LUẬN VĂN:
Những giải pháp nhằm phát
triển có hiệu quả thành phần
kinh tế TBNN
A: lời mở đầU
Lênin là người mác-xít đầu tiên đã có công nghiên cứu sâu sắc vấn đề chủ
nghĩa tư bản nhà nước trong rất nhiều tác phẩm của mình, xây dựng nên những nền
tảng lý luận về CNTB NN trong điều kiện chuyên chính vô sản và đã áp dụng lý
luận này vào nước Nga. Sau thời kỳ cộng sản thời chiến. Các nước dân chủ nhân
dân trước đây, trong đó nước ta đều đã vận dụng lý luận này vào công cuộc cải tạo
XHCN. Cùng với thời gian lý luận này dường như bị bỏ quên, đặc biệt từ sau khi
các nước dân chủ nhân dân tuyên bố hoàn toàn công cuộc cải tạo XHCN và bắt đầu
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi cuộc khủng hoẳng của chủ nghiã xã hội
thế giới nổ ra và tiếp đó là sự tan rã của các nước XHCN Đông Âu và đặc biệt là
Liên Xô đã buộc những người mác-xít phải nhận thức lại cho đúng những di sản lý
luận của Mác và Lênin.Trong đó có di sản lý luận của Lênin về CNTB NN
Cho đến nay, trong giới lý luận cũng như các nhà hoạt động thực tiễn, kể cả
trong và ngoài nước đang có nhiều cách hiểu khác nhau và có các hình thức vận
dụng khác nhau đối với chủ nghĩa tư bản nhà nước.
ở nước ta việc vận dụng lý luận của Lênin về CNTB NN cũng có rất nhiều
những lý giải khác nhau. Vì vậy, trong thời kỳ quá độ lên CNXH nền kinh tế bao
gồm nhiều thành phần kinh tế tương ứng với mỗi hình thức kinh tế khác nhau, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo đại diện cho phương thức sản xuất XHCN,
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư bản tư nhân và đẩy mạnh thu hút đầu
tư nước ngoài, CNTB NN đang và sẽ giữ vai trò quan trọng trong tiến trình phát
triển của nền kinh tế đất nước. Theo Lênin đó là một hình thức kinh tế quá độ, một
bộ phận rất cần thiết của nền kinh tế quá độ, Lênin đánh giá cao CNTB NN và coi
nó là một hình thức quan trọng để đưa một nước tiểu nông quá độ lên CNXH, phải
tiến hành CNH-HĐH đất nước. Trong xu thế hội nhập toàn cầu, cách mạng khoa
học kỹ thuật phát triển như vũ bão thì việc nhận thức và vận dụng CNTB NN đang
là một vấn đề cần được nghiên cứu công phu, để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới
của đất nước.
B: Phần lý luận chung
I/ Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH.
1. Hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước vào hoạt
động của các tổ chức đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước. Nó bao gồm tất cả
các hình thức hợp tác, liên doanh sản xuất kinh doanh giữa kinh tế nhà nước và
kinh tế tư bản trong và ngoài nước nhằm sử dụng và khai thác, phát huy thế mạnh
của mỗi bên tham gia, đặt dưới sự kiểm soát giúp đỡ của nhà nước.
Hình thức kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc huy động
sử dụngvốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của các nhà tư bản
.Lênin chỉ rõ ”trong một nước tiểu nông…” phải đi xuyên qua CNTB nhà nước tiến
lên CNXH.
Từ khi có luật đầu tư nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước phát triển mạnh mẽ
góp phần phát triển kinh tế-xã hội nước ta. Tuy nhiên trtong quá trình hình thành và
phát triển nảy sinh nhiều vấn đề thực tiễn cần giải quyết. Cần đa dạng hoá các hình
thức liên doanh, liên kết với các tổ chức và công ty tư bản nước ngoài, nâng dần tỷ
lệ đầu tư của phía Việt Nam. Đồng thời áp dụng nhiều phương thức góp vốn kinh
doanh Nhà nước và các nhà kinh doanh tư nhân trong nước dưới nhiều hình thức
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… nhằm tạo thế, tạo lực cho các
doanh nghiệp trong nước phát triển, tăng sức mạnh cạnh tranh và hợp tác với bên
ngoài. Cải thiện mội trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý, sử dụng có hiệu
quả vốn đầu tư, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Trong thời kỳ quá độ cần vận dụng hình thứckinh tế tư bản nhà nước vì:
* Do yêu cầu vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp tính chất của lực
lượng sản xuất.
* Do yêu cầu phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và thu hút vốn kỹ
thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài.
* Do yêu cầu phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng
vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý của nhà tư bản vì lợi ích
của bản thân họ cũng như công cuộc xây dựng CNXH. Vì vậy, cần phát triển kinh
tế tư bản nhà nước bằng nhiều hình thức đa dạng để phát triển lực lượng sản xuất
phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH.
2. Chủ nghĩa cộng sản thời chiến và thực chất của chính sách kinh tế mới.
2.1) Chính sách công sản thời chiến.
Sau khi cách mạng Tháng 10 Nga thành công thì chính quyền Xô Viết Nga
phải đương đầu với cuộc nội chiến và cuộc can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế
quốcthế giới. Đứng trước nguy cơ một mất một còn, chính quyền Xô Viết tìm mọi
cách để tập trung mọi lực lượng nhằm đánh bại những lực lượng thù địch bên trong
và bên ngoài. Chính sách “ cộng sản thời chiến” ra đời trong hoàn cảnh ấy. Đó là
chính sách kinh tế của nhà nước Xô Viết nhằm huy động mọi tài nguyên trong nước
cho nhu cầu của tiền tuyến trong điều kiện nền kinh tế bị tàn phá sau cuộc chiến
tranh thế giới thứ nhất. Trong thời gian nội chiến và nước ngoài can thiệp bằng vũ
trang, chính quyền Xô Viết ngoài việc quốc hữu hoá nền công nghiệp quy mô lớn,
còn nắm trong tay nền công nghiệp hạng vừa và một phần công nghiệp hạng nhỏ.
Việc quản lý toàn bộ công ngiệp đều tập trung ở các cơ quan trung ương, việc cung
cấp nguyên liệu, thiết bị, vật liệu cho xí nghiệp cũng không thực hiện cho quân đội
và công nhân. Nhà nước thi hành chế độ trưng thu lương thực thừa. Nguồn hàng
của nhà nước những năm đó cực kỳ thiếu thốn, nông thôn hầu như không nhận
được hàng công nghiệp. Nhà nước phải thi hành độc quyền mua, bán lương thực,
cấm tư nhân buôn bán lương thực và các thứ vật phẩm cần thiết nhất. ở thành thị vật
phẩm tiêu dùng phân phối theo phiếu với điều kiện ưu tiên cung cấp cho công nhân
và căn cứ vào tính chất quan trọng và nặng nhọc của công tác. Thi hành chế độ
nghĩa vụ lao động phổ biến đối với tất cả mọi người có năng lực lao động- chính
sách ”cộng sản thời chiến”, đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thắng lợi
cho cuộc nội chiến. Thắng lợi của chính sách này vào thời ấy là do dựa trên cơ sở
khối ”liên minh quân sự và chính trị” của giai cấp công nhân và nông dân trong
cuộc đấu tranh chống quân bạch vệ và bọn can thiệp nước ngoài.
Nhưng sau khi đập tan bọn vũ trang can thiệp và kết thúc nội chiến,tình hình
kinh tế , chính trị, xã hội nước Nga rất bi đát. Đất nước lâm vào cuộc khủng hoẳng
toàn diện trầm trọng. Ra khỏi chiến tranh, nước Nga được Lênin ví như “một người
đã bị đánh gần chết”. Trong 7 năm trời nó bị đánh khắp mình mẩy và may mà nó
vẫn có thể chống nạng mà đi được. Đáng chú ý là khối liên minh công nông : giai
cấp công nhân- những người đã chịu đựng những hi sinh chưa từng thấy, cũng như
quần chúng nông dân đã bị kiệt sức gần giống như tình trạng hoàn toàn mất khả
năng lao động. Tình hình đó đã làm nảy sinh những bất bình, những vụ bạo loạn
trong một số quần chúng công, nông binh. Lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga Xô
Viết xảy ra trường hợp đại đa số quần chúng nông dân có tâm trạng chống lại chính
quyền Xô Viết theo bản năng. Nếu không tìm được lối thoát ra khỏi tình hình thì
chính quyền Xô Viết có nguy cơ bị tan vỡ.
Nguyên nhân là do đâu? thường thì người ta hay gán cho sự tàn phá của
chiến tranh và chính sách cộng sản thời chiến. Tất nhiên phải kể đến nguyên nhân
tàn phá của chiến tranh. Nhưng thái độ đối với chính sách công sản thời chiến thực
sự đã có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chính quyền Xô Viết. Là nước xã hội
chủ nghĩa đầu tiên sống trong vòng vây của CNTB, chiến tranh và nội chiến kéo dài
mọi mặt đời sống kinh tế trong nước rất khó khăn, bi đát, lúc đó chính quyền Xô
Viết không có khả năng nào khác hơn là phải lập tức thi hành đến mức tối đa chế độ
độc quyền, trưng thu tất cả lương thực thừa, thậm chí không bồi thường. Nhưng sai
lầm ở đây là đã kéo dài cái được coi là ưu điểm ra quá giới hạn cần thiết, của nó và
vì thế nó trở thành một khuyết điểm.Nguyên nhân của sự kéo dài đó chính là do
quan niệm ấu trĩ về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ,do chưa có kinh nghiệm
thực tế của một nước đầu tiên đã mở cuộc đột phá vĩ đại vào tương lai.Công lao to
lớn của Lenin chính là đã nhận ra sự ấu trĩ này,và đã phát triển ngay lý luận của
Mac khi cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giành được thắng lợi chỉ trong một thời
gian rất ngắn.Lênin đã nhận xét sai lầm ấy:”chủ nghĩa cộng sản ở nước ta quá vội
vàng, thẳng tuột,không được chuẩn bị”.Lênin đã phân tích cụ thể rằng khi đặt công
tác xây dựng kinh tế lên hàng đầu những người cộng sản Nga đã chỉ đứng trên một
góc độ mà nhìn nghĩa là định chuyển thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua cái thời
kỳ mở đầu mà Lênin gọi là”để làm cho nền kinh tế cũ thích ứng với nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa “ với quan niệm đó những người cộng sản tưởng rằng sau khi thiết
lập chế độ sản xuất quốc doanh và chế độ nhà nước phân phối là đã bắt đầu một chế
độ kinh tế mới ,khác với với chế độ trước. Và cho rằng hai chế độ: chế độ sản xuất,
phân phối tư doanh sẽ đấu tranh với nhau trong những điều kiện khiến chính quyền
Xô Viết có thể thiết lập được chế độ sản xuất và phân phối quốc doanh bằng cách
lấn dần từng bước chế độ đối địch.
Đặc biệt cần lưu ý là trong phát triển kinh tế “ chúng ta tuyệt nhiên không
nêu ra vấn đề: nền kinh tế có quan hệ như thế nào với thị trường, với mậu dịch”
nhưng đến mùa xuân 1921 mới thấy rõ sự thất bại trong cái ý định ngắn nhất, nhanh
nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối theo nguyên tắc xã hội
chủ nghĩa. Cũng từ mùa xuân đó, tình hình chính trị đã cho thấy, trong một số vấn
đề kinh tế, cần phải rút lui về những vị trí của CNTB NN, cần phải chuyển từ ”xung
phong “ sang “ bao vây”. Sự chuyển đổi ấy được đánh dấu bằng “chính sách kinh tế
mới”. Trong sự chuyển đổi này đã xuất hiện ít nhiều tâm trạng chán nản và làm
nhụt chí đấu tranh. Nhưng Lênin đã khẳng định, sẽ không bao giờ học được cách
giải quyết những nhiệm vụ của mình bằng những phương pháp mới, nếu như kinh
nghiệm ngày hôm qua đã không mở mắt cho chúng ta thấy những sai lầm của
những phương pháp cũ.
Sau cuộc thử nghiệm trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những điều
kiện khó khăn chưa từng thấy, trong điều kiện nội chiến, trong điều kiện giai cấp tư
bản buộc nước Nga Xô Viết phải tiến hành cuộc đấu tranh ác liệt, thì đến mùa xuân
năm 1921, những người cộng sản Nga đã nhận rõ là chưa nên xây dựng ttrực tiếp
CNXH, mà trong nhiều lĩnh vực kinh tế cần lùi về CNTB NN, từ bỏ biện pháp tấn
công chính diện và bắt đầu một cuộc bao vây lâu dài, không thích thú, khó khăn và
gian khổ. Sai lầm của quan niệm và phương pháp cũ đã dẫn tới chỗ chính sách kinh
tế lâm vào tình trạng ở phía thượng tầng của nó, bị tách rời khỏi cơ sở và không dẫn
đến việc phát triển lực lượng sản xuất, điều mà cương lĩnh của đảng lúc đó coi là
nhiệm vụ cơ bản và bức thiết nhất. Trong báo cáo tại đại hội IV quốc tế cộng sản,
Lênin đã nói những nguyên nhân của sự khờ dại ấy là: nước Nga lạc hậu, trình độ
học thức còn rất thấp kém, khôngđược ai ở bên ngoài giúp đỡ.
2.2) Chính sách kinh tế mới về sự cần thiết sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
2.2.a) Chính sách kinh tế mới.
Cuối năm 1920, nội chiến kết thúc, nước Nga chuyển sang thời kỳ kiến thiết
hoà bình, do đó chính sách “cộng sản thời chiến” đã làm xong vai trò lịch sử bất
đắc dĩ của nó, giờ đây không cho phép dẫn nó đi xa hơn nữa, vì nông dân nhiều nơi
đã tỏ ra bất mãn với chính sách này, khối liên minh công nông có nguy cơ tan vỡ.
Cho nên cần thiết phải trở lại thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội do
Lênin đề ra năm1918 ,phải trở lại những quan hệ kinh tế khách quan giữa công
nghiệp và nông nghiệp, thành thị và nông thôn. Do những yêu cầu đó đại hội X của
đảng cộng sản Bôsevich Nga đã chủ trương thay chính sách”kinh tế cộng sản thời
chiến” bằng chính sách” kinh tế mới” với nội dung:
Bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa thay vào đó là thuế lương
thực.
Những xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu hoá ,nay cho tư nhân
thuê hay mua lại để kinh doanh tư do( chủ yếu là xí nghiệp sản xuất hàng hoá
tiêu dùng).
Cho phép mở rộng trao đổi sản xuất hàng hoá giữa thành thị và nông
thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, cho thương nhân được tự do hoạt
động(chủ yếu trên lĩnh vực bán lẻ) để góp phần khôi phục kinh tế, củng cố lại
lưu thông tiền tệ trong nước.
Thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh trong các xí nghiệp quốc
doanh.
Chính sách kinh tế mới đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất ở cả
thành thị lẫn nông thôn . Vì nó đáp ứng nhu cầu của quy luật kinh tế của nền sản
xuất XHCN còn mang tính chất hàng hoá và có nhiều thành phần. Nhờ đó, trong
một thời gian ngắn, nhà nước Xô Viết đã khôi phục được nền kinh tế quốc dân bị
chiến tranh tàn phá, đã tiến được một bước dài trong việc củng cố khối liên minh
công nông, một nhà nước công nông .Nhiều dân tộc đầu tiên trên thế giới đã được
thành lập, đó là liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết.
Chính sách kinh tế mới còn có ý nghiã quốc tế của nó. Đối với các nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội đều cần thiết vận dụng tinh thần cơ bản của chính sách đó
,chẳng hạn như vấn đề quan hệ hàng hoá tiền tệ, nguyên tắc liên minh công nông,
sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần. Chính sách này được quán triệt trong các
nghành kinh tế và lấy việc khôi phục nông nghiệp làm nhiệm vụ hàng đầu, là vấn
đề cấp bách trước mắt.
2.2.b) Thực chất của chính sách kinh tế mới:
Toàn bộ nội dung của chính sách kinh tế mới có thể được khái quát thành
chính sách phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đặc biệt với một nước tiểu nông
quá độ lên chủ nghiã xã hội . Trong “Dàn ý dự thảo huấn thị của hội đồng lao động
quốc phòng” năm 1921, Lênin viết” thực chất của chính sách kinh tế mới là phát
triển đến mức tối đa lực lượng sản xuất, cải thiện tình cảnh của công nhân và nông
dân , sử dụng tư bản tư nhân và hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà
nước, ủng hộ toàn diện sáng kiến của địa phương, đấu tranh chống chủ nghĩa quan
liêu và tác phong lề mề. Nó chứa đựng tinh thần huy động mọi tiềm năng bên trong
và bên ngoài để phục vụ cho nhiệm vụ cơ bản đó, tạo ra động lực sản xuất cho nông
dân và những người lao động khác, làm cho lợi ích tư nhân phục tùng lợi ích
chung. Đó là chính sách củng cố khối liên minh công nông-nguyên tắc cao nhất của
chuyên chính vô sản trên cơ sở những mối quan hệ mới, duy nhất, tức là những mối
quan hệ thông qua các hoạt động, kinh tế.
Nhưng thực chất của chính sách kinh tế mới là gì? Có thể gói gọn ở hai điểm :
Một là : Nhà nước vô sản cho phép những người sản xuất nhỏ được tự do
buôn bán.
Hai là: đối với những tư liệu sản xuất của đại tư bản, Nhà nước vô sản áp
dụng một số nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Lênin nói rõ thêm :” Việc
trao đổi hàng hoá, được coi là đòn xeo chủ yếu của chính sách kinh tế mới, được
đặt lên hàng đầu”.
Trước năm 1917, nước Nga Sa Hoàng tuy đã có chủ nghĩa tư bản nhưng mới
phát triển ở trình độ trung bình.
Điều kiện thực tế nước Nga khi giai cấp vô sản vừa giành được chính quyền_
theo sự phân tích của Lênin, không phải là điều kiện của nước Đức thời bấy giờ.
Hồi ấy, nước Đức là đỉnh cao về kĩ thuật và về tổ chức có kế hoạch theo kiểu đại tư
bản chủ nghĩa. Với cơ số kinh tế-kĩ thuật ấy, nếu thay bằng nhà nước kiểu khác về
mặt xã hội và khác về nội dung giai cấp- tức là nhà nước Xô Viết, nhà nước vô sản-
thì sẽ có tất cả các điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên nếu cách mạng
vô sản giành được thắng lợi ở Đức hồi ấy thì chắc hẳn nó sẽ thực hiện sự thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội một cách không khó khăn hoặc ít khó khăn Cách mạng vô sản
trong điều kiện ấy có thể chuyển trực tiếp lên CNXH mà không phải qua những
biện pháp quá độ đặc biệt.
Nhưng nước Nga là nước chậm tiến nhất ở Châu Âu, cho nên nước Nga Xô
Viết chỉ mới có nguyện vọng kiên quyết tiến lên con đường XHCN mà chưa có nền
móng kinh tế của nó.
Vậy làm thế nào để thực hiện được CNXH ở một nước mà tiểu nông chiếm
tuyệt đại bộ phận dân ? Trong một nước như vậy theo Lênin, cuộc cách mạng
XHCN chỉ có thể thắng lợi triệt để với hai điều kiện.
+ Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kịp thời của cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở một nước hay một số nước tiên tiến. Về điều kiện này, theo Lênin, tuy đã
làm nhiều hơn trước để có được điều kiện ấy, song cho đến lúc ấy vẫn còn chưa đủ
để cho điều kiện đó trở thành sự thật được.
+ Điều kiện thứ hai là sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự
chuyên chính của mình hoặc đang nắm chính quyền. Nhà nước với đại đa số nông
dân. Phải thoả thuận với nông dân vì lợi ích của hai giai cấp , mà 2 giai cấp đó” có
sự khác nhau sâu xa”. Theo Lênin người tiểu nông, chừng nào còn là tiểu nông thì
họ không ưa tất cả những gì mà người công nhân muốn. Nhưng vẫn phải thoả thuận
được với nông dân thì mới duy trì được chín quyền của giai cấp công nhân, mới
dựng được CNXH. Mà khi đã nói tới thoả thuận là phải nói tới sự nhượng bộ lẫn
nhau vì thế theo Lênin” thoả thuận là một khái niệm rất rộng, nó bao gồm cả một
loạt biện pháp và bước quá độ”. Lênin khẳng định: chừng nào cách mạng chưa nổ
ra ở các nước khác, thì chỉ có thoả thuận với nông dân mới có thể cứu vãn được
cuộc cách mang xã hội chủ nghĩa”. Đó là lý do phải lùi về CNTB nhà nước.
Sự thoả thuận giữa 2 giai cấp này sau khi kết thúc nội chiến đã trở nên không
vững chắc vì nông dân không hài lòng với hình thức quan hệ hiện có, không muốn
có hình thức quan hệ ấy nữa và không muốn tiếp tục sống mãi như thế. Do đó phải
thiết lập những mối quan hệ mới thông qua các hoạt động kinh tế và phải thoả mãn
được những yêu cầu, nghĩa là như thế nào? Tìm đâu ra cách giải quyết vấn đề thoả
mãn những yêu cầu của nông dân. Về thực chất, có thể kiếm ra hàng hoá và lương
thực. Nếu không có gì để trao đổi, mà buôn bán thì tự do trao đổi và tự do buôn bán
chỉ là mảnh giấy lộn. Muốn chấm dứt tình trạng thiếu hàng hoá thì phải khôi phục
được công nghiệp. Nhưng trong điều kiện nước Nga khi đó không thể nghĩ tới khôi
phục công nghiệp. Khi không đảm bảo cung ứng mức tối thiểu về lương thực và
nhiên liệu .lối thoát duy nhất để ra khỏi sự bế tắc này trứoc mắt là phảI phát triển
nông nghiệp cảI thiện đời sống nông dân . với quan đIúm này lê Nin đã tưng bị phê
phán là chủ nghĩa cơ hội . lê Nin phảI thuyết phục mọi người rằng , mặc dù công
nhân cung khó cũng phảI bị tha hoá… Nhưng để giảI quyết tình trạng này phảI giúp
nông dân bầng bất cứ giá nào để tăng nhanh nông sản phẩm . “ Bây giờ việc tăng
sản phẩm đang trở thành đIều then chốt , hơn đá thử vàng..” Chúng ta trông chờ”
Trung nông trong nông nghiệp “
Bởi vì chính trung nông mới là tầng lớp sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp.
Chính sách tự do cho trao đổi là nhằm “ Kiếm ra hâng hoá “
Căn cứ vào tâm lý người tieu dùng . Theo Lê Nin tong nào tiểu nông còn là
tiểu nông thì ngưòi đó cần được một sự kích thích , một sự thúc đẩy ,một sự cổ vũ
thích hợp , với cơ sở kinh tế của người đó , tức là thích hợp với một nền kinh tế cá
thể , qui mô nhỏ . Nhờ chính sách tự do buôn bán mà kích thích nông dân , đIều chủ
yếu là phảI mang lại cho người tiểu nông một sự khuyến khích một sự thúc đẩy
trong hoạt động kinh doanh của họ bằng một tổ chức kinh tế thích ứng với nền kinh
tế của trung nông .cụ thể là nhà nước chỉ thu của nông dân một số thuế nhất định và
ấn đình trước số thuế đó thực tế đã chứng minh đIều đó là đúng chính sách tự do
buôn bán là tự do thoả thuận với nông dân một cách thực tế, khéo léo, khôn ngoan
và mềm dẻo .
Nhưng cũng từ chính sách tự do trao đổi trong nông dân và vì chính sách đó
mà xuất hiện hai vấn đề dẫn đến chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Trước hết , tự do trao đổi là tự do buôn bán , mà tự do buôn bán theo quan
đIểm của Lê Nin thời đó tức là lùi lại chủ nghĩa tư bản.Tự do buôn bán và tự do
trao đổi là việc trao đổi hàng hoá giữa những người sở hữu nhỏ. Thứ trao đổi hàng
hoá ấy không thể không dẫn đến chỗ phân hoá những người sản xuất hàng hoá ra
thành những kẻ sở hữu tư bản và người sở hữu sức lao động, nghĩa là khôI phục lại
chế độ tư bản chủ nghĩa. Cho nên sự phát triển trao đổi tư nhân , tức là phát triển
chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh khỏi, khi có hàng triệu người
sản xuất nhỏ. Lê Nin chỉ rõ, tự do buôn bán là khôI “ khôI phục chủ nghĩa tư bản
trên một mức độ lớn “ là tự do của chủ nghĩa tư bản. Với chính sách kinh tế mới,
chủ nghĩa tư bản sẽ nảy nở những nơI mà trước đây , chúng không nảy nở được.
Trong nông nghiệp giai cấp CuLắc sẽ nảy nở nhiều hơn trước, như vậy không
những vì thế mà có thể ngăn cấm được. Từ đó thấy được sự cần thiết phảI “ dung
nạp chủ nghĩa tư bản, vì nó cần cho đông đảo quần chúng nông dân và cho tư bản
tư nhân là người là người phảI buôn bán để thoả mãn được nhu cầu của nông dân.
Vì thế, cần phảI tổ chức công việc như thế nào để cho tiến trình bình thường của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và của việc lưu thông tư bản chủ nghĩa. Có thể có
được , vì đIều đó cần thiết cho chân dân, ở đây đã diễn ra một đIều mà chính Lê
Nin cũng phảI nói “ hình như là người đời , chủ nghĩa tư bản tư nhân lại đóng vai
trò tự do chủ nghĩa xã hội”, “ có thể dùng chủ nghĩa tư bản tư nhân để xúc tiến chủ
nghĩa xã hội”. Nhưng , muốn không thay đổi bản chất của mình , nhà nước vô sản
chỉ có thể thừa nhận cho chủ nghĩa tư bản được phát triển trong một trừng mực nào
đó và chỉ với đIều kiện là thương nghiệp tư nhân và tư bản tư nhân phảI phục ting
sự đIều tiết của nhà nước , phảI tìm cách hướng chúng vào con đường chủ nghĩa tư
bản nhà nước bằng một tổ chức nhà nước và những biện pháp có tính chất nhà nước
từ bên trên.
Như vậy trong điều kiện nhà nước vô sản, tự do trao đổi tự do mua bán tất
dẫn đến sự phục hồi chủ nghĩa tư bản đuới hình thức chủ yếu chủ nghĩa tư bản nhà
nước.
Trong đIều kiện một nhà nước chủ nghĩa tư bản tiểu tư sản chiếm ưu thế,
hàng hoá chỉ có thể có được từ nông dân từ nông nghiệp. Và như vậy chỉ có nông
sản hàng hoá này thay trao đổi với nông sản hàng hoá khác, đIều đó sẽ không kích
thích nông dân nông nghiệp phát triển. PhảI có những hàng hoá mà nông dân cần.
Mà muốn có những hàng hoá đó phảI dựa vào sự phát triển thủ công nghiệp cà
công nghiệp. Nhưng trong một nước bị tàn phá kiệt quệ sau 7 năm chiến tranh ,
tuyệt đại đa số phân dân là nông dân cũng bị phá sản, sẽ không giảI quyết được vấn
đề này, “ nếu không có sự giúp đỡ của tư bản…” Lê Nin nói rõ “ đIều đó chúng ta
không tự mỉnh làm được, nếu không có sự giúp đỡ của tư bản nước ngoàI. Người
nào không chìm đắm trong ảo tưởng mà nhìn thẳng vào thực tế, thì phảI hiểu rõ
đIều đó. Theo Lê Nin cần phảI “du nhập” chủ nghĩa tư bản bên ngoàI bằng những
hợp đồng buôn bán với các nước tư bản bên ngoàI bằng những hợp đồng buôn bán
với các nước tư bản lớn bằng chính sách tô nhượng, tóm lại bằng những hình thức
khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
2.2.c) Biểu hiện cụ thể về việc sử dụng chính sách này
2.2.c1:Bàn về thuế lương thực:
a) Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH ở nước Nga, theo Lê Nin, trong
chế độ có bất cứ ai cũng thừa nhận là có những thành phần , những bộ phận ,những
mảnh của CNST và CNXH. Vởy rõ ràng trong tình hình này CNTBNN về kinh tế
cao hơn rất nhiều so với tình hình kinh tế hiện nay. CNTBNN không có gì là đáng
sợ với chính quyền Xô Viết vì nước Xô Viết là một nước trong đó chính quyền của
công nhân và nông dân đã được đảm bảo.
Năm 1918-1920 diễn ra cuộc nội chiến ở Nga, tình trạng kinh tế bị tàn phá
nặng nề đã kìm hãm sự phục hồi của lực lượng sản xuất làm cho chính sách vô sản
hao tổn sức lực. Thêm vào đó, nạn mất mùa năm 1920 đã đẩy nền kinh tế Nga vào
tình trạng suy thoáI nghiêm trọng. Để khắc phục được tình trạng đó, bắt buộc phải
dùng những biện pháp cấp tốc cấp thiết nhất để cải tiến đời sống nhân dân, không
thể làm như vậy được. Như vậy không có sự sửa đổi trong chính sách lương thực.
Một trong những đIều sửa đổi là thay thế chế độ trưng thu bằng chế độ lương thực.
Thực chất của việc thay thế đó là hình thức quá độ từ chế độ “cộng sản thời chiến”
sang chế độ trao đổi sản phẩm CNXH bình thường. Chính sự suy thoáI nghiêm
trọng đó đã làm bước quá độ ấy trở thành cần thiết và cấp bách vì không thể khôI
phục nhanh chóng nền đại công nghiệp. Chỉ có chính sách “ thuế lương thực” mới
phù hợp với những nhiệm vụ của giai cấp vô sản, mới có thể củng cố được cơ sở
vật chất CNXH và đưa CNXH đến thắng lợi hoàn toàn.
Vậy tại sao cần phảI thay việc trưng thu bằng thuế lương thực. Vì việc trưng
thu tỏ ra cực kỳ nặng nề và bất tiện cho nông dân. Thuế lương thực thấp hơn việc
trưng thu hai lần. Người dân nào cũng biết rõ số thuế phảI nộp. Do đó , sẽ có rất ít
tình trạng lộng quyền khi thu thuế. Nông dân sẽ càng có lợi trong việc tằng diện
tích gieo trồng, trong việc cảI thiện kinh doanh của mình, chăm lu tằng thu hoạch.
Như vậy “thuế lương thực sẽ giúp vào cảI thiện nền kinh tế nông dân. Bây
giờ nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm, hăng háI hơn và đó chính là
đIểm chủ yếu”.
2.2.c2) Chính sách kinh tế mới và sự cần thiết sử dụng CNTBNN.
Như đã nói ở trên , việc thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng chế độ
thu thuế chính là chuyển từ chế độ “ cộng sản thời chiến” sang chính sách “inh tế
mới” có nghĩa là nông dân đã được tự do mua bán những nông sản thừa ngay sau
khi đã nộp thuế, mà thuế lương thực chỉ chiếm một phần rất nhỏ các sản phẩm. Tức
là “ sau khi đã nộp đầy đủ thuế hiện vật , nông dân có quyền tự do trao đổi lúa mì
còn lại của anh ta” sự trao đổi mua bán được coi là “một hình thức mới của CNTB
ở mức độ nào đó, là một thứ CNTB được giai cấp công nhân tự giác cho phép tồn
tại và hạn chế. Lê Nin nhấn mạnh nhiều lần rằng nuế có kinh tế nhỏ, có tự do trao
đổi là CNTB xuất hiên và phát triển, không thể nào trách khỏi sự thật đó. Như vậy
CNTBNN nếu hiểu một cách ngắn gonj “ là một thứ CNTB mà chúng ta có thể hạn
chếm, có thể qui định giới hạn, CNTB nhà nước gắn liền với nhà nước, mà nhà
nước chính là giai cấp công nhân, là bộ phận tiên tiến của công nhân, là đội tiên
phong của chúng ta.
Trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP) ở nước Nga Xô Viết
Lênin đã chỉ rõ rằng việc khuyến khích tự do buôn bán trên cơ sở thừa nhận sự tồn
tại của chế độ sử hữu tư nhân và tư liệu sản xuất trong một nước tiểu nông thì tình
tự phát triển tư sản sẽ chiếm ưu thế. Theo đó sự phát triển kinh tế tiếp theo sẽ là sự
phát triển TBCN nhưng không thể ngăn cấm mà chính sách duy nhất đúng là hướng
sự phát triển của CNTB vào con đường CNTBN . CNTBNN là một bước tiến lớn
để chiến thắng tình trạng vô chính phủ và là giảI pháp hữu hiệu để tiến lên CNXH
bằng con dường chắc chắn nhất. “CNTBNN là sự chuẩn bị vật chất cho CNXH , là
phòng chờ đI vào CNXH, là một thang lịch sử mà giữa nó với nấc thang được gọi là
CNXH thì không còn nấc thang nào ở giữa”.
3. CNTBNN trong nhà nước vô sản.
Từ sự phân tích đIều kiện thực tế của nhà nước Nga Xô Viết, Lenin đã đI đến
kết luận: Thứ CNTB ấy là có lợi và cần thiết”, là “ đIều đáng mong đợi” Lênin đã
luận cứ như thế nào về cáI “có lợi” này?
a) Trước hết theo Lênin cần phải nhận thức rõ thực hành CNTB nhà
nước sẽ có lợi cho ai? ở đây cần phải là chính sách “độc thoại”, “cưả quyền ”. Bản
thân CNTB nhà nước chính đã là sự kết hợp liên hiệp, phối hợp nhà nước Xô Viết ,
nền chuyên chính vô sản với CNTB. “ Kết hợp liên hợp, phối hợp nhà nước Xô
Viết nền chuyên chính vô sản với CNTB là “một khối với CNTB bên là một khối
với CNTB ở bên trên” và đương nhiên sẽ không có CNTB nhà nước nếu không có
những đIều kiện cho họ , đIều kiện ấy theo Lênin chính là những “cống vật”. Trong
đIều kiện trên thế giới chỉ có một chính quyền Xô Viết, xung quanh là cả một hệ
thống các nước tư bản. Muốn tồn tại, chính quyền Xô Viết không thể bỏ qua sự thật
ấy. “ Hoặc là chiến thắng toàn bộ giai cấp tư sản ngay lập tức hoặc là phảI nộp
“cống vật”.
Khi thực hiện tô nhượng một hình thức của CNTB nhà nước, rõ ràng là nhà tư
bản thu được lợi nhuận không phảI thông thường mà là “bất thường”, “siêu ngạch”
hoặc có được loại nguyên liệu họ không tìm được hoặc khó tìm được bằng cách
khác. ĐIều này rất có ý nghĩa thực tiễn và đặc biệt có ý nghĩa với nước ta hiện nay
khi thực hành CNTB nhà nước. Nhà tư bản được “lập lại” , được “du nhập”
,“không phảI vì lợi ích củng cố chính quyền Xô Viết, mà vì lợi ích bản thân họ”.
Chính Lênin còn dự kiến cả khả năng sự phân chia lợi ích đó thoạt đầu có lợi nhiều
cho các nhà tư bản dưới hình thức “trả giá” cho sự lạc hậu cho sự kém cỏi của
mình. Nhưng không có cách nào khác mà là đIều cần phảI học. PhảI học phân chia
lợi ích theo qui luật ngự trị, trong kinh doanh đó là sự phân chia theo sức mạnh
kinh tế kỹ thuật. PhảI trả giá , phảI có một vàI hi sinh , nhưng cáI giá ấy là bao
nhiêu? Kinh nghiệm và thực tiễn sẽ chứng tỏ”. Vấn đề là không cần che giấu sự
thật: PhảI nộp cống vật , nhưng đối với nhà nước vô sản thì sự dung nạp và du nhập
CNTB sẽ mang lại những lợi ích cơ bản và lâu dài.
Sự phát triển của CNTB do nhà nước vô sản kiếm soát và đIều tiết có thể
đẩy nhanh ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ việc tăng nhanh lực lượng sản xuất
trong nông nghiệp mà ổn đĩnh xã hội , thoát ra khỏi khủng hoảng , thoát ra tình
cảnh giảm sút, “tín nghiêm của nông dân đối với chính qưyền Xô Viết, khắc phục
tình trạng trộm cắp của công nặng nề và nạn đầu cơ nhỏ lan tràn…” Nói về tầm
quan trọng của vấn đề này Lênin chỉ ra răng chính quyền vô sản có giúp đỡ cho sự
phát triển đó được không , hay là bon tư bản nhà nước và CNXH. Theo Lênin
chính là giai cấp tiểu tư sản cộng với CNTB tư nhân cùng nhâu đấu tranh chống lại
cả CNTB nhà nước lẫn c CNXH . Nó chống lại bất cứ sự can thiệp , kiểm kê và
kiểm soát nào của nhà nước , dù là CNTB nhà nước hay CNXH . không hiểu được
vấn đề này thì sẽ gây ra nhiều vấn đề về kinh tế.
CNTB nhà nước là một bước tiến lớn, nhờ nó mà chiến thắng được tình
trạng hỗn độn , tình trạng suy sụp về kinh tế , hiện tượng lỏng lẻo, những tập quán
những thói quen , địa vị kinh tế của giai cấp ấy là quan trọng hơn hết . Bởi vì việc
để tình trạng vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại là một mối nguy
hại lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ đưa đất nước đến chỗ diệt vong , cũng vì thế mà
chế độ tư bản nhà nước sẽ đưa nước Nga lên CNXH bằng con đường chắc chắn
nhất. Nừu khôI phục được tìn trạng này thì “tất cả những con chủ bàI đều nằm
trong tay công nhân và sê bảo đảm cho CNXH được củng cố” .
CNTB nhà nước là công cụ để khắc phục được “kẻ thù chính trong nội bộ ”
đất nước , kẻ thù của các giai cấp khác nhau. Lênin nói rằng “không thể giảI quyết
vấn đề này bằng biện pháp xử bắn hoặc những lời tuyên bố sấm sét” bởi vì cơ sở
kinh tế của tệ đầu cơ là tầng lớp những kể tiểu tư hữu và CNTB tư nhân, có
đại diện của mình trong mỗi người tiểu tư sản.
CNTB nhà nước còn đựơc xem là công cụ “đấu tranh chống chủ nghĩa quan
liêu và tác phong lề mề”. Vì sao và thông qua chính sấch kinh tế gì mà có thể thực
hiên được nhiệm vụ này ? Lênin phân tích về nguồn gốc kinh tế của chủ nghĩa quan
liêu ở nước Nga, của những người sản xuất nhỏ , cảnh khốn cùng của họ , tình trạng
dốt nát của họ , tình trạng không có đường sá , nạn mù chữm tình trạng không có sự
trao đổi giữa nông nghiệp và công nghiệp, tình trạng thiếu sự liên hệ và tác động
qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp.
Thông qua CNTB và CNTB nhà nước mà giai cấp công nhân có thể
học tập được cách quản lý một nền sản xuất lớn, tổ chức được một nền sản xuất lớn.
Khi ấy giai cấp vô sản Nga so với bất cứ giai cấp vô sản các nước phát triển nào
khác là giai cấp tiên tiến hơn về trình độ chính trị của nước mình và về sức mạnh
của chính quyền công nghiệp, nhưng lại lạc hậu hơn những nước lạc hậu nhất ở Tây
Âu về mặt tổ chức một
CNTB nhà nước có qui củ. Về trình độ văn hoá về mức chuẩn bị chuẩn bị
cho việc thực hiện chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực sản xuất, coi đó là luận đIểm của
những hạng người “trong vỏ ốc ” không biết rằng sẽ không bao giờ có , không thể
có sự tương xứng ấy trong sự phát triển của tự nhiên cũng như của xã hội, mà chỉ
có thể trảI qua hàng loạt lần làm thử … thì mới có thể xây dựng lên CNXH hoàn
chỉnh… CNTB nhà nước nếu thực hiện đựơc sẽ giúp chính quyền Xô Viết khắc
phục được tình trạng lạc hậu ấy . Cũng qua đây mà học tập được cách quản lý của
những “người tổ chức thông minh và có kinh nghiệm” trong những xí nghiệp hết
sức to lớn, thực sự giám nhận được việc cung cấp sản phẩm cho hàng chục triệu
người.
CNTB nhà nước thông qua sự “du nhập” của tư bản từ bên ngoàI là hình
thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại, qua đó hy vọng có được trình độ trang bị cao
của CNTB . Nếu không lợi dụng kỹ thuật đó thì không xây dựng tốt được cơ sở cho
nền đại sản xuất của chính quyền Xô Viết.
CNTB nhà nước còn mang lại cáI lợi hơn là : Thông qua sự phát triển của
nó mà fục hồi được giai cấp công nhân. Nừu CNTB được lợi thế thì sản xuất công
nghiệp sẽ tăng lên giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn nhanh lên. Nừu CNTB được
khôI phục lại thì cũng có nghĩa là khôI phục lại giai cấp vô sản và tạo ra một giai
cấp vô sản công nghiệp . Vì chiến tranh , vì bị phá sản nên đã mất tính giai cấp,
nghĩa là đã bị đẩy ra ngoàI con đường tồn tại giai cấp của mình và không còn tồn
tại với tư cách là giai cấp vô sản nữa. ĐôI khi về hình thức nó đã được coi là giai
cấp vô sản nhưng nó không có gốc về kinh tế.
Chính là vì ý nghĩa của việc thực hiện CNTB Nhà nước như vậy , mà Lênin
đã nói rằng “đIều có lợi và cần thiết”, “đIều mong đợi” trong đIều kiện của chính
quyền Xô VIết.
b) Những hình thức của CNTB nhà nước.
Lênin chẳng những là người Mác xit đầu tiên nêu ra luận đIểm về việc bổ
sung CNTB làm phương tiện để tăng lực lượng sản xuất, mà còn chỉ đạo thực hiện
chủ trương này trong thực tiễn. Và đó mới là đIều quan trong nhất. Khi giảI thích vì
sao dùng danh từ CNTB
Nhà nước Lênin đã nói “đIều mà tôI luôn quan tâm đến đó là mục đích thực
tiễn…”. Theo Lênin mục đich thực tiễn ấy là tìm ra nhừng hình thức cụ thể để thực
hiện . Cần lưu ý rằng đối với Lênin , mặc dù thời gian sống quá ngắn ngủi song tư
tưởng về sự phong phú , đa dạng của những hình thức là tư tưởng của người mà ta
cần quán triệt. Lênin không bị trói buộc CNTB nhà nước chỉ vào một số hình thức ,
đã tồn tại tư tưởng của Lênin là “… ở những nơI nào có những thành phần tự do
buôn bán và những thành phần tư bản chủ nghĩa nói chung , thì ở đó có CNTB
Nhà nước, dưới hình thức này hay hình thức khác, ở trình độ này hay trình độ nọ”.
Thời Lênin có những hình thức:
1. Tô nhượng: Trong cuốn “bàn về thuế lương thực ,Lênin quan niệm thuế tô
nhượng là một giao kèo , một sự liên kết , liên minh giữa chính quyền nhà nước Xô
Viết, nghĩa là nhà nước vô sản, với CNTB nhà nước chống lại thế lực tự phát tiểu tư
hữu. người nhận tô nhượng là nhà tư bản ”. Tô nhượng là chính quyền Xô Viết kí
hợp đồng với nhà tư bản. Theo hợp đồng ấy , nhà tư bản được xây dựng một vàI thứ
: Nguyên liệu, hầm mỏ , xí nghiệp , quặng hay thậm chí một xưởng riêng biệt .
Chính quyền nhà nước XHCN giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của mình : Nhà
máy, vật liệu, hầm mỏ (Trong thực tế không phảI chỉ có như vậy. Trong bức thư
ngày 5-12-1921 , lênin còn nói đến việc tô nhượng quay phim và mua phim ở nước
Nga và kinh doanh những phim ấy ở ý). Nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư
cách là một bên ký kết, là người thuê tư liệu sản xuất XHCN , và thu lợi nhuận của
tư bản mà mình bỏ ra , rồi nộp cho nhà nước XHCN một phần sản phẩm tô nhượng
là hình thức kinh tế mà hai bên cùng có lợi. Nhà tư bản kinh doanh theo phương
thức tư bản cốt để thu được lợi nhuận bất thường , siêu ngạch hoặc để có được loại
nguyên liệu mà họ không tìm được hoặc khó tìm được bằng cách khác. Chính
quyền Xô Viết cũng có lợi : Lực lượng sản xuất phát triển , số lượng sản phẩm tăng
lên.
Hình thức tô nhượng là sự “du nhập” CNTB từ bên ngoàI vào. Tất cả khó
khăn trong nhiệm vụ này là phảI suy nghĩ , phảI cân nhắc hết mọi đIều khi kí hợp
đồng tô nhượng và sau đó phảI biết theo dõi việc chấp hành nó.
Thời Lênin hình thức tô nhượng được coi là phổ biến hơn cả,với cách đặtđặt
vấn đề của Lênin , có thể quan niệm đó là hình thức “làm ăn”với tư bản nước ngoàI
nói chung.
Trong báo cáo về tô nhượng , lênin đã nêu ra những đIều cần chú ý:
Để thực hành CNTB nhà nước cần phảI từ bỏ áI quốc địa phương của một số
ngưòi cho rằng, tự mình có thể làm lấy, không chấp nhận trở lại ách nô dịch của tư
bản. Lênin nêu rõ cần phảI sẵn sàng chịu đựng cả một loạt hi sinh thiếu thốn và bất
lợi miễn sao có được một sự chuyển biến quan trọng và cảI thiện tình trạng kinh tế
trong các ngành công nghiệp chủ yếu. Cũng phảI dự kiến rằng trong thời gian đầu
không thể tránh khỏi sai lầm, nhưng dù sao cũng phảI cố đạt được đIều đó. “Bất cứ
người nhận tô nhượng nào cũng cũng vẫn là nhà tư bản, và nó cũng sẽ cố gắng phá
hoại chính quyền Xô Viết còn chúng ta thì lại phảI cố lợi dụng lòng tham của nó.”
Người nhận tô nhượng có trách nhiệm cảI thiện đời sống công nhân trong xí
nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình ở nước ngoài. ĐIều trọng
yếu nhất khi thực hành chế độ tô nhượng là nâng cao số lượng sản phẩm lên.
Nhưng đIều đặc biệt quan trọng thậm chí càng quan trọng hơn là cảI thiện ngay
tức khắc đời sống công nhân trong các xí nghiệp đó. CảI thiện đời sống của công
nhân trong các xí nghiệp tô nhượng và ngoàI tô nhượng được xem là “cơ sở của
chính sách tô nhượng”.
NgoàI ra ngưòi nhận tô nhượng phảI bán thêm cho chính quyền Xô Viết từ
50 đến 100% số lượng tiêu dùng cho các công nhân ở các xí nghiệp tô nhượng
cùng với giá bán như trên, làm như vậy là để cảI thiện đời sống công nhân khác.
Vấn đề trả lương cho công nhân ở các xí nghiệp tô nhượng, trả bằng ngoại tệ
, bằng phiếu đặc biệt hay bằng tiền Xô Viết .. thì sẽ được qui định riêng trong từng
thoả thuận hợp đồng. Có đIều về phương diện hình thức trả lương, chính quyền Xô
VIết không hề trói buộc các nhà tư bản. Vấn đề đối với nhà nước là phảI biết thích
ứng với mọi điều kiện sao cho có thể đấu tranh được với họ để cảI thiện tới một
mức nào đó đời sống của công nhân.
ĐIều kiện về thuê mướn , về sinh hoạt vật chất , về trả lương cho các công
nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoàI được qui định theo sự thoả thuận
tự do giữa người nhận tô nhượng với những loại công nhân viên nói trên. Công
đoàn không có quyền đòi áp dụng các mức lương của Nga , cũng như các luật lệ
của Nga về thuế mướn nhân công đối với các thuế mướn đó . Nên nhớ rằng, tô
nhượng là hợp đồng ký với một quốc gia tư sản cho nên người cộng sản nào muốn
ký hợp đồng tô nhượng trên cơ sở các nguyên tắc cộng sản thì : Lênin nói rằng nên:
“bỏ ngưòi đó vào nhà thương đIên.” cũng tương tự như vậy nếu đảng viên cộng
sản nào trong chính sách tô nhượng mà lại muốn thể hiện chủ nghĩa cộng sản của
mình vào trong bản hợp đồng , cố nhiên việc thuê mướn công nhân và nhân viên
nước ngoàI , tổng số cũng như từng loại phảI theo tỷ lệ phần trăm so với công nhân
, nhân viên Nga, tỷ lệ này sẽ thoả thuận trong hợp đồng.
Còn đối với những công dân Nga , chuyên gia có trình độ cao nếu các xí
nghiệp tô nhượng muốn mời thì phảI được sự đồng ý của các cơ quan chính quyền
trung ương. Theo tinh thần không thể để các chuyên gia ưu tú nhất làm việc ở các
xí nghiệp tô nhượng. Tuy không cấm hoàn toàn nhưng việc thi hành hợp đồng phảI
được giám sát từ trên xuống và từ dưới lên.
PhảI tôn trọng pháp luật ở nước Nga , chằng hạn các đạo luật về đIều kiện
lao động , về kỳ hạn phát lương vv. Nừu người nhận tô nhượng yêu cầu phảI ký
hợp đồng với các công đoàn . Ký hợp đồng với các công đoàn chính là nhằm xoá bỏ
mối lo ngại của tư bản đối với các công đoàn ở Nga. NgoàI những hàng tiêu dùng
và thiết bị máy móc nhập vào cho xí nghiệp tô nhượng người nhận tô nhượng còn
phảI nhập thêm cho ta . ví dụ 25% số cần thiết của họ , bán cho ta theo giá thoả
thuận.
PhảI nghiêm chỉnh tuân theo những qui tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với
pháp luật của nhà nước Nga và của nước ngoài. ĐIều này phảI được qui định tỉ mỉ
trong từng hợp đồng , bởi vì đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là ở
chỗ nó không có khả nằng chăm lo đến việc sử dụng đất đai và sức lao động một
cách khoa học và đúng đắn . Những qui tắc khoa học – kỹ thuật là biện pháp đấu
tranh chống hiện tượng đó.
2. Hợp tác xã.
Thoạt tiên Lênin cũng quan niệm hợp tác xã cũng là một hình thức của CNTB
nhà nước , nhưng sau này Lênin lại có quan niệm hơI khác. Trong một tác phẩm
cuối cùng của mình , Lênin viết : “Cần phảI viện đến một cáI gần như CNTB nhà
nước. TôI muốn nói đến chế độ hợp tác xã” , tiếp ngay sau đó Lênin lại nói “thường
thường trong hoàn cảnh nước ta , chế độ hợp tác xã là hoàn toàn đồng nhất với
CNXH”. Có thể hiểu quan niệm của Lênin về chế độ hợp tác xã là như thế nào ?
Căn cứ vào những thời đIểm lịch sủ trước và sau có thể nhận thấy rằng, thoạt
đầu Lênin quan niệm các hợp tác xã đều là hình thức của CNTB nhà nước . Về sau
này, từ thực từ thực tiễn nước Nga Lênin đã phân biệt tổ chức kinh tế này trong
những chế độ khác nhau. Nghĩa là trong thực tế tồn tại hai chế độ hợp tác xã :
CNTB và XHCN. Chế độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ Xô Viết
được coi là một hình thức CNTB nhà nước.
Trong một nước tư bản chủ nghĩa hợp tác xã là những tổ chức tư bản tập thể.
Còn trong đIều kiện kinh tế mới – như chính quyền Xô Viết , đã hình thành- như
Lênin nói , một kiểu xí nghiệp thứ 3 , tức là xí nghiệp hợp tác xã , trước đây về
nguyên tắc chưa thành một loại riêng biệt . Những xí nghiệp hợp tác xã này được
coi là một hình thức của CNTB nhà nước. Đặc trưng của xí nghiệp này là sự kết
hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu XHCN chính cống.
Dưới chế độ tư bản tư nhân những hợp tác xã là tổ chức tư bản tập thể cho nên
chúng khác với xí nghiệp tư bản chủ nghĩa , cũng như những xí nghiệp tập thể khác
với xí nghiệp tư nhân. Còn một con đường khác mà Lênin gọi là con đường của
CNTB hợp tác xã. Vì quan niệm nếu có tự do bán lương thực thì tất yếu CNTB sẽ
phát triển, cho nên phảI hướng sự phát triển ấy vào con đường phát triển của CNTB
hợp tác xã. Hợp tác xã kết hợp xí nghiệp tư bản tư nhân với xí nghiệp kiểu xã hội
chủ nghĩa chính cống là bước chuyển từ một hình thức đại sản xuất này sang một
hình thức đại sản xuất khác , thì chế độ hợp tác xã theo con dường theo con dường
thứ hai là bước chuyển tù tiểu sản xuất sang đại sản xuất trong một thời kỳ lịch sử
“10 hay 20 năm” con đường theo chế độ này về sau Lênin quan niệm là “hoàn toàn
đồng nhất với CNXH”.
Như vậy , theo cách đặt vấn đề của Lênin , ở thời đIểm ấy đã có hai quan
niệm khác nhau về cùng một chế độ hợp tác xã . Một loại là một tổ chức quần
chúng chính thức tham gia vào một cách tự giác ; một tổ chức có thể kết hợp lợi ích
tư nhân , lợi ích thương nghiệp tư nhân với việc nhà nước kiểm soát và kiểm tra lợi
ích đó , làm cho lợi ích tư nhân phục tùng lợi ích chung. Chế độ hợp tác xã kiểu này
có ý nghĩa đặc biệt trước hết là về phương diện nguyên tắc , sau là về phương diện
bước quá độ sang một chế độ bằng con dường giản đơn nhất, dễ tiếp thu nhấtđối
với nông dân. Trong hoàn cảnh mới , chế độ này là hoàn toàn đồng nhất với CNXH
và nếu chúng ta tổ chức được toàn thể nông dân vào hợp tác xã thì chúng ta đứng
vững được hai chân trên mảnh đất XHCN . Với chế độ hợp tác xã này , “… khi các
tư liệu sản xuất đã thuộc về xã hội , khi giai cấp vô sản , với tư cách là giai cấp đã
thắng giai cấp vô sản – thì chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ
XHCN”.
3. Hình thức liên doanh.
Đây là hình thức tư bản nhà nước mà hai bên cùng quản lý kinh doanh ,
cùng hưởng lợi và cùng chia sẻ rủi ro. Trong đó vừa có các nhà tư bản tư nhân Nga
và tư bản nước ngoàI , vừa có những người cộng sản cùng tham gia (T45-T97).
Theo quan niệm này thì các công ti cổ phần mà nhà nước bán cổ phiếu cho tư nhân
hay nhà nước nhà nước mua cổ phiếu của công ti cổ phần do nhà tư bản phát hành
cũng là một hình thức của CNTB nhà nước.
4.Hình thức tư bản tư nhân thuê tàI sản của nhà nước.
Hình thức này giống hình thưc tô nhượng , nhưng đối tượng tô nhượng không
phảI là tư bản nước ngoàI mà là tư bản trong nước . Hình thức này được coi là hình
thức riêng biệt để phân biệt nó với hình thức tương tự nhưng đối tượng thuê chỉ là
tư bản trong nước.
Theo hình thức này nhà nước cho các nhà tư bản tư nhân thuê một xí
nghiệp ,hoặc một vùng mỏ , khu rừng…phương thức cho thuê là thông qua một hợp
đồng giữa nhà nước với nhà tư bản. Cũng giống như hợp đồng tô nhượng , ở đây
nhà nước chỉ cho thuê quyền sử dụng tàI sản nhà nước trong những đIều kiện và
giới hạn nhất định và thời gian ngắn hơn so với tô nhượng.
5 Hình thức gia công đặt hàng , đại lý.
Theo hình thức này nhà nước lôI cuốn nhà tư bản với tư cách là một nhà
buôn , trả cho họ số tiền hoa hồng nhất định để họ bán sản phẩm của nhà nước và
mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ. Hoặc nhà nước đặt hàng cho tư nhân hoặc
lôI kéo họ làm một số dịch vụ khác cho nhà nước.
6 Sự đIều tiết của nhà nước đôI với tư bản tư nhân , sản xuất nhỏ cá thể thông
qua các đòn bẩy kinh tế:
Đây cũng được coi là một hình thức của CNTB nhà nước . Thông qua hình
thức này , nhà nước thực hiện sự kiểm kê, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức
kinh tế tư nhân về khối lượng và chủng loại sản phẩm được sản xuất , về giá cả và
chất lượng hàng hoá , thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường cung ứng vốn, tư
liệu sản xuất , lợi nhuận và đIều tiết lợi nhuận , quan hệ giữa tư bản và lao động làm
thêm.
4> Vai trò của CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH
4.1. CNTBNN tạo đIều kiện khai thác các nguồn lực trong nước.
Một là : Khai thác các nguồn tàI nguyên thiên nhiên.
Có những vùng đất đai , khoáng sản ,nhiên liệu… mà khả năng của nhà
nước cũng như các đơn vị kinh tế hiệp tác và cá thể không thể khai thác do thiếu
vốn , do trình độ quản lý công nghệ kém…Thông qua các hình thức của CNTBNN ,
nhất là các hình thức tô nhượng và liên doanh với tư bản nước ngoàI , những nguồn
lực tiềm tàng đó sẽ biến thành sản phẩm hàng hoá đưa vào trong lưu chuyển trên thị
trường , góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Hai là: Sử dụng nguồn nhân lực dồi dào
Các hình thức CNTBNN không những góp phần tạo nhiều chỗ làm việc mà
còn đòi hỏi nâng cao trình độ lành nghề của người lao động và tăng thu nhập cho
người lao động, tạo ra tình hình về yêu cầu lao động lớn hơn cung rất nhiều , đIều
đó thúc đẩy việc đào tạo nghề , kích thích mọi người nhất là lớp trẻ hăng háI học
tập , nâng cao trình độ chuyên môn . Như vậy CNTBNN không những góp phần
giảI quyết tình trạng thất nghiệp mà còn góp phần tác động vào việc cảI biến cơ cấu
lao động.
Ba là: Huy động các nguồn vốn tồn đọng trong các tầng lớp nhân dân.
Việc nhất quán quan đIểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ,
khuyến khích các nhà đầu tư trong nước yên tâm bỏ vốn và huy động vốn trong dân
để kinh doanh . Các doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức công ti cổ phần , cũng
như việc các công ti cổ phần hoà một số doanh nghiệp nhà nước thông qua bán cổ
phiếu cho tư nhân, mở ra một triển vọng rất lớn trong việc huy động nguồn vốn nói
trên.
4.2 CNTBNN tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH-HĐH.
Việc sử dụng tốt các hình thức của CNTBNN sẽ thúc đẩy nhanh việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng CNH-HĐH.
Một là: Thúc đẩy sự biến đổi cơ cáu ngành kinh tế .
Trong nền kinh tế lạc hậu thì ngành công nghiệp chiếm ưu thế cả về tỉ trọng
giá trị sản phẩm , tỷ trọng lao động , còn trong nông nghiệp thì trồng trọt nhất là cây
lương thực đóng vai trò chủ yếu.
Việc phát triển CNTBNN , nhất là hình thức tô nhượng giữa nhà nước và tư
bản tư nhân trong và ngoàI nước sẽ tăng nhanh tỉ trọng của ngành công nghiệp và
dịch vụ , giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp trên các mặt nói trên ; tăng tỷ trọng các
ngành chăn nuôI ,của cây công nghiệp và cây ăn quả , giảm tỷ trọng cây lương
thực.
Các doanh nghiệp nhà nước lại thường hướng vào những lĩnh vực có trình
độ công nghệ cao, do đó còn làm biến đổi cả chất lượng hàng hoá và hạ giá thành
sản phẩm .
Hai là: Làm biến đổi cơ cấu vùng kinh tế.
Việc phân bố các doanh nghiệp kinh tế tư bản nhà nước nhất là trong các
khu chế xuất và khu công nghiệp hay các khu kinh tế trên nhiều vùng của đất nước
sẽ góp phần làm thay đổi bộ mặt của từng địa phương , hình thành nhiều đô thị mới
làm trung tâm kinh tế xã hội lôI cuốn cả vùng phát triển theo. Việc đó góp phần
khắc phục tình trạng tập trung quá mức dân cư và công nghiệp vào những đô thị lớn
tới mức quá tảI về giao thông về chỗ ở , về ô nhiễm môI trường .. . đồng thời giảm
bớt khoảng cách chênh lệch quá xa về trình độ phát triển giữa đô thị lớn với những
vùng khác có đIều kiện thu hút các dự án đầu tư.
Ba là: Đổi mới kết cấu thành phần kinh tế: Đổi mới kết cấu thành phần kinh
tế cũng chính việc mở rộng các hình thức của CNTBNN đã tạo ra sự cạnh tranh và
hợp tác mới ,buộc các đơn vị kinh tế khác phảI cảI tiến để nâng cao hiệu quả nhằm
đứng vững trong canh tranh và thúc đẩy kinh tế nhà nước phảI thật sự vươn lên để
giữ vai trò chủ đạo , nhờ đó mà giảI phóng được lực lượng sản xuất ,huy động được
các nguồn lực tiềm tàng của đất nước mình .
4.3 CNTBNN là hình thức tốt nhất để kết hợp ngoại lực với nội lực.
Thứ nhất: Tranh thủ nguồn vốn từ nứơc ngoàI .
Thông thường , trong quá trình CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân ,nhu cầu
vốn ngày càng tăng lên , trong khi tích thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân còn thấp .
Bởi vậy ,nếu không thu hút được vốn đầu tư từ nước ngoàI thì sẽ không đảm bảo
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Thứ hai: Tiếp nhận công nghệ mới.
Trong xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và trong bối cảnh của cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ diễn ra sôI động các nước lạc hậu về
kinh tế đứng trước thử thách và thời cơ , tức là giữa có nguy cơ tụt hậu xa về kinh
tế kỹ thuật lại vừa có đIều kiện thuận lợi đón nhận việc chuyển giao công nghệ từ
nươc ngoàI . Vệc thu hút vốn từ nước ngoàI thường kèm theo việc chuyển giao
công nghệ mới. Bởi vậy phảI biết thông qua các hình thức của CNTBNN mà tiếp
thu công nghệ mới , học tập công nghệ quản lý tiên tiến .
Thứ ba: Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu:
Các doanh nghiệp nhà nước ,nhất là tô nhượng và liên doanh thường chủ yếu
hướng vào xuất khẩu hoặc qui định tỷ lệ hàng hoá bắt buộc hay chí ít là sản xuất
thay thế nhập khẩu . Vì thế ,phát triển CNTBNN là một giảI pháp để tận dụng các
lợi thế trong nước nhằm tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, giảm bớt nhập siêu.
5.ĐIều kiện cần có để sử dụng tư bảnnước ngoài.
Đề cập đến vấn dề này, Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh đến những đIều kiện
đảm bảo vận dụng thành công CNTBNN ở một nước có nền kinh tế chậm phát triển
. Từ đó chúng ta có thể nêu nên một số đIểm đáng chú ý để sủ dụng có hiệu quả
CNTBNN trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Trước hết , xây dựng đựơc một nhà nước vững mạnh, đặt dưới sự lãnh đạo
không chia sẻ của đảng cộng sản , thực sự dân chủ và biết quản lý có hiệu quả các
quá trình kinh tế xã hội.Muốn sử dụng CNTBNN – như Lênin thường nhắc nhở –
phảI có chính sách thật mềm dẻo , khi chính sách mềm dẻo thì bộ máy nhà nước
phảI thật vững mạnh. Sự vững mạnh ấy được tạo nên từ sức mạnh kinh tế ,nhà nước
nắm và sử dụng hiệu quả các đàI chỉ huy kinh tế , các khối lượng vật tư , hàng hoá ,
các cơ sở kinh tế thuộc sở hữu công cộng , công nghiệp và giao thông vận tảI
…Trong nền kinh tế hàng hoá có sự hiện diện của CNTBNN , sức mạnh của nhà
nước biểu hiện tập trung ở sức mạnh tàI chính ngân hàng, cơ sở công nghiệp lớn ,
các tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội . không những thế nhà nước còn phảI biết sử
dụng thành thạo các công cụ quản lý vĩ mô để đIều tiết có hiệu quả quá trình kinh
tế, kiểm soát có hiệu lực mọi hoạt động của các khu vực kinh tế tư nhân theo định
hướng của nhà nước vô sản.
Thứ hai: Cần có quan niệm đúng về CNTBNN đối với một nước tiểu nông đI
lên CNXH đó là “chiếc cầu phảI bắc”. Không có nó , không thể tiến thêm được
bước nào trên con đường XHCN .
Thứ ba: Cần phảI phát triển mạnh kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , theo
mục tiêu XHCN.ĐIều quan trọng ở đây là có chính sách hợp lý để giảI phóng và
phát triển ở mức độ cần thiết những hình thức kinh tế tư nhân nói chung , tư bản tư
nhân nội địa nỏi riêng , vừa để phát triển lực lượng sản xuất ,vừa tạo vốn đầu tư bên
ngoài.
Thứ tư: Cần có chính sách xã hộivà công tác chính trị, tư tưởng tương ứng
với nền tiến trình thực hiện CNTBNN ở nước ta , mà cáI nút cuả vấn đề là giảI
quyết hợp lý sự chênh lệch về thu nhập giữa người làm trong các cơ sở kinh tế
TBNN với người làm trong các xí nghiệp còn lại.
6. Kết quả thực hiện CNTBNN thời Lênin , những kinh nghiệm ban đầu.
6.1. Sử dụng CNTBNN ở nước Nga Xô Viết.
Sau một thời gian thi hành chính sách kinh tế mới , tình hình kinh tế ở nước
Nga Xô Viết đã đựơc cảI thiện nhanh chóng . Nông dân chẳng những thoát được
nạn đói mà còn nộp thuế lương thưc hàng triệu pút. Công nghiệp nhẹ có đà phát
triển , đời sống công nhân đựơc cảI thiện . Nhờ tô nhượng với ngành công nghiệp
quan trọng . Tô nhượng cùng với công ti hợp doanh đã góp phần thúc đẩy sản xuất
phát triển , tăng thêm dự trữ ngoại tệ, mở rộng quan hệ thị trường .
Tuy nhiên ,kết quả thuđược còn nhiều hạn chế so với dự định ban đầu. Mặc
dù chính quyền Xô Viết đã “nhượng bộ ” đến mức tối đa, tạo những đIều kiện
thuận lợi để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoàI song tháI độ thiếu thiện chí hợp tác
cùng với mưa đồ của các nước đế quốc cầu kết với nhau chống lại nhà nước Xô
Viết non trẻ đã cản trở việc áp dụng rộng rãI các hình thức CNTBNN.
Thời gian thực hiện CNTBNN tuy ngắn ngủi và còn nhiều hạn chế , song
điều quan trọng là lần đầu tiên trong lịch sử , giai cấp vô sản Nga dưới sự lãnh đạo
thiên tàI của Lênin đã tìm ra một phương thức, con đường đI lên CNXH ở một
nước tiểu nông sau khi áp dụng trực tiếp các phương pháp không thành công.
6.2> Sử dụng CNTBNN ở một số nước Đông Âu.
Thắng lợi quân sự của Hồng quân Liên Xô , sau chiến tranh thế giới thứ hai
đã dẫn đến sự ra đời của một loạt nước đI theo con đường CNXH ở Đông Âu được
sự giúp đỡ của Liên Xô , chỉ sau một thời gian ngắn , giai cấp vô sản ở nước Đông
Âu cơ bản đẫ dược cảI tạo bằng các hình thức khác nhau của CNTBNN, nhưng phổ
biến nhất vẫn là hình thức công ty hợp doanh.
6.3. Sử dụng CNTBNN ở những nước đang phát triển.
Sẽ là thiếu xót nếu không đề cập đến việc sử dụng CNTBNN ở các nước
đang phát triển , bởi CNTBNN vốn là một phạm trù kinh tế của CNTB.
Có thể rút ra những bàI học kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực
trong quá trình xây dựng nền kinh tế .
Thứ nhất: phảI tạo ra một nhà nước mạnh, một nhà nước có khả năng đưa ra
một định hướn chiến lược cơ cấu kinh tế có triển vọng , kèm theo đó là hệ thống
luật pháp và các biện pháp kinh tế có tính chất khuyến khích và ràng buộc cao . Một
nhà nước mạnh với bộ máy gọn nhẹ, có nằng lực, với chính sách cởi mở sẽ là đIều
quan trọng thu hút các nhà đầu tư.
Thứ hai: Đưa ra và thực hiện thành công chiến lược kinh tế mở . Vấn đề mấu
chốt là làm sao vừa thu hút được nhiều vốn , kỹ thuật của nước ngoàI , sử dụng
chúng một cách hợp lý có hiệu quả vừa đảm bảo được tính tự chủ của nền kinh tế.
II. Sự vận dụng lý luận của Lênin về CNTBNN ở Việt Nam
1. Sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế TBNN ở nước ta
Việc tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ là một tất yếu khách quan. Trong đó, kinh tế TBNN rất quan trọng, nó biểu
hiện mối quan hệ kinh tế giữa thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo là kinh tế Nhà
nước với kinh tế tư bản tư nhân. Thông qua quan hệ này, kinh tế TBNN thực hiện
vai trò là cầu nối giữa sản xuất nhỏ với sản xuất lớn, là trung gian chuyển từ kinh tế
TBCN lên kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Trong đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thành phần
kinh tế TBNN được coi trọng và khuyến khích phát triển mạnh mẽ, nó đóng góp
một phần đáng kể vào phát triển kinh tế xã hội, biểu hiện ở những kết quả sau :
a) Góp phần huy động vốn cho phảt triển kinh tế và thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Để phát triển kinh tế và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá,
vấn đề là huy động được nguồn vốn tư nhân trong nước và đặc biệt là nguồn đầu tư
trực tiếp nước ngoài là hết sức quan trọng. Ngày nay, trong xu thế hội nhập và toàn
cầu hoá, dẫn đến luồng chảy của nguồn vốn FDI ( đầu tư trực tiếp nước ngoài) rất
đa dạng, với quy mô ngày càng rộng lớn không chỉ ở các nước phát triển đầu tư vào
các nước đang phát triển mà các nước đang phát triển cũng đầu tư trực tiếp vào
nhau. ở nước ta, theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư thì kế hoạch 5 năm 1996 -
2000 cần số vốn cho đầu tư phát triển từ 41- 42 tỷ USD, trong đó từ ngân sách nhà
nước đảm bảo 21%. Huy động từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 31% (thông
qua các hình thức kinh tế TBNN). Từ các nguồn khác như vay ODA, huy động tiết
kiệm, đầu tư từ các doanh nghiệp và của dân cư khoảng 48%. Trong thực tế 10 năm
kể từ năm 1989 - 1999, tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đăng ký trong
giấy phép là 35 tỷ USD tăng bình quân gần49% một năm và thực tế vốn đã được
giải ngân khoảng 12 - 14 tỷ USD bằng30% tổng sốvốn đầutư phát triển toàn xã hội,
một kết quả có ý nghĩa to ớn trong giai đoạn mở đầu của thời kỳ công nghiệp hoá-
hiện đại hoá đất nước.
b. Kinh tế TBNN góp phần đẩy mạnh phát triển kỹ thuật công nghệ và kinh
nghiệm quản lý nền kinh tế đất nước.
Khi khoa học kỹ thuật công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì
những nước lạc hậu như nước ta phải tiếp cận, đuổi bắt đi trước đón đầu như thế
nào cho phù hợp và không bị tụt hậu. Với lợi thế về vốn đầu tư và khả năng kỹ
thuật công nghệ của các nước phát triển và các nước NICS (các nước đang phát
triển) sẽ góp phần đổi mới nhanh chóng kỹ thuật công nghệ tiên tiến vào sản xuất
kinh doanh. Đồng thời gián tiếp thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phải đổi mới
kỹ thuật công nghệ thông qua cạnh tranh và hợp tác. Thực tế qua 10 năm 1989 -
1999 cho thấy khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhìn chung có kỹ thuật công nghệ
cao hơn so với các thành phần kinh tế khác, nhất là trong ngành công nghiệp. Bởi
vậy, chất lượng sản phẩm tốt hơn, mẫu mã đa dạng phong phú hơn, một số ngành
công nghiệp mới đòi hỏi công nghệ cao ra đời từ những doanh nghiệp liên doanh
hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài như : Ngành công nghiệp dầu khí, sản xuất ô tô,
xe máy, công nghệ điện tử, viễn thông, thiết bị chính xác.
c. Phát triển kinh tế TBNN cũng có nghĩa là phát triển sản xuất, tăng thêm thu
nhập, tạo ra việc làm mới cho xã hội.
Tuy mới ra đời nhưng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đạt được tốc độ
tăng trưởng bình quân cao hơn mức tăng chung của nền kinh tế, giữ vai trò quyết
định mức tăng trưởng cao và ổn định của ngành công nghiệp, làm tăng thêm quy
mô, tốc độ tăng trưởng và phong phú đa dạng các loại hình dịch vụ, du lịch nước ta.
Tính đến hết năm 1999 đã giải quyết trên 35 vạn xuất việc làm, đảm bảo thu nhập
bình quân 65USD một tháng.
d. Hoạt động của kinh tế TBNN, mà chủ yếu là thu hút đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài sẽ làm cho sợi dây liên kết giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới chặt chẽ làm tạo điều kiện và giúp đỡ các thành phần kinh tế trong nước phát
triển và mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu.
Đến năm 1998, đã có trên 700 Công ty lớn thuộc 35 quốc gia và vùng lãnh thổ
đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, giá trị trao đổi kinh tế thông qua hoạt động nhập
khẩu trong 10 năm trở lại đây (1988 - 1998) phát triển bình quân 20% một năm,
trong đó kinh tế TBNN phát triển 28% một năm, chiếm 1/4 tổng kim ngạch xuất,
nhập khẩu cả nước.
e. Từ vị trí quan trọng trong sản xuất, kinh tế TBNN có vai trò hết sức tích cực
đối với ổn định và làm lành mạnh hoá xã hội.
Thông qua giải quyết công ăn việc làm, giảm bớt tình trạng thất nghiệp, nâng
cao thu nhập cho người lao động, góp phần giảm nhẹ áp lực của tiêu cực xã hội.
Mặt khác những hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho xã hội tăng lên, chủng loại phong
phú đa dạng, chất lượng được nâng cao, phong cách phục vụ thuận tiện, văn minh,
góp phần cải thiện và nâng cao đời sống toàn xã hội.
2. Những hình thức cụ thể của kinh tế TBNN đang được vận dụng ở nước
ta
Quan điểm của Đảng ta là áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế TBNN “mở
rộngcác hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với các thành phần
kinh tế khác cả trong và ngoài nước, áp dụng nhiều phương thức góp vốn liên
doanh giữa Nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước” (Văn kiện đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, tr 92, 95). Đến nay các hình thức biểu hiện chủ
yếu của kinh tế TBNN ở nước ta là :
2.1. Góp vốn cổ phần.
Là hình thức tham gia góp vốn giữa Nhà nước với tư nhân trong và ngoài
nước mà đại diện cho Nhà nước là các doanh nghiệp Nhà nước, tổng Công ty và
các tổ chức khác của Nhà nước như Viện nghiên cứu, trung tâm khoa học, đơn vị sự
nghiệp. Đây là hình thức phổ biến chiếm khoảng 65% về số dự án và 75% về vốn
đầu tư của thành phần kinh tế này.
2.2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Là hình thức liên kết sản xuất kinh doanh giữa cơ sở kinh tế có tư cách pháp
nhân của Nhà nước với tư nhân nước ngoài để thực hiện một hoạt động sản xuất
kinh doanh theo hợp đồng thoả thuận giữa các bên.
Hình thức này thích hợp với những hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ, vốn ít,
thời gian liên kết hoạt động giữa các bên ngắn, thường dưới 5 hoặc 10 năm, thậm
chí vài tháng. Hình thức này ít phổ biến, chiếm khoảng 5% về số dự án và 3% về
vốn đầu tư trong thành phần kinh tế TBNN.
2.3. Đầu tư 100% vốn nước ngoài.
Là các doanh nghiệp do tư nhân nước ngoài đầu tư 100% vốn. Thực chất đây
là hình thức liên kết giữa Nhà nước XHCN với tư bản tư nhân nước ngoài dưới
hình thức tô nhượng.
Các tài nguyên khoáng sản, đất đai và các dịch vụ của Nhà nước cho tư bản
nước ngoài thuê, mua sử dụng vào sản xuất kinh doanh và chịu sự quản lý của Nhà
nước XHCN. Hình thức này thích hợp với những ngành sản xuất kinh doanh có lợi
nhuận cao hoặc ít rủi ro. Tỷ trọng hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài ở những
năm 1990 chỉ từ 10 - 15% thì nay chiếm gần 30% về số dự án và trên 20% về vốn
đầu tư.
2.4. Ngoài ba hình thức kể trên, trong luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam
còn cho phép các hình thức khác như : đầu tư, kinh doanh, chuyển giao BOT.
Những hình thức này đã được áp dụng, nhưng còn đang thăm dò, thử nghiệm
nên tỷ trọng nhỏ chưa đáng kể.
3. Những tồn tại và hạn chế chủ yếu trong phát triển và hoạt động của
thành phần kinh tế TBNN.
Quan điểm về phát triển kinh tế TBNN được đặt ra từ đại hội VI, nhưng thực
tế đi vào đời sống kinh tế xã hội nước ta chỉ từ sau đại hội VII (nghĩa là từ năm
1991 lại đây). Tuy thời gian chưa nhiều, trong điều kiện vừa làm vừa rút kinh
nghiệm bổ sung song đã đạt được những kết quả đáng kể, đồng thời cũng bộc lộ
nhiều tồn tại, hạn chế.
Một là, chủ trương phát triển nguồn vốn FDI thông qua hình thức kinh tế
TBNN là đúng đắn và cần thiết, song phát triển tràn lan, thiếu sự hướng dẫn định
hướng đầu tư, dẫn đến hiện tượng mất cân đối trong đầu tư, ảnh hưởng đến quan hệ
hỗ trợ thúc đẩy các thành phần kinh tế khác trong nước phát triển.
Chỉ trong thời gian ngắn đã cho đầu tư quá lớn vào một số ngành, tạo ra năng
lực sản xuất vượt xa sơ với nhu cầu trong nước, trong khi đó tiềm năng xuất khẩu
không có, gây ra sự lãng phí về vốn, làm giảm hiệu quả kinh doanh của toàn ngành.
Những ngành đầu tư có khả năng thu hồi vốn nhanh, tỷ lệ lãi suất cao, sử dụng
nhiều lao động, thì đầu tư 100% vốn nước ngoài là chủ yếu, như ngành dệt 91%
vốn là hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài : ngành may 89,4% ngành giấy
83,3%…
Hai là, tuy mới phát triển mạnh ở vài năm gần đây, nhưng cho thấy hiệu quả
đầu tư thấp. Trong quá trình đầu tư góp vốn, không ít dự án nước ngoài đưa vào
liên doanh với giá thiết bị, vật tư quá cao so với mặt bằng giá thị trường quốc tế,
nhiều dự án đưa vào kinh doanh, nhưng cả chi phí đầu vào và giá đầu ra do phía
nước ngoài thao túng, đưa vào nhiều chi phí không hợp lý, mà phía Việt Nam
không kiểm soát được.
Ba là, chủ trương phát triển kinh tế TBNN theo quan điểm coi nguồn vốn
trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng, nhưng trong liên
doanh hợp tác với nước ngoài thì phần vốn của Nhà nước đã thấp lại đang có xu
hướng giảm.
Bốn là, cơ chế quản lý đối với thành phần kinh tế TBNN chưa hoàn thiện còn
nhiều lúng túng và sơ hở : quan hệ quản lý và phân phối lợi ích có nhiều vấn đề bất
cập. Những hiện tượng sơ hở trong quản lý mà phần yếu kém thua thiệt đều về phía
Việt Nam : Hiện tượng tranh chấp lao động, đình công trong doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tăng lên, hiệu quả đầu tư thấp… là kết quả của mâu thuẫn giữa
quan hệ sản xuất chưa được củng cố với lực lượng sản xuất đã ở trình độ khá tiên
tiến.
4. Những giải pháp nhằm phát triển có hiệu quả thành phần kinh tế TBNN.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của thành phần kinh tế TBNN trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở nước ta và vị trí đặc biệt của nó trong sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương chính
sách nhằm khuyến khích phát triển thành phần kinh tế TBNN, coi trọng thu hút
nguồn vốn FDI, mở rộng hình thức tham gia cổ phần với các doanh nghiệp tư nhân
trong nước, nhờ vậy chỉ có hơn 10 năm (1989 -1999), hoạt động của thành phần
kinh tế TBNN đã đạt được kết quả to lớn, khẳng định vai trò tất yếu và vị trí quan
trọng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Song để tạo thuận lợi cho thành phần
kinh tế TBNN tiếp tục phát triển nhanh, vững chắc có hiệu quả, thì ở tầm quản lý vĩ
mô phải quan tâm đến những giải pháp sau :
4.1. Về nhận thức :
Phải coi sự tồn tại của thành phần kinh tế TBNN trong nền kinh tế nhiều thành
phần là một tất yếu khách quan, thấy được đó là con đường để tranh thủ tiềm năng
của tư bản nước ngoài và khai thác tiềm năng tư bản tư nhân trong nước cho xây
dựng CNXH. Có nhận thức đúng đắn quan điểm đường lối đó của Đảng thì mới đặt
đúng vị trí của nguồn vốn FDI, mới chủ động có nhiều hình thức liên doanh liên kết
của Nhà nước với tư nhân trong nước, khiến họ yên tâm tự nguyện, tiến tới cần thiết
và mong muốn tham gia liên doanh cổ phần với Nhà nước.
4.2. Những giải pháp về chính sách và luật pháp
Đảng và Nhà nước đã cố gắng tạo ra khung pháp lý chung cho hoạt động thu
hút nguồn vốn FDI đó là luật đầu tư nước ngoài và kịp thời bổ sung sửa đổi cho luật
đi vào cuộc sống sinh động hơn. Bên cạnh luật đầu tư nước ngoài là hàng loạt chính
sách của chính phủ đều nhằm mục đích khuyến khích thu hút nguồn vốn FDI.
Nhưng thực tế cho thấy vẫn chưa đủ và chưa đồng bộ, đòi hỏi phải có sự bổ sung
hoàn chỉnh hơn về mặt chính sách luật pháp.
Trước hết tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, tạo khung pháp lý thật an
toàn cho các nhà đầu tư an tâm bỏ vốn kinh doanh. Các chính sách như :Chính sách
đất đai, chính sách thuế, tài chính, chính sách giá cả, xuất nhập khẩu…. không
những yêu cầu phải đồng bộ, kịp thời, không mâu thuẫn, mà còn phải ưu tiên
khuyến khích đủ mạnh tạo lực hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
4.3. Giải pháp về tạo dựng điều kiện cơ sở hạ tầng cho kinh doanh
Cơ sở hạ tầng là một trong những điều kiện quan trọng quyết định sự phát
triển của sản xuất kinh doanh. Cần phải có nhiều khu công nghiệp tập trung, ở đó
được đảm bảo tốt về mặt bằng sản xuất, hệ thống dịch vụ đầy đủ như : Dịch vụ điện
nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc và thuận lợi cho xây dựng hệ thống xử lý
chất thải, bảo vệ môi trường.
Cần xây dựng những khu công nghệ cao làm nhiệm vụ nghiên cứu, chuyển
giao, ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới tiên tiến hiện đại vào sản xuất kinh doanh.
Trong sản xuất kinh doanh yếu tố con người là quyết định. Con người của nền
sản xuất dựa trên trình độ kỹ thuật công nghệ cao, tính chất của sản xuất phát triển
theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì yêu cầu về thể chất phải cường tráng, kỹ năng,
kỹ xảo lao động cao, tay nghề giỏi và phải có trình độ văn hoá nhất định.
Do vậy, để sẵn sàng tiếp cận nắm bắt được công nghệ mới, sử dụng có hiệu
quả nó vào sản xuất, cũng như thích ứng với mô hình quản lý ở trình độ cao,thì con
người lao động phải được quan tâm trên tất cả các lĩnh vực như : Nâng cao mức
sống, chăm sóc sức khoẻ nhằm nâng cao thể lực, giáo dục văn hoá nhằm nâng cao
trình độ văn hoá và học vấn, đào tạo tay nghề, hướng mọi người lao động vào
những ngành nghề thích hợp với năng lực sở trường của họ.
4.4. Phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của thành phần kinh tế
TBNN
Biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của thành phần kinh tế
TBNN mà chủ yếu là hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài là :
- Cơ cấu đầu tư hợp lý, khắc phục được tình trạng đầu tư tràn lan, nhằm tránh
tình trạng lãng phí vốn, đầu tư mà không huy động hết công suất.
- Kiểm soát chặt chẽ công nghệ kỹ thuật đưa vào, loại bỏ những công nghệ kỹ
thuật cũ lạc hậu và những thiết bị cũ tân trang lại.
- Giảm chi phí bất hợp lý, nhất là các doanh nghiệp liên doanh, khắc phục
được tình trạng lỗ giả lãi thật, lỗ ở các doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam,
nhưng đối tác nước ngoài lại thu lãi lớn từ cung cấp đầu vào và dịch vụ đầu ra cho
doanh nghiệp.
- Hoạt động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phải hướng mạnh vào xuất
khẩu, hướng mạnh xuất khẩu sẽ mở rộng thị trường đầu ra, là yếu tố quan trọng
đảm bảo cho tái sản xuất mở rộng.
4.5. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước
Trong những năm đổi mới, quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư trực
tiếp của nước ngoài, đã có những cố gắng nhất định tạo môi trường pháp lý và đề ra
những chính sách khuyến khích thu hút được một lượng vốn đáng kể của các đối
tác đầu tư nước ngoài. Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước nhằm phát triển thành
phần kinh tế TBNN, thì trước hết phải cải cách hành chính, đảm bảo sự quản lý
thông thoáng theo thông lệ quốc tế như : Đơn giản các thủ tục cấp phép, quy định
rõ ràng tránh trùng chéo giữa các cơ quan chính phủ trong việc quản lý nhà nước
từng lĩnh vực, từng chuyên ngành.
Nhà nước thực hiện hướng dẫn đầu tư theo quy hoạch ngắn hạn và dài hạn đã
đề ra, tạo dựng môi trường thuận lợi và khung pháp lý rõ ràng cho các nhà đầu tư
trong nước và ngoài nước hoạt động.
Quản lý Nhà nước phải thể hiện nguyên tắc, công bằng bình đẳng với tất cả
các thành phần kinh tế. Khắc phục yếu kém về trình độ và kiến thức quản lý Nhà
nước, chống tham nhũng, đó là những tiêu cực cản trở rất lớn các nhà đầu tư nước
ngoài tham gia đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
C. Phần kết luận
Việt Nam thực hiện công cuộc xây dựng CNXH trong nước và quốc tế có
nhiều điểm khác với nước Nga Xô viết hồi đầu thế kỷ, song việc khai thác, vận
dụng sáng tạo lý luận về CNTBNN của Lê nin để đẩy nhanh quá trình đi lên CNXH
từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ vẫn là một tất yếu.
Từ việc tiếp cận có hệ thống những vấn đề lý luận chung về CNTBNN nêu lên
những quan điểm, những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và sử dụng có hiệu quả
các hình thức CNTBNN theo định hướng XHCN. Đặc biệt là việc sử dụng dụng
kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta. Đảng ta đã khẳng định kinh tế TBNN là thành
phần kinh tế quá độ nhiều thành phần. Nó có vị trí quan trọng và xếp ở vị trí thứ ba
sau thành phần kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tập thể coi đó là con đường sử
dụng vốn, thành tựu khoa học công nghệ và kỹ năng kinh nghiệm quản lý của
CNTBNN vào xây dựng CNXH ở nước ta. Quan điểm đúng đắn và sáng tạo của
Đảng đã được thể hiện cụ thể trong từng nội dung, bước đi trong xu hướng hội nhập
toàn cầu hoá trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sự phát triển
của thành phần kinh tế TBNN trong những năm qua đã góp phần thúc đẩy tăng
trưởng chung nền kinh tế, đổi mới kỹ thuật công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo mục tiêu đã đề ra, qua đó khẳng định vị trí vai trò không thể thiếu được của
thành phần kinh tế TBNN.
Nhưng nội dung, cách làm và quản lý thành phần kinh tế TBNN lại là vấn đề
rất khó, phức tạp, chưa có một mô hình cụ thể trên thực tế, ngay cả trong chính sách
kinh tế mới của Lênin, kinh tế TBCN cũng chỉ thể hiện trên quan điểm lý luận,
chưa trở thành hiện thực đầy đủ ở Liên Xô lúc đó. Vì vậy, cần phải có quan điểm
nhất quán, mạnh dạn, quyết tâm thực hiện, vừa vào tổng kết rút kinh nghiệm vừa bổ
sung hoàn thiện hơn về mặt lý luận. Bên cạnh đó, phải biết kết hợp với nhiều biện
pháp khác về kinh tế, hành chính, luật pháp, văn hoá tư tưởng. Chúng ta sẽ hoà
nhập nhanh vào nền kinh tế thế giới, khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế, giữ vững
độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
D. Danh mục tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, NXB CTQG
2. VI. Lê nin : bàn về thuế lương thực, toàn tập, NXB Tiến bộ, Mát - Xcơ - va
1984 tập 43.
V.I Lê Nin : Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của ban giáo dục
chính trị. Toàn tập, NXB Tiến Bộ, Mat - Xcơ -va, 1984, tập 44
V.I Lênin toàn tập : tập 32,45,34
3. Tạp chí cộng sản, số 8 tháng 7/1995
Tạp chí cộng sản số 9 tháng 9/1992
Tạp chí cộng sản các số 1,6,19,21,24 năm 1998 và các số 2,8, năm 1999.
4. Vũ Hữu Ngoạn -Khổng Doãn Hợi, một số vấn đề về chủ nghĩa tư bản nhà
nước, NXB CTQG 1993.
5. Niên giám của Tổng cục Thống kê các năm 1997, 1998 và các báo cáo số
liệu về điều tra khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
6. Các mác - ph Ănghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia năm 1995, tập 4.
7. Tạp chí nghiên cứu lý luận số 3, 3/1998, số 5/1998.
Mục lục
A: lời mở đầU. ......................................................................................................... 1
B: Phần lý luận chung ............................................................................................. 3
I/ Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH. ................................................................................................................... 3
1. Hình thức kinh tế tư bản nhà nước. ............................................................. 3
2. Chủ nghĩa cộng sản thời chiến và thực chất của chính sách kinh tế mới. .. 4
2.1) Chính sách công sản thời chiến. ............................................................... 4
2.2) Chính sách kinh tế mới về sự cần thiết sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. .................................................... 7
2.2.a) Chính sách kinh tế mới. .................................................................... 7
2.2.b) Thực chất của chính sách kinh tế mới: .............................................. 8
2.2.c) Biểu hiện cụ thể về việc sử dụng chính sách này ............................. 13
2.2.c1:Bàn về thuế lương thực: ............................................................. 13
2.2.c2) Chính sách kinh tế mới và sự cần thiết sử dụng CNTBNN. ....... 14
3. CNTBNN trong nhà nước vô sản. .............................................................. 14
4> Vai trò của CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ........................... 23
4.1. CNTBNN tạo đIều kiện khai thác các nguồn lực trong nước. ................. 23
4.2 CNTBNN tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH-HĐH. .......................................................................................... 24
4.3 CNTBNN là hình thức tốt nhất để kết hợp ngoại lực với nội lực. ............ 25
5.ĐIều kiện cần có để sử dụng tư bảnnước ngoài. ........................................ 26
6. Kết quả thực hiện CNTBNN thời Lênin , những kinh nghiệm ban đầu. . 27
6.1. Sử dụng CNTBNN ở nước Nga Xô Viết. ............................................... 27
6.2> Sử dụng CNTBNN ở một số nước Đông Âu. ........................................ 28
6.3. Sử dụng CNTBNN ở những nước đang phát triển. ................................. 29
II. Sự vận dụng lý luận của Lênin về CNTBNN ở Việt Nam ............................ 29
1. Sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế TBNN ở nước ta ...................... 29
2. Những hình thức cụ thể của kinh tế TBNN đang được vận dụng ở nước
ta ...................................................................................................................... 31
2.1. Góp vốn cổ phần. ................................................................................... 32
2.2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh ................................................................ 32
2.3. Đầu tư 100% vốn nước ngoài. ............................................................... 32
2.4. Ngoài ba hình thức kể trên, trong luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam
còn cho phép các hình thức khác như : đầu tư, kinh doanh, chuyển
giao BOT. Những hình thức này đã được áp dụng, nhưng còn đang
thăm dò, thử nghiệm nên tỷ trọng nhỏ chưa đáng kể............................. 32
3. Những tồn tại và hạn chế chủ yếu trong phát triển và hoạt động của thành
phần kinh tế TBNN. ............................................................................. 33
4. Những giải pháp nhằm phát triển có hiệu quả thành phần kinh tế
TBNN. .............................................................................................................. 34
4.1. Về nhận thức : ........................................................................................ 34
4.2. Những giải pháp về chính sách và luật pháp ........................................... 34
4.3. Giải pháp về tạo dựng điều kiện cơ sở hạ tầng cho kinh doanh .............. 35
4.4. Phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của thành phần kinh tế
TBNN .................................................................................................. 36
4.5. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước .................................................. 36
C. Phần kết luận ...................................................................................................... 38
D. Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................. 39