ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC ============ HOÀNG THỊ CƯƠNG LUẬN VĂN CAO HỌC
ĐỀ TÀI :
Đông Dương Tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX
Người hướng: PGS,TS. Trần Ngọc Vương
Hà Nội – 01/2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ============ HOÀNG THỊ CƯƠNG
Đông Dương Tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Trần Ngọc Vương
Hà Nội – 09/2011
MỤC LỤC
Phần 1 Mở đầu
1. 2. 3. 4. 5. 6. Phần 2
Trang 1 1 4 6 6 7 7 9 9
Chương 1 1. 2.
10 17 33
Chương 2 1. 33
2. 43
Lý do chọn đề tài Lịch sử vấn đề nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Cấu trúc của luận văn Nội dung Vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX Diện mạo văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX Vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc Vai trò của Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX Tiền đề, tôn chỉ mục đích và sơ bộ hệ thống chuyên mục của Đông Dương tạp chí Vai trò của Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX
Chương 3 Vai trò của Nguyễn Văn Vĩnh-chủ bút Đông Dương tạp chí
Con người và sự nghiệp Đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh qua thời gian Tiểu kết về Nguyễn Văn Vĩnh Kết luận Tài liệu tham khảo 1. 2. 3. Phần 3 Phần 4 62 62 74 89 93 98
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn “ấn tượng” nhất trong suốt
chiều dài lịch sử của đất nước Việt Nam. Cuộc xâm lược của thực dân Pháp như
một cơn lốc xoáy dữ dội, lật tung đến từng “ngõ ngách sâu kín nhất” và cuốn tất
cả vào vòng xoáy ấy. Xã hội Việt Nam trên mọi bình diện, từ đời sống kinh tế,
chính trị, văn hoá cho tới nơi thâm căn cố đế, khó lung lay nhất, đó là tư tưởng,
tâm hồn con người đang rơi vào thảm cảnh thuộc địa hóa. Nhưng không buông
xuôi, người Việt Nam, đặc biệt là những thành phần cấp tiến lúc bấy giờ đã
“tiến hành một cuộc nỗ lực tìm kiếm thực sự”, trong khả năng có thể, để hướng
Việt Nam phát triển theo con đường riêng, mà theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc
Vương nhận xét, thì đó là “Một cuộc vận động chuyển mình trong quằn quại
đau đớn và lột xác bắt buộc” nhưng sáng tạo đã diễn ra. Chính vì thế, khi đánh
giá về những “thành quả” đạt được trong giai đoạn lịch sử mang tính chất giao
thời nhạy cảm này, sự vận động chuyển mình của nền văn học Việt Nam càng
nổi bật và có ý nghĩa lớn lao. Những nỗ lực tìm kiếm trên phương diện văn học
đã dẫn tới thành tích “ngoạn mục”: Văn học Việt Nam chuyển từ nền văn học
trung đại mang tính khu vực sang nền văn học hiện đại mang tính toàn cầu, vận
động theo quỹ đạo hiện đại hóa của thế giới.
Chúng ta đều biết, văn học viết truyền thống kéo dài gần một thiên niên
kỷ (từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX), là nền văn học mang tính chất bác học, chủ
yếu dành cho tầng lớp quý tộc và trí thức nhà nho trong xã hội phong kiến, chỉ
phục vụ cho một những tầng lớp nhỏ hẹp nhất định. Đó là một nền quốc văn chủ
yếu sử dụng hệ thống văn tự chữ Hán được gắn với hệ tư tưởng Tam giáo, với
quan niệm “thi ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo” cao xa mông lung, khiến đông đảo
1
quần chúng, đặc biệt là tầng lớp nông dân khó tiếp cận được.
Chính ở giai đoạn giao thời này, giữa bộn bề, hoang mang của một đất
nước đang bị xâm lược, các nhà Tân học đã nhận thức được sự cấp thiết lúc này
là phải có hệ thống văn tự phổ biến dành riêng cho dân tộc mình. Chữ quốc ngữ
sau khi được giới Tân học tích cực vận động, rồi được giới Cựu học “thông
quan”, đã có sức lan toả mạnh mẽ và sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Đa
số các công trình nghiên cứu về văn học đều khẳng định rằng: Sự phát triển của
nền văn học Việt Nam hiện đại được mở đường bởi chữ quốc ngữ, mà một
trong những công cụ, phương tiện để truyền bá chữ quốc ngữ một cách hiệu quả
nhất phải kể đến là báo chí. Như vậy, vai trò của báo chí trong việc truyền bá,
cổ động chữ quốc ngữ là vô cùng to lớn.
Không thể phủ nhận một sự thật lịch sử rằng, báo chí vốn được dự kiến
như là một trong những kế sách “nô dịch văn hoá tinh thần người bản xứ” của
người Pháp, những cây bút đầu tiên viết cho báo chí đa số đều được huấn luyện
từ các trường Pháp - Việt và ít nhiều được tiếp xúc với văn hoá Pháp. Thế
nhưng, bước sang những thập niên đầu của thế kỷ XX, với sự phát triển rầm rộ,
báo chí đã có sự “vượt thoát” ngoạn mục và trở thành một thứ “công cụ không
tự giác của lịch sử” góp phần quan trọng vào việc hình thành một nền văn học
Việt Nam hiện đại viết bằng chữ quốc ngữ. Phần lớn các nhà nghiên cứu đều
nhất trí: “Báo chí là nơi sưu tầm và giới thiệu văn học cổ Việt Nam, giới thiệu
văn học Pháp và văn học Trung Quốc”. Không chỉ là môi trường giới thiệu và
lưu giữ các tác phẩm văn học mà những khuynh hướng khác nhau, những luồng
tư tưởng, những quan niệm khác nhau về văn học đều được hiện diện và quy tụ
trên báo chí, đồng thời còn là nơi“Luyện tập câu văn và viết dần tác phẩm”.
Trong khoảng thời gian trên dưới một thế kỷ qua, dẫu có nhiều luồng ý kiến
khác nhau về việc định “công và tội” của báo chí, cũng như những người làm
chủ bút giai đoạn giao thời trong lịch sử nước nhà, thì vai trò của báo chí trong
2
quá trình hiện đại hoá văn học là không thể phủ nhận.
Cho tới nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của báo chí
theo hướng sưu tầm, khảo sát ở các trường hợp cụ thể hoặc các nhóm trường
hợp, tuy nhiên với trường hợp Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh thì ít
được đề cập tới. Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại” đã phân tích, lưu ý từ
rất sớm rằng Đăng cổ tùng báo, Đại Việt tân báo, Nông cổ mín đàm… là những
tờ báo ra đời sớm nhất, còn ít có tính cách văn học, hoặc nếu có, cũng không
đáng kể, và việc truyền bá học thuật tư tưởng Âu Tây thì cũng mới đi những
bước khởi đầu, mang tính giới thiệu, làm quen. Phải đến khi Đông Dương tạp
chí và sau đó là Nam phong tạp chí ra đời thì “Quốc văn bắt đầu thịnh, bắt đầu
có cái giọng hoa mỹ, dồi dào và chú trọng về tư tưởng” và “phải nhờ hai nhóm
này, học thuật tư tưởng Đông, Tây mới được truyền bá một cách đúng mực
bằng quốc văn” [13;30]. Nhiều tác giả nghiên cứu văn học sử khác cũng đều có
cùng quan điểm thừa nhận: sự ra đời của Đông Dương tạp chí (năm 1913) là
“cột mốc” quan trọng đánh dấu mối quan hệ mật thiết giữa báo chí với văn học,
được xem là tờ báo mang tính chất chuyên ngành văn học đầu tiên của Việt
Nam, là nơi quy tụ được nhiều cây bút xuất sắc như: Tư Trung Thân Trọng Huề
(1869-1925), Bưu Văn Phan Kế Bính (1875-1921), Đông Châu Nguyễn Hữu
Tiến (1875-1941), Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác (1881-1945), Trọng Hữu Nguyễn
Đỗ Mục (1882-1951), Lệ Thần Trần Trọng Kim (1882-1953), Ưu Thời
Mẫn Phạm Duy Tốn (1883-1924), Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939),
Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố (1889-1947), Thượng Chi Phạm Quỳnh (1892-
1945),… Đặc biệt phải nhắc đến Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936),
chủ bút của Đông Dương tạp chí, người “Với tư cách là linh hồn của nó đã làm
thay đổi một cục diện văn hoá và thúc đẩy nền quốc văn đi vào con đường
mới”, theo đánh giá của nhà nghiên cứu văn học - văn hóa Đỗ Lai Thuý.
Rõ ràng, nhìn lại một cách tổng quan về tiến trình hiện đại hoá văn học
thì Đông Dương tạp chí và chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh đóng góp một phần
3
không nhỏ. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, và có
hệ thống. Đó là do đó, chúng tôi chọn đề tài “Đông Dương tạp chí trong tiến
trình hiện đại hoá văn học Văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX”,
để nghiên cứu trong luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trần Đình Hượu cho rằng: “Trước 1913, báo chí chủ yếu giúp người đọc
làm quen với chữ quốc ngữ”, Thanh Lãng cũng nhấn mạnh “Từ năm 1913,
Đông Dương tạp chí đã làm xoay chiều văn học, đã đưa cái mới vào văn học,
làm cho hai thế hệ trước và sau khác hẳn nhau. Mà người lãnh đạo nó, linh hồn
của nó chính là Nguyễn Văn Vĩnh”, và như trên đã nói, Vũ Ngọc Phan khẳng
định khi Đông Dương tạp chí ra đời thì “Quốc văn bắt đầu thịnh, bắt đầu có cái
giọng hoa mỹ, dồi dào và chú trọng về tư tưởng”. Rõ ràng, năm 1913 - năm ra
đời của Đông Dương tạp chí, đương nhiên được công nhận là mốc đánh dấu
quan trọng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam.
Thế nhưng, có một điều hiển nhiên rằng, sự xuất hiện của cái mới ban
đầu cũng khó được chấp nhận, nhất là trong thời điểm lịch sử nhạy cảm. Thêm
vào đó, theo như chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh, mục tiêu ra đời của Đông Dương
tạp chí là: “Phổ biến văn hoá Tây phương, cổ động học chữ quốc ngữ, giới
thiệu kiến thức thực nghiệp như canh nông, công nghệ và tuyên truyền cho
chính phủ bảo hộ”. Khi phân tích về những nội dung trong mục tiêu mà Đông
Dương tạp chí đề ra, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung nhận định: “Tất cả các
mục tiêu mà Đông Dương tạp chí đề ra đều giống với mục tiêu của phong trào
Đông kinh nghĩa thục, trừ việc tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ”. Có lẽ vấn
đề chính trị nhạy cảm này chính là nguyên nhân khiến cho nhiều nhà nghiên cứu
khi đánh giá về vai trò của Đông Dương tạp chí cũng như những đóng góp của
4
Nguyễn Văn Vĩnh vẫn còn quá dè dặt hoặc chỉ lướt qua.
Đương thời, Đông Dương tạp chí và chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh được đề
cao ở một bộ phận độc giả nhưng cũng gặp phải không ít những đả kích, hằn
học, mỉa mai ở một bộ phận độc giả khác. Tội danh phản quốc, bán nước, bồi
bút… mà một số người gán cho Nguyễn Văn Vĩnh, hẳn một phần không nhỏ là
do ông làm chủ bút cho tờ Đông Dương tạp chí. Theo “lời chứng” của Phan
Khôi thì: “Nhưng, theo sự phẩm-bình chặt-chịa của một hạng người trong
nước, hạng người ấy đại-khái là nhà nho, thì ông Vĩnh dù có là hào kiệt đi
chăng nữa không là quân-tử… hạng người ấy tuy có phục ông Vĩnh về đằng tài
nhưng họ không lượng thứ cho ông về đằng tâm”. Đánh giá về Đông Dương
tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Trung đã viết: “Nguyễn Văn Vĩnh có
thể là một nhà báo giỏi, nhưng lại rất vụng về chính trị. Ngôn ngữ của Nguyễn
Văn Vĩnh không những không tranh thủ được ai, đặc biệt giới sĩ phu, mà còn
gây thêm đố kỵ, hận thù”.
Ngay cả những nghiên cứu gần đây nhất cũng ít nhắc tới Đông Dương
tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh, hoặc có nhắc tới thì cũng chỉ dừng lại ở một vài ý
kiến chung chung, những bài nghiên cứu trong khuôn khổ của bài báo như:
“Những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh với báo chí tiếng Việt và truyền bá chữ
quốc ngữ” của Nguyễn Thị Lệ Hà, Viện Sử học - Viện Khoa học xã hội Việt
Nam; “Nguyễn Văn Vĩnh, một người Nam mới đầu tiên” của Đỗ Lai Thuý đăng
trên Tạp chí Tia sáng…
Thực tế, có một “vùng trắng” cho cả ba giai đoạn đầu thế kỷ XX. Trong
nhiều nghiên cứu cũng như trong các giáo trình đại học khi viết về giai đoạn
nhạy cảm này, trường hợp Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh vẫn chưa
được khảo sát một cách chi tiết, kỹ lưỡng. Những vấn đề này chỉ được khắc
phục phần nào ở một số nhà nghiên cứu có sự “độc lập” nhất định trong tư duy,
tuy nhiên dưới nhiều góc độ khác nhau, vẫn có thể nhận ra nhiều nhận định đơn
5
giản hóa và không ít định kiến. Phần tổng quan trong cuốn “Giáo trình Văn học
Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX” do Trần Ngọc Vương chủ biên đã phân
tích diễn tiến lịch sử một cách sâu sắc góp phần đem lại cách nhìn bớt phần định
kiến, nhưng cũng chưa đi sâu vào Đông Dương tạp chí và trường hợp cụ thể
Nguyễn Văn Vĩnh.
Trả lại công bằng cho lịch sử không chỉ là lời kêu gọi của hậu thế, mà là
vấn đề trách nhiệm cần phải làm đối với quá khứ, lịch sử. Với định hướng đó,
trên lập trường quan điểm: khách quan, công bằng, phân minh, chúng tôi, trong
khuôn khổ đề tài của luận văn sẽ tiến hành khảo sát, nghiên cứu nghiêm túc và
tích cực nhằm đưa lại một cái nhìn rõ nét hơn và có hệ thống hơn về những
đóng góp của Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh trong tiến trình hiện
đại hoá văn học Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là Đông Dương tạp chí từ khi
xuất bản (1913) đến năm (1917). Thông qua đó chúng tôi sẽ hệ thống, phân tích
và đánh giá sự đóng góp của Đông Dương tạp chí cho tiến trình hiện đại văn
học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đề cập đến nhân vật được xem là linh hồn
của Đông Dương tạp chí, Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh. Hơn nửa thế kỷ qua
có khá nhiều luồng ý kiến đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh, và hiện đang được
các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử như Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê…
khẳng định là một học giả lớn, cần được hiểu cho đúng đắn hơn, toàn diện và
sâu sắc hơn.
Vì thế, trong khuôn khổ có hạn của luận văn, chúng tôi trên cơ sở khảo
sát tổng quan sau đó sẽ tập chung phạm vi nghiên cứu ở nội dung của Đông
Dương tạp chí và những bài viết, những tác phẩm, tác giả có liên quan đến các
6
vấn đề, khía cạnh trên.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Những năm gần đây, việc nghiên cứu, đánh giá, xem xét lại một cách
công bằng thoả đáng, nhằm khẳng định giá trị đích thực của những vấn đề thuộc
về giai đoạn lịch sử giao thời nhạy cảm của đất nước thường xuyên được đề cập.
Nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả đương nhiên ghi nhận Đông
Dương tạp chí là “cột mốc” đầu tiên, quan trọng trong nền văn học hiện đại Việt
Nam, nhưng chưa được nhìn nhận một cách đầy đủ, đúng mức và có hệ thống.
Người làm luận văn đặt vấn đề “Vai trò của Đông Dương tạp chí trong tiến
trình hiện đại hoá văn học Việt Nam” không nhằm mục đích ngợi ca, đề cao,
đúng hơn, không áp đặt hay xuất phát từ một thái độ, một sự phán xét, quy chụp
tiên nghiệm, mà trên quan điểm khách quan, người viết sẽ nghiêm túc thực hiện
một số việc sau:
Nghiên cứu, khảo sát, phân tích, tổng hợp, đánh giá Đông Dương tạp chí,
cụ thể là những nội dung liên quan tới sự phát triển của nền văn học.
Tìm hiểu, thu thập và hệ thống toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh,
đặc biệt là thời điểm ông làm chủ bút của Đông Dương tạp chí cùng những
quan điểm và cách hành xử của ông trong bối cảnh lịch sử mới của đất nước.
Từ các kết quả nghiên cứu được, tác giả luận văn mong muốn cung cấp
cho độc giả cái nhìn sáng rõ hơn về vai trò của Đông Dương tạp chí và Nguyễn
Văn Vĩnh trong quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế
kỷ XX.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng chủ yếu một số phương
7
pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp liên ngành: kết hợp tri thức và phương pháp nghiên cứu
lịch sử, văn hóa học, lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học.
- Phương pháp thực chứng: không đưa ra bất cứ một khẳng định, nhận
xét, kết luận nào nếu trước đó không sưu tầm, lý giải và thẩm định những chứng
cớ, những nguồn dữ kiện và tài liệu đáng tin cậy.
- Phương pháp biện chứng: đặt mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong
mối liên hệ qua lại với hoàn cảnh lịch sử, với những định hướng chi phối sự vận
động của hiện tượng đang được khảo sát, phân biệt những cấp độ tồn tại và vận
động của đối tượng được khảo sát để tránh sự phiến diện hay chụp mũ.
6. Cấu trúc của luận văn
Chúng tôi trình bày luận văn với 3 phần chính:
Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu.
6. Cấu trúc luận văn.
Phần nội dung (gồm 3 chương):
Chương I: Vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hóa văn học hiện
8
đại Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX.
Chương II: Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hoá văn học
Việt Nam.
Chương III: Những đóng góp của chủ bút Đông Dương tạp chí - Nguyễn
Văn Vĩnh
Phần Kết luận
Và thư mục tham khảo.
PHẦN NỘI DUNG
Chương I
VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN
9
HỌC VIỆT NAM BA MƯƠI NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX
Liên tục gần mười thế kỷ, từ thế kỷ thứ X đến nửa đầu thế kỷ XIX, sự
phát triển của nền Văn học Việt Nam diễn ra tương đối bình lặng, thế nhưng bắt
đầu từ nửa cuối thế kỷ XIX một cơn chấn động mạnh đã làm cho nền văn học
nước nhà bị lung lay tới tận gốc rễ, sụp đổ, đồng thời kiến tạo nên một diện mạo
văn học hoàn toàn mới khác với nền văn học cũ, và được định danh là văn học
hiện đại. Về nguyên nhân và những tác động dẫn tới quá trình kiến tạo cho nền
văn học mới này được các nhà nghiên cứu văn học sử phân tích khá nhiều và kỹ
trên cơ sở những tiền đề sau:
Một là, sự xâm lược và tiếp theo đó là chính sách khai thác thuộc địa của
Pháp đối với Việt Nam đã tác động sâu sắc tới diện mạo bên ngoài cũng như
cấu trúc bên trong của xã hội Việt Nam. Quá trình đô thị hóa theo hướng
phương Tây hóa diễn ra nhanh chóng, xuất hiện tầng lớp công chúng mới với
những nhu cầu mới, trong đó không thể thiếu nhu cầu về món ăn tinh thần như
báo chí, văn học nghệ thuật…
Hai là, các lực lượng yêu nước và tiến bộ ở Việt Nam ngày càng ý thức
sâu sắc về sự khủng hoảng, bất lực của chế độ phong kiến và xã hội truyền
thống kiểu châu Á ở nước ta, đồng thời cũng thấy rõ không thể cứu nước nếu
không canh tân đất nước. Trong khi hệ thống giáo dục Hán học dần bị thu hẹp,
hệ thống nhà trường Pháp Việt và luồn văn hóa, tư tưởng phương Tây ngày
càng lan rộng, hình thành tầng lớp trí thức mới, trí thức Tây học. Tầng lớp này
hào hứng với tiếp nhận và truyền bá những luồng tư tưởng mới, đặc biệt là văn
học phương tây, xuất hiện một lớp nhà văn mới, dần đi vào con đường chuyên
nghiệp.
Ba là, phải nói đến sự phổ biến mạnh mẽ của chữ quốc ngữ từ nửa sau thế
10
kỷ XIX đã chắp cánh cho nền văn học Việt Nam.
Bốn là, trong phạm vi văn hóa văn học, thông qua các trường học, nhà
xuất bản, các cơ quan báo chí, việc giới thiệu, dịch thuật, truyền bá khoa học,
tư tưởng, văn hóa văn học của các nước phát triển, đặc biệt là của Pháp, đã có
đóng góp rất lớn vào quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam.
Báo chí được xem là một trong những tiền đề tác động đến quá trình hình
thành và hiện đại hóa nền văn học Việt Nam. Thực tế cũng cho thấy, trong rất
nhiều các công trình biên khảo, nghiên cứu văn học sử của Dương Quảng Hàm,
Bùi Đức Tịnh, Lê Trí Viễn, Trần Đình Hượu, Nguyễn Đình Chú, Lê Chí Dũng,
Bằng Giang… đều không thể bỏ qua mảng báo chí quan trọng này. Song việc đề
cập đến vai trò của báo chí cũng chỉ dừng lại trong những đề mục hoặc “gạch
đầu dòng”. Ở luận văn này, chúng tôi muốn nhắc đến vai trò báo chí theo hướng
nghiên cứu từ vĩ mô đến vi mô, từ tổng quan đến cụ thể. Nghĩa là từ vai trò của
báo chí nói chung, sau đó cụ thể hóa trong một tờ báo “cột mốc”, có tính chất
“chuyên ngành”, cuối cùng là hoạt động của chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh, để
hướng độc giả hiểu sâu hơn về vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hóa
nền văn học dân tộc. Nhưng trước hết, chúng tôi sẽ tổng quan lại diện mạo văn
học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX giúp người đọc nắm được một cách sơ bộ
về giai đoạn giao thời này.
1. Diện mạo nền văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX
Từ những năm 40 của thế kỷ XX, đã có rất nhiều công trình, biên khảo
nghiên cứu về vấn đề chọn thời điểm đánh dấu cho sự xuất hiện của văn học
hiện đại, đến nay vẫn chưa hoàn toàn đi đến thống nhất.
Về vấn đề lựa chọn đâu là “cột mốc” đánh dấu cho bước ngoặt của nền
văn học Việt Nam chuyển từ văn học trung đại sang văn học hiện đại, các nhóm
nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý kiến lựa chọn khác nhau. Nhóm nhà nghiên
11
cứu cho rằng “cột mốc” chính là xuất hiện của những tác phẩm bằng chữ quốc
ngữ, có nhóm nhà nghiên cứu lại đồng hóa việc ra đời của văn học hiện đại với
báo chí theo góc độ chuyển đổi loại hình, hay có nhóm nhà nghiên cứu thì dựa
trên góc độ thể loại, sự ra đời của tác phẩm mang những yếu tố khác biệt với
nền văn học trung đại (trường hợp Thầy Lazaro Phiền). Các nhà nghiên cứu
Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đăng Mạnh chọn năm 1920 hoặc
những năm 20 làm “cột mốc” đánh dấu cho bước ngoặt của văn học hiện đại.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu thì chọn năm 1930 làm “cột mốc”. Theo nhà
nghiên cứu Trần Ngọc Vương, Mã Giang Lân và một số nhà nghiên cứu khác
xác định thời điểm cho quá trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam là 1900 hoặc
những năm đầu thế kỷ XX. Còn trong nghiên cứu của mình, Nguyễn Văn Xuân
quả quyết, văn học mới, văn học hiện đại bắt đầu từ 1928… Như vậy, các nhóm
nhà nghiên cứu đã đưa ra lựa chọn riêng dựa trên những tiêu chí, góc độ kiến
giải khác nhau.
Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu văn học sử ít nhiều cũng đều công
nhận, việc phân biệt chính xác, rạch ròi về mặt thời gian cho sự ra đời của văn
học hiện đại là rất khó. Như vậy chỉ có thể nói, những mầm mống của chất hiện
đại, sự manh nha cho một nền văn học mới được bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ
XIX, thậm chí có thể là trước đó. Nhà nghiên cứu văn học sử Phạm Thế Ngũ
trong “Việt Nam văn học sử giản ước tân biên” cho rằng “Từ thời Trịnh -
Nguyễn, cuối thế kỷ XVIII đã có một số người Việt công giáo dùng tiếng tiếng
Việt để sáng tác thơ văn (theo đường lối văn Nôm nho gia)”. Bắt đầu từ đầu thế
kỷ XX, cùng với những luồng tư tưởng mới (từ tân thư, tân văn, tri thức có
nguồn gốc phương Tây); với phong trào vận động cải cách, duy tân (Duy Tân,
Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục); cùng với sự ra đời của nhiều tờ báo trên cả
ba miền Bắc - Trung - Nam có nội dung phong phú, văn học và các nhà hoạt
động, sáng tác văn học dần phát triển và ngày càng rầm rộ, bức tranh văn học
hiện đại Việt Nam theo đó cũng dễ dàng được nhận diện rõ ràng hơn và bao
12
quát hơn “Những dấu hiệu báo trước sự ra đời của một thứ văn học mới tuy đã
xuất hiện từ những năm tám mươi của thế kỷ XIX, chủ yếu bộc lộ qua những
hoạt động văn học của Trương Vĩnh Ký và những người xa gần chịu ảnh hưởng
từ ông, nhưng chỉ tới đầu thế kỷ XX, sự biến động đồng bộ, cũng xét theo những
tiêu chí loại hình, mới thực sự rõ nét”. Dưới đây, chúng tôi phác họa những nét
chính của bức tranh văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX dựa trên
những phân tích sơ bộ về sự chuyển đổi của các tiêu chí hệ hình văn học, ngôn
ngữ văn học, quan niệm thẩm mỹ, các dòng văn học và đội ngũ tác giả, hệ thống
thể loại.
1.1. Sự chuyển đổi hệ hình văn học từ trung đại sang hiện đại là bước
ngoặt lịch sử sau một chặng đường dài gần mười thế kỷ, kể từ khi nền văn học
viết chính thức ra đời (thế kỷ X). Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương, khi nghiên
cứu về sự chuyển đổi của nền văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX,
đã nhấn mạnh tới sự chuyển đổi quỹ đạo và hệ hình văn học, đó là, văn học Việt
Nam từ “Một nền văn học mang tính quốc gia – dân tộc, vận động trong quỹ
đạo của vùng văn học châu Á, lấy văn học Trung Quốc làm “cổ mẫu”, làm nền
văn học kiến tạo vùng”, đang dần bị phân rã để kiến tạo một hệ thống thi pháp
mới theo mô hình văn học châu Âu và hòa nhập vào quỹ đạo văn học thế giới,
mà chặng đường văn học ba mươi năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn giao thời, ở
đó chúng ta được “chứng kiến một tình trạng hỗn dung của ít nhất hai hệ hình
văn học”. Không quá khó khăn để chúng ta nhận thấy, trong giai đoạn này, tồn
tại song song hai nền văn học cũ và mới với hai lực lượng sáng tác, hai ngôn
ngữ khác nhau. Và cũng đồng thời nhận thấy nền văn học cũ, văn học Hán Nôm
dần bị thất sủng, suy yếu, trong khi nền văn học mới, văn học quốc ngữ ngày
một chiếm ưu thế, đúng như nhận xét “chỉ trong khoảng ba mươi năm đầu thế
kỷ XX, hàng loạt những yếu tố nằm trong thành phần “tiêu chí hệ hình” của nền
13
văn học mới cũng đã được xác lập”.
Bước sang đầu thế kỷ XX, những quan điểm tư tưởng thẩm mỹ, quan
niệm mới về văn chương và sáng tác trong văn chương đã dần được hình thành.
Mặc dù các nhà nho, khoa bảng vẫn còn nặng về “văn dĩ tải đạo”, “thi ngôn chí”
như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… nhưng ít nhiều đã bị chi phối bởi ý
thực hệ tư sản và ý thức đem văn chương phục vụ mục đích chính trị, đấu tranh,
tuyên truyền. Họ được xem là các tác giả “quá độ” thành một “lớp người cầm
bút” để lại dấu ấn rất rõ. Bản thân họ là “sản phẩm của giao thoa, xung đột và
tiếp biến” của hai nền văn hóa, văn học Đông - Tây. Để có thể thực hiện tôn chỉ
“khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, bên cạnh lối thơ, văn biền ngẫu
truyền thống, họ bắt đầu tìm kiếm, lựa chọn những hình thức nghệ thuật, ngôn
ngữ để biểu hiện, dẫn tới những lý tưởng, quan niệm cũ tưởng như đã ăn sâu
vào tiềm thức đã có những biến đổi “điều đó đã khiến cho văn học dưới tay của
các nhà nho yêu nước đầu thế kỷ trở thành một thực thể đặc biệt”.
Trong khi đó, những quan niệm mới của văn chương bắt đầu nảy nở,
không gian văn học được mở rộng và mang tính đại chúng. Nghĩa là văn
chương dành cho đại chúng, lấy đời sống hiện thực và những con người của
cuộc sống đời thường làm trung tâm của các sáng tác, đồng thời làm đối tượng
phục vụ. Ý thức và quan niệm về một nền quốc văn ngày càng trở nên mãnh
liệt, mà biểu hiện lớn nhất chính là cương quyết dứt bỏ chữ Hán, hoan nghênh
việc dùng chữ quốc ngữ để viết văn, “Có thể nói, từ đây ta mới có một nền văn
học quốc gia duy nhất và thuần túy”. Một trong những quan niệm nổi bật và táo
bạo bắt đầu xuất hiện, đấy là việc xem văn chương như là một nghề để kiếm
sống, người cầm bút viết văn là những nhà chuyên môn chuyên nghiệp và trung
tâm của văn học được chuyển ra các tòa báo, nhà xuất bản, hiệu sách chứ không
còn thu hẹp trong các khu lều chõng, thầy đồ, thi hữu như thời văn học trung đại
14
nữa.
Cùng với những đổi mới quan niệm, lý tưởng thẩm mỹ, so với văn học
truyền thống, hệ thống chủ đề trong văn học giai đoạn này không chỉ mang
nhiều yếu tố khác biệt mà còn mở rộng, thiết lập những chủ đề mới. Không chỉ
nói tới cái cao thượng, giáo hóa,… mà còn hướng tới những chủ đề về tiến hóa
xã hội, về yêu nước, về những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống đời thường
hàng ngày.
1.2. Như đã nói, vì là giai đoạn mang tính chất giao thời, nên nền văn học
ba mươi năm đầu thế kỷ vận động theo hai khuynh hướng, khuynh hướng cách
tân văn học truyền thống và khuynh hướng sáng tạo văn học mới. Giữa các sáng
tác của hai khuynh hướng này lại có sự giao thoa, đan xen về hệ thống thi pháp.
Song, xu hướng vận động của văn học truyền thống là dần bị thu hẹp và dường
như biến mất, ngược lại, văn học mới ngày càng phát triển và chiếm lĩnh văn
đàn.
Cho đến những năm 20 của thế kỷ XX, văn học mang tính truyền thống
vẫn là một khuynh hướng văn học khá rõ nét, và cũng đã đạt được những thành
tựu nhất định. Nhiều trước tác chữ Hán có giá trị của Nguyễn Khuyến, Dương
Lâm, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp…
cùng với mấy nét đặc sắc trong văn Nôm của Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình
Chiểu, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, Nguyễn Văn Giai, Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Nguyễn Thị Bích, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn
Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Văn Lạc… được hưởng ứng, được công bố
khá rộng, đăng tải trên nhiều loại hình phương tiện, đặc biệt là trên hầu hết các
tờ báo, tạp chí lúc bấy giờ, ít nhiều được dành chỗ. Thế nhưng trước thời thế,
chữ quốc ngữ ngày càng trở nên phổ biến, thông dụng, văn học mới mang tính
đại chúng ngày càng lan rộng, văn học truyền thống mang tính chất tinh hoa,
15
bác học đã rơi vào thảm cảnh “tiêu điều”, đến những năm 20 trở đi thì văn học
truyền thống chỉ còn được nhớ đến bởi một vài yếu tố còn tồn tại trong một số
tác phẩm.
Trong khi đó, được sự tiếp sức và hoàn cảnh thuận lợi từ nhiều phía,
khuynh hướng văn học mới được vận động theo lộ trình khá đặc biệt, kèm theo
đó là một lực lượng sáng tác mới, lực lượng trí thức tân học. Lực lượng sáng tác
này chú trọng tới văn hóa hơn là chính trị, quan tâm đáp ứng nhu cầu của độc
giả. Bắt đầu từ vận dụng chất liệu ngôn ngữ mới, chữ quốc ngữ, để dịch thuật
văn chương phương Tây, chủ yếu là văn chương Pháp, qua mô phỏng rồi đi đến
sáng tác thuần Việt. Gần hai thập kỷ đầu của thế kỷ XX, những sáng tác văn học
bằng chữ quốc ngữ còn thưa thớt và mờ nhạt, chủ yếu là tập trung vào dịch
thuật, biên khảo, nghiên cứu. Văn học chữ Hán Nôm, văn học Tàu, nhiều nhất là
văn hóa, văn học Pháp được dịch hay phiên âm ra chữ quốc ngữ thường xuyên
xuất hiện trên các báo, tạp chí, sách... mở ra một quá trình luyện tập câu văn,
tìm tòi, kiểm nghiệm và sáng tạo để bước sang thập kỷ thứ ba, văn học quốc
ngữ bắt đầu nở rộ với hàng loạt tác phẩm có giá trị định hình cho hệ thống chủ
đề, thể loại mới của văn học hiện đại với những tên tuổi tiêu biểu như: Hoàng
Ngọc Phách, Trọng Khiêm, Nguyễn Trọng Thuật, Đông Hồ, Tương Phố, Thế
Lữ, Thái Phỉ, Tam Lang, Vũ Đình Long, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ
Trọng Phụng,…
1.3. Văn học hiện đại khoảng ba mươi năm đầu thế kỷ XX vẫn đang trên
hành trình tìm kiếm những hình thức thể loại có thể đáp ứng được yêu cầu
truyền tải nội dung, bộc lộ những quan điểm tư tưởng thẩm mĩ mới một cách tự
do, linh hoạt. Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm, chúng ta dễ dàng nhận thấy văn
học giai đoạn này chưa thoát khỏi dấu ấn của những thể loại đã trở thành điển
phạm trong văn chương truyền thống như: văn chính luận, thơ chữ Hán, diễn ca
lục bát, ngâm khúc, hát nói, vè, liệt truyện. Đặc biệt, sự tương tác, dung hòa
16
giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại là đặc điểm nổi bật của hệ thống thể
loại giai đoạn này, cụ thể trong các thể loại: truyện dịch, truyện thơ quốc ngữ,
du kí, thơ viết bằng văn vần. Văn học thời Bộ này được sáng tác trên cả hai
chất liệu ngôn ngữ, chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, chúng ta cũng dễ
dàng nhận thấy văn học Việt Nam giai đoạn này xuất hiện nhiều thể loại mới:
Truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, thơ, các tiểu thể loại tản văn,… làm cho văn học
ngày càng trở nên phong phú và gần gũi với đời sống hàng ngày.
1.4. Sự đổi mới hoàn toàn trong ngôn ngữ văn học (chuyển từ ngôn ngữ
văn học chữ Hán, Nôm sang chữ quốc ngữ) là một dấu ấn đặc biệt trong lịch sử
phát triển của nền văn học Việt Nam. Chữ quốc ngữ xuất hiện ở Việt Nam từ
khoảng thế kỷ XVII, thế nhưng phải đến nửa cuối thế kỷ XIX mới bắt đầu được
chú ý. Do có nhiều ưu điểm trong sử dụng và phổ biến, chữ quốc ngữ sớm trở
thành công cụ trong âm mưu nô dịch của thực dân Pháp, và, với dân tộc Việt, về
sau, chữ quốc ngữ lại là nhu cầu thiết yếu. Chính vì thế, chữ quốc ngữ từ cưỡng
ép đi tới tự giác, nhanh chóng được lan rộng dần được sử dụng phổ biến và trở
thành văn tự của dân tộc “mở đường cho việc xác lập một thời đại văn học
mới”.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra hai mốc quan trọng đánh dấu cho tiến trình phát
triển của văn xuôi quốc ngữ giai đoạn phôi thai, đó là: “Khởi động ở Nam bộ từ
nửa sau thế kỷ XIX” và “tiếp tục phát triển ở Bắc bộ vào hai thập niên đầu thế
kỷ XX”. Như chúng ta đã biết, chữ quốc ngữ xuất hiện trước nhất là ở Nam bộ.
Sau khi tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên Gia Định báo (1865) ra đời, cùng
với một số chính sách nhằm truyền bá chữ quốc ngữ không mấy hiệu quả, người
Pháp đã phát kiến ra rằng “Người ta sẽ không chống lại việc học chữ quốc ngữ
bằng mẫu tự la tinh nếu tiếng An Nam được thay thế để dịch một vài tác phẩm
Trung Hoa cơ bản và cổ điển”. Thực tế, chữ quốc ngữ đã được giới tân học chú
ý và ra sức vận động, mà người thợ cần cù đã góp công xây dựng nó trước tiên
17
là Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của. Văn chương quốc ngữ ở Nam bộ bắt
đầu được dấy lên, nhưng do còn quá mới mẻ lại là chủ kiến của thực dân nên nó
ít được hưởng ứng, chỉ phát triển trong một thời gian ngắn rồi lụi dần. Sau đó,
khi Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí ra đời ở Bắc bộ, với những hoạt
động tích cực của Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh thì loại chữ theo ký tự la
tinh này dần trở nên phong phú và đa dạng, lại được giới cựu học “thông quan”,
văn chương quốc ngữ mới có tính phổ cập. Ý thức về gây dựng một nền quốc
văn thức tỉnh, những hoạt động làm biên khảo, luyện câu văn xuôi và tập tành
sang tác thông qua dịch thuật văn học trong và ngoài nước.
Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, văn học Việt Nam được sáng tác
bằng cả hai ngôn ngữ, chữ Hán và chữ quốc ngữ, càng về sau, lực lượng sáng
tác và những tác phẩm bằng chữ quốc ngữ ngày càng nhiều hơn. Cuối cùng chữ
quốc ngữ đã trở thành thứ ngôn ngữ biểu hiện, là “chất liệu nền” được văn học
hiện đại lựa chọn.
Như vậy, mấy thập niên đầu thế kỷ XX là một “giai đoạn quá độ”. Các nhà
nghiên cứu tiêu biểu như Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng gọi là giai đoạn “giai
đoạn giao thời” chuẩn bị cho việc xác lập từng bước, từng bộ phận, xây dựng
nền móng cho cả “tòa nhà” văn học hiện đại. Thành quả nổi bật, kết quả “chín
muồi” thì phải tới sau 1932, nhưng đương nhiên sẽ không có kết quả đó nếu
không có sự chuẩn bị tích cực, ráo riết, không có những “công lao bị quên lãng”
của mấy mươi năm trước đó.
2. Vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hóa nền văn học dân
tộc
2.1. Sự ra đời của báo chí
2.1.1. Ngay sau khi đặt chân lên đất Nam bộ, 29-9-1861 thực dân Pháp đã cho
xuất bản tờ báo bằng tiếng Pháp Le Bullelin Officie de l’ expedition de la Co-
18
chichine (Công báo của đội quân viễn chinh Nam bộ), nhưng tờ công báo này
mới chỉ đơn thuần cung cấp thông tin mà thôi. Song song với công cuộc chinh
phục Việt Nam về mặt quân sự, theo ý kiến của soái phủ Nam bộ thì: “Đã đến
lúc cần mở mang giáo dục, truyền bá học thuật và tư tưởng của Pháp”. Và để
hiện thực hóa âm mưu thâm độc, đưa văn hóa Pháp và chữ quốc ngữ vào quỹ
đạo xâm lăng văn hóa Việt Nam, năm 1865, Gia Định báo, tờ báo tiếng Việt
đầu tiên ra đời. Tờ báo này do E. Poteau, thông ngôn của soái phủ Nam bộ làm
chánh chủ bút. Gia Định báo bao gồm phần Công báo (nghị định, thông tư của
chính phủ Pháp) và phần Tạp vụ (phần tin trong nước, chủ yếu là tin tức Nam
Bộ), mỗi tháng ra 1 số. Đến năm 1869, tờ báo này do Trương Vĩnh Ký làm
giám đốc, Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút. Từ đây, Gia Định báo một tháng ra 4
số, có thêm các chuyên mục: khảo cứu, nghị luận, thơ ca… nhiều thể loại kinh
Thi, sáng tác văn học dân gian và bác học được sưu tầm, phiên âm, dịch và chú
giải; sáng tác chữ quốc ngữ của các danh sĩ Nam Bộ.
Ý đồ, mục đích sử dụng báo chí làm một trong những thứ công cụ đắc lực
trong công cuộc xâm lăng của thực dân là quá rõ ràng. Trong quá trình phát
triển của báo chí, chúng tìm mọi cách kiểm soát, nắm giữ báo chí, bịt tất cả các
khe hở “hợp pháp” cho hoạt động yêu nước. Chính quyền thuộc địa Pháp cố
gắng xiết chặt báo chí bằng tiếng nói chính thống và nghèo nàn của một tờ công
báo. Năm 1881, người Pháp ban hành sắc luật đầu tiên về báo chí thuộc địa, cho
phép người Pháp sống ở thuộc địa được tự do ra báo. Riêng ở Việt Nam, kèm
theo sắc lệnh 30-12-1898, buộc báo chí tiếng Việt, chữ Trung Hoa, các tiếng
khác phải có giấy phép trước khi xuất bản. Hàng loạt tạp chí, kỷ yếu, tập san
trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật, văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ, dân tộc học, khảo
cổ… xuất hiện. Đặc biệt, những tờ báo thuần túy văn chương, hoạt kê như Con
rắn mối (1880), Con muỗi Đông Dương (1887) ở Nam Bộ và Sinh hoạt Đông
Dương (1887) ở Bắc Bộ, mở đầu cho dòng báo giải trí thuộc địa và nhiều thể
loại khác về thương mại, chính trị của tư nhân ra đời. Bên cạnh bộ phận báo chí
19
phục vụ độc giả Pháp quân sự và dân sự, Pháp cũng cho đào tạo một đội ngũ
viết báo người Việt để phục vụ cho ý đồ xâm lăng văn hóa của chúng, bộ phận
báo chí tiếng Việt, tiếng Hán được thiết lập.
2.1.2. Tại thời điểm lịch sử lúc bấy giờ, báo chí đối với Việt Nam còn khá mới
mẻ, xa lạ, hơn nữa báo chí lại là một trong những sản phẩm của thực dân Pháp,
do đó, việc tiếp nhận báo chí đối với Việt nam mà nói, ban đầu là sự khiên
cưỡng, cưỡng bức. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, nhờ những ưu thế của
mình, báo chí dần dần nhận được sự quan tâm, để ý của các nhà yêu nước, của
những người mang tư tưởng đổi mới xã hội. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương
trong “Giáo trình văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX” khi nhắc tới
sự vận động tinh thần của người Việt Nam trong ba thập niên đầu thế kỷ XX đã
viết: “Trong khi thực dân Pháp nỗ lực tiếp tục cuộc xâm lăng, nô dịch sang lĩnh
vực tinh thần… thì những người yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ lại tiến hành tìm
kiếm sự thật, tìm kiếm tri thức và phương pháp hành động cho mình bằng việc
thông qua sách, báo chữ Hán (do các tác giả Trung Quốc hoặc Nhật Bản dịch,
biên soạn) để làm quen với các kiệt tác của các tác giả thuộc về chính Pháp”.
Như vậy, những nhà nho, chí sĩ yêu nước, tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh… dù không mặn mà với báo chí trong nước (do Pháp xuất bản)
nhưng lại rất quan tâm đến sách báo từ tiếng Trung Quốc, Nhật Bản (dù nguồn
gốc tác phẩm đều của Pháp). Bên cạnh đó, những người tân học cũng bắt đầu
cảm nhận được sức mạnh của thứ công cụ báo chí phục vụ cho mục đích canh
tân đất nước, canh tân xã hội.
Báo chí ở Việt Nam dần dần không chỉ là công cụ của riêng thực dân
Pháp và bị xem là sự áp đặt nữa; mà báo chỉ còn được các nhà yêu nước, những
người có nhiệt huyết đấu tranh cho sự tiến hóa xã hội đón nhận và chủ động sử
dụng, khai thác. Chính vì thế, báo chí ngày càng phong phú, đa dạng, phát triển
rộng rãi khắp cả nước. Dưới đây là một số tờ báo quan trọng trong quá trình
20
phát triển của báo chí:
Nông cổ mín đàm (1901-1924), được in cả bằng chữ quốc ngữ lẫn chữ
Hán. Là tờ báo kinh tế đầu tiên của Nam Bộ, xuất bản hàng tuần, số lượng từ 8
đến 12 trang. Tờ báo do nhà buôn Pháp Canavaggie sáng lập kiêm quản lý. Chủ
bút lần lượt là: Lương Khắc Ninh, Gilbert Chiếu (Trần Chánh Chiếu), Nguyễn
Đồng Trụ, Lê Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt. Về nội dung, ngoài các chuyên
mục thương cổ luận, lời rao, quảng cáo, Nông cổ mín đàm còn dành 3,4 trang
đăng truyện dịch (Anh, Pháp, Trung Quốc), truyện dài, truyện ngắn và mục thi
phổ (đăng tải văn học dân gian sưu tầm và những sáng tác mới…), Nông cổ mín
đàm được xem là một trong các tờ báo đầu tiên thúc đẩy việc dịch thuật truyện
Tàu ra chữ quốc ngữ ở Nam Bộ, và bộ Tam quốc chí tục dịch là tác phẩm dịch
thuật đầu tiên của tờ báo này.
Đại Nam đồng văn nhật báo (xuất bản khoảng 1892), được in bằng chữ
Hán. Là tờ Quan báo thứ nhất ở Bắc Bộ, “…Đặt tờ báo cốt để rõ thế nước và
hiểu tình dân… các việc chính trị, kinh tế, xã hội, văn học đều chép đăng
báo…được trình duyệt, sẽ giao cho nhà in lựa đăng trên mặt báo…”. Đại Nam
đồng văn nhật báo được xuất bản hàng tuần, phát hành khắp Bắc và Trung Bộ.
Người sáng lập là Schneider, thực tế do Nha kinh lược chủ trì và hai cây bút chủ
công là Đào Nguyên Phổ và Hàn Thái Dương. Nội dung thường dịch đăng
những nghị định của thống sứ Bắc Bộ và tuyên truyền cho đường lối nô dịch,
ngoài ra tờ báo còn tổng hợp bài viết của các nhà nho: Vũ Phạm Hàm, Phan Kế
Bính, Kiều Oánh Mậu… khảo về chế độ thi cử, xã thôn, quan chế.
Đăng cổ tùng báo, 1907 Đại Nam đồng văn nhật báo còn có thêm dòng
chữ Đăng cổ tùng báo (là tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Hà Nội), ngoài bài in bằng
chữ Hán, trong in bằng hai thứ chữ quốc ngữ (chủ bút là Nguyễn Văn Vĩnh) và
chữ Hán (chủ bút là Đào Nguyên Phổ), chủ báo vẫn là Schneider. Đăng cổ tùng
báo ra hàng tuần với quan niệm: “Làm giầu tức là ái quốc, khai thông dân trí,
21
dân khí là yêu nước”. Người cầm bút khéo léo lợi dụng khe hở hợp pháp đưa
nội dung của tờ báo thành “trung tính”, một mặt hô hào thực nghiệp, chống
những thói hủ tục, mê tín dị đoan, kêu gọi hợp quần hợp tác; một mặt ca ngợi
công ơn khai hóa của Pháp, đả kích người yêu nước chống Pháp. Về phương
diện nào đó, trong một khoảng thời gian nhất định, Đăng cổ tùng báo được coi
là hơi thở của Đông Kinh nghĩa thục. Sau 9 tháng với 34 số báo ra, khi Đông
Kinh nghĩa thục bị khủng bố, Đăng cổ tùng báo cũng bị xiết chặt trở lại với
tiếng nói chính thống và nghèo nàn của một tờ công báo do phủ toàn quyền nắm
giữ có tên là Việt Nam quan báo (1907-1908), sau thành Việt Nam công báo
(1909-1912). Dù sao, Đăng Cổ tùng báo đã đạt đến nghệ thuật báo chí: tin
nhanh gọn, đảm bảo tính thời sự, nội dung phong phú, tầm mắt vươn xa; “chữ
quốc ngữ với thể văn tường thuật, phóng sự, nghị luận ngày càng thông thoát”
Lục tỉnh tân văn (1907-1944) được xuất bản ở Nam Bộ, trên danh nghĩa
Schneider đứng tên xin phép thành lập, thực tế do Trần Chánh Chiếu điều khiển.
Ban đầu ra 1 số/1 tuần, về sau là 3 số/1 tuần vào các thứ 2, thứ 4, thứ 6. Năm
1921, khi Nam Trung nhật báo sát nhập thì chuyển thành nhật báo. Tờ báo là
tiếng nói của cuộc vận động Minh Tân theo hướng cải cách, tự cường đang sôi
động ở Bắc, Trung Bộ. Lục tỉnh tân văn gồm 16 trang với các nội dung: vừa
dịch đăng công văn, nghị định của chính quyền thực dân; vừa kêu gọi và giới
thiệu về cuộc vận động Minh Tân; chống hủ tục; tranh luận về lập trường dân
tộc, thời sự quốc tế, văn uyển, ngôn ngữ… Lục tỉnh tân văn thu hút được nhiều
cây bút mới: Trương Duy Toản, Trần Tuấn Khải, Hồ Tá Bang, và những người
từ miền Bắc, miền Trung vào như: Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Trần Huy
Liệu, Tản Đà, Phan Kế Bính…
Đông Dương tạp chí (1913-1917). Tờ báo bằng chữ quốc ngữ do
Schneider là chủ nhân, chủ bút là Nguyễn Văn Vĩnh. Ngoài bìa Đông Dương
tạp chí còn có hàng chữ “ấn bản đặc biệt của Lục tỉnh tân văn ở xứ Bắc và
22
Trung Bộ”. Tờ báo có khoảng từ 16 - 24 trang, là tờ báo đi đầu trong việc
truyền bá văn minh phương Tây, phê bình lối sống phong kiến, các hủ tục…
Nhiều cây bút thuộc thế hệ đầu tiên của giới tây học quy tụ trên tờ báo này như:
Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn
Tố, Nguyễn Hữu Tiến… Năm 1915, Đông Dương tạp chí có thêm phụ chú: Học
báo (ra chủ nhật hàng tuần) chuyên sâu khảo cứu học thuật và sư phạm.
Nam Phong tạp chí (1917-1934), xuất bản ở Hà Nội, do Louis Marty
sáng lập, gồm hai phần chữ quốc ngữ (Phạm Quỳnh phụ trách), phần chữ Hán
(Nguyễn Bá Trác phụ trách). Với độ dày hơn 100 trang, không kể phần phụ
trương chữ Pháp và chữ Hán bao gồm các mục: luận thuyết, văn học bình luận,
triết học, khoa học, văn uyển, tạp trở, thời đàm… Nam Phong tạp chí được đánh
giá: “bên cạnh là một tờ báo của Pháp. Với phong cách là một tạp chí khảo cứu
có tính bách khoa toàn thư, Nam Phong tạp chí cũng đã có nhiều đóng góp…”.
Nam Phong tạp chí còn tập hợp được rất nhiều nhà báo cả nho học lẫn tây học
như: Nguyễn Bá Học, Nguyễn Hữu Tiến, Dương Bá Trạc, Lê Dư, Nguyễn Triệu
Luật, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Đôn Phục, Hoàng Tích Chu, Phan Kế Bính,
Nguyễn Tường Tam… trong số đó có những cây bút nổi tiếng bắt đầu sự nghiệp
từ Nam Phong.
Giai đoạn 1919 – 1924, theo thống kê của Đỗ Quang Hưng trong Lịch sử
báo chí Việt Nam, số lượng báo ra ngày càng nhiều, có 26 tờ báo và tạp chí mới
ra đời, nhiều hơn 20 tờ so với tổng số báo tạp chí xuất bản trong 54 năm cộng
lại (1865-1919). Xuất hiện những thể loại mới, văn hóa, giáo dục, khoa học và
thể dục thể thao, chiếm 1/4 số báo mới ra. Những chuyên mục này còn chiếm
một tỉ lệ nhất định và ổn định trên các báo, tạp chí “không chuyên ngành” khác.
Một số tờ báo tiêu biểu trong giai đoạn 1919 - 1924: Thực nghiệp dân báo
(1920-1922), Khai hóa (7/1921-6/1928), Hữu thanh (1921-1924)… Đến giai
đoạn 1925-1930, có 40 tờ báo và tạp chí mới xuất bản công khai và hợp pháp.
23
Tiêu biểu là các tờ báo Tiếng dân (8/1927-4/1943), L’ Annam, Hà Thành ngọ
báo, Đông Tây tuần báo, Tân thế kỷ, Phụ nữ tân văn, An Nam tạp chí… Bên
cạnh đó đã xuất hiện dòng báo chí bí mật không hợp pháp, mở đầu là báo
Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập.
Như vậy, về hình thức, báo chí phát triển với tần số nhanh và mạnh, từ
công báo, bán công báo đến báo, tạp chí; từ nhật báo, tuần báo, nguyệt san, bán
nguyệt san, tạp chí; từ báo chí nhà nước đến báo chí tư nhân. Về nội dung:
Ngoài những mục mang tính Quan báo, thời sự, quảng cáo, rao vặt; báo chí chú
trọng dành nhiều chỗ cho các lĩnh vực khác về luận thuyết, triết học, khoa học,
văn chương khoa, sư phạm học khoa, một điều đặc biệt nữa là ở hầu hết các tờ
báo đều có mục văn uyển.
Con đường phát triển báo chí luôn bị Pháp xiết chặt và gắn liền với con
đường xâm lược của chúng, báo chí xuất hiện ở Nam Bộ đầu tiên sau đó là Bắc
Bộ rồi mới vào Trung Bộ. Từ việc gieo mầm báo chí, nhằm sử dụng báo chí như
là một công cụ đắc lực để thực hiện âm mưu “nô dịch văn hóa tinh thần người
bản xứ”, thực dân Pháp cũng nhanh chóng nhận thấy nguy cơ phát triển của báo
chí ngày càng rầm rộ, chúng ra sức phong tỏa. Thế nhưng, sự ra đời của hàng
trăm tờ báo ở thập kỷ thứ ba này đã chứng minh hoạt động của báo chí rất sôi
nổi và phong phú, khiến Pháp khó có thể đặt báo chí vào vòng kiểm soát triệt
để. Báo chí, vô hình trung đã trở thành một thứ “công cụ không tự giác” phát
triển ngoài sức tưởng tượng của thực dân. Cuộc “vượt thoát” ngoạn mục của
báo chí không chỉ có ý nghĩa văn hóa xã hội, mà nó còn có ý nghĩa mở đường
cho quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.
2.2 Vai trò của báo chí trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân
tộc
2.2.1. Báo chí là môi trường xuất hiện, tồn tại và phát triển của văn
24
học quốc ngữ.
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương trong nghiên cứu về văn học hiện đại
đã chỉ ra, báo chí là sự manh nha của một nền văn học mới: “Hầu như ngay từ
buổi đầu của sự xuất hiện và lưu hành báo chí, một thứ văn học mới khác xa với
văn học truyền thống đã gắn với loại phương tiện mới đó mà nảy mầm”, Huỳnh
Văn Tòng cũng nhận xét: “Văn học hiện đại Việt Nam thoát thai từ báo chí,
khác với trường hợp các nước phương Tây, văn học đẻ ra báo chí”. Gia Định
báo sau 4 năm mang tính chất của một tờ công báo khi chuyển sang Trương
Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của quản lý thì tờ báo này đã cho đăng thêm các mục
khác, khảo cứu, nghị luận, thơ ca của cá danh sĩ Nam Bộ như Trương Minh Ký,
Huỳnh Tịnh Của… “Chính thơ văn , truyện cổ tích và những bài nghiên cứu về
lịch sử nước nhà được đăng trên tờ báo lúc này… đã góp phần khai sinh nền
quốc văn mới”.
Lần lượt các tờ báo ra đời sau đó, Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn (ở
Nam Bộ,) Đại Nam đồng văn nhật báo, Đăng cổ tùng báo, Đại Việt tân báo,
Trung Bắc tân văn (ở Bắc Bộ), đều có mục dành riêng cho việc đăng tải các thể
loại truyện kể, truyện ngắn, thơ, ca, câu đối… Chúng ta sẽ dễ hình dung hơn về
bộ phận văn học được đăng tải trên báo chí khi tham khảo Tổng tập văn học
Việt Nam (văn học báo chí Việt Nam 1900-1945) do Nguyễn Thành chủ biên.
Mặc dù, như tác giả nói, chỉ lựa chọn tập hợp từ hệ thống báo chí ba thập niên
đầu thế kỷ XX những tác phẩm đơn thuần viết bằng chữ quốc ngữ không dính
dáng gì đến chính trị (nghĩa là chưa tập hợp toàn bộ và đầy đủ), thế nhưng, chỉ
riêng số lượng tác phẩm của những tờ báo này đã chiếm cả hàng trăm trang, với
nội dung và thể loại vô cùng phong phú và đa dạng. Trong khi đó, chúng ta
cũng biết, bộ phận văn học dịch sang chữ quốc ngữ cũng chiếm một số lượng
khá lớn. Nên nhớ rằng, chính văn học dịch hồi ấy giữ một vị trí quan trong để
25
hình thành nên cốt cách văn phong của văn học hiện đại.
Như vậy, văn xuôi quốc ngữ đã xuất hiện đầu tiên trên báo chí, tồn tại và
ngày càng gắn bó với môi trường báo chí này. Nhưng cũng có một thực tế là, sự
xuất hiện của các tác phẩm văn xuôi quốc ngữ trên những tờ báo thời Bộ này
phần lớn là nhằm mục đích giáo dục đạo đức con người và làm “mềm hóa”
những tờ công báo, tin tức đơn thuần với những thông tin khô khan, cứng nhắc,
để thu hút độc giả, chứ chưa hề có mục đích, ý thức rõ ràng về việc gây dựng
phát triển một nền quốc văn mới. Ngay cả việc truyền bá học thuật tư tưởng Âu
Tây cũng còn thấp kém, điều đáng ghi nhận lớn nhất của những tờ báo này là
việc góp phần cổ vũ và phát triển chữ quốc ngữ.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cho rằng: “Quốc văn bắt đầu
thịnh, bắt đầu có cái giọng hoa mỹ dồi dào và chú trọng về tư tưởng là nhờ
công các nhà biên tập hai tờ tạp chí Bắc Hà: Đông Dương tạp chí và Nam
phong tạp chí”. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu khẳng định: “Trước 1913,
báo chỉ chủ yếu giúp người đọc làm quen với chữ quốc ngữ”. Không phải ngẫu
nhiên mà sự ra đời của hai tờ báo Đông Dương tạp chí (1913) và Nam Phong
tạp chí (1917) lại được nhiều người chú ý, được giới nghiên cứu văn học sử
đánh giá cao, xem như đây là những tạp chí có tính chất chuyên ngành là “cơ
quan văn học vào buổi mà đối với văn chương, mọi người còn bỡ ngỡ”. Chỉ
riêng hai tờ báo này đã mở ra một không gian văn học và cho chúng ta cái nhìn
khá tổng quát về sự phát triển của văn học Việt Nam ở những thập kỷ đầu của
thế kỷ XX.
“Báo chí là nơi sưu tầm và giới thiệu văn học cổ Việt Nam, giới thiệu văn
học Pháp và văn học Trung Quốc”. Đây là một nhận xét hoàn toàn xác đáng.
Tuy ban đầu, việc giới thiệu các tác phẩm chữ Hán, văn học Pháp và văn học
Trung Quốc, chỉ nhằm mục đích thay đổi thói quen và ngôn ngữ của người Việt,
về sau các nhà biên tập báo chí đã thực hiện công việc này một cách có ý thức
26
và có hệ thống.
Đối với công tác bảo tồn vốn cổ: Trước khi có sự phát triển của nhà in,
việc xuất bản sách gặp nhiều khó khăn, báo chí là địa bàn lý tưởng nhất để sưu
tầm, lưu giữ và giới thiệu lý tưởng nhất. Tuy nhiên, nguồn gốc sâu xa của vấn
đề này là ở chỗ, những thay đổi về cơ chế xã hội, sự thâm nhập của các yếu tố
văn hóa mới, lực lượng sáng tác cựu học bỗng nhiên hẫng hụt, những người trí
thức, tân học cũng không thể làm ngơ trước nền Hán học vốn đã tồn tại cả nghìn
năm nay đang dần rơi vào lãng quên. Chính vì thế, rất nhiều tờ tạp chí đã bắt
đầu quan tâm tới nhiệm vụ “bảo tồn cổ học”, làm sống lại kho tàng văn học cổ
Việt Nam. Với chủ trương “điều hòa tân cựu học”, Đông Dương tạp chí, Nam
Phong tạp chí, An Nam tạp chí… đã khích lệ các tác giả truyền thống tiến hành
cuộc tổng duyệt lại văn chương truyền thống và bảo tồn bằng cách dịch sang
chữ quốc ngữ. Hệ thống lại, công cuộc bảo tồn vốn cổ trên báo chí được thực
hiện theo hai hướng chính là sưu tầm, dịch thuật và xây dựng các công trình
khảo cứu về văn học cổ. Công cuộc bảo tồn vốn cổ không chỉ mang lại ảnh
hưởng nhất định đến đời sống văn hóa, văn học đương thời mà còn có ý nghĩa
về sau, đây là một trong những công lao to lớn của báo chí mà không ai có thể
phủ nhận được.
Văn học hiện đại Việt Nam chịu ảnh hưởng của hai nguồn nguồn văn
học chính là Trung Quốc và Pháp. Điều này chính bởi nhờ công lao phần lớn
của báo chí đã đẩy mạnh công tác dịch thuật, giới thiệu các tác phẩm nước
ngoài mà đặc biệt là văn học Pháp. Tiểu thuyết cổ điển, các tác phẩm văn học
cận hiện đại của Trung Quốc được giới thiệu thông qua các bản dịch của
Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính… nếu như báo chí miền Bắc thiên về đăng tải
các loại tiểu thuyết lịch sử, tài tử giai nhân thì báo chí miền Nam lại thường giới
thiệu tiểu thuyết võ hiệp. Phải nói rằng, không ai khác chính là báo chí thông
qua việc dịch thuật giới thiệu văn học Pháp đã khơi thông một dòng chảy cho
văn học Việt Nam gia nhập vào dòng chảy chung của văn học thế giới. Qua báo
27
chí, lần đầu tiên người ta biết đến một nền văn hóa, văn học hoàn toàn khác với
những gì họ từng được biết đến. “Tiểu thuyết Tây diễn nôm”, “Pháp văn” là
một trong những chuyên mục chính và thường xuyên trên các số báo ra của
Đông Dương tạp chí. Và, chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh được đánh giá là “Người
giữ giải quán quân ở nước ta” về số lượng sách Pháp dịch ra quốc văn; Nam
Phong tạp chí có các mục đăng “Truyện ngắn Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX”, “Pháp văn tiểu thuyết bình luận”, “Văn học bình luận” viết các bài phê
bình tiểu thuyết Pháp và thảo luận về lịch sử, những thể loại chính của Pháp
văn.
Rõ ràng, báo chí đã mở rộng tầm nhìn, đem đến nguồn kiến thức phong
vô cùng phong phú mà “Người Tây học có thể thấy trong đó những tinh hoa
của nền cổ học Trung Hoa mà nước ta đã chịu ảnh hưởng từ lâu đời; Người
Hán học có thể thấy trong đó những tư tưởng mới của Tây phương là những tư
tưởng mà người Việt Nam ta cần phải biết rõ để mà thâu thái ”
Quá trình “luyện tập câu văn và viết dần tác phẩm” trên báo chí giai
đoạn này diễn ra sôi nổi. Ở Nam Bộ, hàng loạt tác phẩm của Nguyễn Chánh Sắt,
Lê Hoằng Mưu, Trương Duy Toản, Hồ Biểu Chánh, Trương Vĩnh Ký… được
đăng tải trên Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn… Ở Bắc Bộ, phong trào sáng
tác nở rộ, trên Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí… liên tục xuất hiện
những tác phẩm văn xuôi quốc ngữ của Phạm Duy Tốn, Tản Đà, Nguyễn Văn
Vĩnh, Hoàng Ngọc Phách, Phạm Quỳnh, Đông Hồ, Tương Phố. Sự phát triển
của văn chương quốc ngữ trên báo chí ngày càng phong phú, đa dạng với rất
nhiều thể loại từ tản văn, truyện, ký đến tiểu thuyết, bình luận. Ban đầu, văn học
dịch chiếm số lượng ưu thế trên báo chí nhưng càng về sau thì những tác phẩm
văn chương quốc ngữ đã xuất hiện với tần xuất nhiều hơn. Về mặt ngôn ngữ,
nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đánh giá: “Người ta đã thấy từ đời Đại Việt tân
báo và Đại Nam đồng văn nhật báo đến thời Đông Dương tạp chí, chỉ trong
28
khoảng bảy tám năm, quốc văn đã tiến bộ rất mau. Năm 1907, người ta thuật có
vài chục dòng về Denis Papin cũng không nên lời mà năm 1913, Nguyễn Văn
Vĩnh và Phan Kế Bính đã có thể dùng quốc văn để dịch hài kịch của Moliere và
những bài Hán văn rất là chải chuốt. Đến Nam Phong ra đời quốc văn lại cao
thêm một bậc nữa”.
Soi vào diện mạo nền văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX, chúng ta
nhận thấy, hầu hết các tác phẩm văn chương hay và có giá trị đã gây được
những ảnh hưởng lớn và sâu sắc đối với nền văn học hiện đại đều được đăng tải
trên báo chí, thậm chí còn có nhận xét: “Dường như văn học chui vào báo chí
và hầu như mọi tác phẩm văn học đầu thế kỷ XX trước khi in thành sách đều lần
lượt đăng tải từng kỳ trên mặt báo”.
2.2.2. Vai trò của báo chí với quá trình hình thành lực lượng sáng tác
văn học hiện đại.
Sự hình thành lực lượng sáng tác văn học hiện đại 30 năm đầu thế kỷ XX
khá phức tạp, được quy định bởi tính chất giao thời của văn học, trong đó “báo
chí là môi trường thu hút đông đảo gương mặt kiểu trí thức văn nghệ sĩ điển
hình đương thời định hình cho văn học hiện đại”. Vũ Ngọc Phan khi nghiên
cứu về nhà văn hiện đại, “những nhà văn hồi mới có chữ quốc ngữ”, đã kể ra
một loạt gương mặt rất quen thuộc của báo chí như Trương Vĩnh Ký (chủ bút
của Gia Định báo), Nguyễn Văn Vĩnh (chủ bút Đông Dương tạp chí), Phạm
Quỳnh (chủ bút Nam Phong tạp chí), Tản Đà (chủ bút An Nam tạp chí)… và
nhiều tên tuổi khác đa số đều là những người tham gia viết báo. Ngay tại thời
điểm đó, bản thân những người viết báo đã ý thức được sự xuất thân và tồn tại
của nhà văn. Phạm Quỳnh, trong bài viết “Báo chí An Nam” đăng trên Nam
Phong tạp chí khẳng định: “Văn học hiện đại của chúng ta chỉ xuất hiện từ sau
khi có báo chí ra đời. Những tác giả đầu tiên của những tác phẩm được viết
29
bằng chữ Quốc ngữ đều được đào tạo trong môi trường báo chí”.
Không ai có thể phủ nhận về những ý kiến, đánh giá này. Cũng cần phải
khẳng định lại rằng, báo chí được xuất hiện ở Việt Nam do chủ ý của thực dân
Pháp và hầu hết các tờ báo đều do người Pháp đứng tên sáng lập, nhưng chịu
trách nhiệm về nội dung và hoạt động của tờ báo lại là đội ngũ trí thức người
Việt bao gồm cả tân học lẫn cựu học.
Đối với giới tân học, báo chí là một địa hạt vô cùng lý tưởng để gieo
mầm ý tưởng. Bắt đầu từ Trương Vĩnh Ký, người làm báo đầu tiên ở Việt Nam
với dấu mốc “Gia Định báo”, đến Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy
Tốn, Hoàng Ngọc Phách, Phan Khôi… Hầu hết đều được đào tạo trong các
trường tân học, được tiếp xúc và tiếp thu những ý tưởng, học thuật mới mẻ của
văn minh phương Tây, đặc biệt là văn minh Pháp. Với tinh thần canh tân đất
nước, họ tích cực hoạt động trong môi trường báo chí, sử dụng báo chí làm công
cụ cho sự nghiệp cách mạng văn hóa, thay đổi xã hội. Một mặt họ tích cực
nghiên cứu, dịch thuật, giới thiệu văn hóa, tư tưởng phương Tây, đặc biệt là các
tác phẩm văn học nổi tiếng của Pháp; một mặt họ tiến hành những thể nghiệm
văn học mới, đưa sáng tác mới lên mặt báo, nhằm kiến tạo một mô hình văn học
hiện đại. Rõ ràng, các nhà tân học làm báo nhưng tại rất chú trọng tới nền quốc
văn và có ý thức tích cực hoạt động để xây dựng nó, chính vì thế, đội ngũ tác
giả văn học mới dần được hình thành. Đội ngũ tác giả văn học trưởng thành từ
báo chí đã trở thành lực lượng sáng tác quan trọng nhất trong quá trình hiện đại
hóa văn học dân tộc.
Báo chí cũng là lựa chọn của những nhà nho cuối mùa như Nguyễn Đỗ
Mục, Phan Kế Bính, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Hữu Tiến…Sự tàn cục của chế
độ khoa cử phong kiến và thất thế của văn chương chữ Hán khiến cho những
nhà cựu học không khỏi nuối tiếc, than thầm. Từ bỏ văn chương truyền thống
không phải là dễ dàng, nhưng cũng khó có thể tiếp tục sáng tác, sự xuất hiện
30
trên báo chí được coi là một nỗ lực cách tân lớn của đội ngũ cựu học “muốn
dùng tờ báo để họp đoàn doanh sinh”. Được sự cổ vũ của chủ trương “điều hòa
tân cựu học”, “bảo tồn cổ học”, các nhà cựu học hồ hởi bắt tay vào công cuộc
tổng duyệt lại văn chương truyền thống và bảo tồn vốn cổ bằng cách chuyển
dịch ra chữ quốc ngữ. Trên báo chí xuất hiện nhiều công trình biên khảo kết hợp
sưu tầm với khảo luận về thể cách, luật lệ, nguồn gốc, lịch sử phát triển của các
thể loại văn học truyền thống. Phong trào này dẫn đến sự xuất hiện của các cây
bút biên khảo xuất sắc như Phan Kế Bính (Hán Việt văn khảo – bàn về chữ Hán
ở Trung Quốc, Việt Nam và triết học Trung Quốc đăng trên Đông Dương tạp
chí), Nguyễn Bá Trác (những công trình biên khảo học thuật tư tưởng Á Đông),
Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật…
Nỗ lực cách tân văn chương truyền thống phải kể đến những nhà cách
mạng yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh
Thúc Kháng …đây chính là những tác giả tiêu biểu của dòng văn học yêu nước
đầu thế kỷ XX. Nỗ lực cách tân của đội ngũ tác giả này chính bởi muốn tìm
những phương pháp sáng tác văn chương mới phù hợp với nhu cầu, thị hiếu
công chúng. Thông qua đó, họ có thể sử dụng văn chương như một công cụ hữu
ích để cổ động cách mạng và truyền bá tư tưởng, tinh thần yêu nước tới quần
chúng nhân dân.
Có thể thấy, báo chí là môi trường hình thành, đào tạo và nuôi dưỡng
đông đảo đội ngũ tác giả văn học hiện đại, là nơi nương náu, chuyển mình của
đội ngũ tác giả truyền thống. Thông qua hệ thống báo chí giai đoạn 1900-1930,
chúng ta có thể hình dung một cách tương đối đầy đủ gương mặt văn học đương
thời, thậm chí, qua đó chúng ta còn “có thể hình dung toàn bộ văn nghiệp của
tác gia văn học” được nhắc tới trong mọi thời đại. Và, vượt khỏi khung khổ của
thời gian, báo chí giai đoạn này còn có tác động, ảnh hưởng tới đội ngũ tác giả
văn học sau 1930 như: Nguyễn Công Hoan, Tương Phố, Vũ Đình Long, Tam
31
Lang, Thái Phỉ,…
2.2.3. Sự tác động của báo chí đến quá trình hình thành thể loại văn
học.
“Quá trình hình thành hệ thống thể loại mới, một trong những dấu hiệu
cơ bản nhất xác định sự ra đời của văn học Việt Nam hiện đại, là cả một quá
trình vận động vừa gấp gáp vừa kiên trì, là kết quả hội tụ của những yếu tố nội
sinh và ngoại nhập như một sự thức tỉnh và vượt thoát về văn hóa, một cuộc
cách mạng văn học dân tộc trên con đường hiện đại hóa trong toàn cảnh phục
hưng văn hóa Việt diễn ra sôi nổi trong 30 năm đầu thế kỷ này”. Bức tranh về
quá trình vận động ấy, chúng ta sẽ được chứng kiến rõ ràng và cụ thể hơn trên
diễn đàn báo chí.
Đặc điểm nổi bật của giai đoạn văn học này là tính giao thời, vì thế sự
chúng ta cũng dễ dàng nhận ra sự đan xen, tương tác giữa các thể loại của hai
nền văn học cũ và mới. Chẳng hạn như cả Phan Bội Châu, cả Hồ Chí Minh, về
căn bản vẫn dùng thơ Hán, Nôm để tuyên truyền cách mạng (phong vị cổ điển
và tinh thần hiện đại). Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có sự dung hòa
giữa đạo đức truyền thống với những nội dung hiện thực của đời sống đương
thời, dung hòa giữa hình thức tự sự hiện đại với hình thức tự sự trung đại, thậm
chí trong thiên truyện khởi đầu cho sự nghiệp tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, U
tình lục, đã được viết bằng văn vần, cách kết cấu, bố cục, văn phong đều bị
Truyện Kiều và Lục Vân Tiên chi phối sâu sắc. Tiểu thuyết của Nhất Linh trước
1932 vẫn sử dụng kết cấu, chất liệu hình ảnh, văn phong của truyện nôm các thế
kỷ trước. Nguyễn Bá Học, vẫn sử dụng lối văn biền ngẫu, hình ảnh ước lệ trong
các sáng tác mô tả khách quan hiện thực cuộc sống. Ngay đến Tản Đà, người có
ý thức rõ ràng và có những quan niệm mới về nghề văn, mặc dù có sự cách tân
trong hình thức thức thể loại nhưng về cơ bản sáng tác của ông vẫn mang hình
32
thức thể loại truyền thống.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy, quá trình tìm tòi, thể nghiệm của
các nhà tác giả cũng đã nhanh chóng đi đến định hình một hệ thống thể loại của
nền văn học hiện đại. Từ sau “ngôi sao băng” Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn
Trọng Quản xuất hiện trên báo năm 1887, và những thể nghiệm tiếp theo như:
Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân (Trương Duy Toản - 1910, Nam Bộ);
Nam Hải dị nhân (1907), Hưng Đạo đại vương (1909-1912) của Phan Kế Bính
ở Bắc Bộ. Nhìn chung giai đoạn đầu, tác phẩm dịch thuật vẫn chiếm ưu thế trên
mặt báo. Sang khoảng năm 1915, báo chí liên tục đăng tải những tác phẩm văn
xuôi nghệ thuật bằng chữ quốc ngữ, sự quảng bá cho văn học quốc ngữ cũng đa
dạng hơn và đặc biệt quá trình tập dượt câu văn và viết dần tác phẩm đã đạt đến
độ chín. Đến khi Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn với hàng loạt truyện ngắn
đăng tải; tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Quả
dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật… xuất hiện, thì phong trào sáng tác truyện
ngắn, tiểu thuyết bắt đầu lan rộng trong cả nước. Theo thống kê của Cao Xuân
Mỹ, trong khoảng hơn mười năm từ 1920 đến 1932, trên toàn quốc, có tới 290
tác giả viết tiểu thuyết với 491 đầu tác phẩm. Cũng trong thời gian này, loại
hình nghệ thuật kịch của phương Tây được đưa vào thể nghiệm, tiêu biểu là
kịch của Vũ Đình Long, Nam Xương, Tản Đà, Tương Phố, Đông Hồ, Trần
Tuấn Khải… dẫn tới một lối thơ thiên cảm xúc cá nhân, manh nha cho một
dòng thơ mới, dòng thơ lãng mạn ở giai đoạn sau. Với sự xuất hiện của nhiều
tác phẩm mang tính ghi chép, đặc biệt là sự xuất hiện của Chuyến đi Bắc Bộ
năm Ất Dậu (Trương Vĩnh Ký), Hương Sơn hành trình (Nguyễn Văn Vĩnh),
Hạn mạn du ký (Nguyễn Bá Trác), các tác phẩm ký của Phạm Quỳnh, Nguyễn
Đôn Phục, Đông Hồ, Tương Phố… thể ký chính thức xuất hiện trong văn học
quốc ngữ. Như vậy, thông qua báo chí với khoảng thời gian mấy chục năm vận
động, thể nghiệm, như nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương nhận định: “Cấu trúc
33
của hệ thống thể loại của nền văn học mới đã thực sự Âu hoá, gom đủ diện mạo
của những thể loại và thể tài chính yếu: tự sự, trữ tình, kịch”, định hình một mô
hình văn học mới thay thế văn học Hán Nôm.
Với những vấn đề chúng tôi vừa trình bày, hoàn toàn có thể khẳng định
báo chí đóng một vai trò tích cực trong quá trình hiện đại hóa nền văn học. Thực
tế, cũng không quá khi có người cho rằng lịch sử phát triển của báo chí Việt
Nam gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển nền văn học hiện đại Việt
34
Nam.
Chương II
VAI TRÒ CỦA ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ TRONG TIẾN TRÌNH HIỆN
ĐẠI HOÁ VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX
I. Tiền đề, tôn chỉ mục đích và sơ bộ hệ thống chuyên
mục của Đông Dương tạp chí
1. Những tiền đề dẫn tới sự ra đời của Đông Dương tạp chí.
Chỉ ít năm sau khi nổ súng xâm lược Việt Nam, Pháp tiến hành ngay việc
đưa báo chí vào đất nước ta phục vụ cho âm mưu “nô dịch văn hoá tinh thần
người bản xứ”, như Soái phủ Nam kỳ đề cập: “Đã đến lúc cần mở mang giáo
dục, truyền bá học thuật và tư tưởng Pháp, tạo cho việc đưa chữ quốc ngữ vào
quỹ đạo xâm lăng văn hoá đánh bạt chữ Nho”. Sau hơn một tháng điều tra tình
hình chính trị của Việt Nam, viên thanh tra chính trị bản xứ, Sestier cũng nhận
định: “Thay thế cho những tin tức xâm nhập vào xứ này bằng con đường báo
chí Trung-hoa, chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất nên có ngay ở xứ này một tờ báo
An-nam mà trong đó, mỗi một sự kiện lý thú sẽ được trình bầy thực thà, rõ ràng,
kèm theo một sự giải thích cụ thể trong mức độ cần thiết và những lời bình luận
hợp pháp” (dẫn theo “Chủ đích Nam Phong”, trang 136, của Nguyễn Văn
Trung). Trong một bản báo cáo của thống sứ Bắc Bộ Le Gallen năm 1915 đệ
trình lên phủ Toàn quyền tiếp tục khẳng định: “…Thư viện truyền bá bao gồm
các phần văn chương, khoa học và giáo dục trong các tạp chí định Bộ sẽ là
chiếc xe phi thường chở tư tưởng nước Pháp vào xứ này”, và “biến nhà xuất
bản thành một tao đàn mà ở đó sẽ có nhiều cuộc va chạm về tư tưởng hơn ở
ngoài dân chúng” là cách tốt nhất để kiểm soát chặt chẽ lòng yêu nước của
nhân dân ta. Chúng cũng định ra nghĩa vụ của nhà báo là: “Phải diễn giải cho
người ta biết công khai hoá của Pháp ở xứ sở này… phải chỉ bảo, thuyết minh,
35
diễn giải, bình luận cho người ta biết cái công ấy lớn lao chừng nào bởi lòng
quảng đại vô cùng của nước Đại Pháp… khiến cho người được hưởng cái công
đức ấy phải đội ơn kính trọng đời đời” (lời Toàn quyền Đông Dương
A.Sarraut). Không khó để chúng ta nhận thấy là, trong suốt quá trình xâm lược
Việt Nam, báo chí vẫn luôn luôn được thực dân Pháp chú trọng và thường
xuyên sử dụng như một thứ công cụ, vũ khí lợi hại trong âm mưu biến Việt
Nam thành thuộc địa phụ thuộc hoàn.
Lúc này, đứng trước tình hình của đất nước, tư tưởng canh tân xã hội Việt
Nam ngày càng được giới Hán học lẫn Tây học đặc biệt quan tâm chú trọng.
Cơn gió duy tân nho gia với sự xuất hiện ngắn ngủi của Đông Kinh nghĩa thục
đã như một nguồn động lực giúp đội ngũ tây học phấn chấn, hào hứng nắm lấy
“bó đuốc duy tân” nhằm thực hiện nhiệm vụ canh tân đất nước. Báo chí đã được
họ lựa chọn và được cho là công cụ hữu hiệu nhất trong công cuộc vận động
duy tân này.
Rõ ràng, báo chí nói chung và Đông Dương tạp chí nói riêng đều là sự
lựa chọn tối ưu của cả Pháp và giới “duy tân”. Nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ
cũng từng nhận định: “Đối với Schneider và những người Pháp đứng sau tờ
Đông Dương tạp chí, thì mục tiêu chính trị là quan yếu nhất. Còn đối với những
người Việt Nam cộng tác, đứng đầu là Nguyễn Văn Vĩnh, hẳn các ông cũng
muốn lợi dụng báo để làm nơi tuyên truyền cho việc duy tân đất nước và xây dựng văn học mới...”1. Đấy chính là nguyên nhân, tiền đề đầu tiên dẫn tới sự ra
đời của Đông Dương tạp chí.
Một tiền đề quan trọng nữa là, trong khi chữ Hán cùng với đội ngũ nhà
nho ngày một bị thu hẹp thì chữ Quốc ngữ gắn liền với đội ngũ tân học lại dần
được mở rộng và sự ảnh hưởng của phương tây cũng ngày càng sâu sắc, rõ nét.
Luồng tư tưởng mới, chất liệu ngôn ngữ mới (chữ quốc ngữ) cần phải có môi
trường để thể nghiệm, chính điều này đã chắp cánh cho nền văn học, báo chí
36
phát triển.
Sự hình thành và phát triển của những đô thị hiện đại làm xuất hiện nhiều
tầng lớp mới trong xã hội ít nhiều ảnh hưởng từ lối sống phương tây. Từ đó dẫn
tới sự ra đời của một bộ phận công chúng mới ở thành thị với nhiều nhu cầu
mới mẻ và những nhu cầu được thưởng thức nghệ thuật hiện đại, hấp dẫn. Đây
cũng chính là môi trường trải nghiệm, thử nghiệm của những sáng tạo nghệ
thuật để hình thành nên một lớp nhà báo, nhà văn mới và dần đi vào con đường
chuyên nghiệp. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác in ấn, xuất bản, phát hành
báo chí được xây dựng, thiết lập ngày càng nhiều cũng là một trong những tiền
đề quan trọng cho sự phát triển nhanh chóng của báo chí nói chung và sự ra đời
của Đông Dương tạp chí nói riêng.
Bước sang thế kỷ XX, về cơ bản Việt Nam đã bị đánh bại, nhưng không
cam chịu, khuất phục. Hàng loạt phong trào vận động, đấu tranh của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của các nhà nho, chí sĩ yêu nước vẫn không ngừng dâng lên.
Sau các cuộc vận động Duy tân, Đông du, việc mở các trường nghĩa thục bắt
đầu từ Đông Kinh nghĩa thục, lại tiếp đến sự bùng phát của các đợt chống thuế,
xin xâu ở Trung Bộ; đặc biệt, Việt Nam Quang Phục Hội ở Bắc Bộ liên tiếp tổ
chức các hoạt động vũ trang giết chết các quan tuần phủ, quan và lính Pháp làm
chấn động dư luận. Thực dân và chính quyền Nam triều lúng túng lo ngại, liên
tục thay đổi Viên toàn quyền Đông Dương, đồng thời tìm cách điều chỉnh
phương thức cai trị. Với Pháp, báo chí vẫn được xem là công cụ đắc lực phục vụ
cho công cuộc chinh phục của chúng.
Theo đó, báo chí được tạo những thuận lợi nhất định và có cơ hội phát
triển ngày càng sâu rộng, trở thành một hiện tượng mới mẻ trong đời sống văn
hóa Việt Nam. Đông Dương tạp chí là một tờ báo đặc biệt, được “vội vàng” ra
theo thâm ý chủ quan ban đầu của Pháp: “Đem văn chương học thuật, đem ân
huệ văn minh của nhà nước Lang Sa mà khua sáo cho lấp được những lời gây
37
loạn”.
1.1. Tôn chỉ mục đích của Đông Dương tạp chí
Ngày 15 tháng 5 năm 1913, Đông Dương tạp chí chính thức ra đời, do
F.H.Schneider, chủ của nhiều tờ báo có tiếng ở Việt Nam lúc bấy giờ sáng lập.
Chủ bút là Nguyễn Văn Vĩnh, nhà tân học, người hoàn toàn chịu ảnh hưởng của
lối tây học. Đông Dương tạp chí là tờ báo tiếng Việt đầu tiên xuất bản ở Hà Nội,
được ấn định ra vào thứ 5 hàng tuần.
Đông Dương tạp chí ra đời trước hết nằm trong sự tính toán xâm lược
văn hóa của thực dân Pháp. Vì thế, toàn bộ nội dung của tờ báo đều phải chịu sự
kiểm duyệt của nhà cầm quyền, và vì thế mục đích của tờ báo phải thuận lợi và
phục vụ cho mục đích tuyên truyền của thực dân. Như trong mục “Cẩn cáo”
trên Đông Dương tạp chí số ra mắt đầu tiên ngày 15 tháng 5 năm 1913, đã viết:
“Bản báo vì có việc nguy-biến phải vội-vàng in ra, cho nên Bộ đầu này không
kịp trình duyệt-báo chư quân tử, chủ-nghĩa báo này thế nào, và lối in, lối soạn
chương mục báo có những gì, không kịp nói cho rõ được. Đến Bộ sau bổn-quán
xin kể minh bạch chương-trình, chủ-nghĩa. Nay hãy nói đại cương để các ngài
biết. Mỗi Bộ sẽ có một bài tổng thuật các việc trong tuần-lễ, một bài đại luận về
thời-sự, các điện-báo-hoàn-cầu, các điều nên biết về buôn bán…”. Theo đó, bài
cũng nêu ra: “Cổ động cho dân An-nam lấy văn Quốc-ngữ làm quốc văn, làm
gốc nghề học”, “Bổn quán lại mở ra một chương đề là Đăng-văn cổ để lấy ra
nhờ sở-ước thực và lẽ phải của dân an-nam mà dâng lên cho chánh-phủ biết và
đem những ý cao Nhà-nước mà tỏ cho dân hay”.
Mặc dù xuất bản “vội-vàng”, nhưng thông qua các chuyên mục đăng tải
trên tờ báo, tôn chỉ, mục đích của Đông Dương tạp chí đã được chủ bút Nguyễn
Văn Vĩnh nhắc tới khá nhiều ngay trong số đầu tiên này. Trong mục “Chương
38
trình” còn nói rõ: “Tôi định trở về Saigon đã chừng 15 bữa nay, đã từ giã các
bạn quen ở Hà nội, định về cất nóc cái việc tổ-chức đã lâu, là việc in một tờ
riêng ở Bắc-Bộ, Trung-Bộ của báo “Lục tỉnh tân văn”. Tờ riêng ấy đặt tên là
“Đông-Dương-Tạp-Chí”, nguyên mục-đích là đem các thuật hay nghề mời
Thái-tây mà dạy phổ thông cho người an-nam. Quan Toàn-quyền vốn chỉ muốn
dùng hết chước mà cho dân an-nam được học, cho nên tôi đệ chương-trình lên
thì ngài duyệt và y ngay. Quan Thống-sứ Destenay thì đã nhiều phen tỏ lòng
bảo-hộ cho tôi được phấn-chấn mà làm điều công-ích ấy”; và ở mục Giải ưu
cũng có đoạn viết: “Bổn quán in ra đây các thơ, giây thép, và các lời viết mà
quan toàn-quyền và quan thống-sứ đã tiếp được. Xem như lòng các quan An-
nam phần nhiều cũng tỏ trung nghĩa với nhà nước như vậy thì quốc gia cũng
giải được cơn sầu ít nhiều…mà hưởng cái cuộc êm ái của hai dân, vì có sự nguy
chung thành tương thân tương ái”.
Trong số báo thứ 2, ra ngày 22 tháng 5 năm 1913, ở mục “Chủ-nghĩa”,
tôn chỉ, mục đích của Đông Dương tạp chí một lần nữa được nêu lại rõ ràng và
cụ thể hơn, đó là: “Phổ biến văn hoá Tây phương, cổ động học chữ quốc ngữ,
giới thiệu hiến thức thực nghiệp như canh nông, công nghệ và tuyên truyền cho
chính phủ bảo hộ”.
Đánh giá về tôn chỉ, mục đích của Đông Dương tạp chí, Nguyễn Văn
Trung cho rằng: “Tất cả các mục tiêu mà Đông Dương tạp chí đề ra đều giống
với mục tiêu của phong trào Đông kinh nghĩa thục, trừ việc tuyên truyền cho
chính phủ bảo hộ”. Tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ là một trong những
trọng trách mà Đông Dương tạp chí phải đảm nhận, và đó cũng là điều kiện,
cách thức để tờ báo này có thể tồn tại. Đông Dương tạp chí được chính quyền
Pháp chú ý đỡ đầu, chúng bắt buộc tất cả các trường làng và trường tổng ở Bắc
Bộ phải đặt mua Đông Dương tạp chí hàng Bộ. Trong bài “Cẩn cáo” của số
39
báo ra ngày 4 tháng 1 năm 1914 ghi rõ: “Thống sứ Bắc Bộ ra thông tư cho các
tỉnh: mỗi trường tổng sư và hương sư phải mua tờ Đông Dương tạp chí để dùng
làm sách chỉ nam trong trường học”.
Dưới đây chúng tôi dẫn ra một phần nội dung có tính chất tự tổng kết
đánh giá về tôn chỉ, mục đích của Đông Dương tạp chí sau bốn năm hoạt động,
được đăng trên số báo 122 ra ngày 15 tháng 5 năm 1917:
“Hôm nay là ngày sinh nhật thứ tư của bản quán, lập ra tại Hà Nội,
chính giữa ngày 15 tháng 5 năm 1913.
Bốn năm nay bổn quán may mà được việc luôn. Đối với quốc gia trong những
tình ý quan dân cũng phải hiểu rõ, thì bản báo làm cái mối giao tiếp cho trên
dưới thân tín, cho đỡ nhiều việc hiểu sai nhau đến lưu huyết. Đối với công nghệ
thì bản quán đã hết sức tìm cứu những tân phương biệt kế, cho việc cày cấy
phát đạt…
Đối với việc bán buôn bản quán cũng đã cố sức…
Đối với việc giáo-hóa quốc dân, là tôn chỉ của bản quán, thì từ đầu đến
giờ bản quán đã đem hết tài lực, không quản phí tổn, không quản gian lao mà
gây cho lấy được một cuộc Nam học làm gốc cho dân, phải để lên trên cả…”.
Như vậy, sau khi khảo sát chúng tôi nhận thấy: trong quá trình phát triển,
Đông Dương tạp chí không chỉ có sự thay đổi về khuôn khổ, số lượng; mà cùng
với sự thay đổi nội dung và các chuyên mục, tôn chỉ, mục đích của Đông
Dương tạp chí cũng có những thay đổi theo quá trình phát triển của tờ báo. Cụ
40
thể là về nội dung, số lượng trang báo dành cho nhiệm vụ tuyên truyền cho
chính phủ bảo hộ dần bị thu hẹp và được thay thế bằng các hoạt động hướng
vào tuyên truyền văn chương, học thuật, sau cùng là hoàn toàn chú trọng vào
nhiệm vụ giáo hóa quốc dân, gây dựng một nền quốc văn mới.
3. Cách thức trình bày và hệ thống chuyên mục trên Đông Dương tạp
chí.
Về cách thức trình bày, chúng ta có thể hình dung về tờ Đông Dương tạp
chí như sau: Ở đầu trang nhất, dưới tên Đông Dương tạp chí có viết: “Edition
spéciale du “Lục tỉnh tân văn” Pour le Tonkin et I’ Annam” (ấn bản đặc biệt của
Lục tỉnh tân văn ở Bắc Bộ và Trung Bộ), tiếp đó là dòng chữ Đông Dương tạp
chí được viết bằng chữ Hán, tiếp theo là phần mục lục được đặt ở phía lề bên
trái của tờ báo.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, Đông Dương tạp chí xuất bản năm 1913 và
đình bản vào năm 1919. Tuy nhiên, tìm hiểu nguồn tư liệu tại Thư viện Quốc
gia Hà Nội và Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, chúng tôi chỉ khảo sát được những
văn bản xuất bản từ năm 1913-1917, trong đó có nhiều số báo không được lưu
trữ. Hiện Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I chỉ lưu trữ một vài tập báo của năm
1913, 1915 nhưng rất rời rạc và một số tài liệu tiếng Pháp thuộc phông Thống
sứ Bắc Bộ (hồ sơ 79456), trong đó có công văn của Toàn quyền Đông Dương
gửi Thống sứ Bắc Bộ về việc cho xuất bản Đông Dương tạp chí bằng chữ quốc
ngữ truyền bá ở Bắc Bộ, công văn đề ngày 16/1/1913, ngoài ra còn có thư của
tòa công sứ Hải Dương và một số quan lại đánh giá về Đông Dương tạp chí.
Thư viện Quốc gia Hà Nội lưu trữ được phần lớn số lượng báo của các năm
1913, 1914, 1916, 1917. Riêng năm đình bản của tờ tạp chí này vẫn đang để dấu
41
hỏi (?), chưa được xác định rõ ràng.
Căn cứ vào hình thức cũng như nội dung từ những số báo khảo sát, chúng
tôi nhận thấy phát Đông Dương tạp chí triển theo hai giai đoạn sau:
Từ năm 1913 (số 1- số 33) đến năm 1914 (số 34 – số 52):
Đông Dương tạp chí có khuôn khổ lớn, độ dày của báo dao động từ 16
đến 24 trang. Số lượng các chuyên mục trong mỗi số báo là khá lớn. Trong quá
trình phát hành, Đông Dương tạp chí có sự thay đổi thêm bớt ít nhiều về chuyên
mục, ví dụ như chuyên mục “Tân học cổ học bình luận”, và một số chuyên mục
phục vụ cho các mục đích chính trị, xã hội, thời sự… lúc bấy giờ, đặc biệt từ số
45, Đông Dương tạp chí xây dựng mục “Tân học văn tập” với hai nội dung lớn
là: Văn chương khoa và sư phạm học khoa. Song về cơ bản trong hai năm này,
Đông Dương tạp chí vẫn giữ nhiều chuyên mục ổn định và xuyên suốt, cụ thể là
những chuyên mục sau:
1. Kính Khai
2. Cẩn cáo
3. Thời sự tổng thuật
4. Điện báo
5. Quan báo lược lục
6. Đông Dương thời sự
7. Nhời đàn bà
8. Văn chương
9. Tự do diễn đàng
10. Dưỡng anh nhi pháp
42
11. Việc buôn bán
12. Luân lý học
13. Sách dạy tiếng An-nam.
Năm 1915
Bước sang năm thứ 3, Đông Dương tạp chí đã có sự thay đổi cả hình thức
lẫn nội dung. Về khuôn khổ, Đông Dương tạp chí từ cỡ lớn được đổi thành
cỡ nhỏ, đóng thành tập như sách với số lượng trên dưới 40 trang vẫn tiếp tục
ra hàng tuần. Về nội dung chủ yếu đề cập tới văn chương, học thuật. Hệ
thống chuyên mục của Đông Dương tạp chí bao gồm:
1. Pháp văn
2. Hán văn
3. Gương phong tục
4. Chuyện Hoa tiên
5. Kim Vân Kiều
6. Bình phẩm sách mới
7. Văn Nôm cổ
8. Văn Nôm đàng trong
Năm 1916 (từ số 51 đến số 104)
Về hệ thống chuyên mục của Đông Dương tạp chí năm 1916 chúng tôi
không nắm bắt được, do Thư viện Quốc gia chỉ còn lưu giữ được chuyên mục
Văn chương (cổ kim văn hợp thái). Chuyên mục này bao gồm các nội dung
sau: Pháp văn, Hán văn, văn Nôm, Gương phong tục, Kim - Vân - Kiều, Bình
43
phẩm sách mới.
Năm 1917 (số 104 đến số 134)
Các chuyên mục được đánh theo thứ tự chữ La mã, bao gồm các chuyên
mục chính như sau:
I. Tiểu thuyết tây diễn nôm.
II. Tiểu thuyết tàu.
III. Tân học văn tập (Văn quốc ngữ, cách trí, tập đọc, giảng nghĩa và
học thuộc lòng, Nam sử).
IV. Văn chương (Pháp văn, Hán văn, Kim Vân Kiều, Bình phẩm sách
mới).
V. Công văn tập.
VI. Thiệt hành điện học.
Như vậy, 2 năm đầu (1913-1914), Đông Dương tạp chí thực sự đóng vai
trò của một tờ báo cung cấp nội dung khá phong phú về mọi mặt trong đời sống
xã hội lúc bấy giờ. Mặc dù vậy Đông Dương tạp chí cũng không quên một trong
những mục đích, nhiệm vụ đề ra ban đầu là, xây đắp một nền quốc văn mới. Từ
năm 1915, Đông Dương tạp chí đã có hẳn một bước ngoặt, nội dung của tờ báo
chủ yếu chỉ dịch thuật đăng tải các tư tưởng học thuật và đặc biệt chú trọng đi
sâu vào đề tài văn chương.
Một trong những nguyên nhân khiến tờ báo thu hẹp và chuyên sâu không
nằm ngoài đánh giá của GS. Trịnh Vân Thanh:
“Mặc dù Đông Dương tạp chí ra đời không ngoài mục đích chính trị của
thực dân Pháp... Nhưng họ đã thất vọng vì các cây bút viết cho báo không theo
44
đúng mục đích chính trị, mà chỉ cốt thực hiện một nền quốc văn mới cho dân
tộc...Có thể nói đây là một tạp chí, trước nhất chuyên về việc dịch thuật Hán
văn và Pháp văn, nhằm mục đích nâng cao dân trí. Bên cạnh đó, nhóm Đông
Dương tạp chí cũng đã sáng tác nhiều loạt bài với lối văn bình dị, nhắm vào
việc giáo dục giới thanh niên trên con đường tiến hóa…Sau khi gạt bỏ những gì
có tính chất chính trị mà thực dân Pháp đã dụng ý, Đông Dương tạp chí quả
thật là đã có công xây dựng một cơ sở vững vàng cho nền quốc văn mới trong
lịch sử văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ 20”.
Một nguyên nhân khách quan không kém phần quan trọng dẫn tới sự thu
hẹp của Đông Dương tạp chí, có lẽ như Nguyễn Văn Trung nhận định: “Đông
Dương tạp chí, bề ngoài không phải là chính thức, cũng không được lãnh đạo
tốt và kiểm soát chặt chẽ vì một đàng Schneider chỉ khéo làm chính trị kinh
doanh về nghề in, mà ít để ý đến làm chính trị báo chí, mặt khác Nguyễn Văn
Vĩnh có thể là một nhà báo giỏi, nhưng lại rất vụng về chính trị. Ngôn ngữ của
Nguyễn Văn Vĩnh không những không tranh thủ được ai, đặc biệt giới sĩ phu mà
còn gây thêm đố kỵ, hận thù; Vĩnh tuyên truyền đề cao thực dân Pháp một cách
quá lộ liễu “gia nô” và mạt sát nhà nho, giới sĩ phu thậm tệ, đặc biệt là những
người làm cách mạng”. Sự không khéo léo của Nguyễn Văn Vĩnh và Đông
Dương tạp chí đã khiến Pháp cần có một tờ báo khác khôn khéo hơn, nhằm
tranh thủ hơn là đả kích, chủ trương dung hòa Đông - Tây hơn là đồng hóa âu
hóa. Đó phải là một “tờ báo quốc ngữ có lãnh đạo tốt và kiểm soát cẩn thận”
như trong báo cáo gửi Phủ toàn quyền ngày 15-11-1915 của Thống sứ Bắc Bộ
Le Gallen.
II. Vai trò của Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại
hoá văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ.
Gây dựng một nền quốc văn mới, cho đến những năm đầu thế kỷ XX hầu
45
như chỉ mới là việc của cá nhân, một nhóm người chứ chưa phải là tinh thần
chung. GS. Phạm Thế Ngũ, trong “Việt Nam văn học sử giản ước tân biên”, khi
nghiên cứu về văn học Việt Nam giai đoạn này, cũng đã nhận định đây vẫn là
thời kỳ “cả xã hội vẫn còn thở hút Hán học, tắm gội cổ truyền”.
Trong bài “Văn-chương An-nam”, Đông Dương tạp chí số 9 ra ngày 10
tháng 7 năm 1913, khi bàn về văn chương nước nhà, nội dung bài viết được đề
cập như sau:
“Thực là một vấn đền gấp và quan trọng mà không mấy người lo đến.
Các nho-gia nước Nam tuy phần nhiều cũng chịu rằng từ nay phải học
lấy quốc-văn làm gốc, nhưng mà cái ý thì nhiều người chịu bề ngoài, cái ý
nhỡn-tiền nó bắt phải chịu, mà bụng vẫn còn tiếc cái cao-thú ngâm nga, phải bỏ
đi thì thực đau lòng, sót ruột
(…) Xem như vậy thì tiếng An-nam mình giờ cũng đã đủ tiếng mà lập nên
được một văn-chương riêng, làm ra sách vở có ích cho cá nhân cả nước, nam
phụ lão ấu cũng hiểu được.
Bổn quán mở ra tờ Đông-dương tạp chí này là cốt trông mục đích ấy.
Ước gì các bậc cao-minh trong nước nam ông nào cũng lo việc gây dựng
văn-chương của nước mình, và đồng-tình với bổn-quán, sẽ hết lòng giúp cho
bổn-quán mà thành được việc hay và có ích lâu dài cho người an-nam ấy”
Bài viết dài hơn 1 trang, kí tên T.N.T (tên viết tắt của Tân Nam Tử -
người nước Nam mới, đây là một trong những bút danh của Nguyễn Văn Vĩnh).
Nội dung vừa than thở vừa thể hiện niềm mong mỏi và kêu gọi gây dựng một
nền quốc văn mới, đồng thời còn phân tích giữa hai lối văn sử dụng chữ hán-
nôm và chữ quốc ngữ.
Để đánh giá vai trò của trong Đông Dương tạp chí tiến trình hiện đại
46
hoá nền văn học nước nhà 30 năm đầu thế kỷ XX, chúng ta cần phải tìm hiểu
những đóng góp cũng như những tác động, ảnh hưởng của Đông Dương tạp chí
một cách cụ thể trên từng chuyên mục, chương trình đã được đăng tải. Mặc dù
không được khảo sát tất cả các số báo của Đông Dương tạp chí (Trong quá trình
khảo sát, chúng tôi đã gặp phải rất nhiều khó khăn bởi nguồn tài liệu này khá
hiếm. Rất nhiều số báo mà Trung tâm lưu trữ Quốc gia không còn lưu trữ được
là: toàn bộ số báo năm 1915, và các số báo 110,111, 112,113,125,127,133, của
năm 1917). Tuy nhiên, thông qua khảo sát số báo hiện còn được lưu trữ trong
Thư viện lưu trữ quốc gia các năm 1913, 1914, 1916, 1917, (trong đó, toàn bộ
số báo của hai năm 1913-1914 mờ và khó đọc) chúng tôi đã cố gắng hệ thống
lại và nghiên cứu, sau đó đưa ra những đánh giá. Chúng tôi đanh giá vai trò của
Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc ở những
đóng góp cụ thể sau:
1. Góp phần xây dựng “chất liệu nền” cho văn học hiện đại - văn chương
quốc ngữ.
2. Sưu tầm, dịch thuật và đăng tải các bài viết tư tưởng học thuật phương
tây, nhiều tác phẩm văn chương tiếng Pháp, chữ Hán, Nôm, chữ Trung
Quốc.
2.1. Góp phần xây dựng “chất liệu nền” cho văn học hiện đại - văn
chương quốc ngữ.
Có thể nói tuyên truyền, phát triển và hoàn thiện chữ quốc ngữ là một
trong những công việc được Đông Dương tạp chí đặc biệt chú trọng. Như chúng
ta đã biết, vốn chữ quốc ngữ ở Việt Nam được manh nha từ khoảng thế kỷ
XVII, được chú ý tới từ nửa cuổi thế kỷ XIX trải qua quá trình thể nghiệm dần
dần được tạo điều kiện phát triển và trở thành thứ ngôn ngữ riêng của dân tộc
47
Việt.
Có một thực tế không thể phủ nhận là chữ quốc ngữ cũng nằm trong kế
sách nô dịch của Pháp. Song, cũng giống như báo chí, thứ ngôn ngữ đã có
những “vượt thoát” nằm ngoài dự tính mà Pháp đã vạch ra. Sự ép buộc của
Pháp, cộng với nỗ lực tuyên truyền của giới Tây học, và việc đón nhận của dân
chúng, chữ quốc ngữ ngày càng lan rộng, không còn là “ngôn ngữ trung
chuyển” mà thực sự trở thành ngôn ngữ chính thức của dân tộc Việt.
Lược tả lại sự phát triển của tiếng Việt để thấy Đông Dương tạp chí nằm
trong giai đoạn thể nghiệm của chữ quốc ngữ và đã có những đóng góp quan
trọng đối với việc hình thành thứ ngôn ngữ mới cho dân tộc và văn học. Có thể
nói, công sức và tâm huyết mà Đông Dương tạp chí dành cho việc phát triển
chữ quốc ngữ là không ít, những trang báo cũng như kỳ công xây dựng “chất
liệu nền” của văn học hiện đại Việt Nam cũng từ đây mà khởi sắc. Thông qua
khảo sát, thống kê, chúng tôi nhận thấy những công việc Đông Dương tạp chí
thực hiện nhằm phát triển chữ quốc ngữ rất đa dạng và phong phú, tuy nhiên
trong khuôn khổ luận văn, người viết chỉ nhằm một mục đích là đi sâu nghiên
cứu sự phát triển của chữ quốc ngữ gắn liền với phương diện là “chất liệu nền”
của văn học hiện đại.
Để cổ động nhân dân học chữ quốc ngữ, ngay từ những số báo đầu tiên,
Đông Dương tạp chí thường xuyên cho đăng các bài viết phân tích cái lợi, cái
hay của việc học chữ quốc ngữ, nói đến vai trò quan trọng của chữ quốc ngữ đối
với dân tộc và sự cần thiết học chữ quốc ngữ. Trên số 2 của Đông Dương tạp
chí, chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh ra cổ động nhân dân Việt Nam học chữ Quốc
ngữ để thay thế chữ Hán, chữ Nôm: “Mở ngay tờ nhật báo này ra mà ngẫm xem
bấy nhiêu điều luận trong báo, thử nghĩ: giá thử luận bằng chữ Nho thì có mấy
người đọc được, mà trong những người đọc được, thì có mấy người hiểu cho hết
nghĩa. Thế mà chữ Quốc ngữ, thì không những là người biết chữ Quốc ngữ đọc
48
được, hiểu được, một người đọc cả nhà nghe cùng hiểu được, từ đàn ông cho
đến các bà (không dám nói đàn bà sợ các bà quở) trẻ con cũng nghe được mà
chỉ với chúng ta trong cuộc luận bàn thế sự thì có phải nó vui việc ra là bao
nhiêu”. Đồng thời, ông cũng cho rằng để đọc, viết được chữ Quốc ngữ rất dễ “ai
có ý chí vài ngày, ngu đần là một tháng cũng phải thông”. Trong khi đó học chữ
Nho thì phải “mất hàng nửa đời người, mà trăm người học không được một
người hay, học được hay cũng chỉ ích lấy một mình, không đem ra mà dùng cho
đời được nhờ cái học vấn của mình chẳng qua là một cái thú rung đùi mà thôi”.
Còn chữ Nôm thì dễ hơn, nhưng có cái khó là mỗi miền, mỗi người lại có cách
viết và hiểu khác nhau. Do vậy nó cũng gây khó khăn cho việc học, hiểu và phổ
biến rộng rãi.
Trong một bài viết dài “Quốc ngữ nguyên lân” đăng trên Đông Dương
tạp chí số 9 ra ngày 10 tháng 7 năm1913, cũng viết: “Người an-nam mà dùng
chữ quốc ngữ thì có thể lân-la học được mọi khoa dễ dàng hơn mấy lần học
chữ-nho… dùng chữ quốc ngữ thì người An-nam mới nhớ được cái vốn sẵn của
nhà, là cái tiếng nói của mình, có túng tiếng thì lấy ngay tiếng Lang-sa mà bỏ
thêm vào, học lấy âu thuật ở tại chính nguồn… như thế thì người An-nam mới
gỡ ra khỏi cái lao-lung văn-chương của nước Tàu…” và “người An-nam mới
gây được thành cái thể hiện riêng cho nước mình”.
Bắt đầu cho công cuộc truyền bá chữ quốc ngữ, Đông Dương tạp chí số
10 ra ngày 17 tháng 7 năm 1913 đã “Báo thêm trang” như sau:
“Từ ngày 14 tháng 8 tây sau giở đi, tờ Đông-dương tạp chí sẽ thêm trang
ra, và lại có in hai tờ phụ trương nữa”.
Hai tờ phụ chương ấy bao gồm: Một là sách “Quốc ngữ chỉ nam”, sách
này dùng cho người An-nam; hai là “sách dạy các quan Tây”, đây là sách dùng
49
cho các quan tây học tiếng An-nam và cho người An-nam học tiếng Lang-sa.
Chuyên mục “Lours de lague annamite” (sách dạy tiếng An-nam), G.
Saintonge được đăng tải trên số báo 14 ra ngày 14 tháng 8 năm 1913, đến các số
báo sau thì tạm dừng, sau đó tiếp tục được đăng tải lại bắt đầu từ số báo 26 kéo
dài hết số báo năm 1914.
Riêng đối với “Quốc ngữ chỉ nam” (sách dạy cho người An-nam), liên
tiếp được đăng trên 2 số báo 15 (ngày 21/8/1913) và 16 (ngày 28/8/1913). Đông
Dương tạp chí đã dành 4 trang trên mỗi số báo cho đăng tải các bảng chữ cái
quốc ngữ và chữ Nôm, đồng thời dành khoảng gần 1 trang để giới thiệu, giải
thích cụ thể cách học và viết chữ quốc ngữ.
Trong số 15 ra ngày 21 tháng 8 năm 1913, Đông Dương tạp chí đã cho
đăng “bảng thứ nhất” dạy 23 chữ cái, các số đếm đơn giản từ 1 đến 9 và một
bảng bằng chữ Nôm. Trong đó chỉ rõ:
“Kỳ này báo có một phụ-chương riêng, trong có một cái bảng dẫn dạy 23
chữ cái quốc-ngữ. Sau bảng đã có dạy cách dùng cả cách tập bảng ấy bằng chữ
nôm…
Sách này dùng chữ nho và dùng phép phiên thiết để mà dạy chữ quốc-
ngữ”.
Theo đó, cách dùng “bảng thứ nhất” cũng được giới thiệu, diễn tả một cách
cụ thể, chi tiết để người đọc có thể hiểu và học được.
Trên số báo 16 ra ngày 28 tháng 8 năm 1913, Đông Dương tạp chí tiếp
tục cho đăng “bảng thứ nhì” - lối viết các chữ cái. Sau đó trong “Quốc ngữ chỉ
nam”, trang 15 tiếp tục giới thiệu cụ thể như sau:
“Bộ này ra bảng thứ nhì, dậy lối viết các chữ cái ấy. Sau bảng đã có dạy
cách tập bằng chữ nôm. Nay lại dịch ra đây bằng chữ quốc-ngữ để nhờ các
50
ngài xem mà chỉ bảo cho những người chưa biết.
Bảng thứ nhất thì dậy các chữ cái quốc-ngữ lối in. Ai học thuộc lối ấy, thì
trông vào sách, mới nhận được các mặt chữ, chữ nào là âm, chữ nào là vận, tên
chữ là gì, đọc như thế nào.
Nay lại dạy đến lối viết những chữ cái ấy.
(…) Ở trên đầu bảng, cũng có đủ 23 chữ-cái, trên chữ hoa, dưới chữ nhỏ.
Lối viết, chữ-hoa thì chỉ để viết một chữ đầu-câu, và đầu tiếng, tên riêng, tên
người, hoặc tên xứ, mà thôi, không có tiếng nào dùng cả chữ-hoa như trong lối
chữ in.
Hai bên cũng có chữ vận, bên tả 6 chữ nguyên-vận, bên hữu 6 chữ biên-
vận.
Ở dưới thì có 16 chữ âm đơn, và 11 chữ kép.
Hai góc bên dưới có 10 chữ mã, có chứa chữ nôm bên cạnh.
Cách tập bảng này
(…) cứ tay viết chữ nào thì mồm đọc chữ ấy, viết đi viết lại nhiều lần cho rõ
thực thuộc mặt chữ”.
Như vậy, ngay từ đầu Đông Dương tạp chí đã có những bảng mẫu chữ
cái Quốc ngữ bao gồm một số nguyên âm và phụ âm, nguyên âm đôi, các vần
ghép: bơ, cơ, dơ, gơ, hơ, kơ, lơ, mơ, nơ, chơ, giơ... và một số số đếm đơn giản
từ 1 đến 9 và số 0. Bảng chữ cái viết hoa to và các chữ thường theo sau là cách
phát âm khá chuẩn xác. Chúng tôi thấy đủ 23 chữ cái, 6 nguyên âm ngắn và 11
phụ âm. Thông qua hai bảng chữ cái quốc ngữ và bảng dịch kèm bằng chữ nôm,
cùng với các bài chỉ dẫn cách học, cách đọc, cách viết, về cơ bản đã giúp độc
51
giả có thể tiếp cận với chữ quốc ngữ.
Với mong muốn đưa chữ Quốc ngữ nhanh chóng được phổ biến trở thành
ngôn ngữ, chữ viết thông dụng. Đông Dương tạp chí không ngừng vận động
đông đảo nhân dân cùng tham gia cổ động và viết chữ quốc ngữ. Đông Dương
tạp chí số 4 ra ngày 5 tháng 6 năm 1913 đã mở ra mục “Lai kiểu” với mục đích:
“bản quán mở ra mục này để những bài hay và có ý nhị, không lợi hại riêng
đến ai thì trước nữa để các quan duyệt báo coi và để mặc sức cho các đua văn
hay ý lạ”.
Bên cạnh đó, vấn đề ngữ pháp tiếng Việt cũng được Đông Dương tạp chí
đưa ra bàn luận để đi đến thống nhất về cách đặt câu, cách viết, chấm phẩy,
cách nói, viết cho cả 3 miền và cần phải có một thể lệ chung trong cả nước:
“Nay bản báo lấy việc cổ động cho chữ Quốc ngữ làm chủ nghĩa, tưởng cũng
nên đem hết các khuyết điểm, các nơi không tiện ra mà bàn lại, chẳng dám đem
cách nào mới mà xin thế vào lối cũ, sợ thiên hạ lại bảo vẽ vời, song cũng nên
bàn các nơi bất tiện ra để ai nấy lưu tâm vào đó, thì dễ có ngày tự dưng chẳng
phải ai làm mà chữ Quốc ngữ tự đổi dần dần đi”.
Theo đó, Đông Dương tạp chí một mặt tích cực cho đăng tải nhiều bài
viết, nhiều tác phẩm thơ văn dịch phong phú, cuốn hút người đọc bằng chính
chữ quốc ngữ, để chữ quốc ngữ dần hoàn chỉnh, có khả năng truyền tải được tất
cả tư tưởng, tình cảm của con người. Những người không biết chữ Hán, Nôm và
chữ Pháp thì qua chữ quốc ngữ cũng có thể tiếp cận được những áng văn hay,
những tư tưởng mới của nước ngoài. Trong bài “Tiếng An-nam” (bên dưới ký
tên V) được đăng trên số báo 40, có đoạn được viết như một lời kêu gọi: “Nào
báo quốc ngữ, sách học quốc ngữ, nào thơ quốc ngữ, nào văn chương quốc
ngữ, án ký, hành trình, tiểu thuyết, nghị luận, tờ bồi việc quan, đơn từ kiện tụng,
nên làm toàn bằng chữ quốc ngữ hết cả”; và nêu rõ: “Muốn gây cho văn tự
nước Nam có kinh điển, thì bao nhiêu những bậc tài hoa, những người có học
52
thức trong nước phải chuyên vào nghề văn quốc ngữ”.
Một mặt, để hoàn thiện chữ quốc ngữ, và để thứ chữ này phải có luật lệ,
Đông Dương tạp chí luôn chú tâm trong việc chỉnh sửa những chữ còn sai khi
nói và viết chính tả; thống nhất cách phiên âm tên đất, tên người nước ngoài khi
dịch ra chữ Quốc ngữ. Thông thường người dịch theo tiếng Trung Quốc, mặc dù
rất dễ đọc và nhớ nhưng lại bị sai với nguyên bản, còn nếu dịch thẳng từ tiếng
nước ngoài ra chữ quốc ngữ thì nhiều người lại không hiểu, còn để nguyên như
bản gốc thì những người không biết tiếng nước ngoài lại không đọc được. Cách
phiên âm được hướng dẫn như sau: “Bao nhiêu những tên nước lớn, ai cũng biết
theo tiếng Tàu rồi như là Pháp, Anh, Nga, Đức, Bỉ-lị-thì, Áo, thì cứ để tiếng biết
rồi mà dùng... Còn bao nhiêu những chỗ chưa mấy biết thì dịch theo cách mới,
lấy cho gần nguyên âm”, tức là “ khi viết lẫn những tên ấy vào văn quốc ngữ thì
nên viết tiếng dịch trước rồi vòng hai bên hai cái viết nguyên dạng chữ vào sau
cho người đã biết tiếng Tây dễ nhận ra”
Đối với các thanh: nặng, sắc, huyền, hỏi, ngã và những chữ phải thêm dấu
như đ, ơ, ư… đều được Đông Dương tạp chí lần lượt tìm cách cải cách, khắc
phục.
Trên số báo 42 ra ngày 5 tháng 6 năm 1914, Đông Dương tạp chí mở ra
mục “Tân học văn tập” do các viên hội trí-tri soạn và dịch ra với 2 nội dung
chính là: Văn chương khoa và sư phạm học khoa. Mục này được giới thiệu như
sau: “Chúng tôi soạn một ít bài về phép giáo dục luân lý, về cách trí, toán-phép,
địa-dư, sử-ký và bài luận để giúp các thầy học bậc ấu học, tiểu học… sách quốc
ngữ chưa có mấy nên qua báo chí có thể học thêm nhiều điều”.
Cũng từ số báo này, “Tân học văn tập” trở thành chuyên mục cố định
trên Đông Dương tạp chí. Nội dung của chuyên mục này dần dần chiếm số
lượng lớn trang báo của Đông Dương tạp chí. Cụ thể, ở số 42, chuyên mục này
chỉ là 1 trong 10 chuyên mục và chỉ chiếm một diện tích nhỏ hẹp 2 trang trong
53
tổng số 24 trang. Nhưng đến năm 1917, trong khi nhiều chuyên mục đã bị lược
bỏ thì “Tân học văn tập” vẫn được giữ lại, là 1 trong tổng số 5 chuyên mục, số
lượng trang báo cũng được tăng lên 12 trong tổng số trên dưới 40 trang. Lúc này
nội dung của “Tân học văn tập” bao gồm: Văn quốc ngữ, cách-trí, tập đọc,
giảng nghĩa và học thuộc lòng, Nam sử. Một trong những nội dung mà “Tân học
văn tập” thường xuyên chú trọng và giới thiệu chính là “bài- luận” (từ tháng 5
năm 1914) mà sau này là “văn quốc ngữ” (năm 1917). “Bài-luận” hay là “văn
quốc ngữ”, đều là cách dạy làm văn bằng chữ quốc ngữ.
Trên mỗi số báo ra lại có một đề bài và hướng dẫn cách làm đề bài đó
cùng với một bài văn mẫu. Từ việc miêu tả hình dáng, tính cách, tư tưởng, tình
cảm… đến những hiện tượng diễn ra trong đời sống hàng ngày đều được hướng
dẫn cụ thể cách trình bày.
Như vậy, qua khảo sát, thống kê và nghiên cứu nội dung (ở những số báo
còn lưu trữ trong Thư viện Quốc gia), chúng tôi nhận thấy, câu văn quốc ngữ
của Đông Dương tạp chí trong thời gian đầu, vẫn còn nhiều vụng về, lủng củng,
thường dùng ngôn ngữ nói vào trong cách hành văn, khiến câu vă trúc trắc, khó
hiểu. Chẳng hạn như:
“Các ngài ngày xưa chỉ việc dùng những kiến-thức tiền thời đi lại, làm
lối đi để tìm kiến-thức mới, bởi thế mới nên được những công-nghiệp lớn, vậy
thì nay ta lại phải dùng những kiến-thức các ngài đi lại cho, cũng như vậy; ta
cũng phải noi gương các ngài mà dung kiến-thức cổ ấy, làm lối đi, chớ không
phải làm mục-đích của nghiệp-học ta; nên bắt chước các ngài mà cổ nên được
hơn các ngài”.
(Đông Dương tạp chí, số 4, Văn chương - Pháp văn tạp thái, trang 7)
Về sau, các tác giả trên Đông Dương tạp chí ngày càng chú trọng hơn
trong cách sử dụng ngôn ngữ biểu đạt câu văn và cách hành văn. Những bài viết
54
đã được diễn đạt trôi chảy, dễ hiểu, trau chuốt hơn, đặc biệt là những tác phẩm
văn học dịch, tác phẩm văn học chữ quốc ngữ càng trở nên thành thục, mượt
mà, uyển chuyển và sâu sắc. Dưới đây là những câu văn của Đông Dương tạp
chí năm 1916:
“Ta nói rằng, phàm người ta ai cũng chỉ tu cho đến cái hạnh phúc của
riêng mình; rằng không có thể nào khiến người ta bỏ được lối tu ấy. Cố khiến là
uổng công, mà khiến được là nguy hiểm; vậy thì muốn khiên cho người ta đạo
đức, duy chỉ có cách làm cho tư lợi với công lợi hai cái hiệp được với nhau mà
thôi.”
(Đông Dương tạp chí, số 78, Pháp văn, trang 3570)
Từ những phân tích ở trên phần nào cho thấy, Đông Dương tạp chí đã
góp phần không nhỏ cho quá trình hình thành và phát triển của văn học quốc
ngữ. Nhận xét về sự phát triển vượt bậc của văn chương quốc ngữ, nhà phê bình
Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại” khẳng định: “Quốc văn bắt đầu thịnh,
bắt đầu có cái giọng hoa mỹ, dồi dào và chú trong về tư tưởng, là công các nhà
biên tập hai tờ tạp chí Bắc Hà: Đông Dương tạp chí và Nam Phong”. Vai trò
của Đông Dương tạp chí đối với nền văn học quốc ngữ còn được gián tiếp
khẳng định thông qua đánh giá của Thiếu Sơn về chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh như
sau: “…Văn ông Vĩnh đã ảnh hưởng tới lối văn tự thuật, tiểu thuyết, trào phúng
và ngụ ngôn”.
2.2. Sưu tầm, dịch thuật và đăng tải các các bài viết tư tưởng học thuật
phương Tây và nhiều tác phẩm văn chương tiếng Pháp chữ Hán,
Nôm, chữ Trung Quốc
Sự vận động phát triển của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX là một sự
chuyển đổi sâu sắc, toàn diện. Đánh giá về sự chuyển đổi của văn học Việt Nam
khi bước sang giai đoạn văn học hiện đại, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu cho
55
rằng: “Sự đổi thay trong văn học đầu thế kỷ ở nước ta không giống tình hình
phát triển trong văn học các nước Phương Tây (…). ở nước ta lúc đó chuyển từ
văn, thơ, phú, phú, lục, sang kịch, tiểu thuyết, thơ mới biểu hiện một sự thay đổi
căn bản hơn: thay đổi cả bản thân văn học, bản thân quan niệm văn học.”.
Đúng thực, đó không chỉ đơn giản là sự chuyển đổi của văn tự hay hình thức thể
loại thể hiện ở bề mặt mà sự chuyển đổi này nằm ở tầng bậc sâu, mang tính chất
loại hình của hai kiểu sáng tác có những đặc trưng riêng.
Việc xây dựng nên một nền văn học hiện đại là cả cuộc hành trình dài của
sự chuẩn bị tất cả mọi mặt về ngôn ngữ, thể loại, chất liệu, chủ đề, tư duy nghệ
thuật… Có thể nói, Đông Dương tạp chí đã đóng góp phần công sức không nhỏ
trong quá trình chuẩn bị đó. Nhiều nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng, sự ra đời
của Đông Dương tạp chí năm 1913 làm cho “nghề báo xoay chiều”, “làm thay
đổi cục diện văn hoá và thúc đẩy nền quốc văn đi vào con đường mới” (Đỗ Lai
Thuý). Tờ báo này trở thành nơi tụ hội của các bậc văn nhân “luyện tập câu văn
và viết dần tác phẩm”; và từ đây “học thuật tư tưởng Đông, Tây mới được
truyền bá một cách đúng mực bằng quốc văn”… Khối lượng công việc vận
động cho nền quốc văn mới mà Đông Dương tạp chí đã làm khá đồ sộ và đa
dạng, nếu chúng ta đưa ra phân tích từng sự chuẩn bị từng mặt thì e rằng sẽ bị
trùng lặp, sa vào vụ vặt. Vì thế người viết mong muốn thông qua việc phác thảo,
hệ thống lại các bài viết có nội liên quan tới văn chương, học thuật để giúp
người đọc có thể hình dung được những đóng góp của . Đông Dương tạp chí
Chúng tôi thực hiện hai nhóm việc như sau:
- Dịch thuật, đăng tải các tư tưởng học thuật phương tây
- Sưu tầm, dịch thuật, đăng tải các tác phẩm văn chương Pháp, Hán-
Nôm, Trung Quốc.
56
2.1.1 Dịch thuật, đăng tải các tư tưởng học thuật phương tây
Ngay trong chuyên mục “Triết học”, số 2, ra ngày 22 tháng 5 năm 1913,
tác giả Nguyễn Văn Vĩnh đã có bài luận về ngôn ngữ văn từ, cùng với đó là một
bài “Tạp luận” ký tên T.N.T bàn về vấn đề học hành.
Đông Dương tạp chí số 5 ra ngày 12 tháng 6 năm 1913, trong mục mới
“Học cũ học mới” viết: “…Mở ra trong bản báo hai mục mới, đó là tân học
bình luận và cổ học bình luận. Trong cổ học bình luận: xét các lý-tưởng làm
gốc cho sự học bên Âu châu thời nay (như văn-minh, tiến-hoá, xa-hội, khoa-
học, mỹ-thuật, tôn-giáo .v.v.). trong mục cổ học bình luận: xét các lý tưởng làm
gốc cho sự học ở bên châu Á đời xưa (như Tam-cương, ngũ-thường, lục-
nghệ…vv).
Mục này chỉ được nhắc lại ở số 8 với bài “Tự ngôn” sau đó không còn
thấy trên Đông Dương tạp chí nữa. Nội dung đánh giá giá trị cũng như hạn chế
của học cũ và học mới. Và phải tìm cách dung hoà học cũ và học mới, sáng tạo
nên sự học khiến cho “Kính hiển vi hậu thế không thể phân biệt được chất gì là
chất Nho, chất gì là chất Tây, hai chất đã dung luyện… thành ra hồn Nam-
việt”.
Việc dịch và cho đăng tải nội dung tư tưởng học thuật phương Tây thực
sự được đề cập đến từ số 16, ra ngày 21 tháng 8 năm1913. Chuyên mục “Luân
lý học”, nội dung của mục này được dịch “của các nhà luân-lý, chiết-học âu-
châu đời xưa và đời nay”. Đây là một chuyên mục được dịch và đăng tải một
cách có hệ thống. Trong bài đầu tiên là đề cập đến việc giải nghĩa “luân lý”,
ngay sau đó một số báo, mục “Luân lý học” được phân ra làm hai “Một mục
trên thì dịch những bài hay ra cho đàn ông ta. Mục dưới này thì dịch các bài
hay riêng để các bà xem”. Sau 5 Bộ đăng liên tiếp, mục “Luân lý học” tạm thời
ngừng đăng, đến số 28, Đông Dương tạp chí lại tiếp tục được giới thiệu tới độc
giả, nhưng không chia làm hai mục phục vụ hai đối tượng khác nhau như trước
57
nữa.
Cũng bắt đầu từ số 28 ra ngày 20 tháng 11 năm 1913, trên Đông Dương
tạp chí có thêm chuyên mục “Triết học yếu lược” trích lược nội dung ở những
sách học Đại Pháp hay nhất.
Hai chuyên mục “Triết học yếu lược”và “Luân lý học” đều được đăng tải
bằng cả hai thứ tiếng (tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ), nội dung hướng người đọc
tới nhận thức mới về tư tưởng, đạo lý, đạo đức, những hiểu biết về nhân sinh
quan, thế giới quan.
2.2.2 Sưu tầm, dịch thuật, đăng tải các tác phẩm văn chương Pháp, Hán-
Nôm, Trung Quốc.
Có thể nói đây là nhiệm vụ trọng tâm mà Đông Dương tạp chí hướng tới.
Qua khảo sát, chúng tôi thấy nội dung này xuất hiện trên tất cả các số báo ra của
Đông Dương tạp chí. Dưới đây, chúng tôi hệ thống lại để người đọc có thể hình
dung theo trục dọc của từng chuyên mục như sau:
Đối với văn chương Pháp.
Bắt đầu từ số 2, Đông Dương tạp chí cho đăng mục “Văn-chương”.
Chuyên mục này có diện tích khoảng 2/3 đến 1 trang báo, chiếm vị trí nhất định
và ổn định trên Đông Dương tạp chí, ít bị ngắt quãng, và nếu có chỉ ngắt quãng
ở 1,2 số báo, còn thì hầu như được đăng liên tiếp trong các số báo. Chuyên mục
này bao gồm 2 nội dung: Pháp văn tạp thái (dịch các tác phẩm văn chương của
Pháp) và Nam văn tạp thái (dịch các tác phẩm văn chương hay của Việt Nam).
Ý tứ của chuyên mục này rất rõ ràng:
Đối với Pháp văn tạp thái: “Mỗi Bộ bản-báo lựa văn hay Lang-sa, dịch ra
quốc-âm một bài, in vào mục này để cho các bậc tài hoa nước Nam xét cái thần
tình văn chương Đại-Pháp, và để gọi là thử chơi xem các tư tưởng Lang-sa mà
đem diễn ra nam-âm đúng được đến đâu. Không dám quyết rằng chọi được
58
từng chữ, từng ý”.
Đối với Nam văn tạp thái: “Bản-báo đã dịch ra để các quan xem mấy
khúc văn Đại-pháp mà hưởng cái thú văn-chương của qui-quốc. Mỗi câu văn
hay lại thông-đạt một tư-tưởng hay.
Thỉnh thoảng lại nên in ra để các ngài so sánh, một bài danh-văn nôm
nước Nam”.
Chuyên mục “Văn-chương” sử dụng song song hai thể loại ngôn ngữ
(tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ). không chỉ đăng tải nội dung tác phẩm mà ở mỗi
bài đều có một đoạn văn giới thiệu vắn tắt về tác giả, tác phẩm để người đọc có
thể nắm bắt được. Tác giả chủ yếu của chuyên mục này là chủ bút Nguyễn Văn
Vĩnh.
Ban đầu, giới thiệu tác phẩm của Pháp thì bên dưới chuyên mục có in
hàng chữ nhỏ “Pháp văn tạp thái”, nếu giới thiệu tác phẩm của Việt Nam thì bên
dưới đề “Nam văn tạp thái”. Tần xuất đăng tải hai nội dung này cũng có sự xen
kẽ và chênh lệch nhau (Pháp văn xuất hiện đều hơn trên các số báo đầu). Về
sau, đến số báo thứ 12 đã có sự cân bằng, thậm chí cả hai nội dung cùng được
đăng tải trên một số báo. Đồng thời nó tách riêng “Nam văn tạp thái” ra thành
chuyên mục riêng, còn “Pháp văn tạp thái” vẫn nằm trong chuyên mục “Văn-
chương”. Diện tích của cả hai nội dung này tăng lên đáng kể, có số chiếm tới 2
trang báo.
Từ số 13 ra ngày 7 tháng 8 năm 1913, Đông Dương tạp chí dành trên
dưới 1 trang cho công việc dịch truyện, tiểu thuyết của Pháp.
Trong lời “Tựa”, Nguyễn Văn Vĩnh, người chịu trách nhiệm biên dịch
cho chuyên mục này, viết: “Bản quán nghĩ mãi, tìm trong sách tây xem có
truyện gì, sách gì nên dịch ra và in vào báo cho các quan coi, để lúc thừa nhàn
tiêu khiển, kẻo cứ xem luận mãi đến đâu cũng có lúc mỏi…”. Tiểu thuyết đầu
59
tiên được đăng tải là truyện Gil-Blas de Santillane của “ông danh-sĩ người Pháp
Lesage”. Cuốn tiểu thuyết này được tuần tự đăng dài Bộ kéo dài đến số báo 52,
nghĩa là đến số báo cuối cùng của năm 1914.
Việc dịch và đăng tải truyện, tiểu thuyết của Pháp rất đều đặn trên các số
báo ra, nói chính xác, đây là một mục chiếm vị trí cố định trên Đông Dương tạp
chí.
Năm 1917, tiểu thuyết Tây diễn nôm là một trong 5 mục chính của Đông
Dương tạp chí. Toàn bộ số báo ra năm 1917 đều dành mục này đăng tải tiểu
thuyết “Miếng da lừa” của đại văn hào Pháp - Banzắc. Diện tích của chuyên
mục này gấp hơn 10 lần so với năm 1913 – 1914, chiếm khoảng 11 trang trong
tổng số trên dưới 40 trang của Đông Dương tạp chí.
Đối với văn chương của Việt Nam.
Có thể chưa thực sự ý thức như tờ Nam Phong tạp chí sau này, song
Đông Dương tạp chí cũng đã thực hiện được phần nào vai trò bảo tồn vốn cổ.
Không chỉ thế, Đông Dương tạp chí đã làm được một việc hết sức lớn lao, mà
không báo nào có thể làm được, đó là việc dịch tác phẩm văn chương Việt Nam
ra tiếng Pháp. Đúng như mục đích nhắc tới trong mục “Văn-chương” (Nam văn
tạp thái) số 12 ra ngày 31 tháng 7 năm 1913: “Giới thiệu danh-văn Nôm nước
Nam”. Nội dung viết:
“Văn nôm ta có tiếng nhất xưa nay thì có ông Nguyễn-Du, làm ra truyện
Kiều; Xuân-Hương làm ra mấy bài thơ Phong-Nguyệt, Bà Liễu-Hạnh đặt bài ca
tứ-thời, Bà Thị điểm, ông Chiêu-Hổ, ông án-sát Siêu, nhưng mà chỉ có tiếng
không ai cứu được văn; ông Cao-bá-Quát và cháu là Cao-bá-Nhạ, có bài Trần-
tình ngâm; mới đây thì có ông Tam-nguyên Yên-dổ, chỉ nhiều thơ với câu đối.
Nay hãy in ra đây một nào của ông Yên-đổ đề vào cái ảnh mình, rồi dần
thỉnh thoảng lục ra bài nào có ý nhị, mà chắc được nguyện-văn sẽ in vào mục
này.” 60
Và ngay trong mục “Nam văn tạp thái” đầu tiên đăng trên số 12, tác giả
Bát-cổ không chỉ giới thiệu một số tác giả Việt Nam, giới thiệu tác phẩm của
Nguyễn Khuyến, mà còn đưa ra những bình luận. Sau đó 2 số, lại tiếp tục có
một bài giới thiệu về Lê Quý Đôn. Đến số 18, ra ngày 11 tháng 9 năm 1913, tác
phẩm “Kim - Vân - Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du bắt đầu được dịch
sang tiếng Pháp. Tác phẩm này không chỉ kéo dài đến hết số báo của năm 1914
mà còn sang đến tận năm 1917, tuy nhiên hệ thống đăng tải như thế nào và kết
thúc ở số báo bao nhiêu thì chúng tôi không xác định chắc chắn được, do số báo
trong các năm không còn được lưu giữ đầy đủ và liên tiếp. Căn cứ vào hệ thống
chuyên mục của Đông Dương tạp chí năm 1915 chúng ta còn thấy các mục Hán
văn, Chuyện Hoa tiên, văn Nôm cổ, văn Nôm Đàng Trong đều là các chuyên
mục lớn của tờ báo.
Trên Số 38 ra ngày 5 tháng 2 năm 1914, Đông Dương tạp chí đã mở
thêm một diễn đàn văn chương mới, đó là “Từ phú thi ca”, mục đích như sau:
“Bổn-quán định mở thêm một trương này để các bậc văn-nhân tài-tử, ông nào
muốn ngâm vịnh chơi, bổn-quán sẽ lựa đăng báo; trước là để các ngài tỏ một
cái tài riêng, sau nữa để duyệt báo chư quân-tử nhãn lãm, thì cũng là một sự
thêm vui cho báo-chương và để giữ lấy một lối văn chương riêng của nước nhà.
Bộ này là Bộ khởi thuỷ, bổn-quán có tiếp được mấy nài, xin các ngài hoạ vận
cho vui. Hoặc ông nào có bài nào tai tác, cũng xin gửi cho bổn-quán. Đó cũng
là một nghề chơi, thiết tưởng có ích”. Ngay bên dưới là mấy bài thơ “Xuân” của
Nguyễn - Tràng - Xuân. Sau đó là thơ của hàng loạt các tác giả như: Đào Thị
Loan, Tình Si Tử, Ô mễ Đặng Thương Hoành… Đây được xem là diễn đàn của
các văn sĩ đương thời.
Qua khảo sát số báo hiện lưu trữ và những tài liệu liên quan chúng tôi
nhận thấy: Trong 2 năm 1913-1914, Đông Dương tạp chí là một tờ báo giữ
61
đúng vai trò của báo chí, phong phú, đa dạng về chuyên mục, nội dung. Phản
ánh các vấn đề thời sự, những diễn biến trong xã hội, những sự kiện được đưa
ra bình luận,các văn bản hành chính… Phần dành cho văn chương, học thuật chỉ
chiếm một diện tích tương đối khiêm tốn, khoảng 2 - 5 trang trong tổng hơn 20
trang của tờ báo. Cụ thể:
Thời gian đầu (từ số 1 đến số 12): chuyên mục dành cho văn chương có
diện tích khoảng 2/3 trang đến 1 trang, chuyên mục dành cho việc truyền bá tư
tưởng học thuật khoảng 1 trang. Toàn bộ hai nội dung này khoảng 10% tổng số
lượng trang báo (16 trang -20 trang).
Từ số 13 đến số 45: chuyên mục dành cho văn chương là 2-3 trang, và
mục dành cho học thuật tư tưởng là 1 trang. Toàn bộ hai nội dung này chiếm
khoảng 15% tổng số lượng trang báo.
Số 45 đến số 52: chuyên mục “Tân học văn tập” chiếm số lượng khá lớn,
trong đó dành cho Văn chương khoa khoảng 3-4 trang, dành cho Sư phạm học
khoa, tư tưởng học thuật 3-4 trang. Toàn bộ hai nội dung này chiếm gần 50%
tổng số lượng trang báo.
Bước sang năm 1915 (thông qua các nguồn tư liệu khác) trở đi, hệ thống
chuyên mục của hoàn Đông Dương tạp chí toàn thiên về văn chương và sư
phạm, mang tính chất của một tờ báo chuyên ngành.
Toàn bộ số báo ra năm 1916 chỉ lưu giữ một chuyên mục, đó là mục Văn
chương, vì thế, chúng tôi không có cơ sở để khẳng định chuyên mục này chiếm
bao nhiêu phần trăm số lượng trên mỗi số báo ra. Tuy nhiên, riêng chuyên mục
này luôn có số lượng từ 9 tới 12 trang.
Toàn bộ số báo ra năm 1917 với 5 chuyên mục chính. Trên thực tế các
chuyên mục có sự xê dịch, thay đổi nhưng không đáng kể, nhìn một cách tổng
thể hầu hết các chuyên mục đều giữ vị trí, diện tích ổn định. Ở phần mục lục,
62
bên cạnh mỗi chuyên mục đều đề tên của người chịu trách nhiệm về chuyên
mục đó (trong quãng thời gian này cũng có sự thay đổi ít nhiều về tác giả
chuyên mục):
I. Tiểu thuyết tây diễn Nôm – Nguyễn Văn Vĩnh.
II. Tiểu thuyết tàu – Nguyễn Đỗ Mục.
III. Tân học văn tập.
Văn quốc ngữ - Phạm Văn Hữu.
Cách-trí - Đoàn Trọng Phan.
Tập đọc - Nguyễn Đỗ Mục.
Giảng nghĩa và học thuộc lòng - Phan Kế Bính.
- Trần Trong Kim. Nam sử
IV. Văn chương.
Pháp văn - Nguyễn Văn Trác.
Hán văn - Phan Kế Bính.
Kim Vân Kiều – Nguyễn Văn Vĩnh.
Bình phẩm sách mới - Trương Quý Bình.
V. Công văn tập (hoặc Thiệt hành điện học).
Tiểu kết:
Đánh giá lại có thể thấy, Đông Dương tạp chí trong giai đoạn 1913-1914
mặc dù vẫn là một tờ báo nặng tính chính trị, xã hội nhưng tính chất văn chương
63
đã được tăng dần lên, các mục liên quan tới văn học dần được mở rộng. Đến
năm 1915 (thông qua các tài liệu nghiên cứu khác), đặc biệt là 1916, Đông
Dương tạp chí mới hướng mọi hoạt động vào văn chương học thuật, chính thức
trở thành tờ tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu vẫn chọn
1913 làm mốc đánh dấu cho bước ngoặt của văn học hiện đại Việt Nam, như GS
Phạm Thế Ngũ nhận xét: “Trước 1913, trước khi Đông Dương tạp chí ra đời, ấy
mới chỉ là giai đoạn học chữ quốc ngữ của người mình. Sau 1913, với Đông
Dương tạp chí mới là giai đoạn dùng chữ ấy để viết câu văn mới… thiên về văn
hoá và đào tạo nhà văn… Những cây bút này sau một thời gian ngắn tập sự ở
đây rồi cũng đều mọc cánh bay cao”.
Cũng về Đông Dương tạp chí ông tiếp tục nhận xét, Đông Dương tạp chí
không chỉ tạo thầy mà còn tạo ra trò, các thành viên hội trí tri, khởi thuỷ viết
những bài tác văn quốc ngữ đầu tiên tả cảnh, thuật sự đã làm mẫu mực dạy trẻ
nhỏ viết quốc văn. Đông Dương tạp chí và câu văn truyện dịch của Nguyễn Văn
Vĩnh bình dị hơn, khả cập, khả ái hơn. Nhiều nhà văn sau này (lớp sau 1932) đã
thú nhận họ được đào tạo từ tấm bé trong cái trường ấy, họ đã học ở đó lòng yêu
quốc văn, những bước đầu ham mê sáng tác. Như lời bộc bạch Thái Phỉ: “Tôi
còn nhớ như mới ngày hôm qua những buổi mấy anh em bạn nhỏ, anh lớn nhất
chưa đầy 12 tuổi cùng nhau châu đầu học không biết chán những thơ ngụ ngôn,
những truyện trẻ em, truyện Gil Blas de San tillane và kịch trưởng giả học làm
sang của ông Vĩnh dịch mà chúng tôi khi ấy chỉ biết là hay lắm, vui lắm…”; hay
của Tam Lang: “Tôi ngồi học miệng kêu như quốc kêu mùa hè, nhưng mắt
không thể dời bỏ được tập Đ.D.T.C dấu dưới quyển vở của mình, tôi học học
mãi trong cái trường Đ.D.T.C ấy. Kết quả sự học của tôi là thầy giáo cho làm
luận quốc văn kể chuyện một cuộc đi chơi ngày chủ nhật mà tôi làm thành một
64
bài văn dài ngót mười trang giấy”.
Chương III.
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN VĂN VĨNH
- CHỦ BÚT ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ
1. Con người và sự ngiệp
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 15 tháng 6 năm 1882 trong một ngôi nhà ở
nhờ tại số nhà 46 phố Hàng Giấy, Hà Nội. Cha mẹ ông quê gốc thuộc phủ
Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Phú Xuyên, Hà Nội), là một gia đình
nông dân nghèo thuộc vùng đồng chiêm trũng, quanh năm mất mùa đói kém,
phải bỏ quê ra Hà Thành kiếm sống. Nguyễn Văn Vĩnh sinh ra vào đúng năm
thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội (28/4/1882). Được đánh giá là đứa trẻ thông
65
minh, học đâu nhớ đó, nhưng do thời buổi khó khăn, gia đình nghèo đông anh
em (có tới 7 người con), Nguyễn Văn Vĩnh lại là con đầu nên có tuổi thơ vất vả,
không được học hành đến nơi đến chốn.
Năm 8 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được bố xin cho chân kéo quạt ở trường
thông ngôn của Pháp mở tại đình Yên Phụ, Hà Nội. Trường thông ngôn mở ra
chủ yếu nhằm mục đích dạy tiếng Pháp và chữ Quốc Ngữ. Trường này do một
người Pháp tên là D’argence vừa làm hiệu trưởng, vừa là giáo viên. Trong quá
trình dạy học, ông D’argence để ý thấy cậu bé kéo quạt rất chăm chú nghe giảng
và khi lớp học mãn khoá (1893), ông đã để cho Nguyễn Văn Vĩnh thi thử. Kết
quả, Nguyễn Văn Vĩnh đứng thứ 12 trong tổng số 40 học sinh nên được đặc
cách nhận học bổng trở thành học sinh chính thức của khoá học tiếp theo, khoá
thông ngôn toà sứ (1893 – 1895).
Nguyễn Văn Vĩnh kết thúc khoá học năm 13 tuổi và là thủ khoa của toàn
khoá. Tháng 1 năm 1896 ông được tuyển làm thông ngôn của Tòa công sứ Lào
Cai, làm phiên dịch cho đoàn chuyên gia nghiên cứu và xây dựng đường sắt.
Tháng 2 năm 1897, Nguyễn Văn Vĩnh được điều về Tòa công sứ Hải
Phòng thông ngôn cho các chuyên gia, tiếp nhận những vật tư kỹ thuật, hướng
dẫn các công việc bốc rỡ, vận tải và xếp kho. Vốn là người ham học hỏi,
Nguyễn Văn Vĩnh còn tranh thủ học thêm tiếng Hoa và tiếng Anh. Chỉ sau một
thời gian ngắn ông đã có thể dịch được hai thứ tiếng này đủ để đoàn chuyên gia
Pháp làm việc. Trong quá trình làm việc ở Hải Phòng, Nguyễn Văn Vĩnh đã
mua sách tự học hết chương trình trung học phổ thông Pháp chỉ trong vòng 2
năm. Ngoài ra, ông thường xuyên tìm đọc các loại sách triết học, chính trị, tiểu
thuyết văn học Pháp và cả sách đại số, hình học, lý, hóa, nhất là hiến pháp và
dân luật nước Pháp; cùng với đó là việc tiếp xúc với sách báo, tạp chí nước
ngoài đã giúp Nguyễn Văn Vĩnh học hỏi, mở mang kiến thức. Điều đó đã đưa
ông đến với con đường hoạt động truyền bá chữ Quốc Ngữ, canh tân văn hoá,
66
văn học nước nhà sau này. Mặc dù hàng ngày rất bận rộn với công việc thông
ngôn, nhưng Nguyễn Văn Vĩnh vẫn dành thời gian cho việc tập dịch sách, tham
gia công tác dạy học và nói chuyện ở hội Trí Tri. Đặc biệt Nguyễn Văn Vĩnh
bắt đầu tập viết báo, năm 1899 ông đã bước vào nghề báo với vai trò là cộng tác
viên. Hai tờ báo tiếng Pháp mà ông thường xuyên tham gia cộng tác lúc bấy giờ
là: "Courrier de Hai Phong" (Thư tín Hải Phòng), và "Tribune Indochinoise"
(Diễn đàn Đông Dương) của Schneider.
Năm 1900, Nguyễn Văn Vĩnh kết hôn và đưa vợ về Hải Phòng sinh sống.
Đầu năm 1902, Nguyễn Văn Vĩnh lại được điều lên làm thông ngôn toà sứ Bắc
Giang. Là người ham học hỏi nên ông tích cự giao lưu và tiếp xúc nhiều với
giới trí thức. Trong thời gian làm thông ngôn ở Bắc Giang, Nguyễn Văn Vĩnh
đã kịp làm quen và thường xuyên đàm đạo thời sự với một trí thức người Hoa
và một tri thức người Việt, tiếp xúc và tìm hiểu sách tân thư Trung Quốc. Qua
đó, Nguyễn Văn Vĩnh hiểu rõ hơn về cuộc cách mạng Trung Quốc, về gốc rễ
chữ Nôm và về văn hóa của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, nhờ tài năng, sự thành
thạo trong mọi công việc cũng như năng nổ hoạt động trong giới báo chí, người
thông dịch trẻ tuổi Nguyễn Văn Vĩnh được viên Công sứ Bắc Giang Hauser tin
cậy, đề bạt làm chánh văn phòng tòa sứ Bắc Giang, được đảm nhiệm những
công việc của một phó sứ. Sau này ông trở thành trợ thủ đắc lực của viên Công
sứ Bắc Giang nên khi Hauser được cử về làm Đốc lý Hà Nội thì Nguyễn Văn
Vĩnh cũng được đưa về theo.
Tình hình trên thế giới đầu thế kỷ XX có nhiều biến đổi: phong trào "châu
Á thức tỉnh" nổi lên, Nhật thắng Nga trong chiến tranh Nga - Nhật (1904-1905).
Ở trong nước phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân phát triển rầm rộ. Sau
khi được bổ nhiệm làm Toàn quyền Đông Dương P.Beau nhận thấy cần cải cách
nền giáo dục Việt Nam để có thể theo kịp được những biến động xã hội, đồng
thời chú ý đến các công việc từ thiện nhằm xoa dịu sự phản kháng của nhân dân
67
trước chính sách hà khắc của chính quyền thuộc địa. Đốc lý Hauser được quan
toàn quyền P.Beau tin tưởng giao cho hầu hết các công việc quan trọng về văn
hoá. Trực tiếp vận động và giúp đỡ người Việt làm đơn và thảo điều lệ xin phép
lập các trường, các hội, rồi dịch ra tiếng Pháp để đệ trình lên Phủ thống sứ. Phần
lớn công việc này Hauser lại giao hết cho Nguyễn Văn Vĩnh đảm trách. Đây
vừa là nhiệm vụ công việc nhưng cũng là môi trường thuận lợi tạo điều kiện để
Nguyễn Văn Vĩnh thực hiện lý tưởng của mình.
Chính vì vậy, Nguyễn Văn Vĩnh đã trở thành sáng lập viên của đa số các
hội, các trường được thành lập lúc bấy giờ. Có thể kể đến một số tổ chức tiêu
biểu mà Nguyễn Văn Vĩnh đã tham gia như:
Tham gia sáng lập Hội Trí Tri ở 59 phố Hàng Quạt. Chủ hội là ông
Nguyễn Liên, Nguyễn Văn Vĩnh là trưởng ban diễn thuyết, cùng với hai uỷ viên
là ông Nghiêm Xuân Quảng và Trần Tán Bình.Hoạt động chủ yếu là tổ chức
một buổi nói chuyện và giảng sách hàng tuần.
Năm 1907, Nguyễn Văn Vĩnh trực tiếp thảo điều lệ và viết đơn xin thành
lập Trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở phố Hàng Đào.Sau khi trường được thành
lập, ông là giáo viên giảng dạy tiếng Pháp, chữ quốc ngữ, dạy cách viết văn và
diễn thuyết nhằm nâng cao dân trí. Ở đây ông đã tìm được những người bạn như
Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Hoàng Tăng Bí, Dương Phượng Dực… sau
này là đồng nghiệp với ông trong nghề làm báo.
Ngoài ra, Nguyễn Văn Vĩnh còn tham gia thành lập “thư viện bình dân”,
“Hội dịch sách”, “Hội giúp đỡ người Việt đi sang Pháp học đại học và kỹ
thuật”,… Thời gian tham gia trong những hội này ông có những người bạn thân
thuộc trí thức Tây học như Phạm Duy Tốn, Trần Trọng Kim, Phạm Huy Lục…
Con đường báo chí cũng từ đây rộng mở với Nguyễn Văn Vĩnh. Ông bắt
tay vào công tác biên soạn và in ấn tờ Công Báo “Đại Nam Đồng Văn Nhật
68
Báo”. Tờ báo này được in bằng hai thứ chữ là chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, tồn
tại trên mười năm, xuất bản đến số 772. Khi Nguyễn Văn Vĩnh đảm nhiệm vai
trò chủ bút thì tờ báo dần được thay đổi và trở thành tờ báo ngôn luận lấy tên là
“Đăng Cổ Tùng Thư”. Sau một thời gian nhận bài cộng tác, “cha đẻ nghề báo”
ở Việt Nam Scheneider nhận thấy Nguyễn Văn Vĩnh là một đối tác tốt để hợp
tác trong nghề báo, nhờ đó, Nguyễn Văn Vĩnh lại có cơ hội học hỏi kiến thức và
kinh nghiệm của nghề in ấn.
Năm 1906, Đốc lý Hauser được phủ Thống sứ giao cho việc tổ chức và
quản lý gian hàng Bắc Bộ ở Hội chợ thuộc địa tại Thành phố Marseille. Toàn bộ
công việc này được giao lại cho Nguyễn Văn Vĩnh, từ thu thập sản phẩm hàng
hoá, thiết kế trưng bày đến tuyển thợ đi Marseille dựng gian hàng. Đồng thời,
ông được giao quản lý luôn gian hàng Hội chợ thuộc địa từ tháng 3 đến tháng 8
năm 1906, khi đó ông mới 24 tuổi.
Kết thúc Hội chợ thuộc địa, Nguyễn Văn Vĩnh không trở về Việt Nam
ngay mà ở lại Pháp một tháng. Thời gian này ông được Đốc lý Hauser đưa tham
quan nhà in và báo “Revue de Paris”, Nhà xuất bản Hachette, Nhà xuất bản Từ
điển Larousse. Chuyến đi Pháp này trở thành bước ngoặt lớn trong cuộc đời, sự
nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh. Trước đây, sự hiểu biết của ông có thể mới chỉ
dừng lại ở việc đọc sách báo, giờ được tận mắt chứng kiến cuộc sống, xã hội
của người dân nước Pháp, được thâm nhập thực tế nền văn minh của một nước
tiên tiến phương tây ông không khỏi ngỡ ngàng. Nhưng trên hết, nhận thức và
lý tưởng trong ông đã được sáng rõ, chương trình hành động như thế nào cũng
dần được hình thành. Từ đó, Nguyễn Văn Vĩnh đã bắt tay ngay vào việc thực
hiện những bước đi đầu tiên trong kế hoạch của mình.
Một là, khi đang ở Pháp, được giới thiệu và thông qua tìm hiểu, Nguyễn
Văn Vĩnh đã nhanh chóng đăng ký xin gia nhập và trở thành hội viên An Nam
69
đầu tiên của Hội Nhân quyền Pháp.
Hai là, ông nhận thấy, nâng cao dân trí là vô cùng quan trọng, tương lai của
đất nước, của dân tộc đều tuỳ thuộc cả vào đó; và điều cấp bách, cần thiết nhất
theo ông là phải có một thứ ngôn ngữ riêng cho nước nhà. Tinh thần canh tân
đất nước của một trí thức Tây học được nung nấu đến cháy bỏng được Nguyễn
Văn Vĩnh thổ lộ trong một bức thư gửi từ Pháp về cho cụ Phạm Duy Tốn ngày
27/6/1906, nội dung với những lời lẽ chứa đầy nhiệt huyết:
“Một dân tộc mà thất học có đến chín mươi phần trăm thì còn hy vọng
ngóc đầu lên sao được, nếu phái tri-thức không lo giáo-dục cho bình dân là
phần cốt-yếu của dân tộc ấy. Nhưng thực-hành một chương-trình giáo dục
không phải là việc dễ, nhất là nước mình không có một thứ chữ riêng. Chữ Hán
là chữ mượn của nước người…
Tôi sẽ là người đầu tiên để làm cái công việc đó, để mà gây lấy một tương
lai tốt đẹp đó, tôi sung sướng vô cùng. Cha mẹ, anh em, vợ con, tất cả đều phai
nhoà trước tư tưởng đó để nhường chỗ cho một lòng vui thích êm ái nhất…”
Ba là, trước những trăn trở phải làm sao cho chữ Quốc Ngữ sớm trở thành
chữ viết của dân tộc; và làm sao in được thật nhiều sách, báo để truyền bá chữ
Quốc Ngữ. Ngay sau khi về nước, Nguyễn Văn Vĩnh đã quyết định từ chức để
đi theo con đường mà lý tưởng sáng rõ trong ông. Đó chính là quyết tâm truyền
bá chữ Quốc Ngữ, truyền bá học thuật phương Tây, nhằm gây dựng một nền
văn minh mới, hiện đại cho nước nhà.
Năm 1907, sau khi về nước và xin nghỉ việc, Nguyễn Văn Vĩnh chuyển
hẳn sang nghề làm báo và xuất bản. Từ đây, ông chuyên tâm tích cực đẩy mạnh
phát triển báo chí ở Bắc Bộ thông qua nhiều hoạt động.
Ông cùng với một người Pháp tên là Dufour thành lập nhà in. Đây được
xem là nhà in Việt Nam đầu tiên ở Hà Nội. Ông cùng với Phan Kế Bính dịch và
70
xuất bản hai tác phẩm đầu tiên là Tam Quốc và Truyện Kiều. Trong Lời tựa của
cuốn Truyện Kiều ông đã đưa ra câu nói nổi tiếng: “Nước Nam ta mai sau này
hay hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ”. Câu nói này trở thành lời kêu gọi của các
nhà truyền bá chữ Quốc Ngữ đầu thế kỷ XX, và nó được in trên tất cả các bìa
sách do nhà in của Nguyễn Văn Vĩnh xuất bản.
Nguyễn Văn Vĩnh đã có dịp ngồi cùng một chiếu với những nhà Nho học
khi ông tham gia trong phong trào Duy Tân. Ông là người đã thảo điều lệ, viết
đơn xin phép, và sau đó làm giáo viên dạy tiếng Pháp của trường Đông Kinh
nghĩa thục - một phong trào tân tiến lúc bấy giờ nhằm khai trí dân chúng, đòi từ
bỏ lề thói cũ, canh tân xã hội và học theo các nước phương tây, cổ động học chữ
Quốc Ngữ. Cuộc gặp gỡ với giới Nho gia khiến Nguyễn Văn Vĩnh càng phấn
chấn và tự tin hơn vào “trách vụ canh tân đất nước”.
Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, chính quyền bảo hộ lo ngại vì đường
lối hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục theo khuynh hướng cách mạng, chúng
đã ra lệnh đóng cửa trường vào tháng 11 năm 1907. Đình bản báo, đồng thời
cho bắt giam các nhà nho và thanh niên tây học. Nguyễn Văn Vĩnh bị bắt và
được thả ngay sau đó do là hội viên hội nhân quyền và có quan hệ với những
người pháp có thế lực. Ngay sau đó, ông đã cùng với bốn người Pháp đồng ký
tên đòi thả Phan Châu Trinh. Việc làm này cùng với việc cho đăng báo bài Đầu
Pháp chính phủ thư của Phan Châu Trinh (dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Việt, rồi
cho đăng ở phụ trương tờ Đăng cổ tùng báo), khiến Nguyễn Văn Vĩnh bị chính
quyền thực dân cho gọi lên đe dọa.
Với tinh thần quyết tâm truyền bá chữ Quốc Ngữ, Nguyễn Văn Vĩnh ra sức
vận động đổi mới tờ báo chữ Hán “Đại Nam đồng văn nhật báo” thành tờ báo
quốc ngữ đầu tiên lấy tên là “Đăng cổ tùng báo”. Ông đứng làm chủ bút và ngày
20 tháng 3 năm 1907 xuất bản số đầu tiên. Tờ báo này nêu ra hai tôn chỉ là:
71
Truyền bá học thuật tây và cổ động cho chữ Quốc Ngữ.
Nguyễn Văn Vĩnh còn tổ chức diễn thuyết (diễn thuyết tại Hà Nội ngày 4
tháng 8 năm 1907) hô hào lập các hội dịch sách, đem các sách phổ thông pháp
học dịch ra chữ quốc ngữ để truyền bá cho người mình biết tư tưởng và văn
chương phương tây
Sau vụ kháng thuế Trung Bộ (tháng 3 năm 1908) và vụ đầu độc ở Hà Nội
(tháng 6 năm 1908), thực dân Pháp liền cho đóng cửa Đăng cổ tùng báo của
ông, đồng thời cấm diễn thuyết, cấm lưu hành và tàng trữ các tác phẩm của
trường Đông Kinh nghĩa thục.
Năm 1908, Nguyễn Văn Vĩnh được bầu vào Hội đồng thành phố Hà Nội.
Cùng năm này, do báo tiếng Việt bị cấm, ông xin ra tờ Notre Journal (Nhật báo
của chúng ta). Báo này tồn tại được 2 năm. Đến năm 1910, ông lại xin ra tờ
Notre Revue (Tạp chí của chúng ta). Báo này ra được 12 số.
Năm 1911, ông được Schneider mời vào Sài Gòn làm Chủ bút tờ Lục tỉnh
tân văn.
Năm 1913, ông trở lại Hà Nội làm Chủ bút tờ tuần báo Đông Dương tạp
chí (do Schneider sáng lập vào ngày 15 tháng 3 năm 1913). Tờ báo này được
xem là một mảnh đất tốt cho Nguyễn Văn Vĩnh thoả sức vẫy vùng, hiện thực
hoá các ý tưởng của mình, chính trên tờ Đông Dương tạp chí này Nguyễn Văn
Vĩnh đã tuyên truyền những ý tưởng cấp tiến nhất khi ấy. Ông lên tiếng đả đảo
lớp Nho gia không thức thời, đả đảo Hán học - cái hàng rào cản bước văn minh,
đả đảo xã hội phong kiến Việt Nam hủ lậu. Những tác phẩm văn học, tư tưởng,
văn minh phương tây được ông tích cực dịch thuật và truyền bá. Nguyễn Văn
Vĩnh được xem là linh hồn của tờ Đông Dương tạp chí.
Sau đó, ông được bầu vào Hội đồng Tư vấn Bắc Bộ (sau đổi làm Viện dân
72
biểu).
Năm 1914, ông kiêm luôn chức Chủ bút tờ Trung Bắc tân văn do
Schneider sáng lập.
Sau ngày 15 tháng 9 năm 1919, Đông Dương tạp chí ngừng xuất bản. Thay
thế nó là tờ Học báo (tờ báo của bậc tiểu học, Trần Trọng Kim phụ trách việc
bài vở, Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ nhiệm). Cũng trong năm này, ông Vĩnh mua
tờ Trung Bắc tân văn và cho ra hàng ngày (đây là tờ báo hàng ngày đầu tiên ở Bắc Bộ[1]).
Năm 1927, ông cùng với Vayrac lập tủ sách Âu Tây tư tưởng (La pensée
de l’Occident), rồi tổ chức in các sách do ông dịch thuật.
Năm 1929, ông được bầu vào Hội đồng Kinh tế và tài chính Đông Dương.
Năm 1931, ông cho ra tờ An Nam Nouveau (An Nam mới). Ông làm Chủ
nhiệm kiêm Chủ bút cho đến năm 1934.
Năm 1932, ông đi dự họp Đại Hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương tại
Sài Gòn. Trong một buổi họp, ông đã thay mặt giới doanh nghiệp phản đối việc
chuyển đồng tiền Đông Dương từ ngân bản vị sang kim bản vị, vì có lợi cho
ngân hàng Pháp, nhưng lại có hại cho nền kinh tế Đông Dương.
Khi Nguyễn Văn Vĩnh đang dự cuộc họp thì có trát của Tòa án đòi tịch
biên gia sản vì ông thiếu nợ, do vay tiền lập tờ An Nam Nouveau. Vỡ nợ,
Nguyễn Văn Vĩnh phải sang Lào đào vàng và ngày 2 tháng 5 năm 1936, ông
mất vì bệnh sốt rét ác tính, trên một con thuyền độc mộc ở sông Sêbăngghi
(Lào) với một chiếc quản bút trong tay, đang viết dở thiên ký sự Un mois avec
des chercheurs d’or (Một tháng với những người tìm vàng, viết bằng tiếng Pháp
đăng tải nhiều Bộ trên báo L’Annam nouveau),
Lễ tang Nguyễn Văn Vĩnh được tổ chức vào 7 giờ thứ 6, ngày 8 tháng 5
73
năm 1936 tại số 107 đại lộ Gambetta, sau đó an táng tại nghĩa trang gia đình ở
Phương Liệt, km số 7 đường Mandarine tại Hà Nội. Tại buổi lễ tang, đông đảo
giới báo chí của cả ba Bộ đã đến tiễn đưa ông dưới dòng chữ: Kinh viếng Ông
tổ của nghề báo. Nhiều bài báo, bài thơ, câu đối bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn
trước một con người đã dành tâm huyết, sinh lực, sự sống của mình cho công
cuộc hiện đại hoá nền văn hóa, văn học dân tộc.
Như vậy, có thể thấy cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh trải qua
2 mốc quan trọng. Một là bước chân vào học và làm nghề thông ngôn; hai là
chuyển sang nghề làm báo. Đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh trong tiến trình
hiện đại hoá nền văn học dân tộc gắn liền với nghề làm báo này.
Trong quá trình tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh,
chúng tôi nhận thấy những hoạt động và việc làm của ông khá phong phú và đa
dạng. Nguyễn Văn Vĩnh được biết đến trước hết với tư cách là một nhà báo,
một người có công lớn trong việc phát triển báo chí tiếng Việt; thứ nữa là một
dịch giả lớn lúc bấy giờ, thông qua dịch thuật ông đã truyền tải được một khối
lượng kiến thức khổng lồ về văn học, văn hoá, tư tưởng. Ông dịch tất cả các thể
loại, không chỉ riêng tiếng Pháp mà cả chữ Hán, chữ Nôm, và dịch ngược từ
chữ Nôm ra chữ Pháp, nổi tiếng và Bộ công nhất là dịch Truyện Kiều sang tiếng
Pháp; và một vai trò rất quan trọng nữa mà khi nhắc tới Nguyễn Văn Vĩnh giới
nghiên cứu không thể không nhắc tới, đó là những đóng góp không nhỏ cho quá
trình cổ vũ, truyền bá và cải tiến chữ Quốc Ngữ.
Vì hoạt động rộng (làm cho nhiều tờ báo từ bắc tới nam, làm công tác xuất
bản, dịch thuật, tham gia các hội, diễn thuyết…) và trải dài suốt cuộc đời cho
nên sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh khá đồ sộ với khối lượng bài viết khổng lồ
thuộc nhiều lĩnh vực, nhiều thể loại, từ viết tin, nghị luận (xã thuyết), làm thơ,
74
khảo cứu, phóng sự đến dịch thuật…
Trong khuôn khổ và mục đích của luận văn, chúng tôi không có điều kiện
để hệ thống lại toàn bộ sự nghiệp của ông mà chỉ đi sâu vào nghiên cứu, thống
kê trong khuôn khổ của Đông Dương tạp chí, tờ báo được đánh giá là tờ báo
đầu tiên có tính chất chuyên ngành văn học. Tờ báo này mang đậm dấu ấn của
Nguyễn Văn Vĩnh, hay nói cách khác nói tới Đông Dương tạp chí là nói tới
Nguyễn Văn Vĩnh và ngược lại. Theo đó, thông qua toàn bộ số báo Đông
Dương tạp chí hiện còn lưu giữ tại Thư viện Quốc gia và Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia I mà chúng tôi nghiên cứu được, chúng tôi sẽ thống kê lại những tác
phẩm báo chí cũng như dịch thuật của ông đồng thời đưa ra một vài nhận xét,
đánh giá về đóng góp của ông.
Về văn học
Ông đã cho đăng tải nhiều tác phẩm dịch thuật từ văn học phương Tây của
mình trên mục “Văn chương (Pháp văn hợp thái)” (năm 1915 đổi thành mục
“Pháp văn” và năm 1917 là mục “tiểu thuyết tây diễn nôm”) như: Thơ ngụ ngôn
của La Fontaine, Truyện trẻ con của Perraut, truyện Gil Blas de Sautilane của
Lesage (4 quyển), Manon Lescaut của Abbé Prévost (5 quyển), Ba người ngự
lâm pháo thủ củaA.Dumas (24 quyển), Những kẻ khốn nạn củaV.Hugo, Miếng
da lừa của H.Balzac, Guy li edu ký của J.Suift, Tê lê mác phiêu lưu ký của
Fénélon, Truyện các danh nhân Hy Lạp và La Mã của Plutarque, Đàn cừu của
chàng Pannaurge của A.Vayrac.
Về phong cách dịch của Nguyễn Văn Vĩnh, nhà nghiên cứu văn học Vũ
Ngọc Phan đã nhận xét như sau: “Lối dịch ấy các nhà báo thường dùng gọi là
"lược dịch" cốt lấy mau, miễn là hoạt mà thôi. Người không có nguyên văn đối
chiếu tưởng là hay tuyệt, nhưng nếu dùng những bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh
để so với nguyên bản mà học dịch thì nhiều khi người ta thấy những ý tưởng
trong câu dịch không còn là ý của tác giả nữa”.
Tuy nhiên, về tổng quát, nhiều nhà nghiên cứu đều công nhận giá trị của
75
những bộ truyện, sách dịch này. Bởi qua những dịch phẩm văn học phương Tây
của Nguyễn Văn Vĩnh, người đọc, nhất là nhiều người trong giới trí thức đã cảm
nhận được cái hay và cái đẹp của văn học phương Tây, từ đó dấy lên niềm ham
mê đọc và sáng tác văn học theo cách viết hiện đại, tư duy hiện đại, bỏ qua lối
viết cũ dềnh dàng với những câu văn biền ngẫu. Từ những năm 1920 trở đi, một
đội ngũ nhà văn trẻ được hình thành ngày một đông đảo trên nền tảng hấp thụ
các dịch phẩm văn học phương Tây trên báo chí.
Nguyễn Văn Vĩnh là người duy nhất đã dịch Truyện Kiều từ chữ Nôm
sang chữ quốc ngữ, sau đó lại Bộ công chuyển tải tác phẩm văn học bất hủ này
sang tiếng Pháp, và được đăng tải trên chuyên mục “Nam văn hợp thái” (đến
năm 1915 thì đổi thành mục Kim Vân Kiều) kéo dài trên hầu hết các số báo từ
1913 đến 1917.
Tập ký sự Hương Sơn hành trình (Hành trình thăm chùa Hương, đăng trên
Đông Dương tạp chí từ số 41 đến 45), có thể coi như là một thể nghiệm mới của
Nguyễn Văn Vĩnh trong sáng tác. Đổi mới câu văn, thơ, du nhập nhiều thể loại
mới đồng thời thể nghiệm những sáng tác mới, Đông Dương tạp chí dần trở
thành món ăn tinh thần, là sách học tập cho nhiều đối tượng độc giả.
Chữ quốc ngữ
Quá trình hoạt động cổ vũ, truyền bá và cải tiến chữ quốc ngữ của Nguyễn
Văn Vĩnh gắn liền với những hoạt động cổ vũ, truyền bá và cải tiến chữ quốc
ngữ của Đông Dương tạp chí (đã phân tích ở chương II). Ở đây, chúng tôi chỉ
muốn nhấn mạnh thêm rằng. Người Việt Nam có công truyền bá chữ Quốc ngữ
đầu tiên là Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của, nhưng cả hai ông lại không
phát động, hô hào và dấy lên một phong trào học chữ Quốc ngữ sâu rộng như
Nguyễn Văn Vĩnh sau này ở miền Bắc. Mặc dù không đi tiên phong nhưng
Nguyễn Văn Vĩnh rất tâm huyết, nhiệt tình với sự nghiệp phát triển chữ Quốc
ngữ, là một trong những lý tưởng mà ông theo đuổi và quyết tâm thực hiện.
76
Theo ông chữ Quốc ngữ là kênh truyền bá văn hoá phương Tây vào Việt Nam
tốt nhất và tin rằng nó là tương lai của dân tộc: “Nước Nam ta sau này hay dở
cũng ở chữ Quốc ngữ”. Chính vì vậy, rất nhiều việc làm của ông như dịch thuật,
sáng tác, diễn thuyết, dạy học… cũng một phần nhằm mục đích biến chữ quốc
ngữ thành thứ ngôn ngữ chính thống của dân tộc.
Về văn hoá
Ngay khi Đông Dương tạp chí vừa xuất bản được 4 số, sang số báo thứ 5,
Nguyễn Văn Vĩnh đã mở ngay chuyên mục Nhời đàn bà. Dưới bút danh Đào
Thị Loan, Nguyễn Văn Vĩnh liên tiếp cho đăng tải một loạt các bài viết (53 bài
đăng trên các số báo năm 1913-1914), trong đó ông nêu ra nhiều hủ tục về lối
sống của người phụ nữ Việt Nam như, cách ăn nói, nữ công gia chánh, đối nhân
xử thế, trang phục, lao động, hôn nhân, gia đình, và đặc biệt là chăm sóc con cái
thiếu khoa học…
Nguyễn Văn Vĩnh viết thêm loạt bài xã luận khởi đăng trên Đông Dương
tạp chí từ số thứ 6, chiếm hẳn một mục độc lập Xét tật mình (bên dưới ký tên
V) được đăng làm nhiều Bộ. Ông đã viện dẫn câu danh ngôn nổi tiếng của
Pascal là “Toutdire, Pour tout Connaitre, Pour tout Guérir” (nói hết, để biết hết,
để chữa hết) để mở đầu cho loạt bài xã luận này. Mỗi bài Xét tật mình đề cập
đến một hay một vài hủ tục văn hoá cụ thể. Những hủ tục theo ông cần phải
sớm loại bỏ là tính ỷ lại trong cuộc sống (số 8), Coi ăn uống là việc quan trọng
hàng đầu số 10, Ăn mặc suồng sã hớ hênh( số 14), Lối học cổ hủ thông qua
tiếng Trung Hoa, tác hại đến hoạt động trí tuệ của dân tộc (số 16), Lợi dụng đau
khổ của đồng bào để trục lợi (số 17). Hàng loạt những thói hư tật xấu tồn đọng
trong xã hội như tính biển lận và ăn gian nói dối, tính ỷ lại, tính hoang phí và
thiếu dự phòng, mê tín thái quá, huyền hồ lý tưởng, trọng lối học khoa cử, ham
mê cờ bạc, gì cũng cười, vụng nói chuyện, nặc danh đầu thư, gian tham trong
hội hè, che đậy thân thể suồng sã, lười làm, và tệ ngồi thừ…
Từ việc xét lại các thói hư, tật xấu trong văn hoá Việt Nam, Nguyễn Văn
77
Vĩnh chủ trương Âu hoá mạnh văn hoá Việt Nam. Được tiếp xúc với văn minh
phương Tây từ rất sớm nên ông hiểu rất rõ sự ưu việt của nó. Theo ông “cơ thể”
văn hoá Việt Nam lúc này mang đầy “tật bệnh”, cần phải được bồi bổ và chữa
trị bằng văn minh phương Tây
Tư tưởng học thuật phương Tây
Nguyễn Văn Vĩnh được đánh giá là người nhiễm Tây học từ trong ra
ngoài, mà bản thân ông đã khẳng định mình là người An Nam mới. Tự “cách
tân” bản thân mình, bỏ búi tó, khăn xếp, bỏ áo dài, mặc quần áo theo kiểu Âu,
đội mũ cát két, cắt tóc ngắn, đi giầy da, dùng xe môtô mang từ Pháp về.
Năm 1907 là năm đầu tiên ông thực sự bước vào làng báo với nhiều bút
danh khác nhau như: Tân Nam Tử, Đào Thị Loan, V, Bản Quán… và luồng tư
tưởng học thuật phương tây mà Nguyễn Văn Vĩnh tự trải nghiệm và thấm nhuần
bắt đầu được ông lần lượt truyền tải tới độc giả. Ông chọn những sách triết học,
khoa học, lý luận của các tác giả nổi tiếng đem dịch và cho đăng tải trên các số
báo ra của Đông Dương tạp chí.
2. Đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh qua thời gian.
Cho đến tận lúc này, bước sang thế kỷ 21, việc đánh giá về Nguyễn Văn
Vĩnh vẫn chưa thực sự xác đáng. Gắn với quá trình hoạt động vận động văn
hoá, văn học là vấn đề về tư tưởng, hoạt động chính trị, vấn đề về lịch sử, chính
vì thế, cách nhìn nhận đánh giá có sự khác nhau ở những thời điểm khác nhau,
góc độ khác nhau, quan điểm và lập trường khác nhau. Trước khi dẫn ra những
đánh giá đối với Nguyễn Văn Vĩnh, chúng tôi thấy cần thiết nên sơ lược lại tình
hình nước ta trong giai đoạn lịch sử và con đường lựa chọn của các nhà yêu
nước lúc bấy giờ. Bước sang đầu thế kỷ XX, về cơ bản, Pháp đã đặt được chế
độ thống trị trên đất nước Việt Nam. Việc tìm kiếm một con đường cứu nước,
phát triển giống nòi nhằm thoát ra khỏi cái đầm lầy của chế độ Phong kiến rồi
cả đến hệ thống Thực dân kiểu cũ vẫn luôn được nung nấu trong lòng người dân
78
đất Việt. Đã xuất hiện rất nhiều những nhà cách mạng, giới trí thức với những
khuynh hướng cứu nước khác nhau. Hàng loạt phong trào yêu nước theo
khuynh hướng phong kiến được dấy lên đều bị dìm trong biển máu. Phong trào
yêu nước theo khuynh hướng tư sản của hai cụ Phan cũng không thành. Phan
Bội Châu chủ trương bạo động dựa vào sự giúp đỡ của bên ngoài (Nhật); còn
Phan Châu Trinh lại chủ trương bất bạo động, tiến hành cải cách “khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh” sau đó yêu cầu thực dân Pháp trao trả độc lập cho
Việt Nam. Trong khi đó những người tân học mà tiêu biểu là Nguyễn Văn Vĩnh
lại có chí hướng, cách nhìn nhận riêng. Say mê với văn minh phương tây, ông
công kích phong trào Đông Du của Phan Bội Châu. Dưới bút danh Tân Nam
Tử, ông đã tỏ rõ lập trường suy nghĩ của mình “Tục thường nói: theo tây thì sau
mất nước, chỉ những lo quốc hồn mai hậu không còn. Phải biết rằng cơ còn mất
ấy là ở ta. Người còn thì nước còn. Còn đẻ thì còn người. Còn có ruộng đất mà
cấy thì còn đẻ được. Mà may sao đất nước ta lại chỉ có ta cày được mà thôi. Đó
là cái cơ còn chứ không mất được. Người Lang sa có sang thu cái quyền lợi ở
trong tay cũng chỉ là thu được cái thương quyền, chánh trị quyền mà thôi. Ví
phải tay mấy giống mọt trong xã hội, đâu cũng ở được, ăn thế nào cũng xong,
mà ở đâu mọc rễ sâu tới đó thì không những là mọi lợi quyền ta mất hết lại còn
sợ nó lấn đến lều tranh ta, ao rau muống ta nữa” ”…
Rõ ràng, lịch sử Việt Nam đang rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường
lối cứu nước và sự xung khắc giữa các nhà cách mạng thời đó như Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Vĩnh,… là điều
không tránh khỏi. Mặc dù có những tư tưởng, hướng đi khác nhau, thậm chí có
thể bày tỏ rõ thái độ không đồng tình nhưng mục tiêu cuối cùng đều là vì độc
lập cho dân tộc, tiến bộ cho xã hội nên họ đều rất tôn trọng nhau và có quan hệ
hỗ trợ lẫn nhau. Đã có lúc họ còn ngồi cùng một chiếu phong trào Duy tân,
Đông kinh nghĩa thục; hay như Nguyễn Văn Vĩnh đã ký tên đòi thả Phan Châu
79
Trinh, một việc mà lúc bấy giờ hiếm người dám làm.
Dưới đây, chúng tôi sẽ làm công tác liệt kê lại các đánh giá về Nguyễn
Văn Vĩnh qua thời gian.
2.1. Nguyễn Văn Vĩnh qua cái nhìn của người đương thời
Khi Nguyễn Văn Vĩnh qua đời, rất nhiều các bậc danh tiếng cùng thời như,
Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc, Đào
Hùng, Nguyễn Hữu Tiến, Trần Tuấn Khải…đều gửi tới viếng ông những câu
đối, trướng, liễn với biết bao tình cảm tiếc thương và kính trọng. Thông qua đó,
chúng ta phần nào hình dung được người đương thời, đánh giá, nhìn nhận như
thế nào về Nguyễn Văn Vĩnh.
Bài điếu và câu đối khóc Nguyễn Văn Vĩnh của cụ Phan Bội Châu bằng cả
chữ Hán lẫn chữ Việt gửi từ Huế ra Hà Nội khi biết tin Nguyễn Văn Vĩnh qua
đời được viết như sau:
“Ngày tôi mới về Huế, được gặp ông chủ báo Trung Bắc Tân Văn vào Huế
thăm tôi cùng một xe hơi với tôi đi Cửa Thuận. Xe nhà ông, ông cầm lấy lái.
Nhân duyên xa lạp chưa trải bao nhiêu mà đường lối Bắc Nam chốc thành vĩnh
biệt. Tôi đau cảm quá nên có mấy hàng chữ điếu ông:
1) Duyên tương tri nhớ trước 10 năm, xe tự do chung lái, sóng biển vui tai,
mộng hồn há lẽ hững hờ, quang cảnh còn in mây Thuận Tấn!
Tài bác học trỗi trong hai nước, đàn ngôn luận phất cờ, làng văn nở mặt,
công nghiệp tuy còn lở dở, thanh âm từng dạt gió BaLê!”
2) Vân học dục an chi, y ngô hữu ngữ châu tân não, kim thánh bất tằng
huyền, khởi hữu như kim sơn, năng đoạt ngã tài nhân dĩ khứ;
Hải đảo do tạc dã, ức lão phu thập tải tiền duyên, xa thanh y cựu hoạ, hà
80
dương táo xa lạp, đồng dữ nhi tạo- hoá giả du.
Huỳnh Thúc Kháng cũng viết đôi câu đối:
Khu sa tẩu thạch, báo giới đạo tiên hà, trấp niên uyển lực tung hoành, âu-
hoá phong-trào song quản bút;
Lịch tỉnh ôn sâm, bảo tàng sưu bí quật, nhất vãng hùng tâm khảng khái,
Thục-sơn lôi vũ ngũ đinh hồn.
Ngoài ra, qua các nguồn tài liệu, chúng tôi được đọc nhiều bài điếu văn về
Nguyễn Văn Vĩnh, mà ở đó, xuất hiện rất nhiều những đánh giá về ông, thậm
chí còn là đề tài bàn luận trên mặt báo.
Bài điếu văn của ông Phan Trần Chúc đại diện báo giới Bắc - Việt không
chỉ sơ lược lại toàn bộ chặng đường hoạt động của Nguyễn Văn Vĩnh, mà còn
bày tỏ niềm tôn kính cũng như khâm phục trước những việc mà Nguyễn Văn
Vĩnh đã làm được. Ông đã gọi Nguyễn Văn Vĩnh là “một nhà ngôn- luận, một
nhà đại -văn- hào” tiếng tăm lừng lẫy khắp cõi Đông-dương mà không một nhà
trí-thức Việt-nam nào là không biết tiếng, một con người đã “Trọn đời đã hi
sinh cho lý- tưởng. Cái lý-tưởng ấy là mưu việc tiến-hoá cho dân-tộc Việt-nam
bằng sự cải cách về tư-tưởng và văn-học…”
… Nguyễn tiên-sinh là người đầu tiên đã viết được thông-thạo quốc-văn.
Lời văn tiên-sinh giản-dị, nhưng ý-tứ dồi-dào. Vì noi theo cái mục-đích mở
mang tri-thức cho phái bình-dân nên mỗi bài của tiên-sinh viết đều chú-trọng
vào bình-dân, để tặng cho bình-dân… nhân đó mà ai cũng ham đọc văn tiên-
sinh.
… Tiên-sinh mất! nhưng cái sự nghiệp văn-chương của tiên-sinh còn mãi
81
và cái danh của tiên-sinh sẽ bất tử với văn-học và báo-giới nước nhà…”
Nhiều tờ báo đương thời như: Trung-Bắc, Sài-gòn, Đuốc Nhà Nam…
đồng loạt viết bài về cuộc đời, về sự nghiệp về những đóng góp của Nguyễn
Văn Vĩnh, có báo cho đăng một số bài thơ điếu văn về Nguyễn Văn Vĩnh.
Báo Khuyến Học:
Nghe tin ông Vĩnh qua đời,
Sùi-sụt thương ông hai lệ rơi,
Công nghiệp văn-chương còn để lại,
Quốc dân hâm mộ hảy còn dài.
Thương ông xin gắng chí theo ông,
Yêu nước cùng nhau nghĩa vụ chung.
Bút mực hỏi ai mong báo quốc,
Soi gương chí-sĩ rang nên cùng.
Văn-đàn học-giới nước Nam ta,
Sao được như người mới thật là…
Một nước văn-minh trên thế giới,
Hỡi ai học-giả tính sao mà…
Bởi mong cho nước được bằng người,
Ông Vĩnh chăm lo suốt cuộc đời,
Đem óc, đem lòng dâng tổ-quốc,
Thương ông ta phải gắng theo đòi… 82
Báo Sài-gòn viết:
“… Tuy về tư-tưởng chính-trị của ông có đôi chỗ tôi không đồng ý-kiến,…
ông là một nhà văn có công-nghiệp với báo giới, với nền văn-học xứ này,
vừa là một nhà chính-trị có lương tâm, tiết-tháo…
Đối với báo giới ông Nguyễn Văn Vĩnh là người sáng lập tờ “Trung-Bắc
tân văn, đã làm chủ tờ “Anam Nouveau” và ông là người có công với việc
sáng-tạo ra lối văn nghị-luận ở nước Nam trước nhất
Đối với nền văn-hoc, ông Vĩnh là người đã thấy rõ con đường phải đi, đã
nhận rằng cái nền văn học mới đúc còn thiếu-thốn của chúng ta, còn phải
kiếm nhiều tài-liệu ở xứ ngoài bồi-bổ kiến- thiết mới vững-vàng chắc chắn
được…Ông Nguyễn Văn Vĩnh ra công lo bổ-túc. Mấy năm trời ông cặm-
cụi dịch những bộ sách hay của phương tây để giúp việc mở-mang kiến-
thức của anh em trong nước. Sau này, cầm được những cuốc sách Nhẽng
kẻ khốn nạn, Ba người ngự lâm pháo thủ… chắc không ai đành quên tên
ông Nguyễn Văn Vĩnh
Còn về chínhtrị?
Tôi không kể ông Vĩnh là người đã bênh-vực thuyết trực-trị, cũng không kể
ông là người cực lực chống lại ông Phạm Quỳnh với thuyết lâp-hiến, tôi
chỉ nhớ rằng… ông Vĩnh là một người Việt-nam đã có can-đảm cùng với
bốn người Pháp ký tên dưới một lá đơn, xin cho cụ Phan Chu Trinh khỏi
chết… khi mọi người – cho đến người Pháp – cũng đều cho là một sự nguy
hiểm không dám buộc vào mình… Đủ cho ta biết can-đảm và tiết-tháo của
nhà chính-trị được anh em ở Bắc tin-cậy và nhiều phen cử lên làm đại-
83
biểu
“làm người, theo như tôi, cần có đức dục hơn trí dục – sĩ khả sát bất khả
nhục… người học trò mà thiếu nhân-cách, không tiết-tháo, thì có học cũng
như không, tệ hơn nữa là có hại cho nòi giống” người đã biết nói ra câu
nói ấy thì dà sao cũng không đến nỗi làm những việc nhuốn-nhơ, hèn-hạ
như một vài nhà chính –trị ta đã biết
Chính tôi khen ông Vĩnh ở chỗ đó. Tôi trọng ông cũng ở chỗ đó…”
Báo Đuốc Nhà Nam viết:
“… tiên-sinh trong lúc thiên-hạ mê, một mình tỉnh
… đương đầu với thiên-hạ mà không một chút khuất-phục đến cho thân,
đứng trước mặt lợi-danh mà vẫn giữ được cái bản-sắc của người quân-tử.
Thà tìm vàng chốn rừng xanh, không thà bới tiền ở những cái ân-huệ, tiên-
sinh vẫn là người đáng quý mà!
Nếu trong trường chính-trị cần người ở chỗ thập toàn, thì tiên-sinh vẫn có
cái đáng than, chớ như cần người ở chỗ có lương-tâm thì tiên-sinh thật là
người đáng quý.
Huống chi về văn-học-giới nước nhà, tiên-sinh lại là một tay cự-phác; về
báo-giới nước nhà, tiên-sinh lại là bậc tiền-khu
Đem tư-tưởng văn-học phương tây rưới vào đầu óc người Việt-nam, cái
bão-phụ và cái công-trình của tiên-sinh có kém gì các bậc tân-học nước
ngoài đâu” là bậc tài-hoa, minh-triết, khó tìm thấy trong làng tân-học
Báo Trung-Bắc:
Bể trời chí khí;
84
Non nước tình hoài
Tay trắng hai bàn
Lòng son một tấm.
Anh hùnh không gặp vận, mấy mươi năm phấn-đấu phong-trào
Tạo vật khéo trêu ngươi, năm-nhăm tuổi giã-từ nhân thế
Mở cờ đầu trong báo giới, công quốc-văn còn mãi nghìn thu
Treo gương sáng cho quốc-dân, làng chính-khác dễ tìm mấy kẻ.”
Nhiều người Pháp cũng có những nhận định, đánh giá riêng. Ông
M.Demas, Chủ tịch hội Nhân Quyền, chi hội Hà-Nội trong bài điếu văn cũng đã
đánh giá Nguyễn Văn Vĩnh như là một tiêu biểu cho tinh thần, lý tưởng và hành
động của hội Nhân Quyền, bài điếu văn cũng đặc biệt nhấn mạnh những đóng
góp của Nguyễn Văn Vĩnh trên nhiều phương diện mà chúng ta có thể lược trích
lại như sau:
“… Hơn hẳn bất cứ người nào, ông có đủ tư cách để hoàn thành hai
nhiệm vụ là làm co người Pháp hiểu rõ được tâm hồn người An Nam,… chỉ nhờ
có những cách đó mới đẩy lùi được đầu óc bảo thủ…
Dịch những tác phẩm của Victor Hugo, của Alexandre Dumas, của La
Fotaine ra một tiếng nước ngoài là một nhiệm vụ đầy khó khăn. Và khi mà tiếng
đó lại là tiếng An Nam, là chữ quốc ngữ, một thứ tiếng độc âm, một thứ chữ viết
mới được sáng tạo ra chỉ để trao đổi những ý nghĩ đơn sơ nhất, điều đó như một
thách thức không thể nào thực hiện được. Nguyễn Văn Vĩnh đã làm được việc
Bộ diệu đó… ông đã thật là một người thợ kim hoàn kiên nhẫn, và đã mài dũa
85
thành một ngôn ngữ bóng bẩy và trơn tru…
Đối với chữ quốc ngữ, ông là một nhà văn phạm, nói không ngoa ông
chính là người sáng tạo ra văn chương chữ quốc ngữ, việc này đã tôn ông lên
một địa vị đăc biệt trong lịch sử văn chương nước này.
… Để lại phía sau mình một hàng ngũ hậu thế đông đảo, những học trò và
những người bạn chân thành trong sự đau thương, tất cả một dân tộc biết ơn về
những công lao của ông đã để lại cho họ…”
Trong điếu văn của mình, ông Henry Tirad, nhà báo lão thành ở Bắc Bộ
đã nhắc tới Nguyễn Văn Vĩnh với tư cách là một đồng nghiệp. Đánh giá cao tài
năng của Nguyễn Văn Vĩnh: “Ông là một nhà viết báo có tài của báo chí tự do
và độc lập”…
Như vậy, trong con mắt những người đương thời, phần lớn đều khâm
phục tài năng và tôn trọng tư cách của ông; đồng thời đánh giá cao những việc
làm của Nguyễn Văn Vĩnh trong hoạt động vận động phát triển báo chí, chữ
quốc ngữ và đặc biệt là ghi nhận những đóng góp tích cực để gây dựng một nền
quốc văn mới. Về mặt Chính trị, mặc dù không được đồng tình ủng hộ, nhưng
ông cũng nhận được những cảm thông.
2.2. Đánh giá của các nhà văn học sử
Những nhà nghiên cứu trước cách mạng tháng tám như Dương Quảng
Hàm, Vũ Ngọc Phan đã dành nhiều trang viết cho Nguyễn Văn Vĩnh và Đông
Dương tạp chí. Trong “Văn học sử yếu”, nhà nghiên cứu văn học Dương Quảng
Hàm đã hệ thống tác phẩm của Nguyễn Văn Vĩnh thành hai phần: trứ tác và
dịch thuật. Sau đó ông tổng kết đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh như sau:
Về tư tưởng: Ông là người học rộng, biết nhiều, lại có lịch duyệt, thiệp liệp
tư tưởng học thuật của Âu Tây, nhưng cũng am hiểu tín ngưỡng phong tục của
86
dân ta, muốn đem những quan niệm phương pháp mới nào hợp thời để truyền
bá trong dân chúng, nhưng cũng chịu khó tìm tòi và biểu lộ cái dở, cái xấu cũng
như cái hay, cái ý nghĩa của các chế độ, tục lệ xưa, của các mối mê tín dị đoan
cũ: vì thế mà có người hiểu lầm mà trách ông muốn đem những điều tin nhảm,
những cái hủ tục mà tán dương và khôi phục lại.
Về văn từ: Văn ông bình thường giản dị, có tính cách phổ thông, tuy có
châm chước theo cú pháp của văn tây mà vẫn giữ được đặc tính của văn ta.
Ông lại chịu khó moi móc trong kho thành ngữ, tục ngữ của ta những từ ngữ có
màu mẽ để diễn đạt ý tưởng (cả những ý tưởng mới của Âu Tây) thành ra đọc
văn dịch của ông tưởng chừng như đọc văn nguyên tác bằng tiếng Nam vậy. Kể
về văn dịch tiểu thuyết thì thực ông là người có biệt tài, ít kẻ sánh kịp vậy.
Cuối cùng, khi so sánh với Phạm Quỳnh, ông kết luận: Ông Vĩnh có công
diễn dịch những tiểu thuyết và kịch bản của Âu Tây và phát biểu những cái hay
trong tiếng Nam ra. Đối với văn hóa cũ của nước ta, thì ông Vĩnh hay khảo cứu
những phong tục tín ngưỡng của dân chúng. Và, văn ông Vĩnh có tính cách giản
dị của một nhà văn bình dân.
Gắn liền Nguyễn Văn Vĩnh với Đông Dương tạp chí, trong “Nhà văn hiện
đại”, Vũ Ngọc Phan khẳng định:
“Nguyễn Văn Vĩnh là người rất có công với quốc văn, nhưng không phải
chỉ nhờ ở những sách dịch…Ông có công với quốc văn là vì ông đã đứng chủ
trương một cơ quan văn học vào buổi mà đối với văn chương, mọi người hãy
còn bỡ ngỡ. Ông lại hội họp được những cây bút có tiếng, gây được phong trào
yêu mến quốc văn trong giới thanh niên trí thức đương thời...”
Cả hai nhà nghiên cứu giai đoạn này đều đánh giá vai trò của Nguyễn Văn
Vĩnh ở phương diện văn học, không hề xét tới bối cảnh lịch sử hay những liên
87
hệ chính trị.
Ở vào giai đoạn sau cách mạng, các nhà văn học sử miền Nam như Phạm
Thế Ngũ, Thanh Lãng đã cho ra đời những bộ văn học sử quy mô, trong đó
Nguyễn Văn Vĩnh và Đông Dương tạp chí chiếm một vị trí đáng kể.
Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ đã dành
nhiều trang giấy để nói về Nguyễn Văn Vĩnh. “Cả xã hội đang còn thở hút Hán
học, tắm gội cổ truyền, ông Tân Nam Tử đã đi trước thời đại nhiều quá”, là
nhận xét xác đáng của nhà nghiên cứu văn học Phạm Thế Ngũ về nhà tân học
Nguyễn Văn Vĩnh. Nhà nghiên cứu này nhận định, “nói về canh tân thì những
thành tích gây được phải về phía những nhà tây học với người đi đầu là Nguyễn
Văn Vĩnh mà hoạt động đã mở đường cho báo chí và xuất bản, và tư tưởng âu
hoá cấp tiến. Ngay sau khi về nước (1907), “Nguyễn Văn Vĩnh đã làm mấy việc
có thể coi như đặt những viên đá đầu tiên cho nền văn học mới”. Những viên đá
ấy là đổi tờ báo chữ Hán “Đại Nam đồng văn” ra thành tờ báo quốc ngữ đầu
tiên “Đăng cổ tùng báo”; lập nhà in và in sách dịch ra chữ quốc ngữ; lập hội
dịch sách vừa để luyện chữ quốc ngữ vừa truyền bá tư tưởng, văn chương
phương tây. Đồng thời khẳng định “Nói rằng ông chỉ làm việc đả kích phá hoại
thôi thì không đúng, ông cũng làm công việc xây dựng giáo dục nữa, cả tờ Đông
dương tạp chí là một công cuộc giáo dục theo đường hướng bài cựu nghing tân
ấy.” Nhà nghiên cứu này còn gọi Nguyễn Văn Vĩnh là “người chiến sĩ của quốc
ngữ” và dành cả chục trang giấy để minh chứng cho điều đó.
Như vậy, theo phân tích và đánh giá của nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ
thì: Về tư tưởng, Nguyễn Văn Vĩnh có thể coi là người tiêu biểu cho một phong
trào duy tân cấp tiến tại nước Việt vào đầu thế kỷ XX. Về đường văn học, trong
quá trình hình thành nên một nền văn học mới, ông còn là chiến sĩ đấu tranh
không mệt mỏi cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ. Và ông đã làm được trong
bước đầu một tờ báo rất bổ ích cho văn mới lúc phôi thai, đó là tờ Đông Dương
88
tạp chí.
Một góc nhìn, nghiên cứu theo chiều sâu nguyên nhân của vấn đề, ở Bảng
lược đồ Văn học Việt Nam, Thanh Lãng đã dành hơn 300 trang (trang 165 -
597), để nhận định, đánh giá về văn học thế hệ Liên hiệp (1913-1932). “Thế hệ
1913 là thế hệ của những người không thể làm gì về chính trị để chống Pháp,
đành thỏa hiệp và hướng về đào luyện văn hóa, giáo dục học tập văn minh tiến
bộ Tây phương”.
Khi nghiên cứu về Nguyễn Văn Vĩnh, Thanh Lãng cho rằng: Có lẽ cái mẫu
quốc Pháp với mọi vẻ huy hoàng (khi ông tham dự đấu xảo Marseille), đã làm
ông nảy ra ý định dấn thân. Cho nên khi về nước, thay vì tiếp tục cộng tác với
Pháp để được vinh thân phì gia, ông lại bỏ nghề quan trường, để dấn thân vào
cuộc đấu tranh văn hóa, mà khí giới của ông là báo chí và ấn phẩm...Có thể thấy
ở Nguyễn Văn Vĩnh, một thế hệ mới mà tâm tưởng khác hẳn thế hệ xưa. Trước
đây, tư tưởng “hợp tác với Pháp để duy tân xứ sở” do Tôn Thọ Tường đề
xướng bị người đời lên án, thì đến thời ông Vĩnh được coi là cần yếu, vì mọi
cuộc khởi nghĩa đều lần lượt bị thất bại đau đớn.
Và “Nguyễn Văn Vĩnh có thể coi là ông tổ của văn học thế hệ 1913. Đông
Dương tạp chí do ông điều khiển, quả là một văn đàn đã qui tụ nhiều nhà văn
danh tiếng lúc bấy giờ. Và điều mà ông đã ôm ấp và phụng sự cho đến hết đời,
đó là làm cho chữ Quốc ngữ có một tương lai rực rỡ. Tất cả cho thấy công của
ông đối với văn học mới quả thực là to tát”.
Ngược lại với sự ghi nhận vai trò của Nguyễn Văn Vĩnh và Đông Dương
tạp chí, Nguyễn Văn Trung trong “Chủ đích Nam phong” cũng ít nhiều đưa ra
những đánh giá khá khắt khe. “Trong khi các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm,
trong khi nền văn chương cách mạng bị bóp nghẹt không được xuất hiện công
khai thì thực dân Pháp cho ra đời hội Khai Trí Tiến Đức, nhóm Nam Phong,
89
nhóm Đông Dương tạp chí để cổ võ những lập trường phản quốc, phản dân tộc.
Nền văn học công khai thỏa hiệp, cộng tác trong hoàn cảnh đó thật ra là một
nền văn học của thực dân, được thực dân tài trợ để chống lại các phong trào
yêu nước, các nền văn chương âm ỉ trong dân gian.”. Ông gọi đấy là “Văn
chương công khai thỏa hiệp, công vụ của thực dân”, và gay gắt lên án Nguyễn
Văn Vĩnh:“Nguyễn Văn Vĩnh là người theo tây học hoàn toàn, cho rằng phải
Âu hóa mới mong tiến được. Một thái độ về chính trị và về văn hóa như thế
(dám chửi cả Phan Bội Châu) trước mắt giới sĩ phu, chỉ là thái độ của một kẻ
vong bản nịnh hót tâng bốc quan thầy đến nỗi làm cho chủ đọc đến phát
ngượng”.
2.3. Nguyễn Văn Vĩnh qua đánh giá của những năm gần đây
Đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh, đa số các nhà nghiên cứu văn học đều
không thể phủ nhận đóng góp của ông về mặt văn hóa, văn học nhưng có phần
né tránh; cái tội danh “phản bội, phản quốc, vọng ngoại”, là tay sai, bồi bút cho
thực dân Pháp vẫn đeo đẳng trong nhiều nhận định. Nhiều phê phán cực đoan
đến mức phủ định một số giá trị và những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh cũng
như Đông Dương tạp chí với nền văn hóa, văn học dân tộc. Bước sang thế kỷ
XXI, trong xu thế đổi mới và cởi mở, một số vấn đề của quá khứ được nhìn
nhận xem xét lại, theo đó, vấn đề về Nguyễn Văn Vĩnh cũng được nhiều nhà
nghiên cứu hiện nay quan tâm.
Theo GS.Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Văn Vĩnh là:
Một nhân vật quan trọng của buổi giao thời. Ông chủ trương theo mới,
nhưng không tán thành con đường bí mật bạo động, mà chọn con đường “công
khai dựa vào Pháp để canh tân đất nước”.
Bởi vậy, ông vừa ra sức trình bày tư tưởng dân chủ tư sản Âu Tây, vừa
90
phê phán hủ tục của người Việt bằng hình thức sách, báo.
Trong phạm vi có thể, ông đã cố gắng noi theo đường lối chủ Phan Chu
Trinh, phê phán thẳng thừng chế độ phong kiến, kêu gọi mọi người Việt hãy
thực hành kỹ nghệ và thương mại, mới có thể đưa đất nước đến chỗ phú cường.
Tuy cộng tác với Pháp, nhưng ông đã hai lần từ chối Bắc đẩu bội tinh
của họ.
Về mặt văn học, tờ Đông Dương tạp chí do ông làm Chủ bút, và các tác
phẩm dịch của ông một thời đã là lò đào luyện lớp thanh niên tân học.
Một đóng góp không nhỏ nữa của ông, đó chính là lòng nhiệt tình với chữ
Quốc ngữ.
“Từ điển văn học”
Còn nhà Nhà văn Vũ Bằng trong “40 năm nói láo” nhắc lại về Nguyễn
Văn Vĩnh như sau:
Không phải nói, ai cũng biết ông Vĩnh là nhà học nhiều biết rộng, vấn đề
gì cũng biết. Điểm đó, ông phải là một điểm đặc biệt, vì chung quanh ông cũng
có nhiều người như thế. Nhưng khác một điều là những người kia thì không ứng
dụng được cái biết của mình làm lợi ích cho người khác. Đằng này, ông Vĩnh
học và hành ngay. Phải nói ngay, thời ấy, ông đã có một ý thức về nghề báo...
...Ông Vĩnh là người lắm công nhiều việc. Ông làm việc như con trâu cày,
không mấy khi muốn phiền người khác. Thú thật, cho đến bây giờ, tôi sợ nhiều
người nhưng chưa sợ gì như sợ cái tài viết của ông...Ông viết tin, viết xã luận,
làm thơ, khảo cứu, phóng sự và dịch tiểu thuyết thì quả không chê được...
Nói đến ông Vĩnh, người ta thường nhớ ngay đến loạt bài đả kích chủ
trương quân chủ của Phạm Quỳnh theo sát với Tây, mà hầu như đều quên rằng
chiến dịch làm cho từ Bắc đến Nam sôi nổi, hăng say, chiến dịch khích động
lòng yêu nước của toàn dân lúc ấy, chiến dịch làm cho Pháp giựt mình, vì
không ngờ ông Vĩnh lại được dân chúng tin yêu đến thế, chính là chiến dịch tẩy
91
chay Hoa kiều bằng một bài báo ký tên là "Quan Thành".
...Những lời đe dọa, khi thì sỗ sàng, khi thì mềm dẻo của nhà cầm quyền
Pháp hồi đó, kéo dài không ngớt trong cuộc đời ông. Vậy mà, thà là chịu khổ
sở, thiếu thốn, hiểm nghèo, chớ không chịu vị tình người Pháp hay vì tiền của
họ mà thay đổi lập trường, chí hướng... .
Nhà văn Hoàng Tiến, trong bài viết “Dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh chiếc
cầu nối văn hóa Đông - Tây” đã khẳng định: Nguyễn Văn Vĩnh đáng được ghi
công đầu trong công cuộc bắc chiếc cầu nối văn hóa Đông Tây. Trong bài viết,
ông đã liệt kê sơ bộ về hệ thống tác phẩm dịch của Nguyễn Văn Vĩnh, sau đó đi
sâu phân tích công khai phá giới thiệu các loại hình văn học phương tây (thơ,
truyện trẻ con, kịch, tiểu thuyết), và giới thiệu truyện Kiều bằng tiếng Pháp.
Cuối cùng, ông nhấn mạnh: “Chúng ta là lớp hậu sinh ở cuối thế kỷ, hay chúng
ta chịu ơn những người đi trước, và càng thêm lòng kính phục khi ta biết hoàn
cảnh khó khăn của lớp trí thức cha ông ở buổi giao thời. Chỉ với giác độ một
dịch giả thôi, ông Nguyễn Văn Vĩnh đã xứng đáng với danh xưng là chiếc cầu
nối hai nền văn hóa Đông Tây”.
Trong triển lãm Báo chí quốc ngữ Việt Nam năm 2010, chân dung
Nguyễn Văn Vĩnh và hình ảnh hai tờ Đăng cổ tùng báo và Đông Dương tạp chí
được trưng bày ở vị trí trang trọng và được đánh giá là hai tờ báo quan trọng
trong sự nghiệp làm báo của Nguyễn Văn Vĩnh nói riêng và nền báo chí Việt
Nam nói chung. Ngoài ra còn tổ chức riêng một buổi tọa đàm nhấn mạnh công
lao của Nguyễn Văn Vĩnh có sự tham gia đánh giá của các nhà nghiên cứu Lại
Nguyên Ân, Phạm Xuân Nguyên, nhà báo Yên Ba, Giáo sư Đỗ Quang Hưng.
Các nhà nghiên cứu này đều lần lượt nhắc lại những đóng góp của Nguyễn Văn
Vĩnh trên hai tờ báo, đóng góp hoàn thiện văn phạm và hệ thống chữ quốc ngữ;
đóng góp trong việc tập chung và hình thành một đội ngũ nhà văn, nhà báo mới;
và khẳng định, đỉnh cao của chữ quốc ngữ không gì khác chính là tờ Đông
92
Dương tạp chí.
GS. Đỗ Quang Hưng nhận xét: “Tên tờ báo có nghĩa là tiếng trống, xét
riêng về mặt ngôn ngữ thì đã có bước tiến rất lớn. Tờ báo do Nguyễn Văn Vĩnh
đảm nhận phần tiếng Việt, rất tuyệt vời. Tiếc là tờ báo này cũng chỉ sống được
một quãng thời gian ngắn vì số phận của nó gắn với Đông Kinh Nghĩa Thục.
Đỉnh cao của chữ quốc ngữ không gì khác chính là tờ Đông Dương tạp chí. Báo
làm nhiệm vụ dạy chữ quốc ngữ cho người dân, hoàn thiện văn phạm và hệ
thống chữ quốc ngữ, bên cạnh việc thực hiện chức năng báo chí rất hay. Dù
vậy, nhiều người ác cảm thái độ chính trị của Nguyễn Văn Vĩnh”.
Như vậy, Nguyễn Văn Vĩnh được đánh giá theo những phương diện, góc
độ khác nhau: không xét đến bối cảnh lịch sử; xét bối cảnh lịch sử nhưng không
liên hệ bối cảnh với việc phân tách nội dung, quan điểm lập trường chính trị.
Theo chúng tôi, đánh giá như vậy thực chưa thỏa đáng. Không né tránh chúng
tôi muốn đánh giá khách quan về một Nguyễn Văn Vĩnh và sự lựa chọn của ông
trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ.
3.` Tiểu kết về Nguyễn Văn Vĩnh
Trên đây, chúng tôi đã hệ thống lại một số đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh
qua trục dọc thời gian. Và trên cơ sở những tư liệu về Nguyễn Văn Vĩnh (chủ
yếu trong Đông Dương tạp chí) đã nghiên cứu, khảo sát, phân tích và tiếp thu
được chúng tôi rút ra một số kết luận đánh giá đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh
ở những phương diện sau:
Là một nhà báo tài năng, một người có công lớn trong việc phát triển báo
chí tiếng Việt.
Là một dịch giả lớn, là chiếc cầu nối văn hóa Đông - Tây. Thông qua dịch
thuật ông đã truyền tải được một khối lượng kiến thức khổng lồ về văn học, văn
hoá, tư tưởng phương Tây. Ông dịch tất cả các thể loại, không chỉ riêng tiếng
Pháp mà cả chữ Hán, chữ Nôm, và dịch ngược từ chữ Nôm ra chữ Pháp, nổi
93
tiếng và kỳ công nhất là dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp.
Là người có những đóng góp không nhỏ cho quá trình cổ vũ, truyền bá và
cải tiến chữ quốc Ngữ.
Là một trong những người đặt viên gạch nền móng xây dựng văn học hiện
đại Việt Nam.
Chắc chắn rằng, những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh mà chúng tôi
vừa tổng kết trên đây hoàn toàn không mới mẻ và đã được ghi nhận bởi nhiều
nhà nghiên cứu. Nhưng điều mà chúng tôi muốn nhấn mạnh là, để có những
đóng góp “gạch đầu dòng” này là kết quả hoạt động và lao động không mệt mỏi
và kiên trì đến cùng của cả một cuộc đời giữa hoàn cảnh đất nước rối ren và vô
cùng phức tạp.
Bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, thực dân Pháp đang thống trị Việt Nam,
hàng loạt các cuộc nổi dậy đều bị dìm trong biển máu. Ở đây, chúng tôi sẽ
không bàn hay phân tích về con đường cứu nước của các nhà yêu nước Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh… là tích cực hay cực đoan, là đúng hay sai. Điều
mà chúng ta không thể phủ nhận là, kết quả lịch sử của tất cả các phong trào yêu
nước này đều rơi vào thảm bại. Nguyễn Văn Vĩnh vào thời đó hẳn không phải
không nhận biết được điều này. Thái độ, quan điểm của Nguyễn Văn Vĩnh trong
lúc này là “canh tân đất nước”, bởi ông sớm nhận ra: “Từ chế độ học thuật, văn
chương đến phong tục, tính tình ở chỗ nào so với phương tây cũng là kém là
thua, cũng xấu, cũng hủ, cũng cần phải sửa đổi”. Trước sự lo lắng của nhiều
người rằng “theo tây thì sau mất nước, chỉ những lo quốc hồn mai hậu không
còn” Nguyễn Văn Vĩnh đã rất tự tin khẳng định: “Phải biết rằng cơ còn mất ấy
là ở ta. Người còn thì nước còn”. Rõ ràng, lựa chọn con đường canh tân đất
nước là một sự lựa chọn có chủ đích của Nguyễn Văn Vĩnh. Và vì thế, tội danh
“tay sai, bồi bút” mà nhiều người gán cho ông có lẽ nên suy nghĩ lại một cách
94
thấu đáo hơn.
Chúng ta đã biết, Nguyễn Văn Vĩnh là một trong những thành viên tích
cực, hăng hái nhất của phong trào Duy tân. Đặc biệt là từng hăng hái ngồi cùng
một chiếu Đông Kinh nghĩa thục với Nho gia, đó là Phan Bội Châu, Lương Văn
Can, Phan Châu Trinh… những vị thủ lĩnh của các phong trào yêu nước nổi
tiếng trong lịch sử nước nhà. Có thể hào hứng trong cùng một phong trào như
vậy, Nguyễn Văn Vĩnh tất phải có những quan quan điểm, tư tưởng yêu nước
rất gần gũi với các bậc nho gia ấy.
Thêm nữa, chúng tôi cũng muốn dẫn ra rằng, phong trào Đông Kinh
nghĩa thục vì sao phải đóng cửa? vì Pháp lo ngại về những mục tiêu cách mạng
quá rõ ràng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công cuộc nô dịch của chúng. Một
đường hướng đúng đắn nhưng thẳng thắn, lộ liễu trong hoàn cảnh này thực khó
mong có được sự tồn tại. Nguyễn Văn Vĩnh cũng từ Đông Kinh nghĩa thục mà
nhận lấy ngọn đuốc duy tân từ tay Nho gia, nhận thấy trọng trách canh tân đất
nước theo một phương pháp khác. Sự ra đời của tờ Đông Dương tạp chí được
nhận định “Tất cả các mục tiêu mà Đông Dương tạp chí đề ra đều giống với
phong trào Đông Kinh nghĩa thục, trừ việc tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ”.
Tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ, đó chắc chắn là sự lựa chọn khôn ngoan lúc
bấy giờ. Cũng cần phải nhấn mạnh, chỉ hai năm đầu, Đông Dương tạp chí đóng
vai trò là một tờ báo cung cấp thông tin về đời sống chính trị, xã hội; ở đó,
những bài tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ ngày càng thưa dần. Còn từ 1915
và những năm sau đó, Đông Dương tạp chí đã hoàn toàn chuyên chú vào văn
chương, học thuật. Về điều này, Nguyễn Trần Huân trong “Đưa vào văn học
Việt-nam” đánh giá: “… Từ 1914, Đông Dương tạp chí đã thất bại. Nhà cầm
quyền Pháp muốn tạo một tạp chí khác có trình độ trí thức thật cao để ủng hộ
chính sách thuộc địa của họ”. Nhìn lại thời điểm hoàn cảnh lịch sử, quá trình
phát triển của tờ Đông Dương tạp chí, cũng như căn cứ vào đánh giá ấy chúng
ta có thể thấy được sự khôn khéo, mềm dẻo trong thái độ ứng xử của Nguyễn
95
Văn Vĩnh.
Tóm lại, chúng ta đều không phủ nhận, Đông Dương tạp chí ra đời nằm
trong âm mưu văn hóa của thực dân Pháp. Quá trình hoạt động, xuất bản của tờ
báo bắt buộc phải nằm trong sự kiểm duyệt của nhà cầm quyền, vì lẽ đó, nội
dung của tờ báo phải mang tính chất phục vụ chính phủ bảo hộ. Đặng Thái Mai
cũng lên tiếng: “Quyền lãnh đạo văn hoá đã vào tay bọn thống trị nước ngoài
cho nên cái mà người ta gọi là văn học Việt Nam trên thị trường hồi này chỉ có
thể phát triển theo đường lối của chủ nghĩa thực dân. Do đó mà cái thiện chí
của những người muốn xây dựng văn học nước nhà bằng phương tiện công
khai, cũng bị hạn chế”.
Trong bài nghiên cứu “Nhân quả Đông Du”, nhà nghiên cứu Trần Ngọc
Vương cũng nhìn nhận “Trong lịch sử của một quốc gia, một dân tộc hay một
xã hội vẫn thường hiện hữu những thời điểm mà ở đó, lúc đó cả những người
sáng suốt nhất, thậm chí có thể là vĩ nhân trong những hoàn cảnh khác, những
thời điểm khác, cũng không thể nào đưa ra những phương án khả dĩ làm cho
quốc gia hay xã hội ấy thoát khỏi bế tắc hay khủng hoảng. Chính vì vậy mà các
bậc minh triết Đông lẫn Tây xưa nay vẫn là các bậc minh triết của chữ “thời””.
Như vậy, thay vì lựa chọn đấu tranh giải phóng dân tộc, Nguyễn Văn
Vĩnh đã chọn đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội, canh tân đất nước, để rồi suốt cả
cuộc đời mình, Nguyễn Văn Vĩnh đã miệt mài với trách vụ mà ông tự giao cho
chính mình. Ở vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, Nguyễn Văn Vĩnh phải lựa chọn một
thái độ ứng xử riêng, đó chính là thái độ hợp tác. Nhìn lại chặng đường hình
thành và phát triển một nền văn hóa thuần túy quốc gia, một nền văn học hiện
đại có ngôn ngữ riêng của dân tộc, chúng tôi cho rằng nhiệt huyết ấy đáng được
96
ghi nhận và cần phải ghi nhận.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Với ba chương luận văn chúng tôi đã trình bày từ bao quát về vai trò của
báo chí Việt Nam đối với quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam, sau đó
tập trung nghiên cứu những đóng góp cụ thể trên Đông Dương tạp chí và chủ
bút Nguyễn Văn Vĩnh, trường hợp vốn được xem là “cột mốc” đánh dấu cho sự
phát triển vượt bậc của văn học quốc ngữ trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX.
Phác thảo lại bức tranh văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX,
chúng tôi muốn đưa người đọc trở về với giai đoạn giao thời, văn học Việt Nam
đang trong tình trạng hỗn dung của “ít nhất hai hệ hình văn học” và thấy được
nền văn học chữ Hán gắn với thi pháp trung đại đang dần bị triệt tiêu và nền văn
học quốc ngữ theo hệ thống thi pháp hiện đại đang dần được kiến tạo, mà báo
chí đã trở thành tác nhân có tác động sâu sắc tới cuộc “giao tranh” ấy.
Có thể nói, quá trình phát triển của báo chí chính là quá trình mở đường
cho sự phát triển của chữ quốc ngữ. Bản thân sự phát triển của báo chí quốc ngữ
đã khiến chữ quốc ngữ ngày càng tiếp cận với đông đảo bạn đọc. Thêm vào đó,
hầu hết các tờ báo, tạp chí đều không thể thiếu các chuyên mục truyện kể,
truyện ngắn, thơ ca, câu đối… “chất liệu nền” của văn học hiện đại được thể
nghiệm, luyện tập, câu văn quốc ngữ cũng dần được gọt rũa mà trở nên tường
minh hơn. Vào thời điểm lúc bấy giờ, điều kiện in ấn, xuất bản vẫn còn hạn chế,
báo chí được xem là môi trường thuận lợi, là diễn của văn học. Thông qua hệ
thống báo chí chúng ta nhận thấy hàng loạt các áng thơ văn kiệt tác của Việt
Nam, văn học Trung Quốc, hệ thống tác phẩm văn học Pháp và đặc biệt là liên
97
tục xuất hiện những sáng tác văn thơ mới quốc ngữ. Có một thực tế là hầu hết
các tác phẩm văn chương hay và có giá trị đã gây được những ảnh hưởng lớn và
sâu sắc đối với nền văn học hiện đại đều được đăng tải trên báo chí. Và dường
như văn học chui vào báo chí và hầu như mọi tác phẩm văn học đầu thế kỷ XX
trước khi in thành sách đều lần lượt đăng tải từng kỳ trên mặt báo.
Cũng trên hệ thống báo chí, chúng ta có thể hình dung một cách đầy đủ
những gương mặt của văn học đương thời. Đội ngũ tác giả tiêu biểu của dòng
văn học yêu nước cách mạng đầu thế kỷ XX như Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng…; những cây bút biên khảo như
Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Hữu Tiến… và đội
ngũ tác giả sáng tác theo phương pháp hiện đại như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh
Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh,
Hoàng Ngọc Phách, Tản Đà… Về mặt thể loại, hàng loạt những thể nghiệm
sáng tác mới trên báo dần tạo nên phong trào sáng tác trên phạm vi cả nước, qua
đó nền văn học mới đã gom đủ diện mạo của những thể loại và thể tài chính
yếu: tự sự, trữ tình, kịch.
2. Gây dựng một nền quốc văn mới, cho đến những thập niên đầu thế kỷ
XX, hầu như chỉ mới là việc của một vài cá nhân, một vài nhóm người nào đó
chứ chưa phải là tinh thần chung của nhiều người, của toàn dân tộc. Nói như
vậy để thấy, trong giai đoạn lịch sử “giao thời” với những biến đổi phức tạp và
sâu sắc ấy, có được một tờ báo trong suốt nhiều năm ròng hăng hái, miệt mài,
chuyên tâm gây dựng “một nền quốc văn mới” thực là hiếm có. Nhưng Đông
Dương tạp chí đã làm được.
Nằm trong hệ thống báo chí và vẫn nằm trong âm mưu xâm lăng văn hóa
của thực dân Pháp, Đông Dương tạp chí vốn là kết quả vội vàng của Pháp“Đem
văn chương học thuật, đem ân huệ văn minh của nhà nước Lang Sa mà khua
sáo cho lấp được những lời gây loạn”, nhưng cũng là sự nắm bắt thời cơ của
98
chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh mượn tờ báo này để hiện thực hóa lý tưởng. Do đó,
sự hài hòa hợp tác lúc bấy giờ là cần thiết và tôn chỉ mục đích của Đông Dương
tạp chí là “Phổ biến văn hoá Tây phương, cổ động học chữ quốc ngữ, giới thiệu
kiến thức thực nghiệp như canh nông, công nghệ và tuyên truyền cho chính phủ
bảo hộ” và “cổ động cho dân An-nam lấy văn Quốc-ngữ làm quốc văn”. Trong
quá trình phát triển, mục đích của Đông Dương tạp chí đã có sự thay đổi khá
lớn. Các mục tiêu về phổ biến văn hóa phương Tây, cổ động học chữ quốc ngữ,
giới thiệu kiến thức thực nghiệp canh nông, công nghệ, gây dựng nền quốc văn
mới ngày càng được chú trọng. Cuối năm 1914, Đông Dương tạp chí thực sự đã
vận động và hoạt động vì sự tiến bộ xã hội, đặc biệt là đối với nhiệm vụ gây
dựng một nền quốc văn mới. Riêng mục tiêu tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ
được đề ra ban đầu và cũng được thực hiện rất sôi nổi lúc ban đầu dường như đi
dần vào lãng quên. Thực tế, Đông Dương tạp chí từ năm 1915 trở đi chỉ chú
trọng tới văn chương học thuật, những bài bình luận thời sự đã không còn nữa.
Trước hết phải khẳng định ngay rằng, không có tờ báo nào trước, sau và
cùng thời với Đông Dương tạp chí lại kỳ công và kiên trì truyền bá chữ quốc
ngữ như tờ báo này. Cổ động, truyền bá chữ quốc ngữ được xem như là một
trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đông Dương tạp chí đã đề ra. Đông
Dương tạp chí còn được sử dụng thay cho sách giáo khoa để dạy chữ quốc ngữ
và dạy văn. Từ lập bảng chữ cái, chỉ dạy cách viết, cách học, sửa lỗi chính tả và
sửa câu văn, làm văn… Đông Dương tạp chí đều không bỏ sót khâu nào nhằm
hoàn thiện chữ quốc ngữ. Bản thân trên Đông Dương tạp chí, câu văn quốc ngữ
thời gian đầu còn vụng, lủng củng, thường dùng ngôn ngữ nói trong hành văn,
khiến câu văn trúc trắc, khó hiểu. Về sau, những bài viết đã được diễn đạt trôi
chảy, dễ hiểu, trau chuốt hơn, câu văn quốc ngữ càng trở nên thành thục, mượt
mà, uyển chuyển và sâu sắc.
Thực hiện công cuộc truyền bá học thuật tư tưởng, văn hóa, văn học
99
phương Tây, số lượng tác phẩm được dịch và đăng trên Đông Dương tạp chí
khá quy mô và đồ sộ, với tư tưởng học thuật hay văn chương đều chiếm vị trí ổn
định trên tờ báo. Năm 1913-1914, văn chương, học thuật chỉ chiếm khoảng 2-5
trang. Năm 1915 trở đi, hệ thống chuyên mục của Đông Dương tạp chí hoàn
toàn về văn chương và sư phạm, mang tính chất của một tờ báo chuyên ngành.
Năm 1916, chuyên mục Văn chương có khoảng 9 - 12 trang. Toàn bộ số báo ra
năm 1917 có 5 chuyên mục chính hoàn toàn dành cho văn chương học thuật.
Đông Dương tạp chí không chỉ tạo thầy mà còn tạo ra trò, các thành viên
hội trí tri, khởi thuỷ viết những bài tác văn quốc ngữ đầu tiên tả cảnh, thuật sự
đã làm mẫu mực dạy trẻ nhỏ viết quốc văn. Nhiều nhà văn sau này (lớp sau
1932) như Thái Phỉ, Tam Lang đã thú nhận họ được đào tạo từ tấm bé trong cái
trường ấy.
3. Lấy quốc ngữ làm chuông cảnh tỉnh khua vang ngõ hẹp hang cùng
Đem báo chương thay đuốc văn minh soi sáng miền Nam cõi Bắc
Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh đã sớm nhận ra dân tộc sẽ không “ngóc
đầu” lên được với đa số dân thất học, vấn đề cấp thiết là cần phải chăm lo giáo
dục, nhưng cấp thiết hơn nữa là phải có chữ riêng cho dân tộc mình. Do đó, thay
vì chọn con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, lựa chọn lúc bấy giờ của
Nguyễn Văn Vĩnh là hướng tới canh tân đất nước, đổi mới xã hội. Lựa chọn ấy,
trong hoàn cảnh ấy không còn cách nào khác là dựa vào Pháp, nhưng ông tin
rằng “người còn thì nước còn”, một đất nước phải có tri thức thì mới mong cứu
được dân tộc.
Phải đến Đông Dương tạp chí lý tưởng ấy của Nguyễn Văn Vĩnh mới thực
sự được phát huy. Sự phát triển của chữ quốc ngữ không thể không gắn với
công lao của ông. Thông qua dịch thuật ông đã truyền tải được một khối lượng
kiến thức khổng lồ về văn học, văn hoá, tư tưởng phương Tây. Ông dịch tất cả
100
các thể loại, không chỉ riêng tiếng Pháp mà cả chữ Hán, chữ Nôm, và dịch
ngược từ chữ Nôm ra chữ Pháp, nổi tiếng và kỳ công nhất là dịch Truyện Kiều
sang tiếng Pháp, ông là chiếc cầu nối văn hóa Đông - Tây.
Với tư cách là chủ bút của Đông Dương tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh không
chỉ thành công trong vai trò của một nhà báo, góp phần phát triển báo chí tiếng
việt, mà ông còn chủ trương đổi mới văn thơ, du nhập nhiều thể loại mới đồng
thời thể nghiệm những sáng tác mới phong phú và hấp dẫn, dần trở thành món
ăn tinh thần, là sách học tập cho nhiều đối tượng độc giả.
Cùng với Đông Dương tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh đã trở thành người đặt
viên gạch nền móng xây dựng cho văn học hiện đại Việt Nam. Nhìn lại lịch sử,
nhìn lại chặng đường hình thành và phát triển một nền văn hóa thuần túy quốc
gia, một nền văn học hiện đại có ngôn ngữ riêng cho dân tộc thì nhiệt huyết ấy
đáng được ghi nhận và cần phải ghi nhận.
4. Nghiên cứu một đối tượng thuộc về giai đoạn giao thời nhạy cảm, những
tài liệu nghiên cứu về Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh rải rác và lướt
qua; mặt khác, tại hai trung tâm lưu trữ lớn là Trung tâm lưu trữ Quốc gia và
thư viện Quốc gia nguồn văn bản này không lưu giữ được hoàn chỉnh, trọn bộ;
chúng tôi cũng không thể tiếp cận văn bản gốc. Tuy nhiên, với quá trình làm
việc nghiêm túc và nghiên cứu kỹ lưỡng nguồn văn bản được phép tiếp cận,
chúng tôi, trong khuôn khổ luận văn cố gắng hệ thống, phác thảo lại một cách
cơ bản nhất góp thêm một cách nhìn mới công bằng và khách quan về những gì
mà Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh đã đóng góp cho quá trình hiện
đại hóa nền văn học dân tộc trong giai đoạn giao thời. Dù sao, chúng tôi vẫn hy
vọng và mong muốn sẽ tìm ra đầy đủ hơn nguồn tài liệu về trường hợp này để
nghiên cứu nhiều hơn và sâu hơn nữa về tờ tạp chí nhiều gian truân và thú vị
101
này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại: nhận thức và
thẩm định, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Đông Dương tạp chí (1913, 1914, 1916, 1917) (vi phim), Thư viện
Quốc gia, Hà Nội.
3. Đông Dương tạp chí (1915), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.
4. Hồng Chương (1985), Báo chí Việt Nam, NXB sự thật.
5. Hồng Chương (1987), Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, sách giáo
khoa Mác.
6. Phạm Văn Diên (1953), Việt Nam Văn học giảng bình, NXB Tân
Việt.
7. Nhiều tác giả (2007), Kỷ yếu hội thảo “100 năm Đông Kinh nghĩa
thục”.
8. Phông Tòa sứ Bắc Giang- Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I
9. Lê Bá Hán (cb) (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học
Quốc gia.
10. Trần Thị Ngọc Hà, Vấn đề bảo tồn vốn cổ trên Nam Phong tạp
chí, Luận văn thạc sĩ.
11. Nguyễn Thị Lệ Hà, Những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh với
báo chí tiếng Việt và truyền bá chữ quốc ngữ”, Viện sử học, Viện
102
Khoa học xã hội Việt Nam.
12. Cao Thị Hảo (2009), Quá trình hình thành và phát triển của văn
xuôi quốc ngữ Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
Luận án tiến sĩ ngữ văn.
13. Nguyễn Văn Hạnh, Về tiến trình hiện đại hóa của văn học Việt
Nam. Giáo sư, Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, Viện Khoa
học Xã hội và Nhân văn Việt Nam.
14. Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam Văn học sử yếu, NXB Hội
nhà văn.
15. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai
đoạn giao thời 1900 - 1930, NXB Đại học và Giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội.
16. Đỗ Quang Hưng (cb) (2000). Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 –
1945. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, in lần 2.
17. Phông Thống Sứ Bắc Bộ, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I
18. Thanh Lãng, Văn học khởi thảo, văn chương bình dân.
19. Mã Giang Lân (cb) (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam 1900 - 1945, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
20. Phong Lê (1997), Trên quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX, Tạp chí Văn học, số 1, Hà Nội.
21. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), Quá trình hiện đại hóa của văn học
Việt Nam đầu thế kỷ XX, Tạp chí văn học, số 5, Hà Nội.
103
22. Đặng Thái Mai (1944), Văn học khái luận, NXB Knxb.
23. Nguyễn Phong Nam (2008), Nghiên cứu về quá trình hiện đại hóa
Văn học Việt Nam - một số vấn đề phương pháp luận, Tạp chí
Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5.
24. Từ điển văn học Việt Nam (1997), NXB Giáo dục, Hà Nội.
25. Viện văn học Việt Nam (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ
XX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên,
tập 3, NXB Quốc học tùng thư.
27. Bùi Văn Nguyên, Phê bình, bình luận văn học.
28. Vương Trí Nhàn (2006), Vai trò của trí thức trong quá trình tiếp
nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, Nghiên cứu
văn học, số 7 Hà Nội.
29. Vương Trí Nhàn (2006), Đi tìm một cách tiếp nhận đặc trưng cho
văn học Việt Nam, Nghiên cứu văn học số 7, Hà Nội.
30. Vương Trí Nhàn (2001),, Tìm nghĩa khái niệm hiện đại trong văn
học sử Việt Nam, Tạp chí văn học số 1, Hà Nội.
31. Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, NXB Văn học
32. Phan Quang (2001), Về diện mạo báo chí Việt Nam: tiểu luận và
chân dung, NXB Chính trị Quốc gia.
33. Lê Văn Siêu (2006), Văn học sử Việt Nam, NXB Văn học.
104
34. Thiếu Sơn (1933), Phê bình và cảo luận, NXB Nam Bộ.
35. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn,
tiểu thuyết và thơ mới, NXB TP.Hồ Chí Minh.
36. Huỳnh Văn Tòng (1962), Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy
đến 1945, NXB Trí Đăng, Saigon.
37. Nguyễn Thành (cb) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam (văn báo
chí Việt Nam 1900 - 1945), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
38. Chương Thân (1982), Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải
cách văn hóa đầu thế kỷ XX, NXB Hà Nội.
39. Nguyễn Thành Thi, Lược đồ văn học quốc ngữ Việt Nam nhìn từ
quá trình hình thành và tương tác thể loại, Đại học sư phạm TP.
Hồ Chí Minh.
40. Nguyễn Ngọc Thiện (cb) (1997), Tuyển tập nghiên cứu phê bình,
nghiên cứu văn học Việt Nam (1900 - 1945). NXB Văn học.
41. Đỗ Lai Thuý, Nguyễn Văn Vĩnh, một người Nam mới đầu tiên,
Tạp chí Tia sáng.
42. Lê Ngọc Trà (2000), Về khái niệm hiện đại hóa văn học, Tạp chí
Văn học, số 6, Hà Nội.
43. Trần Thị Trâm (1994), Vai trò của báo chí trong quá trình phát
triển của văn học dân tộc từ thế kỷ XX, Tạp chí Văn học, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Trung, Chủ đích Nam Phong.
45. Nguyễn Văn Trung, Lục châu học, Internet.
46. Lê Trí Viễn (cb) (1965), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, tập
105
4, NXB Giáo dục, in lần 2.
47. Website: http://Nguyenvanvinh.net.
48. Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa
nguồn chung, NXB Giáo dục, Hà Nội.
49. Trần Ngọc Vương (1999), Loại hình học tác giả văn học - Nhà
nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB Đại hoc Quốc gia Hà Nội.
50. Trần Ngọc Vương (cb) (2010), Giáo trình văn học Việt Nam ba
mươi năm đầu thế kỷ XX, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
51. Trần Ngọc Vương (2006), Nhân quả Đông Du, Tạp chí Văn nghệ
công nhân, số 1, 2.
106
52. Một số tư liệu, bài báo trên Googl.com.