BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ CÔNG THƯƠNG

VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI

-----------------------------------

TRỊNH ANH TUẤN

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI

PHÁP LUẬT CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM

Chuyên ngành: Thương mại

Mã số: 62.34.10.01

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:

Người hướng dẫn 1: PGS.TS Lê Danh Vĩnh

Người hướng dẫn 2: TS. Trịnh Thị Thanh Thủy

Hà Nội, Năm 2015

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng. Các

kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung

thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này

chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.

Tác giả

Trịnh Anh Tuấn

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài luận án .................................................................... 1

2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4

2.1. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 4

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 4

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5

3.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 5

3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 5

4. Phương pháp nghiên cứu của luận án ...................................................... 5

4.1. Phương pháp phân tích và thống kê ...................................................... 6

4.2. Phương pháp so sánh .............................................................................. 6

4.3. Phương pháp khảo sát thực tế ............................................................... 6

5. Những đóng góp mới của Luận án ........................................................... 6

5.1. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn................................................ 6

5.2. Những đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu của Luận án ......... 9

6. Kết cấu nội dung của Luận án ................................................................ 10

PHẦN TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ................... 11

1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước........................................................ 11

iii

2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài........................................................ 15

3. Những vấn đề được nghiên cứu trong luận án ...................................... 17

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT CẠNH TRANH ................................................................................ 19

1.1. Một số khái niệm có liên quan ............................................................. 19

1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và các hình thái cạnh tranh ............................ 19

1.1.2. Khái niệm và lịch sử hình thành pháp luật cạnh tranh ...................... 22

1.1.3. Khái niệm về thực thi pháp luật cạnh tranh ....................................... 27

1.1.4. Khái niệm hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh ............................. 29

1.2. Tiêu chí để đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh .......... 31

1.2.1. Nhóm tiêu chí bên trong .................................................................... 32

1.2.2. Nhóm tiêu chí bên ngoài .................................................................... 36

1.3. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của một số nước và bài học đối với Việt Nam .................................................. 40

1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản ............................................................... 40

1.3.2. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ .................................................................. 50

1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................. 61

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2005 ĐẾN 2014 ................ 67

2.1. Tổng quan về pháp luật cạnh tranh Việt Nam ................................... 67

2.1.1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật cạnh tranh ........ 70

2.1.2. Quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh ........................................... 70

2.1.3. Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............................ 80

2.1.4. Quy định về Cơ quan cạnh tranh ....................................................... 82

2.1.5. Quy định về quy trình tố tụng cạnh tranh .......................................... 83

iv

2.2. Thực trạng hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2014 .............................................................................. 84

2.2.1. Thực trạng vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam ....................................................... 84

2.2.2. Thực trạng công tác điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh ................. 89

2.2.3. Thực trạng hoạt động tăng cường sự tiếp cận pháp luật cạnh tranh của cơ quan thực thi ......................................................................................... 103

2.3. Đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam trong giai đoạn 2005 đến 2014 ............................................................................. 106

2.3.1. Đánh giá theo nhóm tiêu chí bên trong ........................................... 106

2.3.1.1. Đánh giá về tính hợp pháp của pháp luật cạnh tranh ........... 106

2.3.1.2. Đánh giá về tính thực tiễn của pháp luật cạnh tranh ............ 111

2.3.2. Đánh giá theo nhóm tiêu chí bên ngoài ........................................... 117

2.3.2.1. Đánh giá về công tác tổ chức thực thi pháp luật cạnh tranh 117

2.3.2.2. Đánh giá về khả năng tiếp cận và tuân thủ pháp luật cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp ........................................................... 120

2.3.3. Một số bất cập và nguyên nhân ....................................................... 123

2.3.3.1. Một số bất cập ........................................................................ 123

2.3.3.2. Nguyên nhân của những bật cập ........................................... 127

CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM129

3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế ......................................................... 129

3.1.1. Bối cảnh trong nước ........................................................................ 129

3.1.2. Bối cảnh quốc tế .............................................................................. 130

3.2. Những vấn đề đặt ra đối với nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh trong thời gian tới ở Việt Nam .............................................. 131

3.2.1. Tạo lập một sân chơi bình đẳng cho cộng đồng doanh nghiệp ....... 131

3.2.2. Đáp ứng được các yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội ................... 132

v

3.2.3. Phù hợp với các cam kết mới của Việt Nam trong các Hiệp định song phương và đa phương ................................................................................ 133

3.3. Quan điểm và định hướng nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh trong thời gian tới ............................................................................ 134

3.3.1. Quan điểm ........................................................................................ 134

3.3.2. Định hướng ...................................................................................... 134

3.4. Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh ........................................................................................... 135

3.4.1. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật cạnh tranh ................... 135

3.4.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan cạnh tranh ................... 147

3.4.3. Nâng cao nhận thức của các cơ quan liên quan và cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh .................................................................. 152

3.4.4. Tăng cường hợp tác quốc tế............................................................. 153

KẾT LUẬN ................................................................................................. 155

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .............. 159

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 160

PHỤ LỤC .................................................................................................... 165

vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TIẾNG VIỆT

Nghĩa Tiếng Việt Viết tắt

Cạnh tranh không lành mạnh CTKLM

CTCP Công ty cổ phần

DN Doanh nghiệp

DNNN Doanh nghiệp nhà nước

DNBH Doanh nghiệp Bảo hiểm

HCCT Hạn chế cạnh tranh

LCT Luật Cạnh tranh

QLCT Quản lý cạnh tranh

TĐKTNN Tập đoàn kinh tế Nhà nước

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

TTKT Tập trung kinh tế

vii

TIẾNG ANH

Viết tắt Nghĩa Tiếng Anh Nghĩa Tiếng Việt

AML Antimonopoly Law Luật Chống độc quyền

ASEAN

Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

APEC

Asia-Pacific Economic Cooperation, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương

DOJ Department of Justice Bộ Tư pháp Hoa Kỳ

EU European Union Liên Minh Châu Âu

FTC Federal Trade Commission Ủy Ban thương mại liên bang Hoa Kỳ

ICN Mạng lưới cạnh tranh quốc tế

International Competition Network

JFTC Japan Fair Trade Commission Ủy Ban Thương mại lành

mạnh Nhật Bản

WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới

viii

DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Số vụ việc áp dụng các biện pháp xử lý từ 2005-2013của JFTC ....... 43

Bảng 1.2. Số vụ xử lý vi phạm của JFTC theo hành vi vi phạm ........................ 44

Bảng 2.1. Nguồn nhân lực của Cục Quản lý cạnh tranh ..................................... 87

Bảng 2.2. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh đã điều tra, xử lý trong giai đoạn

2006-2014 ............................................................................................. 89

Bảng 2.3. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh giai đoạn 2006 - 2014 ........................ 91

Bảng 2.4. Phân loại vụ việc điều tra tiền tố tụng theo nhóm ngành, lĩnh vực .... 93

Bảng 2.5. Số vụ việc tập trung kinh tế giai đoạn 2005 - 2014 ............................ 99

Bảng 2.6. Phân loại các vụ việc TTKT theo nhóm hành vi .............................. 100

Bảng 2.7. Phân loại vụ việc TTKT theo nhóm ngành nghề .............................. 100

Bảng 2.8. Thống kê các loại hình doanh nghiệp tham gia TTKT ..................... 102

Bảng 2.9. Thời điểm DN bắt đầu nhận thức về Luật Cạnh tranh ..................... 121

Bảng 2.10 Kênh thông tin giúp doanh nghiệp nhận biết Luật Cạnh tranh ....... 121

Bảng 2.11. Đánh giá của DN về mức độ hiểu biết các quy định của pháp luật

cạnh tranh ............................................................................................ 122

ix

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Số tiền phạt JFTC áp dụng đối với hành vi thỏa thuận ấn định giá và

thông thầu giai đoạn 2005-2013 ........................................................... 45

Hình 1.2. Số tiền phạt do Cục chống độc quyền tiến hành từ 2004 - 2013 ........ 57

Hình 2.1. Cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh [43] ............................... 87

Hình 2.2. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh giai đoạn 2006 - 2014 ........................ 92

Hình 2.3. Phân loại vụ việc điều tra tiền tố tụng giai đoạn 2006-2014 .............. 92

Hình 2.4. Cơ cấu vụ việc điều tra tiền tố tụng theo nhóm ngành, lĩnh vực ........ 94

Hình 2.5. Vụ việc cạnh tranh không lành mạnh giai đoạn 2006 - 2013 ............. 95

Hình 2.6. Vụ việc CTKLM theo nhóm hành vi vi phạm .................................... 96

Hình 2.7. Tổng số tiền phạt vụ việc CTKLM ..................................................... 97

Hình 2.8. Số vụ việc tập trung kinh tế giai đoạn 2005 - 2014 ............................ 99

Hình 2.9. Số lượng vụ việc TTKT theo nhóm ngành nghề .............................. 101

Hình 2.10. Các loại hình doanh nghiệp tham gia TTKT .................................. 102

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài luận án

Trong thời gian qua, cùng với chính sách đổi mới, mọi thành phần kinh

tế được khuyến khích và tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tham gia kinh doanh

trên thị trường. Từ đó, cạnh tranh ngày càng trở nên mạnh mẽ trong mỗi

ngành, mỗi lĩnh vực của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng mức độ cạnh tranh, đã

xuất hiện những hành vi cản trở, hạn chế cạnh tranh, những hành vi cạnh

tranh không lành mạnh, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp, làm ảnh hưởng tới môi trường cạnh tranh của đất nước.

Trước thực tế đó, năm 2004, Quốc hội đã ban hành Luật Cạnh tranh

nhằm điều tiết các hành vi cạnh tranh, duy trì môi trường cạnh tranh lành

mạnh, đảm bảo các cơ hội cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử cho

các doanh nghiệp, sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội và thúc đẩy phát

triển kinh tế bền vững. Theo quy định của Luật Cạnh tranh, các hành vi như

thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc

quyền và tập trung kinh tế cũng như các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

đều chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh.

Từ khi có hiệu lực đến nay, pháp luật cạnh tranh đã bước đầu phát huy

vai trò tích cực trong việc phát triển môi trường cạnh tranh lành mạnh, xử lý

những hành vi làm sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, số

lượng vụ việc cạnh tranh được điều tra, xử lý là chưa nhiều (08 vụ hạn chế

cạnh tranh và 122 vụ cạnh tranh không lành mạnh). Nguyên nhân dẫn đến

hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam trong thời gian qua chưa

được như kỳ vọng là do còn nhiều bất cập về quy định của pháp luật cạnh

tranh, bộ máy thực thi và nhận thức của cộng đồng.

2

Thứ nhất, một số quy định của pháp luật cạnh tranh khó thực thi

- Cơ sở để xác định thị trường liên quan: theo quy định Luật Cạnh tranh

hiện hành việc xác định một doanh nghiệp có vi phạm các hành vi hạn chế

cạnh tranh bao gồm: lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, tập trung kinh tế,

thoả thuận hạn chế cạnh tranh được xác định trên cơ sở yếu tố thị phần của

doanh nghiệp trên thị trường liên quan. Do đó, vấn đề xác định thị trường liên

quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan là

hết sức quan trọng có yếu tố quyết định trong quá trình thực thi. Tuy nhiên,

theo quy định hiện hành thì các yếu tố để xác định thị trường liên quan là

không phù hợp với thực tế do đó gây nhiều khó khăn trong quá trình thực thi.

- Về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế (mua bán và sáp nhập): theo

Điều 18 của Luật Cạnh tranh, pháp luật cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết

hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị

trường liên quan (trừ trường hợp quy định tại Điều 19). Đồng thời, các doanh

nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30-50% trên thị

trường liên quan phải thông báo cho cơ quan cạnh tranh trước khi tiến hành

các hoạt động tập trung kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp rất

khó để tự xác định thị phần của mình trên thị trường liên quan và như vậy rất

khó để biết xem mình có thuộc ngưỡng bị cấm hoặc phải thông báo tập trung

kinh tế hay không. Do đó, các quy định hiện nay về vấn đề này là không có

tính khả thi.

- Pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay chưa quy định rõ ràng về thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh. Các quy định hiện hành chỉ đề cập đến các hình

thức biểu hiện bên ngoài một cách cứng nhắc, chưa tiếp cận được bản chất

phản cạnh tranh của hành vi. Chẳng hạn, thỏa thuận ấn định mức giá sàn, giá

trần; thỏa thuận tăng giá hoặc giảm giá (không chỉ ở mức cụ thể) hoặc thỏa

thuận duy trì giá bán lại cho bên thứ ba... là những thỏa thuận có bản chất hạn

3

chế cạnh tranh, nhưng chưa được quy định. Trong khi hành vi kinh doanh,

chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó có hành vi thỏa thuận thay

đổi ngày càng phức tạp với nhiều dạng thức khác nhau thì tiếp cận quy định

“cứng” như hiện nay sẽ gây khó khăn cho cơ quan thực thi trong quá trình

điều tra, xử lý các vụ việc cụ thể. Ngoài ra, thực tiễn một số vụ việc thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh được cơ quan cạnh tranh xem xét, xử lý cho thấy các

hiệp hội đều là tổ chức đứng sau, giữ vai trò tổ chức, lôi kéo doanh nghiệp

tham gia và giám sát việc thực thi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp. Thậm

chí trong nhiều vụ việc, Hiệp hội còn ban hành các “quyết định”, các “nghị

quyết” về giá cả, sản lượng... trên thị trường để các doanh nghiệp thành viên

thực hiện. Tuy nhiên, các hành vi nêu trên của hiệp hội lại chưa được điều

chỉnh trong các quy định hiện hành.

Thứ hai, mô hình cơ quan thực thi chưa phù hợp

- Hiện nay cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam bao gồm hai cơ

quan: Cục Quản lý cạnh tranh (Cơ quan QLCT) và Hội đồng cạnh tranh

(HĐCT). Một trong những nhiệm vụ và chức năng của Cơ quan QLCT là thụ

lý, tổ chức điều tra các vụ việc liên quan đến hạn chế cạnh tranh để HĐCT xử

lý theo quy định của pháp luật. Như vậy, sau khi thụ lý và điều tra, Cơ quan

QLCT sẽ phải chuyển vụ việc sang HĐCT để tiến hành xử lý vi phạm. Trong

khi đó, HĐCT lại được thành lập và hoạt động theo cơ chế liên ngành nên

việc vận hành rất khó linh hoạt trong điều kiện các cơ quan nhà nước của Việt

Nam như hiện nay. Chính vì vậy, để xử lý được vụ việc cạnh tranh, Cơ quan

QLCT và HĐCT phải tiến hành rất nhiều thủ tục và nhiều công đoạn dẫn đến

sự thiếu hiệu quả trong việc phối kết hợp giữa hai cơ quan này.

- Bên cạnh đó, ngoài chức năng thực thi pháp luật cạnh tranh, Cục

Quản lý cạnh tranh còn phải thực hiện thêm các chức năng thực thi pháp luật

về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phòng vệ thương mại dẫn tới nguồn lực

dành cho công tác quản lý cạnh tranh bị hạn chế.

4

Thứ ba, nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh

tranh chưa cao

Trong số các vụ việc đã xử lý trong thời gian qua, số vụ việc do doanh

nghiệp nộp hồ sơ khiếu nại không nhiều (chiếm khoảng hơn 20%), hầu hết

các vụ xử lý là do cơ quan cạnh tranh tự phát hiện thông qua các phương tiện

đại chúng. Điều này cho thấy, nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về vấn

đề này là chưa cao.

Vì những lý do nêu trên, việc lựa chọn đề tài “Giải pháp nâng cao

hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu

luận án Tiến sĩ kinh tế sẽ góp phần đưa pháp luật cạnh tranh đến gần hơn với

cuộc sống.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm kiếm các giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan các công trình khoa học đã công bố liên quan đến chủ đề

nghiên cứu của đề tài luận án, xác định những vấn đề đã được các nhà khoa

học nghiên cứu, những vấn đề chưa được nghiên cứu để nghiên cứu sinh tiếp

tục nghiên cứu chuyên sâu.

- Đánh giá tổng quan về pháp luật cạnh tranh và thực thi pháp luật cạnh

tranh ở Việt Nam.

- Làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật cạnh tranh và hiệu quả

thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam.

5

- Phân tích đánh giá thực trạng thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt

Nam từ khi Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực

đến nay, từ đó rút ra những bất cập cần được hoàn thiện.

- Đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả

thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam trong thời gian tới.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là hiệu quả thực thi pháp luật

cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

a. Về nội dung

- Nghiên cứu nội dung các văn bản pháp luật về cạnh tranh của Việt Nam

(bao gồm Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành), các nhân tố

tác động, ảnh hưởng đến quá trình triển khai thực hiện pháp luật cạnh tranh.

- Đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của cơ quan quản lý

cạnh tranh ở Việt Nam.

b. Về không gian

Hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam và nghiên cứu kinh

nghiệm một số nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Australia, Pháp, Đức, Nhật

Bản, Hàn Quốc…

c. Về thời gian

- Đánh giá thực trạng thực thi pháp luật cạnh tranh từ năm 2005 - 2014.

- Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của

Việt Nam từ năm 2015 đến năm 2020.

4. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết

6

hợp phân tích định tính và định lượng, đề tài luận án áp dụng các phương

pháp cụ thể sau đây.

4.1. Phương pháp phân tích và thống kê

Được sử dụng nhằm hệ thống hóa các công trình nghiên cứu, lý luận cơ

bản về các vấn đề liên quan trong Đề tài nghiên cứu của mình, nghiên cứu

sinh sử dụng phương pháp phân tích, thống kê để làm rõ các thuật ngữ, những

lý luận sử dụng trong lĩnh vực cạnh tranh, các kết quả nghiên cứu, những vấn

đề đang tồn tại mà được các công trình khoa hoc trước đây đã nghiên cứu.

4.2. Phương pháp so sánh

Nhằm kiểm chứng tính chính xác của thông tin được thu thập, phương

pháp so sánh được sử dụng trong nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về xây

dựng và thực thi pháp luật cạnh tranh và trong phần phân tích đánh giá thực

trạng theo khung lý thuyết.

4.3. Phương pháp khảo sát thực tế

Bên cạnh việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến chính sách cạnh

tranh được trình bày trong các đề tài khoa học, các công trình nghiên cứu, các

ấn bản khoa học, phương pháp khảo sát thực tế được sử dụng trong trao đổi

với chuyên gia, điều tra mẫu một số doanh nghiệp là đối tượng điều chỉnh của

Luật. Phương pháp này cung cấp những số liệu, tài liệu cho đánh giá thực

trạng về nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh của

Việt Nam, từ đó làm cơ sở đề xuất trong luận án.

5. Những đóng góp mới của Luận án

5.1. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn

a. Về lý luận

+ Luận án hệ thống hóa cơ sở lý luận về hiệu quả thực thi pháp luật

7

cạnh tranh, cụ thể là làm rõ những khái niệm cơ bản về cạnh tranh, pháp luật

cạnh tranh, vị trí vai trò của pháp luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường,

các đối tượng, yếu tố liên quan đến công tác thực thi pháp luật cạnh tranh, các

mô hình tổ chức quản lý nhà nước về pháp luật cạnh tranh trên thế giới.

+ Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong nâng cao hiệu quả thực

thi pháp luật cạnh tranh, rút ra bài học và điều kiện áp dụng cho Việt Nam.

b. Về thực tiễn

- Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm một số quốc gia về nội dung pháp

luật, cơ quan thực thi, các biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi, từ đó kiến

nghị bài học có thể áp dụng ở Việt Nam.

- Đề tài luận án phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả thực thi pháp

luật cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam trong thời gian

vừa qua (trong đó đặc biệt chú trọng đến hoạt động điều tra, xử lý các hành vi

vi phạm pháp luật cạnh tranh, các hoạt động tuyên truyền phổ biến...) chỉ ra

những thành tựu, tồn tại, khó khăn và nguyên nhân, xác định những vấn đề

đặt ra cho công tác thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam, tựu trung là:

+ Về nội dung các văn bản pháp luật: Một số quy định liên quan đến quy

trình điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh, quy định về xác định thị trường liên

quan và quy định về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế theo quy định của

Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn hiện không phù hợp và khó có thể

áp dụng trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay ở Việt Nam.

+ Về cơ quan cạnh tranh: Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay là cơ quan

thuộc Bộ Công Thương không đảm bảo vị trí độc lập, còn ôm đồm nhiều

chức năng làm phân tán nguồn lực.

+ Về nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp: Trong thời gian gần đây

8

nhận thức cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh đã có cải thiện

nhưng vẫn ở mức thấp. Đây là một phần nguyên nhân nhiều doanh nghiệp khi

quyền lợi của mình bị xâm hại không biết sử dụng pháp luật cạnh tranh như là

một công cụ để bảo vệ mình.

- Xác định bối cảnh trong nước, quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với

nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh trong thời gian tới. Luận án

đã đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi

pháp luật cạnh tranh trong thời gian tới, bao gồm:

+ Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, cần xây dựng Luật sửa đổi bổ

sung Luật cạnh tranh, trong đó cần làm rõ tiêu chí xác định thị trường liên

quan, minh bạch quy trình xử lý vụ việc, áp dụng hình thức xử lý vi phạm hợp

lý dựa trên cơ sở phạm vi và mức độ vi phạm; bổ sung và hoàn thiện các quy

định liên quan đến các nhóm hành vi vi phạm.

+ Kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy cơ

quan thực thi, theo đó đề xuất thành lập một Ủy ban Cạnh tranh độc lập và

đặc biệt chú trọng công tác cán bộ trong thực thi pháp luật cạnh tranh.

+ Nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp, cần thực hiện các

hoạt động tuyên truyền phổ biến có trọng điểm đến các nhóm doanh nghiệp

trong từng lĩnh vực; đa dạng hóa các hình thức tuyên tuyền; thúc đẩy và sử

dụng hiệu quả phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền tới cộng đồng

doanh nghiệp.

+ Hợp tác quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động hợp tác với cơ quan cạnh

tranh nước ngoài và tham gia tích cực vào các diễn đàn cạnh tranh khu vực và

trên thế giới để tận dụng kinh nghiệm và đào tạo cán bộ.

9

5.2. Những đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu của Luận án

Từ nghiên cứu lý luận, thực tiễn của Việt Nam và kinh nghiệm của các

nước, nghiên cứu đã chỉ ra hai nhóm tiêu chí làm căn cứ đánh giá hiệu quả

thực thi pháp luật cạnh tranh:

+ Các tiêu chí thể hiện chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật

bao gồm tính hợp pháp và tính thực tiễn của văn bản quy phạm pháp luật.

+ Các tiêu chí thể hiện mối quan hệ tương tác của quy phạm pháp luật

đối với xã hội bao gồm khả năng tổ chức thực thi của cơ quan thi hành pháp

luật và khả năng tiếp cận, tuân thủ của các đối tượng điều chỉnh mà văn bản

quy phạm pháp luật hướng tới.

Nghiên cứu đã chỉ ra các bất cập trong quá trình thực thi pháp luật cạnh

tranh của Việt Nam trong thời gian qua. Các giải pháp được đưa ra là các giải

pháp từ phía Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp, trong đó chỉ rõ tính khả

thi, tính hữu dụng của giải pháp, cụ thể:

+ Đối với giải pháp hoàn thiện nội dung pháp luật về cạnh tranh ở Việt

Nam: Luận án đã chỉ ra những quy định cần sửa đổi bổ sung phù hợp trên cơ

sở xây dựng Luật Cạnh tranh sửa đổi.

+ Đối với giải pháp kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực cơ quan

điều tra. Luận án đã chỉ ra Việt Nam không nên tách hai cơ quan cạnh tranh

riêng biệt và thực hiện cơ chế Hội đồng như hiện nay và nên thành lập một cơ

quan riêng biệt, độc lập.

+ Giải pháp nâng cao nhận thức, khả năng tham gia của doanh nghiệp

trong việc thực hiện luật: Trên thực tế, để một văn bản pháp luật đi vào cuộc

sống, việc nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp là hết sức cần

thiết và đòi hỏi phải có nguồn lực. Do đó, Luận án chỉ rõ trong thời gian tới,

10

cơ quan cạnh tranh cần đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, tập trung tuyên

tuyền trực tiếp đến các doanh nghiệp trong từng ngành, lĩnh vực riêng biệt và

thiết lập quan hệ chặt chẽ với các cơ quan truyền thông.

Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận và phụ lục, nội dung của Luận

6. Kết cấu nội dung của Luận án

án được kết cấu thành 3 chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh

Chương 2: Thực trạng công tác thực thi pháp luật cạnh tranh của

Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2014

Chương 3: Định hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực

thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam

11

PHẦN TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

Trong nước và ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan

đến pháp luật cạnh tranh và thực thi pháp luật cạnh tranh với mục tiêu và cách

tiếp cận khác nhau. Những công trình nghiên cứu điển hình có thể kể đến là:

1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan

- “Cơ sở khoa học xác định mức độ hạn chế cạnh tranh của các thoả

thuận và các tiêu chí cho phép hưởng miễn trừ trong luật cạnh tranh”, Đề tài

[28]. Nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung (i) làm rõ luận cứ khoa học của

nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu thương mại, năm 2004

khái niệm và tiêu chí “mức độ hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị

trường liên quan của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; các trường hợp

được hưởng miễn trừ việc áp dụng quy định cấm đối với thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh (ii) nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về xác

định các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh các trường hợp được miễn trừ áp dụng

quy định cấm đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh.

Đề tài cũng đề xuất một số nội dung về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

để đưa vào trong Dự thảo Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành.

- Sách “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và

kiểm soát độc quyền kinh doanh” của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung

ương, năm 2002 [34]. Với quan điểm cho rằng để đảm bảo môi trường cạnh

tranh hiệu quả, cần thiết phải xóa bỏ các quy định bất hợp lý cản trở cạnh

tranh trong kinh doanh. Nghiên cứu này tập trung đi sâu vào đánh giá những

hạn chế về các quy định hiện hành, đồng thời hệ thống hoá một số hành vi

hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh của doanh

12

nghiệp. Nghiên cứu chia thành 3 phần chính: (i) làm rõ một số vấn đề lý luận

về cạnh tranh làm nền tảng cho việc phân tích thực trạng của Việt Nam; (ii)

kiến nghị phương hướng xử lý; (iii) nghiên cứu kinh nghiệm của các nước

Hoa Kỳ, Nhật, Australia và Mexico trong xây dựng chính sách cạnh tranh...

và rút ra bài học cho Việt Nam.

- Giáo trình “Luật cạnh tranh tại Việt Nam” TS. Lê Danh Vĩnh, Hoàng

Xuân Bắc, Ths. Nguyễn Ngọc Sơn. NXB Tư pháp, Hà Nội năm 2006 [32].

Giáo trình hệ thống hóa nền tảng lý luận và việc ứng dụng kinh nghiệm của

các nước vào các quy định của Luật Cạnh tranh phục vụ cho công tác đào tạo

môn học Luật Cạnh tranh cho sinh viên chuyên ngành Luật học. Các nội dung

cơ bản được làm rõ như: khái niệm cạnh tranh, vai trò, mục tiêu của chính

sách cạnh tranh đến quy định và cách tiếp cận những nhóm hành vi trong Luật

Cạnh tranh và cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam.

- “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật cạnh tranh”, Đề tài nghiên

cứu cấp Bộ, do Thạc sĩ Lê Thị Bích Thọ, Trường Đại học Luật TP.HCM làm

chủ nhiệm, năm 2002 [27]. Nội dung đề tài đã phân tích các quan điểm, quy

định của pháp luật một số nước từ đó xây dựng tiêu chí xác định hành vi cạnh

tranh không lành mạnh. Trên cơ sở các tiêu chí đó, các tác giả đã chỉ ra được

các hành vi cụ thể được coi là cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh

tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và độc quyền. Đây là những hành

vi quan trọng cần phải xác định khi nghiên cứu xây dựng pháp luật về cạnh

tranh. Các tác giả cũng chỉ ra được những yếu tố chi phối thị trường cạnh

tranh ở Việt Nam, đó là các yếu tố về pháp luật; trình độ phát triển của kinh tế

– xã hội; các hình thức sở hữu kinh doanh, sự quản lý của Nhà nước và mức

độ mở cửa của nền kinh tế. Công trình cũng đã tập trung nghiên cứu pháp luật

của một số nước về cạnh tranh, bao gồm: Luật chống độc quyền của Đan

Mạch, Luật chống hạn chế cạnh tranh Đức, Luật Cạnh tranh Hà Lan, Luật

13

Cạnh tranh Thụy Điển, Luật Cạnh tranh và kinh doanh bình đẳng của Italia,

Luật chống độc quyền của Hoa Kỳ, Luật Cạnh tranh Châu Âu. Trên cơ sở

kinh nghiệm của các nước, các tác giả đã rút yêu cầu và nguyên tắc của việc

xây dựng Luật Cạnh tranh là: phải dựa trên đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nền kinh tế, phù hợp với chính sách

ngoại giao và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới; phải đồng bộ và phù

hợp với các nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật Việt Nam và phải đảm

bảo tạo ra được môi trường pháp lý an toàn cho hoạt động kinh doanh tự do

cạnh tranh ở Việt Nam.

Các công trình nghiên cứu trên mới chỉ nghiên cứu tổng quan về pháp

luật cạnh tranh, vấn đề thực thi pháp luật cạnh tranh của một số nước để tập

trung xây dựng Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn trong giai đoạn

2003-2006. Chưa có công trình nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu, chỉ ra

những bất cập trong khung pháp lý về cạnh tranh, cũng như nghiên cứu sâu

và tổng thể về hoàn thiện pháp luật cạnh tranh và đặc biệt là nâng cao hiệu

quả thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh

tế quốc tế.

Bên cạnh đó, còn có các công trình nghiên cứu đã được công bố rộng

rãi như:

- “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành

mạnh ở Việt Nam” của TS. Đặng Vũ Huân - Bộ Tư pháp - Nhà xuất bản

Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2004 [14].

- "Chính sách cạnh tranh - công cụ vĩ mô nâng cao năng lực cạnh

tranh của doanh nghiệp dân doanh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”

của TS. Tăng Văn Nghĩa đăng tại Tạp chí Nghiên cứu kinh tế năm 2006 [17].

- “Bình luận khoa học Luật Cạnh tranh”, của tác giả TS. Lê Hoàng

Oanh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2005 [18].

14

- “Pháp luật cạnh tranh và chống độc quyền” Tạp chí Nhà nước và

pháp luật của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, năm 1999 [16].

- Cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách cạnh tranh

[35].

- Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW - NXB Lao động - Hà Nội, năm 2000

Các công trình khoa học trên chủ yếu nghiên cứu về lý luận chung, như

sự cần thiết phải có những thay đổi căn bản về vai trò của nhà nước khi

chuyển đổi nền kinh tế, tính tất yếu của việc xây dựng pháp luật và chính sách

cạnh tranh để phù hợp với quy luật của thị trường nhằm (i) kiểm soát độc

quyền; (ii) tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh; (iii) bảo vệ quyền và

lợi ích của doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có một công trình liên quan

đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận án là “Hoàn thiện chính sách cạnh

tranh và kiếm soát độc quyền kinh doanh ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập

kinh tế quốc tế” của TS. Đồng Thị Hà, Trường Đại học kinh tế quốc dân,

2014 [28]. Luận án này đã (i) Phân tích những ý kiến và cách thức hoạch định,

triển khai chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền ở Việt Nam và một

số nước trên thế giới, (ii) Đánh giá ý nghĩa của chính sách cạnh tranh và kiểm

soát độc quyền đối với phát triển kinh tế để đổi mới nhận thức, quan điểm

giữa hai mặt đối lập: cạnh tranh và độc quyền. Qua đó khẳng định: Nhà nước

cần xây dựng chính sách duy trì cạnh tranh (cạnh tranh lành mạnh, bình

đẳng...) và kiểm soát, hạn chế độc quyền, chống các hành vi thống lĩnh thị

trường và cản trở cạnh tranh...; (iii) phân tích, đánh giá các quy định và giải

pháp chính sách hiện tại đang gây khó khăn bất cập cho cạnh tranh và môi

trường cạnh tranh, cũng như kiểm soát độc quyền trong kinh doanh để làm cơ

sở cho các kiến nghị về hoàn thiện và xây dựng mới các chính sách cạnh tranh

và kiểm soát độc quyền ở Việt Nam trong thời gian tới mà không phân tích

khía cạnh về thực trạng thực thi pháp luật cạnh tranh hiện nay.

15

1.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan

- Luật Cạnh tranh năm 2004;

- Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 09 năm

2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh;

- Nghị định số 119/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 12 năm

2011 về việc sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại Nghị định số

116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 9 năm 2005 quy định chi tiết

thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh;

- Nghị định số 05/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09 tháng 01 năm

2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu

tổ chức của Hội đồng cạnh tranh;

- Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09 tháng 01 năm

2006 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của

Cục Quản lý cạnh tranh;

- Nghị định số 71/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21 tháng 7 năm

2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh

vực cạnh tranh;

- Nghị định số 42/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 5 năm

2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.

2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Ở ngoài nước, các công trình nghiên cứu liên quan đến chính sách và

pháp luật cạnh tranh vô cùng phong phú và đa dạng, được thực hiện bởi các

cá nhân, tổ chức khác nhau. Có nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề cụ thể

về chính sách cạnh tranh, chủ yếu là phân tích về cách tiếp cận trong việc xây

dựng chính sách cạnh tranh, các nguyên tắc xây dựng chính sách cạnh tranh

và các hành vi và đối tượng mà chính sách cạnh tranh điều chỉnh...

16

Một trong số những công trình được biết đến rộng rãi là “Chính sách

cạnh tranh, Lý thuyết và thực tiễn” (Competition Policy, Theory and Practice)

của tác giả Massimo Motta do Trường Đại học Cambridge phát hành năm

2004 [44]. Công trình nghiên cứu gồm 3 phần chính: (i) Tổng quan các vấn đề

chống độc quyền (chính sách cạnh tranh) bao gồm: khái niệm về chính sách

cạnh tranh, cách tiếp cận xây dựng chính sách cạnh tranh tại Hoa Kỳ và một

số nước Châu âu; (ii) Đưa ra các khái niệm về quyền lực thị trường, những

ảnh hưởng của doanh nghiệp có quyền lực thị trường tới môi trường cạnh

tranh; (iii) Các công cụ kinh tế thường dùng để xác định quyền lực thị trường.

Công trình nghiên cứu cũng phân tích và dẫn chiếu tới các vụ việc chống độc

quyền từ các quốc gia phát triển. Công trình nghiên cứu có thể được sử dụng

như một cuốn sách giáo khoa kinh tế trong các khóa học về chính sách cạnh

tranh của chương trình đào tạo đại học hoặc sau đại học.

Luật chống độc quyền và kinh tế (Antitrust law and Economics) của

Ernest Gellhorn, William E.Kovacis, Stephen Calkings do Thomson West

phát hành năm 2004 (tái bản lần thứ 5) [39]. Công trình nghiên cứu giúp các

nhà kinh tế, luật sư tăng cường sự hiểu biết về luật chống độc quyền của Hoa

Kỳ, trong đó có phân tích các phán quyết mới nhất của Tòa án tối cao. Công

trình nghiên cứu tập trung vào các nội dung như: (i) Xác định các tiêu chuẩn

đánh giá tác động của thỏa thuận hạn chế theo chiều ngang, chiều dọc; (ii)

Các vấn đề về độc quyền, độc quyền tự nhiên; (iii) Quy trình và thủ tục xét xử

và thực thi phán quyết tại tòa; (iv) Các hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực sở

hữu trí tuệ; (v) Giới hạn về phạm vi áp dụng pháp luật chống độc quyền của

Hoa Kỳ.

Chính sách cạnh tranh và pháp luật chống độc quyền quốc tế

(International antitrust law and policy) do Viện nghiên cứu pháp luật cạnh

tranh thuộc Đại học Fordham của Hoa Kỳ thực hiện và phát hành năm 2008

17

[37]. Đây là công trình nghiên cứu tập hợp các bài phân tích về luật và chính

sách cạnh tranh của các giảng viên và chuyên gia trong lĩnh vực cạnh tranh trên

thế giới. Công trình nghiên cứu tập trung vào các nội dung: (i) chính sách cạnh

tranh, trợ cấp Chính phủ và doanh nghiệp nhà nước; (ii) kiểm soát các vụ mua

bán sáp nhập quốc tế - góc nhìn từ cơ quan cạnh tranh quốc gia; (iii) các vấn đề

cạnh tranh phát sinh trong ngành năng lượng ở một số nước trên thế giới…

Pháp luật cạnh tranh Châu Âu (EC Competition Law) của Joanna

Goyder, Albertina Albors-llorens được Nhà xuất bản Oxford University Press

phát hành năm 2009 [42]. Nghiên cứu này cung cấp đầy đủ và toàn diện quá

trình xây dựng và phát triển chính sách cạnh tranh Châu Âu từ năm 1957.

Công trình nghiên cứu cũng phân tích tình hình, bối cảnh kinh tế xã hội trong

mỗi giai đoạn sửa đổi và phát triển chính sách cạnh tranh của Châu Âu.

Vấn đề cạnh tranh cũng được các tổ chức UNCTAD, OECD, APEC,

ASEAN… và các Diễn đàn kinh tế khác quan tâm và thực hiện nghiên cứu ở

nhiều góc độ khác nhau.

Mặc dù số lượng các nghiên cứu đề cập tới vấn đề chính sách cạnh

tranh là không ít nhưng xét trên phạm vi, mục tiêu nghiên cứu của luận án thì

không có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách tổng thể ở cả góc

độ lý luận và quy định pháp lý về hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh giống

như cách tiếp cận, phạm vi và nội dung nghiên cứu trong luận án.

3. Những vấn đề được nghiên cứu trong luận án

- Vị trí, vai trò của pháp luật cạnh tranh. Đối tượng liên quan đến công

tác thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam.

- Nhân tố ảnh hưởng và quyết định hiệu quả thực thi pháp luật cạnh

tranh của Việt Nam.

- Đối tượng trực tiếp ảnh hưởng tới công tác thực thi pháp luật cạnh

tranh cạnh tranh tại Việt Nam.

18

- Nội dung và hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam.

- Những bất cập về các quy định pháp luật cạnh tranh của Việt Nam.

- Kinh nghiệm thực thi pháp luật cạnh tranh trên thế giới và bài học

kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.

- Đánh giá thực trạng công tác thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam

trong thời gian qua, định hướng hoàn thiện.

- Quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp

luật cạnh tranh ở Việt Nam trong bối cảnh và điều kiện mới.

- Những đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luât

cạnh tranh trong thời gian tới.

Trên đây là những vấn đề được đặt ra trong nội dung nghiên cứu của

luận án và cũng là những vấn đề mà các đề tài khoa học trước đây chưa đề

cập hoặc có đề cập nhưng chỉ mang tính liệt kê chưa đi sâu phân tích nguyên

nhân và đề xuất hướng giải quyết.

19

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT

CẠNH TRANH

1.1. Một số khái niệm có liên quan

1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và các hình thái cạnh tranh

a. Khái niệm cạnh tranh

Khái niệm cạnh tranh với tư cách là một hiện tượng kinh tế, xuất hiện

và tồn tại như là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường,

phản ánh năng lực phát triển của kinh tế thị trường. Với cách tiếp cận này, Từ

điển Kinh doanh của Anh năm 1992 đã định nghĩa “Cạnh tranh là sự ganh

đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành

cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía

mình”. Từ điển Luật học cũng giải thích “cạnh tranh là sự đua tranh về kinh tế

giữa các nhà kinh doanh có những lợi ích giống nhau trên cùng thị trường

bằng các phương thức khác nhau để giành được nhiều nhất về phía mình

khách hàng, thị trường và thị phần của một thị trường qua đó thu lợi nhuận

nhiều hơn [33]”.

Theo quan điểm trên, xét từ góc độ các chủ thể của hành vi thì cạnh

tranh được coi là phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa

các nhà kinh doanh với vai trò quyết định của người tiêu dùng. Nếu nhìn khái

quát trên quy mô toàn xã hội, thì cạnh tranh là phương thức phân bổ các

nguồn lực, tài nguyên một cách tối ưu, do đó là động lực phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng, cạnh tranh có bản chất

kinh tế và bản chất xã hội. Bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện mục đích

tạo lập cho mình một ưu thế chi phối thị trường và vì lợi nhuận. Bản chất xã

20

hội của cạnh tranh phản ánh đạo đức kinh doanh và uy tín của mỗi chủ thể

cạnh tranh trong mối quan hệ đối với những người trực tiếp tạo ra tiềm lực

cạnh tranh của doanh nghiệp và trong mối quan hệ với người tiêu dùng và với

các đối thủ cạnh tranh khác [20].

b. Các hình thái cạnh tranh

- Cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo.

Căn cứ vào cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung trong một ngành,

lĩnh vực kinh tế, người ta phân thị trường thành các hình thái: Cạnh tranh

hoàn hảo, độc quyền và cạnh tranh không hoàn hảo [34].

+ Cạnh tranh hoàn hảo là hình thái thị trường trong đó giá cả và sản

lượng của một hàng hoá được hoàn toàn xác định bởi cung và cầu trên thị

trường, của hàng hóa đó. Do vậy, các doanh nghiệp tham gia thị trường phải

chấp nhận giá thị trường.

Theo đó, cạnh tranh hoàn hảo là hình thái thị trường trong đó có nhiều

người bán và nhiều người mua một sản phẩm. Bất kỳ người bán và người mua

nào đều là quá nhỏ so với quy mô thị trường, do vậy không có khả năng để

tác động tới giá của sản phẩm. Điều này có nghĩa là sự thay đổi sản lượng của

một doanh nghiệp hoàn toàn không ảnh hưởng gì tới giá thị trường. Tương tự,

mỗi người mua cũng quá nhỏ để có thể đòi hỏi người bán những điều như

phải giảm giá khi mua nhiều hay bán chịu.

Độc quyền là một hình thái thị trường trong đó có một doanh nghiệp

duy nhất bán một sản phẩm mà không có một sản phẩm thay thế gần giống

với nó (được gọi là độc quyền bán - monopoly), hoặc chỉ có một người mua

(được gọi là độc quyền mua - monopsony). Như vậy, độc quyền là thái cực

trái ngược với cạnh tranh hoàn hảo.

Cạnh tranh không hoàn hảo là một hình thái thị trường nằm giữa hai

hình thái là cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền. Cạnh tranh không hoàn hảo

bao gồm cạnh tranh mang tính độc quyền và độc quyền nhóm.

21

Cạnh tranh mang tính độc quyền là hình thái thị trường có nhiều người

bán sản xuất ra những sản phẩm có thể dễ dàng thay thế cho nhau. Mỗi người

chỉ có khả năng hạn chế ảnh hưởng tới giá cả sản phẩm của mình. So với hình

thái cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh mang tính độc quyền cũng có nhiều

doanh nghiệp gia nhập thị trường không hạn chế. Nhưng nó khác với cạnh

tranh hoàn hảo ở chỗ sản phẩm được phân hoá cao độ - mỗi doanh nghiệp đều

có một loại sản phẩm khác nhau về hình dáng, kích thước, nhãn mác, chất

lượng và danh tiếng và mỗi doanh nghiệp là người duy nhất sản xuất loại

hàng hoá riêng của mình.

Độc quyền nhóm là một hình thái thị trường trong đó chỉ có một số ít

các nhà sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả của mình không

chỉ phụ thuộc vào sản lượng của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của

các đối thủ cạnh tranh quan trọng trong ngành đó.

- Cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh

Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh, người

ta phân loại các hành vi cạnh tranh trên thị trường thành cạnh tranh lành mạnh

và cạnh tranh không lành mạnh.

+ Cạnh tranh lành mạnh là hình thức cạnh tranh tích cực, trong sáng,

cạnh tranh bằng tiềm năng vốn có của bản thân doanh nghiệp. Đó là những

hoạt động nhằm thu hút khách hàng mà pháp luật không cấm và phù hợp với

tập quán thương mại và đạo đức kinh doanh.

+ Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể của một chủ thể

kinh doanh, nhằm mục đích cạnh tranh, luôn thể hiện tính không lành mạnh

(không nhất thiết phải trái pháp luật) và vô tình hay cố ý gây thiệt hại cho một

đối thủ cạnh tranh hay bạn hàng cụ thể.

Như vậy, từ những khái niệm ở trên đây, có thể hiểu rằng cạnh tranh là

sự ganh đua nhau giữa các doanh nghiệp về giá cả, số lượng, dịch vụ hoặc kết

22

hợp các yếu tố này để giành nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao

vị thế của mình trên thị trường. Cạnh tranh trên thị trường được phân chia

thành cạnh tranh hoàn hảo, độc quyền, cạnh tranh không hoàn hảo nếu xét

theo cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung trong một ngành, lĩnh vực kinh

tế; hoặc thành cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh nếu căn

cứ vào mục đích và tính chất của các phương thức cạnh tranh.

1.1.2. Khái niệm và lịch sử hình thành pháp luật cạnh tranh

a. Khái niệm pháp luật cạnh tranh

Pháp luật cạnh tranh, theo cách hiểu phổ biến nhất trong giới nghiên

cứu về lĩnh vực này trên thế giới, bao gồm tất cả các quy định của Nhà nước

có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi kinh doanh của doanh nghiệp và cấu trúc

thị trường. Pháp luật cạnh tranh bao gồm hai mảng chính. Mảng thứ nhất là

việc ban hành và thực thi một tập hợp các quy định có tác dụng thúc đẩy cạnh

tranh trên thị trường, bao gồm các quy định về gia nhập thị trường và đa dạng

hóa các thành phần kinh tế tham gia thị trường, tự do hóa về thương mại cũng

như các quy định hiệu quả điều chỉnh các hoạt động kinh doanh ngành, v.v.

Mảng thứ hai là bao gồm các chế định pháp lý được ban bành để kiểm

soát/ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi phản cạnh tranh và

các can thiệp quá mức của Nhà nước vào việc điều tiết thị trường.

b. Lịch sử hình thành pháp luật cạnh tranh

Pháp luật cạnh tranh của các nước ra đời đều bắt nguồn từ nhu cầu của

nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển, pháp luật cạnh tranh đã được liên

tục sửa đổi để phù hợp với thực tiễn. Luật Cạnh tranh có thể được gọi theo

nhiều cách khác nhau (ví dụ: Luật Cạnh tranh - Competition Law của Anh,

Luật chống độc quyền- Anti monopoly Act của Nhật Bản, Luật thương mại

lành mạnh – Fair Trade Law của Đài Loan…) nhưng tất cả đều có một mục

đích chung là duy trì và bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, cho

23

phép các thực thể kinh tế có cơ hội bình đẳng cạnh tranh cũng như tiếp cận thị

trường. Bảo vệ người tiêu dùng thông qua việc khuyến khích hạ giá và cải

thiện chất lượng sản phẩm được xem như một hệ quả của cạnh tranh tự do và

lành mạnh trên thị trường.

Trên thế giới có thể nói Hoa Kỳ là một trong số những nước ban hành

pháp luật cạnh tranh sớm nhất, pháp luật cạnh tranh này còn được biết đến với

tên gọi là Luật Chống độc quyền. Lịch sử chống độc quyền của Hoa Kỳ nhìn

chung được bắt đầu với Luật Sherman năm 1890, đây là bộ luật chống độc

quyền đầu tiên được thông qua bởi các bang trước khi trở thành bộ luật Liên

bang. Luật Sherman gồm hai phần chính. Phần một quy định các thoả thuận

gây hạn chế thương mại. Phần hai cấm việc giành được vị thế độc quyền bằng

việc sử dụng các biện pháp phản cạnh tranh hoặc lạm dụng vị trí độc quyền

(không phải là độc quyền tự nhiên). Một điểm quan trọng cần lưu ý là Luật

Sherman có thể được thực thi như luật dân sự hoặc như luật hình sự, các phán

xét được trao cho Cục Chống độc quyền, Bộ Tư pháp. Cụ thể, các hành vi

hiển nhiên vi phạm như: ấn định giá tạm thời, thông đồng để thắng thầu sẽ bị

truy tố hình sự. Trong năm 1914, hai bộ luật Liên bang nữa đã được thông

qua là Luật Clayton và Luật Uỷ ban Thương mại Liên bang.

Theo quy định của Luật Ủy ban Thương mại Liên bang, FTC được

thành lập để thực thi Luật Clayton, Luật Robinson-Patman (ngoại trừ điều

khoản xử lý hình sự theo Luật Sherman). Mặc dù đã có những sửa đổi, bổ

sung đối với 3 bộ luật Liên bang này (điển hình là Luật Robinson-Patman

1936 và Luật Hart-Scott-Rodino 1976) nhưng về cơ bản là không có sự thay

đổi lớn từ năm 1914. Đến nay, hầu hết các bang cũng đã thông qua luật của

bang căn cứ theo nội dung của Luật Sherman và Luật FTC.

Canada ban hành Luật Cạnh tranh lần đầu tiên năm 1889. Mặc dù có

lịch sử tương đối dài nhưng Luật Cạnh tranh vẫn không có được vai trò nổi

24

trội trong các hoạt động kinh tế của Canada cho tới gần đây. Đó một phần là

do các lực lượng kinh tế và chính trị đứng đằng sau quá trình phát triển của

nền kinh tế Canada vốn thích sự phát triển một cơ cấu công nghiệp tương đối

tập trung. Canada đã phát triển nền kinh tế của mình với một mức độ tham gia

lớn của Chính phủ. Theo đó, các quy định về âm mưu và duy trì giá đã nhận

được sự chú ý đáng kể về mặt thi hành luật nhưng sự phân biệt giá, bán phá

giá, sáp nhập và độc quyền thì thực sự bị bỏ qua. Năm 1975, Nghị viện đã

thực hiện giai đoạn sửa đổi đầu tiên. Điểm đáng chú ý trong sửa đổi lần này là

đã mở rộng quyền hành động có giới hạn của tư nhân, biến các hành vi thông

đồng trong đấu thầu thành đương nhiên bất hợp pháp, và việc từ chối giao

dịch, bán hàng có ràng buộc, giao dịch mang tính độc quyền và hạn chế thị

trường thành những hành vi được xem xét về mặt dân sự.

Giai đoạn sửa đổi thứ hai được thực hiện vào năm 1986. Luật, khi đó

được gọi là Luật Điều tra các vụ kết hợp được đổi tên thành Luật Cạnh tranh.

Những cuộc cải cách trong năm 1986 cũng bao gồm việc củng cố các quy

định về âm mưu mang tính hình sự của Luật, bổ sung quy định về các thoả

thuận chuyên môn hoá và bổ sung khả năng xem xét về mặt dân sự hành vi

định giá chuyển giao, lạm dụng vị trí thống lĩnh và sáp nhập. Cuộc cải cách

trong năm 1986 cũng tạo nên một cơ quan pháp luật mới gọi là Toà Cạnh

tranh thay cho Hội đồng các hành vi hạn chế thương mại để xử lý các quy

định dân sự của Luật.

Vào tháng 3/1999, Luật được sửa đổi lần nữa bởi Luật sửa đổi Luật

Cạnh tranh. Những sửa đổi lần này đã làm thay đổi Luật về một số khía cạnh

rất quan trọng như đã chuyển một số hành vi từ hành vi vi phạm mang tính

hình sự thuần tuý sang hành vi được xem xét cả về mặt hình sự và dân sự tuỳ

từng trường hợp; sửa đổi cũng bổ sung quy định miễn trừ và các quy định về

xử lý hình sự… Năm 2000, Luật tiếp tục được sửa đổi để giao cho Uỷ viên

25

Hội đồng Cạnh tranh (Commissioner) và Toà Cạnh tranh những quyền mới để

xử lý các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của Hàng không

Canada (Air Canada).

Trong các nước Châu Âu (Italia, Bỉ, Đức, Đan Mạch, Hà lan, Pháp,

Anh và Thụy điển), Đức là quốc gia ban hành pháp luật cạnh tranh rất sớm.

Đức đã ban hành Luật Chống hạn chế cạnh tranh, viết tắt ARC, và chính thức

có hiệu lực vào ngày 01/01/1958. Tính đến nay, Luật đã được sửa đổi, bổ

sung 7 lần. Lần sửa đổi cuối cùng có hiệu lực vào tháng 07/2008.

Ở Pháp, Bộ Luật Thương mại đã chứa đựng các quy định về cạnh

tranh. Quay lại lịch sử hình thành và phát triển pháp luật cạnh tranh Pháp, có

thể nhận thấy một số thay đổi của pháp luật tuy chỉ mang tính hình thức

nhưng lại có tầm quan trọng đáng kể: Pháp lệnh ngày 01/12/1986 về tự do giá

cả và tự do cạnh tranh đã bị bãi bỏ và chuyển hoá vào Bộ Luật Thương mại

sau một chương trình pháp điển hoá rộng lớn. Kể từ nay, nếu xét về nguồn

luật trong nước thì văn bản nền tảng của pháp luật cạnh tranh chính là Quyển

IV của Bộ luật Thương mại. Do quá trình pháp điển hoá nên số thứ tự của các

điều khoản đã hoàn toàn bị thay đổi. Chính vì vậy, Quyển IV đã dành một

phụ lục trong đó trình bày bảng đối chiếu giữa các điều khoản trước đây của

Pháp lệnh năm 1996 và các điều khoản hiện hành của Bộ Luật Thương mại.

Một số thay đổi khác của pháp luật cạnh tranh trong nước, chủ yếu xuất phát

từ việc ban hành Luật ngày 15/05/2001 về các biện pháp điều tiết kinh tế mới,

là những thay đổi liên quan đến cả luật nội dung lẫn luật tố tụng.

Mặc dù còn nặng về mặt hình thức, nhưng pháp luật cạnh tranh của

Châu Âu đã chiếm một vị trí rất quan trọng, có uy tín tại nhiều quốc gia muốn

gia nhập Liên minh và tại một số quốc gia khác. Đặc biệt, cách thức áp dụng

pháp luật cạnh tranh của Châu Âu đã làm cho các chủ thể kinh tế phải tôn

trọng và cân nhắc thận trọng những ràng buộc của pháp luật đó.

26

Tại Anh, Luật Cạnh tranh được ban hành ngày 09/11/1998 để sửa đổi

Luật Thương mại lành mạnh 1973. Luật đã đưa thêm các điều khoản cấm các

hành vi phản cạnh tranh (Chương I và Chương II). Văn phòng Thương mại

lành mạnh (OFT) có thẩm quyền khá lớn trong việc điều tra các doanh nghiệp

được cho là vi phạm Luật và áp dụng các hình phạt đối với các doanh nghiệp

này. Luật được sửa đổi ngày 01/05/2004, theo đó đã trao cho OFT quyền điều

tra và áp dụng các hình phạt đối với các tổ chức/các nhân vi phạm các điều

khoản cấm theo Điều 81 và Điều 82 của Hiệp ước EC. Tuy nhiên, một điểm

đáng lưu ý đối với pháp luật cạnh tranh của Anh là khi tiến hành xử lý, OFT

không chỉ dựa trên Luật Cạnh tranh, mà còn tuân theo các quy định pháp luật

có liên quan, chẳng hạn Luật Doanh nghiệp 2002 (có điều khoản quy định vi

phạm cacten). Theo đó, các cá nhân tham gia vào một trong các dạng thỏa

thuận phản cạnh tranh nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hơn nữa, khi Luật Doanh nghiệp 2002 được ban hành, nước Anh cũng đã tiến

hành sửa đổi Luật Truất quyền các nhà điều hành doanh nghiệp. Các nhà điều

hành doanh nghiệp khi vi phạm pháp luật cạnh tranh (các hành vi bị cấm theo

Điều 81, Điều 81 Hiệp ước EC và của Luật Cạnh tranh) có thể phải nhận

Lệnh truất quyền cạnh tranh. Lệnh này sẽ chấm dứt các hành vi có liên quan

và buộc họ không được quản lý doanh nghiệp trong thời hạn tối đa là 15 năm.

Nhưng quan trọng hơn chính là những thay đổi của pháp luật cạnh

tranh của Liên minh Châu Âu. Khuôn khổ pháp luật điều chỉnh các hành vi

hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc đã được sửa đổi ngay từ năm 1999. Quy

chế về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế giữa các doanh nghiệp cũng đã

được sửa đổi bổ sung và có hiệu lực kể từ ngày 01/05/2004. Các quy định

hướng dẫn thi hành Điều 81 và các điều tiếp theo của Hiệp ước thành lập

Cộng đồng Châu Âu đã được sửa đổi một cách toàn diện vào cuối năm 2002

và trong năm 2003. Những sửa đổi này cũng bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày

27

01/05/2004. Ở đây cần lưu ý: điều khoản được hướng dẫn thi hành là Điều 81

chứ không còn là Điều 85, bởi sau khi Hiệp ước Amsterdam được ký kết, đã

kéo theo sự thay đổi trong cách đánh số quen thuộc của các điều khoản.

Đối với Úc, pháp luật cạnh tranh được quy định trong Luật Thực tiễn

Thương mại năm 1974 và Luật Giám sát giá cả năm 1983. Mục đích của Luật

Thực tiễn Thương mại (TPA) là nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng của Úc thông

qua việc thúc đẩy cạnh tranh và thương mại lành mạnh và bảo vệ người tiêu

dùng. TPA liên quan đến hầu hết các vấn đề trên thị trường: mối quan hệ giữa

nhà cung cấp, bán buôn, bán lẻ, các đối thủ cạnh tranh và khách hàng. Trên

bình diện rộng, TPA giải quyết các vấn đề như các hành vi không lành mạnh

trên thị trường, luật theo ngành, sáp nhập, an toàn sản phẩm, nhãn mác sản

phẩm, giám sát giá cả và quy định của các ngành công nghiệp như viễn thông,

khí đốt, điện và hàng không.

1.1.3. Khái niệm về thực thi pháp luật cạnh tranh

Thực thi pháp luật được hiểu chung nhất là hoạt động thực hiện và thi

hành pháp luật. Theo nghĩa hẹp thực thi pháp luật chỉ là hoạt động của riêng

cơ quan quản lý nhà nước trong việc áp dụng, thi hành pháp luật. Nhưng cách

hiểu đó là phiến diện và chưa đầy đủ vì pháp luật là những chuẩn mực chung

và bất cứ ai trong xã hội đều phải tuân theo. Vì vậy, thực thi pháp luật phải là

hoạt động thực hiện và tuân theo pháp luật của tất cả mọi người.

Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể

pháp luật bằng hành vi của mình thực hiện các quy định pháp luật trong thực

tế đời sống.

Thi hành pháp luật là một trong các hình thức của thực hiện pháp luật.

Thi hành pháp luật là hình thức thực hiện những quy định trao nghĩa vụ bắt

buộc của pháp luật một cách tích cực trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ

của mình bằng những hành động tích cực.

Ngoài thi hành pháp luật còn có các hình thức thực hiện pháp luật khác:

28

- Tuân thủ pháp luật: chủ thể pháp luật tự kiềm chế mình để không thực

hiện hành vi mà pháp luật cấm;

- Sử dụng pháp luật: chủ thể pháp luật sử dụng quyền pháp lí; và

- Áp dụng pháp luật: cá nhân có thẩm quyền hoặc cơ quan nhà nước có

thẩm quyền vận dụng các quy phạm pháp luật hiện hành cho từng trường hợp

cụ thể, đối với cá nhân và tổ chức cụ thể;

Nói cách khác, thi hành pháp luật là những hoạt động của các cá nhân,

tổ chức nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống. Ví dụ: một người thấy người khác

đang có hành vi vi phạm pháp luật đã tiến hành thông báo cho cơ quan chức

năng, tức là người đó đã bằng hành động tích cực thi hành quy định về nghĩa

vụ công dân của pháp luật nói chung và của luật hình sự nói riêng.

Theo ý kiến của một số chuyên gia, bản chất của việc thực hiện pháp

luật là sự chuyển hóa các yêu cầu chung được xác định trong các nguyên tắc

và quy phạm pháp luật vào trong các hành vi cụ thể của các chủ thể. Nói thực

hiện pháp luật là nói đến một kết quả tích cực của quá trình điều chỉnh pháp

luật, mà điều chỉnh pháp luật thì hướng tới hai yêu cầu: thực hiện hành vi

hợp pháp hoặc không thực hiện hành vi trái pháp luật [30].

Quá trình và kết quả của việc thực hiện pháp luật là thước đo hiệu quả

điều chỉnh pháp luật. Với những yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của

quá trình thực hiện pháp luật cũng như các yếu tố mang tính tác nhân của quá

trình đó, có thể thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của thực hiện pháp luật trong

hệ thống pháp lý. Bởi lẽ, thứ nhất, thực hiện pháp luật là một phạm vi độc lập

với những hình thức gắn với hoạt động của các chủ thể tương ứng và theo đó

là những nguyên tắc, những phạm vi thẩm quyền nội dung phương pháp và

trình tự, thủ tục thực hiện pháp luật tương ứng và thích hợp. Thứ hai, thực

29

hiện pháp luật là tổng thể những hoạt động và hành vi hết sức đa dạng ở

những cấp độ khác nhau, từ hành vi của cá nhân công dân trong việc thực

hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể pháp lý của mình, việc thực hiện các điều

kiện tổ chức và hoạt động của một pháp nhân, thực hiện các thẩm quyền và

trách nhiệm của các cơ quan công quyền… cho đến hoạt động lập pháp của

Quốc hội.

Bên cạnh đó, thực hiện pháp luật là hành vi và hoạt động của nhóm đối

tượng mà một văn bản pháp luật hướng đến, có thể là cá nhân công dân hay là

cộng đồng doanh nghiệp.

Đối với pháp luật cạnh tranh việc thực thi pháp luật chia làm 2 nhóm

hoạt động tương ứng với 2 nhóm đối tượng đó là việc tổ chức thực hiện các

quy định pháp luật cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh (chủ thể quyền

lực) và việc tuân thủ, thi hành pháp luật của cộng đồng doanh nghiệp (chủ thể

là đối tượng điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh).

1.1.4. Khái niệm hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh

Qua tìm hiểu và nghiên cứu, đã có rất nhiều công trình, học giả nghiên

cứu và đúc kết khái niệm về “hiệu quả của pháp luật” và các tiêu chí đánh giá

hiệu quả của một văn bản pháp luật.

Theo từ điển luật học, hiệu quả của pháp luật là kết quả cụ thể của sự

tác động pháp luật đến các quan hệ xã hội so với yêu cầu đặt ra khi ban hành

pháp luật [33]. Hiệu quả của pháp luật có thể được đánh giá theo từng cấp độ

khác nhau: hiệu quả của quy phạm pháp luật, của chế định pháp luật, của

ngành luật, của toàn bộ hệ thống pháp luật. Những căn cứ để đánh giá mức độ

hiệu quả của pháp luật là mục tiêu yêu cầu đặt ra khi ban hành pháp luật, chi

phí cho việc thực hiện pháp luật và kết quả thực tế đạt được của việc thực

hiện pháp luật.

30

Hiệu quả của pháp luật cũng có thể là kết quả so sánh: Kết quả đó do sự

tác động, điều chỉnh của pháp luật đó mang lại trong những phạm vi nhất

định; kết quả đó biểu hiện ở trạng thái của các quan hệ xã hội; kết quả đó

phù hợp với mục đích yêu cầu, định hướng của pháp luật; kết quả đó đạt

được với chi phí thực tế thấp (cùng một kết quả nhưng nếu chi phí quá lớn thì

xem là hiệu quả thấp và ngược lại) [12].

Theo quan niệm khác: hiệu quả của pháp luật là khả năng của pháp

luật có thể tác động được vào các quan hệ xã hội và ý thức xã hội để điều

chỉnh các quan hệ đó với những tổn thất vật chất và tinh thần ít nhất và mang

lại kết quả theo hướng cần điều chỉnh và cần được xác định của pháp luật [8].

Trên thực tế, việc đưa ra khái niệm về hiệu quả thực thi của một văn

bản pháp luật và các tiêu chí đánh giá còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo cách

hiểu thông thường, hiệu quả thực thi pháp luật có nghĩa hẹp hơn so với hiệu

quả của pháp luật. Hiệu quả thực thi pháp luật có thể là kết quả đạt được trên

thực tế của công tác tổ chức thực thi pháp luật trong một giai đoạn nhất định.

Pháp luật có hiệu quả thực thi phải là pháp luật phát huy tối đa vai trò của

mình để tạo điều kiện tốt nhất cho phát triển kinh tế xã hội.

Khi đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật có thể sử dụng các tiêu chí

định tính và định lượng sau đây [10]:

- Sự phù hợp và đầy đủ của các quy định pháp luật; ví dụ như luật bảo

vệ môi trường đòi hỏi các quy định cần thiết, hệ thống đo đạc, giám sát, các

chế tài đủ mạnh để răn đe v.v.

- Các điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để thực thi pháp luật.

Kinh nghiệm cho thấy trong tình trạng bần cùng và đói khổ quá mức, pháp

luật sẽ khó được thực thi (lũ lụt, thiên tai, thiếu đói v.v.)

- Ý thức của người dân, cộng đồng doanh nghiệp về thực thi pháp luật,

sự am hiểu cần thiết để thi hành pháp luật.

Việc đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật phải được thực hiện trong

31

khoảng thời gian và phạm vi không gian nhất định. Về số lượng, có thể đánh

giá một văn bản hoặc một hệ thống các văn bản. Có thể đánh giá hiệu quả

thực thi của riêng Luật Cạnh tranh hoặc của Luật Cạnh tranh và các văn bản

hướng dẫn của Chính phủ. Về chất lượng, có thể đánh giá trên một khía cạnh

hoặc tổng thể văn bản.

Để một quy định pháp luật có hiệu quả thực thi trên thực tế, trước hết

quy định đó phải có hiệu lực. Hiệu lực của pháp luật là cơ sở nền tảng tạo nên

hiệu quả của một văn bản pháp luật. Ngược lại, hiệu quả của pháp luật phản

ánh hiệu lực của văn bản pháp luật. Một luật chỉ có hiệu quả khi nó được tuân

thủ nghiêm túc. Bởi các quy định pháp luật chính là sự cụ thể hóa việc thực

hiện các mục tiêu của luật. Mục tiêu của luật chỉ có thể thực hiện được khi các

quy định của luật được tuân thủ.

Ví dụ về quy định cấm hút thuốc lá tại nơi công cộng của Việt Nam.

Quy định được ban hành và có mục tiêu là làm giảm tác hại của thuốc lá đối

với sức khỏe người dân. Thực tế cho thấy, tình trạng hút thuốc lá ở nơi công

công vẫn còn phổ biến. Tỷ lệ người mắc bệnh ung thư phổi do thuốc lá vẫn

tăng. Do đó, có thể nói quy định đó chưa đạt được hiệu quả thực thi của mình.

Ngược lại, với quy định về bắt đội mũ bảo hiểm. Gần đây quy định này đã

được tuân thủ nghiêm túc. Khi đó luật có tính hiệu quả thực thi cao.

1.2. Tiêu chí để đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh

Thông thường, đánh giá hiệu quả thực thi của một văn bản quy phạm

pháp luật là việc trả lời câu hỏi “văn bản quy phạm pháp luật này sau khi ban

hành và có hiệu lực có đi vào cuộc sống hay không”. Để đánh giá một văn

bản quy phạm pháp luật có được thực thi hiệu quả hay không thường sử dụng

hai nhóm tiêu chí: nhóm tiêu chí về yếu tố bên trong và nhóm tiêu chí về yếu

tố bên ngoài.

32

1.2.1. Nhóm tiêu chí bên trong

Nhóm tiêu chí bên trong thể hiện chất lượng của các văn bản quy phạm

pháp luật bao gồm (i) Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật (văn

bản quy phạm pháp luật đó có được ban hành hợp pháp hay không) và (ii)

Tính phù hợp của văn bản quy phạm pháp luật (văn bản quy phạm pháp luật

đó có còn phù hợp với thực tiễn hay không).

+ Về tính hợp pháp

Trước tiên, văn bản quy phạm pháp luật đó phải đảm bảo tính hợp

pháp. Một văn bản quy phạm pháp luật chỉ đạt hiệu quả khi nó hợp pháp.

Điều đó có nghĩa văn bản quy phạm pháp luật đó phải thỏa mãn tất cả các yêu

cầu sau đây.

Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật phải được ban hành đúng luật,

tuân thủ các luật có hiệu lực cao hơn (ví dụ như Hiến pháp, các điều ước quốc

tế có liên quan). Tính hợp pháp về mặt nội dung của văn bản quy phạm pháp

luật trước tiên thể hiện ở việc văn bản đó không được mâu thuẫn, không được

đi ngược lại những nguyên tắc, quy định mang tính chất định hướng của các

văn bản có hiệu lực cao hơn, đặc biệt là Hiến pháp.

Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật phải được ban hành trong phạm

vi thẩm quyền của chủ thể soạn thảo và ban hành luật. Điều đó có nghĩa là

văn bản đó phải do đúng chủ thể có thẩm quyền ban hành.

Thứ ba, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm đúng

trình tự, thủ tục và hình thức theo quy định.

Tóm lại, một văn bản quy phạm pháp luật hợp pháp là khi được soạn

thảo đảm bảo các yếu tố cả về hình thức cũng như nội dung. Văn bản đó phải

được soạn thảo theo đúng quy trình thủ tục ban hành một văn bản quy phạm

pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật phải được cơ quan có thẩm quyền

soạn thảo và ban hành. Đây là một yếu tố quan trọng quyết định tính hợp

33

pháp cũng như sự tồn tại của một văn bản quy phạm pháp luật. (Theo từ điển

Luật học, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có

thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục luật định, trong đó có chứa đựng

các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, làm khuôn mẫu cho xử sự của

các chủ thể pháp luật trong khoảng thời gian và không gia nhất định nhằm

điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một trật tự nhất định mà nhà nước muốn

xác lập. Văn bản quy phạm pháp luật được chia thành hai loại là văn bản luật

và văn bản dưới luật [33]. Tựu chung lại, văn bản quy phạm pháp luật quy

định cái mà chúng ta có quyền, được phép, hoặc bị cấm làm. Một văn bản quy

phạm pháp luật dù được soạn thảo đúng quy trình thủ tục, nhưng không bảo

đảm kỹ thuật soạn thảo, không đảm bảo được cơ cấu của một quy phạm pháp

luật, hoặc không rõ ràng về mặt ngữ nghĩa sẽ khó có thể mang lại cho văn bản

đó hiệu quả mong muốn. Ngược lại, một văn bản quy phạm pháp luật được

soạn thảo tốt về mặt kỹ thuật nhưng không được cơ quan có thẩm quyền soạn

thảo và ban hành thì chắc chắn sẽ không bảo đảm hiệu lực và hiệu quả.

Hiệu quả thực thi của văn bản quy phạm pháp luật sẽ càng được tăng

cường nếu như các quy định pháp luật trong văn bản luật đó có nội dung

thống nhất với các văn bản luật khác trong hệ thống pháp luật. Thực tế cho

thấy, có nhiều văn bản luật dù đảm bảo tính hợp pháp trong mối quan hệ dọc

với Hiến pháp và các văn bản luật có giá trị pháp lý cao hơn, nhưng lại có

những quy định mâu thuẫn với các văn bản luật khác trong mối quan hệ

ngang, sẽ không thể đem lại hiệu quả mong muốn của văn bản luật. Những

mâu thuẫn thậm chí những quy định trái ngược nhau giữa các văn bản luật sẽ

tạo nên những xung đột pháp lý gây cản trở cho việc thực thi văn bản luật. Do

vậy, việc bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản luật sẽ tạo nên hiệu quả

thực thi luật.

34

+ Về tính thực tiễn

Tính hợp pháp là điều kiện cần bảo đảm sự tồn tại vững chắc của văn

bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, để có được hiệu quả thực thi, văn bản

quy phạm pháp luật cần phải đáp ứng các yêu cầu về tính thực tiễn. Một văn

bản có tính thực tiễn sẽ giúp cho các chủ thể tuân thủ một cách nghiêm túc và

tự nguyện. Bởi nó không chỉ mang lại lợi ích cho chủ thể mà còn lợi ích

chung cho cả xã hội. Tính hợp pháp chỉ là một điều kiện đủ cho việc tuân thủ

pháp luật của chủ thể. Một văn bản quy phạm pháp luật hợp pháp nhưng nếu

không có tính thực tiễn vẫn có thể bắt buộc các chủ thể tuân thủ. Các chủ thể

không thể viện cớ một quy phạm pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn

để không tuân thủ một quy phạm pháp luật. Điều này xuất pháp từ uy quyền

của luật pháp. Luật pháp phải được bắt buộc thực hiện chừng nào còn hiệu

lực. Nhưng sự tuân thủ này sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực cho xã hội,

cho trật tự pháp luật nói chung. Những văn bản quy phạm pháp luật không

phù hợp với lòng dân sẽ gây ra những phản ứng tiêu cực và trong nhiều

trường hợp dẫn đến tình trạng khiếu kiện, khiếu nại kéo dài. Do vậy, tính thực

tiễn của một văn bản quy phạm pháp luật phải thể hiện được lợi ích của đất

nước, lợi ích chung, ý chí chung của nhân dân.

Tính thực tiễn của một văn bản quy phạm pháp luật tuy không phải là

yếu tố quyết định việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể, nhưng không phải

vì thế mà mất đi ý nghĩa quan trọng của nó trong việc đảm bảo tính pháp chế

của pháp luật. Trong một đất nước mà nền pháp chế ngày càng được đề cao

thì tính thực tiễn của các quy định pháp luật ngày càng được coi trọng.

Chính sách và pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành phải xuất

phát từ thực tiễn và phản ánh thực tiễn và ngược lại, ảnh hưởng của các chính

sách đó đến thực tiễn đòi hỏi các đối tượng chịu sự tác động của chính sách

và pháp luật phải nắm bắt được nội dung cũng như tuân thủ nó. Việc tuân thủ

35

các quy phạm xuất phát từ lợi ích của các chủ thể, lợi ích của xã hội. Sự thống

nhất biện chứng giữa tính hợp pháp và tính thực tiễn là một trong những đặc

điểm của việc quản lý xã hội một cách khoa học. Pháp luật không thể được

tuân thủ một cách nghiêm túc nếu như những quy phạm pháp luật không xuất

phát từ những yêu cầu của xã hội [22]. Văn bản quy phạm pháp luật được soạn

thảo và ban hành là nhằm thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của Nhà nước, của

xã hội, ở việc giải quyết các vấn đề mà xã hội đặt ra. Do vậy, để một văn bản

quy phạm pháp luật có hiệu quả cần phải xem xét tính thực tiễn của văn bản

quy phạm đó.

Văn bản quy phạm pháp luật có tính thực tiễn khi đáp ứng được các

yêu cầu:

Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật phải xuất phát từ lợi ích thiết

thực của xã hội, mà cụ thể là của người dân. Văn bản quy phạm pháp luật

được ban hành là nhằm để giải quyết các vấn đề mà xã hội đặt ra. Do đó, văn

bản quy phạm pháp luật ban hành cần phải phù hợp với tình hình kinh tế,

chính trị, xã hội và lấy lợi ích của người dân, của xã hội, của nhà nước làm

nền tảng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, văn bản quy phạm pháp luật dù

được hình thành dựa trên những ý tưởng hợp lý được xây đựng từ nền tảng

thực tại của xã hội nhưng lại không thể hiện được rõ các ý tưởng này do việc

diễn đạt cũng như việc sử dụng ngôn từ. Hậu quả là văn bản quy phạm pháp

luật khó được thực thi trong thực tế và không được cộng đồng chào đón, ủng

hộ. Một văn bản quy phạm pháp luật không có tính thực tiễn có thể do nhiều

nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân thường gặp là do kỹ thuật lập

pháp còn yếu kém làm cho luật pháp không còn phù hợp với các quan hệ xã

hội, với thực tiễn. Nguyên nhân khác là do sự phát triển của kinh tế xã hội,

phát sinh nhiều mối quan hệ và các hành vi mới nên văn bản quy phạm pháp

luật ban hành trước không dự tính hết được. Do đó, thông thường, các văn

36

bản pháp luật phải được thường xuyên cập nhật, bổ sung, thay thế, sửa đổi

cho phù hợp.

Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với đối tượng, phải

điều chỉnh đúng đối tượng. Nếu văn bản quy phạm pháp luật không điều

chỉnh đúng đối tượng, sẽ không làm cho đối tượng đó tuân thủ một cách tự

nguyện. Điều đó gây ảnh hưởng đến hiệu quả của văn bản quy phạm.

1.2.2. Nhóm tiêu chí bên ngoài

Tiêu chí bên ngoài để xem xét mối quan hệ tương tác của quy phạm đó

với xã hội bao gồm (i) khả năng tổ chức thực thi của các cơ quan thi hành

pháp luật, (ii) khả năng tiếp cận và tuân thủ luật của đối tượng mà văn bản

quy phạm pháp luật hướng tới.

Nghiên cứu nhóm tiêu chí về yếu tố bên ngoài về hiệu quả thực thi của

một văn bản quy phạm pháp luật là nghiên cứu ảnh hưởng của quy phạm pháp

luật đến thái độ của những cá nhân và tổ chức là đối tượng áp dụng của văn

bản, sự tương tác giữa văn bản quy phạm pháp luật và xã hội. Một văn bản có

hiệu quả thực thi khi văn bản đó có giá trị bắt buộc thi hành đối với chủ thể.

Vì vậy, thái độ, sự tuân thủ quy phạm pháp luật được coi là yếu tố thể hiện rõ

nét nhất hiệu quả của một văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài ra, không thể

không kể đến những cơ quan thực thi việc áp dụng luật. Một văn bản quy

phạm pháp luật có hiệu quả thực thi hay không, không chỉ phụ thuộc vào

chính văn bản luật đó. Hiệu quả thực thi của văn bản luật còn phụ thuộc vào

việc tổ chức thi hành, giám sát việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật đó.

Vì vậy, vai trò của các cơ quan thực thi là rất quan trọng.

Văn bản quy phạm pháp luật sẽ có hiệu quả thực thi cao khi được các

cơ quan thực thi thực hiện một cách nghiêm túc và triệt để việc áp dụng các

quy định trong văn bản. Để bảo đảm cho luật pháp được thực hiện, các cơ

quan này cần phải được trang bị không chỉ về cơ sở pháp lý mà còn cả cơ sở

37

vật chất cũng như nguồn nhân sự để đảm bảo việc thực hiện pháp luật ở mọi

cấp độ. Việc xử lý vi phạm pháp luật được thực hiện theo ba bước: trước tiên

là phát hiện vi phạm, sau đó là xem xét, đánh giá và đưa ra phương hướng xử

lý. Mỗi bước này đều có khả năng làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi của

văn bản quy phạm pháp luật. Những hạn chế, trở ngại của trong việc thực

hiện pháp luật thường có nguồn gốc, hoặc ít nhất chịu tác động từ phía cơ

quan thực thi. Nếu như các cơ quan này không hành động, không triển khai

việc áp dụng luật, không giám sát việc thi hành, việc tuân thủ thì hiệu lực và

hiệu quả của luật sẽ không được bảo đảm. Bên cạnh đó, sự chồng chéo về

thẩm quyền giữa các cơ quan thực thi cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến

việc thực thi pháp luật.

Để tuân thủ một văn bản quy phạm pháp luật, các đối tượng này phải

biết được sự tồn tại của các quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội mà họ

đã, đang và sẽ tham gia. Chỉ khi biết được có sự tồn tại của văn bản quy phạm

pháp luật, các chủ thể mới có thể nhận thức được hành vi của mình là có làm

đúng luật hay không. Sau khi biết và nhận thức được các quy phạm pháp luật,

sẽ có hai trường hợp xảy ra là tuân thủ và làm trái (không làm theo luật hoặc

làm trái luật). Văn bản quy phạm pháp luật sẽ có hiệu quả thực thi khi được

tuân thủ. Hiệu quả thực thi của văn bản quy phạm pháp luật phụ thuộc vào sự

tiếp nhận, hay nói rộng ra là sự tiếp cận của các chủ thể.

"Tiếp cận" được hiểu là khả năng nhận thức luật, qua đó có thể áp dụng

các quy phạm pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể. Đó

có thể là khả năng yêu cầu các cơ quan thực thi luật áp dụng luật. Và cuối cùng

khái niệm tiếp cận cũng được hiểu là khả năng có được những quyết định đúng

luật của các chủ thể. Theo nghĩa hẹp khả năng tiếp cận luật có thể được hiểu là

khả năng mà một chủ thể có thể tiến hành các thủ tục tại cơ quan công quyền

để bảo vệ lợi ích của mình. Hiện nay, khả năng tiếp cận luật được hiểu rộng

38

hơn. Đó là khả năng trở thành chủ thể của luật, được thông tin về các văn bản

luật, các quy định pháp luật, khả năng áp dụng luật một cách chủ định (thực

hiện một quyền), hoặc một cách bị động (yêu cầu tôn trọng quyền của mình).

Như vậy, có thể thấy rằng, một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu quả thực

thi phải là một văn bản có thể tiếp cận được. Khả năng tiếp cận của chủ thể sẽ

là một trong những yếu tố quyết định hiệu quả của văn bản quy phạm pháp

luật, bởi đó là một vấn đề pháp lý gắn liền với các điều kiện về tính có hiệu lực

của các quy phạm pháp luật đối với các đối tượng mà nó hướng tới điều chỉnh.

Nếu như một văn bản quy phạm pháp luật không được các chủ thể tiếp

cận, văn bản đó sẽ không thực hiện được một trong những chức năng cơ bản

là điều chỉnh các quy tắc xử sự của các chủ thể trong xã hội. Văn bản quy

phạm pháp luật không được tiếp cận có thể được xem xét dưới hai góc độ:

Thứ nhất là quy định trong văn bản khó hoặc ít có khả năng tiếp cận. Nói một

cách khác, các chủ thể khó có thể thực hiện các quy định bởi họ không hiểu,

không thấy hợp lý hoặc cho rằng các quy định này đi ngược lại những quy tắc

xử sự được thừa nhận rộng rãi trong xã hội. Thứ hai, có thể do những điều

kiện khách quan bên ngoài cản trở sự tiếp cận của các chủ thể.

Ở góc độ thứ nhất, nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân văn bản

quy phạm pháp luật đó. Có thể là do các quy phạm pháp luật được xây dựng

không phù hợp với thực tiễn, hoặc không rõ ràng, mang tính chung chung

khiến các chủ thể khó có khả năng tuân thủ, thi hành, vận dụng pháp luật hoặc

các quy định đã lỗi thời không còn phù hợp với thực tế hiện hành. Điều này

dẫn đến hậu quả là dần tạo ra khoảng cách giữa pháp luật và quần chúng.

Khoảng cách này càng lớn, pháp luật càng khó được thực hiện. Các chủ thể sẽ

mất lòng tin pháp luật. Để khắc phục, văn bản luật phải được soạn thảo và ban

hành phù hợp với thực tiễn và với ý chí của nhân dân và cộng đồng.

39

Ở góc độ thứ hai, khả năng tiếp cận văn bản luật bị ảnh hưởng bởi những

yếu tố khách quan gây cản trở khả năng tiếp cận của các chủ thể, hay nói một

cách khác cản trở công dân thực hiện quyền tiếp cận quy định pháp luật. Quyền

tiếp cận một đạo luật nào đó, hay nói rộng ra là quyền tiếp cận thông tin là một

trong những quyền cơ bản của con người. Quyền này bao gồm quyền mà công

dân được chủ động tiếp cận, thu thập thông tin và trách nhiệm của cơ quan nhà

nước cung cấp thông tin cho công dân [22].

Để đảm bảo cho công dân được chủ động tiếp cận thông tin, cơ quan

nhà nước phải chủ động công bố công khai những trình tự thủ tục rõ ràng

thuận tiện để công dân có thể dễ dàng tiếp cận được thông tin khi có nhu cầu.

Ngoài ra, công dân có thể tiếp cận được thông tin ngay cả khi không có nhu

cầu bằng việc cơ quan nhà nước chủ động công khai thông tin trên các trang

thông tin điện tử của cơ quan hoặc thông qua các kênh phổ biến kiến thức

khác để đông đảo quần chúng được biết mà không cần phải yêu cầu.

Ngoài ra, hiệu quả thực thi của văn bản quy phạm pháp luật còn phụ

thuộc vào rất nhiều vào các yếu tố chính trị-xã hội, văn hóa, và thói quen ứng

xử của người dân. Một văn bản quy phạm pháp luật có thể thực thi tốt ở một

địa phương, nhưng lại không thực thi hiệu quả ở một nơi khác. Ví dụ như quy

định bắt buộc đội mũ bảo hiểm. Luật phát huy hiệu lực tốt ở Hà Nội, nhưng ở

các tỉnh, địa phương xa trung tâm, hiệu quả của luật lại thấp. Yếu tố tâm lý,

tập quán sinh hoạt và lối sống là những yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc thi

hành pháp luật của các chủ thể [19]. Như vậy, đây cũng là một nguyên nhân

gây ảnh hưởng đến hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật.

Tóm lại, đa số các học giả trên thế giới đồng tình rằng hiệu quả thực

thi của một văn bản quy phạm pháp luật được coi như một điều kiện để đánh

giá sự tồn tại của một quy phạm. Theo họ, một văn bản quy phạm pháp luật

ra đời luôn mong muốn được thực thi hiệu quả và nó chỉ đạt được khi được

40

công nhận và được áp dụng trong thực tiễn. Nếu không được đối tượng của

nó biết đến và tuân thủ, văn bản quy phạm pháp luật sẽ mất đi chức năng

quy phạm của nó.

1.3. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh

của một số nước và bài học đối với Việt Nam

1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản

a. Về phát triển và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh

Luật chống độc quyền của Nhật Bản [44]. có tên chính thức là “Luật về

chống độc quyền tư nhân và đảm bảo giao dịch công bằng” (AMA), được ban

hành vào năm 1947 dưới sự chiếm đóng của quân Đồng minh sau Chiến tranh

thế giới thứ hai như một luật vĩnh cửu (không giới hạn thời gian hiệu lực)

nhằm tạo lập trật tự mang tính dân chủ cho nền kinh tế Nhật Bản.

Mục đích của Luật chống độc quyền Nhật Bản hay mục tiêu của chính

sách cạnh tranh Nhật Bản được quy định rõ ngày tại Điều 1 của Luật đó là:

- Bảo vệ quá trình cạnh tranh,

- Tạo hiệu quả kinh doanh,

- Tạo việc làm, nâng cao thu nhập của người dân và

- Bảo vệ người tiêu dùng.

Kể từ năm 1947 đến nay, Luật AMA đã được Ủy Ban Thương mại lành

mạnh Nhật Bản (JFTC) đề xuất sửa đổi nhiều lần cụ thể qua các năm:

- 1991 sửa đổi Luật Chống độc quyền theo hướng tăng mức phạt tiền

các hành vi vi phạm.

