MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. 1.1 Sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ . 1.1.1 Một số khái niệm cơ bản. 1.1.2 Đặc điểm của hàng TCMN 1.1.3 Các hình thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ..................................... 1.2 Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ........................................... 1.2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân................................................................... 1.2.2 Đối với các doanh nghiệp . ...................................................................... 1. 3 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu TCMN ........................................... 1.3.1 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô....................................................... 1.3.2 Các nhân tố thuộc môi trường vi mô....................................................... 1.4 Tổng quan về thị trường Nhật Bản ............................................................. 1.4.1 Nhật bản và nhu cầu nhập khẩu thủ công mỹ nghệ .................................. 1.4.2Xu hướng nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Nhật Bản ........................ Chương II :Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu TCMN ở Việt Nam và công ty ARTEXPORT trong thời gian qua 1.1 Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam........... 1.1.1 Thực trạng về sản xuất thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề. ................... 1.1.2 Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam .................. . 1.1.3 Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản............................................................................................... . * Xuất khẩu sang Nhật Bản .............................................................................. *Xuất khẩu tại chỗ. 1.2 Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu TCMN của công ty ARTEXPORT.... . 2.2.1 Tổng quan về công ty .............................................................................. 2.2.2 Tình hình xuất khẩu của công ty sang Nhật Bản trong một só năm vừa qua ................................................................................................................... * Xuất khẩu sang Nhật Bản. * Xuất khẩu tại chỗ........................................................................................... 2.2.3 Đánh giá về thực trạng xuất khẩu sang Nhật Bản của công ty trong thời gian qua............................................................................................................ .

Chương III : Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng TCMN vào thị trường Nhật Bản 3.1 Xu thế phát triển hàng thủ công mỹ nghệ .................................................. 3.1.1 Định hướng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Đảng và Nhà nước .. 3.1.2 Xu thế phát triển hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới................ 3.2 Phương hướng kinh doanh của công ty ARTEXPORT trong thời gian tới. 3.2.1 Mục tiêu của công ty trong thời gian tới .................................................. 3.2.2 Nhiệm vụ của công ty trong thời gian tới................................................. 3. 3 Một số giải pháp vi mô.............................................................................. 3.3.1 Về nguồn nhân lực................................................................................... 3.3.2 Về hoạt động Maketing ........................................................................... 3.3.3 Hoạt động sản xuất . ................................................................................ 3.4 Các giải pháp vĩ mô.................................................................................... 3.4.1 Giải pháp về thị trường............................................................................ 3.4.2 Giải pháp phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.............................. 3.5 Một số kiến nghị đối với Nhà nước và Bộ thương mại. KẾT LUẬN

LỜI NÓI ĐẦU

Với mục tiêu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất

nước hướng về xuất khẩu, tận dụng mọi nguồn lực sẵn có đồng thời từng

bước tham gia hội nhập nền kinh tế khu vực, kinh tế thế giới thì việc tận dụng

nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước để phát triển những mặt hàng xuất

khẩu là vấn đề hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Trong chiến lược hướng vào xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu ngành

hàng, Đảng và Nhà nước đã xác định mặt hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng

xuất khẩu chiến lược, có khả năng tăng trưởng cao, nó không chỉ mang lại lợi

ích thiết thực mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội rộng lớn. Với chính sách mở

cửa nền kinh tế và tích cực tham gia vào tiến trình khu vực hoấ, toàn cầu hoá

đã mở ra nhiều cơ hội cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Trải qua những bước

thăng trầm, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện đã có mặt trên 120

nước trên thế giới. Tuy nhiên hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đang gặp

những khó khăn không nhỏ trong vấn đề sản xuất và đẩy mạnh lượng hàng

xuất khẩu và để tìm cho mình một thị trường tiêu thụ ổn định thì hướng cần

thiết nhất là khai thác để thâm nhập và mở rộng thị phần ở những thị trường

mới trong đó có Nhật Bản là một thị trường đầy tiềm năng và hứa hẹn

Quan hệ Việt Nam- Nhật Bản đã và đang diễn ra rất tốt đẹp do có

nhứng nét văn hoá truyền thống gần gũi, những mặt hàng xuất nhập khẩu của

2 nước đều có lợi thế so sánh tương đương. Vì vậy việc xem xét khả năng

thâm nhập và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang

thị trường Nhật Bản, một thị trường có dung lượng lớn là có cơ sở và rất cần

thiết. Tuy vậy, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ có được còn không ít những

khó khăn thách thức, đòi hỏi không chỉ nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp

thủ công mỹ nghệ Việt Nam mà cần có sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước

để có thể tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt

Nam vào thị trường Nhật Bản.

Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT là doanh

nghiệp Nhà nước thành lập theo quyết định của Bộ Thương mại,chuyên sản

xuất và thu mua hàng thủ công mỹ nghệ để xuất khẩu ra thị trường thế giới.

Trong bước chuyển mình của toàn ngành thủ công mỹ nghệ, công ty cũng

đang từng bước mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của

mình sang thị trường Nhật Bản, trong những bước tiến này công ty sẽ gặp

không ít những khó khăn thách thức. Trong quá trình thực tập tại công ty , em

thấy cần thiết phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu sản

phẩm của công ty sang thị trường Nhật Bản, nhất là trong bối cảnh hiện nay.

Xuất phát từ ý tưởng đó cùng với những kiến thức đã học ở trường và

những thông tin thực tế thu thập qua thời gian thực tập, em xin chọn đề tài

“Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị

trường Nhật Bản” làm đề tài cho luận văn của mình.

Đối tượng nghiên cứu tập trung vào hoạt động xuất khẩu của doanh

nghiệp bao gồm nhiều nội dung khác nhau : từ đặc điểm sản phẩm thủ công

mỹ nghệ , của xuất khẩu thủ công mỹ nghệ, vai trò của xuất khẩu và các yếu

tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cho đến thực trang hiện nay ở công ty.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu sản phẩm thủ

công mỹ nghệ của công ty ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản.

Trong đề tài này em sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, thống

kê số liệu để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng thủ

công mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT

sang thị trường Nhật Bản trong thời gian qua, kết hợp với biện pháp tìm kiếm,

thu thập những thông tin liên quan đến thị trường nhập khẩu của Nhật Bản, từ

đó đưa ra những biện pháp nhằm hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng

thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản trong thời gian tới.

Nội dung của luận văn được chia làm 3 phần như sau:

Chương I : Một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng thủ công

mỹ nghệ.

Chương II: Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu TCMN ở Việt Nam

và công ty ARTEXPORT trong thời gian qua.

Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng TCMN vào thị

trường Nhật Bản.

Trong giới hạn về khả năng cũng như thời gian em đã rất cố găng để

hoàn thiện đề tài này, tuy nhiên do hạn chế về mặt kiến thức cũng như nguồn

tài liệu nên bài viết còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến để

em có thể nhận thức một cách hoàn thiện hơn. Qua đây em xin chân thành

cảm ơn TS. Ngô Xuân Bình- thây giáo trực tiếp hướng dẫn và thầy cô giáo

trong Bộ môn Kinh tế thương mại, tập thể phòng Xuất nhập khẩu tổng hợp

9,công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT cung cấp tài liệu

và dành thời gian cũng như ý kiến đóng góp để em hoan thành luận văn này.

Em xin chân thành cảm ơn.

Chương I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG

THỦ CÔNG MỸ NGHỆ.

1 Sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ .

1.1 Một số khái niệm cơ bản.

Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đề cho thấy

làng xã Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất cũng như đời

sống nhân dân ở nông thôn. Qua thử thách của những biến động thăng trầm,

những lệ làng phép nước và phong tục tập quán ở nông thôn vẫn được duy trì

đến ngày nay.

Làng xã Việt Nam phát triển từ rất lâu đời, nó thường gắn liền với nông

nghiệp và sản xuất nông thôn. Theo kết quả nghiên cứu sử học, làng xã Việt

Nam xuất hiện từ thời các vua Hùng dựng nước, những xóm làn định canh đã

hình thành, dựa trên cơ sở những công xã nông thôn. Mỗi công xã gốm một

số gia đình sống quây quần trong một khu vực địa giới nhất định. Đồng thời

là nơi gắn bó các thành viên với nhau bằng khế ước sinh hoạt cộng đồng, tâm

thức tín ngưỡng,lễ hội, tập tục, luật lệ riêng nhằm liên kết với nhau trong quá

trình sản xuất và đời sống.

Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn người dân đều làm

nông nghiệp, càng về sau có những bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, họ

liên kết chặt chẽ với nhau, khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một số tổ

chức theo nghề nghiệp, tạo thành các phường hội: phường gốm, phường đúc

đồng, phường dệt vải…từ đó, các nghề được lan truyền và phát triển thành

làng nghề. Bên cạnh những người chuyên làm nghề thì đa phần vừa sản xuất

nông nghiệp, vừa làm nghề phụ. Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hoá, các

nghề mang tính chuyên môn sâu hơn và thường chỉ giới hạn trong quy mô

nhỏ dần dần tách khỏi nông nghiệp để chuyển hẳn sang nghề thủ công.

Những làng nghề phát triển mạnh, số hộ, số lao động làm nghề truyền thống

tăng nhanh và sống bằng nghề đó ngày càng nhiều.

Như vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền

thống và các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh dân

tộc . Quá trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ

công nghiệp ở nông thôn. Lúc đầu sự phát triển đó từ một vài gia đình rồi đến

cả họ và lan ra cả làng. Trải qua một quá trình lâu dài của lịch sử, lúc thịnh,

lúc suy, có những nghề được gìn giữ, có những nghề bị mai một hoặc mất hẳn

và có những nghề mới ra đời. Trong đó có những nghề đạt tới trình độ công

nghệ tinh xảo với kỹ thuật điêu luyện và phân công lao động khá cao.

Theo đó ta có thể đưa ra một số khái niệm sau:

Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn( làng) có một

hay một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh

doanh độc lập. Thu nhập của các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá

trị sản phẩm của toàn làng.

Làng nghề truyền thống

Để làm rõ khái niệm về làng nghề truyền thống cần có những tiêu thức

sau

- Số hộ và số lao động làm nghề truyền thống ở làng nghề đạt từ 50%

trở lên so với tổng số hộ và lao động của làng.

- Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt

trên 50% tổng giá trỉan xuất và thu nhập của làng trong năm.

- Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét yếu tố văn hoá và

bản sắc dân tộc Việt Nam.

- Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định được truyền từ thế hệ này

sang thế hệ khác.

Từ những tiêu thức trên có thể định nghĩa về làng nghề truyền thống

như sau: “Làng nghề truyền thống là những thôn làng có một hay nhiều nghề

thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh

và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu trong năm. Những nghề thủ

công đó được truyền từ đời náy sang đời khác, thường là qua nhiều thê hệ.

Cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành

nghề nổi trội, một nghề cổ truyền tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công

chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình

công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính

mỹ nghệ và đã trở thành hàng hoá trên thị trường.”

Ngành nghề truyền thống là những ngành nghề tiểu thủ công nghiệp

đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển kinh tế của nước ta còn tồn tại cho

đến ngày nay, bao gôm cả ngành nghề mà phương pháp sản xuất được cải tiến

hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ cho sản xuất nhưng vẫn tuân

thủ công nghệ truyền thống.

Như vậy từ các định nghĩa trên ta có thể hiểu cụ thể về hàng thủ công

mỹ nghệ như sau: sản phẩm thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm mang

tính truyền thống và độc đáo của từng vùng, có giá trị chất lượng cao, vừa là

hàng hoá, vừa là sản phẩm văn hoá, nghệ thuật, mỹ thuật, thậm chí có thể trở

thành di sản văn hoá của dân tộc, mang bản sắc văn hoá của vùng lãnh thổ

hay quốc gia sản xuất ra chúng.

Hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm các nhóm hàng sau:

1. Nhóm sản phẩm từ gỗ( gỗ mỹ nghệ)

2. Nhóm hàng mây tre đan

3. Nhóm sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ

4. Nhóm hàng thêu

1.2 Đặc điểm của hàng TCMN

1.2.1. Tính văn hoá

Khác với sản xuất công nghiệp, trong sản xuất tiểu thủ công , lao động

chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo và đầu óc sáng tạo của người thợ, người

nghệ nhân. Sản phẩm làm ra bừa có giá trị sử dụng nhưng lại vừa mang dấu

ấn bàn tay tài hoa của người thợ và phong vị độc đáo của một miền quê nào

đó.Cũng chính vì vậy mà hàm lượng văn hoá ở các sản phẩm thủ công mỹ

nghệ được đánh giá cao hơn nhiều so với hang công nghiệp sản xuất hàng

loạt. Ngay từ khi phát hiện ra các sản phẩm trống đồng Đông Sơn, trống đồng

Ngọc Lũ, thế giới đã biết đến một nền văn hoá Việt Nam qua những sản phẩm

phản ánh sinh động và sâu sắc nền văn hoá, tư tưởng và xã hội thời đại Hùng

Vương. Cho đến nay, những sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm tính văn

hoá như gốm Bát Tràng, hay bộ chén đĩa, tố sứ cao cấp có hình hoa văn Châu

á, mang đâm nét văn hoá Việt Nam như chim lạc, thần kim quy, hoa sen…đã

được xuất khẩu rộng rãi ra khắp thế giới, người ta đã có thể tìm hiểu phần nào

văn hoá của Việt Nam .

Có thể nói đặc tính này là điềm thu hút mạnh mẽ đối với khách hàng

nhất là khách quốc tế, nó tạo nên một ưu thế tuyệt đối cho hàng thủ công mỹ

nghệ và được coi như món quà lưu niệm đặc biệt trong mỗi chuyến du lịch

của du khách nước ngoài. Khách du lịch khi đến thăm Việt Nam không thể

không mang theo về nước một món đồ thủ công mỹ nghệ , cho dù ở nước họ

có thể sản xuất ra nhưng sẽ không thể mang hồn bản sắc văn hoá của Việt

Nam . Sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ là hàng hoá đơn thuần mà trở

thành sản phẩm văn hoá có tính nghệ thuật cao và được coi là biểu tượng của

nghề truyền thống của dân tộc Việt Nam .

1.2.2 Tính mỹ thuật

Sản phẩm mang tính mỹ thuật cao, mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ là

một tác phẩm nghệ thuật, vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị thẩm mỹ. Nhiều

loịa sản phẩm vừa là phục vụ tiêu dùng , vừa là vật trang trí trong nhà, đền

chùa nơi công sở…các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ

công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Khác với các sản phẩm công

nghiệp được sản xuất hàng loạt bằng máy móc, hàng thủ công mỹ nghệ có giá

trị cao ở phương diện nghệ thuật sáng tạo thì chỉ được sản xuất bằng công

nghệ mang tính thủ công, chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo của người

thợ. Chính đặc điểm này đã đem lại sự quý hiếm cho các sản phẩm thủ công

mỹ nghệ. Nhờ đó, tai các hội chợ quốc tế như EXPO, hội chợ ở NEW

YORK , Milan( ý) …hang thủ công mỹ nghệ đã gây được sự chú ý của khách

háng nước ngoài bởi sự tinh xảo trong các đường nét hoa văn trạm trổ trên

các sản phẩm , hay những kiể u dáng mẫu mã độc đáo, mặc dù nguyên liệu rất

đơn giản có khi chỉ là một hòn đá, xơ dừa…qua bàn tay tài hoa của các nghệ

nhân đã trở thành các tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao.

1.2.3 Tính đơn chiếc

Hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống đều mang tính cá biệt và có sắc

thái riêng của mỗi làng nghề. Cùng là đồ gốm sứ, nhưng người ta vẫn có thể

phân biệt được đâu là gốm Bát Tràng, Thồ hà, Hương Canh…nhờ các hoa

văn, màu men, hoạ tiết trên đó. Bên cạnh đó, tính đơn chiếc có được là do

hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam mang hồn của dân tộc Việt Nam , mang nét

văn hoá và bản sắc của dân tộc Việt Nam , chính vì vậy hàng của Trung

Quốc hay Nhật bản cho dù có phong phú hay đa dạng đến đâu cũng không

thể có được những nét đặc trưng đó,cho dù kiểu dáng có thể giống nhưng

không thể mang “hồn” của dân tộc Việt Nam . Cùng với đặc trưng về văn

hoá, tính riêng biệt đã mang lại ưu thế tuyệt đối cho hàng thủ công mỹ nghệ

của Việt Nam trong xuất khẩu . Đối với Việt Nam và cả khách hàng nước

ngoài, nó không những có giá trị sử dụng mà còn thúc đẩy quá trình giao lưu

văn hoá giữa các dân tộc.

1.2.4 Tính đa dạng

Tính đa dạng của sản phẩm thủ công mỹ nghệ thể hiện ở phương thức ,

nguyên liệu làm nên sản phẩm đó và chính nét văn hoá trong sản phẩm.

Nguyên liệu làm nên sản phẩm có thể là gạch, đất, cói , dây chuối, xơ

dừa…mỗi loại sẽ tạo nên một sản phẩm thủ công mỹ nghệ với những sắc thái

khác nhau, cho người sử dụng có những cảm nhận khác nhau về sản phẩm. Là

một đôi dép đi trong nhà, nhưng dép làm bằng cói đã quá cũ đối với người

tiêu dùng nên hiện nay, các nghệ nhân sử dụng chất liệu dây chuối, tạo cảm

giác rất mới lạ, vừa có màu vàng ngà của chuối vừa có mầu mốc tự nhiên của

thân chuối…Bên cạnh đó, tính đa dạng còn được thể hiện qua những nét văn

hoá trên sản phẩm thủ công mỹ nghệ bởi vì mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ

đêù mang những nét văn hoá đặc trưng của từng vùng, từng thời đại sản xuất

ra chúng. Chính vì vậy trên thị trường có rất nhiều loại sản phẩm thủ công mỹ

nghệ, mỗi loại đều có sự khác biệt rõ rệt, không đồng nhất. Cũng là đồ gốm

sứ nhưng người ta vẫn có thể thấy đâu là gốm Việt Nam , gốm Nhật Bản ,

gốm Trung quốc…

1.2.5 Tính thủ công

Có thể cảm nhận ngay tính thủ công qua tên gọi của sản phẩm thủ công

mỹ nghệ. Tính chất thủ công thể hiện ở công nghệ sản xuất, các sản phẩm đều

là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo và sáng tạo nghệ thuật.

Chính đặc tính này tạo nên sự khác biệt giữa sản phẩm thủ công mỹ nghệ và

những sản phẩm công nghiệp hiện đại được sản xuất hàng loạt và ngày

nay,cho dù không sánh kịp tính ích dụng của các sản phẩm này nhưng sản

phẩm thủ công mỹ nghệ luôn gây được sự yêu thích của người tiêu dùng.

1.3 Xuất khẩu thủ công mỹ nghệ và vai trò của xuất khẩu hàng thủ

công mỹ nghệ

1.3.1 Các hình thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

Sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác hàng hoá khác ở chỗ nó vừa có thể

sử dụng vừa có thể là vật trang trí, làm đẹp cho nhà cửa, văn phòng hay cũng

có thể là đồ lưu niệm hấp dẫn trong mỗi chuyến du lịch của khách quốc tế.

Chính vì vậy, hàng thủ công mỹ nghệ có thể được xuất khẩu ra nước ngoài

theo 2 phương thức sau:

- Xuất khẩu tại chỗ: khi khách du lịch đến từ nước ngoài vào Việt Nam

và mua hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất tại Việt Nam. Với xu hướng phát

triển của du lịch như hiện nay, hình thức xuất khẩu này sẽ góp phần đáng kể

vào kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hàng năm.

- Xuất khẩu ra nước ngoài: là hình thức các doanh nghiệp bán hàng thủ

công mỹ nghệ cho các đối tác nước ngoài bằng cách mang hàng sang tận nơi

băng các phương tiện vận tải khác nhau và phải chịu sự ràng buộc của một số

thủ tục xuất khẩu nhất định.

1.3.2 Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

1.3.2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân.

* Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp

hoá- hiện đại hoá đất nước.

Việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta trong mấy năm gần

đây đã mang lại cho nước ta nguồn ngoại tệ lớn, đóng góp không nhỏ cho sự

phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cụ thể trong năm 2003 Việt Nam đã xuất

khẩu được gần 400 triệu USD, và tính đến tháng 4 năm nay, kim ngạch hàng

thủ công mỹ nghệ đã đạt trên 100 triệu USD, tăng 10% so với năm ngoái.

Đây là nguồn thu ngoại tệ to lớn thực thu về cho đất nước từ nguồn nguyên

liệu rẻ tiền có sẵn trong tự nhiên và từ lực lượng lao động nhàn rỗi ở các vùng

nông thôn nước ta.

Nhờ có nguồn vốn đó, các làng nghề truyền thống Việt Nam có điều

kiện đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động sản xuất

kinh doanh, đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề và kỹ thuật cao cho ngành

thủ công mỹ nghệ.

* Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng hiện đại hoá

Chuyển dịch cơ cấu nông thôn là nhằm phát triển kinh tế nông thôn lên

một bước về chất, làm thay đổi cơ cấu sản xuất , cơ cấu lao động, cơ cấu việc

làm , cơ cấu giá trị sản lượng và cơ cấu thu nhập cua ra dân cư nông thôn

bằng các nguồn lợi thu được từ các lĩnh vực trong nông nghiệp và phi nông

nghiệp. Với mục tiêu như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

thôn ngày càng được thúc đẩy, nó diễn ra ngay trong nội bộ ngành công

nghiệp và cả các bộ phận hợp thành khác của cơ cấu kinh tế nông thôn. Việc

phát triển các làng nghề truyền thống dẫ có vai trò tích cực trong việc góp

phần tăng tỉ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ

trọng của nông nghiệp, chuyển từ lao động sản xuất nông nghiệp thu nhập

thấp sang ngành nghề nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Ngay từ đầu khi

nghề thủ công xuất hiện thì kinh tế nông thôn không chỉ có ngành nông

nghiệp thuần nhất mà bên cạnh còn có các ngành thủ công nghiệp, thương

mại và dịch vụ cùng tồn tại phát triển.

Mặt khác có thể thấy kết quả sản xuất ở các làng nghề cho thu nhập va

giá trị sản lượng cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp. Do từng bước tiếp

cận với nền kinh tế thị trường, năng lực thị trường được nâng lên người lao

động nhanh chóng chuyển sang đầu tư cho các ngành nghề phi nông nghiệp,

dặc biệt là những sản phẩm có khả năng tiêu thụ mạnh ở thị trường trong

nước và ngoài nước. Khi đó khu vực sản xuất nông nghiệp sẽ bị thu hẹp , khu

vực sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp được tăng lên.

Làng nghề truyền thống phát triển đã tạo cơ hội cho hoạt động dịch vụ

ở nông thôn mở rộng địa bàn hoạt động thu hút nhiều lao động. Khác với sản

xuất nông nghiệp, sản xuất trong các làng nghề là một quá trình liên tục, đòi

hỏi sự cung cấp thường xuyên trong việc cung ứng vật liệu và tiêu thụ sản

phẩm . Do đó dịch vụ nông thôn phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức đa

dạng và phong phú , đem lại thu nhập cao cho người lao động.

Như vậy, sự phát triển của làng nghề truyền thống có tác dụng rõ rệt

với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo yêu cầu của sự

nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Sự phát triển lan toả của làng nghề

truyền thống đã mở rộng quy mô và địa bàn sản xúât, thu hút rất nhiều lao

động. Cho đếnnay cơ cấu kinh tế ở nhiều làng nghề đạt 60-80% cho công

nghiệp và dịch vụ, 20-40% cho nông nghiệp.

* Tạo việc làm và nâng cao đời sống nhân dân.

Tác động của xuất khẩu thủ công mỹ nghệ đến đời sống bao gồm rất

nhiều mặt. Trước hết thông qua mặt sản xuất hàng xuất khẩu với nhiều công

đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập

không thấp tăng gía trị lao động tăng thu nhập quốc dân. Bên cạnh đó, xuất

khẩu thủ công mỹ nghệ còn tạo nguồn để nhập nguồn vật phẩm tiêu dùng

thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một phong

phú của nhân dân và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao

động .

- Tạo việc làm cho người lao động.

Trên phương diện xã hội đẩy mạnh xuất khẩu thủ công mỹ nghệ đã

kích thích việc phát triển các làng nghề truyền thống. Hiện nay trong các làng

nghề truyền thống bình quân mỗi cơ sở chuyên làm nghề tạo việc làm ổn định

cho 27 lao động thường xuyên và 8 đến 10 lao động thời vụ, mỗi hộ chuyên

nghề tạo việc làm cho 4 đến 6 lao động thường xuyên và 2 đến 5 lao động

thời vụ. Đặc biệt ở nghề dệt, thêu ren, mây tre đan, mỗi cơ sở có thể thu hút

200 đến 250 lao động.

Nhiều làng nghề không những thu hút lực lượng lao động lớn ở địa

phương mà còn tạo việc làm cho nhiều lao động ở các địa phương khác. Làng

gốm bát tràng ngoài việc giải quyết việc làm cho gần 2430 lao động của xã,

còn giải quyết thêm việc làm cho khoảng 5500 đến 6000 lao động của các khu

vực lân cận đến làm thuê.

Mặt khác, sự phát triển của các làng nghề truyền thống đã kéo theo sự

phát triển và hình thành của nhiều nghề khác, nhiều hoạt động dịch vụ liên

quan xuất hiện, tạo thêm nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động. Ngoài

các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất trực tiếp còn có các dịch vụ khác như

dịch vụ tín dụng ngân hàng.

Từ kinh nghiệm thực tiễn đã tính toán cho thấy cứ xuất khẩu 1 triệu

USD hàng thủ công mỹ nghệ thì tạo được việc làm và thu nhập cho khoảng

3000 đến 4000 lao động chủ yếu là lao động tại các làng nghề nông thôn,

trong đó có lao đông nông nhàn tại chỗ và các vùng lân cận( trong khi đó chế

biến hạt điều thì 1 triệu USD kim ngạch xuất khẩu chỉ thu hút được 400 lao

động).

- Nâng cao và cải thiện đới sống nhân dân.

Ngoài việc được coi là động lực gián tiếp giải quyết việc làm cho người

lao động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ còn góp phần tăng thu nhập và cải

thiện đời sống cho người lao động ở nông thôn. ở nơi nào có ngành nghề phát

triển thì nơi đó thu nhập cao và mức sống cao hơn các vùng thuần nông. Nếu

so sánh với mức thu nhập lao động nông nghiệp thì thu nhập của lao động

ngành nghề cao hơn khoảng 2 đến 4 lần, đặc biệt là so với chi phí lao động và

diện tích sử dụng đất thấp hơn nhiều so với sản xuất nông nghiệp. Bình quân

thu nhập của 1 lao động trong hộ chuyên ngành nghề phi nông nghiệp là

430000- 450000 đồng / tháng, ở hộ kiêm nghề từ 190000- 240000 đồng/

tháng, trong khi đó ở hộ lao động thuần nông chỉ có khoảng 70000-100000

đồng/ người/ tháng. Có những làng nghề có thu nhập cao như làng gốm Bát

Tràng : Mức bình quân thu nhập của các hộ thấp cũng đạt từ 10-20 triệu/năm.

Thu nhập từ nghề gốm sứ Bát Tràng chiếm tới 86% tổng thu nhập của toàn

xã. Vì vậy thu nhập của các làng nghề truyền thống đã tạo ra sự thay đổi khá

lớn trong cơ cấu thu nhập của hộ gia đình và của địa phương.

Sự phát triển ổn định của làng nghề tạo ra nguồn hàng ổn định đối với

các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này . từ đó tạo ra sự thuận lợi trong

kinh doanh, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, đồng thời nâng cao thu

nhập và mức sống cho người lao động.

Ngoài ra việc khôi phục và sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn

kéo theo nhiều ngành khác phát triển nhất là ngành du lịch và các ngành dịch

vụ có liên quan. Sản xuất thủ công mỹ nghệ và du lịch là 2 nhân tố có tác

động 2 chiều . Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ luôn là một nét hấp dẫn rất

quan trọng và ấn tượng đối với khách du lịch nhất khách du lịch văn hoá ,các

sản phẩm càng đa dạng phong phú càng có tác dụng thu hút mạnh mẽ du

khach tới tham quan, qua đó các dịch vụ về du lịch phát triển đồng thời hàng

thủ công mỹ nghệ của Việt Nam cũng được các nước bạn biết đến nhiều hơn,

đây chính là một biểu hiện của hình thức xuất khẩu tại chỗ. Ngược lại, nếu du

lịch phát triển, có nhiều khách du lịch đến tham quan tại các làng nghề c sản

phẩm thủ công mỹ nghệ sẽ được biết đến nhiều hơn, được quảng bá nhiều

hơn, đó cũng là một hình thức khuyêch trương giới thiệu sản phẩm của Việt

Nam ra nước ngoài, từ đó ta có thể mở rộng quan hệ kinh doanh và có thể

tăng kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ.

* Xuất khẩu TCMN là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế

đối ngoại của nước ta.

Đẩy mạnh xuấu khẩu nói chung và thủ công mỹ nghệ nói riêng có vai

trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của

nước ta trên thị trường quốc tế…Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và công

nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng đầu tư, mở rộng vận tải

quốc tế…Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta kể trên

lại tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu.

Có thể nói xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ đóng vai trò

xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như

là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc

nội bộ nền kinh tế như: vốn , kỹ thuật, lao động, thị trường tiêu thụ…Đối với

nước ta, hướng mạnh về xuất khẩu hàng là một trong những mục tiêu quan

trọng trong phát triển kinh tế đối ngoại.

* Góp phần giữ gìn các giá trị văn hoá và ngành nghề truyền thống

của dân tộc.

Lịch sử phát triển của các làng nghề truyền thống luôn gắn liền với lịch

sử phát triển văn hoá của dân tộc, nó là nhân tố tạo nên nền văn hoá ấy đồng

thời là sự biểu hiện tập trung nhất bản sắc của dân tộc.

Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là sự kết tinh của lao động vật chất và lao

động tinh thần, nó được tạo nên bởi bàn tay tài hoa và trí óc sáng tạo của

người thợ thủ công. Vì vậy mỗi sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật chứa

đựng nét đặc sắc của dân tộc, đồng thời thể hiện những sắc thái riêng, đặc tính

riêng của mỗi làng nghề và mang mỗi dấu ấn của mỗi thời kỳ. Tìm hiểu lịch

sử của mỗi làng nghề ta thấy kỹ thuật chế tác ra các sản phẩm có từ rất xa xưa

và được bảo tồn đến ngày nay. Kỹ thuật đúc đồng và hợp kim đồng thau đã có

từ thời văn hoá Đông Sơn - một nền văn hoá với những thành tựu rực rỡ, đặc

biệt là trống đồng Ngọc Lũ gắn liền với lịch sử thời Hùng Vương dựng nước.

Cho đến sau này nghề đúc đồng vẫn để lại những dấu ấn lịch sử. Mới đây nhất

ta thấy có tượng phật mới đúc được đặt ở chùa Non Nước cao và nặng nhất

Đông nam á.

Ngày nay các sản phẩm thủ công mỹ nghệ với tính độc đáo và độ tinh

xảo của nó vẫn có ý nghĩa rất lớn với nhu cầu đời sống của con người. Những

sản phẩm này là sự kết tinh, sự bảo tồn các giá trị văn hoá lâu đời của dân tộc,

là sự bảo lưu những văn hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời

khác tạo nên những thế hệ nghệ nhân tài ba với những sản phẩm độc đáo

mang bản sắc riêng. Chính vì vậy xuất khẩu thủ công mỹ nghệ không những

góp phần bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá của dân tộc Việt nam mà

còn có nhằm quảng bá chúng trên khắp thế giới .

1.3.2.2 Đối với các doanh nghiệp .

Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu

thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Nhờ có xuất khẩu mà tên tuổi của

các doanh nghiệp không chỉ được khách hàng trong nước biết đến mà còn có

mặt ở thị trường nước ngoài.

Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp , tăng dự trữ, qua

đó nâng cao khả năng nhập khẩu ,thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết

bị phục vụ cho quá trình phát triển.

Xuất khẩu phát huy cao tính năng động sáng tạo của các cán bộ xuất

nhập khẩu cũng như các đơn vị tham gia, tích cực tìm tòi và phát triển các mặt

hàng trong khả năng xuất khẩu vào các thị trường có khả năng thâm nhập.

Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn

thiện công tác quản trị kinh doanh , đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài

tuổi thọ chu kỳ sống của sản phẩm .

Xuất khẩu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi lẫn nhau giữa các đơn vị tham

gia xuất khẩu trong và ngoài nước. Chính vì vậy, các doanh nghiệp buộc phải

nâng cao chất lượng hàng hoá, tìm mọi cách để nâng cao chất lượng sản

phẩm, hạ giá thành, từ đó tiết kiệm các yếu tố đầu vào hay tiết kiệm nguồn

lực.

Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao

động và tăng thêm thu nhập,ổn định đời sống cán bộ công nhân viên và tăng

lợi nhuận cho doanh nghiệp.

Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan

hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đôi bên cùng

có lợi.

1. 4 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu TCMN

1.4.1 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô

* Chính trị và pháp luật

Các yếu tố chính trị và pháp luật có thể ảnh hưởng đến việc mở rộng

phạm vi thị trường cũng như dung lượng thị trường, ngoài ra cũng có thể mở

rộng nhiều cơ hội kinh doanh hấp dẫn trên thị trường quốc tế. Các yếu tố

chính trị có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xuất khẩu : sự bất ổn về chính trị

sẽ làm chậm lại sự tăng trưởng, kìm hãm sự phát triển của khoa học công

nghệ gây khó khăn cho việc cải tiển công nghệ, tăng chất lượng sản phẩm

xuất khẩu.

Luật pháp cũng là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới xuất khẩu. Bất kì

doanh nghiệp nào muốn kinh doanh xuất khẩu muốn tồn tại và phát triển lâu

dài thì phải tuân thủ pháp luật, không những pháp luật của nước mình mà

con tuân thủ luật pháp nước nhập khẩu. Nghiên cứu kỹ chế độ chính trị và

pháp luật sẽ giúp các doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.

1.4.2 Chính sách kinh tế

* Chính sách về thúe quan và công cụ phi thuế quan.

Hệ thống thuế quan cũng là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới hoạt

động xuất khẩu thông qua thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu nguyên liệu sản

xuất hàng hoá phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Nếu như thuế nhập

nguyên vật liệu quá cao sẽ làm chi phí sản xuất cao dẫn đến giá thành hàng

hoá xuất khẩu cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá, giảm lợi

nhuận cho nhà xuất khẩu, và như vậy làm giảm lượng xuất khẩu và ngược lại.

Các công cụ phi thuế quan như hạn ngạch nhập khẩu đối với nguyên

vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu và hạn ngạch xuất khẩu

cũng gây khó khăn rất lớn cho hoạt động xuất khẩu.

Vì những ảnh hưởng đó, để khuyến khích xuất khẩu Chính phủ thường

miễm thuế xuất khẩu và giảm thuế nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất

hàng hoá xuất khẩu đối với những mặt hàng có lợi thế sản xuất . Chính phủ

thường áp dụng hạn ngạch xuất khẩu đối với những hàng hoá mà sản xuất

không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước và tăng thuế nhập khẩu đối với nguyên

vật liệu dùng để sản xuất hàng hóa xuất khẩu .

* Chính sách tỷ giá hối đoái

Trong thanh toán quốc tế, người ta thường sử dụng những đồng tiền

của các nước khác nhau, do vậy tỷ suất ngoại tệ so với đồng tiền trong nước

có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu: nếu tỷ gia hôi đoái lớn hơn tỷ

suất lợi nhuận thì hoạt đông xuất khẩu có lãi, vì vậy thúc đẩy xuất khẩu và

ngược lại. Chính vì thế mà tỷ giá hối đoái trở thành một công cụ điều tiết của

Nhà nước.

* Hệ thống ngân hàng tài chính.

Hoạt động xuất nhập khẩu liên quan chặt chẽ đến vấn đề thanh toán

quốc tế, thông qua hệ thống Ngân hàng Tài chính giữa các quốc gia. Nó tạo ra

những điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán được thực hiện một cách đơn

giản, nhanh chóng, chắc chắn. Nhờ có hệ thống ngân hàng này dẽ đảm bảo

rằng người bán sẽ thu được tiền và người mua sẽ nhận được hàng , làm giảm

bớt việc phài dành nhiều thời gian và chi phí để các bên đối tác tìm hiểu nhau.

Nếu như một quốc gia có hệ thống tài chính phát triển, hiện đại thì đó

cũng là một điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước trong hoạt

động xuất khẩu và ngược lại.

*Khả năng sản xuất

Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam chịu sự tác động của

nhiều nhân tố, những nhân tố này có sự biên đổi trong từng thời kỳ và tác

động theo chiều hướng khác nhau. Chúng có thể là những nhân tố thúc đẩy

nhng ngược lại cũng có thể là những nhân tố kìm hãm sự phát triển của sản

xuất. ở mỗi vùng, mỗi địa phơng, mỗi làng nghề do có những đặc đIểm khác

nhau về các đIều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội , văn hóa nên sự tác động của

các nhân tố này là không giống nhau. Có thể hiểu một cách kháI quát chúng

bao gồm các nhân tố sau:

Thứ nhất, nguồn nhân lực: là một trong những nguồn lực quan trọng

nhất của sản xuất. tại các làng nghề, nguồn nhân lực chính là các nghệ nhân,

những người thợ thủ công , và những chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Những

nghệ nhân là người có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy

nghề, đồng thời là những người sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo mang

đậm tính truyền thống. Có được nguồn nhân lực có tay nghề và trình độ cao

sẽ là một yếu tố thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ.

Thứ hai, nguồn vốn: đây là nguồn lực vật chất rất quan trọng trong

quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ chủ yếu nhất của nguồn

vốn là đầu tư phát triển sản xuất , đầu tư phát triển cơ sở vật chật và kết cấu

hạ tầng, đầu tư đổi mới công nghệ. Vì vậy phát triển sản xuất hàng thủ công

mỹ nghệ phụ thuộc rất lớn vào các nguồn vốn huy động được. Trước đây,

vốn của các hộ sản xuất kinh doanh đều rất nhỏ bé, chủ yếu là vốn tự có nên

đã làm hạn chế việc tăng trởng sản xuất. Ngày nay, sự phát triển của thị trư-

ờng luôn đòi hỏi lượng vốn rất lớn để đáp ứng các nhu cầu của thị trường. Vì

vậy rất cần sự hỗ trợ tích cực và cụ thể từ phía nhà nước, đặc biệt là việc đề

ra những chính sách phù hợp với đặc đIểm sản xuất của các làng nghề truyền

thống để có thể đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất và xuất khẩu.

Thứ ba, nguồn nguyên vật liệu: trong những giai đoạn trước đây, gần

nguồn nguyên vật liệu được coi là một trong những điều kiện tạo nên sự hình

thành và phát triển của các cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ hay các làng

nghề truyền thống. Song hiện nay vấn đề này trở nên không quan trọng đối

với sự phát triển của các làng nghề bởi sự hỗ trợ tích cực của các phương tiện

giao thông và các phương tiện kỹ thuật. Tuy nhiên vấn đề khối lượng chất

lượng, chủng loại và khoảng cách của các nguồn nguyên liệu này vẫn có

những ảnh hưởng nhất định tới chất lượng và giá thành sản phẩm. Nếu có

được nguồn nguyên vật liệu ổn định dẫn đến sản xuất cũng ổn định, các nhà

xuất khẩu sẽ có nguồn hàng thường xuyên, tạo uy tín cho doanh nghiệp.

Thứ tư, trình độ kỹ thuật và công nghệ: trong điều kiện hiện nay, khi

mà giao lưu thương mại mang tính toàn cầu hoá thì việc ứng dụng khoa học

công nghệ mới có ý nghĩa quyết định, có tác động trực tiếp tới sự đảm bảo và

nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nhận thức được điều đó, nhiều

làng nghề thủ công mỹ nghệ đã đẩy mạnh việc áp dụng kỹ thuật và đổi mới

công nghệ, cải tiện phương pháp sản xuất để nâng cao năng suất lao động và

chất lượng sản phẩm, hạ giá thành tạo ra sự phát triển mạnh mẽ và ổn định

cho ngành. Tuy nhiên, việc áp dụng khoa học kỹ thuật không phải là hoàn

toàn mà vẫn phải giữ nét văn hoá và truyền thống cốt yếu trong mỗi sản phẩm

thủ công mỹ nghệ .

Thứ năm, kết cấu hạ tầng : bao gồm hệ thống các đường giao thông,

điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông. Thực tế cho thấy rõ, sản xuất thủ

công mỹ nghệ chỉ có thể phát triển mạnh ở những nơi có kết cấu hạ tầng đảm

bảo và đồng bộ. Đây là yếu tố có tác dụng tạo điều kiện tiền đề cho sự ra đời

và phát triển của các cơ sở sản xuất, tạo tiền đề khai thác và phtá huy tiềm

năng sẵn có của các làng nghề. Sự phát triển của yếu tố này sẽ đảm bảo vận

chuyển và cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, đưa nhanh tiến bộ

khoa học và công nghệ mới vào sản xuất, đồng thời làm giảm thiểu ô nhiễm

môi trường. Hệ thống thông tin liên lạc bưu chính viễn thông giúp doanh

nghiệp nắm bắt các thông tin thị trường để có những ứng xử kịp thời.

1.4.3 Các nhân tố thuộc môi trường vi mô

* Tiềm lực tài chính

Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông

qua khối lượng nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh,

khả năng phân phối( đầu tư) có hiệu quả nguồn vốn. Khả năng quản lý có

hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện qua cá

chỉ tiêu: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận, khả năng

trả nợ ngắn hạn và dài hạn…

* Tiềm năng con người

Trong kinh doanh con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo

thành công. Chính con người với năng lực của họ mới lựa chọn đúng cơ hội

và sử dụng sức mạnh khác mà họ đã có như vốn, tài sản, kỹ thuật công nghệ

một cá

* Trình độ tổ chức quản lý.

Mối doanh nghiệp là mọt hệ thống với những liên kết chặt chẽ với nhau

để hướng tới mục tiêu. Một doanh nghiệp muốn hướng tới mục tiêu của mình

thì đồng thời phải đạt tới một trình độ tổ chức quản lý tương ứng.Khả năng tố

chức quản lý doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp, bao quát , tập trung

vào những mối liên hệ tương tác của tất cả các bộ phận tạo nên sức mạnh thật

sự của doanh nghiệp.

* Cơ sở vật chất kỹ thuật.

Cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định doanh nghiệp có

thể huy động vào kinh doanh : thiết bị, nhà xưởng…Nếu doanh nghiệp có cơ

sở vật chất ngày càng đầy đủ và hiện đại thì khả năng nắm bắt thông tin cũng

như việc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu thuận tiện và hiệu quả

cao.

* Hoạt động Marketing

Trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hoá thì việc tiếp thị, tìm

đẩu ra cho sản phẩm là hết sức quan trọng và chức năng này thuộc về các hoạt

động Marketing. Hoạt động này bao gồm: nghiên cứu thị trường, xác định thị

phần, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm và nhiệm vụ chính của nó là quảng bá sản

phẩm cho doanh nghiệp . Đối với hoạt động xuất khẩu thì hoạtđộng này là rất

khó khăn nhưng cũng rất quan trọng. Khó khăn là ở chỗ việc quảng bá, tiếp

thị sản phẩm là rất tốn kém, hơn nữa xuất khẩu là bán hàng ra nước ngoài nên

việc tìm hiểu thói quen tiêu dùng…là rất phức tạp và tốn nhiều thời gian.

* Hoạt động tạo mẫu sản phẩm.

Hoạt động tạo mẫu sản phẩm là việc nghiên cứu thiết kế sản phẩm

mới, tính năng mới nhằm đưa ra thị trường những loại sản phẩm được người

tiêu dùng đón nhận và đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Trong hoạt động

xuất khẩu thì việc thiết kế sản phẩm phù hợp với nhu cầu và thị hiếu người

tiêu dùng tại thị trường nhập khẩu được coi là bước thành công ban đầu của

doanh nghiệp, ngược lại, nếu công tác này không tốt doanh nghiệp sẽ chịu tổn

thất lớn do không tiêu thụ được sản phẩm đã sản xuất ra.

* Hoạt động sản xuất

Hoạt động sản xuất là một quắ tình bao gồm: thu mua nguyên vật liệu,

phụ liệu để sản xuất, sản xuất và đóng gói. Trong hoạt động xuất khẩu thì một

đòi hỏi rất khắt khe đó là chất lượng sản phẩm và thời hạn giao hàng. Chất

lượng sản phẩm phải đáp ứng theo đúng yêu cầu của đối tác xuất khẩu về

chất liệu, mẫu mã. Trong quá trình sản xuất ngoài việc đảm bảo chất lượng

sản phẩm còn phải đảm bảo tiến độ sản xuất để kịp giao hàng đúng thời hạn.

Nếu không đảm bảo những yêu cầu trong hợp đồng của đối tác thì doanh

nghiệp trước hết bị mất uy tín trong kinh doanh và sau đó phải bồi thường

hợp đồng gây thiệt hại về tài chính.

1.5 Tổng quan về thị trường Nhật Bản

1.5.1 Nhật Bản và nhu cầu nhập khẩu thủ công mỹ nghệ.

* Đặc điểm thị trường Nhật Bản.

Nhật Bản là một thị trường mở quy mô rộng lớn với dân số 127 triệu

người có mức sống khá cao( GDP theo đầu người năm 2001 là 32.585 USD)

và GDP năm 2003 là 4,143 tỷ USD. Nhật Bản là một trong những nước có

nền công nghiệp phát triển mạnh và đứng hàng đầu thế giới. Nhưng do đặc

điểm về địa lý, Nhật Bản là một trong những nước rất hiếm về tài nguyên

thiên nhiên, ngoại trừ nguồn hải sản, do đó hầu hết các sản phẩm gia

dụng,trang trí nội ngoại thất đặc biệt là các hàng thủ công mỹ nghệ mà chủ

yếu là nguyên liệu tự nhiên, đều phải nhập khẩu.

* Tập quán tiêu dùng

Việc nắm rừ đặc điểm tiêu dùng và tính cách kinh doanh của người

Nhật sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam giao tiếp và kinh doanh thành công

với họ.

Thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản rất đa dạng nhưng cũng khá độc

đáo. Theo Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, người tiêu dùng Nhật rất chú ý

đến chất lượng hàng hoá. Sống trong môi trường có thu nhập cao nên người

Nhật Bản thường đũi hỏi rất khắt khe về chất lượng hàng hóa bao gồm cả vấn

đề vệ sinh, hỡnh thức và dịch vụ hậu mói.

Cú những lỗi rất nhỏ, chẳng hạn như vết xước hàng hóa trong quá trỡnh

vận chuyển, cũng cú thể gõy ảnh hưởng rất lớn đến quá trỡnh tiờu thụ cả lụ

hàng và ảnh hưởng đến uy tín.

Người Nhật Bản cũng rất nhạy cảm với giá tiêu dùng hàng ngày. Sau

cuộc khủng hoảng kinh tế bong bóng vào cuối những năm đầu của thập kỷ 90,

người Nhật Bản không chỉ quan tâm đến vấn đề chất lượng mà cũn rất chỳ ý

đến sự thay đổi giá cả.

Đặc biệt, do người mua chủ yếu là do những phụ nữ nội trợ đi mua

hàng ngày, có nhiều thời gian (tỡnh trạng sau khi lấy chồng sẽ bỏ việc làm tại

cụng ty vẫn cũn phổ biến) nờn họ rất quan tõm đến sự thay đổi về giá và về

mẫu mó hàng húa. Tuy vậy, tõm lý thớch dựng hàng xịn, hàng đồ hiệu cho dù

với giá rất cao vẫn không thay đổi nhiều so với trước đây.

Người Nhật Bản rất quan tâm đến vấn đề thời trang và màu sắc hàng

hóa phù hợp theo từng mùa xuân, hạ, thu, đông. Mặt khác, tính đa dạng của

sản phẩm là yếu tố vô cùng quan trọng cho việc thâm nhập thị trường. Trên

thực tế, trong các siêu thị ở Nhật Bản có vô số những kiểu dáng, loại của cựng

một loại hàng tiờu dựng.

Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản cũng cho biết, gần đây, mối quan

tâm đến vấn đề sinh thái của người Nhật ngày càng nâng cao. Các cửa hàng

đang liên tục cải tiến cách đóng gói sản phẩm để làm sao vừa đẹp, vừa đơn

giản và bao bỡ cú thể tận dụng bằng cỏc nguyờn liệu tỏi sinh.

Xu hướng tiêu dùng và sính đồ ngoại ngày càng gia tăng và sức tiêu thụ

của thị trường này rất lớn, vào khoảng 3000 tỷ yên, bao gồm cả hàng gia

dụng, trong đó đồ thủ công mỹ nghệ chiếm khoảng 30 % thị phần tại thị

trường Nhật. Nhật Bản là thị trường tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ

lớn,đặc biệt trong xã hội công nghiệp với mức độ rất cao như hiện nay, người

Nhật Bản ngày càng có nhu cầu sử dụng những đồ vật bằng các chất liệu tự

nhiên thay thế các vật liệu bằng sắt, nhôm…Nhập khẩu các đồ thủ công mỹ

nghệ có xu hướng tăng ở Nhật Bản cũng do quá trình chuyển sản xuất các đồ

thủ công mỹ nghệ giá rẻ sang khu vực Đông Nam Á là nơi có nhân công rẻ,

nguồn nguyên liệu dồi dào, chi phí nhập khẩu thấp và đặc biệt là nỗ lực của

các nhà nhập khẩu Nhật Bản giảm chi phí trong khâu phân phối đã cho phép

giảm giá bán cho đồ thủ công mỹ nghệ nhập khẩu.

* Tập quán kinh doanh.

Thâm nhập thị trường Nhật Bản cần có chiến lược lâu dài, tầm nhìn sâu

rộng. Điều này đạt được bằng cách nghiên cứu kỹ các yếu tố như

- Dung lượng thị trường

- Đối thủ cạnh tranh

- Kênh phân phối.

- Mức giá.

- Giới hạn thời gian.

- Những diễn biến đối với người sử dụng và người tiêu dùng.

Coi trọng chất lượng và hoạt động kinh doanh: Người tiêu dùng và

người sử dụng Nhật Bản thường đòi hỏi cao về chất lượng và tiêu

chuẩn.Những nhà sản xuất nước ngoài thường phàn nàn là người Nhật thường

đòi hổi quá cao

1.5.2Xu hướng nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Nhật Bản trong

thời gian gần đây.

Trong một số năm gần đây, xu hướng nhập khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ của Nhật Bản thể hiện như sau:

*Mặt hàng thảm.

Số lượng mặt hàng thảm nhập khẩu đạt đỉnh điểm vào năm 1995 trong

đó giảm sút cả về số lượng và giá trị. Tuy nhiên, năm 2000 lượng nhập khẩu

bất ngờ tăng mạnh trở lại. Năm 2001 lượng hàng nhẩp khẩu tăng tới 65.464

tấn ( tăng 4,3% so với năm trước) và đạt con số kỷ lục trong vòng hai năm

gần đây. Nếu tính theo giá trị thì lượng hàng nhập khẩu cũng đạt 45,1 tỷ yên,

tăng 6,1% so với năm trước. Tính theo số lượng thì loại thảm nhập khẩu nhiều

nhất là loại thảm lông tiêu thụ phổ biến ( 29.809 tấn, chiếm 45,5% lượng

thảm nhập khẩu ) và thảm dệt ( 26.843 tấn, chiếm 41% bao gồm cả một số

loại thảm tay ). Năm 2001 lượng nhập khẩu loại thảm này tăng đáng kể từ

Trung Quốc.

*Gốm sứ

Hàng gốm sứ nhập khẩu đạt mức kỷ lục cả về số lượng và giá trị trong

năm 2001, và xu hướng nhập khẩu mặt hàng này còn tiếp tục tăng. Hàng gốm

sứ nhập khẩu đạt 16.484 tấn so với hàng gốm là 45.800 tấn và mặt hàng này

bằng gốm đã tăng đáng kể nhờ tăng lượng hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.

Trước đây, lượng hàng nhập khẩu đạt được tăng trưởng như vậy chủ yếu là

nhờ :

- Lối sống cá nhân theo kiểu phương tây hoá ngày càng tăng lên ở

Nhật Bản.

- Tăng mức thu nhập cá nhân vốn là nhân tố thúc đẩy nhu cầu đối với

sản phẩm này;

- Người tiêu dùng Nhật Bản ưu thích những sản phẩm có nhãn hiệu hơn

- Sự lên giá mạnh mẽ của đồng Yên.

Nhưng hiện nay, nguyên nhân dẫn đến lượng hàng gốm sứ nhập khẩu

vào Nhật Bản tăng lên thực chất là do tăng lượng hàng nhập khẩu từ Châu á.

So với mức của năm 2001, lượng hàng sứ nhập khẩu trong năm 2001 đã tăng

170% trong khi lượng nhập khẩu mặt hàng gốm sứ tăng 80%, còn đối với đồ

gốm thì tăng 120%. Điều này chứng tỏ việc nhập khẩu những sản phẩm giá

thấp tăng khá mạnh.

Bảng 1 : Thảm nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản.

2000

Loại thảm SL Thảm 3.657 GT 16.787 2001 SL 2.680 GT 12.538 2002 SL 2.578 GT 10.148 2003 SL 2.831 GT 10.520 2004 SL 2.274 GT 10.040

20.616 15.527 18.077 14.174 20.603 13.496 26.968 15.689 26.843 16.9880

26.924 17.389 23.284 14.566 23.427 13.183 27.730 13.771 29.809 14.839

1.012 576 1.321 707 1.600 635 2.271 764 2.282 761

2.430 1.730 1.195 1.172 999 1.511 1.005 2.971 1.720 4.255 kết nơ Thảm dệt Thảm lông Thảm nỉ Thảm khác

Đơn vị : SL: Tấn; GT: Triệu Yên. Nguồn : Kim ngạch xuất nhập khẩu Nhật Bản. Bảng 2 : Đồ sứ nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản

GT GT GT 2001 SL 2002 SL 2000 SL 2003 SL 2004 SL GT GT

9.422 20.624 7.167 16.233 10.751 15.349 15.607 16.430 16.484 16.581

27.284 6.469 45.800 9.530 17.957 7.996 37.829 7.484 19.306 6.818

Loại sản phẩm Đồ sứ Đồ gốm Tổng 27.379 28.620 26.472 23.050 38.035 21.817 53.436 23.914 62.284 26.111 Đơn vị : SL: Tấn; GT: Triệu Yên. Nguồn : Kim ngạch xuất nhập khẩu Nhật Bản. * Mặt hàng rèm

Từ năm 1990 đến năm 1996 lượng hàng rèm nhập khẩu tăng mạnh, nhưng do nền kinh tế

đình trệ và sự giảm sút nhu cầu bất động sản đã làm cho lưọng hàng nhập khẩu giảm mạnh vào giũa

năm 1997 và năm 1998. Sau khi có một vài dấu hiệu phục hồi phục vào năm 1999 thì tổng lượng

hàng nhập khẩu trong năm 2000 tăng từ 908.000 tá sản phẩm lên 1,55 triệu tá sản phẩm. Năm 2001

tốc độ tăng là 40,1% và đạt con số kỷ lục mới 2,18 triệu tá sản phẩm. Nếu tính theo giá trị thì năm

2001 kim ngạch nhập khẩu đạt mức kỷ lục mới là 13,78 tỷ yên ( tăng 44% so với năm trước)

Có được sự tăng trưởng này chủ yếu là nhờ tăng lượng nhập khẩu từ Trung Quốc. Lượng

hàng này chủ yếu được thiết kế tại Nhật Bản và được sản xuất tại Trung Quốc với sự giúp đỡ kĩ thuật

từ phía Nhật Bản. Tại các xưởng dệt ở Nhật Bản tiền công cho người lao động khá cao, ngoài ra các

xí nghiệp Nhật Bản không thể cạnh tranh được với sản phẩm từ Trung Quốc về yếu tố giá cả. Chính

vì thế trong thời gian tới sẽ còn tiếp tục khuyến khích chuyển hướng sản xuất vải rèm ra nước ngoài.

Phẩn lớn hàng rèm nhập khẩu từ Châu Âu và từ Mỹ là nhập khẩu vải, vì thế không có những

con số thống kê hải quan chính thức. Trong những năm gần đây việc nhập khẩu mặt hàng rèm may

sẵn đã giảm sút, do giới trẻ ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc thiết kế nội thất. Nhu cầu nhập

khẩu mặt hàng vải may rèm ngày càng tăng mạnh bởi điều này rất phù hợp với lối sống sôi động, tự

nhiên hiện nay. Trong tương lai gần có thể sẽ tăng xu hướng các nước phương Tây xuất khẩu vải

mau rèm sang Trung Quốc và tại đây người ta sẽ đảm nhiệm khâu sản xuất ra sản phẩm cuối cùng.

Bảng 3: Mặt hàng thêu ren nhập khẩu của Nhật Bản.

GT 689 GT 425 GT 451 2004 SL 366 2001 SL 395 2003 SL 254 2002 SL 257 2005 SL 456 GT 407 GT 650

431 4.712 654 5.208 445 5.789 1.188 9.162 1.721 13.134

5.163 908 5.897 720 6.214 1.554 9.569 2.177 13.784 Loại rèm Rèm thêu đan Loại rèm khác Tổng 825 Đơn vị : SL: Tấn; GT: Triệu Yên. Nguồn : Kim ngạch xuất nhập khẩu Nhật Bản. Trên cơ sở này, Việt Nam cần phân tích và rút ra cho mình những thời cơ cũng như thách thức

cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ khi thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.

Chuơng II

Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu TCMN ở Việt Nam và công ty ARTEXPORT trong

thời gian qua

1. Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam.

1.1 Thực trạng về sản xuất thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề.

1.1.1 Tình hình lao động tại các làng nghề.

Đối với sản xuất tiểu thủ công,lao động chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo và đầu

óc sáng tạo của người thợ, người nghệ nhân. Những năm trước khi ban hành chính sách đổi mới, lao

động tại các làng nghề truyền thống chủ yếu làm việc trong các hợp tác xã hoặc các tổ sản xuất tiểu

thủ công.Thời kỳ này đã tạo ra đội ngũ thợ thủ công đông đảo, phục vụ cho việc phát triển kinh tế

nông thông, tăng thu nhập, xuất khẩu. Nhưng, hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu hợp tác xã , việc

đào tạo thợ thủ công đại trà đã phá vỡ kết cấu gia đình truyền thống, gây nên sự thất truyền bí quyết

nghề nghiệp ở những nghề đòi hỏi kỹ thuật tinh xảo.

Hiện nay nhờ các chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế của Chính phủ,hoạt động

thủ công lại trở về với hình thức sản xuất theo hộ gia đình( khoảng 90%) . Các cơ sở làm nghề này

trung bình có khoảng ba đến bốn lao động thường xuyên và hai, ba lao động thời vụ. Còn tại các

doanh nghiệp thì con số tương đương là 27 lao động thường xuyên, tám đến mười lao động thời vụ.

Việc sử dụng lao động ngày càng triệt để không những trong vùng mà còn thu hút thêm lao động ở

các vùng khác. Sự phân công lao động trong các làng nghề ngày càng được chuyen môn hoá sâu sắc.

Bên cạnh những người trực tiếp lo tạo ra sản phẩm còn có người chuyên lo khâu đầu vào và đầu ra

cho sản phẩm . ở những làng nghề có công nghệ và tổ chức phức tạp, đã có sự phân công phù hợp với

giới tính, tuổi tác và trình độ của người lao động. Phụ nữ và trẻ em được làm những công việc nhẹ

nhàng, người có tay nghề cao đảm nhận những công việc phức tạp. Tuỳ theo tính chất của công việc

cũng như tay nghề của người thợ mà có sự phân công phù hợp làm cho sản xuất ngày càng hoàn

chỉnh.

Tuy vậy trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của lao động vẫn còn thấp kém. Lao động

thủ công chiếm chủ yếu nhưng trình độ học vấn của họ phần lớn chỉ đạt mức tôt nghiệp phổ thông

trung học, thậm chí có người còn ở trình độ thấp hơn. Trong khi đó, số lao động lành nghề, thợ bậc

cao và các nghệ nhân chỉ chiếm 2,1% . Cán bộ quản lý, kỹ thuật trình độ đại học còn ít. Điiêù này

ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển nghề cũng như tiếp nhận có hiệu quả sự đầu tư.

Bên cạnh đó là vấn đề dạy nghề. Chủ yếu viẹc dạy nghề trước đây là theo phương thức truyền

nghề trong gia đình hoặc bí truyền nhằm bảo lưu nghề trong pham vi làng nghề hay phố nghề. Cách

truyền nghề theo phương thức vừa học vừa làm như hiện nay có ưu điểm là đào tạo được những

người thợ giỏi, tài hoa song lai không đào tạo được đội ngũ lao động lành nghề đông đảo để đáp ứng

nhu cầu phát triển của làng nghề. Đây cũng là một vấn đề bất cập hiện nay của làng nghề cần giải

quyết.

2.1.1.2 Công nghệ- kỹ thuật

Công nghệ cổ truyền dựa trên kỹ thuật sản xuất thủ công tinh xảo và dụng cụ lao động thủ

công khá thô sơ do người thợ tự chế ra. Hiện nay nên kinh tế thị trường và cuộc cách mạng khoa học

kỹ thuật đã tác động mạnh mẽ đến việc đổi mới công nghệ kỹ thuật trong các làng nghề. Một số cơ sở

đã trang bị được thiết bị hiện đại ở một số khâu cần thiết. Ví dụ như ngành sản xuất đồ gỗ đã được

trang bị những máy đa năng( cưa,đục, bào) làm rút ngắn thời gian sản xuất , ngành dệt nhờ áp dụng

máy móc, thiết bị vào sản xuất mà công nghệ dệt vải với nhiều hoa văn phức tạp, đa dạng, khổ rộng

đã thay thế cho công nghệ dệt cổ truyền khổ hẹp, hoa văn đơn giản. ở Bát Tràng, công nghệ nugn sản

phẩm gốm sứ bằng lò tuy nen ( dùng nhiên liệu gas và điện)đã thay thế cho lò hộp và lò bầu ( dùng

than và củi) ,công nghệ nhào luyện đất bằng máy đã thay cho công nghệ thủ công.

Tuy nhiên, nhìn chung, việc đổi mới công nghệ ở các làng nghề chưa được thực hiện một cách

hệ thống , chưa cơ bản. Năng lực nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vẫn còn kém. Trong

các làng nghề, những người thợkỹ thuật chuyên nghiên cứu, sáng tạo mẫu mã còn ít ỏi do không có

một trường lớp đầo tạo cơ bản nào mà chủ yếu là tự học. Tất cả những điều này làm hạn chế sự phát

triển sản xuất thủ công mỹ nghệ

2.1.1.Môi trường.

Sản xuất trong làng nghề mang lại hiệu quả kinh tế song mặt trái của nó là gây ô nhiễm môi trường

nặng nề. Qua điều tra, hiện có tới 52% số hộ và các cơ sở sản xuất làm ảnh hưởng đến môi trường.

Các làng nghề sản xuất gạch vôi, gốm sứ, đúc đồng đang gặp khó khăn vì ô nhiễm không khí nặng nề

làm ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng và làm ô nhiễm môi trường sinh thái. Các lò gốm hàng ngày

phun vào khí quyển nhiều chất độc hại, chẳng hạn ở Bát Tràng, mật độ dân số 2500-3000 người/km ².

Trong làng nhà ở san sát kề với 1100 lò hôp lớn nhỏ,hàng năm sử dụng khoảng 7 vạn tấn than và xử

lý 10 vạn tấn đất nguyên liệu, thêm vào đó là 300 lượt xe ô tô lớn nhỏ chạy qua mỗi ngày. Bên cạnh

các lò gốm còn có hàng trăm lò gạch ở bãi sông của Đa Tốn và Xuân Quan, những lò này toả đầy

khói bụi suốt ngày đêm và gây tác hại rất lớn đến sức khoẻ của nhân dân nhất là trẻ em, phụ nữ,

người cao tuổi.

Nguyên nhân là do hạn chế về vốn, kỹ thuật, thiếu quy hoạch tổng thể nên hầu hết các gia đình

khi đầu tư sản xuất đã không đầu tư xử lý chất thải,các chất độc hại từ sản xuất đều đổ thẳng ra môi

trường. Bên cạnh đó, các bộ phận,các cơ sở sản xuất được bố trí xen kẽ khu vực dân cư, thậm chí

dùng làm nơi sản xuất đã gây tác hại trực tiếp tới sức khoẻ con người.

2.1.1.5 Nguyên vật liệu cho sản xuất .

Hầu hết các làng nghề truyền thống đều được hình thành xuất phát từ việc có sẵn nguồn

nguyên liệu ngay tai địa phương. Đặc biệt là các nghề truyền thống sản xuất các sản phẩm tiêu dùng

như đan lát,mây tre…nguyên liệu thường có tại chỗ. Đối với một số nghề như sơn mài, chạm khắc

gỗ, đá…cũng có thể kkhai thac được từ nguồn nguyên liệu tại địa phương hay trong nước. Nhưng

hiện nay, nguồn nguyên liệu đang ngày càng cạn kiệt làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của

các làng nghề.

Nghề gốm phát triển thì tài nguyên đất bị suy kiệt dần, nguồn nước cũng bị thu hẹp,chưa kể

đến việc các chất thải ngấm vào làm ô nhiễm nguồn nước. Nghề gỗ, mây tre đan phát triển thì sự suy

thoái tài nguyên rừng tăng nhanh. Sản lượng rừng tự nhiên chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ, trong

khi đó ý thức bảo vệ rừng và môi trường sinh thái của người dân rất kém,Nhà nước lại chưa có chính

sách nào để bảo tồn và tái sinh nguồn tài nguyên này.

Như vậy, sau khi xem xét hiện trạng hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam , ta thấy nghề truyền

thống Việt Nam đang từng bước phát triển cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước. Các

làng nghề phục hồi và phát triển đã góp phần không nhỏ vào GDP ở địa phương, tạo thêm nhiều việc

làm,tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân…Song,

vẫn còn nhiều khó khăn về vốn, trình độ công nghệ- kỹ thuật, sự ô nhiễm môi trường, năng lực,

kinh nghiệm quản lý sản xuất và sự quan tâm của cơ quan Nhà nước với sự phát triển của làng nghề

còn chưa thích đáng. Những khó khăn này ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ, vì vậy để thúc đẩy xuất khẩu đòi hỏi Việt Nam phải có những biện pháp ,chính sách thiết thực

được thực thi đồng bộ để giải quyết khó khăn trên một cách triệt để.

2.1.2 Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam .

* Xuất khẩu ra nước ngoài

2.1.2.1 Kim ngạch xuất khẩu

Sau khi thống nhất đất nước, nước ta đã khai thác thế mạnh của các ngành nghề truyền thống

này để đẩy mạnh xuất khẩu. Trong thời kỳ 1976_1990, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của ta chủ

yếu bao gồm: các loại thảm len,hàng mây tre, mành trúc, mành cọ, hàng thêu ren, khăn trải giường,

trải bàn thêu, áo thêu…tuyệt đại bộ phận các hàng hoá này được xuất khẩu sang thị trường các nước

Liên Xô cũ và Đông Âu.

Vào thời kỳ cuối những năm 1980, ta đã bắt đầu xuất khẩu dầu thô, gạo với khối lượng tương

đối lớn và hàng công nghiệp nhẹ xuất khẩu cũng tăng trưởng nhanh(may mặc, thực phẩm chế biến,

giày da…) nên tỷ trọng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ giảm đáng kể trong tổng kim ngạch xuất

khẩu của cả nước. Bình quân trong thời kỳ 1986-1990 tỷ trọng cả hàng công nghiệp nhẹ và hàng thủ

công chỉ còn 27,9% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Từ năm 1991, khi thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu, thị trường chủ yếu của hàng thủ công

mỹ nghệ xuất khẩu trong thời kỳ trước của ta bị mất, các ngành thủ công mỹ nghệ gặp rất nhiều

khó khăn trong xuất khẩu dẫn đến sản xuất bị thu hẹp, lao động không có việc làm, việc chuyển đổi

thị trường đòi hỏi thời gian tìm kiếm thị trường mới, bạn hàng mới . Sau vài năm lao đao trong cơ

chế mới, dần dần một số ngành nghề tìm được lối thoát khôi phục lại tình hình. Mặc dù đứng thứ 8

về kim ngạch xuất khẩu năm 2000 với 235 triệu, chiếm tỷ trọng 1,6% so với tổng kim ngạch nhưng

nhìn ở khía cạnh khác thì giá trị thực thu khi xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của nước ta là không nhỏ.

Vì không giống như những mặt hàng khác, nguyên liệu sản xuất ra mặt hàng thủ công mỹ nghệ chỉ

toàn là nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, không phải nhập khẩu từ nước ngoài , nên giá trị thực

thu xuất khẩu là rất cao đồng thời qua đó, chúng ta cũng có thể quảng bá về hình ảnh và đất nước con

người Việt Nam với thế giới.

Bảng 1

Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam trong thời gian qua

Đơn vị 2000 Triệu USD 11540 2001 14450 2002 15018 2003 16700 2004 18500

123.9

% Triệu USD 168 % % 151.4 1.5 15.2 235 139.8 1.6 103.9 235.4 100.2 1.68 111.2 332 141 1.99 110.7 450 135.5 2.4 trọng Chỉ tiêu Tổng KNXK Tăng hàngnăm KNXKTCMN Tăng hàng năm Tỷ XKTCMN

Nguồn: báo cáo hàng năm của Bộ thương mại

Cho đến nay, hàng thủ công mỹ nghệ vẫn tiếp tục là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chính

của Việt Nam và từ năm 1997 được xếp vào danh mục những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta.

Năm 1997, theo thông kê của Hải Quan, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã đạt 121

triệu USD, trong đó trên 50% là hàng gốm sứ mỹ nghệ( khoảng 610 triệu USD) và khoảng 25% là

hàng dốm sứ mỹ nghệ( khoảng 30 triệu USD), bao gôm các loại hàng như: tranh, tượng gỗ, hàng sơn

mài, đồ gỗ trạm khảm…Năm 1998. do khủng hoảng kinh tế khu vực, kim ngạch xuất khẩu đã giảm

8,3% so với năm 1997 nhưng vẫn đạt 111 triệu USD . Năm 1999, 9 tháng đầu năm xuất khẩu đạt

111 triệu USD , cả năm đạt 168 triệu USD tăng 51,3% so với năm 1998. Năm 2000 đánh dấu một

thời kỳ phục hưng của ngành thủ công mỹ nghệ sau nhiều năm suy giảm. Kim ngạch xuất khẩu đạt

235 triệu USD , tăng 39,8 % so với cùng kỳ năm 1999. Nhưng đến năm 2002, kim ngạch xuất khẩu

thủ công mỹ nghệ đạt 322 triệu USD tăng 41% so với năm 2001. Năm 2003 đạt 350 triệu USD, tăng

20% so với năm 2002. Và trong năm 2004 ngành thủ công mỹ nghệ đã đạt kim ngạch xuất khẩu 450

triệu USD , tăng 22,6% so với năm 2003. Các mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu lớn bao gồm hàng mây

tre lá, hàng cói và hàng gốm sứ và hàng gỗ

Trong những năm gần đây, để đẩy mạnh xuất khẩu thủ công mỹ nghệ Nhà nước đã có rất

nhiều hoạt động hỗ trợ. Trong năm 2002, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cùng các cơ

quan hữu quan và các doanh nghiệp đã xây dựng sàn giao dịch điện tử để trưng bày, giới thiệu hàng

thủ công mỹ nghệ của Việt Nam lên mạng, sang giao dịch này là đầu mối cung cấp thông tin về thị

trường , giới thiẹu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam , về các doanh nghiệp , cơ sở sản xuất

kinh doanh mặt hàng này đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp trong giao dịch trực tuyến.

2.1.2.1.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu .

Theo đánh giá cơ cấu mặt hàng xuất khẩu là tỷ lệ tương quan giữa các mặt hàng trong toàn bộ

kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ . Hàng thủ công mỹ nghệ đa dạng về chủng loại ,

phong phú về mẫu mã do đó mà để đi sâu nghiên cứu tất cả các loại hàng thủ công mỹ nghệ là điều

không dễ. Việt Nam xuất khẩu 1 nhóm hàng thủ công mỹ nghệ trong đó có 5 loại chính.Mỗi mặt

hàng xuất khẩu dù ít hay nhiều đều tham gia đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu.

Bảng 2

Cơ cấu mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu chính của Việt Nam từ năm 2000-2004

Chỉ tiêu đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004

Gỗ mỹ nghệ Triệu USD 50 52 62 76 30

Thêu ren Mây tre đan Thảm các loại Gốm sứ mỹ nghệ - - - - 14 32.6 5 100 18 50.5 12 120 22 61 14 145 27 74 17 177 11 35.3 4.5 51.1

Nguồn: báo cáo tổng kết qua các năm của Bộ thương mại

Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ đều tăng qua các năm trong đó mặt

hàng có tỷ trọng lớn nhất là gỗ và gốm sứ sau đó mới đến mây tre đan và các mặt hàng khác. Mặt

hàng gỗ và gốm sứ rất được các khách hàng Nhật Bản ưa chuộng do kiểu dáng rất phù hợp với phong

cách của người Nhật với giá cả phải chăng. Riêng mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ là đảm bảo cho sự

tăng trưởng ở mức cao. Hiện nay hàng gốm sứ mỹ nghệ là nguồn hàng xuất khẩu chủ lực trong số

các chủng loại hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam , sau đó là đỗ gỗ mỹ nghệ, hàng mây

tre đan. Đây là những mặt hàng mà nhu cầu luôn có xu hướng tăng. Năm 2000 nhóm hàng này đạt

khoảng 12 triệu USD và năm 2002 đạt khoảng 16 triệu USD , mục tiêu trong năm 2005 đạt 20-30

triệu USD .

2.1.2.1.3 Cơ cấu thị trường xuất khẩu .

Như đã khẳng định ở trên, nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ trên thị trường trong nước và

trên thế giới ngày càng tăng theo mức cải thiện đời sống nhân dân và sự phát triền thương mại, giao

lưu văn hoá giữa các nước và mở rộng hoạt động du lịch trong nước và quốc tế. Tuy nhiên , phát

hiện, nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của từng thị trường trong từng thời gian đối với từng chủng loại

sản phẩm và nhanh chóng đáp ứng được các thị hiếu nhu cầu đó lại là một công việc đầy khó

khăn,phức tạp, đòi hỏi phải nhạy bén và tôn nhiều công sức chi phí . thực trạng trong những năm qua

cho thấy, thị trường hàng thủ công mỹ nghệ được mở rộng và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ cũng

đã phần nào khẳng định được vị trí của mình trên thị trường các nước. Ngoài việc đẩy mạnh xuất

khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang các thị trường truyền thống ,thị trường tiềm năng, chúng ta cần có

những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để mở rộng thị trường xuất khẩu. Hiện nay hàng thủ công mỹ

nghệ đã có mặt trên khắp các châu lục, có nhiều nước tuy kim ngạch xuất khẩu không lớn nhưng hy

vọng với sự cố gắng của các cấp vĩ mô, các công ty xuất nhập khẩu và các làng nghề,sẽ trở thành thị

trường lớn trong tương lai.

Thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm qua có những giai đoạn thăng

trầm, khi thuận lợi, lúc khó khăn, nhưng nhìn chung trong những năm gần đây đã có những chiều

hướng phát triển tốt, có nhiều chủng loại hàng hoá mới và mở rộng được nhiều thị trường mới theo

hướng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ thị trường và quan hệ buôn bán với các nước trên thế

giới.

Hàng thủ công mỹ nghệ của ta đến nay đã có mặt tại 120 nước trên thế giới,chủ yếu là thị

trường các nước Âu_ Mỹ và một số thị trường Châu á như Nhật Bản , Đài Loan, Hàn Quốc và một

số nước Trung đông, nhưng ta chưa xuất được nhiều vào các thị trường có nhu cầu và dung lượng

lớn. Mỹ là thị trường có nhu cầu lớn về hàng thủ công mỹ nghệ, Hàng thủ công quà tặng là một

trong những mặt hàng Việt Nam có ưu thế trên thị trường Mỹ, nhưng chưa được các nhà doanh

nghiệp Việt Nam quan tâm và đầu tư. Người tiêu dùng Mỹ ưa chuộng những sản phẩm chất lượng

cao, mẫu mã đẹp, giá rẻ, không phân biệt xuất xứ ở đâu, hơn nữa mặt hàng này ít chịu tác động của

rào cản thương mại . Mới đây nhất, tại triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ diễn ra tại New York từ 15-

18 /5, những mặt hàng thủ công mỹ nghệ của hơn 20 công ty Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm

chú ý của các khách hàng Mỹ. Một số bản ghi nhớ và hợp đồngđã ký kết, mở ra nhiều cơ hội hợp

tác xuất khẩu mặt hàng này qua thị trường mỹ cho các HTX và công ty mỹ nghệ của Việt Nam .

