1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM -----o0o------
BẠCH TRẦN QUÝ NHI
NÂNG CAO HIỆU QUẢ MUA BÁN NỢ TẠI VIETCOMBANK
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2012
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ---o0o---
BẠCH TRẦN QUÝ NHI
NÂNG CAO HIỆU QUẢ MUA BÁN NỢ TẠI VIETCOMBANK
Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính Ngân hàng Mã số
: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2012
3
MỤC LỤC
CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MUA BÁN NỢ VÀ THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ4
1.1.Cơ sở lý luận về mua bán nợ ................................................................................. 4
1.1.1. Định nghĩa hoạt động mua bán nợ................................................................. 4
1.1.2 Đặc điểm mua bán nợ ..................................................................................... 5
1.2 Cơ sở lý luận về thị trường mua bán nợ ................................................................ 6
1.2.1 Thị trường mua bán nợ ................................................................................... 6
1.2.2 Các bên tham gia mua bán nợ trên thị trường ................................................ 6
1.2.3 Vai trò của hoạt động mua bán nợ đối với thị trường vốn ............................. 7
1.2.4. Xác định giá trong các giao dịch mua bán nợ trên thị trường ....................... 8
1.2.5 Các phương thức thực hiện mua bán nợ trên thị trường............................... 10
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến mua bán nợ trên thị trường ....................................... 11
1.3.1 Nguồn vốn..................................................................................................... 11
1.3.2 Trình độ năng lực các chủ thể tham gia trên thị trường mua bán nợ............ 11
1.3.3 Khung pháp lý............................................................................................... 11
1.3.4 Tâm lý của các chủ thể tham gia mua bán nợ............................................... 12
1.3.5 Chính sách định hướng của chính phủ.......................................................... 12
1.4 Hoạt động mua bán nợ của các tổ chức tín dụng và các rủi ro............................ 12
1.4.1 Hoạt động mua bán nợ của các tổ chức tín dụng.......................................... 12
1.4.2 Rủi ro chủ yếu trong hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng............... 13
1.5. Hiệu quả của việc mua bán nợ ........................................................................... 15
1.5.1 Hiệu quả theo thành phần kinh tế ................................................................. 15
1.5.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả mua bán nợ của các tổ chức tín dụng.......... 16
1.6 Hệ thống pháp luật về hoạt động mua bán nợ ..................................................... 18
16.1 Khái quát chung quy định pháp lý về hoạt động mua bán nợ trên thế giới... 18
16.2 Khái quát về khung pháp lý cho hoạt động mua bán nợ của Việt nam ......... 19
1.7 Hoạt động mua bán nợ tại một số nước trên thế giới .......................................... 19
4
1.7.1 Hoạt động mua bán nợ trên thế giới nói chung ........................................... 19
1.7.2 Kinh nghiệm mua bán nợ các nước .............................................................. 21
1.7.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............................................................. 25
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI
VIETCOMBANK.........................................................................................................27
2.1 Thực trạng hoạt động mua bán nợ và thị trường mua bán nợ tại Việt Nam ....... 27
2.1.1 Cơ sở pháp lý của hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam ............................... 27
2.1.2 Sự hình thành hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam: .................................... 28
2.1.3 Thực trạng thị trường mua bán nợ tại Việt Nam. ......................................... 30
2.1.4 Đánh giá hiệu quả hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam trong thời gian qua37
2.1.5 Những khó khăn trong việc mua bán, xử lý nợ ............................................ 40
2.2 Thực trạng mua, bán nợ tại Vietcombank ........................................................... 42
2.2.1. Khái quát về tình hình dư nợ tín dụng, nợ xấu và các biện pháp xử lý nợ tại
Vietcombank.......................................................................................................... 42
2.2.2 Thực trạng hoạt động mua bán nợ của Vietcombank trên thị trường........... 46
2.2.3 Đối tác thực hiện tham gia mua bán nợ Vietcombank ................................. 47
2.2.4 Xác định giá trong giao dịch mua bán nợ của Vietcombank....................... 48
2.2.5. Phương thức thực hiện giao dịch mua bán nợ của Vietcombank ................ 49
2.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến mua bán nợ của Vietcombank .......................... 51
2.2.7 Các rủi ro trong mua bán nợ của Vietcombank ........................................... 54
2.2.8.Hiệu quả mua bán nợ của Vietcombank ....................................................... 55
2.3 Đánh giá quy trình mua, bán nợ của VCB .......................................................... 55
2.3.1 Nguyên tắc mua bán nợ ................................................................................ 55
2.3.2 Đối tượngkhoản nợ được mua bán ............................................................... 56
2.3.3 Thẩm quyền xem xét, quyết định mua bán nợ.............................................. 56
2.3.4 Quy trình thủ tục bán nợ, mua nợ ................................................................. 58
2.4 Một số nghiệp vụ mua bán nợ tại Vietcombank ................................................. 61
2.4.1 Một số trường hợp bán nợ ............................................................................ 61
2.4.2 Một số trường hợp mua nợ ........................................................................... 63
5
2.5 Đánh giá thực trạng mua, bán nợ tại Vietcombank............................................ 65
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ MUA BÁN NỢ TẠI
VIETCOMBANK.........................................................................................................69
3.1. Định hướng hoạt động mua bán nợ tại Vietcombank ........................................ 69
3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả mua bán nợ tại Vietcombank.......................... 69
3.2.1 Nhóm giải pháp thuộc về bộ ngành có liên quan ......................................... 69
3.2.2 Nhóm giải pháp thuộc về ngân hàng nhà nước. ........................................... 74
KẾT LUẬN ...................................................................................................................82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................83
1. Giới thiệu sơ lược về hoạt động của Vietcombank ............................................... 88
1.1 Quá trình hình thành và phát triển ................................................................... 88
1.2 Sơ lược hoạt động kinh doanh của Vietcombank ............................................ 89
1.3 Định hướng hoạt động và mục tiêu phát triển của Vietcombank .................... 92
2. Phụ lục quy trình mua bán nợ................................................................................ 94
6
CHỮ VIẾT TẮT
: Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc tổ chức tín dụng AMC
: Bộ tài chính BTC
: Cổ phần hóa CPH
: Doanh nghiệp DN
: Doanh nghiệp nhà nước DNNN
DATC : Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp
HĐTDTW : Hội đồng tín dụng trung ương
M&A : Mua bán sát nhập doanh nghiệp
MBN : Mua bán nợ
LBOs : Mua lại doanh nghiệp bằng vốn vay
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMQD : Ngân hàng thương mại cổ phần quốc doanh
NHTƯ : Ngân hàng Trung ương
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHLD : Ngân hàng liên doanh
NHNNVN : Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
RRTD : Rủi ro tín dụng
TCTD : Tổ chức tín dụng
TSBĐ : Tài sản bảo đảm
TSTC : Tài sản thế chấp
TS : Tài sản
VCB (Vietcombank): Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
7
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 1.1 : “Ảnh hưởng của mua bán nợ đối với thị trường vốn”
Biểu đồ 2.1 : “Số lượng AMC được thành lập theo thời gian và quy mô vốn điều lệ”
Bảng 2.2 : “Số liệu tổng hợp mua bán nợ và tái cơ cấu DN của DATC”
Bảng 2. 3 : “Bảng số liệu mua bán nợ của DATC qua các thời kỳ”
Bảng 2.4 : “Số liệu mua bán nợ giữa DATC và các TCTD”
Bảng 2. 5 : “Bảng số liệu nhóm nợ Vietcombank năm 2009-2011”
Bảng 2. 6 : “Số liệu nhóm nợ Vietcombank theo loại hỉnh DN năn 2009-2011”
Biểu đồ 2.7 : “Dư nợ tín dụng ngắn, trung và dài hạn năm 2009-2011”
Bảng 2.8 : “Kết quả xử lý, thu hồi nợ có vấn đề năm 2009-2011”
Bảng 2.9 : “So sánh biện pháp thu nợ với các biện pháp khác”
Bảng 2.10 : “So sánh giữa quy trình mua nợ và cho vay”
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động xấu đến hầu hết các doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ và không có khả năng thanh toán nợ
vay ngân hàng. Điều này đã ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức tín dụng, làm tỷ
lệ nợ xấu của các ngân hàng tăng cao và Vietcombank cũng không phải là một ngoại
lệ.
Là một trong các biện pháp xử lý nợ có vấn đề, mua bán nợ được xem là một biện
pháp khá hữu hiệu để xử lý nợ tồn đọng do ưu thế về thời gian xử lý nhanh và xử lý nợ
được dứt điểm, góp phần giảm tỷ lệ nợ xấu, làm lành mạnh tình hình tài chính của
ngân hàng. Thông qua biện pháp này, ngân hàng cũng có thể cơ cấu lại danh mục đầu
tư và/hoặc danh mục cấp tín dụng. Mặt khác, biện pháp này cũng có tác động tích cực
về mặt kinh tế - xã hội.
Mặc dù hoạt động mua bán nợ trên thế giới đã tồn tại hàng chục năm nay và phát
triển rất mạnh ở các quốc gia phát triển như Anh, Mỹ, Hàn Quốc…. Hầu hết các ngân
hàng nước ngoài đều hoạt động trong lĩnh vực này và mang lại hiệu quả cho việc tái cơ
cấu doanh nghiệp và tái cơ cấu nền kinh tế. Tuy nhiên thị trường nợ và mua bán nợ ở
Việt Nam đến nay vẫn còn rất hạn chế. Hiện nay những vướng mắc về cơ chế, chính
sách là những khó khăn chủ yếu làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động mua bán nợ, tái cấu
trúc doanh nghiệp.
Trong tình hình nợ của doanh nghiệp tại ngân hàng ngày càng gia tăng, việc tạo
dựng thị trường mua bán nợ là xu hướng tất yếu. Việt Nam không thể không phát triển
thị trường mua bán nợ, bởi đó là một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế, một trong
những giải pháp giúp lành mạnh hóa tài chính cho các doanh nghiệp và ngân hàng
thương mại.
Trước nhu cầu cấp thiết đó, Luận văn “Giải pháp nâng cao hiệu quả mua bán
nợ tại Vietcombank” sẽ nghiên cứu thực trạng tình thị trường mua bán nợ tại Việt
nam nói chung và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả mua bán nợ trong hệ thống
Vietcombank nói riêng.
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài này là tìm hiểu bản chất của hoạt động mua bán nợ, đánh giá
khách quan thực trạng các quy định điều chỉnh hoạt động mua bán nợ, xác định điều
kiện cụ thể của Vietcombank khi thực hiện hoạt động này. Từ đó, đề tài sẽ đề xuất
phương hướng và những giải pháp phát triển tình thị trường mua bán nợ tại Việt nam
nói chung và hệ thống Vietcombank nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu đặt ra ở trên, đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn
đề về bản chất hoạt động mua bán nợ, nguyên tắc, phạm vi, thẩm quyền, trình tự, thủ
tục mua bán nợ…
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động mua bán nợ trong thực tiễn rất đa dạng với các mục đích khác nhau.
Trong phạm vi đề tài này, chỉ nghiên cứu hoạt động mua bán nợ dưới góc độ là một
biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng. Chủ thể chính của hoạt động bán nợ trong
nghiên cứu này là tình hình mua bán nợ tại Vietcombank từ năm 2006 đến nay.
Phương pháp mô tả nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan về tình hình mua bán nợ tại
4. Phương pháp tiến hành nghiên cứu và cơ sở nghiên cứu
Phương pháp lịch sử nhằm so sánh, đối chiếu các thông tin trong quá khứ để tìm
các nước trên thế giới và Việt Nam.
Phương pháp phân tích : phân tích kết quả xử lý thông tin thu thập được
Phương pháp tổng hợp thông tin: tập hợp các dữ liệu thông tin thu thập để tổng
hiểu nguyên nhân và có các kết luận phù hợp.
hợp kết quả nghiên cứu.
Phản ánh thực trạng tình hình mua bán nợ tại Việt Nam
Những vướng mắc về cơ chế, chính sách trong quá trình thực hiện mua bán nợ
* Các vấn đề cần nghiên cứu
Phân tích thực trạng tình hình mua bán nợ trong hệ thống Vietcombank.
tại Việt Nam
3
Là đề tài nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt
5. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Góp phần làm sáng tỏ sự cần thiết khách quan của hoạt động mua bán nợ tại
động mua bán nợ.
Đề tài phân tích khách quan, khoa học về thực tiễn hoạt động bán nợ của
Việt Nam và việc hoàn thiện nghiệp vụ bán nợ tại Vietcombank.
Đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện hoạt động bán nợ tại
Vietcombank trong thời gian qua.
Vietcombank.
Tài liệu mua bán nợ trong và nước ngoài
Tài liệu văn bản quy định về hoạt động mua bán nợ trong nước
Dữ liệu tình hình mua bán nợ của Vietcombank.
6. Nguồn thông tin dữ liệu : được lấy từ các nguồn trong và ngoài nước như:
7. Những điểm mới của luận văn:
Hiện nay tại Việt Nam chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về mua bán nợ tại Việt
Nam. Hoạt động mua bán nợ vẫn còn là một khái niệm dường như lạ lẫm với rất nhiều
người, nhưng thực tế nó lại rất phổ biến trên thế giới, nhất là tại các nước có nền kinh
tế phát triển như Mỹ, Anh, Hàn Quốc,...
Điểm mới của luận văn là nêu ra được những lợi ích và sự cần thiết phát triển
nghiệp vụ mua bán nợ nhất là trong tình hình hiện nay, khi Việt nam gia nhập vào thị
trường thương mại quốc tế. Luận văn cũng trình bày được các giải pháp thiết thực
nhằm nâng cao hiệu quả mua bán nợ trong hệ thống của Vietcombank.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
trình bày theo 3 chương gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận về mua bán nợ và thị trường mua bán nợ
Chương 2: Thực trạng hoạt động mua bán nợ tại Vietcombank
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả mua bán nợ tại Vietcombank
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MUA BÁN NỢ VÀ THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ
1.1.Cơ sở lý luận về mua bán nợ
1.1.1. Định nghĩa hoạt động mua bán nợ
* Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of Economic–Christopher Pass & Bryan Lones):
Mua bán nợ là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty tài chính chuyên
nghiệp (công ty mua nợ) mua lại các khoản nợ của một công ty với số tiền ít hơn giá trị
của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền thu được của số nợ đã
mua và giá mua thực tế của món nợ đó. Lợi ích của công ty bán nợ là nhận được tiền
ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả nợ, hơn nữa lại tránh được những phiền toái
và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ chậm trả.
* Theo Từ điển thuật ngữ Ngân hàng – Hans Klaus:
Mua bán nợ là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một
công ty chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ cho một công ty tài chính chuyên
nghiệp (công ty mua nợ, thông thường là một công ty trực thuộc ngân hàng). Công ty
này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi các khoản phải thu để hưởng thủ tục
phí và có lúc ứng trước các khoản nợ.
* Tiến sĩ kinh tế Edward W. Reed và Edward K. Gill cho rằng:
Mua bán nợ là việc mua lại các khoản nợ. Các công ty mua nợ mua các khoản nợ
của khách hàng trên cơ sở không truy đòi và tiến hành một số các dịch vụ khác ngoài
việc ứng trước các khoản nợ. Công ty mua nợ đánh giá mức tín dụng trong hiện tại và
tương lai của khách hàng (người bán) và xác lập các hạn mức tín dụng ứng trước. Các
khách hàng được yêu cầu gửi trực tiếp cho công ty mua nợ bản sao hoá đơn. Khoản
ứng trước thường từ 80% - 90% trị giá hoá đơn.
* Định nghĩa về hoạt động mua bán nợ theo Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN
ngày21/12/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định như sau:
Mua, bán nợ là việc chuyển nhượng khoản nợ, theo đó, bên bán nợ chuyển giao
quyền chủ nợ của khoản nợ cho bên mua nợ và nhận thanh toán từ bên mua nợ.
5
Nói cách khác, hoạt động mua bán nợ là quan hệ hợp đồng mua bán gồm hai chủ
thể chính, là bên mua nợ và bên bán nợ. Đối tượng của Hợp đồng mua bán nợ là các
khoản nợ Tổ chức tín dụng đã cho khách hàng vay nay được chuyển quyền chủ nợ từ
bên bán nợ sang bên mua nợ. Bên bán nợ nhận thanh toán từ bên mua nợ. Việc bán nợ
có thể theo nguyên tắc có truy đòi hoặc không có truy đòi. Quyền đòi nợ sau khi
chuyển giao có thể tiếp tục mua đi bán lại trên thị trường hoặc có thể chuyển thành tài
sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp hoặc làm tài sản bảo đảm khi thực hiện nghĩa
vụ. Đối với nợ có tài sản bảo đảm, việc chuyển nhượng quyền đòi nợ bao gồm cả
chuyển nhượng các quyền, lợi ích gắn với bảo đảm của khoản nợ như quyền phát mại
tài sản thế chấp, cầm cố, quyền yêu cầu bên bảo lãnh trả nợ thay…
1.1.2 Đặc điểm mua bán nợ
Các khoản nợ được mua, bán: là khoản nợ ngân hàng hoặc các khoản nợ thương
mại, có thể là khoản nợ trong chuẩn hoặc khoản nợ dưới chuẩn.
Bên bán nợ là tất cả các cá nhân, tổ chức có nhu cầu bán nợ
Bên mua nợ là các tổ chức và cá nhân có nhu cầu mua khoản nợ từ bên bán nợ, để
trở thành chủ sở hữu mới của khoản nợ.
Bên nợ là các tổ chức, cá nhân có khoản nợ được mua, bán.
Bên môi giới là các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng làm chức năng trung gian,
dàn xếp việc mua, bán nợ giữa các bên mua, bán nợ và được hưởng phí dịch vụ
môi giới theo thỏa thuận;
Giá trị khoản nợ được mua, bán là tổng giá trị nợ gốc, nợ lãi (kể cả lãi phạt) và các
chi phí khác liên quan đến khoản nợ (nếu có) tại thời điểm mua, bán nợ.
Giá mua, bán nợ là số tiền bên mua nợ phải thanh toán cho bên bán nợ theo hợp
đồng mua, bán nợ.
Bán nợ có truy đòi là việc mua, bán nợ mà bên bán nợ cam kết bảo đảm khả năng
thanh toán khoản nợ của bên nợ và thỏa thuận với bên mua nợ trong thường hợp
bên nợ không trả nợ khi đến hạn thanh toán, thì bên mua nợ có quyền truy đòi
thanh toán khoản nợ đối với bên bán nợ, bên bán nợ phải chịu trách nhiệm thanh
toán khoản nợ đó cho bên mua nợ.
6
Hợp đồng mua, bán nợ là văn bản thỏa thuận giữa bên mua nợ, bên bán nợ và các
bên có liên quan (nếu có) về việc mua bán nợ, chuyển quyền chủ nợ từ bên bán nợ
sang bên mua nợ và các thỏa thuận khác liên quan.
1.2 Cơ sở lý luận về thị trường mua bán nợ
1.2.1 Thị trường mua bán nợ
Thị trường mua bán nợ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các khoản nợ trên
thị trường tài chính và được phân ra thành 2 loại như sau:
* Thị trường mua bán nợ sơ cấp: là hoạt động mua bán nợ giữa chủ nợ và các nhà
đầu tư mua nợ; các bên tham gia gồm có bên bán nợ, khách nợ và bên mua nợ.
* Thị trường mua bán nợ thứ cấp: là hoạt động mua bán các khoản nợ giữa các nhà
đầu tư trên thị trường; các bên tham gia trên thị trường bao gồm có bên bán nợ, khách
nợ, bên mua nợ và các nhà đầu tư mua bán nợ.
1.2.2 Các bên tham gia mua bán nợ trên thị trường
Mua bán nợ là việc chuyển quyền đòi nợ từ chủ thể bán nợ (chủ nợ cũ) sang chủ
thể mua nợ (chủ nợ mới). Công ty mua nợ đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro về
không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của khách nợ. Từ đó hình thành một quan
hệ tài chính liên quan tới ba bên gồm bên mua nợ, bên bán nợ và khách nợ. Chi tiết các
bên tham gia vào hoạt động mua bán nợ gồm:
1.2.2.1 Tổ chức tín dụng và Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
*Các tổ chức tín dụng và ngân hàng đầu tư:
Hầu hết các Ngân hàng thương mại tham gia bán nợ và một phần mua nợ nhằm
tái cơ cấu danh mục đầu tư, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đặc biệt, khi hoạt
động tín dụng của các ngân hàng mang nhiều rủi ro cao, tỷ lệ nợ xấu lớn thì việc phát
triển nghiệp vụ mua bán nợ của Ngân hàng thương mại nhằm thu hồi vốn ngay tăng
tính thanh khoản, giảm thiểu rủi ro tín dụng. Trong khi đó, các ngân hàng đầu tư lại là
những người mua nợ chủ yếu trên thị trường do có kinh nghiệm và kỹ năng trong
ngành tài chính.
* Các công ty mua quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc TCTD:
7
Nhằm tái cơ cấu các Ngân hàng, tránh sự sụp đổ của hệ thống Ngân hàng, chính
phủ các nước đều cho phép thành lập thêm các công ty mua bán nợ, xử lý nợ nhằm
mua lại các khoản nợ xấu của Ngân hàng. Các công ty này có thể trực thuộc Ngân
hàng thương mại (tiếp nhận, mua bán nợ từ chính các Ngân hàng thương mại này) hoặc
trực thuộc Chính phủ (tiếp nhận, mua bán nợ từ tất cả các Ngân hàng). Việc tạo ra các
công ty này nhằm mua bán, xử lý nợ để Ngân hàng có thể tập trung vào hoạt động kinh
doanh nòng cốt của mình. Còn các công ty sau khi mua nợ của Ngân hàng sẽ tập trung
vào xử lý khoản nợ thông qua hoàn thiện hồ sơ khoản nợ, bán tài sản bảo đảm, cơ cấu
lại nợ hoặc chuyển nợ thành vốn góp hoặc tiếp tục bán lại nợ.
1.2.2.2 Các công ty đầu tư, quản lý quỹ
Các Công ty này tham gia mua nợ nhằm tái cơ cấu, đánh bóng khoản nợ và tiếp
tục bán lại các khoản nợ này một lần nữa. Mặt khác, các công ty đầu tư mua nợ nhằm
chuyển thành chủ nợ lớn nhất có tính chi phối tại doanh nghiệp hoặc chuyển nợ thành
vốn góp doanh nghiệp.
1.2.2.3 Các cá nhân, tổ chức mua nợ
Đối với các chủ thể này, việc mua nợ với giá chiết khấu và thu đòi đủ toàn bộ
khoản nợ từ khách nợ là hoạt động kinh doanh chính. Đối với các cá nhân tổ chức này,
lợi nhuận được hình thành từ phần chênh lệch giữa giá mua nợ và giá trị thu đòi từ
khoản nợ. Đây là các công ty có nghiệp vụ thu nợ tốt, có thông tin khách hàng, có kỹ
thuật đánh giá khách hàng và đánh giá khoản nợ. Từ đó, họ có thể đưa ra giá mua
khoản nợ đảm bảo khoản nợ có khả năng thu hồi và thu nợ có lợi nhuận.
1.2.3 Vai trò của hoạt động mua bán nợ đối với thị trường vốn
Theo Giáo Sư Peter S.Rose (Mỹ), ảnh hưởng của mua bán nợ đối với thị trường
vốn được thể hiện qua sơ đồ sau:
Ngân hàng thương mại Thị trường vốn, thị trường tiền
Thu nhập bán nợ
Các cá nhân và tổ chức đầu tư mua khoản nợ hay khoản phải thu từ khoản nợ.
Bán các khoản nợ
hoặc khoản phải thu tệ Tổng dư nợ tín dụng trên sổ sách giảm xuống khi bán nợ các HĐTD. Ngân hàng có thể có thu nhập từ việc bán các khoản vay. Biểu đồ 1.1. “Ảnh hưởng của mua bán nợ đối với thị trường vốn”
8
Như vậy, việc mua bán nợ làm luân chuyển vốn trên thị trường. Ngân hàng có thể
huy động vốn từ thị trường thông qua việc bán các khoản nợ của mình. Các tổ chức
mua nợ thì mua các khoản nợ này và coi đó là các khoản đầu tư mới của mình. Nhiều
ngân hàng phát triển mảng kinh doanh các khoản nợ thậm chí còn hơn nghiệp vụ cho
vay truyền thống. Từ chứng khoán hóa các khoản nợ, các nhà đầu tư chuyển sang mua
bán các khoản nợ quốc gia của các nước đang phát triển. Người mua các khoản nợ này
là những công ty, tổ chức đầu tư có kinh nghiệm, am hiểu tình hình phát triển, kinh tế
của các nước này. Việc mua các khoản nợ này đều đem lại lợi nhuận lớn do tình hình
kinh tế của các nước này hồi phục hoặc do chính phủ các nước này mua lại khoản nợ
của họ.
Tuy nhiên, tại Mỹ những năm qua, chứng kiến sự sụp đổ của thị trường tài chính
do việc mua bán các khoản nợ có kèm tài sản bảo đảm là bất động sản. Các Ngân hàng
bán nợ khi bán thường là bán những khoản nợ có vấn đề hoặc thậm chí không nắm
được tình trạng khoản nợ đó. Các tổ chức mua nợ thì ngược lại, do tin tưởng vào khả
năng thu nợ từ tài sản bảo đảm là bất động sản nên cũng không chú trọng đến khả năng
thu nợ từ khách hàng. Khi xảy ra bong bóng bất động sản những năm 2007-2009 tại
Mỹ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ. Các tổ chức tín dụng cho vay mua
nhà không thu được nợ. Điều này đã gây ra khủng hoảng thị trường tín dụng thứ cấp
(thị trường mua bán nợ) tại Mỹ. Tác động của nó làm cho hàng loạt ngân hàng bị phá
sản, mua lại, sáp nhập. Các thị trường chính có quan hệ mật thiết với Mỹ cũng bị ảnh
hưởng theo gây ra suy thoái kinh tế, giảm tăng trưởng và khủng hoảng nợ
1.2.4. Xác định giá trong các giao dịch mua bán nợ trên thị trường
Cùng với quá trình phát triển của hoạt động mua bán nợ, các nhà nghiên cứu về
kinh tế và tài chính đã cố gắng đưa ra rất nhiều các mô hình khác nhau về định giá
khoản nợ. Bản thân các ngân hàng thương mại, các công ty tham gia mua bán nợ cũng
xây dựng cho mình những nguyên tắc riêng để xác định giá trị khoản nợ giao dịch. Tuy
nhiên, việc xác định giá trị khoản nợ được mua bán cần được phân chia làm 2 loại cơ
bản là khoản nợ đạt chuẩn và khoản nợ dưới tiêu chuẩn.
9
+ Đối với khoản vay nằm trong diện đạt chuẩn: bên mua và bán xác định giá trị theo
nguyên tắc thẩm định cấp tín dụng thông thường. Mặc dù vậy, vẫn có những khoản
khác biệt nhất định so với thẩm định cấp tín dụng thông thường vì điều khoản về lãi
suất đã được quy định sẵn trong hợp đồng vay vốn được giao dịch. Thông thường, tùy
theo các yếu tố thuận lợi hay không thuận lợi về mức lãi suất trong hợp đồng so với
mức lãi suất thị trường tại thời điểm giao dịch cũng như kỳ vọng về lãi suất cho đến
khi khoản vay đáo hạn mà giá trị giao dịch có thể cao hơn hay thấp hơn giá trị sổ sách
của khoản vay.
+ Đối với các khoản nợ dưới tiêu chuẩn: việc xác định giá trị là một thách thức lớn cho
cả bên mua và bên bán. Thông thường, các phương pháp thẩm định cấp tín dụng rất
khó áp dụng thành công trong trường hợp này. Vì vậy, đa số các bên sẽ sử dụng
phương pháp xác định giá trị hiện tại của dòng tiền có khả năng thu hồi nợ trong tương
lai kết hợp với việc định giá tài sản đảm bảo và đánh giá khả năng thu hồi phát mãi tài
sản nếu cần.
Việc xác định dòng tiền thu hồi nợ trong tương lai đòi hỏi phải có khả năng thẩm
định tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn, tình
hình công nợ của khách hàng. Bên cạnh đó, các thông tin phi tài chính cũng cần được
thẩm tra như thái độ hợp tác của khách hàng trong việc trả nợ, tình hình lãnh đạo của
doanh nghiệp, các dự án có thể tác động xấu đến hoạt sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Đối với các khoản vay có đảm bảo bằng tài sản, việc xác định hiện trạng, hồ sơ
pháp lý, giá trị sử dụng cũng như tính thanh khoản của tài sản rất quan trọng. Nếu tình
hình tài chính của khách hàng xấu thì tài sản đảm bảo chính là cơ sở quan trọng nhất
trong việc định giá khoản nợ được mua bán cho phù hợp.
Có thể nói việc định giá tài sản là cơ sở quan trọng để các bên mua bán nợ có thể
tham gia giao dịch và giao dịch thành công. Tuy nhiên, giá trị giao dịch thực tế còn
phụ thuộc vào kỹ năng đàm phán và tình hình của các bên tại thời điểm diễn ra giao
dịch.
10
1.2.5 Các phương thức thực hiện mua bán nợ trên thị trường
* Bán đấu giá thông qua Trung tâm bán đấu giá
Trường hợp này Trung tâm bán đấu giá tiếp nhận hồ sơ khoản nợ bao gồm hồ sơ
tín dụng, hồ sơ tài sản bảo đảm, thông tin khách nợ... và tổ chức bán đấu giá. Thông tin
bán nợ được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các khách hàng có nhu
cầu mua nợ nộp hồ sơ mua nợ tại Trung tâm bán đấu giá và bỏ giá mua. Khoản nợ sẽ
bán cho bên trả giá cao nhất.
* Chủ nợ tự bán đấu giá
Chủ nợ có khoản nợ cần bán có thể tự thực hiện việc bán nợ, không cần qua
Trung tâm bán đấu giá. Tổ chức bán nợ có thể thông báo trên báo, đài, website về việc
bán nợ của mình. Các khách hàng mua nợ có thể liên lạc với bên bán nợ để tìm hiểu
thông tin về khoản nợ định bán. Trình tự, thủ tục bán nợ thực hiện như bán nợ thông
qua Trung tâm bán đấu giá.
* Các bên mua, bán nợ thông qua môi giới
Các bên có nhu cầu mua bán nợ có thể thông qua bên môi giới để tìm kiếm người
mua, người bán các khoản nợ phù hợp với yêu cầu của mình đề ra. Bên môi giới sẽ là
người trung gian nhằm thực hiện hoàn thiện yêu cầu của các bên đưa ra nhằm đảm bảo
việc mua bán nợ thành công.
* Các bên mua, bán nợ tự thỏa thuận việc mua bán nợ
Trong một số trường hợp đặc biệt, các khoản nợ của các công ty mang tính chất
đặc thù chỉ có các công ty cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh
doanh mới quan tâm đến việc mua nợ của các công ty này nhằm mở rộng phát triển sản
xuất hoặc sử dụng tài sản bảo đảm từ khoản nợ phục vụ mục đích riêng của họ. Chỉ các
công ty này có nhu cầu mua nợ và khoản nợ chỉ có thể bán cho các công ty này. Do
vậy, các bên mua, bán nợ tự làm việc, tự thỏa thuận với nhau để thực hiện việc mua,
bán nợ.
Như vậy, hoạt động mua bán nợ đã trải qua thời gian dài, dưới nhiều hình thái
khác nhau để phát triển hoàn thiện cho đến ngày nay. Hoạt động mua bán nợ đã hỗ trợ
rất nhiều trong hoạt động kinh doanh tài chính ngân hàng với những ưu điểm vượt trội
11
của nó. Chính từ những lợi ích này mà các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ rất
đa dạng từ các ngân hàng, tổ chức tài chính đầu tư, quản lý quỹ thực hiện nghiệp vụ
đầu tư đến các công ty kinh doanh mua bán nợ, các công ty thực hiện nghiệp vụ thu đòi
nợ. Nghiệp vụ mua bán nợ còn được chia thành nhiều hình thức mua bán nợ khác nhau
nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong giao dịch mua bán nợ. Tuy nhiên, ngoài những lợi
ích hoạt động mua bán nợ đem lại, hoạt động này cũng phát sinh những rủi ro cho các
bên tham gia. Do vậy, việc xác định giá mua bán nợ phải căn cứ trên giá trị vật chất
của khoản nợ cũng như các lợi ích và rủi ro tiềm năng của giao dịch để xác định.
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến mua bán nợ trên thị trường
Các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường này gồm có thể xem xét đến các yếu tố
vốn, trình độ nhân viên năng lực của các chủ thể tham gia mua bán nợ, khung pháp lý,
các chính sách định hướng phát triển của thị trường mua bán nợ của quốc gia.
1.3.1 Nguồn vốn
Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng hoạt động mua bán nợ là nguồn vốn. Việc có
nguồn vốn đủ mạnh sẽ giúp cho các công ty tham gia mua bán nợ chủ động hơn trong
các giao dịch.
1.3.2 Trình độ năng lực các chủ thể tham gia trên thị trường mua bán nợ
Trình độ năng lực chuyên môn của các chủ thể tham gia trên thị trường mua bán
nợ sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động mua bán nợ. Trên thực tế, mặc dù xác định khoản
nợ là một loại hàng hoá được giao dịch trên thị trường nhưng pháp luật về thẩm định
giá lại không có quy định cụ thể nào về việc định giá khoản nợ. Vì vậy, trình độ
chuyên môn và kinh nghiệm của các nhân viên cán bộ chuyên trách thực hiện định giá
các khoản nợ sẽ đóng vai trò chủ đạo để thúc đẩy hoạt động mua bán nợ diễn ra nhanh
hơn, hiệu quả hơn.
1.3.3 Khung pháp lý
Một khung pháp lý hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có cơ sở
thực hiện hoạt động mua bán nợ như các quy định về phạm vi mua, bán nợ; phương
thức mua, bán nợ; quyền và nghĩa vụ các bên tham gia quan hệ mua, bán nợ; quản lý
và xử lý tài chính đối với khoản nợ mua, bán… Ngược lại, nếu khung pháp lý chưa
12
hoàn chỉnh, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, sẽ dẫn đến nhiều trường hợp tổ
chức tín dụng cũng như các bên liên quan còn gặp lúng túng khi thực hiện bán nợ
chẳng hạn như vấn đề định giá nợ, cấp hoá đơn trong hoạt động mua bán nợ, hạch toán
kế toán v.v.. làm hạn chế sự phát triển của thị trường mua, bán nợ.
1.3.4 Tâm lý của các chủ thể tham gia mua bán nợ
Tâm lý e ngại, sợ trách nhiệm của các chủ thêm tham gia mua bán nợ làm cho thủ
tục bán nợ trở nên chậm chạp hơn, chẳng hạn như việc yêu cầu đăng thông báo công
khai một cách máy móc hoặc yêu cầu bắt buộc phải có một bên thứ ba độc lập định giá
bán nợ… Những thủ tục này trong một số trường hợp là cần thiết để bảo đảm tính
khách quan minh bạch nhưng nếu vận dụng thiếu linh hoạt thì lại gây chậm trễ, làm
mất cơ hội bán nợ thành công.
1.3.5 Chính sách định hướng của chính phủ
Tùy thuộc vào các chính sách hiện hành về định hướng phát triển thị trường mua
bán nợ của một quốc gia sẽ làm cho hoạt động mua bán nợ trên thị trường có xu hướng
phát triển hay trì trệ.
1.4 Hoạt động mua bán nợ của các tổ chức tín dụng và các rủi ro
1.4.1 Hoạt động mua bán nợ của các tổ chức tín dụng
Hoạt động mua bán nợ gồm một số loại cơ bản sau:
* Bán nợ theo hình thức bán nợ một phần (Participation loan): Bên mua nợ sẽ mua
một phần dư nợ của hợp đồng vay. Hợp đồng vay vẫn được ký giữa ngân hàng cho vay
và bên nợ. Bên mua nợ mới sẽ không tham gia vào Hợp đồng tín dụng. Bên mua phải
chịu rủi ro nếu ngân hàng cho vay bị phá sản hoặc người đi vay không có khả năng trả
nợ. Bên mua phải theo sát cả ngân hàng bán nợ và cả người vay.
* Bán nợ theo hình thức chuyển nhượng khoản nợ từ chủ nợ cũ sang chủ nợ mới
(Assignment): Ngân hàng sở hữu khoản vay chuyển cho người mua. Bên mua nợ có
quyền trực tiếp đối với người đi vay liên quan đến khoản vay. Như vậy, người đi vay
cũng đồng ý việc bán khoản vay trước khi nó được chuyển nhượng.
* Bán nợ theo hình thức chia nhỏ từng phần (Loan strip): Ngân hàng chia khoản nợ dài
hạn, nhiều kỳ hạn trả nợ thành nhiều phần nợ ngắn hạn với mỗi khoản nợ là một hoặc
13
hai kỳ trả nợ. Bên mua nợ sẽ mua một trong những phần nợ ngắn hạn đó và nhận tiền
khi đáo hạn gồm gốc và lãi của những các kỳ hạn nợ đã mua. Với loại này, ngân hàng
vẫn chịu rủi ro đối với phần nợ chưa bán còn lại và vẫn phải dành một phần vốn của
mình để hỗ trợ cho kỳ hạn nợ chưa bán cho đến khi chúng đáo hạn thanh toán.
* Bán nợ không truy đòi: Bên mua nợ sẽ tự chịu trách nhiệm trong việc thu đòi nợ từ
khách nợ. Nếu có rủi ro phát sinh, bên mua nợ sẽ tự chịu tổn thất do không thu đòi
được nợ/ không phát mại được tài sản bảo đảm, thế chấp mà không thể đòi lại nó từ
Ngân hàng bán nợ.
* Bán nợ có truy đòi: Có thể Ngân hàng bán nợ đồng ý hoàn trả cho bên mua nợ những
khoản nợ không thể thu hồi. Tức là, bên mua có một hợp đồng quyền bán (put option)
cho phép họ bán các khoản nợ kém chất lượng lại cho ngân hàng bán nợ. Hợp đồng
này bắt buộc cả người bán và người mua chia sẻ rủi ro vỡ nợ. Ngày nay, cam kết hoàn
trả (recourse agreement) không còn phổ biến trong thị trường nợ vì như vậy các ngân
hàng bán nợ vẫn phải có dự trữ cho các khoản vay đã bán có cam kết hoàn trả và các
khoản nợ này như vậy vẫn được coi là một phần trong bảng tổng kết tài sản của Ngân
hàng. Ngân hàng bán nợ có thể bị bắt buộc phải nhận lại các khoản nợ kém chất lượng
khi đã bán cho tổ chức mua nợ.
1.4.2 Rủi ro chủ yếu trong hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng
Theo Palour và Plantin (2008) có 03 trường hợp điển hình mà một tổ chức tín
Trường hợp 1: Tổ chức tín dụng bán khoản nợ mà họ đánh giá là khoản nợ xấu
dụng sẽ xem xét bán các khoản cho vay của mình:
Trường hợp 2: Tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản hay khó khăn về
hoặc có nguy cơ xấu (người mua nợ có thể biết hoặc không biết thông tin này).
Trường hợp 3: Tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản hay khó khăn về
tài chính buộc phải bán khoản nợ dù biết đó là khoản nợ tốt.
tài chính buộc phải bán những khoản nợ mà họ không có lợi thế về thông tin của
người vay.
Trong cả ba trường hợp trên, luôn tiềm ẩn rủi ro đối với cả người bán nợ và người
mua nợ cũng như có thể ảnh hưởng dây chuyền đến thị trường tài chính nói chung nếu
14
quy mô giao dịch lớn và liên quan tới nhiều tổ chức. Về cơ bản có một số các rủi ro
chủ yếu sau:
* Rủi ro do mất cân xứng thông tin: Rủi ro này đặc biệt liên quan tới các giao dịch mua
bán khoản nợ không có truy đòi. Bán nợ là nghiệp vụ trong đó các ngân hàng kinh
doanh bằng năng lực của mình xác định được khả năng thanh toán của người đi vay và
bán khả năng này cho các nhà đầu tư khác. Đặc thù của hoạt động mua bán nợ là ngân
hàng kiểm soát người vay và có thể nắm rõ sự thành công hay thất bại của dự án.
Trong khi đó các nhà đầu tư(người mua nợ) không thể biết chính xác ngân hàng có che
dấu rủi ro tiềm ẩn của dự án hay không. Vì đó là những thông tin mang tính nội bộ
(Palour và Platin, 2008).
* Rủi ro đạo đức: Mặt khác các khoản nợ khi được bán từ ngân hàng này sang ngân
hàng hoặc chủ nợ khác thì sẽ tiềm ẩn rủi ro từ chính hoạt động cho vay trực tiếp với
khách hàng do ngân hàng bán khoản tín dụng khi thẩm định ban đầu có thể không đầu
tư nhiều vào đánh giá tình hình tài chính của người đi vay khi khoản nợ có thể nhanh
chóng chuyển sang một chủ nợ khác. Đây là vấn đề về rủi ro đạo đức và nó đã phần
nào phản ánh tại cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 xuất phát từ khủng
hoảng nợ dưới chuẩn và các công cụ chứng khoán hóa. Do vậy, khi mua các khoản vay
có sẵn, các tổ chức mua nợ phải xem xét tình hình tài chính không chỉ của những
khách hàng vay vốn và cả tình hình tài chính, trình độ quản trị cũng như uy tín của tổ
chức tín dụng bán nợ.
* Rủi ro trong việc xác định giá trị khoản nợ: Việc xác định giá trị giao dịch của khoản
nợ có thể đem lại rủi ro và thiệt hại về tài chính cho cả bên bán nợ và bên mua nợ. Như
liệt kê ở trên, trong ba trường hợp mua bán nợ điển hình, trường hợp nào cũng xuất
hiện rủi ro về giá. Trường hợp thứ nhất, rủi ro nhiều khả năng thuộc về tổ chức mua nợ
do vấn đề thông tin không cân xứng. Tổ chức mua nợ có thể đánh giá sai mức độ rủi ro
của khoản nợ dẫn đến việc trả giá quá cao cho khoản nợ, và khi khoản nợ trở nên xấu
hơn, thiệt hại tài chính của bên mua là đáng kể. Tuy vậy, trong trường hợp này, tổ chức
bán nợ vẫn có rủi ro nếu có những đánh giá quá bi quan về khoản nợ dẫn tới việc chấp
nhận giá bán quá thấp cho khoản nợ. Trường hợp thứ hai, rủi ro rõ ràng thuộc về tổ
15
chức bán nợ do sức ép về vấn đề tài chính nội tại có thể dẫn đến phải bán rẻ các khoản
nợ tốt. Trường hợp thứ ba thì rủi ro cũng thiên về tổ chức bán nợ do không có đủ thông
tin về tình hình khách hàng vay cũng như khó khăn về tài chính dẫn đến việc bán nợ
với giá trị thấp hơn giá trị thực của khoản nợ. Ngoài ra, việc mua bán nợ còn có một số
rủi ro khác như rủi ro pháp lý, rủi ro thay đổi tình hình nền kinh tế,…
1.5. Hiệu quả của việc mua bán nợ
1.5.1 Hiệu quả theo thành phần kinh tế
- Đối với các tổ chức tín dụng, công ty mua bán nợ
Nghiệp vụ mua bán nợ sẽ giúp các Ngân hàng thay đổi danh mục đầu tư, thay đổi
quy mô các khoản cho vay, thực hiện xử lý nợ xấu, nợ tồn đọng và làm gia tăng thu
nhập cho Ngân hàng. Mua bán nợ nhằm xử lý nợ xấu trong Ngân hàng cũng rất phổ
biến do thời gian xử lý nhanh và dứt điểm được khoản nợ, tiết kiệm được các chi phí
cũng như thời gian quản lý và thu đòi nợ xấu, thu hồi được vốn và nâng cao kết quả
kinh doanh.
Việc mua bán nợ sẽ làm giảm các tài sản có mức rủi ro cao của ngân hàng và tăng
cường vốn cho ngân hàng. Nó giúp cho các ngân hàng hạn chế rủi ro, giảm chi phí
vốn, tăng cường đa dạng hóa đầu tư do các khoản cho vay cũ, rủi ro đã được thay bằng
các khoản cho vay mới.
Đối với các tổ chức tín dụng công ty mua nợ, đây sẽ là một cơ hội đầu tư có chi
phí thấp nhưng thu nhập trong tương lai sẽ rất khả quan.
-Đối với doanh nghiệp
Việc mua bán các khoản nợ có vấn đề giúp tái cơ cấu, làm lành mạnh hóa tình
hình tài chính của doanh nghiệp, DN sẽ được giãn nợ, tránh khỏi bị phá sản, không
những vậy doanh nghiệp còn có thể được tiếp cận nguồn vốn mới để tiếp tục duy trì
sản xuất và hồi phục phát triển.
-Đối với thị trường vốn
Việc bán các khoản nợ sau đó đầu tư vào các tài sản khác có tính thanh khoản cao
hơn như chứng khoán chính phủ, làm tăng khả năng thanh khoản của ngân hàng, đáp
ứng tốt nhu cầu rút tiền gửi và chi trả tiền mặt. Như vậy, việc mua bán nợ làm luân
16
chuyển vốn trên thị trường. Ngân hàng có thể huy động vốn từ thị trường thông qua
việc bán các khoản nợ của mình.
Thực tế, trên thế giới đã cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của nghiệp vụ mua bán
nợ và được xem là một kênh đầu tư, huy động vốn của các tổ chức tín dụng trên thị
trường.
-Đối với nền kinh tế
Thị trường mua bán nợ phát triển sẽ làm cho các khoản tín dụng của ngân hàng
trở nên thanh khoản hơn tạo điều kiện cho các ngân hàng nhanh chóng thu hồi vốn để
đầu tư vào các cơ hội kinh doanh tốt hơn cũng như tăng cơ hội phòng ngừa các cú sốc
tiêu cực của nền kinh tế.
Về mặt xã hội, việc mua lại các khoản nợ này có thể các DN vượt qua nguy cơ
lâm vào tình trạng phá sản, giúp một lượng lớn lao động tại các DN tránh được thất
nghiệp. Điều này rất quan trọng đối với việc đảm bảo an sinh xã hội trong sự phát triển
chung của nền kinh tế.
- Đối với các cơ quan nhà nước
Việc các doanh nghiệp được cứu thoát sẽ giữ lại cho nhà nước một nguồn thu lớn
trong tương lai thông qua thuế. Thực vậy, trong bất cứ nền kinh tế nào đều có sự đóng
góp rất lớn của khối doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà các DN này rất dễ ảnh hưởng tiêu
cực từ cú sốc của nền kinh tế nên rất dễ dẫn đến phá sản. Nếu các doanh nghiệp này
vượt qua được khó khăn tài chính tạm thời, chính là động lực thúc đẩy nền kinh tế,
đóng góp rất lớn vào ngân sách quốc gia, đồng thời tạo ra nhiều việc làm cho xã hội.
1.5.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả mua bán nợ của các tổ chức tín dụng
Theo Saunders (2000), các giao dịch mua bán nợ giữa các ngân hàng là cốt lõi
của thị trường mua bán nợ đặc biệt là giao dịch giữa các ngân hàng có quan hệ đại
lý với nhau. Lý do các ngân hàng mua lại nợ của các ngân hàng khác là muốn đa
dạng hóa danh mục các khoản vay, tại Mỹ trong những năm 80 và đầu những năm
90 thế kỷ 20, các ngân hàng bị hạn chế trong việc thực hiện cung cấp dịch vụ ngân
hàng trên toàn quốc, do vậy việc mua bán nợ sẽ giúp cho các ngân hàng có được sự
đa dạng vị trí địa lý đối với các danh mục đầu tư tín dụng của mình. Ngày nay, các
17
giao dịch mua bán nợ giữa các ngân hàng vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ do việc
mua bán nợ đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng. Hiệu quả của việc mua bán nợ của
các TCTD được đánh giá ở các chỉ tiêu say đây :
• Giảm tỷ lệ nợ xấu
Việc bán các khoản nợ có vấn đề giúp tái cơ cấu ngân hàng, làm lành mạnh
hóa tình hình tài chính của ngân hàng, đồng thời giúp giảm thiểu được rủi ro tín
Hỗ trợ thanh khoản, khơi thông nguồn vốn cho TCTD
dụng, việc bán các khoản nợ xấu sẽ giúp làm giảm tỷ lệ nợ xấu của các TCTD.
Việc bán các khoản nợ sau đó đầu tư vào các tài sản khác có tính thanh khoản
cao hơn như chứng khoán chính phủ, làm tăng khả năng thanh khoản của ngân
hàng, đáp ứng tốt nhu cầu rút tiền gửi và chi trả tiền mặt. Khi bán nợ, số tiền thu về
từ bán nợ làm tăng thêm nguồn vốn khả dụng của ngân hàng, tạo ra sự luân chuyển
vốn nhịp nhàng trong nền kinh tế. Theo Greenspan (2004) thị trường mua bán nợ
phát triển sẽ làm cho các khoản tín dụng của ngân hàng trở nên thanh khoản hơn
tạo điều kiện cho các ngân hàng nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư vào các cơ
hội kinh doanh tốt hơn cũng như tăng cơ hội phòng ngừa các cú sốc tiêu cực của
nền kinh tế.
• Tăng thu nhập từ hoạt động mua bán nợ
Các TCTD có thể tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc khởi tạo các khoản vay và
nhanh chóng bán lại các khoản vay này và nhanh chóng bán lại các khoản vay này
để thu về các khoản phí hoặc chênh lệch, thông thường là các khoản nợ của các
khách hàng được đánh giá là chất lượng khá trở lên. Bằng cách này, các ngân hàng
có thể tăng thêm thu nhập từ nghiệp vụ mua bán nợ.
• Đa dang hóa danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro
Việc bán các khoản cho vay cũ, rủi ro đã được thay bằng các khoản cho vay
mới. Các ngân hàng mua nợ cũng có thể đa dạng hóa danh mục cho vay, mở
rộng danh mục cho vay sang các lĩnh vực mới bên ngoài lĩnh vực truyền thống.
18
1.6 Hệ thống pháp luật về hoạt động mua bán nợ
16.1 Khái quát chung quy định pháp lý về hoạt động mua bán nợ trên thế giới
Hoạt động mua bán nợ trên thế giới đã tồn tại hơn 100 năm và phát triển mạnh
mẽ từ những năm 80, các giá trị khoản nợ giao dịch trên thị trường thế giới cũng rất
lớn. Vì vậy các quy định mua bán nợ các nước trên thế giới cũng được ban hành khá
chặt chẽ và bài bản nhất là các quốc gia có thị trường mua bán nợ lâu đời trên thế giới
như Mỹ, Anh...Nghiên cứu một số luật về mua bán nợ tại một số nước trong khu vực,
chúng ta có thể hình dung phần nào về khung pháp lý mua bán nợ trên thế giới hiện
nay như:
+ Tại trung quốc : Năm 2000 Trung quốc ban hành các quy định pháp lý riêng cho
quản lý tài sản, ưu đãi chính sách, định giá, tố tụng, thuế trong hoạt động mua bán
nợ… nhằm nhanh chóng xử lý nợ xấu của các ngân hàng trong một thời gian ngắn,
ngăn chặn khủng hoảng và nguy cơ phá sản các ngân hàng, đây cũng chính là tạo cơ
hội cho thị trường mua bán nợ phát triển mạnh mẽ.
+ Hàn Quốc: Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành một đạo luật riêng về mua bán nợ để
chuyên môn hóa xử lý nợ xấu của các Ngân hàng. Ngoải ra Hàn Quốc đã ban hành
nhiều đạo luật khác nhau quy định cách thức, phương án xử lý nợ xấu như : luật về đấu
thầu quốc tế, luật về chứng khoán hóa có tài sản bảo đảm, luật về thành lập công ty có
mục đích đặc biệt, luật về tái cơ cấu theo thỏa thuận…, hành lang pháp lý về mua bán
nợ của Hàn quốc khá đầy đủ và chặt chẽ, tạo tiền đề tốt cho sự phát triển của thị
trường mua bán nợ trong nước
+ Malaysia: chính phủ Malaysia ban hành một đạo luật riêng dành cho công ty xử lý nợ
tồn đọng gọi là Luật Danaharta. Luật này quy định cụ thể rõ ràng chức năng quyển hạn
của công ty xử lý nợ như: quyền tiếp nhận, thu hồi nợ tồn đọng: Được trao quyền
hợp pháp quyền thu hồi, tiếp nhận các khoản nợ; Được can thiệp vào ngân hàng đối
với tài sản kê biên; Có quyền mua khoản nợ; có quyền đưa ra toàn án xử lý. Vì vậy
hoạt động mua bán nợ để xử lý nợ xấu của Malaysia đã đạt được nhiều kết quả khả
quan.
19
+ Thái Lan: ban hành Nghị định TAMC (TAMC Emergency Decree B.E. 2544) với
mục đích duy nhất là xử lý triệt để vấn đề nợ xấu cho tất cả các TCTD.
16.2 Khái quát về khung pháp lý cho hoạt động mua bán nợ của Việt nam
Hệ thống văn bản pháp luật quy định về mua bán nợ tại Việt Nam đã được ban
hành từ năm 1999, theo quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN ban hành ngày 19/04/1999
quy định về quy chế mua bán nợ của các tổ chức tín dụng và hiện nay đã được thay thế
bởi Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006. Hoạt động về mua bán nợ tại
Việt Nam hiện nay vẫn phải tuân thủ theo các quy định chung của hoạt động kinh
doanh thương mại, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán nợ tại Việt
nam hiện nay như: Luật Dân sự năm 2005, Luật doanh nghiệp 2005, Luật các tổ chức
tín dụng năm 2010, Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam về ban hành Quy chế Mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng.
Hiện nay ngoài quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN quy định về hoạt động mua bán nợ
thì Việt Nam vẫn chưa có văn bản luật quy định cụ thể rõ ràng dành riêng cho hoạt
động mua bán nợ.
1.7 Hoạt động mua bán nợ tại một số nước trên thế giới
1.7.1 Hoạt động mua bán nợ trên thế giới nói chung
Tại những thị trường tài chính hàng đầu thế giới như Mỹ, Châu Âu, các công ty
kinh doanh chuyên mua bán nợ được hình thành từ khá sớm và tích lũy được nhiều
kinh nghiệm trong quản lý nợ khó đòi của các công ty. Họ tạo ra một thị trường nợ rất
sôi động có thể mang lại nhiều lợi nhuận, đồng thời cung cấp nhiều giải pháp chuyên
môn hoá cho cả chủ nợ lẫn khách nợ. Hoạt động bán các khoản cho vay không chỉ
được sử dụng như tài sản thế chấp trong hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút
các nguồn vốn mới mà chúng còn có thể bán cho các tổ chức cho vay khác. Việc bán
các khoản cho vay được thực hiện từ các Ngân hàng lớn nhất sau đó mở rộng tới tất cả
các Ngân hàng với các quy mô khác nhau. Người mua các khoản cho vay chủ yếu là
Ngân hàng nhằm mục đích kiếm một vị trí chắc chắn trong thị trường nội địa hoặc các
công ty bảo hiểm, công ty phi tài chính, các quỹ tương hỗ (ví dụ các quỹ tập trung mua
các khoản nợ có vấn đề) và các Ngân hàng đầu tư lớn (Goldmen Sachs, Merrill
20
Lynch). Người bán chủ yếu là các ngân hàng trung tâm (Bankers Trust Corp, Bank of
America), các Ngân hàng nước ngoài (ING Bank).
Thị trường mua bán các khoản cho vay phát triển mạnh mẽ và tăng giá nhanh
trong suốt những năm 80 khi làn sóng mua bán, sáp nhập công ty diễn ra. Thị trường
này ở Mỹ phát triển gấp 10 lần trong những năm 80 và giảm mạnh trong những năm 90
khi hoạt động sáp nhập và mua lại các công ty dần ổn định và Ngân hàng liên bang thắt
chặt quy định.
Tiếp theo đó, vào những năm 90 thị trường bán nợ phát triển là thị trường nợ của
các nước thế giới thứ 3. Các khoản nợ của Argentina, Brazil, Mehico, Peru, Philippines
và một số nước thứ ba khác được bán với tỷ lệ chiết khấu cao do các công ty, ngân
hàng hoạt động lâu năm có kinh nghiệm về nước đi vay mua. Nhiều công ty mua nợ
của thế giới thứ ba thu được khoản lời lớn do tình hình quốc gia được cải thiện hoặc do
chính phủ nước đó mua lại khoản nợ của mình.
Từ năm 1995 đến năm 2010 đã ghi nhận được chính thức hơn 590.000 thương vụ
MA trên thế giới, với tổng giá trị giao dịch tương đương trên 46.400 tỷ USD. Năm
1999-2000 và năm 2007 được xem là đỉnh điểm của các thương vụ MA trên thế giới.
Mức tăng trưởng hàng năm đạt 3%/năm về số lượng và 5.6% về giá trị. Năm 2011
được xem là năm sôi động với những thương vụ MA lớn trên toàn cầu.
Ngày nay hoạt động mua bán nợ đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ do các
ngân hàng có yêu cầu chặt chẽ hơn về các khoản cho vay của mình, yêu cầu cao về
quản trị rủi ro tín dụng. Đặc biệt đây là một trong những biện pháp hữu hiệu để kiểm
soát nợ xấu. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997, xuất phát từ Châu Á, hoạt động
mua bán nợ để xử lý nợ xấu phần lớn đã được các quốc gia quan tâm đặc biệt. Một số
nền kinh tế mới nổi đã sử dụng biện pháp này để vượt qua cuộc khủng hoảng một cách
ngoạn mục là Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan… Đây đều là những quốc
gia Châu Á, có chung nhiều đặc điểm với nền kinh tế của Việt Nam. Việc mua bán nợ
tại các quốc gia này chủ yếu là sử dụng các công ty mua bán nợ trực thuộc nhà nước,
mua lại các khoản nợ xấu của các ngân hàng quốc doanh, hoặc các ngân hàng lớn có
21
ảnh hưởng đến nên kinh tế, sau đó thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp. Sau đây là một
số kinh nghiệm chính về mua bán nợ tại các quốc gia này.
1.7.2 Kinh nghiệm mua bán nợ các nước
1.7.2.1 Kinh nghiệm mua bán nợ tại Trung Quốc [1]
Sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ Châu Á nói chung và ở Trung
Quốc nói riêng, thì nợ xấu các ngân hàng thương mại nhà nước ở Trung Quốc là rất
lớn và có nguy cơ ngày càng tăng nhanh, nếu không được xử lý khả năng dẫn đến phá
sản hệ thống các ngân hàng. Chính vì vậy Chính phủ Trung Quốc đã quyết định thành
lập 04 công ty quản lý nợ xấu để tiếp nhận và xử lý nợ xấu của 04 ngân hàng thương
mại nhà nước tương ứng.
*Hoạt động mua bán nợ để xử lý nợ xấu ở Trung Quốc có 2 hình thức:
+ Chuyển giao nợ theo quyết định của Chính phủ: Chính phủ quyết định bàn giao các
khoản nợ xấu của các Ngân hàng thương mại cho các Công ty quản lý và giải quyết nợ
xấu đảm bảo thu hồi nợ cao nhất.
+ Mua bán nợ theo thỏa thuận trên thị trường thông quan hình thức đấu thầu: các
khoản nợ xấu của các Ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp được bán theo giá thỏa
thuận, cạnh tranh trên thị trường.
*Về thanh toán tiền mua nợ cho các ngân hàng:
+ Đối với các Ngân hàng thương mại Nhà nước khi bàn giao các khoản nợ xấu cho các
Công ty quản lý nợ được Ngân hàng Nhà nước ghi giảm số nợ tương ứng vay ngân
hàng trung ương.
+ Đối với các khoản nợ mua trên thị trường thanh toán bằng nguồn vốn công ty hoặc
vốn vay từ Ngân hàng Trung ương Trung Quốc với lãi suất ưu đãi.
*Về khả năng thu hồi các khoản nợ của các Ngân hàng sau khi đã tiếp nhận:
+ Đây cũng là một điểm mới trong cơ chế xử lý nợ của Trung Quốc. Tương ứng với
các khoản nợ của các Ngân hàng khi bàn giao cho các Công ty xử lý nợ xấu được Nhà
1 A.Vũ, Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Trung Quốc < http://vef.vn/2012-06-29-kinh-nghiem-xu-ly-no-xau-cua-
trung-quoc
nước định ra một tỷ lệ thu hồi nợ khác nhau.
22
*Về định giá và giá mua các khoản nợ:
Đối với khoản nợ có tài sản bảo đảm: Các Công ty quản lý nợ tự định giá hoặc
thuê một tổ chức độc lập có chức năng định giá để định giá giá trị tài sản bảo đảm. Căn
cứ vào giá trị tài sản bảo đảm để xác định giá mua, bán khoản nợ. 1.7.2.2. Kinh nghiệm mua bán nợ tại Hàn Quốc [2]
Do được coi là mô hình xử lý nợ xấu thành công nên có nhiều quốc gia đến học
tập kinh nghiệm. Sau đây là một số kinh nghiệm xử lý nợ xấu bằng biện pháp mua bán
nợ tại Hàn Quốc:
+ Hàn Quốc xử lý nợ xấu trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính đã tác động làm
nền kinh tế Hàn Quốc suy thoái, hàng loạt các tập đoàn kinh tế Hàn Quốc lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn cho các ngân hàng. Vì thế, Công ty Quản lý
Tài sản Hàn Quốc (KAMCO) đã được Chính Phủ chuyển đổi thành công ty thuộc
Chính phủ theo một đạo luật riêng để chuyên môn hóa về xử lý nợ xấu của các Ngân
hàng. Đồng thời, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành nhiều đạo luật khác nhau quy định
cách thức, phương án xử lý nợ xấu (như luật về đấu thầu quốc tế, luật về chứng khoán
hóa có tài sản bảo đảm, luật về thành lập công ty có mục đích đặc biệt, luật về tái cơ
cấu theo thỏa thuận…) để tạo môi trường pháp lý cho việc xử lý nợ xấu của KAMCO
nói riêng và của các định chế tài chính nói chung.
Như vậy, Hàn Quốc chỉ xử lý nợ xấu của các ngân hàng chứ không xử lý nợ xấu
của các doanh nghiệp, đây là điểm khác với cách tiếp cận của Việt Nam. Môi trường
pháp lý của Hàn Quốc đã được xây dựng và khá hoàn thiện trong một thời gian rất
ngắn để hỗ trợ việc xử lý nợ xấu. Đối với Việt Nam môi trường pháp lý được coi là
tương đối sơ sài trong vấn đề xử lý nợ xấu và mua bán nợ.
KAMCO tiếp nhận nợ xấu để xử lý không theo cơ chế mua bán thỏa thuận mà
theo chương trình của Chính phủ và yêu cầu của ngân hàng có nợ: Nếu nợ xấu có tài
sản bảo đảm giá mua KAMCO trả chỉ khoảng 30% giá trị nợ xấu, nếu nợ xấu không có
2 Đinh Tuấn Minh, mua bán nợ xấu, kinh nghiệm từ mô hình Kamco của Hàn Quốc trên Tạp chí sài gòn tiếp thị
bảo đảm, giá mua chỉ từ 1-3% giá trị nợ.
23
+ Hàn Quốc rất coi trọng tính thành công của xử lý nợ xấu trong giai đoạn đầu triển
khai vì đây là yếu tố quyết định hướng đi và mức độ thành công của cả chương trình
xử lý nợ xấu được Chính phủ chỉ đạo. Vì thế, do chưa có kinh nghiệm và thị trường
mua bán nợ còn sơ khai nên Hàn Quốc đã kêu gọi các nhà đầu tư chuyên về mua và xử
lý nợ xấu của Mỹ như Lone Star, Goldman Sachs, Morgan Stanley tham gia… Chính
những nhà đầu tư nước ngoài này đã mang đến kinh nghiệm, kỹ năng và đi tiên phong
trong tạo dựng thị trường xử lý nợ xấu cho Hàn Quốc. Đây là nhân tố đầu tiên tạo nên
sự thành công trong xử lý nợ xấu của Hàn Quốc.
1.7.2.3 Kinh nghiệm mua bán nợ tại Malaysia [3]
Khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nợ tồn đọng của các ngân hàng tại
Malaysia là rất lớn, có nguy cơ tăng nhanh, nếu không được xử lý khả năng các ngân
hàng này sẽ bị mất khả năng thanh khoản và dẫn đến phá sản có tính dây chuyền ảnh
hưởng đến cả nền kinh tế Malaysia. Do vậy Malaysia đã thành lập Công ty xử lý nợ
(Danaharta) và các tổ chức hỗ trợ trong việc xử lý nợ và tái cơ cấu lại nợ.
*Hoạt động xử lý nợ của Malaysia có hai hình thức:
+ Chuyển giao nợ theo quyết định của Chính phủ: đối với các trường hợp sáp nhập các
ngân hàng, Chính phủ phải xử lý các khoản nợ tồn đọng trước. Khi đó Chính phủ quyết
định bàn giao các khoản nợ tồn đọng của các ngân hàng cho DN mua bán nợ xử lý.
+ Mua bán nợ theo thỏa thuận: Doanh nghiệp chịu trách nhiệm mua bán nợ sẽ mua các
khoản nợ tồn đọng của các Ngân hàng theo giá thỏa thuận. Đối tượng là các Ngân hàng
thương mại nhà nước, ngân hàng tư nhân, tổ chức tài chính. Có thể mua một phần
khoản nợ hoặc mua toàn bộ khoản nợ.
*Về thanh toán tiền mua nợ các tổ chức tín dụng:
Đối với các ngân hàng khu vực hồi giáo, Doanh nghiệp ưu tiên thanh toán bằng tiền
mặt. Đối với các ngân hàng còn lại, sẽ phát hành trái phiếu trả lãi sau, thời hạn khoảng
3 Anh Danh, Bài viết kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Malaysia
5 năm có bảo lãnh của chính phủ để thanh toán tiền mua nợ của các ngân hàng.
24
*Về xử lý các khoản nợ đã tiếp nhận hoặc đã mua:
+ Phương thức xử lý mềm dẻo, linh hoạt: đây là hướng xử lý ưu tiên, áp dụng đối với
những khoản nợ có thể xử lý được, chủ yếu thông qua phương pháp thu hồi nợ.
Phương pháp này đòi hỏi phải có thống nhất, hợp tác của khách nợ.
+ Phương án cứng rắn: nếu khách nợ không đưa ra được phương án khả thi theo
phương thức xử lý mềm dẻo thì áp dụng biện pháp mạnh kê biên tài sản để xử lý.
Phương pháp này áp dụng gồm: tịch biên tài sản (bao gồm bán tài sản hoặc cổ phiếu đã
cầm cố).
1.7.2.4 Kinh nghiệm mua bán nợ của Thái Lan [4]
Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Thái Lan dựa trên các AMC có thể chia thành 02
thời kỳ: phân tán và tập trung, trong đó mô hình phân tán có sự tham gia của cả AMC
sở hữu nhà nước (hỗ trợ bởi FIDF) và các AMC sở hữu bởi ngân hàng tư nhân được áp
dụng lần lượt năm 1998 và 1999; còn mô hình AMC tập trung dựa trên sự thành lập
của Công ty quản lý tài sản Thái Lan (TAMC) vào năm 2001.
AMC phân tán – kết hợp giữa định hướng nhà nước và định hướng thị trường
Mô hình AMC phân tán được áp dụng theo cách mỗi ngân hàng thành lập AMC
riêng và nợ xấu của các ngân hàng sẽ được chuyển sang những AMC đó. Tuy nhiên,
giải quyết nợ xấu thông qua mô hình AMC phân tán đã không thành công khi nợ xấu ở
các AMC của ngân hàng tư nhân gần như không xử lý được.
AMC tập trung – theo định hướng nhà nước
Năm 2001, Thái Lan thành lập một công ty quản lý tài sản tập trung có tên Thai
Asset Management Corporation (TAMC). TAMC thực hiện phát hành trái phiếu có
thời hạn 10 năm với sự đảm bảo của FIDF để mua nợ xấu. Tài sản được chuyển giao sẽ
định giá theo giá trị tài sản bảo đảm. Việc xử lý nợ xấu sẽ dựa trên nguyên tắc chia sẻ
lời – lỗ giữa TAMC và các TCTD bán nợ. Nếu nợ xấu có thể sinh lời thì ngân hàng
bán nợ sẽ được hưởng 80% phần lợi nhuận, còn nếu nợ xấu tạo lỗ thì ngân hàng đó sẽ
phải chịu 20% khoản lỗ ấy. Các giải pháp được thực hiện theo thứ tự ưu tiên như sau:
4 Hoàng Trà My, bài viết Kinh nghiệm xử lý nợ xấu ở Thái Lan
< http://finance.tvsi.com.vn/News/2012621/205955/kinh-nghiem-xu-ly-no-xau-o-thai-lan.aspx>
25
+ Đối với các khoản vay thuộc ngành bất động sản: TAMC đã phối hợp chặt chẽ
với Cơ quan Nhà ở Quốc Gia (National Housing Authority) để chọn lọc các dự án còn
nhiều tiềm năng và cơ quan này sẽ hỗ trợ phát triển và quản lý bán dự án.
+ Đối với các khoản nợ trong khu vực sản xuất: TAMC tập trung giải quyết vấn đề
nợ xấu của 13 nhóm mục tiêu của Chính phủ, trong đó đặt trọng tâm vào các ngành
thiết yếu phát triển kinh tế cũng như mang lại những cơ hội việc làm và giá trị kinh tế
cao.
+ Đối với các doanh nghiệp vay nợ đang giao dịch trên Sàn Chứng khoán Thái Lan
(Stock Exchange of Thailand – SET), TAMC phối hợp với SET để phát triển các kế
hoạch tái cơ cấu và khôi phục lại giá trị cổ phiếu một số doanh nghiệp dẫn đầu ngành,
qua đó sẽ có hiệu ứng tích cực cho các doanh nghiệp nhỏ hơn thuộc ngành đó.
Tóm lại, một đặc điểm chung của 4 công ty xử lý nợ ở Châu Á là tất cả đều
được Chính phủ tài trợ vốn và được tổ chức tập trung hơn là sử dụng một mô hình chỉ
dựa vào ngân hàng. Mô hình công ty quản lý tài sản tập trung mang tính khả thi cao do
nhiều ngân hàng không đủ nguồn lực để tự tái cấu trúc các khoản nợ xấu khổng lồ của
mình thông qua các đơn vị trực thuộc hay các công ty con của ngân hàng.
1.7.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Tổng kết kinh nghiệm xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng của các nước trên thế giới cho thấy các nước thường triển khai theo những hướng
cơ bản như sau:
- Hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ thông qua việc bơm vốn: phương pháp hỗ trợ trực
tiếp từ Chính phủ cho các ngân hàng và định chế tài chính khác nhằm đối phó với
khủng hoảng.
- Thành lập công ty quản lý tài sản (Asset Management Company - AMC)/công ty
mua bán nợ để thu mua nợ xấu: cơ quan này sẽ đứng ra mua lại các khoản nợ xấu
ngân hàng, sau đó xử lý để bán lại các khoản nợ đã mua này.
- Tạo cơ chế thỏa thuận xử lý nợ xấu giữa các TCTD và bên đi vay: làm trung gian
cho các chủ nợ (ở đây là các TCTD) và các doanh nghiệp đi vay thương lượng
26
phương án xử lý nợ dưới nhiều hình thức như thanh lý tài sản, gia hạn hợp đồng,
điều chỉnh một số điều khoản của hợp đồng.
Trên đây là hoạt động mua bán nợ để xử lý nợ xấu tại một số quốc gia láng
giềng có đặc điểm nền kinh tế thị trường tương đối giống với nước ta. Từ quá trình
phát triển của nghiệp vụ mua bán nợ và thực tế xử lý nợ của các Quốc gia trên, có thể
rút ra các bài học kinh nghiệm cho việc mua bán nợ để xử lý nợ xấu của Việt Nam như
sau:
*Về hệ thống pháp lý: Chính phủ Việt nam nên ban hành hệ thống pháp lý đặc thù
dành riêng cho hoạt động mua bán nợ như chính phủ Hàn Quốc, Trung Quốc đã thực
hiện. Ví dụ ở Hàn Quốc đã ban hành một đạo luật riêng để chuyên môn hóa về xử lý
nợ xấu của các Ngân hàng, quy định luật về đấu thầu quốc tế, luật về chứng khoán hóa
có tài sản bảo đảm, luật về tái cơ cấu theo thỏa thuận; hoặc ở Trung Quốc đã ban hành
luật riêng cho Công ty mua bán nợ quốc qua, luật quản lý tài sản, ưu đãi chính sách,
quy định định giá, luật tố tụng, thuế…
*Về vấn đề xử lý nợ: tình hình nợ xấu hiện nay của Việt Nam cũng khá tương đồng
với các nước trên, vì vậy chính phủ Việt nam cũng có thể áp dụng các giải pháp mua
bán nợ xử lý nợ xấu đã được thực hiện rất thành công ở Thái Lan, Malaysia..
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này, tác giả đã giới thiệu các khái niệm về mua bán nợ, các
phương thức, các nhân tố ảnh hưởng của hoạt động mua bán nợ, các rủi ro và hiệu
quả của mua bán nợ đối với nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của tổ chức
tín dụng nói riêng. Trên đây là tổng quan về hoạt động mua bán nợ, là phần lý
thuyết chung quan trọng và cần thiết để nghiên cứu về hoạt động mua bán nợ tại
Vietcombank. Chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về tình hình mua bán nợ tại Việt nam và
thực trạng hoạt động mua bán nợ của Vietcombank ở phần 2 sau đây.
27
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI VIETCOMBANK
2.1 Thực trạng hoạt động mua bán nợ và thị trường mua bán nợ tại Việt Nam
2.1.1 Cơ sở pháp lý của hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam
Hệ thống văn bản pháp luật quy định về mua bán nợ tại Việt Nam đã được ban
hành từ năm 1999, theo quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN ban hành ngày
19/04/1999, quy định về quy chế mua bán nợ của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên
quy chế này đã được thay thế bởi Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày
21/12/2006.
Hiện nay chính phủ Việt Nam chưa ban hành các quy định riêng cho hoạt
động mua bán nợ, khung pháp lý của hoạt động mua bán nợ vẫn điều chỉnh theo
các Bộ Luật Dân sự năm 2005, Luật doanh nghiệp 2005, Luật Các tổ chức tín dụng
năm 2010 và các văn bản luật có liên quan khác. Các văn bản pháp lý điều chỉnh
hoạt động mua bán nợ Việt Nam hiện nay còn hạn chế. Chỉ quy định một cách
chung chung chứ chưa có hệ thống chi tiết nên tạo ra những cách hiểu và những ý
kiến khác nhau trong quá trình thực hiện.
Thực trạng về khung pháp lý hoạt động mua bán nợ
Khó khăn lớn nhất trong việc thực hiện hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam là
bị hạn chế bởi hành lang pháp lý. Chưa có quy định cụ thể rõ ràng cho hoạt động
mua bán đặc thù này, vì vậy các tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua bán nợ rất e ngại
khi thực hiện nghiệp vụ này. Điển hình sau đây là một số vướng mắc về pháp lý
trong hoạt động mua bán nợ của Công ty DATC:
Thứ nhất, là về cơ chế xoá nợ. Hiện nay Bộ Tài chính chưa có hướng dẫn cụ
thể về xoá nợ như thế nào đối với các khoản nợ tiếp nhận không còn khả năng thu
hồi. Muốn tái cấu trúc DN thì phải xử lý tồn tại cũ, làm lành mạnh hoá tài chính
nhưng hiện nay để làm được điều này phải xin ý kiến của Bộ Tài chính, chứ Công ty
mua bán nợ không tự quyết được, dẫn đến việc kéo dài thời gian.
Thứ hai là cho vay bảo lãnh. Quy định hiện hành không cho phép Công ty mua
bán nợ cho vay bảo lãnh. Trong khi đó hầu như các DN bán nợ đều trong tình trạng
28
sắp phá sản. Nếu không “bơm” tiền vào thì DN không thể hoạt động và cũng không
thể tái cấu trúc bởi lúc này DN không thể đi vay ngân hàng.
Thứ ba, là quy trình hướng dẫn thủ tục thoả thuận hiện rất chung chung nên
thường kéo dài. Bộ Tài chính cần phải có hướng dẫn cụ thể, tránh tình trạng mỗi nơi
hiểu một kiểu.
Thứ tư, là lợi thế đất đai. Khi xác định giá trị DN để thực hiện chuyển đổi sở
hữu DN nhà nước thì phần lớn đối với các DN khách nợ, giá trị đất đai thường
chiếm tỷ trọng cao, nhưng do vướng về việc định giá đất đai nên chưa chuyển đổi
được. Nếu tính giá đất theo thị trường thì không được phép và khó xác định, nếu
tính theo khung giá của nhà nước thì rất thấp.
Thứ năm, là vướng ở quy định luật phá sản năm 2004. Theo quy định tại điều
43, các giao dịch như tặng cho bất động sản, thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn,
các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp hoặc hợp tác xã...
trong khoảng thời gian 3 tháng trước ngày tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thụ tục phá
sản thì bị coi là vô hiệu. Vậy nếu doanh nghiệp nộp đơn xin phá sản đồng thời các
tổ chức tín dụng bán khoản nợ của doanh nghiệp cho bên mua nợ trong thời gian 03
tháng trước ngày tòa thụ lý hồ sơ phá sản DN, thì các khoản nợ được chuyển giao
trong thời gian này cũng bị xem như vô hiệu.
Nếu như có được cơ chế thông thoáng thì các công ty mua bán nợ được hoạt
động theo mô hình DN đúng nghĩa thì có thể cứu được nhiều DN sẽ giúp được rất
nhiều cho nền kinh tế như: thu hồi vốn về cho Nhà nước, tạo việc làm cho người lao
động, tạo nguồn thu thuế cho Nhà nước... Nhưng do chưa có các quy định rõ ràng
nên ảnh hưởng rất lớn đến việc thu nợ, vừa tốn thời gian, mất cơ hội và tăng chi phí.
2.1.2 Sự hình thành hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam:
Từ năm 2000, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm nâng cao
trách nhiệm và quyền chủ động của doanh nghiệp trong việc xử lý các khoản nợ và
tài sản tồn đọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh như: trích lập các
khoản dự phòng, chủ động thanh lý nhượng bán tài sản không cần dùng, chờ thanh
lý, tổn thất được hạch toán vào doanh nghiệp được bù đắp…Chính phủ đã thành lập
29
ban thanh toán công nợ từ Trung ương đến các địa phương để tổ chức và chỉ đạo
thanh toán công nợ của các doanh nghiệp Nhà nước.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp lành mạnh hoá tình hình tài chính, tạo điều kiện để
thúc đẩy tiến trình sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
Nhà nước. Năm 2003 Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp
(DATC) đã được thành lập Theo quyết định số 109/2003/QĐ – TTg ngày
05/06/2003 của Thủ tướng Chính phủ, với mục tiêu xử lý các khoản nợ tồn đọng và
tài sản không cần dùng, chờ thanh lý, vật tư ứ đọng kém, mất phẩm chất, góp phần
lành mạnh hoá tình hình tài chính doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình sắp xếp và
chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước.
Ngày 21/12/2006, Thống đốc đã Ban hành Quy chế mua, bán nợ của các tổ
chức tín dụng kèm theo Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN. Quyết định này thay
thế Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 ngày 19/4/1999 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước. Quy chế mới quy định hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín
dụng (kể cả các tổ chức có nhiệm vụ thực hiện mua, bán nợ trực thuộc tổ chức tín
dụng) được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng, đối với các
khoản nợ mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay.
Việc ban hành Quy chế mua, bán nợ với nhiều thay đổi được đánh giá là một
bước đột phá, mở ra một thị trường mới đầy tiềm năng đối với hoạt động mua bán
nợ tại Việt Nam. Từ khi ban hành Quy chế mua bán nợ kể trên, một số NHTM cũng
đã thành lập công ty quản lý và khai thác tài sản (AMC) ngoài nhiệm vụ quản lý,
khai thác tài sản, xử lý nợ xấu còn có chức năng mua bán nợ nhưng cũng chỉ hoạt
động giới hạn trong việc mua, bán đối với các khoản nợ mà tổ chức tín dụng cho
khách hàng vay, chứ chưa được phép mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực
mua, bán nợ của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trong xã hội. Vì vậy, có thể nói
DATC là đơn vị duy nhất có chức năng chuyên về mua bán và xử lý nợ xấu của các
TCTD và doanh nghiệp hiện nay, tuy nhiên hiện Công ty này cũng chỉ hoạt động
mua bán nợ chủ yếu trong khu vực doanh nghiệp nhà nước hoặc mua nợ theo chỉ
định của Thủ Tướng.
30
2.1.3 Thực trạng thị trường mua bán nợ tại Việt Nam.
* Thị trường mua bán nợ sơ cấp
Hiện Việt Nam đang trong giai đoạn đầu hình thành thị trường mua bán nợ sơ
cấp, hoạt động chủ yếu là mua nợ giữa các tổ chức tín dụng với DATC hoặc giữa
các tổ chức tín dụng với nhau. Theo số liệu báo cáo cáo của DATC, trị giá giao dịch
mua bán nợ sơ cấp giữa DATC với các tổ chức tín dụng đến năm 2010 đạt khoảng
11.000 tỷ VND.
* Thị trường mua bán nợ thứ cấp
Tại Việt Nam thị trường mua bán nợ thứ cấp vẫn chưa được hình thành, với
nhu cầu mua bán nợ ngày càng cao trên thị trường, việc hình thành thị trường mua
bán nợ thứ cấp trong tương lai là xu thế tất yếu đáp ứng nhu cầu thị trường.
2.1.3.1 Các bên tham gia mua bán nợ
Mua bán nợ là việc chuyển quyền đòi nợ từ chủ thể bán nợ (chủ nợ cũ) sang
chủ thể mua nợ (chủ nợ mới). Công ty mua nợ đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro
về không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của khách nợ. Từ đó hình thành một
quan hệ tài chính liên quan tới ba bên gồm bên mua nợ (ngân hàng, tổ chức tài
chính), người bán nợ và khách nợ. Chi tiết các bên tham gia vào hoạt động mua bán
nợ gồm:
Tổ chức tín dụng và Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
*Các tổ chức tín dụng và ngân hàng đầu tư:
Hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc
trong thời gian qua. Theo số liệu thống kê từ ngân hàng nhà nước tính đến nay tại
Việt nam có 40 ngân hàng TMCP trong đó có 5 NHTMNN, 14 NHNN và chi nhánh
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, 6 ngân hàng liên doanh, 2 ngân hàng chính
sách : NH chính sách XH và Ngân hàng Phát triển Việt Nam, ngoài ra còn có các
quỹ tín dụng và một số các công ty tài chính.
Hầu hết các Ngân hàng thương mại tham gia bán nợ và một phần mua nợ
nhằm tái cơ cấu danh mục đầu tư, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đặc biệt, khi
hoạt động tín dụng của các ngân hàng mang nhiều rủi ro cao, tỷ lệ nợ xấu lớn thì
31
việc phát triển nghiệp vụ mua bán nợ của Ngân hàng thương mại nhằm thu hồi vốn
ngay tăng tính thanh khoản, giảm thiểu rủi ro tín dụng.
* Các công ty mua quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc TCTD:
Mô hình công ty quản lý nợ và khai thác thác tài sản (AMC) được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt thành lập theo quyết định 150/2001/QĐ-TTg ngày 05/10/2001
với mục đích xử lý nợ tồn đọng của các NHTM. Công tác quản lý nợ và khai thác
tài sản luôn được các NHTM dành sự quan tâm đặc biệt. Nhu cầu thành lập AMC
để chuyên môn hoá việc quản lý nợ, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các khoản nợ của
NH là một nhu cầu thực tế và thiết yếu hiện nay.
Hiện Việt Nam có 27 AMC trực thuộc NHTM. Bên cạnh đó, có một số
NHTM đã được NHNN chấp thuận thành lập AMC nhưng AMC chưa chính thức đi
vào hoạt động (Habubank, VietABank, Vietbank, Seabank). Các AMC trực thuộc
NHTM hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên. Ngoài ra, có 1
AMC trực thuộc Bộ Tài chính là DATC và có khá nhiều công ty tư nhân/cổ phần
được thành lập nhằm thực hiện một số chức năng của AMC như: tư vấn thủ tục thu hồi nợ, xử lý nợ, đòi nợ…[5]
Theo số liệu thống kê AMC được thành lập theo thời gian và quy mô vốn điều
lệ , AMC đầu tiên được thành lập vào năm 1995 (Vietcombank AMC). Năm 2009 –
2010 là thời điểm có nhiều AMC được thành lập nhất. Phần lớn các AMC có vốn
điều lệ vào khoảng 50-100 tỷ đồng. Cụ thể:
5 Bùi Thị Hồng Thu , 2011, bài viết Tổng quan về Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của NHTM
Việt Nam trên website http://pgbankresearch.wordpress.com/2011/09/15>
Biểu đồ 2.1 “số lượng AMC được thành lập theo thời gian và quy mô vốn điều lệ” (Nguồn: FI – PG Bank)
32
Công ty độc lập được mua bán nợ
Hiện nay ở Việt Nam công ty độc lập được phép mua bán nợ chính thức chỉ có
Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) trực thuộc Bộ
Tài chính với nhiệm vụ chính là thực hiện mua bán nợ, tái cơ cấu doanh
nghiệp…Ngoài ra hiện nay cũng có khá nhiều công ty tư nhân/cổ phần được thành
lập nhằm thực hiện một số chức năng của AMC như: tư vấn thủ tục thu hồi nợ, xử
lý nợ, đòi nợ…
Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) được
thành lập Quyết định số 109/2003/QĐ - TTg ngày 05/06/2003, với vốn điều lệ ban
đầu 2.000 tỷ đồng. Năm 2010, Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh
nghiệp được chuyển đổi theo Quyết định số 1494/QĐ-BTC ngày 30/06/2010 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính. DATC được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật
Doanh nghiệp. Vốn điều lệ quy định theo thông tư số 79/2011/TT-BTC ban hành
ngày 08/06/2011 là 2.481 tỷ đồng.
Các công ty đầu tư, quản lý quỹ:
Các Công ty này tham gia mua nợ nhằm tái cơ cấu, đánh bóng khoản nợ và tiếp tục
bán lại các khoản nợ này một lần nữa. Mặt khác, các công ty đầu tư mua nợ nhằm
chuyển thành chủ nợ lớn nhất có tính chi phối tại doanh nghiệp hoặc chuyển nợ
thành vốn góp doanh nghiệp. Từ đó, nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp. Hiện nay,
nghiệp vụ này cũng đang rất phát triển tại Việt Nam, các vụ mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp đang dần phát triển tại thị trường Việt Nam. Từ năm 1995-2005, mỗi
năm chỉ có vài vụ MA, nhưng từ năm 2006 trở đi hoạt động mua bán sát nhập
doanh nghiệp bắt đầu diễn ra mạnh mẽ. Từ năm 1995-2010 đã ghi nhận được 1350
thương vụ MA của các công ty Việt Nam, giá trị mua bán đạt 7,8 tỷ USD. Nhìn
chung, các giao dịch diễn ra trầm lắng và lẻ tẻ trong suốt giai đoạn 1995-2004, từ
6 Thomson Financial , Institute of Mergers, Aquisitions and Alliances (IMMA) Bài báo M&A Việt Nam
trong năm 2011 trên báo đặc san của Báo đầu tư, tháng 06/2011, trang 68-71.
năm 2005 đến nay, các giao dịch MA bùng phát mạnh, tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 25,3% về số lượng và 61,9% về giá trị.[6]
33
Các cá nhân, tổ chức mua nợ:
Đối với các chủ thể này, việc mua nợ với giá chiết khấu và thu đòi đủ toàn bộ
khoản nợ từ khách nợ là hoạt động kinh doanh chính. Đối với các cá nhân tổ chức
này, lợi nhuận được hình thành từ phần chênh lệch giữa giá mua nợ và giá trị thu
đòi từ khoản nợ. Đây là các công ty có nghiệp vụ thu nợ tốt, có thông tin khách
hàng, có kỹ thuật đánh giá khách hàng và đánh giá khoản nợ. Từ đó, họ có thể đưa
ra giá mua khoản nợ đảm bảo khoản nợ có khả năng thu hồi và thu nợ có lợi nhuận
2.1.3.2 Thực trạng mua bán nợ
Số liệu về nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) chính thức được Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) công bố đầu tháng 7/2012 cho thấy: Nợ xấu của hệ thống
ngân hàng đến cuối tháng 3/2012 là hơn 202.000 tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ cấp tín dụng.[7]
Nếu không xử lý được nợ xấu thì thanh khoản của các ngân hàng sẽ bị ảnh
hưởng rất nặng nề, nền kinh tế mất đi một khoản vốn lớn không quay vòng được.
