BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH 

NNGGUUYYỄỄNN QQUUỐỐCC DDŨŨNNGG GIẢI PHÁP HỖ TRỢ TÀI CHÍNH TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

MÃ SỐ: 60.31.12

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS DIỆP GIA LUẬT

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2011

MỤC LỤC

GIẢI PHÁP HỖ TRỢ TÀI CHÍNH TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng biểu và đồ thị

Lời mở đầu CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN.

1.1. Khái quát về Doanh nghiệp nhỏ và vừa …………………………………………. .1

1.1.1. Khái niệm ……………………………………………………………….. 1

1.1.2. Đặc điểm của DNNVV .……………………………………………..…... 3

1.1.3. Vai trò của Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ………………………………………………………………………. 4

1.2. Cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. …..... 8

1.2.1. Khái quát về cơ chế hỗ trợ tài chính …………………………………….. 8

1.2.2. Ý nghĩa của chế hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước ……………………... 9

1.2.3. Các công cụ được sử dụng trong cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa …………………………………….... 9

1.3. Kinh nghiệm hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước và Chính phủ Việt Nam …………………………………………... 13

1.3.1. Lựa chọn mô hình ……………………………………………………….13

1.3.2. Cơ chế hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước trên thế giới …………………………………………………………… 18

1.3.3. Cơ chế hỗ trợ tài chính đối với các DNNVV ở Việt Nam ……………... 23

1.3.4. Bài học kinh nghiệm …………………………………………………… 24

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỖ TRỢ TÀI CHÍNH TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.

2.1. Thực trạng các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở TPHCM …………………………… 27

2.2. Thực trạng cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1999 - 2010 ……………… 34

2.2.1. Ngân sách nhà nước ……………………………………………………. 34

2.2.2. Tín dụng nhà nước ……………………………………………………... 37

2.2.3. Tín dụng ngân hàng ……………………………………………………. 46

2.2.4. Thị trường vốn …………………………………………………………. 48

2.3. Đánh giá các giải pháp hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ……………………………… 49

2.3.1. Thành tựu đạt được …………………………………………………….. 49

2.3.2. Hạn chế trong quá trình thực hiện cơ chế tài chính hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn TPHCM ……………………………… 52

2.3.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong quá trình thực hiện cơ chế tài chính hỗ trợ cho các DNNVV trên địa bàn TPHCM …………………. 54

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ HỖ TRỢ TÀI CHÍNH TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI TPHCM (2011 – 2015).

3.1. Định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tại TPHCM ………………….. 57

3.1.1. Định hướng ……………………………………………………………. 57

3.1.2. Mục tiêu ………………………………………………………………...58

3.1.3. Thuận lợi và khó khăn trong thời gian tới đối với DNNVV ……………59

3.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở TPHCM ………………………………………………………….. 60

3.2.1. Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía Nhà

nước đối với DNNVV ở TPHCM …………………………………….. 60

3.2.1.1. Ngân sách nhà nước ………………………………………….. 60

3.2.1.2. Tín dụng nhà nước …………………………………………… 62

3.2.1.3. Tín dụng ngân hàng ………………………………………….. 63

3.2.1.4. Thị trường vốn ……………………………………………….. 64

3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ khác ……………………………………………… 65

KẾT LUẬN …………………………………………………………………………. 69

Danh mục tài liệu tham khảo

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DNNVV: Doanh nghiệp nhỏ và vừa

TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh

TDNH: Tín dụng ngân hàng

NHTM: Ngân hàng thương mại

NB: Nhật Bản

BLTD: Bảo lãnh tín dụng

NHPT: Ngân hàng Phát triển Việt Nam

NSNN: Ngân sách Nhà nước

KODIT: Quỹ bảo đảm tín dụng Hàn Quốc

KIBO: Quỹ bảo đảm tín dụng công nghệ Hàn Quốc

KOREG: Liên hiệp các cơ sở bảo đảm tín dụng Hàn Quốc

KH&CN: Khoa học và Công nghệ

WTO: Tổ chức thương mại thế giới

ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức

TCTD: Tổ chức tín dụng

TNDN: Thu nhập doanh nghiệp

GDP: Tổng sản phẩm quốc nội

VDB: Ngân hàng phát triển Việt Nam

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ ĐỒ THỊ

BẢNG BIỂU

Bảng 1.1 : Tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa

Bảng 2.1 : Số lượng DNNVV ngoài quốc doanh phân theo ngành kinh tế

Bảng 2.2 : Số liệu lao động đang làm việc phân theo khu vực và ngành kinh tế

Bảng 2.3 : Tình hình sử dụng lao động tại TPHCM

Bảng 2.4 : Tổng hợp một số chỉ tiêu cơ bản về hoạt động bảo lãnh

Bảng 2.5 : Số liệu hoạt động của các DNNVV được bảo lãnh tín dụng

Bảng 2.6 : Số liệu về dư nợ cho vay và số DNNVV được vay vốn

Bảng 2.7 : Thống kê các loại hình kinh tế được VDB tại TPHCM bảo lãnh

ĐỒ THỊ

Đồ thị 2.1 : Số DNNVV thành lập mới qua các năm (2006 – 2009)

Đồ thị 2.2 : % giá trị sản xuất công nghiệp tăng qua các năm

Đồ thị 2.3 : Vốn điều lệ và tổng tài sản của các NHTM

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu:

Lịch sử phát triển thế giới cho thấy, DNNVV ngày càng đóng vai trò quan trọng

đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, nhất là trong giai đoạn hội nhập

hiện nay.

Ở nước ta trong những năm qua, DNNVV có vai trò to lớn trong phát triển kinh tế

xã hội, chiếm 97% tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập, là khu vực doanh nghiệp có

vai trò rất quan trọng trong tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, huy động

các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, đóng góp vào ngân sách nhà nước và góp

phần không nhỏ vào thành tích tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. Trong những năm

tới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vẫn là chiến lược được

Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện. Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội Đảng Cộng

sản Việt Nam lần thứ XI đã nêu rõ: “Hỗ trợ phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và

nhỏ…”. Tuy nhiên các DNNVV vẫn còn có những khó khăn, hạn chế mang tính đặc

trưng và lâu dài ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và phát triển như: quy mô nhỏ,

công nghệ lạc hậu, khả năng quản trị yếu, tiếp cận nguồn tín dụng và mặt bằng sản xuất

khó… Với những khó khăn trên cho thấy, ngoài sự nỗ lực của chính bản thân doanh

nghiệp, cần phải có chính sách trợ giúp, hỗ trợ từ phía Nhà nước để tạo sức mạnh tổng

hợp cho các DNNVV đáp ứng các yêu cầu mới về hội nhập và phát triển.

Theo kinh nghiệm của nhiều nước, hỗ trợ từ phía nhà nước cho sự phát triển của

DNNVV là rất cần thiết, đặc biệt là sự hỗ trợ về tài chính, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.

Bởi lẽ sự hỗ trợ tài chính liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của DNNVV.

Nó góp phần giúp cho các doanh nghiệp huy động được nguồn vốn tốt hơn nhằm đổi

mới khoa học công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và

quốc tế.

Với ý nghĩa thiết thực đó, thời gian qua, Nhà nước đã nỗ lực ban hành nhiều chính

sách, chế độ tài chính để hỗ trợ cho các DNNVV. Gần đây nhất là Chính phủ đã ban

hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp

nhỏ và vừa. Trong đó có đề cập đến chính sách trợ giúp tài chính cho các DNNVV với

bốn giải pháp. Tuy nhiên các chính sách trên chưa được triển khai đồng bộ, còn gặp

nhiều khó khăn vướng mắc, do đó hiệu quả mang lại là chưa cao. Vì vậy, việc nghiên

cứu thực trạng công tác trợ giúp về tài chính của nhà nước đối với DNNVV để tìm

kiếm các giải pháp, cũng như kiến nghị có tính khoa học nhằm giúp các công cụ hỗ trợ

của nhà nước phát huy tính hiệu quả cao tại địa phương đang là vấn đề có tính cấp bách.

Từ nhận thức đó và thực tiễn công việc quản lý, tác giả đã chọn đề tài “Giải pháp

hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn

TPHCM” để giải quyết các vấn đề trên.

2. Mục đích và nội dung nghiên cứu:

Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cơ chế hỗ trợ tài chính từ

phía Nhà nước cho DNNVV, kết hợp với kinh nghiệm hỗ trợ DNNVV của các nước

trên thế giới, qua đó đề xuất một số giải pháp liên quan đến tài chính nhằm trợ giúp

DNNVV trên địa bàn TPHCM không ngừng phát triển. Mục tiêu của đề tài là lựa chọn

mô hình hỗ trợ phù hợp cho DNNVV, nhằm phát huy hiệu quả các công cụ trợ giúp tài

chính từ phía Nhà nước cho DNNVV.

Nội dung của đề tài tập trung vào các vấn đề sau:

- Thứ nhất: tham khảo khái niệm DNNVV của các nước trên thế giới, qua đó đối

chiếu với tiêu chí của Việt Nam. Tìm hiểu vai trò của DNNVV trong nền kinh tế.

Khái quát cơ chế hỗ trợ tài chính từ phí Nhà nước đối với DNNVV và kinh

nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới.

- Thứ hai: phân tích và đánh giá thực trạng hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước đối

với DNNVV trên địa bàn TPHCM trong thời gian qua; những thành tựu và hạn

chế cần khắc phục trong thời gian tới.

- Thứ ba: kiến nghị và đề xuất một số giải pháp hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước

đối với DNNVV trên địa bàn TPHCM.

3. Phạm vi nghiên cứu:

Nội dung của đề tài hướng tập trung vào các vấn đề lý thuyết và thực tiễn của các

DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng, không đi sâu vào

một ngành hoặc một số ngành cụ thể nào. Đề tài nghiên cứu trên tổng thể xuất phát từ

luật pháp, chính sách và các công cụ kinh tế được nhà nước vận dụng trong điều kiện

kinh tế thị trường ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn ở các vấn đề liên quan

đến cơ chế hỗ trợ tài chính của Nhà nước đối với DNNVV.

4. Phương pháp nghiên cứu:

Đề tài sử dụng phương pháp phân tích định tính trên cơ sở số liệu thống kê, có kết

hợp phương pháp chuyên gia trên cơ sở tham khảo ý kiến của các chuyên gia… để giải

quyết các vấn đề được đặt ra.

5. Kết cấu của đề tài:

- Lời mở đầu

- Chương 1: Cơ sở lý luận về cơ chế tài chính hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

- Chương 2: Thực trạng hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước đối với Doanh nghiệp

nhỏ và vừa trên địa bàn TPHCM.

- Chương 3: Giải pháp hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước đối với Doanh nghiệp

nhỏ và vừa tại TPHCM.

- Kết luận.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH NHÀ

NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

1.1. Khái quát về doanh nghiệp nhỏ và vừa

1.1.1. Khái niệm

Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định dựa trên tiêu chí qui mô. Nhìn

chung, tiêu chí để xác định DNNVV thông thường là: vốn, lao động, doanh thu. Trên

thực tế, việc xác định thế nào là DNNVV thường được xem xét phù hợp với từng giai

đoạn phát triển kinh tế, trình độ trang bị kỹ thuật, tình hình giải quyết việc làm và mục

đích của việc xác định. Có nước chỉ dùng một tiêu chí, nhưng cũng có nước dùng một

số tiêu chí để xác định DNNVV. Có nước dùng tiêu chí chung cho tất cả các ngành,

nhưng có nước lại dùng tiêu chí riêng để xác định DNNVV trong từng ngành.

Như vậy, tuỳ theo tình hình thực tiễn, các nước khác nhau có thể có những cách

lựa chọn tiêu chí khác nhau khi xác định DNNVV. Có thể khái quát thành 4 quan niệm

như sau:

- Quan niệm thứ nhất cho rằng: tiêu chuẩn đánh giá xếp loại DNNVV phải gắn

với đặc điểm của từng ngành và phải tính đến số lượng vốn và lao động được thu hút

vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhật Bản là nước theo quan niệm này. Bộ luật cơ

bản về DNNVV của Nhật quy định: trong lĩnh vực buôn bán DNNVV là những doanh

nghiệp thu hút dưới 100 lao động với số vốn nhỏ hơn 30 triệu yên; trong lĩnh vực công

nghiệp chế biến và khai thác, các DNNVV là những doanh nghiệp thu hút dưới 300 lao

động với số vốn kinh doanh nhỏ hơn 100 triệu yên.

- Quan niệm thứ hai cho rằng: tiêu chí đánh giá xếp loại DNNVV không phân

biệt ngành nghề mà chỉ căn cứ vào số lao động và số vốn thu hú t vào kinh doanh. Các

nước theo quan niệm này như: Singapore, Malaysia, Thái Lan… Tuy nhiên, độ lớn các

tiêu chí có khác nhau giữa các nước. Chẳng hạn như ở Thái Lan: DNNVV là doanh

nghiệp có số vốn đầu tư dưới 200 triệu baht, còn số lao động bình quân thì dưới 200.

1

Trong khi đó, ở Malaysia, thì DNNVV phải thỏa tiêu chí có số lao động bình quân từ

150 trở xuống, không quan tâm đến vốn đầu tư là bao nhiêu, nhưng tổng doanh thu

hàng năm phải đạt 0 – 25 triệu RM.

- Quan niệm thứ ba cho rằng: ngoài các tiêu thức về lao động và vốn kinh doanh,

tiêu chuẩn để đánh giá xếp loại DNNVV còn quan tâm đến doanh thu hàng năm của

doanh nghiệp. Các nước theo quan niệm này có Canada, Indonesia… Chẳng hạn như ở

Cananda, DNNVV phải thỏa tiêu chí như sau: doanh nghiệp nhỏ có số lao động bình

quân dưới 100, tổng doanh thu hàng năm nhỏ hơn 5 triệu CDN$; doanh nghiệp vừa có

số lao động bình quân dưới 500, tổng doanh thu hàng năm từ 5 – 20 triệu CDN$. Ở

quốc gia này không quy định mức vốn đầu tư cho DNNVV.

- Quan niệm thứ tư cho rằng: tiêu chí để xác định DNNVV là số lượng lao động

tham gia, có phân biệt hoặc không phân biệt ngành nghề. Quan niệm này nhằm mục

đích để Nhà nước có chính sách đối với doanh nghiệp trong vấn đề thu hút lao động,

giải quyết việc làm. Các nước theo quan niệm này có Australia , HongKong,… Cụ thể

như ở Australia, DNNVV chỉ cần thỏa điều kiện có số lao động bình quân dưới 200,

không cần để ý đến vốn đầu tư và tổng doanh thu hàng năm như các nhóm khác.

Ở Việt Nam, tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính Phủ về

trợ giúp phát triển DNNVV. Theo đó, DNNVV được định nghĩa là cơ sở sản xuất kinh

doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không

quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hằng năm không quá 300 người.

Với cách xác định DNNVV như trên của Việt Nam, chủ yếu sử dụng tiêu thức vốn

đầu tư và số lượng lao động để xem xét. Hạn chế của khái niệm trên chưa chú ý đến

tính chất ngành kinh tế - kỹ thuật tác động doanh nghiệp. Do đó ngày 30/6/2009, Chính

Phủ đã ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ

và vừa, khái niệm “DNNVV” đã được Chính phủ định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp

nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được

chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn

tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp)

2

hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:

DN siêu nhỏ

Doanh nghiệp nhỏ

Doanh nghiệp vừa

Bảng 1.1: tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa

Khu vực

Số lao động

Tổng nguồn vốn Số lao động Tổng nguồn vốn

Số lao động

Từ trên 200

10 người trở

20 tỷ đồng trở

I. Nông, lâm

Từ trên 10

Từ

trên 20

tỷ

người đến 300

xuống

xuống

nghiệp và thuỷ

người

đến

đồng đến 100 tỷ

người

200 người

đồng

sản

10 người trở

Từ trên 10

Từ trên 20 tỷ

Từ trên 200

20 tỷ đồng trở

II. Công

người

đến

đồng đến 100 tỷ

người đến 300

xuống

xuống

nghiệp và xây

200 người

đồng

người

dựng

10 người trở

Từ trên 10

Từ trên 10 tỷ

Từ trên 50

III. Thương

10 tỷ đồng trở

người

đến

đồng đến 50 tỷ

người đến 100

xuống

mại và dịch vụ

xuống

50 người

đồng

người

Quy mô

Nguồn: Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 20/8/2009 của Chính Phủ

Nghị định 56/2009/NĐ-CP này có hiệu lực từ ngày 20/8/2009 và thay thế Nghị

định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001. Để thấy được ưu điểm của tiêu chí phân loại

DNNVV mới, trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, chúng tôi xin sử dụng tiêu chí xác

định DNNVV từ năm 2005 – 2008 theo tinh thần Nghị định 90/2001/NĐ-CP và tiêu chí

xác định DNNVV năm 2009 theo tinh thần Nghị định 56/2009/NĐ-CP.

Với cách xác định như trên thì về mặt số lượng, DNNVV chiếm tỷ lệ lớn trong tất

cả các doanh nghiệp ở Việt Nam. Theo tiêu chí vốn, trong tổng số 45.076 doanh nghiệp

được điều tra trong cuộc tổng điều tra năm 2007 có tới hơn 42.672 doanh nghiệp là các

DNNVV, chiếm tỷ lệ 94% tổng số doanh nghiệp. Còn nếu căn cứ vào tiêu chí lao động

thì DNNVV cũng chiếm gần 98% trong tổng số các doanh nghiệp.

1.1.2. Đặc điểm của DNNVV

- DNNVV tồn tại và phát triển ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực và chiếm tỷ lệ

đa số trong tất cả các thành phần kinh tế.

- DNNVV có tính năng động cao trước những thay đổi của thị trường, có khả

3

năng chuyển hướng kinh doanh, có khả năng chuyển hướng mặt hàng nhanh vì vốn đầu

tư ít, thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên, do vốn đầu tư ít nên địa điểm hoạt động không ổn

định, cơ sở vật chất và trình độ kỹ thuật yếu kém, lạc hậu, không đồng bộ, do vậy rất

khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại vào sản xuất kinh doanh.

Cũng vì nguồn tài chính hạn hẹp nên quá trình tích tụ và tập trung vốn để tái đầu tư

phát triển diễn ra chậm chạp và khi rơi vào tình trạng suy thoái thì dễ lâm vào phá sản.

- Bộ máy tổ chức quản lý được thiết kế gọn nhẹ, các quy định quản lý được đưa

ra và thực hiện nhanh chóng, không ách tắc phiền hà, tiết kiệm chi phí quản lý.

- Có thể bước vào thị trường mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp

lớn, sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất, nhất là các khoảng trống nhỏ của thị

trường, để từ đó tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng. Song trình độ quản lý sản

xuất kinh doanh còn nhiều hạn chế, thiếu các thông tin về thị trường trong và ngoài

nước. Do vậy khó có khả năng thâm nhập vào thị trường quốc tế và việc mở rộng thị

phần nói chung.

- Dễ phát huy bản chất hợp tác: DNNVV thường chỉ tiến hành một hay vài công

đoạn trong quá trình sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh mà các công đoạn sản xuất phải

kết hợp với nhau để tạo ra một sản phẩm hoàn thành đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Do

vậy doanh nghiệp phải hoàn thiện chính mình và tiến hành hợp tác.

- Thu hút nhiều lao động trung bình và thấp, khi cần tuyển chọn lao động có

trình độ tay nghề cao thường gặp khó khăn do khả năng trả lương thấp và việc thực hiện

các chế độ về bảo hiểm, điề u kiện lao động cũng không được như các doanh nghiệp

lớn.

- Không đủ điều kiện cũng như chưa quan tâm đúng mức đến các chương trình

chiến lược lâu dài mà thường kinh doanh theo hướng trước mắt, ngắn hạn.

1.1.3. Vai trò của Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền k inh tế thị trường ở Việt Nam.

Trong 10 năm qua, nền kinh tế nước ta có những bước phát triển không ngừng, gặt

hái được nhiều thành công. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, ngay cả trong

những năm khủng hoảng kinh tế toàn cầu; mức tăng trưởng bình quân đạt 7,2%/năm

4

trong thời kỳ 2001 – 2010 (7,5% giai đoạn 2001 – 2005 và gần 7% giai đoạn 2006 –

2010). GDP bình quân đầu người theo giá thực tế vào nă m 2010 ước khoảng 1.200

USD$, đưa nước ta vào hàng ngũ các quốc gia có thu nhập trung bình thấp , thu hẹp

đáng kể khoảng cách phát triển so với các nền kinh tế khác trong khu vực. Đạt được

những thành quả đó, phải nói đến sự đóng góp đáng kể của DNNVV.

1.1.3.1. DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, tăng thu nhập quốc dân.

DNNVV với quy mô nhỏ và vừa, mức độ đầu tư không lớn, linh hoạt, rất phù hợp

cho phát triển kinh tế dân doanh. DNNVV là phương thức phù hợp và hữu hiệu để huy

động nguồn lực từ dân cho phát triển kinh tế. Từ năm 2001 đến 6/2008 đã có 285.900

doanh nghiệp, chủ yếu là các DNNVV đã đăng ký mới với số vốn đăng ký 1.233.000 tỷ

đồng, đưa tổng số các doanh nghiệp trong cả nước lên 349.300 doanh nghiệp với tổng

số vốn đăng ký trên 1.389.000 tỷ đồng. Từ năm 2005 cho đến nay, bình quân hàng năm

khu vực DNNVV thuộc các thành phần kinh tế đóng góp hơn 45% GDP và riêng khu

vực kinh tế tư nhân trong nước đã đóng góp 40% GDP hàng năm.

Nếu xét riêng ngành công nghiệp chế biến, về số lượng, các DNNVV tập trung

chủ yếu vào 9 phân ngành: sản xuất thực phẩm và đồ uống; sản xuất hoá chất và các sản

phẩm hoá chất; sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại khác; sản xuất các

sản phẩm từ kim loại (trừ máy móc thiết bị); sản xuất, sửa chữa phương tiện vận tải

khác; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ; dệt; sản xuất trang phục; sản xuất các sản

phẩm cao su và plastic. Giá trị sản lượng của 9 phân ngành này chiếm 70% tổng giá trị

sản lượng của toàn ngành công nghiệp chế biến.

DNNVV hiện nay chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp trên toàn quốc, trong

đó phần lớn là doanh nghiệp dân doanh, đóng góp khoảng 26% tổng sản phẩm xã hội,

31% tổng giá trị sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận

chuyển hàng hoá.

1.1.3.2. DNNVV đóng vai trò quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.

Khi những doanh nghiệp nhỏ và vừa làm ăn phát đạt và thuê nhiều nhân công, nền

kinh tế sẽ phát triển và ngược lại, khi họ thua lỗ và sa thải nhân công, nền kinh tế sẽ rơi

5

vào suy thoái. Do đó phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa phải giữ vai trò then chốt.

