1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM -----o0o------

BẠCH TRẦN QUÝ NHI

NÂNG CAO HIỆU QUẢ MUA BÁN NỢ TẠI VIETCOMBANK

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2012

2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ---o0o---

BẠCH TRẦN QUÝ NHI

NÂNG CAO HIỆU QUẢ MUA BÁN NỢ TẠI VIETCOMBANK

Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính Ngân hàng Mã số

: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2012

3

MỤC LỤC

CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MUA BÁN NỢ VÀ THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ4

1.1.Cơ sở lý luận về mua bán nợ ................................................................................. 4

1.1.1. Định nghĩa hoạt động mua bán nợ................................................................. 4

1.1.2 Đặc điểm mua bán nợ ..................................................................................... 5

1.2 Cơ sở lý luận về thị trường mua bán nợ ................................................................ 6

1.2.1 Thị trường mua bán nợ ................................................................................... 6

1.2.2 Các bên tham gia mua bán nợ trên thị trường ................................................ 6

1.2.3 Vai trò của hoạt động mua bán nợ đối với thị trường vốn ............................. 7

1.2.4. Xác định giá trong các giao dịch mua bán nợ trên thị trường ....................... 8

1.2.5 Các phương thức thực hiện mua bán nợ trên thị trường............................... 10

1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến mua bán nợ trên thị trường ....................................... 11

1.3.1 Nguồn vốn..................................................................................................... 11

1.3.2 Trình độ năng lực các chủ thể tham gia trên thị trường mua bán nợ............ 11

1.3.3 Khung pháp lý............................................................................................... 11

1.3.4 Tâm lý của các chủ thể tham gia mua bán nợ............................................... 12

1.3.5 Chính sách định hướng của chính phủ.......................................................... 12

1.4 Hoạt động mua bán nợ của các tổ chức tín dụng và các rủi ro............................ 12

1.4.1 Hoạt động mua bán nợ của các tổ chức tín dụng.......................................... 12

1.4.2 Rủi ro chủ yếu trong hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng............... 13

1.5. Hiệu quả của việc mua bán nợ ........................................................................... 15

1.5.1 Hiệu quả theo thành phần kinh tế ................................................................. 15

1.5.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả mua bán nợ của các tổ chức tín dụng.......... 16

1.6 Hệ thống pháp luật về hoạt động mua bán nợ ..................................................... 18

16.1 Khái quát chung quy định pháp lý về hoạt động mua bán nợ trên thế giới... 18

16.2 Khái quát về khung pháp lý cho hoạt động mua bán nợ của Việt nam ......... 19

1.7 Hoạt động mua bán nợ tại một số nước trên thế giới .......................................... 19

4

1.7.1 Hoạt động mua bán nợ trên thế giới nói chung ........................................... 19

1.7.2 Kinh nghiệm mua bán nợ các nước .............................................................. 21

1.7.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............................................................. 25

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI

VIETCOMBANK.........................................................................................................27

2.1 Thực trạng hoạt động mua bán nợ và thị trường mua bán nợ tại Việt Nam ....... 27

2.1.1 Cơ sở pháp lý của hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam ............................... 27

2.1.2 Sự hình thành hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam: .................................... 28

2.1.3 Thực trạng thị trường mua bán nợ tại Việt Nam. ......................................... 30

2.1.4 Đánh giá hiệu quả hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam trong thời gian qua37

2.1.5 Những khó khăn trong việc mua bán, xử lý nợ ............................................ 40

2.2 Thực trạng mua, bán nợ tại Vietcombank ........................................................... 42

2.2.1. Khái quát về tình hình dư nợ tín dụng, nợ xấu và các biện pháp xử lý nợ tại

Vietcombank.......................................................................................................... 42

2.2.2 Thực trạng hoạt động mua bán nợ của Vietcombank trên thị trường........... 46

2.2.3 Đối tác thực hiện tham gia mua bán nợ Vietcombank ................................. 47

2.2.4 Xác định giá trong giao dịch mua bán nợ của Vietcombank....................... 48

2.2.5. Phương thức thực hiện giao dịch mua bán nợ của Vietcombank ................ 49

2.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến mua bán nợ của Vietcombank .......................... 51

2.2.7 Các rủi ro trong mua bán nợ của Vietcombank ........................................... 54

2.2.8.Hiệu quả mua bán nợ của Vietcombank ....................................................... 55

2.3 Đánh giá quy trình mua, bán nợ của VCB .......................................................... 55

2.3.1 Nguyên tắc mua bán nợ ................................................................................ 55

2.3.2 Đối tượngkhoản nợ được mua bán ............................................................... 56

2.3.3 Thẩm quyền xem xét, quyết định mua bán nợ.............................................. 56

2.3.4 Quy trình thủ tục bán nợ, mua nợ ................................................................. 58

2.4 Một số nghiệp vụ mua bán nợ tại Vietcombank ................................................. 61

2.4.1 Một số trường hợp bán nợ ............................................................................ 61

2.4.2 Một số trường hợp mua nợ ........................................................................... 63

5

2.5 Đánh giá thực trạng mua, bán nợ tại Vietcombank............................................ 65

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ MUA BÁN NỢ TẠI

VIETCOMBANK.........................................................................................................69

3.1. Định hướng hoạt động mua bán nợ tại Vietcombank ........................................ 69

3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả mua bán nợ tại Vietcombank.......................... 69

3.2.1 Nhóm giải pháp thuộc về bộ ngành có liên quan ......................................... 69

3.2.2 Nhóm giải pháp thuộc về ngân hàng nhà nước. ........................................... 74

KẾT LUẬN ...................................................................................................................82

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................83

1. Giới thiệu sơ lược về hoạt động của Vietcombank ............................................... 88

1.1 Quá trình hình thành và phát triển ................................................................... 88

1.2 Sơ lược hoạt động kinh doanh của Vietcombank ............................................ 89

1.3 Định hướng hoạt động và mục tiêu phát triển của Vietcombank .................... 92

2. Phụ lục quy trình mua bán nợ................................................................................ 94

6

CHỮ VIẾT TẮT

: Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc tổ chức tín dụng AMC

: Bộ tài chính BTC

: Cổ phần hóa CPH

: Doanh nghiệp DN

: Doanh nghiệp nhà nước DNNN

DATC : Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp

HĐTDTW : Hội đồng tín dụng trung ương

M&A : Mua bán sát nhập doanh nghiệp

MBN : Mua bán nợ

LBOs : Mua lại doanh nghiệp bằng vốn vay

NHTM : Ngân hàng thương mại

NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần

NHTMQD : Ngân hàng thương mại cổ phần quốc doanh

NHTƯ : Ngân hàng Trung ương

NHNN : Ngân hàng Nhà nước

NHLD : Ngân hàng liên doanh

NHNNVN : Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

RRTD : Rủi ro tín dụng

TCTD : Tổ chức tín dụng

TSBĐ : Tài sản bảo đảm

TSTC : Tài sản thế chấp

TS : Tài sản

VCB (Vietcombank): Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

7

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Biểu đồ 1.1 : “Ảnh hưởng của mua bán nợ đối với thị trường vốn”

Biểu đồ 2.1 : “Số lượng AMC được thành lập theo thời gian và quy mô vốn điều lệ”

Bảng 2.2 : “Số liệu tổng hợp mua bán nợ và tái cơ cấu DN của DATC”

Bảng 2. 3 : “Bảng số liệu mua bán nợ của DATC qua các thời kỳ”

Bảng 2.4 : “Số liệu mua bán nợ giữa DATC và các TCTD”

Bảng 2. 5 : “Bảng số liệu nhóm nợ Vietcombank năm 2009-2011”

Bảng 2. 6 : “Số liệu nhóm nợ Vietcombank theo loại hỉnh DN năn 2009-2011”

Biểu đồ 2.7 : “Dư nợ tín dụng ngắn, trung và dài hạn năm 2009-2011”

Bảng 2.8 : “Kết quả xử lý, thu hồi nợ có vấn đề năm 2009-2011”

Bảng 2.9 : “So sánh biện pháp thu nợ với các biện pháp khác”

Bảng 2.10 : “So sánh giữa quy trình mua nợ và cho vay”

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài

Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động xấu đến hầu hết các doanh nghiệp.

Nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ và không có khả năng thanh toán nợ

vay ngân hàng. Điều này đã ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức tín dụng, làm tỷ

lệ nợ xấu của các ngân hàng tăng cao và Vietcombank cũng không phải là một ngoại

lệ.

Là một trong các biện pháp xử lý nợ có vấn đề, mua bán nợ được xem là một biện

pháp khá hữu hiệu để xử lý nợ tồn đọng do ưu thế về thời gian xử lý nhanh và xử lý nợ

được dứt điểm, góp phần giảm tỷ lệ nợ xấu, làm lành mạnh tình hình tài chính của

ngân hàng. Thông qua biện pháp này, ngân hàng cũng có thể cơ cấu lại danh mục đầu

tư và/hoặc danh mục cấp tín dụng. Mặt khác, biện pháp này cũng có tác động tích cực

về mặt kinh tế - xã hội.

Mặc dù hoạt động mua bán nợ trên thế giới đã tồn tại hàng chục năm nay và phát

triển rất mạnh ở các quốc gia phát triển như Anh, Mỹ, Hàn Quốc…. Hầu hết các ngân

hàng nước ngoài đều hoạt động trong lĩnh vực này và mang lại hiệu quả cho việc tái cơ

cấu doanh nghiệp và tái cơ cấu nền kinh tế. Tuy nhiên thị trường nợ và mua bán nợ ở

Việt Nam đến nay vẫn còn rất hạn chế. Hiện nay những vướng mắc về cơ chế, chính

sách là những khó khăn chủ yếu làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động mua bán nợ, tái cấu

trúc doanh nghiệp.

Trong tình hình nợ của doanh nghiệp tại ngân hàng ngày càng gia tăng, việc tạo

dựng thị trường mua bán nợ là xu hướng tất yếu. Việt Nam không thể không phát triển

thị trường mua bán nợ, bởi đó là một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế, một trong

những giải pháp giúp lành mạnh hóa tài chính cho các doanh nghiệp và ngân hàng

thương mại.

Trước nhu cầu cấp thiết đó, Luận văn “Giải pháp nâng cao hiệu quả mua bán

nợ tại Vietcombank” sẽ nghiên cứu thực trạng tình thị trường mua bán nợ tại Việt

nam nói chung và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả mua bán nợ trong hệ thống

Vietcombank nói riêng.

2

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích của đề tài này là tìm hiểu bản chất của hoạt động mua bán nợ, đánh giá

khách quan thực trạng các quy định điều chỉnh hoạt động mua bán nợ, xác định điều

kiện cụ thể của Vietcombank khi thực hiện hoạt động này. Từ đó, đề tài sẽ đề xuất

phương hướng và những giải pháp phát triển tình thị trường mua bán nợ tại Việt nam

nói chung và hệ thống Vietcombank nói riêng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Với mục tiêu nghiên cứu đặt ra ở trên, đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn

đề về bản chất hoạt động mua bán nợ, nguyên tắc, phạm vi, thẩm quyền, trình tự, thủ

tục mua bán nợ…

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Hoạt động mua bán nợ trong thực tiễn rất đa dạng với các mục đích khác nhau.

Trong phạm vi đề tài này, chỉ nghiên cứu hoạt động mua bán nợ dưới góc độ là một

biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng. Chủ thể chính của hoạt động bán nợ trong

nghiên cứu này là tình hình mua bán nợ tại Vietcombank từ năm 2006 đến nay.

 Phương pháp mô tả nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan về tình hình mua bán nợ tại

4. Phương pháp tiến hành nghiên cứu và cơ sở nghiên cứu

 Phương pháp lịch sử nhằm so sánh, đối chiếu các thông tin trong quá khứ để tìm

các nước trên thế giới và Việt Nam.

 Phương pháp phân tích : phân tích kết quả xử lý thông tin thu thập được

 Phương pháp tổng hợp thông tin: tập hợp các dữ liệu thông tin thu thập để tổng

hiểu nguyên nhân và có các kết luận phù hợp.

hợp kết quả nghiên cứu.

 Phản ánh thực trạng tình hình mua bán nợ tại Việt Nam

 Những vướng mắc về cơ chế, chính sách trong quá trình thực hiện mua bán nợ

* Các vấn đề cần nghiên cứu

 Phân tích thực trạng tình hình mua bán nợ trong hệ thống Vietcombank.

tại Việt Nam

3

 Là đề tài nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt

5. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài

 Góp phần làm sáng tỏ sự cần thiết khách quan của hoạt động mua bán nợ tại

động mua bán nợ.

 Đề tài phân tích khách quan, khoa học về thực tiễn hoạt động bán nợ của

Việt Nam và việc hoàn thiện nghiệp vụ bán nợ tại Vietcombank.

 Đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện hoạt động bán nợ tại

Vietcombank trong thời gian qua.

Vietcombank.

 Tài liệu mua bán nợ trong và nước ngoài

 Tài liệu văn bản quy định về hoạt động mua bán nợ trong nước

 Dữ liệu tình hình mua bán nợ của Vietcombank.

6. Nguồn thông tin dữ liệu : được lấy từ các nguồn trong và ngoài nước như:

7. Những điểm mới của luận văn:

Hiện nay tại Việt Nam chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về mua bán nợ tại Việt

Nam. Hoạt động mua bán nợ vẫn còn là một khái niệm dường như lạ lẫm với rất nhiều

người, nhưng thực tế nó lại rất phổ biến trên thế giới, nhất là tại các nước có nền kinh

tế phát triển như Mỹ, Anh, Hàn Quốc,...

Điểm mới của luận văn là nêu ra được những lợi ích và sự cần thiết phát triển

nghiệp vụ mua bán nợ nhất là trong tình hình hiện nay, khi Việt nam gia nhập vào thị

trường thương mại quốc tế. Luận văn cũng trình bày được các giải pháp thiết thực

nhằm nâng cao hiệu quả mua bán nợ trong hệ thống của Vietcombank.

8. Kết cấu luận văn

Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn

trình bày theo 3 chương gồm:

Chương 1: Cơ sở lý luận về mua bán nợ và thị trường mua bán nợ

Chương 2: Thực trạng hoạt động mua bán nợ tại Vietcombank

Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả mua bán nợ tại Vietcombank

4

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MUA BÁN NỢ VÀ THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ

1.1.Cơ sở lý luận về mua bán nợ

1.1.1. Định nghĩa hoạt động mua bán nợ

* Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of Economic–Christopher Pass & Bryan Lones):

Mua bán nợ là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty tài chính chuyên

nghiệp (công ty mua nợ) mua lại các khoản nợ của một công ty với số tiền ít hơn giá trị

của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền thu được của số nợ đã

mua và giá mua thực tế của món nợ đó. Lợi ích của công ty bán nợ là nhận được tiền

ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả nợ, hơn nữa lại tránh được những phiền toái

và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ chậm trả.

* Theo Từ điển thuật ngữ Ngân hàng – Hans Klaus:

Mua bán nợ là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một

công ty chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ cho một công ty tài chính chuyên

nghiệp (công ty mua nợ, thông thường là một công ty trực thuộc ngân hàng). Công ty

này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi các khoản phải thu để hưởng thủ tục

phí và có lúc ứng trước các khoản nợ.

* Tiến sĩ kinh tế Edward W. Reed và Edward K. Gill cho rằng:

Mua bán nợ là việc mua lại các khoản nợ. Các công ty mua nợ mua các khoản nợ

của khách hàng trên cơ sở không truy đòi và tiến hành một số các dịch vụ khác ngoài

việc ứng trước các khoản nợ. Công ty mua nợ đánh giá mức tín dụng trong hiện tại và

tương lai của khách hàng (người bán) và xác lập các hạn mức tín dụng ứng trước. Các

khách hàng được yêu cầu gửi trực tiếp cho công ty mua nợ bản sao hoá đơn. Khoản

ứng trước thường từ 80% - 90% trị giá hoá đơn.

* Định nghĩa về hoạt động mua bán nợ theo Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN

ngày21/12/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định như sau:

Mua, bán nợ là việc chuyển nhượng khoản nợ, theo đó, bên bán nợ chuyển giao

quyền chủ nợ của khoản nợ cho bên mua nợ và nhận thanh toán từ bên mua nợ.

5

Nói cách khác, hoạt động mua bán nợ là quan hệ hợp đồng mua bán gồm hai chủ

thể chính, là bên mua nợ và bên bán nợ. Đối tượng của Hợp đồng mua bán nợ là các

khoản nợ Tổ chức tín dụng đã cho khách hàng vay nay được chuyển quyền chủ nợ từ

bên bán nợ sang bên mua nợ. Bên bán nợ nhận thanh toán từ bên mua nợ. Việc bán nợ

có thể theo nguyên tắc có truy đòi hoặc không có truy đòi. Quyền đòi nợ sau khi

chuyển giao có thể tiếp tục mua đi bán lại trên thị trường hoặc có thể chuyển thành tài

sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp hoặc làm tài sản bảo đảm khi thực hiện nghĩa

vụ. Đối với nợ có tài sản bảo đảm, việc chuyển nhượng quyền đòi nợ bao gồm cả

chuyển nhượng các quyền, lợi ích gắn với bảo đảm của khoản nợ như quyền phát mại

tài sản thế chấp, cầm cố, quyền yêu cầu bên bảo lãnh trả nợ thay…

1.1.2 Đặc điểm mua bán nợ

 Các khoản nợ được mua, bán: là khoản nợ ngân hàng hoặc các khoản nợ thương

mại, có thể là khoản nợ trong chuẩn hoặc khoản nợ dưới chuẩn.

 Bên bán nợ là tất cả các cá nhân, tổ chức có nhu cầu bán nợ

 Bên mua nợ là các tổ chức và cá nhân có nhu cầu mua khoản nợ từ bên bán nợ, để

trở thành chủ sở hữu mới của khoản nợ.

 Bên nợ là các tổ chức, cá nhân có khoản nợ được mua, bán.

 Bên môi giới là các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng làm chức năng trung gian,

dàn xếp việc mua, bán nợ giữa các bên mua, bán nợ và được hưởng phí dịch vụ

môi giới theo thỏa thuận;

 Giá trị khoản nợ được mua, bán là tổng giá trị nợ gốc, nợ lãi (kể cả lãi phạt) và các

chi phí khác liên quan đến khoản nợ (nếu có) tại thời điểm mua, bán nợ.

 Giá mua, bán nợ là số tiền bên mua nợ phải thanh toán cho bên bán nợ theo hợp

đồng mua, bán nợ.

 Bán nợ có truy đòi là việc mua, bán nợ mà bên bán nợ cam kết bảo đảm khả năng

thanh toán khoản nợ của bên nợ và thỏa thuận với bên mua nợ trong thường hợp

bên nợ không trả nợ khi đến hạn thanh toán, thì bên mua nợ có quyền truy đòi

thanh toán khoản nợ đối với bên bán nợ, bên bán nợ phải chịu trách nhiệm thanh

toán khoản nợ đó cho bên mua nợ.

6

 Hợp đồng mua, bán nợ là văn bản thỏa thuận giữa bên mua nợ, bên bán nợ và các

bên có liên quan (nếu có) về việc mua bán nợ, chuyển quyền chủ nợ từ bên bán nợ

sang bên mua nợ và các thỏa thuận khác liên quan.

1.2 Cơ sở lý luận về thị trường mua bán nợ

1.2.1 Thị trường mua bán nợ

Thị trường mua bán nợ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các khoản nợ trên

thị trường tài chính và được phân ra thành 2 loại như sau:

* Thị trường mua bán nợ sơ cấp: là hoạt động mua bán nợ giữa chủ nợ và các nhà

đầu tư mua nợ; các bên tham gia gồm có bên bán nợ, khách nợ và bên mua nợ.

* Thị trường mua bán nợ thứ cấp: là hoạt động mua bán các khoản nợ giữa các nhà

đầu tư trên thị trường; các bên tham gia trên thị trường bao gồm có bên bán nợ, khách

nợ, bên mua nợ và các nhà đầu tư mua bán nợ.

1.2.2 Các bên tham gia mua bán nợ trên thị trường

Mua bán nợ là việc chuyển quyền đòi nợ từ chủ thể bán nợ (chủ nợ cũ) sang chủ

thể mua nợ (chủ nợ mới). Công ty mua nợ đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro về

không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của khách nợ. Từ đó hình thành một quan

hệ tài chính liên quan tới ba bên gồm bên mua nợ, bên bán nợ và khách nợ. Chi tiết các

bên tham gia vào hoạt động mua bán nợ gồm:

1.2.2.1 Tổ chức tín dụng và Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản

*Các tổ chức tín dụng và ngân hàng đầu tư:

Hầu hết các Ngân hàng thương mại tham gia bán nợ và một phần mua nợ nhằm

tái cơ cấu danh mục đầu tư, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đặc biệt, khi hoạt

động tín dụng của các ngân hàng mang nhiều rủi ro cao, tỷ lệ nợ xấu lớn thì việc phát

triển nghiệp vụ mua bán nợ của Ngân hàng thương mại nhằm thu hồi vốn ngay tăng

tính thanh khoản, giảm thiểu rủi ro tín dụng. Trong khi đó, các ngân hàng đầu tư lại là

những người mua nợ chủ yếu trên thị trường do có kinh nghiệm và kỹ năng trong

ngành tài chính.

* Các công ty mua quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc TCTD:

7

Nhằm tái cơ cấu các Ngân hàng, tránh sự sụp đổ của hệ thống Ngân hàng, chính

phủ các nước đều cho phép thành lập thêm các công ty mua bán nợ, xử lý nợ nhằm

mua lại các khoản nợ xấu của Ngân hàng. Các công ty này có thể trực thuộc Ngân

hàng thương mại (tiếp nhận, mua bán nợ từ chính các Ngân hàng thương mại này) hoặc

trực thuộc Chính phủ (tiếp nhận, mua bán nợ từ tất cả các Ngân hàng). Việc tạo ra các

công ty này nhằm mua bán, xử lý nợ để Ngân hàng có thể tập trung vào hoạt động kinh

doanh nòng cốt của mình. Còn các công ty sau khi mua nợ của Ngân hàng sẽ tập trung

vào xử lý khoản nợ thông qua hoàn thiện hồ sơ khoản nợ, bán tài sản bảo đảm, cơ cấu

lại nợ hoặc chuyển nợ thành vốn góp hoặc tiếp tục bán lại nợ.

1.2.2.2 Các công ty đầu tư, quản lý quỹ

Các Công ty này tham gia mua nợ nhằm tái cơ cấu, đánh bóng khoản nợ và tiếp

tục bán lại các khoản nợ này một lần nữa. Mặt khác, các công ty đầu tư mua nợ nhằm

chuyển thành chủ nợ lớn nhất có tính chi phối tại doanh nghiệp hoặc chuyển nợ thành

vốn góp doanh nghiệp.

1.2.2.3 Các cá nhân, tổ chức mua nợ

Đối với các chủ thể này, việc mua nợ với giá chiết khấu và thu đòi đủ toàn bộ

khoản nợ từ khách nợ là hoạt động kinh doanh chính. Đối với các cá nhân tổ chức này,

lợi nhuận được hình thành từ phần chênh lệch giữa giá mua nợ và giá trị thu đòi từ

khoản nợ. Đây là các công ty có nghiệp vụ thu nợ tốt, có thông tin khách hàng, có kỹ

thuật đánh giá khách hàng và đánh giá khoản nợ. Từ đó, họ có thể đưa ra giá mua

khoản nợ đảm bảo khoản nợ có khả năng thu hồi và thu nợ có lợi nhuận.

1.2.3 Vai trò của hoạt động mua bán nợ đối với thị trường vốn

Theo Giáo Sư Peter S.Rose (Mỹ), ảnh hưởng của mua bán nợ đối với thị trường

vốn được thể hiện qua sơ đồ sau:

Ngân hàng thương mại Thị trường vốn, thị trường tiền

Thu nhập bán nợ

Các cá nhân và tổ chức đầu tư mua khoản nợ hay khoản phải thu từ khoản nợ.

Bán các khoản nợ

hoặc khoản phải thu tệ Tổng dư nợ tín dụng trên sổ sách giảm xuống khi bán nợ các HĐTD. Ngân hàng có thể có thu nhập từ việc bán các khoản vay. Biểu đồ 1.1. “Ảnh hưởng của mua bán nợ đối với thị trường vốn”

8

Như vậy, việc mua bán nợ làm luân chuyển vốn trên thị trường. Ngân hàng có thể

huy động vốn từ thị trường thông qua việc bán các khoản nợ của mình. Các tổ chức

mua nợ thì mua các khoản nợ này và coi đó là các khoản đầu tư mới của mình. Nhiều

ngân hàng phát triển mảng kinh doanh các khoản nợ thậm chí còn hơn nghiệp vụ cho

vay truyền thống. Từ chứng khoán hóa các khoản nợ, các nhà đầu tư chuyển sang mua

bán các khoản nợ quốc gia của các nước đang phát triển. Người mua các khoản nợ này

là những công ty, tổ chức đầu tư có kinh nghiệm, am hiểu tình hình phát triển, kinh tế

của các nước này. Việc mua các khoản nợ này đều đem lại lợi nhuận lớn do tình hình

kinh tế của các nước này hồi phục hoặc do chính phủ các nước này mua lại khoản nợ

của họ.

Tuy nhiên, tại Mỹ những năm qua, chứng kiến sự sụp đổ của thị trường tài chính

do việc mua bán các khoản nợ có kèm tài sản bảo đảm là bất động sản. Các Ngân hàng

bán nợ khi bán thường là bán những khoản nợ có vấn đề hoặc thậm chí không nắm

được tình trạng khoản nợ đó. Các tổ chức mua nợ thì ngược lại, do tin tưởng vào khả

năng thu nợ từ tài sản bảo đảm là bất động sản nên cũng không chú trọng đến khả năng

thu nợ từ khách hàng. Khi xảy ra bong bóng bất động sản những năm 2007-2009 tại

Mỹ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ. Các tổ chức tín dụng cho vay mua

nhà không thu được nợ. Điều này đã gây ra khủng hoảng thị trường tín dụng thứ cấp

(thị trường mua bán nợ) tại Mỹ. Tác động của nó làm cho hàng loạt ngân hàng bị phá

sản, mua lại, sáp nhập. Các thị trường chính có quan hệ mật thiết với Mỹ cũng bị ảnh

hưởng theo gây ra suy thoái kinh tế, giảm tăng trưởng và khủng hoảng nợ

1.2.4. Xác định giá trong các giao dịch mua bán nợ trên thị trường

Cùng với quá trình phát triển của hoạt động mua bán nợ, các nhà nghiên cứu về

kinh tế và tài chính đã cố gắng đưa ra rất nhiều các mô hình khác nhau về định giá

khoản nợ. Bản thân các ngân hàng thương mại, các công ty tham gia mua bán nợ cũng

xây dựng cho mình những nguyên tắc riêng để xác định giá trị khoản nợ giao dịch. Tuy

nhiên, việc xác định giá trị khoản nợ được mua bán cần được phân chia làm 2 loại cơ

bản là khoản nợ đạt chuẩn và khoản nợ dưới tiêu chuẩn.

9

+ Đối với khoản vay nằm trong diện đạt chuẩn: bên mua và bán xác định giá trị theo

nguyên tắc thẩm định cấp tín dụng thông thường. Mặc dù vậy, vẫn có những khoản

khác biệt nhất định so với thẩm định cấp tín dụng thông thường vì điều khoản về lãi

suất đã được quy định sẵn trong hợp đồng vay vốn được giao dịch. Thông thường, tùy

theo các yếu tố thuận lợi hay không thuận lợi về mức lãi suất trong hợp đồng so với

mức lãi suất thị trường tại thời điểm giao dịch cũng như kỳ vọng về lãi suất cho đến

khi khoản vay đáo hạn mà giá trị giao dịch có thể cao hơn hay thấp hơn giá trị sổ sách

của khoản vay.

+ Đối với các khoản nợ dưới tiêu chuẩn: việc xác định giá trị là một thách thức lớn cho

cả bên mua và bên bán. Thông thường, các phương pháp thẩm định cấp tín dụng rất

khó áp dụng thành công trong trường hợp này. Vì vậy, đa số các bên sẽ sử dụng

phương pháp xác định giá trị hiện tại của dòng tiền có khả năng thu hồi nợ trong tương

lai kết hợp với việc định giá tài sản đảm bảo và đánh giá khả năng thu hồi phát mãi tài

sản nếu cần.

Việc xác định dòng tiền thu hồi nợ trong tương lai đòi hỏi phải có khả năng thẩm

định tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn, tình

hình công nợ của khách hàng. Bên cạnh đó, các thông tin phi tài chính cũng cần được

thẩm tra như thái độ hợp tác của khách hàng trong việc trả nợ, tình hình lãnh đạo của

doanh nghiệp, các dự án có thể tác động xấu đến hoạt sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp.

Đối với các khoản vay có đảm bảo bằng tài sản, việc xác định hiện trạng, hồ sơ

pháp lý, giá trị sử dụng cũng như tính thanh khoản của tài sản rất quan trọng. Nếu tình

hình tài chính của khách hàng xấu thì tài sản đảm bảo chính là cơ sở quan trọng nhất

trong việc định giá khoản nợ được mua bán cho phù hợp.

Có thể nói việc định giá tài sản là cơ sở quan trọng để các bên mua bán nợ có thể

tham gia giao dịch và giao dịch thành công. Tuy nhiên, giá trị giao dịch thực tế còn

phụ thuộc vào kỹ năng đàm phán và tình hình của các bên tại thời điểm diễn ra giao

dịch.

10

1.2.5 Các phương thức thực hiện mua bán nợ trên thị trường

* Bán đấu giá thông qua Trung tâm bán đấu giá

Trường hợp này Trung tâm bán đấu giá tiếp nhận hồ sơ khoản nợ bao gồm hồ sơ

tín dụng, hồ sơ tài sản bảo đảm, thông tin khách nợ... và tổ chức bán đấu giá. Thông tin

bán nợ được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các khách hàng có nhu

cầu mua nợ nộp hồ sơ mua nợ tại Trung tâm bán đấu giá và bỏ giá mua. Khoản nợ sẽ

bán cho bên trả giá cao nhất.

