PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA SÔNG NƯỚC VÀ TÍNH CÁCH CỦA<br />
NGƯỜI BÌNH DÂN MIỀN TÂY NAM BỘ<br />
<br />
<br />
Th.S Trần Minh Thương <br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đặc điểm văn hóa gắn liền với môi trường và chủ thể văn hóa. Khi đặt<br />
chân đến vùng đất Cửu Long để khai hóa, khẩn hoang mở làng, dựng chợ,<br />
người dân tứ xứ đã tiếp cận với không gian độc đáo: Chèo ghe sợ sấu cắn chân/<br />
Xuống sông sợ đỉa lên rừng sợ ma. Một hệ thống sông rạch chằng chịt nên việc<br />
đi lại, sinh hoạt, ăn uống,… đều gắn với chặt với nước! Dần dần những nét văn<br />
hóa hình thành và tạo thành bản sắc vùng miền. Trong bài tham luận này, chúng<br />
tôi sơ bộ tìm hiểu Tính cách của người bình dân miền sông nước Tây Nam Bộ<br />
qua các hoạt động trên môi trường này.<br />
Từ khóa: Miền Tây Nam Bộ, sông nước, văn hóa, tính cách, người bình<br />
dân.<br />
<br />
<br />
1. Sông rạch tự nhiên ở miền Tây Nam Bộ<br />
Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở phía cực nam của dải đất hình chữ S,<br />
còn được gọi là miền Tây Nam Bộ hoặc nói theo ngôn ngữ dân gian của người<br />
dân miệt này một cách ngắn gọn là Miền Tây. Về đơn vị hành chính, vùng này<br />
có một thành phố trực thuộc trung ương là thành phố Cần Thơ và 12 tỉnh: Long<br />
An; Tiền Giang; Bến Tre; Vĩnh Long; Trà Vinh; Hậu Giang; Sóc Trăng; Đồng<br />
Tháp; An Giang; Kiên Giang; Bạc Liêu và Cà Mau.<br />
Đây là vùng đất được mệnh danh là kênh rạch chằng chịt như ô bàn cờ.<br />
Hai hệ thống sông lớn tạo nên châu thổ rộng lớn là hạ lưu sông Mê Kông và<br />
sông Vàm Cỏ.<br />
Từ thượng nguồn Tân Châu (An Giang) sông Mê Kông khi vào miền đất<br />
này, nó được gọi sông Cửu Long, chia đôi dòng nước thành sông Tiền và sông<br />
Hậu. Từ đó, dòng sông mẹ sản sinh vô số sông rạch tỏa khắp đồng bằng, cùng<br />
kênh đào nối những tuyến đường thủy nhộn nhịp. Dân gian miệt này hay hát<br />
rằng:<br />
Sông Cửu Long chín cửa hai dòng,<br />
Người thương anh vô số nhưng chỉ một lòng với em.<br />
<br />
<br />
<br />
Trường THPT Mai Thanh Thế, thị xã Ngã Năm, Sóc Trăng.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
317<br />
Về phía tây, đồng bằng sông Cửu Long được giới hạn bởi sông Châu Đốc<br />
và kênh Vĩnh Tế, một dòng kênh đào từ thời Nguyễn chảy dọc theo biên giới<br />
Việt Nam - Campuchia, nhận nước sông Hậu Giang qua sông Châu Đốc tại<br />
thành phố Châu Đốc đổ nước ra vịnh Thái Lan, giới hạn một vùng đất thấp<br />
ngập nước theo mùa gọi là tứ giác Long Xuyên.<br />
Ở khu vực giữa hai dòng sông Hậu và sông Tiền, Đồng bằng sông Cửu<br />
Long được giới hạn đầu nguồn bởi các dòng kênh nối ngang tại hai huyện, thị<br />
đầu nguồn Tân Châu và An Phú của tỉnh An Giang trong đó có kênh Vĩnh<br />
An,...<br />
Nối liền giữa hai nhánh Tiền giang và Hậu giang là sông Vàm Nao. Cụ<br />
Vương Hồng Sển mô tả như sau: "Vàm Nao, tên chữ Hồi Oa. Sông này nối liền<br />
sông Tiền qua sông Hậu, và đứng làm ranh giới giữa Long Xuyên và Châu Đốc,<br />
chảy dọc theo làng Hòa Hảo... Vì nước chảy như cắt, sóng to, xoáy tròn khu ốc,<br />
nên gọi là Hồi Oa, nôm gọi là Vàm Nao, do tiếng Cơ Me (Khmer) là "pãm pênk<br />
nàv". Cũng theo học giả này, thì Vàm do chữ "Pàm" hay "Péam" của Khmer<br />
biến ra. Péam là cửa biển, cửa sông. Nao, với nghĩa "nao núng, nao lòng", vì<br />
nước chảy như cắt, sóng to, xoáy tròn khu ốc (nên gọi là Hồi Oa), rất dễ đắm<br />
thuyền .<br />
Về phía đông bắc và đông, đồng bằng sông Cửu Long được giới hạn bằng<br />
hàng loạt các dòng sông kênh rạch liên thông với nhau, chảy dọc theo biên giới<br />
Việt Nam – Campuchia, (giới hạn vùng đất trũng khác ngập nước theo mùa là<br />
vùng Đồng Tháp Mười), và đều là phân lưu của sông Mê Kông: hoặc trực tiếp<br />
của dòng chính sông Tiền Giang, hay nhận nước gián tiếp qua một phân lưu<br />
chính của Mê Kông là Preak Banam đổ ra biển Đông.<br />
Bên cạnh hệ thống sông Mê Kông, ở vùng đất này còn có hệ thống sông<br />
Vàm Cỏ. Hai dòng Vàm Cỏ Tây và Vàm Cỏ Đông nước có màu xanh khi thủy<br />
triều lên và vàng đục khi thủy triều xuống. Đây là nét đặc trưng riêng của sông<br />
Vàm Cỏ, khác với các sông khác ở Đồng bằng sông Cửu Long.<br />
Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây hợp lưu lại tại tại ngã ba Bần Quỳ rồi tạo<br />
thành ranh giới tự nhiên và ranh giới hành chính giữa hai tỉnh Long An (huyện<br />
Cần Đước ở tả ngạn) và Tiền Giang (thị xã Gò Công và huyện Gò Công Đông ở<br />
hữu ngạn) trước khi đổ ra cửa Soài Rạp.<br />
Theo thống kê chưa đầy đủ, miền Tây Nam Bộ có khoảng 54.000 km chiều<br />
dài sông rạch. Ngoài hệ thống sông rạch tự nhiên mà người địa phương gọi là<br />
sông rạch Trời sanh, còn vô số những con kênh đào ngang, xẻ dọc chằng chịt,<br />
mà nếu được nhìn trên đồ hình có cảm tưởng là cái mạng nhện chồng lên một<br />
bàn cờ, với hàng trăm cù lao, cùng hàng chục cửa sông đưa nước ra biển tạo<br />
thuận lợi cho cuộc sống của người dân nơi đây.<br />
2. Đời sống và tính cách của người bình dân miền sông nước<br />
2.1. Văn hóa sinh hoạt của cư dân sống trên xuồng, ghe<br />
Người bình dân miền Tây sử dụng xuồng, ghe đi lại. Có những chuyến đi<br />
ngắn thì về trong ngày như ra chợ, thăm bà con hàng xóm, hoặc chà gạo, xay<br />
lúa, … nhưng cũng không ít chuyến đi dài ngày.<br />
<br />
<br />
318<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Đôi lứa yêu nhau cũng đến với nhau bằng những con xuồng hay chiếc ghe<br />
chèo:<br />
Quản chi nắng sớm mưa chiều,<br />
Lên doi xuống vịnh cũng chèo thăm em.<br />
Hay đó là những chiếc ghe thương hồ mua bán dọc miền sông nước. Hay<br />
những chuyến lên rừng kiếm củi, bắt ba khía về bán, rồi những chuyến di cư xa<br />
từ địa phương này đến địa phương khác. Phương tiện thường là cặp mái chèo,<br />
cái dầm bơi, chủ yếu dùng sức người. Từng gia đình hoặc từng nhóm gia đình<br />
năm bảy nhà rủ nhau đi cho có bầu có bạn. Và thế là chuyện ăn uống nói riêng<br />
và sinh hoạt nói chung đều diễn ra trên những chiếc ghe, chiếc xuồng đó.<br />
Đối với đồng bào Khơ Me, dân gian còn ghi dậm dấu ấn của không gian<br />
ăn uống trên sông nước qua việc lí giải nguồn gốc của lễ hội Sel Dol ta. Người<br />
cao niên thường kể cho con cháu nghe rằng: Theo tập quán, cứ khoảng tháng 4<br />
gieo mạ, tháng 6 - 7, người Khơ Me cũng như người Việt ở vùng này bắt đầu<br />
nhổ mạ cấy lúa. Cấy xong thì nước lũ tràn về ngập đồng, đường sá cách trở.<br />