Điều thú vị và hấp dẫn của việc gia nhập WTO là ở chỗ nó mang lại nhiều quyền lợi

cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, giúp họ tiết kiệm chi phí để sáng tạo và cạnh tranh

trên phạm vi toàn cầu. Joel Cawley, một chiến lược gia của công ty IBM cho rằng: “sẽ

có vô số việc làm dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng lĩnh hội những

thế mạnh sẵn có của toàn cầu hoá và ứng dụng linh hoạt chúng phù hợp với nhu cầu của

cộng đồng địa phương… Đó là sự địa phương hoá những yếu tố mang tính toàn cầu.

Quá trình này vừa mới diễn ra. Tiềm năng tạo công ăn việc làm của nó là rất lớn”.

Việt Nam là một nước đông dân, lại chủ yếu sống bằng nghề nông với mức thu

nhập thấp, lao động dư thừa nhiều. Bên cạnh đó, chính sách cắt giảm biên chế trong bộ

máy Nhà nước và khu vực doanh nghiệp Nhà nước đã làm cho lao động dư thừa ngày

càng tăng. Hằng năm nước ta có thêm khoảng một triệu người gia nhập lực lượng lao

động. Chính khu vực DNNVV đã đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc

làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê công bố cho thấy; DNNVV là nguồn tạo ra

việc làm chủ yếu trong tất cả các lĩnh vực, chiếm trên 50,1% lực lượng lao động trong

tất cả các loại hình doanh nghiệp.

1.1.3.3. DNNVV huy động mọi nguồn lực tiềm năng, tạo cơ hội cho mọi người kinh doanh.

Hoạt động của DNNVV thường được bắt đầu từ một nguồn vốn hạn hẹp mà chủ

yếu là vốn nhàn rỗi trong dân cư. Các DNNVV thuộc các thành phần kinh tế đã thu hút

phần lớn lao động tham gia vào sản xuất, mà chưa đòi hỏi lao động phải có trình độ

cao, phải đào tạo nhiều thời gian. Người lao động chỉ cần được bồi dưỡng hoặc đào tạo

ngắn hạn là có thể tham gia sản xuất kinh doanh. Hiện nay còn có nhiều tiềm năng

trong dân chưa được khai thác: tiềm năng về trí tuệ, tay nghề tinh xảo, lao động, vốn,

điều kiện tự nhiên, bí quyết nghề nghiệp… Việc phát triển các DNNVV sản xuất các

ngành nghề truyền thống ở nông thôn là một trong những hướng quan trọng để sử dụng

tay nghề tinh xảo của các nghệ nhân, nhằm thu hút lao động nông thôn và phát huy lợi

6

thế của từng vùng để phát triển kinh tế.

Từ chỗ nguồn vốn ít, lao động thủ công cơ giới là chính, nên nguồn nguyên liệu

chủ yếu là khai thác và sử dụng tại chỗ, thuộc phạm vi địa phương. Nhờ vậy khai thác

và tận dụng được một cách triệt để các nguồn nguyên liệu phong phú và đa dạng của

đất nước.

1.1.3.4. Đóng góp vào ngân sách Nhà nước

Nguồn thu ngân sách từ doanh nghiệp Nhà Nước hiện nay chiếm tỷ trọng lớn,

nhưng ngặt một nỗi nếu như tình hình hiện nay thì để có 1 đồng thu ngân sách từ doanh

nghiệp Nhà Nước thì nhà nước cũng phải trợ cấp ( cả cứng lẫn mềm ) cho doanh nghiệp

Nhà Nước 1 đồng ( ở đây chưa kể đến hoạt động bảo toàn vốn ). Hơn nữa, một khi gia

nhập WTO thì việc trợ cấp này không thể duy trì, và hệ quả là nguồn thu từ doanh

nghiệp Nhà Nước sẽ khó được đảm bảo. Ngân sách nhà nước, vì vậy, phụ thuộc ngày

càng nhiều vào các nguồn thu khác, trong đó đặc biệt quan trọng là từ thuế do các

doanh nghiệp dân doanh đóng góp.

Như vậy, phát triển khu vực kinh tế dân doanh một cách bền vững sẽ là biện pháp

quan trọng nhất để bảo đảm ngân s ách quốc gia. Hơn nữa, xét về tính năng động và

hiệu quả thì khu vực kinh tế dân doanh của chúng ta có lẽ chỉ thua mỗi khu vực đầu tư

nước ngoài. Kinh tế dân doanh lại là khu vực phát triển nhanh nhất ngay cả trong giai

đoạn khủng hoảng. Từ cuối năm 2007 cho đến nay, nền kinh tế nước ta chịu nhiều ảnh

hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng số lượng

doanh nghiệp đăng ký thành lập mới vẫn tăng. Tính hết năm 2009, gần 85.000 doanh

nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng gần 30% so với năm 2008. Sự gia tăng này sẽ góp

phần không nhỏ vào nguồn thu ngân sách nhà nước (chủ yếu là nguồn thu thuế).

1.1.3.5. Góp phần làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Sự ra đời của các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã làm tăng tính cạnh tranh của nền

kinh tế. Với sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh

vực sẽ làm giảm tính độc quyền và buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh,

phải liên tục đổi mới để có thể tồn tại và phát triển. Với tính linh hoạt của mình, các

doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng sẽ tạo sức ép cạnh tranh thậm chí với các công ty lớn,

7

các tập đoàn đa quốc gia. Đồng thời nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa còn đóng vai trò là

vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá và phân công lao

động trong sản xuất, làm tăng hiệu quả của chính các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng

như của doanh nghiệp hợp tác.

1.2. Cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa

1.2.1. Khái quát về cơ chế hỗ trợ tài chính

Tài chính bao gồm nhiều nội dung, tác động đến nhiều mối quan hệ khác nhau. Để

tìm hiểu khái niệm cơ chế hỗ trợ tài chính, trước hết xin đề cập đến cơ chế quản lý tài

chính.

Như chúng ta đã biết, kinh tế quyết định, hay nói cách khác, tài chính phản ảnh

các mối quan hệ kinh tế. Song cũng cần nhấn mạnh rằng, tài chính không thụ động phản

ánh các quan hệ kinh tế, mà tài chính có thể tác động ngược trở lại để điều chỉnh các

quan hệ kinh tế đồng hành. Khi Nhà nước sử dụng tài chính như một công cụ, thì từng

bộ phận cấu thành, từng tác động của nó trong quá trình tái sản xuất xã hội không thể

tồn tại một cách riêng lẻ, mà được kết nối, đan xen với nhau trong một cơ chế thống

nhất. Do đó, chúng ta có thể hiểu cơ chế quản lý tài chính là hệ thống các hình thức,

phương pháp, biện pháp và các công cụ tài chính tác động vào sự hình thành và vận

động của hệ thống tài chính, các quan hệ phân phối tài chính, nhằm vào những mục tiêu

quản lý ở tầm vĩ mô và vi mô, được xác định bởi vai trò kinh tế của Nhà nước.

Từ khái niệm cơ chế quản lý tài chính nói trên, theo chúng tôi, cơ chế hỗ trợ tài

chính là hệ thống các hình thức, phương pháp, biện pháp và các công cụ tài chính mà

Nhà nước tác động vào sự vận hành của hệ thống tài chính và các quan hệ phân phối tài

chính, nhằm đạt tới những mục tiêu hỗ trợ về mặt tài chính cho một đối tượng nhất

định, được xác định bởi vai trò kinh tế của Nhà nước.

Như vậy, cơ chế hỗ trợ tài chính là một phạm trù kinh tế mang tính chất chủ quan,

bao gồm ba nội dung chủ yếu:

+ Nền tảng pháp luật cho sự hỗ trợ.

8

+ Chính sách hỗ trợ.

+ Các công cụ điều hành cụ thể để thực thi chính sách đó.

Với những nội dung đó, cơ chế hỗ trợ tài chính có tác dụng:

+ Quản lý các quan hệ kinh tế thông qua các quan hệ tài chính.

+ Kích thích đối tượng được hỗ trợ phát triển thông qua sự vận hành của các

công cụ thực thi chính sách hỗ trợ.

1.2.2. Ý nghĩa của cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước:

- Tạo cơ chế khuyến khích và dành một số dự án hỗ trợ kỹ thuật để tăng cường

năng lực cho các tổ chức tài chính phù hợp mở rộng và đa dạng hoá các sản phẩm, dịch

vụ tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

- Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua việc đổi

mới phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh cao và thân thiện với môi trường; đầu tư,

đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phát triển công nghiệp hỗ trợ; nâng

cao năng lực quản trị doanh nghiệp.

1.2.3. Các công cụ được sử dụng trong cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước

đối với DNNVV:

Thông qua chính sách Thuế và phân phối chi tiêu của ngân sách mà Nhà nư ớc

hình thành cơ chế hỗ trợ tài chính tác động đa chiều đến sự phát triển các DNNVV

trong nền kinh tế.

- Về chính sách thuế: nộp thuế là nghĩa vụ đối với tất cả các doanh nghiệp, kể cả

DNNVV. Tuỳ theo các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có ng hĩa vụ

nộp các loại thuế trực thu như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân; các

loại thuế gián thu như: thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc

biệt…

Thuế là một trong những công cụ phân phối thu nhập, ổn định hoá nền kinh tế,

khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Về mặt lý thuyết, việc dùng thuế để hỗ

trợ tài chính cho DNNVV được thực hiện thông qua chế độ ưu đãi về thuế suất, miễn

9

giảm thuế doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV mới thành lập, các DNNVV có đầu tư

mới trong việc cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ và các DNNVV hoạt

động trong các ngành nghề, lĩnh vực, các vùng mà Chính phủ khuyến khích.

- Về chi ngân sách Nhà nước: liên quan đến sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước cho

các DNNVV thông qua công cụ này có thể kể đến các khoản chi cơ bản sau đây của

ngân sách Nhà nước:

+ Đầu tư của ngân sách vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật trọng yếu của

nền kinh tế: sân bay, bến cảng, đường sá, cầu cống, viễn thông… bao gồm đầu

tư mới và cải tạo khôi phục. Kinh tế học cũng đã xác lập rằng, sự phát triển của

nền kinh tế phải đặt trong sự tương quan chặt chẽ với phát triển cơ sở hạ tầng.

Như Ngân hàng Thế giới đã nhận định, đối với mọi quốc gia mức tăng 1% tổng

sản phẩm thường tương ứng mức tăng 1% tư bản của kết cấu hạ tầng. Sự phát

triển hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương đối hoàn chỉnh hỗ trợ thiết thực cho

các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng giảm được chi phí đầu tư,

chi phí lưu thông hàng hoá, rút ngắn chu kỳ kinh doanh, tăng vòng quay vốn.

+ Chi đầu tư phát triển giáo dục và khoa học công nghệ có ý nghĩa rất quan trọng

đối với quá trình phát triển kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của các

doanh nghiệp. Ngoài lợi thế so sánh tĩnh về tài nguyên, ngày nay nguồn nhân

lực và khoa học công nghệ lại là những yếu tố quyết định trong cuộc đua cạnh

tranh kinh tế, bởi lẽ nguồn nhân lực trong sự gắn kết với trình độ phát triển

khoa học công nghệ sẽ tạo lợi thế so sánh động biểu hiện sức mạnh riêng có

của mỗi quốc gia và thắng lợi trong cạnh tranh kinh tế không ngoài gì khác sẽ

thuộc về những quốc gia có chính sách đầu tư phát triển giáo dục và khoa học

công nghệ đúng mức.

Một trong những khó khăn mà các DNNVV đang phải đương đầu là trình độ tay

nghề của người lao động và đội ngũ quản lý ở các DNNVV nhìn chung còn thấp so với

nhu cầu. Do vậy, sự đầu tư của ngân sách để đào tạo đội ngũ người lao động và quản lý

cho các doanh nghiệp, trong đó, việc đào tạo nghề có một ý nghĩa rất thiết thực với thực

10

trạng nguồn nhân lực và nhu cầu của các DNNVV ở nước ta hiện nay.

- Về tín dụng Nhà nước: Tín dụng Nhà nước là quan hệ giữa một bên là Nhà

nước và bên kia là chủ thể khác trong xã hội. Tín dụng Nhà nước bao gồm hai mặt: một

mặt thể hiện Nhà nước là người đi vay, mặt khác thể hiện Nhà nước là người cho vay.

Sự hỗ trợ về mặt tài chính cho các DNNVV qua quan hệ tín dụng Nhà nước được thể

hiện ở mặt thứ hai thông qua hình thức cho vay, tài trợ ưu đãi của Nhà nước cho các

doanh nghiệp này. Hình thức này được thể hiện chủ yếu thông qua hệ thống các quỹ hỗ

trợ tài chính Nhà nước.

Quỹ hỗ trợ tài chính được hình thành trong tiến trình đổi mới chính sách tài chính

nhằm tạo ra công cụ tài chính năng động để đa dạng hóa sự huy động các nguồn lực tài

chính của xã hội vào nhà nước, qua đó tiến hành hỗ trợ tài chính cho một số lĩnh vực

hay hoạt động có tính chất ưu tiên, cần khuyến khích nhằm góp phần thúc đẩy sự phát

triển kinh tế - xã hội. Trên góc độ này, quỹ hỗ trợ tài chính của Nhà nước có tác dụng

rất tích cực trong việc tăng cường thu hút vốn đầu tư của doanh nghiệp nói chung và

DNNVV nói riêng. Đặc điểm chung của các quỹ hỗ trợ tài chính Nhà nước:

+ Về cơ bản có nguồn gốc từ NSNN

+ Hoạt động theo chính sách chế độ của Nhà nước, không vì mục tiêu lợi nhuận,

nhưng đảm bảo sự bảo toàn và phát triển nguồn lực của quỹ.

+ Phạm vi hoạt động rộng, liên quan đến nhiều đối tượng và mục tiêu khác nhau,

bao gồm cả mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.

+ Cơ chế hoạt động linh hoạt, hoạt động theo nguyên tắc thu hồi, bù đắp, bảo

toàn và phát triển nên các đối tượng tham gia của quỹ chủ yếu chịu sự ràng

buộc bởi các lợi ích kinh tế.

+ Hoạt động của các quỹ này là không ổn định và thường xuyên như ngân sách

Nhà nước. Chúng hoạt động tùy theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc

gia. Cho nên có những quỹ chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định và đến khi

đạt được mục tiêu mà Nhà nước đề ra thì quỹ chấm dứt hoạt động. Kinh

nghiệm phát triển của nhiều nước cũng cho thấy, trong giai đoạn tạo đà cho

11

công nghiệp hóa, sự phát triển các quỹ hỗ trợ tài chính sẽ giúp cho Nhà nước

mở rộng khả năng huy động các nguồn vốn của xã hội, kết hợp cùng với ngân

sách nhà nước và các công cụ tài chính khác tạo nên sức mạnh tổng hợp để hỗ

trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường đầu tư phát triển kinh doanh.

Sự hỗ trợ tài chính cho các DNNVV thông qua các công cụ tài chính vĩ mô của

Nhà nước bao gồm cả hỗ trợ trực tiếp lẫn hỗ trợ gián tiếp. Với cơ chế hỗ trợ trực tiếp,

Nhà nước gây tác động trực tiếp làm gia tăng thêm nguồn vốn có tính ưu đãi cho hoạt

động kinh doanh của các DNNVV. Còn cơ chế gián tiếp tuy không đóng góp trực tiếp

đến sự tăng vốn nhưng có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh doanh của các

DNNVV, xét trên góc độ những lợi ích mang lại từ các khoản chi của ngân sách về đầu

tư cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực.

Tuy nhiên cơ chế hỗ trợ này vẫn có những hạn chế: thường bị ràng buộc bởi

những thủ tục quy định hành chính; do nguồn lực có giới hạn nên đối tượng và phạm vi

hỗ trợ cũng có những giới hạn nhất định. Chính vì lẽ đó, theo kinh nghiệm của nhiều

nước, Nhà nước cần phải thiết lập cơ chế hỗ trợ tài chính cho các DNNVV thông qua

thị trường tài chính.

- Về thị trường tín dụng ngân hàng: tín dụng ngân hàng (TDNH) phản ánh quan

hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp, các tầng lớp

dân cư. Sự hỗ trợ về mặt tài c hính từ phía Nhà nước cho các DNNVV thông qua hình

thức tín dụng ngân hàng chủ yếu được thực hiện bằng các khoản cho vay các ngân hàng

thương mại quốc doanh, qua đó thực hiện chính sách hỗ trợ vốn cho các DNNVV. Tính

chất hỗ trợ thể hiện ở chỗ Nhà nước xây dựng hành lang pháp lý tạo điều kiện cho các

ngân hàng nới lỏng điều kiện cho vay vốn ở giới hạn cho phép, khuyến khích phát triển

nghiệp vụ tín dụng thuê mua đối với các doanh nghiệp này. Các ngân hàng thương mại

chủ động hỗ trợ các DNNVV trong việc lập dự án sản xuất kinh doanh đủ tiêu chuẩn

vay vốn ngân hàng, loại bỏ sự kỳ thị của ngân hàng đối với các DNNVV ngoài quốc

doanh.

Đồng thời đễ hỗ trợ các DNNVV tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, Nhà

12

nước có thể thành lập và phát triển các định chế tài chính thuộc sở hữu Nhà nước để

thực hiện chính sách bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV. Theo kinh nghiệm của các

nước phát triển cho thấy, do bị giới hạn về quy mô tài sản kinh doanh và mức độ tín

nhiệm trên thị trường, nên các DNNVV khó tiếp cận rộng rãi đến các nguồn vốn tín

dụng ngân hàng. Vì vậy việc thành lập các định chế tài chính để bảo lãnh tín dụng cho

các DNNVV là rất cần thiết. Hoạt động cơ bản của các định chế này là thực hiện chính

sách bảo lãnh những khoản tín dụng ngân hàng của các DNNVV nhằm khuyến khích

các doanh nghiệp tăng cường đầu tư dài hạn, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực

cạnh tranh và hội nhập vào thị trường quốc tế.

- Về thị trường vốn: hạt nhân của nó chính là thị trường chứng khoán, kênh giao

lưu vốn hữu hiệu của nền kinh tế. Sự hỗ trợ về mặt tài chính đối với các DNNVV thông

qua hoạt động của thị trường vốn là hết sức cần thiết. Trước đây, chứng khoán của các

DNNVV không đủ tiêu chuẩn để niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.

Nhưng từ khi Chính phủ ban hành Nghị định mới, quy định lại tiêu chí phân loại

DNNVV, thì kênh giao lưu vốn này gần như đã được khai thông, giúp các DNNVV mở

rộng được kênh huy động vốn. Đây là một dấu hiệu hết sức khả quan cho các DNNVV.

1.3. Kinh nghiệm hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước và Chính phủ Việt Nam

1.3.1. Lựa chọn mô hình

Theo Ngân hàng Thế giới, Chính phủ ở các quốc gia nên tập trung vào hai chức

năng. Một là giải quyết thất bại của thị trường. Hai là hoàn thiện công bằng xã hội.

Trong đó có nội dung hỗ trợ nhóm dân cư dễ bị thương tổn. Hiểu theo nghĩa rộng,

nhóm dễ bị thương tổn còn bao gồm cả những DNNVV - những doanh nghiệp dễ bị

thương tổn nhất trong cạnh tranh. Việt Nam với hơn 90% doanh nghiệp là DNNVV như

hiện nay cho thấy sự cần thiết phải can thiệp vào thị trường của Chính phủ để thúc đẩy

DNNVV phát triển. Bởi lẽ với hơn 90% doanh nghiệp dễ tổn thương như vậy, nếu

không có sự can thiệp kịp thời của Chính phủ thì nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp rất nhiều

khó khăn, có khả năng dẫn đến suy thoái nếu khu vực DNNVV gặp khó khăn. Có thể

13

nói, phương thức can thiệp của chính phủ các nước vào thị trường để thúc đẩy sự phát

triển DNNVV đã trải qua rất nhiều mô hình khác nhau. Mỗi mô hình đều có những ưu

điểm và hạn chế riêng biệt. Cụ thể như sau:

1.3.1.1. Mô hình phát triển DNNVV theo định hướng chính trị

Với quan điểm cho rằng, các DNNVV là nơi tạo nhiều công ăn việc làm cho người

lao động, các nước có dân số đông đã xây dựng nhiều chương trình để hỗ trợ phát triển

DNNVV nhằm đáp ứng các mục tiêu chính tr ị của đất nước, đặc biệt là vấn đề giải

quyết công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết các vấn đề xã hội hay để thực

hiện chiến lược công nghiệp hoá nông thôn.

Theo quan điểm của chính phủ các nước theo trường phái này, thì DNNVV là

những thực thể yếu đuối cần được bảo vệ. Do vậy, các chính sách phát triển DNNVV

được đặt ra vào thời điểm đó thường không mang các yếu tố khách quan mà chủ yếu là

để thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch đã được đặt ra, nhằm thực hiện các mục tiêu chính

trị. Các DNNVV được xem là những cứu cánh để tạo ra công ăn việc làm, hay là động

lực chính để phát triển cân đối vùng và đồng thời cũng được xem là lực lượng đối trọng

đối với sự tập trung quyền lực kinh tế của các doanh nghiệp lớn.

Chính sách chủ yếu được chính phủ các nước theo mô hình này áp dụng là những

chương trình xây dựng các cụm công nghiệp và khu công nghiệp cho DNNVV ở các

vùng kém phát triển. Chính phủ ưu tiên mua hàng hoá do các DNNVV cung cấp, nhằm

tạo ra đầu ra ổn định cho khu vực doanh nghiệp này. Ngoài ra, chính phủ một số nước

còn quy định hàng trăm mặt hàng mà chỉ các DNNVV được sản xuất, cung cấp và giao

các ngân hàng nhà nước, chủ yếu là hệ thống ngân hàng thương mại của nhà nước, đảm

bảo một tỷ lệ cho vay nhất định cho các DNNVV.

Mô hình can thiệp mạnh mẽ củ a chính phủ nêu trên, trong thời gian đầu cũng gặt

hái được một số thành quả nhất định với sự gia tăng nhanh chóng của khu vực doanh

nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, cũng khá nhanh chóng, mô hình này đã bộc lộ nhiều nhược

điểm. “Chính sách công nghiệp trong quá khứ đã thường xuyên tạo ra sự phân tán các

thị trường giữa doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn. Như nghiên cứu của Little,

14

Mazumdar và Page (1987) về Ấn Độ đã cho thấy thực trạng là, khu vực doanh nghiệp

lớn với công nghệ sử dụng nhiều vốn thì cung cấp hàng hoá cho thị trường bậc cao,

trong khi đó khu vực doanh nghiệp nhỏ với công nghệ lạc hậu thì cung cấp hàng hoá

kém chất lượng cho thị trường thấp cấp. Thực tế là, các biện pháp chính sách ở Ấn Độ

thời gian đó đã tạo ra một môi trường thù địch giữa hai khu vực doanh nghiệp luôn xem

phía bên kia như là đối thủ và điều này ngăn cản nghiêm trọng mối quan hệ sản xuất

kinh doanh giữa các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn”.