* Chủ nợ tự bán đấu giá

Chủ nợ có khoản nợ cần bán có thể tự thực hiện việc bán nợ, không cần qua

Trung tâm bán đấu giá. Tổ chức bán nợ có thể thông báo trên báo, đài, website về việc

bán nợ của mình. Các khách hàng mua nợ có thể liên lạc với bên bán nợ để tìm hiểu

thông tin về khoản nợ định bán. Trình tự, thủ tục bán nợ thực hiện như bán nợ thông

qua Trung tâm bán đấu giá.

* Các bên mua, bán nợ thông qua môi giới

Các bên có nhu cầu mua bán nợ có thể thông qua bên môi giới để tìm kiếm người

mua, người bán các khoản nợ phù hợp với yêu cầu của mình đề ra. Bên môi giới sẽ là

người trung gian nhằm thực hiện hoàn thiện yêu cầu của các bên đưa ra nhằm đảm bảo

việc mua bán nợ thành công.

* Các bên mua, bán nợ tự thỏa thuận việc mua bán nợ

Trong một số trường hợp đặc biệt, các khoản nợ của các công ty mang tính chất

đặc thù chỉ có các công ty cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh

doanh mới quan tâm đến việc mua nợ của các công ty này nhằm mở rộng phát triển sản

xuất hoặc sử dụng tài sản bảo đảm từ khoản nợ phục vụ mục đích riêng của họ. Chỉ các

công ty này có nhu cầu mua nợ và khoản nợ chỉ có thể bán cho các công ty này. Do

vậy, các bên mua, bán nợ tự làm việc, tự thỏa thuận với nhau để thực hiện việc mua,

bán nợ.

Như vậy, hoạt động mua bán nợ đã trải qua thời gian dài, dưới nhiều hình thái

khác nhau để phát triển hoàn thiện cho đến ngày nay. Hoạt động mua bán nợ đã hỗ trợ

rất nhiều trong hoạt động kinh doanh tài chính ngân hàng với những ưu điểm vượt trội

11

của nó. Chính từ những lợi ích này mà các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ rất

đa dạng từ các ngân hàng, tổ chức tài chính đầu tư, quản lý quỹ thực hiện nghiệp vụ

đầu tư đến các công ty kinh doanh mua bán nợ, các công ty thực hiện nghiệp vụ thu đòi

nợ. Nghiệp vụ mua bán nợ còn được chia thành nhiều hình thức mua bán nợ khác nhau

nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong giao dịch mua bán nợ. Tuy nhiên, ngoài những lợi

ích hoạt động mua bán nợ đem lại, hoạt động này cũng phát sinh những rủi ro cho các

bên tham gia. Do vậy, việc xác định giá mua bán nợ phải căn cứ trên giá trị vật chất

của khoản nợ cũng như các lợi ích và rủi ro tiềm năng của giao dịch để xác định.

1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến mua bán nợ trên thị trường

Các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường này gồm có thể xem xét đến các yếu tố

vốn, trình độ nhân viên năng lực của các chủ thể tham gia mua bán nợ, khung pháp lý,

các chính sách định hướng phát triển của thị trường mua bán nợ của quốc gia.

1.3.1 Nguồn vốn

Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng hoạt động mua bán nợ là nguồn vốn. Việc có

nguồn vốn đủ mạnh sẽ giúp cho các công ty tham gia mua bán nợ chủ động hơn trong

các giao dịch.

1.3.2 Trình độ năng lực các chủ thể tham gia trên thị trường mua bán nợ

Trình độ năng lực chuyên môn của các chủ thể tham gia trên thị trường mua bán

nợ sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động mua bán nợ. Trên thực tế, mặc dù xác định khoản

nợ là một loại hàng hoá được giao dịch trên thị trường nhưng pháp luật về thẩm định

giá lại không có quy định cụ thể nào về việc định giá khoản nợ. Vì vậy, trình độ

chuyên môn và kinh nghiệm của các nhân viên cán bộ chuyên trách thực hiện định giá

các khoản nợ sẽ đóng vai trò chủ đạo để thúc đẩy hoạt động mua bán nợ diễn ra nhanh

hơn, hiệu quả hơn.

1.3.3 Khung pháp lý

Một khung pháp lý hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có cơ sở

thực hiện hoạt động mua bán nợ như các quy định về phạm vi mua, bán nợ; phương

thức mua, bán nợ; quyền và nghĩa vụ các bên tham gia quan hệ mua, bán nợ; quản lý

và xử lý tài chính đối với khoản nợ mua, bán… Ngược lại, nếu khung pháp lý chưa

12

hoàn chỉnh, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, sẽ dẫn đến nhiều trường hợp tổ

chức tín dụng cũng như các bên liên quan còn gặp lúng túng khi thực hiện bán nợ

chẳng hạn như vấn đề định giá nợ, cấp hoá đơn trong hoạt động mua bán nợ, hạch toán

kế toán v.v.. làm hạn chế sự phát triển của thị trường mua, bán nợ.

1.3.4 Tâm lý của các chủ thể tham gia mua bán nợ

Tâm lý e ngại, sợ trách nhiệm của các chủ thêm tham gia mua bán nợ làm cho thủ

tục bán nợ trở nên chậm chạp hơn, chẳng hạn như việc yêu cầu đăng thông báo công

khai một cách máy móc hoặc yêu cầu bắt buộc phải có một bên thứ ba độc lập định giá

bán nợ… Những thủ tục này trong một số trường hợp là cần thiết để bảo đảm tính

khách quan minh bạch nhưng nếu vận dụng thiếu linh hoạt thì lại gây chậm trễ, làm

mất cơ hội bán nợ thành công.

1.3.5 Chính sách định hướng của chính phủ

Tùy thuộc vào các chính sách hiện hành về định hướng phát triển thị trường mua

bán nợ của một quốc gia sẽ làm cho hoạt động mua bán nợ trên thị trường có xu hướng

phát triển hay trì trệ.

1.4 Hoạt động mua bán nợ của các tổ chức tín dụng và các rủi ro

1.4.1 Hoạt động mua bán nợ của các tổ chức tín dụng

Hoạt động mua bán nợ gồm một số loại cơ bản sau:

* Bán nợ theo hình thức bán nợ một phần (Participation loan): Bên mua nợ sẽ mua

một phần dư nợ của hợp đồng vay. Hợp đồng vay vẫn được ký giữa ngân hàng cho vay

và bên nợ. Bên mua nợ mới sẽ không tham gia vào Hợp đồng tín dụng. Bên mua phải

chịu rủi ro nếu ngân hàng cho vay bị phá sản hoặc người đi vay không có khả năng trả

nợ. Bên mua phải theo sát cả ngân hàng bán nợ và cả người vay.

* Bán nợ theo hình thức chuyển nhượng khoản nợ từ chủ nợ cũ sang chủ nợ mới

(Assignment): Ngân hàng sở hữu khoản vay chuyển cho người mua. Bên mua nợ có

quyền trực tiếp đối với người đi vay liên quan đến khoản vay. Như vậy, người đi vay

cũng đồng ý việc bán khoản vay trước khi nó được chuyển nhượng.

* Bán nợ theo hình thức chia nhỏ từng phần (Loan strip): Ngân hàng chia khoản nợ dài

hạn, nhiều kỳ hạn trả nợ thành nhiều phần nợ ngắn hạn với mỗi khoản nợ là một hoặc

13

hai kỳ trả nợ. Bên mua nợ sẽ mua một trong những phần nợ ngắn hạn đó và nhận tiền

khi đáo hạn gồm gốc và lãi của những các kỳ hạn nợ đã mua. Với loại này, ngân hàng

vẫn chịu rủi ro đối với phần nợ chưa bán còn lại và vẫn phải dành một phần vốn của

mình để hỗ trợ cho kỳ hạn nợ chưa bán cho đến khi chúng đáo hạn thanh toán.

* Bán nợ không truy đòi: Bên mua nợ sẽ tự chịu trách nhiệm trong việc thu đòi nợ từ

khách nợ. Nếu có rủi ro phát sinh, bên mua nợ sẽ tự chịu tổn thất do không thu đòi

được nợ/ không phát mại được tài sản bảo đảm, thế chấp mà không thể đòi lại nó từ

Ngân hàng bán nợ.

* Bán nợ có truy đòi: Có thể Ngân hàng bán nợ đồng ý hoàn trả cho bên mua nợ những

khoản nợ không thể thu hồi. Tức là, bên mua có một hợp đồng quyền bán (put option)

cho phép họ bán các khoản nợ kém chất lượng lại cho ngân hàng bán nợ. Hợp đồng

này bắt buộc cả người bán và người mua chia sẻ rủi ro vỡ nợ. Ngày nay, cam kết hoàn

trả (recourse agreement) không còn phổ biến trong thị trường nợ vì như vậy các ngân

hàng bán nợ vẫn phải có dự trữ cho các khoản vay đã bán có cam kết hoàn trả và các

khoản nợ này như vậy vẫn được coi là một phần trong bảng tổng kết tài sản của Ngân

hàng. Ngân hàng bán nợ có thể bị bắt buộc phải nhận lại các khoản nợ kém chất lượng

khi đã bán cho tổ chức mua nợ.

1.4.2 Rủi ro chủ yếu trong hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng

Theo Palour và Plantin (2008) có 03 trường hợp điển hình mà một tổ chức tín

 Trường hợp 1: Tổ chức tín dụng bán khoản nợ mà họ đánh giá là khoản nợ xấu

dụng sẽ xem xét bán các khoản cho vay của mình:

 Trường hợp 2: Tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản hay khó khăn về

hoặc có nguy cơ xấu (người mua nợ có thể biết hoặc không biết thông tin này).

 Trường hợp 3: Tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản hay khó khăn về

tài chính buộc phải bán khoản nợ dù biết đó là khoản nợ tốt.

tài chính buộc phải bán những khoản nợ mà họ không có lợi thế về thông tin của

người vay.

Trong cả ba trường hợp trên, luôn tiềm ẩn rủi ro đối với cả người bán nợ và người

mua nợ cũng như có thể ảnh hưởng dây chuyền đến thị trường tài chính nói chung nếu

14

quy mô giao dịch lớn và liên quan tới nhiều tổ chức. Về cơ bản có một số các rủi ro

chủ yếu sau:

* Rủi ro do mất cân xứng thông tin: Rủi ro này đặc biệt liên quan tới các giao dịch mua

bán khoản nợ không có truy đòi. Bán nợ là nghiệp vụ trong đó các ngân hàng kinh

doanh bằng năng lực của mình xác định được khả năng thanh toán của người đi vay và

bán khả năng này cho các nhà đầu tư khác. Đặc thù của hoạt động mua bán nợ là ngân

hàng kiểm soát người vay và có thể nắm rõ sự thành công hay thất bại của dự án.

Trong khi đó các nhà đầu tư(người mua nợ) không thể biết chính xác ngân hàng có che

dấu rủi ro tiềm ẩn của dự án hay không. Vì đó là những thông tin mang tính nội bộ

(Palour và Platin, 2008).

* Rủi ro đạo đức: Mặt khác các khoản nợ khi được bán từ ngân hàng này sang ngân

hàng hoặc chủ nợ khác thì sẽ tiềm ẩn rủi ro từ chính hoạt động cho vay trực tiếp với

khách hàng do ngân hàng bán khoản tín dụng khi thẩm định ban đầu có thể không đầu

tư nhiều vào đánh giá tình hình tài chính của người đi vay khi khoản nợ có thể nhanh

chóng chuyển sang một chủ nợ khác. Đây là vấn đề về rủi ro đạo đức và nó đã phần

nào phản ánh tại cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 xuất phát từ khủng

hoảng nợ dưới chuẩn và các công cụ chứng khoán hóa. Do vậy, khi mua các khoản vay

có sẵn, các tổ chức mua nợ phải xem xét tình hình tài chính không chỉ của những

khách hàng vay vốn và cả tình hình tài chính, trình độ quản trị cũng như uy tín của tổ

chức tín dụng bán nợ.

* Rủi ro trong việc xác định giá trị khoản nợ: Việc xác định giá trị giao dịch của khoản

nợ có thể đem lại rủi ro và thiệt hại về tài chính cho cả bên bán nợ và bên mua nợ. Như

liệt kê ở trên, trong ba trường hợp mua bán nợ điển hình, trường hợp nào cũng xuất

hiện rủi ro về giá. Trường hợp thứ nhất, rủi ro nhiều khả năng thuộc về tổ chức mua nợ

do vấn đề thông tin không cân xứng. Tổ chức mua nợ có thể đánh giá sai mức độ rủi ro

của khoản nợ dẫn đến việc trả giá quá cao cho khoản nợ, và khi khoản nợ trở nên xấu

hơn, thiệt hại tài chính của bên mua là đáng kể. Tuy vậy, trong trường hợp này, tổ chức

bán nợ vẫn có rủi ro nếu có những đánh giá quá bi quan về khoản nợ dẫn tới việc chấp

nhận giá bán quá thấp cho khoản nợ. Trường hợp thứ hai, rủi ro rõ ràng thuộc về tổ

15

chức bán nợ do sức ép về vấn đề tài chính nội tại có thể dẫn đến phải bán rẻ các khoản

nợ tốt. Trường hợp thứ ba thì rủi ro cũng thiên về tổ chức bán nợ do không có đủ thông

tin về tình hình khách hàng vay cũng như khó khăn về tài chính dẫn đến việc bán nợ

với giá trị thấp hơn giá trị thực của khoản nợ. Ngoài ra, việc mua bán nợ còn có một số

rủi ro khác như rủi ro pháp lý, rủi ro thay đổi tình hình nền kinh tế,…

1.5. Hiệu quả của việc mua bán nợ

1.5.1 Hiệu quả theo thành phần kinh tế

- Đối với các tổ chức tín dụng, công ty mua bán nợ

Nghiệp vụ mua bán nợ sẽ giúp các Ngân hàng thay đổi danh mục đầu tư, thay đổi

quy mô các khoản cho vay, thực hiện xử lý nợ xấu, nợ tồn đọng và làm gia tăng thu

nhập cho Ngân hàng. Mua bán nợ nhằm xử lý nợ xấu trong Ngân hàng cũng rất phổ

biến do thời gian xử lý nhanh và dứt điểm được khoản nợ, tiết kiệm được các chi phí

cũng như thời gian quản lý và thu đòi nợ xấu, thu hồi được vốn và nâng cao kết quả

kinh doanh.

Việc mua bán nợ sẽ làm giảm các tài sản có mức rủi ro cao của ngân hàng và tăng

cường vốn cho ngân hàng. Nó giúp cho các ngân hàng hạn chế rủi ro, giảm chi phí

vốn, tăng cường đa dạng hóa đầu tư do các khoản cho vay cũ, rủi ro đã được thay bằng

các khoản cho vay mới.

Đối với các tổ chức tín dụng công ty mua nợ, đây sẽ là một cơ hội đầu tư có chi

phí thấp nhưng thu nhập trong tương lai sẽ rất khả quan.

-Đối với doanh nghiệp

Việc mua bán các khoản nợ có vấn đề giúp tái cơ cấu, làm lành mạnh hóa tình

hình tài chính của doanh nghiệp, DN sẽ được giãn nợ, tránh khỏi bị phá sản, không

những vậy doanh nghiệp còn có thể được tiếp cận nguồn vốn mới để tiếp tục duy trì

sản xuất và hồi phục phát triển.

-Đối với thị trường vốn

Việc bán các khoản nợ sau đó đầu tư vào các tài sản khác có tính thanh khoản cao

hơn như chứng khoán chính phủ, làm tăng khả năng thanh khoản của ngân hàng, đáp

ứng tốt nhu cầu rút tiền gửi và chi trả tiền mặt. Như vậy, việc mua bán nợ làm luân

16

chuyển vốn trên thị trường. Ngân hàng có thể huy động vốn từ thị trường thông qua

việc bán các khoản nợ của mình.

Thực tế, trên thế giới đã cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của nghiệp vụ mua bán

nợ và được xem là một kênh đầu tư, huy động vốn của các tổ chức tín dụng trên thị

trường.

-Đối với nền kinh tế

Thị trường mua bán nợ phát triển sẽ làm cho các khoản tín dụng của ngân hàng

trở nên thanh khoản hơn tạo điều kiện cho các ngân hàng nhanh chóng thu hồi vốn để

đầu tư vào các cơ hội kinh doanh tốt hơn cũng như tăng cơ hội phòng ngừa các cú sốc

tiêu cực của nền kinh tế.

Về mặt xã hội, việc mua lại các khoản nợ này có thể các DN vượt qua nguy cơ

lâm vào tình trạng phá sản, giúp một lượng lớn lao động tại các DN tránh được thất

nghiệp. Điều này rất quan trọng đối với việc đảm bảo an sinh xã hội trong sự phát triển

chung của nền kinh tế.

- Đối với các cơ quan nhà nước

Việc các doanh nghiệp được cứu thoát sẽ giữ lại cho nhà nước một nguồn thu lớn

trong tương lai thông qua thuế. Thực vậy, trong bất cứ nền kinh tế nào đều có sự đóng

góp rất lớn của khối doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà các DN này rất dễ ảnh hưởng tiêu

cực từ cú sốc của nền kinh tế nên rất dễ dẫn đến phá sản. Nếu các doanh nghiệp này

vượt qua được khó khăn tài chính tạm thời, chính là động lực thúc đẩy nền kinh tế,

đóng góp rất lớn vào ngân sách quốc gia, đồng thời tạo ra nhiều việc làm cho xã hội.

1.5.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả mua bán nợ của các tổ chức tín dụng

Theo Saunders (2000), các giao dịch mua bán nợ giữa các ngân hàng là cốt lõi

của thị trường mua bán nợ đặc biệt là giao dịch giữa các ngân hàng có quan hệ đại

lý với nhau. Lý do các ngân hàng mua lại nợ của các ngân hàng khác là muốn đa

dạng hóa danh mục các khoản vay, tại Mỹ trong những năm 80 và đầu những năm

90 thế kỷ 20, các ngân hàng bị hạn chế trong việc thực hiện cung cấp dịch vụ ngân

hàng trên toàn quốc, do vậy việc mua bán nợ sẽ giúp cho các ngân hàng có được sự

đa dạng vị trí địa lý đối với các danh mục đầu tư tín dụng của mình. Ngày nay, các

17

giao dịch mua bán nợ giữa các ngân hàng vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ do việc

mua bán nợ đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng. Hiệu quả của việc mua bán nợ của

các TCTD được đánh giá ở các chỉ tiêu say đây :

• Giảm tỷ lệ nợ xấu

Việc bán các khoản nợ có vấn đề giúp tái cơ cấu ngân hàng, làm lành mạnh

hóa tình hình tài chính của ngân hàng, đồng thời giúp giảm thiểu được rủi ro tín

 Hỗ trợ thanh khoản, khơi thông nguồn vốn cho TCTD

dụng, việc bán các khoản nợ xấu sẽ giúp làm giảm tỷ lệ nợ xấu của các TCTD.

Việc bán các khoản nợ sau đó đầu tư vào các tài sản khác có tính thanh khoản

cao hơn như chứng khoán chính phủ, làm tăng khả năng thanh khoản của ngân

hàng, đáp ứng tốt nhu cầu rút tiền gửi và chi trả tiền mặt. Khi bán nợ, số tiền thu về

từ bán nợ làm tăng thêm nguồn vốn khả dụng của ngân hàng, tạo ra sự luân chuyển

vốn nhịp nhàng trong nền kinh tế. Theo Greenspan (2004) thị trường mua bán nợ

phát triển sẽ làm cho các khoản tín dụng của ngân hàng trở nên thanh khoản hơn

tạo điều kiện cho các ngân hàng nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư vào các cơ

hội kinh doanh tốt hơn cũng như tăng cơ hội phòng ngừa các cú sốc tiêu cực của

nền kinh tế.

• Tăng thu nhập từ hoạt động mua bán nợ

Các TCTD có thể tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc khởi tạo các khoản vay và

nhanh chóng bán lại các khoản vay này và nhanh chóng bán lại các khoản vay này

để thu về các khoản phí hoặc chênh lệch, thông thường là các khoản nợ của các

khách hàng được đánh giá là chất lượng khá trở lên. Bằng cách này, các ngân hàng

có thể tăng thêm thu nhập từ nghiệp vụ mua bán nợ.

• Đa dang hóa danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro

Việc bán các khoản cho vay cũ, rủi ro đã được thay bằng các khoản cho vay

mới. Các ngân hàng mua nợ cũng có thể đa dạng hóa danh mục cho vay, mở

rộng danh mục cho vay sang các lĩnh vực mới bên ngoài lĩnh vực truyền thống.

18

1.6 Hệ thống pháp luật về hoạt động mua bán nợ

16.1 Khái quát chung quy định pháp lý về hoạt động mua bán nợ trên thế giới

Hoạt động mua bán nợ trên thế giới đã tồn tại hơn 100 năm và phát triển mạnh

mẽ từ những năm 80, các giá trị khoản nợ giao dịch trên thị trường thế giới cũng rất

lớn. Vì vậy các quy định mua bán nợ các nước trên thế giới cũng được ban hành khá

chặt chẽ và bài bản nhất là các quốc gia có thị trường mua bán nợ lâu đời trên thế giới

như Mỹ, Anh...Nghiên cứu một số luật về mua bán nợ tại một số nước trong khu vực,

chúng ta có thể hình dung phần nào về khung pháp lý mua bán nợ trên thế giới hiện

nay như:

+ Tại trung quốc : Năm 2000 Trung quốc ban hành các quy định pháp lý riêng cho

quản lý tài sản, ưu đãi chính sách, định giá, tố tụng, thuế trong hoạt động mua bán

nợ… nhằm nhanh chóng xử lý nợ xấu của các ngân hàng trong một thời gian ngắn,

ngăn chặn khủng hoảng và nguy cơ phá sản các ngân hàng, đây cũng chính là tạo cơ

hội cho thị trường mua bán nợ phát triển mạnh mẽ.

+ Hàn Quốc: Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành một đạo luật riêng về mua bán nợ để

chuyên môn hóa xử lý nợ xấu của các Ngân hàng. Ngoải ra Hàn Quốc đã ban hành

nhiều đạo luật khác nhau quy định cách thức, phương án xử lý nợ xấu như : luật về đấu

thầu quốc tế, luật về chứng khoán hóa có tài sản bảo đảm, luật về thành lập công ty có

mục đích đặc biệt, luật về tái cơ cấu theo thỏa thuận…, hành lang pháp lý về mua bán

nợ của Hàn quốc khá đầy đủ và chặt chẽ, tạo tiền đề tốt cho sự phát triển của thị

trường mua bán nợ trong nước

+ Malaysia: chính phủ Malaysia ban hành một đạo luật riêng dành cho công ty xử lý nợ

tồn đọng gọi là Luật Danaharta. Luật này quy định cụ thể rõ ràng chức năng quyển hạn

của công ty xử lý nợ như: quyền tiếp nhận, thu hồi nợ tồn đọng: Được trao quyền

hợp pháp quyền thu hồi, tiếp nhận các khoản nợ; Được can thiệp vào ngân hàng đối

với tài sản kê biên; Có quyền mua khoản nợ; có quyền đưa ra toàn án xử lý. Vì vậy

hoạt động mua bán nợ để xử lý nợ xấu của Malaysia đã đạt được nhiều kết quả khả

quan.

19

+ Thái Lan: ban hành Nghị định TAMC (TAMC Emergency Decree B.E. 2544) với

mục đích duy nhất là xử lý triệt để vấn đề nợ xấu cho tất cả các TCTD.

16.2 Khái quát về khung pháp lý cho hoạt động mua bán nợ của Việt nam

Hệ thống văn bản pháp luật quy định về mua bán nợ tại Việt Nam đã được ban

hành từ năm 1999, theo quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN ban hành ngày 19/04/1999

quy định về quy chế mua bán nợ của các tổ chức tín dụng và hiện nay đã được thay thế

bởi Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006. Hoạt động về mua bán nợ tại

Việt Nam hiện nay vẫn phải tuân thủ theo các quy định chung của hoạt động kinh

doanh thương mại, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán nợ tại Việt

nam hiện nay như: Luật Dân sự năm 2005, Luật doanh nghiệp 2005, Luật các tổ chức

tín dụng năm 2010, Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam về ban hành Quy chế Mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng.

Hiện nay ngoài quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN quy định về hoạt động mua bán nợ

thì Việt Nam vẫn chưa có văn bản luật quy định cụ thể rõ ràng dành riêng cho hoạt

động mua bán nợ.

1.7 Hoạt động mua bán nợ tại một số nước trên thế giới

1.7.1 Hoạt động mua bán nợ trên thế giới nói chung

Tại những thị trường tài chính hàng đầu thế giới như Mỹ, Châu Âu, các công ty

kinh doanh chuyên mua bán nợ được hình thành từ khá sớm và tích lũy được nhiều

kinh nghiệm trong quản lý nợ khó đòi của các công ty. Họ tạo ra một thị trường nợ rất

sôi động có thể mang lại nhiều lợi nhuận, đồng thời cung cấp nhiều giải pháp chuyên

môn hoá cho cả chủ nợ lẫn khách nợ. Hoạt động bán các khoản cho vay không chỉ

được sử dụng như tài sản thế chấp trong hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút

các nguồn vốn mới mà chúng còn có thể bán cho các tổ chức cho vay khác. Việc bán

các khoản cho vay được thực hiện từ các Ngân hàng lớn nhất sau đó mở rộng tới tất cả

các Ngân hàng với các quy mô khác nhau. Người mua các khoản cho vay chủ yếu là

Ngân hàng nhằm mục đích kiếm một vị trí chắc chắn trong thị trường nội địa hoặc các

công ty bảo hiểm, công ty phi tài chính, các quỹ tương hỗ (ví dụ các quỹ tập trung mua

các khoản nợ có vấn đề) và các Ngân hàng đầu tư lớn (Goldmen Sachs, Merrill

20

Lynch). Người bán chủ yếu là các ngân hàng trung tâm (Bankers Trust Corp, Bank of

America), các Ngân hàng nước ngoài (ING Bank).

Thị trường mua bán các khoản cho vay phát triển mạnh mẽ và tăng giá nhanh

trong suốt những năm 80 khi làn sóng mua bán, sáp nhập công ty diễn ra. Thị trường

này ở Mỹ phát triển gấp 10 lần trong những năm 80 và giảm mạnh trong những năm 90

khi hoạt động sáp nhập và mua lại các công ty dần ổn định và Ngân hàng liên bang thắt

chặt quy định.

Tiếp theo đó, vào những năm 90 thị trường bán nợ phát triển là thị trường nợ của

các nước thế giới thứ 3. Các khoản nợ của Argentina, Brazil, Mehico, Peru, Philippines

và một số nước thứ ba khác được bán với tỷ lệ chiết khấu cao do các công ty, ngân

hàng hoạt động lâu năm có kinh nghiệm về nước đi vay mua. Nhiều công ty mua nợ

của thế giới thứ ba thu được khoản lời lớn do tình hình quốc gia được cải thiện hoặc do

chính phủ nước đó mua lại khoản nợ của mình.

Từ năm 1995 đến năm 2010 đã ghi nhận được chính thức hơn 590.000 thương vụ

MA trên thế giới, với tổng giá trị giao dịch tương đương trên 46.400 tỷ USD. Năm

1999-2000 và năm 2007 được xem là đỉnh điểm của các thương vụ MA trên thế giới.

Mức tăng trưởng hàng năm đạt 3%/năm về số lượng và 5.6% về giá trị. Năm 2011

được xem là năm sôi động với những thương vụ MA lớn trên toàn cầu.

Ngày nay hoạt động mua bán nợ đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ do các

ngân hàng có yêu cầu chặt chẽ hơn về các khoản cho vay của mình, yêu cầu cao về

quản trị rủi ro tín dụng. Đặc biệt đây là một trong những biện pháp hữu hiệu để kiểm

soát nợ xấu. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997, xuất phát từ Châu Á, hoạt động

mua bán nợ để xử lý nợ xấu phần lớn đã được các quốc gia quan tâm đặc biệt. Một số

nền kinh tế mới nổi đã sử dụng biện pháp này để vượt qua cuộc khủng hoảng một cách

ngoạn mục là Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan… Đây đều là những quốc

gia Châu Á, có chung nhiều đặc điểm với nền kinh tế của Việt Nam. Việc mua bán nợ

tại các quốc gia này chủ yếu là sử dụng các công ty mua bán nợ trực thuộc nhà nước,

mua lại các khoản nợ xấu của các ngân hàng quốc doanh, hoặc các ngân hàng lớn có

21

ảnh hưởng đến nên kinh tế, sau đó thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp. Sau đây là một

số kinh nghiệm chính về mua bán nợ tại các quốc gia này.

1.7.2 Kinh nghiệm mua bán nợ các nước

1.7.2.1 Kinh nghiệm mua bán nợ tại Trung Quốc [1]

Sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ Châu Á nói chung và ở Trung

Quốc nói riêng, thì nợ xấu các ngân hàng thương mại nhà nước ở Trung Quốc là rất

lớn và có nguy cơ ngày càng tăng nhanh, nếu không được xử lý khả năng dẫn đến phá

sản hệ thống các ngân hàng. Chính vì vậy Chính phủ Trung Quốc đã quyết định thành

lập 04 công ty quản lý nợ xấu để tiếp nhận và xử lý nợ xấu của 04 ngân hàng thương

mại nhà nước tương ứng.

*Hoạt động mua bán nợ để xử lý nợ xấu ở Trung Quốc có 2 hình thức:

+ Chuyển giao nợ theo quyết định của Chính phủ: Chính phủ quyết định bàn giao các

khoản nợ xấu của các Ngân hàng thương mại cho các Công ty quản lý và giải quyết nợ

xấu đảm bảo thu hồi nợ cao nhất.

