
CMQ L
CHI_ SV
PVC D
NCK H
CSV C
THU _NC KH
THU _KH AC
NSN N_C AP
.422**
.708**
.661**
.241*
.639**
.307**
.589**
.347**
.428**
.226*
.316**
.658**
.698**
.691**
.641**
.407**
0.061
.289**
.703**
0.116
- 0.102
Pearson Correlation
GSTS
0
0
0
0.025
0.352
0
0.004
0
0.001
0
0.036
0.003
0
0.576
0.007
0
0.287
0
0
0
0
Sig. (2- tailed)
N
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
86
0.086
0.155
-.222*
-0.06
.260*
0.081
0.155
.402**
0.005
0.027
0.055
0.138
-.217*
.270*
-.257*
Pearson Correlation
- 0.003
- 0.098
- 0.019
- 0.084
- 0.035
- 0.014
DTBDV
0.435
0.978
0.156
0.041
0.585
0.016
0.46
0.156
0.373
0
0.967
0.809
0.898
0.62
0.207
0.862
0.046
0.444
0.747
0.012
0.018
Sig. (2- tailed)
N
85
85
85
85
85
85
85
85
85
85
85
85
85
85
85
85
85
85
85
85
85
.511**
.378**
.682**
0.142
0.059
.699**
.268*
.622**
0.177
.569**
0.143
.244*
.597**
.648**
.581**
.622**
.247*
0.024
.218*
.465**
0.096
SVTN
0
0
0
0.202
0.595
0
0.014
0
0.11
0
0.196
0.026
0
0.024
0.832
0.047
0
0.39
0
0
0
Pearson Correlation Sig. (2- tailed)
N
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
83
-.264*
0.02
0.129
0.105
-.244*
-.279*
Pearson Correlation
- .324**
- .542**
- .391**
- 0.227
- .447**
- .358**
- 0.231
- .432**
- .489**
- .484**
- .411**
- .421**
- 0.156
- 0.169
- 0.197
0.031
0.007
0
0.001
0.065
0
0.87
0.003
0.06
0.3
0.399
0
0.001
0
0.209
0.172
0.047
0.022
0.11
0
0
KTKN_ DU
Sig. (2- tailed)
N
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
0.013
.372**
.460**
0.136
.452**
0.126
.427**
0.017
.366**
.397**
.268*
.356**
0.22
.301*
.316**
.272*
.428**
Pearson Correlation
- 0.062
- 0.178
- 0.038
- 0.176
0.914
0.002
0
0.272
0.616
0
0.309
0
0.149
0
0.762
0.892
0.002
0.001
0.028
0.003
0.074
0.013
0.154
0.009
0.026
KTKN_ 1PHAN
Sig. (2- tailed)
N
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
67
.611**
.752**
.737**
.772**
.463**
.635**
0.206
.843**
.360*
.468**
.596**
.591**
.641**
.441**
.749**
0.124
.390*
.334*
0.128
- 0.299
- .443**
0
0.058
0.004
0
0.002
0
0.197
0
0.021
0.002
0
0.004
0
0.441
0.012
0.033
0.426
0
0
0
0
HIENM AU
Pearson Correlation Sig. (2- tailed)
N
41
41
41
41
41
41
41
41
41
41
41
41
41
41
41
41
41
41
41
41
41
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
*. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).
PHỤ LỤC 3.8
KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH KHÁC BIỆT GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH
CỦA NGUỒN NSNN CẤP VÀ MỨC TỰ CHỦ GIỮA 2 NHÓM TRƯỜNG
ĐHCL PHÂN LOẠI THEO VỊ TRÍ ĐỊA LÝ GIAI ĐOẠN 2012-2022
Descriptives
95% Confidence Interval for Mean
NSNN_CAP
DB
N 53
Mean 64613.547
Std. Deviation 47281.7200
Std. Error 6494.6437
Lower Bound 51581.091
Upper Bound 77646.003
Minimum Maximum 177269.0
6942.0
KHAC
33
36111.909
35246.0812
6135.5552
23614.192
48609.626
1486.0
101371.0
Total
86
53676.872
45052.0132
4858.0835
44017.701
63336.044
1486.0
177269.0
MTC
DB
53
74.3195%
22.81298%
3.13360%
68.0315%
80.6075%
23.54%
111.33%
KHAC
33
88.2724%
28.57473%
4.97422%
78.1402%
98.4046%
48.96%
148.99%
Total
86
79.6735%
25.92983%
2.79609%
74.1142%
85.2329%
23.54%
148.99%
Bảng Descriptives cho chúng ta các thông số mô tả nguồn NSNN cấp
(NSNN_CAP) và mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) của từng
nhóm trường ở các vị trí địa lý khác nhau: nhòm trường thuộc vùng Đồng bằng sông
Hồng hoặc Đồng bằng sông Cửu Long (DB) và nhóm trường thuộc các vùng kinh tế
khác (KHAC).
Tests of Homogeneity of Variances
df1
df2
Sig.
NSNN_CAP
Based on Mean
Levene Statistic 3.057
1
84
.084
Based on Median
3.111
1
84
.081
Based on Median and with adjusted df
83.539
3.111
1
.081
Based on trimmed mean
2.951
1
84
.089
MTC
Based on Mean
3.513
1
84
.064
Based on Median
3.023
1
84
.086
3.023
1
.086
Based on Median and with adjusted df
83.278
3.341
1
84
.071
Based on trimmed mean
Sig kiểm định Levene đối với biến NSNN_CAP là 0.084 > 0.05, đối với biến
MTC là 0.089 > 0.05, không có sự khác biệt phương sai giữa các nhóm trường, chúng
ta sẽ sử dụng kết quả kiểm định F ở bảng ANOVA.
ANOVA
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
NSNN_CAP
Between Groups
16520797205.734
8.896
.004
1
Within Groups
156002334001.859
16520797205.734 1857170642.879
Total
172523131207.593
84 85
3959.314
MTC
Between Groups
6.253
.014
1
53190.970
Within Groups
3959.314 633.226
57150.285
Total
84 85
Sig kiểm định F bằng đối với biến NSNN_CAP bằng 0.004 < 0.05, nghĩa là
có sự khác biệt trung bình của nguồn NSNN cấp (NSNN_CAP) giữa nhóm trường
nằm ở vùng Đồng bằng sông Hồng hoặc Đồng bằng sông Cửu Long (DB) với nhóm
trường nằm ở các vùng kinh tế khác (KHAC).
Sig kiểm định F bằng đối với biến MTC bằng 0.014 < 0.05, nghĩa là có sự
khác biệt trung bình của mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) giữa
các nhóm trường nằm ở vùng Đồng bằng sông Hồng hoặc Đồng bằng sông Cửu Long
(DB) với nhóm trường nằm ở các vùng kinh tế khác (KHAC).
PHỤ LỤC 3.9
KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH KHÁC BIỆT GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH
CỦA TỶ LỆ NSNN CẤP TRÊN QUY MÔ NHÂN SỰ GIỮA 2 NHÓM
TRƯỜNG ĐHCL PHÂN LOẠI THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
GIAI ĐOẠN 2012-2021
Descriptives
TLNSQM
95% Confidence Interval for Mean
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error
Minimum Maximum
Lower Bound
Upper Bound
204.906
134.6822
16.9684
170.987
238.826
9.0
607.1
UD
63
62.187
56.1009
11.6978
37.927
86.447
9.3
177.4
NC_UD
23
166.737
134.4736
14.5007
137.906
195.568
9.0
607.1
Total
86
Bảng Descriptives cho chúng ta các thông số mô tả Tỷ lệ NSNN cấp trên quy
mô nhân sự (TLNSQM) của từng nhóm trường theo định hướng phát triển (UD và
NC_UD).
Tests of Homogeneity of Variances
Levene Statistic
df1
df2
Sig.