1.3.1.2. Mô hình xúc tiến phát triển DNNVV một cách có lựa chọn

Cho đến những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ trước, với sự phát triển

nhanh chóng của khoa học công nghệ trong các lĩnh vực công nghệ vật liệu, công nghệ

sản xuất kỹ thuật cao, cách tiếp cận phổ biến được nhiều nước áp dụng là mô hình xúc

tiến phát triển DNNVV một cách có lựa chọn. Theo cách tiếp cận này, trọng tâm của

chiến lược phát triển DNNVV ở các nước là chương trình hỗ trợ DNNVV trong một số

ngành sản xuất kỹ thuật cao hoặc dịch vụ mới với những khoản trợ cấp khổng lồ từ

ngân sách nhà nước.

Chính sách phát triển DNNVV của các nước theo mô hình này tập trung chủ yếu

vào các nội dung sau:

- Thứ nhất, là chính sách hỗ trợ DNNVV nhằm đáp ứng những thay đổi về môi

trường trong nước và quốc tế thông qua sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế với các biện pháp

hỗ trợ DNNVV có lựa chọn theo các chương trình hiện đại hoá máy móc thiết bị và

công nghệ sản xuất nhằm phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm

chi phí sản xuất.

- Thứ hai, là chính sách ổn định hoá và nâng cao năng lực quản lý DNNVV với

các chương trình thúc đẩy các hợp tác công nghiệp như quỹ mua-bán chung, Quỹ tương

hỗ với sự tài trợ lớn từ ngân sách nhà nước kết hợp một phần đóng góp tự nguyện của

DNNVV với mục đích để giúp DNNVV phát triển kỹ năng quản lý cho chủ doanh

nghiệp.

- Thứ ba, là các hỗ trợ về tài chín h cho DNNVV. Chính phủ đã thiết lập mạng

15

lưới các ngân hàng có sự đầu tư của chính phủ chỉ để phục vụ riêng cho các DNNVV.

Các ngân hàng thương mại cũng phải cam kết dành cho DNNVV vay ở mức 35 -40%

tổng mức cho vay với lãi suất ưu đãi do chính phủ quy định.

Mô hình xúc tiến DNNVV này đã giúp cho DNNVV của một số nước như Nhật

Bản, Hàn Quốc, Đức... đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, theo quan điểm

của nhiều nhà kinh tế, thì sự hỗ trợ thái quá của Chính phủ trong nhiều trường hợp sẽ

dẫn đến việc bóp méo thị trường để ưu tiên phát triển DNNVV làm giảm tính cạnh

tranh của các ngành nghề nói chung, đồng thời hạn chế lợi thế đầu tư quy mô lớn nói

riêng.

1.3.1.3. Mô hình thị trường tự do:

Quan điểm phát triển kinh tế của chính phủ một số nước như Mỹ, Anh, Hồng

Kông, Thái Lan (những năm 1980) cho rằng, chính phủ tham dự càng ít vào nền kinh tế

càng tốt. Vai trò của chính phủ là duy trì luật pháp và trật tự xã hội, cung cấp một số cơ

sở hạ tầng như đường xá, điện nước, nhà ở... Thậm chí một số dịch vụ công cộng khác

như cung cấp năng lượng, giao thông công cộng... cũng được giao cho khu vực tư nhân.

Quan điểm chủ đạo của trường phái này cho rằng, chính phủ các nước đang phát triển

theo đuổi những chính sách can thiệp thái quá vào nền kinh tế, dẫn đến sự bóp méo giá

cả thị trường, ví dụ như hỗ trợ tín dụng, trợ giá quá mức hay việc lạm dụng các biện

pháp phi thị trường để phân bổ nguồn lực đất nước... Các nước theo trường phái này

cho rằng, phương thức tiếp cận theo hướng thị trường tự do sẽ giảm thiểu việc ban hành

các chính sách một cách tuỳ tiện và việc thu lợi bất chính bằng hối lộ và tham nhũng.

“Ở một góc độ nào đó, quyết định của Ngân hàng Thế giới năm 1991 chấm dứt toàn bộ

các khoản cho vay trực tiếp đối với DNNVV đã phản ánh một xu thế chuyển dịch quan

điểm từ bỏ việc hỗ trợ trực tiếp DNNVV sang các biện pháp hỗ trợ gián tiếp”.

Trong nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do, các DNNVV được bảo trợ bởi pháp

luật về chống độc quyền, cũng tự tìm được các thị trường ngách thích hợp với lợi thế

của sản xuất quy mô nhỏ. Đồng thời, với cơ chế này, các doanh nghiệp được tự do phát

huy các thế mạnh của mình trong việc lựa chọn các loại hàng hoá và dịch vụ cung cấp.

16

Do vậy, khu vực DNNVV ở nhiều nước theo trường phái thị trường tự do cũng đạt

được những thành tựu phát triển nhất định, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh

tế của các nước đó. Tuy nhiên, mô hình phát triển DNNVV theo trường phái này

thường chỉ đạt được kết quả khả quan tại các nước phát triển, sự phân bổ các nguồn lực

đã được thị trường điều tiết khá hiệu quả. Ngược lại, đối với các nước đang phát triển,

việc áp dụng mô hình trên không thu được kết quả đáng kể nào như trường hợp của

nhiều quốc gia châu Phi trong nhiều thập kỷ qua.

1.3.1.4. Mô hình “tạo điều kiện thuận lợi để DNNVV phát triển”:

Đến cuối thập niên 1980 và đầu những năm 1990, với xu hướng toàn cầu hoá và

khu vực hoá một cách phổ biến, một mô hình mới với cách tiếp cận là “tạo điều kiện

thuận lợi để DNNVV phát triển”, với trọng tâm nhấn mạnh vào năng lực cạnh tranh của

DNNVV được hình thành và trở nên phổ biến ở nhiều nước, đặc biệt là các nước đang

tham gia sâu rộng vào quá trình hội nhập quốc tế.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong việc can thiệp vào thị trường dịch vụ phát

triển cho DNNVV, nhà nước chỉ nên đóng vai trò là người tạo ra các điều kiện thuận lợi

(facilitator) để thị trường cung cấp những dịch vụ phát triển tốt nhất cho các DNNVV.

Điều đó có nghĩa là, nhà nước chỉ nên dừng lại ở việc xây dựng năng lực cho các nhà

cung ứng tư nhân, thay vì thành lập ra các tổ chức cung ứng dịch vụ của nhà nước với

các công chức quan liêu và cách thức hoạt động không theo cơ chế thị trường của các tổ

chức đó. Đồng thời, các nước theo trường phái này cũng không hoàn toàn theo mô hình

thị trường tự do vì cho rằng, quá trình giải quyết mọi vấn đề kinh tế chỉ dựa trên cơ sở

thị trường là quan điểm quá đơn giản.

Trong điều kiện nước ta hiện nay nói chung và TPHCM nói riêng , qua xem xét

những hạn chế của từng mô hình, có thể nói rằng, phương thức tiếp cận của mô hình

“tạo điều kiện thuận lợi để DNNVV phát triển” có lẽ là phù hợp hơn cả. Vai trò của

Nhà nước trong phát triển DNNVV chỉ nên tập trung vào việc sửa chữa và bù đắp

khiếm khuyết của thị trường, với các nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng các chính sách tạo

môi trường kinh doanh thuận lợi cho DNNVV, thiết kế và áp dụng các biện pháp nâng

17

cao khả năng tiếp cận tài chính để tạo điều kiện về vốn kinh doanh cho DNNVV và

tăng cường các dịch vụ phát triển doanh nghiệp mà DNNVV cần để bù đắp những kỹ

năng thiếu hụt do nguồn nhân lực trong DNNVV không có. Và cuối cùng, cần phải

khẳng định rằng, Nhà nước không phải là nhà cung cấp trực tiếp dịch vụ hỗ trợ cho

DNNVV, mà việc này thị trường đảm nhiệm sẽ có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, Nhà nước

cũng cần lưu ý việc hỗ trợ các dịch vụ tư vấn, tài chính phải từng bước được tư nhân

hóa. Tránh trường hợp về lâu dài các dịch vụ tư vấn, các quỹ bảo lãnh tín dụng do Nhà

nước quản lý sẽ trở thành các đơn vị độc quyền, dẫn đến tái xuất hiện cơ chế “xin –

cho” lạc hậu và thiếu khách quan. Hơn nữa, việc tạo điều kiện thuận lợi cho DNNVV

cũng phải chú ý đến sự phát triển hài hòa của các doanh nghiệp lớn.

1.3.2. Cơ chế hỗ trợ tài chính đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước

trên thế giới

- Hầu hết các nước Châu Âu đều có các tổ chức tín dụng tương hỗ được thành lập

dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn cổ phần với vốn góp từ các doanh nghiệp

trong nước, chính quyền địa phương và các tổ chức tài chính. Các công ty muốn sử

dụng các dịch vụ bảo đảm tín dụng cần phải mua một khối lượng cổ phiếu của các tổ

chức bảo đảm tương hỗ và cũng trở thành một cổ đông của các tổ chức này. Các doanh

nghiệp được bảo đảm tín dụng phải đặt cọc một tỷ lệ phần trăm nhất định số tiền bảo

đảm (xấp xỉ dưới 1%) cũng như phí bảo đảm cho các tổ chức bảo đảm tín dụng tương

hỗ.

- Trong trường hợp các doanh nghiệp vay vốn vi ước, các tổ chức Bảo đảm Tín

dụng Tương hỗ sẽ ủng hộ điều này bằng tiền đặt cọc từ các công ty thành viên. Sau đó

khi công ty hoàn lại tất cả các khoản vay được bảo đảm tín dụng, công ty có thể yêu cầu

rút lại tiền đặt cọc của mình và cũng bán lại các cổ phiếu cho tổ chức bảo đảm tín dụng

tương hỗ.

1.3.2.1. Cơ chế hỗ trợ tài chính với các DNNVV ở Nhật Bản

Ở Nhật Bản có 3 thể chế tài chính dành cho DNNVV được thành lập và điều hành

trực tiếp của Nhà nước được gọi là Tập đoàn tài chính Nhật Bản cho DNNVV, công ty

18

tài chính cấp quốc gia, Ngân hàng trung ương hợp tác Nhật Bản công - thương nghiệp.

Các Quỹ được cung cấp bởi ba cơ quan cho DNNVV chiếm khoảng 10% tổng tài chính

Nhật Bản. Các tổ chức này cho vay những doanh nghiệp đủ điều kiện bao gồm cả hai

lọai: loại thứ nhất là vay phổ biến sử dụng cho mua sắm thiết bị bao gồm cả đất, nhà

xưởng và máy móc; loại thứ hai là cho vay cá biệt sử dụng cho công nghệ mới, cho mục

đích xuất khẩu.

Ngân hàng hợp tác trung ương N hật Bản về công thương nghiệp chủ yếu là cung

cấp vốn cho các doanh nghiệp thành viên. Trong lúc đó, một số quỹ khác phải chấp

nhận điều kiện và lãi, những chính sách ưu đãi khác là điểm khác biệt. Nhìn chung,

những doanh nghiệp mới nổi có thể gắn với Ngân hàng hợp tác trung ương Nhật Bản về

công thương nghiệp một khoản vay không cần bảo lãnh khoảng 10 triệu Yen.

- Bằng cách tạo lập những thể chế tài chính cơ bản về chính sách một cách riêng

biệt, chính phủ đã phân chia một cách có hiệu quả doanh nghiệp với ngân hàng có chính

sách cơ bản và doanh nghiệp với NHTM, những thứ không chỉ bảo đảm hoạt động độc

lập của các NHTM mà còn trợ giúp về chính sách cho DNNVV, sử dụng những ảnh

hưởng quan trọng đến việc giải quyết các vấn đề tài chính cho DNNVV.

- Trước hết, ở các khu vực với mức độ khác nhau phát hiện ra những công ty bảo

lãnh tín dụng, hoàn toàn cung cấp bảo lãnh cho DNNVV có trách nhiệm pháp lý với các

cơ quan tài chính phi chính phủ. Theo đó các công ty bảo lãnh tín dụng giao phó cho

các công ty tài chính thương mại hoặc các chi nhánh cỡ trung thuộc xã hội kiểm tra

doanh nghiệp tham gia bảo lãnh và tính phí bảo lãnh từ 0,5 – 1% trên khỏan vay. Thứ

hai, chính phủ lập ra Bộ bảo hiểm tín dụng năm 1958. Một mặt nó bảo hiểm cho các

khỏan vay được cho bởi các công ty bảo hiểm tín dụng, những công ty có thể thu được

70% – 80% sự hòan trả như là khỏan tiền bảo hiểm. Mặc khác, Bộ bảo hiểm sẽ cung

cấp môt khoản vốn vay ngắn hạn và dài hạn cần thiết cho các công ty bảo hiểm tín

dụng. Với người vay cuối cùng, Bộ bảo hiểm sẽ đảm bảo họat động ổn định cho các

công ty. Thứ ba, Phòng Công Thương nghiệp có thể cung cấp một khoản tín dụng ước

19

lượng cho tài chính của doanh nghiệp nhỏ.

- Theo chính sách trợ cấp tài chính, chính phủ sẽ cung cấp khỏan trợ cấp trực tiếp

cho cải tiến công nghệ để khuyến khích DNNVV làm theo công nghệ mới và cập nhật

các liên kết khác. Theo Luật xúc tiến DNN VV, Nhật Bản đưa ra những kh oản trợ cấp

cho việc cải tiến nghiên cứu công nghệ và phát triển của DNN VV. Để trợ giúp

DNNVV phát triển và giới thiệu công nghệ mới và kiê n quyết thay đổi công nghệ,

chính phủ đã cung cấp khoảng 30 tỉ Yen trung bình hàng năm. Theo chính sách ưu đãi

cho vay, chính phủ đưa ra một lãi suất cho vay thấp (lãi suất thấp hơn ngân hàng

thương mại) cho DNN VV bằng các ngân hàng có chính sách cơ bản. B ằng cách đó,

doanh nghiệp có thể thu nhận được một khỏan vốn thỏa đáng để phát triển công nghệ

mới và thuê mướn trang thiết bị, máy tính, cải tiến máy móc sản xuất, cải tiến chất

lượng sản phẩm. Khi DNNVV yếu kém trong cạnh tranh, Chính phủ sẽ trợ cấp trực tiếp

cho họ bằng những khoản vay lãi suất thấp và dài hạn. Song song với sự tăng trưởng

của DNNVV, chính phủ d ần dần chấp nhận phương pháp gián tiếp để trợ cấp cho họ

như chi trả tiền gửi và bảo lãnh tiền gửi.

1.3.2.2 Cơ chế hỗ trợ tài chính đối với các DNNVV ở Hàn Quốc:

Các Tổ chức Bảo đảm Tín dụng Tương ứng đã được thành lập căn cứ vào chính

luật pháp và mục đích riêng của họ, và những tổ chức này cung cấp các dịch vụ bảo

đảm tín dụng với tài sản cơ bản do chính phủ đóng góp, chính quyền địa phương, các tổ

chức tài chính, v.v…trong phạm vi giới hạn tỷ suất nợ hoặc mức tín dụng tối đa. Các tổ

chức bảo đảm tín dụng Hàn Quốc trong các hệ thống ba bên có mục tiêu kinh doanh

khác nhau và cung cấp các dịch vụ bảo đảm tín dụng chuyên môn như sau:

- Quỹ Bảo đảm Tín dụng Hàn Quốc (KODIT) hướng đến các doanh nghiệp chung

với trọng tâm tương đối là các doanh nghiệp đổi mới, các doanh nghiệp mới được thành

lập và các công ty định hướng xuất khẩu, đồng thời cung cấp bảo hiểm tín dụng và các

dịch vụ bảo đảm tín dụng SOC.

- Quỹ Bảo đảm Tín dụng Công nghệ Hàn Quốc (KIBO) hướng đến các doanh

nghiệp chuyên về công nghệ và các thương vụ kinh doanh mạo hiểm, đồng thời cung

20

cấp các dịch vụ đánh giá công nghệ.

- 16 Quỹ Bảo đảm Tín dụng địa phương (CGF) cung cấp cho các doanh nghiệp

vừa và nhỏ địa phương (SMEs) các dịch vụ bảo đảm tín dụng vi mô.

+ Hệ thống bảo đảm tín dụng Hàn Quốc bắt nguồn từ hệ thống dự trữ bảo đảm

tín dụng của Ngân hàng Công nghiệp năm 1961. Hệ thống này bắt đầu nhận

được sự đóng góp của Chính phủ và các ngân hàng t hương mại với việc ban

hành Luật Khung về Các doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 1966.

+ Hệ thống dự trữ bảo đảm tín dụng: Trong trường hợp có những loại hình vốn

vay ngân hàng đặc biệt cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các khoản dự trữ

được ngân hàng thu với tỷ lệ điều chỉnh và các quỹ dự trữ lũy kế được dùng để

bù đắp các khoản vay không thực hiện được.

Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể nhưng hệ thống bảo đảm tín dụng Hàn Quốc

vẫn có nguy cơ mắc phải những vấn đề nguy hiểm về đạo đức do các ngân hàng tự đưa

các khoản bảo đảm tín dụng vào các khoản vay cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do

đó, yêu cầu này đã được đưa ra để thiết lập một tổ chức bảo đảm tín dụng độc lập nhằm

giải quyết các vấn đề về nguy cơ đạo đức và quản lý hợp nhất các hệ thống bảo đảm tín

dụng phân tán. Để giải quyết những vấn đề này và thúc đẩy hệ thống bảo đảm tín dụng

một cách mạnh mẽ, chính phủ đã ban hành Luật Quỹ Bảo đảm Tín dụng năm 1974 và

hợp nhất mọi chức năng bảo đảm tín dụng phân tán độc lập, và cuối cùng KODIT đã

được thiết lập. Kể từ khi được thiết lập, KODIT đã đóng một vai trò trụ cột trong việc

thúc đẩy phát triển kinh tế và hệ thống bảo đảm tín dụng của KODIT đã trở thành một

trong những trục quản lý rủi ro lâu dài.

KODIT đã thực hiện các chính sách kinh tế quốc dân đối với các doan h nghiệp

vừa và nhỏ và đóng góp lớn vào sự tăng trưởng kinh tế và cơ sở hạ tầng tài chính ổn

định thông qua các cuộc cải cách và đổi mới liên tục. Để vượt qua những thời điểm khó

khăn bắt đầu từ đầu những năm 1980 và tăng thêm tài sản ban đầu cơ bản của mình,

KODIT đã tăng gấp đôi các nỗ lực nhiều mặt và độc lập.

+ Trước hết, để tăng thêm sự lành mạnh của các dịch vụ bảo đảm tín dụng,

21

KODIT đã sửa đổi các danh sách kiểm tra bảo đảm tín dụng và các tiêu chuẩn

kiểm tra chặt chẽ, và đã áp dụng các quy tắc nghiêm ngặt hơn đối với các

doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành nghề kinh doanh mà có các khả năng vỡ

nợ cao hơn.

+ Hơn nữa, đóng vai trò là một phép đo có hệ thống để làm tăng thêm việc thu

nợ, KODIT lần đầu tiên đã giới thiệu hệ thống giảm nợ khó đòi và chiến dịch

đẩy mạnh thu nợ có kinh nghiệm lần đầu tiên.

Việc làm tăng nhanh chế độ bảo vệ nền công nghiệp toàn cầu và khối kinh tế khu

vực đã dẫn đến việc xuất khẩu và đầu tư xuống dốc, và tình trạng suy thoái kinh doanh

đột ngột đã gây ra sự phá sản nghiêm trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với việc

thành lập mới của KIBO vào năm 1989, hệ thống bảo đảm tín dụng kép đã bắt đầu và

các dịch vụ bảo đảm tín dụng đã mở rộng ở những số lượng lớn mà không bảo đảm tài

sản ban đầu cơ bản. Để khắc phục tình trạng suy thoái kinh doanh nghiêm trọng và đưa

các tác dụng phụ ra khỏi việc mở rộng về số lượng của các dịch vụ bảo đảm tín dụng,

KODIT đã cải thiện các hệ thống bảo đảm tín dụng nhằm khuyến khích sự bảo đảm tín

dụng vững chắc và đã cố gắng bảo đảm tài sản ban đầu cơ bản ổn định.

Hơn nữa, KODIT đã đẩy mạnh các tiêu chuẩn bảo đảm và các giá cao nhất đối với

các dịch vụ bảo đảm tín dụng và đã giới thiệu hệ thống bảo đảm chuyên môn. Tuy nó

đã đưa ra các biện pháp tiếp theo nhằm trực tiếp kiểm tra các khách hàng bảo đảm tí n

dụng giá cao nhất, nhưng KODIT đã làm tinh vi các kỹ năng bảo đảm của mình cần

thiết cho cơ cấu bảo đảm tín dụng vững chắc.

Ngoài ra, KODIT đã đóng một vai trò quan trọng để giải quyết việc nghiền tín

dụng trên thị trường vốn và thị trường cho vay bằng việc cung cấp nhiều các dịch vụ

bảo đảm tín dụng khác nhau nhằm giảm bớt sự nghiền tín dụng và thực hiện chúng một

cách thành công.

- Cung cấp các dịch vụ bảo đảm tín dụng đặc biệt và khác nhau để tạo điều kiện

thuận lợi cho việc xuất khẩu và nhập khẩu.

- Cung cấp các dịch vụ bảo đảm tín dụng tạm thời nhằm tạo việc làm cho người có

22

thu nhập trung bình và thấp.

- Thực hiện các dịch vụ bảo đảm P-CBO/CLO đối với các doanh nghiệp vừa và

nhỏ có khó khăn sử dụng khoản cấp vốn trực tiếp.

1.3.3. Cơ chế hỗ trợ tài chính đối với các DNNVV ở Việt Nam:

Theo Quyết định số 193/2001/QĐ -TTg ngày 20/12/2001 của Thủ tướng Chính

phủ và Thông tư số 93/200 4/TT-BTC ngày 29/9/2004 của Bộ Tài chính quy định về

việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo đảm tín dụng đối với DNNVV, với

các nội dung chủ yếu như sau:

- Quỹ Bảo đảm Tín dụng (CGF) có tư cách pháp nhân và hoạt động vì mục đích

phi lợi nhuận. Các CGF sẽ được lập và được quản lý bởi các Ủy ban nhân dân tỉnh và

thành phố trực thuộc trung ương.