Đối với các DN, nếu nợ xấu ngân hàng lớn và kéo dài, doanh nghiệp sẽ không được
các NHTM tiếp tục cho vay, không có nguồn vốn để tiếp tục hoạt động, nguy cơ
dẫn đến doanh nghiệp bị phá sản, thất nghiệp gia tăng là gánh nặng cho nền kinh tế.
Nếu không có cơ chế tháo gỡ thì ngân hàng cũng khó khăn trong việc thu hồi vốn
đảm bảo nguồn vốn thanh khoản của mình. Do đó, việc xử lý nợ xấu hiện nay là
nhiệm vụ cấp bách để khôi phục năng lực cho các tổ chức tài chính và hỗ trợ doanh
nghiệp phục hồi sản xuất, tránh nguy cơ khủng hoảng và suy thoái kinh tế.
Với quy mô thị trường lớn như vậy, đây thực sự sẽ là một thị trường tiềm năng
của hoạt động mua bán nợ, tuy nhiên hiện nay hoạt động mua bán nợ trong nước
vẫn chủ yếu thuộc về DATC. Cũng đã có các giao dịch mua bán nợ giữa các tổ chức
tín dụng với nhau, nhưng chủ yếu là cơ cấu lại danh mục đầu tư và số lượng thực
7 Đỗ Hải, Bài Báo Nợ xấu tại Việt nam đăng trên tạp chí tài chính VN ngày 20/09/2012
hiện cũng không nhiều.
34
Ngoài ra, cũng vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nên việc tổ
chức tín dụng bán nợ của mình cho các tổ chức khác (không phải tổ chức tín dụng)
là khá khiêm tốn, chủ yếu là bán lại nợ cho các tổ chức có liên quan đến doanh
nghiệp đó (như các cổ đông của công ty mua lại nợ thông qua một bên thứ ba) hoặc
khoản nợ có tài sản bảo đảm tốt. Đối với các khoản mua bán này, số lượng ít, giá trị
tương đối thấp và do việc mua bán nợ là riêng lẻ của từng tổ chức tín dụng nên
không thể thống kê được.
Như vậy có thể nói, nhắc đến thị trường mua bán nợ tại Việt Nam hiện nay là
nhắc đến hoạt động mua bán nợ của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của
doanh nghiệp (DATC). Dưới đây là hoạt động mua bán nợ của DATC từ khi thành
lập đến nay. Qua việc tìm hiểu việc mua bán nợ của DATC có thể giúp hình dung
được phần lớn “bức tranh” về hoạt động của thị trường mua bán nợ tại Việt Nam
qua các năm qua.
Bảng 2.2 “Số liệu tổng hợp mua bán nợ và tái cơ cấu DN của DATC”
ĐVT: tỷ VND
Số lượng Khoản nợ Giá vốn mua nợ Chỉ tiêu giao dịch theo sổ sách
121 7.995 2.384 Mua bán nợ và TS
74 6.520 1.674 Tái cơ cấu DN
(Nguồn : tổng hợp số liệu từ DATC)
Bảng 2. 3 “Bảng số liệu mua bán nợ của DATC qua các thời kỳ”
ĐVT: Tỷ VND
Tổng DATC 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 cộng
-
-
-
Ký hợp đồng mua 9 93 13 20 135 bán nợ
DS mua bán nợ 18.82 131.9 905 341 525 102 360 2.384
(Nguồn : tổng hợp số liệu từ DATC)
35
Năm 2005: Hoạt động mua bán nợ của DATC chủ yếu là hoạt động mua bán nợ
theo chỉ định của Chính phủ. Còn hoạt động mua bán nợ theo thoả thuận chưa được
DATC chú trọng nhiều.
(i) Hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng theo chỉ định: DATC ký hợp đồng
mua 3 tài sản đảm bảo nợ theo chỉ định với ngân hàng Eximbank có giá trị 131 tỷ
đồng, đã bán đấu giá một phần tài sản với giá 212 tỷ đồng. Triển khai ký hợp đồng
mua nợ với ngân hàng Việt Hoa với 9 khoản nợ có giá trị 18,82 tỷ đồng, trong đó đã
thu hồi và giải chấp TSBĐ được 7 khách nợ có giá trị 19,7 tỷ đồng; Ký hợp đồng
mua 3 tài sản của Công ty XNK Ngũ Cốc, tổng giá trị là 133 tỷ đồng.
(ii) Hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng theo thoả thuận: DATC đã tiếp nhận
xử lý trên 160 hồ sơ, thu thập thông tin và làm việc với các bên liên quan, đánh giá
tình hình tài chính chủ nợ, khách nợ, đánh giá khả năng thu hồi nợ để xây dựng
phương án mua bán. DATC đã ký hợp đồng mua nợ theo thoả thuận với giá trị nhận
nợ phải thu 65 tỷ đồng,
Năm 2006 : Hoạt động mua bán nợ của DATC đã tập trung vào mua bán nợ theo
thoả thuận do đó tổng doanh số mua nợ theo thoả thuận đạt 131,9 tỷ đồng (doanh số
mua nợ theo chỉ thị chỉ đạt 9,6 tỷ đồng). Tổng doanh thu bán nợ của DATC đạt
268,9 tỷ đồng.
Năm 2007: Năm 2007 DATC mua bán nợ đã ký được 93 hợp đồng mua bán nợ và
tài sản tồn đọng với tổng giá trị theo sổ sách là 3.499 tỷ đồng, doanh số mua nợ
khoảng 905 tỷ đồng, đạt 144% so với kế hoạch năm 2007.
Năm 2008: Trước những chiều hướng xấu đi nhanh chóng trong nền kinh tế trong
nước và trên thế giới, DATC đã có những điều chỉnh kịp thời trong hoạt động mua,
bán, xử lý nợ. Tổng doanh thu xử lý nợ và tài sản đã đạt 341 tỷ đồng, bằng 102% kế
hoạch năm, góp phần đưa tổng số xử lý, thu hồi nợ dưới các hình thức( bao gồm cả
chuyển nợ thành vốn góp) cả năm 2008 đạt 468 tỷ đồng.
Năm 2009: Trong năm 2009, DATC đã cơ bản hoàn thành việc tiếp nhận nợ và tài
sản loại trừ khỏi giá trị doanh nghiệp khi CPH DNNN. Công ty đã tiến hành xử lý
số tài sản này tại 249 doanh nghiệp, giá trị thu hồi thực tế được 56,1 tỷ đồng (đạt
36
159,4% kế hoạch năm). Tổng doanh thu năm 2009 là 525,45 tỷ đồng (đạt 104,5%
kế hoạch năm), lợi nhuận trước thuế đạt khoảng 165 tỷ đồng (đạt 163,4 % so với kế
hoạch năm), số nộp ngân sách nhà nước là 85 tỷ đồng, đạt 170% kế hoạch năm.
Năm 2010: Trong hoạt động kinh doanh, năm 2010 này, tổng doanh thu của DATC
đã đạt gần 580 tỷ đồng, đạt 111,6% so với kế hoạch, tăng 11% so với thực hiện năm
2009. Trong hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng, do chủ động trong công
việc, năm 2010, DATC đã ký được 13 hợp đồng mua bán nợ tồn đọng với giá trị các
khoản nợ là 357,1 tỷ đồng, doanh số mua nợ là 101,4 tỷ đồng. Doanh thu từ hoạt
động mua bán nợ và tài sản là 393,6 tỷ đồng, đạt 107,4% so với kế hoạch năm 2010,
tăng 16,5% so với thực hiện năm 2009.
Năm 2011: Trong hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng, DATC đã ký được 20
hợp đồng mua nợ, giá trị sổ sách của khoản nợ là 1.095 tỷ đồng , doanh thu bán nợ
359,6 tỷ VND.Trong hoạt động mua nợ, xử lý thu hồi nợ thông qua tái cơ cấu doanh
nghiệp, năm 2011, Công ty đã xử lý tài chính, tái cơ cấu thành công được 12 DN
khách nợ, trong đó có 10 DN 100% vốn nhà nước và 2 Công ty cổ phần được cổ
phần hóa từ DNNN.
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch tài chính của DATC năm 2011 đạt
tổng doanh thu 578,6 tỷ đồng (đạt 109,2% so với kế hoạch năm 2011), trong đó
doanh thu từ hoạt động mua bán nợ và tài sản là 359,6 tỷ đồng, đạt 98,4% so với kế
hoạch; doanh thu từ xử lý tài sản và thu hồi nợ loại trừ đã tiếp nhận là 2,8 tỷ đồng,
đạt 140% so với kế hoạch; doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu khác là
216,2 tỷ đồng, đạt 133% so với kế hoạch; lợi nhuận trước thuế ước đạt 190 tỷ đồng,
đạt 127% so với kế hoạch, tăng 4% so với thực hiện năm 2011
Năm 2012:Và đầu năm 2012, DATC đã tham gia mua nợ Bình An, đây cũng là
doanh nghiệp tư nhân đầu tiên mà DATC bỏ vốn vào. Công ty cổ phần thuỷ sản
Bình An (Bianfishco) đang trong quá trình đàm phán nợ nần với các chủ nợ. Hai
chủ nợ là ngân hàng BIDV và ngân hàng Phát triển Việt Nam dự kiến xử lý món nợ
ở Bình An thành cổ phần để trở thành cổ đông công ty. Còn DATC đứng ra mua lại
nợ mà Bianfishco thiếu ngân hàng ACB và ngân hàng Việt Thái.
37
Hiện nay DATC đang tập trung mua bán nợ và xử lý tài sản các doanh
nghiệp thuộc tập đoàn và tổng công ty, như tổng công ty Dâu tằm tơ Việt Nam, tổng
công ty COMA, công ty cà phê Buôn Ma Thuột,các doanh nghiệp thuộc Vinashin…
Sắp tới, sau khi đã thực hiện mua nợ xử lý hết các khoản nợ của doanh nghiệp nhà
nước, DATC sẽ chuyển sang mua bán nợ doanh nghiệp tư nhân. Theo đó, các doanh
nghiệp khó khăn nằm trong lĩnh vực thủy sản, cà phê, nông sản, sản xuất hàng tiêu
dùng nằm trong mục tiêu mua nợ của DATC. Để phát huy hiệu quả xử lý nợ xấu
nhanh chóng, DATC sẽ mời các tập đoàn, tổng công ty tham gia, lĩnh vực nào mời
tập đoàn đó cùng tham gia để tái cơ cấu lại cho DN.
2.1.4 Đánh giá hiệu quả hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam trong thời gian
qua
Nhằm thúc đẩy việc sắp xếp lại hệ thống DN Việt Nam và mua nợ xấu của các
TCTD và doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã kiến nghị với Chính phủ thành lập DATC
- một định chế tài chính hạng đặc biệt. Hoạt động của chính DATC là nhận lấy cái
nợ để tiếp tục giải quyết nợ, giúp các DN có vướng mắc tài chính thoát khỏi tình
hình tài chính khủng hoảng, có nguy cơ phá sản. Nếu doanh nghiệp rơi vào tình
trạng phá sản thì sẽ dẫn tới mất vốn, mất tài sản, mất lao động, mất thương hiệu,
mất cơ sở sản xuất….. ảnh hưởng đến. Do đó, hoạt động của định chế tài chính
DATC là rất có ý nghĩa cứu các DN thoát khỏi tình trạng phá sản, góp phần giải
quyết việc làm bảo đảm đời sống xã hội.
Từ thực tế thống kê trên cho thấy, thực sự thị phần mua bán nợ tại Việt Nam
chủ yếu vẫn thuộc về DATC, vì vậy để đánh giá hiệu quả của mua bán nợ tại Việt
Nam, chúng ta có thể điểm qua một số hiệu quả hoạt động mua bán nợ của DATC
trong thời gian qua như sau:
* Đối với các tổ chức tín dụng
Đối với việc mua nợ từ các tổ chức tín dụng, từ thời điểm được thành lập năm
2003 đến 31/12/2010, DATC đã tiến hành mua bán nợ từ gần 10 tổ chức tín dụng
với tổng giá trị lên tới gần 11 nghìn tỷ đồng. Sau đây là tình hình mua bán nợ của
DATC trong 8 năm qua như sau:
38
Bảng 2.4: “Số liệu mua bán nợ giữa DATC và các TCTD”
STT
Tên chủ nợ
Nợ (triệu đồng)
Tổng
(triệu đồng)
Gốc
Lãi
1
Ngân hàng TMCP Công Thương VN
918.403
361.049
1.279.452
2
Ngân hàng Đầu từ và phát triển VN
1.986.536
842.871
2.829.407
3
Ngân hàng TMCP Ngoại thương VN
348.652
133.792
482.444
4
Ngân hàng NN&PT Nông thôn VN
871.233
254.964
1.126.197
5
Ngân hàng phát triển, Eximbank và các chủ nợ khác
4.171.782
1.098.808
5.270.590
Tổng cộng
8.296.606
2.691.484
10.988.090
(Nguồn : tổng hợp số liệu từ DATC)
* Đối với doanh nghiệp nợ
Theo thống kê của VCCI, năm 2011 cả nước có hơn 79.000 DN giải thể và ba
tháng đầu năm 2012, hơn 12.000 DN giải thể. Nhưng không ai có thể đưa ra một
con số rõ ràng, hoặc đưa ra dự đoán ước tính là đã có bao nhiều phần trăm trong số
các DN ngừng hoạt động, giải thể, có thể được giải cứu nếu có cơ may bán được nợ,
tái cơ cấu tài chính và tiếp tục vận hành trở lại.
Trong thời gian đã có nhiều trường hợp nhờ hoạt động mua bán nợ mà các
khoản nợ xấu của DN đã được giải quyết dứt điểm, giải quyết khó khăn tài chính
cho doanh nghiệp, có những trường hợp sau khi được giải cứu DN đã ăn nên làm ra
và ngày càng phát triển. Nhìn chung đa số các doanh nghiệp khách nợ đã có những
chuyển biến tích cực sau một thời gian ngắn được DATC xử lý tài chính và tái cơ
cấu: lợi nhuận đạt khá tốt, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động,
đóng góp thuế cho ngân sách địa phương, góp phần ổn định kinh tế xã hội trên địa
phương, Sau đây một số trường hợp điểm hình doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng
phá sản và hoạt động ngày càng phát triển:
Ví dụ 1: Công ty cổ phần Sadico Cần Thơ là doanh nghiệp nhà nước, được
DATC mua nợ và thực hiện tái cơ cấu chuyển đổi sở hữu tháng 6/2007 với mức vốn
điều lệ 50 tỷ đồng. Ngay 6 tháng cuối năm 2007 đơn vị này đã có lãi 9 tỷ đồng và cả
39
năm 2008 lãi 14,6 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước hơn chục tỷ đồng, giải quyết
việc làm cho 335 lao động
Ví dụ 2: Công ty cổ phần Procimex Việt Nam được DATC mua nợ và thực
hiện tái cơ cấu chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi sở hữu tháng 1/2008 với vốn điều lệ
30 tỷ đồng. Đơn vị này đã có lãi hơn 11 tỷ đồng ngay trong năm đầu tiên tái cơ cấu,
đồng thời đã thanh toán toàn bộ nợ gốc cho DATC, giải quyết việc làm cho trên 300
lao động
Ví dụ 3: Công ty cổ phần đường Sơn La sau khi được DATC mua nợ và thực
hiện tái cơ cấu chuyển đổi sở hữu từ tháng 1/2008 với vốn điều lệ 50 tỷ đồng. Năm
2008 đã đạt lợi nhuận trên 14 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 330 lao động trực
tiếp và 4000 hộ trồng mía là đồng bào dân tộc thiểu số, nộp ngân sách nhà nước 9 tỷ
đồng
Ví dụ 4: Công ty cổ phần mía đường Kon Tum sau khi được DATC tái cơ
cấu , chuyển đổi sở hữu tháng 7/2008 với mức vốn điều lệ 30 tỷ đồng, sau 6 tháng
hoạt động cuối năm 2008 đã có lãi 5,4 tỷ đồng, tạo việc làm cho 256 lao động trực
tiếp và hàng ngàn lao động gián tiếp trồng mía vùng đồng bào dân tộc Tây Nguyên,
nộp ngân sách nhà nước 4,1 tỷ đồng
Ví dụ 5: Công ty cổ phần Intimex Nha Trang , sau khi được DATC xử lý tài
chính đã hoàn tất chuyển đổi thành công công ty cổ phần tháng 12/2008 với vốn
điều lệ 25 tỷ đồng. Ngay sau khi chuyển đổi doanh nghiệp đã cơ bản hoàn thành
việc trả nợ cho DATC.
Trong hoạt động mua bán nợ và tài sản, từ năm 2004 tính đến tháng 06/2012,
DATC đã thực hiện tổng cộng 121 phương án mua bán nợ và tài sản, giá trị các
khoản nợ theo mệnh giá sổ sách kế toán là 7.994,9 tỷ VND, giá vốn mua nợ và tài
sản là 2.383,8 tỷ VND, tỷ lệ mua nợ và tài sản bình quân là 29,82%); đã thu hồi
được 2.384,9 tỷ VND, đạt tỷ lệ thu hồi vốn là 101,1% so với giá vốn.
Trong hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp, lũy kế từ năm 2007 đến 30/06/2012,
DATC đã mua nợ để tái cơ cấu cho 74 DN khách nợ, gồm 47 DN đã hoàn thành và
27 DN đang triển khai, với giá trị các khoản nợ theo sổ sách là 6.519,9 tỷ đồng, giá
40
vốn mua nợ là 1.647,3 tỷ đồng (tỷ lệ mua nợ bình quân là 25,3%), đã thu hồi được
1.535,8 tỷ đồng, tỷ lệ thu hồi đạt 93,2%.... đồng thời góp phần giải quyết được việc
nợ đọng thuế từ nhiều năm của Nhà nước với số tiền gần 200 tỷ đồng và nợ đọng
bảo hiểm xã hội với số tiền hơn 30 tỷ đồng.
Trong công tác tiếp nhận, xử lý tài sản và thu hồi nợ tồn đọng đã loại trừ ra
khỏi giá trị doanh nghiệp khi CPH DNNN, Lũy kế từ năm 2004 đến 30/6/2012,
DATC đã tiến hành xử lý tài sản và thu hồi nợ loại trừ đã tiếp nhận khi cổ phần hóa
các DN 100% vốn nhà nước, tận thu cho ngân sách nhà nước được 476 tỷ đồng,
đồng thời đã góp phần giải phóng mặt bằng, kho tàng, bến bãi... tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp phát triển sau khi được cổ phần hóa.
Với những đóng góp đó của DATC trong thành tích chung của ngành Tài
chính, để định chế tài chính này tiếp tục hoạt động có hiệu quả cao, trên cơ sở thực
tiễn và lý luận, kinh nghiệm đã có tiếp tục tổng kết, đánh giá hoạt động của DATC.
Từ kinh nghiệm của các nước sẽ nghiên cứu, đề xuất và định hình rõ hơn, càng ngày
càng hoàn thiện hơn định chế tài chính về xử lý nợ tồn đọng, về mua bán nợ... để
thúc đẩy công cuộc cổ phần hoá và sắp xếp lại không chỉ DNNN mà còn thúc đẩy
sự phát triển một cách lành mạnh hệ thống DN Việt Nam, tác dụng của cơ chế tài
chính mua bán nợ này ngày càng phát huy tác dụng tốt, không chỉ làm lành mạnh tài
chính của DN mà còn góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia.
2.1.5 Những khó khăn trong việc mua bán, xử lý nợ
Tuy đã có hành lang pháp lý để hoạt động mua bán nợ phát triển, nhưng hiện
nay hoạt động này dường như vẫn chưa được phát triển theo như kỳ vọng và tiềm
năng của thị trường. Một phần là đã có hành lang pháp lý, nhưng hành lang này
chưa đủ rộng và thiếu những văn bản hướng dẫn quan trọng để các tổ chức, cá nhân
có nhu cầu thực hiện hoạt động mua bán nợ một cách dễ dàng.
Ngoài ra, sở dĩ nợ xấu ngân hàng Việt Nam vẫn chưa tham gia nhiều trên thị
trường mua bán nợ là do hiện tại Chính phủ vẫn chưa quan tâm tới vấn đề này và
chưa có lực lượng nước ngoài tham gia vào thị trường. Trong khi thị trường mua
bán các khoản nợ xấu trên thế giới đã phát triển rất mạnh và nợ xấu đã được coi là
41
một trong những loại “hàng hóa” đặc biệt và có lãi cao nếu được thực hiện một cách
chuyên nghiệp. Các nước phát triển có những công ty chuyên mua bán nợ xấu, hoạt
động rất chuyên nghiệp. Họ còn chủ động chào mua các khoản nợ xấu của ngân
hàng. Sau khi mua về, tùy thuộc vào chất lượng từng khoản nợ, họ sẽ làm sạch sẽ
tình hình tài chính, đẩy bớt những phần quá xấu trong tài sản, chuẩn bị hồ sơ pháp
lý đầy đủ và tiến hành bán nợ.
Hoạt động này trên thế giới thông suốt là do những quốc gia này có một hệ
thống pháp lý hoàn hảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thị trường này phát triển
như nhân lực có tay nghề cao, cung cấp dịch vụ bài bản... Khi thực hiện nghiệp vụ
này, ngân hàng phải tính toán tính thanh khoản của mình để quyết định bán ở tỷ lệ
nào và mức giá bao nhiêu. Nếu thị trường sôi động, có thể đấu thầu. Việc mua bán
này, ngân hàng không chỉ khơi thông nguồn vốn, làm sạch sẽ sổ sách, lành mạnh
tình hình tài chính mà thậm chí, nếu xử lý tốt tài sản thế chấp, ngân hàng vừa loại
bỏ được rủi ro, vừa có lãi.
Ngoài ra một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho việc mua bán nợ
gặp khó khăn đó chính là vướng cơ chế. Việc kinh doanh từ mua bán nợ phải dựa
trên nền tảng chính là mua nợ, cơ cấu lại và đem bán, tuy nhiên việc cơ cấu lại này
ở Việt Nam hiện đang gặp khó khăn vì cơ chế chưa đầy đủ. Điển hình như DATC là
Công ty chuyên nghiệp về mua bán nợ nhưng hoạt động mua vẫn là chính, cơ cấu
lại doanh nghiệp và để bán thì vẫn còn chậm và chưa hiệu quả. Nguyên nhân là do
cơ chế, chính sách về hoạt động mua bán nợ vẫn còn nhiều vướng mắc khó khăn.
Theo quy định hiện hành thì hầu hết các phương án mua bán nợ, xử lý tài
chính nhằm tái cơ cấu lại hoạt động kinh doanh của DN khách nợ đều phải trình
nhiều cấp xem xét phê duyệt mới có thể thực hiện được mất rất nhiều thời gian.
Chưa có cơ chế hướng dẫn của Bộ Tài chính về việc xử lý số nợ loại trừ đã
tiếp nhận thuộc nhóm 2 theo Quyết định 149 (những khoản nợ không còn đối tượng
thu nợ, đã xử lý hết tài sản…). Mặt khác, việc thỏa thuận với các cơ quan chủ quản
trong việc xử lý tài chính, xác định giá trị DN trong quá trình tái cơ cấu DN khách
nợ còn nhiều khó khăn vướng mắc, mất nhiều thời gian. Đa số các DN khách nợ của
42
DATC đang gặp khó khăn về tài chính trong khi ngân hàng lại siết chặt tín dụng, lãi
vay tăng cao gây khó khăn về huy động vốn cho hoạt động kinh doanh. Liên quan
trực tiếp đến vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp Mặc dù Nghị định số 109/2007/NĐ-CP
về chuyển DN 100% vốn nhà nước thành Cty cổ phần, đã cho phép chuyển đổi sở
hữu doanh nghiệp nhà nước bị âm vốn thông qua hoạt động mua bán nợ, nhưng đến
nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể, nên cả công ty và các Bộ, địa phương đang
vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Trên đây là tổng quan về hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam, sau đây chúng
ta sẽ đi sâu nghiên cứu về thực trạng hoạt động mua bán nợ tại Vietcombank trong
thời qua như thế nào.
2.2 Thực trạng mua, bán nợ tại Vietcombank
2.2.1. Khái quát về tình hình dư nợ tín dụng, nợ xấu và các biện pháp xử lý nợ
tại Vietcombank
2.2.1.1 Tình hình dư nợ tín dụng
Tính đến hết năm 2011, tổng dư nợ tín dụng nội bảng của Vietcombank đạt
209.418 tỷ quy đồng Việt Nam, tăng 32.604 tỷ đồng so với năm 2010, đạt mức tăng
trưởng tín dụng 18%.
BIỂU Đ Ồ DƯ NỢ T ÍN DỤNG
2 5 0 ,0 0 0
2 0 0 ,0 0 0
Dư n ợ tín d ụ n g
1 5 0 ,0 0 0
Ng ắ n h ạ n
1 0 0 ,0 0 0
Tr u n g d à i h ạ n
5 0 ,0 0 0
-
2 0 0 9
2 0 1 0
2 0 1 1
Biểu đồ 2.5: “Dư nợ tín dụng ngắn, trung và dài hạn năm 2009-2011”
(Nguồn: Phòng công nợ VCB)
43
Qua biểu đồ cho thấy, tăng trưởng dư nợ tín dụng liên tục tăng từ năm 2009-
2011 đồng đều ở tất cả các thời hạn cho vay. Tỷ lệ tín dụng ngắn hạn luôn ở mức
cao hơn tỷ lệ cho vay trung dài hạn. Ngân hàng huy động và cho vay lại nền kinh tế
chưa được ổn định ở kỳ hạn dài, các khách hàng vay vốn cũng thận trọng hơn với
các dự án dài hạn. Đồng thời tỷ trọng dư nợ tín dụng trên cũng phản ánh phần nào
kết quả chiến lược phát triển sản phẩm bán lẻ của Vietcombank .
2.2.1.2 Tình hình nợ xấu
Trong năm 2010, 2011 Vietcombank đã thực hiện tốt chỉ đạo của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam trong việc kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 25% và
18% Tuy nhiên rủi ro tín dụng cũng gia tăng, được phản ánh trong số nợ xấu tăng
lên của Vietcombank.
Bảng 2. 6 “Bảng số liệu nhóm nợ Vietcombank năm 2009-2011”
Nhóm nợ Nhóm 1 Nhóm 2 Năm 2009 130,684 7,998 Năm 2010 154,137 17,294 Năm 2011 207,407 29,493
Nhóm 3 430 982 2,050
370 2,611 142,094 3,412 2.4% 230 292 3,613 176,317 4,887 2.77% 278 648 2,277 241,874 4,975 2.06% 3,812
Nhóm 4 Nhóm 5 Tổng dư nợ Tổng dư nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu Tổng nợ đã sử dụng DPRR trong năm Tỷ lệ nợ xấu và nợ đã xử lý DPRR trong kỳ 2.92% 3.58%
2.56% (Nguồn: Phòng công nợ VCB)
Tỷ lệ nợ xấu trong năm 2011 giảm so với năm 2010, do Vietcombank đã tích
cực áp dụng các biện pháp thu hồi nợ và xử lý nợ xấu. Nguyên nhân nợ xấu tại thời
điểm 31/12/2010 tăng so với thời điểm 31/12/2009 chủ yếu là do Vietcombank thực
hiện Chính sách dự phòng rủi ro tín dụng mới: Từ quý II/ 2010 Vietcombank thực
hiện phân loại nợ theo các yếu tố định tính (Điều 7 Quyết định số 493/2005/QĐ-
NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) thay cho
các yếu tố định lượng trước đây (Điều 6 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN).
44
Nợ xấu tập trung ở 02 loại hình doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp
ngoài quốc doanh như sau:
Bảng 2. 7 “Số liệu nhóm nợ Vietcombank theo loại hình DN năm 2009-2011”
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Loại hình DN 2009 2010 2011
DN quốc doanh 1,027 2,659 2,709
DN ngoài quốc doanh 1,321 1,709 1,741
DN có vốn đầu tư nước ngoài 739 225 229
Cá nhân, hộ tiêu dùng 319 290 295
Tổng cộng 3,406 4,883 4,975
(Nguồn: Phòng công nợ VCB)
2.2.1.3 Biện pháp xử lý, thu hồi nợ có vấn đề của Vietcombank
*Hệ thống xử lý nợ có vấn đề
Theo Quyết định số 106/QĐ-NHNT.CSTD ngày 07/04/2009 của Tổng giám
đốc VCB ban hành Quy định về quản lý và xử lý các khoản nợ có vấn đề và Công
văn số 842/CV-NHNT.CN ngày 08/06/2009 của Tổng giám đốc VCB về việc triển
khai Quyết định số 106/QĐ-NHNT.CSTD, đến nay VCB đã thành lập một hệ thống
xử lý nợ có vấn đề: Phòng Công nợ tại Hội sở chính và 33 Tổ Xử lý nợ xấu tại Sở
giao dịch/chi nhánh có tỷ lệ nợ xấu vượt 3% trong 2 quý liên tiếp, hoặc vượt 5%
trong quý hiện hành, hoặc giá trị nợ xấu trên 50 tỷ quy đồng Việt Nam, hoặc có nợ
đã được sử dụng dự phòng xử lý rủi ro tín dụng giá trị từ 50 tỷ quy đồng Việt Nam
trở lên.
* Các biện pháp xử lý, thu hồi nợ có vấn đề
Tuỳ đặc điểm, tính chất của từng khoản nợ có vấn đề và khách hàng vay vốn mà
VIETCOMBANK sẽ áp dụng các biện pháp xử lý, thu hồi nợ sau:
a) Theo dõi đặc biệt: tăng cường tần suất kiểm tra khách hàng/vốn vay, yêu
cầu khách hàng báo cáo thường xuyên để nắm tình hình…
b) Tiếp tục cấp tín dụng với điều kiện chặt chẽ hơn: tăng tỷ lệ bảo đảm, thay
đổi phương thức cấp tín dụng, tăng cường kiểm soát vốn vay…
45
c) Hạn chế, giảm dần dư nợ: Chi nhánh phải xác định lộ trình cụ thể để có cơ
sở theo dõi thực hiện.
d) Yêu cầu bổ sung, thay đổi biện pháp bảo đảm có mức an toàn cao hơn.
e) Dừng cấp tín dụng.
f) Miễn giảm lãi để tăng khả năng thu nợ
g) Cấu trúc lại nợ: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển đổi đồng tiền nhận nợ,
các giải pháp tài chính khác...
h) Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả thay.
i) Phát mại tài sản bảo đảm
j) Bán nợ
k) Nhận tài sản bảo đảm để cấn trừ nợ cho khách hàng.
l) Khởi kiện khách hàng
m) Các biện pháp khác phù hợp với quy định của Pháp luật.
* Kết quả xử lý, thu hồi nợ có vấn đề
Bảng 2.8: “Kết quả xử lý, thu hồi nợ có vấn đề năm 2009-2011”
(Đơn vị tính: tỷ đồng)
Biện pháp thu hồi
Nợ có vấn đề năm 2009
Nợ có vấn đề năm 2010
Nợ có vấn đề năm 2011
Dư nợ
Thu nợ
Dư nợ
Thu nợ Dư nợ
Thu nợ
Đôn đốc, phục hồi để thu nợ (a,b,c,d,e,g,h)
6,722
3,454
9,118
1,684
11,853
3,556
Miễn giảm lãi (f)
104
44
214
208
190
186
Xử lý TSBĐ (i)
1,002
252
1,368
294
-
208
Bán nợ (j)
8
738
166
2,252
781
248
Khởi kiện (l)
136
1,502
1,616
1,953
1,814
1,130
Biện pháp khác (m)
416
4,042
464
5,255
602
4,794
Tổng
14,000
4,310
21,503
7,147
16,982 4,432 (Nguồn: Phòng công nợ VCB)
46
Trong bảng tổng hợp số liệu trên bao gồm tổng số xử lý các khoản nợ từ nhóm
2 trở đi. Kết quả thu nợ của tổng các biện pháp trong năm 2011 so với năm 2010
tăng không nhiều (2,8%), tuy nhiên kết quả của từng biện pháp có sự thay đổi mạnh.
Năm 2009 kết quả thu nợ chủ yếu đến từ các biện pháp đôn đốc, phục hồi (đôn đốc,
xử lý kỹ thuật thu nợ như theo dõi, hạn chế, tạm dừng cấp tín dụng, gia tăng tài sản
bảo đảm hoặc cơ cấu nợ chiếm 80% kết quả thu nợ) thì năm 2010 kết quả này lại
đến từ các biện pháp mạnh (miễn giảm lãi, xử lý tài sản bảo đảm, bán nợ, khởi kiện
chiếm 63% kết quả thu nợ).
Xét về tỉ trọng, tuy việc áp dụng biện pháp bán nợ mới chiếm một phần nhỏ
trong các biện pháp mạnh nhưng lại có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất. So với năm
2009 thì năm 2010 tăng gần 3 lần về dư nợ áp dụng và tăng hơn 20 lần về kết quả
thu nợ. Đó là do cuối năm 2009 Vietcombank mới ban hành quy định tạm thời về
mua bán nợ, giữa năm 2010 mới tổ chức tập huấn nghiệp vụ này cho toàn hệ thống.
Điều đáng lưu ý ở đây là tính hiệu quả của biện pháp bán nợ trong xử lý, thu hồi nợ
có vấn đề: Trong khi các biện pháp khác gặp bế tắc thì biện pháp bán nợ lại có thể
phát huy được vai trò của mình.
2.2.2 Thực trạng hoạt động mua bán nợ của Vietcombank trên thị trường
Hoạt động mua bán nợ của Vietcombank còn khá khiêm tốn so với giao dịch
mua bán nợ trên thị trường mua bán nợ Việt Nam, hiện nay Vietcombank chỉ thực
hiện mua bán nợ chủ yếu đối với các khoản nợ trong hệ thống và chỉ xem xét mua
lại một số khoản nợ vay tốt hoặc đồng tài trợ với mục đích chính là tái cơ cấu danh
mục đầu tư .
Do thời gian và phạm vi nghiên cứu hạn chế nên ở đề tài này chưa thu thập
được số liệu tổng thể mua bán nợ của thị chỉ so sánh giá trị mua bán nợ của NHNT
với DATC có thể xem là đơn vị độc quyền và thực hiện các giao dịch mua bán nợ
lớn nhất tại Việt nam hiện nay .
Từ 2004 đến 30/06/2012, DATC đã thực hiện 121 phương án nợ và tài sản,
với giá trị các khoản nợ theo sổ sách khoảng 7.795 tỉ, giá vốn mua nợ là 2.384 tỉ
đồng và mua nợ của các TCTD khoảng 11.000 tỷ đồng . So với hoạt động mua bán
47
nợ của DATC thì hoạt động nghiệp vụ mua bán nợ của NHNT tương đối thấp so với
hoạt động mua bán nợ của DATC, chỉ chiếm khoảng 15%.
Tuy nhiên so với các tổ chức tín dụng khác thì VCB được xem là ngân hàng
đầu tiên trong việc thực hiện hoạt động mua bán nợ để xử lý nợ xấu tại Việt Nam.
2.2.3 Đối tác thực hiện tham gia mua bán nợ Vietcombank
Bên bán nợ: nói đến chủ thể bán nợ là nói đến một bên trong quan hệ giao
dịch mua, bán nợ. Như vậy, chủ thể bán nợ được đặt trong mối tương quan với chủ
thể mua nợ (hay bên mua nợ) và bên có liên quan (bên nợ và các bên có liên quan
khác). Theo quy định của pháp luật hiện hành, Bên bán nợ phải là các tổ chức tín
dụng thành lập và các công ty có nhiệm vụ thực hiện việc mua, bán nợ trực thuộc tổ
chức tín dụng, tổ chức tín dụng nước ngoài sở hữu khoản nợ. Như vậy, trong trường
hợp này, chủ thể bán nợ chính là Vietcombank với tư cách là người có quyền sở hữu
đối với khoản nợ đem bán và chuyển nhượng quyền này cho người mua.
Bên mua nợ được hiểu các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài có
nhu cầu mua khoản nợ từ bên bán nợ, để trở thành chủ sở hữu mới của khoản nợ.
Như vậy, bên mua nợ của Vietcombank có thể là bất kỳ tổ chức nào được thành lập
hợp pháp hoặc bất kỳ cá nhân nào có năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo
quy định của pháp luật. Điều này cũng cho thấy không chỉ Công ty Mua, bán nợ và
tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) mới có quyền mua nợ mà bất kỳ tổ
chức/cá nhân nào có nhu cầu mua nợ đều có thể trở thành bên mua nợ của
Vietcombank.
Ngoài hai chủ thể chính trong quan hệ mua bán nợ nêu trên, còn có một số bên
liên quan khác như:
(1) Bên nợ là các tổ chức, cá nhân vay nợ tổ chức tín dụng trong các khoản nợ
được mua, bán (đây chính là các khách hàng có dư nợ tại Vietcombank );
(2) Bên môi giới là các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng làm chức năng trung
gian, dàn xếp việc mua, bán nợ giữa các bên mua, bán nợ và được hưởng phí dịch
vụ môi giới theo thỏa thuận;…
48
2.2.4 Xác định giá trong giao dịch mua bán nợ của Vietcombank
Việc xác định giá trị khoản nợ được mua bán nợ tại Vietcombank được phân
chia làm 2 loại là khoản nợ đạt chuẩn (nợ nhóm 1) và khoản nợ dưới tiêu chuẩn
(khoản nợ từ nhóm 2 trở lên )
*Đối với khoản vay nằm trong diện đạt chuẩn:
+Giá bán nợ: Vietcombank xác định giá trị khoản nợ theo giá trị khoản gốc và lãi
phát sinh (nếu có)
+Giá mua nợ: Vietcombank xem xét quyết định mua một khoản nợ tương tự như
xem xét cấp tín dụng cho khách hàng theo hình thức cho vay. Theo đó, Bên nợ được
xác định như Bên Vay và giá trị khoản nợ được xác định như một khoản vay. Giá
mua khoản nợ thường được xác định bằng giá trị sổ sách khoản nợ gốc được mua
lại.
*Đối với các khoản nợ dưới tiêu chuẩn:
Vietcombank không thực hiện mua lại các khoản nợ dưới chuẩn, vì vậy ở phần
này chỉ trình bày cách xác định giá của khoản nợ được bán. Để định giá bán khoản
nợ dưới chuẩn, Vietcombank có một bộ phận phòng công nợ chuyên về thẩm định
giá trị khoản vay. Nội dung thẩm định xác định giá bán nợ gồm các vấn đề:
+ Thẩm định về tình hình bên nợ: Trường hợp bên nợ là tổ chức, bộ phận thẩm
định thực hiện đánh giá về tình trạng pháp lý doanh nghiệp, cơ cấu quản lý, mô hình
doanh nghiệp, tình hình hoạt động kinh doanh, mức độ thiện chí hợp tác xử lý nợ…
Trường hợp bên nợ là cá nhân, bộ phận thẩm định thực hiện đánh giá tình hình gia
cảnh, công việc, tài sản, sức khỏe và các vấn đề khác liên quan đến khả năng trả nợ.
+Thẩm định về khoản nợ :Bộ phận thẩm định đánh giá về lịch sử khoản nợ, tình
trạng hiện tại của khoản nợ, giá trị khoản nợ và các biện pháp bảo đảm cho khoản
nợ (nếu có). Đồng thời, bộ phận thẩm định đánh giá về tính pháp lý và chặt chẽ của
hồ sơ tín dụng, hồ sơ tài sản bảo đảm đảm; khả năng hoàn thiện hồ sơ (nếu hồ sơ có
thiếu sót).
49
+Việc định giá khoản nợ: được xác định dựa vào giá trị dòng tiền có thể thu hồi từ
phương án sản xuất kinh doanh của khách nợ cộng với giá trị tài sản đảm bảo có thể
thu hồi (trường hợp khách hàng có TSĐB) đánh giá các yếu tố về thị trường, cơ cấu
tổ chức, năng lực quản lý để xác định giá khoản nợ một cách hợp lý.
Bộ phận bán nợ Vietcombank sẽ đánh giá các phương án thu hồi nợ đã/đang
áp dụng; sự tích cực trong quá trình thu hồi nợ; đánh giá tính pháp lý, tính hiệu quả
của phương án bán nợ, so sánh tính hiệu quả của phương án bán nợ so với các
phương án thu hồi nợ khác; thẩm định về trình tự, thủ tục bán nợ và xác định giá
bán nợ. Đối với việc xác định giá bán nợ (giá khởi điểm), đây là vấn đề quan trọng
nhất để quyết định có xử lý khoản nợ theo phương thức bán nợ hay không. Bởi vì
Vietcombank sẽ chỉ thực hiện bán nợ khi đối tác trả giá tối thiểu bằng giá bán nợ
được xác định. Vì vậy, việc xác định giá bán nợ không chính xác sẽ không thể bán
được nợ (khi định giá quá cao) hoặc gây thiệt hại cho ngân hàng (do định giá quá
thấp). Xét cho cùng việc thẩm định tất cả các yếu tố nêu trên là nhằm mục đính xác
định mức giá bán nợ tối ưu nhất nhằm bảo đảm quyền lợi của Vietcombank.
Về nguyên tắc, việc xác định giá bán nợ có thể do Vietcombank tự thực hiện
hoặc thuê tổ chức có chức năng tư vấn về kiểm toán hoăc mua bán nợ xác định.
Trong thời gian qua hầu hết các khoản nợ đã bán tại Vietcombank đều do
Vietcombank tự thực hiện nhưng cũng đã có một số trường hợp Vietcombank thuê
tổ chức có chức năng thẩm định giá để thực hiện xác định giá bán nợ. Về chủ
trương, Vietcombank khuyến khích việc thuê tổ chức thẩm định giá độc lập để xác
định giá bán nợ nhằm bảo đảm tính khách quan, chuyên nghiệp trong việc xác định
giá bán nợ.
2.2.5. Phương thức thực hiện giao dịch mua bán nợ của Vietcombank
Hiện nay các phương thức thực hiện giao dịch mua bán nợ của Vietcombank
chủ yếu là phương thức tự bán đấu giá, các bên mua bán nợ tự thỏa thuận và bán nợ
thông qua DATC.
+Trường hợp tự đấu giá: trường hợp này Vietcombank thường áp dụng cho việc
bán nợ, theo quy định là sẽ đăng thông tin công khai, tìm đối tác mua nợ trên các
50
báo trung ương và địa phương 03 kỳ (số) liên tiếp và đăng tải trên website của
Vietcombank. Việc làm này nhằm để đảm bảo tính khách quan, minh bạch trong
quá trình chuyển nhượng khoản nợ và đồng thời cũng để tìm thêm đối tác mua nợ,
nhằm đảm bảo khoản nợ được bán trong điều kiện cạnh tranh nhất. Bên cạnh việc
đăng thông tin tìm đối tác, thông qua các mối quan hệ hoặc qua môi giới,
Vietcombank cũng chủ động tìm đối tác có nhu cầu mua khoản nợ mà Vietcombank
có nhu cầu bán. Tuy nhiên, trong một số trường hợp theo quyết định của cấp có
thẩm quyền, việc bán nợ có thể không cần đăng công khai. Đây là những trường
hợp mà nếu đăng tin công khai sẽ gây bất lợi cho quá trình đàm phán/quá trình
chuyển giao nợ, dẫn đến khó bán nợ hoặc bán với giá thấp hơn so với việc không
đăng công khai, làm thiệt hại đến quyền lợi của Vietcombank. Trong trường hợp
này, bộ phận đề xuất bán nợ phải giải trình các lý do không thực hiện đăng thông tin
công khai để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Từ thời điểm năm 2007 đến
nay Vietcombank đã bán được khoảng 10 khoản nợ thông qua phương thức đăng
công khai thông tin tự đấu giá.
+ Các bên mua bán nợ tự thỏa thuận: Vietcombank thường áp dụng phương thức
tự thỏa thuận khi thực hiện mua bán các khoản nợ với các TCTD, hai bên sẽ thương
lượng giá và phương thức mua bán nợ phù hợp. Phương thức này thường được
Vietcombank áp dụng trong các trường hợp mua bán các khoản nợ đồng tài trợ. Từ
thời điểm năm 2007 đến nay Vietcombank đã thực hiện bán khoảng 45 khoản nợ và
mua khoảng 05 khoản nợ theo phương thức tự thỏa thuận. Với trị giá bán nợ khoảng
455 tỷ VND, trị giá khoản nợ gốc khoảng 2.550 tỷ VND.
+Bán nợ thông qua DATC: đối với các khoản nợ xấu không có khả năng xử lý thu
hồi nợ nhóm 5 hoặc các khoản nợ đã được trích lập dự phòng, Vietcombank quyết
định bán cho DATC. Giá mua nợ trung bình của DATC rất thấp chỉ khoảng từ 10-
20% giá trị khoản nợ. Vì vậy Vietcombank rất ít áp dụng phương thức bán nợ thông
qua DATC. Từ năm 2007 đến nay Vietcombank chỉ bán khoảng 10 khoản nợ cho
DATC, thu về khoảng 500 tỷ VND cho tổng giá trị nợ gốc hơn 4.500 tỷ VND.
51
2.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến mua bán nợ của Vietcombank
2.2.6.1 Yếu tố bên trong
Ngoài các nhân tố bên ngoài là những khó khăn đối với các tổ chức tín dụng
trong việc mua bán nợ, tại Vietcombank việc mua, bán nợ cũng gặp phải một số khó
Quy định mua, bán nợ hiện hành của Vietcombank còn chưa hoàn thiện
khăn xuất phát từ chính nguyên nhân nội tại của Vietcombank như:
Mặc dù quy định mua, bán nợ hiện hành của VCB đã cụ thể các quy định pháp
luật vào điều kiện của VCB, đưa ra quy định bán nợ hợp lý để các bộ phận chức
năng thực hiện. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, quy định này cũng còn một
số bất cập cần phải hoàn thiện thêm như làm rõ thêm quyền chủ động đề xuất bán
nợ của các chi nhánh, xác định rõ mục đích của việc thông báo bán nợ, bổ sung căn
cứ của việc xác định giá bán nợ, cơ chế hoạt động của Hội đồng Bán nợ, cơ chế
kiểm tra giám sát hoạt động bán nợ...
- Việc hiểu và vận dụng các quy định về mua bán nợ của một bộ phận cán bộ chưa
thật sự sâu sắc.
Mặc dù trong năm 2010 VCB đã tổ chức tập huấn về công tác mua, bán nợ
cho cán bộ quản lý và cán bộ trực tiếp làm công tác này trên toàn hệ thống VCB.
Tuy nhiên, do thời gian tập huấn ngắn, khả năng nắm bắt và vận dụng các quy định
của một bộ phận cán bộ còn hạn chế nên trong thực tiễn hoạt động bán nợ, nhiều
cán bộ còn lúng túng khi thực hiện nghiệp vụ này vì vậy đã lựa chọn biện pháp xử
lý nợ khác thay vì bán nợ dù nếu áp dụng bán nợ sẽ hiệu quả hơn.
2.2.6.2 Yếu tố bên ngoài
*Khung pháp lý chưa hoàn thiện
Hiện nay, hoạt động bán nợ của tổ chức tín dụng chịu sự điều chỉnh tại một số
văn bản có giá trị pháp lý cao như Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật các tổ chức tín
dụng năm 2010, văn bản pháp luật điều chỉnh về hoạt động mua bán nợ của TCTD
Quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005 ban hành Quy định về phân
loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của TCTD (QĐ số 18/2007/QĐ – NHNN, một số điều của QĐ số 493)….. …
52
và một số văn bản dưới luật khác. Tuy nhiên, văn bản trực tiếp quy định cụ thể về
hoạt động bán nợ của tổ chức tín dụng là Quyết định số 59/2006/QĐ – NHNN ngày
21/12/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế mua,
bán nợ của các TCTD.
Mặc dù Quyết định số 59 đã đưa ra một khung pháp lý cơ bản tạo điều kiện
cho các tổ chức tín dụng có cơ sở thực hiện hoạt động mua bán nợ như các quy định
về phạm vi mua, bán nợ; phương thức mua, bán nợ; quyền và nghĩa vụ các bên
tham gia quan hệ mua, bán nợ; quản lý và xử lý tài chính đối với khoản nợ mua,
bán… Tuy nhiên, do hoạt động mua, bán nợ còn quá mới mẻ tại Việt Nam nên
những quy định mới chỉ mang tính nguyên tắc tại Quyết định số 59 chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn, dẫn đến nhiều trường hợp tổ chức tín dụng cũng như
các bên liên quan còn gặp lúng túng khi thực hiện bán nợ chẳng hạn như vấn đề
định giá nợ, cấp hoá đơn trong hoạt động mua bán nợ, hạch toán kế toán v.v.. Mặt
khác, pháp luật hiện hành cũng còn khoảng trống trong việc quy định các quyền
năng của chủ thể mua nợ (mà không phải là tổ chức tín dụng hoặc DATC) đối với
các khoản nợ được mua, điều này cũng dẫn các nhiều chủ thể (đặc biệt là tổ chức/cá
nhân nước ngoài) tỏ ra e ngại khi đàm phán mua nợ của các tổ chức tín dụng, làm
hạn chế sự phát triển của thị trường mua, bán nợ.
*Tâm lý e ngại của chủ nợ khi thực hiện bán nợ
Do khung pháp còn chưa cụ thể như đã nêu trên nên trong thực tế hoạt động
bán nợ tại các tổ chức tín dụng mà đặc biệt là tại các ngân hàng thương mại nhà
nước như VCB, vẫn còn tồn tại tâm lý e ngại, sợ trách nhiệm của các bộ phận chức
năng khi thực hiện bán nợ… Cụ thể, trong một số trường hợp bộ phận đề xuất, thẩm
định cũng như cấp có thẩm quyền mặc dù thấy rằng việc bán nợ có hiệu quả hơn
nhưng vẫn lựa chọn biện pháp khác để bảo đảm an toàn, không phải gánh chịu các
phiền phức có thể phát sinh do đề xuất/quyết định với giá bán nợ thấp hơn giá trị
khoản nợ. Hoặc trong một số trường hợp, do tâm lý e ngại này mà thủ tục bán nợ trở
nên chậm chạp hơn, chẳng hạn như việc yêu cầu đăng thông báo công khai một
cách máy móc hoặc yêu cầu bắt buộc phải có một bên thứ ba độc lập định giá bán
53
nợ… Những thủ tục này trong một số trường hợp là cần thiết để bảo đảm tính khách
quan minh bạch nhưng nếu vận dụng thiếu linh hoạt thì lại gây chậm trễ, làm mất cơ
hội bán nợ thành công.
*Thị trường mua, bán nợ tại Việt Nam mới hình thành, thiếu chuyên nghiệp
Như đã nêu trên, mặc dù pháp luật hiện hành tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá
nhân (bao gồm cả tổ chức/cá nhân nước ngoài) có quyền mua nợ của tổ chức tín
dụng nhưng lại không quy định cụ thể quyền của các chủ thể này sau khi mua nợ.
Chính vì vậy, còn rất ít doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh về lĩnh vực mua bán nợ.
Hiện nay trên thị trường mua, bán nợ chỉ có DATC là tổ chức được quy định
cụ thể về các quyền năng đối với khoản nợ đã mua, tuy nhiên năng lực tài chính của
doanh nghiệp này cũng còn nhiều hạn chế (vốn điều lệ khoảng hơn 2400 tỷ đồng).
Các tổ chức/cá nhân khác khi tham gia mua nợ thường là nhằm đến tài sản bảo đảm
của khoản nợ chứ không vì chính bản thân khoản nợ. Điều này thể hiện thị trường
mua, bán nợ tại Việt Nam còn chưa phát triển, việc bán nợ gặp nhiều khó khăn và
khó bán được giá cao vì còn quá ít chủ thể có nhu cầu mua nợ.
Tại VCB, nhiều trường hợp đàm phán mua, bán nợ với DATC không thành
công do công ty này thường dựa vào lợi thế gần như độc quyền của mình, trả giá
bán nợ quá thấp, nhiều khoản DATC chỉ trả dưới 30% giá trị nợ gốc, thậm chí có
trường hợp chỉ trả 5-10% giá trị nợ gốc. Do đó, VCB buộc phải lựa chọn biện pháp
xử lý nợ khác để thu nợ nhiều hơn mặc dù có thể phải mất nhiều thời gian và nhân
lực hơn. Mặt khác thị trường mua, bán nợ tại Việt Nam còn kém hấp dẫn bởi chính
các hàng hoá luân chuyển trên thị trường. Thông thường các khoản nợ được bán là
các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng khó thu hồi nên mục đích mà Bên mua nợ nhắm đến
là các tài sản vô hình và hữu hình kèm theo khoản nợ chứ không phải là chính
khoản nợ đó.
*Khó khăn trong việc định giá khoản nợ
Mặc dù xác định khoản nợ là một loại hàng hoá được giao dịch trên thị trường
nhưng pháp luật về thẩm định giá lại không có quy định cụ thể nào về việc định giá
khoản nợ. Vì vậy, nhiều tổ chức thẩm định giá độc lập không có cơ sở để tiến hành
54
thẩm định giá khoản nợ vì vậy đã từ chối ký kết hợp đồng định giá với các tổ chức
tín dụng. Chính vì vậy việc tự định giá của tổ chức tín dụng hoặc việc thẩm định giá
của tổ chức độc lập không tránh khỏi yếu tố chủ quan, thiếu thuyết phục, không nêu
được các căn cứ khoa học của kết quả định giá.
2.2.7 Các rủi ro trong mua bán nợ của Vietcombank
Trong hoạt động mua bán nợ của Vietcombank trong thời gian qua cũng gặp
không ít các rủi ro. Về cơ bản Vietcombank thường gặp đối với một số rủi ro chủ
yếu sau:
* Rủi ro do mất cân xứng thông tin: rất khó nắm được toàn bộ thông tin từ bên mua
hoặc bên bán nợ hoặc giá trị thực sự của khoản nợ. Hiện nay VCB chỉ có thể tra cứu
thông tin về chất lượng khoản vay thông qua trung tâm CIC nhà nước, còn các
thông tin khác về năng lực đối tác, chất lượng thực sự của khoản vay, năng lực thực
tế của bên mua hoặc bên bán có thể bị che dấu hoặc bên đối tác cố tình cung cấp
thông tin sai lệch thì hiện nay VCB cũng chưa có cơ sở nào để đối chiếu.
* Rủi ro trong việc xác định giá trị khoản nợ: VCB gặp không ít khó khăn trong
việc xác định giá trị giao dịch của khoản nợ, vì rất khó có thể định giá khoản nợ
nhất là các khoản nợ dưới chuẩn, vì vậy rủi ro định giá thấp hơn hoặc cao hơn giá trị
thực tế thường không tránh khỏi. VCB thường gặp rủi ro nhiều trong việc xác định
giá mua bán nợ vì vấn đề thông tin không cân xứng, có thể đánh giá sai mức độ rủi
ro của khoản nợ dẫn đến việc mua giá cao hoặc bán giá thấp hơn giá trị thực tế của
khoản nợ.
Ngoài ra, VCB cũng có rủi ro việc mua bán nợ còn có một số rủi ro bên ngoài
khác như rủi ro pháp lý do khung pháp lý về mua bán nợ của Việt nam chưa hoàn
thiện nên trong quá trình thực hiện cũng gặp nhiều vướng mắc trong quá trỉnh
chuyển giao khoản nợ; rủi ro vĩ mô từ thay đổi tình hình nền kinh tế ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của khách nợ dẫn đến các khoản nợ mua VCB có thể
bị xấu đi hoặc các khoản nợ đã bán với giá trị thấp hơn giá thực tế nhưng do thay
đổi từ nền kinh tế khách nợ có thể trở nên tốt hơn lúc đó giá trị khoản nợ đã bán
cũng có xu hướng tăng giá hơn do khách nợ có chuyển biến tích cực hơn.
55
2.2.8.Hiệu quả mua bán nợ của Vietcombank
Biện pháp xử lý nợ có vấn đề thì bán nợ được coi là một biện pháp khá hữu
hiệu để xử lý nợ tồn đọng, do thời gian xử lý tương đối nhanh và dứt điểm, góp
phần giảm tỷ lệ nợ xấu cho VCB và làm lành mạnh tình hình tài chính của ngân
hàng. Chính vì vậy, tại VCB, biện pháp bán nợ được coi là một trong các biện pháp
xử lý nợ có vấn đề, đặc biệt là để xử lý các khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ
DPRR.
Từ năm 2006 đến nay, đã có 37 khoản nợ tồn đọng tại VCB được xử lý bằng
biện pháp bán nợ với số dư bán nợ là 3.016 tỷ đồng ( trong đó 677 tỷ nợ nhóm 2,
còn lại là nợ từ nhóm 3 trở đi và các khoản nợ đã trích lập dự phòng) và thu hồi
được số tiền là hơn 955 tỷ đồng. Đa phần là các khoản nợ đều được bán thông qua
hội sở chính các chi nhánh chỉ tiếp nhận thông tin và Hội sở chính sẽ xử lý việc mua
bán nợ.
Riêng năm 2010, dư nợ có vấn đề được xử lý bằng biện pháp bán nợ là 738 tỷ
đồng, năm 2011 dư nợ xấu xử lý bằng biện pháp bán nợ là 2.051 tỷ VND. Hoạt
động mua nợ tại VCB từ năm 2006 đến nay giá trị khoảng 875 tỷ đồng, VCB đã
mua lại nợ từ các ngân hàng thành viên tham gia cho vay đồng tài trợ; mua nợ để tái
cấu trúc tài chính cho Bên Nợ và nhằm mục đích mở rộng danh mục đầu tư.
Trước nhu cầu thực hiện và hoạt động mua bán nợ ngày càng phát triển, năm
2009 Tổng Giám đốc VCB đã ban hành Quyết định số 418/QĐ-NHNT.CN ngày
05/11/2009 về việc ban hành Quy định tạm thời về Mua, bán nợ, hoạt động mua,
bán nợ đã được chuẩn hoá về hồ sơ, quy trình thực hiện đảm bảo việc bán nợ được
khách quan, minh bạch và hiệu quả.
2.3 Đánh giá quy trình mua, bán nợ của VCB
2.3.1 Nguyên tắc mua bán nợ
VCB thực hiện mua bán toàn bộ hoặc một phần khoản nợ, và bên mua hoặc
bán nợ có thể thoả thuận mua, bán toàn bộ hoặc một phần của khoản nợ. VCB
không thực hiện bán nợ có truy đòi. Nguyên tắc này hoàn toàn hợp lý vì khi khoản
nợ đã được VCB chuyển giao cho bên mua nợ thì VCB cũng đã tiến hành trích lập
56
dự phòng và loại bỏ khoản nợ trên ra khoải hệ thống theo dõi trên bảng kế toán của
NHTN. Nếu thực hiện bán nợ có truy đòi thì rất khó trong công tác theo dõi và khai
báo hệ thống kế toán tài chính của VCB.
Hiện nay việc bán nợ tại VCB được quản lý tập trung tại Hội sở chính để hạn
chế rủi ro nhưng đồng thời cũng trao quyền chủ động cho các chi nhánh. Tuy nhiên
thời gian xử lý hồ sơ và các thù tục hồ sơ rất nhiều, rất phức tạp nên các chi nhánh
rất e ngại khi thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ.
2.3.2 Đối tượngkhoản nợ được mua bán
*Đối tượng khoản nợ được bán: Theo quy định về MBN hiện hành của VCB thì đối
tượng ưu tiên bán nợ bao gồm: các khoản nợ từ Nhóm 3 đến Nhóm 5 và các khoản
nợ được hạch toán ngoại bảng. Như vậy, đối tượng bán nợ tại VCB không phải chỉ
là nợ có vấn đề mà bao gồm tất cả các loại khoản nợ. Nhưng trong thực tế áp dụng
tại VCB thì phần lớn các trường hợp bán nợ dùng để xử lý các khoản nợ xấu, nợ tồn
đọng. Điều này cũng phù hợp với chỉ đạo của Ban lãnh đạo CB về việc áp dụng
biện pháp này.
*Đối tượng khoản nợ được mua: Khoản nợ được mua là khoản nợ thuộc nhóm 1,
hoặc các khoản nợ được đánh giá là có tiềm năng; được phép mua bán theo quy
định của pháp luật, không có tranh chấp. Hiện nay VCB không mua các khoản nợ
dưới chuẩn vì rủi ro trong việc xác định giá trị mua do thông tin bất cân xứng trên
thị trường.
2.3.3 Thẩm quyền xem xét, quyết định mua bán nợ
Hiện nay, việc xác định thẩm quyền xem xét và quyết định bán nợ tại VCB được
*Thẩm quyền bán nợ
phân nhiệm hợp lý căn cứ trên cơ sở so sánh giữa giá bán nợ với giá trị khoản
Trường hợp Giá bán nợ bằng hoặc cao hơn Giá trị khoản nợ: khoản nợ thuộc cấp
nợ. Theo đó:
thẩm quyền nào phê duyệt cấp tín dụng thì cấp đó quyết định việc bán nợ. Ví dụ:
trường hợp bán khoản nợ Công ty Thương mại Ngọc Hầu, Giám đốc VCB – Chi
nhánh An Giang đã xem xét, quyết định bán khoản nợ này cho Công ty TNHH
57
Quản lý nợ và khai thác tài sản – Ngân hàng TMCP Phương Nam để thu hồi
Trường hợp Giá bán nợ thấp hơn Giá trị khoản nợ: việc bán nợ do Hội đồng bán
toàn bộ phần nợ quá hạn (31 tỷ đồng).
nợ được thành lập tại Hội sở chính xem xét quyết định. Ví dụ: khoản nợ Công ty
CP Địa ốc Sài gòn M&C tại Hội sở chính và VCB – chi nhánh TP.HCM (đây là
khoản nợ đồng tài trợ giữa VCB và Ngân hàng TMCP Đông Á, Vietcombank
tham gia với tư cách ngân hàng đầu mối với tổng số vốn tài trợ cho Dự án là
47,98 triệu USD và 22.807 triệu đồng). Hội đồng quản trị đã phê duyệt tín dụng
đối với khoản nợ này nên cũng đã xem xét, ra quyết định bán nợ.
Việc phân cấp thẩm quyền xem xét quyết định giá bán nợ hiện hành của VCB
hiện phù hợp với quy định phân cấp tín dụng và tránh được nhiều rủi ro trong việc
thẩm định giá trị khoản nợ được bán, nhất là các khoản nợ dưới chuẩn được bán với
giá thấp hơn giá trị sổ sách của khoản nợ. Tuy nhiên quy trình chưa quy định cụ thể
vai trò của Hội đồng mua bán nợ và hội đồng quản trị trong việc quyết định giá bán
khoản nợ.
*Thẩm quyền mua nợ:
VCB xem xét quyết định mua một khoản nợ tương tự như xem xét cấp tín
dụng cho khách hàng theo hình thức cho vay. Theo đó, Bên nợ được xác định như
Bên Vay và giá trị khoản nợ được xác định như một khoản vay. Việc mua nợ tại
VCB được quản lý theo nguyên tắc tập trung với thẩm quyền quyết định, cấp có
Khoản nợ ≤ 200 tỷ đồng: Tổng giám đốc/Phó Tổng giám đốc;
Khoản nợ > 200 tỷ đồng: HĐTD TW;
Khoản nợ ≥ 10% vốn điều lệ của VCB: Tổng giám đốc trình và xin ý kiến
thẩm quyền xem xét và quyết định mua nợ tại VCB như sau:
Tất cả các đề xuất mua nợ của Chi nhánh phải qua tái thẩm định tại phòng
Hội đồng quản trị sau khi đã thông qua HĐTD TW.
QLRRTD HSC.
Việc phân bổ thẩm quyền xét mua nợ hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế
và quy trình cấp tín dụng của VCB
58
2.3.4 Quy trình thủ tục bán nợ, mua nợ
2.3.4.1 Trình tự, thủ tục bán nợ
Quy định về mua, bán nợ hiện hành của VCB không có quy định cụ thể về
từng bước thực hiện quá trình bán nợ, tuy nhiên có thể khái quát thành 6 bước chính
như sau:
Bước 1. Lựa chọn áp dụng biện pháp bán nợ :
Việc lựa chọn áp dụng các biện pháp mua bán nợ này có thể là riêng rẽ, cũng
có thể là kết hợp nhiều biện pháp. Căn cứ vào điều kiện thực tế của khoản nợ và
hiệu quả áp dụng, VCB sẽ thực hiện biện pháp xử lý nợ bằng bán nợ hoặc các biện
pháp khác chẳng hạn như biện pháp cấu trúc lại nợ, yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ trả thay chỉ thực hiện khi Bên nợ được bên thứ 3 bảo lãnh, hay biện pháp
phát mại tài sản, nhận TSBĐ để cấn trừ nợ chỉ được thực hiện đối với các khoản nợ
có TSBĐ, hay khởi kiện chỉ trong trường hợp khách hàng chây ỳ, không thực hiện
nghĩa vụ. Tuy nhiên, đối với biện pháp bán nợ thì khác, biện pháp bán nợ có thể
áp dụng với mọi khoản nợ dù là nợ nội bảng hay ngoại bảng, có TSBĐ hay không
có TSBĐ, khách hàng chây ỳ hay thiện chí… với điều kiện biện pháp bán nợ là
biện pháp hiệu quả nhất để thu hồi nợ. Chỉ trừ trường hợp các bên đã có thoả thuận
trước đó là khoản nợ không được mua, bán thì việc bán nợ mới không thể thực
hiện được.
Ví dụ: đối với trường hợp bán nợ Công ty CP XNK Thuỷ sản Nghệ An, VCB
– Chi nhánh Vinh đã áp dụng các biện pháp xử lý nợ như theo dõi đặc biệt, dừng
cấp tín dụng, cấu trúc lại nợ nhưng những biện pháp này đã không hiệu quả. Để
tìm hướng xử lý dứt điểm khoản nợ này, Chi nhánh đã đánh giá số tiền có thể thu
hồi và thời gian thu hồi của biện pháp bán nợ với các biện pháp khởi kiện và phá
sản doanh nghiệp, cụ thể như sau:
59
Bảng 2.9: “So sánh biện pháp thu nợ với các biện pháp khác”
PA khởi kiện PA yêu cầu giải quyết phá sản doanh Nội dung so sánh nghiệp PA bán nợ
Số tiền thu hồi
Nếu kiện ra toà, NH có thể thu hồi được toàn bộ TSTC của DN, việc phát mại TSTC thu hồi được khoảng 2,2 tỷ 51% giá trị nợ gốc (khoảng 4,7 tỷ đồng)
Nếu yêu cầu giải quyết phá sản doanh nghiệp. NH chỉ nắm giữ được MMTB và tài sản gắn liền đất, nếu phát mại TS của khách hàng là 2,2 tỷ đồng sau khi trừ đi các chi phí thu hồi được khoảng 1,3 tỷ đồng.
1 tháng Thời gian thu hồi nợ kéo dài khoảng 02 năm thu Thời gian đến khi ra được quyết định tuyên bố phá sản dự kiến tối thiểu cũng phải khoảng 02 năm Thời gian hồi
(Nguồn: Phòng công nợ VCB)
Việc so sánh phương án sử dụng biện pháp mua bán nợ với các biện pháp xử
lý nợ khác hoàn toàn phù hợp và nâng cao hiệu quả xử lý nợ của VCB
Bước 2: Lựa chọn phương thức bán nợ
VCB có thể lựa chọn biện pháp bán nợ cho DATC hoặc đăng tin chào bán
công khai, hoặc thỏa thuận bán nợ cho các tổ chức tín dụng khác... tùy thuộc vào
đặc điểm của từng khoản nợ. Việc lựa chọn phương thức mua bán nợ phù hợp sẽ
nâng cao hiệu quả của việc bán nợ. Việc đăng thông tin công khai bán nợ được
V C B đăng thông báo công khai 03 kỳ (số) liên tiếp trên các báo trung ương và
địa phương và đăng tải trên website của VCB. Việc làm này nhằm để đảm bảo tính
khách quan, minh bạch trong quá trình chuyển nhượng khoản nợ và đồng thời cũng
để tìm thêm đối tác mua nợ, nhằm đảm bảo khoản nợ được bán trong điều kiện
cạnh tranh nhất. Theo quy định mua bán nợ hiện hành của VCB thì khi đăng thông
tin phải đưa ra giá chào bán , tuy nhiên việc xác định giá bán nợ cần thời gian dài và
hạn chế đối tác mua nợ.
VCB chưa quy định cụ thể khi nào được đăng công khai thông tin bán nợ.
Trong một số trường hợp mà nếu đăng tin công khai sẽ gây bất lợi cho quá trình
60
đàm phán/quá trình chuyển giao nợ, dẫn đến khó bán nợ hoặc bán với giá thấp hơn
so với việc không đăng công khai, làm thiệt hại đến quyền lợi của VCB nên sử
dụng phương thức khác phù hợp.
Bước 3. Trình đề nghị mua bán nợ
Hồ sơ xem xét, quyết định bán nợ được quy định tương đối và chi tiết đầy đủ
như: Hồ sơ pháp lý về Bên nợ; Hồ sơ tín dụng (Hợp đồng tín dụng/Hợp đồng cấp
bảo lãnh, giấy nhận nợ; Biên bản đối chiếu công nợ gần nhất; Phương án sản xuất
kinh doanh; Hồ sơ về bảo đảm tiền vay (nếu có). Tuy nhiên việc yêu cầu cung cấp
các hồ sơ sao y bản chính gây không ít khó khăn cho chi nhánh vì có một số hồ sơ
chi nhánh không lưu giữ bản gốc trong khi đó việc liên hệ khách nợ để cung cấp bản
chính rất khó khăn và mất nhiều thời gian chuẩn bị hồ sơ.
Bước 4. Thẩm định đề nghị bán nợ
Việc phân bổ cấp phê duyệt bán nợ của VCB tương đối phù hợp, hạn chế được
rủi ro trong việc xác định giá bán nợ và nâng cao hiệu quả bán nợ của hệ thống. Ví
dụ:
+ Trường hợp giá bán nợ bằng hoặc cao hơn giá trị khoản nợ, cấp có thẩm
quyền xem xét, quyết định bán nợ tự tiến hành thẩm định hoặc giao một bộ phận
chuyên môn thực hiện thẩm định Tờ trình đề nghị bán nợ.
+ Trường hợp giá bán nợ thấp hơn giá trị khoản nợ, Phòng Công nợ thực hiện
thẩm định đề nghị bán nợ và lập Tờ trình thẩm định bán nợ để trình Hội đồng.
Bước 5. Xem xét, quyết định bán nợ
Việc thông qua quyết định bán nợ thuộc cấp có thẩm quyền nào thì cấp có
thẩm quyền đó xem xét, quyết định theo các quy định hiện hành của VCB. Phòng
công nợ sẽ làm đầu mối và đề xuất việc kiểm tra hoạt động mua bán nợ tại chi
nhánh và thẩm định bán nợ. Quy định này hoàn toàn phù hợp vì phòng công nợ của
VCB có nhiều kinh nghiệm trong việc đánh giá xác định giá trị khoản nợ, vì vậy có
thể tránh được rủi ro trong việc bán nợ.
Bước 6. Ký kết hợp đồng mua, bán nợ và thực hiện các thủ tục chuyển giao nợ
61
2.3.4.2 Quy trình mua nợ
Trên cơ sở đánh giá tính hiệu quả của việc mua nợ, chi nhánh thu lập hồ sơ
xem xét mua nợ theo quy định theo quy trình theo đúng quy trình cấp tín dụng của
VCB. Quy trình mua nợ của tương tự như quy trình cấp tín dụng tại VCB. Tuy
nhiên có sự khác biệt trong phân cấp phê duyệt hồ sơ như:
Bảng 2.10 “So sánh giữa quy trình mua nợ và cho vay”
Hoạt động mua nợ
soát rủi ro tại Công việc Nguyên tắc quản lý Thẩm định đề xuất Rà P.QLRRTD
Thẩm quyền phê duyệt
Chi nhánh Tất cả các khoản mua nợ đều phải qua P.QLRRTD rà soát rủi ro + Hội đồng quản trị + Hội đồng tín dụng TW + Tổng Giám Đốc/Phó Tổng Giám đốc.
Đại diện ký hợp đồng + TGĐ VCB hoặc người được TGĐ ủy quyền. Cấp tín dụng (cho vay) Quản lý tập trung có phân quyền Quản lý tập trung hoàn toàn Chi nhánh Chỉ trong trường hợp giá trị khoản vay vượt thẩm quyền phán quyết của chi nhánh + Hội đồng quản trị + Hội đồng tín dụng TW + GĐ QLRR và/hoặc GĐ KH + Phòng QLRRTD + Hội đồng tín dụng cơ sở + GĐ/Phó GĐ chi nhánh + Giám đốc KH + GĐ/Phó GĐ chi nhánh + TP. KH/ĐTDA
Quy trình mua nợ của VCB hiện nay được quy định chặt chẽ và phù hợp với
quy định mua bán nợ của NHNN.
2.4 Một số nghiệp vụ mua bán nợ tại Vietcombank
2.4.1 Một số trường hợp bán nợ
- Bán khoản nợ đồng tài trợ
Ví dụ: khoản nợ Công ty CP Địa ốc Sài gòn M&C tại Hội sở chính và VCB –
chi nhánh TP.HCM. Đây là khoản nợ đồng tài trợ giữa VCB và Ngân hàng TMCP
Đông Á, VCB tham gia với tư cách ngân hàng đầu mối với tổng số vốn tài trợ cho
Dự án là 47,98 triệu USD và 22.807 triệu đồng). Giá trị bán bằng giá trị khoản nợ là
32,5 tr.USD, bên mua nợ là NH TMCP Hàng Hải. Trong nghiệp vụ bán khoản nợ
này, VCB nhận thấy thị trường bất động sản có nhiều rủi ro, nên cơ cấu danh mục
đầu tư giảm dư nợ khoản cho vay lĩnh vực BĐS nhằm giảm thiểu rủi ro cho vay.
62
- Bán nợ xử lý nợ xấu
Ví dụ: bán nợ Công ty CP XNK Thuỷ sản Nghệ An tại VCB Chi nhánh Vinh,
đối tượng bán nợ là khoản nợ 14,3 tỷ đồng mà Công ty CP XNK Thuỷ sản Nghệ An
còn dư nợ tại VCB – Chi nhánh Vinh, bao gồm toàn bộ nợ gốc và nợ lãi tính đến
thời điểm bán nợ (30/11/2009). Trong đó: + Nợ gốc: 9,5 tỷ đồng (Bao gồm: Nợ nội
bảng: 4,8 tỷ đồng; Nợ ngoại bảng: 4,7 tỷ đồng) + Nợ lãi: 4,8 tỷ đồng. Giá trị bán nợ
là 4,8 tỷ VND tương đương khoản nợ nội bảng.
Ví dụ: Khoản nợ của CT TNHH SX TM DV XD XNK Đức Phú Thịnh là
khách hàng nợ nhóm 4 của Vietcombank An Giang, giá trị khoản nợ 9.646 Tr.VND
và 5.644 USD, đã được bán cho CT QLN va KKTS NH Phương Nam để thu hồi nợ,
trị giá bán bằng với giá trị khoản nợ.
Ví dụ: khoản nợ CT TNHH Công Nghiệp Dona Quế Bằng, tại thời điểm bán
nợ khách hàng nợ nhóm 5 của Vietcombank HCM, giá trị khoản nợ 23.900 Tr.VND
đã được bán cho Techcombank với giá 22.552 tr.VND
Trong việc bán các khoản nợ xấu trên của VCB, đã góp phần làm giảm tỷ lệ
nợ xấu của hệ thống đáng kể và thu hồi được nguồn vốn cho vay.
- Cơ cấu danh mục đầu tư
Ví dụ: Trong trường hợp bán nợ Công ty CP AP Việt Nam tại VCB – Chi
nhánh Thái Bình có 2 chủ thể tham gia quan hệ mua bán nợ. Đó là VCB với tư cách
là Bên bán nợ và Công ty CP Đầu tư và phát triển Khu Công nghiệp ALP (gọi tắt là
Công ty ALP) với tư cách là Bên mua nợ. Công ty ALP là một công ty cổ phần do
một số cá nhân và công ty cổ phần phát triển thương mại Việt Nam cùng góp vốn
thành lập trong năm 2007 với vốn điều lệ là 38 tỷ đồng. Trụ sở của Công ty tại tầng
2 nhà A54, ngõ 61, đường Trần Duy Hưng, phường Trung Hoà, quận Cầu Giấy –
Hà Nội. Công ty do ông Hồ Nhân Kiệt, quốc tịch Australia làm Tổng Giám đốc.
Công ty ALP đang tiến hành các hoạt động đầu tư tại tỉnh Thái Bình. Tại thời điểm
bán nợ, Công ty ALP đã được UBND tỉnh Thái Bình chấp thuận cho thuê 52.148,8
m2 đất tại khu công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh – xã Phú Xuân – TP.Thái Bình (toàn
bộ diện tích mà Công ty AP VN được thuê trước đây). Như vậy, theo ví dụ này,
63
Công ty ALP là một doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhưng đã có quan hệ mua bán
nợ thành công với VCB.
Ví dụ: khoản nợ của Công ty công trình 86 của chi nhánh VCB Nam Sài Gòn,
giá trị khoản nợ 59.440 Tr.VND, đã được xử lý trích lập dự phòng, tài sản đảm bảo
của khoản nợ trị giá khoảng 30 tỷ VND, năm 2008 VCB đã bán cho DATC với giá
11 tỷ VND.
Ví dụ: khoản nợ của CT CƠ KHÍ ÔTÔ & TB ĐIỆN ĐN của chi nhánh VCB
Đà Nẵng, giá trị khoản nợ 5.025 Tr.VND, đã được xử lý trích lập dự phòng, tháng
04/2011 đã bán cho CT Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DN-Chi nhánh Đà
Nẵng, do khoản nợ vay này không có tài sản đảm bảo nên giá bán rất thấp so với giá
trị khoản nợ (378 tr.VND).
2.4.2 Một số trường hợp mua nợ
Khoản nợ thuộc nhóm 1, hoặc các khoản nợ được đánh giá là có tiềm năng;
được phép mua bán theo quy định của pháp luật, không có tranh chấp;
* Mua nợ lại từ các ngân hàng thành viên tham gia cho vay đồng tài trợMu
Ví dụ: Năm 2002 VCB thực hiện khoản mua nợ của TCT Hàng Hải VIệt Nam
của dự án mua tàu Aishvarya, bên bán là Ngân hàng quân đội. Trị giá mua bằng với
trị giá khoản nợ là 300.000 USD.
Ví dụ: Năm 2003 VCB thực hiện khoản mua nợ của Công ty PVN từ cho vay
Dự án Nhà Máy SX Phân Đạm Phú Mỹ của PVN, bên bán là Techcombank. Trị giá
mua bằng với trị giá khoản nợ là 678.984 USD.
* Mua nợ để tái cấu trúc tài chính cho Bên Nợ
VCB mua nợ để tái cấu trúc tài chính cho Bên Nợ các trường hợp như:
Ví dụ1: mua nợ của Ngân hàng UOB-CN HCM, đây là khoản nợ của Công ty LD
RSC TPHCM, mục đích mua nợ là cơ cấu lại nợ vay cho Công ty LD RSC, đơn vị
quản lý Toà nhà Norfolk Mansion, trị giá khoản nợ gốc là 16 Tr.USD, thực hiện
mua nợ trong năm 2003, trị giá mua nợ bằng với trị giá gốc khoản nợ gốc. Tại thời
điểm thực hiện giao dịch mua nợ, toà nhà căn hộ cho thuê Norfolk Mansion là một
trong 02 toà nhà căn hộ dịch vụ cao cấp tại TP HCM; Trong danh mục tín dụng của
64
VCB tại thời điểm đó chưa có khoản vay thuộc ngành này, việc xem xét mua nợ
nhằm vào các mục tiêu sau đây:
(i) Lãi suất: Đây là khoản mua nợ kèm tái cấu trúc tài chính, có thể thương
lượng mức lãi suất cho vay tốt đối với Bên Mua.
(ii) Tăng trưởng tín dụng: Đây là giai đoạn VCB muốn phát triển nhanh danh
mục tín dụng trung dài hạn.Đa dạng danh mục tín dụng: như đã đề cập trên,
VCB chưa có khách hàng tương tự trong danh mục tín dụng.
(iv) Bán chéo sản phẩm: Tăng danh số thanh toán thẻ tín dụng từ các khách hàng
là cư dân của toà nhà.
(v) Phương thức thực hiện: Đồng mua nợ, VCB làm đầu mối thu xếp mua nợ
(Thực hiện tương tự như cho vay đồng tài trợ). Căn cứ pháp lý theo Quyết định
140/1999/QĐ-NHNN ngày 19/04/1999 quy định về mua bán nợ.
Ví dụ 2: VCB thực hiện mua lại khoản nợ của CN NH Mitsubishi Tokyo –TPHCM,
nên nợ là Công ty Liên doanh nhôm Việt Nhật (VIJALCO), VIJALCO có quy mô
vừa, hoạt động sản xuất nhôm gia dụng, công nghiệp. Trước đó liên doanh này hoạt
động không hiệu quả, khó tiếp cận tín dụng, giá mua nợ bằng trị giá khoản nợ gốc
1,45 Tr.USD.
Tại thời điểm VCB-CN HCM quan tâm đến việc mua nợ, hoạt động của
VIJALCO đã khá lên nhờ cung cấp nhôm cho các nhà sản xuất chế biến gỗ xuất
khẩu để làm các sản phẩm gỗ - nhôm kết hợp.
+ Lý do mua nợ: để cho vay và nhận toàn bộ tài sản của doanh nghiệp làm tài sản
đảm bảo cho các khoản vay tại VCB HCM.
+ Mục đích là cơ cấu tài chính: khoản nợ được mua là khoản nợ vay ngắn hạn, tại
thời điểm đó DN có VLĐ ròng âm, không cơ cấu lại thời hạn sẽ làm cho DN luôn
phải đối mặt với mất khả năng thanh toán => Quyết định cơ cấu thành khoản vay
trung hạn, thương thảo lại lịch trả nợ.
Phương thức thực hiện: Mua 100% khoản vay. Thương lượng trực tiếp với bên
bán giá mua và Hợp đồng mua bán nợ; Thương lượng với bên nợ lịch trả nợ và lãi
suất.
65
Ví dụ 3: năm 2009 VCB đã thực hiện mua lại khoản nợ của Cty Bất Động Sản
Kim Sơn. Đây là khoản nợ vay đầu tư dự án khu thương mại, dịch vụ căn hộ cao
cấp Gateway giai đoạn 1, giá trị mua bằng với trị giá khoản nợ gốc là 112 tỷ VND.
Lý do mua nợ là VCB nhận thấy đây là dự án đầu tư có hiệu quả
* Mua nợ nhằm mở rộng danh mục đầu tư
Ví dụ: Mua khoản nợ tài trợ dự án Nhà máyng Nagarjuna
Trong năm 2004-2007, VCB đã thực hiện mua lại khoản nợ vay của các Bên
khác nhu đối với dự án nhà máy đường Nagarjuna, đây là dự án đầu tư của NIVL.
VCB quyết định mua nợ lại dự án này vì đây là dự án khả thi và để mở rộng danh
mục cho vay đầu tư ngành mía đường của VCB. Giá mua bằng với trị giá khoản nợ
gốc là 5.641.417 USD.
+Lý do mua nợ: VCB-CN HCM quyết định mua nợ do NIVL là DN đầu tư nước
ngoài của Ấn Độ, một trong những doanh nghiệp sản xuất đường thành công tính
đến thời điểm hiện nay và liên quan đến Chương trình 1 triệu tấn đường, nhà máy
đường đầu tư thất bại, có tâm lý e ngại ngành đường. Vào thời điểm xem xét mua
nợ, trên cơ sở đánh giá tổng quan ngành đường, đánh giá thực tế hoạt động của
doanh nghiệp xét thấy có thể tài trợ tín dụng vào NIVL và quyết định mua nợ. VCB
đã thực hiện thương lượng từng thành viên đồng tài trợ, ký hợp đồng mua nợ riêng
biệt từng thành viên.
VCB mua nợ thuần tuý nhằm mục đích mở rộng danh mục đầu tư. Đây là các
khoản vay đồng tài trợ do Indovina Bank làm đầu mối, VCB mua nợ của các bên
đồng tài trợ nước ngoài và trở thành một bên đồng tài trợ.
2.5 Đánh giá thực trạng mua, bán nợ tại Vietcombank
Hiệu quả mua bán nợ tại VCB trong thời gian qua chưa cao, chiếm tỷ trọng
thấp nguyên nhân là do thời gian thực hiện việc mua bán nợ thường kéo dài, khó
khăn trong việc định giá bán khoản nợ, bên mua nợ ép giá khoản nợ, nhiều khoản
nợ chỉ bán được 5-10% giá trị khoản nợ. Bên cạnh đó nghiệp vụ của các cán bộ
VCB trong việc thực hiện mua bán nợ còn hạn chế, nên giải pháp mua bán nợ để thu
hồi nợ xấu thường được chọn sau khi áp dụng các biện pháp khác không hiệu quả
66
2.5.1 Ưu điểm:
Vai trò của hoạt động mua bán nợ trong hệ thống VCB ngày càng phát huy
mạnh. Việc bán nợ hiện nay đang được xem là một biện pháp hữu hiệu để xử lý các
khoản nợ xấu, nợ tồn đọng của VCB. Ưu điểm của mua bán nợ trong hệ thống VCB
trong thời gian qua thể hiện rõ nét qua các chỉ tiêu: cải thiện khả năng thanh toán
của VCB; Cơ cấu lại danh mục và quy mô khoản vay nhằm đáp ứng yêu cầu về
quản trị rủi ro; gia tăng thu nhập cho ngân hàng từ việc bán các khoản nợ xấu đã
trích lập dự phòng; Xử lý những khoản nợ có vấn đề mà khách hàng đã bị bế tắc về
nguồn trả nợ từ lâu nay. Nhanh chóng xử lý dứt điểm được các khoản nợ có vấn đề
mà VCB chỉ còn khả năng thu hồi được một phần nhằm thu hồi lại một phần vốn đã
cho vay để VCB tiếp tục quay vòng kinh doanh sinh lời, đặc biệt là các khoản nợ đã
được VCB sử dụng dự phòng xử lý rủi ro tín dụng
Hiện nay VCB đã xây dựng quy chế mua bán nợ trong hệ thống VCB. Ban
hành tạm thời về quy trình thủ tục mua bán nợ của VCB theo Quyết định số
418/QĐ-NHNT.CN ngày 05/11/2009 của Tổng Giám đốc VCB, bên cạnh đó VCB
đã thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản VCB để xử lý các khoản nợ.
Đây cũng chính là nền tảng khởi đầu cho định hướng phát triển nghiệp vụ mua bán
nợ của hệ thống VCB trong thời gian tới.
2.5.2 Những mặt còn hạn chế:
Quy định mua, bán nợ hiện hành của VCB còn chưa hoàn thiện: Mặc dù
quy định mua, bán nợ hiện hành của VCB đã cụ thể các quy định pháp luật vào
điều kiện của VCB, đưa ra quy định bán nợ hợp lý để các bộ phận chức năng
thực hiện. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, quy định này cũng còn một
số bất cập cần phải hoàn thiện thêm như làm rõ thêm quyền chủ động đề xuất
bán nợ của các chi nhánh, xác định rõ mục đích của việc thông báo bán nợ, bổ
sung căn cứ của việc xác định giá bán nợ, cơ chế hoạt động của Hội đồng Bán
nợ, cơ chế kiểm tra giám sát hoạt động bán nợ..
Các nhân viên VCB hiểu rõ nghiệp vụ mua bán nợ: khả năng nắm bắt và vận
dụng các quy định mua bán nợ của một bộ phận cán bộ còn hạn chế nên trong
67
thực tiễn hoạt động bán nợ, nhiều cán bộ còn lúng túng khi thực hiện nghiệp vụ
này vì vậy đã lựa chọn biện pháp xử lý nợ khác thay vì bán nợ dù nếu áp dụng
bán nợ sẽ hiệu quả hơn.
Chưa xây dựng được đội ngũ chuyên nghiệp thực hiện mua bán nợ : hiện tại
phòng công nợ VCB thực hiện mua bán nợ của VCB, ngoài công việc chuyên
môn của phòng công nợ các CB này kiêm thêm chức năng thực hiện mua bán
nợ. Tuy nhiên các cán bộ này chưa được đào tạo bài bản, chưa có nhiều kinh
nghiệm thực tế nên việc xử lý mua bán nợ còn nhiều khó khăn.
Chưa xây dựng được cơ sở định giá mua bán nợ: việc xác định giá mua bán
nợ hiện nay của VCB chủ yếu căn cứ vào giá trị tài sản đảm có thể thu hồi và
dòng tiền có thể thu hồi của khách nợ. Tuy nhiên việc định giá này chưa được
xây dựng các chỉ tiêu định giá khoản nợ một cách cụ thể, chủ yếu vẫn là dựa
vào các quy trình thẩm định cấp tín dụng và thẩm định tài sản hiện hành của
VCB để xác định giá mua bán nợ.
2.5.3. Nguyên nhân
Do hoạt động mua bán nợ tại Việt nam còn tương đối khá mới mẻ, quy trình
mua bán nợ hiện hành của VCB được xây dựng dựa trên quy chế mua bán nợ
hiện hành của NHNN (Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 ) và
được ban hành áp dụng tạm thời, vừa làm vừa hoàn thiện quy trình nên trong
quá trình thực hiện không tránh khỏi nhiều vướng mắc phát sinh.
VCB Chưa chú trọng đến đào tạo phát triển nhiệp vụ mua án nợ. Từ trước đến
nay VCB chỉ thực hiện tập huấn nghiệp vụ mua bán nợ duy nhất vào năm 2010
đối với một số đối tượng, đến nay nhiều cán bộ trong hệ thống VCB còn chưa
hiểu rõ về nghiệp vụ này.
VCB chưa thành lập bộ phận chuyên trách mua bán nợ, chưa đào tạo được cán
bộ MBN chuyên nghiệp nên hoạt động MBN của VCB còn rất nhiều hạn chế.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động mua bán nợ nên chưa xây dựng
được cách định giá các khoản nợ một cách hợp lý. Bên cạnh đó, việc thông tin
không cân xứng hoặc thông tin đánh giá về thị trường, về khách hàng ....không
68
chính xác rất dễ dẫn đến sai lệch trong việc định giá khoản nợ. Việc định giá
mua quá cao hoặc bán quá thấp sẽ làm giảm thu nhập ngân hàng. Ngoài ra, việc
định giá các khoản nợ còn gặp nhiều khó khăn do các chủ thể chỉ quan tâm đến
tài sản đảm bảo chứ chưa quan tâm nhiều đến khoản nợ. Vì vậy các khoản nợ
không có tài sản đảm bảo rất khó bán.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2, tác giả đã tập trung phân tích thực trạng mua bán nợ tại thị
trường Việt nam nói chung và Vietcombank nói riêng. Qua đó đưa ra những kết qủa
đạt được, những tồn tại vướng mắc khó khăn trong quá trình thực hiện. Và để giải
quyết triệt để những tồn tại trên, đòi hỏi chúng ta phải có hệ thống giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao hiệu quả mua bán nợ tại vietcombank. Chi tiết hệ thống giải pháp
này sẽ được đề cập cụ thể hơn tại chương 3 của luận văn.
69
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ MUA BÁN NỢ TẠI
VIETCOMBANK
3.1. Định hướng hoạt động mua bán nợ tại Vietcombank
Nhằm đạt được mục tiêu phát triển chung của toàn hệ thống VCB, bộ phận
mua bán nợ cũng đã đề ra định hướng phát triển về hoạt động mua bán nợ tại VCB
như sau:
Mỗi năm VCB sẽ tổ chức huấn luyện nghiệp vụ mua bán nợ cho các CB-CNV
trong hệ thống ít nhất một lần, để nâng cao nghiệp vụ cho các CBCNV và khuyến
khích các chi nhánh mạnh dạn thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ trong xử lý nợ xấu
và cơ cấu các danh mục khoản vay.
Phòng công nợ đang nghiên cứu đề ra các giải pháp phát triển nghiệp vụ bán
nợ tại VCB. Bên cạnh đó ban lãnh đạo VCB cũng đưa ra các phương án sửa đổi quy
trình mua bán nợ cho phù hợp với tình hình thực tế
Tiếp tục đẩy mạnh vai trò của việc bán nợ trong xử lý nợ xấu, mục tiêu tỷ lệ
xử lý nợ bằng biện pháp bán nợ phải chiếm ít nhất 20% trong các biện pháp thu hồi
nợ của VCB.
Mục tiêu định hướng của VCB là bán các khoản nợ từ nhóm 3 trở đi và các
khoản nợ đã trích lập dự phòng cho DATC hoặc chào bán công khai. Khuyến khích
mua các khoản nợ nhằm cơ cấu các danh mục đầu tư ưu tiên các DN hoạt động
trong các ngành khai thác, khai khoáng, xăng dầu..
3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả mua bán nợ tại Vietcombank
3.2.1 Nhóm giải pháp thuộc về bộ ngành có liên quan
3.2.1.1 Về luật pháp
Hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động mua bán nợ
Cùng với hội nhập quốc tế, các thể chế của nền kinh tế nói chung, thị trường
tài chính nói riêng sẽ phát triển ngày càng đa dạng. Do đó, cần phải có hệ thống
pháp lý chuẩn mực để điều chỉnh hoạt động của các thể chế mới như các công ty
chuyên kinh doanh, hoạt động trong lĩnh vực mua bán nợ.
70
Trước tiên, phải rà soát và xây dựng các văn bản qui phạm pháp luật điều
chỉnh mối quan hệ mua bán nợ giữa các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ.
Các quan hệ nào thiếu phải được bổ sung, quan hệ nào mâu thuẫn, chồng chéo thì
chỉnh sửa cho thống nhất.
Nhà nước cần tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ, cụ thể, chi tiết nhằm dễ
triển khai, dễ thực hiện việc mua bán nợ. Quy định cách thức thực hiện trong xử lý
hồ sơ mua bán nợ, trong định giá mua bán nợ, đảm bảo doanh nghiệp mua nợ và
doanh nghiệp bán nợ cùng có chung cái nhìn về tình trạng khoản nợ, giá trị khoản
nợ để nhanh chóng thống nhất trong đàm phán mua bán nợ.
Nhà nước cần ban hành một văn bản pháp lý đủ mạnh làm cơ sở thiết lập thị
trường và áp dụng các hình thức xử lý tiến bộ theo kinh nghiệm quốc tế đã được
triển khai thành công, để hỗ trợ hoạt động của các tổ chức xử lý nợ cũng như thu hút
sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân và thậm chí cả các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong điều kiện thị trường mua bán nợ như hiện nay thì việc ban hành một
nghị định về mua bán nợ là phù hợp. Ngoài việc cụ thể hoá và pháp điển hoá các
quy định tại Quyết định 59 hiện hành, Nghị định mới cần bổ sung thêm các quy
định về việc định giá nợ, sử dụng hoá đơn trong hoạt động mua bán nợ, hạch toán
kế toán và đặc biệt là bổ sung quy định về các quyền lợi của chủ thể sau khi mua
nợ...
Chính phủ cũng nên xem xét điều chỉnh luật phá sản kịp thời, phù hợp với tình
hình hiện nay.
3.2.1.2 Về chính sách
Ban hành các văn bản hướng dẫn về hoạt động mua bán nợ nên tập trung điều
chỉnh trên 2 phương diện:
Một là, các thủ tục nguyên tắc áp dụng, phương pháp định giá, quyền và nghĩa
Quy định rõ các thủ tục cần thiết đối với bên mua và bên bán nợ
Quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia mua bán nợ
vụ của các bên tham gia..
71
Quy định rõ về cơ chế tài chính cho hoạt động mua bán nợ như phương thức
thanh toán, hạch toán và hướng dẫn tính thuế đối với hoạt động mua bán nợ.
Hai là, các tình huống xử lý tài chính, lao động và các vấn đề phát sinh sau
khi thực hiện mua nợ DN như cách thức xử lý tài chính, sắp xếp lao động ….
3.2.1.3 Về tổ chức thực hiện
*Phát triển thị trường mua bán nợ
Như đã nêu trên, hiện thị trường mua bán nợ có rất ít doanh nghiệp, cá nhân
kinh doanh về lĩnh vực này, dù nhu cầu mua bán nợ là rất lớn. Điều này dẫn đến khó
xác định được giá cả thị trường và việc chuyển nhượng khoản nợ gặp nhiều khó
khăn. Chính vì vậy, song song với việc hoàn thiện cơ chế, chính sách về mua bán
nợ, Nhà nước cần có cơ chế thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán nợ theo
hướng ngày càng có nhiều chủ thể tham gia. Chủ thể này có thể là các đơn vị
chuyên kinh doanh hoạt động mua, bán nợ, các công ty trực thuộc tổ chức tín dụng,
các tổ chức cá nhân trong nước và nước ngoài. Khi càng nhiều người mua bán thì sẽ
càng có nhiều khoản nợ được giao dịch, dễ mua, dễ bán. Nếu làm được như vậy,
Việt Nam sẽ từng bước hoàn thiện thị trường mua bán nợ sơ cấp (giữa tổ chức tín
dụng sở hữu khoản nợ và bên mua nợ) và xây dựng được thị trường mua bán nợ thứ
cấp (giữa các tổ chức, cá nhân sở hữu khoản nợ với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu
mua nợ). Ngoài ra cũng cần có các cơ chế để thúc đẩy việc thành lập các sàn giao
dịch để thuận tiện cho việc chuyển giao nợ trên thị trường thứ cấp.
*Thành lập Công ty mua bán nợ quốc gia
Hiện nay ở Việt Nam chỉ có DATC là công ty chuyên mua bán nợ thuộc Bộ
Tài chính, hoạt động độc quyền nên có thể ép giá mua nợ với bên bán. Bên cạnh đó
nguồn lực cũng có hạn, với nguồn vốn điều lệ chỉ khoảng 2400 tỷ VND, DATC
không thể giải quyết mua tất cả các khoản nợ xấu đang có nhu cầu giao dịch. Vì vậy
thị trường mua bán nợ của Việt Nam vẫn chưa thể phát triển được.
Chính phủ nên thành lập một Công ty mua lại nợ xấu của các DN, nhất là các
DN có công nghệ tiên tiến, hoạt động sản xuất kinh doanh quy mô lớn, sử dụng
nhiều nhân công lao động, gặp khó khăn tài chính tạm thời… Qua đó giúp DN tiếp
72
cận được nguồn vốn, trở lại hoạt động, tạo công ăn việc làm cho người lao động và
phục hồi sản xuất. Vì vậy việc thành lập một công ty mua nợ xấu của DN là điều tất
yếu trước nhu cầu của thị trường.
-Biện pháp: chính phủ Việt Nam nên thành lập công ty mua bán nợ quốc gia (tạm
gọi tắt là VNAMC) đủ tầm để thu mua nợ xấu của các TCTD, sau đó xử lý và bán
lại các khoản nợ đã mua này.
-Cơ chế hoạt động: cho phép VNAMC có thể phát hành trái phiếu có thời hạn 10
năm với sự bảo lãnh của chính phủ. Việc xử lý nợ xấu sẽ dựa trên nguyên tắc chia
sẻ lời lỗ giữa VNAMC và các TCTD bán nợ.
- Giải pháp xử lý:
Đối với các khoản vay thuộc ngành bất động sản: VNAMC nên phối hợp chặt
chẽ với cơ quan Bộ Xây dựng, Hiệp Hội Bất Động Sản...để chọn lọc các dự án
còn nhiều tiềm năng để hỗ trợ phát triển và quản lý bán dự án, giảm lượng hàng
tồn kho BĐS là ngành chiếm khoản nợ xấu lớn nhất hiện nay.
Đối với các khoản nợ trong khu vực sản xuất: VNAMC nên tập trung giải
quyết vấn đề nợ xấu các nhóm mục tiêu của Chính phủ, trong đó đặt trọng tâm
vào các ngành thiết yếu phát triển kinh tế, mang lại những cơ hội việc làm và
giá trị kinh tế cao.
Đối với các doanh nghiệp vay nợ đang giao dịch trên sàn chứng khoán,
VNTAMC nên phối hợp với UBCK quốc gia để phát triển các kế hoạch tái cơ
cấu và khôi phục lại giá trị cổ phiếu một số doanh nghiệp dẫn đầu ngành.
-Các hình thức mua bán nợ: Việt nam có thể áp dụng các hình thức mua nợ của
Malaysia như sau:
+ Chuyển giao nợ theo quyết định của Chính phủ: đối với các trường hợp sáp nhập
các ngân hàng, VNAMC nhận bàn giao nợ và trả tiền cho các Ngân hàng theo giá sổ
sách của khoản nợ.
+ Mua bán nợ theo thỏa thuận: VNAMC sẽ thỏa thuận mua lại các khoản nợ tồn
đọng của các Ngân hàng theo giá thỏa thuận, có thể mua một phần khoản nợ hoặc
mua toàn bộ khoản nợ.
73
-Giá mua các khoản nợ: VNAMC có thể tự định giá hoặc thuê Công ty chuyên về
thẩm định giá khoản nợ để xác định giá trị thực tế của khoản nợ. Việc định giá trị
khoản nợ xấu hiện nay của Việt Nam là rất khó, vì vậy cần phải có tổ chức chuyên
định giá khoản nợ xấu của các TCTD và cơ chế riêng cho hoạt động của tổ chức
này. Việc định giá trị giá mua lại khoản nợ tại Việt Nam có thể áp dụng như sau:
+ Đối với nợ có tài sản đảm bảo: nên áp dụng mua theo giá trị định giá của
tài sản đảm bảo.
+ Đối với khoản nợ không có tài sản đảm bảo, giá mua theo trị giá định giá
trị khoản nợ có thể thu hồi.
*Tăng cường năng lực cho DATC
Để xử lý nợ xấu đạt hiệu quả, góp phần phát triển thị trường mua bán nợ và
DATC phát huy hết vai trò của mình trong thị trường mua bán nợ tại Việt Nam thì
cần có hành lang pháp lý đầy đủ. Trước mắt, cần ban hành thông tư hướng dẫn riêng
cho DATC trong tái cơ cấu đối với các DN có giá trị thực tế thấp hơn các khoản
phải trả khi thực hiện CPH. Mặt khác cần có quy định cụ thể về xử lý các khoản nợ
xấu của NHTM và tổ chức tín dụng theo hướng tập trung bán nợ, khống chế thời
hạn xử lý nợ, nếu quá thời hạn thì phải bán theo giá của tổ chức thẩm định trung
gian. Trong trường hợp nguồn vốn của DATC không đủ để thực hiện mua nợ gắn
với tái cấu trúc DN thì đề nghị Nhà nước hỗ trợ vốn (có hoàn trả) cho DATC, hoặc
phát hành trái phiếu DATC (được định kỳ định giá lại) để thực hiện xử lý nợ.
Bên cạnh đó, muốn xử lý nợ xấu DNNN thành công, cần khuyến khích các
hoạt động mua bán nợ giữa các DNNN, NHTM và DATC; tăng quy mô, nâng cao
năng lực về tài chính, quản trị, trách nhiệm và vai trò của DATC. Theo đó, cần ban
hành các cơ chế liên quan đến hoạt động của DATC theo hướng tạo quyền chủ động
cho DATC trong xử lý nợ cho phù hợp với thông lệ quốc tế; Xây dựng cơ chế, yêu
cầu các ngân hàng thương mại bán các khoản nợ xấu cho DATC hoặc bàn giao
nguyên trạng các DNNN bao gồm các Tổng công ty Dâu tằm tơ, các doanh nghiệp
thuộc Vinashin...
74
Ngoài ra, cần bổ sung cụ thể cơ chế xử lý cho DATC và cơ chế cho các
DNNN thuộc diện cơ cấu nợ thông qua mua bán nợ, ví dụ: Quy định cụ thể về việc
được chuyển nợ thành vốn góp của DATC và của các tổng công ty đối với DN
thành viên chuyển đổi. Trường hợp sau khi xử lý tài chính, đánh giá lại vẫn còn âm
vốn chủ sở hữu, nhưng thị trường chấp nhận, cổ đông chấp thuận mua cổ phần, đề
nghị Bộ chủ quản vẫn phê duyệt giá trị DN và phê duyệt phương án xử lý tài chính
để làm căn cứ chuyển DNNN thành CTCP. Mặt khác, nên bổ sung quyền hạn cho
DATC để Công ty chủ động hơn trong việc quyết định các phương án mua bán nợ
và xử lý nợ. Ví dụ, quy định hiện nay, sau khi mua nợ, DATC được giảm trừ trách
nhiệm trả nợ cho DNNN bằng số âm vốn chủ sở hữu là hơi cứng nhắc. Nên Quy
định giao cho đơn vị mua bán nợ chủ động quyết định (dựa trên nguồn lực thực tế)
sau khi cơ cấu nợ, vốn nhà nước tại DNNN vẫn còn, thì việc CPH sẽ hiệu quả hơn.
3.2.2 Nhóm giải pháp thuộc về ngân hàng nhà nước.
3.2.2.1 Ban hành quy chế mua bán nợ phù hợp
NHNN cần minh bạch và đơn giản hóa việc bán các khoản vay, quy định rõ
cơ chế thủ tục mua bán các khoản vay nợ đối với các nhà đầu tư trong nước và đối
với các nhà đầu tư nước ngoài.
Chỉnh sửa quy định mua bán nợ, cụ thể theo quy định giá mua bán nợ tại tại
điều 7, nên bổ sung thêm quy định giá mua có thể do hai bên tự thỏa thuận
Hiện nay NHNN vừa công bố dự thảo thông tư mua bán nợ thay thế Quyết
định 59/2006/QĐ-NHNN ban hành Quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng.
Đây được coi là một động thái cần thiết mở đường cho chủ trương tái cơ cấu nền
kinh tế cũng như tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng và DN, đặc biệt là các DNNN.
Đồng thời góp phần giải quyết những vướng mắc tồn tại mà chính ngành ngân hàng
đang gặp phải.
Dự thảo Thông tư không quy định bên mua là cá nhân, vì thực tế hầu như
không phát sinh hoạt động mua, bán nợ giữa tổ chức tín dụng với cá nhân, đồng thời
để góp phần đảm bảo khả năng, trách nhiệm quản lý khoản vay khi bên mua thực
hiện mua khoản nợ. Để đảm bảo tăng trách nhiệm của các bên tham gia mua, bán
75
khoản nợ, dự thảo bổ sung nguyên tắc “Các bên liên quan đến giao dịch mua, bán
nợ phải đảm bảo nhận thức đầy đủ các rủi ro khi tham gia giao dịch mua, bán nợ và
tự chịu trách nhiệm trong các quyết định liên quan đến giao dịch mua, bán nợ”;
Dự thảo Thông tư quy định bên mua nợ khi mua khoản nợ sẽ trở thành người
cho vay đối với bên nợ để đảm bảo bên mua nợ sẽ phải tuân thủ các quy định pháp
luật về cấp tín dụng... Hy vọng rằng với dự thảo Thông tư mới của Ngân hàng nhà
nước sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động mua bán nợ phát triển, góp phần lành mạnh
hóa tài chính cho các DN cũng như tổ chức tín dụng, đồng thời thúc đẩy quá trình
tái cấu trúc lại hệ thống DN cũng như nền kinh tế.
3.2.2.2 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nghiệp vụ mua bán nợ trong hệ thống
Ngân Hàng
Phát triển văn hóa mua bán nợ, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, ngân hàng
nên thực hiện các giao dịch mua bán nợ để xử lý nợ xấu hoặc mua các khoản nợ để
trở thành các nhà đầu tư chiến lược.
Các cơ quan quản lý cần tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu, nâng cao
nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác mua bán nợ; tổ chức lớp tập huấn, các hội
thảo có sự tham gia của các cá nhân và tổ chức nước ngoài để tận dụng sự hiểu biết
và kinh nghiệm của quốc tế từ đó áp dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam.
3.2.2.3 Tăng cường biện pháp mua bán nợ để xử lý nợ xấu
+ Thứ nhất, yêu cấu tất cả các NHTM có nợ xấu bắt buộc phải thành lập công ty
quản lý nợ (AMC) để tách hoạt động xử lý nợ xấu khỏi hoạt động kinh doanh của
NHTM. Các NHTM sẽ nhóm toàn bộ các khoản nợ xấu này lại và bán cho các
AMC trực thuộc NHTM.
+ Thứ hai, Chính phủ nên giao nhiệm vụ rõ ràng cho NHNN trong việc ban hành
quy chế về hoạt động của VNAMC, các AMC của Ngân hàng cũng như hoạt động
chứng khoán hóa. Đồng thời xác định rõ trách nhiệm của NHNN trong việc giám sát
hoạt động trên, tránh tối đa các NHTM sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa trên để
làm gia tăng rủi ro hệ thống.
76
+ Thứ ba, khuyến khích các NHTM tích cực thực hiện mua, bán nợ để xử lý các nợ
xấu trong hệ thống ngân hàng.
3.2.3 Nhóm giải pháp trong hệ thống Vietcombank
3.2.3.1 Giải pháp về quy trình thủ tục
*Ban hành văn bản thay thế Quy định tạm thời về mua, bán nợ
Qua xem xét và tổng kết thực tiễn thực hiện Quy định tạm thời về mua, bán nợ
của VCB (ban hành theo Quyết định số 418/QĐ-NHNT.CN ngày 05/11/2009 của
Tổng Giám đốc VCB), đề xuất một số sửa đổi về hoạt động mua bán nợ như sau:
*Tăng quyền chủ động đề xuất bán nợ của Chi nhánh
Mặc dù quy định hiện hành đã trao quyền chủ động đề xuất bán nợ cho Chi
nhánh nhưng nội dung chưa thực sự rõ ràng, dẫn đến nhiều Chi nhánh trong quá
trình triển khai thực hiện không rõ thẩm quyền của mình được thực hiện đến đâu, có
quyền chủ động đàm phán bán nợ với các đối tác có nhu cầu mua nợ hay không. Vì
vậy, quy định mới cần xác định rõ các công việc Chi nhánh được chủ động thực
hiện. Theo đó, Chi nhánh được quyền chủ động lựa chọn biện pháp bán nợ hoặc
biện pháp xử lý nợ khác trên cơ sở đánh giá tính hiệu quả của việc thu hồi nợ. Chi
nhánh cũng được quyền chủ động đàm phán sơ bộ với đối tác quan tâm nhưng phải
thông báo rõ ràng cho đối tác biết cấp có thẩm quyền quyết định bán nợ.
*Kiến nghị bỏ thẩm quyền của TGĐ về phê duyệt việc cơ cấu lại nguồn vốn
Thực tế bán nợ thời gian qua cho thấy việc bán nợ được xem xét trên cơ sở
đánh giá tính hiệu quả của biện pháp bán nợ với các biện pháp thu hồi nợ khác. Trên
cơ sở đề xuất của bộ phận chức năng, cấp có thẩm quyền sẽ xem xét, ra quyết định
cụ thể đối với việc bán hay không bán một khoản nợ nhất định, như vậy vấn đề cơ
cấu lại nguồn vốn, danh mục cấp tín dụng không đặt ra. Vì vậy, đề nghị bỏ quy định
này để phù hợp với thực tiễn bán nợ tại VCB. Bỏ thẩm quyền của Tổng Giám đốc
về phê duyệt việc cơ cấu lại nguồn vốn, danh mục cấp tín dụng của
Vietcombank/Chi nhánh.
77
*Xây dựng cơ sở định giá khoản nợ
Việc xác định giá bán nợ (giá khởi điểm) là vấn đề quan trọng nhất để quyết
định có xử lý khoản nợ theo phương thức bán nợ hay không. Bởi vì VCB sẽ chỉ
thực hiện bán nợ khi đối tác trả giá tối thiểu bằng giá bán nợ được xác định. Việc
xác định giá bán nợ không chính xác sẽ không thể bán được nợ (khi định giá quá
cao) hoặc gây thiệt hại cho ngân hàng (do định giá quá thấp). Hiện Quyết định 418
dựa trên hai căn cứ sau đây để xác định giá bán nợ:
Thứ nhất, đó chính là việc xem xét chính bản thân khoản nợ và TSBĐ cho
khoản nợ. Khoản nợ thuộc nhóm mấy? trong hạn hay quá hạn? đã sử dụng DPRR
hay chưa? Nguồn gốc phát sinh khoản nợ là gì? Đó là cho vay phát triển bất động
sản hay cho vay thương mại? Đối với cho vay phát triển bất động sản thì phải đặc
biệt quan tâm đến vấn đề tài sản bảo đảm. Trong trường hợp này khả năng thanh
toán nợ phụ thuộc nhiều vào giá trị tài sản bảo đảm. Đối với khoản vay thương mại
thì ngoài giá trị tài sản bảo đảm, cần đặc biệt quan tâm đến dòng tiền và dự báo
dòng tiền của Bên nợ. Đối với khoản vay có bảo đảm thì phải đánh giá giá trị thu
hồi từ TSBĐ, khả năng chuyển nhượng TSBĐ, khả năng thực hiện nghĩa vụ trả thay
của bên bảo lãnh… Tiếp theo đó là việc đánh giá tính chặt chẽ, hợp pháp của hồ sơ
khoản nợ, hồ sơ bảo đảm của khoản nợ. Nếu hồ sơ đầy đủ chặt chẽ về mặt pháp lý,
để bảo vệ quyền lợi của VCB nếu có tranh chấp thì đương nhiên cũng sẽ ảnh hưởng
đến giá bán nợ theo hướng tích cực.
Thứ hai, đó là việc đánh giá thẩm định về Bên nợ, bao gồm:
- Đánh giá về mô hình tổ chức và hoạt động quản điều hành: mô hình tổ chức
tập trung hay phân quyền? có phù hợp với quy mô hoạt động của Công ty hay
không? Kinh nghiệm, năng lực quản lý điều hành của lãnh đạo Công ty thế nào? chủ
sở hữu của doanh nghiệp thực sự là ai? thiện chí hợp tác trong việc trả nợ…
- Đánh giá về hoạt động sản xuất kinh doanh (đang hoạt động bình thường,
hoạt động cầm chừng hay đã ngừng hoạt động?) sản phẩm làm ra có đảm bảo tính
cạnh tranh và dễ tiêu thụ không? các kênh phân phối và tiếp thị sản phẩm, thương
hiệu, thị phần, tình hình vay nợ của doanh nghiệp (ngoài VCB) v.v...
78
- Đánh giá tình hình tài chính thông qua việc phân tích các chỉ tiêu tài chính
trong bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ......
- Đánh giá giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của Bên nợ kết hợp với kiểm
tra thực tế tình trạng tài sản, xác định xem tài sản đã được đem bảo đảm cho khoản
nợ nào khác của Bên nợ hay chưa.
- Đánh giá dòng tiền tương lai có thể thu hồi được từ phương án SXKD của
khách nợ , xác định mức lãi suất chiết khấu phù hợp để quy về hiện giá của khoản
nợ. Kết hợp với các yếu tố về giá trị tài sản thu hồi để định giá khoản nợ thích hợp...
Ngoài hai căn cứ nêu trên, để việc định giá nợ phù hợp với cơ chế thị trường,
tuân theo quy luật cung cầu, cần phải bổ sung thêm một căn cứ đó là việc đánh giá
về nhu cầu và khả năng tài chính của Bên mua nợ. Xét cho cùng thì việc bán nợ là
việc đàm phán thoả thuận để đi đến thống nhất một mức giá MBN, nên việc tìm
hiểu về đối tác là rất cần thiết. Cụ thể, cần phải tìm hiểu về nhu cầu của Bên mua
nợ, tình trạng hiện tại của Bên mua nợ… từ đó mà xác định giá bán nợ và lộ trình
thanh toán tiền mua nợ phù hợp.
*Bãi bỏ quy định về giá bán nợ khi đăng thông tin công khai bán nợ
Quy định mua bán nợ hiện hành yêu cầu việc đăng báo công khai phải bao
gồm giá bán nợ. Tuy nhiên, trong giai đoạn tìm kiếm khách hàng và chưa được cấp
có thẩm quyền phê duyệt thì lại chưa thể có giá bán nợ chính thức. Điều này gây
lúng túng cho các chi nhánh khi thực hiện việc đăng tải thông tin công khai. Vì vậy,
đề nghị sửa lại quy định này theo hướng xác định rõ việc đăng báo nhằm mục đích
công khai hoá và tìm đối tác mua nợ; nên bỏ quy định về giá bán nợ dự kiến và
phương thức thanh toán khi đăng báo công khai tại quy định hiện hành.
*Sửa lại yêu cầu về việc cung cấp hồ sơ xem xét bán nợ
Theo Quy định MBN hiện hành thì tất cả các giấy tờ trong hồ sơ xem xét bán
nợ phải được xác nhận sao y bản chính. Tuy nhiên, thực tế có một số giấy tờ trong
hồ sơ chi nhánh chỉ giữ bản sao nên không thể xác nhận sao y bản chính được. Vì
vậy, để phù hợp với thực tế, quy định mới cần sửa lại theo hướng sau:
79
- Đối với các trường hợp Chi nhánh có bản gốc thì thực hiện sao y bản chính;
- Đối với trường hợp Chi nhánh chỉ có bản sao thì thực hiện đóng dấu treo.