TLNSQM
Based on Mean
9.739
1
84
.002
Based on Median
9.238
1
84
.003
Based on Median and with adjusted df
9.238
1
73.135
.003
Based on trimmed mean
9.188
1
84
.003
Sig kiểm định Levene bằng 0.002 < 0.05, có sự khác biệt phương sai giữa các
nhóm trường, chúng ta sẽ sử dụng kết quả kiểm định Welch ở bảng Robust Tests of
Equality of Means.
Robust Tests of Equality of Means
TLNSQM
Statistica
df1
df2
Sig.
Welch
47.953
1
82.452
.000
a. Asymptotically F distributed.
Sig kiểm định Welch bằng 0.000 < 0.05, nghĩa là có sự khác biệt trung bình
của Tỷ lệ nguồn ngân sách nhà nước cấp trên quy mô nhân sự (TLNSQM) giữa các
nhóm trường theo định hướng ứng dụng (UD) và định hướng nghiên cứu - ứng dụng
(NC_UD).
PHỤ LỤC 3.10 MỨC TRẦN HỌC PHÍ ĐỐI VỚI ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC TẠI
TRƯỜNG ĐHCL THEO CÁC NHÓM NGÀNH ĐÀO TẠO,
GIAI ĐOẠN 2010 - 2015
Đơn vị: nghìn đồng/tháng/sinh viên
Năm học Năm học Năm học Năm học Năm học
Nhóm ngành 2010 - 2010 - 2010 - 2010 - 2010 -
2011 2011 2011 2011 2011
1. Khoa học xã hội,
kinh tế, luật; nông, 290 355 420 485 550
lâm, thủy sản
2. Khoa học tự nhiên;
kỹ thuật, công nghệ;
thể dục thể thao, nghệ 310 395 480 565 650
thuật; khách sạn, du
lịch
3. Y dược 340 455 570 685 800
Nguồn: Nghị định số 49/2010/NĐ-CP
PHỤ LỤC 3.11
MỨC TRẦN HỌC PHÍ ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TẠI TRƯỜNG
ĐHCL TỰ ĐẢM BẢO KINH PHÍ THƯỜNG XUYÊN VÀ CHI ĐẦU TƯ
THEO CÁC NHÓM NGÀNH GIAI ĐOẠN 2015 - 2020
Đơn vị: nghìn đồng/tháng/sinh viên
Nhóm ngành 2015 - 2018 2018 - 2020 2020 - 2021
1. Khoa học xã hội, kinh tế, luật; nông, 1.750 1.850 2.050 lâm, thủy sản
2. Khoa học tự nhiên; Kỹ thuật, công
nghệ; thể dục thể thao, nghệ thuật; 2.050 2.200 2.400
khách sạn, du lịch
3. Y dược 4.400 4.600 5.050
(Nguồn: Nghị định 86/2015/NĐ-CP của Chính phủ)
PHỤ LỤC 3.12
MỨC TRẦN HỌC PHÍ ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TẠI TRƯỜNG
ĐHCL CHƯA TỰ ĐẢM BẢO KINH PHÍ THƯỜNG XUYÊN VÀ CHI ĐẦU
TƯ THEO CÁC NHÓM NGÀNH GIAI ĐOẠN 2015 - 2020
Đơn vị: nghìn đồng/tháng/sinh viên
Năm học
2015 -2016 2016 -2017 2017 - 2018 2018 - 2019 2019 - 2020 2020 - 2021
% tăng
% tăng
% tăng
% tăng
% tăng
% tăng
Khối ngành, chuyên ngành đào tạo
Trần học phí
Trần học phí
Trần học phí
Trần học phí
Trần học phí
Trần học phí
Khoa học xã hội, kinh tế,
610 11% 670 10%
740
10%
810
10%
890
10%
980
10%
luật; nông, lâm, thủy sản
Khoa học tự
720 11% 790 10%
870
10%
960
10% 1.060 10% 1.170 10%
nhiên; kỹ thuật, công nghệ; thể dục thể thao,
nghệ thuật; khách sạn, du lịch
Y dược
880 10% 970 10% 1.070 10% 1.180 10% 1.300 10% 1.430 10%
(Nguồn: Nghị định 86/2015/NĐ-CP của Chính phủ)
PHỤ LỤC 3.13
KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH KHÁC BIỆT GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH
CỦA TỶ TRỌNG NGUỒN TÀI CHÍNH NGOÀI NSNN VÀ MỨC TỰ CHỦ
GIỮA 2 NHÓM TRƯỜNG ĐHCL PHÂN LOẠI THEO VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
GIAI ĐOẠN 2012-2021
Descriptives
95% Confidence Interval for
Mean
Std.
Lower
N
Mean
Deviation
Std. Error
Bound
Upper Bound
Minimum Maximum
NNS DB
53 63.2474%
20.73989% 2.84884%
57.5308%
68.9640%
21.99%
98.39%
KHAC
33 75.8941%
14.35055% 2.49811%
70.8056%
80.9826%
51.66%
96.74%
Total
86 68.1002%
19.46647% 2.09912%
63.9266%
72.2738%
21.99%
98.39%
MTC DB
53 74.3195%
22.81298% 3.13360%
68.0315%
80.6075%
23.54%
111.33%
KHAC
33 88.2724%
28.57473% 4.97422%
78.1402%
98.4046%
48.96%
148.99%
Total
86 79.6735%
25.92983% 2.79609%
74.1142%
85.2329%
23.54%
148.99%
Bảng Descriptives cho chúng ta các thông số mô tả Tỷ trọng nguồn tài chính
ngoài NSNN (NNS) và Mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) của
từng nhóm trường ở các vị trí địa lý khác nhau: nhóm trường thuộc vùng Đồng bằng
sông Hồng hoặc Đồng bằng sông Cửu Long (DB) và nhóm trường thuộc các vùng
kinh tế khác (KHAC).
Tests of Homogeneity of Variances
Levene Statistic
df1
df2
Sig.
NNS
Based on Mean
3.575
1
84
.062
Based on Median
2.169
1
84
.145
Based on Median and with
2.169
1
64.488
.146
adjusted df
Based on trimmed mean
3.624
1
84
.060
MTC
Based on Mean
3.513
1
84
.064
Based on Median
3.023
1
84
.086
Based on Median and with
3.023
1
83.278
.086
adjusted df
Based on trimmed mean
3.341
1
84
.071
Sig kiểm định Levene đối với biến NNS là 0.062 > 0.05, đối với biến MTC là
0.064 > 0.05, không có sự khác biệt phương sai giữa các nhóm trường, chúng ta sẽ
sử dụng kết quả kiểm định F ở bảng ANOVA.
ANOVA
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
NNS
Between Groups
9.436
.003
3252.731
1
Within Groups
28957.470
3252.731 344.732
Total
32210.201
84 85
3959.314
1
MTC
Between Groups
6.253
.014
Within Groups
53190.970
3959.314 633.226
Total
57150.285
84 85
Sig kiểm định F đối với biến NNS bằng 0.003 < 0.05, nghĩa là có sự khác biệt
trung bình của Tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN (NNS) giữa nhóm trường nằm
ở vùng Đồng bằng sông Hồng hoặc Đồng bằng sông Cửu Long (DB) với nhóm trường
nằm ở các vùng kinh tế khác (KHAC).
Sig kiểm định F đối với biến MTC bằng 0.014 < 0.05, nghĩa là có sự khác biệt
trung bình của mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) giữa các nhóm
trường nằm ở vùng Đồng bằng sông Hồng hoặc Đồng bằng sông Cửu Long (DB) với
nhóm trường nằm ở các vùng kinh tế khác (KHAC).