- Vốn hoạt động có thể được tạo ra từ nguồn vốn đóng góp của tỉnh thành và các

thành phố trực thuộc trung ương, các cơ quan tín dụng và các doanh nghiệp nhỏ và vừa,

các hội và các tổ chức kinh doanh tiêu biểu và hỗ trợ. Về căn bản, chủ yếu được phân

bổ bởi nguồn ngân sách của tỉnh.

- Vốn điều lệ ít nhất phải là 30 tỷ đồng và hội đồng quản trị, ban kiểm soát và các

thành viên ban điều hành phải có đủ năng lực hành vi và các năng lực chuyên môn phù

hợp với yêu cầu làm việc của quỹ bảo đảm tín dụng.

- Đòn bẩy vay nợ bảo đảm tín dụng của một quỹ bảo đảm tín dụng trong 3 năm

đầu tiên không thể vượt quá 5 lần vốn hoạt động của nó. Bộ trưởng Bộ Tài chính sẽ quy

định đòn bẩy vay nợ bảo đảm tín dụng đối với quỹ bảo đảm tín dụng trong những năm

tiếp theo. CGF có thể được thành lập theo hai hình thức sau đây:

+ Thành lập với tư cách pháp nhân độc lập: các quỹ bảo đảm tín dụng sẽ giao

phó việc quản lý hoạt động bảo đảm tín dụng cho Quỹ Hỗ trợ Phát triển hoặc

các quỹ tài chính địa phương.

+ Thành lập mà không có tư cách pháp nhân độc lập : Chủ tịch Ủy ban Nhân dân

sẽ giao phó việc quản lý các hoạt động bảo đảm tín dụng cho quỹ tài chính địa

23

phương.

- Đối tượng được bảo lãnh: các doanh nghiệp nhỏ và vừa của tất cả các khu vực

kinh tế, các hợp tác xã và các hội của các hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá thể, các chủ

trang trại, nông dân và v.v…

- Điều kiện được bảo lãnh: Cần các dự án đầu tư khả thi và các kế hoạch sản xuất

kinh doanh có khả năng hoàn lại vốn vay. Hơn 30% giá trị vốn vay sẽ được cung cấp

như là một khoản thế chấp tại các cơ quan tín dụng; Không có các khoản nợ thuế, các

khoản nợ quá hạn đối với các cơ quan tín dụng hoặc các tổ chức tài chính khác.

- Mức bảo lãnh: Dưới 80% chênh lệch giữa giá trị vay và giá trị của các tài sản

của khách hàng được thế chấp hoặc cầm cố tại cơ quan tài chính; Dưới 15% số vốn của

quỹ bảo đảm tín dụng trên một khách hàng.

- Mức phí bảo lãnh: Phí đánh giá: 50.000VND đối với mỗi lần xin bảo đảm tín

dụng; Phí Bảo đảm Tín dụng: 0,8% trên một năm đối với số tiền bảo đảm chưa thanh

toán.

- Cơ quan giám sát: Bộ Tài chính, Ủy ban Nhân dân cấp Tỉnh Thành.

1.3.4. Bài học kinh nghiệm.

Từ việc nghiên cứu thực trạng cơ chế tài chính hỗ trợ ở các nước và ngay tại Việt

Nam, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cơ bản sau:

- Hệ thống bảo đảm tín dụng xóa bỏ sự bất ổn trong việc cấp vốn cho các

DNNVV và đây có thể là một giải pháp cho những khó khăn về vốn của các DNNVV

thiếu vật thế chấp. Đây là một kinh nghiệm rất lớn để giải bài toán về cung cấp vốn cho

DNNVV ở các nước. Như vậy, chúng ta có thể thấy mục đích của việc thành lập các

Quỹ bảo lãnh tín dụng đã góp phần bổ sung cho những bất cập của thị trường.

- Hệ thống bảo đảm tín dụng cũng giúp giảm thiểu rủi ro hoàn trả cho các tổ chức

tín dụng. Thực tế cho thấy, DNNVV không thể tiếp cận được vốn vay từ các TCTD là

vì DNNVV không có tài sản để thế chấp và khả năng thất bại trong kinh doanh cũng

như không hoàn trả vốn vay là rất lớn. Vì vậy, với sự bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín

24

dụng thì khả năng các TCTD gặp rủi ro khi cho DNNVV vay là rất nhỏ.

- Các cơ quan đảm bảo tín dụng ở các nước được thành lập một cách đồng bộ và

có hệ thống, có phân định rõ cơ quan giám sát, cơ quan cấp vốn, cơ quan quản lý và

kiểm toán một cách rõ ràng và chặt chẽ. Trong khi đó ở nước ta, các Quỹ bảo lãnh tín

dụng tại mỗi tỉnh được thành lập và quản lý một cách không đồng bộ, không có bất kỳ

nguyên tắc chung nào; nguồn vốn huy động cho quỹ của chính quyền địa phương là khá

khó khăn. Thiếu tín nhi ệm của các cơ quan tài chính đối với hệ thống bảo đảm tín dụng. Chi

phí tăng gấp đôi là hậu quả của việc đàm phán không thống nhất giữa các cơ quan bảo

đảm tương ứng của tỉnh với các bên liên quan như các ngân hàng, doanh nghiệp.

- Việc thành lập và quản lý một cách không có hệ thống của cơ quan bảo đảm tín

dụng ở từng tỉnh, không có bất kỳ nguyên tắc chung nào, cũng là nguyên nhân dẫn đến

giá cả tăng gấp đôi.

- Đặc biệt, tác dụng đòn bẩy vay nợ mà là lợi thế quan trọng nhất của hệ thống bảo

đảm tín dụng vẫn trì trệ do thiếu vốn trong mỗi quỹ bảo đảm tín dụng tỉnh và thiếu hệ

thống huy động vốn có uy tín .

- Hệ thống quỹ bảo đảm tín dụng thuận lợi về các mặt mà nó đòi hỏi số lượng vốn

ít cho việc thành lập và hoạt động của nó, nó có thể đọc được những nhu cầu cụ thể của

những doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước và nó có thể thực hiện một cách hiệu quả

các chính sách khu vực.

- Tuy nhiên, hệ thống này có n hững bất lợi như là tăng gấp đôi chi phí cho thành

lập và hoạt động và gây khó khăn cho việc thành lập các hệ thống đã được tiêu chuẩn

hoá ở tất cả các khu vực để đáp ứng nhanh chóng những thay đổi về kinh tế.

- Trong trường hợp của Nhật Bản, nước hoạt động hệ thống bảo đảm tín dụng khu

vực, các kế hoạch bảo hiểm của JASME tài trợ về mặt tài chính cho các công ty bảo

đảm tín dụng khu vực.

- Trong trường hợp của Hàn quốc, KOREG tổ chức đại diện của các cơ sở bảo

đảm tín dụng khu vực cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhằm hỗ trợ về mặt tài chính cho các

25

cơ sở bảo đảm tín dụng khu vực.

- Hệ thống quỹ bảo đảm tín dụng trên cả nước có một vài lợi thế: tăng cường hiệu

quả của tác động chi phí trong việc hoạt động và quản lý, tối đa hoá hiệu quả đòn bẩy

vay nợ nhờ nền kinh tế có quy mô, có thể thực thi các chính sách chính phủ trong giai

- Có hai loại hệ thống quỹ bảo đảm tín dụng trên cả nước:

đoạn đầu phát triển kinh tế, đáp ứng nhanh chóng những thay đổi của tình hình kinh tế.

+ Phương pháp trực tiếp: Các quỹ bảo đảm tín dụng thự c hiện tất cả các quy

trình theo thứ tự như điều tra tại chỗ, cung cấp bảo đảm tín dụng cho các doanh

nghiệp nhỏ và vừa qua các văn phòng chi nhánh trên cả nước. Phương pháp

này có sự bất lợi như nó yêu cầu vốn lớn trong việc thành lập và quản lý các

văn phòng chi nhánh trên toàn quốc và phương pháp gián tiếp có vấn đề rủi ro

về tinh thần mà gây ra do việc không xác định thực hiện chủ thể (các ngân

+ Phương pháp gián tiếp: Các cơ quan tài chính được uỷ thác thực hiện tất cả các

hàng) và nghĩa vụ thanh toán chủ thể (các cơ quan bảo đảm).

quy trình bao gồm tư vấn, cung cấp bảo đảm tín dụng, giải quyết các khoản

vay cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, v.v…..

chương 1:

Chương 1 của :

- Khái quát về các nhóm tiêu chí phân loại DNNVV của các nước trên thế giới.

Trên cơ sở đó, Việt Nam đã vận dụng và lựa chọn tiêu chí phù hợp để định nghĩa

DNNVV (theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 và Nghị định 56/2009/NĐ -

CP ngày 20/8/2009 của Chính phủ), đặ c điểm và vai trò của DNNVV trong nền kinh tế

nước ta.

- Những lý luận cơ bản về cơ chế hỗ trợ tài chính đối với DNNVV ở Việt Nam,

cũng như một số nước trên thế giới. Qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm từ các

nước, để xây dựng một cơ chế hỗ trợ hết sức phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong

26

từng giai đoạn.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG HỖ TRỢ TÀI CHÍNH TỪ PHÍA

NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ

VỪA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.

2.1. Thực trạng các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở TPHCM.

Trong năm 2006, số lượ ng DNNVV theo tiêu chí của Nghị định 90/2002/NĐ -CP

của Chính phủ được thành lập mới là 14.444 doanh nghiệp, tăng 25,4% so với năm

2005; năm 2007 là 17.068 doanh nghiệp, tăng 18,2% so với năm 2006; năm 2008 là

18.478 doanh nghiệp, tăng 8,2% so với năm 2007; ước cả năm 2009 sẽ đạt 23.200

doanh nghiệp, tăng 25,5% so với năm 2008.

Số DN thành lập mới

23,200

Đồ thị 2.1: biểu hiện số DNNVV thành lập mới qua các năm

18,478

17,068

14,444

Số DN thành lập mới

20,000 15,000 10,000

25,000

0

2006

2007

2008

2009

5,000

năm

Nguồn Sở Kế hoạch Đầu tư TPHCM

Tính về tốc độ tăng trưởng, bình quân trong giai đoạn 2006 – 2009, số DNNVV

thành lập mới trên địa bàn TPHCM tăng 19,1%/năm, thấp hơn mục tiêu chung của cả

nước là bình quân hàng năm tăng khoảng 22%. Tuy nhiên, nếu xét về số lượng doanh

nghiệp tăng thêm trong 4 năm 2006 – 2009 trên địa bàn TPHCM là 73.879 doanh

nghiệp, chiếm 23% tổng số doanh nghiệp thành lập mới theo mục tiêu đã đề ra trên cả

nước. Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2007 của Cục Thống kê Thành phố Hồ

27

Chí Minh cho thấy:

- Nếu xét về ngành nghề kinh doanh thì trong số 43.117 doanh nghiệp ngoài nhà

nước có 7.884 doanh nghiệp (18,3%) hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến;

4.613 doanh nghiệp (10,7 %) hoạt động trong lĩnh vực xây dựng; 18.617 doanh nghiệp

(43,2%) hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ; 2.975 doanh

nghiệp (6,9%) hoạt động về vận tải kho bãi, thông tin truyền thông; 1.567 khách sạn,

nhà hàng (3,6%); 3.503 doanh nghiệp (8,1 %) hoạt động trong lĩnh vực khoa học công

nghệ chuyên môn; còn lại là hoạt động trong các ngành khác.

DNNVV ngoài quốc doanh có sự phát triển liên tục về mặt số lượng qua các năm.

Nếu như năm 2005, TPHCM chỉ có 28.752 DNNVV thì đến năm 2006 số lượng

DNNVV đã là 35.090, tăng 6338 doanh nghiệp so với năm 2005, tương ứng với tỉ lệ

tăng là 22%. Đến năm 2008 thì số lượng DNNVV của TPHCM tăng hơn so với năm

2005 là 27.638, tương ứng với tỷ lệ tăng 96,1 %. Trong đó có 10.665 doanh nghiệp

(19%) hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến; 6.753 doanh nghiệp (11,9 %)

hoạt động trong lĩnh vực xây dựng; 24.483 doanh nghiệp (43,4%) hoạt động trong lĩnh

vực thương nghiệp, sửa chữa; 5.162 doanh nghiệp (9,2 %) hoạt động trong lĩnh vực

khoa học công nghệ chuyên môn; 2.609 doanh nghiệp (4,6 %) hoạt động trong lĩnh vực

vận tải kho bãi, thông tin truyền thông; còn lại là hoạt động trong các ngành khác.

Bảng 2.1: Số lượng DNNVV ngoài quốc doanh phân theo ngành kinh tế

Năm 2006 2007 2008

Ngành Công nghiệp chế biến Xây dựng Thương nghiệp, sửa chữa Khoa học CN chuyên môn Vận tải kho bãi, thông tin, truyền thông Khách sạn, nhà hàng 6,662 3,564 15,765 2,561 2,265 1,260 7,884 4,613 18,617 3,503 2,975 1,567 10,665 6,753 24,483 5,162 2,609 1,711

Nguồn Niên giám thống kê – Cục Thống kê TPHCM

Khu vực công nghiệp – xây dựng đạt tốc độ gia tăng 10%/năm, thấp hơn chỉ tiêu

đề ra (12-13%/năm), nhưng trong bối cảnh khủ ng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế

28

thế giới tác động thì đây là mức tăng trưởng khá; giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn

2006 – 2010 gấp 1,85 lần so với giai đoạn 2001 – 2005, trong đó: năm 2006 tăng

13,4%; năm 2007 tăng 13,8%; năm 2008 tăng 12,1%; năm 2009 tăng 7,9% và dự ki ến

năm 2010 tăng 11,3%, tỷ trọng ngành công nghiệp trong GDP trên địa bàn thành phố

giảm dần từ 47,4% năm 2006 còn 44,3% năm 2010.

Giá trị sản xuất công nghiệp (%)

16

13.8

13.4

14

12.1

11.3

12

10

7.9

8

Giá trị sản xuất công nghiệp (%)

6

4

2

0

2006

2007

2008

2009

ước 2010

Đồ thị 2.2: biểu hiện % giá trị sản xuất công nghiệp tăng qua các năm

Nguồn Sở Kế hoạch đầu tư TPHCM

Lĩnh vực thương mại có sự phát triển mạnh. Tính bình quân giai đoạn 2006 –

2010, tốc độ tăng trưởng ước đạt 25%/năm, cao hơn mức tăng bình quân giai đoạn 2001

– 2005 là 13,2%/năm.

- Nếu xét về vốn kinh doanh: nếu như năm 2001 số vốn đầu tư sản xuất kinh doanh

của DNNVV là 93.671 tỷ đồng, chiếm 41,6% tổng nguồn vốn kinh doanh của tất cả các

loại hình doanh nghiệp trên địa bàn thành phố, thì năm 2007, số vốn của DNNVV đã là

1.141.205 tỷ đồng, chiếm 93,3% tổng số vốn của tất cả các doanh nghiệp trên địa bàn.

Năm 2008 tổng số vốn đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp (gồm cả vốn đăng ký bổ

sung là 250.419 tỷ đồng, năm 2009 là 272.597 tỷ đồng. Tuy số lượng doanh nghiệp

đăng ký mới có tăng, nhưng quy mô vốn đăng ký có xu hướng giảm xuống. Nếu như

vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp năm 2008 là 12,6 tỷ đồng, thì năm 2009 chỉ còn

10,95 tỷ đồng. Vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ hai

29

nguồn: nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Bản thân nguồn vốn chủ sở hữu của các

doanh nghiệp bị hạn chế, điều kiện tham gia thị trường chứng khoán tập trung của nước

ta đã loại các DNN VV ra khỏi cuộc chơi. Đa số các DNN VV khi tiếp cận với khu vực

tài chính chính thức đều gặp khó khăn và hạn chế lớn như: không đủ tài sản thế chấp,

không có sự bảo lãnh của các tổ chức đại diện, thủ tục rườm rà, các phương pháp định

giá tài sản thế chấp không rõ ràng và các quyết định của ngân hàng về vấn đề này còn

rất cảm tính. Hơn thế nữa, cũng phải nhìn nhận rằng, việc khó tiếp cận với khu vực tín

dụng chính thức của các DNNVV còn do chính bản thân doanh n ghiệp chưa đưa ra

được các phương án kinh doanh đủ sức thuyết phục, khả năng quản trị, điều hành kinh

doanh thấp, hoạt động kinh doanh chưa có quy hoạch tầm chiến lược dài hạn, chủ yếu

là kinh doanh theo thương vụ.

Để đáp ứng nhu cầu vay vốn tín dụng của mình, các DNNVV thường phải vay vốn

chủ yếu từ các tổ chức phi chính thức, từ thân nhân, bạn bè, với khoản lãi suất cao hơn

nhiều so với lãi suất chính thức. Theo số liệu khảo sát năm 2008 và 2009 của Cục

Thống Kê Thành phố Hồ Chí Minh trên 378 doanh nghiệp trên địa bàn cho thấy:

- Các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, mặc dù có nguồn vốn chủ sở hữu

dồi dào, nhưng nhu cầu cần vay vốn tín dụng cũng chiếm tỷ lệ khá cao hơn 78%. Trong

ngành công nghiệp, nhu cầu vay vốn tín dụng chiếm trên 98%. Trong đó, có đến 78%

số DNNVV có tỷ lệ vay nợ (tức nợ/Tổng tài sản) trên 50%. Như vậy, có thể thấy đây là

khu vực hút nhiều vốn tín dụng nhất. Khi đó, 100% các doanh nghiệp ở ngành xây

dựng có nhu cầu vay vốn tín dụng. Trong đó, có trên 83% số doanh nghiệp có tỷ lệ nợ

vay trên 50%. Còn lại các doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác, cũng có 100% nhu cầu

vay vốn tín dụng, với số doanh nghiệp có tỷ lệ nợ vay trên 50% chiếm tỷ lệ gần 71%.

Như vậy, có thể thấy nhu cầu vốn tín dụng của DNNVV là rất lớn, nhưng việc tiếp cận

nguồn vốn tín dụng lại không đơn giản.

- Về công nghệ và thiết bị của các DNNVV: công nghệ, thiết bị là yếu tố quan

trọng trong việc nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, giúp doanh nghiệp tăng

cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, đồng thời đảm bảo các điều kiện an toàn lao

30

động cần thiết, bảo đảm các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.

Hiện nay, trình độ công nghệ và thiết bị của các DNNVV ở TPHCM nhìn chung

rất thấp. Công nghệ, thiết bị lạc hậu chiếm tỷ trọng lên đến trên 50%, tỷ lệ đổi mới

trang thiết bị chỉ khoảng 10% mỗi năm tính trên vốn đầu tư (ở các nước công nghiệp

phát triển bình quân là 15%). Như vậy , phải mất khoảng 10 năm mới đổi mới được

hoàn toàn máy móc thiết bị. Điều này , không phù hợp với chu kỳ sống khá ngắn của

nhiều sản phẩm công nghiệp hiện nay, đặc biệt là các sản phẩm điện tử, viễn thông, hoá

thực phẩm. Nguyên nhân của việc chậm đổi mới công nghệ, thiết bị của DNNVV:

+ Nguồn vốn chủ sở hữu của các DNNVV rất thấp so với các doanh nghiệp khác.

+ DNNVV rất khó có thể vay được các khoản tín dụng trung và dài hạn cần thiết

để đầu tư nâng cấp công nghệ, thiết bị.

+ Tình trạng hàng nhập lậu từ nước ngoài, nhất là hàng tiêu dùng, bán với giá quá

rẻ trong một thời gian dài đã làm chùn bước các nhà đầu tư.

Với tỷ lệ công nghệ lạc hậu cao và tốc độ đổi mới thiết bị quá chậm, các DNNVV

ở TPHCM khó có khả năng vươn xa, khó đáp ứng các nhu cầu cao và thách thức của thị

trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

- Về thị trường: sức cạnh tranh của các DNNVV ở TPHCM còn khá thấp. Có

nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị

trường quốc tế, trong đó chi phí sản xuất và chất lượng sản phẩm hàng hoá của Việt

Nam là điều đáng quan tâm nhất. Nhân tố tiếp theo là khả năng tiếp nhận thông tin về

thị trường quốc tế còn hạn chế dẫn đến sức cạnh tranh kém và bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh

doanh, đặc biệt là giá cả của một số hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam quá thấp so với

sản phẩm tương tự được sản xuất ở các nước cạnh tranh.

Trên phạm vi thị trường nội địa, với dân số gần 7,2 triệu dân tại TPHCM và hơn

89 triệu dân cả nước, đặc biệt là khu vực nông thôn, với mức độ nhu cầu về chất lượng

hàng hoá – dịch vụ chưa cao, có thể nói đây là thị trường tiềm năng khá lớn để các

DNNVV tại TPHCM khai thác. Tuy nhiên, lượng hàng nhập lậu giá rẻ ngày càng nhiều

hiện nay, đã có ảnh hưởng không nhỏ, tác động trực tiếp đến các DNNVV tại TPHCM,

31

khiến các DNNVV không đủ lực để hạ giá hàng hoá nhằm cạnh tranh với hàng nhập lậu

để dành lại thị trường. Ngoài ra, tình trạng sử dụng bất hợp pháp nhãn hiệu thương mại

của các doanh nghiệp nổi tiếng, hoặc giả mạo nhãn hiệu chưa được kiểm soát chặt chẽ

và chế tài nghiêm minh đã góp phần làm rối loạn thị trường và hạn chế sức cạnh tranh

của các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Bên cạnh đó, việc có quá nhiều doanh nghiệp

cùng hoạt động kinh doanh một mặt hàng trên cùng một thị trường đã dẫn đến tình

trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chỉ tập trung tìm cách giảm giá. Tình

trạng các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh với nhau, làm giảm giá một cách không

cần thiết, đặc biệt là với các mặt hàng xuất khẩu đã làm giảm đáng kể năng lực cạnh

tranh của các doanh nghiệp, tất nhiên là về chất lượng và mẫu mã sản phẩm.

- Về mặt bằng sản xuất kinh doanh: nhìn chung rất chật hẹp và chưa ổn định. Đất

mà DNNVV đang sử dụng hiện nay chủ yếu là của chủ doanh nghiệp, thậm chí dùng cả

nhà ở để làm nơi sản xuất kinh doanh. Các thủ tục để cấp quyền sử dụng đất, thuê đất,

chuyển nhượng còn rườm rà và chưa rõ ràng. Doanh nghiệp được cấp đất phải mất

nhiều thời gian, tiền bạc và công sức để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng. Một số

DNNVV ngoài quốc doanh phải thuê lại đất chưa sử dụng của doanh nghiệp Nhà nước

theo các hợp đồng chỉ có thời hạn trong vài ba năm. Các doanh nghiệp sản xuất nằm

trong khu dân cư đông đúc phải lần lượt di dời khỏi nội thành, nội thị nhằm giảm thiểu

các tác động xấu đến môi trường sinh thái.