EU được coi là thị trường lý tưởng cho việc xuất khẩu các sản phẩm gỗ, gốm,sứ, mây tre lá,

hàng thêu ren. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ chủ yếu của ta xuất sang EU là sản phẩm gỗ mỹ

nghệ, đồ gốm sứ và các sản phẩm mây tre đan. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng lên khá

nhanh(21.18%) nhưng chỉ chíêm tỷ trọng 2.8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang

thị trường này mặc dù khả năng sản xuất của ta là khá lớn. Dù cơ hội mở rộng thị trường tại EU là rât

lớn nhưng hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam chưa thực sự xâm nhập nhiều vào EU . thị trường xuất

khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong khối EU là Đức (26.4%),Pháp(14.7%), Hà Lan(

11.6%), Anh(11%), Bỉ(10.7%) ,Italia( 7.4%). Tây ban Nha( 6.3%), Thuỵ Điển( 5.0%)…Điều đáng

lưu ý là trong thời gian qua, nhiều thương gia EU lâu nay làm ăn vơí các chủ hàng Trung Quốc và

của các nước ASIAN khác nay đã phần nao quan tâm đên thị trường Việt Nam hơn.Đay là một cơ hội

cho xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam,cần có những giải pháp thích hợp để tận dụng lợi thế

từ thị trường này, từ đó mở rộng thị trường cho hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam.

Nhật Bản là thị trường gần và có nhu cầu lớn về hàng thủ công mỹ nghệ của ta và nếu xét thị

trường theo từng nước thì Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ta từ năm 1991 đến nay(

năn 1991 chiếm tỷ trọng tới 34,5% năm 2000 chiếm gần 15% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ).

Nhật Bản cũng là thị trường lớn đối với nhiều loại hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam .

Ngưòi Nhật Bản có nhu cầu khá lớn về đồ gỗ, theo thống kê của Nhật, hàng năm ta đã xuất

sang Nhật khoảng 60 triệu USD đồ dùng gia đình, trong đó chủ yếu là đồ gỗ. Xuất khẩu đồ gỗ vào

Nhật Bản chưa gặp phải những quy định ngày càng khắt khe như của EU và Mỹ về bảo vệ rừng.

Theo số liệu năm 2002 thì bạn hàng lớn về xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam chính

là Nhật Bản với 33,35 triệu USD , sau đó mới đến Đức 25,4 triệu USD , Anh 17,64 triệu USD , Đài

Loan 15,4 triệu USD …

Theo đánh giá của các chuyên gia tư vấn cao cấp của JETRO( tổ chức xúc tiến thương mại của

Nhật Bản ) thì vài năm gần đây người tiêu dùng Nhật Bản rất chuộng hàng thủ công mỹ nghệ của

Việt Nam từ đồ gia dụng, trang trí nội thất đến hàng quà tặng. ở Nhật Bản , nhu cầu về hàng thủ

công mỹ nghệ ngày càng nhiều trong khi sản xuất các loại hàng này lại giảm đi, các doanh nhân Nhật

đi tìm nguồn hàng để nhập khẩu và các mặt hàng đượclàm từ đôi tay khéo léo của ngươi Việt Nam

được họ chú ý bởi tính phong phú về kiểu dáng, mẫu mã giàu tính sáng tạo nghệ thuật. Những cơ sở

sản xuất kinh doanh có hàng thường xuyên xuất khẩu sang Nhật Bản tiêu biểu là các hợp tác xã mây

tre lá lớn nhỏ ở TP.HCM như: Ba Nhất, Hoà Hiệp ( Q4),Việt Tre, Phú Trung…đều khả quan, những

sản phẩm như khay trái cây,mành cửa, bàn ghế, giỏ đựng vật phẩm, thảm lau chân, gối tre, lẵng hoa,

giỏ đựng quần áo…được làm từ cói, mây, tre, xơ dừa đang rất được ưa thích tại thị trường Nhật Bản.

Theo sự phản hồi của các doanh nghiệp Nhật Bản thì hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam ngoài

yếu tố hài hoà, gần gũi với người Nhật thì giá cả cũng dễ chấp nhận. Tuy nhiên phía Nhật cũng lưu ý

các nhà sản xuất Việt Nam không nên sao chép sản phẩm của nước ngoài, mà phải tạo nét độc đáo

riêng bởi trước kia người Nhật Bản chỉ chú ý đến đặc điểm đa dạng, giá rẻ thì nay họ quan tâm nhiều

đến chất lượng, sự sáng tạo về màu sắc, kiểu dáng, mẫu mã, nhất là nét văn hoá dân tộc thể hiện trên

sản phẩm.

Bên cạnh đó, thị trường Đài Loan cũng nhập khẩu khá lượng đồ gỗ khá lớn của Việt Nam

,kim ngạch hàng năm khoảng 50-60 triệu USD , chiếm 20% kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của

Đài Loan. Đây là thị trường còn nhiều tiềm năng ta có thể khai thác để xuất khẩu vì thuế nhập khẩu

mặt hàng này của Đài loan là thấp, từ 0-25% . Ngoài ra, một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt

Nam cũng được xuất khâủ sang thị trường này, một mặt hàng khó xuất lâu nay với lô hàng lớn như

đá mỹ nghệ Non Nước thì năm 1998 một công ty của Đà Nẵng đã hoàn thành hợp đồng xuất khẩu 2

container sang Đài Loan.

* Xuất khẩu tại chỗ.

Bên cạnh các hình thức để mở rộng thị trường ở nước ngoài, thì thị trường du lịch có vai trò

rất quan trọng trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện nay.

Trong những năm đổi mới, thị trường du lịch ngày càng có điều kiện phát triển và đó là một thị

trường đâty tiềm năng của nước ta. Số lượng khách du lịch nước ngoài và nước ta ngày một nhiều,

đáp ứng nhu cầu của thị trường này là những sản phẩm truyền thống thể hiện nét độc đáo của nền

văn hoá dân tộc và mang đậm dấu ấn lịch sử của từng thời kỳ. Nhu cầu của khách du lịch thường là

mua những sản phẩm lưu niệm mang tính chất văn hoá truyền thống dân tộc hoặc thể hiện tập trung

những nét đặc trưng của vùng mà họ đến. Qua quan sát cho thấy khách nước ngoài đến tham quan

du lịch ở nước ta, ngoài việc đi đến các điểm du lịch, bao giờ họ cũng đến những nơi bày bán và giới

thiệu các sản phẩm truyền thống. Các sản phẩm chủ yếu được giới thiệu là các đồ thủ công mỹ nghệ :

gốm sứ, khảm trai, khắc gỗ, đá, bạc, đồng, đồ thêu ren, đan lát…

Trong năm 2004, Việt Nam đón tiếp hơn 2,9 triệu lượt khách du lịch nước ngoài đến thăm

quan và mua sắm, tăng hơn 19% so với năm 2003. Trong năm 2005 Việt Nam đặt mục tiêu sẽ đón

3,2 triệu lượt khách với nhiều chương trình và các chính sách thu hút khách du lịch nước ngoài. Sau

thảm hoạ sóng thần và động đất vừa qua nhiều khách du lịch nước ngoài đã chuyển hướng đến Việt

Nam làm lượng khách tăng lên đáng kể, và những mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã thực

sự thu hút các du khách đến từ các nước trên thế giới.

Những hàng hoá thủ công mỹ nghệ dưới dạng quà tặng hay quà lưu niệm sẽ được tiêu thụ

ngaỳ càng nhiều cho khách du lịch. Tuy nhiên điều này cũng còn phụ thuộc vào sự hấp dẫn của sản

phẩm và thị hiếu của người nước ngoài. Từ xa xưa, nghề truyền thống Việt Nam đã chịu ảnh hưởng

rất lớn từ Trung Quốc. Vì thế,nhiều khách nước ngoài chưa nhận thấy sự khác nhau sản phẩm thủ

công mỹ nghệ Việt Nam với sản phẩm thủ công mỹ nghệ Trung Quốc. Điều này cũng là một trở ngại

cho việc bán sản phẩm thủ công mỹ nghệ của ta cho khách nước ngoài. Các sản phẩm của ta bán cho

khách nước ngoài nhin chung là rẻ, song giá rẻ nhiều khi chưa phải là điều hấp dẫn vớihọ : vì trong

một thời gian ngắn,họ chưa có điều kiện tìm hiểu vè giá trị của sản phẩm , mà lại cho rằng đó là

những sản phẩm kém giá trị hay được sản xuất hàng loạt chứ không phải sản phẩm thủ công đích

thực được làm bởi những nghệ nhân tài hoa. Cho nên trước mắt cần quan tâm sao cho hàng thủ công

mỹ nghệ phải thực sụ đặc sắc và phù hợp với nhu cầu quốc tế.

2.1.3 Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường Nhật

Bản .

* Xuất khẩu sang Nhật Bản

2.1.3.1 Về kim ngạch xuất khẩu

Thị trường Nhật Bản là một trong nhưng thị trường lớn nhất của Nam trong xuất khẩu thủ

công mỹ nghệ. Như đã phân tích ở trên, thị trường Nhật Bản là một thị trường tiêu thụ hàng thủ công

mỹ nghệ lớn ( hàng năm nhập khẩu khoảng 2 tỷ USD). Đây thực sự là điều hấp dẫn đối với các

doanh nghiệp xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Với thị trường Nhật Bản, ta đã xuất khẩu

sang các mặt hàng như mây tre đan, tranh dân gian Đông Hồ, sơn mài, đồ khảm trai, gốm sứ và gỗ

mỹ nghệ…

Trải qua những năm khủng hoảng do sự biến động về chính trị- xã hội ở Liên Xô và các nước

Đông Âu, sự khó khăn về thị trường tiêu thụ, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã

được khôi phục, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Nhà nước ,tư nhân, với sự hỗ trợ của Nhà nước ,

đã tìm kiếm và giới thiệu sản phẩm ở nhiều thị trường mới. Từ thời gian này trở đi, hàng thủ công mỹ

nghệ mới tiếp cận được thị trường Nhật Bản.

Bảng 4

Kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ

của Việt Nam vào Nhật Bản

Đơn vị : triệu USD

Năm KNXK sang Nhật Bản Tăng giảm tuyệt đối Tỷ trọng(%)

Tăng giảm tương đối(%) 50 23.33 11.4 -10 35.5 2.46 00.64 46.26 35.86 10 KNXK TCMN cả nước 25 31.5 90 121 111 200 237 235 250 332 450 - 6 10 2.5 -2 6.4 0.6 0.16 11.64 13.2 5 0.06 23.8 19 16.5 16.2 12.2 10.5 10.7 14.72 15.06 12.22 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 1,5 7,5 17,5 20 18 24,4 25 25,16 36,8 50 55

Năm 1994, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này rất nhỏ bé, khoảng 1,5 triệu USD, không

đóng vai trò gì đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam năm đó (

0.06%) . Nhưng đây thực sự là một kết quả đáng khích lệ vì ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam mới

thoát khỏi thời gian khủng hoảng, các doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa có hiểu biết gì nhiều về thị

trường Nhật Bản cũng như đặc điểm của thị trường này.

Sang năm sau năm 1995, kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ vào Nhật Bản đã đạt tốc độ

tăng trưởng khá cao 150% gấp 5 lần, đạt giá trị 7,5 triệu USD tăng 6 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu

như vậy chưa lớn song xét về tốc độ tăng trưởng thì khá cao. Lúc này tỷ trọng hàng thủ công mỹ

nghệ của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản còn thấp nhưng trong tổng kim

ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì thị trường Nhật Bản đã chiếm 23.8 % . Sở dĩ có mức tăng trưởng

kỷ lục như vậy là do Việt Nam đã đi từ con số không đi lên. Hơn nưa, quan hệ Việt Nam – Nhật Bản

ngày càng tiến triển tốt đẹp.

Năm 1996, kim ngạch đạt 17.5 triệu USD với tốc độ tăng trưởng là 23.33 %. Sang năm 1997,

1998, do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nhiều thị trường nhập khẩu của Việt Nam bị giảm sút

nhưng thị trường Nhật Bản vẫn khá ổn định, vì mặt hàng thủ công mỹ nghệ vẫn là một trong những

mặt hàng cần thiết cho sinh hoạt của người Nhật Bản, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng cũng giảm tương

đối so với các năm trước. Năm 1997,tốc độ tăng trưởng là 11,4 % nhưng đến năm 1998 giảm 10% so

với năm 1997, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 18 triệu USD . Kết quả giảm sút này là do ảnh hưởng của

cuộc khủng hoảng tài chính làm cho giá cả của hàng Việt Nam cao hơn do đồng tiền của các nước

khác chịu khủng hoảng mất giá, đồng thời sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam bị cạnh tranh

bởi hàng thủ công mỹ nghệ của các nước xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ như Trung Quốc, Thái

lan…

Năm 1999, tình hình đã được cải thiện sáng sủa hơn. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ của Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ vào thị trường Nhật

Bản là 24.4 triệu USD tăng 35.5 % so với năm 1998, chiếm 12.2 % tổng kim ngạch xuất khẩu thủ

công mỹ nghệ của cả nước. Năm 2000 đánh dấu một thời kỳ phục hưng của ngành thủ công mỹ nghệ

Việt Nam . Xuất khẩu sang Nhật Bản cũng tăng nhưng tốc độ không cao. Sang năm 2002, kim ngạch

xuất khẩu thủ công mỹ nghệ sang Nhật Bản tăng vọt 36.8 triệu USD ,tăng 46.26 % so với năm 2001.

Trong năm 2002 phải kể đến những thành công trong việc tiếp cận thị trường Nhật Bản, đó là việc

phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam(VCCI) cùng các cơ quan hữu quan và doanh nghịêp đã

xây dựng sàn giao dịch điện tử để trưng bày, giới thiệu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam lên

mạng. Sàn giao dịch này là đầu mối cung cấp thông tin về thị trường , giới thiệu sản phẩm thủ công

mỹ nghệ của Việt Nam, về các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh mặt hàng này, đồng thời hỗ

trợ các doanh nghiệp trong giao dịch trực tuyến( như đàm phán , ký kết hợp đồng…). Năm 2003,

thương mại điện tử với những lợi ích của nó đã được khai thác mạnh mẽ trong xuất khẩu của ngành

thủ công mỹ nghệ , các doanh nghiệp kí được nhiều đơn hàng mới với đối tác Nhật Bản mà tốn ít chi

phí giao dịch hơn, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tiếp tục gia tăng với 50 triệu USD,

tăng 35.86% so với năm 2002. Đây là một kết quả rất đáng khích lệ của ngành thủ công mỹ nghệ

Việt Nam . Cũng phải nói đến sự quan tâm của Nhà nước trong vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp tham

gia tiếp cận thị trường Nhật Bản đồng thời nỗ lực phát triển mối quan hệ song phương giữa 2 quốc

gia. Cũng nhờ những nỗ lực đó của Nhà nước và sự cố gắng của các doanh nghiệp mà trong năm

2004, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 55 triệu USD,

chiếm 12% kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của cả nước.

Kết quả trên tuy chưa phải là rất cao nhưng trong khi Nhật Bản đang gặp nhiều khó khăn mà

Việt Nam vẫn giữ được mức tăng trưởng qua các năm cũng là kết quả rất đáng khích lệ.

2.1.3.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản.

Nhật Bản có nhu cầu rất lớn đối với hàng thủ công mỹ nghệ. Các mặt hàng được phân thành

loại cao cấp là các loại nhập từ Mỹ và các nước châu Âu, loại giá rẻ được nhập từ các nước CHÂU Á

như Trung Quốc, Đài Loan và các nước ASEAN.

Mặt hàng Nhật Bản nhập khẩu từ Việt Nam nhiều và thường xuyên nhất là đồ mỹ nghệ và

gốm sứ, ngoài ra khách hàng Nhật Bản cũng rất ưa chuộng các mặt hàng được làm từ cói.

Bảng 5

Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản

Đơn vị: triệu USD

Mặt hàng 2001 2002 2003 2004

Gỗ mỹ nghệ Gốm sứ Mây tre đan Thêu ren Thảm các loại 15 4 3 15 2 20,7 4.5 2,5 10 3 21 5 4 17,5 1 18 5 4,3 20 3

Sản phẩm được làm từ gỗ được đánh giá là mặt hàng có lợi thế nhất của Việt Nam trong xuất

khẩu sang Nhật Bản. Người Nhật Bản có nhu cầu sử dụng gỗ rất lớn. Đây là loại sản phẩm không

phải qua kiểm dịch và kiểm tra vệ sinh, các tiêu chuẩn về môi trường cũng không khắt khe như Châu

Âu và Mỹ. Trong năm 2001, Việt Nam đã xuất khẩu 15 triệu USD gỗ mỹ nghệ, các mặt hàng gỗ

được khắc trạm khảm dùng trang trí trong nhà, sử dụng trong bếp...được đánh giá rất gần gũi với thị

hiếu người Nhật Bản, chính vì vậy mà sang năm 2002, kim ngạch đã lên tới 20.7 triệu USD, chiếm

40% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ cả nước ( 52 triệu USD ), xuất khẩu gỗ mỹ nghệ đều tăng qua các

năm, mức tăng trưởng là 21.28%. Tuy vậy, gỗ mỹ nghệ Việt Nam cũng chỉ chiếm thị phần nhỏ trên

thị trường Nhật Bản là 7.3%,trong khi đó, các quốc gia Châu á xuất khẩu gỗ sang Nhật Bản như

Trung Quốc chiếm 28.7%, Thái Lan 20.3%, Malaysia 13.8%, Indonesia 11.8%. Vì vậy, ngành cần có

các biện pháp thúc đẩy sản xuất và xâm nhập để mở rộng thị trường Nhật Bản hơn nữa.

Bên cạnh các sản phẩm gỗ mỹ nghệ các thị trường nội thất và sản phẩm bằng mây tre cũng

được người Nhật Bản ưa dùng, chủ yếu là đĩa, chậu, ghế… với công nghệ sử lý nguyên liệu làm cho

màu sắc đẹp, bóng, không mốc mọt, cùng với sự tăng cường phối hợp các nhiên liệu khác như kim

loại màu để tăng được vẻ đẹp và tính hiện đại của sản phẩm, sản phẩm từ mây tre được khách hàng

Nhật Bản ưa dùng. Tuy vậy, sản phẩm này đã gặp phải sự khó khăn lớn trong việc cạnh tranh với các

sản phẩm từ Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia với công nghệ và kỹ thuật cao, sự đa dạng…Chính vì

vậy kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản mới chỉ đạt 3 triệu USD vào năm 2001, kim ngạch tăng

giảm không ổn định, năm 2002 xuất khẩu được 2.5 triệu USD và sang năm 2003 là 1.4 triệu USD.

Tuy nhiên trong năm 2004 vừa qua ngành thủ công mỹ nghệ đã đưa ra nhiều mặt hàng với kiểu dáng

và mẫu mã đặc biệt như giỏ xách tay hình quả bí, bàn ghế …thu hút sự quan tâm của các nhà nhập

khẩu Nhật Bản cùng với sự hỗ trợ của nhà nước trên nhiều mặt làm kim ngạch xuất khẩu tăng lên 4.5

triệu USD.

Bên cạnh mặt hàng gỗ và mây tre đan gốm sứ cũng được đánh giá là mặt hàng có tiềm năng

xuất khẩu sang Nhật Bản. Nhập khẩu đồ gốm sứ vào Nhật Bản trong năm 2004 tăng mạnh so với

năm 2003 cả về số lượng và kim ngạch nhập khẩu, đồ sứ là 16.484 tấn, gốm là 45.800 tấn nhưng

nhập chủ yếu từ Trung Quốc, so với năm 2000, năm 2004 nhập khẩu đồ gốm tăng 160% tính theo

lượng và 150% tính theo kim ngạch, nhập khẩu đồ gốm sứ từ Châu á tăng nhanh do mức giá rẻ và

công nghệ sản xuất được chuyển giao từ Nhật Bản sang cho phép các nhà sản xuất Châu á cung cấp

sản phẩm gần gũi hơn với người Nhật Bản. Đây là vấn đề mà ngành thủ công mỹ nghệ của Việt Nam

cần lưu ý khi đưa ra các giải pháp để thúc đẩy hàng thủ công mỹ nghệ vào Nhật Bản.. Tuy nhiên thị

phần của Việt Nam còn khá khiêm tốn, mới chỉ đạt 5 triệu USD/ năm mặc dù thuế nhập khẩu rất

thấp. Đây là mặt hàng có nhiều triển vọng nếu nhà sản xuất chú ý đến khâu tạo hình và đặc điểm hệ

thống phân phối của thị trường Nhật Bản.

* Xuất khẩu tại chỗ

Sau những thiên tai và bệnh tật xảy ra trong khu vực Châu á, Việt Nam được đánh giá là điểm

đến an toàn đối với khách du lịch. Hiện nay khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam ngay một nhiều.

Hiện các cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ đón tiếp rất nhiều khách Nhật Bản,chủ yếu là tầng lớp

thanh niên, họ ưa chuộng những mặt hàng mới mẻ mang dáng vẻ truyền thống nhưng độc đáo của

Việt Nam. Mua sắm là mục đích thứ 2 của người Nhật Bản khi họ đến Việt Nam , trên cả mục đích

tham quan và chỉ đứng sau mục đích thưởng thức ẩm thực. Trong tháng 4/ 2005 vừa qua, Tổng cục

trưởng tổng cục du lịch Việt Nam và Bộ Trưởng Giao Thông và Lãnh thổ Nhật Bản Kazuo Kitagawa

đã ký văn bản thoả thuận về hợp tác phát triển du lịch giữa 2 nước, theo đó hai nước sẽ thảo luận kế

hoạch hợp tác cụ thể trong lĩnh vực du lịch như chính sách hỗ trợ của Nhà nước, hợp tác nghiên cứu

thị trường và đào tạo cán bộ quản lý, hướng dẫn viên du lịch. Trong năm 2004 vừa qua, khách du lịch

Nhật Bản ra nước ngoài là 16 triệu lượt người,trong đó khách vào Việt Nam là 700 nghìn lượt người.

Như vậy, nếu mỗi khách du lịch sắm cho mình một sản phẩm thủ công mỹ nghệ thì kim ngạch xuất

khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sẽ tăng lên đáng kể. Việt Nam cần có nhiều chính sách phát

triển thị trường du lịch, để từ đó có thể tăng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

2.1.3.3 Đánh giá thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản

Thuận lợi

Trong bối cảnh chung khó khăn như vậy, đồng thời với thị trường khắt khe,khó tính như Nhật

Bản thì kết quả trên là điều đáng khích lệ, sỏ dĩ có được thành tựu trên là do Việt Nam đang có được

những điều kiện hết sức thuận lợi cho xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ :

* Lợi thế về nguồn nhân lực: nguồn nhân lực cho ngành thủ công mỹ nghệ bao gồm những

nghệ nhân, những người thợ thủ công, chủ cơ sơ sản xuất kinh doanh. Những nghệ nhân có vai trò

đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy nghề, đòng thời là những người sáng tạo ra những

sản phẩm độc đáo mang tính truyền thống, hiên nay ở các làng nghề Việt Nam , vẫn còn có rất nhiều

nghệ nhân có tâm huyết với nghề, muốn giữ gìn và phát triển nghề. Bên cạnh đó còn có một lưc

lượng lao đọng dồi dào,cơ cấu lao động trẻ, có khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường. Do đặc

điểm sản xuất của nghề này là sử dụng lao động thủ công là chủ yếu , nơi sản xuất cũng chính là nơi

ở của người lao động nên bản thân nó có khả năng thu hút nhiều loại lao động, từ lao động thời vụ

nông nhàn đến lao động trên hay dưới độ tuổi , trẻ em, tham gia dưới hình thức học việc hay giúp

việc. Lực lượng lao động nay chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động làm nghề

* Tính phong phú của sản phẩm thể hiện trên 2 khía cạnh:

-Văn hoá: Sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam . Từ những con

rồng trạm trổ ở các đình chùa hoa văn trên các trống đồng, màu men, hoạ tiết trên các đồ gốm sứ, tất

cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương và chứa đựng trongnó những ảnh hưởng văn hoá tinh thần

quan niệm nhân văn, tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc. Việt Nam nghìn năm văn hiến và tầng lớp

nghệ nhân tay nghề cao đã sáng tạo những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tuyệt vời mà Nhật Bản không

thể sản xuất, đây chính là chiếc cầu nối giao lưu văn hoá giữa 2 nước. Bên cạnh đó, những nét riêng

về phong tục của mỗi địa phương, cá địa danh được thể hiên trên sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều

làm tăng giá trị cho sản phẩm, gây cho khách hàng một sự thích thú, như một sự khám phá khi thấy

sản phẩm.