-1992: sửa đổi Luật Chống độc quyền trong đó đưa các quy định về áp

dụng các chế tài hình sự vào các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh như phạt

tù đối với lãnh đạo các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

- 2005 Sửa đổi Luật Chống độc quyền (AMA) theo hướng:

- Tăng mức phạt tiền;

41

- Áp dụng cơ chế khoan dung;

- Áp dụng các biện pháp bắt buộc đối với buộc tội Hình sự;

- Sửa đổi Thủ tục tiến hành phiên điều trần;

- 2013 tiếp tục sửa đổi Luật chống độc quyền theo hướng:

+ Thay đổi quy trình ban hành quyết định xử phạt cuối cùng;

+ Thay đổi thủ tục tiến hành phiên điều trần.

b. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan cạnh tranh

Uỷ ban thương mại lành mạnh Nhật Bản (JFTC, sau đây gọi là Ủy ban)

được thành lập như là một cơ quan quản lý của Chính phủ để đạt được mục

tiêu của Luật Chống độc quyền. Bên cạnh Luật Chống độc quyền, Uỷ ban còn

thi hành Luật chống tặng phẩm phi lý và trưng bày gây nhầm lẫn, Luật chống

thanh toán chậm trong hợp đồng gia công phụ đối với người sản xuất phụ, đây

là những luật đặc biệt bổ sung cho Luật Chống độc quyền. Uỷ ban có vị trí

như là một cơ quan cấp bộ trực thuộc Chính phủ.

Tuy nhiên, Uỷ ban có đặc điểm của một tổ chức quản lý theo hệ thống

hội đồng, bao gồm một chủ tịch và bốn Uỷ viên. Ủy viên và Chủ tịch là các

chuyên gia luật và kinh tế tuổi đời từ 35 trở lên, được Thủ tướng bổ nhiệm

trên cơ sở sự đồng thuận của cả thượng viện và hạ viện. Việc bổ nhiệm Chủ

tịch do Nhật hoàng thông qua. Trong việc thực thi Luật Chống độc quyền, Uỷ

ban thực hiện nhiệm vụ của nó một cách độc lập, không chịu sự chỉ đạo hay

giám sát của bất cứ một ai. Để đảm bảo tính độc lập trong quyết định của

JFTC, bên cạnh sự độc lập về mặt lợi ích với các chủ thể khác, Luật Chống

độc quyền còn đưa ra các quy định để đảm bảo cho tính độc lập và trung lập

trong quyết định của Chủ tịch và các Ủy viên của JFTC.

Điều 28 Luật AMA quy định Chủ tịch và các ủy viên của JFTC thực

hiện nhiệm vụ của họ một cách độc lập. Tuy điều này chưa tạo ra được một

cơ cấu cụ thể để tạo ra tính độc lập trong quyết định của Chủ tịch và các Ủy

viên nhưng chính điều này đã tạo ra cơ sở pháp lý rất quan trọng cho tính độc

lập này.

42

Để đảm bảo cho việc các quyết định của Chủ tịch và Ủy viên là trung

lập và không bị ảnh hưởng, trong điều 31 của Luật AMA “Chủ tịch và các ủy

viên sẽ không bị bãi nhiệm trong thời hạn nhiệm kỳ trái ý muốn của họ” ngoại

trừ những trường hợp sau:

i. Khi người này bị tòa án phán xét là không có năng lực, hầu như

không có năng lực, hoặc rơi vào tình trạng phá sản;

ii. Khi người này bị bãi miễn bởi hình phạt kỷ luật;

iii. Khi người này bị phạt vì vi phạm Luật này;

iv. Khi người này bị kết án tù hoặc bị kết án nặng hơn;

v. Khi Ủy ban Thương mại Lành mạnh quyết định rằng người này

không đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình vì lý do suy sụp về thể xác

và tinh thần;

vi. Khi không giành được sự thông qua tiếp theo của cả hai Viện của

Nghị viện như trong trường hợp quy định tại mục (4) của Điều trên đây.

Đồng thời trong Điều 36 quy định về lương của Chủ tịch và Các ủy

viên của JFTC có quy định như sau nhằm nâng cao tính độc lập trong lợi ích

của Chủ tịch và các Ủy viên:

(1) Lương của Chủ tịch và các ủy viên sẽ được cấp riêng;

(2) Lương của Chủ tịch và ủy viên không bị cắt giảm ngược lại với ý

muốn của họ khi họ đang trong nhiệm kỳ.

Dưới Ủy ban là Ban thư ký. Tổng thư ký chịu trách nhiệm tiến hành tố

tụng hành chính của JFTC. Tổng thư ký thực hiện các thủ tục tố tụng hành

chính của Ban Thư ký. Ban Thư ký gồm Cục các vấn đề kinh tế; Cục điều tra

và các văn phòng khu vực đặt tại Hokkaido (Sapporo), Tohoku (Sendai),

Chubu (Nagoya), Kinki (Osaka), Chūgoku (Hiroshima), Shikoku (Takamatsu)

và Kyushu (Fukuoka).

Theo báo cáo hoạt động hàng năm, hiện nay JFTC có khoảng 850 nhân

viên với ngân sách hoạt động hàng năm vào khoảng 9 tỷ yên/năm [48].

43

c. Thực tiễn công tác tổ chức điều tra và xử lý các hành vi vi phạm

Luật Chống độc quyền Nhật Bản cấm các đối tượng hoạt động kinh

doanh độc quyền mang tính cá nhân, các hành vi hạn chế giao dịch không hợp

lý, sử dụng các phương pháp giao dịch không công bằng, JFTC điều tra cân

nhắc những thông tin thu nhận được từ công chúng, hoặc do chính JFTC phát

hiện ra. Khi xét thấy xảy ra sự kiện vi phạm quy định cấm, sẽ tiến hành điều

tra cần thiết đối với vụ việc bị nghi ngờ.

Theo quy định của Luật Chống độc quyền Nhật Bản, hệ thống các biện

pháp xử phạt đối với hành vi vi phạm bao gồm các hình thức phạt tiền, xử lý

loại trừ (đối với điều tra hành chính), phạt tù, phạt tiền (đối với điều tra hình

sự) và phạt cảnh cáo. Trong đó, theo thống kê hàng năm của JFTC, phạt tiền

và xử lý loại trừ có số lần áp dụng nhiều nhất. Biện pháp truy tố hình sự được

áp dụng ít nhất (không lớn hơn 2 vụ/năm), mặc dù có đề nghị truy tố nhưng

đến nay chưa có vụ việc nào được xử lý hình sự.

Bảng 1.1. Số vụ việc áp dụng các biện pháp xử lý từ 2005-2013

của JFTC

Năm

2005 2006

2007

2008

2009

2010 2011 2012

2013

19

12

16

24

20

15

21

15

22

Phạt tiền, xử lý loại trừ

7

9

4

10

2

2

6

1

10

Cảnh cáo

2

2

1

0

0

1

1

0

1

Truy tố hình sự

Nguồn: Báo cáo hoạt động năm 2013 của JFTC

Xét riêng đối với biện pháp phạt tiền, xử lý loại trừ và phạt cảnh cáo,

tính theo loại hành vi vi phạm qua từng năm thì có thể thấy hành vi thỏa thuận

ấn định giá và dàn xếp đấu thầu là hai nhóm hành vi nguy hiểm và thường

xuyên xảy ra nhất nên đây cũng là hai nhóm hành vi bị xử phạt nhiều nhất, số

44

vụ bị xử phạt cũng gấp nhiều lần các hành vi khác, thậm chí có lúc gấp đến 10

lần số vụ lạm dụng ví trí thống lĩnh thị trường, ví trí độc quyền bị xử phạt.

Bảng 1.2. Số vụ xử lý vi phạm của JFTC theo hành vi vi phạm

Năm

2006 2007 2008

2009

2010 2011 2012 2013

Độc quyền tư nhân

0

0

1

0

0

0

0

0

Thỏa thuận ấn định giá

3

6

9

5

6

5

0

8

Dàn xếp đấu thầu

6

14

2

17

12

7

19

9

thức giao dịch

4

3

5

4

2

3

2

1

Phương không công bằng

Số DN bị xử lý

73

193

49

84

109

303

126 210

Nguồn: Báo cáo hoạt động năm 2013 của JFTC

Số lần xử lý hành vi thông thầu trong giai đoạn 2001-2004 trung bình

là 25 vụ/năm do đây là những hành vi khá phổ biến và được xem là “vấn nạn

quốc gia” của Nhật Bản, nhưng nhờ cơ chế phát hiện vi phạm hiệu quả nên đã

phát hiện và xử lý nhiều vụ, dần cải thiện môi trường và thói quen kinh doanh

của doanh nghiệp. Do sự nỗ lực của cơ quan cạnh tranh và sự cải thiện trong

chính sách nên đến giai đoạn 2006-2013 thì số vụ bị xử lý đã giảm xuống 10-

11 vụ/năm, tuy nhiên vẫn ở mức cao so với các hành vi khác.

45

8000

450

400

7000

350

6000

300

5000

250

4000

200

3000

150

2000

100

1000

50

0

0

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

Số doanh nghiệp

121

403

207

63

89

171

290

112

181

Số tiền phạt (100 triệu Yên)

84

231

408

96

543

6958

335

240

302

Số doanh nghiệp

Số tiền phạt (100 triệu Yên)

(ĐVT: 100 triệu Yên)

Nguồn: Báo cáo hoạt động năm 2013 của JFTC

Hình 1.1. Số tiền phạt JFTC áp dụng đối với hành vi thỏa thuận ấn định giá và thông thầu giai đoạn 2005-2013

d. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh

- Áp dụng thủ tục khám xét tại chỗ

Trong điều tra hành chính về vụ việc vi phạm Luật Chống độc quyền,

chủ yếu là giải quyết vụ việc thông qua lập luận chứng minh sự thật vi phạm

dựa trên hai loại chứng cứ là tài liệu thu thập được qua khám xét hiện trường

và biên bản lời khai được lập qua xét hỏi. Do đó, việc thu thập chứng cứ làm

sáng tỏ vụ việc trong khám xét hiện trường hay có lấy được lời thú tội về hành

vi vi phạm từ nhân viên của cơ sở bị tình nghi vi phạm trong xét hỏi hay không

là các điểm quan trọng để giải quyết vụ việc vi phạm Luật Chống độc quyền.

Khám xét hiện trường (On-spot inspection) cụ thể là khám xét cơ sở

kinh doanh của doanh nghiệp bị tình nghi vi phạm, kiểm tra sổ sách giấy tờ

đồng thời ra lệnh nộp sổ sách giấy tờ và sau đó lưu giữ sổ sách giấy tờ nhằm

thu thập vật chứng cần thiết để chứng minh sự thật vi phạm.

46

Khi quyết định thực hiện khám xét hiện trường, tại các bộ phận phụ

trách điều tra vụ việc tiến hành các công việc như sau:

Bước 1: Chọn nơi khám xét hiện trường

Nơi khám xét ngoài các trụ sở kinh doanh của doanh nghiệp tình nghi

còn có trường hợp mở rộng ra cơ sở kinh doanh của bạn hàng hay cơ quan

nhà nước đã đặt hàng. Trong các vụ việc dàn xếp đấu thầu, do số lượng các cơ

sở bị tình nghi vi phạm nhìn chung cao, tùy theo vụ việc, có trường hợp số

nơi khám xét hiện trường lên tới trên 50 cơ sở.

Bước 2: Quyết định cán bộ phụ trách khám xét hiện trường

Tùy theo quy mô của cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp tình nghi, quyết

định số cán bộ phụ trách khám xét hiện trường. Trong trường hợp của cơ sở nhỏ

cũng có khi tiến hành khám xét với 3 cán bộ phụ trách; nhưng trong trường hợp

của cơ sở lớn thì cũng có khi khám xét với 40 – 50 cán bộ phụ trách, thậm chí có

vụ việc có sự tham gia của lực lượng trên 200 cán bộ phụ trách.

Bước 3: Tiến hành khám xét hiện trường

Khám xét hiện trường thông thường được bắt đầu đồng loạt trong buổi

sáng, trên tất cả các cơ sở tình nghi, tại cùng một thời điểm.

Cán bộ phụ trách trình thẻ chứng minh thanh tra cho người đứng đầu cơ

sở và giải thích về mục đích khám xét hiện trường đồng thời trao văn bản ghi

mục đích này cho người đứng đầu cơ sở này và sau đó bắt đầu khám xét.

Trong khám xét hiện trường, các cán bộ phụ trách kiểm tra toàn bộ bàn

làm việc, tủ tài liệu, máy tính cá nhân v.v… trong cơ sở kinh doanh và thu

thập chứng cứ. Sau khi hoàn thành kiểm tra, về những tài liệu đc JFTC giữ

như vật chứng, ra lệnh cho người đứng đầu cơ sở kinh doanh của cơ sở bị tình

nghi nộp và lưu giữ các tài liệu này. Tùy thuộc vào quy mô của cơ sở kinh

doanh cũng có trường hợp lưu trữ tới vài trăm tài liệu trên một cơ sở.

47

Gần đây, do có nhiều tài liệu được điện tử hóa nên kiểm tra không chỉ

máy tính của các nhân mà cả dữ liệu điện tử được lưu trong máy chủ.

Bước 4: Sau khi khám xét hiện trường

Về tài liệu được lưu giữ, xác minh nội dung từng tài liệu, tìm ra vật

chứng quan trọng trong xác minh sự thật vi phạm.

Sau khi hoàn thành thủ tục khám xét hiện trường, cán bộ JFTC yêu cầu

nhân viên của doanh nghiệp tình nghi tự nguyện trình diện và xét hỏi nhân

viên. Việc xét hỏi được thực hiện trong khuôn khổ thu thập chứng cứ cần thiết

để chứng minh vi phạm và được thực hiện theo quy trình thủ tục chặt chẽ,

nghiêm túc, bảo mật.

- Áp dụng chương trình khoan dung (Leniency) [48]

Việc tổ chức điều tra và xử lý các hành vi thỏa thuận thông đồng hạn

chế cạnh tranh là một trong những mục tiêu hàng đầu của các cơ quan cạnh

tranh trên thế giới. Tuy nhiên, thực tiễn điều tra cho thấy không dễ để có thể

phát hiện và xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này vì các thủ đoạn

thông đồng của các công ty khá tinh vi. Cơ quan điều tra phải tiến hành khám

xét và dùng nhiều nghiệp vụ để có thể thu thập được chứng cứ và điều này

không phải lúc nào cũng có thể đem lại hiệu quả vì các doanh nghiệp sẽ luôn

tìm cách xóa dấu vết, phi tang chứng cứ.

Tại một số quốc gia, cơ quan điều tra phải cài người nằm trong hệ

thống các công ty là thành viên tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để thu

thập chứng cứ. Đây là một biện pháp có đem lại hiệu quả nhưng để lọt vào vị

trí có thể thu thập được các chứng cứ là việc làm hết sức khó khăn và tốn kém

về mặt thời gian, công sức và tiền của, thậm chí là nguy hiểm cho cán bộ

thâm nhập.

Vì vậy, để giúp cơ quan điều tra có thêm nguồn cung cấp chứng cứ,

qua đó tăng cường hiệu quả thực thi luật, đặc biệt là các hành vi thỏa thuận

48

hạn chế cạnh tranh, JFTC đã ban hành và áp dụng chính sách khoan dung.

Chính sách khoan dung được áp dụng đối với các chủ thể tham gia thỏa thuận

hạn chế cạnh tranh chủ động đến khai báo với cơ quan quản lý cạnh tranh về

hành vi của mình, đồng thời cung cấp cho cơ quan cạnh tranh các tài liệu

chứng cứ có giá trị chứng minh thỏa thuận đó.

Cơ chế khoan dung (Leniency) là cơ chế giảm hoặc miễn trừ tiền phạt

phải nộp của doanh nghiệp trong trường hợp họ gửi các báo cáo tới JFTC liên

quan đến hành vi vi phạm. Trong thời gian gần đây, những đơn xin miễn trừ

khoản phải nộp chiếm một tỷ lệ lớn trong những manh mối của các vụ thông

thầu hoặc cartel. Thông qua việc áp dụng cơ chế này, JFTC đã phát hiện ra rất

nhiều vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, đặc biệt là thông đồng đấu thầu,

mà trước đó họ không thể phát hiện ra do không có chứng cứ.

Số lượng các chủ thể được hưởng cơ chế khoan dung không vượt quá

05 doanh nghiệp. Trong đó, các doanh nghiệp có thể khai báo trước hoặc sau

khi khởi động điều tra vụ việc, và chỉ có tối đa 03 doanh nghiệp đầu tiên khai

báo sau khi khởi động điều tra mới được hưởng cơ chế khoan dung.

Mức miễn, giảm tiền phạt theo cơ chế khoan dung như sau: nếu khai

báo trước khi cơ quan cạnh tranh ra quyết định điều tra vụ việc, doanh nghiệp

khai báo đầu tiên được miễn 100% tiền phạt, doanh nghiệp thứ hai được giảm

50% tiền phạt, doanh nghiệp thứ ba được giảm 30% tiền phạt. Các doanh

nghiệp khai báo sau khi ra quyết định điều tra thì được giảm 30% tiền phạt.

Điều kiện tiên quyết để các bên được mức miễn giảm nêu trên là :

(1) phải chủ động khai báo về hành vi thỏa thuận của mình;

(2) đã chấm dứt thực hiện hành vi vi phạm;

(3) cung cấp cho cơ quan cạnh tranh các tài liệu chứng cứ có giá trị

chứng minh hành vi thỏa thuận đó một cách chủ động hoặc khi được cơ quan

cạnh tranh yêu cầu;

49

(4) không có hành vi ép buộc doanh nghiệp khác tham gia thỏa thuận,

không ngăn cản các doanh nghiệp khác rút lui khỏi thỏa thuận hoặc chấm dứt

thỏa thuận.

Chính sách khoan dung của Nhật Bản được đưa vào áp dụng từ tháng

04/2006. Tuy mới được áp dụng nhưng đến tháng 5 năm 2007, cơ quan cạnh

tranh của Nhật Bản đã nhận được sự khai báo của tổng cộng 105 công ty

trong đó có tập đoàn công nghiệp nặng Mitsubishi. Trong năm tài chính 2009,

có 85 vụ JFTC nhận được thông báo đúng sự thật về hành vi vi phạm, và đến

cuối tháng 3 năm 2010 là 349 vụ.

- Đẩy mạnh các hoạt động quan hệ công chúng đạt hiệu quả cao

Trong suốt quá trình từ khi thành lập đến nay, JFTC đã luôn đề cao và

đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền về chính sách và Luật Chống độc quyền,

quan hệ công chúng, kêu gọi sự đồng thuận của toàn xã hội. Đây là hoạt động

hoàn toàn không mang tính hình thức như hoạt động tuyên truyền, đào tạo

thông thường mà là hoạt động đi vào thực chất, chi tiết nhằm đảm bảo tính

minh bạch trong thi thành pháp luật, cung cấp thông tin về chính sách, nắm

bắt quan điểm của người dân và tạo sự đồng thuận trong xã hội, từ những

người dân bình thường đến các doanh nghiệp, đến cơ quan nhà nước khác,

đến cả những nhà lãnh đạo để hiểu rõ bản chất, vai trò của Luật và tạo ý chí

quyết tâm thực thi Luật.

Các hoạt động quan hệ công chúng cụ thể mà JFTC đã thực hiện hết

sức phong phú và đa dạng, bao gồm:

Hoạt động thông tin báo chí, cụ thể: ra thông cáo báo chí về biện pháp

xử lý vi phạm, tư vấn trước về sáp nhập doanh nghiệp, ra các bản hướng dẫn,

báo cáo tình hình thực tế, rà soát thị trường, tổ chức họp báo định kỳ và thứ tư

hàng tuần, ra bản tin thời sự Asahi, gửi bản tin điện tử hàng tuần tới cá nhân

và tổ chức đăng ký (năm 2012 có đến 8275 người đăng ký nhận bản tin điện

tử từ JFTC).

50

Hoạt động biên soạn và phân phát tài liệu tuyên truyền như: Sổ tay giới

thiệu về Luật Chống độc quyền, các đĩa DVD và băng hình dùng cho quan hệ

công chúng, tài liệu công bố “Tình hình hoạt động gần đây của JFTC”, xuất

bản Giáo trình phụ cho học sinh trung học về Luật Chống độc quyền “Cuộc

sống của chúng ta và kinh tế thị trường”.

Phát triển trang chủ của JFTC theo hướng hiện đại, thân thiện với

người dùng, gồm các cả các mục chuyên môn, diễn đàn trao đổi, tư vấn, lẫn

các dữ liệu hình ảnh, DVD và có riêng nội dung dành riêng cho người tiêu

dùng nói chung (giải thích các ví dụ liên quan đến sinh hoạt hàng ngày) và

dành riêng cho trẻ em (tìm hiểu một cách vui vẻ qua truyện tranh).

Cử nhân viên JFTC đến các doanh nghiệp, hiệp hội để giảng, hoặc nói

chuyện, giải thích về Luật.

Tuyên truyền, quảng bá thông qua giáo dục học đường, cụ thể: tổ chức

cho học sinh trung học tham quan nơi làm việc của JFTC, tổ chức tham quan

các cơ quan nhà nước dành cho trẻ em tiểu học vào tháng 8 hàng năm; Cử

nhân viên JFTC giảng dạy trong nhà trường về Luật Chống độc quyền, lý

thuyết tổ chức ngành, vai trò của JFTC, biên soạn giáo trình phù hợp với từng

cấp học.

1.3.2. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ

a. Về phát triển và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh

Có thể nói, Hoa Kỳ là quê hương của Luật chống độc quyền hay pháp

luật và chính sách cạnh tranh. Luật chống độc quyền của Hoa Kỳ ra đời vào

cuối thế kỷ XIX, xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế Hoa Kỳ

lúc bấy giờ.

Đạo luật Sherman được thông qua năm 1890 và đạo luật Clayton (bắt

nguồn từ đạo luật Sherman) có hiệu lực vào ngày 15 tháng 10 năm 1914,

được coi là hai luật cơ bản cho chính sách chống độc quyền của Hoa Kỳ.

51

Đạo luật Sherman nhằm nỗ lực ngăn chặn việc cố tình tăng giá thông

qua hạn chế thương mại, dịch vụ. Mục tiêu của Đạo luật Sherman không phải

là nhằm bảo vệ các đối thủ cạnh tranh, mà nhằm bảo vệ sự cạnh tranh và môi

trường cạnh tranh, bảo vệ người dân trước những khuyết tật của thị trường.

Đạo luật Clayton đã bổ sung thêm một số nội dung cho pháp luật chống

độc quyền của Hoa Kỳ bằng việc tìm cách ngăn chặn các hành vi phản cạnh

tranh từ giai đoạn hình thành. Đạo luật Clayton quy định chi tiết các hành vi

cụ thể bị cấm, mô hình thực thi ba cấp, các quy định miễn trừ và các biện

pháp xử lý vi phạm.

Không dừng lại ở đó, năm 1936, Luật Robinson- Patman được ban hành

với những quy định nghiêm khắc hơn trong việc xử lý các hành vi phân biệt đối

xử. Ngoài ra, Đạo luật Celler-Kefauver được ban hành năm 1950, bổ sung

thêm các quy định trong đạo Luật Clayton 1914. Đạo luật Celler-Kefauver

được coi là đạo luật chống sáp nhập, là công cụ giúp Chính phủ ngăn chặn cả

các vụ sáp nhập theo chiều dọc và sáp nhập hỗn hợp có khả năng gây hạn chế

cạnh tranh.

Năm 1976, Đạo luật cải tiến lĩnh vực chống độc quyền (Hart-Scott-

Rodino Antitrust Improvement Act) được ban hành là một tập hợp các sửa

đổi, bổ sung cho các luật chống độc quyền của Hoa Kỳ, mà chủ yếu là Đạo

luật Clayton. Đạo luật này bổ sung thêm các quy định về thông báo tập trung

kinh tế trước khi tiến hành sáp nhập hoặc mua lại.

Đến đầu những năm 1980 chính sách cạnh tranh của Hoa Kỳ được coi

là chính sách chặt chẽ và nghiêm khắc nhất của thế giới.

b. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan cạnh tranh

Các cơ quan tham gia xử lý vụ việc cạnh tranh ở Hoa Kỳ bao gồm Uỷ

ban thương mại Liên bang Hoa Kỳ (viết tắt là USFTC) và Cục Chống độc

quyền thuộc Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ (viết tắt là USDOJ).

52

- USFTC [50] xử lý các vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế của phần

lớn người Mỹ. Trên thực tế, cơ quan đã có một truyền thống về duy trì một

môi trường cạnh tranh cho cả người tiêu dùng và cho các hoạt động kinh

doanh. Khi USFTC được thành lập vào năm 1914, nhiệm vụ của cơ quan này

là ngăn chặn các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại

như một phần của cuộc chiến nhằm “thúc đẩy lòng tin”. Trong nhiều năm,

Nghị viện đã thông qua các bộ luật bổ sung trao quyền lớn hơn cho Uỷ Ban

nhằm kiểm soát các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh.

Năm 1938, Nghị viện thông qua Luật sửa đổi Wheeler-Lea, gồm hàng

loạt các biện pháp ngăn chặn các “hoạt động gian lận hoặc không lành mạnh”.

Sau đó, Ủy ban cũng được chỉ đạo thi hành hàng loạt các bộ luật bảo vệ người

tiêu dùng gồm Điều luật bán hàng qua điện thoại, Luật chi trả theo từng cuộc

gọi (Pay-Per-Call Rule) và Đạo luật Tín dụng Công bằng (Equal Credit

Opportunity Act). Năm 1975, Nghị viện thông qua Đạo luật Magnuson-Moss

trao quyền cho USFTC trong việc thông qua các nguyên tắc thương mại trong

đó định nghĩa các hoạt động gian lận hoặc không lành mạnh trong từng ngành

cụ thể. Các nguyên tắc thương mại có hiệu lực thi hành tương đương luật.

Ngoài ra, Hoa Kỳ còn có nhiều bộ luật khác cho phép USFTC thực hiện

nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng.

Bên cạnh đó, do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế và các doanh

nghiệp, đòi hỏi Bộ Tư pháp phải có một lực lượng chuyên biệt trong lĩnh vực

thực thi các quy định của Luật Chống độc quyền nhằm đối phó với tình hình

ngày càng phức tạp của thị trường. Do vậy, năm 1933, Cục Chống độc quyền

thuộc Bộ Tư pháp đã được thành lập.

USFTC là một cơ quan độc lập báo cáo trực tiếp cho Nghị viện. Ủy ban

hoạt động dưới sự chỉ đạo của 5 Ủy viên có nhiệm kỳ 7 năm, được bổ nhiệm

bởi Tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng nghị viện. Tổng thống chỉ

53

định một Ủy viên đảm trách Chủ tịch. Không quá 3 Ủy viên là thành viên của

một Đảng.

Hoạt động của USFTC được thực hiện bởi các Cục gồm Cục Bảo vệ

người tiêu dùng, Cục Cạnh tranh, Cục Kinh tế và các Văn phòng: Văn phòng

các vấn đề cộng đồng, Văn phòng quan hệ Nghị viện, Văn phòng giám đốc

điều hành, Văn phòng Tổng thanh tra, Văn phòng Tổng tham vấn (Office of

General Counsel) và 7 văn phòng khu vực có nhiệm vụ hỗ trợ thực hiện các

hoạt động này, cụ thể như sau:

Cục Cạnh tranh có nhiệm vụ phát hiện các hoạt động kinh doanh gây

hạn chế cạnh tranh. Từ đó góp phần đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng thể

hiện ở mức giá thấp và tính sẵn có của các sản phẩm và dịch vụ. Cục sẽ tiến

hành các cuộc điều tra để phát hiện hành vi vi phạm, trình Uỷ ban xem xét xử

lý. Khi Uỷ ban có quyết định xử lý, Cục sẽ thực thi các quyết định này thông

qua cơ chế giải quyết tranh chấp của toà án liên bang hoặc theo các quy định

hành chính.

Cục cũng có nhiệm vụ như một bộ phận nghiên cứu, hoạch định chính

sách về các vấn đề liên quan đến cạnh tranh. Cục chuẩn bị các báo cáo và

chứng cớ trước Nghị viện, hoặc có thể đưa ra các bình luận về các vấn đề liên

quan đến cạnh tranh trước khi có quyết định từ những cơ quan quản lý khác.

Cục Cạnh tranh cũng phát triển những kiến thức chuyên sâu về một số

ngành công nghiệp quan trọng đối với người tiêu dùng như: chăm sóc sức

khoẻ, lương thực, năng lượng, và các dịch vụ chuyên môn khác.

Cục Kinh tế giúp USFTC đánh giá ảnh hưởng kinh tế của các hoạt

động của USFTC. Để thực hiện điều này, Cục tiến hành các phân tích kinh tế

và hỗ trợ các cuộc điều tra về chống độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng.

Cục cũng phân tích những ảnh hưởng từ các quy định do Chính phủ ban hành

về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng và cung cấp cho Quốc hội cũng như

54

cho công chúng các phân tích kinh tế về các quy trình thị trường liên quan

đến chống độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng và các quy định khác.

- Về Cục Chống độc quyền, Bộ Tư pháp: Chiểu theo Mục 2 của Luật

Sherman, Cục Chống độc quyền của Bộ Tư pháp chủ yếu tiến hành điều tra

dân sự liên quan đến việc sử dụng Lệnh điều tra dân sự (CID), một loại công

cụ điều tra tiền khởi tố.

Lệnh điều tra dân sự (CID) là một loại lệnh điều tra chung được ban

hành bởi Thứ trưởng Bộ Tư pháp chiểu theo Luật Độc quyền dân sự. Lệnh

này sẽ được gửi tới đối tượng được Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng quy kết là sở

hữu, kìm hãm hoặc kiểm soát một loại hàng hóa có liên quan đến điều tra dân

sự. Lệnh này cũng có thể được ban hành cùng với những hành vi bị nghi ngờ

là vi phạm.

CID có thể được tiến hành dưới các dạng văn bản, lấy lời khai hoặc

thẩm vấn Cục chống độc quyền của Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm chính trong

các vụ việc hạn chế cạnh tranh cũng như khởi tố vụ án ra tòa nếu thấy có dấu

hiệu hình sự. Với chức năng này, cơ quan này sẽ xử lý các hành vi vi phạm

luật cạnh tranh bằng cách đưa vụ án đó ra tòa với mức hình phạt như phạt tiền

hoặc bỏ tù. Trong một số vụ việc khác, cơ quan này có thể kết tội một hành vi

dân sự nhất định bằng cách sử dụng lệnh của tòa án cấm thực hiện những

hành vi đó trong tương lai cũng như khắc phục những hậu quả của hành vi vi

phạm trước đó.

Có rất nhiều vụ việc được xử lý với sự hỗ trợ và phối hợp của các cơ

quan cạnh tranh nước ngoài và các văn phòng tư pháp quốc gia.

Phần lớn các vụ khởi tố hình sự đều liên quan đến các vấn đề ấn định

giá, thông đồng đấu thầu, phân chia thị trường hoặc mặt hàng. Bất cứ hình

thức thỏa thuận nào nêu trên nếu xảy ra trong vòng ít nhất 05 năm trở lại đây

đều bị khởi tố hình sự, ngay cả khi hành vi đó không có bằng chứng liên quan

55

đến thỏa thuận chính thức trên giấy tờ. Các hành vi thông đồng nêu trên có

thể được tìm thấy thông qua các bằng chứng liên quan đến lời khai của người

tham gia, hoặc bằng chứng gián tiếp ví dụ như tình tiết đầu thầu bị nghi ngờ,

báo cáo công tác hoặc báo cáo chi tiêu, hóa đơn điện thoại, nhật ký kinh

doanh…

Ấn định giá hoặc thông đồng đấu thầu là hành vi vi phạm luật Sherman.

Theo đó, bất cứ hành vi thông đồng nào cũng sẽ không được bào chữa hay

thanh minh, ví dụ như thỏa thuận về giá là hợp lý, thỏa thuận đó nhằm ngăn

chặn hoặc loại trừ khả năng giảm giá hoặc phá hoại cạnh tranh; hoặc hành vi

thông đồng chỉ đơn thuần nhằm đảm bảo mỗi bên có thị phần bằng nhau trên

thị trường.

Luật chống độc quyền do cả Cục Cạnh tranh của FTC và Cục chống

độc quyền thuộc Bộ Tư pháp thi hành. Do đó, để tránh chồng chéo, hai cơ

quan này sẽ tham khảo ý kiến của nhau trước khi tiến hành xử lý bất kỳ

trường hợp nào.

c. Thực tiễn công tác điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh

Các cơ quan cạnh tranh của Hoa Kỳ, đặc biệt là Cục Chống độc quyền,

Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã chứng minh được hiệu quả trong thực thi pháp luật

cạnh tranh, chống độc quyền. Giai đoạn từ năm 2004 đến 2013, Cục Chống

độc quyền đã khởi xướng điều tra hơn 1575 vụ việc cạnh tranh, trung bình

trên 157 vụ năm [49].

Số lượng các vụ tập trung kinh tế được khởi xướng điều tra chiếm ưu

thế hơn, với 842 vụ trong vòng 10 năm. Đồng thời, các vụ việc liên quan đến

hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được thụ lý có số lượng tương đối đáng

kể, chiếm trung bình trên 60 vụ mỗi năm trong giai đoạn 2004 - 2013. Khi

pháp luật cạnh tranh của Hoa Kỳ đã có thời gian dài phát triển, các doanh

nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh/độc quyền trên thị

56

trường đã ý thức rất rõ về các đạo luật chống độc quyền. Số lượng các vụ việc

về lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền thị trường chiếm không đáng kể so

với tổng số vụ việc cạnh tranh được điều tra, chỉ có 23 vụ trong 10 năm.

Tại Hoa Kỳ, các vụ việc cạnh tranh thuộc diện điều tra dân sự do Cục

chống độc quyền, Bộ Tư pháp hoặc Ủy ban Thương mại Liên bang thụ lý,

điều tra. Hàng năm, có hàng trăm đến xấp xỉ một nghìn quyết định điều tra

dân sự đối với các vụ việc cạnh tranh (như các vụ tập trung kinh tế, thỏa thuận

hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền...) được ban hành.

Tuy nhiên, nếu các vụ việc này không được giải quyết tại hai cơ quan này, sẽ

được Tòa án sơ thẩm địa phương tiếp tục điều tra và xử lý. Các vụ việc này đa

phần liên quan đến các vụ tập trung kinh tế. Các thỏa thuận hạn chế cạnh

tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền hầu như được giải quyết tại các cơ

quan cạnh tranh.

Các vụ việc thuộc diện điều tra hình sự phần lớn liên quan đến các

hành vi hạn chế cạnh tranh. Ngoài ra, có một số trường hợp có thể liên quan

đến các loại hành vi vi phạm pháp luật chống độc quyền khác, tuy nhiên có

những yếu tố khai man, gian lận, lừa đảo hoặc coi thường, cản trở thực thi

pháp luật...cũng bị điều tra hình sự. Tòa án sơ thẩm địa phương chịu trách

nhiệm giải quyết và xử lý các vụ việc này.

Thành công của các cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ trong việc thực thi

pháp luật và chính sách chống độc quyền không chỉ thể hiện qua số lượng vụ

việc được thụ lý, điều tra, và đa số là thắng kiện, số vụ việc bị thua kiện hàng

năm chiếm tỷ lệ không đáng kể (chừng 0 đến vài phần trăm trong tổng số các

vụ việc được thụ lý), mà nó còn được thể hiện qua kết quả xử lý các vụ việc

cạnh tranh. Hàng năm các doanh nghiệp và cá nhân vi phạm phải nộp phạt

hàng trăm triệu đô la Mỹ và các cá nhân vi phạm còn phải chịu hình phạt tù.

Trong giai đoạn 2004 – 2013, số tiền phạt thu được hàng năm chiếm

khoảng gần sáu trăm triệu đô la Mỹ và có xu hướng tăng lên theo thời gian.

57

Đặc biệt, tổng số tiền phạt thu được năm 2009 đạt gần 1 tỷ đô la Mỹ, đặc biệt

năm 2012 đạt trên 1 tỷ đô la Mỹ. Mức phạt tiền áp dụng đối với doanh nghiệp

vi phạm cao hơn rất nhiều so với mức phạt tiền đối với các cá nhân. So sánh

mức tiền phạt đối với các doanh nghiệp và số lượng doanh nghiệp chịu hình

phạt tiền nhận thấy mức độ phạt tiền đối với các doanh nghiệp ngày càng tăng

1,600,000

1,400,000

1,200,000

)

1,000,000

800,000

Số tiền phạt

,

600,000

D S U 0 0 0 1 (

t ạ h p n ề i t ố S

400,000

200,000

0

200 4

200 5

200 6

200 7

200 8

200 9

201 0

201 1

201 2

201 3

Số tiền phạt 141,2 600,4 473,4 630,7 696,5 974,3 343,0 381,5 1,475 275,2

và nặng hơn.

Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục Chống độc quyền

Hình 1.2. Số tiền phạt do Cục chống độc quyền tiến hành từ 2004 - 2013

d. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi luật

Hoa Kỳ đã khá thành công trong việc thực thi pháp luật chống độc

quyền nhờ vào những công cụ, chính sách được sử dụng trong quá trình điều

tra và xử lý hành vi vi phạm, qua đó mang lại tác động lớn đến hiệu quả thực

thi pháp luật cạnh tranh.

- Khám xét để thu thập chứng cứ

Một điểm nổi bật và then chốt trong kinh nghiệm điều tra các vụ việc

cạnh tranh của Hoa Kỳ thể hiện ở chỗ, giống như Nhật Bản, pháp luật cạnh

tranh của Hoa Kỳ cho phép các cơ quan cạnh tranh được áp dụng quyền khám

xét. Theo đó, các cơ quan cạnh tranh được quyền điều tra chính thức, khám

58

xét và thu giữ tang vật có liên quan đến các doanh nghiệp là đối tượng điều

tra. Với quyền hạn như vậy, Ủy ban Thương mại Liên bang và Cục Chống

độc quyền, Bộ Tư pháp trong quá trình điều tra sẽ dễ dàng điều động điều tra

viên tiến hành khám xét đúng lúc, đúng thời điểm nhằm thu giữ được những

chứng cứ quan trọng, xác thực.

- Áp dụng Chương trình khoan dung

Thành công của một cuộc điều tra vụ việc cạnh tranh, đặc biệt là các

thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bắt nguồn chủ yếu từ việc thu thập được các

thông tin từ phía “người trong cuộc” – các bên tham gia thỏa thuận. Thông

thường, nếu không được hưởng lợi thì các doanh nghiệp kinh doanh hiếm khi

hợp tác với các cơ quan cạnh tranh, tuy nhiên, một trong những cách động

viên họ cung cấp các thông tin là cam kết sẽ miễn hoặc giảm các chế tài mà

họ có thể bị áp dụng trong quá trình tố tụng.

Về cơ bản, một chính sách khoan dung cam kết cho doanh nghiệp hoặc

cá nhân đầu tiên hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra vụ việc thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh một cơ chế ân xá hoặc miễn trừ các chế tài đối với hành vi vi

phạm mà họ đã thực hiện.

Hoa Kỳ là nước đầu tiên trên thế giới đưa ra chính sách khoan dung và

áp dụng trong cùng năm 1978. Chính sách này cũng được tiến hành sửa đổi

một số nội dung quan trọng vào năm 1993 cho phù hợp với thực tiễn. Theo

đó, thay vì theo chương trình cũ thì doanh nghiệp chỉ được hưởng khoan dung

trong trường hợp Bộ Tư pháp chưa hề có thông tin về vụ thông đồng hay thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh và chưa tiến hành điều tra vụ việc nhưng ở chương

trình mới, doanh nghiệp vẫn có thể hưởng khoan dung nếu Bộ Tư pháp đã

tiến hành điều tra vụ việc nhưng vẫn chưa thu thập được đầy đủ các chứng cứ

cần thiết buộc doanh nghiệp đã nộp đơn phải tự thú về hành vi thông đồng của

mình. Mặt khác, theo chương trình mới, doanh nghiệp nộp đơn được hưởng cơ

chế khoan dung tự động, trong trường hợp Bộ Tư pháp chưa có thông tin gì về

59

vụ thông đồng, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thay vì phải đáp ứng đầy đủ các

điều kiện cần thiết như trước kia. Với sửa đổi năm 1993, ban lãnh đạo của một

doanh nghiệp đã được hưởng miễn trừ theo cơ chế tự động thì cũng được

hưởng miễn trừ nếu họ hợp tác đầy đủ (trong trường hợp cuộc điều tra chưa bắt

đầu tiến hành trước khi doanh nghiệp nộp đơn).

Chính sách khoan dung với những nội dung và cơ cấu hợp lý đã mang

lại hiệu quả lớn cho các cơ quan cạnh tranh của Hoa Kỳ trong quá trình thực

thi. Tỷ lệ đơn thông báo của doanh nghiệp tăng từ mức một đơn trong một năm

theo chương trình ban đầu lên đến mức xấp xỉ một đơn một tháng theo chương

trình mới. Các đơn xin hưởng khoan dung đã trực tiếp mang lại thành công

trong quá trình khởi tố các vụ việc gây hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng.

- Áp dụng mức phạt mang tính răn đe

Để ngăn chặn hành vi vi phạm, Hoa Kỳ đã áp dụng các chế tài nghiêm

khắc đối với các hành vi vi phạm Luật chống độc quyền. Bởi vì rủi ro phải

chịu hình phạt xử lý nặng nề khi bị phát hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

khiến các doanh nghiệp và cá nhân vi phạm có nhiều động cơ khai báo vụ

việc để được hưởng miễn trừ một phần hoặc toàn bộ mức phạt theo chương

trình khoan dung.

Tháng 6 năm 2004, đạo luật Sherman (15 U.S.C. § 1) của Hoa Kỳ đã

bổ sung tăng mức phạt đối với các hành vi phản cạnh tranh vi phạm Luật

chống độc quyền:

+ Mức phạt tối đa đối với doanh nghiệp tăng từ 10 triệu lên 100 triệu đô

la Mỹ;

+ Mức mức phạt tối đa đối với cá nhân tăng từ 350 nghìn lên 1 triệu đô

la Mỹ;

+ Hình sự: thời hạn phạt tù tối đa tăng từ 3 năm lên 10 năm.

Một trong những kinh nghiệm trong điều tra và xử lý các vụ việc cạnh

tranh của Hoa Kỳ là đưa ra các hình thức xử lý vi phạm hết sức nghiêm khắc,

60

gồm phạt tiền được áp dụng đối với cả doanh nghiệp và cá nhân vi phạm và

phạt tù đối với các cá nhân vi phạm trong các vụ việc cạnh tranh nghiêm trọng.

Việc áp dụng khung hình phạt nặng đối với các cá nhân vi phạm sẽ góp

phần răn đe ban lãnh đạo của các công ty đã vi phạm, thậm chí đang có ý định

phải dè chừng. Bởi trong các trường hợp vi phạm, người quyết định các vi

phạm chính là ban lãnh đạo còn nhân viên chỉ là những người chấp hành. Tuy

nhiên, khi quyết định chỉ áp dụng phạt đối với riêng công ty thì có khả năng

công ty sẽ bị phá sản và người chịu thiệt lại chính là nhân viên; còn khi áp

dụng mức phạt đối với ban lãnh đạo – những người trực tiếp đưa ra các quyết

định sẽ không chỉ có tác dụng phạt đúng đối tượng mà còn khiến họ phải cân

nhắc kỹ trước khi đưa ra quyết định vi phạm.

Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp xử lý vi phạm nghiêm khắc là hết sức

cần thiết, bởi đứng trên quan điểm của các cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ, một

số hành vi vi phạm nghiêm trọng Luật Chống độc quyền (như thỏa thuận ấn

định giá hay thỏa thuận phân chia thị trường) về bản chất là tương đồng với

hành vi ăn cắp vì hai hành vi này đều lấy tiền túi của người tiêu dùng mà họ

không hề biết và không mong muốn.

- Hoạt động vận động chính sách cạnh tranh (competition advocacy)

Trong những năm qua, Cục Chống độc quyền, Bộ Tư pháp cũng như

Ủy ban Thương mại Liên bang đã và đang tăng cường các nỗ lực vận động

chính sách cạnh tranh thông qua việc thực hiện các chương trình khác nhau và

các sáng kiến hướng tới củng cố thị trường và bảo tồn phát triển kinh tế tự do

và công bằng. Thực tế, thúc đẩy các nguyên tắc cạnh tranh thông qua nỗ lực

vận động chính sách và tiếp cận các nhà quản lý vẫn là một trong những ưu

tiên cao nhất của các cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ. Những nỗ lực này bao gồm

việc mở rộng quan hệ hợp tác sâu rộng và phối hợp hoạt động cùng với các cơ

quan liên bang như Ủy ban Truyền thông Liên bang, Bộ Nông nghiệp và Bộ

61

Giao thông vận tải, Văn phòng quản lý thương hiệu và bằng sáng chế, Cục Dự

trữ liên bang cũng như với Quốc hội, các cơ quan lập pháp và các cơ quan nhà

nước. Đồng thời, Cục Chống độc quyền cũng đệ trình các bản giải trình tóm

tắt lên Tòa án tối cao Liên bang và các Tòa phúc thẩm, phát hành các báo cáo

chi tiết tác động cạnh tranh nhằm giải thích lập luận và phân tích cạnh tranh.

Ngoài nỗ lực vận động chính sách trong nước, các cơ quan cạnh tranh

Hoa Kỳ còn tích cực trong hoạt động hợp tác với các cơ quan cạnh tranh quốc

tế, như Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) và Mạng lưới cạnh

tranh quốc tế (ICN), cũng như cơ quan thực thi chống độc quyền nước ngoài

nhằm trao đổi kinh nghiệm để tăng cường năng lực thực thi pháp luật và

chính sách cạnh tranh, hợp tác trong điều tra các-ten quốc tế, xuất bản những

cuốn hướng dẫn kỹ năng điều tra xử lý vụ việc dựa trên sự tổng hợp kinh

nghiệm quốc tế...

Thông qua những nỗ lực này, các cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ đã tăng

cường, mở rộng năng lực của mình nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tự do và

công bằng, và tìm những cách thức mới để đảm bảo thị trường hoạt động hiệu

quả và vận hành tốt các chức năng của mình đối với người tiêu dùng Mỹ.

1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

a. Về nội dung pháp luật cạnh tranh

Theo quy định pháp luật cạnh tranh của một số nước trên thế giới, việc

ban hành pháp luật cạnh tranh phải đảm bảo nguyên tắc công bằng, minh bạch

và không phân biệt đối xử. Đặc biệt, trong phạm vi áp dụng luật cạnh tranh

không được miễn trừ áp dung đối với bất kỳ đối tượng nào bao gồm cả các

doanh nghiệp nhà nước.

Bên cạnh đó, pháp luật cạnh tranh của các nước thường quy định và

điều chỉnh về các nhóm hành vi sau đây:

- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền.

62

- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (hành vi thông thầu, ấn định giá...).

- Các hành vi mua bán sáp nhập doanh nghiệp có tác động tới môi

trường kinh doanh.

Riêng đối với các nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Không

giống như quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam, các hành vi này thường

được quy định tại một văn bản khác không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp

luật cạnh tranh và chống độc quyền.

Để đáp ứng những thay đổi của thị trường và nền kinh tế, các nước

thông thường sau 3-5 năm thường tiến hành rà soát, cập nhật sửa đổi pháp

luật cạnh tranh cho phù hợp.

b. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan cạnh tranh

Theo kinh nghiệm của các nước, nguyên tắc quan trọng hàng đầu đối

với cơ quan cạnh tranh là bảo đảm tính độc lập cho nó. Điều này có nghĩa là,

tổ chức, hoạt động của thiết chế này phải được thiết kế sao cho bảo đảm

không để can thiệp hoặc bị chi phối từ các cơ quan khác (lập pháp, hành pháp,

tư pháp). Độc lập là yếu tố tiên quyết để có sự công bằng trong việc xử lý các

vụ việc, điều mà các bên đương sự luôn chờ đợi ở cơ quan này.

Tính độc lập của các cơ quan cạnh tranh trong tổ chức và hoạt động

luôn luôn là mục tiêu hàng đầu mà các nước này hướng tới xây dựng. Đây là

nội dung rất quan trọng đảm bảo cho những cơ quan này có thể thực hiện

chức năng xử lý một cách công minh, vì mục tiêu bảo vệ trật tự công cộng –

cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.

Để đạt được việc này, Luật Cạnh tranh của các nước đều quy định

nguyên tắc tối cao là các cơ quan cạnh tranh hoàn toàn độc lập trong các hoạt

động của mình mà không bị chi phối hay can thiệp của bất kỳ cơ quan thứ ba

nào. Các cơ quan cạnh tranh được thành lập theo Luật và thực hiện các quyền

năng được Luật này trao cho. Họ cũng có thể sử dụng những quyền hạn này

để yêu cầu sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan khác.

63

Để tạo lập sự độc lập về mặt tổ chức và tài chính, một số nước đã thành

lập cơ quan cạnh tranh của mình trực thuộc Quốc hội, độc lập với tư pháp và

chính phủ. Một số cơ quan cạnh tranh khác lại được tổ chức như một Bộ hay

ngang Bộ, độc lập với các bộ ngành khác. Một số trường hợp khác mặc dù đặt

trong một bộ ngành nào đó nhưng lại duy trì một chế độ độc lập rất cao trong

hoạt động. Các cơ quan này chỉ bị phụ thuộc về mặt hành chính. Việc độc lập

này còn đạt được thông qua bổ nhiệm những nhân sự của các cơ quan cạnh

tranh này. Ngoài ra, Luật Cạnh tranh các nước còn quy định rõ ngân sách hoạt

động cũng như chế độ đãi ngộ cho các cơ quan cạnh tranh và thành viên cơ

quan này.

Minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước kể cả cơ quan

cạnh tranh đang là một đòi hỏi hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đối với các cơ

quan cạnh tranh thì đây lại là yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều

này xuất phát chính từ vai trò trong việc duy trì trật tự cạnh tranh rõ ràng, lành

mạnh. Thông tin trong thị trường phải được thông suốt. Tính minh bạch sẽ

nâng cao thêm uy tín của chính các cơ quan này.

Pháp luật cạnh tranh của các quốc gia nói trên đều quy định rất chặt chẽ

về những yêu cầu phải công bố công khai các hoạt động của cơ quan cạnh

tranh. Ngoài ra, các bên liên quan có quyền yêu cầu các cơ quan cạnh tranh

cho phép tiếp cận thông tin liên quan tới vụ việc. Trên thực tế, các cơ quan

cạnh tranh cũng luôn đề cao tiêu chí minh bạch (Transparency) trong các hoạt

động cụ thể của mình, từ việc công khai các chính sách, pháp luật cũng như

các quy trình xử lý công việc… cho đến nội dung các quyết định cụ thể trên

các website của mình. Tuy nhiên, cơ quan cạnh tranh phải có trách nhiệm bảo

mật các thông tin thu thập được trong quá trình điều tra liên quan đến bí mật

kinh doanh của các doanh nghiệp là đối tương bị điều tra.

Ngân sách dành cho cơ quan cạnh tranh của các nước đang ngày càng

được tăng lên do tính chất của công việc. Cùng với sự phát triển của nền kinh

64

tế, thị trường cũng ngày càng được mở rộng, hành vi vi phạm của các chủ thể

kinh doanh ngày càng trở nên tinh vi và phức tạp hơn. Lượng công việc cho

các cơ quan cạnh tranh cũng đang ngày càng tăng dần lên. Hầu hết các nước

đều ý thức được điều này và đã có sự ưu tiên nhiều hơn đối với công tác quản

lý cạnh tranh.

Một điểm đáng lưu ý là việc bổ nhiệm thành viên cho cơ quan cạnh

tranh. Các thành viên thường được bổ nhiệm bởi những người đứng đầu

Chính phủ hoặc Quốc hội. Điều này đã làm tăng tính chất quan trọng cũng

như tính độc lập của cơ quan cạnh tranh trong quá trình hoạt động. Tiêu

chuẩn để được bổ nhiệm là thành viên của cơ quan cạnh tranh cũng là điểm

cần được nhắc đến. Các thành viên này thường được yêu cầu đạt được một

trình độ chuyên môn nhất định, có học vấn cao, có kinh nghiệm và kiến thức

thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.

Nhiệm vụ chính của cơ quan quản lý cạnh tranh là bảo đảm thực thi

Luật Cạnh tranh. Có thể nói, Luật Cạnh tranh được thực thi nghiêm chỉnh đến

đâu là phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của chính cơ quan này. Qua nghiên

cứu mô hình cơ quan cạnh tranh của một số nước, chúng ta có thể rút ra một

số chức năng, nhiệm vụ chính của cơ quan cạnh tranh như sau:

- Điều tra, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

- Chống độc quyền, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.

- Kiểm soát quá trình sát nhập hợp nhất doanh nghiệp.

- Điều tra, xử lý các thoả thuận hạn chế cạnh tranh trên thị trường.

- Thực hiện các hoạt động khác nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh

lành mạnh.

Ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn trên, hầu hết các cơ quan cạnh tranh

đều có hai thẩm quyền cơ bản:

65

- Phát hiện và kiến nghị các cơ quan liên quan bãi bỏ các chính sách

làm cản trở đến môi trường cạnh tranh.

- Yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, chứng

cứ trong quá trình điều tra xử lý vụ việc cạnh tranh.

c. Về xây dựng và phát triển các công cụ nâng cao hiệu quả thực thi luật

- Về chức năng tiến hành khám xét thu thập chứng cứ

Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, trong nhiều trường hợp

việc thu thập thông tin chứng cứ bằng các công cụ thông thường như yêu cầu

cung cấp thông tin một cách chính thống từ cơ quan cạnh tranh với các đối

tượng liên không đem lại hiệu quả. Lý do là vì các đối tượng thực hiện hành

vi vi phạm thường có xu hướng che dấu hoặc thậm chí là tiêu hủy các tài liệu

liên quan tới hành vi vi phạm. Do đó, để kịp thời thu thập các thông tin,

chứng cứ và ngăn chặn nguy cơ chứng cứ về hành vi vi phạm bị tiêu hủy, cơ

quan cạnh tranh cần phải được trang bị một công cụ đặc biệt đó là có thẩm

quyền tiến hành việc khám xét trụ sở và nơi làm việc của các tổ chức, cá nhân

liên quan.

Trước năm 2012, theo quy định tại Pháp lệnh về xử lý vi phạm hành

chính, Thủ trưởng cơ quan cạnh tranh có thẩm quyền áp dụng các biện pháp

ngăn chặn vi phạm hành chính trong đó có việc khám xét nơi cất giấu tang

vật, phương tiện vi phạm hành chính. Tuy nhiên, từ năm 2012, theo quy định

tại Điều 123 và Điều 129 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, thẩm

quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính không có Thủ

trưởng cơ quan cạnh tranh.

Chính vì vậy, để duy trì công cụ này cho Cơ quan cạnh tranh, trong thời

gian tới, cần xem xét quy định lại thẩm quyền này trong Luật Cạnh tranh.

- Về chương trình khoan dung

Thực tiễn và lý luận đã chứng minh chính sách khoan dung thực sự là

66

một công cụ hữu hiệu của cơ quan quản lý cạnh tranh trong cuộc chiến chống

lại các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Việt Nam cũng là một trong số

các quốc gia đã ban hành Luật Cạnh tranh trong đó có những quy định về cấm

các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh

của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở quy định chung chung về tình tiết giảm nhẹ

(bên cạnh tình tiết tăng nặng) trong xử lý vi phạm các quy định về kiểm soát

hành vi hạn chế cạnh tranh. Các quy định này chưa thể hiện đúng được tinh

thần chính sách khoan dung dành cho các thành viên tham gia các thỏa thuận

này nếu họ chủ động khai báo và cung cấp chứng cứ cho cơ quan điều tra vì

chưa có quy định về số thành viên được hưởng, mức miễn trừ, cơ chế bảo

đảm bí mật, trình tự thủ tục để hưởng chính sách khoan dung,... Do đó, để đáp

ứng được yêu cầu của thực tiễn điều tra và xử lý các hành vi thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh, cần thiết phải có sự nghiên cứu và bổ sung một cách hợp lý

chính sách này vào pháp luật cạnh tranh của Việt Nam trong thời gian tới.

67

Chương 2

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT

CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2005 ĐẾN 2014

2.1. Tổng quan về pháp luật cạnh tranh Việt Nam

Cùng với công cuộc đổi mới và mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt

được mức tăng trưởng ấn tượng trong thập niên 90 và những năm đầu thế kỷ

21. Sự phát triển nhanh của nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ đã tạo ra sức

ép cạnh tranh lên các doanh nghiệp và đặt ra yêu cầu phải xây dựng khuôn

khổ pháp lý tạo thuận lợi cho môi trường cạnh tranh. Trong quá trình thực

hiện đường lối chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế

thị trường có sự quản lý của nhà nước, thực tế đã xuất hiện một số hành vi

cạnh tranh không lành mạnh và phản cạnh tranh, gây ảnh hưởng tiêu cực đến

sự phát triển kinh tế. Ngoài ra, việc nền kinh tế với xuất phát điểm thấp và

còn một số ngành và lĩnh vực tồn tại độc quyền nhà nước đã dẫn đến sự hạn

chế trong phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ảnh hưởng tiêu

cực đến môi trường cạnh tranh chung.

Trước khi Luật Cạnh tranh ra đời, một số quy định pháp luật nhằm

kiểm soát các hành vi phản cạnh tranh hay kiểm soát độc quyền ở một số lĩnh

vực riêng biệt được quy định rải rác tại một số các văn bản pháp quy như

Pháp lệnh Giá, Pháp lệnh Bưu chính viễn thông, Luật Các tổ chức tín dụng,

Luật Thương mại, Luật Điện lực… Tuy nhiên, việc thực thi các quy định trên

còn chưa hiệu quả, một phần do thiếu một khung pháp lý hoàn chỉnh và thống

nhất, thiếu một cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh và kiểm soát độc

quyền, thiếu chế tài xử lý vi phạm…

68

Bên cạnh đó, từ đầu thập niên 1990, đất nước bắt đầu mở cửa nền kinh

tế, đẩy mạnh thông thương với bên ngoài và tiếp nhận luồng vốn FDI. Việc

trở thành thành viên ASEAN năm 1995 đánh dấu bước đi quan trọng đầu tiên

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. ASEAN đã quyết định

hình thành một Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015. Theo cam

kết của các quốc gia thành viên, đến năm 2015 tất cả các nước ASEAN sẽ xây

dựng và ban hành luật và chính sách cạnh tranh nhằm đảm bảo một môi trường

cạnh tranh lành mạnh và công bằng. Trên cơ sở đó, các nước ASEAN sẽ xây

dựng một cơ chế phối hợp và hợp tác giữa các cơ quan cạnh tranh ASEAN để

triển khai hiệu quả chính sách và luật cạnh tranh trong khu vực ASEAN.

Ngoài ra, trong quá trình đàm phán gia nhập và tham gia các tổ chức

quốc tế và khu vực như APEC và WTO, các đối tác đã yêu cầu Việt Nam cam

kết thực hiện hiệu quả và minh bạch chính sách cạnh tranh và xây dựng một

khung pháp luật cũng như cơ quan cạnh tranh độc lập nhằm đảm bảo môi

trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Trong bối cảnh đó, ngay từ những năm 2000, Luật Cạnh tranh đã được

Quốc hội và Chính phủ đưa vào chương trình xây dựng pháp luật. Sau 4 năm

soạn thảo và lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia trong và ngoài nước,

Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004, bắt

đầu có hiệu lực vào ngày 01 tháng 7 năm 2005.

Luật cạnh tranh được ban hành có mục tiêu nhằm:

- Kiểm soát độc quyền

- Tạo lập và duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng;

- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Sau khi Luật Cạnh tranh được Quốc hội thông qua, Chính phủ, Bộ

Công Thương ban hành một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh.

69

Số ký hiệu

Tên văn bản

Ngày ban hành

110/2005/NĐ-CP 24/8/2005 Nghị định số 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày

24/8/2005 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp

116/2005/NĐ-CP 15/9/2005 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh

120/2005/NĐ-CP 30/9/2005 Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh

19/2005/TT-BCT 08/11/2005 Thông tư số 19/2005/TT-BTM của Bộ trưởng Bộ

Thương mại ngày 08/11/2005 hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/8/2005 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp

92/2005/QĐ-BTC 09/12/2005 Quyết định số 92/2005/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài

chính ngày 09/12/2005 về việc quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp

05/2006/NĐ-CP

09/01/2006 Nghị định số 05/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày

09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng Cạnh tranh

06/2006/NĐ-CP

09/01/2006 Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2006 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh

17/5/2006 Quyết định số 20/2006/QĐ-BTM của Bộ trưởng Bộ

20/2006/QĐ- BTM

Thương mại ngày 17/5/2006 về việc ban hành các mẫu quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh

35/2011/TT-BCT 23/9/2011 Thông tư số 35/2011/TT-BCT của Bộ trưởng Bộ Công

Thương ngày 23/9/2011 sửa đổi, bổ sung một số nội dung về thủ tục hành chính tại Thông tư số 19/2005/TT- BTM của Bộ trưởng Bộ Thương mại ngày 08/11/2005 hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/8/2005 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp

119/2011/NĐ-CP 16/12/2011 Nghị định số 119/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày

16/12/2011 về việc sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính

70

tại Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh

42/2014/NĐ-CP

14/5/2014 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày

14/5/2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp

(thay thế Nghị định 110/2005/NĐ-CP, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2014 )

71/2014/NĐ-CP

21/7/2014 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày

21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh

(thay thế Nghị định 120/2005/NĐ-CP, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/9/2014)

24/2014/TT-BCT 30/7/2014 Thông tư số 24/2014/TT-BCT của Bộ trưởng Bộ Công Thương ngày 30/7/ 2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp

(thay thế Thông tư 19/2005/TT-BTM và Thông tư 35/2011/TT-BCT, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/9/2014)

2.1.1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật Cạnh tranh

Luật Cạnh tranh quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh

tranh không lành mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện

pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh.

Luật Cạnh tranh áp dụng đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh và hiệp

hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam. Như vậy, Luật Cạnh tranh không loại

trừ một loại hình doanh nghiệp cụ thể nào, tuy nhiên lại giới hạn phạm vi hoạt

động chỉ trong lãnh thổ Việt Nam.

2.1.2. Quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh

Theo quy định tại Điều 3 Luật Cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh

là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị

trường, bao gồm hành vi:

71

- Thoả thuận hạn chế cạnh tranh;

- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và

- Tập trung kinh tế.

a. Hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh

Quá trình cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực để đạt được lợi

thế hơn so với các đối thủ. Tuy nhiên, khi phải đối mặt với cạnh tranh, không

ít các doanh nghiệp đã nhìn nhận cạnh tranh như một mối hiểm họa đối với

khả năng thu lợi nhuận cũng như sự tồn vong của doanh nghiệp. Vì vậy, thay

vì nỗ lực điều chỉnh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển

trong bối cảnh mới, các doanh nghiệp này đã chọn một con đường dễ dàng

hơn là dàn xếp, thỏa thuận với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường về giá cả,

sản xuất, thị trường, khách hàng… nhằm duy trì thị phần và lợi nhuận kinh

doanh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.

Hậu quả tất yếu của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự độc quyền hóa

thị trường, theo đó các vấn đề quan trọng của thị trường như giá cả, sản

lượng, khách hàng… không còn tuân thủ theo quy luật thị trường mà bị khống

chế bởi một nhóm các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Từ việc khống chế

thị trường, hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, vì vậy, thường mang tính

chất “trục lợi” (exploitative) hoặc “ngăn cản, loại bỏ” (exclusionary) cạnh

tranh giữa các đối thủ cạnh tranh.

Mặc dù vậy, không phải tất cả các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp

đều nhất thiết nhằm mục đích hoặc có tác động làm phương hại cạnh tranh.

Trong một số quốc gia, pháp luật cạnh tranh có quy định miễn trừ cho một số

thỏa thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp nếu các thỏa thuận đó có tác dụng

làm tăng hiệu quả kinh tế, năng động hóa thị trường. Ví dụ, nhiều quốc gia

cho phép các doanh nghiệp hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển sản

phẩm (R&D), nghiên cứu, phát triển các tiêu chuẩn thống nhất cho sản

72

phẩm… để kích thích lợi thế kinh tế qui mô, thúc đẩy các tiến bộ kỹ thuật,

công nghệ... mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và toàn bộ nền kinh tế.

Từ các đánh giá, nhìn nhận về tác động tiêu cực của các hành vi thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh của hầu khắp các nước trên thế

giới đều có quy định điều chỉnh các hành vi thỏa thuận và đều coi pháp luật

điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là một trong ba cột trụ quan

trọng của Luật Cạnh tranh.

Về các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, Điều 8, Luật Cạnh tranh

quy định 8 hành vi, gồm:

(1) Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc

gián tiếp;

(2) Phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng

dịch vụ;

(3) Hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán

hàng hoá, dịch vụ;

(4) Hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;

(5) Áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán

hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ

không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;

(6) Ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị

trường hoặc phát triển kinh doanh;

(7) Loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên

của thoả thuận;

(8) Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong

việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.

Trên cơ sở các quy định tại Điều 8, Luật Cạnh tranh, Nghị định 116

(Điều 14 đến 21) đã liệt kê các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cụ thể

73

với mô tả chi tiết về nội dung, hình thức của các loại thỏa thuận này.

Về quy định cấm, Luật Cạnh tranh cấm tuyệt đối và không cho phép

miễn trừ đối với các hành vi thỏa thuận quy định tại các khoản (6), (7) và (8)

nêu trên. Các thoả thuận cạnh tranh còn lại chỉ bị cấm khi các bên tham gia

thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.

Đồng thời, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dạng này được miễn trừ

có thời hạn nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành,

có lợi cho người tiêu dùng:

(1) Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả

kinh doanh;

(2) Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng

hoá, dịch vụ;

(3) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định

mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;

(4) Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng

không liên quan đến giá và các yếu tố của giá;

(5) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;

(6) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị

trường quốc tế.

Để được hưởng miễn trừ, các bên tham gia thỏa thuận phải thực hiện

thủ tục đề nghị hưởng miễn trừ quy định tại Điều 25-38, Luật Cạnh tranh.

Trên cơ sở hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ của các bên, cơ quan quản lý cạnh

tranh có trách nhiệm xem xét, đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công Thương

ra quyết định.

b. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền

Thị trường là sự tương tác giữa cung và cầu, qua đó xác định giá và

lượng hàng hóa hoặc dịch vụ trao đổi. Tính đa dạng trong hoạt động trao đổi

74

giữa người mua và người bán hình thành nên các hình thái thị trường khác

nhau, bao gồm: cạnh tranh hoàn hảo; độc quyền; cạnh tranh độc quyền và độc

quyền nhóm.

Sức mạnh độc quyền đem lại cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh so

với các doanh nghiệp khác và đem lại khả năng chi phối các quan hệ với

khách hàng. Những lợi thế cạnh tranh có thể là khả năng kiểm soát các yếu tố

của thị trường (như nguồn nguyên liệu, giá cả, số lượng sản phẩm đáp ứng

cho người tiêu dùng; khả năng tài chính; thói quen tiêu dùng của khách hàng

v.v.) và các yếu tố tạo ra địa vị không ngang bằng trong cạnh tranh giữa

doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường và các đối thủ của nó (bao gồm cả đối

thủ tiềm năng).

Nhà độc quyền có điều kiện tận dụng những ưu thế trên nhằm gây khó

khăn cho đối thủ trong quá trình kinh doanh hoặc ngăn cản việc gia nhập thị

trường. Đối với khách hàng, vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền đã khẳng định

địa vị quan trọng của doanh nghiệp trong cung ứng hoặc tiêu thụ sản phẩm

trên thị trường liên quan bởi họ là nguồn cung hoặc nguồn cầu chủ yếu của thị

trường. Vì thế, quyền lựa chọn của khách hàng đã bị hạn chế, nhu cầu của

khách hàng bị lệ thuộc vào khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Doanh

nghiệp có cơ hội để bóc lột khách hàng thông qua việc áp đặt những điều kiện

giao dịch không công bằng.

Chính vì những hậu quả tiềm tàng như vậy, việc điều chỉnh hành vi của

doanh nghiệp có sức mạnh độc quyền luôn là trọng tâm của chính sách cũng

như pháp luật cạnh tranh các nước.

Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về chính sách và pháp luật cạnh tranh

giữa các quốc gia, nhưng các quốc gia đều thống nhất về ba mục tiêu chính

của chính sách và pháp luật cạnh tranh là:

(1) đảm bảo một quá trình cạnh tranh hiệu quả;

75

(2) tăng cường phúc lợi xã hội, đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng; và

(3) tối đa hóa hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phân bổ các nguồn lực xã

hội. Vì vậy, Luật Cạnh tranh là công cụ để bảo vệ và đem lại lợi ích cho nền

kinh tế, xã hội và người tiêu dùng.

Với vai trò là một bộ phận không tách rời của chính sách và pháp luật

cạnh tranh, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc

quyền cũng hướng đến những mục tiêu chung đã nêu trên.

Điểm quan trọng là, mặc dù tình trạng độc quyền của thị trường có thể

dẫn đến tổn thất chung cho xã hội nhưng pháp luật cạnh tranh không cấm các

doanh nghiệp bằng sức mạnh nội tại của mình, thông qua các biện pháp cạnh

tranh, đạt được sức mạnh độc quyền. Pháp luật cạnh tranh hướng tới mục tiêu

hiệu quả và lợi ích người tiêu dùng thông qua việc đảm bảo cạnh tranh trên thị

trường chứ không phải bảo vệ đối thủ cạnh tranh.

Do đó, pháp luật cạnh tranh chỉ điều chỉnh hành vi của các doanh

nghiệp độc quyền/ thống lĩnh trên thị trường nhằm hạn chế, ngăn chặn việc

thực hiện các hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường để loại bỏ cạnh tranh và

gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Nói cách khác, việc áp dụng pháp luật

chống lạm dụng vị trí độc quyền/thống lĩnh không nhằm xoá bỏ vị trí thống

lĩnh hoặc vị trí độc quyền của doanh nghiệp mà chỉ loại bỏ hành vi lạm dụng

vị trí thống trị/độc quyền để trục lợi hoặc để bóp méo cạnh tranh.

Luật Cạnh tranh Việt Nam phân biệt doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh

và doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường để điều chỉnh, theo đó:

Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần

từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh

tranh một cách đáng kể; nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh

thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một

trong các trường hợp sau đây: hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở

76

lên trên thị trường liên quan; ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên

trên thị trường liên quan; bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên

trên thị trường liên quan.

Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh

nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh

trên thị trường liên quan.

Về hành vi, Điều 13, Luật Cạnh tranh Việt Nam liệt kê 06 hành vi “lạm

dụng vị trí thống lĩnh”:

(1) Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại

bỏ đối thủ cạnh tranh;

(2) Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định

giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;

(3) Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường,

cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;

(4) Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau

nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh;

(5) Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán

hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ

không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;

(6) Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh.

Điều 14 liệt kê thêm 02 hành vi (ngoài 06 hành vi quy định tại Điều 13)

“lạm dụng vị trí độc quyền” để điều chỉnh, bao gồm:

(1) Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;

(2) Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp

đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng.

Trên cơ sở các quy định này, Nghị định 116/2005/NĐ-CP đã quy định

các hành vi “lạm dụng vị trí thống lĩnh”, “lạm dụng vị trí độc quyền” một

77

cách cụ thể, theo đó mô tả một cách chi tiết các hình thức biểu hiện của từng

hành vi bị coi là “lạm dụng”.

Về quy định cấm, Luật Cạnh tranh cấm tất cả các hành vi lạm dụng vị

trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền, không xem xét các

trường hợp miễn trừ.

c. Tập trung kinh tế

Xét về cạnh tranh, mục tiêu cốt lõi của chính sách kiểm soát tập trung

kinh tế (TTKT) là nhằm đảm bảo hoạt động TTKT không hoặc không tiềm ẩn

nguy cơ gây ra tác động tiêu cực tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường.

Là một bộ phận của chính sách cạnh tranh nói chung, chính sách TTKT

được cụ thể hóa là một trong ba lĩnh vực điều chỉnh của Luật Cạnh tranh, bao

gồm: thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền và

kiểm soát TTKT. Các quy định về kiểm soát TTKT có tác động tiền kiểm,

nhằm ngăn chặn các vụ việc sáp nhập có khả năng làm phương hại tới cạnh

tranh. Trong khi đó, các quy định điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh

tranh và hành vi dụng vị trí thống lĩnh thị trường lại có nhắm tới hậu kiểm, xử

lý các hành vi làm phương hại tới cạnh tranh trên thị trường.

Việc đưa các quy định về TTKT vào Luật Cạnh tranh, nhằm ngăn chặn

các vụ việc mới chỉ có khả năng gây phương hại cho cạnh tranh là do:

Thứ nhất, TTKT ngay lập tức loại bỏ áp lực cạnh tranh giữa các bên

tham gia vào vụ việc và làm giảm số lượng các đối thủ cạnh tranh trên thị

trường. Khi tác động loại bỏ cạnh tranh của vụ việc TTKT đủ lớn, thị trường

sẽ mất dần định hướng hiệu quả kinh tế; đồng thời trong một số trường hợp,

doanh nghiệp thành lập sau vụ việc TTKT không cần phải thực hiện các hành

vi phạm các quy định mang tính hậu kiểm của Luật Cạnh tranh mà vẫn có thể

loại bỏ được các đối thủ cạnh tranh và thu lợi từ thị trường.

78

Thứ hai, hiệu quả của công tác thực thi Luật Cạnh tranh không phải là

100%. Không phải vi phạm nào cũng có thể bị phát hiện và xử lý. Do đó, việc

áp dụng các biện pháp tiền kiểm có thể giúp giảm bớt áp lực cho cơ quan thực

thi Luật. Ngoài ra, ngay cả khi có thể thực hiện các biện pháp khắc phục ở

khâu hậu kiểm đối với các vụ việc TTKT bị phát hiện có tác động xấu tới

cạnh tranh, thì các biện pháp này cũng rất tốn kém.

Thực tế cho thấy, hầu hết các vụ việc TTKT không làm nảy sinh lo

ngại về mặt cạnh tranh. Do đó, cơ quan cạnh tranh cần phân định rõ các dạng

vụ việc TTKT mà họ cần tập trung nguồn lực để xử lý. Thông thường, việc

đánh giá một vụ việc TTKT bao gồm hai bước:

Bước 1: Đánh giá xem liệu một giao dịch nhất định có thực sự là một

vụ việc TTKT.

Bước 2: Đánh giá liệu vụ việc TTKT đó có làm nảy sinh lo ngại về

cạnh tranh để phải ngăn chặn.

Luật Cạnh tranh các quốc gia trên thế giới nói chung đều điều chỉnh các

dạng vụ việc TTKT cơ bản, bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên

doanh. Luật Cạnh tranh Việt Nam quy định:

- Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển

toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh

nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.

- Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển

toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành

một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị

hợp nhất.

- Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc

một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ

hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.

79

- Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh

nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp

của mình để hình thành một doanh nghiệp mới.

Luật Cạnh tranh Việt Nam sử dụng tiêu chí thị phần để xác định

ngưỡng thông báo TTKT và đồng thời để đánh giá một vụ việc TTKT.

Ngưỡng thông báo TTKT được quy định tại Khoản 1, Điều 20, Luật

Cạnh tranh. Theo đó, trong trường hợp thị phần kết hợp của các doanh nghiệp

tham gia TTKT chiếm từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện

hợp pháp của các doanh nghiệp này có nghĩa vụ thực hiện thủ tục thông báo

TTKT cho Cơ quan QLCT theo quy định tại Điều 20 Luật Cạnh tranh. Ngoài

ra, trong trường hợp doanh nghiệp sau TTKT vẫn thuộc loại doanh nghiệp

nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật thì không phải thông báo.

Thị phần cũng đồng thời được sử dụng để đánh giá tác động hạn chế

cạnh tranh của vụ việc TTKT. Điều 18, Luật Cạnh tranh quy định “cấm

TTKT nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia TTKT chiếm trên

50% trên thị trường liên quan”. Với cách tiếp cận như vậy, có thể thấy, Luật

Cạnh tranh Việt Nam quan niệm, việc hình thành nên một thực thể (doanh

nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp) chiếm trên 50% thị phần trên thị trường liên

quan đã tạo nên một sức mạnh đủ để gây hạn chế cạnh tranh, có khả năng làm

giảm, làm cản trở và sai lệch cạnh tranh một cách đáng kể. Đối với những

trường hợp này, doanh nghiệp bị cấm thực hiện TTKT, trừ trường hợp doanh

nghiệp sau khi thực hiện TTKT vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo

quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, vụ việc TTKT có thể được xem xét cho hưởng miễn trừ

theo quy định tại Điều 19, Luật Cạnh tranh:

+ Một hoặc nhiều bên tham gia TTKT đang trong nguy cơ bị giải thể

hoặc lâm vào tình trạng phá sản (thẩm quyền xem xét quyết định thuộc về Bộ

trưởng Bộ Công Thương);

80

+ Việc TTKT có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển

kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ (thẩm quyền xem xét quyết định

thuộc về Thủ tướng Chính phủ).

Như vậy, ngoài việc sử dụng tiêu chí thị phần để đánh giá tác động hạn

chế cạnh tranh của một vụ việc TTKT, Luật Cạnh tranh Việt Nam còn xem

xét thêm hai yếu tố để cấm hay cho phép tiến hành TTKT: một bên tham gia

TTKT đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản và tác

động tích cực của vụ việc TTKT tới xuất khẩu, phát triển kinh tế xã hội, cải

tiến công nghệ, kỹ thuật. Mặc dù cả hai yếu tố này đều là những yếu tố phổ

biến được các cơ quan cạnh tranh trên thế giới xem xét khi đánh giá một vụ

việc TTKT nhưng có thể thấy, vai trò của cơ quan cạnh tranh Việt Nam trong

việc đánh giá các yếu tố này là thấp. Trong trường hợp thứ nhất, chỉ cần một

bên tham gia TTKT đáp ứng điều kiện về giải thể hoặc phá sản là cơ quan

cạnh tranh sẽ phải đề xuất Bộ trưởng Bộ Công Thương cho phép tiến hành

TTKT mà không có quyền đưa ra các biện pháp khắc phục nhằm nâng cao

hiệu quả của thị trường. Tương tự, đối với trường hợp thứ hai khi vụ việc

TTKT có tác động nâng cao hiệu quả kinh tế, cơ quan cạnh tranh cũng không

có quyền giám sát sau khi chấp nhận để đảm bảo hiệu quả kinh tế của một vụ

việc TTKT bị coi là gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể sẽ được chuyển

tới tay người tiêu dùng.

Việc sử dụng yếu tố thị phần kết hợp làm căn cứ để kiểm soát TTKT

cho thấy Luật Cạnh tranh của Việt Nam chỉ kiểm soát các trường hợp TTKT

theo chiều ngang. Vì vậy, việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh giữa

các doanh nghiệp không cùng thị trường liên quan thì không chịu sự kiểm

soát của Luật Cạnh tranh.

2.1.3. Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Theo quy định tại Điều 3 Luật Cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không

81

lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh

trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại

hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.

Đối với đa số các nước, những hành vi cạnh tranh không lành mạnh

được điều chỉnh bởi pháp luật thương mại hoặc pháp luật bảo vệ người tiêu

dùng. Tuy nhiên, Việt Nam lại đưa các quy định này vào Luật Cạnh tranh,

theo đó hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm:

- Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;

- Xâm phạm bí mật kinh doanh;

- Ép buộc trong kinh doanh;

- Gièm pha doanh nghiệp khác;

- Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;

- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

- Phân biệt đối xử của hiệp hội;

- Bán hàng đa cấp bất chính và

- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác.

Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật Việt Nam lần

đầu tiên được Luật Cạnh tranh đưa ra tại Khoản 4 Điều 3: Hành vi cạnh tranh

không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh

doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt

hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có những đặc trưng sau:

+ Mục đích của hành vi là mục đích cạnh tranh hay rộng hơn là mục

đích lợi nhuận.

82

+ Chủ thể thực hiện là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường.

Theo Điều 2 Luạt cạnh tranh, doanh nghiệp được hiểu là mọi tổ chức, cá nhân

kinh doanh, có nghĩa là bao gồm cả chủ thể kinh doanh không đăng ký loại

hình doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp.

+ Đặc điểm của hành vi là trái với các chuẩn mực thông thường về đạo

đức kinh doanh, là những quy tắc xử sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và

lâu dài trong quá trình kinh doanh trên thị trường.

+ Đối tượng bị xâm hại bao gồm ba loại khác nhau: Nhà nước, người

tiêu dùng và doanh nghiệp khác.

2.1.4. Quy định về Cơ quan cạnh tranh

Theo quy định của Luật Cạnh tranh, Cơ quan cạnh tranh Việt Nam bao

gồm hai cơ quan là cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.

a. Cơ quan quản lý cạnh tranh

Cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan trực thuộc Bộ Công Thương do

Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu

tổ chức. Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh do Thủ tướng Chính phủ bổ

nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương.

Cơ quan quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ, quyền hạn:

(i) Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế;

(ii) Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ;

(iii) Đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định hoặc

trình Thủ tướng Chính phủ quyết định;

(iv) Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh

tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh;

(v) Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

b. Hội đồng cạnh tranh

Hội đồng cạnh tranh do Chính phủ thành lập, có từ mười một đến mười

83

lăm thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị

của Bộ trưởng Bộ Công thương (trên thực tế là lãnh đạo các Bộ, ngành). Hội

đồng cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các

vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh.

Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm,

miễn nhiệm trong số thành viên của Hội đồng cạnh tranh theo đề nghị của Bộ

trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương). Khi giải quyết vụ việc cạnh

tranh cụ thể, Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh thành lập Hội đồng xử lý vụ việc

cạnh tranh gồm ít nhất năm thành viên, trong đó có một thành viên làm Chủ

tịch. Trên cơ sở hồ sơ vụ việc do Cơ quan quản lý cạnh tranh chuyển, Hội

đồng xử lý vụ việc cạnh tranh sẽ tổ chức phiên điều trần và ra quyết định xử

lý theo cơ chế biểu quyết.

2.1.5. Quy định về quy trình tố tụng cạnh tranh

Tố tụng cạnh tranh là hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo

trình tự, thủ tục giải quyết và xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định của Luật

Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành. Quy trình tố tụng được chia

thành ba giai đoạn chính.

a. Điều tra vụ việc cạnh tranh

Giai đoạn điều tra có thể được tiến hành dựa trên hồ sơ khiếu nại đã

được Cơ quan QLCT thụ lý hoặc do Cơ quan QLCT tự khởi xướng điều tra.

Việc điều tra một vụ việc cạnh tranh được tiến hành lần lượt theo hai bước,

gồm điều tra sơ bộ và điều tra chính thức. Sau khi kết thúc điều tra, cơ quan

quản lý cạnh tranh có trách nhiệm hoàn thiện báo cáo điều tra và hồ sơ vụ

việc để chuẩn bị cho giai đoạn xử lý vụ việc tiếp sau.

b. Xử lý vụ việc cạnh tranh

Trên cơ sở Báo cáo điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong Hồ sơ

vụ việc, căn cứ các quy định pháp luật, cơ quan được trao thẩm quyền xử lý

84

vụ việc có trách nhiệm nghiên cứu, đánh giá và ra quyết định xử lý vụ việc

cạnh tranh. Đối với vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, thẩm quyền xử lý

vụ việc thuộc về Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh; đối với vụ việc hạn

chế cạnh tranh, Hội đồng Cạnh tranh (cụ thể là Hội đồng xử lý vụ việc) có

thẩm quyền này.

c. Khiếu nại, khởi kiện quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh

Trường hợp các bên không nhất trí với một phần hoặc toàn bộ nội dung

của Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thì có quyền khiếu nại lên Hội đồng

Cạnh tranh (đối với vụ việc hạn chế cạnh tranh) hoặc khiếu nại lên Bộ trưởng

Bộ Công Thương (đối với vụ việc cạnh tranh không lành mạnh).

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ khiếu nại, Hội

đồng Cạnh tranh hoặc Bộ trưởng Bộ Công Thương có trách nhiệm giải quyết

khiếu nại theo thẩm quyền; trường hợp đặc biệt phức tạp, thời hạn giải quyết

khiếu nại có thể được gia hạn, nhưng không quá 30 ngày.

Trường hợp vẫn không nhất trí với Quyết định giải quyết khiếu nại về

Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên liên quan có quyền khởi kiện vụ

án hành chính đối với một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết định giải

quyết khiếu nại ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền.

2.2. Thực trạng hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam

từ năm 2005 đến năm 2014

2.2.1. Thực trạng vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ

quan thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam

a. Cục Quản lý cạnh tranh

- Lịch sử hình thành

Năm 2003, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã cho thành lập Ban Quản lý

cạnh tranh, Ban Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Thương mại với nhiệm vụ

85

chủ yếu là: tham gia soạn thảo Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn và

hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá

của nước ngoài kiện các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.

Ngày 26 tháng 02 năm 2004, để triển khai Nghị định số 29/2004/NĐ-

CP của Chính phủ quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của Bộ Thương mại, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số

0235/2004/QĐ-BTM thành lập Cục Quản lý cạnh tranh trên cơ sở Ban Quản

lý cạnh tranh).

Theo Quyết định số 1808/2004/QĐ-BTM ngày 06 tháng 12 năm 2004

của Bộ trưởng Bộ Thương mại thì Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan thuộc

Bộ Thương mại có chức năng giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về

cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ và bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng.

Ngày 03 tháng 12 năm 2004, tại kỳ họp thứ 6 khoá XI, Luật cạnh trạnh

đã được Quốc hội thông qua và đã chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07

năm 2005. Theo quy định tại Điều 49 và Điều 53 của Luật Cạnh tranh, Cơ

quan quản lý cạnh tranh sẽ do Chính phủ quyết định thành lập và quy định tổ

chức, bộ máy. Vì lý do đó, ngày 09 tháng 01 năm 2006, Chính phủ đã ban

hành Nghị định số 06/2006/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn

và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh.

Để triển khai Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm

2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Bộ Công Thương (thay thế Nghị định số 29/2004/NĐ-CP), ngày 05

tháng 02 năm 2013, Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành Quyết định số

848/QĐ-BCT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của Cục Quản lý cạnh tranh.

- Chức năng, nhiệm vụ của Cục Quản lý cạnh tranh

86

Cục Quản lý cạnh tranh là tổ chức trực thuộc Bộ Công Thương có chức

năng giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện:

+ Quản lý nhà nước về cạnh tranh (thực thi Luật Cạnh tranh);

+ Quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các

biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (thực thi 03 Pháp

lệnh về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ);

+ Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (thực thi Luật về bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng);

+ Phối hợp với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trong việc đối

phó với các vụ kiện trong thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, trợ

cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ.