Do mặt bằng sản xuất kinh doanh chật hẹp nên việc xây dựng và bố trí nhà xưởng

sản xuất thiếu hoàn chỉnh, các điều kiện cần thiết về an toàn và bảo vệ sức khỏe cho

người lao động chưa đảm bảo. Mặt khác, do mặt bằng sản xuất kinh doanh chưa ổn

định nên các doanh nghiệp chưa an tâm đầu tư dài hạn vào nhà xưởng và trang thiết bị,

vì vậy khó phát triển lên được.

- Về nguồn nhân lực: nhìn chung lực lượng lao động tại TPHCM trong những năm

gần đây luôn trong tình trạng thiếu hụt trầm trọng. Nguồn lao động chủ yếu từ các Tỉnh

lân cận. Nhu cầu tuyển dụng lao động có tay nghề và lao động phổ thông là rất lớn, tuy

nhiên nguồn cung cấp cho doanh nghiệp hiện nay chưa đáp ứng được điều đó. Theo số

32

liệu thống kê của Cục thống kê và Sở lao động thương binh – xã hội TPHCM:

Bảng 2.2: Số liệu lao động đang làm việc phân theo khu vực và ngành kinh tế

Đơn vị: người

CHỈ TIÊU NĂM 2009 NĂM 2010

Chia theo khu vực Khu vực thành thị Khu vực nông thôn Chia theo ngành kinh tế Công nghiệp - Xây dựng Nông lâm nghiệp Dịch vụ

7.150.000 4.750.000 3.307.596 2.772.331 535.265 1.321.232 99.647 1.886.717 5,50 (2008 chuyển qua) 261.256 289.627 1 Dân số bình quân 2 Số người trong tuổi lao động 3 Số người lao động đang làm việc 4 Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị (%) 5 Dự ước số lao động thất nghiệp (4/2) 6 Số người được giải quyết việc làm 7.400.000 4.900.000 3.501.443 2.941.758 559.685 1.408.616 104.679 1.988.148 5,15 (2009 chuyển qua) 252.350 80.406 04 tháng đầu năm 2010

Nguồn Cục thống kê TPHCM

Bảng số liệu cho thấy, số lao động tập trung ở thành thị là chủ yếu, trong đó lĩnh

vực dịch vụ có số lao động chiếm cao nhất trong các khối ngành kinh tế. Số lao động

chưa đi làm hoặc chưa có việc làm cũng còn rất nhiều. Tình hình sử dụng lao động tại

TPHCM theo khảo sát của Sở lao động thương binh xã hội TPHCM thể hiện qua bảng:

Bảng 2.3: Số liệu tình hình sử dụng lao động tại TPHCM

Đơn vị: người

Nội dung

Tổng số

Trong đó nữ

STT 1

1.176.405 1.203.809

565.450 581.407

2

311.856 160.920 179.472 72.021 479.540

139.895 79.452 83.071 35.207 243.782

3

Tổng số lao động có mặt cuối kỳ (2009) Tổng số lao động có mặt năm 2010 - Chia theo trình độ chuyên môn + Đại học trở lên + Cao đẳng, trung cấp + CNKT có bằng, không bằng + Sơ cấp + Lao động phổ thông Tổng số lao động tăng - giảm trong kỳ - Lao động tăng - Lao động giảm

315.728 288.324

142.027 126.070

33

4

Dự kiến tuyển lao động trong năm 2010 Trong đó - Tự tuyển - Tổ chức giới thiệu việc làm

228.245 79.806 148.440

115.075 41.693 73.382

Nguồn Sở Lao động Thương binh và Xã hội TPHCM.

Số lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có bằng cấp tuy có tăng

nhưng nhìn chung lực lượng lao động phổ thông và không có tay nghề vẫn chiếm tỷ lệ

cao. Trong khi nhu cầu tuyển dụng lao động có tay nghề và lao động phổ thông của

doanh nghiệp là khá lớn, thì phần đông lực lượng lao động có trình độ từ trung cấp trở

lên lại rất khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp với chuyên môn. Điều này

cho thấy sự bất cập trong định hướng đào tạo nguồn nhân lực đã phần nào tạo ra lực cản

cho sự phát triển của DNNVV nói riêng và doanh nghiệp nói chung.

Tuy nhiên nhằm giải quyết một phần nào nh ững bất cập trên, cũng như tạo điều

kiện cho DNNVV có điều kiện phát triển, trong những năm qua, Thành phố đã đẩy

mạnh chương trình hỗ trợ đào tạo cho các doanh nghiệp, với nhiều khoá đào tạo về khởi

sự doanh nghiệp, kỹ năng quản trị doanh nghiệp… Từ năm 2005 – 2008 Thành phố đã

tổ chức được 530 lớp đào tạo với tổng số học viên tham gia là 20.368 người. Đây là

một nỗ lực rất lớn của Thành phố. Tuy vậy, các khóa đào tạo này chỉ cung cấp thêm

những kiến thức quản lý, điều hành doanh nghiệp cho chủ DNNVV, còn vấn đề đội ngũ

nguồn nhân lực có tay nghề vẫn còn là một bài toán chưa có lời giải.

2.2. Thực trạng cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ

và vừa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1999 - 2010.

2.2.1. Ngân sách nhà nước:

2.2.1.1. Thuế:

Bắt đầu từ năm 1999 đến nay hệ thống thuế Việt Nam thực sự chuyển sang bước

cải cách mới bằng việc áp dụng hai luật thuế: thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập

doanh nghiệp. Nhìn chung, sự thay đổi này làm cho thuế Việt Nam hợp lý hơn, hoàn

34

chỉnh hơn so với trước và phù hợp hơn với thuế của các nước trong khu vực và thế giới.

- Thuế giá trị gia tăng (GTGT) là loại thuế gián thu với một số ưu đãi dành cho

những đối tượng nộp thuế như: mở rộng đầu tư, hoặc xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.

Những ưu đãi này không phân biệt đơn vị nộp thuế có qui mô kinh doanh lớn hay nhỏ,

vốn đầu tư nhiều hay ít. Như vậy, có thể xem thuế GTGT là một sắc thuế mà nhà nước

có thể dùng để hỗ trợ về tài chính riêng cho DNNVV.

- Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) có thuế suất áp dụng thống nhất cho mọi

đối tượng nộp thuế là 25%. Ngoài ra, Luật thuế TNDN cũng quy định một số trường

hợp được ưu đãi thuế (theo Thông tư số 130/2008/TT -BTC ngày 26/12/2008). Tuy

nhiên, do lồng ghép quá nhiều mục tiêu khác nhau vào chính sách thuế TN DN nên

chính sách ưu đãi trở nên quá phức tạp, vừa áp dụng thuế suất ưu đãi, vừa áp dụng miễn

thuế, giảm thuế trong cùng thời gian.

Bên cạnh đó, các tiêu thức được hưởng ưu đãi miễn giảm lại chồng chéo nhau do

vừa ưu đãi theo ngành nghề, lĩnh vực, vừa ưu đãi theo địa bàn, theo dự án mới, theo số

lượng sử dụng lao động, theo tỷ lệ xuất khẩu, theo mức độ áp dụng công nghệ mới, theo

sử dụng lao động nữ, sử dụng lao động là người tàn tật, v.v...vì thế, chính sách ưu đãi

không rõ ràng, rất khó hiểu, các doanh nghiệp nhỏ và vừa để tiếp cận được với ưu đãi là

rất khó khăn. Với việc thiết kế ưu đãi thuế TNDN như hiện hành làm cho môi trường

đầu tư chưa thực sự minh bạch, dẫn tới sự không bình đẳng giữa các doanh nghiệp

tương đồng nhau, vai trò của thuế bị hạn chế nhiều, làm tăng chi phí quản lý nhà nước,

các nhà đầu tư chưa thực sự an tâm.

Trước những khó khăn do tình hình khủng hoảng kinh tế năm 2008, Chính phủ đã

kịp thời có văn bản hướng dẫn thực hiện giảm 30% thuế TNDN của quý 4/2008 và cả

năm 2009 cho các DNNVV. Đây là một quyết sách hết sức kịp thời nhằm giúp

DNNVV vượt qua nhưng khó khăn trong giai đoạn khủng hoảng. Tiếp đó, năm 2010,

Chính phủ lại cho phép DNNVV được gia hạn nộp thuế TNDN thêm ba tháng kể từ

ngày hết hạn nộp thuế theo Luật định. Năm 2011, Chính phủ lại tiếp tục cho doanh

nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu và DNNVV được chậm nộp thuế TNDN với

thời gian gia hạn là một năm. Những động thái trên đã tạo điều kiện giúp DNNVV giảm

35

bớt những gánh nặng, dần hồi phục và phát triển.

2.2.1.2. Chi đầu tư phát triển:

Chi đầu tư phát triển của Thành phố tập trung chủ yếu vào xây dựng cơ bản, trong

đó có các công trình thuộc cơ sở hạ tầng giao thông quan trọng của Thành phố: hệ

thống đường bộ, thông tin liên lạc, nâng cấp sân bay, bến cảng, các công trình thủy lợi,

thủy điện, khu công nghệ cao… Những công trình này đã góp phần tạo nên bộ mặt mới

về cơ sở hạ tầng của Thành phố, giúp các doanh nghiệp, trong đó có DNNVV, có thể

tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng

thị trường tiêu thụ hàng hóa, cũng như thị trường cung ứng các yếu tố đầu vào. Tuy

không có những khoản đầu tư dành riêng cho DNNVV, nhưng đầu tư xây dựng cơ bản

của Thành phố đã tạo nên những thuận lợi rất cơ bản cho sự phát triển của DNNVV.

Trong năm 2008, chi đầu tư phát triển của Thành phố đạt 16.757 tỷ đồng, chiếm

49% tổng chi NSNN của Thành phố. Tuy nhiên, do tình hình kinh tế xã hội năm 2008

có nhiều diễn biến bất thường, lạm phát tăng cao, tác động tiêu cực đến sản xuất và sự

tăng trưởng của nề n kinh tế. Trước tình hình đó, Thành phố đã chủ động rà soát, cắt

giảm 562 dự án, nâng tổng mức vốn điều chỉnh giảm lên đến 1.164 tỷ đồng, để bổ sung

vốn cho các công trình có khả năng hoàn thành và các công trình trọng điểm của Thành

phố. Năm 2009, chi đầ u tư phát triển của thành phố đạt 20.410 tỷ đồng, chiếm 49,64%

tổng chi NSNN của Thành phố. Trong đó ưu tiên bố trí vốn chi cho công tác bồi thường

giải phóng mặt bằng, các công trình, dự án trọng điểm, cấp bách, các công trình, dự án

thuộc lĩnh vực kích cầu thông qua đầu tư, tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu

kinh tế của Thành phố.

Ngoài ra, Thành phố còn đầu tư các khu công nghiệp, khu chế xuất bằng vốn

NSNN để hỗ trợ DNNVV có mặt bằng sản xuất tập trung. Tính đến nay, Thành phố đã

triển khai được 15 khu chế xuất – khu công nghiệp, 2 khu công nghệ kỹ thuật cao (tổng

diện tích 5.620 ha), 10 cụm công nghiệp (diện tích 480 ha) và đang xem xét thành lập

mới 7 khu công nghiệp (1.422 ha), 20 cụm công nghiệp (1.420 ha).

Song song đó, Thành phố cũng chủ trư ơng hỗ trợ 100% lãi suất vay vốn cho chủ

36

đầu tư các khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn để thực hiện đầu tư nhà máy xử

lý nước thải tập trung trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đến tháng 9/2008,

12/13 khu công nghiệp, khu chế xuất đã có nhà má y xử lý nước thải tập trung đi vào

vận hành. Trong những năm qua, Thành phố cũng đã chủ động kiến nghị Chính phủ

cho phép sử dụng nguồn ngân sách hơn 400 tỉ đồng – nguồn thu từ cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước – để cấp bổ sung cho Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV TPHCM hơn

215 tỉ đồng. Phần còn lại cấp vốn đầu tư cho các dự án cấp bách phục vụ an sinh xã hội

như: xây dựng mạng lưới cấp 1, 2 để tiếp nhận và tiêu thụ nước của Nhà máy nước

BOO Thủ Đức ở các khu vực quận 2, 7 và huyện Nhà Bè; xây dựng mạng lưới cấp

nước sông Sài Gòn (giai đoạn 1) khu vực Hóc Môn, Củ Chi…

2.2.2. Tín dụng nhà nước

2.2.2.1. Quỹ bảo lãnh tín dụng:

Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa TP.HCM là một tổ chức

tài chính, trực thuộc Ủy ban nhân dân TPHCM; hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận,

theo điều lệ quỹ bảo lãnh tín dụng được ban hành kèm Quyết định số 53/2007/QĐ -

UBND của Ủy ban nhân dân TPHCM và các quy định của pháp luật.

Quỹ bảo lãnh tín dụng TPHCM là cầu nối giữa doanh nghiệp và các tổ chức tín

dụng, hỗ trợ cho các DNNVV tiếp cận nguồn vốn của các ngân hàng, tổ chức tín dụng

phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và Quỹ tín dụng nhân dân, phát triển các hoạt

động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và không ngừng nâng cao năng lực hoạt động quản

lý doanh nghiệp. Bao gồm các lĩnh vực hoạt động sau:

+ Bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV của TPHCM;

+ Thu hút vốn góp của các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp, các hiệp hội

ngành nghề, các tổ chức đại diện và hỗ trợ cho các DNNVV; cũng như thu hút

vốn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân (kể cả vốn hỗ trợ phát triển chính

thức ODA) trong và ngoài nước cho mục tiêu phát triển các DNNVV;

+ Tổ chức, cung cấp các dịch vụ thông tin, định giá trị tài sản và giá trị của

37

doanh nghiệp, xây dựng định mức tín nhiệm doanh nghiệp;

+ Tư vấn về đầu tư tài chính và đào tạo nguồn nhân lực;

+ Thực hiện các chức năng hoạt động khác khi được Ủy ban nhân dân TPHCM

giao.

- Về đối tượng bảo lãnh tín dụng: là các tổ chức sản xuất kinh doanh, dịch vụ của

TPHCM, có nhu cầu vay vốn các tổ chức tín dụng để phát triển , nhưng chưa có khả

năng đáp ứng các điều kiện về bảo đảm tiền vay, gồm các đối tượng cụ thể sau:

+ Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được xếp loại DNNVV theo

quy định của pháp luật (Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ).

+ Các hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã.

+ Các hộ kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày

15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.

- Về điều kiện được bảo lãnh tín dụng:

+ Có dự án đầu tư, phương thức sản xuất kinh doanh khả thi và có khả năng hoàn

trả vốn vay.

+ Có vốn chủ sở hữu tham gia dự án đầu tư, phương thức sản xuất kinh doanh tối

thiểu 10%.

+ Không có các khoản nợ đọng thuế, nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng hoặc tổ

chức kinh tế khác.

+ Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích, hoàn trả vốn vay đúng hạn.

- Về mức bảo lãnh tín dụng:

+ Số tiền được bảo lãnh tối đa bằng 100% số nợ gốc và lãi phát sinh theo Hợp

đồng tín dụng ký giữa Bên bảo lãnh và Bên nhận bảo lãnh.

+ Đồng tiền bảo lãnh là đồng Việt Nam, đồng ngoại tệ tự do chuyển đổi.

+ Mức bảo lãnh tín dụng tối đa cho một khách hàng không vượt quá 15% vốn

38

chủ sở hữu của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

2.2.2.1.1 Tình hình bảo lãnh tín dụng:

Nhu cầu bảo lãnh tín dụng của các DNNVV trong những năm qua là rất lớn. Ngày

càng nhiều doanh nghiệp đến Quỹ bảo lãnh đề nghị bảo lãnh tín dụng cho các khoản

vay đầu tư mới, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, vay vốn lưu động đáp ứng nhu

cầu vốn thường xuyên cho hoạt động của doanh nghiệp. Được sự quan tâm của Ủy ban

nhân dân TPHCM, việc cấp vốn để tăng vốn điều lệ đã tạo thuận lợi rất lớn và là

nguyên nhân cơ bản giúp cho Quỹ bảo lãnh tín dụng TPHCM gia tăng ngày càng cao

doanh số bảo lãnh trong thời gian qua; đồng thời cũng là điều kiện tốt cho việc phát

triển hoạt động bảo lãnh tín dụng trong thời gian tới.

Doanh số bảo lãnh tín dụng đã ký hợp đồng tính đến hết năm 2009 đạt 211,368 tỷ

đồng. Trong đó doanh số bảo lãnh cho các hợp đồng ký mới trong năm 2009 là 201,288

tỷ đồng. Trong các hợp đồng bảo lãnh tín dụng đã ký kết số dư bảo lãnh tín dụng cho

các doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư v ay vốn trung và dài hạn là 53,68 tỷ đồng,

chiếm tỷ trọng 25,47% tổng số dư bảo lãnh tín dụng. Trong số đó, các dự án được

hưởng ưu đãi theo chủ trương kích cầu của Thành phố theo quy định tại Quyết định

20/2009/QĐ-UBND ngày 27/02/2009 là Dự án đầu tư Trườn g Cao đẳng nghề iCare -

Công ty cổ phần bệnh viện máy tính là 14,5 tỷ đồng; dự án đầu tư xử lý chất thải-Công

tyTNHH xử lý chất thải Hòa Bình là 5,85 tỷ đồng.

Số dư bảo lãnh tính theo số thực tế đã ký hợp đồng bảo lãnh tín dụng đến cuối

năm 2009 là 199,493 tỷ đồng, do có doanh nghiệp đã hoàn trả nợ vay trước hạn và chưa

có nhu cầu tiếp tục bảo lãnh tín dụng. Các hợp đồng đã hết hạn và thanh lý trong năm là

11,225 tỷ đồng.

Bảng 2.4: Tổng hợp một số chỉ tiêu cơ bản về hoạt động bảo lãnh

Nội dung ĐVT

STT 1 số lượng/ giá trị

Số DN được bảo lãnh Công ty TNHH Công ty Cổ phần

1.1 1.2 1.3 DN tư nhân và loại hình khác

39

Doanh số bảo lãnh năm 2009 2 23 9 3 đơn vị đơn vị đơn vị

Số dư bảo lãnh các năm trước chuyển sang

2.1 2.2 Doanh số bảo lãnh mới trong năm 2.3 10,080 201,288 211,368 triệu đồng triệu đồng triệu đồng

2.4 2.5

Tổng doanh số bảo lãnh lũy kế trong năm Số dư bảo lãnh đã thanh lý hợp đồng trong năm Số dư bảo lãnh đến cuối năm Một số chỉ tiêu liên quan đến bảo lãnh 3

3.1 Doanh số bảo lãnh trung dài hạn 3.2 Doanh số bảo lãnh ngắn hạn 3.3 Mức bảo lãnh cao nhất cho một đơn vị 3.4 Mức bảo lãnh thấp nhất cho một đơn vị 3.5 Mức bảo lãnh bình quân cho một đơn vị

4

4.1

Thời hạn bảo lãnh Bảo lãnh trung dài hạn a. Thời hạn bảo lãnh dài nhất b. Thời hạn bảo lãnh ngắn nhất

4.2 Bảo lãnh ngắn hạn

a. Thời hạn bảo lãnh dài nhất b. Thời hạn bảo lãnh ngắn nhất 11,875 199,493 55,630 155,738 19,150 650 6,039 120 36 12 6 triệu đồng triệu đồng triệu đồng triệu đồng triệu đồng triệu đồng triệu đồng tháng tháng tháng tháng

Nguồn: Quỹ bảo lãnh tín dụng TPHCM

Doanh số bảo lãnh tín dụng tích luỹ đến tháng 9 năm 2010 là 424,53 tỷ đồng, đạt

gấp 2,18 lần so với vốn điều lệ (194,53 tỷ đồng), đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp

tiếp cận và sử dụng được nguồn vốn tín dụng với tổng hạn mức tín dụng là 797,63 tỷ

đồng. Doanh số bảo lãnh trong 9 tháng đầu năm 2010 đạt 213,16 tỷ đồng, đã hỗ trợ các

doanh nghiệp vay vốn với tổng hạn mức tín dụng là 384,58 tỷ đồng.

Đến tháng 09 năm 2010, đã thanh lý các hợp đồng bảo lãnh tín dụng đến hạn với

tổng giá trị tích luỹ là 157,88 tỷ đồng. Riêng trong 9 tháng đầu năm, giá trị thanh lý các

hợp đồng bảo lãnh tín dụng là 145,91 tỷ đồng. Số dư bảo lãnh tính đến nay là 266,74 tỷ

đồng, tăng 33,71% so với thời điểm đầu năm 2010 và đạt bội số 1,37 lần so với vốn

điều lệ. Các doanh nghiệp có số dư bảo lãnh tín dụng đều hoạt động sản xuất kinh

doanh tiến triển tốt, sử dụng vốn tín dụng đúng mục đích, không có doanh nghiệp có dư

40

nợ xấu tại các tổ chức tín dụng.

Công tác kiểm tra sau bảo lãnh được thực hiện theo định kỳ và theo yêu cầu thực

tế phối hợp với các Ngân hàng thương mại. Qua kết quả kiểm tra, đã giúp phòng ngừa

hạn chế rủi ro, vừa tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp quản lý tốt các hoạt động tài

chính, hoạt động sản xuất kinh doanh . . có hiệu quả.

2.2.2.1.2. Hoạt động tư vấn, xúc tiến và hợp tác phát triển:

Trong 9 tháng đầu năm 2010, số doanh nghiệp đã liên hệ trực tiếp với Quỹ để

được tư vấn về tài chính, hỗ trợ hướng dẫn lập dự án đầu tư và phương án sản xuất kinh

doanh là 70 doanh nghiệp với tổng nhu cầu vốn vay là 1.057 tỷ đồng, trong đó nhu cầu

bảo lãnh là 388,88 tỷ đồng.

Nhằm mục tiêu đẩy mạnh hợp tác cùng phát triển và cùng chịu rủi ro trong việc

trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn, tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp tiếp cận vốn tín dụng để phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, Quỹ bảo

lãnh tín dụng TP.HCM đã chủ động triển khai hoạt động xúc tiến, phối hợp với các sở

ngành, các Hiệp hội và các Ngân hàng Thương mại.