PHỤ LỤC 3.14
KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH KHÁC BIỆT GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH
CỦA TỶ TRỌNG NGUỒN TÀI CHÍNH NGOÀI NSNN VÀ MỨC TỰ CHỦ
GIỮA 2 NHÓM TRƯỜNG ĐHCL PHÂN LOẠI THEO ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN GIAI ĐOẠN 2012 - 2021
Descriptives
95% Confidence Interval
for Mean
Std.
Lower
Upper
N
Mean
Deviation
Std. Error
Bound
Bound
Minimum Maximum
NNS UD
63 61,8932%
17,58787% 2,21586%
57,4638%
66,3227%
21,99%
96,74%
NC_UD
23 85,1020%
13,40962% 2,79610%
79,3032%
90,9007%
55,68%
98,39%
Total
86 68,1002%
19,46647% 2,09912%
63,9266%
72,2738%
21,99%
98,39%
MTC UD
63 70,9326%
19,61714% 2,47153%
65,9921%
75,8731%
23,54%
109,25%
NC_UD
23 103,6161%
26,36501% 5,49748%
92,2151%
115,0172%
48,96%
148,99%
Total
86 79,6735%
25,92983% 2,79609%
74,1142%
85,2329%
23,54%
148,99%
Bảng Descriptives cho chúng ta các thông số mô tả Tỷ trọng nguồn tài chính
ngoài NSNN (NNS) và Mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) của
từng nhóm trường theo định hướng phát triển khác nhau: nhóm trường có định hướng
phát triển Ứng dụng (UD) và nhóm trường có định hướng phát triển Nghiên cứu_Ứng
dụng (NC_UD).
Tests of Homogeneity of Variances
Levene Statistic
df1
df2
Sig.
NNS
Based on Mean
1,980
1
84
,163
Based on Median
3,001
1
84
,087
Based on Median and with
3,001
1
83,915
,087
adjusted df
Based on trimmed mean
2,448
1
84
,121
MTC
Based on Mean
1,357
1
84
,247
Based on Median
1,299
1
84
,258
Based on Median and with
1,299
1
73,824
,258
adjusted df
Based on trimmed mean
1,283
1
84
,261
Sig kiểm định Levene đối với biến NNS là 0.163 > 0.05, đối với biến MTC là
0.121 > 0.05, không có sự khác biệt phương sai giữa các nhóm trường, chúng ta sẽ
sử dụng kết quả kiểm định F ở bảng ANOVA.
ANOVA
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
NNS
Between Groups
32,953
,000
9075,553
1
Within Groups
23134,648
9075,553 275,412
Total
32210,201
84 85
17998,192
1
MTC
Between Groups
38,615
,000
Within Groups
39152,092
17998,192 466,096
Total
57150,285
84 85
Sig kiểm định F đối với biến NNS bằng 0.000 < 0.05, nghĩa là có sự khác biệt
trung bình của Tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN (NNS) giữa nhóm trường thuộc
định hướng phát triển Ứng dụng (UD) và nhóm trường thuộc định hướng phát triển
Nghiên cứu - Ứng dụng (UC_UD).
Sig kiểm định F đối với biến MTC bằng 0.000 < 0.05, nghĩa là có sự khác biệt
trung bình của mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) giữa các nhóm
nhóm trường thuộc định hướng phát triển Ứng dụng (UD) và nhóm trường thuộc định
hướng phát triển Nghiên cứu - Ứng dụng (NC_UD).
PHỤ LỤC 3.15
KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH KHÁC BIỆT GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH
CỦA TỶ TRỌNG NGUỒN TÀI CHÍNH NGOÀI NSNN VÀ MỨC TỰ CHỦ
GIỮA 2 NHÓM TRƯỜNG ĐHCL CÓ VÀ KHÔNG CÓ ĐƠN VỊ SẢN XUẤT -
DỊCH VỤ - CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ THUỘC VÀ TRỰC THUỘC
GIAI ĐOẠN 2012-2021
Descriptives
95% Confidence Interval for
Mean
Std.
Lower
N
Mean
Deviation
Std. Error
Bound
Upper Bound
Minimum Maximum
NNS Không
42 58,5873%
16,12027% 2,48741%
53,5639%
63,6107%
21,99%
96,19%
Có
44 77,1807%
18,12551% 2,73252%
71,6700%
82,6914%
45,87%
98,39%
Total
86 68,1002%
19,46647% 2,09912%
63,9266%
72,2738%
21,99%
98,39%
MTC Không
42 63,8550%
18,25150% 2,81627%
58,1674%
69,5426%
23,54%
108,78%
Có
44 94,7730%
23,10303% 3,48291%
87,7490%
101,7970%
48,96%
148,99%
Total
86 79,6735%
25,92983% 2,79609%
74,1142%
85,2329%
23,54%
148,99%
Bảng Descriptives cho chúng ta các thông số mô tả Tỷ trọng nguồn tài chính
ngoài NSNN (NNS) và Mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) của
từng nhóm trường ĐHCL: Nhóm trường có đơn vị sản xuất - dịch vụ - chuyển giao
công nghệ thuộc và trực thuộc (Có) và nhóm trường không có đơn vị sản xuất - dịch
vụ - chuyển giao công nghệ thuộc và trực thuộc (Không).
Tests of Homogeneity of Variances
Levene Statistic
df1
df2
Sig.
NNS
Based on Mean
6,562
84
,012
1
Based on Median
1,740
84
,191
1
Based on Median and with adjusted
1,740
78,557
,191
1
df
Based on trimmed mean
6,271
84
,014
1
MTC
Based on Mean
4,029
84
,048
1
Based on Median
3,255
84
,075
1
Based on Median and with adjusted
3,255
82,495
,075
1
df
4,141
1
Based on trimmed mean
84
,045
Sig kiểm định Levene đối với biến NNS là 0.012 > 0.05, đối với biến MTC là
0.014 > 0.05, không có sự khác biệt phương sai giữa các nhóm trường, chúng ta sẽ
sử dụng kết quả kiểm định F ở bảng ANOVA.
ANOVA
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
NNS
Between Groups
25,181
,000
7428,852
1
Within Groups
24781,349
7428,852 295,016
Total
32210,201
84 85
20541,213
1
MTC
Between Groups
47,132
,000
Within Groups
36609,071
20541,213 435,822
Total
57150,285
84 85
Sig kiểm định F đối với biến NNS bằng 0.000 < 0.05, nghĩa là có sự khác biệt
trung bình của Tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN (NNS) giữa nhóm trường có
đơn vị sản xuất - dịch vụ - chuyển giao công nghệ thuộc và trực thuộc (Có) và nhóm
trường không có đơn vị sản xuất - dịch vụ - chuyển giao công nghệ thuộc và trực
thuộc (Không).
Sig kiểm định F đối với biến MTC bằng 0.000 < 0.05, nghĩa là có sự khác biệt
trung bình của mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) giữa các nhóm
trường có đơn vị sản xuất - dịch vụ - chuyển giao công nghệ thuộc và trực thuộc (Có)
và nhóm trường không có đơn vị sản xuất - dịch vụ - chuyển giao công nghệ thuộc
và trực thuộc (Không).
PHỤ LỤC 3.16
MÔ HÌNH HỒI QUY ĐA BIẾN ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA ĐỔI MỚI
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐẾN MỨC TỰ CHỦ CHI THƯỜNG XUYÊN
Variables Entered/Removeda
Variables Removed
Method
Model
Variables Entered
. Enter
1
NNL, CHI_SV, NSNN_CAP, THU_DT, QMb
a. Dependent Variable: MTC
b. All requested variables entered.
Hàm hồi quy có dạng: BBKH = β0 + β1*NNL + β2*CHI_SV +
β3*NSNN_CAP + β4*THU_DT + β5*QM + ei
ANOVAa
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
24932,882
5
12,382
,000b
Residual
32217,402
4986,576 402,718
Total
57150,285
80 85
a. Dependent Variable: MTC
b. Predictors: (Constant), NNL, CHI_SV, NSNN_CAP, THU_DT, QM
Để kiểm định độ phù hợp mô hình hồi quy, chúng ta đặt giả thuyết H0: R2 = 0.
Phép kiểm định F được sử dụng để kiểm định giả thuyết này. Kết quả kiểm định:
Sig < 0.05: Bác bỏ giả thuyết H0, nghĩa là R2 ≠ 0 một cách có ý nghĩa thống
kê Mô hình hồi quy là phù hợp
Model Summary
Adjusted R
Std. Error of the
Model
R
R Square
Square
Estimate
1
,661a
,436
,401
20,06782%
a. Predictors: (Constant), NNL, CHI_SV, NSNN_CAP, THU_DT, QM
Nhìn vào bảng Model Summary ta có: R2 hiệu chỉnh = 0,401, nghĩa là các biến
độc lập trong mô hình giải thích được 40,1% sự biến thiên của biến phụ thuộc.
Bảng Coefficients cho chúng ta kết quả kiểm định t để đánh giá giả thuyết ý
nghĩa hệ số hồi quy, chỉ số VIF đánh giá đa cộng tuyến và các hệ số hồi quy:
Coefficientsa
Standardized
Unstandardized Coefficients
Coefficients
Collinearity Statistics
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Tolerance
VIF
1
(Constant)
79,838
4,505
17,722
,000
QM
-,005
,016
-,316
-,048
,753
,305
3,276
NSNN_CAP
,000
,000
-5,580
-,508
,000
,849
1,178
THU_DT
8,585E-5
,000
2,031
,278
,046
,377
2,653
CHI_SV
,001
,001
1,176
,111
,243
,793
1,261
NNL
,004
,002
2,061
,242
,043
,511
1,956
a. Dependent Variable: MTC
Các biến QM, CHI_SV có giá trị sig của kiểm định t > 0.05, do đó với mức ý
nghĩa 5%, chưa có đủ bằng chứng kết luận hai biến này có sự tác động lên biến phụ
thuộc MTC.
Các biến còn lại gồm NSNN_CAP, THU_DT, NNL đều có sig của kiểm định
t < 0.05, do đó với mức ý nghĩa 5%, các biến này đều có ý nghĩa thống kê, đều tác
động lên biến phụ thuộc MTC.
Dựa vào độ lớn của hệ số hồi quy chuẩn hóa β ta thấy:
Biến NSNN_CAP tác động mạnh nhất và ngược chiều tới Mức tự chủ chi thường
xuyên (β = - 0,508).
Biến THU_DT tác động mạnh thứ hai và thuận chiều tới Mức tự chủ chi thường
xuyên (β = 0,278).
Biến NNL tác động mạnh thứ ba và thuận chiều tới Mức tự chủ chi thường xuyên
(β = 0,242).
Collinearity Diagnosticsa
Variance Proportions
Condition
Model Dimension Eigenvalue
Index
(Constant)
QM
NSNN_CAP THU_DT CHI_SV NNL
4,662
1,000
,01
,00
,01
,01
,01
,01
1
1
,516
3,006
,02
,00
,38
,04
,22
,00
2
,409
3,376
,04
,01
,04
,03
,40
,21
3
,181
5,073
,78
,00
,35
,01
,28
,08
4
,163
5,349
,10
,02
,10
,43
,08
,59
5
,069
8,223
,04
,97
,12
,48
,01
,12
6
a. Dependent Variable: MTC
PHỤ LỤC 3.17
MÔ HÌNH HỒI QUY ĐA BIẾN ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐẾN CHẤT LƯỢNG TRƯỜNG ĐHCL
Mô hình 1: DTBDV
Đánh giá tác động của đổi mới quản lý tài chính đến chỉ tiêu Điểm trung bình
tuyển sinh đầu vào:
Variables Entered/Removeda
Model
Variables Entered Variables Removed
Method
1
CSVC,
. Enter
THU_KHAC, MTC,
CHI_SV, NNLb
a. Dependent Variable: DTBDV
b. All requested variables entered.
Hàm hồi quy có dạng: DTBDV = β0 + β1*CSVC + β2*THU_KHAC +
β3*MTC + β4*CHI_SV + β5*NNL + ei
ANOVAa
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
404,211
5
9,249
,000b
Residual
690,522
80,842 8,741
Total
1094,732
79 84
a. Dependent Variable: DTBDV
b. Predictors: (Constant), CSVC, THU_KHAC, MTC, CHI_SV, NNL
Để kiểm định độ phù hợp mô hình hồi quy, chúng ta đặt giả thuyết H0: R2 = 0.
Phép kiểm định F được sử dụng để kiểm định giả thuyết này. Kết quả kiểm định:
Sig < 0,05: Bác bỏ giả thuyết H0, nghĩa là R2 ≠ 0 một cách có ý nghĩa thống
kê Mô hình hồi quy là phù hợp.
Model Summary
Std. Error of the
Model
R
R Square
Adjusted R Square
Estimate
1
,608a
,369
,329
2,9565
a. Predictors: (Constant), CSVC, THU_KHAC, MTC, CHI_SV, NNL
Nhìn vào bảng Model Summary ta có: R2 hiệu chỉnh = 0,329, nghĩa là các biến
độc lập trong mô hình giải thích được 32,9% sự biến thiên của biến phụ thuộc.
Bảng Coefficients cho chúng ta kết quả kiểm định t để đánh giá giả thuyết ý
nghĩa hệ số hồi quy, chỉ số VIF đánh giá đa cộng tuyến và các hệ số hồi quy:
Coefficientsa
Standardized
Unstandardized Coefficients
Coefficients
Collinearity Statistics
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Tolerance
VIF
1
(Constant)
19,474
1,074
18,128
,000
THU_KHAC
3,097E-5
,000
3,722
,388
,000
,734
1,362
MTC
-,004
,013
-,303
-,029
,762
,875
1,143
CHI_SV
,000
,000
-3,286
-,315
,002
,867
1,153
NNL
,001
,000
2,275
,249
,026
,668
1,498
CSVC
,000
,002
,877
1,140
-4,927E-5
-,302
-3,163
a. Dependent Variable: DTBDV
Biến MTC có giá trị sig của kiểm định t > 0,05, do đó với mức ý nghĩa 5%,
biến này không có sự tác động lên biến phụ thuộc DTBDV.
Các biến còn lại gồm THU_KHAC, CHI_SV, NNL, CSVC đều có sig của
kiểm định t < 0,05, do đó với mức ý nghĩa 5%, các biến này đều có ý nghĩa thống kê,
đều tác động lên biến phụ thuộc DTBDV.
Dựa vào độ lớn của hệ số hồi quy chuẩn hóa β ta thấy:
Biến THU_KHAC tác động mạnh nhất và thuận chiều tới Điểm trung bình tuyển
sinh đầu vào (β = 0,388).
Biến CHI_SV tác động mạnh thứ hai và ngược chiều tới Điểm trung bình tuyển
sinh đầu vào (β = - 0,315).
Biến CSVC tác động mạnh thứ ba và ngược chiều tới Điểm trung bình tuyển sinh
đầu vào (β = - 0,302).
Biến NNL tác động mạnh thứ tư và thuận chiều tới Điểm trung bình tuyển sinh
đầu vào (β = 0,249).
Collinearity Diagnosticsa
Variance Proportions
Condition
Model Dimension Eigenvalue
Index
(Constant) THU_KHAC MTC CHI_SV NNL
CSVC
4,235
1,000
,00
,02
,00
,02
,01
,02
1
1
,646
2,561
,00
,48
,00
,00
,01
,26
2
,485
2,956
,01
,07
,01
,24
,09
,39
3
,359
3,435
,04
,02
,03
,60
,06
,17
4
,231
4,285
,03
,41
,01
,13
,81
,15
5
,045
9,659
,91
,00
,94
,01
,02
,01
6
a. Dependent Variable: DTBDV
Mô hình 2: SVTN
Đánh giá tác động của đổi mới quản lý tài chính đến chỉ tiêu Số sinh viên tốt
nghiệp đại học chính quy:
Variables Entered/Removeda
Model
Variables Entered Variables Removed
Method
1
NNL, CHI_SV,
. Enter
CMQL, CCN,
THU_NNSb
a. Dependent Variable: SVTN
b. All requested variables entered.