+ Mua bán nợ theo thỏa thuận trên thị trường thông quan hình thức đấu thầu: các

khoản nợ xấu của các Ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp được bán theo giá thỏa

thuận, cạnh tranh trên thị trường.

*Về thanh toán tiền mua nợ cho các ngân hàng:

+ Đối với các Ngân hàng thương mại Nhà nước khi bàn giao các khoản nợ xấu cho các

Công ty quản lý nợ được Ngân hàng Nhà nước ghi giảm số nợ tương ứng vay ngân

hàng trung ương.

+ Đối với các khoản nợ mua trên thị trường thanh toán bằng nguồn vốn công ty hoặc

vốn vay từ Ngân hàng Trung ương Trung Quốc với lãi suất ưu đãi.

*Về khả năng thu hồi các khoản nợ của các Ngân hàng sau khi đã tiếp nhận:

+ Đây cũng là một điểm mới trong cơ chế xử lý nợ của Trung Quốc. Tương ứng với

các khoản nợ của các Ngân hàng khi bàn giao cho các Công ty xử lý nợ xấu được Nhà

1 A.Vũ, Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Trung Quốc < http://vef.vn/2012-06-29-kinh-nghiem-xu-ly-no-xau-cua-

trung-quoc

nước định ra một tỷ lệ thu hồi nợ khác nhau.

22

*Về định giá và giá mua các khoản nợ:

Đối với khoản nợ có tài sản bảo đảm: Các Công ty quản lý nợ tự định giá hoặc

thuê một tổ chức độc lập có chức năng định giá để định giá giá trị tài sản bảo đảm. Căn

cứ vào giá trị tài sản bảo đảm để xác định giá mua, bán khoản nợ. 1.7.2.2. Kinh nghiệm mua bán nợ tại Hàn Quốc [2]

Do được coi là mô hình xử lý nợ xấu thành công nên có nhiều quốc gia đến học

tập kinh nghiệm. Sau đây là một số kinh nghiệm xử lý nợ xấu bằng biện pháp mua bán

nợ tại Hàn Quốc:

+ Hàn Quốc xử lý nợ xấu trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính đã tác động làm

nền kinh tế Hàn Quốc suy thoái, hàng loạt các tập đoàn kinh tế Hàn Quốc lâm vào tình

trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn cho các ngân hàng. Vì thế, Công ty Quản lý

Tài sản Hàn Quốc (KAMCO) đã được Chính Phủ chuyển đổi thành công ty thuộc

Chính phủ theo một đạo luật riêng để chuyên môn hóa về xử lý nợ xấu của các Ngân

hàng. Đồng thời, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành nhiều đạo luật khác nhau quy định

cách thức, phương án xử lý nợ xấu (như luật về đấu thầu quốc tế, luật về chứng khoán

hóa có tài sản bảo đảm, luật về thành lập công ty có mục đích đặc biệt, luật về tái cơ

cấu theo thỏa thuận…) để tạo môi trường pháp lý cho việc xử lý nợ xấu của KAMCO

nói riêng và của các định chế tài chính nói chung.

Như vậy, Hàn Quốc chỉ xử lý nợ xấu của các ngân hàng chứ không xử lý nợ xấu

của các doanh nghiệp, đây là điểm khác với cách tiếp cận của Việt Nam. Môi trường

pháp lý của Hàn Quốc đã được xây dựng và khá hoàn thiện trong một thời gian rất

ngắn để hỗ trợ việc xử lý nợ xấu. Đối với Việt Nam môi trường pháp lý được coi là

tương đối sơ sài trong vấn đề xử lý nợ xấu và mua bán nợ.

KAMCO tiếp nhận nợ xấu để xử lý không theo cơ chế mua bán thỏa thuận mà

theo chương trình của Chính phủ và yêu cầu của ngân hàng có nợ: Nếu nợ xấu có tài

sản bảo đảm giá mua KAMCO trả chỉ khoảng 30% giá trị nợ xấu, nếu nợ xấu không có

2 Đinh Tuấn Minh, mua bán nợ xấu, kinh nghiệm từ mô hình Kamco của Hàn Quốc trên Tạp chí sài gòn tiếp thị

bảo đảm, giá mua chỉ từ 1-3% giá trị nợ.

23

+ Hàn Quốc rất coi trọng tính thành công của xử lý nợ xấu trong giai đoạn đầu triển

khai vì đây là yếu tố quyết định hướng đi và mức độ thành công của cả chương trình

xử lý nợ xấu được Chính phủ chỉ đạo. Vì thế, do chưa có kinh nghiệm và thị trường

mua bán nợ còn sơ khai nên Hàn Quốc đã kêu gọi các nhà đầu tư chuyên về mua và xử

lý nợ xấu của Mỹ như Lone Star, Goldman Sachs, Morgan Stanley tham gia… Chính

những nhà đầu tư nước ngoài này đã mang đến kinh nghiệm, kỹ năng và đi tiên phong

trong tạo dựng thị trường xử lý nợ xấu cho Hàn Quốc. Đây là nhân tố đầu tiên tạo nên

sự thành công trong xử lý nợ xấu của Hàn Quốc.

1.7.2.3 Kinh nghiệm mua bán nợ tại Malaysia [3]

Khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nợ tồn đọng của các ngân hàng tại

Malaysia là rất lớn, có nguy cơ tăng nhanh, nếu không được xử lý khả năng các ngân

hàng này sẽ bị mất khả năng thanh khoản và dẫn đến phá sản có tính dây chuyền ảnh

hưởng đến cả nền kinh tế Malaysia. Do vậy Malaysia đã thành lập Công ty xử lý nợ

(Danaharta) và các tổ chức hỗ trợ trong việc xử lý nợ và tái cơ cấu lại nợ.

*Hoạt động xử lý nợ của Malaysia có hai hình thức:

+ Chuyển giao nợ theo quyết định của Chính phủ: đối với các trường hợp sáp nhập các

ngân hàng, Chính phủ phải xử lý các khoản nợ tồn đọng trước. Khi đó Chính phủ quyết

định bàn giao các khoản nợ tồn đọng của các ngân hàng cho DN mua bán nợ xử lý.

+ Mua bán nợ theo thỏa thuận: Doanh nghiệp chịu trách nhiệm mua bán nợ sẽ mua các

khoản nợ tồn đọng của các Ngân hàng theo giá thỏa thuận. Đối tượng là các Ngân hàng

thương mại nhà nước, ngân hàng tư nhân, tổ chức tài chính. Có thể mua một phần

khoản nợ hoặc mua toàn bộ khoản nợ.

*Về thanh toán tiền mua nợ các tổ chức tín dụng:

Đối với các ngân hàng khu vực hồi giáo, Doanh nghiệp ưu tiên thanh toán bằng tiền

mặt. Đối với các ngân hàng còn lại, sẽ phát hành trái phiếu trả lãi sau, thời hạn khoảng

3 Anh Danh, Bài viết kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Malaysia

5 năm có bảo lãnh của chính phủ để thanh toán tiền mua nợ của các ngân hàng.

24

*Về xử lý các khoản nợ đã tiếp nhận hoặc đã mua:

+ Phương thức xử lý mềm dẻo, linh hoạt: đây là hướng xử lý ưu tiên, áp dụng đối với

những khoản nợ có thể xử lý được, chủ yếu thông qua phương pháp thu hồi nợ.

Phương pháp này đòi hỏi phải có thống nhất, hợp tác của khách nợ.

+ Phương án cứng rắn: nếu khách nợ không đưa ra được phương án khả thi theo

phương thức xử lý mềm dẻo thì áp dụng biện pháp mạnh kê biên tài sản để xử lý.

Phương pháp này áp dụng gồm: tịch biên tài sản (bao gồm bán tài sản hoặc cổ phiếu đã

cầm cố).

1.7.2.4 Kinh nghiệm mua bán nợ của Thái Lan [4]

Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Thái Lan dựa trên các AMC có thể chia thành 02

thời kỳ: phân tán và tập trung, trong đó mô hình phân tán có sự tham gia của cả AMC

sở hữu nhà nước (hỗ trợ bởi FIDF) và các AMC sở hữu bởi ngân hàng tư nhân được áp

dụng lần lượt năm 1998 và 1999; còn mô hình AMC tập trung dựa trên sự thành lập

của Công ty quản lý tài sản Thái Lan (TAMC) vào năm 2001.

AMC phân tán – kết hợp giữa định hướng nhà nước và định hướng thị trường

Mô hình AMC phân tán được áp dụng theo cách mỗi ngân hàng thành lập AMC

riêng và nợ xấu của các ngân hàng sẽ được chuyển sang những AMC đó. Tuy nhiên,

giải quyết nợ xấu thông qua mô hình AMC phân tán đã không thành công khi nợ xấu ở

các AMC của ngân hàng tư nhân gần như không xử lý được.

AMC tập trung – theo định hướng nhà nước

Năm 2001, Thái Lan thành lập một công ty quản lý tài sản tập trung có tên Thai

Asset Management Corporation (TAMC). TAMC thực hiện phát hành trái phiếu có

thời hạn 10 năm với sự đảm bảo của FIDF để mua nợ xấu. Tài sản được chuyển giao sẽ

định giá theo giá trị tài sản bảo đảm. Việc xử lý nợ xấu sẽ dựa trên nguyên tắc chia sẻ

lời – lỗ giữa TAMC và các TCTD bán nợ. Nếu nợ xấu có thể sinh lời thì ngân hàng

bán nợ sẽ được hưởng 80% phần lợi nhuận, còn nếu nợ xấu tạo lỗ thì ngân hàng đó sẽ

phải chịu 20% khoản lỗ ấy. Các giải pháp được thực hiện theo thứ tự ưu tiên như sau:

4 Hoàng Trà My, bài viết Kinh nghiệm xử lý nợ xấu ở Thái Lan

< http://finance.tvsi.com.vn/News/2012621/205955/kinh-nghiem-xu-ly-no-xau-o-thai-lan.aspx>

25

+ Đối với các khoản vay thuộc ngành bất động sản: TAMC đã phối hợp chặt chẽ

với Cơ quan Nhà ở Quốc Gia (National Housing Authority) để chọn lọc các dự án còn

nhiều tiềm năng và cơ quan này sẽ hỗ trợ phát triển và quản lý bán dự án.

+ Đối với các khoản nợ trong khu vực sản xuất: TAMC tập trung giải quyết vấn đề

nợ xấu của 13 nhóm mục tiêu của Chính phủ, trong đó đặt trọng tâm vào các ngành

thiết yếu phát triển kinh tế cũng như mang lại những cơ hội việc làm và giá trị kinh tế

cao.

+ Đối với các doanh nghiệp vay nợ đang giao dịch trên Sàn Chứng khoán Thái Lan

(Stock Exchange of Thailand – SET), TAMC phối hợp với SET để phát triển các kế

hoạch tái cơ cấu và khôi phục lại giá trị cổ phiếu một số doanh nghiệp dẫn đầu ngành,

qua đó sẽ có hiệu ứng tích cực cho các doanh nghiệp nhỏ hơn thuộc ngành đó.

Tóm lại, một đặc điểm chung của 4 công ty xử lý nợ ở Châu Á là tất cả đều

được Chính phủ tài trợ vốn và được tổ chức tập trung hơn là sử dụng một mô hình chỉ

dựa vào ngân hàng. Mô hình công ty quản lý tài sản tập trung mang tính khả thi cao do

nhiều ngân hàng không đủ nguồn lực để tự tái cấu trúc các khoản nợ xấu khổng lồ của

mình thông qua các đơn vị trực thuộc hay các công ty con của ngân hàng.

1.7.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổng kết kinh nghiệm xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân

hàng của các nước trên thế giới cho thấy các nước thường triển khai theo những hướng

cơ bản như sau:

- Hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ thông qua việc bơm vốn: phương pháp hỗ trợ trực

tiếp từ Chính phủ cho các ngân hàng và định chế tài chính khác nhằm đối phó với

khủng hoảng.

- Thành lập công ty quản lý tài sản (Asset Management Company - AMC)/công ty

mua bán nợ để thu mua nợ xấu: cơ quan này sẽ đứng ra mua lại các khoản nợ xấu

ngân hàng, sau đó xử lý để bán lại các khoản nợ đã mua này.

- Tạo cơ chế thỏa thuận xử lý nợ xấu giữa các TCTD và bên đi vay: làm trung gian

cho các chủ nợ (ở đây là các TCTD) và các doanh nghiệp đi vay thương lượng

26

phương án xử lý nợ dưới nhiều hình thức như thanh lý tài sản, gia hạn hợp đồng,

điều chỉnh một số điều khoản của hợp đồng.

Trên đây là hoạt động mua bán nợ để xử lý nợ xấu tại một số quốc gia láng

giềng có đặc điểm nền kinh tế thị trường tương đối giống với nước ta. Từ quá trình

phát triển của nghiệp vụ mua bán nợ và thực tế xử lý nợ của các Quốc gia trên, có thể

rút ra các bài học kinh nghiệm cho việc mua bán nợ để xử lý nợ xấu của Việt Nam như

sau:

*Về hệ thống pháp lý: Chính phủ Việt nam nên ban hành hệ thống pháp lý đặc thù

dành riêng cho hoạt động mua bán nợ như chính phủ Hàn Quốc, Trung Quốc đã thực

hiện. Ví dụ ở Hàn Quốc đã ban hành một đạo luật riêng để chuyên môn hóa về xử lý

nợ xấu của các Ngân hàng, quy định luật về đấu thầu quốc tế, luật về chứng khoán hóa

có tài sản bảo đảm, luật về tái cơ cấu theo thỏa thuận; hoặc ở Trung Quốc đã ban hành

luật riêng cho Công ty mua bán nợ quốc qua, luật quản lý tài sản, ưu đãi chính sách,

quy định định giá, luật tố tụng, thuế…

*Về vấn đề xử lý nợ: tình hình nợ xấu hiện nay của Việt Nam cũng khá tương đồng

với các nước trên, vì vậy chính phủ Việt nam cũng có thể áp dụng các giải pháp mua

bán nợ xử lý nợ xấu đã được thực hiện rất thành công ở Thái Lan, Malaysia..

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương này, tác giả đã giới thiệu các khái niệm về mua bán nợ, các

phương thức, các nhân tố ảnh hưởng của hoạt động mua bán nợ, các rủi ro và hiệu

quả của mua bán nợ đối với nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của tổ chức

tín dụng nói riêng. Trên đây là tổng quan về hoạt động mua bán nợ, là phần lý

thuyết chung quan trọng và cần thiết để nghiên cứu về hoạt động mua bán nợ tại

Vietcombank. Chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về tình hình mua bán nợ tại Việt nam và

thực trạng hoạt động mua bán nợ của Vietcombank ở phần 2 sau đây.

27

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI VIETCOMBANK

2.1 Thực trạng hoạt động mua bán nợ và thị trường mua bán nợ tại Việt Nam

2.1.1 Cơ sở pháp lý của hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam

Hệ thống văn bản pháp luật quy định về mua bán nợ tại Việt Nam đã được ban

hành từ năm 1999, theo quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN ban hành ngày

19/04/1999, quy định về quy chế mua bán nợ của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên

quy chế này đã được thay thế bởi Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày

21/12/2006.

Hiện nay chính phủ Việt Nam chưa ban hành các quy định riêng cho hoạt

động mua bán nợ, khung pháp lý của hoạt động mua bán nợ vẫn điều chỉnh theo

các Bộ Luật Dân sự năm 2005, Luật doanh nghiệp 2005, Luật Các tổ chức tín dụng

năm 2010 và các văn bản luật có liên quan khác. Các văn bản pháp lý điều chỉnh

hoạt động mua bán nợ Việt Nam hiện nay còn hạn chế. Chỉ quy định một cách

chung chung chứ chưa có hệ thống chi tiết nên tạo ra những cách hiểu và những ý

kiến khác nhau trong quá trình thực hiện.

Thực trạng về khung pháp lý hoạt động mua bán nợ

Khó khăn lớn nhất trong việc thực hiện hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam là

bị hạn chế bởi hành lang pháp lý. Chưa có quy định cụ thể rõ ràng cho hoạt động

mua bán đặc thù này, vì vậy các tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua bán nợ rất e ngại

khi thực hiện nghiệp vụ này. Điển hình sau đây là một số vướng mắc về pháp lý

trong hoạt động mua bán nợ của Công ty DATC:

Thứ nhất, là về cơ chế xoá nợ. Hiện nay Bộ Tài chính chưa có hướng dẫn cụ

thể về xoá nợ như thế nào đối với các khoản nợ tiếp nhận không còn khả năng thu

hồi. Muốn tái cấu trúc DN thì phải xử lý tồn tại cũ, làm lành mạnh hoá tài chính

nhưng hiện nay để làm được điều này phải xin ý kiến của Bộ Tài chính, chứ Công ty

mua bán nợ không tự quyết được, dẫn đến việc kéo dài thời gian.

Thứ hai là cho vay bảo lãnh. Quy định hiện hành không cho phép Công ty mua

bán nợ cho vay bảo lãnh. Trong khi đó hầu như các DN bán nợ đều trong tình trạng

28

sắp phá sản. Nếu không “bơm” tiền vào thì DN không thể hoạt động và cũng không

thể tái cấu trúc bởi lúc này DN không thể đi vay ngân hàng.

Thứ ba, là quy trình hướng dẫn thủ tục thoả thuận hiện rất chung chung nên

thường kéo dài. Bộ Tài chính cần phải có hướng dẫn cụ thể, tránh tình trạng mỗi nơi

hiểu một kiểu.

Thứ tư, là lợi thế đất đai. Khi xác định giá trị DN để thực hiện chuyển đổi sở

hữu DN nhà nước thì phần lớn đối với các DN khách nợ, giá trị đất đai thường

chiếm tỷ trọng cao, nhưng do vướng về việc định giá đất đai nên chưa chuyển đổi

được. Nếu tính giá đất theo thị trường thì không được phép và khó xác định, nếu

tính theo khung giá của nhà nước thì rất thấp.

Thứ năm, là vướng ở quy định luật phá sản năm 2004. Theo quy định tại điều

43, các giao dịch như tặng cho bất động sản, thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn,

các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp hoặc hợp tác xã...

trong khoảng thời gian 3 tháng trước ngày tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thụ tục phá

sản thì bị coi là vô hiệu. Vậy nếu doanh nghiệp nộp đơn xin phá sản đồng thời các

tổ chức tín dụng bán khoản nợ của doanh nghiệp cho bên mua nợ trong thời gian 03

tháng trước ngày tòa thụ lý hồ sơ phá sản DN, thì các khoản nợ được chuyển giao

trong thời gian này cũng bị xem như vô hiệu.

Nếu như có được cơ chế thông thoáng thì các công ty mua bán nợ được hoạt

động theo mô hình DN đúng nghĩa thì có thể cứu được nhiều DN sẽ giúp được rất

nhiều cho nền kinh tế như: thu hồi vốn về cho Nhà nước, tạo việc làm cho người lao

động, tạo nguồn thu thuế cho Nhà nước... Nhưng do chưa có các quy định rõ ràng

nên ảnh hưởng rất lớn đến việc thu nợ, vừa tốn thời gian, mất cơ hội và tăng chi phí.

2.1.2 Sự hình thành hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam:

Từ năm 2000, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm nâng cao

trách nhiệm và quyền chủ động của doanh nghiệp trong việc xử lý các khoản nợ và

tài sản tồn đọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh như: trích lập các

khoản dự phòng, chủ động thanh lý nhượng bán tài sản không cần dùng, chờ thanh

lý, tổn thất được hạch toán vào doanh nghiệp được bù đắp…Chính phủ đã thành lập

29

ban thanh toán công nợ từ Trung ương đến các địa phương để tổ chức và chỉ đạo

thanh toán công nợ của các doanh nghiệp Nhà nước.

Để hỗ trợ các doanh nghiệp lành mạnh hoá tình hình tài chính, tạo điều kiện để

thúc đẩy tiến trình sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp

Nhà nước. Năm 2003 Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp

(DATC) đã được thành lập Theo quyết định số 109/2003/QĐ – TTg ngày

05/06/2003 của Thủ tướng Chính phủ, với mục tiêu xử lý các khoản nợ tồn đọng và

tài sản không cần dùng, chờ thanh lý, vật tư ứ đọng kém, mất phẩm chất, góp phần

lành mạnh hoá tình hình tài chính doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình sắp xếp và

chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước.

Ngày 21/12/2006, Thống đốc đã Ban hành Quy chế mua, bán nợ của các tổ

chức tín dụng kèm theo Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN. Quyết định này thay

thế Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 ngày 19/4/1999 của Thống đốc Ngân

hàng Nhà nước. Quy chế mới quy định hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín

dụng (kể cả các tổ chức có nhiệm vụ thực hiện mua, bán nợ trực thuộc tổ chức tín

dụng) được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng, đối với các

khoản nợ mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay.

Việc ban hành Quy chế mua, bán nợ với nhiều thay đổi được đánh giá là một

bước đột phá, mở ra một thị trường mới đầy tiềm năng đối với hoạt động mua bán

nợ tại Việt Nam. Từ khi ban hành Quy chế mua bán nợ kể trên, một số NHTM cũng

đã thành lập công ty quản lý và khai thác tài sản (AMC) ngoài nhiệm vụ quản lý,

khai thác tài sản, xử lý nợ xấu còn có chức năng mua bán nợ nhưng cũng chỉ hoạt

động giới hạn trong việc mua, bán đối với các khoản nợ mà tổ chức tín dụng cho

khách hàng vay, chứ chưa được phép mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực

mua, bán nợ của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trong xã hội. Vì vậy, có thể nói

DATC là đơn vị duy nhất có chức năng chuyên về mua bán và xử lý nợ xấu của các

TCTD và doanh nghiệp hiện nay, tuy nhiên hiện Công ty này cũng chỉ hoạt động

mua bán nợ chủ yếu trong khu vực doanh nghiệp nhà nước hoặc mua nợ theo chỉ

định của Thủ Tướng.

30

2.1.3 Thực trạng thị trường mua bán nợ tại Việt Nam.

* Thị trường mua bán nợ sơ cấp

Hiện Việt Nam đang trong giai đoạn đầu hình thành thị trường mua bán nợ sơ

cấp, hoạt động chủ yếu là mua nợ giữa các tổ chức tín dụng với DATC hoặc giữa

các tổ chức tín dụng với nhau. Theo số liệu báo cáo cáo của DATC, trị giá giao dịch

mua bán nợ sơ cấp giữa DATC với các tổ chức tín dụng đến năm 2010 đạt khoảng

11.000 tỷ VND.

* Thị trường mua bán nợ thứ cấp

Tại Việt Nam thị trường mua bán nợ thứ cấp vẫn chưa được hình thành, với

nhu cầu mua bán nợ ngày càng cao trên thị trường, việc hình thành thị trường mua

bán nợ thứ cấp trong tương lai là xu thế tất yếu đáp ứng nhu cầu thị trường.

2.1.3.1 Các bên tham gia mua bán nợ

Mua bán nợ là việc chuyển quyền đòi nợ từ chủ thể bán nợ (chủ nợ cũ) sang

chủ thể mua nợ (chủ nợ mới). Công ty mua nợ đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro

về không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của khách nợ. Từ đó hình thành một

quan hệ tài chính liên quan tới ba bên gồm bên mua nợ (ngân hàng, tổ chức tài

chính), người bán nợ và khách nợ. Chi tiết các bên tham gia vào hoạt động mua bán

nợ gồm:

Tổ chức tín dụng và Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản

*Các tổ chức tín dụng và ngân hàng đầu tư:

Hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc

trong thời gian qua. Theo số liệu thống kê từ ngân hàng nhà nước tính đến nay tại

Việt nam có 40 ngân hàng TMCP trong đó có 5 NHTMNN, 14 NHNN và chi nhánh

ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, 6 ngân hàng liên doanh, 2 ngân hàng chính

sách : NH chính sách XH và Ngân hàng Phát triển Việt Nam, ngoài ra còn có các

quỹ tín dụng và một số các công ty tài chính.

Hầu hết các Ngân hàng thương mại tham gia bán nợ và một phần mua nợ

nhằm tái cơ cấu danh mục đầu tư, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đặc biệt, khi

hoạt động tín dụng của các ngân hàng mang nhiều rủi ro cao, tỷ lệ nợ xấu lớn thì

31

việc phát triển nghiệp vụ mua bán nợ của Ngân hàng thương mại nhằm thu hồi vốn

ngay tăng tính thanh khoản, giảm thiểu rủi ro tín dụng.

* Các công ty mua quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc TCTD:

Mô hình công ty quản lý nợ và khai thác thác tài sản (AMC) được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt thành lập theo quyết định 150/2001/QĐ-TTg ngày 05/10/2001

với mục đích xử lý nợ tồn đọng của các NHTM. Công tác quản lý nợ và khai thác

tài sản luôn được các NHTM dành sự quan tâm đặc biệt. Nhu cầu thành lập AMC

để chuyên môn hoá việc quản lý nợ, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các khoản nợ của

NH là một nhu cầu thực tế và thiết yếu hiện nay.

Hiện Việt Nam có 27 AMC trực thuộc NHTM. Bên cạnh đó, có một số

NHTM đã được NHNN chấp thuận thành lập AMC nhưng AMC chưa chính thức đi

vào hoạt động (Habubank, VietABank, Vietbank, Seabank). Các AMC trực thuộc

NHTM hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên. Ngoài ra, có 1

AMC trực thuộc Bộ Tài chính là DATC và có khá nhiều công ty tư nhân/cổ phần

được thành lập nhằm thực hiện một số chức năng của AMC như: tư vấn thủ tục thu hồi nợ, xử lý nợ, đòi nợ…[5]

Theo số liệu thống kê AMC được thành lập theo thời gian và quy mô vốn điều

lệ , AMC đầu tiên được thành lập vào năm 1995 (Vietcombank AMC). Năm 2009 –

2010 là thời điểm có nhiều AMC được thành lập nhất. Phần lớn các AMC có vốn

điều lệ vào khoảng 50-100 tỷ đồng. Cụ thể:

5 Bùi Thị Hồng Thu , 2011, bài viết Tổng quan về Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của NHTM

Việt Nam trên website http://pgbankresearch.wordpress.com/2011/09/15>

Biểu đồ 2.1 “số lượng AMC được thành lập theo thời gian và quy mô vốn điều lệ” (Nguồn: FI – PG Bank)

32

Công ty độc lập được mua bán nợ

Hiện nay ở Việt Nam công ty độc lập được phép mua bán nợ chính thức chỉ có

Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) trực thuộc Bộ

Tài chính với nhiệm vụ chính là thực hiện mua bán nợ, tái cơ cấu doanh

nghiệp…Ngoài ra hiện nay cũng có khá nhiều công ty tư nhân/cổ phần được thành

lập nhằm thực hiện một số chức năng của AMC như: tư vấn thủ tục thu hồi nợ, xử

lý nợ, đòi nợ…

Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) được

thành lập Quyết định số 109/2003/QĐ - TTg ngày 05/06/2003, với vốn điều lệ ban

đầu 2.000 tỷ đồng. Năm 2010, Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh

nghiệp được chuyển đổi theo Quyết định số 1494/QĐ-BTC ngày 30/06/2010 của Bộ

trưởng Bộ Tài chính. DATC được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật

Doanh nghiệp. Vốn điều lệ quy định theo thông tư số 79/2011/TT-BTC ban hành

ngày 08/06/2011 là 2.481 tỷ đồng.

Các công ty đầu tư, quản lý quỹ:

Các Công ty này tham gia mua nợ nhằm tái cơ cấu, đánh bóng khoản nợ và tiếp tục

bán lại các khoản nợ này một lần nữa. Mặt khác, các công ty đầu tư mua nợ nhằm

chuyển thành chủ nợ lớn nhất có tính chi phối tại doanh nghiệp hoặc chuyển nợ

thành vốn góp doanh nghiệp. Từ đó, nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp. Hiện nay,

nghiệp vụ này cũng đang rất phát triển tại Việt Nam, các vụ mua bán, sáp nhập

doanh nghiệp đang dần phát triển tại thị trường Việt Nam. Từ năm 1995-2005, mỗi

năm chỉ có vài vụ MA, nhưng từ năm 2006 trở đi hoạt động mua bán sát nhập

doanh nghiệp bắt đầu diễn ra mạnh mẽ. Từ năm 1995-2010 đã ghi nhận được 1350

thương vụ MA của các công ty Việt Nam, giá trị mua bán đạt 7,8 tỷ USD. Nhìn

chung, các giao dịch diễn ra trầm lắng và lẻ tẻ trong suốt giai đoạn 1995-2004, từ

6 Thomson Financial , Institute of Mergers, Aquisitions and Alliances (IMMA) Bài báo M&A Việt Nam

trong năm 2011 trên báo đặc san của Báo đầu tư, tháng 06/2011, trang 68-71.

năm 2005 đến nay, các giao dịch MA bùng phát mạnh, tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 25,3% về số lượng và 61,9% về giá trị.[6]

33

Các cá nhân, tổ chức mua nợ:

Đối với các chủ thể này, việc mua nợ với giá chiết khấu và thu đòi đủ toàn bộ

khoản nợ từ khách nợ là hoạt động kinh doanh chính. Đối với các cá nhân tổ chức

này, lợi nhuận được hình thành từ phần chênh lệch giữa giá mua nợ và giá trị thu

đòi từ khoản nợ. Đây là các công ty có nghiệp vụ thu nợ tốt, có thông tin khách

hàng, có kỹ thuật đánh giá khách hàng và đánh giá khoản nợ. Từ đó, họ có thể đưa

ra giá mua khoản nợ đảm bảo khoản nợ có khả năng thu hồi và thu nợ có lợi nhuận

2.1.3.2 Thực trạng mua bán nợ

Số liệu về nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) chính thức được Ngân

hàng Nhà nước (NHNN) công bố đầu tháng 7/2012 cho thấy: Nợ xấu của hệ thống

ngân hàng đến cuối tháng 3/2012 là hơn 202.000 tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ cấp tín dụng.[7]

Nếu không xử lý được nợ xấu thì thanh khoản của các ngân hàng sẽ bị ảnh

hưởng rất nặng nề, nền kinh tế mất đi một khoản vốn lớn không quay vòng được.