Trong 9 tháng đầu năm 2010 đã tiến hành ký thỏa thuận hợp tác thêm với 03 chi

nhánh ngân hàng là Chi nhánh TP.HCM và Chi nhánh Bến thành của Ngân hàng TMCP

ngoại thương Việt Nam và Chi nhánh Lý Thường Kiệt của Ngân hàng Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn. Thực hiện hợp tác với Sở Khoa học Công nghệ thành phố để xây

dựng Đề án đổi mới Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ thành phố. Hợp tác với

Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư thành phố qua việc tham gia làm sáng lập viên

của câu lạc bộ xuất khẩu. Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư trong việc tiếp nhận các

hồ sơ doanh nghiệp có nhu cầu tư vấn về dự án đầu tư và phối hợp với các sở ngành

khác như Hiệp hội doanh nghiệp, Trung tâm phát triển kinh tế Chợ Lớn,... để tư vấn,

cung cấp thông tin, hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp.

Việc thiết lập và đưa vào hoạt động website: www.hcgf.com.vn đã phát huy tác

dụng tích cực, tạo thêm một kênh thông tin mới, là công cụ quan trọng trong việc xúc

tiến, tuyên truyền quảng bá hoạt động và hình ảnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng TP.HCM

41

đến các doanh nghiệp và công chúng. Kể từ ngày đưa vào hoạt động là tháng 03 đến

cuối tháng 09/2010 đã có trên 36 ngàn lượt người truy cập giao dịch và tìm hiểu thông

tin. Thông qua website để cung cấp các thông tin cần thiết cho doanh nghiệp, công khai

các thủ tục hành chính, hướng dẫn hồ sơ bảo lãnh tín dụng, hướng dẫn lập phương án

sản xuất kinh doanh, hướng dẫn lập dự án đầu tư,... nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn tại

các ngân hàng thương mại. Đồng thời, website đã giải quyế t được một phần khó khăn

do mặt bằng văn phòng quá chật hẹp, phục vụ tốt cho yêu cầu quản lý và điều hành nội

bộ của Quỹ và đưa lại nhiều tiện ích phục vụ nhu cầu giao dịch của các doanh nghiệp.

Qua doanh số bảo lãnh tín dụng tích luỹ tính đến tháng 09/201 0 cho thấy với 01

đồng vốn bảo lãnh tín dụng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng

1,88 đồng, số dư bảo lãnh tín dụng đạt bội số 1,37 lần so với vốn điều lệ được xem là

mức khá cao, cho nên để đảm bảo an toàn Quỹ bảo lãnh tín dụng TP.HCM phải cân

nhắc bằng nhiều biện pháp và luôn lấy cơ sở vốn điều lệ làm căn cứ khi xét đến việc

tăng thêm doanh số bảo lãnh tín dụng.

Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp đang được bảo lãnh tín dụng có sự phát

triển mạnh, sử dụng vốn đúng mục đích, thanh toán nợ vay, lãi vay, phí bảo lãnh đầy

đủ, đúng hạn, chưa có nợ xấu xảy ra, cụ thể như sau:

Bảng 2.5: Số liệu hoạt động của các DNNVV được bảo lãnh tín dụng

STT

Chỉ tiêu

Lũy kế

2008 1.526.186

2009 1.868.441

Quý 1 440.833

2010 Quý 2 594.328 1.035.161

1 Doanh thu (triệu đồng)

3.981

6.247

910

2.516

3.425

Thuế TNDN trong kỳ (triệu đồng)

1.868

2.165

2.134

2.234

2 3 Tổng số lao động (người)

Nguồn: Quỹ bảo lãnh tín dụng TPHCM.

Qua số liệu báo cáo cho thấy tình hình hoạt động của doanh nghiệp đang được bảo

lãnh tín dụng tại Q uỹ có sự tăng trưởng khá. Giải quyết thêm khá nhiều việc làm cho

người lao động. Năm 2009 doanh thu tăng 22% so với năm 2008, số thuế doanh nghiệp

phải nộp cho Ngân sách nhà nước tăng 57% (từ 3,98 tỷ đồng năm 2008 lên thành 6,247

tỷ đồng năm 2009).

42

2.2.2.2 Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH):

Được thành lập theo Quyết định 131/2002/QĐ-TTg ngày 04 tháng 10 năm 2002

của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo. Việc

xây dựng Ngân hàng Chính sách xã hộ i là điều kiện để mở rộng thêm các đối tượng

phục vụ là hộ nghèo, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng chính

sách cần vay vốn để giải quyết việc làm, đi lao động có thời hạn ở nước ngoài và các tổ

chức kinh tế, cá nhân hộ sản xuất, kinh doanh thuộc các xã đặc biệt khó khăn, miền núi,

vùng sâu, vùng xa, khu vực II và III. Ngân hàng Chính sách xã hội có bộ máy quản lý

và điều hành thống nhất trong phạm vi cả nước, với vốn điều lệ ban đầu là 5 nghìn tỷ

đồng và được cấp bổ sung phù hợp với yêu cầu hoạt động từng thời kỳ. Thời hạn hoạt

động của Ngân hàng Chính sách xã hội là 99 năm. NHCSXH hoạt động không vì mục

đích lợi nhuận, được nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán; tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng

0% (không phần trăm; không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi; được miễn thuế và các

khoản phải nộp ngân sách nhà nước nhằm phục vụ người nghèo và các đối tượng chính

sách khác.

NHCSXH có các chức năng như một ngân hàng thương mại, thêm vào đó là chức

năng phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Đố i tượng rất đa dạng, nhưng tập

trung chủ yếu là các hộ nghèo, hợp tác lao động ở nước ngoài, diện chính sách... Trong

đó có đối tượng là DNNVV, với các loại cho vay ngắn hạn (không quá 12 tháng) và cho

vay trung hạn (từ trên 12 tháng đến 60 tháng). Thời hạ n cho vay tối đa không quá thời

hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép hoạt động của khách

hàng và thời gian thực hiện dự án. DNNVV có nhu cầu vay vốn phải thỏa mãn những

điều kiện sau:

+ Có năng lực pháp luật dân sự.

+ Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.

+ Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.

+ Có dự án, phương án đầu tư, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu

quả.

43

+ Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của NHCSXH.

Phương thức cho vay có th ể theo dự án hoặc cho vay từng lần. Mức cho vay

không quá năm trăm triệu đồng. Lãi suất cho vay từ 0,8% – 0,9%/tháng. Chương trình

được thực hiện bắt đầu từ năm 2005. Số liệu về dư nợ cho vay từ 2005 – 2010 như sau:

Bảng 2.6: Số liệu về dư nợ cho vay và số DNNVV được vay vốn

Đơn vị: tỷ đồng

2005

2006

2007

2008

2009

2010

1.700 tỷ

6.900

11.909

11.900

20.500

20.996

Dư nợ

7

29

47

48

61

61

Số DN

Nguồn Ngân hàng chính sách xã hội - Chi nhánh TPHCM

Qua bảng số liệu, ta thấy dư nợ cho vay tăng từ 1.700 tỷ đồng đến 20.996 tỷ đồng

năm 2010. Số lượng DNNVV được vay vốn cũng tăng đáng kể. Tuy nhiên trong năm

2007 và 2008 chúng ta thấy dư nợ cho vay và số lượng doanh nghiệp được vay gần như

không thay đổi. Đó là năm xảy ra khủng hoảng kinh tế thế giới, do đó nhu cầu cũng như

nguồn cho vay cũng rất hạn chế. Với mức lãi suất cho vay như hiện nay trên thị trường

thì có thể thấy, nguồn tín dụng dành cho DNNVV của NHCSXH thật sự là một kênh

cung cấp vốn ưu đãi, hỗ trợ kịp thời cho nhu cầu vốn của DNNVV. Tuy nhiên với

nguồn vốn được phân bổ còn khá khiêm tốn, nên hiện NHCSXH vẫn chưa đáp ứng kịp

với nhu cầu vay vốn còn khá cao của DNNVV trên địa bàn Thành phố.

2.2.2.3. Ngân hàng Phát triển Việt Nam – Chi nhánh TPHCM:

Ngân hàng Phát triển Việt Nam là ngân hàng trực thuộc Chính phủ, được thành lập

theo Quyết định số 108/2006/QĐ -TTg ngày 19/5/2006 của Thủ tướng Chính Phủ; với

số vốn điều lệ ban đầu là 10.000 tỷ VNĐ; có thời gian hoạt động là 99 năm; mục đích

hoạt động không vì lợi nhuận; bao gồm các nghiệp vụ: cho vay đầu tư phát triển, cho

vay lại vốn ODA, bảo lãnh tín dụng đầu tư, cho vay xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất

khẩu; ủy thác… Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV tiếp cận nguồn vốn vay,

ngày 28/11/2008 Thủ tướng Chính phủ đã có công văn số 2081/TTg -KTTH về việc

giao cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện bảo lãnh tín dụng cho DNNVV khi

44

vay vốn của các TCTD để sản xuất kinh doanh.

Để được tham gia bảo lãnh, DNNVV phải đảm bảo 05 điều kiện sau: thuộc đối

tượng phạm vi bảo lãnh; dự án, phương án có hiệu quả; sử dụng tài sản hình thành từ

vốn vay để thế chấp; vốn chủ sở hữu tham gia tối thiểu 10%; không có nợ quá hạn, nếu

có phải cam kết trả nợ. Mức bảo lãnh tối đa là 100% số nợ gốc và lãi phát sinh, bảo

lãnh bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ tự do chuyển đổi. Phí bảo lãnh bằng 0,5%/năm/số

tiền được bảo lãnh.

Tính cho đến tháng 12/2010 Ngân hàng Phát triển Việt Nam – Sở giao dịch II tại

TPHCM đã thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng cho 32 đơn vị (trong đó có 24

phương án sản xuất kinh doanh và 22 dự án), với tổng số tiền thực hiện bảo lãnh lên

đến 639,880 tỷ đồng. Trong đó có 4 dự án có thời gian bảo lãnh dài hạn trên 4 năm.

Bên cạnh những hợp đồng bảo lãnh đã được ký kết, Ngân hàng Phát triển Việt Nam –

Sở giao dịch II cũng đã từ chối bảo lãnh 6 đơn vị với số tiền lên đến hơn 178 tỷ đồng.

Bảng 2.7: Thống kê các loại hình kinh tế được VDB tại TPHCM bảo lãnh

Đơn vị: VNĐ

Loại hình kinh tế số DN được BL

STT 1 2 3 Công ty TNHH tư nhân Công ty Cổ phần Nhà nước Công ty Cổ phần khác Số tiền được BL 145.857.700.000 11.174.000.000 482.849.000.000 15 2 15

Nguồn: Ngân hàng Phát Triển Việt Nam – Sở Giao dịch II

Bảo lãnh tín dụng DNNVV là một chủ trương, chính sách lớn liên quan đến các

Bộ, ngành, chính quyền địa phương, chính sách kinh tế vĩ mô, vi mô. Mặt khác, dễ bị

các TCTD lợi dụng, DNNVV ỷ lại trong việc thẩm định, xét duyệt cho vay , đồng thời

tiềm ẩn nhiều rủi ro… đây là những khó khăn lớn nhất đối với NHPT. Vì vậy, NHPT

phải chuẩn bị đầy đủ các yếu tố như: hành lang pháp lý, có sự phối hợp chặt chẽ giữa

các Bộ, ngành chức năng, các TCTD, đặc biệt là Hiệp hội ngân hàng, Hiệp hội

DNNVV.

DNNVV không tiếp cận được vốn các NHTM là do quy định chặt chẽ về thủ tục

45

cho vay, lãi suất cho vay cao, thời hạn cho vay ngắn. Mặc dù về mặt chính sách đã xóa

bỏ sự bất bình đẳng trong quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh

nghiệp dân doanh (chủ yếu là DNNVV), nhưng trong thực tế sự phân biệt đối xử với

DNNVV của các TCTD còn rõ nét vì họ cho rằng khó thu hồi vốn vay của doanh

nghiệp tư nhân hơn là doanh nghiệp Nhà nước. Vì vậy đây là áp lực rất lớn đối với

NHPT. Do đó các quy định bảo lãnh tín dụng DNNVV phải vừa chặt chẽ nhưng đồng

thời phải vừa tạo điều kiện cho DNNVV vượt qua cản trở khó khăn để vay vốn của các

TCTD, hỗ trợ tài chính để DNNVV không ngừng phát triển.

2.2.3. Tín dụng ngân hàng:

Tín dụng ngân hàng là một kênh rất quan trọng để hỗ trợ vốn cho các doanh

nghiệp trong nền kinh tế. Đặc biệt ở nước ta với xuất phát điểm là một nền kinh tế kém

phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến nên các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa chiếm

tỷ trọng đáng kể trong các loại hình doanh nghiệp và đang trở thành một lực lượng kinh

tế quan trọng. Do đó, chiến lược hỗ trợ DNNVV phát triển là một việc làm hết sức cần

thiết trong giai đoạn hiện nay. Bắt nguồn từ ý nghĩa quan trọng đó, trong thời gian qua,

ngành ngân hàng cũng đã từng bước phát huy vai trò hỗ trợ cho khu vực DNNVV qua

những chính sách như xóa bỏ sự phân biệt lãi suất giữa các thành phần kinh tế, nâng

cao dần doanh số cho vay…

Các NHTM cổ phần có hội sở chính tại địa bàn TPHCM, đến cuối năm 2009 có

tốc độ tăng trưởng nhanh và cao: tổng tài sản là 733.381 tỷ đồng, tăng gấp 1,7 lần so

với năm 2008, 1,9 lần so với năm 2007 và gấp 4 lần so với năm 2006; vốn điều lệ đạt

50.690 tỷ đồng, tăng gấp 1,3 lần so với năm 2008, gấp 2,2 lần so với năm 2007 và gấp

3,9 lần so với năm 2006 (bình quân vốn điều lệ của NHTM cổ phần trên địa bàn xấp xỉ

176 triệu USD). Gắn liền với quá trình này là hệ thống tổ chức mạng lưới hoạt động

cũng không ngừng mở rộng và phát triển, tạo điều kiện thuận lợi để khách hàng, người

dân tiếp cận tốt các dịch vụ ngân hàng.

46

Đồ 2.3: hiện vốn điều lệ và tổng tài sản của các NHTM

Vốn và Tổng tài sản của NHTM

800,000

733,381

700,000

600,000

500,000

vốn điều lệ

431,401

400,000

385,990

tổng tài sản

g n ồ đ tỷ

300,000

200,000

183,345

100,000

50,690

38,992

23,041

12,997

0

2006

2007

2008

2009

Nguồn: Sở Kế hoạch và đầu tư TPHCM.

Hoạt động của hệ thống ngân hàng được đánh giá đạt hiệu quả cao; tỷ lệ nợ xấu

vẫn giữ ở mức cho phép. Trong năm 2009, nguồn huy động vốn qua ngân hàng tăng

175,65% so với năm 2006. Tính đến tháng 7/2010 tổng dư nợ tín dụng đạt gần 610,8

ngàn tỷ đồng (trong đó cho vay bằng VNĐ là 438,3 ngàn tỷ đồng, tăng 3 lần so với

20006).

Tại TPHCM, số lượng DNNVV tập trung rất lớn, chiếm đến 25% tổng số

DNNVV của cả nước. Tình hình cung ứng tín dụng của các NHTM trên địa bàn cũng

có những chuyển biến tích cực trong những năm gần đây. Tính đến tháng 3/2009, dư nợ

của các TCTD đối với DNNVV trên địa bàn đạt 81.238 tỷ đồng, chiếm 16% trong tổng

dư nợ trên địa bàn. Tỷ lệ DNNVV tiếp cận được với vốn ngân hàng nhìn chung là

tương đối thấp so với nhu cầu thực sự của các DNNVV. Hiện nay trong điều kiện nền

kinh tế gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ nợ xấu của doanh nghiệp có xu hướng tăng nhanh do

tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh, khả năng trả nợ của doanh nghiệp sa sút; đặc

biệt do chi phí vốn tăng và khả năng tiêu thụ hàng hóa chậm lại, thậm chí nhiều

47

DNNVV phải tạm dừng sản xuất.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp tư nhân thường khó tiếp cận với các nguồn tín

dụng dài hạn vì điều kiện thế chấp, thiếu sự tin cậy của phía các tổ chức tín dụng, phụ

thuộc nhiều vào nguồn vốn tự có hoặc huy động vốn từ bạn bè.

2.2.4. Thị trường vốn:

Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM đã chính thức được Chính phủ ký

Quyết định số 599/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch chứng

khoán TP.HCM (HOSE). Cho đến nay, HOSE đã có 99 thành viên đăng ký niêm yết

với tổng số vốn điều lệ lên đến 24.388 tỷ đồng. Tổng giá trị của 49.509 tỷ cổ phiếu

niêm yết tính đến 31/12/2009 đạt khoảng 495.094 tỷ đồng tăng 1.92 lần so với năm

2008. Tính đến hết năm 2009 , có 793.000 tài khoản giao dịch được mở tại các công ty

chứng khoán, trong đó có 780.500 tài khoản trong nước và 12.500 tài khoản nước

ngoài. Có thể nói năm 2009, HOSE đã rất thành công khi cung cấp được khá nhiều

hàng hóa cho thị trường. Tuy nhiên , lượng cổ phiếu phát hành thêm mới trong năm

2009 chủ yếu là cổ phiếu thưởng và cổ phiếu trả cổ tức. Tổng số tiền huy động được

trong năm đạt khoảng 3.900 tỷ đồng, giảm 15% so với năm 2008. Như vậy, cho đến

hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã thực hiện được một phần của mục tiêu

tiêu lớn là mở kênh huy động vốn cho nền kinh tế.

Riêng đối với DNNVV thì hoàn toàn bị loại khỏi “cuộc chơi” trên HOSE vì không

đáp ứng được các tiêu chuẩn niêm yết, đặc biệt là tiêu chuẩn về vốn. Theo quy định của

Nghị định 14/2007/NĐ-CP về chi tiết thi hành một số điều của Luật chứng khoán, một

trong những điều kiện để một doanh nghiệp có thể niêm yết cổ phiếu, trái phiếu của

mình trên HOSE là vốn điều lệ phải từ 80 tỷ VND trở lên. Như vậy, việc hỗ trợ cho các

DNNVV qua hoạt động của thị trường chứng khoán chính thức là gần như không thể

thực hiện được.

Để tháo gỡ vướng mắc trên, mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV với những tiêu chí mới về quy mô vốn

đã phần nào giúp DNNVV tiếp cận được với kênh huy động vốn này. Tuy nhiên, quy

định về những điều kiện cần thiết để phát hành trái phiếu huy động vốn vẫn còn là một

48

rào cản đối với DNNVV. Hơn nữa, với quy mô và uy tín hiện tại trên thị trường, đa

phần các DNNVV rất khó tạo được lòng tin để thu hút các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, các

hiện tượng tiêu cực của một số cá nhân, nhằm thao túng thị trường chứng khoán thời

gian qua, đã làm cho kênh huy động này lại càng khó khăn hơn.

2.3. Đánh giá các giải pháp hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước đối với các doanh

nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

2.3.1. Thành tựu đạt được:

2.3.1.1. Về thuế:

- Chính sách thuế ngày càng được hoàn thiện, nội dung cải cách chính sách thuế

được thực hiện một cách sâu rộng, không chỉ dừng lại ở chỗ thay đổi toàn bộ hệ thống

cơ cấu thuế, thuế suất mà còn cả cơ chế hành thu, góp phần tích cực vào việc khai thác

những tiềm năng về vốn trong nền kinh tế để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.

Đồng thời với những ưu đãi riêng biệt về thuế đối với các DNNVV đã được xóa dần

cùng với việc thực hiện đồng bộ các biện pháp xóa bỏ bao cấp vốn, giao vốn gắn với

trách nhiệm bảo toàn và phát triển.

- Việc áp dụng thống nhất một hệ thống thuế cho các thành phần kinh tế đã tạo

lập môi trường pháp lý bình đẳng thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường đầu tư phát

triển. Thêm vào đó, chính sách thuế cũng đã thiết lập được một hệ thống thuế ưu đãi

hấp dẫn cho các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào những ngành nghề mũi nhọn, mang

lại giá trị kinh tế cao.

- Tính pháp lý của thuế ngày càng được nâng cao. Các biện pháp hành thu thuế

được thực hiện theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sản xuất kinh

doanh, chống thất thu và gian lận thương mại.

2.3.1.2. Về chi ngân sách nhà nước:

- Trong những năm qua, tình hình chi Ngân sách Nhà nước đã có nhiều chuyển

biến tích cực trong việc hỗ trợ cho sự phát triển các doanh nghiệp nói chung và

49

DNNVV nói riêng. Cụ thể như:

+ Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng cho các doanh nghiệp. Bao

gồm việc tập trung hoàn thiện cơ cấu hạ tầng giao thông đường bộ, tập trung

đầu tư các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp theo định hướng

quy hoạch đã đề ra, gi ải quyết kịp thời nhu cầu mở rộng mặt bằng sản xuất

kinh doanh cho DNNVV.

+ Kịp thời hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn của

cuộc khủng hoảng vừa qua. Hỗ trợ vốn cho Quỹ bảo lãnh tín dụng để thông

qua đó ngân sách TPHCM thực hiện hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp

dưới các hình thức bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ lãi suất vay để kích cầu đầu tư vào

các dự án trọng điểm.

+ Bên cạnh đó, TPHCM còn sử dụng NSNN để hiện đại hóa nền hành chính, đẩy

mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho doanh nghiệp. Hiện có 74

website của các cơ quan chuyên môn Thành phố, Ủy ban nhân dân Quận,

Huyện đã được xây dựng và tích hợp trên trang web của Thành phố, không chỉ

cung cấp các thông tin về hoạt động trên địa bàn mà còn giới thiệu quy trình

quản lý nhà nước như: đóng thuế, hoàn thuế, đăng ký thành lập doanh

nghiệp…

2.3.1.3. Về tín dụng nhà nước:

- Trong điều kiện nguồn vốn NSNN dành cho đầu tư có hạn, với sự ra đời của

quỹ bảo lãnh tín dụng, đã tạo cho nhà nước có được một công cụ tài chính linh hoạt,

mềm dẻo để huy động tối đa các nguồn vốn của xã hội, tạo nên thị trường tín dụng hỗ

trợ của nhà nước cho sự đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế.

- Đối tượng hỗ trợ tín dụng đã được mở rộng cho các thành phần kinh tế, không

phân biệt quy mô kinh do anh. Điều kiện ưu đãi đã có sự thông thoáng, tạo điều kiện

thuận lợi cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận trong việc huy động vốn, đặc biệt là

DNNVV.

- Bên cạnh việc hỗ trợ bảo lãnh vay vốn cho các DNNVV, Thành phố còn triển

50

khai một hình thức hỗ trợ tín dụng khác cho doanh nghiệp thông qua hình thức hỗ trợ

lãi suất nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân tham gia đầu tư vào chương

trình xã hội hóa các dịch vụ công (như xây dựng bệnh viện, trường học, trung tâm văn

hóa, bến bãi công cộng…). Hiện đã có 183 dự án do khu vực kinh tế tư nhân tham gia

(chiếm 51,7%) với tổng số vốn đầu tư 8.357 tỷ đồng (chiếm 75%), phần vốn được hỗ

trợ lãi vay là 4.031 tỷ đồng (chiếm 70%).

2.1.3.4. Về tín dụng ngân hàng:

- Hệ thống TCTD hiện nay rất đa dạng, bao gồm các loại hình như: ngân hàng

thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, ngân

hàng nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê

tài chính và các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Tính đến cuối năm 2009, trên địa bàn có

tổng số 1.679 đơn vị (tăng gấp 2,3 lần so với cuối năm 2006).

- Khả năng huy động vốn được nâng cao. Nhà nước tập trung đổi mới toàn diện

hệ thống tín dụng ngân hàng, biến nó thành kênh huy động và cung ứng vốn chủ lực

trong nền kinh tế. Nhờ đó, hệ thống tín dụng ngân hàng đã không ngừng lớn mạnh về

số lượng, chất lượng, các hình thức huy động cũng ngày càng đa dạng, phong phú hơn.

- Kết hợp với chính sách lãi suất linh hoạt theo cơ chế thị trường nên lượng vốn

tiết kiệm nhàn rỗi của xã hội được huy động vào hệ thống tín dụng ngân hàng ngày

càng tăng về quy mô và tỷ trọng. Bên cạnh đó, cơ cấu tín dụng cũng được thay đổi phù

hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế đa thành phần. Nguồn vốn tín dụng do hệ

thống ngân hàng cung ứng cho sự đầu tư phát triển của doanh nghiệp tính đến tháng

3/2009 đạt 81.238 tỷ đồng, chiếm 16% trong tổng dư nợ trên địa bàn.

- Hoạt động của hệ thống ngân hàng được đánh giá đạt hiệu quả cao; tỷ lệ nợ

xấu vẫn giữ ở mức cho phép. Trong năm 2009, nguồn huy động vốn qua ngân hàng

tăng 175,65% so với năm 2006. Tính đến 31/7/2010, tổng dư nợ tín dụng đạt 610,8

ngàn tỷ đồng (trong đó cho vay bằng VNĐ là 438,3 ngàn tỷ đồng, tăng 3 lần so với năm

2006; cho vay bằng ngoại tệ là 172,5 ngàn tỷ đồng, tăng 2,5 lần so với năm 2006).

51

2.3.1.5. Về thị trường vốn:

- Bắt nguồn từ khủng hoảng kinh tế năm 2008 lan rộng ra toàn thế giới, khiến

lạm phát ở nước ta tăng cao. Lãi suất cho vay của các ngân hàng thay đổi liên tục theo

xu hướng ngày càng tăng, khiến cho hoạt động tín dụng của ngân hàng gặp rất nhiều

khó khăn. Chính trong giai đoạn đó, sự ra đời của thị trường chứng khoán đã mở ra một

kênh huy động nguồn vốn dài hạn mới, giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản

xuất kinh doanh.

- Cùng với sự hình thành và phát triển của thị trường vốn, sự xuất hiện của các

công ty cổ phần với nhiều quy mô khác nhau và các công cụ huy động vốn trung dài

hạn: như cổ phiếu, trái phiếu… Bước đầu các công cụ này đã tạo điều kiện cho các

công ty, doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV huy động nguồn vốn đầu tư dài hạn, phục

vụ cho đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, dịch vụ.

2.3.2. Hạn chế

a . HCM

2.3.2.1 Về thuế:

- Hệ thống thuế vẫn còn phức tạp và thiếu minh bạch. Vẫn còn tình trạng phân

biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Thuế TNDN tuy được áp dụng

chung cho mọi đối tượng, nhưng vẫn còn quá ưu đãi về thuế suất, miễn giảm thuế, hoàn

thuế cho nhà đầu tư nước ngoài. Thuế thu nhập cá nhân có phân biệt giữa công dân Việt

Nam và công dân nước ngoài. Mức khởi điểm tính thuế của công dân Việt Nam thấp

hơn 2,5 lần so với công dân nước ngoài.

- Thuế TNDN và thu nhập cá nhân còn khá cao so với các nước trong khu vực,

gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tích tụ vốn của khu vực doanh nghiệp và dân

cư, cũng như chính sách thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.

- Thuế giá trị gia tăng có quá nhiều thuế suất, thuế nhập khẩu với hệ thống đa

thuế suất đã tạo ra nhiều kẽ hỡ cho gian lận thương mại, gây thất thu cho Ngân sách

Nhà nước. Thuế xuất khẩu còn khá cao ảnh hưởng không nhỏ đến việc đẩy mạnh hoạt

52

động xuất khẩu thu ngoại tệ.

- Việc thiết kế ưu đãi thuế TNDN như hiện hành (các tiêu thức được hưởng thuế

suất ưu đãi, miễn, giảm chồng chéo nhau, do vừa ưu đãi theo ngành, lĩnh vực, vừa ưu

đãi theo địa bàn, theo dự án mới, theo số lượng sử dụng lao động, theo mức độ áp dụng

công nghệ mới…) làm cho môi trường đầu tư chưa thực sự minh bạch, dẫn tới sự không

bình đẳng giữa các doanh nghiệp tương đồng nhau, vai trò của thuế bị hạn chế nhiều,

làm tăng chi phí quản lý nhà nước, các nhà đầu tư chưa thực sự an tâm.

2.3.2.2. Về chi ngân sách:

- Việc chi hỗ trợ tài chính bằng ngân sách cho các doanh nghiệp nhà nước còn

thiếu minh bạch và kém hiệu quả; chi ngân sách nhà nước chưa tạo được đà và thế vững

chắc cho sự thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường tích tụ và tập trung vốn để đầu tư

phát triển.

- Nhu cầu vốn NSNN chi cho đầu tư phát triển là rất lớn, trong khi nguồn ngân

sách trong những năm qua lại rất hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Số điều tiết thu ngân

sách cân đối chi đầu tư vốn đã thấp, lại còn bị hụt thêm do ảnh hưởng của việc thực

hiện các chính sách ưu đãi về thuế của Chính phủ làm giảm thu ngân sách đáng kể.

- Vẫn còn nhiều công trình thực hiện chậm so với tiến độ được duyệt trong

quyết định đầu tư. Chất lượng công tác lập, thẩm định và phê duyệt dự án của một số

dự án chưa cao, dẫn đến phải điều chỉnh lại quyết định đầu tư nhiều lần; hoặc phải bổ

sung, thay đổi thiết kế làm ảnh hưởng tiến độ thi công…. gây lãng phí và làm giảm hiệu

quả sử dụng ngân sách Nhà nước.

2.3.2.3 Về tín dụng Nhà nước:

- Chính sách và cơ chế quản lý các quỹ hỗ trợ tài chính Nhà nước mặc dù đã có

nhiều cải thiện, song hiệu quả mang lại vẫn chưa cao. Chính sách hiện nay vẫn chưa

quy định rõ về chế độ trác h nhiệm của cán bộ quản lý điều hành quỹ BLTD trong

trường hợp xảy ra những rủi ro thiếu hụt vốn, do các khoản nợ không trả được của các

doanh nghiệp. Điều này đã làm giảm tính chủ động, năng động sáng tạo trong công việc

53

của bộ máy quản lý điều hành, do hạn chế về tính chuyên nghiệp và trách nhiệm.

- Nguồn vốn hoạt động của quỹ mặc dù đã được Thành phố bổ sung, nhưng vẫn

còn khá khiêm tốn, chủ yếu là từ nguồn ngân sách nhà nước. Với quy mô vốn điều lệ

như hiện nay, Quỹ BLTD Thành phố vẫn chưa đủ khả năng bả o lãnh tín dụng cho các

dự án có mức vốn đầu tư lớn mà thuộc các lĩnh vực Thành phố đang ưu tiên như: dự án

đầu tư hạ tầng kỹ thuật, dự án đầu tư thiết bị công nghệ cao…

2.3.2.4. Về tín dụng ngân hàng:

- Trong những năm gần đây, mặc dù các ngâ n hàng thương mại đã quan tâm,

chú trọng hơn đến việc cho vay đối với các DNNVV, cộng với việc hỗ trợ bảo lãnh tín

dụng của Quỹ BLTD Thành phố và Ngân hàng Phát triển Việt Nam , song số lượng

DNNVV tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng của NHTM còn khá hạn chế. Mức độ

rủi ro tín dụng vẫn còn tiềm ẩn khá cao, dễ xảy ra thất thoát.

- Các doanh nghiệp tư nhân thường khó tiếp cận với các nguồn tín dụng dài hạn

vì không có tài sản thế chấp và thiếu sự tin cậy của phía các tổ chức tín dụng.

2.3.2.5. Về thị trường vốn:

- Hoạt động cho thuê tài chính thời gian qua đã giúp tháo gỡ những khó khăn

cho các doanh nghiệp về nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn cho đổi mới máy móc thiết

bị, dây chuyền công nghệ. Tuy vậy hoạt động cho thuê tài chính vẫn chưa phát triển

ngang tầm với những ưu thế vốn có của nó. Hoạt động của thị trường chứng khoán hiện

nay vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Sự thao túng và không minh bạch trong hoạt động

mua bán, chuyển nhượng đã góp phần làm thị trường chứng khoán lao dốc không

phanh, gây mất lòng tin đối với nhà đầu tư.

- Dự thảo quy định về quy mô vốn để được niêm yết trên HOSE có thể tăng lên

đến 120 tỷ đồng sẽ là rào cản thật sự đối với DNNVV trong việc tiếp cận với kênh huy

động vốn này.

2.3.3. Nguyên nhân

a . HCM

54

2.3.3.1. Về phía doanh nghiệp

- Năng lực tài chính của doanh nghiệp tư nhân yếu. Không đảm bảo tính minh

bạch trong các báo cáo tài chính. Phần lớn các báo cáo tài chính và sổ sách kế toán của

DNNVV chưa được thực hiện đầy đủ, chính xác, minh bạch, công khai. Quản lý hoạt

động mang tính chất gia đình, báo cáo chính thức thường thấp hơn tình trạng thực tế.

DNNVV thường bán hàng không có hợp đồng, không tuân thủ chế độ phát hành hóa

đơn bán hàng, không thanh toán qua ngân hàng. Điều đó làm cho việc phân tích, đánh

giá tình hình tài chính của DNNVV không đủ độ tin cậy, ảnh hưởng đến quyết định

xem xét cấp tín dụng của các TCTD đối với DNNVV.

- Không có tài sản đảm bảo cho các khoản vay, nên các DNNVV rất khó tiếp

cận các khoản vay. Hiện nay Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số

14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 ban hành Quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay

vốn của Ngân hàng thương mại, trong đó giao Ngân hàng Phát triển thực hiện việc bảo

lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, quyết định này mới triển khai nên kết

quả đạt được chưa cao.

- Trình độ quản lý, năng lực quản trị điều hành của các DNNVV còn nhiều hạn

chế, đặc biệt là trong quá trình triển khai, xây dựng phương án, dự án sản xuất kinh

doanh còn lúng túng, ít khả thi và thiếu tính thuyết phục để TCTD đầu tư cho vay thực

hiện các phương án, dự án.

- Uy tín và khả năng cạnh tranh chưa cao, khả năng hợp tác và liên kết kinh

doanh còn thấp, nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh thiếu ổn định, chưa tuân thủ đúng quy

định của pháp luật,…Đó chính là rào cản hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn vay của

các TCTD.

- Khả năng tiếp cận và tiềm lực về công nghệ của DNNVV rất yếu, doanh

nghiệp rất thiếu các thông tin về kỹ thuật, thị trường, công nghệ (nguồn cung cấp, đặc

điểm công nghệ, giá cả…) thiếu nhân lực được đào tạo để tiếp thu công nghệ.

- Chi phí đầu tư cho khoa học công nghệ mới thường rất cao, trong khi đó vốn

55

đầu tư của các DNNVV thường không lớn, lại khó tiếp cận được với các khoản vốn vay

tín dụng từ các ngân hàng (nhất là đối với các doanh nghiệp tư nhân), nên khó có thể

tiếp cận được với các công nghệ sản xuất mới, hiện đại.

2.3.3.2. Về phía Nhà nước:

- Đa phần các TCTD hiện nay cũng có định hướng đến phát triển dịch vụ ngân

hàng bán lẻ , mà DNNVV là khách hàng tiềm năng đối với các TCTD. Tuy nhiên, các

TCTD chưa có quy chế cho vay riêng đối với DNNVV mà vẫn áp dụng quy chế cho

vay áp dụng chung cho tất cả các khách hàng , trong khi trình độ quản lý, chế độ tài

chính kế toán,… của các doanh nghiệp này còn bất cập và chưa minh bạch, điều này

làm cho hoạt động cho vay của TCTD đối với DNNVV còn có khoảng cách nhất định.

- Hiện đang rất thiếu các Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp và

cung cấp các thông tin về thị trường công nghệ. Ngoài ra các chính sách hỗ trợ phát

triển công nghệ cho các doanh nghiệp còn chưa được triển khai mạnh.

- Mặc dù hiện tại đã có Trung tâm dự báo nguồn nhân lực, nhưng công tác dự

báo vẫn còn hạn chế, chưa dự báo được nguồn nhân lực theo các trình độ, ngành nghề

khác nhau hoặc có những dự báo mang tính chiến lược dài hạn cho từng ngành nghề cụ

thể; việc triển khai quy hoạch mạng lưới trường lớp về dạy nghề chưa đáp ứng yêu cầu

thực tiễn, dẫn đến tình trạng phân bổ không đồng đều, chồng chéo, dư thừa ngành này

nhưng lại thiếu hụt ngành khác. Học viên học nghề đã thiếu nhưng tình trạng học viên

học xong ra làm trái nghề vẫn có tỷ lệ cao.

chương 2:

Chương 2 của luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:

- Khái quát thực trạng hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước đối với các doanh nghiệp

nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, có dẫn chứng những số liệu cụ thể.

- Từ đó, rút ra những thành tựu đạt được và những hạn chế trong quá trình triển

khai các công cụ hỗ trợ về tài chính, làm cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa khó tiếp cận

được với nguồn vốn, ảnh hưởng đến đến sự tồn tại và phát triển của DNNVV trên địa

56

bàn trong thời gian qua.

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ HỖ TRỢ TÀI

CHÍNH TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH

NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI TPHCM (2011 – 2015)

3.1. Định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tại TPHCM:

3.1.1. Định hướng:

Nền kinh tế nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới. Những

biến động của kinh tế thế giới sẽ tác động trực tiếp đến các hoạt động kinh tế - xã hội

của cả nước nói chung và thành phố nói riêng. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5

năm 2011 - 2015 của thành phố được xây dựng trong bối cảnh trong nước và quốc tế có

nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính và suy

thoái kinh tế toàn cầu. Bên cạnh những yếu tố không thuận lợi, trong giai đoạn 2011 -

2015 thành phố cũng có nhiều thuận lợi từ việc phục hồi và phát triển kinh tế cả nước

và thế giới sau cuộc khủng hoảng sẽ tạo cơ hội cho thành phố thúc đẩy thương mại và

thu hút đầu tư nước ngoài. Quy mô và tiềm lực kinh tế của cả nước và thành phố được

nâng cao hơn trước và sự ổn định về chính trị - xã hội của cả nước là nền tảng vững

chắc cho sự phát triển của thành phố.

Phát triển DNNVV là nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội, đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước

Việt Nam khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát huy tính

chủ động, sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn

nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác.

Theo Chỉ thị số 15/2009/CT-UBND ngày 10/8/2009 của Ủy ban nhân dân Thành

phố Hồ Chí Minh về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Thành phố 5 năm

2011 – 2015, trong đó nêu rõ quan điểm của Thành phố về phát triển DNNVV như sau:

- Đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế

57

thị trường xã hội chủ nghĩa, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh

bạch, ổn định, thông thoáng…, tháo gỡ các khó khăn thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh

doanh phát triển.

- Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đi đôi với tiếp tục đổi mới,

nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát

triển mạnh khu vực doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có

chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa để

phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống người lao động.

- Phát triển DNNVV theo phương châm tích cực, vững chắc, nâng cao chất

lượng, phát triển về số lượng, đạt hiệu quả kinh tế, góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm

nghèo, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Phát triển DNNVV gắn với các mục tiêu quốc

gia, các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, khuyến khích phát triển

công nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống. Chú trọng phát triển DNNVV đầu tư

sản xuất một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao.

- Tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền về vị trí, vai trò của

DNNVV trong phát triển kinh tế - xã hội.

3.1.2. Mục tiêu:

Giai đoạn 2011 – 2015, TPHCM xác định tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo chiều sâu, lấy chất lượng tăng trưởng làm động lực chủ yếu để phát triển

các ngành, lĩnh vực có hàm lượng khoa học và công nghệ có giá trị gia tăng cao, ít gây

ô nhiễm môi trường, sử dụng nhân lực chất lượng cao và hướng tới phát triển kinh tế tri

thức. Cơ cấu kinh tế phải hướng vào các điều kiện tạo ra thế và lực mới cho sự phát

triển sau này khi bước vào giai đoạn công nghiệp hóa theo hướng hiện đại để xây dựng

TPHCM trở thành Thành phố xã hội chủ nghĩa, văn minh, hiện đại về kết cấu hạ tầng,

công nghệ, nhân lực, tri thức. Chỉ tiêu đề ra trong giai đoạn này được cụ thể hóa như

sau:

+ Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 12%.

58

+ Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng ngành dịch vụ bình quân hàng năm 13%.

+ Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng ngành công nghiệp bình quân hàng năm

11%.

+ Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng ngành nông nghiệp bình quân hàng năm

5%.

+ Cơ cấu kinh tế năm 2015 (% trong GDP): dịch vụ 57%, công nghiệp 42% và

nông nghiệp 1%.

+ Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm trên địa bàn thành phố đạt trên 1,4 triệu tỉ

đồng.

+ Hàng năm tạo việc làm mới trên 120.000 người.

+ Đầu tư cho KH&CN từ ngân sách thành phố tăng trung bình 20% hằng năm,

huy động đầu tư từ xã hội cho KH&CN tăng 30% năm. Tỷ lệ ứng dụng của các

đề tài nghiên cứu vào thực tế đến năm 2015 là 35% và 40% đến năm 2020

(hiện nay là hơn 30%)

3.1.3. Thuận lợi và khó khăn trong thời gian tới đối với DNNVV:

3.1.3.1. Thuận lợi:

- Dự báo xu hướng chung là kinh tế thế giới giai đoạn (2011-2015) sẽ ra khỏi

cuộc khủng hoảng, tiếp tục phục hồi và phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu

sẽ khá hơn so với trước; thị trường quốc tế có thể sẽ hồi phục dần.

- Sau hơn 20 năm đổi mới, hệ thống thể chế, cơ chế chính sách về kinh tế thị

trường của nước ta được hình thành; sự ổn định chính trị tiếp tục là nền tảng vững chắc,

tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

- DNNVV có thể xuất khẩu hàng hoá tới các nước thành viên WTO với các điều

kiện ưu đãi và có khả năng phát triển đầu tư ra nước ngoài, tiếp cận công nghệ của các

nước, trao đổi kinh nghiệm về kỹ năng quản lý, điều hành doanh nghiệp.

- Chính phủ đã có nhiều chính sách, biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh

tế vĩ mô, đẩy mạnh thêm một bước cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một

59

cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, gia nhập thị trường.

3.1.3.2. Khó khăn:

- Các DNNVV chưa nhận diện rõ cơ hội và thách thức do hội nhập kinh tế quốc

tế và WTO mang lại, do vậy chưa xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp.

- Tiềm lực về tài chính hầu như rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu động

lại càng ít. Thiếu vốn dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không có điều kiện để lựa

chọn các mặt hàng có chất lượng cao trong kinh doanh, đầu tư vào đổi mới các thiết bị,

công nghệ kinh doanh.

- Trình độ nguồn nhân lực, quản lý, điều hành của DNNVV còn nhiều bất cập,

yếu kém. Các DNNVV vẫn chưa quan tâm nhiều đến công tác nghiên cứu và phát triển

nên thường trong thực tế đã phản ứng chậm hơn so với yêu cầu của thị trường.

- Quá nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh một mặt hàng trên cùng

một thị trường đã dẫn đến tình trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chỉ tập

- Tình hình kinh tế trong nước cũng như ngoài nước vẫn còn nhiều diễn biến

trung tìm cách giảm giá, không chú trọng đến chất lượng và mẫu mã hàng hóa.

phức tạp; lạm phát tăng cao và kéo dài, lãi suất cho vay cao, giá cả nguyên liệu tăng dẫn

đến chi phí sản xuất tăng cao đang là một thách thức và khó khăn bậc nhất hiện nay.

3.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước đối với doanh

nghiệp nhỏ và vừa ở TPHCM

3.2.1. Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía Nhà

nước đối với DNNVV ở TPHCM

3.2.1.1. Ngân sách nhà nước:

3.2.1.1.1 Về Thuế:

- Chính phủ c ần xem xét lại việc giảm thuế suất thuế thu nhập Doanh nghiệp

(TNDN). Như đã phân tích trong chương II, thuế suất thuế TNDN hiện nay là 25%, so

với các nước trong khu vực thì đây là mức thuế trung bình. Tuy nhiên trong giai đoạn

lạm phát của những năm gần đây, c ộng với tình hình suy thoái của kinh tế thế giới, thì

60

mức thuế này hiện đang được đánh giá là quá cao đối với doanh nghiệp khi chi phí sản

xuất đang bị đội lên rất nhiều do biến động tỷ giá và lãi suất tăng cao. Hầu hết các DN

đều cho rằng, nếu mức thuế TNDN không có sự điều chỉnh kịp thời, phù hợp thì chắc

chắn sẽ có không ít Doanh nghiệp lâm vào tình thế khó càng thêm khó.

- Các cơ quan thuế cần xem xét giải quyết nhanh việc hoàn thuế cho doanh

nghiệp đã đủ các thủ tục theo yêu cầu nhằm đảm bảo khả năng nguồn vốn và nâng cao

hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp.

- Minh bạch và đơn giản hóa việc miễn, giảm thuế TNDN không chỉ giúp giảm

công việc và chi phí của cơ quan thuế cũng như của doanh nghiệp, mà còn góp phần

làm nhẹ nhàng đi mối quan hệ giao dịch giữa cơ quan thuế với người nộp thuế, nhất là

DNNVV.