- Nguyên liệu: Mỗi năm, Nhà nước ta đều đưa những sản phẩm thủ công mỹ nghệ mới được

xuất khẩu lần đầu vào danh sách khen thưởng. Sự phong phú của nguyên liệu sử dụng đã tạo nên các

sản phẩm độc đáo. Từ mây, tre, song, nứa người ta có thể dùng cả rơm phơi khô, gáo dừa, xơ dừa,

dây chuối, cói đay thâm chí cả vỏ trứng tạo nên các sản phẩm độc đáo như rương đựng đồ hình quả

bí ngô với màu sắc bí xanh và bí chín, dép thay vì đan cói đã quá cũ giờ đan bằng dây chuối và lục

bình với màu vàng ngà của bẹ chuối, màu mốc tự nhiên của thân chuối, hay mới đây doanh nghiệp

S.V.C tại Yên Hoà đã chế tác thành công chiếc bình lơn nhất Việt Nam được làm băng gáo dừa mang

tên Huyền Sử Đời Hùng với 5000 chi tiết hoa văn, phù điêu trang trí thể hiện một cách sống động

những sự tích, hình tượng như: Lạc Long Quân- Âu cơ, Tiên Dung- Chử Đồng Tử, trống đồng Đông

Sơn, nhà rồng, cồng chiêng…cho thấy khả năng sang tạo mẫu mã của nghệ nhân Việt Nam tạo nên

sự độc đáo để quảng bá với thế giới về hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam .

* Các chính sách vĩ mô của nhà nước:

- Chính sách biện pháp khuyến khích, ưu đãi được quy định trong nghị định 51/1999NĐ-CP :

các ngành nghề truyền thống được ưu tiên phát triển và được hưởng ưu đãi gồm có : khảm trai, sơn

mài, khắc đá, mây tre, dệt thảm, lục tơ tằm, gốm sứ, thêu ren thủ công, đúc và gò đồng; ưu đãi đầu

tư được hưởng khi đầu tư vào 10 ngành nghề thủ công truyền thống : miễn giảm tiến sử dụng đất,

tiền thuế đất,miễn thuế nhập khẩu với máy móc thiết bị mà trong nước chưa sản xuất được hoặc

chưa đáp ứng được yêu cấu chất lượng .

- Chính sách đào tạo thợ thủ công truyền thống.

- Chương trình cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.

- Chương trình khuyến nông về ngành nghề nông thôn.

- Hỗ trợ sản xuất , phát triển ngành nghề cho đối tượng đói nghèo.

Bên cạnh đó Nhà nước đang sửa đổi bổ sung nhiều quy chế chính sách khác như các chính

sách về thị trường, vôn đầu tư tín dụng, chính sách đối với nghệ nhân, chính sách đối với phát triển

doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành nghề truyên thống…

* Các hoạt động xúc tiến thương mại.

Nhà nước đã có nhiều hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp trong vấn đề tiếp cạn thị trường

Nhật Bản : mở các showroom hàng thủ công mỹ nghệ tại nhiều thành phố của Nhật Bản , hỗ trợ kinh

phí cho các doanh nghiệp khi tham gia các hội chợ quốc tế tại nước ngoài, tổ chức các hội chợ riêng

về hàng thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam , đon tiếp các đoàn khách du lịch Nhật Bản và tổ chức các

buổi giao lưu nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tim kiêm đối tác… Điển hình trong

năm nay từ ngày 23-36/6/2005, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản sẽ phối hợp với văn phòng II bộ

thương mại tổ chức đưa đoàn doanh nghiệp Nhật Bản về TP.HCM để tìm kiếm đối tác đầu tư tại Việt

Nam

Khó khăn và hạn chế

- Theo cục xúc tiến thương mại( Bộ Thương mại), khách hàng Nhật Bản đánh giá hàng thủ

công mỹ nghệ của Việt Nam yếu nhất là khâu thiết kế. Các công ty xuất khẩu của Việt Nam ít quan

tâm đến cải tiến chất lượng sản phẩm , chỉ cạnh tranh với nhau bằng cách hạ giá. Do đó, mẫu mã

của các công ty gần như giống nhau và chất lượng ngày càng giảm sút. Trong khi muốn bán được

nhiều hàng thì tỷ lệ chế tác thủ công và mẫu mã phải chiếm phần nhiều. Không những thế,qua nhân

xét của JETRO (Cơ quan xúc tiên thương mại của Nhật Bản ) người Nhật cho rằng hàng Việt Nam

chỉ ở mức trung bình trở xuống, không có mẫu mã riêng, chỉ làm theo đơn đặt hàng là chính.

- Khả năng tiếp cận thị trường của Việt Nam còn yếu. Chúng ta quen với phương châm sản

xuất nhanh- nhiều- tốt- rẻ, nhưng làm thế nào bán được hàng nhanh và b án được nhiều hàng thì đó

là vấn đề mới mẻ. Hệ thống thị trường thiếu ổn định, nhiều người chưa biết bán sản phẩm cho ai,

hàng hoá bị tồn đọng, luân chuyển chậm. ở các vùng nông thôn, nhân lực tuy nhiêu nhưng trình độ

văn hoá lại chưa cao,chưa có khả năng tiếp cận để có thể năm bắt được xu thế của sản phẩm mới,

không hiểu biết thị hiếu ngườ tiêu dùng.

- Bên cạnh đó là tình trạng các doanh nghiệp tranh mua tranh bán theo kiểu “được cá bỏ

tôm” khi hàng đang có giá. Kiểu cạnh tranh thiếu lành mạnh làm xấu hình ảnh của doanh nghiệp

Việt Nam trong năt đối tác nước ngoài, tự mình lám suy yếu sức cạnh tranh trước các đối thủ của

nước ngoài. Doanh nghiệp Việt Nam chưa gắn kết thành một mối mãnh mẽ trong quan hệ với cá đối

tác nước ngoài, mọi quan hệ đều mới ở mức riêng rẽ, mạnh ai nấy được . Đã vậy còn xuất hiện

những hàng nhái kém phẩm chất làm ảnh hưởng đến uy tín và lợi ích của các cơ sở sản xuất hàng

thủ công mỹ nghệ truyền thống.

- Các cơ sỏ sản xuất nước ta đều gặp khó khăn về mặt băng sản xuất , bãi tập kết nguyên

liệu, các cửa hàng giao bán sản phẩm ,hệ thống công cụ còn quá lạc hậu, tính chuyên nghiệp trong

cung ứng sản xuất còn thấp…chính vì vậy nhiều khi ta không thể nhân những đơn hàng quá lớn mà

bên đối tác yêu cầu.

- Hạn chế về mặt thể chế: bên phía Nhật Bản tuy mức thuế được xem là thấp nhất thế giới

song hàng hoá nhập khẩu vào Nhật Bản phải đáp ứng một phạm vi rộng lớn và phức tạp về tiêu

chuẩn, thủ tục xác nhận và các hàng rào kỹ thuật không chính thức như quy định về vệ sinh và y tế

làm cho quy trình nhập khẩu bị kéo dài và gặp nhiều khó khăn..

2.2 Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu TCMN của công ty ARTEXPORT.

2.2.1 Tổng quan về công ty

Tổng công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, tên giao dịch đối ngoại ARTEXPORT đựơc

thành lập theo quýêt định số 617/BNgT-TCCB ngày 23/12/1964 của Bộ Ngoại Thương.Sau khi sát

nhập 2 Bộ Ngoại Thương và Bộ Nội thương thành lập Bộ thương mại vàDu lịch nay đổi thành Bộ

thương mại, công ty được thành lập theo quyết định số334/TM-TCCB ngày31/3/1993 của bộ Thương

mại

Là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động xuất nhập khẩu có tư cách pháp nhân, có quyền và

nghĩa vụ dân sự theo luật định, có con dấu riêng, có tài sản và các quỹ tập trung, được mở tài khoản

trong và ngoài nước, đựơc tổ chức và hoạt động theo điều lệ của Tổng công ty nên trong hoạt động

sản xuất kinh doanh của mình công ty phải đảm bảo không làm trái với pháp luật, thực hiên mọi chế

độ kinh doanh theo luật thương mại Việt Nam, chịu trách nhiệm về hành vi kinh doanh và nguồn

vốn nhà nước cấp.

2.2.1.1 Mặt hàng kinh doanh của công ty.

Hiện nay,công ty kinh doanh chủ yếu các mặt hàng sau:

 Hàng sơn mài mỹ nghệ như tranh sơn mài, hộp đựng trang sức, các vật trang trí…

 Hàng gỗ mỹ nghệ được trạm khảm, kết hoa văn…

 Hàng cói, mây, dừa, dép,thảm với chất liệu đa dạng.

 Hàng gốm sứ

 Hàng thêu ren

2.2.1.2 Tình hình sử dụng các công cụ cạnh tranh của công ty .

* Giá thành

Khi đưa ra các quyết định về giá, công ty thực hiện nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc

định giá xuất khẩu của mình bao gồm các yếu tố chi phí, khách hàng, cạnh trạnh, phân phối và mục

tiêu của doanh nghiệp.

Thông thường giá sản phẩm của công ty được tính bằng tổng tất cả các chi phí: sản xuất , thu

gom, dịch vụ, kinh doanh và cộng với phần lãi dự tính mà công ty muốn đạt được. Tuỳ từng mặt

hàng mà mức lãi nàylà khác nhau, thông thường khoảng 15-20% giá trị mặt hàng.

Tuy nhiên, công ty còn sử dụng chính sách giá linh hoạt, mức giá quyết định cho mặt hàng

xuất khẩu của công ty còn phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa nhà nhập khẩu và xuất khẩu. Nếu khi

nghiên cứu, tìm hiểu về khách hàng mà công ty thấy họ có thể trả giá cao thì công ty đặt giá cao hơn

dự kiến và nếu như việc định giá thấp hơn có thể tạo được một đối tác làm ăn lâu daì hay so sự khó

khăn trong kinh doanh của bạn hàng lâu năm mà công ty sẽ chấp nhận mức giá đó. Và khi có sự

canh tranh gay gắt về giá trên thị trường công ty cũng sẽ thay đổi mức giá phù hợp để giữ bạn hàng.

Với một số sản phẩm mang đậm nét văn hoá dân tộc Việt Nam có độ tinh xảo và đòi hỏi cấc nghệ

nhân có tay nghề cao như tranh thêu, tranh sơn mài, hàng trạm khảm thì giá cả không phải là vân đề

quyết định, công ty có thẻ đưa ra mức giá cao hơn để tăng giá trị sản phẩm.

* Chất lượng sản phẩm

Chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chất lượng

sản phẩm là một trong những giải pháp quan trọng để tăng khả năng cạnh tranh của các doanh

nghiệp. Nói cách khác thì việc thâm nhập thị trường luôn gắn liền với việc giành chữ tín hay hàng

hoá phải có chất lượng.

Nếu như trước đây,giá cả được coi là công cụ cạnh tranh hàng đầu thì ngày nay nó nhường

chỗ cho chất lượng sản phẩm .Công ty thường xuyên cử người xuống để giám sát đôn đốc nhất là

kiểm soát chặt chẽ các nguyên liệu đầu vào. Chất lượng của hàng thủ công mỹ nghệ thể hiện ở độ

chắc, bền, độ tinh vi, tính mỹ thuật…những sản phẩm này dù có sơ xuất nhỏ hoặc chất lượng không

đồng đều sẽ bị loại bỏ để tránh trường hợp khách hàng từ chối hoăc phải bán rẻ, tránh tổn thất làm

giảm uy tín của công ty.

Bên cạnh đó, tâm lý người tiêu dùng luôn đòi hỏi cải tiến không ngừng đối với sản phẩm ,

mang lại sự thoả mãn nhu cầu cả về chất lượng và tính thẩm mỹ khi sử dụng sản phẩm . Để đáp ứng

nhu cầu chính đáng đó của khách hàng công ty ARTEXPORT đã không ngừng sáng tạo những mẫu

sản phẩm mới lạ độc đáo, vừa đáp ứng chất lượng vừa đảm bảo tính thẩm mỹ của mặt hàng thủ công

mỹ nghệ mà công ty cung ứng cho thị trường.

Đối với hàng thêu ren, một mặt hàng xuất khẩu gần như chủ lực của công ty, muốn đạt được

chất lượng cao phải đúng mẫu mã, đảm bảo kỹ thuật, từ khâu đầu đến khâu cuối:

- Đúng mẫu mã, màu sắc theo yêu cầu của khách hàng

- Kích thước chính xác(dung sai cho phép 0,5-1 cm là tối đa)

- Mặt vải phải lỳ và đẹp.

- Đường mép thẳng, không văn vẹo.

- Các đưòng rua phải đẹp, chặt, và làm đến đường rua cuối cùng.

- Các rua phai được cắt có độ dài bằng nhau và vải trải kỹ cho phẳng,không được quăn, các

đường thêu phải nuột, mềm, tinh xảo

- Sản phẩm thêu đảm bảo yêu cầu vệ sinh công nghiệp, không có vết bẩn, được gấp theo yêu

cầu của khách hàng.

Gần đây, công ty đã chú ý đàu tư trang thiết bị hiện đại nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm

thích ứng với điều kiện tự nhiên, nhu cầu khách hàng. Đối với sản phẩm gốm sứ, đất nung hiện nay

đã đưa vào sử dụng lò nung điện, lò nung bằng Gas đảm bảo nhiệt độ nung đều,tạo cho sản phẩm vẻ

đẹp về h oa văn, đường nét, có độ bóng, bền chắc. Đối với sản phẩm mây tre cói có nguồn gốc từ

thực vật để xử lý vấn đề vi sinh, chống mối mọt, chống ẩm thì nguyên vật liệu trước khi đóng gói

được thực hiện bằng lò sấy vi sinh nhằm làm cho sản phẩm được khô đều.

Ngoài ra vấn đề kho bảo quản và điều kiện của kho cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản

phẩm. Đối với từng tính chất của mặt hàng thủ công mỹ nghệ mà có cách xếp đặt cũng như điều kiện

bảo quản khác nhau để tránh những tổn thất không đáng có. Đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ vốn

là mặt hàng đòi hỏi yêu cầu bảo quản khá cao và rất cẩn thận.

* Mẫu mã và đề tài sản phẩm.

Hiện nay sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty được xuất khẩu theo 2 cách

- Công ty thực hiện sản xuất, thu gom hàng hoá theo mẫu, chất lượng mà khách hàng đưa ra

- Khách hàng đặt hàng theo mẫu mà công ty đưa ra và cũng có thể thay đổi một số chi tiết hoa

văn, màu sắc, vật liệu.

Những đề tài cũ như con người, cuộc sống, chim muông…của công ty đa số đã cũ không còn

phù hợp với thị hiếu hiện nay. Hơn thế nữa, mẫu mã đề tài của sản phẩm yêu cầu phải thường xuyên

thay đổi để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Điều này là do đặc điểm văn hoá, phong cách, lối sống

khác nhau nên có nhu cầu khác nhau. Đôi khi tính nghệ thuật của sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn

được đánh giá cao hơn tính tiện dụng. Tính nghệ thuật thể hiện ở các đường nét hoa văn hài hoà,

mềm nuột…Bởi lẽ người ta không chỉ sử dụng nó mà còn muốn thưởng thức giá trị nghệ thuật của

sản phẩm, muốn dùng nó để trang trí cho ngôi nhà hay nơi làm việc của mình…Họ cần những sản

phẩm làm bằng tay tinh tế, tinh xảo, thanh tú hơn là những sản phẩm đã được công nghiệp hoá.

Chính vì vậy, người thợ làm ra những sản phẩm này rất cần phải học hỏi, rèn luyện tay nghề, có sự

hiểu biết về hội họa, có vốn kiến thức về cuộc sống và có nét thẩm mỹ.

Tuy vậy, hiện nay vấn đề này chưa được công ty chú trọng nhiều. Nhiều đơn đặt hàng, mẫu

mã sản phẩm do bên kia cung cấp đã tạo nên sự bị động trong việc cung ứng, sản xuất hàng hoá,

không khai thác hết nhu cầu tiêu dùng cảu khách hàng.

* Quảng cáo, xúc tiến bán.

- Quảng cáo: Công ty thực hiện quảng cáo các sản phẩm của mình qua báo trong nước và trên

mạng, chưa thực hiện hoạt động quảng cáo trên báo, tạp chí, hay truyền hình ở thị trường nước ngoài.

Hiện công ty đã xây dựng trang Web của mình trên mạng, tạo điều kiện cho công ty quảng cáo sản

phẩm trên toàn thế giới. Tuy nhiên hoạt động của trang Web chưa mang lại hiệu quả trong hoạt động

xúc tiến. Hai đến 3 năm một lần công ty đưa ra quyển Catalogue cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ

của mình với hình ảnh mẫu mã đẹp để gửi tới khách hàng.

- Xúc tiến bán hàng: hàng năm công ty cử đoàn đi tham gia hội chợ triển lãm trong và ngoài

nước, năm 2003 công ty đã cử 7 đoàn đi tham gia hội chợ và năm 2005 dự kiến sẽ là 9-11 đoàn.

Công ty thường tham gia hội chợ ở các nước Nhật, Đức, Hồng kông, Pháp,ý…

- Qaun hệ công chúng: Do là doanh nghiệp lớn trực thuộc Bộ thương mại, công ty có lợi thế

để khuyếch trương bằng hình thức này nhờ vào các mối quan hệ với các đại sứ quán, thương vụ,

thamgia các cuộc tham viếng của chính ơhủ nước ta ở nước ngoài để tù đó tìm kiếm đối tác.

* Hệ thống kênh phân phối .

Chính sách phân phối đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.

Một chính sách phân phối hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh trở nên an toàn, tăng cường khả

năng liên kết trong kinh doanh, làm cho quá trình lưu thông nhanh và hiệu quả. Vì vậy với chính sách

lưu thông hợp lý công ty sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường.

Hiện tại hệ thống kênh phân phối của công ty có dạng như sau :

Công ty

Người tiêu dùng

Nh(cid:0) nhập khẩu

Nh(cid:0) bán lẻ

Các cơ sở sản xuất

Nh(cid:0) bán buôn

Hiện nay công ty chủ yếu thường bán hàng cho các công ty trung gian nước ngoài hoặc đại lý

liên doanh. Chiến lược chính lúc này của công ty là tạo được chỗ đứng thật vững chắc trên thị trường

thế giới cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ.

2.2.2 Tình hình xuất khẩu của công ty sang Nhật Bản trong một só năm vừa qua.

Trong những năm qua, công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT đã vượt qua

tình hình kinh doanh trong nước và quốc tế để ổn định và phát triển. Công ty đã khẳng định được vị

trí của mình là một trong 10 doanh nghiệp hàng đầu của Bộ Thương Mại, là một doanh nghiệp kinh

doanh xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ lớn của cả nước và có uy tín với các đối tác, khách

hàng của mình. Đạt được những thành quả đó là do công ty đã phát huy tính năng động , sáng tạo

trong kinh doanh , chủ động khai thác thị trường , mở rộng các mối quan hệ, trong đó phải kể đến

những kết quả công ty đã đạt được trên thị trường khó tính như Nhật Bản .

2.2.2.1 Kim ngạch xuất khẩu.

Bảng 4

Một số thị trờng chủ yếu của công ty ARTEXPORT

Đơn vị: USD

Thị trờng 2001 2002 2003 2004

178.156 5.515.763 207.537 3.690.326 464.042 3.868.644 470.532 4.004.319 1.955.872 743.936 1.200.071 1.314.035

Nga- SNG Châu âu Nhật Bản Châu á-TBD Các nớc khác Tổng 2.728.916 537.721 10.448.556 1.245.399 628233 6.533.991 516.648 2.128.519 8.175.925 1.746.528 1.987.286 9.540.700

Nguồn; phòng xuất nhập khẩu tổng hợp 9- công ty ARTEXPORT

Qua bảng số liệu trên ta thấy Nhật Bản tuy không phải là thị trờng chính của công ty song kim

ngạch xuất khẩu của công ty vào thị trờng này đều tăng qua các năm và đạt trên 1 triệu USD. Không

kể đến những thị trường có dung lượng rất lớn, bao gồm nhiều quốc gia như EU và Châu á-TBD,kim

ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản là rất lớn ( chỉ sau 2 thị trường này). Năm 2001 đánh dấu năm khởi

đầu ở thị trường Nhật Bản,công ty đã xuất khẩu sang lưọng hàng trị giá 1.955.872 USD, trong bước

khởi đầumà đạt kết quả như vậy thì thật đáng khích lệ. Tuy nhiên,sang năm 2002, kim ngạch xuất

khẩu chỉ đạt 743.936 USD do tình trạng khó khăn của doanh nghiệp nói riêng và của ngành nói

chung. Song không vì thế mà làm nản lòng các cán bộ công nhân viên công ty, nhất là đối với thị

trường Nhật Bản là một thị trường mới nên đã được công ty chú ý, tăng cường các biện pháp hỗ trợ

sản xuất và tiếp cận thị trường cùng với sự giúp đỡ của các cơ quan trong việc tìm kiếm bạn hàng ,

công ty đã đẩy kim ngạch xuất khẩu lên 8.175.925USD, và đến năm 2004 vừa qua kim ngạch xuất

khẩu đạt 9.540.700 USD.

Có thể khẳng định rằng, cho dù mới tiếp cận và thâm nhập thị trường Nhật Bản song công ty

đã có những cố gắng rất lớn, tuy vậy, trong thời gian tới công ty cần đẩy mạnh hơn nữa việc thúc đẩy

xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản , một thị trường đầy tiềm năng nhưng cũng đầy thách thức vì thị

phần của công ty trên thị trường này còn rất nhỏ bé .

2.2.2.2 Mặt hàng xuất khẩu

Tổng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản tăng đều qua các năm nhưng kim ngạch

xuất khẩu của từng mặt hàng tăng giảm không ổn định. Năm 2001, hàng cói mây tre của công ty đạt

kim ngach xuất khẩu cao nhất trong cơ cấu mặt hàng là 806.597 USD bởi vì năm 2001 đánh dấu bớc

thâm nhập đầu tiên của công ty vào thị trờng Nhật Bản . Trong năm này, công ty đã đẩy mạnh khâu

thu mua, tăng cờng sản xuất mặt hàng này và đa ra nhiều kiểu mẫu mới gây sự chú ý cho khách đồng

thời các mặt hàng gỗ mỹ nghệ và hàng thêu ren cũng đợc các nhà xuất khẩu rất a chuộng với sự đa

dạng, mặt hàng gỗ đợc trạm trổ,điêu khắc khảm trai phong phú nh kiểu tứ linh: Long, Ly, Quy, Ph-

ợng; tứ quý: Cúc, Trúc, Mai, Đào….

Bảng 5

Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản

của công ty ARTEXPORT

Đơn vị : USD

Năm 2004

Năm 2001 860.587 Năm 2002 359.727 Năm 2003 300.434 421.746 Mặt hàng xuất khẩu Hàng cói, mây tre

302.089 59.786 59.855 68.661

98.522 153.792 202.916 116.099

340 170.631 0 337.806 29.906 516.690 2.522

1.955.872 743.936 1.200.071 1.314.035 Gỗ mỹ nghệ, Sơn mài mỹ nghệ Gốm sứ, đát nung Hàng thêu ren. 354.674 Hàng TCMN khác Tổng KNXK

Nguồn : phòng xuất nhập khẩu tổng hợp 9- công ty ARTEXPORT

Tuy nhiên, sang đến năm 2002, kim ngạch mặt hàng này giảm đáng kể, gần hơn 50% cùng

với các mặt hàng thêu và gỗ mỹ nghệ, sản xuất của công ty dờng nh bị ngừng lại do tình trạng thiếu

nguyên liệu, các đơn hàng lớn một số đã bị bỏ dẫn đến mất khách hàng, hàng gỗ mỹ nghệ chỉ xuất đ-

ợc 59.786 USD, thêu ren là 170.631 USD, tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ còn 743.936 USD. Trớc tình

trạng đó,công ty đã đưa ra và thực hiện rất nhiều các biện pháp giải quyết. Sang năm 2003, tình trạng

đã đợc cải thiện hơn một chút, công ty đầu tư nhiều hơn vào mặt hàng thêu ren, mặt hàng có thế

mạnh của công ty, trong năm này kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này là 337.806 USD,song tình

trạng thiếu nguyên liệu gỗ thì vẫn chưa thể giải quyết, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 59.855USD, hàng

cói và mây tre giữ được mức kim ngạch 300.434 USD. Sang năm 2004 vừa qua, với một loạt cải

cách trong công ty về mọi mặt nhằm thúc đẩy xuất khẩu sang các thị trường cũ, củng cố vị trí trên

các thị trường mới, công ty đã đẩy kim ngạch xuất khẩu vào thị trờng Nhật Bản lên 1.314.035 USD,

mặt hàng chủ lực của công ty được xác định là hàng thêu ren với 516.690 USD.

Trong năm 2004 vừa qua, công ty đã tham gia vào “Hội chợ Châu á” tổ chức tại trung

tâm triển lãm quốc tế Tokyo trong khuôn khổ chơng trình xúc tiến thơng mại trọng điểm quốc gia.

Qua hội chợ này công ty đã ký kết đợc một số hợp đồng lớn với một số công ty của Nhật Bản về mặt

hàng gốm sứ đồng thời cũng gây đợc sự chú ý của các công ty Nhật Bản khác.

Qua đây ta có thể thấy rằng, kim ngạch xuất khẩu sang thị trờng Nhật Bản tuy không thấp nh-

ng về cơ cấu mặt hàng của công ty còn cha đợc ổn đinh. Tuy nhiên, với một thị trờng khó tính và

khắt khe nh thị trờng Nhật Bản thì kết quả trên cũng rất đáng khích lệ và cần đợc phát huy hơn nữa.

* Xuất khẩu tại chỗ.

Hiện nay công ty chưa có kế hoạch khai thác thế mạnh này của ngành du lich, trước đây công

ty cũng có một cửa hàng bán lẻ ở 71 Hàng Khay nhưng do số lượng bán quá nhỏ, không mang lại

hiệu quả cao nên công ty đã đóng cửa. Với xu hướng phát triển của du lịch hiện nay, khi mà lượng

khách Nhật Bản ngày càng gia tăng, công ty bỏ qua hình thức xuất khẩu này thì quả là đáng tiếc.

2.2.3 Đánh giá về thực trạng xuất khẩu sang Nhật Bản của công ty trong thời gian qua.

2.2.3.1 Những điểm mạnh cần phát huy

Từ đầu năm 2000 đến nay, năm nào công ty cũng hoàn thành vượt kim ngạch mà bộ giao cho,

lợi nhuận không ngừng tăng lên và được bộ đánh giá là một trong những doanh nghiệp trực thuộc bộ

có tinh hình tài chính và kinh doanh ổn định. đạt được những thành tựu như vậy là do sự cố gắng nỗ

lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty và công ty cũng đã tận dụng những lợi thế bên

ngoài để phát huy.

- Trên 30 năm hoạt động, công ty đã tạo cho mình một thị phần ổn định là những thị trường,

bạn hàng truyền thống với lượng nhập khẩu hàng năm khá cao.

- Trong nội bộ công ty có sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của các cấp lãnh đạo,sự năng động đoàn

kết,tinh thần miệt mài sáng tạo của toàn thể cán bộ công ty.

- Do là một doanh nghiệp lớn trực thuộc Bộ Thương mại,công ty có được mối quan hệ tốt với

các cơ quan đại diện như Thương vụ tại Nhật Bản, nhờ đó có thể tìm kiếm đối tác và khai thác thông

tin thị trường đồng thời công ty đã được Nhà nước hỗ trợ kinh phí tham gia hội chợ va cung cấp các

thông tin về thị trường Nhật Bản, nhờ đó giảm một phần đáng kể chi phí cho công ty.

- Cơ cấu tổ chức của công ty đơn giản, gọn nhẹ, các cán bộ có kinh nghiệm lâu năm trong

quản lý. Trong thời gian qua công ty vẫn tiếp tục củng cố hoàn thiện hơn nữa bộ máy làm việc và

quan tâm bổ nhiệm sắp xếp các bộ để đấp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công tác kinh doanh,

công ty đã tạo điều kiện để các bộ trong cơ quan đi học thêm về các nghiệp vụ như ngoại thương

nhằm hỗ trợ cho hoạt động chính của xuất khẩu. Nhưng quan trọng không kém là công ty lựa chọn

các cán bộ trẻ, năng lực thích hợp và đưa đi đào tạo về Marketting. Đây cũng là công tác chuẩn bị đội

ngũ cán bộ kế cận cho những năm tiếp theo.

2.2.3.2 Những điểm hạn chế và một số khó khăn khi xuất khẩu sang Nhật Bản .

* Hạn chế

Tuy có được nhiều thuận lợi và cũng đã có sự cố gắng nhưng trong công ty vẫn tồn tại nhiều

vấn đề hạn chế:

- Vấn đề nhân lực:

+Trên 30 năm hoạt động công ty đã có được một lớp cán bộ dày dạn kinh nghiệm, tuy vậy,

ngày nay, với sự phát triển của giao lưu buôn bán, tầng lớp các bộ cao tuổi đã không còn phù hợp với

tình hình kinh doanh mới trong việc nắm bắt thông tin thị trường, nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng.

Các cán bộ trẻ, nhanh nhạy thì chưa có nhiều kinh nghiệm, trong thời gian qua công ty đã có một số

thay đổi về nhân sự nhưng về trình độ của các cán bộ trẻ này để đáp ứng một thị trường khó tính như

Nhật Bản thì là chưa đủ. Họ còn thiếu kiến thức về ngoại thương và đặc biệt khả năng ngoại ngữ còn

hạn chế, nhất là tiếng Nhật, vì vậy việc cử họ đi khảo sát, tiếp cận thị trường Nhật Bản chưa đạt hiệu

quả cao.

+ Bên cạnh đó, đối với tâng lớp nghệ nhân tại làng nghề, nơi đặt xưởng sản xuất của công ty ,

công ty chưa có chính sách nào để có thể giúp họ trong việc nắm bặt thị hiếu người tiêu dùng nước

ngoài mà họ lại là người thiết kế mẫu chủ yếu, trực tiếp làm ra sản phẩm ,vì vậy sản phẩm của công

ty chưa thể đáp ứng một số lượng lớn hơn nhu cầu của người Nhật Bản.

- Vấn đề tổ chức nguồn hàng còn rời rạc, chưa có hệ thống. Khi có hợp đồng, công ty mới

thông qua các xưởng thu hoá tại làng nghề để thu gom sản phẩm , nếu thiếu lại phải thu mua của các

xưởng khác, như vậy, nguồn hàng sẽ không được chủ động và ổn định.

- Vấn đề thiết kế mẫu: Trong xuất khẩu thủ công mỹ nghệ, khâu thiết kế mẫu chiếm một vịt rí

quan trọng vì không chỉ người Nhật Bản mà tất cả các khách hàng của công ty đều mong muốn được

mua những sản phẩm độc đáo, mới lạ,tuy nhiên khâu thiết kế trong công ty chưa được chú trọng mà

phần lớn phụ thuộc vào tầng lớp thợ hoặc nghệ nhân, hoặc có khi công ty cũng làm theo mẫu trong

đơn đặt hàng của khách, trong công ty chỉ có duy nhất phong thêu ren có bộ phận thiết kế riêng.

Chính vì vậy mà sản phẩm của công ty chưa được phong phú, chưa tạo được nhiều ấn tượng cho đối

tác, do không năm bắt kịp xu thế nên tầng lớp thợ hay nghệ nhân tại các xưởng cũng không đưa ra

được nhiều mẫu mới phù hợp với nhu cầu khách hàng.

- Vấn đề xúc tiến bán:

+ Trong việc tìm và tiếp cận thị trường, công ty chưa chủ động, chưa có chiến lược cụ thể mà

các đơn đặt hàng chủ yếu có được là nhờ các mối quan hệ với Thương vụ hay Tham tán tại Nhật Bản

.

+ Công ty đã đưa ra trang Web riêng của mình nhưng trang Web còn quá nghèo nàn, sơ sài chỉ

có một số hình ảnh sản phẩm chính, chưa có những thông tin chính về công ty cũng như chức năng

nhiệm vụ, chưa truyền tải được nhiều thông tin đến khách hàng.

- Xuất khẩu tại chỗ.

Ngày nay, xu hưởng du khách Nhật Bản vào Việt Nam ngày càng đông, và lượng mua sắm

các sản phẩm thủ công mỹ nghệ làm quà lưu niệm ngày càng tăng nhưng công ty chưa chú trọng

đến vấn đề này. Hiện công ty chưa có cửa hàng bán lẻ cho khách du lịch, chưa có hoạt động liên kết

với các công ty du lịch nhằm thu hút từ đó nâng cao kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản.

* Một số khó khăn

- Tuy thuế nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản được đánh giá là thấp nhát trong các thị trường

xuất khẩu của công ty, nhưng tại thị trường này lại tồn tại những quy định cũng như các rào cản kỹ

thuật không chính thức rất khắt khe như quy định về y tế, vệ sinh, sưc khoẻ…làm cản trở quy trình

xuất khẩu của công ty, trong khi đó công tác kiểm tra hàng hoá trước khi đóng gói của công ty chưa

được hoàn thiện, nên nhiều lô hàng của công ty bị trả lại làm ảnh hưởng đến uy tín và tăng chi phí

không cần thiết.

- Chi phí cho việc tiếp cận thị trường Nhật Bản khá lớn, mặc dù công ty được Nhà nước hỗ trợ

nhưng không đáng kể so với rất nhiều loại chi phí mà công ty phải thanh toán như chi phí tham gia

hội chợ, chi phí ăn ở đi lại cho nhân viên công ty…tất cả đều ảnh hưởng đến lợi nhuận và làm hạn

chế khả năng tiếp cận thị trường của công ty.

Chương III

MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG TCMN VÀO THỊ TRƯỜNG

NHẬT BẢN

3.1 Xu thế phát triển hàng thủ công mỹ nghệ

3.1.1 Định hướng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Đảng và Nhà nước

Với chiến lược hướng ra xuất khẩu ,phát huy mọi nội lực của đất nước, Đảng và Nhà nước ta

trong những năm qua đã đưa ra mặt hàng thủ công mỹ nghệ là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ

lực của ta và nhận được sự hỗ trợ, ưu tiên của Đảng và Nhà nước.

Trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội

5 năm 2001-2005 trong đó có phát triển thủ công mỹ nghệ “ mở mang các làng nghề, phát triển tiểu

thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ , đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm”

Thêm vào đó chủ trương đường lối đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Đảng và Nhà nước

đang thực hiện là :

- Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức,thành phần kinh tế thâm nhập, khai

thác, mở rộng thị trường .

- Thực hiện chế độ bảo hộ chính sách pháp luật nhập khẩu hợp lý cho ngành sản xuất trong

nước để tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh hàng hoá của ta trên thị

trường quốc tế.

Tất cả các yếu tố này sẽ tạo được điều kiện thuận lợi cho phát triển hàng thủ công mỹ nghệ nói

chung và của công ty nói riêng.

Trước tình hình phát triển hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm qua, Đảng và Nhà nước

đẫ đề ra phương hướng mục tiêu xuất khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ như sau:

Bảng : Mục tiêu xuất khẩu hàng TCMN trong thời gian tới

Đơn vị: triệu USD

2005 250 200 150 150 150 100 1000 2010 400 600 350 200 250 150 1950 Nhóm hàng Đồ gỗ mỹ nghệ Gốm sứ mỹ nghệ Thảm các loại Mây tre đan Thêu ren thổ cẩm Loại khác Tổng

Những mục tiêu trên có ý nghĩa quan trọng đốsi với công ty , nó giúp công ty xác định được

phương hướng và kế hgoạch phát triển của mình để đạt mục tiêu chung đề ra.

Với quá trình hội nhập kinh tế giữa Việt Nam với khu vực và thế giới đang diễn ra ngày càng

mạnh mẽ, việc Việt Nam gia nhập AFTA và hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và

các nước như hiệp định thương mại VIệt- Mỹ, hiệp định thương mại giữa Việt Nam và các nước EU

và tiến tới là Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới sẽ tạo nhiều cơ hội cũng như thách thức

đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và công ty nói riêng.

3.1.2 Xu thế phát triển hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới.

Ngày nay, khi cuộc sống con người ngày càng được đáp ứng đầy đủ hơn thì nhu cầu về tinh

thần lại được đòi hỏi cao hơn. Người tiêu dùng không chỉ yêu cầu sản phẩm chỉ có chức năng sử

dụng mà còn phải có giá trị tinh thần. Mặt khác, do trình độ khoa học, tự động hoá cao, các sản phẩm

chủ yếu làm bằng máy móc, dây truyền công nghệ hiện đại mà thiếu những sản phẩm được làm ra từ

chính bàn tay con người. Trong khi đó các sản phẩm thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm không chỉ

có giá trị sử dụng mà còn mang giá trị tinh thần cao, chứa đựng bản sắc văn hoá dân tộc của mỗi

quốc gia và phản ánh những tình cảm, cá tính của người sáng tạo ra nó. Chính vì vậy , trong xu thế

hội nhập kinh tế và giao lưu văn hoá giữa các nước thì nhu cầu về sản phẩm thủ công mỹ nghệ sẽ

ngày càng tăng về cả số lượng va chất lượng.

Vừa qua đề án xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ do Bộ thương mại chủ trì đã dự thảo lần thứ

6 với nhiều kiến nghị cụ thể, có tính khả thi nếu được chính phủ chấo nhận thì trong vòng những năm

tới kim ngạch xuất khẩu có thể đạt cao hơn.

Như vậy trong những năm tới hàng thủ công mỹ nghệ luôn là mặt hàng xuất khẩu mang tính

chiến lược của quốc gia.

3.2 Phương hướng kinh doanh của công ty ARTEXPORT trong thời gian tới

3.2.1 Mục tiêu của công ty trong thời gian tới

Căn cứ vào kết quả thực hiện trong năm 2004 và xu hướng phát triển của ngành thủ công mỹ

nghệ, công ty đã đưa ra kế hoạch kinh doanh trong những năm tới như sau:

Bảng : Kế hoạch xuất khẩu của công ty

Đơn vị:USD

Chỉ tiêu trường kim trường kim

2005 Thị Nhật Bản 1500 Tổng ngạch 3000 2010 Thị Nhật Bản 2400 Tổng ngạch 4000

Hàng gốm, sứ Hàng thêu 450 3000 1000 4000

cói, 400 3500 800 4000

300 2500 600 3500 sơn mỹ

650 2500 1000 4000

200 500 700 500

ren Hàng mây tre Hàng mài, nghệ Hàng gỗ mỹ nghệ HàngTCMN khác Tổng 3500 15000 6500 20.000

Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu tổng hợp 9- Công ty ARTEXPORT

Mục tiêu xuất khẩu của công ty trong thời gian tới là :

Tăng trưởng ổn định, nâng cao kim ngạch xuất khẩu. -

Đẩy mạnh nghiên cứu, tiếp cận thị trường xuất khẩu, để mở rộng thị trường và tìm thêm -

nhiều đối tác.

- Từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp

- Từng bước cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên, nghệ nhân cũng như thợ thủ công.

3.2.2 Nhiệm vụ của công ty trong thời gian tới

Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và đặc biệt là tiếp cận thị trường Nhật bản, công ty đã

xác đinh nhiệm vụ của mình như sau:

- Tăng cường tự tổ chức sản xuất, gắn bó chặt chẽ với các cơ sở sản xuất vệ tinh, chủ động

tham gia quản lý giá, chất lượng hàng xuất khẩu.

- Nắm vững và thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ hiện hành của Nhà nước đặc biệt là luật

thương mại và luật giá trị gia tăng.

- Nghiên cứu tổ chức để chấn chỉnh lại các mặt hàng của các làng nghề truyền thống, các

cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ.

- Tìm mọi biện pháp để mở rộng thị trường xuất khẩu, củng cố các thị trường cũ, mở rộng

phát triển sang các thị trường mới ở Trung cận Đông, Bắc Âu.

- Sử dụng tổng hợp các hình thức kinh doanh xuất khẩu: tự doanh, uỷ thác, gia công…

*Đối với thị trường

Nâng cao trình độ tiếng Nhật cho các cán bộ xuất nhập khẩu. -

Đẩy mạnh khâu nghiên cứu và tiếp cận thị trường -

- Liên hệ với các cơ quan hữu quan tại Nhật Bản cũng như tại Việt Nam để có được sự

giúp đỡ tích cực trong việc lấy các dấu chứng nhận về chất lượng nhằm tạo lòng tin cho khách hàng

về sản phẩm.

3. 3 Một số giải pháp vi mô

Để khắc phục những khó khăn tồn tại từng bước mở rộng và duy trì thị trường( nhất là thị

trường Nhật Bản), tăng khả năng xuất khẩu, tạo được uy tín đối với bạn hàng nước ngoài và hoàn

thành tốt các mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra, công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:

3.3.1 Về nguồn nhân lực

3.3.1.1 Tổ chức lại bộ máy quản lý.

Hiện nay, lực lượng lao động gián tiếp của công ty vẫn chiếm 19,4% trong tổng số cán bộ

công nhân viên của công ty , đây là một tỷ lệ cao do vậy trong những năm tới công ty cần cố gắng

giảm xuống còn 8% để phù hợp với cơ chế quản lý hiện nay của công ty. Bên cạnh đó, công ty có thể

gửi đI đào tạo đối với cán bộ chủ chốt để bổ sung và nâng cao trình độ lý luận cơ bản về các kiến

thức như kỹ thuật giao dịch, kỹ năng tổng hợp, đặc biệt là nâng cao trình độ tiếng Nhật để có thể giao

dịch và tiếp cận thị trường Nhật Bản một cách chủ động, đồng thời phục vụ tốt nhu cầu nghiên cứu

các loại tàI liệu nước ngoàI nhằm đưa mô hình quản lý tiên tiến trên thế giới áp dụng với công ty

nhằ nâng cao hiệu quả quản lý của công ty.

NgoàI ra công ty nên có chính sách chuyên môn hóa mặt hàng cho từng phòng nghiệp vụ.

Mỗi phòng có chức năng kinh doanh xuất khẩu một mặt hàng cụ thể, các phòng khác cũng có thể tìm

khách hàng kinh doanh mặt hàng đó nhưng phảI chuyển cho phòng chuyên về hàng đó và được

hưởng hoa hồng xứng đáng. Bên cạnh đó cần có sự đIều phối của công ty để tránh tình trạng cạnh

tranh giữa các phòng.

3.3.1.2 Nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu.

Hiện nay công ty đang đối mặt với vấn đề lao động đó là tình trạng vừa thừa vừa thiếu lao

động. Thừa đối với những cán bộ đã nhiều tuổi , thiếu sự năng động cần thiết dể tồn tại trong cơ chế

cạnh tranh gay gắt, thiếu những cán bộ có trình độ, năng lực thực sự về kinh doanh Thương mại quốc

tế. Trong khi đó, lao động trong công ty quá nhiều, bộ máy cồng kềnh, có nhiều cấp bậc dẫn đến khó

kiểm soát. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần có những biện pháp vừa mềm dẻo, vừa linh hoạt, năng

động để giảI quyết tối ưu vấn đề này. cụ thể có các hướng sau:

- Không ngừng đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và nâng cao trình độ văn hóa chuyên môn cho

cán bộ công nhân viên tạo sự thích ứng của con người với công việc. Cần trang bị hơn nữa những kiến

thức về pháp kuật ngoại ngữ, tin học, thường xuyên cập nhật thông tin về thị trường và đối tác mình

đang đảm nhận. Khuyến khích cán bộ tham gia các lớp đào tạo ngắn hạn về ngoại ngữ tin học ở các

trung tâm có uy tín, và đào tạo có chất lượng bằng cách cấp 100% học phí., chú trọng việc cử các cán

bộ ra nước ngoàI theo chương trình nghiên cứu thị trường của công ty để họ có thêm nhiều thông tin về

thị trường đó, nhất là đối với đội ngũ thiết kế của công ty ,họ cần nắm bắt rõ thị hiếu của người tiêu

dùng nước ngoàI đế thiết kế mẫu mã cho phù hợp, mặt khác, với tầng lớp nghệ nhân tại làng nghề của

công ty cần cung cấp cho họ đầy đủ thông tin về thị hiếu đẻ họ kịp thời nắm bắt được xu thế mới trong

sản xuất.

- Chú ý đến khâu tuyển dụng nhân sự, trong việc tuyển cán bộ xuất nhập khẩu, ngoàI kỹ năng

nghiệp vụ cần yêu cầu cao về trình độ ngoại ngữ và khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ của họ. Bên

cạnh đó, việc tuyển dụng nhân sự sẽ góp phần xây dựng đội ngũ người lao động có trình độ cao,,nhanh

nhạy, có phản ứng kịp thời trước mọi tình huống kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất

kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh của công ty một cách vững chắc và lâu dài.

- Tăng cường sử dụng có hiệu quả các kích thích lợi ích vật chất và tinh thần nhằm nâng cao

tính tích cực, sáng tạo của người lao động. Các hình thức kích thích tinh thần của người lao động ( tiền

lương, tiền thưởng, đặc biệt là khuyến khích cho thành tích sản xuất kinh doanh vượt kế hoạch) sẽ làm

cho họ hăng say, nhiệt tình vì công việc, phát huy hết khả năng sáng tạo của mình, phấn khởi,v ui vẻ

làm việc. Hình thức này còn tạọ nên môI trường “ văn hóa doanh nghiệp” là động lực mạnh mẽ cho

công ty vượt qua khó kăn thử thách, giành chiến thắng trên thương trường.

3.3.2 Về hoạt động Maketing

Một trong những đIểm yếu lớn nhất của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

trong việc tiêu thụ hàng hóa là công tác xây dựng và triển khai chính sách Marketing. Đặc biệt trong

đIều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ như hiện nay, khi mà

đa số các doanh nghiệp đều cung cấp các sản phẩm có chất lượng tương đương nhau, doanh nghiệp

nào vận dụng chính sách Marrketng hiệu quả hơn sẽ vượt lên trên các đối thủ khác. Đó chính là

nguyên nhân khiến các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ dù cung cấp sản phẩm có

chất lượng cao vẫn không thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Sau đây là một số nhưng yêu cầu đặt

ra cho công ty trong thời gian tới:

3.3.2.1 Nghiên cứu thị trường Nhật Bản

Việc nghiên cứu thị trường rất quan trọng đối với công ty , khi nghiên cứu kỹ công ty có thể

thâm nhập sâu vào thị trường này với mức độ rủi ro thấp nhất và hiệu quả cao nhất. Công ty cần

nghiên cứu thị trường trên các khía cạnh sau:

Quy mô của thị trường vả hiện tại và tương lai về mặt hàng của công ty -

Sự phát triển của nhu cầu thị trường và các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, -

trào lưu tiêu dùng

Chi phí kinh doanh phát sinh: vân tảI, thuế nhập khẩu hàng hóa, chi phí phân phối. -

Mối quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Nhật Bản, công ty sẽ được hưởng ưu đãI gì -

trên thị trường này.

Ưu thế của đối thủ cạnh tranh trên thị trường: uy tín, giá cả, chất lượng, mẫu mã sản -

phẩm .

Trên cơ sở đã nghiên cứu kỹ về các yêu tố đó, công ty sẽ đưa ra các chính sach thâm nhập thị

trường một cách chủ động với mức ruỉ ro thấp nhất.

3.3.2.2 Tổ chức tốt công tác tiếp thị và thông tin quảng cáo.

Thông tin quảng cáo nhằm mục đích giới thiệu sản phẩm của công ty tới người tiêu dùng và

đối tác nước ngoài. Thông qua quảng cáo,k hách hàng có thể biết nhiều thông tin về công ty và sản

phẩm của công ty hơn. Công ty có thể áp dụng một số hình thức sau để thông tin đến với khách

hàng:

- Công ty cần có một chiến lược quảng cáo cụ thể, lựa chọn đúng mục tiêu, phương tiện và

cách thức quảng cáo của công ty thật hấp dẫn,lôI cuốn, lượng thông tin cao, chân thực, mang tính

pháp lý.

Quảng cáo là có mục tiêu nên công ty cần phải dựa vào những chiến lược thị trường của mình,

kết hợp với các phân tích về thị trường xuất khẩu để xác định mục tiêu của từng hoạt động quảng

cáo.

Đối với thị trường đang bước đầu thâm nhập thì quảng cáo giới thiệu cho khách hàng biết về

sản phẩm của mình, làm sản phẩm trở nên hấp dẫn kích thích người tiêu dùng. Đối với các sản phẩm

là đồ đạc nội thất thì công ty có thể sử dụng báo chí để quảng cáo, gây tác động trực tiếp đến người

tiêu dùng

- Tiếp tục củng cố trang Web của công ty để trang Web phong phú hơn, thêm nhiều thông

tin hơn về công ty cũng như chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của công ty , các mặt hàng, các đặc

tính của sản phẩm ,hình ảnh sản phẩm và chú thích cụ thể vè tính năng công dụng từng loại mặt

hàng nhằm tạo đIều kiện thuận lợi cho khách hàng khi tham khảo, giao dịch và đI đến quyết định

mua hàng, đồng thời có thể khiến đối tác dù ở bất cứ nơI nào cũng có thể biết được mọi thông tin về

công ty .

3.3.2.3 Tham gia các hội chợ triển lãm, quảng bá sản phẩm .

Công ty cần tận dụng cơ hội tham gia hội trợ triển lãm trong nước và quốc tế. Trưng bày triển

lãm phải được tổ chức theo hướng đa dạng hóa sản phẩm với mẫu mã , màu sắc hấp dẫn chất lượng

cao. Với các hội chợ triển lãm quốc tế, cần xây dựng kế hoạch trước hàng năm để có đủ thời gian

nghiên cứu thị trường và chuẩn bị mọi mặt được chu đáo nhằm mang lại hiệu quả thiết thực.

Tham gia hội chợ, ngoàI việc trưng bày, giới thiệu sản phẩm của mình, công ty có thể

giao dịch tiếp xúc trực tiếp với khách hàng của mình qua đó tìm hiểu khả năng, nhu cầu và thị hiếu

của họ. Từ đó,công ty đưa ra các biện pháp đáp ứng nhu cầu, gợi mở nhu cầu và biến thành sức mua

thực tế

Cuối cùng, một công việc rất quan trọng là đánh giá hiệu quả tham gia hội chợ triển

lãm của công ty sau khi kết thúc, qua đó rút kinh nghiệm cho những lần tham gia sau. ĐôI khi đây là

công việc quyết định sự thành công của công ty trong lần tham gia hội chợ sắp tới, tuy vậy các công

ty của Việt Nam lại rất hay bỏ qua công tác này. Đó cũng chính là nguyên nhân khiến nhiều công ty

của Việt Nam chưa thu được kết quả như ý muốn khi tham gia hội chợ triển lãm.

3.3.2.4 Thiết lập chính sách giá phù h ợp và hấp dẫn.

Giá cả chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình táI sản xuất và là khâu cuối cùng thể hiện

hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, giá cả là lĩnh vực thể hiện sự cạnh tranh giành lợi ích

kinh tế và chiếm lĩnh mở rộng thị trường. Khi xây dựng một chính sách giá, công ty không chỉ xác

định chính sách giá cho từng sản phẩm hoặc dịch vụ mà còn liên quan đến cả vấn đề về lãI suất chiết

khấu và quảng cáo cho những dịch vụ cộng thêm. Hệ thống giá nên tuân theo những nguyên tắc sau:

- Để giữ chi phí thấp, công ty theo đuổi chiến lược giá phảI thưởng khách hàng mua với số

lượng lớn đối với một loại sản phẩm duy nhất. Đối với những đơn hàng nhỏ, đặc biệt nếu bao gồm

nhiều mặt hàng khác nhau, nên đưa ra mức giá cao hơn. Để có nhu cầu ổn định theo thời gian , đối

với những khách hàng đặt hàng thường xuyên với khối lượng lớn, công ty nên tạo đIều kiện thuận lợi

đặc biệt và tăng thêm tỷ lệ hoa hồng. Việc làm này sẽ khiến khách hàng ngày càng gắn bó với công

ty, lượng hàng hóa bán ra sẽ tăng, tăng nhanh vòng chu chuyển vốn và khả năng cạnh tranh của công

ty cũng vì thế mà tăng.

- Bất kỳ hình thức dịch vụ cộng thêm nào cũng đều làm quá trình tạo giá trị phức tạp hơn và

làm tăng chi phí. Vì lý do này, sẽ sai lầm khi xem xét chi phí của các dịch vụ như thế là miễn phí.

ĐIển hình là các dịch vụ cộng thêm thường cần phảI đầu tư thêm và tăng gánh nặng về quản lý. Do

đó, khách hàng sẽ chán nản khi phảI đặt hàng với giá cao đến mức khó chấp nhận được. Các chi phí

liên quan cũng nên tính vào khách hàng: giá của những dịch vụ như thế phảI được tính trên cơ sở chi

phí đầy đủ cho việc cung cấp dịch vụ đó.

Như vậy công ty chỉ nên coi giá thị trường là một cơ sở quan trongj mà không nên quá phụ

thuộc vào nó. Việc quyết định giá của công ty nên căn cứ vào từng thời kỳ của sản phẩm . Với các

mặt hàng mới được đưa ra thị trường có thể áp dụng mức giá cao (tuy nhiên cũng phảI thành công

trong viec thuyết phục khách hàng chấp nhận mức giá đó. Khi sản phẩm đã đI vào thời kỳ đI xuống,

công ty nên bán với mức giá thấp hơn một chút nhằm kích thích khách hàng, thu hồi vốn nhanh.

Mặc dù khả năng cạnh tranh của công ty về giá là không cao nhưng công ty có thể sử

dụng giá trong một số trường hợp sau:

- Công ty muốn rút ngắn vòng đời sản phẩm đang kinh doanh thì có thể chào bán với số

lượng lớn nhất, mức giá thấp nhất thu hút khách hàng và trong thời gian đó, cần chuẩn bị một mặt

hàng tiếp theo để thế chỗ. Công ty nên sử dụng chính sách giá phân biệt nhằm nâng cao hiệu quả

xuất khẩu . công ty có thể chào hàng với nhiều mức gía khác nhau, đối vói loại sản phẩm giản đơn,

công ty có thể bán với mức giá thấp hơn giá thị trường , cùng với đó, loại sản phẩm có chất lượng

cao hơn công ty có thể chào bán với mức giá cao hơn.

Tóm lại, công ty có thể áp dụng chính sách giá như sau:

- Mức giá xuất khẩu cao hơn có thể áp dụng đối với một số thị trường nhất định khi sản

phẩm đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường .

- Mức giá xuất khẩu thấp hơn được áp dụng khi sản phẩm đang ở vào giai đoạn suy thoáI,

khi công ty đang có ý định thâm nhập thị trường , theo đuổi mục tiêu doanh số.

- Công ty nên có chế độ nhiều mức giá đối với các loại sản phẩm khác nhau ở các thị trường

có nhu cầu đa dạng

- Với các sản phẩm thông thường, công ty nên thường xuyên xây dựng những phương án giá

đối với những nhà cung ứng trên cơ sở tiến hành thương lượng, đàm phán, mặc cả để có thể chọn

được giá thu mua thấp nhất.

- Với sản phẩm có chất lượng cao thì giá cả trên thị trường khá cao nhưng giá thu mua cao

và nguồn cung cấp k há hẹp, công ty nên đầu tư vào nâng cấp dây chuyền sản xuất cho những cơ sở

mà công ty thu mua, mở rộng những cơ sở này để tạo nguồn sản phẩm chất lượng cao cho xuất khẩu .

Tuy vậy, với thị trường Nhật Bản cần lưu ý dến yếu tố cạnh tranh. Thị trường Nhật Bản là thị

trường có mức thu nhập cao nên giá thấp chưa chắc đã thu hút nhiều khách hàng hoặc có thể phản tác

dụng, mặt khác chi phí quá cao so với đối thủ cạnh tranh có thể gây phản ứng nghi ngờ của khách

hàng về chất lượng sản phẩm của công ty . Do đó, công ty cần phân tích, lựa chọn thật kỹ trước khi

đặt giá.

3.3.3 Hoạt động sản xuất .

3.3.3.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm .

Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào các yếu tố tiến bộ kỹ thuật, phương pháp công nghệ, trình

độ tay nghề của người lao động, trình độ tổ chức quản lý sản xuất. Để đảm bảo và nâng cao chất

lượng cần thực hiện công tác sau:

- Kiểm tra nghiêm ngặt sự tôn trọng trình độ công nghệ. Cần phảI có sự kiểm tra chặt

chẽ những người trực tiếp sản xuất có đảm bảo đủ công đoạn sản xuất không, nếu một khâu hay một

công đoạn nào đó mà không được thực hiện thì sản phẩm sản xuất đều có thể bị hư hỏng,kém phẩm

chất, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm .

- Kiểm tra thường xuyên và chặt chẽ hơn việc giao nhận nguyên vật liệu và tổ chức quản

lý ngyên vật liệu vì chấ lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm .

- Tổ chức cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất đầy đủ, đồng bộ và đảm

bảo chất lượng.

- Sử dụng có hiệu quả cơ sơ vật chất kỹ thuật hiện có, nâng cấp kho bãI

chứa,phương tiện vận tảI

- Kiểm tra hàng hóa cẩn thận trước khi xuất khẩu đảm bảo không có gì sơ xuất. Nếu

khách hàng cần có sự giám định của tổ chức trung gian thì phảI chọn một tổ chức có đủ đIều kiện,

uy tín để giám định hàng hóa khách quan, chính xác.

- Nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn bộ cán bộ , công nhân bằng cách bồi

dưỡng tư tưởng chính trị để mọi người hiểu rằng “ sản xuất sản phẩm có chất lượng là lương tâm,

vinh dự , đạo đức của mỗi công nhân” . Bên cạnh đó, công ty cần có kế hoạch nâng cao trình độ văn

hóa cho công nhân để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm .

Tóm lại, chất lượng sản phẩm có mặt trên mọi công đoạn của quá trình sản xuất và đòi hỏi sự

tham gia của mọi thành viên trong công ty . Quản lý chất lượng sản phẩm ngay từ những khâu đầu

tiên có ý nghĩa to lớn đối với quá trình sản xuất . Nó không chỉ tạo sự ổn định về chất lượng mà còn

giảm được những hao phí không đáng có do sản phẩm hỏng hay bị trả lại, tiết kiệm thời gian lao

động, tăng năng suất lao động và giảm được giá thành sản phẩm , nhờ đó tăng khả năng cạnh tranh

của công ty. Chất lượng sản phẩm được đảm bảo đồng nghĩa với việc nâng cao uy tín của công ty

trên thị trường thông qua đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng, tạo sự yên tâm trong tiêu dùng sản phẩm ,

từ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn.

3.3.1.2 Đa dạng hóa sản phẩm .

Bên cạnh việc đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm công ty cần đầu tư vào cảI tiến, đổi mới

mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu đa dạng phong phú của thị trường. Công ty phảI thường

xuyên tiếp cận nguồn thông tin mới nhất về thị trường xuất khẩu qua các h ệ thống thông tin trên

mạng, mua thông tin của các tổ chức dịch vụ tàI chính quốc tế, tạo mối liên hệ tốt với các Tham tán

của Việt Nam tại nước ngoàI, các cơ quan Nhà nước để có được nguồn thông tin nhanh, chính xác,

từ đó xây dựng ý tưởng đề tàI, thiết kế sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. NgoàI ra có thể sử dụng

một số biện pháp sau:

- Thuê nước ngoàI, nhất là việt kiều thiết kế mẫu mã, có thể thương lượng để tiền thiết

kế được tính vào tiền bán theo tỷ lệ %, nếu bán được công ty sẽ trích tỷ lệ % trả cho nhà thiết kế, do

tiếp xúc thường xuyên với thị trường của công ty các nhà thiết kế này có thể đưa ra những mẫu mã

phù hợp nhất.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới trong công ty, bằng cách xây

dựng một bộ phận chuyên trách về thiết kế mẫu sản phẩm mới, tổ chức các cuộc thi trong chính công

ty nhằm tìm ra các mẫu mới lạ đặc sắc nhất.

- Phối hợp hoạt động giữa các trung tâm nghiên cứu với các cơ sở sản xuất ,khuyến

khích các nghệ nhân, cung cấp cho họ những thông tin mới nhất về thị hiếu tiêu dùng của thị trường

xuất khẩu .

Có sự bảo hộ bản quyền và kiểu dáng mẫu mã để tránh sự sao chép, làm giả của các đối -

thủ cạnh tranh nhằm hạ thấp uy tín của công ty .

Kiểm tra đánh giá việc thực hiện các kế hoạch mẫu mã sản phẩm . việc kiểm tra phảI -

thường xuyên nhằm cảI tiến mẫu mã hàng thủ công mỹ nghệ , tránh sự nhàm chán của khách hàng.

3.3.1.3 Tìm nguồn cung ứng nguyên vật liệu ổn định và chất lượng cao.

Để nâng cao chất lượng sản phẩm thì nguyên liệu sản xuất có đạt yêu cầu hay không là đIều

rất quan trọng. Công ty cần thiết lập mối quan hệ lâu dài với người cung ứng đồng thời phải tìm thêm

những nguồn cung ứng khác. Hiện nay, nguồn nguyên liệu cho ngành thủ công mỹ nghệ ngày càng

khan hiếm và trở thành khó khăn của các doanh nghiệp , làm ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm và

ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Để khắc phục tình trạng

này công ty có thể nghiên cứu và tự tìm ra các loại nguyên liệu khác nhau, giảm sự phụ thuộc vào các

loại nguyên liệu tự nhiên, kết hợp các cơ sở nghiên cứu với các cơ sở sản xuất …Bên cạnh đó công ty

cũng cần thu thập các thông tin về nguồn cung ứng, nhà cung ứng về độ tin cậy: nguyên liệu của họ

có đảm bảo về chất lượng, về yêu cầu sản xuất hay không. Phải tham khảo về giá nguyên vật liệu trên

thị trường , giá cả của đối thủ cạnh tranh với người cung ứng để tránh tình trạng bị ép giá hay mua

phải nguyên vật liệu chất lượng kém. Từ các thông tin trên công ty nghiên cứu , lựa chọn cho mình

nguồn cung ổn định và lâu dài.

3.4 Các giải pháp vĩ mô

3.4.1 Giải pháp về thị trường

Cần có các hoạt động như tổ chức các đoàn khảo sát thị trường Nhật Bản , tổ chức giới thiệu

hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam tại Nhật thông qua các hội trợ triển lãm, mở các phòng giới thiệu

sản phẩm, cung cấp các thông tin về thị trường Nhật Bản như các đặc điểm về kinh tế xã hội, quy

định pháp luật, chính sách thương mại, chế độ ưu đãi thuế quan tại các thị trường này cho các doanh

nghiệp là hết sức cần thiết. Bộ thương mại Việt Nam đã tổ chức một số hội chợ và có một số hoạt

động hỗ trợ các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ xuất khẩu sang Nhật Bản như tổ chức showroom

trưng bày hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam tại Tokyo, Nhật Bản ; khuyến khích các doanh nghiệp

tham gia hội chợ EXPO được tổ chức hàng năm, hỗ trợ 50% kin phí tham gia hội chợ cho các doanh

nghiệp …Tuy vậy, các doanh nghiệp hiện nay đang rất cần những sự hỗ trợ tích cực và hiệu quả hơn

nữa từ phía Nhà nước trong việc tiếp cận thị trường Nhật Bản :

* Cung cấp kịp thời những thông tin liên quan đến hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ

sang Nhật Bản .

Trong hoạt động xuất nhập khẩu, thông tin là yếu tố vô cùng quan trọng, để đẩy mạnh

xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì những thông tin về lĩnh vực thủ công mỹ nghệ tại thị trường

Nhật Bản phải được xây dựng thành hệ thống giúp các doanh nghiệp nắm bắt, phân tích và ra quyết

định. Hiện nay, tại thị trường Nhật Bản có rất nhiều các nhà xuất khẩu của các nước như Trung

Quốc, Thái Lan, Malaisia… tham gia trên thị trường này với mẫu mã vô cùng đa dạng phong phú và

đang là đối thủ cạnh tranh manh mẽ của Việt Nam . Để có thể điều hành tốt quá trình xuất khẩu đòi

hỏi phải có thông tin về các thông số xuất khẩu ,thị trường , đối thủ cạnh tranh nhưng hoạt động này

ở Việt Nam vẫn chưa có hiệu quả,do vậy cần có hướng giải quyêt như sau:

+ Thiết lập một mạng thông tin cơ bản giữa cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế nhất

là cơ quan trực tiếp quản lý hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá như Tổng cục hải quan, Bộ thương

mại, ngân hàng, Uỷ ban vật giá, Tổng cục thống kê các cơ quan Trung ương, địa phương, cơ quan

Thường vụ tại Nhật Bản .

+ Thành lập trung tâm thông tin ngành thủ công mỹ nghệ với các chức năng thu thập,

xử lý thông tin cho các doanh nghiệp về xu hướng mới , dự báo về cung cầu, các thông tin về mẫu

mốt, kỹ thuật công nghiệp mới. Tổ chức các hội thảo định kỳ, xuất bản các ấn phẩm chuyên môn và

các dịch vụ tư vấn, đồng thời tổ chức những trung tâm thông tinvề tình hình sản xuất kinh doanh và

tận dụng tối đa khả năng sản xuất và những cơ hội có được.

* Trợ giúp các công ty trong việc tìm đối tác xuất khẩu sang Nhật Bản.

Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường Nhật Bản, các cơ quan còn có nhiệm vụ giúp các

doanh nghiệp xuất khẩu thủ công mỹ nghệ tiếp cận với đối tác Nhật Bản nâng cao hiệu quả của

công việc tham gia hội chợ triển lãm,các doanh nghiệp cần có sẵn các danh mục đối tác đã được

nghiên cứu, chọn lọc từ trước để giới thiệu sản phẩm và ký kết hợp đồng

Các cơ quan đại diện tai nước ngoài còn có nhiêm vụ tiếp cận thị trường , tìm kiếm

khách hàng, đơn hàng sản xuất, đặc biệt giúp các đơn vị trong ngành thủ công mỹ nghệ có điều kiện

thâm nhập nhanh vào thị trường Nhật Bản. Ngoài ra, cần liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền của

Nhật Bản để giúp đỡ các doanh nghiệp trong vấn để xin giấy phép chất lượng.

3.4.3 Giải pháp phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ .

* Nguyên vật liệu.

Thị trường cung ứng nguyên vật liệu cho các làng nghề phần lớn là thị trường địa

phương tại chỗ, tuy nhiên trong những năm gần đây, việc cung ứng đã gặp nhiều khó khăn. Nguồn

nguyên liệu tại chỗ như chỉ đủ duy trì các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ chứ không đủ để mở rộng quy

mô sản xuất. Nguồn nguyên liệu này cũng chỉ là một trong nhiều loại nguyên liệu cần có của các cơ

sở sản xuất. Vì vậy sản xuất của nhiều làng nghề lại phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp nguyên

vật liệu tại các địa phương khác và thị trường quốc tế. Trên phương diện tổng thể, Nhà nước cần thực

hiện một số công việc sau:

- Xây dựng kế hoạch sản xuất gắn liền với kế hoạch khai tác và cung ứng nguyên vật

liệu

- Xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung trên cơ sở thực hiện phân công lao động và

chuyên môn hoá sản xuất, đồng thời phải tiêu chuẩn hoá các loại nguyên liệu để đảm bảo chất lượng

sản phẩm và tiết kiệm cho sản xuất.

Bên cạnh đó, cần kịp thời tiến hành điều tra nghiên cứu , tìm cách phát triển nguồn

nguyên liệu đang có hoặc tạo ra các loại nguyên liệu thay thế cho nguồn nguyên liệu đang bị cạn kiệt

bằng các hoạt động sau:

- Xúc tiến nghiên cứu, điều tra về sản phẩm thủ công truyền thống.

- Mở rộng nghiên cứu, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, khai thác, mẫu mã, nguyên vật liệu

mới cho các mặt hàng truyền thống.

- Đưa đề tài nghien cứu về các cùng sản xuất đến các trường đại học, viện nghiên cứu

và đem kết quả nghên cứu được giới thiệu, công bố với toàn xã hội.

* Kỹ thuật và công nghệ

Việc đổi mới và ứng dụng công nghệ hiện đại kết hợp với công nghệ truyền thống

trong các làng nghề là hết sức cấp thiết. Nó không chỉ đòi hỏi sự phát triển của thị trường công nghệ

và khả năng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất mà bên cạnh đó là

sự nâng cao năng lực quản lý của người và sản xuất , sự đổi mới về cơ chế chính sách trong lĩnh vực

này. Vì vậy, để giải pháp công nghệ có hiệu quả cần tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau:

* Phát triển thị trường công nghệ.

Để thị trường công nghệ phục vụ làng nghề phát triển và hoạt động có hiệu quả nên

thực hiện một số biện pháp sau:

- Xoá bỏ độc quyền đối với có quan Nhà nước, tạo mọi điều kiệncho các thành phần

kinh tế tham gia vào quá trình nghiên cứu cũng như chuyển giao công nghệ cho các cơ sở sản xuất tại

các làng nghề

- Đảm bảo sự kiểm tra, kiểm soát đối với thị trường nhập khẩu máy móc, công nghệ

nhằm đảm bảo chất lượng của máy móc thiết bị, tránh nhập những công nghệ cũ kỹ, thải loại của

nước ngoài, đồng thời không cho nhập những máy móc trong nước có khả năng sản xuất với chất

lượng tốt, giá cả phù hợp.

- Kích thích nhu cầu đổi mới công nghệ trên cơ sở phát triển sản xuất và nâng cao hiệu

quả của sản xuất kinh doanh .

- Tăng cường hỗ trợ nguồn vốn đầu tư phục vụ mục đích đổi mới công nghệ. Thực hiện

ưu đãi tín dụng và hỗ trợ vốn đối với những ngành nghề và cơ sở sản xuất áp dụng công nghệ tiên

tiến hiện đại.

- Phát triển các hoạt động thông tin tư vấn và chuyển giao công nghệ thông qua thành

lập các trung tâm tư vấn phục vụ hướng dẫn, hỗ trợ chuyển giao công nghệ.

* Tăng cường nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ cho các làng nghề truyền thống.

Sự tồn tại lâu dài các thiết bị công nghệ lạc hậu làm giảm chất lượng và khả năng cạnh

tranh của sản phẩm đồng thời mẫu mã sản phẩm chậm được đổi mới, còn mang nặng tính bảo thủ,

thiếu khả năng sáng tạo. Việc đưa công nghệ hiện đại vào sản xuất của làng nghề rất cần có sự hỗ trợ

của các cơ quan, tổ chức bên ngoài mà trước hết là các cơ quan,chính quyền Nhà nước các cấp và các

hiệp hội ngành nghề.

Đối với các làng nghề, sự lãnh đạo và hỗ trợ trực tiếp nhất là Sở Khoa học- công nghệ

và Môi trường. Cơ quan này có trách nhiệm theo dõi và quản lý các làng nghề về mặt kỹ thuật, giúp

các làng nghề ứng dụng công nghệ mới.Vì vậy cần tăng cường năng lực của các Sở Khoa học- công

nghệ và Môi trường của các tỉnh để có thể quản lý, tổ chức và triển khai các hoạt động nghiên cứu

ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ một cách có hiệu quả.

Tuy nhiên việc ứng dụng khoa học công nghệ cũng phải phù hợp với sự phát triển của

mỗi làng nghề như nguồn nguyên liệu hiện có, khả năng tài chính và với cách tổ chức sản xuất kinh

doanh để đem lại năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao, chất lượng sản phẩm tốt, giá thành hạ,

đồng thời không tạo sự căng thẳng trong việc dôi dư lao động và hạn chế đến mức thấp nhất sự ô

nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới phải được thực

hiện kết hợp với kỹ thuật công nghệ truyền thống, nhằm tạo nên một hệ thống kỹ thuật linh hoạt thúc

đẩy nhau phát triển, đẩm bảo cho các sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường .

* Tăng cường đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật, nâng cao trình độ văn hoá và trình độ

chuyên môn của người lao động qua việc mở các lớp huấn luyện, đào tạo tại chỗ ngắn ngày theo

chương trình phù hợp với công nghệ được chuyển giao,nhằm tạo cho người lao động có đủ trình độ

để tiếp thu và làm chủ được công nghệ mới. Thay đổi nép nghĩ và cách làm truyền thống của người

sản xuất , tạo điều kiện cho họ tiếp cận với trang thiết bị và công nghệ hiện đại, để họ nhân thức được

rằng đổi mới công nghệ là con đường để tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường.

* Tạo lập môi trường pháp lý cho sự liên kết giữa khoa học công nghệ với sản xuất kinh

doanh. Đó là việc ban hành và thực hiện các cơ chế, chính sách, hệ thống các quy định đồng bộ nhằm

khuyến khích các đề tài nghiên cứu ứng dụng tién bộ kỹ thuật và các dự án chuyển giao công

nghệ,khuyến khích các hoạt động tư vấn dịch vụ,cung cấp thông tin về đổi mới công nghệ cho các

làng nghề.

* Kết cấu hạ tầng.

* Đối với hệ thống giao thông

- Đẩy mạnh việc khảo sát và quy hoạch phát triển đồng bộ hệ thống giao thông trong các làng

nghề và ngoài làng nghề nhằm đảm bảo sự lưu thông hàng hoá giữa các làng nghề và các địa phương.

- Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng mới với việc cải tạo, duy trì và bảo dưỡng hệ thống đường

xá hiện có. Cần nâng cấp chất lượng đường giao thông liên huyện, liên xã và các đường nối với các

tụ điêm kinh tế, dịch vụ và thương mại.

- Tăng cường nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và địa phương cùng việc huy động

đóng góp trực tiếp, tại chỗ của dân cư và các doanh nghiệp , huy động sự đóng góp của các thành

phần kinh tế…theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng đầu tư.

* Với hệ thống điện.

Những năm gần đây, hệ thống điện nông thôn đã được đầu tư và phát triển khá nhanh

về phạm vi, đối tượng, lĩnh vực phục vụ cũng như lượng điện cung ứng. Sự phát triển nay đã tạo ra

những bước tiến mới trong phát triển sản xuất thủ công mỹ nghệ. Tuy vậy, nó vẫn bộc lộ nhiều hạn

chế như:

- Mạng lưới điện chắp vá, không đảm bảo các yếu tố về kinh tế và kỹ thuật, do vạy gây ra sụ

thiếu an toàn và tổn thất điện năng.

- Vốn cho xây dựng và cải tạo mạng lưới điện còn nhỏ hẹp, không đủ để đáp ứng nhu cầu củ

sự phát triển

- Giá bán điện còn thể hiện sự bất hợp lys, giá điện ở nông thôn cao hơn thành thị, trong khi

thu nhập lại thấp hơn do vậy làm hạn chêsản xuất phát triển .

Từ các hạn chế trên,trong những năm tới, để tiếp tục hoàn thiện và mở rộng hệ thống

điện đến tận các làng nghề cần có những hoạt động theo hướng sau

- Về kỹ thuật: cần hoàn thiện hệ thống các trạm hạ thế, đường dây tải điện, đảm bảo cung cấp

nguồn điện ổn định và có chất lượng đến tận các hộ sản xuất và các doanh nghiệp. Nguồn tài chính

để hoàn thiện hệ thống này cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước , nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế.

- Về tổ chức quản lý: nên có sự kết hợp quản lý giữa tư nhân và ngành điện. Tư nhân cũng có

quyền quản lỹ và bán điện theo gia quy định của Nhà nước . còn giá bán điện cho các hộ sản xuất và

các doanh nghiệp cần xem xét và điều chỉnh thích hợp sao cho giá đó sẽ là điều kiện kích thích sản

xuất và các cơ sở sản xuất sử dụng điện thay thế các nguồn năng lượng gây ô nhiễm môi trường.

* Đối với hệ thống thông tin liên lạc: đặc điểm của hệ thống thông tin liên lạc là vốn đầu tư

lớn và chủ yếu là đầu tư của Nhà nước , đồng thời các hoạt động tổ chức , quản lý dịch vụ này đều

thông qua các doanh nghiệp Nhà nước. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của sản xuất , đời sống văn

hoá của người dân thì hệ thống này cần được đầu tư nhiều hơn nữa.

- Cần tăng cường đầu tư cho việc nâng cấp công trình, đổi mới thiết bị kỹ

thuật của các trung tâm bưu điện, liên lạc ở các huyện, thị trấn, trạm khu vực.

- Các cấp chính quyền địa phương và các hiệp hội ngành nghề cần có sự hỗ trợ trong việc cug

cấp các thông tin về các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội, đặc biệt là các thông tin về công nghệ và thị

trường, để giúp các doanh nghiệp và các hộ sản xuất nâng cao kiến thức và nắm bắt kịp thời những

thông tin về kinh tế thị trường, điều chỉnh sản xuất theo yêu cầu của thị trường

* Đối với hệ thống cấp thoát nước:

Tình trạng yếu kém và xuống cấp của hệ thống cấp thoát nước là một thực tế trong các

làng nghề gây thiệt hại cho sản xuất và ô nhiễm môi trường. Vì vậy phải tiến hành quy hoạch và

xâydựng các hệ thống công trình kết cấu hạ tầng về cấp thoát nước, xử lý chất thải,giảm thiểu ô

nhiễm môi trường.