*Bổ sung thành viên Hội đồng Mua Bán nợ
Để tăng cường việc kiểm tra, giám sát hoạt động bán nợ, nhóm nghiên cứu đề
nghị bổ sung thêm thành viên Hội đồng Mua Bán nợ là “Trưởng phòng Kiểm tra
giám sát tuân thủ”. Vì phòng công nợ có chức năng kiểm soát các hoạt động MBN
của VCB.
*Quy định cụ thể vai trò của TGĐ và HĐQT
Quy định mua bán nợ hiện hành của VCB chưa tách bạch giữa vai trò của
HĐQT và Tổng Giám Đốc trong quy trình mua bán nợ, đề nghị chỉnh sửa lại quy
định vai trò của cụ thể của Tổng Giám đốc và HĐQT để các bộ phận thực hiện.
*Thay đổi thẩm quyền thực hiện kiểm tra, kiểm soát của phòng công nợ
Theo Quy định MBN hiện hành thì Phòng Công nợ làm đầu mối và đề xuất
việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động mua, bán nợ tại Chi nhánh; Phòng Kiểm tra nội
bộ TW đề xuất việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động mua, bán nợ tại HSC. Như vậy,
đối với các khoản nợ tại Chi nhánh, Phòng Công nợ vừa thực hiện thẩm định, lại
vừa thực hiện kiểm tra nên dễ dẫn đến không khách quan. Vì vậy, quy định mới cần
sửa đổi theo hướng giao Phòng Kiểm tra giám sát tuân thủ thực hiện kiểm tra, kiểm
soát toàn bộ hoạt động mua, bán nợ của toàn hệ thống VCB.
*Ban hành các văn bản khác có liên quan đến hoạt động bán nợ
Ngoài việc hoàn thiện quy định mua, bán nợ hiện hành, VCB cần ban hành
văn bản hướng dẫn công tác hạch toán kế toán và nộp thuế trong hoạt động bán nợ
để các chi nhánh có cơ sở thực hiện.
3.2.3.2 Giải pháp về nghiệp vụ
*Củng cố hệ thống tổ chức công tác mua bán nợ
Trong điều kiện hiện tại, khi các khoản nợ được mua bán tại VCB còn chưa
nhiều thì việc giao chức năng bán nợ tại Hội sở chính cho Phòng Công nợ là phù
hợp. Tuy nhiên, Phòng Công nợ cần có cán bộ chuyên trách làm công tác bán nợ để
xử lý và hỗ trợ các chi nhánh trong quá trình thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ. Tại
80
mỗi chi nhánh cũng nên có một cán bộ đầu mối làm công tác mua bán nợ để việc
mua bán nợ được tập trung, việc đào tạo tập huấn được thuận lợi hơn. Sau này, cùng
với việc phát triển thị trường mua bán nợ thứ cấp tại Việt Nam, doanh số mua bán
nợ chiếm tỷ trọng tương đối trong kết quả hoạt động kinh doanh của VCB thì việc
thành lập tổ chức chuyên trách về mua bán nợ là rất cần thiết. Tuỳ theo số lượng
khoản nợ và doanh số mua bán nợ được thực hiện mà xem xét thành lập Phòng
Mua, bán nợ hoặc thành lập công ty trực thuộc kinh doanh về mua, bán nợ.
*Tăng cường tập huấn, đào tạo nghiệp vụ về mua, bán nợ
Thực tế cho thấy nhiều cán bộ tại các chi nhánh còn lúng túng khi thực hiện
nghiệp vụ này, từ đó dẫn đến tâm lý xử lý nợ theo lối mòn (áp dụng các biện pháp
thu hồi nợ khác mà không xem xét đến phương án thu hồi nợ thông qua bán nợ). Vì
vậy, để nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác này, Hội sở chính và các chi
nhánh cần tổ chức các khoá tập huấn, các buổi thảo luận nội bộ để phổ biến và trao
đổi các kinh nghiệm trong quá trình thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ.
3.2.3.3 Giải pháp về tổ chức thực hiện
*Xây dựng cơ chế phối hợp với tổ chức liên quan trong hoạt động bán nợ
Để việc bán nợ thuận lợi thì việc hợp tác, liên kết với các tổ chức trong lĩnh
vực liên quan là rất cần thiết như các tổ chức chuyên trách về mua bán nợ, các tổ
chức môi giới, các công ty có chức năng thẩm định giá khoản nợ...
Hiện VCB đã ký thoả thuận hợp tác với DATC về mua, bán nợ. Mặc dù việc
thực hiện thoả thuận này chưa đạt được như kỳ vọng ban đầu của các bên (doanh số
mua bán nợ giữa hai bên còn chưa tương xứng với tiềm năng, mới chỉ thực hiện
mua bán đơn lẻ từng khoản nợ chứ chưa bán nợ được cả gói, thời gian đàm phán
bán nợ còn mất nhiều thời gian...) tuy nhiên, cho đến nay DATC vẫn là một đối tác
mua nợ lớn nhất của VCB. Trong thời gian tới, VCB cần tăng cường hợp tác hơn
nữa với DATC trong việc xử lý nợ tồn đọng, đồng thời ký thêm các thoả thuận hợp
tác với các chủ thể khác được cấp phép thực hiện nghiệp vụ này.
81
Bên cạnh đó, VCB cũng cần tăng cường phối hợp với các tổ chức môi giới,
các công ty thẩm định giá chuyên nghiệp để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong
việc bán nợ với giá bán nợ đảm bảo khách quan, cạnh tranh và chính xác nhất.
*Đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động mua nợ
VCB cần xây dựng cơ chế phân bổ nguồn vốn cho hoạt động mua nợ trong các
năm, qua đó các chi nhánh sẽ mạnh dạn hơn trong việc thực hiện mua lại khoản nợ,
đảm bảo nguồn cho hoạt động mua nợ của hệ thống.
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
Thông qua những kết qủa đạt được, những tồn tại trong hoạt động mua bán nợ
tại Việt Nam và Vietcombank. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu
quả mua bán nợ tại Vietcombank, những giải pháp này được trình bày thành từng
nhóm giải pháp và phân theo đơn vị thực hiện giải pháp. Đối với từng nhóm giải
pháp, thứ tự trình bày của giải pháp được bố trí theo trình tự thời gian thực hiện.
Tuy nhiên, để thực hiện tốt các giải pháp trên thì rất cần sự phối hợp đồng bộ
giữa các đơn vị ban ngành đặc biệt là ngân hàng nhà nước, Bộ tài chính, Cơ quan
thuế, Bộ LĐTB-XH...
82
KẾT LUẬN
Tóm lại, qua việc nghiên cứu một cách tổng thể các vấn đề lý luận cơ bản và
thực tiễn về hoạt động bán nợ tại VCB, đề tài thêm cơ sở để khẳng định bán nợ là một
biện pháp hữu hiệu để xử lý nợ có vấn đề. Thông qua biện pháp bán nợ, các khoản nợ
tồn đọng tại VCB có thể được xử lý một cách triệt để và nhanh chóng, góp phần làm
lành mạnh tình hình tài chính của VCB. Việc hình thành hoạt động bán nợ mang tính
tất yếu khách quan cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính tiền tệ trên thế giới,
hoạt động này vừa là công cụ để thúc đẩy sự lưu thông tiền tệ vừa đồng thời là biện
pháp để các tổ chức ngân hàng tài chính, các nền kinh tế vượt qua giai đoạn khủng
hoảng, khó khăn. Việc thực hiện hoạt động này là rất cần thiết và đem lại hiệu quả
thiết thực như: làm đẹp bảng tổng kết tài sản, hạn chế rủi ro tín dụng, hỗ trợ thanh
khoản, hỗ trợ thực hiện quản trị tài sản nợ có, là công cụ kiếm lợi nhuận...
Chính vì vậy, nó đã được áp dụng và đem lại kết quả khả quan tại một số nước
như Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan... Tuy nhiên, do còn tồn tại một số
yếu tố khách quan (như khung pháp lý chưa hoàn thiện, thị trường mua bán nợ mới ở
giai đoạn sơ khai thiếu chuyên nghiệp) và yếu tố chủ quan (như tâm lý e ngại của các
các cấp thực hiện nghiệp vụ bán nợ, quy định nội bộ của VCB chưa hoàn thiện, việc
vận dụng biện pháp này của một số cán bộ còn chưa tốt...) dẫn đến việc bán nợ thời
gian qua vẫn còn chưa tương xứng với nhu cầu xử lý nợ có vấn đề tại VCB.
Qua việc tìm hiểu cụ thể những hạn chế tồn tại của hoạt động mua bán nợ trong
thời gian qua, đề tài đã đề xuất các giải pháp cụ thể để hoàn thiện nghiệp vụ mua bán
nợ nói chung và tại VCB nói riêng. Các giải pháp này bao gồm cả các đề xuất đối với
các cơ quan chức năng như: hoàn thiện cơ chế chính sách, phát triển thị trường mua
bán nợ, đào tạo nhân lực và các giải pháp cụ thể để thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ tại
VCB (như sửa đổi các quy định nội bộ về hoạt động mua bán nợ, củng cố hệ thống tổ
chức và con người làm công tác mua bán nợ, xây dựng cơ chế phối hợp với các tổ
chức liên quan trong hoạt động mua bán nợ, tăng cường tập huấn nghiệp vụ cho cán
bộ làm công tác mua bán nợ.
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản quy định pháp luật
1. Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam về ban hành Quy chế Mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng
2. Thông tư 33/2010/TT-BTC ngày 11/03/2010 của Bộ Tài chính ban hành Điều
lệ tổ chức và hoạt động của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của Doanh
nghiệp
3. Quyết định số 79/QĐ-MBN ngày 23/12/2005 của Tổng Giám đốc Công ty Mua
bán nợ và tài sản tồn đọng của của Doanh nghiệp về việc ban hành Quy trình
tạm thời về hoạt động mua, bán, xử lý nợ và tài sản tồn đọng.
4. Thông tư số 38/2006/TT-BTC ngày 10/5/2006 của Bộ Tài chính về trình tự, thủ
tục và xử lý tài chính đối với hoạt động mua, bán, bàn giao, tiếp nhận xử lý nợ
và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp hướng dẫn
5. Công văn số 1665/TCT-CS ngày 28/4/2008 của Tổng cục Thuế hướng dẫn về
việc thuế GTGT đối với hoạt động mua bán nợ.
Tài liệu, văn bản quy định của Vietcombank
1. Quyết định số 418/QĐ-NHNT.CN ngày 05/11/2009 của Tổng Giám đốc NHNT
về việc ban hành Quy định tạm thời về Mua, bán nợ
2. Quyết định số 02/QĐ-NHNT.TCCB-ĐT ngày 04/01/2010 của Tổng Giám đốc
NHNT về việc thành lập Hội đồng bán nợ HSC
3. Nguyễn Thành Nam, “Tìm hiểu quy định pháp luật về mua, bán nợ”, Thông
tin Ngân hàng Ngoại thương số 02/2007.
4. Tài liệu tập huấn công tác mua, bán nợ năm 2010 của NHNT.
5. Tài liệu và báo cáo thường niên của Vietcombank năm 2011
6. Đề án nghiên cứu hoạt động bán nợ của VCB
Sách tham khảo
1. Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Khoa Luật- ĐHQGHN, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội - 2005.
84
2. Trần Huy Hoàng, Quản trị Ngân hàng thương mại, Khoa Ngân Hàng- Trường
ĐHKT TPHCM, NXB Lao động xã hội, 2010.
3. Trần Ngọc Thơ, Tài chính doanh nghiệp, Khoa TCDN- Trường ĐHKT
TPHCM, NXB thống Kê, 2007.
4. Peter S. Rose, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB McGraw-Hill 1999
5. Anthony Saunders, Quản trị định chế tài chính (Financial Institution
Management), International Edition, NXB McGraw-Hill 2000.
Các tạp chí bài báo:
1. Mua bán nợ, một phương thức tái cơ cấu doanh nghiệp hiệu quả - Báo Nhân
dân ngày 23/06/2010
2. Phan Nam, Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp: Khó mua,
khó bán, Diễn đàn Doanh nghiệp 20/1/2010.
3. Mua bán nợ xấu tại Ngân hàng bằng cách nào - Tạp chí Tài chính Doanh
nghiệp 4/2011 thiếu tác giả.
4. Đỗ Thị Bích Hồng, bài báo cáo Malaysia và bài học kinh nghiệm xử lý nợ xấu
thông qua AMC, Phòng Xây dựng phát triển chiến lược ngân hàng, Ngân Hàng
Nhà Nước, 08/2012
5. Phạm Tiến Đạt và Ths.Phạm Thị Tường Vân, Bài báo khung pháp lý cho hoạt
động M&A của trên báo đặc san của Báo đầu tư, tháng 6/2011, trang 24-26.
6. Thomson Financial, Institute of Mergers, Aquisitions and Alliances (IMMA)
Bài báo M&A Việt Nam trong năm 2011 trên báo đặc san của Báo đầu tư,
tháng 06/2011, trang 68-71.
Các thông tin khai thác trên internet
1. Bùi Thị Hồng Thu , 2011, Tổng quan về Công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản của NHTM Việt Nam
[truy cập ngày 20/06/2012]
2. DATC, 2011, giới thiệu chung về DATC,hoạt động mua bán nợ,
< http://www.datc.com.vn/tabid/56/Default.aspx> [truy cập ngày 20/06/2012]
85
3. DATC, Mua bán nợ để cứu doanh nghiệp,
nghiep.aspx>, [truy cập ngày 20/06/2012] thiếu tên tác giả 4. DATC, Mua bán nợ xấu tại ngân hàng, cách nào? cach-nao.aspx>, [truy cập ngày 20/06/2012], thiếu tên tác giả 5. DATC, Mua bán nợ: Công cụ lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp, < http://www.datc.com.vn/tabid/66/postid/175/Mua-ban-no-Cong-cu-lanh- manh-hoa-tai-chinh-doanh-nghiep.aspx>, [truy cập ngày 20/06/2012], thiếu tên tác giả 6. DATC, Mua bán nợ xấu… Cần mở rộng đối tượng, để tăng tính hiệu quả, < http://www.datc.com.vn/tabid/66/postid/194/Mua-ban-no-xau%E2%80%A6- Can-mo-rong-doi-tuong-de-tang-tinh-hieu-qua.aspx> , [truy cập ngày 20/06/2012], thiếu tên tác giả. 7. DATC, Cần hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường mua bán nợ, Tạp chí tài chính doanh nghiệp số 7 – 2010 8. Vũ Dũng, Bài báo định vị DACT trong giải quyết nợ xấu ngân hàng hang/126/9459091.epi> [truy cập ngày 01/10/2012] 9. Bài viết Thị trường mua bán nợ Việt Nam: Bao giờ thành hình?, < http://www.tinmoi.vn/thi-truong-mua-ban-no-viet-nam-bao-gio-thanh-hinh- 11873598.html>, [truy cập ngày 20/06/2012], thiếu tên tác giả 10. Thanh Lan - Tuấn Lân, Công ty mua bán nợ nguy cơ mất vốn, < http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/2012/07/cong-ty-mua-ban-no-nguy-co- mat-von/> , [truy cập ngày 30/07/2012] 11. Hoàng Trà My, Kinh nghiệm xử lý nợ xấu ở Thái Lan 12. < http://finance.tvsi.com.vn/News/2012621/205955/kinh-nghiem-xu-ly-no-xau- o-thai-lan.aspx> , [truy cập ngày 30/07/2012] 86 13. Phạm Hữu Hồng Thái, Xử lý nợ xấu thông qua AMC và kinh nghiệm cho Việt Nam < http://www.hcgf.com.vn/component/content/article/42-tin-tc-moi- nhat/729-x-ly-n-xu-thong-qua-amc-va-kinh-nghim-cho-vit-nam.html> , [truy cập ngày 03/11/2012] 14. Mua bán nợ xấu, kinh nghiệm từ mô hình Kamco của Hàn Quốc < http://dddn.com.vn/20120618034812136cat120/mua-ban-no-xau-kinh- nghiem-tu-mo-hinh-kamco-cua-han-quoc.htm>, [truy cập ngày 30/07/2012], thiếu tên tác giả 15. A.Vũ, Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Trung Quốc < http://vef.vn/2012-06-29- kinh-nghiem-xu-ly-no-xau-cua-trung-quoc> , [truy cập ngày 30/07/2012] 16. Tô Ngọc Hưng, Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số quốc gia và những bài học cho Việt Nam, http://www.vietstock.vn, [truy cập ngày 13/11/2012] Tài liệu nước ngoài 1. Christine A. Parlour and Guillaume Platin, Loan sales and Relationship Banking, The Jounal of Finance June 2008. 2. Debt buyer < http://en.wikipedia.org/wiki/Debt> , [Accessed 20 sep, 2012] 3. Bluestone, Debt buying [Accessed 20 sep, 2012] 4. The IMF 1999, Financial sector Crisis and Restructuring – Lessions from Asia, 12 July 2012] 5. P.B. John and Y. Huang 2001, Dealing with bad loans of Chinese Banks, The University of Michiga, [Accessed 12 July 2012] 6. C. Larrain 2002, Best Practice for Efficient Banking Restructuring, The World Bank, Washington D.C. 30 July 2012] 87 7. Min Xu 2005, Resolusion of non-performing loans in China, New York University, New York, 2012] 88 PHỤ LỤC 1. Giới thiệu sơ lược về hoạt động của Vietcombank 1.1 Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng TMCP Ngoại Thương VIệt Nam được thành lập trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý ngoại hối trực thuộc NHTƯ (nay là NHNNVN) vào năm 1962. Trong vai trò là NH chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam, tại thời điểm đó hoạt động của VCB chủ yếu ở lĩnh vực kinh tế đối ngoại như cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ tại các NH nước ngoài, làm đại lý cho Chính phủ trong các quan hệ thanh toán, vay nợ, viện trợ với các nước. Thành lập ngày 01/04/1963, với tổ chức tiền thân là Cục Ngoại hối (trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), trải qua 49 năm xây dựng và phát triển, VCB đã có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và phát triển của kinh tế đất nước, phát huy tốt vai trò của một ngân hàng đối ngoại chủ lực, phục vụ hiệu quả cho phát triển kinh tế trong nước, đồng thời tạo những ảnh hưởng quan trọng đối với cộng đồng tài chính khu vực và toàn cầu. Gần nửa thế kỷ hoạt động trên thị trường, VCB luôn giữ vững vị thế là nhà cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính hàng đầu trong lĩnh vực thương mại quốc tế; trong các hoạt động truyền thống như kinh doanh vốn, huy động vốn, tín dụng, tài trợ dự án… cũng như mảng dịch vụ ngân hàng hiện đại: kinh doanh ngoại tệ và các công cụ phái sinh, dịch vụ thẻ, ngân hàng điện tử … Ngày 30/6/2009, VCB chính thức niêm yết giao dịch cổ phiếu (với mã chứng khoán VCB) tại Sở giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE). VCB ngày nay đã phát triển rộng khắp với mạng lưới bao gồm 1 Hội sở chính tại Hà Nội, 1 Sở giao dịch, gần 400 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc, 3 công ty con tại Việt Nam, 2 công ty con tại nước ngoài, 1 văn phòng đại diện tại Singapore, 5 công ty liên doanh, liên kết. Bên cạnh đó, Vietcombank còn phát triển một hệ thống Autobank với 1.700 ATM và 22.000 điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS) trên toàn quốc. Hoạt động ngân hàng còn được hỗ trợ bởi mạng lưới hơn 1.300 ngân hàng đại lý tại 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. 89 Là Ngân hàng Thương mại Nhà nước đầu tiên được Chính phủ lựa chọn để thực hiện thí điểm cổ phần hóa, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã chính thức hoạt động ngày 2 tháng 6 năm 2008, sau khi thực hiện thành công kế hoạch cổ phần hóa thông qua việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng ngày 26/12/2007. Ngày 30/09/2011, VCB đã ký kết thành công thỏa thuận cổ đông chiến lược với Ngân hàng TNHH Mizuho (MHCB) - một thành viên của Tập đoàn Tài chính Mizuho (Nhật Bản) thông qua việc bán 15% vốn cổ phần cho Mizuho.Nếu như năm 2010, VCB thành công trong việc thay đổi chiến lược kinh doanh để chuyển mình từ một ngân hàng bán buôn thành ngân hàng đa năng trên cơ sở vừa phát huy lợi thế, vừa củng cố, giữ vững vị thế của ngân hàng bán buôn, đẩy mạnh bán lẻ để đa dạng hóa hoạt động, tối đa hóa lợi nhuận; thì năm 2011 VCB đã tạo nhiều dấu ấn trong đổi mới công tác khách hàng và nâng cao chất lượng dịch vụ với nhiều chương trình chăm sóc khách hàng, cũng như ban hành các chính sách phù hợp với từng phân đoạn khách hàng, từng bước nâng cao năng lực quản lý tầm cỡ trong khu vực, đồng thời tham gia tích cực vào quá trình tái cấu trúc các tổ chức tín dụng tại Việt Nam. 1.2 Sơ lược hoạt động kinh doanh của Vietcombank Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới có nhiều biến động đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam trên các lĩnh vực đầu tư nước ngoài, sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nên tốc độ phát triển kinh tế chỉ được duy trì ở mức khiêm tốn. Tuy vậy, cùng với những biện pháp tháo gỡ khó khăn linh hoạt của Chính phủ, NHNNVN và những nỗ lực lớn lao từ chính VCB, Ngân hàng đã duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định liên tiếp qua các năm. Mặc dù môi trường kinh doanh có nhiều khó khăn nhưng hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã được cải tiến về nhiều mặt, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, đảm bảo dịch vụ cung cấp đạt chất lượng cao. Ngoài các hoạt động cho vay thông thường, VCB đã tăng cường hoạt động qua thị trường liên Ngân hàng trong nước và quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần tăng trưởng lợi nhuận. Trong những năm qua, VCB luôn phát huy vai trò là một Ngân hàng uy tín nhất trong các lĩnh vực tín dụng, tài trợ thương mại, kinh doanh 90 ngoại hối, bảo lãnh và các dịch vụ tài chính, Ngân hàng quốc tế – một trong những lý do chính giúp VCB giữ vững thị phần ở mức cao và ổn định. Song song với các HĐKD, VCB luôn chú trọng đến các hoạt động hỗ trợ kinh doanh khác như phát triển nguồn nhân lực, đầu tư chiều sâu vào công nghệ Ngân hàng. *Khái quát về tình hình tài chính của Vietcombank qua các năm 2007-2011 như sau: Đơn vị tính :tỷ đồng 2007 2008 2009 2010 2011 TỔNG TÀI SẢN 197.363 222.090 255.496 307.621 366.722 Vốn chủ sở hữu tỷ đồng 13.528 13.946 16.710 20.737 28.639 Tổng dư nợ TD/TTS % 48,34% 50,79% 55,43% 57,50% 57,11% Thu nhập ngoài lãi thuần 2.109 2.318 2.788 3.336 2.449 Tổng thu nhập HĐKD 6.114 8.940 9.287 11.531 14.871 Tổng chi phí hoạt động (1.628) (2.592) (3.494) (4.578) (5.700) Lợi nhuận thuần từ HĐKD 4.486 6.348 5.793 6.953 9.171 trước CPDP rủi ro tín dụng Chi phí dự phòng rủi ro TD (1.337) (2.757) (789) (1.384) (3.474) Lợi nhuận trước thuế 3.590 5.004 5.569 5.697 3.149 Thuế Thu nhập Doanh nghiệp (862) (1.060) (1.266) (1.480) (759) Lợi nhuận sau thuế tỷ đồng 2.728 3.945 4.303 4.217 2.390 Lợi nhuận thuần sau thuế 2.711 3.921 4.282 4.197 2.380 70 72 Số lượng chi nhánh chi nhánh 59 63 77 Tổng số nhân viên người 9.190 9.212 10.401 11.415 12.565 Cổ phiếu phổ thông triệu cp 1.210 1.210 1.322 1.970 Tỷ lệ chi trả cổ tức %/năm 12,0 12,0 12,0 12,0 91 MỘT SỐ CHỈ TIÊU AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ *CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ Năm 2007 2008 2009 2010 2011 NIM 2,83% 2,26% 3,26% 2,81% 3,41% Tỷ trọng thu nhập ngoài lãi 28,93% 34,47% 25,93% 30,02% 16,47% ROAE 22,55% 19,23% 19,74% 25,58% 17,08% ROAA 1,50% 1,31% 1,29% 1,64% 1,25% *CHỈ TIÊU AN TOÀN Năm 2007 2008 2009 2010 2011 Tỷ lệ dư nợ CV/HĐV 67,42% 70,50% 83,57% 84,88% 86,68% Tỷ lệ nợ xấu 3,87% 4,61% 2,47% 2,83% 2,03% Hệ số an toàn vốn CAR 9,20% 8,90% 8,11% 9,0% 11,14% *Một số chỉ tiêu khác : ĐVT: tỷ đồng Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 2011 Tổng Tài sản 197,363 222,000 255,496 307,621 366,722 Vốn chủ sở hữu 13,528 13,946 16,710 20,737 28,639 Huy động vốn 144,810 159,989 169,457 208,320 241,700 Lợi nhuận trước thuế 3,149 3,590 5,004 5,569 5,697 Dư nợ tín dụng 97,631 112,793 141,621 176,814 209,418 ROAE 19,23% 19,74% 25,58% 22,55% 17,08% ROAA 1,31% 1,29% 1,64% 1,50% 1,25% 92 Biểu đồ tổng tích sản qua các năm Biểu đồ lợi nhuận trước thuế qua các năm Biểu đồ huy động vốn qua các năm Biểu đồ tín dụng qua các năm Tổng tích sản và lợi nhuận trước thuế của VCB không ngừng tăng liên tục qua các năm, tổng tài sản năm 2011 đạt hơn 366 tỷ đồng tăng 86 % so với năm 2007, lợi nhuận trước thuế trong năm 2011 đạt hơn 5.600 tỷ đồng, tăng 80% so với năm 2007. 1.3 Định hướng hoạt động và mục tiêu phát triển của Vietcombank Trước những yêu cầu cấp bách của hội nhập nền kinh tế quốc tế, VCB đã xác định mục tiêu cụ thể là: “Trở thành một tập đoàn tài chính đa năng có quy mô đứng trong số 70 tập đoàn tài chính lớn nhất ở Châu Á vào giai đoạn 2015 - 2020, có phạm vi hoạt động không những trong nước mà cả các thị trường tài chính thế giới” Một số chỉ tiêu tăng trưởng cụ thể cho tới năm 2015: 93 Tổng tài sản tăng bình quân 15%/năm. Theo đó, đến năm 2015, VCB sẽ có tổng Vốn chủ sở hữu cần đạt khoảng 2,0 - 2,25 tỷ USD vào năm 2015. ROE đạt mức bình quân tương ứng là khoảng 15%/năm. ROA nằm trong khoảng 0,80 -1,0%/năm. Tổng tài sản: được ước tính trên giả định tốc độ tăng trưởng bình quân là tài sản vào khoảng 30 - 32 tỷ USD. 15%/năm. Nhằm đạt được mục tiêu phát triển thành một tập đoàn tài chính đa năng của khu Tiếp tục nâng cao năng lực tài chính, trong đó bao gồm tăng quy mô vốn tự có vực và quốc tế vào năm 2015, VCB có những bước đi cụ thể sau: và tỷ lệ an toàn vốn thông qua phát hành thêm cổ phiếu, tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu NH và thu hút các nhà đầu tư tiềm tàng. Trên cơ sở kết quả xử lý nợ đạt được, VCB sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, đưa vào áp dụng các mô thức quản trị tín dụng hiện đại, áp dụng việc phân loại nợ và trích lập DPRR theo chuẩn mực quốc tế để đảm bảo lành mạnh Nâng cao năng lực điều hành và quản trị NH: xây dựng mô hình tổ chức mới, hóa tình hình tài chính theo đúng các chuẩn mực quốc tế. hiện đại, hướng tới khách hàng, đáp ứng được các yêu cầu phát triển và giải phóng được mọi nguồn lực sẵn có; đổi mới và đưa vào áp dụng cơ chế quản trị iên tiến, tuân theo các chuẩn mực quốc tế; tiếp tục nâng cao năng lực quản trị DN và quản lý rủi ro. 94 2. Phụ lục quy trình mua bán nợ *Quy trình bán nợ tại VCB Giám đốc
Chi nhánh - KH đề nghị
mua nợ
- Xét thấy bán
nợ là BP xử lý
nợ hiệu quả
nhất Bộ phận đầu mối
bán nợ tại CN:
thu thập hồ sơ
bán nợ, lập tờ
trình đề xuất
bán nợ Ký kết hợp đồng
bán nợ, tiến hành
các thủ tục chuyển
giao nợ Cấp có thẩm
quyền phê
duyệt
tín dụng -Đăng thông tin công
khai
-Tiến hành đàm phán
sơ bộ Hội đồng
bán nợ Hội đồng
quản trị BP chức năng Khác 95 Giám đốc
Chi nhánh - KH đề nghị
bán nợ
- Xét thấy mua
nợ là hiệu quả Giá trị mua
nợ >GT
khoản nợ Bộ phận đầu mối
Mua nợ tại CN:
thu thập hồ sơ
mua nợ, lập tờ
trình đề xuất
mua nợ *Quy trình mua nợ tại VCB Phòng QLRRTD HSC
tái thẩm định Ký kết hợp đồng
tín dụng tiến hành
mua nợ Cấp có thẩm
quyền phê
duyệt
tín dụng Ủy ban Quản lý tài
sản nợ có của
NHNT Hội đồng
quản trịY
N
Chú thích:
Đồng ý
Không đồng ý
Vượt thẩm quyền
Cấp có TQ phê duyệt
Y
N