- Cơ cấu tổ chức

Cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay được quy định

theo Quyết định số 848/QĐ-BCT ngày 05 tháng 02 năm 2013 của Bộ Công

Thương.

Cục Quản lý cạnh tranh

Văn phòng Cục

Phòng Giám sát và quản lý cạnh tranh

Phòng Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh

Phòng Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Phòng Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Phòng Kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung

Phòng Điều tra vụ kiện phòng vệ thương mại của doanh nghiệp trong nước

87

Phòng Xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài

Phòng Hợp tác quốc tế

Văn phòng đại diện tại Đà Nẵng

Văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh

Trung tâm Thông tin cạnh tranh

Trung tâm Đào tạo điều tra viên

Hình 2.1. Cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh [43]

- Về nguồn lực hoạt động

Ngân sách hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh có xu hướng tăng dần

trong các năm cụ thể: năm 2007 khi mới thành lập ngân sách hoạt động của

Cục là 7 tỷ đồng, năm 2009 tăng lên 16.5 tỷ đồng và năm 2014 tăng lên

khoảng 23.4 tỷ đồng.

Bảng 2.1. Nguồn nhân lực của Cục Quản lý cạnh tranh

Nguồn nhân lực

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

102

104

104

40

60

85

92

99

Số lượng cán bộ

32

30

29

31

32

31

31

31

Tuổi trung bình

10

20

30

18

25

25

26

26

Luật

20

35

40

57

56

59

60

60

Chuyên ngành

Kinh tế

10

15

15

17

15

15

15

15

Khác

27

42

50

50

51

52

53

53

Nam

Giới tính

13

28

35

42

48

50

51

51

Nữ

03

12

12

21

21

21

33

33

Số điều tra viên

Nguồn: Cục Quản lý cạnh tranh

88

Do Cục mới được thành lập nên hầu hết cán bộ của Cục còn rất trẻ về

tuổi đời và tuổi nghề nên còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Trong khi đó, yêu

cầu đối với cán bộ quản lý cạnh tranh đòi hỏi phải có sự am hiếu tổng quan

nhiều lĩnh vực hoặc có có kiến thức toàn diện về kinh tế và xã hội. Nguồn

nhân lực còn hạn chế như hiện nay là một phần nguyên nhân dẫn đến việc hỗ

trợ các doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả cao như mong muốn, các vụ

việc được phát hiện điều tra và xử lý chưa nhiều, tầm ảnh hưởng và phạm vi

lan tỏa của Cục chưa được cao.

Sự thiếu hụt về nguồn nhân lực cũng như hạn chế về mặt nhân lực là

thách thức đối với cơ quan cạnh tranh trong việc thực thi hiệu quả luật và

chính sách cạnh tranh. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với Cơ quan cạnh tranh cần

phải tiến hành tăng cường năng lực của cán bộ để góp phần nâng cao hiệu quả

thực thi pháp luật cạnh tranh.

b. Hội đồng cạnh tranh

Theo quy định của Luật cạnh tranh, đối với các hành vi hạn chế cạnh

tranh, Cục Quản lý cạnh tranh chỉ đảm nhận vai trò điều tra, thu thập, tìm

kiếm các chứng cứ có liên quan đến một vụ việc, còn việc xét xử, xử lý, đưa

ra các quyết định, giải quyết khiếu nại có liên quan đến vụ việc cạnh tranh thì

do Hội đồng cạnh tranh (Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh) đảm nhận.

Hội đồng cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập gồm từ 11 đến

15 thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị

của Bộ trưởng Bộ Công Thương.

Ngày 9 tháng 01 năm 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

05/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh.

Theo Nghị định này, Hội đồng cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý,

giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn

89

chế cạnh tranh theo quy định của Luật Cạnh tranh.

Hội đồng cạnh tranh gồm 01 Chủ tịch, giúp việc cho Chủ tịch Hội đồng

cạnh tranh sẽ có 02 Phó Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh.

Để giúp việc cho Hội đồng, ngày 28 tháng 8 năm 2006, Bộ trưởng Bộ

Thương mại đã có Quyết định số 1378/QĐ-BTM thành lập Ban Thư ký Hội

đồng cạnh tranh. Ban Thư ký Hội đồng cạnh tranh gồm từ 7-9 người làm việc

chuyên trách.

2.2.2. Thực trạng công tác điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh

2.2.2.1. Các vụ việc hạn chế cạnh tranh So với nhiều quốc gia trên thế giới, Luật Cạnh tranh và Cơ quan quản

lý cạnh tranh Việt Nam còn rất non trẻ. Đến nay, Cơ quan quản lý cạnh tranh

Việt Nam đã tổ chức điều tra 8 vụ việc hạn chế cạnh tranh, trong đó đã

chuyển 5 hồ sơ vụ việc sang Hội đồng Cạnh tranh để xử lý theo quy định của

pháp luật. Trong số 8 vụ việc đó, có 3/8 vụ việc xuất phát từ đơn khiếu nại

của doanh nghiệp và 5/8 vụ việc do Cơ quan QLCT tự khởi xướng điều tra

theo quy định tại Khoản 2 Điều 86 Luật Cạnh tranh. Cụ thể như sau:

Bảng 2.2. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh đã điều tra, xử lý trong giai đoạn 2006-2014

Thời gian

TT

Vụ việc

Xử lý

Tự khởi xướng

Đơn khiếu nại

1

2007

2010

Vụ việc giữa Công ty TNHH thương mại-dịch vụ Tân Hiệp Phát và Công ty liên doanh nhà máy bia Việt Nam

2

2008

2009

Vụ việc liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí độc quyền của Công ty xăng dầu hàng không Việt Nam (Vinapco)

3

2009

2010

Vụ việc liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của 19 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ

90

4

2010

2014

Vụ việc giữa 04 doanh nghiệp điện ảnh và Công ty TNHH truyền thông Megastar

5

2011

Vụ việc liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất tấm lợp fibro xi măng

6

2011

2013

Vụ việc liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa 12 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại Khánh Hòa

7

2012

Vụ việc liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa 3 doanh nghiệp vận tải hành khách bằng tàu cánh ngầm tuyến TP.HCM - Vũng Tàu

8

2014

Vụ việc giữa Công ty TNHH thương mại-du lịch ABTours và Công ty TNHH sản xuất-thương mại- dịch vụ-XNK Ánh Dương

Nguồn: Báo cáo hoạt động thường niên của Cục QLCT

Ngoài 8 vụ việc đã được điều tra, xử lý theo quy trình tố tụng cạnh

tranh nêu trên, trong các năm 2008, 2012 và 2013, Cơ quan QLCT đã nhận

được 04 Hồ sơ khiếu nại từ các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực:

sản xuất nước đá, sản xuất secpentin, vận tải hành khách bằng tàu cánh ngầm

và sản xuất pin-ắc quy. Tuy nhiên, sau khi Cơ quan QLCT xem xét và yêu

cầu doanh nghiệp bổ sung hồ sơ thì các doanh nghiệp đã không cung cấp

thông tin theo yêu cầu hoặc tự nguyện rút đơn khiếu nại. Trên cơ sở đánh giá

các thông tin đã thu thập được, Cơ quan QLCT nhận định chưa có cơ sở để

kết luận về dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh trong các vụ việc đó. Mặc

dù vậy, Cơ quan QLCT hiện vẫn tiếp tục theo dõi hoạt động cạnh tranh trên

các thị trường nêu trên để có biện pháp can thiệp trong trường hợp cần thiết.

Thông qua quá trình điều tra, xử lý 8 vụ việc, với gần 70 doanh nghiệp

bị điều tra, các cơ quan cạnh tranh Việt Nam đã ra quyết định xử lý, thu về

ngân sách nhà nước tổng số tiền phạt và phí xử lý vụ việc cạnh tranh gần

5.500.000.000 đồng (Năm tỷ năm trăm triệu đồng). Mặc dù không quyết định

áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả nào trong

91

các vụ việc nêu trên, nhưng Cơ quan QLCT và Hội đồng Cạnh tranh cũng đã

đưa ra một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp, hiệp hội và các cơ quan

quản lý nhà nước về việc tuân thủ pháp luật cạnh tranh, tránh thực hiện các

hành vi vi phạm tương tự trong tương lai.

Trong 5 vụ việc đã được xử lý, có 3 vụ việc tiếp tục được đưa ra xét xử

tại hệ thống Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính, gồm vụ bia Tân Hiệp

Phát, vụ Vinapco và vụ 19 doanh nghiệp bảo hiểm. Mặc dù có những vụ việc

được đưa ra xét xử ở cấp phúc thẩm, nhưng đến nay Tòa án các cấp đều công

nhận các quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định xử lý vụ việc

cạnh tranh do Hội đồng Cạnh tranh ban hành, kể cả về nội dung và thủ tục tố

tụng. Mặc dù số lượng vụ việc hạn chế cạnh tranh đã được điều tra và xử lý

còn khiêm tốn, nhưng xét trong bối cảnh Cơ quan quản lý cạnh tranh Việt

Nam còn non trẻ với nguồn lực hạn chế thì đó chính là sự khởi đầu cho thấy

Luật Cạnh tranh đã đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng.

Đặc biệt, do số lượng các đơn khiếu nại nhận được từ doanh nghiệp là

rất ít, nên trong những năm gần đây, qua quan sát có thể nhận thấy, Cơ quan

QLCT đã có nhiều hoạt động đẩy mạnh công tác giám sát hoạt động cạnh

tranh của doanh nghiệp trên thị trường, chủ động tiến hành điều tra tiền tố

tụng đối với nhiều thị trường, nhiều lĩnh vực và nhiều dạng hành vi có nghi

vấn vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh. Trong giai đoạn 2009-2014, trung

bình, mỗi năm Cơ quan QLCT tổ chức điều tra tiền tố tụng đối với 10-12 vụ

việc liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh.

Bảng 2.3. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh giai đoạn 2006 - 2014

2006 2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

Tổng

5

3

7

7

10

10

14

12

10

78

0

1

1

1

1

2

1

0

1

8

Điều tra TTT Khởi xướng điều tra

0

0

0

1

2

0

0

1

1

Quyết định

5

Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT

92

16

14

12

10

8

6

4

2

0

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

Khởi xướng điều tra

Quyết định

Điều tra TTT

Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT

Hình 2.2. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh giai đoạn 2006 - 2014

Trong số 78 vụ việc điều tra tiền tố tụng nêu trên, có 39 vụ việc liên

quan đến quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng

vị trí độc quyền (chiếm 49% tổng số vụ), 36 vụ việc liên quan đến quy định

về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (chiếm 47%) và mới chỉ có 3 vụ

4%

47%

TTKT

49%

Lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền Thỏa thuận HCCT

việc liên quan đến quy định về hành vi tập trung kinh tế bị cấm (4%).

Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT

Hình 2.3. Phân loại vụ việc điều tra tiền tố tụng giai đoạn 2006-2014

93

Xét theo nhóm ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh cho thấy, 77 vụ việc

điều tra tiền tố tụng xảy ra trên rất nhiều ngành nghề lĩnh vực khác nhau của

nền kinh tế, nhưng đặc biệt phổ biến trong các ngành như sản xuất vật liệu

xây dựng, kinh doanh vận tải hành khách, vận tải hàng hóa, điện lực, viễn

thông, giải trí, nông sản và vật tư nông nghiệp… Đặc biệt, trong 3 vụ việc liên

quan đến bảo hiểm phi nhân thọ, có đến 2 vụ việc được Cơ quan QLCT nhận

định là có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh và đã chuyển sang điều tra theo

thủ tục tố tụng cạnh tranh theo Khoản 2 Điều 86 Luật Cạnh tranh.

Bảng 2.4. Phân loại vụ việc điều tra tiền tố tụng theo

nhóm ngành, lĩnh vực

TT

Nhóm ngành

Số vụ việc

Tỷ lệ

1 Vật liệu xây dựng

14

18.2%

2 Vận tải

11

14.3%

3 Điện lực

7

9.1%

4 Viễn thông

7

9.1%

5 Giải trí

7

9.1%

6

6

7.8%

Nông sản, vật tư nông nghiệp

7 Xăng dầu, gas

5

6.5%

8 Đầu tư xây dựng cơ bản

3

3.9%

9 Bảo hiểm phi nhân thọ

3

3.9%

10 Bia, rượu, nước giải khát

2

2.6%

11 Ngân hàng

2

2.6%

12 Khác

11

13.0%

Tổng

78

100%

Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT

94

Hoạt động điều tra tiền tố tụng trên các thị trường này có thể dẫn tới kết

luận có hay không có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh. Mặc dù vậy, những

thông tin mà Cơ quan QLCT đã thu thập được thông qua điều tra tiền tố tụng

đã phản ánh thực tiễn là một số thị trường đang có vấn đề về cạnh tranh và dễ

xảy ra các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Tùy từng thị trường cụ thể,

các vấn đề cạnh tranh đó có thể xuất phát từ rào cản gia nhập thị trường, hoạt

động của các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp độc quyền có

Ngân hàng 3%

Khác 13%

Vật liệu xây dựng 18%

Bia, rượu, nước giải khát 3%

Bảo hiểm phi nhân thọ 4%

Vận tải 14%

Đầu tư xây dựng cơ bản 4%

Xăng dầu, gas 6%

Điện lực 9%

Giải trí 9%

Viễn thông 9%

Nông sản, vật tư nông nghiệp 8%

vốn nhà nước, hoặc do hoạt động của các hiệp hội ngành hàng.

Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT

Hình 2.4. Cơ cấu vụ việc điều tra tiền tố tụng theo nhóm ngành, lĩnh vực

Thông qua hoạt động điều tra tiền tố tụng nêu trên, Cơ quan QLCT một

mặt thu thập các số liệu cần thiết để xây dựng cơ sở dữ liệu về ngành, mặt

khác, tìm hiểu, lý giải các nghi vấn về hành vi hạn chế cạnh tranh đang xảy ra

trên thị trường, từ đó kịp thời áp dụng các biện pháp can thiệp trong trường

hợp cần thiết để ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm.

b. Về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Trong gần 10 năm thực thi quy định của Luật Cạnh tranh về chống các

hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Cơ quan QLCT đã tiếp nhận 298 khiếu

95

nại, tiến hành điều tra 144 vụ việc và ra quyết định xử phạt 122 vụ (số liệu

đến năm 2013), trong đó có:

- 80 vụ việc về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

- 24 vụ việc về hành vi bán hàng đa cấp bất chính;

- 8 vụ việc về hành vi gièm pha doanh nghiệp khác;

- 6 vụ việc về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

- 3 vụ việc về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn;

100

90

80

70

60

Tiếp nhận

50

Điều tra

40

Quyết định

30

20

10

0

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

- 1 vụ việc về hành vi gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác.

Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT

Hình 2.5. Vụ việc cạnh tranh không lành mạnh giai đoạn 2006 - 2013

Xét theo nhóm các hành vi vi phạm, các vụ việc cạnh tranh không lành

mạnh thường diễn ra dưới nhiều hình thức, nhiều dạng hành vi vi phạm khác

nhau, trong đó chủ yếu là các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành

mạnh hoặc bán hàng đa cấp bất chính… Theo số liệu Cơ quan QLCT tổng

hợp, nhóm vụ việc liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không

lành mạnh chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số các vụ việc đã được điều tra,

xử lý (tới 66%), tiếp theo là các vụ việc liên quan tới hành vi bán hàng đa cấp

bất chính (22%). Số lượng vụ việc liên quan tới các dạng hành vi khác như

96

chỉ dẫn gây nhầm lẫn, gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác, gièm pha

doanh nghiệp khác, xâm phạm bí mật kinh doanh chiếm tỷ trọng thấp, chủ

yếu là do việc phát hiện ra hành vi vi phạm còn phụ thuộc nhiều vào phản ánh

từ phía các doanh nghiệp. Trên thực tế, nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam

đối với Luật Cạnh tranh còn chưa cao hay tâm lý ngại khiếu nại đã dẫn đến

tình trạng nhiều doanh nghiệp tự từ bỏ quyền được bảo vệ của mình và không

Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

khiếu nại hay phản ánh thông tin về hành vi vi phạm tới Cơ quan QLCT.

45

40

Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

35

Gièm pha doanh nghiệp khác

30

Chỉ dẫn gây nhầm lẫn

25

20

Bán hàng đa cấp bất chính

15

10

5

Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác Tổng số

0

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục QLCT

Hình 2.6. Vụ việc CTKLM theo nhóm hành vi vi phạm

Thông qua quá trình xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh nêu

trên, Cơ quan QLCT đã giúp thu về ngân sách nhà nước tổng số tiền phạt và

án phí xử lý vụ việc cạnh tranh đáng kể. Năm 2007, tổng số tiền phạt thu về

ngân sách nhà nước mới chỉ có 85 triệu đồng, tuy nhiên, con số này tăng vọt

gần gấp 10 lần (805 triệu đồng) khi sang đến năm 2008, và đến năm 2013 là

650 triệu đồng.

97

(đơn vị: triệu VNĐ)

1600

1400

1200

1000

800

Tổng số tiền phạt

600

400

200

0

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Nguồn: Báo cáo hoạt động thường niên của Cục QLCT

Hình 2.7. Tổng số tiền phạt vụ việc CTKLM

Năm 2011 là năm số lượng vụ việc việc điều tra lên cao nhất, trong đó

có 33 vụ việc quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, 01 vụ việc bán

hàng đa cấp bất chính và 02 vụ việc gièm pha doanh nghiệp khác. Tổng số

tiền phạt thu về ngân sách nhà nước là 1,4 tỷ đồng.

Năm 2013 số lượng vụ việc giảm do gặp vướng mắc về cơ sở pháp lý

liên quan đến thẩm quyền xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Trước đây Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002 sửa đổi bổ sung năm

2008 đã quy định thẩm quyền phạt tiền tối đa của Thủ trưởng Cơ quan QLCT

là 70 triệu đồng. Tuy nhiên, Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực thi

hành từ tháng 7 năm 2013 đã không quy định thẩm quyền của Thủ trưởng Cơ

quan QLCT. Điều này khiến Cơ quan QLCT gặp vướng mắc về thẩm quyền

xử lý và phải tạm ngừng công tác xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành

mạnh năm 2014 để tập trung hoàn thiện cơ sở pháp lý.

2.2.2.3. Kiểm soát tập trung kinh tế

Tập trung kinh tế đã ra đời và phát triển từ lâu trên thế giới cùng với

quá trình tích lũy tư bản. Nếu sự tích tụ tư bản được coi là phát triển nội sinh

thì tập trung kinh tế được coi là phát triển cơ học. Tuy vậy, đây lại là khái

niệm tương đối mới ở Việt Nam, được du nhập vào cùng làn sóng đầu tư

98

nước ngoài mạnh mẽ những năm cuối thập kỷ 90. Tập trung kinh tế được coi

là hình thức nhanh nhất để doanh nghiệp đặt chân vào một lĩnh vực mới hoặc

mở rộng địa hạt kinh doanh thông qua việc mua lại hoặc sáp nhập với các

doanh nghiệp khác. Thay vì phải xây dựng từ đầu, doanh nghiệp có thể tận

dụng cơ sở vật chất cũng như thương hiệu của doanh nghiệp đối tác để phát

triển nhanh chóng. TTKT cũng là cơ hội để các doanh nghiệp rút chân ra khỏi

những lĩnh vực mà họ thấy không hiệu quả hoặc tìm được “phao cứu sinh”

khi kinh doanh gặp khủng hoảng.

Vào năm 2004, khi Luật Cạnh tranh mới được ban hành cũng chính là

thời điểm hoạt động tập trung kinh tế (TTKT) ở Việt Nam bắt đầu trở thành

một làn sóng mạnh mẽ. Cùng với các Hiệp định thương mại tự do bắt đầu có

hiệu lực, những cam kết về mở cửa thị trường được thực hiện đã tạo điều kiện

cho làn sóng “tập trung kinh tế” có cơ hội được phát triển. Có thể thấy rõ điều

đó qua các vụ M&A được thống kê trong giai đoạn từ 2005-2008, khi số vụ

tập trung kinh tế gia tăng theo từng quý và đạt đỉnh vào cuối 2007 với gần 30

vụ một quý. Bên cạnh số lượng, giá trị các thương vụ TTKT cũng tăng lên với

mức trung bình 400 triệu USD mỗi quý.

Trong giai đoạn 2009-2010, các vụ việc tập trung kinh tế tại Việt Nam

đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 2009 ghi nhận 295 vụ với tổng giá trị

1,14 tỷ USD, năm 2010 có 245 vụ với tổng giá trị 1,75 tỷ USD và năm 2011

ghi nhận có 267 vụ với tổng giá trị giao dịch đạt kỷ lục là 6,3 tỷ USD.

Trước bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang có nhiều xáo trộn sau các

cuộc khủng hoảng tài chính và nợ công, thị trường Mua bán và Sáp nhập Việt

Nam giai đoạn 2012-2014 suy giảm đáng kể. Tổng quy mô thị trường đạt 4,9

tỷ USD với 157 thương vụ trong năm 2012. Năm 2013, đạt 3.2 tỷ USD với

182 thương vụ. Trong 6 tháng đầu năm 2014, đã có 88 thương vụ mua bán

sáp nhập thành công với giá trị trên 1 tỷ USD và dự đoán đến hết năm 2014,

giá trị giao dịch mua bán sáp nhập tại Việt Nam có thể đạt 2 tỷ USD (giảm

37.5% so với năm 2013).

99

Thực trạng này đã phản ánh một nền kinh tế mở với sự tham gia của

nhiều thành phần kinh tế và hệ quả là việc gia tăng các hoạt động TTKT như

một đòi hỏi khách quan. Tuy nhiên, hoạt động TTKT cũng tiềm ẩn những yếu

tố hình thành các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh và có thể gây ảnh hưởng

tới môi trường cạnh tranh. Tính đến tháng 8 năm 2014, Cơ quan QLCT đã thụ

lý 23 vụ việc thông báo TTKT (chi tiết xem Phụ lục 1) và rất nhiều vụ việc

tham vấn về TTKT trước và trong quá trình các doanh nghiệp thực hiện

TTKT.

Bảng 2.5. Số vụ việc tập trung kinh tế giai đoạn 2005 - 2014

Năm

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014 Tổng

2005 - 2007

0

2

2

1

4

6

4

4

23

Số vụ việc thông báo TTKT

Số vụ tham vấn

1

0

0

5

6

8

19

15

54

Số DN liên quan

3

4

4

16

28

29

57

48

189

Nguồn: Báo cáo tập trung kinh tế của Cục QLCT

60

50

40

30

20

10

0

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2005 - 2007 Số vụ việc thông báo TTKT

Số vụ tham vấn

Số DN liên quan

Nguồn: Báo cáo tập trung kinh tế của Cục QLCT

Hình 2.8. Số vụ việc tập trung kinh tế giai đoạn 2005 - 2014

100

Cho tới nay, Cơ quan QLCT đã phê chuẩn tất cả các vụ việc TTKT

được thông báo và chưa có vụ việc nào thuộc trường hợp bị cấm theo quy

định của Luật Cạnh tranh.

Trong số các vụ việc TTKT đã được Cơ quan QLCT xem xét nêu trên,

các vụ việc TTKT theo hình thức sáp nhập doanh nghiệp chiếm đa số với 18

vụ việc thông báo TTKT và 18 vụ việc tham vấn TTKT.

Bảng 2.6. Phân loại các vụ việc TTKT theo nhóm hành vi

Phân loại theo hành vi

Hợp nhất

Sáp nhập Mua lại

Liên doanh

1

18

3

1

Số vụ việc thông báo TTKT

0

18

27

6

Số vụ việc tham vấn

Nguồn: Báo cáo tập trung kinh tế của Cục QLCT

Bảng 2.7. Phân loại vụ việc TTKT theo nhóm ngành nghề

Khai khoáng

Nhóm ngành nghề

Bán buôn, bán lẻ

Vận tải kho bãi

Thông tin truyền thông

Sản xuất phân phối điện

Hoạt động kinh doanh BĐS

Công nghiệp chế biến, chế tạo

Hoạt động khoa học và công nghệ

Hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm

9

1

1

2

0

1

2

4

3

0

0

6

6

19

10

8

2

3

Số vụ việc thông báo TTKT Số vụ việc tham vấn

Nguồn: Báo cáo tập trung kinh tế của Cục QLCT

101

Phân loại theo nhóm ngành nghề kinh doanh cho thấy, hoạt động mua

bán sáp nhập tại Việt Nam trong thời gian qua tập trung trong một số nhóm

ngành chính như công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống; phân phối bán lẻ,

kinh doanh bất động sản và thông tin truyền thông.

3

Thông tin truyền thông

2

Vận tải kho bãi

2

8

Tài chính-Ngân hàng-Bảo …

1

6

Kinh doanh BĐS

3

6

Bán buôn, Bán lẻ

4

Vụ việc thông báo TTKT

Sản xuất, phân phối điện

2

Vụ việc tham vấn TTKT

Khai khoáng

1

10

KHCN

1

19

Công nghiệp chế biến, chế …

9

0

20

10

30

Hình 2.9. Số lượng vụ việc TTKT theo nhóm ngành nghề

Các doanh nghiệp tham gia TTKT thuộc mọi thành phần kinh tế, từ

doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, liên doanh đến doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, doanh

nghiệp dẫn đầu trong các ngành, lĩnh vực kinh doanh tại Việt Nam và các tập

đoàn đa quốc gia trên thế giới. Trong số các vụ việc thông báo và tham vấn

TTKT với Cơ quan QLCT có nhiều vụ việc tập trung kinh tế lớn, diễn ra ở

nước ngoài, nhưng các doanh nghiệp này có hoạt động kinh doanh tại Việt

Nam, như Alcatel - Lucent, ICI - Akzo, Prudential - AIA…

102

Bảng 2.8. Thống kê các loại hình doanh nghiệp tham gia TTKT

Phân loại DN Công ty DNNN

Công ty TNHH cổ phần DN ngoài nước 100% vốn nước ngoài

40 08 09 0 0

Thông báo TTKT

140

120

100

87 74 08 15 05 Tham vấn

87

80

60

Tham vấn

74

40

Thông báo TTKT

20

40

5

15

8 9

8

0

Cty TNHH DN ngoài

DNNN

nước

Cty Cổ phần

100% vốn nước ngoài

Nguồn: Báo cáo tập trung kinh tế của Cục QLCT

Hình 2.10. Các loại hình doanh nghiệp tham gia TTKT

Qua nghiên cứu về tình hình điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp

luật cạnh tranh của Việt nam trong thời gian qua, chúng ta có thể rút ra mấy

vấn đề quan trọng để phân tích và đi sâu hơn trong chương 2 của đề tài:

- Trong giai đoạn 2006-2014, Cơ quan tranh tranh đã tiến hành điều tra

tiền tố tụng 78 vụ việc. Tuy nhiên, số vụ việc đi đến quyết định điều tra chính

thức chỉ là 5 vụ việc (chiếm hơn 6%). Trong 5 vụ việc có quyết định điều tra

chính thức, cơ quan cạnh tranh chỉ chuyển hồ sơ cho Hội đồng cạnh tranh có

3 vụ việc còn lại 2 vụ là đình chỉ điều tra. Như vậy số vụ việc hạn chế cạnh

tranh được xử lý chính thức chỉ có 2 vụ việc.

103

- Công tác điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh đạt

được nhiều kết quả như mong đợi. Trong giai đoạn 2006-2013, trung bình

hàng năm cơ quan cạnh tranh đã tiến hành điều tra và xử lý khoảng gần 20

vụ/1 năm. Tuy nhiên, năm 2012-2013 số vụ việc xử lý có hướng giảm do sự

xung đột giữa Luật Cạnh tranh và Luật về xử lý vi phạm hành chính.

- Một trong những kết quả của quá trình thực thi quy định của Luật

Cạnh tranh về kiểm soát TTKT là số việc thông báo TTKT và tham vấn

TTKT đã dần tăng lên đáng kể do có sự chuyển dịch về phương thức đầu tư

nước ngoài vào Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đã lựa chọn phương thức đầu

tư thông mua hoạt động mua bán, sáp nhập nhằm tiết kiệm nguồn lực, dễ

dàng thâm nhập thị trường và giảm thiểu các rào cản gia nhập thị trường. Tuy

nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là 100% các hồ sơ thông báo tập trung kinh tế đều

được Cục chấp nhận, không có hồ sơ xin được hưởng miễn trừ và Cục không

tiến hành điều tra và xử lý bất kỳ vụ việc tập trung kinh tế bị cấm nào theo

quy định của pháp luật cạnh tranh.

2.2.3. Thực trạng hoạt động tăng cường sự tiếp cận pháp luật cạnh

tranh của cơ quan thực thi

Một trong những mục tiêu quan trọng của công tác thực thi Luật Cạnh

tranh là làm sao để Luật thực sự đi vào “đời sống của doanh nghiệp và xã

hội”, giúp doanh nghiệp hiểu và lĩnh hội pháp luật cạnh tranh nhằm bảo vệ

quyền và lợi ích chính đáng của mình trước các hành vi vi phạm Luật Cạnh

tranh. Để làm được điều đó, trong bối cảnh doanh nghiệp còn chưa thực sự

“mặn mà” với việc tự tìm hiểu Luật Cạnh tranh thì công tác tuyên truyền phổ

biến pháp luật cạnh tranh phải được đặc biệt ưu tiên, chú trọng. Trong thời gian

qua, theo báo cáo hoạt động thường niên của Cơ quan QLCT trong thời gian

qua, Cơ quan QLCT đã triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền phổ biến về

pháp luật cạnh tranh tới cộng đồng doanh nghiệp và các đối tượng liên quan.

104

2.2.3.1. Tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp

Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong việc hoạch định chính sách kinh

doanh, cân bằng lợi ích các bên tham gia thị trường, Cơ quan QLCT đã tiến

hành rà soát và nghiên cứu cấu trúc thị trường, đánh giá mức độ cạnh tranh ở

từng ngành/lĩnh vực trong nền kinh tế. Cụ thể, trong thời gian qua, Cục đã

tiến hành báo cáo đánh giá cạnh tranh về các thị trường: xăng dầu, thép cuộn

xây dựng, thức ăn chăn nuôi, xi măng, phân bón, phân phối dược phẩm, sữa

bột, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, vận tải hàng không và vận tải hàng

không, ô tô tải, bộ giặt, kính xây dựng, giấy, dầu thực vật, bảo hiểm nhân thọ,

vận tải biển, quảng cáo và truyền hình trả tiền. Báo cáo đã phân tích về cấu

trúc thị trường, phản ánh được thực trạng hoạt động cạnh tranh trên thị trường

của từng lĩnh vực, những tác động của thể chế, pháp luật tới môi trường cạnh

tranh trong từng lĩnh vực.

Báo cáo cung cấp một bức tranh tổng thể về mức độ cạnh tranh trong

từng ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc

hoạch định chiến lược đầu tư kinh doanh phù hợp. Bên cạnh đó, mục tiêu của

báo cáo là hỗ trợ cơ quan quản lý phát hiện những vấn đề quan ngại về cạnh

tranh, phát hiện những dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh, đặc biệt đối với

các thị trường có mức độ tập trung kinh tế cao. Đây chính là cơ sở để đưa ra

các khuyến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà hoạch định chính

sách và cho chính các doanh nghiệp để đảm bảo duy trì môi trường cạnh tranh

lành mạnh và bình đẳng, đảm bảo cân bằng hài hòa lợi ích của các doanh

nghiệp tham gia thị trường.

Kiểm soát các hoạt động tập trung kinh tế là một trong 3 lĩnh vực thuộc

phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh. Mục tiêu của việc giám sát và quản

lý hoạt động tập trung kinh tế nhằm tránh tạo ra các doanh nghiệp độc quyền

hoặc thống lĩnh mới trên thị trường. Với mục đích hỗ trợ doanh nghiệp, đưa

105

ra các tư vấn kịp thời đối với các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế về

các vấn đề liên quan đến cạnh tranh.

2.2.3.2. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền phổ biến

Tổ chức hội thảo/ hội nghị, tập huấn là hình thức tuyên truyền phổ biến

kiến thức về luật và chính sách cạnh tranh một cách hiệu quả. Trong thời gian

qua, cơ quan quản lý cạnh tranh tích cực tổ chức các hội thảo/hội nghị, tập

huấn nhằm trao đổi kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm về pháp luật cạnh tranh.

Đối tượng tham gia chủ yếu là đại diện các doanh nghiệp, hiệp hội ngành

nghề và các cơ quan quản lý ngành khác. Theo thông tin trên trang web của

Cục, chủ đề các hội thảo rất đa dạng và phong phú về các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh, các hành vi hạn chế cạnh tranh như thỏa thuận Cartel, các

hành vi thông đồng đầu thầu... kỹ năng điều tra và kinh nghiệm xử lý các

hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Các hội thảo này không chỉ nâng cao kiến thức cạnh tranh cho đại biểu

tham dự mà còn là phương thức tuyên truyền hiệu quả đối với các cơ quan

quản lý nhà nước có liên quan đến lĩnh vực cạnh tranh ở cấp trung ương và

một số địa phương, các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề.

Bên cạnh đó, để đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến thông tin và

chính sách cạnh tranh thông qua các ấn phẩm tuyên truyền phổ biến về pháp

luật cạnh tranh là một công cụ hữu hiệu và có phạm vi lan tỏa rộng. Trong

thời gian vừa qua, Cơ quan quản lý cạnh tranh cũng đã biên soạn và phát hành

các ẩn phẩm về cạnh tranh. Một số ấn phẩm đã phát hành trong thời gian qua:

- Sách “Các vấn đề cơ bản của pháp luật và chính sách cạnh tranh”;

- Sách “Những vấn đề doanh nghiệp cần biết về Luật Cạnh tranh”;

- Bộ tài liệu đào tạo “Kỹ năng điều tra cạnh tranh”, bao gồm những kiến

thức và kỹ năng cần thiết đối với một điều tra viên cạnh tra;

- Sổ tay hướng dẫn quy trình điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh;

106

- Khuôn khổ đánh giá cạnh tranh - Hướng dẫn nghiệp vụ nhằm xác định

rào cản đối với cạnh tranh ở các nước đang phát triển;

- Báo cáo nghiên cứu chuyên đề “Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp ở

Việt Nam”;

- Báo cáo “Tập trung kinh tế tại Việt Nam (năm 2010 và năm 2012)”;

- Báo cáo “Giám sát cạnh tranh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn

thông”;

- Báo cáo “Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hành vi phản cạnh tranh

trong hệ thống Dược phẩm tại thị trường Việt Nam”;

- Báo cáo giám sát cạnh tranh trong ba lĩnh vực tài chính (Ngân hàng,

Bảo hiểm, Chứng khoán);

- Báo cáo đánh giá môi trường cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của nền

kinh tế năm 2010, 2011, 2012.

- Bản tin cạnh tranh: định kỳ hàng tháng được phát hành với số lượng

1000 bản/số từ tháng 1/2009. Đối tượng đọc là các cơ quan Ban/Ngành, Cục,

Vụ, Viện, Trung tâm... các hiệp hội và doanh nghiệp. Bản tin ra đời dần dần

đã được cộng đồng độc giả đánh giá cao, mang tính thiết thực trong việc phổ

biến pháp luật và chính sách cạnh tranh tới các cơ quan quản lý và cộng đồng

xã hội.

2.3. Đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam

trong giai đoạn 2005 đến 2014

2.3.1. Đánh giá theo nhóm tiêu chí bên trong

2.3.1.1. Đánh giá về tính hợp pháp của pháp luật cạnh tranh

Tính hợp pháp của Luật Cạnh tranh được đánh giá dựa trên liệu các quy

định của Luật Cạnh tranh có đảm bảo tính hợp pháp về mặt nội dung cũng

như về mặt hình thức hay không.

- Về hình thức, Luật Cạnh tranh được soạn thảo và ban hành theo đúng

107

những trình tự thủ tục do luật định, cụ thể là Luật Ban hành văn bản quy

phạm pháp luật quy định. Luật Cạnh tranh được Quốc hội, cơ quan lập pháp

tối cao của Việt Nam ban hành. ngày 03/12/2004, tại kỳ họp thứ 6 khoá XI,

Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội thông qua và đã chính thức có hiệu lực vào

ngày 01/07/2005.

Trước khi Luật Cạnh tranh trình Quốc Hội ban hành, Dự thảo luật đã

được Bộ Tư pháp, Ủy Ban kinh tế và ngân sách của Quốc Hội thẩm định cho

ý kiến theo đúng thủ tục quy định.

Trong quá trình soạn thảo Luật Cạnh tranh, Ban soạn thảo Luật Cạnh

tranh cũng đã tổ chức xin ý kiến và nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến

của đông đảo người dân và doanh nghiệp. Do vậy, về mặt hình thức, Luật

Cạnh tranh hoàn toàn hợp pháp.

- Về nội dung, các quy định của Luật Cạnh tranh là hoàn toàn hợp pháp,

phù hợp với Hiến pháp, với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc

biệt là với các hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới WTO và thống nhất

với các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật của Việt Nam.

Về cơ bản, Luật Cạnh tranh của Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu về

chính sách cạnh tranh của các nước thành viên WTO đưa ra và các nguyên tắc

cơ bản theo quy định của WTO, cụ thể như nguyên tắc không phân biệt đối

xử và minh bạch trong hoạt động thương mại, các nguyên tắc liên quan đến

hoạt động thương mại của doanh nghiệp nhà nước.

Quá trình ra đời của Luật Cạnh tranh, việc ban hành đạo luật này là

bước chuẩn bị của Việt Nam cho việc gia nhập WTO. Luật cạnh tranh của

Việt Nam có thể được coi là sự cụ thể hóa các cam kết của Việt Nam về cạnh

tranh. Với việc ngăn cấm các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện một số

hành vi nhất định, như buộc doanh nghiệp, tổ chức, hay cá nhân mua hoặc

bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ với các doanh nghiệp được cơ quan này

108

chỉ định (trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền của nhà nước hoặc

trong các trường hợp khẩn cấp), Luật Cạnh tranh đã đảm bảo các doanh

nghiệp Nhà nước vận hành theo tiêu chí thương mại, cạnh tranh bình đẳng với

các doanh nghiệp tư nhân và không tham gia hoạch định chính sách của

ngành liên quan.

Luật Cạnh tranh cũng cấm các hành vi phân biệt đối xử giữa các doanh

nghiệp; ép buộc các doanh nghiệp hoặc các hiệp hội ngành nghề phải liên kết

với nhau để loại trừ, hạn chế hoặc cản trở các doanh nghiệp khác cạnh tranh

trên thị trường; và thực hiện các hành vi cản trở các hoạt động kinh doanh

hợp pháp của doanh nghiệp. Cơ sở pháp lý này đã tạo sự bình đẳng giữa các

chủ thể, đảm bảo khiông cỏ sự can thiệp của Nhả nước và không phân biệt

doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp tư nhân.

Đổi với hệ thống luật trong nước, các quy định của Luật Cạnh tranh

trước tiên không mâu thuẫn với các quy định của Hiến pháp. Việc soạn thảo

và ban hành các quy phạm của Luật Cạnh tranh xuất phát từ nguyên tắc "Nhà

nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính

sách" (Đ.26). Các quy định của Luật Cạnh tranh được ban hành phù hợp với

các quy định của Hiến pháp liên quan đến quyền tự do kinh doanh của công

dân (Đ.57), cũng như các quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật (Đ.

52), quyền của người dân được tham gia vào hoạt động kinh tế và được nhà

nước bảo hộ theo quy định của pháp luật (Đ.15, 16, 20, 21, 22). Ngoài ra các

quy định của Luật Cạnh tranh liên quan đến các doanh nghiệp thuộc mọi

thành phần sở hữu: tư nhân, nhà nước, đầu tư nước ngoài đều phù hợp với các

quy định mang tính định hướng của Hiến pháp.

Xét về mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và các luật khác, về cơ bản,

Luật Cạnh tranh cùng với các luật khác thuộc ngành luật kinh tế đã tạo ra một

môi trường pháp lý lành mạnh và bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh

nghiệp. Tuy nhiên, giữa các luật này luôn tồn tại những mâu thuẫn hay còn gọi

109

là những xung đột khó tránh khỏi, nhất là khi nhu cầu về pháp luật của nước ta

ngày càng gia tăng, ngày càng có nhiều các văn bản xuất hiện để điều chỉnh các

quan hệ kinh tế. Xung đột pháp luật có thể xảy ra giữa Luật Cạnh tranh và luật

khác, cụ thể là với các luật được coi là luật chung và với các luật được coi là

luật chuyên ngành, hay giữa Luật Cạnh tranh và các văn bản dưới luật.

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh không chỉ

quy định trong Luật Cạnh tranh, mà còn được quy định trong nhiều văn bản

pháp luật khác. Do đó, tình trạng xung đột giữa các luật chuyên ngành là

không thể tránh khỏi trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật hiện nay ở Việt Nam. Đối với Luật Cạnh tranh, những mâu thuẫn loại này

ngày càng có xu hướng gia tăng. Cùng với sự phát triến của xã hội, sự hội

nhập của nền kinh tế, rất nhiều luật điều chỉnh các lĩnh vực chuyên ngành

được xây dựng mới kéo theo sự xuất hiện của các cơ quan quản lý chuyên

ngành. Các cơ quan này thường được trao thẩm quyền thực hiện các quy định

điều tiết về cạnh tranh trong các lĩnh vực chuyên ngành. Ví dụ hiện nay, dự

thảo các luật như Luật các tổ chức tín dụng, Luật bưu chính, Luật kinh doanh

bảo hiểm đều có những quy định về cạnh tranh riêng biệt, không đồng nhất

với các quy định của Luật Cạnh tranh. Hệ quả là dẫn đến tình trạng xung đột

luật cũng như xung đột về thẩm quyền giữa các cơ quan quản lý nhà nước đối

với cùng một vụ việc cạnh tranh. Chính vì vậy, việc xác định các quy định

pháp luật để điều chỉnh trong trường hợp có nhiều luật cùng điều chỉnh là rất

cần thiết.

Ví dụ 1, Luật các tổ chức tín dụng, Điều 9 về Hợp tác và cạnh tranh

trong hoạt động ngân hàng

(1) Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được hợp tác và

cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy

định của pháp luật.

(2) Nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh

110

không lành mạnh có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện

chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích

của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

(3) Chính phủ quy định cụ thể các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lý các hành vi này.

Như vậy, theo Luật các tổ chức tín dụng, Chính phủ có thể quy định

các hành vi hạn chế cạnh tranh cạnh tranh, và cạnh tranh không lành mạnh

khác với các quy định của Luật Cạnh tranh để điều chỉnh. Thẩm quyền này có

thể tạo nên những xung đột giữa hai Luật này.

Ví dụ 2, Luật Viễn Thông Điều 19 quy định về cạnh tranh trong kinh

doanh dịch vụ viễn thông.

(1) Doanh nghiệp viễn thông không được thực hiện các hành vi hạn chế

cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật cạnh tranh.

(2) Ngoài các quy định tại khoản 1 Điều này, doanh nghiệp viễn thông

hoặc nhóm doanh nghiệp viễn thông có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh

nghiệp viễn thông nắm giữ phương tiện thiết yếu không được thực hiện các

hành vi sau đây:

- Bù chéo dịch vụ viễn thông để cạnh tranh không lành mạnh;

- Sử dụng ưu thế về mạng viễn thông, phương tiện thiết yếu để cản trở

việc xâm nhập thị trường, hạn chế, gây khó khăn cho hoạt động cung cấp dịch

vụ viễn thông của các doanh nghiệp viễn thông khác;

- Sử dụng thông tin thu được từ doanh nghiệp viễn thông khác vào mục

đích cạnh tranh không lành mạnh;

- Không cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp viễn thông khác thông tin

kỹ thuật về phương tiện thiết yếu và thông tin thương mại liên quan cần thiết

để cung cấp dịch vụ viễn thông.