3.2.1.1.2 Về chi đầu tư phát triển:

- Cần đầu tư nâng cấp, hoàn thiện nhanh chóng cơ sở hạ tầng giao thông, kỹ

thuật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho DNNVV trong vận chuyển, lưu thông hàng hóa.

Mặc dù thời gian qua, rất nhiều công trình giao thông mới đã được khánh thành đưa vào

sử dụng, làm giảm một phần sự ách tắc trong giao thương giữa các Tỉnh, Thành phố.

Tuy nhiên với mật độ dân cư từ các nơi đổ về ngày càng đông, tạo ra một áp lực rất lớn

lên hệ thống giao thông đường bộ của Thành phố. Vì vậy việc tập trung nâng cấp, hoàn

thiện hệ thống giao thông, kỹ thuật cần phải được thực hiện theo hướng chiến lược lâu

dài.

- Đầu tư hỗ trợ DNNVV nâng cao khả năng đổi mới công nghệ. Khuyến khích,

ưu đãi các hoạt động nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các thiết bị mới trong nước thay thế

hàng nhập khẩu trên cơ sở hợp đồng giữa doanh nghiệp với các cơ quan nghiên cứu

khoa học – công nghệ, đặc biệt là các chính sách ưu đãi về thuế. Đẩy mạnh việc cung

cấp các dịch vụ thông tin, tư vấn hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc đầu tư đổi mới

công nghệ, trang thiết bị, máy móc và nâng cao trình độ quản lý, hợp lý hóa sản xuất.

- Đầu tư hoặc có chính sách ưu đãi khuyến khích xã hội hóa đầu tư các Trung

tâm kiểm tra (test) về tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng theo từng ngành hàng, loại

61

sản phẩm hàng hóa hiện đại, đồng bộ, có độ chính xác cao theo chuẩn mực quốc tế để

đảm bảo thực hiện cam kết của Việt Nam với Tổ chức thương mại Thế giới (WTO)

trong việc thực hiện Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại và ổn định chất

lượng hàng hóa theo yêu cầu từ phía đối tác.

3.2.1.2. Tín dụng nhà nước:

- Về quy chế và thủ tục vay vốn:

+ Xóa bỏ sự phân biệt trong thủ tục vay vốn tín dụng của Nhà nước giữa DNNN

và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Mọi doanh nghiệp khi vay không cần tài

sản thế chấp tối thiểu bằng 30% số vốn vay mà dùng ngay tài sản hình thành từ

nguồn vốn vay để đảm bảo. Có như vậy, DNNVV mới có khả năng vay theo

nhu cầu hoạt động của mình.

+ Ngân hàng Nhà nước chủ trì chỉ đạo các NHTM Nhà nước, các TCTD phối

hợp chặt chẽ với các đơn vị bảo lãnh tín dụng xây dựng các n ội dung thống

nhất liên quan đến cơ chế phối hợp, trách nhiệm của bên bảo lãnh, bên nhận

bảo lãnh, cơ chế xử lý rủi ro phát sinh trong tín dụng.

- Về quỹ bảo lãnh tín dụng:

+ Đẩy mạnh công tác tư vấn cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư,

phương án sản xuất kinh doanh, vay vốn có hiệu quả. Tăng cường hơn nữa

công tác giới thiệu, tuyên truyền về hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng,

nhằm giúp doanh nghiệp định hướng đầu tư, lựa chọn nguồn vốn phù hợp với

điều kiện và đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Chính phủ cần tạo cơ chế mở cho các Tỉnh Thành trong việc chủ động gia tăng

nguồn vốn cho Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương, giúp cho Quỹ BLTD các địa

phương phát huy hơn nữa vai trò và hiệu quả hoạt động, góp phần hỗ trợ các

DNNVV vay vốn đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.

+ Tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp

vụ thẩm định và kiểm soát rủi ro hiệu quả, đáp ứng kịp thời nhu cầu được chấp

62

thuận bảo lãnh của các DNNVV.

3.2.1.3. Tín dụng ngân hàng

- Đối với các ngân hàng:

+ Các ngân hàng thương mại cần đổi mới phương thức kinh doanh, chú trọng

hơn nữa hoạt động cho vay đến các đối tượng DNNVV . Đặc biệt là nâng tỉ

trọng cho vay trung và dài hạn đối với DNNVV. Nâng cao hơn nữa trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và tính trung thực của đội ngũ nhân viên

ngành ngân hàng.

+ Các ngân hàng cần tiếp tục đẩy mạnh việc tổ chức xây dựng mạng lưới thông

tin, thu thập, xử lý thông tin từ khách hàng nhất là những thông tin về tình hình

tài chính, năng lực quản lý, quan hệ thanh toán…

+ Cần đa dạng và nâng cao chất lượng dịch vụ đến các DNNVV. Điều này, tạo ra

sự tiện ích cho khách hàng khi quan hệ với ngân hàng, giúp ngân hàng thu hút

khách hàng cũng như tạo mối dây liên hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp qua

những tài khoản ký thác. Tăng cường hoạt động tư vấn của ngân hàng để hỗ trợ

các doanh nghiệp xây dựng phương án kinh doanh.

+ Trong điều kiện lãi suất khá cao như hiện nay, để DNNVV tiếp cận với nguồn

vốn vay ngân hàng là cực kỳ khó khăn. Bởi lẽ lãi suất cho vay hiện nay tại các

ngân hàng, có nơi đã vượt trên 20%/năm. Trong điều kiện kinh tế khó khăn

như hiện nay, để đạt được lợi nhuận trên 20% là một điều không tưởng. Do đó,

rủi ro của ngân hàng sẽ rất cao nếu thực hiện các nghiệp vụ cho vay trong thời

điểm này. Để khắc phục và hạn chế rủi ro đó, các NHTM cần tính toán lại mức

lãi suất cho vay thật hợp lý, đẩy mạnh công tác nắm bắt thông tin từ doanh

nghiệp, để có những đánh giá và nhận định chính xác trong quá trình thẩm

định, xét duyệt hồ sơ cho vay.

- Đối với DNNVV:

+ Cần gia tăng mức độ tín chấp của mình: tranh thủ sự hỗ trợ từ các tổ chức của

Chính phủ đặc biệt là mạng lưới hỗ trợ DNNVV trong việc quảng bá sản

63

phẩm, hỗ trợ nâng cao chất lượng sản phẩm, đào tạo nâng cao tay nghề, trang

bị kiến thức quản trị doanh nghiệp…; tranh thủ các dịch vụ tư vấn hoặc sự hỗ

trợ từ các chuyên gia để có thể xây dựng những phương án kinh doanh mang

tính thuyết phục cao.

+ Nâng cao trình độ quản lý, năng lực quản trị điều hành của các DNNVV.

Trong quá trình triển khai, xây dựng phương án, dự án sản xuất kinh doanh cần

phải chú trọng tính khả thi của dự án nhằm thuyết phục TCTD chấp thuận cho

vay.

3.2.1.4. Thị trường vốn:

- Thực tế cho thấy, Sở giao dịch chứng khoán TPHCM hiện vẫn chưa hoạt động

hết công suất. Số lượng doanh nghiệp và cổ phiếu niêm yết tuy có tăng nhưng vẫn còn

khá ít so với số lượng doanh nghiệp và công ty cổ phần không ngừng tăng. Do đó, Sở

giao dịch chứng khoán TPHCM cần tiếp tục củng cố, phát triển, đảm bảo hoạt động của

thị trường này được minh bạch, công bằng, an toàn và hiệu quả , thông qua việc thực

hiện các biện pháp sau:

+ Tiếp tục lựa chọn thêm nhiều hàng hóa có chất lượng cao cho thị trường, đồng

thời mở rộng số lượng các nhà đầu tư. Có như vậy, lượng cung cầu trên thị

trường sẽ tăng, góp phần thúc đẩy thị trường ngày càng phát triển.

+ Tăng cường tính minh bạch, hiệu quả của hệ thống thông tin thị trường và hệ

thống công bố thông tin của tổ chức niêm yết, để tạo thành một tổ hợp thông

tin hoàn chỉnh, giúp cho nhà đầu tư có cơ sở để đưa ra các quyết định mua bá n

kịp thời và hỗ trợ cho các cơ quan quản lý trong việc điều hành hoạt động của

thị trường.

- Trên cơ sở thực tiễn của thị trường, thường xuyên rà soát, chỉnh sửa hệ thống

văn bản pháp quy cho hoạt động của thị trường chứng khoán. Bởi lẽ hệ thống pháp luật

hoàn chỉnh sẽ góp phần đảm bảo sự thành công cho thị trường chứng khoán. Thường

xuyên thực hiện công tác giám sát, kiểm tra hoạt động theo pháp luật. Ngăn chặn kịp

64

thời và xử lý nghiêm các hành vi gian lận, lừa đảo, thao túng thị trường.

- Đối với những đơn vị không đảm bảo điều kiện để niêm yết (DNNVV có quy

mô vốn dưới 80 tỷ đồng), Ủy ban chứng khoán Nhà nước cần sớm tổ chức thị trường

giao dịch các loại chứng khoán chưa được niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng

khoán Thành phố, nhằm tạo điều kiện cho các DNNVV có thể tham gia huy động vốn,

mở rộng môi trường đầu tư có tổ chức, bảo vệ người đầu tư và góp phần hoàn thiện,

lành mạnh hóa thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung.

3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ khác:

- Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong công tác quản lý doanh nghiệp

sau đăng ký kinh doanh, kiến nghị Chính phủ sớm ban hành văn bản quy định cụ thể về

cơ chế phối hợp quản lý doanh nghiệp giữa các cơ quan quản lý nhà nước các cấp từ

Trung ương đến địa phương.

Bởi lẽ, hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến đăng ký kinh

doanh chưa được ban hành một cách đầy đủ, đồng bộ , thậm chí còn có sự mâu thuẫn

giữa một số văn bản. Chính phủ vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cách thức thực hiện

quản lý nhà nước sau đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp, dẫn đến việc quản lý

nhà nước đối với doanh nghiệp tại địa phương mang tính tự phát, không thống nhất,

cách thức tiến hành không đồng bộ , chủ yếu được rút ra từ kinh nghiệm thực tế làm

việc. Vì vậy, việc tiến hành kiểm tra tỉ mỉ, kiến nghị chỉnh s ửa Luật, các Nghị định

hướng dẫn chồng chéo, vô hiệu hóa lẫn nhau, không thực hiện được trong thực tế là

một việc làm hết sức cần thiết.

Tình trạng kiểm tra, thanh tra chồng chéo, do không có sự phối hợp, phân định

rõ ràng gây nhiều khó khăn cho doanh nghi ệp. Hiện trong hệ thống văn bản pháp luật

có tới 140 văn bản quy định về kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp, với 100 cơ quan các

cấp có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp. Do đó, Chính phủ cần có các văn

bản xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước quản lý các doanh

nghiệp (Ủy ban nhân dân các cấp, Bộ, Sở ngành, Quản lý thị trường, Công an…), đồng

65

thời xây dựng các quy chế, quy trình phối hợp rõ ràng, khoa học.

- Kiến nghị Bộ công thương phối hợp với các Bộ ngành liên quan xây dựng hệ

thống cung cấp thông tin tập trung cho các doanh nghiệp hoặc các chính sách hỗ trợ địa

phương đầu tư các Trung tâm cung cấp thông tin kinh tế cho doanh nghiệp, nhất là về

các vấn đề liên quan đến thị trường xuất khẩu hàng hóa.

Thực tế hiện nay, khi Việt Nam đã chính thức là thành viên của Tổ chức Thương

mại Thế giới (WTO), nhu cầu về nguồn thông tin hỗ trợ cho các hoạt động của các

doanh nghiệp là rất lớn. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp trên địa bàn TPHCM

cũng như cả nước đều có quy mô nhỏ và vừa, không đủ khả năng để tự tìm kiếm thông

tin hoặc thuê dịch vụ bên ngoài. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp hiện đang trong

tình trạng thiếu các nguồn thông tin cần thiết cho hoạt động của mình, cụ thể:

+ Thông tin về thị trường mới, thị trường tiềm năng; các thông tin về hàng rào kỹ

thuật tại các thị trường truyền thống…

+ Thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế: hiện chỉ mới tuyên truyền về các thông

tin cơ bản , chưa có những hướng dẫn cụ thể của các Bộ chuyên ngành về các

nội dung cam kết cụ thể, các quy tắc, luật lệ của WTO cũng như định hướng

công việc phải làm.

- Cần có cơ chế để doanh nghiệp tư nhân được vay vốn viện trợ phát triển chính

thức (ODA) như các doanh nghiệp nhà nước; nghiên cứu bổ sung và mở rộng hình thức

bảo lãnh vay cho doanh nghiệp ở những lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích phát triển;

tiếp tục rà soát, bãi bỏ các khoản phí, lệ phí không hợp lý.

Đây là một kênh cung cấp vốn mới rất được các doanh nghiệp tư nhân quan tâm

vì lãi suất vay ưu đãi và thời hạn vay lâu dài. Với sự năng động và xoay chuyể n tình

huống nhanh, cộng với nhu cầu khát vốn của khối doanh nghiệp tư nhân, có thể nói việc

ban hành kịp thời cơ chế cho doanh nghiệp tư nhân vay vốn viện trợ phát triển chính

thức ODA là một giải pháp hỗ trợ tài chính hết sức hữu hiệu, nhất là trong giai đoạn lãi

suất ngân hàng hiện đang ở mức khá cao. Vì vậy, Chính phủ cần đôn đốc các Bộ ngành

có liên quan sớm hoàn chỉnh cơ chế cho phép doanh nghiệp tư nhân tiếp cận với nguồn

66

vốn vay ODA.

- Chính Phủ tiếp tục chỉ đạo các Bộ ngành có liên quan đẩy nhanh việc thành lập

Quỹ phát triển DNNVV, sớm triển khai và đưa vào hoạt động.

Như chúng ta đã biết, hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNVV hiện đang dựa

vào các kênh tài chính thuộc nhiều đầu mối kể cả Trung ương và địa phương. Nguồn

lực tài chính hỗ trợ khu vực DNNVV không những khá ít mà còn phân tán, chồng chéo.

Theo quy định của Chính phủ, Quỹ phát triển DNNVV khi đi vào hoạt động sẽ gắn liền

với những mục tiêu rất thiết thực: với chức năng huy động, tiếp nhận các nguồn tài

chính trong nước; tiếp nhận, quản lý và sử dụng các nguồn tài trợ, viện trợ để thực hiện

các hoạt động hỗ trợ phát triển DNNVV. Ngoài ra, tài trợ kinh phí cho các chương

trình, dự án trợ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh; ủy thác cho các tổ chức tín dụng cho

vay ưu đãi các DNNVV có dự án đầ u tư khả thi thuộc lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích

của Nhà nước. Nguồn vốn của Quỹ một phần từ ngân sách Nhà nước, ngoài ra từ đóng

góp của các tổ chức tài chính trong nước, các khoản viện trợ, tài trợ của các tổ chức

nước ngoài, các tổ chức quốc tế; từ các hoạt động của Quỹ và các nguồn vốn hợp pháp

khác. Sau khi được thành lập, Quỹ phát triển DNNVV sẽ trở thành đầu mối trung tâm

góp phần hỗ trợ kịp thời và đúng mức nguồn lực tài chính cho doanh nghiệp.

Phương hướng và giải pháp hoạt động đã được hoạch định, nhưng cho đến nay

sau hơn một năm “thai nghén”, tất cả vẫn còn nằm trên giấy, chưa có bước tiến triển

67

mới, khiến cho kênh huy động tài chính của DNNVV càng thêm khó khăn, chồng chất.

chương 3:

Từ thực tiễn hỗ trợ tài chính của Nhà nước đối với DNNVV, những thành tựu và

hạn chế rút ra được trong thời gian qua, trong chương 3 này, qua nghiên cứu các mô

hình can thiệp của chính phủ các nước vào thị trường để thúc đẩy DNNVV p hát triển,

tác giả đã mạnh dạn lựa chọn mô hình “tạo điều kiện thuận lợi để DNNVV phát triển”

là mô hình phù hợp nhất với tình hình của nước ta nói chung và TPHCM hiện nay nói

riêng.

Từ đó, tác giả đã mạnh dạn đưa ra những nhóm giải pháp hỗ trợ tài chính phù hợp

với mô hình đã chọn lựa, bao gồm những giải pháp liên quan đến xây dựng chính sách,

tập trung vào việc sửa chữa và bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, tạo môi

trường kinh doanh thuận lợi cho DNNVV; đồng thời khắc phục những hạn chế đã tồn

tại, phát huy những thành tựu đã đạt được để công tác hỗ trợ tài chính của Nhà nước

cho DNNVV ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả hơn.

Các giải pháp trên cũng gắn chặt với mục tiêu, định hướng phát triển DNNVV của

Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2011 – 2015. Nó bao hàm cả các giải pháp

ngắn hạn và dài hạn; được thực hiện một cách thống nhất từ Trung ương đến địa

phương, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.

Song song đó, tác giả cũng đã tham khảo các tư liệu, đúc kết thành những kiến

nghị mang tính lâu dài, để các công cụ hỗ trợ từ Nhà nước được triển khai thực hiện

68

một cách đồng bộ và hiệu quả tại địa phương.

KẾT LUẬN

Nhận định chung:

- Vai trò to lớn của DNNVV trong việc phát triển kinh tế - xã hội của cả nước

nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã được khẳng định rất rõ trong Nghị

quyết Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TPHCM lần

thứ IX. Trong đó xác định rõ : “tạo điều kiện thuận lợi và bình đẳng để phát triển các

thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển, hỗ trợ các DNNVV tiếp

cận nguồn vốn, thông tin công nghệ và thị trường”.

- Thực tiễn cho thấy, bên cạnh sự nỗ lực của chính bản thân các DNNVV thì sự

hỗ trợ của Nhà nước, trong đó có hỗ trợ về mặt tài chính sẽ rất cần thiết để tạo nên sức

bật cho các DNNVV trong bối cảnh hội nhập. Mặc dù thời gian qua, TPHCM cũng đã

có một số giải pháp hỗ trợ tài chính cho DNNVV, nhưng trong quá trình hội nhập, thực

tế những giải pháp đó đã gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc.

Giải pháp cơ bản:

- Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài đã đề cập đến các vấn đề lý luận về cơ chế hỗ

trợ tài chính, cũng như thực trạng các giải pháp hỗ trợ tài chính cho DNNVV tại

TPHCM. Từ đó, đề tài đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế

hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước đối với DNNVV tại địa phương trong thời gian tới.

- Đây là những giải pháp tài chính được thiết lập theo đặc trưng riêng của

DNNVV, có tính đến điều kiện thực tiễn của Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm của

các nước. Bao gồm những giải pháp mang tính trước mắt và lâu dài. Các giải pháp do

cấp Chính Phủ và Trung ương thực hiện thuộc nhóm các giải pháp liên quan đến chính

sách vĩ mô và lâu dài, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của DNNVV. Các giải

pháp được thực hiện ở cấp địa phương chủ yếu là các giài pháp mang tính hỗ trợ, tạo

điều kiện thuận lợi cho các DNNVV.

- Việc triển khai thực hiện các giải pháp trên một cách đồng bộ, thống nhất

xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương sẽ góp phần rất lớn cho sự phát triển bền

vững của DNNVV cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.

69

Định hướng nghiên cứu:

Do điều kiện hạn chế, nên đề tài chưa lượng hóa được các mức hỗ trợ, cũng như

chưa tập trung mở rộng phạm vi hỗ trợ cho DNNVV trong các lĩnh vực khác. Vì vậy,

trong thời gian tới , để lượng hóa được mức độ tối ưu của công tác hỗ trợ và để giải

quyết toàn diện hơn những khó khăn, thách thức của các DNNVV trên tất cả các mặt,

các lĩnh vực, các đề tài sau cần tập trung định lượng mức độ hỗ trợ trên cơ sở các số

liệu thống kê đầy đủ và chính xác, đồng thời phạm vi nghiên cứu cũng cần mở rộng hơn

ở những mặt, những lĩnh vực khác để hiệu quả của công tác hỗ trợ mang tính tối ưu và

70

toàn diện.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Niên giám thống kê 2007, 2008, 2009.

2. Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV; Nghị quyết số 22/NQ -CP ngày 05/5/2010 của Chính phủ về triển khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP.

3. Đánh giá tác động 03 năm gia nhập WTO& tái cấu trúc kinh tế TPHCM của Viện nghiên cứu phát triển kinh tế TPHCM tháng 8/2010.

4. Báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM về tổng kết tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển DNNVV 5 năm (2006 – 2010) ban hành kèm theo Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

5. Báo cáo kết quả thực hiện của Quỹ bảo lãnh tín dụng năm 2009 và 9 tháng đầu năm 2010.

6. Báo cáo số liệu bảo lãnh tí n dụng của Ngân hàng phát triển Việt Nam – Chi nhánh TPHCM năm 2010.

7. Báo cáo số liệu của Ngân hàng chính sách xã hội – Chi nhánh TPHCM về tình hình thực hiện bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.

8. Báo cáo số liệu và thuyết minh Quyết toán ngân sách TPHCM năm 2008, 2009 của Ủy ban nhân dân TPHCM, trình Hội đồng nhân dân Thành phố.

9. Báo cáo số liệu về lao động việc làm, thông tin thị trường lao động, dân số lao động – việc làm của Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TPHCM.

10. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Trường Đại học Kinh tế TPHCM về cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước đối với DNNVV ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế năm 2002.

11.Tạp chí phát triển kinh tế.

12. Các website vnexpress.net; Thông tấn xã Việt Nam; Hiệp hội DNNVV; Stockbiz.vn; baodautu.vn; saga.vn; tạpchitaichinh.vn; Tạp chí kinh tế và dự báo; Tạp chí thông tin và dự báo kinh tế xã hội; tuoitre.com.vn; kinhtetaichinh.com; ceohcm.com;

13. Báo cáo KOREA về đề xuất chính sách cho Quỹ bảo đảm tín dụng Việt Nam.

14. Thời báo kinh tế Việt Nam.

15. Quyết định số 24/2011/QĐ-UBND ngày 14/5/2011 về ban hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX về Chương trình hỗ trợ chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởn g kinh tế Thành phố giai đoạn 2011 – 2015.

16. “Experience Reference from the financial support practices for Japan’s Small and Medium-Sized Enterprises”, Zhaozhen Fan - Institute of National Defense Economy and Management Center University of Finance and Economics, October 2008.

17. Giáo trình tài chính công và phân tích chính sách thuế của Khoa Tài chính Nhà nước – Trường Đại học Kinh tế TPHCM, năm 2009.

18. Số liệu thống kê tình hình Doanh nghiệp (theo ngành kinh tế) trên địa bàn Thành phố của Cục Thống kê TPHCM năm 2008, 2009.