Đối với các DN, nếu nợ xấu ngân hàng lớn và kéo dài, doanh nghiệp sẽ không được

các NHTM tiếp tục cho vay, không có nguồn vốn để tiếp tục hoạt động, nguy cơ

dẫn đến doanh nghiệp bị phá sản, thất nghiệp gia tăng là gánh nặng cho nền kinh tế.

Nếu không có cơ chế tháo gỡ thì ngân hàng cũng khó khăn trong việc thu hồi vốn

đảm bảo nguồn vốn thanh khoản của mình. Do đó, việc xử lý nợ xấu hiện nay là

nhiệm vụ cấp bách để khôi phục năng lực cho các tổ chức tài chính và hỗ trợ doanh

nghiệp phục hồi sản xuất, tránh nguy cơ khủng hoảng và suy thoái kinh tế.

Với quy mô thị trường lớn như vậy, đây thực sự sẽ là một thị trường tiềm năng

của hoạt động mua bán nợ, tuy nhiên hiện nay hoạt động mua bán nợ trong nước

vẫn chủ yếu thuộc về DATC. Cũng đã có các giao dịch mua bán nợ giữa các tổ chức

tín dụng với nhau, nhưng chủ yếu là cơ cấu lại danh mục đầu tư và số lượng thực

7 Đỗ Hải, Bài Báo Nợ xấu tại Việt nam đăng trên tạp chí tài chính VN ngày 20/09/2012

hiện cũng không nhiều.

34

Ngoài ra, cũng vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nên việc tổ

chức tín dụng bán nợ của mình cho các tổ chức khác (không phải tổ chức tín dụng)

là khá khiêm tốn, chủ yếu là bán lại nợ cho các tổ chức có liên quan đến doanh

nghiệp đó (như các cổ đông của công ty mua lại nợ thông qua một bên thứ ba) hoặc

khoản nợ có tài sản bảo đảm tốt. Đối với các khoản mua bán này, số lượng ít, giá trị

tương đối thấp và do việc mua bán nợ là riêng lẻ của từng tổ chức tín dụng nên

không thể thống kê được.

Như vậy có thể nói, nhắc đến thị trường mua bán nợ tại Việt Nam hiện nay là

nhắc đến hoạt động mua bán nợ của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của

doanh nghiệp (DATC). Dưới đây là hoạt động mua bán nợ của DATC từ khi thành

lập đến nay. Qua việc tìm hiểu việc mua bán nợ của DATC có thể giúp hình dung

được phần lớn “bức tranh” về hoạt động của thị trường mua bán nợ tại Việt Nam

qua các năm qua.

Bảng 2.2 “Số liệu tổng hợp mua bán nợ và tái cơ cấu DN của DATC”

ĐVT: tỷ VND

Số lượng Khoản nợ Giá vốn mua nợ Chỉ tiêu giao dịch theo sổ sách

121 7.995 2.384 Mua bán nợ và TS

74 6.520 1.674 Tái cơ cấu DN

(Nguồn : tổng hợp số liệu từ DATC)

Bảng 2. 3 “Bảng số liệu mua bán nợ của DATC qua các thời kỳ”

ĐVT: Tỷ VND

Tổng DATC 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 cộng

-

-

-

Ký hợp đồng mua 9 93 13 20 135 bán nợ

DS mua bán nợ 18.82 131.9 905 341 525 102 360 2.384

(Nguồn : tổng hợp số liệu từ DATC)

35

Năm 2005: Hoạt động mua bán nợ của DATC chủ yếu là hoạt động mua bán nợ

theo chỉ định của Chính phủ. Còn hoạt động mua bán nợ theo thoả thuận chưa được

DATC chú trọng nhiều.

(i) Hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng theo chỉ định: DATC ký hợp đồng

mua 3 tài sản đảm bảo nợ theo chỉ định với ngân hàng Eximbank có giá trị 131 tỷ

đồng, đã bán đấu giá một phần tài sản với giá 212 tỷ đồng. Triển khai ký hợp đồng

mua nợ với ngân hàng Việt Hoa với 9 khoản nợ có giá trị 18,82 tỷ đồng, trong đó đã

thu hồi và giải chấp TSBĐ được 7 khách nợ có giá trị 19,7 tỷ đồng; Ký hợp đồng

mua 3 tài sản của Công ty XNK Ngũ Cốc, tổng giá trị là 133 tỷ đồng.

(ii) Hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng theo thoả thuận: DATC đã tiếp nhận

xử lý trên 160 hồ sơ, thu thập thông tin và làm việc với các bên liên quan, đánh giá

tình hình tài chính chủ nợ, khách nợ, đánh giá khả năng thu hồi nợ để xây dựng

phương án mua bán. DATC đã ký hợp đồng mua nợ theo thoả thuận với giá trị nhận

nợ phải thu 65 tỷ đồng,

Năm 2006 : Hoạt động mua bán nợ của DATC đã tập trung vào mua bán nợ theo

thoả thuận do đó tổng doanh số mua nợ theo thoả thuận đạt 131,9 tỷ đồng (doanh số

mua nợ theo chỉ thị chỉ đạt 9,6 tỷ đồng). Tổng doanh thu bán nợ của DATC đạt

268,9 tỷ đồng.

Năm 2007: Năm 2007 DATC mua bán nợ đã ký được 93 hợp đồng mua bán nợ và

tài sản tồn đọng với tổng giá trị theo sổ sách là 3.499 tỷ đồng, doanh số mua nợ

khoảng 905 tỷ đồng, đạt 144% so với kế hoạch năm 2007.

Năm 2008: Trước những chiều hướng xấu đi nhanh chóng trong nền kinh tế trong

nước và trên thế giới, DATC đã có những điều chỉnh kịp thời trong hoạt động mua,

bán, xử lý nợ. Tổng doanh thu xử lý nợ và tài sản đã đạt 341 tỷ đồng, bằng 102% kế

hoạch năm, góp phần đưa tổng số xử lý, thu hồi nợ dưới các hình thức( bao gồm cả

chuyển nợ thành vốn góp) cả năm 2008 đạt 468 tỷ đồng.

Năm 2009: Trong năm 2009, DATC đã cơ bản hoàn thành việc tiếp nhận nợ và tài

sản loại trừ khỏi giá trị doanh nghiệp khi CPH DNNN. Công ty đã tiến hành xử lý

số tài sản này tại 249 doanh nghiệp, giá trị thu hồi thực tế được 56,1 tỷ đồng (đạt

36

159,4% kế hoạch năm). Tổng doanh thu năm 2009 là 525,45 tỷ đồng (đạt 104,5%

kế hoạch năm), lợi nhuận trước thuế đạt khoảng 165 tỷ đồng (đạt 163,4 % so với kế

hoạch năm), số nộp ngân sách nhà nước là 85 tỷ đồng, đạt 170% kế hoạch năm.

Năm 2010: Trong hoạt động kinh doanh, năm 2010 này, tổng doanh thu của DATC

đã đạt gần 580 tỷ đồng, đạt 111,6% so với kế hoạch, tăng 11% so với thực hiện năm

2009. Trong hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng, do chủ động trong công

việc, năm 2010, DATC đã ký được 13 hợp đồng mua bán nợ tồn đọng với giá trị các

khoản nợ là 357,1 tỷ đồng, doanh số mua nợ là 101,4 tỷ đồng. Doanh thu từ hoạt

động mua bán nợ và tài sản là 393,6 tỷ đồng, đạt 107,4% so với kế hoạch năm 2010,

tăng 16,5% so với thực hiện năm 2009.

Năm 2011: Trong hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng, DATC đã ký được 20

hợp đồng mua nợ, giá trị sổ sách của khoản nợ là 1.095 tỷ đồng , doanh thu bán nợ

359,6 tỷ VND.Trong hoạt động mua nợ, xử lý thu hồi nợ thông qua tái cơ cấu doanh

nghiệp, năm 2011, Công ty đã xử lý tài chính, tái cơ cấu thành công được 12 DN

khách nợ, trong đó có 10 DN 100% vốn nhà nước và 2 Công ty cổ phần được cổ

phần hóa từ DNNN.

Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch tài chính của DATC năm 2011 đạt

tổng doanh thu 578,6 tỷ đồng (đạt 109,2% so với kế hoạch năm 2011), trong đó

doanh thu từ hoạt động mua bán nợ và tài sản là 359,6 tỷ đồng, đạt 98,4% so với kế

hoạch; doanh thu từ xử lý tài sản và thu hồi nợ loại trừ đã tiếp nhận là 2,8 tỷ đồng,

đạt 140% so với kế hoạch; doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu khác là

216,2 tỷ đồng, đạt 133% so với kế hoạch; lợi nhuận trước thuế ước đạt 190 tỷ đồng,

đạt 127% so với kế hoạch, tăng 4% so với thực hiện năm 2011

Năm 2012:Và đầu năm 2012, DATC đã tham gia mua nợ Bình An, đây cũng là

doanh nghiệp tư nhân đầu tiên mà DATC bỏ vốn vào. Công ty cổ phần thuỷ sản

Bình An (Bianfishco) đang trong quá trình đàm phán nợ nần với các chủ nợ. Hai

chủ nợ là ngân hàng BIDV và ngân hàng Phát triển Việt Nam dự kiến xử lý món nợ

ở Bình An thành cổ phần để trở thành cổ đông công ty. Còn DATC đứng ra mua lại

nợ mà Bianfishco thiếu ngân hàng ACB và ngân hàng Việt Thái.

37

Hiện nay DATC đang tập trung mua bán nợ và xử lý tài sản các doanh

nghiệp thuộc tập đoàn và tổng công ty, như tổng công ty Dâu tằm tơ Việt Nam, tổng

công ty COMA, công ty cà phê Buôn Ma Thuột,các doanh nghiệp thuộc Vinashin…

Sắp tới, sau khi đã thực hiện mua nợ xử lý hết các khoản nợ của doanh nghiệp nhà

nước, DATC sẽ chuyển sang mua bán nợ doanh nghiệp tư nhân. Theo đó, các doanh

nghiệp khó khăn nằm trong lĩnh vực thủy sản, cà phê, nông sản, sản xuất hàng tiêu

dùng nằm trong mục tiêu mua nợ của DATC. Để phát huy hiệu quả xử lý nợ xấu

nhanh chóng, DATC sẽ mời các tập đoàn, tổng công ty tham gia, lĩnh vực nào mời

tập đoàn đó cùng tham gia để tái cơ cấu lại cho DN.

2.1.4 Đánh giá hiệu quả hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam trong thời gian

qua

Nhằm thúc đẩy việc sắp xếp lại hệ thống DN Việt Nam và mua nợ xấu của các

TCTD và doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã kiến nghị với Chính phủ thành lập DATC

- một định chế tài chính hạng đặc biệt. Hoạt động của chính DATC là nhận lấy cái

nợ để tiếp tục giải quyết nợ, giúp các DN có vướng mắc tài chính thoát khỏi tình

hình tài chính khủng hoảng, có nguy cơ phá sản. Nếu doanh nghiệp rơi vào tình

trạng phá sản thì sẽ dẫn tới mất vốn, mất tài sản, mất lao động, mất thương hiệu,

mất cơ sở sản xuất….. ảnh hưởng đến. Do đó, hoạt động của định chế tài chính

DATC là rất có ý nghĩa cứu các DN thoát khỏi tình trạng phá sản, góp phần giải

quyết việc làm bảo đảm đời sống xã hội.

Từ thực tế thống kê trên cho thấy, thực sự thị phần mua bán nợ tại Việt Nam

chủ yếu vẫn thuộc về DATC, vì vậy để đánh giá hiệu quả của mua bán nợ tại Việt

Nam, chúng ta có thể điểm qua một số hiệu quả hoạt động mua bán nợ của DATC

trong thời gian qua như sau:

* Đối với các tổ chức tín dụng

Đối với việc mua nợ từ các tổ chức tín dụng, từ thời điểm được thành lập năm

2003 đến 31/12/2010, DATC đã tiến hành mua bán nợ từ gần 10 tổ chức tín dụng

với tổng giá trị lên tới gần 11 nghìn tỷ đồng. Sau đây là tình hình mua bán nợ của

DATC trong 8 năm qua như sau:

38

Bảng 2.4: “Số liệu mua bán nợ giữa DATC và các TCTD”

STT

Tên chủ nợ

Nợ (triệu đồng)

Tổng

(triệu đồng)

Gốc

Lãi

1

Ngân hàng TMCP Công Thương VN

918.403

361.049

1.279.452

2

Ngân hàng Đầu từ và phát triển VN

1.986.536

842.871

2.829.407

3

Ngân hàng TMCP Ngoại thương VN

348.652

133.792

482.444

4

Ngân hàng NN&PT Nông thôn VN

871.233

254.964

1.126.197

5

Ngân hàng phát triển, Eximbank và các chủ nợ khác

4.171.782

1.098.808

5.270.590

Tổng cộng

8.296.606

2.691.484

10.988.090

(Nguồn : tổng hợp số liệu từ DATC)

* Đối với doanh nghiệp nợ

Theo thống kê của VCCI, năm 2011 cả nước có hơn 79.000 DN giải thể và ba

tháng đầu năm 2012, hơn 12.000 DN giải thể. Nhưng không ai có thể đưa ra một

con số rõ ràng, hoặc đưa ra dự đoán ước tính là đã có bao nhiều phần trăm trong số

các DN ngừng hoạt động, giải thể, có thể được giải cứu nếu có cơ may bán được nợ,

tái cơ cấu tài chính và tiếp tục vận hành trở lại.

Trong thời gian đã có nhiều trường hợp nhờ hoạt động mua bán nợ mà các

khoản nợ xấu của DN đã được giải quyết dứt điểm, giải quyết khó khăn tài chính

cho doanh nghiệp, có những trường hợp sau khi được giải cứu DN đã ăn nên làm ra

và ngày càng phát triển. Nhìn chung đa số các doanh nghiệp khách nợ đã có những

chuyển biến tích cực sau một thời gian ngắn được DATC xử lý tài chính và tái cơ

cấu: lợi nhuận đạt khá tốt, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động,

đóng góp thuế cho ngân sách địa phương, góp phần ổn định kinh tế xã hội trên địa

phương, Sau đây một số trường hợp điểm hình doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng

phá sản và hoạt động ngày càng phát triển:

Ví dụ 1: Công ty cổ phần Sadico Cần Thơ là doanh nghiệp nhà nước, được

DATC mua nợ và thực hiện tái cơ cấu chuyển đổi sở hữu tháng 6/2007 với mức vốn

điều lệ 50 tỷ đồng. Ngay 6 tháng cuối năm 2007 đơn vị này đã có lãi 9 tỷ đồng và cả

39

năm 2008 lãi 14,6 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước hơn chục tỷ đồng, giải quyết

việc làm cho 335 lao động

Ví dụ 2: Công ty cổ phần Procimex Việt Nam được DATC mua nợ và thực

hiện tái cơ cấu chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi sở hữu tháng 1/2008 với vốn điều lệ

30 tỷ đồng. Đơn vị này đã có lãi hơn 11 tỷ đồng ngay trong năm đầu tiên tái cơ cấu,

đồng thời đã thanh toán toàn bộ nợ gốc cho DATC, giải quyết việc làm cho trên 300

lao động

Ví dụ 3: Công ty cổ phần đường Sơn La sau khi được DATC mua nợ và thực

hiện tái cơ cấu chuyển đổi sở hữu từ tháng 1/2008 với vốn điều lệ 50 tỷ đồng. Năm

2008 đã đạt lợi nhuận trên 14 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 330 lao động trực

tiếp và 4000 hộ trồng mía là đồng bào dân tộc thiểu số, nộp ngân sách nhà nước 9 tỷ

đồng

Ví dụ 4: Công ty cổ phần mía đường Kon Tum sau khi được DATC tái cơ

cấu , chuyển đổi sở hữu tháng 7/2008 với mức vốn điều lệ 30 tỷ đồng, sau 6 tháng

hoạt động cuối năm 2008 đã có lãi 5,4 tỷ đồng, tạo việc làm cho 256 lao động trực

tiếp và hàng ngàn lao động gián tiếp trồng mía vùng đồng bào dân tộc Tây Nguyên,

nộp ngân sách nhà nước 4,1 tỷ đồng

Ví dụ 5: Công ty cổ phần Intimex Nha Trang , sau khi được DATC xử lý tài

chính đã hoàn tất chuyển đổi thành công công ty cổ phần tháng 12/2008 với vốn

điều lệ 25 tỷ đồng. Ngay sau khi chuyển đổi doanh nghiệp đã cơ bản hoàn thành

việc trả nợ cho DATC.

Trong hoạt động mua bán nợ và tài sản, từ năm 2004 tính đến tháng 06/2012,

DATC đã thực hiện tổng cộng 121 phương án mua bán nợ và tài sản, giá trị các

khoản nợ theo mệnh giá sổ sách kế toán là 7.994,9 tỷ VND, giá vốn mua nợ và tài

sản là 2.383,8 tỷ VND, tỷ lệ mua nợ và tài sản bình quân là 29,82%); đã thu hồi

được 2.384,9 tỷ VND, đạt tỷ lệ thu hồi vốn là 101,1% so với giá vốn.

Trong hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp, lũy kế từ năm 2007 đến 30/06/2012,

DATC đã mua nợ để tái cơ cấu cho 74 DN khách nợ, gồm 47 DN đã hoàn thành và

27 DN đang triển khai, với giá trị các khoản nợ theo sổ sách là 6.519,9 tỷ đồng, giá

40

vốn mua nợ là 1.647,3 tỷ đồng (tỷ lệ mua nợ bình quân là 25,3%), đã thu hồi được

1.535,8 tỷ đồng, tỷ lệ thu hồi đạt 93,2%.... đồng thời góp phần giải quyết được việc

nợ đọng thuế từ nhiều năm của Nhà nước với số tiền gần 200 tỷ đồng và nợ đọng

bảo hiểm xã hội với số tiền hơn 30 tỷ đồng.

Trong công tác tiếp nhận, xử lý tài sản và thu hồi nợ tồn đọng đã loại trừ ra

khỏi giá trị doanh nghiệp khi CPH DNNN, Lũy kế từ năm 2004 đến 30/6/2012,

DATC đã tiến hành xử lý tài sản và thu hồi nợ loại trừ đã tiếp nhận khi cổ phần hóa

các DN 100% vốn nhà nước, tận thu cho ngân sách nhà nước được 476 tỷ đồng,

đồng thời đã góp phần giải phóng mặt bằng, kho tàng, bến bãi... tạo điều kiện thuận

lợi cho các doanh nghiệp phát triển sau khi được cổ phần hóa.

Với những đóng góp đó của DATC trong thành tích chung của ngành Tài

chính, để định chế tài chính này tiếp tục hoạt động có hiệu quả cao, trên cơ sở thực

tiễn và lý luận, kinh nghiệm đã có tiếp tục tổng kết, đánh giá hoạt động của DATC.

Từ kinh nghiệm của các nước sẽ nghiên cứu, đề xuất và định hình rõ hơn, càng ngày

càng hoàn thiện hơn định chế tài chính về xử lý nợ tồn đọng, về mua bán nợ... để

thúc đẩy công cuộc cổ phần hoá và sắp xếp lại không chỉ DNNN mà còn thúc đẩy

sự phát triển một cách lành mạnh hệ thống DN Việt Nam, tác dụng của cơ chế tài

chính mua bán nợ này ngày càng phát huy tác dụng tốt, không chỉ làm lành mạnh tài

chính của DN mà còn góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia.

2.1.5 Những khó khăn trong việc mua bán, xử lý nợ

Tuy đã có hành lang pháp lý để hoạt động mua bán nợ phát triển, nhưng hiện

nay hoạt động này dường như vẫn chưa được phát triển theo như kỳ vọng và tiềm

năng của thị trường. Một phần là đã có hành lang pháp lý, nhưng hành lang này

chưa đủ rộng và thiếu những văn bản hướng dẫn quan trọng để các tổ chức, cá nhân

có nhu cầu thực hiện hoạt động mua bán nợ một cách dễ dàng.

Ngoài ra, sở dĩ nợ xấu ngân hàng Việt Nam vẫn chưa tham gia nhiều trên thị

trường mua bán nợ là do hiện tại Chính phủ vẫn chưa quan tâm tới vấn đề này và

chưa có lực lượng nước ngoài tham gia vào thị trường. Trong khi thị trường mua

bán các khoản nợ xấu trên thế giới đã phát triển rất mạnh và nợ xấu đã được coi là

41

một trong những loại “hàng hóa” đặc biệt và có lãi cao nếu được thực hiện một cách

chuyên nghiệp. Các nước phát triển có những công ty chuyên mua bán nợ xấu, hoạt

động rất chuyên nghiệp. Họ còn chủ động chào mua các khoản nợ xấu của ngân

hàng. Sau khi mua về, tùy thuộc vào chất lượng từng khoản nợ, họ sẽ làm sạch sẽ

tình hình tài chính, đẩy bớt những phần quá xấu trong tài sản, chuẩn bị hồ sơ pháp

lý đầy đủ và tiến hành bán nợ.

Hoạt động này trên thế giới thông suốt là do những quốc gia này có một hệ

thống pháp lý hoàn hảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thị trường này phát triển

như nhân lực có tay nghề cao, cung cấp dịch vụ bài bản... Khi thực hiện nghiệp vụ

này, ngân hàng phải tính toán tính thanh khoản của mình để quyết định bán ở tỷ lệ

nào và mức giá bao nhiêu. Nếu thị trường sôi động, có thể đấu thầu. Việc mua bán

này, ngân hàng không chỉ khơi thông nguồn vốn, làm sạch sẽ sổ sách, lành mạnh

tình hình tài chính mà thậm chí, nếu xử lý tốt tài sản thế chấp, ngân hàng vừa loại

bỏ được rủi ro, vừa có lãi.

Ngoài ra một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho việc mua bán nợ

gặp khó khăn đó chính là vướng cơ chế. Việc kinh doanh từ mua bán nợ phải dựa

trên nền tảng chính là mua nợ, cơ cấu lại và đem bán, tuy nhiên việc cơ cấu lại này

ở Việt Nam hiện đang gặp khó khăn vì cơ chế chưa đầy đủ. Điển hình như DATC là

Công ty chuyên nghiệp về mua bán nợ nhưng hoạt động mua vẫn là chính, cơ cấu

lại doanh nghiệp và để bán thì vẫn còn chậm và chưa hiệu quả. Nguyên nhân là do

cơ chế, chính sách về hoạt động mua bán nợ vẫn còn nhiều vướng mắc khó khăn.

Theo quy định hiện hành thì hầu hết các phương án mua bán nợ, xử lý tài

chính nhằm tái cơ cấu lại hoạt động kinh doanh của DN khách nợ đều phải trình

nhiều cấp xem xét phê duyệt mới có thể thực hiện được mất rất nhiều thời gian.

Chưa có cơ chế hướng dẫn của Bộ Tài chính về việc xử lý số nợ loại trừ đã

tiếp nhận thuộc nhóm 2 theo Quyết định 149 (những khoản nợ không còn đối tượng

thu nợ, đã xử lý hết tài sản…). Mặt khác, việc thỏa thuận với các cơ quan chủ quản

trong việc xử lý tài chính, xác định giá trị DN trong quá trình tái cơ cấu DN khách

nợ còn nhiều khó khăn vướng mắc, mất nhiều thời gian. Đa số các DN khách nợ của

42

DATC đang gặp khó khăn về tài chính trong khi ngân hàng lại siết chặt tín dụng, lãi

vay tăng cao gây khó khăn về huy động vốn cho hoạt động kinh doanh. Liên quan

trực tiếp đến vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp Mặc dù Nghị định số 109/2007/NĐ-CP

về chuyển DN 100% vốn nhà nước thành Cty cổ phần, đã cho phép chuyển đổi sở

hữu doanh nghiệp nhà nước bị âm vốn thông qua hoạt động mua bán nợ, nhưng đến

nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể, nên cả công ty và các Bộ, địa phương đang

vướng mắc trong quá trình thực hiện.

Trên đây là tổng quan về hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam, sau đây chúng

ta sẽ đi sâu nghiên cứu về thực trạng hoạt động mua bán nợ tại Vietcombank trong

thời qua như thế nào.

2.2 Thực trạng mua, bán nợ tại Vietcombank

2.2.1. Khái quát về tình hình dư nợ tín dụng, nợ xấu và các biện pháp xử lý nợ

tại Vietcombank

2.2.1.1 Tình hình dư nợ tín dụng

Tính đến hết năm 2011, tổng dư nợ tín dụng nội bảng của Vietcombank đạt

209.418 tỷ quy đồng Việt Nam, tăng 32.604 tỷ đồng so với năm 2010, đạt mức tăng

trưởng tín dụng 18%.

BIỂU Đ Ồ DƯ NỢ T ÍN DỤNG

2 5 0 ,0 0 0

2 0 0 ,0 0 0

Dư n ợ tín d ụ n g

1 5 0 ,0 0 0

Ng ắ n h ạ n

1 0 0 ,0 0 0

Tr u n g d à i h ạ n

5 0 ,0 0 0

-

2 0 0 9

2 0 1 0

2 0 1 1

Biểu đồ 2.5: “Dư nợ tín dụng ngắn, trung và dài hạn năm 2009-2011”

(Nguồn: Phòng công nợ VCB)

43

Qua biểu đồ cho thấy, tăng trưởng dư nợ tín dụng liên tục tăng từ năm 2009-

2011 đồng đều ở tất cả các thời hạn cho vay. Tỷ lệ tín dụng ngắn hạn luôn ở mức

cao hơn tỷ lệ cho vay trung dài hạn. Ngân hàng huy động và cho vay lại nền kinh tế

chưa được ổn định ở kỳ hạn dài, các khách hàng vay vốn cũng thận trọng hơn với

các dự án dài hạn. Đồng thời tỷ trọng dư nợ tín dụng trên cũng phản ánh phần nào

kết quả chiến lược phát triển sản phẩm bán lẻ của Vietcombank .

2.2.1.2 Tình hình nợ xấu

Trong năm 2010, 2011 Vietcombank đã thực hiện tốt chỉ đạo của Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam trong việc kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 25% và

18% Tuy nhiên rủi ro tín dụng cũng gia tăng, được phản ánh trong số nợ xấu tăng

lên của Vietcombank.

Bảng 2. 6 “Bảng số liệu nhóm nợ Vietcombank năm 2009-2011”

Nhóm nợ Nhóm 1 Nhóm 2 Năm 2009 130,684 7,998 Năm 2010 154,137 17,294 Năm 2011 207,407 29,493

Nhóm 3 430 982 2,050

370 2,611 142,094 3,412 2.4% 230 292 3,613 176,317 4,887 2.77% 278 648 2,277 241,874 4,975 2.06% 3,812

Nhóm 4 Nhóm 5 Tổng dư nợ Tổng dư nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu Tổng nợ đã sử dụng DPRR trong năm Tỷ lệ nợ xấu và nợ đã xử lý DPRR trong kỳ 2.92% 3.58%

2.56% (Nguồn: Phòng công nợ VCB)

Tỷ lệ nợ xấu trong năm 2011 giảm so với năm 2010, do Vietcombank đã tích

cực áp dụng các biện pháp thu hồi nợ và xử lý nợ xấu. Nguyên nhân nợ xấu tại thời

điểm 31/12/2010 tăng so với thời điểm 31/12/2009 chủ yếu là do Vietcombank thực

hiện Chính sách dự phòng rủi ro tín dụng mới: Từ quý II/ 2010 Vietcombank thực

hiện phân loại nợ theo các yếu tố định tính (Điều 7 Quyết định số 493/2005/QĐ-

NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) thay cho

các yếu tố định lượng trước đây (Điều 6 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN).

44

Nợ xấu tập trung ở 02 loại hình doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp

ngoài quốc doanh như sau:

Bảng 2. 7 “Số liệu nhóm nợ Vietcombank theo loại hình DN năm 2009-2011”

(Đơn vị: Tỷ đồng)

Loại hình DN 2009 2010 2011

DN quốc doanh 1,027 2,659 2,709

DN ngoài quốc doanh 1,321 1,709 1,741

DN có vốn đầu tư nước ngoài 739 225 229

Cá nhân, hộ tiêu dùng 319 290 295

Tổng cộng 3,406 4,883 4,975

(Nguồn: Phòng công nợ VCB)

2.2.1.3 Biện pháp xử lý, thu hồi nợ có vấn đề của Vietcombank

*Hệ thống xử lý nợ có vấn đề

Theo Quyết định số 106/QĐ-NHNT.CSTD ngày 07/04/2009 của Tổng giám

đốc VCB ban hành Quy định về quản lý và xử lý các khoản nợ có vấn đề và Công

văn số 842/CV-NHNT.CN ngày 08/06/2009 của Tổng giám đốc VCB về việc triển

khai Quyết định số 106/QĐ-NHNT.CSTD, đến nay VCB đã thành lập một hệ thống

xử lý nợ có vấn đề: Phòng Công nợ tại Hội sở chính và 33 Tổ Xử lý nợ xấu tại Sở

giao dịch/chi nhánh có tỷ lệ nợ xấu vượt 3% trong 2 quý liên tiếp, hoặc vượt 5%

trong quý hiện hành, hoặc giá trị nợ xấu trên 50 tỷ quy đồng Việt Nam, hoặc có nợ

đã được sử dụng dự phòng xử lý rủi ro tín dụng giá trị từ 50 tỷ quy đồng Việt Nam

trở lên.

* Các biện pháp xử lý, thu hồi nợ có vấn đề

Tuỳ đặc điểm, tính chất của từng khoản nợ có vấn đề và khách hàng vay vốn mà

VIETCOMBANK sẽ áp dụng các biện pháp xử lý, thu hồi nợ sau:

a) Theo dõi đặc biệt: tăng cường tần suất kiểm tra khách hàng/vốn vay, yêu

cầu khách hàng báo cáo thường xuyên để nắm tình hình…

b) Tiếp tục cấp tín dụng với điều kiện chặt chẽ hơn: tăng tỷ lệ bảo đảm, thay

đổi phương thức cấp tín dụng, tăng cường kiểm soát vốn vay…

45

c) Hạn chế, giảm dần dư nợ: Chi nhánh phải xác định lộ trình cụ thể để có cơ

sở theo dõi thực hiện.

d) Yêu cầu bổ sung, thay đổi biện pháp bảo đảm có mức an toàn cao hơn.

e) Dừng cấp tín dụng.

f) Miễn giảm lãi để tăng khả năng thu nợ

g) Cấu trúc lại nợ: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển đổi đồng tiền nhận nợ,

các giải pháp tài chính khác...

h) Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả thay.

i) Phát mại tài sản bảo đảm

j) Bán nợ

k) Nhận tài sản bảo đảm để cấn trừ nợ cho khách hàng.

l) Khởi kiện khách hàng

m) Các biện pháp khác phù hợp với quy định của Pháp luật.

* Kết quả xử lý, thu hồi nợ có vấn đề

Bảng 2.8: “Kết quả xử lý, thu hồi nợ có vấn đề năm 2009-2011”

(Đơn vị tính: tỷ đồng)

Biện pháp thu hồi

Nợ có vấn đề năm 2009

Nợ có vấn đề năm 2010

Nợ có vấn đề năm 2011

Dư nợ

Thu nợ

Dư nợ

Thu nợ Dư nợ

Thu nợ

Đôn đốc, phục hồi để thu nợ (a,b,c,d,e,g,h)

6,722

3,454

9,118

1,684

11,853

3,556

Miễn giảm lãi (f)

104

44

214

208

190

186

Xử lý TSBĐ (i)

1,002

252

1,368

294

-

208

Bán nợ (j)

8

738

166

2,252

781

248

Khởi kiện (l)

136

1,502

1,616

1,953

1,814

1,130

Biện pháp khác (m)

416

4,042

464

5,255

602

4,794

Tổng

14,000

4,310

21,503

7,147

16,982 4,432 (Nguồn: Phòng công nợ VCB)

46

Trong bảng tổng hợp số liệu trên bao gồm tổng số xử lý các khoản nợ từ nhóm

2 trở đi. Kết quả thu nợ của tổng các biện pháp trong năm 2011 so với năm 2010

tăng không nhiều (2,8%), tuy nhiên kết quả của từng biện pháp có sự thay đổi mạnh.

Năm 2009 kết quả thu nợ chủ yếu đến từ các biện pháp đôn đốc, phục hồi (đôn đốc,

xử lý kỹ thuật thu nợ như theo dõi, hạn chế, tạm dừng cấp tín dụng, gia tăng tài sản

bảo đảm hoặc cơ cấu nợ chiếm 80% kết quả thu nợ) thì năm 2010 kết quả này lại

đến từ các biện pháp mạnh (miễn giảm lãi, xử lý tài sản bảo đảm, bán nợ, khởi kiện

chiếm 63% kết quả thu nợ).

Xét về tỉ trọng, tuy việc áp dụng biện pháp bán nợ mới chiếm một phần nhỏ

trong các biện pháp mạnh nhưng lại có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất. So với năm

2009 thì năm 2010 tăng gần 3 lần về dư nợ áp dụng và tăng hơn 20 lần về kết quả

thu nợ. Đó là do cuối năm 2009 Vietcombank mới ban hành quy định tạm thời về

mua bán nợ, giữa năm 2010 mới tổ chức tập huấn nghiệp vụ này cho toàn hệ thống.

Điều đáng lưu ý ở đây là tính hiệu quả của biện pháp bán nợ trong xử lý, thu hồi nợ

có vấn đề: Trong khi các biện pháp khác gặp bế tắc thì biện pháp bán nợ lại có thể

phát huy được vai trò của mình.

2.2.2 Thực trạng hoạt động mua bán nợ của Vietcombank trên thị trường

Hoạt động mua bán nợ của Vietcombank còn khá khiêm tốn so với giao dịch

mua bán nợ trên thị trường mua bán nợ Việt Nam, hiện nay Vietcombank chỉ thực

hiện mua bán nợ chủ yếu đối với các khoản nợ trong hệ thống và chỉ xem xét mua

lại một số khoản nợ vay tốt hoặc đồng tài trợ với mục đích chính là tái cơ cấu danh

mục đầu tư .

Do thời gian và phạm vi nghiên cứu hạn chế nên ở đề tài này chưa thu thập

được số liệu tổng thể mua bán nợ của thị chỉ so sánh giá trị mua bán nợ của NHNT

với DATC có thể xem là đơn vị độc quyền và thực hiện các giao dịch mua bán nợ

lớn nhất tại Việt nam hiện nay .

Từ 2004 đến 30/06/2012, DATC đã thực hiện 121 phương án nợ và tài sản,

với giá trị các khoản nợ theo sổ sách khoảng 7.795 tỉ, giá vốn mua nợ là 2.384 tỉ

đồng và mua nợ của các TCTD khoảng 11.000 tỷ đồng . So với hoạt động mua bán

47

nợ của DATC thì hoạt động nghiệp vụ mua bán nợ của NHNT tương đối thấp so với

hoạt động mua bán nợ của DATC, chỉ chiếm khoảng 15%.

Tuy nhiên so với các tổ chức tín dụng khác thì VCB được xem là ngân hàng

đầu tiên trong việc thực hiện hoạt động mua bán nợ để xử lý nợ xấu tại Việt Nam.

2.2.3 Đối tác thực hiện tham gia mua bán nợ Vietcombank

Bên bán nợ: nói đến chủ thể bán nợ là nói đến một bên trong quan hệ giao

dịch mua, bán nợ. Như vậy, chủ thể bán nợ được đặt trong mối tương quan với chủ

thể mua nợ (hay bên mua nợ) và bên có liên quan (bên nợ và các bên có liên quan

khác). Theo quy định của pháp luật hiện hành, Bên bán nợ phải là các tổ chức tín

dụng thành lập và các công ty có nhiệm vụ thực hiện việc mua, bán nợ trực thuộc tổ

chức tín dụng, tổ chức tín dụng nước ngoài sở hữu khoản nợ. Như vậy, trong trường

hợp này, chủ thể bán nợ chính là Vietcombank với tư cách là người có quyền sở hữu

đối với khoản nợ đem bán và chuyển nhượng quyền này cho người mua.

Bên mua nợ được hiểu các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài có

nhu cầu mua khoản nợ từ bên bán nợ, để trở thành chủ sở hữu mới của khoản nợ.

Như vậy, bên mua nợ của Vietcombank có thể là bất kỳ tổ chức nào được thành lập

hợp pháp hoặc bất kỳ cá nhân nào có năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo

quy định của pháp luật. Điều này cũng cho thấy không chỉ Công ty Mua, bán nợ và

tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) mới có quyền mua nợ mà bất kỳ tổ

chức/cá nhân nào có nhu cầu mua nợ đều có thể trở thành bên mua nợ của

Vietcombank.

Ngoài hai chủ thể chính trong quan hệ mua bán nợ nêu trên, còn có một số bên

liên quan khác như:

(1) Bên nợ là các tổ chức, cá nhân vay nợ tổ chức tín dụng trong các khoản nợ

được mua, bán (đây chính là các khách hàng có dư nợ tại Vietcombank );

(2) Bên môi giới là các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng làm chức năng trung

gian, dàn xếp việc mua, bán nợ giữa các bên mua, bán nợ và được hưởng phí dịch

vụ môi giới theo thỏa thuận;…

48

2.2.4 Xác định giá trong giao dịch mua bán nợ của Vietcombank

Việc xác định giá trị khoản nợ được mua bán nợ tại Vietcombank được phân

chia làm 2 loại là khoản nợ đạt chuẩn (nợ nhóm 1) và khoản nợ dưới tiêu chuẩn

(khoản nợ từ nhóm 2 trở lên )

*Đối với khoản vay nằm trong diện đạt chuẩn:

+Giá bán nợ: Vietcombank xác định giá trị khoản nợ theo giá trị khoản gốc và lãi

phát sinh (nếu có)

+Giá mua nợ: Vietcombank xem xét quyết định mua một khoản nợ tương tự như

xem xét cấp tín dụng cho khách hàng theo hình thức cho vay. Theo đó, Bên nợ được

xác định như Bên Vay và giá trị khoản nợ được xác định như một khoản vay. Giá

mua khoản nợ thường được xác định bằng giá trị sổ sách khoản nợ gốc được mua

lại.

*Đối với các khoản nợ dưới tiêu chuẩn:

Vietcombank không thực hiện mua lại các khoản nợ dưới chuẩn, vì vậy ở phần

này chỉ trình bày cách xác định giá của khoản nợ được bán. Để định giá bán khoản

nợ dưới chuẩn, Vietcombank có một bộ phận phòng công nợ chuyên về thẩm định

giá trị khoản vay. Nội dung thẩm định xác định giá bán nợ gồm các vấn đề:

+ Thẩm định về tình hình bên nợ: Trường hợp bên nợ là tổ chức, bộ phận thẩm

định thực hiện đánh giá về tình trạng pháp lý doanh nghiệp, cơ cấu quản lý, mô hình

doanh nghiệp, tình hình hoạt động kinh doanh, mức độ thiện chí hợp tác xử lý nợ…

Trường hợp bên nợ là cá nhân, bộ phận thẩm định thực hiện đánh giá tình hình gia

cảnh, công việc, tài sản, sức khỏe và các vấn đề khác liên quan đến khả năng trả nợ.

+Thẩm định về khoản nợ :Bộ phận thẩm định đánh giá về lịch sử khoản nợ, tình

trạng hiện tại của khoản nợ, giá trị khoản nợ và các biện pháp bảo đảm cho khoản

nợ (nếu có). Đồng thời, bộ phận thẩm định đánh giá về tính pháp lý và chặt chẽ của

hồ sơ tín dụng, hồ sơ tài sản bảo đảm đảm; khả năng hoàn thiện hồ sơ (nếu hồ sơ có

thiếu sót).

49

+Việc định giá khoản nợ: được xác định dựa vào giá trị dòng tiền có thể thu hồi từ

phương án sản xuất kinh doanh của khách nợ cộng với giá trị tài sản đảm bảo có thể

thu hồi (trường hợp khách hàng có TSĐB) đánh giá các yếu tố về thị trường, cơ cấu

tổ chức, năng lực quản lý để xác định giá khoản nợ một cách hợp lý.

Bộ phận bán nợ Vietcombank sẽ đánh giá các phương án thu hồi nợ đã/đang

áp dụng; sự tích cực trong quá trình thu hồi nợ; đánh giá tính pháp lý, tính hiệu quả

của phương án bán nợ, so sánh tính hiệu quả của phương án bán nợ so với các

phương án thu hồi nợ khác; thẩm định về trình tự, thủ tục bán nợ và xác định giá

bán nợ. Đối với việc xác định giá bán nợ (giá khởi điểm), đây là vấn đề quan trọng

nhất để quyết định có xử lý khoản nợ theo phương thức bán nợ hay không. Bởi vì

Vietcombank sẽ chỉ thực hiện bán nợ khi đối tác trả giá tối thiểu bằng giá bán nợ

được xác định. Vì vậy, việc xác định giá bán nợ không chính xác sẽ không thể bán

được nợ (khi định giá quá cao) hoặc gây thiệt hại cho ngân hàng (do định giá quá

thấp). Xét cho cùng việc thẩm định tất cả các yếu tố nêu trên là nhằm mục đính xác

định mức giá bán nợ tối ưu nhất nhằm bảo đảm quyền lợi của Vietcombank.

Về nguyên tắc, việc xác định giá bán nợ có thể do Vietcombank tự thực hiện

hoặc thuê tổ chức có chức năng tư vấn về kiểm toán hoăc mua bán nợ xác định.

Trong thời gian qua hầu hết các khoản nợ đã bán tại Vietcombank đều do

Vietcombank tự thực hiện nhưng cũng đã có một số trường hợp Vietcombank thuê

tổ chức có chức năng thẩm định giá để thực hiện xác định giá bán nợ. Về chủ

trương, Vietcombank khuyến khích việc thuê tổ chức thẩm định giá độc lập để xác

định giá bán nợ nhằm bảo đảm tính khách quan, chuyên nghiệp trong việc xác định

giá bán nợ.

2.2.5. Phương thức thực hiện giao dịch mua bán nợ của Vietcombank

Hiện nay các phương thức thực hiện giao dịch mua bán nợ của Vietcombank

chủ yếu là phương thức tự bán đấu giá, các bên mua bán nợ tự thỏa thuận và bán nợ

thông qua DATC.

+Trường hợp tự đấu giá: trường hợp này Vietcombank thường áp dụng cho việc

bán nợ, theo quy định là sẽ đăng thông tin công khai, tìm đối tác mua nợ trên các

50

báo trung ương và địa phương 03 kỳ (số) liên tiếp và đăng tải trên website của

Vietcombank. Việc làm này nhằm để đảm bảo tính khách quan, minh bạch trong

quá trình chuyển nhượng khoản nợ và đồng thời cũng để tìm thêm đối tác mua nợ,

nhằm đảm bảo khoản nợ được bán trong điều kiện cạnh tranh nhất. Bên cạnh việc

đăng thông tin tìm đối tác, thông qua các mối quan hệ hoặc qua môi giới,

Vietcombank cũng chủ động tìm đối tác có nhu cầu mua khoản nợ mà Vietcombank

có nhu cầu bán. Tuy nhiên, trong một số trường hợp theo quyết định của cấp có

thẩm quyền, việc bán nợ có thể không cần đăng công khai. Đây là những trường

hợp mà nếu đăng tin công khai sẽ gây bất lợi cho quá trình đàm phán/quá trình

chuyển giao nợ, dẫn đến khó bán nợ hoặc bán với giá thấp hơn so với việc không

đăng công khai, làm thiệt hại đến quyền lợi của Vietcombank. Trong trường hợp

này, bộ phận đề xuất bán nợ phải giải trình các lý do không thực hiện đăng thông tin

công khai để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Từ thời điểm năm 2007 đến

nay Vietcombank đã bán được khoảng 10 khoản nợ thông qua phương thức đăng

công khai thông tin tự đấu giá.

+ Các bên mua bán nợ tự thỏa thuận: Vietcombank thường áp dụng phương thức

tự thỏa thuận khi thực hiện mua bán các khoản nợ với các TCTD, hai bên sẽ thương

lượng giá và phương thức mua bán nợ phù hợp. Phương thức này thường được

Vietcombank áp dụng trong các trường hợp mua bán các khoản nợ đồng tài trợ. Từ

thời điểm năm 2007 đến nay Vietcombank đã thực hiện bán khoảng 45 khoản nợ và

mua khoảng 05 khoản nợ theo phương thức tự thỏa thuận. Với trị giá bán nợ khoảng

455 tỷ VND, trị giá khoản nợ gốc khoảng 2.550 tỷ VND.

+Bán nợ thông qua DATC: đối với các khoản nợ xấu không có khả năng xử lý thu

hồi nợ nhóm 5 hoặc các khoản nợ đã được trích lập dự phòng, Vietcombank quyết

định bán cho DATC. Giá mua nợ trung bình của DATC rất thấp chỉ khoảng từ 10-

20% giá trị khoản nợ. Vì vậy Vietcombank rất ít áp dụng phương thức bán nợ thông

qua DATC. Từ năm 2007 đến nay Vietcombank chỉ bán khoảng 10 khoản nợ cho

DATC, thu về khoảng 500 tỷ VND cho tổng giá trị nợ gốc hơn 4.500 tỷ VND.

51

2.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến mua bán nợ của Vietcombank

2.2.6.1 Yếu tố bên trong

Ngoài các nhân tố bên ngoài là những khó khăn đối với các tổ chức tín dụng

trong việc mua bán nợ, tại Vietcombank việc mua, bán nợ cũng gặp phải một số khó

 Quy định mua, bán nợ hiện hành của Vietcombank còn chưa hoàn thiện

khăn xuất phát từ chính nguyên nhân nội tại của Vietcombank như:

Mặc dù quy định mua, bán nợ hiện hành của VCB đã cụ thể các quy định pháp

luật vào điều kiện của VCB, đưa ra quy định bán nợ hợp lý để các bộ phận chức

năng thực hiện. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, quy định này cũng còn một

số bất cập cần phải hoàn thiện thêm như làm rõ thêm quyền chủ động đề xuất bán

nợ của các chi nhánh, xác định rõ mục đích của việc thông báo bán nợ, bổ sung căn

cứ của việc xác định giá bán nợ, cơ chế hoạt động của Hội đồng Bán nợ, cơ chế

kiểm tra giám sát hoạt động bán nợ...

- Việc hiểu và vận dụng các quy định về mua bán nợ của một bộ phận cán bộ chưa

thật sự sâu sắc.

Mặc dù trong năm 2010 VCB đã tổ chức tập huấn về công tác mua, bán nợ

cho cán bộ quản lý và cán bộ trực tiếp làm công tác này trên toàn hệ thống VCB.

Tuy nhiên, do thời gian tập huấn ngắn, khả năng nắm bắt và vận dụng các quy định

của một bộ phận cán bộ còn hạn chế nên trong thực tiễn hoạt động bán nợ, nhiều

cán bộ còn lúng túng khi thực hiện nghiệp vụ này vì vậy đã lựa chọn biện pháp xử

lý nợ khác thay vì bán nợ dù nếu áp dụng bán nợ sẽ hiệu quả hơn.

2.2.6.2 Yếu tố bên ngoài

*Khung pháp lý chưa hoàn thiện

Hiện nay, hoạt động bán nợ của tổ chức tín dụng chịu sự điều chỉnh tại một số

văn bản có giá trị pháp lý cao như Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật các tổ chức tín

dụng năm 2010, văn bản pháp luật điều chỉnh về hoạt động mua bán nợ của TCTD

Quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005 ban hành Quy định về phân

loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân

hàng của TCTD (QĐ số 18/2007/QĐ – NHNN, một số điều của QĐ số 493)….. …

52

và một số văn bản dưới luật khác. Tuy nhiên, văn bản trực tiếp quy định cụ thể về

hoạt động bán nợ của tổ chức tín dụng là Quyết định số 59/2006/QĐ – NHNN ngày

21/12/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế mua,

bán nợ của các TCTD.

Mặc dù Quyết định số 59 đã đưa ra một khung pháp lý cơ bản tạo điều kiện

cho các tổ chức tín dụng có cơ sở thực hiện hoạt động mua bán nợ như các quy định

về phạm vi mua, bán nợ; phương thức mua, bán nợ; quyền và nghĩa vụ các bên

tham gia quan hệ mua, bán nợ; quản lý và xử lý tài chính đối với khoản nợ mua,

bán… Tuy nhiên, do hoạt động mua, bán nợ còn quá mới mẻ tại Việt Nam nên

những quy định mới chỉ mang tính nguyên tắc tại Quyết định số 59 chưa đáp ứng

được yêu cầu của thực tiễn, dẫn đến nhiều trường hợp tổ chức tín dụng cũng như

các bên liên quan còn gặp lúng túng khi thực hiện bán nợ chẳng hạn như vấn đề

định giá nợ, cấp hoá đơn trong hoạt động mua bán nợ, hạch toán kế toán v.v.. Mặt

khác, pháp luật hiện hành cũng còn khoảng trống trong việc quy định các quyền

năng của chủ thể mua nợ (mà không phải là tổ chức tín dụng hoặc DATC) đối với

các khoản nợ được mua, điều này cũng dẫn các nhiều chủ thể (đặc biệt là tổ chức/cá

nhân nước ngoài) tỏ ra e ngại khi đàm phán mua nợ của các tổ chức tín dụng, làm

hạn chế sự phát triển của thị trường mua, bán nợ.

*Tâm lý e ngại của chủ nợ khi thực hiện bán nợ

Do khung pháp còn chưa cụ thể như đã nêu trên nên trong thực tế hoạt động

bán nợ tại các tổ chức tín dụng mà đặc biệt là tại các ngân hàng thương mại nhà

nước như VCB, vẫn còn tồn tại tâm lý e ngại, sợ trách nhiệm của các bộ phận chức

năng khi thực hiện bán nợ… Cụ thể, trong một số trường hợp bộ phận đề xuất, thẩm

định cũng như cấp có thẩm quyền mặc dù thấy rằng việc bán nợ có hiệu quả hơn

nhưng vẫn lựa chọn biện pháp khác để bảo đảm an toàn, không phải gánh chịu các

phiền phức có thể phát sinh do đề xuất/quyết định với giá bán nợ thấp hơn giá trị

khoản nợ. Hoặc trong một số trường hợp, do tâm lý e ngại này mà thủ tục bán nợ trở

nên chậm chạp hơn, chẳng hạn như việc yêu cầu đăng thông báo công khai một

cách máy móc hoặc yêu cầu bắt buộc phải có một bên thứ ba độc lập định giá bán

53

nợ… Những thủ tục này trong một số trường hợp là cần thiết để bảo đảm tính khách

quan minh bạch nhưng nếu vận dụng thiếu linh hoạt thì lại gây chậm trễ, làm mất cơ

hội bán nợ thành công.

*Thị trường mua, bán nợ tại Việt Nam mới hình thành, thiếu chuyên nghiệp

Như đã nêu trên, mặc dù pháp luật hiện hành tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá

nhân (bao gồm cả tổ chức/cá nhân nước ngoài) có quyền mua nợ của tổ chức tín

dụng nhưng lại không quy định cụ thể quyền của các chủ thể này sau khi mua nợ.

Chính vì vậy, còn rất ít doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh về lĩnh vực mua bán nợ.

Hiện nay trên thị trường mua, bán nợ chỉ có DATC là tổ chức được quy định

cụ thể về các quyền năng đối với khoản nợ đã mua, tuy nhiên năng lực tài chính của

doanh nghiệp này cũng còn nhiều hạn chế (vốn điều lệ khoảng hơn 2400 tỷ đồng).

Các tổ chức/cá nhân khác khi tham gia mua nợ thường là nhằm đến tài sản bảo đảm

của khoản nợ chứ không vì chính bản thân khoản nợ. Điều này thể hiện thị trường

mua, bán nợ tại Việt Nam còn chưa phát triển, việc bán nợ gặp nhiều khó khăn và

khó bán được giá cao vì còn quá ít chủ thể có nhu cầu mua nợ.

Tại VCB, nhiều trường hợp đàm phán mua, bán nợ với DATC không thành

công do công ty này thường dựa vào lợi thế gần như độc quyền của mình, trả giá

bán nợ quá thấp, nhiều khoản DATC chỉ trả dưới 30% giá trị nợ gốc, thậm chí có

trường hợp chỉ trả 5-10% giá trị nợ gốc. Do đó, VCB buộc phải lựa chọn biện pháp

xử lý nợ khác để thu nợ nhiều hơn mặc dù có thể phải mất nhiều thời gian và nhân

lực hơn. Mặt khác thị trường mua, bán nợ tại Việt Nam còn kém hấp dẫn bởi chính

các hàng hoá luân chuyển trên thị trường. Thông thường các khoản nợ được bán là

các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng khó thu hồi nên mục đích mà Bên mua nợ nhắm đến

là các tài sản vô hình và hữu hình kèm theo khoản nợ chứ không phải là chính

khoản nợ đó.

*Khó khăn trong việc định giá khoản nợ

Mặc dù xác định khoản nợ là một loại hàng hoá được giao dịch trên thị trường

nhưng pháp luật về thẩm định giá lại không có quy định cụ thể nào về việc định giá

khoản nợ. Vì vậy, nhiều tổ chức thẩm định giá độc lập không có cơ sở để tiến hành

54

thẩm định giá khoản nợ vì vậy đã từ chối ký kết hợp đồng định giá với các tổ chức

tín dụng. Chính vì vậy việc tự định giá của tổ chức tín dụng hoặc việc thẩm định giá

của tổ chức độc lập không tránh khỏi yếu tố chủ quan, thiếu thuyết phục, không nêu

được các căn cứ khoa học của kết quả định giá.

2.2.7 Các rủi ro trong mua bán nợ của Vietcombank

Trong hoạt động mua bán nợ của Vietcombank trong thời gian qua cũng gặp

không ít các rủi ro. Về cơ bản Vietcombank thường gặp đối với một số rủi ro chủ

yếu sau:

* Rủi ro do mất cân xứng thông tin: rất khó nắm được toàn bộ thông tin từ bên mua

hoặc bên bán nợ hoặc giá trị thực sự của khoản nợ. Hiện nay VCB chỉ có thể tra cứu

thông tin về chất lượng khoản vay thông qua trung tâm CIC nhà nước, còn các

thông tin khác về năng lực đối tác, chất lượng thực sự của khoản vay, năng lực thực

tế của bên mua hoặc bên bán có thể bị che dấu hoặc bên đối tác cố tình cung cấp

thông tin sai lệch thì hiện nay VCB cũng chưa có cơ sở nào để đối chiếu.

* Rủi ro trong việc xác định giá trị khoản nợ: VCB gặp không ít khó khăn trong

việc xác định giá trị giao dịch của khoản nợ, vì rất khó có thể định giá khoản nợ

nhất là các khoản nợ dưới chuẩn, vì vậy rủi ro định giá thấp hơn hoặc cao hơn giá trị

thực tế thường không tránh khỏi. VCB thường gặp rủi ro nhiều trong việc xác định

giá mua bán nợ vì vấn đề thông tin không cân xứng, có thể đánh giá sai mức độ rủi

ro của khoản nợ dẫn đến việc mua giá cao hoặc bán giá thấp hơn giá trị thực tế của

khoản nợ.

Ngoài ra, VCB cũng có rủi ro việc mua bán nợ còn có một số rủi ro bên ngoài

khác như rủi ro pháp lý do khung pháp lý về mua bán nợ của Việt nam chưa hoàn

thiện nên trong quá trình thực hiện cũng gặp nhiều vướng mắc trong quá trỉnh

chuyển giao khoản nợ; rủi ro vĩ mô từ thay đổi tình hình nền kinh tế ảnh hưởng đến

hoạt động sản xuất kinh doanh của khách nợ dẫn đến các khoản nợ mua VCB có thể

bị xấu đi hoặc các khoản nợ đã bán với giá trị thấp hơn giá thực tế nhưng do thay

đổi từ nền kinh tế khách nợ có thể trở nên tốt hơn lúc đó giá trị khoản nợ đã bán

cũng có xu hướng tăng giá hơn do khách nợ có chuyển biến tích cực hơn.

55

2.2.8.Hiệu quả mua bán nợ của Vietcombank

Biện pháp xử lý nợ có vấn đề thì bán nợ được coi là một biện pháp khá hữu

hiệu để xử lý nợ tồn đọng, do thời gian xử lý tương đối nhanh và dứt điểm, góp

phần giảm tỷ lệ nợ xấu cho VCB và làm lành mạnh tình hình tài chính của ngân

hàng. Chính vì vậy, tại VCB, biện pháp bán nợ được coi là một trong các biện pháp

xử lý nợ có vấn đề, đặc biệt là để xử lý các khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ

DPRR.

Từ năm 2006 đến nay, đã có 37 khoản nợ tồn đọng tại VCB được xử lý bằng

biện pháp bán nợ với số dư bán nợ là 3.016 tỷ đồng ( trong đó 677 tỷ nợ nhóm 2,

còn lại là nợ từ nhóm 3 trở đi và các khoản nợ đã trích lập dự phòng) và thu hồi

được số tiền là hơn 955 tỷ đồng. Đa phần là các khoản nợ đều được bán thông qua

hội sở chính các chi nhánh chỉ tiếp nhận thông tin và Hội sở chính sẽ xử lý việc mua

bán nợ.

Riêng năm 2010, dư nợ có vấn đề được xử lý bằng biện pháp bán nợ là 738 tỷ

đồng, năm 2011 dư nợ xấu xử lý bằng biện pháp bán nợ là 2.051 tỷ VND. Hoạt

động mua nợ tại VCB từ năm 2006 đến nay giá trị khoảng 875 tỷ đồng, VCB đã

mua lại nợ từ các ngân hàng thành viên tham gia cho vay đồng tài trợ; mua nợ để tái

cấu trúc tài chính cho Bên Nợ và nhằm mục đích mở rộng danh mục đầu tư.

Trước nhu cầu thực hiện và hoạt động mua bán nợ ngày càng phát triển, năm

2009 Tổng Giám đốc VCB đã ban hành Quyết định số 418/QĐ-NHNT.CN ngày

05/11/2009 về việc ban hành Quy định tạm thời về Mua, bán nợ, hoạt động mua,

bán nợ đã được chuẩn hoá về hồ sơ, quy trình thực hiện đảm bảo việc bán nợ được

khách quan, minh bạch và hiệu quả.

2.3 Đánh giá quy trình mua, bán nợ của VCB

2.3.1 Nguyên tắc mua bán nợ

VCB thực hiện mua bán toàn bộ hoặc một phần khoản nợ, và bên mua hoặc

bán nợ có thể thoả thuận mua, bán toàn bộ hoặc một phần của khoản nợ. VCB

không thực hiện bán nợ có truy đòi. Nguyên tắc này hoàn toàn hợp lý vì khi khoản

nợ đã được VCB chuyển giao cho bên mua nợ thì VCB cũng đã tiến hành trích lập

56

dự phòng và loại bỏ khoản nợ trên ra khoải hệ thống theo dõi trên bảng kế toán của

NHTN. Nếu thực hiện bán nợ có truy đòi thì rất khó trong công tác theo dõi và khai

báo hệ thống kế toán tài chính của VCB.

