BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI
-----------------------------------
TRỊNH ANH TUẤN
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Thương mại
Mã số: 62.34.10.01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
Người hướng dẫn 1: PGS.TS Lê Danh Vĩnh
Người hướng dẫn 2: TS. Trịnh Thị Thanh Thủy
Hà Nội, Năm 2015
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng. Các
kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung
thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Tác giả
Trịnh Anh Tuấn
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án .................................................................... 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4
2.1. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
3.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 5
3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 5
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án ...................................................... 5
4.1. Phương pháp phân tích và thống kê ...................................................... 6
4.2. Phương pháp so sánh .............................................................................. 6
4.3. Phương pháp khảo sát thực tế ............................................................... 6
5. Những đóng góp mới của Luận án ........................................................... 6
5.1. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn................................................ 6
5.2. Những đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu của Luận án ......... 9
6. Kết cấu nội dung của Luận án ................................................................ 10
PHẦN TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ................... 11
1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước........................................................ 11
iii
2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài........................................................ 15
3. Những vấn đề được nghiên cứu trong luận án ...................................... 17
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP
LUẬT CẠNH TRANH ................................................................................ 19
1.1. Một số khái niệm có liên quan ............................................................. 19
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và các hình thái cạnh tranh ............................ 19
1.1.2. Khái niệm và lịch sử hình thành pháp luật cạnh tranh ...................... 22
1.1.3. Khái niệm về thực thi pháp luật cạnh tranh ....................................... 27
1.1.4. Khái niệm hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh ............................. 29
1.2. Tiêu chí để đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh .......... 31
1.2.1. Nhóm tiêu chí bên trong .................................................................... 32
1.2.2. Nhóm tiêu chí bên ngoài .................................................................... 36
1.3. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của
một số nước và bài học đối với Việt Nam .................................................. 40
1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản ............................................................... 40
1.3.2. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ .................................................................. 50
1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................. 61
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT
CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2005 ĐẾN 2014 ................ 67
2.1. Tổng quan về pháp luật cạnh tranh Việt Nam ................................... 67
2.1.1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật cạnh tranh ........ 70
2.1.2. Quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh ........................................... 70
2.1.3. Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............................ 80
2.1.4. Quy định về Cơ quan cạnh tranh ....................................................... 82
2.1.5. Quy định về quy trình tố tụng cạnh tranh .......................................... 83
iv
2.2. Thực trạng hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam từ
năm 2005 đến năm 2014 .............................................................................. 84
2.2.1. Thực trạng vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan
thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam ....................................................... 84
2.2.2. Thực trạng công tác điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh ................. 89
2.2.3. Thực trạng hoạt động tăng cường sự tiếp cận pháp luật cạnh tranh của
cơ quan thực thi ......................................................................................... 103
2.3. Đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam trong
giai đoạn 2005 đến 2014 ............................................................................. 106
2.3.1. Đánh giá theo nhóm tiêu chí bên trong ........................................... 106
2.3.1.1. Đánh giá về tính hợp pháp của pháp luật cạnh tranh ........... 106
2.3.1.2. Đánh giá về tính thực tiễn của pháp luật cạnh tranh ............ 111
2.3.2. Đánh giá theo nhóm tiêu chí bên ngoài ........................................... 117
2.3.2.1. Đánh giá về công tác tổ chức thực thi pháp luật cạnh tranh 117
2.3.2.2. Đánh giá về khả năng tiếp cận và tuân thủ pháp luật cạnh
tranh của cộng đồng doanh nghiệp ........................................................... 120
2.3.3. Một số bất cập và nguyên nhân ....................................................... 123
2.3.3.1. Một số bất cập ........................................................................ 123
2.3.3.2. Nguyên nhân của những bật cập ........................................... 127
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM129
3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế ......................................................... 129
3.1.1. Bối cảnh trong nước ........................................................................ 129
3.1.2. Bối cảnh quốc tế .............................................................................. 130
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
cạnh tranh trong thời gian tới ở Việt Nam .............................................. 131
3.2.1. Tạo lập một sân chơi bình đẳng cho cộng đồng doanh nghiệp ....... 131
3.2.2. Đáp ứng được các yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội ................... 132
v
3.2.3. Phù hợp với các cam kết mới của Việt Nam trong các Hiệp định song
phương và đa phương ................................................................................ 133
3.3. Quan điểm và định hướng nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh
tranh trong thời gian tới ............................................................................ 134
3.3.1. Quan điểm ........................................................................................ 134
3.3.2. Định hướng ...................................................................................... 134
3.4. Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật cạnh tranh ........................................................................................... 135
3.4.1. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật cạnh tranh ................... 135
3.4.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan cạnh tranh ................... 147
3.4.3. Nâng cao nhận thức của các cơ quan liên quan và cộng đồng doanh
nghiệp về pháp luật cạnh tranh .................................................................. 152
3.4.4. Tăng cường hợp tác quốc tế............................................................. 153
KẾT LUẬN ................................................................................................. 155
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .............. 159
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 160
PHỤ LỤC .................................................................................................... 165
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TIẾNG VIỆT
Nghĩa Tiếng Việt Viết tắt
Cạnh tranh không lành mạnh CTKLM
CTCP Công ty cổ phần
DN Doanh nghiệp
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DNBH Doanh nghiệp Bảo hiểm
HCCT Hạn chế cạnh tranh
LCT Luật Cạnh tranh
QLCT Quản lý cạnh tranh
TĐKTNN Tập đoàn kinh tế Nhà nước
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TTKT Tập trung kinh tế
vii
TIẾNG ANH
Viết tắt Nghĩa Tiếng Anh Nghĩa Tiếng Việt
AML Antimonopoly Law Luật Chống độc quyền
ASEAN
Association of Southeast
Asian Nations Hiệp hội các Quốc gia Đông
Nam Á
APEC
Asia-Pacific Economic
Cooperation, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
châu Á – Thái Bình Dương
DOJ Department of Justice Bộ Tư pháp Hoa Kỳ
EU European Union Liên Minh Châu Âu
FTC Federal Trade Commission Ủy Ban thương mại liên bang
Hoa Kỳ
ICN Mạng lưới cạnh tranh quốc tế
International Competition
Network
JFTC Japan Fair Trade Commission Ủy Ban Thương mại lành
mạnh Nhật Bản
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
viii
DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Số vụ việc áp dụng các biện pháp xử lý từ 2005-2013của JFTC ....... 43
Bảng 1.2. Số vụ xử lý vi phạm của JFTC theo hành vi vi phạm ........................ 44
Bảng 2.1. Nguồn nhân lực của Cục Quản lý cạnh tranh ..................................... 87
Bảng 2.2. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh đã điều tra, xử lý trong giai đoạn
2006-2014 ............................................................................................. 89
Bảng 2.3. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh giai đoạn 2006 - 2014 ........................ 91
Bảng 2.4. Phân loại vụ việc điều tra tiền tố tụng theo nhóm ngành, lĩnh vực .... 93
Bảng 2.5. Số vụ việc tập trung kinh tế giai đoạn 2005 - 2014 ............................ 99
Bảng 2.6. Phân loại các vụ việc TTKT theo nhóm hành vi .............................. 100
Bảng 2.7. Phân loại vụ việc TTKT theo nhóm ngành nghề .............................. 100
Bảng 2.8. Thống kê các loại hình doanh nghiệp tham gia TTKT ..................... 102
Bảng 2.9. Thời điểm DN bắt đầu nhận thức về Luật Cạnh tranh ..................... 121
Bảng 2.10 Kênh thông tin giúp doanh nghiệp nhận biết Luật Cạnh tranh ....... 121
Bảng 2.11. Đánh giá của DN về mức độ hiểu biết các quy định của pháp luật
cạnh tranh ............................................................................................ 122
ix
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Số tiền phạt JFTC áp dụng đối với hành vi thỏa thuận ấn định giá và
thông thầu giai đoạn 2005-2013 ........................................................... 45
Hình 1.2. Số tiền phạt do Cục chống độc quyền tiến hành từ 2004 - 2013 ........ 57
Hình 2.1. Cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh [43] ............................... 87
Hình 2.2. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh giai đoạn 2006 - 2014 ........................ 92
Hình 2.3. Phân loại vụ việc điều tra tiền tố tụng giai đoạn 2006-2014 .............. 92
Hình 2.4. Cơ cấu vụ việc điều tra tiền tố tụng theo nhóm ngành, lĩnh vực ........ 94
Hình 2.5. Vụ việc cạnh tranh không lành mạnh giai đoạn 2006 - 2013 ............. 95
Hình 2.6. Vụ việc CTKLM theo nhóm hành vi vi phạm .................................... 96
Hình 2.7. Tổng số tiền phạt vụ việc CTKLM ..................................................... 97
Hình 2.8. Số vụ việc tập trung kinh tế giai đoạn 2005 - 2014 ............................ 99
Hình 2.9. Số lượng vụ việc TTKT theo nhóm ngành nghề .............................. 101
Hình 2.10. Các loại hình doanh nghiệp tham gia TTKT .................................. 102
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Trong thời gian qua, cùng với chính sách đổi mới, mọi thành phần kinh
tế được khuyến khích và tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tham gia kinh doanh
trên thị trường. Từ đó, cạnh tranh ngày càng trở nên mạnh mẽ trong mỗi
ngành, mỗi lĩnh vực của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng mức độ cạnh tranh, đã
xuất hiện những hành vi cản trở, hạn chế cạnh tranh, những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, làm ảnh hưởng tới môi trường cạnh tranh của đất nước.
Trước thực tế đó, năm 2004, Quốc hội đã ban hành Luật Cạnh tranh
nhằm điều tiết các hành vi cạnh tranh, duy trì môi trường cạnh tranh lành
mạnh, đảm bảo các cơ hội cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử cho
các doanh nghiệp, sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội và thúc đẩy phát
triển kinh tế bền vững. Theo quy định của Luật Cạnh tranh, các hành vi như
thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền và tập trung kinh tế cũng như các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
đều chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh.
Từ khi có hiệu lực đến nay, pháp luật cạnh tranh đã bước đầu phát huy
vai trò tích cực trong việc phát triển môi trường cạnh tranh lành mạnh, xử lý
những hành vi làm sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, số
lượng vụ việc cạnh tranh được điều tra, xử lý là chưa nhiều (08 vụ hạn chế
cạnh tranh và 122 vụ cạnh tranh không lành mạnh). Nguyên nhân dẫn đến
hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam trong thời gian qua chưa
được như kỳ vọng là do còn nhiều bất cập về quy định của pháp luật cạnh
tranh, bộ máy thực thi và nhận thức của cộng đồng.
2
Thứ nhất, một số quy định của pháp luật cạnh tranh khó thực thi
- Cơ sở để xác định thị trường liên quan: theo quy định Luật Cạnh tranh
hiện hành việc xác định một doanh nghiệp có vi phạm các hành vi hạn chế
cạnh tranh bao gồm: lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, tập trung kinh tế,
thoả thuận hạn chế cạnh tranh được xác định trên cơ sở yếu tố thị phần của
doanh nghiệp trên thị trường liên quan. Do đó, vấn đề xác định thị trường liên
quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan là
hết sức quan trọng có yếu tố quyết định trong quá trình thực thi. Tuy nhiên,
theo quy định hiện hành thì các yếu tố để xác định thị trường liên quan là
không phù hợp với thực tế do đó gây nhiều khó khăn trong quá trình thực thi.
- Về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế (mua bán và sáp nhập): theo
Điều 18 của Luật Cạnh tranh, pháp luật cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết
hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị
trường liên quan (trừ trường hợp quy định tại Điều 19). Đồng thời, các doanh
nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30-50% trên thị
trường liên quan phải thông báo cho cơ quan cạnh tranh trước khi tiến hành
các hoạt động tập trung kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp rất
khó để tự xác định thị phần của mình trên thị trường liên quan và như vậy rất
khó để biết xem mình có thuộc ngưỡng bị cấm hoặc phải thông báo tập trung
kinh tế hay không. Do đó, các quy định hiện nay về vấn đề này là không có
tính khả thi.
- Pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay chưa quy định rõ ràng về thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh. Các quy định hiện hành chỉ đề cập đến các hình
thức biểu hiện bên ngoài một cách cứng nhắc, chưa tiếp cận được bản chất
phản cạnh tranh của hành vi. Chẳng hạn, thỏa thuận ấn định mức giá sàn, giá
trần; thỏa thuận tăng giá hoặc giảm giá (không chỉ ở mức cụ thể) hoặc thỏa
thuận duy trì giá bán lại cho bên thứ ba... là những thỏa thuận có bản chất hạn
3
chế cạnh tranh, nhưng chưa được quy định. Trong khi hành vi kinh doanh,
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó có hành vi thỏa thuận thay
đổi ngày càng phức tạp với nhiều dạng thức khác nhau thì tiếp cận quy định
“cứng” như hiện nay sẽ gây khó khăn cho cơ quan thực thi trong quá trình
điều tra, xử lý các vụ việc cụ thể. Ngoài ra, thực tiễn một số vụ việc thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh được cơ quan cạnh tranh xem xét, xử lý cho thấy các
hiệp hội đều là tổ chức đứng sau, giữ vai trò tổ chức, lôi kéo doanh nghiệp
tham gia và giám sát việc thực thi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp. Thậm
chí trong nhiều vụ việc, Hiệp hội còn ban hành các “quyết định”, các “nghị
quyết” về giá cả, sản lượng... trên thị trường để các doanh nghiệp thành viên
thực hiện. Tuy nhiên, các hành vi nêu trên của hiệp hội lại chưa được điều
chỉnh trong các quy định hiện hành.
Thứ hai, mô hình cơ quan thực thi chưa phù hợp
- Hiện nay cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam bao gồm hai cơ
quan: Cục Quản lý cạnh tranh (Cơ quan QLCT) và Hội đồng cạnh tranh
(HĐCT). Một trong những nhiệm vụ và chức năng của Cơ quan QLCT là thụ
lý, tổ chức điều tra các vụ việc liên quan đến hạn chế cạnh tranh để HĐCT xử
lý theo quy định của pháp luật. Như vậy, sau khi thụ lý và điều tra, Cơ quan
QLCT sẽ phải chuyển vụ việc sang HĐCT để tiến hành xử lý vi phạm. Trong
khi đó, HĐCT lại được thành lập và hoạt động theo cơ chế liên ngành nên
việc vận hành rất khó linh hoạt trong điều kiện các cơ quan nhà nước của Việt
Nam như hiện nay. Chính vì vậy, để xử lý được vụ việc cạnh tranh, Cơ quan
QLCT và HĐCT phải tiến hành rất nhiều thủ tục và nhiều công đoạn dẫn đến
sự thiếu hiệu quả trong việc phối kết hợp giữa hai cơ quan này.
- Bên cạnh đó, ngoài chức năng thực thi pháp luật cạnh tranh, Cục
Quản lý cạnh tranh còn phải thực hiện thêm các chức năng thực thi pháp luật
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phòng vệ thương mại dẫn tới nguồn lực
dành cho công tác quản lý cạnh tranh bị hạn chế.
4
Thứ ba, nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh
tranh chưa cao
Trong số các vụ việc đã xử lý trong thời gian qua, số vụ việc do doanh
nghiệp nộp hồ sơ khiếu nại không nhiều (chiếm khoảng hơn 20%), hầu hết
các vụ xử lý là do cơ quan cạnh tranh tự phát hiện thông qua các phương tiện
đại chúng. Điều này cho thấy, nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về vấn
đề này là chưa cao.
Vì những lý do nêu trên, việc lựa chọn đề tài “Giải pháp nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu
luận án Tiến sĩ kinh tế sẽ góp phần đưa pháp luật cạnh tranh đến gần hơn với
cuộc sống.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm kiếm các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan các công trình khoa học đã công bố liên quan đến chủ đề
nghiên cứu của đề tài luận án, xác định những vấn đề đã được các nhà khoa
học nghiên cứu, những vấn đề chưa được nghiên cứu để nghiên cứu sinh tiếp
tục nghiên cứu chuyên sâu.
- Đánh giá tổng quan về pháp luật cạnh tranh và thực thi pháp luật cạnh
tranh ở Việt Nam.
- Làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật cạnh tranh và hiệu quả
thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam.
5
- Phân tích đánh giá thực trạng thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt
Nam từ khi Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực
đến nay, từ đó rút ra những bất cập cần được hoàn thiện.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là hiệu quả thực thi pháp luật
cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
a. Về nội dung
- Nghiên cứu nội dung các văn bản pháp luật về cạnh tranh của Việt Nam
(bao gồm Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành), các nhân tố
tác động, ảnh hưởng đến quá trình triển khai thực hiện pháp luật cạnh tranh.
- Đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của cơ quan quản lý
cạnh tranh ở Việt Nam.
b. Về không gian
Hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam và nghiên cứu kinh
nghiệm một số nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Australia, Pháp, Đức, Nhật
Bản, Hàn Quốc…
c. Về thời gian
- Đánh giá thực trạng thực thi pháp luật cạnh tranh từ năm 2005 - 2014.
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của
Việt Nam từ năm 2015 đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết
6
hợp phân tích định tính và định lượng, đề tài luận án áp dụng các phương
pháp cụ thể sau đây.
4.1. Phương pháp phân tích và thống kê
Được sử dụng nhằm hệ thống hóa các công trình nghiên cứu, lý luận cơ
bản về các vấn đề liên quan trong Đề tài nghiên cứu của mình, nghiên cứu
sinh sử dụng phương pháp phân tích, thống kê để làm rõ các thuật ngữ, những
lý luận sử dụng trong lĩnh vực cạnh tranh, các kết quả nghiên cứu, những vấn
đề đang tồn tại mà được các công trình khoa hoc trước đây đã nghiên cứu.
4.2. Phương pháp so sánh
Nhằm kiểm chứng tính chính xác của thông tin được thu thập, phương
pháp so sánh được sử dụng trong nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về xây
dựng và thực thi pháp luật cạnh tranh và trong phần phân tích đánh giá thực
trạng theo khung lý thuyết.
4.3. Phương pháp khảo sát thực tế
Bên cạnh việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến chính sách cạnh
tranh được trình bày trong các đề tài khoa học, các công trình nghiên cứu, các
ấn bản khoa học, phương pháp khảo sát thực tế được sử dụng trong trao đổi
với chuyên gia, điều tra mẫu một số doanh nghiệp là đối tượng điều chỉnh của
Luật. Phương pháp này cung cấp những số liệu, tài liệu cho đánh giá thực
trạng về nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh của
Việt Nam, từ đó làm cơ sở đề xuất trong luận án.
5. Những đóng góp mới của Luận án
5.1. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn
a. Về lý luận
+ Luận án hệ thống hóa cơ sở lý luận về hiệu quả thực thi pháp luật
7
cạnh tranh, cụ thể là làm rõ những khái niệm cơ bản về cạnh tranh, pháp luật
cạnh tranh, vị trí vai trò của pháp luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường,
các đối tượng, yếu tố liên quan đến công tác thực thi pháp luật cạnh tranh, các
mô hình tổ chức quản lý nhà nước về pháp luật cạnh tranh trên thế giới.
+ Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật cạnh tranh, rút ra bài học và điều kiện áp dụng cho Việt Nam.
b. Về thực tiễn
- Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm một số quốc gia về nội dung pháp
luật, cơ quan thực thi, các biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi, từ đó kiến
nghị bài học có thể áp dụng ở Việt Nam.
- Đề tài luận án phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả thực thi pháp
luật cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam trong thời gian
vừa qua (trong đó đặc biệt chú trọng đến hoạt động điều tra, xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật cạnh tranh, các hoạt động tuyên truyền phổ biến...) chỉ ra
những thành tựu, tồn tại, khó khăn và nguyên nhân, xác định những vấn đề
đặt ra cho công tác thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam, tựu trung là:
+ Về nội dung các văn bản pháp luật: Một số quy định liên quan đến quy
trình điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh, quy định về xác định thị trường liên
quan và quy định về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế theo quy định của
Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn hiện không phù hợp và khó có thể
áp dụng trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay ở Việt Nam.
+ Về cơ quan cạnh tranh: Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay là cơ quan
thuộc Bộ Công Thương không đảm bảo vị trí độc lập, còn ôm đồm nhiều
chức năng làm phân tán nguồn lực.
+ Về nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp: Trong thời gian gần đây
8
nhận thức cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh đã có cải thiện
nhưng vẫn ở mức thấp. Đây là một phần nguyên nhân nhiều doanh nghiệp khi
quyền lợi của mình bị xâm hại không biết sử dụng pháp luật cạnh tranh như là
một công cụ để bảo vệ mình.
- Xác định bối cảnh trong nước, quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh trong thời gian tới. Luận án
đã đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật cạnh tranh trong thời gian tới, bao gồm:
+ Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, cần xây dựng Luật sửa đổi bổ
sung Luật cạnh tranh, trong đó cần làm rõ tiêu chí xác định thị trường liên
quan, minh bạch quy trình xử lý vụ việc, áp dụng hình thức xử lý vi phạm hợp
lý dựa trên cơ sở phạm vi và mức độ vi phạm; bổ sung và hoàn thiện các quy
định liên quan đến các nhóm hành vi vi phạm.
+ Kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy cơ
quan thực thi, theo đó đề xuất thành lập một Ủy ban Cạnh tranh độc lập và
đặc biệt chú trọng công tác cán bộ trong thực thi pháp luật cạnh tranh.
+ Nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp, cần thực hiện các
hoạt động tuyên truyền phổ biến có trọng điểm đến các nhóm doanh nghiệp
trong từng lĩnh vực; đa dạng hóa các hình thức tuyên tuyền; thúc đẩy và sử
dụng hiệu quả phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền tới cộng đồng
doanh nghiệp.
+ Hợp tác quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động hợp tác với cơ quan cạnh
tranh nước ngoài và tham gia tích cực vào các diễn đàn cạnh tranh khu vực và
trên thế giới để tận dụng kinh nghiệm và đào tạo cán bộ.
9
5.2. Những đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu của Luận án
Từ nghiên cứu lý luận, thực tiễn của Việt Nam và kinh nghiệm của các
nước, nghiên cứu đã chỉ ra hai nhóm tiêu chí làm căn cứ đánh giá hiệu quả
thực thi pháp luật cạnh tranh:
+ Các tiêu chí thể hiện chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật
bao gồm tính hợp pháp và tính thực tiễn của văn bản quy phạm pháp luật.
+ Các tiêu chí thể hiện mối quan hệ tương tác của quy phạm pháp luật
đối với xã hội bao gồm khả năng tổ chức thực thi của cơ quan thi hành pháp
luật và khả năng tiếp cận, tuân thủ của các đối tượng điều chỉnh mà văn bản
quy phạm pháp luật hướng tới.
Nghiên cứu đã chỉ ra các bất cập trong quá trình thực thi pháp luật cạnh
tranh của Việt Nam trong thời gian qua. Các giải pháp được đưa ra là các giải
pháp từ phía Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp, trong đó chỉ rõ tính khả
thi, tính hữu dụng của giải pháp, cụ thể:
+ Đối với giải pháp hoàn thiện nội dung pháp luật về cạnh tranh ở Việt
Nam: Luận án đã chỉ ra những quy định cần sửa đổi bổ sung phù hợp trên cơ
sở xây dựng Luật Cạnh tranh sửa đổi.
+ Đối với giải pháp kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực cơ quan
điều tra. Luận án đã chỉ ra Việt Nam không nên tách hai cơ quan cạnh tranh
riêng biệt và thực hiện cơ chế Hội đồng như hiện nay và nên thành lập một cơ
quan riêng biệt, độc lập.
+ Giải pháp nâng cao nhận thức, khả năng tham gia của doanh nghiệp
trong việc thực hiện luật: Trên thực tế, để một văn bản pháp luật đi vào cuộc
sống, việc nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp là hết sức cần
thiết và đòi hỏi phải có nguồn lực. Do đó, Luận án chỉ rõ trong thời gian tới,
10
cơ quan cạnh tranh cần đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, tập trung tuyên
tuyền trực tiếp đến các doanh nghiệp trong từng ngành, lĩnh vực riêng biệt và
thiết lập quan hệ chặt chẽ với các cơ quan truyền thông.
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận và phụ lục, nội dung của Luận
6. Kết cấu nội dung của Luận án
án được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
Chương 2: Thực trạng công tác thực thi pháp luật cạnh tranh của
Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2014
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam
11
PHẦN TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
Trong nước và ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan
đến pháp luật cạnh tranh và thực thi pháp luật cạnh tranh với mục tiêu và cách
tiếp cận khác nhau. Những công trình nghiên cứu điển hình có thể kể đến là:
1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan
- “Cơ sở khoa học xác định mức độ hạn chế cạnh tranh của các thoả
thuận và các tiêu chí cho phép hưởng miễn trừ trong luật cạnh tranh”, Đề tài
[28]. Nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung (i) làm rõ luận cứ khoa học của
nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu thương mại, năm 2004
khái niệm và tiêu chí “mức độ hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị
trường liên quan của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; các trường hợp
được hưởng miễn trừ việc áp dụng quy định cấm đối với thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh (ii) nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về xác
định các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh các trường hợp được miễn trừ áp dụng
quy định cấm đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh.
Đề tài cũng đề xuất một số nội dung về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
để đưa vào trong Dự thảo Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Sách “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và
kiểm soát độc quyền kinh doanh” của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung
ương, năm 2002 [34]. Với quan điểm cho rằng để đảm bảo môi trường cạnh
tranh hiệu quả, cần thiết phải xóa bỏ các quy định bất hợp lý cản trở cạnh
tranh trong kinh doanh. Nghiên cứu này tập trung đi sâu vào đánh giá những
hạn chế về các quy định hiện hành, đồng thời hệ thống hoá một số hành vi
hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh của doanh
12
nghiệp. Nghiên cứu chia thành 3 phần chính: (i) làm rõ một số vấn đề lý luận
về cạnh tranh làm nền tảng cho việc phân tích thực trạng của Việt Nam; (ii)
kiến nghị phương hướng xử lý; (iii) nghiên cứu kinh nghiệm của các nước
Hoa Kỳ, Nhật, Australia và Mexico trong xây dựng chính sách cạnh tranh...
và rút ra bài học cho Việt Nam.
- Giáo trình “Luật cạnh tranh tại Việt Nam” TS. Lê Danh Vĩnh, Hoàng
Xuân Bắc, Ths. Nguyễn Ngọc Sơn. NXB Tư pháp, Hà Nội năm 2006 [32].
Giáo trình hệ thống hóa nền tảng lý luận và việc ứng dụng kinh nghiệm của
các nước vào các quy định của Luật Cạnh tranh phục vụ cho công tác đào tạo
môn học Luật Cạnh tranh cho sinh viên chuyên ngành Luật học. Các nội dung
cơ bản được làm rõ như: khái niệm cạnh tranh, vai trò, mục tiêu của chính
sách cạnh tranh đến quy định và cách tiếp cận những nhóm hành vi trong Luật
Cạnh tranh và cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam.
- “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật cạnh tranh”, Đề tài nghiên
cứu cấp Bộ, do Thạc sĩ Lê Thị Bích Thọ, Trường Đại học Luật TP.HCM làm
chủ nhiệm, năm 2002 [27]. Nội dung đề tài đã phân tích các quan điểm, quy
định của pháp luật một số nước từ đó xây dựng tiêu chí xác định hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Trên cơ sở các tiêu chí đó, các tác giả đã chỉ ra được
các hành vi cụ thể được coi là cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh
tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và độc quyền. Đây là những hành
vi quan trọng cần phải xác định khi nghiên cứu xây dựng pháp luật về cạnh
tranh. Các tác giả cũng chỉ ra được những yếu tố chi phối thị trường cạnh
tranh ở Việt Nam, đó là các yếu tố về pháp luật; trình độ phát triển của kinh tế
– xã hội; các hình thức sở hữu kinh doanh, sự quản lý của Nhà nước và mức
độ mở cửa của nền kinh tế. Công trình cũng đã tập trung nghiên cứu pháp luật
của một số nước về cạnh tranh, bao gồm: Luật chống độc quyền của Đan
Mạch, Luật chống hạn chế cạnh tranh Đức, Luật Cạnh tranh Hà Lan, Luật
13
Cạnh tranh Thụy Điển, Luật Cạnh tranh và kinh doanh bình đẳng của Italia,
Luật chống độc quyền của Hoa Kỳ, Luật Cạnh tranh Châu Âu. Trên cơ sở
kinh nghiệm của các nước, các tác giả đã rút yêu cầu và nguyên tắc của việc
xây dựng Luật Cạnh tranh là: phải dựa trên đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nền kinh tế, phù hợp với chính sách
ngoại giao và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới; phải đồng bộ và phù
hợp với các nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật Việt Nam và phải đảm
bảo tạo ra được môi trường pháp lý an toàn cho hoạt động kinh doanh tự do
cạnh tranh ở Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu trên mới chỉ nghiên cứu tổng quan về pháp
luật cạnh tranh, vấn đề thực thi pháp luật cạnh tranh của một số nước để tập
trung xây dựng Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn trong giai đoạn
2003-2006. Chưa có công trình nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu, chỉ ra
những bất cập trong khung pháp lý về cạnh tranh, cũng như nghiên cứu sâu
và tổng thể về hoàn thiện pháp luật cạnh tranh và đặc biệt là nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế.
Bên cạnh đó, còn có các công trình nghiên cứu đã được công bố rộng
rãi như:
- “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành
mạnh ở Việt Nam” của TS. Đặng Vũ Huân - Bộ Tư pháp - Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2004 [14].
- "Chính sách cạnh tranh - công cụ vĩ mô nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp dân doanh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
của TS. Tăng Văn Nghĩa đăng tại Tạp chí Nghiên cứu kinh tế năm 2006 [17].
- “Bình luận khoa học Luật Cạnh tranh”, của tác giả TS. Lê Hoàng
Oanh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2005 [18].
14
- “Pháp luật cạnh tranh và chống độc quyền” Tạp chí Nhà nước và
pháp luật của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, năm 1999 [16].
- Cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách cạnh tranh
[35].
- Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW - NXB Lao động - Hà Nội, năm 2000
Các công trình khoa học trên chủ yếu nghiên cứu về lý luận chung, như
sự cần thiết phải có những thay đổi căn bản về vai trò của nhà nước khi
chuyển đổi nền kinh tế, tính tất yếu của việc xây dựng pháp luật và chính sách
cạnh tranh để phù hợp với quy luật của thị trường nhằm (i) kiểm soát độc
quyền; (ii) tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh; (iii) bảo vệ quyền và
lợi ích của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có một công trình liên quan
đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận án là “Hoàn thiện chính sách cạnh
tranh và kiếm soát độc quyền kinh doanh ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế” của TS. Đồng Thị Hà, Trường Đại học kinh tế quốc dân,
2014 [28]. Luận án này đã (i) Phân tích những ý kiến và cách thức hoạch định,
triển khai chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền ở Việt Nam và một
số nước trên thế giới, (ii) Đánh giá ý nghĩa của chính sách cạnh tranh và kiểm
soát độc quyền đối với phát triển kinh tế để đổi mới nhận thức, quan điểm
giữa hai mặt đối lập: cạnh tranh và độc quyền. Qua đó khẳng định: Nhà nước
cần xây dựng chính sách duy trì cạnh tranh (cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng...) và kiểm soát, hạn chế độc quyền, chống các hành vi thống lĩnh thị
trường và cản trở cạnh tranh...; (iii) phân tích, đánh giá các quy định và giải
pháp chính sách hiện tại đang gây khó khăn bất cập cho cạnh tranh và môi
trường cạnh tranh, cũng như kiểm soát độc quyền trong kinh doanh để làm cơ
sở cho các kiến nghị về hoàn thiện và xây dựng mới các chính sách cạnh tranh
và kiểm soát độc quyền ở Việt Nam trong thời gian tới mà không phân tích
khía cạnh về thực trạng thực thi pháp luật cạnh tranh hiện nay.
15
1.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan
- Luật Cạnh tranh năm 2004;
- Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 09 năm
2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh;
- Nghị định số 119/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 12 năm
2011 về việc sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại Nghị định số
116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 9 năm 2005 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh;
- Nghị định số 05/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09 tháng 01 năm
2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Hội đồng cạnh tranh;
- Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09 tháng 01 năm
2006 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Cục Quản lý cạnh tranh;
- Nghị định số 71/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21 tháng 7 năm
2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực cạnh tranh;
- Nghị định số 42/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 5 năm
2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Ở ngoài nước, các công trình nghiên cứu liên quan đến chính sách và
pháp luật cạnh tranh vô cùng phong phú và đa dạng, được thực hiện bởi các
cá nhân, tổ chức khác nhau. Có nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề cụ thể
về chính sách cạnh tranh, chủ yếu là phân tích về cách tiếp cận trong việc xây
dựng chính sách cạnh tranh, các nguyên tắc xây dựng chính sách cạnh tranh
và các hành vi và đối tượng mà chính sách cạnh tranh điều chỉnh...
16
Một trong số những công trình được biết đến rộng rãi là “Chính sách
cạnh tranh, Lý thuyết và thực tiễn” (Competition Policy, Theory and Practice)
của tác giả Massimo Motta do Trường Đại học Cambridge phát hành năm
2004 [44]. Công trình nghiên cứu gồm 3 phần chính: (i) Tổng quan các vấn đề
chống độc quyền (chính sách cạnh tranh) bao gồm: khái niệm về chính sách
cạnh tranh, cách tiếp cận xây dựng chính sách cạnh tranh tại Hoa Kỳ và một
số nước Châu âu; (ii) Đưa ra các khái niệm về quyền lực thị trường, những
ảnh hưởng của doanh nghiệp có quyền lực thị trường tới môi trường cạnh
tranh; (iii) Các công cụ kinh tế thường dùng để xác định quyền lực thị trường.
Công trình nghiên cứu cũng phân tích và dẫn chiếu tới các vụ việc chống độc
quyền từ các quốc gia phát triển. Công trình nghiên cứu có thể được sử dụng
như một cuốn sách giáo khoa kinh tế trong các khóa học về chính sách cạnh
tranh của chương trình đào tạo đại học hoặc sau đại học.
Luật chống độc quyền và kinh tế (Antitrust law and Economics) của
Ernest Gellhorn, William E.Kovacis, Stephen Calkings do Thomson West
phát hành năm 2004 (tái bản lần thứ 5) [39]. Công trình nghiên cứu giúp các
nhà kinh tế, luật sư tăng cường sự hiểu biết về luật chống độc quyền của Hoa
Kỳ, trong đó có phân tích các phán quyết mới nhất của Tòa án tối cao. Công
trình nghiên cứu tập trung vào các nội dung như: (i) Xác định các tiêu chuẩn
đánh giá tác động của thỏa thuận hạn chế theo chiều ngang, chiều dọc; (ii)
Các vấn đề về độc quyền, độc quyền tự nhiên; (iii) Quy trình và thủ tục xét xử
và thực thi phán quyết tại tòa; (iv) Các hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ; (v) Giới hạn về phạm vi áp dụng pháp luật chống độc quyền của
Hoa Kỳ.
Chính sách cạnh tranh và pháp luật chống độc quyền quốc tế
(International antitrust law and policy) do Viện nghiên cứu pháp luật cạnh
tranh thuộc Đại học Fordham của Hoa Kỳ thực hiện và phát hành năm 2008
17
[37]. Đây là công trình nghiên cứu tập hợp các bài phân tích về luật và chính
sách cạnh tranh của các giảng viên và chuyên gia trong lĩnh vực cạnh tranh trên
thế giới. Công trình nghiên cứu tập trung vào các nội dung: (i) chính sách cạnh
tranh, trợ cấp Chính phủ và doanh nghiệp nhà nước; (ii) kiểm soát các vụ mua
bán sáp nhập quốc tế - góc nhìn từ cơ quan cạnh tranh quốc gia; (iii) các vấn đề
cạnh tranh phát sinh trong ngành năng lượng ở một số nước trên thế giới…
Pháp luật cạnh tranh Châu Âu (EC Competition Law) của Joanna
Goyder, Albertina Albors-llorens được Nhà xuất bản Oxford University Press
phát hành năm 2009 [42]. Nghiên cứu này cung cấp đầy đủ và toàn diện quá
trình xây dựng và phát triển chính sách cạnh tranh Châu Âu từ năm 1957.
Công trình nghiên cứu cũng phân tích tình hình, bối cảnh kinh tế xã hội trong
mỗi giai đoạn sửa đổi và phát triển chính sách cạnh tranh của Châu Âu.
Vấn đề cạnh tranh cũng được các tổ chức UNCTAD, OECD, APEC,
ASEAN… và các Diễn đàn kinh tế khác quan tâm và thực hiện nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhau.
Mặc dù số lượng các nghiên cứu đề cập tới vấn đề chính sách cạnh
tranh là không ít nhưng xét trên phạm vi, mục tiêu nghiên cứu của luận án thì
không có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách tổng thể ở cả góc
độ lý luận và quy định pháp lý về hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh giống
như cách tiếp cận, phạm vi và nội dung nghiên cứu trong luận án.
3. Những vấn đề được nghiên cứu trong luận án
- Vị trí, vai trò của pháp luật cạnh tranh. Đối tượng liên quan đến công
tác thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam.
- Nhân tố ảnh hưởng và quyết định hiệu quả thực thi pháp luật cạnh
tranh của Việt Nam.
- Đối tượng trực tiếp ảnh hưởng tới công tác thực thi pháp luật cạnh
tranh cạnh tranh tại Việt Nam.
18
- Nội dung và hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam.
- Những bất cập về các quy định pháp luật cạnh tranh của Việt Nam.
- Kinh nghiệm thực thi pháp luật cạnh tranh trên thế giới và bài học
kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng công tác thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam
trong thời gian qua, định hướng hoàn thiện.
- Quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật cạnh tranh ở Việt Nam trong bối cảnh và điều kiện mới.
- Những đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luât
cạnh tranh trong thời gian tới.
Trên đây là những vấn đề được đặt ra trong nội dung nghiên cứu của
luận án và cũng là những vấn đề mà các đề tài khoa học trước đây chưa đề
cập hoặc có đề cập nhưng chỉ mang tính liệt kê chưa đi sâu phân tích nguyên
nhân và đề xuất hướng giải quyết.
19
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT
CẠNH TRANH
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và các hình thái cạnh tranh
a. Khái niệm cạnh tranh
Khái niệm cạnh tranh với tư cách là một hiện tượng kinh tế, xuất hiện
và tồn tại như là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường,
phản ánh năng lực phát triển của kinh tế thị trường. Với cách tiếp cận này, Từ
điển Kinh doanh của Anh năm 1992 đã định nghĩa “Cạnh tranh là sự ganh
đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành
cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía
mình”. Từ điển Luật học cũng giải thích “cạnh tranh là sự đua tranh về kinh tế
giữa các nhà kinh doanh có những lợi ích giống nhau trên cùng thị trường
bằng các phương thức khác nhau để giành được nhiều nhất về phía mình
khách hàng, thị trường và thị phần của một thị trường qua đó thu lợi nhuận
nhiều hơn [33]”.
Theo quan điểm trên, xét từ góc độ các chủ thể của hành vi thì cạnh
tranh được coi là phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa
các nhà kinh doanh với vai trò quyết định của người tiêu dùng. Nếu nhìn khái
quát trên quy mô toàn xã hội, thì cạnh tranh là phương thức phân bổ các
nguồn lực, tài nguyên một cách tối ưu, do đó là động lực phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng, cạnh tranh có bản chất
kinh tế và bản chất xã hội. Bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện mục đích
tạo lập cho mình một ưu thế chi phối thị trường và vì lợi nhuận. Bản chất xã
20
hội của cạnh tranh phản ánh đạo đức kinh doanh và uy tín của mỗi chủ thể
cạnh tranh trong mối quan hệ đối với những người trực tiếp tạo ra tiềm lực
cạnh tranh của doanh nghiệp và trong mối quan hệ với người tiêu dùng và với
các đối thủ cạnh tranh khác [20].
b. Các hình thái cạnh tranh
- Cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo.
Căn cứ vào cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung trong một ngành,
lĩnh vực kinh tế, người ta phân thị trường thành các hình thái: Cạnh tranh
hoàn hảo, độc quyền và cạnh tranh không hoàn hảo [34].
+ Cạnh tranh hoàn hảo là hình thái thị trường trong đó giá cả và sản
lượng của một hàng hoá được hoàn toàn xác định bởi cung và cầu trên thị
trường, của hàng hóa đó. Do vậy, các doanh nghiệp tham gia thị trường phải
chấp nhận giá thị trường.
Theo đó, cạnh tranh hoàn hảo là hình thái thị trường trong đó có nhiều
người bán và nhiều người mua một sản phẩm. Bất kỳ người bán và người mua
nào đều là quá nhỏ so với quy mô thị trường, do vậy không có khả năng để
tác động tới giá của sản phẩm. Điều này có nghĩa là sự thay đổi sản lượng của
một doanh nghiệp hoàn toàn không ảnh hưởng gì tới giá thị trường. Tương tự,
mỗi người mua cũng quá nhỏ để có thể đòi hỏi người bán những điều như
phải giảm giá khi mua nhiều hay bán chịu.
Độc quyền là một hình thái thị trường trong đó có một doanh nghiệp
duy nhất bán một sản phẩm mà không có một sản phẩm thay thế gần giống
với nó (được gọi là độc quyền bán - monopoly), hoặc chỉ có một người mua
(được gọi là độc quyền mua - monopsony). Như vậy, độc quyền là thái cực
trái ngược với cạnh tranh hoàn hảo.
Cạnh tranh không hoàn hảo là một hình thái thị trường nằm giữa hai
hình thái là cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền. Cạnh tranh không hoàn hảo
bao gồm cạnh tranh mang tính độc quyền và độc quyền nhóm.
21
Cạnh tranh mang tính độc quyền là hình thái thị trường có nhiều người
bán sản xuất ra những sản phẩm có thể dễ dàng thay thế cho nhau. Mỗi người
chỉ có khả năng hạn chế ảnh hưởng tới giá cả sản phẩm của mình. So với hình
thái cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh mang tính độc quyền cũng có nhiều
doanh nghiệp gia nhập thị trường không hạn chế. Nhưng nó khác với cạnh
tranh hoàn hảo ở chỗ sản phẩm được phân hoá cao độ - mỗi doanh nghiệp đều
có một loại sản phẩm khác nhau về hình dáng, kích thước, nhãn mác, chất
lượng và danh tiếng và mỗi doanh nghiệp là người duy nhất sản xuất loại
hàng hoá riêng của mình.
Độc quyền nhóm là một hình thái thị trường trong đó chỉ có một số ít
các nhà sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả của mình không
chỉ phụ thuộc vào sản lượng của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của
các đối thủ cạnh tranh quan trọng trong ngành đó.
- Cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh
Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh, người
ta phân loại các hành vi cạnh tranh trên thị trường thành cạnh tranh lành mạnh
và cạnh tranh không lành mạnh.
+ Cạnh tranh lành mạnh là hình thức cạnh tranh tích cực, trong sáng,
cạnh tranh bằng tiềm năng vốn có của bản thân doanh nghiệp. Đó là những
hoạt động nhằm thu hút khách hàng mà pháp luật không cấm và phù hợp với
tập quán thương mại và đạo đức kinh doanh.
+ Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể của một chủ thể
kinh doanh, nhằm mục đích cạnh tranh, luôn thể hiện tính không lành mạnh
(không nhất thiết phải trái pháp luật) và vô tình hay cố ý gây thiệt hại cho một
đối thủ cạnh tranh hay bạn hàng cụ thể.
Như vậy, từ những khái niệm ở trên đây, có thể hiểu rằng cạnh tranh là
sự ganh đua nhau giữa các doanh nghiệp về giá cả, số lượng, dịch vụ hoặc kết
22
hợp các yếu tố này để giành nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao
vị thế của mình trên thị trường. Cạnh tranh trên thị trường được phân chia
thành cạnh tranh hoàn hảo, độc quyền, cạnh tranh không hoàn hảo nếu xét
theo cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung trong một ngành, lĩnh vực kinh
tế; hoặc thành cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh nếu căn
cứ vào mục đích và tính chất của các phương thức cạnh tranh.
1.1.2. Khái niệm và lịch sử hình thành pháp luật cạnh tranh
a. Khái niệm pháp luật cạnh tranh
Pháp luật cạnh tranh, theo cách hiểu phổ biến nhất trong giới nghiên
cứu về lĩnh vực này trên thế giới, bao gồm tất cả các quy định của Nhà nước
có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi kinh doanh của doanh nghiệp và cấu trúc
thị trường. Pháp luật cạnh tranh bao gồm hai mảng chính. Mảng thứ nhất là
việc ban hành và thực thi một tập hợp các quy định có tác dụng thúc đẩy cạnh
tranh trên thị trường, bao gồm các quy định về gia nhập thị trường và đa dạng
hóa các thành phần kinh tế tham gia thị trường, tự do hóa về thương mại cũng
như các quy định hiệu quả điều chỉnh các hoạt động kinh doanh ngành, v.v.
Mảng thứ hai là bao gồm các chế định pháp lý được ban bành để kiểm
soát/ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi phản cạnh tranh và
các can thiệp quá mức của Nhà nước vào việc điều tiết thị trường.
b. Lịch sử hình thành pháp luật cạnh tranh
Pháp luật cạnh tranh của các nước ra đời đều bắt nguồn từ nhu cầu của
nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển, pháp luật cạnh tranh đã được liên
tục sửa đổi để phù hợp với thực tiễn. Luật Cạnh tranh có thể được gọi theo
nhiều cách khác nhau (ví dụ: Luật Cạnh tranh - Competition Law của Anh,
Luật chống độc quyền- Anti monopoly Act của Nhật Bản, Luật thương mại
lành mạnh – Fair Trade Law của Đài Loan…) nhưng tất cả đều có một mục
đích chung là duy trì và bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, cho
23
phép các thực thể kinh tế có cơ hội bình đẳng cạnh tranh cũng như tiếp cận thị
trường. Bảo vệ người tiêu dùng thông qua việc khuyến khích hạ giá và cải
thiện chất lượng sản phẩm được xem như một hệ quả của cạnh tranh tự do và
lành mạnh trên thị trường.
Trên thế giới có thể nói Hoa Kỳ là một trong số những nước ban hành
pháp luật cạnh tranh sớm nhất, pháp luật cạnh tranh này còn được biết đến với
tên gọi là Luật Chống độc quyền. Lịch sử chống độc quyền của Hoa Kỳ nhìn
chung được bắt đầu với Luật Sherman năm 1890, đây là bộ luật chống độc
quyền đầu tiên được thông qua bởi các bang trước khi trở thành bộ luật Liên
bang. Luật Sherman gồm hai phần chính. Phần một quy định các thoả thuận
gây hạn chế thương mại. Phần hai cấm việc giành được vị thế độc quyền bằng
việc sử dụng các biện pháp phản cạnh tranh hoặc lạm dụng vị trí độc quyền
(không phải là độc quyền tự nhiên). Một điểm quan trọng cần lưu ý là Luật
Sherman có thể được thực thi như luật dân sự hoặc như luật hình sự, các phán
xét được trao cho Cục Chống độc quyền, Bộ Tư pháp. Cụ thể, các hành vi
hiển nhiên vi phạm như: ấn định giá tạm thời, thông đồng để thắng thầu sẽ bị
truy tố hình sự. Trong năm 1914, hai bộ luật Liên bang nữa đã được thông
qua là Luật Clayton và Luật Uỷ ban Thương mại Liên bang.
Theo quy định của Luật Ủy ban Thương mại Liên bang, FTC được
thành lập để thực thi Luật Clayton, Luật Robinson-Patman (ngoại trừ điều
khoản xử lý hình sự theo Luật Sherman). Mặc dù đã có những sửa đổi, bổ
sung đối với 3 bộ luật Liên bang này (điển hình là Luật Robinson-Patman
1936 và Luật Hart-Scott-Rodino 1976) nhưng về cơ bản là không có sự thay
đổi lớn từ năm 1914. Đến nay, hầu hết các bang cũng đã thông qua luật của
bang căn cứ theo nội dung của Luật Sherman và Luật FTC.
Canada ban hành Luật Cạnh tranh lần đầu tiên năm 1889. Mặc dù có
lịch sử tương đối dài nhưng Luật Cạnh tranh vẫn không có được vai trò nổi
24
trội trong các hoạt động kinh tế của Canada cho tới gần đây. Đó một phần là
do các lực lượng kinh tế và chính trị đứng đằng sau quá trình phát triển của
nền kinh tế Canada vốn thích sự phát triển một cơ cấu công nghiệp tương đối
tập trung. Canada đã phát triển nền kinh tế của mình với một mức độ tham gia
lớn của Chính phủ. Theo đó, các quy định về âm mưu và duy trì giá đã nhận
được sự chú ý đáng kể về mặt thi hành luật nhưng sự phân biệt giá, bán phá
giá, sáp nhập và độc quyền thì thực sự bị bỏ qua. Năm 1975, Nghị viện đã
thực hiện giai đoạn sửa đổi đầu tiên. Điểm đáng chú ý trong sửa đổi lần này là
đã mở rộng quyền hành động có giới hạn của tư nhân, biến các hành vi thông
đồng trong đấu thầu thành đương nhiên bất hợp pháp, và việc từ chối giao
dịch, bán hàng có ràng buộc, giao dịch mang tính độc quyền và hạn chế thị
trường thành những hành vi được xem xét về mặt dân sự.
Giai đoạn sửa đổi thứ hai được thực hiện vào năm 1986. Luật, khi đó
được gọi là Luật Điều tra các vụ kết hợp được đổi tên thành Luật Cạnh tranh.
Những cuộc cải cách trong năm 1986 cũng bao gồm việc củng cố các quy
định về âm mưu mang tính hình sự của Luật, bổ sung quy định về các thoả
thuận chuyên môn hoá và bổ sung khả năng xem xét về mặt dân sự hành vi
định giá chuyển giao, lạm dụng vị trí thống lĩnh và sáp nhập. Cuộc cải cách
trong năm 1986 cũng tạo nên một cơ quan pháp luật mới gọi là Toà Cạnh
tranh thay cho Hội đồng các hành vi hạn chế thương mại để xử lý các quy
định dân sự của Luật.
Vào tháng 3/1999, Luật được sửa đổi lần nữa bởi Luật sửa đổi Luật
Cạnh tranh. Những sửa đổi lần này đã làm thay đổi Luật về một số khía cạnh
rất quan trọng như đã chuyển một số hành vi từ hành vi vi phạm mang tính
hình sự thuần tuý sang hành vi được xem xét cả về mặt hình sự và dân sự tuỳ
từng trường hợp; sửa đổi cũng bổ sung quy định miễn trừ và các quy định về
xử lý hình sự… Năm 2000, Luật tiếp tục được sửa đổi để giao cho Uỷ viên
25
Hội đồng Cạnh tranh (Commissioner) và Toà Cạnh tranh những quyền mới để
xử lý các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của Hàng không
Canada (Air Canada).
Trong các nước Châu Âu (Italia, Bỉ, Đức, Đan Mạch, Hà lan, Pháp,
Anh và Thụy điển), Đức là quốc gia ban hành pháp luật cạnh tranh rất sớm.
Đức đã ban hành Luật Chống hạn chế cạnh tranh, viết tắt ARC, và chính thức
có hiệu lực vào ngày 01/01/1958. Tính đến nay, Luật đã được sửa đổi, bổ
sung 7 lần. Lần sửa đổi cuối cùng có hiệu lực vào tháng 07/2008.
Ở Pháp, Bộ Luật Thương mại đã chứa đựng các quy định về cạnh
tranh. Quay lại lịch sử hình thành và phát triển pháp luật cạnh tranh Pháp, có
thể nhận thấy một số thay đổi của pháp luật tuy chỉ mang tính hình thức
nhưng lại có tầm quan trọng đáng kể: Pháp lệnh ngày 01/12/1986 về tự do giá
cả và tự do cạnh tranh đã bị bãi bỏ và chuyển hoá vào Bộ Luật Thương mại
sau một chương trình pháp điển hoá rộng lớn. Kể từ nay, nếu xét về nguồn
luật trong nước thì văn bản nền tảng của pháp luật cạnh tranh chính là Quyển
IV của Bộ luật Thương mại. Do quá trình pháp điển hoá nên số thứ tự của các
điều khoản đã hoàn toàn bị thay đổi. Chính vì vậy, Quyển IV đã dành một
phụ lục trong đó trình bày bảng đối chiếu giữa các điều khoản trước đây của
Pháp lệnh năm 1996 và các điều khoản hiện hành của Bộ Luật Thương mại.
Một số thay đổi khác của pháp luật cạnh tranh trong nước, chủ yếu xuất phát
từ việc ban hành Luật ngày 15/05/2001 về các biện pháp điều tiết kinh tế mới,
là những thay đổi liên quan đến cả luật nội dung lẫn luật tố tụng.
Mặc dù còn nặng về mặt hình thức, nhưng pháp luật cạnh tranh của
Châu Âu đã chiếm một vị trí rất quan trọng, có uy tín tại nhiều quốc gia muốn
gia nhập Liên minh và tại một số quốc gia khác. Đặc biệt, cách thức áp dụng
pháp luật cạnh tranh của Châu Âu đã làm cho các chủ thể kinh tế phải tôn
trọng và cân nhắc thận trọng những ràng buộc của pháp luật đó.
26
Tại Anh, Luật Cạnh tranh được ban hành ngày 09/11/1998 để sửa đổi
Luật Thương mại lành mạnh 1973. Luật đã đưa thêm các điều khoản cấm các
hành vi phản cạnh tranh (Chương I và Chương II). Văn phòng Thương mại
lành mạnh (OFT) có thẩm quyền khá lớn trong việc điều tra các doanh nghiệp
được cho là vi phạm Luật và áp dụng các hình phạt đối với các doanh nghiệp
này. Luật được sửa đổi ngày 01/05/2004, theo đó đã trao cho OFT quyền điều
tra và áp dụng các hình phạt đối với các tổ chức/các nhân vi phạm các điều
khoản cấm theo Điều 81 và Điều 82 của Hiệp ước EC. Tuy nhiên, một điểm
đáng lưu ý đối với pháp luật cạnh tranh của Anh là khi tiến hành xử lý, OFT
không chỉ dựa trên Luật Cạnh tranh, mà còn tuân theo các quy định pháp luật
có liên quan, chẳng hạn Luật Doanh nghiệp 2002 (có điều khoản quy định vi
phạm cacten). Theo đó, các cá nhân tham gia vào một trong các dạng thỏa
thuận phản cạnh tranh nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hơn nữa, khi Luật Doanh nghiệp 2002 được ban hành, nước Anh cũng đã tiến
hành sửa đổi Luật Truất quyền các nhà điều hành doanh nghiệp. Các nhà điều
hành doanh nghiệp khi vi phạm pháp luật cạnh tranh (các hành vi bị cấm theo
Điều 81, Điều 81 Hiệp ước EC và của Luật Cạnh tranh) có thể phải nhận
Lệnh truất quyền cạnh tranh. Lệnh này sẽ chấm dứt các hành vi có liên quan
và buộc họ không được quản lý doanh nghiệp trong thời hạn tối đa là 15 năm.
Nhưng quan trọng hơn chính là những thay đổi của pháp luật cạnh
tranh của Liên minh Châu Âu. Khuôn khổ pháp luật điều chỉnh các hành vi
hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc đã được sửa đổi ngay từ năm 1999. Quy
chế về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế giữa các doanh nghiệp cũng đã
được sửa đổi bổ sung và có hiệu lực kể từ ngày 01/05/2004. Các quy định
hướng dẫn thi hành Điều 81 và các điều tiếp theo của Hiệp ước thành lập
Cộng đồng Châu Âu đã được sửa đổi một cách toàn diện vào cuối năm 2002
và trong năm 2003. Những sửa đổi này cũng bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày
27
01/05/2004. Ở đây cần lưu ý: điều khoản được hướng dẫn thi hành là Điều 81
chứ không còn là Điều 85, bởi sau khi Hiệp ước Amsterdam được ký kết, đã
kéo theo sự thay đổi trong cách đánh số quen thuộc của các điều khoản.
Đối với Úc, pháp luật cạnh tranh được quy định trong Luật Thực tiễn
Thương mại năm 1974 và Luật Giám sát giá cả năm 1983. Mục đích của Luật
Thực tiễn Thương mại (TPA) là nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng của Úc thông
qua việc thúc đẩy cạnh tranh và thương mại lành mạnh và bảo vệ người tiêu
dùng. TPA liên quan đến hầu hết các vấn đề trên thị trường: mối quan hệ giữa
nhà cung cấp, bán buôn, bán lẻ, các đối thủ cạnh tranh và khách hàng. Trên
bình diện rộng, TPA giải quyết các vấn đề như các hành vi không lành mạnh
trên thị trường, luật theo ngành, sáp nhập, an toàn sản phẩm, nhãn mác sản
phẩm, giám sát giá cả và quy định của các ngành công nghiệp như viễn thông,
khí đốt, điện và hàng không.
1.1.3. Khái niệm về thực thi pháp luật cạnh tranh
Thực thi pháp luật được hiểu chung nhất là hoạt động thực hiện và thi
hành pháp luật. Theo nghĩa hẹp thực thi pháp luật chỉ là hoạt động của riêng
cơ quan quản lý nhà nước trong việc áp dụng, thi hành pháp luật. Nhưng cách
hiểu đó là phiến diện và chưa đầy đủ vì pháp luật là những chuẩn mực chung
và bất cứ ai trong xã hội đều phải tuân theo. Vì vậy, thực thi pháp luật phải là
hoạt động thực hiện và tuân theo pháp luật của tất cả mọi người.
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể
pháp luật bằng hành vi của mình thực hiện các quy định pháp luật trong thực
tế đời sống.
Thi hành pháp luật là một trong các hình thức của thực hiện pháp luật.
Thi hành pháp luật là hình thức thực hiện những quy định trao nghĩa vụ bắt
buộc của pháp luật một cách tích cực trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ
của mình bằng những hành động tích cực.
Ngoài thi hành pháp luật còn có các hình thức thực hiện pháp luật khác:
28
- Tuân thủ pháp luật: chủ thể pháp luật tự kiềm chế mình để không thực
hiện hành vi mà pháp luật cấm;
- Sử dụng pháp luật: chủ thể pháp luật sử dụng quyền pháp lí; và
- Áp dụng pháp luật: cá nhân có thẩm quyền hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền vận dụng các quy phạm pháp luật hiện hành cho từng trường hợp
cụ thể, đối với cá nhân và tổ chức cụ thể;
Nói cách khác, thi hành pháp luật là những hoạt động của các cá nhân,
tổ chức nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống. Ví dụ: một người thấy người khác
đang có hành vi vi phạm pháp luật đã tiến hành thông báo cho cơ quan chức
năng, tức là người đó đã bằng hành động tích cực thi hành quy định về nghĩa
vụ công dân của pháp luật nói chung và của luật hình sự nói riêng.
Theo ý kiến của một số chuyên gia, bản chất của việc thực hiện pháp
luật là sự chuyển hóa các yêu cầu chung được xác định trong các nguyên tắc
và quy phạm pháp luật vào trong các hành vi cụ thể của các chủ thể. Nói thực
hiện pháp luật là nói đến một kết quả tích cực của quá trình điều chỉnh pháp
luật, mà điều chỉnh pháp luật thì hướng tới hai yêu cầu: thực hiện hành vi
hợp pháp hoặc không thực hiện hành vi trái pháp luật [30].
Quá trình và kết quả của việc thực hiện pháp luật là thước đo hiệu quả
điều chỉnh pháp luật. Với những yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của
quá trình thực hiện pháp luật cũng như các yếu tố mang tính tác nhân của quá
trình đó, có thể thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của thực hiện pháp luật trong
hệ thống pháp lý. Bởi lẽ, thứ nhất, thực hiện pháp luật là một phạm vi độc lập
với những hình thức gắn với hoạt động của các chủ thể tương ứng và theo đó
là những nguyên tắc, những phạm vi thẩm quyền nội dung phương pháp và
trình tự, thủ tục thực hiện pháp luật tương ứng và thích hợp. Thứ hai, thực
29
hiện pháp luật là tổng thể những hoạt động và hành vi hết sức đa dạng ở
những cấp độ khác nhau, từ hành vi của cá nhân công dân trong việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể pháp lý của mình, việc thực hiện các điều
kiện tổ chức và hoạt động của một pháp nhân, thực hiện các thẩm quyền và
trách nhiệm của các cơ quan công quyền… cho đến hoạt động lập pháp của
Quốc hội.
Bên cạnh đó, thực hiện pháp luật là hành vi và hoạt động của nhóm đối
tượng mà một văn bản pháp luật hướng đến, có thể là cá nhân công dân hay là
cộng đồng doanh nghiệp.
Đối với pháp luật cạnh tranh việc thực thi pháp luật chia làm 2 nhóm
hoạt động tương ứng với 2 nhóm đối tượng đó là việc tổ chức thực hiện các
quy định pháp luật cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh (chủ thể quyền
lực) và việc tuân thủ, thi hành pháp luật của cộng đồng doanh nghiệp (chủ thể
là đối tượng điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh).
1.1.4. Khái niệm hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
Qua tìm hiểu và nghiên cứu, đã có rất nhiều công trình, học giả nghiên
cứu và đúc kết khái niệm về “hiệu quả của pháp luật” và các tiêu chí đánh giá
hiệu quả của một văn bản pháp luật.
Theo từ điển luật học, hiệu quả của pháp luật là kết quả cụ thể của sự
tác động pháp luật đến các quan hệ xã hội so với yêu cầu đặt ra khi ban hành
pháp luật [33]. Hiệu quả của pháp luật có thể được đánh giá theo từng cấp độ
khác nhau: hiệu quả của quy phạm pháp luật, của chế định pháp luật, của
ngành luật, của toàn bộ hệ thống pháp luật. Những căn cứ để đánh giá mức độ
hiệu quả của pháp luật là mục tiêu yêu cầu đặt ra khi ban hành pháp luật, chi
phí cho việc thực hiện pháp luật và kết quả thực tế đạt được của việc thực
hiện pháp luật.
30
Hiệu quả của pháp luật cũng có thể là kết quả so sánh: Kết quả đó do sự
tác động, điều chỉnh của pháp luật đó mang lại trong những phạm vi nhất
định; kết quả đó biểu hiện ở trạng thái của các quan hệ xã hội; kết quả đó
phù hợp với mục đích yêu cầu, định hướng của pháp luật; kết quả đó đạt
được với chi phí thực tế thấp (cùng một kết quả nhưng nếu chi phí quá lớn thì
xem là hiệu quả thấp và ngược lại) [12].
Theo quan niệm khác: hiệu quả của pháp luật là khả năng của pháp
luật có thể tác động được vào các quan hệ xã hội và ý thức xã hội để điều
chỉnh các quan hệ đó với những tổn thất vật chất và tinh thần ít nhất và mang
lại kết quả theo hướng cần điều chỉnh và cần được xác định của pháp luật [8].
Trên thực tế, việc đưa ra khái niệm về hiệu quả thực thi của một văn
bản pháp luật và các tiêu chí đánh giá còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo cách
hiểu thông thường, hiệu quả thực thi pháp luật có nghĩa hẹp hơn so với hiệu
quả của pháp luật. Hiệu quả thực thi pháp luật có thể là kết quả đạt được trên
thực tế của công tác tổ chức thực thi pháp luật trong một giai đoạn nhất định.
Pháp luật có hiệu quả thực thi phải là pháp luật phát huy tối đa vai trò của
mình để tạo điều kiện tốt nhất cho phát triển kinh tế xã hội.
Khi đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật có thể sử dụng các tiêu chí
định tính và định lượng sau đây [10]:
- Sự phù hợp và đầy đủ của các quy định pháp luật; ví dụ như luật bảo
vệ môi trường đòi hỏi các quy định cần thiết, hệ thống đo đạc, giám sát, các
chế tài đủ mạnh để răn đe v.v.
- Các điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để thực thi pháp luật.
Kinh nghiệm cho thấy trong tình trạng bần cùng và đói khổ quá mức, pháp
luật sẽ khó được thực thi (lũ lụt, thiên tai, thiếu đói v.v.)
- Ý thức của người dân, cộng đồng doanh nghiệp về thực thi pháp luật,
sự am hiểu cần thiết để thi hành pháp luật.
Việc đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật phải được thực hiện trong
31
khoảng thời gian và phạm vi không gian nhất định. Về số lượng, có thể đánh
giá một văn bản hoặc một hệ thống các văn bản. Có thể đánh giá hiệu quả
thực thi của riêng Luật Cạnh tranh hoặc của Luật Cạnh tranh và các văn bản
hướng dẫn của Chính phủ. Về chất lượng, có thể đánh giá trên một khía cạnh
hoặc tổng thể văn bản.
Để một quy định pháp luật có hiệu quả thực thi trên thực tế, trước hết
quy định đó phải có hiệu lực. Hiệu lực của pháp luật là cơ sở nền tảng tạo nên
hiệu quả của một văn bản pháp luật. Ngược lại, hiệu quả của pháp luật phản
ánh hiệu lực của văn bản pháp luật. Một luật chỉ có hiệu quả khi nó được tuân
thủ nghiêm túc. Bởi các quy định pháp luật chính là sự cụ thể hóa việc thực
hiện các mục tiêu của luật. Mục tiêu của luật chỉ có thể thực hiện được khi các
quy định của luật được tuân thủ.
Ví dụ về quy định cấm hút thuốc lá tại nơi công cộng của Việt Nam.
Quy định được ban hành và có mục tiêu là làm giảm tác hại của thuốc lá đối
với sức khỏe người dân. Thực tế cho thấy, tình trạng hút thuốc lá ở nơi công
công vẫn còn phổ biến. Tỷ lệ người mắc bệnh ung thư phổi do thuốc lá vẫn
tăng. Do đó, có thể nói quy định đó chưa đạt được hiệu quả thực thi của mình.
Ngược lại, với quy định về bắt đội mũ bảo hiểm. Gần đây quy định này đã
được tuân thủ nghiêm túc. Khi đó luật có tính hiệu quả thực thi cao.
1.2. Tiêu chí để đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
Thông thường, đánh giá hiệu quả thực thi của một văn bản quy phạm
pháp luật là việc trả lời câu hỏi “văn bản quy phạm pháp luật này sau khi ban
hành và có hiệu lực có đi vào cuộc sống hay không”. Để đánh giá một văn
bản quy phạm pháp luật có được thực thi hiệu quả hay không thường sử dụng
hai nhóm tiêu chí: nhóm tiêu chí về yếu tố bên trong và nhóm tiêu chí về yếu
tố bên ngoài.
32
1.2.1. Nhóm tiêu chí bên trong
Nhóm tiêu chí bên trong thể hiện chất lượng của các văn bản quy phạm
pháp luật bao gồm (i) Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật (văn
bản quy phạm pháp luật đó có được ban hành hợp pháp hay không) và (ii)
Tính phù hợp của văn bản quy phạm pháp luật (văn bản quy phạm pháp luật
đó có còn phù hợp với thực tiễn hay không).
+ Về tính hợp pháp
Trước tiên, văn bản quy phạm pháp luật đó phải đảm bảo tính hợp
pháp. Một văn bản quy phạm pháp luật chỉ đạt hiệu quả khi nó hợp pháp.
Điều đó có nghĩa văn bản quy phạm pháp luật đó phải thỏa mãn tất cả các yêu
cầu sau đây.
Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật phải được ban hành đúng luật,
tuân thủ các luật có hiệu lực cao hơn (ví dụ như Hiến pháp, các điều ước quốc
tế có liên quan). Tính hợp pháp về mặt nội dung của văn bản quy phạm pháp
luật trước tiên thể hiện ở việc văn bản đó không được mâu thuẫn, không được
đi ngược lại những nguyên tắc, quy định mang tính chất định hướng của các
văn bản có hiệu lực cao hơn, đặc biệt là Hiến pháp.
Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật phải được ban hành trong phạm
vi thẩm quyền của chủ thể soạn thảo và ban hành luật. Điều đó có nghĩa là
văn bản đó phải do đúng chủ thể có thẩm quyền ban hành.
Thứ ba, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm đúng
trình tự, thủ tục và hình thức theo quy định.
Tóm lại, một văn bản quy phạm pháp luật hợp pháp là khi được soạn
thảo đảm bảo các yếu tố cả về hình thức cũng như nội dung. Văn bản đó phải
được soạn thảo theo đúng quy trình thủ tục ban hành một văn bản quy phạm
pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật phải được cơ quan có thẩm quyền
soạn thảo và ban hành. Đây là một yếu tố quan trọng quyết định tính hợp
33
pháp cũng như sự tồn tại của một văn bản quy phạm pháp luật. (Theo từ điển
Luật học, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục luật định, trong đó có chứa đựng
các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, làm khuôn mẫu cho xử sự của
các chủ thể pháp luật trong khoảng thời gian và không gia nhất định nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một trật tự nhất định mà nhà nước muốn
xác lập. Văn bản quy phạm pháp luật được chia thành hai loại là văn bản luật
và văn bản dưới luật [33]. Tựu chung lại, văn bản quy phạm pháp luật quy
định cái mà chúng ta có quyền, được phép, hoặc bị cấm làm. Một văn bản quy
phạm pháp luật dù được soạn thảo đúng quy trình thủ tục, nhưng không bảo
đảm kỹ thuật soạn thảo, không đảm bảo được cơ cấu của một quy phạm pháp
luật, hoặc không rõ ràng về mặt ngữ nghĩa sẽ khó có thể mang lại cho văn bản
đó hiệu quả mong muốn. Ngược lại, một văn bản quy phạm pháp luật được
soạn thảo tốt về mặt kỹ thuật nhưng không được cơ quan có thẩm quyền soạn
thảo và ban hành thì chắc chắn sẽ không bảo đảm hiệu lực và hiệu quả.
Hiệu quả thực thi của văn bản quy phạm pháp luật sẽ càng được tăng
cường nếu như các quy định pháp luật trong văn bản luật đó có nội dung
thống nhất với các văn bản luật khác trong hệ thống pháp luật. Thực tế cho
thấy, có nhiều văn bản luật dù đảm bảo tính hợp pháp trong mối quan hệ dọc
với Hiến pháp và các văn bản luật có giá trị pháp lý cao hơn, nhưng lại có
những quy định mâu thuẫn với các văn bản luật khác trong mối quan hệ
ngang, sẽ không thể đem lại hiệu quả mong muốn của văn bản luật. Những
mâu thuẫn thậm chí những quy định trái ngược nhau giữa các văn bản luật sẽ
tạo nên những xung đột pháp lý gây cản trở cho việc thực thi văn bản luật. Do
vậy, việc bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản luật sẽ tạo nên hiệu quả
thực thi luật.
34
+ Về tính thực tiễn
Tính hợp pháp là điều kiện cần bảo đảm sự tồn tại vững chắc của văn
bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, để có được hiệu quả thực thi, văn bản
quy phạm pháp luật cần phải đáp ứng các yêu cầu về tính thực tiễn. Một văn
bản có tính thực tiễn sẽ giúp cho các chủ thể tuân thủ một cách nghiêm túc và
tự nguyện. Bởi nó không chỉ mang lại lợi ích cho chủ thể mà còn lợi ích
chung cho cả xã hội. Tính hợp pháp chỉ là một điều kiện đủ cho việc tuân thủ
pháp luật của chủ thể. Một văn bản quy phạm pháp luật hợp pháp nhưng nếu
không có tính thực tiễn vẫn có thể bắt buộc các chủ thể tuân thủ. Các chủ thể
không thể viện cớ một quy phạm pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn
để không tuân thủ một quy phạm pháp luật. Điều này xuất pháp từ uy quyền
của luật pháp. Luật pháp phải được bắt buộc thực hiện chừng nào còn hiệu
lực. Nhưng sự tuân thủ này sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực cho xã hội,
cho trật tự pháp luật nói chung. Những văn bản quy phạm pháp luật không
phù hợp với lòng dân sẽ gây ra những phản ứng tiêu cực và trong nhiều
trường hợp dẫn đến tình trạng khiếu kiện, khiếu nại kéo dài. Do vậy, tính thực
tiễn của một văn bản quy phạm pháp luật phải thể hiện được lợi ích của đất
nước, lợi ích chung, ý chí chung của nhân dân.
Tính thực tiễn của một văn bản quy phạm pháp luật tuy không phải là
yếu tố quyết định việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể, nhưng không phải
vì thế mà mất đi ý nghĩa quan trọng của nó trong việc đảm bảo tính pháp chế
của pháp luật. Trong một đất nước mà nền pháp chế ngày càng được đề cao
thì tính thực tiễn của các quy định pháp luật ngày càng được coi trọng.
Chính sách và pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành phải xuất
phát từ thực tiễn và phản ánh thực tiễn và ngược lại, ảnh hưởng của các chính
sách đó đến thực tiễn đòi hỏi các đối tượng chịu sự tác động của chính sách
và pháp luật phải nắm bắt được nội dung cũng như tuân thủ nó. Việc tuân thủ
35
các quy phạm xuất phát từ lợi ích của các chủ thể, lợi ích của xã hội. Sự thống
nhất biện chứng giữa tính hợp pháp và tính thực tiễn là một trong những đặc
điểm của việc quản lý xã hội một cách khoa học. Pháp luật không thể được
tuân thủ một cách nghiêm túc nếu như những quy phạm pháp luật không xuất
phát từ những yêu cầu của xã hội [22]. Văn bản quy phạm pháp luật được soạn
thảo và ban hành là nhằm thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của Nhà nước, của
xã hội, ở việc giải quyết các vấn đề mà xã hội đặt ra. Do vậy, để một văn bản
quy phạm pháp luật có hiệu quả cần phải xem xét tính thực tiễn của văn bản
quy phạm đó.
Văn bản quy phạm pháp luật có tính thực tiễn khi đáp ứng được các
yêu cầu:
Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật phải xuất phát từ lợi ích thiết
thực của xã hội, mà cụ thể là của người dân. Văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành là nhằm để giải quyết các vấn đề mà xã hội đặt ra. Do đó, văn
bản quy phạm pháp luật ban hành cần phải phù hợp với tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội và lấy lợi ích của người dân, của xã hội, của nhà nước làm
nền tảng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, văn bản quy phạm pháp luật dù
được hình thành dựa trên những ý tưởng hợp lý được xây đựng từ nền tảng
thực tại của xã hội nhưng lại không thể hiện được rõ các ý tưởng này do việc
diễn đạt cũng như việc sử dụng ngôn từ. Hậu quả là văn bản quy phạm pháp
luật khó được thực thi trong thực tế và không được cộng đồng chào đón, ủng
hộ. Một văn bản quy phạm pháp luật không có tính thực tiễn có thể do nhiều
nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân thường gặp là do kỹ thuật lập
pháp còn yếu kém làm cho luật pháp không còn phù hợp với các quan hệ xã
hội, với thực tiễn. Nguyên nhân khác là do sự phát triển của kinh tế xã hội,
phát sinh nhiều mối quan hệ và các hành vi mới nên văn bản quy phạm pháp
luật ban hành trước không dự tính hết được. Do đó, thông thường, các văn
36
bản pháp luật phải được thường xuyên cập nhật, bổ sung, thay thế, sửa đổi
cho phù hợp.
Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với đối tượng, phải
điều chỉnh đúng đối tượng. Nếu văn bản quy phạm pháp luật không điều
chỉnh đúng đối tượng, sẽ không làm cho đối tượng đó tuân thủ một cách tự
nguyện. Điều đó gây ảnh hưởng đến hiệu quả của văn bản quy phạm.
1.2.2. Nhóm tiêu chí bên ngoài
Tiêu chí bên ngoài để xem xét mối quan hệ tương tác của quy phạm đó
với xã hội bao gồm (i) khả năng tổ chức thực thi của các cơ quan thi hành
pháp luật, (ii) khả năng tiếp cận và tuân thủ luật của đối tượng mà văn bản
quy phạm pháp luật hướng tới.
Nghiên cứu nhóm tiêu chí về yếu tố bên ngoài về hiệu quả thực thi của
một văn bản quy phạm pháp luật là nghiên cứu ảnh hưởng của quy phạm pháp
luật đến thái độ của những cá nhân và tổ chức là đối tượng áp dụng của văn
bản, sự tương tác giữa văn bản quy phạm pháp luật và xã hội. Một văn bản có
hiệu quả thực thi khi văn bản đó có giá trị bắt buộc thi hành đối với chủ thể.
Vì vậy, thái độ, sự tuân thủ quy phạm pháp luật được coi là yếu tố thể hiện rõ
nét nhất hiệu quả của một văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài ra, không thể
không kể đến những cơ quan thực thi việc áp dụng luật. Một văn bản quy
phạm pháp luật có hiệu quả thực thi hay không, không chỉ phụ thuộc vào
chính văn bản luật đó. Hiệu quả thực thi của văn bản luật còn phụ thuộc vào
việc tổ chức thi hành, giám sát việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật đó.
Vì vậy, vai trò của các cơ quan thực thi là rất quan trọng.
Văn bản quy phạm pháp luật sẽ có hiệu quả thực thi cao khi được các
cơ quan thực thi thực hiện một cách nghiêm túc và triệt để việc áp dụng các
quy định trong văn bản. Để bảo đảm cho luật pháp được thực hiện, các cơ
quan này cần phải được trang bị không chỉ về cơ sở pháp lý mà còn cả cơ sở
37
vật chất cũng như nguồn nhân sự để đảm bảo việc thực hiện pháp luật ở mọi
cấp độ. Việc xử lý vi phạm pháp luật được thực hiện theo ba bước: trước tiên
là phát hiện vi phạm, sau đó là xem xét, đánh giá và đưa ra phương hướng xử
lý. Mỗi bước này đều có khả năng làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi của
văn bản quy phạm pháp luật. Những hạn chế, trở ngại của trong việc thực
hiện pháp luật thường có nguồn gốc, hoặc ít nhất chịu tác động từ phía cơ
quan thực thi. Nếu như các cơ quan này không hành động, không triển khai
việc áp dụng luật, không giám sát việc thi hành, việc tuân thủ thì hiệu lực và
hiệu quả của luật sẽ không được bảo đảm. Bên cạnh đó, sự chồng chéo về
thẩm quyền giữa các cơ quan thực thi cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến
việc thực thi pháp luật.
Để tuân thủ một văn bản quy phạm pháp luật, các đối tượng này phải
biết được sự tồn tại của các quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội mà họ
đã, đang và sẽ tham gia. Chỉ khi biết được có sự tồn tại của văn bản quy phạm
pháp luật, các chủ thể mới có thể nhận thức được hành vi của mình là có làm
đúng luật hay không. Sau khi biết và nhận thức được các quy phạm pháp luật,
sẽ có hai trường hợp xảy ra là tuân thủ và làm trái (không làm theo luật hoặc
làm trái luật). Văn bản quy phạm pháp luật sẽ có hiệu quả thực thi khi được
tuân thủ. Hiệu quả thực thi của văn bản quy phạm pháp luật phụ thuộc vào sự
tiếp nhận, hay nói rộng ra là sự tiếp cận của các chủ thể.
"Tiếp cận" được hiểu là khả năng nhận thức luật, qua đó có thể áp dụng
các quy phạm pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể. Đó
có thể là khả năng yêu cầu các cơ quan thực thi luật áp dụng luật. Và cuối cùng
khái niệm tiếp cận cũng được hiểu là khả năng có được những quyết định đúng
luật của các chủ thể. Theo nghĩa hẹp khả năng tiếp cận luật có thể được hiểu là
khả năng mà một chủ thể có thể tiến hành các thủ tục tại cơ quan công quyền
để bảo vệ lợi ích của mình. Hiện nay, khả năng tiếp cận luật được hiểu rộng
38
hơn. Đó là khả năng trở thành chủ thể của luật, được thông tin về các văn bản
luật, các quy định pháp luật, khả năng áp dụng luật một cách chủ định (thực
hiện một quyền), hoặc một cách bị động (yêu cầu tôn trọng quyền của mình).
Như vậy, có thể thấy rằng, một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu quả thực
thi phải là một văn bản có thể tiếp cận được. Khả năng tiếp cận của chủ thể sẽ
là một trong những yếu tố quyết định hiệu quả của văn bản quy phạm pháp
luật, bởi đó là một vấn đề pháp lý gắn liền với các điều kiện về tính có hiệu lực
của các quy phạm pháp luật đối với các đối tượng mà nó hướng tới điều chỉnh.
Nếu như một văn bản quy phạm pháp luật không được các chủ thể tiếp
cận, văn bản đó sẽ không thực hiện được một trong những chức năng cơ bản
là điều chỉnh các quy tắc xử sự của các chủ thể trong xã hội. Văn bản quy
phạm pháp luật không được tiếp cận có thể được xem xét dưới hai góc độ:
Thứ nhất là quy định trong văn bản khó hoặc ít có khả năng tiếp cận. Nói một
cách khác, các chủ thể khó có thể thực hiện các quy định bởi họ không hiểu,
không thấy hợp lý hoặc cho rằng các quy định này đi ngược lại những quy tắc
xử sự được thừa nhận rộng rãi trong xã hội. Thứ hai, có thể do những điều
kiện khách quan bên ngoài cản trở sự tiếp cận của các chủ thể.
Ở góc độ thứ nhất, nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân văn bản
quy phạm pháp luật đó. Có thể là do các quy phạm pháp luật được xây dựng
không phù hợp với thực tiễn, hoặc không rõ ràng, mang tính chung chung
khiến các chủ thể khó có khả năng tuân thủ, thi hành, vận dụng pháp luật hoặc
các quy định đã lỗi thời không còn phù hợp với thực tế hiện hành. Điều này
dẫn đến hậu quả là dần tạo ra khoảng cách giữa pháp luật và quần chúng.
Khoảng cách này càng lớn, pháp luật càng khó được thực hiện. Các chủ thể sẽ
mất lòng tin pháp luật. Để khắc phục, văn bản luật phải được soạn thảo và ban
hành phù hợp với thực tiễn và với ý chí của nhân dân và cộng đồng.
39
Ở góc độ thứ hai, khả năng tiếp cận văn bản luật bị ảnh hưởng bởi những
yếu tố khách quan gây cản trở khả năng tiếp cận của các chủ thể, hay nói một
cách khác cản trở công dân thực hiện quyền tiếp cận quy định pháp luật. Quyền
tiếp cận một đạo luật nào đó, hay nói rộng ra là quyền tiếp cận thông tin là một
trong những quyền cơ bản của con người. Quyền này bao gồm quyền mà công
dân được chủ động tiếp cận, thu thập thông tin và trách nhiệm của cơ quan nhà
nước cung cấp thông tin cho công dân [22].
Để đảm bảo cho công dân được chủ động tiếp cận thông tin, cơ quan
nhà nước phải chủ động công bố công khai những trình tự thủ tục rõ ràng
thuận tiện để công dân có thể dễ dàng tiếp cận được thông tin khi có nhu cầu.
Ngoài ra, công dân có thể tiếp cận được thông tin ngay cả khi không có nhu
cầu bằng việc cơ quan nhà nước chủ động công khai thông tin trên các trang
thông tin điện tử của cơ quan hoặc thông qua các kênh phổ biến kiến thức
khác để đông đảo quần chúng được biết mà không cần phải yêu cầu.
Ngoài ra, hiệu quả thực thi của văn bản quy phạm pháp luật còn phụ
thuộc vào rất nhiều vào các yếu tố chính trị-xã hội, văn hóa, và thói quen ứng
xử của người dân. Một văn bản quy phạm pháp luật có thể thực thi tốt ở một
địa phương, nhưng lại không thực thi hiệu quả ở một nơi khác. Ví dụ như quy
định bắt buộc đội mũ bảo hiểm. Luật phát huy hiệu lực tốt ở Hà Nội, nhưng ở
các tỉnh, địa phương xa trung tâm, hiệu quả của luật lại thấp. Yếu tố tâm lý,
tập quán sinh hoạt và lối sống là những yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc thi
hành pháp luật của các chủ thể [19]. Như vậy, đây cũng là một nguyên nhân
gây ảnh hưởng đến hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật.
Tóm lại, đa số các học giả trên thế giới đồng tình rằng hiệu quả thực
thi của một văn bản quy phạm pháp luật được coi như một điều kiện để đánh
giá sự tồn tại của một quy phạm. Theo họ, một văn bản quy phạm pháp luật
ra đời luôn mong muốn được thực thi hiệu quả và nó chỉ đạt được khi được
40
công nhận và được áp dụng trong thực tiễn. Nếu không được đối tượng của
nó biết đến và tuân thủ, văn bản quy phạm pháp luật sẽ mất đi chức năng
quy phạm của nó.
1.3. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
của một số nước và bài học đối với Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
a. Về phát triển và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh
Luật chống độc quyền của Nhật Bản [44]. có tên chính thức là “Luật về
chống độc quyền tư nhân và đảm bảo giao dịch công bằng” (AMA), được ban
hành vào năm 1947 dưới sự chiếm đóng của quân Đồng minh sau Chiến tranh
thế giới thứ hai như một luật vĩnh cửu (không giới hạn thời gian hiệu lực)
nhằm tạo lập trật tự mang tính dân chủ cho nền kinh tế Nhật Bản.
Mục đích của Luật chống độc quyền Nhật Bản hay mục tiêu của chính
sách cạnh tranh Nhật Bản được quy định rõ ngày tại Điều 1 của Luật đó là:
- Bảo vệ quá trình cạnh tranh,
- Tạo hiệu quả kinh doanh,
- Tạo việc làm, nâng cao thu nhập của người dân và
- Bảo vệ người tiêu dùng.
Kể từ năm 1947 đến nay, Luật AMA đã được Ủy Ban Thương mại lành
mạnh Nhật Bản (JFTC) đề xuất sửa đổi nhiều lần cụ thể qua các năm:
- 1991 sửa đổi Luật Chống độc quyền theo hướng tăng mức phạt tiền
các hành vi vi phạm.