Hàm hồi quy có dạng: SVTN = β0 + β1*NNL + β2*CHI_SV + β3*CMQL
+ β4*CCN + β5*THU_NNS + ei
ANOVAa
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
24525760,041
5
16,325
,000b
Residual
23136040,706
4905152,008 300468,061
Total
47661800,747
77 82
a. Dependent Variable: SVTN
b. Predictors: (Constant), NNL, CHI_SV, CMQL, CCN, THU_NNS
Để kiểm định độ phù hợp mô hình hồi quy, chúng ta đặt giả thuyết H0: R2 = 0.
Phép kiểm định F được sử dụng để kiểm định giả thuyết này. Kết quả kiểm định:
Sig < 0,05: Bác bỏ giả thuyết H0, nghĩa là R2 ≠ 0 một cách có ý nghĩa thống
kê Mô hình hồi quy là phù hợp
Model Summary
Std. Error of the
Model
R
R Square
Adjusted R Square
Estimate
1
,717a
,515
,483
548,1497
a. Predictors: (Constant), NNL, CHI_SV, CMQL, CCN, THU_NNS
Nhìn vào bảng Model Summary ta có: R2 hiệu chỉnh = 0,483, nghĩa là các biến
độc lập trong mô hình giải thích được 48,3% sự biến thiên của biến phụ thuộc.
Bảng Coefficients cho chúng ta kết quả kiểm định t để đánh giá giả thuyết ý
nghĩa hệ số hồi quy, chỉ số VIF đánh giá đa cộng tuyến và các hệ số hồi quy:
Coefficientsa
Standardized
Unstandardized Coefficients
Coefficients
Collinearity Statistics
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Tolerance
VIF
1
(Constant)
573,511
118,579
4,837
,000
THU_NNS
,004
,001
3,856
,573
,000
,286
3,501
CCN
,000
,003
-,137
-,020
,891
,304
3,288
CMQL
,004
,002
1,886
,251
,063
,357
2,803
CHI_SV
-,008
,015
-,506
-,044
,614
,825
1,212
NNL
-,023
,061
-,373
-,042
,710
,496
2,016
a. Dependent Variable: SVTN
Các biến CCN, CHI_SV, NNL có giá trị sig của kiểm định t > 0,1, do đó với
mức ý nghĩa 10%, các biến này không có sự tác động lên biến phụ thuộc SVTN.
Các biến còn lại gồm THU_NNS, CMQL đều có sig của kiểm định t < 0,1, do
đó với mức ý nghĩa 10%, các biến này đều có ý nghĩa thống kê, đều tác động lên biến
phụ thuộc SVTN.
Dựa vào độ lớn của hệ số hồi quy chuẩn hóa β ta thấy:
Biến THU_NNS tác động mạnh nhất và thuận chiều tới Số sinh viên tốt nghiệp đại
học chính quy (β = 0,573).
Biến CMQL tác động mạnh thứ hai và thuận chiều tới Số sinh viên tốt nghiệp đại
học chính quy (β = 0,251).
Collinearity Diagnosticsa
Variance Proportions
Condition
Model Dimension Eigenvalue
Index
(Constant) THU_NNS CCN
CMQL CHI_SV NNL
1
4,929
1,000
,01
,00
,00
,01
,01
,01
1
2
,455
3,290
,04
,01
,00
,03
,58
,09
3
,271
4,265
,67
,04
,00
,03
,23
,00
4
,169
5,395
,00
,07
,03
,12
,13
,90
5
,111
6,664
,01
,40
,06
,79
,03
,00
6
,064
8,763
,27
,49
,90
,03
,02
,00
a. Dependent Variable: SVTN
Mô hình 3: KTKN_DU
Đánh giá tác động của đổi mới quản lý tài chính đến chỉ tiêu Tỷ lệ sinh viên thừa
nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp:
Variables Entered/Removeda
Model
Variables Entered Variables Removed
Method
1
NNL, NSNN_CAP,
. Enter
THU_KHAC,
THU_DT, CMQLb
a. Dependent Variable: KTKN_DU
b. All requested variables entered.
Hàm hồi quy có dạng: KTKN_DU = β0 + β1*NNL + β2*NSNN_CAP +
β3*THU_KHAC + β4*THU_DT + β5*CMQL + ei
ANOVAa
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
21663,898
5
8,325
,000b
Residual
31748,968
4332,780 520,475
Total
53412,866
61 66
a. Dependent Variable: KTKN_DU
b. Predictors: (Constant), NNL, NSNN_CAP, THU_KHAC, THU_DT, CMQL
Để kiểm định độ phù hợp mô hình hồi quy, chúng ta đặt giả thuyết H0: R2 = 0.
Phép kiểm định F được sử dụng để kiểm định giả thuyết này. Kết quả kiểm định:
Sig < 0,05: Bác bỏ giả thuyết H0, nghĩa là R2 ≠ 0 một cách có ý nghĩa thống
kê Mô hình hồi quy là phù hợp
Model Summary
Std. Error of the
Model
R
R Square
Adjusted R Square
Estimate
1
,637a
,406
,357
22,81392%
a. Predictors: (Constant), NNL, NSNN_CAP, THU_KHAC, THU_DT, CMQL
Nhìn vào bảng Model Summary ta có: R2 hiệu chỉnh = 0,357, nghĩa là các biến
độc lập trong mô hình giải thích được 35,7% sự biến thiên của biến phụ thuộc.
Bảng Coefficients cho chúng ta kết quả kiểm định t để đánh giá giả thuyết ý
nghĩa hệ số hồi quy, chỉ số VIF đánh giá đa cộng tuyến và các hệ số hồi quy:
Coefficientsa
Standardized
Unstandardized Coefficients
Coefficients
Collinearity Statistics
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Tolerance
VIF
5,222
16,816
,000
1
(Constant)
87,817
,000
-4,099
-,515
,000
,617
1,621
NSNN_CAP
,000
,000
-1,158
-,196
,251
,340
2,945
THU_DT
-6,131E-5
,000
-3,838
-,513
,000
,545
1,835
THU_KHAC
,000
,000
,817
,155
,417
,270
3,709
CMQL
9,799E-5
,003
,590
,081
,557
,512
1,955
NNL
,002
a. Dependent Variable: KTKN_DU
Các biến THU_DT, CMQL, NNL có giá trị sig của kiểm định t > 0,05, do đó
với mức ý nghĩa 5%, các biến này không có sự tác động lên biến phụ thuộc
KTKN_DU.
Các biến còn lại gồm NSNN_CAP, THU_KHAC đều có sig của kiểm định t
<0,05, do đó với mức ý nghĩa 5%, các biến này đều có ý nghĩa thống kê, đều tác động
lên biến phụ thuộc KTKN_DU.
Dựa vào độ lớn của hệ số hồi quy chuẩn hóa β ta thấy:
Biến NSNN_CAP tác động mạnh nhất và ngược chiều tới Tỷ lệ sinh viên thừa nhận
có đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (β = - 0,515).
Biến THU_KHAC tác động mạnh thứ hai và ngược chiều tới Tỷ lệ sinh viên
thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp
(β = - 0,513).
