BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
---- (cid:75) ---
HUỲNH MÔNG NGHI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT
TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU TỪ NAY
ĐẾN NĂM 2020
Chuyên nghành: Kinh tế Chính trị
Mã số : 60.34.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. VŨ ANH TUẤN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009
- 1 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành công nghiệp được xem là một trong những ngành có vai trò hết sức quan
trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia trong quá trình CNH, HĐH. Bà Rịa-Vũng
Tàu được xem là một tỉnh công nghiệp với sự phát triển khá nhanh về kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế của tỉnh có bước chuyển biến mạnh mẽ
theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Đến năm 2007, tỷ trọng công nghiệp
trong GDP (theo giá cố định 1994) tăng lên 80,13%; dịch vụ 14,85% và nông nghiệp
5,02%. Nếu không tính dầu khí, công nghiệp chiếm 62,13%; dịch vụ 29,07% và nông
nghiệp 8,87%. Với cơ cấu kinh tế trên, cho thấy ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng rất
lớn và là động lực chính thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Với những lợi thế mà ít nơi nào có được của một địa phương có nhiều tiềm
năng, nguồn lực để phát triển một ngành công nghiệp đa dạng với tốc độ cao, cho thấy
Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương có nhiều điều kiện thuận lợi nhất để có thể đến năm
2020 về trước cả nước trong tiến trình CNH, HĐH để trở thành một nước công nghiệp.
Tuy nhiên, trong thời gian qua ngành công nghiệp của tỉnh vẫn chưa thật sự phát triển
toàn diện cả về chiều sâu và diện rộng, một số ngành còn bị suy giảm mặc dù còn có
nhiều tiền đề và tiềm năng để phát triển. Vì vậy, tôi cho rằng cần phải tập trung nghiên
cứu về ngành công nghiệp của địa phương này để phát triển và hiện đại hóa nó nhằm
đưa Bà Rịa-Vũng Tàu - một địa phương có khả năng và nghĩa vụ phải tiến hành nhanh
và bền vững hơn, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, góp phần quan trọng
cùng đất nước chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát
triển so với các nước, nâng cao vị thế trong hội nhập kinh quốc tế. Với nhận thức trên,
tôi đã chọn vấn đề nghiên cứu: “Một số giải pháp chủ yếu để phát triển và hiện đại
hóa ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu từ nay đến năm 2020”
làm tên đề luận văn thạc sĩ kinh tế của mình.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 2 -
2. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở lý luận và kinh nghiệm chung về CNH, HĐH, cũng như qua khảo
sát, phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu để tìm ra những hạn chế, nhất là tìm được những vấn đề nổi lên cần đặt ra. Từ đó,
đề xuất các giải pháp để phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp của tỉnh đến
năm 2020.
Là một tỉnh có nhiều tiềm năng và lợi thế quan trọng về vị trí, đất đai và hạ tầng
kỹ thuật để phát triển mạnh kinh tế biển, đặc biệt là các ngành công nghiệp dầu khí, sản
xuất điện, đạm, chế biến thủy hải sản, v.v. Do đó, để khai thác có hiệu quả những thế
mạnh này của Bà Rịa-Vũng Tàu, đề tài giới hạn việc nghiên cứu trong phạm vi ngành
công nghiệp của tỉnh với mốc thời gian từ năm 2004 đến năm 2008 là chủ yếu và định
hướng đến năm 2020 trong việc phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu của đề tài, ngoài việc áp dụng phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử trong nghiên cứu, đề tài còn ứng dụng một số phương pháp
chủ yếu như: phương pháp logic - lịch sử, phương pháp phân tích - tổng hợp, đối chiếu
- so sánh, thu thập số liệu và thông tin thực tế, phương pháp mô hình hóa và phân tích
ma trận SWOT.
Phương pháp luận để nghiên cứu được rút ra từ các quan điểm lịch sử, cụ thể,
toàn diện và phát triển.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp chủ yếu để phát triển và hiện đại hóa
ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu từ nay đến năm 2020” là việc
làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, giúp cho các cấp chính quyền của tỉnh có
những thông tin cần thiết để xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp trên địa bàn
theo hướng hiện đại đến năm 2020. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài thể hiện
qua các nội dung sau đây:
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 3 -
Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về CNH, HĐH.
Hai là, bằng các số liệu chứng minh, luận văn đã phân tích và làm rõ hiện trạng
sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh để từ đó rút ra những thuận lợi và khó khăn cũng
như thế mạnh và điểm yếu của ngành công nghiệp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Ba là, căn cứ vào mục tiêu và quan điểm phát triển ngành công nghiệp của tỉnh
để đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp
trên địa bàn tỉnh.
Bốn là, cung cấp những dữ liệu cần thiết cho các cấp chính quyền, các cơ quan,
ban, ngành của tỉnh tham khảo để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh
nhằm xây dựng những chính sách phù hợp với chiến lược phát triển công nghiệp theo
hướng hiện đại.
5. Đóng góp của đề tài
Liên quan đến đề tài này đã có nhiều đề tài và bài báo được công bố với những
giá trị khoa học nhất định. Công trình nghiên cứu này dự kiến sẽ đạt được những đóng
góp sau đây:
Luận văn sẽ phân tích đầy đủ và sâu sắc hoạt động của ngành công nghiệp trên
địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu gắn với quá trình CNH, HĐH;
Phân tích có hệ thống và khá toàn diện những tính đặc thù của địa phương và
đối với sự phát triển của ngành công nghiệp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu gắn với sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh và của cả nước;
Trên cơ sở lý luận được xây dựng ở chương 1, kết quả phân tích tình hình thực
tế ở chương 2, quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và địa
phương, luận văn đã đề xuất hệ thống giải pháp đồng bộ, có tính khả thi trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước và địa phương, góp phần đưa Bà Rịa-Vũng Tàu và cả
nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu; kết luận; danh mục các chữ viết tắt; danh mục các bảng,
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 4 -
biểu; tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài bao gồm 3 chương: Chương 1: Một số lý
luận cơ bản về CNH, HĐH; Chương 2: Thực trạng sản xuất công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu để phát triển và hiện đại
hóa ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Dưới đây là nội dung luận văn:
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 5 -
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP, NGÀNH CÔNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. KHÁI NIỆM CÔNG NGHIỆP, NGÀNH CÔNG NGHIỆP VÀ CÔNG
NGHIỆP HÓA
1.1.1. Khái niệm công nghiệp và ngành công nghiệp
- Công nghiệp: là lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất mà sản phẩm được “chế
tạo, chế biến” cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh
tiếp theo.
- Ngành công nghi ệp: là một bộ phận của nền kinh tế, ngành kinh tế quốc dân
quan trọng nhất, có ảnh hưởng quyết định đến trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và năng suất lao động xã hội với nhiệm vụ khai thác, chế biến tài nguyên thiên
nhiên và các sản phẩm nông nghiệp thành tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.
- Phân loại công nghiệp:
Công nghiệp gồm hai ngành:
+ Công nghiệp nặng: là ngành công nghiệp chuyên khai thác nguồn năng lượng,
sản xuất các công cụ sản xuất và chuyển biến các nguyên liệu thành vật liệu.
+ Công nghiệp nhẹ: là ngành công nghiệp chuyển biến các vật liệu do công
nghiệp nặng sản xuất thành những bán thành phẩm và hàng tiêu dùng.
Ngoài ra, công nghiệp còn được phân thành hai loại:
+ Công nghiệp khai thác: là ngành khai thác các nguồn năng lượng và tài
nguyên trên qui mô công nghiệp.
+ Công nghiệp chế biến: là ngành công nghiệp chuyển biến các sản phẩm của
ngành công nghiệp khai thác thành các sản phẩm tiêu dùng (cho sản xuất và đời sống
xã hội).
1.1.2. Các quan niệm về công nghiệp hóa:
Trong thực tiễn, đến nay vẫn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về phạm trù
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 6 -
“công nghiệp hóa”. Quan niệm đơn giản nhất về CNH cho rằng “CNH là đưa đặc tính
công nghiệp cho một hoạt động; trang bị (cho một vùng, một nước) các nhà máy, các loại công nghiệp…” [30, 520] Quan niệm này được hình thành trên cơ sở khái quát quá
trình lịch sử CNH ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong quá trình dài thực hiện CNH,
các nước này chủ yếu tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp, sự chuyển biến
của các hoạt động kinh tế - xã hội khác chỉ là hệ quả của quá trình CNH, chứ không
phải là đối tượng trực tiếp của CNH, do đó quan niệm này được sử dụng rất hạn chế
trong thực tiễn vì nó không cho thấy mục tiêu của quá trình cần thực hiện và đã đồng
nhất quá trình CNH với quá trình phát triển công nghiệp.
Trong sách báo kinh tế của Liên Xô (trước đây) tồn tại một định nghĩa phổ biến
cho rằng “CNH là quá trình xây dựng nền đại công nghiêp cơ khí có khả năng cải tạo
cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với các ngành trung tâm là chế
tạo máy” [19-1], tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội ngày càng tăng.
Quan niệm này được coi là hợp lý trong điều kiện của Liên Xô thời kỳ nội chiến khi
mà chủ nghĩa đế quốc bao vây toàn diện, nền tảng phát triển chỉ dựa vào thị trường
trong nước nên phải tập trung phát triển công nghiệp nặng và hướng vào các ngành
công nghiệp phục vụ nông nghiệp nhằm đảm bảo các nhu cầu trong nước. Nhưng sẽ sai
lầm nếu coi đó là quan niệm phổ biến để áp dụng cho tất cả các nước đang phát triển
trong điều kiện hiện nay.
Gần đây, khi nhấn mạnh vai trò, vị trí của công nghiệp chế biến như một biểu
hiện của phát triển công nghiệp ở trình độ cao, điều kiện bảo đảm hiệu quả sử dụng tài
nguyên và trao đổi thương mại quốc tế… lại có ý kiến cho rằng “phát triển công
nghiệp chế biến là bản lề của CNH” [19, 1]. Không thể phủ định vai trò của công
nghiệp chế biến là nội dung bao trùm của quá trình CNH, nó có phạm vi rộng lớn, cơ
cấu phức tạp. Phát triển công nghiệp chế biến đến thị trường sản phẩm ở đâu… đó là
câu hỏi không thể có câu trả lời chung cho tất cả các nước.
Năm 1993, Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) đã
đưa ra định nghĩa sau đây: “CNH là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình
này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân động viên để phát triển
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 7 -
kinh tế, trong quá trình này toàn bộ để phát triển chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra
những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế
- xã hội”. Quan niệm này cho thấy quá trình CNH bao gồm toàn bộ quá trình phát triển
kinh tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự phát triển kinh tế mà còn cả sự tiến bộ về
mặt xã hội nữa. Quá trình CNH trong điều kiện hiện nay cũng gắn liền với quá trình
hiện đại hóa các hoạt động kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, định nghĩa trên đây lại quá dài
và phức tạp với ý tưởng dung hòa nhiều ý kiến khác nhau.
Trong điều kiện hiện nay, quan niệm về CNH dù trên góc độ nào cũng không
đồng nhất quá trình phát triển công nghiệp. Tuy quá trình CNH có những nét riêng đối
với từng nước, nhưng đó chỉ là sự vận dụng một quá trình có tính chất phổ biến cho
phù hợp với điều kiện cụ thể từng nước mà thôi. CNH là quá trình rộng lớn và phức
tạp, bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau đây:
- Thứ nhất, CNH là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất
cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu. Đồng thời
đây cũng là quá trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành
kinh tế, các hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại. Quá trình ấy
phải tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh ổn định, cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần chênh lệch trình độ
kinh tế - xã hội của các nước đó với các nước phát triển.
Hiện đại hóa, xét trên góc độ kinh tế - kỹ thuật, là cái đích cần vươn tới trong
quá trình CNH, nhưng bị ràng buộc bởi yêu cầu bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội nên
xét toàn cục, hiện đại hóa chỉ là phương tiện, điều kiện để đạt tới mục tiêu của quá
trình CNH mà thôi.
- Thứ hai, quá trình CNH không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp mà là
quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của đất nước. Đó là tất yếu
vì nền kinh tế của mỗi nước là một hệ thống nhất các ngành, các lĩnh vực hoạt động có
quan hệ tương đối với nhau. Do đó, quá trình CNH cũng gắn liền với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu ngành kinh tế. Trong sự chuyển dịch cơ cấu của
quá trình CNH, vị trí của các ngành sẽ thay đổi. Xét tổng thể, cơ cấu kinh tế của mỗi
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 8 -
nước được cấu thành bởi ba loại ngành tổng hợp có quan hệ ràng buộc lẫn nhau: công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước trong quá
trình CNH sẽ trải qua hai giai đoạn: từ cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ chuyển
sang cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ.
- Thứ ba, quá trình CNH trong bất kỳ giai đoạn nào cũng đều vừa là quá trình
kinh tế - kỹ thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội. Đây là hai quá trình có quan hệ ràng
buộc lẫn nhau, quá trình kinh tế-kỹ thuật cao tạo điều kiện vật chất kỹ thuật cho việc
thực hiện các nội dung của quá trình kinh tế - xã hội. Ngược lại, quá trình kinh tế - xã
hội góp phần tạo nên động lực cho thực thiện quá trình kinh tế - kỹ thuật. Việc thực
hiện có kết quả quá trình CNH sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kỹ thuật, thấp kém về
kinh tế.
Đối với mỗi nước, CNH là quá trình lịch sử lâu dài. Theo W.Rostow, sự phát
triển của một đất nước trải qua 5 giai đoạn: xã hội truyền thống, chuẩn bị tiền đề cho
cất cánh, cất cánh, tiến tới sự trưởng thành và tiêu dùng ở trình độ cao. Như vậy, quá
trình CNH được khởi đầu bằng việc “chuẩn bị tiền đề cho cất cánh”, được thực hiện
mạnh mẽ trong giai đoạn “cất cánh” và kết thúc khi xã hội đã “tiến tới sự trưởng
thành”. Khi đất nước đạt đến trình độ nhất định về kinh tế - kỹ thuật - xã hội, quá trình
CNH sẽ kết thúc.
- Thứ tư, quá trình CNH cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, mở rộng phân công lao động quốc tế và quốc tế hóa
đời sống kinh tế trở thành xu thế phát triển ngày càng mạnh mẽ nên việc xác định mục
tiêu, phương thức CNH cần phải phân tích và dự đoán được những biến động kinh tế-
xã hội chung của thế giới, đặc biệt là của các nước trong khu vực.
- Thứ năm, CNH không phải là một mục đích tự thân, mà là một phương thức có
tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nước. Tuy mỗi nước có hệ thống mục
tiêu riêng nhưng về hình thức vẫn có thể tương đồng, đó là xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật ngày càng hiện đại , khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, đảm bảo
nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần cho các tầng lớp dân cư... Mục tiêu cụ thể của mỗi nước phục thuộc vào quan
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 9 -
điểm của hệ thống chính trị lãnh đạo. Phương hướng, qui mô và nhịp độ CNH phụ
thuộc vào đặc điểm chính trị xã hội của đất nước.
Từ toàn bộ những vấn đề đã đề cập trên đây, có thể rút ra kết luận khái quát về
CNH như sau: CNH là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến
căn bản về kinh tế-xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực
và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
với trình độ KHCN ngày càng hiện đại.
1.2. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG
NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
K. Marx là người đầu tiên phát hiện ra quy luật lịch sử của loài người, nghĩa là
trước khi con người lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo thì con
người cần phải ăn, uống, ở, mặc. Muốn vậy, con người phải lao động, nhưng không
phải lao động tuỳ tiện mà phải có cách thức, đó là phương thức sản xuất (bao gồm lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất). Trong đó, lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết
định trong quá trình tiến hóa của nhân loại vì nó biểu hiện mối quan hệ của con người
với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện
trình độ chinh phục của con người đối với giới tự nhiên trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động
vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất để đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của loài
người. Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là
công cụ lao động) và những người lao động có kiến thức, có thói quen, kinh nghiệm và
kỹ năng, kỹ xảo để sản xuất.
Trong lực lượng sản xuất, công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất
nên có một vai trò quan trọng, là thước đo sự chinh phục tự nhiên của con người. Quá
trình phát triển của sản xuất cũng là quá trình con người cải tiến, bổ sung và hoàn thiện
công cụ lao động nhằm đạt năng suất cao và tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Do đó,
trình độ phát triển của công cụ lao động được xem là tiêu chuẩn quan trọng để phân
biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế trong lịch sử. K. Marx đã chỉ ra rằng:
“Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 10 -
chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [15, 338].
Chính công cụ sản xuất và phương tiện lao động kết hợp với lao động sáng tạo
của con người là yếu tố quyết định đến năng suất lao động, nên theo Lênin thì xét đến
cùng năng suất lao động là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ của lực lượng sản
xuất trong một xã hội.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất dưới chế độ tư bản chủ nghĩa với nội
dung là cơ khí hóa, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc đã tạo
ra một bước phát triển nhảy vọt hết sức vĩ đại về sự phát triển của lực lượng sản xuất,
kéo theo sự phát triển toàn diện trên các mặt của xã hội tạo ra năng suất lao động xã
hội cao gấp nhiều lần so với lao động thủ công, làm cho bộ mặt đời sống của xã hội
loài người có sự thay đổi hết sức nhanh chóng.
Từ đó đến nay trước tính chất cạnh tranh tàn khốc của nền kinh tế thị trường tư
bản trong nước và thế giới, sự chạy đua giữa hai hệ thống XHCN và TBCN trong sự
phát triển nhanh chóng của khoa học, cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra rất nhanh
chóng và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực từ vật chất đến tinh thần cho phép khai thác
một cách có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tạo ra nguyên vật liệu mới đáp ứng các
yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của nền sản xuất, đưa năng suất lao động xã hội cao gấp
trăm lần so với thời kỳ bắt đầu CNH.
Rõ ràng để phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất thì CNH phải được
coi là một quá trình mang tính quy luật, nhất là đối với các quốc gia bắt đầu từ một nền
kinh tế nông nghiệp kém phát triển muốn vươn lên thành một quốc gia có nền kinh tế
tiên tiến hiện đại. Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ, để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế -
xã hội, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh và
ổn định, mỗi nước phải xác định cơ cấu kinh tế hợp lý, trang bị kỹ thuật ngày càng hiện
đại cho các ngành kinh tế. Ở các nước phát triển, quá trình ấy gắn liền với quá
trình CNH.
Ngày nay, có thể nói trình độ CNH là thước đo về tiến bộ kinh tế, văn hóa, quân
sự của các nước. Chính vì vậy mà mỗi quốc gia dân tộc trên thế giới luôn quan tâm đến
việc nâng cao trình độ CNH, HĐH trong mọi mặt của đời sống xã hội ở nước mình.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 11 -
Đối với các nước phát triển hiện nay, là những nước đã thực hiện CNH rất sớm,
trình độ CNH của các nước đó rất cao, họ đã tạo ra được một nền sản xuất tiên tiến và
một nền kinh tế, quốc phòng hùng mạnh. Thế nhưng họ vẫn luôn coi trọng sự nghiệp
phát triển lực lượng sản xuất, đầu tư mạnh cho nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa
học - kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tìm ra những phương pháp sản xuất mới, phát
hiện và đề ra những phương pháp khai thác nguồn năng lượng mới cực mạnh, chế tạo
hàng loạt vật liệu nhân tạo có tác dụng nhiều mặt mà trước đây không thể biết được,
chế tạo hàng loạt phương tiện kỹ thuật và quy trình công nghệ mới về chất lượng sản
xuất… Cuộc chạy đua hết sức quyết liệt giữa các trung tâm hiện nay là Mỹ - Tây Âu -
Nhật Bản đã chứng minh phần thắng ở các nước có trình độ phát triển công nghiệp cao,
có phương pháp quản lý tiên tiến khoa học, luôn luôn hiện đại hóa nền sản xuất của
nước mình.
Đối với các nước kém phát triển, để thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và phụ thuộc
vào các nước đế quốc, không có con đường nào khác là con đường phải thực hiện CNH
đất nước. Họ quan niệm CNH và sự phát triển được xem như đồng nghĩa với nhau.
CNH đối với các nền kinh tế nông nghiệp, xuất khẩu nguyên liệu thô, được xem là
phương tiện giúp phá vỡ mối ràng buộc phụ thuộc vào các nước này phải chịu trong
thời kỳ thuộc địa, giành độc lập về chính trị mới đạt được sự độc lập về kinh tế. CNH
sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm đáng kể, thu hút lao động dư thừa ở khu vực nông
thôn, giúp nâng cao sản lượng trên đầu người, nâng cao mức sống và nhất là CNH giúp
tạo ra những thay đổi cần thiết các quan điểm về xã hội và văn hóa qua tác động “hiện
đại hóa” của các công nghệ và các phương pháp tổ chức được du nhập vào… CNH
được xem như là một phương tiện để đạt được một số mục tiêu về xã hội.
Đối với các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô, và ngày nay như Trung Quốc,
Việt Nam… sau khi giành được chính quyền, việc thực hiện CNH ngày càng được đặt
ra hết sức cấp bách. Một mặt, vì hầu hết các nước đó đều có trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất còn thấp, cần phải được nhanh chóng xây dựng để nâng cao năng lực
sản xuất đáp ứng các yêu cầu giống như ở các nước kém phát triển nêu trên. Mặt khác,
để đi lên CNXH đòi hỏi các nước này phải có một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 12 -
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH cần phải xây dựng trên cơ sở những thành tựu mới
nhất, tiên tiến nhất của KHCN, tức là nó phải tạo ra được một năng suất lao động xã
hội cao. Muốn vậy, tất yếu phải tiến hành quá trình CNH để tạo ra nền tảng cơ sở vật
chất đó cho nền kinh tế quốc dân XHCN.
Như vậy, có thể thấy rằng sự phát triển của ngành công nghiệp trong quá trình
CNH, HĐH có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia. Điều này được biểu
hiện cụ thể như sau:
- Phát triể n ngành công nghiệp sẽ làm gia tăng thu nhập quốc dân:
Năng suất cao hơn trong công nghiệp tạo điều kiện nâng cao thu nhập. Do công
nghiệp có thể sử dụng nhiều máy móc thay thế lao động của con người, so với các
ngành khác máy móc chỉ mang tính hỗ trợ.
Mặt khác, giá cả sản phẩm công nghiệp thì ổ định hơn và cao hơn ở thị trường
trong và ngoài nước.
- Phát triển ngành công nghiệp giúp củng cố sự ổn định thu nhập xuất khẩu
và thu nhập quốc dân:
Hầu hết các nước nông nghiệp thường chỉ xuất khẩu một hoặc một vài loại nông
sản, và chúng được xác định bởi cung và cầu. Nguồn nông sản thường không ổn định.
Khi bị mất mùa, ung giảm dẫn đến thu nhập giảm. Khi được mùa, giá hạ, thu nhập
cũng giảm. Những thiếu sút như vậy của nông sản bị làm trầm trọng thêm bởi sự trao
đổi bất bình đẳng của các nước công nghiệp với các nước kém phát triển. Hậu quả là
các nước được khai thác như thế bị mất cân bằng cán cân thanh toán. Chi tiêu nhập
khẩu vượt quá thu nhập xuất khẩu và cuối cùng, phát triển công nghiệp được xem như
một giải pháp của vấn đề.
- Phát triển ngành công nghiệp để trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho tất cả
các ngành trong nền kinh tế quốc dân:
Cung cấp tư liệu lao động (máy móc, thiết bị, công cụ lao động) và đối tượng
lao động (nguyên, nhiên liệu… ), nên công nghiệp có ý nghĩa thiết yếu đối với tăng
trưởng sản phẩm của cả khu vực sản xuất lẫn dịch vụ.
- Ngành công nghiệp cung cấp đại bộ phận sản phẩm tiêu dùng cho xã hội:
Vì là ngành cung cấp đại bộ phận sản phẩm tiêu dùng cho xã hội nên phát triển
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 13 -
công nghiệp là nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Ngành công nghiệp cung cấp nhiều việc làm hơn:
Công nghiệp tạo nhiều việc làm nên thu hút được nhiều lao động thặng dư ở
nông thôn. Phát triển công nghiệp thông qua quá trình công nghiệp hóa sẽ làm mọc
thêm nhiều nhà máy, cần nhiều lao động. Nông dân trong thời kỳ nông nhàn có thể làm
việc bán thời gian trong các nhà máy chế biến nông sản.
- Phát triển ngành công nghiệp giúp mở rộng thị trường nguyên liệu thô ở
nội địa:
Các ngành công nghiệp địa phương cần nguyên liệu thô cung cấp từ nông
nghiệp đi chế biến phục vụ cho tiêu dùng cá nhân và công nghiệp.
Tóm lại, phát triển ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH cũng như
việc thực hiện công cuộc CNH, HĐH đất nước đã trở thành một quy luật tất yếu khách
quan trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, bất chấp chế độ chính trị khác nhau.
Sự vững mạnh, phát triển hưng thịnh của mỗi quốc nước hoàn toàn phụ thuộc vào việc
có thực hiện thành công công cuộc CNH hay không. Thực tiễn của các nước trên giới
đã minh chứng điều đó và cũng chưa có quốc gia nào phát triển hùng mạnh mà không
phải thực hiện CNH.
1.3. MỘT SỐ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆPVÀ
MÔ HÌNH, KINH NGHIỆM VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA TRÊN
THẾ GIỚI
1.3.1. Mô hình tăng trưởng và phát triển công nghiệp
1.3.1.1. Mô hình cơ cấu chiến lược
Loại 1: Chiến lược phát triển những ngành công nghiệp then chốt cơ bản.
Gồm 2 nhóm ngành:
- Những ngành then chốt cổ điển như: Chế tạo máy, cơ khí; luyện kim, hóa chất
cơ bản; năng lượng.
- Sau đó phải cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng hiện đại hóa, xây dựng những
ngành: Điện tử, tin học; công nghệ sinh học; vật liệu xây dựng mới; năng lượng mới:
nguyên tử, địa nhiệt mặt trời; tự động hóa: ropot.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 14 -
Loại 2: Chiến lược phát triển cân đối, tổng thể hầu hết các ngành cần thiết.
Loại 3: Chiến lược tập trung phát triển những ngành mang lại hiệu quả lớn
nhất, nhanh nhất.
Trên thực tế, hầu như không có một quốc gia nào thuần túy áp dụng một mô
hình nào mà là có sự kết hợp (cid:198) loại 4.
Loại 4: Kết hợp giữa loại 1 và loại 3, có nghĩa là vừa xây dựng những ngành cơ
bản vừa tập trung vào một số ngành có hiệu quả nhất.
1.3.1.2. Các mô hình tăng trưởng công nghiệp
Mô hình tập trung sức lực của quốc gia cho các ngành công nghiệp Mô hình 1:
riêng biệt trong từng giai đoạn nhất định.
Loại 1: Các ngành công nghiệp giai đoạn đầu
Là những ngành cung cấp hàng hóa thiết yếu cho nhân dân và sản xuất bằng quy
trình công nghệ đơn giản.
Loại 2: Các ngành công nghiệp giai đoạn sau
Là những ngành cung cấp hàng tiêu dùng lâu bền (ô tô, tủ lạnh), hàng tư liệu sản
xuất (thép, máy móc, thiết bị… )
Loại: Các ngành công nghiệp giai đoạn giữa.
Là những ngành nằm giữa hai loại ngành trên là ngành sản xuất ra sản phẩm
trung gian như: gỗ, da, cao su, v.v.
Theo thống kê, phần tỷ lệ các ngành công nghiệp giain đoạn đầu trong GNP
tăng lên ở những nước có thu nhập tính theo đầu người thấp nhưng khi thu nhập tính
theo đầu người rất thấp thì tỷ lệ này không tăng lên nữa mà dừng lại rồi giảm xuống.
Phần tỷ lệ của các ngành công nghiệp giai đoạn sau trong GNP tiếp tục tăng khi thu
nhập tính theo đầu người ở mức cao.
Mô hình này có nhược điểm là việc phân loại chỉ có tính tương đối, khó xác
định một sản phẩm thuộc nhóm ngành nào.
Ngoài ra, tỷ lệ các ngành công nghiệp riêng biệt trong GNP của một nước được
xác định bởi tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, kinh nghiệm buôn bán ngoại thương
và nhiều yếu tố khác nữa.
Mô hình 2: S ự phát triển cân đối và không cân đối.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 15 -
- Các nhà kinh tế như Rognar Nurkse và Paul Rosensten ủng hộ mô hình phát
triển cân đối cho rằng các nước cần phải phát triển nhiều ngành công nghiệp đồng thời
nếu như muốn đạt được sự tăng trưởng kinh tế.
- Các nhà kinh tế như Albert Hirschman ủng hộ sự phát triển không cân đối cho
rằng các quốc gia có thể và cần thiết tập trung sức lực của mình vào một số ít ngành,
các khu vui chơi trong giai đoạn đầu của sự phát triển.
Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào một số ít ngành trong một thời gian dài thì có
thể không đủ để phát triển.
Mô hình 3: S ự kết hợp phía trước và phía sau.
Các ngành công nghiệp có sự kết hợp phía sau là những ngành công nghiệp sử
dụng đầu vào từ các ngành công nghiệp khác.
Các ngành công nghiệp có sự kết hợp phía trước là các ngành công nghiệp mà
các sản phẩm của nó sau đó được trở thành đầu vào của các ngành công nghiệp khác.
Cả hai sự kết hợp phía trước và phía sau sẽ dẫn đến nhu cầu xây dựng những
ngành công nghiệp mới và các ngành này lại tạo ra các nhu cầu mới nữa và cứ thế
tiếp tục.
Không có mô hình chung về CNH cho tất cả các quốc gia, tuy nhiên các phân
tích định hướng cho thấy rằng có một số các mô hình tương đối giống nhau giữa các
nhóm lớn các quốc gia.
1.3.2. Mô hình về công nghiệp hóa
Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, quá trình CNH có những nét đặc trưng
khác nhau, từ đó hình thành các mô hình CNH trên thế giới.
1.3.2.1. Mô hình công nghiệp hóa ở các nước Tây Âu
Đ ây là mô hình CNH đầu tiên trong lịch sử, được gọi là mô hình CNH cổ điển,
nó diễn ra vào giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, đầu tiên ở nước Anh rồi được
mở rộng sang nước Pháp và lan tỏa, phát triển sang các nước Đức, Nga và Mĩ. Nhờ
tiến hành CNH, các nước này đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu
kinh tế, chuyển từ nước nông nghiệp sang nước công nghiệp.
Mô hình CNH cổ điển có những đặc trưng cơ bản sau:
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 16 -
- Tiền đề cho sự xuất hiện và phát triển là cuộc cách mạng trong nông nghiệp.
Những thay đổi trong kỹ thuật và tổ chức trong sản xuất nông nghiệp đã tạo ra năng
suất lao động cao và tăng nhanh sản lượng nông nghiệp. Nhờ đó đã làm cho cung về
nông sản và cầu về tư liệu sản xuất trong nông nghiệp tăng lên, cho phép giải phóng
một bộ phận lao động trong nông nghiệp sang làm việc trong công nghiệp và các ngành
phi nông nghiệp khác, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hàng hóa và thị trường phát triển.
- Quá trình CNH diễn ra một cách tuần tự theo tiến trình: công nghiệp nhẹ, công
nghiệp nặng, giao thông vận tải, nông nghiệp, dịch vụ và lưu thông.
- Quá trình CNH diễn ra từ từ, chậm chạp với khoảng thời gian hàng trăm năm,
diễn ra như một quá trình lịch sử tự nhiên, theo các bước đi có tính tuần tự.
1.3.2.2. Mô hình công nghiệp hóa ở Liên Xô (trước đây)
Mô hình CNH ở Liên Xô (trước đây) diễn ra trong một hoàn cảnh lịch sử đặc
biệt. Là nước XHCN đầu tiên trên thế giới, Liên Xô tiến hành CNH trong vòng vây của
CNTB, trong điều kiện CNTB đã có nền công nghiệp hùng mạnh và luôn muốn tiêu
diệt CNXH bằng quân sự. Do đó, CNH ở Liên Xô thời bấy giờ gặp rất nhiều khó khăn
trong việc khai thác thành tựu của các nước đi trước và tranh thủ công nghệ của nước
ngoài. Đặc điểm khác biệt của CNH ở Liên Xô là: tiến hành trên một đất nước có diện
tích rộng, tài nguyên phong phú, dân số khá lớn, KHCN đã đạt trình độ tương đối khá
nên nhờ vậy mà Liên Xô đã thực hiện CNH thành công trong điều kiện bị CNTB bao
vây và âm mưu tiêu diệt.
CNH ở Liên Xô (trước đây) có những đặc trưng cơ bản sau:
- CNH trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, không lấy hiệu quả kinh tế -
xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư
và công nghệ.
- Lấy ưu tiên phát triển công nghiệp nặng làm nền tảng ngay từ thời kỳ đầu của
quá trình CNH.
- Quá trình CNH diễn ra trong một thời gian rất ngắn, chỉ trong khoảng 15 năm.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là thời gian để hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ CNH.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 17 -
CNH ở Liên Xô trước đây không chỉ là tất yếu về mặt kinh tế mà còn tất yếu về
quốc phòng. Việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng ngay từ đầu, một mặt đã nhanh
chóng làm cho Liên Xô trở thành nước công nghiệp hùng mạnh, tự trang bị cho nền
kinh tế quốc dân những máy móc thiết bị cần thiết và củng cố nhanh chóng tiềm lực
quốc phòng. Mặt khác, do phải ưu tiên cho công nghiệp nặng trong điều kiện nguồn
vốn hạn hẹp nên phải cắt giảm vốn đầu tư cho nông nghiệp và các ngành kinh tế khác,
khiến cho lĩnh vực này chậm phát triển, đời sống nhân dân chậm được cải thiện.
1.3.2.3. Mô hình công nghiệp hóa ở các nước NICs
Các nước và vùng lãnh thổ là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore
được gọi là các nước CNH mới (NICs) thuộc thế hệ thứ nhất ở Đông Á, đã tạo nên
những nền công nghiệp tăng trưởng nhanh chưa từng thấy. Thời gian cho quá trình
CNH ở những quốc gia và vùng lãnh thổ này khoảng 30 năm.
Những nước mới CNH châu Á nói trên vốn xuất phát từ một nền nông nghiệp.
Trong cơ cấu chung của nền kinh tế, ngành nông nghiệp thường chiếm tới 75% lao
động và trên 30% GDP. Nhìn một cách tổng quát, quá trình CNH ở các nước NICs trải
qua hai giai đoạn:
- Tạo tiền đề cho CNH. Ở giai đoạn này các nước NICs tạo ra các đột phá trong
nông nghiệp, trong xây dựng kết cấu hạ tầng và sản xuất các sản phẩm hướng về
xuất khẩu.
- Giai đoạn CNH. Giai đoạn này được thực hiện tăng tốc qua các yếu tố về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế (giảm nhanh tỷ troïng nông nghiệp trong GDP), duy trì khả
năng tăng trưởng kinh tế ở mức cao, thực hiện chính sách thuận lợi cho sự phát triển
các công nghệ hiện đại, đảm bảo cho nền giáo dục - đào tạo phát triển vững vàng, gắn
liền CNH với HĐH.
Chỉ trong vòng 30 năm các nước NICs đã trở thành những nước phát triển, họ
đã lợi dụng những cơ hội tốt để “đi tắt, đón đầu” thông qua tiếp nhận công nghệ, tiến
thẳng vào công nghệ hiện đại. Trong quá trình CNH, các nước NICs đã có những bước
đi thích hợp: lúc đầu là nhập công nghệ, thích nghi và cải tiến chúng dựa trên sự vận
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 18 -
dụng các thành tựu KHCN của thế giới và phát triển KHCN trong nước, tiếp theo là
xây dựng năng lực công nghệ quốc gia nhờ phát triển năng lực nội sinh về KHCN để
tiến tới sáng tạo công nghệ và xuất khẩu công nghệ.
Nhìn chung, các nước NICs đều thiếu tài nguyên thiên nhiên và đất đai tính theo
đầu người rất thấp nên quá trình CNH của các nước này có đặc điểm chung là các
chính sách đều nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, hướng về xuất khẩu và đặc biệt là rất coi
trọng đầu tư vào nguồn nhân lực nên đã đạt được những thành tựu rất lớn trong giáo
dục, có nguồn lao động được đào tạo tương đối tốt, có kỷ luật và có khả năng thích
nghi tốt.
Lúc đầu, các nước NICs đều thực hiện CNH theo chiến lược “thay thế nhập
khẩu”, sau đó từ những năm 60 của thế kỷ XX họ chuyển sang chiến lược “hướng về
xuất khẩu”. Nhờ đó đã khai thác được tối đa các nguồn lực trong nước và các điều kiện
thuận lợi ở bên ngoài của thời đại.
1.3.2.4. Mô hình công nghiệp hóa ở các nước ASEAN
Năm 1967 Hiệp hội các nước Đông Nam Á viết tắt là ASEAN được thành lập
ban đầu gồm 5 nước: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Sau đó
gia nhập thêm các quốc gia: Brunei (1984), Việt Nam (1995), Lào và Myanma (1997),
Campuchia (1999). CNH ở các nước ASEAN tiến hành trong điều kiện ít nhiều khác
với các nước NICs. Các nước này trước kia đều là thuộc địa của các nước tư bản phát
triển nên họ muốn xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ sau khi giành độc lập. Mặt
khác, so với các nước NICs, các nước ASEAN có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú hơn. Ở thời kỳ đầu CNH, các nước này đã đi theo chiến lược “thay thế nhập khẩu”
với đặc trưng là sản xuất và trao đổi hàng hóa chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước. Thực tế cho thấy chiến lược này không phù hợp, kém hiệu quả nên họ đã
chuyển sang chiến lược “hướng về xuất khẩu”, thực chất là giải pháp “mở cửa” để cho
phép khai thác các lợi thế so sánh trong nước và việc khai thác các điều kiện thuận lợi
bên ngoài, nhờ vậy mà chiến lược này đã được thực hiện thắng lợi ở các nước NICs.
Trong quá trình CNH, các nước ASEAN rất chú ý đến việc thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), vì đây là nguồn vốn có vai trò rất quan trọng cho sự phát
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 19 -
triển kinh tế, đi cùng với FDI là kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và khả năng
mở rộng thị trường, v.v. Tuy nhiên, vấn đề là phải biết sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
này, khắc phục tính lệ thuộc, chủ động trong việc lựa chọn công nghệ thích hợp và
ngăn chặn những tác động tiêu cực. Bên cạnh đó, các nước này cũng rất chú ý đến
công nghiệp hướng về xuất khẩu, đặc biệt rất chú ý phát triển loại xí nghiệp qui mô vừa
và nhỏ, và đó là xu hướng đã được nhiều nước ứng dụng vì nó có nhiều ưu điểm như
lượng vốn đầu tư ít, thu hồi vốn nhanh, ứng dụng tiến bộ KHCN mới nhanh, thích ứng
linh hoạt với biến động của thị trường, quan hệ chủ và thợ thân thiện hơn, v.v. Còn một
đặc điểm nổi bật nữa trong quá trình CNH ở các nước ASEAN là họ quan tâm đặc biệt
tới giáo dục văn hóa, truyền thống và giáo dục hướng nghiệp cho người lao động.
Ngoài ra, họ còn có chính sách khuyến khích, kêu gọi các nhà khoa học, chuyên gia kỹ
thuật, v.v. đang ở nước ngoài về nước làm việc với chế độ đãi ngộ cao. Họ cũng có
chính sách “nhập khẩu” các chuyên gia, kỹ sư giỏi của nước ngoài để sử dụng chất
xám của họ. Hơn nữa, họ cũng rất chú ý đến vai trò điều tiết của Nhà nước. Sự điều tiết
của Nhà nước nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và công bằng
giữa các dân tộc; quản lý vốn đầu tư, can thiệp vào ngoại thương và bảo hộ ngành công
nghiệp chế tạo nội địa; can thiệp vào thị trường lao động, thị trường vốn, quy định giá
cả một số mặt hàng thiết yếu để chống độc quyền, v.v.
1.3.3. Một số kinh nghiệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước
Trong quá trình CNH, H ĐH của nước ta, việc nghiên cứu kinh nghiệm của các
ước khác là rất quan trọng (cả kinh nghiệm thành công và không thành công), rất cần
thiết cho con đường CNH “rút ngắn”.
1.3.3.1. Chuyển giao công nghệ
Thực chất của chuyển giao công nghệ là đưa công nghệ bao gồm cả phần cứng
(máy móc, thiết bị) và phần mềm (quy trình, phương pháp công nghệ…) từ nước này
sang nước khác, làm thay đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng công nghệ được chuyển
giao. Thực chất, công nghệ được chuyển giao là một thứ hàng hóa.
Kinh nghiệm của các nước thực hiện chuyển giao công nghệ (Nhật Bản, các
nước NICs, ASEAN, v.v. ) cho thấy các nước tiến hành CNH gắn liền với HĐH qua
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 20 -
chuyển giao công nghệ, hay CNH “hướng về xuất khẩu” đều đạt được những kết quả
nổi bật, vì chuyển giao công nghệ cho phép:
- Rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với các nước có nền kinh tế phát triển, do
khai thác được lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh về KHCN hiện đại của thế giới.
- Tạo điều kiện để khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực ở trong nước nhằm
tăng trưởng kinh tế nhanh.
- Đối với những nước đang chuyển từ nền CNH “thay thế nhập khẩu” sang
CHN “hướng về xuất khẩu” thì nó thúc đẩy sự chuyển dịch này có hiệu quả, tạo thế và
lực cho cạnh tranh và hòa nhập thị trường thế giới.
Các nước thực hiện chuyển giao công nghệ thường qua các giai đoạn, các bước
đi thích hợp: giai đoạn đầu là nhập công nghệ và thích nghi với nó, là “sự bắt chước,
làm theo”; áp dụng công nghệ một cách khôn ngoan, tài tình theo cách riêng của mình,
kết hợp hài hòa công nghệ nhập với văn hóa của mình; xây dựng năng lực công nghệ
quốc gia, tiến tơi sáng tạo công nghệ và xuất khẩu công nghệ.
Phương thức chung của các nước chuyển giao công nghệ là lựa chọn công nghệ
thích hợp, tiến thẳng vào công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Công nghệ cao, một mặt
có tác dụng làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tạo ra nhiều ngành
công nghiệp mới có giá trị gia tăng cao, tạo khả năng giao lưu và cạnh tranh quốc tế;
mặt khác, có ý nghĩa quyết định đối với việc đổi mới công nghệ trong toàn bộ nền kinh
tế, trang bị kỹ thuật cho các ngành sản xuất, dịch vụ, an ninh quốc phòng, có tác dụng
trong điều tra tài nguyên, khôi phục môi trường bị ô nhiễm. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện nhận chuyển giao công nghệ cần tỉnh táo để tránh nhập công nghệ lỗi thời do
các nước thải ra, tránh không trở thành “bãi thải công nghiệp”.
1.3.3.2. Chiến lược hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu
Khi tiến hành CNH, một số nước (như các nước NICs, ASEAN) lúc đầu thực
hiện chiến lược “thay thế nhập khẩu” sau đó đã linh hoạt chuyển sang “hướng về
xuất khẩu”.
Thực tế của thế giới mấy chục năm qua cho thấy, hầu hết các nước thực hiện
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 21 -
CNH “hướng về xuất khẩu” đều đạt kết quả nổi bật so với áp dụng các chiến lược
CNH khác.
Chiến lược “thay thế nhập khẩu” được áp dụng phổ biến vào thập kỷ 50, 60 của
thế kỷ XX. Đặc trưng cơ bản của chiến lược này là sản xuất và trao đổi hàng hóa chủ
yếu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Chiến lược này ra đời trong
điều kiện:
- Các nước đang phát triển phần lớn còn ở thời kỳ kinh tế tự nhiên và kinh tế
hàng hóa giản đơn, trình độ sản xuất còn thấp kém, thị trường nhỏ hẹp, quan hệ hàng
hóa - tiền tệ chưa phát triển.
- Các nước tư bản phát triển chưa đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Lúc đầu chiến lược “thay thế nhập khẩu” được áp dụng ở các nước Mĩ- Latinh,
sau đó lan sang các châu lục khác và được các nước đang phát triển mới giành được
độc lập coi là chiến lược phù hợp với tư tưởng tự lực cánh sinh, chống chủ nghĩa đế
quốc, tư tưởng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Chiến lược này có nhiều hạn chế: do “đóng cửa” nên không khai thác được vốn,
kỹ thuật từ bên ngoài trong khi nguồn thu ngân sách thấp, đầu tư chiều sâu cho công
nghiệp rất khó khăn; do chủ trương cân bằng xuất nhập khẩu chủ yếu đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng nội địa, không thấy và không phát huy được vai trò của ngoại thương, v.v.
chiến lược này còn gây ra sử dụng lãng phí tài nguyên do công nghệ lạc hậu, quản lý
yếu kém, chi phí sản xuất cao, năng suất thấp, v.v.
Vào cuối thâp kỷ 60, chiến lược “thay thế nhập khẩu” về cơ bản đã bị phá sản
do không còn phù hợp với điều kiện diễn ra xu hướng quốc tế hóa và khu vực hóa kinh
tế, trong sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng KHCN hiện đại đòi hỏi phá vỡ quan hệ
“đóng cửa” giữa các quốc gia.
Chiến lược “hướng về xuất khẩu” được áp dụng rộng rãi trong các nước đang
phát triển từ thập kỷ 70 trở lại đây. Thực chất của chiến lược này là giải pháp “mở cửa”
ở các nước đang phát triển nhằm tranh thủ các yếu tố thuận lợi bên ngoài (vốn, công
nghệ…) và khai thác các lợi thế trong nước, để tiến hành CNH theo con đường
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 22 -
rút ngắn.
Các nước NICs Đông Á và các nước ASEAN đã nhanh chóng trở thành các
“con rồng”, “con hổ” chính là nhờ sự thực hiện thành công chiến lược “hướng về xuất
khẩu”. Tuy nhiên, quá trình thực hiện chiến lược này không phải ở các nước đều như
nhau mà thường được vận dụng phù hợp với những nét đặc thù của mỗi nước. Có nước
thực hiện chiến lược “hướng về xuất khẩu” gắn bó hoàn toàn với thị trường bên ngoài,
có nước kết hợp giữa hướng vào xuất khẩu với việc củng cố thị trường nội địa… Thực
tế cho thấy, nếu nền kinh tế “mở cửa” nhưng phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường quốc
tế sẽ dẫn đến mất ổn định kinh tế trong nước. Trong điều kiện thế giới diễn ra cạnh
tranh gay gắt, chính sách “mở cửa” phù hợp là mở cửa cả hai hướng: thị trường thế
giới và thị trường nội địa.
1.3.3.3. Vấn đề thu hút vốn đầu tư
Thu hút vốn đầu tư cho CNH, HĐH là điều kiện vô cùng quan trọng có ảnh
hưởng trực tiếp đến tiến trình này đối với mọi quốc gia. Nguồn vốn đầu tư cho CNH,
HĐH gồm có: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn từ nước ngoài. Trong đó, nguồn
vốn trong nước có tính quyết định vì đây là nguồn vốn nội sinh, nội động lực của nền
kinh tế nên các quốc gia đều có chính sách và biện pháp thích hợp để huy động nguồn
vốn này. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài rất quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế, nó bao gồm vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn đầu tư gián tiếp (vay, viện
trợ); trong đó, FDI là rất quan trọng, vì thực tế đi cùng với FDI là kỹ thuật - công nghệ,
kinh nghiệm quản lý và khả năng mở rộng không gian thị trường, v.v. Những yếu tố
này là lực lượng đột phá những bế tắc, cản trở để mở ra hướng đi lên của nền kinh tế
chậm phát triển, góp phần khởi động cho quá trình CNH, HĐH. Các nước NICs và
ASEAN rất thành công trong việc thu hút FDI, và đó là một yếu tố rất quan trọng cho
sự thành công của quá trình CNH, HĐH của họ. Cá biệt có nước như Singapore thì tư
bản nước ngoài là nguồn gốc chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, là đòn bẩy cho sự cất
cánh kinh tế và thực hiện CNH.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy: để thu hút được nhiều vốn đầu tư nước
ngoài cần phải tạo môi trường đầu tư có lợi - là môi trường đầu tư có nhiều yếu tố đảm
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 23 -
bảo cho nhà đầu tư thực hiện được mục đích của mình. Môi trường đầu tư có lợi nói
chung bao gồm các yếu tố:
- Bảo đảm có lợi nhuận cao. Đây là nhu cầu cơ bản nhất, là mục đích chủ yếu
của người đầu tư. Vấn đề này liên quan trực tiếp đến luật đầu tư có đủ sức hấp dẫn đến
mức độ nào, đến triển vọng của nền kinh tế, đến dung lượng thị trường, đến giá cả lao
động cao hay thấp, v.v.
- Đảm bảo an toàn đầu tư. Đó chính là sự ổn định chính trị và kinh tế, không có
sự biến động lớn về chính trị, kinh tế phát triển ổn định.
- Các điều kiện cần thiết cho đầu tư thuận lợi như kết cấu hạ tầng tương đối phát
triển, pháp chế được kiện toàn, có lượng vốn trong nước ở một trình độ nhất định, có
năng lực nội tại đủ để tiếp nhận các công nghệ phù hợp của các dự án FDI.
1.3.3.4. Vấn đề môi trường sinh thái
Quá trình CNH, HĐH và đi kèm theo nó là đô thị hóa. Một mặt thúc đẩy tăng
trưởng cao về kinh tế; mặt khác, thường gây ra sự phá hủy và ô nhiễm môi trường sinh
thái. Hầu hết các quốc gia tiến hành CNH đều đã rút ra được các bài học và phải trả giá
cho vấn đề này. Ngày nay, vấn đề phát triển bền vững đang là mục tiêu chung của loài
người, hầu như mọi quốc gia không chỉ nghĩ tới tăng trưởng kinh tế thuần tuý như
trước đây nữa.
Phát triển bền vững được đặt ra cấp bách hơn bao giờ hết. Trong nhiều mục tiêu
của sự phát triển bền vững, nổi lên hai mục tiêu cơ bản: tăng trưởng kinh tế và bảo vệ
môi trường sinh thái.
Quá trình CNH của nhiều nước đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích
đối với việc bảo vệ môi trường sinh thái:
- Chống ô nhiễm ngay tại nguồn phát sinh ra ô nhiễm: quản lý có hiệu quả việc
đốt cháy nhiên liệu, áp dụng công nghệ loại bỏ chất bẩn.
- Việc bảo vệ môi trường được xem xét ngay từ khi lập luận chứng kinh tế kỹ
thuật cho các dự án, nếu không đảm bảo yêu cầu về bảo vệ môi trường sẽ bị đình chỉ
xây dựng.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 24 -
- Tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc phòng chống ô nhiễm như ban
hành luật; tiến hành việc đo đạc về môi trường, đo đạc nguồn gây ô nhiễm, lập chương
trình điều chỉnh, bổ khuyết, xử phạt, quy định nội dung và hướng dẫn kỹ thuật, v.v.
- Các nước nhập chuyển giao công nghệ thường xuyên chú ý hạn chế công nghệ
tốn nhiều nguyên liệu và gây ô nhiễm nhiều.
1.3.3.5. Vấn đề văn hóa và truyền thống
Mọi quốc gia trong quá trình CNH, HĐH thực hiện chuyển giao công nghệ, xây
dựng nền kinh tế mở đều đặt ra vấn đề: văn hóa và truyền thống.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng KHCN hiện đại, quốc tế
hóa và giao lưu quốc tế ngày càng rộng rãi, thì việc mở rộng quan hệ với bên ngoài là
tất yếu. Không một dân tộc nào trong thời đại ngày nay có thể sống biệt lập với
thế giới.
Trong quá trình HĐH đất nước phù hợp với xu hướng quốc tế hóa kinh tế,
khuynh hướng tìm về truyền thống dân tộc, khẳng định bản sắc dân tộc đã trở thành
một khuynh hướng quốc tế rộng rãi, được coi như một yêu cầu tiên quyết cho mọi quốc
gia để có thể đứng vững trong cộng đồng quốc tế ngày nay.
Kinh nghiệm phổ biến ở các nước cho thấy: ở những nơi nào người ta không cắt
đứt với truyền thống văn hóa dân tộc, ngược lại biết giữ gìn những truyền thống văn
hóa tốt đẹp từ văn học, nghệ thuật đến các tập tục, lễ nghi, các quy ước trong đời sống
hàng ngày, v.v. thì ở nơi đó giữ được ổn định chính trị, xã hội, gia đình, đảm bảo sự
phát triển lành mạnh của con người, và đó lại là một yếu tố rất quan trọng để HĐH
đất nước.
Lịch sử phát triển của nhiều quốc gia cũng cho thấy rằng, những thành tựu của
KHCN và quá trình CNH thắng lợi không phải là yếu tố duy nhất đưa tới một xã hội tốt
đẹp, cân bằng và cuối cùng cũng không thể đảm bảo cho sự phát triển tối ưu của sản
xuất. Ngược lại, nếu biết kết hợp các thành tựu của KHCN hiện đại với những truyền
thống văn hóa, tinh thần đạo đức… của dân tộc, thì sự tiến bộ kinh tế - xã hội nhanh
chóng và vững vàng hơn nhiều.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 25 -
Việc nghiên cứu các mô hình về CNH và kinh nghiệm của các nước trong quá
trình CNH rất cần thiết cho các nước đang thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH như ở Việt
Nam. Mỗi mô hình và kinh nghiệm cụ thể đều xuất phát từ điều kiện cụ thể của mỗi
nước trong bối cảnh quốc tế mà nước đó tiến hành CNH nên không thể sao chép mô
hình hoặc kinh nghiệm của nước khác vào điều kiện cụ thể của quốc gia mình, song
việc nghiên cứu các mô hình và kinh nghiệm cả thành công và không thành công của
các nước đi trước trong quá trình CNH là rất bổ ích đối với các nước đi sau.
1.4. SỰ VẬN DỤNG NỘI DUNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀO
VIỆT NAM
1.4.1. Mục tiêu, quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
1.4.1.1. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Mục tiêu cơ bản của CNH, HĐH là cải biến ta thành một nước công nghiệp có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể.
Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức
để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
1.4.1.2. Quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong
nước và quốc tế, Đảng ta nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện
CNH, HĐH đất nước trong điều kiện mới. Những quan điểm này được Hội nghị lần
thứ 7, Ban chấp hành Trung ương khóa VII nêu ra và được phát triển, bổ sung qua các
Đại hội VIII, IX, X của Đảng. Dưới đây khái quát lại những quan điểm cơ bản của
Đảng về CNH, HĐH thời kỳ đổi mới:
M ột là, CNH gắn với HĐH và CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Hai là, CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
B ốn là, KH & CN là nền tảng và động lực của CNH, HĐH.
N ăm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng
sinh học.
1.4.2. Nội dung và định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay
1.4.2.1. Nội dung
Đạ i hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH
đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế
tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH” [6, 28-29].
Nội dung cơ bản của quá trình này là:
- Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri
thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát
triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế - xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành,
lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
1.4.2.2. Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
- Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn
- 26 -
đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
- 27 -
- Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Tính quy luật của CNH, HĐH là tỷ trọng của nông nghiệp giảm còn công
nghiệp và dịch vụ thì tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển nhanh hơn công
nghiệp và dịch vụ.
+ Đối với công nghiệp và xây dựng: khuyến khích phát triển công nghiệp công
nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế
cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số
khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả của các KCN, KCX. Khuyến
khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng
theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn nước ngoài và
các công ty lớn xuyên quốc gia. Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư
thực hiện các dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu, luyện kim, cơ
khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất
khẩu tài nguyên thô. Thu hút chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng
đồng người Việt định cư ở nước ngoài. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh
tế-xã hội nhất là các sân bay quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, đường
đông tây, mạng lưới cung cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn,
hệ thống thủy lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công
nghệ tiết kiệm năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính-viễn thông.
+ Đối với dịch vụ: tập trung đầu tư vào những ngành có chất lượng cao, có sức
cạnh tranh, đưa tốc độ phát triển dịch vụ nhanh hơn tốc độ tăng GDP; đổi mới cơ chế
quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công.
- Phát triển kinh tế vùng: Cần xây dựng cơ chế chính sách phù hợp để các vùng
kinh tế phát triển dựa trên ưu thế của từng vùng; xây dựng hiệu quả ba vùng kinh tế
trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam; có chính sách trợ giúp phát triển các
vùng kinh tế khó khăn.
- Phát triển kinh tế biển:
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 28 -
+ Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển hiệu quả, toàn diện,
có trọng tâm. Sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực,
gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
+ Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải
biển, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch
biển, đảo. Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển, đồng thời hình thành
một số hành lang kinh tế ven biển.
- Chuyể n dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ:
+ Phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ
cấu đồng bộ và chất lượng cao, tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới
50% lực lượng lao động xã hội.
+ Phát triển KH & CN phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của cánh mạng
KH & CN. Lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đại ở một số ngành, lĩnh vực then
chốt. Chú trọng phát triển công nghệ cao để tạo đột phá và công nghệ sử dụng nhiều
lao động để giải quyết việc làm. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu KH &
CN, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong từng ngành, lĩnh vực
của nền kinh tế.
+ Kết hợp chặt chẽ hoạt động KH & CN với giáo dục và đào tạo để thực hiện sự
phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh CNH, HĐH và phát triển
kinh tế tri thức.
+ Đối mới cơ chế quản lý KH & CN, đặc biệt là cơ chế tài chính phù hợp với
đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động KH & CN.
- Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 29 -
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Lôgíc và lịch sử đều khẳng định rằng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại,
CNH là bước đi tất yếu mà các nước sớm muộn đều phải trải qua. Trong thời đại ngày
nay, các nước đi sau làm CNH không thể không gắn liền với HĐH, không chỉ đơn
thuần diễn ra trong ngành công nghiệp theo quan niệm cũ, mà diễn ra trong tất cả các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân nhằm nâng cao năng suất lao động
xã hội.
Nội dung của chương 1 đã hệ thống lại toàn bộ những lý luận chung về CNH,
HĐH nói chung và ngành công nghiệp nói riêng để từ đó vận dụng vào Việt Nam, bao
gồm các vấn đề chính sau đây:
- Các quan niệm về CNH và tính tất yếu khách quan của CNH, HĐH.
- Một số mô hình và kinh nghiệm về CNH, HĐH trên thế giới.
- Những lý luận cơ bản về công nghiệp và ngành công nghiệp.
- Sự vận dụng nội dung CNH, HĐH vào Việt Nam.
Những kiến thức cơ bản về lý luận CNH, HĐH trên đây sẽ giúp cho việc nghiên
cứu ngành công nghiệp của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu được thuận tiện hơn và được định
hướng phát triển theo hướng hiện đại nhằm góp phần nâng cao vị thế của tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu xứng đáng là một tỉnh đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 30 -
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VÀ HIỆN ĐẠI HÓA NGÀNH
CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP TỈNH BÀ RỊA-
VŨNG TÀU
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu được thành lập tháng 11 năm 1991 trên cơ sở sáp nhập
Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo với 3 huyện tách ra từ tỉnh Đồng Nai là huyện Châu
Thành, huyện Long Đất và huyện Xuyên Mộc. Trừ Côn Đảo ngoài khơi biển Đông
cách thành phố Vũng Tàu 200 km về phía Tây Nam và cách mũi Cà Mau khoảng 200
km về phía Đông, phần trên đất liền của tỉnh phía Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, phía Đông
giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp huyện Cần Giờ của Tp. Hồ Chí Minh, phía Nam
và Đông Nam giáp biển Đông. So với các tỉnh khác trong cả nước, Bà Rịa-Vũng Tàu có diện tích và số dân không lớn (1.988,65 km2; dân số trên 994 nghìn người năm 2008
chiếm khoảng 0,6% diện tích và hơn 1% dân số cả nước). Về mặt hành chính, tỉnh hiện
có 7 huyện thị (trong đó có 1 huyện đảo) và một thành phố Vũng Tàu. [5]
Là cửa ngõ của VKTTĐPN, Bà Rịa-Vũng Tàu có vai trò là trung tâm trung
chuyển hàng hóa giữa vùng Đông Nam Bộ, VKTTĐPN với bên ngoài. Nằm trong
VKTTĐPN, một vùng kinh tế rất năng động với tốc độ phát triển kinh tế và mức đóng
góp GDP lớn nhất cả nước, nên có nhiều thuận lợi trong liên kết trao đổi, giao lưu văn
hóa, công nghệ, lao động kỹ thuật, v.v. Mặt khác, tỉnh lại gần đồng bằng sông Cửu
Long, một vùng kinh tế quan trọng, vựa lúa của cả nước nên thuận lợi trong việc tiếp
nhận các nguồn lương thực, thực phẩm, hoa quả, v.v. phong phú nhất Việt Nam.
Bà Rịa-Vũng Tàu nằm trên trục đường xuyên Á, có hệ thống cảng biển, sân bay
và mạng lưới đường sông thuận lợi. Các đường quốc lộ 51, 55, 56 cùng với hệ thống
đường tỉnh lộ, huyện lộ là những mạch máu chính gắn kết quan hệ toàn diện của Bà
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 31 -
Rịa-Vũng Tàu với các tỉnh khác trong cả nước và quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh lợi thế
trên, Bà Rịa-Vũng Tàu đang và sẽ gặp phải sự cạnh tranh rất quyết liệt giữa các nước
trong khu vực, giữa các tỉnh trong VKTTĐPN khi thu hút kêu gọi đầu tư, tuyển dụng
lao động, cung cấp dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm cho các khu và cụm công nghiệp; mặt
khác, vị trí các KCN hầu hết nằm ven sông, sình lầy nhiều, chi phí san lấp và đầu tư
các hạng mục hạ tầng kỹ thuật cao, làm tăng giá cho thuê đất, hạn chế sự cạnh tranh
với các địa phương khác.
Tỉnh có 3 hệ thống sông chính là: sông Thị Vải dài 32 km (phần chảy qua tỉnh
dài 25 km) rộng trung bình 600 - 800 m, sâu từ 10 - 40 m với hướng chảy của sông gần
như song song với quốc lộ 51 nên rất thuận lợi cho việc xây dựng hệ thống cảng nước
sâu đón tàu từ 30 - 80 nghìn tấn; Hệ thống sông Dinh dài 35 km thích hợp cho phát
triển các cảng thương mại, cảng tổng hợp, cảng chuyên dùng dầu khí và các công trình
dịch vụ hàng hải cho tàu từ 3 - 10 nghìn tấn, riêng xã đảo Long Sơn có thể phát triển
cảng chuyên dùng đón tàu có trọng tải 30 nghìn tấn. Đặc biệt, ở hạ nguồn sông Dinh
tiếp giáp với biển có khu cảng Sao Mai Bến Đình là cảng quốc tế container đã được
Nhà nước cấp giấy phép đầu tư; Hệ thống sông Ray dài 120 km (phần qua tỉnh dài 40
km) đã và đang xây dựng nhiều hồ và đập dâng, đáng kể nhất là hồ Sông Ray với dung tích 100 - 140 triệu m3 nước là nguồn cung cấp nước sinh hoạt và công nghiệp quan trọng của tỉnh trong tương lai với công suất thiết kế từ 400.000 - 450.000 m3/ngày đêm.
[1, 16].
Hơn nữa, Bà Rịa-Vũng Tàu sẽ còn là cửa ngõ ra biển Đông của xa lộ Đông -
Tây thuộc hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông ở phía Nam, vì Bà Rịa-Vũng Tàu là nơi
Việt Nam gần nhất với tuyến hàng hải quốc tế. Từ Côn Đảo tới ngã tư của đường hàng
hải quốc tế chỉ có 60 km và Côn Đảo có vịnh Bến Đầm, có điều kiện thiên nhiên tương
đương với vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa), rất thuận lợi cho việc xây dựng cảng trung
chuyển hàng hóa giao lưu với các nước, tương tự như Singapore hiện nay.
Về tài nguyên khoáng sản, Bà Rịa-Vũng Tàu có nhiều loại, trong đó đáng kể
nhất là dầu mỏ, khí thiên nhiên và khoáng sản làm vật liệu xây dựng.
+ Vùng biển của tỉnh có trữ lượng dầu mỏ và khí thiên nhiên lớn nhất Việt Nam
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 32 - với khoảng 400 triệu m3 dầu (chiếm khoảng 90% trữ lượng dầu cả nước) và trên 100 tỷ m3 khí (chiếm khoảng 16% trữ lượng khí đốt cả nước), là lợi thế to lớn cho phát triển
công nghiệp khai thác dầu khí, dịch vụ dầu khí và các ngành công nghiệp có sử dụng
dầu khí làm nguyên liệu, nhiên liệu (điện, đạm, khí hóa lỏng, luyện cán thép, v.v.),
quyết định đến sự phát triển của tỉnh.
+ Các loại tài nguyên khoáng sản khác như đá xây dựng, cát thủy tinh, đá ốp lát,
v.v. được phân bố ở nhiều nơi, cho phép hình thành ngành công nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng rộng khắp trong tỉnh, và tuy có trữ lượng không lớn lắm nhưng đã được
thăm dò và nhiều loại đang khai thác cũng là một lợi thế so sánh của tỉnh. Tuy nhiên,
cần phải thấy rằng tài nguyên khoáng sản không phải là vô hạn, vì vậy khai thác phải đi
đôi với việc bảo vệ môi trường, phát triển bền vững.
Bờ biển của Bà Rịa-Vũng Tàu dài 305,4 km với khoảng 156 km có bãi cát thoai
thoải, nước xanh có thể sử dụng làm bãi tắm quanh năm, có Vịnh Giàng Rái rộng 50 km2 có thể xây dựng một hệ thống cảng hàng hải. Với trên 100.000 km2 thềm lục địa đã
tạo cho Bà Rịa-Vũng Tàu không chỉ có một vị trí quan trọng về an ninh quốc phòng mà
còn tạo cho tỉnh có một tiềm năng to lớn để phát triển các ngành kinh tế biển. Có thể
thấy rằng, tài nguyên biển rất thuận lợi cho tỉnh phát triển vận tải biển, hệ thống cảng,
du lịch và công nghiệp khai thác, chế biến hải sản. Tuy nhiên, công nghiệp khai thác
hải sản của tỉnh chỉ thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn khi ngành đánh bắt
có những đội tàu lớn vươn ra khai thác tại các ngư trường quốc tế.
Về tài nguyên rừng, Bà Rịa-Vũng Tàu có diện tích rừng không lớn (chiếm
18,6% diện tích tự nhiên). Rừng của tỉnh chỉ có tầm quan trọng trong tạo cảnh quan,
môi trường, phòng hộ và phát triển du lịch, còn mục đích khai thác rừng lấy gỗ và
nguyên liệu là không lớn. Trong những năm tới chỉ có thể sử dụng một số loại cây rừng
làm hàng thủ công mỹ nghệ và có thể khai thác một số khu rừng trồng đến kỳ thu
hoạch làm nguyên liệu giấy và chế biến đồ mộc dân dụng.
Tóm lại, với những lợi thế quan trọng về điều kiện tự nhiên và địa lý như trên,
Bà Rịa-Vũng Tàu là tỉnh có nhiều tiềm năng to lớn để phát triển phát triển mạnh kinh
tế biển, đặc biệt là các ngành công nghiệp dầu khí, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 33 -
điện, phân bón, luyện kim, vật liệu xây dựng, dịch vụ cảng biển, du lịch, khai thác chế
biến hải sản, v.v. không chỉ phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh mà còn
đáp ứng nhu cầu về năng lượng, nguyên liệu cho các địa phương khác và cho cả nước
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa chung của đất nước. Dưới đây là Bản đồ
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu:
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội
Giá trị tổng sản lượng GDP trên địa bàn tỉnh năm 2008 tính theo giá hiện hành
đạt 36.567 tỷ đồng, nếu tính cả dầu thô và khí đốt thì GDP đạt khoảng 50.074 tỷ đồng,
chỉ đứng thứ 2 sau Tp.HCM trong VKTTĐPN và ở vị trí thứ 3 sau Tp. HCM và Hà Nội
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 34 -
trên phạm vi cả nước. Trong cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh, các ngành đóng góp vào
GDP nhiều nhất tập trung ở khu vực công nghiệp và dịch vụ, phù hợp với xu thế phát
triển của những tỉnh thành hiện đại trong khu vực và trên thế giới.
Đế n năm 2008, dân số tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu khoảng 994.189 người, trong đó
dân cư nông thôn chiếm 51,06% và dân cư thành thị chiếm 48,94%. Mật độ dân số trung bình 500 người/km2, phân bố tương đối đều, nhưng tập trung đông nhất là ở thành phố Vũng Tàu (1.913 người/km2) và thấp nhất là ở Côn Đảo (80 người/km2).
Dân số của tỉnh khá trẻ, nhóm 12 - 14 tuổi chiếm 12%, nhóm 15 - 39 tuổi chiếm
khoảng 49,8%, nhóm 40 - 59 tuổi chiếm 21%. Lực lượng lao động trong độ tuổi là
636.363 người (chiếm khoảng 64% dân số), trong đó đang làm việc trong các ngành
kinh tế quốc dân là 451.818 người (chiếm 71% tổng số người trong độ tuổi lao động),
mỗi năm có trên 15.000 người bước vào độ tuổi lao động. Cơ cấu lao động: lao động
hoạt động trong lĩnh vực nông - lâm - thủy sản là 159,2 nghìn người (chiếm 35,24%),
lao động công nghiệp - xây dựng 117,4 nghìn người (chiếm 26%), lao động trong khu
vực thương mại - dịch vụ 177,2 nghìn người (chiếm 39,23%) với tỷ lệ lao động qua
đào tạo ngày càng tăng, trong giai đoạn 2000 - 2005 đã tăng từ 22% lên 33%, đến năm
2008 là 45%. Đây là một nguồn lực khá thuận lợi cho việc phát triển kinh tế trong
tương lai. Nhưng nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, chưa đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế của tỉnh do công tác đào tạo nghề một thời gian dài chưa có định
hướng quy hoạch cụ thể. Việc đào tạo còn nặng về chỉ tiêu số lượng, đội ngũ giáo viên
còn thiếu và yếu, giáo trình đào tạo chưa theo kịp đà phát triển của khoa học - kỹ thuật
nên chất lượng đào tạo chưa cao. Do vậy, mặc dù tỉnh có nguồn lao động trẻ dồi dào
(nhóm 15 - 39 tuổi chiếm gần 50%) nhưng lại thiếu nguồn nhân lực đủ điều kiện đáp
ứng cho các khu công nghiệp, các ngành sản xuất và dịch vụ đang phát triển trong tỉnh,
dẫn đến tình trạng tỉnh thừa lao động nhưng vẫn phải nhận lao động nhập cư. [5].
Cùng với sự chuyển dịch đúng hướng cơ cấu kinh tế của tỉnh, cơ cấu lao động
cũng chuyển dịch tích cực theo hướng CNH, HĐH. Trong tương lai, cùng với sự
chuyển dịch mạnh sang các ngành công nghiệp phi dầu khí, sẽ xuất hiện thêm nhiều
ngành nghề mới, trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế, nhu cầu lao động có trình
độ ngày càng cao đòi hỏi phải có sự chuẩn bị nhân lực ngay từ giai đoạn hiện tại.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 35 -
Bảng 2.1: Cơ cấu lao động trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
giai đoạn 2004 - 2008
ĐVT: %
Cơ cấu lao động 2004 2005 2006 2007 2008
Theo ngành kinh tế 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
- Công nghiệp 11,97 13,58 12,25 13,51 14,71
- Xây dựng 9,34 9,53 9.30 10,22 10,82
- Nông, lâm, thuỷ sản 56,31 53,77 52,80 47,97 35,24
- Thương mại, dịch vụ 22,38 23,11 25,65 28,30 39,23
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Hệ thống trường học, giáo dục mầm non: Tính đến năm học 2008 - 2009, toàn
tỉnh có 366 trường, trong đó có 118 trường mầm non, 145 trường tiểu học, 73 trường
trung học cơ sở và 30 trường trung học phổ thông. Hầu hết các trường học ở tỉnh được
xây dựng với qui mô đúng quy chuẩn, có đầy đủ các phòng chức năng, hạ tầng kỹ thuật
để tiến tới đạt chuẩn quốc gia. Đến năm 2008, toàn tỉnh có 87/366 trường được công
nhận đạt chuẩn Quốc gia. Tại mỗi huyện đã xây dựng một trung tâm giáo dục thường
xuyên để phục vụ công tác phổ cập, bồi dưỡng giáo viên.
Hệ thống cơ sở hạ tầng y tế, cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường có nhiều
chuyển biến: 100% xã phường có trạm y tế; 100% các trạm y tế có bác sĩ, các thôn ấp
đều có cán bộ y tế; 98% dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh; 100% cơ sở sản
xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm thiểu ô
nhiễm xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn về môi trường.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 36 -
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VÀ HIỆN ĐẠI HÓA NGÀNH CÔNG
NGHIỆP TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
2.2.1. Vai trò của ngành công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu
Nước ta đang trong thời kỳ thúc đẩy mạnh mẽ quá trình CNH, nhiều địa phương
- trong đó có Bà Rịa-Vũng Tàu những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn
trong phát triển kinh tế với sự tăng trưởng cao và liên tục. Các chỉ số của tổng sản
phẩm (GDP) trên địa bàn tỉnh theo ngành và cơ cấu kinh tế trong 10 năm qua (theo giá
hiện hành) như sau:
Bảng 2.2: GDP trên địa bàn tỉnh theo giá hiện hành phân theo khu vực kinh tế giai đoạn 1997 - 2006 ĐVT: Triệu đồng
Năm Công nghiệp Dịch vụ Nông nghiệp Tổng số
1997 13.219.001 3.077.440 841.659 17.138.100
1998 11.413.083 3.610.220 909.139 15.932.442
1999 20.227.637 3.867.878 1.105.061 25.200.576
2000 29.114.640 4.704.372 1.157.730 34.976.742
2001 40.398.384 4.919.166 1.212.034 46.529.584
2002 42.607.365 5.704.485 1.437.003 49.748.853
2003 63.297.546 5.924.177 1.622.234 70.843.957
2004 83.630.012 6.568.179 1.936.906 92.135.097
2005 108.650.990 8.047.384 2.105.708 118.804.082
2006 116.654.677 8.869.865 2.442.763 127.967.305
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 37 -
Biểu 2.1: GDP trên địa bàn tỉnh theo giá hiện hành phân theo khu vực kinh tế
120000000
100000000
80000000
T r.đ
60000000
40000000
20000000
0
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Năm
Cong nghiep
Nong nghiep
Dich vu
giai đoạn 1997 - 2006
Bảng 2.3: Cơ cấu GDP trên địa bàn tỉnh theo giá hiện hành phân theo khu vực
kinh tế giai đoạn 1997 - 2006
ĐVT: %
Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Công nghiệp 77,13 71,63 80,27 83,24 86,82 85,64 87,53 90,77 91,46 91,16
6,93 Dịch vụ 17,96 22,66 15,35 13,45 10,58 11,47 9,86 7,13 6,77
4,91 2,61 2,10 1,77 1,91 Nông nghiệp 5,71 4,38 3,31 2,60 2,89
100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Tổng số
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 38 -
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu GDP trên địa bàn tỉnh theo giá hiện hành phân theo khu vực
Nong nghiep 4,91%
Dich vu 17,96%
Cong nghiep 77,13%
Dich vu 17,96%
Nong nghiep 4,91%
Cong nghiep 77,13%
kinh tế năm 1997
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu GDP trên địa bàn tỉnh theo giá hiện hành phân theo khu vực
kinh tế năm 2006
Các chỉ số trên cho thấy trong 10 năm qua, nền kinh tế của tỉnh luôn đạt tốc độ
tăng trưởng cao và ổn định. Trong đó, ngành dầu khí đã đóng góp rất lớn vào tăng
trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh, nhưng gần đây có xu hướng giảm dần do trên địa bàn
tỉnh đã xuất hiện thêm nhiều hạng mục công trình công nghiệp lớn khác như khí - điện
- đạm, và thép… Về cơ cấu kinh tế theo ngành cũng đã thể hiện rõ rệt mức độ CNH,
trong đó tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong GDP tăng từ 77,13% (năm 1997) lên
91,16% (năm 2006). Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng cao của tất cả các lĩnh vực trong tổng
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 39 -
sản phẩm GDP của tỉnh, trong đó cao nhất là lĩnh vực công nghiệp đạt 8,8 lần, dịch vụ
tăng 2,9 lần và nông nghiệp tăng 2,9 lần. Tuy nhiên, chiếm chủ yếu trong cơ cấu kinh
tế trên địa bàn tỉnh là công nghiệp quốc doanh trung ương, nhất là các ngành dầu và
khí - điện - đạm, công nghiệp địa phương còn chiếm tỷ trọng thấp và tăng trưởng
chậm, chưa tạo tiền đề để kinh tế phát triển mạnh trong tương lai. Nền kinh tế của tỉnh
lại phụ thuộc chủ yếu vào dầu khí, nhưng trong điều kiện tài nguyên hạn chế thì ngành
dầu khí không thể phát triển với tốc độ cao, nên nếu không có sự chuẩn bị tích cực,
tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong tương lai sẽ không thể có tốc độ cao và ổn định
như trước.
Nhìn chung, Bà Rịa-Vũng Tàu là một trong những địa phương có tỷ trọng công
nghiệp cao nhất cả nước, chiếm gần 75% trong cơ cấu kinh tế, so với thành phố Hồ Chí
Minh - địa phương có tỷ trọng công nghiệp cao - cũng chưa đến 50%, kể cả trong
trường hợp không tính dầu khí thì tỷ trọng này cũng đạt trên 50%. Các ngành công
nghiệp có tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP trên địa bàn tỉnh là dầu khí, điện, hóa chất,
chế biến nông lâm sản. Tỷ trọng GDP của Bà Rịa-Vũng Tàu trong VKTTĐPN đến năm
2005 chiếm khoảng 21,27%, chỉ đứng thứ 2 sau thành phố Hồ Chí Minh. Trên phạm vi
cả nước, Bà Rịa-Vũng Tàu đứng ở vị trí thứ 3, sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
(Xem các bảng 2.4; 2.5; 2.6 - GDP bình quân đầu người, tương quan của địa phương so
với vùng kinh tế động lực phía Nam và cả nước theo giá cố định 1994 và giá hiện hành
từ năm 2001 đến 2006 tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu dưới đây):
Bảng 2.4: GDP bình quân đầu người theo giá cố định 1994 và giá hiện hành
từ năm 2001 đến 2006 tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ĐVT: Triệu đồng
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006
GDP bình quân đầu người 29,8 32,59 34,70 40,63 42,21 37,0 theo giá cố định 1994
GDP bình quân đầu người 55,29 57,71 80,06 101,44 127,54 134,34 theo giá hiện hành
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 40 -
Bảng 2.5: GDP bình quân đầu người của Bà Rịa-Vũng Tàu cao so với cả nước
(Theo giá cố định 1994)
ĐVT: Triệu đồng/người
Hạng mục chỉ tiêu 1995 2000 2005
2,72 3,53 4,89 Cả nước
Bà Rịa-Vũng Tàu (có dầu / 15,32 / 3,76 27,21 / 10,55 42,21 / 25,53
không có dầu)
Bảng 2.6: Tương quan phát triển kinh tế của Bà Rịa-Vũng Tàu với các địa
phương của VKTTĐPN (Theo giá cố định 1994)
ĐVT: GDP, tỷ đồng
Địa phương 2000 Cơ cấu vùng 2005 Cơ cấu vùng
Bà Rịa-Vũng Tàu 16.713,287 17,83% 33.369,631 21,27%
TP. Hồ Chí Minh 54.054,10 57,66% 89.252,91 56,89%
Bình Dương 3.946,72 4,21% 8.007,5 5,10%
Bình Phước 1.319,5 1,40% 2.442,94 1,55%
Đồng Nai 9.823,6 10,48% 17.939,7 11,43%
Tây Ninh 3.113,6 3,32% 5.864,65 3,73%
Long An 4.764,54 5,08% 7.425,0 4,73%
100% Tổng toàn Vùng 93.735,347 100% 156.884,756
Nguồn: Viện Chiến lược - Bộ Công Thương
Xét về qui mô GDP, GDP/người, Bà Rịa-Vũng Tàu có điểm xuất phát thuận lợi
nhất so với cả nước và có thể là tỉnh đầu tiên trong cả nước về trước năm 2020 trong
việc thực hiện mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
2.2.2. Thực trạng phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu
Công nghiệp hiện là ngành kinh tế trọng yếu của tỉnh. Trong đó, công nghiệp
dầu khí chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp (năm 2008 là
57,3%) và cũng là động lực chính trong phát triển công nghiệp, kéo theo các ngành
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 41 -
Một đặc điểm của ngành công nghiệp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu là có tỷ trọng giá
trị gia tăng cao và ổn định trong thời gian vừa qua trong giá trị sản xuất công nghiệp.
Một phần là do ngành công nghiệp khai thác dầu khí có giá trị gia tăng cao, phần khác
do ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện gần đây phát triển và đã có một tỷ
trọng đáng kể trong cơ cấu công nghiệp cũng có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Xu thế
này cần được tiếp tục duy trì trong tương lai để bảo đảm sự phát triển công nghiệp một
cách bền vững và hiệu quả.
Bảng 2.7: Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 1995 - 2005
(Theo giá cố định năm 1994)
Tốc độ tăng trưởng
Giá trị sản xuất công nghiệp (tỷ đồng) (%/năm)
1995 2000 2005 1996- 2000 2001- 2005 1996- 2005
12.072,4 29.602,9 49.782 19,65 11,53 15,07 Tổng giá trị sản xuất công nghiệp
10.826,4 22.188,4 21.326 15,43 4,4 9,20 Công nghiệp khai thác
10.810,6 22.057,2 21.206 15,33 4,49 9,17 -Công nghiệp khai thác dầu khí
15,78 131,15 119,85 52,73 -5,85 19,91
- Công nghiệp khai thác đá và khác
561,12 889,50 3.100 9,65 28,34 18,63
Công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống
101,74 192,90 136,7 13,65 -6,66 3,00 Công nghiệp dệt may-da giầy
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 42 -
102,79 214,35 218 15,83 0,3 3,76 Công nghiệp cơ khí chế tạo máy
30,34 1.913,70 5.620 129,1 24,04 68,50
Công nghiệp hoá chất, nhựa, cao su
0,00 0,00 28 0,00 0,00 Công nghiệp thiết bị điện, điện tử
0,00 918,61 1.450 9,56 Công nghiệp luyện kim
16,10 55,83 327 28,24 42,44 35,15
Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
4,34 6,87 7,6 9,64 61,4 11,00 Công nghiệp khác(in, tái chế)
429,64 3.223,6 14.46 49,64 31,25 40,14
Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, ga, nước
Bảng 2.8: Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2004 - 2008
(Theo giá cố định năm 1994)
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng số
46.256.947
44.515.216
49.782.380
50.459.698
50.117.494
(Trừ dầu khí)
(19.654.947)
(23.308.752)
(29.752.772)
(34.569.878)
(35.356.838)
a- Công nghiệp
26.690.994
21.326.317
20.184.882
16.047.029
14.960.424
khai thác mỏ
(88.994)
(119.853)
(155.274)
(157.209)
(199.768)
(Trừ dầu khí)
b- Công nghiệp
8.789.858
8.733.158
14.167.138
17.671.401
18.387.788
chế biến
10.776.095
14.455.741
15.430.360
16.741.268
16.769.282
c- Sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước
ĐVT: Triệu đồng
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 43 -
Bảng 2.9: Tốc độ phát triển giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh
(Theo giá cố định năm 1994)
ĐVT: %
2004 2005 2006 2007 2008
123,8 96,2 111,8 101,4 99,3 Tổng số
(Trừ dầu khí) (141) (119) (128) (116) (102)
113,6 79,9 94,6 79,5 93,2 a- Công nghiệp khai thác mỏ
(Trừ dầu khí) (102) (135) (130) (101) (127)
b- Công nghiệp chế biến 133,2 99,4 162,2 124,7 104,1
148,2 134,1 106,7 108,5 100,2 c- Sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước
Bảng 2.10: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh
(Theo giá hiện hành)
ĐVT: %
2004 2005 2006 2007 2008
Tổng số 100 100 100 100 100
a- Công nghiệp khai thác mỏ 73,4 73,0 67,4 63,5 57,3
b- Công nghiệp chế biến 7,5 9,5 13,4 18,3 20,5
19,1 17,5 19,2 18,1 22,1 c- Sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 44 -
Bảng 2.11: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh (trừ dầu khí)
(Theo giá hiện hành)
ĐVT: %
2004 2005 2006 2007 2008
Tổng số 100 100 100 100 100
a- Công nghiệp khai thác mỏ 0,54 0,54 0,48 0,42 0,45
28 b- Công nghiệp chế biến 34,8 40,8 50 47,9
71 64,6 58,7 49,5 51,6 c- Sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Trong 5 năm qua, do sản lượng khai thác dầu thô và khí đốt giảm, trong khi giá
nguyên vật liệu đầu vào lại tăng cao do ảnh hưởng của lạm phát, với tình hình thiếu
điện nghiêm trọng và cơn bão số 9 ảnh hưởng vào thời điểm ngành công nghiệp đang
đạt năng suất cao đã làm cho sản lượng các ngành chế biến hải sản, phân bón, may
mặc, v.v. giảm nên tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị tổng sản lượng công nghiệp
trên địa bàn tỉnh có tính dầu khí (theo giá cố định năm 1994) chỉ có 2%/năm, nếu
không tính dầu khí là 16%/năm. Những ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất là:
khai thác đá và khai thác mỏ khác (22%/năm); dệt (98%/năm); sản xuất trang phục,
thuộc và nhuộm da, lông thú (66%/năm); xuất bản, in và sao ghi các loại (65%/năm);
sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất (27%/năm); sản phẩm từ cao su, plastic
(97%/năm); sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại (51%/năm); sản xuất
các sản phẩm từ kim loại (trừ máy móc thiết bị) (67%/năm); Tái chế (23%/năm). Trong
khi đó những ngành “hậu cần” quan trọng phục vụ cho sản xuất và đời sống như sản
xuất và phân phối điện, khí đốt, hơi nước, hơi nóng (12%/năm); khai thác, lọc và phân
phối nước (11%/năm).
V ề qui mô giá trị hàng hóa công nghiệp xuất khẩu, Bà Rịa-Vũng Tàu đứng vị trí
thứ 3 cả nuớc và thứ 2 trong vùng Đông Nam Bộ với tổng kim ngạch xuất khẩu năm
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 45 -
2008 đạt 11,37 tỷ USD. Dầu thô là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh, chiếm khoảng
91% tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn, là nguồn thu ngoại tệ lớn nhất của cả nước.
Trong giai đoạn 2004 - 2008, tỷ trọng hàng công nghiệp tăng lên rõ rệt trong kim ngạch
xuất khẩu với chất lượng sản phẩm không ngừng tăng lên.
Bảng 2.12: Giá trị xuất khẩu trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2004 - 2008
ĐVT: Triệu USD
Nội dung 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng kim ngạch XK 5.917,1 7.698,7 8.798,5 9.245,4 11.363,9
Riêng dầu khí 5.680 7.386 8.283,2 8.487,6 10.387,9
(Tỷ trọng) 98,1 98,3 96,6 92% 91%
Hàng hóa khác 237,1 312,7 515,3 757,8 976,0
Bảng 2.13: Cơ cấu giá trị hàng xuất khẩu trên địa bàn tỉnh
ĐVT: 1.000 USD
2004 2005 2006 2007 2008
Tổng số 5.917.158 7.698.870 8.798.670 9.245.474 11.363.960
17.373 27.431 31.145 37.550 99.420 - Nông sản (0,29%) (0,36%) (0,35%) (0,41%) (0,87%)
122.060 151.560 194.230 211.120 252.000 - Hải sản (2,06%) (1,97%) (2,21%) (2,28%) (2,22%)
5.677.011 7.382.968 8.280.152 8.514.136 10.413.409 - Hàng công nghiệp (97,64%) (97,68%) (97,44%) (97,31%) (99,73%)
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 46 -
Bảng 2.14: Cơ cấu giá trị hàng xuất khẩu trên địa bàn tỉnh (trừ dầu khí)
ĐVT: 1.000 USD
2004 2005 2006 2007 2008
Tổng số 246.560 325.383 533.983 757.870 975.971
17.373 27.431 31.145 37.550 99.420 - Nông sản (7,05%) (8,43%) (5,83%) (4,95%) (10,19%)
122.060 151.560 194.230 211.120 252.000 - Hải sản (49,51%) (46,58%) (36,37%) (27,86%) (25,82%)
107.127 146.392 308.608 509.200 624.551 - Hàng công nghiệp (43,45%) (44,99%) (57,79%) (67,19%) (63,99%)
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2.2.3. Số lượng cơ sở công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Trong giai đoạn 1996 - 2005, các cơ sở sản xuất công nghiệp tăng mạnh, nhất
là khu vực kinh tế tư nhân. Trong giai đoạn này số lượng các cơ sở sản xuất quốc
doanh địa phương có giảm đi dưới tác động của việc bán, khoán, thuê, mua và cổ
phần hóa doanh nghiệp.
Tính đến hết năm 2007, trên địa bàn tỉnh có 4.791 cơ sở công nghiệp (tăng 1,03
lần so với năm 2004) trong số này có 27 đơn vị quốc doanh, tăng 1,59 lần so với năm
2004. Trên địa bàn tỉnh có 13 đơn vị quốc doanh Trung ương quản lý, chiếm 41% giá
trị tổng sản lượng công nghiệp; có 41 đơn vị đầu tư nước ngoài, chiếm 51% giá trị tổng
sản lượng công nghiệp. Giá trị tăng trưởng và tỷ trọng GDP của khu vực công nghiệp
tăng nhanh trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua chủ yếu thuộc thành phần công nghiệp
quốc doanh của trung ương và đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Nổi bậc là các ngành
công nghiệp lớn và chủ chốt như: khai thác dầu, khí đốt, năng lượng (điện), v.v. Công
nghiệp địa phương chủ yếu là khai thác khoáng sản (đá, cát xây dựng), chế biến thủy
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 47 -
sản, thực phẩm, tàu thuyền, cơ khí sửa chữa, hóa chất và các lĩnh vực công
nghiệp khác.
Bảng 2.15: Số lượng cơ sở công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Nội dung 2004 2005 2006 2007
Tổng số (cơ sở) 4.634 4.654 4.851 4.791
- Khu vực quốc doanh 20 27 27 17
- Ngoài quốc doanh 4.595 4.609 4.785 4.723
- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 25 39 41 22
Bảng 2.16: Giá trị và cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh theo
các thành phần kinh tế (theo giá cố định năm 1994)
ĐVT: Triệu đồng
2004 2005 2006 2007 2008
Tổng số 46.256.947 44.515.216 49.782.380 50.459.698 50.117.494
14.404.686 14.809.794 17.581.550 21.034.939 21.922.212 - Quốc doanh (31%) (33%) (35%) (42%) (44%)
13.877.493 14.289.903 17.035.540 20.492.101 21.106.438 + Trung ương (30%) (32%) (34%) (41%) (42%)
527.193 519.891 546.010 542.838 815.774 + Địa phương (1%) (1%) (1%) (1%) (2%)
- Ngoài quốc 2.745.261 3.024.314 3.479.972 4.128.748 4.573.429
doanh (6%) (7%) (7%) (8%) (9%)
- Đầu tư nước 29.107.000 28.498.053 29.168.698 25.923.302 24.307.810
ngoài (63%) (64%) (59%) (51%) (49%)
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 48 -
2.2.4. Lao động công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Năm 2008, lao động công nghiệp hiện chiếm khoảng 15% tổng lao động đang
làm việc trên địa bàn Bà Rịa-Vũng Tàu. So với nhiều địa phương, chất lượng lao động
công nghiệp ở Bà Rịa-Vũng Tàu được đánh giá là có trình độ kỹ thuật và tay nghề khá.
Trong giai đoạn 2004 - 2008, lao động công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tăng gấp
1,34 lần sau 5 năm phát triển (tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 7,6%/năm). Đặc biệt,
khối doanh nghiệp quốc doanh trung ương và đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng
bình quân về lực lượng lao động khá cao, tương ứng đạt 10,67%/năm và 19,65%/năm.
Lao động công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng khoảng 51% lực lượng lao
động công nghiệp và đạt mức tăng 4,5%/năm. Tuy nhiên, lao động khu vực quốc doanh
địa phương giảm mạnh do việc thực hiện sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước.
Bảng 2.17: Lực lượng lao động và năng suất lao động công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu giai đoạn 2004 - 2008
Nội dung
2005 46.200 4.307 5.638 26.004 10.251 2004 45.039 3.185 6.540 25.865 9.449 2006 50.906 4.338 5.113 27.948 13.507 2008 2007 54.555 60.476 4.838 4.244 5.140 5.120 27.951 31.145 17.240 19.352
1.027 1.128 1.130 1.481 1.660 1.911 924,93 828,72 2.197 2.246
- Doanh nghiệp quốc doanh - Doanh nghiệp ngoài quốc 106,14 120,15 148,55 147,71 146,84
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư 3.080 3.229 2.837 1.504 1.256 A. Tổng số lao động (người) - Quốc doanh trung ương - Quốc doanh địa phương - Ngoài quốc doanh - Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài B. Năng suất lao động theo giá trị sản xuất (triệu đồng/người/năm giá cố định 1994) Toàn ngành công nghiệp doanh nước ngoài
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Nhờ ưu thế về qui mô (nhân lực, tài lực, công nghệ và tài nguyên thiên nhiên) nên
năng suất lao động tính theo giá trị sản xuất công nghiệp (giá cố định năm 1994) của các
cơ sở công nghiệp quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài rất cao, gấp nhiều lần năng
suất lao động của các cơ sở công nghiệp địa phương. Tuy vậy, năng suất lao động của
công nghiệp địa phương cũng khá cao, gấp 1,7 lần năng suất lao động công nghiệp
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 49 -
chung toàn quốc (năm 2007 là 147,71/87,04 triệu đồng/người).
Bốn nhóm công nghiệp chủ yếu trên địa bàn là công nghiệp chế biến nông - lâm
- thuỷ - hải sản, dệt - may - da - giày, cơ khí chế tạo và gia công kim loại, công nghiệp
khai thác (trừ dầu khí) chiếm khoảng 70 - 75% lao động công nghiệp. Trong đó, tỷ lệ
lao động công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 67,5 - 72,5%. Lao động công nghiệp có
trình độ chuyên môn kỹ thuật tập trung chủ yếu trong các cơ sở sản xuất có vốn đầu tư
nước ngoài và khối doanh nghiệp trung ương trong các ngành khai thác dầu khí, sản
xuất phân phối điện - gas, hóa chất, phân bón, luyện kim, cơ khí và phân bố chủ yếu ở
các thành phố, thị xã, thị trấn và khu, cụm công nghiệp.
Bảng 2.18: Cơ cấu lao động công nghiệp theo nhóm ngành công nghiệp
giai đoạn 1995 - 2005
Nội dung 1995 1996 2000 2004 2005
Công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ 27,0% 26,5% 31,7% 41,6% 42,1%
hải sản
Công nghiệp dệt, may và da, giày 33,6% 33,8% 23,4% 19,0% 18,2%
Công nghiệp khai thác đá và mỏ khác 5,0% 5,2% 7,4% 4,4% 4,6%
Công nghiệp cơ khí chế tạo và gia 6,4% 6,6% 6,7% 6,8% 6,7%
công kim loại
Nhóm các ngành còn lại 28,0% 27,9% 30,9% 28,3% 28,4%
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Trong 4 năm (2004 - 2007) công nghiệp trên địa bàn tỉnh thu hút thêm 9.516
người (bình quân 2.379 người/năm), một số ngành có số lao động tăng lên đáng kể như
ngành sản xuất thực phẩm và đồ uống 3.309 người (chiếm 35% số lao động tăng thêm);
ngành thuộc, sơ chế da, sản xuất va li, túi sách, yên đệm, giày dép 1.333 người (chiếm
14% số lao động tăng thêm); ngành sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất 1.203
người (chiếm 13% số lao động tăng thêm); ngành sản xuất các sản phẩm từ kim loại
(trừ máy móc thiết bị) 2.030 người (chiếm 21% số lao động tăng thêm)… Một số
ngành khác lao động tăng lên không đáng kể thậm chí có ngành còn giảm (dệt; sản xuất
trang phục, thuộc và nhuộm da, lông thú; sản xuất các sản phẩm từ dầu mỏ (LPG); sản
phẩm từ cao su, plastic; phương tiện vận tải khác).
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 50 -
Bảng 2.19: Lao động công nghiệp trên địa bàn tỉnh
ĐVT: Người
2004 2007
Tổng số 45.039 54.555
1. Theo thành phần kinh tế:
- Quốc doanh 9.725 9.364
- Ngoài quốc doanh 25.865 27.951
- Đầu tư nước ngoài 9.449 17.240
2. Chia theo ngành:
a- Công nghiệp khai thác mỏ 8.480 8.379
b- Công nghiệp chế biến 35.085 42.678
Sản xuất thực phẩm và đồ uống 17.151 20.460
Dệt 836 489
4.962 3.742 Sản xuất trang phục, thuộc và nhuộm da, lông thú
3.534 4.867 Thuộc, sơ chế da, sản xuất va li, túi sách, yên đệm, giày dép
917 Chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, tre, nứa 618
159 Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy 0
189 Xuất bản, in và sao ghi các loại 154
1.125 Sản xuất các sản phẩm từ dầu mỏ (LPG) 1.288
1.951 Sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất 748
82 Sản phẩm từ cao su, plastic 83
2.066 Sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại 1.724
437 Sản xuất kim loại 197
4.370 Sản xuất các sản phẩm từ kim loại (trừ máy móc thiết bị) 2.340
585 Phương tiện vận tải khác 766
917 Giường, tủ, bàn, ghế… 491
322 Tái chế 193
1.678 c- Sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước 1.474
1.279 Sản xuất, phân phối điện, khí đốt, hơi nước, nước nóng 1.105
399 Khai thác, lọc và phân phối nước 369
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
So vớ i nhiều địa phương khác, chất lượng lao động công nghiệp ở Bà Rịa-Vũng
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 51 -
Tàu được đánh giá là có trình độ kỹ thuật và tay nghề khá và với đội ngũ quản lý và
cán bộ KHCN đông đảo, có trình độ cao nên có nhiều thuận lợi trong việc ứng dụng
KHCN cao. Tuy nhiên, lực lượng này lại phân phối không đều, chủ yếu tập trung ở khu
vực kinh tế quốc doanh trung ương, còn trong các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là
công nghiệp ngoài quốc doanh thì rất ít. Hơn nữa, ở một bộ phận quan trọng thúc đẩy
phát triển kinh tế tỉnh là các KCN, với giá trị sản xuất công nghiệp tại các KCN hiện
chiếm 38% so với giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh, nếu không tính dầu khí thì
chiếm 86%. Về chất lượng lao động, tính đến ngày 1/7/2007, trong tổng số 20.960 lao
động đang làm việc tại các KCN, có 2.536 người đạt trình độ đại học và trên đại học,
chiếm tỷ lệ 12,1%; 2.976 lao động đạt trình độ cao đẳng và trung cấp, chiếm 14,2% và
3.021 lao động công nhân kỹ thuật, chiếm 14,4%; còn lại 12.427 lao động phổ thông,
chiếm tỷ lệ 59,3%. Các số liệu trên cho thấy, chất lượng lao động trong các KCN tỉnh
Bà Rịa-Vũng Tàu chưa cao, số lượng lao động có trình độ đại học và trên đại học còn
ít, công nhân kỹ thuật chiếm tỷ lệ thấp, phần lớn là lao động phổ thông và đang có xu
hướng ngày càng tăng về số lượng. Tổng số lao động đã qua đào tạo chỉ đạt 40,7 còn
lại đến 59,3% lao động chưa qua đào tạo nghề. Do đó, các doanh nghiệp thường phải
đào tạo lại lao động sau khi đã nhận vào nhà máy làm việc.
Bảng 2. 20: Lao động trong các KCN có đến ngày 1/7/2007 trên địa bàn tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu (phân theo trình độ lao động)
Tổng số lao Đại Cao Dạy Tiến sĩ Thạc sĩ THCN Khác động (người) học đẳng nghề
20.960 8 60 2.468 866 2.110 3.021 12.427
Tỷ lệ (%) 12,1 14,2 14,4 59,3
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
2.2.5. Sản phẩm công nghiệp chủ yếu trên địa bàn tỉnh
Sản phẩm công nghiệp của tỉnh rất đa dạng và phong phú như: dầu thô, khí đốt,
đá, cát, giày da, quần áo, điện tử, phân bón, v.v. dưới đây là sản lượng một số sản phẩm
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 52 -
chủ yếu:
Bảng 2.21: Sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
Sản phẩm ĐVT 2003 2004 2005 2006 2007
11.214 14.102 14.987 18.801 1000 tấn 16.540 Dầu thô
6.433 5.370 5.612 3.952 Tr. m3 2.625 Khí đốt
326.570 349.200 364.800 377.800 369.000 Khí hóa lỏng (LPG) Tấn
84.493 159.336 128.200 121.300 156.000 Condensat Tấn
1.825 1.650 1.489 1.450 1.250 Đá khai thác (qui hộc) 1000 m3
55.242 59.325 54.000 55.200 61.280 Muối hột Tấn
91.425 79.520 52.449 49.500 28.000 Thủy sản đông lạnh Tấn
17.500 15.000 12.000 10.500 8.215 Nước mắm 1000 lít
69 66 67 60 65 Gạo ngô xay xát 1000 tấn
5.311 5.120 3.015 2.976 2.912 Thức ăn gia súc Tấn
1.750 2.200 2.600 2.400 2.500 Bia các loại 1000 lít
2.950 3.000 3.500 3.600 3.500 Nước khoáng đóng 1000 lít
chai 1.950 1.850 1.500 1.300 1.000 1000 tấn
Nước đá 6.795 6.521 6.166 4.800 3.600 1000 cái
Quần áo may sẵn 2.250 2.415 3.346 3.618 4.000 1000 đôi
Giày dép 35 29 25 37 21 1000 m3
Gỗ xẻ (quy tròn) 32 25 35 31,5 22 Tr. trang
Trang in ty po 2.030 2.500 1.200 2.100 980 Tr. trang
Trang in offset 7.548 5.979 1.750 7.650 1.500 Tấn
Hóa phẩm phục vụ 72.500 56.296 48.000 79.500 38.000 1000
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 53 -
0 0 0 1.450 viên 1.450 dầu khí
105.000 67.000 65.000 72.000 Tấn 76.000 Gạch nung các loại
996.892 725.000 262.600 275.000 m3 260.000 Nhũ tương nhựa
đường 313 310 285 279 250 Tấn
Bê tông trộn sẵn 832 815 755 780 679 1000 m2
Thép cán 72 65 72 125 150 Cái
Cửa sắt các loại 7 9 12 11 22
Trung đại tu ôtô 2.202 2.112 2.015 2.150 1.912 Lượt
Đóng mới tàu cá chiếc 3.215 3.120 3.320 3.555 3.425
Sửa chữa tàu sắt Cái 736 724 670 650 520
Tủ gỗ các loại Cái 26.630 27.500 23.670 18.500 12.500
Bàn các loại Cái 43.085 41.000 32.810 34.000 30.000
Ghế các loại Triệu 102.207 84 70 - -
kwh Điện 760 723 672 - -
1000 m3 Nước máy
1000 tấn Hạt nhựa PVC
1000 tấn Phân bón
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Nhìn vào danh mục hơn 30 mặt hàng chủ yếu của ngành công nghiệp tỉnh hầu
hết là thuộc lĩnh vực công nghiệp nặng, trong đó dầu mỏ và khí đốt là một trụ cột để
phát triển kinh tế - xã hội không chỉ đối với Bà Rịa-Vũng Tàu mà còn đối với cả nước,
không chỉ trong hiện tại mà cả trong ít nhất vài thập niên tới. Chính nhờ nhiên liệu khí
đốt mà tỉnh đã hiện cung cấp khoảng 34% sản lượng điện toàn quốc, đồng thời cũng là
nơi sản xuất phân u-rê và gas hóa lỏng lớn nhất nước. Công nghiệp hóa dầu sẽ tạo ra
những nguồn nguyên liệu cho công nghiệp hóa chất, công nghiệp nhựa… tại Bà Rịa-
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 54 -
Vũng Tàu phát triển.
2.3. THỰC TRẠNG VỀ CÔNG NGHỆ VÀ MÁY MÓC THIẾT BỊ
Khi nói đến công nghệ trong sản xuất người ta hiểu đó là sự kết hợp của 4 yếu
tố: trang thiết bị máy móc, con người (kỹ năng), thông tin thị trường và tổ chức sản
xuất. Trình độ công nghệ của các ngành sản xuất trên địa bàn tỉnh rất khác nhau. Dưới
đây là nhận định về một số ngành chủ yếu:
2.3.1. Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản
Trình độ công nghệ khai thác dầu khí như sau:
- Công nghệ các dây chuyền sản xuất chính: 50% tương đương với công nghệ
những năm 1980 và 50% tương đương với công nghệ những năm 1990 của
thế giới.
- Tỷ số lao động làm việc trên trang thiết bị cơ khí và tự động hóa: khoảng 70%.
- Mức phụ thuộc vào kỹ thuật và nhân lực nước ngoài: 90% và 15%.
- Mức độ tác động môi trường: đạt mức cho phép đối với nguồn nước, khí
và đất.
Đ ánh giá chung: Trình độ công nghệ và năng lực công nghệ của ngành khai
thác dầu mỏ, khí đốt thuộc vào loại ngang hàng với khu vực Đông Nam Á và đạt mức
trung bình so với các nước phát triển.
2.3.2. Nhóm ngành công nghiệp cơ bản
a. Cơ khí chế tạo và gia công kim loại
Trên địa bàn tỉnh hiện nay chỉ có các cơ sở sản xuất sản phẩm kim loại (gia công
kim loại), đóng tàu cá (chủ yếu là tàu gỗ và tàu có công suất dưới 500 HP) và cơ khí
sửa chữa thiết bị, phương tiện vận tải. Nói chung trình độ phát triển của ngành cơ khí
khá chậm so với các ngành công nghiệp khác của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Trình độ công
nghệ, tay nghề và năng lực thiết bị, máy móc, v.v. đều ở mức trung bình thấp so với
mặt bằng chung của cả nước, không tương xứng với tiềm năng phát triển trên địa bàn
của ngành công nghiệp này.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 55 -
b. Ngành luyện kim (ngành thép)
Các cơ sở luyện, cán théo và gia công sau cán trên địa bàn tỉnh hiện có như: nhà
máy Vinakyoei, nhà máy thép cán nguội Phú Mỹ, nhà máy luyện thép cán xây dựng
Phú Mỹ, nhà máy thép lá mạ kẽm mạ màu BlueScope Thép Việt có trình độ công nghệ
ở mức trung bình đến tiên tiến trên thế giới.
c. Ngành hóa chất
Nhóm hóa chất cơ bản và phân bón (không dẫn xuất từ hóa dầu) có trình độ
công nghệ trung bình và lạc hậu. Nhóm hóa dầu (nhà máy phân đạm Phú Mỹ, Khí hóa
lỏng Dinh Cố, nhà máy condensate, v.v.) có trình độ công nghệ tiến tiến.
2.3.3. Nhóm ngành công nghiệp dệt - may và da - giày
Hoạt động sản xuất của hầu hết các cơ sở dệt - may và da - giày của Bà Rịa-
Vũng Tàu chủ yếu là gia công theo đơn hàng của nước ngoài và được thực hiện trên
các dây chuyền khá cũ, công nghệ trung bình trở xuống - thuộc những năm 1980 và
1990. Các nhà máy sản xuất và tiêu thụ các loại da thuộc và đồ dùng bằng da mà vốn
đầu tư 100% vốn nước ngoài thì có công nghệ tiên tiến hơn. Trình độ sản phẩm thuộc
nhóm này cũng đạt mức chất lượng khá trong nước, trung bình so với khu vực và đã có
những chủng loại sản phẩm đáp ứng yêu cầu cao của một số thị trường khó tính như
EU, Mỹ, Nhật, v.v.
2.3.4. Ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
Nhìn chung, trình độ công nghệ của các cơ sở hoạt động trong ngành đạt từ mức
lạc hậu đến tiên tiến. Hầu hết các nhóm vật liệu xây dựng, lợp, độn và bê tông được sản
xuất bằng thiết bị, công nghệ của những năm 60 - 80. Nhóm sản phẩm gạch men ốp lát
và phụ gia xây dựng có công nghệ sản xuất đạt mức trung bìnhh đến tiên tiến. Trình độ
công nghệ chung toàn ngành đánh giá ở mức trung bình. Một số doanh nghiệp hoạt
động sản xuất gạch men ốp lát và phụ gia xây dựng có công nghệ sản xuất đạt mức
trung bình. Một số doanh nghiệp hoạt động sản xuất gạch men cao cấp như Mỹ Đức,
Hoàng Gia, Khải Tụ có vốn liên doanh hoặc trong nước sử dụng các dây chuyền, công
nghệ hiện đại để đưa ra sản phẩm có chất lượng cao.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 56 -
2.3.5. Nhóm ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, ga, nước
Các nhà máy nhiệt điện khí trên địa bàn được đầu tư trong những năm gần đây
có công nghệ tuốc bin khí và tuốc bin khí ngưng hơi. Đây là những công nghệ trên
trung bình và tiên tiến trên thế giới. Hệ thống vận chuyển và phân phối gas có trình độ
công nghệ tiên tiến, còn ngành sản xuất và phân phối nước - đạt mức trung bình so với
cả nước. Trình độ công nghệ chung của nhóm ngành này có thể đạt mức tiên tiến.
2.4. THỰC TRẠNG PHÂN BỐ VÀ CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP
Trong giai đoạn 1995 - 2000, ngành công nghiệp dầu khí chiếm một tỷ trọng lớn
trong cơ cấu công nghiệp trên địa bàn và là động lực chính trong phát triển công
nghiệp. Tỷ trọng dầu khí trong giai đoạn này năm cao nhất đạt gần 90% cơ cấu giá trị
sản xuất công nghiệp, năm thấp nhất cũng bằng gần 75%. Tốc độ phát triển dầu khí nói
riêng và công nghiệp nói chung trong giai đoạn này khá cao đạt bình quân 15 -
16%/năm. Sang giai đoạn 2001 - 2005, tăng trưởng công nghiệp có giảm bớt, song
bình quân 10 năm 1996 - 2005 giá trị sản xuất công nghiệp vẫn tăng khá cao, đạt
15,7%/năm. Đối với một ngành công nghiệp đã phát triển khá cao về mặt giá trị tuyệt
đối, sự tăng trưởng này là một thành tích đáng kể không chỉ riêng của ngành công
nghiệp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu mà còn là của cả nước.
Bảng 2.22: Cơ cấu công nghiệp theo giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 1995 – 2005 (Theo giá cố định năm 1994) ĐVT: %
1995 2000 2004 2005
Tổng giá trị sản xuất công nghiệp 100,00 100,00 100,00 100,00
Công nghiệp khai thác 89,68 74,26 58,57 53,97
- Công nghiệp khai thác dầu khí 89,55 73,98 58,37 53,78
- Công nghiệp khai thác đá và khác 0,13 0,28 0,20 0,19
Công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống 4,65 3,49 6,01 6,06
Công nghiệp dệt may-da giầy 0,84 0,55 0,29 0,27
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 57 -
Công nghiệp cơ khí chế tạo máy 0,85 0,59 0,31 0,43
Công nghiệp hoá chất, nhựa, cao su 0,25 6,88 8,25 11,0
Công nghiệp sản xuất thiết bị điện, điện tử 0,00 0,00 0,00 0,05
Công nghiệp luyện kim 0,00 2,83 2,23 2,84
Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng 0,13 0,26 0,67 0,64
Công nghiệp khác (in, tái chế) 0,04 0,02 0,02 0,15
3,56 11,12 23,65 24,58 Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, ga, nước
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Giai đoạn 1996 - 2000, trong cơ cấu công nghiệp, những ngành công nghiệp có
tỷ trọng cao là ngành công nghiệp khai thác dầu khí, ngành công nghiệp sản xuất điện
và ngành công nghiệp hoá chất, nhựa, cao su. Những ngành có tốc độ tăng trưởng cao
nhất là những ngành công nghiệp hoá chất, nhựa, cao su, chất dẻo, ngành công nghiệp
khai thác đá, ngành sản xuất vật liệu xây dựng và ngành sản xuất điện nước. Sang giai
đoạn 2001 - 2005, cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh của các ngành công nghiệp sản
xuất điện, hoá chất thì tỷ trọng ngành dầu khí trong cơ cấu đã giảm nhanh. Nếu như năm
2000 tỷ trọng của ngành dầu khí chiếm khoảng 73,9% trong cơ cấu công nghiệp thì đến
2005 tỷ trọng này đã giảm xuống, còn khoảng 53,7%. Thay vào đó tỷ trọng ngành sản
xuất điện đã tăng lên từ 11,12% năm 2000 lên 24,58% năm 2005. Ngành hoá chất tương
ứng tăng từ 6,88% lên 11,0%.
Nhìn chung, các ngành công nghiệp dầu khí, sản xuất điện và hoá chất chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu và là những nhân tố tác động mạnh đến tốc độ tăng trưởng công
nghiệp trong thời kỳ này. Nếu loại bỏ riêng ngành khai thác dầu khí và sản xuất điện
thì ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất là ngành hoá chất, sau đó đến ngành
công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống và ngành luyện kim đen. Các ngành khác
còn lại chiếm một tỷ trọng không đáng kể.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 58 -
Bảng 2.23: Cơ cấu công nghiệp theo giá trị sản xuất (trừ dầu khí và điện)
trên địa bàn tỉnh giai đoạn 1995 - 2005 (Theo giá cố định năm 1994)
ĐVT: %
1995 2000 2004 2005
Tổng giá trị sản xuất công nghiệp 100,00 100,00 100,00 100,00
Công nghiệp khai thác 1,86 3,01 1,08 0,87
66,02 20,44 33,24 27,89 Công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống
Công nghiệp dệt may-da giầy 11,97 4,43 1,61 1,23
Công nghiệp cơ khí chế tạo máy 12,09 4,92 1,69 1,96
Công nghiệp hoá chất, nhựa, cao su 3,57 43,97 45,61 50,62
0,00 0,00 0,00 0,25 Công nghiệp sản xuất thiết bị điện, điện tử
Công nghiệp luyện kim 0,00 21,10 12,34 13,06
Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng 1,28 3,67 1,89 2,95
Công nghiệp khác(in, tái chế) 0,16 0,14 0,51 0,68
Công nghiệp sản xuất và phân phối nước 2,09 0,68 0,63 0,49
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Có thể kết luận rằng trong giai đoạn 1996 - 2005, các ngành công nghiệp phát
triển trên địa bàn, chủ yếu là các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất tư
liệu sản xuất, khá phù hợp với vai trò của một trung tâm công nghiệp, một cực phát
triển của VKTTĐPN, những sản phẩm công nghiệp này hết sức quan trọng trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế không chỉ ở Bà Rịa-Vũng Tàu mà trên phạm vi vùng lãnh
thổ và cả nước. Các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống có vị trí quan
trọng ở tầm địa phương, có nhiệm vụ hỗ trợ phát triển kinh tế đối với gần 70% cư dân
thuộc khu vực nông nghiệp.
Gần đây các ngành công nghiệp này cũng đã được chú ý phát triển với tốc độ
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 59 -
khá cao nên đã khắc phục được xu thế suy giảm mạnh tỷ trọng trong cơ cấu công
nghiệp. Nếu như năm 1995 tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến này chiếm khoảng
66% cơ cấu công nghiệp (không kể dầu khí và sản xuất điện) và giảm mạnh trong giai
đoạn 1996 - 2000 (năm 2000 tỷ trọng ngành công nghiệp này còn khoảng 20,44%).
Năm 2005, tỷ trọng của ngành này được nâng lên 27,89%.
2.5. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU TRONG THỜI GIAN QUA
2.5.1. Thế mạnh và cơ hội phát triển
Trong thời gian qua, công nghiệp trên địa bàn tỉnh có chiều hướng phát triển
thuận lợi và đã đạt được kết quả khá cao nên công nghiệp của tỉnh đã thực sự trở thành
một động lực chính thúc đẩy phát triển kinh tế không riêng trên địa bàn tỉnh mà còn có
ý nghĩa trên qui mô VKTTĐPN và trên phạm vi cả nước.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập GDP bình quân đầu người liên tục
tăng sẽ phát sinh những nhu cầu mới cho việc sản xuất của các nhà máy trong KCN,
tạo điều kiện thu hút nhiều dự án vào KCN.
- Công nghiệp của tỉnh trong thời gian qua đã phát triển đúng hướng khi biết
dựa vào các tiềm năng sẵn có của tỉnh như tài nguyên dầu khí, vật liệu xây dựng, tiềm
năng kinh tế biển, lợi thế cảng nước sâu, v.v.
- Hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào các KCN đã được quan tâm đầu tư. Hệ thống
cấp điện, cấp nước, giao thông, viễn thông, v.v. nhìn chung đáp ứng yêu cầu phát triển
hiện tại. Hơn nữa, quy hoạch phát triển công nghiệp đã được phê duyệt, trong đó sự
phân bố các KCN, các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tương đối hợp lý về qui
mô và địa điểm.
- Không chỉ những nhóm ngành có xuất phát điểm rất thấp (như hóa chất, vật
liệu xây dựng) mới đạt được tốc độ tăng trưởng rất cao, mà có một số nhóm ngành
khác cũng đạt được khá như sản xuất và phân phối điện - ga - nước và chế biến nông -
lâm - thủy - hải sản.
- Tiềm năng phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng còn khá dồi
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 60 -
dào. Công nghiệp địa phương còn nhiều tiềm năng phát triển mạnh. Cùng với điều kiện
hạ tầng tương đối phát triển, các ngành công nghiệp như lọc, hóa dầu, luyện kim, cơ
khí chế tạo máy, sản xuất thiết bị điện công nghiệp, v.v. sẽ có nhiều điều kiện phát triển
hơn ở Bà Rịa-Vũng Tàu.
- Trong xu thế phát triển nhanh của công nghệ trên thế giới, các ngành công
nghiệp của tỉnh có điều kiện đi tắt đón đầu, thu hút được những công nghệ mới hiện đại
vào sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là trong bối cảnh thiết bị và công nghệ trên phạm vi
cả nước còn lạc hậu, chậm đổi mới, nếu được quan tâm và đầu tư đúng mức thì các
ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh dễ vượt qua các tỉnh khác về trình độ thiết bị công
nghệ để hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
- Cả nước cũng như tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có nguồn lao động trẻ dồi dào, hàng
năm đều được bổ sung thêm một số lượng lớn. Chi phí nhân công tương đối rẻ so với
khu vực và thế giới, đang là những điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp lựa chọn
tuyển dụng công nhân. Hơn nữa, lao động công nghiệp của tỉnh với chất lượng được
đánh giá là có trình độ kỹ thuật và tay nghề khá so với nhiều địa phương khác.
2.5.2. Điểm yếu và nguy cơ
Bên c ạnh những cơ hội và thế mạnh trên, ngành công nghiệp của tỉnh cũng còn
một số vấn đề cần được quan tâm khắc phục trong thời gian tới:
- Một số mặt, lĩnh vực trong quá trình phát triển công nghiệp còn yếu, đó là: Cơ
cấu công nghiệp chưa đồng đều, chưa chú trọng công tác xúc tiến đầu tư, trình độ công
nghệ đối với khu vực dân doanh còn thấp, chưa kiểm soát được tiêu chuẩn môi trường
trong sản xuất, phân bổ các cơ sở sản xuất công nghiệp chưa đồng đều giữa các địa
phương và không được tập trung, công nghiệp chế biến hải sản chưa được quy hoạch,
công nghiệp dịch vụ dầu khí và dịch vụ hàng hải còn chậm phát triển, chưa sử dụng tốt
nguồn lao động địa phương và ngược lại địa phương cũng chưa chủ động đào tạo lao
động có tay nghề, vẫn còn nhiều việc phải làm đối với việc thu hút các nguồn lực từ
bên ngoài.
- Khi kinh tế phát triển nhanh, tỉnh nào cũng có nhiều KCN đã tạo lên sức ép
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 61 -
cạnh tranh mạnh mẽ giữa tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu với các tỉnh khác trong việc thu hút
đầu tư và lao động vào các KCN.
- Tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào KCN, cụm công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp còn chậm làm ảnh hưởng đến thu hút các nguồn lực đầu
tư, nhất là của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hơn nữa, khi kinh tế phát triển nhanh,
nhu cầu đầu tư lớn, trong khi nguồn lực còn hạn chế, dẫn tới việc đầu tư hạ tầng các
KCN dàn trải, không đồng bộ. Các nhà đầu tư hay phàn nàn về hệ thống hạ tầng kỹ
thuật yếu kém cả bên trong và bên ngoài KCN, có nguy cơ họ chuyển hướng đầu tư
sang tỉnh khác hoặc nước khác. Do đó, với sự phát triển của công nghiệp trong tương
lai thì kết cấu hạ tầng kỹ thuật vẫn còn phải tiếp tục đầu tư và phát triển hơn nữa, nhất
là hạ tầng trong hàng rào các KCN.
- Tuy ngành công nghiệp của tỉnh trong thời gian qua đã có bước phát triển khá
nhưng cũng chưa thực sự phát triển toàn diện cả về chiều sâu và diện rộng, một số
ngành bị suy giảm mặc dù vẫn còn có nhiều tiền đề và tiềm năng phát triển, dẫn đến
mức tăng trưởng chung của toàn ngành đạt trị số rất thấp, như nhóm ngành dệt may, da
giầy và nhóm cơ khí chế tạo và gia công kim loại. Nhóm ngành điện tử -công nghệ
thông tin chưa có bước phát triển khởi đầu cần thiết.
- Giá trị tăng trưởng và tỷ trọng GDP của khu vực công nghiệp tăng nhanh trên
địa bàn tỉnh trong thời gian qua chủ yếu thuộc thành phần công nghiệp quốc doanh của
Trung ương và đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Nổi bật là các lĩnh vực khai thác dầu
mỏ, khí đốt, sản xuất và phân phối điện cũng như các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài
thuộc các KCN, trong đó thể hiện rõ vai trò của công nghệ thiết bị tiên tiến, mức độ tự
động hoá cao trong các dự án đầu tư. Đối với địa phương, trong thời gian qua, dù cơ
cấu kinh tế có sự thay đổi nhất định, nhưng tăng trưởng trong các lĩnh vực đều khá
nhưng tăng chậm và sự dịch chuyển của cơ cấu kinh tế chưa rõ rệt. Qua khảo sát ở một
số ngành: chế biến thủy sản, cơ khí, giày da, vật liệu xây dựng, v.v. Đánh giá một cách
tổng thể là: Sự phát triển của các lĩnh vực này chưa gắn với quy hoạch, còn mang tính
tự phát cao. Trình độ công nghệ nói chung còn thấp, phần lớn công nghệ và thiết bị
hiện có ở các xí nghiệp địa phương còn lạc hậu so với các nước phát triển, chỉ đạt mức
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 62 -
trung bình so với khu vực và trong nước. Chưa có doanh nghiệp nào mạnh dạn đầu tư
công nghệ và thiết bị tiên tiến để tạo ra sản phẩm cạnh tranh cao, bứt phá. Đặc biệt,
lĩnh vực cơ khí của tỉnh có trang thiết bị rất lạc hậu so với trình độ chung của thế giới
hiện nay. Về mặt thị trường, nói chung chưa xây dựng được thị trường ổn định cho sản
phẩm, chưa có kế hoạch và chiến lược cho sản phẩm chủ lực của từng đơn vị và
địa phương.
- Công nghiệp phục vụ nông nghiệp, phục vụ du lịch và phát triển kinh tế biển
còn chậm phát triển. Đặc biệt là ngành cơ khí chế tạo trên địa bàn kém phát triển là một
tồn tại lớn cần được khắc phục trong tương lai để Bà Rịa-Vũng Tàu có thể có một nền
công nghiệp phát triển, xứng đáng với vai trò là một trong những tỉnh đầu tàu trong
VKTTĐPN.
- Trong tương lai, ngành dầu khí sẽ không thể tiếp tục tăng trưởng cao do bị giới
hạn bởi trữ lượng tài nguyên. Khi đó, tăng trưởng kinh tế nói chung và công nghiệp nói
riêng trên địa bàn tỉnh sẽ hụt hẫng rất lớn, cần được bù đắp bằng việc phát triển mạnh
các ngành công nghiệp khác, nhất là các ngành sản xuất công nghiệp có qui mô lớn và
tỷ lệ giá trị gia tăng cao.
- Tuy các ngành công nghiệp như lọc, hóa dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo máy,
sản xuất thiết bị điện công nghiệp, v.v. trên địa bàn tỉnh có nhiều điều kiện phát triển
hơn trong thời gian tới, nhưng những ngành này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu
hồi vốn kéo dài nên khó thu hút được các nhà đầu tư.
- Ngoài công nghiệp dầu mỏ, khí đốt, năng lượng và một số doanh nghiệp lớn
thuộc trung ương quản lý có năng lực và trình độ công nghệ khá cao. Còn lại hầu hết
các lĩnh vực sản xuất chủ yếu khác của tỉnh mặc dù trong những năm gần đây có đổi
mới công nghệ nhưng về cơ bản năng lực và trình độ công nghệ còn thấp và yếu kém.
Mặt khác, ở các doanh nghiệp địa phương thường có qui mô sản xuất nhỏ, không có
điều kiện chuyên môn hóa và phát triển công nghệ; một số chỉ làm gia công nên thiết bị
và công nghệ bán sản phẩm bị phụ thuộc (ngành da giày, may mặc) do đó, không có
hoặc ít có cơ hội để truyền bá, chuyển giao công nghệ giữa các xí nghiệp thông qua
trao đổi, hợp tác. Có rất ít hoặc chưa có doanh nghiệp nhỏ được hình thành trên cơ sở
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 63 -
các kết quả nghiên cứu KHCN mới hoặc các doanh nghiệp do các chuyên gia KHCN
tách ra thành lập do khó khăn trong cơ chế quản lý nên hạn chế tính năng động của đổi
mới công nghệ.
- Quá trình đổi mới thiết bị và công nghệ trên thế thới giới diễn ra quá nhanh,
trong khi các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước ở tỉnh lại thiếu vốn, thiếu
sự quan tâm đổi mới, có nguy làm cho thiết bị công nghệ trong các cơ sở sản xuất công
nghiệp bị tụt hậu.
- Nguồn lao động tuy có phong phú nhưng chất lượng chưa cao, tỷ lệ lao động
qua đào tạo nghề còn thấp, số đông vẫn đang làm việc trong khu vực nông - lâm - ngư
nghiệp, chưa quen với tác phong, áp lực và kỷ luật làm việc trong các xí nghiệp công
nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực cho việc phát triển công nghiệp.
Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật tập trung chủ yếu trong các cơ sở sản xuất
có vốn đầu tư nước ngoài và khối doanh nghiệp trung ương trong các ngành khai thác
dầu khí, sản xuất phân phối điện - gas, hóa chất, phân bón, luyện kim, cơ khí và phân
bố chủ yếu ở các thành phố, thị xã, thị trấn và khu, cụm công nghiệp. Còn ở các xí
nghiệp địa phương, trình độ của đội ngũ lao động rất thấp, vấn đề chuyên môn, nghiệp
vụ, nâng cao tay nghề chưa được coi trọng, chế độ đãi ngộ chưa thỏa đáng, không có
chính sách thu hút lao động có tay nghề cao, chuyên gia kinh tế, kỹ thuật và công nhân
bậc cao về làm việc. Các doanh nghiệp dường như chưa biết tận dụng lợi thế so sánh
của địa phương để thu hút và khai thác nhân lực tạo ra sản phẩm có giá trị cao. Trình
độ quản lý và tổ chức sản xuất tại nhiều doanh nghiệp hạn chế, cung cách quản lý nhỏ
lẻ, chưa bắt kịp xu thế thời đại, đã có một số doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng hiện đại (ISO - HACCP) nhưng khá nhiều doanh nghiệp còn làm theo
phong trào, hình thức. Mặt khác, xu thế đình công của công nhân trong các KCN ngày
càng nhiều cũng đang gây lo ngại cho các nhà đầu tư.
- Lực lượng cán bộ nhất là đội ngũ KHCN còn thiếu và mất cân đối. Thiếu
chuyên gia đầu ngành, đặc biệt trong hệ thống các ngành kinh tế chủ yếu của tỉnh.
- Một số cơ sở sản xuất công nghiệp vẫn còn xen lẫn với khu dân cư, gây ảnh
hưởng đến môi trường sống khu vực xung quanh.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 64 -
- Hạ tầng xã hội (như nhà ở cho công nhân, các cơ sở văn hóa, giáo dục, y tế,
dịch vụ vui chơi, giải trí, v.v.) chưa được quan tâm đầu tư phát triển đồng bộ với sự
phát triển của các KCN.
- Một số vấn đề xã hội, môi trường còn tồn tại, môi trường và cơ chế chính sách
kinh tế chưa thuận lợi, chưa có sức thu hút cao đối với các nhà đầu tư. Sức cạnh tranh
trong thu hút đầu tư chưa cao so với các địa phương xung quanh, nhất là đối với các
ngành công nghiệp ngoài dầu khí.
Nhìn chung, Bà Rịa-Vũng Tàu là một địa phương có nhiều tiềm năng, nguồn lực
để phát triển một ngành công nghiệp đa dạng với tốc độ cao và là một địa phương có
nhiều điều kiện thuận lợi nhất để có thể đến năm 2020 về trước cả nước trong tiến trình
trở thành một nước công nghiệp. Do đó, để phát triển và hiện đại hóa ngành công
nghiệp của tỉnh thì phải biết tận dụng cơ hội và phát huy thế mạnh, đồng thời cần khắc
phục những điểm yếu và hạn chế được những nguy cơ nêu trên.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 65 -
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Từ cơ sở lý luận chung về CNH, HĐH cũng như về công nghiệp và ngành công
nghiệp của chương 1, trong chương 2 đề tài đã đi vào phân tích, đánh giá thực trạng
phát triển và HĐH ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Qua đó có
thể khẳng định rằng Bà Rịa-Vũng Tàu là một tỉnh có vị thế độc nhất vô nhị của Việt
Nam, vì nơi đây hiện đang chiếm phần lớn trữ lượng dầu mỏ và khí đốt của cả nước, có
điều kiện xây dựng hệ thống thương cảng nước sâu để trở thành cửa ngõ ra biển Đông,
và hiện là cửa ngõ của VKTTĐPN, có nhiều tiềm năng và lợi thế phát triển mạnh công
nghiệp, là trung tâm khai thác dầu - khí chủ yếu của đất nước và là nơi sản xuất hơn
34% điện của quốc gia. Nhà máy phân đạm sản xuất từ khí lớn nhất được xây dựng đầu
tiên ở đây. Không có địa phương nào ở nước ta tập trung nhiều doanh nghiệp lớn thuộc
các ngành kinh tế mũi nhọn như Bà Rịa-Vũng Tàu. Tuy chỉ chiếm 0,6% diện tích và
hơn 1% dân số cả nước, song Bà Rịa-Vũng Tàu đã tạo ra trên 11% GDP và gần 27%
tổng thu ngân sách cả nước. Vì vậy, sự phát triển nhanh hay chậm có ảnh hưởng rất lớn
đến tình hình chung của nước ta.
Tiềm năng phát triển kinh tế nói chung và ngành công nghiệp nói riêng của tỉnh
còn khá dồi dào: kinh tế biển còn chưa được khai thác bao nhiêu, dịch vụ còn chiếm tỷ
trọng nhỏ trong cơ cấu kinh tế, ngành lọc hóa dầu chậm được phát triển cho dù có điều
kiện tài nguyên và vị trí địa lý thuận lợi, công nghiệp địa phương còn nhiều tiềm năng
phát triển mạnh, có vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên tương đối phong phú, cơ sở
hạ tầng đủ cung cấp phục vụ cho phát triển công nghiệp, nguồn lao động dồi dào, sản
phẩm có chất lượng và tạo được uy tín.
Bên cạnh những tiềm năng trên, trong chương 2 cũng đã chỉ rõ những thế mạnh
và cơ hội phát triển của ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh cùng với những nguy cơ
và điểm yếu cần khắc phục để phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp của tỉnh
nhằm góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH chung của cả nước.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 66 -
CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐỂ PHÁT TRIỂN VÀ HIỆN ĐẠI HÓA NGÀNH CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
3.1. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020
3.1.1. Quan điểm phát triển
- Phát triển ngành công nghiệp một cách có chọn lọc, có giá trị tăng cao, gắn với
định hướng quy hoạch phát triển công nghiệp của VKTTĐPN và cả nước, có cơ cấu
công nghiệp phù hợp với vai trò của một trung tâm công nghiệp phát triển cao, có công
nghệ hiện đại và thực sự trở thành một trung tâm công nghiệp của cả nước và khu vực.
- Định hướng chuyển dịch cơ cấu sang các nhóm ngành công nghiệp sử dụng
công nghệ cao, công nghiệp chế tạo, công nghiệp phụ trợ, dịch vụ hỗ trợ dầu khí, các
ngành công nghiệp chế biến dầu khí, các ngành công nghiệp phục vụ kinh tế biển, các
ngành sản xuất tư liệu sản xuất, phục vụ cho quá trình CNH của khu vực phía Nam vả
cả nước. Tiếp tục nâng cao tỷ trọng các ngành công nghiệp cơ bản, các ngành công
nghiệp có hàm lượng vốn cao, trình độ KHCN hiện đại, tiên tiến trong cơ cấu
công nghiệp.
- Tiếp tục thực hiện công cuộc CNH, HĐH theo hướng phát huy tối đa tiềm
năng của các thành phần kinh tế. Chú trọng phát triển công nghiệp địa phương, các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và đầu tư từ bên ngoài. Tăng cường và đẩy mạnh
việc đầu tư chiều sâu, ứng dụng KHCN mới, đổi mới sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hiện có.
- Phân bố công nghiệp hợp lý theo vùng lãnh thổ, gắn với hệ thống cảng, với các
KCN tập trung. Phát triển công nghiệp nông thôn, công nghiệp phục vụ du lịch.
- Phát triển công nghiệp đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái và gắn liền với
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 67 -
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Tốc độ tăng trưởng về giá trị sản xuất công nghiệp (giá 1994) giai đoạn 2006 -
2010 tăng bình quân 12,47%/năm, không tính dầu khí là 20,7%/năm; giai đoạn 2011 -
2020 tăng 9,6 %/năm.
- Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo giá trị sản xuất công nghiệp chuyển
dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng công nghiệp khai thác, nâng dần tỷ trọng các ngành
công nghiệp sản xuất và chế biến như: hóa chất, luyện kim, điện nước, v.v.
+ Công nghiệp khai thác đến năm 2010 chiếm 35,8%, 2015 chiếm 20 - 23% và
đến năm 2020 là 12 - 17%;
+ Công nghiệp hóa chất sẽ tăng nhanh tỷ trọng đạt 15,8% vào 2010; đến vào
2015 đạt 29,3% và 35,2% vào 2020;
+ Công nghiệp luyện kim năm 2010 đạt 8,7%; năm 2015 đạt 20,5% và đến năm
2020 đạt 23,7%;
+ Công nghiệp sản xuất điện và nước sẽ tăng tỷ trọng lên 28,7% vào 2010 và
sau đó sẽ giảm xuống 21,2% vào 2015 và 17,09% vào 2020.
3.2. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHỦ
YẾU TRÊN CƠ SỞ PHÁT HUY TIỀM NĂNG, THẾ MẠNH CỦA TỈNH BÀ
RỊA-VŨNG TÀU ĐẾN NĂM 2020
3.2.1. Phát triển công nghiệp khai thác dầu, khí
Mặc dù tỷ trọng trong cơ cấu công nghiệp trên địa bàn sẽ giảm nhanh nhưng
ngành công nghiệp khai thác dầu khí Bà Rịa-Vũng Tàu vẫn có vai trò quan trọng với vị
trí thứ nhất, thứ nhì trong 2 kỳ kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 và 2011 - 2015. Vì vậy, từ
nay đến năm 2020, công nghiệp khai thác dầu khí của tỉnh sẽ phát triển theo một số
hướng và mục tiêu cơ bản sau:
- Đẩy mạnh đầu tư tìm kiếm, thăm dò gia tăng tiềm năng và trữ lượng dầu khí:
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 68 -
ưu tiên các khu vực đã phát hiện dầu khí những chưa khẳng định giá trị thương mại,
tiếp đến là các diện tích có triển vọng, sau cùng là các vùng chưa tìm kiếm trong các bể
Cửu Long và Nam Côn Sơn.
- Thăm dò bổ sung và khai thác triệt để các mỏ đang khai thác, đẩy mạnh đầu tư
phát triển và đưa vào khai thác một số mỏ mới nhằm đảm bảo mức sản lượng dầu thô
và khí trong tòan quốc như sau:
+ Giai đoạn 2006 - 2010: 18 - 20 triệu tấn dầu, 6 -10 tỷ m3 khí. + Giai đoạn 2011 - 2015: 17 - 19 triệu tấn dầu, 10 -15 tỷ m3 khí. + Giai đoạn 2016 - 2020: 16 - 17 triệu tấn dầu, 15 -15,5 tỷ m3 khí.
- Đẩy nhanh và khai thác tối đa công suất các công trình thu gom, vận chuyển
và phân phối khí hiện có.
- Phát triển mạnh chế biến dầu, khí theo hướng chế biến sâu.
- Tiếp tục thúc đẩy phát triển các dịch vụ dầu khí đảm bảo đáp ứng nhu cầu
trong nước và có khả năng cung cấp dịch vụ cho thị trường ngoài nước.
3.2.2. Phát triển công nghiệp hóa chất
Dựa trên nền tài nguyên dầu khí, trong giai đoạn 2006 - 2020, ngành công
nghiệp hóa chất của tỉnh cần phát triển theo hướng chế biến sâu, hình thành các cơ sở
sản xuất thượng nguồn ở lĩnh vực lọc - hóa dầu nhằm cung cấp tư liệu sản xuất cho các
ngành công nghiệp khác; đồng thời, cần tiếp tục phát triển sản xuất phân bón, hóa chất
cơ bản.
- Trong giai đoạn 2006 - 2010, tập trung đầu tư các dự án lớn như sản xuất đạm,
sản xuất khí công nghiệp, sản xuất formaldehit, nhựa đường, Etylen và PE, v.v.;
- Chuẩn bị các điều kiện để đề nghị Chính phủ đầu tư nhà máy lọc dầu Long
Sơn trong giai đoạn 2011 - 2015;
- Trong giai đoạn 2016 - 2020, tiếp tục xây dựng trung tâm hóa dầu để sản xuất
nguyên liệu làm chất dẻo, sợi tổng hợp polyester, nguyên liệu sản xuất chất tẩy rửa, v.v.
3.2.3. Phát triển công nghiệp luyện kim
Với tiềm năng về khí đốt, năng lượng (xăng, dầu, điện) và hạ tầng công nghiệp
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 69 -
(các KCN, hệ thống cảng biển và sông, giao thông đường bộ, đường sắt, nguồn nước,
v.v.) đã, đang và sẽ được đầu tư trên địa bàn, có thể thấy rằng Bà Rịa-Vũng Tàu là địa
phương hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi phát triển công nghiệp luyện kim. Nhu cầu
thép và nhôm của Việt Nam được dự báo có mức tăng khá và tương đối lớn trong vòng
15 đến 20 năm tới, nên phương hướng phát triển chủ đạo của công nghiệp luyện kim
trên địa bàn tỉnh sẽ là ngành thép và nhôm với việc hình thành một vài tổ hợp luyện
kim có qui mô khá và công nghệ đạt mức hiện đại trong khu vực.
- Giai đoạn 2006 - 2010
+ Hoàn thành và đưa vào sản xuất các nhà máy thép cuộn, thép lá cán nguội và
nhà máy luyện, cán thép xây dựng.
+ Xây dựng nhà máy luyện lò điện công nghệ Consteel với công suất 350.000
tấn thép xây dựng/năm; nhà máy thép không rỉ công suất 720 tấn/năm; nhà máy cán
nhôm hình (thanh) xuất khẩu công suất 50.000 tấn nhôm thanh/năm.
+ Chuẩn bị những điều kiện cần thiết để xây dựng tổ hợp điện phân nhôm trong
chương trình khí, điện, nhôm vào những năm sau 2010.
- Giai đoạn 2011 - 2020
+ Khai thác hết công suất nhà máy cán thép không rỉ.
+ Xây dựng liên hợp luyện thép MiniMill và đưa vào hoạt động trong giai đoạn
2016 - 2020 với qui mô 1,5 triệu tấn phôi thép/năm; Xây dựng nhà máy điện phân
nhôm công suất khoảng 0,3 - 0,5 triệu tấn/năm.
3.2.4. Phát triển công nghiệp sản xuất và phân phối điện
- Trong giai đoạn 2006 -2010, triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
- Trong giai đoạn 2011 - 2020, xây dựng nhà máy điện tuabin khí ngưng hơi
công suất 450 MW nhằm cung cấp điện giá thấp cho chương trình khí, điện, luyện kim
quốc gia.
- Xây dựng nhà máy biến áp thứ hai công suất 450 MVA tại trạm 500 KW Phú
Mỹ và mạch 1 Phú Mỹ - Biên Hòa dài 40 km.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 70 -
- Xây dựng trạm biến áp 220 KV Bà Rịa trong giai đoạn 2011 - 2015, các trạm
220 KV Phú Mỹ và Vũng Tàu trong giai đoạn 2016 - 2020.
- Xây dựng hệ thống phát điện bằng sức gió với tổng công suất từ 1.800 KVA -
2.000 KVA ở Côn Đảo.
3.2.5. Phát triển công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy - hải sản
3.2.5.1. Công nghiệp chế biến thủy hải sản
Trước hạn chế về công nghệ chế biến, khó khăn phát triển thị trường, sức cạnh
tranh kém trong bối cảnh hội nhập WTO, dù tiềm năng gia tăng sản lượng nguồn
nguyên liệu khá lớn, song trong giai đoạn đến 2020 ngành chế biến thủy hải sản Bà
Rịa-Vũng Tàu cần phát triển theo hướng và nội dung sau:
- Củng cố, nâng cao năng lực sản xuất, chế biến của các cơ sở chế biến nông sản
hiện có.
- Xây dựng mới các nhà máy chế biến dầu thực vật Vocarimex, nhà máy dầu
thực vật công ty Cái Lân; nhà máy chế biến khoai, sắn công suất 10.000 tấn/năm; nhà
máy chế biến bột mỳ Uni Presiden công suất 50.000 tấn sản phẩm/năm; nhà máy chế
biến thực phẩm cao cấp, giàu dinh dưỡng Cargill công suất 10.000 tấn sản phẩm/năm.
- Đa dạng hóa sản phẩm với chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường nước.
- Giữ vững sản lượng các sản phẩm truyền thống như hàng khô, nước mắm; xây
dựng mới hoặc bổ sung các dây chuyền chế biến đồ hộp và một số loại thực phẩm đặc
biệt, tiện dụng nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước đang gia tăng.
- Đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ chế biến, hợp chuẩn hóa hết các tiêu
chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm, về môi trường... của các thị trường khó tính như
EU, Mỹ, Nhật, v.v. Tăng cường mô hình nuôi trồng, khai thác, đánh bắt và chế biến
khép kín với qui mô ngày càng lớn, tăng nhanh số lượng cơ sở được cấp chứng chỉ
xuất khẩu của các thị trường lớn như châu Âu, châu Mỹ.
- Xây dựng thêm một số nhà máy chế biến mới để tiêu thụ hết nguồn nguyên
liệu thủy sản tăng thêm.
- Hình thành các khu vực chế biến thủy hải sản tập trung trong các KCN và cụm
công nghiệp nhằm bảo vệ môi trường, giảm thiểu chi phí xử lý ô nhiễm, thu hút các cơ
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 71 -
sở gây ô nhiễm tự nguyện di dời vào các khu vực chế biến tập trung.
- Quy hoạch các khu chế biến độc lập như Lộc An, Gò Găng.
3.2.5.2. Công nghiệp chế biến nông sản
- Tập trung chế biến một số mặt hàng chủ yếu như: tinh bột mì, bắp, cà phê, hạt
điều, tiêu, mũ cao su, trái cây và chế biến gỗ nguyên liệu.
- Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ hiện đại sản xuất các mặt hàng
phù hợp với nhu cầu thị trường xuất khẩu; giảm dần các sản phẩm sơ chế, tăng dần các
sản phẩm có giá trị gia tăng.
- Nghiên cứu phát triển vùng cây ăn quả để có thể xây dựng nhà máy chế biến
nước uống trái cây hoặc đóng hộp.
3.2.6. Phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
- Tận dụng lợi thế về tài nguyên, phát triển sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp
xuất khẩu như: sứ vệ sinh, gạch men, đá mỹ nghệ, sản phẩm trang trí nội ngoại thất
bằng gốm, sứ hoặc vật liệu hỗn hợp, v.v., xây dựng một số cơ sở sản xuất nguyên vật
liệu cho ngành sành sứ thuỷ tinh.
- Hướng phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng chủ yếu phục vụ
chính cho nhu cầu xây dựng trên địa bàn tỉnh. Dự kiến tốc độ phát triển trong giai đoạn
2006 - 2010 tăng khoảng 10%/năm; ổn định qui mô khai thác trong các giai đoạn tiếp
theo để bảo đảm nhu cầu trong tỉnh và phát triển bền vững.
3.2.7. Phát triển ngành cơ khí chế tạo và gia công kim loại
Cơ khí là ngành sản xuất ra công cụ lao động hiện đại, thành phần quan trọng
của lực lượng sản xuất. Chính vì vậy cơ khí là ngành chủ đạo trong việc giải quyết
những nhiệm vụ của tiến bộ KH & CN để nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, bảo đảm
trang bị cho công nghiệp, nông, ngư nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng và các ngành
khác. Muốn giữ vững độc lập tự chủ và an ninh - quốc phòng không thể không phát
triển ngành cơ khí. Tuy nhiên, cơ khí là ngành cần đầu tư lớn, lợi nhuận trực tiếp thấp,
chậm thu hồi vốn do đó phương hướng phát triển không thể tràn lan mà cần phải cân
nhắc tính toán phù hợp về phương hướng phát triển và bước đi. Cần phải lựa chọn
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 72 -
Hiện ngành công nghiệp cơ khí và gia công kim loại của tỉnh chưa phát triển,
mới có một số cơ sở sản xuất trong lĩnh vực đóng mới, sửa chữa tàu thuyền (đóng tàu
cá bằng gỗ, sửa chữa tàu vận tại nhỏ), thậm chí có xu thế suy thoái trong 5 năm 2001 -
2005 với mức -7,1%/năm về giá trị sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, trong thời gian tới
khi quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà Rịa-
Vũng Tàu được phê duyệt, quy hoạch di dời các cảng trên sông Sài Gòn và nhà máy
đóng tàu Ba Son về phía Bà Rịa-Vũng Tàu, việc phát triển kinh tế biển được chú trọng
sẽ làm tăng khả năng phát triển của ngành công nghiệp cơ khí đóng và sửa chữa
tàu thuyền.
Hàng năm ngành công nghiệp dầu khí và hậu cần dầu khí chi phí trên dưới 1 tỷ
USD mua sắm vật tư, thiết bị, phụ tùng để duy trì và phát triển sản xuất. Đây rõ ràng là
một thị trường khá lớn đối với ngành công nghiệp cơ chế và gia công kim loại của tỉnh.
Trong tương lai có nhiều cơ sở công nghiệp nặng có qui mô từ vừa đến lớn sẽ được đầu
tư xây dựng thì có thể thấy tiềm năng, điều kiện tiền đề về cầu để phát triển ngành công
nghiệp này là rất lớn.
Trước thực trạng và tương lai phát triển như trên, ngành công nghiệp cơ khí chế
tạo và gia công kim loại của tỉnh phải theo định hướng sau:
- Phục vụ hậu cần cho công nghiệp khai thác dầu khí, công nghiệp chế biến dầu
khí và phân phối sản phẩm của hai ngành công nghiệp đó là chủ đạo;
- Đầu tư có chọn lọc với cách thức sản xuất các sản phẩm từ đơn giản đến trung
bình song có chất lượng đảm bảo để có thể thay thế một phần sản phẩm nhập ngoại;
- Đa dạng hóa sản phẩm với số lượng và trị giá đảm bảo hiệu quả kinh tế như
các sản phẩm kết cấu thép, thiết bị phi tiêu chuẩn; chi tiết và phụ tùng tiêu chuẩn hóa;
các loại ống thép chế tạo giàn khoan, ống dẫn dầu và khí, các loại ti khoan và ống
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 73 -
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN VÀ HIỆN ĐẠI HÓA
NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
3.3.1. Giải pháp về khoa học công nghệ
Trong quá trình thực hiện phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp trên địa
bàn tỉnh, tất yếu phải thay thế trang thiết bị và lựa chọn công nghệ mới tiên tiến. Việc
tính toán lựa chọn bước đi - đặc biệt trong điều kiện thiếu vốn - cho phù hợp là vấn đề
cực kỳ trọng yếu. Thực tiễn ở một số nước thực hiện CNH - cũng như của các đơn vị
trong nước trong quá trình trang bị lại thiết bị công nghệ cho mình, cho thấy nếu không
cân nhắc tính toán thận trọng, thiếu quan điểm toàn diện, nóng vội, hoặc quá nhấn
mạnh yếu tố công nghệ - kỹ thuật mà tách rời sự phát triển đồng bộ của các yếu tố khác
như: lựa chọn sản phẩm, thị trường, yếu tố quản lý, v.v. thì quá trình công nghiệp hóa
sẽ thất bại, xí nghiệp lâm vào khó khăn, vướng phải nợ nần.
Quá trình thực hiện đổi mới trang thiết bị, công nghệ cần chú ý thực hiện các
giải pháp sau:
- Trước hết là tận dụng, phát huy sức mạnh hiện có vì nội lực vốn đã có sẵn dù
chưa mạnh nhưng vẫn là vốn quý. Có lúc các nhà doanh nghiệp quá thiên về đầu tư
mới mà coi nhẹ việc khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật và người lao động hiện có;
- Đầu tư có trọng điểm, đúng khâu then chốt để phát huy cao độ toàn bộ điều
kiện vật chất sẵn có với số vốn bỏ ra không nhiều; trước hết cần nâng cấp thiết bị, đổi
mới công nghệ từng công đoạn trên dây chuyền công nghệ thiết bị hiện có;
- Đầu tư đi thẳng vào hiện đại nhưng cần tận dụng ở mức tối đa năng lực, thiết
bị công nghệ hiện có;
- Kiên quyết chất dứt tình trạng nhập công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm
môi trường dù là máy móc thiết bị mới. Cần kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu thiết bị
và chuyển giao công nghệ theo các tiêu chuẩn đã quy định;
- Về trình độ công nghệ và qui mô, phải kết hợp cả 3 loại trình độ công nghệ
phù hợp với tính chất của từng ngành nghề, sản phẩm, công đoạn sản xuất. Về qui mô
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 74 -
- Thực hiện tốt sự liên kết giữa các nhà khoa học, các trường đại học, viện
nghiên cứu với các nhà sản xuất. Tất cả đều đã có sẵn chỉ cần nối kết lại tạo nên nội lực
gia tăng tốc độ đổi mới; cần sớm hình thành hệ thống thông tin về KH-CN một nhu cầu
lớn đối với các nhà doanh nghiệp.
- Tạo lập môi trường thuận lợi cho KHCN phát triển; xây dựng các chính sách
mang tính “đòn bẩy”; tạo dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa mọi thành phần
kinh tầ nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ KHKT vào
sản xuất;
- Đổi mới và phân cấp hệ thống quản lý nhà nước về KHCN;
- Áp dụng các cơ chế tài chính, ưu đãi cho các doanh nghiệp áp dụng KHCN,
đổi mới sản xuất; ưu đãi về thuế, tín dụng để các doanh nghiệp nhập công nghệ tiên
tiến từ nước ngoài; ưu tiên và khuyến khích nhập khẩu các dây chuyền, thiết bị hiện đại
nhằm cho ra các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu;
- Xây dựng các chiến lược dài hạn về phát triển KHCN;
- Quy định chế độ thưởng phạt tài chính thật hấp dẫn về chuyển giao công nghệ
trong các dự án FDI;
- Coi trọng công nghệ sạch đảm bảo giữ gìn môi sinh, gắn sản xuất với bảo vệ
môi trường sinh thái, phát triển bền vững;
- Trẻ hóa đội ngũ cán bộ khoa học, có chính sách thu hút nhân tài, chất xám và
các cán bộ đầu đàn cho các ngành công nghiệp chủ yếu; xây dựng mối liên hệ mật thiết
giữa chính quyền - nhà khoa học - doanh nghiệp;
- Dùng ngân sách nhà nước để xây dựng các Trung tâm giám định chất lượng và
giá cả;
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án KH-CN được tiếp cận dễ dàng với tín
dụng ngân hàng;
- Giảm thuế thu nhập cá nhân cho các chuyên gia khoa học trong nước và nước
ngoài thực hiện chuyển giao công nghệ;
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 75 -
- Tăng cường cơ sở vật chất cho KHCN; bảo đảm môi trường tốt và khả năng
trao đổi, nắm bắt thông tin cho đội ngũ KHCN;
- Mạnh dạn lựa chọn và đầu tư những công nghệ tiên tiến cho những ngành
công nghiệp then chốt của tỉnh như khai thác dầu mỏ, khí đốt, năng lượng, cơ khí chế
tạo, đánh bắt và chế biến hải sản, du lịch, dịch vụ.
3.3.2. Giải pháp về nguồn nhân lực
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực hiện tại và tương lai đóng vai trò rất quan
trọng trong sự phát triển công nghiệp mà đặc biệt là đối với một tỉnh có tỷ trọng công
nghiệp cao như Bà Rịa-Vũng Tàu thì yếu tố này lại càng cần được chú trọng và quan
tâm. Một số giải pháp cần thực thi như:
- Nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên hiện
đang công tác tại các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp;
- Xây dựng các chính sách đãi ngộ để thu hút nguồn lao động có trình độ và tay
nghề cao đến làm việc tại tỉnh; khuyến khích khả năng học tập bằng các Quỹ khuyến
học, trợ cấp học sinh - sinh viên khó khắn; có chính sách tuyển dụng và sử dụng đội
ngũ sinh viên tốt nghiệp đại học nhằm tạo nguồn lai động trẻ, có kỹ năng làm việc tốt;
có cơ chế khuyến khích gửi đi tu nghiệp ở nước ngoài;
- Thực hiện nâng lương vượt cấp, tăng lương trước thời hạn cho những cá nhân
có đóng góp nổi bật trong nghiên cứu khoa học và cải tiến kỹ thuật của ngành, địa
phương và doanh nghiệp. Có giải thưởng miễm thuế thu nhập cho các cá nhân và tập
thể được giải thưởng quốc gia và quốc tế về các lĩnh vực KHCN.
- Trong tương lai, qui mô ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh là rất lớn, thu hút
một lượng lao động đáng kể ở ngoài tỉnh. Cần có những giải pháp ổn định cuộc sống
cho lực lượng lao động này như: tập trung xây dựng hạ tầng và nhà ở bằng vốn ngân
sách tỉnh hoặc vốn của doanh nghiệp; có chính sách ưu đãi như cho mua nhà trả góp
hoặc cho thuê dài hạn; đăng ký thường trú, tạm trú dễ dàng, đảm bảo an ninh trật tự,
môi trường tốt tại nơi sống và nơi làm việc của công nhân, đảm bảo cho công nhân
thường xuyên được hưởng thụ văn hóa, văn nghệ, tham gia tập luyện, thi đầu thể dục
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 76 -
thể thao, v.v.
- Các cơ sở sản xuất, các cơ quan, đơn vị phải có biện pháp tổ chức sắp xếp bố
trí công việc hợp lý, tạo điều kiện thời gian, kinh phí cần thiết cho người lao động theo
học các lớp bổ túc văn hóa để nâng cao trình độ học vấn. Cần phải có quy định khuyến
khích và bắt buộc mỗi người lao động hàng năm phải theo học những nội dung bức
thiết nhất về văn hóa, khoa học, nghề nghiệp, ngoại ngữ, tin học, v.v. đồng thời cũng
cần có biện pháp khuyến khích người lao động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tổ chức luyện tay nghề, thi thợ giỏi,
thi tuyển nâng cấp cho người lao động.
- Kết hợp đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo chuyên sâu và bổ túc tay nghề cho
lao động phổ thông để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng cho các KCN; khuyến khích các tổ
chức, cá nhân đầu tư vốn vào công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực;
- Có chính sách hỗ trợ đào tạo lao động đối với các doanh nghiệp đầu tư mới, sử
dụng lao động tại chỗ nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công
nghiệp trên địa bàn tỉnh.
- Xây dựng trung tâm đào tạo nghề chuyên sâu, đào tạo nghề kỹ thuật bậc cao
cho các tỉnh thuộc VKTTĐPN.
3.3.3. Tăng cường quản lý nhà nước
Thực tiễn ở các nước Đông Nam Á, cũng như ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
v.v. cho thấy vai trò không thể thiếu được của Nhà nước trong quá trình CNH, HĐH.
Muốn cho CNH thành công, duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh cần phải có một Chính
phủ mạnh, có tổ chức gọn nhẹ, điều hành mọi hoạt động với hiệu suất cao, hoạch định
được chiến lược dài hạn, cũng như các kế hoạch phát triển kinh tế ngắn hạn một cách
đúng đắn, ở mỗi giai đoạn biết lựa chọn phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn khác
nhau, biết phân bổ hợp lý các nguồn lực trong và ngoài nước tham gia vào sự nghiệp
CNH, biết dẫn dắt mọi hoạt động kinh tế đi vào đúng quỹ đạo, biết chống đỡ một cách
có hiệu quả với những khó khăn bất thường xảy ra…
Ở tầm vĩ mô, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chủ trương về củng cố
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 77 -
kiện toàn bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Trên cơ sở đó, tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu phải cố gắng thực hiện tốt để trở thành một đơn vị quản lý nhà nước vững mạnh ở
cấp địa phương để góp phần hữu hiệu vào sự nghiệp CNH, HĐH, do đó, tỉnh cần phải
tập trung vào các vấn đề sau:
3.3.3.1. Quy hoạch công nghiệp trên địa bàn
Phải nhanh chóng quy hoạch và triển khai tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp
quốc doanh và các thành phần kinh tế khác theo một cơ cấu hợp lý theo hướng chuyên
môn hóa, có sự phối hợp chặt chẽ đồng bộ, xử lý tốt mối quan hệ trung ương – địa
phương, phân công và hợp tác sản xuất theo ngành trên địa bàn tỉnh, hạn chế và tiến tới
chấm dứt tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, đầu tư trùng lắp… gây lãng phí, sản
xuất không sử dụng hết năng lực, năng lực cán bộ, công nhân giỏi không được phát
huy, v.v. Cần tạo môi trường thông thoáng, bình đẳng cho các thành phần kinh tế để tập
hợp lực lượng sản xuất công nghiệo nhằm tận dụng hết năng lực sản xuất.
3.3.3.2. Cải tiến thủ tục tạo mọi dễ dàng thuận lợi cho nhà đầu tư
Đây là vấn đề dễ làm nản lòng các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thủ tục còn
rắc rối, phiền hà trong cấp phéo sản xuất-kinh doanh là nhà đầu tư phải đi lại nhiều lần,
mất nhiều thời gian, thậm chí phải chấp nhận tiêu cực.
Với tinh thần chung là Nhà nước nên tạo mọi điều kiện thuận lợi để khuyến
khích mọi người, mọi tổ chức trong và ngoài nước tham gia bỏ vốn vào sự nghiệp phát
triển kinh tế.
3.3.3.3. Thường xuyên theo sát các doanh nghiệp để uốn nắn và giúp đỡ các doanh
nghiệp tháo gỡ các khó khăn
Trên thực tế, hiện có hai chiều hướng khác nhau trong quản lý các doanh
nghiệp, hoặc buôn lỏng thiếu kiểm tra trong quản lý, hoặc có quá nhiều ngành kiểm
soát gây khó khăn cho các doanh nghiệp, và như vậy cả hai hướng quản lý này đều cần
phải khắc phục.
Các cơ quan quản lý nhà nước cần phải tăng cường quản lý các doanh nghiệp
trên tinh thần quản lý để doanh nghiệp phát triển, quản lý để giúp doanh nghiệp tháo gỡ
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 78 -
các khó khăn.
3.3.3.4. Đẩy mạnh đấu tranh chống buôn lậu
Chống hàng nhập lậu, bảo vệ hàng sản xuất trong nước bao giờ cũng là vấn đề
có ý nghĩa hết sức quan trọng để góp phần thực hiện CNH, HĐH. Việc đấu tranh chống
hàng nhập lậu vừa của tỉnh vừa qua chưa mạnh, chưa hữu hiệu, cần phải tập trung
trong thời gian tới với những biện pháp tổng hợp, kiên quyết hơn.
3.3.4. Mở rộng và thu hút vốn đầu tư
Để đạt được mục tiêu kinh tế đề ra, tổng đầu tư trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006
- 2010 cần 101.843 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư phát triển công nghiệp là 62.063 tỷ
đồng (chiếm 61%). Giai đoạn 2011 - 2020 tổng đầu tư là 292.744 tỷ đồng, trong đó
công nghiệp là 228.085 tỷ đồng (chiếm 78%). Các nguồn vốn bao gồm: vốn ngân sách
chiếm khoảng 20%, vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 55%, còn lại 25% là
vốn của các doanh nghiệp trong nước và trung ương.
3.3.4.1. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Với tỷ lệ chiếm khoảng 55% trong tổng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu, cho thấy nguồn vốn FDI đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phát
triển kinh tế của tỉnh. Để thu hút nguồn vốn này cần thực hiện các giải pháp sau:
- Mở rộng diện được ưu đãi và nâng mức ưu đãi tài chính cho các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực trọng điểm cần khuyến khích, nhất là các
ngành công nghiệp chủ yếu của tỉnh;
Các giải pháp cần phải thực thi như: Đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, đầu tư;
hoàn thiện cơ sở hạ tầng về giao thông, điện nước, năng lượng và hạ tầng các KCN;
trang bị và nâng cao kiến thức, trình độ tay nghề cho nguồn lao động; đa dạng hóa các
loại hình và lĩnh vực đầu tư; xây dựng danh mục các dự án và chính sách ưu đãi.
- Tỉnh phải củng cố, nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư trực tiếp của nước
ngoài đang hoạt động, thúc đẩy triển khai nhanh các dự án đã có giấy phép.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả xúc tiên đầu tư bằng nhiều hình thức thích hợp
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 79 -
- Thực tiễn cho thấy hình thức xúc tiến đầu tư có hiệu quả và ít tốn kém nhất là
chăm sóc tốt các nhà đầu tư đã và đang đầu tư trong KCN, cụm công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp bằng cách giải quyết nhanh chóng các khó khăn vướng mắc cho họ. Các
khó khăn vướng mắc mà nhà đầu đầu tư thường gặp là: Đất đai, giải phóng mặt bằng,
thủ tục đầu tư xây dựng, hạ tầng kỹ thuật, thủ tục hải quan, thuế, giấy phép lao động,
visa. Khi các khó khăn vướng mắc được giải quyết nhanh chóng, các nhà đầu tư có ấn
tượng tốt, họ sẽ tuyên truyền lôi kéo các nhà đầu tư khác sang đầu tư. Các nhà đầu tư
trở thành người xúc tiến đầu tư tốt nhất cho tỉnh.
- Hàng năm ngân sách sách tỉnh cần dành một khoản kinh phí thích hợp cho việc
xúc tiến kêu gọi đầu tư vào KCN. Tập trung khoản kinh phí này để đến một số nước
phát triển ở Châu Âu, Mỹ, Canađa, Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc để xúc tiến kêu gọi những
công ty, tập đoàn lớn, đa quốc gia đầu tư vào tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
- Thông qua nhiều kênh khác nhau xúc tiến kêu gọi đầu tư vào tỉnh như: Phối
hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, Các đại sứ quán của Việt Nam ở nước
ngoài, Các đại sứ quán và lãnh sự quán của nước ngoài tại Việt Nam, cử người của các
cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực đầu tư, Ban Quản lý các KCN và các công ty hạ
tầng đi theo các đoàn thăm quan nước ngoài của các đồng chí lãnh đạo Đảng và
nhà nước…
- Ban hành chính sách thưởng hoa hồng cho các cá nhân hoặc tổ chức giới thiệu
được dự án đầu tư. Tùy theo mức vốn đầu tư của dự án mà có những mức thưởng hoa
hồng khác nhau, vốn đầu tư càng lớn thì mức thưởng càng cao. Người giới thiệu chỉ
được nhận hoa hồng sau khi dự án được cấp giấy phép đầu tư.
- Trung tâm Xúc tiến Đầu tư của tỉnh sẽ là đầu mối tư vấn và cung cấp miễn phí
cho nhà đầu tư các thông tin về quy hoạch, điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội
của tỉnh, của KCN, cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp để họ tìm hiểu đầu tư.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 80 -
3.3.4.2. Thu hút vốn đầu tư trong nước
Vốn đầu tư trong nước sẽ được huy động chủ yếu từ 4 nguồn: vốn đầu tư phát
triển từ ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển
của các doanh nghiệp nhà nước và vốn đầu tư phát triển của dân cư.
Trong thời gian qua, vốn từ ngân sách chiếm tối đa khoảng 20% nhưng chủ yếu
dùng để đầu tư các công trình hạ tầng, đảm bảo phúc lợi xã hội và tạo điều kiện để thu
hút các nguồn vốn đầu tư khác, do đó chi cho đầu tư phát triển năng lực sản xuất mới là
rất ít. Hướng tới, hàng năm tỉnh cần dành một tỷ lệ thỏa đáng để đầu tư phát triển mới,
hoặc trang bị mới cho các ngành công nghiệp mũi nhọn, hoặc chủ lực đã được xác
định; đồng thời cũng cần dành một khoảng ngân sách nhất định để bù lỗ cho việc cho
vay với lãi suất ưu đãi đối với các ngành công nghiệp mà thành phố cần đầu tư.
Đối với việc huy động các nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp, cần thực hiện
chế độ tiết kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong chi phí kinh doanh để tăng lợi nhuận
của doanh nghiệp, từ đó tạo cơ sở tăng tích lũy cho mở rộng sản xuất, nâng cao trình
độ công nghệ. Thực hiện đa dạng các hình thức thu hút vốn của doanh nghiệp như phát
hành cổ phiếu, trái phiếu, liên doanh, liên kết, v.v. Xúc tiến mạnh mẽ cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước và coi đó là một trong những giải pháp huy động vốn có hiệu
quả. Thực hiện việc để lại khấu hao cơ bản cho các doanh nghiệp nhà nước để tái đầu
tư mở rộng sản xuất kinh doanh trên cơ sở kết hợp với việc sử dụng các công cụ thuế,
khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sử dụng lợi nhuận để lại
tái đầu tư. Mặt khác, trong điều kiện tích lũy của các doanh nghiệp còn hạn hẹp, cần
cho phép các doanh nghiệp vay Ngân hàng Thương mại với lãi suất có thể chấp nhận
được để đầu tư vào một số công trình sản xuất mới có trình độ công nghệ cao, nhưng
đương nhiên cần phải đảm bảo nguyên tắc “tự vay, tự trả”.
Đối với việc huy động các nguồn vốn trong xã hội, trong các tầng lớp dân cư -
tỉnh phải chủ động và phối hợp chặt chẽ với Trung ương để tạo ra môi trường đầu tư
thuận lợi nhất là môi trường pháp lý bảo đảm được an toàn về tài sản của các đối tượng
tham gia các hoạt động vay và cho vay, xác định rõ trách nhiệm vay và trả nợ; đồng
thời cần có cơ chế, chính sách, luật pháp khuyến khích các tầng lớp nhân dân bỏ vốn
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 81 -
đầu tư phát triển sản xuất. Tạo ra môi trường giao lưu vốn trong nền kinh tế trên cơ sở
phát triển mạnh thị trường vốn.
Trong thời gian tới, một số nguồn vốn còn gặp nhiều khó khăn hoặc còn sơ khai
chưa đủ điều kiện phát huy tác dụng nên ngành ngân hàng về cơ bản vẫn là kênh huy
động và điều phối vốn trong dân cư là chính. Ngân hàng là ngành quản lý và điều tiết
toàn bộ khối lượng tiền trong lưu thông. Để có thể sử dụng có hiệu quả nguồn vốn,
ngân hàng phải là đầu mối phân phối hợp lý nhất cho các thành phần kinh tế, vừa đảm
bảo yêu cầu trước mắt vừa giữ vững mục tiêu lâu dài. Trong thời gian qua, các ngân
hàng thương mại tuy có nhiều về số lượng nhưng yếu về thực lực tài chính, cơ cấu huy
động vốn chủ yếu là ngắn hạn.
Cơ chế hoạt động và điều kiện pháp lý chưa tạo cho ngân hàng một hành lang
thật sự an toàn để đầu tư, nhất là đầu tư dài hạn, dẫn đến nhiều ngân hàng chủ yếu hoạt
động tín dụng ngắn hạn. Và trong khi các doanh nghiệp rất thiếu vốn thì ngân hàng lại
thừa vốn, vì vậy tỉnh phải kiện toàn lại hệ thống ngân hàng thương mại tránh phân tán
như hiện nay, tăng cường các biện pháp nghiệp vụ thu hút vốn trung và dài hạn, tích
cực tìm nguồn vốn trung và dài hạn trong và ngoài nước, đa dạng hóa phương thức huy
động vốn và tài trợ, cải tiến quản lý và điều hành vốn một cách chủ động, khoa học,
nhằm tối đa hóa lượng vốn đầu tư trung và dài hạn từ nguồn vốn huy động ngắn hạn
giúp cho doanh nghiệp tránh nguy cơ phải sử dụng vốn ngắn hạn vào mục đích trung,
dài hạn.
3.3.5. Giải pháp về bảo vệ môi trường
- Thực hiện di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm, các cơ sở không đảm bảo về
chỉ tiêu môi trường ra khỏi vùng đô thị và dân cư;
- Qui hoạch các khu, cụm công nghiệp tập trung cho các cơ sở công nghiệp có
tác động đến môi trường nhằm đảm bảo việc xử lý vấn đề rác thải một cách tốt nhất;
- Không cấp phép xây dựng mới cho những nhà máy gây ô nhiễm đầu tư xen lẫn
khu dân cư;
- Có chế độ đãi ngộ tối đa cho các doanh nghiệp đầu tư vào các trạm xử lý nước
thải trong KCN hay trong từng nhà máy nằm lẫn trong khu dân cư;
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 82 -
- Có quy định cụ thể kèm theo thưởng phạt tiến độ đối với các doanh nghiệp sản
xuất đang gây ô nhiễm nằm trong khu dân cư bị yêu cầu di dời vào các KCN.
- Các cơ sở đăng ký mới phải có những biện pháp đảm bảo thực hiện tốt các yêu
cầu về xử lý chất thải và bảo vệ môi sinh, môi trường theo các tiêu chuẩn đã được
quy định;
- Đảm bảo việc phát triển công nghiệp không tác động và ảnh hưởng tới môi
trường phát triển du lịch và dịch vụ;
- Phát triển và khuyến khích các chương trình trồng rừng, phủ xanh đất trống,
đồi núi trọc, trồng cây xanh trong đô thị; giữ gìn và bảo vệ nguồn nước ngọt, nước
ngầm và các nguồn nước phục vụ việc nuôi trồng thủy, hải sản;
- Tăng cường chuyên môn cho bộ máy quản lý môi trường đảm bảo đáp ứng
được yêu cầu trong quá trình phát triển công nghiệp của tỉnh.
3.3.6. Mở rộng thị trường và đẩy mạnh tiếp thị
Để phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng
Tàu cần chú trọng mở rộng và ổn định thị trường đối với một số sản phẩm chủ yếu
của tỉnh.
- Về thị trường dầu thô: với dự báo nhu cầu thế giới sẽ tăng gần 100 triệu
thùng/ngày vào năm 2015 so với mức trung bình hiện nay là khoảng 82 triệu
thùng/ngày. Trong tương lai, giá nhiên liệu xăng dầu có xu hướng tăng cao do trữ
lượng tài nguyên, năng lực hạn chế của các nhà máy lọc dầu hiện có. Đây cũng là một
cơ hội tốt để Bà Rịa-Vũng Tàu có thể thu hút đầu tư phát triển các nhà máy lọc dầu
trong tương lai.
- Về thị trường thép: Dự báo trong tương lai giá thép đứng ở mức cao do cung
không đủ cấu và cũng là cơ hội thuận lợi để Việt Nam nói chung và Bà Rịa-Vũng Tàu
nói riêng có thể phát triển một số cơ sở sản xuất thép.
- Về thị trường đạm: Với xu thế giá dầu khí tăng trong tương lai, giá phân đạm
cũng sẽ đứng ở mức cao. Việt Nam là một nước nông nghiệp, có nhu cầu cao về phân
urê và là một thị trường tiêu thụ phân đạm lớn. Nhu cầu tiêu thụ phân đạm của Việt
Nam được đánh giá vào khoảng 1,5 - 2 triệu tấn/năm. Với năng lực sản xuất phân đạm
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 83 -
Tóm lại, diễn biến của thị trường trong nước và thế giới cho thấy các sản phẩm
công nghiệp chủ yếu của tỉnh có điều kiện phát triển tốt trong tương lai, đặc biệt là các
sản phẩm liên quan đến dầu khí, phân đạm, thép. Còn các sản phẩm thuộc công nghiệp
chế biến cần chú ý nâng cao chất lượng, chế biến tinh và chế biến sâu nhằm tạo giá trị
gia tăng cao và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.
Trong thời gian tới, cần thực hiện các giải pháp sau để mở rộng thị trường:
- Phải hết sức coi trọng cả hai loại thị trường trong nước và thị trường ngoài
nước. Đáp ứng tốt thị trường nội tỉnh, kể cả thị trường nguyên liệu đầu vào và sản
phẩm đầu ra; chú trọng đến thị trường vùng, khu vực và xúc tiến tìm thị trường xuất
khẩu. Giữ vững và mở rộng thêm các thị trường đã có; tìm kiếm các thị trường mới cho
các sản phẩm để nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu; không ngừng cải tiến và nâng
cao về mẫu mã, chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu riêng cho các sản phẩm
công nghiệp của tỉnh.
+ Đối với thị trường trong nước: thực hiện chương trình đẩy mạnh xúc tiến
thương mại trọng điểm của tỉnh; xác lập mối liên kết giữa sản xuất và phân phối, giữa
nông dân và doanh nhân trong việc cung ứng vật tư, hàng tiêu dùng và tiêu thụ nông
sản hàng hóa.
+ Đối với thị trường nước ngoài: tăng tỷ trọng hàng xuất khẩu vào thị trường
Châu Âu - Mỹ, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc. Nâng cao giá trị gia
tăng bằng cách đầu tư đổi mới trang thiết bị, công nghệ chế biến các mặt hàng nông -
hải sản, may mặc, giày da, v.v. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tiếp thị, tìm kiếm thị
trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa thông qua các hội chợ - triển lãm ngoài nước; tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia các hội chợ, hội thảo để mở rộng thị trường.
- Nâng cao hiệu quả các hoạt động của chương trình xúc tiến thương mại trọng
điểm, không nên dàn trải mà phải có trọng tâm, trọng điểm cho từng ngành hàng và
từng thị trường trong từng thời kỳ nhất định.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 84 -
- Xây dựng các tài liệu hướng dẫn về việc xây dựng chiến lược Marketing xuát
khẩu và tổ chức các khóa đào tạo cho các doanh nghiệp xuất khẩu để trang bị kiến thức
nền tảng và cập nhật các thông tin liên quan đến cơ hội triển khai các hoạt động xúc
tiến xuất khẩu.
- Phát huy vai trò của các Hiệp hội ngành hàng và Hiệp hội doanh nghiệp. Bên
cạnh việc liên kết điều tiết cung cầu của từng mặt hàng cụ thể, Hiệp hội nên đẩy mạnh
các hoạt động giới thiệu về sản phẩm như: Hội chợ, triển lãm, quảng cáo trên phương
tiện thông tin trong và ngoài nước. Các Hiệp hội cần tổ chức các hoạt động định kỳ để
cung cấp thông tin cho doanh nghiệp.
3.4. KIẾN NGHỊ
Để giúp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nói chung và ngành công nghiệp của tỉnh nói
riêng có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH, tác giả luận
văn xin có một số kiến nghị sau:
3.4.1. Đối với chính phủ
- Chính sách thuế hiện hành chưa thật sự có tác động thúc đẩy đầu tư nghiên
cứu ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới, dùng lợi tức tái đầu tư và ưu đãi các ngành
cần khuyến khích như các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp kỹ thuật cao.
Việc xem các ngành dịch vụ phục vụ sản xuất mang tính chất hạ tầng kinh tế như bưu
chính-viễn thông, chuyển giao công nghệ là một thứ dịch vụ như mọi dịch vụ khác để
chịu thuế cao là tự hạn chế sự phục vụ cho mục tiêu phát triển. Đề nghị Chính phủ cần
nghiên cứu, thay đổi chính sách thuế cho phù hợp với các vấn đề trên.
- Nhà nước tăng cường các hoạt động đối ngoại về kinh tế - mở rộng thị trường
thông qua các hiệp định về thương mại, gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới, các khu
vực; cung cấp các thông tin về kinh tế một cách đầy đủ và kịp thời, ban hành các chính
sách thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu và quản lý chặt chẽ nhập khẩu có hiệu quả; có chính
sách hỗ trợ quá trình hiện đại hóa nền sản xuất công nghiệp hướng về xuất khẩu như
thuế tín dụng, tỷ giá…
- Về luật pháp:
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 85 -
+ Cần có luật riêng về KCX, KCN để nhà đầu tư yên tâm.
+ Mặc dù Luật Bảo vệ môi trường đã được ban hành và có hiệu lực, nhưng cho
đến nay các văn bản dưới luật về công tác bảo vệ môi trường vẫn còn thiếu như: thiếu
quy chế về quản lý môi trường, quy định hình thành hệ thống các trạm quan trắc, tiêu
chí đánh giá tác động môi trường khi phê duyệt quy hoạch tổng thể kinh tế-xã hội của
tỉnh, thành phố. Do đó, trong thời gian tới các cơ quan pháp luật cần tiến hành rà soát
lại và ban hành mới những văn bản quy phạm pháp luật cho đầy đủ để các địa phương
áp dụng trong từng tình huống cụ thể hoặc hướng dẫn cho các doanh nghiệp các thủ tục
đầu tư thực hiện nghiêm túc quy định về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, các cấp chính
quyền từ trung ương đến địa phương cần thực thi nghiêm chỉnh việc chế tài, xử phạt
kiên quyết những hành vi vi phạm Luật Bảo vệ môi trường nhằm nâng cao tính giáo
dục, răn đe của pháp luật.
3.4.2. Đối với địa phương và ngành
- Xây dựng chương trình phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh giai
đoạn từ năm 2010 đến năm 2020.
- Quy hoạch chi tiết phát triển công nghiệp cơ khí, công nghiệp phụ trợ trên địa
bàn giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2020.
- Cần phối hợp với các địa phương trong VKTTĐPN trong việc thực hiện triển khai thực hiện quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh của tỉnh.
- Tích cực phối hợp với các địa phương trong VKTTĐPN để bảo vệ môi trường toàn vùng khỏi bị ô nhiễm trầm trọng, gây tác hại nặng nề cho đời sống của người dân địa phương và tốn kém chi phí rất lớn của ngân sách nhà nước cho công tác xử lý ô nhiễm môi trường do các cơ sở sản xuất công nghiệp gây ra.
- Hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để góp phần xây dựng trường Đại học Bà Rịa-Vũng Tàu thực sự trở thành trường trọng điểm của Tỉnh và vùng Đông Nam Bộ với loại hình đào tạo đa ngành, đa cấp phù hợp với đặc điểm của một tỉnh công nghiệp, đủ điều kiện đào tạo nhân lực, giảm phí đào tạo cho địa phương và nhân dân.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 86 -
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trên cơ sở lý luận của chương 1, thực trạng phát triển và hiện đại hóa ngành
công nghiệp của tỉnh cùng với những khó khăn, thách thức đối với ngành công nghiệp
đã được phân tích, đánh giá ở chương 2, trong chương 3 đã xây dựng định hướng và đề
ra các giải pháp chủ yếu để phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu như:
- Giải pháp về khoa học và công nghệ;
- Giải pháp về nguồn nhân lực;
- Tăng cường quản lý nhà nước;
- Mở rộng và thu hút vốn đầu tư;
- Giải pháp về bảo vệ môi trường;
- Mở rộng thị trường và đẩy mạnh tiếp thị.
Bên cạnh các giải pháp trên, chương 3 cũng đã đề xuất một số kiến nghị đối với
chính phủ cũng như đối với địa phương và ngành nhằm góp phần thực thi và nâng cao hiệu quả của các giải pháp.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 87 -
KẾT LUẬN
Thực tiễn phát triển của lịch sử loài người cho thấy CNH là con đường duy nhất
để đưa các dân tộc, quốc gia trên thế giới thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên văn
minh hiện đại. Trong quá trình đó, phát triển công nghiệp, hiện đại hóa mọi mặt của đời
sống xã hội luôn là vấn đề trọng tâm của bất kỳ quốc gia nào – là quy luật khách quan
của sự vận động và phát triển của xã hội loài người.
Đối với Việt Nam, trong quá trình phát triển cũng không thể thoát khỏi quy luật
khách quan trên. CNH, HĐH là con đường duy nhất để đưa nước ta thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu và thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Đây là sự nghiệp trọng đại mà mọi người dân đất Việt đều phải tham
gia. Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu với vai trò và vị thế nhất định của mình, phải đi đầu trong
sự nghiệp CNH, HĐH và là một trong những địa phương về trước cả nước trong tiến
trình đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nói riêng là
một sự nghiệp lâu dài và cực kỳ khó khăn. Trong quá trình thực hiện cần phải có sự
phân kỳ, phân đoạn cụ thể để xác định mục tiêu, giải pháp cụ thể cho đất nước, cho
mỗi địa phương và cho từng ngành phù hợp với điều kiện khách quan, chủ qua, phù
hợp với tình hình trong và ngoài nước . Luận văn với đề tài “Một số giải pháp chủ yếu
để phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu từ
nay đến năm 2020” đã cố gắng góp phần hữu ích cho sự phát triển của ngành công
nghiệp tỉnh và cả quá trình CNH, HĐH chung của tỉnh.
Trong chương 1, đề tài đã đi vào phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
cơ bản về CNH, HĐH với những quan niệm khác nhau, tính tất yếu khách quan, một số
mô hình và kinh nghiệm về CNH, HĐH trên thế giới, từ đó vận dụng vào quá trình
CNH, HĐH ở Việt Nam.
Trên cơ sở lý luận của chương 1, thực tiễn phân tích đánh giá trong chương 2,
đề tài đã đi nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng sản xuất công nghiệp trên địa
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
- 88 -
bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, từ đó rút ra những thế mạnh và điểm yếu, thuận lợi và
thách thức đối với ngành công nghiệp của tỉnh để làm cơ sở cho chương 3 vạch ra mục
tiêu, định hướng phát triển; đồng thời đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
và hiện đại hóa ngành công nghiệp của tỉnh, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH
của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cũnh như của cả nước.
Tuy đề tài chưa giải quyết được hết những tồn tại đang đặt ra của ngành công
nghiệp trên địa bàn tỉnh, nhưng với hy vọng rằng những nội dung và các giải pháp mà
luận văn đề cập sẽ là nguồn tư liệu hữu ích đối với các cấp quản lý và các nhà chuyên
môn để có thể tham khảo và vận dụng vào chiến lược phát triển công nghiệp của tỉnh
nhằm góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH của cả nước và để Bà Rịa-
Vũng Tàu thật xứng đáng là một tỉnh đi đầu, về trước cả nước trong tiến trình trở thành
một nước công nghiệp vào năm 2020.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng luận văn này chắc chắn là không thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định, một số vấn đề được đề cập đến trong luận văn vẫn còn nặng
tính định tính mà chưa định lượng được cụ thể. Cho nên, việc tìm kiếm, bổ sung và
hoàn thiện các giải pháp để thực hiện tốt mục tiêu đã đề ra là việc làm hết sức cần thiết
để góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH của cả nước nói chung và của tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu nói riêng.
Kính mong nhận được sự đóp góp của quý thầy cô cùng các Ban, ngành, đơn vị
liên quan và những ai quan tâm đến đề tài này để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tập thể giảng viên, công chức trường Đại học
Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, nhất là thầy PGS.TS. Vũ Anh Tuấn - người thầy đã
nhiệt tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn; tôi cũng chân thành cám ơn
các bạn đồng nghiệp, các sở, ban, ngành trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã không
ngừng giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi có thể hoàn thành luận văn này./.
HVTH: Huỳnh Mộng Nghi