-1992: sửa đổi Luật Chống độc quyền trong đó đưa các quy định về áp
dụng các chế tài hình sự vào các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh như phạt
tù đối với lãnh đạo các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
- 2005 Sửa đổi Luật Chống độc quyền (AMA) theo hướng:
- Tăng mức phạt tiền;
41
- Áp dụng cơ chế khoan dung;
- Áp dụng các biện pháp bắt buộc đối với buộc tội Hình sự;
- Sửa đổi Thủ tục tiến hành phiên điều trần;
- 2013 tiếp tục sửa đổi Luật chống độc quyền theo hướng:
+ Thay đổi quy trình ban hành quyết định xử phạt cuối cùng;
+ Thay đổi thủ tục tiến hành phiên điều trần.
b. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan cạnh tranh
Uỷ ban thương mại lành mạnh Nhật Bản (JFTC, sau đây gọi là Ủy ban)
được thành lập như là một cơ quan quản lý của Chính phủ để đạt được mục
tiêu của Luật Chống độc quyền. Bên cạnh Luật Chống độc quyền, Uỷ ban còn
thi hành Luật chống tặng phẩm phi lý và trưng bày gây nhầm lẫn, Luật chống
thanh toán chậm trong hợp đồng gia công phụ đối với người sản xuất phụ, đây
là những luật đặc biệt bổ sung cho Luật Chống độc quyền. Uỷ ban có vị trí
như là một cơ quan cấp bộ trực thuộc Chính phủ.
Tuy nhiên, Uỷ ban có đặc điểm của một tổ chức quản lý theo hệ thống
hội đồng, bao gồm một chủ tịch và bốn Uỷ viên. Ủy viên và Chủ tịch là các
chuyên gia luật và kinh tế tuổi đời từ 35 trở lên, được Thủ tướng bổ nhiệm
trên cơ sở sự đồng thuận của cả thượng viện và hạ viện. Việc bổ nhiệm Chủ
tịch do Nhật hoàng thông qua. Trong việc thực thi Luật Chống độc quyền, Uỷ
ban thực hiện nhiệm vụ của nó một cách độc lập, không chịu sự chỉ đạo hay
giám sát của bất cứ một ai. Để đảm bảo tính độc lập trong quyết định của
JFTC, bên cạnh sự độc lập về mặt lợi ích với các chủ thể khác, Luật Chống
độc quyền còn đưa ra các quy định để đảm bảo cho tính độc lập và trung lập
trong quyết định của Chủ tịch và các Ủy viên của JFTC.
Điều 28 Luật AMA quy định Chủ tịch và các ủy viên của JFTC thực
hiện nhiệm vụ của họ một cách độc lập. Tuy điều này chưa tạo ra được một
cơ cấu cụ thể để tạo ra tính độc lập trong quyết định của Chủ tịch và các Ủy
viên nhưng chính điều này đã tạo ra cơ sở pháp lý rất quan trọng cho tính độc
lập này.
42
Để đảm bảo cho việc các quyết định của Chủ tịch và Ủy viên là trung
lập và không bị ảnh hưởng, trong điều 31 của Luật AMA “Chủ tịch và các ủy
viên sẽ không bị bãi nhiệm trong thời hạn nhiệm kỳ trái ý muốn của họ” ngoại
trừ những trường hợp sau:
i. Khi người này bị tòa án phán xét là không có năng lực, hầu như
không có năng lực, hoặc rơi vào tình trạng phá sản;
ii. Khi người này bị bãi miễn bởi hình phạt kỷ luật;
iii. Khi người này bị phạt vì vi phạm Luật này;
iv. Khi người này bị kết án tù hoặc bị kết án nặng hơn;
v. Khi Ủy ban Thương mại Lành mạnh quyết định rằng người này
không đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình vì lý do suy sụp về thể xác
và tinh thần;
vi. Khi không giành được sự thông qua tiếp theo của cả hai Viện của
Nghị viện như trong trường hợp quy định tại mục (4) của Điều trên đây.
Đồng thời trong Điều 36 quy định về lương của Chủ tịch và Các ủy
viên của JFTC có quy định như sau nhằm nâng cao tính độc lập trong lợi ích
của Chủ tịch và các Ủy viên:
(1) Lương của Chủ tịch và các ủy viên sẽ được cấp riêng;
(2) Lương của Chủ tịch và ủy viên không bị cắt giảm ngược lại với ý
muốn của họ khi họ đang trong nhiệm kỳ.
Dưới Ủy ban là Ban thư ký. Tổng thư ký chịu trách nhiệm tiến hành tố
tụng hành chính của JFTC. Tổng thư ký thực hiện các thủ tục tố tụng hành
chính của Ban Thư ký. Ban Thư ký gồm Cục các vấn đề kinh tế; Cục điều tra
và các văn phòng khu vực đặt tại Hokkaido (Sapporo), Tohoku (Sendai),
Chubu (Nagoya), Kinki (Osaka), Chūgoku (Hiroshima), Shikoku (Takamatsu)
và Kyushu (Fukuoka).
Theo báo cáo hoạt động hàng năm, hiện nay JFTC có khoảng 850 nhân
viên với ngân sách hoạt động hàng năm vào khoảng 9 tỷ yên/năm [48].
43
c. Thực tiễn công tác tổ chức điều tra và xử lý các hành vi vi phạm
Luật Chống độc quyền Nhật Bản cấm các đối tượng hoạt động kinh
doanh độc quyền mang tính cá nhân, các hành vi hạn chế giao dịch không hợp
lý, sử dụng các phương pháp giao dịch không công bằng, JFTC điều tra cân
nhắc những thông tin thu nhận được từ công chúng, hoặc do chính JFTC phát
hiện ra. Khi xét thấy xảy ra sự kiện vi phạm quy định cấm, sẽ tiến hành điều
tra cần thiết đối với vụ việc bị nghi ngờ.
Theo quy định của Luật Chống độc quyền Nhật Bản, hệ thống các biện
pháp xử phạt đối với hành vi vi phạm bao gồm các hình thức phạt tiền, xử lý
loại trừ (đối với điều tra hành chính), phạt tù, phạt tiền (đối với điều tra hình
sự) và phạt cảnh cáo. Trong đó, theo thống kê hàng năm của JFTC, phạt tiền
và xử lý loại trừ có số lần áp dụng nhiều nhất. Biện pháp truy tố hình sự được
áp dụng ít nhất (không lớn hơn 2 vụ/năm), mặc dù có đề nghị truy tố nhưng
đến nay chưa có vụ việc nào được xử lý hình sự.
Bảng 1.1. Số vụ việc áp dụng các biện pháp xử lý từ 2005-2013
của JFTC
Năm
2005 2006
2007
2008
2009
2010 2011 2012
2013
19
12
16
24
20
15
21
15
22
Phạt tiền, xử lý
loại trừ
7
9
4
10
2
2
6
1
10
Cảnh cáo
2
2
1
0
0
1
1
0
1
Truy tố hình sự
Nguồn: Báo cáo hoạt động năm 2013 của JFTC
Xét riêng đối với biện pháp phạt tiền, xử lý loại trừ và phạt cảnh cáo,
tính theo loại hành vi vi phạm qua từng năm thì có thể thấy hành vi thỏa thuận
ấn định giá và dàn xếp đấu thầu là hai nhóm hành vi nguy hiểm và thường
xuyên xảy ra nhất nên đây cũng là hai nhóm hành vi bị xử phạt nhiều nhất, số
44
vụ bị xử phạt cũng gấp nhiều lần các hành vi khác, thậm chí có lúc gấp đến 10
lần số vụ lạm dụng ví trí thống lĩnh thị trường, ví trí độc quyền bị xử phạt.
Bảng 1.2. Số vụ xử lý vi phạm của JFTC theo hành vi vi phạm
Năm
2006 2007 2008
2009
2010 2011 2012 2013
Độc quyền tư nhân
0
0
1
0
0
0
0
0
Thỏa thuận ấn định giá
3
6
9
5
6
5
0
8
Dàn xếp đấu thầu
6
14
2
17
12
7
19
9
thức giao dịch
4
3
5
4
2
3
2
1
Phương
không công bằng
Số DN bị xử lý
73
193
49
84
109
303
126 210
Nguồn: Báo cáo hoạt động năm 2013 của JFTC
Số lần xử lý hành vi thông thầu trong giai đoạn 2001-2004 trung bình
là 25 vụ/năm do đây là những hành vi khá phổ biến và được xem là “vấn nạn
quốc gia” của Nhật Bản, nhưng nhờ cơ chế phát hiện vi phạm hiệu quả nên đã
phát hiện và xử lý nhiều vụ, dần cải thiện môi trường và thói quen kinh doanh
của doanh nghiệp. Do sự nỗ lực của cơ quan cạnh tranh và sự cải thiện trong
chính sách nên đến giai đoạn 2006-2013 thì số vụ bị xử lý đã giảm xuống 10-
11 vụ/năm, tuy nhiên vẫn ở mức cao so với các hành vi khác.
45
8000
450
400
7000
350
6000
300
5000
250
4000
200
3000
150
2000
100
1000
50
0
0
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Số doanh nghiệp
121
403
207
63
89
171
290
112
181
Số tiền phạt (100 triệu Yên)
84
231
408
96
543
6958
335
240
302
Số doanh nghiệp
Số tiền phạt (100 triệu Yên)
(ĐVT: 100 triệu Yên)
Nguồn: Báo cáo hoạt động năm 2013 của JFTC
Hình 1.1. Số tiền phạt JFTC áp dụng đối với hành vi thỏa thuận ấn định
giá và thông thầu giai đoạn 2005-2013
d. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
- Áp dụng thủ tục khám xét tại chỗ
Trong điều tra hành chính về vụ việc vi phạm Luật Chống độc quyền,
chủ yếu là giải quyết vụ việc thông qua lập luận chứng minh sự thật vi phạm
dựa trên hai loại chứng cứ là tài liệu thu thập được qua khám xét hiện trường
và biên bản lời khai được lập qua xét hỏi. Do đó, việc thu thập chứng cứ làm
sáng tỏ vụ việc trong khám xét hiện trường hay có lấy được lời thú tội về hành
vi vi phạm từ nhân viên của cơ sở bị tình nghi vi phạm trong xét hỏi hay không
là các điểm quan trọng để giải quyết vụ việc vi phạm Luật Chống độc quyền.
Khám xét hiện trường (On-spot inspection) cụ thể là khám xét cơ sở
kinh doanh của doanh nghiệp bị tình nghi vi phạm, kiểm tra sổ sách giấy tờ
đồng thời ra lệnh nộp sổ sách giấy tờ và sau đó lưu giữ sổ sách giấy tờ nhằm
thu thập vật chứng cần thiết để chứng minh sự thật vi phạm.
46
Khi quyết định thực hiện khám xét hiện trường, tại các bộ phận phụ
trách điều tra vụ việc tiến hành các công việc như sau:
Bước 1: Chọn nơi khám xét hiện trường
Nơi khám xét ngoài các trụ sở kinh doanh của doanh nghiệp tình nghi
còn có trường hợp mở rộng ra cơ sở kinh doanh của bạn hàng hay cơ quan
nhà nước đã đặt hàng. Trong các vụ việc dàn xếp đấu thầu, do số lượng các cơ
sở bị tình nghi vi phạm nhìn chung cao, tùy theo vụ việc, có trường hợp số
nơi khám xét hiện trường lên tới trên 50 cơ sở.
Bước 2: Quyết định cán bộ phụ trách khám xét hiện trường
Tùy theo quy mô của cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp tình nghi, quyết
định số cán bộ phụ trách khám xét hiện trường. Trong trường hợp của cơ sở nhỏ
cũng có khi tiến hành khám xét với 3 cán bộ phụ trách; nhưng trong trường hợp
của cơ sở lớn thì cũng có khi khám xét với 40 – 50 cán bộ phụ trách, thậm chí có
vụ việc có sự tham gia của lực lượng trên 200 cán bộ phụ trách.
Bước 3: Tiến hành khám xét hiện trường
Khám xét hiện trường thông thường được bắt đầu đồng loạt trong buổi
sáng, trên tất cả các cơ sở tình nghi, tại cùng một thời điểm.
Cán bộ phụ trách trình thẻ chứng minh thanh tra cho người đứng đầu cơ
sở và giải thích về mục đích khám xét hiện trường đồng thời trao văn bản ghi
mục đích này cho người đứng đầu cơ sở này và sau đó bắt đầu khám xét.
Trong khám xét hiện trường, các cán bộ phụ trách kiểm tra toàn bộ bàn
làm việc, tủ tài liệu, máy tính cá nhân v.v… trong cơ sở kinh doanh và thu
thập chứng cứ. Sau khi hoàn thành kiểm tra, về những tài liệu đc JFTC giữ
như vật chứng, ra lệnh cho người đứng đầu cơ sở kinh doanh của cơ sở bị tình
nghi nộp và lưu giữ các tài liệu này. Tùy thuộc vào quy mô của cơ sở kinh
doanh cũng có trường hợp lưu trữ tới vài trăm tài liệu trên một cơ sở.
47
Gần đây, do có nhiều tài liệu được điện tử hóa nên kiểm tra không chỉ
máy tính của các nhân mà cả dữ liệu điện tử được lưu trong máy chủ.
Bước 4: Sau khi khám xét hiện trường
Về tài liệu được lưu giữ, xác minh nội dung từng tài liệu, tìm ra vật
chứng quan trọng trong xác minh sự thật vi phạm.
Sau khi hoàn thành thủ tục khám xét hiện trường, cán bộ JFTC yêu cầu
nhân viên của doanh nghiệp tình nghi tự nguyện trình diện và xét hỏi nhân
viên. Việc xét hỏi được thực hiện trong khuôn khổ thu thập chứng cứ cần thiết
để chứng minh vi phạm và được thực hiện theo quy trình thủ tục chặt chẽ,
nghiêm túc, bảo mật.
- Áp dụng chương trình khoan dung (Leniency) [48]
Việc tổ chức điều tra và xử lý các hành vi thỏa thuận thông đồng hạn
chế cạnh tranh là một trong những mục tiêu hàng đầu của các cơ quan cạnh
tranh trên thế giới. Tuy nhiên, thực tiễn điều tra cho thấy không dễ để có thể
phát hiện và xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này vì các thủ đoạn
thông đồng của các công ty khá tinh vi. Cơ quan điều tra phải tiến hành khám
xét và dùng nhiều nghiệp vụ để có thể thu thập được chứng cứ và điều này
không phải lúc nào cũng có thể đem lại hiệu quả vì các doanh nghiệp sẽ luôn
tìm cách xóa dấu vết, phi tang chứng cứ.
Tại một số quốc gia, cơ quan điều tra phải cài người nằm trong hệ
thống các công ty là thành viên tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để thu
thập chứng cứ. Đây là một biện pháp có đem lại hiệu quả nhưng để lọt vào vị
trí có thể thu thập được các chứng cứ là việc làm hết sức khó khăn và tốn kém
về mặt thời gian, công sức và tiền của, thậm chí là nguy hiểm cho cán bộ
thâm nhập.
Vì vậy, để giúp cơ quan điều tra có thêm nguồn cung cấp chứng cứ,
qua đó tăng cường hiệu quả thực thi luật, đặc biệt là các hành vi thỏa thuận
48
hạn chế cạnh tranh, JFTC đã ban hành và áp dụng chính sách khoan dung.
Chính sách khoan dung được áp dụng đối với các chủ thể tham gia thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh chủ động đến khai báo với cơ quan quản lý cạnh tranh về
hành vi của mình, đồng thời cung cấp cho cơ quan cạnh tranh các tài liệu
chứng cứ có giá trị chứng minh thỏa thuận đó.
Cơ chế khoan dung (Leniency) là cơ chế giảm hoặc miễn trừ tiền phạt
phải nộp của doanh nghiệp trong trường hợp họ gửi các báo cáo tới JFTC liên
quan đến hành vi vi phạm. Trong thời gian gần đây, những đơn xin miễn trừ
khoản phải nộp chiếm một tỷ lệ lớn trong những manh mối của các vụ thông
thầu hoặc cartel. Thông qua việc áp dụng cơ chế này, JFTC đã phát hiện ra rất
nhiều vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, đặc biệt là thông đồng đấu thầu,
mà trước đó họ không thể phát hiện ra do không có chứng cứ.
Số lượng các chủ thể được hưởng cơ chế khoan dung không vượt quá
05 doanh nghiệp. Trong đó, các doanh nghiệp có thể khai báo trước hoặc sau
khi khởi động điều tra vụ việc, và chỉ có tối đa 03 doanh nghiệp đầu tiên khai
báo sau khi khởi động điều tra mới được hưởng cơ chế khoan dung.
Mức miễn, giảm tiền phạt theo cơ chế khoan dung như sau: nếu khai
báo trước khi cơ quan cạnh tranh ra quyết định điều tra vụ việc, doanh nghiệp
khai báo đầu tiên được miễn 100% tiền phạt, doanh nghiệp thứ hai được giảm
50% tiền phạt, doanh nghiệp thứ ba được giảm 30% tiền phạt. Các doanh
nghiệp khai báo sau khi ra quyết định điều tra thì được giảm 30% tiền phạt.
Điều kiện tiên quyết để các bên được mức miễn giảm nêu trên là :
(1) phải chủ động khai báo về hành vi thỏa thuận của mình;
(2) đã chấm dứt thực hiện hành vi vi phạm;
(3) cung cấp cho cơ quan cạnh tranh các tài liệu chứng cứ có giá trị
chứng minh hành vi thỏa thuận đó một cách chủ động hoặc khi được cơ quan
cạnh tranh yêu cầu;
49
(4) không có hành vi ép buộc doanh nghiệp khác tham gia thỏa thuận,
không ngăn cản các doanh nghiệp khác rút lui khỏi thỏa thuận hoặc chấm dứt
thỏa thuận.
Chính sách khoan dung của Nhật Bản được đưa vào áp dụng từ tháng
04/2006. Tuy mới được áp dụng nhưng đến tháng 5 năm 2007, cơ quan cạnh
tranh của Nhật Bản đã nhận được sự khai báo của tổng cộng 105 công ty
trong đó có tập đoàn công nghiệp nặng Mitsubishi. Trong năm tài chính 2009,
có 85 vụ JFTC nhận được thông báo đúng sự thật về hành vi vi phạm, và đến
cuối tháng 3 năm 2010 là 349 vụ.
- Đẩy mạnh các hoạt động quan hệ công chúng đạt hiệu quả cao
Trong suốt quá trình từ khi thành lập đến nay, JFTC đã luôn đề cao và
đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền về chính sách và Luật Chống độc quyền,
quan hệ công chúng, kêu gọi sự đồng thuận của toàn xã hội. Đây là hoạt động
hoàn toàn không mang tính hình thức như hoạt động tuyên truyền, đào tạo
thông thường mà là hoạt động đi vào thực chất, chi tiết nhằm đảm bảo tính
minh bạch trong thi thành pháp luật, cung cấp thông tin về chính sách, nắm
bắt quan điểm của người dân và tạo sự đồng thuận trong xã hội, từ những
người dân bình thường đến các doanh nghiệp, đến cơ quan nhà nước khác,
đến cả những nhà lãnh đạo để hiểu rõ bản chất, vai trò của Luật và tạo ý chí
quyết tâm thực thi Luật.
Các hoạt động quan hệ công chúng cụ thể mà JFTC đã thực hiện hết
sức phong phú và đa dạng, bao gồm:
Hoạt động thông tin báo chí, cụ thể: ra thông cáo báo chí về biện pháp
xử lý vi phạm, tư vấn trước về sáp nhập doanh nghiệp, ra các bản hướng dẫn,
báo cáo tình hình thực tế, rà soát thị trường, tổ chức họp báo định kỳ và thứ tư
hàng tuần, ra bản tin thời sự Asahi, gửi bản tin điện tử hàng tuần tới cá nhân
và tổ chức đăng ký (năm 2012 có đến 8275 người đăng ký nhận bản tin điện
tử từ JFTC).
50
Hoạt động biên soạn và phân phát tài liệu tuyên truyền như: Sổ tay giới
thiệu về Luật Chống độc quyền, các đĩa DVD và băng hình dùng cho quan hệ
công chúng, tài liệu công bố “Tình hình hoạt động gần đây của JFTC”, xuất
bản Giáo trình phụ cho học sinh trung học về Luật Chống độc quyền “Cuộc
sống của chúng ta và kinh tế thị trường”.
Phát triển trang chủ của JFTC theo hướng hiện đại, thân thiện với
người dùng, gồm các cả các mục chuyên môn, diễn đàn trao đổi, tư vấn, lẫn
các dữ liệu hình ảnh, DVD và có riêng nội dung dành riêng cho người tiêu
dùng nói chung (giải thích các ví dụ liên quan đến sinh hoạt hàng ngày) và
dành riêng cho trẻ em (tìm hiểu một cách vui vẻ qua truyện tranh).
Cử nhân viên JFTC đến các doanh nghiệp, hiệp hội để giảng, hoặc nói
chuyện, giải thích về Luật.
Tuyên truyền, quảng bá thông qua giáo dục học đường, cụ thể: tổ chức
cho học sinh trung học tham quan nơi làm việc của JFTC, tổ chức tham quan
các cơ quan nhà nước dành cho trẻ em tiểu học vào tháng 8 hàng năm; Cử
nhân viên JFTC giảng dạy trong nhà trường về Luật Chống độc quyền, lý
thuyết tổ chức ngành, vai trò của JFTC, biên soạn giáo trình phù hợp với từng
cấp học.
1.3.2. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
a. Về phát triển và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh
Có thể nói, Hoa Kỳ là quê hương của Luật chống độc quyền hay pháp
luật và chính sách cạnh tranh. Luật chống độc quyền của Hoa Kỳ ra đời vào
cuối thế kỷ XIX, xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế Hoa Kỳ
lúc bấy giờ.
Đạo luật Sherman được thông qua năm 1890 và đạo luật Clayton (bắt
nguồn từ đạo luật Sherman) có hiệu lực vào ngày 15 tháng 10 năm 1914,
được coi là hai luật cơ bản cho chính sách chống độc quyền của Hoa Kỳ.
51
Đạo luật Sherman nhằm nỗ lực ngăn chặn việc cố tình tăng giá thông
qua hạn chế thương mại, dịch vụ. Mục tiêu của Đạo luật Sherman không phải
là nhằm bảo vệ các đối thủ cạnh tranh, mà nhằm bảo vệ sự cạnh tranh và môi
trường cạnh tranh, bảo vệ người dân trước những khuyết tật của thị trường.
Đạo luật Clayton đã bổ sung thêm một số nội dung cho pháp luật chống
độc quyền của Hoa Kỳ bằng việc tìm cách ngăn chặn các hành vi phản cạnh
tranh từ giai đoạn hình thành. Đạo luật Clayton quy định chi tiết các hành vi
cụ thể bị cấm, mô hình thực thi ba cấp, các quy định miễn trừ và các biện
pháp xử lý vi phạm.
Không dừng lại ở đó, năm 1936, Luật Robinson- Patman được ban hành
với những quy định nghiêm khắc hơn trong việc xử lý các hành vi phân biệt đối
xử. Ngoài ra, Đạo luật Celler-Kefauver được ban hành năm 1950, bổ sung
thêm các quy định trong đạo Luật Clayton 1914. Đạo luật Celler-Kefauver
được coi là đạo luật chống sáp nhập, là công cụ giúp Chính phủ ngăn chặn cả
các vụ sáp nhập theo chiều dọc và sáp nhập hỗn hợp có khả năng gây hạn chế
cạnh tranh.
Năm 1976, Đạo luật cải tiến lĩnh vực chống độc quyền (Hart-Scott-
Rodino Antitrust Improvement Act) được ban hành là một tập hợp các sửa
đổi, bổ sung cho các luật chống độc quyền của Hoa Kỳ, mà chủ yếu là Đạo
luật Clayton. Đạo luật này bổ sung thêm các quy định về thông báo tập trung
kinh tế trước khi tiến hành sáp nhập hoặc mua lại.
Đến đầu những năm 1980 chính sách cạnh tranh của Hoa Kỳ được coi
là chính sách chặt chẽ và nghiêm khắc nhất của thế giới.
b. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan cạnh tranh
Các cơ quan tham gia xử lý vụ việc cạnh tranh ở Hoa Kỳ bao gồm Uỷ
ban thương mại Liên bang Hoa Kỳ (viết tắt là USFTC) và Cục Chống độc
quyền thuộc Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ (viết tắt là USDOJ).
52
- USFTC [50] xử lý các vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế của phần
lớn người Mỹ. Trên thực tế, cơ quan đã có một truyền thống về duy trì một
môi trường cạnh tranh cho cả người tiêu dùng và cho các hoạt động kinh
doanh. Khi USFTC được thành lập vào năm 1914, nhiệm vụ của cơ quan này
là ngăn chặn các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại
như một phần của cuộc chiến nhằm “thúc đẩy lòng tin”. Trong nhiều năm,
Nghị viện đã thông qua các bộ luật bổ sung trao quyền lớn hơn cho Uỷ Ban
nhằm kiểm soát các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh.
Năm 1938, Nghị viện thông qua Luật sửa đổi Wheeler-Lea, gồm hàng
loạt các biện pháp ngăn chặn các “hoạt động gian lận hoặc không lành mạnh”.
Sau đó, Ủy ban cũng được chỉ đạo thi hành hàng loạt các bộ luật bảo vệ người
tiêu dùng gồm Điều luật bán hàng qua điện thoại, Luật chi trả theo từng cuộc
gọi (Pay-Per-Call Rule) và Đạo luật Tín dụng Công bằng (Equal Credit
Opportunity Act). Năm 1975, Nghị viện thông qua Đạo luật Magnuson-Moss
trao quyền cho USFTC trong việc thông qua các nguyên tắc thương mại trong
đó định nghĩa các hoạt động gian lận hoặc không lành mạnh trong từng ngành
cụ thể. Các nguyên tắc thương mại có hiệu lực thi hành tương đương luật.
Ngoài ra, Hoa Kỳ còn có nhiều bộ luật khác cho phép USFTC thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế và các doanh
nghiệp, đòi hỏi Bộ Tư pháp phải có một lực lượng chuyên biệt trong lĩnh vực
thực thi các quy định của Luật Chống độc quyền nhằm đối phó với tình hình
ngày càng phức tạp của thị trường. Do vậy, năm 1933, Cục Chống độc quyền
thuộc Bộ Tư pháp đã được thành lập.
USFTC là một cơ quan độc lập báo cáo trực tiếp cho Nghị viện. Ủy ban
hoạt động dưới sự chỉ đạo của 5 Ủy viên có nhiệm kỳ 7 năm, được bổ nhiệm
bởi Tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng nghị viện. Tổng thống chỉ
53
định một Ủy viên đảm trách Chủ tịch. Không quá 3 Ủy viên là thành viên của
một Đảng.
Hoạt động của USFTC được thực hiện bởi các Cục gồm Cục Bảo vệ
người tiêu dùng, Cục Cạnh tranh, Cục Kinh tế và các Văn phòng: Văn phòng
các vấn đề cộng đồng, Văn phòng quan hệ Nghị viện, Văn phòng giám đốc
điều hành, Văn phòng Tổng thanh tra, Văn phòng Tổng tham vấn (Office of
General Counsel) và 7 văn phòng khu vực có nhiệm vụ hỗ trợ thực hiện các
hoạt động này, cụ thể như sau:
Cục Cạnh tranh có nhiệm vụ phát hiện các hoạt động kinh doanh gây
hạn chế cạnh tranh. Từ đó góp phần đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng thể
hiện ở mức giá thấp và tính sẵn có của các sản phẩm và dịch vụ. Cục sẽ tiến
hành các cuộc điều tra để phát hiện hành vi vi phạm, trình Uỷ ban xem xét xử
lý. Khi Uỷ ban có quyết định xử lý, Cục sẽ thực thi các quyết định này thông
qua cơ chế giải quyết tranh chấp của toà án liên bang hoặc theo các quy định
hành chính.
Cục cũng có nhiệm vụ như một bộ phận nghiên cứu, hoạch định chính
sách về các vấn đề liên quan đến cạnh tranh. Cục chuẩn bị các báo cáo và
chứng cớ trước Nghị viện, hoặc có thể đưa ra các bình luận về các vấn đề liên
quan đến cạnh tranh trước khi có quyết định từ những cơ quan quản lý khác.
Cục Cạnh tranh cũng phát triển những kiến thức chuyên sâu về một số
ngành công nghiệp quan trọng đối với người tiêu dùng như: chăm sóc sức
khoẻ, lương thực, năng lượng, và các dịch vụ chuyên môn khác.
Cục Kinh tế giúp USFTC đánh giá ảnh hưởng kinh tế của các hoạt
động của USFTC. Để thực hiện điều này, Cục tiến hành các phân tích kinh tế
và hỗ trợ các cuộc điều tra về chống độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng.
Cục cũng phân tích những ảnh hưởng từ các quy định do Chính phủ ban hành
về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng và cung cấp cho Quốc hội cũng như
54
cho công chúng các phân tích kinh tế về các quy trình thị trường liên quan
đến chống độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng và các quy định khác.
- Về Cục Chống độc quyền, Bộ Tư pháp: Chiểu theo Mục 2 của Luật
Sherman, Cục Chống độc quyền của Bộ Tư pháp chủ yếu tiến hành điều tra
dân sự liên quan đến việc sử dụng Lệnh điều tra dân sự (CID), một loại công
cụ điều tra tiền khởi tố.
Lệnh điều tra dân sự (CID) là một loại lệnh điều tra chung được ban
hành bởi Thứ trưởng Bộ Tư pháp chiểu theo Luật Độc quyền dân sự. Lệnh
này sẽ được gửi tới đối tượng được Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng quy kết là sở
hữu, kìm hãm hoặc kiểm soát một loại hàng hóa có liên quan đến điều tra dân
sự. Lệnh này cũng có thể được ban hành cùng với những hành vi bị nghi ngờ
là vi phạm.
CID có thể được tiến hành dưới các dạng văn bản, lấy lời khai hoặc
thẩm vấn Cục chống độc quyền của Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm chính trong
các vụ việc hạn chế cạnh tranh cũng như khởi tố vụ án ra tòa nếu thấy có dấu
hiệu hình sự. Với chức năng này, cơ quan này sẽ xử lý các hành vi vi phạm
luật cạnh tranh bằng cách đưa vụ án đó ra tòa với mức hình phạt như phạt tiền
hoặc bỏ tù. Trong một số vụ việc khác, cơ quan này có thể kết tội một hành vi
dân sự nhất định bằng cách sử dụng lệnh của tòa án cấm thực hiện những
hành vi đó trong tương lai cũng như khắc phục những hậu quả của hành vi vi
phạm trước đó.
Có rất nhiều vụ việc được xử lý với sự hỗ trợ và phối hợp của các cơ
quan cạnh tranh nước ngoài và các văn phòng tư pháp quốc gia.
Phần lớn các vụ khởi tố hình sự đều liên quan đến các vấn đề ấn định
giá, thông đồng đấu thầu, phân chia thị trường hoặc mặt hàng. Bất cứ hình
thức thỏa thuận nào nêu trên nếu xảy ra trong vòng ít nhất 05 năm trở lại đây
đều bị khởi tố hình sự, ngay cả khi hành vi đó không có bằng chứng liên quan
55
đến thỏa thuận chính thức trên giấy tờ. Các hành vi thông đồng nêu trên có
thể được tìm thấy thông qua các bằng chứng liên quan đến lời khai của người
tham gia, hoặc bằng chứng gián tiếp ví dụ như tình tiết đầu thầu bị nghi ngờ,
báo cáo công tác hoặc báo cáo chi tiêu, hóa đơn điện thoại, nhật ký kinh
doanh…
Ấn định giá hoặc thông đồng đấu thầu là hành vi vi phạm luật Sherman.
Theo đó, bất cứ hành vi thông đồng nào cũng sẽ không được bào chữa hay
thanh minh, ví dụ như thỏa thuận về giá là hợp lý, thỏa thuận đó nhằm ngăn
chặn hoặc loại trừ khả năng giảm giá hoặc phá hoại cạnh tranh; hoặc hành vi
thông đồng chỉ đơn thuần nhằm đảm bảo mỗi bên có thị phần bằng nhau trên
thị trường.
Luật chống độc quyền do cả Cục Cạnh tranh của FTC và Cục chống
độc quyền thuộc Bộ Tư pháp thi hành. Do đó, để tránh chồng chéo, hai cơ
quan này sẽ tham khảo ý kiến của nhau trước khi tiến hành xử lý bất kỳ
trường hợp nào.
c. Thực tiễn công tác điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh
Các cơ quan cạnh tranh của Hoa Kỳ, đặc biệt là Cục Chống độc quyền,
Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã chứng minh được hiệu quả trong thực thi pháp luật
cạnh tranh, chống độc quyền. Giai đoạn từ năm 2004 đến 2013, Cục Chống
độc quyền đã khởi xướng điều tra hơn 1575 vụ việc cạnh tranh, trung bình
trên 157 vụ năm [49].
Số lượng các vụ tập trung kinh tế được khởi xướng điều tra chiếm ưu
thế hơn, với 842 vụ trong vòng 10 năm. Đồng thời, các vụ việc liên quan đến
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được thụ lý có số lượng tương đối đáng
kể, chiếm trung bình trên 60 vụ mỗi năm trong giai đoạn 2004 - 2013. Khi
pháp luật cạnh tranh của Hoa Kỳ đã có thời gian dài phát triển, các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh/độc quyền trên thị
56
trường đã ý thức rất rõ về các đạo luật chống độc quyền. Số lượng các vụ việc
về lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền thị trường chiếm không đáng kể so
với tổng số vụ việc cạnh tranh được điều tra, chỉ có 23 vụ trong 10 năm.
Tại Hoa Kỳ, các vụ việc cạnh tranh thuộc diện điều tra dân sự do Cục
chống độc quyền, Bộ Tư pháp hoặc Ủy ban Thương mại Liên bang thụ lý,
điều tra. Hàng năm, có hàng trăm đến xấp xỉ một nghìn quyết định điều tra
dân sự đối với các vụ việc cạnh tranh (như các vụ tập trung kinh tế, thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền...) được ban hành.
Tuy nhiên, nếu các vụ việc này không được giải quyết tại hai cơ quan này, sẽ
được Tòa án sơ thẩm địa phương tiếp tục điều tra và xử lý. Các vụ việc này đa
phần liên quan đến các vụ tập trung kinh tế. Các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền hầu như được giải quyết tại các cơ
quan cạnh tranh.
Các vụ việc thuộc diện điều tra hình sự phần lớn liên quan đến các
hành vi hạn chế cạnh tranh. Ngoài ra, có một số trường hợp có thể liên quan
đến các loại hành vi vi phạm pháp luật chống độc quyền khác, tuy nhiên có
những yếu tố khai man, gian lận, lừa đảo hoặc coi thường, cản trở thực thi
pháp luật...cũng bị điều tra hình sự. Tòa án sơ thẩm địa phương chịu trách
nhiệm giải quyết và xử lý các vụ việc này.
Thành công của các cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ trong việc thực thi
pháp luật và chính sách chống độc quyền không chỉ thể hiện qua số lượng vụ
việc được thụ lý, điều tra, và đa số là thắng kiện, số vụ việc bị thua kiện hàng
năm chiếm tỷ lệ không đáng kể (chừng 0 đến vài phần trăm trong tổng số các
vụ việc được thụ lý), mà nó còn được thể hiện qua kết quả xử lý các vụ việc
cạnh tranh. Hàng năm các doanh nghiệp và cá nhân vi phạm phải nộp phạt
hàng trăm triệu đô la Mỹ và các cá nhân vi phạm còn phải chịu hình phạt tù.
Trong giai đoạn 2004 – 2013, số tiền phạt thu được hàng năm chiếm
khoảng gần sáu trăm triệu đô la Mỹ và có xu hướng tăng lên theo thời gian.
57
Đặc biệt, tổng số tiền phạt thu được năm 2009 đạt gần 1 tỷ đô la Mỹ, đặc biệt
năm 2012 đạt trên 1 tỷ đô la Mỹ. Mức phạt tiền áp dụng đối với doanh nghiệp
vi phạm cao hơn rất nhiều so với mức phạt tiền đối với các cá nhân. So sánh
mức tiền phạt đối với các doanh nghiệp và số lượng doanh nghiệp chịu hình
phạt tiền nhận thấy mức độ phạt tiền đối với các doanh nghiệp ngày càng tăng
1,600,000
1,400,000
1,200,000
)
1,000,000
800,000
Số tiền
phạt
,
600,000
D
S
U
0
0
0
1
(
t
ạ
h
p
n
ề
i
t
ố
S
400,000
200,000
0
200
4
200
5
200
6
200
7
200
8
200
9
201
0
201
1
201
2
201
3
Số tiền phạt 141,2 600,4 473,4 630,7 696,5 974,3 343,0 381,5 1,475 275,2
và nặng hơn.
Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục Chống độc quyền
Hình 1.2. Số tiền phạt do Cục chống độc quyền tiến hành từ 2004 - 2013
d. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi luật
Hoa Kỳ đã khá thành công trong việc thực thi pháp luật chống độc
quyền nhờ vào những công cụ, chính sách được sử dụng trong quá trình điều
tra và xử lý hành vi vi phạm, qua đó mang lại tác động lớn đến hiệu quả thực
thi pháp luật cạnh tranh.
- Khám xét để thu thập chứng cứ
Một điểm nổi bật và then chốt trong kinh nghiệm điều tra các vụ việc
cạnh tranh của Hoa Kỳ thể hiện ở chỗ, giống như Nhật Bản, pháp luật cạnh
tranh của Hoa Kỳ cho phép các cơ quan cạnh tranh được áp dụng quyền khám
xét. Theo đó, các cơ quan cạnh tranh được quyền điều tra chính thức, khám
58
xét và thu giữ tang vật có liên quan đến các doanh nghiệp là đối tượng điều
tra. Với quyền hạn như vậy, Ủy ban Thương mại Liên bang và Cục Chống
độc quyền, Bộ Tư pháp trong quá trình điều tra sẽ dễ dàng điều động điều tra
viên tiến hành khám xét đúng lúc, đúng thời điểm nhằm thu giữ được những
chứng cứ quan trọng, xác thực.
- Áp dụng Chương trình khoan dung
Thành công của một cuộc điều tra vụ việc cạnh tranh, đặc biệt là các
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bắt nguồn chủ yếu từ việc thu thập được các
thông tin từ phía “người trong cuộc” – các bên tham gia thỏa thuận. Thông
thường, nếu không được hưởng lợi thì các doanh nghiệp kinh doanh hiếm khi
hợp tác với các cơ quan cạnh tranh, tuy nhiên, một trong những cách động
viên họ cung cấp các thông tin là cam kết sẽ miễn hoặc giảm các chế tài mà
họ có thể bị áp dụng trong quá trình tố tụng.
Về cơ bản, một chính sách khoan dung cam kết cho doanh nghiệp hoặc
cá nhân đầu tiên hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra vụ việc thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh một cơ chế ân xá hoặc miễn trừ các chế tài đối với hành vi vi
phạm mà họ đã thực hiện.
Hoa Kỳ là nước đầu tiên trên thế giới đưa ra chính sách khoan dung và
áp dụng trong cùng năm 1978. Chính sách này cũng được tiến hành sửa đổi
một số nội dung quan trọng vào năm 1993 cho phù hợp với thực tiễn. Theo
đó, thay vì theo chương trình cũ thì doanh nghiệp chỉ được hưởng khoan dung
trong trường hợp Bộ Tư pháp chưa hề có thông tin về vụ thông đồng hay thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh và chưa tiến hành điều tra vụ việc nhưng ở chương
trình mới, doanh nghiệp vẫn có thể hưởng khoan dung nếu Bộ Tư pháp đã
tiến hành điều tra vụ việc nhưng vẫn chưa thu thập được đầy đủ các chứng cứ
cần thiết buộc doanh nghiệp đã nộp đơn phải tự thú về hành vi thông đồng của
mình. Mặt khác, theo chương trình mới, doanh nghiệp nộp đơn được hưởng cơ
chế khoan dung tự động, trong trường hợp Bộ Tư pháp chưa có thông tin gì về
59
vụ thông đồng, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thay vì phải đáp ứng đầy đủ các
điều kiện cần thiết như trước kia. Với sửa đổi năm 1993, ban lãnh đạo của một
doanh nghiệp đã được hưởng miễn trừ theo cơ chế tự động thì cũng được
hưởng miễn trừ nếu họ hợp tác đầy đủ (trong trường hợp cuộc điều tra chưa bắt
đầu tiến hành trước khi doanh nghiệp nộp đơn).
Chính sách khoan dung với những nội dung và cơ cấu hợp lý đã mang
lại hiệu quả lớn cho các cơ quan cạnh tranh của Hoa Kỳ trong quá trình thực
thi. Tỷ lệ đơn thông báo của doanh nghiệp tăng từ mức một đơn trong một năm
theo chương trình ban đầu lên đến mức xấp xỉ một đơn một tháng theo chương
trình mới. Các đơn xin hưởng khoan dung đã trực tiếp mang lại thành công
trong quá trình khởi tố các vụ việc gây hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng.
- Áp dụng mức phạt mang tính răn đe
Để ngăn chặn hành vi vi phạm, Hoa Kỳ đã áp dụng các chế tài nghiêm
khắc đối với các hành vi vi phạm Luật chống độc quyền. Bởi vì rủi ro phải
chịu hình phạt xử lý nặng nề khi bị phát hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
khiến các doanh nghiệp và cá nhân vi phạm có nhiều động cơ khai báo vụ
việc để được hưởng miễn trừ một phần hoặc toàn bộ mức phạt theo chương
trình khoan dung.
Tháng 6 năm 2004, đạo luật Sherman (15 U.S.C. § 1) của Hoa Kỳ đã
bổ sung tăng mức phạt đối với các hành vi phản cạnh tranh vi phạm Luật
chống độc quyền:
+ Mức phạt tối đa đối với doanh nghiệp tăng từ 10 triệu lên 100 triệu đô
la Mỹ;
+ Mức mức phạt tối đa đối với cá nhân tăng từ 350 nghìn lên 1 triệu đô
la Mỹ;
+ Hình sự: thời hạn phạt tù tối đa tăng từ 3 năm lên 10 năm.
Một trong những kinh nghiệm trong điều tra và xử lý các vụ việc cạnh
tranh của Hoa Kỳ là đưa ra các hình thức xử lý vi phạm hết sức nghiêm khắc,
60
gồm phạt tiền được áp dụng đối với cả doanh nghiệp và cá nhân vi phạm và
phạt tù đối với các cá nhân vi phạm trong các vụ việc cạnh tranh nghiêm trọng.
Việc áp dụng khung hình phạt nặng đối với các cá nhân vi phạm sẽ góp
phần răn đe ban lãnh đạo của các công ty đã vi phạm, thậm chí đang có ý định
phải dè chừng. Bởi trong các trường hợp vi phạm, người quyết định các vi
phạm chính là ban lãnh đạo còn nhân viên chỉ là những người chấp hành. Tuy
nhiên, khi quyết định chỉ áp dụng phạt đối với riêng công ty thì có khả năng
công ty sẽ bị phá sản và người chịu thiệt lại chính là nhân viên; còn khi áp
dụng mức phạt đối với ban lãnh đạo – những người trực tiếp đưa ra các quyết
định sẽ không chỉ có tác dụng phạt đúng đối tượng mà còn khiến họ phải cân
nhắc kỹ trước khi đưa ra quyết định vi phạm.
Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp xử lý vi phạm nghiêm khắc là hết sức
cần thiết, bởi đứng trên quan điểm của các cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ, một
số hành vi vi phạm nghiêm trọng Luật Chống độc quyền (như thỏa thuận ấn
định giá hay thỏa thuận phân chia thị trường) về bản chất là tương đồng với
hành vi ăn cắp vì hai hành vi này đều lấy tiền túi của người tiêu dùng mà họ
không hề biết và không mong muốn.
- Hoạt động vận động chính sách cạnh tranh (competition advocacy)
Trong những năm qua, Cục Chống độc quyền, Bộ Tư pháp cũng như
Ủy ban Thương mại Liên bang đã và đang tăng cường các nỗ lực vận động
chính sách cạnh tranh thông qua việc thực hiện các chương trình khác nhau và
các sáng kiến hướng tới củng cố thị trường và bảo tồn phát triển kinh tế tự do
và công bằng. Thực tế, thúc đẩy các nguyên tắc cạnh tranh thông qua nỗ lực
vận động chính sách và tiếp cận các nhà quản lý vẫn là một trong những ưu
tiên cao nhất của các cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ. Những nỗ lực này bao gồm
việc mở rộng quan hệ hợp tác sâu rộng và phối hợp hoạt động cùng với các cơ
quan liên bang như Ủy ban Truyền thông Liên bang, Bộ Nông nghiệp và Bộ
61
Giao thông vận tải, Văn phòng quản lý thương hiệu và bằng sáng chế, Cục Dự
trữ liên bang cũng như với Quốc hội, các cơ quan lập pháp và các cơ quan nhà
nước. Đồng thời, Cục Chống độc quyền cũng đệ trình các bản giải trình tóm
tắt lên Tòa án tối cao Liên bang và các Tòa phúc thẩm, phát hành các báo cáo
chi tiết tác động cạnh tranh nhằm giải thích lập luận và phân tích cạnh tranh.
Ngoài nỗ lực vận động chính sách trong nước, các cơ quan cạnh tranh
Hoa Kỳ còn tích cực trong hoạt động hợp tác với các cơ quan cạnh tranh quốc
tế, như Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) và Mạng lưới cạnh
tranh quốc tế (ICN), cũng như cơ quan thực thi chống độc quyền nước ngoài
nhằm trao đổi kinh nghiệm để tăng cường năng lực thực thi pháp luật và
chính sách cạnh tranh, hợp tác trong điều tra các-ten quốc tế, xuất bản những
cuốn hướng dẫn kỹ năng điều tra xử lý vụ việc dựa trên sự tổng hợp kinh
nghiệm quốc tế...
Thông qua những nỗ lực này, các cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ đã tăng
cường, mở rộng năng lực của mình nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tự do và
công bằng, và tìm những cách thức mới để đảm bảo thị trường hoạt động hiệu
quả và vận hành tốt các chức năng của mình đối với người tiêu dùng Mỹ.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
a. Về nội dung pháp luật cạnh tranh
Theo quy định pháp luật cạnh tranh của một số nước trên thế giới, việc
ban hành pháp luật cạnh tranh phải đảm bảo nguyên tắc công bằng, minh bạch
và không phân biệt đối xử. Đặc biệt, trong phạm vi áp dụng luật cạnh tranh
không được miễn trừ áp dung đối với bất kỳ đối tượng nào bao gồm cả các
doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh đó, pháp luật cạnh tranh của các nước thường quy định và
điều chỉnh về các nhóm hành vi sau đây:
- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền.
62
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (hành vi thông thầu, ấn định giá...).
- Các hành vi mua bán sáp nhập doanh nghiệp có tác động tới môi
trường kinh doanh.
Riêng đối với các nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Không
giống như quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam, các hành vi này thường
được quy định tại một văn bản khác không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật cạnh tranh và chống độc quyền.
Để đáp ứng những thay đổi của thị trường và nền kinh tế, các nước
thông thường sau 3-5 năm thường tiến hành rà soát, cập nhật sửa đổi pháp
luật cạnh tranh cho phù hợp.
b. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan cạnh tranh
Theo kinh nghiệm của các nước, nguyên tắc quan trọng hàng đầu đối
với cơ quan cạnh tranh là bảo đảm tính độc lập cho nó. Điều này có nghĩa là,
tổ chức, hoạt động của thiết chế này phải được thiết kế sao cho bảo đảm
không để can thiệp hoặc bị chi phối từ các cơ quan khác (lập pháp, hành pháp,
tư pháp). Độc lập là yếu tố tiên quyết để có sự công bằng trong việc xử lý các
vụ việc, điều mà các bên đương sự luôn chờ đợi ở cơ quan này.
Tính độc lập của các cơ quan cạnh tranh trong tổ chức và hoạt động
luôn luôn là mục tiêu hàng đầu mà các nước này hướng tới xây dựng. Đây là
nội dung rất quan trọng đảm bảo cho những cơ quan này có thể thực hiện
chức năng xử lý một cách công minh, vì mục tiêu bảo vệ trật tự công cộng –
cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Để đạt được việc này, Luật Cạnh tranh của các nước đều quy định
nguyên tắc tối cao là các cơ quan cạnh tranh hoàn toàn độc lập trong các hoạt
động của mình mà không bị chi phối hay can thiệp của bất kỳ cơ quan thứ ba
nào. Các cơ quan cạnh tranh được thành lập theo Luật và thực hiện các quyền
năng được Luật này trao cho. Họ cũng có thể sử dụng những quyền hạn này
để yêu cầu sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan khác.
63
Để tạo lập sự độc lập về mặt tổ chức và tài chính, một số nước đã thành
lập cơ quan cạnh tranh của mình trực thuộc Quốc hội, độc lập với tư pháp và
chính phủ. Một số cơ quan cạnh tranh khác lại được tổ chức như một Bộ hay
ngang Bộ, độc lập với các bộ ngành khác. Một số trường hợp khác mặc dù đặt
trong một bộ ngành nào đó nhưng lại duy trì một chế độ độc lập rất cao trong
hoạt động. Các cơ quan này chỉ bị phụ thuộc về mặt hành chính. Việc độc lập
này còn đạt được thông qua bổ nhiệm những nhân sự của các cơ quan cạnh
tranh này. Ngoài ra, Luật Cạnh tranh các nước còn quy định rõ ngân sách hoạt
động cũng như chế độ đãi ngộ cho các cơ quan cạnh tranh và thành viên cơ
quan này.
Minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước kể cả cơ quan
cạnh tranh đang là một đòi hỏi hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đối với các cơ
quan cạnh tranh thì đây lại là yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều
này xuất phát chính từ vai trò trong việc duy trì trật tự cạnh tranh rõ ràng, lành
mạnh. Thông tin trong thị trường phải được thông suốt. Tính minh bạch sẽ
nâng cao thêm uy tín của chính các cơ quan này.
Pháp luật cạnh tranh của các quốc gia nói trên đều quy định rất chặt chẽ
về những yêu cầu phải công bố công khai các hoạt động của cơ quan cạnh
tranh. Ngoài ra, các bên liên quan có quyền yêu cầu các cơ quan cạnh tranh
cho phép tiếp cận thông tin liên quan tới vụ việc. Trên thực tế, các cơ quan
cạnh tranh cũng luôn đề cao tiêu chí minh bạch (Transparency) trong các hoạt
động cụ thể của mình, từ việc công khai các chính sách, pháp luật cũng như
các quy trình xử lý công việc… cho đến nội dung các quyết định cụ thể trên
các website của mình. Tuy nhiên, cơ quan cạnh tranh phải có trách nhiệm bảo
mật các thông tin thu thập được trong quá trình điều tra liên quan đến bí mật
kinh doanh của các doanh nghiệp là đối tương bị điều tra.
Ngân sách dành cho cơ quan cạnh tranh của các nước đang ngày càng
được tăng lên do tính chất của công việc. Cùng với sự phát triển của nền kinh
64
tế, thị trường cũng ngày càng được mở rộng, hành vi vi phạm của các chủ thể
kinh doanh ngày càng trở nên tinh vi và phức tạp hơn. Lượng công việc cho
các cơ quan cạnh tranh cũng đang ngày càng tăng dần lên. Hầu hết các nước
đều ý thức được điều này và đã có sự ưu tiên nhiều hơn đối với công tác quản
lý cạnh tranh.
Một điểm đáng lưu ý là việc bổ nhiệm thành viên cho cơ quan cạnh
tranh. Các thành viên thường được bổ nhiệm bởi những người đứng đầu
Chính phủ hoặc Quốc hội. Điều này đã làm tăng tính chất quan trọng cũng
như tính độc lập của cơ quan cạnh tranh trong quá trình hoạt động. Tiêu
chuẩn để được bổ nhiệm là thành viên của cơ quan cạnh tranh cũng là điểm
cần được nhắc đến. Các thành viên này thường được yêu cầu đạt được một
trình độ chuyên môn nhất định, có học vấn cao, có kinh nghiệm và kiến thức
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
Nhiệm vụ chính của cơ quan quản lý cạnh tranh là bảo đảm thực thi
Luật Cạnh tranh. Có thể nói, Luật Cạnh tranh được thực thi nghiêm chỉnh đến
đâu là phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của chính cơ quan này. Qua nghiên
cứu mô hình cơ quan cạnh tranh của một số nước, chúng ta có thể rút ra một
số chức năng, nhiệm vụ chính của cơ quan cạnh tranh như sau:
- Điều tra, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
- Chống độc quyền, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
- Kiểm soát quá trình sát nhập hợp nhất doanh nghiệp.
- Điều tra, xử lý các thoả thuận hạn chế cạnh tranh trên thị trường.
- Thực hiện các hoạt động khác nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh
lành mạnh.
Ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn trên, hầu hết các cơ quan cạnh tranh
đều có hai thẩm quyền cơ bản:
65
- Phát hiện và kiến nghị các cơ quan liên quan bãi bỏ các chính sách
làm cản trở đến môi trường cạnh tranh.
- Yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, chứng
cứ trong quá trình điều tra xử lý vụ việc cạnh tranh.
c. Về xây dựng và phát triển các công cụ nâng cao hiệu quả thực thi luật
- Về chức năng tiến hành khám xét thu thập chứng cứ
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, trong nhiều trường hợp
việc thu thập thông tin chứng cứ bằng các công cụ thông thường như yêu cầu
cung cấp thông tin một cách chính thống từ cơ quan cạnh tranh với các đối
tượng liên không đem lại hiệu quả. Lý do là vì các đối tượng thực hiện hành
vi vi phạm thường có xu hướng che dấu hoặc thậm chí là tiêu hủy các tài liệu
liên quan tới hành vi vi phạm. Do đó, để kịp thời thu thập các thông tin,
chứng cứ và ngăn chặn nguy cơ chứng cứ về hành vi vi phạm bị tiêu hủy, cơ
quan cạnh tranh cần phải được trang bị một công cụ đặc biệt đó là có thẩm
quyền tiến hành việc khám xét trụ sở và nơi làm việc của các tổ chức, cá nhân
liên quan.
Trước năm 2012, theo quy định tại Pháp lệnh về xử lý vi phạm hành
chính, Thủ trưởng cơ quan cạnh tranh có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
ngăn chặn vi phạm hành chính trong đó có việc khám xét nơi cất giấu tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính. Tuy nhiên, từ năm 2012, theo quy định
tại Điều 123 và Điều 129 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, thẩm
quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính không có Thủ
trưởng cơ quan cạnh tranh.
Chính vì vậy, để duy trì công cụ này cho Cơ quan cạnh tranh, trong thời
gian tới, cần xem xét quy định lại thẩm quyền này trong Luật Cạnh tranh.
- Về chương trình khoan dung
Thực tiễn và lý luận đã chứng minh chính sách khoan dung thực sự là
66
một công cụ hữu hiệu của cơ quan quản lý cạnh tranh trong cuộc chiến chống
lại các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Việt Nam cũng là một trong số
các quốc gia đã ban hành Luật Cạnh tranh trong đó có những quy định về cấm
các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh
của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở quy định chung chung về tình tiết giảm nhẹ
(bên cạnh tình tiết tăng nặng) trong xử lý vi phạm các quy định về kiểm soát
hành vi hạn chế cạnh tranh. Các quy định này chưa thể hiện đúng được tinh
thần chính sách khoan dung dành cho các thành viên tham gia các thỏa thuận
này nếu họ chủ động khai báo và cung cấp chứng cứ cho cơ quan điều tra vì
chưa có quy định về số thành viên được hưởng, mức miễn trừ, cơ chế bảo
đảm bí mật, trình tự thủ tục để hưởng chính sách khoan dung,... Do đó, để đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn điều tra và xử lý các hành vi thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, cần thiết phải có sự nghiên cứu và bổ sung một cách hợp lý
chính sách này vào pháp luật cạnh tranh của Việt Nam trong thời gian tới.
67
Chương 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT
CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2005 ĐẾN 2014
2.1. Tổng quan về pháp luật cạnh tranh Việt Nam
Cùng với công cuộc đổi mới và mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt
được mức tăng trưởng ấn tượng trong thập niên 90 và những năm đầu thế kỷ
21. Sự phát triển nhanh của nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ đã tạo ra sức
ép cạnh tranh lên các doanh nghiệp và đặt ra yêu cầu phải xây dựng khuôn
khổ pháp lý tạo thuận lợi cho môi trường cạnh tranh. Trong quá trình thực
hiện đường lối chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, thực tế đã xuất hiện một số hành vi
cạnh tranh không lành mạnh và phản cạnh tranh, gây ảnh hưởng tiêu cực đến
sự phát triển kinh tế. Ngoài ra, việc nền kinh tế với xuất phát điểm thấp và
còn một số ngành và lĩnh vực tồn tại độc quyền nhà nước đã dẫn đến sự hạn
chế trong phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ảnh hưởng tiêu
cực đến môi trường cạnh tranh chung.
Trước khi Luật Cạnh tranh ra đời, một số quy định pháp luật nhằm
kiểm soát các hành vi phản cạnh tranh hay kiểm soát độc quyền ở một số lĩnh
vực riêng biệt được quy định rải rác tại một số các văn bản pháp quy như
Pháp lệnh Giá, Pháp lệnh Bưu chính viễn thông, Luật Các tổ chức tín dụng,
Luật Thương mại, Luật Điện lực… Tuy nhiên, việc thực thi các quy định trên
còn chưa hiệu quả, một phần do thiếu một khung pháp lý hoàn chỉnh và thống
nhất, thiếu một cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh và kiểm soát độc
quyền, thiếu chế tài xử lý vi phạm…
68
Bên cạnh đó, từ đầu thập niên 1990, đất nước bắt đầu mở cửa nền kinh
tế, đẩy mạnh thông thương với bên ngoài và tiếp nhận luồng vốn FDI. Việc
trở thành thành viên ASEAN năm 1995 đánh dấu bước đi quan trọng đầu tiên
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. ASEAN đã quyết định
hình thành một Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015. Theo cam
kết của các quốc gia thành viên, đến năm 2015 tất cả các nước ASEAN sẽ xây
dựng và ban hành luật và chính sách cạnh tranh nhằm đảm bảo một môi trường
cạnh tranh lành mạnh và công bằng. Trên cơ sở đó, các nước ASEAN sẽ xây
dựng một cơ chế phối hợp và hợp tác giữa các cơ quan cạnh tranh ASEAN để
triển khai hiệu quả chính sách và luật cạnh tranh trong khu vực ASEAN.
Ngoài ra, trong quá trình đàm phán gia nhập và tham gia các tổ chức
quốc tế và khu vực như APEC và WTO, các đối tác đã yêu cầu Việt Nam cam
kết thực hiện hiệu quả và minh bạch chính sách cạnh tranh và xây dựng một
khung pháp luật cũng như cơ quan cạnh tranh độc lập nhằm đảm bảo môi
trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Trong bối cảnh đó, ngay từ những năm 2000, Luật Cạnh tranh đã được
Quốc hội và Chính phủ đưa vào chương trình xây dựng pháp luật. Sau 4 năm
soạn thảo và lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia trong và ngoài nước,
Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004, bắt
đầu có hiệu lực vào ngày 01 tháng 7 năm 2005.
Luật cạnh tranh được ban hành có mục tiêu nhằm:
- Kiểm soát độc quyền
- Tạo lập và duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng;
- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Sau khi Luật Cạnh tranh được Quốc hội thông qua, Chính phủ, Bộ
Công Thương ban hành một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh.
69
Số ký hiệu
Tên văn bản
Ngày ban
hành
110/2005/NĐ-CP 24/8/2005 Nghị định số 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày
24/8/2005 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp
116/2005/NĐ-CP 15/9/2005 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày
15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Cạnh tranh
120/2005/NĐ-CP 30/9/2005 Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày
30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực cạnh tranh
19/2005/TT-BCT 08/11/2005 Thông tư số 19/2005/TT-BTM của Bộ trưởng Bộ
Thương mại ngày 08/11/2005 hướng dẫn một số nội
dung quy định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 24/8/2005 về quản lý hoạt động bán
hàng đa cấp
92/2005/QĐ-BTC 09/12/2005 Quyết định số 92/2005/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài
chính ngày 09/12/2005 về việc quy định mức thu, chế độ
thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp giấy đăng ký tổ
chức bán hàng đa cấp
05/2006/NĐ-CP
09/01/2006 Nghị định số 05/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày
09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng
Cạnh tranh
06/2006/NĐ-CP
09/01/2006 Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày
09/01/2006 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh
17/5/2006 Quyết định số 20/2006/QĐ-BTM của Bộ trưởng Bộ
20/2006/QĐ-
BTM
Thương mại ngày 17/5/2006 về việc ban hành các mẫu
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
35/2011/TT-BCT 23/9/2011 Thông tư số 35/2011/TT-BCT của Bộ trưởng Bộ Công
Thương ngày 23/9/2011 sửa đổi, bổ sung một số nội
dung về thủ tục hành chính tại Thông tư số 19/2005/TT-
BTM của Bộ trưởng Bộ Thương mại ngày 08/11/2005
hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định số
110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/8/2005 về
quản lý hoạt động bán hàng đa cấp
119/2011/NĐ-CP 16/12/2011 Nghị định số 119/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày
16/12/2011 về việc sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính
70
tại Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày
15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Cạnh tranh
42/2014/NĐ-CP
14/5/2014 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày
14/5/2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp
(thay thế Nghị định 110/2005/NĐ-CP, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/7/2014 )
71/2014/NĐ-CP
21/7/2014 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày
21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh
(thay thế Nghị định 120/2005/NĐ-CP, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 15/9/2014)
24/2014/TT-BCT 30/7/2014 Thông tư số 24/2014/TT-BCT của Bộ trưởng Bộ Công
Thương ngày 30/7/ 2014 quy định chi tiết thi hành một
số điều của Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày
14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng
đa cấp
(thay thế Thông tư 19/2005/TT-BTM và Thông tư
35/2011/TT-BCT, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
15/9/2014)
2.1.1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật Cạnh tranh
Luật Cạnh tranh quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện
pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh áp dụng đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh và hiệp
hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam. Như vậy, Luật Cạnh tranh không loại
trừ một loại hình doanh nghiệp cụ thể nào, tuy nhiên lại giới hạn phạm vi hoạt
động chỉ trong lãnh thổ Việt Nam.
2.1.2. Quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh
Theo quy định tại Điều 3 Luật Cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh
là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị
trường, bao gồm hành vi:
71
- Thoả thuận hạn chế cạnh tranh;
- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và
- Tập trung kinh tế.
a. Hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh
Quá trình cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực để đạt được lợi
thế hơn so với các đối thủ. Tuy nhiên, khi phải đối mặt với cạnh tranh, không
ít các doanh nghiệp đã nhìn nhận cạnh tranh như một mối hiểm họa đối với
khả năng thu lợi nhuận cũng như sự tồn vong của doanh nghiệp. Vì vậy, thay
vì nỗ lực điều chỉnh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển
trong bối cảnh mới, các doanh nghiệp này đã chọn một con đường dễ dàng
hơn là dàn xếp, thỏa thuận với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường về giá cả,
sản xuất, thị trường, khách hàng… nhằm duy trì thị phần và lợi nhuận kinh
doanh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
Hậu quả tất yếu của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự độc quyền hóa
thị trường, theo đó các vấn đề quan trọng của thị trường như giá cả, sản
lượng, khách hàng… không còn tuân thủ theo quy luật thị trường mà bị khống
chế bởi một nhóm các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Từ việc khống chế
thị trường, hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, vì vậy, thường mang tính
chất “trục lợi” (exploitative) hoặc “ngăn cản, loại bỏ” (exclusionary) cạnh
tranh giữa các đối thủ cạnh tranh.
Mặc dù vậy, không phải tất cả các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp
đều nhất thiết nhằm mục đích hoặc có tác động làm phương hại cạnh tranh.
Trong một số quốc gia, pháp luật cạnh tranh có quy định miễn trừ cho một số
thỏa thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp nếu các thỏa thuận đó có tác dụng
làm tăng hiệu quả kinh tế, năng động hóa thị trường. Ví dụ, nhiều quốc gia
cho phép các doanh nghiệp hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển sản
phẩm (R&D), nghiên cứu, phát triển các tiêu chuẩn thống nhất cho sản
72
phẩm… để kích thích lợi thế kinh tế qui mô, thúc đẩy các tiến bộ kỹ thuật,
công nghệ... mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và toàn bộ nền kinh tế.
Từ các đánh giá, nhìn nhận về tác động tiêu cực của các hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh của hầu khắp các nước trên thế
giới đều có quy định điều chỉnh các hành vi thỏa thuận và đều coi pháp luật
điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là một trong ba cột trụ quan
trọng của Luật Cạnh tranh.
Về các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, Điều 8, Luật Cạnh tranh
quy định 8 hành vi, gồm:
(1) Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp;
(2) Phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng
dịch vụ;
(3) Hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán
hàng hoá, dịch vụ;
(4) Hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
(5) Áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ
không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
(6) Ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;
(7) Loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên
của thoả thuận;
(8) Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong
việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Trên cơ sở các quy định tại Điều 8, Luật Cạnh tranh, Nghị định 116
(Điều 14 đến 21) đã liệt kê các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cụ thể
73
với mô tả chi tiết về nội dung, hình thức của các loại thỏa thuận này.
Về quy định cấm, Luật Cạnh tranh cấm tuyệt đối và không cho phép
miễn trừ đối với các hành vi thỏa thuận quy định tại các khoản (6), (7) và (8)
nêu trên. Các thoả thuận cạnh tranh còn lại chỉ bị cấm khi các bên tham gia
thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.
Đồng thời, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dạng này được miễn trừ
có thời hạn nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành,
có lợi cho người tiêu dùng:
(1) Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả
kinh doanh;
(2) Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng
hoá, dịch vụ;
(3) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định
mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;
(4) Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng
không liên quan đến giá và các yếu tố của giá;
(5) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
(6) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
Để được hưởng miễn trừ, các bên tham gia thỏa thuận phải thực hiện
thủ tục đề nghị hưởng miễn trừ quy định tại Điều 25-38, Luật Cạnh tranh.
Trên cơ sở hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ của các bên, cơ quan quản lý cạnh
tranh có trách nhiệm xem xét, đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công Thương
ra quyết định.
b. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền
Thị trường là sự tương tác giữa cung và cầu, qua đó xác định giá và
lượng hàng hóa hoặc dịch vụ trao đổi. Tính đa dạng trong hoạt động trao đổi
74
giữa người mua và người bán hình thành nên các hình thái thị trường khác
nhau, bao gồm: cạnh tranh hoàn hảo; độc quyền; cạnh tranh độc quyền và độc
quyền nhóm.
Sức mạnh độc quyền đem lại cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh so
với các doanh nghiệp khác và đem lại khả năng chi phối các quan hệ với
khách hàng. Những lợi thế cạnh tranh có thể là khả năng kiểm soát các yếu tố
của thị trường (như nguồn nguyên liệu, giá cả, số lượng sản phẩm đáp ứng
cho người tiêu dùng; khả năng tài chính; thói quen tiêu dùng của khách hàng
v.v.) và các yếu tố tạo ra địa vị không ngang bằng trong cạnh tranh giữa
doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường và các đối thủ của nó (bao gồm cả đối
thủ tiềm năng).
Nhà độc quyền có điều kiện tận dụng những ưu thế trên nhằm gây khó
khăn cho đối thủ trong quá trình kinh doanh hoặc ngăn cản việc gia nhập thị
trường. Đối với khách hàng, vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền đã khẳng định
địa vị quan trọng của doanh nghiệp trong cung ứng hoặc tiêu thụ sản phẩm
trên thị trường liên quan bởi họ là nguồn cung hoặc nguồn cầu chủ yếu của thị
trường. Vì thế, quyền lựa chọn của khách hàng đã bị hạn chế, nhu cầu của
khách hàng bị lệ thuộc vào khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp có cơ hội để bóc lột khách hàng thông qua việc áp đặt những điều kiện
giao dịch không công bằng.
Chính vì những hậu quả tiềm tàng như vậy, việc điều chỉnh hành vi của
doanh nghiệp có sức mạnh độc quyền luôn là trọng tâm của chính sách cũng
như pháp luật cạnh tranh các nước.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về chính sách và pháp luật cạnh tranh
giữa các quốc gia, nhưng các quốc gia đều thống nhất về ba mục tiêu chính
của chính sách và pháp luật cạnh tranh là:
(1) đảm bảo một quá trình cạnh tranh hiệu quả;
75
(2) tăng cường phúc lợi xã hội, đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng; và
(3) tối đa hóa hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phân bổ các nguồn lực xã
hội. Vì vậy, Luật Cạnh tranh là công cụ để bảo vệ và đem lại lợi ích cho nền
kinh tế, xã hội và người tiêu dùng.
Với vai trò là một bộ phận không tách rời của chính sách và pháp luật
cạnh tranh, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc
quyền cũng hướng đến những mục tiêu chung đã nêu trên.
Điểm quan trọng là, mặc dù tình trạng độc quyền của thị trường có thể
dẫn đến tổn thất chung cho xã hội nhưng pháp luật cạnh tranh không cấm các
doanh nghiệp bằng sức mạnh nội tại của mình, thông qua các biện pháp cạnh
tranh, đạt được sức mạnh độc quyền. Pháp luật cạnh tranh hướng tới mục tiêu
hiệu quả và lợi ích người tiêu dùng thông qua việc đảm bảo cạnh tranh trên thị
trường chứ không phải bảo vệ đối thủ cạnh tranh.
Do đó, pháp luật cạnh tranh chỉ điều chỉnh hành vi của các doanh
nghiệp độc quyền/ thống lĩnh trên thị trường nhằm hạn chế, ngăn chặn việc
thực hiện các hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường để loại bỏ cạnh tranh và
gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Nói cách khác, việc áp dụng pháp luật
chống lạm dụng vị trí độc quyền/thống lĩnh không nhằm xoá bỏ vị trí thống
lĩnh hoặc vị trí độc quyền của doanh nghiệp mà chỉ loại bỏ hành vi lạm dụng
vị trí thống trị/độc quyền để trục lợi hoặc để bóp méo cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh Việt Nam phân biệt doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
và doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường để điều chỉnh, theo đó:
Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần
từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh
tranh một cách đáng kể; nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh
thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một
trong các trường hợp sau đây: hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở
76
lên trên thị trường liên quan; ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên
trên thị trường liên quan; bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên
trên thị trường liên quan.
Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh
nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh
trên thị trường liên quan.
Về hành vi, Điều 13, Luật Cạnh tranh Việt Nam liệt kê 06 hành vi “lạm
dụng vị trí thống lĩnh”:
(1) Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại
bỏ đối thủ cạnh tranh;
(2) Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định
giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
(3) Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường,
cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
(4) Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau
nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh;
(5) Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ
không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
(6) Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh.
Điều 14 liệt kê thêm 02 hành vi (ngoài 06 hành vi quy định tại Điều 13)
“lạm dụng vị trí độc quyền” để điều chỉnh, bao gồm:
(1) Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
(2) Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp
đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng.
Trên cơ sở các quy định này, Nghị định 116/2005/NĐ-CP đã quy định
các hành vi “lạm dụng vị trí thống lĩnh”, “lạm dụng vị trí độc quyền” một
77
cách cụ thể, theo đó mô tả một cách chi tiết các hình thức biểu hiện của từng
hành vi bị coi là “lạm dụng”.
Về quy định cấm, Luật Cạnh tranh cấm tất cả các hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền, không xem xét các
trường hợp miễn trừ.
c. Tập trung kinh tế
Xét về cạnh tranh, mục tiêu cốt lõi của chính sách kiểm soát tập trung
kinh tế (TTKT) là nhằm đảm bảo hoạt động TTKT không hoặc không tiềm ẩn
nguy cơ gây ra tác động tiêu cực tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường.
Là một bộ phận của chính sách cạnh tranh nói chung, chính sách TTKT
được cụ thể hóa là một trong ba lĩnh vực điều chỉnh của Luật Cạnh tranh, bao
gồm: thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền và
kiểm soát TTKT. Các quy định về kiểm soát TTKT có tác động tiền kiểm,
nhằm ngăn chặn các vụ việc sáp nhập có khả năng làm phương hại tới cạnh
tranh. Trong khi đó, các quy định điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh và hành vi dụng vị trí thống lĩnh thị trường lại có nhắm tới hậu kiểm, xử
lý các hành vi làm phương hại tới cạnh tranh trên thị trường.
Việc đưa các quy định về TTKT vào Luật Cạnh tranh, nhằm ngăn chặn
các vụ việc mới chỉ có khả năng gây phương hại cho cạnh tranh là do:
Thứ nhất, TTKT ngay lập tức loại bỏ áp lực cạnh tranh giữa các bên
tham gia vào vụ việc và làm giảm số lượng các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường. Khi tác động loại bỏ cạnh tranh của vụ việc TTKT đủ lớn, thị trường
sẽ mất dần định hướng hiệu quả kinh tế; đồng thời trong một số trường hợp,
doanh nghiệp thành lập sau vụ việc TTKT không cần phải thực hiện các hành
vi phạm các quy định mang tính hậu kiểm của Luật Cạnh tranh mà vẫn có thể
loại bỏ được các đối thủ cạnh tranh và thu lợi từ thị trường.
78
Thứ hai, hiệu quả của công tác thực thi Luật Cạnh tranh không phải là
100%. Không phải vi phạm nào cũng có thể bị phát hiện và xử lý. Do đó, việc
áp dụng các biện pháp tiền kiểm có thể giúp giảm bớt áp lực cho cơ quan thực
thi Luật. Ngoài ra, ngay cả khi có thể thực hiện các biện pháp khắc phục ở
khâu hậu kiểm đối với các vụ việc TTKT bị phát hiện có tác động xấu tới
cạnh tranh, thì các biện pháp này cũng rất tốn kém.
Thực tế cho thấy, hầu hết các vụ việc TTKT không làm nảy sinh lo
ngại về mặt cạnh tranh. Do đó, cơ quan cạnh tranh cần phân định rõ các dạng
vụ việc TTKT mà họ cần tập trung nguồn lực để xử lý. Thông thường, việc
đánh giá một vụ việc TTKT bao gồm hai bước:
Bước 1: Đánh giá xem liệu một giao dịch nhất định có thực sự là một
vụ việc TTKT.
Bước 2: Đánh giá liệu vụ việc TTKT đó có làm nảy sinh lo ngại về
cạnh tranh để phải ngăn chặn.
Luật Cạnh tranh các quốc gia trên thế giới nói chung đều điều chỉnh các
dạng vụ việc TTKT cơ bản, bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên
doanh. Luật Cạnh tranh Việt Nam quy định:
- Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh
nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
- Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị
hợp nhất.
- Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc
một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ
hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
79
- Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh
nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
của mình để hình thành một doanh nghiệp mới.
Luật Cạnh tranh Việt Nam sử dụng tiêu chí thị phần để xác định
ngưỡng thông báo TTKT và đồng thời để đánh giá một vụ việc TTKT.
Ngưỡng thông báo TTKT được quy định tại Khoản 1, Điều 20, Luật
Cạnh tranh. Theo đó, trong trường hợp thị phần kết hợp của các doanh nghiệp
tham gia TTKT chiếm từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện
hợp pháp của các doanh nghiệp này có nghĩa vụ thực hiện thủ tục thông báo
TTKT cho Cơ quan QLCT theo quy định tại Điều 20 Luật Cạnh tranh. Ngoài
ra, trong trường hợp doanh nghiệp sau TTKT vẫn thuộc loại doanh nghiệp
nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật thì không phải thông báo.
Thị phần cũng đồng thời được sử dụng để đánh giá tác động hạn chế
cạnh tranh của vụ việc TTKT. Điều 18, Luật Cạnh tranh quy định “cấm
TTKT nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia TTKT chiếm trên
50% trên thị trường liên quan”. Với cách tiếp cận như vậy, có thể thấy, Luật
Cạnh tranh Việt Nam quan niệm, việc hình thành nên một thực thể (doanh
nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp) chiếm trên 50% thị phần trên thị trường liên
quan đã tạo nên một sức mạnh đủ để gây hạn chế cạnh tranh, có khả năng làm
giảm, làm cản trở và sai lệch cạnh tranh một cách đáng kể. Đối với những
trường hợp này, doanh nghiệp bị cấm thực hiện TTKT, trừ trường hợp doanh
nghiệp sau khi thực hiện TTKT vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo
quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, vụ việc TTKT có thể được xem xét cho hưởng miễn trừ
theo quy định tại Điều 19, Luật Cạnh tranh:
+ Một hoặc nhiều bên tham gia TTKT đang trong nguy cơ bị giải thể
hoặc lâm vào tình trạng phá sản (thẩm quyền xem xét quyết định thuộc về Bộ
trưởng Bộ Công Thương);
80
+ Việc TTKT có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ (thẩm quyền xem xét quyết định
thuộc về Thủ tướng Chính phủ).
Như vậy, ngoài việc sử dụng tiêu chí thị phần để đánh giá tác động hạn
chế cạnh tranh của một vụ việc TTKT, Luật Cạnh tranh Việt Nam còn xem
xét thêm hai yếu tố để cấm hay cho phép tiến hành TTKT: một bên tham gia
TTKT đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản và tác
động tích cực của vụ việc TTKT tới xuất khẩu, phát triển kinh tế xã hội, cải
tiến công nghệ, kỹ thuật. Mặc dù cả hai yếu tố này đều là những yếu tố phổ
biến được các cơ quan cạnh tranh trên thế giới xem xét khi đánh giá một vụ
việc TTKT nhưng có thể thấy, vai trò của cơ quan cạnh tranh Việt Nam trong
việc đánh giá các yếu tố này là thấp. Trong trường hợp thứ nhất, chỉ cần một
bên tham gia TTKT đáp ứng điều kiện về giải thể hoặc phá sản là cơ quan
cạnh tranh sẽ phải đề xuất Bộ trưởng Bộ Công Thương cho phép tiến hành
TTKT mà không có quyền đưa ra các biện pháp khắc phục nhằm nâng cao
hiệu quả của thị trường. Tương tự, đối với trường hợp thứ hai khi vụ việc
TTKT có tác động nâng cao hiệu quả kinh tế, cơ quan cạnh tranh cũng không
có quyền giám sát sau khi chấp nhận để đảm bảo hiệu quả kinh tế của một vụ
việc TTKT bị coi là gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể sẽ được chuyển
tới tay người tiêu dùng.
Việc sử dụng yếu tố thị phần kết hợp làm căn cứ để kiểm soát TTKT
cho thấy Luật Cạnh tranh của Việt Nam chỉ kiểm soát các trường hợp TTKT
theo chiều ngang. Vì vậy, việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh giữa
các doanh nghiệp không cùng thị trường liên quan thì không chịu sự kiểm
soát của Luật Cạnh tranh.
2.1.3. Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Theo quy định tại Điều 3 Luật Cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không
81
lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh
trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Đối với đa số các nước, những hành vi cạnh tranh không lành mạnh
được điều chỉnh bởi pháp luật thương mại hoặc pháp luật bảo vệ người tiêu
dùng. Tuy nhiên, Việt Nam lại đưa các quy định này vào Luật Cạnh tranh,
theo đó hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm:
- Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
- Xâm phạm bí mật kinh doanh;
- Ép buộc trong kinh doanh;
- Gièm pha doanh nghiệp khác;
- Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
- Phân biệt đối xử của hiệp hội;
- Bán hàng đa cấp bất chính và
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác.
Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật Việt Nam lần
đầu tiên được Luật Cạnh tranh đưa ra tại Khoản 4 Điều 3: Hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt
hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có những đặc trưng sau:
+ Mục đích của hành vi là mục đích cạnh tranh hay rộng hơn là mục
đích lợi nhuận.
82
+ Chủ thể thực hiện là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường.
Theo Điều 2 Luạt cạnh tranh, doanh nghiệp được hiểu là mọi tổ chức, cá nhân
kinh doanh, có nghĩa là bao gồm cả chủ thể kinh doanh không đăng ký loại
hình doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp.
+ Đặc điểm của hành vi là trái với các chuẩn mực thông thường về đạo
đức kinh doanh, là những quy tắc xử sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và
lâu dài trong quá trình kinh doanh trên thị trường.
+ Đối tượng bị xâm hại bao gồm ba loại khác nhau: Nhà nước, người
tiêu dùng và doanh nghiệp khác.
2.1.4. Quy định về Cơ quan cạnh tranh
Theo quy định của Luật Cạnh tranh, Cơ quan cạnh tranh Việt Nam bao
gồm hai cơ quan là cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.
a. Cơ quan quản lý cạnh tranh
Cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan trực thuộc Bộ Công Thương do
Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức. Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh do Thủ tướng Chính phủ bổ
nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương.
Cơ quan quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ, quyền hạn:
(i) Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế;
(ii) Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ;
(iii) Đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định hoặc
trình Thủ tướng Chính phủ quyết định;
(iv) Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh
tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
(v) Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
b. Hội đồng cạnh tranh
Hội đồng cạnh tranh do Chính phủ thành lập, có từ mười một đến mười
83
lăm thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị
của Bộ trưởng Bộ Công thương (trên thực tế là lãnh đạo các Bộ, ngành). Hội
đồng cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các
vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh.
Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm,
miễn nhiệm trong số thành viên của Hội đồng cạnh tranh theo đề nghị của Bộ
trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương). Khi giải quyết vụ việc cạnh
tranh cụ thể, Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh thành lập Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh gồm ít nhất năm thành viên, trong đó có một thành viên làm Chủ
tịch. Trên cơ sở hồ sơ vụ việc do Cơ quan quản lý cạnh tranh chuyển, Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh sẽ tổ chức phiên điều trần và ra quyết định xử
lý theo cơ chế biểu quyết.
2.1.5. Quy định về quy trình tố tụng cạnh tranh
Tố tụng cạnh tranh là hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo
trình tự, thủ tục giải quyết và xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định của Luật
Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành. Quy trình tố tụng được chia
thành ba giai đoạn chính.
a. Điều tra vụ việc cạnh tranh
Giai đoạn điều tra có thể được tiến hành dựa trên hồ sơ khiếu nại đã
được Cơ quan QLCT thụ lý hoặc do Cơ quan QLCT tự khởi xướng điều tra.
Việc điều tra một vụ việc cạnh tranh được tiến hành lần lượt theo hai bước,
gồm điều tra sơ bộ và điều tra chính thức. Sau khi kết thúc điều tra, cơ quan
quản lý cạnh tranh có trách nhiệm hoàn thiện báo cáo điều tra và hồ sơ vụ
việc để chuẩn bị cho giai đoạn xử lý vụ việc tiếp sau.
b. Xử lý vụ việc cạnh tranh
Trên cơ sở Báo cáo điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong Hồ sơ
vụ việc, căn cứ các quy định pháp luật, cơ quan được trao thẩm quyền xử lý
84
vụ việc có trách nhiệm nghiên cứu, đánh giá và ra quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh. Đối với vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, thẩm quyền xử lý
vụ việc thuộc về Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh; đối với vụ việc hạn
chế cạnh tranh, Hội đồng Cạnh tranh (cụ thể là Hội đồng xử lý vụ việc) có
thẩm quyền này.
c. Khiếu nại, khởi kiện quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
Trường hợp các bên không nhất trí với một phần hoặc toàn bộ nội dung
của Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thì có quyền khiếu nại lên Hội đồng
Cạnh tranh (đối với vụ việc hạn chế cạnh tranh) hoặc khiếu nại lên Bộ trưởng
Bộ Công Thương (đối với vụ việc cạnh tranh không lành mạnh).
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ khiếu nại, Hội
đồng Cạnh tranh hoặc Bộ trưởng Bộ Công Thương có trách nhiệm giải quyết
khiếu nại theo thẩm quyền; trường hợp đặc biệt phức tạp, thời hạn giải quyết
khiếu nại có thể được gia hạn, nhưng không quá 30 ngày.
Trường hợp vẫn không nhất trí với Quyết định giải quyết khiếu nại về
Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên liên quan có quyền khởi kiện vụ
án hành chính đối với một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết định giải
quyết khiếu nại ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền.
2.2. Thực trạng hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam
từ năm 2005 đến năm 2014
2.2.1. Thực trạng vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ
quan thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam
a. Cục Quản lý cạnh tranh
- Lịch sử hình thành
Năm 2003, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã cho thành lập Ban Quản lý
cạnh tranh, Ban Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Thương mại với nhiệm vụ
85
chủ yếu là: tham gia soạn thảo Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn và
hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá
của nước ngoài kiện các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.
Ngày 26 tháng 02 năm 2004, để triển khai Nghị định số 29/2004/NĐ-
CP của Chính phủ quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Bộ Thương mại, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số
0235/2004/QĐ-BTM thành lập Cục Quản lý cạnh tranh trên cơ sở Ban Quản
lý cạnh tranh).
Theo Quyết định số 1808/2004/QĐ-BTM ngày 06 tháng 12 năm 2004
của Bộ trưởng Bộ Thương mại thì Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan thuộc
Bộ Thương mại có chức năng giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về
cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ và bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng.
Ngày 03 tháng 12 năm 2004, tại kỳ họp thứ 6 khoá XI, Luật cạnh trạnh
đã được Quốc hội thông qua và đã chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07
năm 2005. Theo quy định tại Điều 49 và Điều 53 của Luật Cạnh tranh, Cơ
quan quản lý cạnh tranh sẽ do Chính phủ quyết định thành lập và quy định tổ
chức, bộ máy. Vì lý do đó, ngày 09 tháng 01 năm 2006, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 06/2006/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh.
Để triển khai Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm
2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Công Thương (thay thế Nghị định số 29/2004/NĐ-CP), ngày 05
tháng 02 năm 2013, Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành Quyết định số
848/QĐ-BCT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Cục Quản lý cạnh tranh.
- Chức năng, nhiệm vụ của Cục Quản lý cạnh tranh
86
Cục Quản lý cạnh tranh là tổ chức trực thuộc Bộ Công Thương có chức
năng giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện:
+ Quản lý nhà nước về cạnh tranh (thực thi Luật Cạnh tranh);
+ Quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các
biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (thực thi 03 Pháp
lệnh về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ);
+ Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (thực thi Luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng);
+ Phối hợp với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trong việc đối
phó với các vụ kiện trong thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, trợ
cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ.
- Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay được quy định
theo Quyết định số 848/QĐ-BCT ngày 05 tháng 02 năm 2013 của Bộ Công
Thương.
Cục Quản lý cạnh tranh
Văn phòng Cục
Phòng Giám sát và quản lý cạnh tranh
Phòng Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh
Phòng Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh
Phòng Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Phòng Kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao
dịch chung
Phòng Điều tra vụ kiện phòng vệ thương mại của doanh
nghiệp trong nước
87
Phòng Xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước
ngoài
Phòng Hợp tác quốc tế
Văn phòng đại diện tại Đà Nẵng
Văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh
Trung tâm Thông tin cạnh tranh
Trung tâm Đào tạo điều tra viên
Hình 2.1. Cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh [43]
- Về nguồn lực hoạt động
Ngân sách hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh có xu hướng tăng dần
trong các năm cụ thể: năm 2007 khi mới thành lập ngân sách hoạt động của
Cục là 7 tỷ đồng, năm 2009 tăng lên 16.5 tỷ đồng và năm 2014 tăng lên
khoảng 23.4 tỷ đồng.
Bảng 2.1. Nguồn nhân lực của Cục Quản lý cạnh tranh
Nguồn nhân lực
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
102
104
104
40
60
85
92
99
Số lượng cán bộ
32
30
29
31
32
31
31
31
Tuổi trung bình
10
20
30
18
25
25
26
26
Luật
20
35
40
57
56
59
60
60
Chuyên
ngành
Kinh
tế
10
15
15
17
15
15
15
15
Khác
27
42
50
50
51
52
53
53
Nam
Giới tính
13
28
35
42
48
50
51
51
Nữ
03
12
12
21
21
21
33
33
Số điều tra viên
Nguồn: Cục Quản lý cạnh tranh
88
Do Cục mới được thành lập nên hầu hết cán bộ của Cục còn rất trẻ về
tuổi đời và tuổi nghề nên còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Trong khi đó, yêu
cầu đối với cán bộ quản lý cạnh tranh đòi hỏi phải có sự am hiếu tổng quan
nhiều lĩnh vực hoặc có có kiến thức toàn diện về kinh tế và xã hội. Nguồn
nhân lực còn hạn chế như hiện nay là một phần nguyên nhân dẫn đến việc hỗ
trợ các doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả cao như mong muốn, các vụ
việc được phát hiện điều tra và xử lý chưa nhiều, tầm ảnh hưởng và phạm vi
lan tỏa của Cục chưa được cao.
Sự thiếu hụt về nguồn nhân lực cũng như hạn chế về mặt nhân lực là
thách thức đối với cơ quan cạnh tranh trong việc thực thi hiệu quả luật và
chính sách cạnh tranh. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với Cơ quan cạnh tranh cần
phải tiến hành tăng cường năng lực của cán bộ để góp phần nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật cạnh tranh.
b. Hội đồng cạnh tranh
Theo quy định của Luật cạnh tranh, đối với các hành vi hạn chế cạnh
tranh, Cục Quản lý cạnh tranh chỉ đảm nhận vai trò điều tra, thu thập, tìm
kiếm các chứng cứ có liên quan đến một vụ việc, còn việc xét xử, xử lý, đưa
ra các quyết định, giải quyết khiếu nại có liên quan đến vụ việc cạnh tranh thì
do Hội đồng cạnh tranh (Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh) đảm nhận.
Hội đồng cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập gồm từ 11 đến
15 thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị
của Bộ trưởng Bộ Công Thương.
Ngày 9 tháng 01 năm 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
05/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh.
Theo Nghị định này, Hội đồng cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý,
giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn
89
chế cạnh tranh theo quy định của Luật Cạnh tranh.
Hội đồng cạnh tranh gồm 01 Chủ tịch, giúp việc cho Chủ tịch Hội đồng
cạnh tranh sẽ có 02 Phó Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh.
Để giúp việc cho Hội đồng, ngày 28 tháng 8 năm 2006, Bộ trưởng Bộ
Thương mại đã có Quyết định số 1378/QĐ-BTM thành lập Ban Thư ký Hội
đồng cạnh tranh. Ban Thư ký Hội đồng cạnh tranh gồm từ 7-9 người làm việc
chuyên trách.
2.2.2. Thực trạng công tác điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh
2.2.2.1. Các vụ việc hạn chế cạnh tranh
So với nhiều quốc gia trên thế giới, Luật Cạnh tranh và Cơ quan quản
lý cạnh tranh Việt Nam còn rất non trẻ. Đến nay, Cơ quan quản lý cạnh tranh
Việt Nam đã tổ chức điều tra 8 vụ việc hạn chế cạnh tranh, trong đó đã
chuyển 5 hồ sơ vụ việc sang Hội đồng Cạnh tranh để xử lý theo quy định của
pháp luật. Trong số 8 vụ việc đó, có 3/8 vụ việc xuất phát từ đơn khiếu nại
của doanh nghiệp và 5/8 vụ việc do Cơ quan QLCT tự khởi xướng điều tra
theo quy định tại Khoản 2 Điều 86 Luật Cạnh tranh. Cụ thể như sau:
Bảng 2.2. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh đã điều tra, xử lý trong giai
đoạn 2006-2014
Thời gian
TT
Vụ việc
Xử lý
Tự khởi
xướng
Đơn
khiếu
nại
1
2007
2010
Vụ việc giữa Công ty TNHH thương mại-dịch vụ
Tân Hiệp Phát và Công ty liên doanh nhà máy bia
Việt Nam
2
2008
2009
Vụ việc liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền của Công ty xăng dầu hàng không Việt Nam
(Vinapco)
3
2009
2010
Vụ việc liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh của 19 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
90
4
2010
2014
Vụ việc giữa 04 doanh nghiệp điện ảnh và Công ty
TNHH truyền thông Megastar
5
2011
Vụ việc liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất tấm lợp fibro
xi măng
6
2011
2013
Vụ việc liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh giữa 12 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
tại Khánh Hòa
7
2012
Vụ việc liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh giữa 3 doanh nghiệp vận tải hành khách bằng
tàu cánh ngầm tuyến TP.HCM - Vũng Tàu
8
2014
Vụ việc giữa Công ty TNHH thương mại-du lịch
ABTours và Công ty TNHH sản xuất-thương mại-
dịch vụ-XNK Ánh Dương
Nguồn: Báo cáo hoạt động thường niên của Cục QLCT
Ngoài 8 vụ việc đã được điều tra, xử lý theo quy trình tố tụng cạnh
tranh nêu trên, trong các năm 2008, 2012 và 2013, Cơ quan QLCT đã nhận
được 04 Hồ sơ khiếu nại từ các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực:
sản xuất nước đá, sản xuất secpentin, vận tải hành khách bằng tàu cánh ngầm
và sản xuất pin-ắc quy. Tuy nhiên, sau khi Cơ quan QLCT xem xét và yêu
cầu doanh nghiệp bổ sung hồ sơ thì các doanh nghiệp đã không cung cấp
thông tin theo yêu cầu hoặc tự nguyện rút đơn khiếu nại. Trên cơ sở đánh giá
các thông tin đã thu thập được, Cơ quan QLCT nhận định chưa có cơ sở để
kết luận về dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh trong các vụ việc đó. Mặc
dù vậy, Cơ quan QLCT hiện vẫn tiếp tục theo dõi hoạt động cạnh tranh trên
các thị trường nêu trên để có biện pháp can thiệp trong trường hợp cần thiết.
Thông qua quá trình điều tra, xử lý 8 vụ việc, với gần 70 doanh nghiệp
bị điều tra, các cơ quan cạnh tranh Việt Nam đã ra quyết định xử lý, thu về
ngân sách nhà nước tổng số tiền phạt và phí xử lý vụ việc cạnh tranh gần
5.500.000.000 đồng (Năm tỷ năm trăm triệu đồng). Mặc dù không quyết định
áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả nào trong
91
các vụ việc nêu trên, nhưng Cơ quan QLCT và Hội đồng Cạnh tranh cũng đã
đưa ra một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp, hiệp hội và các cơ quan
quản lý nhà nước về việc tuân thủ pháp luật cạnh tranh, tránh thực hiện các
hành vi vi phạm tương tự trong tương lai.
Trong 5 vụ việc đã được xử lý, có 3 vụ việc tiếp tục được đưa ra xét xử
tại hệ thống Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính, gồm vụ bia Tân Hiệp
Phát, vụ Vinapco và vụ 19 doanh nghiệp bảo hiểm. Mặc dù có những vụ việc
được đưa ra xét xử ở cấp phúc thẩm, nhưng đến nay Tòa án các cấp đều công
nhận các quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh do Hội đồng Cạnh tranh ban hành, kể cả về nội dung và thủ tục tố
tụng. Mặc dù số lượng vụ việc hạn chế cạnh tranh đã được điều tra và xử lý
còn khiêm tốn, nhưng xét trong bối cảnh Cơ quan quản lý cạnh tranh Việt
Nam còn non trẻ với nguồn lực hạn chế thì đó chính là sự khởi đầu cho thấy
Luật Cạnh tranh đã đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng.
Đặc biệt, do số lượng các đơn khiếu nại nhận được từ doanh nghiệp là
rất ít, nên trong những năm gần đây, qua quan sát có thể nhận thấy, Cơ quan
QLCT đã có nhiều hoạt động đẩy mạnh công tác giám sát hoạt động cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường, chủ động tiến hành điều tra tiền tố
tụng đối với nhiều thị trường, nhiều lĩnh vực và nhiều dạng hành vi có nghi
vấn vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh. Trong giai đoạn 2009-2014, trung
bình, mỗi năm Cơ quan QLCT tổ chức điều tra tiền tố tụng đối với 10-12 vụ
việc liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh.
Bảng 2.3. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh giai đoạn 2006 - 2014
2006 2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
Tổng
5
3
7
7
10
10
14
12
10
78
0
1
1
1
1
2
1
0
1
8
Điều tra
TTT
Khởi xướng
điều tra
0
0
0
1
2
0
0
1
1
Quyết định
5
Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT
92
16
14
12
10
8
6
4
2
0
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
Khởi xướng điều tra
Quyết định
Điều tra TTT
Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT
Hình 2.2. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh giai đoạn 2006 - 2014
Trong số 78 vụ việc điều tra tiền tố tụng nêu trên, có 39 vụ việc liên
quan đến quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng
vị trí độc quyền (chiếm 49% tổng số vụ), 36 vụ việc liên quan đến quy định
về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (chiếm 47%) và mới chỉ có 3 vụ
4%
47%
TTKT
49%
Lạm dụng vị trí thống
lĩnh/độc quyền
Thỏa thuận HCCT
việc liên quan đến quy định về hành vi tập trung kinh tế bị cấm (4%).
Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT
Hình 2.3. Phân loại vụ việc điều tra tiền tố tụng giai đoạn 2006-2014
93
Xét theo nhóm ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh cho thấy, 77 vụ việc
điều tra tiền tố tụng xảy ra trên rất nhiều ngành nghề lĩnh vực khác nhau của
nền kinh tế, nhưng đặc biệt phổ biến trong các ngành như sản xuất vật liệu
xây dựng, kinh doanh vận tải hành khách, vận tải hàng hóa, điện lực, viễn
thông, giải trí, nông sản và vật tư nông nghiệp… Đặc biệt, trong 3 vụ việc liên
quan đến bảo hiểm phi nhân thọ, có đến 2 vụ việc được Cơ quan QLCT nhận
định là có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh và đã chuyển sang điều tra theo
thủ tục tố tụng cạnh tranh theo Khoản 2 Điều 86 Luật Cạnh tranh.
Bảng 2.4. Phân loại vụ việc điều tra tiền tố tụng theo
nhóm ngành, lĩnh vực
TT
Nhóm ngành
Số vụ việc
Tỷ lệ
1 Vật liệu xây dựng
14
18.2%
2 Vận tải
11
14.3%
3 Điện lực
7
9.1%
4 Viễn thông
7
9.1%
5 Giải trí
7
9.1%
6
6
7.8%
Nông sản, vật tư nông
nghiệp
7 Xăng dầu, gas
5
6.5%
8 Đầu tư xây dựng cơ bản
3
3.9%
9 Bảo hiểm phi nhân thọ
3
3.9%
10 Bia, rượu, nước giải khát
2
2.6%
11 Ngân hàng
2
2.6%
12 Khác
11
13.0%
Tổng
78
100%
Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT
94
Hoạt động điều tra tiền tố tụng trên các thị trường này có thể dẫn tới kết
luận có hay không có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh. Mặc dù vậy, những
thông tin mà Cơ quan QLCT đã thu thập được thông qua điều tra tiền tố tụng
đã phản ánh thực tiễn là một số thị trường đang có vấn đề về cạnh tranh và dễ
xảy ra các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Tùy từng thị trường cụ thể,
các vấn đề cạnh tranh đó có thể xuất phát từ rào cản gia nhập thị trường, hoạt
động của các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp độc quyền có
Ngân hàng
3%
Khác
13%
Vật liệu xây
dựng
18%
Bia, rượu, nước
giải khát
3%
Bảo hiểm phi nhân
thọ
4%
Vận tải
14%
Đầu tư xây
dựng cơ bản
4%
Xăng dầu, gas
6%
Điện lực
9%
Giải trí
9%
Viễn
thông
9%
Nông sản, vật tư
nông nghiệp
8%
vốn nhà nước, hoặc do hoạt động của các hiệp hội ngành hàng.
Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT
Hình 2.4. Cơ cấu vụ việc điều tra tiền tố tụng theo nhóm ngành, lĩnh vực
Thông qua hoạt động điều tra tiền tố tụng nêu trên, Cơ quan QLCT một
mặt thu thập các số liệu cần thiết để xây dựng cơ sở dữ liệu về ngành, mặt
khác, tìm hiểu, lý giải các nghi vấn về hành vi hạn chế cạnh tranh đang xảy ra
trên thị trường, từ đó kịp thời áp dụng các biện pháp can thiệp trong trường
hợp cần thiết để ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm.
b. Về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Trong gần 10 năm thực thi quy định của Luật Cạnh tranh về chống các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Cơ quan QLCT đã tiếp nhận 298 khiếu
95
nại, tiến hành điều tra 144 vụ việc và ra quyết định xử phạt 122 vụ (số liệu
đến năm 2013), trong đó có:
- 80 vụ việc về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
- 24 vụ việc về hành vi bán hàng đa cấp bất chính;
- 8 vụ việc về hành vi gièm pha doanh nghiệp khác;
- 6 vụ việc về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
- 3 vụ việc về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
100
90
80
70
60
Tiếp nhận
50
Điều tra
40
Quyết định
30
20
10
0
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
- 1 vụ việc về hành vi gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác.
Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT
Hình 2.5. Vụ việc cạnh tranh không lành mạnh giai đoạn 2006 - 2013
Xét theo nhóm các hành vi vi phạm, các vụ việc cạnh tranh không lành
mạnh thường diễn ra dưới nhiều hình thức, nhiều dạng hành vi vi phạm khác
nhau, trong đó chủ yếu là các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh hoặc bán hàng đa cấp bất chính… Theo số liệu Cơ quan QLCT tổng
hợp, nhóm vụ việc liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số các vụ việc đã được điều tra,
xử lý (tới 66%), tiếp theo là các vụ việc liên quan tới hành vi bán hàng đa cấp
bất chính (22%). Số lượng vụ việc liên quan tới các dạng hành vi khác như
96
chỉ dẫn gây nhầm lẫn, gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác, gièm pha
doanh nghiệp khác, xâm phạm bí mật kinh doanh chiếm tỷ trọng thấp, chủ
yếu là do việc phát hiện ra hành vi vi phạm còn phụ thuộc nhiều vào phản ánh
từ phía các doanh nghiệp. Trên thực tế, nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam
đối với Luật Cạnh tranh còn chưa cao hay tâm lý ngại khiếu nại đã dẫn đến
tình trạng nhiều doanh nghiệp tự từ bỏ quyền được bảo vệ của mình và không
Quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh
khiếu nại hay phản ánh thông tin về hành vi vi phạm tới Cơ quan QLCT.
45
40
Khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh
35
Gièm pha doanh nghiệp
khác
30
Chỉ dẫn gây nhầm lẫn
25
20
Bán hàng đa cấp bất
chính
15
10
5
Gây rối hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp
khác
Tổng số
0
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT
Hình 2.6. Vụ việc CTKLM theo nhóm hành vi vi phạm
Thông qua quá trình xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh nêu
trên, Cơ quan QLCT đã giúp thu về ngân sách nhà nước tổng số tiền phạt và
án phí xử lý vụ việc cạnh tranh đáng kể. Năm 2007, tổng số tiền phạt thu về
ngân sách nhà nước mới chỉ có 85 triệu đồng, tuy nhiên, con số này tăng vọt
gần gấp 10 lần (805 triệu đồng) khi sang đến năm 2008, và đến năm 2013 là
650 triệu đồng.
97
(đơn vị: triệu VNĐ)
1600
1400
1200
1000
800
Tổng số tiền phạt
600
400
200
0
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Nguồn: Báo cáo hoạt động thường niên của Cục QLCT
Hình 2.7. Tổng số tiền phạt vụ việc CTKLM
Năm 2011 là năm số lượng vụ việc việc điều tra lên cao nhất, trong đó
có 33 vụ việc quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, 01 vụ việc bán
hàng đa cấp bất chính và 02 vụ việc gièm pha doanh nghiệp khác. Tổng số
tiền phạt thu về ngân sách nhà nước là 1,4 tỷ đồng.
Năm 2013 số lượng vụ việc giảm do gặp vướng mắc về cơ sở pháp lý
liên quan đến thẩm quyền xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Trước đây Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002 sửa đổi bổ sung năm
2008 đã quy định thẩm quyền phạt tiền tối đa của Thủ trưởng Cơ quan QLCT
là 70 triệu đồng. Tuy nhiên, Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực thi
hành từ tháng 7 năm 2013 đã không quy định thẩm quyền của Thủ trưởng Cơ
quan QLCT. Điều này khiến Cơ quan QLCT gặp vướng mắc về thẩm quyền
xử lý và phải tạm ngừng công tác xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành
mạnh năm 2014 để tập trung hoàn thiện cơ sở pháp lý.
2.2.2.3. Kiểm soát tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế đã ra đời và phát triển từ lâu trên thế giới cùng với
quá trình tích lũy tư bản. Nếu sự tích tụ tư bản được coi là phát triển nội sinh
thì tập trung kinh tế được coi là phát triển cơ học. Tuy vậy, đây lại là khái
niệm tương đối mới ở Việt Nam, được du nhập vào cùng làn sóng đầu tư
98
nước ngoài mạnh mẽ những năm cuối thập kỷ 90. Tập trung kinh tế được coi
là hình thức nhanh nhất để doanh nghiệp đặt chân vào một lĩnh vực mới hoặc
mở rộng địa hạt kinh doanh thông qua việc mua lại hoặc sáp nhập với các
doanh nghiệp khác. Thay vì phải xây dựng từ đầu, doanh nghiệp có thể tận
dụng cơ sở vật chất cũng như thương hiệu của doanh nghiệp đối tác để phát
triển nhanh chóng. TTKT cũng là cơ hội để các doanh nghiệp rút chân ra khỏi
những lĩnh vực mà họ thấy không hiệu quả hoặc tìm được “phao cứu sinh”
khi kinh doanh gặp khủng hoảng.
Vào năm 2004, khi Luật Cạnh tranh mới được ban hành cũng chính là
thời điểm hoạt động tập trung kinh tế (TTKT) ở Việt Nam bắt đầu trở thành
một làn sóng mạnh mẽ. Cùng với các Hiệp định thương mại tự do bắt đầu có
hiệu lực, những cam kết về mở cửa thị trường được thực hiện đã tạo điều kiện
cho làn sóng “tập trung kinh tế” có cơ hội được phát triển. Có thể thấy rõ điều
đó qua các vụ M&A được thống kê trong giai đoạn từ 2005-2008, khi số vụ
tập trung kinh tế gia tăng theo từng quý và đạt đỉnh vào cuối 2007 với gần 30
vụ một quý. Bên cạnh số lượng, giá trị các thương vụ TTKT cũng tăng lên với
mức trung bình 400 triệu USD mỗi quý.
Trong giai đoạn 2009-2010, các vụ việc tập trung kinh tế tại Việt Nam
đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 2009 ghi nhận 295 vụ với tổng giá trị
1,14 tỷ USD, năm 2010 có 245 vụ với tổng giá trị 1,75 tỷ USD và năm 2011
ghi nhận có 267 vụ với tổng giá trị giao dịch đạt kỷ lục là 6,3 tỷ USD.
Trước bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang có nhiều xáo trộn sau các
cuộc khủng hoảng tài chính và nợ công, thị trường Mua bán và Sáp nhập Việt
Nam giai đoạn 2012-2014 suy giảm đáng kể. Tổng quy mô thị trường đạt 4,9
tỷ USD với 157 thương vụ trong năm 2012. Năm 2013, đạt 3.2 tỷ USD với
182 thương vụ. Trong 6 tháng đầu năm 2014, đã có 88 thương vụ mua bán
sáp nhập thành công với giá trị trên 1 tỷ USD và dự đoán đến hết năm 2014,
giá trị giao dịch mua bán sáp nhập tại Việt Nam có thể đạt 2 tỷ USD (giảm
37.5% so với năm 2013).
99
Thực trạng này đã phản ánh một nền kinh tế mở với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế và hệ quả là việc gia tăng các hoạt động TTKT như
một đòi hỏi khách quan. Tuy nhiên, hoạt động TTKT cũng tiềm ẩn những yếu
tố hình thành các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh và có thể gây ảnh hưởng
tới môi trường cạnh tranh. Tính đến tháng 8 năm 2014, Cơ quan QLCT đã thụ
lý 23 vụ việc thông báo TTKT (chi tiết xem Phụ lục 1) và rất nhiều vụ việc
tham vấn về TTKT trước và trong quá trình các doanh nghiệp thực hiện
TTKT.
Bảng 2.5. Số vụ việc tập trung kinh tế giai đoạn 2005 - 2014
Năm
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014 Tổng
2005
- 2007
0
2
2
1
4
6
4
4
23
Số vụ việc
thông báo
TTKT
Số vụ tham vấn
1
0
0
5
6
8
19
15
54
Số DN liên quan
3
4
4
16
28
29
57
48
189
Nguồn: Báo cáo tập trung kinh tế của Cục QLCT
60
50
40
30
20
10
0
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2005 -
2007
Số vụ việc thông báo TTKT
Số vụ tham vấn
Số DN liên quan
Nguồn: Báo cáo tập trung kinh tế của Cục QLCT
Hình 2.8. Số vụ việc tập trung kinh tế giai đoạn 2005 - 2014
100
Cho tới nay, Cơ quan QLCT đã phê chuẩn tất cả các vụ việc TTKT
được thông báo và chưa có vụ việc nào thuộc trường hợp bị cấm theo quy
định của Luật Cạnh tranh.
Trong số các vụ việc TTKT đã được Cơ quan QLCT xem xét nêu trên,
các vụ việc TTKT theo hình thức sáp nhập doanh nghiệp chiếm đa số với 18
vụ việc thông báo TTKT và 18 vụ việc tham vấn TTKT.
Bảng 2.6. Phân loại các vụ việc TTKT theo nhóm hành vi
Phân loại theo hành vi
Hợp nhất
Sáp nhập Mua lại
Liên doanh
1
18
3
1
Số vụ việc thông báo
TTKT
0
18
27
6
Số vụ việc tham vấn
Nguồn: Báo cáo tập trung kinh tế của Cục QLCT
Bảng 2.7. Phân loại vụ việc TTKT theo nhóm ngành nghề
Khai
khoáng
Nhóm
ngành
nghề
Bán
buôn,
bán lẻ
Vận
tải
kho
bãi
Thông
tin
truyền
thông
Sản
xuất
phân
phối
điện
Hoạt
động
kinh
doanh
BĐS
Công
nghiệp
chế
biến,
chế
tạo
Hoạt
động
khoa
học và
công
nghệ
Hoạt
động
tài
chính,
ngân
hàng,
bảo
hiểm
9
1
1
2
0
1
2
4
3
0
0
6
6
19
10
8
2
3
Số vụ
việc
thông
báo
TTKT
Số vụ
việc
tham
vấn
Nguồn: Báo cáo tập trung kinh tế của Cục QLCT
101
Phân loại theo nhóm ngành nghề kinh doanh cho thấy, hoạt động mua
bán sáp nhập tại Việt Nam trong thời gian qua tập trung trong một số nhóm
ngành chính như công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống; phân phối bán lẻ,
kinh doanh bất động sản và thông tin truyền thông.
3
Thông tin truyền thông
2
Vận tải kho bãi
2
8
Tài chính-Ngân hàng-Bảo …
1
6
Kinh doanh BĐS
3
6
Bán buôn, Bán lẻ
4
Vụ việc thông báo TTKT
Sản xuất, phân phối điện
2
Vụ việc tham vấn TTKT
Khai khoáng
1
10
KHCN
1
19
Công nghiệp chế biến, chế …
9
0
20
10
30
Hình 2.9. Số lượng vụ việc TTKT theo nhóm ngành nghề
Các doanh nghiệp tham gia TTKT thuộc mọi thành phần kinh tế, từ
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, liên doanh đến doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, doanh
nghiệp dẫn đầu trong các ngành, lĩnh vực kinh doanh tại Việt Nam và các tập
đoàn đa quốc gia trên thế giới. Trong số các vụ việc thông báo và tham vấn
TTKT với Cơ quan QLCT có nhiều vụ việc tập trung kinh tế lớn, diễn ra ở
nước ngoài, nhưng các doanh nghiệp này có hoạt động kinh doanh tại Việt
Nam, như Alcatel - Lucent, ICI - Akzo, Prudential - AIA…
102
Bảng 2.8. Thống kê các loại hình doanh nghiệp tham gia TTKT
Phân loại DN Công ty DNNN
Công ty
TNHH cổ phần DN
ngoài
nước 100%
vốn nước
ngoài
40 08 09 0 0
Thông báo
TTKT
140
120
100
87 74 08 15 05 Tham vấn
87
80
60
Tham vấn
74
40
Thông báo TTKT
20
40
5
15
8
9
8
0
Cty TNHH DN ngoài
DNNN
nước
Cty Cổ
phần
100% vốn
nước
ngoài
Nguồn: Báo cáo tập trung kinh tế của Cục QLCT
Hình 2.10. Các loại hình doanh nghiệp tham gia TTKT
Qua nghiên cứu về tình hình điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật cạnh tranh của Việt nam trong thời gian qua, chúng ta có thể rút ra mấy
vấn đề quan trọng để phân tích và đi sâu hơn trong chương 2 của đề tài:
- Trong giai đoạn 2006-2014, Cơ quan tranh tranh đã tiến hành điều tra
tiền tố tụng 78 vụ việc. Tuy nhiên, số vụ việc đi đến quyết định điều tra chính
thức chỉ là 5 vụ việc (chiếm hơn 6%). Trong 5 vụ việc có quyết định điều tra
chính thức, cơ quan cạnh tranh chỉ chuyển hồ sơ cho Hội đồng cạnh tranh có
3 vụ việc còn lại 2 vụ là đình chỉ điều tra. Như vậy số vụ việc hạn chế cạnh
tranh được xử lý chính thức chỉ có 2 vụ việc.
103
- Công tác điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh đạt
được nhiều kết quả như mong đợi. Trong giai đoạn 2006-2013, trung bình
hàng năm cơ quan cạnh tranh đã tiến hành điều tra và xử lý khoảng gần 20
vụ/1 năm. Tuy nhiên, năm 2012-2013 số vụ việc xử lý có hướng giảm do sự
xung đột giữa Luật Cạnh tranh và Luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Một trong những kết quả của quá trình thực thi quy định của Luật
Cạnh tranh về kiểm soát TTKT là số việc thông báo TTKT và tham vấn
TTKT đã dần tăng lên đáng kể do có sự chuyển dịch về phương thức đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đã lựa chọn phương thức đầu
tư thông mua hoạt động mua bán, sáp nhập nhằm tiết kiệm nguồn lực, dễ
dàng thâm nhập thị trường và giảm thiểu các rào cản gia nhập thị trường. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là 100% các hồ sơ thông báo tập trung kinh tế đều
được Cục chấp nhận, không có hồ sơ xin được hưởng miễn trừ và Cục không
tiến hành điều tra và xử lý bất kỳ vụ việc tập trung kinh tế bị cấm nào theo
quy định của pháp luật cạnh tranh.
2.2.3. Thực trạng hoạt động tăng cường sự tiếp cận pháp luật cạnh
tranh của cơ quan thực thi
Một trong những mục tiêu quan trọng của công tác thực thi Luật Cạnh
tranh là làm sao để Luật thực sự đi vào “đời sống của doanh nghiệp và xã
hội”, giúp doanh nghiệp hiểu và lĩnh hội pháp luật cạnh tranh nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của mình trước các hành vi vi phạm Luật Cạnh
tranh. Để làm được điều đó, trong bối cảnh doanh nghiệp còn chưa thực sự
“mặn mà” với việc tự tìm hiểu Luật Cạnh tranh thì công tác tuyên truyền phổ
biến pháp luật cạnh tranh phải được đặc biệt ưu tiên, chú trọng. Trong thời gian
qua, theo báo cáo hoạt động thường niên của Cơ quan QLCT trong thời gian
qua, Cơ quan QLCT đã triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền phổ biến về
pháp luật cạnh tranh tới cộng đồng doanh nghiệp và các đối tượng liên quan.
104
2.2.3.1. Tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp
Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong việc hoạch định chính sách kinh
doanh, cân bằng lợi ích các bên tham gia thị trường, Cơ quan QLCT đã tiến
hành rà soát và nghiên cứu cấu trúc thị trường, đánh giá mức độ cạnh tranh ở
từng ngành/lĩnh vực trong nền kinh tế. Cụ thể, trong thời gian qua, Cục đã
tiến hành báo cáo đánh giá cạnh tranh về các thị trường: xăng dầu, thép cuộn
xây dựng, thức ăn chăn nuôi, xi măng, phân bón, phân phối dược phẩm, sữa
bột, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, vận tải hàng không và vận tải hàng
không, ô tô tải, bộ giặt, kính xây dựng, giấy, dầu thực vật, bảo hiểm nhân thọ,
vận tải biển, quảng cáo và truyền hình trả tiền. Báo cáo đã phân tích về cấu
trúc thị trường, phản ánh được thực trạng hoạt động cạnh tranh trên thị trường
của từng lĩnh vực, những tác động của thể chế, pháp luật tới môi trường cạnh
tranh trong từng lĩnh vực.
Báo cáo cung cấp một bức tranh tổng thể về mức độ cạnh tranh trong
từng ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc
hoạch định chiến lược đầu tư kinh doanh phù hợp. Bên cạnh đó, mục tiêu của
báo cáo là hỗ trợ cơ quan quản lý phát hiện những vấn đề quan ngại về cạnh
tranh, phát hiện những dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh, đặc biệt đối với
các thị trường có mức độ tập trung kinh tế cao. Đây chính là cơ sở để đưa ra
các khuyến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà hoạch định chính
sách và cho chính các doanh nghiệp để đảm bảo duy trì môi trường cạnh tranh
lành mạnh và bình đẳng, đảm bảo cân bằng hài hòa lợi ích của các doanh
nghiệp tham gia thị trường.
Kiểm soát các hoạt động tập trung kinh tế là một trong 3 lĩnh vực thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh. Mục tiêu của việc giám sát và quản
lý hoạt động tập trung kinh tế nhằm tránh tạo ra các doanh nghiệp độc quyền
hoặc thống lĩnh mới trên thị trường. Với mục đích hỗ trợ doanh nghiệp, đưa
105
ra các tư vấn kịp thời đối với các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế về
các vấn đề liên quan đến cạnh tranh.
2.2.3.2. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền phổ biến
Tổ chức hội thảo/ hội nghị, tập huấn là hình thức tuyên truyền phổ biến
kiến thức về luật và chính sách cạnh tranh một cách hiệu quả. Trong thời gian
qua, cơ quan quản lý cạnh tranh tích cực tổ chức các hội thảo/hội nghị, tập
huấn nhằm trao đổi kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm về pháp luật cạnh tranh.
Đối tượng tham gia chủ yếu là đại diện các doanh nghiệp, hiệp hội ngành
nghề và các cơ quan quản lý ngành khác. Theo thông tin trên trang web của
Cục, chủ đề các hội thảo rất đa dạng và phong phú về các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, các hành vi hạn chế cạnh tranh như thỏa thuận Cartel, các
hành vi thông đồng đầu thầu... kỹ năng điều tra và kinh nghiệm xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Các hội thảo này không chỉ nâng cao kiến thức cạnh tranh cho đại biểu
tham dự mà còn là phương thức tuyên truyền hiệu quả đối với các cơ quan
quản lý nhà nước có liên quan đến lĩnh vực cạnh tranh ở cấp trung ương và
một số địa phương, các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến thông tin và
chính sách cạnh tranh thông qua các ấn phẩm tuyên truyền phổ biến về pháp
luật cạnh tranh là một công cụ hữu hiệu và có phạm vi lan tỏa rộng. Trong
thời gian vừa qua, Cơ quan quản lý cạnh tranh cũng đã biên soạn và phát hành
các ẩn phẩm về cạnh tranh. Một số ấn phẩm đã phát hành trong thời gian qua:
- Sách “Các vấn đề cơ bản của pháp luật và chính sách cạnh tranh”;
- Sách “Những vấn đề doanh nghiệp cần biết về Luật Cạnh tranh”;
- Bộ tài liệu đào tạo “Kỹ năng điều tra cạnh tranh”, bao gồm những kiến
thức và kỹ năng cần thiết đối với một điều tra viên cạnh tra;
- Sổ tay hướng dẫn quy trình điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh;
106
- Khuôn khổ đánh giá cạnh tranh - Hướng dẫn nghiệp vụ nhằm xác định
rào cản đối với cạnh tranh ở các nước đang phát triển;
- Báo cáo nghiên cứu chuyên đề “Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp ở
Việt Nam”;
- Báo cáo “Tập trung kinh tế tại Việt Nam (năm 2010 và năm 2012)”;
- Báo cáo “Giám sát cạnh tranh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn
thông”;
- Báo cáo “Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hành vi phản cạnh tranh
trong hệ thống Dược phẩm tại thị trường Việt Nam”;
- Báo cáo giám sát cạnh tranh trong ba lĩnh vực tài chính (Ngân hàng,
Bảo hiểm, Chứng khoán);
- Báo cáo đánh giá môi trường cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của nền
kinh tế năm 2010, 2011, 2012.
- Bản tin cạnh tranh: định kỳ hàng tháng được phát hành với số lượng
1000 bản/số từ tháng 1/2009. Đối tượng đọc là các cơ quan Ban/Ngành, Cục,
Vụ, Viện, Trung tâm... các hiệp hội và doanh nghiệp. Bản tin ra đời dần dần
đã được cộng đồng độc giả đánh giá cao, mang tính thiết thực trong việc phổ
biến pháp luật và chính sách cạnh tranh tới các cơ quan quản lý và cộng đồng
xã hội.
2.3. Đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam
trong giai đoạn 2005 đến 2014
2.3.1. Đánh giá theo nhóm tiêu chí bên trong
2.3.1.1. Đánh giá về tính hợp pháp của pháp luật cạnh tranh
Tính hợp pháp của Luật Cạnh tranh được đánh giá dựa trên liệu các quy
định của Luật Cạnh tranh có đảm bảo tính hợp pháp về mặt nội dung cũng
như về mặt hình thức hay không.
- Về hình thức, Luật Cạnh tranh được soạn thảo và ban hành theo đúng
107
những trình tự thủ tục do luật định, cụ thể là Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật quy định. Luật Cạnh tranh được Quốc hội, cơ quan lập pháp
tối cao của Việt Nam ban hành. ngày 03/12/2004, tại kỳ họp thứ 6 khoá XI,
Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội thông qua và đã chính thức có hiệu lực vào
ngày 01/07/2005.
Trước khi Luật Cạnh tranh trình Quốc Hội ban hành, Dự thảo luật đã
được Bộ Tư pháp, Ủy Ban kinh tế và ngân sách của Quốc Hội thẩm định cho
ý kiến theo đúng thủ tục quy định.
Trong quá trình soạn thảo Luật Cạnh tranh, Ban soạn thảo Luật Cạnh
tranh cũng đã tổ chức xin ý kiến và nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến
của đông đảo người dân và doanh nghiệp. Do vậy, về mặt hình thức, Luật
Cạnh tranh hoàn toàn hợp pháp.
- Về nội dung, các quy định của Luật Cạnh tranh là hoàn toàn hợp pháp,
phù hợp với Hiến pháp, với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc
biệt là với các hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới WTO và thống nhất
với các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Về cơ bản, Luật Cạnh tranh của Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu về
chính sách cạnh tranh của các nước thành viên WTO đưa ra và các nguyên tắc
cơ bản theo quy định của WTO, cụ thể như nguyên tắc không phân biệt đối
xử và minh bạch trong hoạt động thương mại, các nguyên tắc liên quan đến
hoạt động thương mại của doanh nghiệp nhà nước.
Quá trình ra đời của Luật Cạnh tranh, việc ban hành đạo luật này là
bước chuẩn bị của Việt Nam cho việc gia nhập WTO. Luật cạnh tranh của
Việt Nam có thể được coi là sự cụ thể hóa các cam kết của Việt Nam về cạnh
tranh. Với việc ngăn cấm các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện một số
hành vi nhất định, như buộc doanh nghiệp, tổ chức, hay cá nhân mua hoặc
bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ với các doanh nghiệp được cơ quan này
108
chỉ định (trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền của nhà nước hoặc
trong các trường hợp khẩn cấp), Luật Cạnh tranh đã đảm bảo các doanh
nghiệp Nhà nước vận hành theo tiêu chí thương mại, cạnh tranh bình đẳng với
các doanh nghiệp tư nhân và không tham gia hoạch định chính sách của
ngành liên quan.
Luật Cạnh tranh cũng cấm các hành vi phân biệt đối xử giữa các doanh
nghiệp; ép buộc các doanh nghiệp hoặc các hiệp hội ngành nghề phải liên kết
với nhau để loại trừ, hạn chế hoặc cản trở các doanh nghiệp khác cạnh tranh
trên thị trường; và thực hiện các hành vi cản trở các hoạt động kinh doanh
hợp pháp của doanh nghiệp. Cơ sở pháp lý này đã tạo sự bình đẳng giữa các
chủ thể, đảm bảo khiông cỏ sự can thiệp của Nhả nước và không phân biệt
doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp tư nhân.
Đổi với hệ thống luật trong nước, các quy định của Luật Cạnh tranh
trước tiên không mâu thuẫn với các quy định của Hiến pháp. Việc soạn thảo
và ban hành các quy phạm của Luật Cạnh tranh xuất phát từ nguyên tắc "Nhà
nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách" (Đ.26). Các quy định của Luật Cạnh tranh được ban hành phù hợp với
các quy định của Hiến pháp liên quan đến quyền tự do kinh doanh của công
dân (Đ.57), cũng như các quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật (Đ.
52), quyền của người dân được tham gia vào hoạt động kinh tế và được nhà
nước bảo hộ theo quy định của pháp luật (Đ.15, 16, 20, 21, 22). Ngoài ra các
quy định của Luật Cạnh tranh liên quan đến các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần sở hữu: tư nhân, nhà nước, đầu tư nước ngoài đều phù hợp với các
quy định mang tính định hướng của Hiến pháp.
Xét về mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và các luật khác, về cơ bản,
Luật Cạnh tranh cùng với các luật khác thuộc ngành luật kinh tế đã tạo ra một
môi trường pháp lý lành mạnh và bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh
nghiệp. Tuy nhiên, giữa các luật này luôn tồn tại những mâu thuẫn hay còn gọi
109
là những xung đột khó tránh khỏi, nhất là khi nhu cầu về pháp luật của nước ta
ngày càng gia tăng, ngày càng có nhiều các văn bản xuất hiện để điều chỉnh các
quan hệ kinh tế. Xung đột pháp luật có thể xảy ra giữa Luật Cạnh tranh và luật
khác, cụ thể là với các luật được coi là luật chung và với các luật được coi là
luật chuyên ngành, hay giữa Luật Cạnh tranh và các văn bản dưới luật.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh không chỉ
quy định trong Luật Cạnh tranh, mà còn được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật khác. Do đó, tình trạng xung đột giữa các luật chuyên ngành là
không thể tránh khỏi trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật hiện nay ở Việt Nam. Đối với Luật Cạnh tranh, những mâu thuẫn loại này
ngày càng có xu hướng gia tăng. Cùng với sự phát triến của xã hội, sự hội
nhập của nền kinh tế, rất nhiều luật điều chỉnh các lĩnh vực chuyên ngành
được xây dựng mới kéo theo sự xuất hiện của các cơ quan quản lý chuyên
ngành. Các cơ quan này thường được trao thẩm quyền thực hiện các quy định
điều tiết về cạnh tranh trong các lĩnh vực chuyên ngành. Ví dụ hiện nay, dự
thảo các luật như Luật các tổ chức tín dụng, Luật bưu chính, Luật kinh doanh
bảo hiểm đều có những quy định về cạnh tranh riêng biệt, không đồng nhất
với các quy định của Luật Cạnh tranh. Hệ quả là dẫn đến tình trạng xung đột
luật cũng như xung đột về thẩm quyền giữa các cơ quan quản lý nhà nước đối
với cùng một vụ việc cạnh tranh. Chính vì vậy, việc xác định các quy định
pháp luật để điều chỉnh trong trường hợp có nhiều luật cùng điều chỉnh là rất
cần thiết.
Ví dụ 1, Luật các tổ chức tín dụng, Điều 9 về Hợp tác và cạnh tranh
trong hoạt động ngân hàng
(1) Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được hợp tác và
cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy
định của pháp luật.
(2) Nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh
110
không lành mạnh có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
(3) Chính phủ quy định cụ thể các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lý các hành vi này.
Như vậy, theo Luật các tổ chức tín dụng, Chính phủ có thể quy định
các hành vi hạn chế cạnh tranh cạnh tranh, và cạnh tranh không lành mạnh
khác với các quy định của Luật Cạnh tranh để điều chỉnh. Thẩm quyền này có
thể tạo nên những xung đột giữa hai Luật này.
Ví dụ 2, Luật Viễn Thông Điều 19 quy định về cạnh tranh trong kinh
doanh dịch vụ viễn thông.
(1) Doanh nghiệp viễn thông không được thực hiện các hành vi hạn chế
cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật cạnh tranh.