Cuối tháng tám nước lũ đã rút, con cháu chống xuồng chèo ghe tìm đến để thăm<br />
hỏi ông bà cha mẹ già yếu, đường xa họ phải mang theo lúa, gạo, trái cây, cơm<br />
nước, để vừa dâng biếu cho ông bà cha mẹ vừa để mình ăn dọc đường đi.<br />
Người may mắn còn gặp lại ông bà, cha mẹ, nhưng cũng có những người già<br />
yếu đã qua đời trong thời gian nước lũ mà cháu con không hay biết, …<br />
Dần dần những người cùng đi, họ hẹn hò gặp nhau ở một chỗ nào đó để<br />
làm lễ nhớ ơn, hoặc cùng chia buồn với bạn bè là người tìm không gặp ông bà<br />
cha mẹ. Sau khi có chùa Phật, thì họ hẹn nhau tụ hội về đấy làm lễ. Sen Dol ta,<br />
lễ cúng tưởng nhớ ông bà hình thành từ ngày ấy.<br />
Những chiếc ghe lớn không thể cặp sát bờ. Phương tiện nối liền giữa ghe<br />
và đất liền là chiếc đòn dài.<br />
Đây là miếng ván bề ngang rộng hơn gang tay, dày cỡ hai, ba lóng tay, có<br />
độ dài tương thích để bắc một đầu dưới ghe lớn, một đầu gác lên bờ. Bởi ghe<br />
lớn không cặp sát bờ được, bắc đòn dài để người dưới ghe khiêng vác hàng hóa<br />
lên bờ và ngược lại.<br />
Đối với người đi ghe, làm nghề sông nước, chiếc đòn dài còn một chức<br />
năng tâm linh đặc biệt quan trọng. Khi bán ghe, chủ ghe không bao giờ bán đòn<br />
dài và máng tát nước ghe. Nếu bỏ nghề, những thứ này có thể đem tặng, cho<br />
người khác.<br />
Trong không gian chật hẹp, làm sao vừa đảm bảo việc nấu một bữa ăn là<br />
một thử thách thật sự cho người đi ghe. Và cũng từ trên những ngôi nhà di động<br />
trên sông nước xuất hiện hình ảnh cái cà ràn, một vật dụng để nấu cơm tiện lợi<br />
ở không gian này.<br />
Ngược dòng thời gian, chúng ta biết khi mới đặt chân đến vùng đất muỗi<br />
kêu như sáo thổi, đỉa lội tựa bánh canh này, trong sinh hoạt thường nhật, để nấu<br />
chín thức ăn, người thường bắc ba cục đất chụm lại rồi đặt nồi nấu lên trên. Khi<br />
mọi chuyện đã dần ổn định, người ta mới đào đất đắp lò. Lò được đắp đơn giản<br />
<br />
<br />
319<br />
theo hình tròn hoặc elip. Cửa lò quay ra ngoài, khi chụm củi thường hay bật ra<br />
ngoài rất dễ gây cháy lan, nguy hiểm! Tro nhiều tràn ra miệng lò phải khều ra<br />
bỏ, vừa mất công, vừa không sạch. Cái lò càng bất tiện khi đi xuồng, ghe. Bởi<br />
than rớt ra, cháy luôn sạp ván. Trong khi đó, người Khơ Me lại thích dùng cà<br />
ràn. Nó có hình dáng như số 8 được uốn bằng đất sét một đầu to có 3 cạnh để<br />
kê nồi, đầu còn lại nhỏ để đưa củi vào. Phần trước cà ràn, nơi có lửa ngọn thì<br />
nấu, còn phần sau đuôi, thì cào than để nướng hoặc để giảm bớt sức nóng cho<br />
món ăn đang nấu. Cà ràn tiện nhất cho dân đi xuồng, ghe, bởi củi lửa nằm<br />
nguyên hết trong chiếc lò ấy. Từ đó, những chiếc cà ràn cũng luôn có mặt để<br />
hực hiện chức năng nấu cơm, nước, hàng ngày.<br />
Có thuyết cho rằng chiếc cà ràn trước hết người Xiêm sáng tạo, đem bán ở<br />
chợ Nam Vang (Phnom Penh, Campuchia), rồi dân thương hồ người Việt sang<br />
tận nơi ấy làm ăn, thấy tiện nên học lóm dùng đất sét ở quê nhà đắp để xài.<br />
Cà ràn có hai loại: cà ràn đơn với một miệng bếp, và cà ràn đôi hai miệng<br />
bếp; cà ràn đôi thường có một bếp chính phía trước và một bếp nhỏ hơn ở phía<br />
sau; cả hai loại cà ràn này chỉ có thể nấu được bằng củi.<br />
Hình ảnh cái ca ràn bằng đất vừa giản đơn, vừa tiện lợi đã gắn chặt với<br />
biết bao đời thương hồ ăn sóng ngủ gió, thả hồn lãng tử giữa đất trời sông nước<br />
mênh mang.<br />
Do trên ghe không gian chật chội nên việc đem lương thực, thực phẩm dự<br />
trữ không quá nhiều. Trước hết, thứ không thể thiếu được là khạp nước mưa,<br />
vừa để uống, vừa để phòng hờ lỡ vào vùng nước mặn, nước lợ thì dùng để nấu<br />
nồi cơm. Cơm nấu nước mặn ăn có vị đắng, không thể nuốt nổi. Bên cạnh khạp<br />
nước sẽ là hủ gạo. Đây là hai thứ thiết yếu nhất, rồi mới đến các vật dụng khác.<br />
Cà ràn, xoong, chảo, ít chén, đũa, … củi khô mấy bó, cả lá dừa khô nhóm lửa<br />
cũng phải mang theo.<br />
Trái cây đem theo ghe thường là bầu, bí rợ, bí đao, khoai lang, khoai mì,<br />
khoai ngọt, … những thứ ăn được vài ngày đến nửa tháng. Ít khi người ta đem<br />
theo nhiều rau xanh, bởi loại này chỉ ăn được một hai bữa là cùng. Những ghe<br />
lớn, người ta còn đem nếp, đậu, ít đường để khi rảnh rỗi thì nấu chè ăn chơi.<br />
Thịt cá thì ít xuồng, ghe nào đem đi mà thường là các loại mắm, khô, trứng vịt<br />
tươi, trứng vịt muối, củ cải muối, một hai keo chao, tương hột, một vài ghe<br />
sang thì đem theo lạp xưởng, tôm khô, … nhưng rất hiếm gặp.<br />
Độc đáo hơn là dọc theo đường đi, khi gần đến bữa ăn người ta có thể ghé<br />
dọc hai bên bờ sông để kiếm thêm những thứ cần thiết. Những cánh bông lục<br />
bình nở tím là thứ rau xanh lí tưởng để chấm nồi mắm kho. Rồi những dề rau<br />
nhút hay những khóm bông súng mọc chen với những đám rong đuôi chồn là<br />
thứ rau bổi ngon cho nồi canh chua nấu cùng khô cá mặn, …<br />
Theo hai bên bờ sông rạch chằng chịt là những hàng dừa nước mọc xanh<br />
um. Môi trường ấy thuận lợi cho dây giác, ráng, ô rô, cóc kèn, mái dầm, chen<br />
chúc vươn lên. Giữa rừng dừa nước, có nhiều cây bần lớn cỡ người ôm, rễ đâm<br />
tua tủa trên các bãi bùn sình sụp, … Bần có thể ăn sống, có thể dầm với cá kho,<br />
mắm kho cho thêm hương vị. Bông bần hái về làm gỏi ăn với cơm. Trái giác,<br />
<br />
<br />
<br />
320<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
trái bần là những thứ nấu canh chua khó gì ngon bằng. Nhiều khi để đổi món,<br />
người ta còn thọt ổ kiến vàng lấy trứng kiến non nấu canh. Vị chua độc đáo này<br />
ngày nay đã có mặt trong cả các nhà hàng sang trọng.<br />
Dọc theo triền sông, người ta cũng còn gặp không ít điên điển, so đũa<br />
hoang, những loại bông này nấu canh thì hết ý. Bông điển điển nở vàng rực, tấp<br />
ghe lại hái cả mấy nón lá, rảnh tay chèo thì lặt sạch rồi nhận vô hủ, chế nước<br />
cơm vo vào ngâm một vài đêm là có món dưa chua chấm với cá kho, hay ăn<br />
kèm với ba khía trộn chua ngọt thì cơm hết nồi còn chưa hay.<br />
Cũng có ghe khi đi còn mang theo vài chục cần câu hoặc vài tấm lưới để<br />
trước khi đậu nghỉ, họ tranh thủ kiếm thêm vài con cá. Mồi câu thì thọt ổ kiến<br />
vàng lấy trứng, hoặc quần kiếm ở đám sậy, đám lát mọc hoang ở bưng biền nào<br />
đó kiếm lấy ổ ong bần, ong nghệ, …<br />
Cá cắm câu, giăng lưới được thì làm sạch kho khô hoặc muối để dành<br />
chiên ăn từ từ, …<br />
