0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM ------------------------ LỮ NGUYỄN BẢO UYÊN GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế tài chính – Ngân hàng Mã số
: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. PHẠM VĂN NĂNG
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2009
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC ........................................................................................................................ i
DANH MỤC SƠ ĐỒ - BIỂU ĐỒ - BẢNG ................................................................... v
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN VỀ THẺ NGÂN HÀNG VÀ RỦI RO TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ NGÂN HÀNG
1.1. TỔNG QUAN VỀ THẺ NGÂN HÀNG ................................................................ 4
1.1.1. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của thẻ ngân hàng ................................ 4
1.1.2. Khái niệm về thẻ ngân hàng ........................................................................... 9
1.1.3. Phân loại thẻ ngân hàng ................................................................................... 9
1.1.4. Lợi ích của thẻ ngân hàng ............................................................................ 12
1.1.4.1. Đối với ngành ngân hàng .................................................................... 13
1.1.4.2. Đối với người sử dụng thẻ ................................................................... 14
1.1.4.3. Đối với đơn vị chấp nhận thẻ .............................................................. 15
1.1.4.4. Đối với nền kinh tế-xã hội ................................................................... 16
1.2. QUY TRÌNH PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ ................................... 17
1.2.1. Các chủ thể tham gia trong quy trình ............................................................ 17
1.2.1.1. Ngân hàng phát hành .......................................................................... 17
1.2.1.2. Chủ thẻ ................................................................................................ 17
1.2.1.3. Đơn vị chấp nhận thẻ .......................................................................... 17
1.2.1.4. Ngân hàng thanh toán ......................................................................... 18
1.2.1.5. Ngân hàng đại lý ................................................................................. 18
1.2.1.6. Tổ chức thẻ quốc tế ............................................................................. 18
2
31.2.2. Quy trình phát hành thẻ ................................................................................. 19
1 51.2.2.1. Nguyên tắc phát hành thẻ .................................................................. 19
1.2.2.2. 1 6Nghiệp vụ phát hành thẻ .................................................................... 19
1.2.3. Quy trình thanh toán thẻ................................................................................ 21
1.2.3.1. Quy trình thực hiện một giao dịch thanh toán thẻ ............................. 21
01.3. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ .................................... 24
41.3.1. Khái niệm về rủi ro ....................................................................................... 24
51.3.2. Phân loại rủi ro .............................................................................................. 25
1 81.3.2.1. Rủi ro thẻ bị mất cắp, thất lạc ........................................................... 25
1 91.3.2.2. Rủi ro thẻ giả mạo ............................................................................. 25
2 01.3.2.3. Rủi ro thẻ bị lạm dụng tài khoản ...................................................... 26
2 11.3.2.4. Rủi ro tác nghiệp ............................................................................... 27
2 21.3.2.5. Rủi ro tín dụng .................................................................................. 28
2 31.3.2.6. Rủi ro do công nghệ, kỹ thuật ........................................................... 28
2 41.3.2.7. Rủi ro khác ........................................................................................ 29
1.2.3.2. 1 7Hệ thống thanh toán toàn cầu .......................................................... 24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1...............................................................................................30
CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
THẺ NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
2.1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ NGÂN
HÀNG TẠI VIỆT NAM ...................................................................................... 32
2.1.1. Quá trình hình thành thị trường thẻ ngân hàng tại Việt Nam ....................... 32
2.1.2. Cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh thẻ ............................................... 33
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng tại Việt Nam hiện nay ....... 34
2.1.3.1 Về số lượng các ngân hàng tham gia thị trường thẻ Việt Nam ........ 34
3
2.1.3.2 Tình hình hoạt động phát hành thẻ .................................................... 35
2.1.3.3. Doanh số sử dụng thẻ ........................................................................ 37
2.1.3.4. Tình hình hoạt động thanh toán thẻ .................................................. 38
2.1.3.5. Mạng lưới ATM và đơn vị chấp nhận thẻ ......................................... 39
2.1.3.6. Tình hình hoạt động của các tổ chức chuyển mạch thẻ .................... 41
2.2. THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ NGÂN
HÀNG TẠI VIỆT NAM ...................................................................................... 42
2.2.1 Rủi ro thẻ giả mạo ....................................................................................... 43
2.2.2 Rủi ro thẻ bị mất cắp, thất lạc ...................................................................... 50
2.3.3 Rủi ro thẻ bị chiếm dụng tài khoản .............................................................. 53
2.2.4 Rủi ro do kỹ thuật công nghệ ....................................................................... 57
2.2.5 Rủi ro tác nghiệp .......................................................................................... 59
2.2.6 Rủi ro tín dụng ............................................................................................. 61
2.2.7 Rủi ro do đạo đức nghề nghiệp của nhân viên ngân hàng ........................... 62
2.3 NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY RA RỦI RO ................................................. 63
2.3.1 Nguyên nhân xuất phát từ chính ngân hàng ................................................. 63
2.3.2 Nguyên nhân do chủ thẻ gây ra .................................................................... 65
2.3.3 Nguyên nhân từ phía đơn vị chấp nhận thẻ .................................................. 66
2.3.4 Nguyên nhân do các cá nhân, tổ chức tội phạm gây ra ................................ 66
2.4. NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC .............................................................. 67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2...............................................................................................68
CHƯƠNG 3 - GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH THẺ NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
3.1. DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG THẺ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI .........70
4
3.2. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
THẺ NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM ................................................................ 71
3.2.2. Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ .......... 71
3.2.3. Tăng cường quản lý, bảo mật hệ thống hoạt động máy ATM ..................... 72
3.2.4. Nâng cấp máy móc thiết bị, hệ thống công nghệ thẻ ................................... 74
3.2.4. Mở rộng kết nối thông tin tài khoản thẻ với các phương tiện hiện đại khác 76
3.2.5. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng ......................................................... 78
3.2.6. Giải pháp an ninh mạng đối với các giao dịch qua Internet ......................... 79
3.2.7. Phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa các ngân hàng ........................................... 81
3.2.8. Chú trọng hướng dẫn khách hàng cách sử dụng thẻ an toàn ........................ 82
3.2.9. Trang bị kiến thức, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đơn vị chấp nhận thẻ .83
3.2.10. Trang bị hệ thống trung tâm tin học đủ lớn, mạnh, nắm vững chuyên môn
nghiệp vụ thẻ ........................................................................................................... 84
3.3. GIẢI PHÁP HỖ TRỢ TỪ PHÍA CƠ QUAN HỮU QUAN ............................ 85
3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước ....................................................................... 85
3.3.2. Đối với Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam .......................................................... 87
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3...............................................................................................88
KẾT LUẬN .....................................................................................................................89
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
5
DANH MỤC SƠ ĐỒ & BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1.1 Quy trình phát hành thẻ ............................................................................ 20
Sơ đồ 1.2 Quy trình thực hiện một giao dịch thanh toán thẻ ................................... 21
Biểu đồ 2.1 Tình hình phát hành thẻ nội địa năm 2008 ............................................. 35
Biểu đồ 2.2 Tình hình phát hành thẻ quốc tế năm 2008 .............................................. 36
Biểu đồ 2.3 Doanh số sử dụng thẻ năm 2008 ............................................................. 38
Biểu đồ 2.4 Doanh số thanh toán thẻ quốc tế năm 2008 ............................................ 39
Biểu đồ 2.5 Hệ thống ATM của Việt Nam năm 2008 ................................................. 40
Biểu đồ 2.6 Hệ thống đơn vị chấp nhận thẻ tại Việt Nam năm 2008 .......................... 40
Biểu đồ 2.7 Tình hình rủi ro thẻ giả mạo, gian lận do các ngân hàng Việt Nam phát
hành ...........................................................................................................45
Biểu đồ 2.8 Tình hình thanh toán thẻ giả mạo, gian lận tại Việt Nam ........................ 48
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Tóm tắt tình hình hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng tại Việt Nam ..... 42
Bảng 2.2 Tình hình rủi ro thẻ giả mạo, gian lận do các ngân hàng Việt Nam phát
hành ...........................................................................................................45
Bảng 2.3 Tình hình thanh toán thẻ giả mạo, gian lận tại Việt Nam ........................ 48
6
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA LUẬN VĂN
Sự ra đời của ngành công nghệ thẻ trong vài thập niên gần đây đã đánh dấu một
bước ngoặc quan trọng trong lịch sử phát triển tiền tệ, góp phần đưa con người tiến gần
hơn đến thế giới văn minh, hiện đại. Bên cạnh sự phát triển vượt bậc của ngành công
nghệ thông tin, công nghệ thẻ cũng được ứng dụng và phát triển lên tầm cao mới, tình
hình hoạt động kinh doanh thẻ nhờ đó cũng phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh thẻ lớn mạnh lại đi kèm với sự không ngừng
gia tăng các rủi ro. Những rủi ro này đang ở mức báo động, không những gây tổn thất
nặng nề đến hoạt động kinh doanh thẻ của các quốc gia trên thế giới mà còn ảnh hưởng
nghiêm trọng đối với những thị trường thẻ mới phát triển như Việt Nam chúng ta. Rủi
ro xảy ra không chỉ ảnh hưởng đến các ngân hàng thương mại trong nước mà còn tác
động đến người sử dụng thẻ và các đơn vị chấp nhận thẻ tham gia hoạt động trên thị
trường với mức độ thiệt hại ngày càng nhiều và không ngừng gia tăng.
Trăn trở trước thực tế này, nhận thấy được tính cấp thiết của vấn đề, tác giả đã
mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
ngân hàng tại Việt Nam” với mong muốn góp phần nhỏ nhằm giúp thị trường thẻ Việt
Nam phát triển ngày càng lớn mạnh, an toàn và hiệu quả.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Góp phần thiết thực trong việc hình thành một sản phẩm khoa học có giá trị lý
luận và thực tiễn về hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng tại Việt
Nam.
Đề tài là sự hệ thống hóa, phân tích các rủi ro đã xảy ra trên thị trường thẻ ngân
hàng tại Việt Nam trong thời gian qua nhằm giúp cho các nhà nghiên cứu có thêm các
thông tin hữu ích, có cái nhìn bao quát hơn về các rủi ro trên thị trường thẻ ngân hàng
tại Việt Nam. Từ đó giúp các ngân hàng thương mại Việt Nam có những hướng đi đúng
đắn hơn khi phát triển công cụ thanh toán hiện đại này.
7
Đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh
doanh thẻ ngân hàng tại Việt Nam, để giúp cho ngành ngân hàng Việt Nam ngày càng
vững tin trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về thẻ ngân hàng, tình hình
hoạt động kinh doanh thẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, những rủi
ro trong hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng thời gian qua để đưa ra giải pháp nhằm
hạn chế các rủi ro này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm các lĩnh vực liên quan đến hoạt động
kinh doanh thẻ ngân hàng nói chung và các rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ của
các ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp tổng hợp, thu thập thông tin,
thống kê thực trạng các rủi ro đã xảy ra, qua đó đánh giá phân tích các rủi ro này để tìm
ra nguyên nhân gây ra rủi ro.
Vận dụng những kiến thức của các môn học về tài chính ngân hàng kết hợp với
kinh nghiệm thực tế đang làm việc trong lĩnh vực kinh doanh thẻ để giải quyết các vấn
đề đã đặt ra trong đề tài.
5. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Nội dung luận văn được bố cục thành ba chương :
(cid:131) Chương 1: Tổng quan về thẻ ngân hàng và rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
ngân hàng
(cid:131) Chương 2: Thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng tại Việt Nam
(cid:131) Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng tại
Việt Nam
Do thời gian nghiên cứu, khả năng và lượng thông tin thu thập được có hạn, luận
văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy
Cô, các bạn và những người quan tâm đến đề tài. Em xin chân thành cảm ơn!
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THẺ NGÂN HÀNG VÀ RỦI
RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
THẺ NGÂN HÀNG
9
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THẺ NGÂN HÀNG VÀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH THẺ NGÂN HÀNG
-------------o0o-------------
1.1. TỔNG QUAN VỀ THẺ NGÂN HÀNG
1.1.1 6Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của thẻ ngân hàng
Lịch sử phát triển của nhân loại đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển kinh tế xã
hội khác nhau gắn liền với các hình thức tiền tệ khác nhau. Từ hình thức tiền tệ thô sơ
như vỏ sò, vỏ ốc,.. chuyển sang kim loại quý nguyên chất, đến đồng tiền đúc, rồi đồng
tiền giấy, tiền ghi sổ và đỉnh cao nhất là tiền điện tử, là tiền đề cho sự ra đời các phương
thức thanh toán bằng thẻ sau này.
Chiếc thẻ là một trong những phát minh vĩ đại nhất của con người, góp phần tạo
ra những tiến bộ to lớn có ý nghĩa quyết định đối với lịch sử văn minh của loài người
bằng cách thúc đẩy thương mại và hoạt động kinh tế phát triển.
Theo tài liệu ghi chép lại của tổ chức Visa quốc tế, vào một buổi tối năm 1949,
lúc trả tiền một bữa ăn đãi khách tại nhà hàng Manhattan hoa lệ, luật sư người Mỹ
Frank MC Namara mới biết mình quên mang ví lẫn chi phiếu. “Thật xấu hổ chưa từng
thấy”, ông thốt lên. Ông hốt hoảng gọi điện thoại về nhà để vợ mang tiền đến thanh
toán hóa đơn. Sau lần mất mặt đó, ông tự hứa sẽ không bao giờ xảy ra tình trạng tương
tự như vậy nữa.
Năm sau, 1950, ông vận động mười bốn nhà hàng tại New York chấp nhận để
mình và hai trăm đồng nghiệp cùng thân hữu được trả tiền bằng cách xuất trình một tấm
thẻ nhỏ, thẻ Dinners Club ra đời. Đến năm 1951, ông thành lập công ty mang tên
Dinners Club, là công ty đầu tiên phát hành thẻ tín dụng, đánh dấu một sự kiện, cột mốc
lịch sử quan trọng trên thế giới. Dinners Club - Câu lạc bộ ăn tối – được hình thành và
thành công nhanh chóng. Một năm sau, hai mươi ngàn người đã được cấp thẻ Dinners.
Tổ chức này bắt đầu phát triển ra nước ngoài năm 1952.
Do sự cạnh tranh quyết liệt từ các nhà buôn với nhau trong việc thu hút khách
hàng, các nhà buôn tìm mọi cách để cung cấp hàng hóa, dịch vụ đến khách hàng càng
10
nhiều hơn, vì vậy các nhà buôn đã đồng ý cho khách hàng mua chịu hàng hóa, dịch vụ
và thanh toán lại sau. Tuy nhiên, đối với các nhà buôn nhỏ, sự hạn chế về vốn đã cản
trở họ trong việc mở rộng tín dụng đến các khách hàng và điều này đã tạo cơ hội để các
định chế tài chính tham gia vào.
Một hệ thống tín dụng được phát triển bởi ông John Biggins vào năm 1946. Với
hệ thống tín dụng này, các nhà buôn sẽ ký quỹ tại ngân hàng ông Biggins, ngân hàng sẽ
hoàn trả tiền cho các nhà buôn và sau đó thu hồi lại tiền từ khách hàng của họ. Hệ
thống tín dụng này đã mở đường cho ngân hàng đầu tiên, Franklin National ở Long
Island phát hành chiếc thẻ tín dụng đầu tiên lưu hành vào năm 1951 tại New York.
Phương thức này đã được công ty American Express bắt chước vào năm 1958,
cải tiến với một tấm thẻ nhựa có khả năng thanh toán khi đi du lịch và trong vòng 5
năm sau đó đã đạt một triệu khách hàng.
Đến năm 1960, một ngân hàng của Mỹ là Bank of America đã phát hành thẻ
Bank Americard. Sau đó, ngân hàng này đã bắt đầu cấp giấy phép cho các định chế tài
chính trong khu vực được cấp phép phát hành thẻ Bank Americard. Dần dần ngày càng
nhiều các định chế tài chính được cấp giấy phép để phát hành thẻ Bank Americard. Vì
vậy, ngân hàng Bank of America đã xây dựng một số quy định và tiêu chuẩn riêng đối
với các định chế tài chính khi phát hành thẻ này.
Trước những thành công của việc phát hành thẻ Bank Americard, một số ngân
hàng ở Mỹ đã ngồi lại với nhau để tìm giải pháp cạnh tranh lại với các định chế đã phát
hành thẻ Bank Americard. Vì vậy vào năm 1966, mười bốn ngân hàng ở Mỹ đã quyết
định thành lập một Hiệp hội thẻ liên ngân hàng - được gọi là “InterBank” để trao đổi
các thông tin về các giao dịch thẻ tín dụng.
Một năm sau đó (1967), bốn ngân hàng thuộc bang California đã thay đổi tên
của họ từ Hiệp hội thẻ ngân hàng California thành Hiệp hội thẻ ngân hàng các bang
phía Tây (tên tiếng Anh là Western States BankCard Association – WSBA). Hiệp hội
này đã mở rộng thành viên sang các định chế khác ở phía Tây của nước Mỹ và các sản
phẩm thẻ ngân hàng của Hiệp hội này có tên gọi là “MasterCharge”.
11
Vào cuối những năm 1960, nhiều định chế tài chính đã trở thành hội viên của
WSBA để phát hành các sản phẩm thẻ ngân hàng mang thương hiệu MasterCharge và
cạnh tranh với thẻ Bank Americard nêu trên.
Cho đến năm 1977, chiếc thẻ tín dụng Bank Americard trở thành thẻ Visa và tổ
chức Visa quốc tế ra đời từ đây. Ngày nay, thẻ Visa đã trở thành thẻ ngân hàng được
nhiều người sử dụng nhất trên thế giới. Đến năm 1979, MasterCharge đổi tên thành
MasterCard và sản phẩm thẻ MasterCard ra đời trở thành đối thủ cạnh tranh chủ yếu
của thẻ Visa.
MasterCard và Visa là hai tổ chức thẻ lớn nhất thế giới, sản phẩm thẻ ngân hàng
của hai tổ chức này được sử dụng phổ biến rộng khắp và chiếm lĩnh hoàn toàn thị
trường thẻ ngân hàng trên thế giới cả về số lượng thẻ phát hành và doanh số thanh toán
thẻ.
Ngày nay, chiếc thẻ được xem là công cụ văn minh, tiện lợi nhất trong các giao
dịch mua bán. Các ngân hàng, các công ty đã liên kết với nhau để khai thác lợi nhuận
đối với sản phẩm dịch vụ này. Nhiều loại thẻ được ra đời và được sử dụng rộng rãi
khắp thế giới.
+ Thẻ Dinners Club
Là loại thẻ du lịch và giải trí T & E ( Travel & Entertainment) đầu tiên được
phát hành năm 1949, cũng là loại thẻ đầu tiên có mặt tại Nhật Bản vào năm 1960. Ban
đầu thẻ này phát triển rất mạnh, năm 1990 có 6,9 triệu người sử dụng với doanh số 16
tỷ dollas. Tuy nhiên số người sử dụng thẻ Dinners Club ngày càng giảm dần do chi phí
sử dụng khá cao. Năm 1993 chỉ còn 1,5 triệu thẻ với doanh số là 7,9 tỷ dollas.
+ Thẻ American Express ( Amex)
Là loại thẻ cao cấp dành cho giới thượng lưu, ra đời vào năm 1958, có trụ sở
chính tại San New York, United States. Với hàng triệu công ty trên toàn thế giới,
American Express thực sự đã giành được vị trí thương hiệu toàn cầu, luôn khẳng định
vị thế của mình bằng những kinh nghiệm trong lĩnh vực du lịch nước ngoài. Sản phẩm
và dịch vụ của hãng hiện nay đã có mặt trên 200 quốc gia với hơn 65 triệu thẻ và công
12
ty cũng có hơn 78.000 chi nhánh trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, VietComBank hiện
là ngân hàng đầu tiên và duy nhất phát hành và chấp nhận thanh toán loại thẻ này.
Sản phẩm, dịch vụ của thẻ Amex có điểm nổi bật khác biệt so với các loại thẻ
khác như: dịch vụ hỗ trợ thay thế thẻ khẩn cấp, dịch vụ bảo hiểm trong và ngoài nước
cho: tai nạn, y tế, mất mát hành lý… Đây là loại thẻ sang trọng và cao cấp nhất hiện
nay.
American Express luôn tận tụy với việc duy trì thương hiệu của mình là nhà
cung cấp dịch vụ tài chính và du lịch uy tín hàng đầu thế giới.
+ Thẻ JCB (Japan Credit Bureau)
Là loại thẻ xuất phát từ Nhật Bản vào năm 1961 do ngân hàng Sanwa phát hành.
Năm 1981 JCB đã bắt đầu phát triển cơ sở và trở thành một thương hiệu mang tầm vóc
quốc tế, mục tiêu chủ yếu là hướng vào thị trường giải trí và du lịch. Năm 1985, thẻ
JCB được phát hành lần đầu tiên ngoài thị trường Nhật Bản. Hiện nay, thẻ JCB được
chấp nhận tại hơn 9 triệu đơn vị chấp nhận thẻ trên 167 quốc gia trên toàn thế giới.
+ Thẻ Visa
Năm 1960, một ngân hàng lớn của Mỹ là Bank of America phát hành thẻ Bank
Americard. Để mở rộng quy mô hoạt động, ngân hàng này cấp giấy phép cho các định
chế tài chính trong khu vực được phát hành thẻ Bank Americard.
Năm 1977, thẻ tín dụng Bank Americard được đổi tên thành thẻ Visa. Tổ chức
thẻ Visa quốc tế cũng chính thức hình thành và phát triển từ đây. Tổ chức thẻ này
không trực tiếp phát hành thẻ mà phân phối cho các thành viên các nước phát hành thẻ
làm cho tổ chức thẻ Visa nhanh chóng mở rộng thị trường. Đến nay, thẻ Visa là loại thẻ
có quy mô lớn nhất và có số lượng người sử dụng nhiều nhất thế giới. Hiện nay, Visa
có hơn 22.000 thành viên tại hơn 230 quốc gia, đã phát hành khoảng 1,4 tỷ thẻ; có hơn
25 triệu đơn vị chấp nhận thẻ. Điều này cho thấy sự chấp nhận thẻ Visa mang tính toàn
cầu và được minh chứng bởi 55% thị phần của Visa trên toàn thế giới. Visa Net thực
hiện khoảng 2700 giao dịch mỗi giây với khả năng xử lý 160 loại tiền tệ khác nhau, nó
trở thành hệ thống thực hiện việc thanh toán của khách hàng rộng nhất và tinh tế nhất
toàn cầu.
13
+ Thẻ MasterCard
MasterCard ra đời vào năm 1966 với tên gọi là Mastercharge do Hiệp hội thẻ
liên ngân hàng được gọi tắt là ICA (Interbank Card Association) phát hành. Đến năm
1979, Mastercharge đã đổi tên thành MasterCard và trở thành tổ chức thẻ quốc tế lớn
thứ 2 trên thế giới sau tổ chức Visa. Hiện nay, MasterCard đã có 29.000 thành viên tại
hơn 200 nước, đã phát hành hơn 1 tỷ thẻ, có khoảng 20 triệu đơn vị chấp nhận thẻ trên
khắp thế giới.
+ Thẻ CUP (China Union Pay)
Công ty Chuyển Mạch Thẻ Quốc Gia China UnionPay thành lập tháng 3/2002
là trung tâm then chốt trong lĩnh vực thẻ ngân hàng Trung Quốc đặt nền móng cho sự
phát triển sản phẩm và dịch vụ thẻ ngân hàng. Đến cuối năm 2007, CUP có hơn 190
thành viên là các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng: 169 ngân hàng
thành viên của CUP đã phát hành hơn 1,5 tỷ thẻ. Ở Trung Quốc, có khoảng 930.000
doanh nghiệp cung ứng hàng hóa dịch vụ chấp nhận thanh toán thẻ với 1.450.000 điểm
POS, số lượng máy ATM đạt 140.000 máy. Hiện, CUP có hơn 200 thành viên. Mạng
lưới chấp nhận giao dịch thẻ CUP phát triển trên toàn lãnh thổ Trung Quốc và 27 quốc
gia ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Đại Dương. CUP đang ngày càng
được biết đến và là sự lựa chọn của các chủ thẻ Trung Quốc sử dụng ngoài nước.
Ngày 23/10/2008, tại Hà Nội, Vietcombank, Smartlink và China Union Pay
(CUP) khai trương hệ thống thanh toán thẻ Vietcombank- Smartlink - CUP. Việc liên
thông hệ thống thanh toán thẻ Vietcombank – Smartlink - CUP sẽ mang lại hàng loạt
tiện ích cho hàng triệu người Trung Quốc sở hữu thẻ mang thương hiệu CUP đến Việt
Nam đầu tư, mua sắm, giải trí, nghỉ dưỡng, du lịch cũng như công tác. Đồng thời, các
nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ của Việt Nam cũng sẽ có cơ hội tiếp cận dễ dàng hơn
với một trị trường tiềm năng lớn.
14
1.1.2 7Khái niệm về thẻ ngân hàng
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đề cập đến khái niệm thẻ ngân hàng, cụ
thể là:
- Quan điểm thứ nhất: Cho rằng thẻ ngân hàng là một trong những công cụ được
sử dụng để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ thay thế cho tiền mặt hoặc có thể được
dùng để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý, hoặc tại các máy ATM.
- Quan điểm thứ hai: Thẻ ngân hàng được sử dụng để thanh toán là một loại thẻ
giao dịch tài chính được phát hành bởi ngân hàng, các định chế tài chính hay các công
ty.
- Quan điểm thứ ba: Thẻ ngân hàng được sử dụng để thanh toán là một phương
thức ghi sổ những số tiền cần thanh toán thông qua các máy đọc thẻ phối hợp với mạng
máy tính kết nối giữa ngân hàng với các điểm có chấp nhận thanh toán bằng thẻ (đơn vị
chấp nhận thẻ).
Ngoài các quan điểm nêu trên ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã đưa ra
khái niệm về thẻ ngân hàng được quy định trong văn bản Quy chế phát hành, thanh
toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng được ban hành kèm
theo quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/05/2007. Theo đó ngân hàng Nhà nước
quy định: Thẻ ngân hàng là phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực
hiện giao dịch thẻ theo các điều kiện và điều khoản được các bên thỏa thuận.
Qua các khái niệm nêu trên, ta có thể hiểu khái niệm về thẻ ngân hàng như sau:
“Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do tổ chức phát hành thẻ cấp cho khách
hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc rút tiền mặt theo những
quy định đã được thỏa thuận và kí kết giữa hai bên”.
1.1.3 8Phân loại thẻ ngân hàng
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều loại thẻ đang lưu hành. Đứng dưới góc độ
khác nhau thì thẻ ngân hàng được chia thành nhiều loại khác nhau:
● Phân loại theo công nghệ sản xuất
- Thẻ khắc chữ nổi (Embossing card)
15
Đây là loại thẻ dựa trên công nghệ khắc chữ nổi. Tấm thẻ thanh toán đầu tiên
cũng được làm dựa trên công nghệ này. Ngày nay hầu như các tổ chức phát hành không
còn dùng kỹ thuật này nữa vì kỹ thuật quá thô sơ dễ bị làm giả.
- Thẻ băng từ (Magnetic Stripe)
Thẻ này được sản xuất dựa trên kỹ thuật thư tín với hai băng từ chứa thông tin ở
mặt sau của thẻ. Thẻ này được sử dụng khá phổ biến trong vòng 20 năm nay nhưng
cũng đã bộc lộ một số nhược điểm:
* Các thông tin ghi trên thẻ không tự mã hóa được, người ta có thể đọc thẻ dễ
dàng bằng thiết bị đọc gắn với máy tính.
* Thẻ từ chỉ mang những thông tin cố định, không gian chứa dữ liệu ít, không áp
dụng được kỹ thuật mã hóa, bảo mật thông tin.
* Thẻ dễ bị nhiễm từ tính dẫn đến mất thông tin.
- Thẻ thông minh (Smart Card )- Thẻ Chip
Chip là một miếng rất nhỏ silicon chứa đựng hàng trăm ngàn mạch bán dẫn, chip
có khả năng lưu trữ, cập nhật và xử lý thông tin với số lượng lớn.
Thẻ chip còn gọi là thẻ thông minh, là một loại thẻ có kích thước tương tự như
thẻ thông thường nhưng được cài đặt thêm một con chip trên thẻ với bộ vi xử lý như
một máy tính thu nhỏ đa chức năng và ứng dụng, có khả năng lưu trữ các thông tin
quan trọng được mã hóa với độ bảo mật cao, khó bị lợi dụng làm giả. Tuy nhiên chi phí
để đầu tư phát triển hệ thống thẻ chip là rất cao.
● Phân loại theo nguồn tài chính đảm bảo cho việc sử dụng thẻ
- Thẻ tín dụng (Credit Card): là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo đó
người chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng do ngân hàng cấp để mua sắm
hàng hóa, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ như: nhà hàng, khách sạn, siêu
thị,…hoặc dùng để rút tiền mặt tại các máy ATM và các điểm ứng tiền mặt trên khắp
thế giới.
Được gọi là thẻ tín dụng vì chủ thẻ được cấp tín chấp một hạn mức nhất định
dựa trên uy tín của mình để tiêu dùng mà không phải trả tiền ngay, chỉ thanh toán sau
16
một kỳ hạn nhất định, có thể thanh toán toàn bộ hoặc một phần. Nếu chủ thẻ trả hết
toàn bộ số tiền nợ vào đúng kỳ hạn quy định thì không phải trả lãi cho số tiền đã sử
dụng đó. Còn nếu chủ thẻ không thanh toán được hết toàn bộ thì sẽ phải trả lãi trên số
tiền này kể từ ngày bắt đầu sử dụng số tiền đó theo mức lãi suất được quy định cụ thể
(lãi suất này được qui định tùy theo từng ngân hàng). Cũng từ đặc điểm trên mà người
ta gọi thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ hoãn hiệu (delayed debit card) hay chậm trả.
Thẻ tín dụng cũng có nhiều loại khác nhau:
* Thẻ chuẩn (Standard card): đây là loại thẻ phổ thông, được phát hành chủ yếu
nhắm đến đối tượng là người dân bình thường, người có thu nhập vừa phải, hạn mức
thông thường khoảng từ 1000 dollas trở lên.
* Thẻ vàng (Gold card): là loại thẻ dành riêng cho các đối tượng có thu nhập
cao, có khả năng tài chính mạnh và có nhu cầu chi tiêu lớn. Chính vì vậy thẻ có hạn
mức tín dụng cao hơn hạn mức thông thường, khoảng từ 3000 dollas trở lên.
* Thẻ cá nhân: Được phát hành cho các cá nhân có nhu cầu và đáp ứng đủ điều
kiện phát hành thẻ được quy định tùy theo từng ngân hàng. Chủ thẻ là người chịu trách
nhiệm thanh toán các khoản dư nợ phát sinh từ thẻ.
* Thẻ công ty: là thẻ do công ty đứng ra xin phát hành và ủy quyền cho cá nhân
thuộc công ty đó sử dụng. Công ty có toàn quyền đưa ra các quyết định liên quan đến
việc sử dụng thẻ và chịu trách nhiệm thanh toán các khoản dư nợ phát sinh từ thẻ.
- Thẻ ghi nợ (Debit card): đây là loại thẻ có liên hệ trực tiếp và gắn liền với tài
khoản tiền gửi không kì hạn của chủ thẻ. Cách sử dụng loại thẻ này cũng giống như thẻ
tín dụng tuy nhiên có sự khác biệt là loại thẻ này khi được sử dụng để chi tiêu hay rút
tiền mặt, giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ trực tiếp từ tài khoản tiền gửi của chủ
thẻ .
Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuộc vào số dư hiện hữu trên
tài khoản tiền gửi của chủ thẻ. Tuy nhiên một số tổ chức phát hành cũng có thể cho
phép chủ thẻ sử dụng vượt hạn mức số dư trên tài khoản, đây gọi là thấu chi.
Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản:
17
+ Thẻ online: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay lập tức
từ tài khoản chủ thẻ.
+ Thẻ offline: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ từ tài
khoản chủ thẻ sau đó vài ngày.
- Thẻ trả trước (Prepaid card): Thẻ trả trước là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện
giao dịch thẻ (gửi, nạp, rút tiền mặt, thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, sử dụng các dịch
vụ khác) trong phạm vi giá trị tiền được nạp vào thẻ tương ứng với số tiền mà chủ thẻ
đã trả trước cho tổ chức phát hành thẻ.
Thẻ trả trước có đặc điểm khác với thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng là chủ thẻ không
cần phải có tài khoản tại ngân hàng.
Thẻ trả trước bao gồm hai loại là thẻ trả trước xác định danh tính (thẻ trả trước
định danh) và thẻ trả trước không xác định danh tính (thẻ trả trước vô danh). Đối với
thẻ trả trước vô danh, số dư trên mỗi thẻ không được vượt quá hạn mức do Ngân hàng
Nhà nước quy định, không được nạp thêm tiền vào thẻ và chỉ được sử dụng thẻ để
thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ. Quy định này nhằm hạn chế việc lợi dụng thẻ trả
trước vô danh trong các hoạt động tội phạm, rửa tiền và tài trợ cho khủng bố.
● Phân loại theo phạm vi sử dụng
- Thẻ nội địa: là thẻ được giới hạn sử dụng trong phạm vi một quốc gia, do vậy
đồng tiền giao dịch phải là đồng bản tệ của nước đó.
- Thẻ quốc tế: là thẻ được sử dụng để thanh toán trên phạm vi toàn cầu. Tuy
nhiên, khách hàng khi sử dụng thẻ quốc tế thường phải chịu nhiều chi phí hơn so với
thẻ nội địa, trong đó đặc biệt là chi phí liên quan đến việc chuyển đổi ngoại tệ giữa các
quốc gia.
1.1.4 9Lợi ích của thẻ ngân hàng
Ngành công nghệ thẻ đã và đang phát triển ngày càng lớn mạnh, khẳng định vị
trí quan trọng của mình trong nền kinh tế thị trường. Điều đó là minh chứng thực tế cho
thấy lợi ích thiết thực mà chiếc thẻ mang lại cho con người. Nó không chỉ đem lại lợi
ích cho ngành ngân hàng, người sử dụng thẻ, các cơ sở kinh doanh dịch vụ có chấp
nhận thanh toán thẻ nói riêng mà còn cho toàn xã hội nói chung.
18
2 5Đối với ngành ngân hàng
1.1.4.1.
* Góp phần tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng
Hàng năm nguồn lợi nhuận thu được từ việc phát hành và thanh toán thẻ là một
con số khá lớn, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng doanh thu của các ngân hàng bao
gồm các khoản thu như sau:
• Các khoản phí: do ngân hàng thu của khách hàng khi ngân hàng cung cấp
dịch vụ thẻ cho khách hàng như: phí phát hành, phí thường niên, phí thay đổi hạn mức
tín dụng, phí cấp lại thẻ, phí tra soát, phí rút tiền mặt…
• Các khoản tiền phạt: ngân hàng thu của khách hàng khi khách hàng sử dụng
thẻ tín dụng nhưng không có khả năng hoàn trả đủ số tiền tối thiểu theo quy định của
ngân hàng khi đến hạn. Số tiền tối thiểu và mức phạt được qui định tùy từng ngân hàng
và được thỏa thuận trong hợp đồng giữa ngân hàng với chủ thẻ.
• Các khoản lãi: Ngân hàng thu lãi trong trường hợp khách hàng sử dụng thẻ
tín dụng nhưng đến hạn thanh toán không có khả năng thanh toán toàn bộ số tiền đã sử
dụng cho ngân hàng (mà chỉ thanh toán một phần) thì số dư nợ đã sử dụng sẽ bị tính lãi
như một khoản ngân hàng cho khách hàng vay với mức lãi suất được quy định tùy từng
ngân hàng và tùy từng thời điểm khác nhau. Ngoài ra khi sử dụng thẻ tín dụng để rút
tiền mặt khách hàng cũng phải trả lãi cho ngân hàng tương tự như một khoản vay ngắn
hạn. Riêng đối với thẻ ghi nợ, nếu khách hàng được ngân hàng cấp hạn mức thấu chi,
khách hàng phải trả lãi cho ngân hàng số tiền đã sử dụng do việc cấp thấu chi này.
• Phí chiết khấu thương mại: đây là khoản phí ngân hàng thu của các đơn vị
chấp nhận thẻ do ngân hàng đứng ra cung cấp các phương tiện, máy móc thiết bị để
phục vụ thanh toán thẻ. Trên cơ sở đó các đơn vị này sẽ chiết khấu lại cho ngân hàng
một tỷ lệ trên doanh thu thu được từ việc thanh toán thẻ. Tỷ lệ này do ngân hàng thỏa
thuận với các đơn vị chấp nhận thẻ ngay khi ký kết hợp đồng.
* Góp phần tạo kênh huy động vốn dồi dào
Thông qua các hoạt động trên thị trường thẻ, đặc biệt là hoạt động phát hành thẻ,
các ngân hàng đã huy động được nguồn vốn đáng kể để đầu tư phát triển nền kinh tế -
xã hội. Thật vậy, trong thời gian qua, khi phát hành thẻ cho khách hàng các ngân hàng
19
phát hành thẻ thường yêu cầu khách hàng phải thực hiện bảo đảm tiền vay bằng các
hình thức như: ký quỹ bằng tiền mặt, cầm cố sổ tiết kiệm (đối với thẻ tín dụng); hoặc
các cá nhân phải có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn mở tại ngân hàng (đối với thẻ ghi
nợ). Ngoài ra, thông qua hoạt động thanh toán thẻ, sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng
huy động nguồn vốn từ các hoạt động thanh toán thẻ qua ngân hàng làm tăng trưởng
ngân quỹ, góp phần phục vụ cho việc đầu tư, mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh để
tăng thêm lợi nhuận.
* Góp phần thu hút khách hàng
Những tiện ích mà thẻ ngân hàng đem lại cho khách hàng không chỉ thu hút
khách hàng trong lĩnh vực thẻ mà còn kéo theo các dịch vụ bán lẻ khác phát triển.
Thông thường khách hàng có thói quen khi sử dụng một dịch vụ nào đó của ngân hàng
thì sẽ sử dụng tiếp các dịch vụ khác của ngân hàng đó khi cần. Điều này tạo cơ hội cho
ngân hàng giữ chân khách hàng qua đó ngân hàng có thể giới thiệu quảng bá các sản
phẩm khác để mở rộng quy mô, lĩnh vực hoạt động nhằm lôi kéo các khách hàng đến
với ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác.
1.1.4.2 2 6Đối với người sử dụng thẻ
Ưu điểm lớn nhất mà sản phẩm thẻ ngân hàng mang lại cho người sử dụng là
nó cung cấp một phương tiện giao dịch thanh toán an toàn, tiện lợi và kinh tế.
+ Tính an toàn: Sử dụng thẻ mang lại tính an toàn cao vì không cần phải mang
một số tiền lớn trong người khi đi ra đường, không lo gặp phải tiền giả vì mọi giao dịch
thanh toán hàng hóa, dịch vụ sẽ được thực hiện trên tài khoản. Đồng thời chủ thẻ cũng
không lo chuyện bị mất cắp. Nếu mất tiền thì khả năng mất là chắc chắn nhưng nếu mất
thẻ thì chủ thẻ có thể thông báo cho ngân hàng phát hành để phong tỏa tài khoản thẻ và
cấp lại thẻ mới
+ Tính tiện lợi: Thẻ ngân hàng là một phương tiện thanh toán có thể thay thế
tiền mặt. Vì vậy người sử dụng thẻ không cần mang theo một khối lượng tiền lớn khi đi
du lịch hay đi mua sắm trong và ngoài nước mà chỉ cần nộp tiền vào tài khoản thẻ tại
ngân hàng trước khi đi du lịch. Hoặc trong trường hợp chủ thẻ đang ở nước ngoài mà
cần tiền có thể yêu cầu người thân đem tiền nộp vào tài khoản thẻ là chủ thẻ đang ở bất
cứ đâu cũng có thể tiếp tục sử dụng thẻ được.
20
Riêng đối với thẻ tín dụng, khi chủ thẻ đi nước ngoài có thể sử dụng thẻ để mua
sắm hàng hóa, dịch vụ bằng tất cả các loại ngoại tệ mà không cần phải dùng tiền mặt để
đổi sang ngoại tệ của nước đó. Chủ thẻ cũng có thể sử dụng thẻ để đặt hàng, thực hiện
giao dịch qua mạng Internet một cách dễ dàng, nhanh chóng. Ngoài ra, chủ thẻ còn có
thể rút tiền mặt bằng nhiều loại tiền tệ khác nhau tại các máy rút tiền tự động (ATM)
hoặc các điểm ứng tiền mặt trên toàn thế giới.
+ Tính kinh tế:
Đối với thẻ ghi nợ:
Ngoài những tiện ích trên do thẻ đem lại, chủ thẻ còn được hưởng mức lãi suất
không kỳ hạn đối với số dư trong tài khoản thẻ hiện có.
Ngoài ra, chủ thẻ còn có thể thực hiện các giao dịch khác từ máy ATM như:
thanh toán hóa đơn tiền điện, nước, điện thoại, kiểm tra số dư tài khoản hoặc chuyển
khoản bất cứ lúc nào mà không cần phải tốn thời gian để đến ngân hàng chờ đợi như
trước đây.
Đối với thẻ tín dụng:
Chủ thẻ được ngân hàng cấp một khoản tín dụng như một khoản vay ngắn hạn
để mở rộng thêm nguồn tài chính của mình nhằm thực hiện các nhu cầu chi tiêu khác
nhau.
Hơn nữa, chủ thẻ còn được miễn toàn bộ lãi trên số tiền đã sử dụng trong một
khoản thời gian (từ 1 đến 45 ngày) nếu chủ thẻ thanh toán lại toàn bộ số tiền này cho
2 71.1.4.3. Đối với đơn vị chấp nhận thẻ
ngân hàng vào cuối kỳ quy định.
Các cơ sở kinh doanh có chấp nhận thanh toán bằng thẻ có thể mở rộng đa dạng
các hình thức thanh toán hàng hóa, dịch vụ. Qua đó giúp cho các cơ sở này có thể thu
hút được nhiều khách hàng, đặc biệt là du khách nước ngoài. Từ đó làm gia tăng doanh
số bán hàng cũng như lợi nhuận của cửa hàng.
Thứ nhất, việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ mang lại lợi ích cho các đơn vị
chấp nhận thẻ như một biện pháp mở rộng thị trường và doanh số, làm tăng sức mua
21
đối với người tiêu dùng trong nước, thu hút nhiều du khách nước ngoài từ đó làm gia
tăng lợi nhuận của cửa hàng.
Thứ hai, việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ giúp các đơn vị chấp nhận thẻ đỡ
tốn nhiều thời gian kiểm đếm, tránh gặp hiện tượng dùng tiền giả để giao dịch cũng như
tình trạng mất cắp tiền xảy ra làm mất lòng tin, uy tín lẫn nhau.
Thứ ba, các đơn vị chấp nhận thẻ còn được ngân hàng hỗ trợ về mặt kỹ thuật,
máy móc thiết bị nhằm nâng cao tính hiện đại, chuyên nghiệp của cửa hàng và đôi khi
còn được ngân hàng hỗ trợ trong việc thu hồi lại những khoản tiền đáng lẽ đã bị mất do
nhân viên cửa hàng sai sót trong việc tính toán.
Thứ tư, các đơn vị chấp nhận thẻ có quan hệ uy tín, lâu năm còn được hưởng
nhiều chính sách ưu đãi từ phía ngân hàng như vay tín dụng để mở rộng sản xuất kinh
2 8Đối với nền kinh tế-xã hội
doanh mà không cần phải có tài sản thế chấp.
1.1.4.4.
Ngành công nghệ thẻ phát triển mở ra một bộ mặt văn minh hiện đại cho nền
kinh tế của đất nước, là yếu tố quan trọng thu hút du khách và các nhà đầu tư nước
ngoài.
Việc thanh toán bằng thẻ giảm đáng kể khối lượng tiền mặt trong lưu thông
nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển, in ấn, lưu giữ và tiêu hủy tiền. Ngoài ra thanh toán
bằng thẻ còn góp phần giảm bớt các tệ nạn trộm cắp, cướp giật, tránh tâm lý lo sợ gặp
phải tiền giả trong các giao dịch mua bán.
Bên cạnh đó, việc thanh toán bằng thẻ còn đẩy nhanh quá trình chu chuyển vốn.
Hầu hết mọi giao dịch bằng thẻ đều được thực hiện và xử lý nhanh chóng qua hệ thống
máy tính điện tử, góp phần làm tăng vòng quay của đồng tiền, khơi thông các nguồn
vốn khác.
Thông qua sự kiểm soát của ngân hàng, tạo điều kiện cho các hoạt động mua
bán kinh doanh được minh bạch nhằm giúp cho ngân hàng nhà nước có thể kiểm soát
được khối lượng tiền giao dịch trong dân cư. Qua đó tạo tiền đề cho việc tính toán và
điều hành thực thi chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả. Nhà nước sẽ kiểm soát được
thu chi của các cá nhân, tổ chức một cách dễ dàng, hạn chế tình trạng trốn thuế, giảm
22
thiểu các hoạt động kinh tế ngầm, góp phần nâng cao tính minh bạch trong hoạt động
kinh tế của quốc gia.
Ngoài ra, việc thanh toán bằng thẻ gắn liền với việc sử dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật và công nghệ hiện đại, là chiếc cầu nối quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, tạo ra một môi trường thương mại văn minh hiện đại nhằm thu hút du khách và
1QUY TRÌNH PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ
các nhà đầu tư nước ngoài.
1.2
1 0Các chủ thể tham gia trong quy trình
1.2.1
2 9Ngân hàng phát hành
1.2.1.1.
Là ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ phát
hành thẻ. Nếu ngân hàng phát hành thẻ quốc tế thì phải là thành viên chính thức của tổ
chức thẻ quốc tế. Ngân hàng phát hành chịu trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ xin cấp thẻ, xử
lý và phát hành thẻ, mở và quản lý tài khoản thẻ, thực hiện cung cấp các dịch vụ thẻ
cho khách hàng, giải quyết tra soát khiếu nại, quản lý rủi ro. Ngân hàng phát hành
thường là ngân hàng có uy tín trong nước cũng như quốc tế.
1.2.1.2 3 0Chủ thẻ
Là người có tên ghi trên thẻ, được ngân hàng phát hành cấp thẻ để sử dụng. Chủ
thẻ là người duy nhất được quyền sử dụng thẻ của mình. Mỗi chủ thẻ được ngân hàng
phát hành cấp cho một số PIN (mã số giao dịch cá nhân) để giao dịch qua máy ATM.
Chủ thẻ được dùng thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận
3 11.2.1.3. Đơn vị chấp nhận thẻ
thẻ và rút tiền mặt tại máy ATM hoặc các điểm ứng tiền mặt.
Là các tổ chức hay cá nhân cung ứng hàng hóa, dịch vụ chấp nhận thẻ làm công
cụ thanh toán, bao gồm: các khách sạn, nhà hàng, siêu thị, câu lạc bộ, các hãng hàng
không, các công ty du lịch lữ hành quốc tế và nội địa…Các đơn vị này sẽ được ngân
hàng thanh toán thẻ cung cấp các máy móc, thiết bị chuyên dùng để thực hiện các giao
dịch thẻ.
Đơn vị chấp nhận thẻ tham gia trên thị trường thẻ nhằm tăng lợi thế cạnh tranh
của mình so với các đối thủ khác do đã đa dạng hóa các hình thức thanh toán, góp phần
23
tăng doanh số bán hàng. Tuy nhiên, để có thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thẻ do
ngân hàng cung cấp, đơn vị chấp nhận thẻ phải trả cho ngân hàng một khoản phí dịch
3 2Ngân hàng thanh toán
vụ theo quy định đã được kí kết giữa đơn vị chấp nhận thẻ với ngân hàng.
1.2.1.4.
Là ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng với đơn vị chấp nhận thẻ và thanh toán các
chứng từ giao dịch do đơn vị chấp nhận thẻ xuất trình. Một ngân hàng có thể vừa đóng
vai trò là ngân hàng thanh toán thẻ vừa đóng vai trò là ngân hàng phát hành thẻ. Nếu
ngân hàng chấp nhận thanh toán thẻ quốc tế thì phải là thành viên chính thức hoặc liên
3 31.2.1.5. Ngân hàng đại lý
kết của tổ chức thẻ quốc tế.
Là ngân hàng được ngân hàng thanh toán thẻ ủy quyền để thực hiện một số dịch
vụ chấp nhận thanh toán thẻ thông qua hợp đồng ngân hàng đại lý. Các dịch vụ thanh
toán liên quan đến thẻ như quan hệ nhờ thu, thanh toán với đơn vị chấp nhận thẻ, ứng
3 41.2.1.6. Tổ chức thẻ quốc tế
tiền mặt cho chủ thẻ …
Là hiệp hội các tổ chức tài chính, tín dụng tham gia trên thị trường thẻ, có trách
nhiệm cấp giấy phép hoạt động thanh toán và phát hành thẻ cho các thành viên có nhu
cầu thực hiện dịch vụ thanh toán và phát hành các sản phẩm thẻ mang thương hiệu của
tổ chức họ. Hiện tại gồm có tổ chức thẻ Visa, tổ chức thẻ MasterCard, công ty thẻ
American Express, công ty thẻ JCB…
Để bảo vệ thương hiệu của tổ chức mình, các tổ chức thẻ đã đưa ra những quy
định hết sức chặt chẽ đối với các ngân hàng thanh viên như: các quy định liên quan đến
việc sử dụng thương hiệu, quy trình thực hiện các giao dịch thẻ, các khoản phí dịch
vụ…
Ngoài các tổ chức thẻ quốc tế, thị trường thẻ còn hoạt động dưới sự kiểm soát
của các cơ quan quản lý Nhà nước, là người đứng ra tổ chức và quản lý các hoạt động
kinh doanh thẻ của quốc gia mình.
Qua các nội dung trình bày trên, cho thấy các chủ thể tham gia hoạt động trên thị
trường thẻ có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau, tất cả đều hoạt động dưới sự quản
24
lý và kiểm soát của Tổ chức Thẻ quốc tế và các cơ quan quản lý Nhà nước của từng
quốc gia nhằm giúp cho các hoạt động trên thị trường thẻ được diễn ra một cách lành
mạnh, góp phần tạo điều kiện cho việc lưu thông hàng hóa, tiền tệ được thực hiện một
1 1Quy trình phát hành thẻ
cách nhanh chóng
3 51.2..2.1. Nguyên tắc phát hành thẻ
1.2.2
Đối với thẻ tín dụng: được phát hành dựa trên nguyên tắc cho vay ngắn hạn. Có
nghĩa là khi chấp nhận phát hành thẻ tín dụng cho khách hàng, ngân hàng cung cấp cho
họ một khoản tín dụng ngắn hạn với hạn mức nhất định mà chủ thẻ được phép sử dụng
trong một chu kỳ tín dụng. Hạn mức tín dụng thẻ của khách hàng nằm trong tổng mức
cho vay chung đối với khách hàng, tổng mức cho vay chung này không vượt quá giới
hạn cho vay tối đa của ngân hàng đối với một khách hàng theo quy định của pháp luật.
Khi phát hành thẻ, một nguyên tắc quan trọng mà khách hàng phải tuân thủ đó là khách
hàng phải có đảm bảo với ngân hàng bằng thế chấp hoặc tín chấp. Nếu dựa vào tín
chấp, ngân hàng sẽ xem xét khả năng trả nợ của khách hàng. Còn thế chấp phải bằng tài
sản có giá trị tương đương với hạn mức tín dụng mà thẻ được cấp. Tài sản thế chấp của
khách hàng thường là tiền mặt, tài khoản cá nhân ở ngân hàng hoặc các khoản tiết kiệm
có kỳ hạn, các giấy tờ có giá trị khác.
Còn đối với các thẻ ghi nợ, thẻ được phát hành khi khách hàng có tài khoản tiền
gửi tại ngân hàng, không cần giới hạn số tiền trong tài khoản nhiều hay ít.
1.2.2.2 3 6Nghiệp vụ phát hành thẻ
Thông thường nghiệp vụ phát hành thẻ tại ngân hàng bao gồm từ việc tiếp nhận
hồ sơ đến việc triển khai toàn bộ quá trình phát hành thẻ, sử dụng thẻ cho đến khi thu
hồi nợ của khách hàng (đối với thẻ tín dụng), cụ thể gồm các khâu như sau:
25
(1)
Khách hàng
NHPH nhận hồ sơ phát hành thẻ của khách hàng
(2)
Không đáp ứng
(3)
Kiểm tra, thẩm định
Đáp ứng
(4)
Ký kết hợp đồng
(5)
(6)
In dập thẻ
a) Quá trình phát hành thẻ:
Sơ đồ 1.1 - Quy trình phát hành thẻ
(1) Khách hàng khi có nhu cầu phát hành thẻ sẽ gửi các hồ sơ đề nghị phát hành thẻ
đến ngân hàng phát hành thẻ, bao gồm:
- Giấy đề nghị phát hành thẻ (theo mẫu của ngân hàng phát hành thẻ);
- Các giấy tờ cần thiết như: bản sao hộ khẩu, chứng minh thư, giấy phép đăng ký
kinh doanh, giấy tờ xác nhận thực hiện bảo đảm phát hành thẻ (như: giấy nộp
tiền, giấy tờ cầm cố…)
- Các giấy tờ khác theo yêu cầu của ngân hàng phát hành thẻ.
(2) Sau khi nhận được các hồ sơ phát hành thẻ do khách hàng gửi đến, ngân hàng
phát hành thẻ sẽ tiến hành kiểm tra, thẩm định hồ sơ bao gồm: kiểm tra, thẩm
định các thông tin do khách hàng cung cấp, kiểm tra các yếu tố có thể dẫn đến
giả mạo, hồ sơ có đáp ứng các điều kiện phát hành thẻ hay không…
26
(3) Trong trường hợp hồ sơ phát hành thẻ không hợp lệ, ngân hàng phát hành sẽ gửi
trả hồ sơ lại cho khách hàng
(4) Trường hợp hồ sơ phát hành thẻ của khách hàng đáp ứng các điều kiện để phát
hành thẻ, ngân hàng phát hành sẽ tiến hành các thủ tục ký kết hợp đồng sử dụng
thẻ với khách hàng. Khi đó, khách hàng này sẽ được gọi là chủ thẻ
(5) Sau khi ký kết hợp đồng, ngân hàng phát hành sẽ tiến hành tạo và cập nhật các
hồ sơ dữ liệu để thực hiện việc in thẻ
(6) Ngân hàng giao thẻ cho khách hàng: trước khi giao thẻ, ngân hàng phải kích hoạt
thẻ cho khách hàng. Khi ngân hàng giao thẻ và số PIN thì yêu cầu chủ thẻ phải
giữ bí mật về số PIN của mình. Mọi trường hợp mất tiền do để lộ số PIN, chủ thẻ
phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.
b) Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc sử dụng thẻ
c) Giải quyết thắc mắc, xử lí tra soát khiếu nại
1 2Quy trình thanh toán thẻ
d) Quản lý thu hồi nợ (đối với thẻ tín dụng)
1.2.3
1.2.3.1. Quy trình thực hiện một giao dịch thanh toán thẻ
(1)
(9)
Đơn vị chấp nhận thẻ
(8)
(2)
(10)
(5)
(4)
(3)
(7)
(6)
Trung tâm thanh toán NH Quốc gia
Sơ đồ 1.2 - Quy trình thực hiện một giao dịch thanh toán thẻ
27
Theo minh họa tại sơ đồ 1.2, quy trình thực hiện một giao dịch thanh toán tiền
hàng hóa, dịch vụ bằng thẻ được thực hiện như sau:
(1) Chủ thẻ sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại các đơn vị chấp
nhận thẻ.
(2) Đơn vị chấp nhận thẻ sẽ gửi các dữ liệu giao dịch thẻ đến ngân hàng thanh
toán thẻ để yêu cầu cấp phép thanh toán.
(3) Trên cơ sở dữ liệu do đơn vị chấp nhận thẻ gửi đến, ngân hàng thanh toán thẻ
sẽ tiếp tục gửi các dữ liệu này đến tổ chức thẻ quốc tế (đối với các giao dịch quốc tế)
hoặc hệ thống thanh toán thẻ Liên ngân hàng quốc gia (đối với các giao dịch nội địa) để
những nơi này gửi đến ngân hàng phát hành thẻ yêu cầu cấp phép thanh toán.
(4) Tổ chức thẻ hoặc hệ thống thanh toán thẻ Liên ngân hàng quốc gia sẽ gửi các
dữ liệu của chủ thẻ đến ngân hàng phát hành thẻ để ngân hàng này cấp phép thanh toán.
(5) Dựa trên các dữ liệu của chủ thẻ được gửi đến, ngân hàng phát hành thẻ sẽ
tiến hành kiểm tra tình trạng thẻ, số dư tài khoản thẻ, nếu đủ điều kiện thanh toán ngân
hàng phát hành sẽ tạm thời khấu trừ ngay số tiền giao dịch vào tài khoản chủ thẻ.
(6) Sau đó, ngân hàng phát hành thẻ đưa ra hồi đáp cấp phép thanh toán đến tổ
chức thẻ quốc tế / hệ thi61ng thanh toán thẻ liên ngân hàng quốc gia.
(7) Dựa trên hồi đáp cấp phép thanh toán nhận từ ngân hàng phát hành thẻ, Tổ
chức thẻ quốc tế / hệ thống thanh toán thẻ liên ngân hàng quốc gia sẽ gửi đến ngân hàng
thanh toán thẻ.
(8) Dựa trên hồi đáp cấp phép được gửi đến, ngân hàng thanh toán thẻ sẽ hồi đáp
đến đơn vị chấp nhận thẻ.
(9) Đơn vị chấp nhận thẻ sẽ trả lời và thực hiện hồi đáp này cho chủ thẻ bao gồm
một số hồi đáp cơ bản như sau:
+ Chấp nhận (Approval): đơn vị chấp nhận thẻ sẽ cung cấp hàng hóa, dịch vụ
cho chủ thẻ.
28
+ Từ chối (Decline): Đơn vị chấp nhận thẻ trả lời giao dịch không được chấp
nhận và yêu cầu chủ thẻ thanh toán hàng hóa, dịch vụ bằng hình thức khác.
+ Thu hồi thẻ (Pick-up): là trường hợp ngân hàng phát hành thẻ thông báo thẻ
nằm trong danh sách cấm lưu hành và yêu cầu đơn vị chấp nhận thẻ thu hồi lại thẻ.
(10) Chủ thẻ sẽ thanh toán lại số tiền giao dịch mua hàng hóa, dịch vụ cho ngân
hàng phát hành theo định kỳ được thỏa thuận giữa chủ thẻ và ngân hàng phát hành thẻ.
Quy trình thực hiện một giao dịch thẻ là một quy trình khép kín, được bắt đầu từ
chủ thẻ và kết thúc tại chủ thẻ này. Đây là một quy trình rất phức tạp, qua nhiều khâu
tuy nhiên thời gian xử lý rất ngắn (trong khoảng mười một giây) vì vậy đòi hỏi các Tổ
chức thẻ, ngân hàng thành viên phải đầu tư rất kỹ các cơ sở hạ tầng kỹ thuật để đảm bảo
đường truyền được thông suốt, các dữ liệu giao dịch thẻ được chuyển tải một cách
nhanh chóng, chính xác.
Như vậy, mỗi ngày vào một thời điểm nhất định (được thỏa thuận giữa đơn vị
chấp nhận thẻ và ngân hàng thanh toán thẻ), đơn vị chấp nhận thẻ sẽ tổng hợp toàn bộ
dữ liệu các giao dịch thẻ đã được thực hiện và gửi về ngân hàng thanh toán thẻ. Ngân
hàng thanh toán thẻ sẽ tiếp tục tập hợp tất cả các dữ liệu của các đơn vị chấp nhận thẻ
gửi đến tổ chức thẻ quốc tế / hệ thống thanh toán thẻ liên ngân hàng quốc gia để đòi
tiền ngân hàng phát hành thẻ và đồng thời báo có vào tài khoản cho các đơn vị chấp
nhận thẻ (sau khi trừ các khoản phí dịch vụ)
Hàng ngày, có đến hàng tỷ giao dịch thanh toán bằng thẻ được thực hiện với hơn
2 tỷ thẻ được sử dụng tại hơn 25 triệu đơn vị chấp nhận thẻ trên khắp thế giới. Điều này
đòi hỏi phải có một hệ thống thanh toán được xác lập đứng ra làm trung gian cho quá
trình thanh toán này.
29
3 7Hệ thống thanh toán toàn cầu
1.2.3.2
Các ngân hàng thành viên của các tổ chức thẻ trên khắp thế giới thanh toán tiền
qua lại cho nhau bằng điện tử. Để đảm bảo việc chuyển và nhận các nguồn vốn giữa các
ngân hàng được thuận lợi, nhanh chóng, đòi hỏi Tổ chức thẻ quốc tế phải đứng ra làm
đầu mối tiếp nhận dữ liệu từ các ngân hàng thành viên, cấn trừ và báo có phần chênh
lệch vào tài khoản của các ngân hàng này được mở tại một số nước cụ thể theo chỉ định
của tổ chức thẻ.
Ngoài ra, tổ chức thẻ cũng quy định giờ và thời hạn để các ngân hàng thành viên
đẩy tất cả các dữ liệu giao dịch của chủ thẻ về máy chủ (được quản lý bởi tổ chức thẻ)
để thực hiện việc thanh toán bù trừ. Nếu sau thời gian quy định, các giao dịch được đẩy
về coi như không hợp lệ và sẽ không được tổ chức thẻ báo có nếu như ngân hàng phát
2RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ
hành từ chối thanh toán các giao dịch này.
1 3Khái niệm về rủi ro
1.3
1.3.1
Rủi ro được hiểu là những sự việc xảy ra dẫn đến kết quả không như mong đợi,
có thể gây tổn thất về vật chất hoặc phi vật chất. Trong thuật ngữ tài chính, rủi ro là khả
năng mất tài chính của ngân hàng, nó gắn liền với bất cứ hoạt động tài chính nào. Rủi
ro tỷ lệ nghịch với lợi nhuận. Các ngân hàng sẽ gặp phải các tổn thất lớn nếu không
quản lý chặt chẽ các rủi ro.
Trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh thẻ, rủi ro tỷ lệ thuận với sự phát triển của
thị trường thẻ. Thị trường thẻ càng lớn mạnh thì nguy cơ phải đối mặt với các rủi ro
càng nhiều.
Vậy, có thể hiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ là các tổn thất
không mong đợi về vật chất hoặc phi vật chất có liên quan trực tiếp tới tất cả các
chủ thể tham gia trên thị trường thẻ. Nó không những ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả kinh doanh mà còn ảnh hưởng gián tiếp đến nền kinh tế - xã hội của đất nước.
30
1 4Phân loại rủi ro
1.3.2
Hầu hết các khâu trong quy trình phát hành và thanh toán thẻ đều tiềm ẩn những
nguy cơ rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào, gây tổn thất và thiệt hại rất lớn cho
chủ thẻ, đơn vị chấp nhận thẻ, ngân hàng phát hành và cả ngân hàng thanh toán.
Có rất nhiều loại rủi ro xảy ra trong hoạt động kinh doanh thẻ nhưng có thể chia
3 8Rủi ro thẻ bị mất cắp, thất lạc
ra làm những loại chính như sau:
1.3.2.1.
Rủi ro xảy ra chủ yếu do sự chủ quan của chủ thẻ hoặc do sơ suất của nhân viên
ngân hàng làm cho kẻ gian có cơ hội để sử dụng thẻ.
Đối với chủ thẻ: Phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo quản thẻ cẩn thận, nếu lỡ xảy
ra mất cắp hoặc phát hiện thẻ bị thất lạc, chủ thẻ phải báo ngay cho ngân hàng phát
hành để ngân hàng kịp thời khóa thẻ và đưa lên danh sách cấm lưu hành (đối với thẻ
quốc tế). Rủi ro chỉ xảy ra khi chủ thẻ quên hoặc liên hệ với ngân hàng chậm trễ và
trong khoảng thời gian này thẻ có thể bị kẻ gian lợi dụng để sử dụng.
Đối với ngân hàng phát hành: nhân viên ngân hàng khi nhận được thông báo mất
hoặc thất lạc thẻ, nếu sơ suất không khóa ngay hoặc quên khóa, hoặc đôi khi khóa nhầm
sang thẻ của người khác và không kịp thời đưa lên danh sách cấm lưu hành thì khi phát
sinh các giao dịch không phải chủ thẻ thực hiện ngân hàng sẽ hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Bên cạnh đó, rủi ro thẻ bị thất lạc rất thường xuyên xảy ra do chủ thẻ không giữ
gìn thẻ cẩn thận và để lộ số Pin (mã số dùng để rút tiền tại máy ATM) dẫn đến kẻ gian
có cơ hội để rút tiền và các giao dịch khiếu kiện có liên quan đến mã Pin chủ thẻ phải
3 9Rủi ro thẻ giả mạo
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
1.3.2.2.
Thẻ giả mạo là thẻ được làm giả dựa trên việc đánh cắp cơ sở dữ liệu của thẻ
thật bằng công nghệ Skimming (sao chép dữ liệu).
31
Đây là loại rủi ro lớn nhất và nguy hiểm nhất hiện nay mà tất cả các ngân hàng
đều rất quan tâm. Các cá nhân hoặc các tổ chức tội phạm làm giả thẻ dựa trên những
thông tin lấy được qua việc đánh cắp dữ liệu của thẻ thật bằng rất nhiều thủ đoạn khác
nhau. Bằng nhiều cách bọn chúng trà trộn vào làm nhân viên của các đơn vị chấp nhận
thẻ hoặc cấu kết với nhân viên của đơn vị chấp nhận thẻ để đánh cắp thông tin thẻ thật
của khách hàng. Bọn chúng thường lắp đặt các thiết bị có khả năng sao chép dữ liệu
vào máy đọc thẻ của đơn vị chấp nhận thẻ hoặc ăn cắp dữ liệu qua dụng cụ cầm tay có
khả năng ghi lại toàn bộ thông tin của thẻ thật để làm ra thẻ giả. Đôi khi bọn tội phạm
còn cấu kết với nhân viên ngân hàng để lắp đặt các thiết bị ăn cắp dữ liệu thẻ tại các
máy ATM và gắn camera quay lén để biết được mã Pin, sau đó chúng tạo ra thẻ giả để
sử dụng hoặc rút tiền mặt. Chiếc thẻ giả được làm ra một cách dễ dàng chỉ cần một thẻ
trắng, một máy in thẻ và dữ liệu ăn cắp được là bọn chúng đã có một tấm thẻ hợp lệ để
sử dụng chi tiêu mua hàng hóa, dịch vụ.
Thẻ giả gây ra tổn thất rất lớn cho các ngân hàng phát hành thẻ vì hiện nay theo
quy định của tổ chức thẻ quốc tế, ngân hàng phát hành sẽ là người chịu trách nhiệm
hoàn toàn đối với mọi giao dịch phát sinh mang mã số ngân hàng phát hành (Bin-Bank
Identification Number) của mình. Đây là loại rủi ro rất khó quản lý vì nằm ngoài tầm
4 0Rủi ro thẻ bị lạm dụng tài khoản
kiểm soát của các ngân hàng.
1.3.2.3.
Thẻ bị lạm dụng tài khoản có thể do kẻ gian cố tình lấy cắp thông tin thẻ khi chủ
thẻ thực hiện giao dịch thanh toán hàng hóa dịch vụ hoặc khi chủ thẻ sử dụng thẻ để
thực hiện các giao dịch qua thư (M.O-mail order), điện thoại (T.O-telephone order),
Internet hoặc kẻ gian có thể xâm nhập vào hệ thống quản lý dữ liệu thẻ để lấy cắp các
thông tin tài khoản thẻ…
Cùng với sự phát triển của mạng Internet, loại rủi ro này ngày càng phổ biến và
chiếm một tỷ lệ khá cao trong các loại rủi ro về thẻ ngân hàng. Bọn tội phạm có thể lấy
thông tin của chủ thẻ thông qua cách phổ biến nhất là tạo ra các trang web ngân hàng
giả hoặc lập ra các trang web bán hàng trực tuyến giả. Hoặc để có được thông tin, bọn
tội phạm thường tấn công vào các cơ sở dữ liệu của một số công ty bán hàng qua mạng
trên thế giới để ăn cắp các dữ liệu thẻ đã được sử dụng để thanh toán tại các trang web
32
này. Đây cũng là vấn đề rất đáng quan tâm. Khi thực hiện giao dịch qua mạng, nếu càng
nhiều yêu cầu về thông tin để xác thực khách hàng thì tính bảo mật càng cao nhưng làm
khách hàng cảm thấy khó chịu khi phải khai báo quá nhiều thông tin. Phần lớn khách
hàng chỉ muốn khai báo ít, sơ sài nhằm tiết kiệm thời gian lên mạng, điều này tạo cơ
hội cho bọn tội phạm mạng bẻ khóa và lấy các thông tin dễ dàng. Do vậy, yếu tố an
4 1Rủi ro tác nghiệp
ninh mạng cần được các chủ thể có liên quan ý thức nhiều hơn nữa.
1.3.2.4.
Rủi ro này phát sinh trong việc xử lý giao dịch, thực hiện quy trình nghiệp vụ
hàng ngày của nhân viên ngân hàng, nhân viên đơn vị chấp nhận thẻ. Những sự cố về
nghiệp vụ có thể xảy ra trên tất cả các khâu như: tiếp nhận, xử lý thông tin khách hàng,
cài đặt chương trình, hạch toán, thu nợ sao kê, tiếp quỹ, tra soát, bồi hoàn… gây tổn
thất không những về mặt tài chính mà còn ảnh hưởng lớn đến uy tín và niềm tin của
khách hàng đối với ngân hàng, đối với đơn vị chấp nhận thẻ.
Đây là loại rủi ro xảy ra do ý thức chủ quan của con người, sự cẩu thả, bất cẩn
dẫn đến sai sót trong quá trình tác nghiệp gây hậu quả nghiêm trọng dẫn đến tổn thất
cho ngân hàng hoặc cho đơn vị chấp nhận thẻ. Rủi ro xảy ra khi nhân viên ngân hàng
sai sót trong việc nhập tỷ giá để báo có cho đơn vị chấp nhận thẻ. Hoặc đôi khi do sự
bất cẩn, nhân viên ngân hàng có thể giao nhầm thẻ của khách hàng này cho khách hàng
khác với số dư trong tài khoản cao hơn rất nhiều và lợi dụng sơ hở này khách hàng có
thể rút hết tiền trong thẻ của người khác.
Rủi ro này còn xảy ra khi nhân viên ngân hàng do sơ suất không để ý đến thời
hạn truyền file dữ liệu các giao dịch thanh toán thẻ để đòi tiền ngân hàng bạn dẫn đến
quá thời hạn quy định của tổ chức thẻ. Trong trường hợp như vậy, ngân hàng phát hành
sẽ có quyền từ chối thanh toán các giao dịch đó và ngân hàng thanh toán sẽ không thu
hồi được tiền do đã báo có cho đơn vị chấp nhận thẻ. Rủi ro còn gây ra thiệt hại cho
ngân hàng nếu nhân viên quên hoặc chậm trễ trong việc khóa các thẻ bị mất cắp thất lạc
và không đưa lên danh sách cấm lưu hành thì khi các thẻ này bị lợi dụng để sử dụng,
phần thiệt hại hoàn toàn do ngân hàng phát hành gánh chịu.
Bên cạnh đó, rủi ro còn xảy ra do sự bất cẩn của nhân viên đơn vị chấp nhận thẻ.
Khi khách hàng thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ nhưng nhân viên đơn vị chấp nhận
33
thẻ lại quên không đưa khách hàng ký tên vào hóa đơn thẻ, lợi dụng sơ hở này khách
hàng khiếu nại giao dịch đó họ không có thực hiện, không chịu thanh toán tiền cho
ngân hàng. Nếu đơn vị chấp nhận thẻ không có chứng từ hợp lệ (hóa đơn thẻ có chữ ký
của chủ thẻ) cung cấp cho ngân hàng thanh toán thì sẽ bị ngân hàng thanh toán đòi lại
tiền đã báo có bằng cách ghi nợ tài khoản của đơn vị chấp nhận thẻ để trả lại tiền cho
ngân hàng phát hành. Loại rủi ro này có thể phòng và tránh nếu trong quá trình tác
4 2Rủi ro tín dụng
nghiệp các cá nhân phải thật kỹ lưỡng.
1.3.2.5.
Rủi ro xảy ra đối với các thẻ tín dụng, vì lý do chủ quan hay khách quan chủ thẻ
không có khả năng hoàn trả các khoản nợ đã chi tiêu từ thẻ cho ngân hàng dẫn đến các
khoản nợ quá hạn không có khả năng thu hồi làm tăng tỷ lệ nợ xấu cho ngân hàng.
Rủi ro thường xảy ra do khâu thẩm định, đánh giá khách hàng không cẩn thận,
không tìm hiểu kỹ khách hàng, không nắm bắt đầy đủ các thông tin về khách hàng,
không sử dụng các biện pháp đảm bảo cần thiết dẫn đến không thu hồi được nợ gây mất
vốn cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, rủi ro tín dụng còn xảy ra do nguyên nhân khách quan như: chủ thẻ
4 31.3.2.6. Rủi ro do công nghệ, kỹ thuật
bị tai nạn, phá sản, mất việc… dẫn đến không có khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Đây là loại rủi ro liên quan đến các hệ thống quản lý thẻ, các chương trình xử lý
dữ liệu, những sự cố về nghẽn mạng đường truyền làm ảnh hưởng rất lớn đến cả một hệ
thống hoạt động thẻ. Nguyên nhân gây ra rủi ro có thể do những sự cố bất khả kháng
nhưng cũng có thể do sự chủ quan, thiếu hiểu biết, đầu tư chưa đúng mức các trang
thiết bị máy móc của các ngân hàng. Loại rủi ro này khi xảy ra gây ra hậu quả nghiêm
trọng, ảnh hưởng đến cả toàn bộ hệ thống thẻ, có thể gây thiệt hại cả về vật chất lẫn uy
tín ngân hàng.
34
1.3.2.7. 4 4 Rủi ro khác
Ngoài những rủi ro chính thường xảy ra được nêu ở trên, hoạt động kinh doanh
thẻ đôi khi còn gặp một số rủi ro khác như:
* Rủi ro do ý thức chủ quan của người sử dụng thẻ
Chủ thẻ sử dụng thẻ một cách vô tư không có ý thức bảo mật, giữ gìn thẻ cẩn
thận: để lộ thông tin thẻ, cung cấp thẻ và mã Pin thẻ cho người thân, bạn bè mượn dẫn
đến những ai có ý xấu sẽ nảy sinh việc lấy cắp thẻ để sử dụng.
Rủi ro còn có thể xảy ra nếu mất thẻ mà chủ thẻ không kịp thời báo ngay cho
ngân hàng để khóa tài khoản và đưa lên danh sách cấm lưu hành (đối với thẻ quốc tế).
* Rủi ro do đạo đức của người sử dụng thẻ
Rủi ro còn gây ra thiệt hại rất lớn cho ngân hàng phát hành nếu ngay chính chủ
thẻ không trung thực cố tình gian dối, lừa gạt ngân hàng, lợi dụng tính chất của thẻ tín
dụng để chi tiêu nhiều giao dịch với số tiền nhỏ không cần cấp phép nhưng tổng các
giao dịch lại vượt quá hạn mức tín dụng quy định và không có khả năng thanh toán cho
ngân hàng. Đôi khi chủ thẻ lại đứng ra cấu kết với bọn tội phạm hoặc thông đồng với
người thân, bạn bè lừa gạt ngân hàng bằng cách tạo ra chứng cứ giả, đưa thẻ cho người
khác ra nước ngoài sử dụng và chứng minh hợp pháp rằng mình không có mặt tại thời
điểm đó để khiếu nại đòi bồi hoàn các giao dịch phát sinh ở nước ngoài. Rủi ro còn
thực sự nguy hiểm hơn nếu chủ thẻ cố tình gian lận tạo ra hồ sơ giả, các giấy tờ chứng
nhận giả để lừa gạt ngân hàng phát hành cung cấp thẻ với hạn mức tín dụng cao sau đó
cố tình sử dụng hết hạn mức tín dụng do ngân hàng cấp rồi bỏ trốn.
* Rủi ro do chủ thẻ không nhận được thẻ do ngân hàng gửi
Hầu hết các ngân hàng thường giao thẻ cho chủ thẻ qua đường bưu điện. Vì vậy,
có thể do ngân hàng gửi không đúng địa chỉ hoặc chủ thẻ đã thay đổi địa chỉ khác mà
ngân hàng chưa cập nhật được. Trong trường hợp này ngân hàng phát hành thẻ sẽ phải
chịu toàn bộ trách nhiệm đối với các giao dịch bị lợi dụng đó.
* Rủi ro do đơn vị chấp nhận thẻ giả mạo
Đơn vị chấp nhận thẻ cố tình đăng ký các thông tin không chính xác với ngân
hàng thanh toán. Ngân hàng này sẽ chịu tổn thất khi không thu được những khoản đã
35
tạm ứng cho đơn vị chấp nhận thẻ trong trường hợp đơn vị này thông đồng với bọn tội
phạm chấp nhận thẻ giả hoặc tạo ra các hóa đơn giả để lừa tiền ngân hàng.
* Rủi ro do môi trường pháp lý, xã hội
Các văn bản quy định của tổ chức thẻ, ngân hàng nhà nước về phát hành, sử
dụng, thanh toán thẻ còn rất chung chung, chưa tách biệt rõ trách nhiệm, quyền hạn của
các chủ thể tham gia trong hoạt động kinh doanh thẻ nên có một số trường hợp khi xảy
ra rủi ro không biết quy trách nhiệm về ai.
Bên cạnh đó, một môi trường xã hội chưa văn minh, trình độ dân trí còn kém,
bọn tội phạm còn tràn lan cũng dễ phát sinh rủi ro cho các hoạt động kinh doanh thẻ
như: tình trạng ăn cắp, cướp giật, lắp đặt các thiết bị nhìn trộm ở các máy ATM để ăn
cắp mã pin hay phá hỏng các thiết bị do ngân hàng đầu tư gây thiệt hại cũng không nhỏ
cho ngân hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1, luận văn đã nêu ra những vấn đề tổng quan về thẻ ngân hàng,
trong đó đã đưa ra các khái niệm, phân loại về thẻ ngân hàng cũng như trình bày ích lợi
của thẻ ngân hàng đối với khách hàng, đối với ngành ngân hàng và đối với toàn bộ nền
kinh tế.
Ngoài việc nêu ra những cơ sở lý luận chung và cơ bản nhất liên quan đến thẻ
ngân hàng, luận văn đã trình bày một cách tổng quan quy trình phát hành và thanh toán
thẻ cũng như giải thích một số thuật ngữ liên quan đến lĩnh vực thẻ, các chủ thể tham
gia hoạt động trên thị trường thẻ.
Sau cùng, với việc nghiên cứu các rủi ro đã xảy ra trong hoạt động kinh doanh
thẻ, luận văn đã tóm tắt và phân loại một số rủi ro chính thường xảy ra trên thị trường
thẻ để từ đó có cơ sở phân tích thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam trong chương 2.
36
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH THẺ NGÂN HÀNG TẠI
VIỆT NAM
37
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
-------------o0o-------------
2.1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ NGÂN
HÀNG TẠI VIỆT NAM
2.1.1. Quá trình hình thành thị trường thẻ ngân hàng tại Việt Nam
Với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới của Đảng và Nhà nước đã
đẩy mạnh sự giao lưu kinh tế - thương mại giữa các nước. Qua đó số lượng du khách
nước ngoài đến Việt Nam ngày càng tăng kèm theo nảy sinh nhu cầu sử dụng thẻ để
thanh toán các khoản chi tiêu phát sinh.
Nhận thấy nhu cầu cấp thiết đó, vào năm 1990 ngân hàng ngoại thương Vệt Nam
là ngân hàng đầu tiên mạnh dạng triển khai hoạt động thanh toán thẻ tại Việt Nam. Ban
đầu, mặc dù chưa phải là thành viên chính thức của các tổ chức thẻ quốc tế nhưng ngân
hàng ngoại thương Việt Nam đã chủ động hợp tác với một chi nhánh ngân hàng của
Pháp tại Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thẻ Visa quốc tế để trở thành ngân hàng
đại lý thanh toán thẻ Visa cho chi nhánh ngân hàng của Pháp này.
Bắt đầu từ đây, lần đầu tiên tại Việt Nam các du khách nước ngoài có thể sử
dụng thẻ Visa để chi tiêu mua sắm hàng hóa, dịch vụ tại các điểm có chấp nhận thanh
toán bằng loại thẻ này.
Tiếp theo sự thành công này, năm 1991 ngân hàng ngoại thương Việt Nam tiếp
tục hợp tác với công ty tài chính của Malaysia để làm ngân hàng đại lý thanh toán thẻ
MasterCard và hợp tác với công ty JCB International của Nhật để làm đại lý chấp nhận
thanh toán thẻ JCB.
Nhận thấy được những tiện ích từ tấm thẻ đem lại, vào năm 1993 ngân hàng
ngoại thương Việt Nam mạnh dạn phát hành những tấm thẻ nội địa đầu tiên mang
thương hiệu “VietComBank Card” ra thị trường Việt Nam, đánh dấu một bước ngoặc
quan trọng mở đầu cho ngành công nghệ thẻ ngân hàng tại Việt Nam ra đời. Sau khi
Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam năm 1994, ngân hàng ngoại thương tiếp tục
38
ký hợp đồng làm đại lý thanh toán thẻ American Express của Mỹ. Chính những nổ lực
không ngừng trong lĩnh vực thẻ của ngân hàng ngoại thương Việt Nam vào năm 1995
tổ chức thẻ quốc tế MasterCard đã kết nạp ngân hàng ngoại thương trở thành thành viên
chính thức của tổ chức thẻ này. Ngay sau đó tổ chức thẻ quốc tế Visa cũng kết nạp ngân
hàng ngoại thương Việt Nam là thành viên chính thức của mình. Bắt đầu từ đây ngân
hàng ngoại thương Việt Nam được phép thanh toán thẻ trực tiếp với tổ chức thẻ quốc tế
và cũng được phép phát hành các sản phẩm thẻ quốc tế mang thương hiệu Visa và
Master Card lưu hành trên toàn thế giới. Nối tiếp sự thành công của ngân hàng ngoại
thương Việt Nam, hai ngân hàng thương mại cổ phần lớn tại Việt Nam đó là ngân hàng
thương mại cổ phần Á Châu và ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt
Nam cũng đã trở thành thành viên chính thức của hai tổ chức thẻ quốc tế này.
Đến năm 1996, thị trường thẻ Việt Nam trở nên sôi động hơn với sự tham gia
của nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam như: ngân hàng United
Oversea Bank (UOB) của Singapore, ngân hàng ANZ, ngân hàng Hongkong Bank
(HSBC) trong lĩnh vực thanh toán thẻ quốc tế.
Đến năm 2002, các ngân hàng thương mại tại Việt Nam bắt đầu triển khai mạng
lưới giao dịch tự động ATM và phát hành thẻ nội địa.
Từ đó ,thị trường thẻ Việt Nam trở nên sôi động hẳn lên và phát triển nhanh
chóng. Đến nay đã có 40 ngân hàng tham gia hoạt động phát hành và thanh toán thẻ
gồm: 4 ngân hàng thương mại Nhà nước, 27 ngân hàng thương mại cổ phần, 8 ngân
hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và một tổ chức phi
ngân hàng (Công ty tiết kiệm bưu điện) với hơn 142 thương hiệu thẻ khác nhau nhằm
thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng và phù hợp với xu thế mở rộng của thị
trường.
2.1.2. Cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh thẻ
Hiện nay, văn bản pháp lý quy định đầy đủ nhất cho hoạt động kinh doanh thẻ
là quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 của Thống đốc ngân hàng nhà
nước về việc ban hành quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hổ
trợ hoạt động thẻ ngân hàng thay thế quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN ngày
19/10/1999 của thống đốc ngân hàng nhà nước về việc ban hành quy chế phát hành, sử
39
dụng và thanh toán thẻ ngân hàng. Đây là văn bản quan trọng, là cơ sở pháp lý chuyên
môn cao nhất về thẻ ngân hàng. Quy chế này có phạm vi điều chỉnh là nghiệp vụ phát
hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hổ trợ hoạt động thẻ ngân hàng và đối
tượng áp dụng là các tổ chức, cá nhân có liên quan. Quy chế cũng quy định quyền và
trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán thẻ, và việc cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ liên quan đến hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng.
Ngoài các quy định và luật lệ hiện hành của ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng
tham gia hoạt động kinh doanh thẻ cũng phải chịu sự chi phối bởi hợp đồng ký kết giữa
các ngân hàng với các tổ chức thẻ quốc tế, những quy định của tổ chức thẻ quốc tế và
luật pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng tại Việt Nam hiện nay
2.1.3.1 Về số lượng các ngân hàng tham gia thị trường thẻ Việt Nam
Nếu như cuối năm 2007, thị trường thẻ Việt Nam mới có 30 Ngân hàng tham gia
phát hành thẻ, thì trong năm 2008 đã có thêm 10 ngân hàng gia nhập thị trường thẻ, đưa
tổng số ngân hàng tham gia hoạt động phát hành và thanh toán thẻ lên 40 ngân hàng,
bao gồm 4 ngân hàng thương mại Nhà nước, 27 ngân hàng thương mại cổ phần, 8 ngân
hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và một tổ chức phi
ngân hàng (Công ty Tiết kiệm Bưu điện) với trên 142 thương hiệu thẻ khác nhau bao
gồm thẻ ghi nợ nội địa, thẻ ghi nợ quốc tế, thẻ tín dụng nội địa, thẻ tín dụng quốc tế và
thẻ trả trước.
Việc nhiều ngân hàng, trong đó có ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ, tham gia
thị trường thẻ trong năm 2008 thể hiện dịch vụ thẻ ngày càng giữ một vị trí quan trọng
trong chiến lược phát triển của các ngân hàng, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng
tài chính như hiện nay, khi việc phát triển các sản phẩm truyền thống gặp rất nhiều khó
khăn. Sự tham gia đông đảo của các ngân hàng trên thị trường thẻ đã làm cho sự cạnh
tranh giữa các ngân hàng càng trở nên gay gắt hơn. Để tồn tại, phát triển và chiếm lĩnh
thị trường, các ngân hàng buộc phải đưa ra thị trường các sản phẩm thẻ mới, khác biệt
với nhiều tính năng mới. Nhờ đó,năm qua thị trường thẻ Việt Nam đã chứng kiến sự gia
tăng đáng kể của các sản phẩm thẻ với các thương hiệu khác nhau, nhằm phù hợp nhu
cầu đa dạng của khách hàng và phù hợp với xu thế mở rộng của thị trường.
40
2.1.3.2 Tình hình hoạt động phát hành thẻ
Năm 2008, các tổ chức phát hành thẻ đã tập trung đầu tư cho công tác quảng bá
và tiếp thị sản phẩm thẻ. Nhờ đó, cùng với việc nhu cầu sử dụng thẻ ngày càng tăng
trong mọi tầng lớp dân cư, số lượng thẻ phát hành trong năm tăng trưởng đột biến so
với các năm trước. Tính đến ngày 31/12/2008, tổng số thẻ phát hành đạt hơn 15 triệu
thẻ các loại, bao gồm cả thẻ nội địa và thẻ quốc tế, bằng 161% so với gần 10 triệu thẻ
của năm 2007, trong đó, thẻ nội địa chiếm 93,2% và thẻ quốc tế chiếm 6,8%
a) Phát hành thẻ nội địa
Sản phẩm thẻ nội địa bao gồm thẻ tín dụng nội địa và thẻ ghi nợ nội địa, trong
đó thẻ ghi nợ nội địa vẫn tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao. Tính đến cuối năm 2008,
tổng số thẻ nội địa phát hành đạt hơn 13.976.472 thẻ, tăng 160% so với gần 9 triệu thẻ
năm 2007. Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam (VCB) tiếp tục dẫn
đầu với gần 3,072 triệu thẻ, chiếm hơn 22% thị phần, ngân hàng thương mại cổ phần
Đông Á (EAB) đứng thứ ba với hơn 2,438 triệu thẻ chiếm 17,6% thị phần (xem biểu đồ
2.1)
Biểu đồ 2.1 Tình hình phát hành thẻ nội địa năm 2008 (Đơn vị: thẻ)
3,500,000
3,071,737
2,787,140
2,438,219
2,080,000
3,000,000 2,500,000 2,000,000
1,510,188
458,428
377,029
1,500,000 1,000,000
500,000
0
VCB
EAB
BIDV
VIB
(Nguồn: Hội Thẻ Ngân Hàng Việt Nam)
Đạt được kết quả ấn tượng như trên ngoài sự nỗ lực của chính các ngân hàng
trong việc tổ chức thực hiện tốt chỉ thị 20/2007/CP-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương ngân sách, còn do một nguyên
41
nhân nữa là phương tiện thanh toán thẻ đang ngày càng khẳng định vai trò và sự cần
thiết đối với đời sống của nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội.
Riêng đối với loại hình thẻ tín dụng nội địa, hiện nay, ở Việt Nam mới có 2 ngân
hàng tham gia phát hành là ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) và ngân
hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín với tổng số lượng thẻ đạt gần 9.200 thẻ,
chỉ chiếm 0,6% tổng số thẻ trên thị trường.
b) Phát hành thẻ quốc tế
Hiện nay ở Việt Nam, trong tổng số 40 tổ chức tham gia thị trường thẻ, có 16
ngân hàng phát hành thẻ quốc tế, bao gồm thẻ tín dụng quốc tế và thẻ ghi nợ quốc tế.
Hoạt động phát hành thẻ quốc tế trong năm qua đạt mức tăng trưởng rất ấn tượng với
tổng số thẻ đã phát hành tích lũy đạt 1.027.469 thẻ, tăng 74% so với 589.784 thẻ cuối
năm 2007. Trong đó, sản phẩm thẻ ghi nợ quốc tế vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số
thẻ quốc tế phát hành, một mặt do thủ tục phát hành đơn giản, nhanh chóng hơn so với
thẻ tín dụng, mặt khác, khách hàng có thể chi tiêu trong nước như thẻ ATM, lại vừa có
thể chi tiêu tại nước ngoài như thẻ tín dụng quốc tế.
Trong số 16 tổ chức phát hành thẻ quốc tế, ACB tiếp tục dẫn đầu với số lượng
thẻ quốc tế phát hành tích lũy hơn 300.000 thẻ, chiếm 29,4% thị phần. VCB đứng thứ
hai với gần 294.000 thẻ, chiếm 28,6% thị phần, tiếp theo là ngân hàng thưoơng mại cổ
phần kỹ thương (TCB) với gần 144.000 thẻ, chiếm 14% thị phần, Ngân hàng thương
mại cổ phần Sài Gòn thương tín (STB) hơn 90.000 (xem biểu đồ 2.2)
Biểu đồ 2.2 Tình hình phát hành thẻ quốc tế năm 2008 (Đơn vị: thẻ)
350,000
302,007
293,648
300,000 250,000 200,000
143,416
91,771
150,000 100,000
48,285
20,000
15,118
50,000
0
ACB
VCB
TCB
STB
EIB
Agribank
VIB
(Nguồn: Hội Thẻ Ngân Hàng Việt Nam)
42
Đạt được kết quả khả quan trên là do trong năm 2008 đã có thêm 5 ngân hàng
tham gia phát hành thẻ quốc tế, đưa tổng số ngân hàng tham gia phát hành thẻ quốc tế
tại thị trường Việt Nam lên 16 ngân hàng. Không những thế, các ngân hàng còn tập
trung gia tăng tiện ích và tính năng mới cho các sản phẩm thẻ như chuyển khoản, thanh
toán hóa đơn hàng hóa dịch vụ, mua hàng trực tuyến, thấu chi tài khoản, hưởng các ưu
đãi về dịch vụ và giảm giá mua hàng tại các điểm chấp nhận thẻ, vấn tin tài khoản và in
sao kê, nhận tiền kiều hối, bảo hiểm tai nạn, giao dịch qua kênh ngân hàng điện tử và
các dịch vụ khác. Ngoài ra, không thể không kể đến vai trò của các Tổ chức Thẻ quốc
tế trong việc tổ chức các chương trình hỗ trợ và khuyến khích phát triển thị trường thẻ
Việt Nam…
2.1.3.3. Doanh số sử dụng thẻ
Cùng với sự gia tăng về số lượng thẻ phát hành, sự phát triển mạnh mẽ của hệ
thống ATM, việc mở rộng kết nối mạng lưới của các ngân hàng thông qua các tổ chức
chuyển mạch thẻ, cùng với chỉ đạo của Chính phủ và của ngân hàng nhà nước trong
việc thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, doanh số sử dụng thẻ của chủ thẻ nội địa
đã tăng lên nhanh chóng so với năm 2007
Tính đến cuối năm 2008, doanh số sử dụng thẻ nội địa đạt gần 250.000 tỷ đồng,
bằng 200% so với 124.300 tỷ đồng trong năm 2007. Tuy nhiên, trong đó doanh số rút
tiền mặt vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn, trong khi việc thanh toán bằng thẻ tại các đơn vị
chấp nhận thẻ và ATM vẫn còn hạn chế.
Trong số các ngân hàng, VCB đứng đầu về doanh số sử dụng thẻ cho tất cả các
loại thẻ, với 72.941 tỷ đồng trong năm 2008 (33,68%), vượt khá xa vị trí thứ hai là
EAB với 43.856 tỷ đồng (20,24%), và đứng thứ ba là Vietinbank với 31.620 tỷ đồng
(14,6%) (xem biểu đồ 2.3)
43
Biểu đồ 2.3 Doanh số sử dụng thẻ năm 2008 (Đơn vị: tỷ VNĐ)
80,000
72,941
70,000
60,000
43,856
50,000
31,620
40,000
27,521
30,000
18,215
20,000
6,091
4,848
10,000
0
VCB
Vietinbank
Agribank
STB
(Nguồn: Hội Thẻ Ngân Hàng Việt Nam)
2.1.3.4. Tình hình hoạt động thanh toán thẻ
Năm 2008, doanh số thanh toán thẻ quốc tế của các ngân hàng đạt hơn 1.164
triệu USD, bằng 159% so với 755 triệu USD của năm 2007. Trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra rộng khắp thế giới, thì đây là một kết quả rất khả quan.
Đạt được kết quả trên trước hết là do trong năm qua, các ngân hàng đã chủ động tập
trung đầu tư phát triển mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ rộng khắp, phục vụ nhu cầu sử
dụng thẻ ngày càng gia tăng của khách hàng quốc tế cũng như khách hàng trong nước;
mặt khác, là nhờ lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong năm 2008 vẫn duy trì mức
tăng trưởng so với năm 2007, cũng như lượng chủ thẻ Việt Nam ra nước ngoài công
tác, học tập và du lịch tăng cao. Theo thống kê của Tổng cục du lịch Việt Nam, năm
2008 tổng lượng khách quốc tế vào Việt Nam đạt tới 4,3 triệu lượt khách, tăng 0,6% so
với năm 2007.
Trong số các ngân hàng, VCB tiếp tục thể hiện thế mạnh vượt trội trong lĩnh vực
thanh toán thẻ quốc tế, với hơn 642.63 triệu USD trong năm 2008, chiếm 55,19% thị
phần. Tiếp theo là ngân hàng thương mại cổ phần Á châu (ACB) với 203.70 triệu USD,
chiếm 17,5% thị phần. Ngân hàng United Overseas (UOB) đứng thứ ba với doanh số
102.40 triệu USD, tương đương 8,8% thị phần (xem biểu đồ 2.4)
44
Biểu đồ 2.4 Doanh số thanh toán thẻ quốc tế năm 2008 (Đơn vị: triệu USD)
642.63
700.00
600.00
500.00
400.00
300.00
203.70
102.40
200.00
54.71
45.24
34.75
25.16
100.00
0.00
VCB
UOB
Vietinbank
EAB
(Nguồn: Hội Thẻ Ngân Hàng Việt Nam)
2.1.3.5. Mạng lưới ATM và đơn vị chấp nhận thẻ
- Mạng lưới ATM
Nhằm đáp ứng tiềm năng phát triển mạnh mẽ của thị trường thẻ Việt Nam, đặc
biệt để đẩy mạnh thực hiện theo tinh thần của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị
20/2007/CT-TTg về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương ngân
sách, năm 2008, các ngân hàng đã mạnh dạn đầu tư triển khai, lắp đặt thêm một số
lượng lớn máy ATM. Tính đến cuối năm, tổng số ATM trên cả nước đạt 7.480 máy,
tăng 2.884 máy (xấp xỉ 63%) so với năm 2007. Một điều đáng mừng là hầu hết các
ngân hàng trong năm qua đều gia tăng đầu tư mở rộng hệ thống ATM. Nhờ đó, mạng
lưới ATM phát triển mạnh và rộng khắp các địa bàn cả nước, góp phần đáng kể trong
việc đáp ứng nhu cầu ngày một gia tăng của khách hàng, đặc biệt tại các thành phố lớn
và địa bàn tập trung các khu công nghiệp.
Tính đến 31/12/2008, trong tổng số hơn 20 ngân hàng tham gia đầu tư hệ thống
ATM trên thị trường, VCB tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu với 1.244 máy, chiếm 16,7% thị
phần, tiếp theo là Agribank với 1.202 máy, chiếm 16,1% thị phần. Đứng thứ ba là
BIDV với 978 máy, chiếm 13,1% thị phần (xem biểu đồ 2.5)
45
Biểu đồ 2.5 Hệ thống ATM của Việt Nam năm 2008
1400
1202
1244
1200
978
863
742
512
1000 800 600
306
400
200
0
VCB
BIDV
Vietinbank
TCB
(Nguồn: Hội Thẻ Ngân Hàng Việt Nam)
- Mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ
Trong năm 2008, đa số các ngân hàng đều tập trung đẩy mạnh phát triển mạng
lưới đơn vị chấp nhận thẻ. Tính đến cuối năm, tổng số đơn vị chấp nhận thẻ trên thị
trường đạt 26.930 đơn vị, tăng 7.314 đơn vị tương đương 37% so với 19.616 đơn vị của
năm 2007. Vietcombank tiếp tục là ngân hàng dẫn đầu hệ thống với 7.800 đơn vị chấp
nhận thẻ chiếm 28,96% thị phần, tiếp theo là ACB với 2.791 đơn vị, chiếm 10,36% thị
phần và VIB với 1.918 đơn vị, chiếm hơn 7% thị phần (xem biểu đồ 2.6)
Biểu đồ 2.6 Hệ thống đơn vị chấp nhận thẻ tại Việt Nam năm 2008
7,800
8,000
7,000
6,000
5,000
4,000
2,791
1,918
3,000
1,909
1,868
1,646
1,618
2,000
1,000
0
VCB
VIB
Agribank
EIB
(Nguồn: Hội Thẻ Ngân Hàng Việt Nam)
46
Việc các ngân hàng tập trung phát triển, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt
động của mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ đã góp phần đáp ứng nhu cầu thanh toán hàng
hóa, dịch vụ của chủ thẻ. Khách hàng ngày càng thấy thuận lợi và tiện ích hơn khi sử
dụng phương tiện thanh toán thẻ hiện đại và an toàn, từ đó đẩy mạnh được thói quen
thanh toán không dùng tiền mặt theo chủ trương của Chính phủ cũng như của Ngân
hàng Nhà nước.
2.1.3.6. Tình hình hoạt động của các tổ chức chuyển mạch thẻ
Thực hiện chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, với nổ lực trong việc
kết nối hệ thống để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng trong việc sử dụng dịch
vụ, từ ngày 23/05/2008, hai tổ chức chuyển mạch thẻ là Công ty cổ phần chuyển mạch
tài chính quốc gia Việt Nam (Banknet.Vn) và Công ty cổ phần dịch vụ thẻ (Smartlink)
đã kết nối thành công, giúp khách hàng có thể sử dụng dịch vụ 24 giờ/ngày tại các máy
ATM thuộc các ngân hàng thành viên của Banknet và Smartlink.
Như vậy, khác với năm 2007, khi cả ba tổ chức chuyển mạch, gồm Banknet,
Smartlink và liên minh VNBC mới chỉ hoạt động riêng rẽ, độc lập, thì sang năm 2008
việc kết nối chính thức hệ thống thanh toán thẻ giữa hai tổ chức trên đã thực sự đánh
dấu một bước phát triển mới của thị trường thẻ Việt Nam. Ngoài 5 ngân hàng kết nối
đầu tiên là Vietcombank, Agribank, BIDV, Vietinbank, và Techcombank, đến cuối năm
2008 liên minh Smartlink-Banknet đã kết nạp thêm 3 thành viên nữa là ngân hàng
TMCP Sài Gòn, Ngân hàng TMCP Nam Việt và Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Công
thương.
Tính đến ngày 31/12/2008, mạng lưới ATM của các ngân hàng thành viên
Banknet VN chấp nhận các giao dịch từ chủ thẻ của ngân hàng thành viên Smartlink là
hơn 3 triệu giao dịch, chiếm 62% giao dịch thực hiện thành công qua hai hệ thống.
Mạng lưới ATM của các ngân hàng thanh viên Smartlink chấp nhận các giao dịch từ
chủ thẻ các các ngân hàng thành viên BanknetVN là gần 2 triệu giao dịch, chiếm 38%
tổng số giao dịch thành công.
47
Bảng 2.1 - Tóm tắt tình hình hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng tại Việt Nam
(Số liệu đến 31/12/2008)
Số lượng các ngân hàng phát hành thẻ 40 ngân hàng (trong đó 16 ngân hàng phát
hành thẻ quốc tế)
Các loại thẻ 142 thương hiệu thẻ các loại
Số lượng thẻ đã phát hành + khoảng 14 triệu thẻ nội địa
+ hơn 1 triệu thẻ quốc tế
(tăng 61% so năm trước)
Doanh số sử dụng thẻ + nội địa: 250.000 tỷ đồng
+ quốc tế: 572 triệu USD
(tăng 41% so năm trước)
Doanh số thanh toán thẻ quốc tế Trên 1.164 triệu USD
(tăng 59% so năm trước)
Số lượng máy ATM 7480 máy
(tăng 63% so năm trước)
Số lượng đơn vị chấp nhận thẻ 26.930 đơn vị
(tăng 37% so năm trước)
(Nguồn: Hội Thẻ Ngân Hàng Việt Nam)
Qua phân tích tổng quan tình hình hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng hiện nay
trên thị trường Việt Nam, đã cho thấy thị trường thẻ đang ngày càng lớn mạnh cả về số
lượng phát hành lẫn qui mô thanh toán. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển như vũ bão
của thị trường thẻ cũng đã kéo theo sự gia tăng không ngừng các rủi ro, mà được phân
tích cụ thể ở phần 2.2 dưới đây.
2.2. THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Kể từ khi 2 Tổ chức thẻ Visa và MasterCard quốc tế được thành lập, ngành
công nghệ thẻ ngân hàng đã có sự phát triển đáng kể về mọi mặt. Các sản phẩm mang
thương hiệu Visa và Mastercard đã chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trường thẻ trên thế
48
giới. Chính vì vậy, trong phần phân tích thực trạng rủi ro hoạt động kinh doanh thẻ
dưới đây, luận văn chủ yếu sẽ sử dụng số liệu của 2 Tổ chức thẻ lớn này để minh họa
cho tình hình rủi ro trên thị trường thẻ Việt nam.
Qua tổng kết sơ lược tình hình hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng tại Việt Nam
được nêu ở trên, ta có thể nhận thấy thị trường thẻ Việt Nam đang ngày càng lớn mạnh,
thẻ ngân hàng đã trở thành công cụ thanh toán phổ biến và gần gũi với mọi người.
Bên cạnh những dấu hiệu lạc quan, các ngân hàng đang phải đau đầu đối diện
với những rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ đang có chiều hướng gia tăng trong
những năm gần đây. Chính vì vậy, luận văn đã tổng hợp và phân tích các rủi ro đã xảy
ra trong thời gian qua để tìm ra giải pháp nhằm hạn chế các rủi ro này, một số rủi ro
chính được đề cập sau đây:
2.2.1 Rủi ro thẻ giả mạo
Ở Việt Nam hiện nay hầu hết các ngân hàng phát hành thẻ đều sử dụng công
nghệ thẻ từ nên khả năng bị sao chép dữ liệu là rất dễ dàng . Theo thống kê của Hội thẻ
ngân hàng Việt Nam thì hiện nay chỉ có 4 ngân hàng (Vietcombank, VIB, VP, HSBC)
trong số 16 ngân hàng tham gia phát hành thẻ quốc tế trên thị trường Việt Nam đang
chuyển đổi sang công nghệ thẻ chip (thẻ thông minh) theo chuẩn EMV – là chuẩn quốc
tế về thẻ chip do ba công ty hàng đầu về thẻ là Visa, MasterCard và Europay đưa ra.Vì
thế số lượng thẻ chip đã phát hành rất ít so với hơn một triệu thẻ từ đang lưu hành. Do
đó, rủi ro thẻ giả đang là nguy cơ hàng đầu cho các ngân hàng phát hành thẻ ở Việt
Nam.
Một chiếc thẻ giả được làm ra khá đơn giản và dễ dàng bằng cách có được thông
tin, dữ liệu sao chép từ thẻ thật, một tấm thẻ trắng và một cái máy in thẻ. Thẻ giả có thể
được sử dụng để chi tiêu mua sắm hàng hóa dịch vụ như thẻ thật, sử dụng trên tài khoản
của chủ thẻ thật, có thể đánh lừa được cả đơn vị chấp nhận thẻ và ngân hàng thanh toán
thẻ.
Bọn tội phạm thực hiện các giao dịch trên thẻ giả rất chuyên nghiệp, nhanh
chóng: sử dụng liên tục nhiều giao dịch với số tiền lớn trong cùng một thời điểm đến
khi hết hạn mức không còn sử dụng được nữa mới thôi. Chính vì vậy đây là vấn đề hết
sức khó khăn cho các ngân hàng trong việc theo dõi phát hiện thẻ giả vì đến khi phát
49
hiện ra thì tài khoản chủ thẻ cũng đã bị sử dụng hết hạn mức.Các ngân hàng phát hành
chỉ phát hiện thẻ bị làm giả khi chủ thẻ từ chối thanh toán các giao dịch phát sinh và
khiếu nại mình không có thực hiện những giao dịch này. Do đó, vấn đề chống thẻ giả
đang là vấn đề cấp bách mà các ngân hàng Việt Nam phải quan tâm vì đây là món mồi
béo bỡ cho bọn tội phạm dễ dàng tìm kiếm thu nhập bất chính.
Ở Việt Nam một số trường hợp làm thẻ giả đã từng bị phát hiện như:
*Trường hợp làm thẻ giả có quy mô lớn của Nguyễn Anh Tuấn (Chủ tịch Hội
đồng quản trị công ty RC), Nguyễn Đình Cường (quận 3, TpHCM), cùng một số đồng
sự (bị xét xử vào 9-2008). Tuấn làm giả trang web bán hàng trực tuyến, gửi thư điện tử
lừa các chủ thẻ cung cấp các dữ liệu về thẻ tín dụng của họ, sau đó Tuấn tạo ra thẻ giả
để đi rút tiền tại các máy ATM. Còn Nguyễn Đình Cường thì mua một máy in thẻ ATM
từ Mỹ qua mạng với giá 500USD, kèm theo cả thẻ trắng. Với dữ liệu, thông tin ăn cắp
được của chủ thẻ, thời gian làm thẻ giả chỉ mất một phút. Cả đường dây của Cường và
Tuấn đã rút hơn 1,6 tỷ đồng qua hệ thống ATM tại các ngân hàng ở Việt Nam.
*Tương tự Tô Phúc Hậu (quận 10, TpHCM) và nhiều đồng sự cũng mua một
máy in thẻ từ Israel thông qua Internet với giá 600 USD sau đó làm thẻ giả thì bị phát
hiện.
*Sethu Theven (quốc tịch Sri Lanka) bị phát hiện và đưa ra xét xử vào đầu năm
2008, cũng đã sử dụng hàng chục thẻ ATM giả để rút tiền từ các ngân hàng ở trong
nước. Sethu Theven bị phát hiện khi đang dùng thẻ giả rút tiền tại máy ATM của ngân
hàng Á châu. Tại cơ quan điều tra, Sethu Theven khai nhận đã thực hiện 83 lần giao
dịch qua các thẻ ATM giả, rút được hơn 130 triệu đồng.
Tất cả các trường hợp làm giả thẻ trên đều là thẻ do các ngân hàng nước ngoài
phát hành, bị làm giả để thực hiện giao dịch rút tiền mặt tại các máy ATM của các ngân
hàng Việt Nam. Vì vậy, về thực chất các ngân hàng Việt Nam chưa bị tổn thất gì về tài
chính trong các vụ làm giả thẻ này. Đó là điều đáng mừng nhưng cũng là bài học để
cảnh báo cho các ngân hàng trong nước phải cẩn thận đối với tệ nạn thẻ giả đang ngày
càng phát triển.
50
Bên cạnh việc các thẻ tín dụng do ngân hàng nước ngoài phát hành bị làm giả tại
Việt Nam, các thẻ quốc tế do các ngân hàng Việt Nam phát hành khi đi ra nước ngoài
sử dụng cũng đã từng bị làm giả rất nhiều, thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.2 Tình hình rủi ro thẻ giả mạo, gian lận
do các ngân hàng Việt Nam phát hành (Đơn vị tính: USD)
Năm 2005 2006 2007 2008 Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền
Doanh số sử dụng thẻ mất cắp, 28.380 46.200 104.000 118.400 thất lạc
Doanh số sử dụng thẻ bị chiếm 22.500 57.104 88.000 175.000 dụng tài khoản
Doanh số sử dụng thẻ giả 84.280 159.600 273.000 310.000
(Nguồn: Báo cáo của tổ chức thẻ Visa và MasterCard quốc tế)
Biểu đồ 2.7 - Tình hình rủi ro thẻ giả mạo, gian lận do các ngân hàng Việt Nam
phát hành
350
310
300
250
173
175
200
159.6
118.4
150
104
84.28
100
88
57.104
46.2
28.38
50
22.5
Doanh số sử dụng thẻ mất cắp, thất lạc Doanh số sử dụng thẻ bị chiếm dụng tài khoản Doanh số sử dụng thẻ giả
0
2005
2006
2007
2008
51
Qua bảng số liệu trên ta thấy loại hình tội phạm thẻ sử dụng công nghệ cao ngày
càng phổ biến, tỷ lệ làm thẻ giả ngày càng tăng. Năm 2005, doanh số sử dụng thẻ giả là
84.280 USD tăng vọt lên 159.600 USD trong năm 2006, tức tăng gần 200% so với năm
trước. Đến năm 2007, doanh số này vẫn khá cao, 273.000 USD, tăng 71% so với năm
2006. Nguyên nhân là do bối cảnh các thị trường thẻ có yếu tố rủi ro cao trước đây như
Malaysia, Indonesia,… đã hoàn thành việc chuyển đổi sử dụng công nghệ thẻ chip thay
thế công nghệ thẻ từ nên các tổ chức tội phạm thẻ quốc tế đang chuyển hướng tập trung
sang các thị trường thẻ mới như Việt Nam. Ngoài ra, có thể do thị trường thẻ Việt Nam
còn non yếu, các ngân hàng chưa chú trọng đến việc quản lý rủi ro do thẻ giả gây ra
hoặc chưa có các biện pháp quản lý rủi ro hữu hiệu. Các thẻ do các ngân hàng trong
nước phát hành khi ra nước ngoài sử dụng bị làm giả rất nhiều và ngày càng tăng. Điều
này đã làm thức tỉnh các ngân hàng phát hành thẻ ở Việt Nam. Một số ngân hàng đã tự
xây dựng cho mình những biện pháp phòng vệ riêng, chẳng hạn như giải pháp khuyến
khích khách hàng khóa hủy thẻ cũ khi thực hiện giao dịch thẻ tại những thị trường có
rủi ro cao và sẽ được ngân hàng cấp lại miễn phí thẻ mới để sử dụng. Với biện pháp
này, tình hình sử dụng thẻ giả năm 2008 tăng không đáng kể, doanh số sử dụng thẻ giả
là 310.000 USD, tức tăng 13% so với năm 2007.
Mặc dù vậy, thị trường thẻ Việt Nam vẫn là nơi tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, loại
hình tội phạm thẻ vẫn ngày càng tăng và sử dụng công nghệ ngày càng tinh vi hơn.
Trước đây (trước tháng 12/2007), theo báo cáo của cơ quan phòng chống tội
phạm công nghệ cao C15 (Bộ công an), hầu như thị trường thẻ Việt Nam chưa xuất
hiện thẻ giả do các ngân hàng Việt Nam phát hành. Tuy nhiên, hiện nay theo điều tra sơ
bộ của Bộ Công an C15, vào khoảng tháng 11 năm 2008 đã phát hiện thẻ giả tại Việt
Nam, xuất phát từ một nhà hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là nơi đánh cắp dữ
liệu của các thẻ khi sử dụng tại nhà hàng này. Các thẻ giả tạo ra được sử dụng ở Mỹ và
cả ở Việt Nam. Theo nhận định của một số chuyên gia về thẻ, đây là lần đầu tiên thị
trường thẻ Việt Nam xuất hiện thẻ giả do chính các ngân hàng trong nước phát hành.
Đây là một tổ chức tội phạm đầu tiên ở Việt Nam thực hiện ăn cắp dữ liệu trực tiếp từ
các thẻ quốc tế bằng dụng cụ ghi chép dữ liệu cầm tay và từ đó tạo ra thẻ giả để sử
dụng. Đặc biệt bọn tội phạm dám sử dụng các thẻ giả này tại thị trường Việt nam. Tuy
52
nhiên, do ngân hàng phát hành đã kịp thời phát hiện và sớm có biện pháp ngăn chặn ,
nên thiệt hại trong vụ này chỉ khoảng 12.000 USD.
Một vài tình huống khác đã xảy ra ở Việt Nam cũng bị nghi ngờ có liên quan
đến các tổ chức làm thẻ giả. Đó là vào khoảng tháng 3 năm 2009, hai thùng máy ATM
của ngân hàng Đông Á bị phát hiện có gắn camera theo dõi để quay trộm hình ảnh khi
khách hàng giao dịch. Do bị phát hiện kịp thời nên bọn tội phạm chưa làm được gì
nhưng điều này cũng đã đánh động đến thị trường thẻ tại Việt Nam, một lần nữa các
ngân hàng nên cẩn thận, kiểm tra thường xuyên các máy móc thiết bị để sớm phát hiện
ra hiện tượng lạ, bất thường và kịp thời xử lý nhằm hạn chế thiệt hại. Đặc biệt là trong
bối cảnh hiện nay khi các ngân hàng đã tham gia liên minh, liên kết, tổn thất sẽ không
dừng lại ở một vài ngân hàng mà có thể ảnh hưởng đến tất cả các ngân hàng trong liên
minh.
Hiện nay, hầu hết các rủi ro thẻ giả đều do ngân hàng phát hành thẻ gánh chịu.
Tuy nhiên cũng đã xảy ra rủi ro cho các ngân hàng thanh toán thẻ tại Việt Nam do các
ngân hàng này không tuân thủ chặt chẽ quy trình nghiệp vụ, không thường xuyên kiểm
tra tính hợp lệ các chứng từ của các đơn vị chấp nhận thẻ, đến khi ngân hàng phát hành
yêu cầu xuất trình chứng từ thì mới biết chứng từ không đầy đủ, không hợp lệ mà lúc
này thì đã quá muộn vì đơn vị chấp nhận thẻ cũng đã bỏ trốn. Ngân hàng thanh toán sẽ
gánh chịu hoàn toàn thiệt hại do không cung cấp được chứng từ đầy đủ.
Ở Việt Nam, rủi ro trong hoạt động thẻ còn xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của
chính các đơn vị chấp nhận thẻ. Một số đơn vị chấp nhận thẻ bị bọn tội phạm quốc tế
lợi dụng để chi tiêu thẻ giả mạo, mất cắp, thất lạc, doanh số thanh toán các thẻ này được
thể hiện qua bảng số liệu sau:
53
Bảng 2.3 Tình hình thanh toán thẻ giả mạo, gian lận tại Việt Nam.
Năm 2005
2006
2007
2008
Chỉ tiêu
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Doanh số thanh toán thẻ
31.400
72.000
90.600
174.600
mất cắp, thất lạc
Doanh số thanh toán thẻ
39.100
45.000
60.400
104.760
bị chiếm dụng
Doanh số thanh toán thẻ
205.000
425.000
762.000
954.000
giả mạo
Đơn vị tính: USD
(Nguồn: Báo cáo của tổ chức thẻ Visa và MasterCard quốc tế)
Biểu đồ 2.8 - Tình hình thanh toán thẻ giả mạo, gian lận tại Việt Nam
954
1000
762
800
toán
600
425
Doanh số thẻ thanh mất cắp, thất lạc Doanh số thanh toán thẻ bị chiếm dụng
400
205
174.6
toán
số thẻ
200
104.76
39.1
60.4
72 45
Doanh thanh giả
31.4
90.6
0
2005
2006
2007
2008
Qua bảng số liệu trên ta thấy tình hình thanh toán thẻ giả mạo tại Việt Nam trong
thời gian qua không ngừng gia tăng. Trong năm 2005 doanh số thanh toán thẻ giả là
205.000 USD, đến năm 2006 là 425.000 USD, tăng hơn gấp đôi so với năm 2005 và
tiếp tục tăng mạnh trong năm 2007 là 762.000 USD, tức tăng 79% so với năm 2006.
54
Đến năm 2008 doanh số thanh toán thẻ giả vẫn khá cao, 954.000 USD, tăng 25% so với
năm 2007.
Nếu như đi vào nghiên cứu một cách chi tiết hơn, ta sẽ thấy tình hình thanh toán
thẻ giả mạo gia tăng hàng năm theo tỷ lệ thuận với tình hình hoạt động kinh doanh thẻ.
Hay nói cách khác, khi doanh số hoạt động thanh toán thẻ hàng năm gia tăng sẽ kéo
theo doanh số thanh toán thẻ giả mạo cũng gia tăng theo.
Ở Việt Nam đã từng xảy ra vụ thanh toán thẻ giả với quy mô lớn. Vào năm
2007, tại một điểm bán vé máy bay quốc tế có chấp nhận thanh toán thẻ trên đường
Phạm Ngũ Lão, quận I - Thành phố Hồ Chí Minh, chủ đơn vị chấp nhận thẻ đã lập hồ
sơ giả để ký kết hợp đồng với một ngân hàng làm đại lý thanh toán thẻ. Tuy nhiên, chủ
đơn vị này đã thông đồng với bọn tội phạm quốc tế đến từ Colombia để chấp nhận
thanh toán rất nhiều thẻ giả. Ngân hàng thanh toán của đơn vị chấp nhận thẻ này hàng
ngày cứ báo có liên tục vào tài khoản của đơn vị này mà không hề hay biết gì đến khi
có khiếu nại từ ngân hàng nước ngoài yêu cầu cung cấp chứng từ và được Tổ chức thẻ
thông báo là có chấp nhận thẻ giả. Tổng số tiền đã chấp nhận thanh toán từ thẻ giả lên
đến hơn 200.000 USD và khi ngân hàng kiểm tra yêu cầu đơn vị này xuất trình chứng
từ thì chẳng có chứng từ gì ngoài các hóa đơn thanh toán thẻ giả. Trong trường hợp đặc
biệt này, một điều may mắn là tất cả các thẻ giả đều là thẻ Mastercard, mà tổ chức thẻ
Mastercard chỉ quy định xuất trình hóa đơn thẻ là đủ; còn nếu các thẻ này là thẻ Visa thì
theo quy định của Tổ chức thẻ Visa, ngoài việc cung cấp hóa đơn thanh toán thẻ đơn vị
còn phải xuất trình chứng từ bán vé máy bay kèm theo, nếu không xuất trình được coi
như chứng từ không đầy đủ, và toàn bộ số tiền thanh toán từ các thẻ giả này sẽ không
được ngân hàng phát hành hoàn trả mà ngân hàng thanh toán coi như phải gánh chịu
hoàn toàn nếu không thu hồi lại được từ đơn vị chấp nhận thẻ.
Một trường hợp thanh toán thẻ giả nữa mới vừa được phát hiện vào tháng
7/2009, cơ quan phòng chống tội phạm công nghệ cao C15 đã phối hợp với ngân hàng
Techcombank bắt giữ một đối tượng người nước ngoài đang thực hiện thanh toán thẻ
giả. Khi khám xét công an đã thu giữ được 15 chiếc thẻ giả đều đứng tên của người
này. Đối tượng khai nhận đã sử dụng các thẻ giả này tại nhiều nơi trên thị trường Việt
Nam từ tháng 5/2009.
55
Qua các trường hợp nêu trên, ta thấy rủi ro thẻ giả mạo ngày càng nhiều, con số
thiệt hại thì không thể lường trước được, do vậy các ngân hàng nên sớm có biện pháp
phòng ngừa để hạn chế tối đa các thiệt hại do thẻ giả gây ra.
2.2.2 Rủi ro thẻ bị mất cắp, thất lạc
Chủ thẻ phải luôn có trách nhiệm giữ gìn và bảo quản thẻ cẩn thận. Tuy nhiên,
rủi ro do thẻ bị mất cắp, thất lạc không gây mâu thuẫn về tiện ích an toàn khi sử dụng
thẻ. Nếu chủ thẻ nhanh chóng kịp thời báo ngay cho ngân hàng phát hành biết thì sẽ
không phải gánh chịu những tổn thất tài chính (nếu có) xảy ra đối với họ. Về phía ngân
hàng, khi đã nhận được thông báo (về thất lạc, mất thẻ…) từ phía chủ thẻ, các ngân
hàng sẽ có trách nhiệm khóa ngay tài khoản thẻ của chủ thẻ để ngăn chặn người khác sử
dụng.
Ở Việt Nam những năm trước đây, đối với các thẻ tín dụng quốc tế thường xảy
ra rất nhiều rủi ro khi thẻ bị mất cắp, thất lạc. Các ngân hàng phát hành thẻ hầu như chỉ
thực hiện khóa các thẻ nhưng không thực hiện đưa lên danh sách cấm lưu hành nên một
số kẻ gian có cơ hội lợi dụng để sử dụng các giao dịch với số tiền nhỏ không cần cấp
phép của ngân hàng phát hành dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng rất nhiều. Rủi ro này
hoàn toàn do ngân hàng gánh chịu.
Bên cạnh đó, rủi ro gây thiệt hại nhiều nhất phải kể đến là các thẻ ATM. Tưởng
rất an toàn nhưng lại không an toàn mà nguyên nhân chính hầu như do sự bất cẩn, sự
thiếu hiểu biết không lường trước được hậu quả của người sử dụng thẻ dẫn đến thiệt hại
cuối cùng đều do chính các chủ thẻ gánh chịu. Hàng ngày, các ngân hàng phải tiếp nhận
rất nhiều đơn khiếu nại do mất tiền từ tài khoản thẻ ATM. Cuối cùng, sau khi ngân
hàng kiểm tra đối chiếu nhật ký chứng từ và xem camera, hầu hết các vụ việc mất tiền
đều do chủ thẻ giữ gìn thẻ không cẩn thận và để lộ mã Pin cho người thân của mình
biết. Có trường hợp thì cô giúp việc nhà ăn cắp thẻ rút tiền rồi bỏ trốn, trường hợp thì
vợ chồng con cái đang thiếu tiền nên lấy xài tạm, trường hợp thì đồng nghiệp ngồi gần
do túng tiền nên mượn xài đỡ… và hầu như các trường hợp này đều do ý thức giữ gìn
thẻ của người sử dụng thẻ chưa có, họ chưa xem thẻ quan trọng như tiền, vứt lung tung
dẫn đến nảy sinh ý xấu cho người nhặt được thẻ. Một vài trường hợp mất tiền đã xảy ra:
56
Trường hợp 1: Ngày 15/12/2008, khách hàng Nguyễn Văn A đến ngân hàng
khiếu nại mất 2 triệu đồng trong thẻ ATM và cam đoan rằng mình không đi rút tiền
trong ngày này. Sau khi kiểm tra dữ liệu ngân hàng trả lời “giao dịch rút tiền thành
công” thì chủ thẻ vẫn không chấp nhận, tiếp tục khiếu nại. Đến khi ngân hàng đưa ra
bằng chứng là đoạn phim do camera quay lại cảnh rút tiền thì người thực hiện giao dịch
chính là người yêu của anh này, khách hàng đành vui vẻ ra về.
Trường hợp 2: Một khách hàng với thái độ bực tức đến ngân hàng trình bày: “
tôi mới vừa đi công tác nước ngoài về kiểm tra lại tài khoản thì phát hiện bị mất 5 triệu
đồng, mã Pin chỉ có tôi biết, đề nghị ngân hàng làm rõ sự việc này”. Sau khi kiểm tra
các dữ liệu và xem camera thì người rút tiền lại chính là cô giúp việc nhà. Chủ thẻ cho
biết có một lần đi rút tiền ở máy ATM có dẫn cô này đi cùng nhưng không nghĩ rằng cô
này lại biết được mã Pin, lợi dụng lúc chủ đi vắng lấy cắp thẻ rút tiền rồi xin nghỉ về
quê.
Bên cạnh việc giữ gìn và bảo mật thẻ không cẩn thận, các trường hợp mất tiền
còn do sự vô tư chủ quan của các chủ thẻ, dẫn chứng một trường hợp minh họa cho vấn
đề này như sau:
“Tại một khu công nghiệp ở Bình Dương, nơi công nhân mới được trả lương qua
thẻ ATM, cứ đến kỳ lương, họ ồ ạt ra các máy ATM. Một người cầm một nắm thẻ
ATM đứng ra rút tiền cho cả nhóm. Hương? số pin (mật mã thẻ)bao nhiêu? 040679 à?
rút bao nhiêu? Rồi! Cô Hoài, đọc số pin đi…. Cứ thế, rất vui. Hết số pin này đến số pin
khác , cứ oang oang.”.
Như vậy ý thức của chủ thẻ về việc giữ gìn, bảo mật thẻ ở Việt Nam hầu như
chưa được chú trọng. Những tiện ích mà thẻ mang lại rất nhiều song những rủi ro khi
xài thẻ cũng không ít. Người dân Việt Nam đang có một quan điểm rất sai lầm khi thực
hiện giao dịch tại máy ATM, họ chỉ che đậy khi nhập mã pin nếu có người lạ đứng cạnh
còn người thân thì lại không đề phòng mà họ đâu nghĩ rằng chính những người thân
mới là người dễ dàng lấy cắp thẻ của họ còn người ngoài làm sao có được thẻ mà rút
tiền. Theo thống kê của các ngân hàng cho đến thời điểm hiện nay, hầu hết các thư kiện
tụng khiếu nại về việc mất tiền thực chất đều do những người thân của chủ thẻ thực
hiện. Một số trường hợp mất tiền do lỗi hệ thống không chi tiền, chi tiền thiếu hoặc chi
57
tiền ra rồi bị máy nuốt lại đều được ngân hàng hoàn trả lại vào tài khoản khách hàng
sau khi kiểm tra quỹ máy ATM. Vì vậy nếu giữ thẻ cẩn thận và chủ thẻ có trách nhiệm
báo khóa ngay cho ngân hàng khi thất lạc thì vấn đề rủi ro hầu như khó xảy ra.
Song song với những rủi ro mà các chủ thẻ ATM gặp phải, rủi ro còn xảy ra
nhiều hơn đối với các thẻ tín dụng do các chủ thẻ khi mất thẻ không báo ngay cho ngân
hàng phát hành hoặc do nhân viên ngân hàng bất cẩn quên khóa. Không có cái gì hoàn
hảo, những tiện ích mà chiếc thẻ đem lại đồng thời cũng đi kèm với những rủi ro mà
các ngân hàng đã gánh chịu do rủi ro thẻ bị mất cắp, thất lạc, số liệu cụ thể được minh
họa ở bảng 2.1 ở trên.
Nhìn vào bảng số liệu đó ta thấy tình hình sử dụng thẻ thất lạc, mất cắp ngày
càng tăng. Cụ thể là nếu như doanh số sử dụng thẻ mất cắp, thất lạc năm 2005 là 28.380
USD thì năm 2006 là 46.200 USD, tiếp đến năm 2007 là 104.000 USD, tăng hơn 200%
so với năm 2006. Tuy nhiên, đến năm 2008, các ngân hàng đã chú trọng nhiều hơn đến
vấn đề này, hầu hết các thẻ bị mất cắp, thất lạc đều được đưa lên mạng toàn cầu (danh
sách cấm lưu hành). Cho nên, doanh số sử dụng thẻ mất cắp, thất lạc năm 2008 là
118.400 USD, chỉ tăng 13% so với năm 2007. Ngoài ra, các chủ thẻ cũng đã có ý thức
bảo quản, giữ gìn thẻ cẩn thận hơn sau những vụ việc mất tiền được đăng trên mạng và
trên các báo chí.
Bên cạnh đó, tại thị trường Việt Nam doanh số thanh toán thẻ mất cắp, thất lạc
vẫn không ngừng gia tăng trong thời gian qua, được thể hiện qua số liệu ở bảng 2.2 ở
trên. Theo đó ta thấy doanh số thanh toán thẻ mất cắp, thất lạc năm 2005 là 31.400
USD, năm 2006 là 72.000 USD, đến năm 2007 là 90.600 USD, tức tăng 26% so với
năm 2006 và năm 2008 là 174.600 USD, tăng 93% so với năm 2007. Việc tăng này có
thể là do thị trường thẻ Việt Nam vẫn còn nhiều sơ hở để bọn tội phạm nước ngoài trà
trộn vào sử dụng các thẻ lấy cắp được để thanh toán hàng hóa, dịch vụ.
Qua đó, ta thấy để giảm tỷ lệ rủi ro do thẻ bị mất cắp thất lạc đòi hỏi các chủ thể
tham gia trên thị trường thẻ đừng chủ quan mà phải cẩn thận hơn nữa đối với việc bảo
quản thẻ, khóa thẻ kịp thời và các ngân hàng cần thực hiện kiểm tra theo dõi thường
xuyên các đơn vị chấp nhận thẻ để có biện pháp xử lý kịp thời các hành vi gian lận trên
thị trường thẻ Việt Nam.
58
2.2.3. Rủi ro thẻ bị chiếm dụng tài khoản
Thẻ bị chiếm dụng tài khoản nghĩa là tài khoản thẻ của chủ thẻ bị kẻ gian dùng
các thủ đoạn lấy cắp thông tin và mã tài khoản, sau đó thực hiện chi tiêu mua hàng hóa,
dịch vụ qua các loại hình internet, thư, fax, điện thoại…mà không cần xuất trình thẻ.
Hoặc bọn tội phạm có thể tạo ra thẻ giả dựa trên các thông tin lấy cắp được để rút tiền
từ máy ATM hoặc bán lại các thông tin này cho các tổ chức tội phạm khác để kiếm hoa
hồng. Các thông tin giao dịch đều là dữ liệu của thẻ thật nên ngân hàng thanh toán và
đơn vị chấp nhận thẻ không thể phát hiện ra được đến khi có giao dịch khiếu nại được
gởi đến từ ngân hàng phát hành.
Vậy những rủi ro này sẽ do ai gánh chịu? Thông thường, tổ chức thẻ quốc tế
luôn có những quy định đối với việc cấp phép các giao dịch này. Tùy từng trường hợp
cụ thể xảy ra mà phần thiệt hại là do ngân hàng phát hành, ngân hàng thanh toán thẻ,
đơn vị chấp nhận thẻ hay chủ thẻ gánh chịu. Và đôi khi cũng có những giao dịch không
thể phân xử được lỗi thuộc về ai thì tổ chức thẻ quốc tế có thể sẽ là người đứng ra chia
sẽ một phần rủi ro. Đối với loại hình rủi ro này, ngân hàng thanh toán hầu như không bị
thiệt hại gì do chỉ là trung gian thanh toán giữa ngân hàng phát hành, chủ thẻ và đơn vị
chấp nhận thẻ. Do đó, nếu trường hợp đơn vị chấp nhận thẻ sai không thực hiện đúng
quy trình thì đơn vị chấp nhận thẻ sẽ là người gánh chịu, nếu đơn vị chấp nhận thẻ đúng
nghĩa là có đầy đủ chứng từ hợp lệ thì phần tranh chấp còn lại là giữa ngân hàng phát
hành và chủ thẻ. Trong trường hợp chủ thẻ có đầy đủ các chứng cứ chứng minh là mình
không thực hiện giao dịch thì người mất tiền cuối cùng là ngân hàng phát hành.
Do tính chất giao dịch là không cần xuất trình thẻ trực tiếp nên bọn tội phạm chỉ
cần xâm nhập vào các trang web bán hàng qua mạng, tìm cách lấy cắp địa chỉ hộp thư
điện tử và thông tin dữ liệu thẻ, dùng một số thủ thuật để bẻ khóa các mã tài khoản của
khách hàng là bọn chúng có thể sử dụng các tài khoản này để giao dịch. Số liệu rủi ro
này được thể hiện trong bảng 2.2 ở trên.
Bảng số liệu đã cho thấy doanh số thanh toán thẻ bị chiếm dụng tài khoản ở Việt
Nam tuy chưa nhiều nhưng vẫn không ngừng gia tăng qua các năm. Nếu như năm 2005
là 39.100 USD thì đến năm 2006 là 45.000 USD và đến năm 2007 là 60.400 USD, tức
tăng 33% so với năm 2006. Trong năm 2008, doanh số thanh toán thẻ bị chiếm dụng tài
59
khoản tại Việt Nam vẫn tiếp tục tăng lên đến 104.760 USD, tức tăng 73% so với năm
2007.
Ở Việt Nam, loại hình tội phạm này xuất hiện từ rất sớm, đến năm 2004 thì phát
triển mạnh mẽ. Các đối tượng tội phạm đa số là những người có kiến thức về lĩnh vực
công nghệ thông tin, lợi dụng việc giao dịch trực tuyến qua mạng Internet, bọn chúng
tạo ra một số website giả để câu trộm thông tin của chủ thẻ. Vấn đề này nhắc đến một
bài báo với tựa đề “kỹ sư tin học trộm tài khoản”, trong đó hai đối tượng đều là sinh
viên tin học rất đam mê lĩnh vực công nghệ thông tin, với sự hiểu biết của mình đã tấn
công vào website của công ty Amazon- tập đoàn danh tiếng chuyên làm trung gian bán
hàng qua mạng khắp thế giới và lần vào các forum trên mạng của công ty này tìm các
chủ tài khoản thẻ và bẻ khóa những tài khoản này để thực hiện hành vi gian lận. Với
mật mã tài khoản có được, hai đối tượng này đã thực hiện được rất nhiều giao dịch
thanh toán tiền hàng để chuyển về Việt Nam.
Tiếp đến trong 2 năm 2005 và 2006, tội phạm lấy cắp thông tin tài khoản thẻ tiếp
tục tăng và với quy mô lớn hơn. Theo báo cáo của cục cảnh sát điều tra tội phạm về trật
tự quản lý kinh tế và chức vụ (C15) Bộ công an, các đối tượng tội phạm chuyên tìm
kiếm lợi nhuận qua các diễn đàn trên mạng Internet. Bọn chúng thường xuyên lang
thang trên mạng để lấy cắp thông tin từ thẻ tín dụng và bán lại các thông tin đã lấy cắp
được cho các trang web chuyên buôn bán thẻ gian lận để kiếm hoa hồng. Tính trong 2
năm bọn chúng đã lấy cắp được tổng cộng hơn 96.000 tài khoản thẻ tín dụng và bán lại
với giá trung bình từ 2,5 USD -4 USD / tài khoản. Tổng số tiền thu lợi bất chính
khoảng 288.000 USD.
Loại hình tội phạm ăn cắp thông tin tài khoản thẻ ngày càng đa dạng và phổ biến
hơn khi lĩnh vực công nghệ thông tin ngày càng phát triển. Đặc biệt là khi thị trường thẻ
Việt Nam đã mở rộng đa dạng hóa các loại hình dịch vụ trực tuyến với sự tham gia của
các hãng hàng không, các công ty du lịch, các siêu thị… làm cho doanh số sử dụng thẻ
bị chiếm dụng tài khoản cũng tăng lên đáng kể, thể hiện ở bảng số liệu 2.1 nêu trên.
Bảng số liệu này đã cho thấy doanh số sử dụng thẻ bị chiếm dụng tài khoản tăng
mạnh qua các năm. Cụ thể năm 2005 là 22.500 USD, đến năm 2008 là 175.000 USD,
tăng hơn 700% so với năm 2005.
60
Điều này cho thấy loại hình tội phạm hiện nay đã tập trung kiếm lợi trên các
thông tin tài khoản lấy cắp được. Trong năm 2007 và 2008 rất nhiều trường hợp lấy cắp
thông tin thẻ để mua vé máy bay điện tử bằng phương thức trực tuyến, kẻ gian lợi dụng
tài khoản thẻ ăn cắp được để thực hiện mua vé máy bay ở các quốc gia khác nhau và
đăng ký các tuyến bay khác nhau để nhằm đánh lạc hướng điều tra của công an và
ngân hàng khi chủ thẻ có đơn khiếu kiện về các giao dịch mình không sử dụng.
Ví dụ như trường hợp đã xảy ra đối với một ngân hàng phát hành thẻ ở Việt
Nam vào tháng 11/2008, khi chủ thẻ khiếu nại các giao dịch mua vé máy bay do ngân
hàng đòi tiền là anh ta không thực hiện cũng như không hề biết đến. Sau khi ngân hàng
thanh toán xuất trình các chứng từ chi tiết về các giao dịch này, tất cả đều là vé mua
được thực hiện trên các trang web của nước ngoài với các chuyến bay cũng ở nước
ngoài. Chủ thẻ đưa ra chứng cứ không đi sang các quốc gia đó và cuối cùng ngân hàng
phát hành đành ngậm ngùi chịu mất tiền, tổng số tiền thiệt hại trong vụ này gần 3.000
USD.
Một trường hợp nữa là của hãng hàng không Tiger Airways, kẻ gian đã lợi dụng
tài khoản thẻ có được để thực hiện mua vé máy bay đi du lịch Singapore. Sau lần trót
lọt đó, lại tiếp tục đặt mua 97 vé máy bay và bán lại cho các đại lý với giá rẻ hơn để
kiếm lợi. Số tiền chiếm dụng được hơn 10.000 USD tuy nhiên do chưa có kinh nghiệm
với lại gian lận được thực hiện ngay tại Việt Nam nên kẻ gian đã bị bộ công an C15
phối hợp với ngân hàng phát hiện và bắt giữ.
Ở Việt Nam tài khoản thẻ bị chiếm dụng còn do sự bất cẩn hoặc thiếu hiểu biết
của người sử dụng thẻ. Một số người rất vô tư cho bạn bè, người thân mượn thẻ để đăng
ký thanh toán trực tuyến qua Internet mà không ngờ rằng khi cho mượn như vậy thì
thông tin thẻ đã bị lộ và lần sau những người này có thể thực hiện tiếp các giao dịch
khác mà không cần có sự đồng ý của chủ thẻ.
Các ngân hàng ở Việt Nam cũng đã gặp một số rủi ro đối với các giao dịch thanh
toán trực tuyến do chính chủ chủ thẻ có ý gian lận. Họ thông đồng với một số người
thân để cung cấp thông tin thẻ cho những người này thực hiện các giao dịch ở nước
ngoài và xuất trình chứng cứ vắng mặt không đi đến những nơi đó để khiếu nại ngân
hàng và đòi hoàn trả lại tiền.
61
Bên cạnh đó, thị trường thẻ Việt Nam do còn mới, sự hiểu biết và thái độ sử
dụng thẻ của một số các nhân không tốt, lợi dụng tính chất giao dịch của thẻ để khiếu
nại chính các giao dịch mình đã sử dụng để đánh lừa ngân hàng. Mặc dù họ có giao
dịch trên mạng và dùng thẻ để đăng ký các dịch vụ giải trí như xem phim, ca nhạc, chơi
game hoặc truy cập vào các trang web có thu phí dịch vụ nhưng lại không muốn trả tiền
cho ngân hàng khi ngân hàng gởi bản sao kê đòi tiền. Họ khiếu nại mình không có thực
hiện giao dịch này và nếu đơn vị chấp nhận thẻ không có đủ chứng cứ hoặc không thực
hiện các cơ chế bảo mật theo quy định của tổ chức thẻ thì đành phải hoàn lại tiền cho
chủ thẻ và coi như cung cấp các dịch vụ này miễn phí.
Mặc khác, rủi ro thẻ bị lấy cắp thông tin tài khoản còn chịu sự ảnh hưởng của
các ngân hàng nước ngoài khi chủ thẻ du lịch sang các nước này. Nguyên nhân là do
những ngân hàng nước ngoài thường liên kết với các công ty để quản lý thông tin, dữ
liệu thẻ nên bọn hacker thường bẻ khóa xâm nhập vào hệ thống bảo mật của những
công ty này để lấy trộm thông tin. Khi một ngân hàng nước ngoài nào đó bị đánh cắp
dữ liệu (trong đó có các thẻ do ngân hàng Việt Nam phát hành), nếu các ngân hàng
không kịp thời khóa các tài khoản thẻ đó lại thì thông tin thẻ sẽ có nguy cơ bị lợi dụng.
Bài học từ vụ bê bối mất thông tin 130 triệu tài khoản thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ
trong năm vừa qua đã làm Mỹ rung chuyển.
Một đại diện của Bộ tư pháp Mỹ đã phải thốt lên rằng vụ đánh cắp 130 triệu tài
khoản thẻ của Albert Gonzalez là “ lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ” và mang bóng
dáng của một kịch bản phim do Hollywood dàn dựng: Một hacker tìm được cách xâm
nhập vào hệ thống mạng, có thể truy cập được vào cơ sở dữ liệu của hàng triệu thẻ tín
dụng và thẻ ghi nợ, với số thẻ này, thủ phạm có thể hoàn toàn sử dụng để “hạ gục” cả
một quốc gia.
“Những tên tội phạm đã cho thấy chúng chỉ cần sử dụng những thủ thuật tấn
công đơn giản vẫn có thể khiến chúng ta thiệt hại nghiêm trọng. Tôi thực sự “ngưỡng
mộ” Albert Gonzalez khi hắn đã dạy cho các nạn nhân biết rằng thế nào là một vụ tấn
công thực sự”, Kurt Roemer, giám đốc chiến lược và bảo mật của hãng Citrix Systems
đã nói.
62
Hàng năm, theo báo cáo của các tổ chức thẻ, tình trạng gian lận, tội phạm thẻ ở
Việt Nam tuy tính về giá trị thì không cao nhưng đã xuất hiện ngày càng nhiều, đặc biệt
là tội phạm thẻ dưới hình thức giao dịch qua mạng đang có dấu hiệu tăng rõ rệt. Vì thế
các ngân hàng cần sớm có những biện pháp thích hợp để phòng và chống các loại tội
phạm này.
2.2.4 Rủi ro do kỹ thuật, công nghệ
Ở Việt Nam, hệ thống quản lý thẻ của các ngân hàng đã từng xảy ra những sự cố
lớn như ách tắc, nghẽn mạng máy rút tiền ATM, đường truyền dữ liệu thanh toán thẻ bị
mất tín hiệu, hệ thống lưu trữ thông tin thẻ bị kẻ gian xâm nhập… đã làm thiệt hại cho
các ngân hàng rất nhiều.
Vào cuối năm 1999, một ngân hàng phát hành thẻ lớn ở Việt Nam đã xảy ra sự
cố, cả hệ thống quản lý thẻ gần như bị tê liệt hoàn toàn, các chương trình dữ liệu thẻ
đều không truy cập được, tất cả các hoạt động thanh toán thẻ lúc đó coi như chết cứng,
mọi sự cố gắng của các chuyên gia phần mềm vi tính đều không có kết quả. Sau hơn
nữa ngày đóng băng, hệ thống dữ liệu thẻ đã hoạt động trở lại. Hậu quả của sự cố này là
hơn 300 thông tin tài khoản thẻ bị đánh cắp dữ liệu, tổng số tiền thiệt hại lên đến
200.000 USD. Một số chuyên gia về thẻ cho rằng hệ thống dữ liệu thẻ của ngân hàng
này đã bị kẻ gian bẻ khóa xâm nhập và truy cập vào.
Tiếp đến vào cuối năm 2000, cũng do công nghệ còn lạc hậu làm cho đường
truyền dữ liệu thẻ của một ngân hàng thanh toán đến tổ chức thẻ MasterCard bị mất tín
hiệu, các file dữ liệu thanh toán thẻ của ngân hàng này không truyền đi được ra nước
ngoài để đòi tiền ngân hàng bạn, các khoản tiền mà ngân hàng này đã tạm ứng báo có
cho các đơn vị chấp nhận thẻ không thu hồi lại kịp gây ảnh hưởng đến nguồn vốn hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Trong trường hợp này, ngân hàng thanh toán phải gởi
công văn khẩn đến tổ chức thẻ MasterCard để yêu cầu trợ giúp vì nếu các dữ liệu thanh
toán thẻ không truyền đi được mà để quá lâu hết thời hạn đòi tiền (theo quy định của tổ
chức thẻ) thì sau này ngân hàng phát hành sẽ từ chối thanh toán.
63
Một trường hợp nữa về rủi ro do công nghệ kỹ thuật đã xảy ra gây tai tiếng rất
nhiều cho ngân hàng và làm mất niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng. Các lỗi
này không ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài chính của ngân hàng tuy nhiên đã gây rất
nhiều phiền phức cho người sử dụng thẻ.
Vào năm 2004, do việc sửa chữa đào đường của sở giao thông vận tải Thành phố
Hồ Chí Minh đã làm đứt đường dây cáp ngầm truyền dữ liệu từ ngân hàng đến các máy
ATM của một ngân hàng làm rất nhiều máy ATM trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
của ngân hàng này ngưng hoạt động. Khách hàng chỉ rút tiền được ở một số máy đặt tại
các trụ sở của ngân hàng khiến cho tình trạng ùn tắc khách hàng xảy ra, những ai có
nhu cầu rút tiền trong thời gian này phải xếp hàng dài chờ đợi, có người đi đến năm,
bảy địa điểm đặt máy vẫn chưa rút được tiền. Song song đó, một số lỗi do máy móc kỹ
thuật còn lạc hậu chưa được nâng cấp đúng mức đã ảnh hưởng không ít đến việc giao
dịch thẻ của khách hàng. Tình trạng khách hàng rút tiền nhưng máy không chi tiền mà
tài khoản vẫn bị trừ tiền xảy ra hàng ngày gây rất nhiều phiền phức cho người dùng thẻ.
Các lỗi này không làm chủ thẻ bị mất tiền vì sau khi kiểm tra lại nhật ký dữ liệu và
kiểm tra quỹ máy, các khoản tiền này sẽ được hoàn trả lại chủ thẻ. Tuy nhiên điều này
vẫn làm ảnh hưởng ít nhiều đến kế hoạch tài chính của người sử dụng thẻ vì lúc cần tiền
thì lại không có tiền mà chờ đến ngân hàng hoàn trả thì phải mất một khoảng thời gian
rất lâu (từ 1 đến 30 ngày tùy theo từng trường hợp).
Hơn nữa, do hệ thống quản lý thẻ của các ngân hàng ở Việt Nam còn thấp kém
chưa được đầu tư đúng mức nên rất thường xảy ra các hiện tượng rớt mạng, máy EDC
chết, không kết nối được thông tin dữ liệu thẻ của khách hàng với ngân hàng dẫn đến
việc sử dụng thẻ của khách hàng bị gián đoạn, các giao dịch thẻ bị từ chối không thanh
toán được. Có nhiều chủ thẻ mất nhiều thời gian để lựa chọn hàng hóa nhưng sau đó do
hệ thống bị trục trặc, giao dịch thẻ không được cấp phép làm cho việc mua hàng hóa bị
hoãn lại; hoặc có người đi công tác ở nước ngoài thực hiện mua vé máy bay để về nước
nhưng giao dịch thẻ không thành công nên đành ở lại chờ thêm một thời gian nữa để
chờ thẻ hoạt động. Bên cạnh đó còn có trường hợp do máy móc thiết bị in thẻ bị trục
trặc đến ngày đi nước ngoài vẫn không lấy được thẻ, khách hàng đành ngậm ngùi ra về
với thái độ rất khó chịu và tuyên bố sẽ không đến ngân hàng đó giao dịch nữa.
64
Tóm lại, đây là loại rủi ro rất cần được các ngân hàng Việt Nam quan tâm và đầu
tư đúng mức vì khi sự cố xảy ra sẽ ảnh hưởng đến cả hoạt động của toàn hệ thống thẻ.
Do vậy, để thị trường thẻ Việt Nam phát triển theo kịp và ngang bằng với thị trường thẻ
thế giới, thiết nghĩ các ngân hàng phải đặt vấn đề đầu tư công nghệ, máy móc thiết bị
lên hàng đầu.
2.2.5 Rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp xảy ra rất thường xuyên trong hoạt động kinh doanh thẻ không
chỉ đối với các ngân hàng phát hành, ngân hàng thanh toán ở Việt Nam mà còn xảy ra ở
các đơn vị chấp nhận thẻ nữa. Rủi ro này xảy ra thường là do nguyên nhân chủ quan:
nhân viên không tuân thủ đúng quy trình nghiệp vụ, trình độ nhân viên còn thấp kém
chưa được đào tạo kỹ lưỡng chuyên sâu, thói quen ý thức làm việc của từng cá nhân
chưa được tốt. Hầu hết các hoạt động kinh doanh thẻ tại thị trường Việt Nam vẫn còn
rất mới, hiện chưa có một quyển sách nào nói về thẻ cũng như nói đến các hoạt động
trong lĩnh vực thẻ, ở trường lớp các kiến thức về thẻ cũng chưa được đề cập nhiều. Cho
nên ở các ngân hàng phát hành thẻ, khi tuyển dụng nhân viên mới vào làm việc trong
lĩnh vực thẻ nếu không đào tạo kỹ lưỡng rất dễ xảy ra sai sót dẫn đến thất thoát cho
ngân hàng cả về tài chính đôi khi còn làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Một số
lỗi thường xảy ra như:
• Giao nhằm thẻ cho khách hàng, thẻ của người này hạn mức cao lại giao cho
người khác (cũng mở thẻ tại ngân hàng) nhưng với hạn mức thấp hơn.
• Quên khóa thẻ và đưa lên danh sách cấm lưu hành khi có yêu cầu báo mất thẻ
từ phía khách hàng làm cho thẻ bị kẻ gian lợi dụng để sử dụng.
• Không kiểm tra kỹ khách hàng là ai khi giao thẻ, có trường hợp người đi
nhận thẻ không phải là chủ thẻ và cũng không có giấy ủy quyền để nhận thẻ
nhưng nhân viên do không thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ nên đã bị kẻ
gian lấy được thẻ và đi sử dụng.
• Không thực hiện khóa việc chi tiêu bằng thẻ qua Internet theo yêu cầu chủ
thẻ đến khi thẻ bị lợi dụng và chủ thẻ không đồng ý thanh toán những giao
dịch này.
65
• Cập nhật nhiều lần số tiền thanh toán sao kê thẻ của một khách hàng làm tăng
hạn mức sử dụng của khách hàng lên rất nhiều so với hạn mức thật.
• Không thực hiện tra soát đòi bồi hoàn cho chủ thẻ đúng theo quy định đến
khi hết hiệu lực không thể khiếu nại được nữa ngân hàng phát hành đành phải
mất tiền để hoàn trả cho chủ thẻ.
• Không kiểm tra lại địa chỉ của chủ thẻ trước khi gởi thẻ dẫn đến thất lạc thẻ
của khách hàng.
• Không thực hiện kịp thời các biện pháp bảo mật thẻ dẫn đến xảy ra tình trạng
thẻ giả, thẻ bị kẻ gian lợi dụng.
• Do sơ sót, bất cẩn của nhân viên trong việc thanh toán thẻ: nhập sai tỷ giá,
mã ngoại tệ, số tiền để báo có cho đơn vị chấp nhận thẻ và không lưu ý thời
hạn truyền các file dữ liệu để đòi tiền ngân hàng nước ngoài, đến khi phát
hiện ra thì đã hết thời hạn khiếu nại không thể thu hồi lại được.
Bên cạnh đó, rủi ro tác nghiệp thỉnh thoảng xảy ra đối với các đơn vị chấp nhận
thẻ, một số đơn vị chấp nhận thẻ còn mới thường hay thiếu sót trong quy trình thanh
toán thẻ như: quên đưa khách hàng ký tên vào hóa đơn thanh toán thẻ hoặc không gởi
hóa đơn thanh toán thẻ về ngân hàng thanh toán đúng hạn theo quy định dẫn đến thất
thoát cho đơn vị chấp nhận thẻ rất nhiều. Đối với các giao dịch thẻ tín dụng, chữ ký
đóng vai trò quyết định là giao dịch đó có thực hiện hay không, đã từng xảy ra những
trường hợp chủ thẻ lợi dụng sơ xuất này của nhân viên bán hàng đã đến khiếu nại ngân
hàng là những giao dịch này họ không thực hiện. Mặc dù đơn vị chấp nhận thẻ biết rất
rõ khách hàng này có đến mua hàng hóa và sử dụng dịch vụ nhưng không có bằng
chứng chứng minh do lỗi nhân viên phục vụ quên đưa khách hàng ký tên vào hóa đơn
thẻ nên đành chịu mất tiền. Số tiền có thể không nhiều đối với khách hàng này nhưng
đây lại là số tiền khá lớn đối với một nhân viên bán hàng. Và nếu sự việc này xảy ra
thường xuyên rất dễ nảy sinh ý xấu cho người sử dụng thẻ.
66
Mặt khác, các lỗi tác nghiệp của nhân viên ngân hàng ngày càng nhiều khi khối
lượng công việc ngày càng tăng lên nếu không thật sự cẩn thận. Đã từng xảy ra trường
hợp nhân viên quỹ máy ATM bỏ lộn tiền 50.000 vào khay 100.000 khi tiếp quỹ máy.
Cũng có trường hợp do bất cẩn nhân viên ngân hàng đã cập nhật nhầm số tiền rất lớn
vào tài khoản ATM của khách hàng mà thực tế người khách này chỉ nộp rất ít. Đôi khi
trong quá trình thao tác, nhân viên đã cập nhật nhầm các mã code như: miễn lãi, phí
thường niên, tiền phạt hoặc thậm chí cấp nhầm hạn mức thấu chi cho khách hàng mặc
dù thực tế không xảy ra,…
Qua đó, ta thấy các rủi ro tác nghiệp đã xảy ra đều do sự cẩu thả, bất cẩn của
nhân viên làm ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng dịch vụ của ngân hàng. Đã từng có
khách hàng sau khi đọc các bài báo về những vụ mất tiền từ thẻ đã đến ngân hàng hủy
tất cả các thẻ và rút hết tiền từ tài khoản với lý do: “ Thị trường thẻ Việt Nam chưa ổn
định nên tạm thời tôi không dám sử dụng các dịch vụ này, chờ đến khi thị trường ổn
định tôi sẽ sử dụng lại”. Do đó, để tạo niềm tin và thu hút khách hàng các ngân hàng
nên lưu ý nhiều hơn nữa đến chất lượng dịch vụ và vấn đề hậu mãi khi cung cấp các sản
phẩm, dịch vụ này.
2.2.6 Rủi ro tín dụng:
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước chưa có bảng điểm chuẩn về việc quy định cấp
hạn mức tín dụng cho từng đối tượng cụ thể, luật pháp Việt Nam cũng chưa có một văn
bản nào quy định cụ thể các hình thức xử lý nếu chủ thẻ không trả được nợ cho ngân
hàng. Những trường hợp phổ biến nhất thường xảy ra cho các ngân hàng là chủ thẻ sau
khi được cấp tín dụng đã sử dụng hết hạn mức nhưng thiếu thiện chí trả nợ hoặc không
có khả năng trả nợ cho ngân hàng, làm tăng tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng.
Ngoài ra, việc cấp hạn mức tín dụng của các ngân hàng đôi khi còn do sự quen
biết qua loa không sử dụng các biện pháp đảm bảo cần thiết dẫn đến phát sinh rủi ro. Ví
dụ như trường hợp bảo lãnh khách hàng phát hành thẻ của một lãnh đạo ngân hàng, tin
tưởng vào sự quen biết nên đã mở hạn mức tín dụng rất cao cho bạn sử dụng nhưng sau
đó người bạn này lẫn trốn dẫn đến việc không thu hồi được nợ. Sau hơn một năm theo
đuổi để đòi tiền, anh này đành ngậm ngùi mất gần 100 triệu để trả nợ thay cho bạn.
67
Rủi ro tín dụng còn xảy ra ở một ngân hàng do không thẩm định kỹ hồ sơ khách
hàng đã bị khách hàng lừa gạt cung cấp các giấy tờ giả, sau khi được ngân hàng cấp hạn
mức anh này đã rút hết tiền và bỏ trốn, số tiền thiệt hại gần 90 triệu đồng.
Bên cạnh đó, rủi ro tín dụng còn làm phát sinh nợ khó đòi cho ngân hàng trong
một vài trường hợp khách quan như khách hàng bị tai nạn bất ngờ, bị phá sản dẫn đến
mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Do đó, các ngân hàng cần cân nhắc thật kỹ lưỡng,
điều tra rõ ràng trước khi quyết định cấp hạn mức tín dụng cho khách hàng để tránh các
trường hợp gian lận như đã xảy ra.
2.2.7 Rủi ro do đạo đức nghề nghiệp của nhân viên ngân hàng
Đây là rủi ro thuộc về con người, liên quan đến phẩm chất đạo đức của mỗi cá
nhân. Do đó các ngân hàng rất khó để nhận biết và phòng tránh.
Nhân viên ngân hàng là người trực tiếp tham gia các hoạt động kinh doanh thẻ,
là người hiểu rõ nhất các quy trình nghiệp vụ thẻ. Nếu nhân viên nào có đạo đức xấu,
cố tình tham lam thì ngân hàng khó mà phát hiện được.Ở Việt Nam, các ngân hàng đã
từng bị báo chí đưa tin về các vụ gian lận của nhân viên ngân hàng vì lợi ích trước mắt
đã đánh mất đi đạo đức nghề nghiệp của mình.
Ví dụ như trường hợp nhân viên ngân hàng Eximbank sau khi mở 60 thẻ tín
dụng cho các bác sĩ của viện quân y 103 (Hà Tây) nhưng không giao thẻ cho khách
hàng mà đem đi tiêu xài cá nhân dẫn đến khoản nợ gần 5 tỷ đồng.
Một trường hợp khác nữa đó là nhân viên phát hành thẻ ATM của một ngân
hàng do túng quẫn đã nảy sinh ý đồ ăn cắp thẻ ATM của khách hàng để rút tiền.
Trường hợp gian lận nữa đã xảy ra trong quá trình tiếp quỹ máy ATM, lợi dụng
sơ hở của đội tiếp quỹ, anh nhân viên này đã ăn cắp tiền từ máy ATM rất nhiều lần.
Tuy nhiên sau đó anh ta cũng bị ngân hàng phát hiện và sa thải.
Ngoài ra, sự biến chất của nhân viên ngân hàng cũng đã từng gây tổn thất cho
các ngân hàng như: nhân viên ngân hàng lợi dụng quy trình phát hành thẻ lén lút phát
hành thẻ cho một số người thân, bạn bè đến khi không thu hồi được nợ làm phát sinh
các khoản nợ khó đòi cho ngân hàng; hoặc nhân viên ngân hàng gian lận ăn cắp tiền
68
của ngân hàng bằng cách đưa thẻ cho người thân ra nước ngoài sử dụng rồi khiếu nại là
thẻ bị lợi dụng để đòi ngân hàng trả lại tiền.
Các trường hợp kể trên đã thể hiện phẩm chất đạo đức rất xấu của một số nhân
viên ngân hàng. Vì thế để hoạt động kinh doanh thẻ được trong sạch, lành mạnh, ngoài
việc đào tạo trình độ nghiệp vụ, các ngân hàng cũng nên chú trọng rèn luyện ý thức đạo
đức của các cán bộ ngân hàng.
Qua phân tích thực trạng rủi ro trên thị trường thẻ Việt Nam đã cho thấy tình
hình rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng ngày càng nhiều, nguy cơ xảy ra
tổn thất ngày càng lớn. Do đó, để tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất giải quyết vấn
đề này trước hết ta phải tìm hiểu những rủi ro này đã bắt nguồn từ đâu.?
2.3 NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY RA RỦI RO
Nhìn chung, qua thực trạng các rủi ro đã phân tích ở trên có thể cho thấy các rủi
ro xảy ra chủ yếu do những nguyên nhân chính sau đây:
2.3.1 Nguyên nhân xuất phát từ chính ngân hàng
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng có thể phát sinh do nhiều yếu
tố. Tuy nhiên, từ phía ngân hàng rủi ro xảy ra có thể do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, một số ngân hàng hiện nay đang sử dụng các máy móc, thiết bị kỹ
thuật cũ kỹ, lạc hậu đã lỗi thời mà chưa có sự đầu tư, nâng cấp mới. Hơn nữa, trình độ
chuyên môn kỹ thuật trong hoạt động thẻ của một số ngân hàng còn nhiều hạn chế dẫn
đến việc đầu tư máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng kỹ thuật thẻ chưa phù hợp. Hiện nay,
các máy móc thiết bị, các chương trình quản lý hệ thống thẻ đều phải mua từ nước
ngoài với chi phí rất đắt, bên cạnh các phần mềm hỗ trợ cho hoạt động thẻ lại rất nhiều,
một số ngân hàng trình độ còn non nớt, chưa hiểu hết các tính năng chuyên biệt của các
sản phẩm, dịch vụ này nên việc đầu tư thiết bị, công nghệ chưa đúng chỗ dẫn đến xảy ra
những bất trắc như: hệ thống thanh toán thẻ chưa thông suốt, máy móc thiết bị chưa có
khả năng tích hợp cao, một số chương trình khi áp dụng vào thị trường Việt Nam chưa
phù hợp… đã làm gián đoạn đến các hoạt động kinh doanh trên thị trường thẻ rất nhiều.
69
Thứ hai, vấn đề an ninh và quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ chưa
được các ngân hàng quan tâm, chú trọng nhiều, việc quản lý rủi ro chưa được các ngân
hàng Việt Nam xem là mục tiêu hàng đầu. Hiện nay, hầu hết các hệ thống đường
truyền, dữ liệu thẻ đều không được bảo mật, chưa được mã hóa rất dễ bị xâm nhập và
lấy cắp. Bên cạnh đó, các máy ATM đang hoạt động chưa được trang bị camera chuyên
dụng và toàn bộ cũng như chưa được giám sát kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ. Điều
này rất dễ dẫn đến nguy cơ rủi ro.
Thứ ba, ngân hàng chưa chú trọng hướng dẫn khách hàng về cách thức sử dụng
thẻ an toàn cũng như triển khai các công cụ hỗ trợ bảo mật, xác thực khách hàng hiệu
quả. Thời gian qua, các ngân hàng chỉ lo mở rộng phát triển các sản phẩm, dịch vụ thẻ
mà chưa chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như cảnh báo với khách hàng về
các rủi ro có thể xảy ra. Vì thế khách hàng không thể biết và lường trước được tất cả
các nguy cơ rủi ro khi sử dụng thẻ.
Thứ tư, ngân hàng chưa quan tâm đúng mức đến việc đào tạo đội ngũ nhân viên.
Hàng năm, các ngân hàng cũng có phối hợp với các Tổ chức thẻ để mở các khóa học về
nghiệp vụ thẻ cho nhân viên nhưng còn thưa thớt, sơ sài, chưa thực sự có chất lượng.
Bên cạnh đó, trình độ các cán bộ thẻ ở một số ngân hàng còn hạn chế, non nớt nghiệp
vụ, thiếu thận trọng trong việc xử lý nghiệp vụ và hầu như các nhân viên mới khi tiếp
cận đến vấn đề này đều không được đào tạo chuyên biệt, kỹ lưỡng, chỉ người làm trước
hướng dẫn người làm sau rất dễ dẫn đến sai sót xảy ra.
Thứ năm, một số ngân hàng ở Việt Nam chưa chú trọng đến việc hướng dẫn
đơn vị chấp nhận thẻ quy trình chấp nhận thanh toán thẻ, đặc biệt là việc kiểm tra, phát
hiện gian lận trong thanh toán thẻ, nhận dạng việc sử dụng thẻ giả mạo… Bên cạnh đó,
một số đơn vị chấp nhận thẻ do chạy theo lợi nhuận, chỉ mong muốn nhanh chóng bán
được hàng hóa, dịch vụ mà không thực hiện cẩn thận các thủ tục chấp nhận thanh toán
thẻ do ngân hàng quy định đã tạo điều kiện cho các tổ chức tội phạm lợi dụng để sử
dụng thẻ giả mạo.
Thứ sáu, công tác thẩm định, xét duyệt hồ sơ khách hàng của một số ngân hàng
còn sơ sài. Nhiều ngân hàng do không kiểm tra kỹ hồ sơ khách hàng, không nắm bắt
đầy đủ các thông tin về khách hàng mà vội vàng cấp hạn mức tín dụng cho khách hàng
70
để tiêu xài dẫn đến khó khăn cho ngân hàng khi thu hồi các khoản nợ do chủ thẻ không
thanh toán hoặc cố tình không thanh toán.
Do vậy, nếu các ngân hàng không nhận thấy được sự quan trọng và cứ chủ quan
như hiện nay thì đến khi xảy ra sự cố, hậu quả có thể sẽ không lường trước được.
2.3.2 Nguyên nhân do chủ thẻ gây ra
Thời gian qua, các rủi ro xuất phát từ phía chủ thẻ có thể đúc kết do những
nguyên nhân sau:
• Đạo đức của một số chủ thẻ không tốt, cố tình lừa tiền ngân hàng như: đưa
thẻ cho người thân ra nước ngoài sử dụng và lấy chứng cớ vắng mặt để
khiếu nại ngân hàng.
• Ý thức trả nợ chưa cao: một số chủ thẻ chỉ muốn sử dụng thẻ nhưng không
muốn trả nợ cho ngân hàng, cố tình hẹn hết lần này đến lần khác gây khó
khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ.
• Sự lơ đểnh của chủ thẻ khi sử dụng thẻ: chủ thẻ không bảo quản, giữ gìn thẻ
cẩn thận, mất thẻ không báo ngay cho ngân hàng để khóa lại dẫn đến tài
khoản thẻ bị lợi dụng.
• Một số chủ thẻ chưa ý thức được tính chất quan trọng của thẻ, không xem thẻ
có giá trị như tiền: vứt thẻ lung tung, tùy tiện đưa thẻ, thông tin thẻ và mã Pin
cho nhiều người mượn để sử dụng mà không nghĩ đến nguy cơ rủi ro.
• Sự thiếu hiểu biết của chủ thẻ khi sử dụng thẻ: rất nhiều người phát hành thẻ
do hiếu kỳ, thực sự chưa biết cách sử dụng thẻ an toàn, nhiều chủ thẻ đã bị
mất tiền oan do khi thực hiện rút tiền mà quên lấy tiền hoặc thẻ còn đang
trong máy rút tiền mà bỏ đi dẫn đến bị người khác lợi dụng sơ hở lấy mất
tiền.
• Sự nhẹ dạ, cả tin của một số chủ thẻ: dễ dàng tùy tiện cung cấp thông tin thẻ
cho người khác dẫn đến dễ bị bọn tội phạm lừa để lấy cắp thông tin.
71
2.3.3. Nguyên nhân từ phía đơn vị chấp nhận thẻ
Ngoài các nguyên nhân chính do ngân hàng và chủ thẻ gây ra, một số rủi ro cũng
phát sinh từ phía đơn vị chấp nhận thẻ, đó là:
Thứ nhất, một số đơn vị chấp nhận thẻ do chạy theo lợi nhuận muốn nhanh
chóng bán được hàng hóa nên không tuân thủ đúng quy trình chấp nhận thanh toán thẻ
do ngân hàng qui định, dẫn đến dễ bị bọn tội phạm lợi dụng để sử dụng thẻ giả.
Thứ hai, các nhân viên đơn vị chấp nhận thẻ hầu như không được đào tạo kỹ
lưỡng, nhiều đơn vị chấp nhận thẻ thường xuyên thay đổi nhân viên mới nhưng chỉ
hướng dẫn qua loa nên rất dễ xảy ra sai sót.
Thứ ba, một vài đơn vị chấp nhận thẻ còn cố tình thông đồng với bọn tội phạm
lấy cắp thông tin thẻ của khách hàng khi giao dịch hoặc cấu kết với các tổ chức tội
phạm nước ngoài để chấp nhận thẻ giả, thực hiện các giao dịch thẻ giả mạo để lừa tiền
ngân hàng.
2.3.4. Nguyên nhân do các cá nhân, tổ chức tội phạm gây ra:
Một số cá nhân, tổ chức tội phạm chuyên tìm kiếm thu nhập bất chính dựa trên
hoạt động kinh doanh thẻ qua việc sử dụng thẻ của người khác (bị thất lạc, mất cắp)
hoặc ăn cắp thông tin thẻ để làm thẻ giả và cố tình sử dụng tại các đơn vị chấp nhận
thẻ.
Bên cạnh sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo cơ hội cho bọn tội phạm
lợi dụng sự tiến bộ này để thực hiện hành vi gian lận. Bằng cách sử dụng các công nghệ
kỹ thuật cao, bọn tội phạm tìm cách xâm nhập vào hệ thống các dữ liệu thẻ để truy cập
toàn bộ các thông tin tài khoản thẻ sẵn có để tạo ra thẻ giả hoặc bán lại các thông tin
này cho các tổ chức tội phạm khác để sử dụng giả mạo. Đây là nguyên nhân chủ yếu
gây ra thiệt hại nặng nề nhất, là nguyên nhân dẫn đến tổn thất nhiều nhất cho ngành
ngân hàng Việt Nam và đang là vấn đề nhức nhối của cả thế giới.
72
2.4. NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC
Bên cạnh các nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra rủi ro được phân tích
ở trên, hoạt động kinh doanh thẻ trên thị trường Việt nam còn bị hạn chế do một số
khó khăn sau:
* Về pháp luật: Các văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề an ninh, bảo mật thẻ
cũng như những qui định về việc hình thành các tổ chức liên minh, nhất là các quy
định và hướng dẫn xử lý các tranh chấp, rủi ro, vi phạm trong thanh toán Thẻ chưa
được đề cập rõ ràng, cụ thể. Hiện nay chưa có văn bản nào quy định về việc quản lý
bảo mật thông tin thẻ cũng như bảo mật hệ thống đường truyền dữ liệu thẻ từ máy
POS, máy ATM về ngân hảng, không có một sự quy định thống nhất, bắt buộc rất dễ
xảy ra rủi ro và có thể ảnh hưởng đến tất cả các ngân hàng trong liên minh.
Ngân hàng Nhà nước cũng chưa có văn bản quy định cụ thể về trích lập dự
phòng rủi ro cho hoạt động thẻ cũng như chưa có văn bản hướng dẫn triển khai đề án
phát hành thẻ chip thay thế thẻ từ cho các ngân hàng một cách đồng bộ nhằm hạn chế
tối đa hiện tượng thẻ giả.
Các cơ quan phòng chống tội phạm chưa chủ động phối hợp, hỗ trợ các ngân
hàng trong việc điều tra truy bắt tội phạm cũng như chưa có những văn bản pháp quy
cụ thể qui định rõ các hành vi phạm tội và các khung hình phạt thích đáng, rõ ràng cho
các trường hợp gian lận trong thanh toán thẻ.
* Về thị trường: Các ngân hàng còn chưa có sự hợp tác, chia sẽ thông tin lẫn
nhau. Các liên minh Thẻ đã hình thành nhưng chưa có sự chỉ đạo thống nhất, hoạt động
còn rời rạc nhất là việc quản lý rủi ro và xử lí tra soát khiếu nại.
Do không có sự chỉ đạo nhất quán ngay từ định hướng ban đầu nên các ngân
hàng sử dụng những hệ thống khác nhau, tiêu chuẩn kỹ thuật không đồng bộ nên việc
kết nối đang gặp khó khăn.
* Về vốn đầu tư: Để triển khai thành công một hệ thống thanh toán và phát hành
thẻ, đòi hỏi các ngân hàng phải có một hệ thống kỹ thuật hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc
tế với chi phí đầu tư lớn. Do đó, đối với một số ngân hàng nhỏ còn bị hạn chế về khả
năng tài chính nên việc tham gia thị trường thẻ đang gặp khó khăn.
73
Theo tình hình hiện nay, để hoạt động thẻ được thông suốt, an toàn đòi hỏi các
ngân hàng phải đầu tư rất nhiều kinh phí để nhập khẩu máy móc, thiết bị chuyên dụng
thẻ, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật thẻ. Tuy nhiên, Chính Phủ chưa có các chính sách ưu đãi
như miễn, giảm thuế để khuyến khích các ngân hàng nhập khẩu, nâng cấp máy móc
thiết bị, công nghệ để phục vụ khách hàng và chống lại kỹ thuật ngày càng hiện đại,
tinh vi của các tổ chức tội phạm.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2, luận văn đã tóm tắt sơ lược tình hình hoạt động kinh doanh thẻ
ngân hàng tại Việt Nam hiện nay, bao gồm tình hình phát hành thẻ, doanh số thanh toán
và sử dụng thẻ, tình hình phát triển hệ thống ATM và mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ.
Bên cạnh đó, luận văn đã đưa ra các số liệu và phân tích thực trạng rủi ro trong
hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng tại Việt Nam thời gian qua cũng như phân tích các
nguyên nhân gây ra những rủi ro này. Hơn nữa, luận văn còn chỉ ra một số tồn tại, khó
khăn mà thị trường thẻ Việt Nam đang gặp phải.
Với những nội dung được nghiên cứu trong chương 2 sẽ là nền tảng giúp việc
nghiên cứu và đề xuất các giải pháp trong chương 3 dưới đây, nhằm hạn chế tối đa rủi
ro trong hoạt động kinh doanh thẻ, góp phần đưa thị trường thẻ Việt Nam phát triển bền
vững.
74
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
75
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
THẺ NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
-------------o0o-------------
3.1. DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG THẺ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng như của Thị trường Thẻ
trong thời gian tới, đang đứng trước những thuận lợi và thách thức mới. Cùng với tiến
trình hội nhập, các ngành du lịch, thương mại sẽ gia tăng doanh thu. Theo thống kê của
Tổng cục du lịch Việt Nam, chỉ trong 6 tháng đầu năm 2009, lượng du khách quốc tế
đến Việt Nam đã hơn 1,89 triệu du khách, nhờ đó hoạt động thẻ vốn gắn liền với sự
phát triển của các ngành dịch vụ cũng có nhiều cơ hội để nâng cao doanh số. Song song
đó là việc triển khai Chỉ thị 20/2007/CP-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
24/08/2007 đã tạo cú hích mạnh mẽ thúc đẩy thị trường Thẻ Việt Nam phát triển, tính
đến tháng 6 năm 2009 đã có gần 1,4 triệu người nhận lương qua tài khoản ngân hàng.
Bên cạnh đó, với dân số hơn 85 triệu người trong khi số lượng thẻ đang lưu hành trên
thị trường chưa bằng 1/5 số dân đã cho thấy tiềm năng để phát triển thị trường thẻ trong
tương lai còn rất lớn. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật – công nghệ, thương
mại điện tử và thanh toán trực tuyến ra đời mà trong đó lĩnh vực thanh toán thẻ được
ứng dụng rộng rãi là chìa khóa mở thêm cửa cho thị trường Thẻ Việt Nam phát triển.
Thanh toán thẻ đang tỏ rõ ưu thế vượt trội so với các hình thức thanh toán khác, đã và
đang khẳng định vị thế của một công cụ thanh toán quốc tế hiệu quả và phổ biến nhất
hiện nay.
Thị trường thẻ Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng, đang sẵn có những lợi
thế để mở rộng phát triển, nhưng cũng ẩn chứa khá nhiều nguy cơ rủi ro do đây là một
thị trường mới phát triển. Các thế mạnh về kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm trong lĩnh
vực kinh doanh thẻ vẫn còn hạn chế, đòi hỏi các ngân hàng trong nước phải nổ lực rất
nhiều. Bên cạnh đó tội phạm về thẻ ngày càng tinh vi, có thể chuyển hướng vào Việt
Nam trong thời gian tới một khi công nghệ quản lí rủi ro của các nước trong khu vực và
trên thế giới đã hoàn thiện.
76
Do vậy, dự đoán tình hình hoạt động của thị trường thẻ trong tương lai, đưa ra
những giải pháp, kiến nghị và phương hướng hoạt động hiệu quả sẽ là hành trang giúp
thị trường thẻ giữ vững và tiếp tục phát triển.
3.2. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
THẺ NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
3.2.1 Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
Có thể nói chiến lược quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ là hết sức
quan trọng đối với mỗi ngân hàng.
Trước hết, các ngân hàng nên rà soát, cũng cố lại quy trình quản lý rủi ro, quy
trình phát hành và thanh toán thẻ cho chặt chẽ.
* Đối với quy trình quản lý rủi ro: Bộ phận quản lý rủi ro phải có trách nhiệm
nắm rõ các thủ tục và quy định về quản lý rủi ro do các Tổ chức Thẻ đưa ra. Bên cạnh
đó, việc nhận biết và dự đoán các trường hợp rủi ro có thể xảy ra trong tương lai và đưa
ra những biện pháp phòng chống kịp thời là một trong những giải pháp hạn chế rủi ro
hiệu quả nhất. Do đó, đòi hỏi bộ phận quản lý rủi ro của từng ngân hàng phải đảm bảo
luôn theo dõi và kiểm soát chặt chẽ tất cả các diễn biến xảy ra trong hoạt động kinh
doanh thẻ để kịp thời phát hiện, xử lí nhanh chóng một khi rủi ro xảy ra. Vì vậy, để
công việc quản lý rủi ro được thực hiện tốt, chuẩn xác đòi hỏi phải có những người thật
sự có tài, giỏi, có trách nhiệm trong công việc và điều này còn phụ thuộc vào sự chọn
lựa, đào tạo và phân bổ nhân tài của các lãnh đạo ngân hàng.
* Đối với quy trình nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ: Một quy trình
phát hành và thanh toán thẻ chặt chẽ, đồng bộ luôn cần thiết đối với một ngân hàng.
Chẳng hạn như trong quá trình phát hành thẻ, cần đánh giá đúng thông tin, năng lực tài
chính của chủ thẻ, xác minh những thông tin liên quan đến chủ thẻ một cách cẩn thận,
chính xác. Đặc biệt đối với thẻ tín dụng, các ngân hàng cần thận trọng xem xét khả
năng trả nợ của chủ thẻ trong tương lai, các biện pháp đảm bảo cần thiết để việc thu nợ
có hiệu quả và không gây tổn thất cho ngân hàng. Tránh việc kiện tụng dẫn đến ra tòa
gây mất nhiều thời gian và phiền phức cho ngân hàng cũng như những tổn thất do nợ
khó đòi gây ra.
77
Hơn nữa, thời gian qua các rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ xảy ra thường
do nhân tố tác nghiệp – không tuân thủ đúng qui trình nghiệp vụ. Do đó, các ngân hàng
nên tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các khâu trong qui trình tác
nghiệp của từng cán bộ ngân hàng. Đây là công việc rất cần thiết đối với việc quản trị
rủi ro cho mỗi ngân hàng. Công việc này đòi hỏi phải được thực hiện thường xuyên,
chặt chẽ, sát sao, phải đảm bảo tính nghiêm minh nhằm góp phần giúp cho các khâu
trong qui trình được thực hiện đúng, đầy đủ, hạn chế những sai sót, lỗi lầm xảy ra làm
ảnh hưởng đến uy tín cũng như kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Mặt khác, các ngân hàng cũng nên xây dựng chiến lược quản lý, theo dõi hoạt
động của các đơn vị chấp nhận thẻ để phát hiện kịp thời các hành vi gian lận nếu có xảy
ra. Chẳng hạn như thực hiện việc kiểm tra bất ngờ, đột xuất các máy móc thiết bị, các
chứng từ giao dịch thẻ, lưu ý các đơn vị chấp nhận thẻ đột ngột tăng doanh số trong
thời gian ngắn, liên tục, các đơn vị nhỏ bất ngờ có doanh số thanh toán thẻ cao nhằm
phát hiện các đơn vị chấp nhận thẻ có hành vi gian lận hoặc nhận dạng các giao dịch thẻ
giả mạo nếu có xảy ra.
Do đó, để công tác quản trị rủi ro được hiệu quả, mỗi ngân hàng nên xây dựng
một mô hình quản lý cụ thể, rõ ràng, phân công công việc hợp lí, có biện pháp theo dõi
sát sao để kịp thời xử lý nếu có gian lận xảy ra.
3.2.2. Tăng cường quản lý, bảo mật hệ thống hoạt động máy ATM
Hiện nay cả nước có hơn 7400 máy ATM của các ngân hàng đang hoạt động.
Tuy nhiên chỉ một số ít các máy này được lắp đặt ở những nơi có bảo vệ theo dõi mà
chủ yếu là tại các trụ sở chính hay các phòng giao dịch của các ngân hàng, các khách
sạn, các tòa nhà lớn có lắp đặt camera. Bên cạnh đó một số lượng lớn các máy ATM
được lắp đặt ở những nơi công cộng không người quản lý, không camera, đường truyền
dữ liệu đặt thô bên ngoài không được mã hóa, bảo mật, rất lộ liễu. Điều này tiềm ẩn
nguy cơ rủi ro rất lớn, tạo điều kiện dễ dàng cho bọn tội phạm ăn cắp dữ liệu để thực
hiện hành vi gian lận của mình.
Song song đó, việc khiếu nại, kiện tụng do thất thoát tiền từ tài khoản của các
chủ thẻ xảy ra rất thường xuyên. Nếu vấn đề cài đặt camera không được trang bị chu
đáo sẽ gây nhiều khó khăn cho ngân hàng khi giải quyết nếu có tranh chấp xảy ra.
78
Do vậy, để ngăn ngừa rủi ro phát sinh thiết nghĩ các ngân hàng nên tăng cường
công tác quản lý, giám sát hoạt động của các máy ATM mà cụ thể cần thực hiện triệt để
một số vấn đề sau:
Thứ nhất, các ngân hàng nên đầu tư hệ thống camera có chất lượng tốt giám sát
hoạt động của tất cả các máy ATM. Điều này hết sức cần thiết giúp tăng thêm uy tín
cho ngân hàng, đảm bảo quyền lợi của khách hàng cũng như tạo lòng tin cho khách
hàng khi thực hiện các giao dịch với ngân hàng thông qua máy ATM và cũng nhằm
ngăn ngừa các đối tượng có hành vi phá hoại tài sản ngân hàng.
Thứ hai, các ngân hàng nên lắp đặt đường truyền dữ liệu ngầm có mã hóa tại
các máy ATM thay vì đường truyền thô và không có mã hóa như hiện nay. Bọn tội
phạm rất dễ dàng lấy cắp dữ liệu từ các thẻ đã giao dịch tại các máy ATM này do các
ngân hàng không hề sử dụng công cụ bảo mật nào. Hơn nữa, hiện nay với việc liên
minh, liên kết giữa các ngân hàng đã được kết nối, nếu có tổn thất xảy ra không chỉ sẽ
dừng lại ở một ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến tất cả các ngân hàng trong liên minh.
Thứ ba, trong giai đoạn có nhiều nguy cơ rủi ro như hiện nay, việc trang bị thêm
các hệ thống báo động trong và xung quanh các máy ATM khi phát hiện có thiết bị lạ là
rất cần thiết. Điều này giúp ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận của bọn tội phạm
chuyên ăn cắp thông tin và mã pin khi có khách hàng giao dịch tại các máy ATM. Hệ
thống giám sát này sẽ thông báo tín hiệu về máy chủ tại ngân hàng hoặc phát ra âm
thanh báo động nhằm răn đe bọn tội phạm có ý đồ xấu.
Bên cạnh đó, hiện nay vấn đề ăn cắp mã PIN khi chủ thẻ giao dịch qua máy
ATM cũng đang trở thành vấn đề nhức nhối. Chính vì vậy, vào tháng 03/2009 một giải
pháp an ninh mới - PINGuard đã được tổ chức Australian Technology Management đưa
ra, có thể làm thất bại âm mưu ăn cắp thông tin cá nhân tại ATM.
PINGuard như một hệ thống điều khiển tầm nhìn có hình cuốn vòm bao trùm
phía trên bàn phím của ATM. Từ phía trên, người sử dụng sẽ thấy rõ bàn phím nhưng
tại những góc nhìn khác, tấm màn bảo vệ này trở nên mờ đục. Do vậy giải pháp này có
thể ngăn chặn thủ đoạn quay trộm hình ảnh bằng camera hoặc nhìn lén qua vai người sử
dụng. Được biết, PINGuard hiện đã được sử dụng tại 15 nước trên thế giới. Đây là giải
pháp công nghệ đáng được lưu ý. Thiết nghĩ với những giải pháp công nghệ hiện đại
79
kết hợp với việc nâng cao ý thức cảnh giác của người sử dụng, sự chung sức của tất cả
các thành viên ngành công nghiệp ATM sẽ góp phần đấu tranh chống lại những hình
thức gian lận ATM của bọn tội phạm.
Do vậy vì sự phát triển chung của thị trường thẻ Việt Nam, hi vọng giải pháp
này cũng sớm được áp dụng và triển khai tại các máy ATM nhằm ngăn chặn hoạt động
tội phạm và tạo điều kiện để khách hàng cảm thấy hoàn toàn yên tâm khi sử dụng
ATM.
3.2.3. Nâng cấp máy móc thiết bị, hệ thống công nghệ thẻ
Thị trường thẻ Việt Nam là thị trường còn tương đối trẻ với sự phát triển về thiết
bị kỹ thuật và công nghệ còn ở mức tương đối thấp, hệ thống máy móc thiết bị, công
nghệ còn lạc hậu. Từ đó dẫn đến nhiều phiền phức, khó khăn cho khách hàng khi sử
dụng loại hình dịch vụ hiện đại này. Trong khi đó, thực tế cho thấy sự vững mạnh và
hiện đại về công nghệ sẽ giúp các ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng, tạo niềm
tin cho khách hàng có thể đối phó, ngăn ngừa các loại tội phạm nhằm đảm bảo an toàn
cho mình và cho khách hàng.
Đến cuối tháng 4/2009, lượng thẻ ngân hàng được phát hành tại Việt Nam đạt
mức trên 16 triệu. Ông Bùi Quang Tiên, Vụ trưởng Vụ thanh toán Ngân hàng Nhà
nước, nhận định dịch vụ thẻ mới chỉ tăng về số lượng chứ chưa chuyển biến về chất
lượng. Hiện nay, các ngân hàng Việt Nam chủ yếu phát hành thẻ từ. Nhưng việc duy trì
thẻ từ đã bộc lộ nhiều bất cập, nhất là khả năng giả mạo và gian lận.
Theo khuyến cáo của Tổ chức thẻ Visa quốc tế, giải pháp hữu hiệu nhất là
chuyển thanh toán bằng thẻ từ sang công nghệ thẻ Chip. Thẻ Chip có khả năng lưu trữ
lượng thông tin lớn với độ an toàn cao hơn, có khả năng chống gian lận, đặc biệt là
chống giả mạo trực tiếp.
Song song đó, Visa cũng đã đưa ra thời hạn và qui định cho các thành viên của
mình, kể từ ngày 01/01/2006, toàn bộ các thành viên của Tổ chức thẻ Visa thuộc khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương phải chuyển đổi sang công nghệ thẻ Chip theo chuẩn
EMV – tiêu chuẩn được 3 tổ chức thẻ lớn là Visa, Mastercard và EuroPay đưa ra. Nếu
không tuân thủ, mọi rủi ro phát sinh sẽ do các thành viên tự gánh chịu. Hiện nay, các
quốc gia trong khu vực như Malaysia, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc… đã
80
nâng cấp và chuyển đổi hầu như hoàn toàn công nghệ thẻ theo chuẩn EMV. Riêng Việt
Nam hiện nay chỉ có 4 trong 16 ngân hàng tham gia phát hành thẻ quốc tế đang thực
hiện việc chuyển đổi này và chỉ mới áp dụng cho các khách hàng mới và thay thế thẻ
chứ chưa tiến hành thay thế đồng loạt cho toàn bộ các khách hàng. Điều này rất nguy
hiểm đối với tình hình thị trường thẻ hiện nay, một khi công nghệ quản lý rủi ro của các
nước trong khu vực đã hoàn thiện, tội phạm thẻ sẽ chuyển hướng đến thị trường non
yếu như Việt Nam.
Đặc biệt là đến ngày 01/10/2010, Visa mở rộng trách nhiệm áp dụng chuẩn
EMV sang các khu vực khác trên thế giới thì nguy cơ rủi ro của thị trường thẻ Việt
Nam sẽ nhân lên rất nhiều.
Do vậy, vì lợi ích lâu dài của thị trường thẻ Việt Nam cũng như của ngành ngân
hàng, đòi hỏi các ngân hàng thành viên phải chú trọng tích cực thực hiện một số vấn đề
sau:
• Khẩn trương đưa ra kế hoạch rõ ràng, cụ thể cho việc thực hiện chuyển đổi
công nghệ thẻ từ thay thế thẻ chip, đồng thời nên xây dựng chuẩn chung cho thẻ ngân
hàng để việc quản lý, định hướng kỹ thuật và sử dụng trở nên thống nhất hơn.
• Nâng cấp và thay đổi toàn diện các máy móc thiết bị thế hệ cũ với kỹ thuật
lạc hậu, không có độ tích hợp cao bằng những công cụ, thiết bị hiện đại hơn, có khả
năng tích hợp cao hơn. Ngoài ra, hiện nay các máy POS đang được sử dụng rộng rãi để
đáp ứng cho sự nở rộ của thanh toán thẻ chỉ áp dụng tiêu chuẩn quốc gia mà thiếu
những tiêu chuẩn quốc tế thực sự như EFTPOS (chuyển tiền điện tử tại nơi bán hàng)
hiện đang được một số nước tiên tiến trên thế giới áp dụng, do vậy khi đầu tư các máy
POS các ngân hàng cũng nên lưu ý vấn đề này.
• Nâng cấp, thiết lập lại hệ thống đường truyền dữ liệu thẻ nhằm đảm bảo hoạt
động thanh toán thẻ được thực hiện thông suốt, đảm bảo tất cả các loại thẻ trong liên
minh đều được ứng dụng tại tất cả các máy trong hệ thống của các ngân hàng thành
viên.
• Nên mua thêm đường truyền dự phòng của nước ngoài để phòng ngừa các
trường hợp nghẽn mạch, rớt mạng do hiện nay hầu hết các ngân hàng đang sử dụng
81
đường truyền mua của các công ty trong nước chưa được nâng cấp kỹ thuật cao nên rất
dễ xảy ra sự cố.
• Ngoài ra, để ngăn chặn bọn tội phạm xâm nhập vào hệ thống thẻ để lấy cắp
thông tin, các ngân hàng nên thực hiện mã hóa các thông tin dữ liệu thẻ, cài đặt các
công cụ mã hóa bảo mật hệ thống đường truyền nhằm ngăn ngừa sự xâm nhập của bọn
tội phạm.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cần lưu ý trong quá trình đầu tư phát triển công
nghệ mới, để đảm bảo tính hiệu quả của việc đầu tư, các ngân hàng nên tiến hành thận
trọng, xác định rõ những công nghệ, thiết bị nào cần thiết, phù hợp. Nên tham khảo
kinh nghiệm của các nước đã có ngành công nghệ thẻ phát triển và nên dựa vào các tiêu
chuẩn, kỹ thuật do các Tổ chức thẻ ban hành để tránh việc đầu tư tràn lan, lãng phí,
không hiệu quả.
Như vậy, giải pháp hiện đại hoá công nghệ thẻ và đầu tư phát triển máy móc
thiết bị là một trong những giải pháp quyết định sự thành công của ngân hàng. Một hệ
thống thanh toán thẻ an toàn, đáng tin cậy sẽ góp phần hạn chế tối đa các rủi ro cho
khách hàng cũng như đảm bảo cho sự mở rộng và phát triển vững chắc ngành công
nghệ thẻ trong tương lai. Các ngân hàng Việt Nam không nên dửng dưng, chậm trễ vì
một khi đã xảy ra sự cố do hệ thống, kỹ thuật thì hậu quả sẽ rất nặng nề, không chỉ ảnh
hưởng đến toàn bộ thị trường thẻ mà còn có thể ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của
đất nước.
3.2.4. Mở rộng kết nối thông tin tài khoản thẻ với các phương tiện hiện đại khác
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin đã đưa con
người phát triển lên tầm cao mới. Với việc ngồi một nơi người ta có thể liên lạc, truy
cập, trao đổi, giao dịch với nhiều đối tác thông qua các phương tiện hiện đại như: điện
thoại di động, mạng Internet…Tính năng ưu việt của các phương tiện này hiện nay
cũng đã được một số ngân hàng ứng dụng, tuy nhiên việc triển khai chưa được phổ biến
rộng rãi, đồng bộ ở tất cả các ngân hàng, đặc biệt là ứng dụng vào trong lĩnh vực công
nghệ thẻ. Các chương trình kết nối thông tin tài khoản thẻ với các mạng điện thoại di
động và Internet chưa được cài đặt tự động cho tất cả các khách hàng của ngân hàng,
chỉ những khách hàng nào biết đến và có nhu cầu sử dụng dịch vụ thì phải đăng ký, thủ
82
tục còn rườm rà và phải trả phí sử dụng khá cao. Tiện ích của việc đăng ký dịch vụ kết
nối này là khách hàng có thể tự kiểm tra thông tin tài khoản thẻ của mình chẳng hạn
như số dư tài khoản thẻ, hạn mức thẻ, chi tiết các giao dịch thẻ thông qua trang web
trực tuyến của ngân hàng hoặc khách hàng sẽ được thông báo bằng tin nhắn qua điện
thoại di động khi có sự thay đổi trên số dư trên tài khoản thẻ của mình. Do đó các chủ
thẻ có thể dễ dàng chủ động quản lý, kiểm soát việc chi tiêu của mình cũng như phát
hiện kịp thời những rủi ro mất mát nếu có gian lận xảy ra.
Với những tiện ích như vậy, bản thân tác giả thiết nghĩ với giải pháp thực hiện
triển khai đồng loạt, toàn diện việc kết nối các phương tiện thông tin hiện đại này với
các dịch vụ thẻ sẽ không những góp phần giảm thiểu các rủi ro xảy ra mà còn giúp cho
các chủ thẻ cảm thấy an toàn, yên tâm khi sử dụng các dịch vụ thanh toán hiện đại này.
Chủ thẻ sẽ thích thú hơn khi có thể tự mình kiểm tra hay giám sát việc chi tiêu một cách
nhanh chóng, chính xác, sẽ không còn lo lắng mất mát tiền từ khoản nên sẽ tự tin hơn
khi chuyển khoản hay nộp tiền với số lượng lớn.
Do vậy, để dịch vụ này được triển khai nhanh chóng, hiệu quả các ngân hàng
cần thực hiện một số vấn đề như sau:
Đối với các khách hàng mới phát hành thẻ, nhân viên ngân hàng cần chủ động tư
vấn quãng bá dịch vụ và cài đặt kết nối tự động dịch vụ này cho các khách hàng cũng
như hướng dẫn cách truy cập để khách hàng không phải lung túng, khó khăn khi tiếp
cận dịch vụ.
Đối với các khách hàng cũ, ngân hàng cũng nên chủ động tạo mã truy cập và
password gởi qua email (nếu có địa chỉ email của khách hàng) hoặc gởi thư quãng cáo
kèm những tiện ích của dịch vụ và mời khách hàng tham gia.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng nên có chế độ miễn, giảm phí sử dụng dịch vụ
kết nối này trong thời gian đầu để khách hàng làm quen, thích nghi và cảm nhận được
sự cần thiết, quan trọng đối với việc duy trì sử dụng dịch vụ.
Với giải pháp này, nếu sớm được triển khai một cách đồng loạt cho tất cả các
chủ thẻ, tất cả các ngân hàng thì vấn đề rủi ro sẽ giảm đi rất đáng kể, ngăn ngừa kịp
thời các thiệt hại phát sinh, tạo sự an toàn, yên tâm cho khách hàng cũng như uy tín
cho ngân hàng trong các hoạt động kinh doanh thẻ.
83
3.2.5. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng
Như chúng ta đều biết, chất lượng của sản phẩm, dịch vụ do chất lượng con
người, chất lượng công việc, chất lượng quản trị quyết định. Thời gian qua, một phần
các rủi ro phát sinh cũng do yếu tố con người đem lại. Do vậy, muốn giảm thiểu rủi ro,
nâng cao chất lượng dịch vụ thẻ trước hết phải có những cán bộ ngân hàng có chất
lượng.
Hiện nay, nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam tuy nhiều về
số lượng nhưng kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng vẫn
còn hạn chế. Các nhân viên làm việc trong lĩnh vực này hầu như không được đào tạo
kỹ, chuyên biệt, người làm trước chỉ người làm sau, làm đến đâu chỉ đến đó cho nên rất
dễ xảy ra rủi ro do không tự lường trước được hết các trường hợp có thể phát sinh. Đây
là vấn đề cần được các ngân hàng lưu ý quan tâm. Để góp phần hạn chế rủi ro trong
hoạt động kinh doanh thẻ đòi hỏi các ngân hàng phải chú trọng đầu tư vấn đề con
người, phải đào tạo những con người có chất lượng, vững trình độ chuyên môn, có tinh
thần trách nhiệm, tư cách đạo đức tốt, cẩn thận, trung thực.
Để có được như vậy trước hết các ngân hàng cần thực hiện một số vấn đề cơ bản
như sau:
Trước hết, đối với các nhân viên mới, ngân hàng nên dành thời gian hướng dẫn
cụ thể các quy trình nghiệp vụ thẻ cả lý thuyết lẫn thực hành, cử những cán bộ vững
nghiệp vụ truyền đạt kiến thức cũng như kinh nghiệm làm việc nhằm giúp cho họ có cái
nhìn tổng quan, hiểu và nắm vững nghiệp vụ khi tiếp cận thực tế. Cần có người kiểm tra
theo dõi, chỉ dẫn trong quá trình thực hiện nhằm phát hiện ngay những sai sót xảy ra.
Bên cạnh đó, các ngân hàng nên phối hợp với Tổ chức thẻ mở các khoá học ngắn hạn
nhằm cũng cố, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các nhân viên. Và đây cũng là dịp để
các nhân viên tự học hỏi, trao đổi kinh nghiệm làm việc lẫn nhau, cùng nhau giải đáp
thắc mắc và đưa ra các biện pháp xử lí khi gặp sự cố.
Song song đó, các ngân hàng cũng nên có chiến lược đào tạo đội ngũ chuyên gia
giỏi lĩnh vực thẻ, am hiểu chuyên sâu các thao tác về kỹ thuật cũng như công nghệ quản
lí thẻ. Phối hợp với Tổ chức thẻ và các quốc gia có ngành công nghệ thẻ phát triển tiên
tiến, mời các chuyên gia am hiểu lĩnh vực thẻ đến Việt Nam để giảng dạy hoặc cử cán
84
bộ chủ chốt sang khảo sát thực tế, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với nước bạn. Ngoài
ra, các ngân hàng cũng nên đưa các cán bộ kỹ thuật, các cán bộ giỏi công nghệ thông
tin đi tu nghiệp ở nước ngoài. Đây chính là lực lượng hậu phương vững chắc nhằm hỗ
trợ cho các hoạt động kinh doanh thẻ, các hệ thống kỹ thuật thẻ hoạt động thông suốt,
chính xác, là đội ngũ tư vấn giúp ngân hàng xây dựng những đề án công nghệ thẻ đạt
hiệu quả, chất lượng cao.
Đây có thể là giải pháp khá tốn kém và mất nhiều thời gian, đòi hỏi các ngân
hàng phải có sự đầu tư lớn. Tuy nhiên, với một đội ngũ nhân viên nắm vững trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, một đội ngũ các chuyên gia giỏi, dày dặn kinh nghiệm sẽ là một
lực lượng không thể thiếu đem lại lợi ích thiết thực cho ngành ngân hàng Việt Nam,
góp phần xây dựng thị trường thẻ Việt Nam vững mạnh, có thể hoà nhập và cạnh tranh
với thị trường thẻ khu vực và trên thế giới.
3.2.6. Giải pháp an ninh mạng đối với các giao dịch qua Internet
Giao dịch thương mại qua mạng Internet ngày càng phổ biến. Mạng là cách
thuận tiện để mua những gì chúng ta cần và có thể nhận hàng tại nhà, đồng thời thực
hiện trực tuyến qua tài khoản ngân hàng. Tội phạm cũng rất thích xu hướng này bởi nó
mang lại cho chúng thêm cơ hội để ăn trộm tiền. Chúng có thể can thiệp thông tin giao
dịch mua bán khi lưu chuyển trên mạng, đột nhập vào cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp
trực tuyến hay tổ chức tài chính để ăn cắp thông tin, hoặc thiết lập những trang thương
mại điện tử giả mạo để lừa người dùng cung cấp thông tin thẻ tín dụng.
Các giao dịch thẻ được thực hiện qua Internet hiện nay có nguy cơ rủi ro rất cao
do người sử dụng chỉ cần nhập số thẻ (card number), ngày hiệu lực (expiry date), mã số
bảo mật trên thẻ (Security code CVV2). Những thông tin này do không có độ bảo mật
cao nên rất dễ bị lợi dụng vì chỉ cần có một bản copy của hai mặt thẻ là có thể thực hiện
giao dịch thành công.
Theo khảo sát mới được thực hiện của công ty nghiên cứu thị trường Taylor
nelson Sofves (TNS), Việt Nam có khoảng 20 triệu người dùng Internet. Sự bùng nổ
của số lượng người sử dụng các kênh thông tin điện tử đã tạo tiền đề cho thương mại
điện tử và thanh toán trực tuyến ở Việt Nam phát triển, đặc biệt là lĩnh vực thẻ thanh
toán. Tuy nhiên, lợi dụng sự tiến bộ này, số lượng tội phạm trong lĩnh vực thẻ cũng gia
85
tăng đáng kể. Đặc biệt đối với các giao dịch trên mạng, do không kiểm tra được sự
hiện diện của thẻ nên thẻ Chip cũng như thẻ từ, cũng bị lợi dụng và gian lận nên giải
pháp thay thế thẻ Chip không khắc phục được vấn đề này.
Hiện nay chưa có một cơ chế bảo mật thật sự an toàn và hiệu quả cho các chủ
thẻ quốc tế khi thực hiện giao dịch thanh toán qua mạng Internet. Vậy khi sử dụng thẻ
để thanh toán hàng hóa, dịch vụ trực tuyến nếu lỡ bị lộ thông tin và bị lợi dụng tài
khoản thì rủi ro sẽ do ai gánh chịu? “Chủ thẻ” hay “ngân hàng”? Đây là vấn đề rất khó
nhận định và sẽ gây thiệt hại cả về uy tín lẫn tài chính cho ngân hàng và cho cả chủ thẻ.
Vì vậy, vấn đề cấp bách hiện nay là tìm ra một giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa,
hạn chế phát sinh các rủi ro này. Bản thân tác giả cũng đã tìm hiểu và nghiên cứu một
số giải pháp mà các nước tiên tiến hiện nay đang áp dụng, nhận thấy “giải pháp xác
thực khách hàng 3D Secure” là hiệu quả và phù hợp với thị trường thẻ Việt Nam hiện
nay nhằm bảo vệ an toàn cho chủ thẻ và cả ngân hàng, Thật vậy, với giải pháp xác thực
3D Secure cho phép ngân hàng xác thực chủ thẻ tại thời điểm chủ thẻ thực hiện giao
dịch bằng cách kiểm tra mã số cá nhân. Mã số này do ngân hàng cung cấp cho chủ thẻ
ngay lúc phát hành thẻ và chủ thẻ phải có trách nhiệm bảo mật. Theo qui định của Tổ
chức thẻ, trong các giao dịch trực tuyến, mã số cá nhân đóng vai trò như chữ ký hoặc số
PIN trong các giao dịch POS hoặc ATM. Do đó, các giao dịch có xác thực 3D secure có
độ an toàn cao hơn các giao dịch thông thường rất nhiều lần.
Ngoài giải pháp bảo mật trên, hiện nay một số giải pháp sử dụng đầu đọc thẻ
thông minh Todos, thiết bị tạo OTP cầm tay, OTP qua SMS của điện thoại di động để
xác thực và định danh khách hàng cũng đã được một số ngân hàng trong nước ứng
dụng và triển khai tuy nhiên chưa được thực hiện đồng bộ, số người biết đến và sử dụng
còn rất ít.
Do vậy. để ngăn ngừa rủi ro nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ thẻ
ngày càng an toàn, hiện đại, hy vọng ngành ngân hàng sớm nhanh chóng áp dụng
những biện pháp bảo vệ tiên tiến này để góp phần thúc đẩy thị trường thẻ phát triển an
toàn, lành mạnh.
86
3.2.7. Phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa các ngân hàng
Thị trường thẻ Việt Nam hiện nay tuy đã phát triển khá mạnh nhưng vẫn chưa có
một sự hợp tác tốt giữa các ngân hàng. Cùng với nổ lực bấy lâu nay, các liên minh thẻ
đã được thành lập và hoạt động ngày càng mạnh mẽ. Hiện nay đã có 4 liên minh thẻ
đang tồn tại và hoạt động đó là: Banknet, Smarlink, VNBC, liên minh ANZ và
Sacombank. Trong đó, liên minh Banknet và Smarlink đã bắt tay liên kết với nhau từ
tháng 5/2008 nhưng thực sự hệ thống thanh toán của tất cả các thành viên trong liên
minh vẫn chưa được kết nối hoàn toàn với nhau, chưa tận dụng được các tiện ích của
nhau.
Các liên minh này vẫn chưa có sự liên kết chặt chẽ, từng thành viên trong liên
minh thực tế chỉ hỗ trợ nhau về mặt thanh toán thẻ mà đôi khi còn xảy ra rất nhiều trục
trặc do hệ thống kỹ thuật giữa các ngân hàng không tương thích dẫn đến nhiều phiền
phức cho người sử dụng. Đôi khi các thủ tục giải quyết tra soát hoàn lại tiền cho chủ thẻ
còn mất nhiều thời gian dẫn đến làm gián đoạn tài chính của chủ thẻ rất nhiều.
Bên cạnh khó khăn này, các ngân hàng trong liên minh hiện nay hầu như chưa
thực sự hợp tác với nhau về vấn đề ngăn ngừa rủi ro, trao đổi các tình huống rủi ro đã
xảy ra, thông báo cho nhau các khách hàng (gồm chủ thẻ và đơn vị chấp nhận thẻ) có
nguy cơ rủi ro cao cũng như trao đổi những biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn. Đây
chính là những nguyên nhân gây ra tổn thất cho các ngân hàng thời gian qua.
Để góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ, vấn đề cấp bách và
trước mắt hiện nay các ngân hàng nên làm là cùng nhau phối hợp xây dựng một quy
trình thanh toán thẻ chặt chẽ, thống nhất, đảm bảo các máy móc kỹ thuật có khả năng
tích hợp cao nhằm tận dụng lợi thế của nhau, tiết kiệm chi phí và nâng cao dịch vụ cho
người sử dụng. Ngoài ra, để quản lý chặt chẽ rủi ro, vấn đề cần thiết là xây dựng một hệ
thống thông tin được nối mạng giữa các ngân hàng, cho phép các ngân hàng được cập
nhật và truy cập các vấn đề quan trọng như:
• Tình hình tín dụng của các khách hàng đã và đang sử dụng thẻ (cụ thể là vấn
đề vay nợ, tình hình và khả năng trả nợ).
87
• Danh sách các khách hàng đen đã có mối quan hệ xấu với ngân hàng (nếu
khách hàng này có đến giao dịch thì các ngân hàng khác sẽ cảnh giác và có thể từ chối
giao dịch hay cấp tín dụng).
• Tình hình tài chính của khách hàng ( nếu khách hàng này có cầm cố, thế chấp
các giấy tờ có giá trị hoặc có nhận lương qua tài khoản cá nhân).
• Danh sách các khách hàng gian lận cũng như danh sách các thẻ giả đang lưu
hành.
• Các tình huống lừa đảo đã xảy ra nhằm cảnh giác các ngân hàng khác trên
địa bàn đề phòng và tìm biện pháp phòng tránh…
Như vậy, chỉ có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngân hàng, cùng nhau liên kết và
chia sẽ thông tin với nhau thì mới có thể giúp các ngân hàng ngăn ngừa, hạn chế tối đa
các rủi ro, góp phần đưa thị trường thẻ phát triển vững mạnh trong thời gian tới.
3.2.8. Chú trọng hướng dẫn khách hàng cách sử dụng thẻ an toàn
Thị trường thẻ ngày càng phát triển, số lượng người sử dụng thẻ ngày càng
nhiều trong đó số người hiểu biết về thẻ không phải là toàn bộ, bên cạnh đó lĩnh vực thẻ
còn rất mới đối với người dân Việt Nam, do đó việc cảnh giác, hướng dẫn khách hàng
cách sử dụng thẻ an toàn là rất cần thiết.
Hiện nay, với việc chạy đua cạnh tranh phát triển sản phẩm, dịch vụ thẻ để giành
lấy thị phần, các ngân hàng đã bỏ qua khâu hướng dẫn khách hàng cách sử dụng thẻ an
toàn, chỉ lo hướng dẫn khách hàng hoàn tất thủ tục để phát hành thẻ mà quên đi chỉ dẫn
khách hàng phải làm sao với chiếc thẻ của mình rất dễ dẫn đến xảy ra rủi ro, mất mát.
Do đó, để nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng dịch vụ, các ngân hàng nên
chú trọng một số vấn đề sau:
a) Cử cán bộ trực tiếp tư vấn, hướng dẫn khách hàng cách sử dụng và bảo quản
thẻ, trong đó cần nhấn mạnh một số vấn đề như:
- Việc giữ gìn thẻ và bảo mật mã Pin: phải giữ gìn thẻ cẩn thận và coi trọng
như như là tiền mặt, không vứt lung tung hay tùy tiện đưa người khác mượn.
88
- Cẩn thận khi cung cấp thông tin qua Internet: nhằm tự bảo vệ mình khi mua
sắm hay thanh toán trực tuyến, chỉ nên thực hiện các giao dịch với những trang web có
uy tín và chắc chắn dữ liệu đã được mã hóa. Khi truy cập vào các trang web này, nên gõ
trực tiếp địa chỉ không nên kích vào các đường link trong e-mail để vào các trang web
đó. Đừng lưu thông tin thẻ tín dụng lên các trang web, hãy nhập nó mỗi khi đăng nhập
dịch vụ…
- Khuyến khích khách hàng tham gia các phương tiện kết nối kiểm tra thông
tin hạn mức, giao dịch thẻ. Lưu ý khách hàng nên để ý kỹ những thông báo về thẻ tín
dụng cũng như những thông báo, kiểm tra từ ngân hàng.
- Thận trọng và cảnh giác khi thực hiện giao dịch tại máy ATM: không rời
máy ATM khi đang thực hiện giao dịch, nhận lại thẻ và kiểm tra tiền trước khi rời khỏi
máy, trong khi giao dịch nên để ý các hiện tượng hay thiết bị lạ xung quanh…
- Cung cấp số điện thoại khẩn cấp trong trường hợp mất cắp, thất lạc thẻ hay
các sự cố khác về thẻ…
b) Phát hành cẩm nang hướng dẫn khách hàng chi tiết cách sử dụng thẻ cũng như
các trường hợp cần đề phòng cảnh giác, các tình huống lừa đảo đã xảy ra, các số điện
thoại khẩn cấp để liên lạc khi cần…
c) Chú trọng cập nhật thường xuyên tất cả các thông tin về lĩnh vực thẻ lên
webside của ngân hàng để các chủ thẻ có thể tự kiểm tra mọi lúc, mọi nơi nhanh chóng
nhằm phát hiện kịp thời các hành vi gian lận nếu có xảy ra.
d) Tuyên truyền, giới thiệu các khách hàng về việc nhận thông báo biến động số
dư tài khoản thẻ qua tin nhắn của điện thoại di động. Điều này mặc dù có thể gặp hạn
chế về mặt không gian tuy nhiên sẽ góp phần phòng ngừa rủi ro rất nhiều nếu tất cả các
chủ thẻ đều tham gia thực hiện, vì chỉ cần một giao dịch rất nhỏ xảy ra, chủ thẻ sẽ nhận
được tin nhắn thông báo trên điện thoại di động của mình và sẽ phát hiện ngay khi có
thất thoát.
3.2.9. Trang bị kiến thức, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đơn vị chấp nhận thẻ
Ngân hàng cần định kỳ tổ chức các buổi tập huấn và hướng dẫn đầy đủ, cụ thể
quy trình chấp nhận thẻ cho các đơn vị chấp nhận thẻ hiện hữu cũng như các đơn vị
89
mới tham gia vào hệ thống. Ngân hàng cũng cần cữ cán bộ phụ trách thường xuyên
theo dõi, kiểm tra việc thực hiện thanh toán thẻ của các đơn vị này, yêu cầu các đơn vị
chấp nhận thẻ phải quán triệt thực hiện đúng, đủ quy trình.
Cập nhật thường xuyên, liên tục danh sách các thẻ giả đang lưu hành cũng như
các hình thức lừa đảo, gian lận của bọn tội phạm nhằm tăng ý thức cảnh giác của các
đơn vị chấp nhận thẻ.
Chú trọng hướng dẫn các đơn vị chấp nhận thẻ cách phân biệt thẻ giả, thẻ thật,
cách nhận dạng, phát hiện các đối tượng khách hàng khả nghi.
Đồng thời cũng lưu ý nâng cấp, lắp đặt các công cụ, thiết bị hỗ trợ cho việc
thanh toán thẻ tại các đơn vị được liền mạch. Bên cạnh đó, cán bộ phòng thẻ cũng nên
chú trọng hướng dẫn các đơn vị cách sử dụng, thực hiện, bảo quản các thiết bị đọc thẻ
đúng qui cách, hướng dẫn kỹ lưỡng cách thực hiện các thao tác để tránh nhầm lẫn dẫn
đến thất thoát cho đơn vị.
Song song với việc thực hiện các vấn đề trên, để ngăn ngừa rủi ro phát sinh và
phát hiện kịp thời các đơn vị chấp nhận thẻ có ý đồ gian lận, các ngân hàng nên cẩn
thận ngay từ lúc đầu tiên là thẩm định kỹ hồ sơ khách hàng cũng như thường xuyên
kiểm tra chứng từ thanh toán thẻ, các hoạt động của đơn vị để sớm phát hiện những đơn
vị có hành vi xấu, việc làm này phải thực hiện chặt chẽ để hạn chế tối đa các thiệt hại
cho ngân hàng.
3.2.10. Trang bị hệ thống trung tâm tin học đủ lớn, mạnh, nắm vững chuyên môn
nghiệp vụ thẻ.
Hệ thống tin học vững mạnh là nòng cốt quan trọng góp phần giúp các hoạt
động kinh doanh thẻ an toàn, hiệu quả, không những phát huy thế mạnh của ngân hàng
mà còn góp phần ngăn ngừa hiệu quả các hành vi gian lận của bọn tội phạm. Do đó, các
ngân hàng cần chú trọng xây dựng trung tâm tin học quán triệt một số vấn đề chính như
sau:
- Đảm bảo hệ thống đường truyền dữ liệu thẻ, hệ thống thanh toán thẻ thông
suốt có mã hóa.
90
- Xây dựng các chương trình tầm soát, kiểm tra các giao dịch thẻ khả nghi, các
đơn vị chấp nhận thẻ có phát sinh rủi ro cao, sàn lọc các đơn vị chấp nhận thẻ có doanh
số tăng đột ngột, liên tục.
- Thực hiện truyền tải, liên kết các thông tin về thẻ của khách hàng lên các
Website trực tuyến của ngân hàng liên tục, đầy đủ, chính xác nhằm giúp các chủ thẻ
phát hiện gian lận kịp thời nếu có xảy ra.
- Xây dựng các chương trình thu nợ, chương trình quản lý thông tin khách hàng
đầy đủ, tiện dụng đảm bảo tất cả các nơi trong hệ thống đều cập nhật được một cách dễ
dàng, chính xác.
- Đặc biệt có trách nhiệm theo dõi thường xuyên hoạt động của hệ thống thẻ để
phát hiện các dấu hiệu bất thường, các hành vi xâm nhập hệ thống lấy cắp dữ liệu của
các tổ chức tội phạm.
Do vậy, một hệ thống trung tâm tin học vững mạnh sẽ là hậu phương vững chắc
góp phần giúp các ngân hàng thực hiện có hiệu quả các đề án phát triển sản phẩm, dịch
vụ thẻ nhằm hạn chế tối đa các tổn thất phát sinh.
3.3. GIẢI PHÁP HỖ TRỢ TỪ PHÍA CƠ QUAN HỮU QUAN
Thị trường thẻ Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng nhưng ẩn chứa khá
nhiều rủi ro do đây là một thị trường mới phát triển. Tội phạm về thẻ ngày càng tinh vi
và có xu hướng tập trung vào thị trường Việt Nam trong những năm gần đây, dẫn đến
nguy cơ gian lận ngày càng tăng. Ngoài các giải pháp cấp bách đã được đề xuất ở trên
đòi hỏi cần có sự hỗ trợ nhiệt tình của các cơ quan hữu quan. Do vậy, tác giả xin kiến
nghị một số vấn đề như sau:
3.3.1. ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
1. Ngân hàng Nhà nước cần có văn bản chi tiết hướng dẫn liên quan đến an
toàn, bảo mật cho việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ thẻ. Chẳng hạn yêu cầu các ngân
hàng thực hiện đồng bộ đề án phát hành thẻ Chip thay thế thẻ từ để giảm thiểu đến mức
thấp nhất các hành vi gian lận về thẻ cũng như hạn chế tối đa hiện tượng thẻ giả. Bên
cạnh đó, để tăng cường an ninh trong hoạt động máy ATM nên có qui định bắt buộc các
ngân hàng thương mại phải thực hiện việc cài đặt, mã hóa đường truyền dữ liệu thẻ
91
cũng như thông tin thẻ của khách hàng, đảm bảo 100% các máy ATM đang hoạt động
đều được lắp đặt camera đầy đủ để theo dõi giao dịch của khách hàng, làm cơ sở hỗ trợ
giải quyết tranh chấp, khiếu nại khi phát sinh. Do vậy, để hoạt động kinh doanh thẻ đạt
hiệu quả tốt nhất trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước nên đưa ra thời hạn rõ ràng,
cụ thể bắt buộc các ngân hàng thương mại triển khai, thực hiện, tránh tình trạng kéo dài,
thực hiện không đồng bộ ảnh hưởng đến tình hình chung của ngành ngân hàng.
2. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác chấp hành quy định của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đưa ra các chế tài phạt cụ thể đối với các ngân hàng
không chấp hành đúng Quyết định 20/QĐ/2007/QĐ-NHNN ngày 15/05/2007 về “Quy
chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân
hàng” để đảm bảo công bằng, môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các ngân hàng
đang tham gia trên thị trường thẻ.
3. Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng khung pháp lý, cơ chế chính sách, qui định
về an toàn, bảo mật trong hoạt động kinh doanh thẻ; có văn bản hướng dẫn cụ thể về
việc trích lập quỹ dự phòng quản lý rủi ro nhằm giải quyết các trường hợp bất khả
kháng không trả được nợ của chủ thẻ hay các trường hợp tổn thất do tội phạm gây ra.
4. Ban hành văn bản quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia trên thị trường thẻ để làm cơ sở xử lý, giải quyết tranh chấp rủi ro khi
có vụ việc xảy ra.
5. Để khuyến khích các ngân hàng đầu tư, trang bị máy ATM, máy POS và các
thiết bị chuyên dụng cho hoạt động thẻ, việc giảm thuế nhập khẩu đối với các trang
thiết bị này là rất cần thiết. Vì vậy, đề nghị Ngân hàng Nhà nước kiến nghị với Bộ tài
chính có chính sách miễn, giảm thuế nhập khẩu đối với các trang thiết bị chuyên dụng
thẻ.
6. Đứng ra làm đầu mối hỗ trợ các ngân hàng thương mại phối hợp, xây dựng hệ
thống thông tin tín dụng đối với các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường thẻ, tạo
nguồn thông tin đầy đủ, chính xác hỗ trợ các ngân hàng trong việc kí kết hợp đồng phát
hành hay thanh toán thẻ.
7. Chủ động phối hợp với Bộ công an trong việc phòng chống tệ nạn thẻ. Kiến
nghị với Bộ công an xây dựng khung hình phạt cụ thể đối với các hành vi gian lận
92
trong hoạt động kinh doanh thẻ, hình phạt thích đáng cho bọn tội phạm thẻ, các trường
hợp vi phạm trong thanh toán thẻ.
3.3.2. ĐỐI VỚI HỘI THẺ NGÂN HÀNG VIỆT NAM
1. Tiếp tục phát huy vai trò đầu mối phối hợp các ngân hàng thanh viên về một
số vấn đề sau:
* Xây dựng quy trình thống nhất trong việc chấp nhận và thanh toán thẻ giữa các
ngân hàng, đặc biệt là quy trình tra soát,xử lý tranh chấp, khiếu nại, thời hạn giải quyết
khiếu nại rõ ràng, cụ thể.
* Tập hợp tình hình rủi ro, gian lận trên thị trường thẻ, xây dựng sanh sách đen
những đơn vị chấp nhận thẻ và chủ thẻ có mức độ rủi ro cao trong hoạt động thanh toán
và sử dụng thẻ. Cập nhật thường xuyên và chủ động gửi thư để cảnh báo đến các Ngân
hàng thành viên Hội thẻ .
* Thu thập thông tin, danh sách thẻ giả, có Công văn gửi đến Bộ công an đề nghị
hỗ trợ điều tra.
* Thu thập ý kiến, nguyện vọng của các ngân hàng thành viên để phản ánh và
kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
2. Tăng cường hơn nữa vai trò đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các ngân hàng
thành viên như:
- Tổ chức các buổi Hội thảo về quản lý rủi ro, phòng ngừa giả mạo thẻ để các
ngân hàng thành viên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Liên hệ mời các chuyên gia thẻ nước ngoài đến giảng dạy tại Việt Nam
- Phối hợp với các Tổ chức Thẻ tổ chức các khóa học và khảo sát nghiệp vụ thẻ
tại các quốc gia đã có ngành công nghiệp thẻ phát triển.
3. Chú trọng phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí như Đài truyền hình,
một số báo lớn nhằm phổ biến kiến thức về thẻ, góp phần nâng cao sự hiểu biết của
công chúng về quản lý, bảo mật và sử dụng thẻ an toàn.
4. Thực hiện đa dạng hóa thành viên Hội thẻ, chủ động gửi thư mời các Ngân
hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh gia nhập Hội thẻ nhằm tận dụng lợi thế về
93
công nghệ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, phối hợp phòng chống tội phạm thẻ nhằm
đem lại lợi ích cao nhất cho các ngân hàng thành viên và cho chủ thẻ.
5. Chủ động liên hệ với các Tổ chức Thẻ yêu cầu tăng cường trợ giúp kỹ thuật
cho các ngân hàng thành viên nhằm nâng cao chất lượng hệ thống kỹ thuật, công nghệ
cho thị trường thẻ Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Cùng với thực trạng các rủi ro trong chương 2 và những dự báo về thị trường thẻ
Việt Nam trong thời gian tới. Trong chương 3, luận văn đã đưa ra 11 giải pháp cơ bản
nhằm hạn chế, ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh Thẻ tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam. Đồng thời, luận văn cũng đã đưa ra một số kiến nghị với các cơ
quan hữu quan trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các ngân hàng đang gặp khó khăn cũng như
sớm ban hành, hoàn thiện các chính sách, các quy định chuẩn mực giúp các ngân hàng
có cơ sở định hướng phát triển và hoạt động có hiệu quả.
Các giải pháp nêu trên là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi các
ngân hàng phải chú trọng thực hiện đồng bộ bên cạnh sự nổ lực hỗ trợ của Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước và Hội thẻ là hết sức quan trọng.
94
KẾT LUẬN
Hòa cùng sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, tài chính ngân hàng cũng không ngừng gia tăng, là một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển của thị trường thẻ ngân hàng Việt Nam. Bên cạnh việc không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ thẻ, mối quan tâm hàng đầu là vấn đề quản trị rủi ro, công việc không thẻ thiếu trong hoạt động kinh doanh thẻ của mỗi ngân hàng.
1. Luận văn đã nghiên cứu tổng quan về thẻ ngân hàng và các rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng. Bên cạnh đó, luận văn cũng đã nêu ra những lợi ích mà thẻ ngân hàng mang lại cho người sử dụng, cho ngành ngân hàng và cho toàn bộ nền kinh tế.
2. Bằng phương pháp tổng hợp, thu thập thông tin, phân tích đánh giá, luận văn đã cho thấy thị trường thẻ Việt Nam đang có những bước phát triển thuận lợi bên cạnh những nguy cơ rủi ro, thách thức cần phải đương đầu vì đây là một thị trường khá mới mẽ.
3. Với kinh nghiệm thực tế cùng với thực trạng các rủi ro đã xảy ra trên thị trường thẻ, luận văn đã cố gắng phân tích các nguyên nhân dẫn đến rủi ro cũng như chỉ ra một số tồn tại, khó khăn mà thị trường thẻ Việt nam đang gặp phải, từ đó giúp các ngân hàng có hướng đi đúng đắn hơn để phát triển trong thời gian tới.
4. Trên cơ sở lý luận ở chương 1 và kết quả phân tích ở chương 2 đã làm nền tảng cho việc đưa ra các giải pháp về con người, công nghệ, chiến lược quản trị … nhằm hạn chế tối đa rủi ro trên thị trường thẻ ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, các giải pháp này chỉ phát huy tác dụng nếu được thực hiện một cách đồng bộ, cùng với sự hợp tác chặt chẽ của các ngân hàng, sự hỗ trợ nhiệt tình của các bộ, ngành và toàn thể các chủ thể tham gia trên thị trường thẻ.
Trên cơ sở đối tượng, mục đích nghiên cứu đã được xác định, với nội dung “Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng tại Việt Nam”, luận văn đã tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
Với các nội dung nghiên cứu trên đây đã đóng góp phần nhỏ cho hoạt động kinh doanh thẻ của các ngân hàng trên thị trường Việt Nam được an toàn, hiệu quả nhằm hướng đến một xã hội văn minh, mở ra bộ mặt của đất nước trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
95
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
Lữ Nguyễn Bảo Uyên, Nguy cơ rủi ro khi sử dụng thẻ quốc tế qua mạng internet, Tạp chí Vietcombank, số 8-2009
96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Báo cáo thường niên của Hội thẻ ngân hàng Việt Nam, Từ 2005 – 2008;
2. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Quyết định 20/2007/QĐ-NHNN, Ban hành
quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động
thẻ ngân hàng, ngày 15/05/2007;
3. Ngân hàng Á Châu, Nghiệp vụ phát hành thẻ, tài liệu lưu hành nội bộ, năm
2007;
4. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Quy trình nghiệp vụ phát hành, thanh
toán thẻ và xử lý tra sót khiếu nại, tài liệu lưu hành nội bộ, năm 2009;
5. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, chính sách quản lý rủi ro, tài liệu lưu
hành nội bộ, năm 2009;
6. Trần Hoàng Ngân, Tiện ích và an ninh trong thanh toán thẻ ngân hàng, Đề
án khoa học và công nghệ cấp Bộ, năm 2007;
7. Trần Tấn Lộc, Giải pháp cơ bản nhằm phát triển thị trường thẻ ngân hàng
tại Việt Nam, luận án tiến sỹ kinh tế, năm 2004;
Tiếng Anh:
8. MasterCard, Chargeback handbook, 2007
9. MasterCard, Fraud reporting system (FRS), 2008
10. Visa International, Merchant fraud analysis service (MFAS), 2004
11. Visa International, Fraud reporting system, 2008
12. Visa International, Managing the risk function, 2004
13. Vietnam risk updates, Visa TC40 fraud reporting, 2009
Các tạp chí tham khảo:
14. Tạp chí Công nghệ ngân hàng
15. Tạp chí Phát triển kinh tế
97
16. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ
17. Tạp chí Hội thẻ ngân hàng Việt Nam
18. Tạp chí Thế giới thẻ
19. Tạp chí Tuổi trẻ điện tử
Các website tham khảo:
20. http://www.sbv.gov.vn
21. http://www.thuvienphapluat.vn
22. http://www.thesaigontimes.vn
23. http://www.ven.vn
24. http://www.vietnamplus.vn
25. http://www.vnba.org.vn
98
PHỤ LỤC I: HÌNH ẢNH MÁY MÓC THIẾT BỊ PHỤC VỤ CHO HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH THẺ NGÂN HÀNG
99
PHỤ LỤC II: ĐỀ PHÒNG GIAN LẬN ATM
Bạn thường đến các máy rút tiền tự động của nhà bank để rút tiền. • Bạn đút thẻ vào máy, sau đó …….. chẳng thấy máy làm gì cả (không thể thực hiện giao dịch) • Bạn ấn nút “ xóa # Cancel” để lấy lại thẻ, nhưng thẻ bị giữ lại trong máy. • Bạn tự nhủ “ không sao, mình sẽ đến nhà Bank và lấy lại vào sáng mai”
Ngày hôm sau, ở nhà Bank có người bảo với bạn rằng “ không, thưa ông, máy rút tiền của chúng tôi không nuốt thẻ của ông, chúng tôi không có” • Bạn gọi điện cho nhà Bank nơi đăng kí tài khoản và …… hết sức ngạc nhiên khi nhận được câu thông báo : “Thưa ông, tài khoản của ông đã bị rút” • Điều gì đã xảy ra vậy???
GIẢI THÍCH
Kẻ trộm đã đưa vào máy rút tiền tự động một miếng plastic nhỏ (H1 & H.2) • Thẻ rút tiền bị miếng nhỏ “vhs” dây giữ chặt lại (H.3) • Với tình trạng máy tự động không thể đọc được thẻ và cũng không nuốt được thẻ (H.4) • Miếng nhựa mỏng cản trở không cho đẩy thẻ trở lại (xem mũi tên màu đỏ) H.5
2
3
4
5
1
THẺ ATM SẼ BỊ LẤY CẮP NHƯ THẾ NÀO?
100
CẦN PHẢI LÀM GÌ?
Nếu bạn gặp phải sự cố như vậy, hãy nhìn thật kỹ khe đút thẻ vào . • Nếu thấy có miếng (dải) nhựa plastic (dính hai mặt) ở trong đó : hãy rút ra, và sẽ lấy lại được thẻ. • Hãy quan sát xung quanh, kẻ trộm chắc chắn là ở không xa đó • Nếu có người đến ngó nghiêng xem điều gì xảy ra, bạn nhất định không được rời máy rút tiền, vì chắc đólàtên trộm và hắn sẽ khuyên bạn sáng mai đến nhà bank nhận lại thẻ để anh ta có cơ hội lấy cắp thẻ khi bạn bỏ đi. • Trong mọi trường hợp: nếu kẻ đó khuyên bạn nên thử bấm lại số pin, bạn đừng nghe theo. • Nếu bạn nghi ngờ máy rút tiền đã “nuốt” thẻ của bạn, hãy thông báo sự việc với nhà bank ngay.
CẨN THẬN VỚI MÁY RÚT TIỀN TỰ ĐỘNG
1. Máy rút tiền
này có bình
thường không?
Đây là một bộ phận sai đã được lắp thêm vào máy tự động (cùng màu, cùng kích thước để ráp vào) Bộ phận này chứa một card lecher có thể copy tất cả các thông tin chứa trong thẻ và nhờ đócó thể sản xuất thẻ mới giống hệt thẻ đã đút vô máy!!!
2. Có bộ phận nào lắp vào thêm không?
101
3. Một màn hình và
một hộp chứa tờ rơi.
Thấy không bình
4. Có phải thực chất là hộp đựng tờ rơi?
Bên hông hộp đối diện màn hình có một lỗ được gắn kiếng: đó là một máy chụp hình (photo camera)
5. Hộp đựng tờ rơi dỏm bên cạnh màn hình
Máy camera mini bên hông hộp chỉa tầm ngắm vào màn hình và bàn phím. Gắn thêm máy thu phát, hình ảnh máy ảnh này có thể phát ra xa 200m.
thường!
102
PHỤ LỤC III: CÁCH NHẬN BIẾT CÁC CHI TIẾT THẺ
Manufacturer ID Code
Dove Design Hologram
UV Dove
MD
65