(3) Doanh nghiệp viễn thông hoặc nhóm doanh nghiệp viễn thông có vị

111

trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp viễn thông nắm giữ phương tiện thiết

yếu phải thực hiện thống kê, kế toán riêng đối với dịch vụ viễn thông chiếm

thị phần khống chế để xác định giá thành dịch vụ viễn thông chiếm thị phần

khống chế.

(4) Từng thời kỳ, Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành Danh mục

doanh nghiệp viễn thông, nhóm doanh nghiệp viễn thông có vị trí thống lĩnh

thị trường đối với các dịch vụ viễn thông quan trọng mà Nhà nước cần quản

lý cạnh tranh, Danh mục doanh nghiệp viễn thông nắm giữ phương tiện thiết

yếu; quy định và tổ chức thực hiện biện pháp quản lý nhằm thúc đẩy cạnh

tranh và bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh dịch vụ viễn thông.

(5) Các doanh nghiệp viễn thông khi tập trung kinh tế có thị phần kết

hợp từ 30% đến 50% trên thị trường dịch vụ liên quan phải thông báo cho cơ

quan quản lý chuyên ngành về viễn thông trước khi tiến hành tập trung kinh tế.

Với việc đưa ra các quy định riêng về những hành vi bị cấm đối với

nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường cũng sẽ tạo ra nguy cơ xung

đột trong quá trình thực thi giữa hai văn bản luật này.

2.3.1.2. Đánh giá về tính thực tiễn của pháp luật cạnh tranh

Có thể khẳng định rằng Luật Cạnh tranh ra đời phù hợp với quy luật tất

yếu của xã hội tại thời điểm ban hành. Một xã hội có nền kinh tế ngày càng

trở nên năng động và phát triển càng đòi hỏi sự điều chỉnh của các quy định

pháp luật về cạnh tranh. Luật Cạnh tranh ra đời là kết quả tất yếu của cơ chế

thị trường, vì "cạnh tranh chỉ xuất hiện khi, về mặt pháp lý, có sự thừa nhận

và thi hành các nguyên tắc về tự do kinh doanh, tự do khế ước và tự do lập

hội. Còn về phương diện kinh tể, cạnh tranh chỉ có thể xuất hiện trong điều

kiện của cơ chế thị trường, nơi mà cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện

mạo và cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường [19] ". Chính vì vậy, ngay

từ khi ra đời, Luật Cạnh tranh đã được sự ủng hộ và đồng thuận của nhiều

112

tầng lớp, từ các nhà kinh doanh đến các nhà nghiên cứu luật. Với những

nhiệm vụ cụ thể đặt ra là xác định và xử lý những hành vi cạnh tranh không

lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm, các nhà làm luật mong

muốn Luật Cạnh tranh sẽ thiết lập được các chuẩn mực chung cho đạo đức

kinh doanh để duy trì và bảo đảm trật tự cạnh tranh, xoá bỏ hoặc làm vô hiệu

hoá các rào cản bất hợp lý trên thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của các doanh nghiệp kinh doanh chân chính.

Như vậy, xét về tổng thể, Luật Cạnh tranh được ban hành phù hợp với

hoàn cảnh và nhu cầu của xã hội thời điểm 2005-2006. Tuy nhiên, thực tế áp

dụng các quy định của Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn cho thấy,

đến nay, do tình hình kinh tế xã hội thay đổi nên có những quy định không

còn phù hợp với thực tiễn, gây cản trở hiệu quả thực thi của Luật Cạnh tranh

và các văn bản hướng dẫn thi hành.

- Các quy định về xác định thị trường liên quan

Nhìn chung, cách thức xác định thị trường liên quan của Luật Cạnh

tranh Việt Nam cũng phù hợp với các nguyên tắc được sử dụng phổ biến của

các quốc gia trên thế giới: dựa trên việc đánh giá khả năng thay thế về cầu và

khả năng thay thế về cung. Các tiêu chí xác định thị trường liên quan của Luật

Cạnh tranh Việt Nam được quy định rất cụ thể tại Nghị định 116.

Những quy định quá cụ thể, chi tiết của pháp luật cạnh tranh về xác định

thị trường liên quan đang bộc lộ nhiều điểm không phù họp với thực tế trong

quá trình áp dụng. Tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, khả năng

thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ quy định phải được xem xét “cả về

đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả”. Cơ quan cạnh tranh trên thế giới cũng sử

dụng ba tiêu chí này để đánh giá khả năng thay thế cho nhau của các hàng hóa,

dịch vụ, tuy nhiên, cách sử dụng linh hoạt, xem xét một cách tổng thể và tùy

từng sản phẩm, dịch vụ đặc thù, các tiêu chí mới được cân nhắc sử dụng nhằm

phản ánh đúng nhất thực trạng thực tế thị trường sản phẩm.

113

Ở Việt Nam, hai sản phẩm, dịch vụ được coi là có khả năng thay thế

cho nhau tức là phải thay thế được cho nhau cả về “đặc tính, mục đích sử

dụng và giá cả” và nếu một trong ba tiêu chí không thể thay thế cho nhau thì

có thể kết luận hai sản phẩm nằm trên thị trường sản phẩm liên quan khác

nhau. Việc đánh giá cả ba tiêu chí đối với bất cứ sản phẩm, dịch vụ nào dẫn

đến kết luận về khả năng thay thế cho nhau của các sản phẩm, dịch vụ không

phản ánh đúng thực tế cạnh tranh trên thị trường. Khi xem xét khả năng thay

thế cho nhau giữa ghế nhựa và ghế gỗ, hai sản phẩm này được coi là có thể

thay thế cho nhau về giá cả, mục đích sử dụng, tuy nhiên, về đặc tính thì chất

liệu nhựa hoàn toàn không thể thay thế cho chất liệu gỗ. Kết luận của cơ quan

cạnh tranh là ghế nhựa và ghế gỗ nằm trên hai thị trường sản phẩm liên quan

khác nhau, mặc dù trên thực tế, hai sản phẩm này cạnh tranh với nhau và hoàn

toàn có thể thay thế cho nhau trong nhiều trường hợp.

Nếu áp dụng cứng nhắc Khoản 1 Điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP sẽ

dẫn đến tình trạng, mỗi sản phẩm, dịch vụ là một thị trường riêng biệt, không

thể thay thế, và doanh nghiệp sản xuất, hoặc cung ứng sản phẩm, dịch vụ đó

sẽ luôn là doanh nghiệp có vị trí độc quyền hoặc thống lĩnh trên thị trường

liên quan được xác định.

- Các quy định về thủ tục khiếu nại vụ việc cạnh tranh

Theo Điều 58 của Luật Cạnh tranh, “Tổ chức, cá nhân cho rằng quyền

và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm do hành vi vi phạm của Luật Cạnh

tranh” có quyền khiếu nại đến cơ quan cạnh tranh. Tuy nhiên, trách nhiệm của

người khiếu nại là phải cung cấp cho cơ quan cạnh tranh chứng cứ về hành vi

vi phạm, chịu trách nhiệm về tính trung thực của chứng cứ đã cung cấp cho

cơ quan cạnh tranh.

Hồ sơ khiếu nại của tổ chức, cá nhân gửi đến cơ quan cạnh tranh được

yêu cầu và liệt kê cụ thể tại Điều 45 Nghị định 116/NĐ-CP. Quy định về thủ

114

tục khiếu nại với những đòi hỏi về chứng cứ chứng minh như trên nhằm nhằm

ngăn chặn các khiếu nại vô căn cứ, giảm sức ép về công việc cho Cơ quan

cạnh tranh.

Tuy nhiên, chính những yêu cầu và trách nhiệm này lại gây ra những

khó khăn và gánh nặng cho bên khiếu nại khi hành vi có dấu hiệu vi phạm

Luật Cạnh tranh là có thật, nhưng không thể thu thập tài liệu, chứng cứ chứng

minh cho hành vi vi phạm. Những trở ngại này dẫn đến việc bên khiếu nại dễ

dàng bỏ qua hành vi vi phạm do những rườm rà trong thủ tục khiếu nại.

Về bản chất, Luật Cạnh tranh được ban hành nhằm mục đích đảm bảo

quyền tự do kinh doanh trên thị trường của các doanh nghiệp, trong đó đại

diện cho quyền lực nhà nước là cơ quan cạnh tranh sẽ thực hiện chức năng xử

lý các doanh nghiệp thực hiện hành vi phản cạnh tranh, bảo vệ lợi ích người

tiêu dùng và phúc lợi xã hội (với mục tiêu bảo vệ lợi ích công này, cơ quan

cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Mỹ, Úc hay Cộng

đồng Châu Âu sẽ trực tiếp khởi xướng điều tra các vụ việc có dấu hiệu vi

phạm pháp luật cạnh tranh trên cơ sở các dấu hiệu vi phạm tự phát hiện hoặc

từ thông tin thông báo của bên thứ ba).

Quá trình tiếp nhận thông tin khiếu nại hoặc tố cáo từ bên thứ ba rất

linh hoạt, thông qua thư, email, điện thoại, hoặc fax. Cơ quan cạnh tranh sau

đó sẽ có chức năng xem xét, đánh giá thông tin và tiếp tục thu thập bằng

chứng, tài liệu để quyết định có chính thức điều tra vụ việc hay không. Người

đi khiếu nại, hoặc cung cấp thông tin không bị ràng buộc chịu trách nhiệm về

tính xác thực của thông tin, mà đây là trách nhiệm của cơ quan cạnh tranh.

Vì vậy, số lượng đơn thư thông báo về hành vi vi phạm pháp luật cạnh

tranh gửi đến cơ quan cạnh tranh mỗi ngày có thể lên đến hàng nghìn thông

báo và theo đó vị trí, vai trò của cơ quan cạnh tranh trong môi trường cạnh

tranh ngày càng được nâng cao.

115

- Về quy trình điều tra, xử lý vụ việc

Những vụ việc cạnh tranh thường mang tính chất phức tạp, đặc biệt vụ

việc hạn chế cạnh tranh, không chỉ đòi hỏi những phân tích về quy định của

pháp luật, mà còn dựa trên các phân tích kinh tế. Bằng chứng, thông tin trong

một vụ việc không chỉ thu thập tại một thời điểm mà còn cả một quá trình, từ

trong, trước và sau khi diễn ra hành vi vi phạm của doanh nghiệp. Ngoài 30

ngày điều tra sơ bộ, 150 ngày (kể cả thời gian gia hạn) đối với vụ việc cạnh

tranh không lành mạnh và 300 ngày (kể cả 2 lần gia hạn) đối với vụ việc hành

chế cạnh tranh là khoảng thời gian quá ngắn để cơ quan cạnh tranh có thể thu

thập tất cả các thông tin cần thiết, và đưa ra kết luận chính xác.

Trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc cạnh tranh,

Hội đồng xử lý vụ việc phải ra một trong các quyết định mở Phiên điều trần,

hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh

tranh. Trên thực tế, vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền là những vụ

việc rất phức tạp, hồ sơ vụ việc có thể lên đến hàng nghìn bút lục. Trong khi

đó, các thành viên Hội đồng xử lý thường là những cán bộ kiêm nhiệm, không

chuyên trách, vì vậy, khoảng thời hạn 30 ngày để đưa ra quyết định xử lý vụ

việc là không hợp lý. Đối với một vụ việc được thu thập thông tin và chứng

cứ trong khoảng thời gian gần một năm, trong vòng 30 ngày, các thành viên

của Hội đồng xử lý khó có thể hiểu được một cách rõ ràng mọi thông tin vụ

việc, điều này ảnh hưởng đến tính chính xác của quyết định của Hội đồng xử

lý đối với vụ việc.

Trong thực tế vụ việc thường có sự liên quan của hai hay nhiều doanh

nghiệp. Hội đồng cạnh tranh sau khi đã ra quyết định xử lý, các doanh nghiệp

dù là bị đơn hay nguyên đơn cũng đều có quyền khởi kiện khiếu nại về quyết

định của Hội đồng cạnh tranh tới các tòa án cấp tỉnh và thành phố trực thuộc

Trung ương. Vì vậy, khả năng có thể xảy ra là Hội đồng cạnh tranh sẽ phải

116

theo đuổi vụ kiện với danh nghĩa là bị đơn ở rất nhiều nơi khi mà các doanh

nghiệp khiếu nại khởi kiện tại các địa phương khác nhau.

- Về biện pháp xử lý vi phạm

Xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh ở Việt Nam được

quy định và hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 71/2014/NĐ-CP [27], bao gồm

hình thức xử phạt chính là phạt cảnh cáo và phạt tiền, hình thức xử phạt bổ

sung và một số biện pháp khắc phục hậu quả. Việc xử phạt các hành vi vi

phạm vẫn còn tồn tại một số khó khăn như sau:

Thứ nhất, mức phạt tiền được xác định căn cứ trên tổng doanh thu của

năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm là không hợp lý. Theo quy

Luật Cạnh tranh, mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh

tranh lên đến 10% tổng doanh thu của năm tài chính trước năm thực hiện

hành vi vi phạm. Trên thực tế, hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh của

doanh nghiệp chỉ thực hiện và gây tác động tiêu cực trên một thị trường sản

phẩm, dịch vụ nhất định, trong khi một doanh nghiệp có thể thực hiện kinh

doanh đối với nhiều sản phẩm, dịch vụ khác nhau. Thậm chí trong một số vụ

việc, doanh thu phát sinh từ việc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có liên quan

trực tiếp đến hành vi vi phạm chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng doanh

thu của doanh nghiệp. Vì vậy, mức phạt dựa trên căn cứ “tổng doanh thu” của

doanh nghiệp không phản ánh đúng mức độ tác động của hành vi vi phạm và

không tương xứng với thiệt hại trên thị trường do hành vi vi phạm gây ra.

Với quan điểm quyết định xử phạt dựa vào các căn cứ hợp lý để doanh

nghiệp tiếp tục tồn tại, nhiều quốc gia đã áp dụng nguyên tắc tính mức xử

phạt căn cứ theo doanh thu trên thị trường liên quan hoặc thị trường bị ảnh

hưởng, đảm bảo tính hợp lý nhưng cũng mang sức răn đe, cảnh báo của cơ

quan cạnh tranh ở một số quốc gia.

117

Thứ hai, thiếu cơ sở để xác định mức phạt tiền cụ thể đổi với các doanh

nghiệp thực hiện hành vi vi phạm. Đối với hình thức phạt tiền, hiện nay pháp

luật cạnh tranh quy định khung xử phạt từ 0 - 10% tổng doanh thu trong năm

tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Điều 4 Nghị định 71/NĐ-CP

đã đưa ra các căn cứ để xác định mức độ xử lý đối với các hành vi vi phạm,

nhưng không quy định cụ thể việc sử dụng và đánh giá các căn cứ để xác định

tỷ lệ tính mức phạt như thế nào. Điều này gây khó khăn cho cơ quan cạnh

tranh trong việc xác định mức phạt tiền cụ thể đối với các doanh nghiệp vi

phạm, thậm chí gây tranh cãi trong quyết định mức độ xử lý vi phạm hoặc có

thể dẫn đến việc tùy tiện trong quyết định mức phạt.

2.3.2. Đánh giá theo nhóm tiêu chí bên ngoài

2.3.2.1. Đánh giá về công tác tổ chức thực thi pháp luật cạnh tranh

Sau hơn gần 10 năm thực thi, Luật Cạnh tranh đã bước đầu phát huy

vai trò tích cực trong việc giữ cho môi trường cạnh tranh lành mạnh, xử lý

những hành vi làm sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Mặc dù số

lượng vụ việc cạnh tranh được điều tra, xử lý là chưa nhiều (08 vụ hạn chế

cạnh tranh và 122 vụ cạnh tranh không lành mạnh) nhưng đó chính là sự khởi

đầu cho thấy Luật Cạnh tranh đã chính thức đi vào cuộc sống và gắn liền với

hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong quá trình xử lý các vụ

việc đầu tiên, một mặt các cơ quan cạnh tranh nhấn mạnh mục tiêu bảo vệ

quyền và lợi ích họp pháp của tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh doanh,

mặt khác, rung hồi chuông cảnh báo cho các doanh nghiệp có hành vi tương

tự để họ tự nguyện điều chỉnh hành vi kinh doanh của mình.

Trong gần mười năm qua, công tác thực thi pháp luật cạnh tranh đã đạt

được một số kết quả nổi bật, cụ thể là:

Thứ nhất, xây dựng và trình Chính phủ ban hành và sửa đổi 05 Nghị

định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh (trong đó có 02 Nghị

định của Chính phủ về các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh).

118

Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện bộ máy các cơ quan thực thi Luật

Cạnh tranh bao gồm: Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.

Đối với Cục Quản lý cạnh tranh, từ 9 cán bộ lúc ban đầu, hiện nay Cục

Quản lý cạnh tranh đã xây dựng và hoàn thiện bộ máy với nguồn nhân lực là

hơn 104 cán bộ với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ bước đầu đáp ứng được

nhu cầu công tác.

Đối với Hội đồng cạnh tranh và bộ máy giúp việc, Bộ Công Thương đã

trình Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm 15 ủy viên Hội đồng cạnh tranh trong đó

có 01 Chủ tịch, 02 Phó chủ tịch và 12 ủy viên Hội đồng với thành phần đa

dạng từ nhiều bộ, ngành khác nhau như Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Kế

hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công Thương và

Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Với mục đích thực hiện tốt nhiệm vụ được

Chính phủ giao, Thủ tướng Chính phủ đã hai lần kiện toàn Hội đồng cạnh

tranh thông qua đề xuất các ủy viên mới (thay thế các ủy viên đã nghỉ hưu, có

thay đổi công tác), cơ chế phụ cấp cho các ủy viên Hội đồng. Giúp việc Hội

đồng cạnh tranh là Văn phòng Tổng thư ký Hội đồng cạnh tranh (trước đây

gọi là Ban Thư ký Hội đồng) đã được thành lập, có 7 cán bộ và thực hiện tốt

nhiệm vụ được giao.

Thứ ba, đã phối hợp chặt chẽ và tổ chức hợp tác với nhiều cơ quan,

ngành và các cơ quan điều tiết ngành trong việc triển khai, giám sát việc thực

thi pháp luật cạnh tranh trong mối quan hệ với các pháp luật chuyên ngành

khác. Cụ thể, các cơ quan cạnh tranh đã có nhiều mối hợp tác với các cơ quan

quản lý chuyên ngành trong lĩnh vực dược phẩm, viễn thông, giá, điện

lực...Việc phối hợp này được thể hiện rõ nét nhất trong quá trình xây dựng

pháp luật chuyên ngành, chiến lược phát triển ngành, các cơ quan quản lý

ngành đã chủ động lấy và tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp của các cơ quan

quản lý cạnh tranh.

119

Thứ tư, từ năm 2005 đến nay, sau khi hệ thống pháp luật về cạnh tranh

được ban hành, các cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh đã thường xuyên

tích cực thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông

qua các hội thảo, diễn đàn trao đổi, các khóa đào tạo... trong đó có một số

chương trình được tổ chức quy mô, nhận được nhiều sự quan tâm của đông

đảo các tổ chức, hiệp hội và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các cơ quan cạnh

tranh cũng đã phát hành nhiều ấn phẩm cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân và

cộng đồng doanh nghiệp với nhiều chủ đề đa dạng như: Chính sách pháp luật

và các quy định liên quan đến Luật Cạnh tranh, nâng cao kỹ năng của điều tra

viên, kỹ năng về điều tra các hành vi hạn chế cạnh tranh trong thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh, thông đồng trong đấu thầu, các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh, kinh nghiệm áp dụng pháp luật cạnh tranh trong một số lĩnh vực

chuyên ngành của EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc.

Ngoài ra, hoạt động hợp tác quốc tế của các cơ quan cạnh tranh cũng

diễn ra rất sôi động do đặc thù của lĩnh vực cạnh tranh có nhiều yếu tố xuyên

quốc gia, cần thiết có nhiều hoạt động hợp tác, chia sẻ thông tin. Cụ thể, các

cơ quan cạnh tranh đã thiết lập mối quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức có liên

quan trên thế giới như OECD, UNCTAD, ICN (mạng lưới cạnh tranh quốc

tế), APEC... và cơ quan cạnh tranh của một số nước và vùng lãnh thổ như

Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Inđônêxia, Singapore,... Nhiều Dự án

hợp tác đã và đang được triển khai giữa các cơ quan cạnh tranh và các tổ chức

như EU-MUTRAP III (Liên minh châu Âu), CUTS, JICA... nhằm tăng cường

năng lực của cơ quan cạnh tranh trong thực thi pháp luật.

Thứ năm, công tác xây dựng nguồn lực đặc biệt là việc đào tạo và phát

triển số lượng điều tra viên vụ việc cạnh tranh đã được quan tâm. Tuy nhiên,

hầu hết các cán bộ của cơ quan thực thi hiện nay đều rất trẻ thiếu kinh nghiệm

nên việc đào tạo, nâng cao đạo đức cho cán bộ điều tra viên của Cơ quan quản

120

lý cạnh tranh cần phải được quan tâm hơn nữa. Đặc biệt, số lượng điều tra

viên hiện nay chỉ có hơn 20 người là quá ít so với yêu cầu thực tiễn đặt ra.

2.3.2.2. Đánh giá về khả năng tiếp cận và tuân thủ pháp luật cạnh

tranh của cộng đồng doanh nghiệp

Khả năng tiếp cận, nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật

cạnh tranh đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình thực thi chính sách

và Luật Cạnh tranh, vì các doanh nghiệp là đối tượng điều chỉnh chính của

Luật. Mặc dù, trong thời gian vừa qua, Cơ quan QLCT đã tập trung nhiều

nguồn lực để thực hiện các hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật. Tuy

nhiên, trên thực tế, hiểu biết của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên

thị trường Việt Nam về pháp luật cạnh tranh còn khá hạn chế. So với các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thường có bộ phận pháp chế hoạt

động hết sức tích cực làm cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý

hành chính nhà nước, thì các doanh nghiệp Việt Nam hoặc là không có bộ

phận pháp chế, hoặc là bộ phận pháp chế yếu kém, chưa thực hiện tốt chức

năng tư vấn cho doanh nghiệp về luật pháp nói chung cũng như pháp luật

cạnh tranh nói riêng. Hiện nay, một số doanh nghiệp không hề quan tâm đến

Luật Cạnh tranh, thậm chí có những hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh mà vẫn

chưa nhận thức được.

Theo kết quả khảo sát 500 DN tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh bao gồm

các DN thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, như DN nhà nước, DN có

vốn đầu tư nước ngoài (FDI), DN liên doanh và DN tư nhân thì phần lớn các

DN mới chỉ biết đến Luật Cạnh tranh trong vòng 2 năm gần đây (197 DN,

chiếm 39.4%), trong khi đó 169 DN biết đến Luật Cạnh tranh sớm hơn một

chút, khoảng từ 2-4 năm trước, chiếm tỷ lệ 33.8% trong số các DN được hỏi.

Số lượng các DN biết về Luật Cạnh tranh từ khi Luật mới ban hành chỉ gồm

134 DN, chiếm tỷ lệ ít hơn với 26.8%.

121

Bảng 2.9. Thời điểm DN bắt đầu nhận thức về Luật Cạnh tranh

Số lượng Tỷ lệ

Phần trăm tích lũy

197

39.4%

39.4%

Mới biết trong vòng 2 năm gần đây

169

33.8%

73.2%

Biết từ 2-4 năm trước

134

26.8%

100.0%

Biết ngay từ khi Luật mới ban hành

Tổng

500 100.0% Nguồn: Kết quả khảo sát thực tế

DN phần lớn nhận biết về Luật Cạnh tranh thông qua các phương tiện

thông tin đại chúng (350 ý kiến, chiếm 70% số DN được khảo sát). Bên cạnh

đó, Luật Cạnh tranh cũng được DN tiếp cận thông qua việc tự tìm hiểu,

nghiên cứu (50.4%), qua các hội thảo, tập huấn mà cán bộ của DN tham dự

(16.8%) hoặc do chuyên gia pháp lý/luật sư tư vấn (9.4%).

Bảng 2.10 Kênh thông tin giúp doanh nghiệp nhận biết

Luật Cạnh tranh

Trả lời

Số lượng

Tỷ lệ

Tỷ lệ các trường hợp trong số DN được khảo sát

252

33.80%

50.40%

Tự tìm hiểu/nghiên cứu

350

46.90%

70.00%

Phương tiện thông tin đại chúng

84

11.30%

16.80%

Hội thảo, tập huấn mà cán bộ của DN có tham dự

47

6.30%

9.40%

Chuyên gia pháp lý/luật sư tư vấn

13

1.70%

2.60%

Kênh khác

746 100.00%

149.20%

Tổng

Nguồn: Kết quả khảo sát thực tế

122

Ngoài ra, DN cũng có thể nhận biết về Luật Cạnh tranh qua một vài

kênh thông tin khác, chẳng hạn như qua thông tin trao đổi với bạn bè, đồng

nghiệp; thông tin từ các tập đoàn; thông báo do Chính phủ ban hành; tài liệu

nghiên cứu tại trường Đại học Luật, các tài liệu hướng dẫn, tài liệu từ các

trang thông tin điện tử.

Bảng 2.11. Đánh giá của DN về mức độ hiểu biết các quy định của pháp luật cạnh tranh

Phần trăm

Số lượng

Tỷ lệ

tích lũy

272

54.4%

54.4%

Hiểu ít

192

38.4%

92.8%

Hiểu tương đối

28

5.6%

98.4%

Hiểu khá rõ

8

1.6%

100.0%

Hiểu rất rõ

500 100.0%

Tổng

Nguồn: Kết quả khảo sát thực tế

Trong số 500 DN được khảo sát, có tới 464 DN (tức 92.8%) chưa hiểu

rõ về Luật Cạnh tranh khi tự cho rằng mới chỉ “hiểu một ít” (272 DN, chiếm

54.4%) hoặc “hiểu tương đối” (192 DN, chiếm 38.4%) về các quy định của

Luật Cạnh tranh. Trong khi đó, chỉ có 36/500 DN tự đánh giá là “hiểu khá rõ”

và “hiểu rất rõ” về Luật Cạnh tranh, trong đó số DN “hiểu rất rõ” chỉ chiếm

1.6% (tức 8 DN).

Hiện nay, có hàng nghìn hiệp hội, tổ chức ngành nghề đang hoạt động

tại Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hiệp hội, tổ chức chưa thực hiện đúng

vai trò, chức năng là cầu nối giữa doanh nghiệp và Nhà nước, trung gian

tuyên truyền, phổ biến pháp luật, vận động, khuyến khích doanh nghiệp thành

viên chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.

123

Thực tế cho thấy, do thiếu hiểu biết về pháp luật cạnh tranh, một số

hiệp hội đã đóng vai trò tổ chức cho các doanh nghiệp thành viên tham gia,

thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Nhiều doanh nghiệp còn

chưa ý thức được vai trò của Luật Cạnh tranh và chức năng, nhiệm vụ của Cơ

quan thực thi Luật Cạnh tranh trong việc bảo vệ môi trường cạnh tranh công

bằng, lành mạnh cũng như bảo vệ lợi ích hợp pháp của chính các doanh

nghiệp. Chính vì thế, tình trạng các doanh nghiệp không có thái độ hợp tác

với Cơ quan QLCT trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ, hay thu thập

thông tin phục vụ công tác rà soát thị trường ngành đã xảy ra. Đây là một trở

ngại lớn đối với cơ quan điều tra trong công tác thực thi pháp luật cạnh tranh.

2.3.3. Một số bất cập và nguyên nhân

2.3.3.1. Một số bất cập

Như đã phân tích ở phần trên, bên cạnh bất cập về một số quy định của

pháp luật cạnh tranh hiện không còn phù hợp với thực tiễn còn một số bất cập

sau đây cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả thực thi pháp luật cạnh

tranhViệt Nam trong thời gian qua:

- Về vị trí cơ quan cạnh tranh

Kinh nghiệm tại các nước kinh tế thị trường phát triển cho thấy pháp

luật cạnh tranh có được thực thi tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào vai trò

của cơ quan thực thi luật (chức năng, nhiệm vụ, năng lực...). Lý do của điều

này xuất phát từ bản chất pháp lý của luật cạnh tranh là luật công (nặng về

tính răn đe và trừng phạt), mà đối với bất kỳ một ngành luật công nào (hành

chính, hình sự...) các cơ quan công quyền đều đóng vai trò hết sức quan trọng

trong việc bảo đảm luật được thực thi nghiêm chỉnh.

Theo kinh nghiệm của nhiều nước như phân tích ở phần trên, để hoạt

động có hiệu quả cơ quan cạnh tranh phải có đầy đủ các yếu tố sau đây.

+ Phải hoạt động độc lập và được trao đầy đủ quyền hạn theo quy định

của pháp luật cạnh tranh;

124

+ Đảm bảo tính minh bạch trong thực thi các nhiệm vụ được giao;

+ Phải nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ phía các cơ quan quản lý nhà

nước, các doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Mô hình của cơ quan cạnh tranh hiện nay của Việt Nam bao gồm Cục

Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.

Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan quản lý nhà nước thuộc Bộ Công

Thương có chức năng quản lý về cạnh tranh, cụ thể: Thụ lý hồ sơ đề nghị

hưởng miễn trừ; đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định

hoặc trình Thủ tướng Chính phủ quyết định; Điều tra các vụ việc cạnh tranh

liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành

mạnh; Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh; bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong nhập khẩu

hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam. Với chức năng và nhiệm vụ được giao

cho thấy phạm vi hoạt động của Cục tương đối rộng.

Về vị trí của cơ quan cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh là tổ chức

trực thuộc Bộ Công Thương không phải là cơ quan độc lập. Điều này cũng

tạo ra một số bất cập trong quá trình quản lý và thực thi pháp luật cạnh tranh

ở Việt Nam bởi những điểm sau:

+ Trong điều kiện nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước đang

giữ hầu hết các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, do đó, đối tượng điều tra

của cơ quan quản lý cạnh tranh có thể sẽ là các tổng công ty nhà nước, các tập

đoàn kinh tế lớn và thậm chí là cả các cơ quan quản lý nhà nước. Nếu không

có một vị thế đủ mạnh thì cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ không thể thực hiện

tốt các nhiệm vụ của mình. Mặt khác, việc Cục Quản lý cạnh tranh và Hội

đồng cạnh tranh tiến hành điều tra và xử lý một vụ việc có liên quan đến

doanh nghiệp nhà nước thì có thể dẫn đến những quan ngại về tính khách

quan của vụ việc do quan niệm cơ quan nhà nước “vừa đá bóng vừa thổi còi”.

125

+ Cơ quan quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ sẽ không đảm bảo được

tính tự chủ trong việc quản lý ngân sách hoạt động, tuyển chọn, bổ nhiệm

cũng như đào tạo nhân sự bảo đảm cho cơ quan quản lý cạnh tranh có thực

quyền cao hơn đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của hội nhập kinh tế quốc tế,

khi mà số vụ kiện về các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh tăng lên một

cách đáng kể.

Hội đồng cạnh tranh là cơ quan quyền lực nhà nước độc lập đảm nhận

vai trò xét xử, xử lý, đưa ra các quyết định, giải quyết khiếu nại có liên quan

đến vụ việc cạnh tranh. Hội đồng cạnh tranh lại là tập hợp 15 thành viên đại

diện của các Bộ: Bộ Công Thương, Bộ Tư Pháp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch

đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng,... do Thủ tướng bổ nhiệm theo

đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương. Khi mà các doanh nghiệp bị điều tra

và xử lý lại là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc các Bộ và Ngành mà thành

viên của Hội đồng cạnh tranh đại diện, thì việc đưa ra quyết định xử lý vụ

việc rất khó được coi là công bằng và khách quan.

Hơn nữa, thành viên của Hội đồng cạnh tranh không tham gia điều tra

vụ việc ngay từ thời điểm ban đầu, nên việc ra quyết định xử lý sẽ không

được thấu đáo và chặt chẽ, thậm chí làm kéo dài thêm thời gian xử lý vụ việc.

- Về nguồn nhân lực của cơ quan cạnh tranh

Phần lớn các vụ việc cạnh tranh mang yếu tố kỹ thuật, chuyên ngành,

tương đối phức tạp. Do vậy, Luật Cạnh tranh quy định các điều tra viên vụ

việc cạnh tranh phải do Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương)

bổ nhiệm và phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định.

Biên chế hành chính được giao cho Cơ quan QLCT năm 2013 là 104

người, trong đó số cán bộ làm trong lĩnh vực cạnh tranh chỉ khoảng 20 người

(số còn lại thuộc các đơn vị thực thi pháp luật về phòng vệ thương mại và bảo

vệ người tiêu dùng).

126

Đến nay, Cơ quan cạnh tranh có 33 người đã được Bộ trưởng Bộ Công

Thương bổ nhiệm làm điều tra viên theo quy định của Luật Cạnh tranh. Tuy

nhiên, các điều tra viên không chỉ tập trung làm việc tại các đơn vị phụ trách

cạnh tranh mà lại công tác rải rác ở các đơn vị chuyên môn khác. Việc huy

động các điều tra viên ở các đơn vị chuyên môn khác tham gia, theo đuổi quá

trình điều tra một vụ việc hạn chế cạnh tranh kéo dài từ nửa năm đến hơn một

năm là tương đối khó khăn. Đây cũng là một hạn chế đối với việc thực thi

chính sách cạnh tranh một cách hiệu quả.

- Về cơ chế phối hợp với các cơ quan liên quan

Trong thời gian qua, việc triển khai hoạt động hợp tác với các cơ quan

điều tiết ngành mới chỉ dừng lại ở việc phát triển theo chiều rộng, chưa phát

triển theo chiều sâu dẫn đến kết quả mang lại vẫn chưa được như mong đợi. Ví

dụ, xuất phát từ việc chồng chéo trong các văn bản pháp luật của Việt Nam

điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh, có những hành vi có thể được

xử lý tại các cơ quan nhà nước khác nhau hoặc có sự đan xen lẫn nhau giữa các

cơ quan này. Điều này dẫn đến sự cần thiết phải hợp tác giữa các cơ quan để

việc thực thi pháp luật mang lại được hiệu quả cao hơn. Các quy định trong cơ

chế hợp tác quản lý cũng cần phải rõ ràng, minh bạch và đem lại hiệu quả.

Tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực trong hoạt động hợp tác giữa cơ

quan quản lý cạnh tranh và cơ quan điều tiết ngành, quá trình hợp tác giữa các

cơ quan quản lý trong thực thi luật và chính sách cạnh tranh cần được đẩy

mạnh hơn nữa. Trong đó, các cơ quan quản lý ngành phải coi trọng yếu tố

cạnh tranh bình đẳng là cơ sở để phát triển kinh tế xã hội và phát triển ngành.

Từ đó nâng cao hợp tác với cơ quan quản lý cạnh tranh trong quá trình tạo ra

môi trường kinh doanh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường, đóng góp xây

dựng kinh tế vững mạnh, hội nhập với kinh tế thế giới.

127

2.3.3.2. Nguyên nhân của những bật cập

Nguyên nhân của những tồn tại nêu trên có cả nguyên nhân khách quan

và nguyên nhân chủ quan dẫn đến chưa sử dụng hiệu quả pháp luật cạnh tranh

trong thời gian qua. Nguyên nhân khách quan xuất phát từ trình độ phát triển

của nền kinh tế còn thấp, pháp luật cạnh tranh là vấn đề mới chúng ta chưa có

nhiều kinh nghiệm. Do vậy, khi hội nhập kinh tế quốc tế cần phải học tập

kinh nghiệm của các nước trên thế giới để xây dựng và thực thi hiệu quả pháp

luật cạnh tranh trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường.

Bên cạnh nguyên nhân khách quan cũng tồn tại không ít nguyên nhân

chủ quan dẫn đến hiệu quả công tác thực thi pháp luật cạnh tranh chưa đạt

được kết quả như kỳ vọng, đó là:

- Thứ nhất: Chưa nhận được sự quan tâm thích đáng của lãnh đạo các cấp

với công tác thực thi pháp luật cạnh tranh. Nhiều nhà lãnh đạo vẫn còn tư duy

bảo hộ, bao bọc, chưa hướng tới xây dựng môi trường cạnh tranh ở nước ta.

- Thứ hai, nhiều quy định của Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng

dẫn thi hành chưa tốt, không có tính thực tiễn nên gây khó khăn cho công tác

thực thi pháp luật cạnh tranh.

- Thứ ba, Cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh chưa đủ mạnh, chưa

tương xứng với nhiệm vụ được giao. Công tác thực thi pháp luật cạnh tranh

và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh bao chùm trong nhiều lĩnh vực

liên quan đến nhiều Bộ, Ban ngành cả Trung ương và địa phương, trong khi

đơn vị thực thi chỉ là cấp Cục thuộc Bộ thì chưa đủ mạnh, làm giảm hiệu quả

công việc.

- Thứ tư: Nhận thức chung của cộng đồng xã hội với pháp luật cạnh

tranh chưa tốt, bao gồm cả cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội, cơ quan

truyền thông báo chí và chính bản thân doanh nghiệp chưa nhận thức được hết

lợi ích của pháp luật cạnh tranh trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của

mình khi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh trên thị trường.

128

- Thứ năm: Chưa xây dựng được cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ

quan quản lý cạnh tranh và các cơ quan điều tiết ngành cùng thực thi nhiệm

vụ bảo vệ môi trường cạnh tranh.

- Thứ sáu: Các công cụ hỗ trợ thực thi pháp luật cạnh tranh còn thiếu.

Chính sách khoan dung và các công cụ điều tra tại chỗ để phát hiện, bảo vệ

chứng cứ chưa hoàn thiện làm giảm số lượng vụ việc vi phạm pháp luật cạnh

tranh bị phát hiện và điều tra trên thị trường.

129

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO

HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT CẠNH TRANH

Ở VIỆT NAM

3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế

3.1.1. Bối cảnh trong nước

Trong thời gian gần đây, tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam đã từng

bước ổn định, lạm phát được kiểm soát. Tăng trưởng kinh tế có bước phục hồi

nhưng môi trường kinh doanh và năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền

kinh tế còn thấp trong khi yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng cao. Nhu cầu

cho phát triển kinh tế xã hội rất lớn nhưng nguồn lực còn hạn hẹp.

Trong thời gian tới, việc tiếp tục đẩy mạnh lộ trình tái cơ cấu nền kinh

tế, tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh... sẽ tác động

không nhỏ tới môi trường kinh doanh. Để loại bỏ các doanh nghiệp khó khăn

về vốn, thị trường và kinh doanh không hiệu quả, hoạt động sáp nhập và tập

trung kinh tế sẽ diễn ra nhiều hơn đặc biệt trong một số lĩnh vực như tài

chính, ngân hàng, sự can thiệp của nhà nước có xu hướng giảm dần, các hành

vi cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm quyền lợi người tiêu dùng sẽ ngày

càng phổ biến và tinh vi.

Cùng với đó, giai đoạn 2015-2020 cũng sẽ là giai đoạn có nhiều biến

động trong công tác hội nhập kinh tế quốc tế, năm 2015 là năm thành lập

Cộng đồng kinh tế ASEAN, nhiều hiệp định song phương và đa phương như

TPP, Việt Nam – EU, Liên minh Hải quan Nga – Belarus - Kazactan… sẽ

trực tiếp tác động tới nền kinh tế Việt Nam. Các doanh nghiệp, tập đoàn kinh

tế nước ngoài sẽ xuất hiện ngày càng nhiều, sự cạnh tranh giữa các doanh

130

nghiệp trong và ngoài nước sẽ diễn ra gay gắt đòi hỏi phải có một chính sách

cạnh tranh đủ mạnh để làm công cụ giúp Chính phủ điều tiết thị trường vận

hành hiệu quả.

3.1.2. Bối cảnh quốc tế

Trong những thập kỷ qua, tình hình thế giới đã có những biến đổi hết

sức nhanh chóng và không thể lường trước được đã ảnh hưởng tới sự nghiệp

phát triển kinh tế xã hội của các nước đang phát triển. Tất cả các nước đều tìm

kiếm lợi ích theo điều kiện của mình. Tình trạng tranh giành lẫn nhau để nắm

lấy công nghệ mới, kể cả việc tranh giành thị trường tiêu thụ hàng hoá giữa

các nước siêu cường về kinh tế đang diễn ra gay gắt. Việc kết hợp giữa cạnh

tranh và hợp tác để bảo vệ lợi ích của mỗi quốc gia cũng đang diễn ra trên

phạm vi toàn cầu.

Theo dự báo của Quỹ tiền tệ quốc tế, nền kinh tế thế giới năm 2015 và

các năm tiếp theo sẽ phục hồi mạnh hơn, tăng trưởng toàn cầu được dự báo

năm 2015 là 4% tăng 0,6 phần trăm so với dự báo tăng trưởng năm 2014.

Song bên cạnh đó tình hình chính trị vẫn còn nhiều biến động: cuộc khủng

hoảng và cuộc chiến chống Nhà nước Hồi giáo IS ở Trung Đông, cấm vận của

phương Tây với Nga... sẽ tác động đến nền kinh tế toàn cầu. Tranh chấp

thương mại sẽ diễn ra nhiều hơn và phức tạp hơn.

Xu thế hội nhập quốc tế vừa là cơ hội vừa là thách thức rất lớn với

sự phát triển kinh tế cho các quốc gia đang phát triển. Tác động của khoa học

công nghệ nhất là công nghệ tin học là một trong những yếu tố quan trọng

làm thay đổi về kinh tế và quan hệ quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học kỹ

thuật và công nghệ mới đã tác động trên tất cả các mặt của đời sống xã hội.

Các nước trong các khu vực khác nhau đã hình thành những liên minh tạo nên

sự hợp tác và cạnh tranh mang tính quốc tế.

131

Thị trường nói chung bị chi phối nhiều bởi yếu tố kinh tế và chính trị,

ngày càng khắt khe về chất lượng và chủng loại sản phẩm, điều đó tác động

rất mạnh đến các nước sản xuất sản phẩm xuất khẩu.

Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và việc tham gia các cam

kết quốc tế song phương và đa phương với yêu cầu cao hơn, toàn diện hơn đòi

hỏi năng lực quản lý của cơ quan quản lý nhà nước phải hiệu quả hơn, năng

lực cạnh tranh của doanh nghiệp phải cao hơn.

3.2. Những vấn đề đặt ra đối với nâng cao hiệu quả thực thi pháp

luật cạnh tranh trong thời gian tới ở Việt Nam

3.2.1. Tạo lập một sân chơi bình đẳng cho cộng đồng doanh nghiệp

Quá trình đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam trong

những năm gần đây đã thúc đẩy thị trường Việt Nam phát triển và trưởng thành

với một tốc độ vượt bậc, góp phần làm cải thiện diện mạo của nền kinh tế Việt

Nam một cách đáng kể. Tuy nhiên, mặt trái quá trình này đã bắt đầu bộc lộ.

Môi trường cạnh tranh ngày càng gắt gao mang tính sống còn với doanh

nghiệp, tâm lý chạy theo lợi nhuận, lợi dụng sự thiếu vắng một khung pháp lý

hoàn chỉnh điều chỉnh các hoạt động kinh tế, cũng như khe hở của các quy định

pháp luật hiện hành, v.v… đã làm xuất hiện trên thị trường nhiều hành vi hạn

chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh gây khó khăn, làm tổn hại đến nền

kinh tế, đến hoạt động kinh doanh và lợi ích kinh tế chính đáng của các doanh

nghiệp và của người tiêu dùng. Do đó, chắc chắn trong thời gian tới, số vụ kiện

liên quan đến Luật cạnh tranh sẽ ngày càng tăng.