Hiện nay việc bán nợ tại VCB được quản lý tập trung tại Hội sở chính để hạn

chế rủi ro nhưng đồng thời cũng trao quyền chủ động cho các chi nhánh. Tuy nhiên

thời gian xử lý hồ sơ và các thù tục hồ sơ rất nhiều, rất phức tạp nên các chi nhánh

rất e ngại khi thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ.

2.3.2 Đối tượngkhoản nợ được mua bán

*Đối tượng khoản nợ được bán: Theo quy định về MBN hiện hành của VCB thì đối

tượng ưu tiên bán nợ bao gồm: các khoản nợ từ Nhóm 3 đến Nhóm 5 và các khoản

nợ được hạch toán ngoại bảng. Như vậy, đối tượng bán nợ tại VCB không phải chỉ

là nợ có vấn đề mà bao gồm tất cả các loại khoản nợ. Nhưng trong thực tế áp dụng

tại VCB thì phần lớn các trường hợp bán nợ dùng để xử lý các khoản nợ xấu, nợ tồn

đọng. Điều này cũng phù hợp với chỉ đạo của Ban lãnh đạo CB về việc áp dụng

biện pháp này.

*Đối tượng khoản nợ được mua: Khoản nợ được mua là khoản nợ thuộc nhóm 1,

hoặc các khoản nợ được đánh giá là có tiềm năng; được phép mua bán theo quy

định của pháp luật, không có tranh chấp. Hiện nay VCB không mua các khoản nợ

dưới chuẩn vì rủi ro trong việc xác định giá trị mua do thông tin bất cân xứng trên

thị trường.

2.3.3 Thẩm quyền xem xét, quyết định mua bán nợ

 Hiện nay, việc xác định thẩm quyền xem xét và quyết định bán nợ tại VCB được

*Thẩm quyền bán nợ

phân nhiệm hợp lý căn cứ trên cơ sở so sánh giữa giá bán nợ với giá trị khoản

 Trường hợp Giá bán nợ bằng hoặc cao hơn Giá trị khoản nợ: khoản nợ thuộc cấp

nợ. Theo đó:

thẩm quyền nào phê duyệt cấp tín dụng thì cấp đó quyết định việc bán nợ. Ví dụ:

trường hợp bán khoản nợ Công ty Thương mại Ngọc Hầu, Giám đốc VCB – Chi

nhánh An Giang đã xem xét, quyết định bán khoản nợ này cho Công ty TNHH

57

Quản lý nợ và khai thác tài sản – Ngân hàng TMCP Phương Nam để thu hồi

 Trường hợp Giá bán nợ thấp hơn Giá trị khoản nợ: việc bán nợ do Hội đồng bán

toàn bộ phần nợ quá hạn (31 tỷ đồng).

nợ được thành lập tại Hội sở chính xem xét quyết định. Ví dụ: khoản nợ Công ty

CP Địa ốc Sài gòn M&C tại Hội sở chính và VCB – chi nhánh TP.HCM (đây là

khoản nợ đồng tài trợ giữa VCB và Ngân hàng TMCP Đông Á, Vietcombank

tham gia với tư cách ngân hàng đầu mối với tổng số vốn tài trợ cho Dự án là

47,98 triệu USD và 22.807 triệu đồng). Hội đồng quản trị đã phê duyệt tín dụng

đối với khoản nợ này nên cũng đã xem xét, ra quyết định bán nợ.

Việc phân cấp thẩm quyền xem xét quyết định giá bán nợ hiện hành của VCB

hiện phù hợp với quy định phân cấp tín dụng và tránh được nhiều rủi ro trong việc

thẩm định giá trị khoản nợ được bán, nhất là các khoản nợ dưới chuẩn được bán với

giá thấp hơn giá trị sổ sách của khoản nợ. Tuy nhiên quy trình chưa quy định cụ thể

vai trò của Hội đồng mua bán nợ và hội đồng quản trị trong việc quyết định giá bán

khoản nợ.

*Thẩm quyền mua nợ:

VCB xem xét quyết định mua một khoản nợ tương tự như xem xét cấp tín

dụng cho khách hàng theo hình thức cho vay. Theo đó, Bên nợ được xác định như

Bên Vay và giá trị khoản nợ được xác định như một khoản vay. Việc mua nợ tại

VCB được quản lý theo nguyên tắc tập trung với thẩm quyền quyết định, cấp có

 Khoản nợ ≤ 200 tỷ đồng: Tổng giám đốc/Phó Tổng giám đốc;

 Khoản nợ > 200 tỷ đồng: HĐTD TW;

 Khoản nợ ≥ 10% vốn điều lệ của VCB: Tổng giám đốc trình và xin ý kiến

thẩm quyền xem xét và quyết định mua nợ tại VCB như sau:

 Tất cả các đề xuất mua nợ của Chi nhánh phải qua tái thẩm định tại phòng

Hội đồng quản trị sau khi đã thông qua HĐTD TW.

QLRRTD HSC.

Việc phân bổ thẩm quyền xét mua nợ hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế

và quy trình cấp tín dụng của VCB

58

2.3.4 Quy trình thủ tục bán nợ, mua nợ

2.3.4.1 Trình tự, thủ tục bán nợ

Quy định về mua, bán nợ hiện hành của VCB không có quy định cụ thể về

từng bước thực hiện quá trình bán nợ, tuy nhiên có thể khái quát thành 6 bước chính

như sau:

Bước 1. Lựa chọn áp dụng biện pháp bán nợ :

Việc lựa chọn áp dụng các biện pháp mua bán nợ này có thể là riêng rẽ, cũng

có thể là kết hợp nhiều biện pháp. Căn cứ vào điều kiện thực tế của khoản nợ và

hiệu quả áp dụng, VCB sẽ thực hiện biện pháp xử lý nợ bằng bán nợ hoặc các biện

pháp khác chẳng hạn như biện pháp cấu trúc lại nợ, yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện

nghĩa vụ trả thay chỉ thực hiện khi Bên nợ được bên thứ 3 bảo lãnh, hay biện pháp

phát mại tài sản, nhận TSBĐ để cấn trừ nợ chỉ được thực hiện đối với các khoản nợ

có TSBĐ, hay khởi kiện chỉ trong trường hợp khách hàng chây ỳ, không thực hiện

nghĩa vụ. Tuy nhiên, đối với biện pháp bán nợ thì khác, biện pháp bán nợ có thể

áp dụng với mọi khoản nợ dù là nợ nội bảng hay ngoại bảng, có TSBĐ hay không

có TSBĐ, khách hàng chây ỳ hay thiện chí… với điều kiện biện pháp bán nợ là

biện pháp hiệu quả nhất để thu hồi nợ. Chỉ trừ trường hợp các bên đã có thoả thuận

trước đó là khoản nợ không được mua, bán thì việc bán nợ mới không thể thực

hiện được.

Ví dụ: đối với trường hợp bán nợ Công ty CP XNK Thuỷ sản Nghệ An, VCB

– Chi nhánh Vinh đã áp dụng các biện pháp xử lý nợ như theo dõi đặc biệt, dừng

cấp tín dụng, cấu trúc lại nợ nhưng những biện pháp này đã không hiệu quả. Để

tìm hướng xử lý dứt điểm khoản nợ này, Chi nhánh đã đánh giá số tiền có thể thu

hồi và thời gian thu hồi của biện pháp bán nợ với các biện pháp khởi kiện và phá

sản doanh nghiệp, cụ thể như sau:

59

Bảng 2.9: “So sánh biện pháp thu nợ với các biện pháp khác”

PA khởi kiện PA yêu cầu giải quyết phá sản doanh Nội dung so sánh nghiệp PA bán nợ

Số tiền thu hồi

Nếu kiện ra toà, NH có thể thu hồi được toàn bộ TSTC của DN, việc phát mại TSTC thu hồi được khoảng 2,2 tỷ 51% giá trị nợ gốc (khoảng 4,7 tỷ đồng)

Nếu yêu cầu giải quyết phá sản doanh nghiệp. NH chỉ nắm giữ được MMTB và tài sản gắn liền đất, nếu phát mại TS của khách hàng là 2,2 tỷ đồng sau khi trừ đi các chi phí thu hồi được khoảng 1,3 tỷ đồng.

1 tháng Thời gian thu hồi nợ kéo dài khoảng 02 năm thu Thời gian đến khi ra được quyết định tuyên bố phá sản dự kiến tối thiểu cũng phải khoảng 02 năm Thời gian hồi

(Nguồn: Phòng công nợ VCB)

Việc so sánh phương án sử dụng biện pháp mua bán nợ với các biện pháp xử

lý nợ khác hoàn toàn phù hợp và nâng cao hiệu quả xử lý nợ của VCB

Bước 2: Lựa chọn phương thức bán nợ

VCB có thể lựa chọn biện pháp bán nợ cho DATC hoặc đăng tin chào bán

công khai, hoặc thỏa thuận bán nợ cho các tổ chức tín dụng khác... tùy thuộc vào

đặc điểm của từng khoản nợ. Việc lựa chọn phương thức mua bán nợ phù hợp sẽ

nâng cao hiệu quả của việc bán nợ. Việc đăng thông tin công khai bán nợ được

V C B đăng thông báo công khai 03 kỳ (số) liên tiếp trên các báo trung ương và

địa phương và đăng tải trên website của VCB. Việc làm này nhằm để đảm bảo tính

khách quan, minh bạch trong quá trình chuyển nhượng khoản nợ và đồng thời cũng

để tìm thêm đối tác mua nợ, nhằm đảm bảo khoản nợ được bán trong điều kiện

cạnh tranh nhất. Theo quy định mua bán nợ hiện hành của VCB thì khi đăng thông

tin phải đưa ra giá chào bán , tuy nhiên việc xác định giá bán nợ cần thời gian dài và

hạn chế đối tác mua nợ.

VCB chưa quy định cụ thể khi nào được đăng công khai thông tin bán nợ.

Trong một số trường hợp mà nếu đăng tin công khai sẽ gây bất lợi cho quá trình

60

đàm phán/quá trình chuyển giao nợ, dẫn đến khó bán nợ hoặc bán với giá thấp hơn

so với việc không đăng công khai, làm thiệt hại đến quyền lợi của VCB nên sử

dụng phương thức khác phù hợp.

Bước 3. Trình đề nghị mua bán nợ

Hồ sơ xem xét, quyết định bán nợ được quy định tương đối và chi tiết đầy đủ

như: Hồ sơ pháp lý về Bên nợ; Hồ sơ tín dụng (Hợp đồng tín dụng/Hợp đồng cấp

bảo lãnh, giấy nhận nợ; Biên bản đối chiếu công nợ gần nhất; Phương án sản xuất

kinh doanh; Hồ sơ về bảo đảm tiền vay (nếu có). Tuy nhiên việc yêu cầu cung cấp

các hồ sơ sao y bản chính gây không ít khó khăn cho chi nhánh vì có một số hồ sơ

chi nhánh không lưu giữ bản gốc trong khi đó việc liên hệ khách nợ để cung cấp bản

chính rất khó khăn và mất nhiều thời gian chuẩn bị hồ sơ.

Bước 4. Thẩm định đề nghị bán nợ

Việc phân bổ cấp phê duyệt bán nợ của VCB tương đối phù hợp, hạn chế được

rủi ro trong việc xác định giá bán nợ và nâng cao hiệu quả bán nợ của hệ thống. Ví

dụ:

+ Trường hợp giá bán nợ bằng hoặc cao hơn giá trị khoản nợ, cấp có thẩm

quyền xem xét, quyết định bán nợ tự tiến hành thẩm định hoặc giao một bộ phận

chuyên môn thực hiện thẩm định Tờ trình đề nghị bán nợ.

+ Trường hợp giá bán nợ thấp hơn giá trị khoản nợ, Phòng Công nợ thực hiện

thẩm định đề nghị bán nợ và lập Tờ trình thẩm định bán nợ để trình Hội đồng.

Bước 5. Xem xét, quyết định bán nợ

Việc thông qua quyết định bán nợ thuộc cấp có thẩm quyền nào thì cấp có

thẩm quyền đó xem xét, quyết định theo các quy định hiện hành của VCB. Phòng

công nợ sẽ làm đầu mối và đề xuất việc kiểm tra hoạt động mua bán nợ tại chi

nhánh và thẩm định bán nợ. Quy định này hoàn toàn phù hợp vì phòng công nợ của

VCB có nhiều kinh nghiệm trong việc đánh giá xác định giá trị khoản nợ, vì vậy có

thể tránh được rủi ro trong việc bán nợ.

Bước 6. Ký kết hợp đồng mua, bán nợ và thực hiện các thủ tục chuyển giao nợ

61

2.3.4.2 Quy trình mua nợ

Trên cơ sở đánh giá tính hiệu quả của việc mua nợ, chi nhánh thu lập hồ sơ

xem xét mua nợ theo quy định theo quy trình theo đúng quy trình cấp tín dụng của

VCB. Quy trình mua nợ của tương tự như quy trình cấp tín dụng tại VCB. Tuy

nhiên có sự khác biệt trong phân cấp phê duyệt hồ sơ như:

Bảng 2.10 “So sánh giữa quy trình mua nợ và cho vay”

Hoạt động mua nợ

soát rủi ro tại Công việc Nguyên tắc quản lý Thẩm định đề xuất Rà P.QLRRTD

Thẩm quyền phê duyệt

Chi nhánh Tất cả các khoản mua nợ đều phải qua P.QLRRTD rà soát rủi ro + Hội đồng quản trị + Hội đồng tín dụng TW + Tổng Giám Đốc/Phó Tổng Giám đốc.

Đại diện ký hợp đồng + TGĐ VCB hoặc người được TGĐ ủy quyền. Cấp tín dụng (cho vay) Quản lý tập trung có phân quyền Quản lý tập trung hoàn toàn Chi nhánh Chỉ trong trường hợp giá trị khoản vay vượt thẩm quyền phán quyết của chi nhánh + Hội đồng quản trị + Hội đồng tín dụng TW + GĐ QLRR và/hoặc GĐ KH + Phòng QLRRTD + Hội đồng tín dụng cơ sở + GĐ/Phó GĐ chi nhánh + Giám đốc KH + GĐ/Phó GĐ chi nhánh + TP. KH/ĐTDA

Quy trình mua nợ của VCB hiện nay được quy định chặt chẽ và phù hợp với

quy định mua bán nợ của NHNN.

2.4 Một số nghiệp vụ mua bán nợ tại Vietcombank

2.4.1 Một số trường hợp bán nợ

- Bán khoản nợ đồng tài trợ

Ví dụ: khoản nợ Công ty CP Địa ốc Sài gòn M&C tại Hội sở chính và VCB –

chi nhánh TP.HCM. Đây là khoản nợ đồng tài trợ giữa VCB và Ngân hàng TMCP

Đông Á, VCB tham gia với tư cách ngân hàng đầu mối với tổng số vốn tài trợ cho

Dự án là 47,98 triệu USD và 22.807 triệu đồng). Giá trị bán bằng giá trị khoản nợ là

32,5 tr.USD, bên mua nợ là NH TMCP Hàng Hải. Trong nghiệp vụ bán khoản nợ

này, VCB nhận thấy thị trường bất động sản có nhiều rủi ro, nên cơ cấu danh mục

đầu tư giảm dư nợ khoản cho vay lĩnh vực BĐS nhằm giảm thiểu rủi ro cho vay.

62

- Bán nợ xử lý nợ xấu

Ví dụ: bán nợ Công ty CP XNK Thuỷ sản Nghệ An tại VCB Chi nhánh Vinh,

đối tượng bán nợ là khoản nợ 14,3 tỷ đồng mà Công ty CP XNK Thuỷ sản Nghệ An

còn dư nợ tại VCB – Chi nhánh Vinh, bao gồm toàn bộ nợ gốc và nợ lãi tính đến

thời điểm bán nợ (30/11/2009). Trong đó: + Nợ gốc: 9,5 tỷ đồng (Bao gồm: Nợ nội

bảng: 4,8 tỷ đồng; Nợ ngoại bảng: 4,7 tỷ đồng) + Nợ lãi: 4,8 tỷ đồng. Giá trị bán nợ

là 4,8 tỷ VND tương đương khoản nợ nội bảng.

Ví dụ: Khoản nợ của CT TNHH SX TM DV XD XNK Đức Phú Thịnh là

khách hàng nợ nhóm 4 của Vietcombank An Giang, giá trị khoản nợ 9.646 Tr.VND

và 5.644 USD, đã được bán cho CT QLN va KKTS NH Phương Nam để thu hồi nợ,

trị giá bán bằng với giá trị khoản nợ.

Ví dụ: khoản nợ CT TNHH Công Nghiệp Dona Quế Bằng, tại thời điểm bán

nợ khách hàng nợ nhóm 5 của Vietcombank HCM, giá trị khoản nợ 23.900 Tr.VND

đã được bán cho Techcombank với giá 22.552 tr.VND

Trong việc bán các khoản nợ xấu trên của VCB, đã góp phần làm giảm tỷ lệ

nợ xấu của hệ thống đáng kể và thu hồi được nguồn vốn cho vay.

- Cơ cấu danh mục đầu tư

Ví dụ: Trong trường hợp bán nợ Công ty CP AP Việt Nam tại VCB – Chi

nhánh Thái Bình có 2 chủ thể tham gia quan hệ mua bán nợ. Đó là VCB với tư cách

là Bên bán nợ và Công ty CP Đầu tư và phát triển Khu Công nghiệp ALP (gọi tắt là

Công ty ALP) với tư cách là Bên mua nợ. Công ty ALP là một công ty cổ phần do

một số cá nhân và công ty cổ phần phát triển thương mại Việt Nam cùng góp vốn

thành lập trong năm 2007 với vốn điều lệ là 38 tỷ đồng. Trụ sở của Công ty tại tầng

2 nhà A54, ngõ 61, đường Trần Duy Hưng, phường Trung Hoà, quận Cầu Giấy –

Hà Nội. Công ty do ông Hồ Nhân Kiệt, quốc tịch Australia làm Tổng Giám đốc.

Công ty ALP đang tiến hành các hoạt động đầu tư tại tỉnh Thái Bình. Tại thời điểm

bán nợ, Công ty ALP đã được UBND tỉnh Thái Bình chấp thuận cho thuê 52.148,8

m2 đất tại khu công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh – xã Phú Xuân – TP.Thái Bình (toàn

bộ diện tích mà Công ty AP VN được thuê trước đây). Như vậy, theo ví dụ này,

63

Công ty ALP là một doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhưng đã có quan hệ mua bán

nợ thành công với VCB.

Ví dụ: khoản nợ của Công ty công trình 86 của chi nhánh VCB Nam Sài Gòn,

giá trị khoản nợ 59.440 Tr.VND, đã được xử lý trích lập dự phòng, tài sản đảm bảo

của khoản nợ trị giá khoảng 30 tỷ VND, năm 2008 VCB đã bán cho DATC với giá

11 tỷ VND.

Ví dụ: khoản nợ của CT CƠ KHÍ ÔTÔ & TB ĐIỆN ĐN của chi nhánh VCB

Đà Nẵng, giá trị khoản nợ 5.025 Tr.VND, đã được xử lý trích lập dự phòng, tháng

04/2011 đã bán cho CT Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DN-Chi nhánh Đà

Nẵng, do khoản nợ vay này không có tài sản đảm bảo nên giá bán rất thấp so với giá

trị khoản nợ (378 tr.VND).

2.4.2 Một số trường hợp mua nợ

Khoản nợ thuộc nhóm 1, hoặc các khoản nợ được đánh giá là có tiềm năng;

được phép mua bán theo quy định của pháp luật, không có tranh chấp;

* Mua nợ lại từ các ngân hàng thành viên tham gia cho vay đồng tài trợMu

Ví dụ: Năm 2002 VCB thực hiện khoản mua nợ của TCT Hàng Hải VIệt Nam

của dự án mua tàu Aishvarya, bên bán là Ngân hàng quân đội. Trị giá mua bằng với

trị giá khoản nợ là 300.000 USD.

Ví dụ: Năm 2003 VCB thực hiện khoản mua nợ của Công ty PVN từ cho vay

Dự án Nhà Máy SX Phân Đạm Phú Mỹ của PVN, bên bán là Techcombank. Trị giá

mua bằng với trị giá khoản nợ là 678.984 USD.

* Mua nợ để tái cấu trúc tài chính cho Bên Nợ

VCB mua nợ để tái cấu trúc tài chính cho Bên Nợ các trường hợp như:

Ví dụ1: mua nợ của Ngân hàng UOB-CN HCM, đây là khoản nợ của Công ty LD

RSC TPHCM, mục đích mua nợ là cơ cấu lại nợ vay cho Công ty LD RSC, đơn vị

quản lý Toà nhà Norfolk Mansion, trị giá khoản nợ gốc là 16 Tr.USD, thực hiện

mua nợ trong năm 2003, trị giá mua nợ bằng với trị giá gốc khoản nợ gốc. Tại thời

điểm thực hiện giao dịch mua nợ, toà nhà căn hộ cho thuê Norfolk Mansion là một

trong 02 toà nhà căn hộ dịch vụ cao cấp tại TP HCM; Trong danh mục tín dụng của

64

VCB tại thời điểm đó chưa có khoản vay thuộc ngành này, việc xem xét mua nợ

nhằm vào các mục tiêu sau đây:

(i) Lãi suất: Đây là khoản mua nợ kèm tái cấu trúc tài chính, có thể thương

lượng mức lãi suất cho vay tốt đối với Bên Mua.

(ii) Tăng trưởng tín dụng: Đây là giai đoạn VCB muốn phát triển nhanh danh

mục tín dụng trung dài hạn.Đa dạng danh mục tín dụng: như đã đề cập trên,

VCB chưa có khách hàng tương tự trong danh mục tín dụng.

(iv) Bán chéo sản phẩm: Tăng danh số thanh toán thẻ tín dụng từ các khách hàng

là cư dân của toà nhà.

(v) Phương thức thực hiện: Đồng mua nợ, VCB làm đầu mối thu xếp mua nợ

(Thực hiện tương tự như cho vay đồng tài trợ). Căn cứ pháp lý theo Quyết định

140/1999/QĐ-NHNN ngày 19/04/1999 quy định về mua bán nợ.

Ví dụ 2: VCB thực hiện mua lại khoản nợ của CN NH Mitsubishi Tokyo –TPHCM,

nên nợ là Công ty Liên doanh nhôm Việt Nhật (VIJALCO), VIJALCO có quy mô

vừa, hoạt động sản xuất nhôm gia dụng, công nghiệp. Trước đó liên doanh này hoạt

động không hiệu quả, khó tiếp cận tín dụng, giá mua nợ bằng trị giá khoản nợ gốc

1,45 Tr.USD.

Tại thời điểm VCB-CN HCM quan tâm đến việc mua nợ, hoạt động của

VIJALCO đã khá lên nhờ cung cấp nhôm cho các nhà sản xuất chế biến gỗ xuất

khẩu để làm các sản phẩm gỗ - nhôm kết hợp.

+ Lý do mua nợ: để cho vay và nhận toàn bộ tài sản của doanh nghiệp làm tài sản

đảm bảo cho các khoản vay tại VCB HCM.

+ Mục đích là cơ cấu tài chính: khoản nợ được mua là khoản nợ vay ngắn hạn, tại

thời điểm đó DN có VLĐ ròng âm, không cơ cấu lại thời hạn sẽ làm cho DN luôn

phải đối mặt với mất khả năng thanh toán => Quyết định cơ cấu thành khoản vay

trung hạn, thương thảo lại lịch trả nợ.

Phương thức thực hiện: Mua 100% khoản vay. Thương lượng trực tiếp với bên

bán giá mua và Hợp đồng mua bán nợ; Thương lượng với bên nợ lịch trả nợ và lãi

suất.

65

Ví dụ 3: năm 2009 VCB đã thực hiện mua lại khoản nợ của Cty Bất Động Sản

Kim Sơn. Đây là khoản nợ vay đầu tư dự án khu thương mại, dịch vụ căn hộ cao

cấp Gateway giai đoạn 1, giá trị mua bằng với trị giá khoản nợ gốc là 112 tỷ VND.

Lý do mua nợ là VCB nhận thấy đây là dự án đầu tư có hiệu quả

* Mua nợ nhằm mở rộng danh mục đầu tư

Ví dụ: Mua khoản nợ tài trợ dự án Nhà máyng Nagarjuna

Trong năm 2004-2007, VCB đã thực hiện mua lại khoản nợ vay của các Bên

khác nhu đối với dự án nhà máy đường Nagarjuna, đây là dự án đầu tư của NIVL.

VCB quyết định mua nợ lại dự án này vì đây là dự án khả thi và để mở rộng danh

mục cho vay đầu tư ngành mía đường của VCB. Giá mua bằng với trị giá khoản nợ

gốc là 5.641.417 USD.

+Lý do mua nợ: VCB-CN HCM quyết định mua nợ do NIVL là DN đầu tư nước

ngoài của Ấn Độ, một trong những doanh nghiệp sản xuất đường thành công tính

đến thời điểm hiện nay và liên quan đến Chương trình 1 triệu tấn đường, nhà máy

đường đầu tư thất bại, có tâm lý e ngại ngành đường. Vào thời điểm xem xét mua

nợ, trên cơ sở đánh giá tổng quan ngành đường, đánh giá thực tế hoạt động của

doanh nghiệp xét thấy có thể tài trợ tín dụng vào NIVL và quyết định mua nợ. VCB

đã thực hiện thương lượng từng thành viên đồng tài trợ, ký hợp đồng mua nợ riêng

biệt từng thành viên.

VCB mua nợ thuần tuý nhằm mục đích mở rộng danh mục đầu tư. Đây là các

khoản vay đồng tài trợ do Indovina Bank làm đầu mối, VCB mua nợ của các bên

đồng tài trợ nước ngoài và trở thành một bên đồng tài trợ.

2.5 Đánh giá thực trạng mua, bán nợ tại Vietcombank

Hiệu quả mua bán nợ tại VCB trong thời gian qua chưa cao, chiếm tỷ trọng

thấp nguyên nhân là do thời gian thực hiện việc mua bán nợ thường kéo dài, khó

khăn trong việc định giá bán khoản nợ, bên mua nợ ép giá khoản nợ, nhiều khoản

nợ chỉ bán được 5-10% giá trị khoản nợ. Bên cạnh đó nghiệp vụ của các cán bộ

VCB trong việc thực hiện mua bán nợ còn hạn chế, nên giải pháp mua bán nợ để thu

hồi nợ xấu thường được chọn sau khi áp dụng các biện pháp khác không hiệu quả

66

2.5.1 Ưu điểm:

Vai trò của hoạt động mua bán nợ trong hệ thống VCB ngày càng phát huy

mạnh. Việc bán nợ hiện nay đang được xem là một biện pháp hữu hiệu để xử lý các

khoản nợ xấu, nợ tồn đọng của VCB. Ưu điểm của mua bán nợ trong hệ thống VCB

trong thời gian qua thể hiện rõ nét qua các chỉ tiêu: cải thiện khả năng thanh toán

của VCB; Cơ cấu lại danh mục và quy mô khoản vay nhằm đáp ứng yêu cầu về

quản trị rủi ro; gia tăng thu nhập cho ngân hàng từ việc bán các khoản nợ xấu đã

trích lập dự phòng; Xử lý những khoản nợ có vấn đề mà khách hàng đã bị bế tắc về

nguồn trả nợ từ lâu nay. Nhanh chóng xử lý dứt điểm được các khoản nợ có vấn đề

mà VCB chỉ còn khả năng thu hồi được một phần nhằm thu hồi lại một phần vốn đã

cho vay để VCB tiếp tục quay vòng kinh doanh sinh lời, đặc biệt là các khoản nợ đã

được VCB sử dụng dự phòng xử lý rủi ro tín dụng

Hiện nay VCB đã xây dựng quy chế mua bán nợ trong hệ thống VCB. Ban

hành tạm thời về quy trình thủ tục mua bán nợ của VCB theo Quyết định số

418/QĐ-NHNT.CN ngày 05/11/2009 của Tổng Giám đốc VCB, bên cạnh đó VCB

đã thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản VCB để xử lý các khoản nợ.

Đây cũng chính là nền tảng khởi đầu cho định hướng phát triển nghiệp vụ mua bán

nợ của hệ thống VCB trong thời gian tới.

2.5.2 Những mặt còn hạn chế:

 Quy định mua, bán nợ hiện hành của VCB còn chưa hoàn thiện: Mặc dù

quy định mua, bán nợ hiện hành của VCB đã cụ thể các quy định pháp luật vào

điều kiện của VCB, đưa ra quy định bán nợ hợp lý để các bộ phận chức năng

thực hiện. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, quy định này cũng còn một

số bất cập cần phải hoàn thiện thêm như làm rõ thêm quyền chủ động đề xuất

bán nợ của các chi nhánh, xác định rõ mục đích của việc thông báo bán nợ, bổ

sung căn cứ của việc xác định giá bán nợ, cơ chế hoạt động của Hội đồng Bán

nợ, cơ chế kiểm tra giám sát hoạt động bán nợ..

 Các nhân viên VCB hiểu rõ nghiệp vụ mua bán nợ: khả năng nắm bắt và vận

dụng các quy định mua bán nợ của một bộ phận cán bộ còn hạn chế nên trong

67

thực tiễn hoạt động bán nợ, nhiều cán bộ còn lúng túng khi thực hiện nghiệp vụ

này vì vậy đã lựa chọn biện pháp xử lý nợ khác thay vì bán nợ dù nếu áp dụng

bán nợ sẽ hiệu quả hơn.

 Chưa xây dựng được đội ngũ chuyên nghiệp thực hiện mua bán nợ : hiện tại

phòng công nợ VCB thực hiện mua bán nợ của VCB, ngoài công việc chuyên

môn của phòng công nợ các CB này kiêm thêm chức năng thực hiện mua bán

nợ. Tuy nhiên các cán bộ này chưa được đào tạo bài bản, chưa có nhiều kinh

nghiệm thực tế nên việc xử lý mua bán nợ còn nhiều khó khăn.

 Chưa xây dựng được cơ sở định giá mua bán nợ: việc xác định giá mua bán

nợ hiện nay của VCB chủ yếu căn cứ vào giá trị tài sản đảm có thể thu hồi và

dòng tiền có thể thu hồi của khách nợ. Tuy nhiên việc định giá này chưa được

xây dựng các chỉ tiêu định giá khoản nợ một cách cụ thể, chủ yếu vẫn là dựa

vào các quy trình thẩm định cấp tín dụng và thẩm định tài sản hiện hành của

VCB để xác định giá mua bán nợ.

2.5.3. Nguyên nhân

 Do hoạt động mua bán nợ tại Việt nam còn tương đối khá mới mẻ, quy trình

mua bán nợ hiện hành của VCB được xây dựng dựa trên quy chế mua bán nợ

hiện hành của NHNN (Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 ) và

được ban hành áp dụng tạm thời, vừa làm vừa hoàn thiện quy trình nên trong

quá trình thực hiện không tránh khỏi nhiều vướng mắc phát sinh.

 VCB Chưa chú trọng đến đào tạo phát triển nhiệp vụ mua án nợ. Từ trước đến

nay VCB chỉ thực hiện tập huấn nghiệp vụ mua bán nợ duy nhất vào năm 2010

đối với một số đối tượng, đến nay nhiều cán bộ trong hệ thống VCB còn chưa

hiểu rõ về nghiệp vụ này.

 VCB chưa thành lập bộ phận chuyên trách mua bán nợ, chưa đào tạo được cán

bộ MBN chuyên nghiệp nên hoạt động MBN của VCB còn rất nhiều hạn chế.

 Do chưa có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động mua bán nợ nên chưa xây dựng

được cách định giá các khoản nợ một cách hợp lý. Bên cạnh đó, việc thông tin

không cân xứng hoặc thông tin đánh giá về thị trường, về khách hàng ....không

68

chính xác rất dễ dẫn đến sai lệch trong việc định giá khoản nợ. Việc định giá

mua quá cao hoặc bán quá thấp sẽ làm giảm thu nhập ngân hàng. Ngoài ra, việc

định giá các khoản nợ còn gặp nhiều khó khăn do các chủ thể chỉ quan tâm đến

tài sản đảm bảo chứ chưa quan tâm nhiều đến khoản nợ. Vì vậy các khoản nợ

không có tài sản đảm bảo rất khó bán.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong chương 2, tác giả đã tập trung phân tích thực trạng mua bán nợ tại thị

trường Việt nam nói chung và Vietcombank nói riêng. Qua đó đưa ra những kết qủa

đạt được, những tồn tại vướng mắc khó khăn trong quá trình thực hiện. Và để giải

quyết triệt để những tồn tại trên, đòi hỏi chúng ta phải có hệ thống giải pháp cụ thể

nhằm nâng cao hiệu quả mua bán nợ tại vietcombank. Chi tiết hệ thống giải pháp

này sẽ được đề cập cụ thể hơn tại chương 3 của luận văn.

69

CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ MUA BÁN NỢ TẠI

VIETCOMBANK

3.1. Định hướng hoạt động mua bán nợ tại Vietcombank

Nhằm đạt được mục tiêu phát triển chung của toàn hệ thống VCB, bộ phận

mua bán nợ cũng đã đề ra định hướng phát triển về hoạt động mua bán nợ tại VCB

như sau:

Mỗi năm VCB sẽ tổ chức huấn luyện nghiệp vụ mua bán nợ cho các CB-CNV

trong hệ thống ít nhất một lần, để nâng cao nghiệp vụ cho các CBCNV và khuyến

khích các chi nhánh mạnh dạn thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ trong xử lý nợ xấu

và cơ cấu các danh mục khoản vay.

Phòng công nợ đang nghiên cứu đề ra các giải pháp phát triển nghiệp vụ bán

nợ tại VCB. Bên cạnh đó ban lãnh đạo VCB cũng đưa ra các phương án sửa đổi quy

trình mua bán nợ cho phù hợp với tình hình thực tế

Tiếp tục đẩy mạnh vai trò của việc bán nợ trong xử lý nợ xấu, mục tiêu tỷ lệ

xử lý nợ bằng biện pháp bán nợ phải chiếm ít nhất 20% trong các biện pháp thu hồi

nợ của VCB.

Mục tiêu định hướng của VCB là bán các khoản nợ từ nhóm 3 trở đi và các

khoản nợ đã trích lập dự phòng cho DATC hoặc chào bán công khai. Khuyến khích

mua các khoản nợ nhằm cơ cấu các danh mục đầu tư ưu tiên các DN hoạt động

trong các ngành khai thác, khai khoáng, xăng dầu..

3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả mua bán nợ tại Vietcombank

3.2.1 Nhóm giải pháp thuộc về bộ ngành có liên quan

3.2.1.1 Về luật pháp

Hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động mua bán nợ

Cùng với hội nhập quốc tế, các thể chế của nền kinh tế nói chung, thị trường

tài chính nói riêng sẽ phát triển ngày càng đa dạng. Do đó, cần phải có hệ thống

pháp lý chuẩn mực để điều chỉnh hoạt động của các thể chế mới như các công ty

chuyên kinh doanh, hoạt động trong lĩnh vực mua bán nợ.

70

Trước tiên, phải rà soát và xây dựng các văn bản qui phạm pháp luật điều

chỉnh mối quan hệ mua bán nợ giữa các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ.

Các quan hệ nào thiếu phải được bổ sung, quan hệ nào mâu thuẫn, chồng chéo thì

chỉnh sửa cho thống nhất.

Nhà nước cần tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ, cụ thể, chi tiết nhằm dễ

triển khai, dễ thực hiện việc mua bán nợ. Quy định cách thức thực hiện trong xử lý

hồ sơ mua bán nợ, trong định giá mua bán nợ, đảm bảo doanh nghiệp mua nợ và

doanh nghiệp bán nợ cùng có chung cái nhìn về tình trạng khoản nợ, giá trị khoản

nợ để nhanh chóng thống nhất trong đàm phán mua bán nợ.

Nhà nước cần ban hành một văn bản pháp lý đủ mạnh làm cơ sở thiết lập thị

trường và áp dụng các hình thức xử lý tiến bộ theo kinh nghiệm quốc tế đã được

triển khai thành công, để hỗ trợ hoạt động của các tổ chức xử lý nợ cũng như thu hút

sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân và thậm chí cả các nhà đầu tư nước ngoài.

Trong điều kiện thị trường mua bán nợ như hiện nay thì việc ban hành một

nghị định về mua bán nợ là phù hợp. Ngoài việc cụ thể hoá và pháp điển hoá các

quy định tại Quyết định 59 hiện hành, Nghị định mới cần bổ sung thêm các quy

định về việc định giá nợ, sử dụng hoá đơn trong hoạt động mua bán nợ, hạch toán

kế toán và đặc biệt là bổ sung quy định về các quyền lợi của chủ thể sau khi mua

nợ...

Chính phủ cũng nên xem xét điều chỉnh luật phá sản kịp thời, phù hợp với tình

hình hiện nay.

3.2.1.2 Về chính sách

Ban hành các văn bản hướng dẫn về hoạt động mua bán nợ nên tập trung điều

chỉnh trên 2 phương diện:

Một là, các thủ tục nguyên tắc áp dụng, phương pháp định giá, quyền và nghĩa

 Quy định rõ các thủ tục cần thiết đối với bên mua và bên bán nợ

 Quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia mua bán nợ

vụ của các bên tham gia..

71

 Quy định rõ về cơ chế tài chính cho hoạt động mua bán nợ như phương thức

thanh toán, hạch toán và hướng dẫn tính thuế đối với hoạt động mua bán nợ.

Hai là, các tình huống xử lý tài chính, lao động và các vấn đề phát sinh sau

khi thực hiện mua nợ DN như cách thức xử lý tài chính, sắp xếp lao động ….

3.2.1.3 Về tổ chức thực hiện

*Phát triển thị trường mua bán nợ

Như đã nêu trên, hiện thị trường mua bán nợ có rất ít doanh nghiệp, cá nhân

kinh doanh về lĩnh vực này, dù nhu cầu mua bán nợ là rất lớn. Điều này dẫn đến khó

xác định được giá cả thị trường và việc chuyển nhượng khoản nợ gặp nhiều khó

khăn. Chính vì vậy, song song với việc hoàn thiện cơ chế, chính sách về mua bán

nợ, Nhà nước cần có cơ chế thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán nợ theo

hướng ngày càng có nhiều chủ thể tham gia. Chủ thể này có thể là các đơn vị

chuyên kinh doanh hoạt động mua, bán nợ, các công ty trực thuộc tổ chức tín dụng,

các tổ chức cá nhân trong nước và nước ngoài. Khi càng nhiều người mua bán thì sẽ

càng có nhiều khoản nợ được giao dịch, dễ mua, dễ bán. Nếu làm được như vậy,

Việt Nam sẽ từng bước hoàn thiện thị trường mua bán nợ sơ cấp (giữa tổ chức tín

dụng sở hữu khoản nợ và bên mua nợ) và xây dựng được thị trường mua bán nợ thứ

cấp (giữa các tổ chức, cá nhân sở hữu khoản nợ với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu

mua nợ). Ngoài ra cũng cần có các cơ chế để thúc đẩy việc thành lập các sàn giao

dịch để thuận tiện cho việc chuyển giao nợ trên thị trường thứ cấp.

*Thành lập Công ty mua bán nợ quốc gia

Hiện nay ở Việt Nam chỉ có DATC là công ty chuyên mua bán nợ thuộc Bộ

Tài chính, hoạt động độc quyền nên có thể ép giá mua nợ với bên bán. Bên cạnh đó

nguồn lực cũng có hạn, với nguồn vốn điều lệ chỉ khoảng 2400 tỷ VND, DATC

không thể giải quyết mua tất cả các khoản nợ xấu đang có nhu cầu giao dịch. Vì vậy

thị trường mua bán nợ của Việt Nam vẫn chưa thể phát triển được.

Chính phủ nên thành lập một Công ty mua lại nợ xấu của các DN, nhất là các

DN có công nghệ tiên tiến, hoạt động sản xuất kinh doanh quy mô lớn, sử dụng

nhiều nhân công lao động, gặp khó khăn tài chính tạm thời… Qua đó giúp DN tiếp

72

cận được nguồn vốn, trở lại hoạt động, tạo công ăn việc làm cho người lao động và

phục hồi sản xuất. Vì vậy việc thành lập một công ty mua nợ xấu của DN là điều tất

yếu trước nhu cầu của thị trường.

-Biện pháp: chính phủ Việt Nam nên thành lập công ty mua bán nợ quốc gia (tạm

gọi tắt là VNAMC) đủ tầm để thu mua nợ xấu của các TCTD, sau đó xử lý và bán

lại các khoản nợ đã mua này.

-Cơ chế hoạt động: cho phép VNAMC có thể phát hành trái phiếu có thời hạn 10

năm với sự bảo lãnh của chính phủ. Việc xử lý nợ xấu sẽ dựa trên nguyên tắc chia

sẻ lời lỗ giữa VNAMC và các TCTD bán nợ.

- Giải pháp xử lý:

 Đối với các khoản vay thuộc ngành bất động sản: VNAMC nên phối hợp chặt

chẽ với cơ quan Bộ Xây dựng, Hiệp Hội Bất Động Sản...để chọn lọc các dự án

còn nhiều tiềm năng để hỗ trợ phát triển và quản lý bán dự án, giảm lượng hàng

tồn kho BĐS là ngành chiếm khoản nợ xấu lớn nhất hiện nay.

 Đối với các khoản nợ trong khu vực sản xuất: VNAMC nên tập trung giải

quyết vấn đề nợ xấu các nhóm mục tiêu của Chính phủ, trong đó đặt trọng tâm

vào các ngành thiết yếu phát triển kinh tế, mang lại những cơ hội việc làm và

giá trị kinh tế cao.

 Đối với các doanh nghiệp vay nợ đang giao dịch trên sàn chứng khoán,

VNTAMC nên phối hợp với UBCK quốc gia để phát triển các kế hoạch tái cơ

cấu và khôi phục lại giá trị cổ phiếu một số doanh nghiệp dẫn đầu ngành.

-Các hình thức mua bán nợ: Việt nam có thể áp dụng các hình thức mua nợ của

Malaysia như sau:

+ Chuyển giao nợ theo quyết định của Chính phủ: đối với các trường hợp sáp nhập

các ngân hàng, VNAMC nhận bàn giao nợ và trả tiền cho các Ngân hàng theo giá sổ

sách của khoản nợ.

+ Mua bán nợ theo thỏa thuận: VNAMC sẽ thỏa thuận mua lại các khoản nợ tồn

đọng của các Ngân hàng theo giá thỏa thuận, có thể mua một phần khoản nợ hoặc

mua toàn bộ khoản nợ.

73

-Giá mua các khoản nợ: VNAMC có thể tự định giá hoặc thuê Công ty chuyên về

thẩm định giá khoản nợ để xác định giá trị thực tế của khoản nợ. Việc định giá trị

khoản nợ xấu hiện nay của Việt Nam là rất khó, vì vậy cần phải có tổ chức chuyên

định giá khoản nợ xấu của các TCTD và cơ chế riêng cho hoạt động của tổ chức

này. Việc định giá trị giá mua lại khoản nợ tại Việt Nam có thể áp dụng như sau:

+ Đối với nợ có tài sản đảm bảo: nên áp dụng mua theo giá trị định giá của

tài sản đảm bảo.

+ Đối với khoản nợ không có tài sản đảm bảo, giá mua theo trị giá định giá

trị khoản nợ có thể thu hồi.

*Tăng cường năng lực cho DATC

Để xử lý nợ xấu đạt hiệu quả, góp phần phát triển thị trường mua bán nợ và

DATC phát huy hết vai trò của mình trong thị trường mua bán nợ tại Việt Nam thì

cần có hành lang pháp lý đầy đủ. Trước mắt, cần ban hành thông tư hướng dẫn riêng

cho DATC trong tái cơ cấu đối với các DN có giá trị thực tế thấp hơn các khoản

phải trả khi thực hiện CPH. Mặt khác cần có quy định cụ thể về xử lý các khoản nợ

xấu của NHTM và tổ chức tín dụng theo hướng tập trung bán nợ, khống chế thời

hạn xử lý nợ, nếu quá thời hạn thì phải bán theo giá của tổ chức thẩm định trung

gian. Trong trường hợp nguồn vốn của DATC không đủ để thực hiện mua nợ gắn

với tái cấu trúc DN thì đề nghị Nhà nước hỗ trợ vốn (có hoàn trả) cho DATC, hoặc

phát hành trái phiếu DATC (được định kỳ định giá lại) để thực hiện xử lý nợ.

Bên cạnh đó, muốn xử lý nợ xấu DNNN thành công, cần khuyến khích các

hoạt động mua bán nợ giữa các DNNN, NHTM và DATC; tăng quy mô, nâng cao

năng lực về tài chính, quản trị, trách nhiệm và vai trò của DATC. Theo đó, cần ban

hành các cơ chế liên quan đến hoạt động của DATC theo hướng tạo quyền chủ động

cho DATC trong xử lý nợ cho phù hợp với thông lệ quốc tế; Xây dựng cơ chế, yêu

cầu các ngân hàng thương mại bán các khoản nợ xấu cho DATC hoặc bàn giao

nguyên trạng các DNNN bao gồm các Tổng công ty Dâu tằm tơ, các doanh nghiệp

thuộc Vinashin...

74

Ngoài ra, cần bổ sung cụ thể cơ chế xử lý cho DATC và cơ chế cho các

DNNN thuộc diện cơ cấu nợ thông qua mua bán nợ, ví dụ: Quy định cụ thể về việc

được chuyển nợ thành vốn góp của DATC và của các tổng công ty đối với DN

thành viên chuyển đổi. Trường hợp sau khi xử lý tài chính, đánh giá lại vẫn còn âm

vốn chủ sở hữu, nhưng thị trường chấp nhận, cổ đông chấp thuận mua cổ phần, đề

nghị Bộ chủ quản vẫn phê duyệt giá trị DN và phê duyệt phương án xử lý tài chính

để làm căn cứ chuyển DNNN thành CTCP. Mặt khác, nên bổ sung quyền hạn cho

DATC để Công ty chủ động hơn trong việc quyết định các phương án mua bán nợ

và xử lý nợ. Ví dụ, quy định hiện nay, sau khi mua nợ, DATC được giảm trừ trách

nhiệm trả nợ cho DNNN bằng số âm vốn chủ sở hữu là hơi cứng nhắc. Nên Quy

định giao cho đơn vị mua bán nợ chủ động quyết định (dựa trên nguồn lực thực tế)

sau khi cơ cấu nợ, vốn nhà nước tại DNNN vẫn còn, thì việc CPH sẽ hiệu quả hơn.

3.2.2 Nhóm giải pháp thuộc về ngân hàng nhà nước.

3.2.2.1 Ban hành quy chế mua bán nợ phù hợp

NHNN cần minh bạch và đơn giản hóa việc bán các khoản vay, quy định rõ

cơ chế thủ tục mua bán các khoản vay nợ đối với các nhà đầu tư trong nước và đối

với các nhà đầu tư nước ngoài.

Chỉnh sửa quy định mua bán nợ, cụ thể theo quy định giá mua bán nợ tại tại

điều 7, nên bổ sung thêm quy định giá mua có thể do hai bên tự thỏa thuận

Hiện nay NHNN vừa công bố dự thảo thông tư mua bán nợ thay thế Quyết

định 59/2006/QĐ-NHNN ban hành Quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng.

Đây được coi là một động thái cần thiết mở đường cho chủ trương tái cơ cấu nền

kinh tế cũng như tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng và DN, đặc biệt là các DNNN.

Đồng thời góp phần giải quyết những vướng mắc tồn tại mà chính ngành ngân hàng

đang gặp phải.

Dự thảo Thông tư không quy định bên mua là cá nhân, vì thực tế hầu như

không phát sinh hoạt động mua, bán nợ giữa tổ chức tín dụng với cá nhân, đồng thời

để góp phần đảm bảo khả năng, trách nhiệm quản lý khoản vay khi bên mua thực

hiện mua khoản nợ. Để đảm bảo tăng trách nhiệm của các bên tham gia mua, bán

75

khoản nợ, dự thảo bổ sung nguyên tắc “Các bên liên quan đến giao dịch mua, bán

nợ phải đảm bảo nhận thức đầy đủ các rủi ro khi tham gia giao dịch mua, bán nợ và

tự chịu trách nhiệm trong các quyết định liên quan đến giao dịch mua, bán nợ”;

Dự thảo Thông tư quy định bên mua nợ khi mua khoản nợ sẽ trở thành người

cho vay đối với bên nợ để đảm bảo bên mua nợ sẽ phải tuân thủ các quy định pháp

luật về cấp tín dụng... Hy vọng rằng với dự thảo Thông tư mới của Ngân hàng nhà

nước sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động mua bán nợ phát triển, góp phần lành mạnh

hóa tài chính cho các DN cũng như tổ chức tín dụng, đồng thời thúc đẩy quá trình

tái cấu trúc lại hệ thống DN cũng như nền kinh tế.

3.2.2.2 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nghiệp vụ mua bán nợ trong hệ thống

Ngân Hàng

Phát triển văn hóa mua bán nợ, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, ngân hàng

nên thực hiện các giao dịch mua bán nợ để xử lý nợ xấu hoặc mua các khoản nợ để

trở thành các nhà đầu tư chiến lược.

Các cơ quan quản lý cần tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu, nâng cao

nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác mua bán nợ; tổ chức lớp tập huấn, các hội

thảo có sự tham gia của các cá nhân và tổ chức nước ngoài để tận dụng sự hiểu biết

và kinh nghiệm của quốc tế từ đó áp dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam.

3.2.2.3 Tăng cường biện pháp mua bán nợ để xử lý nợ xấu

+ Thứ nhất, yêu cấu tất cả các NHTM có nợ xấu bắt buộc phải thành lập công ty

quản lý nợ (AMC) để tách hoạt động xử lý nợ xấu khỏi hoạt động kinh doanh của

NHTM. Các NHTM sẽ nhóm toàn bộ các khoản nợ xấu này lại và bán cho các

AMC trực thuộc NHTM.

+ Thứ hai, Chính phủ nên giao nhiệm vụ rõ ràng cho NHNN trong việc ban hành

quy chế về hoạt động của VNAMC, các AMC của Ngân hàng cũng như hoạt động

chứng khoán hóa. Đồng thời xác định rõ trách nhiệm của NHNN trong việc giám sát

hoạt động trên, tránh tối đa các NHTM sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa trên để

làm gia tăng rủi ro hệ thống.

76

+ Thứ ba, khuyến khích các NHTM tích cực thực hiện mua, bán nợ để xử lý các nợ

xấu trong hệ thống ngân hàng.

3.2.3 Nhóm giải pháp trong hệ thống Vietcombank

3.2.3.1 Giải pháp về quy trình thủ tục

*Ban hành văn bản thay thế Quy định tạm thời về mua, bán nợ

Qua xem xét và tổng kết thực tiễn thực hiện Quy định tạm thời về mua, bán nợ

của VCB (ban hành theo Quyết định số 418/QĐ-NHNT.CN ngày 05/11/2009 của

Tổng Giám đốc VCB), đề xuất một số sửa đổi về hoạt động mua bán nợ như sau:

*Tăng quyền chủ động đề xuất bán nợ của Chi nhánh

Mặc dù quy định hiện hành đã trao quyền chủ động đề xuất bán nợ cho Chi

nhánh nhưng nội dung chưa thực sự rõ ràng, dẫn đến nhiều Chi nhánh trong quá

trình triển khai thực hiện không rõ thẩm quyền của mình được thực hiện đến đâu, có

quyền chủ động đàm phán bán nợ với các đối tác có nhu cầu mua nợ hay không. Vì

vậy, quy định mới cần xác định rõ các công việc Chi nhánh được chủ động thực

hiện. Theo đó, Chi nhánh được quyền chủ động lựa chọn biện pháp bán nợ hoặc

biện pháp xử lý nợ khác trên cơ sở đánh giá tính hiệu quả của việc thu hồi nợ. Chi

nhánh cũng được quyền chủ động đàm phán sơ bộ với đối tác quan tâm nhưng phải

thông báo rõ ràng cho đối tác biết cấp có thẩm quyền quyết định bán nợ.

*Kiến nghị bỏ thẩm quyền của TGĐ về phê duyệt việc cơ cấu lại nguồn vốn

Thực tế bán nợ thời gian qua cho thấy việc bán nợ được xem xét trên cơ sở

đánh giá tính hiệu quả của biện pháp bán nợ với các biện pháp thu hồi nợ khác. Trên

cơ sở đề xuất của bộ phận chức năng, cấp có thẩm quyền sẽ xem xét, ra quyết định

cụ thể đối với việc bán hay không bán một khoản nợ nhất định, như vậy vấn đề cơ

cấu lại nguồn vốn, danh mục cấp tín dụng không đặt ra. Vì vậy, đề nghị bỏ quy định

này để phù hợp với thực tiễn bán nợ tại VCB. Bỏ thẩm quyền của Tổng Giám đốc

về phê duyệt việc cơ cấu lại nguồn vốn, danh mục cấp tín dụng của

Vietcombank/Chi nhánh.

77

*Xây dựng cơ sở định giá khoản nợ

Việc xác định giá bán nợ (giá khởi điểm) là vấn đề quan trọng nhất để quyết

định có xử lý khoản nợ theo phương thức bán nợ hay không. Bởi vì VCB sẽ chỉ

thực hiện bán nợ khi đối tác trả giá tối thiểu bằng giá bán nợ được xác định. Việc

xác định giá bán nợ không chính xác sẽ không thể bán được nợ (khi định giá quá

cao) hoặc gây thiệt hại cho ngân hàng (do định giá quá thấp). Hiện Quyết định 418

dựa trên hai căn cứ sau đây để xác định giá bán nợ:

Thứ nhất, đó chính là việc xem xét chính bản thân khoản nợ và TSBĐ cho

khoản nợ. Khoản nợ thuộc nhóm mấy? trong hạn hay quá hạn? đã sử dụng DPRR

hay chưa? Nguồn gốc phát sinh khoản nợ là gì? Đó là cho vay phát triển bất động

sản hay cho vay thương mại? Đối với cho vay phát triển bất động sản thì phải đặc

biệt quan tâm đến vấn đề tài sản bảo đảm. Trong trường hợp này khả năng thanh

toán nợ phụ thuộc nhiều vào giá trị tài sản bảo đảm. Đối với khoản vay thương mại

thì ngoài giá trị tài sản bảo đảm, cần đặc biệt quan tâm đến dòng tiền và dự báo

dòng tiền của Bên nợ. Đối với khoản vay có bảo đảm thì phải đánh giá giá trị thu

hồi từ TSBĐ, khả năng chuyển nhượng TSBĐ, khả năng thực hiện nghĩa vụ trả thay

của bên bảo lãnh… Tiếp theo đó là việc đánh giá tính chặt chẽ, hợp pháp của hồ sơ

khoản nợ, hồ sơ bảo đảm của khoản nợ. Nếu hồ sơ đầy đủ chặt chẽ về mặt pháp lý,

để bảo vệ quyền lợi của VCB nếu có tranh chấp thì đương nhiên cũng sẽ ảnh hưởng

đến giá bán nợ theo hướng tích cực.

Thứ hai, đó là việc đánh giá thẩm định về Bên nợ, bao gồm:

- Đánh giá về mô hình tổ chức và hoạt động quản điều hành: mô hình tổ chức

tập trung hay phân quyền? có phù hợp với quy mô hoạt động của Công ty hay

không? Kinh nghiệm, năng lực quản lý điều hành của lãnh đạo Công ty thế nào? chủ

sở hữu của doanh nghiệp thực sự là ai? thiện chí hợp tác trong việc trả nợ…

- Đánh giá về hoạt động sản xuất kinh doanh (đang hoạt động bình thường,

hoạt động cầm chừng hay đã ngừng hoạt động?) sản phẩm làm ra có đảm bảo tính

cạnh tranh và dễ tiêu thụ không? các kênh phân phối và tiếp thị sản phẩm, thương

hiệu, thị phần, tình hình vay nợ của doanh nghiệp (ngoài VCB) v.v...

78

- Đánh giá tình hình tài chính thông qua việc phân tích các chỉ tiêu tài chính

trong bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu

chuyển tiền tệ......

- Đánh giá giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của Bên nợ kết hợp với kiểm

tra thực tế tình trạng tài sản, xác định xem tài sản đã được đem bảo đảm cho khoản

nợ nào khác của Bên nợ hay chưa.

- Đánh giá dòng tiền tương lai có thể thu hồi được từ phương án SXKD của

khách nợ , xác định mức lãi suất chiết khấu phù hợp để quy về hiện giá của khoản

nợ. Kết hợp với các yếu tố về giá trị tài sản thu hồi để định giá khoản nợ thích hợp...

Ngoài hai căn cứ nêu trên, để việc định giá nợ phù hợp với cơ chế thị trường,

tuân theo quy luật cung cầu, cần phải bổ sung thêm một căn cứ đó là việc đánh giá

về nhu cầu và khả năng tài chính của Bên mua nợ. Xét cho cùng thì việc bán nợ là

việc đàm phán thoả thuận để đi đến thống nhất một mức giá MBN, nên việc tìm

hiểu về đối tác là rất cần thiết. Cụ thể, cần phải tìm hiểu về nhu cầu của Bên mua

nợ, tình trạng hiện tại của Bên mua nợ… từ đó mà xác định giá bán nợ và lộ trình

thanh toán tiền mua nợ phù hợp.

*Bãi bỏ quy định về giá bán nợ khi đăng thông tin công khai bán nợ

Quy định mua bán nợ hiện hành yêu cầu việc đăng báo công khai phải bao

gồm giá bán nợ. Tuy nhiên, trong giai đoạn tìm kiếm khách hàng và chưa được cấp

có thẩm quyền phê duyệt thì lại chưa thể có giá bán nợ chính thức. Điều này gây

lúng túng cho các chi nhánh khi thực hiện việc đăng tải thông tin công khai. Vì vậy,

đề nghị sửa lại quy định này theo hướng xác định rõ việc đăng báo nhằm mục đích

công khai hoá và tìm đối tác mua nợ; nên bỏ quy định về giá bán nợ dự kiến và

phương thức thanh toán khi đăng báo công khai tại quy định hiện hành.

*Sửa lại yêu cầu về việc cung cấp hồ sơ xem xét bán nợ

Theo Quy định MBN hiện hành thì tất cả các giấy tờ trong hồ sơ xem xét bán

nợ phải được xác nhận sao y bản chính. Tuy nhiên, thực tế có một số giấy tờ trong

hồ sơ chi nhánh chỉ giữ bản sao nên không thể xác nhận sao y bản chính được. Vì

vậy, để phù hợp với thực tế, quy định mới cần sửa lại theo hướng sau:

79

- Đối với các trường hợp Chi nhánh có bản gốc thì thực hiện sao y bản chính;

- Đối với trường hợp Chi nhánh chỉ có bản sao thì thực hiện đóng dấu treo.

*Bổ sung thành viên Hội đồng Mua Bán nợ

Để tăng cường việc kiểm tra, giám sát hoạt động bán nợ, nhóm nghiên cứu đề

nghị bổ sung thêm thành viên Hội đồng Mua Bán nợ là “Trưởng phòng Kiểm tra

giám sát tuân thủ”. Vì phòng công nợ có chức năng kiểm soát các hoạt động MBN

của VCB.

*Quy định cụ thể vai trò của TGĐ và HĐQT

Quy định mua bán nợ hiện hành của VCB chưa tách bạch giữa vai trò của

HĐQT và Tổng Giám Đốc trong quy trình mua bán nợ, đề nghị chỉnh sửa lại quy

định vai trò của cụ thể của Tổng Giám đốc và HĐQT để các bộ phận thực hiện.

