TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC

GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TÂM LINH Ở QUẬN TÂY HỒ, HÀ NỘI

: Trần Thị Huyền : ĐH. Chính trị học 16A

HIỆN NAY Mã số đề tài: ĐTSV.2020.07 Chủ nhiệm đề tài Lớp Cán bộ hƣớng dẫn : TS. Đỗ Thu Hƣờng

Hà Nội, 2020

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC

GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TÂM LINH Ở QUẬN TÂY HỒ, HÀ NỘI

HIỆN NAY Mã số đề tài: ĐTSV.2020.07

Chủ nhiệm đề tài Thành viên tham gia Lớp Cán bộ hƣớng dẫn : Trần Thị Huyền : Nguyễn Thiện Thành Nguyễn Huệ Chi : ĐH. Chính trị học 16A : TS. Đỗ Thu Hƣờng

Hà Nội, 2020

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ............................................................................ 2

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.................................................. 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 4

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 4

6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ......................................................................... 5

7. Kết cấu của đề tài ........................................................................................ 5

CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA PHẬT GIÁO VÀ DU

LỊCH TÂM LINH ............................................................................................... 6

1.1. Khái quát về Phật giáo và giá trị văn hóa Phật giáo ở Việt Nam ............. 6

1.1.1. Khái quát quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo Việt Nam ...... 6

1.1.2. Giá trị văn hóa Phật giáo ở Việt Nam .................................................... 9

1.2. Khái quát về du lịch tâm linh ................................................................. 15

1.2.1. Khái niệm du lịch, tâm linh và du lịch tâm linh .................................. 15

1.2.1.1.Khái niệm du lịch .............................................................................. 15

1.2.1.2. Khái niệm tâm linh ........................................................................... 16

1.2.1.3. Khái niệm du lịch tâm linh ............................................................... 17

1.2.2. Đặc điểm của du lich tâm linh ở Việt Nam ......................................... 18

Tiểu kết chương 1: ......................................................................................... 20

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA

PHẬT GIÁO TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TÂM LINHTẠI QUẬN

TÂY HỒ HIỆN NAY ......................................................................................... 22

2.1. Khái quát về quận Tây Hồ ...................................................................... 22

2.1.1. Giới thiệu về quận Tây Hồ .................................................................. 22

2.1.2. Tình hình Phật giáo ở quận Tây Hồ .................................................... 23

2.1.3. Tiềm năng và điều kiện để khai thác giá trị văn hóaPhật giáo trong

phát triển Du lịch tâm linh tại quận Tây Hồ .................................................. 25

2.2. Thực trạng khai thác giá trị văn hóa Phật giáo trong hoạt động du lịch

tâm linh tại Quận Tây Hồ .............................................................................. 28

2.2.1.Khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo tại các ngôi chùa ở quận Tây Hồ 28

2.2.1.1.Du lịch tham quan ............................................................................. 28

2.2.1.2. Du lịch tham quan kết hợp với thiện nguyện ................................... 35

2.2.1.3. Khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo quận Tây Hồ tại các lễ hội

Phật giáo ........................................................................................................ 37

2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn lực phục vụ du lịch tâm linh tại quận

Tây Hồ hiện nay ............................................................................................ 38

2.2.2.1. Cơ sở vật chất của dịch vụ lưu trú .................................................... 38

2.2.2.2. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch tâm linh ........................................ 40

2.3. Đánh giá thực trạng khai thác giá trị văn hóa Phật giáo tại Quận Tây Hồ 41

2.3.1. Những mặt đạt được ............................................................................ 41

2.3.2. Những mặt hạn chế .............................................................................. 47

*Tiểu kết chương 2: ....................................................................................... 50

CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHAI

THÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG PHÁT TRIỂN VĂN

HÓA DU LỊCH TÂM LINH Ở QUẬN TÂY HỒ HÀ NỘI HIỆN NAY ........ 51

3.1. Những vấn đề đặt ra đối với việc khai thác giá trị văn hóa Phật giáo

phục vụ du lịch tâm linh tại Quận Tây Hồ Hà Nội. ...................................... 51

3.1.1. Đối với quản lý nhà nước .................................................................... 51

3.1.2. Đối với các chùa .................................................................................. 53

3.1.3. Đối với khách du lịch .......................................................................... 54

3.2. Một số giải pháp và kiến nghị phát huy giá trị văn hóa Phật giáo phục vụ

du lịch tâm linh tại Quận Tây Hồ, Hà Nội. ................................................... 55

3.2.1. Một số giải pháp .................................................................................. 55

3.2.1.1.Định hướng bảo tồn, và khai thác giá trị văn hóa Phật giáo Hà Nội 55

3.2.1.2.Giải pháp về công tác tổ chức, quản lý ............................................. 58

3.2.1.3. Giải pháp về xây dựng, quảng bá các chuyên tour du lịch đến chùa 59

3.2.1.4. Nâng tầm lễ hội và tăng cường khai thác giá trị văn hóa Phật giáo

trong các lễ hội Phật giáo tại Quận Tây Hồ Hà Nội ...................................... 60

3.2.2. Khuyến nghị ........................................................................................ 62

Tiểu kết chương 3: ......................................................................................... 63

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 65

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 67

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Phật giáo du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ II sau công nguyên và

gắn bó mật thiết với lịch sử dân tộc ta. Tuy là một tôn giáo ngoại sinh nhưng

Phật giáo trong quá trình hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, đã thực sự gần

gũi, thân thiết với người dân Việt Nam. Theo dòng lịch sử của dân tộc, Phật giáo

đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh người Việt Nam.

Đặc biệt Hà Nội là một trong những trung tâm Phật giáo của nước ta trong

lịch sử (xa nhất có thể biết là sự có mặt của chùa Khai quốc vào thể kỷ VI – nay

là chùa Trấn Quốc) cũng như hiện tại (với chùa Quán Sứ vào nửa đầu thế kỷ XX

– nơi đặt trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam). Phật giáo Hà Nội trong dòng

chảy văn hóa này đã tạo nên những nét đặc trưng riêng, thấm đẫm tinh thần Phật

giáo trong lối sống, ứng xử của con người Hà thành. Giá trị văn hóa Văn hóa

Phật giáo Hà Nội được thể hiện qua những ngôi chùa, trong nghệ thuật Phật giáo

và trong những lễ hội chùa đặc sắc, mang lại sức hút thúc đẩy du lịch phát triển.

Đặc biệt là kể từ 1/8/2008 khi tỉnh Hà Tây sát nhập vào Hà Nội thì số lượng di

tích lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng của Hà Nội trở thành lớn nhất cả nước (Hà Nội

đứng đầu cả nước về số lượng di tích Việt Nam với 3840 di tích trên tổng số gần

40.000 di tích Việt Nam trong đó có 1164 di tích trên tổng số gần 3500 di tích

cấp quốc gia ở Việt Nam). Trong các di tích đó thì các ngôi chùa của Phật giáo

đóng góp nhiều nhất. Ngoài ra, thủ đô cũng có rất nhiều các lễ hội truyền thống

gắn liền với sinh hoạt Phật giáo.Đó là điều mà ngành du lịch Hà Nội nói riêng

và du lịch Việt Nam nói chung cần tiếp tục khám phá và thấu hiểu những giá trị

quý báu của văn hóa Phật giáo để khai thác tốt hơn.

Quận Tây Hồ với 18 ngôi chùa lớn nhỏ tọa lạc trên 8 phường, đặc biệt

những ngôi chùa xung quanh Hồ Tây là di tích lịch sử nổi tiếng trong và ngoài

nước như chùa Kim Liên được đánh giá là một trong 10 di tích kiến trúc cổ đặc

sắc nhất Việt Nam và là Bông Sen vàng trên mặt nước Tây Hồ. Như vậy với

những điều kiện những giá trị văn hóa Phật giáo Hà Nội nói chung và quận Tây

1

Hồ nói riêng thì du lịch tâm linh trở thành một loại hình du lịch quan trọng của

thành phố. Mặc dù hiện nay nguồn tài nguyêndu lịch tâm linh Phật giáo của

quân Tây Hồ phong phú nhưng lại chưa được nghiên cứu thật đầy đủ, sản phẩm

du lịch tâm linh Phật giáo chưa được khai thác có hiệu quả. Với mong muốn

đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc giới thiệu với du khách trong và

ngoài nước về những giá trị văn hóa Phật giáo tại quân Tây Hồ nơi ngôi trường

mà tôi đang học, đồng thời góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa

Phật giáo Hà Nội nói chung, từ đó thúc đẩy việc khai thác những giá trị này,

tương xứng với tiềm năng và lợi thế của du lịch Hà Nội và quận Tây Hồ. Trên

cơ sở đó tôi lựa đề tài “Giá trị văn hóa phật giáo trong hoạt động du lịch tâm

linh ở quận Tây Hồ, Hà Nội hiện nay”

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài

Cho đến nay các công trình nghiên cứu về vấn đề văn hóa và văn hóa Phật

giáo ở Việt Nam rất phong phú như: Nguyễn Đăng Duy với Văn hóa tâm linh;

Văn hóa tâm linh Nam Bộ; Các hình thái tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam; Mai

Thanh Hải với Tôn giáo thế giới và Việt Nam; Nguyễn Duy Hinh với Người

Việt Nam với Đạo giáo; Tâm linh Việt Nam; Hồ Văn Khánh với Tâm hồn - khởi

nguồn cuộc sống văn hóa tâm linh, Phan Ngọc với Bản sắc văn hóa Việt Nam;

Minh Chi với Phật giáo và tâm linh; tác giả Văn Quảng với Văn hóa tâm linh

Thăng Long - Hà Nội... các công trình đã nghiên cứu về khái niệm văn hóa, cấu

trúc văn hóa, văn hóa tâm linh và những giá trị của văn hóa Phật giáo tuy nhiên

các công trình chưa đi sâu vào giá trị văn hóa Phật giáo với phát triển du lịch

tâm linh hiện nay.

Về các công trình, đề tài nghiên cứu về du lịch văn hóa tâm linh ở Việt

Nam như: Nguyễn Thị duyên với đề tài Nghiên cứu phát triển du lịch tâm linh

tỉnh Nam Định trong công trình này tác giả đã phân tích tiềm năng, thực trạng

phát triển du lịch tâm linh ở tỉnh Nam Định và đưa ra một số giải pháp để phát

triển du lịch tâm linh ở tỉnh này.

Công trình nghiên cứu tác giả Nguyễn Trùng Khánh với đề tài Nghiên cứu

loại hình du lịch tâm linh ở Việt Nam, tác giả đã phân loại du lịch tâm linh trên

2

cơ sở nguồn tài nguyên và động cơ du lịch, đồng thời xây dựng được cơ sở lý

thuyết trên phương diện du lịch cho những nghiên cứ chi tiết hơn như nghiên

cứu phát triển du lịch gắn với Phật giáo, tín ngưỡng dân gian...

Luận văn Khai thác văn hóa Phật giáo Khmer phục vụ phát triển du lịch

tỉnh Trà Vinh của Hà Thế Linh, công trình nghiên cứu này tác giảđã phân tích

những giá trị văn hóa Phật giáo trong phát triển du lịch tâm linh ở tỉnh Trà Vinh

và đưa ra những giải pháp nhằm khai thác loại hình du lịch này phát triển một

cách bền vững trong tương lai.

Về vấn đề du lịch tâm linh ở Hà Nội, đã có một số công trình nghiên cứu

như: Nguyễn Vinh Phúc với Du lịch Hà Nội hướng tới 1000 năm Thăng Long,

Nguyễn Phạm Hùng với Tượng đài Hà Nội và du lịch văn hoá, Du lịch tôn giáo

và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, Khai thác món ăn dân tộc trong các

khách sạn ở Hà Nội, Tiềm năng du lịch phố cũ Hà Nội, Du lịch đêm Hà Nội; Đa

dạng văn hóa và sự phát triển du lịch ở Việt nam; Đoàn Thị Thùy Trang đề tài

Tìm hiểu hoạt động du lịch văn hóa tâm linh của người Hà Nội (khảo sát trên địa

bàn quận Đống Đa) và Trương Sỹ Tâm với đề tài Nghiên cứu phát triển loại

hình du lịch văn hóa tín ngưỡng tại các huyện phía tây Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ).

Đây là những công trình đã nghiên cứu đến những giá trị văn hóa Hà Nội nói

chung, văn hóa Phật giáo nói riêng và đã đưa ra những tiềm năng về loại hình du

lịch văn hóa tín ngưỡng quận huyện trên địa bàn Hà Nội.

Tuy nhiên về công trình nghiên cứu về giá trị Phật giáo đối với việc phát

triển du lịch tâm linh ở Hà Nội và quậnTây Hồ chưa có một công trình nào

nghiên cứu trực tiếp tuy nhiên những công trình là cơ sở lý luận để tác giả tiếp

tục nghiên cứu giá trị Phật giáo với phát triển du lịch tâm linh ở Quận Tây Hồ

hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích của đề tài

Khảo sát, làm rõ thực trạng việc khai thác những giá trị văn hóa Phật giáo

trong du lịch tâm linh ở Hà Nội từ năm 2010 đến nay. Từ đó đềxuất các giải

pháp kiến nghị nhằm khai thác và bảo tồn giá trị văn hóa Phật giáo phục vụ phát

3

triển du lịch quận Tây Hồ.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ những giá trị văn hóa Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Hà Nội tại

quận Tây Hồ, du lịchtâm tinh

- Làm rõ thực trạng thực trạng việc khai thác những giá trị văn hóa Phật

giáo trong du lịch tâm linh ở quận Tây Hồ.

- Rút ra nhận xét và đề xuất các giải pháp kiến nghị nhằm khai thác và

bảo tồn giá trị văn hóa Phật giáo phục vụ phát triển du lịch ở quận Tây Hồ.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Những giá trị văn hóa Phật giáo ở quận Tây Hồ như kiến trúc, điêu khắc,

lễ hội và thực trạng khai thác những giá trị này trong du lịch tâm linh

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Chủ yếu tập trung nghiên cứu nhữnggiá trị văn hóa Phật

giáo ở quận Tây Hồ.

Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2017 đến nay khi Luật du lịch được

thông qua

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Là phương pháp chính được sử

dụng trong đề tài. Trên cơ sở thu thập thông tin tư liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều

nguồn khác nhau có liên quan tới đề tài nghiên cứu, người viết sẽ xử lý, chọn lọc

để có những kết luận cần thiết, có được tầm nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu

nhằm có một cái nhìn tổng quan nhất về loại tài nguyên giá trị còn đang bị bỏ

ngỏ này.

Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp: Phương pháp này

giúp định hướng, thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan, phát hiện ra

các yếu tố và sự ảnh hưởng của yếu tố tới hoạt động du lịch trong đề tài nghiên

cứu; việc phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề

tài cơ sở trong việc thực hiện các mục tiêu dự báo, các định hướng và giải

4

phápphát triển du lịch trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.

- Các phương pháp liên ngành như chính trị học, tôn giáo học, xã hội học, sử

học.

6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Đề tài nghiên cứu tiềm năng và thực trạng khai thác giá trị văn hóa Phật

giáo trong phát triển du lịch văn hóa tâm linh của quận Tây Hồ và từ đó đưa ra

các giải pháp mang tính thực tế nhằm khai thác tài nguyên du lịch văn hóa Phật

giáo trong phát triển du lịch tâm linh một cách hiệu quả.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề

5

tài có kết cấu chủ yếu gồm 3 chương.

CHƢƠNG 1.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA PHẬT GIÁO VÀ DU LỊCH

TÂM LINH

1.1. Khái quát về Phật giáo và giá trị văn hóa Phật giáo ở Việt Nam

1.1.1. Khái quát quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo Việt

Nam

Phật giáo là một tôn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ ra đời từ thế kỷ VI trước

công nguyên với nội dung cơ bản là triết lý nhân sinh về nỗi khổ của con người

và cách tu luyện diệt khổ, giải thoát. Cốt lõi của triết lý đó là tứ diệu đế: khổ đế,

diệt đế, tập đế và đạo đế. Phật giáo chủ trương bình đẳng giữa các giai tầng xã

hội và đề cao lòng từ bi bác ái. Từ rất sớm, Phật giáo đã lan toả hoà bình đến các

miền đất rộng lớn, nhất là ở Đông Bắc Á và Đông Nam Á trong đó có Việt Nam.

Theo nhiều công trình nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam Phật giáo

du nhập vào nước ta từ đầu công nguyên.Đáng chú ý trong thời kỳ đầu chủ yếu

sự truyền bá Phật giáo vào Việt Nam trực tiếp từ Ấn Độ sang bằng đường biển.

Một số tăng sỹ Ấn độ và Trung Á sang truyền giáo ở Việt Nam như:

Marajavaka, K’sudara đến Việt Nam, sau đó là Khương Tăng Hội, Lương

Cương, tiếp đó Dharmadeva, dưới thời vua Asoka đã có những tăng đoàn truyền

giáo từ Ấn Độ sang Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam.

Đến thế kỷ V, tại Việt Nam Phật giáo đã được truyền đến nhiều nơi. Đã

xuất hiện những nhà sư Việt Nam có danh tiếng như: Huệ Thắng, Đạo Thiền,

Đạo Cao và Pháp Minh.

Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, từ thế kỷ VI đến đến thế kỷ X đa số các

công trình vẫn coi là giai đoạn truyền giáo. Tuy nhiên, có thể thấy từ thế kỷ VI,

ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Ấn Độ giảm dần, trong khi đó các nhà truyền

giáo Trung Quốc tăng lên, nhất là một số thiền phái trung Quốc du nhập ảnh

hưởng rõ nét tại Việt Nam như: Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi với 18 đời và 29 vị

sư tổ, kể từ người đầu tiên là Pháp Hiền (626) đến người cuối cùng là Y Sơn

(1216), Thiền phái Vô Ngôn Thông với 15 đời và 40 vị sư tổ, kể từ người đầu

6

tiên là Cảm Thành (860) đến người cuối cùng là Ứng Vương (1287).

Trong gần mười thế kỷ đầu truyền bá vào Việt Nam mặc dù trong hoàn

cảnh đất nước bị xâm lược và đô hộ nhưng do điều kiện hiện thực tương hợp,

Phật giáo đã du nhập một cách hoà bình vào xã hội Việt Nam. Bước đầu Phật

giáo đã tạo ảnh hưởng trong nhân dân và có những chuẩn bị cho sự phát triển

mới trong giai đoạn đất nước độc lập tự chủ.

Việc nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ sau một ngàn năm Bắc

thuộc đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển một bước mới. Từ thế kỷ X Phật

giáo đã trở thành quốc giáo. Tuy vậy nó vẫn mang đậm yếu tố dân gian. Ở kinh

đô Hoa Lư chùa chiền xuất hiện nhiều chùa như chùa Bà Ngô, chùa Tháp…và

nhiều cột kinh Phật, hình tượng Phật đã quen thuộc với người Việt Nam.

Từ thế Kỷ X - XIV dưới thời Lý - Trần, Phật giáo phát triển đến mức cực

thịnh, hầu hết các đời vua đều sùng Phật, xây dựng chùa tháp, tô tượng, đúc

chuông, dịch kinh phật. Đông đảo quần chúng nô nức theo Phật giáo, dân chúng

quá nửa là sư. Rất nhiều chùa, tháp có quy mô lớn với kiến trúc độc đáo như

chùa Phật Tích, chùa Diên Hựu, chùa Phổ Minh, chùa Quỳnh Lâm… Giai đoạn

này Phật giáo có vai trò rất lớn đối với văn hoá (như thơ ca, kiến trúc, điêu

khắc), đối với đường lối đối ngoại, đặc biệt Phật giáo có vai trò lớn đối với

những thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược chống Tống

thời Lý và ba lần chống quân Nguyên Mông thời Trần.

Sang thế kỷ XV, cùng với sự xác lập của triều đình phong kiến nhà Lê đã

tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo. Mất vị trí quốc giáo nhưng Phật giáo vẫn

lan toả trong tầng lớp bình dân và những làng quê.

Thời kỳ biến động thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII cũng là thời kỳ hậu Nho,

Phật giáo lại được sùng mộ. Thế kỷ XVII, vua Quang Trung có quan tâm chấn

hưng Phật giáo, đã xuống chiếu xây cất chỉnh đốn các chùa lớn như chùa Bút

Tháp, Tây Phương, Kim Liên, Keo, Hương Tích, Trấn Quốc…

Sang thế kỷ XIX, thời Nguyễn Phật giáo vẫn được phát triển nhưng dưới

sự kiểm soát của nhà nước. Đầu thế kỷ XX, đất nước rơi vào tay thực dân Pháp.

Trước trào lưu ảnh hưởng phương Tây đến cả phương Đông trong đó có Việt

7

Nam. Đã dẫn đến phong trào chấn hưng Phật giáo, Phật giáo từ đó mới bắt đầu

khởi sắc. Cũng từ đây Phật giáo đi vào hoạt động có tổ chức khác với sự rời rạc,

lỏng lẻo trước đó. Một loạt tổ chức Phật giáo ra đời trong thời kỳ này ở ba miền,

nhưng trong đó có 6 tổ chức quan trọng của tăng ni và cư sỹ, đó là:

Ở Miền Nam có hai tổ chức: Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học do nhà sư

Khánh Hòa lập năm 1930 và Hội Tăng già Nam Việt lập tháng 6 năm 1951.

Ở Miền Trung có hai tổ chức: An Nam Phật Học Hội do ông Lê Đình

Thám lập năm 1932 và Hội Tăng già Trung Việt thành lập năm 1949.

Ở Miền Bắc có hai tổ chức:Hội phật giáo bắc kỳ do ông Nguyễn Năng

Quốc lập năm 1934 và Hội chỉnh lý Tăng ni Bắc Việt do nhà sư Tố Liên lập năm

1949, sau nay năm 1950 đổi thành hội Tăng già Bắc Việt

Sau 1954, đất nước bị chia cắt, tình hình Phật giáo ở hai miền có sự khác

nhau.

Ở miền Bắc, tháng 3 năm 1958, “Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam” ra

đời đã quy tụ giới Phật giáo miền Bắc trong một tổ chức duy nhất, vừa hoạt

động tôn giáo, vừa hoạt động yêu nước. Có thể nói đây là bước chuyển quan

trọng trong tiến trình gắn bó với dân tộc của giới phật tử miền Bắc, Phật giáo có

điều kiện chuyển mình.

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước hòa bình độc lập thống nhất

đã tạo cơ duyên rất thuận lợi cho giới Phật giáo thực hiện một Phật sự lớn đã đặt

ra từ lâu. Sau hai năm chuẩn bị, tháng 11 năm 1981, Đại hội đại biểu thống nhất

Phật giáo đã tổ chức tại thủ đô Hà Nội với 165 đại biểu tăng ni, cư sỹ trong cả

nước đã về dự. Đại hội đã tổ chức ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thông qua

Hiến chương và chương trình hoạt động của giáo hội với đường lối "Đạo pháp -

Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội" và bầu ra Hội đồng Chứng minh gồm 50 vị hòa

thượng; Hội đồng Trị sự gồm 50 vị tăng ni và cư sỹ tiêu biểu là cơ quan lãnh đạo

của Giáo hội. Sự kiện này cực kỳ trọng đại trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Thống nhất Phật giáo và việc ra đời Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đáp

ứng tình cảm, nguyện vọng của tuyệt đại đa số tăng ni, phật tử, lại được đảm bảo

bằng chính sách tôn trọng tự do tin ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta,

8

nên Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã không ngừng trưởng thành ngày càng

khẳng định vị trí của mình trong lòng dân tộc. Hiện nay tổ chức Giáo hội của

Giáo hội Phật giáo Việt Nam được xây dựng theo cơ cấu gồm cấp trung ương,

cấp tỉnh, huyện và cơ sở, trong đó cấp trung ương và cấp tỉnh giữ vài trò chủ

chốt, ở cấp trung ương có Hội đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự.

Tính đến năm 2019 thì ở Việt Nam cóTăng Ni: 53.941 Tăng Ni, gồm:

38.629 Bắc tông; 8.574 Nam tông Khmer, 1.754 Nam tông kinh (1.100 chư

Tăng, 654 Tu nữ); 4.984 Khất sĩ; Khoảng gần 50 triệu tín đồ và những người có

niềm tin yêu mến Đạo Phật. Có18.466 Tự viện, gồm: 15.846 Tự viện Bắc Tông;

454 chùa Nam Tông Khmer; 106 chùa Nam tông Kinh; 541 Tịnh xá, 467 Tịnh

Thất, 998 Niệm Phật đường, 54 Tự viện Phật giáo Người Hoa [5].

1.1.2. Giá trị văn hóa Phật giáo ở Việt Nam

Phật giáo truyền vào Việt Nam đến nay đã khoảng 20 thế kỷ, Phật giáo đã

được nhân dân Việt Nam đón nhận một cách trân trọng có chọn lọc và đã trở

thành tôn giáo của dân tộc trên cơ sở đạo đời không thể phân ly. Trong suốt hơn

hai ngàn năm lịch sử Phật giáo luôn đồng cam cộng khổ với vận mệnh thăng

trầm của xứ sở và có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ đất nước ngay từ buổi đầu.

Sự gắn bó lâu đời giữa Phật giáo và dân tộc đã tạo cảm hứng cho nhà thơ

Hồ Dzếnh viết nên ý thơ”.

“Trang sử Phật,

Đồng thời là trang sử Việt Nam

Trải bao độ hưng suy

Có nguy mà chẳng mất…” [11, 58]

Có một đặc điểm là, bất kỳ dân tộc nào cũng có nền văn hóa riêng của

mình, không ai có quyền phủ nhận, bác bỏ hay coi thường hoặc chụp lên nó một

nền văn hóa khác. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc vốn có một nền văn hóa lâu

đời. Là một hệ tư tưởng không giáo điều, khiêm tốn khép mình, nên khi vào

nước ta Phật giáo sẵn sàng tiếp thu truyền thống bản địa, không buộc người Việt

phải từ bỏ những gì vốn có trong nền văn hóa bản xứ. Do đó, nó đi sâu vào tâm

9

hồn của con người một cách tự nhiên. Về phía dân tộc, dĩ nhiên là nhận thức

rằng cần tiếp thu Phật giáo để làm phong phú thêm đời sống văn hóa của mình.

Hơn thế nữa, dân tộc ta luôn phải đối mặt với âm mưu đồng hóa văn hóa của kẻ

thù phương Bắc, tư tưởng Phật giáo sau khi đã bản địa hóa, kết hợp những yếu

tố dân tộc là bức tường thành kiên cố, chặn đứng mọi sự tiến công, góp phần giữ

gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong quá trình tồn tại và phát triển Phật giáo đã

ảnh hưởng khá sâu sắc đến nền văn hóa dân tộc, đặc biệt trên các sinh hoạt tín

ngưỡng, nghệ thuật, kiến trúc.

Phật giáo tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng Phật giáo có vai trò to lớn

đến đời sống sinh hoạt tín ngưỡng, phong tục tập quán của người Việt Nam cho

đến nay. Từ lâu, những ngôi chùa đã trở nên quen thuộc, trở thành một phần

không thể thiếu được với cộng đồng làng xã Việt Nam. Hiện nay, hơn bao giờ

hết, các ngôi chùa vẫn phát huy được vai trò tích cực của mình trong việc đáp

ứng nhu cầu tín ngưỡng, văn hóa tinh thần của nhân dân. Có nhiều ngôi chùa

hay quần thể di tích Phật giáo đã trở thành những trung tâm văn hóa vùng, đáp

ứng nhu cầu tín ngưỡng, tham quan vãng cảnh của nhân dân cả nước và du

khách nước ngoài như: di tích Chùa Hương, danh thắng Yên Tử, Thiền viện Tây

Thiên, chùa Mía, chùa Dâu, chùa Keo...các ngôi chùa Khmer,... không những

thế ngôi chùa còn đi vào thơ cả của nhiều thi sĩ về cảnh đẹp nên thơ của các ngôi

chùa.

Trong nhân dân vẫn lưu truyền câu nói "trẻ vui nhà, già vui chùa". Nhưng

ngày nay lại khác, trong những dịp lễ hội sóc hay vọng có rất đông người đi lễ

chùa thuộc hầu hết các lứa tuổi, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Đây là một điều

đáng mừng. Điều này có tác dụng giáo dục to lớn, bởi vì đến với ngôi chùa là

đến với không gian văn hóa tâm linh tôn nghiêm, thành kính, từ đó mỗi người

đều tìm thấy cho mình những nhu cầu tinh thần cần thiết. Đối với thế hệ trẻ đây

thực sự là cơ hội tốt để họ giữ gìn một hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống.

Có thể thấy rằng kho tàng Phật giáo được lưu giữ đến ngày nay là hệ

thống chùa chiền. Các chùa Phật giáo Việt nam với những nét kiến trúc đặc

trưng của mỗi thời đại là minh chứng cụ thể cho lịch sử phát triển của đạo Phật

10

Việt Nam. Kiến trúc Phật giáo Việt Nam vừa chịu ảnh hưởng của kiến trúc Phật

giáo Ấn Độ lại vừu chịu ảnh hưởng kiến trúc Phật giáo Trung Quốc. Với sự ảnh

hưởng của hai dòng kiến trúc nay đã tạo cho chùa Việt Nam sự đa dạng về kiến

trúc, điêu khắc. Chùa Việt mô phỏng chùa Hang Ấn Độ nên hình thành kiến trúc

chuôi vồ rất phổ biến trong chùa làng. Vốn mô hình một hang đá như Ajanta

(Ấn Độ) gồm có một tiền đường và một hậu cung đặt biểu tượng Phật và một số

tăng phòng vây quanh, chuyển sang kiến trúc nhà gỗ nhà ở thì gian nhà ba gian

được nối thêm một chuôi vồ, các thiền phòng thành những hành lang nhà tổ. Ở

mỗi miền của nước ta chùa ngoài những đặc điểm chung giống nhau thì lại có

những đặc điểm rất riêng về kiến trúc, điêu khắc

Ở miền Bắc, với lợi thế thiên nhiên có những đặc điểm tự nhiên hùng vĩ,

có núi có sông, có chỗ nhô cao có nơi trũng thấp, nhiều cảnh đẹp sơn thủy hữu

tình thích ứng với việc dựng chùa. Các ngôi chùa thường được dựng tại những

nơi có cảnh trí thiên nhiên đẹp, ngoài ra còn phải có môi trường xã hội thuận

tiện và cho các sư tăng tu dưỡng và giáo hoá chúng sinh. Những điều kiện tự

nhiên hòa hợp với điều kiện môi trường xung quanh tạo nên thế tổng thể kiến

trúc chùa nổi bật trên trong toàn cảnh.

Kiến trúc mở đầu của một ngôi chùa là Tam quan với 3 cửa biểu thị 3

cách nhìn về thế gian của Phật giáo. Qua cổng tam quan là vào bên trong chùa là

Tam bảo với ba tào Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện phần lớn gắn với

nhau theo kiểu chữ Công hoặc chữ Đinh tạo nên một không gian nội thất chung,

cũng có khi theo kiểu chữ Tam nhưng lại xây nối hai đầu thành chữ Công. Ngoài

ra có nhiều khu vực phụ mà đa phần là hành lang ở hai bên và thường có hậu ở

đường đằng sau, để tất cả quy thành hình chữ Quốc. Hành lang thường bày

tượng La Hán và để những đồ phục vụ lễ hội hàng năm. Hậu đường có thể chia

từng phần làm nhà Tổ, nhà Tăng và điện Mẫu. Những khu nhà này có thể xây

riêng ở bên trong hoặc bên cạnh khung hình chữ quốc. Một số chùa thờ thần địa

phương và Thánh hình thành kiểu kiến trúc tiền Phật hậu thần hay tiền Phật hậu

Thánh.

Một kiến trúc không thể thiếu khi nói đến kiến trúc chùa là Tháp. Tháp

11

Phật giáo chia làm hai loại: tháp mộ và tháp chùa hay tháp điện. Kiến trúc tháp

nổi tiếng như: Tháp chùa Dâu, chùa Một Cột, Tháp phổ Minh, Tháp Báo Thiên

vòi vọi…

Các ngôi chùa Khmer ở miền Nam có một hình tứ giác nhiều tầng bậc, chỉ

thờ một tượng Thích Ca và trang trí nhiều bích họa kể về lịch sử tu hành của

Phật Tổ. Trên các thềm bậc có những tháp vây quanh và một cửa cổng rất đặc

sắc với hai apxara hai bên góc như chùa Xvay Ton ở An Giang. Kiến trúc chùa

như vậy làm người ta liên tưởng đến cổng tháp Sanchi nổi tiếng của Ấn Độ.

Chùa ở vùng Huế được xây dựng dưới thời Nguyễn, bên cạnh các hương

tự và quan tự như Thiên Mụ, Thánh Duyên, Giác Hoàng, Diệu Đế…Những ngôi

chùa này pha nét kiến trúc cung đình.

Trong các ngôi chùa cần phải nói đến một số lượng rất lớn tượng Phật có

giá trị về nghệ thuật điêu khắc, trong đó có những pho tượng đẹp nổi tiếng, như

tượng A Di Đà (chùa Phật Tích), tượng Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn

(chù Mễ Sở và chùa Bút Tháp), bộ tượng La Hán (chùa Tây Phương).

Đạo Phật hòa nhập vào nền văn hóa của dân tộc Việt Nam như sữa hòa

với nước, đến mức không phân biết được đâu là yếu tố đạo Phật, đâu là yếu tố

của dân tộc. Đặc biệt là ngôi chùa - Chùa không phải là của riêng ai mà là của

nhân dân, là trung tâm văn hóa của làng, của nhiều làng hay của một vùng, nếu

ở đó là một ngôi chùa lớn, một tổ đình. Chùa là nơi tổ chức các lễ hội tôn giáo,

đồng thời là trường học, là nhà thương, là nơi tạm nghỉ của khách qua đường,

thậm chí còn là nơi trọ thường xuyên của những của những kẻ không nhà, không

cửa.

“Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tông” [20,58]

Đúng vậy ngôi chùa hiện nay không chỉ đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của

nhân dân mà còn là nơi lưu giữ những giá trị về mặt kiến trúc và nghệ thuật rất

đặc sắc của cha ông ta cho đến nay nó vẫn còn những giá trị đối với xã hội Việt

Nam hiện nay.

Phật giáo du nhập vào Việt Nam tạo ra nền văn học, nghệ thuật Phật giáo

12

đặc sắc, sự ảnh hưởng phật giáo không ngừng ở phạm vi từ ngữ mà nó còn lan

rộng, ăn sâu vào những ca dao dân ca và thơ ca của người dân Việt Nam. Ca dao

dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, dễ hiểu trong dân gian, được lưu

truyền từ đời này sang đời khác, bao gồm nhiều đề tài khác nhau, và đều thấm

nhuần tư tưởng đạo lý của Phật giáo. Có thể nói trong tâm hồn của mỗi con

người Việt Nam đều có chứa đựng ít nhiều triết lý nhà phật và những hình ảnh

về ngôi chùa, về phật. Danh từ chuyên môn của Phật Giáo như: trí tuệ, từ bi,

thiện ác, nhân quả, nghiệp báo... nếu tách rời ra khỏi nền văn học Việt Nam thì

văn hóa Việt tộc trở nên khô cằn không còn sức sống tinh anh nữa. Chúng ta

cũng có thể đơn cử ra đây một vài câu tục ngữ để chứng minh giá trị sự hội nhập

của văn hóa Phật Giáo trong văn hóa Việt, điển hình như những từ ngữ: “Tội

nghiệp quá!”; “Hằng hà sa số”, “Ta bà thế giới”, ”Lù khù như ông Cù độ

mạng”...

Ca dao là những câu hò tiếng hát theo giọng điệu tự nhiên, phát xuất từ

tâm hồn mộc mạc đầy tình cảm của người bình dân Việt Nam, được lưu truyền

trong dân gian. Những câu ca dao này mang tính chất tư tưởng, tình cảm của dân

tộc nhằm diễn tả luân lý, đạo đức, tình ý, phong tục, tập quán, trạng thái thiên

nhiên, đặc tính xã hội của từng thời kỳ. Tư tưởng Phật Giáo thâm nhập vào ca

dao Việt Nam tự bao giờ và tản mát khắp tâm hồn của người bình dân, không có

ranh giới thời gian cũng như không có khu biệt không gian. Điển hình như

những bài ca dao sau đây đượm nhuần tư tưởng của Phật Giáo:

Ai ơi! Hãy ở cho lành,

Kiếp này không được, để dành kiếp sau.

Hay để nói về triết lý vô thường của kiếp người:

Cuộc đời đâu khác loài hoa,

Sớm còn tối mất nở ra lại tàn.

Nền văn học bác học của dân tộc Việt Nam đã được ảnh hưởng nền văn

hóa Phật Giáo. Văn hóa Phật giáo đã dung hòa vào văn hóa Việt vô cùng phong

phú được biểu hiện qua các tác phẩm văn học như: Cung Oán Ngâm Khúc của

Nguyễn Gia Thiều, Truyện Kiều của Nguyễn Du, cho đến Văn Học Lý Trần đều

13

thấm nhuần các tư tưởng của đạo Phật như nhân sinh là cõi mộng, thuyết nhân

quả, lý vô thường...

Bên cạnh đó, các Thiền sư Việt phần nhiều đều có sáng tác thi văn, biểu

hiện tính sáng tạo độc lập, sự nội chứng trác tuyệt và phong cách tự tại an nhiên.

Qua các triều đại anh hùng của lịch sử như Lý, Trần, thi ca Phật giáo rạng ngời

với tên tuổi của những Thiền sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Chiếu, Huyền

Quang... Có thể nói rằng các tác phẩm văn học đầu tiên của nước ta trước thế kỷ

15 hầu hết đều mang nội dung Phật giáo.

Không chỉ có vậy, Phật giáo còn là khởi nguồn cho vô số lễ hội của Việt

Nam mà mỗi một lễ hội đều là một bảo tàng văn hóa dân tộc. Lễ hội là hình thức

sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc biệt, bản thân nó là một kho lịch sử khổng lồ,

tích tụ vô số những lớp phù sa văn hóa, là bảo tàng sống về sinh hoạt văn hóa,

chứa đựng các giá trị tinh thần sâu sắc. Trong lễ hội là kho tàng phong tục tín

ngưỡng, là ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội,

là những lớp văn hóa trầm tích và được lưu giữ suốt chiều dài lịch sử. Lễ hội

xuất phát từ tôn giáo tín ngưỡng sẽ thỏa mãn các nhu cầu của con người về đời

sống tâm linh, đời sống văn hóa. Có thể điểm qua những lễ hội Phật giáo tiêu

biểu như Đại lễ Vesak (rằm tháng tư), Lễ Vu lan, Lễ Phật thành đạo...

Bên cạnh các giá trị văn hóa kể trên, khi nói đến Phật giáo chúng ta không

thể bỏ qua ẩm thực chay của văn hóa Phật giáo. Phong tục ăn chay đang mở

rộng khắp nơi, ngay cả Châu Âu ngày càng có nhiều người nhận ra lợi ích từ

việc ăn chay. Các nhà khoa học đều cho rằng ăn chay rất hợp vệ sinh và không

kém phần bổ dưỡng. Trên tinh thần đó, nên nguời Việt Nam dù không phải là

Phật tử cũng thích ăn chay, và tập tục này đã ảnh hưởng sâu rộng trong mọi giai

tầng xã hội Việt Nam từ xưa đến nay. Ở Việt Nam, tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh,

Huế và các thành thị khác đều có các cửa hàng ăn chay.

Như vậy, trong dòng chảy văn hóa Việt Nam, sức ảnh hưởng của Phật

giáo đã trở thành một yếu tố quan trọng được ngưng kết lại trong đạo đức, văn

học, trong kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, lễ hội, ẩm thực. Đó chính là những giá

14

trị văn hóa trường tồn đã đóng góp chung vào kho tàng văn hóa của dân tộc.

1.2. Khái quát về du lịch tâm linh

1.2.1. Khái niệm du lịch, tâm linh và du lịch tâm linh

1.2.1.1.Khái niệm du lịch

Do có nhiều cách tiếp cận khác nhau nên cho đến nay trên thế giới và ở

Việt Nam có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch.

Năm 1963, Hội nghị Liên Hợp Quốc Tế về Du lịch ở Rôma đã định nghĩa

“Du lịch là tổng hòa các mối quan hệ, hiện tượng, các hoạt động kinh tế bắt

nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài

nơi thường xuyên của họ hay ngoài nước của họ với mục đích hòa bình. Nơi họ

đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ.”

Theo Pirogiơnic (1985) thì “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư

trong thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi

cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần,

nâng cao trình độ nhận thức - văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ

những giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hóa”.

Hay định nghĩa theo Hội nghị Quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa,

Cannada tháng 6/1991: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài

môi trường thường xuyên (nơi ở của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn

khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của

chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi

vùng tới thăm”.

Theo Luật du lịch (2005): “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến

chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng

nhu cầu tham quan , tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian

nhất định”.

Mặc dù có quan niệm khác nhau nhưng các khái niệm về du lịch đều có

điểm chung đó là hiểu du lịch là tổng hợp các hiện tượng và các mối quan hệ

phát sinh từ tác động qua lại giữa khách du lịch, các nhà kinh doanh, chính

quyền và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và tiếp đón

15

khách du lịch, hành trình và lưu trú của họ ở ngoài nơi cư trú để thoả mãn các

nhu cầu khác nhau: hoà bình, hữu nghị, tìm kiếm kinh nghiệm sống hoặc thoả

mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần khác và quá trình tổ chức các điều kiện

về sản xuất và phục vụ nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của người du lịch

và đạt được mục đích số một của mình là thu lợi nhuận.

1.2.1.2. Khái niệm tâm linh

Tâm linh gồm chữ “tâm” và chữ “linh” tạo nên. Theo từ điển Hán Việt

của tác giả Thiều Chửu, “tâm” có nghĩa là tim (lòng), thuộc về thế giới bên

trong. “Linh” có rất nhiều nét nghĩa như: “linh” trong linh hoạt, nhạy bén; “linh”

trong thần linh; người chết cũng được gọi là “linh”; “linh” còn dùng để nói đến

những ứng nghiệm, bói toán. Tác giả Hoàng Phê cũng cho rằng tâm linh là “tâm

hồn, tinh thần” hoặc là “khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với

mình, theo quan niệm duy tâm” [44,tr.897].

Đại Từ điển tiếng Việt đã định nghĩa về tâm linh, coi tâm linh là khả năng

cảm nhận, đoán định một cách khoa học, hợp lý trước các biến cố tốt và không

tốt có thể xẩy ra với mình. Giáo sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu luận bàn sự

tồn tại đáng ghi nhận về văn hóa tâm linh ở các quốc gia phương Đông. Rằng,

tâm linh là điều có thật trong ý niệm, quan niệm, cần hướng nó đến sự tốt đẹp,

trong sáng, cho con người, vì con người.

Tác giả Nguyễn Đăng Duy: “Tâm linh là cái linh thiêng cao cả trong cuộc

sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo.

Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được ngưng đọng lại ở những

biểu tượng, hình ảnh, ý niệm” [15; tr.11].

Còn theo tác giả Sơn Nam trong bài Nói thêm về tâm linh trong liên hệ

với văn hóa Việt Nam thì tâm linh được hiểu là: “Tâm linh tồn tại trong mọi mặt

đời sống từ xưa cho tới nay, từ trong truyền thuyết, các bài văn tế, các tác phẩm

văn học, trong việc thờ cúng tổ tiên, cúng cô hồn cho tới những ca khúc về tổ

quốc và cả những hành động, mọi việc làm, nghĩa cử cao đẹp của con người

bình thường trong cuộc sống” [50, 15].

Tâm linh của con người ngưng đọng trong trí nhớ và con người luôn tâm

16

niệm, thành kính về điều mình đã tin, đã làm. Như vậy tâm linh được hiểu là

một hình thái ý thức, tâm linh gắn liền với ý thức của con người và tâm linh là

phần thiêng liêng trong ý thức của mỗi con người.

1.2.1.3. Khái niệm du lịch tâm linh

Du lịch tâm linh là loại hình du lịch văn hóa, lấy yếu tố văn hóa tâm linh

làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người trong đời sống tinh

thần. Daniel H. Olsen cũng cho rằng, du lịch tâm linh có thể bao gồm các yếu tố

của du lịch tôn giáo, du lịch hành hương. Khách du lịch tâm linh có thể hoặc

không liên hệ rõ ràng với truyền thống tôn giáo quen thuộc [53, tr.36].

Du lịch tâm linh cũng gắn với niềm tin, nâng cao đức tin, nâng cấp đời

sống tâm linh của mỗi cá nhân theo hướng chân, thiện, mỹ tức con người luôn

hướng tới chân lý (đúng đắn), cái đẹp về đạo đức (tức thiện) và cái đẹp (cả về

mặt thể chất và tinh thần/tâm hồn). “Xét về nội dung và tính chất hoạt động, du

lịch tâm linh thực chất là loại hình du lịch văn hóa, lấy yếu tố văn hóa tâm linh

vừa làm cơ sở, vừa làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người

trong đời sống tinh thần” [6, tr.64]. Du lịch tâm linh đến các thắng tích sẽ giúp

con người tháo gỡ được các cảm xúc khổ đau, tài bồi tâm trí và tinh thần minh

triết. Du lịch tâm linh rất cần thiết cho con người trong xã hội hiện đại với nhiều

bức xúc, ưu tư, trầm cảm, mất niềm tin, cảm thấy lạc lõng trong cuộc sống, bao

gồm cả hành trình tìm kiếm các giá trị văn hóa truyền thống lẫn tìm lại chính

mình. Du lịch tâm linh ở một góc độ khác chính là việc quy ngưỡng các bậc khai

sáng tôn giáo, các bậc hiền triết, trí tuệ siêu việt trong lịch sử nhân loại. P. J.

Abdul Kalam (1931-2015) cố Tổng thống Ấn Độ cho rằng, “Du lịch tâm linh

hoàn toàn khác với việc tham quan các địa danh. Du lịch tâm linh có nghĩa là

thăm viếng trái tim và tâm trí của những bậc hiền triết” [6]. Du lịch tâm linh

nhấn mạnh sự tự nhận thức, chăm sóc sức khỏe và đổi mới (về mặt tinh thần).

Du lịch tâm linh tham quan nơi ở, làm việc của những người đặc biệt nổi tiếng ở

phương diện cá nhân trong lịch sử. Tham quan những địa điểm có ý nghĩa tôn

giáo, nơi chiêm nghiệm, thiền định,…

Du lịch tâm linh là sản phẩm của sự kết hợp giữa cơ sở tín ngưỡng, văn

17

hóa, di sản, doanh nghiệp và cộng đồng. Tuy nhiên, để mang lại sự trải nghiệm

du lịch tâm linh thực sự có ý nghĩa cho du khách, cần có sự tham gia của doanh

nghiệp, cộng đồng địa phương vào hoạt động nhằm cung cấp các dịch vụ thiết

yếu và bổ sung như vận chuyển, ăn uống, mua sắm, tham gia của chính quyền

địa phương trong kiến tạo và duy trì cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, đảm

bảo an ninh, an toàn cho du khách

Có thể nói một cách ngắn gọn du lịch tâm linh là một loại hình du lịch lấy

yếu tố tâm linh là mục tiêu để thỏa mãn nhu cầu từ con người. Vì thế du lịch tâm

linh thường diễn ra các hoạt động khai thác giá trị văn hóa phi vật thể về tín

ngưỡng, tôn giáo để thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người, mang đến cho du

khách những cảm xúc thiêng liêng, sâu thẳm trong tâm hồn. Du lịch tâm linh là

chuyến du lịch khám phá thế giới tâm linh để trở về với thế giới nội tâm, lắng

nghe và tìm về những điều tốt đẹp.Đi sâu vào cuộc hành trình tâm linh này,

người ta có thể rũ bỏ những ưu phiền, khổ đau để có được một tâm hồn tự do và

hạnh phúc, lòng ngập tràn niềm vui sống cùng tình yêu thương bao la, vô tận…

Về bản chất, tâm linh gắn liền và biểu hiện những cái thiêng liêng, cao cả, siêu

việt trong đời sống tinh thần, đời sống sinh hoạt xã hội của con người, nhất là

những cư dân vùng Á đông nói chung trong đó ở Việt Namvăn hóa tâm linh đã

tạo nên chiều sâu, sức sống cho nền văn hóa cộng đồng, dân tộc.

1.2.2. Đặc điểm của du lich tâm linh ở Việt Nam

Thứ nhất, du lịch tâm linh gắn với tôn giáo và đức tin và ở Việt Nam,

trong đó Phật giáo có số lượng lớn nhất (chiếm tới 90%) cùng tồn tại với các tôn

giáo khác như Thiên Chúa giáo, Cao đài, Hòa Hảo… Triết lý phương đông, đức

tin, giáo pháp, những giá trị vật thể và phi vật thể gắn với những thiết chế, công

trình tôn giáo ở Việt Nam là những ngôi chùa, tòa thánh và những công trình

văn hóa tôn giáo gắn với các di tích là đối tượng mục tiêu hướng tới của du lịch

tâm linh.

Ở Việt Nam hàng năm có tới 8.000 lễ hội diễn ra trên khắp các vùng miền

đất nước. Cùng với đó cả nước có hơn 44.000 địa danh, danh thắng và di tích

lịch sử, trong đó hơn một nửa là nơi có thể khai thác mô hình du lịch tâm linh

18

[6]. Như vậy với nhiều tiềm năng và thế mạnh để phát triển du lịch tâm linh thể

hiện ở bề dày văn hóa gắn với truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng. Sự đa dạng và

phong phú của các thắng tích tôn giáo và với số lượng lớn các tín ngưỡng, lễ hội

dân gian được tổ chức quanh năm trên phạm vi cả nước. Nhu cầu du lịch tâm

linh của người Việt Nam đang trở thành động lực thúc đẩy du lịch tâm linh phát

triển. Ngày nay du lịch tâm linh ở Việt Nam đang trở thành xu hướng phổ biến

Du lịch tâm linh ở Việt Nam gắn với tín ngưỡng thờ cúng, tri ân những vị

anh hùng dân tộc, những vị tiền bối có công với nước, dân tộc (Thành Hoàng)

trở thành du lịch về cội nguồn dân tộc với đạo lý uống nước nhớ nguồn. Mới

đây, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam đã được UNESCO công

nhận là di sản phi vật thể đại diện nhân loại.

Thứ hai, du lịch tâm linh ở Việt Nam gắn với những hoạt động thể thao

tinh thần như thiền, yoga hướng tới sự cân bằng, thanh tao, siêu thoát trong đời

sống tinh thần, đặc trưng và tiêu biểu ở Việt Nam mà không nơi nào có đó là

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Thứ ba, số lượng khách du lịch tâm linh ngày càng tăng, chiếm tỷ trọng

lớn trong cơ cấu khách du lịch, đặc biệt là khách nội địa. Số khách du lịch đến

các điểm tâm linh tăng cho thấy du lịch tâm linh ngày càng giữ vị trí quan trọng

trong đời sống xã hội.Nhu cầu và du lịch tâm linh ngày càng đa dạng không chỉ

giới hạn trong khuôn khổ hoạt động gắn với tôn giáo mà ngày càng mở rộng tới

các hoạt động, sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc và những

yếu tố linh thiêng khác. Hoạt động du lịch tâm linh ngày càng chủ động, có

chiều sâu và trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của đại

bộ phận nhân dân.

Thứ tư, hoạt động kinh doanh, đầu tư vào du lịch linh ngày càng đẩy

mạnh thể hiện ở quy mô, tính chất hoạt động của các khu, điểm du lịch tâm linh.

Ra đời và phát triển ngày càng nhiều các điểm du lịch tâm linh ở hầu hết các địa

phương, vùng, miền trên phạm vi cả nước, tiêu biểu như: Đền Hùng (Phú Thọ);

Yên Tử (Quảng Ninh); Chùa Hương (Hà Nội); Phát Diệm (Ninh Bình); Núi Bà

Đen, Thánh thất Cao Đài (Tây Ninh); Chùa Bái Đính (Ninh Bình); Đại Nam

19

Văn Hiến (Bình Dương); Miếu Bà Chúa Xứ (An Giang); Công Sơn-Kiếp Bạc

(Hải Dương); Tây Thiên (Vĩnh Phúc); Đền Trần-Phủ Dầy (Nam Định)…

Thứ năm, du lịch tâm linh có tính mùa vụ rõ nét. Vào mùa cao điểm nhất

là dịp các sự kiện, lễ hội lớn được tổ chức tại các không gian văn hóa tâm linh

vấn đề sức chứa là vấn đề cần được tính toán kỹ lưỡng cho hoạt động du lịch

tâm linh. Khách du lịch tâm linh trong nước có thành phần đa dạng (từ khách có

khả năng chi trả thấp đến cao). Nhưng khách du lịch tâm linh ra nước ngoài

thường là khách có khả năng chi trả cao và khi họ hoàn thành chuyến đi họ có

những niềm tin và vị thế phát triển một cách vượt bật trong cộng đồng có cùng

niềm tin về tôn giáo. Đối với du khách tham gia vào các tuyến du lịch tâm linh

có sự phân hóa theo hoạt động và đặc điểm tôn giáo của họ. Trước tiên nếu đoàn

du khách có cùng niềm tin tôn giáo và có mục đích thực hành nghi lễ tôn giáo

thì tuyến du lịch tâm linh có bản chất là tuyến du lịch chuyên đề vì thế trong một

hành trình du lịch tâm linh có thể xuất hiện nhiều điểm tham quan du lịch có

tính chất văn hóa tâm linh khá tương đồng hoặc sự mâu thuẫn về niềm tin là rất

hạn chế. Ngược lại nếu đoàn du khách tham gia vào hoạt động du lịch tâm linh

chỉ dừng lại ở mức độ tham quan và tìm hiểu và không có nhu cầu thực hành

nghi lễ tôn giáo thì tuyến du lịch tâm linh rõ ràng có thể kết hợp nhiều điểm

tham quan du lịch tâm linh có tính chất khác nhau và lúc này du lịch tâm linh là

một biểu hiện thường gặp của loại hình du lịch văn hóa.

Như vậy, du lịch tâm linh ngày càng được xã hội tiếp cận và nhìn nhận

tích cực cả về khía cạnh kinh tế và xã hội. Nhà nước ngày càng quan tâm hơn

đối với phát triển du lịch tâm linh và coi đó là một trong những giải pháp đáp

ứng đời sống tinh thần cho nhân dân đồng thời với việc bảo tồn, tôn vinh những

giá trị truyền thống, suy tôn những giá trị nhân văn cao cả.

Tiểu kết chƣơng 1:

Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân

tộcViệt Nam và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam nói

chung và của Hà Nội nói riêng. Phật giáo Hà Nội đã khẳng định những bước

tiến vững chắc và xác lập vị thế quan trọng trong sự phát triển củaHà Nội, hình

20

thành những giá trị văn hóa đa dạng và phong phú văn hóa Phật giáo Hà Nội. Từ

chùa chiền, nhạc lễ, lễ nghi, lễ hội... đến các hoạt động trong đời sống tăng ni

đều mang những nét riêng, đặc trưng và điển hình bởi các yếu tố văn hóa truyền

thống chi phối, mà trong đó, dấu ấn văn hóa truyền thống của cư dân Hà Nội.

Văn hóa Phật giáo nổi lên như một dòng văn hóa chủ đạo, đang ngày đêm

hòa cùng nhịp sống của hàng nghìn, hàng vạn người dân nơi đây, đã đi vào đời

sống và tâm thức của người Hà Nội một cách tự nhiên và cũng thật nhẹ nhàng,

tạo nên một nét chấm phá rất riêng mà "chẳng nơi nào có được".

Du lịch tâm linh là một loại hình du lịch khai thác các giá trị tâm linh

nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu du lịch của xã hội (nhu cầu tham dự vào

không gian tâm linh, tìm hiểu văn hóa tâm linh và nhu cầu giải trí, thưởng thức,

trải nghiệm.) mang lại những lợi ích kinh tế và bảo tồn các giá trị văn hóa tâm

linh truyền thống của nơi đến.

Phân tách nội hàm tên gọi của loại hình du lịch này, ta thấy nhu cầu của

khách khi tham gia loại hình du lịch tâm linh có hai nhu cầu cơ bản là nhu cầu

du lịch và nhu cầu tâm linh. Có khi nhu cầu tâm linh là động cơ chính, có khi

nhu cầu du lịch là động cơ chính. Tuy nhiên kết quả của khách du lịch tâm linh

luôn luôn là cùng một mức độ mặc dù đi với động cơ nào đó là sự thỏa mãn.

Nếu điểm qua tất cả các lễ hội trong cả nước và các danh lam thắng cảnh

thu hút khách du lịch hiện nay thì chúng ta thấy tỉ trọng của loại hình du lịch

tâm linh trong tổng thể nền du lịch của nước ta là không nhỏ, nếu không muốn

nói du lịch tâm linh chiếm một tỷ trọng ngang bằng với các loại hình du lịch

21

khác cộng lại. Qua đó ta thấy được tiềm năng du lịch tâm linh to lớn của Hà Nội.

CHƢƠNG 2.

THỰC TRẠNG KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHẬT GIÁO

TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TÂM LINHTẠI QUẬN TÂY HỒ

HIỆN NAY

2.1. Khái quát về quận Tây Hồ

2.1.1. Giới thiệu về quận Tây Hồ

Quận Tây Hồ được thành lập theo Nghị định số 69/ NĐ – CP ngày

28/10/1995 của Chính phủ với 08 đơn vị hành chính trực thuộc và chính thức

hoạt động kể từ ngày 01/01/1996. Quận được xác định là trung tâm dịch vụ - du

lịch, trung tâm văn hoá, là vùng bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của Thủ đô Hà

Nội. Quận nằm ở phía Tây Bắc của Hà Nội. Diện tích 24,0km2, gồm 8 phường:

Bưởi, Yên Phụ, Thuỵ Khuê, Tứ Liên, Quảng An, Nhật Tân, Xuân La, Phú

Thương. Phía đông giáp quận Long Biên; Phía tây giáp huyện Từ Liêm và quận

Cầu Giấy; Phía nam giáp quận Ba Đình; Phía bắc giáp huyện Đông Anh. Quận

Tây Hồ có địa hình tương đối bằng phẳng, có chiều hướng thấp dần từ bắc

xuống nam. Dân số của quận đến nay là 16 vạn người.

Quận Tây Hồ có Hồ Tây với diện tích khoảng 526 ha, nằm trọn trong địa

giới Quận, là một cảnh quan thiên nhiên đẹp của Hà Nội và cả nước, phía bắc và

phía đông là sông Hồng chảy từ phía bắc xuống phía nam. Khu vực xung quanh

Hồ Tây có nhiều làng xóm tồn tại từ lâu đời với nhiều nghề thủ công truyền

thống. Với các công trình di tích lịch sử có giá trị, tập trung xung quanh Hồ Tây,

tạo cho Tây Hồ trở thành một danh thắng nổi bật nhất của Thủ đô.

Sau gần 15 năm xây dựng và trưởng thành, Quận Tây Hồ đã ngày một lớn

mạnh. Trong 5 năm 2001-2005 kinh tế trên địa bàn quận đạt tốc độ phát triển

khá cao, giá trị sản xuất tăng bình quân 14,8%, trong đó: Kinh tế Nhà nước tăng

13,4%/năm; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,7%/năm; kinh tế ngoài

quốc doanh tăng 16,9%/năm vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội II đề ra. Năm

2020, quận đặt mục tiêu tăng 14,52% tổng giá trị sản xuất trên địa bàn của một

số ngành chủ yếu do quận quản lý. Trong đó, ngành dịch vụ tăng 16,51%; công

22

nghiệp, xây dựng tăng 10,7%; nông nghiệp, thủy sản tăng 1%. Tổng thu ngân

sách Nhà nước trên địa bàn đạt 3.354,9 tỷ đồng [34].

Cơ cấu giá trị sản xuất các ngành kinh tế phát triển theo đúng định hướng:

Dịch vụ - du lịch - công nghiệp - nông nghiệp. Tỷ trọng giá trị sản xuất của các

ngành: Dịch vụ 51,8%, công nghiệp 43,2%, nông nghiệp 5% [34].

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VII) về "Xây dựng nền văn

hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", Quận uỷ tập trung lãnh đạo các

cấp uỷ Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân phối hợp chặt chẽ tổ chức

nhiều hoạt động phong phú, có hiệu trong việc thực hiện Nghị quyết. Cuộc vận

động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" được nhân dân hưởng ứng

tích cực. Tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn "Gia đình văn hoá", "Tổ dân phố văn

hoá", "Khu dân cư tiên tiến xuất sắc" tăng cả về số và chất lượng góp phần xây

dựng nếp sống văn hoá người Hà Nội.

Theo định hướng phát triển của Thủ đô Hà Nội đến năm 2020, quận Tây

Hồ thuộc khu vực phát triển của Thành phố trung tâm. Như vậy, trong tương lai,

Tây Hồ sẽ là khu vực trung tâm của Thủ đô Hà Nội. Với vị trí đó, Tây Hồ có

điều kiện đặc biệt thuận lợi thu hút các nguồn lực trong đó có du lịch để thúc

đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội của Quận nói riêng và của Thủ đô Hà

Nội nói chung.

2.1.2. Tình hình Phật giáo ở quận Tây Hồ

Cũng như các địa phương khác trên cả nước, các tín ngưỡng, tôn giáo

từng bước du nhập, hình thành và phát triển ở Hà Nội. Các tôn giáo ở Hà Nội,

tuy số lượng không nhiều, chiếm tỷ lệ không cao trong dân số, nhưng lại có vị

trí đặc biệt quan trọng. Trên địa bàn Thành phố hiện có 07 tôn giáo được Nhà

nước công nhận tư cách pháp nhân đang hoạt động, gồm: Phật giáo, Công giáo,

Tin Lành, Cao Đài, Hồi giáo, Baha’i, Minh sư đạo. Với tổng số 4.995 cơ sở tín

ngưỡng, tôn giáo (1.664 cơ sở tôn giáo, 2.556 cơ sở tín ngưỡng, 775 cơ sở đan

xen tín ngưỡng, tôn giáo), khoảng 70 vạn tín đồ, 2500 chức sắc, hơn 5000 chức

việc. Trong đó, Phật giáo, Công giáo và Tin lành là 03 tôn giáo có số lượng cơ

sở tự viện, chức sắc, tín đồ nhiều nhất [tr1, 57].

23

Ở quận Tây Hồ có 02 tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo và một số

điểm nhóm Tin Lành tại gia. Hiện nay toàn quận có 71 cơ sở tín ngưỡng, tôn

giáo trong đó có 18 chùa với 60 tăng ni và Ban Trị sự Phật giáo quận đã được

kiện toàn bao gồm các vị chức sắc tham gia, nhiều vị tham gia đại biểu Hội đồng

Nhân dân cấp phường đồng thời là thành viên của MTTQ Quận; 05 nhà thờ họ

trong đó có 02 nhà thờ Sứ (Sứ Thượng Thụy – Phú Thượng; sứ An Thái – Bưởi),

ba nhà thờ họ đạo (Họ Phú Gia, Họ Phú Thọ, Họ Quảng Bá), số giáo dân chủ

yếu tập trung ở năm phường đó là Phú Thượng, Bưởi, Quảng An, Yên Phụ,

Thụy Khuê. Ban đoàn kết công giáo quận có 09 thành viên đều là những người

tiêu biểu trong các sứ họ đạo, hoạt động tích cực. Trong tổng các cơ sở tín

ngưỡng, tôn giáo thì có 30 di tích được xếp hạng (12 di tích hạng quốc gia; 18 di

tích xếp hạng cấp thành phố)[tr 2,57].

Về Phật giáo quận Tây Hồ có 18 chùa tọa lạc trên 8 phường, tổng số có

50 vị Tăng Ni, nhiều chùa xung quanh Hồ Tây là di tích lịch sử nổi tiếng trong

và ngoài nước. Công tác Phật sự của Phật giáo quận đạt được nhiều kết quả tốt

đẹp. Điển hình như: hoạt động Tăng sự: có 35 vị Tăng Ni an cư tại chùa Bà Đá,

Ban trị sự đã xác nhận hồ sơ hợp lệ theo quy định các giới tử thụ giới tỷ khiêu

cho đệ tử thượng tọa Thích Nguyên Hạnh trụ trì chùa Tảo Sách và hồ sơ thụ giới

Sa di cho đệ tử Đại đức Thích Nguyên Chính, xá nhận hồ sơ để bổ nhiệm trụ trì

chùa Vạn Ngọc và chùa Tứ Liên. Các công tác Phật sự như công tác giáo dục

Tăng Ni: công tác Hoằng Pháp, công tác Nghi lễ, công tác văn hóa, công tác

hướng dẫn Phật tử... đặc biệt công tác từ thiện xã hội đạt được kết quả khả quan.

Các chùa trong quận thường xuyên giúp đỡ 40 cháu có hoàn cảnh khó khăn đặc

biệt với số tiền 1 tháng 1 cháu là 100.000đ; HT. Thích Thanh Nhã ủng hộ 1000

xuất quà nhân dịp tết Mậu Tuất mỗi xuất giá trị 500.000đ tổng giá trị là 500 triệu

đồng, ủng hộ tại địa phương 5. 000.0000đ; Chùa Vạn Niên ủng hộ các cháu

bệnh viện nhi trung ương, trường mầm non Thụy khuê, Xuân La 200 thùng sữa

Thtrue Milk; Chùa Kim Liên đóng góp các quỹ của phường 5 triệu đồng, giáp

tết Mậu Tuất phát 600 xuất quà ở trại tâm thần, Thụy An, Ba Vì – Hà Nội trị giá

180 triệu đồng, tổng số tiền làm từ thiện năm 2018 là 485.200 .000đ; Chùa Tảo

24

Sách và chùa Quảng Bá làm từ thiện tổng giá trị 300 triệu đồng; Chùa Võng thị

ủng hộ các quỹ địa phương 10 triệu đồng; Chùa Mật Dụng làm từ thiện tổng

kinh phí 50 triệu đồng; Đại đức Thích Nguyên Chính nhân dịp tết Mậu Tuất

2018 ủng hộ 500 xuất quà tại tỉnh Điện Biên giá trị 250 triệu đồng, trao 100 xuất

quà tại bệnh viện Bạch Mai trị giá 100 triệu đồng, đóng góp với Hội Liên hiệp

Thanh niên quận làm từ thiện trên tỉnh Lai Châu 10 triệu đồng [6, 57].

Với phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, Phật giáo

quận Tây Hồ luôn động viên tăng ni, phật tử tại địa phương tham gia tích cực

các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ Tổ quốc, bảo

vệ môi trường, xây dựng nếp sống văn hóa trong từng địa bàn dân cư. Bên cạnh

đó, giới Phật giáo còn góp phần củng cố chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể quần chúng, góp ý kiến cho các báo cáo chính trị của Đảng ở địa

phương, tham gia các hoạt động chính trị xã hội như: ứng cử đại biểu Quốc hội,

Hội đồng Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc các cấp và nhiều đoàn thể xã hội khác.

Nhiều tấm gương người tốt, việc tốt của tăng ni, phật tử được Nhà nước tặng

thưởng huân chương cao quý, được bộ, ngành, uỷ ban nhân dân các cấp tặng

nhiều phần thưởng.

2.1.3. Tiềm năng và điều kiện để khai thác giá trị văn hóaPhật giáo

trong phát triển Du lịch tâm linh tại quận Tây Hồ

Trên địa bàn quận có Hồ Tây rộng hơn 527,5ha mặt nước và 18,9km

đường dạo xung quanh. Đây là một trong những thắng cảnh đẹp của Thủ đô Hà

Nội, được ví như: “Lá phổi xanh” của thành phố. Hồ Tây thích hợp cho phát

triển các loại hình dịch vụ và du lịch văn hóa tâm linh của Thủ đô với 64 di tích

lịch sử, trong đó có 39 di tích được xếp hạng, như: Đền Đồng Cổ, chùa Trấn

Quốc, phủ Tây Hồ... Quận Tây Hồ có nhiều làng nghề truyền thống như: Đào

Nhật Tân (57ha), quất cảnh Tứ Liên (15ha), trà sen Quảng An (16ha)... Hằng

năm, quận Tây Hồ thu hút hàng nghìn lượt người dân trong nước và ngoài nước

tham quan...

Triển thực hiện Kế hoạch số 207/KH-UBND, ngày 11/11/2016 của

UBND TP Hà Nội về phát triển du lịch, quận Tây Hồ đã triển khai nhiều hoạt

25

động như: Dịch vụ du lịch “Cụm di tích đình, chùa Võng Thị và mô hình làng

nghề sản xuất giấy dó” và thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cùng với đó,

quận tập trung cho công tác tuyên truyền, quảng bá, hợp tác, xúc tiến đầu tư và

phát triển thị trường; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; hỗ trợ, đầu tư và

nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch... Nhờ có vị thế đắc địa cùng

cảnh quan thơ mộng, trong nhiều năm qua, nhất là những năm gần đây, vùng Hồ

Tây đã trở thành địa chỉ hấp dẫn khá nhiều nhà đầu tư đến đầu tư hệ thống nhà

hàng, khách sạn. Trong số các khách sạn trên địa bàn, có nhiều khách sạn lớn, có

khả năng tiếp nhận và phục vụ du khách có nhu cầu cao. Hầu hết các cơ sở hoạt

động kinh doanh dịch vụ lưu trú, dịch vụ lữ hành trên địa bàn quận đều có ý

thức chấp hành pháp luật, thực hiện tốt việc tuyên truyền, phổ biến phòng chống

tệ nạn xã hội tại doanh nghiệp, chấp hành sự quản lý, hướng dẫn của các cơ

quan chức năng quản lý về du lịch.

Là trung tâm Phật giáo không chỉ vì trên mảnh đất này có số lượng chùa

nhiều nhất, mật độ chùa dày nhất, mà hiện nay ở quận Tây Hồ còn bảo tồn được

rất nhiều ngôi chùa cổ, cũng như bảo lưu nhiều nghi lễ Phật giáo truyền thống

và hoạt động Phật sự tôn nghiêm.

Ngôi chùa ở Tây Hồ từ lâu đã trở thành điểm đến chiêm bái, vãn cảnh cho

bao du khách thập phương. Điều đáng nói ở đây là ngôi chùa trong di sản văn

hóa Tây Hồ không phải là di tích của một thời đã qua như cung điện, lăng tẩm

nhà Lý- Trần; chùa Tây Hồ cũng không chỉ là hồi quang của quá khứ mà còn là

những thực thể sống động chứa đựng những dòng chảy văn hóa thâm trầm, nối

quá khứ với hiện tại, nối con người nơi đây với sự ứng xử xã hội trong các mối

tương quan với đất trời, với cộng đồng và tha nhân. Như vậy có thể nói, những

ngôi chùa ở Tây Hồ, Hà Nội đã trở thành địa chỉ hành hương thu hút không chỉ

tăng ni, phật tử, mà còn rất nhiều du khách. Hiện ở Tây Hồ có rất nhiều ngôi

chùa và niệm phật đường lớn nhỏ, trong đó có những ngôi Tổ đình, cổ tự nổi

tiếng từ hàng trăm năm như Chùa Vạn Niên, chùa Kim Liên, chùa Trấn Quốc,

chùa Tảo Sách…Mỗi ngôi chùa ở Tây Hồ không chỉ là một công trình kiến trúc

độc đáo hòa quyện giữa con người với cảnh quan thiên nhiên, mà còn là một địa

26

chỉ lịch sử, văn hóa, tâm linh đặc sắc. Nhiều ngôi chùa đã trở thành biểu tượng

đặc trưng trong đời sống văn hóa tâm linh Hà Nội. Hồ Tây được nhiều người ví

là “rốn tâm linh của Hà Nội”, vì không chỉ có vẻ đẹp hài hòa của sắc nước, mây

trời mà hồ Tây còn ẩn chứa vẻ đẹp linh thiêng, cổ kính do những ngôi đình,

chùa đem lại. Các ngôi chùa nơi đây đều giữ được nét cổ kính của kiến trúc Á

Đông, kiến trúc truyền thống của Việt Nam và nghệ thuật sinh vật cảnh. Chùa

chiền là một mảng kiến trúc quan trọng cùng với quang cảnh Hồ Tây, kiến trúc

dân gian tạo nên Tây Hồ có bản sắc riêng.

Đó là tính đa dạng trong hệ cảnh quan, kiến trúc, trang trí, nội thất của

những ngôi chùa; là những giá trị trong nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật diễn

xướng mang hơi thở của Phật giáo xứ Hà Nội nói chung và Phật giáo mảnh đất

Tây Hồ nói riêng. Sự đa diện trong sinh hoạt văn hóa thông qua các lễ hội, sinh

hoạt của tăng chúng - phật tử, văn hóa ẩm thực... phản ánh những ảnh hưởng của

giáo lý nhà Phật, vẫn đang được luân chuyển một cách lặng lẽ trong đời sống

thường nhật, trong mạch nguồn văn hóa Hà Nội, và đang chờ đợi du khách đến

Hà Nội cũng như Tây Hồ thẩm thấu và cảm nhận.

Vì thế, ngoài những loại hình du lịch cụ thể đã được khai thác lâu nay như

du lịch thiện nguyện, tham quan danh lam thắng cảnh, chiêm bái, hành thiền

chữa bệnh… văn hóa Phật giáo Tây Hồ hội đủ điều kiện để tổ chức thành

Festival văn hóa tâm linh.Thành phố Hà Nội đang triển khai xây dựng kế hoạch

đầu tư, xây dựng, cải tạo, chỉnh trang, quản lý, khai thác khu Hồ Tây thành điểm

du lịch, văn hóa tiên tiến, có điều kiện kinh doanh dịch vụ, văn hóa, thể thao du

lịch, vui chơi giải trí và có hệ thống xử lý môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế.

Đây được coi như tín hiệu tốt để khơi dậy các giá trị văn hóa, lịch sử của hồ Tây

để biến nơi này thành điểm đến hấp dẫn.

Ngành Du lịch Thủ đô đang cố gắng tạo nên một không gian văn hóa du

lịch hồ Tây bằng việc khai thác các sản phẩm du lịch trên mặt hồ như phát triển

dịch vụ thuyền buồm du lịch, trình diễn các loại hình nghệ thuật trên mặt nước

với ánh sáng laser, pháo sáng, pháo hoa... kết hợp tham quan các điểm du lịch

tâm linh bên hồ. Các làng nghề truyền thống xung quanh hồ Tây được kết nối

27

với các điểm du lịch chính tại hồ Tây.

Một Tour du lịch đến với những ngôi chùa ở quận Tây Hồ bao gồm: lễ

Phật, vãn cảnh, thưởng ngoạn vẻ đẹp về kiến trúc, điêu khắc Phật giáo trong

khuôn viên ngôi chùa; thưởng thức ẩm thực chay. Du khách sẽ được đắm chìm

trong không gian linh thiêng, chiêm ngưỡng những nét độc đáo của kiến trúc

Phật giáo truyền thống, được thưởng thức những món chay đặc sắc do ni sư chế

biến... Đặc biệt trên địa bàn quận hiện nay có các ngôi chùa cổ với kiến trúc đặc

sắc đang là những điểm thu hút khách du lịch thập phương đến tham quan

như:chùa Vạn Niên, Tảo Sách, Kim Liên, Trấn Quốc…

2.2. Thực trạng khai thác giá trị văn hóa Phật giáo trong hoạt động

du lịch tâm linh tại Quận Tây Hồ

2.2.1.Khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo tại các ngôi chùa ở quận

Tây Hồ

2.2.1.1.Du lịch tham quan

Hiện nay, du lịch Hà Nội nói chung và quận Tây Hồ đang có lợi thế không

nhỏ trong chiến lược phát triển du lịch tâm linh, du lịch hành hương khi mà số

lượng Phật tử ngày càng đông đảo.

Du lịch tâm linh là điểm nổi trội của hoạt động du lịch ở quận Tây Hồ bởi

sự phong phú và đa dạng của các nguồn tài nguyên tâm linh vật thể và phi vật

thể đã, đang khai thác và những nguồn tài nguyên tiềm năng chưa được khai

thác.. .Dựa trên nguồn tài nguyên đó, ngành du lịch quận đã xây dựng một số

sản phẩm du lịch tâm linh tiêu biểu như sau:

Điểm đến của sản phẩm này là hệ thống các chùa với cảnh sắc và kiến

trúc đặc sắc. Đây là những bằng chứng sống ghi lại những tinh hoa văn hóa,

kiến trúc, nghệ thuật, điêu khắc của các thời đại phong kiến trên ở Thăng Long –

Hà Nội.

Loại hình này thể hiện qua các hoạt động chiêm nghiệm, tham quan,

nghiên cứu...Tại các ngôi chùa du khách trực tiếp chiêm ngưỡng, tìm hiểu kiến

trúc, mỹ thuật, cảnh quan, hệ thống tượng thờ, phù điêu, các di vật... Qua đó du

khách có thêm những kiến thức về các giá trị về kiến trúc, điêu khắc của cha

28

ông, biết thêm về hệ thống thờ tự, giáo lý, lễ nghi của Phật giáo và hơn nhất đối

với họ là ý niệm linh thiêng về các đối tượng tâm linh được phần nào thỏa mãn

vì ngoài hoạt động quan sát, chiêm ngưỡng họ còn kết hợp với việc ngưỡng

vọng, cầu khấn các biểu tượng thiêng liêng tại các ngôi chùa.

Sản phẩm này không phụ thuộc vào thời vụ mà có thể tổ chức quanh năm.

Du khách có tham gia vào chuyến đi vào bất cứ thời điểm nào họ mong muốn.

Tuy vậy, các điểm đến này cần đáp ứng được một số tiêu chuẩn nhất định về

phạm vi không gian, bố trí cảnh quan, danh tiếng, vị trí các vị Phật - Thần -

Thánh được thờ trong tâm thức người bản địa, những yếu tố lịch sử và số lượng

- chất lượng các tác phẩm nghệ thuậtđể có thể phát triển. Đặc biệt nó cần phải có

khả năng thu hút được du khách ở mức độ nhất định để mang lại lợi ích kinh tế

cho người dân địa phương, chính quyền địa phương và cho các ngành dịch vụ.

Một trong những sản phẩm khác của hoạt động du lịch tâm linh đó chính

là du lịch tham gia vào các nghi lễ tâm linh của Phật giáo tại các ngôi chùa ở

quận Tây Hồ. Đó là các hoạt động trong nghi lễ khai lễ, các hoạt động sau khi

khai lễ và các hoạt động bên lề khác.

Các di tích Phật giáo thường là nơi thờ Phật, các lễ thường là cầu an, cầu

siêu, dâng hương, dâng hoa, thả đèn hoa đăng, thắp hương ngày rằm phóng sinh,

lễ Phật Đản, lễ tắm Phật ... Các nghi lễ này được tổ chức theo một nghi thức rất

thiêng liêng với quy mô lớn nhỏ tùy theo khả năng tổ chức và điều kiện của các

nhà chùa. Người đứng đầu các nghi lễ này là các nhà sư và có sự hỗ trợ của các

bà vãi ở bản địa.

Loại hình tham gia vào các nghi lễ tâm linh của địa phương gắn với Phật

giáo này có đặc trưng cố định về thời gian do các nghi lễ Phật giáo đều được tổ

chức theo lịch trình cụ thể mà đã đặt ra. Do đó, sản phẩm này có tính mùa vụ và

khách tham quan chỉ có thể tham gia tại những thời điểm đã được ấn định từ

trước do chính quyền, những người đứng đầu cai quản các di tích và người dân

bản địa nơi đó quyết định.

Đây là một trong những sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh phi vật thể

tiêu biểu ở Tây Hồ. Ngôi chùa cũng là nơi diễn ra các lễ hội truyền thống - là

29

nơi lưu truyền, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Hiện nay toàn

quận có 71 cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo trong đó có 18 chùa, có 20 đình, 14 đền,

09 am miếu, 02 di tích cách mạng, 01 phủ, 02 di tích khác (Mộ bà Đoàn Thị

Điểm, Nhà cụ An) [tr 2, 57]. Hàng năm, trên địa bàn quận Tây hồ có khoảng 14

lễ hội truyền thống, được tổ chức bài bản, công phu, phản ánh nét văn hóa làng

xã đặc trưng của vùng Hồ Tây như lễ hội Đình Nhật Tân, Đình Yên Phụ, Đền

Voi Phục, Đền Đồng Cổ, Phủ Tây Hồ…. Các lễ hội truyền thống trên địa bàn

quận mang đậm nét văn hóa truyền thống và bản sắc dân tộc, thể hiện sự tôn

kính, ngưỡng mộ của nhân dân địa phương với các vị có công với nước, với dân,

dẹp giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.

Hiện nay các công ty lữ hành đã tổ chức những tua du lịch tâm linh đến

các ngôi chùa trên địa bàn quận và đã thu hút được lượng khách lớn đến tham

quan, trải nghiệm góp phần phát triển kinh tế ở địa phương như. Các công ty du

lịch thường tổ chúc các tour đến với một số chùa nổi tiếng như: Vạn Niên, Tảo

Sách, Kim Liên, Trấn Quốc. Đến với tour du lịch này, du khách sẽ được đắm

chìm trong không gian linh thiêng, chiêm ngưỡng những nét độc đáo của kiến

trúc Phật giáo truyền thống, được thưởng thức những món chay đặc sắc do ni sư

chế biến... Sau đây xin điểm qua hoạt động tham quan du lịch của du khách tại

một số ngôi chùa tiêu biểu nhất của quận Tây Hồ.

* Chùa Vạn Niên

Là một kiến trúc Phật giáo, Chùa được tạo bởi công trình nghệ thuật bằng

gỗ với hoa văn họa tiết vừa bản địa, vừa tiếp nhận văn hóa phương Đông. Các

nếp nhà được xây dựng hướng Đông theo bố cục mặt bằng gồm tam quan, chùa

chính điện Mẫu (thờ Bà chúa Liễu Hạnh), nhà tăng, nhà phụ. Bao quanh kiến

trúc là vườn cây cổ thụ tôn thêm vẻ đẹp và tạo sự u tịch, tĩnh lặng nơi cửa thiền,

làm nên một tổng thể di tích văn hóa, nghệ thuật đặc sắc, hài hòa. Chùa gồm

năm gian bái đường và ba gian bảo điện nối nhau thành chữ Đinh. Về lối bài trí,

chùa cũng giống như nhiều chùa ở miền Bắc khác. Trên cao có Tam Thế Phật,

dưới là A Di Đà Phật, dưới nữa là Quan Âm, phía ngoài là Thích ca Sơ sinh.

Đặc biệt, hiện nay, trên nóc chùa vẫn còn ba chữ triện đắp nổi “Vạn Niên tự”, ý

30

muốn chùa trường tồn mãi cùng với thời gian.

Hiện Chùa còn giữ bộ di vật cổ quý gồm hơn 40 pho tượng tròn và 10 đạo

sắc phong thần của thời Lê, Tây Sơn; có bài ký trên chuông đồng “Vạn Niên Tự

Chung” đúc vào thời Gia Long. Trải qua 1000 năm lịch sử với những biến thiên

của thời cuộc, chùa đã nhiều lần được tu sửa, đặc biệt từ năm 1992 đến nay,

Chùa được trùng tu tôn tạo lớn. Nhiều nhà sư danh tiếng của Việt Nam đã từng

trụ trì ở đây như Lâm Tuệ Sinh, Lý Thảo Đường, Thích Viên Thành…

Năm 2010, nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Chùa Vạn

Niên làm lễ an vị khánh thành Điện Phật ngọc. Tượng Phật được tạc bằng khối

ngọc tự nhiên quý hiếm từ Myanmar có chiều cao 1,3m, nặng 600 km. Tượng phật

thiêng có một không hai ở Việt Nam đã tạo thêm sự hấp dẫn của ngôi chùa cổ.

Chùa tuy không lớn nhưng do nằm ở gần Hồ Tây nên cảnh quan thoáng

đãng, trong lành. Khác với các ngôi chùa khác ở đất Bắc, chùa Vạn Niên thường

là nơi để mọi người đến cầu bình an, sức khỏe và hạnh phúc cho gia đình, họ tộc

chứ không phải là nơi để cầu tài cầu lộc. Vì vậy, vào ngày thường, chùa thường

vắng lặng, chỉ những ngày rằm và dịp lễ tết, chùa mới có đông du khách thập

phương đến viếng cảnh chùa và lễ Phật. Có lẽ nhờ vậy mà chùa luôn có không

khí thanh tịnh rất hợp với khung cảnh của chốn thiền môn. Với những giá trị lịch

sử và văn hóa độc đáo như trên, năm 1996, chùa đã được Bộ VHTT xếp hạng Di

tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia. Hiện, di tích này vẫn luôn được chính quyền

và nhân dân quận Tây Hồ gìn giữ, tu bổ tôn tạo ngày một khang trang hơn để

giữ được nét đẹp truyền thống và cổ kính cho không gian văn hóa của Thủ đô

Hà Nội. Hiện nay, chùa Vạn Niên thờ Phật và bà chúa Liễu Hạnh. Qua hơn

1.000 năm lịch sử, với bao thăng trầm và biến cố, ngôi chùa đã nhiều lần được

trùng tu. Chùa Vạn Niên có phong cách kiến trúc thời Nguyễn, bao gồm: Tam

quan, tiền đường, nhà Tổ, nhà khách, lầu Quan Âm… Câu đối ở hàng cột nhà

bái đường đã nói rõ:

“Cổ tự trùng tu tân cảnh sắc

Vạn Niên kiến tạo cựu quy mô”

(Chùa cổ trùng tu cảnh sắc mới

31

Vạn Niên sửa chữa quy mô xưa).

Chùa Vạn Niên đang ngày một khang trang và được nhiều Phật tử gần xa

biết đến. Tuy có nhiều đổi mới nhưng chùa vẫn giữ được nét đẹp cổ kính và độc

đáo về văn hóa kiến trúc giữa lòng thủ đô hiện đại và phát triển.

* Chùa Trấn Quốc

Chùa Trấn Quốc có lịch sử 1500 năm, được coi là lâu đời nhất ở Thăng

Long - Hà Nội. Cũng giống như hầu hết những ngôi chùa cổ trên đất nước Việt

Nam, kiến trúc chùa Trấn Quốc gồm nhiều lớp, có nhà bái đường, nhiều tượng

Phật được sơn son thếp vàng. Chùa được thiết kế theo kiểu “nội công ngoại

quốc”, tiền đường nhìn về phía tây. Gác chuông chùa là một nhà ba gian, mái

chồng diêm, nằm trên trục chính. Phía sau tiền đường là nhà Tam bảo. Đặc biệt,

trong khuôn viên chùa Trấn Quốc còn có bảo tháp Lục độ đài sen được xây

dựng trong 5 năm. Bảo tháp gồm 11 tầng, cao 15 mét, diện tích mặt sàn 10,5

mét vuông. Mỗi tầng tháp gồm 6 ô cửa vòm, có tượng Phật A Di Đà bằng đá

quý. Tổng số tượng của tháp có 66 pho và trên đỉnh có 9 tầng đài sen cũng bằng

đá quý (còn được gọi là Cửu phẩm liên hoa). Tháp được dựng đối xứng với cây

bồ đề.

Nằm ở phía đông Hồ Tây, quận Tây Hồ, chùa Trấn Quốc là một trong

những ngôi chùa ở Hà Nội mà có rất nhiều du khách đến tham quan và lễ bái.

Dưới thời Lý – Trần ngôi chùa này được chọn là trung tâm Phật giáo của kinh

thành Thăng Long. Ngày nay, chùa Trấn Quốc không chỉ là điểm đến tâm linh

của người dân Hà Nội mà còn là địa điểm tham quan của du khách trong và

ngoài nước. Chùa Trấn Quốc có diện tích tổng thể khoảng 3000m2 với nhiều

cây xanh và có hồ nước phía trước, tạo nên khung cảnh nên thơ nhưng vẫn đầy

uy nghiêm của chốn tâm linh giữa lòng thủ đô. Trấn Quốc là ngôi chùa được xây

dựng theo hệ phái Bắc tông gồm 3 ngôi chính là: tiền đường, nhà thiêu hương,

thượng điện nối với nhau tạo thành chữ Công. Vào năm 1989 chùa Trấn Quốc

được công nhận là Di tích Lịch Sử Văn hóa cấp quốc gia.

Nằm trên một hòn đảo nhỏ ở phía Đông Hồ Tây, quận Tây Hồ, một ngôi

chùa được mệnh danh là ngôi chùa linh thiêng bậc nhất Hà Thành, chùa Trấn

32

Quốc cũng là nơi bảo tồn và lưu giữ bao nét đẹp của nền văn hóa dân gian mang

đậm bản sắc dân tộc Việt không chỉ bởi vẻ đẹp của ngôi chùa mà còn bởi kiến

trúc ngôi chùa qua thời gian, chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, bao sự biến

đổi của đời người.

Chùa Trấn Quốc mang một màu sắc giản dị nhưng cũng rất đỗi thanh tao,

trang nhã, đó là vẻ đẹp yên bình của một làng quê Việt Nam. Bước vào cổng

chùa là bước vào một thế giới khác-một nơi yên bình thật sự. Điểm nổi bật của

ngôi chùa là hình ảnh Bảo tháp lục độ đài sen nằm ngày bên trái cổng chùa được

xây dựng vào năm 1998, bảo tháp có 11 tầng, cao 15m, mỗi tầng có 6 ô cửa hình

vòm, trong mỗi ô lại đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý, đỉnh tháp có

đài sen 9 tầng được gọi là Cửu phẩm liên hoa, không phải ngẫu nhiên mà Bảo

tháp lục độ đài sen trở thành biểu tượng của ngôi chùa.

Khám phá kiến trúc của tháp, ta không khỏi ngạc nhiên khi nhận thấy

rằng hình ảnh của tháp rất gần gũi với đời sống văn hóa con người Việt Nam, đó

là hình ảnh những pho tượng Phật được đặt trên đài sen, hình ảnh bông sen từ

lâu đã trở thành biểu tượng của con người Việt Nam ta, đó là lối sống ngay

thẳng, thanh cao “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” từ bao đời nay vẫn vậy.

Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở bùn mà không bị ô uế,

đó cũng là nét đặc trưng của Phật giáo bắt nguồn từ lối sống dân dã.

Vào ngày rằm hay mùng một hàng tháng, người dân thủ đô đến chùa Trấn

Quốc rất đông để cầu sức khỏe, may mắn cho gia đình. Đặc biệt là những ngày

đầu năm mới lượng khách du lịch đổ về hành hương, lễ Phật và vãn cảnh chùa

rất lớn. Giữa nền tĩnh lặng của hồ nước mênh mông, chùa Trấn Quốc có sự kết

hợp hài hòa giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã.

* Chùa Kim Liên

Chùa Kim Liên nay thuộc phường Nghi Tàm, quận Tây Hồ. Chùa có từ

thế kỷ XVII nhưng diện mạo chùa như hiện nay là do lần trùng tu vào năm 1792

với bố cục theo kiểu chữ "tam", gồm ba nếp, mỗi nếp có hai tầng mái. Các đầu

đao cong vút, mềm mại. Trong chùa có một pho tượng quý khiến giới sử học hết

sức quan tâm đó là pho tượng có hình dạng như một người trung niên, râu ba

chòm, mình mặc áo cà sa, tay cầm hốt, đầu lại đội mũ dành cho vua quan.

33

Ngoài pho tượng này, ở gian giữa chùa có bức hoành phi "Hoàng uẩn” (có

nghĩa là: Đạo lý sâu sắc và rộng rãi) làm vào năm 1870. Còn hoành phi "Liên

hoa hải hội" (có nghĩa là: Cảnh sum vầy vui đẹp nước Phật) thì mới được làm

năm 1930.

Trong cuốn “Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995” do Ban Văn hóa

Văn nghệ Trung ương xuất bản đã đánh giá chùa Kim Liên là một trong 10 di

tích kiến trúc cổ đặc sắc nhất Việt Nam.

*Chùa Tảo Sách

Tọa lạc tại số 386 đường Lạc Long Quân, phường Nhật Tân, quận Tây

Hồ, Hà Nội, chùa Tảo Sách hay còn được gọi là chùa Tào Sách, Linh Sơn tự

cũng được coi là điểm thu hút rất nhiều tín đồ Phật Ttử và khách tham quan, du

lịch trong ngoài Việt Nam. Nằm trong quần thể chùa, đình, phủ nổi tiếng ven Hồ

Tây, chùa Tảo Sách là một trong số những ngôi cổ tự khá hiếm hoi còn lại ở Thủ

đô vừa giữa được vẻ cổ kính, u tịch, trang nghiêm của không gian Phật đài, vừa

đẹp, cảnh sắc tốt tươi. Năm 1994, chùa được Nhà nước công nhận là Di tích lịch

sử văn hóa và được duy tu, tôn tạo với đủ Nhà thờ Tổ, Trai phong, Nhà thờ

Mẫu, Điện thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát… đặc biệt là dựng lại gác chuông,

tam quan đậm nét kiến trúc dân gian, hài hòa cảnh trí.

Trong vòng quay của xã hội đầy biến động như hiện nay con người đang

đứng trước nhiều thách thức cả trong đời sống vật chất và tinh thần. Để có thể

tìm lại thăng bằng trong cuộc sống, con người đang có xu hướng tìm đến triết lý

giải thoát, an lạc của Phật giáo, điều đó đang phát triển mạnh ở Việt Nam và thế

giới.

Do đó, khi đến với Hà Nội cũng như đến với Tây Hồ, du khách không chỉ

đáp ứng tâm nguyện cúng dường từ thiện mà còn có thể tìm cho mình nhiều

hình thức du lịch tâm linh, giải tỏa những căng thẳng trong cuộc sống hiện hữu,

cũng như tìm được trong Phật giáo sự bình an trong tương lai. Sau những ngày

làm việc căng thẳng, bận rộn với những lo toan của cuộc sống đời thường, tất

yếu mỗi người cũng cần có những giây phút thư giãn để thoải mái tinh thần và

huớng đến tâm linh. Nhu cầu đó không chỉ dành riêng cho những Phật tử mà nó

còn trở thành nhu cầu của nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Chính vì vậy,

34

mô hình du lịch thiện nguyện kết hợp với pháp giảng có những điều kiện thuận

lợi để thực hiện ở những Thiền tự nơi đây.

Bằng sự thuyết giảng trực tiếp của các giảng sư, mỗi du khách đều có thể

cảm nhận trực tiếp về tâm linh, từ đó dễ phát khởi lòng tin và tinh tấn hành trì

giáo lý của Phật pháp để làm lành lánh dữ, tìm được nguồn an lạc, hạnh phúc.

Ngoài ra, ở các chùa cũng có thể tổ chức những buổi học ngắn ngày hay các lễ

cầu an kết hợp với các hoạt động thiện nguyện khác.

Tây Hồ được mệnh danh là vùng đất thờ tự Phật, không chỉ bởi lịch sử

phát triển lâu đời của Phật giáo, hay đơn thuần là hệ thống Phật tích đặc sắc mà

còn bởi những giá trị cao đẹp về mặt tinh thần đang hiện hữu một cách sống

động trong đời sống cư dân theo đạo Phật nơi đây. Nếu kết hợp được những nét

đẹp của phong trào du lịch thiện nguyện với những đặc trưng độc đáo khác trong

kho tàng di sản văn hóa Phật giáo nói chung, của văn hóa Tây Hồ nói riêng,

ngành du lịch của quận Tây Hồ có thể tạo thành một loại hình du lịch phù hợp

với xu thế phát triển của thị trường du lịch thế giới hiện nay. Đó là những tiềm

năng mà ngành du lịch có thể khai thác để phát triển các mô hình du lịch gắn

liền với Phật giáo.

Ngoài tham quan các chùa thì các tua du lịch còn các chương trình tham

quan gắn với các điểm dích tích tín ngưỡng, tôn giáo khác trên địa bàn như: Phủ

Tây Hồ, đền Quán Thánh, lễ hội Đình Nhật Tân, Đình Kim Liên, lễ hội Xôi Phú

Thượng… Một Tour du lịch đến với những ngôi chùa ở Hồ Tây bao gồm: vãn

cảnh, thưởng ngoạn vẻ đẹp về kiến trúc, điêu khắc Phật giáo trong khuôn viên

ngôi chùa; thưởng thức ẩm thực chay.

2.2.1.2. Du lịch tham quan kết hợp với thiện nguyện

Trong vòng quay của xã hội đầy biến động như hiện nay con người đang

đứng trước nhiều thách thức cả trong đời sống vật chất và tinh thần. Để có thể

tìm lại thăng bằng trong cuộc sống, con người đang có xu hướng tìm đến triết lý

giải thoát, an lạc của Phật giáo, điều đó đang phát triển mạnh ở Việt Nam và thế

giới.

Do đó, khi đến với Tây hồ, du khách không chỉ đáp ứng tâm nguyện cúng

dường từ thiện mà còn có thể tìm cho mình nhiều hình thức du lịch tâm linh, giải

35

tỏa những căng thẳng trong cuộc sống hiện hữu, cũng như tìm được trong Phật

giáo sự bình an trong tương lai. Sau những ngày làm việc căng thẳng, bận rộn

với những lo toan của cuộc sống đời thường, tất yếu mỗi người cũng cần có

những giây phút thư giãn để thoải mái tinh thần và huớng đến tâm linh. Nhu cầu

đó không chỉ dành riêng cho những Phật tử mà nó còn trở thành nhu cầu của

nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Chính vì vậy, mô hình du lịch thiện

nguyện kết hợp với pháp giảng có những điều kiện thuận lợi để thực hiện ở

những ngôi chùa trên địa bàn quận.

Bằng sự thuyết giảng trực tiếp của các giảng sư, mỗi du khách đều có thể

cảm nhận trực tiếp về tâm linh, từ đó dễ phát khởi lòng tin và tinh tấn hành trì

giáo lý của Phật pháp để làm lành lánh dữ, tìm được nguồn an lạc, hạnh phúc.

Ngoài ra, ở các chùa cũng có thể tổ chức những buổi học ngắn ngày hay các lễ

cầu an kết hợp với các hoạt động thiện nguyện khác. Mô hình này bắt đầu hình

thành và đang trên đà phát triển ở một số cơ sở như chùa Kim Liên, chùa Trấn

Quốc cũng có những tiềm năng để phát triển trong tương lai.

• Các loại hình du lịch thiện nguyện

Du lịch thiện nguyện - Vãn cảnh chùa trên địa bàn quận

Với số 18 chùa nằm trên địa bàn quận có những những quốc tự như Trấn

Quốc, Kim Liên là điểm đến của nhiều du khách và khách hành hương trong

nước và quốc tế, Tây Hồ còn có nhiều ngôi chùa mang giá trị lịch sử cũng như

văn hóa đặc sắc như: Vạn Niên, Thiên Nhiên, Tảo Sách, Khai Nguyên.. Chính vì

vậy, mô hình du lịch thiện nguyện kết hợp với tham quan các danh lam cổ tự có

đầy đủ điều kiện thuận lợi để phát triển.

Du lịch thiện nguyện - Ẩm thực già lam (ăn chay)

Không chỉ dành riêng cho Phật tử, xu thế ăn chay không chỉ để thực hành

hạnh từ bi với mong muốn tu tâm dưỡng tính để thực hiện “cứu khổ độ sinh”,

mà còn nhằm hạn chế bớt việc sát hại các sinh vật vô tội, tránh làm đau những

sinh vật hữu tình. Hiện nay, xu thế ăn chay đang thịnh hành nhiều nơi trên thế

giới với nhiều mục đích khác nhau: ăn vì sức khỏe, vì bảo vệ môi sinh, môi

trường sống... Chính vì vậy, ở Tây Hồ, ngoài những nhà hàng chay nổi tiếng

như Diệu Tâm,Veggie Castle - Vegan Buffet Chay - Âu Cơ, Chay Minh Chay -

36

Xuân Diệu, Buddha Chay.. du khách cũng không xa lạ với những gánh hàng

chay vào những ngày sóc vọng hiện diện trên nhiều đường phố. Hơn thế, du

khách còn có cơ hội thưởng ngoạn những tinh túy nghệ thuật ẩm thực già lam

trong một không gian thiền viện ở trong chùa. Đồng thời, qua việc thưởng thức

ẩm thực, du khách còn có thể thực hành thiện nguyện qua việc đóng góp công

đức giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn thông qua các trung tâm

từ thiện Phật giáo.

Hà Nội được mệnh danh là vùng đất Phật, không chỉ bởi lịch sử phát triển

lâu đời của Phật giáo, hay đơn thuần là hệ thống Phật tích đặc sắc mà còn bởi

những giá trị cao đẹp về mặt tinh thần đang hiện hữu một cách sống động trong

đời sống cư dân theo đạo Phật nơi đây. Nếu kết hợp được những nét đẹp của

phong trào du lịch thiện nguyện với những đặc trưng độc đáo khác trong kho

tàng di sản văn hóa Phật giáo nói riêng, của văn hóa Hà Nội nói chung, ngành

du lịch Hà Nội có thể tạo thành một loại hình du lịch phù hợp với xu thế phát

triển của thị trường du lịch thế giới hiện nay. Đó là những tiềm năng mà ngành

du lịch có thể khai thác để phát triển các mô hình du lịch gắn liền với Phật giáo.

2.2.1.3. Khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo quận Tây Hồ tại các lễ

hội Phật giáo

Qua Đại lễ Vesak Liên hợp quốc (Đại lễ Phật đản):Phật Đản là ngày kỷ

niệm Đức Phật sinh ra tại vườn Lâm-tì-ni, năm 624 TCN, diễn ra vào ngày 15

tháng 4 âm lịch hàng năm. Đây là ngày lễ trọng đại được tổ chức hằng năm bởi

cả hai truyền thống Nam tông và Bắc tông. Ngày nay người ta thường biết đến

Phật Đản qua tên gọi Vesak. Ngày 15 tháng 12 năm 1999, theo đề nghị của 34

quốc gia, để tôn vinh giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết hữu

nghị của Đức Phật, Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc tại phiên hợp thứ 54, mục 174

của chương trình nghị sự đã chính thức công nhận Đại lễ Vesak là một lễ hội

văn hóa, tôn giáo quốc tế của Liên Hiệp Quốc, những hoạt động kỷ niệm sẽ

được diễn ra hàng năm tại trụ sở và các trung tâm của Liên Hợp quốc trên thế

giới từ năm 2000 trở đi. Cho đến năm 2013, Đại lễ Vesak Liên Hiệp quốc đã

được tổ chức 10 lần, trong đó, Thái Lan đã đăng cai tới 9 lần, Việt Nam là quốc

gia duy nhất ngoài Thái Lan đã được trao quyền đăng cai vào năm 2008. Và sự

37

kiện trọng đại này đã được tổ chức qui mô tại thủ đô Hà Nội và nhiều tỉnh thành

trong cả nước. Vậy nên, quận Tây Hồ cũng có nhiều chương trình để thu hút du

khách thập phương đến cầu tự và tham quan, vãn cảnh.

Thật đúng là:

“Dù ai đi đâu về đâu

Đến ngày Phật đản năm Châu đều về

Dù ai bận rộn trăm bề

Nhớ ngày Phật đản ta về chùa ta”

Qua Đại lễ phật đản hàng năm:Đại lễ Phật đản được coi là lễ hội Phật giáo

lớn nhất và được tổ chức trang trọng nhất trong năm. Kể từ sau Đại lễ Phật đản

Liên hợp quốc 2008 Giáo hội Phật giáo ở đây chủ trương tổ chức Lễ Phật đản

ngày càng qui mô và mang tính đại chúng hơn nhằm có thể giới thiệu sâu rộng

truyền thống văn hóa Phật giáo Hà Nội đến người dân và du khách đến với Tây

Hồ trong dịp này.

Buổi lễ được tổ chức trang nghiêm để đọc diễn văn, lời sám nguyện cầu

ước ngày Đại sanh, lời cảm tưởng đều thể hiện tâm nguyện cầu cho thế giới hòa

bình, tổ quốc vinh quang, đạo pháp trường tồn, chúng sanh an lạc. Những bông

hoa tươi thắm dâng lên Đức Phật qua nghi thức múa dâng hoa do các đoàn sinh

Gia đình phật tử thực hiện vừa linh thiêng vừa vui mừng chào đón bậc Giác ngộ

giáng trần. Những chiếc đèn hoa đăng được thả xuống dòng sông làm sáng cả

một góc trời như để rửa trôn hết đi những bụi trần để cầu nguyện bình an, những

điều tốt đẹp. Những hoạt động của Phật, một sự mong ước của toàn thể nhân

loại vì mục đích an lạc của chúng sanh, xây dựng hòa bình bằng tình thương

rộng lớn, bình đẳng và đem những điều tốt đẹp đến với mọi người.

2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn lực phục vụ du lịch tâm linh tại

quận Tây Hồ hiện nay

2.2.2.1. Cơ sở vật chất của dịch vụ lưu trú

Cơ sở vật chất dịch vụ lưu trí tại khu vực Hồ Tây có phát triển với hơn

117 khách sạn và cơ sở lưu trú và hàng chục nhà hàng đáp ứng được yêu cầu của

nhiều đối tượng du khách. Khách sạn Sheraton Hà Nội, Sofitel Plaza,

InterContinental Westlake, Thắng Lợi… có khả năng tiếp nhận và phục vụ cùng

38

lúc nhiều du khách. Bên cạnh đó, Công viên Hồ Tây từ lâu đã trở thành điểm vui

chơi giải trí hấp dẫn trong khi nhà hàng Sen có quy mô hoạt động lớn, khả năng

phục vụ chuyên nghiệp cũng tạo cơ hội để quảng bá các món ăn mang dấu ấn

của Thủ đô.

STT HẠNG SAO

SỐ LƢỢNG SỐ PHÒNG GHI CHÚ

I

31

1.554

Tổng số cơ sở đã xếp hạng

1

Khách sạn

26

1.338

Sheraton

Hanoi,

KS

5 sao

2

617

KS InterContinental Westlake Hanoi

4 sao

1

KS Thắng Lợi

175

3 sao

1

KS Công Đoàn Quảng Bá

110

2 sao

5

148

KS Con Rồng, KS Paloma, KS Tâm, KS Hoa Đào, KS Sunset Westlake

1 sao

17

288

Căn hộ Fraser Suites Hanoi

2

1

186

Căn hộ du lịch

3

Nhà nghỉ du lịch

4

30

NNDL Blue Diamond, NNDL Bali, NNDL Legenda Tây Hồ, NNDL Cảnh Linh

II

86

2.034

Tổng số cơ sở chƣa xếp hạng

Khách sạn

21

379

Nhà nghỉ

47

516

Căn hộ

16

1137

Khu CHDL Somerset: 284 căn hộ; khu CHDL Sendona: 175 căn hộ đã làm hồ sơ xếp hạng.

Homestay

2

2

3.588

III

117

Tổng số cơ sở tại quận Tây Hồ

Biểu. Số lượng cơ sở lưu trú trên địa bàn quận quận Tây Hồ tính đến ngày

19/12/2019) [51]

39

Với cơ sở lưu trú đạt chuẩn đã góp phần nào thúc đẩy thu hút khách du

lịch đến nghỉ dưỡng và tham quan các điểm du lịch tâm linh trên địa bàn quận.

Các nhà hàng tại khu vực hầu như gắn liền với các địa điểm kinh doanh

dịch vụ lưu trú như đã nêu ở trên và ngoài việc phục vụ du khách lưu trú hoặc

đặt ăn uống theo đoàn, nhóm thì đối tượng chính của chúng là phục vụ nhu cầu

tiệc tùng của địa phương. Những nhà hàng này phần nào có sự chuyên nghiệp,

có tính quy mô và thực đơn khá phong phú.

Trong ngân sách chi tiêu của du khách hành hương thì chi phí dành cho

việc ăn uống chiếm đến 40% nhưng do dịch vụ ăn uống do vậy cơ sở vật chất

phục vụ hoạt động ăn uống trên địa bàn được tổ chức và quản lý tốt, nâng cao

chất lượng phục vụ và chất lượng đồ ăn thì doanh thu của ngành du lịch trong

vùng sẽ tăng cao mà không những thế sẽ giải quyết được những vấn đề liên quan

đến môi trường do hậu quả từ việc du khách vứt rác bừa bãi làm ảnh hưởng đến

cảnh quan chung gây ô nhiễm môi trường. Vậy nên những người làm quản lý

các điểm du lịch, khu du lịch tâm linh cần có những biện pháp cụ thể để cải

thiện tình hình để kích thích khả năng chi tiêu của du khách tại các điểm đến

tâm linh.

2.2.2.2. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch tâm linh

Theo đánh giá nguồn nhân lực du lịch lao động gián tiếp trên địa bàn

thành phố Hà Nội, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về du lịch ở cấp quận,

huyện mới chỉ có từ 1-2 người mà chủ yếu là kiêm nhiệm chuyên môn nhiều

lĩnh vực nên công tác tham mưu, quản lý nhà nước về du lịch còn yếu. Đa số lực

lượng lao động tại các doanh nghiệp hoạt động du lịch chưa qua đào tạo về

nghiệp vụ du lịch.

Đội ngũ hướng dẫn thuyết minh tại điểm là một vấn đề khó khăn, nan

giải. Hiện nay ở các điểm tâm linh lớn của khu vực như chùa Trấn Quốc, chùa

Kim Liên, Phủ Tây Hồ chưa có thuyết minh viên. Mà chủ yếu thuyết minh viên

là do các công ty lữ hành tổ chức dẫn đến chưa đáp ứng cho nhu cầu của du

khách khi vào mùa cao điểm. Các điểm tâm linh khác thì không có thuyết minh

40

tại điểm và trên thực tế thì ở các điểm này đôi khi việc hướng dẫn giải thích về

lịch sử hay giá trị của các điểm tâm linh lại do 1 số tín đồ là người bản địa có sự

tìm hiểu về lịch sử, kiến trúc nghệ thuật.. .về điểm đó đảm nhiệm. Những thông

tin này lại chưa có sự chứng thực xác đáng dẫn tới việc thông tin tới khách du

lịch không được rõ ràng hoặc bị xuyên tạc.

Xét về cả nguồn lao động trực tiếp và nguồn lao động gián tiếp vào hoạt

động du lịch tâm linh có sự phân hóa không đồng đều. Trong khi nguồn lao

động gián tiếp làm nhiệm vụ quản lý du lịch chỉ có 1 vài người và kiêm nhiệm,

ở các doanh nghiệp chưa qua đào tạo và tỉ lệ những người đảm bảo yêu cầu

nghiệp vụ chuyên môn và ngoại ngữ rất nhỏ thì nguồn lao động trực tiếp trong

hoạt động du lịch tâm linh lại rất nhiều mà lại không có chuyên môn và nghiệp

vụ du lịch. Điều đó dẫn đến việc thừa lao động kém chuyên môn và thiếu lao

động có chuyên môn. Lý do là do bị phụ thuộc vào lễ hội, vào mùa vụ nên hiệu

quả hoạt động không cao, không có điều kiện thu hút, hấp dẫn những lao động

có trình độ.Tính mùa vụ làm ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng nhân sự, nguồn

lực lao động của du lịch tâm linh làm hình ảnh du lịch của các điểm đến tâm linh

phần nào bị suy giảm.

2.3. Đánh giá thực trạng khai thác giá trị văn hóa Phật giáo tại Quận

Tây Hồ

2.3.1. Những mặt đạt được

Chùa chiền, đền, phủ là một thực thể sống động và phát triển, chứa đựng

những dòng chảy văn hóa đặc sắc nối quá khứ với hiện tại, nối con người với

văn hóa tâm linh... Con người mệt mỏi với guồng quay của cuộc sống nên từ

nhiều năm nay, hệ thống chùa chiền, đền, phủ đã trở thành điểm đến tham quan

thưởng ngoạn, nghiên cứu hấp dẫn của đông đảo du khách trong và ngoài nước,

là địa chỉ hành hương, thiện nguyện của đông đảo tăng ni phật tử trong cả nước.

Nhận thức được giá trị của các ngôi chùa, đền, phủ quận Tây Hồ qua công trình

kiến trúc độc đáo hòa quyện đan xen giữa con người với cảnh quan thiên nhiên,

gắn với địa chỉ lịch sử văn hóa và tâm linh đặc sắc, trong đó có rất nhiều ngôi

chùa đã trở thành biểu tượng đặc trưng trong đời sống văn hóa tâm linh quận

41

Tây Hồ như chùa Trấn Quốc, chùa Tảo Sách, chùa Vạn Niên, chùa Võng Thị,

Phủ Tây Hồ, đền Quán Thánh…nên ngành du lịch Tây Hồ đã đầu tư khai thác

giá trị tiềm ẩn của chùa, đền, phủ Tây Hồ trong sự phát triển du lịch. Các công

ty lữ hành quận Tây Hồ đã tập trung phát triển mảng du lịch tâm linh dựa trên

việc khai thác những giá trị đặc sắc tại chùa chiền, đền, phủ Tây Hồ, thực hiện

nhiều tour tham quan khám phá, tìm hiểu nét văn hóa Phật giáo cho du khách

trong và ngoài nước. Đặc biệt các Tour Du lịch thiện nguyện không chỉ thu hút

khách du lịch hành hương trong nước mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của

nhiều tổ chức và du khách quốc tế. Tuy nhiên, do các chùa tại Tây Hồ không

bán vé tham quan, nên rất khó có một con số thống kê chính xác và đầy đủ về số

lượng du khách đi vãn cảnh tự do, đi hành hương hay đi theo tour do các công ty

du lịch tổ chức.

Về lễ hội Phật giáo: Với sự chuẩn bị công phu, tổ chức qui mô và hoành

tráng, nhìn chung Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc 2008 được đánh giá tốt qua

cảm nhận của người dân, khách du lịch, ngành du lịch và các phương tiện thông

tin đại chúng. Đại lễ Phật đản năm 2008, trong khuôn khổ các lễ hội của tuần lễ

Phật đản, các hoạt động lễ hội không chỉ bó hẹp ở chốn cửa thiền, mà được đưa

đến với cộng đồng. Khi tham gia lễ hội người dân và du khách đã cảm nhận

được ý nghĩa của lễ hội Phật giáo trong không khí linh thiêng, trang trọng làm

toát lên giá trị tâm linh to lớn.

Cũng từ Đại lễ Vesak 2008 trở đi, Lễ Phật đản đã được Giáo hội Phật giáo

Hà Nội và các ban ngành liên quan ở quận Tây Hồ luôn quan tâm và nâng tầm lễ

hội, mục đích đưa Lễ hội từ phạm vi của một tôn giáo trở thành lễ hội của quảng

đại quần chúng nhân dân. Từ chỗ chỉ kéo dài trong hai ngày, nay được nâng lên

thành qui mô Tuần lễ Phật đản, trải qua những ngày trong không khí vui tươi,

với nhiều hoạt động cúng dường, nhiều sự kiện đặc sắc được thay đổi qua từng

năm. Hiện nay, lễ Phật đản đã trở thành một đại lễ lớn ở Hà Nội nói chung và

quận Tây Hồ nói riêng đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo

người dân nơi đây cũng như của du khách thập phương. Điển hình như Lễ Phật

đản các năm vừa qua đã thu hút riêng hàng ngàn phật tử tham gia trực tiếp cùng

42

hàng chục ngàn người dân và du khách đến xem và chiêm ngưỡng. Bên cạnh đó,

nội dung của Lễ hội cũng không ngừng được cải tiến để đem lại sức hấp dẫn và

thu hút sự quan tâm của người dân. Điển hình như phần Lễ rước Phật, có năm

rước bằng xe hoa, có năm thay bằng thuyền hoa và có năm là rước bộ. Nhiều

cuộc diễn thuyết và trưng bày triển lãm những đề tài, những tác phẩm liên quan

đến Phật giáo cũng được tăng cường tổ chức tại Trung tâm văn hóa Phật giáo

Tây Hồ. Đồng thời, các chương trình văn nghệ Phật giáo do chính các tăng sinh

và đoàn sinh thực hiện cũng được biểu diễn liên tục và thường xuyên tại một số

ngôi chùa tiêu biểu của Tây Hồ. Phần nghi lễ trong ngày chính hội cũng được

thực hiện trang trọng với sự góp mặt của lễ nhạc Phật giáo đặc trưng nơi đây với

các vũ khúc dâng hoa, các bài tụng, tán, sám... Có thể nói, rất nhiều những giá

trị văn hóa Phật giáo đặc sắc của Hà Nội đã được tái hiện một cách công khai

cho dân chúng và du khách được chiêm ngưỡng mà không làm mất đi sự trang

nghiêm và lễ nghi thành kính. Lễ hội Phật giáo Tây Hồ đã thu hút một lượng

khách hành hương từ các tỉnh khác đến và cả các đoàn phật tử nước ngoài, họ

tham dự lễ hội như chính người dân địa phương với niềm tin tâm linh sâu sắc.

Cũng với tinh thần đó, lễ hội Phật giáo Tây Hồ đã quảng bá hình ảnh của mình

đến với du khách, sự mộ đạo và niềm tin tâm linh hay tinh thần bao dung của

Phật giáo đến với mọi người.

Về ẩm thực chay: Trong số các giá trị du lịch tâm linh Phật giáo Tây Hồ,

có lẽ ẩm thực chay là được khai thác mạnh mẽ nhất và sâu rộng nhất trong hoạt

động du lịch. Bởi ẩm thực chay là một bộ phận quan trọng và tinh túy nằm trong

gia tài ẩm thực Hà Nội nói chung và quận Tây Hồ nói riêng từ lâu đã trở nên nổi

tiếng trong lòng của du khách gần xa. Cũng chỉ có ẩm thực chay đã vượt ra khỏi

khuôn viên của các tự viện để hòa nhập vào trong đời sống thường nhật của cư

dân nơi đây. Người Hà Nội nói chung và người dân Tây Hồ nói riêng hiện nay

cũng có một số người cũng ăn chay vào những dịp lễ như ngày rằm, mùng một,

nhiều người còn ăn chay trường. Nấu món chay thể hiện tài nữ công gia chánh

của người nội trợ Tây Hồ và tiếp đãi bạn bè bằng một bữa cơm chay do chính

tay gia chủ nấu chính là thể hiện tấm lòng hiếu khách của người dân đất thủ đô.

43

Chính vì vậy, ẩm thực chay từ trong các ngôi chùa đã vào đến các gia đình và ra

đến các quán hàng. Từ rất sớm, Tây Hồ đã khai thác lợi thế về ẩm thực chay -

một trong những thương hiệu của du lịch tâm linh Tây Hồ để thu hút đông đảo

du khách. Tất cả tạo nên sắc màu và không gian ẩm thực chay độc đáo theo

chiều dài lịch sử và văn hóa Phật giáo của vùng đất thủ đô, đã mang lại giá trị to

lớn góp phần thu hút khách du lịch.

Có thể nói, ẩm thực chay đã trở thành một trong những hương vị không

thể thiếu trong đời sống của người dân Tây Hồ cũng như khách du lịch. Do đó

mà du lịch tâm linh Tây Hồ càng ngày càng thu hút được đông đảo du khách,

khách du lịch vừa được thưởng thức những món chay mới lạ, vừa được khám

phá những giá trị đặc sắc mà ẩm thực chay Tây Hồ mang lại. Du lịch tâm linh

Tây Hồ càng thu hút khi trong những ngày Tết, những khách sạn, nhà hàng ở

Huế đều có một hệ thống ẩm thực chay - mặn để du khách lựa chọn, tạo điều

kiện cho du khách đón một cái Tết Âm lịch đầm ấm như ở nhà.

Tây Hồ được mệnh danh là vùng đất của chùa chiền, nơi tập trung những

ngôi chùa cổ kính, ẩn tàng những giá trị văn hóa, kiến trúc, cảnh quan đặc sắc

của Hà Nội. Du lịch tâm linh Tây Hồ cần phải được tô điểm những nét sống

động: một chuyến tham quan chùa Tây Hồ, một câu niệm pháp, một bữa ăn chay

thanh tịnh, một chuyến tham quan về làng quê với những bữa ăn dân dã mà du

khách được hòa mình vào trong thiên nhiên, sinh họat dân dã với cộng đồng dân

cư… những dịch vụ du lịch sống động như thế sẽ từng bước giúp cho ngành du

lịch Tây Hồ phát triển một cách toàn diện, mạnh mẽ phong phú. Sự thành công

của những hoạt động khai thác dịch vụ du lịch tâm linh ở Tây Hồ sẽ là bài học

giá trị cho việc khai thác du lịch ở Hà Nội.

Triển thực hiện Kế hoạch số 207/KH-UBND, ngày 11/11/2016 của

UBND TP Hà Nội về phát triển du lịch, quận Tây Hồ đã triển khai nhiều hoạt

động như: Dịch vụ du lịch “Thưởng thức trà sen Quảng An”; dịch vụ du lịch

“Cụm di tích đình, chùa Võng Thị và mô hình làng nghề sản xuất giấy dó” và

thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cùng với đó, quận tập trung cho công tác

tuyên truyền, quảng bá, hợp tác, xúc tiến đầu tư và phát triển thị trường; đào tạo

44

và phát triển nguồn nhân lực; hỗ trợ, đầu tư và nâng cao hiệu quả quản lý nhà

nước về du lịch... Nhờ có vị thế đắc địa cùng cảnh quan thơ mộng, trong nhiều

năm qua, nhất là những năm gần đây, vùng Hồ Tây đã trở thành địa chỉ hấp dẫn

khá nhiều nhà đầu tư đến đầu tư hệ thống nhà hàng, khách sạn. Trong số các

khách sạn trên địa bàn, có nhiều khách sạn lớn, có khả năng tiếp nhận và phục

vụ du khách có nhu cầu cao. Hầu hết các cơ sở hoạt động kinh doanh dịch vụ

lưu trú, dịch vụ lữ hành trên địa bàn quận đều có ý thức chấp hành pháp luật,

thực hiện tốt việc tuyên truyền, phổ biến phòng chống tệ nạn xã hội tại doanh

nghiệp, chấp hành sự quản lý, hướng dẫn của các cơ quan chức năng quản lý về

du lịch.

Công tác đầu tư phát triển và kinh doanh du lịch được quận Tây Hồ chú

trọng, được xã hội hóa rộng rãi, thu hút nhiều nguồn nhân lực, nhiều thành phần

kinh tế tham gia. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đang dần được xây

dựng đồng bộ, tạo điều kiện tăng trưởng các chỉ tiêu phát triển du lịch, đem lại

hiệu quả cao về kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường. Bước đầu thí điểm triển

khai Không gian biểu diễn nghệ thuật, ẩm thực đường phố giai đoạn 1 tại phố

Trịnh Công Sơn đã đem lại sự hài lòng cho người dân địa phương và du khách

tham quan.

Phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương, năm 2019, quận Tây Hồ sẽ

triển khai thực hiện 10 nhiệm vụ trọng tâm phát triển du lịch. Đáng chú ý, quận

tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các sản phẩm du lịch, văn hóa, du lịch tâm linh,

du lịch làng nghề, vui chơi, giải trí... theo hướng phát triển du lịch bền vững, du

lịch vườn hoa, tiểu cảnh đặc sắc, có trách nhiệm với môi trường và xã hội, du

lịch xanh... Xây dựng các điểm dịch vụ du lịch và đề án “Tổ chức không gian

biểu diễn nghệ thuật, ẩm thực đường phố quận Tây Hồ”. Gặp gỡ, đối thoại nhằm

hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân tham gia phát

triển du lịch. Quản lý tốt 15 lễ hội truyền thống trên địa bàn quận đảm bảo trang

trọng, an toàn, tiết kiệm, thu hút được đông đảo người dân địa phương và khách

du lịch...

Quy hoạch phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch tâm linh Hà Nội đến năm

45

2020 xác định rõ đưa du lịch thực sự trở thành nền kinh tế mũi nhọn của Thủ đô,

sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu và có sức cạnh tranh

mạnh. Hà Nội đang tập trung thu hút các nguồn lực phát triển sản phẩm đặc thù,

trong đó có Tây Hồ và khu vực lân cận.

Thành phố Hà Nội đang triển khai xây dựng kế hoạch đầu tư, xây dựng,

cải tạo, chỉnh trang, quản lý, khai thác khu Tây Hồ thành điểm du lịch, văn hóa

tiên tiến, có điều kiện kinh doanh dịch vụ, văn hóa, thể thao du lịch, vui chơi

giải trí và có hệ thống xử lý môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế. Đây được coi

như tín hiệu tốt để khơi dậy các giá trị văn hóa, lịch sử của hồ Tây để biến nơi

này thành điểm đến hấp dẫn.

Du lịch tâm linh mang lại những giá trị trải nghiệm thanh tao cho du

khách, nhận thức và tận hưởng những giá trị về tinh thần giúp cho con người đạt

tới sự cân bằng, cực lạc trong tâm hồn như theo triết lý từ-bi-hỷ-xả của đạo

Phật… Những giá trị ấy có được nhờ du lịch tâm linh và đóng góp quan trọng

vào sự an lạc, hạnh phúc và chất lượng cuộc sống cho dân sinh. Ngoài ra, du

lịch tâm linh đạt tới sự phát triển cân bằng về các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa,

môi trường và đóng góp tích cực vào phát triển bền vững.

Tây Hồ đang trở thành một trong những địa bàn thu hút khách du lịch lớn

nhất của Hà Nội, góp phần đáng kể vào việc hiện thực hóa mục tiêu đón 23,6

triệu lượt khách trong năm 2017 của thành phố, đồng thời, góp phần giúp kinh tế

- xã hội của quận tăng trưởng bền vững.Chỉ riêng trong năm 2019 có khoảng:

217, 413 lượt khách du lịch trong và ngoài nước và việt kiều đến lưu trú trên địa

bàn quận. Tăng 69, 189 lượt so vói năm 2018. Tập trung chủ yếu vào khách

Trung quốc, Nhật bản, Đài loan, Hàn quốc [51].

Ngành Du lịch Thủ đô đang cố gắng tạo nên một không gian văn hóa du

lịch Tây Hồ bằng việc khai thác các sản phẩm du lịch trên mặt hồ như phát triển

dịch vụ thuyền buồm du lịch, trình diễn các loại hình nghệ thuật trên mặt nước

với ánh sáng laser, pháo sáng, pháo hoa... kết hợp tham quan các điểm du lịch

tâm linh bên hồ. Các làng nghề truyền thống xung quanh hồ Tây được kết nối

46

với các điểm du lịch chính tại Tây Hồ.

2.3.2. Những mặt hạn chế

Tây Hồ là một trong những điểm nhấn chính của du lịch tâm linh của Hà

Nội, nhưng nếu so với tổng khách ở Hà Nội, khách du lịch đến Tây Hồ chỉ

chiếm khoảng 25-35%. Điều này chứng tỏ sức hấp dẫn của du lịch tâm linh Tây

Hồ chưa được quảng bá, xúc tiến phù hợp; số lượng điểm đến nhiều nhưng chất

lượng điểm đến chưa được đầu tư cao; sản phẩm du lịch-dịch vụ còn thấp… Tuy

nhiên các loại hình du lịch tâm linh chủ yếu dành cho du khách vẫn chỉ là tham

quan danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử. Chùa chỉ là điểm đến phụ nhằm lấp

đầy thời gian du lịch của khách. Mặc dù Tây Hồ là nơi thờ tự Phật giáo xưa

mang một bề dày về lịch sử văn hóa Phật giáo với những giá trị đặc sắc ít nơi

đâu có được nhưng những chương trình du lịch Phật giáo hiện nay còn hạn chế,

chất lượng điểm đến Phật giáo còn chưa được đầu tư nhiều nên chưa khai thác

được hết giá trị vốn có mà văn hóa Phật Giáo mang lại. Nói cách khác, hiện nay

chùa Tây Hồ giữ một vai trò quan trọng trong các tour tham quan du lịch Hà Nội

tuy nhiên du lịch chùa Huế chỉ còn ở dạng “cưỡi ngựa xem hoa”. Du lịch Tây

Hồ vẫn chưa khai thác hết được giá trị kiến trúc điêu khắc, mới chỉ trình bày

một cách thụ động cho du khách. Chùa Tây Hồ nơi thờ tự linh thiêng luôn rộng

mở đối với mọi người, thế nhưng chỉ vẫn dừng lại ở việc du lịch thưởng ngoạn

cảnh quan, kiến trúc theo kiểu “ăn sẵn” gây lãng phí mà vẫn chưa khai thác

được những ẩn chứa đằng sau mái ngói thâm u, tường rêu cổ kính của những

ngôi chùa ấy là cả một kho tàng văn hóa, lịch sử, tôn giáo đặc sắc của đất và con

người nơi đây. Hệ thống chùa ở Tây Hồ là nguồn tài nguyên du lịch đặc sắc mà

lâu nay chưa được quan tâm đầu tư khai thác đúng mức.

Hiện nay, khách đến Hà Nội nói chung và đến Tây Hồ nói riêng đa phần

chỉ dừng chân, không biết chơi đâu, làm gì, trong khi đó Thủ đô có rất nhiều

tiềm năng du lịch, đặc biệt là du lịch tâm linh. Nếu Tây Hồ có thêm khu vui chơi

giải trí quy mô lớn, thêm các trò chơi mạo hiểm trên mặt nước hoặc thủy cung

cao cấp ở gần những nơi chùa chiền sẽ thu hút khách lưu trú ở Hà Nội và Tây

Hồ lâu hơn. Nếu làm được như vậy, sẽ khắc phục được tình trạng, khách đến Hà

47

Nội nói chung và Tây Hồ nói riêng chỉ là nơi dừng chân sau đó đi Sa Pa, Hạ

Long, Ninh Bình là chính.

Điểm đáng lưu ý nữa là hầu hết nhà hàng chay đều chú trọng đến đối

tượng khách là người dân thành phố Hà Nội nói chung và người dân quận Tây

Hồ nói riêng. Công tác quảng bá, giới thiệu giá trị ẩm thực chay còn hạn chế, du

lịch tâm linh Tây Hồ chưa thực sự quan tâm đầu tư quảng bá để thu hút thêm

lượng khách quốc tế cũng như chưa chú trọng khai thác trong những dịp diễn ra

các lễ hội tại các ngôi chùa Phật giáo. Việc nâng tầm vị thế cho nét văn hóa ẩm

thực chay trong các hoạt động du lịch tâm linh ở Tây Hồ sẽ tạo cơ hội cho việc

thực hiện các tour du lịch ẩm thực, du lịch sinh thái, du lịch chữa bệnh kết hợp

du lịch ẩm thực dưỡng sinh…

Các công ty du lịch vẫn “ngồi tại chỗ”, mà còn hạn chế tìm tòi, khai thác

những nét độc đáo của văn hóa Phật giáo để giới thiệu cho du khách; vẫn theo

“lối mòn” với những tour du lịch cũ quá truyền thống của ngành du lịch Tây Hồ;

các chương trình du lịch còn nghèo nàn về nội dung, vẫn chỉ xoay quanh tham

quan chùa chiền, vãn cảnh, thưởng thức ẩm thực chay. Do đó, hiện trạng du

khách chưa được thỏa mãn trong các tour du lịch một ngày với chương trình

tham quan chùa chiền ngày càng nhiều, họ cảm thấy nhàm chán, gây ra tình

trạng không muốn quay lại với tour tham quan mà họ đã đi.

Trong các tuyến lữ hành, ngoài việc được nghe, nhìn hệ thống nghi lễ một

cách thụ động thì du khách chưa được hòa nhập vào không gian nghi lễ, chưa

được nghe chính những người diễn xướng nói về những điều vi diệu của nghi lễ,

nội dung của ca từ, những nét đặc trưng của các bài bản, giá trị nghệ thuật của

âm nhạc, tác dụng về mặt tâm linh mà lễ nhạc mang lại.

Mặc dù văn hóa Phật giáo ở Hà Nội nói chung và quận Tây Hồ nói riêng

có nhiều tiềm năng nhưng chưa được quan tâm đầu tư và khai thác đúng mức.

Giá trị tài nguyên văn hóa Phật giáo của quận Tây Hồ tương đối đặc sắc nhưng

chỉ mới khai thác được một phần nhỏ phục vụ du lịch, chủ yếu tập trung ở loại

hình du lịch tham quan, vãn cảnh chùa chiền. Chúng ta đều biết văn hóa Phật

giáo có một ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống xã hội của người dân Hà Nội nói

48

chung và của quận Tây Hồ nói riêng, là một tầng văn hóa nội tại ẩn tàng trong

cả đời sống vật chất và tâm linh vì thế thật là dễ hiểu khi khách du lịch ai cũng

có mong muốn được tiếp cận và thưởng thức văn hóa Phật giáo Tây Hồ đúng

tầm với giá trị di sản mà nó đang sở hữu.

Trên thực tế, còn có công trình phục vụ du lịch tâm linh tại quận Tây Hồ

chủ yếu chỉ gây ấn tượng mạnh ở cái tên "có vẻ" huyền bí, yếu tố lạ, tính hoành

tráng, độ choáng ngợp hơn là giá trị tinh thần mang ý nghĩa tâm linh. Và đương

nhiên, khi điểm du lịch tâm linh hướng đến mục tiêu lợi nhuận thì những chuyện

như thu phí, đặt hòm công đức dày đặc, ra giá cúng, khấn thuê, hóa sao giải

hạn... trở thành chuyện thường tình. Nếu tình trạng này còn tiếp diễn, hậu quả sẽ

không chỉ là nguy cơ phá vỡ cảnh quan vốn hài hòa của di tích, mà còn góp

phần tạo nên tình trạng ngày càng thương mại hóa đời sống tâm linh, xúc phạm

niềm tin tín ngưỡng của cộng đồng.

Song có "cầu" thì mới có "cung". Không khó để nhận diện hiện tượng trục

lợi tâm linh hiện nay còn xuất phát từ một bộ phận không nhỏ du khách, khi tìm

đến các điểm di tích linh thiêng chỉ nhằm mục đích cầu xin danh lợi, thậm chí

xin triệt hạ đối thủ trong làm ăn, kinh doanh. Cũng từ đây xuất hiện những biểu

hiện mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh.

Một trong những hạn chế cho thực trạng nêu trên là năng lực cung ứng

các hoạt động và dịch vụ du lịch cho khách du lịch tâm linh chưa thật sự tinh tế

và hấp dẫn. Bên cạnh đó là do thói quen tiêu dùng của khách du lịch tâm linh

chủ yếu chi trả cho việc sắm lễ, việc quan tâm các dịch vụ khác còn hạn chế.

Vào mùa lễ hội, số lượng du khách xuất hiện đông đảo, nếu tổ chức, quản lý và

triển khai các hoạt động du lịch không khéo léo sẽ là cơ hội làm nảy sinh các

hiện tượng chèo kéo, trộm cắp, mất an ninh trật tự, mê tín dị đoan từ đó ảnh

hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của địa phương trong tầm mắt du khách gần

xa. Vấn đề sức chứa tại các điểm du lịch tâm linh vào mùa cao điểm cũng là vấn

49

đề nan giải cho việc quản lý và phát triển du lịch hiên nay.

*Tiểu kết chƣơng 2:

Với bề dày về mặt thời gian, phong phú về số lượng các ngôi cổ tự, sự đa

dạng về phong cách kiến trúc cùng với những nét độc đáo ở cảnh quan, cũng

như truyền thống nhập thế giúp đời của Phật giáo Tây Hồ kết hợp với những ưu

thế về di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh - đây là những yếu tố vô cùng thuận

lợi cho việc phát triển kinh tế du lịch nói chung và du lịch văn hóa Phật giáo nói

riêng.

Bởi vì văn hóa Tây Hồ là một giá trị mới trong dòng chảy văn hóa Việt

được khởi nguồn từ văn hóa Thăng Long, là thành quả của văn hóa từ nhiều

miền đất nước hội tụ về tạo ra một giá trị mới, một sự biến đổi về chất, trong đó

có sự tiếp thu những tinh hoa, những nét ưu việt của nền văn hóa bản địa. Văn

hóa Phật giáo là một hệ giá trị có khả năng tạo nên những lực hút thúc đẩy du

lịch phát triển, nhất là du lịch văn hóa - tâm linh tại Tây Hồ. Vấn đề đáng quan

tâm nhất là dòng văn hóa Phật giáo đang chảy trong quận Tây Hồ vẫn chưa được

ngành du lịch và du khách cảm nhận được hết các giá trị như nó vốn có. Đó là

điều mà giới nghiên cứu và ngành du lịch phải tiếp tục khám phá, thấu hiểu

50

tường tận để khai thác tốt hơn.

CHƢƠNG 3.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHAI THÁC GIÁ

TRỊ VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DU

LỊCH TÂM LINH Ở QUẬN TÂY HỒ HÀ NỘI HIỆN NAY

3.1. Những vấn đề đặt ra đối với việc khai thác giá trị văn hóa Phật

giáo phục vụ du lịch tâm linh tại Quận Tây Hồ Hà Nội.

3.1.1. Đối với quản lý nhà nước

Quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với hoạt động phát

triển du lịch tâm linh nói riêng là công việc bình thường của mọi nhà nước,

trong đó có Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong quá trình quản lý nhà nước tại quận Tây Hồ đối với hoạt động phát

triển du lịch tâm linh có một số quan điểm cho rằng, hoạt động du lịch tâm linh

là hoạt động mang tính nội bộ của tôn giáo, nhà nước không cần phải quản lý,

nếu có sự quản lý của nhà nước thì tự do tôn giáo sẽ không còn. Nhưng thực tế

hiện nay cho thấy, ở bất cứ quốc gia nào, nhà nước nào, ở đâu có hoạt động tôn

giáo thì ở đó có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên ở mỗi quốc gia đều có sự

điều chỉnh khác nhau, nếu vì trật tự an toàn xã hội, vì lợi ích của quốc gia, dân

tộc thì sự quản lý, điều chỉnh của nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là cần

thiết.

Yêu cầu của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo để phát triển du

lịch tâm linh không chỉ xuất phát từ ý chí của nhà nước mà còn xuất phát từ thực

tế khách quan của sự hình thành, tồn tại, phát triển và những ảnh hưởng của tôn

giáo trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội,

đồng thời là thực thể xã hội, tôn giáo luôn biến động, phản ánh sự biến đổi của

lịch sử nhân loại. Tôn giáo ra đời từ những tiền đề kinh tế-xã hội, từ nguồn gốc

tâm lý và nhận thức, trong đó nguồn gốc kinh tế- xã hội giữ vai trò quyết định.

Khi những nguồn gốc làm phát sinh tôn giáo chưa được giải quyết, tôn giáo vẫn

còn tồn tại. Thừa nhận những thực tế khách quan này, một mặt nhà nước cần

tăng cường quản lý các hoạt động của tôn giáo để tôn giáo hoạt động trong

51

khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật theo phương châm “tốt đời, đẹp đạo”,

mặt khác cần tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân

dân.

Vì vậy, cần phải đảm bảo được các yếu tố sau để phát triển du lịch tâm

linh tại Tây Hồ, Hà Nội:

Thứ nhất, cần đảm bảo mọi du khách đến tham quan cần có sự bình đẳng

giống nhau,

Thứ hai, cần phải có sự thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá

trị văn hóa,

Thứ ba, cần đảm bảo sự thống nhất, hài hòa lợi ích cá nhân, cộng đồng và

lợi ích quốc gia, xã hội.

Thứ tư, xây dựng chiến lược, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm

thuộc lĩnh vực tôn giáo để đảm bảo việc du lịch tâm linh tại đây như:

-Ban hành các văn bản qui phạm pháp luật đối với hoạt động du lịch tâm linh;

- Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với hoạt động du lịch tâm linh;

- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với hoạt động du lịch tâm

linh;

- Qui định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch tâm

linh;

- Qui định về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác

quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch tâm linh;

- Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức làm công tác tôn giáo để phát triển du lịch tâm linh;

- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp

luật về hoạt động tôn giáo để phát triển du lịch tâm linh.

Tất cả những công việc trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, để làm tốt

công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo để phát triển du lịch tâm

linh tại quận Tây Hồ cần chú trọng thực hiện tốt tất cả các công việc này.

Ngoài ra, cần kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về du lịch và

nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý trên địa bàn tỉnh để tăng cường hiệu quả

52

công tác quản lý phát triển du lịch tâm linh. Tiếp tục duy trì và phát triển các

nghi lễ sinh hoạt tâm linh có ý nghĩa tích cực, nghiên cứu sưu tầm, chọn lọc

phục dựng và phát triển các nghi lễ truyền thống có tác dụng tích cực tới nhận

thức của người dân và du khách.

3.1.2. Đối với các chùa

Hiện nay do sự phát triển kinh tế của đất nước, nên đời sống tinh thần của

người dân được cải thiện, vì vậy họ có điều kiện tu bổ sửa sang lại những công

trình kiến trúc Phật giáo đặc sắc, góp phần tôn vinh những giá trị văn hóa tinh

thần quý báu. Song để quá trình đó thực thi có hiệu quả, các cơ quan chức năng

cần có định hướng rõ ràng để việc tu bổ, tôn tạo đó vừa giữ được giá trị truyền

thống, vừa mang hơi hướng của thời đại. Đặc biệt, cần bảo lưu các đặc điểm

kiến trúc truyền thống, tránh lai căng pha tạp, luôn tôn trọng các giá trị đạo đức

tốt đẹp của Phật giáo Tây Hồ đóng góp cho đời sống xã hội.

Mặc dù, khác với những loại hình di sản kiến trúc khác của Hà Nội, ngôi

chùa là một loại hình di sản sống chứ không đơn thuần là một bảo tàng tín

ngưỡng, nên sự vận động của nó trong xã hội hiện đại là xu thế dù muốn hay

không chúng ta buộc vẫn phải đối diện. Tuy nhiên, nếu để nó “sống” một cách

tự do, không quy tắc ràng buộc thì di sản kiến trúc đặc thù như chùa Hà Nội nói

chung và quận Tây Hồ nói riêng sẽ không còn là chính nó. Chính vì thế, vẫn rất

cần sự can thiệp của một bộ phận, bằng những nghiên cứu của mình, đúc kết

thành những tiêu chí làm nên hình ảnh mái chùa trong lòng người Phật tử, lẫn du

khách. Những tiêu chí này sẽ là bắt buộc đối với những ngôi chùa xây mới, hoặc

cần phải cải tạo, nâng cấp - chỉ riêng về mặt đặc trưng kiến trúc. Nếu được như

thế, dù tuổi đời không lớn, dù tồn tại dưới bất cứ “cơ thể” nào, hay quy mô nào,

hình ảnh ngôi chùa vẫn mãi là một phần của di sản Hà Nội: một di sản đặc biệt

trong lòng một di sản đặc biệt. Và đấy chính là một trong những thế mạnh cần

lưu tâm trong chiến lược phát triển du lịch của Hà Nội.

Xây dựng các chuyên tour du lịch đến các chùa tại Tây Hồ là một thực thể

sống động và phát triển, chứa đựng những dòng chảy văn hóa đặc sắc nối quá

khứ với hiện tại, nối con người với văn hóa tâm linh... Đến với chùa, du khách

53

không chỉ được vãn cảnh vườn thiền, thưởng thức ẩm thực chay Huế… mà còn

được đắm mình trong dòng lịch sử, văn hóa phật giáo đặc trưng của vùng.

Mỗi ngôi chùa không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo hòa quyện

giữa con người với cảnh quan thiên nhiên, mà còn là một địa chỉ lịch sử, văn

hóa, tâm linh đặc sắc. Nhiều ngôi chùa đã trở thành biểu tượng đặc trưng trong

đời sống văn hóa tâm Hà Nội nói chung và quận Tây Hồ nói riêng. Ví như chùa

trân Quốc, chùa/ Tảo Sách, chùa Vạn Niên, Phủ Tây Hồ….

Thông qua việc khảo sát thực trạng du lịch hiện nay, nhu cầu của nhiều

đối tượng du khách cũng như bản thân điều kiện cụ thể tại các ngôi chùa tại đây,

chúng ta có thể xây dựng một số chuyên tour du lịch đến các ngôi chùa nhằm

nâng cao khả năng khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo Tây Hồ phục vụ phát

triển du lịch.

3.1.3. Đối với khách du lịch

Du lịch hành hương là một loại hình du lịch cho những ai thực sự muốn

hướng thượng, giải tỏa mọi căng thẳng, chuyển hóa mọi phiền não trong thân

tâm thông qua chuyến hành hương đến những địa điểm thiêng liêng mà người

hành hương mong muốn. Do đó, tour du lịch hành hương không những hoàn

thiện về tâm linh mà nhu cầu vật chất cũng phải được đảm bảo một cách tốt

nhất, vì thân không cực khổ mới dẫn đến tâm an lạc.

Về cơ bản, có thể chia du lịch hành hương thành hai loại dựa trên yếu tố

nhà tổ chức là công ty du lịch hay do chính các chùa đứng ra tổ chức. Đối với

loại hình do công ty lữ hành tổ chức lại có thể chia thành hai dạng: một là hành

hương theo yêu cầu và hai là hành hương theo tour. Tour theo yêu cầu sẽ do

khách hàng tự chọn địa điểm, thời gian dừng lại các địa điểm hành hương, đơn

vị lữ hành sẽ đảm bảo về đi lại, dịch vụ ăn uống, nghỉ ngơi… Còn hành hương

theo tour có sẵn sẽ đưa khách đến các địa điểm nổi tiếng, thường là theo dạng đi

hàng loạt chùa, tổ chức làm việc thiện, thả chim phóng sinh… Loại tour này

cũng có các loại hình đi kèm thêm như ẩm thực chay, trà đạo, thuyết pháp…

Bởi vậy, đối với các du khách đến tham quan và du lịch tâm linh cần

nghiêm túc chấp hành các quy định của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; lưu

54

tâm bài trừ các hành vi mê tín liên quan đến các ngôi chùa; có ý thức bảo vệ tài

sản cơ sở thờ tự và các hiện vật trong cơ sở thờ tự.

3.2. Một số giải pháp và kiến nghị phát huy giá trị văn hóa Phật giáo

phục vụ du lịch tâm linh tại Quận Tây Hồ, Hà Nội.

3.2.1. Một số giải pháp

3.2.1.1.Định hướng bảo tồn, và khai thác giá trị văn hóa Phật giáo Hà

Nội

Hiện nay do sự phát triển kinh tế của đất nước, nên đời sống tinh thần của

người dân được cải thiện, vì vậy họ có điều kiện tu bổ sửa sang lại những công

trình kiến trúc Phật giáo đặc sắc, góp phần tôn vinh những giá trị văn hóa tinh

thần quý báu. Song để quá trình đó thực thi có hiệu quả, các cơ quan chức năng

cần có định hướng rõ ràng để việc tu bổ, tôn tạo đó vừa giữ được giá trị truyền

thống, vừa mang hơi hướng của thời đại. Đặc biệt, cần bảo lưu các đặc điểm

kiến trúc truyền thống, tránh lai căng pha tạp, luôn tôn trọng các giá trị đạo đức

tốt đẹp của Phật giáo Tây Hồ, Hà Nội đóng góp cho đời sống xã hội.

Để có thể phát huy được giá trị của các ngôi chùa tại đây, chính quyềnHà

Nội nói chung và chính quyền quận Tây Hồ nói riêng cần có kế hoạch bảo vệ,

bảoquản di tích và di vật trong di tích này một cách thường xuyên. Các di vật

trong chùa cần có chế độ bảo quản riêng. Chẳng hạn, các đồ bằng gỗ cần trưng

bày nơi khô thoáng, tránh mối mọt xâm hại. Hậu cung là nơi khuất kín, ít ánh

sáng, cần lưu ý kê cao, quét dọn thường xuyên. Các đồ bằng đồng tuy có tuổi

thọ cao hơn, nhưng vẫn có nguy cơ bị hư hại, do vậy cần được lưu ý tránh ẩm

mốc, nhất là tránh nước vôi và xi măng.

Đối với các bộ phận kiến trúc cốt lõi tạo nên giá trị của các ngôi chùa như

phần mái, phần nền, bộ khung,... cần có các phương án chi tiết cho từng hạng

mục.Chẳng hạn, do mái chùa làm bằng ngói nên dễ bị xô dột, cần trèo lên quét

dọn và kiểm tra định kỳ, thường xuyên vệ sinh các máng, họng thoát nước, diệt

ngay các ổ mối mọt nếu có. Nền chùa thấp dễ bị hấp hơi, nên thường

xuyên quét dọn lau sàn để tránh hút ẩm làm ảnh hưởng tới các cấu kiện khác. Bộ

khung gỗ của chùa do mới làm nên rất tốt, mặc dù vậy cũng nên kiểm tra thường

55

xuyên để phát hiện sớm dấu hiệu hư hỏng.

Cùng với những giải pháp trên, chính quyền Hà Nội và quậ Tây Hồ cần

tăng cường quản lý di vật trong các ngôi chùa tại quận Tây Hồ. Trên cơ sở các

văn bản về quản lý và bảo tồn di tích, đặc biệt là Luật Di sản Văn hóa, các cơ

quan của thành phố Hà Nội và quận Tây Hồ cần xây dựng quy chế và cơ chế bảo

vệ, bảo quản các ngôi chùa tại quận Tây Hồ, tránh tình trạng khoán trắng cho

thủ trì hay chính quyền địa phương.

Nhiều học giả, nhà nghiên cứu, nhà tu hành cũng thấy đây là vấn đề cần

phải khắc phục để văn hóa Phật giáo đúng với giá trị văn hóa hàng nghìn năm

qua của dân tộc. Tuy nhiên, những tồn tại ấy cần có thời gian, sự quan tâm vào

cuộc của các cấp, ngành, Giáo hội Phật giáo các cấp và đông đảo tăng ni, phật

tử. Thông qua những việc làm cụ thể của Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói

chung và Giáo hội Phật giáo Hà Nội nói riêng có thể phát động xu hướng Việt

hóa kinh điển, nội dung triết lý Phật giáo, làm sao càng dễ đọc, dễ hiểu, phổ biến

được nhiều người càng tốt. Đưa ra các quy định mới về việc trùng tu, xây mới

chùa thì ngôn ngữ thể hiện như tên chùa, câu đối... nên dùng tiếng Việt để mọi

người cùng đọc được và hiểu nội dung khi đến thăm chùa, lễ Phật. Hay đối với

kiến trúc, gần đây nhiều nơi phấn đấu để đạt kỷ lục chùa to nhất, tượng Phật lớn

nhất... nhưng xét thấy điều đó là không cần thiết. Thay vì thế, chúng ta có thể

đưa ra những quy định, quy phạm, thống nhất về các kiểu dáng, khuôn mẫu điển

hình cho các hệ phái, qua đó sử dụng họa tiết, hoa văn đặc trưng cho văn hóa

vùng miền, thời kỳ lịch sử... để chùa là nơi lưu giữ hồn dân tộc. Nhiều người

cho rằng, pháp phục của nhà tu hành khi chúng ta lầm tưởng với các quốc gia

lân cận, đó cũng chỉ là thói quen trong sinh hoạt hàng ngày nên cần thiết có thể

tham khảo ý kiến xã hội, tổ chức các cuộc thi sáng tác mẫu cho phù hợp với

người Việt, văn hóa và phong tục tập quán nhiều đời nay của chúng ta.

Có thể nói, loại hình di sản và việc nhận diện đặc trung di sản văn hóa

Phật giáo Việt Nam cũng như của Hà Nội đóng vai trò, giá trị trong hoạt động

tôn giáo, tín ngưỡng và đời sống văn hóa xã hội nên việc duy trì, bảo tồn và phát

huy giá trị văn hóa Phật giáo là đặc biệt cần thiết.

56

Trong quá khứ, Phật giáo đã gắn chặt với dân tộc trong sự nghiệp dựng

nước và giữ nước, thông qua những việc làm quý báu, đẹp đẽ của đông đảo tăng,

ni, phật tử. Đạo Phật ở Hà Nội mang màu sắc dân tộc Việt Nam rõ rệt. Có thể

nói rằng, Phật giáo Hà Nội đã góp phần làm sáng ngời lý tưởng và trưởng thành

cùng dân tộc. Với những ý nghĩa đó, việc nhìn nhận đúng giá trị di sản văn hóa

Phật giáo, cũng như văn hóa Phật giáo nói chung là điều rất cần thiết. Đó cũng

là cơ sở đánh giá giá trị, để bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp, mang đậm

bản sắc của văn hóa Phật giáo hiện nay. Vấn đề phân cấp quản lý cần thực hiện

có khoa học, tránh tình trạng chồng chéo, cuối cùng không ai chịu trách nhiệm

trong quá trình tu bổ, tài chính ngân sách chi phí cho công trình, đến hoang phế.

Trao đổi về vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Phập giáo, nhiều

học giả, nhà nghiên cứu đã nhận định với vai trò là một hình thái ý thức xã hội,

Phật giáo có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối

sống và góp phần hình thành đặc trưng, bản sắc văn hóa dân tộc. Văn hóa Phật

giáo Hà Nội là một thành tố quan trọng trong chỉnh thể văn hóa dân tộc Việt

Nam, giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam. Do đó, muốn bảo vệ và

phát huy giá trị văn hóa Phật giáo rất cần có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực

bảo tồn di sản mà trước hết là cho tăng ni, phật tử. Những người thực hành đạo

Phật chẳng những cần nắm vững giáo lý đạo Phật, biết cách hướng dẫn tu tập

cho phật tử mà còn phải được đào tạo đủ năng lực làm lành mạnh hóa các sinh

hoạt Phật giáo.

Phật giáo du nhập vào Việt Nam đã giao thoa và dung hòa với các tập tục

địa phương, với các thần linh bản địa có trước, làm cho Phật giáo Việt Nam

mang nhiều sắc thái, có mặt tích cực và cả mặt tiêu cực. Nên việc phân biệt rõ

ràng rồi lựa chọn để bảo vệ những giá trị văn hóa Phật giáo đích thực và các yếu

tố tích cực đã tồn tại là điều rất cần thiết. Như chúng ta đã biết, việc cúng

dường, công đức của phật tử lên Tam bảo là việc làm thiện tâm hữu ích, là hỗ trợ

cho tăng ni có điều kiện sinh hoạt để làm các công tác phật sự, hoằng dương

Phật pháp, hướng dẫn phật tử tu tập theo đúng giáo lý của Phật, qua đó có lối

sống lành mạnh, ngoài ra những công đức ấy còn được dùng để tu tạo ngôi chùa,

57

góp phần bảo vệ và phát triển văn hóa Phật giáo. Phát triển văn hóa Phật giáo

đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó tăng, ni phải là tấm gương đạo đức về sự tu tập

nghiêm túc cho phật tử noi theo. Từ chỗ tin vào sự hướng dẫn đúng đắn của tặng

ni, Phật tử sẽ gắn bó với ngôi chùa, một lòng hướng theo Phật pháp, thương yêu

đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong tu tập cũng như trong đời sống.Những buổi lễ

truyền thống Phật giáo như tết Nguyên Đán, Lễ Phật Đản, Lễ Vu Lan, các buổi

lễ tưởng niệm quý Hoà Thượng có công trong Phật giáo... phải được sử dụng

những nét nhạc cổ điển truyền thống, gạn lọc những nét nhạc ngoại lai, và phải

nghiên cứu kỹ có nên chăng cử xướng dòng nhạc này nơi Điện Phật trong những

buổi lễ truyền thống.

3.2.1.2.Giải pháp về công tác tổ chức, quản lý

Đội ngũ cán bộ chính quyền các cấp, các ngành thành Phố Hà Nội và

dânquận Tây Hồ cần được nâng cao nhận thức về chính sách của Đảng và Nhà

nước đối với tôn giáo và văn hóa. Ban Tổ chức lễ hội truyền thống quận Tây Hồ

cần có sự quản lý toàn diện cả về nội dung và cách thức tiến hành cả phần lễ lẫn

phần hội; thường xuyên báo cáo thu chi tài chính một cách minh bạch, công

khai. Người dân quận Tây Hồ cần nghiêm túc chấp hành các quy định của Nhà

nước về tín ngưỡng, tôn giáo; lưu tâm bài trừ các hành vi mê tín liên quan đến

các việc lễ bái và lễ hội truyền thống; có ý thức bảo vệ tài sản cơ sở thờ tự và

các hiện vật trong cơ sở thờ tự. Nhằm giáo dục cho người dân nơi đây và khách

du lịch hiểu được giá trị của các ngôi chùa cũng như truyền thống lịch sử địa

phương, các cấp chính quyền cần tổ chức nhiều hoạt động văn hóa tại các ngôi

chùa nơi đây.

Việc tổ chức hoạt động văn hóa tại đình sẽ góp phần bảo lưu các giá trị

truyền thống, lịch sử địa phương, tăng cường cố kết cộng đồng và làm giàu thêm

truyền thống tốt đẹp “uống nước nhớ nguồn”.

Cán bộ địa phương và nhân dân quận Tây Hồ cần có những biện pháp tích

cực quảng bá ngôi đình và lễ hội truyền thống, cũng như những nét đẹp khác

liên quan đến việc du lịch tâm linh của địa phương này bằng cách: cử người có

chuyên môn và tâm huyết nghiên cứu sâu sắc và hệ thống rồi xuất bản thành

58

những ấn phẩm khoa học ở nhiều mức độ khác nhau về tín ngưỡng thờ Phật và

du lịch tâm linh tại đây; cung cấp thông tin và hình ảnh sinh động lien quan đến

các ngôi chùa và lễ hội truyền thống tại địa phương lên các phương tiện thông

tin đại chúng; thường xuyên phát tin bài liên quan đến tín ngưỡng thờ phật và

các giá trị của du lịch tâm linh trên hệ thống truyền thanh, nhất là những ngày

cuối tuần, ngày nghỉ lễ hoặc dịp lễ tiết của địa phương.

Muốn thực hiện tốt các mục tiêu đề ra thì công tác quy hoạch, xây dựng

và kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về các hoạt động du

lịch tâm linh tại đại bàn Hà Nội và quận Tây Hồ. Trước mắt, thực hiện việc bố

trí cán bộ, công chức cơ sở có năng lực, có trình độ chuyên môn để tham mưu

về công tác này tại Hà Nội. Tiến tới sự đồng bộ về năng lực và trình độ của cán

bộ, công chức quản lý nhà nước về du lịch tâm linh các giá trị Phật giáo tại quận

Tây Hồ.

3.2.1.3. Giải pháp về xây dựng, quảng bá các chuyên tour du lịch đến

chùa

Để có thể tổ chức thành công một tour du lịch hành hương ở quận, nên

xem xét các yếu tố như:

+ Về địa điểm: nên chọn chùa có lịch sử phát triển lâu dài và thăng trầm

cùng lịch sử Hà Nội cũng như lịch sử Phật nơi đây; Kiến trúc của chùa hiện nay

là khuôn mẫu cho nhiều ngôi chùa khác ở Tây Hồ; với vị thế “rốn rồng” của Hà

Nội nên tại đây cũng thường diễn ra các đại lễ lớn của Phật giáo kinh thành.

+ Về hình thức nhà tổ chức: Các công ty du lịch nên có kế hoạch kết hợp

với nhà chùa để đưa du khách tham dự tour du lịch hành hương này, công ty sẽ

lo về khâu tổ chức cơ sở vật chất cho chuyến đi, còn các nhà sư trong chùa sẽ

đóng vai trò thuyết minh và hướng đạo cho du khách trong suốt thời gian tham

gia các hoạt động ở chùa.

+ Về đối tượng khách: Nên hướng tới các đối tượng du khách là khách

quốc tế và khách nội địa đến từ các tỉnh thành khác nhau trong cả nước.

+ Về thời điểm tổ chức: Có thể tổ chức vào những ngày đại lễ lớn của

Phật giáo như Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan, Lễ vía Phật A di đà (rằm tháng giêng)...

59

+ Về nội dung chương trình Tour: xây dựng một chuỗi các hoạt động cho

du khách để du khách có được những trải nghiệm tốt nhất của một chuyến hành

hương như tham quan vãn cảnh, thưởng thức ẩm thực chay, nghe thuyết pháp,

cùng nhau ngồi thiền và nếu có thể sẽ được hòa mình trong không khí lễ hội và

được tìm hiểu trực tiếp về các thời khóa lễ nghi và nghệ thuật âm nhạc Phật

giáo.

Công tác đầu tư phát triển và kinh doanh du lịch được quận Tây Hồ chú

trọng, được xã hội hóa rộng rãi, thu hút nhiều nguồn nhân lực, nhiều thành phần

dần được xây dựng đồng bộ, tạo điều kiện tăng trưởng các chỉ tiêu phát triển du

lịch kinh tế tham gia. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đang, đem lại hiệu

quả cao về kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường. Bước đầu thí điểm triển khai

Không gian biểu diễn nghệ thuật, ẩm thực đường phố giai đoạn 1 tại phố Trịnh

Công Sơn đã đem lại sự hài lòng cho người dân địa phương và du khách tham

quan.

3.2.1.4. Nâng tầm lễ hội và tăng cường khai thác giá trị văn hóa Phật

giáo trong các lễ hội Phật giáo tại Quận Tây Hồ Hà Nội

Trong xu thế của xã hội hiện đại, nhu cầu tâm linh của con người luôn

được đặt ra và chú trọng nhiều hơn, và hình thức du lịch tâm linh hay du lịch

hành hương vốn đã có từ lâu, nay lại được đặt ra, đồng thời được gắn liền với lễ

hội và lấy nó như là một hướng chiến lược quan trọng để phát triển du lịch. Cho

nên, phát triển du lịch gắn liền lễ hội Phật giáo với Hà Nội là một hướng khai

thác giá trị văn hóa Phật giáo với tiềm năng phát triển du lịch tâm linh hấp dẫn

và đa dạng, đồng thời qua đó, cũng cho thấy nhiều vấn đề đã, đang đặt ra nhằm

bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Phật giáo Hà Nội trước

những tác động của xu thế xã hội, cũng như trong mối quan hệ gắn kết: văn hóa

- du lịch hay lễ hội Phật giáo - du lịch tâm linh trong bối cảnh xã hội đương đại.

Mặc dù có nhiều phương thức khai thác khác nhau, điều này có thể thực hiện

được bởi Hà Nội là vùng đất có tinh thần Phật giáo thấm đượm trong các sinh

hoạt của con người nơi đây với niềm tin tâm linh chi phối mạnh mẽ nên các lễ

hội diễn ra đều có sự tự nguyện của mỗi người dân dù họ là tín đồ hay không

60

phải tín đồ khi tham gia vào lễ hội. Hà Nội có những Lễ hội Phật giáo quan

trọng có thể chọn làm điểm nhấn để thu hút khách du lịch đến và tìm hiểu về

những giá trị văn hóa Phật giáo Hà Nội, những năm qua đều đã thu hút một

lượng khách hành hương từ các tỉnh khác đến và cả các đoàn phật tử nước

ngoài, họ tham dự lễ hội như chính người dân địa phương với niềm tin tâm linh

sâu sắc. Cũng với tinh thần đó, lễ hội Phật giáo Hà Nội đã quảng bá hình ảnh

của mình đến với du khách, sự mộ đạo và niềm tin tâm linh hay tinh thần bao

dung của Phật giáo đến với mọi người. Cái hay và hiệu quả kinh tế từ việc phát

triển du lịch tâm linh/hành hương trong hệ thống lễ hội truyền thống của dân tộc

Việt đang ngày được khẳng định một cách chắc chắn. Do đó, hướng khai thác du

lịch tâm linh là một trong những hướng khai thác lễ hội Phật giáo Huế khá thuận

tiện và hiệu quả. Bởi vì thời gian, chương trình thực hiện lễ hội đã được ấn định

rõ ràng (mặc dù ở các nơi khác Phật giáo cũng tổ chức các ngày lễ vía quan

trọng này) và các giá trị văn hóa đặc trưng được thể hiện qua lễ hội chính là sức

hút mọi người đến với lễ hội Phật giáo Hà Nội.

Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả khai thác những kễ hội này trong hoạt

động du lịch, không đơn thuần chỉ để cho du khách hòa vào dòng người đi xem

lễ, hay đến chùa chiêm bái thắp hương mà quan trọng hơn cả là tạo cho họ

không gian để có thể cảm nhận cái hay, cái đẹp, để có thể thẩm thấu những giá

trị tinh thần tâm linh sâu sắc của văn hóa và nghệ thuật Phật giáo Hà Nội.

Trong các tuyến lữ hành, ngoài việc được nghe, nhìn hệ thống nghi lễ vừa

đề cập một cách thụ động, chúng ta cũng nên nghĩ đến một tuyến du lịch khác

mà du khách được trực tiếp tham gia hành lễ một cách chính thức vào nghi lễ

của Phật giáo Hà Nội, tất nhiên điều đó phải được thỏa thuận và có sự nhất trí

của nhà chùa trong một nghi lễ cụ thể. Ở đó, trước khi được hòa nhập vào không

gian nghi lễ, du khách có thể được nghe chính những người diễn xướng nói về

những điều vi diệu của nghi lễ, nội dung của ca từ, những nét đặc trưng của các

bài bản, giá trị nghệ thuật của âm nhạc, tác dụng về mặt tâm linh mà lễ nhạc

mang lại. Có thể các công ty lữ hành, khai thác kết hợp thưởng thức lễ nhạc Phật

giáo Hà Nội với các loại hình du lịch như: tham quan, chiêm bái, kỳ nguyện, ẩm

61

thực... trong một tuyến du lịch Phật giáo Hà Nội mà lễ nhạc như một điểm nhấn

thú vị.

3.2.2. Khuyến nghị

Căn cứ vào việc nghiên cứu tình hình thực trạng khai thác giá trị văn hóa

Phật giáo để phát triển du lịch tâm linh của quận Tây Hồ và để khắc phục những

hạn chế trong việc trong phát triển du linh gắn với văn hóa Phật giáo chúng tôi

đưa ra một số khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, Đối với quận Tây Hồ thì cần kết hợp với Sở Du lịch thực hiện

công tác phát triển du lịch như sau:

Quảng bá, tuyên truyền các sản phẩm du lịch tâm linh đặc thù và các

tuyến du lịch tâm linh đặc thù.

Tổ chức hoặc tham gia các buổi hội thảo, các sự kiện văn hóa, tuần lễ du

lịch, các lễ hội mang tính quốc tế nhằm thu hút sự quan tâm của các nhà chuyên

môn, các doanh nghiệp lữ hành, khách du lịch trong và ngoài nước đến tham dự.

Sưu tập, biên soạn và in ấn các ấn phẩm, tài liệu, sổ tay du lịch, các đoạn

phim tư liệu giới thiệu về các khu-điểm du lịch tâm linh nổi tiếng của vùng. Đưa

các đoạn phim tư liệu đó lên các kênh truyền hình trong nước và Kiều bào ở

nước ngoài.Viết các bài giới thiệu điểm đến du lịch tâm linh của khu vực trên

các tờ báo có uy tín. Các ấn phẩm, tài liệu sổ tay du lịch nên để ở chế độ song

ngữ để cung cấp thông tin cho cả du khách nước ngoài.

Tại các khu-điểm du lịch tâm linh trọng điểm cần xây dựng các trung tâm,

quầy thông tin về du lịch tâm linh để cung cấp thêm các dữ liệu cho du khách

tham quan.

Tại mỗi khu du lịch, khu di tích cần có những biển chỉ dẫn, biển báo cụ

thể bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh...

Hợp tác, liên kết với các đại lý, công tu du lịch trong cả nước để thông

qua đó giới thiệu, quảng bá hình ảnh du lịch tâm linh của khu vực.

Đầu tư, hỗ trợ các cơ sở thờ tự để cải tạo, tu bổ, sửa chữa các công trình

và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp du lịch để quảng bá những điểm du lịch trên

địa bàn.

62

Thứ hai, đối với các doanh nghiệp du lịch Nghiên cứu, xây dựng các sản

phẩm du lịch gắn với tài nguyên du lịch văn hóa tâm linh của quận Tây Hồ với

các quận lân cận và cần trang bị kiến thức cho các hướng dẫn viên về du lịch

tâm linh, cần cung cấp, trang bị thông tin đa dạng về điểm du lịch, điểm đến hấp

dẫn tại mỗi địa phương để hướng dẫn viên và du khách hiểu thêm về nét văn hóa

đặc sắc của mỗi điểm du lịch.

Tăng cường hợp tác với chính quyền địa phương trong việc phát triển sản

phẩm du lịch văn hóa tâm linh và tìm kiếm thị trường, đem lại hiệu quả cao về

kinh tế và xã hội cho cả hai bên. - Tuyên truyền cho khách du lịch ý thức bảo tồn

và tôn trọng tài nguyên du lịch văn hóa tâm linh tại địa phương.

Tận dụng tối đa việc quảng bá hình ảnh trên các trang mạng xã hội, các

diễn đàn mạng trong và ngoài nước. vì hiện tại đây là nơi hàng ngày có hàng

triệu lượt truy cập của mọi đối tượng khách hàng đủ các lứa tuổi. Một hình thức

quảng bá sản phẩm tốn ít chi phí đầu tư nhưng mang lại hiệu quả cao.

Liên kết với các cở sở lưu trú và nhà hàng trên địa bàn để tạo ra chuỗi

khép kín nghỉ dưỡng du lịch tâm linh.

Tiểu kết chƣơng 3:

Những đóng góp to lớn của Văn hóa Phật giáo đã để lại những giá trị tinh

thần vô giá, là những di sản văn hóa phi vật thể, là sự kết tinh tài năng của trí tuệ

Việt Nam qua nhiều thế kỉ, là những hình ảnh sinh động về sự hội tụ văn hóa

trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Với ý nghĩa to lớn sâu xa về nhiều mặt,

cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cùng các cấp ban ngành chức năng,

đã đưa ra những chính sách phù hợp, tạo ra những loại hình du lịch độc đáo liên kết

được các giá trị văn hóa Phật giáo, các khu du lịch tâm linh nổi tiếng nhằm thu hút

du khách trong và ngoài nước tới tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu. Tuy nhiên để

khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo có hiệu quả tốt hơn trong việc phục vụ cho

hoạt động kinh doanh du lịch tương xứng với tiềm năng vốn có, cần có ý thức khai

thác các giá trị văn hóa Phật giáo đi đôi với việc bảo vệ, không làm mất đi giá trị

truyền thống. Phát triển du lịch tôn giáo, du lịch tâm linh tín ngưỡng không chỉ hấp

dẫn du khách trong và ngoài nước mà còn chứng tỏ được sự hấp dẫn, lí tưởng và an

63

toàn cho sự lựa chọn của khách du lịch.

Du khách đến Hà Nội vẫn ao ước bắt gặp thêm ở Hà Nội cái tinh thần

sáng tạo vô biên của văn hóa Phật giáo, dựa trên sự cởi mở, tranh luận và khám

phá chứ không dừng lại thưởng thức thụ động những giá trị đã được khẳng định

từ hàng trăm năm trước.

Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa phi vật thể như giáo lý, triết

học, giáo dục, âm nhạc, nghi lễ… của Phật giáo được coi là sự nghiệp hàng đầu

để bảo tồn sinh mệnh của Phật giáo Việt Nam đồng thời là nghĩa vụ cao cả của

64

toàn xã hội, đặc biệt là của Giáo hội và Tăng Ni, Phật tử trong cả nước.

KẾT LUẬN

Phật giáo Việt Nam hiện nay có nguồn gốc và chịu ảnh hưởng sâu sắc của

Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc, hoà nhập với tín ngưỡng dân gian, truyền

thống văn hoá dân tộc ta từ hàng nghìn năm. Tuy có lúc thịnh suy, mạnh yếu

khác nhau nhưng đã tự khẳng định mình như một thành tố không thể tách rời

của nền văn hoá truyền thống Việt Nam. Qua quá trình hội nhập và phát triển,

thông qua sự chọn lọc và tiếp thu của các thời đại, Phật giáo Việt Nam không

những chia thành các tông phái và hệ phái khác nhau mà mỗi địa phương, mỗi

miền cũng thể hiện sự khác nhau trong nội dung, nghi thức sinh hoạt và kiến

trúc, lễ hội…Song nét tiêu biểu là Phật giáo ở đây có sự hoà quyện chặt chẽ với

Nho giáo, Đạo giáo và đã được dân tộc hoá, dân gian hoá trở thành Phật giáo

Việt Nam với những bản sắc riêng biệt, phù hợp với tâm linh tín ngưỡng người

Việt Nam.

Du lịch tâm linh là một trong những xu thế được khách du lịch trong và

ngoài nước quan tâm và có xu hướng lựa chọn. Nhu cầu tâm linh và việc thỏa

mãn nhu cầu này hiện nay về cơ bản là không thể thiếu được trong mỗi người

Việt Nam nói chung và khách du lịch nói riêng.

Quận Tây Hồ thành phố Hà Nội là một vùng giàu tiềm năng du lịch tâm

linh với số lượng, chất lượng nguồn tài nguyên rất cao. Với ưu thế như vậy, nơi

đây xứng đáng trở thành một trung tâm du lịch tâm tinh lớn của thủ đô. Vấn đề

đặt ra cho khu vực này là việc đưa hoạt động du lịch tâm linh phát triển phù hợp

với giá trị và nguồn tài nguyên sẵn có.

Thực trạng khai thác giá trị văn hóa Phật giáo để phát huy hết các tiềm

năng du lịch tâm linh của quận đòi hỏi mỗi người trong chúng ta và bản thân tác

giả là người sinh ra và lớn lên tại địa phương này phải đưa ra được những hướng

đi, giải pháp cụ thể dựa trên những tri thức được học và tự nghiên cứu để phát

triển hoạt động du lịch tâm linh theo hướng phát triển bền vững. Tuy vậy việc

đưa ra các giải pháp phát triển một sản phâm du lịch đặc thù cho một khu vực

địa lý thường gặp nhiều trở ngại trong đó trở ngại lớn nhất có thể kể tới là việc

65

phân định những giải pháp cụ trước mắt và những biện pháp lâu dài.

Với những biện pháp cụ thể trước mắt sẽ giúp giải quyết trước mắt những

mục tiêu, yêu cầu cơ bản của cả chính quyền, người dân và doanh nghiệp du

lịch. Nhưng để có thể có sự phát triển theo hướng bền vững thì nhất thiết cần

phải đến những biện pháp lâu dài giúp cho tiềm năng du lịch tâm linh được bảo

tồn giá trị.

Để phát triển và phát huy được thế mạnh của các tiềm năng này đòi hỏi

các ngành, các cấp, chính quyền địa phương có liên quan cũng như cá nhân mỗi

người dân phải cùng chung tay góp sức nâng cao tinh thần, trách nhiệm. Mỗi

một khu - điểm di tích Phật giáo tâm linh theo thời gian sẽ bị xuống cấp, hư

hỏng cần đến sự quan tâm, quản lý chặt chẽ của chính quyền địa phương và sự

66

đóng góp tu bổ của những người dân trong và ngoài nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

2. Trần Thúy Anh (chủ biên) (2010), Ứng xử văn hóa trong du lịch, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà nội.

3. Trần Thúy Anh (chủ biên) (2011), Giáo trình Du lịch Văn hóa những

vấn đề lý luận và nghiệp vụ, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nam.

4. Toan Ánh (2005), Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam, Quyển hạ, Nxb Trẻ.

5. Nguyễn Văn Bảy (2019), Bước tiến về tự do tín ngưỡng, tôn giáo

dưới sự lãnh đạo của Đảng, Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử số thứ Hai,

23/12/2019.Truy cập ngày 19/4/2020.

6. http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/262/0/15910/Du_li_ch_ta

m_linh_va_nhu_ng_va_n_de_ca_n_quan_tam truy cập ngày 20/4/2020.

7. Phan Kế Bính (2006), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, Hà Nội.

8. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004), Pháp lệnh tôn giáo, tín

ngưỡng.

9. L. Cadierre (1997), Về văn hoá và tín ngưỡng truyền thống của người

Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

10. Lý Khắc Cung (2009), Hà Nội văn hóa và phong tục, Nxb Lao động,

Hà Nội.

11. Minh Chi, (2004), Vài suy nghĩ về sự hội nhập của Phật giáo vào nền

văn hóa Việt Nam, Số 4, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo.

12. Nguyễn Thị Chiến (2004), Văn hóa trong phát triển du lịch bền vững ở

Việt Nam, Nxb Trẻ, Hà nội.

13. Nguyễn Trọng Đàn (2003), Thăng Long Hà Nội, Nxb Thống kê, Hà

Nội.

14. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (2008), Giáo trình Kinh tế du

67

lịch, Nxb đại học Kinh tế Quốc dân.

15. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá thông tin.

16. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt

Nam, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

17. Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà

Nội.

18. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà

Nội.

19. Nguyễn Đăng Duy (2001), Đạo giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà

Nội.

20. Đại học sư phạm Hà Nội- trung tâm Trung Quốc học (2000), Đạo

gia và văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

21. S.Freud, C.Jung, E.Fromm, R.Assagioli (2004) - Đỗ Lai Thuý (biên

soạn), Phân tâm học và văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá thông tin.

22. Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam,

Nxb VHTT.

23. Mai Thanh Hải (2003), Từ điển tôn giáo, Nxb Từ điển Bách Khoa,

Hà Nội.

24. Nguyễn Duy Hinh (2007), Tâm linh Việt Nam, Nxb Viện văn hóa Hà

Nội, Hà Nội.

25. Nguyễn Duy Hinh (2003), Người Việt Nam với Đạo giáo. Nxb

KHXH, Hà Nội.

26. Nguyễn Phạm Hùng (1999), Du lịch tôn giáo và vấn đề giữ gìn bản

sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 2, tr.40-42.

27. Nguyễn Phạm Hùng (2010), Đa dạng văn hóa và sự phát triển du

lịch ở Việt Nam. Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11.

28. Nguyễn Phạm Hùng (2011), Bảo tồn văn hóa tôn giáo ở Việt Nam

hiện nay. Tạp chí nghiên cứu Phật học, số 3.

29. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2002), Giá trị truyền thống trước

những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

68

30. https://tayho.hanoi.gov.vn/gioi-thieu-quan truy cập ngày 20/4/2020

31. Vũ Ngọc Khánh (2001), Truyện thần linh ma quái và vấn đề giáo

dục con người, Tạp chí văn học (10).

32. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2005), Từ điển Việt Nam văn

hoá tín ngưỡng phong tục, NxbVăn hoá thông tin, Hà Nội.

33. Đinh Trung Kiên (2008), Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

34. Nguyễn Quang Lê (1992), Một số suy nghĩ về nguồn gốc và bản

chất của lễ hội cổ truyền dân tộc, Tạp chí Văn hoá dân gian (1).

35. Nguyễn Quang Lê (1992), Tìm hiểu mối quan hệ lễ hội cổ truyền với

Phật giáo qua tín ngưỡng dân gian, tạp chí văn hóa dân gian (4).

36. Nguyễn Hồi Loan (2006), Niềm tin trong tín ngưỡng thờ cúng tổ

tiên của người Việt, tạp chí tâm lí học (4).

37. Nguyễn Hữu Quỳnh (2009), Bách khoa thư Hà Nội, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

38. Dương Văn Sáu (2007), Di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng Việt

Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

39. Hoàng Phê chủ biên (2003), Từ điển Tiếng Việt 2000, Nxb Đà Nẵng,

Trung Tâm Từ điển học.

40. Trương Sỹ Tâm (2015), Nghiên cứu phát triển hoạt động du lịch văn

hóa tín ngưỡng tại các huyện phía tây Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ), Luận văn Th.s.

41. Trần Đức Thanh (1999), Nhập môn khoa học du lịch, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

42. Hồ Bá Thâm (2005), Tín ngưỡng dân gian - Một lĩnh vực trong đời

sống tâm linh cần sự quan tâm của toàn xã hội, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo (4).

43. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb

Tổng hợp TPHCM.

44. Trần Ngọc Thêm ( 2001), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb GD,

TPHCM.

45. Trương Thìn (2005), Tôn trọng tự do tín ngưỡng-Bài trừ mê tín dị

69

đoan, NxbVăn hoá thông tin, Hà Nội.

46. Ngô Đức Thịnh (1992), Tục thờ mẫu Liễu Hạnh- một sinh hoạt tín

ngưỡng văn hoá cộng đồng, Tạp chí văn học (3).

47. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt

Nam, Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội.

48. Nguyễn Hữu Thức (2008), Tín ngưỡng tôn giáo và lễ hội dân gian

Hà Tây, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

49. Đoàn Thị Thùy Trang (2010), Tìm hiểu hoạt động du lịch văn hóa

tâm linh của người Hà Nội (khảo sát trên địa bàn quận Đống Đa), luận văn

Th.s.

50. Sơn Nam (2001), “Nói thêm về tâm linh trong liên hệ với văn hoá

Việt Nam”, Văn hoá Việt nam- Đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Giáo dục.

51. Sở Du lịch Hà Nội (2019), báo cáo tổng kết du lịch Hà Nội, tài liệu

lưu hành nội bộ.

52. Sigmund Freud (2002), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, Nxb Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

53. Daniel H. Olsen (2013), Định nghĩa, động cơ và sự bền vững:

Nghiên cứu điển hình du lịch tâm linh, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Du lịch tâm linh

vì sự phát triển bền vững, Ninh Bình ngày 21 và 22/11/2013..

54. Trần Quốc Vượng (2009), Hà Nội nghìn xưa, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

55. Nguyễn Như Ý (2009), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Trẻ, Tp, Hồ Chí

Minh.

56. Bùi Thị Hải Yến (2009), Quy hoạch du lịch, Nxb Giáo dục Việt

Nam.

57. Bùi Thị Hải Yến (2011), Tuyến điểm du lịch Việt Nam, Nxb Giáo

dục Việt Nam.

56. https://thanhdiavietnamhoc.com/ban-them-ve-du-lich-tam-linh-o-viet-

nam-phan-2.27.

57. Ủy ban Nhân dân quận Tây Hồ (3/2020), báo cáo quản lý nhà nước

70

về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn quận Tây Hồ, tài liệu lưu hành nội bộ.