Collinearity Diagnosticsa
Variance Proportions
Condition
Model Dimension Eigenvalue
Index
(Constant) NSNN_CAP THU_DT THU_KHAC CMQL NNL
1
4,439
1,000
,01
,01
,01
,01
,01
,01
1
2
,794
2,364
,04
,14
,00
,24
,00
,01
3
,260
4,135
,71
,07
,01
,05
,11
,00
4
,258
4,145
,00
,22
,08
,59
,00
,26
5
,174
5,053
,06
,08
,28
,03
,04
,72
6
,075
7,670
,18
,48
,61
,08
,84
,00
a. Dependent Variable: KTKN_DU
Mô hình 4: KTKN_1PHAN
Đánh giá tác động của đổi mới quản lý tài chính đến chỉ tiêu Tỷ lệ sinh viên
chỉ học được một phần kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt
nghiệp:
Variables Entered/Removeda
Variables
Model
Variables Entered
Removed
Method
1
CSVC, CCN,
. Enter
NNL, THU_DTb
a. Dependent Variable: KTKN_1PHAN
b. All requested variables entered.
Hàm hồi quy có dạng: KTKN_1PHAN = β0 + β1*CSVC + β2*CCN +
β3*NNL + β4*THU_DT + ei
ANOVAa
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
7986.554
4
3.657
.010b
Residual
33850.305
1996.638 545.973
Total
41836.859
62 66
a. Dependent Variable: KTKN_1PHAN
b. Predictors: (Constant), CSVC, CCN, NNL, THU_DT
Để kiểm định độ phù hợp mô hình hồi quy, chúng ta đặt giả thuyết H0: R2 =
0. Phép kiểm định F được sử dụng để kiểm định giả thuyết này. Kết quả kiểm định:
Sig < 0,05: Bác bỏ giả thuyết H0, nghĩa là R2 ≠ 0 một cách có ý nghĩa thống
kê Mô hình hồi quy là phù hợp.
Model Summary
Std. Error of the
Model
R
R Square Adjusted R Square
Estimate
1
.437a
.191
.139
23.36606%
a. Predictors: (Constant), CSVC, CCN, NNL, THU_DT
Nhìn vào bảng Model Summary ta có: R2 hiệu chỉnh = 0,139, nghĩa là các
biến độc lập trong mô hình giải thích được 13,9% sự biến thiên của biến phụ thuộc.
Bảng Coefficients cho chúng ta kết quả kiểm định t để đánh giá giả thuyết ý
nghĩa hệ số hồi quy, chỉ số VIF đánh giá đa cộng tuyến và các hệ số hồi quy:
Coefficientsa
Standardized
Unstandardized Coefficients
Coefficients
Collinearity Statistics
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Tolerance
VIF
1
(Constant)
16.067
5.245
3.063
.003
THU_DT
.000
.379
1.993
.051
.361
2.772
.000
CCN
-3.291E-5
-.060
-.335
.739
.401
2.493
.000
NNL
.001
.087
.522
.604
.464
2.154
.003
CSVC
6.892E-5
.065
.466
.643
.682
1.467
.000
a. Dependent Variable: KTKN_1PHAN
Các biến CCN, NNL, CSVC có giá trị sig của kiểm định t > 0,1, do đó với
mức ý nghĩa 10%, các biến này không có sự tác động lên biến phụ thuộc
KTKN_1PHAN.
Biến còn lại THU_DT có sig của kiểm định t < 0,1, do đó với mức ý nghĩa
10%, biến này có ý nghĩa thống kê và tác động lên biến phụ thuộc KTKN_1PHAN.
Dựa vào độ lớn của hệ số hồi quy chuẩn hóa β ta thấy:
Biến THU_DT tác động thuận chiều tới Tỷ lệ sinh viên chỉ học được một phần
kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (β = 0,379).
Collinearity Diagnosticsa
Variance Proportions
Condition
Model Dimension
Eigenvalue
Index
(Constant) THU_DT
CCN
NNL
CSVC
1.000
.01
.01
.01
.01
.02
1
3.951
1
2.780
.03
.00
.03
.01
.68
2
.511
3.629
.66
.06
.00
.16
.01
3
.300
5.066
.02
.45
.04
.71
.03
4
.154
6.882
.27
.48
.91
.10
.26
5
.083
a. Dependent Variable: KTKN_1PHAN
Mô hình 5: GSTS
Đánh giá tác động của đổi mới quản lý tài chính đến chỉ tiêu Tổng số giáo sư,
phó giáo sư, tiến sĩ:
Variables Entered/Removeda
Model
Variables Entered Variables Removed
Method
1
NNL, NCKH, MTC,
. Enter
CMQL, CCNb
a. Dependent Variable: GSTS
b. All requested variables entered.
Hàm hồi quy có dạng: GSTS = β0 + β1*NNL + β2*NCKH + β3*MTC +
β4*CMQL + β5*CCN + ei
ANOVAa
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
222740,202
5
23,719
,000b
Residual
150254,647
44548,040 1878,183
Total
372994,849
80 85
a. Dependent Variable: GSTS
b. Predictors: (Constant), NNL, NCKH, MTC, CMQL, CCN
Để kiểm định độ phù hợp mô hình hồi quy, chúng ta đặt giả thuyết H0: R2 =
0. Phép kiểm định F được sử dụng để kiểm định giả thuyết này. Kết quả kiểm định:
Sig < 0,05: Bác bỏ giả thuyết H0, nghĩa là R2 ≠ 0 một cách có ý nghĩa thống
kê Mô hình hồi quy là phù hợp
Model Summary
Std. Error of the
Model
R
R Square
Adjusted R Square
Estimate
1
,773a
,597
,572
43,3380
a. Predictors: (Constant), NNL, NCKH, MTC, CMQL, CCN
Nhìn vào bảng Model Summary ta có: R2 hiệu chỉnh = 0,572, nghĩa là các
biến độc lập trong mô hình giải thích được 57,2% sự biến thiên của biến phụ thuộc.
Bảng Coefficients cho chúng ta kết quả kiểm định t để đánh giá giả thuyết ý
nghĩa hệ số hồi quy, chỉ số VIF đánh giá đa cộng tuyến và các hệ số hồi quy:
Coefficientsa
Standardized
Unstandardized Coefficients
Coefficients
Collinearity Statistics
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Tolerance
VIF
1
(Constant)
3,548
16,519
,215
,830
MTC
,150
,192
,784
,059
,435
,892
1,121
CCN
,000
,000
2,440
,317
,017
,299
3,350
CMQL
,000
,000
1,197
,136
,235
,389
2,572
NCKH
8,788E-5
,000
,250
,022
,803
,648
1,542
NNL
,018
,005
3,600
,386
,001
,438
2,283
a. Dependent Variable: GSTS
Các biến MTC, CMQL, NCKH có giá trị sig của kiểm định t > 0,05, do đó với
mức ý nghĩa 5%, các biến này không có sự tác động lên biến phụ thuộc GSTS.
Các biến còn lại gồm CCN, NNL đều có sig của kiểm định t < 0,05, do đó với
mức ý nghĩa 5%, các biến này đều có ý nghĩa thống kê, đều tác động lên biến phụ
thuộc GSTS.
Dựa vào độ lớn của hệ số hồi quy chuẩn hóa β ta thấy:
Biến NNL tác động mạnh nhất và thuận chiều tới Tổng số giáo sư, phó giáo sư,
tiến sĩ (β = 0,386).
Biến CCN tác động mạnh thứ hai và thuận chiều tới Tổng số giáo sư, phó giáo
sư, tiến sĩ (β = 0,317).
Collinearity Diagnosticsa
Variance Proportions
Condition
Model Dimension Eigenvalue
Index
(Constant) MTC
CCN
CMQL NCKH
NNL
1
4,677
1,000
,00
,00
,00
,01
,01
,01
1
2
,640
2,703
,01
,02
,00
,00
,56
,01
3
,421
3,332
,05
,04
,00
,08
,06
,14
4
,148
5,630
,01
,00
,01
,57
,12
,64
5
,071
8,144
,00
,08
,92
,34
,25
,08
6
,043
10,424
,94
,86
,07
,00
,00
,12
a. Dependent Variable: GSTS
Mô hình 6: BBKH
Đánh giá tác động của đổi mới quản lý tài chính đến chỉ tiêu Tổng bài báo khoa học:
Variables Entered/Removeda
Variables
Model
Variables Entered
Removed
Method
1
CCN, NNS,
. Enter
NCKH, NNL,
CMQLb
a. Dependent Variable: BBKH
b. All requested variables entered.
Hàm hồi quy có dạng: BBKH = β0 + β1*CCN + β2*NNS + β3*NCKH +
β4*NNL + β5*CMQL + ei.
ANOVAa
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
621205,585
5
11,302
,000b
Residual
879442,799
124241,117 10993,035
Total
1500648,384
80 85
a. Dependent Variable: BBKH
b. Predictors: (Constant), CCN, NNS, NCKH, NNL, CMQL
Để kiểm định độ phù hợp mô hình hồi quy, chúng ta đặt giả thuyết H0: R2 = 0.
Phép kiểm định F được sử dụng để kiểm định giả thuyết này. Kết quả kiểm định:
Sig < 0,05: Bác bỏ giả thuyết H0, nghĩa là R2 ≠ 0 một cách có ý nghĩa thống
kê Mô hình hồi quy là phù hợp
Model Summary
Adjusted R
Std. Error of the
Model
R
R Square
Square
Estimate
1
,643a
,414
,377
104,8477
a. Predictors: (Constant), CCN, NNS, NCKH, NNL, CMQL
Nhìn vào bảng Model Summary ta có: R2 hiệu chỉnh = 0,377, nghĩa là các biến
độc lập trong mô hình giải thích được 37,7% sự biến thiên của biến phụ thuộc.
Bảng Coefficients cho chúng ta kết quả kiểm định t để đánh giá giả thuyết ý
nghĩa hệ số hồi quy, chỉ số VIF đánh giá đa cộng tuyến và các hệ số hồi quy:
Coefficientsa
Standardized
Unstandardized Coefficients
Coefficients
Collinearity Statistics
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Tolerance
VIF
1
(Constant)
-4,236
44,247
-,096
,924
NNS
1,749
,652
2,682
,256
,009
,802
1,246
CMQL
,001
,000
2,878
,397
,005
,384
2,603
NCKH
,001
,001
1,314
,147
,193
,587
1,705
NNL
,022
,012
1,868
,237
,065
,457
2,188
CCN
,000
,000
-,626
-,102
,533
,277
3,604
a. Dependent Variable: BBKH
Các biến NCKH, CCN có giá trị sig của kiểm định t > 0,1, do đó với mức ý
nghĩa 10%, hai biến này không có sự tác động lên biến phụ thuộc BBKH.
Các biến còn lại gồm NNS, CMQL, NNL đều có sig của kiểm định t < 0,1, do
đó với mức ý nghĩa 10%, các biến này đều có ý nghĩa thống kê, đều tác động lên biến
phụ thuộc BBKH.
Dựa vào độ lớn của hệ số hồi quy chuẩn hóa β ta thấy:
Biến CMQL tác động mạnh nhất và thuận chiều tới Tổng bài báo khoa học (β =
0,397).
Biến NNS tác động mạnh thứ 2 và thuận chiều tới Tổng bài báo khoa học (β =
0,256).
Biến NNL tác động mạnh thứ ba và thuận chiều tới Tổng bài báo khoa học (β = 0,237).
Collinearity Diagnosticsa
Variance Proportions
Condition
Model Dimension Eigenvalue
Index
(Constant)
NNS
CMQL NCKH
NNL
CCN
4,688
1,000
,00
,00
,01
,01
,01
,00
1
1
,649
2,687
,01
,01
,00
,50
,01
,00
2
,418
3,349
,04
,03
,08
,06
,16
,00
3
,146
5,664
,00
,00
,60
,10
,67
,00
4
,067
8,368
,07
,00
,26
,20
,14
,91
5
,032
12,062
,88
,96
,04
,13
,01
,08
6
a. Dependent Variable: BBKH
Mô hình 7: TCTKH
Đánh giá tác động của đổi mới quản lý tài chính đến chỉ tiêu Tổng số công
trình khoa học:
Variables Entered/Removeda
Model
Variables Entered Variables Removed
Method
1
NNL, NCKH, MTC,
. Enter
CMQL, CCNb
a. Dependent Variable: TCTKH
b. All requested variables entered.
Hàm hồi quy có dạng: TCTKH = β0 + β1*NNL + β2*NCKH + β3*MTC +
β4*CMQL + β5*CCN + ei
ANOVAa
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
1764314,327
5
18,927
,000b
Residual
1491460,196
352862,865 18643,252
Total
3255774,523
80 85
a. Dependent Variable: TCTKH
b. Predictors: (Constant), NNL, NCKH, MTC, CMQL, CCN
Để kiểm định độ phù hợp mô hình hồi quy, chúng ta đặt giả thuyết H0: R2 =
0. Phép kiểm định F được sử dụng để kiểm định giả thuyết này. Kết quả kiểm định:
Sig < 0,05: Bác bỏ giả thuyết H0, nghĩa là R2 ≠ 0 một cách có ý nghĩa thống
kê Mô hình hồi quy là phù hợp.
Model Summary
Std. Error of the
Model
R
R Square
Adjusted R Square
Estimate
1
,736a
,542
,513
136,5403
a. Predictors: (Constant), NNL, NCKH, MTC, CMQL, CCN
Nhìn vào bảng Model Summary ta có: R2 hiệu chỉnh = 0,513, nghĩa là các
biến độc lập trong mô hình giải thích được 51,3% sự biến thiên của biến phụ thuộc.
Bảng Coefficients cho chúng ta kết quả kiểm định t để đánh giá giả thuyết ý
nghĩa hệ số hồi quy, chỉ số VIF đánh giá đa cộng tuyến và các hệ số hồi quy:
Coefficientsa
Standardized
Unstandardized Coefficients
Coefficients
Collinearity Statistics
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Tolerance
VIF
1
(Constant)
125,375
52,044
2,409
,018
MTC
,194
,605
,321
,026
,749
,892
1,121
CCN
-2,212E-5
,001
-,035
-,005
,972
,299
3,350
CMQL
,001
,001
2,373
,288
,020
,389
2,572
NCKH
,007
,001
6,123
,575
,000
,648
1,542
NNL
,004
,016
,254
,029
,800
,438
2,283
a. Dependent Variable: TCTKH
Các biến MTC, CCN, NNL có giá trị sig của kiểm định t > 0,05, do đó với
mức ý nghĩa 5%, các biến này không có sự tác động lên biến phụ thuộc TCTKH.
Các biến còn lại gồm CMQL, NCKH đều có sig của kiểm định t < 0,05, do đó
với mức ý nghĩa 5%, hai biến này đều có ý nghĩa thống kê, đều tác động lên biến phụ
thuộc TCTKH.
Dựa vào độ lớn của hệ số hồi quy chuẩn hóa β ta thấy:
Biến NCKH tác động mạnh nhất và thuận chiều tới Tổng số công trình khoa học
(β = 0,575).
Biến CMQL tác động mạnh thứ hai và thuận chiều tới Tổng số công trình khoa
học (β = 0,288).
Collinearity Diagnosticsa
Variance Proportions
Condition
Model Dimension Eigenvalue
Index
(Constant) MTC
CCN
CMQL NCKH
NNL
1
4,677
1,000
,00
,00
,00
,01
,01
,01
1
2
,640
2,703
,01
,02
,00
,00
,56
,01
3
,421
3,332
,05
,04
,00
,08
,06
,14
4
,148
5,630
,01
,00
,01
,57
,12
,64
5
,071
8,144
,00
,08
,92
,34
,25
,08
6
,043
10,424
,94
,86
,07
,00
,00
,12
a. Dependent Variable: TCTKH
Mô hình 8: HIENMAU
Đánh giá tác động của đổi mới quản lý tài chính đến chỉ tiêu Số đơn vị máu thu
được từ hoạt động hiến máu nhân đạo trong năm:
Variables Entered/Removeda
Variables
Model
Variables Entered
Removed
Method
1
CHI_SV, MTC,
. Enter
CCNb
a. Dependent Variable: HIENMAU
b. All requested variables entered.
Hàm hồi quy có dạng: HIENMAU = β0 + β1*CHI_SV + β2*MTC +
β4*CCN + ei
ANOVAa
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
6295373.909
3
16.484
.000b
Residual
4710127.310
2098457.970 127300.738
Total
11005501.220
37 40
a. Dependent Variable: HIENMAU
b. Predictors: (Constant), CHI_SV, MTC, CCN
Để kiểm định độ phù hợp mô hình hồi quy, chúng ta đặt giả thuyết H0: R2 = 0.
Phép kiểm định F được sử dụng để kiểm định giả thuyết này. Kết quả kiểm định:
Sig < 0,05: Bác bỏ giả thuyết H0, nghĩa là R2 ≠ 0 một cách có ý nghĩa thống
kê Mô hình hồi quy là phù hợp
Model Summary
Adjusted R
Std. Error of the
Model
R
R Square
Square
Estimate
1
.756a
.572
.537
356.7923
a. Predictors: (Constant), CHI_SV, MTC, CCN
Nhìn vào bảng Model Summary ta có: R2 hiệu chỉnh = 0,537, nghĩa là các biến
độc lập trong mô hình giải thích được 53,7% sự biến thiên của biến phụ thuộc.
Bảng Coefficients cho chúng ta kết quả kiểm định t để đánh giá giả thuyết ý
nghĩa hệ số hồi quy, chỉ số VIF đánh giá đa cộng tuyến và các hệ số hồi quy:
Coefficientsa
Standardized
Unstandardized Coefficients
Coefficients
Collinearity Statistics
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Tolerance
VIF
1
(Constant)
349.618
169.453
2.063
.046
MTC
-2.636
2.734
-.964
-.129
.341
.645
1.551
CCN
-3.513E-5
.002
-.015
-.003
.988
.275
3.639
CHI_SV
.214
.058
3.678
.828
.001
.228
4.383
a. Dependent Variable: HIENMAU
Biến MTC, CCN có giá trị sig của kiểm định t > 0,05, do đó với mức ý nghĩa
5%, hai biến này không có sự tác động lên biến phụ thuộc HIENMAU.
Biến còn lại là CHI_SV có sig của kiểm định t < 0,05, do đó với mức ý nghĩa
5%, biến này đều có ý nghĩa thống kê và có tác động lên biến phụ thuộc HIENMAU.
Dựa vào độ lớn của hệ số hồi quy chuẩn hóa β ta thấy:
Biến CHI_SV tác động thuận chiều tới Số đơn vị máu thu được từ hoạt động hiến
máu nhân đạo trong năm (β = 0,828).
Collinearity Diagnosticsa
Variance Proportions
Model
Dimension
Eigenvalue
Condition Index
(Constant)
MTC
CCN
CHI_SV
1
1
3.581
1.000
.01
.01
.01
.01
2
.311
3.391
.13
.03
.08
.07
3
.069
7.203
.24
.26
.54
.31
4
.039
9.598
.62
.70
.37
.62
a. Dependent Variable: HIENMAU
PHỤ LỤC 3.18
KẾT QUẢ THỐNG KÊ MÔ TẢ KHÁC BIỆT GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH
CỦA MỨC TỰ CHỦ GIỮA CÁC NHÓM TRƯỜNG ĐHCL 1. Giữa nhóm trường có VTDL ở vùng đồng bằng Sông Hồng và Sông Cửu Long với
các trường ở vùng kinh tế khác:
Descriptives
MTC
95% Confidence Interval for
Mean
N
Mean
Std. Deviation Std. Error
Lower Bound Upper Bound
Minimum Maximum
53 74.3195%
22.81298% 3.13360%
68.0315%
80.6075%
23.54%
111.33%
DB
33 88.2724%
28.57473% 4.97422%
78.1402%
98.4046%
48.96%
148.99%
KHAC
86 79.6735%
25.92983% 2.79609%
74.1142%
85.2329%
23.54%
148.99%
Total
2. Giữa nhóm trường theo định hướng Ứng dụng với nhóm trường theo định hướng
Nghiên cứu - Ứng dụng:
Descriptives
MTC
95% Confidence Interval for
Mean
Std.
N
Mean
Deviation
Std. Error
Lower Bound Upper Bound
Minimum Maximum
63
70.9326%
19.61714% 2.47153%
65.9921%
75.8731%
23.54%
109.25%
UD
NC_UD
23 103.6161%
26.36501% 5.49748%
92.2151%
115.0172%
48.96%
148.99%
Total
86
79.6735%
25.92983% 2.79609%
74.1142%
85.2329%
23.54%
148.99%
3. Giữa nhóm trường có và không có sự hiện diện của ĐV SV-DV-CGCN:
Descriptives
MTC
95% Confidence Interval for
Mean
N
Mean
Std. Deviation Std. Error
Lower Bound Upper Bound
Minimum Maximum
Không
42 63.8550%
18.25150% 2.81627%
58.1674%
69.5426%
23.54%
108.78%
44 94.7730%
23.10303% 3.48291%
87.7490%
101.7970%
48.96%
148.99%
Có
86 79.6735%
25.92983% 2.79609%
74.1142%
85.2329%
23.54%
148.99%
Total
PHỤ LỤC 3.19
KẾT QUẢ THỐNG KÊ MÔ TẢ KHÁC BIỆT GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH
MỘT SỐ CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH CHẤT LƯỢNG GIỮA CÁC NHÓM TRƯỜNG
1. So sánh Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào giữa các trường phân loại ở hai mức
tự chủ:
Descriptives
DTBDV
95% Confidence Interval for
Mean
Std.
Std.
N
Mean
Deviation
Error
Lower Bound Upper Bound
Minimum Maximum
Dưới 70%
39
19.326
3.5028
.5609
18.190
20.461
14.2
25.8
Từ 70% trở lên
46
18.672
3.7102
.5470
17.570
19.774
13.0
28.5
Total
85
18.972
3.6101
.3916
18.193
19.750
13.0
28.5
2. So sánh Tổng công trình khoa học trong năm giữa nhóm trường theo định hướng
Ứng dụng với nhóm trường theo định hướng Nghiên cứu - Ứng dụng:
Descriptives
TCTKH
95% Confidence Interval for
Mean
N
Mean
Std. Deviation Std. Error
Lower Bound Upper Bound
Minimum Maximum
63
265.413
211.7665
26.6801
212.080
318.745
20.0
1128.0
UD
23
309.913
141.7449
29.5559
248.618
371.208
85.0
536.0
NC_UD
86
277.314
195.7121
21.1042
235.353
319.275
20.0
1128.0
Total
3. So sánh tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công
việc theo ngành tốt nghiệp giữa nhóm trường có và không có sự hiện diện của
ĐVSX-DV-CGCN:
Descriptives
KTKN_DU
95% Confidence Interval for
Mean
N
Mean
Std. Deviation Std. Error
Lower Bound Upper Bound
Minimum Maximum
Không
34 63.0859%
33.11902% 5.67987%
51.5301%
74.6417%
6.15%
99.60%
Có
33 65.8921%
23.10594% 4.02223%
57.6991%
74.0851%
20.56%
92.50%
Total
67 64.4681%
28.44795% 3.47547%
57.5291%
71.4071%
6.15%
99.60%