*Thay đổi thẩm quyền thực hiện kiểm tra, kiểm soát của phòng công nợ

Theo Quy định MBN hiện hành thì Phòng Công nợ làm đầu mối và đề xuất

việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động mua, bán nợ tại Chi nhánh; Phòng Kiểm tra nội

bộ TW đề xuất việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động mua, bán nợ tại HSC. Như vậy,

đối với các khoản nợ tại Chi nhánh, Phòng Công nợ vừa thực hiện thẩm định, lại

vừa thực hiện kiểm tra nên dễ dẫn đến không khách quan. Vì vậy, quy định mới cần

sửa đổi theo hướng giao Phòng Kiểm tra giám sát tuân thủ thực hiện kiểm tra, kiểm

soát toàn bộ hoạt động mua, bán nợ của toàn hệ thống VCB.

*Ban hành các văn bản khác có liên quan đến hoạt động bán nợ

Ngoài việc hoàn thiện quy định mua, bán nợ hiện hành, VCB cần ban hành

văn bản hướng dẫn công tác hạch toán kế toán và nộp thuế trong hoạt động bán nợ

để các chi nhánh có cơ sở thực hiện.

3.2.3.2 Giải pháp về nghiệp vụ

*Củng cố hệ thống tổ chức công tác mua bán nợ

Trong điều kiện hiện tại, khi các khoản nợ được mua bán tại VCB còn chưa

nhiều thì việc giao chức năng bán nợ tại Hội sở chính cho Phòng Công nợ là phù

hợp. Tuy nhiên, Phòng Công nợ cần có cán bộ chuyên trách làm công tác bán nợ để

xử lý và hỗ trợ các chi nhánh trong quá trình thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ. Tại

80

mỗi chi nhánh cũng nên có một cán bộ đầu mối làm công tác mua bán nợ để việc

mua bán nợ được tập trung, việc đào tạo tập huấn được thuận lợi hơn. Sau này, cùng

với việc phát triển thị trường mua bán nợ thứ cấp tại Việt Nam, doanh số mua bán

nợ chiếm tỷ trọng tương đối trong kết quả hoạt động kinh doanh của VCB thì việc

thành lập tổ chức chuyên trách về mua bán nợ là rất cần thiết. Tuỳ theo số lượng

khoản nợ và doanh số mua bán nợ được thực hiện mà xem xét thành lập Phòng

Mua, bán nợ hoặc thành lập công ty trực thuộc kinh doanh về mua, bán nợ.

*Tăng cường tập huấn, đào tạo nghiệp vụ về mua, bán nợ

Thực tế cho thấy nhiều cán bộ tại các chi nhánh còn lúng túng khi thực hiện

nghiệp vụ này, từ đó dẫn đến tâm lý xử lý nợ theo lối mòn (áp dụng các biện pháp

thu hồi nợ khác mà không xem xét đến phương án thu hồi nợ thông qua bán nợ). Vì

vậy, để nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác này, Hội sở chính và các chi

nhánh cần tổ chức các khoá tập huấn, các buổi thảo luận nội bộ để phổ biến và trao

đổi các kinh nghiệm trong quá trình thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ.

3.2.3.3 Giải pháp về tổ chức thực hiện

*Xây dựng cơ chế phối hợp với tổ chức liên quan trong hoạt động bán nợ

Để việc bán nợ thuận lợi thì việc hợp tác, liên kết với các tổ chức trong lĩnh

vực liên quan là rất cần thiết như các tổ chức chuyên trách về mua bán nợ, các tổ

chức môi giới, các công ty có chức năng thẩm định giá khoản nợ...

Hiện VCB đã ký thoả thuận hợp tác với DATC về mua, bán nợ. Mặc dù việc

thực hiện thoả thuận này chưa đạt được như kỳ vọng ban đầu của các bên (doanh số

mua bán nợ giữa hai bên còn chưa tương xứng với tiềm năng, mới chỉ thực hiện

mua bán đơn lẻ từng khoản nợ chứ chưa bán nợ được cả gói, thời gian đàm phán

bán nợ còn mất nhiều thời gian...) tuy nhiên, cho đến nay DATC vẫn là một đối tác

mua nợ lớn nhất của VCB. Trong thời gian tới, VCB cần tăng cường hợp tác hơn

nữa với DATC trong việc xử lý nợ tồn đọng, đồng thời ký thêm các thoả thuận hợp

tác với các chủ thể khác được cấp phép thực hiện nghiệp vụ này.

81

Bên cạnh đó, VCB cũng cần tăng cường phối hợp với các tổ chức môi giới,

các công ty thẩm định giá chuyên nghiệp để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong

việc bán nợ với giá bán nợ đảm bảo khách quan, cạnh tranh và chính xác nhất.

*Đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động mua nợ

VCB cần xây dựng cơ chế phân bổ nguồn vốn cho hoạt động mua nợ trong các

năm, qua đó các chi nhánh sẽ mạnh dạn hơn trong việc thực hiện mua lại khoản nợ,

đảm bảo nguồn cho hoạt động mua nợ của hệ thống.

TÓM TẮT CHƯƠNG 3

Thông qua những kết qủa đạt được, những tồn tại trong hoạt động mua bán nợ

tại Việt Nam và Vietcombank. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu

quả mua bán nợ tại Vietcombank, những giải pháp này được trình bày thành từng

nhóm giải pháp và phân theo đơn vị thực hiện giải pháp. Đối với từng nhóm giải

pháp, thứ tự trình bày của giải pháp được bố trí theo trình tự thời gian thực hiện.

Tuy nhiên, để thực hiện tốt các giải pháp trên thì rất cần sự phối hợp đồng bộ

giữa các đơn vị ban ngành đặc biệt là ngân hàng nhà nước, Bộ tài chính, Cơ quan

thuế, Bộ LĐTB-XH...

82

KẾT LUẬN

Tóm lại, qua việc nghiên cứu một cách tổng thể các vấn đề lý luận cơ bản và

thực tiễn về hoạt động bán nợ tại VCB, đề tài thêm cơ sở để khẳng định bán nợ là một

biện pháp hữu hiệu để xử lý nợ có vấn đề. Thông qua biện pháp bán nợ, các khoản nợ

tồn đọng tại VCB có thể được xử lý một cách triệt để và nhanh chóng, góp phần làm

lành mạnh tình hình tài chính của VCB. Việc hình thành hoạt động bán nợ mang tính

tất yếu khách quan cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính tiền tệ trên thế giới,

hoạt động này vừa là công cụ để thúc đẩy sự lưu thông tiền tệ vừa đồng thời là biện

pháp để các tổ chức ngân hàng tài chính, các nền kinh tế vượt qua giai đoạn khủng

hoảng, khó khăn. Việc thực hiện hoạt động này là rất cần thiết và đem lại hiệu quả

thiết thực như: làm đẹp bảng tổng kết tài sản, hạn chế rủi ro tín dụng, hỗ trợ thanh

khoản, hỗ trợ thực hiện quản trị tài sản nợ có, là công cụ kiếm lợi nhuận...

Chính vì vậy, nó đã được áp dụng và đem lại kết quả khả quan tại một số nước

như Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan... Tuy nhiên, do còn tồn tại một số

yếu tố khách quan (như khung pháp lý chưa hoàn thiện, thị trường mua bán nợ mới ở

giai đoạn sơ khai thiếu chuyên nghiệp) và yếu tố chủ quan (như tâm lý e ngại của các

các cấp thực hiện nghiệp vụ bán nợ, quy định nội bộ của VCB chưa hoàn thiện, việc

vận dụng biện pháp này của một số cán bộ còn chưa tốt...) dẫn đến việc bán nợ thời

gian qua vẫn còn chưa tương xứng với nhu cầu xử lý nợ có vấn đề tại VCB.

Qua việc tìm hiểu cụ thể những hạn chế tồn tại của hoạt động mua bán nợ trong

thời gian qua, đề tài đã đề xuất các giải pháp cụ thể để hoàn thiện nghiệp vụ mua bán

nợ nói chung và tại VCB nói riêng. Các giải pháp này bao gồm cả các đề xuất đối với

các cơ quan chức năng như: hoàn thiện cơ chế chính sách, phát triển thị trường mua

bán nợ, đào tạo nhân lực và các giải pháp cụ thể để thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ tại

VCB (như sửa đổi các quy định nội bộ về hoạt động mua bán nợ, củng cố hệ thống tổ

chức và con người làm công tác mua bán nợ, xây dựng cơ chế phối hợp với các tổ

chức liên quan trong hoạt động mua bán nợ, tăng cường tập huấn nghiệp vụ cho cán

bộ làm công tác mua bán nợ.

83

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Văn bản quy định pháp luật

1. Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 của Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam về ban hành Quy chế Mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng

2. Thông tư 33/2010/TT-BTC ngày 11/03/2010 của Bộ Tài chính ban hành Điều

lệ tổ chức và hoạt động của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của Doanh

nghiệp

3. Quyết định số 79/QĐ-MBN ngày 23/12/2005 của Tổng Giám đốc Công ty Mua

bán nợ và tài sản tồn đọng của của Doanh nghiệp về việc ban hành Quy trình

tạm thời về hoạt động mua, bán, xử lý nợ và tài sản tồn đọng.

4. Thông tư số 38/2006/TT-BTC ngày 10/5/2006 của Bộ Tài chính về trình tự, thủ

tục và xử lý tài chính đối với hoạt động mua, bán, bàn giao, tiếp nhận xử lý nợ

và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp hướng dẫn

5. Công văn số 1665/TCT-CS ngày 28/4/2008 của Tổng cục Thuế hướng dẫn về

việc thuế GTGT đối với hoạt động mua bán nợ.

Tài liệu, văn bản quy định của Vietcombank

1. Quyết định số 418/QĐ-NHNT.CN ngày 05/11/2009 của Tổng Giám đốc NHNT

về việc ban hành Quy định tạm thời về Mua, bán nợ

2. Quyết định số 02/QĐ-NHNT.TCCB-ĐT ngày 04/01/2010 của Tổng Giám đốc

NHNT về việc thành lập Hội đồng bán nợ HSC

3. Nguyễn Thành Nam, “Tìm hiểu quy định pháp luật về mua, bán nợ”, Thông

tin Ngân hàng Ngoại thương số 02/2007.

4. Tài liệu tập huấn công tác mua, bán nợ năm 2010 của NHNT.

5. Tài liệu và báo cáo thường niên của Vietcombank năm 2011

6. Đề án nghiên cứu hoạt động bán nợ của VCB

Sách tham khảo

1. Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Khoa Luật- ĐHQGHN, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội - 2005.

84

2. Trần Huy Hoàng, Quản trị Ngân hàng thương mại, Khoa Ngân Hàng- Trường

ĐHKT TPHCM, NXB Lao động xã hội, 2010.

3. Trần Ngọc Thơ, Tài chính doanh nghiệp, Khoa TCDN- Trường ĐHKT

TPHCM, NXB thống Kê, 2007.

4. Peter S. Rose, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB McGraw-Hill 1999

5. Anthony Saunders, Quản trị định chế tài chính (Financial Institution

Management), International Edition, NXB McGraw-Hill 2000.

Các tạp chí bài báo:

1. Mua bán nợ, một phương thức tái cơ cấu doanh nghiệp hiệu quả - Báo Nhân

dân ngày 23/06/2010

2. Phan Nam, Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp: Khó mua,

khó bán, Diễn đàn Doanh nghiệp 20/1/2010.

3. Mua bán nợ xấu tại Ngân hàng bằng cách nào - Tạp chí Tài chính Doanh

nghiệp 4/2011 thiếu tác giả.

4. Đỗ Thị Bích Hồng, bài báo cáo Malaysia và bài học kinh nghiệm xử lý nợ xấu

thông qua AMC, Phòng Xây dựng phát triển chiến lược ngân hàng, Ngân Hàng

Nhà Nước, 08/2012

5. Phạm Tiến Đạt và Ths.Phạm Thị Tường Vân, Bài báo khung pháp lý cho hoạt

động M&A của trên báo đặc san của Báo đầu tư, tháng 6/2011, trang 24-26.

6. Thomson Financial, Institute of Mergers, Aquisitions and Alliances (IMMA)

Bài báo M&A Việt Nam trong năm 2011 trên báo đặc san của Báo đầu tư,

tháng 06/2011, trang 68-71.

Các thông tin khai thác trên internet

1. Bùi Thị Hồng Thu , 2011, Tổng quan về Công ty quản lý nợ và khai thác tài

sản của NHTM Việt Nam

[truy cập ngày 20/06/2012]

2. DATC, 2011, giới thiệu chung về DATC,hoạt động mua bán nợ,

< http://www.datc.com.vn/tabid/56/Default.aspx> [truy cập ngày 20/06/2012]

85

3. DATC, Mua bán nợ để cứu doanh nghiệp,

nghiep.aspx>, [truy cập ngày 20/06/2012] thiếu tên tác giả

4. DATC, Mua bán nợ xấu tại ngân hàng, cách nào?

cach-nao.aspx>, [truy cập ngày 20/06/2012], thiếu tên tác giả

5. DATC, Mua bán nợ: Công cụ lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp,

< http://www.datc.com.vn/tabid/66/postid/175/Mua-ban-no-Cong-cu-lanh-

manh-hoa-tai-chinh-doanh-nghiep.aspx>, [truy cập ngày 20/06/2012], thiếu tên

tác giả

6. DATC, Mua bán nợ xấu… Cần mở rộng đối tượng, để tăng tính hiệu quả,

< http://www.datc.com.vn/tabid/66/postid/194/Mua-ban-no-xau%E2%80%A6-

Can-mo-rong-doi-tuong-de-tang-tinh-hieu-qua.aspx> , [truy cập ngày

20/06/2012], thiếu tên tác giả.

7. DATC, Cần hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường mua bán nợ, Tạp chí

tài chính doanh nghiệp số 7 – 2010

8. Vũ Dũng, Bài báo định vị DACT trong giải quyết nợ xấu ngân hàng

hang/126/9459091.epi> [truy cập ngày 01/10/2012]

9. Bài viết Thị trường mua bán nợ Việt Nam: Bao giờ thành hình?,

< http://www.tinmoi.vn/thi-truong-mua-ban-no-viet-nam-bao-gio-thanh-hinh-

11873598.html>, [truy cập ngày 20/06/2012], thiếu tên tác giả

10. Thanh Lan - Tuấn Lân, Công ty mua bán nợ nguy cơ mất vốn,

< http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/2012/07/cong-ty-mua-ban-no-nguy-co-

mat-von/> , [truy cập ngày 30/07/2012]

11. Hoàng Trà My, Kinh nghiệm xử lý nợ xấu ở Thái Lan

12. < http://finance.tvsi.com.vn/News/2012621/205955/kinh-nghiem-xu-ly-no-xau-

o-thai-lan.aspx> , [truy cập ngày 30/07/2012]

86

13. Phạm Hữu Hồng Thái, Xử lý nợ xấu thông qua AMC và kinh nghiệm cho Việt

Nam < http://www.hcgf.com.vn/component/content/article/42-tin-tc-moi-

nhat/729-x-ly-n-xu-thong-qua-amc-va-kinh-nghim-cho-vit-nam.html> , [truy

cập ngày 03/11/2012]

14. Mua bán nợ xấu, kinh nghiệm từ mô hình Kamco của Hàn Quốc

< http://dddn.com.vn/20120618034812136cat120/mua-ban-no-xau-kinh-

nghiem-tu-mo-hinh-kamco-cua-han-quoc.htm>, [truy cập ngày 30/07/2012],

thiếu tên tác giả

15. A.Vũ, Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Trung Quốc < http://vef.vn/2012-06-29-

kinh-nghiem-xu-ly-no-xau-cua-trung-quoc> , [truy cập ngày 30/07/2012]

16. Tô Ngọc Hưng, Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số quốc gia và những bài

học cho Việt Nam, http://www.vietstock.vn, [truy cập ngày 13/11/2012]

Tài liệu nước ngoài

1. Christine A. Parlour and Guillaume Platin, Loan sales and Relationship

Banking, The Jounal of Finance June 2008.

2. Debt buyer < http://en.wikipedia.org/wiki/Debt> , [Accessed 20 sep, 2012]

3. Bluestone, Debt buying ,

[Accessed 20 sep, 2012]

4. The IMF 1999, Financial sector Crisis and Restructuring – Lessions from

Asia, [ Accessed

12 July 2012]

5. P.B. John and Y. Huang 2001, Dealing with bad loans of Chinese

Banks, The University of Michiga,

[Accessed 12 July 2012]

6. C. Larrain 2002, Best Practice for Efficient Banking Restructuring, The World

Bank, Washington D.C.

., [Accessed

30 July 2012]

87

7. Min Xu 2005, Resolusion of non-performing loans in China, New York

University, New York,

, [Accessed 30 July

2012]

88

PHỤ LỤC

1. Giới thiệu sơ lược về hoạt động của Vietcombank

1.1 Quá trình hình thành và phát triển

Ngân hàng TMCP Ngoại Thương VIệt Nam được thành lập trên cơ sở tách ra từ

Cục quản lý ngoại hối trực thuộc NHTƯ (nay là NHNNVN) vào năm 1962. Trong vai

trò là NH chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam, tại thời điểm đó hoạt động

của VCB chủ yếu ở lĩnh vực kinh tế đối ngoại như cho vay tài trợ xuất nhập khẩu,

thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ tại các NH nước ngoài,

làm đại lý cho Chính phủ trong các quan hệ thanh toán, vay nợ, viện trợ với các nước.

Thành lập ngày 01/04/1963, với tổ chức tiền thân là Cục Ngoại hối (trực thuộc

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), trải qua 49 năm xây dựng và phát triển, VCB đã có

những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và phát triển của kinh tế đất nước, phát

huy tốt vai trò của một ngân hàng đối ngoại chủ lực, phục vụ hiệu quả cho phát triển

kinh tế trong nước, đồng thời tạo những ảnh hưởng quan trọng đối với cộng đồng tài

chính khu vực và toàn cầu. Gần nửa thế kỷ hoạt động trên thị trường, VCB luôn giữ

vững vị thế là nhà cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính hàng đầu trong lĩnh vực

thương mại quốc tế; trong các hoạt động truyền thống như kinh doanh vốn, huy động

vốn, tín dụng, tài trợ dự án… cũng như mảng dịch vụ ngân hàng hiện đại: kinh doanh

ngoại tệ và các công cụ phái sinh, dịch vụ thẻ, ngân hàng điện tử …

Ngày 30/6/2009, VCB chính thức niêm yết giao dịch cổ phiếu (với mã chứng

khoán VCB) tại Sở giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE). VCB

ngày nay đã phát triển rộng khắp với mạng lưới bao gồm 1 Hội sở chính tại Hà Nội, 1

Sở giao dịch, gần 400 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc, 3 công ty con tại

Việt Nam, 2 công ty con tại nước ngoài, 1 văn phòng đại diện tại Singapore, 5 công ty

liên doanh, liên kết. Bên cạnh đó, Vietcombank còn phát triển một hệ thống Autobank

với 1.700 ATM và 22.000 điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS) trên toàn quốc. Hoạt

động ngân hàng còn được hỗ trợ bởi mạng lưới hơn 1.300 ngân hàng đại lý tại 100

quốc gia và vùng lãnh thổ.

89

Là Ngân hàng Thương mại Nhà nước đầu tiên được Chính phủ lựa chọn để thực

hiện thí điểm cổ phần hóa, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam

(Vietcombank) đã chính thức hoạt động ngày 2 tháng 6 năm 2008, sau khi thực hiện

thành công kế hoạch cổ phần hóa thông qua việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công

chúng ngày 26/12/2007.

Ngày 30/09/2011, VCB đã ký kết thành công thỏa thuận cổ đông chiến lược với

Ngân hàng TNHH Mizuho (MHCB) - một thành viên của Tập đoàn Tài chính Mizuho

(Nhật Bản) thông qua việc bán 15% vốn cổ phần cho Mizuho.Nếu như năm 2010,

VCB thành công trong việc thay đổi chiến lược kinh doanh để chuyển mình từ một

ngân hàng bán buôn thành ngân hàng đa năng trên cơ sở vừa phát huy lợi thế, vừa

củng cố, giữ vững vị thế của ngân hàng bán buôn, đẩy mạnh bán lẻ để đa dạng hóa

hoạt động, tối đa hóa lợi nhuận; thì năm 2011 VCB đã tạo nhiều dấu ấn trong đổi mới

công tác khách hàng và nâng cao chất lượng dịch vụ với nhiều chương trình chăm sóc

khách hàng, cũng như ban hành các chính sách phù hợp với từng phân đoạn khách

hàng, từng bước nâng cao năng lực quản lý tầm cỡ trong khu vực, đồng thời tham gia

tích cực vào quá trình tái cấu trúc các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.

1.2 Sơ lược hoạt động kinh doanh của Vietcombank

Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới có nhiều biến động đã ảnh hưởng

không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam trên các lĩnh vực đầu tư nước ngoài, sản xuất và

tiêu thụ hàng hóa nên tốc độ phát triển kinh tế chỉ được duy trì ở mức khiêm tốn. Tuy

vậy, cùng với những biện pháp tháo gỡ khó khăn linh hoạt của Chính phủ, NHNNVN

và những nỗ lực lớn lao từ chính VCB, Ngân hàng đã duy trì được tốc độ tăng trưởng

cao và ổn định liên tiếp qua các năm. Mặc dù môi trường kinh doanh có nhiều khó

khăn nhưng hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã được cải tiến về nhiều mặt, đáp ứng

được nhu cầu của khách hàng, đảm bảo dịch vụ cung cấp đạt chất lượng cao.

Ngoài các hoạt động cho vay thông thường, VCB đã tăng cường hoạt động qua

thị trường liên Ngân hàng trong nước và quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,

góp phần tăng trưởng lợi nhuận. Trong những năm qua, VCB luôn phát huy vai trò là

một Ngân hàng uy tín nhất trong các lĩnh vực tín dụng, tài trợ thương mại, kinh doanh

90

ngoại hối, bảo lãnh và các dịch vụ tài chính, Ngân hàng quốc tế – một trong những lý

do chính giúp VCB giữ vững thị phần ở mức cao và ổn định.

Song song với các HĐKD, VCB luôn chú trọng đến các hoạt động hỗ trợ kinh

doanh khác như phát triển nguồn nhân lực, đầu tư chiều sâu vào công nghệ Ngân

hàng.

*Khái quát về tình hình tài chính của Vietcombank qua các năm 2007-2011 như

sau:

Đơn vị tính :tỷ đồng

2007 2008 2009 2010 2011

TỔNG TÀI SẢN 197.363 222.090 255.496 307.621 366.722

Vốn chủ sở hữu tỷ đồng 13.528 13.946 16.710 20.737 28.639

Tổng dư nợ TD/TTS % 48,34% 50,79% 55,43% 57,50% 57,11%

Thu nhập ngoài lãi thuần 2.109 2.318 2.788 3.336 2.449

Tổng thu nhập HĐKD 6.114 8.940 9.287 11.531 14.871

Tổng chi phí hoạt động (1.628) (2.592) (3.494) (4.578) (5.700)

Lợi nhuận thuần từ HĐKD 4.486 6.348 5.793 6.953 9.171 trước CPDP rủi ro tín dụng

Chi phí dự phòng rủi ro TD (1.337) (2.757) (789) (1.384) (3.474)

Lợi nhuận trước thuế 3.590 5.004 5.569 5.697 3.149

Thuế Thu nhập Doanh nghiệp (862) (1.060) (1.266) (1.480) (759)

Lợi nhuận sau thuế tỷ đồng 2.728 3.945 4.303 4.217 2.390

Lợi nhuận thuần sau thuế 2.711 3.921 4.282 4.197 2.380

70 72 Số lượng chi nhánh chi nhánh 59 63 77

Tổng số nhân viên người 9.190 9.212 10.401 11.415 12.565

Cổ phiếu phổ thông triệu cp 1.210 1.210 1.322 1.970

Tỷ lệ chi trả cổ tức %/năm 12,0 12,0 12,0 12,0

91

MỘT SỐ CHỈ TIÊU AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ

*CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ

Năm 2007 2008 2009 2010 2011

NIM 2,83% 2,26% 3,26% 2,81% 3,41%

Tỷ trọng thu nhập ngoài lãi 28,93% 34,47% 25,93% 30,02% 16,47%

ROAE 22,55% 19,23% 19,74% 25,58% 17,08%

ROAA 1,50% 1,31% 1,29% 1,64% 1,25%

*CHỈ TIÊU AN TOÀN

Năm 2007 2008 2009 2010 2011

Tỷ lệ dư nợ CV/HĐV 67,42% 70,50% 83,57% 84,88% 86,68%

Tỷ lệ nợ xấu 3,87% 4,61% 2,47% 2,83% 2,03%

Hệ số an toàn vốn CAR 9,20% 8,90% 8,11% 9,0% 11,14%

*Một số chỉ tiêu khác :

ĐVT: tỷ đồng

Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 2011

Tổng Tài sản 197,363 222,000 255,496 307,621 366,722

Vốn chủ sở hữu 13,528 13,946 16,710 20,737 28,639

Huy động vốn 144,810 159,989 169,457 208,320 241,700

Lợi nhuận trước thuế 3,149 3,590 5,004 5,569 5,697

Dư nợ tín dụng 97,631 112,793 141,621 176,814 209,418

ROAE 19,23% 19,74% 25,58% 22,55% 17,08%

ROAA 1,31% 1,29% 1,64% 1,50% 1,25%

92

Biểu đồ tổng tích sản qua các năm Biểu đồ lợi nhuận trước thuế qua các năm

Biểu đồ huy động vốn qua các năm Biểu đồ tín dụng qua các năm

Tổng tích sản và lợi nhuận trước thuế của VCB không ngừng tăng liên tục qua

các năm, tổng tài sản năm 2011 đạt hơn 366 tỷ đồng tăng 86 % so với năm 2007, lợi

nhuận trước thuế trong năm 2011 đạt hơn 5.600 tỷ đồng, tăng 80% so với năm 2007.

1.3 Định hướng hoạt động và mục tiêu phát triển của Vietcombank

Trước những yêu cầu cấp bách của hội nhập nền kinh tế quốc tế, VCB đã xác

định mục tiêu cụ thể là: “Trở thành một tập đoàn tài chính đa năng có quy mô đứng

trong số 70 tập đoàn tài chính lớn nhất ở Châu Á vào giai đoạn 2015 - 2020, có phạm

vi hoạt động không những trong nước mà cả các thị trường tài chính thế giới”

Một số chỉ tiêu tăng trưởng cụ thể cho tới năm 2015:

93

 Tổng tài sản tăng bình quân 15%/năm. Theo đó, đến năm 2015, VCB sẽ có tổng

 Vốn chủ sở hữu cần đạt khoảng 2,0 - 2,25 tỷ USD vào năm 2015.

 ROE đạt mức bình quân tương ứng là khoảng 15%/năm.

 ROA nằm trong khoảng 0,80 -1,0%/năm.

 Tổng tài sản: được ước tính trên giả định tốc độ tăng trưởng bình quân là

tài sản vào khoảng 30 - 32 tỷ USD.

15%/năm.

Nhằm đạt được mục tiêu phát triển thành một tập đoàn tài chính đa năng của khu

 Tiếp tục nâng cao năng lực tài chính, trong đó bao gồm tăng quy mô vốn tự có

vực và quốc tế vào năm 2015, VCB có những bước đi cụ thể sau:

và tỷ lệ an toàn vốn thông qua phát hành thêm cổ phiếu, tăng tính hấp dẫn của

cổ phiếu NH và thu hút các nhà đầu tư tiềm tàng. Trên cơ sở kết quả xử lý nợ

đạt được, VCB sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng hoạt động tín

dụng, đưa vào áp dụng các mô thức quản trị tín dụng hiện đại, áp dụng việc

phân loại nợ và trích lập DPRR theo chuẩn mực quốc tế để đảm bảo lành mạnh

 Nâng cao năng lực điều hành và quản trị NH: xây dựng mô hình tổ chức mới,

hóa tình hình tài chính theo đúng các chuẩn mực quốc tế.

hiện đại, hướng tới khách hàng, đáp ứng được các yêu cầu phát triển và giải

phóng được mọi nguồn lực sẵn có; đổi mới và đưa vào áp dụng cơ chế quản trị

iên tiến, tuân theo các chuẩn mực quốc tế; tiếp tục nâng cao năng lực quản trị

DN và quản lý rủi ro.

94

2. Phụ lục quy trình mua bán nợ

*Quy trình bán nợ tại VCB

Y

Giám đốc Chi nhánh

- KH đề nghị mua nợ - Xét thấy bán nợ là BP xử lý nợ hiệu quả nhất

Bộ phận đầu mối bán nợ tại CN: thu thập hồ sơ bán nợ, lập tờ trình đề xuất bán nợ

N

Ký kết hợp đồng bán nợ, tiến hành các thủ tục chuyển giao nợ

Cấp có thẩm quyền phê duyệt tín dụng

-Đăng thông tin công khai -Tiến hành đàm phán sơ bộ

Hội đồng bán nợ

Hội đồng quản trị

BP chức năng

Khác

Chú thích: Đồng ý Không đồng ý Vượt thẩm quyền Cấp có TQ phê duyệt

95

Giám đốc Chi nhánh

- KH đề nghị bán nợ - Xét thấy mua nợ là hiệu quả

Giá trị mua nợ >GT khoản nợ

Bộ phận đầu mối Mua nợ tại CN: thu thập hồ sơ mua nợ, lập tờ trình đề xuất mua nợ

*Quy trình mua nợ tại VCB

Y

N

Phòng QLRRTD HSC tái thẩm định

Ký kết hợp đồng tín dụng tiến hành mua nợ

Cấp có thẩm quyền phê duyệt tín dụng

Ủy ban Quản lý tài sản nợ có của NHNT

Hội đồng quản trị