(2) Ngoài các quy định tại khoản 1 Điều này, doanh nghiệp viễn thông
hoặc nhóm doanh nghiệp viễn thông có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh
nghiệp viễn thông nắm giữ phương tiện thiết yếu không được thực hiện các
hành vi sau đây:
- Bù chéo dịch vụ viễn thông để cạnh tranh không lành mạnh;
- Sử dụng ưu thế về mạng viễn thông, phương tiện thiết yếu để cản trở
việc xâm nhập thị trường, hạn chế, gây khó khăn cho hoạt động cung cấp dịch
vụ viễn thông của các doanh nghiệp viễn thông khác;
- Sử dụng thông tin thu được từ doanh nghiệp viễn thông khác vào mục
đích cạnh tranh không lành mạnh;
- Không cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp viễn thông khác thông tin
kỹ thuật về phương tiện thiết yếu và thông tin thương mại liên quan cần thiết
để cung cấp dịch vụ viễn thông.
(3) Doanh nghiệp viễn thông hoặc nhóm doanh nghiệp viễn thông có vị
111
trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp viễn thông nắm giữ phương tiện thiết
yếu phải thực hiện thống kê, kế toán riêng đối với dịch vụ viễn thông chiếm
thị phần khống chế để xác định giá thành dịch vụ viễn thông chiếm thị phần
khống chế.
(4) Từng thời kỳ, Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành Danh mục
doanh nghiệp viễn thông, nhóm doanh nghiệp viễn thông có vị trí thống lĩnh
thị trường đối với các dịch vụ viễn thông quan trọng mà Nhà nước cần quản
lý cạnh tranh, Danh mục doanh nghiệp viễn thông nắm giữ phương tiện thiết
yếu; quy định và tổ chức thực hiện biện pháp quản lý nhằm thúc đẩy cạnh
tranh và bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh dịch vụ viễn thông.
(5) Các doanh nghiệp viễn thông khi tập trung kinh tế có thị phần kết
hợp từ 30% đến 50% trên thị trường dịch vụ liên quan phải thông báo cho cơ
quan quản lý chuyên ngành về viễn thông trước khi tiến hành tập trung kinh tế.
Với việc đưa ra các quy định riêng về những hành vi bị cấm đối với
nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường cũng sẽ tạo ra nguy cơ xung
đột trong quá trình thực thi giữa hai văn bản luật này.
2.3.1.2. Đánh giá về tính thực tiễn của pháp luật cạnh tranh
Có thể khẳng định rằng Luật Cạnh tranh ra đời phù hợp với quy luật tất
yếu của xã hội tại thời điểm ban hành. Một xã hội có nền kinh tế ngày càng
trở nên năng động và phát triển càng đòi hỏi sự điều chỉnh của các quy định
pháp luật về cạnh tranh. Luật Cạnh tranh ra đời là kết quả tất yếu của cơ chế
thị trường, vì "cạnh tranh chỉ xuất hiện khi, về mặt pháp lý, có sự thừa nhận
và thi hành các nguyên tắc về tự do kinh doanh, tự do khế ước và tự do lập
hội. Còn về phương diện kinh tể, cạnh tranh chỉ có thể xuất hiện trong điều
kiện của cơ chế thị trường, nơi mà cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện
mạo và cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường [19] ". Chính vì vậy, ngay
từ khi ra đời, Luật Cạnh tranh đã được sự ủng hộ và đồng thuận của nhiều
112
tầng lớp, từ các nhà kinh doanh đến các nhà nghiên cứu luật. Với những
nhiệm vụ cụ thể đặt ra là xác định và xử lý những hành vi cạnh tranh không
lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm, các nhà làm luật mong
muốn Luật Cạnh tranh sẽ thiết lập được các chuẩn mực chung cho đạo đức
kinh doanh để duy trì và bảo đảm trật tự cạnh tranh, xoá bỏ hoặc làm vô hiệu
hoá các rào cản bất hợp lý trên thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các doanh nghiệp kinh doanh chân chính.
Như vậy, xét về tổng thể, Luật Cạnh tranh được ban hành phù hợp với
hoàn cảnh và nhu cầu của xã hội thời điểm 2005-2006. Tuy nhiên, thực tế áp
dụng các quy định của Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn cho thấy,
đến nay, do tình hình kinh tế xã hội thay đổi nên có những quy định không
còn phù hợp với thực tiễn, gây cản trở hiệu quả thực thi của Luật Cạnh tranh
và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Các quy định về xác định thị trường liên quan
Nhìn chung, cách thức xác định thị trường liên quan của Luật Cạnh
tranh Việt Nam cũng phù hợp với các nguyên tắc được sử dụng phổ biến của
các quốc gia trên thế giới: dựa trên việc đánh giá khả năng thay thế về cầu và
khả năng thay thế về cung. Các tiêu chí xác định thị trường liên quan của Luật
Cạnh tranh Việt Nam được quy định rất cụ thể tại Nghị định 116.
Những quy định quá cụ thể, chi tiết của pháp luật cạnh tranh về xác định
thị trường liên quan đang bộc lộ nhiều điểm không phù họp với thực tế trong
quá trình áp dụng. Tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, khả năng
thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ quy định phải được xem xét “cả về
đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả”. Cơ quan cạnh tranh trên thế giới cũng sử
dụng ba tiêu chí này để đánh giá khả năng thay thế cho nhau của các hàng hóa,
dịch vụ, tuy nhiên, cách sử dụng linh hoạt, xem xét một cách tổng thể và tùy
từng sản phẩm, dịch vụ đặc thù, các tiêu chí mới được cân nhắc sử dụng nhằm
phản ánh đúng nhất thực trạng thực tế thị trường sản phẩm.
113
Ở Việt Nam, hai sản phẩm, dịch vụ được coi là có khả năng thay thế
cho nhau tức là phải thay thế được cho nhau cả về “đặc tính, mục đích sử
dụng và giá cả” và nếu một trong ba tiêu chí không thể thay thế cho nhau thì
có thể kết luận hai sản phẩm nằm trên thị trường sản phẩm liên quan khác
nhau. Việc đánh giá cả ba tiêu chí đối với bất cứ sản phẩm, dịch vụ nào dẫn
đến kết luận về khả năng thay thế cho nhau của các sản phẩm, dịch vụ không
phản ánh đúng thực tế cạnh tranh trên thị trường. Khi xem xét khả năng thay
thế cho nhau giữa ghế nhựa và ghế gỗ, hai sản phẩm này được coi là có thể
thay thế cho nhau về giá cả, mục đích sử dụng, tuy nhiên, về đặc tính thì chất
liệu nhựa hoàn toàn không thể thay thế cho chất liệu gỗ. Kết luận của cơ quan
cạnh tranh là ghế nhựa và ghế gỗ nằm trên hai thị trường sản phẩm liên quan
khác nhau, mặc dù trên thực tế, hai sản phẩm này cạnh tranh với nhau và hoàn
toàn có thể thay thế cho nhau trong nhiều trường hợp.
Nếu áp dụng cứng nhắc Khoản 1 Điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP sẽ
dẫn đến tình trạng, mỗi sản phẩm, dịch vụ là một thị trường riêng biệt, không
thể thay thế, và doanh nghiệp sản xuất, hoặc cung ứng sản phẩm, dịch vụ đó
sẽ luôn là doanh nghiệp có vị trí độc quyền hoặc thống lĩnh trên thị trường
liên quan được xác định.
- Các quy định về thủ tục khiếu nại vụ việc cạnh tranh
Theo Điều 58 của Luật Cạnh tranh, “Tổ chức, cá nhân cho rằng quyền
và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm do hành vi vi phạm của Luật Cạnh
tranh” có quyền khiếu nại đến cơ quan cạnh tranh. Tuy nhiên, trách nhiệm của
người khiếu nại là phải cung cấp cho cơ quan cạnh tranh chứng cứ về hành vi
vi phạm, chịu trách nhiệm về tính trung thực của chứng cứ đã cung cấp cho
cơ quan cạnh tranh.
Hồ sơ khiếu nại của tổ chức, cá nhân gửi đến cơ quan cạnh tranh được
yêu cầu và liệt kê cụ thể tại Điều 45 Nghị định 116/NĐ-CP. Quy định về thủ
114
tục khiếu nại với những đòi hỏi về chứng cứ chứng minh như trên nhằm nhằm
ngăn chặn các khiếu nại vô căn cứ, giảm sức ép về công việc cho Cơ quan
cạnh tranh.
Tuy nhiên, chính những yêu cầu và trách nhiệm này lại gây ra những
khó khăn và gánh nặng cho bên khiếu nại khi hành vi có dấu hiệu vi phạm
Luật Cạnh tranh là có thật, nhưng không thể thu thập tài liệu, chứng cứ chứng
minh cho hành vi vi phạm. Những trở ngại này dẫn đến việc bên khiếu nại dễ
dàng bỏ qua hành vi vi phạm do những rườm rà trong thủ tục khiếu nại.
Về bản chất, Luật Cạnh tranh được ban hành nhằm mục đích đảm bảo
quyền tự do kinh doanh trên thị trường của các doanh nghiệp, trong đó đại
diện cho quyền lực nhà nước là cơ quan cạnh tranh sẽ thực hiện chức năng xử
lý các doanh nghiệp thực hiện hành vi phản cạnh tranh, bảo vệ lợi ích người
tiêu dùng và phúc lợi xã hội (với mục tiêu bảo vệ lợi ích công này, cơ quan
cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Mỹ, Úc hay Cộng
đồng Châu Âu sẽ trực tiếp khởi xướng điều tra các vụ việc có dấu hiệu vi
phạm pháp luật cạnh tranh trên cơ sở các dấu hiệu vi phạm tự phát hiện hoặc
từ thông tin thông báo của bên thứ ba).
Quá trình tiếp nhận thông tin khiếu nại hoặc tố cáo từ bên thứ ba rất
linh hoạt, thông qua thư, email, điện thoại, hoặc fax. Cơ quan cạnh tranh sau
đó sẽ có chức năng xem xét, đánh giá thông tin và tiếp tục thu thập bằng
chứng, tài liệu để quyết định có chính thức điều tra vụ việc hay không. Người
đi khiếu nại, hoặc cung cấp thông tin không bị ràng buộc chịu trách nhiệm về
tính xác thực của thông tin, mà đây là trách nhiệm của cơ quan cạnh tranh.
Vì vậy, số lượng đơn thư thông báo về hành vi vi phạm pháp luật cạnh
tranh gửi đến cơ quan cạnh tranh mỗi ngày có thể lên đến hàng nghìn thông
báo và theo đó vị trí, vai trò của cơ quan cạnh tranh trong môi trường cạnh
tranh ngày càng được nâng cao.
115
- Về quy trình điều tra, xử lý vụ việc
Những vụ việc cạnh tranh thường mang tính chất phức tạp, đặc biệt vụ
việc hạn chế cạnh tranh, không chỉ đòi hỏi những phân tích về quy định của
pháp luật, mà còn dựa trên các phân tích kinh tế. Bằng chứng, thông tin trong
một vụ việc không chỉ thu thập tại một thời điểm mà còn cả một quá trình, từ
trong, trước và sau khi diễn ra hành vi vi phạm của doanh nghiệp. Ngoài 30
ngày điều tra sơ bộ, 150 ngày (kể cả thời gian gia hạn) đối với vụ việc cạnh
tranh không lành mạnh và 300 ngày (kể cả 2 lần gia hạn) đối với vụ việc hành
chế cạnh tranh là khoảng thời gian quá ngắn để cơ quan cạnh tranh có thể thu
thập tất cả các thông tin cần thiết, và đưa ra kết luận chính xác.
Trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc cạnh tranh,
Hội đồng xử lý vụ việc phải ra một trong các quyết định mở Phiên điều trần,
hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh
tranh. Trên thực tế, vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền là những vụ
việc rất phức tạp, hồ sơ vụ việc có thể lên đến hàng nghìn bút lục. Trong khi
đó, các thành viên Hội đồng xử lý thường là những cán bộ kiêm nhiệm, không
chuyên trách, vì vậy, khoảng thời hạn 30 ngày để đưa ra quyết định xử lý vụ
việc là không hợp lý. Đối với một vụ việc được thu thập thông tin và chứng
cứ trong khoảng thời gian gần một năm, trong vòng 30 ngày, các thành viên
của Hội đồng xử lý khó có thể hiểu được một cách rõ ràng mọi thông tin vụ
việc, điều này ảnh hưởng đến tính chính xác của quyết định của Hội đồng xử
lý đối với vụ việc.
Trong thực tế vụ việc thường có sự liên quan của hai hay nhiều doanh
nghiệp. Hội đồng cạnh tranh sau khi đã ra quyết định xử lý, các doanh nghiệp
dù là bị đơn hay nguyên đơn cũng đều có quyền khởi kiện khiếu nại về quyết
định của Hội đồng cạnh tranh tới các tòa án cấp tỉnh và thành phố trực thuộc
Trung ương. Vì vậy, khả năng có thể xảy ra là Hội đồng cạnh tranh sẽ phải
116
theo đuổi vụ kiện với danh nghĩa là bị đơn ở rất nhiều nơi khi mà các doanh
nghiệp khiếu nại khởi kiện tại các địa phương khác nhau.
- Về biện pháp xử lý vi phạm
Xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh ở Việt Nam được
quy định và hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 71/2014/NĐ-CP [27], bao gồm
hình thức xử phạt chính là phạt cảnh cáo và phạt tiền, hình thức xử phạt bổ
sung và một số biện pháp khắc phục hậu quả. Việc xử phạt các hành vi vi
phạm vẫn còn tồn tại một số khó khăn như sau:
Thứ nhất, mức phạt tiền được xác định căn cứ trên tổng doanh thu của
năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm là không hợp lý. Theo quy
Luật Cạnh tranh, mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh
tranh lên đến 10% tổng doanh thu của năm tài chính trước năm thực hiện
hành vi vi phạm. Trên thực tế, hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh của
doanh nghiệp chỉ thực hiện và gây tác động tiêu cực trên một thị trường sản
phẩm, dịch vụ nhất định, trong khi một doanh nghiệp có thể thực hiện kinh
doanh đối với nhiều sản phẩm, dịch vụ khác nhau. Thậm chí trong một số vụ
việc, doanh thu phát sinh từ việc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có liên quan
trực tiếp đến hành vi vi phạm chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng doanh
thu của doanh nghiệp. Vì vậy, mức phạt dựa trên căn cứ “tổng doanh thu” của
doanh nghiệp không phản ánh đúng mức độ tác động của hành vi vi phạm và
không tương xứng với thiệt hại trên thị trường do hành vi vi phạm gây ra.
Với quan điểm quyết định xử phạt dựa vào các căn cứ hợp lý để doanh
nghiệp tiếp tục tồn tại, nhiều quốc gia đã áp dụng nguyên tắc tính mức xử
phạt căn cứ theo doanh thu trên thị trường liên quan hoặc thị trường bị ảnh
hưởng, đảm bảo tính hợp lý nhưng cũng mang sức răn đe, cảnh báo của cơ
quan cạnh tranh ở một số quốc gia.
117
Thứ hai, thiếu cơ sở để xác định mức phạt tiền cụ thể đổi với các doanh
nghiệp thực hiện hành vi vi phạm. Đối với hình thức phạt tiền, hiện nay pháp
luật cạnh tranh quy định khung xử phạt từ 0 - 10% tổng doanh thu trong năm
tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Điều 4 Nghị định 71/NĐ-CP
đã đưa ra các căn cứ để xác định mức độ xử lý đối với các hành vi vi phạm,
nhưng không quy định cụ thể việc sử dụng và đánh giá các căn cứ để xác định
tỷ lệ tính mức phạt như thế nào. Điều này gây khó khăn cho cơ quan cạnh
tranh trong việc xác định mức phạt tiền cụ thể đối với các doanh nghiệp vi
phạm, thậm chí gây tranh cãi trong quyết định mức độ xử lý vi phạm hoặc có
thể dẫn đến việc tùy tiện trong quyết định mức phạt.
2.3.2. Đánh giá theo nhóm tiêu chí bên ngoài
2.3.2.1. Đánh giá về công tác tổ chức thực thi pháp luật cạnh tranh
Sau hơn gần 10 năm thực thi, Luật Cạnh tranh đã bước đầu phát huy
vai trò tích cực trong việc giữ cho môi trường cạnh tranh lành mạnh, xử lý
những hành vi làm sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Mặc dù số
lượng vụ việc cạnh tranh được điều tra, xử lý là chưa nhiều (08 vụ hạn chế
cạnh tranh và 122 vụ cạnh tranh không lành mạnh) nhưng đó chính là sự khởi
đầu cho thấy Luật Cạnh tranh đã chính thức đi vào cuộc sống và gắn liền với
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong quá trình xử lý các vụ
việc đầu tiên, một mặt các cơ quan cạnh tranh nhấn mạnh mục tiêu bảo vệ
quyền và lợi ích họp pháp của tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh doanh,
mặt khác, rung hồi chuông cảnh báo cho các doanh nghiệp có hành vi tương
tự để họ tự nguyện điều chỉnh hành vi kinh doanh của mình.
Trong gần mười năm qua, công tác thực thi pháp luật cạnh tranh đã đạt
được một số kết quả nổi bật, cụ thể là:
Thứ nhất, xây dựng và trình Chính phủ ban hành và sửa đổi 05 Nghị
định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh (trong đó có 02 Nghị
định của Chính phủ về các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh).
118
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện bộ máy các cơ quan thực thi Luật
Cạnh tranh bao gồm: Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.
Đối với Cục Quản lý cạnh tranh, từ 9 cán bộ lúc ban đầu, hiện nay Cục
Quản lý cạnh tranh đã xây dựng và hoàn thiện bộ máy với nguồn nhân lực là
hơn 104 cán bộ với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ bước đầu đáp ứng được
nhu cầu công tác.
Đối với Hội đồng cạnh tranh và bộ máy giúp việc, Bộ Công Thương đã
trình Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm 15 ủy viên Hội đồng cạnh tranh trong đó
có 01 Chủ tịch, 02 Phó chủ tịch và 12 ủy viên Hội đồng với thành phần đa
dạng từ nhiều bộ, ngành khác nhau như Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công Thương và
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Với mục đích thực hiện tốt nhiệm vụ được
Chính phủ giao, Thủ tướng Chính phủ đã hai lần kiện toàn Hội đồng cạnh
tranh thông qua đề xuất các ủy viên mới (thay thế các ủy viên đã nghỉ hưu, có
thay đổi công tác), cơ chế phụ cấp cho các ủy viên Hội đồng. Giúp việc Hội
đồng cạnh tranh là Văn phòng Tổng thư ký Hội đồng cạnh tranh (trước đây
gọi là Ban Thư ký Hội đồng) đã được thành lập, có 7 cán bộ và thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, đã phối hợp chặt chẽ và tổ chức hợp tác với nhiều cơ quan,
ngành và các cơ quan điều tiết ngành trong việc triển khai, giám sát việc thực
thi pháp luật cạnh tranh trong mối quan hệ với các pháp luật chuyên ngành
khác. Cụ thể, các cơ quan cạnh tranh đã có nhiều mối hợp tác với các cơ quan
quản lý chuyên ngành trong lĩnh vực dược phẩm, viễn thông, giá, điện
lực...Việc phối hợp này được thể hiện rõ nét nhất trong quá trình xây dựng
pháp luật chuyên ngành, chiến lược phát triển ngành, các cơ quan quản lý
ngành đã chủ động lấy và tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp của các cơ quan
quản lý cạnh tranh.
119
Thứ tư, từ năm 2005 đến nay, sau khi hệ thống pháp luật về cạnh tranh
được ban hành, các cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh đã thường xuyên
tích cực thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông
qua các hội thảo, diễn đàn trao đổi, các khóa đào tạo... trong đó có một số
chương trình được tổ chức quy mô, nhận được nhiều sự quan tâm của đông
đảo các tổ chức, hiệp hội và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các cơ quan cạnh
tranh cũng đã phát hành nhiều ấn phẩm cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân và
cộng đồng doanh nghiệp với nhiều chủ đề đa dạng như: Chính sách pháp luật
và các quy định liên quan đến Luật Cạnh tranh, nâng cao kỹ năng của điều tra
viên, kỹ năng về điều tra các hành vi hạn chế cạnh tranh trong thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, thông đồng trong đấu thầu, các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, kinh nghiệm áp dụng pháp luật cạnh tranh trong một số lĩnh vực
chuyên ngành của EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc.
Ngoài ra, hoạt động hợp tác quốc tế của các cơ quan cạnh tranh cũng
diễn ra rất sôi động do đặc thù của lĩnh vực cạnh tranh có nhiều yếu tố xuyên
quốc gia, cần thiết có nhiều hoạt động hợp tác, chia sẻ thông tin. Cụ thể, các
cơ quan cạnh tranh đã thiết lập mối quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức có liên
quan trên thế giới như OECD, UNCTAD, ICN (mạng lưới cạnh tranh quốc
tế), APEC... và cơ quan cạnh tranh của một số nước và vùng lãnh thổ như
Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Inđônêxia, Singapore,... Nhiều Dự án
hợp tác đã và đang được triển khai giữa các cơ quan cạnh tranh và các tổ chức
như EU-MUTRAP III (Liên minh châu Âu), CUTS, JICA... nhằm tăng cường
năng lực của cơ quan cạnh tranh trong thực thi pháp luật.
Thứ năm, công tác xây dựng nguồn lực đặc biệt là việc đào tạo và phát
triển số lượng điều tra viên vụ việc cạnh tranh đã được quan tâm. Tuy nhiên,
hầu hết các cán bộ của cơ quan thực thi hiện nay đều rất trẻ thiếu kinh nghiệm
nên việc đào tạo, nâng cao đạo đức cho cán bộ điều tra viên của Cơ quan quản
120
lý cạnh tranh cần phải được quan tâm hơn nữa. Đặc biệt, số lượng điều tra
viên hiện nay chỉ có hơn 20 người là quá ít so với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
2.3.2.2. Đánh giá về khả năng tiếp cận và tuân thủ pháp luật cạnh
tranh của cộng đồng doanh nghiệp
Khả năng tiếp cận, nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật
cạnh tranh đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình thực thi chính sách
và Luật Cạnh tranh, vì các doanh nghiệp là đối tượng điều chỉnh chính của
Luật. Mặc dù, trong thời gian vừa qua, Cơ quan QLCT đã tập trung nhiều
nguồn lực để thực hiện các hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật. Tuy
nhiên, trên thực tế, hiểu biết của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên
thị trường Việt Nam về pháp luật cạnh tranh còn khá hạn chế. So với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thường có bộ phận pháp chế hoạt
động hết sức tích cực làm cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước, thì các doanh nghiệp Việt Nam hoặc là không có bộ
phận pháp chế, hoặc là bộ phận pháp chế yếu kém, chưa thực hiện tốt chức
năng tư vấn cho doanh nghiệp về luật pháp nói chung cũng như pháp luật
cạnh tranh nói riêng. Hiện nay, một số doanh nghiệp không hề quan tâm đến
Luật Cạnh tranh, thậm chí có những hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh mà vẫn
chưa nhận thức được.
Theo kết quả khảo sát 500 DN tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh bao gồm
các DN thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, như DN nhà nước, DN có
vốn đầu tư nước ngoài (FDI), DN liên doanh và DN tư nhân thì phần lớn các
DN mới chỉ biết đến Luật Cạnh tranh trong vòng 2 năm gần đây (197 DN,
chiếm 39.4%), trong khi đó 169 DN biết đến Luật Cạnh tranh sớm hơn một
chút, khoảng từ 2-4 năm trước, chiếm tỷ lệ 33.8% trong số các DN được hỏi.
Số lượng các DN biết về Luật Cạnh tranh từ khi Luật mới ban hành chỉ gồm
134 DN, chiếm tỷ lệ ít hơn với 26.8%.
121
Bảng 2.9. Thời điểm DN bắt đầu nhận thức về Luật Cạnh tranh
Số lượng Tỷ lệ
Phần trăm
tích lũy
197
39.4%
39.4%
Mới biết trong vòng 2 năm gần
đây
169
33.8%
73.2%
Biết từ 2-4 năm trước
134
26.8%
100.0%
Biết ngay từ khi Luật mới ban
hành
Tổng
500 100.0%
Nguồn: Kết quả khảo sát thực tế
DN phần lớn nhận biết về Luật Cạnh tranh thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng (350 ý kiến, chiếm 70% số DN được khảo sát). Bên cạnh
đó, Luật Cạnh tranh cũng được DN tiếp cận thông qua việc tự tìm hiểu,
nghiên cứu (50.4%), qua các hội thảo, tập huấn mà cán bộ của DN tham dự
(16.8%) hoặc do chuyên gia pháp lý/luật sư tư vấn (9.4%).
Bảng 2.10 Kênh thông tin giúp doanh nghiệp nhận biết
Luật Cạnh tranh
Trả lời
Số lượng
Tỷ lệ
Tỷ lệ các trường hợp
trong số DN được
khảo sát
252
33.80%
50.40%
Tự tìm hiểu/nghiên cứu
350
46.90%
70.00%
Phương tiện thông tin đại chúng
84
11.30%
16.80%
Hội thảo, tập huấn mà cán bộ của DN
có tham dự
47
6.30%
9.40%
Chuyên gia pháp lý/luật sư tư vấn
13
1.70%
2.60%
Kênh khác
746 100.00%
149.20%
Tổng
Nguồn: Kết quả khảo sát thực tế
122
Ngoài ra, DN cũng có thể nhận biết về Luật Cạnh tranh qua một vài
kênh thông tin khác, chẳng hạn như qua thông tin trao đổi với bạn bè, đồng
nghiệp; thông tin từ các tập đoàn; thông báo do Chính phủ ban hành; tài liệu
nghiên cứu tại trường Đại học Luật, các tài liệu hướng dẫn, tài liệu từ các
trang thông tin điện tử.
Bảng 2.11. Đánh giá của DN về mức độ hiểu biết các quy định của
pháp luật cạnh tranh
Phần trăm
Số lượng
Tỷ lệ
tích lũy
272
54.4%
54.4%
Hiểu ít
192
38.4%
92.8%
Hiểu tương đối
28
5.6%
98.4%
Hiểu khá rõ
8
1.6%
100.0%
Hiểu rất rõ
500 100.0%
Tổng
Nguồn: Kết quả khảo sát thực tế
Trong số 500 DN được khảo sát, có tới 464 DN (tức 92.8%) chưa hiểu
rõ về Luật Cạnh tranh khi tự cho rằng mới chỉ “hiểu một ít” (272 DN, chiếm
54.4%) hoặc “hiểu tương đối” (192 DN, chiếm 38.4%) về các quy định của
Luật Cạnh tranh. Trong khi đó, chỉ có 36/500 DN tự đánh giá là “hiểu khá rõ”
và “hiểu rất rõ” về Luật Cạnh tranh, trong đó số DN “hiểu rất rõ” chỉ chiếm
1.6% (tức 8 DN).
Hiện nay, có hàng nghìn hiệp hội, tổ chức ngành nghề đang hoạt động
tại Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hiệp hội, tổ chức chưa thực hiện đúng
vai trò, chức năng là cầu nối giữa doanh nghiệp và Nhà nước, trung gian
tuyên truyền, phổ biến pháp luật, vận động, khuyến khích doanh nghiệp thành
viên chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
123
Thực tế cho thấy, do thiếu hiểu biết về pháp luật cạnh tranh, một số
hiệp hội đã đóng vai trò tổ chức cho các doanh nghiệp thành viên tham gia,
thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Nhiều doanh nghiệp còn
chưa ý thức được vai trò của Luật Cạnh tranh và chức năng, nhiệm vụ của Cơ
quan thực thi Luật Cạnh tranh trong việc bảo vệ môi trường cạnh tranh công
bằng, lành mạnh cũng như bảo vệ lợi ích hợp pháp của chính các doanh
nghiệp. Chính vì thế, tình trạng các doanh nghiệp không có thái độ hợp tác
với Cơ quan QLCT trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ, hay thu thập
thông tin phục vụ công tác rà soát thị trường ngành đã xảy ra. Đây là một trở
ngại lớn đối với cơ quan điều tra trong công tác thực thi pháp luật cạnh tranh.
2.3.3. Một số bất cập và nguyên nhân
2.3.3.1. Một số bất cập
Như đã phân tích ở phần trên, bên cạnh bất cập về một số quy định của
pháp luật cạnh tranh hiện không còn phù hợp với thực tiễn còn một số bất cập
sau đây cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả thực thi pháp luật cạnh
tranhViệt Nam trong thời gian qua:
- Về vị trí cơ quan cạnh tranh
Kinh nghiệm tại các nước kinh tế thị trường phát triển cho thấy pháp
luật cạnh tranh có được thực thi tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào vai trò
của cơ quan thực thi luật (chức năng, nhiệm vụ, năng lực...). Lý do của điều
này xuất phát từ bản chất pháp lý của luật cạnh tranh là luật công (nặng về
tính răn đe và trừng phạt), mà đối với bất kỳ một ngành luật công nào (hành
chính, hình sự...) các cơ quan công quyền đều đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc bảo đảm luật được thực thi nghiêm chỉnh.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước như phân tích ở phần trên, để hoạt
động có hiệu quả cơ quan cạnh tranh phải có đầy đủ các yếu tố sau đây.
+ Phải hoạt động độc lập và được trao đầy đủ quyền hạn theo quy định
của pháp luật cạnh tranh;
124
+ Đảm bảo tính minh bạch trong thực thi các nhiệm vụ được giao;
+ Phải nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ phía các cơ quan quản lý nhà
nước, các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Mô hình của cơ quan cạnh tranh hiện nay của Việt Nam bao gồm Cục
Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.
Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan quản lý nhà nước thuộc Bộ Công
Thương có chức năng quản lý về cạnh tranh, cụ thể: Thụ lý hồ sơ đề nghị
hưởng miễn trừ; đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định
hoặc trình Thủ tướng Chính phủ quyết định; Điều tra các vụ việc cạnh tranh
liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành
mạnh; Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh; bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong nhập khẩu
hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam. Với chức năng và nhiệm vụ được giao
cho thấy phạm vi hoạt động của Cục tương đối rộng.
Về vị trí của cơ quan cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh là tổ chức
trực thuộc Bộ Công Thương không phải là cơ quan độc lập. Điều này cũng
tạo ra một số bất cập trong quá trình quản lý và thực thi pháp luật cạnh tranh
ở Việt Nam bởi những điểm sau:
+ Trong điều kiện nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước đang
giữ hầu hết các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, do đó, đối tượng điều tra
của cơ quan quản lý cạnh tranh có thể sẽ là các tổng công ty nhà nước, các tập
đoàn kinh tế lớn và thậm chí là cả các cơ quan quản lý nhà nước. Nếu không
có một vị thế đủ mạnh thì cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ không thể thực hiện
tốt các nhiệm vụ của mình. Mặt khác, việc Cục Quản lý cạnh tranh và Hội
đồng cạnh tranh tiến hành điều tra và xử lý một vụ việc có liên quan đến
doanh nghiệp nhà nước thì có thể dẫn đến những quan ngại về tính khách
quan của vụ việc do quan niệm cơ quan nhà nước “vừa đá bóng vừa thổi còi”.
125
+ Cơ quan quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ sẽ không đảm bảo được
tính tự chủ trong việc quản lý ngân sách hoạt động, tuyển chọn, bổ nhiệm
cũng như đào tạo nhân sự bảo đảm cho cơ quan quản lý cạnh tranh có thực
quyền cao hơn đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của hội nhập kinh tế quốc tế,
khi mà số vụ kiện về các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh tăng lên một
cách đáng kể.
Hội đồng cạnh tranh là cơ quan quyền lực nhà nước độc lập đảm nhận
vai trò xét xử, xử lý, đưa ra các quyết định, giải quyết khiếu nại có liên quan
đến vụ việc cạnh tranh. Hội đồng cạnh tranh lại là tập hợp 15 thành viên đại
diện của các Bộ: Bộ Công Thương, Bộ Tư Pháp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch
đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng,... do Thủ tướng bổ nhiệm theo
đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương. Khi mà các doanh nghiệp bị điều tra
và xử lý lại là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc các Bộ và Ngành mà thành
viên của Hội đồng cạnh tranh đại diện, thì việc đưa ra quyết định xử lý vụ
việc rất khó được coi là công bằng và khách quan.
Hơn nữa, thành viên của Hội đồng cạnh tranh không tham gia điều tra
vụ việc ngay từ thời điểm ban đầu, nên việc ra quyết định xử lý sẽ không
được thấu đáo và chặt chẽ, thậm chí làm kéo dài thêm thời gian xử lý vụ việc.
- Về nguồn nhân lực của cơ quan cạnh tranh
Phần lớn các vụ việc cạnh tranh mang yếu tố kỹ thuật, chuyên ngành,
tương đối phức tạp. Do vậy, Luật Cạnh tranh quy định các điều tra viên vụ
việc cạnh tranh phải do Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương)
bổ nhiệm và phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định.
Biên chế hành chính được giao cho Cơ quan QLCT năm 2013 là 104
người, trong đó số cán bộ làm trong lĩnh vực cạnh tranh chỉ khoảng 20 người
(số còn lại thuộc các đơn vị thực thi pháp luật về phòng vệ thương mại và bảo
vệ người tiêu dùng).
126
Đến nay, Cơ quan cạnh tranh có 33 người đã được Bộ trưởng Bộ Công
Thương bổ nhiệm làm điều tra viên theo quy định của Luật Cạnh tranh. Tuy
nhiên, các điều tra viên không chỉ tập trung làm việc tại các đơn vị phụ trách
cạnh tranh mà lại công tác rải rác ở các đơn vị chuyên môn khác. Việc huy
động các điều tra viên ở các đơn vị chuyên môn khác tham gia, theo đuổi quá
trình điều tra một vụ việc hạn chế cạnh tranh kéo dài từ nửa năm đến hơn một
năm là tương đối khó khăn. Đây cũng là một hạn chế đối với việc thực thi
chính sách cạnh tranh một cách hiệu quả.
- Về cơ chế phối hợp với các cơ quan liên quan
Trong thời gian qua, việc triển khai hoạt động hợp tác với các cơ quan
điều tiết ngành mới chỉ dừng lại ở việc phát triển theo chiều rộng, chưa phát
triển theo chiều sâu dẫn đến kết quả mang lại vẫn chưa được như mong đợi. Ví
dụ, xuất phát từ việc chồng chéo trong các văn bản pháp luật của Việt Nam
điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh, có những hành vi có thể được
xử lý tại các cơ quan nhà nước khác nhau hoặc có sự đan xen lẫn nhau giữa các
cơ quan này. Điều này dẫn đến sự cần thiết phải hợp tác giữa các cơ quan để
việc thực thi pháp luật mang lại được hiệu quả cao hơn. Các quy định trong cơ
chế hợp tác quản lý cũng cần phải rõ ràng, minh bạch và đem lại hiệu quả.
Tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực trong hoạt động hợp tác giữa cơ
quan quản lý cạnh tranh và cơ quan điều tiết ngành, quá trình hợp tác giữa các
cơ quan quản lý trong thực thi luật và chính sách cạnh tranh cần được đẩy
mạnh hơn nữa. Trong đó, các cơ quan quản lý ngành phải coi trọng yếu tố
cạnh tranh bình đẳng là cơ sở để phát triển kinh tế xã hội và phát triển ngành.
Từ đó nâng cao hợp tác với cơ quan quản lý cạnh tranh trong quá trình tạo ra
môi trường kinh doanh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường, đóng góp xây
dựng kinh tế vững mạnh, hội nhập với kinh tế thế giới.
127
2.3.3.2. Nguyên nhân của những bật cập
Nguyên nhân của những tồn tại nêu trên có cả nguyên nhân khách quan
và nguyên nhân chủ quan dẫn đến chưa sử dụng hiệu quả pháp luật cạnh tranh
trong thời gian qua. Nguyên nhân khách quan xuất phát từ trình độ phát triển
của nền kinh tế còn thấp, pháp luật cạnh tranh là vấn đề mới chúng ta chưa có
nhiều kinh nghiệm. Do vậy, khi hội nhập kinh tế quốc tế cần phải học tập
kinh nghiệm của các nước trên thế giới để xây dựng và thực thi hiệu quả pháp
luật cạnh tranh trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh nguyên nhân khách quan cũng tồn tại không ít nguyên nhân
chủ quan dẫn đến hiệu quả công tác thực thi pháp luật cạnh tranh chưa đạt
được kết quả như kỳ vọng, đó là:
- Thứ nhất: Chưa nhận được sự quan tâm thích đáng của lãnh đạo các cấp
với công tác thực thi pháp luật cạnh tranh. Nhiều nhà lãnh đạo vẫn còn tư duy
bảo hộ, bao bọc, chưa hướng tới xây dựng môi trường cạnh tranh ở nước ta.
- Thứ hai, nhiều quy định của Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng
dẫn thi hành chưa tốt, không có tính thực tiễn nên gây khó khăn cho công tác
thực thi pháp luật cạnh tranh.
- Thứ ba, Cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh chưa đủ mạnh, chưa
tương xứng với nhiệm vụ được giao. Công tác thực thi pháp luật cạnh tranh
và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh bao chùm trong nhiều lĩnh vực
liên quan đến nhiều Bộ, Ban ngành cả Trung ương và địa phương, trong khi
đơn vị thực thi chỉ là cấp Cục thuộc Bộ thì chưa đủ mạnh, làm giảm hiệu quả
công việc.
- Thứ tư: Nhận thức chung của cộng đồng xã hội với pháp luật cạnh
tranh chưa tốt, bao gồm cả cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội, cơ quan
truyền thông báo chí và chính bản thân doanh nghiệp chưa nhận thức được hết
lợi ích của pháp luật cạnh tranh trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của
mình khi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh trên thị trường.
128
- Thứ năm: Chưa xây dựng được cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ
quan quản lý cạnh tranh và các cơ quan điều tiết ngành cùng thực thi nhiệm
vụ bảo vệ môi trường cạnh tranh.
- Thứ sáu: Các công cụ hỗ trợ thực thi pháp luật cạnh tranh còn thiếu.
Chính sách khoan dung và các công cụ điều tra tại chỗ để phát hiện, bảo vệ
chứng cứ chưa hoàn thiện làm giảm số lượng vụ việc vi phạm pháp luật cạnh
tranh bị phát hiện và điều tra trên thị trường.
129
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
Ở VIỆT NAM
3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế
3.1.1. Bối cảnh trong nước
Trong thời gian gần đây, tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam đã từng
bước ổn định, lạm phát được kiểm soát. Tăng trưởng kinh tế có bước phục hồi
nhưng môi trường kinh doanh và năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp trong khi yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng cao. Nhu cầu
cho phát triển kinh tế xã hội rất lớn nhưng nguồn lực còn hạn hẹp.
Trong thời gian tới, việc tiếp tục đẩy mạnh lộ trình tái cơ cấu nền kinh
tế, tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh... sẽ tác động
không nhỏ tới môi trường kinh doanh. Để loại bỏ các doanh nghiệp khó khăn
về vốn, thị trường và kinh doanh không hiệu quả, hoạt động sáp nhập và tập
trung kinh tế sẽ diễn ra nhiều hơn đặc biệt trong một số lĩnh vực như tài
chính, ngân hàng, sự can thiệp của nhà nước có xu hướng giảm dần, các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm quyền lợi người tiêu dùng sẽ ngày
càng phổ biến và tinh vi.
Cùng với đó, giai đoạn 2015-2020 cũng sẽ là giai đoạn có nhiều biến
động trong công tác hội nhập kinh tế quốc tế, năm 2015 là năm thành lập
Cộng đồng kinh tế ASEAN, nhiều hiệp định song phương và đa phương như
TPP, Việt Nam – EU, Liên minh Hải quan Nga – Belarus - Kazactan… sẽ
trực tiếp tác động tới nền kinh tế Việt Nam. Các doanh nghiệp, tập đoàn kinh
tế nước ngoài sẽ xuất hiện ngày càng nhiều, sự cạnh tranh giữa các doanh
130
nghiệp trong và ngoài nước sẽ diễn ra gay gắt đòi hỏi phải có một chính sách
cạnh tranh đủ mạnh để làm công cụ giúp Chính phủ điều tiết thị trường vận
hành hiệu quả.
3.1.2. Bối cảnh quốc tế
Trong những thập kỷ qua, tình hình thế giới đã có những biến đổi hết
sức nhanh chóng và không thể lường trước được đã ảnh hưởng tới sự nghiệp
phát triển kinh tế xã hội của các nước đang phát triển. Tất cả các nước đều tìm
kiếm lợi ích theo điều kiện của mình. Tình trạng tranh giành lẫn nhau để nắm
lấy công nghệ mới, kể cả việc tranh giành thị trường tiêu thụ hàng hoá giữa
các nước siêu cường về kinh tế đang diễn ra gay gắt. Việc kết hợp giữa cạnh
tranh và hợp tác để bảo vệ lợi ích của mỗi quốc gia cũng đang diễn ra trên
phạm vi toàn cầu.
Theo dự báo của Quỹ tiền tệ quốc tế, nền kinh tế thế giới năm 2015 và
các năm tiếp theo sẽ phục hồi mạnh hơn, tăng trưởng toàn cầu được dự báo
năm 2015 là 4% tăng 0,6 phần trăm so với dự báo tăng trưởng năm 2014.
Song bên cạnh đó tình hình chính trị vẫn còn nhiều biến động: cuộc khủng
hoảng và cuộc chiến chống Nhà nước Hồi giáo IS ở Trung Đông, cấm vận của
phương Tây với Nga... sẽ tác động đến nền kinh tế toàn cầu. Tranh chấp
thương mại sẽ diễn ra nhiều hơn và phức tạp hơn.
Xu thế hội nhập quốc tế vừa là cơ hội vừa là thách thức rất lớn với
sự phát triển kinh tế cho các quốc gia đang phát triển. Tác động của khoa học
công nghệ nhất là công nghệ tin học là một trong những yếu tố quan trọng
làm thay đổi về kinh tế và quan hệ quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật và công nghệ mới đã tác động trên tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Các nước trong các khu vực khác nhau đã hình thành những liên minh tạo nên
sự hợp tác và cạnh tranh mang tính quốc tế.
131
Thị trường nói chung bị chi phối nhiều bởi yếu tố kinh tế và chính trị,
ngày càng khắt khe về chất lượng và chủng loại sản phẩm, điều đó tác động
rất mạnh đến các nước sản xuất sản phẩm xuất khẩu.
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và việc tham gia các cam
kết quốc tế song phương và đa phương với yêu cầu cao hơn, toàn diện hơn đòi
hỏi năng lực quản lý của cơ quan quản lý nhà nước phải hiệu quả hơn, năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp phải cao hơn.
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật cạnh tranh trong thời gian tới ở Việt Nam
3.2.1. Tạo lập một sân chơi bình đẳng cho cộng đồng doanh nghiệp
Quá trình đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam trong
những năm gần đây đã thúc đẩy thị trường Việt Nam phát triển và trưởng thành
với một tốc độ vượt bậc, góp phần làm cải thiện diện mạo của nền kinh tế Việt
Nam một cách đáng kể. Tuy nhiên, mặt trái quá trình này đã bắt đầu bộc lộ.
Môi trường cạnh tranh ngày càng gắt gao mang tính sống còn với doanh
nghiệp, tâm lý chạy theo lợi nhuận, lợi dụng sự thiếu vắng một khung pháp lý
hoàn chỉnh điều chỉnh các hoạt động kinh tế, cũng như khe hở của các quy định
pháp luật hiện hành, v.v… đã làm xuất hiện trên thị trường nhiều hành vi hạn
chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh gây khó khăn, làm tổn hại đến nền
kinh tế, đến hoạt động kinh doanh và lợi ích kinh tế chính đáng của các doanh
nghiệp và của người tiêu dùng. Do đó, chắc chắn trong thời gian tới, số vụ kiện
liên quan đến Luật cạnh tranh sẽ ngày càng tăng.
Ngoài ra, Việt Nam đã và đang tham gia vào nhiều hiệp định thương
mại tự do song phương và đa phương, theo đó sẽ có rất nhiều các tập đoàn
kinh tế lớn mạnh đầu tư vào Việt Nam. Một điều có thể sẽ xảy ra là những tập
đoàn kinh tế lớn với nguồn lực tài chính lớn mạnh của mình có thể sẽ bóp
méo môi trường kinh doanh bằng cách lạm dụng nguồn tài chính sẵn có chèn
ép và loại bỏ ra khỏi thị trường các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, hiện
132
nay gần 95% các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp nhỏ và vừa với
sức cạnh tranh còn hạn chế. Yêu cầu đặt ra hiện nay là làm sao để đảm bảo
môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
Việt Nam có cơ hội cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp nước ngoài.
Mặt khác, để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, cũng phải tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam không bị các
doanh nghiệp Việt Nam sử dụng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh để
cản trở phát triển và mở rộng kinh doanh trên thị trường Việt Nam. Những
điều này đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả của pháp luật cạnh tranh.
3.2.2. Đáp ứng được các yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội
Bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam trong những năm qua, đặc biệt
là khi Việt Nam hội nhập sâu, rộng hơn với nền kinh tế quốc tế, đã có nhiều
thay đổi làm cho một số nội dung của Luật Cạnh tranh không còn phù hợp,
hoặc chưa bắt kịp với thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều chiến
lược cạnh tranh mới, trong đó có cả các hành vi phản cạnh tranh đã “du nhập”
và được các doanh nghiệp vận dụng trong hoạt động kinh doanh. Các hành vi
hạn chế cạnh tranh mang tính chất tận thu (exploitative) hoặc đóng cửa thị
trường/loại bỏ đối thủ cạnh tranh (market foreclosure/exclusionnary) được
thực hiện dưới nhiều hình thức mới với mức độ tinh vi, phức tạp ngày càng
cao hơn.
Trong khi đó các quy định hiện hành của Luật Cạnh tranh còn mang
tính kỹ thuật, cứng nhắc chưa nhắm vào bản chất phản cạnh tranh của hành vi
mà chỉ nhắm đến hình thức biểu hiện bên ngoài của hành vi và vì vậy, chưa
bắt kịp với điều kiện thực tiễn, gây khó khăn cho quá trình thực thi pháp luật.
Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh cho thấy còn nhiều dạng thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền và
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần được bổ sung thêm vào các quy
định hiện hành để cơ quan cạnh tranh có cơ sở điều tra, xử lý.
133
Bên cạnh đó, trong thời gian qua, đã có nhiều văn bản quy phạm pháp
luật (đặc biệt là các quy định về điều tiết ngành và doanh nghiệp, tập đoàn
nhà nước) đã được ban hành, bổ sung hoặc sửa đổi. Kết quả rà soát, nghiên
cứu các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật mới cho thấy, do các
đặc thù riêng, thông lệ kinh doanh riêng của một số ngành, lĩnh vực như tài
chính ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông… các cơ quan chức năng đã quy định
thêm nhiều nội dung điều chỉnh hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong ngành. Chính vì vậy, để tránh chồng chéo, mâu thuẫn và đảm bảo sự hài
hòa giữa mục tiêu phát triển ngành và mục tiêu tạo lập, duy trì và thúc đẩy
môi trường cạnh tranh hiệu quả, giúp phát triển kinh tế đòi hỏi cần có các điều
chỉnh tương ứng trong pháp luật cạnh tranh.
3.2.3. Phù hợp với các cam kết mới của Việt Nam trong các Hiệp
định song phương và đa phương
Trong một số các Hiệp định thương mại mà Việt Nam đã và đang tham
gia, ký kết gần đây như: Hiệp định đối tác chiến lược Việt Nam- Nhật Bản ,
Hiệp định tự do thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc, Liên minh Châu
Âu, Liên minh hải quan Nga-Belarus-Kazakhstan và Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương TPP, Việt Nam đã có nhiều các cam kết mới liên quan tới
chính sách cạnh tranh như: minh bạch hóa, các quy định về cơ quan cạnh
tranh và các quy định về phối hợp cùng hành động giữa các cơ quan cạnh
tranh trong khu vực… nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho
các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Để thực hiện tốt các cam kết mới
này, trong thời gian tới, cần nhanh chóng tiến hành rà soát và hoàn thiện pháp
luật cạnh tranh của Việt Nam cho phù hợp.
134
3.3. Quan điểm và định hướng nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
cạnh tranh trong thời gian tới
3.3.1. Quan điểm
a. Việc thực thi pháp luật cạnh tranh phải đảm bảo thực hiện đầy đủ
các cam kết quốc tế trên cơ sở điều kiện kinh tế, xã hội và năng lực, chất
lượng đội ngũ cán bộ của Việt Nam; đặc biệt chú trọng công tác điều tra,
giám sát, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
b. Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm quốc tế để xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành hiệu quả pháp
luật cạnh tranh trong thời gian tới.
c. Việc sửa đổi, điều chỉnh chính sách, pháp luật về cạnh tranh phải
đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, minh
bạch và đảm bảo quyền tự do cạnh tranh trong kinh doanh của các doanh
nghiệp. Việc cạnh tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc trung thực,
không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng.
3.3.2. Định hướng
Việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật và thể chế thực thi pháp luật trong
tình hình mới là cần thiết. Tuy nhiên, do tính phức tạp, hệ trọng nội tại của
pháp luật cạnh tranh cũng như trong mối quan hệ với các pháp luật có liên
quan, công tác nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh trong giai đoạn
tiếp theo cần được thực hiện theo hướng:
a. Phù hợp với quy định của Hiến pháp: Điều 51 Hiến pháp Nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định “Các chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp
luật”. Điều này đòi hỏi những sửa đổi pháp luật cạnh tranh trong tương lai
phải góp phần môi trường thuận lợi cho các chủ thể thuộc thành phần kinh tế
phát triển.
135
b. Phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Chính
phủ trong tình hình mới: Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là một
trong những nội dung quan trọng đã được đề cập đến trong Đại hội lần thứ XI
của Đảng [5], nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Để làm được điều đó, việc nâng cao hiệu quả pháp luật cạnh
tranh với vai trò được coi là trụ cột của pháp luật kinh tế công, là “Hiến pháp”
của thị trường như cách ví von của các nhà khoa học là yêu cầu cần thiết.
c. Tiếp thu và phát triển các ưu điểm đồng thời khắc phục các nhược
điểm của hệ thống pháp luật, thể chế hiện hành.
d. Hướng tới xây dựng một cơ quan canh tranh độc lập và chuyên nghiệp.
e. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về luật và chính sách cạnh tranh
trong nên kinh tế thị trường.
3.4. Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật cạnh tranh
3.4.1. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật cạnh tranh
3.4.1.1. Xác định thị trường liên quan
Các quy định pháp luật về xác định thị trường liên quan cần phải điều
chỉnh theo hướng mở, áp dụng linh hoạt, không nên chỉ căn cứ về khả năng
thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ. Các tiêu chí “đặc tính, mục đích sử
dụng và giá cả” cần phải được đánh giá một cách tổng thể phù hợp với từng
sản phẩm, dịch vụ, không nên tách bạch từng tiêu chí cũng như cứng nhắc áp
dụng tất cả các tiêu chí đối với tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ dẫn đến
những kết luận về thị trường liên quan sai lệch, xa rời thực tế.
Các đánh giá kinh tế, các phép thử thị trường cần phải được sử dụng, và
là căn cứ thiết yếu trước khi đưa ra kết luận về thị trường liên quan trong vụ
136
việc hạn chế cạnh tranh. Do đó, các quy định về các phép thử thị trường và
ngưỡng của phép thử nhằm xác định thị trường liên quan phải được điều
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn.
3.4.1.2. Quy định về thủ tục khiếu nại vụ việc cạnh tranh
Đối với cá nhân, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại đối với hành vi vi
phạm pháp luật cạnh tranh cần phải có sự điều chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi
cho bên khiếu nại tố cáo, thông báo hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật tới
cơ quan cạnh tranh. Thay vì thủ tục khiếu nại với nghĩa vụ chứng minh thuộc
bên khiếu nại, cơ quan cạnh tranh cần phải có cơ chế tiếp nhận tất cả các
thông tin về các vấn đề của thị trường để từ đó ra quyết định can thiệp trong
trường hợp cần thiết. Điều này sẽ dẫn tới một số thay đổi cơ bản về thủ tục
khiếu nại và thụ lý đơn khiếu nại:
Tất cả các tổ chức, cá nhân đều có quyền khiếu nại về các hành vi vi
phạm pháp luật cạnh tranh thay vì chỉ người chịu thiệt hại bởi hành vi vi
phạm pháp luật cạnh tranh mới có quyền khiếu nại như hiện nay;
Người khiếu nại có thể cung cấp thông tin, chứng cứ về khiếu nại của
mình tuy nhiên đây không nên là một nghĩa vụ bắt buộc;
Cơ quan cạnh tranh cần có thẩm quyền đánh giá các khiếu nại và lựa
chọn các vụ việc để điều tra và xử lý. Nghĩa vụ chứng minh trong mọi trường
hợp thuộc cơ quan cạnh tranh;
Loại bỏ nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng phí xử lý vụ việc cạnh tranh của bên
khiếu nại.
3.4.1.3. Quy định về quy trình điều tra, xử lý vụ việc
- Về thời hạn điều tra, thời hạn ra quyết định xử lý vụ việc hạn chế
cạnh tranh, như đã phân tích, mặt trái của việc quy định thời hạn đó là không
có nhiều thời gian để điều tra viên và thành viên Hội đồng cạnh tranh phân
tích vụ việc một cách chính xác, toàn diện. Vì vậy, Việt Nam cần học tập và
137
vận dụng sáng tạo kinh nghiệm thực thi pháp luật cạnh tranh như Nhật Bản,
Hoa Kỳ hay Châu Âu, theo đó thời hạn điều tra của các vụ việc cạnh tranh,
đặc biệt là liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh thường không quy định
hay ràng buộc. Tại các quốc gia này, có những vụ việc cạnh tranh kéo dài 2
năm thậm chí là 5 năm, phụ thuộc vào tính chất phức tạp của vụ việc.
- Về khiếu nại quyết định của Hội đồng cạnh tranh, như đã phân tích
các bất cập của các quy định về khiếu nại vụ việc cạnh tranh, theo đó nếu
doanh nghiệp nộp hồ sơ khiếu nại tại Tòa án địa phương nào thì cơ quan cạnh
tranh sẽ phải theo kiện tại địa phương đó. Quy định như vậy gây khó khăn rất
lớn cho cơ quan cạnh tranh trong bối cảnh nguồn lực có hạn mà thời gian tố
tụng lại dài. Chính vì vậy, việc giải quyết khiếu nại cho các doanh nghiệp về
quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh cần có quy định tập trung các đầu
mối giải quyết khiếu kiện các vụ án hành chính tại các trung tâm đầu não về
kinh tế, chính trị đặt tại các địa phương một cách hợp lý, vừa phục vụ việc thụ
lý vụ án phù hợp với nguyện vọng của các bên đương sự, tại Tòa án có đủ
nguồn lực giải quyết vụ án, tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước về
cạnh tranh thuận lợi trong việc theo kiện cũng như làm giảm tình trạng khiếu
kiện tràn lan có thể xảy ra trong tương lai.
3.4.1.4. Quy định về biện pháp xử lý vi phạm
- Liên quan đến quy định về phạt tiền đối với các hành vi hạn chế cạnh
tranh, như đã phân tích, việc xác định mức phạt căn cứ trên tổng doanh thu
của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm là không hợp lý. Để
điều chỉnh, cần xác định mức phạt dựa theo doanh thu của doanh nghiệp trên
thị trường liên quan hoặc trên thị trường bị ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm
pháp luật.
- Cơ sở để xác định mức phạt tiền cụ thể trong các vụ việc hạn chế cạnh
tranh, để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động xử lý vi phạm, cần quy
138
định cụ thể nguyên tắc xác định mức xử phạt, cách thức áp dụng các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ… trong tính toán mức phạt. Cụ thể cần quy định mức
phạt cơ bản (basic fine) đối với các hành vi vi phạm và quy định mức tăng,
giảm tỷ lệ phạt tương ứng đối với các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng.
Ngoài ra, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, cần bổ sung mức phạt tiền tối
thiểu đối với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật về hạn chế cạnh tranh, đồng
thời bổ sung các chế tài đối với các Hiệp hội ngành hàng trong các vụ việc,
đặc biệt là các vụ việc liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
- Về biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả, cần điều chỉnh, bổ
sung các biện pháp theo hướng tăng cường phổ biến, giáo dục nhận thức cho
hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh, khôi phục lại các
điều kiện cạnh tranh công bằng, thực hiện các cam kết không vi phạm pháp luật
cạnh tranh trong tương lai. Quan trọng hơn, do các biện pháp này có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong xử lý vụ việc cạnh tranh, nên cần có cơ chế cho phép
cơ quan cạnh tranh phân tích, đánh giá và đề xuất các biện pháp khắc phục hậu
quả đối với từng vụ việc cụ thể.
3.4.1.5. Quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Cần bổ sung một quy định chung hay nói cách khác là một “điều khoản
quét” (basket clause) về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm “quét”
hết các dạng hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường, trong điều kiện cạnh
tranh khốc liệt, các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ngày càng được
doanh nghiệp biến hóa không ngừng nhằm đối phó với cơ quan cạnh tranh.
Mặc dù hình thức thỏa thuận có thể thay đổi, tuy nhiên bản chất hạn chế cạnh
tranh của hành vi chỉ liên quan đến việc hạn chế những yếu tố cạnh tranh như
giá cả, khu vực phân phối, thị trường tiêu thụ, sản lượng, chất lượng hàng
hóa, dịch vụ.
139
Nếu chỉ dùng phương pháp liệt kê hành vi như hiện nay sẽ không thể
bao trùm hết các loại hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Do đó, để đạt
được hiệu quả, cho rằng cần kết hợp hài hòa với phương pháp tiếp cận hợp lý.
Nói cách khác, bên cạnh việc coi các hành vi được liệt kê trong luật cũng như
trong các văn bản hướng dẫn là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cần
cho phép áp dụng quy định chung hay nói cách khác là một “điều khoản quét”
(basket clause) mô tả bản chất của hành vi, không nên chỉ quy định dựa theo
các hình thức biểu hiện bên ngoài một cách cứng nhắc.
- Bổ sung quy định điều chỉnh hành vi của Hiệp hội các doanh nghiệp
trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Mặc dù Hiệp hội không trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh hay
“cạnh tranh” trên thị trường, nhưng hoạt động của các hiệp hội nói chung có
thể có tác động lớn tới việc “tạo điều kiện để hình thành và thực hiện thỏa
thuận giữa các thành viên”. Do đó, cơ quan cạnh tranh cần cân nhắc bổ sung
các quy định để điều chỉnh hành vi của Hiệp hội để phù hợp với thực tiễn và
tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật.
- Xem xét điều chỉnh các hành vi thuộc nhóm bị cấm tuyệt đối và cấm
tùy theo từng trường hợp cụ thể theo hướng:
+ Cấm tuyệt đối đối với 4 dạng thỏa thuận luôn bị coi là nghiêm trọng
trong mọi trường hợp gồm: thỏa thuận ấn định giá; thỏa thuận phân chia thị
trường; thỏa thuận hạn chế, kiểm soát sản lượng sản xuất, mua bán và; thông
đồng đấu thầu.
+ Cấm theo từng trường hợp cụ thể đối với các dạng thỏa thuận khác
(bao gồm thỏa thuận ngang ít nghiêm trọng và thỏa thuận dọc) tùy theo đặc
thù của từng ngành, đặc điểm của từng thị trường. Các hành vi dạng này nên
xem xét cấm theo nguyên tắc hợp lý (rule of reason), dựa trên cơ sở cân nhắc
giữa “lợi ích” và “chi phí”, hay nói cách khác là cân bằng giữa tác động thúc
đẩy cạnh tranh và tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi.
140
- Xem xét sửa đổi cách tiếp cận đánh giá thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
dựa theo tiêu chí duy nhất là thị phần như hiện nay
Mặc dù việc xem xét áp dụng cấm dựa trên một tiêu chí định lượng duy
nhất là thị phần có thể tương đối dễ thực thi và phù hợp đối với các cơ quan
cạnh tranh còn non trẻ, tuy nhiên nó chưa thực sự phản ánh đúng bản chất, ý
nghĩa và mục đích của việc điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Vì vậy, đề xuất cân nhắc sửa đổi cách tiếp cận khi đánh giá thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, nghĩa là khi xem xét điều chỉnh các loại thoả thuận không
thuộc nhóm thoả thuận nghiêm trọng, cơ quan cạnh tranh không nên chỉ dựa
theo tiêu chí thị phần kết hợp giữa các bên tham gia thoả thuận, mà có thể cân
nhắc điều chỉnh theo nguyên tắc hợp lý được một số cơ quan cạnh tranh tiến
bộ trên thế giới áp dụng, theo đó việc đánh giá được chia thành hai bước cụ
thể như sau:
Bước 1: đánh giá về khả năng gây hạn chế cạnh tranh của thoả thuận,
trong đó xem xét sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham gia thoả
thuận nhằm đánh giá phạm vi, mức độ tác động đối với thị trường. Để đánh
giá sức mạnh thị trường, ngoài yếu tố thị phần, cần tính đến các yếu tố khác
như: (1) cấu trúc thị trường; (2) khả năng sản xuất dư thừa của đối thủ cạnh
tranh; (3) rào cản gia nhập thị trường và (4) sức mạnh của người mua. Phần
khuyến nghị chi tiết liên quan đến đánh giá sức mạnh thị trường được trình
bày trong Mục “Các quy định chung”.
Bước 2: Trong trường hợp thỏa thuận có khả năng gây hạn chế cạnh
tranh, cơ quan cạnh tranh sẽ tiếp tục đánh giá liệu thỏa thuận đó có mang lại
lợi ích thúc đẩy cạnh tranh hay không và liệu tác động thúc đẩy cạnh tranh
của thỏa thuận có lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh do nó mang lại hay
không. Các tiêu chí có thể giúp các cơ quan cạnh tranh đánh giá có thể gồm:
(1) lợi ích kinh tế mà thỏa thuận đó mang lại;
141
(2) tính cần thiết của thỏa thuận nhằm đạt được các lợi ích kinh tế đó;
(3) phần lợi ích được chuyển/chia sẻ cho người tiêu dùng và;
(4) tính không loại bỏ cạnh tranh của thỏa thuận.
Tuy nhiên, để áp dụng nguyên tắc hợp lý một cách hiệu quả, sao cho
phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội và bối cảnh kinh doanh của
Việt Nam, cần nghiên cứu kỹ để đưa ra một bộ tiêu chí đánh giá rõ ràng, phù
hợp, theo đó đảm bảo sự cân bằng giữa phương pháp liệt kê và tiếp cận hợp lý
về mặt kinh tế.
- Liên quan đến các quy định miễn trừ
Như đã trình bày ở trên, đối với các thỏa thuận thuộc nhóm nghiêm
trọng (hardcore cartel), bao gồm 4 hành vi:
(1) thỏa thuận ấn định giá;
(2) thỏa thuận phân chia thị trường;
(3) thỏa thuận hạn chế sản lượng; và
(4) thông đồng đấu thầu.
Cần sửa đổi quy định hiện tại theo hướng cấm trong mọi trường hợp và
không áp dụng miễn trừ đối với nhóm hành vi này. Đối với các thỏa thuận
khác, cần nghiên cứu áp dụng nguyên tắc hợp lý, theo đó cơ quan cạnh tranh
sẽ xem xét trên cơ sở đánh giá yếu “chi phí” và “lợi ích” của thỏa thuận. Theo
cách tiếp cận này, Việt Nam không cần phải ban hành các quy định về miễn
trừ. Các điều kiện xem xét miễn trừ quy định tại Điều 10, Luật Cạnh tranh
hiện nay có thể được đưa vào bộ tiêu chí để đánh giá “chi phí” và “lợi ích”
của hành vi thỏa thuận (ngoài hardcore cartel). Miễn trừ, nếu có, có thể xem
xét áp dụng trong trường hợp đặc thù ngành (block exemptions), tuy nhiên
việc này cần được cân nhắc kỹ lưỡng để tránh việc lạm dụng và làm giảm
thiểu vai trò, vị thế cũng như hiệu quả của Luật Cạnh tranh. Đồng thời, thời
hạn miễn trừ và các điều kiện gia hạn thời hạn được hưởng miễn trừ cũng cần
được xem xét quy định.
142
- Liên quan đến chương trình khoan dung
Đặc thù của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là có sự tham gia của hai
hay nhiều doanh nghiệp, và không phải lúc nào lợi ích cũng được cân bằng
giữa các bên tham gia. Chính vì vậy mà thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường
không bền vững. Tuy nhiên, khi lợi ích mà thỏa thuận đem lại cho các doanh
nghiệp tham gia quá lớn, thêm vào đó nhận thức về pháp luật cạnh tranh của
họ được nâng cao dẫn đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có xu hướng “ngầm
hóa” và cơ quan cạnh tranh không dễ dàng phát hiện được.
Trong khi đó, Chương trình khoan dung lại chỉ ra những mức lợi ích cụ
thể như miễn hoặc giảm một phần trách nhiệm pháp lý đối với các bên tham
gia thỏa thuận tùy thuộc vào mức độ tự nguyện khai báo, hợp tác với cơ quan
cạnh tranh, thứ tự, thời điểm khai báo...Với những đặc điểm như thế, Chương
trình khoan dung tạo một động cơ thúc đẩy doanh nghiệp tham gia thỏa thuận
tìm đến Chương trình này như một giải pháp để né tránh các chế tài xử phạt,
đồng thời giải tỏa những quan ngại rằng các doanh nghiệp khác đã khai báo
trước với cơ quan cạnh tranh về hành vi vi phạm.
Thực tiễn thực thi của một số nước tiên tiến như Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU
cũng cho thấy tác dụng rõ rệt của Chương trình khoan dung trong phát hiện và
xử lý các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Đồng thời, việc luật hóa và áp
dụng Chương trình khoan dung đã trở thành xu hướng chung, được rất nhiều cơ
quan cạnh tranh trên thế giới thực hiện. Tuy nhiên, Chương trình khoan dung ở
các quốc gia được quy định khác nhau. Do đó, Việt Nam cũng nên thiết kế một
Chương trình khoan dung riêng, phù hợp với thực tiễn và tập quán kinh doanh,
thực thi pháp luật của các doanh nghiệp tại Việt Nam.
Chìa khóa thành công của một Chương trình khoan dung chính là phải
kết hợp với hình thức và mức xử phạt phải đủ mạnh. Bên cạnh đó, các quy
định về chương trình khoan dung phải được xây dựng dựa trên nguyên tắc
143
minh bạch, rõ ràng. Đồng thời, cũng cần quan tâm đến cơ chế bảo mật thông
tin về đối tượng khai báo và bảo vệ nhân chứng. Có như vậy, chương trình
khoan dung mới trở thành một công cụ hữu hiệu giúp cơ quan cạnh tranh thực
thi hiệu quả các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
3.4.1.6. Quy định kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm
dụng vị trí độc quyền trên thị trường
- Liên quan đến quy định về xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền
Thực tiễn gần 10 năm thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm
soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền đã cho thấy nhu cầu cấp
thiết phải thay đổi cách thức xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền hiện nay.
Đặc biệt, cần nghiên cứu để thay đổi cách thức đánh giá vị trí thống lĩnh/sức
mạnh thị trường dựa chủ yếu vào tiêu chí thị phần thông qua các ngưỡng thị
phần cố định như hiện nay. Để đánh giá chính xác hơn về sức mạnh kiểm soát
thị trường của doanh nghiệp, các yếu tố cần xem xét có thể bao gồm năng lực
vượt trội của doanh nghiệp; rào cản gia nhập thị trường; sức mạnh của người
mua; các nguồn lực thiết yếu mà doanh nghiệp đang nắm giữ, điều kiện thị
trường…
Mặc dù ủng hộ việc quy định các tiêu chí đánh giá vị trí của doanh
nghiệp trên thị trường, tuy nhiên, cơ quan cạnh tranh chỉ nên quy định các
tiêu chí dưới dạng nguyên tắc chung. Thay vì các quy định mang tính liệt kê
cụ thể một cách cứng nhắc, Luật Cạnh tranh cần đòi hỏi cơ quan thực thi pháp
luật phải có các đánh giá, phân tích kinh tế chuyên sâu hơn khi đánh giá vị
trí/sức mạnh thị trường của doanh nghiệp. Ngoài ra, khi đánh giá vị trí/sức
mạnh thị trường của doanh nghiệp, cơ quan cạnh tranh cần đánh giá trong xu
hướng vận động, phát triển của thị trường, bối cảnh kinh tế… thay vì chỉ xem
xét trong trạng thái tĩnh như hiện nay.
144
- Xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá hành vi lạm dụng
Để giải quyết các hạn chế như hiện nay, cần thiết phải xây dựng hệ
thống các tiêu chí đánh giá hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/ độc quyền,
đồng thời phải có quy định bao quát các hành vi lạm dụng có tác động hạn
chế cạnh tranh có thể xảy ra. Trong thời gian tới, quy định của Luật Cạnh
tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền có thể được sửa đổi
theo hướng:
Không nên phân biệt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và lạm dụng vị
trí độc quyền để điều chỉnh như hiện nay. Thay vào đó, cần tập trung vào bản
chất của hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường của doanh nghiệp;
Xây dựng các tiêu chí cơ bản nhằm đánh giá hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh. Các tiêu chí cần tập trung vào bản chất trục lợi hay đóng cửa thị
trường của hành vi, không nên căn cứ vào mô tả về các biểu hiện bên ngoài
của hành vi như hiện nay;
Bên cạnh việc liệt kê liệt kê một số hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
biết được theo các tiêu chí hợp lý, Luật Cạnh tranh cần có điều khoản quét để
bao quát hành vi có bản chất chất trục lợi hay đóng cửa thị trường của doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh.
3.4.1.7. Quy định về tập trung kinh tế
- Về phạm vi và các hình thức TTKT phải kiểm soát
Các giao dịch TTKT theo chiều dọc (đặc biệt là các doanh nghiệp tham
gia vụ việc nằm ngay cạnh nhau trong chuỗi cung ứng/sản xuất) cũng có khả
năng gây ra tác động hạn chế cạnh tranh nhất định trên mỗi cấp độ thị trường
là nơi hoạt động của các doanh nghiệp tham gia TTKT ngay cả khi doanh
nghiệp được hình thành sau TTKT không cần phải thực hiện các hành vi phản
cạnh tranh. Hai tác động phổ biến nhất được các cơ quan cạnh tranh quan tâm
là hành vi phân biệt giá (price discrimination) và phong tỏa thị trường (market
foreclosure).
145
Ngoài ra, có một số dạng giao dịch thuộc dạng biên như mua lại phần
sở hữu của cổ đông thiểu số; mua/bán một phần tài sản độc lập cũng cần phải
được Luật cạnh tranh xem xét điều chỉnh. Những giao dịch dạng này có thể
được xem xét điều chỉnh dưới dạng kiểm soát TTKT. Ở trường hợp khác, khi
một giao dịch TTKT được thực hiện trong nội bộ doanh nghiệp thì giao dịch
TTKT đó có thể được coi là một hoạt động tái cấu trúc của bản thân doanh
nghiệp và không làm thay đổi đáng kể tình trạng cạnh tranh trên thị trường.
Do đó, cần phải có quy định miễn trừ đối với các dạng giao dịch nội bộ này.
Với lý do trên, cần xem xét mở rộng việc điều chỉnh cả về hình thức và
hành vi của giao dịch TTKT. Cần xem xét kiểm soát cả các giao dịch TTKT
được thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có tác động gây hạn chế cạnh
tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam.
Một vấn đề đặt ra là hiện tại Luật cạnh tranh Việt Nam chỉ mới kiểm
soát bằng hình thức thông báo hoặc cấm/miễn trừ đối với hoạt động TTKT
thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Việc sáp nhập các công ty đa quốc gia hoạt
động ngoài lãnh thổ Việt Nam nếu có tiềm ẩn khả năng gây hạn chế cạnh
tranh tại Việt Nam sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn từ cả phía doanh nghiệp và
cơ quan quản lý nhà nước. Chính vì vậy, cần có thêm các quy định tạo hành
lang pháp lý để Cơ quan cạnh tranh có thể xem xét các vụ việc này ngay từ
giai đoạn đầu là cần thiết.
- Về bổ sung ngưỡng thông báo TTKT
Luật cạnh tranh Việt Nam kiểm soát vụ việc TTKT thông qua tiêu chí
thị phần. Việc sử dụng tiêu chí thị phần để xác định ngưỡng thông báo tập
trung kinh tế sẽ giúp cơ quan cạnh tranh có được đánh giá ban đầu chính xác
hơn về khả năng gây hạn chế cạnh tranh của vụ việc, từ đó gia tăng tỷ trọng
các vụ việc thực sự có vấn đề về cạnh tranh trong tổng số các vụ việc mà cơ
quan cạnh tranh phải xem xét. Tuy nhiên, các tiếp cận sử dụng tiêu chí thị
146
phần trên thị trường liên quan cũng gây ra rất nhiều khó khăn cho doanh
nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục thông báo TTKT như xác định thị
trường liên quan, xác định thị phần của mình trên thị trường liên quan. Chính
vì vậy, bên cạnh tiêu chí thị phần, cần bổ sung thêm các yếu tố dễ nhận biết
khác như doanh thu trong năm tài chính, giá trị giao dịch tập trung kinh tế…
để xác định ngưỡng thông báo TTKT.
- Về đánh giá tác động cạnh tranh của vụ việc TTKT
Về phương pháp đánh giá tác động của vụ việc TTKT, cần xác định và
làm rõ một số nội dung dưới đây.
Thị phần và các phương pháp đánh giá mức độ tập trung thị trường
đóng vai trò quan trọng trong phân tích vụ việc TTKT. Đó là những thông tin
ban đầu giúp cơ quan cạnh tranh nhận diện khả năng gây quan ngại về cạnh
tranh của vụ việc TTKT, để từ đó tiến hành các phân tích sâu hơn. Tuy nhiên,
cần lưu ý đây không phải là yếu tố quyết định về khả năng gây hạn chế cạnh
tranh một cách đáng kể của vụ việc. Các đánh giá cụ thể khác về điều kiện thị
trường là cần thiết để đưa ra một nhận định về sức mạnh thị trường.
Đánh giá tác động của vụ việc TTKT dựa trên các tiêu chí:
Tác động đơn phương: (i) vị thế các bên tham gia TTKT; (ii) áp lực
cạnh tranh từ các doanh nghiệp không tham gia TTKT; (iii) áp lực cạnh tranh
trực tiếp hoặc tiềm năng từ nhập khẩu và khả năng gia nhập thị trường của đối
thủ mới; (iv) hiệu quả kinh tế và khả năng tồn tại của các bên tham gia TTKT;
Tác động kết hợp: (i) khả năng thiết lập điều kiện kết hợp; (ii) khả năng
phát hiện vi phạm khi thực hiện tác động kết hợp; (iii) khả năng trừng phạt
những vi phạm đó.
Từ lý do trên, cần quy định thêm các biện pháp khắc phục hậu quả hoặc
điều chỉnh cần thiết mà cơ quan cạnh tranh có thể chủ động áp dụng đối với
các bên tham gia vụ việc TTKT.
147
Ngoài ra, khi sửa luật cần có quy định cho phép cơ quan cạnh tranh
quyền đánh giá sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham gia TTKT và
đánh giá tác động vụ việc TTKT, cũng như việc đưa ra yêu cầu đối với các
bên tham gia TTKT có các biện pháp khắc phục thì quy định về việc xin
hưởng miễn trừ là không cần thiết.
3.4.1.8. Quy định điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Về bản chất, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định
hiện nay bao gồm: quảng cáo, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh,
chỉ dẫn gây nhầm lẫn,… là các hành vi thương mại thông thường và nhiều
hành vi đã được quy định tại các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật
Quảng cáo, Luật sở hữu trí tuệ… Bên cạnh đó, trong quá trình thực thi, rất
khó phân biệt giữa các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi đơn
thuần chỉ vi phạm pháp luật chuyên ngành. Do đó, cần nghiên cứu loại bỏ các
quy định này trong Luật cạnh tranh để đảm bảo tính thống nhất giữa pháp luật
cạnh tranh với pháp luật chuyên ngành. Các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh khác nếu chưa được quy định ở các văn bản pháp luật chuyên ngành
như bán hàng đa cấp bất chính, gièm pha doanh nghiệp khác… thì nên xem
xét ban hành một văn bản riêng điều chỉnh hành vi này.
3.4.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan cạnh tranh
3.4.2.1. Thành lập Ủy ban cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng
Căn cứ trên phân tích ở trên, để đảm bảo thực thi hiệu quả pháp luật
cạnh tranh trong thời gian tới, Việt Nam nên thành lập Ủy ban cạnh tranh và
bảo vệ người tiêu dùng độc lập trực thuộc Chính phủ trên cơ sở nhập Cục
Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh hiện nay vì các lý do sau đây.
Thứ nhất, việc thành lập một cơ quan cạnh tranh trực thuộc Chính phủ
thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước về việc đẩy mạnh thực thi
pháp luật cạnh tranh hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền, hạn chế
148
các can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính của Chính phủ trong quá trình điều
tiết nền kinh tế.
Thứ hai, hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh chủ yếu được thể
hiện trong hoạt động điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh. Trong điều kiện ở
nước ta hiện nay khi mà các doanh nghiệp nhà nước đang giữ hầu hết các lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế, do đó đối tượng điều tra của cơ quan cạnh tranh
có thể sẽ là các Tổng Công ty nhà nước, các tập đoàn kinh tế lớn và thậm chí là
cả các cơ quan quản lý nhà nước. Nếu không có một vị thế đủ mạnh thì cơ quan
cạnh tranh sẽ không thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Đặc biệt, nếu
vẫn để cơ quan cạnh tranh trực thuộc Bộ Công Thương như hiện nay sẽ dẫn
tới việc “vừa đá bóng vừa thổi còi” vì hiện nay Bộ Công Thương đang quản
lý nhiều tập đoàn, tổng công ty lớn có vị trí thống lĩnh thị trường trong các
lĩnh vực như: bia, rượu, dầu khí, điện lực, xăng dầu…
Thứ ba, cần cân nhắc có nên đặt cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam
tại Bộ Công Thương hay không có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về tính đa
ngành cao của Luật Cạnh tranh. Thậm chí, trên thực tế, Luật Cạnh tranh
thường xuyên được đề cập tới như một luật khung, hoặc nguyên tắc cơ bản
phục vụ xây dựng các quy định chuyên ngành trong nền kinh tế thị trường
hiện đại.
Sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ với các cơ quan chuyên ngành, do
đó, là một nhân tố cốt yếu quyết định sự thành công, tính hiệu lực của Luật
nhằm đảm bảo và thúc đẩy môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng
trong toàn bộ nền kinh tế.
Thứ tư, vị trí độc lập của một cơ quan trực thuộc Chính phủ giúp đảm
bảo và thúc đẩy việc tập trung chuyên môn, tính công chính, minh bạch và
khả năng chịu trách nhiệm và giải trình của cơ quan này. Tự chủ về quá trình
tuyển chọn, bổ nhiệm cũng như đào tạo nhân sự, cũng như tự chủ về mặt ngân
149
sách hoạt động đảm bảo cho cơ quan cạnh tranh có thực quyền cao hơn. Đây
cũng là kinh nghiệm của nhiều quốc gia phát triển trên thế giới.
Thứ năm, một trong những chức năng quan trọng khác của hầu hết các
cơ quan cạnh tranh trên thế giới là chức năng tham vấn. Tại Nghị định
06/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006 cũng quy định Cục Quản lý cạnh tranh có
quyền “phát hiện và kiến nghị cơ quan có liên quan giải quyết theo thẩm
quyền về những văn bản đã ban hành có nội dung không phù hợp với quy
định của pháp luật cạnh tranh”. Đây đã là một điểm khá tiến bộ theo hướng
cho phép cơ quan cạnh tranh được quyền loại bỏ tất cả các quy định đi ngược
lại với các nguyên tắc cạnh tranh. Tuy nhiên, để làm được điều này đòi hỏi cơ
quan cạnh tranh phải có vị trí đủ mạnh.
Thứ sáu, để đáp ứng đòi hỏi ngày càng tăng của hội nhập kinh tế quốc
tế, số vụ kiện về các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh chắc chắn sẽ tăng
lên một cách đáng kể. Điều này đòi hỏi quy mô của cơ quan cạnh tranh phải
được mở rộng nhằm đảm bảo nguồn tài chính, nhân lực để thực thi hiệu quả
các công việc được giao.
Thứ bảy, theo thống kê, trong số 90 cơ quan cạnh tranh hiện nay trên
thế giới, chỉ Việt Nam còn tồn tại mô hình hai cơ quan, một chịu trách nhiệm
về điều tra, một chịu trách nhiệm về xử lý (như mô hình cũ của Cơ quan cạnh
tranh Pháp). Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất giữa Hội đồng cạnh tranh của
Pháp trước đây và của Việt Nam là ở Hội đồng cạnh tranh Pháp, ngoài các
thành viên Hội đồng còn có các báo cáo viên. Báo cáo viên đóng vai trò như
các điều tra viên của Cục Quản lý cạnh tranh. Trong một số trường hợp, thông
qua các báo cáo viên Hội đồng có thể tự tiến hành điều tra hoặc tự điều tra bổ
sung trên cơ sở những chứng cứ sơ bộ mà Tổng Vụ cạnh tranh và trấn áp gian
lận Pháp gửi lên. Một trong những điểm yếu lớn nhất của mô hình hai cơ
quan như Việt Nam hiện nay là do các thành viên của các cơ quan xử lý
không theo sát được quá trình điều tra vụ việc. Do đó, chỉ dựa vào các báo
150
cáo điều tra cuối cùng của các điều tra viên, họ sẽ khó đưa ra được các quyết
định chính xác về hành vi vi phạm. Ví dụ, tại Uỷ Ban Thương mại liên bang
Hoa Kỳ, trước khi quyết định có điều tra chính thức một vụ việc cạnh tranh
hay không, các điều tra viên phải trình bày các lập luận trước các Uỷ viên
(người đóng vai trò như các thành viên Hội đồng cạnh tranh Việt Nam).
Trong trường hợp các điều tra viên đưa ra chứng cứ thuyết phục được các Uỷ
viên, họ sẽ có quyết định cho phép điều tra chính thức vụ việc. Cơ chế này
giúp giảm thiểu các trường hợp yêu cầu điều tra bổ sung hoặc kịp thời có
quyết định đình chỉ điều tra khi thấy cần thiết, và như vậy sẽ tiết kiệm được
nguồn lực và kinh phí cho cơ quan điều tra.
Theo kinh nghiệm của hầu hết các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà
Lan, EU, Đức..., trong giai đoạn tới, Việt Nam nên nhập Cục Quản lý cạnh
tranh và Hội đồng cạnh tranh thành một cơ quan trực thuộc Chính phủ.
3.4.2.2. Tiếp tục xây dựng đội ngũ điều tra viên
Theo quy định tại Điều 52 Luật cạnh tranh thì điều tra viên vụ việc
cạnh tranh là những người do Bộ trưởng Bộ Công Thương bổ nhiệm phải có
đầy đủ các tiêu chuẩn:
- Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, khách quan;
- Có trình độ cử nhân luật hoặc cử nhân kinh tế, tài chính;
- Có thời gian công tác thực tế ít nhất là năm năm thuộc một trong các
lĩnh vực luật, kinh tế và tài chính;
- Được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ điều tra.
Thực thi pháp luật cạnh tranh là vấn đề rất phức tạp, đòi hỏi các điều
tra viên khi tiến hành tố tụng phải có kiên thức chuyên sâu không chỉ về pháp
lý mà còn bao gồm cả những kiến thức về kinh tế. Phân tích kinh tế đóng vai
trò quan trọng, không thể thiếu khi áp dụng các quy định pháp luật cạnh tranh
trong các vụ việc cụ thể.
151
Đối với pháp luật cạnh tranh, khi tiến hành điều tra các hành vi hạn chế
cạnh tranh (bao gồm: thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường, vị trí độc quyền và tập trung kinh tế), cơ quan điều tra phải
xác định thị trường liên quan, thị phần của doanh nghiệp có hành vi vi phạm.
Để xác định thị trường liên quan, các điều tra viên phải tiến hành nhiều phân
tích kinh tế khác nhau: từ điều tra xã hội học để thăm dò ý kiến, phản ứng của
người tiêu dùng, đến việc xác định các khả năng thay thế cho nhau của các
sản phẩm cùng loại cũng như phân tích các số liệu, doanh thu của các doanh
nghiệp hoạt động trên thị trường để kết luận về cấu trúc thị trường và tính
chất của sản phẩm... Thị phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan là
yếu tố quyết định để kết luận hành vi do một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh
nghiệp thức hiện có phải là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không.
Ngoài những kỹ năng về tài chính, kinh tế, luật, các điều tra viên cạnh
tranh còn phải được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ điều tra. Cũng giống
như các điều tra viên hoặc kiểm soát viên trong tố tụng dân sự, điều tra viên
cạnh tranh có quyền sử dụng các nghiệp vụ điều tra như: lấy lời khai, khám
xét, thu giữ tang vật, phương tiện vi phạm để làm chứng cứ chứng minh hành
vi vi phạm của đối tượng bị điều tra.
Vì vậy, để xây dựng đội ngũ điều tra viên chuyên nghiệp, Việt Nam
cần thực thi một chiến lược phát triển nguồn nhân lực hợp lý.
- Xây dựng chương trình đào tạo toàn diện cho nhóm các điều tra viên
cạnh tranh.
- Phối hợp với các tổ chức quốc tế, các cơ quan cạnh tranh nước ngoài
tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn về kỹ năng điều tra cho các điều tra viên
của Việt Nam
- Tích cực và tạo điều kiện cử các cán bộ của mình ra nước ngoài tham
gia các khoá đào tạo ngắn và dài hạn.
- Phối hợp với các cơ quan đào tạo nghiệp vụ điều tra trong nước như:
152
Bộ công an, Viện kiểm soát cũng như các Trường đại học để bồi dưỡng nâng
cao các kiến thức về kinh tế, tài chính, luật và kỹ năng điều tra cho các điều
tra viên.
- Hàng năm, tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao nghiệp vụ cho các điều
tra viên.
- Nên đưa các nội dung, kiến thức của pháp luật cạnh tranh vào trong
công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các trường đại học chuyên ngành luật, tài
chính, kinh tế... hoặc các Viện nghiên cứu. Đây chính là nơi đào tạo và cung
cấp nguồn nhân lực chủ yếu và chuyên nghiệp về lĩnh vực này cho cơ quan
quản lý cạnh tranh và các cơ quan hữu quan sau này.
3.4.3. Nâng cao nhận thức của các cơ quan liên quan và cộng đồng
doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh
3.4.3.1. Tăng cường công tác tham vấn với cơ quan điều tiết ngành
Để nâng cao nhận thức của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về
pháp luật cạnh tranh cần triển khai các hoạt động sau:
- Thường xuyên và định kỳ có sự trao đổi, tổng kết giữa lãnh đạo Cơ
quan cạnh tranh với các cơ quan điều tiết ngành để tăng cường nhận thức về
pháp luật cạnh tranh.
- Xây dựng cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin, chính sách giữa cơ quan
cạnh tranh với các cơ quan điều tiết ngành.
- Xây dựng cơ chế cho phép Cơ quan cạnh tranh được tham vấn các
chính sách ngành trước khi ban hành để đảm bảo các chính sách này phù hợp
với các nguyên tắc cạnh tranh.
- Cơ quan cạnh tranh phải tích cực tham gia góp ý vào quá trình soạn
thảo các văn bản quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa chính
sách cạnh tranh và các chính sách khác của Nhà nước.
- Thường xuyên tiến hành rà soát pháp luật cạnh tranh với pháp
153
luật chuyên ngành để chỉ ra những quy định không phù hợp với chính sách và
pháp luật cạnh tranh.
3.4.3.2. Tăng cường nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp
Các hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật cạnh tranh vừa qua đã
đạt được những kết quả và chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, nếu căn cứ trên
mức độ nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp thì hoạt động tuyên truyền,
phổ biến pháp luật cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Do đó, trong thời gian tới,
Cơ quan cạnh tranh cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến.
Bên cạnh các hình thức truyền thống như hội nghị, hội thảo, cần có các hoạt
động tuyên truyền trực tiếp, trực quan, sáng tạo đến doanh nghiệp và các đối
tượng khác của Luật Cạnh tranh.
Ngoài ra, các cơ quan truyền thông báo chí cũng có vai trò rất quan
trọng trong việc chuyển tải chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đến
với doanh nghiệp. Cơ quan quản lý cạnh tranh cần quan hệ chặt chẽ với các
cơ quan truyền thông để kịp thời phản ánh, giới thiệu cho doanh nghiệp biết
các hành vi vi phạm bị xử lý, đặc biệt là các hành vi vi phạm có quy mô lớn,
ảnh hưởng tới nhiều người tiêu dùng để tạo tiếng vang và sự đồng thuận cho
các hoạt động của cơ quan cạnh tranh.
3.4.4. Tăng cường hợp tác quốc tế
Cơ quan cạnh tranh Việt Nam chính thức được thành lập được khoảng
10 năm. So với gần 100 cơ quan cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới, cơ
quan cạnh tranh Việt Nam nằm trong nhóm cơ quan cạnh tranh “non trẻ”. Do
đó, để học tập kinh nghiệm của các nước, Cơ quan cạnh tranh cần tăng cường
mối quan hệ hợp tác với nhiều cơ quan cạnh tranh quốc tế và tham gia tích
cực vào các diễn đàn quốc tế về pháp luật và chính sách cạnh tranh như
ASEAN, ICN, APEC v.v…
Bên cạnh đó, cần có giải pháp hợp tác với các cơ quan cạnh tranh trong
154
khu vực để giải quyết các hành vi phản cạnh tranh có quy mô xuyên biên giới
thông qua việc ký kết các biên bản ghi nhớ, biên bản hợp tác với các cơ quan
cạnh tranh nước ngoài.
Theo thống kê hiện nay, nội dung về chính sách cạnh tranh có rất ít các
trường đại học đưa vào nội dung đào tạo. Do đó, các sinh viên là nguồn lực
đầu vào cho cơ quan cạnh tranh hầu hết chưa có khái niệm về pháp luật cạnh
tranh nên nhu cầu đào tạo là rất lớn. Đặc biệt, các bộ làm công tác cạnh tranh
phải có nhiều kỹ năng điều tra cơ bản như: kỹ năng phỏng vấn lấy lời khai, kỹ
năng thu thập và phân tích chứng cứ, kỹ năng phân tích và đánh giá tác động
kinh tế… Vì vậy, việc hợp tác quốc tế với các cơ quan cạnh tranh nước ngoài
thông qua các hình thức đào tạo, thực tập tại chỗ là rất cần thiết cho cơ quan
cạnh tranh Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.
155
KẾT LUẬN
Hiệu quả thực thi của một quy phạm ngày nay được coi là tiêu chí
quyết định chất lượng của một quy phạm pháp luật. Chất lượng của một quy
phạm pháp luật quyết định chất lượng của một văn bản luật và xa hơn là của
cả một hệ thống luật pháp của một quốc gia. Chính vì vậy, đây là một vấn đề
cần phải được nhìn nhận, đánh giá một cách nghiêm túc. Không thể soạn thảo
và ban hành một văn bản quy phạm pháp luật mà không tính đến hiệu quả
thực sự của nó khi áp dụng vào thực tiễn.
Thực trạng ở Việt Nam cho thấy có rất nhiều văn bản luật có chất lượng,
và được thực thi có hiệu quả. Nhưng cũng có không ít những quy phạm không
được áp dụng trong cuộc sống, không đáp ứng được những mục tiêu mà các
nhà lập pháp đề ra khi ban hành. Luật Cạnh tranh là một ví dụ tiêu biểu cho
tình trạng này. Dù được ban hành từ năm 2005, việc áp dụng Luật Cạnh tranh
trong thực tế còn rất hạn chế. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh hầu như không
làm thay đổi các quan hệ xã hội mà Luật hướng tới để điều chỉnh. Các chủ thể,
đối tượng điều chỉnh của Luật, ngoại trừ các cơ quan thực thi Luật, ít biết đến
sự tồn tại của Luật, hoặc dù có biết cũng không muốn thực thi các quy định của
Luật. Tình trạng này dẫn đến sự tồn tại trên văn bản của Luật Cạnh tranh mà
chưa được thực hiện trong thực tiễn cuộc sống.
Hiệu quả thực thi của Luật Cạnh tranh dường như cần phải xem xét lại.
Vấn đề đặt ra là việc hạn chế này có nguyên do từ chính bản thân quy phạm
đó hay từ việc triển khai áp dụng các quy phạm này bởi các cơ quan thực thi
hay do những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực thi của Luật
Cạnh tranh. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, khi mà các
hoạt động kinh tế vượt ra ngoài khuôn khổ của một quốc gia, các quy định
của Luật Cạnh tranh càng cần phải được xem xét, để đánh giá lại.
156
Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó, Luận án đã đạt được một số kết
quả sau:
1. Về cơ sở lý luận: Luận án đã hệ thống hóa và luận giải lý luận về
pháp luật cạnh tranh và hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh. Điểm mới về
lý luận của luận án là đã chỉ ra một số tiêu chí để đánh giá hiệu quả thực thi
pháp luật cạnh tranh, bao gồm: (1) đánh giá chất lượng của các quy định pháp
luật cạnh tranh thông qua tính hợp pháp và tính thực tiễn của pháp luật cạnh
tranh; (2) đánh giá về công tác tổ chức thực thi pháp luật cạnh tranh, bao gồm
hoạt động của cơ quan thực thi và hoạt động hỗ trợ tiếp cận sử dụng pháp luật
cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp.
2. Về kinh nghiệm của các nước: Phân tích kinh nghiệm để rút ra bài
học là một trong những nội dung chủ yếu của luận án. Nghiên cứu đã phân
tích cụ thể kinh nghiệm các nước từ nội dung pháp luật, cơ quan thực thi, các
biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi của từng nước để tìm ra các nội dung và
bài học có thể áp dụng ở Việt Nam. Các bài học kinh nghiệm rút ra cho thấy:
- Nội dung của pháp luật cạnh tranh phải bao gồm việc điều chỉnh các
nhóm hành vi: lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh và các hành vi về mua bán sáp nhập doanh nghiệp.
- Về hoạt động của cơ quan cạnh tranh: nguyên tắc quan trọng hàng đầu
của cơ quan cạnh tranh là bảo đảm tính độc lập. Độc lập về vị trí và độc lập
khi ra quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Bên cạnh đó, để vận hành tốt, cơ
quan cạnh tranh phải có một số quyền lực cơ bản bao gồm:
+ Phát hiện và loại bỏ các chính sách liên quan làm cản trở môi trường
cạnh tranh.
+ Yêu cầu các cơ quan tổ chức cung cấp thông tin chứng cứ phục vụ
quá trình điều tra vụ việc cạnh tranh.
157
- Ngoài ra, một số công cụ cần thiết khác cũng cần được xây dựng và
thực hiện như chương trình khoan dung… để giúp các cơ quan cạnh tranh
tăng cường nguồn chứng cứ đầu vào để điều tra vụ việc.
3. Về các bất cập trong quá trình thực thi pháp luật cạnh tranh Việt
Nam: Luận án đã chỉ ra một số điểm bất cập sau:
- Về nội dung các văn bản pháp luật: một số quy định liên quan đến
quy trình điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh, quy định về xác định thị trường
liên quan và quy định về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế hiện nay theo
quy định của Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn không phù hợp và
hầu như không thể áp dụng trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay.
- Về biện pháp xử lý vi phạm: mức phạt tiền được xác định căn cứ trên
tổng doanh thu của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm là
không hợp lý vì trên thực tế hành vi vi phạm chỉ tác động trên một thị trường
sản phẩm, dịch vụ nhất định. Doanh thu thu được từ việc kinh doanh hàng hóa
có liên quan đến hành vi vi phạm chỉ chiếm một phần trong tổng doanh thu
của một doanh nghiệp. Vì vậy, việc áp dụng mức phạt dựa trên tổng doanh
thu là không công bằng đối với doanh nghiệp vi phạm.
- Về cơ quan cạnh tranh: Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay là cơ quan
thuộc Bộ Công Thương không đảm bảo vị trí độc lập, còn ôm đồm nhiều
chức năng làm phân tán nguồn lực.
- Về nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp: trong thời gian gần đây
nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh đã có cải thiện
nhưng vẫn ở mức thấp. Đây là một phần nguyên nhân giải thích vì sao nhiều
doanh nghiệp khi quyền lợi của mình bị xâm hại không biết sử dụng pháp luật
cạnh tranh như là một công cụ để bảo vệ mình.
4. Về các giải pháp: Thông qua phân tích kinh nghiệm của các nước và
phân tích, đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh trong thời gian vừa
158
qua, Luận án đã đề ra các giải pháp khắc phục hạn chế và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật cạnh tranh trong thời gian tới, bao gồm:
- Trong việc hoàn thiện pháp luật, cần xây dựng Luật sửa đổi bổ sung
Luật Cạnh tranh, trong đó cần có làm rõ tiêu chí xác định thị trường liên quan,
minh bạch quy trình xử lý vụ việc, áp dụng hình thức xử lý vi phạm hợp lý
dựa trên cơ sở phạm vi và mức độ vi phạm; bổ sung và hoàn thiện các quy
định liên quan đến các nhóm hành vi vi phạm.
- Trong việc kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ
máy cơ quan thực thi, theo đó đề xuất thành lập một Ủy ban cạnh tranh độc
lập; cần chú trọng công tác cán bộ trong lĩnh vực cạnh tranh.
- Trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp, cần thực
hiện các hoạt động tuyên truyền phổ biến có trọng điểm đến các nhóm doanh
nghiệp trong từng lĩnh vực; đa dạng hóa các hình thức tuyên tuyền; thúc đẩy
và sử dụng hiệu quả phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền tới cộng
đồng doanh nghiệp.
- Trong việc hợp tác quốc tế: cần đẩy mạnh các hoạt động hợp tác với
cơ quan cạnh tranh nước ngoài và tham gia tích cực vào các diễn đàn cạnh
tranh khu vực và trên thế giới để tận dụng kinh nghiệm và đào tạo cán bộ.
Về những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu
5. Luận án đã phân tích và chỉ ra các bất cập về các tiêu chí tiếp cận để
đánh giá các nhóm hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh hiện nay đó là xác
định thị phần trên thị trường liên quan và đề ra một số tiêu chí thay thế bổ
sung. Tuy nhiên, trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của Luận án không đi sâu
vào phân tích ưu nhược điểm cũng như thực tiễn áp dụng các tiêu chí thay
thế, bổ sung này. Do đó, dựa trên đề xuất ban đầu của Luận án, cần có các
nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo làm cơ sở cho các đề xuất sửa đổi pháp luật
cạnh tranh sau này.
159
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
Công trình tiếng Việt
1. Thực thi Luật cạnh tranh Việt Nam: 10 năm nhìn lại, Tạp chí công thương
số 4/tháng 3 năm 2015, Hà Nội.
2. Kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế của Việt Nam: Những bất cập và
giải pháp, Tạp chí công thương số 6/tháng 3 năm 2015, Hà Nội.
3. Xây dựng thị trường xăng dầu cạnh tranh- những bất cập và giải pháp, Tạp
chí nghiên cứu lập pháp số 17/178, tháng 9/2010, Hà Nội.
4. Cạnh tranh – công cụ hữu hiệu để thúc đẩy hiệu quả kinh tế, Hội thảo quốc
tế ra mắt Dự án tái cơ cấu kinh tế do Chính phủ Úc tài trợ, Hà Nội, tháng 8
năm 2014, http://rcv.gov.vn/Hoi-thao-khoi-dong-Du-an-Ho-tro-tai-co-cau-
kinh-te-nang-cao-nang-luc-canh-tranh-Viet-Nam-11-08-2014.htm.
Công trình tiếng Anh
5. Developments in Vietnamese Competition Law and Policy, Tạp chí chính
sách cạnh tranh quốc tế - Competition Policy International, tháng 2 năm 2013,
www.competitionpolicyinternational.com.
6. Challenges on Cartel Enforcement, Hội nghị quốc tế về chính sách cạnh
tranh Đông Á lần thứ 7, do Viện nghiên cứu ngân hàng ADB tổ chức tại
Malaysia, 2-3 tháng 5 năm 2012, www.adbi.org.
7. Regional Experiences in Advocacy: Viet Nam, Hội thảo ASEAN về Công
tác tuyên truyền chính sách cạnh tranh, do Viện nghiên cứu ngân hàng ADB
tổ chức tại Singapore, tháng 7 năm 2008, www.adbi.org .
160
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Bằng Tiếng Việt
1. Chính phủ (2006), Nghị định của Chính phủ số 05/2006/NĐ-CP
ngày 09/1/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh.
2. Chính phủ (2006), Nghị định của Chính phủ số 06/2006/NĐ-CP
ngày 09/1/2006 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Cục Quản lý cạnh tranh.
3. Chính phủ (2011), Nghị định số 119/2011/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 16/12/2011 về việc sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại Nghị định số
116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Cạnh tranh.
4. Chính phủ (2014), Nghị định số 42/2014/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 14/5/2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
5. Chính phủ (2014), Nghị định số 71/2014/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực cạnh tranh.
6. Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương (2012), Báo cáo tập trung
kinh tế Việt Nam.
7. Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương (2011, 2012, 2013, 2014),
Báo cáo hoạt động thường niên.
8. Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương (2013), Báo cáo rà soát
các quy định pháp luật cạnh tranh Việt Nam.
9. Lê Đăng Doanh, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Hân (1998),
Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo vệ sản xuất trong nước, Nhà xuất bản
Lao động, Hà Nội.
161
10. Lê Đăng Doanh (2012), Tiêu chí về hiệu quả thi hành pháp luật của
Nhà nước: Đánh giá từ giác độ kinh tế, Tia sáng, Bộ Khoa học công nghệ.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, tr.37.
12. Nguyễn Minh Đoan (2012), Hiệu quả của pháp luật: những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đồng Thị Hà, Luận án tiến sỹ (2014), Hoàn thiện chính sách cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
14. Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống
cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
15. Dương Đăng Huệ (2004), Mô hình quản lý cạnh tranh của Việt
Nam. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (Số 1).
16. Phạm Duy Nghĩa (1999), Pháp luật cạnh tranh và chống độc
quyền, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (Số 8), tr. 22-36.
17. Tăng Văn Nghĩa (2006), Chính sách cạnh tranh - công cụ vĩ mô
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dân doanh trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế, Nghiên cứu kinh tế, (Số 333), tr 35 - 40.
18. Lê Hoàng Oanh (2005), Bình luận khoa học Luật Cạnh
tranh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Bùi Xuân Phái (2009), Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thi hành
pháp luật, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, (Số chuyên đề tháng 9), tr. 11-17.
20. Nguyễn Như Phát (2000), Xây dựng pháp luật cạnh tranh trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, (Số 11), tr. 29-36.
21. Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng
162
pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
22. Hoàng Thị Kim Quế (2005), Chế độ pháp chế thống nhất, hợp lý
và áp dụng chung, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số 9), tr 162.
23. Quốc hội (2004), Luật số 27/2004/QH11 ngày 3 tháng 12 năm
2004, Luật Cạnh tranh, Hà Nội.
24. Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Luật cạnh tranh: Sứ mệnh và triển
vọng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (Số 68), tr. 21-24.
25. Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp
luật cạnh tranh và vấn đề của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (Số
7/79), tr.42-49.
26. Nguyễn Ngọc Sơn (2010), Một số bình luận từ thực tiễn giải quyết
vụ việc về hành vi hạn chế cạnh tranh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Viện
nghiên cứu lập pháp, (Số 1/162), tr.43-51.
27. Lê Thị Bích Thọ, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ (2002), Cơ sở lý luận
và thực tiễn xây dựng Luật cạnh tranh.
28. Trịnh Thị Thanh Thuỷ, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2004),
Cơ sở khoa học xác định mức độ hạn chế cạnh tranh của các thoả thuận và
các tiêu chí miễn trừ trong luật cạnh tranh.
29. Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản vệ pháp luật, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Đào Trí Úc (2011), Thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp
luật ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 7), tr110.
31. Nguyễn Thị Thu Vân (2009), Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận
thông tin. Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số 17), tr 154.
32. Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Luật
cạnh tranh tại Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.
163
33. Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2005): Từ điển Luật học, Nhà
xuất bản từ điển bách khoa, Nhà xuất bản tư điển tư pháp, Hà Nội.
34. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (2002), Các vấn đề
pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh
doanh, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội.
35. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (2000), Cơ sở khoa
học và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách cạnh tranh, NXB Lao động,
Hà Nội.
B. Bằng tiếng Anh
36. Andreu Mas - Colell, Michael D. Whiston and Jerry R. Green
(1995), Microeconomics theory, Oxford Universtiy Press.
37. Competition Law Institute, Fordham University (2008),
International antitrust law and policy.
38. Dominick Salvatore (2009), Managerial Economics in a Global
economy.
39. Ernest Gellhorn, William E.Kovacic, Stephen Calkings, Thomson
West, (2004), Antitrust law and Economics.
40. Fox and Trebilcock (2012), The designs of competition law
institutions, Global Norms, Local choices.
41. Ioannis Lianos and D. Daniel Sokol (2010), The Global Limits of
Competition Law.
42. Joanna Goyder, Albertina Albors-llorens (2009), EC Competition
Law, Oxford University Press.
43. Nicola Acocella (2012), The foundations of economic policy -
Values and technigues.
44. Massimo Motta, Cambridge University (2004), Competition
Policy, Theory and Practice.
164
45. Richard Whish and David Bailey (2012), Competition Law.
46. Western Thomson Learning (2002), Microeconomics theory -
Basic principles and extensions.
C. Các trang thông tin điện tử
47. Trang thông tin điện tử của Cục Quản lý cạnh tranh:
www.qlct.gov.vn
48. Trang thông tin của Ủy ban thương mại lành mạnh Nhật Bản:
http://www.jftc.go.jp/en/
49. Trang thông tin của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ:
http://www.justice.gov/atr/public/workload-statistics.html
50. Trang thông tin điện tử của Ủy Ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ
http://www.ftc.gov/
51. Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển:
www.unctad.org
52. Mạng lưới cạnh tranh quốc tế:
www.internationalcompetitionnetwork.org.
53. Tạp chí cạnh tranh toàn cầu: http://globalcompetitionreview.com.
54. Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế OECD: www.oecd.org.
165
PHỤ LỤC 1: SỐ VỤ VIỆC THÔNG BÁO TTKT
STT Năm
Ngành
Các công ty tham gia tập trung kinh tế
Công ty cổ phần Giấy Tân Mai
1
2008
Sản xuất giấy
Công ty cổ phần Giấy Đồng Nai
Công ty cổ phần Sáng Tạo
Công ty TNHH Giải Pháp NEC Việt Nam
2
2008 Công nghệ thông tin
Công ty TNHH Alcatel - Lucent Việt Nam
Tổng CTCP Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí
(PV Drilling)
3
2009 Dịch vụ khoan dầu khí
CTCP Đầu tư Khoan Dầu khí Việt Nam (PVDI)
Công ty cổ phần Mirae
4
2009
Sản xuất chăn gối đệm
Công ty cổ phần Mirae Fiber
Công ty cổ phần Kinh Đô
5
2010 Kinh doanh thực phẩm
Công ty cổ phần Kinh Đô Miền Bắc
Công ty cổ phần Kem Kido's
Công ty Cổ phần Vinpearl Đà Nẵng
Công ty Cổ phần Vinpearl Hội An
6
2011
Công ty Cổ phần Phát triển và dịch vụ
Vincharm
Dịch vụ khách sạn, du lịch
và vui chơi giải trí;
Bất động sản; Dịch vụ
chăm sóc sắc đẹp, dịch vụ
hoạt động thể dục thể thao,
thẩm mỹ.
Công ty Cổ phần Hệ thống thông tin FPT
Công ty Cổ phần phần mềm FPT
7
2011
Công nghệ thông tin;
Phân phối
Công ty Cổ phần Thương mại FPT
Công ty Cổ phần tập đoàn Hapaco
Công ty Cổ phần Hapaco Hải Âu
8
2011
Sản xuất, kinh doanh giấy
Công ty Cổ phần Hapaco Yên Sơn
Công ty Cổ phần Vincom
9
2011
Công ty Cổ phần Vinpearl
Dịch vụ khách sạn, du lịch
và vui chơi giải trí;
Bất động sản
166
Công ty Cổ phần Thép Việt - Ý
10
2012
Công ty Cổ phần Luyện thép Sông Đà
Sản xuất kinh doanh các
sản phẩm thép, sản xuất,
kinh doanh, xuất nhập
khẩu nguyên vật liệu, thiết
bị phụ tùng cho ngành
thép; Kinh doanh vận tải
hàng hóa
Công ty Cổ phần Hưng Đạo Container
11
2012
Sản xuất container;
Dịch vụ vận tải
Công ty Cổ phần Cơ khí Vận tải Thương mại
Đại Hưng
CTCP Tập đoàn thép Tiến Lên
12
2012
CTCP Sản xuất và Thương mại Phúc Tiến
Sản xuất và buôn bán sắt,
thép; Xây dựng, mua bán ô
tô, dịch vụ khác
Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội
13
2012
Hoạt động kinh doanh
ngân hàng
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
Abbott Investments Luxembourg Sarl
Abbott South Africa Luxembourg Sarl
14
2012 Bán buôn bán lẻ
Công ty TNHH 3A Nutrition Việt Nam
Công ty TNHH Sản phẩm tiêu dùng Toshiba
Việt Nam (TVCP)
15
2012
Công nghiệp chế biến, chế
tạo
Công ty TNHH Hàng gia dụng Toshiba Việt
Nam (TVHA)
Công ty cổ phần Kinh Đô
16
2013 Kinh doanh bánh kẹo
Công ty cổ phần Vinabico
Công ty TNHH Thương mại Nippon Steel Việt Nam
17
2013
Sản xuất thép
Công ty TNHH Sumikin Bussan Việt Nam
Công ty cổ phần Sông Đà 11
18
2013
Công ty cổ phần Sông Đà – Thăng Long
Hoạt động xây lắp trạm
biến áp
Công ty cổ phần Đầu tư và Xây lắp Sông Đà 11
Công ty cổ phần thuỷ điện Cần Đơn
19
2013
Công ty cổ phần thuỷ điện Nà Lơi
Sản xuất và kinh doanh
điện thương phẩm
Công ty cổ phần thuỷ điện Ry Ninh II
20
2014 Dệt may
Tổng Công ty cổ phần Phong Phú
Công ty cổ phần dệt vải Phong Phú
Công ty cổ phần dệt gia dụng Phong Phú
167
Petronas Chemicals Group Berhad (PCGB)
21
2014
Cty TNHH Nhựa và Hoá chất Phú Mỹ (PMPC)
Sản xuất nhựa, bột nhựa
PVC
Asahi Glass Company, Limited (AGC)
A.p Moller – Maersk A/S
22
2014 Vận tải biển
CMA CGM S.A
MSC Mediterranean Shipping Company SA
Abbott Investments Luxembourg Sarl
23
2014 Dược phẩm
CFR Pharmaceuticals S.A
Positron Limited
168
PHỤ LỤC 2: BẢNG CÂU HỎI KHẢO SÁT DOANH NGHIỆP
CH 1. Doanh nghiệp của anh/chị biết đến Luật Cạnh tranh từ khi nào?
[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]
Chưa hề biết
DỪNG PHỎNG VẤN
1
Mới biết trong vòng 2 năm gần đây
(từ 2011 đến 2013)
2
Biết từ 2-4 năm trước
(từ 2008 đến 2010)
3
Biết ngay từ khi Luật mới ban hành
(từ 2004 đến 2007)
4
CH 2. Doanh nghiệp của anh/chị biết đến Luật Cạnh tranh qua kênh thông tin nào?
[NHIỀU LỰA CHỌN]
[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]
Tự tìm hiểu nghiên cứu
1
Qua phương tiện thông tin đại chúng
2
Hội thảo, tập huấn mà cán bộ của doanh nghiệp có tham dự
3
Được chuyên gia pháp lý/luật sư tư vấn
4
5 PVV GHI CỤ THỂ
Kênh khác
Các kênh thông tin khác (5):
.................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
CH 3. Theo Anh/Chị, Luật Cạnh tranh được ban hành và thực thi nhằm ngăn chặn/ điều
chỉnh những hành vi nào?
[NHIỀU LỰA CHỌN]
[PVV KHÔNG ĐỌC]
169
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (thỏa thuận ấn định giá; sản
1
lượng; phân chia thị trường; thỏa thuận loại bỏ đối thủ cạnh
tranh, thông đồng đấu thầu…)
Lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền trên thị trường
2
(bán dưới giá thành toàn bộ; áp đặt giá mua, bán bất hợp lý;
ấn định giá bán lại tối thiểu; áp đặt điều kiện thương mại bất
bình đẳng áp đặt điều kiện ký kết hợp đồng; ngăn cản đối thủ
cạnh tranh mới...)
Tập trung kinh tế (mua lại, hợp nhất, sáp nhập, liên doanh
3
giữa các doanh nghiệp)
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
4
gièm pha doanh nghiệp khác; gây rối hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp khác; quảng cáo, khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh; bán hàng đa cấp bất chính…)
Hành vi khác
5 PVV GHI CỤ THỂ
Không biết
6
Hành vi khác (5):
.................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
CH 4. Trước buổi hôm nay, anh/chị đã từng biết về Cục Quản lý cạnh tranh hay chưa?
[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]
Chưa
1
Đã biết
2
170
CH 5. Anh/chị có biết đến một/một số vụ việc vi phạm pháp luật cạnh tranh đã được
cơquan chức năng điều tra, xử lý hay chưa?
[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]
Chưa bao giờ
1
Đã từng
2 PVV GHI CỤ THỂ
Vụ việc nào? (2) (ghi tên hành vi & doanh nghiệp liên quan)
................................................................................................................................................
B. VẬN DỤNG LUẬT CẠNH TRANH TẠI DOANH NGHIỆP
CH 6. Doanh nghiệp của anh/chị có Bộ phận riêng (Phòng/Ban/Đơn vị) phụ trách việc
tuân thủ pháp luật, bao gồm Luật Cạnh tranh không?
[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]
Không
1 CHUYỂN CH 8
Có bộ phận riêng (Phòng/Ban/Đơn vị) phụ trách việc tuân thủ
2
Luật Cạnh tranh
Có Bộ phận riêng (Phòng/Ban/Đơn vị) phụ trách việc tuân thủ
3
pháp luật, bao gồm Luật Cạnh tranh
CH 7. Doanh nghiệp anh/chị thành lập Bộ phận riêng phụ trách việc tuân thủ pháp
luật, bao gồm Luật Cạnh tranh từ khi nào?
[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]
Trong vòng 2 năm gần đây
1
(từ 2012 đến 2014)
Từ 2-4 năm trước
2
(từ 2009 đến 2011)
Từ khi Luật mới ban hành
3
(từ 2004 đến 2008)
Không biết
4
171
CH 8. Trong quá trình kinh doanh, đã bao giờ anh/chị nhận thấy một hành vi kinh doanh có
khả năng vi phạm Luật Cạnh tranh hay không?
[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]
Chưa bao giờ
1
Đã từng
2 PVV GHI CỤ THỂ
Không biết
Mô tả hành vi có khả năng vi phạm Luật Cạnh tranh (2):
.................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................
CH 9. Doanh nghiệp của anh/chị đã từng chịu thiệt hại vì một hành vi cạnh tranh của
doanh nghiệp/tổ chức khác hay không?
[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]
Chưa bao giờ
1
Đã từng
2 PVV GHI CỤ THỂ
Mô tả hành vi gây thiệt hại (2):
.................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................
CH 10. Doanh nghiệp của anh/chị đã từng nghĩ đến việc đệ đơn khiếu nại hoặc cung cấp
thông tin về hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh hoặc của doanh
nghiệp khác tới cơ quan chức năng hay chưa?
[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]
Chưa bao giờ
1 CHUYỂN CH12
Đã từng
2 PVV GHI CỤ THỂ
172
Tên điều khoản/ mô tả hành vi bị tố cáo, khiếu nại và tên cơ quan thụ lý (2):
.................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................
CH 11. Trên thực tế, Doanh nghiệp của anh/chị đã từng khiếu nại hoặc cung cấp thông tin
về hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh cho các cơ quan chức năng hay chưa?
[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]
1
Chưa bao giờ
2 CHUYỂN CH13
Đã từng
CH 12. Xin vui lòng cho biết lý do doanh nghiệp anh/chị chưa hoặc chưa nghĩ đến việc
khiếu nại hoặc cung cấp thông tin về hành vi vi phạm đến cơ quan chức năng?
[NHIỀU LỰA CHỌN]
[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]
Do không gây thiệt hại/ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp
1
Do thiệt hại/ảnh hưởng không đáng kể
2
Ngại làm việc với cơ quan chức năng
3
Thủ tục khiếu nại phiền phức
4
Ngại ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh trong tương lai
5
6
Không biết về hành vi vi phạm
Lý do khác
7 PVV GHI CỤ THỂ
173
PHỤ LỤC 3:
KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT
CẠNH TRANH CỦA THỔ NHĨ KỲ
1. Về phát triển và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh1
Bắt đầu từ những năm 1971, Bộ Thương mại Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành
xây dựng Dự thảo thứ nhất Luật điều chỉnh các hoạt động Thương mại và
Dịch vụ để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Mặc dù chủ yếu hướng tới bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch với doanh nghiệp, tuy nhiên
dự thảo Luật này cũng đã chứa đựng những điều khoản khung về cạnh tranh.
Đến năm 1975, với việc xây dựng Dự thảo thứ hai của Luật điều chỉnh
các hoạt động Thương mại và Dịch vụ để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
thì về mặt kỹ thuật đã có những quy định cụ thể về luật cạnh tranh tại Thổ Nhĩ
Kỳ. Ví dụ tại Điều 51 của Dự Luật cũng đã cấm các hành vi phản cạnh tranh
của các doanh nghiệp bao gồm: các thỏa thuận liên kết giữa các doanh nghiệp
hay lạm dụng sức mạnh thị trường để tăng giá hàng hóa dịch vụ hay ngăn cản
các doanh nghiệp khác tham gia thị trường…
Những lần sửa đổi vào những năm 1983 và 1984 sau đó, Luật điều
chỉnh các hoạt động Thương mại và Dịch vụ để bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng càng có những điều khoản cụ thể hơn về cạnh tranh. Ví dụ như các điều
khoản về Cartel và Độc quyền. Đến năm 1984, Bộ Thương mại Thổ Nhĩ Kỳ
cũng soạn thảo một Dự thảo Đạo Luật mới có nội dung sâu hơn về cạnh tranh:
Luật về Thỏa thuận và Các hành vi hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên Dự thảo
Đạo Luật này đã không được thông qua bởi Nghị viện Thổ Nhĩ Kỳ vào năm
1985 và bị “rơi vào quên lãng” tới năm bầu cử 1985 của Thổ Nhĩ Kỳ sau đó.
1http://mpra.ub.uni-muenchen.de/179/
Mãi đến năm 1991, sau đợt Tổng bầu cử, Bộ Công Thương Thổ Nhĩ Kỳ
174
(trước là Bộ Thương Mại) bắt đầu soạn thảo hai Đạo Luật là Bảo vệ cạnh
tranh và Bảo vệ người tiêu dùng.
Đến năm 1994, Luật Bảo vệ cạnh tranh (Luật số 4054) được chính thức
thông qua. Theo đó, đến năm 1997, Thổ Nhĩ Kỳ thành lập 02 bộ máy là Ban
Cạnh tranh và Cục Cạnh tranh.
Từ khi ban hành đến nay, các Luật bảo vệ cạnh tranh của Thổ Nhĩ Kỳ
đã có những lần sửa đổi và điều chỉnh:
- Năm 2005, điều chỉnh số lượng thành viên của Ban Cạnh tranh (từ 12
xuống còn 7) và thay đổi khung hình phạt;
- Năm 2007, ngưỡng thị phần 40% là ngưỡng cho các thỏa thuận theo
chiều dọc.
- Năm 2008, sửa đổi mức phạt hành chính cho các hành vi vi phạm.
- Năm 2009, đưa Chương trình khoan dung vào Luật để hỗ trợ điều tra
hạn chế cạnh tranh. Đồng thời ký thỏa thuận hợp tác với Cơ quan Quản lý đấu
thầu công về việc xử lý các vụ việc thông thầu.
2. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn Cơ quan cạnh tranh
Theo Luật, Cơ quan cạnh tranh của Thổ Nhĩ Kỳ (TCA) bao gồm Ban
Cạnh tranh và Cục Cạnh tranh. Ban Cạnh tranh là cơ quan chỉ đạo và ra quyết
định còn Cục Cạnh tranh là cơ quan thực thi điều tra.
Ban Cạnh tranh (Competition Board) tại thời điểm thành lập được quy
định có 12 thành viên bao gồm 01 Chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch và 10 thành viên
(hiện nay là 7 thành viên: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và 05 thành viên). Ban Cạnh
tranh là cơ quan đưa ra các quyết định cuối cùng của các hành vi phản cạnh
tranh bị cấm, đưa ra các quyết định miễn trừ, phê duyệt thông báo sáp nhập và
các quyết định thực thi khác của Luật. Các thành viên đều làm việc toàn thời
gian và do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Thổ Nhĩ Kỳ bổ nhiệm. Thành viên
của Ban cạnh tranh phải có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên
175
môn và phải có trình độ Thạc sỹ trở lên các chuyên ngành: luật, kinh tế, kỹ
sư, quản trị kinh doanh và tài chính. Nhiệm kỳ của Chủ tịch, Phó chủ tịch và
thành viên tối đa là 06 năm nếu không bị bãi nhiệm vì một trong các lý do:
Không còn đủ đáp ứng về mặt chuyên môn hoặc bị truy tố bởi Tòa án.
Hỗ trợ cho Ban Cạnh tranh là Cục Cạnh tranh. Theo Luật, Cục Cạnh
tranh có thẩm quyền tự khởi xướng điều tra vụ việc hoặc theo đơn khiếu nại.
Ngoài chức năng điều tra, Phòng chuyên môn của Cục Cạnh tranh còn tiến
hành rà soát và nghiên cứu để thu thập thông tin về thị trường, doanh nghiệp.
Ngân sách hoạt động của TCA được hình thành từ nhiều nguồn: (i)
ngân sách được cấp bởi Bộ Hải Quan và Thương mại (trước là Bộ Công
Thương được tách ra và sáp nhập mới với bộ phận Hải quan); (ii) khoản thu
4/10.000 nguồn vốn của các doanh nghiệp mới thành lập mới và phần tăng
vốn của các doanh nghiệp cũ; (iii) nguồn thu từ xuất bản ấn phẩm hay các
khoản thu khác. Chính vì nguồn thu dồi dào từ doanh nghiệp đó, TCA không
còn cần đến nguồn ngân sách từ Bộ chủ quản từ năm 1997 đến nay. Ngân
sách 2014 của TCA là 27 triệu USD và nguồn nhân lực là 348 cán bộ2.
3. Về công tác tổ chức điều tra và xử lý các hành vi vi phạm
Theo Luật, Ban Cạnh tranh có thẩm quyền tham gia điều tra hoặc thành
lập nhóm điều tra theo tính chất từng vụ việc. Nhóm điều tra có nhiệm vụ
hoàn thành báo cáo điều tra để báo cáo Ban Cạnh tranh trong vòng 6 tháng kể
từ khi có quyết định điều tra chính thức. Bản báo cáo này cũng sẽ được gửi
cho các bên liên quan điều tra trong vòng 15 ngày (không kèm theo các thông
tin mật hay các thông tin không được cung cấp cho các bên khác, chẳng hạn
như bí quyết kinh doanh…). Trong vòng 30 ngày tiếp theo, các bên liên quan
có thể khiếu nại kết quả điều tra lên Ban Cạnh tranh.
2 Báo cáo thường niên của TCA 2014
Tiếp đó 15 ngày, Ban Cạnh tranh sẽ ra quyết định cuối cùng của vụ
176
việc sau khi xem xét và đánh giá kết quả điều tra và thông tin khiếu nại.
Số vụ việc xử lý bởi TCA từ 2005-2012
Năm tài chính 2005 2006
2007
2008
2009
2010 2011 2012
2013 2014
55
65
79
67
73
99
158
168
117
91
Hạn chế cạnh
tranh (Điều 4)
34
30
48
38
70
111
95
108
57
448
Lạm dụng vị
trí thống lĩnh
(Điều 6)
8
13
21
27
35
38
30
27
17
24
Vi phạm cả
hai Điều 4 và
Điều 6
nhận
130
110
171
177
110
177
191
262
162
169
Chấp
M&A
1
0
0
0
1
0
0
0
0
0
Từ chối M&A
Nguồn: Báo cáo hoạt động năm 2005 - 2014 của TCA
Xét riêng đối với biện pháp phạt tiền, theo Luật, các doanh nghiệp vi
phạm Điều 4 và Điều 6 sẽ bị xử phạt tới 10% doanh thu của năm ngay trước
khi có quyết định xử phạt của Ban Cạnh tranh. Trong trường hợp không tính
toán được doanh thu để xử phạt của năm đó thì sẽ thay thế bằng năm gần nhất
với ngày công bố quyết định xử phạt.
Số tiền phạt hành chính bởi TCA trong 5 năm gần đây
Đơn vị: Lira
2010
2011
2012
2013
2014
Năm tài
chính
39,401,470
459,585,920
60,411,864
1,187,220,597
468,233,986
Số tiền xử
phạt
Nguồn: Báo cáo hoạt động năm 2005 - 2014 của TCA
4. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
a. Áp dụng thủ tục khám xét tại chỗ (On-spot inspection)
Tương tự như Nhật Bản và Hoa Kỳ, cơ quan cạnh tranh của Thổ Nhĩ
177
Kỳ cũng có thẩm quyền khám xét nhà xưởng và trụ sở làm việc của các bên bị
điều tra để thu thập thông tin và chứng cứ cho báo cáo điều tra của vụ việc.
Việc khám xét này là cưỡng chế đối với các doanh nghiệp bị điều tra. Trên
thực tế, trong một số vụ việc, các bên bị điều tra đã cố tình bưng bít và không
hợp tác trong quá trình khám và TCA có thẩm quyền đề xuất mức phạt tăng
nặng đối với những trường hợp như vậy.
b. Áp dụng chương trình khoan dung (Leniency)3
Bắt đầu từ năm 2009, TCA áp dụng Chương trình khoan dung để hỗ trợ
điều tra và xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh. Chương trình khoan dung của
TCA cho phép các bên vi phạm nộp đơn hưởng miễn trừ hình phạt chậm nhất
đến khi báo cáo điều tra vụ việc đã hoàn thành và nộp lên Ban Cạnh tranh.
Tùy theo thứ tự các bên có thể được miễn xử phạt hoặc được hưởng hình phạt
giảm nhẹ. Hồ sơ xin hưởng khoan dung cần đầy đủ:
(i) thông tin sản phẩm bị cáo buộc của cartel
(ii) khoảng thời gian của cartel
(iii) các thành viên của cartel
(iv) thời gian, địa điểm và thành phần của các cuộc họp cartel
(v) các thông tin và tài liệu khác về hoạt động của cartel
Ứng viên nộp đơn hưởng khoan dung không phải là thành phần tạo ra
cartel có thể được hưởng miễn trừ 100%. Tuy nhiên nếu ứng viên có vai trò
quan trọng hoặc bắt các thành viên khác phải tham gia cartel thì việc xem xét
hưởng miễn trừ sẽ ở mức 33% đến 50% đối với công ty và 33% đến dưới
100% đối với các cá nhân (giám đốc hoặc nhân viên). Cụ thể ở các mức giảm
miễn tiếp theo cho đương đơn thứ hai sẽ là 33% đến 50%, đương đơn thứ ba
sẽ là 25% đến 33%, đương đơn tiếp theo sẽ nằm trong khoảng 16% đến 25%.
3http://www.elig.com/docs/Cartels_and_Leniency-Turkey.pdf
Theo pháp luật Thổ Nhĩ Kỳ, thì phạt hình sự không dành cho các hành
178
vi vi phạm pháp luật chống độc quyền. Tất các các mức hưởng miễn giảm
trên là dành cho mức xử phạt hành chính quy định tại Luật bảo vệ cạnh tranh
của Thổ Nhĩ Kỳ.
c. Bồi thường những thiệt hại do vụ việc phản cạnh tranh gây ra
Một điều riêng biệt trong cơ chế xử phạt của pháp luật cạnh tranh Thổ
Nhĩ Kỳ đó là bên bị thiệt hại có thể khiếu nại ra tòa án để đòi bồi thường gấp
03 lần những thiệt hại của mình bởi vụ việc vi phạm gây ra, đó là chưa kể các
khoản phí tòa án và phí thuê luật sư (Điều 57).
Như vậy, hầu hết các tòa án đều đợi khi TCA ban hành quyết định cuối
cùng rồi sau đó mới công bố quyết định của tòa. Điều này làm tăng tính răn
đe, ngăn chặn những doanh nghiệp có ý định hình thành thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh.