Đề tài : khoá luận tốt nghiệp và đề cập những giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA. lời nói đầu

AFTA dù ít, nhiều mang ý nghĩa quan trọng đối với tơng lai kinh tế Việt Nam. Thách thức của AFTA yêu cầu phải nâng cao tính năng động và hiệu quả của cả nền kinh tế, con đờng tham gia AFTA đòi hỏi tiêu chuẩn hiệu quả phải đa lên hàng đầu trong các lĩnh vực quản lý, hoạch định chính sách của Nhà nuớc, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của chính các doanh nghiệp, buộc Việt Nam phải có nỗ lực lớn về cải cách kinh tế và hành chính, cải cách doanh nghiệp Nhà nớc theo hớng hiệu suất hoá.

Cho dù còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục đợc làm sáng tỏ, AFTA đã thể hiện một bớc chuyển đổi chiến lợc đúng đắn của sự hợp tác kinh tế ASEAN. AFTA là cơ sở để xây dựng khu vực mở và là một đóng góp quan trọng vào tiến trình tự do hoá thơng mại toàn cầu. Bản thân AFTA là bớc mở đầu để đa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á đi từ liên minh thơng mại đến các liên minh về thuế quan, liên minh tiền tệ, liên minh kinh tế.

Để đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA, các doanh nghiệp trong nớc cần căn cứ theo hớng phát triển trong tình hình mới để có những quyết định kịp thời và phù hợp. Doanh nghiệp cần xem xét, đánh giá cụ thể các yếu tố liên quan đến sản xuất, tiêu thụ của từng mặt hàng trong tơng quan các mặt hàng cùng loại từ ASEAN. Qua đó, doanh nghiệp có thể tìm ra các sản phẩm mới, hay phát triển các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu, tìm ra thị trờng mới cho sản phẩm của mình, các giải pháp để có thể làm chủ đợc thị trờng nội địa và sau đó phải tìm kiếm khả năng xuất khẩu, định hớng về các sản phẩm chủ lực, thị trờng trọng điểm để có phơng án sản xuất-kinh doanh đáp ứng các nhu cầu xuất khẩu sang ASEAN hoặc ngoài ASEAN. Hơn nữa, các doanh nghiệp sản xuất trong nớc cần đánh giá các chọn lựa và đa ra các giải pháp cụ thể trớc mắt và giải pháp lâu dài. Xuất phát từ những quan điểm trên, em đã chọn nội dung của khoá luận tốt nghiệp và đề cập những giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA.

Chơng I :

tổng quan về khu vực mậu dịch tự do asean (AFTA)

I. MộT Số VấN Đề CHUNG Về LIÊN KếT KINH Tế KHU VựC

1.Khái niệm:

Khu vực mậu dịch tự do là một liên minh quốc tế giữa hai hoặc nhiều nớc nhằm mục đích tự do hoa hoá việc buôn bán về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó. Biện pháp sử dụng là bãi miễn các công cụ thuế quan và phi thuế quan giữa các nớc thành viên song các n- ớc thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại thơng độc lập với các nớc ngoài liên minh.

2.Cấp độ liên kết:

Khu vực mậu dịch tự do là một liên minh quốc tế ở cấp độ thấp nhất trong các hình thức

liên kết quốc tế

3.tác động của khu vực mậu dịch tự do

Khu vực này thiết lập nên một mối quan hệ mậu dịch giữa các nớc thành viên,mở rộng quan hệ xuất khẩu với nhau và tiến tới mở rộng ra ngoài khối, điều này cho thấy nó tác động tích cực đến buôn bán quốc tế nói chung.Việc di chuyển sản xuất từ các nhà sản xuất có hiệu quả cao hơn ,ngời sản xuất và ngời tiêu dùng đều có lợi

II. TổNG QUAN Về AFTA:

1. Sự hình thành và phát triển của AFTA:

Tuyên bố thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đợc đa ra tại Hội nghị thợng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore ngày 28 tháng 1 năm 1992 với thời hạn dự định thực hiện 15 năm, bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 1993 và hoàn thành vào năm 2008. “Tuyên bố chung Singapore - 1992” mở ra một thời kỳ mới trong hợp tác ASEAN nhằm tạo cơ hội ổn định và phát triển khu vực. Trên cơ sở đó, hội nghị đã quyết định thành lập “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN” (AFTA). Lúc đầu, chơng trình AFTA dự định thực hiện trong vòng 15 năm kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1993. là phải bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 1998 Nhng do yêu cầu đẩy nhanh tốc độ phát triển, đầu tháng 7 năm 1994, Hội nghị Bộ trởng kinh tế lần thứ 26 tháng 9 năm 1994 tại Chiềng Mai quyết định rút thời hạn xuống 10 năm, tức là hoàn thành vào năm 2003. Việt Nam là hội viên mới, đợc thực hiện chậm 5 năm, tức.

Khối ASEAN không phải là một khối có sức mạnh kinh tế lớn so với các khối khác nh NAFTA (700 tỉ USD); EU (600 tỉ USD); Nhật (3.500 tỉ USD); AFTA (400 tỉ USD) tuy nhiên, đợc đánh giá là khối phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng bình quân 5 năm qua là 7,5% so với 3% của toàn thế giới. Tỉ trọng thơng mại của ASEAN cao hơn nhiều so với các khu vực khác, xuất khẩu trên 50% tổng sảm phẩm quốc dân, đặc biệt Singapore là 139% (* số liệu 1994).

AFTA ra đời là phù hợp với quy luật vận động nội tại của các nền kinh tế ASEAN trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá. Song với t cách là một tổ chức hợp tác kinh tế có thể chế, AFTA dờng nh là một dạng của "mô hình phát triển rút ngắn" của kiên kết kinh tế khu

khu vực giống nh EU, NAFTA. Do đó, AFTA hình thành trớc tiên chỉ nh là một hiệp định khung, có phần hơi đơn giản; còn các nội dung và lịch trình của hiệp định lại chỉ đợc soạn thảo, sửa đổi và bổ sung đồng thời với tiến trình tổ chức và thực hiện chúng.

Nền kinh tế của các nớc Đông Nam á đang chuyển động theo những thay đổi lớn trên thị trờng tài chính và hàng hoá thế giới, trên khung cảnh hợp tác khu vực, trớc hết là khu vực Châu á - Thái Bình Dơng, với sự hoạt động hết sức sôi động của các công ty đa quốc gia. Sự di chuyển ồ ạt các dòng vốn đầu t, công nghệ và tri thức kinh doanh kéo theo sự biến động trong lợi thế so sánh của nhiều nớc. Thị trờng khu vực ngày càng phát triển và thể chế hợp tác khu vực ngày càng đợc định hình đã làm thay đổi nhanh chóng vị trí và chiến lợc phát triển của từng nớc.

Mặc dù khủng hoảng kinh tế đã diễn ra trong những năm giữa thập kỷ 80, tốc độ tăng tr- ởng kinh tế của ASEAN từ năm 1981 đến 1994 là 5,4% (* thống kê của Ban th ký ASEAN) gần gấp hai lần tốc độ tăng trởng trung bình của thế giới. Với tốc độ phát triển kinh tế nh vậy cùng với mục đích hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - khoa học - xã hội ngay từ khi mới thành lập, lẽ ra hợp tác kinh tế của ASEAN đã rất phát triển nhng trên thực tế thành tựu lớn nhất mà ASEAN đạt đợc trong suốt 25 năm tồn tại đầu tiên là hợp tác trong lĩnh vực chính trị quốc tế và an ninh nội bộ của các nớc thành viên. Mặc dù nhấn mạnh vào hợp tác kinh tế, nhng do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho tới năm 1992, việc hợp tác này vẫn tiến triển rất chậm chạp.

Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đã đợc chú trọng trở lại với Kế hoạch Hợp tác kinh tế mà lĩnh vực đầu tiên là cung ứng và sản xuất các hàng hoá cơ bản, các xí nghiệp công nghiệp lớn, các thoả thuận thơng mại u đãi và các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy đã có rất nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong ASEAN, nhng kết quả của những nỗ lực đó không đạt đợc những mục tiêu mong đợi. Chỉ đến năm 1992, khi các nớc thành viên của ASEAN ký kết một Hiệp định về Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - AFTA thì hợp tác kinh tế các nớc ASEAN mới thực sự đợc đa lên một tầm mức mới.

Trớc khi AFTA ra đời, hợp tác kinh tế ASEAN đã trải qua nhiều kế hoạch hợp tác kinh tế

khác nhau. Đó là:

- Thoả thuận thơng mại u đãi (PTA)

- Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP)

- Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản

xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC).

- Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)

Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên là những nỗ lực không nhỏ của ASEAN tuy nhiên tác động của nó đến thơng mại nội bộ ASEAN rất nhỏ và không đủ khả năng ảnh hởng đến đầu t trong khối. Có nhiều lý do khác nhau dẫn đến sự không thành công này. Đó là việc vạch kế hoạch kém, vội vã liên kết mà không có các bớc nghiên cứu khả thi kỹ càng, quản lý thiếu hiệu quả, trong nhiều trờng hợp, việc quyết định đầu t vào ngành công nghiệp nào lại do các Chính phủ chứ không phải thị trờng quyết định tức là còn dựa nhiều vào những ý tởng chủ quan mà thiếu đi sự gắn kết với thực tiễn. Hợp tác kinh tế ASEAN cũng bị ảnh hởng một phần vì cơ cấu tổ chức với một Ban th ký có quá ít quyền hạn độc lập, không đủ khả năng để

thực hiện vai trò cơ bản trong việc đẩy nhanh và tăng cờng hợp tác kinh tế khu vực. Nếu nh nguyên tắc nhất trí của ASEAN đã thúc đẩy việc thống nhất và ổn định thì chính nó cũng làm cho các bớc đi hợp tác kinh tế vị chậm lại hoặc bị điều chỉnh chỉ bởi một nớc thành viên thận trọng nào đó.

Tuy nhiên, các hoạt động hợp tác kinh tế của ASEAN đã có khuynh hớng tiến đến hiệu

quả hơn từ AIP đến AIJV. Khu vực t nhân đã đợc chú trọng hơn,

quy luật thị trờng dần dần đợc tuân thủ, các thủ tục liên quan đợc đơn giản hoá và một số tr- ờng hợp các thủ tục rờm rà đã đợc loại bỏ, mức u đãi (MOP) đợc tăng cờng. Tuy không đạt đợc kết quả mong đợi nhng các kế hoạch hợp tác kinh tế này thực sự là những bài học quý báu cho việc hợp tác kinh tế giữa các nớc đang phát triển. AFTA đã ra đời trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm từ những kế hoạch hợp tác kinh tế trớc AFTA. Hội nghị Thợng đỉnh ASEAN họp tại Singapore năm 1992 đã quyết định thành lập một Khu mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) theo sáng kiến của Thái lan.

AFTA thực sự là một bớc ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN, là kết quả tất yếu của những chuyển động về hợp tác kinh tế ASEAN đợc tính kể từ năm 1976 - năm tổ chức Hội nghị thợng đỉnh ASEAN lần thứ nhất tại Bali (Indonesia) và là bớc đánh dấu sự chú trọng trở lại với các kế hoạch phát triển kinh tế mà các lĩnh vực u tiên chủ yếu là sản xuất và cung ứng các hàng hoá cơ bản, phát triển các xí nghiệp công nghiệp lớn, thực hiện các thoả thuận th- ơng mại u đãi và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại.

Nói tóm lại, AFTA ra đời là kết quả phức hợp giữa sự tác động của các nhân tố bên

trong và bên ngoài mà ta có thể xem xét khái quát nh sau:

Về nhân tố bên trong, có thể thấy rằng công nghiệp hoá trong 2 thập kỷ qua đã làm tăng nhanh chóng quy mô buôn bán qua lại giữa các nền kinh tế ASEAN. Ngời ta tính rằng vào đầu những năm 90, phần xuất khẩu nội bộ ASEAN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm nớc này đã đạt tới khoảng 20% (* số liệu thống kê trên http://www.asean.com) và điều đó chứng tỏ khuynh hớng liên kết thơng mại khu vực đã ngày càng trở nên mạnh mẽ. Các nền kinh tế ASEAN đã mang đặc tính hớng ngoại dựa vào xuất khẩu và hơn bao giờ hết nhu cầu bức thiết trong việc tìm kiếm và liên kết thị trờng, trớc hết là các thị trờng láng giềng kề cận lại trở nên quan trọng nh vậy. Điều này càng đợc thúc đẩy nhanh hơn nhờ sự tác động tích cực của tăng trởng kinh tế khu vực đối với các chiến lợc phi điều chỉnh và các biện pháp tự do hoá thơng mại và theo đó, các nớc này dễ dàng đi đến những mặc nhiên thừa nhận AFTA. Chính phủ của từng nớc ASEAN cũng đã thấy rõ trở ngại của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch trong chiến lợc phát triển, đã đi đến nhất trí cởi bỏ nó bằng việc theo đuổi các chiến lợc tự do hoá theo hớng xuất khẩu. Do đó, về thực chất, chính sự chuyển đổi trong chiến lợc phát triển và tình hình kinh tế của các nớc ASEAN đã khiến cho đề xuất về một khu vực mậu dịch tự do ASEAN mang tính khả thi.

Về các nhân tố bên ngoài, vào đầu những năm 90, môi trờng chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã có những thay đổi quan trọng do chiến tranh lạnh đã kết thúc. ở kỷ nguyên hậu chiến tranh lạnh, vị trí của ASEAN trong chiến lợc khu vực và quốc tế của các cờng quốc đã bị hạ thấp. Điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga sẽ giảm bớt cam kết an ninh và giúp đỡ về kinh tế cho ASEAN. Chính sách mới của các cờng quốc và những biến đổi theo hớng tích cực trên bán đảo Đông Dơng đa lại cho ASEAN những cơ hội và thách thức mới. ở

thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, kinh tế các nớc ASEAN đứng trớc những thách thức lớn khiến cho các nớc ASEAN không dễ vợt qua nếu không có sự cố gắng chung của toàn Hiệp hội. Đó là sự xuất hiện những tổ chức hợp tác khu vực nh EU, NAFTA có nguy cơ trở thành các khối thơng mại khép kín, sẽ làm cho hàng hoá ASEAN vấp phải những trở ngại hơn nữa khi thâm nhập vào các thị trờng trên.

Mặc dù trong gần một thập niên qua, kinh tế ASEAN đã tăng trởng với nhịp độ cao nhng nền kinh tế các nớc này vẫn phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn từ bên ngoài. Vị thế và triển vọng tăng trởng của các nền kinh tế này sẽ không đợc củng cố và thúc đẩy nếu nh toàn hiệp hội không tạo dựng đợc sự nỗ lực chung. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự cấp thiết thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Trong đó, việc liên kết thị trờng khu vực nh một trung tâm sản xuất và thơng mại quốc tế là điều kiện căn bản để cải thiện thế thơng lợng cạnh tranh của ASEAN trong việc thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài - một nhân tố đợc coi là động lực tăng trởng và tạo ra sự năng động của châu á trong những năm gần đây.

Việc thành lập AFTA sẽ mở ra một thị trờng tự do rộng lớn và dồi dào tiềm năng ở khu vực Đông Nam á. Tham gia AFTA, các nớc ASEAN sẽ liên kết với nhau để phát triển kinh tế chặt chẽ hơn và rút ngắn khoảng cách về sự phát triển giữa các quốc gia thành viên, nâng cao vai trò của ASEAN trong khu vực và trên thế giới.

Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định ASEAN sẽ thành công trong việc tạo lập AFTA. Thứ nhất, từ giữa những năm 80, các thành viên ASEAN đã lần lợt thực hiện phi tập trung hoá và tự do hoá nền kinh tế của mình, đã cải thiện đáng kể (mặc dù cha đồng bộ) về môi trờng đầu t và thơng mại và trên cơ sở này, AFTA sẽ đặt từng quốc gia thành viên ASEAN trớc những nhu cầu bức thiết phải tiến hành cải cách nền kinh tế quốc gia nhằm thích ứng với các yêu cầu chung của khu vực. AFTA sẽ góp phần đáng kể vào việc cải thiện hiệu quả sản xuất cho mọi quốc gia thành viên với chi phí ít hơn, hay nói đúng hơn, AFTA sẽ hỗ trợ cho các nền kinh tế này trở thành các nền kinh tế có hiệu suất thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa điều chỉnh cơ cấu kinh tế khu vực với cơ cấu kinh tế nội địa của từng nớc. Thứ hai, tạo ra AFTA, về thực chất, ASEAN sẽ thực hiện một cam kết chính trị đầy đủ, nghĩa là các Chính phủ ASEAN không chỉ thể hiện những nỗ lực của mình ở trong nớc mà thông qua AFTA, họ còn muốn có sự điều hoà, giải quyết các khó khăn riêng cho từng quốc gia thành viên. Thứ ba, các nớc ASEAN đã có những bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện Hiệp định thơng mại u đãi ASEAN (PTA) không mấy thành công từ cuối những năm 70. Do vậy, có thể nói rằng AFTA là thành tựu và là nấc thang mới trong chiến lợc hợp tác kinh tế ASEAN hiện nay. AFTA giúp các nhà sản xuất giảm chi phí đầu vào khi các thị trờng ASEAN mở cửa. Mặt khác, các nhà sản xuất hàng hoá sẽ đợc kích thích bởi tiến trình tự do hoá nhập khẩu nhờ AFTA và đồng thời nhờ đó có thể đợc lợi do nhận đợc chi phí về các sản phẩm trung gian cấu thành đầu vào giảm. Cũng tơng tự nh vậy, đầu t trực tiếp nớc ngoài sẽ tăng lên do chỗ các nhà đầu t nớc ngoài muốn đợc hởng các u đãi đặc biệt của AFTA.

2. Những mục tiêu cơ bản của AFTA:

2.1. Tăng cờng trao đổi buôn bán trong nội bộ khối bằng việc loại bỏ

các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nớc ASEAN

Đây là mục tiêu quan trọng nhất của AFTA. Bởi lẽ các nớc thành viên ASEAN đều có nền kinh tế hớng ngoại dựa vào xuất khẩu với tỉ trọng mậu dịch với các nớc ngoài khối khoảng 77% trong đó Mỹ chiếm khoảng 20%, Nhật 14% và EU 15% trong khi đó tỉ trọng mậu dịch nội bộ khối chỉ chiếm khoảng 23% theo số liệu thống kê trung bình từ năm 1993 là năm bắt đầu thực hiện Hiệp định CEPT đến năm 1998. Thêm vào đó cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của các nớc ASEAN tơng đối giống nhau vì các nền kinh tế ASEAN chủ yếu đều là các nền kinh tế đang phát triển có các điều kiện và nhu cầu xuất nhập khẩu tơng đối giống nhau. Vì vậy kim ngạch thơng mại chịu ảnh hởng trực tiếp của AFTA sẽ không lớn. Về mặt này, AFTA sẽ không thể so đợc với các thoả thuận thơng mại khu vực khác nh EU hay NAFTA trong đó có sự liên kết giữa các nền kinh tế rất phát triển với những nền kinh tế kém phát triển hơn nh trờng hợp của Mỹ và Mexico. Tuy nhiên mục tiêu này nhằm thúc đẩy sự hợp tác kinh tế trong nội bộ ASEAN. Thông qua AFTA, tạo ra một thị trờng chung ASEAN mà trong đó các nớc thành viên đợc hởng u đãi hơn so với các nớc không thuộc Hiệp hội. Từng bớc, tiến tới xoá bỏ về cơ bản thuế nhập khẩu hàng hoá thuộc các nớc thành viên ASEAN với nhau, nhng vẫn giữ nguyên thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các nớc khác.

Nh vậy, với mục tiêu thúc đẩy buôn bán giữa các nớc trong khu vực thông qua chế độ u đãi thuế quan, AFTA sẽ tăng sức cạnh tranh của hàng hoá ASEAN trên thơng trờng thế giới.

2.2. Thu hút các nhà đầu t nớc ngoài vào khu vực bằng việc đa ra một khối thị trờng thống nhất - xây dựng khu vực đầu t ASEAN (AIA):

Mục tiêu của AFTA là biến các nớc ASEAN thành khu vực hợp tác kinh tế thông qua việc thực hiện các chơng trình kinh tế mà quan trọng nhất là chơng trình u đãi thuế quan (CEPT). Mục tiêu trung tâm này góp phần làm tăng cờng năng lực kinh tế của các nớc thành viên ASEAN nhằm tạo ra sức mạnh để tự bảo vệ mình và vơn lên trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn của nền kinh tế Thế giới, tăng sức hấp dẫn của môi trờng đầu t nhằm thu hút vốn đầu t nớc ngoài.

Vào đầu thập kỷ 90, từ địa vị là địa bàn đầu t hấp dẫn các nớc ASEAN ở vào thế bị cạnh tranh gay gắt với các nớc khác nh Trung Quốc, Nga, các nớc Đông Âu, và cả Việt Nam. AFTA sẽ tạo ra một thị trờng thống nhất, cho phép việc khai thác lợi thế kinh tế về qui mô và tạo nhiều điều kiện thuận lợi khác cho việc hấp dẫn đầu t nớc ngoài. Khi đầu t nớc ngoài vào ASEAN tăng lên, do việc mở rộng khai thác các lợi thế của AFTA, chắc chắn sẽ dẫn đến việc gia tăng trao đổi buôn bán giữa các nớc ASEAN về các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Tuy vây, khối lợng buôn bán trao đổi về các sản phẩm đầu vào nh vậy chắc chắn sẽ tăng nhng tỷ trọng so với tổng kim ngạch thơng mại của ASEAN sẽ không lớn vì những lý do mang tính cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu nh đã nêu trên, đặc biệt trong giai đoạn đầu thực hiện AFTA khi quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu t và sản xuất quốc tế và khu vực xuất phát từ việc thành lập AFTA và sau này là việc hình thành khu vực đầu t ASEAN (AIA).

Mục tiêu của AIA là xây dựng một khu vực đầu t ASEAN thông thoáng, rõ ràng và hấp dẫn nhất nhằm đẩy mạnh đầu t vào ASEAN từ cả các nguồn trong và ngoài Hiệp hội. Tinh thần của AIA là muốn các nớc thành viên "mở cửa ngay lập tức" các ngành nghề và "dành ngay lập tức" chế độ đối xử quốc gia.

Đầu t trực tiếp vào các nớc ASEAN sẽ tăng vì kết quả trao đổi mậu dịch giữa các quốc gia này sẽ tăng theo AFTA và do đó, sẽ kích thích các công ty Nhật, Mỹ, EU và NIEs đầu t

nhiều hơn để giữ thị trờng này thay vì trớc đây họ thờng cung ứng từ các cơ sở sản xuất ngoài ASEAN. Đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI) vào ASEAN sẽ tăng nhờ sự lớn mạnh của chính thị trờng khu vực ASEAN và theo đó, sẽ ngày càng có nhiều dự án đầu t trực tiếp nhằm cung cấp sản phẩm cho các thị trờng này. Tuy nhiên, để đạt đợc mục tiêu này, các thành viên ASEAN còn phải nỗ lực cải thiện môi trờng đầu t và thông qua AFTA làm cho các môi trờng đầu t của ASEAN trở nên hấp dẫn hơn so với các khu vực khác. Vấn đề đáng lu ý là ASEAN cần phải đón bắt đợc các dòng đầu t quốc tế đang trong xu hớng chuyển mạnh từ các khu vực Âu, Mỹ trở lại châu á. Dĩ nhiên, đầu t trực tiếp nớc ngoài vào ASEAN không phải là một hiện tợng mới, song những tác động của tiến trình AFTA sẽ nâng cao và thúc đẩy chúng khởi sắc. Với định hớng phát triển ra ngoài khu vực trên cơ sở liên kết thị tr- ờng bên trong AFTA, ASEAN hoàn toàn có thể hy vọng tới khả năng đẩy mạnh thế thơng l- ợng cạnh tranh về thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài.

2.3. Hớng ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đặc biệt

là xu thế tự do hoá thơng mại thế giới

Chơng trình CEPT là sẽ đa ASEAN AFTA trở thành một khu vực mở và là sự phản ứng đáp lại với các mô hình bảo hộ mậu dịch ở cả trong và ngoài khu vực. Hay nói cách khác mục tiêu này liên quan đến sự đáp ứng của ASEAN đối với xu hớng đang gia tăng của chủ nghĩa khu vực trên thế giới. Trớc những biến động của bối cảnh quốc tế, AFTA buộc phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện và tơng lai có thể không chỉ dừng lại ở một khu vực mậu dịch hay liên minh quan thuế mà sẽ tiếp tục đợc phát triển thành một liên minh tiền tệ, một liên minh kinh tế. Nhờ tăng buôn bán trong và ngoài khu vực, AFTA sẽ trợ giúp cho các quốc gia thành viên ASEAN thích ứng đợc với chế độ thơng mại đa biên đang tăng lên ngày càng nhanh chóng, hoà nhập với xu thế thơng mại chung của thế giới.

3. Nội dung cơ bản của AFTA

3.1 Chơng trình thuế quan u đãi có hiệu lực chung - CEPT

sự thoả thuận giữa các nớc thành viên ASEAN về việc cắt giảm thuế quan trong nội bộ xuống còn 0 - 5%, hạn chế về định lợng và các hàng rào phi quan thuế từ ngày 1/1/1993 đến ngày 1/1/2003. Chơng trình thuế quan u đãi có hiệu lực chung này sẽ thực hiện theo 4 danh mục. Danh mục 1 là giảm thuế nhập khẩu, đợc chia làm 2 phần: Phần thứ 1 là cắt giảm nhanh, áp dụng cho các loại sản phẩm có mức thuế suất từ 20% trở xuống và phần thứ 2 là cắt giảm thuế quan thông thờng, áp dụng cho các loại hàng hoá có mức thuế suất nhập khẩu cao hơn 20%. Danh mục này đợc áp dụng cho 15 nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến của ASEAN nh: xi măng, hoá chất, phân bón, chất dẻo, hàng điện tử, hàng dệt, dầu thực vật, sản phẩm da, sản phẩm cao su, giấy, đồ gốm và thuỷ tinh, đồ dùng bằng gố và song mây, dợc phẩm với khoảng 3200 mặt hàng, chiếm tới 43% tổng số danh mục giảm thuế của toàn ASEAN. Danh mục 2 là Danh mục loại trừ tạm thời, cha cắt giảm thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một số thành viên ASEAN tham gia vào tiến trình tự do hoá thơng mại mà không bị sốc về kinh tế, tiếp tục các chơng trình đầu t đã đợc đa ra trớc khi tham gia kế hoạch CEPT hoặc có thời gian để hỗ trợ cho sự ổn định thơng mại hoặc để chuyển hớng sản xuất đối với một số sản phẩm tơng đối trọng yếu trong buổi đầu tham gia CEPT, không bị ảnh hởng xấu đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nớc. Sau 5 năm, những hàng hoá này

sẽ phải chuyển dần sang Danh mục giảm thuế, mỗi năm 20% số sản phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời. Danh mục 3 là Danh mục loại trừ hoàn toàn, bao gồm các sản phẩm không tham gia CEPT nhng phải có điều kiện phù hợp với quy chế Tổ chức Thơng mại quốc tế WTO. Đây là các mặt hàng có ảnh hởng tới an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, vốn sống và sức khoẻ con ngời, động vật, thực vật, các giá trị lịch sử, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật của mỗi nớc. Danh mục 4 là sản phẩm nông sản cha qua chế biến. Các mặt hàng nông sản cha chế biến có khả năng gây ảnh hởng lớn đến nền kinh tế các nớc ASEAN. Thời hạn đa các mặt hàng trong danh mục này vào Danh mục giảm thuế sẽ bắt đầu từ 2001 và kết thúc vào 2003, đối với Việt Nam là 2004 và 2006.

Hơn nữa, chơng trình CEPT còn cho phép các nớc thành viên đa ra một danh mục tạm thời cha thực hiện tiến trình giảm thuế theo kế hoạch CEPT để các nớc có thời gian chuẩn bị, nâng cao hơn khả năng cạnh tranh hàng hoá của nớc mình.

Danh mục các mặt hàng thuộc CEPT của Việt Nam năm 1998:

- Danh mục giảm thuế: 1.661 dòng thuế

- Danh mục loại trừ tạm thời: 1.317 dòng thuế

- Danh mục nhạy cảm: 26 dòng thuế

- Danh mục loại trừ hoàn toàn: 213 dòng thuế

Tổng cộng là 3.217 dòng thuế (* nguồn Bộ Tài chính và Ban th ký ASEAN)

Nh vậy, cốt lõi của việc thành lập khu vực mậu dịch tự do là thực hiện chơng trình CEPT, nhằm giảm dần thuế nhập khẩu hàng hoá giữa các nớc ASEAN với nhau tới mức 0 - 5%, nhằm mục đích khuyến khích thơng mại giữa các nớc thành viên. Theo chơng trình này, các nớc thành viên đa ra danh mục những mặt hàng sẽ tham gia vào CEPT, cắt giảm những biện pháp hạn chế phi thuế quan khác, và đa ra lịch trình triển khai. Chơng trình này bắt đầu vào năm 1993, dự kiến kéo dài 15 năm, nhng mới đây đợc rút bớt 5 năm, tức là kết thúc vào năm 2003. Theo quy ớc của AFTA, ngoài các loại nông sản cha chế biến hoặc sơ chế là những mặt hàng không nằm trong CEPT, mỗi nớc xác định và đăng ký 3 loại mặt hàng tuỳ theo mức độ tham gia CEPT; không tham gia hoàn toàn, tạm thời cha tham gia và tham gia.

Các mục tiêu của AFTA sẽ đợc thực hiện thông qua một loạt các thoả thuận trong hiệp định AFTA nh là: sự thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hoá hàng hoá giữa các nớc thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau, xoá bỏ những quy định hạn chế đối với ngoại thơng, hoạt động t vấn kinh tế vĩ mô... trong đó CEPT là cơ chế thực hiện chủ yếu.

CEPT, về thực chất, đó là một thoả thuận giữa các thành viên ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn 0-5% thông qua "cơ cấu thuế quan u đãi có hiệu lực chung" đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lợng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, đợc bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. Hiệp định này sẽ đợc áp dụng đối với mọi loại sản phẩm công nghiệp chế biến, bao gồm cả các hàng hoá t bản và các sản phẩm công nghiệp đã qua chế biến.

Tuy vậy, trong khung hiệp định đó, CEPT đợc nhấn mạnh cho các mặt hàng công nghiệp chế biến là đối tợng chủ yếu đợc thụ hởng các u đãi của chơng trình giảm thuế quan. Việc cắt giảm thuế quan cho chúng sẽ đợc áp dụng trong một lịch trình cụ thể theo 2 kênh giảm nhanh

và giảm thông thờng đồng tuyến, nghĩa là trong vòng 7 đến 10 năm, phải đa đợc khoảng 90% trong số hơn 44.000 dòng thuế của các nớc ASEAN xuống mức thuế dới 5% vào năm 2000 và sau đó sẽ đa đợc mức thuế quan bình quân của toàn ASEAN vào năm 2003 khoảng 2,63%.

Kênh giảm thuế nhanh (còn gọi là kế hoạch giảm thuế quan tăng tốc) có lịch trình giảm thuế nhanh sẽ đợc phân định thành hai nấc: các sản phẩm có thuế suất trên 20% đợc giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2000 và các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% đợc giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/1998.

Kênh giảm thuế bình thờng (còn gọi là chơng trình giảm thuế quan theo lịch trình thông thờng) sẽ áp dụng cho tất cả các sản phẩm công nghiệp chế biến còn lại. Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, việc giảm thuế ở kênh này sẽ đợc tiến hành theo hai nấc: sẽ giảm thuế suất của chúng xuống tới 20% vào năm 1998 và sau đó sẽ tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào năm 2003. Đối với sản phẩm đã có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ đợc giảm thuế đến 0-5% trong vòng 7 năm, tức là kết thúc vào năm 2000. Các danh mục giảm thuế theo kênh thông thờng hiện chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các danh mục hàng hoá tham gia CEPT với 49%.

Với các tỷ lệ lớn của hai danh mục giảm thuế trong chơng trình thực hiện CEPT (khoảng 93%), các lịch trình giảm thuế này nếu đợc thực hiện, về căn bản, chúng đã gần nh hoàn thành tỷ suất tự do hoá thơng mại nội bộ ASEAN.

Điều đáng lu ý ở dây là sau một số năm thực hiện CEPT, các nớc thành viên ASEAN đã có đề xuất về một lịch trình giảm thuế linh hoạt, nghĩa là không nhất thiết phải tuân thủ theo hai kênh đồng tuyến với các quy định rạch ròi cho các suất thuế cần cắt giảm qua từng thời kỳ. Tuỳ theo đặc điểm cơ cấu thuế quan xuống còn 0-5% càng sớm càng tốt trớc năm 2003. Hiện nay Hội đồng AFTA đã chấp nhận đề xuất đó nh một sáng kiến nhằm đáp ứng các yêu cầu về việc tạo dựng một khu vực tự do hoá thơng mại ASEAN trớc thời hạn đã định. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (15-16/12/1998), với sáng kiến thực hiện các thoả thuận đa phơng và song phơng, đã khẳng định một lần nữa việc đẩy nhanh tiến trình AFTA. ít ra là phải hoàn thành AFTA vào năm 2000 đối với 6 nớc thành viên ASEAN đã kết nạp tr- ớc năm 1995.

Cũng xuất phát từ hoàn cảnh đặc biệt của từng quốc gia thành viên mà CEPT còn quy định danh mục các sản phẩm tạm thời cha tham gia giảm thuế (còn gọi là danh mục loại trừ tạm thời) để tạo điều kiện thuận lợi cho các nớc này Các sản phẩm trong danh mục này sẽ không đợc hởng nhợng bộ từ các nớc thành viên và chỉ tồn tại mang tính chất tạm thời, nghĩa là sau 5 năm, chúng sẽ buộc phải chuyển sang danh mục giảm thuế theo hai kênh đồng tuyến đã định. Do đó, kể từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, danh mục loại trừ tạm thời sẽ phải chuyển sang danh mục giảm thuế theo CEPT bình quân 20% mỗi năm. Dĩ nhiên, loại danh mục này không nhiều, chỉ chiếm khoảng 8% tổng số các danh mục tham gia giảm thuế.

Một vấn đề gây tranh luận nhiều nhất trong việc xây dựng chơng trình CEPT là vấn đề đa hay không đa các sản phẩm nông nghiệp cha qua chế biến vào danh mục giảm thuế. Theo Hiệp định CEPT năm 1992, các sản phẩm nông nghiệp cha qua chế biến không đợc đa vào danh mục giảm thuế theo CEPT. Nhng đến tháng 9/1994, các thành viên ASEAN đã đồng ý đa chúng vào danh mục này. Do đó, cùng với các danh mục giảm thuế là loại trừ thuế tạm

thời, phạm vi sản phẩm tham gia tiến trình tự do hoá thơng mại theo CEPT đã đợc mở rộng tới 98% tổng số dòng thuế của toàn khối ASEAN. Các sản phẩm nông nghiệp cha qua chế biến cũng sẽ đợc phân định thành ba danh mục: danh mục giảm thuế, danh mục loại trừ hoàn toàn và một danh mục đặc biệt khác là danh mục các sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm. Trừ một số nhỏ hàng nông nghiệp cha qua chế biến đợc đa vào danh mục loại trừ hoàn toàn, hiện hành nông nghiệp cha qua chế biến của toàn bộ ASEAN bao gồm 1823 dòng thuế, chiếm 4% tổng số dòng thuế sẽ giảm theo CEPT của các quốc gia này. Các sản phẩm thuộc danh mục nhạy cảm là đối tợng cần có cơ chế tự do hoá riêng phù hợp với các quy định của Hiệp định về nông sản của WTO. Tuy nhiên, mức cam kết giảm thuế của các sản phẩm thuộc danh mục này ở ASEAN sẽ cao hơn mức mà các nớc thành viên đã cam kết tại vòng đàm phán Urugoay. Đến nay, theo đề xuất của các quốc gia thành viên, những mặt hàng này đã đợc phép kết thúc lịch trình giảm thuế đến 0-5% vào ngày 1/1/2010.

Nh vậy, xét một cách tổng quát, cấu trúc CEPT bao gồm 3 danh mục chính: danh mục giảm thuế, danh mục các sản phẩm tạm thời cha giảm thuế và danh mục các sản phẩm nông nghiệp cha qua chế biến. Tuy nhiên, để vận dụng đúng hơn về CEPT, các thành viên ASEAN đã thống nhất xây dựng một danh mục loại trừ hoàn toàn một số sản phẩm ra khỏi lịch trình giảm thuế theo CEPT, tức là việc cắt giảm thuế đối với những sản phẩm này sẽ không đợc áp dụng theo các quy định của CEPT. Đó là những sản phẩm có ảnh hởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống và sức khoẻ con ngời, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, các di tích lịch sử, khảo cổ...

Khi vận dụng CEPT, chúng ta không đợc quên một điều kiện bổ sung cho cơ chế giảm thuế theo CEPT, đó là những nhợng bộ trao đổi giữa các quốc gia ASEAN khi thực hiện CEPT trên các nguyên tắc có đi có lại. Nguyên tắc này bắt buộc các nớc thành viên để đợc h- ởng u đãi về thuế quan của nhau khi xuất khẩu theo CEPT cần đảm bảo đúng các yêu cầu sau đây: thứ nhất, sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nớc xuất khẩu và nớc nhập khẩu và phải có mức thuế quan tối đa là 20%; thứ hai, sản phẩm đó phải có chơng trình giảm thuế đợc Hội đồng AFTA thông qua và thứ ba, sản phẩm đó phải là những sản phẩm có hàm lợng xuất xứ từ các nớc thành viên ASEAN với ít nhất là 40%. Nếu một sản phẩm đảm bảo đợc ba yêu cầu đó, chúng sẽ đợc hởng u đãi hoàn toàn từ phía các quốc gia nhập khẩu. Để xác định các sản phẩm có đủ điều kiện hởng thuế quan u đãi theo chơng trình CEPT hay không, mỗi nớc thành viên hàng năm phải công bố "tài liệu trao đổi u đãi CEPT" trong đó cần thể hiện đợc mức thuế quan của các sản phẩm theo CEPT và các sản phẩm có đủ điều kiện u đãi.

Tóm lại, CEPT đợc thực hiện sẽ đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thơng mại trong nội bộ ASEAN. Bởi vì dựa vào các kế hoạch giảm thuế đã đợc các nớc thành viên ASEAN cam kết theo chơng trình CEPT, đến năm 2000 chắc chắn 87,7% tổng số các dòng thuế tham gia giảm thuế sẽ có mức thuế 0-5%. Điều này hoàn toàn có cơ sở khi mà hiện nay các sản phẩm CEPT đã tăng rất nhanh trong tổng kim ngạch xuất khẩu nội bộ ASEAN, từ 81,38% năm 1994 lên 84,7% năm 1995.

3.2. Huỷ bỏ hạn chế về định lợng hàng rào phi quan thuế

Đây là cơ chế quan trọng thứ hai đợc tiến hành đồng thời với thực hiện chơng trình CEPT. Các nớc thành viên ASEAN sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lợng đối với các sản phẩm CEPT trên cơ sở chế độ u đãi thuế quan đợc áp dụng cho các sản phẩm đó. Các hàng rào phi

quan thuế khác cũng sẽ đợc xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm đợc hởng u đãi. Đây là sự hỗ trợ cực kỳ quan trọng cho tiến trình AFTA vì lẽ cắt giảm thuế là biện pháp cần thiết, đầu tiên song đó không phải là biện pháp duy nhất để thực hiện tự do hoá thơng mại. Các khía cạnh nh: các kênh giảm thuế đồng tuyến, danh mục loại trừ tạm thời, danh mục hàng nông nghiệp cha qua chế biến... tạo nên tính kỹ thuật của chính sách tự do hoá th- ơng mại, còn cấu thành nên sự tác động có tính chất hành chính, pháp lý giữa các quốc gia trong tiến trình chu chuyển thơng mại đó là các biện pháp về giấy phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch, các hạn chế về tỷ giá hối đoái, các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật hàng hoá... Đây là những rào cản trong thực tiễn hoạt động thơng mại, nó gắn chặt với các chính sách bảo hộ mậu dịch nặng nề và theo đó, việc loại bỏ chúng sẽ không dễ dàng nếu không có sự cải cách toàn diện ở tầm vĩ mô nền kinh tế của từng nớc. Hơn nữa, hiện nay, những biện pháp này còn rất không đồng nhất giữa các nớc thành viên ASEAN. Do vậy, để chuẩn bị tốt tiến trình xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế, Uỷ ban Phối hợp thực hiện CEPT/AFTA của ASEAN đã tiến hành các bớc nh sau:

Bớc 1: Các nớc thành viên cùng thống nhất định nghĩa về các biện pháp phi quan thuế dựa trên sự phân loại của UNCTAC.

Bớc 2: tập trung trớc tiên việc giảm các hàng rào phi thuế quan đối với các sản phẩm có tỷ trọng lớn trong giao dịch thơng mại nội bộ ASEAN.

Bớc 3: Ban th ký ASEAN sẽ tập hợp thông tin các hàng rào phi quan thuế của các nớc thành viên từ nhiều nguồn, gồm: báo cáo của các quốc gia thành viên, bản đánh giá chính sách th- ơng mại của GATT, báo cáo của Phòng thơng mại-Công nghiệp ASEAN, hệ thống thông tin và phân tích dữ liệu thơng mại của UNCTAC... để có một chính sách điều hoà thích hợp. Trừ một số lý do đợc phép duy trì các hàng rào phi quan thuế nh: sự cần thiết phải bảo hộ một số sản phẩm thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn, sự bảo hộ đối với một số sản phẩm trong thời gian còn đợc hởng chế độ miễn trừ tạm thời... việc xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế cần đ- ợc phối hợp đồng bộ với chơng trình CEPT, trong đó quan trọng nhất và khó khăn nhất là việc thống nhất các tiêu chuẩn về hàng hoá và việc thừa nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn hoá hàng hoá giữa các nớc thành viên. Hiện tại, Uỷ ban về tiêu chuẩn Chất lợng của ASEAN (ACCSQ) đang tiến hành thống nhất hoá các tiêu chuẩn về kỹ thuật của các sản phẩm CEPT thuộc nhóm những hàng hoá có kim ngạch buôn bán lớn giữa các nớc ASEAN. Tất nhiên, ở đây cần phân biệt rõ giữa hàng rào phi quan thuế và các biện pháp phi quan thuế bởi vì rất nhiều biện pháp phi quan thuế lại có tác dụng tốt cho việc tạo dựng môi trờng thơng mại. Ví dụ, chính sách trợ giá xuất khẩu của Chính phủ, biện pháp chống bán phá giá...

Dĩ nhiên, việc thống nhất và xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế là một công việc khó khăn vì ba lý do: thứ nhất, các hàng rào phi quan thuế đa dạng và thờng ẩn dấu đằng sau các chính sách (ví dụ chính sách kiểm dịch, chính sách duy trì hạn ngạch để hỗ trợ công nghiệp, chính sách đánh giá cao giá trị của đồng bản tệ...); thứ hai, các bộ luật thuế quan của các nớc ASEAN vẫn còn cha đợc điều hoà (Việt Nam theo hệ thống điều hoà thuế quan (HS) 6 chữ số, Thái Lan là HS-8, Malaysia và Singapore là HS-9...), và theo đó, cơ quan hải quan trong từng nớc thành viên khó có thể áp dụng đúng thuế, đúng sản phẩm. Thứ ba là, các nguyên tắc về xuất xứ sản phẩm cũng sẽ làm phức tạp hơn các tình thế xử lý về mặt phi quan thuế theo CEPT khi đầu t và thơng mại giữa các nớc ASEAN trở nên thờng xuyên và mật thiết. Để giải quyết các vấn đề này, phòng Thơng mại và Công nghiệp ASEAN có nhiệm vụ đẩy nhanh

quá trình điều hoà các bộ luật thuế quan với sự u tiên trớc hết giành cho các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch buôn bán nội bộ ASEAN và những sản phẩm thuộc 15 danh mục hàng hoá tham gia kênh giảm thuế nhanh của CEPT. Hội đồng CEPT đã tán thành kế hoạch hành động để điều hoà về các tiêu chí luật thuế và phi quan thuế trên toàn khu vực vào năm 1997.

3.3. Sự phối hợp trong ngành hải quan

Các nớc ASEAN đã xác định việc hợp tác hải quan là một trong những nhân tố quan trọng để thực hiện mục tiêu của AFTA, do vậy ngay sau khi Hiệp định CEPT đợc ký kết, các nớc đã tăng cờng hợp tác trên lĩnh vực này.

Phối hợp hải quan là cơ chế thực hiện của chơng trình CEPT khi nó hỗ trợ các nớc thành viên thống nhất biểu thuế quan theo Hệ thống điều hoà (HS) của nó. Hơn nữa, nó tạo thuận lợi cho việc thực hiện giảm thuế và phi quan thuế khi hệ thống tính giá hải quan đợc thống nhất, các luồng xanh u đãi cho hàng hoá theo CEPT của ASEAN đợc hình thành và đặc biệt thủ tục hải quan đợc thống nhất. Nh vậy, tiến trình AFTA nhanh hay chậm, đợc điều chỉnh hay bổ sung đều tuỳ thuộc đáng kể vào các chơng trình hợp tác hải quan.

Thuế quan trung bình theo CEPT trong giai đoạn 1998-2003 của ASEAN

Nớc thành viên 1998 1999 2000 2001 2002 2003

Bruney 1,4 1,3 1,0 1,0 0,9 0,9

Indonesia 6,1 5,3 4,6 4,4 4,1 3,7

Lào 5,0 5,0 5,0 5,0 5,0 5,0

Malaysia 3,4 3,0 2,6 2,4 2,3 2,0

Mianma 4,5 4,5 4,4 3,3 3,3 3,2

Philipin 7,4 6,5 5,3 4,8 4,5 3,6

Singapore 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0

Thailand 10,6 9,8 7,4 7,4 6,0 4,6

Việt Nam 3,9 3,9 3,0 3,0 2,7 1,8

ASEAN 5,1 4,6 3,7 3,5 3,2 2,6

Đơn vị: % (* nguồn: Ban th ký ASEAN, 1999)

Ghi chú: Thuế suất theo CEPT của toàn ASEAN là bình quân gia quyền với quyền số là dòng thuế trong Danh mục cắt giảm ngay (IL) năm 1998.

Chúng ta thấy, thuế quan bình quân ASEAN vào thời điểm này của từng nớc ASEAN-6 đều đã đạt xấp xỉ dới 5% (ngoại trừ Thailand và Philipin vẫn còn thuế suất bình quân khá cao). Nh vậy có thể nói các nớc ASEAN-6 về cơ bản đã hoàn thành việc chuyển các dòng

thuế trong các danh mục, đặc biệt là Danh mục loại trừ tạm thời sang Danh mục cắt giảm ngay đồng thời giảm thuế trong Danh mục cắt giảm ngay.

Đối với các thành viên mới, vì thời hạn hoàn thành CEPT còn xa hơn, do đó, tiến độ chuyển các dòng thuế từ các danh mục, đặc biệt là Danh mục loại trừ tạm thời sang Danh mục cắt giảm ngay chậm hơn. Tới năm 2000, mới chỉ có khoảng 50% số dòng thuế đợc đa vào Danh mục này.

Đối với Việt Nam, năm 2000 sẽ đạt 3.573 dòng thuế trên tổng số 4.827 dòng trong Danh mục cắt giảm ngay, tơng đơng khoảng 74% tổng số dòng thuế. Đây là tỷ lệ cao nhất so với các thành viên mới khác của ASEAN. Cũng căn cứ vào số liệu do Ban th ký ASEAN cung cấp, trong năm 2000, mức thuế quan bình quân thực hiện CEPT của Việt Nam đạt 3,4% từ mức 3,9% năm 1999, đây là một sự cắt giảm đáng kể. So với mức thuế quan bình quân hiện nay tính gia quyền theo kim ngạch thơng mại cho tất cả các dòng thuế (kể cả dòng có thuế suất bằng 0) trên 11% thì chúng ta đã thực hiện thuế theo CEPT chỉ thấp bằng 1/3 của mức thuế suất bình quân hiện hành áp dụng chung cho các nớc có quan hệ thơng mại với Việt Nam.

Trên cơ sở thực hiện Hiệp định CEPT với các nớc ASEAN, thời gian vừa qua Việt Nam đã đạt đợc nhiều thuận lợi về thơng mại với các nớc ASEAN, điều dó tạo điều kiện để kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng nhanh chóng. Khu vực các nớc ASEAN đã và sẽ ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong mối quan hệ thơng mại với Việt Nam.

Tổng cục Hải quan đã tham gia với các nớc thành viên ASEAN khác trong mọi lĩnh vực hợp tác hải quan ASEAN: Điều hoà thống nhất danh mục biểu thuế quan của các nớc ASEAN; Điều hoà thống nhất các hệ thống xác định trị giá hải quan để tính thuế; Điều hoà thống nhất quy trình thủ tục hải quan ASEAN; Xuất bản sách Hớng dẫn về các quy trình thủ tục hải quan của các nớc; Triển khai Hệ thống Luồng xanh để nhanh chóng hoàn thành các thủ tục hải quan cho các sản phẩm của CEPT; Xây dựng tờ khai hải quan chung; Xây dựng Hiệp định Hải quan của các nớc ASEAN.

Tuy nhiên, trong lĩnh vực này do những sự khác biệt giữa Việt Nam và các nớc về quy định của Luật thuế xuất nhập khẩu, danh mục biểu thuế, quy trình thủ tục hải quan nên ta đang có những khó khăn khi tham gia các nội dung hợp tác này.

4. Triển vọng của AFTA

Tỷ lệ xuất khẩu của ASEAN sang các đối tác ngoài khối tăng 10.5% tơng đơng 200,5 tỉ đô la năm 1999 từ 178,4 tỉ đô la năm 1998. Điều này có sự đóng góp rất lớn của các mặt hàng xuất khẩu sang EU, tiếp theo là Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong khi lợng nhập khẩu từ các đối tác này cũng tăng vào năm 1999 trừ Mỹ, lợng nhập chỉ còn 5 tỉ đô la. Sự gia tăng nhập khẩu trong số các đối tác thuộc khối chủ yếu là từ Hàn Quốc và Nhật Bản.

Các quốc gia thành viên dợc thụ hởng các điều kiện u đãi do AFTA mang lại: có thị trờng chung rộng lớn, các yếu tố đầu vào giảm, thu hút mạnh mẽ đầu t nớc ngoài và thông qua AFTA từng bớc hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trên cơ sở này, các nớc thành viên ngày càng phát huy đợc các lợi thế so sánh của mình. Cũng vì vậy, ngời ta đã dự báo rằng trong những năm đầu của thế kỷ XXI, ASEAN vẫn là những nền kinh tế có tốc độ tăng trởng cao

nhất, vẫn là những nền kinh tế có hiệu suất của khu vực phát triển năng động nhất thế giới. Với việc Việt Nam gia nhập APEC vào năm 1998, ASEAN ngày càng có ảnh hởng đáng kể đối với Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Khu vực Châu á - Thái Bình Dơng.

Hiện tại, Hiệp hội ASEAN đã quyết định kết nạp thành viên cuối cùng của Đông Nam á là Campuchia vào tổ chức của mình. từ ASEAN - 9 đến ASEAN -10 và theo đó là việc nghiễm nhiên Campuchia tham gia AFTA, khu vực mậu dịch tự do ASEAN sẽ đợc mở rộng về quy mô, đa dạng về trình độ, và là sự bổ sung về mặt cơ cấu để cả khu vực ASEAN thành một thể chế kinh tế thống nhất. Những kinh nghiệm và các vấn đề bức xúc đặt ra trong tiến trình thực hiện AFTA hiện nay sẽ là những bài học quý giá cho các thành viên đi sau. Nhìn chung, triển vọng ở AFTA không phải chỉ là hiệu quả thơng mại và đầu t nội bộ khu vực mà là ở việc AFTA đã đặt tất cả các nền kinh tế thành viên trớc những sự chuyển đổi cần thiết từ bên trong, tìm đợc ra những điểm tơng đồng, bổ sung và thúc đẩy nhau với t cách là một thể chế thống nhất có sức mạnh và ảnh hởng lớn tới các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu khác.

AFTA với t cách là một sự nhất thể hoá thị trờng khu vực, sẽ làm tăng sự lệ thuộc lẫn nhau vì sự cần thiết phải phối hợp với nhau về các chính sách kinh tế. Mọi sự chênh lệch về mức thuế quan sẽ đợc thu hẹp và khả năng mở ra cho một khu vực thơng mại tự do hơn sẽ đợc đẩy mạnh. Những nhân tố chủ yếu quyết định sự thành công của AFTA mà chúng ta có thể thấy là: thứ nhất, với sự hội tụ của công nghiệp hoá, giảm thuế quan và các hàng rào phi quan thuế, phi điều chỉnh và t nhân hoá, nguồn gốc tiềm tàng của xung đột và các vấn đề nảy sinh trong khu vực thơng mại tự do sẽ bị thu hẹp. Thứ hai, với chơng trình giảm thuế CEPT đợc kết hợp chặt chẽ với chơng trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), các lợi ích thu đ- ợc từ AFTA sẽ đợc nhân lên gấp bội. Cùng với các chơng trình hợp tác rộng rãi về nhiều lĩnh vực: tài chính, tiền tệ, sở hữu trí tuệ... và hợp tác theo vùng kinh tế khu vực nh là với các tam giác, tứ giác tăng trởng ASEAN sẽ đợc thúc đẩy mạnh mẽ. Thứ ba, sự hài hoà trong khu vực về các tiêu chuẩn công nghiệp, luật đầu t và các chính sách nội địa khác sẽ góp phần đẩy nhanh tiến ttrình nhất thể hoá. Thứ t, với những thành công trong vòng đàm phán Urugoay và với sự tăng cờng của WTO, APEC, Hiệp hội ASEAN nhất thiết phải cố gắng giảm thuế quan và phi quan thuế nhanh cho tất cả đối với các nớc thành viên và không phải thành viên. Do đó, thực hiện AFTA trong bối cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá hiện nay đang tạo cơ hội tốt nhất cho các nớc thành viên ASEAN tiếp tục mở rộng sự tăng trởng năng động của nó. )

5. Những tác động của AFTA đến các nớc thành viên

Khi tham gia vào AFTA có ba loại chủ thể chịu tác động là Nhà nớc, doanh nghiệp và

ngời tiêu dùng.

Đối với Nhà nớc, khi gia nhập AFTA, nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu sẽ giảm xuống. Nếu việc tham gia AFTA không làm tăng khối lợng biôn bán đến lúc mà số lợng thuế thu đợc do tăng doanh thu không bù đắp đợc sự cắt giảm thu do giảm thuế suất.

Đối với doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thơng mại chịu hai loại tác động ngợc chiều, tăng khả năng cạnh tranh về giá cả và chịu sức ép cạnh tranh lớn hơn do xoá bỏ các hàng rào bảo hộ.

Đối với ngời tiêu dùng, họ sẽ có lợi về giá cả rẻ hơn, chủng loại hàng hoá phong phú

đa dạng hơn. Họ đớc quyền lựa chọn lớn hơn và mức độ thoả mãn trong tiêu dùng cao hơn.

Chơng II:

việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ afta

I. NHữNG CAM KếT CủA VIệT NAM TRONG KHUÔN KHổ AFTA

1. áp dụng quy chế tối huệ quốc - MFN

Việt Nam cam kết áp dụng trên cơ sở có đi có lại, u đãi tối huệ quốc và u đãi quốc gia cho các nớc thành viên ASEAN, cung cấp các thông tin phù hợp về chính sách thơng mại theo yêu cầu. Có thể nói, hợp tác kinh tế là quá trình hợp tác trên cơ sở "có đi có lại", trong đó các nớc thành viên giành sự đối xử u đãi cho nhau trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của tổ chức, chấp nhận các luật lệ và tập quán quốc tế. Quá trình tự do hoá thơng mại và đầu t trong tổ chức ASEAN nói riêng và APEC, GATT, WTO nói chung đều đợc thực hiện trên cơ sở giải thoát các nớc ra khỏi tình trạng phân biệt đối xử nghiêm trọng trong các quan hệ thơng mại gây cản trở lớn cho phát triển kinh tế thế giới, trong đó mọi thành viên đều bình đẳng, mọi quyết định đều đạt tới bằng sự nhất trí chung tôn trọng quan điểm của các nớc tham gia. Trên nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh để tiến hành các cuộc thơng lợng tập thể nhằm thiết lập các thoả thuận và và các luật lệ chung, việc tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực nói chung và AFTA nói riêng giúp chúng ta tránh khỏi tình trạng bị phân biệt đối xử trong trong quan hệ với các nớc, đặc biệt là những nớc lớn, tạo dựng đợc thế và lực trong th- ơng mại quốc tế, tranh thủ đợc lợi ích tập thể của cả khối để nâng cao vai trò và sức cạnh tranh của mình trong quan hệ với các cờng quốc, giải quyết các tranh chấp thơng mại với các nớc thành viên.

2. Cắt giảm thuế quan Việt Nam - AFTA theo CEPT

Tại Hội nghị Thợng đỉnh ASEAN lần thứ VI, các nguyên thủ quốc gia ASEAN đã quyết

định đẩy nhanh hơn nữa việc thực hiện AFTA. Theo các cam kết của ASEAN thì:

8Sáu nớc ASEAN gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore,

Thái Lan sẽ hoàn thành AFTA vào năm 2002, cụ thể là:

+ Đạt ít nhất 85% số dòng thuế của Danh mục giảm thuế (IL) có thuế suất 0

- 5% vào năm 2000

+ Đạt ít nhất 90% số dòng thuế của IL có thuế suất 0- 5% vào năm 2001

+ Đạt 100% số dòng thuế của IL có thuế suất 0 - 5% vào năm 2002, nhng

có một số linh hoạt

8Việt Nam sẽ tối đa số dòng thuế 0 - 5% vào năm 2003, mở rộng số dòng

0% vào năm 2006

8Lào và Myanma sẽ tối đa số dòng thuế 0 - 5% vào năm 2005, mở rộng số

dòng thuế 0% vào năm 2008

Tại Hội nghị AEM Retreat (3/1999), các Bộ trởng kinh tế ASEAN đã đặt mục tiêu phấn đấu đạt 60% số dòng thuế trong Danh mục cắt giảm thuế (IL) có thuế suất 0% vào năm 2003.

ă Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm những mặt hàng sẽ đợc loại trừ vĩnh viễn ra khỏi chơng trình CEPT. Danh mục này đợc xây dựng phù hợp với điểm 9 của Hiệp định CEPT và bao gồm những nhóm mặt hàng có ảnh hởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống và sức khoẻ con ng- ời, động vật, thực vật, các giá trị lịch sử, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật của mỗi nớc… Danh mục loại trừ hoàn toàn của Việt Nam ban đầu gồm 213 dòng thuế, chiếm 6,2% tổng số dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu. Sau đó đợc chuyển bớt một số sang Danh mục loại trừ tạm thời và cơ cấu lại còn 127 dòng thuế.

ă Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) chủ yếu đợc sử dụng để nhằm đạt đợc yêu cầu không ảnh hởng lớn đến nguồn thu ngân sách và bảo hộ các ngành sản xuất trong nớc. Danh mục này gồm các sản phẩm mà các nớc ASEAN cha sẵn sàng cắt giảm thuế ngay. Trong vòng 5 năm, kể từ 1/1/1996 (đối với Việt Nam là 1/1/1999), các sản phẩm thuộc danh mục này phải đợc chuyển dần vào Danh mục giảm thuế, mỗi năm 20% số sản phẩm trong Danh mục. Đối với các sản phẩm có thuế suất trên 20% và đợc chuyển sang Danh mục giảm thuế trớc 1/1/1998, đến 1/1/1998 thuế suất phải đợc giảm xuống 20%. Đối với các sản phẩm đợc chuyển sang Danh mục giảm thuế sau 1/1/1998, thuế suất khi đa vào phải bằng hoặc nhỏ hơn 20%, để từ đó giảm tiếp xuống 0 - 5%. Danh mục loại trừ tạm thời của Việt Nam bao gồm 1147 dòng thuế chiếm 39,2 % tổng số dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu.

ă Danh mục giảm thuế (IL)

Theo quy định của Hiệp định CEPT/AFTA (đã sửa đổi), những mặt hàng đ- ợc đa vào IL là những mặt hàng sẽ phải cắt giảm thuế để có thuế suất cuối cùng từ 0% đến 5% vào năm 2003 (đối với Việt Nam là năm 2006, đối với Lào và Myanma là năm 2008). Kể từ năm 1996, mỗi năm các nớc ASEAN phải đa thêm 20% các mặt hàng từ danh mục hàng tạm thời cha giảm thuế (TEL) sang IL. Các thời hạn tơng ứng đối với Việt Nam là năm 1999, với Lào và Myanma là năm 2001, Campuchia là 2003. Trong quan hệ thơng mại giữa hai nớc ASEAN, chỉ khi một mặt hàng nằm trong IL của cả hai n- ớc thì mới đợc hởng các u đãi nói cách khác u đãi đợc đa ra trên cơ sở có đi có lại. Danh mục giảm thuế của Việt Nam gồm 1718 dòng thuế, chiếm 53% tổng số dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu.

ă Danh mục các mặt hàng nông sản cha chế biến nhạy cảm (SL)

Danh mục các mặt hàng nông sản cha chế biến có khả năng gây ảnh hởng lớn đến nền kinh tế ASEAN nếu thực hiện giảm thuế quan theo lịch biểu của chơng trình CEPT. Danh mục này đợc xây dựng dựa trên cơ sở tham khảo danh mục này của các nớc ASEAN và căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của sản xuất trong nớc đối với một số mặt hàng nông sản cha chế biến. Thời hạn đa các mặt hàng trong Danh mục này vào Danh mục giảm thuế sẽ bắt đầu từ 2001 và kết thúc vào 2003 (đối với Việt Nam là 2004 và 2006). Các mặt hàng trong Danh mục này đợc kéo dài thời hạn giảm thuế quan

xuống 0 - 5% cho đến năm 2010 thay vì 2003 nh các mặt hàng khác (đối với Việt Nam là 2013). Đây là các mặt hàng quan trọng đối với mỗi nớc nên thờng đợc bảo hộ rất cao, vì thế bên cạnh thời hạn giảm thuế, các mặt hàng này còn cần phải có thoả thuận cụ thể về thuế suất bắt đầu thực hiện giảm thuế và các chế độ đãi ngộ khác. sống ngành.

ă Danh mục cắt giảm thuế quan chủ yếu bao gồm các mặt hàng hiện đang có thuế suất thấp hơn 20% và một số mặt hàng có thuế suất cao hơn nhng Việt Nam đang có lợi thế xuất khẩu.

Việt Nam đã đa ra nội dung và kế hoạch thực hiện chơng trình cắt giảm thuế quan nhập khẩu theo cam kết CEPT/AFTA trong năm 2000 và những năm sau đó. Theo Tổng cục thuế - Bộ Tài chính đến hết năm 1999, Việt Nam đã cắt giảm thuế 3.580 mặt hàng, chiếm 60 % tổng số dòng thuế dự kiến đa vào thực hiện , Danh mục nhạy cảm của Việt Nam gồm 23 dòng thuế, bao gồm các mặt hàng nh: các loại thịt, trứng gia cẩm, động vật thóc, gạo lức, đ- ờng ăn,… Các mặt hàng này hiện đang đợc áp dụng các biện pháp phi thuế quan nh quản lý theo hạn ngạch, quản lý của Bộ chuyên chơng trình cắt giảm thuế. Trong năm 2000, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ phê chuẩn ban hành danh mục CEPT. Danh mục CEPT 2000 của Việt Nam gồm khoảng 4.230 dòng thuế, trong đó có hơn 640 dòng mới chuyển từ danh mục loại trừ tạm thời vào thực hiện CEPT 2000, đạt 65% tổng số dòng thuế dự kiến đa vào cắt giảm theo cam kết với các nớc ASEAN với khoảng 2.960 dòng thuế có mức thuế suất từ 0 - 5% và 1.270 dòng thuế có thuế suất từ 5 - 50%.

So sánh mục tiêu chủ yếu của Chơng trình cắt giảm thuế quan CEPT là các nớc thành viên sẽ giảm thuế nhập khẩu đối với đa số các mặt hàng nhập khẩu từ các nớc thành viên ASEAN khác xuống còn từ 0 - 5% với Biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam hơn tổng số 3211 nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam hơn nửa tổng số nhóm mặt hàng đã phù hợp với mức thuế tiêu chuẩn đặt ra cho Chơng trình CEPT, điều đó có nghĩa là về thực chất Việt Nam chỉ phải thực hiện giảm thuế cho gần 50% của tổng số nhóm mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu. So với các nớc thành viên ASEAN khác khi bắt đầu thực hiện chơng trình cắt giảm thuế quan theo CEPT của Việt Nam nhiều hơn rất nhiều. Ví dụ Indonesia khi bắt đầu tham gia CEPT chỉ có 9% tổng số nhóm mặt hàng có thuế suất dới 5%, Thái Lan có 27%, Philippin có 32%. Trong cơ cấu của Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam, mức thuế suất thấp chủ yếu áp dụng cho các mặt hàng là nguyên vật liệu là đầu vào phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu. Tỷ trọng lớn của số các thuế suất trong khoảng 0 - 5% phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn khi nhiều nguyên vật liệu là đầu vào mà sản xuất trong nớc cha đủ khả năng đáp ứng. Các thuế suất cao hơn phần lớn là áp dụng với các mặt hàng trong nớc đã sản xuất đợc nhằm bảo về các nhà sản xuất trong nớc hoặc các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu. Các mức thuế suất trên 60% đợc áp dụng chủ yếu với các mặt hàng xa xỉ phẩm, đồ dùng thiết bị với mục đích điều chỉnh tiêu dùng. Do đó hiện nay khi nền sản xuất trong nớc của Việt Nam đã phần nào phát triển và đáp ững đợc một phần các sản phẩm cần thiết phục vụ cho sản xuất mà trớc đây phải nhập từ nớc ngoài, nhu cầu nâng cao các mức thuế suất thuế nhập khẩu nhằm mục đích bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nớc là thật sự cần thiết. Điều này sẽ phần nào mâu thuẫn với nội dung thực hiện của ch- ơng trình cắt giảm thuế khi Việt Nam cam kết tham gia thực hiện AFTA.

Ngoài ra khi cân nhắc, xem xét để thực hiện chơng trình cắt giảm thuế theo Hiệp định CEPT một vấn đề nữa cũng đợc đặt ra là Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam có một số điểm không thật sự phù hợp với thông lệ quốc tế do đó gây khó khăn khi Việt Nam tham gia thực hiện các Hiệp định quốc tế nh Hiệp định CEPT. Trong quá trình xây dựng các Danh mục hàng hoá và chơng trình giảm thuế theo Hiệp định CEPT, chúng ta đã gặp không ít khó khăn do xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam thấp hơn so với các nớc thành viên khác. Hơn nữa về mặt kỹ thuật, ngoài các điểm còn khác biệt về hệ thống thuế áp dụng đối với hàng xuất nhập khẩu và hệ thống mã số của Biểu thuế Việt Nam so với các nớc ASEAN khác, các thuế suất của Biểu thuế hiện hành đòi hỏi đợc điều chỉnh cơ bản để phù hợp với sự phát triển của các ngành sản xuất trong nớc.

3. Huỷ bỏ các hạn chế về định lợng và hàng rào phi quan thuế

Các biện pháp phi thuế quan mà các nớc ASEAN áp dụng là rất đa dạng, đặc biệt là các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật. ở Việt Nam, những biện pháp phi thuế quan còn rất đơn giản và chủ yếu là các biện pháp giấy phép, hạn ngạch,… Do đó để việc thực hiện loại bỏ các biện pháp phi thuế quan theo Hiệp định CEPT của Việt Nam có lợi nhất, đáp ứng đợc yêu cầu của bảo hộ sản xuất trong nớc, ta đã có phơng án nghiên cứu ban hành bổ sung các biện pháp phi quan thuế tơng tự nh các nớc ASEAN đang áp dụng trớc khi loại bỏ chúng. Chính phủ Việt Nam đã có nỗ lực trong việc huỷ bỏ việc kiểm soát bằng hạn ngạch trừ một số sản phẩm nh gạo và những mặt hàng nớc nhập khẩu phân bổ hạn ngạch cho nớc ta. Một thành công nữa là cải thiện một cách triệt để về giấy phép xuất nhập khẩu mà nhờ đó hầu hết các doanh nghiệp có thể tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp những mặt hàng không thuộc danh mục hạn chế hoặc cấm xuất nhập khẩu: Chúng tha đang nghiên cứu và áp dụng dần hiệp định Trị giá tính thuế quan của GATT thông qua thực hiện hiệp định GVA tính từ năm 2000- 2004.

Danh mục nhạy cảm cao (HSL) bao gồm một số rất ít các nông sản cha chế biến mà một số nớc ASEAN cho là đặc biệt nhạy cảm đối với nền kinh tế, do đó khi đa vào cắt giảm thuế quan theo Chơng trình CEPT thì cần phải có quy chế đặc biệt cho phép linh hoạt hơn về thuế suất, thời gian khi bắt đầu và kết thúc giảm thuế, về việc loại bỏ Hạn chế định lợng (QR) và các hàng rào phi thuế quan (NTB), về các biện pháp tự vệ. Danh mục này của các nớc ASEAN có 23 dòng thuế, bao gồm một số mặt hàng nh gạo, đ- ờng, thuốc lá, gỗ,.. Việt Nam không đa ra danh mục này.

Song song với việc tham gia thực hiện AFTA từ góc độ tổ chức thực hiện của các Bộ ngành quản lý Nhà nớc, vấn đề quan trọng hơn mà chúng ta cần xem xét là khía cạnh kinh tế của việc cắt giảm thuế quan và loại bỏ hàng rào phi quan thuế, khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nớc khi không còn hàng rào bảo hộ, khả năng tận dụng các u đãi để thâm nhập thị trờng các nớc mà đi liền với nó chính là sự chuẩn bị của khu vực kinh doanh để thích ứng với điều kiện mới. Bởi vì tham gia AFTA không sớm

thì muộn sẽ đặt các doanh nghiệp trong nớc trớc một môi trờng cạnh tranh quốc tế.

Hệ thống các chính sách phi quan thuế đợc khẩn trơng nghiên cứu vì ngoài mục đích công bố với ASEAN, những định hớng trong chính sách áp dụng và loại bỏ các biện pháp phi quan thuế cần phải đợc kết hợp song song với các biện pháp về thuế để bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nớc trong một chừng mực có thể.

Để tiến tới việc hoàn thành AFTA, Điều 5 của Hiệp định CEPT còn xác định mục tiêu loại bỏ các hàng rào phi thuế quan nh hạn chế số lợng, hạn ngạch giá trị nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu có tác dụng hạn chế định lợng... trong vòng năm năm sau khi một sản phẩm đợc hởng u đãi thuế quan. Các nớc đã xác định nhiều biện pháp ảnh hởng rộng và chủ yếu đối với thơng mại hàng hoá trong khu vực ASEAN là phụ thu hải quan và Các hàng rào cản trở th- ơng mại (TBT). Tại phiên họp Hội đồng AFTA lần thứ tám, các nớc ASEAN đã thống nhất quyết định thời hạn loại bỏ Các hàng rào cản trở thơng mại là hết năm 2003.

Các hàng rào phi thuế quan phổ biến nhất của ASEAN theo dòng thuế năm 1995

Phụ thu hải quan: 2.683 dòng thuế

Phụ phí: 126 dòng thuế

Nhập khẩu theo kênh độc quyền: 65 dòng thuế

Điều hành của thơng mại nhà nớc: 10 dòng thuế

Các hàng rào cản trở thơng mại (TBT): 568 dòng thuế

Yêu cầu về đặc điểm sản phẩm: 407 dòng thuế

Các yêu cầu về tiếp thị: 3 dòng thuế

Các quy định kỹ thuật: 3 dòng thuế

(* nguồn: Ban th ký ASEAN, 1995)

Về phần mình, Việt Nam đã cam kết đệ trình danh mục hạn chế về số lợng (QRs) và các hàng rào phi quan thuế khác (NTBs). Song do các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam đơn giản, chủ yếu là biện pháp giấy phép, hạn ngạch cho nên trớc mắt Việt Nam cha hoàn thành đợc bản danh mục loại bỏ các biện pháp phi quan thuế này. Theo yêu cầu của CEPT, các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật, một hàng rào phi quan thuế đang đợc Việt Nam với t cách là thành viên chính thức đang nghiên cứu vận dụng trên cơ sở có sự phối hợp chặt chẽ với các hoạt động của Uỷ ban T vấn ASEAN về tiêu chuẩn chất lợng.

Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thơng mại thời kỳ 2001 - 2005

- Hàng xuất khẩu:

+ Hàng dệt may xuất khẩu theo hạn ngạch mà Việt Nam thoả thuận với nớc ngoài, do Bộ Thơng mại công bố cho từng thời kỳ(toàn bộ thời kỳ 2001 - 2005)

+ Hàng cần kiểm soát xuất khẩu theo quy định của điều ớc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, do Bộ Thơng mại công bố cho từng thời kỳ (toàn bộ thời kỳ 2001 - 2005)

- Hàng nhập khẩu:

+ Hàng cần kiểm soát xuất khẩu theo quy định của điều ớc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, do Bộ Thơng mại công bố cho từng thời kỳ(toàn bộ thời kỳ 2001 - 2005)

+ Xi măng portland, đen và trắng (đến ngày 31/12/2002)

+ Kính trắng phẳng có độ dày từ 1,5mm đến 12mm (đến ngày

31/12/2002)

+ Kính màu trà từ 5 - 12mm; kính màu xanh đen từ 3 - 6mm (đến ngày

31/12/2002)

+ Một số loại thép tròn, thép góc, thép hình; một số loại ống thép hàn;

một số loại thép lá, thép mạ (đến ngày 31/12/2002)

+ Một số loại dầu thực vật tinh chế dạng lỏng (đến ngày 31/12/2002)

+ Đờng tinh luyện, đờng thô (toàn bộ thời kỳ 2001 - 2005)

+ Xe hai bánh, ba bánh gắn máy nguyên chiếc mới 100% và bộ linh kiện lắp ráp không có đăng ký tỷ lệ nội địa hoá; máy và khung xe hai bánh, ba bánh gắn máy các loại, trừ loại đi theo bộ linh kiện đã đăng ký tỷ lệ nội địa hoá (đến ngày 31/12/2002)

+ Phơng tiện vận chuyển hành khách từ 9 chỗ ngồi trở xuống, loại mới bao gồm cả loại vừa chở khách vừa chở hàng, có khoang chở hàng và khoang chở khách chung trong một cabin (đến ngày 31/12/2002)

(* theo Quyết định của Thủ tớng Chính phủ về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 - 2005 của Bộ Thơng mại)

4. Hợp tác trong ngành hải quan

Ngay sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, Tổng cục hải quan đã triển khai kế hoạch thuế quan u đãi và phi thuế bắt đầu từ 1996 - 2003, giảm dần mức thuế suất 15 nhóm mặt hàng với khoảng 40.000 loại hàng hoá với mức thuế từ 20% xuống còn 5% và đến 0%. Số còn lại thuộc nhóm thứ 2 sẽ tiếp tục giảm trong thời gian sau đó theo lộ trình chung của AFTA. Đồng thời điều chỉnh thuế nhập khẩu đi tới thống nhất với ASEAN: theo chơng trình CEPT. Mặt khác, ngành hải quan đã phối hợp với các ngành chức năng xây dựng danh mục 200.000 mặt hàng xuất nhập khẩu đi tới thống nhất mã số 8 con số theo mã số chung của ASEAN thay cho mã số 6 con số. Ngày 29/9/1999, tại Hội nghị lần thứ 13 Hội đồng AFTA họp ở Singapore, các nớc tham gia đã bàn các biện pháp đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA tiến tới

loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong ASEAN, và thoả thuận tạo thuận lợi cho nhau giao lu thơng mại trong thời gian tới.

Đối với 6 nớc thành viên cũ sẽ thực hiện đa 85% số sản phẩm có thuế suất từ 0 đến 5% vào năm 2000, và đến 2002 sẽ đa 100% sản phẩm có thuế suất đó (sớm hơn 1 năm). Đồng thời, hội nghị cũng khuyến khích các nớc thành viên mới giảm thuế suất còn 0 - 5% vào năm 2003 đối với Việt Nam, và 2005 đối với Lào và Mianma. Đến năm 2005, thuế suất nhập khẩu của 6 nớc thành viên cũ là 0%, và 4 nớc thành viên mới sẽ thực hiện mức thuế này vào năm 2008. Việt Nam đệ trình 4 Danh mục hàng hoá của mình để tham gia chơng trình cắt giảm thuế quan. Việc phân loại hàng hoá vào các Danh mục về cơ bản đợc tiến hành theo nh các quy định của ASEAN. Trên thực tế, hớng chính khi xây dựng các Danh mục là đa các mặt hàng hiện đang có thuế suất thấp vào các Danh mục cắt giảm và mở rộng phạm vi của Danh mục loại trừ tạm thời để trì hoãn thời điểm thực hiện việc cắt giảm, đảm bảo yêu cầu không gây ra tác động lớn cho nền kinh tế trong một thời gian trớc mắt, kéo dài đến mức có thể sự bảo hộ đối với sản xuất trong nớc để có thêm thời gian chuẩn bị. Việt Nam tham gia tích cực vào quá trình đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập khẩu nh: Thủ tục nộp khai hoá hàng hoá khi xuất khẩu, nhập khẩu, kiểm tra hàng hoá, cấp giấy chứng nhận xuất xứ hồi tố, hoàn thuế. Việc hải quan Việt Nam cùng với hải quan các nớc ASEAN thống nhất thành lập cửa giải quyết thủ tục hải quan riêng cho các mặt hàng nhập khẩu theo Hiệp định CEPT tại cửa khẩu của mỗi nớc thành viên mà thủ tục hải quan trung bình giảm xuống còn 3 giờ 45 phút thay giờ 9 giờ 30 phút.

5. Thiết lập khu vực đầu t ASEAN - AIA:

Theo tinh thần Hội nghị Thợng đỉnh ASEAN lần thứ V (Bangkok 12/1995), bên cạnh việc hớng tới hình thành nột khu vực thơng mại tự do về hàng hoá (AFTA), ASEAN bắt đầu mở rộng tự do hoá sang các lĩnh vực dịch vụ, đầu t, sở hữu trí tuệ. ý tởng về một Khu vực đầu t ASEAN - AIA đợc hình thành với mục tiêu chung là loại bỏ các biện pháp hạn chế đầu t, thúc đẩy dòng đầu t giữa các nớc ASEAN với nhau và thu hút đầu t từ bên ngoài vào ASEAN, qua đó tăng thêm tính cạnh tranh của các lĩnh vực kinh tế ASEAN.

Trong quá trình thảo luận Hiệp định khung về Khu vực đầu t ASEAN để tạo nên khung pháp lý cho việc ra đời cơ cấu AIA, ASEAN gặp phải một số điểm cha thống nhất, trong đó nổi bật là việc dành đãi ngộ quốc gia cho các nhà đầu t ASEAN các nhà đầu t nớc ngoài; định nghĩa về nhà đầu t ASEAN. Thời điểm hình thành AIA dự tính là năm 2010. AIA là một kỳ vọng nữa của ASEAN nhằm nối tiếp các chơng trình AFTA, AICO nhằm chứng tỏ tính luôn luôn năng động của ASEAN và tạo nên hình ảnh ASEAN hấp dẫn hơn nữa với các nhà đầu t cả trong và ngoài khu vực.

Từ khi Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, vốn đầu t vào Việt Nam của các doanh nghiệp ASEAN, thực chất là vốn đầu t từ 5 "cờng quốc" ASEAN là Singapore, Thailand, Malaysia, Philipines và Indonesia, không ngừng tăng lên về tuyệt đối lẫn tơng đối, mặc dù tốc độ gia tăng gần đây có chậm lại do khủng hoảng kinh tế khu vực. Kể từ khi Hiệp định khung AIA đợc ký kết vào tháng 7/1998, một bớc tiến mới của Việt Nam trên con đờng hội nhập kinh tế đã đợc xác lập. Theo tinh thần của AIA, là nhằm tạo ra một khu vực tự do trong nội bộ các nớc ASEAN vào năm 2010 và cho các nớc ngoài ASEAN vào năm 2020 thông qua hàng loạt các chơng trình tự do hoá, thu hút và tạo thuận lợi

cho đầu t. Việt Nam cũng cam kết mở cửa các ngành nghề để dành lấy chế độ đối xử quốc gia đồng thời cũng đa ra danh mục loại trừ tạm thời và danh mục nhạy cảm theo điều 7 của Hiệp định AIA.

Đ Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)

Nhằm tăng cờng khai thác các cơ sở nông nghiệp và công nghiệp động viên sự tham gia của khu vực t nhân vào các chơng trình hợp tác ASEAN, Phòng Thơng mại - công nghiệp ASEAN đã đề xuất việc thành lập các liên doanh công nghiệp ASEAN. Ngày 7/11/1983 tại Jakarta, các Bộ trởng Ngoại giao ASEAN đã ký Hiệp định cơ bản về liên doanh công nghiệp ASEAN. Theo Hiệp định này, một liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) là một tổ chức sản xuất bất kỳ sản phẩm nào có trong Danh mục Sản phẩm AIJV (APL) đã đợc các Bộ tr- ởng kinh tế ASEAN phê chuẩn; có sự tham gia của ít nhất hai nớc thành viên; có sở hữu cổ phần ASEAN tối thiểu 51% (trừ một số trờng hợp ngoại lệ). Các nhà đầu t của một AIJV đợc tự do lựa chọn địa điểm đặt dự án. Trong 4 năm đầu tiên kể từ khi AIJV đi vào sản xuất chính thức, các nớc tham gia sẽ dành cho sản phẩm của AIJV đó mức u đãi thuế quan tối thiểu là 50%.

II. kết quả bớc đầu trong việc thực hiện những cam kết của Việt Nam

Giai đoạn 1996 - 2000 mới bắt đầu đa vào cắt giảm những mặt hàng mà ta có lợi thế về xuất khẩu hoặc có nhu cầu nhập khẩu mà trong nớc cha có khả năng sản xuất đợc. Những mặt hàng này có mức thuế suất nhập khẩu thấp, chủ yếu dới 20% và phần lớn là những nhóm hàng có mức thuế suất 0 - 5%, do vậy việc thực hiện cắt giảm thuế suất theo AFTA hầu nh cha diễn ra trong thời gian này. Do vậy, cha thể có những tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Thực tế trong thời gian qua cho thấy ASEAN cha phải là thì trờng tiềm năng đối với các mặt hàng truyền thống của Việt Nam, mà hội nhập ASEAN chỉ là một bớc tập dợt chuẩn bị cho Việt Nam bớc vào một thị trờng rộng lớn hơn.

1. Số lợng mặt hàng của Việt Nam trong lộ trình giảm thuế tăng nhanh

Đến hết năm 1999, Việt Nam đã thực hiện cắt giảm thuế 3.580 mặt hàng, chiếm 60% tổng số dòng thuế dự kiến đa vào thực hiện chơng trình cắt giảm thuế. Trong năm 2000, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ phê chuẩn ban hành Danh mục CEPT 2000 của Việt Nam bao gồm khoảng 4.320 dòng thuế. Trong đó có hơn 640 dòng mới chuyển từ danh mục loại trừ tạm

thời vào thực hiện CEPT 2000, đạt 65% tổng số dòng thuế có mức thuế suất từ 0 - 5%; còn lại 1.270 dòng thuế có mức thuế suất từ 5 - 50%. Nhìn lại những năm trớc đây, năm 1996 là

năm đầu tiên Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế theo Hiệp định CEPT. Tại Nghị định 91/CP ngày 18-12-1995 của Chính phủ, 875 mặt hàng đã đợc đa vào danh mục cắt giảm theo CEPT của Việt Nam.

Năm 1997, tại Nghị định 82/CP ngày 13-12-1996 của Chính phủ, Việt Nam đã đa 1.496 mặt hàng vào thực hiện CEPT, trong đó có 621 mặt hàng mới, bổ sung cho danh mục của năm 1996.

Năm 1998, tại Nghị định số 15/1998/NĐ-CP ngày 12-3-1998 của Chính phủ, Việt Nam đã công bố Danh mục thực hiện CEPT năm 1998 gồm 1.633 mặt hàng, trong đó có 1.496 mặt hàng đã đợc đa vào từ năm 1997 và 137 mặt hàng mới.

Một số ngành hàng chính thực hiện theo tiến trình cắt giảm thuế quan theo CEPT/AFTA

đợc trình bày dới đây (* số liệu của phòng Tổng hợp - Bộ Ngoại Giao Việt Nam).

ã Mặt hàng nông sản:

+ Cà phê: Đối với sản phẩm cà phê hạt (nhóm 0901) đã đợc đa vào thực hiện CEPT từ năm 2000 trở về trớc. Đối với sản phẩm cà phê chế biến sâu (phân nhóm 2101.11) đa vào thực hiện CEPT/AFTA từ năm 2003.

+ Điều: Hạt điều thô (0801.31.00 và 0801.32.00) đã đa vào thực hiện CEPT từ năm 2000 trở về trớc. Hạt điều chế biến (2008.19.10) đa vào thực hiện CEPT từ năm 2003.

+ Lúa gạo: chất lợng gạo của ta cha đều, các khâu chế biến cha tốt nên còn hạn chế về mặt giá cả và dịch vụ đi kèm. Tuy Việt Nam có thế mạnh về xuất khẩu gạo song khó có thể đợc hởng u đãi thuế quan CEPT từ các nớc ASEAN trong một vài năm tới.

+ Chè: các mặt hàng chè cha chế biến (nhóm 0902 và 0903) và chè chế biến (2101.20.00) đều đã đa vào thực hiện CEPT/AFTA từ năm 2000 trở về trớc.

+ Các mặt hàng gỗ chế biến, gỗ ván, gỗ dán nhân tạo: dự kiến sẽ đa vào thực hiện CEPT từ năm 2003, mức thuế suất sẽ bằng mức thuế suất u đãi hiện hành tại thời điểm đó.

+ Dầu thực vật tinh chế: đa vào thực hiện từ năm 2003

+ Rau quả: phần lớn đã đa vào thực hiện từ năm 2000 trở về trớc; Riêng nho tơi hoặc khô (nhóm 0806) dự kiến đa vào thực hiện từ 2001.

ã Nhóm các mặt hàng thuỷ sản :

+ Đối với những mặt hàng có lợi thế xuất khẩu nh cá và thuỷ sản cha chế biến (nhóm 1605) đã đa vào thực hiện CEPT từ năm 2000 trở về trớc. Những mặt hàng còn lại gồm sản phẩm tinh khiết, nớc ép và chế biến thì đợc đa vào thực hiện từ 2002.

ã Ngành hàng dệt may : Đối với sản phẩm vải dự kiến đa vào cắt giảm từ 2003. Đối với lĩnh vực hàng may mặc đã đợc đa vào thực hiện cắt giảm từ năm 2000 trở về trớc.

ã Ngành da giầy : Nguyên liệu da đợc đa vào thực hiện từ 2000 trở về trớc. Sản phẩm bằng da thuộc thực hiện CEPT/AFTA đợc đẩy nhanh hơn là năm 2001. Giày dép (nhóm 6403-6405) thực hiện vào năm 2001.

ã Nhóm sản phẩm hoá chất : Hoá chất hữu cơ là năm 2002. Phân bón là năm 2003. Sản phẩm cao su : Đối với cao su nguyên liệu đã đợc đa vào thực hiện từ năm 2000 trở về trớc. Lốp, xăm xe ô tô và xe máy đa vào thực hiện CEPT từ năm 2003. Hoá mỹ phẩm, xà phòng và chất tẩy rửa : Nớc hoa, nớc thơm thực hiện năm 2002, mỹ phẩm, đồ trang điểm, chế phẩm dùng cho tóc và vệ sinh thực hiện năm 2001 ; pin, ắc quy là năm 2002.

ã Ngành hàng xi măng : dự kiến các mặt hàng clinker và xi măng thành

phẩm sẽ đợc đa vào thực hiện CEPT/AFTA từ năm 2003.

ã Ngành hàng gốm sứ thủ tinh xây dựng : Các sản phẩm xây dựng bằng gốm (năm 2001), các loại tấm lát đờng, gạch ốp lát tờng và lát nền bằng gốm, khối khảm bằng gốm sứ (năm 2003), bồn rửa, chậu giặt, bồn tắm… bằng gốm sứ (năm 2003), thuỷ tinh đúc và thuỷ tinh cán ở dạng tấm hoặc hình (năm 2003).

ã Ngành hàng điện tử - tin học : Micro, loa, tai nghe (năm 2001), máy hát, máy chạy băng, cát sét (năm 2001), máy ghi âm băng từ (năm 2001), máy thu phát video (năm 2001), băng đĩa đã ghi âm thanh (năm 2002), máy thu hình (năm 2003). Nhóm mặt hàng sản phẩm thiết bị tin học phần mềm và dịch vụ : dự kiến năm 2001để tạo điều kiện mở rộng khả năng tiếp cận, lĩnh hội và phát triển phần mềm của ta.

ã Nhóm sản phẩm cơ khí

+ Sản phẩm máy động lực và máy nông nghiệp và các thiết bị : Động cơ đốt trong dùng cho ô tô và xe máy (năm 2003), động cơ diesel đẩy thuỷ dùng cho ô tô và các dạng xe cộ khác (năm 2001), các bộ phận dùng cho các dạng động cơ thuộc hai nhóm trên (năm 2002), máy kéo (năm 2003).

+ Sản phẩm phục vụ ngành giao thông vận tải, chủ yếu là các phơng tiện vận tải : Ô tô chở khách từ 50 ngời trở lên (năm 2003), ô tô chở khách loại đặc biệt và xe chuyên dụng (năm 2001), các bộ linh kiện CKD, IKD của các loại ô tô (năm 2001), khung gầm và thân xe (năm 2002), phụ tùng và các bộ phận phụ trợ cho các dạng xe ô tô (năm 2003), xe đạp (năm 2003), tàu thuyền và các dạng phơng tiện vận tải đờng thuỷ khác (năm 2003).

2.Nỗ lực trong việc huỷ bỏ hàng rào phi quan thuế

Cắt giảm bảo hộ và tiến tới tự do hoá hoàn toàn thơng mại là xu thế chung của nền kinh tế thế giới, đợc các nền kinh tế phát triển cao khởi xớng và dẫn dắt. Các nớc chậm phát triển hơn, dù muốn hay không, đều bị cuốn hút vào quá trình này. Vấn đề đặt ra cho các nớc này là lựa chọn một chiến thuật thực hiện hợp lý, sao cho vừa thúc đẩy đợc nền sản xuất bản địa phát triển lại vừa lợi dụng đợc những lợi ích kinh tế mà tự do hoá mậu dịch đem lại.

Những mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch hiện nay chỉ còn gạo, dệt may và một số mặt hàng mà nớc nhập khẩu phân bổ hạn ngạch cho Việt Nam. Một bớc tiến lớn mà không thể không nhắc tới đó là việc Việt Nam đã cho phép hầu hết các doanh nghiệp đợc tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp những mặt hàng không thuộc danh mục hạn chế hoặc cấm xuất - nhập khẩu. Việt Nam cũng đã áp dụng các phơng pháp xác định trị giá tính thuế hải quan đúng theo Hiệp định GVA và đã tham gia HS từ ngày 01/01/2000. Việt Nam cũng cam kết trong khuôn khổ ASEAN về tính trị giá tính thuế quan theo đúng Hiệp định Trị giá tính thuế quan của GATT từ năm 2000 qua hạn ngạch ô Th ng và giấy phép xuất - nhập khẩu đã đợc cải thiện một. cách triệt để.

Một số ngành công nghiệp trong nớc đang đòi hỏi phải có chính sách bảo hộ thông qua hàng rào thuế quan, đồng thời một số mặt hàng Việt Nam không khuyến khích nhập khẩu cũng đang chịu thuế suất cao để hớng dẫn tiêu dùng trong nớc. Nếu thực hiện giảm thuế với đa số mặt hàng thì một số ngành công nghiệp nh: dầu thực vật, phân bón, hoá chất, sản phẩm cao su, giấy, dợc phẩm, đồ da, hàng thuỷ tinh và điện tử gia dụng… sẽ bị ảnh hởng. Có một số mặt hàng mặc dầu hiện không phải chịu mức thuế nhập khẩu cao, nhng hiện nay đợc bảo vệ cho sản xuất trong nớc bằng chỉ tiêu chỉ định hớng. Nh vậy nếu đa những mặt hàng này vào thực hiện chơng trình giảm thuế thì các biện pháp bảo hộ này sẽ phải đợc loại bỏ. Một số mặt hàng khác không khuyến khích nhập khẩu nh ô tô, mỹ phẩm hiện đang có thuế suất cao nếu đợc giảm thuế có thể gây mất định hớng tiêu dùng và dẫn đến “chảy máu” ngoại tệ mạnh vì giá các mặt hàng này sẽ giảm đi nhiều trong điều kiện Việt Nam đang phải tiết kiệm ngoại tệ cho các mục tiêu chiến lợc…

Có thể thấy, những nỗ lực của Việt Nam trong việc dỡ bỏ các hàng rào phi quan thuế là rất lớn. Để thực hiện Hiệp định GVA kể từ năm 2000 đến năm 2004 hoặc 2006, Việt Nam đang nghiên cứu và áp dụng dần, có bảo lu, Hiệp định bằng cách thông qua GVA, đào tạo đội ngũ cán bộ, học phơng pháp kiểm tra sau khi thông quan - PCA, tận dụng sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế và đang dự kiến ban hành luật Hải quan theo đúng GVA và WTO/GATT (2000-2001).

3. Thực hiện tốt các cam kết trong ngành hải quan

Ngay sau khi ta gia nhập ASEAN, một nhóm công tác liên Bộ về xây dựng các Danh mục hàng hoá theo Chơng trình cắt giảm thuế quan CEPT đã đợc thành lập dới sự chủ trì của Tổng cục thuế (Bộ Tài chính) với sự tham gia của các Bộ Thơng mại, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu t, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế, Bộ Khoa học công nghệ và Môi trờng, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thống kê… Nhóm nghiên cứu liên Bộ đã có những đóng góp hết sức quan trọng để hoàn thành các Danh mục hàng hoá, đảm bảo cho Việt Nam có thể đệ trình đúng thời hạn và đã góp phần thể hiện đợc thiện chí của Việt Nam trong quá trình hội nhập với ASEAN.

Trong năm 1997, Hải quan của các nớc ASEAN qua 11 lần họp đã đa ra đợc một Danh bạ thuế quan hài hoà chung của ASEAN (AHTN) gồm 6.600 dòng thuế (gọi tắt là AHTN - 6600) nhằm tạo thuận lợi cho thơng mại trong nội bộ lhối, tạo thuận tiện cho việc trao đổi nhợng bộ CEPT, góp phần thúc đẩy tiến trình thực hiện AFTA. Tuy nhiên, việc áp dụng Danh bạ này giữa các nớc thành viên vẫn cha đợc thống nhất do vẫn còn có sự khác biệt trong yêu cầu phân loại hàng hoá. Brunei và Philipines đã sẵn sàng thực hiện từ năm 1998, Lào thông báo thực hiện trong năm 1999, còn đa số các nớc thành viên còn lại trong đó có Việt Nam, đều cam kết thực hiện từ năm 2000, với yêu cầu đa những khác biệt về phân loại hàng hoá của mình vào Danh mục nhng không vợt quá 7000 dòng thuế.

Trên cơ sở ý kiến đóng góp của các Bộ, Ngành có liên quan, theo đề nghị của Tổng cục Hải quan, ngày 30/8/1997, Thủ tớng Chính phủ đã quyết định áp dụng Danh mục AHTN - 6600 từ năm 2000, bổ sung các điểm khác biệt của Việt Nam để chuyển đổi thành danh mục 7000 dòng thuế. Đồng thời Việt Nam cũng đã cam kết thực hiện tính giá trị hải quan theo GATT1994 từ năm 2000. Tổng cục Hải quan đã thành lập Tổ nghiên cứu về Hiệp định trị giá GATT và góp phần tích cực vào việc thực hiện các cam kết này.

Theo tinh thần báo cáo của Ban th ký ASEAN về các vấn đề nảy sinh cùng các đề xuất cũng nh các quyết định của các cơ quan chức năng của ASEAN liên quan đến việc triển khai thực hiện Form D, Bộ Thơng mại đã phối hợp với Tổng cục Hải quan triển khai cấp 358 bộ giấy chứng nhận xuất xứ Form D cho hàng hoá thuộc diện CEPT xuất khẩu sang các nớc ASEAN. Tổng giá trị hàng hoá đợc cấp giấy chứng nhận là 13.446.490,8 USD, chiếm 0,7% tổng trị giá hàng hoá xuất khẩu sang các nớc ASEAN vào năm 1998. Hàng hoá xuất khẩu sử dụng Form D chủ yếu nằm trong những nhóm mặt hàng: nông sản (lạc nhân, đậu xanh, chè, nấm rơm, dầu dừa, hạt tiêu), hải sản khô và đông lạnh, đá granit, hơng muỗi, hàng dệt, giày dép. Tuy nhiên, số liệu này thấp hơn trị giá hàng hoá xuất khẩu thuộc diện CEPT trên thực tế vì nhiều doanh nghiệp cha hiểu hết đợc yêu cầu của form D - CEPT/AFTA nên khi xuất khẩu lâu nay vẫn quen sử dụng form B do Phòng Thơng mại và công nghệ Việt Nam cấp cho hàng hoá xuất sang ASEAN.

Ngoài ra, Việt Nam còn tham gia tích cực vào quá trình đơn giản hoá các thủ tục xuất

khẩu và nhập khẩu chung dới các lĩnh vực:

- Thủ tục nộp khai báo hàng hoá khi xuất khẩu.

- Thủ tục nộp khai báo hàng hoá khi nhập khẩu.

- Kiểm tra hàng hoá.

- Cấp giấy chứng nhận xuất xứ hồi tố.

- Hoàn thuế.

Việc đơn giản hoá thủ tục hải quan sẽ đợc tiến hành dựa trên những hớng dẫn tại Công ớc Kyoto - Công ớc quốc tế về thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan sẽ đ- ợc hài hoà hoá trên các nguyên tắc: rõ ràng, thống nhất, thúc đẩy tính hiệu quả và đơn giản trong quản lý hải quan.

4. Tích cực tham gia vào việc thiết lập khu vực đầu t ASEAN - biến các nớc ASEAN thành khu vực kinh tế thông qua việc thực hiện các chơng trình hợp tác kinh tế

Tham gia AFTA, Chính phủ Việt Nam đã lựa chọn những mặt hàng mà hiện nay còn cần bảo hộ cho sản xuất trong nớc bằng thuế suất nhập khẩu cao để đa vào danh sách những mặt hàng trớc mắt cha tham gia CEPT. Các cơ sở sản xuất sẽ có đợc một số năm để chuẩn bị đối phó với việc giảm dần bảo hộ qua thuế và sau đó cắt cả các biện pháp bảo hộ không phải thuế (nh hạn ngạch, giấy phép buôn bán). Nh vậy, phải đuổi kịp và vợt các nớc ASEAN về chất lợng, mẫu mã, giá cả hàng hoá, nếu không thì sẽ phá sản và trao thị trờng Việt Nam cho các đối thủ láng giềng. Đó là thách thức mà AFTA đặt cho các nhà sản xuất Việt Nam.

Do đó, để cho toàn khu vực ASEAN trở nên hấp dẫn đầu t và phát huy đợc lợi thế so sánh của tất cả các nớc, các thành viên ASEAN phải có một chiến lợc sắp xếp cơ cấu sản xuất hợp lý vào sự phân công lao động khu vực ASEAN theo hớng chuyên môn hoá, hiện đại hoá, từng bớc nâng cao các lợi thế để có thể thực hiện cạnh tranh bình thờng trên cả thị trờng khu vực và thế giới.

Một sản phẩm đợc coi là có xuất xứ ASEAN, theo quy định của AFTA, nếu 40% hàm l- ợng giá trị của sản phẩm này đợc chế tạo từ một nớc ASEAN bất kỳ. Qua đó, việc đầu t để sản xuất tại một nớc nằm bên trong AFTA và bán sản phẩm cho các nớc thuộc AFTA sẽ mang lại lợi ích cho các nhà đầu t nhờ đợc hởng các u đãi của nó. Vì vậy, khi đầu t vào các nớc ASEAN, các nhà đầu t nớc ngoài đã không chỉ xem xét thị trờng tiêu thụ của nớc đó mà còn tính tới thị trờng của cả ASEAN. Thị trờng ASEAN còn giúp các nhà đầu t nớc ngoài có chiến lợc xây dựng các cơ sở của mình ở các nớc ASEAN theo một mạng lới chung nhằm “tối u hoá” việc khai thác các lợi thế so sánh của từng quốc gia và việc sử dụng các nguồn lực theo hớng chuyên môn hóa.

AFTA sẽ không phải là một khối thơng mại khép kín, đối lập với các nớc bên ngoài ASEAN. Khi các nền kinh tế ASEAN có năng lực cạnh tranh cao, chúng sẽ ngày càng có lợi thế trong các xu thế tự do hoá thơng mại đa biên. Hơn nữa, trên thực tế, các nền kinh tế hớng ngoại của ASEAN lại rất nhạy cảm trong việc đeo đuổi các chính sách thơng mại ngoài khu vực. Hiệp định AIA không chỉ khuyến khích các doanh nghiệp ASEAN đầu t vào Việt Nam mà còn khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu t vào các nớc thành viên khác. Nhờ có Nghị định 22/1999/NĐ-CP về đầu t ra ra nớc ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, trong năm 1999 đã có 10 dự án của Việt Nam đầu t sang Lào, Campuchia và Singapore với tổng vốn đầu t 18,14 triệu USD, gấp nhiều lần thời kỳ trớc đó. Đầu t hai chiều trong nội bộ ASEAN là bộ phận quan trọng bậc nhất trong quan hệ hợp tác ASEAN. Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu t trong khu vực là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các nớc thành viên. Luật Đầu t nớc ngoài vừa sửa đổi là một cố gắng lớn trên con đờng đổi mới của Việt Nam với mong muốn đóng góp tích cực vào quá trình phát triển chung ASEAN.

II. Những CƠ HộI Và THáCH THứC Đối với Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết của afta

1.Về cơ hội

1.1. Bắt kịp với xu hớng phát triển chung của nền kinh tế thế giới

Khi tham gia AFTA, chúng ta sẽ có điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế và thơng mại, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, bởi AFTA ảnh hởng trực tiếp đến xuất khẩu, đầu t nớc ngoài tại

Việt Nam. Nh vậy, sẽ kích thích các doanh nghiệp trong nớc tập trung lao động, tích cực khai thác tài nguyên sẵn có để xuất hàng hoá xuất khẩu. Tham gia AFTA sẽ là một dịp để Việt Nam tiếp cận với thị trờng thế giới và nhanh chóng hội nhập với cộng đồng quốc tế, giảm sự lệ thuộc vào một số thị trờng lớn. Đó là xu hớng chung của nền kinh tế bởi mục tiêu tối hậu của hội nhập kinh tế là vì sự tăng trởng kinh tế. Nếu xét theo khía cạnh năng động và ở tầm dài hạn, thì hội nhập kinh tế có thể đóng góp cho sự tăng trởng kinh tế và phát triển của đất nớc thông qua các kênh: tri thức - đem lại tăng trởng năng suất; tích tụ vốn nhân lực và vật lực; và thúc đẩy công cuộc đổi mới.

Hội nhập kinh tế trớc hết sẽ đem lại sự thâm nhập tốt hơn các tri thức tiên tiến của nớc ngoài dới dạng thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại, phơng pháp quản lý khoa học, và do đó đa đến nâng cao năng suất. Tự do hoá thơng mại và đầu t có thể kích thích lợi nhuận trên vốn, cả vốn vật chất và vốn nhân lực, và đến lợt mình điều này sẽ kích thích đầu t trong và ngoài nớc. Trong quá trình hội nhập kinh tế sức ép cạnh tranh sẽ tăng lên; để có thể thích nghi đợc với hoàn cảnh mới, tốc độ cải cách trong nớc cần đợc đẩy mạnh trên tất cả mọi lĩnh vực, bao gồm: cả những biện pháp để tạo ra sự ổn định kinh tế vĩ mô, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và luật lệ, nâng cấp cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, một nớc thành viên mới tham gia hội nhập khu vực và thế giới đợc lợi bao nhiêu phụ thuộc vào chính những chính sách kinh tế riêng của mình.

Nhìn chung tham gia vào AFTA sẽ đa đất nớc ta lên một vị thế mới, khắc phục đợc tình trạng bị các cờng quốc lớn phân biệt đối xử, có điều kiện khai thác thêm những lợi thế riêng của mỗi khối để phát triển quan hệ thơng mại, thu hút đầu t mà trớc mắt là hạn chế tác động của chính sách phân biệt đối xử của một số nớc. Tham gia AFTA tạo cho Việt Nam có điều kiện mở rộng thị tr- ờng, tranh thủ những u đãi về thơng mại, đầu t và các lĩnh vực khác đợc áp dụng trong nội bộ tổ chức. Đây là kết quả của nhiều năm hợp tác và đàm phán nhất là các lĩnh vực giảm thuế nhanh đối với những mặt hàng đòi hỏi nhiều nhân công mà Việt Nam có u thế. Chơng trình Hợp tác công nghiệp - AICO, chơng trình thành lập Khu vực đầu t ASEAN - AIA có những u đãi đặc biệt mà tham gia tổ chức thơng mại này, Việt Nam đã và đang nâng cao thế và lực trên trờng quốc tế trong điều kiện thế giới đang hình thành xu thế đa cực.

Chúng ta sẽ khai thác lợi thế của mỗi tổ chức để xử lý tốt hơn mối quan hệ với các nớc lớn, đồng thời nâng cao vai trò của Việt Nam trên trờng quốc tế, góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ hoà bình và an ninh trong khu vực và thế giới.

1.2. Có điều kiện thâm nhập một thị trờng rộng lớn với hơn 500 triệu

dân

Trớc mắt, Việt Nam sẽ thu đợc nguồn lợi lớn, do mậu dịch tự do mang lại. Đồng thời, Việt Nam có điều kiện hơn để xuất hàng của mình vào một thị trờng rộng lớn của các nớc thành viên ASEAN, với khoảng 500 triệu dân mà không đòi hỏi quá cao về chất lợng sản phẩm, khi các hàng rào mậu dịch đã đợc tháo gỡ. Một thị trờng rộng lớn nằm kề bên, có đòi hỏi về chất lợng không phải quá cao, với các u đãi buôn bán sẽ đợc mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam. Có đợc thị trờng tiêu thụ mới là một yếu tố giúp huy động tiềm năng lao động và tài nguyên dồi dào của Việt Nam vào phát triển xuất khẩu.

Mục tiêu thị trờng của AFTA đợc thực hiện thông qua việc giảm dần từng bớc đi tới triệt tiêu hàng rào phi quan thuế, dùng thuế là công cụ bảo hộ chủ yếu, đồng thời tiến hành giảm thuế, thực hiện các chơng trình hợp tác khoa học kỹ thuật nhằm hỗ trợ nhau phát triển sản xuất, mở rộng thị trờng. Điều này sẽ tạo dựng đợc môi trờng thông thoáng cho phát triển kinh tế, mở rộng thị trờng về mọi mặt, đặc biệt là cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.

1.3. Tham gia vào phân công lao động quốc tế và khu vực

Việc tham gia vào AFTA giúp hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang các nớc ASEAN đợc hởng mức thuế suất u đãi CEPT thấp của các nớc ASEAN, làm tăng cờng khả năng cạnh tranh về giá của các hàng hoá này, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu.

Với xu hớng toàn cầu hoá kinh tế thế giới ngày nay, nếu không hội nhập mà vẫn tiếp tục đóng cửa thì nguy cơ tụt hậu tất yếu trở thành hiện thực. Theo đuổi chính sách hội nhập một cách thận trọng và khôn khéo, vừa nâng cao trình độ, chuẩn mực về hoạch định chính sách, tạo thuận lợi cho thơng mại, và duy trì đợc mức bảo hộ hợp lý cho các ngành kinh tế và giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận đợc với công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý tiến tiến cũng nh tham gia vào mạng lới sản xuất quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh cả trong nớc cũng nh quốc tế.

Các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam sẽ hởng lợi thế nhập khẩu vật t nguyên liệu từ các nớc ASEAN với mức thuế suất nhập khẩu thấp, góp phần giảm chi phí thúc đẩy phát triển sản xuất, tiêu dùng và phát triển thị trờng trong nớc.

Với việc tham gia AFTA, các nớc ASEAN có điều kiện mở rộng hợp tác và thu hút đầu t nớc ngoài nhằm khuyến khích sản xuất trong nớc, từng bớc nâng cao chất lợng hàng hoá, dịch vụ, tức là tăng thế thơng lợng cạnh tranh ngay cả trên thị trờng nội địa và khu vực. Mặt khác, các chơng trình này cũng tạo cơ hội để chọn lựa các doanh nghiệp trong nớc, tạo động lực cho các cơ sở sản xuất mở rộng thị trờng, làm ăn có lãi đồng thời buộc các doanh nghiệp yếu kém phải mau chóng đổi mới công nghệ, cải tiến cung cách làm ăn trên thơng trờng. Nói cách khác, các doanh nghiệp phải đợc sắp xếp hợp lý, tham gia vào sự phân công lao động khu vực ASEAN theo hớng chuyên môn hoá, từng bớc nâng cao các lợi thế để có thể thực hiện cạnh tranh bình đẳng ở ngay cả trên thị trờng trong nớc và khu vực.

Việc Việt Nam thực hiện cam kết tham gia AFTA là một bớc tập dợt để chuẩn bị hội nhập sâu rộng hơn nữa trên thị trờng quốc tế và điều này cũng thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc cải cách mở cửa và hội nhập.

1.4. Thu hút đầu t nớc ngoài

Với các nớc ngoài khu vực, do việc thành lập AFTA, ASEAN sẽ trở thành thị trờng hợp nhất khá lớn, với sự phân công lao động chặt chẽ hơn, sẽ là địa bàn thu hút đầu t của nhiều công ty đa quốc gia và tập đoàn kinh tế lớn từ Nhật Bản, Tây Âu, Mỹ và các nớc NIEs. Xét về mặt kinh tế, khuynh hớng này trong quan hệ đầu t giữa ASEAN và các nớc ngoài khu vực trớc hết xuất phát từ tính năng động và lợi thế so sánh và thị trờng rộng mở của các nớc ASEAN trong những năm trớc mắt, cũng nh trong tơng lai lâu dài.

Là nớc nằm trong khu vực Đông Nam á, với những lợi thế so sánh nhất định về lao động, tài nguyên thiên nhiên và thị trờng có dung lợng lớn, hoạt động đầu t nớc ngoài vào Việt Nam sẽ trở nên hấp dẫn nếu tạo đợc môi trờng đầu t và chính sách hợp lý. Điều này nhằm góp phần dịch chuyển cơ cấu mạnh sang các ngành có hàm lợng kỹ thuật cao, sử dụng ít nhân công trong khu vực nh Singapore, Malaysia, Thái Lan.

Tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam sẽ có tác dụng thu hút thêm đầu t nớc ngoài vào Việt Nam không chỉ từ các nớc ASEAN mà còn từ các khu vực khác. Đặc biệt với sự phối hợp với các chơng trình hợp tác khác trong ASEAN nh hợp tác công nghiệp ASEAN - AICO, hợp tác dịch vụ ASEAN…, các doanh nghiệp trong nớc của Việt Nam có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ sản xuất và quản lý mới, tiên tiến, tăng cờng và mở rộng năng lực cạnh tranh của mình trên thị trờng trong nớc lẫn trên thị trờng khu vực và quốc tế.

Thực hiện AFTA tức là tạo dựng một thị trờng chung rộng lớn hơn trong lòng ASEAN để có thể thu hút đợc nhiều đầu t của nớc ngoài cũng nh giữa các nớc trong khuôn khổ AFTA. AFTA sẽ tích cực tăng cờng khả năng cạnh tranh của ASEAN trong việc thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài và đến lợt mình, đầu t trực tiếp nớc ngoài sẽ lại củng cố và thúc đẩy tiến trình nhất thể hoá khu vực, đóng góp vào việc nhanh chóng hoàn tất AFTA. Điều này hoàn toàn phù hợp với chiến lợc phát triển kinh tế hớng ngoại

của Việt Nam trong đó AFTA sẽ tạo cho Việt Nam những mối quan hệ kinh tế rộng mở với thế giới

Ngoài ra, tham gia AFTA còn giúp Việt Nam có điều kiện để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở các ngành cần nhiều lao động mà các nớc đang cần chuyển giao, tận dụng u thế về lao động rẻ và có hàm lợng chất xám cao để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang các nớc trong khu vực, sử dụng vốn và kỹ thuật cao của các nớc trong khu vực để khai thác khoáng sản và xây dựng cơ sở hạ tầng...

Việc chung tiếng nói và lợi ích kinh tế trong khuôn khổ AFTA sẽ tạo cho các nớc thành viên một thế thơng lợng cạnh tranh vững vàng hơn trong quan hệ với các liên minh kinh tế khác, đặc biệt là với cộng đồng Châu Âu (EU) và khu dịch mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), vốn là những bạn hàng lớn của các thành viên ASEAN.

2. Những thách thức

2.1.Thách thức chung

Tham gia AFTA và CEPT là một cơ hội để chúng ta mở rộng sự tiếp xúc với thị trờng hàng hoá, vốn tài chính, công nghệ, khoa học, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý… Tuy nhiên, cơ hội và thách thức vẫn là “cặp phạm trù” thờng song hành với nhau. Đó là sức ép sẽ ngày càng tăng đối với các doanh nghiệp trong cũng nh ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất. Với quy chế của AFTA, hàng hoá của các nớc thành viên ASEAN sẽ nhập vào thị trờng nớc ta ngày càng nhiều với thuế suất giảm dần đến 0% tạo nên sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt trong quá trình quốc tế hoá thơng mại.

Trong quá trình xây dựng các Danh mục hàng hoá và chơng trình giảm thuế theo Hiệp định CEPT, chúng ta đã gặp không ít khó khăn do xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam thấp hơn so với các nớc thành viên khác. Hơn nữa về mặt kỹ thuật, ngoài các điểm còn khác biệt về hệ thống thuế áp dụng đối với hàng xuất nhập khẩu và hệ thống mã số của Biểu thuế Việt Nam so với các nớc ASEAN khác, các thuế suất của Biểu thuế hiện hành đòi hỏi đợc điều chỉnh cơ bản để phù hợp với sự phát triển của các ngành sản xuất trong nớc.

Theo lịch trình cắt giảm thuế tổng thể của Chính phủ thì các doanh nghiệp thực hiện lịch trình này trong giai đoạn từ 2000 - 2006 sẽ chịu những tác động bất lợi. Đối với trong nớc, việc cắt giảm thuế mạnh và đột ngột vào những năm cuối sẽ khiến cho các doanh nghiệp đang đợc hởng mức bảo hộ cao từ thế quan sẽ rơi vào tình trạng khó khăn. Ngoài ra, việc cắt giảm thuế quan muộn sẽ gây tâm lý thiếu chủ động cho các doanh nghiệp để phấn đấu nâng cao khả năng cạnh tranh ở cả thị trờng trong nớc và quốc tế. Về mặt đối ngoại, theo tinh thần của CEPT, năm 2001 tất cả các mặt hàng sẽ đa vào cắt giảm của Việt Nam có thuế suất CEPT cao hơn 20% đều phải đa xuống bằng hoặc thấp hơn 20%; còn mức thuế suất thực hiện CEPT những mặt hàng bắt đầu đợc chuyển vào thực hiện cắt giảm từ những năm sau đó cũng không đợc cao hơn 20%, nh vậy Việt Nam cũng sẽ vấp phải không ít khó khăn, vớng mắc.

Theo lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể của Chính phủ thì các doanh nghiệp trong nớc thực hiện lịch trình này trong giai đoạn còn lại từ 2000 - 2006 sẽ bị những ảnh hởng không đ- ợc thuận lợi. Việc cắt giảm thuế mạnh, đột ngột vào những năm cuối sẽ khiến cho các doanh

nghiệp đang đợc hởng mức bảo hộ cao từ thuế quan rơi vào tình trạng khó khăn. Ngoài ra, việc cắt giảm thuê quan muộn sẽ gây tâm lý thiếu chủ động cho các doanh nghiệp trong quá trình phấn đấu nâng cao khả năng cạnh tranh ở cả thị trờng trong nớc và quốc tế. Việc thực hiện cắt giảm nhiều dòng thuế có mức thuế suất cao vào những năm cuối sẽ khiến Việt Nam khó có khả năng bảo vệ đợc một số mặt hàng chủ yếu và thực sự cần thiết bảo hộ.

Những nớc có chính sách điều chỉnh bảo hộ công nghiệp nặng nề trớc đây nh Indonesia, Philipin và có trình độ phát triển còn thấp nh Việt Nam chắc chắn sẽ không thích ứng ngay đ- ợc với quá trình chuyển đổi quá nhanh nh vậy. Việc kết thúc nhanh AFTA có ý nghĩa là sự “bắt kịp” với các chuyển đổi nhanh chóng của APEC, WTO và nâng cao thế thơng lợng cạnh tranh của ASEAN với EU, NAFTA, nhng bên cạnh đó cũng cần phải tính đến sự lớn mạnh của bản thân từng quốc gia thành viên. Các nớc có trình độ phát triển nh Singapore, Malaysia, Thái Lan cũng thể “kéo” đợc các quốc gia khác khi mà các nớc đó không đủ năng lực để tiếp nhận tự do hoá. Tính bất cập của sự liên kết nội bộ ASEAN còn đợc nhân lên khi mà theo điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia thành viên, lộ trình AFTA ở các nớc thành viên ASEAN đợc bắt đầu và kết thúc không cùng lúc.

2.2. Về sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ

Việc hạ thấp hàng rào thuế quan và phi quan thuế theo AFTA đối với Việt Nam ngay lập tức sẽ gây ra một cuộc cạnh tranh gay gắt mà các ngành công nghiệp non trẻ của Việt Nam sẽ gặp khi phải đối mặt với các loại hàng hoá nhập khẩu giá hạ từ các nớc ASEAN ngay tại thị trờng trong nớc.

Khả năng cạnh tranh của hàng hoá phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là chất lợng, chủng loại và mẫu mã giá cả. Tham gia AFTA sẽ có một tác động trực tiếp tới yếu tố giá cả của hàng hoá, bởi vì với việc cắt giảm thuế, đơn giản hoá các thủ tục buôn bán, thì giá bán của hàng hoá sẽ hạ hơn.

Các yếu tố khác nh chất lợng, mẫu mã cũng sẽ thay đổi do sức ép của cạnh tranh trong nội bộ AFTA. Tính cạnh tranh sẽ rất mạnh và sự thay đổi hàng rào thuế quan sẽ có tác dụng quyết định. Đồng thời, khả năng tạo lập sự hợp tác và chuyên môn hoá cũng lớn. Nếu cơ cấu kinh tế của các nớc thành viên là khác nhau và mang tính chất bổ sung cho nhau, đã có tồn tại chuyên môn hoá sản xuất giữa các nớc thành viên trớc khi hình thành khu vực mậu dịch tự do, thì tác động của việc hình thành khu vực mậu dịch tự do đó sẽ là không lớn.

Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam vẫn còn thấp, chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm, sức cạnh tranh của hàng hoá kém, đặc biệt về mẫu mã, chất lợng. Tham gia AFTA, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đứng trớc sự thua kém về thế thơng lợng cạnh tranh do nghèo vốn, kỹ thuật thấp, chất lợng yếu và không có khả năng cạnh tranh về giá cả. Đó là cha kể kinh nghiệm thơng trờng do nghèo vốn, kỹ thuật thấp, chất lợng yếu và không có khả năng cạnh tranh về giá cả của các doanh nhân Việt Nam còn yếu. Tuy nhiên, thách thức này cũng có thể coi nh một cơ hội hối thúc sự trỗi dậy của các doanh nghiệp Việt Nam trớc xu thế tự do hoá thơng mại. AFTA trở thành cơ sở để bình tuyển và xác nhận bản lĩnh của các doanh nghiệp trong nớc.

Hội nhập một mặt tạo thêm rất nhiều cơ hội thâm nhập thị trờng quốc tế đồng thời cũng dần dần phải mở cửa thị trờng Việt Nam cho hàng hoá các nớc nhập vào (theo nguyên tắc có đi có lại). Nếu không chuẩn bị tốt, chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở phát huy

lợi thế so sánh mà cứ đầu t dàn trải, không đổi mới công nghệ thì không thể nào nâng cao sức cạnh tranh. Đây là sức ép lớn không chỉ với Việt Nam mà ngay cả các nớc có sức mạnh kinh tế cũng phải chấp nhận đơng đầu, thậm chí có lúc phải từ bỏ một số ngành nghề để tạo cơ hội phát triển cho những ngành có lợi thế so sánh hơn đồng thời có kế hoạch và biện pháp cụ thể để chủ động thích ứng và vợt lên.

Trớc yêu cầu phải tháo gỡ dần hàng rào thuế và phi thuế để mở đờng cho thơng mại phát triển, một mặt chúng ta phải tính toán để có chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nớc (bảo hộ có điều kiện, có chọn lọc, có thời gian, có lộ trình).

Thực tế 2/3 thành viên của WTO là các nớc đang phát triển, một số nớc thành viên của các tổ chức khu vực cũng đang ở trình độ phát triển thấp, có những nét tơng đồng với Việt Nam. Vấn đề đặt ra là ta không ngồi chờ mà luôn có biện pháp thích hợp với từng ngành, từng thời kỳ nhằm nâng cao nội lực của nền kinh tế, và khả năng cạnh tranh.

2.3. Về khả năng của các doanh nghiệp

Hiện nay các doanh nghiệp lớn của nớc ta vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nớc hoạt động trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung nay chuyển sang nền kinh tế thị trờng nhiều thành phần, các doanh nghiệp này vẫn cha thực sự thích ứng với cơ chế mới. Các doanh nghiệp khác, mới đợc thành lập trong thời kỳ đổi mới kinh tế, chủ yếu là doanh nghiệp t nhân có quy mô rất nhỏ dù có sự mềm dẻo linh hoạt trong hoạt động. Trong điều kiện nh vậy, áp dụng các nguyên tắc về đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia đối với chúng ta sẽ rất khó khăn. Mặt khác, Việt Nam cha có đẩy đủ các thông tin về các chơng trình hợp tác đã và đang có thực hiện của ASEAN. Đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật của Việt Nam cha đợc chuẩn bị tốt và trang bị đầy đủ về kiến thức, phơng pháp làm việc và ngoại ngữ để thích ứng với các hoạt động phối hợp của ASEAN.

Quả vậy, doanh nghiệp ta thờng có quy mô nhỏ, vốn ít, khả năng tổ chức thị trờng yếu, một số vẫn cha bỏ đợc t tởng ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nớc. Nếu không sắp xếp lại, tăng cờng khả năng tích tụ và tập trung vốn, hoàn thiện cơ chế quản lý và định chế tài chính cho các doanh nghiệp thì chúng ta càng khó khăn, đặc biệt khi phải áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia tức là không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp nội địa với các doanh nghiệp nớc ngoài ở nớc ta. Tuy nhiên đây cũng là quá trình buộc các doanh nghiệp phải tích tụ và tập trung quy mô thích hợp để tồn tại và phát triển.

Đối với các doanh nghiệp, việc thực hiện các nguyên tắc về không phân biệt đối xử (MFN) dành cho các doanh nghiệp của các nớc thành viên sẽ đặt ra những thách thức gay go. Theo nguyên tắc này, các doanh nghiệp nớc ngoài sẽ đợc phép thành lập các công ty và triển khai hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, thơng mại và dịch vụ trên thị trờng Việt Nam, đơng nhiên theo lộ trình từng bớc.

2.4. Về hệ thống chính sách kinh tế thơng mại

Về mặt số học đơn thuần, hiện nay các nớc ASEAN chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong khi số thu từ thuế nhập khẩu của Việt Nam chiếm đến 1/4 trong tổng số thu ngân sách. Do đó nếu dự kiến thơng mại giữa các nớc ASEAN và Việt Nam vẫn giữ ở mức hiện nay trong khi giảm toàn bộ thuế suất thuế nhập khẩu xuống mức thuế suất chung là 5% trong các điều kiện hiện hành về các chính sách thì số thu từ thuế có

thể sẽ giảm đi đáng kể do việc giảm nguồn thu từ thế nhập khẩu đánh vào hàng hoá từ các n- ớc ASEAN.

Chính sách thơng mại ngày càng có tầm quan trọng cho phép nâng cao năng lực cạnh tranh vừa mở rộng vừa củng cố vị trí của mỗi mặt hàng, và thị trờng. Hệ thống chính sách kinh tế thơng mại phải đợc hình thành để một mặt đáp ứng đợc các nguyên tắc của WTO, mặt khác có tác dụng hỗ trợ đàm phán mở cửa thị trờng, làm chỗ dựa cho hàng hoá dịch vụ và thơng nhân, trong đó quan trọng nhất là hệ thống chính sách thuế và chính sách phi thuế.quan

Cho tới nay, hệ thống chính sách này vẫn còn rất nhiều bất cập, kỹ thuật xây dựng còn thô sơ, không đồng bộ. Việc xây dựng những chính sách này còn áp đặt ý muốn chủ quan nên th- ờng xuyên phải điều chỉnh, thay đổi thất thờng, gây tâm lý mất lòng tin trong giới doanh nghiệp trong và ngoài nớc. Đặc biệt những biện pháp chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thơng mại nớc nhà mà các tổ chức quốc tế thừa nhận,thì ta lại cha có( thí dụ chính sách thuế và phi thuế theo đãi ngộ tối huệ quốc MFN, đãi ngộ quốc gia - NT, chế độ hạn ngạch thuế quan, biện pháp cán cân thanh toán, quyền tự vệ, qui chế xuất xứ… ) Trong khi đó một số biện pháp, chính sách không phù hợp với nguyên tắc của các tổ chức quốc tế thì ta còn đang áp dụng, can thiệp trực tiếp bằng các chỉ thị hành chính thờng xuyên phải điều chỉnh, thay đổi thất thờng.

Chúng ta cần điều chỉnh hệ thống luật pháp và các cơ chế chính sách, xử lý một cách thích hợp tính cân đối giữa bảo hộ và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, dần dần thích nghi với thực tế cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt trên thị trờng thế giới và trong nớc, lấy cạnh tranh làm động lực để khuyến khích đổi mới công nghệ và phát triển sản xuất.

Thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực chung của quốc tế tuy còn gặp nhiều khó khăn nhng Việt Nam có khả năng và tìm thấy chính lợi ích của mình trong việc thực hiện các nguyên tắc ấy. Việc thực hiện nghĩa vụ đối với khu vực Thơng mại Tự do ASEAN (AFTA) trong những năm qua phần nào đã minh chứng đợc điều này.

- Khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nớc còn yếu về giá cả, chất lợng, hình thức mẫu mã do quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, tổ chức quản lý kém, năng suất lao động thấp.

- Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có nhiều bất lợi, chủ yếu là các mặt hàng nông sản, nguyên liệu thô, và công nghiệp nhẹ, nếu nh không có những biện pháp cần thiết về đầu t nâng cao năng lực sản xuất, công nghệ chế biến và chất lợng sản phẩm, đa dạng hoá diện sản phẩm, cải tiến mẫu mã hợp lý và mở rộng quy mô sản xuất thì cũng không cạnh tranh đợc với hàng của ASEAN tại các thị trờng EU, Bắc Mỹ và Đông Bắc á.

- Khả năng tiếp cận thị trờng và tạo lập nguồn vốn đầu t của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Hiện nay còn nhiều doanh nghiệp đề thiếu một chiến lợc sản xuất kinh doanh dài hạn và ổn định, cũng nh cha đề ra đ- ợc một kế hoạch chi tiết dài hạn về phát triển thị trờng.

- Hệ thống luật pháp, chính sách chế độ quản lý còn nhiều bất cập, đặc biệt là các cơ quan quản lý còn cha quan tâm đúng mức đến việc hỗ trợ tháo

gỡ khó khăn giúp cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh nh về cơ chế, vốn, thị trờng.

Việc tham gia AFTA nói riêng sẽ tạo cho Việt Nam cơ hội gia nhập và khai thác triệt để hơn nữa một mảng thị trờng thế giới rộng mở song những thách thức phải đơng đầu cũng rất lớn, những thách thức đó cần phải đợc nhìn nhận và đánh giá một cách nghiêm túc, chính xác để có phơng án vợt qua một cách có hiệu quả nhằm đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nói chung đợc thành công.

Tóm lại, nếu xét đến các lợi ích kinh tế trớc mắt và cụ thể, thì có thể thấy rằng trong quá trình tham gia AFTA khó khăn sẽ nhiều hơn thuận lợi. Tuy nhiên, có một điểm quan trọng cần lu ý là do bản chất của chơng trình CEPT - AFTA và do đặc điểm xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế của các nớc ASEAN liên quan đến cơ cấu sản xuất, nhu cầu và khả năng xuất nhập khẩu của các nớc ASEAN tỷ trọng thơng mại nội bộ ASEAN chỉ chiếm khoảng 1/4. Đối với Việt Nam tình hình cũng tơng tự nh vậy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nớc thành viên ASEAN cũng chỉ chiếm khoảng 1/4 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Cũng với cùng những lý do nh vậy, nếu trong quá trình thực hiện CEPT - AFTA có những thay đổi mang tính bất lợi đối với cán cân thơng mại của Việt Nam cũng nh đối với các ngành sản xuất của ta thì những khó khăn đó cũng chỉ có giới hạn trong một chừng mực nhất định tơng xứng với phạm vi ảnh hởng của chơng trình CEPT- AFTA, đặc biệt trong giai đoạn trớc mắt và trung hạn. Thứ nữa là Hiệp định CEPT - AFTA là một cam kết quốc tế, việc thực hiện các cam kết này là nghĩa vụ bắt buộc của một nớc thành viên. Hơn nữa, trong chơng trình đẩy nhanh việc thực hiện AFTA, theo nh tuyên bố của các nguyên thủ ASEAN tại Hội nghị Thợng đỉnh 6 tại Hà Nội, Việt Nam cùng một số thành viên mới không phải thực hiện những cam kết mang tính nghĩa vụ cụ thể mà chỉ đợc khuyến khích tối đa hoá khả năng của mình trong việc đẩy nhanh tốc độ thực hiện AFTA mà thôi.

IV. NHữNG HạN CHế TRONG VIệC THựC HIệN CAM KếT CũA VIệT NAM TRONG KHUÔN KHổ AFTA.

Ngoài những cố gắng của Việt Nam để làm cho tốc độ thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA nhanh hơn nhng trên con đờng hành trình còn có nhiều ván đề hạn chế cần khắc phục .Công việc khắc phục này liên quan tới tất cả những chủ thể tham gia vào,bao gồm các cơ quan của chính phủ và các doanh nghiệp kinh doanh ở Việt nam .

1. Đối với việc cắt giảm thuế quan Việt nam-afta theo CEPT

Theo cam kết thì Việt Nam phải hoàn thành việc cắt giảm thuế của những mặt hàng nằm trong 4danh mục vào năm 2006. Trên thực tế phần lớn những mặt hàng đã đợc giảm thuế đều thực hiện từ sớm còn lại chính phủ Việt Nam sẽ cam kết thực hiện từ năm 2003 đến 2006.

Vấn đề trên cho thấy chính phủ đã nỗ lực rất lớn nhng cha đạt đợc mục tiêu cụ thể của mình . Những mặt hàng chủ yếu có thế mạnh của Việt Nam cha cắt giảm,điều này sẽ cản trở rất lớn đến tốc độ thực hiện cam kết theo CEPT . Vấn đề là khối lợng mặt hàng lớn trong khi thời gian thực hiện không còn nhiều, và để thực hiện đúng thời gian thì nó dẫn tới dồn ép ,làm ẩu ,các doanh nghiệp sẽ bị ảnh hởng lớn về sức cạnh tranh của còn phía nhà nớc bị ảnh hởng đến ngân sách. Ngoài ra thị trờng Việt Nam bị trục trặc do quá nhiều hàng hoá tràn vào

trong nớc làm cho hai phía cung và cầu không ổn định dẫn tới chính phủ đa ra các chính sách mới không phù hợp đối với giai đoạn phát triển đó .

2.Đối với việc huỷ bỏ các hạn chế về định lợng và hàng rào phi thuế quan.

Mặc dù các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam đơn giản nhng đến nay Việt Nam vẫn cha hoàn thành đợc bản danh mục loại bỏ các biện pháp phi thuế quan này.Nguyên nhân của vấn đề này là do chính phủ muốn bảo vệ một số ngành công ngiệp và hớng dẫn tiêu dùng trong nớc . Chính nguyên này làm cho tốc đọ thực hiện các cam kết cuả Việt Nam chậm đi trong giai đoạn mới bởi vì tiến hành với tốc độ chậm thì các doanh nghiệp Việt Nam không lo khắc phục tính cạnh tranh gay gắt của môi trờng quốc tế .Khi hội nhạp các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này dễ thất bại ,cơ hội hàng hoá Việt Nam có hàm lợng công nghệ cao sẽ mất,trong khi đó hàng hoá của các nớc khác lại chiếm lĩnh thị trờng Việt Nam .Vì thế đòi hỏi phải có giải pháp hợp lý cho việc huỷ bỏ các hàng rào phi thuế quan và hạn chế định lợng .

Mặt khác các chính sách cụ thể về hạn chế dịnh lợng và phi thuế quan vẫn cha tốt.Hệ thống phi thuế quan cha áp dụng đúng với các nớc asean, nó dẫn tới sự không đồng bộ giữa các n- ớc với nhau.

3 hạn chế trong ngành hải quan

Ngành hải quan Việt Nam mới cấp đợc 358 bộ giấy chứng nhận xuất xứ Form D cho các hàng hoá thuộc diện xuất khẩu sang các nớc ASEAN . Những hàng hoá này chủ yếu là hàng nông nghiệp , mà nếu sử dụng Form D thì giá trị lớn hơn nhiều ,do đó làm hạn chế khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp . Hơn nữa sự hớng dẫn của ngành hải quan cho các doanh nghiệp là rất hạn chế,làm cho các doanh nghiệp không biết nên sử dụng loại giấy chứng nhận nào cho hàng hoá của mình .vấn đề này liên quan đén đội ngũ cán bộ của ngành.

Chơng iii:

những giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA

I. Sự cần thiết phải đẩy nhanh tiến trình thực hiện các cam kết:

Tính không đồng nhất trong việc hoàn thành AFTA này sẽ đa đến một tình hình là điều kiện đợc hởng u đãi AFTA giữa các nớc sẽ có sự khác nhau về trật tự mức độ, thời gian. Điều này có thể gây khó khăn cho việc phối hợp thực hiện và đồng thời có thể gây nguy cơ dẫn tới sự phân rã sức mạnh của Hiệp hội. Hiện nay, Hội nghị các Bộ trởng Kinh tế ASEAN lần thứ 28 đang đề nghị các quan chức cấp cao vạch ra mô hình hợp tác kinh tế thích hợp sau năm 2003, tức là khi lịch trình AFTA đã hoàn thành. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lợc đối với hợp tác kinh tế ASEAN nhằm tăng cờng sức mạnh của nó cũng nh hạn chế những bất đồng có thể xảy ra trong sự tiến triển còn thiếu tính đồng nhất về nhiều mặt của cấu thành thể chế AFTA.

1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt

Nam

Khi Chính phủ ta dự định gia nhập ASEAN và tham gia AFTA cũng đã thấy rằng, trong lộ trình đó, chúng ta sẽ giảm đần thế nhập khẩu hàng hoá đối với các nớc trong hiệp hội, chẳng những ảnh hởng đến nguồn thu ngân sách, mà còn tác động đến doanh nghiệp của các thành phận kinh tế - muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng phấn đấu vơn lên trong sự cạnh tranh không phải chỉ với trong nớc mà cả với 10 nớc ASEAN. Song là một thành viên mới hội nhập, đồng cảm với khó khăn của ta trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, nên cấp cao ASEAN nhất trí cho rằng trong lộ trình này, Việt Nam cần có thời gian để có thể thực hiện chơng trình giảm thuế, đồng thời ASEAN cũng thống nhất cùng trợ giúp cho Việt Nam để có thể sớm thực hiện chơng trình này với thời điểm thích hợp.

Mặc dù đã đạt đợc những thành tựu kinh tế bớc đầu đáng khích lệ, nhng thực tế trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn ở mức thấp so với nhiều nớc thành viên. Sản xuất trong nớc còn nhiều khó khăn, quá trình chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm chạp, với một nền sản xuất hàng hoá nhỏ và phân tán, sức cạnh tranh của hàng hoá còn rất kém. Tham gia AFTA sẽ tạo điều kiện để hàng hoá và dịch vụ Việt Nam có thêm cơ hội để xâm nhập thị trờng quốc tế, tuy nhiên sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của chúng ta mới chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng, trong khi đó hàng hoá và dịch vụ nớc ngoài với sức cạnh tranh cao sẽ có điều kiện xâm nhập thị trờng Việt Nam. Để có thể tham gia AFTA cũng nh tồn tại và phát triển trong một môi trờng cạnh tranh nh vậy, chúng ta buộc phải tìm ra những biện pháp hữu hiệu làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam và giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam trở nên năng động hơn và hoạt động có hiệu qủa hơn.

Nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu bằng chất lợng (kể cả bao gói) giá cả, thời hạn và sự thuận lợi trong việc mua bán và giao hàng, và cả các biện pháp marketing. Theo thời báo kinh tế Việt Nam số 57 năm 1999, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào ASEAN khá nhanh, đạt bình quân 27%/năm, và doanh số buôn bán với ASEAN chiếm 1/3 tổng kim ngạch của ngoại thơng Việt Nam. Trong khi một số quốc gia thành viên đang gấp rút hoàn thành AFTA sớm, Việt Nam theo đó cũng phải đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA của mình để tận dụng đợc những thuận lợi và rút ngắn khoảng cách về kinh tế.

2. Lộ trình mới của việc thực hiện cam kết

2.1. Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể giai đoạn 2001 - 2006

để thực hiện AFTA

Sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ, đặc biệt là năm 2000, vấn đề thúc đẩy nhanh tự do hoá thơng mại trong khu vực là một trong những chủ đề đã đợc thảo luận tại nhiều cuộc họp ở cấp nguyên thủ quốc gia ASEAN. Các nớc thành viên đều cam kết sẽ đẩy nhanh hơn tiến trình cắt giảm thuế quan và bỏ dần các biện pháp phi thuế. Tại hội nghị Hội đồng AFTA lần thứ 13 tổ chức vào tháng 9 năm 1999 tại Singapore, thực hiện nghĩa vụ của một nớc thành viên, Việt Nam cam kết sẽ công bố Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể đến năm 2006 để thực hiện AFTA của mình. Để thực hiện cam kết này, Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA giai đoạn 2001 - 2006 của Việt Nam đã đợc thủ tớng Chính phủ phê chuẩn về mặt nguyên tắc tại công văn số 5408/VPCP-TCQT ngày 11 tháng 12 năm 2000 của Văn phòng Chính phủ. Đông thời căn cứ vào lộ trình này

Thủ tớng Chính phủ đang xem xét để phê chuẩn Nghị định ban hành Danh mục cắt giảm thuế quan thực hiện AFTA năm 2001.

Lộ trình cắt giảm từ nay đến 2006 đợc xây dựng trên cơ sở tuân thủ các quy định của Hiệp định về chơng trình thế quan có hiệu lực chung cho khu mậu dịch tự do ASEAN. Cụ thể là: trớc mắt, lịch trình giảm thuế của 2 nhóm sản phẩm chính gồm những mặt hàng đã đa vào thực hiện chơng trình CEPT từ năm 2000 trở về trớc và những mặt hàng chuyển từ Danh mục loại trừ tạm thời vào thực hiện chơng trình CEPT của các năm 2000-2003. Năm 2003 sẽ là năm hoàn thành việc chuyển toàn bộ các mặt hàng thuộc Danh mục loại trừ tạm thời vào danh mục cắt giảm để thực hiện chơng trình CEPT. Đến năm 2006, thuế suất thực hiện CEPT của tất cả các mặt hàng có trong danh mục cắt giảm sẽ đợc giảm xuống mức 0 - 5%.

Các mặt hàng tạm thời cha tham gia sẽ đợc giảm thuế từng bớc để đến năm 2006 sẽ có thuế suất dới 5%. Danh mục tổng số mặt hàng dự kiến tham gia CEPT sẽ bao gồm 2265 mặt hàng, chiếm 70,5 % tổng số mặt hàng của biểu thuế nhập khẩu. Nh vậy, sẽ còn khoảng 20% số mặt hàng có thuế suất trên 5% cần tiếp tục giảm thuế từ nay đến năm 2006.

2.2. Các nhóm mặt hàng chính chuyển từ TEL vào IL để thực hiện

CEPT/AFTA trong 3 năm 2001 - 2003

Những mặt hàng quan trọng, đợc bảo hộ cao, chiếm gần 50% kim ngạch thơng mại của Việt Nam nh rợu, bia, xăng dầu, ô tô xe máy, phân bón, hoá chất… đang thuộc Danh mục loại trừ hoàn toàn (GE) và Danh mục loại trừ tạm thời (TEL), không phải thực hiện các nghĩa vụ cắt giảm thuế quan cũng nh loại bỏ hàng rào phi quan thuế.

Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam so với các nớc ASEAN có điểm tơng đồng khá rõ nét, cụ thể là nếu Việt Nam có lợi thế xuất khẩu các mặt hàng nông sản, nguyên liệu thô và một số sản phẩm công nghiệp nhẹ thì các nớc ASEAN cũng có lợi thế này và chính là đối thủ cạnh tranh thị trờng xuất khẩu với Việt Nam.

Muốn hội nhập có hiệu quả thì chúng ta không thể không nâng cao năng lực sản xuất cũng nh chất lợng hàng hoá - dịch vụ. Việc nâng cao chất lợng hàng hoá - dịch vụ có thể dựa vào hai nguồn vốn chính đó là vốn đầu t của nớc ngoài và nguồn vốn trong nớc. Nhng để có thể thu hút đợc vốn đầu t của nớc ngoài thì trớc hết chúng ta phải tạo ra đợc một môi trờng hấp dẫn ở đó nhà đầu t có thể tìm thấy đợc những khoản lợi nhuận khi tiến hành đầu t, bởi vậy nguồn vốn đầu t trong nớc đóng vai trò quyết định để tạo ra những nền tảng cho qúa trình hội nhập. Đây cũng là quan điểm và nguyên tắc thực hiện của Đảng và Nhà nớc Việt Nam trong quá trình công nghệp hoá - hiện đại hoá đất nớc, đó là "nguồn vốn nớc ngoài là quan trọng, nguồn vốn trong nớc là quyết định".

Có thể nói, muốn đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA nói riêng và hội nhập vào nền kinh tế thế giới nói chung, ngoài việc tạo ra một môi trờng pháp lý thông thoáng rộng mở, một

yếu tố chất mang tính căn bản là phải nhanh chóng nâng cao năng lực sản xuất. Để thực hiện đợc điều này, không thể thiếu đợc sự hỗ trợ, đầu t thích đáng của Nhà nớc bởi để làm đợc những vấn đề đó, cần có nguồn vốn lớn mà các doanh nghiệp không thể chỉ tự dựa vào sức mình. Đây có thể coi là yếu tố quan trọng nhất mang tính quyết định đối với việc đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam.

ii. giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam

trong khuôn khổ afta

Để tham gia hợp tác ASEAN và AFTA có hiệu quả đồng thời giữ vững đợc định hớng phát triển kinh tế, Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục phát hiện và hệ thống hoá những điểm khác biệt về cơ cấu, chính sách kinh tế, thủ tục hành chính trong nớc so với nhu cầu thực hiện các chơng trình hợp tác của ASEAN. Đây là cơ sở để xem xét, điều chỉnh, bổ sung một cách khoa học nhằm tạo môi trờng pháp lý và điều kiện thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính và cải cách kinh tế của Việt Nam theo các phơng hớng đã lựa chọn. Ngoài việc cung cấp thông tin một cách đầy đủ, có hệ thống phục vụ bộ máy làm công tác ASEAN ở tất cả các bộ, ngành, cần phổ biến rộng rãi các thông tin về ASEAN, về các nớc thành viên ASEAN nhằm giúp các tầng lớp nhân dân có nhận thức đúng đắn về đờng lối hội nhập thế giới và khu vực của đất nớc, trên cơ sở đó có thể tập hợp đợc những ý kiến đóng góp quý báu góp phần vào việc đề ra chính sách, giải pháp cụ thể nhằm tham gia có hiệu quả hơn vào hoạt động của ASEAN.

1. Giải pháp vĩ mô

1.1. Những ý kiến đóng góp lên chính phủ

Trong quá trình thực hiện AFTA, Nhà nớc với trách nhiệm quản lý vĩ mô nền kinh tế, có nhiệm vụ đề ra những chính sách phát triển kinh tế thích hợp khi chúng ta tham gia vào quá trình hội nhập thể hiện ở những định hớng phát triển các ngành, các lĩnh vực cần đợc u tiên phát triển trớc mắt và lâu dài, các biện pháp hỗ trợ u tiên phát triển, các biện pháp bảo hộ thông qua các chính sách cụ thể nh chính sách đầu t, chính sách thơng mại, chính sách thuế,..

Đầu t vốn để đổi mới công nghệ, đáp ứng đợc yêu cầu sản xuất hàng với chất lợng cao đủ sức cạnh tranh với hàng của ASEAN là một biện pháp mang tính quyết định. Do đó các hình thức đầu t vốn cho các ngành sản xuất những mặt hàng xuất khẩu nói trên cần phải ở mức u đãi nhất. Bên cạnh đó, để các nguồn vốn đợc phân bổ có hiệu quả và năng động, cần mở rộng việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nớc theo chơng trình của Chính phủ, từng bớc phát triển thị trờng vốn dài hạn, phát triển thị trờng chứng khoán.

Đối với đầu t nớc ngoài trực tiếp, phù hợp với các ngành sản xuất hàng xuất khẩu đợc xác định, Chính phủ Việt Nam cần công bố danh mục lĩnh vực u tiên đầu t và sửa đổi các thủ tục xét duyệt và cho phép đầu t nớc ngoài đợc nhanh chóng và thuận lợi nhất. Mục tiêu của AFTA là thu hút đầu t trong khối và ngoài khối, nhng khả năng đầu t giữa các nớc ASEAN

còn hạn chế, đặc biệt đối với những lĩnh vực công nghệ cao. Vì thế thu hút đầu t từ những nớc ngoài khối sẽ là chủ yếu.

Để có thể tận dụng đợc các lợi thế so sánh của đất nớc và thị trờng đợc các u đãi của AFTA về khả năng tăng xuất khẩu và thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài, Chính phủ Việt Nam cần có một định hớng chiến lợc phát triển các ngành kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập của khu vực và thế giới. Chính sự hội nhập này là một nhân tố quan trọng tạo ra sức bật mới cho cả nền kinh tế. Định hớng chiến lợc phát triển các ngành kinh tế này phải là định hớng phát triển các ngành kinh tế hớng về xuất khẩu. Tất cả các biện pháp vĩ mô nh thuế, thơng mại, tài chính... cần đợc thay đổi nhằm đảm bảo cho việc thực hiện thành công định hớng chiến lợc này. Cụ thể là Chính phủ sẽ xác định ngành nào sẽ là ngành tạo ra đợc những mặt hàng có khả năng cạnh tranh đợc với các nớc ASEAN và tập trung cho sự phát triển những ngành đó. Điểm đặc biệt đáng lu ý là, do cơ cấu sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam gần giống với các nớc ASEAN, Việt Nam chỉ có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh nếu đạt đợc các u thế về chất lợng và giá cả.

Hàng năm Chính phủ Việt Nam đều ban hành Nghị định công bố danh mục thực hiện AFTA cho năm đó. Năm 1997, Chính phủ Việt Nam cũng đã phê duyệt Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA giai đoạn 1996-2006 của Việt Nam để làm căn cứ điều chỉnh cơ cấu trong nớc và định hớng cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp.

Đến thời điểm 31/12/2000, Việt Nam đã chuyển trên 4200 dòng thuế vào thực hiện AFTA và dự kiến sẽ chuyển tiếp khoảng 1940 dòng thuế còn lại trong Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) vào thực hiện cắt giảm trong 3 năm 2001-2003 và đén năm 2006 sẽ cắt giảm thuế suất nhập khẩu của toàn bộ các dòng thuế thực hiện AFTA xuống mức 0-5%.

Một yếu tố khác thu hút đầu t của nớc ngoài và trong nớc là cải thiện cơ sở hạ tầng hơn nữa, bao gồm việc phát triển năng lợng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, cải tiến công tác tài chính ngân hàng, tín dụng. Đây là những vấn đề lớn có ý nghĩa chung cả nớc.

Hiện nay, Chính phủ đã có chỉ đạo triển khai một số công việc trọng

tâm sau đây:

- Xây dựng chiến lợc đầu t, chiến lợc xuất khẩu để làm định hớng phát triển

và chuẩn bị hội nhập.

- Hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách và hệ thống pháp luật để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, nâng cao khả năng cạnh tranh.

- Phát triển hệ thống dịch vụ, cơ sở hạ tầng để tạo môi trờng thu hút đầu t,

thúc đẩy thơng mại.

- Khoa học và công nghệ chính là động lực, nền tảng trong phát triển kinh tế - xã hội, nên cần đợc coi là then chốt là quốc sách hàng đầu và có

nhiều chủ trơng, chính sách và biện pháp về khoa học và công nghệ đúng đắn.

- Đối với những ngành công nghiệp quan trọng có tính chất xơng sống hoặc mũi nhọn của nền kinh tế, cần có sự quan tâm của Nhà nớc, của các Bộ trên các mặt định hớng phát triển, hỗ trợ nguồn vốn, tìm kiếm thị trờng và các điều kiện kinh doanh thuận lợi để nó có thể góp phần thúc đẩy kinh tế trong nớc phát triển và cạnh tranh đợc với các nền công nghiệp khác trong khu vực

Tình trạng chậm đợc cải thiện nên đã ảnh hởng rất mạnh đến chất lợng và khả năng cạnh

tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trờng thế giới.

- Chú trọng nhập khẩu công nghệ đòi hỏi suất đầu t thấp, thu hồi vốn nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp. Việc hiện đại hoá công nghệ là cần thiết nhng phải lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn.

- Đòi hỏi phải nhập khẩu thiết bị tiên tiến và hiện đại cho mọi ngành sản xuất, bất kể hiệu quả, bất kể khả năng quản lý và vận hành của cơ sở sử dụng thiết bị thực chất là một sự lãng phí không kém gì nhập khẩu thiết bị lạc hậu.

- Các loại thiết bị công nghệ cao thờng sử dụng ít hoặc rất ít lao động. Trong một số trờng hợp, việc nhập khẩu các loại thiết bị này sẽ không giúp ích nhiều cho việc tạo công ăn việc làm và tận dụng thế mạnh lao động rẻ để cạnh tranh trên thị trờng quốc tế. Giá thiết bị cao còn làm tăng giá thành sản phẩm và làm suy yếu khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Vì lý do đó, việc nhập khẩu thiết bị tiên tiến cần đợc tính toán kỹ về mặt hiệu quả, tập trung cho một số ngành then chốt nh năng lợng, tin học, điện tử, viễn thông, công nghệ sinh học và vật liệu mới nhằm kiến tạo một cơ sở hạ tầng vững chắc và góp phần đẩy nhanh quá trình tạo ra các mặt hàng mới cho xuất khẩu. Trong những ngành còn lại, cần biết tận dụng các loại công nghệ có trình độ vừa phải, sử dụng nhiều lao động, vừa phù hợp với trình độ phát triển của ta, vừa đáp ứng nhu cầu chế biến nguyên liệu thô. Nếu có khó khăn về vốn đầu t trong khi việc nâng cấp thiết bị là cần thiết thì nên tập trung vào những khâu quyết định chất lợng sản phẩm.

- Một phần vốn đầu t cho khoa học công nghệ nên đợc dành để thành lập Ngân hàng dữ liệu nhằm cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cập nhật nhất về lĩnh vực công nghệ mà họ quan tâm. Việc này đã đợc làm nhng quy mô còn rất nhỏ, lại thiếu quảng cáo nên rất ít doanh nghiệp biết về sự tồn tại của một trung tâm nh vậy. Tới đây nên tiến hành đầu t một cách bài bản hơn cho lĩnh vực này, đồng thời tăng cờng phổ biến đến các doanh nhân để họ biết và có điều kiện tham khảo dữ liệu trớc khi ra quyết định đầu t. Tạo lập thị trờng công nghệ để các sản phẩm khoa học công nghệ đợc trả giá đúng mức và lu thông bình thờng nh một dạng

hàng hoá đặc biệt. Đây là biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy các nghiên cứu khoa học gắn bó hơn với tiến trình phát triển, đồng thời rút ngắn đợc khoảng thời gian giữa nghiên cứu và ứng dụng. Để tạo lập thị trờng công nghệ, nên khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học bằng cách thiết lập Quỹ hỗ trợ đầu t phát triển công nghệ Quốc gia. Quỹ này sẽ cho các doanh nghiệp vay trong trờng hợp họ có nhu cầu đặt hàng với các viện nghiên cứu. Làm nh vậy vừa gắn đợc nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của sản xuất, vừa tạo điều kiện cho các nhà khoa học giỏi phát huy tài năng, vừa không phí phạm nguồn vốn ít ỏi của ngân sách nhà nớc. Bên cạnh đó, cần thi hành nghiêm túc các quy định của luật pháp về bảo hộ quyền sở hữu công nghệ cũng là biện pháp quan trọng khuyến khích đầu t nghiên cứu khoa học phục vụ cho công cuộc đổi mới và cải tiến công nghệ.

Một vấn đề nữa mà chúng ta cần đề cập ở đây đó là, để đảm bảo đợc yêu cầu sản xuất xuất khẩu thì hàng hoá của Việt Nam cần đợc tuân thủ những tiêu chuẩn đã đợc quy ớc có tính chất quốc tế, đó là phải có những tiêu chuẩn phù hợp với ISO. Là một nền kinh tế mới bớc vào thời kỳ đang phát triển, Việt Nam cần nhiều thời gian hơn để công bố các tiêu chuẩn quốc tế và sửa đổi những tiêu chuẩn của mình cũng nh chuẩn bị nền tảng cơ sở vật chất và kỹ thuật để áp dụng các biện pháp kỹ thuật liên quan đến thơng mại. Một số mặt hàng của Việt Nam đã và đang gấp rút hoàn thành các thủ tục để nhận chứng chỉ chất lợng ISO. Có đợc những chứng chỉ chất lợng này, hàng hoá của Việt Nam sẽ dễ dàng thâm nhập vào thị trờng khu vực và quốc tế hơn, một cách bài bản hơn theo những tiêu chuẩn mà đã đợc thế giới công nhận.

1.2. . Những ý kiến đóng góp lên các bô ngành chủ quản

Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ Thơng mại và các Bộ, ngành chủ quản là cơ quan có trách nhiệm cung cấp, hớng dẫn các doanh nghiệp phân tích, sử dụng các thông tin, t liệu liên quan tới những giải pháp đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam khi tham gia AFTA.

Các bộ ngành và đơn vị hữu quan cần tổ chức nghiên cứu cụ thể tác động của AFTA đối với từng ngành và khu vực kinh tế, đánh giá lợng hoá các tác động và đề xuất biện pháp cụ thể đối với ngành của mình. Xây dựng các đề án phát triển các sản phẩm của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

Mặt khác, cần có kế hoạch đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở lợi thế so sánh của ta về sức lao động, đất đai, tài nguyên…, tận dụng các nguyên tắc của các tổ chức quốc tế về quyền tự về, về u đãi cho các nớc đang phát triển và chậm phát triển. Đây chính là những lợi thế giúp ta tìm lời giải thích hợp cho những thách thức nói trên. Vấn đề quan trọng đặt ra là sự tính toán, vận dụng khéo léo các nguyên tắc của các tổ chức quốc tế đó vào hoàn cảnh Việt Nam, đảm bảo cho chính sách vừa phù hợp với quốc tế, vừa bảo hộ và kích thích sự phát triển của các ngành sản xuất và của từng doanh nghiệp.

Trớc hết là cần phát triển các ngành công nghiệp hớng ra xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Cơ cấu công nghiệp phải nhanh chóng chuyển dịch sao cho những nhóm mặt hàng u đãi thuế quan chỉ chiếm tỉ trọng không đáng kể trong khối lợng nhập khẩu. Có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu và làm công nghiệp hớng ra xuất khẩu.

- Bộ Thơng mại là cơ quan đợc Chính phủ giao trách nhiệm đầu mối trong quan hệ hợp tác kinh tế trong AFTA và ASEAN có nhiệm vụ phổ biến kiến thức về AFTA tới các doanh nghiệp.

- Bộ Công nghiệp sẽ dành một phần lực lợng tham gia vào nhiệm vụ trao đổi thông tin, nghiên cứu hội thảo khoa học, đào tạo bồi dỡng thờng xuyên cho cán bộ các loại trong ngành, kể cả ở trung ơng và địa phơng, đồng thời cũng đề nghị các cơ quan Nhà nớc quan tâm nhiều hơn đến đào tạo và tuyển chọn cán bộ có chất lợng cao trong giai đoạn tới, cả năng lực và phẩm chất để có thể làm tròn nhiệm vụ đợc giao phó. Toàn ngành công nghiệp Việt Nam quyết tâm phấn đấu từ nay đến năm 2000 tăng giá trị tổng sản lợng hàng năm 15% và tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm 25%, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.

- Cơ quan Hải quan Việt Nam tham gia với các nớc ASEAN khác, trong việc điều hoà thống nhất danh mục biểu thuế quan giữa các nớc thành viên AFTA, thống nhất hệ thống xác định trị giá để tính thuế, thống nhất hệ thống xác định trị giá để tính thuế, thống nhất quy trình thủ tục Hải quan, nhanh chóng hoàn thành thủ tục Hải quan cho các sản phẩm của CEPT, lập mẫu tờ khai Hải quan chung. Vì sự khác biệt giữa Việt Nam và các nớc khác về danh mục biểu thuế, quy trình thủ tục hải quan... sẽ gặp nhiều khó khăn khi tiến hành việc điều hoà thống nhất nói trên. Bởi vậy, cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa Hải quan với các cơ quan chức năng và các cơ quan hữu quan khác trong công việc trên.

Sớm thành lập bổ xung các thiết chế và ban hành bổ xung các chính sách hỗ trợ kinh doanh phù hợp với các định chế chung nh xúc tiến thơng mại, hỗ trợ nghiên cứu và ứng dụng (R &D) trong những lĩnh vực chọn lọc, hỗ trợ tạo việc làm mới, hỗ trợ đào tạo lại, hỗ trợ các hoạt động xúc tiến sản phẩm sản xuất tại Việt Nam… Nghiên cứu thành lập và thúc đẩy sự hoạt động của các hệ thống quản lý chất lợng, vệ sinh và an toàn tiêu dùng cả với mọi loại hàng hoá tiêu dùng trong nớc nói chung và hàng nhập khẩu nói riêng.

Vai trò của Chính phủ trong quá trình này là đảm bảo rằng môi trờng kinh tế tổng thể không bị bóp méo và rằng những hàng hoá công cộng (nh hạ tầng cơ sở) luôn sẵn sàng để các doanh nghiệp khai thác, ở Việt Nam, gần một nửa doanh nghiệp - tính theo trên giá trị sản lợng công nghiệp - là các doanh nghiệp nhà nớc (48,3%). Các doanh nghiệp phi quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài chiếm 23,2% và 28,5%.

Để đối chọi với thách thức của một nền kinh tế mở đặc biệt là khi tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA, các doanh nghiệp không chỉ cần hoạt động có hiệu quả mà họ phải thích ứng và phản ứng nhanh nhạy với những biến động liên tục. Nói chung các doanh nghiệp Nhà nớc hoạt động kém hiệu quả và thụ động, việc mở cửa thị trờng theo các yêu cầu của AFTA sẽ đặt các doanh nghiệp Nhà nớc Việt Nam vào tình thế khó khăn. Chính vì vậy, sau khi giảm số doanh nghiệp nhà nớc khoảng 50% xuống còn 6.000 doanh nghiệp, Chính phủ bắt đầu chơng trình cổ phần hoá và sẽ tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá trong thời gian tới.

1.3. . Những ý kiến đóng góp lên Bộ Tài chính

Việc cần làm đầu tiên là phải sớm xây dựng và hoàn tất lộ trình tổng thể thực hiện CEPT - AFTA cả thuế và phi thuế đến 2006 để kịp thời công bố cho các ngành, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, để họ chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh sản xuất và đầu t, với mục tiêu nhằm nâng cao tính cạnh tranh trong bối cảnh nền kinh tế khu vực và quốc tế đang trong quá trình toàn cầu hoá. Công bố rõ lộ trình thực hiện, khuyến khích doanh nghiệp có tích luỹ trong thời gian còn đợc bảo hộ trực tiếp nên tập trung mở rộng và nâng cao năng lực cạnh tranh và thích hợp với mức bảo hộ giảm dần. Song song với việc đó, việc tăng cờng phổ biến kiến thức về AFTA cả về chiều sâu và chiều rộng là vấn đề vô cùng quan trọng.

Nâng cấp hệ thống chính sách và năng lực thực thi chính sách thuế sao cho mọi hoạt động kinh doanh, mọi khoản thu nhập của doanh nghiệp, của cá nhân dới mọi hình thức đều chịu một mức thuế ngang nhau, hạn chế trốn thuế và đảm bảo nguồn thu Nhà nớc.

Về mặt đối ngoại, theo tinh thần CEPT năm 2001, tất cả các mặt hàng đã đa vào cắt giảm của Việt Nam có thuế suất CEPT cao hơn 20% đều phải đa xuống bằng hoặc thấp hơn 20%. Từ các năm sau đó, mức thuế suất thực hiện CEPT của những mặt hàng bắt đầu đợc chuyển vào thực hiện cắt giảm cũng không đợc cao hơn 20%. Theo đó, Việt Nam sẽ vấp phải không ít khó khăn, trở ngại. Vì vậy, Bộ Tài chính đã có dự kiến tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trên cơ sở phát triển kinh tế của các bộ, ngành đã đợc Thủ tớng Chính phủ thông qua, kết hợp với việc phân tích về chiến lợc kinh tế giữa Việt Nam và các nớc ASEAN để lựa chọn những mặt hàng thật sự cần thiết, duy trì những mặt hàng có thuế suất cao và không chịu quản lý bằng các biện pháp phi thuế quan vào thực hiện cắt giảm trớc, đảm bảo thực hiện đúng cam kết mà vẫn giữ đợc thế chủ động cho các doanh nghiệp trong nớc.

Bộ Tài chính đã có kế hoạch tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Cụ thể là trên cơ sở nhiệm vụ phát triển kinh tế của các bộ, ngành sẽ đợc Thủ tớng Chính phủ thông qua, kết hợp với việc phân tích về kinh tế giữa Việt Nam và các nớc ASEAN để lựa chọn những mặt hàng thực sự cần thiết duy trì mức thuế suất và đa vào cắt 3/4 thuế giảm muộn.

Xây dựng chiến lợc tài chính quốc gia theo hớng tạo dựng một môi tr- ờng tài chính lành mạnh, ổn định và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

- Sẽ nghiên cứu giải pháp để thúc đẩy quá trình cải cách doanh nghiệp nhà

nớc (cơ cấu lại nợ, xắp xếp doanh nghiệp, xử lý vốn).

- Nghiên cứu cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp theo hớng bảo hộ có điều kiện và có thời hạn, tạo môi trờngtài chính lành mạnh, bình đẳng (cả trong và ngoài quốc doanh).

- Sử dụng có hiệu quả một số công cụ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ bảo lãnh tín dụngcác doanh nghiệp vừa và nhỏ, quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ đầu t địa phơng, thị trờng chứng khoán, quỹ xắp xếp cổ phần hoá doanh nghiệp.

- Hoàn thiện hệ thống tài chính:

+ Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế (đặc biệt là thuế VAT) theo hớng

đơn giản, rõ ràng, khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển.

+ Xây dựng Luật kế toán- kiểm toán

+ Hớng dẫn Luật kinh doanh bảo hiểm

+ Phối hợp với các bộ ngành liên quan xây dựng hệ thống luật pháp chống gian lận thơng mại, chống bán phá giá, chống cạnh tranh không lành mạnh.

- Nâng cao năng lực hệ thống tài chính để hỗ trợ doanh nghiệp có hiệu quả

hơn:

+ Cải cách công tác quản lý thuế theo hớng đơn giản thủ tục, thông

thoáng.

+ Có giải pháp để phát triển các dịnh vụ tài chính nh bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và t vấn thuế để môi trờng tài chính lành mạnh, rõ ràng, thúc đẩy đầu t và thơng mại.

- Đơn giản hơn nữa các mức thuế suất, nên cách nhau xa hơn, giảm số l- ợng mặt hàng đợc hởng thuế suất 0% để đảm bảo nguồn thu ngân sách. Không nên căn cứ vào mục tiêu sử dụng để định thuế suất mà nên căn cứ vào tính chất của hàng hoá, để ngăn chặn hành vi trốn thuế cùng với việc điều hoà thống nhất hệ thống xác định giá trị tính thuế quan theo yêu cầu của CEPT, sẽ áp dụng giá tính thuế hàng nhập khẩu theo nguyên tắc của GATT. Theo bản thỏa thuận định giá của GATT, giá tính thuế nhập khẩu chủ yếu dựa vào giá kinh doanh của hàng hóa tơng đơng hoặc giống hệt.

Do đó, cần có sự sửa đổi cơ bản về thuế nhập khẩu. Mức thuế nhập khẩu có thể hạ thấp phù hợp với yêu cầu của CEPT và có thể hạ đến mức thấp nhất để đáp ứng yêu cầu khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu. Còn các mức thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu không phải chịu cam kết giảm thuế sẽ đợc điều chỉnh phù hợp, đáp ứng đợc yêu cầu bảo hộ gián tiếp và đảm bảo cho nguồn thu ngân sách. Hơn nữa, để đáp ứng đợc yêu cầu của nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) mức thuế tiêu thụ đặc biệt áp dụng cho hàng nhập khẩu và sản xuất trong nớc là nh nhau, nếu có khác nhau về hỗ trợ sản xuất trong nớc chỉ là khác về quy định giá tính thuế giữa sản phẩm nhập khẩu và sản xuất trong nớc.

Trong thời gian đầu, ích lợi cho việc tham gia AFTA đối với Việt Nam cha nhiều vì kim ngạch ngoại thơng giữa Việt Nam với các nớc ASEAN chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ: tỷ lệ xuất khẩu

của Việt Nam sang ASEAN-4 năm 1994 chỉ là 5% và nhập khẩu là 8% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Nếu tính cả Singapore là nớc trung chuyển mậu dịch thì chỉ tiêu trên cũng chỉ là 20,4% và 30%. Bởi vậy, để hội nhập vào AFTA, do tình hình đặc thù của Việt Nam, chúng ta sẽ không áp dụng tiến trình cắt giảm thuế nhanh để có thời gian rút kinh nghiệm thực hiện chơng trình CEPT và cho các doanh nghiệp trong nớc có thể thích ứng dần. Nhng vì Việt Nam có tới 53,1% số mặt hàng có thuế suất dới 5%, tức là đã thoả mãn mục tiêu của CEPT nên có thể coi nh đã thực hiện tiến trình cắt giảm nhanh.

2. Giải pháp vi mô - Về phía doanh nghiệp

Mỗi đơn vị, doanh nghiệp dù lớn dù nhỏ cần lập ngay bộ phận chuyên trách, thu thập nghiên cứu các tài liệu thông tin liên quan tới AFTA để vận dụng các cam kết quốc tế vào chơng trình hành động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Hội nhập là tất yếu để phát triển. Việc thực hiện lịch trình cắt giảm thuế quan trong ASEAN, hiệp định thơng mại Việt Mỹ và trong tơng lai khi gia nhập Tổ chức thơng mại thế giới - WTO là một khâu quan trọng để thực hiện việc tự do hoá thơng mại mở cửa hội nhập. Trong đó, doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng, đảm bảo sự thành công của hội nhập. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chủ động tận dụng cơ hội và vợt qua thách thức để nâng cao vị thế cạnh tranh của hàng hoá và uy tín của mình trên thị trờng trong nớc và quốc tế.

Tác động hai mặt của việc xoá bỏ hàng rào bảo hộ mậu dịch đối với các doanh nghiệp tuy dễ thấy về định tính, song khó dự báo định lợng. Xoá bỏ bảo hộ có thể buộc doanh nghiệp phải cải tổ toàn diện để đối đầu trực diện với sức ép cạnh tranh từ các nớc AFTA. Cạnh tranh có thể thúc đẩy sản xuất phát triển, nhng đồng thời cũng có thể làm phá sản hàng loạt doanh nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành. Nh vậy, xoá bỏ bảo hộ chắc chắn dẫn đến việc thay đổi cơ cấu kinh tế.

2.1 . Cần có chiến lợc dài hạn và cụ thể, thiết thực

Trong quá trình hội nhập kinh tế vơn ra thị trờng quốc tế và khu vực, Nhà nớc chỉ hỗ trợ, tạo môi trờng pháp lý thông thoáng và thuận lợi. Sự thành công tới đâu trong quá trình này là tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh, tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp phải thực sự vào cuộc, vì sự sống còn của mình. T tởng bảo hộ trông chờ vào Nhà nớc hỗ trợ tất yếu sẽ dẫn tới sự đào thải. Trong quá trình cạnh tranh vơn lên này Nhà n- ớc sẽ hỗ trợ thích đáng cho các doanh nghiệp, nhng sự hỗ trợ đó là có chọn lọc, có điều kiện, có thời gian. Nh vậy con đờng tất yếu cho các doanh nghiệp là: Kết hợp chặt chẽ sản xuất với kinh doanh. Mỗi đơn vị cần có chiến lợc riêng cho đơn vị mình. Một mặt quy hoạch sản xuất, điều chỉnh cơ cấu, u tiên tập trung nỗ lực đầu t cho sản xuất các mặt hàng chủ lực có thế mạnh, có khả năng cạnh tranh của đơn vị, của địa phơng mình, lấy thị trờng làm kim chỉ nam định hớng cho sản xuất. Không nên giàn trải, cần chuyên sâu theo thế mạnh. Một mặt cần đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh hợp tác quốc tế, khai thác lợi thế từ các cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cờng các hoạt động xúc tiến thơng mại khuyếch trơng đầu t. Hạch toán chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh tiêu thụ trên thị trờng trong và ngoài nớc. Xem thị trờng trong nớc là hậu thuẫn, là thế mạnh cho việc thâm nhập thị trờng nớc ngoài. Chiến lợc hai trọng điểm sản xuất và kinh doanh tiêu thụ là đòi hỏi rất thực tiễn đảm bảo thắng lợi cho mỗi doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Thị tr-

ờng mà chúng ta cần xem xét là thị trờng hớng ngoại, nhng hiện tại chỉ khoảng hơn 20% giá trị sản phẩm công nghiệp đợc xuất ra thị trờng nớc ngoài. Hớng ngoại phải là chiến lợc lâu dài, bởi sức mua trong nớc thấp, tuy dân số là 80 triệu ngời. Nói vậy, không có nghĩa là chúng ta có thể quên thị trờng trong nớc, mà ở đây, đúng ra, có thứ chúng ta phải giành dật lấy, đặc biệt là những hàng hoá nớc ngoài đang chiếm lĩnh: hàng dệt may, hoá mỹ phẩm, điện tử, điện dân dụng, cơ khí tiêu dùng, gốm sứ…

Những tồn tại trên, thực sự là những trở ngại phải vợt qua trên con đờng phát triển ngành công nghiệp với tốc độ 14 -15%/năm từ nay đến năm 2000. Đặc biệt là vấn đề hội nhập ASEAN, và tham gia AFTA

2.2 . Khẩn trơng sắp xếp lại hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với cam kết hội nhập khu vực và quốc tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh

Sắp xếp lại sản xuất và cơ cấu lại nền công nghiệp đi đôi với việc đổi mới doanh nghiệp trên các mặt công nghệ và quản lý. Thực hiện cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu tại những doanh nghiệp có đủ điều kiện và theo sự chỉ đạo của Nhà nớc.

Cùng với cắt giảm bảo hộ mậu dịch trong khuôn khổ AFTA, còn cần phải tính toán xa hơn, đến phơng hớng chuyên môn hoá sản xuất trong phạm vi ASEAN. Do cơ cấu giữa Việt Nam và các nớc ASEAN có một số điểm tơng đồng, nên càng sớm xác định đợc phơng hớng chuyên môn hoá và liên kết quốc tế của các ngành sản xuất, nhất là sản xuất công nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế hoàn toàn không còn hàng rào bảo hộ ngăn với các nớc trong khu vực, thì sẽ có thể tránh đợc những cuộc cạnh tranh không cần thiết, khai thác những lợi ích của hợp tác và chuyên môn hoá sản xuất, rút ngắn đợc những khúc quanh co trong con đờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá sắp tới.

Đối với những mặt hàng u tiên đa vào những mặt hàng có thuế suất cao và không chịu quản lý bằng các biện pháp phi thuế quan vào thực hiện cắt giảm trớc, bảo đảm thực hiện đúng cam kết mà vẫn giữ đợc thế chủ động cho doanh nghiệp trong nớc. Song có lẽ giải pháp quan trọng nhất vẫn là từ chính các doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải tự sắp xếp, đổi mới công nghệ, trình độ quản lý và nâng cao năng lực cạnh tranh… để tham gia hội nhập khu vực và quốc tế.

2.3. Có giải pháp xử lý nợ

Việc huy động các nguồn vốn phải thực hiện bằng nhiều biện pháp, không những chỉ dới dạng đầu t trực tiếp của nớc ngoài (FDI), hay các nguồn viện trợ phát triển chinh thức (ODA)… mà còn phải coi trọng việc huy động các nguồn vốn tiềm tàng trong nhân dân. Nguồn vốn này không phải là nhỏ, nhng tâm lý ngần ngại trong việc bỏ vốn đầu t phát triển công nghiệp còn khá phổ biến trong nhân dân, một phần là do kinh nghiệm hoạt động kinh doanh còn ít, phần khác là do môi trờng kinh doanh cha đủ hấp dẫn.

2.4. Chủ động trong việc tạo lập nguồn vốn, tìm kiếm thị trờng

Trớc tiên, các doanh nghiệp sản xuất trong nớc cần căn cứ theo hớng phát triển trong tình hình mới để có những định hớng đầu t phù hợp. Trong từng ngành, với từng mặt hàng, các doanh nghiệp phải có dự kiến trớc đợc các khả năng có thể ảnh hởng

hay tác động tới tình hình sản xuất kinh doanh khi Việt Nam đa mặt hàng đó vào thực hiện chơng trình CEPT. Qua đó, doanh nghiệp có thể tìm ra các sản phẩm mới hay phát triển các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu, tìm ra thị trờng mới cho sản phẩm của mình; Các giải pháp để có thể làm chủ đợc thị trờng nội địa và sau đó phải tìm kiếm khả năng xuất khaảu; Định hớng về sản phẩm chủ lực, thị trờng trọng điểm để có phơng án sản xuất kinh doanh đáp ứng các nhu cầu xuất khẩu sang ASEAN hoặc ngoài ASEAN.

Cần phải có một bức tranh rõ ràng về vị trí hiện tại của doanh nghiệp để định hớng đầu t phát triển hay chủ động liên doanh, liên kết để nâng cao năng lực thị trờng của doanh nghiệp.

ở tầm vi mô, các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác thông tin, trực tiếp và thờng xuyên tiếp xúc với thị trờng thế giới thông qua các hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt thị trờng, bám sát và tiếp cận đ- ợc tiến bộ của thế giới trong sản xuất kinh doanh, tự mình lo tìm bạn hàng, thị trờng, ký hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trờng, tránh t tởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý Nhà nớc hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá.

2.5. Kiên quyết không đầu t vào những ngành hàng không có khả năng cạnh

tranh

Tham gia AFTA, các doanh nghiệp phải đối diện với môi tr- ờng cạnh tranh lớn hơn. Thực tế, trớc khi tham gia CEPT thì những năm gần đây các doanh nghiệp trong nớc đã phải chịu sức cạnh tranh mạnh từ khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, đã và đang nhờng từng phần thị trờng cho khu vực này. Do đó, một vấn đề thực tế hiện nay là cần đánh giá hiện trạng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về giá thành, về chất lợng hay mẫu mã - so sánh với các hàng hoá từ ASEAN trên thị trờng trong nớc hay cả trên thị trờng khu vực. Từ đó có hớng khai thác, phát triển các khả năng cạnh tranh riêng biệt này.

Trong việc thu hút đầu t trực tiếp của nớc ngoài (FDI), cần quy định rõ việc u tiên cho những ngành công nghiệp kỹ thuật cao (hitech), công nghiệp chế biến…, dần dần tạo nên những ngành công nghiệp mạnh, những khu công nghiệp mạnh của nớc ta, đủ sức làm ăn bình đẳng với các nớc ASEAN (công nghiệp điện tử, công nghiệp dệt may, da giày, công nghiệp luyện kim,…) và góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đờng lối của Đảng và Nhà nớc Việt Nam.

Doanh nghiệp cần xem xét, đánh giá cụ thể các yếu tố liên quan đến sản xuất, tiêu thụ của từng mặt hàng trong tơng quan so sánh với các mặt hàng cùng loại từ ASEAN. Chúng ta có thể thấy, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trớc một thực trạng là có

một lực lợng lao động dồi dào nhng thiếu các lao động lành nghề. Một số ngành công nghiệp còn gặp phải khó khăn trong vấn đề nhập khẩu nguyên liệu thô và các máy móc chuyên dụng do các chính sách quá khắt khe. Song để có thể hội nhập một cách thành công, chúng ta phải phát huy, tận dụng đợc những lợi thế của mình mà một trong những cách thức để thực hiện điều đó là phải đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Khi các hàng rào thuế quan và phi quan thuế đợc gỡ bỏ, hàng hoá của các nớc ASEAN sẽ đợc cạnh tranh trong một môi trờng lành mạnh và nếu hàng hoá của Việt Nam hiện đã chiếm đợc những thị phần tơng đối sẽ dễ phát huy đợc tính u việt và thâm nhập vào các thị trờng láng giềng nh các sản phẩm da giày, dệt may, hay nông sản.

- Mở rộng hơn nữa thị trờng xuất khẩu đồng thời tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trờng truyền thống đồng thời phải tìm hiểu kỹ thị hiếu của khách hàng và sở thích công nghiệp của các thị trờng, đặc biệt là thị trờng rộng lớn nh Mỹ khi Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ đợc phê chuẩn.

- Loại bỏ các rào cản kỹ thuật với thơng mại (TBT) bằng cách quản lý chất

lợng sản phẩm chặt chẽ hơn.

- Cho phép nhập khẩu miễn thuế hàng t liệu sản xuất và các đầu vào trực

tiếp phục vụ cho việc sản xuất hàng xuất khẩu.

- Tạo đợc một chuyển biến bớc ngoặt cũng nh nghiên cứu thị trờng để cố

gắng tăng cờng giá trị gia tăng nội địa cho sản phẩm.

- Xúc tiến đầu t nớc ngoài và đầu t trong nớc bằng cách loại bỏ thuế quan

đánh vào hàng nhập khẩu hàng t liệu sản xuất và các đầu vào trực

tiếp dùng trong sản xuất hàng xuất khẩu.

Tóm lại, tham gia vào AFTA là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam mà cần sự nỗ lực tổng thể, bổ sung lẫn nhau của tất cả các ngành giúp cho nền kinh tế Việt Nam thực sự đ- ợc cất cánh.

2.6. Cải tiến công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cờng đào tạo

Trong việc lựa chọn công nghệ và chuyển giao công nghệ, nhất thiết phải coi trọng việc chọn công nghệ cao, hiện đại, có sức cạnh tranh không tiếp nhận công nghệ cũ, lạc hậu, dù với bất kỳ hình thức nào (kể cả bằng nguồn vốn ODA hoặc viện trợ nhân đạo, viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ). Coi trọng các hàm lợng công nghệ mới, thông tin, chất xám và trình độ tổ chức cao (T, I, H, O) trong quá trình chuyển giao công nghệ (Technoware, Inforware, Humanware, Organware) vào Việt Nam.

Nghiên cứu đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý tăng năng suất nh thế nào để đảm bảo rằng với mức thuế Việt Nam cam kết nh trong CEPT, dù mặt hàng của các nớc ASEAN có nhập vào Việt Nam cũng không thể cạnh tranh đợc với mặt hàng của ta sản xuất. Theo hớng đó, các doanh nghiệp cần xây dựng chơng trình hành động cụ thể của mình kết hợp giữa năng lực sản xuất với năng lực kinh doanh để đảm bảo không ngừng nâng cao sức cạnh

tranh, kết hợp với các lợi thế cam kết quốc tế, đa đợc ngày càng nhiều hàng của mình ra thị trờng nớc ngoài, khẳng định đợc vị trí trên trờng quốc tế đồng thời nhập khẩu đợc nhiều vật t thiết bị tốt, thuế thấp, nhất là các vật t phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu.

Cần hết sức chú ý việc bảo vệ môi trờng, tránh hậu quả của việc nhập không tính toán kỹ các công nghệ nặng nhọc, ô nhiễm và nguy hiểm, cũng nh tốn năng lợng, làm mất khả năng cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam và gây tác hại đến môi trờng sau này.

Nếu nh nền kinh tế thế giới chủ yếu vẫn dựa vào những ngành công nghiệp truyền thống với nguyên liệu cơ bản là tài nguyên thiên nhiên chứ không phải dựa vào các ngành công nghệ cao và dịch vụ tri thức với tài nguyên thông tin và trí tuệ; và nếu nh nền kinh tế thế giới không đợc toàn cầu hoá nh đang diễn ra, thì tính cạnh tranh của nó chắc sẽ không khốc liệt nh ta đang thấy và đồng thời cũng ít cơ hội để lựa chọn hơn: nớc giàu sẽ giàu mãi, nớc ngèo sẽ càng nghèo hơn. Nhng từ nay tình hình đã khác: nớc giàu vẫn có thể bị chững lại và nớc nghèo vẫn có hy vọng vợt lên. Thịnh và suy bây giờ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tạo ra, duy trì và tăng cờng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Sức cạnh tranh của nền kinh tế của mỗi nớc phụ thuộc một loạt yếu tố, trong đó trình độ khoa học và công nghệ là yếu tố quyết đinh, bởi vì, nh trên ta đã thấy, ngày nay khoa học và công nghệ đã trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp, là động lực quan trọng nhất của phát triển kinh tế - xã hội.

Không phải ngẫu nhiên mà vào đầu những năm 90 rất nhiều nớc đặc biệt các nớc phát triển cao, đã điều chỉnh lại những chính sách của mình đối với khoa học và công nghệ. Thấy rõ con đờng duy nhất để tăng cờng sức cạnh tranh của nền kinh tế là dựa hẳn vào khoa học và công nghệ, tức là bằng khoa học và công nghệ, vì vậy Chính phủ nhiều nớc đã làm hết mình cho khoa học và công nghệ.

Nhu cầu nhân lực có tính quyết định. Các cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ, cán bộ chuyên môn đều phải giỏi, tinh thông nghề nghiệp, nắm bắt kịp thời thông tin mới nhất và đối phó đ- ợc với các mánh khoé làm ăn trên thơng trờng.

Vấn đề đào tạo cán bộ ở các doanh nghiệp là vấn đề đợc thờng xuyên nhấn mạnh bởi con ngời là yếu tố quyết định. Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực ở đây để khẳng định lại tầm quan trọng cần đặc biệt u tiên để đảm bảo thắng lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc đào tạo cần đợc qui hoạch, phân loại, để đào tạo theo năng lực sở trờng dựa trên yêu cầu công việc. Đào tạo lại và đào tạo mới cần kết hợp để đáp ứng đợc những nhu cầu mới phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trớc mắt cần tới 3 loại cán bộ sau đây:

- Đào tạo công nhân lành nghề ở từng lĩnh vực, dây chuyền sản xuất. Vấn đề này cần đợc nhấn mạnh ở thời điểm này bởi thời gian qua đào tạo ở cấp đại học đã đợc chú trọng nhiều, tuy cần thiết, nhng sẽ thiếu tác dụng động lực nếu thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề.

- Đào tạo cán bộ có trình độ kinh doanh quốc tế giỏi. Đây là loại hình cán bộ rất tổng hợp cả am hiểu sản xuất, cả am hiểu thị trờng, kỹ thuật đàm phán, giao dịch, ký kết hợp đồng, và thạo ngoại ngữ. Chúng ta rất thiếu, và rất cần loại cán bộ này.

- Đào tạo cán bộ pháp lý, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và thơng mại quốc tế, để đủ trình độ t vấn, trợ lý giúp giám đốc trong kinh doanh và hợp tác quốc tế.

2.7. Tham gia với Chính phủ và các cơ quan chức năng trong việc rà soát chính sách

Các doanh nghiệp cần có cơ chế theo dõi sát chơng trình CEPT, vì tuỳ mức độ sẽ trực

tiếp hay gián tiếp, doanh nghiệp sẽ đối mặt với các cơ hội hoặc thách thức nh:

- Khả năng lựa chọn đợc nguồn cung cấp rẻ hơn từ ASEAN với lý do

việc giảm thuế nhập khẩu trong nội bộ khu vực.

- Dung lợng và cơ cấu tiêu dùng sẽ thay đổi, dẫn đến thay đổi cơ cấu

thị trờng cung và cầu.

- Vị trí độc quyền của một số doanh nghiệp Nhà nớc sẽ thay đổi. Các

doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ dễ bị tổn thơng nhất…

Đa số các doanh nghiệp trong nớc hiện nay đều có quy mô nhỏ, khó đủ sức làm chủ thị trờng trong nớc cũng nh không đủ sức vơn ra thị trờng nớc ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp nhỏ lẻ, rời rạc hiện nay nên tập hợp thành các Hiệp hội ngành, hàng thì mới tạo thành sức mạnh để tham gia các hoạt động trên thị trờng với quy mô lớn hơn nh: thu nhập thông tin, khảo sát thị trờng ngoài nớc, phối hợp các khả năng sản xuất để có thể cung cấp hàng hoá có số lợng lớn, hợp sức cải tiến các vấn đề về chất lợng..

Nh vậy, trong môi trờng ngày càng đa dạng và phức tạp, doanh nghiệp cần phải năng động hơn, chú trọng hơn đến các vấn đề về thông tin, t vấn. Cần thiết lập các mối liên hệ với các đầu mối thông tin nh các cơ quan Nhà nớc, các Hiệp hội ngành hàng, các cơ quan t vấn trong và ngoài nớc…

Trong quá trình đàm phán ký kết hợp ồng với bạn hàng ở các nớc, các doanh nghiệp cần quan tâm tổng kết thực tiễn, so sánh đối chiếu với các cam kết quốc tế, xem chính sách của nớc đó đối với hàng hoá của Việt Nam thế nào, mức thuế cao hay thấp. Các chế độ chính sách thủ tục phi quan thuế trong xuất nhập khẩu và đầu t đối với ta có điều gì trở ngại bất hợp lý cần tháo gỡ kịp thời để phản ánh cho các cấp quản lý, phản ánh cho Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế tổng hợp đa ra đàm phán, đòi các nớc này sửa đổi.

Với việc nghiên cứu đúc rút thực tiễn trong quan hệ bạn hàng với các n- ớc, kết hợp với năng lực sản xuất và kinh doanh của ta, các đơn vị doanh nghiệp cần thông qua các đơn vị chủ quản của mình, các Hiệp hội ngành hàng, phản ánh nguyện vọng, đóng góp vào việc xây dựng chiến lợc và ph- ơng án đàm phán cụ thể với từng tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Nói khác đi, mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan quản lý của Nhà nớc và doanh nghiệp cần đợc tăng cờng, duy trì thờng xuyên và đều đặn.

Đứng trớc nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao, Đảng và Nhà nớc ta đã đề ra chủ trơng khuyến khích mọi thành phân kinh tế (quốc doanh và ngoài quốc doanh) cùng phát triển. Vấn đề còn phải làm tiếp là tạo ra môi trờng pháp lý, môi trờng kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh cho các nguồn đầu t.

Trên đây là một vài đề xuất, ý kiến đóng góp của luận văn đối với một vấn đề hiện đang còn nhiều tranh luận. Trong khuôn khổ của đề tài này, em xin nhấn mạnh một điều là các giải

pháp và biện pháp này cần phải xây dựng trong khuôn khổ một chiến lợc nhất quán của quốc gia là đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong một bối cảnh nền kinh tế quốc tế và khu vực đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá một cách mạnh mẽ. Nhìn chung, vấn đề đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA hiện nay đang đứng trớc nhiều thách thức về cả các điều kiện khách quan và chủ quan. Những biến động về tình hình chính trị của một số quốc gia thành viên hiện nay đang đặt AFTA dới một áp lực lớn cần sự phối hợp nỗ lực của từng thành viên trong ngôi nhà chung ASEAN.

KếT LUậN Tham gia thực hiện AFTA sẽ là bớc tập dợt đầu tiên trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới của Việt Nam để thực hiện đờng lối phát triển kinh tế theo hớng mở cửa của Nhà nớc. Mức độ ảnh hởng do việc thực hiện những cam kết về tự do hoá thơng mại trong khuôn khổ ASEAN đến nền kinh tế Việt Nam sẽ là nhỏ hơn rất nhiều so với những ảnh hởng sau này khi chúng ta phải thực hiện các cam kết để tham gia APEC hay WTO. Do đó, việc tham gia thực hiện AFTA cũng cần đợc xem xét đánh giá trong một tổng thể các chính sách phát triển, định hớng cho cả quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào khu vực và thế giới.

Để thích ứng với điều kiện mới, chúng ta phải chủ động nắm bắt các diễn biến tác động đến môi trờng kinh tế quốc tế để có đợc các định hớng đúng đắn. Nếu không chủ động, tích cực chuẩn bị đầy đủ, không sẵn sàng điều chỉnh thì chúng ta sẽ bị thua thiệt và trở nên phụ thuộc khi nền kinh tế đã đợc mở cửa mà sức mạnh kinh tế không đợc cải thiện. Do đó, việc Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập và thực hiện AFTA đòi hỏi một sự chủ động không chỉ từ các Bộ, ngành quản lý Nhà nớc, mà quan tọng hơn là sự củ động tự điều chỉnh của các doanh nghiệp sản xuất trong nớc, để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình và tham gia có hiệu quả vào quá trinhg thực hiện AFTA.

Do phải đối diện với môi trờng cạnh tranh lớn hơn, một vấn đề thực tế hiện nay là, cần đánh giá hiện trạng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về giá thành, về chất lợng hay mẫu mã, so sánh với các hàng hoá từ ASEAN trên thị trờng trong nớc hay cả trên thị trờng khu vực. Từ đó, có hớng khai thác, phát triển các khả năng cạnh tranh riêng biệt. Cần phải có một bứa tranh rõ rệt về vị trí hiện tại của doanh nghiệp, liên kết để nâng cao năng lực thị trờng của doanh nghiệp.

Đa số các doanh nghiệp trong nớc hiện nay đều có quy mô nhỏ, khó đủ sức làm chủ thị tr- ờng trong nớc cũng nh vơn ra thị trờng nớc ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp nhỏ lẻ, rời rạc hiện nay nên tập hợp thành các hiệp hội ngành, thì mới tạo thành sức mạnh để tham gia các hoạt động trên thị trờng với quy mô lớn hơn nh thu thập thông tin, khảo sát thị trờng ngoài nớc, phối hợp các khả năng sản xuất để có thể cung cấp hàng hoá có số lợng lớn, hợp sức cải tiến các vấn đề về chất lợng… Trong môi trờng ngày càng đa dạng và phức tạp, doanh nghiệp cần phải năng động hơn, chú trọng hơn đến các vấn đề về thông tin, t vấn. Cần thiết lập các mối liên hệ với các đầu mối thông tin nh các cơ quan Nhà nớc, các hiệp hội ngành hàng, các cơ quan t vấn trong và ngoài nớc.

Hy vọng rằng, việc chúng ta tham gia AFTA cùng với những nỗ lực chủ động điều chỉnh ở cả cấp vĩ mô và vi mô, sẽ là một yếu tố góp phần kích thích nền kinh tế Việt Nam phát triển, nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế, từng bớc đa nền kinh tế Việt Nam hoà nhập với nền kinh tế thế giới và làm cho nền kinh tế Việt Nam thích nghi với môi trờng cạnh tranh quốc tế.