Để làm tốt việc này, trước hết tăng cường tuyên truyền giáo dục ý thức của người dân

và doanh nghiệp về quyến lợi và nghĩa vụ bảo vệ môi trường, đồng thời để họ thấy được sự cần thiết

của hệ thống công trình đó, vận động đóng góp đầu tư, quy định chặt chẽ trách nhiệm, nghĩa vụ của

họ trong việc đóng góp kinh phí xây dựng công trình. Bên cạnh đó, cần có chính sách và biện pháp

cụ thể về quản lý môi trường. Cần có bộ phận chuyên trách có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc

thực thi công tác bảo vệ môi trường, có quy định xử phạt nghiêm minh đối với những doanh nghiệp

và những hộ sản xuất vi phạm luật bảo vệ môi trường. Nhà nước và chính quyền địa phương hỗ trợ

đầu tư cho các công trình quan trọng dưới hình thức hỗ trợ vốn để cải tạo, xây dựng mới theo

nguyên tắc kết hợp xây dựng các công trìnhgiao thông, thuỷ lợi nhằm đảm bảo tính đồng bộ cho

làng nghề.

3.5 Một số kiến nghị với Nhà nước và Bộ Thương mại.

Để có thể đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ theo phương hướng mục

tiêu nêu ở phần trên, ngoài việc tổ chức thực hiện tốt các chính sách biện pháp đã có, đề nghị chính

phủ cho sửa đổi bổ sung một số chính sách biện pháp cho phù hợp với đặc điểm và ý nghĩa của việc

phát triển ngành nghề thuộc nhóm này.

* Tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các đơn vị sản xuất, xuất khẩu TCMN để

thúc đẩy nâng cao tính linh hoạt và khả năng thích ứng nhanh .

Khi nói đến sự năng động và linh hoạt là nói đến khả năng thích nghi với các thay đổi của môi

trường để tự tồn tại và phát triển. Khả năng này sẽ được tăng cường trong một môi trường lành mạnh

và năng động. Vì vậy các chính sách và giải pháp trong thời gian tới đây là cần tập trung vào việc tạo

lập môi trường ấy. Qua đó buộc các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt hàng TCMN nhất là các

doanh nghiệp nhà nước phải chú ý đến các vấn đề như : Giảm chi phí, tăng năng suất, nâng cao chất

lượng và hạ giá thành sản phẩm. Theo hướng đó cần có một chính sách để khuyến khích mạnh sự

hình thành và phát triển các chủ thể có tính linh hoạt cao, có hình thái tổ chức cho phép ra quyết định

nhanh, đảm bảo tín hiệu thị trường không bị lệch lạc.

* Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và có chính sách phù hợp để thúc đẩy chuyển dịch cơ

cấu xuất khẩu mặt hàng TCMN theo hướng tích cực.

Cơ cấu xuất khẩu được coi là chuyển dịch theo hướng tích cực khi luôn có sự xuất hiện của

chủng loại, mẫu mã hàng xuất khẩu mới.

Để thay đổi cơ cấu sản xuất nói chung và cơ cấu hàng xuất khẩu nói riêng cần có sự đầu tư. Vì

vậy trong những năm qua, Nhà Nước đã ban hành rất nhiều chế độ,chính sách để khuyến khích đầu

tư, bao gồm trong cả lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu. Kết hợp với sự thông thoáng của luật doanh

nghiệp, những chế độ và chính sách đã phát huy tác dụng rất tích cực trong việc tạo ra các mặt hàng

mới và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng dần tỷ trọng của hàng chế biến, chế tạo.

Theo bộ Thương mại những ưu đãi như hiện nay dành cho sản xuất hàng xuất khẩu là tương đối đầy

đủ. Vấn đề chính hiện nay là làm sao để tăng cường tính minh bạch và tính phổ cập của những ưu đãi

này, đồng thời thi hành chúng một cách nhất quán trên thực tế không để những khó khăn vướng mắc

về thủ tục hành chính, về mặt bằng kìm hãm tác dụng tích cực của chúng.

* Năng cao kỹ năng xuất khẩu và văn hoá thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp sản

xuất hàng TCMN

Xuất khẩu sẽ không thể tăng trưởng và bền vững nếu không lưu ý trau dồi kỹ năng xuất khẩu

và văn hoá xuất khẩu. Kỹ năng xuất khẩu tiên tiến bao gồm như sàn giao dịch, thương mại điện tử

….Trong khi văn hoá chứa đựng những nội dung như liên kết dọc, liên kết ngang, coi trọng người

tiêu dùng và chữ tín trong kinh doanh …Hai mảng này đều là điểm yếu của doanh nghiệp nước ta.

Để khắc phục tình trạng này cần có sự của cơ quan quản lý Nhà Nước, thành lập các hiệp hội để liên

kết chặt chẽ hơn các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu, để các doanh nghiệp có cơ sở trong việc

tạo lập các mối quan hệ thuận lợi cho việc phát triển sản xuất kinh doanh .

* Tiếp tục hoàn thiện và phát triển môi trường thể chế để thúc đẩy xuất khẩu

Một khu vực xuất khẩu năng động, linh hoạt và hoạt động theo định hướng thị trường rất cần

các thể chế tương thích với nó để phát huy hết mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực.

Để hỗ trợ các doanh nghiệp chuẩn bị tốt hành trang, năng cao năng lực cạnh tranh với các

công ty nước ngoài, tạo điều kiện cho hàng TCMN Việt nam thâm nhập thị trường thế giới, đề nghị

Chính Phủ và Bộ Thương Mại tạo điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp những vấn đề sau:

Cung cấp về thị trường như mở website và tiếp cận các nguồn thông tin có giá trị thương mại

ở nước ngoài.Đề nghị Bộ Thương mại cho mở website riêng của thương vụ để giúp các công ty tiếp

cận thị trường và quảng cáo cho hàng TCMN của Việt Nam.

Thành lập trung tâm triển lãm, trưng bày các sản phẩm ở các trung tâm kinh tế của các nước

cho các doanh nghiệp tham gia, mở thêm văn phòng và chi nhánh tại các địa bàn cần thiết .

*Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ cần thiết hỗ trợ cho xuất khẩu

Hiện nay các doanh nghiệp đòi hỏi nhà nước phải cung cấp thông tin về mọi mặt liên quan đến

xuất khẩu cho họ. Thực ra cái mà doanh nghiệp cần không phải là thông tin mà là kết quả của việc

phân tích thông tin. Trong hoàn cảnh dịch vụ phân tích thị trường và tư vấn kinh doanh còn chưa

phát triển, nhà nước có thể cố gắng làm thay đổi để đáp ứng nhu cầu bức xúc của doanh nghiệp. Tuy

nhiên việc làm thay đổi đó không thể kéo dài gây tâm lý ỷ lại từ phía doanh nghiệp, tư duy kinh

doanh thụ động, chờ đợi thị trường. Biện pháp tốt nhất là có chính sách khuyến khích phát triển các

loại hình dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh dịch vụ nghiên cứu thị trường và phân

tích thông tin, rất cần phát triển thêm các dịch vụ khác như dịch vụ phân tích tài chính, bao gồm phân

tích rủi ro về tỷ giá , dịch vụ pháp lý để các doanh nghiệp tham khảo trong quá trình thực hiện hợp

đồng .

* Tiếp tục đẩy mạnh và cải cách hành chính, cắt giảm chi phí cho xuất khẩu và kiện toàn

công tác xúc tiến

Về vấn đề chi phí vào cho xuất khẩu đã được nhiều nghiên cứu trong nước và ngoài nước đề

cập đến. Cần rà soát lại các khoản phí đang thu vào hàng xuất khẩu ở khu vực biên giới, kể cả phí có

hoá đơn và chứng từ. Làm thế nào để bảo đảm quỳên lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng

TCMN nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,tránh những khoản chi phí trùng lặp không cần

thiết.

* Tăng cường ưu đãi đầu tư sản xuất kinh doanh hàng TCMN

Với hệ thống chính sách khuyến khích, ưu đài hiện hành thì sản xuất kinh doanh nội địa các

dự án đầu tư sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền thống

đươch ưu đãi ở mức cao hơn các mặt hàng TCMN khác không thuộc các ngành truyền thống . Nhưng

trong trường hợp xuất khẩu ( nếu xuất khẩu trị giá trên 30%giá trịhàng hoá sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp ) thì mức ưu đãi không có gì khác biệt giữa hàng thủ công mỹ nghệ thuộc nghành nghề

truyền thống và các hàng hoá xuất khẩu khác.

Giải quyết mọi vướng mắc do chế độ thuế gây ra cho hàng TCMN

Hiện nay đối với hàng thêu, đan, móc thường gặp phải những vướng mắc do chế độ thuế gây

ra. Những vướng mắc ở đây tương tự như vướng mắc giữa các nghành may-dệt sợi. Nguyên liệu để

làm hàng thêu, ren, móc phần lớn là nguyên liệu sản xuất trong nước, Giá của vải, chỉ, len…..cung

cấp cho các cơ sở sản xuất thủ công mũ nghệ đều đã có thuế nhập khẩu thu trên nguyên liệu sản xuất

ra vải, chỉ , len đó. Do khoản thuế này không được hoàn trả nên giá thành của ta bao giờ cũng cao

hơn Trung Quốc, rất khó cạnh tranh. Chính phủ và Nhà nước nên xem xét lại việc cắt giảm thuế cho

các đơn vị sản xuất kinh doanh, xuất khẩu hàng TCMN sao cho hợp lý hơn.

Có chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện có đối với các nghành nghề truyền thống và các

nghệ nhân.

Vì hàng TCMN có những đặc điểm riêng biệt ngoài những lợi ích như những hàng hoá thông

thường khác nó còn truyền bá về hình ảnh và đất nước con người Việt Nam nên Nhà Nước cần có

chính sách ưu đãi riêng.

Thành lập mới hoặc mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ.

Thực trạng hiện nay là các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ đều thiếu vốn,

không vay được vốn hoặc không đủ sức vay vốn với lãi suất cao để tổ chức sản xuất – kinh doanh

(mua nguyên vật liệu để sản xuất hoặc mua sản phẩm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu). Nhà nước

nên nới lỏng quy tắc vay vốn cho các đơn vị kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ.

Có chính sách ưu đãi cho các nghệ nhân có tay nghề cao và đóng góp nhiều cho sự phát triển

văn hoá dân tộc.Mở thêm các trường đào tạo nghề và có chính sách khuyến khích với học viên.

Hỗ trợ nghiệp vụ về tín dụng và văn phòng

Hàng thủ công mỹ nghệ thường chỉ bán theo từng lô nhỏ, hợp đồng nhỏ, nhiều khách hàng

nước ngoài muốn mua những lô hàng nhỏ để bán thử nghiệm thị trường, không muốn mua theo

phương thức trả tiền ngay…

Để đáp ứng yêu cầu của khách hàng, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ,

đề nghị cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu các loại hàng này theo phương thức trả chậm, phương

thức gửi bán hoặc đại lý bán hàng ở nước ngoài, có sự bảo lãnh tín dngj xuất khẩu của Ngân hàng

hoặc quỹ hỗ trợ xuất khẩu.

Đề nghị chính chủ giao cho ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các ngân hàng thương mại thực

hiện ưu đãi về lãi suất và kéo dài thời gian cho vay vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh xuất khẩu hàng

thủ công mỹ nghệ theo các phương thức trên.

Trong trường hợp cần thiết, đề nghị các ngân hàng hay quỹ hỗ trợ xuất khẩu bảo lãnh tín dụng

xuất khẩu theo theo các phương thức nêu trên nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp yên tâm mở rộng thị

trường xuất khẩu . Trong thời kỳ trước năm 1990, có thời gian các doanh nghiệp của ta đã thực hiện

phương thức gửi bán hàng tại thị trường Nhật Bản.

Chính sách hỗ trợ các công ty xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

Hiện nay một số công ty chuyên doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc Bộ thương mại và

một số tỉnh, thành phố có thâm niên và nhiều kinh nghiệm trong các khâu tổ chức sản xuất, tìm hiểu

bạn hàng và thị trường tiêu thụ cho các loại hàng này.

Nhà nước cần ủng hộ và hỗ trợ các công ty chuyên doanh trở thành những công ty mạnh

trong lĩnh vực này để làm nòng cốt trong việc duy trì và phát triển các ngành nghề thủ công truyền

thống. Cụ thể là Nhà nước hỗ trợ các công ty thực thi các nhiệm vụ sau:

Tổ chức, giúp đỡ các cơ sở sản xuất khai thác các chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư,

trong đó mỗi công ty đỡ đầu một vài làng nghề, hỗ trự giúp đỡ họ tổ chức sản xuất kinh doanh đáp

ứng nhu cầu thị trường , nhất là thị trường nước ngoài.

Chọn một đội ngũ cán bộ giỏi nghiệp vụ, có kinh nghiệm từ các công ty này để thường xuyên

lo tìm bạn hàng, thị trường xuất khẩu giúp các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước xúc tiến

xuất khẩu. Đội ngũ này do Cục xúc tiến thương mại tổ chức điều hành có sự hỗ trợ tài chính từ Quỹ

hỗ trợ xuất khẩu hoặc Quỹ xúc tiến thương mại hoặc giao cho công ty tổ chức điều hành theo sự chỉ

đạo, giúp đỡ của Cục xúc tiến thương mại thuộc Bộ thương mại và có sự hỗ trợ của Nhà nước. Đội

ngũ này hoạt động theo một quy định thống nhất có quy định việc thưởng tiền khi tìm kiếm được bạn

hàng, thị trường có khả năng tiêu thụ khối lượng lớn hàng hoá.

Các công ty thủ công này, ngoài việc chăm lo sản xuất, kinh doanh xuất khẩu của đơn vị

mình, có trách nhiệm chăm lo phát triển chung cho ngành hàng,có các dự án liên doanh, liến kết

trong sản xuất kinh doanh và được Nhà nước xem xét hỗ trợ các dự án đó.

Quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ

Trước đây còn Liên hiệp xã thủ công trung ương được Nhà nước uỷ quyền thực hiện một số

chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong các làng nghề

truyền thống. Từ khi tổ chức này được giải thể, các chức năng trên được chuyển sang cơ quan khác

nên các ngành nghề này ít được quan tâm hơn trước, đề nghị chính phủ chính thức giao chức năng

nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo phát triển các ngành nghề này cho Bộ Nông nghiệp và phát triển nông

thôn và có thể uỷ quyền cho liên minh hợp tác xã Việt Nam thực hiện một số chức năng đó cho phù

hợp.

Thành lập một tổ chức cho việc hỗ trợ phát triển ngành nghề này theo các chủ trương chính

sách của Nhà nước. Để có thể theo dõt sát tình hình thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà

nước và trên cơ sở đó có những sửa đổi bố sung cần thiết cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công

mỹ nghệ , đề nghị chính phủ giao Tổng cục hải quan tổ chức lại việc thống kê xuất khẩu tương đối

chi tiết về các loại hàng hoá thuộc nhóm hàng thủ công mỹ nghệ .

* Thu hút khách du lịch quốc tế, đặc biệt là khách Nhật Bản

Với xu hướng phát triển của ngành du lịch hiện nay, khách du lịch đến Việt Nam sẽ ngày càng

đông, mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ lại là một món quà thật độc đáo cho khách du lịch nước

ngoài. Để tận dụng lợi thế này, Nhà nước nên có các chính sách phát triển ngành du lịch, gắn liền với

việc tăng cường tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ bằng một số hoạt động sau:phát triển du lịch văn

hoá, tổ chức các lễ hội văn hoá truyền thống, liên hệ và đón tiếp các đoàn khách du lịch nước ngoài,

có các chính sách đầu tư cho làng nghề để phát triển du lịch …qua đó làm tăng lượng hàng thủ công

mỹ nghệ xuất khẩu ra nước ngoài bằng hình thức xuất khẩu tại chỗ.

KẾT LUẬN

Đối với Việt Nam ngành thủ công mỹ nghệ luôn giữ một vai trò quan trọng, với hàng trăm

nghề thủ công truyền thống, hàng ngàn chủng loại sản phẩm đa dạng phong phú, ngành không những

góp phần bảo tồn và phát triển giá trị truyền thống mà còn góp phần giải quyết công ăn việc làm cho

hàng triệu lao động nông nhàn với thu nhập ổn định, tăng thu nhập quốc dân, phát triển du lịch, hội

nhập quốc tế.

Hiện nay, chính phủ đã có nhiều chính sách ưu đãi cho phát triển ngành thủ công mỹ nghệ như

chính sách khuyến khích đối với một số ngành nghề thủ công, chính sách đào tạo thợ thủ công, chính

sách cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, chính sách khuyến nông về ngành nghề

nông thôn…Bên cạnh những thuận lợi do sự hỗ trợ của chính phủ để đầu tư sản xuất hàng thủ công

mỹ nghệ còn gặp không ít khó khăn nhất là về vấn đề thị trường tiêu thụ cho sản phẩm. Ngoài thị

trường tiêu thụ trong nước, trước đây thị trường xuất khẩu lớn truyền thống của Việt Nam là Đông

Âu, EU…Sau những biến cố về chính trị khi thị trường truyền thống dần mất đi ngành thủ công mỹ

nghệ đang tìm kiếm thêm những thị trường mới để tiếp tục phát triển sản xuất trong nước, tăng quy

mô, gia tăng sản lượng.

Trong tình hình đó Việt Nam bắt đầu mở rộng sản phẩm thủ công mỹ nghệ của mình sang thị

trường Nhật Bản với kim ngạch rất khiêm tốn và cho đến năm 2004 kim ngạch xuất khẩu sang thị

trường này đã lên đến 55 triệu USD, đó là những bước đột phá thành công trong ngành sản xuất thủ

công mỹ nghệ của Việt Nam. Tuy nhiên thị phần của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản còn rất nhỏ

bé, Nhật Bản vẫn là một thị trường đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủ công mỹ nghệ

của Việt Nam. Vì vậy các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ của Việt Nam cần phải nhanh chóng hơn

nữa để tìm ra các giải pháp để thâm nhập thị trường Nhật Bản. Mặc dù còn nhiều khó khăn trong thủ

tcụ và các quy định của Nhật Bản nhưng với sự cố gắng của chính phủ và các doanh nghiệp, chúng ta

tin rằng khả năng thâm nhập hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường Nhật Bản là hoàn toàn có khả

năng và chúng ta nên tận dụng những lợi thế vốn có của ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam để nâng

cao khả năng cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên thị trường thế giới nói chung là

thị trường Nhật Bản nói riêng.

Phụ lục 1

Quy định về nhãn mác hàng hoá trên thị trường Nhật Bản

I. Mặt hàng dụng cụ ăn uống bằng gốm sứ

1. Nhãn mác theo yêu cầu của pháp luật

Hiện không có một quy định nào về nhãn mác hàng hoá đối với hàng gốm sứ .

2. Dán nhãn tự nguyện theo các điều khoản của luật

* Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp (Industrial Standardization Law)

Đồ gốm sứ chịu nhiệt được sản xuất ở nước ngoài nếu phù hợp với những tiêu chuẩn chất lượng

tiêu dùng sẽ được dán mác Jí do hiệp hội tiêu chuẩn Nhật Bản đưa ra. Hiệp hội tiêu chuẩn Nhật

Bản : TEL : 03-3583-8005 http://www.jsa.or.jp

3. Dán nhãn công nghiệp tự nguyện : Nhãn hiệu an toàn hàng gốm sứ

Uỷ ban giám định nhãn mác an toàn hàng gốm sứ thuộc hiệp hội những nhà sản xuất đồ gốm

Nhật Bản cho phép tất cả các sản phẩm được đóng gói trong hộp nếu được chứng nhận phù hợp

quy định về thủ tục kiểm tra do Luật vệ sinh thực phẩm đưa ra được phép gắn nhãn an toàn

hàng gốm sứ lên nhãn hàng hoá hoặc lên bao bì hàng hoá.

Hiệp hội những nhà sản xuất gốm sứ Nhật Bản :

TEL: 052-935-7231

II. Mặt hàng thảm

1. Nhãn mác bắt buộc theo yêu cầu của pháp luật

1.1. Luật gắn nhãn chất lượng hàng gia dụng

Theo những tiêu chuẩn dán nhãn hàng dệt may trên cơ sở của luật dán nhãn chất lượng hàng gia

dụng, mọi loại thảm bằng len cừu phải được gắn nhãn ghi rõ các nội dung như thành phần của

sợi, tên và địa chỉ ( hoặc ssố điện thoại) của người gắn nhãn. Nhãn mác cần phải để ở một vị trí

dễ thấy và dễ đọc. Luật này cũng quy định những thông tin cần thiết về chịu lửa đối với mặt

hàng thảm. Tuy nhiên đối với những mặt hàng thảm đã phù hợp với những quy định dán nhãn

của luật cứu hỏa thì không cần những quy định này.

1.2. Luật cứu hoả/Luật phòng cháy (Fire Service Law)

Mọi loại thảm chịu lửa cần phải gắn nhãn hàng chịu lửa theo khổ giấy quy định (ở bên phải) có

ghi rõ:

1) Số đăng ký tại cơ quan phòng chống hoả hoạn.

2) Tên cơ quan xác nhận được chỉ định ( đối với trường hợp xuất trình để xin xác nhận ở bên

ngoài).

Đố với những người đã đăng ký theo sắc lệnh cấp bộ trưởng ban hành trước đây thì coi như đã

được chứng nhận theo sắc lệnh mới ban hành. Trong trường hợp này, người đăng ký có thể ghi

tên tổ chức của mình và chỉ rõ hàng đã được chứng nhận là hàng chịu nhiệt .

2. Nhãn mác tự nguyện

2.1. Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp

Luật tiêu chuẩn hóa công nghiệp ( Luật JIS) đưa ra những tiêu chuẩn đối với chất lượng hàng

công nghiệp. Những sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn của Luật tiêu chuẩn công nghiệp có thể

được dán nhãn mác Jí. Những sản phẩm thuộc diện những mặt hàng theo quy định của luật tiêu

chuẩn công nghiệp (“hệ thống gắn nhãn mác JIS”) cũng có thể được dán nhãn này. Trong số các

loại thảm, thảm lông và thảm dệt thuộc hệ thống gắn nhãn mác JIS.

Dán nhãn công nghiệp tự nguyện không quy định nhãn mác công nghiệp đối với mặt hàng

thảm.

III. Mặt hàng rèm

1.1. Luật dán nhãn chất lượng hàng gia dụng

Theo tiêu chuản dán nhãn hàng dệt may căn cứ vào luật gắn nhã chất lượng hàng gia dụng, nhãn

mác cần ghi rõ thành phần cấu tạo, những chỉ dẫn bảo quản tại gia đình (bao gồm những kí hiệu

đồ hoạ), tên của người gắn nhãn và những thông tin chi tiết (địa chỉ và số điện thoại)

1.2. Luật phòng cháy

Những loại thảm chịu nhiệt cần phải gắn nhãn hàng chịu nhiệt tại nơi quy định (ở bên phải sản

phẩm) và ghi rõ những thông tin:

- Số đăng kí tại cơ quan phòng chống hoả hoạn.

- Tên của tổ chức chứng nhận được chỉ định(đối với trường hợp xuất trình cho tổ chức đó để xin

chứng nhận)

Đối với những người đã đăng kí theo sắc lệnh cấp bộ trưởng ban hành trước đây thì coi như đã

được chứng nhận theo sắc lệnh mới ban hành. Trong trường hợp này, người đăng kí có thể ghi

tên tổ chức của mình và chỉ rõ hàng đã được chứng nhận là hàng chịu nhiệt.

2. Nhãn mác công nghiệp tự nguyện.

Không quy định nhãn mác công nghiệp đối với mặt hàng rèm.

Phụ lục 2

Thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ

1.Mặt hàng thảm. 1.1 Thuế nhập khẩu Mức thuế áp dụng đối với mặt hàng thảm là rất khác nhau giữa các loại sản phẩm và các

nguyên vật liệu sử dụng. Bảng 6 đưa ra một vài ví dụ về sự phân loại thuế quan vè mức thuế đối với

mặt hàng này. Để biết thêm thông tin chi tiết xin tham khảo Biểu Thuế hải quan của Nhật Bản hoặc

liên hệ với cơ quan Hải quan Nhật Bản.

Bảng 6

Mô tả hàng hoá Mức thuế

Thảm hoặc các thảm dệt khác , thảm nơ Mức thuế ưu đãi WTO có thời hạn Miễn thuế

Miễn thuế Thảm hoặc các thảm dệt khác, bao gồm cả đan tay 9,6% 9,1% 1,74% Miễn thuế -13,4% 3,2-10,1% Miễn thuế-6,6% Thảm hoặc các thảm dệt khác, thảm lông 9,8%; 8,7%; Miễn thuế 5,22%; 7%; 4,2% Thảm hoặc các thảm dệt khác, thảm nỉ Miễn thuế-8,5% Miễn thuế

Miễn thuế Thảm hoặc các thảm dệt khác

8,2% 9,6-13,4% 8,7-10,1% 5,22-6,06%

Lưu ý : Mức thuế ưu đãi chỉ áp dụng cho những nước kem phát triển nhất.

1.2.Thuế tiêu thụ : ( CIF + thuế hải quan ) . 5%

2. Dụng cụ ăn uống bằng gốm sứ

2.1. Thuế suất nhập khẩu

Mô tả hàng hoá Đồ bếp và dụng cụ ăn uống bằng sứ Mức thuế ưu đãi Miễn thuế

Đồ bếp và dụng cụ ăn uống bằng gốm Miễn thuế Thuế suất 3,4% 2,3% 3,4% 2,3%

2.2. Thuế tiêu thụ:

(CIF + thuế hải quan ) . 5%

3.Mặt hàng rèm

Thuế tiêu thụ

( CIF + thuế nhập khẩu ) . 5%