Ngoài ra, Việt Nam đã và đang tham gia vào nhiều hiệp định thương

mại tự do song phương và đa phương, theo đó sẽ có rất nhiều các tập đoàn

kinh tế lớn mạnh đầu tư vào Việt Nam. Một điều có thể sẽ xảy ra là những tập

đoàn kinh tế lớn với nguồn lực tài chính lớn mạnh của mình có thể sẽ bóp

méo môi trường kinh doanh bằng cách lạm dụng nguồn tài chính sẵn có chèn

ép và loại bỏ ra khỏi thị trường các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, hiện

132

nay gần 95% các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp nhỏ và vừa với

sức cạnh tranh còn hạn chế. Yêu cầu đặt ra hiện nay là làm sao để đảm bảo

môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp

Việt Nam có cơ hội cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp nước ngoài.

Mặt khác, để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, cũng phải tạo điều

kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam không bị các

doanh nghiệp Việt Nam sử dụng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh để

cản trở phát triển và mở rộng kinh doanh trên thị trường Việt Nam. Những

điều này đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả của pháp luật cạnh tranh.

3.2.2. Đáp ứng được các yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội

Bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam trong những năm qua, đặc biệt

là khi Việt Nam hội nhập sâu, rộng hơn với nền kinh tế quốc tế, đã có nhiều

thay đổi làm cho một số nội dung của Luật Cạnh tranh không còn phù hợp,

hoặc chưa bắt kịp với thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều chiến

lược cạnh tranh mới, trong đó có cả các hành vi phản cạnh tranh đã “du nhập”

và được các doanh nghiệp vận dụng trong hoạt động kinh doanh. Các hành vi

hạn chế cạnh tranh mang tính chất tận thu (exploitative) hoặc đóng cửa thị

trường/loại bỏ đối thủ cạnh tranh (market foreclosure/exclusionnary) được

thực hiện dưới nhiều hình thức mới với mức độ tinh vi, phức tạp ngày càng

cao hơn.

Trong khi đó các quy định hiện hành của Luật Cạnh tranh còn mang

tính kỹ thuật, cứng nhắc chưa nhắm vào bản chất phản cạnh tranh của hành vi

mà chỉ nhắm đến hình thức biểu hiện bên ngoài của hành vi và vì vậy, chưa

bắt kịp với điều kiện thực tiễn, gây khó khăn cho quá trình thực thi pháp luật.

Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh cho thấy còn nhiều dạng thỏa thuận

hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền và

các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần được bổ sung thêm vào các quy

định hiện hành để cơ quan cạnh tranh có cơ sở điều tra, xử lý.

133

Bên cạnh đó, trong thời gian qua, đã có nhiều văn bản quy phạm pháp

luật (đặc biệt là các quy định về điều tiết ngành và doanh nghiệp, tập đoàn

nhà nước) đã được ban hành, bổ sung hoặc sửa đổi. Kết quả rà soát, nghiên

cứu các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật mới cho thấy, do các

đặc thù riêng, thông lệ kinh doanh riêng của một số ngành, lĩnh vực như tài

chính ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông… các cơ quan chức năng đã quy định

thêm nhiều nội dung điều chỉnh hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp

trong ngành. Chính vì vậy, để tránh chồng chéo, mâu thuẫn và đảm bảo sự hài

hòa giữa mục tiêu phát triển ngành và mục tiêu tạo lập, duy trì và thúc đẩy

môi trường cạnh tranh hiệu quả, giúp phát triển kinh tế đòi hỏi cần có các điều

chỉnh tương ứng trong pháp luật cạnh tranh.

3.2.3. Phù hợp với các cam kết mới của Việt Nam trong các Hiệp

định song phương và đa phương

Trong một số các Hiệp định thương mại mà Việt Nam đã và đang tham

gia, ký kết gần đây như: Hiệp định đối tác chiến lược Việt Nam- Nhật Bản ,

Hiệp định tự do thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc, Liên minh Châu

Âu, Liên minh hải quan Nga-Belarus-Kazakhstan và Hiệp định đối tác xuyên

Thái Bình Dương TPP, Việt Nam đã có nhiều các cam kết mới liên quan tới

chính sách cạnh tranh như: minh bạch hóa, các quy định về cơ quan cạnh

tranh và các quy định về phối hợp cùng hành động giữa các cơ quan cạnh

tranh trong khu vực… nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho

các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Để thực hiện tốt các cam kết mới

này, trong thời gian tới, cần nhanh chóng tiến hành rà soát và hoàn thiện pháp

luật cạnh tranh của Việt Nam cho phù hợp.

134

3.3. Quan điểm và định hướng nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật

cạnh tranh trong thời gian tới

3.3.1. Quan điểm

a. Việc thực thi pháp luật cạnh tranh phải đảm bảo thực hiện đầy đủ

các cam kết quốc tế trên cơ sở điều kiện kinh tế, xã hội và năng lực, chất

lượng đội ngũ cán bộ của Việt Nam; đặc biệt chú trọng công tác điều tra,

giám sát, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.

b. Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh

nghiệm quốc tế để xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành hiệu quả pháp

luật cạnh tranh trong thời gian tới.

c. Việc sửa đổi, điều chỉnh chính sách, pháp luật về cạnh tranh phải

đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, minh

bạch và đảm bảo quyền tự do cạnh tranh trong kinh doanh của các doanh

nghiệp. Việc cạnh tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc trung thực,

không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi

ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng.

3.3.2. Định hướng

Việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật và thể chế thực thi pháp luật trong

tình hình mới là cần thiết. Tuy nhiên, do tính phức tạp, hệ trọng nội tại của

pháp luật cạnh tranh cũng như trong mối quan hệ với các pháp luật có liên

quan, công tác nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh trong giai đoạn

tiếp theo cần được thực hiện theo hướng:

a. Phù hợp với quy định của Hiến pháp: Điều 51 Hiến pháp Nước Cộng

Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định “Các chủ thể

thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp

luật”. Điều này đòi hỏi những sửa đổi pháp luật cạnh tranh trong tương lai

phải góp phần môi trường thuận lợi cho các chủ thể thuộc thành phần kinh tế

phát triển.

135

b. Phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Chính

phủ trong tình hình mới: Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm cạnh tranh

bình đẳng, minh bạch của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là một

trong những nội dung quan trọng đã được đề cập đến trong Đại hội lần thứ XI

của Đảng [5], nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa. Để làm được điều đó, việc nâng cao hiệu quả pháp luật cạnh

tranh với vai trò được coi là trụ cột của pháp luật kinh tế công, là “Hiến pháp”

của thị trường như cách ví von của các nhà khoa học là yêu cầu cần thiết.

c. Tiếp thu và phát triển các ưu điểm đồng thời khắc phục các nhược

điểm của hệ thống pháp luật, thể chế hiện hành.

d. Hướng tới xây dựng một cơ quan canh tranh độc lập và chuyên nghiệp.

e. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về luật và chính sách cạnh tranh

trong nên kinh tế thị trường.

3.4. Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi

pháp luật cạnh tranh

3.4.1. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật cạnh tranh 3.4.1.1. Xác định thị trường liên quan

Các quy định pháp luật về xác định thị trường liên quan cần phải điều

chỉnh theo hướng mở, áp dụng linh hoạt, không nên chỉ căn cứ về khả năng

thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ. Các tiêu chí “đặc tính, mục đích sử

dụng và giá cả” cần phải được đánh giá một cách tổng thể phù hợp với từng

sản phẩm, dịch vụ, không nên tách bạch từng tiêu chí cũng như cứng nhắc áp

dụng tất cả các tiêu chí đối với tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ dẫn đến

những kết luận về thị trường liên quan sai lệch, xa rời thực tế.

Các đánh giá kinh tế, các phép thử thị trường cần phải được sử dụng, và

là căn cứ thiết yếu trước khi đưa ra kết luận về thị trường liên quan trong vụ

136

việc hạn chế cạnh tranh. Do đó, các quy định về các phép thử thị trường và

ngưỡng của phép thử nhằm xác định thị trường liên quan phải được điều

chỉnh cho phù hợp với thực tiễn.

3.4.1.2. Quy định về thủ tục khiếu nại vụ việc cạnh tranh

Đối với cá nhân, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại đối với hành vi vi

phạm pháp luật cạnh tranh cần phải có sự điều chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi

cho bên khiếu nại tố cáo, thông báo hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật tới

cơ quan cạnh tranh. Thay vì thủ tục khiếu nại với nghĩa vụ chứng minh thuộc

bên khiếu nại, cơ quan cạnh tranh cần phải có cơ chế tiếp nhận tất cả các

thông tin về các vấn đề của thị trường để từ đó ra quyết định can thiệp trong

trường hợp cần thiết. Điều này sẽ dẫn tới một số thay đổi cơ bản về thủ tục

khiếu nại và thụ lý đơn khiếu nại:

Tất cả các tổ chức, cá nhân đều có quyền khiếu nại về các hành vi vi

phạm pháp luật cạnh tranh thay vì chỉ người chịu thiệt hại bởi hành vi vi

phạm pháp luật cạnh tranh mới có quyền khiếu nại như hiện nay;

Người khiếu nại có thể cung cấp thông tin, chứng cứ về khiếu nại của

mình tuy nhiên đây không nên là một nghĩa vụ bắt buộc;

Cơ quan cạnh tranh cần có thẩm quyền đánh giá các khiếu nại và lựa

chọn các vụ việc để điều tra và xử lý. Nghĩa vụ chứng minh trong mọi trường

hợp thuộc cơ quan cạnh tranh;

Loại bỏ nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng phí xử lý vụ việc cạnh tranh của bên

khiếu nại.

3.4.1.3. Quy định về quy trình điều tra, xử lý vụ việc

- Về thời hạn điều tra, thời hạn ra quyết định xử lý vụ việc hạn chế

cạnh tranh, như đã phân tích, mặt trái của việc quy định thời hạn đó là không

có nhiều thời gian để điều tra viên và thành viên Hội đồng cạnh tranh phân

tích vụ việc một cách chính xác, toàn diện. Vì vậy, Việt Nam cần học tập và

137

vận dụng sáng tạo kinh nghiệm thực thi pháp luật cạnh tranh như Nhật Bản,

Hoa Kỳ hay Châu Âu, theo đó thời hạn điều tra của các vụ việc cạnh tranh,

đặc biệt là liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh thường không quy định

hay ràng buộc. Tại các quốc gia này, có những vụ việc cạnh tranh kéo dài 2

năm thậm chí là 5 năm, phụ thuộc vào tính chất phức tạp của vụ việc.

- Về khiếu nại quyết định của Hội đồng cạnh tranh, như đã phân tích

các bất cập của các quy định về khiếu nại vụ việc cạnh tranh, theo đó nếu

doanh nghiệp nộp hồ sơ khiếu nại tại Tòa án địa phương nào thì cơ quan cạnh

tranh sẽ phải theo kiện tại địa phương đó. Quy định như vậy gây khó khăn rất

lớn cho cơ quan cạnh tranh trong bối cảnh nguồn lực có hạn mà thời gian tố

tụng lại dài. Chính vì vậy, việc giải quyết khiếu nại cho các doanh nghiệp về

quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh cần có quy định tập trung các đầu

mối giải quyết khiếu kiện các vụ án hành chính tại các trung tâm đầu não về

kinh tế, chính trị đặt tại các địa phương một cách hợp lý, vừa phục vụ việc thụ

lý vụ án phù hợp với nguyện vọng của các bên đương sự, tại Tòa án có đủ

nguồn lực giải quyết vụ án, tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước về

cạnh tranh thuận lợi trong việc theo kiện cũng như làm giảm tình trạng khiếu

kiện tràn lan có thể xảy ra trong tương lai.

3.4.1.4. Quy định về biện pháp xử lý vi phạm

- Liên quan đến quy định về phạt tiền đối với các hành vi hạn chế cạnh

tranh, như đã phân tích, việc xác định mức phạt căn cứ trên tổng doanh thu

của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm là không hợp lý. Để

điều chỉnh, cần xác định mức phạt dựa theo doanh thu của doanh nghiệp trên

thị trường liên quan hoặc trên thị trường bị ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm

pháp luật.

- Cơ sở để xác định mức phạt tiền cụ thể trong các vụ việc hạn chế cạnh

tranh, để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động xử lý vi phạm, cần quy

138

định cụ thể nguyên tắc xác định mức xử phạt, cách thức áp dụng các tình tiết

tăng nặng, giảm nhẹ… trong tính toán mức phạt. Cụ thể cần quy định mức

phạt cơ bản (basic fine) đối với các hành vi vi phạm và quy định mức tăng,

giảm tỷ lệ phạt tương ứng đối với các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng.

Ngoài ra, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, cần bổ sung mức phạt tiền tối

thiểu đối với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật về hạn chế cạnh tranh, đồng

thời bổ sung các chế tài đối với các Hiệp hội ngành hàng trong các vụ việc,

đặc biệt là các vụ việc liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

- Về biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả, cần điều chỉnh, bổ

sung các biện pháp theo hướng tăng cường phổ biến, giáo dục nhận thức cho

hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh, khôi phục lại các

điều kiện cạnh tranh công bằng, thực hiện các cam kết không vi phạm pháp luật

cạnh tranh trong tương lai. Quan trọng hơn, do các biện pháp này có ý nghĩa

đặc biệt quan trọng trong xử lý vụ việc cạnh tranh, nên cần có cơ chế cho phép

cơ quan cạnh tranh phân tích, đánh giá và đề xuất các biện pháp khắc phục hậu

quả đối với từng vụ việc cụ thể.

3.4.1.5. Quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Cần bổ sung một quy định chung hay nói cách khác là một “điều khoản

quét” (basket clause) về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm “quét”

hết các dạng hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường, trong điều kiện cạnh

tranh khốc liệt, các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ngày càng được

doanh nghiệp biến hóa không ngừng nhằm đối phó với cơ quan cạnh tranh.

Mặc dù hình thức thỏa thuận có thể thay đổi, tuy nhiên bản chất hạn chế cạnh

tranh của hành vi chỉ liên quan đến việc hạn chế những yếu tố cạnh tranh như

giá cả, khu vực phân phối, thị trường tiêu thụ, sản lượng, chất lượng hàng

hóa, dịch vụ.

139

Nếu chỉ dùng phương pháp liệt kê hành vi như hiện nay sẽ không thể

bao trùm hết các loại hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Do đó, để đạt

được hiệu quả, cho rằng cần kết hợp hài hòa với phương pháp tiếp cận hợp lý.

Nói cách khác, bên cạnh việc coi các hành vi được liệt kê trong luật cũng như

trong các văn bản hướng dẫn là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cần

cho phép áp dụng quy định chung hay nói cách khác là một “điều khoản quét”

(basket clause) mô tả bản chất của hành vi, không nên chỉ quy định dựa theo

các hình thức biểu hiện bên ngoài một cách cứng nhắc.

- Bổ sung quy định điều chỉnh hành vi của Hiệp hội các doanh nghiệp

trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Mặc dù Hiệp hội không trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh hay

“cạnh tranh” trên thị trường, nhưng hoạt động của các hiệp hội nói chung có

thể có tác động lớn tới việc “tạo điều kiện để hình thành và thực hiện thỏa

thuận giữa các thành viên”. Do đó, cơ quan cạnh tranh cần cân nhắc bổ sung

các quy định để điều chỉnh hành vi của Hiệp hội để phù hợp với thực tiễn và

tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật.

- Xem xét điều chỉnh các hành vi thuộc nhóm bị cấm tuyệt đối và cấm

tùy theo từng trường hợp cụ thể theo hướng:

+ Cấm tuyệt đối đối với 4 dạng thỏa thuận luôn bị coi là nghiêm trọng

trong mọi trường hợp gồm: thỏa thuận ấn định giá; thỏa thuận phân chia thị

trường; thỏa thuận hạn chế, kiểm soát sản lượng sản xuất, mua bán và; thông

đồng đấu thầu.

+ Cấm theo từng trường hợp cụ thể đối với các dạng thỏa thuận khác

(bao gồm thỏa thuận ngang ít nghiêm trọng và thỏa thuận dọc) tùy theo đặc

thù của từng ngành, đặc điểm của từng thị trường. Các hành vi dạng này nên

xem xét cấm theo nguyên tắc hợp lý (rule of reason), dựa trên cơ sở cân nhắc

giữa “lợi ích” và “chi phí”, hay nói cách khác là cân bằng giữa tác động thúc

đẩy cạnh tranh và tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi.

140

- Xem xét sửa đổi cách tiếp cận đánh giá thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

dựa theo tiêu chí duy nhất là thị phần như hiện nay

Mặc dù việc xem xét áp dụng cấm dựa trên một tiêu chí định lượng duy

nhất là thị phần có thể tương đối dễ thực thi và phù hợp đối với các cơ quan

cạnh tranh còn non trẻ, tuy nhiên nó chưa thực sự phản ánh đúng bản chất, ý

nghĩa và mục đích của việc điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Vì vậy, đề xuất cân nhắc sửa đổi cách tiếp cận khi đánh giá thỏa thuận

hạn chế cạnh tranh, nghĩa là khi xem xét điều chỉnh các loại thoả thuận không

thuộc nhóm thoả thuận nghiêm trọng, cơ quan cạnh tranh không nên chỉ dựa

theo tiêu chí thị phần kết hợp giữa các bên tham gia thoả thuận, mà có thể cân

nhắc điều chỉnh theo nguyên tắc hợp lý được một số cơ quan cạnh tranh tiến

bộ trên thế giới áp dụng, theo đó việc đánh giá được chia thành hai bước cụ

thể như sau:

Bước 1: đánh giá về khả năng gây hạn chế cạnh tranh của thoả thuận,

trong đó xem xét sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham gia thoả

thuận nhằm đánh giá phạm vi, mức độ tác động đối với thị trường. Để đánh

giá sức mạnh thị trường, ngoài yếu tố thị phần, cần tính đến các yếu tố khác

như: (1) cấu trúc thị trường; (2) khả năng sản xuất dư thừa của đối thủ cạnh

tranh; (3) rào cản gia nhập thị trường và (4) sức mạnh của người mua. Phần

khuyến nghị chi tiết liên quan đến đánh giá sức mạnh thị trường được trình

bày trong Mục “Các quy định chung”.

Bước 2: Trong trường hợp thỏa thuận có khả năng gây hạn chế cạnh

tranh, cơ quan cạnh tranh sẽ tiếp tục đánh giá liệu thỏa thuận đó có mang lại

lợi ích thúc đẩy cạnh tranh hay không và liệu tác động thúc đẩy cạnh tranh

của thỏa thuận có lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh do nó mang lại hay

không. Các tiêu chí có thể giúp các cơ quan cạnh tranh đánh giá có thể gồm:

(1) lợi ích kinh tế mà thỏa thuận đó mang lại;

141

(2) tính cần thiết của thỏa thuận nhằm đạt được các lợi ích kinh tế đó;

(3) phần lợi ích được chuyển/chia sẻ cho người tiêu dùng và;

(4) tính không loại bỏ cạnh tranh của thỏa thuận.

Tuy nhiên, để áp dụng nguyên tắc hợp lý một cách hiệu quả, sao cho

phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội và bối cảnh kinh doanh của

Việt Nam, cần nghiên cứu kỹ để đưa ra một bộ tiêu chí đánh giá rõ ràng, phù

hợp, theo đó đảm bảo sự cân bằng giữa phương pháp liệt kê và tiếp cận hợp lý

về mặt kinh tế.

- Liên quan đến các quy định miễn trừ

Như đã trình bày ở trên, đối với các thỏa thuận thuộc nhóm nghiêm

trọng (hardcore cartel), bao gồm 4 hành vi:

(1) thỏa thuận ấn định giá;

(2) thỏa thuận phân chia thị trường;

(3) thỏa thuận hạn chế sản lượng; và

(4) thông đồng đấu thầu.

Cần sửa đổi quy định hiện tại theo hướng cấm trong mọi trường hợp và

không áp dụng miễn trừ đối với nhóm hành vi này. Đối với các thỏa thuận

khác, cần nghiên cứu áp dụng nguyên tắc hợp lý, theo đó cơ quan cạnh tranh

sẽ xem xét trên cơ sở đánh giá yếu “chi phí” và “lợi ích” của thỏa thuận. Theo

cách tiếp cận này, Việt Nam không cần phải ban hành các quy định về miễn

trừ. Các điều kiện xem xét miễn trừ quy định tại Điều 10, Luật Cạnh tranh

hiện nay có thể được đưa vào bộ tiêu chí để đánh giá “chi phí” và “lợi ích”

của hành vi thỏa thuận (ngoài hardcore cartel). Miễn trừ, nếu có, có thể xem

xét áp dụng trong trường hợp đặc thù ngành (block exemptions), tuy nhiên

việc này cần được cân nhắc kỹ lưỡng để tránh việc lạm dụng và làm giảm

thiểu vai trò, vị thế cũng như hiệu quả của Luật Cạnh tranh. Đồng thời, thời

hạn miễn trừ và các điều kiện gia hạn thời hạn được hưởng miễn trừ cũng cần

được xem xét quy định.

142

- Liên quan đến chương trình khoan dung

Đặc thù của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là có sự tham gia của hai

hay nhiều doanh nghiệp, và không phải lúc nào lợi ích cũng được cân bằng

giữa các bên tham gia. Chính vì vậy mà thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường

không bền vững. Tuy nhiên, khi lợi ích mà thỏa thuận đem lại cho các doanh

nghiệp tham gia quá lớn, thêm vào đó nhận thức về pháp luật cạnh tranh của

họ được nâng cao dẫn đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có xu hướng “ngầm

hóa” và cơ quan cạnh tranh không dễ dàng phát hiện được.

Trong khi đó, Chương trình khoan dung lại chỉ ra những mức lợi ích cụ

thể như miễn hoặc giảm một phần trách nhiệm pháp lý đối với các bên tham

gia thỏa thuận tùy thuộc vào mức độ tự nguyện khai báo, hợp tác với cơ quan

cạnh tranh, thứ tự, thời điểm khai báo...Với những đặc điểm như thế, Chương

trình khoan dung tạo một động cơ thúc đẩy doanh nghiệp tham gia thỏa thuận

tìm đến Chương trình này như một giải pháp để né tránh các chế tài xử phạt,

đồng thời giải tỏa những quan ngại rằng các doanh nghiệp khác đã khai báo

trước với cơ quan cạnh tranh về hành vi vi phạm.

Thực tiễn thực thi của một số nước tiên tiến như Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU

cũng cho thấy tác dụng rõ rệt của Chương trình khoan dung trong phát hiện và

xử lý các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Đồng thời, việc luật hóa và áp

dụng Chương trình khoan dung đã trở thành xu hướng chung, được rất nhiều cơ

quan cạnh tranh trên thế giới thực hiện. Tuy nhiên, Chương trình khoan dung ở

các quốc gia được quy định khác nhau. Do đó, Việt Nam cũng nên thiết kế một

Chương trình khoan dung riêng, phù hợp với thực tiễn và tập quán kinh doanh,

thực thi pháp luật của các doanh nghiệp tại Việt Nam.

Chìa khóa thành công của một Chương trình khoan dung chính là phải

kết hợp với hình thức và mức xử phạt phải đủ mạnh. Bên cạnh đó, các quy

định về chương trình khoan dung phải được xây dựng dựa trên nguyên tắc

143

minh bạch, rõ ràng. Đồng thời, cũng cần quan tâm đến cơ chế bảo mật thông

tin về đối tượng khai báo và bảo vệ nhân chứng. Có như vậy, chương trình

khoan dung mới trở thành một công cụ hữu hiệu giúp cơ quan cạnh tranh thực

thi hiệu quả các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

3.4.1.6. Quy định kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm

dụng vị trí độc quyền trên thị trường

- Liên quan đến quy định về xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền

Thực tiễn gần 10 năm thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm

soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền đã cho thấy nhu cầu cấp

thiết phải thay đổi cách thức xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền hiện nay.

Đặc biệt, cần nghiên cứu để thay đổi cách thức đánh giá vị trí thống lĩnh/sức

mạnh thị trường dựa chủ yếu vào tiêu chí thị phần thông qua các ngưỡng thị

phần cố định như hiện nay. Để đánh giá chính xác hơn về sức mạnh kiểm soát

thị trường của doanh nghiệp, các yếu tố cần xem xét có thể bao gồm năng lực

vượt trội của doanh nghiệp; rào cản gia nhập thị trường; sức mạnh của người

mua; các nguồn lực thiết yếu mà doanh nghiệp đang nắm giữ, điều kiện thị

trường…

Mặc dù ủng hộ việc quy định các tiêu chí đánh giá vị trí của doanh

nghiệp trên thị trường, tuy nhiên, cơ quan cạnh tranh chỉ nên quy định các

tiêu chí dưới dạng nguyên tắc chung. Thay vì các quy định mang tính liệt kê

cụ thể một cách cứng nhắc, Luật Cạnh tranh cần đòi hỏi cơ quan thực thi pháp

luật phải có các đánh giá, phân tích kinh tế chuyên sâu hơn khi đánh giá vị

trí/sức mạnh thị trường của doanh nghiệp. Ngoài ra, khi đánh giá vị trí/sức

mạnh thị trường của doanh nghiệp, cơ quan cạnh tranh cần đánh giá trong xu

hướng vận động, phát triển của thị trường, bối cảnh kinh tế… thay vì chỉ xem

xét trong trạng thái tĩnh như hiện nay.

144

- Xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá hành vi lạm dụng

Để giải quyết các hạn chế như hiện nay, cần thiết phải xây dựng hệ

thống các tiêu chí đánh giá hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/ độc quyền,

đồng thời phải có quy định bao quát các hành vi lạm dụng có tác động hạn

chế cạnh tranh có thể xảy ra. Trong thời gian tới, quy định của Luật Cạnh

tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền có thể được sửa đổi

theo hướng:

Không nên phân biệt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và lạm dụng vị

trí độc quyền để điều chỉnh như hiện nay. Thay vào đó, cần tập trung vào bản

chất của hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường của doanh nghiệp;

Xây dựng các tiêu chí cơ bản nhằm đánh giá hành vi lạm dụng vị trí

thống lĩnh. Các tiêu chí cần tập trung vào bản chất trục lợi hay đóng cửa thị

trường của hành vi, không nên căn cứ vào mô tả về các biểu hiện bên ngoài

của hành vi như hiện nay;

Bên cạnh việc liệt kê liệt kê một số hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh

biết được theo các tiêu chí hợp lý, Luật Cạnh tranh cần có điều khoản quét để

bao quát hành vi có bản chất chất trục lợi hay đóng cửa thị trường của doanh

nghiệp có vị trí thống lĩnh.

3.4.1.7. Quy định về tập trung kinh tế

- Về phạm vi và các hình thức TTKT phải kiểm soát

Các giao dịch TTKT theo chiều dọc (đặc biệt là các doanh nghiệp tham

gia vụ việc nằm ngay cạnh nhau trong chuỗi cung ứng/sản xuất) cũng có khả

năng gây ra tác động hạn chế cạnh tranh nhất định trên mỗi cấp độ thị trường

là nơi hoạt động của các doanh nghiệp tham gia TTKT ngay cả khi doanh

nghiệp được hình thành sau TTKT không cần phải thực hiện các hành vi phản

cạnh tranh. Hai tác động phổ biến nhất được các cơ quan cạnh tranh quan tâm

là hành vi phân biệt giá (price discrimination) và phong tỏa thị trường (market

foreclosure).

145

Ngoài ra, có một số dạng giao dịch thuộc dạng biên như mua lại phần

sở hữu của cổ đông thiểu số; mua/bán một phần tài sản độc lập cũng cần phải

được Luật cạnh tranh xem xét điều chỉnh. Những giao dịch dạng này có thể

được xem xét điều chỉnh dưới dạng kiểm soát TTKT. Ở trường hợp khác, khi

một giao dịch TTKT được thực hiện trong nội bộ doanh nghiệp thì giao dịch

TTKT đó có thể được coi là một hoạt động tái cấu trúc của bản thân doanh

nghiệp và không làm thay đổi đáng kể tình trạng cạnh tranh trên thị trường.

Do đó, cần phải có quy định miễn trừ đối với các dạng giao dịch nội bộ này.

Với lý do trên, cần xem xét mở rộng việc điều chỉnh cả về hình thức và

hành vi của giao dịch TTKT. Cần xem xét kiểm soát cả các giao dịch TTKT

được thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có tác động gây hạn chế cạnh

tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam.

Một vấn đề đặt ra là hiện tại Luật cạnh tranh Việt Nam chỉ mới kiểm

soát bằng hình thức thông báo hoặc cấm/miễn trừ đối với hoạt động TTKT

thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Việc sáp nhập các công ty đa quốc gia hoạt

động ngoài lãnh thổ Việt Nam nếu có tiềm ẩn khả năng gây hạn chế cạnh

tranh tại Việt Nam sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn từ cả phía doanh nghiệp và

cơ quan quản lý nhà nước. Chính vì vậy, cần có thêm các quy định tạo hành

lang pháp lý để Cơ quan cạnh tranh có thể xem xét các vụ việc này ngay từ

giai đoạn đầu là cần thiết.

- Về bổ sung ngưỡng thông báo TTKT

Luật cạnh tranh Việt Nam kiểm soát vụ việc TTKT thông qua tiêu chí

thị phần. Việc sử dụng tiêu chí thị phần để xác định ngưỡng thông báo tập

trung kinh tế sẽ giúp cơ quan cạnh tranh có được đánh giá ban đầu chính xác

hơn về khả năng gây hạn chế cạnh tranh của vụ việc, từ đó gia tăng tỷ trọng

các vụ việc thực sự có vấn đề về cạnh tranh trong tổng số các vụ việc mà cơ

quan cạnh tranh phải xem xét. Tuy nhiên, các tiếp cận sử dụng tiêu chí thị

146

phần trên thị trường liên quan cũng gây ra rất nhiều khó khăn cho doanh

nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục thông báo TTKT như xác định thị

trường liên quan, xác định thị phần của mình trên thị trường liên quan. Chính

vì vậy, bên cạnh tiêu chí thị phần, cần bổ sung thêm các yếu tố dễ nhận biết

khác như doanh thu trong năm tài chính, giá trị giao dịch tập trung kinh tế…

để xác định ngưỡng thông báo TTKT.

- Về đánh giá tác động cạnh tranh của vụ việc TTKT

Về phương pháp đánh giá tác động của vụ việc TTKT, cần xác định và

làm rõ một số nội dung dưới đây.

Thị phần và các phương pháp đánh giá mức độ tập trung thị trường

đóng vai trò quan trọng trong phân tích vụ việc TTKT. Đó là những thông tin

ban đầu giúp cơ quan cạnh tranh nhận diện khả năng gây quan ngại về cạnh

tranh của vụ việc TTKT, để từ đó tiến hành các phân tích sâu hơn. Tuy nhiên,

cần lưu ý đây không phải là yếu tố quyết định về khả năng gây hạn chế cạnh

tranh một cách đáng kể của vụ việc. Các đánh giá cụ thể khác về điều kiện thị

trường là cần thiết để đưa ra một nhận định về sức mạnh thị trường.

Đánh giá tác động của vụ việc TTKT dựa trên các tiêu chí:

Tác động đơn phương: (i) vị thế các bên tham gia TTKT; (ii) áp lực

cạnh tranh từ các doanh nghiệp không tham gia TTKT; (iii) áp lực cạnh tranh

trực tiếp hoặc tiềm năng từ nhập khẩu và khả năng gia nhập thị trường của đối

thủ mới; (iv) hiệu quả kinh tế và khả năng tồn tại của các bên tham gia TTKT;

Tác động kết hợp: (i) khả năng thiết lập điều kiện kết hợp; (ii) khả năng

phát hiện vi phạm khi thực hiện tác động kết hợp; (iii) khả năng trừng phạt

những vi phạm đó.

Từ lý do trên, cần quy định thêm các biện pháp khắc phục hậu quả hoặc

điều chỉnh cần thiết mà cơ quan cạnh tranh có thể chủ động áp dụng đối với

các bên tham gia vụ việc TTKT.

147

Ngoài ra, khi sửa luật cần có quy định cho phép cơ quan cạnh tranh

quyền đánh giá sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham gia TTKT và

đánh giá tác động vụ việc TTKT, cũng như việc đưa ra yêu cầu đối với các

bên tham gia TTKT có các biện pháp khắc phục thì quy định về việc xin

hưởng miễn trừ là không cần thiết.

3.4.1.8. Quy định điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Về bản chất, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định

hiện nay bao gồm: quảng cáo, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh,

chỉ dẫn gây nhầm lẫn,… là các hành vi thương mại thông thường và nhiều

hành vi đã được quy định tại các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật

Quảng cáo, Luật sở hữu trí tuệ… Bên cạnh đó, trong quá trình thực thi, rất

khó phân biệt giữa các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi đơn

thuần chỉ vi phạm pháp luật chuyên ngành. Do đó, cần nghiên cứu loại bỏ các

quy định này trong Luật cạnh tranh để đảm bảo tính thống nhất giữa pháp luật

cạnh tranh với pháp luật chuyên ngành. Các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh khác nếu chưa được quy định ở các văn bản pháp luật chuyên ngành

như bán hàng đa cấp bất chính, gièm pha doanh nghiệp khác… thì nên xem

xét ban hành một văn bản riêng điều chỉnh hành vi này.

3.4.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan cạnh tranh

3.4.2.1. Thành lập Ủy ban cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng

Căn cứ trên phân tích ở trên, để đảm bảo thực thi hiệu quả pháp luật

cạnh tranh trong thời gian tới, Việt Nam nên thành lập Ủy ban cạnh tranh và

bảo vệ người tiêu dùng độc lập trực thuộc Chính phủ trên cơ sở nhập Cục

Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh hiện nay vì các lý do sau đây.

Thứ nhất, việc thành lập một cơ quan cạnh tranh trực thuộc Chính phủ

thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước về việc đẩy mạnh thực thi

pháp luật cạnh tranh hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền, hạn chế

148

các can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính của Chính phủ trong quá trình điều

tiết nền kinh tế.

Thứ hai, hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh chủ yếu được thể

hiện trong hoạt động điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh. Trong điều kiện ở

nước ta hiện nay khi mà các doanh nghiệp nhà nước đang giữ hầu hết các lĩnh

vực then chốt của nền kinh tế, do đó đối tượng điều tra của cơ quan cạnh tranh

có thể sẽ là các Tổng Công ty nhà nước, các tập đoàn kinh tế lớn và thậm chí là

cả các cơ quan quản lý nhà nước. Nếu không có một vị thế đủ mạnh thì cơ quan

cạnh tranh sẽ không thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Đặc biệt, nếu

vẫn để cơ quan cạnh tranh trực thuộc Bộ Công Thương như hiện nay sẽ dẫn

tới việc “vừa đá bóng vừa thổi còi” vì hiện nay Bộ Công Thương đang quản

lý nhiều tập đoàn, tổng công ty lớn có vị trí thống lĩnh thị trường trong các

lĩnh vực như: bia, rượu, dầu khí, điện lực, xăng dầu…

Thứ ba, cần cân nhắc có nên đặt cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam

tại Bộ Công Thương hay không có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về tính đa

ngành cao của Luật Cạnh tranh. Thậm chí, trên thực tế, Luật Cạnh tranh

thường xuyên được đề cập tới như một luật khung, hoặc nguyên tắc cơ bản

phục vụ xây dựng các quy định chuyên ngành trong nền kinh tế thị trường

hiện đại.

Sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ với các cơ quan chuyên ngành, do

đó, là một nhân tố cốt yếu quyết định sự thành công, tính hiệu lực của Luật

nhằm đảm bảo và thúc đẩy môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng

trong toàn bộ nền kinh tế.

Thứ tư, vị trí độc lập của một cơ quan trực thuộc Chính phủ giúp đảm

bảo và thúc đẩy việc tập trung chuyên môn, tính công chính, minh bạch và

khả năng chịu trách nhiệm và giải trình của cơ quan này. Tự chủ về quá trình

tuyển chọn, bổ nhiệm cũng như đào tạo nhân sự, cũng như tự chủ về mặt ngân

149

sách hoạt động đảm bảo cho cơ quan cạnh tranh có thực quyền cao hơn. Đây

cũng là kinh nghiệm của nhiều quốc gia phát triển trên thế giới.

Thứ năm, một trong những chức năng quan trọng khác của hầu hết các

cơ quan cạnh tranh trên thế giới là chức năng tham vấn. Tại Nghị định

06/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006 cũng quy định Cục Quản lý cạnh tranh có

quyền “phát hiện và kiến nghị cơ quan có liên quan giải quyết theo thẩm

quyền về những văn bản đã ban hành có nội dung không phù hợp với quy

định của pháp luật cạnh tranh”. Đây đã là một điểm khá tiến bộ theo hướng

cho phép cơ quan cạnh tranh được quyền loại bỏ tất cả các quy định đi ngược

lại với các nguyên tắc cạnh tranh. Tuy nhiên, để làm được điều này đòi hỏi cơ

quan cạnh tranh phải có vị trí đủ mạnh.

Thứ sáu, để đáp ứng đòi hỏi ngày càng tăng của hội nhập kinh tế quốc

tế, số vụ kiện về các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh chắc chắn sẽ tăng

lên một cách đáng kể. Điều này đòi hỏi quy mô của cơ quan cạnh tranh phải

được mở rộng nhằm đảm bảo nguồn tài chính, nhân lực để thực thi hiệu quả

các công việc được giao.

Thứ bảy, theo thống kê, trong số 90 cơ quan cạnh tranh hiện nay trên

thế giới, chỉ Việt Nam còn tồn tại mô hình hai cơ quan, một chịu trách nhiệm

về điều tra, một chịu trách nhiệm về xử lý (như mô hình cũ của Cơ quan cạnh

tranh Pháp). Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất giữa Hội đồng cạnh tranh của

Pháp trước đây và của Việt Nam là ở Hội đồng cạnh tranh Pháp, ngoài các

thành viên Hội đồng còn có các báo cáo viên. Báo cáo viên đóng vai trò như

các điều tra viên của Cục Quản lý cạnh tranh. Trong một số trường hợp, thông

qua các báo cáo viên Hội đồng có thể tự tiến hành điều tra hoặc tự điều tra bổ

sung trên cơ sở những chứng cứ sơ bộ mà Tổng Vụ cạnh tranh và trấn áp gian

lận Pháp gửi lên. Một trong những điểm yếu lớn nhất của mô hình hai cơ

quan như Việt Nam hiện nay là do các thành viên của các cơ quan xử lý

không theo sát được quá trình điều tra vụ việc. Do đó, chỉ dựa vào các báo

150

cáo điều tra cuối cùng của các điều tra viên, họ sẽ khó đưa ra được các quyết

định chính xác về hành vi vi phạm. Ví dụ, tại Uỷ Ban Thương mại liên bang

Hoa Kỳ, trước khi quyết định có điều tra chính thức một vụ việc cạnh tranh

hay không, các điều tra viên phải trình bày các lập luận trước các Uỷ viên

(người đóng vai trò như các thành viên Hội đồng cạnh tranh Việt Nam).

Trong trường hợp các điều tra viên đưa ra chứng cứ thuyết phục được các Uỷ

viên, họ sẽ có quyết định cho phép điều tra chính thức vụ việc. Cơ chế này

giúp giảm thiểu các trường hợp yêu cầu điều tra bổ sung hoặc kịp thời có

quyết định đình chỉ điều tra khi thấy cần thiết, và như vậy sẽ tiết kiệm được

nguồn lực và kinh phí cho cơ quan điều tra.

Theo kinh nghiệm của hầu hết các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà

Lan, EU, Đức..., trong giai đoạn tới, Việt Nam nên nhập Cục Quản lý cạnh

tranh và Hội đồng cạnh tranh thành một cơ quan trực thuộc Chính phủ.

3.4.2.2. Tiếp tục xây dựng đội ngũ điều tra viên

Theo quy định tại Điều 52 Luật cạnh tranh thì điều tra viên vụ việc

cạnh tranh là những người do Bộ trưởng Bộ Công Thương bổ nhiệm phải có

đầy đủ các tiêu chuẩn:

- Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, khách quan;

- Có trình độ cử nhân luật hoặc cử nhân kinh tế, tài chính;

- Có thời gian công tác thực tế ít nhất là năm năm thuộc một trong các

lĩnh vực luật, kinh tế và tài chính;

- Được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ điều tra.

Thực thi pháp luật cạnh tranh là vấn đề rất phức tạp, đòi hỏi các điều

tra viên khi tiến hành tố tụng phải có kiên thức chuyên sâu không chỉ về pháp

lý mà còn bao gồm cả những kiến thức về kinh tế. Phân tích kinh tế đóng vai

trò quan trọng, không thể thiếu khi áp dụng các quy định pháp luật cạnh tranh

trong các vụ việc cụ thể.

151

Đối với pháp luật cạnh tranh, khi tiến hành điều tra các hành vi hạn chế

cạnh tranh (bao gồm: thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống

lĩnh thị trường, vị trí độc quyền và tập trung kinh tế), cơ quan điều tra phải

xác định thị trường liên quan, thị phần của doanh nghiệp có hành vi vi phạm.

Để xác định thị trường liên quan, các điều tra viên phải tiến hành nhiều phân

tích kinh tế khác nhau: từ điều tra xã hội học để thăm dò ý kiến, phản ứng của

người tiêu dùng, đến việc xác định các khả năng thay thế cho nhau của các

sản phẩm cùng loại cũng như phân tích các số liệu, doanh thu của các doanh

nghiệp hoạt động trên thị trường để kết luận về cấu trúc thị trường và tính

chất của sản phẩm... Thị phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan là

yếu tố quyết định để kết luận hành vi do một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh

nghiệp thức hiện có phải là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không.

Ngoài những kỹ năng về tài chính, kinh tế, luật, các điều tra viên cạnh

tranh còn phải được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ điều tra. Cũng giống

như các điều tra viên hoặc kiểm soát viên trong tố tụng dân sự, điều tra viên

cạnh tranh có quyền sử dụng các nghiệp vụ điều tra như: lấy lời khai, khám

xét, thu giữ tang vật, phương tiện vi phạm để làm chứng cứ chứng minh hành

vi vi phạm của đối tượng bị điều tra.

Vì vậy, để xây dựng đội ngũ điều tra viên chuyên nghiệp, Việt Nam

cần thực thi một chiến lược phát triển nguồn nhân lực hợp lý.

- Xây dựng chương trình đào tạo toàn diện cho nhóm các điều tra viên

cạnh tranh.

- Phối hợp với các tổ chức quốc tế, các cơ quan cạnh tranh nước ngoài

tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn về kỹ năng điều tra cho các điều tra viên

của Việt Nam

- Tích cực và tạo điều kiện cử các cán bộ của mình ra nước ngoài tham

gia các khoá đào tạo ngắn và dài hạn.

- Phối hợp với các cơ quan đào tạo nghiệp vụ điều tra trong nước như:

152

Bộ công an, Viện kiểm soát cũng như các Trường đại học để bồi dưỡng nâng

cao các kiến thức về kinh tế, tài chính, luật và kỹ năng điều tra cho các điều

tra viên.

- Hàng năm, tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao nghiệp vụ cho các điều

tra viên.