Cũng có nhiều ghe, khi đi ngang qua chợ thì tranh thủ mua thêm những đồ<br />
ăn cần thiết mang theo có khi là trái chanh, trái ớt hay thêm đường, bột ngọt, …<br />
Như vậy, cứ mỗi lần ngang chợ là mỗi lần thức ăn được bổ sung, vừa đầy đủ<br />
chất dinh dưỡng cho người sống cuộc đời sông nước vừa làm cho bữa ăn phong<br />
phú.<br />
Trên ghe nhiều khi còn có những nhạc cụ đờn ca tài tử: đờn kìm, đờn cò,<br />
đờn sến, … để ca hát khi rỗi rảnh.<br />
Trên xuồng, ghe còn có trầu, cau, thuốc lá và chai rượu đế. Đây là những<br />
thứ không thể thiếu đối với dân sông nước.<br />
Dân gian miền Tây Nam Bộ nói chung, những người có cuộc sống gắn liền<br />
với chiếc xuồng, chiếc ghe thì chiếc nóp là vật bất ly thân. Ban ngày, chiếc nóp<br />
có thể được sử dụng chứa đựng những thứ đồ khô, sạch, hay kê đầu nằm. Ban<br />
đêm, muỗi xứ này nhiều kêu như sáo thổi, có được cái nóp chun vô đó ngủ thì<br />
mới mong yên thân. Tuy vậy, trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Vì<br />
công việc mưu sinh, nhiều lúc, người dân quê phải ngủ mùng nước, mùng gió.<br />
Trong Văn minh miệt vườn, nhà văn Sơn Nam viết: Bàng là loại cỏ cao, mình<br />
tròn, dùng để đươn cà ròn, đươn đệm (...) Nhổ bàng là nghề dễ kiếm tiền nhưng<br />
quá khổ cực. Họ chống chiếc xuồng độc mộc vào vùng đất hoang, giữa bờ biển<br />
và vùng Thất Sơn, xa nhà hàng chín mười cây số ngàn, nơi đất thấp nước phèn,<br />
bốn phía đìu hiu không nhà cửa, không cây cao bóng mát, không đất gò, gió<br />
thổi triền miên qua vùng đồng cỏ tạo nên bản nhạc lạ thường, qua ngày đêm.<br />
(...) Cọng bàng mọc cao hơn đầu người, muỗi bay ào ào. Muốn nhổ được năm<br />
bảy chục bó bàng, phải chịu cực năm ba ngày để tìm nơi có bàng tốt. Trên vùng<br />
đất thấp đầy muỗi mòng ấy, đôi ba đêm liên tiếp người nhổ bàng cứ thức vì<br />
không chỗ ngủ, vì không tài nào ngủ khi muỗi quá nhiều (...) đành ngủ theo lối<br />
khắc khổ, gọi khôi hài là ngủ mùng gió và ngủ mùng nước.<br />
“Ngủ mùng gió” là cứ đứng trên chiếc xuồng độc mộc, dùng sào mà chống<br />
thật nhanh để cho muỗi bay theo không kịp. Rồi thì ngồi xuống, gối đầu vào lái<br />
xuồng, lim dim. Lát sau, muỗi bu lại, cứ đứng dậy và tiếp tục chống xuồng,<br />
<br />
<br />
321<br />
chống tới, chống lui, như mũi tên xẹt qua xẹt lại trên đồng cỏ (...) Ban ngày, ít<br />
muỗi hơn nhưng không ai ngủ được vì thiếu bóng mát, không căn chòi hoặc gốc<br />
cây to nào ở gần cả.<br />
“Ngủ mùng nước” là nghiêng xuồng cho nước tràn vào gần ngập be, thêm<br />
chút nữa là chìm. Người nhổ bàng cứ nằm trong xuồng, nước bao phủ tứ phía,<br />
đầu gối lên mũi hoặc lái xuồng. Ngâm mình trong nước lạnh để tránh muỗi.<br />
Ngủ mùng nước dễ bị cảm mạo, đòi hỏi một sức khỏe phi thường.<br />
Cái nóp đươn bằng bàng đã gắn chặt với đời sống của người dân quê cũng<br />
chỉ nhằm mục đích tránh muỗi. Người ta lấy một tấm đệm bàng nguyên miếng,<br />
xếp một mí chừng ba tấc, rồi gắp đôi phần còn lại, sao cho mí xếp nằm vào bên<br />
trong, dùng chỉ gai may hai đầu, chỗ mí xếp là cửa hay miệng nóp. Người ngủ<br />
giở miệng nóp ra, nắm một mí, giũ thật mạnh nhiều lần để đuổi muỗi bay đi<br />
hết, rồi chui nhanh vào trong nóp, vừa nằm xuống, lưng đè lên trên mí xếp, vừa<br />
xoay cho cái nóp dựng lên, hai lằn chỉ may ở hai đầu đứng theo chiều dọc. Nhờ<br />
toàn thân đè lên mí nóp, nên muỗi không lọt vào trong nóp được. Muỗi cũng<br />
không chích thủng nổi lớp đệm dầy. Đôi khi do trở mình, miệng nóp hở, muỗi<br />
chui vào, người ngủ nóp phải ra ngoài, giũ nóp mới chui vô móp ngủ lại.<br />
Đêm nằm trong nóp dưới trăng,<br />
Thương cha, nhớ mẹ không bằng nhớ em.<br />
Hằng ngày, từ khi mở mắt thức dậy cho đến ngủ say, gần như không hoạt<br />
động nào của con người thiếu sự hiện diện của nước. Con người từ khi mở mắt<br />
chào đời đã được tắm bằng nước, cho đến lúc trút hơi cuối cùng của cuộc đời<br />
về với thế giới bên kia, nước cũng là phương tiện đẩy tẩy sạch ô uế của bụi<br />
trần. Vì nhu cầu cấp thiết như vậy, nên không quá khi nói rằng có nước là có sự<br />
sống. Được thiên nhiên ban tặng hệ thống sông ngòi dày đặc như vậy nên việc<br />
sử dụng nước trong sinh hoạt hành ngày của cư dân miền Tây luôn thoải mái.<br />
Nước được sử dụng tắm giặt, gội, rửa và nhiều nhu cầu thiết yếu khác. Nước<br />
ngọt dưới sông, đìa, ao, hồ dùng để uống khi nước trời mưa đã hết vào dịp nắng<br />
hạn. Nước sông cũng dùng để nấu cơm và các loại thức ăn khác. Chỉ có những<br />
vùng gần biển, hay những xóm ven biển miệt Bạc Liêu, Cà Mau hoặc ở vùng<br />
Thất Sơn, Bảy Núi hay Hà Tiên một số gia đình mới phải đào giếng, hoặc đổi<br />
nước. Nước được những ghe chở từ vùng nước ngọt khác đến để bán cho bà<br />
con. Dân gian ngại từ “bán nước” nên gọi trại thành đổi. Thực ra là đổi nước<br />
lấy tiền!<br />
Sinh hoạt của gia đình người bình dân gắn liền với những con sông ngay<br />
trước cửa nhà mình. Như chúng tôi đã miêu tả ở phần nhà cửa, người dân quê<br />
thường bắc cầu cây dưới bến sông. Tại đây, con người có thể rửa chân tay sau<br />
mỗi buổi đi làm đồng về. Rồi tắm giặt, rửa ráy đều diễn ra nơi chiếc cầu này.<br />
Và cũng từ hình ảnh chiếc cầu bên sông này đã là nguồn cảm hứng cho nhiều<br />
lời thơ, điệu hò được nam nữ trao qua đáp lại:<br />
- Chim kêu dưới bến, trên cầu<br />
Trai thương vợ cũ, gái sầu chồng xưa.<br />
- Chim quyên đậu lái ghe bầu<br />
<br />
<br />
322<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Miệng kêu bớ bậu xuống cầu trao thơ.<br />
- Bến sông sâu, bắc mấy cầu,<br />
Thân em là gái biết hầu mấy nơi.<br />
- Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời<br />
Chị dâu ra cầu té ướt, nắm chỗ nào kéo lên?<br />
- Đi quanh về tắt, thấy em hỏi gắt, anh đáp phứt cho rồi:<br />
Nam theo nam, nữ theo nữ, anh đứng làm người quân tử, đâu dám gần chị<br />
dâu<br />
Anh lấy thang lầu xuống bắc cầu cho chị lên!<br />
Muốn tắm, người ta chỉ cần xuống cầu múc nước tắm lộ thiên, nhiều<br />
trường hợp nhất là thanh niên, trẻ con chỉ mặc độc nhất chiếc quần xà lỏn<br />
phóng xuống sông lặn hụp đã đời rồi leo lên cầu, rửa chân cho sạch bùn đất là<br />
xong. Các cô, các bà thì bận nguyên cả bộ đồ và tắm như vậy rồi kiếm lùm bụi<br />
nào đó, hoặc có nhà thì cất luôn nhà tắm trên sông để phụ nữ thay quần áo cho<br />
tiện.<br />
Ngày trước người dân quê còn dựng cả cầu tiêu trên sông. Sau này, nền<br />
kinh tế đã khá dần lên, dấu ấn tự túc, tự cấp với những điều lạc hậu, mất vệ<br />
sinh ấy đã dần thay đổi. Dù cá biệt vẫn còn những cây cầu này. Đi thực tế tìm<br />
tài liệu viết chuyên luận này chúng tôi vẫn còn thấy hình ảnh cầu tiêu trên<br />
sông, trên ao đìa. Nó là minh chứng cho thói quen, nếp sống của thời hoang sơ.<br />
Ngày nay, ở phía trước nhà, thỉnh thoảng người ta chỉ còn thấy những cây<br />
cầu bắc ra ngoài sông để rửa chén, giặt giũ, nhất là để ghé xuồng, ghe, người<br />
bước lên xuống được dễ dàng hơn.<br />
2.2. Chợ nổi và rính cách của người bình dân nhìn từ hoạt động ở chợ<br />
nổi<br />
2.2.1. Chợ nổi ở miền Tây Nam Bộ<br />
2.2.1.1. Khái niệm<br />
Chợ ra đời từ rất sớm trong lịch sử loài người, khi mà con người đã sản<br />
xuất được hàng hóa, mang đi trao đổi, lấy một loại hàng hóa khác.<br />
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã đưa ra định nghĩa về chợ<br />
như sau: “Chợ là nơi công cộng để đông người đến mua bán vào những ngày,<br />
buổi nhất định” 1.<br />
Theo tác giả Nhâm Hùng, thật ra, khái niệm chợ nổi chỉ xuất hiện khoảng<br />
ba mươi năm gần đây… Khi các nhà nghiên cứu để mắt tới, cũng như sự hấp<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ Hà Nội, 1992,<br />
tr.181.<br />
<br />
<br />
<br />
323<br />
dẫn của cung cách mua bán trên mặt sông, thu hút ngày càng nhiều tour du<br />
lịch, lúc ấy mô hình chợ nổi mới được đề cập nhiều. 1<br />
Khảo sát các bài viết về chợ nổi ở miền Tây Nam Bộ, chúng tôi còn gặp<br />
nhiều bài viết của các tác giả thể hiện những cách hiểu về nó trên các trang<br />
website. Có thể dẫn ra như sau: Chợ nổi là một loại hình chợ thường xuất hiện<br />
tại vùng sông nước được coi là tuyến giao thông chính. Nơi cả người bán và<br />
người mua đều dùng ghe hoặc thuyền làm phương tiện vận tải và di chuyển.<br />
Địa điểm có chợ nổi thường tại các khúc sông không rộng quá mà cũng không<br />
hẹp quá. Khúc sông phải tương đối rộng, không cạn quá mà cũng không sâu<br />
quá. Nếu sông sâu quá, lớn quá thì không thể neo đậu xuồng, ghe một cách dễ<br />
dàng và rất nguy hiểm 2; Chợ nổi là nét sinh hoạt độc đáo của vùng châu thổ<br />
sông Cửu Long. Chợ họp trên sông, giữa một vùng sông nước bao la là hàng<br />
trăm, hàng nghìn chiếc xuồng, ghe của dân miệt vườn miền Tây Nam Bộ về đây<br />
tụ tập mua bán 3; Sở dĩ chợ nơi đây được gọi là chợ nổi vì chợ không họp ở gần<br />
nơi đông đúc dân cư mà lại họp ở trên sông, giữa một vùng sông nước bao la<br />
với hàng trăm chiếc xuồng, ghe tụ họp mua bán tấp nập. Điều khác lạ của<br />
những ngôi chợ này xuất phát từ chính vị trí địa lí của vùng đất này. Vùng<br />
Đồng bằng sông Cửu Long vốn là một vùng đất phù sa, được bồi đắp quanh<br />
năm bởi hai con sông lớn là sông Tiền và sông Hậu. Vì tập quán sống trên sông<br />
nước, di chuyển chủ yếu bằng ghe thuyền, nên chợ cũng được tổ chức ngay<br />
chính trên sông 4; ...<br />
Từ một số cách hiểu này, chúng tôi đưa ra định nghĩa ngắn gọn và khái<br />
quát về chợ nổi như sau: Chợ nổi là nơi có nhiều xuồng, ghe cùng tụ họp và<br />
mua bán, trao đổi hàng hóa ngay trên mặt sông. Nơi họp chợ là các vàm sông<br />
hay là nơi các ngả sông giao nhau.<br />
2.2.1.2. Một số chợ nổi tiêu biểu ở miền Tây Nam Bộ<br />
a. Chợ nổi Cái Bè<br />
Chợ họp trên sông Tiền, từ cầu Cái Bè, qua kênh 28, xuôi theo cù lao Tân<br />
Phong về phía hạ lưu. Chợ nổi Cái Bè có chiều dài cả cây số ngàn. Chợ ở vị trí<br />
giáp ranh giữa 3 tỉnh: Tiền Giang, Vĩnh Long và Bến Tre<br />
Chợ nổi Cái Bè hình thành hai khu vực riêng biệt: khu vực bán sỉ hàng hóa<br />
nông sản và khu mua bán trái cây. Chợ hoạt động theo con nước lớn, nhưng<br />
thường diễn ra ở bờ Nam vào khoảng 3 – 5 giờ sáng và từ 13 – 16 giờ chiều.<br />
Quy mô chợ phụ thuộc vào vụ mùa trái cây, trung bình hàng ngày có vài chục<br />
phương tiện trọng tải lớn neo đậu và khoảng vài trăm phương tiện ghe, thuyền<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
Nhâm Hùng, Chợ nổi Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Trẻ Tp. HCM, 2009, tr.21.<br />
2<br />
Wikipedia: web<br />
3<br />
Cuộc sống Việt: web<br />
4<br />
Thanh Nguyên: web<br />
<br />
<br />
<br />
324<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
lớn nhỏ của các hộ dân địa phương hội tụ lại đây để giao dịch. Số lượng trái<br />
cây mua bán bình quân mỗi ngày khoảng 100 – 200 tấn. 1<br />
b. Chợ nổi Long Xuyên<br />
Chợ nổi ở Long Xuyên từ lâu đã trở thành cái tên quen thuộc trong vùng.<br />
Chợ nằm trên sông Hậu, thuộc phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh<br />
An Giang. Nơi đây tập trung hàng trăm xuồng, ghe neo đậu san sát trên sông,<br />
sinh hoạt và buôn bán quanh năm suốt tháng. 2<br />
c. Chợ nổi Phong Điền<br />
Chợ nằm ngay ngã ba sông, một nhánh từ Cần Thơ vào, một nhánh rẽ đi<br />
Cầu Nhím và một nhánh xuôi về Trường Long (thuộc xã Nhơn Ái, huyện Phong<br />
Điền), cách thành phố Cần Thơ khoảng 17 km. Các nhà thuyền ở đây chủ yếu<br />
là dân địa phương, đem các loại hàng nông sản, hoa quả miệt vườn đến bán<br />
cho ghe thuyền các nơi khác. Chợ hoạt động tập trung nhất vào khoảng 6 đến 7<br />
giờ sáng. Chợ nổi Phong Điền cũng là một trong những chợ buôn bán trái cây<br />
lớn của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 3<br />
d. Chợ nổi Ngã Bảy<br />
Còn gọi là chợ nổi Phụng Hiệp, là một chợ nổi thuộc thị xã Ngã Bảy, được<br />
hình thành từ năm 1915. Với bảy nhánh kênh, rạch tụ hội đã tạo nên sức lan<br />
toả, tác động quá lớn, vùng trung tâm Ngã Bảy trở thành đầu mối giao thông<br />
thuỷ lớn nhất Nam Kỳ, song hành với một trung tâm giao thương hàng hoá lớn<br />
của cả miền cực Nam, tác động mạnh đến thị trường nông sản miền Tây. Đây là<br />
chợ nổi nổi tiếng của tỉnh Hậu Giang và cả Đồng bằng sông Cửu Long. 4<br />
e. Chợ nổi Cái Răng<br />
Cách trung tâm thành phố Cần Thơ chỉ khoảng 5 cây số, chợ nổi Cái Răng<br />
được xem là chợ đầu mối giữa thành phố Cần Thơ lan tỏa hàng hóa đi các<br />
huyện và các tỉnh trong toàn miền Tây Nam Bộ. Khác với chợ nổi Ngã Bảy và<br />
Phong Điền, chợ nổi Cái Răng tập trung rất đông ghe, thuyền từ các tỉnh khác<br />
đem hàng hóa đến cho dân địa phương. Do gần trung tâm thành phố Cần Thơ<br />
nên chợ nổi Cái Răng có mật độ ghe, thuyền qua lại buôn bán nhộn nhịp 5.<br />
f. Chợ nổi Trà Ôn<br />
Chợ nổi Trà Ôn nằm ngay giữa ngã ba sông Hậu và sông Mang Thít, thuộc<br />
huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Đây là chợ nổi cuối cùng trên sông Hậu trước<br />
khi đổ ra biển. Nét đặc biệt của chợ nổi Trà Ôn so với các chợ nổi khác chính<br />
là việc nhóm họp chợ theo con nước. Do đó, du khách có thể ngắm nhìn nét đẹp<br />
<br />
1<br />
Nhâm Hùng (sđd) tr.104, 105.<br />
2<br />
Trithucviet: web.<br />
3<br />
Nam Bộ - Đất và Người, 2004, tr. 407.<br />
4<br />
Nam Bộ - Đất và Người, 2004, tr. 406.<br />
5<br />
Nam Bộ - Đất và Người (II) 2004, tr. 407 – 408.<br />
<br />
<br />
<br />
325<br />
của chợ vào các buổi trong ngày tùy theo con nước, lúc cao điểm của con nước<br />
lớn. Tất cả các loại hàng hóa nông sản tại đây đều được mua bán theo nhóm<br />
hàng, được phân phối từ các ghe vườn theo dạng bán sỉ. Nét độc đáo này cũng<br />
đã tạo cho khu chợ nổi Trà Ôn một nét riêng, có sức cuốn hút du khách gần<br />
xa. 1<br />
g. Chợ nổi Ngã Năm<br />
Chợ họp tại giao điểm của 5 dòng sông tỏa đi 5 ngả: kênh xáng Quản Lộ<br />
Phụng Hiệp chạy từ Cà Mau lên Ngả Bảy, đường sông tự nhiên từ Vĩnh Quới<br />
chảy ra rồi vươn dài về Thạnh Trị, trước đây sông nhỏ nay được xáng múc vừa<br />
sâu vừa rộng. Và ngả còn lại từ Ngã Năm được xáng múc về hướng Long Mỹ,<br />
Hậu Giang. Ngay nay, chợ họp chính là đoạn này hướng về Xáng Chìm.<br />
Ðây là một trong những chợ nổi có từ lâu và sầm uất vào loại bậc nhất<br />
trong vùng.<br />
h. Chợ nổi Miệt Thứ<br />
Miệt Thứ (thuộc Vĩnh Thuận, Kiên Giang) là vùng đất chạy dọc theo vịnh<br />
Thái Lan thuộc hai huyện An Minh và An Biên (Kiên Giang), kéo dài đến rừng<br />
U Minh. Về tên gọi các thứ, chúng tôi đã nói ở phần trên. Mỗi thứ có nhóm chợ<br />
tại các đầu kênh. Chợ nổi vùng Miệt Thứ, được hình thành bằng những chiếc<br />
ghe lớn, như những ngôi nhà nổi, bềnh bồng trên sông nước, chở theo nhiều<br />
loại hàng hóa. Trong đó, nhiều ghe bán các loại chén bát, bếp củi, bếp lò đun<br />
bằng trấu, bàn ghế… Đặc biệt, do ở đây không có nhiều dừa nước để lấy lá lợp<br />
nhà, nên một số ghe lá từ huyện Gò Quao, huyện Giồng Riềng thường đến buôn<br />
bán. Vào mùa mưa, mặt hàng này bán rất chạy. 2<br />
i. Chợ nổi Gành Hào<br />
Chợ họp trên sông Gành Hào, cách cầu Gành Hào khoảng hơn 200m,<br />
thuộc địa bàn phường 8 ở trung tâm thành phố Cà Mau. Ngày trước, chợ ở giữa<br />
ngã ba chùa Bà cách đó khoảng hơn chục cây số. Điều thích thú ở đây mà các<br />
chợ nổi khác không có là thỉnh thoảng có một vài chiếc ghe bán chiếu rong.<br />
Xưa kia, đây là nơi tụ tập kiếm sống của người tứ xứ và bán nhiều loại hàng<br />
hóa khác nhau. Bây giờ, chợ chỉ còn bán các sản vật của miệt vườn.<br />
Xuất hiện muộn hơn còn có chợ nổi Ngan Dừa (Bạc Liêu), chợ nổi An<br />
Hữu (Cái Bè – Tiền Giang), …<br />
2.2.1. Tính cách của người bình dân miền sông nước nhìn từ hoạt động<br />
chợ nổi<br />
a. Tính nguyên thủy, tận dụng của người bình dân nhìn qua hàng hóa từ<br />
chợ nổi<br />
<br />
<br />
1<br />
Ngọc Trân, Chợ nổi Trà Ôn: Mọi miền đất nước, in trên Sài Gòn Giải Phóng, ngày 15 tháng<br />
9 năm 2001, tr.6.<br />
2<br />
Dẫn theo phóng sự Đi chợ quê Miệt Thứ, Đài PTTH Vĩnh Long.<br />
<br />
<br />
<br />
326<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Đến với chợ nổi, ngày nay chúng ta vẫn còn thấy rõ nét hoang sơ từ ngày<br />
mới hình thành hay xa hơn là đời sống của những người đến đây khai làng, mở<br />
xóm. Dấu ấn đó thể hiện ở việc mua bán những thứ sẵn có trong tự nhiên.<br />
Thiên nhiên ban tặng cho miền Tây Nam Bộ hệ động, thực vật vô cùng<br />
phong phú. Ngoài vườn tạp, những lung bàu bỏ hoang hay dưới lòng sông rạch,<br />
ở đâu cũng không thiếu những thứ có thể đáp ứng được cho nhu cầu con người.<br />
Từ con cá, con tép, đến đọt choại, đọt ráng, … Thứ thì cung cấp thức ăn, thứ thì<br />
dùng để ngâm rượu làm thuốc, thứ để chế tác những vật dụng trong gia đình, …<br />
Người ta chỉ bỏ chút công tìm kiếm, đánh bắt là có thể có đủ thứ. Những đám<br />
mưa đầu mùa nhái ếch kêu vang đồng, chạng vạng tối xách lồng đèn đi soi<br />
nhái, ếch, hay đặt lờ đón cá sặt, cá chốt lên ruộng, … Sáng hôm sau, người nhà<br />
đi chợ đem đi bán. Dần dà, nghề đặt trúm lươn, nghề cắm câu, giăng lưới, …<br />
bắt cá đem bán mua gạo cũng giúp họ sống được qua mùa nước nổi.<br />
Những cụ già, muốn có miếng trầu ăn mà không phải xin tiền con cháu thì<br />
cắp nón lá ra vườn tạp hái đọt nhãn lồng, rau má, lá cách, lá nhàu, … về bó lọn,<br />
phân mớ lại rồi gửi người thân đi chợ bán giùm. Vài ba cắc bạc cũng đổi được<br />
ốp trầu, chục cau, … qua được cơn ghiền!<br />
Những ngày nông nhàn, tước chục lá dừa, đốn mấy chục nhánh ráng đem<br />
về bó chổi, hay đập lấy dây bình bát, cắt dây chuối phơi khô rồi đánh thành<br />
những chiếc võng, cũng có người khi gần tết, thấy đám lát ngoài bưng xanh tốt<br />
thì cắt về chẻ dây, phơi khô, róc thêm chục xấp lá chuối, … tất cả đều trở thành<br />
hàng hóa để đem ra chợ nổi. Thêm được đồng nào hay đồng nấy, không làm,<br />
những thứ ấy cũng bỏ đi, tận dụng một chút để có thêm nồi thịt kho, miếng mỡ<br />
thắng để dành ăn, …<br />
Nói chung dấu ấn của sự nguyên thủy và nên kinh tế tự túc tự cấp hiển<br />
hiện rõ qua tâm lí có gì bán nấy, không chú trọng lời lỗ, cây nhà lá vườn cả.<br />
Và cũng từ hình thức manh nha như vậy dẫn tới việc trồng tỉa, chăn nuôi<br />
một cách quy mô hơn, chuyển từ tính nguyên thủy sang tính chuyên nghiệp.<br />
b. Chợ nổi – nơi hỗn dung giao thoa về văn hóa<br />
Ở phần đặc tính của người dân miền sông nước chúng tôi đã có đề cập đến<br />
luận điểm này. Xét phạm vi hẹp hơn, ở bình diện chợ, chợ nổi có sự hỗn dung<br />
và là nơi giao thoa văn hóa của nhiều vùng, miền. Bởi đời sống thương hồ, dân<br />
Vĩnh Long, dân Đồng Tháp, Cà Mau rồi Rạch Giá, Mỹ Tho, … cùng hội ngộ.<br />
Sống chung trong môi trường ấy, những kinh nghiệm ứng xử trong cuộc sống<br />
được họ đem ra chia sẻ. Chẳng hạn, người miệt U Minh có kinh nghiệm nhìn và<br />
chọn ba khía muối ngon thì người dân Tháp Mười chia sẻ cách nấu canh chua<br />
bằng trứng kiến vàng với cá trê trắng hay lươn, rồi cách nấu xiêm lo của người<br />
dân Trà Vinh, Sóc Trăng được phổ biến cho bà con vùng miền khác.<br />
Không dừng lại ở đó, những kinh nghiệm trồng trọt chăn nuôi, xử lí sao<br />
cho hoa nở đúng dịp tết, cách làm cho rau, củ, quả ngon hơn, ngọt hơn, … đều<br />
được truyền miệng trong những buổi tối khi công việc mua bán đã tạm xong.<br />
Chuyện ăn mặc, chuyện chọn dâu, kén rể hay cách thức cúng kiến ông bà,<br />
thậm chí đến những trò chơi dân gian, những câu hò điệu lí, những câu chuyện<br />
<br />
327<br />
tiếu lâm, những lời hát ru nổi trôi theo đời người thương hồ. Nó giống như trái<br />
bần, trái vẹt hễ gặp đất phù sa và điều kiện thuận lợi là dừng chân, bén rễ.<br />
Một điều kiện thuận lợi nữa tạo nên đặc tính giao thoa của dân thương hồ<br />
là do hôn nhân. Không hiếm chuyện chàng trai con của chủ ghe này phải lòng<br />
cô gái con của chủ ghe xứ khác. Họ đến với nhau và nên vợ chồng. Dân tộc<br />
Hoa với dân tộc Khơ Me và dân tộc Việt hòa nhau thành một khối. Tất nhiên,<br />
văn hóa cũng sẽ đi theo, giao thoa, tổng hòa vào làm một.<br />
Một biểu hiện nữa của đặc điểm này không thể không nhắc đến đó là sự<br />
tồn tại song song giữa truyền thống và hiện đại qua các phương thức mua bán.<br />
Thậm chí nhiều yếu tố của văn hóa phương Tây chen vào những yếu tố văn hóa<br />
bản địa truyền thống rồi cùng song song tồn tại. Những chiếc áo thun, quần<br />
jean dần thay cho áo bà ba, chiếc nón lá và cái khăn rằn truyền thống. Xuồng,<br />
ghe chạy máy động cơ mã lực lớn thay dần cho những chiếc ghe chèo, xuồng<br />
bơi, … Ghe sắt, xuồng nhựa composite thay cho xuồng, ghe đóng bằng cây<br />
truyền thống, … Phương thức cân kí thay cho việc đếm chục, đếm trăm,…<br />
Ngay trong việc định lượng bằng chục, trăm cũng khác đi nhiều, theo hướng<br />
giản tiện chục chỉ bằng mười, …<br />
c. Tính bao dung, phóng khoáng thể hiện qua phương thức mua bán<br />
Nơi chợ nổi, lượng xuồng, ghe luôn dày đặc. Ngoài những xuồng, ghe<br />
đang tham gia mua bán, còn có những xuồng, ghe khác chỉ đi ngang qua, đã<br />
góp phần làm cho chợ nổi thêm nhộn nhịp. Có khi chuyện mua bán đang diễn<br />
ra, gặp chiếc ghe lớn trờ tới thì người ta cũng vui vẻ dừng lại. Chiếc ghe ấy đi<br />
khuất thì cuộc mua bán lại tiếp tục. Vào dịp tết, xuồng, ghe đậu ken khít cả mặt<br />
sông rộng. Những ngày ấy, người từ bờ bên đây sông sang bờ bên kia sông chỉ<br />
cần bước nhờ, chuyền từ ghe này sang xuồng khác, cứ vậy là tới bờ bên kia,<br />
khỏi tốn tiền đò. Xuồng, ghe như vậy nhưng rất ít khi va chạm nhau. Phải nói<br />
rằng nghệ thuật bơi xuồng, chèo ghe của người dân miền sông nước thể hiện rõ<br />
“đẳng cấp” ở chợ nổi. Người ta có thể bơi xuôi, móc ngược, nại phải, chống<br />
trái, … tiến lùi trên chiếc xuồng tròng trành như làm xiếc. Hơn thế, nếu chẳng<br />
may có va chạm, người ta cũng nói những câu xin lỗi và phía đối diện cũng rất<br />
nhẹ nhàng cho qua. Chuyện trên sông nhường nhau một chút, nhịn nhau một<br />
chút, khi mình khi người, có sao đâu. Có lẽ vì thế mà rất ít khi xảy ra tai nạn<br />
đường thủy ở chợ nổi. Nặng lắm, rủi ro lắm là đụng gãy chèo, gãy cột chèo mà<br />
thôi, … Những thứ đó, thì dân đi xuồng, ghe không quá khó kiếm nên người ta<br />
cũng sẵn lòng “tha thứ” hết.<br />
Nơi bên sông, xuồng không cặp sát mé được bởi ở trong có xuồng, ghe<br />
khác đã đậu kín từ trước, thì người ta có thể đi nhờ, bước nhờ. Chỉ cần mở<br />
miệng hỏi, chủ xuồng, ghe sẽ vui vẻ chấp nhận, ít có trường hợp làm hiểm từ<br />
chối. Bởi trong dòng chảy chung đó, ai đi ngược lại hoặc làm khác là cộng<br />
đồng sẽ cho là ích kỉ.<br />
Tính phóng khoáng thể hiện rõ nhất ở chợ nổi qua phương thức mua, bán.<br />
Ở đây, tập quán “buôn có bạn, bán có hàng”, “mất lòng trước đặng lòng sau”,<br />
“thuận mua, vừa bán”, … do đó ngay từ khi cáp giá cả, họ đã cởi mở và thẳng<br />
<br />
<br />
<br />
328<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
thắn. Trong mua bán trên chợ nổi điều đặc biệt là không tồn tại hiện tượng nói<br />
thách và trả giá. Đặc trưng của cách mua bán ở chợ nổi là bán sỉ và sang ghe.<br />
Bán sỉ là hình thức mua bán theo cách ước chừng, nhắm chừng, lượng ở<br />
đây chỉ phỏng đoán không cần chính xác từng ly, từng tí như cân đo đông đếm<br />
hiện đại. Đơn vị tính là lít, táo, giạ, cần xé; chục, thiên, muôn, cân, yến, tạ, …<br />
Từ thực tế điền dã, chúng tôi xin ghi lại các việc đong đếm theo cách tính<br />
vừa nói như sau:<br />
Mỗi lít có sức chứa tương đương với ba lon sữa bò, theo hình dáng chúng<br />
tôi quan sát và đo đạc được thì một lít là một cái lon bằng thiếc hình trụ tròn,<br />
có đường kính một tấc và chiều cao cũng một tấc tây. Nếu lấy gạo để so sánh<br />
thì 4 lon sữa bò gạo mới được một kí lô. Như vậy, một lít gạo chưa đầy kí.<br />
Lít thường đong các loại lương thực như lúa, cám, gạo, … hay các loại<br />
hàng hóa khác như muối, đậu xanh, đậu nành, … Đối với các chất lỏng như dầu<br />
lửa, dầu dừa, mật ong, nước tương, nước mắm, … người ta cũng đong bằng lít.<br />
Sau nay, người ta chế cái cống bằng nhựa mũ, cống này có khi chỉ bằng một<br />
phần tư lít gọi là xị, hoặc bằng một phần hai lít thì gọi là nửa lít, … Cũng có<br />
những cống hai lít, …tùy theo yêu cầu. Cách đong này đến nay vẫn tồn tại.<br />
20 chục lít như vậy sẽ được một táo, mỗi táo gạo dân gian còn gọi là một<br />
thùng, nặng chừng 13 – 14 kí tùy theo từng loại gạo. Táo gạo này đổ ra thì<br />
đựng vừa đầy một thúng. Khi đươn thúng, người ta thường lấy cỡ như vậy và<br />
gọi thúng đó là thúng táo. Hai táo bằng một giạ. Như vậy, thúng giạ lớn gấp đôi<br />
thúng táo. Một giạ bằng 40 lít. Nếu lúa tốt không lép thì mỗi giạ lúa có thể hơn<br />
20 kí, nếu lúa lép nhiều thì mỗi giạ lúa chừng 18 – 19 kí, … Có nơi tính giạ<br />
bằng 25 kí, …<br />
Ngày trước, người ta dùng táo để tính lượng tép tôm hay cá chốt, cá sặt<br />
bắt được từ dỡ chà, tát đìa, … Đơn vị giạ để tính các loại trái cây nhỏ như xoài,<br />
mận, ổi…<br />
Mua bán nhỏ hơn thì mão bằng rổ, bằng mớ, chỉ nhắm chừng rồi ra giá.<br />
Lớn hơn là tính bằng cần xé, mỗi cần xé thường là hai giạ, cũng có thể nhỏ<br />
hoặc lớn. Cũng có khi, người ta sẽ cân thử cần xé đầu tiên để đoán tính các cần<br />
xé sau, dân gian gọi là “hạo”. Hạo xong rồi cứ ra giá để người mua tính. Bằng<br />
lòng thì đếm hàng, không bằng lòng thì đi sang ghe khác.<br />
Việc đếm khóm, dưa hấu, dừa tươi hay cam, bưởi, bắp trái, ổi, ô môi, …<br />
thì các đơn vị là chục, trăm, thiên (ngàn), muôn (mười ngàn). Trong số các đơn<br />
vị này, chục là cách tính lộn xộn nhất. Chục về cơ bản là mười, nhưng cũng có<br />
khi quy ước là mười hai, rồi mười bốn, mười sáu, mười tám; nếu chục đôi là hai<br />
mươi, có khi lại là hai mươi bốn (đôi của chục 12). Cá biệt, chúng tôi còn được<br />
nghe những người buôn bán lớn tuổi sống trọn đời thương hồ ở chợ Ngã Năm<br />
cho rằng, ngày trước có nơi quy ước một chục chỉ có sáu mà thôi. Tất nhiên,<br />
ngày nay chắc cách đếm như vậy không còn tồn tại. Trăm tưởng là đơn giản<br />
nhưng không phải vậy. Nếu chục đôi hai mươi thì một trăm theo cách tính này<br />
trên thực tế phải tới … 200 trái. Vì dân gian cứ tính 10 chục mới một trăm, rất<br />
<br />
<br />
<br />
329<br />
rõ ràng nhưng thật phức tạp. Từ đó, cứ 10 trăm thì gọi là một thiên, tức một<br />
ngàn (dù thực tế có thể tới hơn 2000!), rồi 10 ngàn thì gọi là muôn, …<br />
Đối các sản phẩm sành sứ như lu, kiệu, khạp, hay các vật dụng bằng tre<br />
như thúng, rổ, nia, sàng, hoặc chổi tàu dừa, chổi tàu ráng thì mấy cái, mấy cây<br />
đếm như vậy, không tính chục tính thiên, …<br />
Dân gian đã tạo ra hệ thống đong, đếm thật phong phú và lạ kì mà sách vở<br />
gặp không ít khó khăn khi cố định lại, … Quả trăm nghe không bằng một thấy.<br />
Đến các đơn vị sử dụng cân cũng khá phong phú. Lượng, cân, yến, tạ,<br />
…Tục ngữ có câu: Kẻ tám lượng, người nửa cân để chỉ sự so sánh ngang nhau,<br />
không ai hơn ai. Theo cách tính của dân gian thì một cân tương đương với<br />
800gram.<br />
Rồi đơn vị yến, thường được áp dụng để cân các loại củ: khoai lang, khoai<br />
môn, khoai mì, … mỗi yến có nơi là 6 kí, có nơi lại là chục kí. Tạ bằng 10 yến,<br />
như vậy nếu yến 6 kí thì tạ là 60 kí, hay yến 10 kí thì tạ bằng 100 kí, …<br />
Mua bán theo các phương thức vừa nói thể hiện sự phóng khoáng, không<br />
chi li, câu nệ, cũng không có chuyện “cò kè bớt một thêm hai”. Bên mua là mua<br />
trọn, bên bán bán chung, không phân biệt tốt, xấu lớn nhỏ bởi bổ đồng qua lại,<br />
khi người này thiệt, khi người kia thiệt chút đỉnh.<br />
Với kiểu mua bán này, dân thương hồ có kinh nghiệm lâu năm mới dám<br />
thương lượng. Bởi họ đoán trúng phóc, ít khi sai lệch.<br />
Hình thức sang ghe còn thể hiện tính phóng khoáng ở biên độ rộng hơn.<br />
Khi một ghe lớn chở hàng xuống chợ nổi mà hàng hóa đã bán hết, dọc đường<br />
gặp một ghe khác chở đầy hàng hóa đến. Nếu xét thấy có nhu cầu tiêu thụ được<br />
và đặc biệt hơn là thuận lợi trên đường để không phải chạy ghe không về, thế là<br />
họ cáp giá, sang cả ghe, Bên bán lời meo, nhưng cái được là nhanh, sẽ quay đi<br />
chuyến khác. Người sang lại trong trường hợp này cũng sẽ đem đi chỗ khác bán<br />
lại. Chỉ cần coi sơ qua mặt hàng, hỏi ước chừng là chuyện mua bán diễn ra<br />
chóng vánh. Tất nhiên khi sang, người ta cũng đếm thử. Xong, gần đúng như<br />
lời thì cười tươi, hai bên bắt tay, trả tiền.<br />
Cũng xin nói thêm, có trường hợp ghe mua không đem đi đâu cả mà chỉ<br />
neo đậu bán tại chợ nổi. Những chủ ghe này chịu khó tốn thời gian để kiếm<br />
đồng lời và cũng khỏi tốn công xuôi ngược trên những dòng sông xa thẳm, …<br />
Gặp dịp may hay những phiên chợ tết hút hàng, nhiều khi chiếc ghe sang hàng<br />
hóa cho họ quay trở lại thì cũng là lúc họ bán gần hết, công việc sang ghe lại<br />
tiếp tục, …<br />
d. Tính sáng tạo, thích nghi<br />
Chúng tôi cho rằng ở chợ nổi, tính sáng tạo và sự thích nghi của người<br />
bình dân không thể không nhắc đến.<br />
Đầu tiên phải thấy ngay rằng: chợ nổi là do dân miền sông nước tạo ra.<br />
Chính họ chứ không phải ai khác, xuất phát từ những nhu cầu thực tế của đời<br />
sống, họ đã dùng xuồng, ghe mua bán trao đổi trên sông để rồi dần dần phát<br />
<br />
<br />
<br />
330<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
triển thành những chợ nổi sầm uất. Cũng theo thời gian, cuộc sống trên sông<br />
nước bập bềnh nhanh chóng được thích nghi.<br />
Một trong những biểu hiện của sự thích nghi và sáng tạo đó là việc dùng<br />
hình thức bẹo hàng để báo cho người mua biết thứ cần bán. Có lẽ đây là hình<br />
thức sơ khai của quảng cáo hiện đại ngày nay. Từ thực tế điền dã, quan sát cách<br />
thức mua bán ở chợ nổi chúng tôi nhận thấy, sự manh nha của việc beo hàng có<br />
bắt đầu từ những chiếc xuồng, chiếc ghe chèo chở rau cải, cá tép từ đồng ruộng<br />
ra chợ. Để cho dễ thấy, người ta để những rổ rau nhãn lồng, đọt choại, có khi<br />
chở cả xuồng cọng bông súng hay năn bộp, rau mác, cọng lục bình, ... phía<br />
trước mũi xuồng. Người ta chỉ nhìn thấy là đã biết mặt hàng được bán. Người<br />
mua cứ việc kêu xuồng tấp lại để mua. Sau này, những chiếc xuồng để ở phía<br />
trước mũi sề bánh lá dừa, bánh ú, bánh ít, hay một vịm mắm ruốc đỏ tươi, bơi<br />
tới bơi lui để bán. Đặc điểm của chợ nổi là rất nhiều tiếng ồn ào, náo nhiệt của<br />
kẻ bán, người mua nên không thể rao hàng như các xuồng hàng bán trên sông<br />
rạch. Rao hàng, chào hàng chỉ có thể bằng thị giác. Nhìn thấy, ngó thấy người<br />
muốn mua sẽ tấp xuồng, ghe lại. Ghe chở kiệu, chở lu, chở khạp thì thứ hàng<br />
hóa cần bán đã bày ra trước mặt. Ghe chở cà ràn, bếp lò thì không thể bán<br />
bông, bán cá, ... Ai cũng biết chắc chắn như vậy. Thích nghi với thực tế này,<br />
những ghe lớn chở hàng bông với nhiều loại rau, củ quả khác nhau để trong<br />
khoang. Người mua sẽ không thấy, và người bán hàng đã sáng tạo ra cây bẹo để<br />
trưng mời hàng hóa trên ghe.<br />
Trong ngôn ngữ dân gian miền Tây có từ bẹo dạng (bẹo dáng), bẹo gan.<br />
Tra Từ điển tiếng Việt thì thấy nghĩa của nó là phơi bày ra với hàm ý chọc tức.<br />
- Bấy lâu bẹo dạng trêu ngươi,<br />
Mẹ cha gả bán cho nơi chẳng vừa.<br />
- Trời ơi sao nỡ bẹo gan,<br />
Người ăn không hết, người lần không ra.<br />
Văn cảnh có nghĩa là phơi bày ra, trưng ra, ... Vậy từ bẹo theo nghĩa gốc<br />
và nghĩa dùng làm ... bẹo.<br />
Trở lại vấn đề cây bẹo trên chợ nổi, hình thức của nó chỉ đơn giản là cây<br />
sào cắm xuống lòng sông, phía trên người chủ ghe treo tòn ten những loại rau,<br />
quả, … mà ghe mình cần bán. Bán gì thì bẹo nấy. Vì thế, có cây bẹo bẹo cả<br />
chục thứ trái, củ trên đó, … Người muốn mua loại nào cứ việc nhìn cây bẹo ghé<br />
vào mà lựa chọn.<br />
Cũng có khi người ta bẹo đồ bán trên mui ghe. Cái thanh gỗ gác ngang<br />
cũng được dùng treo hàng để bẹo, không cần cầu kì. Bởi thực tình cây bẹo trên<br />
chợ nổi mang chức năng chính là thông báo những thứ hàng hóa muốn bán.<br />
Người miền Tây có tính thực tế và dân dã, nên họ cũng không quá cầu kì trang<br />
trí, …<br />
Nguyên tắc là bán gì bẹo nấy, nhưng cũng có lúc bẹo mang ý nghĩa tượng<br />
trưng. Phải có vốn sống từ thực tiễn và am hiểu đời sống người bình dân mới lí<br />
giải được. Chẳng hạn, khi bập bềnh trên sông người ta thấy trên mui ghe nào đó<br />
<br />
<br />
331<br />
có cắm một khúc cây ngắn, trên đó có gắn một đoạn của tấm lá chằm đốp (cần<br />
đốp, loại lá chằm của người Khơ Me, có xống cũng bằng cọng lá dừa nước chẻ<br />
ra). Đó là dấu hiệu muốn bán ghe của người gắn cây bẹo. Đời sống của cư dân<br />
miền sông nước gần như cả đời trôi nổi trên ghe, họ coi xuồng, ghe như cái nhà<br />
của mình. Mà nhà ở quê thì mái lợp bằng lá dừa nước là chủ yếu. Như vậy, mỗi<br />
khi muốn bán ghe tức là bán đi “căn nhà” di động của mình. Họ chọn cách bẹo<br />
lá, chứ không phải bẹo tấm ván dùng đóng ghe hay mái dầm, cột chèo gì cả.<br />
Biểu hiện đó có thể góp phần khẳng định tính cách vừa sáng tạo vừa sâu<br />
sắc của người bình dân miền đất nhiều kênh rạch này.<br />
Chúng tôi cũng xin mở rộng thêm, dù nó không phải là nét văn hóa lành<br />
mạnh, nhưng thực tế nó vẫn tồn tại trong dân gian. Nó là một góc khuất trong<br />
đời sống của người bình dân, là mặt trái của cuộc sống thường nhật, không ai<br />
khuyến khích, thậm chí có thể nói nó đi ngược lại với thuần phong mỹ tục.<br />
Những chiếc xuồng bán bánh lá dừa về đêm thường hay bẹo bằng chiếc đèn<br />
chong cóc. Nhiều người làm ăn lương thiện, nhiều cụ bà tuổi ngũ tuần, lục tuần<br />
tranh thủ kiếm thêm đồng lời quả thật là đáng quý. Song, việc bẹo bằng ánh đèn<br />
dầu đó dần cũng bị biến tướng. Chuyện trai tứ chiếng đi chợ đêm để tìm gái<br />
giang hồ cũng sẽ dựa vào những ngọn đèn chấp chới ấy để tìm hàng, để hỏi<br />
mua và được bán. Có điều, giống như ánh đèn dầu yếu ớt ấy ẩn sau nó là cuộc<br />
sống đầy bóng tối của những người bị đày vào kiếp đời sương gió. Như đã nói<br />
ở trên tính sáng tạo, thích nghi này có thể hiểu theo nét nghĩa tiêu cực mà đời<br />
sống đặc trưng vùng sông nước đã tạo ra.<br />
Cũng từ chuyện thực tế này, trong phương ngữ Nam Bộ xuất hiện cụm từ<br />
gái bán vàm. Nghĩa thực của nó dùng để chỉ những người lam lũ bán bánh, bán<br />
cháo đêm ở vàm sông, chợ nổi. Nhà khảo cứu Huỳnh Minh đã có lần nhắc đến<br />
hình ảnh này: “Các cô gái bán vàm với giọng rao hò lảnh lót đã làm say mê các<br />
tay thương hồ chuyên sống cuộc đời nổi trôi trên sóng nước” . Song, dân gian<br />
miền Tây vốn rất “nhạy”, nên đã sớm suy diễn nghĩa gái bán vàm thành những<br />
cách hiểu khác nhau. Rồi như để thanh minh cho người lương thiện, cũng chính<br />
dân gian đã mượn lời cô gái hò trên sông đáp rằng:<br />
Em là cô gái bán vàm,<br />
Bán vàm em bán nhưng điếm đàng em không!<br />
Nghe thật thú vị, thật đáng để chúng ta đồng cảm và chia sẻ vậy!<br />
Một trong tính thích nghi và sáng tạo để biểu hiện ở chợ nổi theo chúng<br />
tôi đó là hệ thống những chiếc xuồng ba lá chèo, bơi bán vật dụng sinh hoạt và<br />
đồ ăn, thức uống, thậm chí có những xuồng ra công phục vụ cho đời sống con<br />
người trên các chiếc ghe lớn.<br />
Ghe lớn hàng hóa nhiều, ít khi đậu sát mé bờ, mũi lại quay hướng ra sông<br />
rộng để tiện bề mua bán. Ban ngày, công việc bán buôn cũng tất bật đâu có<br />
nhiều thời gian để lo việc ăn uống. Thế là những xuồng bán bún nước lèo, bán<br />
cháo lòng, bán bánh tằm, ... xuất hiện. Nhiều xuồng bán cà phê bọc, đá chanh,<br />
đá me, ... cũng bơi len lỏi giữa các ghe lớn. Ai cần gì thì kêu xuồng ấy lại mua,<br />
người bán kiếm được thêm những đồng lời lo cho gia đình. Ở chợ nổi Ngả<br />
<br />
<br />
332<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Năm, chợ nổi Ngả Bảy còn có những xuồng bán thịt heo phục vụ cho người<br />
trên ghe. Gần đây, trên chợ nổi còn xuất hiện luôn những xuồng chèo đi làm<br />
móng tay, móng chân. Các bà, các cô trên ghe có nhu cầu, thì gọi những chiếc<br />
xuồng tấp lại và chừng một thời gian nhất định việc làm đẹp đã hoàn tất.<br />
Sống nơi môi trường sông nước, người ta thải ra một lượng chất thải<br />
không ít, vậy mà những dòng sông nơi chợ nổi ít ô nhiễm, bởi ở đó thỉnh<br />
thoảng người ta còn thấy xuất hiện những chiếc xuồng bơi của những người đi<br />
lượm ve chai nhựa hay bọc nilon. Công việc làm sạch môi trường một cách tự<br />
nguyện này cũng đã đem lại cho họ ít tiền, dù không nhiều nhưng cũng đủ nuôi<br />
thân.<br />
Tất cả những chiếc xuồng, ghe tham gia vào công việc mà nhiều người gọi<br />
là “dịch vụ” của chợ nổi đã góp phần là đa dạng thêm các tầng văn hóa do<br />
chính người bình dân tạo ra rồi truyền lại từ đời này sang đời khác.<br />
3. Kết luận<br />
Văn hóa dân gian miền sông nước ở miền Tây Nam Bộ là một kho tàng<br />
phong phú vô cùng quí giá. Từ những nhận thức đến biểu hiện được lưu truyền<br />
trong dân gian qua con đường truyền khẩu, qua thị phạm...<br />
Khảo sát và nghiên cứu những biểu hiện đó đã giúp chúng ta dựng lại<br />
được chân dung, tính cách của người bình dân vùng đất mới. Việc làm này góp<br />
phần cố định những nét cơ bản vốn rất phong phú, đa dạng và dao động ở biên<br />
độ lớn: VĂN HÓA DÂN GIAN. Đây cũng là công việc góp phần bảo tồn và lưu<br />
giữ cho thế hệ mai sau. Bởi khi hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội dần biến đổi<br />
kéo theo sự biến đổi không nhỏ của văn hóa. Nhiều nét văn hóa xưa gắn liền<br />
với môi trường sông nước đã dần lui vào dĩ vãng, một số không nhỏ sắp bị thất<br />
truyền.<br />
Dù còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình sưu tầm, lưu giữ, truyền bá<br />
cũng như những điều kiện để văn hóa dân gian sông nước tiếp tục phát triển<br />
trong đời sống của người bình dân nhưng chúng tôi tin rằng với những nỗ lực<br />
của nhiều nhà nghiên cứu trong thời gian qua là rất đáng ghi nhận.<br />
Tuy nhiên để có một chiến lược phát triển lâu dài, cần lắm những sự<br />
chung tay của cộng đồng, đặc biệt là những nhà khoa học, những nhà văn hóa<br />
tâm huyết với sự tồn tại và phát triển của văn hóa miền Tây Nam Bộ nói chung<br />
và văn hóa miền sông nước nơi này nói riêng. Thành quả đạt được không chỉ<br />
dành riêng cho người dân một vùng miền mà sẽ làm phong phú thêm bản sắc<br />
văn hóa vốn đã rực rỡ của dân tộc Việt Nam.<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Nguyễn Đình Đầu (1994), Tổng kết nghiên cứu địa bạ: Nam Kỳ Lục<br />
Tỉnh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.<br />
2. Vũ Minh Giang (chủ biên, 2006), Lịch sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam,<br />
NXB Thế giới, Hà Nội.<br />
<br />
<br />
<br />
333<br />
4. Nguyễn Hữu Hiếu (2010), Diễn trình văn hóa Sông Cửu Long, NXB<br />
Thời đại, Hà Nội.<br />
5. Vương Hồng Sển (2012), Hậu Giang Ba Thắc, NXB Tr