- Nên đưa các nội dung, kiến thức của pháp luật cạnh tranh vào trong

công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các trường đại học chuyên ngành luật, tài

chính, kinh tế... hoặc các Viện nghiên cứu. Đây chính là nơi đào tạo và cung

cấp nguồn nhân lực chủ yếu và chuyên nghiệp về lĩnh vực này cho cơ quan

quản lý cạnh tranh và các cơ quan hữu quan sau này.

3.4.3. Nâng cao nhận thức của các cơ quan liên quan và cộng đồng

doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh

3.4.3.1. Tăng cường công tác tham vấn với cơ quan điều tiết ngành

Để nâng cao nhận thức của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về

pháp luật cạnh tranh cần triển khai các hoạt động sau:

- Thường xuyên và định kỳ có sự trao đổi, tổng kết giữa lãnh đạo Cơ

quan cạnh tranh với các cơ quan điều tiết ngành để tăng cường nhận thức về

pháp luật cạnh tranh.

- Xây dựng cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin, chính sách giữa cơ quan

cạnh tranh với các cơ quan điều tiết ngành.

- Xây dựng cơ chế cho phép Cơ quan cạnh tranh được tham vấn các

chính sách ngành trước khi ban hành để đảm bảo các chính sách này phù hợp

với các nguyên tắc cạnh tranh.

- Cơ quan cạnh tranh phải tích cực tham gia góp ý vào quá trình soạn

thảo các văn bản quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa chính

sách cạnh tranh và các chính sách khác của Nhà nước.

- Thường xuyên tiến hành rà soát pháp luật cạnh tranh với pháp

153

luật chuyên ngành để chỉ ra những quy định không phù hợp với chính sách và

pháp luật cạnh tranh.

3.4.3.2. Tăng cường nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp

Các hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật cạnh tranh vừa qua đã

đạt được những kết quả và chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, nếu căn cứ trên

mức độ nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp thì hoạt động tuyên truyền,

phổ biến pháp luật cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Do đó, trong thời gian tới,

Cơ quan cạnh tranh cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến.

Bên cạnh các hình thức truyền thống như hội nghị, hội thảo, cần có các hoạt

động tuyên truyền trực tiếp, trực quan, sáng tạo đến doanh nghiệp và các đối

tượng khác của Luật Cạnh tranh.

Ngoài ra, các cơ quan truyền thông báo chí cũng có vai trò rất quan

trọng trong việc chuyển tải chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đến

với doanh nghiệp. Cơ quan quản lý cạnh tranh cần quan hệ chặt chẽ với các

cơ quan truyền thông để kịp thời phản ánh, giới thiệu cho doanh nghiệp biết

các hành vi vi phạm bị xử lý, đặc biệt là các hành vi vi phạm có quy mô lớn,

ảnh hưởng tới nhiều người tiêu dùng để tạo tiếng vang và sự đồng thuận cho

các hoạt động của cơ quan cạnh tranh.

3.4.4. Tăng cường hợp tác quốc tế

Cơ quan cạnh tranh Việt Nam chính thức được thành lập được khoảng

10 năm. So với gần 100 cơ quan cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới, cơ

quan cạnh tranh Việt Nam nằm trong nhóm cơ quan cạnh tranh “non trẻ”. Do

đó, để học tập kinh nghiệm của các nước, Cơ quan cạnh tranh cần tăng cường

mối quan hệ hợp tác với nhiều cơ quan cạnh tranh quốc tế và tham gia tích

cực vào các diễn đàn quốc tế về pháp luật và chính sách cạnh tranh như

ASEAN, ICN, APEC v.v…

Bên cạnh đó, cần có giải pháp hợp tác với các cơ quan cạnh tranh trong

154

khu vực để giải quyết các hành vi phản cạnh tranh có quy mô xuyên biên giới

thông qua việc ký kết các biên bản ghi nhớ, biên bản hợp tác với các cơ quan

cạnh tranh nước ngoài.

Theo thống kê hiện nay, nội dung về chính sách cạnh tranh có rất ít các

trường đại học đưa vào nội dung đào tạo. Do đó, các sinh viên là nguồn lực

đầu vào cho cơ quan cạnh tranh hầu hết chưa có khái niệm về pháp luật cạnh

tranh nên nhu cầu đào tạo là rất lớn. Đặc biệt, các bộ làm công tác cạnh tranh

phải có nhiều kỹ năng điều tra cơ bản như: kỹ năng phỏng vấn lấy lời khai, kỹ

năng thu thập và phân tích chứng cứ, kỹ năng phân tích và đánh giá tác động

kinh tế… Vì vậy, việc hợp tác quốc tế với các cơ quan cạnh tranh nước ngoài

thông qua các hình thức đào tạo, thực tập tại chỗ là rất cần thiết cho cơ quan

cạnh tranh Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.

155

KẾT LUẬN

Hiệu quả thực thi của một quy phạm ngày nay được coi là tiêu chí

quyết định chất lượng của một quy phạm pháp luật. Chất lượng của một quy

phạm pháp luật quyết định chất lượng của một văn bản luật và xa hơn là của

cả một hệ thống luật pháp của một quốc gia. Chính vì vậy, đây là một vấn đề

cần phải được nhìn nhận, đánh giá một cách nghiêm túc. Không thể soạn thảo

và ban hành một văn bản quy phạm pháp luật mà không tính đến hiệu quả

thực sự của nó khi áp dụng vào thực tiễn.

Thực trạng ở Việt Nam cho thấy có rất nhiều văn bản luật có chất lượng,

và được thực thi có hiệu quả. Nhưng cũng có không ít những quy phạm không

được áp dụng trong cuộc sống, không đáp ứng được những mục tiêu mà các

nhà lập pháp đề ra khi ban hành. Luật Cạnh tranh là một ví dụ tiêu biểu cho

tình trạng này. Dù được ban hành từ năm 2005, việc áp dụng Luật Cạnh tranh

trong thực tế còn rất hạn chế. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh hầu như không

làm thay đổi các quan hệ xã hội mà Luật hướng tới để điều chỉnh. Các chủ thể,

đối tượng điều chỉnh của Luật, ngoại trừ các cơ quan thực thi Luật, ít biết đến

sự tồn tại của Luật, hoặc dù có biết cũng không muốn thực thi các quy định của

Luật. Tình trạng này dẫn đến sự tồn tại trên văn bản của Luật Cạnh tranh mà

chưa được thực hiện trong thực tiễn cuộc sống.

Hiệu quả thực thi của Luật Cạnh tranh dường như cần phải xem xét lại.

Vấn đề đặt ra là việc hạn chế này có nguyên do từ chính bản thân quy phạm

đó hay từ việc triển khai áp dụng các quy phạm này bởi các cơ quan thực thi

hay do những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực thi của Luật

Cạnh tranh. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, khi mà các

hoạt động kinh tế vượt ra ngoài khuôn khổ của một quốc gia, các quy định

của Luật Cạnh tranh càng cần phải được xem xét, để đánh giá lại.

156

Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó, Luận án đã đạt được một số kết

quả sau:

1. Về cơ sở lý luận: Luận án đã hệ thống hóa và luận giải lý luận về

pháp luật cạnh tranh và hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh. Điểm mới về

lý luận của luận án là đã chỉ ra một số tiêu chí để đánh giá hiệu quả thực thi

pháp luật cạnh tranh, bao gồm: (1) đánh giá chất lượng của các quy định pháp

luật cạnh tranh thông qua tính hợp pháp và tính thực tiễn của pháp luật cạnh

tranh; (2) đánh giá về công tác tổ chức thực thi pháp luật cạnh tranh, bao gồm

hoạt động của cơ quan thực thi và hoạt động hỗ trợ tiếp cận sử dụng pháp luật

cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp.

2. Về kinh nghiệm của các nước: Phân tích kinh nghiệm để rút ra bài

học là một trong những nội dung chủ yếu của luận án. Nghiên cứu đã phân

tích cụ thể kinh nghiệm các nước từ nội dung pháp luật, cơ quan thực thi, các

biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi của từng nước để tìm ra các nội dung và

bài học có thể áp dụng ở Việt Nam. Các bài học kinh nghiệm rút ra cho thấy:

- Nội dung của pháp luật cạnh tranh phải bao gồm việc điều chỉnh các

nhóm hành vi: lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh và các hành vi về mua bán sáp nhập doanh nghiệp.

- Về hoạt động của cơ quan cạnh tranh: nguyên tắc quan trọng hàng đầu

của cơ quan cạnh tranh là bảo đảm tính độc lập. Độc lập về vị trí và độc lập

khi ra quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Bên cạnh đó, để vận hành tốt, cơ

quan cạnh tranh phải có một số quyền lực cơ bản bao gồm:

+ Phát hiện và loại bỏ các chính sách liên quan làm cản trở môi trường

cạnh tranh.

+ Yêu cầu các cơ quan tổ chức cung cấp thông tin chứng cứ phục vụ

quá trình điều tra vụ việc cạnh tranh.

157

- Ngoài ra, một số công cụ cần thiết khác cũng cần được xây dựng và

thực hiện như chương trình khoan dung… để giúp các cơ quan cạnh tranh

tăng cường nguồn chứng cứ đầu vào để điều tra vụ việc.

3. Về các bất cập trong quá trình thực thi pháp luật cạnh tranh Việt

Nam: Luận án đã chỉ ra một số điểm bất cập sau:

- Về nội dung các văn bản pháp luật: một số quy định liên quan đến

quy trình điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh, quy định về xác định thị trường

liên quan và quy định về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế hiện nay theo

quy định của Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn không phù hợp và

hầu như không thể áp dụng trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay.

- Về biện pháp xử lý vi phạm: mức phạt tiền được xác định căn cứ trên

tổng doanh thu của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm là

không hợp lý vì trên thực tế hành vi vi phạm chỉ tác động trên một thị trường

sản phẩm, dịch vụ nhất định. Doanh thu thu được từ việc kinh doanh hàng hóa

có liên quan đến hành vi vi phạm chỉ chiếm một phần trong tổng doanh thu

của một doanh nghiệp. Vì vậy, việc áp dụng mức phạt dựa trên tổng doanh

thu là không công bằng đối với doanh nghiệp vi phạm.

- Về cơ quan cạnh tranh: Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay là cơ quan

thuộc Bộ Công Thương không đảm bảo vị trí độc lập, còn ôm đồm nhiều

chức năng làm phân tán nguồn lực.

- Về nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp: trong thời gian gần đây

nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh đã có cải thiện

nhưng vẫn ở mức thấp. Đây là một phần nguyên nhân giải thích vì sao nhiều

doanh nghiệp khi quyền lợi của mình bị xâm hại không biết sử dụng pháp luật

cạnh tranh như là một công cụ để bảo vệ mình.

4. Về các giải pháp: Thông qua phân tích kinh nghiệm của các nước và

phân tích, đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh trong thời gian vừa

158

qua, Luận án đã đề ra các giải pháp khắc phục hạn chế và nâng cao hiệu quả

thực thi pháp luật cạnh tranh trong thời gian tới, bao gồm:

- Trong việc hoàn thiện pháp luật, cần xây dựng Luật sửa đổi bổ sung

Luật Cạnh tranh, trong đó cần có làm rõ tiêu chí xác định thị trường liên quan,

minh bạch quy trình xử lý vụ việc, áp dụng hình thức xử lý vi phạm hợp lý

dựa trên cơ sở phạm vi và mức độ vi phạm; bổ sung và hoàn thiện các quy

định liên quan đến các nhóm hành vi vi phạm.

- Trong việc kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ

máy cơ quan thực thi, theo đó đề xuất thành lập một Ủy ban cạnh tranh độc

lập; cần chú trọng công tác cán bộ trong lĩnh vực cạnh tranh.

- Trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp, cần thực

hiện các hoạt động tuyên truyền phổ biến có trọng điểm đến các nhóm doanh

nghiệp trong từng lĩnh vực; đa dạng hóa các hình thức tuyên tuyền; thúc đẩy

và sử dụng hiệu quả phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền tới cộng

đồng doanh nghiệp.

- Trong việc hợp tác quốc tế: cần đẩy mạnh các hoạt động hợp tác với

cơ quan cạnh tranh nước ngoài và tham gia tích cực vào các diễn đàn cạnh

tranh khu vực và trên thế giới để tận dụng kinh nghiệm và đào tạo cán bộ.

Về những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu

5. Luận án đã phân tích và chỉ ra các bất cập về các tiêu chí tiếp cận để

đánh giá các nhóm hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh hiện nay đó là xác

định thị phần trên thị trường liên quan và đề ra một số tiêu chí thay thế bổ

sung. Tuy nhiên, trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của Luận án không đi sâu

vào phân tích ưu nhược điểm cũng như thực tiễn áp dụng các tiêu chí thay

thế, bổ sung này. Do đó, dựa trên đề xuất ban đầu của Luận án, cần có các

nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo làm cơ sở cho các đề xuất sửa đổi pháp luật

cạnh tranh sau này.

159

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

Công trình tiếng Việt

1. Thực thi Luật cạnh tranh Việt Nam: 10 năm nhìn lại, Tạp chí công thương số 4/tháng 3 năm 2015, Hà Nội.

2. Kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế của Việt Nam: Những bất cập và giải pháp, Tạp chí công thương số 6/tháng 3 năm 2015, Hà Nội.

3. Xây dựng thị trường xăng dầu cạnh tranh- những bất cập và giải pháp, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 17/178, tháng 9/2010, Hà Nội.

4. Cạnh tranh – công cụ hữu hiệu để thúc đẩy hiệu quả kinh tế, Hội thảo quốc tế ra mắt Dự án tái cơ cấu kinh tế do Chính phủ Úc tài trợ, Hà Nội, tháng 8 năm 2014, http://rcv.gov.vn/Hoi-thao-khoi-dong-Du-an-Ho-tro-tai-co-cau- kinh-te-nang-cao-nang-luc-canh-tranh-Viet-Nam-11-08-2014.htm.

Công trình tiếng Anh

5. Developments in Vietnamese Competition Law and Policy, Tạp chí chính sách cạnh tranh quốc tế - Competition Policy International, tháng 2 năm 2013, www.competitionpolicyinternational.com.

6. Challenges on Cartel Enforcement, Hội nghị quốc tế về chính sách cạnh tranh Đông Á lần thứ 7, do Viện nghiên cứu ngân hàng ADB tổ chức tại Malaysia, 2-3 tháng 5 năm 2012, www.adbi.org.

7. Regional Experiences in Advocacy: Viet Nam, Hội thảo ASEAN về Công tác tuyên truyền chính sách cạnh tranh, do Viện nghiên cứu ngân hàng ADB tổ chức tại Singapore, tháng 7 năm 2008, www.adbi.org .

160

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Bằng Tiếng Việt

1. Chính phủ (2006), Nghị định của Chính phủ số 05/2006/NĐ-CP

ngày 09/1/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh.

2. Chính phủ (2006), Nghị định của Chính phủ số 06/2006/NĐ-CP

ngày 09/1/2006 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của Cục Quản lý cạnh tranh.

3. Chính phủ (2011), Nghị định số 119/2011/NĐ-CP của Chính phủ

ngày 16/12/2011 về việc sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại Nghị định số

116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật Cạnh tranh.

4. Chính phủ (2014), Nghị định số 42/2014/NĐ-CP của Chính phủ

ngày 14/5/2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.

5. Chính phủ (2014), Nghị định số 71/2014/NĐ-CP của Chính phủ

ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật

trong lĩnh vực cạnh tranh.

6. Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương (2012), Báo cáo tập trung

kinh tế Việt Nam.

7. Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương (2011, 2012, 2013, 2014),

Báo cáo hoạt động thường niên.

8. Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương (2013), Báo cáo rà soát

các quy định pháp luật cạnh tranh Việt Nam.

9. Lê Đăng Doanh, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Hân (1998),

Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo vệ sản xuất trong nước, Nhà xuất bản

Lao động, Hà Nội.

161

10. Lê Đăng Doanh (2012), Tiêu chí về hiệu quả thi hành pháp luật của

Nhà nước: Đánh giá từ giác độ kinh tế, Tia sáng, Bộ Khoa học công nghệ.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, tr.37.

12. Nguyễn Minh Đoan (2012), Hiệu quả của pháp luật: những vấn đề

lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Đồng Thị Hà, Luận án tiến sỹ (2014), Hoàn thiện chính sách cạnh

tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập

kinh tế quốc tế.

14. Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống

cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

15. Dương Đăng Huệ (2004), Mô hình quản lý cạnh tranh của Việt

Nam. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (Số 1).

16. Phạm Duy Nghĩa (1999), Pháp luật cạnh tranh và chống độc

quyền, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (Số 8), tr. 22-36.

17. Tăng Văn Nghĩa (2006), Chính sách cạnh tranh - công cụ vĩ mô

nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dân doanh trong điều kiện

hội nhập kinh tế quốc tế, Nghiên cứu kinh tế, (Số 333), tr 35 - 40.

18. Lê Hoàng Oanh (2005), Bình luận khoa học Luật Cạnh

tranh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Bùi Xuân Phái (2009), Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thi hành

pháp luật, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, (Số chuyên đề tháng 9), tr. 11-17.

20. Nguyễn Như Phát (2000), Xây dựng pháp luật cạnh tranh trong

điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật, (Số 11), tr. 29-36.

21. Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng

162

pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở

Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

22. Hoàng Thị Kim Quế (2005), Chế độ pháp chế thống nhất, hợp lý

và áp dụng chung, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số 9), tr 162.

23. Quốc hội (2004), Luật số 27/2004/QH11 ngày 3 tháng 12 năm

2004, Luật Cạnh tranh, Hà Nội.

24. Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Luật cạnh tranh: Sứ mệnh và triển

vọng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (Số 68), tr. 21-24.

25. Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp

luật cạnh tranh và vấn đề của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (Số

7/79), tr.42-49.

26. Nguyễn Ngọc Sơn (2010), Một số bình luận từ thực tiễn giải quyết

vụ việc về hành vi hạn chế cạnh tranh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Viện

nghiên cứu lập pháp, (Số 1/162), tr.43-51.

27. Lê Thị Bích Thọ, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ (2002), Cơ sở lý luận

và thực tiễn xây dựng Luật cạnh tranh.

28. Trịnh Thị Thanh Thuỷ, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2004),

Cơ sở khoa học xác định mức độ hạn chế cạnh tranh của các thoả thuận và

các tiêu chí miễn trừ trong luật cạnh tranh.

29. Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản vệ pháp luật, Nhà

xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

30. Đào Trí Úc (2011), Thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp

luật ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 7), tr110.

31. Nguyễn Thị Thu Vân (2009), Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận

thông tin. Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số 17), tr 154.

32. Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Luật

cạnh tranh tại Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

163

33. Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2005): Từ điển Luật học, Nhà

xuất bản từ điển bách khoa, Nhà xuất bản tư điển tư pháp, Hà Nội.

34. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (2002), Các vấn đề

pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh

doanh, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội.

35. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (2000), Cơ sở khoa

học và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách cạnh tranh, NXB Lao động,

Hà Nội.

B. Bằng tiếng Anh

36. Andreu Mas - Colell, Michael D. Whiston and Jerry R. Green

(1995), Microeconomics theory, Oxford Universtiy Press.

37. Competition Law Institute, Fordham University (2008),

International antitrust law and policy.

38. Dominick Salvatore (2009), Managerial Economics in a Global

economy.

39. Ernest Gellhorn, William E.Kovacic, Stephen Calkings, Thomson

West, (2004), Antitrust law and Economics.

40. Fox and Trebilcock (2012), The designs of competition law

institutions, Global Norms, Local choices.

41. Ioannis Lianos and D. Daniel Sokol (2010), The Global Limits of

Competition Law.

42. Joanna Goyder, Albertina Albors-llorens (2009), EC Competition

Law, Oxford University Press.

43. Nicola Acocella (2012), The foundations of economic policy -

Values and technigues.

44. Massimo Motta, Cambridge University (2004), Competition

Policy, Theory and Practice.

164

45. Richard Whish and David Bailey (2012), Competition Law.

46. Western Thomson Learning (2002), Microeconomics theory -

Basic principles and extensions.

C. Các trang thông tin điện tử

47. Trang thông tin điện tử của Cục Quản lý cạnh tranh:

www.qlct.gov.vn

48. Trang thông tin của Ủy ban thương mại lành mạnh Nhật Bản:

http://www.jftc.go.jp/en/

49. Trang thông tin của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ:

http://www.justice.gov/atr/public/workload-statistics.html

50. Trang thông tin điện tử của Ủy Ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ

http://www.ftc.gov/

51. Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển:

www.unctad.org

52. Mạng lưới cạnh tranh quốc tế:

www.internationalcompetitionnetwork.org.

53. Tạp chí cạnh tranh toàn cầu: http://globalcompetitionreview.com.

54. Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế OECD: www.oecd.org.

165

PHỤ LỤC 1: SỐ VỤ VIỆC THÔNG BÁO TTKT

STT Năm

Ngành

Các công ty tham gia tập trung kinh tế

Công ty cổ phần Giấy Tân Mai

1

2008

Sản xuất giấy

Công ty cổ phần Giấy Đồng Nai

Công ty cổ phần Sáng Tạo

Công ty TNHH Giải Pháp NEC Việt Nam

2

2008 Công nghệ thông tin

Công ty TNHH Alcatel - Lucent Việt Nam

Tổng CTCP Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí (PV Drilling)

3

2009 Dịch vụ khoan dầu khí

CTCP Đầu tư Khoan Dầu khí Việt Nam (PVDI)

Công ty cổ phần Mirae

4

2009

Sản xuất chăn gối đệm

Công ty cổ phần Mirae Fiber

Công ty cổ phần Kinh Đô

5

2010 Kinh doanh thực phẩm

Công ty cổ phần Kinh Đô Miền Bắc

Công ty cổ phần Kem Kido's

Công ty Cổ phần Vinpearl Đà Nẵng

Công ty Cổ phần Vinpearl Hội An

6

2011

Công ty Cổ phần Phát triển và dịch vụ Vincharm

Dịch vụ khách sạn, du lịch và vui chơi giải trí; Bất động sản; Dịch vụ chăm sóc sắc đẹp, dịch vụ hoạt động thể dục thể thao, thẩm mỹ.

Công ty Cổ phần Hệ thống thông tin FPT

Công ty Cổ phần phần mềm FPT

7

2011

Công nghệ thông tin; Phân phối

Công ty Cổ phần Thương mại FPT

Công ty Cổ phần tập đoàn Hapaco

Công ty Cổ phần Hapaco Hải Âu

8

2011

Sản xuất, kinh doanh giấy

Công ty Cổ phần Hapaco Yên Sơn

Công ty Cổ phần Vincom

9

2011

Công ty Cổ phần Vinpearl

Dịch vụ khách sạn, du lịch và vui chơi giải trí; Bất động sản

166

Công ty Cổ phần Thép Việt - Ý

10

2012

Công ty Cổ phần Luyện thép Sông Đà

Sản xuất kinh doanh các sản phẩm thép, sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu nguyên vật liệu, thiết bị phụ tùng cho ngành thép; Kinh doanh vận tải hàng hóa

Công ty Cổ phần Hưng Đạo Container

11

2012

Sản xuất container; Dịch vụ vận tải

Công ty Cổ phần Cơ khí Vận tải Thương mại Đại Hưng

CTCP Tập đoàn thép Tiến Lên

12

2012

CTCP Sản xuất và Thương mại Phúc Tiến

Sản xuất và buôn bán sắt, thép; Xây dựng, mua bán ô tô, dịch vụ khác

Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội

13

2012

Hoạt động kinh doanh ngân hàng

Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội

Abbott Investments Luxembourg Sarl

Abbott South Africa Luxembourg Sarl

14

2012 Bán buôn bán lẻ

Công ty TNHH 3A Nutrition Việt Nam

Công ty TNHH Sản phẩm tiêu dùng Toshiba Việt Nam (TVCP)

15

2012

Công nghiệp chế biến, chế tạo

Công ty TNHH Hàng gia dụng Toshiba Việt Nam (TVHA)

Công ty cổ phần Kinh Đô

16

2013 Kinh doanh bánh kẹo

Công ty cổ phần Vinabico

Công ty TNHH Thương mại Nippon Steel Việt Nam

17

2013

Sản xuất thép

Công ty TNHH Sumikin Bussan Việt Nam

Công ty cổ phần Sông Đà 11

18

2013

Công ty cổ phần Sông Đà – Thăng Long

Hoạt động xây lắp trạm biến áp

Công ty cổ phần Đầu tư và Xây lắp Sông Đà 11

Công ty cổ phần thuỷ điện Cần Đơn

19

2013

Công ty cổ phần thuỷ điện Nà Lơi

Sản xuất và kinh doanh điện thương phẩm

Công ty cổ phần thuỷ điện Ry Ninh II

20

2014 Dệt may

Tổng Công ty cổ phần Phong Phú Công ty cổ phần dệt vải Phong Phú Công ty cổ phần dệt gia dụng Phong Phú

167

Petronas Chemicals Group Berhad (PCGB)

21

2014

Cty TNHH Nhựa và Hoá chất Phú Mỹ (PMPC)

Sản xuất nhựa, bột nhựa PVC

Asahi Glass Company, Limited (AGC)

A.p Moller – Maersk A/S

22

2014 Vận tải biển

CMA CGM S.A

MSC Mediterranean Shipping Company SA

Abbott Investments Luxembourg Sarl

23

2014 Dược phẩm

CFR Pharmaceuticals S.A

Positron Limited

168

PHỤ LỤC 2: BẢNG CÂU HỎI KHẢO SÁT DOANH NGHIỆP

CH 1. Doanh nghiệp của anh/chị biết đến Luật Cạnh tranh từ khi nào?

[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]

Chưa hề biết

DỪNG PHỎNG VẤN

1

Mới biết trong vòng 2 năm gần đây

(từ 2011 đến 2013)

2

Biết từ 2-4 năm trước

(từ 2008 đến 2010)

3

Biết ngay từ khi Luật mới ban hành

(từ 2004 đến 2007)

4

CH 2. Doanh nghiệp của anh/chị biết đến Luật Cạnh tranh qua kênh thông tin nào?

[NHIỀU LỰA CHỌN]

[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]

Tự tìm hiểu nghiên cứu

1

Qua phương tiện thông tin đại chúng

2

Hội thảo, tập huấn mà cán bộ của doanh nghiệp có tham dự

3

Được chuyên gia pháp lý/luật sư tư vấn

4

5 PVV GHI CỤ THỂ

Kênh khác

Các kênh thông tin khác (5):

.................................................................................................................................................

................................................................................................................................................

CH 3. Theo Anh/Chị, Luật Cạnh tranh được ban hành và thực thi nhằm ngăn chặn/ điều

chỉnh những hành vi nào?

[NHIỀU LỰA CHỌN]

[PVV KHÔNG ĐỌC]

169

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (thỏa thuận ấn định giá; sản

1

lượng; phân chia thị trường; thỏa thuận loại bỏ đối thủ cạnh

tranh, thông đồng đấu thầu…)

Lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền trên thị trường

2

(bán dưới giá thành toàn bộ; áp đặt giá mua, bán bất hợp lý;

ấn định giá bán lại tối thiểu; áp đặt điều kiện thương mại bất

bình đẳng áp đặt điều kiện ký kết hợp đồng; ngăn cản đối thủ

cạnh tranh mới...)

Tập trung kinh tế (mua lại, hợp nhất, sáp nhập, liên doanh

3

giữa các doanh nghiệp)

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (chỉ dẫn gây nhầm lẫn;

4

gièm pha doanh nghiệp khác; gây rối hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp khác; quảng cáo, khuyến mại nhằm cạnh

tranh không lành mạnh; bán hàng đa cấp bất chính…)

Hành vi khác

5 PVV GHI CỤ THỂ

Không biết

6

Hành vi khác (5):

.................................................................................................................................................

..................................................................................................................................................

CH 4. Trước buổi hôm nay, anh/chị đã từng biết về Cục Quản lý cạnh tranh hay chưa?

[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]

Chưa

1

Đã biết

2

170

CH 5. Anh/chị có biết đến một/một số vụ việc vi phạm pháp luật cạnh tranh đã được

cơquan chức năng điều tra, xử lý hay chưa?

[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]

Chưa bao giờ

1

Đã từng

2 PVV GHI CỤ THỂ

Vụ việc nào? (2) (ghi tên hành vi & doanh nghiệp liên quan)

................................................................................................................................................

B. VẬN DỤNG LUẬT CẠNH TRANH TẠI DOANH NGHIỆP

CH 6. Doanh nghiệp của anh/chị có Bộ phận riêng (Phòng/Ban/Đơn vị) phụ trách việc

tuân thủ pháp luật, bao gồm Luật Cạnh tranh không?

[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]

Không

1 CHUYỂN CH 8

Có bộ phận riêng (Phòng/Ban/Đơn vị) phụ trách việc tuân thủ

2

Luật Cạnh tranh

Có Bộ phận riêng (Phòng/Ban/Đơn vị) phụ trách việc tuân thủ

3

pháp luật, bao gồm Luật Cạnh tranh

CH 7. Doanh nghiệp anh/chị thành lập Bộ phận riêng phụ trách việc tuân thủ pháp

luật, bao gồm Luật Cạnh tranh từ khi nào?

[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]

Trong vòng 2 năm gần đây

1

(từ 2012 đến 2014)

Từ 2-4 năm trước

2

(từ 2009 đến 2011)

Từ khi Luật mới ban hành

3

(từ 2004 đến 2008)

Không biết

4

171

CH 8. Trong quá trình kinh doanh, đã bao giờ anh/chị nhận thấy một hành vi kinh doanh có

khả năng vi phạm Luật Cạnh tranh hay không?

[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]

Chưa bao giờ

1

Đã từng

2 PVV GHI CỤ THỂ

Không biết

Mô tả hành vi có khả năng vi phạm Luật Cạnh tranh (2):

.................................................................................................................................................

.................................................................................................................................................

CH 9. Doanh nghiệp của anh/chị đã từng chịu thiệt hại vì một hành vi cạnh tranh của

doanh nghiệp/tổ chức khác hay không?

[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]

Chưa bao giờ

1

Đã từng

2 PVV GHI CỤ THỂ

Mô tả hành vi gây thiệt hại (2):

.................................................................................................................................................

.................................................................................................................................................

CH 10. Doanh nghiệp của anh/chị đã từng nghĩ đến việc đệ đơn khiếu nại hoặc cung cấp

thông tin về hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh hoặc của doanh

nghiệp khác tới cơ quan chức năng hay chưa?

[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]

Chưa bao giờ

1 CHUYỂN CH12

Đã từng

2 PVV GHI CỤ THỂ

172

Tên điều khoản/ mô tả hành vi bị tố cáo, khiếu nại và tên cơ quan thụ lý (2):

.................................................................................................................................................

.................................................................................................................................................

CH 11. Trên thực tế, Doanh nghiệp của anh/chị đã từng khiếu nại hoặc cung cấp thông tin

về hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh cho các cơ quan chức năng hay chưa?

[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]

1

Chưa bao giờ

2 CHUYỂN CH13

Đã từng

CH 12. Xin vui lòng cho biết lý do doanh nghiệp anh/chị chưa hoặc chưa nghĩ đến việc

khiếu nại hoặc cung cấp thông tin về hành vi vi phạm đến cơ quan chức năng?

[NHIỀU LỰA CHỌN]

[PVV ĐỌC LỰA CHỌN]

Do không gây thiệt hại/ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp

1

Do thiệt hại/ảnh hưởng không đáng kể

2

Ngại làm việc với cơ quan chức năng

3

Thủ tục khiếu nại phiền phức

4

Ngại ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh trong tương lai

5

6

Không biết về hành vi vi phạm

Lý do khác

7 PVV GHI CỤ THỂ

173

PHỤ LỤC 3: KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT CẠNH TRANH CỦA THỔ NHĨ KỲ

1. Về phát triển và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh1

Bắt đầu từ những năm 1971, Bộ Thương mại Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành

xây dựng Dự thảo thứ nhất Luật điều chỉnh các hoạt động Thương mại và

Dịch vụ để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Mặc dù chủ yếu hướng tới bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch với doanh nghiệp, tuy nhiên

dự thảo Luật này cũng đã chứa đựng những điều khoản khung về cạnh tranh.

Đến năm 1975, với việc xây dựng Dự thảo thứ hai của Luật điều chỉnh

các hoạt động Thương mại và Dịch vụ để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,

thì về mặt kỹ thuật đã có những quy định cụ thể về luật cạnh tranh tại Thổ Nhĩ

Kỳ. Ví dụ tại Điều 51 của Dự Luật cũng đã cấm các hành vi phản cạnh tranh

của các doanh nghiệp bao gồm: các thỏa thuận liên kết giữa các doanh nghiệp

hay lạm dụng sức mạnh thị trường để tăng giá hàng hóa dịch vụ hay ngăn cản

các doanh nghiệp khác tham gia thị trường…

Những lần sửa đổi vào những năm 1983 và 1984 sau đó, Luật điều

chỉnh các hoạt động Thương mại và Dịch vụ để bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng càng có những điều khoản cụ thể hơn về cạnh tranh. Ví dụ như các điều

khoản về Cartel và Độc quyền. Đến năm 1984, Bộ Thương mại Thổ Nhĩ Kỳ

cũng soạn thảo một Dự thảo Đạo Luật mới có nội dung sâu hơn về cạnh tranh:

Luật về Thỏa thuận và Các hành vi hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên Dự thảo

Đạo Luật này đã không được thông qua bởi Nghị viện Thổ Nhĩ Kỳ vào năm

1985 và bị “rơi vào quên lãng” tới năm bầu cử 1985 của Thổ Nhĩ Kỳ sau đó.

1http://mpra.ub.uni-muenchen.de/179/

Mãi đến năm 1991, sau đợt Tổng bầu cử, Bộ Công Thương Thổ Nhĩ Kỳ

174

(trước là Bộ Thương Mại) bắt đầu soạn thảo hai Đạo Luật là Bảo vệ cạnh

tranh và Bảo vệ người tiêu dùng.

Đến năm 1994, Luật Bảo vệ cạnh tranh (Luật số 4054) được chính thức

thông qua. Theo đó, đến năm 1997, Thổ Nhĩ Kỳ thành lập 02 bộ máy là Ban

Cạnh tranh và Cục Cạnh tranh.

Từ khi ban hành đến nay, các Luật bảo vệ cạnh tranh của Thổ Nhĩ Kỳ

đã có những lần sửa đổi và điều chỉnh:

- Năm 2005, điều chỉnh số lượng thành viên của Ban Cạnh tranh (từ 12

xuống còn 7) và thay đổi khung hình phạt;

- Năm 2007, ngưỡng thị phần 40% là ngưỡng cho các thỏa thuận theo

chiều dọc.

- Năm 2008, sửa đổi mức phạt hành chính cho các hành vi vi phạm.

- Năm 2009, đưa Chương trình khoan dung vào Luật để hỗ trợ điều tra

hạn chế cạnh tranh. Đồng thời ký thỏa thuận hợp tác với Cơ quan Quản lý đấu

thầu công về việc xử lý các vụ việc thông thầu.

2. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn Cơ quan cạnh tranh

Theo Luật, Cơ quan cạnh tranh của Thổ Nhĩ Kỳ (TCA) bao gồm Ban

Cạnh tranh và Cục Cạnh tranh. Ban Cạnh tranh là cơ quan chỉ đạo và ra quyết

định còn Cục Cạnh tranh là cơ quan thực thi điều tra.

Ban Cạnh tranh (Competition Board) tại thời điểm thành lập được quy

định có 12 thành viên bao gồm 01 Chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch và 10 thành viên

(hiện nay là 7 thành viên: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và 05 thành viên). Ban Cạnh

tranh là cơ quan đưa ra các quyết định cuối cùng của các hành vi phản cạnh

tranh bị cấm, đưa ra các quyết định miễn trừ, phê duyệt thông báo sáp nhập và

các quyết định thực thi khác của Luật. Các thành viên đều làm việc toàn thời

gian và do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Thổ Nhĩ Kỳ bổ nhiệm. Thành viên

của Ban cạnh tranh phải có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên

175

môn và phải có trình độ Thạc sỹ trở lên các chuyên ngành: luật, kinh tế, kỹ

sư, quản trị kinh doanh và tài chính. Nhiệm kỳ của Chủ tịch, Phó chủ tịch và

thành viên tối đa là 06 năm nếu không bị bãi nhiệm vì một trong các lý do:

Không còn đủ đáp ứng về mặt chuyên môn hoặc bị truy tố bởi Tòa án.

Hỗ trợ cho Ban Cạnh tranh là Cục Cạnh tranh. Theo Luật, Cục Cạnh

tranh có thẩm quyền tự khởi xướng điều tra vụ việc hoặc theo đơn khiếu nại.

Ngoài chức năng điều tra, Phòng chuyên môn của Cục Cạnh tranh còn tiến

hành rà soát và nghiên cứu để thu thập thông tin về thị trường, doanh nghiệp.

Ngân sách hoạt động của TCA được hình thành từ nhiều nguồn: (i)

ngân sách được cấp bởi Bộ Hải Quan và Thương mại (trước là Bộ Công

Thương được tách ra và sáp nhập mới với bộ phận Hải quan); (ii) khoản thu

4/10.000 nguồn vốn của các doanh nghiệp mới thành lập mới và phần tăng

vốn của các doanh nghiệp cũ; (iii) nguồn thu từ xuất bản ấn phẩm hay các

khoản thu khác. Chính vì nguồn thu dồi dào từ doanh nghiệp đó, TCA không

còn cần đến nguồn ngân sách từ Bộ chủ quản từ năm 1997 đến nay. Ngân

sách 2014 của TCA là 27 triệu USD và nguồn nhân lực là 348 cán bộ2.

3. Về công tác tổ chức điều tra và xử lý các hành vi vi phạm

Theo Luật, Ban Cạnh tranh có thẩm quyền tham gia điều tra hoặc thành

lập nhóm điều tra theo tính chất từng vụ việc. Nhóm điều tra có nhiệm vụ

hoàn thành báo cáo điều tra để báo cáo Ban Cạnh tranh trong vòng 6 tháng kể

từ khi có quyết định điều tra chính thức. Bản báo cáo này cũng sẽ được gửi

cho các bên liên quan điều tra trong vòng 15 ngày (không kèm theo các thông

tin mật hay các thông tin không được cung cấp cho các bên khác, chẳng hạn

như bí quyết kinh doanh…). Trong vòng 30 ngày tiếp theo, các bên liên quan

có thể khiếu nại kết quả điều tra lên Ban Cạnh tranh.

2 Báo cáo thường niên của TCA 2014

Tiếp đó 15 ngày, Ban Cạnh tranh sẽ ra quyết định cuối cùng của vụ

176

việc sau khi xem xét và đánh giá kết quả điều tra và thông tin khiếu nại.

Số vụ việc xử lý bởi TCA từ 2005-2012

Năm tài chính 2005 2006

2007

2008

2009

2010 2011 2012

2013 2014

55

65

79

67

73

99

158

168

117

91

Hạn chế cạnh tranh (Điều 4)

34

30

48

38

70

111

95

108

57

448

Lạm dụng vị trí thống lĩnh (Điều 6)

8

13

21

27

35

38

30

27

17

24

Vi phạm cả hai Điều 4 và Điều 6

nhận

130

110

171

177

110

177

191

262

162

169

Chấp M&A

1

0

0

0

1

0

0

0

0

0

Từ chối M&A

Nguồn: Báo cáo hoạt động năm 2005 - 2014 của TCA

Xét riêng đối với biện pháp phạt tiền, theo Luật, các doanh nghiệp vi

phạm Điều 4 và Điều 6 sẽ bị xử phạt tới 10% doanh thu của năm ngay trước

khi có quyết định xử phạt của Ban Cạnh tranh. Trong trường hợp không tính

toán được doanh thu để xử phạt của năm đó thì sẽ thay thế bằng năm gần nhất

với ngày công bố quyết định xử phạt.

Số tiền phạt hành chính bởi TCA trong 5 năm gần đây

Đơn vị: Lira

2010

2011

2012

2013

2014

Năm tài chính

39,401,470

459,585,920

60,411,864

1,187,220,597

468,233,986

Số tiền xử phạt

Nguồn: Báo cáo hoạt động năm 2005 - 2014 của TCA

4. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh

a. Áp dụng thủ tục khám xét tại chỗ (On-spot inspection)

Tương tự như Nhật Bản và Hoa Kỳ, cơ quan cạnh tranh của Thổ Nhĩ

177

Kỳ cũng có thẩm quyền khám xét nhà xưởng và trụ sở làm việc của các bên bị

điều tra để thu thập thông tin và chứng cứ cho báo cáo điều tra của vụ việc.

Việc khám xét này là cưỡng chế đối với các doanh nghiệp bị điều tra. Trên

thực tế, trong một số vụ việc, các bên bị điều tra đã cố tình bưng bít và không

hợp tác trong quá trình khám và TCA có thẩm quyền đề xuất mức phạt tăng

nặng đối với những trường hợp như vậy.

b. Áp dụng chương trình khoan dung (Leniency)3

Bắt đầu từ năm 2009, TCA áp dụng Chương trình khoan dung để hỗ trợ

điều tra và xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh. Chương trình khoan dung của

TCA cho phép các bên vi phạm nộp đơn hưởng miễn trừ hình phạt chậm nhất

đến khi báo cáo điều tra vụ việc đã hoàn thành và nộp lên Ban Cạnh tranh.

Tùy theo thứ tự các bên có thể được miễn xử phạt hoặc được hưởng hình phạt

giảm nhẹ. Hồ sơ xin hưởng khoan dung cần đầy đủ:

(i) thông tin sản phẩm bị cáo buộc của cartel

(ii) khoảng thời gian của cartel

(iii) các thành viên của cartel

(iv) thời gian, địa điểm và thành phần của các cuộc họp cartel

(v) các thông tin và tài liệu khác về hoạt động của cartel

Ứng viên nộp đơn hưởng khoan dung không phải là thành phần tạo ra

cartel có thể được hưởng miễn trừ 100%. Tuy nhiên nếu ứng viên có vai trò

quan trọng hoặc bắt các thành viên khác phải tham gia cartel thì việc xem xét

hưởng miễn trừ sẽ ở mức 33% đến 50% đối với công ty và 33% đến dưới

100% đối với các cá nhân (giám đốc hoặc nhân viên). Cụ thể ở các mức giảm

miễn tiếp theo cho đương đơn thứ hai sẽ là 33% đến 50%, đương đơn thứ ba

sẽ là 25% đến 33%, đương đơn tiếp theo sẽ nằm trong khoảng 16% đến 25%.

3http://www.elig.com/docs/Cartels_and_Leniency-Turkey.pdf

Theo pháp luật Thổ Nhĩ Kỳ, thì phạt hình sự không dành cho các hành

178

vi vi phạm pháp luật chống độc quyền. Tất các các mức hưởng miễn giảm

trên là dành cho mức xử phạt hành chính quy định tại Luật bảo vệ cạnh tranh

của Thổ Nhĩ Kỳ.

c. Bồi thường những thiệt hại do vụ việc phản cạnh tranh gây ra

Một điều riêng biệt trong cơ chế xử phạt của pháp luật cạnh tranh Thổ

Nhĩ Kỳ đó là bên bị thiệt hại có thể khiếu nại ra tòa án để đòi bồi thường gấp

03 lần những thiệt hại của mình bởi vụ việc vi phạm gây ra, đó là chưa kể các

khoản phí tòa án và phí thuê luật sư (Điều 57).

Như vậy, hầu hết các tòa án đều đợi khi TCA ban hành quyết định cuối

cùng rồi sau đó mới công bố quyết định của tòa. Điều này làm tăng tính răn

đe, ngăn chặn những doanh nghiệp có ý định hình thành thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh.