BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
VŨ THỊ XUÂN THƠ
NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế Mã số: 60.31.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Quy HÀ NỘI - 2004
MỤC LỤC
Phần mở đầu
Chương 1 Tổng quan về dịch vụ tài chính 1.1. Trang 4 4
1.1.1 1.1.2 1.1.3 1.1.4 4 6 7 10
1.2 12
1.2.1 12
1.2.1.1 12
1.2.1.2 16
1.2.1.3 16
1.2.2 17
1.2.2.1 17
1.2.2.2 22
Những vấn đề cơ bản về dịch vụ tài chính và vai trò của nó đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Khái niệm dịch vụ tài chính Đặc điểm của dịch vụ tài chính Các loại hình dịch vụ tài chính Vai trò của các dịch vụ tài chính đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân Những yêu cầu hội nhập kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và những cam kết của Việt nam Những yêu cầu hội nhập kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ tài chính Những quy định của GATS đối với thị trường dịch vụ tài chính Những quy định trong Hiệp định khung về Hợp tác dịch vụ của ASEAN đối với thị trường dịch vụ tài chính Những quy định trong Hiệp định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ đối với thị trường dịch vụ tài chính Những cam kết của Việt nam trong các Hiệp định về lĩnh vực dịch vụ tài chính Cam kết về dịch vụ tài chính của Việt Nam trong Hiệp định khung về Hợp tác dịch vụ của ASEAN Cam kết về dịch vụ tài chính trong Hiệp định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ
Chương 2. Thực trạng thị trường dịch vụ tàI chính việt nam trong những 28
2.1 2.2 2.2.1 năm gần đây Khái quát chung về thị trường dịch vụ tài chính Việt nam Thực trạng thị trường dịch vụ bảo hiểm Những thành tựu đạt được 28 29 30
2.2.2 2.2.3 2..2.4 37 41 43
2.3 2.3.1 2.3.2 2.3.3 2.3.4 48 50 58 62 64
Một số vấn đề còn tồn tại Nguyên nhân của những tồn tại Những bất cập của thị trường dịch vụ bảo hiểm so với yêu cầu hội nhập quốc tế Thực trạng thị trường dịch vụ ngân hàng Những thành tựu đạt được Một số vấn đề còn tồn tại Nguyên nhân của những tồn tại Những bất cập của thị trường dịch vụ ngân hàng so với yêu cầu hội nhập quốc tế
70
3.1 70
3.1.1 3.1.2 3.1.3 3.2 70 73 75 79
3.2.1 3.2.1.1 3.2.1.2 3.2.2 3.3 79 79 81 83 87
Chương 3 CÁC GIảI PHÁP NHằM PHÁT TRIểN THị TRườNG DịCH Vụ TÀI CHÍNH VIệT NAM đÁP ứNG YêU CầU HộI NHậP KINH Tế QUốC Tế Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển thị trường dịch vụ tài chính Thái Lan Singapore Các bài học kinh nghiệm rút ra Định hướng, giải pháp phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế Định hướng phát triển dịch vụ bảo hiểm Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ bảo hiểm Các định hướng chủ yếu Giải pháp phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm Định hướng, giải pháp phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế Định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ ngân hàng Các định hướng chủ yếu Các giải pháp phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng Nhãm gi¶i ph¸p ®èi víi Ng©n hµng Nhµ n íc Nhãm gi¶i ph¸p ®èi víi c¸c ng©n hµng th ¬ng m¹i 3.3.1 3.3.1.1 3.3.1.2 3.3.2 3.3.2.1 3.3.2.2 87 87 90 90 90 92
KÕt luËn
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện Luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ hỗ trợ của
các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp.
Nhân dịp hoàn thành bản Luận văn, tôi xin đặc biệt bầy tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Quy - người đã chỉ bảo tận tâm, nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện Luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn các các cô chú, anh chị ở Bộ tài chính, Bộ thương mại,
Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Ngoại thương đã hỗ trợ tài liệu - một phần
không thể thiếu để bản Luận văn được hoàn chỉnh.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp, gia đình đã
hỗ trợ, ủng hộ về tinh thần để tôi có thể hoàn thành Luận văn.
Do hạn chế về năng lực và thời gian nghiên cứu, Luận văn chắc chắn không
tránh khỏi những sai sót, tác giả rất mong được sự góp ý chỉ bảo của thầy cô và
các bạn bè đồng nghiệp.
Hà nội, ngày 20 tháng 6 năm 2004
Tác giả
Vũ Thị Xuân Thơ
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Tổ chức Thương mại Thế giới WTO
Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ GATS
Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ BTA
Hiệp định khung về hợp tác dịch vụ ASEAN AFAS
Quy chế Đãi ngộ Tối huệ quốc MFN
Quy tắc Đãi ngộ quốc gia NT
Ngân hàng Nhà nước NHNN
Ngân hàng Thương mại NHTM
Ngân hàng Thương mại Quốc doanh NHTMQD
Ngân hàng Thương mại Cổ phần NHTMCP
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam VCB
INCOMBANK Ngân hàng Công thương
Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn VBARD
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển BIDV
Tổ chức tín dụng TCTD
Tổng sản phẩm Quốc nội GDP
Tổ chức tài chính TCTC
Bảo hiểm nhân thọ BHNT
Bảo hiểm phi nhân thọ BH PHI NT
Ngân hàng thương mại cổ phần á châu ACB
Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu EXIM
Ngân hàng United Overseas Bank Singapore UOB
Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á EAB
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Tên bảng Trang
2.1 Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh bảo hiểm 31
2.2 Danh sách các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường bảo 34
hiểm Việt Nam (tính đến ngày 30/11/2003)
2.3 Cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1990 - 2003 48
2.4 Doanh số thanh toán thẻ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 55
2.5 Tỷ trọng giữa cho vay so với vốn huy động giai đoạn 1994-2003 61
2.6 Tình hình huy động vốn của hệ thống ngân hàng 61
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ Tên biểu đồ Trang
2.1 Doanh thu phí bảo hiểm giai đoạn 1993 - 2003 31
2.2 Tỷ trọng doanh thu PBH/GDP giai đoạn 1993 - 2003 32
2.3 So sánh doanh thu PBH nhân thọ và phi NT 35
2.4 So sánh doanh thu PBH/GDP một số nước năm 2001 38
2.5 Tỷ trọng dư nợ tín dụng tính đến 31/12/2003 50
2.6 Thị phần thẻ ATM của ngân hàng Ngoại thương Việt nam 55
năm 2003 so với các ngân hàng khác
2.7 Thị phần thẻ tín dụng quốc tế của ngân hàng Ngoại thương 56
Việt nam năm 2003 so với các ngân hàng khác
2.8 Doanh số bảo lãnh vốn vay trong nước và nước ngoài của 4 57
NHTMNN giai đoạn 1998 - 2002
- 1 -
PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
1.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ phải thực hiện nhiều
cam kết trong các Hiệp định như Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp
định khung về hợp tác dịch vụ ASEAN và Hiệp định chung về thương mại dịch
vụ (GATS) khi Việt Nam tham gia vào WTO. Một trong những nội dung quan
trọng của các cam kết đó là tận dụng mọi ngoại lực, phát huy hết mọi nội lực để
xây dựng một thị trường dịch vụ tài chính vững mạnh. Tuy nhiên tại Việt Nam,
thị trường dịch vụ tài chính phát triển còn chậm. Cho đến nay, một số yếu tố của
thị trường còn chưa đầy đủ, hàng hoá đơn điệu, các quy định pháp lý chưa đủ và
đồng bộ, do vậy chưa huy động được tối đa nguồn lực trong xã hội cho đầu tư.
Chính vì thế mà thị trường này chưa phát huy được đầy đủ vai trò của nó đối với
nền kinh tế. Do đó, việc đánh giá thực trạng thị trường dịch vụ tài chính trong
những năm qua nhằm tìm ra các hạn chế, khó khăn cùng các nguyên nhân làm
cho thị trường dịch vụ tài chính còn chậm phát triển, trên cơ sở đó đề xuất các
giải pháp nhằm phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt nam đáp ứng yêu cầu
2.
hội nhập kinh tế quốc tế là hết sức cần thiết.
Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, đã có nhiều đề tài, nhiều công trình khoa học
tập trung nghiên cứu thị trường dịch vụ tài chính. Ví dụ: Đề tài khoa học cấp Bộ
“Dịch vụ Bảo hiểm và ngân hàng của Việt nam. Những vấn đề đặt ra trong quá
trình đàm phán và thực hiện các cam kết với WTO” do TS. Nguyễn Thị Quy làm
chủ nhiệm đề tài và một số các đề tài mà các sinh viên các trường Đại học khối
kinh tế chọn viết Khóa luận tốt nghiệp.
- 2 -
Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về
cơ sở lý luận và thực tiễn của thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam đáp ứng yêu
3. Mục đích nghiên cứu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động, những hạn chế của thị trường
dịch vụ tài chính Việt Nam trong những năm gần đây, luận văn phân tích các
nguyên nhân làm cho thị trường dịch vụ tài chính còn chậm phát triển nhằm đề
xuất các giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt nam đáp ứng yêu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
- Làm rõ cơ sở lý luận về dịch vụ tài chính và vai trò của nó đối với sự phát
triển nền kinh tế quốc tế.
- Đánh giá thực trạng thị trường dịch vụ tài chính trong những năm gần đây:
những kết quả đạt được, những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó.
- Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng thị trường dịch vụ tài chính ở
Việt Nam trong những năm gần đây và những nội dung yêu cầu nhằm phát triển
thị trường dịch vụ tài chính đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Luận văn
cũng sẽ nghiên cứu thị trường dịch vụ tài chính của một số nước trên thế giới.
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
Khái niệm dịch vụ tài chính là một khái niệm rộng, theo cách hiểu của
GATS, dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến
bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm)
- 3 -
nhưng Luận văn chỉ giới hạn trong việc đánh giá thực trạng thị trường dịch vụ
6.
bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng, kết hợp với
các lý luận, quan điểm kinh tế, tài chính và định hướng phát triển kinh tế tài
chính của Nhà nước để phân tích, đánh giá hoạt động thị trường dịch vụ tài chính
Việt nam.
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
7.
thống kê và xuất phát từ thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.
Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục Luận văn gồm 3 chương
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.
Chương 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VIỆT NAM
VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
Danh mục tài liệu tham khảo
- 4 -
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VÀ VAI
TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ QUỐC
DÂN.
.1.1
Khái niệm dịch vụ tài chính
Muốn hiểu được khái niệm dịch vụ tài chính, trước hết chúng ta cần
phải làm rõ khái niệm dịch vụ.
Về khái niệm dịch vụ, theo quan niệm phổ biến được dùng ở Việt nam
thì đó là hoạt động kinh tế tuy không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất
cho xã hội nhưng tạo ra giá trị thặng dư do khai thác sức lao động, tri
thức, chất xám của con người đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc
thỏa mãn nhu cầu của con người và là một thành tố quan trọng đóng góp
vào GDP. Dịch vụ là sản phẩm lao động có hàm lượng tri thức cao của
con người, kết tinh các hoạt động đa dạng trên các lĩnh vực như kinh tế,
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kế toán, tư vấn…
Cùng với sự vận động, phát triển nhanh chóng của nền kinh tế với sự
trợ giúp của khoa học và công nghệ trong quá trình hội nhập khu vực và
quốc tế, lĩnh vực thương mại dịch vụ cũng có những bước phát triển vượt
bậc, do vậy đòi hỏi phải tiếp cận khái niệm dịch vụ bằng cách khác, thống
nhất với các quốc gia và các tổ chức quốc tế mà chúng ta đang xúc tiến
hội nhập, tập trung vào cách tiếp cận của WTO và Hiệp định thương mại
Việt nam - Hoa Kỳ. Nhưng trên thực tế thì WTO không đưa ra một khái
niệm cụ thể về dịch vụ, thay vào đó các khoản mục dịch vụ được phân
tách theo nội dung và cách thức thực hiện chúng thông qua việc dẫn chiếu
các ngành dịch vụ tới bảng phân loại hàng hóa trung tâm của Liên hiệp
quốc. Bởi dịch vụ là khái niệm tương đối trừu tượng nên việc xác định các
phương thức giao dịch phức tạp hơn nhiều so với thương mại hàng hoá,
có thể là dịch vụ di chuyển qua biên giới tức là việc di chuyển độc lập với
- 5 -
người cung cấp và người tiêu dùng; khách hàng di chuyển qua biên giới
để nhận dịch vụ được cung cấp; người sản xuất di chuyển qua biên giới để
cung cấp dịch vụ qua việc thành lập cơ sở thương mại hoặc người cung
cấp dịch vụ chỉ di chuyển tạm thời qua biên giới . Chính vì vậy, GATS
quy định rằng thương mại dịch vụ được định nghĩa như là việc cung cấp
dịch vụ thông qua các phương thức (MODE) sau:
Phƣơng thức 1 (Cung cấp qua biên giới): dịch vụ được cung cấp từ
lãnh thổ của một thành viên tới lãnh thổ của bất kỳ một thành viên nào
khác.
Phƣơng thức 2 (Tiêu dùng ở nƣớc ngoài): dịch vụ được cung cấp
trên lãnh thổ của một thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ
một thành viên nào khác. Phương thức này thường được đưa ra dưới dạng
“sự di chuyển của người tiêu dùng”
Phƣơng thức 3 (Hiện diện thƣơng mại): dịch vụ được cung cấp bởi
một người cung cấp dịch vụ của một thành viên, thông qua sự hiện diện
thương mại trên lãnh thổ của bất kỳ một thành viên nào khác. Hiện diện
thương mại không chỉ bao gồm sự hiện diện của pháp nhân mà còn có
những tổ chức có tính pháp lý. Hiện diện thương mại có thể là thành lập
các chi nhánh hay đại lý để cung cấp các dịch vụ như ngân hàng, tư vấn
pháp lý hay truyền thông.
Phƣơng thức 4: (Hiện diện thể nhân): dịch vụ được cung cấp bởi
một người cung cấp dịch vụ của một thành viên thông qua sự hiện diện
của thể nhân trên lãnh thổ của bất kỳ thành viên nào khác.
Khái niệm dịch vụ tài chính
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn tài chính được chuyển từ người
cung cấp tài chính đến người cầu tài chính bằng con đường trực tiếp, hoặc
con đường gián tiếp qua các trung gian tài chính hoặc trung gian môi giới.
Các trung gian này thực thi các dịch vụ tài chính. Theo cách hiểu này, các
hoạt động giao dịch tài chính được thực hiện qua các trung gian (bao gồm
- 6 -
cả trung gian tài chính và trung gian môi giới) được gọi là dịch vụ có tính
chất tài chính. Và nơi diễn ra những hoạt động có tính chất tài chính đó
được gọi là thị trường dịch vụ tài chính.
Theo tổ chức thương mại thế giới (WTO): Một dịch vụ tài chính là
bất cứ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ
tài chính cung cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và
dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài
chính khác (ngoại trừ bảo hiểm). 21
1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ tài chính
Dịch vụ tài chính có những đặc điểm chung là:
- Tính vô hình: là đặc điểm chính để phân biệt sản phẩm dịch vụ tài chính
với các sản phẩm của ngành sản xuất vật chất khác trong nền kinh tế quốc
dân. Chính đặc điểm này làm cho việc đánh giá chất lượng sản phẩm dịch
vụ tài chính trở nên khó khăn ngay cả khi khách hàng đang sử dụng
chúng. Từ đặc tính vô hình của sản phẩm nên trong kinh doanh phải dựa
vào lòng tin, các nhà cung cấp dịch vụ thường chú ý đến việc củng cố
niềm tin đối với khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng
cao hình ảnh uy tín, tạo điều kiện để khách hàng tham gia vào hoạt động
tuyên truyền cho tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính đó.
- Tính không thể tách biệt hay không thể chia cắt: quá trình cung cấp
dịch vụ tài chính và quá trình tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời và có sự
tham gia của khách hàng. Mặt khác quá trình cung ứng dịch vụ này được
tiến hành theo những quy trình nhất định. Sản phẩm dịch vụ tài chính
không có sản phẩm dở dang, dự trữ lưu kho mà sản phẩm được cung cấp
trực tiếp cho người sử dụng khi và chỉ khi khách hàng có nhu cầu. Đặc
tính này sẽ chi phối khi xác định giá (lãi, phí) của dịch vụ tài chính - kế
toán cung cấp cho người sử dụng dịch vụ tồn tại và phát triển, tổ chức
cung ứng dịch vụ cũng tồn tại và phát triển bền vững.
- 7 -
- Tính không ổn định và khó xác định: Một sản phẩm dịch vụ tài chính
dù lớn hay bé (xét về quy mô) đều không đồng nhất thời gian thực hiện,
cách thức thực hiện, điều kiện thực hiện, vì vậy rất khó xác định. Một sản
phẩm dịch vụ tài chính được cấu thành bởi nhiều yếu tố như công nghệ,
trình độ cán bộ, khách hàng.. Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp tới
chất lượng dịch vụ, nhưng lại thường xuyên biến động. Vì vậy nó không
ổn định, khó xác định chính xác.
1.1.3 Các loại hình dịch vụ tài chính
Theo nghĩa rộng, dịch vụ tài chính gồm tất cả các dịch vụ có tính chất
tài chính. Như vậy, dịch vụ tài chính bao gồm các phân ngành dịch vụ
như: phân ngành dịch vụ tài chính (gồm các dịch vụ bảo hiểm; kế toán,
kiểm toán, tư vấn tài chính; dịch vụ chứng khoán và một số dịch vụ hỗ trợ
khác); phân ngành dịch vụ ngân hàng.
Tuy nhiên theo tiêu chí về tổ chức quản lý, phạm vi của dịch vụ tài
chính còn được hiểu theo nghĩa hẹp hơn và chỉ bao gồm các các dịch vụ
thuộc phân ngành dịch vụ tài chính, đó là dịch vụ bảo hiểm; dịch vụ ngân
hàng; dịch vụ kế toán, kiểm toán; dịch vụ tư vấn tài chính (chủ yếu là tư
vấn thuế); dịch vụ chứng khoán.
Những ngành dịch vụ này hiện nay do nhiều ngành khác nhau quản lí.
Ví dụ tại Việt Nam, ngành dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ kế toán - kiểm
toán do Bộ tài chính quản lí, dịch vụ ngân hàng do ngân hàng nhà nước
quản lý. Trong quá trình nhà nước sử dụng công cụ tài chính tiền tệ để
điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô, các ngành dịch vụ này có mối quan hệ chặt
chẽ và tác động bổ trợ lẫn nhau, vì vậy nếu chỉ nhìn nhận dịch vụ tài
chính theo nghĩa hẹp như nêu trên là không đầy đủ. Tuy nhiên việc đánh
giá dịch vụ tài chính theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các phân ngành dịch
vụ tài chính đòi hỏi phải có sự phối hợp liên ngành. Mặt khác, hiện nay
vẫn còn có những ý kiến khác nhau về việc sắp xếp dịch vụ chứng khoán
thuộc phân ngành dịch vụ nào (tài chính hay ngân hàng) hay là một phân
- 8 -
ngành dịch vụ riêng. Do đó, Luận văn chỉ dành tập trung đề cập đến hai
loại hình dịch vụ chủ yếu: đó là dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng.
Theo WTO - phụ lục G quy định các loại hình dịch vụ bảo hiểm và
bảo hiểm ngân hàng như sau:
Dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm:
Bảo hiểm trực tiếp nhân thọ;
Bảo hiểm phi nhân thọ;
Tái bảo hiểm và tái nhượng bảo hiểm;
Bảo hiểm qua trung gian như môi giới và đại lý.
Dịch vụ Ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo
hiểm):
Chấp nhận tiền gửi hoặc đặt cọc và các khoản quỹ có thể thanh toán
khác của công chúng;
Mọi loại hình cho vay, kể cả tín dụng người tiêu dùng, tín dụng cầm
đồ, cầm cố, dịch vụ về hoá đơn và tài trợ của các giao dịch thương
mại;
Thuê mua tài chính.
Mọi dịch vụ thanh toán và chuyển tiền;
Bảo lãnh và cam kết.
Thương vụ tiến hành tự chịu chi phí hoặc nhân danh khách hàng, dù
tại sở giao dịch và trên thị trường không chính thức hoặc các giao dịch
khác về: công cụ thị trường tiền tệ (kể cả séc, hoá đơn, giấy chứng
nhận tiền gửi); ngoại hối; các công cụ dẫn xuất nhưng không hạn chế
bởi các giao dịch kỳ hạn hoặc quyền giao dịch; tỷ giá hối đoái và các
công cụ về lãi suất, kể cả các công cụ như là giao dịch swap, thoả
- 9 -
thuận tỷ giá kỳ hạn; chứng từ có thể chuyển nhượng; các công cụ có
thể chuyển nhượng khác và tài sản tài chính, kể cả kim khí quý.
Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả việc bảo
hiểm phát hành và với hoạt động đại lý (dù theo cách công hoặc tư
nhân) và cung cấp dịch vụ liên quan tới những vấn đề trên.
Môi giới tiền tệ.
Quản lý tài sản có, như là tiền mặt hoặc quản lý danh mục đầu tư gián
tiếp, mọi hình thức quản lý đầu tư tập thể, quản lý quĩ hưu trí, hùn
vốn, góp vốn và dịch vụ tín thác.
Dịch vụ thanh toán hoặc thanh toán bù trừ về tài sản tài chính, kể cả
chứng khoán, các công cụ dẫn xuất và các công cụ có thể chuyển
nhượng khác;
Cung cấp và chuyển thông tin về tài chính, và xử lý dữ liệu tài chính
và phần mềm liên quan do các người cung cấp dịch vụ tài chính thực
hiện;
Các dịch vụ về tư vấn, trung gian và bổ trợ về tài chính về mọi mặt
hoạt động đã nêu trên, kể cả tham chiếu và phân tích tín dụng, nghiên
cứu và tư vấn về đầu tư và đầu tư gián tiếp, tư vấn mua sắm và về cơ
cấu lại hoặc chiến lược dịch vụ.
Tuy nhiên, theo phụ lục của Hiệp định GATS về dịch vụ tài chính, một
dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một
người cung cấp dịch vụ tài chính của một Thành viên cung cấp. Dịch vụ
tài chính không bao gồm “dịch vụ được cung cấp khi thi hành quyền hạn
của cơ quan chính phủ”. “Dịch vụ được cung cấp khi thi hành quyền hạn
của cơ quan chính phủ” trong dịch vụ tài chính được hiểu như sau:
a. Các hoạt động được tiến hành bởi Ngân hàng Trung ương, tổ chức
tiền tệ hoặc bởi bất kỳ một pháp nhân công cộng nào thực hành
chính sách tài chính và chính sách tỷ giá hối đoái;
- 10 -
b. Các hoạt động tạo thành một bộ phận của hệ thống luật pháp về an
ninh xã hội hay các chương trình hưu trí công;
c. Các hoạt động khác do một pháp nhân công cộng tiến hành do
Chính phủ chịu chi phí, đảm bảo hoặc sử dụng nguồn tài chính của
Chính phủ.
Nhưng nếu một thành viên cho phép bất kỳ một hoạt động nào được
nêu tại điểm b hoặc c được người cung cấp dịch vụ tài chính của mình
tiến hành và cạnh tranh với một pháp nhân công cộng hoặc một người
cung cấp dịch vụ tài chính thì thuật ngữ “dịch vụ” vẫn được hiểu là bao
gồm những hoạt động đó.
Pháp nhân “công cộng” trong khuôn khổ WTO được hiểu là:
Chính phủ, Ngân hàng Trung ương hoặc một tổ chức tài chính của một
Thành viên, hoặc một thực thể do một Thành viên sở hữu hoặc kiểm
soát, chủ yếu tiến hành chức năng chính phủ hoặc các hoạt động vì
mục đích của Chính phủ, không bao gồm pháp nhân chủ yếu cung cấp
những dịch vụ tài chính trên cơ sở những điều kiện thương mại; hoặc
Một pháp nhân tư nhân, thực hiện các chức năng mà thông thường vẫn
do một Ngân hàng trung ương hoặc tổ chức tiền tệ, khi thực hiện các
chức năng này.
.1.4 Vai trò của các dịch vụ tài chính đối với sự phát triển
nền kinh tế quốc dân
Dịch vụ nói chung và các dịch vụ hạ tầng nói riêng là tiền đề không
thể thiếu cho phát triển kinh tế, trong đó dịch vụ tài chính có vai trò đặc
biệt quan trọng vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến các vấn đề đặt ra đối với tất
cả các nhà đầu tư trong suốt quá trình hoạt động, từ khâu chuẩn bị đầu tư
cho đến quá trình tổ chức hoạt động và kết thúc dự án đầu tư (vấn đề vốn,
ổn địch sản xuất kinh doanh, tổ chức quản lý..). Vì vậy, phát triển và nâng
cao khả năng cạnh tranh của dịch vụ tài chính có ý nghĩa cực kỳ quan
- 11 -
trọng đối với phát triển và nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh
tế vì cũng như các dịch vụ hạ tầng khác, ở đây dịch vụ tài chính được xem
như đầu vào của tất cả các ngành sản xuất. Có thể khẳng định, hiệu quả và
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế chỉ có thể nâng lên khi các ngành sản
xuất trong nền kinh tế có thể tiếp cận được các đầu vào có chất lượng cao
và chi phí thấp.
Dịch vụ tài chính có những vai trò sau:
Quản lý rủi ro
Bằng việc định giá các rủi ro trong việc cung cấp dịch vụ tài chính,
các tổ chức tài chính đã tạo ra cơ chế tập hợp, giảm thiểu và chuyển giao
rủi ro. Chẳng hạn với việc tạo ra các công cụ tài chính hấp dẫn như gửi
tiền không kỳ hạn, các hợp đồng lựa chọn (options), hợp đồng tương lai
(future), các tổ chức trung gian tài chính có thể giúp cho các tổ chức, cá
nhân quản lý rủi ro có hiệu quả, qua đó thúc đẩy mối quan hệ tương tác
giữa người tiết kiệm và người đầu tư. Đối với loại rủi ro gây tổn thất trực
tiếp cho tài sản và con người, thường sử dụng dịch vụ bảo hiểm. Bằng
những dịch vụ bảo hiểm khác nhau cung cấp cho các tổ chức và cá nhân,
các công ty bảo hiểm đã tạo ra cho những chủ thể này phương sách hữu
hiệu để quản lý rủi ro. Như vậy, phát triển dịch vụ tài chính không những
trực tiếp giảm thiểu rủi ro mà gián tiếp cung cấp các công cụ để tập hợp,
trao đổi và phòng tránh rủi ro cho từng chủ thể trong nền kinh tế.
Thẩm định và phân bổ hiệu quả vốn đầu tƣ
Để thẩm định các công ty hoặc các dự án là công việc khó khăn và tốn
kém đối với những người đầu tư do không có phương tiện thu thập, xử lý
thông tin về doanh nghiệp, thị trường và các điều kiện kinh tế. Trong bối
cảnh đó, các trung gian tài chính khi cung cấp dịch vụ tài chính đã có khả
năng tốt hơn trong việc thu nhập, thẩm định thông tin, đánh giá và phân
bổ vốn. Như vậy, những chủ thể đầu tư khác có thể dựa vào kết quả đánh
- 12 -
giá của các trung gian tài chính để đầu tư tiết kiệm, phân bổ vốn một cách
có hiệu quả hơn, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế
Trong việc cung cấp dịch vụ tài chính, các tổ chức trung gian tài chính
thường bắt buộc khách hàng phải thực hiện sao cho có lợi nhất cho các cổ
đông, các chủ nợ. Nói cách khác, các trung gian tài chính giúp những
người tiết kiệm giám sát những người đi vay bằng việc kiểm soát chặt chẽ
các hoạt động của các tổ chức này. Việc giám sát tốt hoạt động của những
người đi vay sẽ tạo điều kiện phân bổ vốn hiệu quả. Vì những người có
tiết kiệm sẽ tin tưởng và tăng cường đầu tư, qua đó sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế dài hạn.
Huy động vốn để tài trợ cho nền kinh tế
Sự phát triển của dịch vụ tài chính sẽ mang lại hiệu ứng quan trọng
nhất là huy động các nguồn lực trong xã hội cho việc tài trợ các dự án,
cung cấp vốn cho thị trường tài chính. Việc huy động vốn trên phạm vi
rộng lớn của các tổ chức trung gian tài chính được thực hiện thông qua sự
huy động tiết kiệm của các ngân hàng thương mại, việc thu phí qua phát
hành các hợp đồng bảo hiểm và thông qua việc huy động vốn của thị
trường chứng khoán.
Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển mậu dịch
Các dịch vụ tài chính hiện đại hơn như séc, thẻ tín dụng và các cơ chế
thanh toán đã tạo ra sự đơn giản hoá cho các hoạt động trao đổi mậu dịch,
làm cho trao đổi mậu dịch trở nên dễ dàng hơn và nhờ đó sẽ kích thích sự
phát triển của cả nền kinh tế.
.2 NHỮNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC
DỊCH VỤ TÀI CHÍNH NÓI CHUNG VÀ NHỮNG CAM KẾT CỦA
VIỆT NAM
- 13 -
.2.1 Những yêu cầu hội nhập kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ
tài chính
1.2.1.1 Những quy định của GATS đối với thị trường dịch
vụ tài chính
Các nước xin gia nhập WTO trong lĩnh vực thương mại dịch vụ đều
phải đưa ra các cam kết của mình về các vấn đề liên quan đến tự do hoá
thương mại dịch vụ theo hướng giảm nhẹ dần, tiến tới xoá bỏ các hạn chế
và phân biệt đối xử, nhằm đảm bảo cho tất cả các nhà cung cấp dịch vụ
trong nước cũng như ngoài nước những cơ hội và điều kiện như nhau để
tiếp cận thị trường. Trong Thoả thuận về Các cam kết trong Dịch vụ Tài
chính được quy định tại Phần III của GATS việc tiếp cận thị trường đối
với 2 khu vực dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm có thể được thực hiện theo
4 phương thức như đã trình bày ở trên: phương thức cung cấp dịch vụ qua
biên giới, tiêu dùng ở nước ngoài, hiện diện thể nhân hoặc hiện diện
thương mại.
Những quy định của GATS có ảnh hưởng đến dịch vụ tài chính bao
gồm hai nhóm chủ yếu:
• Nhóm thứ nhất là các quy định ràng buộc chung theo Hiệp định
bao gồm các quy tắc chung áp dụng cho mọi loại dịch vụ và những quy
tắc bổ sung cụ thể áp dụng cho riêng lĩnh vực dịch vụ tài chính. Các quy
tắc chung sẽ áp dụng một cách tự động không phụ thuộc vào cam kết. Các
quy tắc này được coi như những nguyên tắc của GATS bao gồm: nguyên
tắc tối huệ quốc (MFN), nguyên tắc đối xử quốc gia (NT), nguyên tắc tiếp
cận thị trường, minh bạch hoá chính sách, mở cửa thị trường.
Nguyên tắc đối xử quốc gia
Điều XVII của GATS quy định “đối với những lĩnh vực dịch vụ
được ghi trong danh mục cam kết, khi áp dụng bất kỳ biện pháp nào tác
động đến việc cung cấp dịch vụ, mỗi thành viên sẽ dành cho dịch vụ và
- 14 -
người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác, sự đối xử không
kém phần thuận lợi hơn sự đối xử mà thành viên đó dành cho dịch vụ và
người cung cấp dịch vụ của chính mình”. Do đó, các thành viên phải đưa
ra danh mục các lĩnh vực có thể áp dụng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
cùng với những điều kiện hay hạn chế, nếu có. Nguyên tắc đãi ngộ quốc
gia chỉ áp dụng cho những lĩnh vực dịch vụ có trong danh mục cam kết.
Các thành viên cũng có thể liệt kê các giới hạn hoặc những trường hợp
chưa thể thực hiện nguyên tắc đãi ngộ quốc gia được theo từng phương
thức cung cấp dịch vụ.
Nguyên tắc tối huệ quốc
Nguyên tắc này đòi hỏi một nước thành viên phải ngay lập tức và vô
điều kiện dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành
viên nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà thành
viên đó dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ
nước nào khác.
Nguyên tắc minh bạch hoá hệ thống chính sách liên quan đến
dịch vụ tài chính
Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu tất cả các quy định, văn bản pháp lí
liên quan, các điều ước quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ tài chính phải được
công bố, ấn hành công khai; các biện pháp được nước thành viên sử dụng
có liên quan đến dịch vụ tài chính phải được thông báo cho Hội đồng
thương mại dịch vụ của WTO và thông báo ngay khi ban hành những văn
bản mới.
Nguyên tắc tiếp cận thị trƣờng
Nguyên tắc tiếp cận thị trường đòi hỏi các nước thành viên cam kết
dành cho dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ của các thành viên khác sự
đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ theo những điều kiện, điều
khoản và hạn chế đã được thoả thuận và quy định tại Danh mục cam kết
cụ thể, tức là các nước thành viên tuỳ theo khả năng của mình, thông qua
- 15 -
việc điều chỉnh luật lệ, quy định trong nước nhằm mục đích tăng khả năng
thâm nhập thị trường của dịch vụ và người cung cấp dịch vụ nước ngoài
theo 4 phương thức cung cấp dịch vụ của GATS. Một thành viên được coi
là mở cửa thị trường hoàn toàn đối với một khu vực dịch vụ nào đó và
theo một phương thức cung cấp dịch vụ nào đó khi thành viên đó không
duy trì bất kỳ một biện pháp nào hạn chế việc cung cấp dịch vụ như quy
định ở điều XVI GATS. Nếu không mở cửa hoàn toàn tức là mở cửa từng
phần hay mở cửa có điều kiện, giới hạn. Các giới hạn về mở cửa thị
trường mà các nước thành viên đưa ra có thể là các mặt sau đây:
- Hạn chế về số lượng các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trên thị
trường;
- Giới hạn về tổng giá trị dịch vụ giao dịch hoặc tài sản;
- Giới hạn về số lượng các hoạt động dịch vụ hay tổng sản lượng dịch vụ.
- Giới hạn về tổng số các nhân viên nước ngoài trong một khu vực dịch vụ
cụ thể;
- Yêu cầu và hạn chế về các loại hình công ty hay liên doanh;
- Giới hạn về tỷ lệ vốn mà bên nước ngoài đóng góp hoặc tổng vốn đầu tư
nước ngoài.
Các cam kết của các nước thành viên phải được đưa vào “Danh mục
các cam kết cụ thể”. Mỗi danh mục cam kết thường được chia thành hai
cấp độ: các cam kết nền chung cho mọi lĩch vực dịch vụ và những cam
kết cụ thể cho từng khu vực dịch vụ riêng lẻ. Ở mỗi cấp độ, những cam
kết bao gồm 3 phần: giới hạn mức độ mở cửa thị trường, giới hạn áp dụng
đối xử quốc gia và những cam kết bổ sung với các loại, như: cam kết đầy
đủ, cam kết có giới hạn hoặc không (chưa) cam kết.
Cam kết đầy đủ là trường hợp một nước thành viên không áp đặt bất
kỳ một biện pháp nào để giới hạn việc mở cửa thị trường và áp dụng
nguyên tắc đối xử quốc gia. Cam kết có giới hạn là cam kết của các nước
- 16 -
thành viên nhưng có điều kiện, hạn chế về mở cửa thị trường và đãi ngộ
quốc gia. Chưa cam kết là việc một nước thành viên chưa đưa ra cam kết
nào trong một lĩnh vực dịch vụ theo một phương thức cung cấp dịch vụ
nào đó, nghĩa là nước đó được tự do trong việc đưa ra hay duy trì các biện
pháp hạn chế việc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia..
• Nhóm thứ hai là các quy định mang tính chất tự nguyện được tập
hợp trong Bản thoả thuận về các cam kết trong dịch vụ tài chính. Bản thoả
thuận chỉ mang tính chất tự nguyện, tức là chỉ khi một thành viên cam kết
áp dụng bản thoả thuận thì những quy định của bản thoả thuận mới mang
1.2.1.2 Những quy định trong Hiệp định khung về dịch vụ
của ASEAN đối với thị trường dịch vụ tài chính.
tính chất bắt buộc đối với riêng thành viên đó.
Theo quyết định của Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 5 tại
Băng Cốc ngày 15/12/1995, các nước ASEAN đã ký Hiệp định khung về
Hợp tác Dịch vụ ASEAN (AFAS - Asian framework agreement on
Services) với các mục tiêu sau: tăng cường hợp tác về dịch vụ giữa các
thành viên để nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh, đa dạng hoá năng lực
sản xuất, cung cấp và phân phối dịch vụ giữa những người cung cấp dịch
vụ trong khối và ngoài khối ASEAN; xoá bỏ phần lớn các hạn chế đối với
thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên; tự do hoá thương mại dịch
vụ bằng việc mở rộng phạm vi và mức độ tự do hoá mà các nước thành
viên đã cam kết tại GATS với mục tiêu thành lập một khu vực tự do
thương mại dịch vụ ASEAN vào năm 2020.
Cũng giống như GATS, AFAS yêu cầu mỗi nước thành viên đưa ra
một bản lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo hướng phù hợp
nhất với điều kiện quốc gia về việc áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia và
điều kiện tiếp cận thị trường đối với từng loại dịch vụ. Tính pháp lí cuả
AFAS chưa thực sự cao bởi mặc dù trên lí thuyết, một khi các nước thành
viên đưa ra cam kết thì những cam kết này sẽ ràng buộc họ nhưng trên
- 17 -
thực tế thì các cam kết này có thể được điều chỉnh trong từng trường hợp
1.2.1.3 Những quy định trong Hiệp định thương mại Việt
nam - Hoa Kỳ đối với thị trường dịch vụ tài chính.
cụ thể.
Trải qua 8 vòng đàm phán đầy gay go, phức tạp, ngày 13/7/2000
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA - Vietnam America
Bilateral Trade Agreement) đã chính thức được ký kết, đánh dấu bước
ngoặt lớn nhất trong quan hệ kinh tế, chính trị giữa hai nước, mở ra cho
Việt Nam một giai đoạn phát triển kinh tế mới. Đồng thời, nó cũng là một
bước tiến quan trọng cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập toàn cầu để
đạt đến mục đích cuối cùng: gia nhập WTO
BTA cũng chứa đựng những nội dung chủ yếu của GATS, tuy nhiên
trong BTA còn có những cam kết cụ thể của Việt nam về dịch vụ tài chính
và thời điểm thực hiện những cam kết này. Các quy định của Hiêp định có
hiệu lực ngay từ khi hiệp định có hiệu lực mà không cần chờ sửa đổi, bổ
sung các quy định của pháp luật trong nước có liên quan. Như vậy, có thể
nói, trong số những cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ tài chính,
những cam kết trong BTA có tính pháp lí cao nhất, tính ràng buộc chặt
chẽ nhất. Do đó, thực hiện tốt hiệp định này, cánh cửa vào WTO đã gần
như rộng mở đối với Việt nam, vấn đề chỉ còn là nỗ lực của chính chúng
ta.
1.2.2 Những cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định về
lĩnh vực dịch vụ tài chính
1.2.2.1 Cam kết về dịch vụ tài chính của Việt Nam trong Hiệp
định khung về Hợp tác Dịch vụ ASEAN:
Tiến trình đàm phán dịch vụ ASEAN, đặc biệt là dịch vụ tài chính
đã diễn ra khá chậm chạp do phần lớn các nước thành viên đều muốn duy
trì mức bảo hộ cao đối với thị trường dịch vụ này mặc dù theo cơ chế đàm
- 18 -
phán thì các nước đã là thành viên WTO thì phải cam kết cao hơn mức
cam kết tại GATS, còn các nước chưa phải là thành viên thì các cam kết
không được thấp hơn mức đã cho các nước ngoài ASEAN hưởng. Đối với
Việt Nam, mức độ cam kết được xây dựng trên cơ sở cơ chế hiện hành, cụ
thể lấy Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam làm cam kết chung và đưa ra
một số cam kết cụ thể đối với từng ngành dịch vụ riêng biệt.
• Các cam kết chung (Horizontal) được áp dụng cho tất cả các ngành
dịch vụ, kể cả dịch vụ tài chính, có các nội dung chủ yếu sau:
- Hiện diện thương mại của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải
được cơ quan có thẩm quyền cho phép dưới hình thức văn phòng đại diện,
liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Văn phòng đại diện
không được phép tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Các liên
doanh thành lập dưới dạng công ty TNHH và có tư cách pháp nhân theo
Luật Công ty của Việt Nam, tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài không thấp
hơn 30% vốn pháp định của công ty. Thời gian hoạt động của doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài không được vượt quá 50 năm (trong một số
trường hợp đặc biệt thì không được vượt quá 70 năm). Về mặt đãi ngộ
quốc gia, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vào Việt Nam có quyền sở
hữu các tài sản cố định (trừ đất đai) theo thời hạn trong giấy phép kinh
doanh, được phép thuê đất song không được quyền thế chấp đất.
- Hiện diện thể nhân: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
dựa trên yêu cầu phát triển kinh doanh được phép thuê người nước ngoài,
tuy nhiên chỉ cho các vị trí đòi hỏi trình độ quản lý và kỹ thuật mà Việt
Nam chưa đáp ứng được, đồng thời cũng phải đào tạo lao động Việt Nam
thay thế.
•
Cam kết cụ thể cho lĩnh vực dịch vụ tài chính:
Dịch vụ bảo hiểm: Việt Nam tiến hành cam kết trên cả 4 phân ngành
dịch vụ:
- 19 -
(i) dịch vụ bảo hiểm nhân thọ (bao gồm cả bảo hiểm tai nạn và
sức khoẻ);
(ii) dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ;
(iii) dịch vụ tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm (tuy nhiên với
dịch vụ này Việt Nam hầu như "không cam kết" cho cả 4 phương thức
cung cấp);
(iv) dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm.
Đối với 3 phương thức cung cấp (1); (2); (4) hầu như "không cam
kết", riêng phương thức cung cấp thông qua hiện diện thương mại (3) thì
có các hạn chế sau:
Hạn chế về tiếp cận thị trường: -
+ Hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài: cho đến năm
2000, Việt Nam cam kết cho phép thành lập tối đa 5 công ty liên doanh
và/hoặc công ty 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm và các
dịch vụ có liên quan đến bảo hiểm, trong đó tối đa 2 công ty hoạt động
trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, 2 công ty trong lĩnh vực bảo hiểm phi
nhân thọ và 1 công ty trong lĩnh vực môi giới bảo hiểm.
+ Hạn chế về vốn: sau 5 năm kể từ khi có lợi nhuận, các công ty 100%
vốn nước ngoài phải bán lại ít nhất 30% vốn cổ phần của công ty mình
cho các công ty trong nước để nhằm mục đích tạo điều kiện cho các công
ty bảo hiểm trong nước có cơ hội tiếp thu các kỹ thuật nghiệp vụ và công
nghệ bảo hiểm mới; phần vốn góp của bên nước ngoài trong các liên
doanh bảo hiểm không quá 50% vốn điều lệ.
- Hạn chế về đãi ngộ quốc gia:
+ Hạn chế về vốn: vốn pháp định tối thiểu của một công ty liên doanh
bảo hiểm và công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài hoạt động trong lĩnh
vực bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ tương ứng là 2 triệu USD và 5
triệu USD, trong lĩnh vực môi giới bảo hiểm là 100.000 USD và 300.000
- 20 -
USD, trong khi mức vốn pháp định tối thiểu qui định cho các công ty
trong nước tương ứng là 20 tỷ và 1 tỷ đồng.
+ Hạn chế về lĩnh vực hoạt động: doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu
tư nước ngoài không được kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc
(bảo hiểm rủi ro về xây dựng và lắp đặt; bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ
xe cơ giới).
+ Hạn chế về phạm vi hoạt động và đối tượng khách hàng: các công ty
bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được phép thành lập và hoạt động hợp
pháp tại Việt Nam được cung cấp dịch vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm
con người cho các khu vực đầu tư nước ngoài. Trong dịch vụ tái bảo hiểm
và nhượng tái bảo hiểm, dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm, theo tập quán quốc tế,
các công ty bảo hiểm nước ngoài không thường trú tại Việt Nam có thể
trực tiếp cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và
không cần thiết lập hiện diện thương mại trên lãnh thổ Việt Nam. Tổ chức
môi giới tái bảo hiểm phải thu xếp ký kết hợp đồng bảo hiểm, tái bảo
hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam
và chỉ được chuyển dịch vụ ra nước ngoài sau khi chứng minh được rằng
các doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam không
chấp nhận dịch vụ đó. Trong trường hợp tái bảo hiểm cho các tổ chức bảo
hiểm ở nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải tái bảo hiểm
một phần trách nhiệm (hiện nay là 20%) theo hợp đồng tái bảo hiểm đó
cho công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam theo hướng dẫn cụ thể của
Bộ Tài chính
+ Hạn chế về giấy phép: về cơ bản là không có hạn chế, tuy nhiên
công ty bảo hiểm nước ngoài muốn thiết lập hiện diện thương mại tại Việt
Nam thì phải thoả mãn điều kiện là tổ chức kinh tế đang hoạt động hợp
pháp và đang ở trong tình trạng tài chính bình thường ở nước nguyên xứ,
đồng thời ưu tiên cho các công ty bảo hiểm nước ngoài đã được phép mở
văn phòng đại diện thường trú tại Việt Nam.
- 21 -
Dịch vụ ngân hàng: các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác
mà Việt Nam tiến hành cam kết gồm có:
(i) chấp nhận tiền gửi;
(ii) cho vay dưới mọi hình thức;
(iii) dịch vụ cho thuê tài chính;
(iv) các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền.
Đối với 3 phương thức cung cấp (1); (2); (4): Việt Nam "không cam
kết" ngoại trừ những cam kết chung (horizontal), riêng phương thức cung
cấp thông qua hiện diện thương mại (3) thì không cam kết đối với việc
cấp giấy phép lần đầu, ngoài ra có các hạn chế sau:
- Hạn chế về tiếp cận thị trường:
+ Hạn chế về hình thức pháp nhân: tổ chức tín dụng nước ngoài được
phép thiết lập hiện diện thương mại tại Việt Nam theo quyết định của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dưới các hình thức sau: văn phòng đại
diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; ngân hàng liên doanh; công ty cho
thuê tài chính liên doanh; công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước
ngoài (nếu ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính hoặc các công ty
muốn tiến hành kinh doanh cho thuê tài chính thì phải thành lập một Công
ty cho thuê tài chính độc lập).
+ Hạn chế về số vốn: vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước
ngoài không dưới 15 triệu USD; vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng liên
doanh là 10 triệu USD; vốn pháp định tối thiểu của công ty cho thuê tài
chính liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là 5
triệu USD.
+ Hạn chế về phần vốn góp: phần vốn góp của bên nước ngoài trong
ngân hàng liên doanh không được vượt quá 50% vốn điều lệ của ngân
hàng liên doanh đó.
- 22 -
+ Hạn chế về phạm vi hoạt động: các ngân hàng nước ngoài được
phép thành lập chi nhánh tại các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương
và có không quá 1 chi nhánh tại mỗi tỉnh hoặc thành phố này; không được
mở văn phòng đại diện tại những nơi đã mở chi nhánh và không được
thành lập các chi nhánh phụ cho các chi nhánh đó; các chi nhánh ngân
hàng nước ngoài không được thiết lập điểm giao dịch nằm ngoài chi
nhánh dưới bất kỳ hình thức nào.
- Hạn chế về về đãi ngộ quốc gia
+ Hạn chế về tổng giá trị giao dịch: nhận tiền gửi không kỳ hạn bằng
đồng Việt Nam của cá nhân Việt Nam và tổ chức là pháp nhân Việt Nam
không có quan hệ tín dụng với ngân hàng tối đa bằng 25% vốn của ngân
hàng nguyên xứ cấp cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc vốn điều
lệ của ngân hàng liên doanh.
+ Hạn chế về đối tượng khách hàng: chi nhánh ngân hàng nước ngoài
và ngân hàng liên doanh không được nhận tiền gửi có kỳ hạn bằng đồng
Việt Nam và tiền gửi bằng ngoại tệ của các thể nhân và pháp nhân Việt
Nam không có quan hệ tín dụng với họ; không được cho vay bằng ngoại
tệ đối với thể nhân Việt Nam: không được thanh toán bằng ngoại tệ với
các thể nhân Việt Nam không có quan hệ tín dụng với họ.
Như vậy, các cam kết về tự do hoá dịch vụ tài chính mà Việt Nam
đưa ra sau Vòng đàm phán thứ nhất về dịch vụ ASEAN được xây dựng
trên cơ sở cam kết của các nước thành viên ASEAN hiện nay, mang tính
bảo hộ cao và hạn chế số lượng các công ty/cá nhân nước ngoài cung cấp
dịch vụ. Những cam kết được xây dựng mang tính chủ động và dựa trên
cơ chế hiện hành của Việt Nam, do vậy, chưa thể hiện tính hội nhập cao.
Số phân ngành bảo hiểm, tài chính ngân hàng đưa vào cam kết không đầy
đủ. Các phương thức cung cấp (1), (2), (4) hầu như không cam kết. Còn
phương thức cung cấp dịch vụ thông qua hiện diện thương mại (3) thì đưa
ra rất nhiều loại hạn chế. Như vậy, phạm vi cam kết của Việt Nam không
- 23 -
rộng mà mức độ cam kết lại quá thấp. Đương nhiên, những cam kết như
vậy có lợi cho các nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam nhưng sẽ khó
khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vì phạm vi kinh doanh bị hạn
chế, và họ phải chịu nhiều phân biệt đối xử. Do đó, những cam kết này sẽ
khó được các nước Thành viên WTO chấp nhận khi đàm phán với Việt
Nam sau này. Và điều này đã được chứng minh qua thực tiễn cam kết của
Việt Nam trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
1.2.2.2. Cam kết về dịch vụ tài chính trong Hiệp định
Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ:
Nội dung các cam kết cụ thể có liên quan đến lĩnh vực dịch vụ tài
chính của Hiệp định này bao gồm:
Các cam kết chung (Horizontal):
•
- Hiện diện thương mại: Công ty Hoa Kỳ được tiến hành hoạt động
thương mại tại Việt Nam theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam dưới
các hình thức: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, xí nghiệp liên doanh, xí
nghiệp 100% vốn Hoa Kỳ, BOT và BTO. Các công ty Hoa Kỳ được phép
đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam. Các văn phòng này không được tiến
hành hoạt động thu lợi nhuận tại Việt Nam.
- Hiện diện thể nhân: Chưa cam kết trừ các biện pháp liên quan đến
nhập cảnh và lưu trú tạm thời của các thể nhân của các nhóm sau: Các nhà
quản lý, giám đốc điều hành và các chuyên gia mà người Việt Nam không
thể thay thế, lưu chuyển tạm thời trong nội bộ công ty, được phép nhập
cảnh cho thời gian lưu trú ban đầu là 3 năm và sau đó sẽ được gia hạn;
Người chào bán dịch vụ - những người không sống tại Việt Nam và
không nhận sự trả lương từ bất kỳ nguồn nào tại Việt Nam, và những
người tham gia vào hoạt động liên quan đến việc đại diện cho một nhà
cung cấp dịch vụ với mục đích đàm phán để bán dịch vụ của nhà cung cấp
dịch vụ đó mà (i) việc bán đó không được chào trực tiếp cho công chúng
- 24 -
và (ii) người chào bán không trực tiếp cung cấp dịch vụ. Thời gian nhập
cảnh của những người chào bán dịch vụ này không quá 90 ngày.
•
Các cam kết cụ thể trong lĩnh vực dịch vụ tài chính:
Dịch vụ bảo hiểm: Việt Nam cam kết trong tất cả các loại hình dịch
vụ bảo hiểm và phụ trợ bảo hiểm theo GATS ngoại trừ bảo hiểm sức
khoẻ, cụ thể:
- Phương thức (1): Không hạn chế đối với: các dịch vụ bảo hiểm cho
các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại
Việt Nam, các dịch vụ tái bảo hiểm, các dịch vụ bảo hiểm trong vận tải
quốc tế, các dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm, các dịch
vụ tư vấn, giải quyết khiếu nại, đánh giá rủi ro.
- Phương thức (2): Không hạn chế.
- Phương thức (3): Có các hạn chế sau:
+ Hạn chế về hình thức pháp nhân: chỉ được phép thành lập liên
doanh bảo hiểm sau 3 năm, công ty bảo hiểm 100% vốn của Hoa Kỳ sau 5
năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực; việc thành lập chi nhánh phụ thuộc
vào tiến trình xây dựng Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (trên
thực tế hiện nay ta đã cho phép thành lập 4 công ty bảo hiểm 100% vốn
nước ngoài trong đó có công ty bảo hiểm AIA 100% vốn Hoa Kỳ).
+ Hạn chế về phần vốn góp: phần vốn góp của phía Hoa Kỳ không
được vượt quá 50% vốn pháp định của liên doanh.
+ Hạn chế về loại hình kinh doanh: Các công ty cung cấp dịch vụ có
vốn đầu tư Hoa Kỳ không được kinh doanh các dịch vụ đại lý bảo hiểm và
các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc là: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới, bảo hiểm trong xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm đối với các công
trình dầu khí và các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng
và môi trường. Hạn chế này sẽ được bãi bỏ đối với liên doanh là 3 năm
sau khi Hiệp định có hiệu lực, và đối với công ty 100% vốn Hoa Kỳ là 6
- 25 -
năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Đối với việc tái bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm liên doanh, công ty 100% vốn Hoa Kỳ và chi nhánh các
công bảo hiểm Hoa Kỳ phải tái bảo hiểm với Công ty Tái bảo hiểm Việt
Nam một tỷ lệ tối thiểu là 20% và 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực
hạn chế này sẽ được bãi bỏ. Đồng thời, ta không dành đối xử quốc gia đối
với các công ty bảo hiểm nước ngoài kinh doanh bảo hiểm bắt buộc.
- Phương thức (4): Chưa cam kết ngoài các cam kết nền chung.
Như vậy, về cơ bản, các cam kết trong thực thi Hiệp định Thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ 2001 phù hợp với Luật kinh doanh bảo hiểm hiện
hành năm 2000 và chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ
năm 2003 - 2010. Một bước đột phá rõ nhất trong Hiệp định Thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ là: trong khi Luật kinh doanh bảo hiểm cấm thực hiện
phương thức 1 đối với nhà bảo hiểm nước ngoài muốn cung cấp dịch vụ
vào thị trường Việt Nam, thì Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
đã cho phép nhà bảo hiểm Hoa Kỳ cung cấp dịch vụ theo phương thức
này trong một số trường hợp; đồng thời đối với phương thức 3: cho phép
3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực phần vốn góp của đối tác Hoa kỳ tới
50% vốn liên doanh và 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực đối tác Hoa
kỳ có thể thành lập doanh nghiệp 100% vốn Hoa Kỳ.
Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác:
Việt Nam cam kết trong tất cả các loại hình dịch vụ ngân hàng và các
dịch vụ tài chính khác theo GATS, cụ thể:
Phương thức (1): Chưa có cam kết trừ đối với các dịch vụ thông tin
ngân hàng
Phương thức 2): Không hạn chế.
Phương thức (3): Có các hạn chế như sau:
- Về tiếp cận thị trường:
- 26 -
+ Hạn chế về loại hình pháp nhân: Các nhà cung cấp dịch vụ ngân
hàng Hoa Kỳ được phép cung cấp dịch vụ tại Việt Nam thông qua các
hình thức pháp lý: chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ, ngân hàng liên doanh
Việt Nam - Hoa Kỳ, công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ, và
công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt Nam - Hoa Kỳ. Trong vòng 3
năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, hình thức pháp lý duy nhất thông
qua đó các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ có thể cung cấp các dịch vụ
ngân hàng tại Viêt Nam là liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian
đó hạn chế này sẽ được bãi bỏ. Sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực,
các ngân hàng Hoa Kỳ mới được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn
Hoa Kỳ tại Việt Nam.
+ Hạn chế về vốn: Trong thời gian 9 năm nêu trên, các ngân hàng Hoa
Kỳ có thể thành lập ngân hàng liên doanh với đối tác Việt Nam trong đó
phần góp vốn của đối tác Hoa Kỳ không thấp hơn 30% nhưng không vượt
quá 49% vốn pháp định của liên doanh.
+ Hạn chế về giá trị giao dịch: trong vòng 10 năm kể từ khi Hiệp định
có hiệu lực, Việt Nam chỉ cho phép chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận
tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng
không có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh phù
hợp với biểu cụ thể trong Hiệp định với một lộ trình từng bước từ thấp
đến cao (đối với pháp nhân lộ trình là 8 năm, đối với thể nhân lộ trình là
10 năm - Xem bảng). Trong thời hạn bảo lưu, không có năm nào tỷ lệ huy
động tiền Đồng cả 2 kênh trên đây của chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ vượt
mức đối xử quốc gia. Sau thời gian đó, các hạn chế này sẽ được bãi bỏ.
- 27 -
Tiền gửi VNĐ nhận tõ c¸c thÓ nh©n
Tiền gửi VNĐ nhận từ các pháp nhân
Năm thứ 1 từ 10/12/2001
50% vốn pháp định chuyển vào
50% vốn ph¸p định chuyển vµo
Năm thứ 2 từ 10/12/2002
100%
100%
250%
Năm thứ 3 từ 10/12/2003
250%
400%
Năm thứ 4 từ 10/12/2004
350%
600%
Năm thứ 5 từ 10/12/2005
500%
700%
Năm thứ 6 từ 10/12/2006
650%
900%
Năm thứ 7 từ 10/12/2007
800%
Đối xử quốc gia đầy đủ
Năm thứ 8 từ 10/12/2008
900%
Năm thứ 9 từ 10/12/2009
1000%
Năm thứ 10 từ 10/12/2010
Đối xử quốc gia đầy đủ
Nguồn: Tạp chí thị trƣờng tài chính tiền tệ số 11/2003
- Về đối xử quốc gia:
+ Hạn chế về loại hình kinh doanh: sau 8 năm kể từ khi Hiệp định có
hiệu lực, các định chế tài chính có vốn đầu tư Hoa Kỳ được phép phát
hành thẻ tín dụng trên cơ sở đối xử quốc gia. Chi nhánh ngân hàng Hoa
Kỳ không được đặt các máy rút tiền tự động tại các địa điểm ngoài văn
phòng cho tới khi mà các ngân hàng Việt Nam được phép làm như vậy và
không đuợc lập các điểm giao dịch phụ thuộc.
+ Hạn chế về vốn: Vốn do Ngân hàng mẹ của Hoa Kỳ cấp để thành
lập chi nhánh phải tối thiểu là 15 triệu USD; Vốn điều lệ tối thiểu của
ngân hàng liên doanh Việt Nam - Hoa Kỳ hay ngân hàng con 100% vốn
Hoa kỳ là 10 triệu USD, của công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa
Kỳ và công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt Nam - Hoa Kỳ là 5 triệu
USD;
+ Hạn chế về quyền sử dụng đất: Các đơn vị tài chính ngân hàng
100% vốn Hoa Kỳ không được nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất.
Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các đơn vị tài chính ngân hàng
này chỉ được quyền nhận tài sản thế chấp bằng quyền sử dụng đất của các
xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và có được quyền sử
- 28 -
dụng đất mà được thế chấp cho các khoản vay trong trường hợp mất khả
năng thanh toán khoản vay, phá sản hay giải thể của xí nghiệp vay nợ đó.
+ Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực Việt Nam dành đối xử
quốc gia đầy đủ đối với quyền tiếp cận Ngân hàng Trung ương trong các
hoạt động tái chiết khấu, swap, forward.
Phương thức (4): Chưa cam kết ngoài các cam kết nền chung.
Như vậy, phải nói rằng so với các cam kết trong Hiệp định khung
ASEAN thì các cam kết về dịch vụ tài chính mà Việt Nam đưa ra trong
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là một bước tiến lớn trong
việc đáp ứng các yêu cầu chung về mức độ và phạm vi cam kết từ phía
các nước Thành viên WTO. Đây là những cam kết khá mở có nội dung
phù hợp với thông lệ quốc tế dành cho các nước đang phát triển và có nền
kinh tế chuyển đổi trong giai đoạn hiện nay. Do đó, nó sẽ là căn cứ cho
Việt Nam khi đàm phán ra nhập WTO.
Trong Hiệp định này, phạm vi cam kết được mở rộng ra tất cả các
lĩnh vực dịch vụ tài chính qui định trong phụ lục của GATS (chỉ ngoại trừ
dịch vụ bảo hiểm sức khoẻ). Bên cạnh đó, mức độ cam kết cũng cao hơn
rất nhiều so với các cam kết trong ASEAN. Phương thức (2) không có bất
kỳ hạn chế nào; phương thức (1) không hạn chế đối với một số loại hình
dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ và dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; còn phương
thức (3) thì số loại hạn chế về tiếp cận thị trường ít hơn so với cam kết
trong ASEAN (ví dụ: không có hạn chế về thời gian hoạt động của công
ty 100% vốn Hoa Kỳ, hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ bảo
hiểm, hạn chế về vốn pháp định của các loại hình công ty bảo hiểm,
không yêu cầu buộc công ty bảo hiểm 100% vốn Hoa Kỳ bán lại ít nhất
30% vốn cổ phần cho công ty kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam sau 5
năm kinh doanh có lãi...). Đồng thời, với các hạn chế vẫn được duy trì thì
phía Việt Nam đã đưa ra lộ trình cụ thể loại bỏ các hạn chế đó. Nhìn
chung, trong vòng 10 năm, các hạn chế trong phần tiếp cận thị trường sẽ
- 29 -
được loại bỏ hết. Tuy nhiên, có một vài hạn chế trong Hiệp định Việt -
Mỹ (BTA) chặt chẽ hơn so với cam kết trong ASEAN, chẳng hạn như:
hạn chế về phần vốn góp tối đa của bên nước ngoài trong ngân hàng liên
doanh (49% trong BTA so với 50% trong ASEAN).
- 30 -
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ
TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN
ĐÂY
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
VIỆT NAM
Quá trình chuyển đổi sang cơ chế quản lý thị trường theo định
hướng XHCN tất yếu dẫn đến việc hình thành và phát triển đầy đủ, đồng
bộ hệ thống các thị trường trong nền kinh tế. Thị trường dịch vụ tài chính
cũng là một trong số các thị trường cần phải được sớm hình thành và phát
triển, song thị trường này chủ yếu mới hình thành và phát triển trong thập
kỷ 90 trở lại đây. Ví dụ thị trường dịch vụ kế toán - kiểm toán chỉ mới
hình thành và phát triển từ đầu thập kỷ 90; thị trường bảo hiểm mới chỉ
thực sự là thị trường dịch vụ tài chính từ năm 1994 trở lại đây khi Nghị
định 100/CP của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm được ban hành và có
hiệu lực cho dù ngành bảo hiểm đã hình thành ở Việt nam từ thập kỷ 60.
Do vậy, có thể nói rằng các thị trường này mới đang trong giai đoạn đầu
của quá trình hình thành và phát triển. Cũng chính vì lẽ đó mà các thị
trường này còn rất nhỏ bé và mức độ hoàn thiện của chúng còn tương đối
thấp... thể hiện trên một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, quy mô hoạt động của thị trường còn khá nhỏ bé: doanh
thu phí bảo hiểm so GDP thấp, hoạt động đầu tư nguồn vốn bảo hiểm trở
lại nền kinh tế rất thấp; hoạt động của các ngân hàng trong nền kinh tế còn
rất hạn chế.
Thứ hai, hệ thống pháp luật đang trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện nên hiệu lực pháp lý và hiệu quả quản lý còn có những hạn chế, hệ
thống các văn bản hưóng dẫn vẫn chưa được xây dựng và ban hành một
cách đồng bộ;
- 31 -
Thứ ba, cạnh tranh trên thị trường còn nhiều vấn đề, bất bình đẳng
trong cạnh tranh còn khá lớn, chủ yếu do hậu quả của cơ chế cũ để lại …
Thứ tư, các lực lượng tham gia thị trường còn mỏng, tiềm lực còn
hạn chế, nhất là các doanh nghiệp trong nước so với các doanh nghiệp có
vốn nước ngoài, điều này đã dẫn đến sự hạn chế khả năng cung cấp các
loại dịch vụ cho thị trường với chất lượng cao, chủng loại đa dạng…
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng thị trường dịch vụ tài chính Việt
nam là thị trường rất tiềm năng, khả năng phát triển của thị trường này là
rất lớn. Điều này được thể hiện đậm nét ở tốc độ tăng trưởng cao trong
những năm qua, nhất là thị trường dịch vụ bảo hiểm, cùng với những
thành quả do việc áp dụng công nghệ khoa học kỹ thuật cao. Đồng thời,
sự hình thành và phát triển của các thị trường dịch vụ tài chính đã có
những đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong
thời gian qua. Đó là việc thị trường dịch vụ tài chính đã góp phần nâng
cao hiệu quả khai thác và sử dụng mọi nguồn lực tài chính nói riêng, nâng
cao hiệu quả khai thác và sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nền kinh
tế nói chung, góp phần thúc đẩy phát triển toàn diện nền kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, sự phát triển của thị trường này còn có những đóng góp rất
to lớn vào việc lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, nâng cao tiềm lực
và an ninh tài chính quốc gia.
Trong thời gian tới, sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính sẽ
còn được thúc đẩy mạnh mẽ hơn rất nhiều do hệ thống cơ chế, chính sách
quản lý thị trường dịch vụ tài chính ngày càng được hoàn thiện hơn, đặc
biệt là quá trình hội nhập quốc tế của Việt nam được đẩy mạnh sẽ làm cho
động lực cạnh tranh trên thị trường càng mạnh mẽ hơn.
2.2. THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ BẢO HIỂM
Trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên để tồn tại và phát triển,
con người luôn phải đương đầu với nhiều loại rủi ro thiên tai như : lũ lụt,
động đất, mưa bão, hạn hán...và phải gánh chịu hậu quả nặng nề do những
- 32 -
rủi ro đó gây ra. Vì vậy, hạn chế tác hại và nhanh chóng khắc phục hậu
quả của rủi ro thiên tai luôn là nhiệm vụ cấp bách của mọi thời đại. Do
vậy, để đối phó với các rủi ro con người đã dùng các biện pháp: tránh rủi
ro; ngăn ngừa, hạn chế rủi ro; khắc phục rủi ro và tham gia bảo hiểm. Tuy
nhiên, người ta sớm nhận ra rằng việc dự phòng chung theo cộng đồng,
tức là tham gia bảo hiểm, có hiệu quả hơn rất nhiều, đặc biệt là trong nền
kinh tế thị trường. Nền kinh tế càng phát triển thì vai trò của bảo hiểm
càng trở nên quan trọng, bảo hiểm càng phát huy mạnh mẽ tác dụng của
nó. Và nó dần dần trở thành một công cụ không thể thiếu được của đời
sống kinh tế, có chức năng hỗ trợ kinh tế - xã hội phát triển.
2.2.1
Những thành tựu đạt đƣợc
Trước năm 1993, ở Việt Nam có duy nhất một doanh nghiệp bảo
hiểm, đó là Tổng công ty Bảo hiểm Việt nam hoạt động kinh doanh bảo
hiểm trong điều kiện bao cấp nên vai trò của hoạt động bảo hiểm trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế. Thực hiện chính sách phát
triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, ngày 18 tháng 12 năm
1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/CP về kinh doanh bảo
hiểm.
Từ năm 1993 đến nay, thị trường bảo hiểm có bước phát triển mạnh,
trở thành kênh quan trọng trong huy động và cung ứng vốn đầu tư. Hệ
thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm đã cơ bản đồng bộ và không
ngừng được bổ sung, hoàn thiện (Luật kinh doanh Bảo hiểm đã được ban
hành năm 2000.) Qua đó, đã thúc đẩy xây dựng được một thị trường bảo
hiểm sôi động, cạnh tranh và có quản lý. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm
đã khẳng định được vai trò là công cụ tài chính quan trọng trong việc duy
trì và thúc đẩy phát triển, ổn định nền kinh tế - xã hội, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu bảo hiểm. Những kết quả chính đạt được như sau :
2.2.1.1
Phạm vi, quy mô thị trường bảo hiểm phát triển đáng
kể, từng bước đáp ứng được sự phát triển và ổn định nền kinh tế - xã
hội.
- 33 -
Qua bảng số liệu cho thấy hoạt động bảo hiểm mang tính kinh
doanh đã có những bước phát triển cơ bản sau :
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiªu
Năm 1993
Năm 1996
Năm 1999
Năm 2002
Năm 2003
Tăng trưởng BQ 1993-2002
1.Doanh thu phí bảo hiểm
700
1.264
2.091
6.992
10.090
29,1%
- Bảo hiểm phi nhân thọ
700
1.263
1.606
2.624
6.390
19,39%
0,95
485
4.368
3.700
- Bảo hiểm nhân thọ
trọng doanh
thu
0,37%
0,46%
0,52%
1,3%
1,8%
2.Tỷ PBH/GDP
3.Vốn kinh doanh
145
397
980
1.900
3..218
4. Bồi thường bảo hiểm
120
760
789
1.400
2.070
5.Dự phòng nghiệp vụ
188
741
2020
8.330
12.432
68
82
145
290
500
17%
6.Nộp ngân sách nhà nước
Nguồn : Chiến lƣợc phát triển thị trƣờng bảo hiểm Việt nam năm 2003 - 2010
Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Báo Đầu tƣ số ra ngày 7/12/2003 và 31/05/04
Thị trƣờng bảo hiểm đạt tốc độ tăng trƣởng cao so với tốc độ tăng •
Đơn vị: tỷ đồng
trƣởng GDP.
- 34 -
Nguồn : Hiệp hội bảo hiểm - 2004
Đơn vị: %
Biểu đồ 2.1. Doanh thu phí bảo hiểm giai đoạn 1993 - 2003
Nguồn : Hiệp hội bảo hiểm - 2004
Biểu đồ 2.2. Tỷ trọng doanh thu PBH/GDP giai đoạn 1993 - 2003
Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường tăng bình quân
29%/năm. Trong những năm gần đây, doanh thu phí bảo hiểm tăng nhanh
: năm 1993 là 700 tỷ đồng, năm 2003 là 10.090 tỷ đồng, tăng hơn 14 lần.
Cơ cấu tỷ trọng doanh thu dịch vụ bảo hiểm trong GDP cũng tăng nhanh
từ 0,37%/GDP năm 1993 lên 1,8%/GDP năm 2003. . 5 , 18
- 35 -
• Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã đóng vai trò tích cực đến việc
ổn định nền kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.
Tổng số tiền bảo hiểm các doanh nghiệp bảo hiểm đã giải quyết bồi
thường trong 10 năm là 7.600 tỷ đồng, riêng năm 2002 là 1400 tỷ VNĐ.
Trong đó có nhiều vụ tổn thất lớn được bồi thường bảo hiểm như : Bồi
thường vụ cháy chợ Đồng Xuân Hà Nội năm 1995 là 8,2 triệu USD, bồi
thường bột mỳ nhập khẩu chở trên tầu bị mất tích năm 1996 là 1,6 triệu
USD, bồi thường vụ tai nạn máy bay của Hãng hàng không Việt nam năm
1997 tại Phnompenh là 15 triệu USD, bồi thường vụ tai nạn tầu Phú
Xuyên năm 2001 là 3 triệu USD 8 .Việc giải quyết bồi thường tốt giúp
các doanh nghiệp và người dân ổn định sản xuất, kinh doanh và đời sống,
giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tạo môi trường đầu tư cho
phát triển kinh tế xã hội.
Bên cạnh đó, ngành bảo hiểm đã đóng góp cho ngân sách nhà nước
đạt tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1993 - 2003 là 17%. Trong
giai đoạn này, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng đã nộp cho ngân sách nhà
2.2.1.2 Hình thành thị trường bảo hiểm với đầy đủ các yếu
tố của thị trường
nước thuế thu nhập doanh nghiệp 1.500 tỷ đồng.
• Đa dạng hóa thành phần sở hữu các doanh nghiệp, mở rộng nội
dung và lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp
Trước năm 1993, ở Việt nam chỉ có duy nhất một doanh nghiệp bảo
hiểm là Tổng công ty bảo hiểm Việt nam hoạt động kinh doanh bảo hiểm
trong điều kiện bao cấp. Đến nay đã phát triển thành một thị trường hoàn
chỉnh với sự tham gia của 24 doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó có 4 doanh
nghiệp Nhà nước, 7 doanh nghiệp liên doanh, 7 công ty cổ phần và 6
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- 36 -
Ngoài ra, với sự có mặt của 21 văn phòng đại diện các tổ chức bảo
hiểm tại Việt nam đã tạo môi trường cạnh tranh, người mua bảo hiểm có
điều kiện lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm có sản phẩm phù hợp, chất
lượng dịch vụ tốt để tham gia bảo hiểm. Bước đầu hình thành kênh phân
phối với 5 công ty môi giới bảo hiểm với 76.600 đại lý bảo hiểm chuyên
nghiệp (tính đến hết năm 2002), giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm, đặc
•
biệt là bảo hiểm nhân thọ phát triển mạnh.
Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm đƣợc nâng
cao.
Tổng vốn điều lệ của ngành bảo hiểm tăng trên 30 lần từ 50 tỷ đồng
năm 1993 lên 1.515 tỷ đồng năm 2002. Tổng dự phòng nghiệp vụ tăng 66
lần từ 188 tỷ đồng năm 1993 lên 12.431 tỷ đồng năm 2003. Năng lực đầu
tư của các doanh nghiệp bảo hiểm được nâng cao từ 200 tỷ đồng năm
1993 (chủ yếu dùng đầu tư gửi tiền tại các ngân hàng), đến năm 2002 tổng
số tiền đầu tư đã tăng lên 6.700 tỷ đồng, phạm vi đầu tư được mở rộng đa
dạng bao gồm các lĩnh vực : sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng
Bảng 2.2. Danh sách các doanh nghiệp hoạt động trên thị trƣờng bảo
hiểm Việt Nam (tính đến ngày 30/11/2003)
TT
Tên công ty
Vốn điều lệ
Lĩnh vực
Năm cấp GP
Hình thức sở hữu
Hoạt động
1.
1964
586 tỷ đồng
Nhà nước
Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET)
Phi nhân thọ Nhân thọ
2. Công ty Tái bảo hiểm quốc gia
1994
40 tỷ đồng
Nhà nước
Tái bảo hiểm
Việt Nam (VINARE)
3. Công ty bảo hiểm thành phố Hồ
1994
40 tỷ đồng
Nhà nước
Phi nhân thọ
Chí Minh (BAOMINH)
4. Công ty LD tư vấn DVBH và tái
1993
250.000 USD
Liên doanh
Môi giới bảo hiểm
BH Bảo việt - Aon
5. Công ty Cổ phần bảo hiểm Nhà
1995
70 tỷ đồng
Cổ phần
Phi nhân thọ
Rồng (BAOLONG)
6. Công
ty cổ phần bảo hiểm
1995
55 tỷ đồng
Cổ phần
Phi nhân thọ
Petrolimex (PJICO)
7. Công ty bảo hiểm dầu khí (PVI)
1996
20 tỷ đồng
Nhà nước
Phi nhân thọ
1996
6 triệu USD
Liên doanh
Phi nhân thọ
8. Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (VIA)
9. Công ty liên doanh bảo hiểm liên
1997
5 triệu USD
Liên doanh
Phi nhân thọ
hiệp (UIC)
1998
70 tỷ đồng
Cổ phần
Phi nhân thọ
10.
Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI)
1999
4 triệu USD
Liên doanh
Phi nhân thọ
11.
Công ty liên doanh bảo hiểm Việt - Úc (BIDV-QBE)
1999
triệu
vốn
Phi nhân thọ
12.
Công ty TNHH bảo hiểm Allianz (Việt Nam)
6,295 USD
100% đầu tư NN
1999
140 tỷ đồng
vốn
Nhân thọ
13.
Công ty TNHH Manulife (Việt Nam)
100% đầu tư NN
1999
10 triệu USD
Liên doanh
Nhân thọ
14.
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh CMG
1999
75 triệu USD
Nhân thọ
vốn
15.
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam
100% đầu tư NN
2000
25 triệu USD
Nhân thọ
vốn
16.
Công ty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ (Việt Nam) (AIA)
100% đầu tư NN
vốn
tổng hợp
2001
5 triệu USD
Phi nhân thọ
17.
100% đầu tư NN
Công ty bảo hiểm Groupama Việt Nam
2001
6 tỷ đồng
Cổ phần
18.
Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Việt Quốc
Môi giới bảo hiểm
2002
5 triệu USD
Liên doanh
Phi nhân thọ
19.
Công ty liên doanh TNHH bảo hiểm Samsung-Vina
2002
6 triệu USD
Liên doanh
Phi nhân thọ
20.
Công ty TNHH bảo hiểm châu á - Ngân hàng công thương (IAI)
21.
ty môi giới bảo hiểm
2003
300.000 USD
vốn
Công Grassavoye
100% đầu tư NN
Môi giới bảo hiểm
2003
72 tỷ đồng
Cổ phần
Phi nhân thọ
22.
Công ty Cổ phần bảo hiểm Viễn Đông
2003
6 tỷ đồng
Cổ phần
23.
Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Á Đông
Môi giới bảo hiểm
2003
6 tỷ đồng
Cổ phần
24.
Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Đại Việt
Môi giới bảo hiểm
Nguồn : Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam - năm 2004
2.2.1.3
Chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo
hiểm đã được cải thiện một bước rõ rệt
- 37 -
• Phát triển số lƣợng sản phẩm bảo hiểm.
Trước năm 1993, thị trường bảo hiểm mới có 22 sản phẩm bảo hiểm
chủ yếu tập trung vào các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ truyền thống.
Đến nay đã có gần 500 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân
thọ thuộc cả ba lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo
hiểm trách nhiệm, được cung cấp trên thị trường, đáp ứng nhu cầu phong
phú của người tham gia bảo hiểm. Các dịch vụ liên quan, hỗ trợ khác như
tái bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, tư vấn bảo hiểm… phát triển mạnh đã tạo
Đơn vị: tỷ đồng
điều kiện tăng doanh thu phí bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ.
- 38 -
Nguồn: Tổng hợp từ các tạp chí Thông tin thị trƣờng Bảo hiểm
Biểu đồ 2.3. So sánh doanh thu PBH nhân thọ và phi NT
Mặc dù bảo hiểm nhân thọ còn chưa xuất hiện vào năm 1993 và
phát triển vẫn còn rụt rè vào năm 1996 (0.95 tỷ VNĐ so với 1.263 tỷ
VNĐ DTPBH phi NT) nhưng đến năm 2002 đã đạt 4.368 tỷ đồng, cao
hơn rất nhiều so với mức 2.624 tỷ VNĐ DTPBH phi NT, và đến năm
•
2003 tương ứng đạt 6.390 tỷ đồng và 3.700 tỷ đồng.
Chất lƣợng sản phẩm đƣợc nâng cao
Do không còn tình trạng hoạt động độc quyền, các doanh nghiệp đã
chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ sung thêm quyền lợi
cho các khách hàng tham gia bảo hiểm. Phí bảo hiểm tương ứng với mức
trách nhiệm, phạm vi bảo hiểm rộng hơn. Quy tắc điều khoản bảo hiểm
được quy định rõ ràng về trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp bảo
hiểm, bảo vệ được quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.
Chất lượng phục vụ cũng có những bước cải tiến đáng kể. Các
doanh nghiệp đã quan tâm đổi mới phương thức phục vụ, chăm sóc khách
hàng, giải quyết bồi thường nhanh chóng, đầy đủ theo thoả thuận trong
hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp và người tham gia bảo hiểm.
2.2.1.4 Quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm đã từng
bước được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường
- 39 -
• Hệ thống pháp luật đƣợc hoàn thiện
Cho đến nay, về cơ bản các văn bản pháp luật về kinh doanh bảo
hiểm đã được xây dựng và ban hành (như luật kinh doanh bảo hiểm được
Quốc hội thông qua năm 2000, các Nghị định thư và thông tư hướng dẫn
thi hành đã được ban hành trong năm 2001).
• Phƣơng thức quản lý đƣợc đổi mới
Công tác quản lý giám sát được thực hiện theo hướng hạn chế dần
sự can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp, tăng quyền tự
chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực thi pháp luật. Việc
giám sát của Nhà nước dựa trên các chỉ tiêu tài chính, kinh tế khách quan,
chú trọng đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm , bảo
vệ quyền và các lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm.
• Vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam bƣớc đầu đã đƣợc khẳng
định
Sự ra đời của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam năm 2001 bước đầu đã
có vai trò quan trọng giúp cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám
sát hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, kết nối mối quan hệ giữa
các doanh nghiệp với cơ quan quản lý, giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp và giữa doanh nghiệp với người tham gia bảo hiểm, nhằm duy trì
môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh
2.2.1.5 Từng bước hội nhập với các nước trong khu vực và
quốc tế
nghiệp bảo hiểm
Với sự phát triển nhanh chóng, ổn định của thị trường bảo hiểm, vai
trò và vị thế của của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế và khu
vực, thông qua các cơ chế hợp tác thương mại, dịch vụ tài chính đa
- 40 -
phương và song phương như với các nước ASEAN, liên minh châu Âu,
Hoa Kỳ và Nhật bản. Thị trường bảo hiểm đã từng bước hội nhập với các
nước trong khu vực và thế giới thông qua:
- Diễn đàn các cơ quan quản lý bảo hiểm ASEAN
Mục tiêu của diễn đàn là điều phối hội nhập về lĩnh vực bảo hiểm,
hài hoà hoá môi trường pháp lý, thống nhất các chỉ tiêu tài chính để giám
sát kiểm tra các doanh nghiệp bảo hiểm trong khu vực ASEAN, thành lập
hội đồng Cơ quan quốc gia về bảo hiểm xe quá cảnh giữa các nước
ASEAN và Học viện bảo hiểm ASEAN, thúc đẩy trao đổi dịch vụ bảo
hiểm , tái bảo hiểm giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong khối ASEAN.
- Hiệp hội các cơ quan quản lý bảo hiểm quốc tế IAIS
Với việc tham gia tích cực các hoạt động của Hiệp hội, Việt nam đã
từng bước tiến tới thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế trong
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, thúc đẩy trao đổi thông tin thị trường, đào
tạo cán bộ và chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và kinh doanh
bảo hiểm cho phía Việt nam.
2.2.2. Một số vấn đề còn tồn tại
Mặc dù thị trường bảo hiểm có bước phát triển đáng kể, tuy nhiên,
so với tiềm năng phát triển của thị trường bảo hiểm và nhu cầu phát triển
kinh tế- xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, thị trường
2.2.2.1
Thị trường bảo hiểm chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội:
bảo hiểm đã bộc lộ một số tồn tại như sau:
• Quy mô thị trƣờng bảo hiểm còn nhỏ:
Mặc dù thị trường bảo hiểm đạt tốc độ tăng trưởng 29%/năm trong
10 năm qua, nhưng đến năm 2002, tổng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP
của Việt Nam mới chỉ vào khoảng 1.3 %, thấp hơn nhiều so với mức
trung bình của thế giới (8%) và các nước trong khu vực (2.5-7%).
Đơn vị: %
- 41 -
Nguồn: Chiến lƣợc phát triển dịch vụ bảo hiểm Việt nam 2003 - 2010
•
Biểu đồ 2.4. So sánh doanh thu PBH/GDP một số nƣớc năm 2001
Hoạt động đầu tƣ còn hạn chế:
Mặc dù đến năm 2002, tổng nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp
lên tới 6.700 tỷ đồng, nhưng tỷ trọng đầu tư dưới hình thức gửi tiền tại các
tổ chức tín dụng và ngân hàng vẫn chiếm 70% trên tổng nguồn vốn đầu
2.2.2.2 Năng lực hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm còn
hạn chế:
tư.
• Công nghệ quản lý kinh doanh chƣa đƣợc hiện đại hoá
Nhiều doanh nghiệp vẫn còn áp dụng các phương pháp thủ công
trong việc quản lý hợp đồng bảo hiểm, cấp đơn và thu phí bảo hiểm. Hầu
hết các doanh nghiệp chưa thiết lập được hệ thống phần mềm tin học tính
phí bảo hiểm, trích lập dự phòng nghiệp vụ.
• Thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi đặc biệt là trong lĩnh vực tính phí
bảo hiểm và trích lập dự phòng nghiệp vụ, thẩm định bảo hiểm, quản lý
rủi ro và đầu tư. Đội ngũ cán bộ chuyên môn kinh doanh bảo hiểm chưa
đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập và mở cửa thị trường.
Tuy đến năm 2002 số đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp lên tới 70.000 người
- 42 -
trên tổng số lao động của toàn ngành bảo hiểm 76.600 người nhưng các
doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc đào tạo, nâng cao chất lượng đạo lý
dẫn tới nảy sinh một số tranh chấp làm thiệt hại đến quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm và ảnh hưởng xấu dến uy tín của các doanh nghiệp.
• Phƣơng thức quản lý kinh doanh chƣa thực sự chủ động, còn
trông chờ vào sự bảo hộ Nhà nước. Một số doanh nghiệp chỉ chú trọng
tăng doanh thu mà không quan tâm tới việc chăm sóc khách hàng, nâng
2.2.2.3 Vẫn còn tình trạng cạnh tranh không lành mạnh
cao chất lượng phục vụ.
• Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ
Cạnh tranh vẫn tập trung vào việc hạ phí bảo hiểm, tăng chi hoa
hồng bảo hiểm, đôi khi còn dùng các áp lực tài chính để giành dịch vụ, mà
chưa quan tâm đến công tác đánh giá rủi ro, đề phòng và hạn chế tổn thất,
•
giám định, bồi thường kịp thời và đầy đủ cho khách hàng.
Trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
Các doanh nghiệp còn quá chú trọng đến việc trả hoa hồng đại lý
cao, tuyển dụng nhiều đại lý để mở rộng thị phần, tăng doanh thu mà chưa
quan tâm đến công tác đào tại nâng cao chất lượng đại lý, dẫn đến cơ cấu
sản phẩm tập trung vào các sản phẩm ngắn hạn, phát sinh nhiều tranh
chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng, làm hạn chế khả năng
huy động vốn đầu tư dài hạn và giảm lòng tin của một bộ phận dân cư đối
với loại hình bảo hiểm còn mới này.
Có thể dẫn chiếu 1 ví dụ điển hình tại Thời báo Kinh tế Việt Nam
ngày 22/9/2003 của tác giả Công Minh như sau:
"Gần đây các đại lý bảo hiểm của một số công ty bảo hiểm nhân thọ nước
ngoài ở nhiều tỉnh phản ánh về hiện tượng đại lý của các công ty trong
nước tìm gặp khách hàng của các công ty nước ngoài và khuyên họ nên
huỷ hợp đồng, chuyển sang mua sản phẩm của công ty mình. Không dừng
- 43 -
lại ở đó, báo chí gần đây cũng đưa tin Tỉnh uỷ Tỉnh Kiên Giang và một số
tỉnh lân cận ra văn bản "cấm" cán bộ, đảng viên, công chức (kể cả những
người đã nghỉ hưu) làm đại lý cho các công ty bảo hiểm nhân thọ có vốn
đầu tư nước ngoài. Điều đáng nói là các văn bản đó được ban hành ở
những địa phương gần nhau về địa lý, gần như cùng 1 thời điểm, với nội
dung, hình thức tương tự nhau và có những điểm không chặt chẽ như
nhau. Dư luận đang đặt câu hỏi: Vì sao những văn bản đó lại chỉ đề cập
đến việc cấm cán bộ, đảng viên, công chức làm đại lý cho các công ty có
vốn nước ngoài mà không cấm hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh
khác, hoặc không cấm làm đại lý cho các công ty có vốn trong nước? Đây
là sự phân biệt đối xử giữa các ngành nghề kinh doanh, giữa các thành
phần kinh tế? Liệu những văn bản đó ra đời nhằm gây khó dễ cho công ty
có vốn nước ngoài?. Đây có thể coi là sử dụng quyền lực hành chính gây
bất bình đẳng trong cạnh tranh và làm xấu đi môi trường kinh doanh và
môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam".
Trong một số lĩnh vực như bảo hiểm cháy, bảo hiểm xe cơ giới, bảo
hiểm nhân thọ, các doanh nghiệp đã ký được thoả thuận hợp tác, nhưng
không thực hiện được làm ảnh hưởng đến uy tín chung của thị trường, gây
2.2.2.4
Các loại hình sản phẩm chưa đa dạng.
khó khăn cho công tác quản lý.
Mặc dù trong 10 năm, số lượng các loại sản phẩm tăng lên nhanh
chóng từ 22 sản phẩm năm 1993 lên 500 sản phẩm năm 2002, nhưng số
lượng và các loại hình sản phẩm vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu bảo
hiểm của nhiều ngành kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Một số lĩnh
vực hầu như chưa được các doanh nghiệp quan tâm cung cấp sản phẩm
cho thị trường như bảo hiểm thiên tai, nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng và
rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y dược, luật sư.
2.2.3
Nguyên nhân của những tồn tại
- 44 -
• Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm còn hạn chế.
Trừ Bảo Việt với số vốn 586 tỷ đồng và công ty BH nhân thọ Prudential
với số vốn thực có 41 triệu đô la Mỹ, các doanh nghiệp bảo hiểm khác
mới chỉ có đủ số vốn theo quy định của pháp luật. Số vốn thực có toàn thị
trường hiện nay là 1.515 tỷ đồng, không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế và nâng cao năng lực nhận bảo hiểm phù hợp với mức độ phát triển
trung bình của thế giới.
• Tƣ duy và thói quen hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong môi
trƣờng bao cấp vẫn còn nặng; nhận thức của người dân về kinh doanh
bảo hiểm tuy đã được nâng lên một bước song vẫn còn thấp hơn so với
yêu cầu, nhiều người dân vẫn chưa có thói quen tham gia bảo hiểm.
• Các doanh nghiệp mới chỉ tập trung khai thác các dịch vụ truyền
thống, các dịch vụ có lãi ngay, tại các thành phố, phục vụ các doanh
nghiệp lớn và người dân có thu nhập cao, mà chưa chú trọng đến việc
cung cấp các sản phẩm bảo hiểm phục vụ bà con nông dân và ngư dân tại
khu vực nông thôn.
• Thị trƣờng tài chính chƣa phát triển và những quy định mang
tính phân biệt đối xử giữa đầu tƣ trong nƣớc và đầu tƣ nƣớc ngoài
cũng là một trong những rào cản làm hạn chế hiệu quả đầu tư của các
doanh nghiệp BH. Tỷ trọng đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng chưa
tương xứng với tổng nguồn vốn có thể đầu tư của các doanh nghiệp BH.
Hình thức đầu tư chủ yếu vẫn là tiền gửi ngân hàng và mua trái phiếu
Chính phủ.
• Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh. Cơ cấu bộ máy quản lý trên bộ
máy kinh doanh quá lớn, nhiều phòng ban và nhiều đơn vị cơ sở của cùng
một doanh nghiệp còn hoạt động chồng chéo về chức năng nhiệm vụ dẫn
tới giảm hiệu quả hoạt động, giảm tốc độ giao dịch, ảnh hưởng đến quyền
lợi của người tham gia bảo hiểm.
- 45 -
• Các doanh nghiệp chƣa quan tâm đổi mới công nghệ, đặc biệt là
việc xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý hợp đồng bảo hiểm, phần mềm tin
học tính phí hợp đồng bảo hiểm, phần mềm tin học tính phí và trích lập dự
phòng nghiệp vụ.
• Các doanh nghiệp chƣa quan tâm đến công tác đào tạo và đào tạo
lại cán bộ chuyên môn nghiệp vụ về các lĩnh vực quản lý rủi ro, định phí
bảo hiểm, chuyên gia đầu tư tài chính.
• Hệ thống pháp lý về kinh doanh bảo hiểm còn thiếu và chƣa đồng
bộ. Do chưa có luật về chống cạnh tranh không lành mạnh, thiếu văn bản
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm,
nên dẫn tới hiện tượng các doanh nghiệp vi phạm các thoả thuận về hợp
tác và cạnh tranh, không thực hiện triệt để các quy định của pháp lụât về
báo cáo thống kê, một số doanh nghiệp thành lập chi nhánh, bổ nhiệm
người điều hành không xin phép chấp thuận trước của cơ quan có thẩm
quyền...
• Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam mới đƣợc thành lập năm 2001, chƣa
xây dựng đƣợc quy chế gắn kết quyền lợi của các thành viên tham gia
Hiệp hội, để các doanh nghiệp tự nguyện tham gia Hiệp hội, thoả thuận
thống nhất các nguyên tắc cạnh tranh và hợp tác và xây dựng quy chế tự
quản, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tổ chức Hiệp hội thiếu cơ
quan giám sát thi hành các thoả thuận của thành viên, dẫn tới việc các
thoả thuận không đạt được nẩy sinh hiện tượng vượt rào về mức phí thoả
thuận cạnh tranh, tranh giành thu hút đại lý và nhân viên lẫn nhau giữa
các thành viên.
• Quản lý nhà nƣớc về kinh doanh bảo hiểm chƣa theo kịp sự phát
triển của thị trƣờng. Phương thức kiểm tra, giám sát còn nặng về hành
chính, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống các chỉ tiêu
giám sát, đánh giá rủi ro về vốn, về hoạt động tài chính, kinh doanh của
doanh nghiệp còn thiếu. Công nghệ quản lý lạc hậu, chưa có hệ thống
- 46 -
phần mềm quản lý và nối mạng với các doanh nghiệp để phục vụ cho việc
quản lý được kịp thời. đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu và yếu so với yêu
cầu.
Tóm lại, trong thời gian qua, thị trường bảo hiểm đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, đáp ứng được yêu cầu duy trì và thúc đẩy nền kinh
tế - xã hội tăng trưởng. Đạt được những thành tựu to lớn trên là nhờ có
chủ trương đúng đắn của Chính phủ, phù hợp với tiến trình hội nhập. Qua
đó, uy tín và năng lực của thị trường bảo hiểm Việt Nam đã được cải
thiện, góp phần thúc đẩy trao đổi thương mại, tạo tiền đề ký kết Hiệp định
thương mại Việt nam - Hoa Kỳ và chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập WTO.
Tuy nhiên, những hạn chế có tính rào cản đối với sự phát triển thị trường
dịch vụ bảo hiểm của Việt nam vẫn còn nhiều, đặc biệt là những bất cập
của thị trường dịch vụ bảo hiểm Việt Nam so với những cam kết mà Việt
nam đặt ra khi tham gia WTO và các cam kết trong các Hiệp định AFAS,
BTA.
2.2.4
Những bất cập của thị trƣờng dịch vụ bảo hiểm so
với yêu cầu hội nhập quốc tế
2.2.4.1
Bất cập về hạn chế tiếp cận thị trường theo
phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới: hạn chế các dịch vụ
cung cấp đối với các công ty bảo hiểm nước ngoài
Pháp luật bảo hiểm của Việt Nam chỉ cho phép công ty bảo hiểm nước
ngoài được cung cấp vào Việt Nam các dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm. Khi
cung cấp các dịch vụ này vào lãnh thổ Việt Nam, các công ty bảo hiểm
nước ngoài cũng gặp phải một số hạn chế. Chẳng hạn, đối với dịch vụ tái
bảo hiểm; căn cứ vào Điều XVI - GATS, thì pháp luật bảo hiểm áp dụng
hình thức hạn chế tổng trị giá các giao dịch về dịch vụ hoặc tài sản dưới
hình thức hạn ngạch, theo quy định của GATS thì các nước thành viên sẽ
không được phép áp dụng hạn chế này khi cam kết mở cửa thị trường dịch
- 47 -
vụ, trừ khi có thoả thuận trong Danh mục cam kết. Cụ thể, các công ty
bảo hiểm nước ngoài khi cung ứng dịch vụ tái bảo hiểm vào Việt Nam
phải mua một tỷ lệ tối thiểu tái bảo hiểm là 20% tại Công ty tái bảo hiểm
quốc gia Việt Nam. Các công ty bảo hiểm nước ngoài chỉ được cung cấp
dịch vụ tái bảo hiểm vào Việt Nam ở mức tối đa là 40% trị giá hợp đồng
hoặc đơn bảo hiểm gốc (Thông tư số 78/1998/TT-BTC ngày 9/6/1998 về
hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm). Đối với hoạt động môi giới bảo hiểm
và môi giới tái bảo hiểm, các công ty môi giới bảo hiểm nước ngoài phải
ưu tiên thu xếp ký kết hợp đồng cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt
Nam.
Như vậy, có thể nói, mức độ bảo hộ của Việt Nam đối với thị trường
bảo hiểm theo phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới là khá cao,
nhằm hạn chế nguồn phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. So với quy định
tương ứng của WTO thì mức độ mở cửa thị trường bảo hiểm theo phương
2.2.4.2
Bất cập về hạn chế tiếp cận thị trường theo phương
thức cung cấp dịch vụ sử dụng ngoài lãnh thổ: hạn chế hoạt động sử dụng
dịch vụ ngoài lãnh thổ
thức này là chưa tương thích.
Việt Nam hầu như hạn chế hoàn toàn mở cửa thị trường bảo hiểm theo
phương thức cung cấp dịch vụ sử dụng ngoài lãnh thổ và có thể nói là quy
định của pháp luật bảo hiểm Việt Nam theo phương thức này là chưa
tương xứng với quy định của WTO. Bởi lẽ, theo các quy định của pháp
luật bảo hiểm Việt Nam hiện hành thì các tổ chức và cá nhân Việt Nam
không được phép mua bảo hiểm ở nước ngoài cho những rủi ro phát sinh
tại Việt Nam, và chỉ có người nước ngoài làm việc tại Việt Nam mới được
phép mua bảo hiểm ở nước ngoài.
Như vậy, việc bảo hộ thị trường bảo hiểm theo phương thức này là quá
chặt chẽ, nhằm ngăn cản nguồn phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài và nhằm
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm và thị trường bảo hiểm Việt
- 48 -
Nam có thể phát triển trước sức cạnh tranh của các công ty bảo hiểm nước
ngoài. Nhưng việc bảo hộ quá chặt chẽ này lại vi phạm quy định của
WTO về mở cửa thị trường bảo hiểm theo phương thức cung cấp dịch vụ
sử dụng ngoài lãnh thổ. Trong tương lai, để có thể gia nhập WTO trong
lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm, thì Việt Nam phải có lịch trình giảm dần và
2.2.4.3
Bất cập về hạn chế tiếp cận thị trường theo phương thức
cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại: hạn chế yêu cầu về
vốn pháp định của công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài; tỷ lệ vốn
góp và số lượng nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
tiến tới xoá bỏ hoàn toàn việc bảo hộ này.
Đối chiếu với Điều XVI - GATS quy định các biện pháp hạn chế tiếp
cận thị trường, các nước thành viên không được duy trì theo 4 phương
thức cung cấp dịch vụ trong những lĩnh vực có cam kết mở cửa thị trường.
Đối với phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương
mại, pháp luật bảo hiểm Việt Nam duy trì các hạn chế khác biệt so với
quy định của WTO, cụ thể như sau:
• Yêu cầu về vốn pháp định của công ty bảo hiểm có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài cao hơn so với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc
Các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài hoạt động ở Việt Nam so với
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải chịu hạn chế đãi ngộ quốc gia về
vốn pháp định: Theo Nghị định 100/CP, yêu cầu về vốn pháp định của
công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn so với các doanh
nghiệp bảo hiểm trong nước, cụ thể:
- Công ty liên doanh bảo hiểm: 2 triệu USD so với doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước : 20 tỷ VNĐ
- Công ty liên doanh môi giới bảo hiểm: 100.000 USD.
- Chi nhánh của tổ chức môi giới bảo hiểm 100% vốn nước ngoài:
300.000 USD so với tổ chức môi giới bảo hiểm trong nước : 1 tỷ VNĐ
- 49 -
Có thể nói việc mở rộng thị trường bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm
nước ngoài là một việc không hề đơn giản mà Chính phủ Việt Nam rất
thận trọng khi mở cửa thị trường bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm nước
ngoài vào hoạt động tại Việt Nam.
• Tỷ lệ vốn góp của bên nƣớc ngoài bị hạn chế
Phần vốn góp của bên nước ngoài trong những liên doanh bảo hiểm bị
hạn chế ở mức không quá 50% vốn điều lệ.
• Hạn chế số lƣợng nhà cung cấp dịch vụ
Theo Thông tư số 26/1998/TT-BTC ngày 4/3/1998 hướng dẫn thủ tục
cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, một trong những nguyên tắc để được cấp giấy chứng nhận kinh
doanh bảo hiểm cho doanh nghiệp, tổ chức môi giới bảo hiểm nước ngoài
là phù hợp với nhu cầu phát triển thêm số lượng các loại hình doanh
nghiệp bảo hiểm ở từng địa bàn; tổ chức môi giới bảo hiểm không được
thành lập quá 1 chi nhánh trong cùng một thành phố.
Ngoài ra, đối với việc tiếp cận thị trường theo phương thức cung cấp
dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại, WTO cho phép nhà cung cấp
dịch vụ bảo hiểm của một nước thành viên được thành lập và mở rộng
một sự hiện diện thương mại trên lãnh thổ của một nước thành viên khác,
kể cả thông qua việc mua lại các công ty bảo hiểm hiện có (Điều 5 Thoả
thuận về các cam kết trong dịch vụ tài chính). Thế nhưng, trong các văn
bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, chưa có một quy định nào liên
quan đến vấn đề cho phép công ty bảo hiểm nước ngoài được phép mua
lại các doanh nghiệp bảo hiểm hiện có ở Việt Nam.
Theo Điều 7 của Thoả thuận về các cam kết trong dịch vụ tài chính của
WTO, các nước thành viên sẽ cho phép các công ty bảo hiểm của một
nước thành viên khác thành lập trên lãnh thổ nước mình được cung ứng
mọi dịch vụ bảo hiểm mới chưa được cung cấp trên lãnh thổ nước mình.
So sánh với yêu cầu này của WTO, thì pháp luật bảo hiểm Việt Nam chưa
- 50 -
cho phép các công ty bảo hiểm nước ngoài ở Việt Nam được phép cung
cấp các dịch vụ bảo hiểm mới. Thể hiện ở chỗ: các công ty bảo hiểm nước
ngoài chỉ được phép kinh doanh phù hợp với những dịch vụ đã xin phép.
Hơn nữa, theo pháp luật Việt Nam các công ty bảo hiểm nước ngoài ở
Việt Nam không được phép tiến hành kinh doanh đồng thời cả 2 loại hình
bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ.
Có thể nói, thị trường bảo hiểm Việt Nam chịu sự kiểm soát khá chặt
chẽ của Nhà nước, chưa thông thoáng và cởi mở với các công ty bảo hiểm
2.2.4.4
Bất cập về hạn chế tiếp cận thị trường theo phương thức
cung cấp dịch vụ qua sự hiện diện của thể nhân - pháp luật bảo hiểm Việt
Nam chưa thừa nhận việc thể nhân nước ngoài cung ứng dịch vụ bảo hiểm
vào Việt Nam
nước ngoài.
Cũng giống như dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ khác, đối với dịch
vụ bảo hiểm, pháp luật Việt Nam không cho phép người nước ngoài vào
cung cấp dịch vụ với tư cách cá nhân. Họ chỉ được phép cung cấp dịch vụ
thông qua sự hiện diện thương mại của các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo
hiểm nước ngoài. Trong khi đó, phương thức cung cấp dịch vụ thông qua
sự hiện của thể nhân được WTO đề cập đến trên hai phương diện: thể
nhân là người cung ứng dịch vụ và thể nhân là người làm thuê cho người
cung ứng dịch vụ. Như vậy, pháp luật bảo hiểm Việt Nam chưa thừa nhận
việc thể nhân nước ngoài cung ứng dịch vụ bảo hiểm vào Việt Nam. Trên
thực tế, pháp luật Việt Nam chỉ cho phép thể nhân nước ngoài vào làm
việc cho người cung ứng dịch vụ bảo hiểm.
Tóm lại, thị trường bảo hiểm Việt nam còn bộc bộ nhiều yếu điểm,
chưa đủ đáp ứng yêu cầu mở rộng thị trường và kinh doanh theo xu
hướng gia nhập WTO. Pháp luật về bảo hiểm chưa thể hiện được quan
điểm hội nhập một cách rõ ràng. Điều kiện và thủ tục cấp phép cho các
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài còn phức tạp. Đối với các phương
- 51 -
thức cung cấp dịch vụ cơ bản, pháp luật bảo hiểm của Việt Nam mới chủ
yếu điều chỉnh phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện
thương mại, trong khi đó các phương thức cung cấp qua biên giới và tiêu
dùng ngoài lãnh thổ thì chưa có quy định rõ ràng. Trong bối cảnh ta đang
đàm phán gia nhập WTO, vấn đề cơ bản nhất hiện nay đối với các nhà
hoạch định chính sách quản lý xuất, nhập khẩu dịch vụ bảo hiểm là mở
cửa thị trường bảo hiểm sao cho vừa phù hợp với Hiệp định GATS và vừa
phù hợp với điều kiện Việt Nam
2.3 THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG.
Hệ thống ngân hàng Việt nam bắt đầu được chuyển đổi từ hệ thống
ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp từ cuối năm 1988,
theo đó hệ thống ngân hàng Việt nam được phân chia thành Ngân hàng
Nhà nước Việt nam đóng vai trò ngân hàng Trung ương và các ngân hàng
thương mại. Với việc ban hành Pháp lệnh ngân hàng năm 1990, hệ thống
Ngân hàng Việt Nam đã có những tiền đề pháp lý căn bản để thực hiện sự
chuyển đổi. Sự phân chia rõ ràng về mặt pháp lý giữa Ngân hàng Nhà
nước Việt nam, thực hiện vai trò ngân hàng Trung ương và là cơ quan
quản lý nhà nước với các ngân hàng thương mại - tổ chức tài chính thực
hiện chức năng kinh doanh tiền tệ đã tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh
chóng của hệ thống các ngân hàng thương mại mà thông qua đó, một
lượng vốn lớn đã được khơi thông để đầu tư, phát triển kinh tế, tăng thêm
một kênh vốn đầu tư cho nền kinh tế.
1990
1994
1999
2003
Ngân hàng TMQD
4
4
6
6
Ngân hàng TMCP
0
36
48
36
Ngân hàng liên doanh
0
3
4
4
VPDD, chi nhánh NH nước ngoài
0
41
103
69
Nguồn: Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam - 2004.
Bảng 2.3. Cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1990 - 2003.
Nhìn vào bảng trên ta thấy, năm 1990 hệ thống ngân hàng thương mại
- 52 -
của Việt Nam chỉ có 4 ngân hàng thương mại (NHTM), không có ngân
hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), Ngân hàng liên doanh hay văn
phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nào. Nhưng trong các
năm tiếp theo, các con số NHTMCP, Ngân hàng liên doanh được thành
lập tăng dần lên từ 36 NHTMCP và 3 ngân hàng liên doanh năm 1994 đến
48 NHTMCP và 4 ngân hàng liên doanh năm 1999. Tuy nhiên, số
NHTMCP đã giảm xuống còn 36 vào cuối năm 2003 và số văn phòng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài đã tăng nhanh qua các năm từ con số 41 năm
1994 đến 103 năm 1999 và đến cuối năm 2003 giảm xuống chỉ còn 69.
Điều này chứng tỏ cạnh tranh trên lĩnh vực dịch vụ ngân hàng ngày càng
cam go khốc liệt khiến nhiều ngân hàng nước ngoài phải thu hẹp thị
trường ở nước ngoài hay nhiều ngân hàng TMCP không đủ sức cạnh tranh
với các NHTMQD trong nước do hạn chế về vốn, công nghệ, trình độ
quản lí...
Tính đến cuối năm 2003, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam
bao gồm: 6 Ngân hàng Thương mại quốc doanh (Ngân hàng Công
thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người
nghèo, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long) với 267 chi
nhánh trực thuộc, trên 700 chi nhánh cấp huyện, thị xã và hàng ngàn
phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, công ty kinh doanh vàng bạc, cầm đồ, các
chi nhánh cấp 4; 36 NHTMCP; 4 Ngân hàng liên doanh; 69 VPDĐ, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài; 959 quỹ tín dụng nhân dân và một số công
ty tài chính khác, với mạng lưới rộng khắp cả nước.
Tuy nhiên, tổng số tài sản của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam chỉ
tương đương với 38% GDP, tổng dư nợ tín dụng là 22% GDP và tổng số
tiền gửi chiếm khỏang 20% GDP, trong đó tổng dư nợ tín dụng của 4
ngân hàng TMQD (không kể Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng
phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long) chiếm 77.3%, Chi nhánh NH
- 53 -
nước ngoài và liên doanh chiếm 8%, các TCTD khác tỷ trọng dư nợ tín
Đơn vị: %
dụng chiếm 14.7%.
Nguồn: Ngân hàng Nhà nƣớc - năm 2004
Biểu đồ 2.5. Tỷ trọng dƣ nợ tín dụng tính đến 31/12/2003
2.3.1 Những kết quả đạt đƣợc
2.3.1.1 Hệ thống ngân hàng được cải cách mạnh mẽ
Cho đến nay, Chính phủ đã tiến hành hai cuộc cải cách lớn trong
lĩnh vực ngân hàng. Cuộc cải cách lần thứ nhất vào năm 1990 chuyển từ
hệ thống ngân hàng một cấp kém hiệu quả sang hệ thống ngân hàng hai
cấp, đánh dấu một bước chuyển về chất của hệ thống ngân hàng Việt
Nam. Cuộc cải cách lần hai khởi đầu bằng việc Chính phủ thông qua hai
Luật ngân hàng vào tháng 11/1997 và việc thành lập Uỷ ban tái cơ cấu
ngân hàng (tháng 4/1998) với mục tiêu xây dựng một hệ thống ngân hàng
an toàn, hiệu quả và cạnh tranh nhằm giúp bảo vệ ổn định kinh tế vĩ mô,
đảm nhận vai trò trung gian hiệu quả.
Hiện nay, các NHTM Việt nam đang tích cực triển khai Đề án cơ
cấu lại đã được Chính phủ phê duyệt. hơn nữa, các NHTM đang nhận
được sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức quốc tế như WB, IMF, ADB và
chính phủ các nước. Ngân hàng nhà nước cũng đã phối hợp với Bộ tài
chính, Bộ kế hoạch và đầu tư triển khai kế hoạch cấp bổ sung vốn điều lệ
- 54 -
cho các NHTM nhà nước, đảm bảo lộ trình tái cơ cấu của các ngân hàng.
Đến hết năm 2003, 5 ngân hàng thương mại nhà nước đã được cấp bổ
sung vốn điều lệ đợt một và đợt hai với tổng số tiền 7.750 tỷ đồng, trong
đó Ngân hàng Công thương được cấp 1.400 tỷ đồng, ngân hàng Ngoại
thương 1.400 tỷ đồng, ngân hàng Đầu tư và phát triển 2.550 tỷ đồng, ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn 2.200 tỷ đồng, ngân hàng Phát
triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long 200 tỷ đồng. Nếu thực hiện thành
công chương trình cơ cấu lại các ngân hàng thương mại như tiến độ đã
được chính phủ phê chuẩn thì năng lực cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại sẽ được cải thiện đáng kể, một số NHTM sẽ đạt được thứ
2.3.1.2. Công nghệ liên tục được đổi mới:
hạng cao trong khu vực. 7
Trong những năm qua, hoạt động ngân hàng tiếp tục có những bước
phát triển mới về công nghệ và dịch vụ, góp phần tạo thêm vị thế, nâng
cao sức cạnh tranh cho các ngân hàng Việt Nam.
Việc ứng dụng những công nghệ mới trong lĩnh vực ngân hàng đã
thay đổi mạnh mẽ cung cách quản lý các hoạt động ngân hàng, các dịch
vụ ngân hàng, góp phần tăng cường những lợi thế so sánh của ngân hàng
so với các đối thủ cạnh tranh. Nhờ vào những công nghệ mới, khách hàng
có thể nhận được không chỉ các dịch vụ mới có chất lượng tốt mà còn là
tốc độ và sự thuận tiện từ các dịch vụ như: chương trình ngân hàng bán lẻ,
nối mạng với một số khách hàng lớn, chuyển tiền, máy rút tiền tự động
ATM... Vietcombank đã triển khai hệ thống SilverLake cung cấp một hệ
thống ngân hàng bán lẻ, đẩy nhanh tốc độ xử lý, đồng bộ và thống nhất
trong toàn hệ thống giúp cho khách hàng thuận lợi trong việc gửi tiền ở
một ni, rút tiền ở nhiều nơi một cách thuận tiện nhanh chóng và đã triển
khai dự án này trên toàn hệ thống vào cuối năm 2000
Được sự tài trợ của IMF, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kết hợp
với Bộ thương mại đang cùng với các NHTMQD triển khai dự án “Kỹ
- 55 -
thuật Thương mại điện tử” nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng thanh toán phục
vụ cho việc phát triển Thương mại điện tử, tạo tiền đề cho việc đưa
Thương mại điện tử vào phục vụ việc phát triển và hội nhập với các quốc
gia trong khu vực và trên thế giới, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của
công nghệ thông tin trong toàn ngành ngân hàng. Đến nay hệ thống đã kết
nối cho 200 chi nhánh của 50 thành viên; bình quân mỗi ngày hệ thống đã
xử lí từ 8000 đến 9000 lệnh thanh toán với tổng số tiền từ 4000 đến 5000
tỷ đồng. Hay dịch vụ E - Banking, trên thế giới dịch vụ này được triển
khai vào năm 1995 nhưng tháng 11 - 20002, Ngân hàng Công thương Việt
Nam là ngân hàng đầu tiên của Việt Nam khai trương trang web trên
mạng Internet để cung cấp thông tin về hoạt động của ngân hàng, thông
tin thời sự có liên quan và các thông tin về tình hình tài chính trên tài
khoản của khách hàng. Đây là bước khởi đầu thành công trong việc triển
khai thử nghiệm tiểu dự án “Thanh toán điện tử trong Thương mại điện
tử”, đánh dấu một giai đoạn phát triển công nghệ mới của ngành ngân
hàng Việt Nam.
Như vậy, cho đến nay, những hệ thống ứng dụng dịch vụ trên cơ sở
tin học đã được vận hành có hiệu quả tại hệ thống ngân hàng Nhà nước và
NHTM là: Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, Hệ thống chuyển
tiền điện tử, Hệ thống thanh toán bù trừ, Hệ thống kế toán giao dịch tức
thời, Hệ thống thanh tra giám sát từ xa các TCTC, Hệ thống ngân hàng
bán lẻ, Hệ thống quản lý mua bán ngoại tệ và thị trường liên ngân hàng,
Hệ thống quản lý tiền gửi - tiền vay (tiền gửi tiết kiệm, cho vay…), Hệ
thống thanh toán quốc tế SWIFT, Hệ thống thông tin tín dụng, thông tin
phòng ngừa rủi ro tín dụng, Hệ thống nghiệp vụ thị trường mở, Các hệ
thống rút tiền tự động ATM, thanh toán thẻ, hệ thống điểm bán lẻ (POS),
2.3.1.3. Hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng luôn đạt
được sự tăng trưởng đáng kể.
ngân hàng điện tử, các website..
- 56 -
• Về nguồn vốn huy động
Nguồn vốn huy động của các ngân hàng đều tăng trên 20%/năm.
Tính đến 31/12/2003, tổng nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng
trong năm 2003 đạt 360.300 tỷ đồng, tăng 22.7% so với 31/12/2002,
tương đương mức tăng của năm 2002; trong đó tiền gửi bằng VND ước
đạt 255.700 tỷ đồng, tăng 32,9%, tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 104.600
tỷ đồng, tăng khoảng 3,4%. Tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng số
dư vốn huy động đạt 29%, thấp hơn mức 34,5% của cùng kỳ năm trước.
Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đến 31/12/2003 đạt 363.500 tỷ
đồng, tăng 27% so với đầu năm, thấp hơn mức tăng 30,4% của năm 2002;
trong đó cho vay bằng VND ước đạt 283.150 tỷ đồng, tăng 25,5% so với
năm 2002 tăng 29,5%, cho vay bằng ngoại tệ ước đạt 80.350 tỷ đồng, tăng
34% tương đương với mức tăng năm 2002. Tỷ trọng dư nợ cho vay trung
và dài hạn trong tổng dư nợ cho vay đạt 41,7% cao hơn so với tỷ trọng
năm 2002 là 40%. 16
Phương thức huy động vốn ngày càng đa dạng, nhiều ngân hàng đã
triển khai các hình thức trã lãi trước, trả lãi hàng tháng phù hợp với từng
đối tượng khách hàng, lắp đặt máy vi tính tại các quỹ tiết kiệm tạo thuận
lợi cho người gửi tiền. Bên cạnh việc gia tăng về mặt số lượng hoạt động
tín dụng, đầu tư của các ngân hàng trong nước đã chú trọng đẩy mạnh kế
hoạch đầu tư có trọng điểm cho các các ngành kinh tế quan trọng, đồng
thời mở rộng danh mục đầu tư bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Các khoản thu của ngân hàng chủ yếu từ nguồn vốn
đầu tư từ bên ngoài, các khoản thu từ dịch vụ còn chiếm một tỷ trọng nhỏ,
hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại thường đem lại số lợi
nhuận chiếm tới 60-70% tổng lợi nhuận của ngân hàng.
• Về hoạt động thanh toán quốc tế
Các ngân hàng Việt Nam đã tiến hành một loạt các cải cách nhằm
tạo điều kiện cho giao dịch của khách hàng và tránh được những rắc rối
- 57 -
cho họ. Các thủ tục được xem xét nghiên cứu với các hướng dẫn rõ ràng
hơn. Các thông tin được cung cấp đều đặn hơn, mạng lưới thanh toán
quốc tế rộng lớn đủ sức đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của đất nước và đón
đợi trước thời cơ hội nhập. Nếu năm 2000, tổng giá trị thanh toán xuất
nhập khẩu được thực hiện ở VCB đã đạt được 9,175 tỷ USD, tăng 39,4%
so với năm 1999 và chiếm 31,1% thị phần thanh toán ở Việt Nam, trong
đó, thanh toán xuất khẩu đạt 4,163 tỷ USD, tăng 27,6% so với năm 1999
thì đến năm 2003, doanh số thanh toán xuất khẩu của VCB đã đạt gần 12
tỷ USD, tăng gần gấp 3 lần so với năm 2000. 15
Bên cạnh việc thanh toán bằng chứng từ giấy, thanh toán bằng chứng
từ điện tử ngày càng được áp dụng rộng rãi trong hệ thống ngân hàng
thương mại cũng như Ngân hàng Nhà nước. Hình thức thanh toán này đã
rút ngắn được thời gian thanh toán chỉ còn từ 5-10 phút cho một món
thanh toán. VCB cũng đã cấp tín dụng cho khách hàng và đổi ngoại tệ với
tỷ giá ưu đãi nhằm tạo điều kiện cho giao dịch của khách hàng chứ nhiều
khi không nhằm mục đích lợi nhuận.
• Về dịch vụ chuyển tiền và giao dịch thẻ
Vai trò của trung tâm thanh toán bù trừ về ngoại tệ cho các ngân
hàng ở Việt Nam cũng tiếp tục được củng cố nhờ tiến bộ của công nghệ
tin học, đáp ứng khối lượng luân chuyển số tiền rất lớn hàng ngày, nhanh,
an toàn và chính xác. Hiện nay, hệ thống chuyển tiền của VCB được
đánh giá là tiên tiến nhất và được trang bị những phương tiện hiện đại
nhất theo tiêu chuẩn của Mỹ. Nhờ vào hệ thống SWIFT mà 95% giao dịch
của VCB được xử lý tự động và VCB có thể duy trì chính xác 3000 chu
chuyển vốn với tốc độ cao. Chính vì những nỗ lực trong việc đổi mới hoạt
động theo chuẩn mực quốc tế, VCB liên tiếp 4 năm liền nhận giải “Ngân
hàng tốt nhất trong năm” do Tạp chí The Banker trao tặng, giải “Ngân
hàng tốt nhất Việt Nam năm 2003” của tạp chí Euromoney, “Ngân hàng
- 58 -
đại lí tốt nhất trên phạm vi toàn cầu về thanh toán SWIFT” của Bank of
New York...
Các ngân hàng Việt Nam đã chú trọng đến việc hiện đại hoá, triển
khai nhiều hình thức thanh toán tiên tiến bằng séc, thẻ tín dụng trọng nước
và quốc tế (như MASTER Card, VISA Card, VCB Card, JCB Card). Hiện
nay ngành ngân hàng đã thành lập hệ thống thanh toán thẻ liên hàng Việt
Nam để thanh toán bù trừ giao dịch thẻ do các ngân hàng Việt Nam phát
hành sử dụng trong nước, hệ thống sẽ làm giảm chi phí cho các thành
viên, khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ và chi tiêu trong nước. Chỉ
tính riêng VCB, số thẻ Connect 24 được phát hành trong năm 2003 đạt
con số kỷ lục, trên 130.000 thẻ, tăng hơn 400% so với năm 2002, đưa
tổng số loại thẻ này của VCB trên thị trường lên 160.000 thẻ, doanh số đạt
trên 2.400 tỷ đồng, chiếm 74% thị phần toàn thị trường thẻ.
Bảng 2.4. Doanh số thanh toán thẻ của Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt
Đơn vị: triệu USD
2001
2002
2003
46
62
80
VISA Card
19
24
35
MASTER Card
20
20
33
AMEX Card
2
3
4
JCB Card
0
0.2
1
Diners Club
Nguồn: Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam - năm 2004
Nam
- 59 -
Biểu đồ 2.6. Thị phần thẻ ATM của ngân hàng Ngoại thƣơng Việt
Nguồn: Ngân hàng Ngoại thƣơng - 2004
nam năm 2003 so với các ngân hàng khác
Bên cạnh đó, VCB đã phát hành được gần 11.000 thẻ tín dụng quốc
tế trong năm 2003, đưa tổng số chủ thẻ lên 28.000 khách hàng với doanh
số thanh toán thẻ quốc tế trong năm đạt trên 150 triệu USD 17 . (Tuy
nhiên, năm 2003 VCB cũng chỉ chiếm 39% thị phần thị trường thẻ tín
dụng quốc tế, đứng sau ACB chiếm 59% thị phần). VCB cũng đã thu hút
được 11 ngân hàng trong nước khác cùng tham gia liên kết phát hành và
thanh toán thẻ.
Biểu đồ 2.7. Thị phần thẻ tín dụng quốc tế của ngân hàng Ngoại
Nguồn: Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt nam - 2004
thƣơng Việt nam năm 2003 so với các ngân hàng khác
-
- 60 -
Hoạt động kinh doanh ngoại hối trong những năm qua mặc dù diễn
ra trong thời điểm khan hiếm ngoại hối ở Việt Nam nhưng doanh số kinh
doanh ngoại hối của các ngân hàng cũng không bị suy giảm. Nhu cầu
thanh toán bằng ngoại tệ của doanh nghiệp là rất cao, nhất là trong lĩnh
vực dầu khí, trong khi số lượng ngoại tệ được mua bởi các khách hàng
giảm. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng rất gay gắt bởi vì có những ngân
hàng thậm chí đã mua ngoại tệ ngay cả với tỷ giá cao hơn tỷ giá được quy
định bởi Ngân hàng Nhà nước và do khách hàng tích trữ ngoại tệ vì sự
mất giá của tiền đồng Việt Nam. Nếu năm 2000,VCB là ngân hàng thu
được doanh số kinh doanh ngoại hối cao nhất trong các ngân hàng, với
7,405 tỷ USD, tăng 23% so với năm 1999 thì đến năm 2003, mức tăng
giảm đi, chỉ đạt hơn 10 tỷ USD, tăng hơn 14% so với năm 2002. 17
- Về dịch vụ bảo lãnh ngân hàng: Phạm vi nhận bảo lãnh ở Việt Nam
là các ngân hàng (nếu là bảo lãnh vay vốn nước ngoài thì đó là các ngân
hàng được phép hoạt động đối ngoại) được bảo lãnh cho các doanh nghiệp
hoặc bảo lãnh cho nhau; Ngân hàng Nhà nước nhận bảo lãnh cho các
ngân hàng, chỉ nhận bảo lãnh cho một số doanh nghiệp khi được chính
phủ quy định. Các ngân hàng có thể cùng tham gia bảo lãnh cho một
khoản vay, việc bảo lãnh được thực hiện cho từng khoản vay. Hình thức
bảo lãnh thường được các NHTM sử dụng là bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh
thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu. Việc bảo lãnh
được thực hiện theo Quyết định số 283QĐ - NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt nam, ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng có hiệu
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
lực thi hành từ 9/9/2000.
- 61 -
Biểu đồ 2.8. Doanh số bảo lãnh vốn vay trong nƣớc và nƣớc ngoài của
Nguồn: Tạp chí Ngân hàng, Số chuyên đề năm 2003
4 NHTMNN giai đoạn 1998 - 2002.
Qua bảo lãnh, các ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
vay vốn nước ngoài, điển hình là: Công ty xi măng Chinfon Hải phòng
xây dựng nhà máy xi măng có công suất 1,4 triệu tấn/năm, Tổng Công ty
xây dựng Sông Đà xây dựng Nhà máy thuỷ điển Yaly, Công ty liên doanh
thép VSC Posco Hải phòng xây dựng nhà máy sản xuất thép, Tổng Công
ty Bưu chính viễn thông nhập thiết bị điện thoại. Đến cuối năm 2002,
doanh số bảo lãnh của các tổ chức tín dụng đạt khoảng 17.500 tỷ đồng và
880 triệu đôla Mỹ trong đó các NHTM Nhà nước chiếm 70% doanh số
(khoảng 21.490 tỷ VND)
• Các hoạt động khác như cho thuê tài chính, dịch vụ chứng khoán,
mua bán nợ, dịch vụ địa ốc tuy mới xuất hiện nhưng được rất nhiều doanh
nghiệp quan tâm. Đây là những dịch vụ mới có hướng phát triển khả quan
cho các ngân hàng.
2.3.2
Những mặt còn tồn tại
2.3.2.1 Quy mô ngân hàng nhỏ hẹp, không đáp ứng nhu cầu
thực tế của nền kinh tế:
Nói chung, hệ thống ngân hàng Việt Nam gồm các ngân hàng có
quy mô nhỏ so với khu vực. Tổng vốn tự có của bốn ngân hàng thưong
- 62 -
mại hàng đầu (VBARD, BIDV, Vietcombank, Incombank) đến hết năm
2003 chỉ đạt khoảng 14.520 tỷ đồng (tương đương hơn 900 triệu USD),
tính ra mỗi ngân hàng đạt khoảng 4,5% tổng số tài sản có, trong khi đó
theo thông lệ thế giới tối thiểu là 8%. Vốn điều lệ, vốn tự có của các ngân
hàng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng tài sản (cũng rất nhỏ so với
thế giới), do hệ số an toàn vốn thấp dẫn đến hạn chế khả năng mở rộng tín
dụng. Vì hệ số an toàn được đánh giá thông qua tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng
tài sản có, nói chung các ngân hàng thương mại đang trong tình trạng báo
động, chưa có giải pháp khả thi để giải quyết. Ví dụ như Ngân hàng Ngoại
thương Việt nam - một ngân hàng TMQD hoạt động tương đối hiệu quả
nhưng hệ số an toàn vốn liên tiếp qua các năm 2000, 2001, 2002 cũng chỉ
đạt 1%. Điều này vừa làm cho ngân hàng thương mại khó khăn về tài
2.3.2.2 Dịch vụ ngân hàng còn đơn điệu và kém phát triển:
chính, vừa sút giảm uy tín trên thị trường thế giới.
• Hệ thống kỹ thuật giao dịch của ngân hàng thƣơng mại Việt Nam
chƣa đáp ứng nhu cầu thực tế.
Trong khi các dịch vụ ngân hàng hiện đại đã trở thành thông dụng
của phần lớn các ngân hàng trên thế giới, thì ở ngân hàng Việt Nam đang
từng bước thí điểm như: dịch vụ thanh toán thẻ Master Card, Visa card,
máy rút tiền tự động ATM; nhiều dịch vụ ngân hàng nước ta chưa có như:
chuyển tiền, nhận tiền ngay lập tức ở bất cứ nơi nào có ngân hàng, dịch vụ
ngân hàng qua điện thoại miễn phí. Phương thức nhận tiền gửi của ngân
hàng Việt Nam còn đơn điệu, chủ yếu là phương thức gửi vốn theo kỳ
hạn, trong khi đó các ngân hàng nước ngoài có các phương thức nhận tiền
gửi rất đa dạng như: “gửi qua đêm”, “gửi tạm thời ngắn ngày”. Nói chung,
dịch vụ ngân hàng nước ta còn ít ỏi, phương thức còn lạc hậu, thời gian
thanh toán chậm không những làm hạn chế hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng mà còn hạn chế tiện ích cung cấp cho khách hàng.
- 63 -
• Đối với các dịch vụ ngân hàng mới, các ngân hàng Việt Nam khai
thác chƣa có hiệu quả.
Thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ phục vụ các đối tượng khách
hàng là tư nhân của Việt Nam hiện nay chưa phát triển, nếu không muốn
nói là còn bỏ ngỏ, chỉ thực hiện dịch vụ nhận gửi tiền là chính, các dịch
vụ khác như: rút tiền, thanh toán, quản lý tài khoản, uỷ thác đầu tư đều
chưa phát triển hoặc chưa hình thành. Các dịch vụ mới phát triển trong
thời gian gần đây, một số là loại rất cổ nhưng thích hợp với hoàn cảnh
Việt Nam như : dịch vụ cầm đồ, cho thuê két sắt, bảo quản tiền qua đêm.
Một số dịch vụ còn bỏ ngỏ như môi giới chứng khoán, tư vấn khách hàng,
dịch vụ khách hàng tự phục vụ tại các điểm giao dịch bằng thiết bị tự
động và tại nhà. Sự phát triển dịch vụ trong các ngân hàng cũng không
2.3.2.3
Công nghệ ngân hàng còn nghèo nàn, lạc hậu:
đồng đều do năng lực tài chính, công nghệ còn hạn chế, bất cập.
• Mặc dù đã cố gắng đổi mới công nghệ nhƣng so với các ngân
hàng nƣớc ngoài, trang thiết bị kỹ thuật của ngành ngân hàng Việt
Nam còn rất yếu kém.
Hiện nay, trong nước thẻ được sử dụng chưa đúng mục đích, chủ
yếu rút tiền mặt từ tài khoản ký quỹ (97-98% doanh số thẻ) hơn là để
thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ; thanh toán qua máy EDC (Electronic
Data Capture) còn chậm, hoặc thậm chí không thanh toán được tại một số
cơ sở. Nhiều vụ lừa đảo đã xảy ra trong thanh toán thẻ, L/C, séc do hoạt
động kiểm tra thông tin còn hạn chế, nhận thông tin từ các ngân hàng đối
tác còn chậm nên nhiều khi thanh toán cả những thẻ đã được các ngân
hàng khác báo là thẻ/ séc bị đánh cắp, bị mất.
• Về thiết bị kỹ thuật giao dịch, mặc dù yêu cầu vốn cho đổi mới
công nghệ rất lớn nhƣng các ngân hàng thƣơng mại cũng không có
một cơ chế gì đặc biệt từ phía Nhà nƣớc để tạo nguồn vốn cho yêu cầu
này.
- 64 -
Việc trích lợi nhuận hình thành qũy đầu tư phát triển của ngân hàng
thương mại cũng như các doanh nghiệp bình thường là chưa tạo điều kiện
để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Lâu nay, hệ thống ngân hàng Việt
Nam chủ yếu dựa vào các nguồn trợ giúp kỹ thuật của WB, IMF, ADB
trong việc cơ cấu và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, xây dựng khung pháp
lý và phát triển thị trường, đổi mới kỹ thuật thanh toán nhưng nguồn tài
trợ này chưa thể đáp ứng đủ. Công nghệ ngân hàng bao gồm thiết bị kỹ
thuật giao dịch và con người ngân hàng nên bên cạnh vốn đầu tư, việc
hiện đại hoá công nghệ ngân hàng đòi hỏi phải chấp nhận một cuộc cách
mạng thực sự trong đổi mới tư duy và trình độ tay nghề của đội ngũ cán
2.3.2.4
Chất lượng tín dụng thấp, cơ cấu nguồn vốn bất hợp
lý, kế toán và giám sát ngân hàng còn yếu kém:
bộ ngân hàng.
• Chất lƣợng tín dụng của hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều
thấp.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến hết quý I
năm 2004, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế so với cuối năm 2003 của toàn
hệ thống ngân hàng là 4,6%, thấp hơn mức tăng 6,4% của cùng kỳ năm
2003. Trong đó, cho vay cả VND và USD đều có mức tăng thấp hơn so
với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, cho vay bằng VND chỉ đạt tốc độ tăng
trưởng là 3,3% (cùng kỳ năm ngoái là 5,2%), còn tốc độ tăng trưởng bằng
USD sau một năm tăng trưởng mạnh thì trong quý I này cũng chỉ tăng 9%
(cùng kỳ năm ngoái là 10,9%). NHNN cho rằng, nguyên nhân chính khiến
tăng tín dụng thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái là do các ngân hàng tập
trung vào việc củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng.
• Cơ cấu nguồn vốn chƣa hợp lí
Cơ cấu nguồn vốn chủ yếu là nguồn huy động ngắn hạn, yêu cầu
thanh khoản cao, do đó hạn chế nhất định đến việc mở rộng tín dụng trung
và dài hạn đối với nền kinh tế. Mặt khác, có những ngân hàng mà vốn
- 65 -
ngoại tệ luôn chiếm tỷ trọng lớn, (ví dụ ở VCB là 66 -73%), gây khó khăn
cho ngân hàng trong việc thực hiện chủ trương mở rộng tín dụng VND.
Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động luôn bị ứ đọng, đặc biệt là sau cuộc
khủng hoảng Tài chính - tiền tệ. Số liệu trong bảng cho thấy, các NHTM
ngoài QD cho vay vượt quá số vốn huy động, nghĩa là phải sử dụng đến
cả vốn điều lệ và vốn vay từ thị trường liên ngân hàng.
Bảng 2.5. Tỷ trọng giữa cho vay so với vốn huy động giai đoạn 1994-
Đơn vị :%
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2003
NHTMQD
148,1
136,6
125,5
108,6
94,0
78,4
74,5
77,9
NHTM ngoài QD
140,9
102,6
113,8
117,5
107,6
126,7
107,6
112,6
Nguồn: IMF Staff Country Report,No.99/55, 1999; Tạp chí Ngân hàng số 1+2,2001;
2003
Tạp chí Thị trƣờng Tài chính tiền tệ số 8,2004.
Đơn vị : tỷ đồng
1995
1997
1999
2001
2003
37.120
68.860
99.450
139.580
255.700
bằng VN§
13.020
24.740
38.300
56.900
104.600
bằng USD
50.140
72.200
93.600
196.480
360.300
Tổng
Nguồn : Ngân hàng nhà nƣớc - 2004
2.3.2.5 Môi trường pháp lý cho dịch vụ ngân hàng còn nhiều
vướng mắc:
Bảng 2.6. Tình hình huy động vốn của hệ thống ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng, khác với các ngành kinh doanh khác, có quan hệ
nhiều mặt với đầy đủ các thành phần kinh tế ở khắp các địa bàn trong toàn
quốc. Vì thế, quan hệ pháp luật phát sinh cũng rất đa dạng, phức tạp, liên
quan đến hầu hết các lĩnh vực và chịu sự điều chỉnh của các quy phạm
pháp luật khác nhau. Từ khi có Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ
- 66 -
chức tín dụng, với việc nới lỏng khung cho vay vốn tới một số doanh
nghiệp, cho phép các tổ chức tín dụng tự chủ động hơn trong việc kinh
doanh…đã tạo cơ sở pháp lý giúp cho các ngân hàng cạnh tranh bình đẳng
hơn, hợp pháp hơn, kinh doanh có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, ngành ngân
hàng Việt Nam phải đối mặt với khá nhiều lực cản do luật lệ và cơ chế
chính sách còn thiếu và chưa đồng bộ như: Chưa đảm bảo môi trường
cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp, chính sách mở cửa chưa
thông thoáng, quy định về hỗ trợ tài chính và công nghệ cho dịch vụ ngân
hàng còn chưa đầy đủ... Thực tế, có sự phân chia về khu vực thị trường cụ
thể của các NHTMQD, chủ yếu phục vụ khu vực nhà nước, do các DNNN
vẫn được hưởng những ưu đãi lớn về tài chính và tín dụng. Ngân hàng
quốc doanh luôn được hoạt động dưới sự hỗ trợ và đỡ đầu của nhà nước
thông qua các biện pháp khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ để làm lạnh mạnh
hoá các hoạt động ngân hàng.
2.3.3
Nguyên nhân của những tồn tại đó
•
Vốn tự có của các ngân hàng còn thấp.
Trong khi xu hướng sát nhập hoặc cơ cấu lại sở hữu để tăng vốn cho
các ngân hàng đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước thì ở Việt Nam, việc sát
nhập hoặc cơ cấu lại sở hữu gần như không thể thực hiện được do những
trở ngại rất lớn từ quan niệm, thói quen và đặc biệt là cơ sở pháp lý. Vốn
tự có thấp đã làm giảm khả năng mở rộng tín dụng của các ngân hàng
thương mại và làm tăng rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó, chưa có sự hợp tác
một cách tích cực để thực hiện đồng tài trợ các dự án giữa các ngân hàng,
làm cho hiệu quả sử dụng vốn của toàn hệ thống thấp. Do đó, vốn tự có
nhỏ bé là điều bất lợi cho ngân hàng thương mại khi các tổ chức quốc tế
đánh giá để cho vay, khi bản thân nó cho vay các dự án lớn trong nước có
giá trị tài trợ vượt quá 15% vốn tự có của mình.
•
Đầu tƣ chi phí cho việc phát triển dịch vụ còn dè dặt.
- 67 -
Nhận thức của các ngân hàng về phát triển dịch vụ còn hạn chế, mặt
khác các ngân hàng còn tách xa nhau về khả năng tài chính, địa dư hoạt
động, thế mạnh cạnh tranh, bí mật kinh doanh … nên việc kết nối hệ
thống dịch vụ của các ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn, đồng thời mặt
bằng tin học của Việt Nam so với các nước trong khu vực còn cách xa
lớn, cơ sở pháp lý cho việc ứng dụng tin học và tự động hóa các nghiệp vụ
còn thiếu và không đồng bộ, tạo ra sự khó khăn trong chuyển giao và tiếp
nhận thông tin, lưu trữ... Đồng thời, chi phí đầu tư phát triển các dịch vụ
mới là rất lớn. Ví dụ như chi phí ban đầu về đầu tư cho việc phát hành,
thanh toán thẻ là rất lớn. Giá mỗi máy ATM trị giá khoảng 30.000 USD
hay chi phí cho mỗi máy EDC là khoảng 650 USD, chi phí bỏ ra cho hệ
thống SWITCH kết nối hệ thống thẻ quốc tế lên đến hàng triệu USD. Hơn
nữa, các ngân hàng thiếu sự hợp tác lẫn nhau, mỗi ngân hàng theo đuổi
một chiến lược riêng đối với cùng loại sản phẩm dịch vụ có nhiều điểm
tương đồng, dẫn tới lãng phí trong đầu tư và làm tăng chi phí vận hành
cũng như quản lý hệ thống. Ví dụ mỗi ngân hàng sử dụng một hệ thống
thẻ riêng nên thanh toán giữa các ngân hàng phải thông qua tổ chức thẻ
quốc tế. Nếu mỗi ngân hàng thuê riêng một đường Leased line tốc độ
9.600 MB để truyền dữ liệu với tổ chức thẻ quốc tế cho mỗi loại thẻ với
giá thuê khoảng 8.000 USD/đường thì chi phí thấp nhất mà các ngân hàng
phải trả hàng tháng có thể là 16.000 USD.
•
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khu vực doanh nghiệp tƣ
nhân còn hạn chế, nhiều ngân hàng còn chưa mạnh dạn cho vay đối với
các doanh nghiệp tư nhân, thủ tục vay vốn còn phức tạp.
•
Thực tiễn kế toán và giám sát ngân hàng yếu kém làm cho việc
đánh giá đầy đủ tình trạng thực sự của hệ thống ngân hàng rất khó
khăn. Sự không hiệu quả của hệ thống kế toán ngân hàng ảnh hưởng đến
tính minh bạch của hệ thống, làm méo mó bức tranh thực sự về hoạt động
của ngân hàng, gây nhiều khó khăn cho việc nâng cao chất lượng quản lý
- 68 -
của ngân hàng. Cơ chế giám sát tỏ ra gặp nhiều khó khăn để thực thi các
• Một số tổ chức tín dụng chƣa nhận thức đƣợc đầy đủ vai trò và
quy định thận trọng đảm bảo an toàn của hệ thống.
hiệu quả hỗ trợ hoạt động tín dụng của Trung tâm thông tin tín dụng
nên việc cung cấp thông tin cho CIC cũng như khai thác thông tin từ CIC
chưa được chú trọng đúng mức, không đầy đủ và kịp thời.
Tóm lại, mặc dù sau 10 năm hoạt động và đổi mới, thu được những
thành tựu đáng khích lệ, dịch vụ ngân hàng Việt Nam vẫn còn khoảng
cách khá xa so với tiêu chuẩn quốc tế về cả các loại hình dịch vụ, chất
lượng dịch vụ cũng như công nghệ ngân hàng và kỹ năng quản lý. Trước
quá trình toàn cầu hoá và hội nhập khu vực, môi trường cạnh tranh ngày
càng gay gắt, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần có những chuyển biến
mạnh mẽ hơn nữa, trong đó cần phải chú trọng vai trò của NHTMQD
trong toàn bộ hệ thống. Bên cạnh đó, để duy trì được một hệ thống tài
chính lành mạnh, nhất thiết phải có nhiều biện pháp tháo gỡ mạnh mẽ từ
phía các cơ quan quản lý hành chính nhằm từng bước nâng cao và phát
huy được khả năng cạnh tranh bền vững cho hệ thống ngân hàng trước
các thách thức to lớn ngày càng đến gần trong quá trình hội nhập với nền
kinh tế thế giới.
2.3.4
Những bất cập về dịch vụ ngân hàng của Việt nam
so với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, trong lĩnh vực ngân hàng, với sự tham gia của 6 ngân hàng
liên doanh, 69 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và văn phòng đại diện
ngân hàng nước ngoài chứng tỏ các ngân hàng nước ngoài đã có vị trí
cạnh tranh trong thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam.. Tuy nhiên, pháp
luật về ngân hàng Việt Nam hiện hành còn sử dụng nhiều quy định, biện
pháp có tính chất hạn chế về số lượng hoặc trị giá các giao dịch dịch vụ
được cung cấp cũng như những hạn chế về số lượng người cung cấp dịch
vụ, số lượng thể nhân được tuyển dụng hoặc những yêu cầu hình thức
- 69 -
pháp nhân, tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài. Những hạn chế này theo
Điều XVI - GATS các nước thành viên sẽ không được phép duy trì trừ
2.3.4.1
Vấn đề cấp phép đối với các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài còn nhiều vướng mắc
trường hợp có quy định khác trong Danh mục cam kết.
Theo nghị định 13/1999/NĐ - CP về tổ chức, hoạt động của tổ chức tín
dụng nước ngoài tại Việt nam đã nêu rõ, nếu xét trên khía cạnh pháp lí,
các ngân hàng và các TCTD có vốn đầu tư nước ngoài có thể tham gia với
quy mô và nội dung rất rộng rãi. Tuy nhiên trên thực tế thì các ngân hàng
liên doanh và các TCTD không được tự động tham gia vào các hoạt động
ngân hàng được qui định trong Nghị định mà chỉ có thể được thực hiện
một phần hoặc toàn bộ các hoạt động ngân hàng phụ thuộc vào từng
trường hợp cấp phép cụ thể. Như vậy, Nhà nước Việt nam bảo lưu quyền
được xem xét cấp phép hoặc không cấp phép đối với một ngân hàng nước
ngoài. Như vậy là mâu thuẫn với những cam kết của Việt nam trong BTA
:Việt nam sẽ không có quyền ngăn cản hoạt động ngân hàng của một ngân
hàng nước ngoài nếu như ngân hàng đó thực hiện đầy đủ những quy định
trong bản cam kết và không trái với những quy định quản lí của nhà nước
2.3.4.2
Bất cập về tiếp cận thị trường theo phương thức cung cấp
dịch vụ qua biên giới: hạn chế các dịch vụ cung cấp đối với các NH &
TCTD nước ngoài
Việt nam.
Theo Điểm 3 (c) Thoả thuận về Các cam kết trong dịch vụ tài chính
và Phụ lục về dịch vụ tài chính trong GATS, thì mỗi nước thành viên sẽ
cho phép các ngân hàng của nước thành viên khác được cung cấp với tư
cách là nhà cung cấp chính, thông qua trung gian hoặc với tư cách là trung
gian các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ dịch vụ
bảo hiểm) trải dài từ các dịch vụ truyền thống do ngân hàng cung cấp như
nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán và chuyển tiền cho đến các dịch vụ
- 70 -
kinh doanh ngoại hối, các loại công cụ phái sinh, kinh doanh chứng
khoán, môi giới tiền tệ. . . Trong khi đó, pháp luật về ngân hàng Việt Nam
hiện hành chỉ thực sự cho phép các ngân hàng nước ngoài được cung cấp
vào Việt Nam các dịch vụ ngân hàng truyền thống như dịch vụ chấp nhận
tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền. . . Tuy nhiên, việc cung
cấp các dịch vụ này của ngân hàng và tổ chức tín dụng nước ngoài phải
2.3.4.3
Bất cập về tiếp cận thị trường theo phương thức
cung cấp dịch vụ sử dụng ngoài lãnh thổ : hạn chế hoạt động sử dụng
dịch vụ ngoài lãnh thổ đối với công dân trong nước
chịu một số hạn chế nhất định.
Do nền kinh tế Việt Nam kém phát triển, nhu cầu tiêu dùng các dịch
vụ ngân hàng ở nước ngoài của người dân còn thấp. Vì vậy, pháp luật
ngân hàng hiện nay còn thiếu các quy định cụ thể cho phép người dân
mua các dịch vụ ngân hàng theo quy định của WTO. Chẳng hạn, Việt
Nam chưa có quy định cho phép công dân Việt Nam được mua chứng
khoán, hay được phép tham gia các giao dịch ngoại hối như nghiệp vụ
giao dịch kỳ hạn, giao dịch swap, môi giới tiền tệ. . . ở nước ngoài.
Trên thực tế, Việt Nam chỉ cho phép doanh nghiệp, công dân Việt
Nam được phép mua một vài dịch vụ ngân hàng ở nước ngoài như: dịch
vụ thanh toán và chuyển tiền; mở tài khoản ở nước ngoài. . . Tuy nhiên,
việc mua các dịch vụ này ở nước ngoài cũng phải chịu một số điều kiện,
hạn chế khắt khe ví dụ như: các doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam chỉ
được phép mở một tài khoản ở nước ngoài và phải có giấy phép của Ngân
hàng Nhà nước.
2.3.4.4
Bất cập về tiếp cận thị trường theo phương thức
cung cấp dịch vụ qua sự hiện diện thương mại : hạn chế số lượng nhà
cung cấp dịch vụ và việc tham gia góp vốn của bên nước ngoài
- 71 -
Pháp luật về ngân hàng Việt Nam hiện hành còn duy trì nhiều quy
định, biện pháp nhằm hạn chế hoạt động của các ngân hàng nước ngoài
theo phương thức cung cấp dịch vụ qua sự hiện diện thương mại. Đối
chiếu với Điều XVI của GATS, thì các hạn chế mà Việt Nam hiện đang
áp dụng không được phép duy trì, trừ trường hợp các nước thành viên có
thoả thuận và có quy định khác trong Danh mục cam kết. Cụ thể các hạn
chế mà pháp luật ngân hàng của Việt Nam vẫn duy trì khác so với quy
định của GATS như sau:
•
Số lƣợng nhà cung cấp dịch vụ trên quy mô vùng hoặc trên toàn
lãnh thổ bị hạn chế
Thực tế hoạt động tín dụng, ngân hàng ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà
nước cấp giấy phép kinh doanh cho các tổ chức tín dụng nước ngoài căn
cứ vào nhu cầu phát triền kinh tế. Đối chiếu Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng được thông qua năm 1997 và Nghị
định 13/1999/NĐ - CP ngày 17/03/1999, các tổ chức tín dụng nước ngoài
bị hạn chế về phạm vi địa lý và không gian hoạt động. Ngân hàng nước
ngoài được mở chi nhánh tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
nhưng không được mở chi nhánh phụ thuộc của chi nhánh đó. Tại nơi đã
được mở chi nhánh, ngân hàng nước ngoài không được đặt văn phòng đại
diện. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được mở các điểm giao dịch
dưới bất kỳ hình thức nào ngoài trụ sở chi nhánh của mình. Tổ chức tín
dụng nước ngoài được đặt văn phòng đại diện tại một số tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương của Việt Nam và tại mỗi tỉnh, thành phố chỉ được
phép đặt một văn phòng đại diện (Nghị định 13/1999/NĐ-CP, Điều 25).
•
Tỷ lệ vốn góp của bên nƣớc ngoài còn bị hạn chế ở mức thấp
- 72 -
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, cổ đông góp vốn vào ngân
hàng thương mại cổ phần Việt Nam so với vốn điều lệ được quy định,
một pháp nhân hay một thể nhân nước ngoài tối đa 10%; tổng số vốn cổ
phần của các cổ đông nước ngoài tối đa không quá 30% vốn điều lệ. Tỷ lệ
góp vốn điều lệ của Bên nước ngoài, Bên Việt Nam trong ngân hàng liên
doanh do các bên thoả thuận và được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà
nước khi cấp giấy phép. Đối với các ngân hàng liên doanh thực hiện
nghiệp vụ ngân hàng thương mại; phần vốn góp của Bên nước ngoài
không quá 50% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh. Phần vốn góp của
Bên nước ngoài trong tổ chức tín dụng phi ngân hàng liên doanh không
2.3.4.5
Bất cập về tiếp cận thị trường theo phương thức cung cấp
dịch vụ thông qua sự hiện diện của thể nhân : Việt Nam chưa chấp nhận
việc người nước ngoài cung cấp dịch vụ ngân hàng với tư cách cá nhân
được vượt quá 30% vốn điều lệ (Điều 26, Nghị định 13/1999/NĐ-CP).
Trong khuôn khổ WTO, thì phương thức cung cấp dịch vụ thông qua
sự hiện diện thương mại được đề cập theo 2 khía cạnh: thể nhân là người
cung ứng dịch vụ trực tiếp và thể nhân là người làm thuê cho người cung
ứng dịch vụ ở phương thức cung cấp dịch vụ. Đối chiếu với pháp luật Việt
Nam hiện hành, thì Việt Nam chưa chấp nhận việc người nước ngoài cung
cấp dịch vụ nói chung và dịch vụ ngân hàng nói riêng với tư cách cá nhân
họ chỉ được phép cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại của
các tổ chức cung cấp dịch vụ nước ngoài. Về nguyên tắc, Việt Nam chỉ
cho phép các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh thuê
và sử dụng các chuyên gia nước ngoài trong trường hợp khẩn cấp hoặc
khi công việc yêu cầu chuyên gia có chuyên môn kỹ thuật cao mà lao
động Việt Nam chưa đáp ứng được. Các chuyên gia nước ngoài để được
vào làm việc tại Việt Nam phải có giấy phép lao động do Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội cấp. Nhưng trên thực tế, vấn đề gây khó khăn nhất
cho lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc là vấn đề thủ tục xin cấp
- 73 -
giấy phép lao động. Các thủ tục liên quan đến hợp pháp hoá lãnh sự, công
chứng, và xác minh lý lịch tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam thường rất phức tạp, gây khó khăn cho lao động nước ngoài.
Tóm lại, tại Việt Nam, các ngân hàng liên doanh và các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài được hoạt động tương đối bình đẳng với các ngân
hàng của Việt Nam và chính sách của Việt Nam đối với hoạt động ngân
hàng là cởi mở tương đương với các nước trong khu vực Đông Nam Á có
cùng điều kiện hoàn cảnh tương tự. Tuy nhiên so với yêu cầu của Hiệp
định thương mại dịch vụ và Thoả thuận về các cam kết trong dịch vụ tài
chính của WTO, thì cơ chế chính sách mở cửa dịch vụ ngân hàng gia nhập
WTO còn chưa đầy đủ và đồng bộ. Các công cụ thanh toán trong nền kinh
tế còn đơn điệu chưa đầy đủ. Cơ chế điều hành tỷ giá và ngoại tệ của Việt
Nam còn mang dấu ấn hành chính.
- 74 -
CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
3.1. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRONG VIỆC PHÁT
TRIỂN THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
Các nước được chọn nghiên cứu là Thái lan và Singapore - những
nước có trình độ phát triển kinh tế tương đồng với Việt Nam. Chúng ta có
thể đối chiếu hệ thống chính sách, biện pháp quản lý dịch vụ bảo hiểm và
ngân hàng của hai nước này và so sánh thực trạng mở cửa thị trường dịch
vụ tàì chính của Việt Nam để qua đó, nghiên cứu bổ sung các công cụ
quản lý cần thiết, bãi bỏ các công cụ không còn phù hợp và rút ra bài học
kinh nghiệm, giải pháp thích hợp cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
mà cụ thể là xây dựng bản chào về dịch vụ trong đàm phán gia nhập WTO
của Việt nam trong thời gian tới.
3.1.1
Thái Lan
Thái Lan là một nước nông nghiệp truyền thống. Bắt đầu từ năm
1960, Thái Lan thực hiện Kế hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội lần thứ
nhất và đến nay là Kế hoạch lần thứ 9. Trong những năm 1970, Thái Lan
thực hiện chính sách "hướng xuất khẩu" với ASEAN, Mỹ, Nhật, EC là
các thị trường xuất khẩu chính. Ngành công nghiệp và dịch vụ đã dần dần
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, vai trò của nông nghiệp ngày
càng giảm dần. Tăng trưởng GDP năm 1999 đạt 4,4%; 2000 đạt 4,6%,
2001 đạt 1,8% (giảm do tác động của sự kiện 11/9/2001 tại Mỹ), năm
2002 đạt 5,2%. 1
Sau đây là những kinh nghiệm của Thái Lan trong việc mở cửa thị
trường dịch vụ tài chính..
Đối với dịch vụ bảo hiểm.
- Cục Bảo hiểm (DOI) và Uỷ ban Bảo hiểm, đều thuộc Bộ Thương mại
- 75 -
Thái Lan, là 2 cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo
hiểm đã thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm theo các nội dung
sau:
+ Tăng phần góp vốn nước ngoài lên 25% trong các doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước, tiếp tục tăng lên 49% trong năm 2003, duy trì mức giới
hạn đến năm 2013, dự kiến tự do hoá hoàn toàn thị trường bảo hiểm trước
năm 2020;
+ Không giới hạn số lượng doanh nghiệp có vốn nước ngoài trên thị
trường.
+ Chỉ cho phép công ty bảo hiểm nước ngoài được thành lập 1 chi nhánh
tại Thái Lan và chi nhánh đó không được tiến hành kinh doanh hoạt động
môi giới và đại lý bảo hiểm.
- Tăng cường cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm mới: DOI
quy định mức quỹ vốn tối thiểu là 500 triệu Baht hay không dưới 4% dự
phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ; không thấp hơn 20% doanh thu phí
bảo hiểm ròng của năm trước nhưng không dưới 300 triệu Baht đối với
bảo hiểm phi nhân thọ.
- Xúc tiến thiết lập "Tiêu chuẩn Điều hành Doanh nghiệp tốt", trong đó có
Bộ thực hành tốt nhất (Code of Best Practice) đối với bảo hiểm phi nhân
thọ.
- Nâng cao nhận thức xã hội về nhu cầu bảo hiểm phi nhân thọ, tăng
cường thực thi chế độ bảo hiểm xe cơ giới bắt buộc;
- Cải tiến chất lượng, trình độ dịch vụ của các đại lý, hệ thống quản lý bồi
thường, hệ thống quản lý rủi ro, kiểm toán nội bộ và hệ thống công nghệ
thông tin.
Đối với dịch vụ ngân hàng.
Cam kết cụ thể của Thái Lan về dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ GATS
thể hiện ở những nội dung sau:
- 76 -
- Phương thức (1), (2): Về tiếp cận thị trường: không hạn chế đối với dịch vụ tư
vấn ngân hàng, chưa cam kết đối với dịch vụ khác. Về đối xử quốc gia : không
hạn chế với mọi loại dịch vụ.
- Phương thức (3): Bao gồm:
a) Văn phòng đại diện của các ngân hàng: không hạn chế.
b) Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: không hạn chế đối với các chi nhánh ngân
hàng nước ngoài hoạt động theo cơ cấu cổ phần hiện tại. Nếu các ngân hàng nước
ngoài đã mở 1 trụ sở chi nhánh đầu tiên tại Thái Lan trước tháng 7 năm 1995 thì
sẽ được phép mở thêm không quá 2 chi nhánh. Không hạn chế việc tham gia vào
hệ thống thanh toán và thanh toán bù trừ bằng séc.
c) Đối với các hình thức hiện diện thương mại khác, Thái Lan đưa ra những hạn
chế chủ yếu sau:
+ Các hạn chế về việc mua cổ phần tối đa của bên nước ngoài và phần vốn cổ
phần kết hợp tối đa của một cá nhân và những người có quan hệ họ hàng với
người này trong vốn đăng ký đã nộp với từng loại hình ngân hàng cụ thể. Ví dụ:
25% và 5% trong các ngân hàng địa phương, 25% và 10% đối với các công ty tài
chính và các công ty tín dụng (và những hạn chế này có thể được nới lỏng trong
vòng 10 năm nếu việc nới lỏng là cần thiết để thúc đẩy kinh doanh và điều kiện
hoạt động của các ngân hàng thương mại). Những cổ đông nước ngoài thâm nhập
thị trường trong giai đoạn này thì sau đó sẽ được hưởng những ưu đãi đã có liên
quan đến toàn bộ cổ phần mà họ nắm giữ.
+ Quy định về giám đốc điều hành phải có quốc tịch Thái Lan. Ví dụ: ít nhất là
3/4 đối với các ngân hàng cổ phần địa phương, công ty tài chính và công ty tín
dụng; 1/2 đối với các ty cổ phần địa phương; 3/4 trong 5 năm đầu hoạt động và 1/
2 trong các năm sau đó đối với các công ty quản lý tài sản.
- Phương thức (4): Hạn chế về số lượng thể nhân nước ngoài trong mỗi
trụ sở của ngân hàng nước ngoài. Ví dụ: 2 người đối với các văn phòng
đại diện, 6 người đối với chi nhánh được cấp phép đầy đủ. Đối với công
ty tài chính: tối đa là 4 giám đốc, văn phòng đại diện: 2 người. Đối với
- 77 -
công ty chứng khoán và công ty quản lý tài sản: 2 người đối với văn
phòng đại diện.
3.1.2
Singapore
Mặc dù kinh tế Singapore từ cuối những năm 1980 đạt tốc độ tăng
trưởng vào loại cao nhất thế giới: 1994 đạt 10%, 1995 là 8,9%, và 1996
đạt 6,2% nhưng đến cuối năm 1997 do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền
tệ, đồng đôla Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm
1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Do nền kinh tế vững cộng thêm chính
sách kinh tế của Chính phủ có hiệu quả, Singapore được đánh giá là nước
phục hồi nhanh và mạnh nhất khu vực, năm 1999 tăng trưởng đạt 5,5%,
xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 382 tỷ USD. Tăng trưởng kinh tế năm
2000 đạt trên 9%. Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc
chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Hiện nay, Singapore đang tập trung
khai thác triệt để công nghệ thông tin để nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Thu nhập tính theo đầu người: 24.000 USD/người/năm, đứng thứ
2 ở Châu Á sau Nhật Bản. 23
Singapore cũng đã áp dụng những biện pháp tích cực trong việc
phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm và ngân hàng.
Đối với dịch vụ bảo hiểm.
- Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS) là cơ quan quản lý độc lập đối với
hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cho phép tự do tiếp cận thị trường bảo
hiểm trực tiếp thông qua:
+ Bãi bỏ hạn chế phần vốn góp nước ngoài là 49%;
+ Không giới hạn số lượng doanh nghiệp có vốn nước ngoài trên thị
trường;
+ Tháng 8/1999, cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được thành
lập các chi nhánh tại Singapore và cho phép các nhà bảo hiểm và tái bảo
hiểm đa ngành tham gia vào kinh doanh bảo hiểm bảo lãnh tài chính.
- 78 -
- Dành NT cho các doanh nghiệp nước ngoài trong hầu hết các hoạt động
kinh tế;
- Kể từ tháng 10/1997, quy định tăng vốn thành lập doanh nghiệp tối
thiểu là 25 triệu Đô la Singapore đối với bảo hiểm trực tiếp và tái bảo
hiểm và 400.000 Đô la Singapore đối với bảo hiểm phụ thuộc. Nhà đầu tư
phải đặt cọc (ký quỹ) tại ngân hàng của Singapore ít nhất 500.000 Đô la
Singapore đối với mỗi loại hình hoạt động kinh doanh là bảo hiểm trực
tiếp, tái bảo hiểm hay bảo hiểm phụ thuộc. Tất cả các doanh nghiệp bảo
hiểm phải định kỳ trình báo cáo tài chính cho MAS phê duyệt.
- Áp dụng mức thuế ưu đãi là 10% đối với thu nhập của các công ty bảo
hiểm từ kinh doanh bảo hiểm ngoài lãnh thổ.
- MAS đã thực hiện các biện pháp minh bạch hoá thị trường bảo hiểm
như sau:
+ Đưa ra Các tiêu chuẩn Quản lý Công ty phù hợp với các Thực tiễn
Quốc tế Tốt nhất (international best practices);
+ Uỷ ban về Phân phối Hiệu quả Bảo hiểm Nhân thọ được thành lập tháng
3/2000 đã đề xuất nâng cao chất lượng quy trình tư vấn bán hàng, quảng
bá sản phẩm, và các yêu cầu đào tạo chuyên môn cho các nhà trung gian
bảo hiểm;
+ MAS đã tiến hành xây dựng 1 khuôn khổ pháp lý đối với các Nhà tư
vấn Tài chính Độc lập (IFAs) trong hoạt động đại lý bảo hiểm nhân thọ
Đối với dịch vụ ngân hàng
Hệ thống ngân hàng của Singapore có sự tham gia của các ngân hàng nước
ngoài, đặc biệt trên 80% tài sản của các ngân hàng trong nước đều thuộc quyền
kiểm soát của 4 ngân hàng lớn nhất là: Development Bank of Singapore.
Overseas Chinese banking Corporation, Overseas Union Bank và United
Overseas bank.
- 79 -
- Về chính sách mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài, mỗi ngân hàng chỉ
được mở 1 chi nhánh độc lập và được hoạt động một số nghiệp vụ cũng
như tất cả các nghiệp vụ ngân hàng. Thời gian qua, vẫn cấp giấy phép mới
nhưng chủ yếu chỉ cấp giấy phép hoạt động ngân hàng hạn chế, ngân hàng
hải ngoại hoat động bằng ngoại tệ với đối tượng khách hàng chủ yếu là
người không cư trú.
- Mức vốn được cấp ban đầu: lúc đầu là 6 triệu đô la Singapore, tương
đương 3,7 triệu USD; năm 1993 có Luật Ngân hàng sửa đổi, trong đó quy
định 200 triệu đô la Singapore
- Về nội dung và phạm vi hoạt động của Ngân hàng nước ngoài,
Singapore quy định 3 loại giấy phép khác nhau: Giấy phép hoạt động tất
cả các nghiệp vụ NHTM (giấy phép đầy đủ) ; giấy phép hoạt động ngân
hàng hạn chế; giấy phép hoạt động ngân hàng hải ngoại (offshore
banking).
3.1.3 Các bài học kinh nghiệm rút ra
3.1.3.1 Kinh nghiệm tổ chức quản lí
Về tổ chức quản lí nhà nước, hiện nay chúng ta có ngân hàng nhà
nước quản lí dịch vụ ngân hàng, còn bảo hiểm chịu sự quản lí của 3 hệ
thống cơ quan quản lí nhà nước về bảo hiểm: Cơ quan bảo hiểm Việt nam
quản lí bảo hiểm xã hội, Bộ y tế quản lí bảo hiểm y tế và Vụ Bảo hiểm
Bộ tài chính quản lí hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Sự phân tách này tạo
ra một sự không thống nhất, đôi khi chồng chéo và phức tạp trong hoạt
động quản lí. Như vậy, ngành ngân hàng thì đã rõ rồi, nhưng đối với hoạt
động bảo hiểm, nên chăng chỉ cần duy trì 2 cơ quan quản lí là đủ, ví dụ:
cơ quan bảo hiểm Việt Nam quản lí cả hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo
hiểm y tế, Vụ bảo hiểm Bộ tài chính quản lí hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, hoặc tiến tới hình thành một cơ quan quản lí độc lập hoạt động bảo
hiểm như trường hợp Singapore.
- 80 -
3.1.3.2 Cần tập trung khuyến khích đầu tư nước ngoài
Việt nam cần thấy được tầm quan trọng của việc tập trung khuyến
khích đầu tư nước ngoài, loại bỏ dần những quy định mang tính phân biệt
đối xử giữa các doanh nghiệp kinh doanh dich vụ trong nước và nước
ngoài.
Đối chiếu với Thái Lan và Singapore, có thể thấy thị truờng dịch vụ
tài chính của ta còn duy trì nhiều hạn chế về tiếp cận thị truờng và đãi ngộ
quốc gia, cụ thể:
- Thứ nhất, Việt Nam hạn chế phương thức 1 và 2: Tổ chức, cá nhân
có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo
hiểm hoạt động ở Việt Nam, trừ các sản phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp
bảo hiểm trong nước chưa cung cấp được (Điều 6 - Luật kinh doanh bảo
hiểm); Không được phép tái bảo hiểm toàn bộ trách nhiệm đã nhận bảo
hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, nếu tái bảo hiểm bắt buộc,
doanh nghiệp phải tái bảo hiểm theo tỷ lệ 20% trách nhiệm cho Công ty
Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (Điều 9 - Luật kinh doanh bảo hiểm và
Điều 22 - Nghị định 42); Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải mua bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động của mình tại doanh nghiệp
bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam (Điều 92 - Luật kinh doanh bảo hiểm).
Trên thực tế, Thái Lan và Singapore đã gần như loại bỏ toàn bộ các hạn
chế này để đa dạng hoá sản phẩm cho người tiêu dùng.
Hay đối với dịch vụ ngân hàng, pháp luật về ngân hàng Việt Nam
hiện hành chỉ thực sự cho phép các ngân hàng nước ngoài được cung cấp
vào Việt Nam các dịch vụ ngân hàng truyền thống như dịch vụ chấp nhận
tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền. . . Tuy nhiên, việc cung
cấp các dịch vụ này của ngân hàng và tổ chức tín dụng nước ngoài phải
chịu một số hạn chế nhất định, trong khi đó cả Thái Lan và Singapore đều
hầu như không hạn chế đối với các hình thức dịch vụ ngân hàng.
- 81 -
- Thứ hai, về phương thức 3, khác với Thái Lan và Singapore, Việt
Nam chưa cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được thành lập
chi nhánh tại Việt Nam. Còn ngân hàng nước ngoài được mở chi nhánh
tại các tỉnh, thành phố trực thuộc TW nhưng không được mở chi nhánh
phụ thuộc của chi nhánh đó. Tại nơi đã có chi nhánh, ngân hàng nước
ngoài không được đặt văn phòng đại diện. Chi nhánh Ngân hàng nước
ngoài không được mở các điểm giao dịch dưới bất kỳ hình thức nào ngoài
trụ sở chi nhánh của mình
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể được thực hiện một số hoặc
toàn bộ các nghiệp vụ ngân hàng, theo quy định cụ thể của Ngân hàng nhà
nước quy định trong giấy phép, phù hợp với loại hình và quy mô của
TCTD được cấp giấy phép. Tóm lại, hoạt động ngân hàng vẫn dưới sự
giám sát quản lí của nhà nước.
- Thứ ba, về phương thức 4, pháp luật Việt Nam hiện hành chưa chấp
nhận việc người nước ngoài cung cấp dịch vụ nói chung gồm cả dịch vụ
bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng với tư cách cá nhân họ chỉ được phép
cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại của các tổ chức cung
cấp dịch vụ nước ngoài và còn quy định khắt khe hơn hai nước Thái Lan
và Singapore ở chỗ : Về nguyên tắc, Việt Nam chỉ cho phép các doanh
nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh thuê và sử dụng các chuyên
gia nước ngoài trong trường hợp khẩn cấp hoặc khi công việc yêu cầu
chuyên gia có chuyên môn kỹ thuật cao mà lao động Việt Nam chưa đáp
ứng được. Các chuyên gia nước ngoài để được vào làm việc tại Việt Nam
phải có giấy phép lao động do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp.
Nhưng trên thực tế, vấn đề gây khó khăn nhất cho lao động nước ngoài
vào Việt Nam làm việc là vấn đề thủ tục xin cấp giấy phép lao động. Các
thủ tục liên quan đến hợp pháp hoá lãnh sự, công chứng, và xác minh lý
lịch tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thường rất
phức tạp, gây khó khăn cho lao động nước ngoài.
- 82 -
3.1.3.3 Đàm phán mở cửa thị trường cần được thực hiện
theo phương châm “từng bước và thận trọng, đồng thời đẩy
nhanh tự do hoá khi cần thiết”
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam trong lĩnh vực bảo
hiểm và ngân hàng đã có những bước tiến cụ thể. Đó là, Việt nam đã tham
gia Diễn đàn các cơ quan quản lí bảo hiểm ASEAN, tham gia Hiệp hội
các cơ quan quản lí bảo hiểm quốc tế IAIS, là thành viên của tổ chức
thanh toán liên ngân hàng toàn cầu SWIFT… Việt nam cũng đã kí kết và
đang thực hiện Hiệp định thương mại Viêt Nam - Hoa Kỳ. Đây là một
bước tiến quan trọng, mở đầu cho quá trình thực hiện các cam kết quốc tế
cụ thể về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cho nước ngoài, là cơ sở cho
quá trình đàm phán gia nhập WTO.
Mở cửa thị trường dịch vụ tài chính là một công cụ hữu hiệu để thu
hút vốn, công nghệ, trình độ quản lí và chuyên môn tiên tiến từ nước
ngoài. Do đó việc đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cần
“từng bước và thận trọng” như Thái Lan (chỉ cho phép công ty bảo hiểm
nước ngoài được thành lập 1 chi nhánh tại Thái Lan và chi nhánh đó
không được tiến hành kinh doanh hoạt động môi giới và đại lí bảo hiểm)
cho doanh nghiệp trong nước có thời gian đủ dài để nâng cao năng lực
cạnh tranh, nhưng cần đẩy nhanh tự do hoá theo kinh nghiệm của Thái
Lan (tăng phần góp vốn nước ngoài lên 25% trong các doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước, tiếp tục tăng lên 49% trong năm 2003, duy trì mức giới
hạn đến năm 2013, dự kiến tự do hoá hoàn toàn thị trường bảo hiểm trước
năm 2020)
3.1.3.4 Cần mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
Hiện nay ta duy trì một số hạn chế như: Doanh nghiệp bảo hiểm
không được phép đồng thời kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm
- 83 -
phi nhân thọ, trừ trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ kinh doanh
nghiệp vụ bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm tại nạn con người bổ trợ cho bảo
hiểm nhân thọ (Điều 60 - Luật kinh doanh bảo hiểm). Trong khi đó, cả
Thái Lan và Singapore đều cho phép doanh nghiệp kinh doanh cả 2 loại
nghiệp vụ này, gọi là bảo hiểm hỗn hợp. Tất nhiên việc cho phép này sẽ
gây khó khăn nhất định cho công tác giám sát tài chính của doanh nghiệp
nhưng thực tế lâu nay tổng công ty Bảo hiểm Việt nam đã thực hiện cả hai
nghiệp vụ này.
Những chính sách hạn chế và kinh nghiệm của 2 nước Thái Lan và
Singapore trong việc phát triển, mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, điển
hình là dịch vụ bảo hiểm và ngân hàng được mô tả ở như trên đã cho ta
thấy những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm hơn nữa để có thể có được
chính sách đúng đắn trong lĩnh vực dịch vụ tài chính trong giai đoạn hiện
nay. Bởi vậy, đứng trước những yêu cầu hội nhập quốc tế, thị trường dịch
vụ tài chính phải có những bước tiến mới để phù hợp với tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
3.2 ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG DỊCH
VỤ BẢO HIỂM VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP
3.2.1 Định hƣớng phát triển dịch vụ bảo hiểm
3.2.1.1 Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ bảo
hiểm
Xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội tại một bất kì một quốc gia nào trên thế giới. Vai trò của
toàn cầu hoá đã được khẳng định và đã trở thành một xu thế tất yếu đối
với mọi nền kinh tế. Việc mở của thị trường tài chính trong đó có bảo
hiểm là yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ quốc gia nào khi gia nhập WTO.
Nhận thức được vai trò của hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá các nhà
hoạch định chính sách đã đưa ra một số quan điểm định hướng cho việc
- 84 -
xây dựng đường lối phát triển cho ngành bảo hiểm Việt Nam trong thời
gian tới:
•
Thứ nhất, thị trƣờng bảo hiểm Việt nam phải đáp ứng đƣợc
những đòi hỏi của nền kinh tế tức là phát triển thị trƣờng dịch vụ bảo
hiểm phải phù hợp với chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của đất n-
ƣớc.
Nhà nước đã đặt ra nhiều mục tiêu kinh tế xã hội khá cao cho giai
đoạn 2001 - 2010 như: nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm là 7,5%, giá
trị sản xuất nông, lâm, ngư, nghiệp tăng 4,8%/năm, giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 13%/năm, giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm..., và GDP của năm
2010 tăng ít nhất gấp đôi năm 2000 19 .Để thị trường bảo hiểm Việt Nam
có thể đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế Việt Nam cũng như
tác động vào nền kinh tế bằng nguồn vốn đầu tư nhàn rỗi và là tấm lá
chắn cho nền kinh tế bằng bồi thường cho những rủi ro tổn thất thuộc
trách nhiệm bảo hiểm thì ngành bảo hiểm cần phải có sự cố gắng về mọi
mặt và đặc biệt phải có định hướng chiến lược phát triển đúng đắn và tư-
ơng đối lâu dài.
•
Thứ hai, trên khía cạnh toàn cầu hoá, thị trƣờng bảo hiểm Việt
Nam sẽ mở rộng cửa cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài.
Trên thực tế từ năm 1994 khi NĐ100/CP ra đời thì số lượng các
công ty bảo hiểm cũng tăng lên nhanh chóng và có mặt của các công ty có
vốn đầu tư nước ngoài. Ví dụ như trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ tuy
mới ra đời từ năm 1996 thì đến nay cũng đã có thêm bốn công ty chủ yếu
là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài (Công ty Chingfong Manulife,
Bảo Minh CMG, Prudential và Công ty Bảo hiểm quốc tế Mỹ AIA). Và
trong tương lai chắc chắn thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ có sự góp mặt
của nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài khác.
•
Thứ ba là mở rộng thị trƣờng khai thác và đa dạng hoá sản phẩm.
- 85 -
Mục tiêu mà ngành bảo hiểm Việt Nam cần phấn đấu là phải nâng
tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP từ 1.3%GDP như hiện nay lên
đến 2% vào những năm 2005 - 2010, để vừa tăng khả năng đáp ứng cho
các rủi ro được bảo hiểm phát sinh trong nền kinh tế vừa tạo nguồn vốn
đầu tư dài hạn cho nền kinh tế tham gia và thúc đẩy quá trình hình thành
thị trường tài chính ở Việt Nam. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải đẩy
mạnh các hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đa dạng hoá các loại hình
doanh nghiệp bảo hiểm. Hiện nay thị trường bảo hiểm nói chung hầu như
chỉ tập trung ở các thành phố lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh,
Hải Phòng, Đà Nẵng,...Trong khi tiềm năng phát triển thị trường bảo hiểm
ở các tỉnh và thành phố khác là khá lớn nhưng vẫn chưa được khai thác
triệt để.
Trong hoàn cảnh thị trường bảo hiểm ở các thành phố lớn gần như
đã bão hoà, các công ty bảo hiểm có động thái bắt đầu mở rộng khai thác
ở các tỉnh và thành phố khác. Thị trường tập trung chủ yếu vào một số
tỉnh vùng đồng bằng có mức sống trung bình khá so với cả nước.
Đa dạng hoá sản phẩm cũng đồng nghĩa với việc mở rộng thị trư-
ờng. Hiện nay cơ cấu sản phẩm khá đa dạng nhưng vẫn còn thiếu một số
sản phẩm đặc trưng. Giá cả sản phẩm còn chưa phù hợp đã ảnh hưởng
nhiều đến hoạt động triển khai bán hàng của các công ty. Việc đa dạng
hoá sản phẩm, chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ là xu
hướng tất yếu của các công ty để phát triển.
•
Cuối cùng, cạnh tranh trong trong xu thế hợp tác là xu thế phát
triển chung của thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam trong giai đoạn mới.
Cạnh tranh là tất yếu xảy ra với bất kỳ một thị trường nào. Cạnh
tranh không lành mạnh bằng cách hạ phí bảo hiểm nhằm lôi kéo khách
hàng, mở rộng điều kiện bảo hiểm vô hạn, quảng cáo tràn lan đều không
mang lại lợi ích lâu dài mà chỉ làm tình hình thị trường thêm tồi tệ đi, gây
nguy hiểm cho cả công ty và khách hàng. Nhất là trong thời gian tới khi
- 86 -
mà thị trường bảo hiểm Việt Nam tiếp nhận thêm một số công ty bảo
hiểm với tiềm lực kinh tế mạnh thì cạnh tranh kiểu đó sẽ tự đưa mình đến
chỗ phá sản.
Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cũng đã được thành lập ngày
19/12/1999 nhằm tăng cường sự hợp tác giữa các công ty bảo hiểm và hạn
chế sự cạnh tranh tiêu cực. Trong thời gian tới Hiệp hội sẽ có những biện
pháp nhằm hạn chế tối đa sự cạnh tranh không lành mạnh, thúc đẩy thị tr-
ường bảo hiểm Việt Nam phát triển theo đúng đường lối của Đảng và Nhà
nước.
3.2.1.2 Các định hướng chủ yếu
Bảo hiểm là một ngành dịch vụ tài chính mang tính toàn cầu, rủi ro
bảo hiểm không giới hạn trong phạm vi một nước, các doanh nghiệp bảo
hiểm phải thực hiện liên kết đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm để phân tán rủi
ro và cùng nhau gánh chịu tổn thất xảy ra. Do vậy, thị trường bảo hiểm
các nước chịu sự tác động lẫn nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau.
Hơn nữa, theo yêu cầu thực hiện những cam kết trong quan hệ thương mại
song phương và đa phương của việt nam với các nước trong khối
ASEAN, EU, Hoa Kỳ, tiến tới thực hiện các cam kết quốc tế khi Việt nam
gia nhập WTO, việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm đòi hỏi thị
trường bảo hiểm phải tăng năng lực cạnh tranh, phát triển phù hợp với
tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đặt
ra mục tiêu phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm theo các hướng sau:
- Xây dựng và phát triển thị trường bảo hiểm với đầy đủ các yếu tố
của thị trường, tăng tỷ trọng hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên tổng giá
trị dịch vụ nói riêng và GDP nói chung, thực hiện chức năng bảo hiểm là
công cụ để bảo vệ nền kinh tế trước các nguy cơ rủi ro và là công cụ để
huy động vốn cho đầu tư phát triển, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế
với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7,5%/năm trong 10 năm tới.
- 87 -
- Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có khả năng tài chính vững
mạnh, năng lực kinh doanh và công nghệ quản lí được hiện đại hoá, đội
ngũ cán bộ làm công tác trong ngành bảo hiểm có trình độ đủ đáp ứng nhu
cầu cạnh tranh hội nhập.
- Người dân có điều kiện tiếp cận các loại sản phẩm bảo hiểm với
chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Các doanh nghiệp bảo hiểm có
đủ khả năng cung cấp các loại sản phẩm phục vụ các nhu cầu bảo hiểm cơ
bản của nền kinh tế và của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là các chương
trình bảo hiểm phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, bảo hiểm nhân thọ dài
hạn theo hướng phát huy nội lực, chủ động thu hút ngoại lực.
- Quản lí, giám sát phải được thực hiện dựa trên hệ thống các chỉ tiêu
quản lí và chỉ tiêu tài chính khách quan, phù hợp với yêu cầu, thực tiễn
kinh doanh bảo hiểm của nước ta và các ngyên tắc, chuẩn mực quốc tế ;
công nghệ quản lí, giám sát được hiện đại hoá, đội ngũ cán bộ quản lí có
đủ tri thức và năng lực quản lí bảo đảm thị trường bảo hiểm hoạt động an
toàn, có hiệu quả.
3.2.2. Giải pháp phát triển thị trƣờng bảo hiểm
Trong những năm tới, thị trường bảo hiểm Việt nam đứng trước các
cơ hội thuận lợi cho sự phát triển, đó là: Nhà nước quan tâm hơn đến việc
khuyến khích phát triển thị trường bảo hiểm bằng việc ban hành Luật kinh
doanh bảo hiểm và các quy định có liên quan; Nền kinh tế nước ta đang
hồi phục và bắt đầu bước vào giai đoạn ổn định và phát triển với tốc độ
cao, thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, tạo nguồn tài chính
cho việc tham gia bảo hiểm ; đồng thời, nhận thức của trong nhân dân và
các doanh nghiệp, các tổ chức Việt nam về mục đích, ý nghĩa của bảo
hiểm ngày càng tăng ; môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo
hiểm từng bước được hoàn thiện cùng với sự phát triển của khoa học và
công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm
cũng như từng bước thiết lập một thị trường bảo hiểm cạnh tranh lành
- 88 -
mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó thị trường bảo hiểm trong thời gian tới
cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn, bao gồm: Tác động
tiêu cực của tiến trình tự do hoá, toàn cầu hoá, tiến trình hội nhập về kinh
tế và tác động của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ sau khi được phê
chuẩn và có hiệu lực, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam nhất là các
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần nội địa phải đối mặt trực
tiếp với sự cạnh tranh gay gắt từ các công ty bảo hiểm nước ngoài có tiềm
lực tài chính mạnh hơn rất nhiều lần; sự biến động nhanh của môi trường
kinh doanh và yêu cầu hội nhập vào nền kinh tế tri thức đối với các doanh
nghiệp.
Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra, củng cố vai trò của thị
trường bảo hiểm trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, chúng ta cần thực
hiện ngay các giải pháp nhằm khắc phục những điểm yếu, những tồn tại
hiện nay và chuẩn bị tốt để đối phó với những khó khăn, thách thức sắp
tới, nhất là thách thức của hội nhập và toàn cầu hoá.
Giải pháp thứ nhất: Xây dựng chiến lƣợc phát triển và các chính
sách hữu hiệu hỗ trợ sự phát triển của thị trƣờng bảo hiểm:
- Đối với chính sách hội nhập, để từng bước thực hiện của tiến trình hội
nhập và mở cửa thị trường bảo hiểm, cần xác định rõ số lượng các doanh
nghiệp bảo hiểm hợp lý trên thị trường cho từng thời kỳ, nhất là số lượng
các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong nước đủ mạnh để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh.
Thực hiện mở cửa từng bước các lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, trong
từng giai đoạn có thể giới hạn lĩnh vực bảo hiểm mà các doanh nghiệp có
vốn nước ngoài được phép hoạt động.
- Để nâng cao trình độ của bảo hiểm Việt nam và nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội, cần ban hành chính sách hướng các công ty bảo hiểm nước
ngoài vào việc triển khai loại hình bảo hiểm đòi hỏi vốn lớn và công nghệ
- 89 -
bảo hiểm cao mà các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam chưa đáp ứng
được.
- Củng cố vai trò của doanh nghiệp Nhà nước với tư cách là thành phần
kinh tế chủ đạo thông qua việc tập trung thành lập một tập đoàn kinh
doanh tài chính - bảo hiểm tổng hợp, có đủ vốn và khả năng đóng vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế, có khả năng chấp nhận bảo hiểm với mức trách
nhiệm cao, mức giữ lại cao và có khả năng cạnh tranh trên thị trường bảo
hiểm quốc tế.
- Tách chức năng thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội của doanh
nghiệp bảo hiểm nhà nước khỏi chức năng kinh doanh. (Chẳng hạn, đối
với lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp, Nhà nước có thể thành lập doanh
nghiệp bảo hiểm nông nghiệp công ích, như vậy sẽ có doanh nghiệp bảo
hiểm nhà nước chỉ thực hiện chức năng kinh doanh; có doanh nghiệp chỉ
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội-các doanh nghiệp bảo hiểm công
ích).
Giải pháp thứ hai: Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực pháp lý của các
quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm
nhằm tạo khung pháp lý và môi trƣờng kinh doanh, cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm
- Cụ thể, hoàn thiện và bổ sung các quy định của Luật kinh doanh bảo
hiểm và các văn bản có liên quan phù hợp với tập quán kinh doanh bảo
hiểm quốc tế về kinh doanh bảo hiểm, điều kiện thực tiễn Việt nam và
mục tiêu, định hướng của Nhà nước về phát triển thị trường bảo hiểm.
Các quy định pháp luật cần tạo ra sự bình đẳng theo hướng các doanh
nghiệp cùng hoạt động trong lĩnh vực thì được hưởng những quyền và
chịu nghĩa vụ pháp luật như nhau, xoá bỏ những quy định quản lý bất lợi
đối với các doanh nghiệp nhà nước.
- Song song với việc xây dựng và hoàn thiện các quy định điều chỉnh hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, cần xây dựng một cơ chế kiểm tra, giám sát
- 90 -
hữu hiệu đối với việc thực hiện các quy định của pháp luật nhằm xác lập
và duy trì một thị trường bảo hiểm Việt nam cạnh tranh lành mạnh, tạo
tiền đề cho sự phát triển.
Giải pháp thứ ba: Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm, nâng cao
chất lƣợng phục vụ khách hàng; đa dạng hoá kênh phân phối.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm đẩy mạnh đa dạng hoá các loại hình dịch vụ
bảo hiểm nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng và phong phú của thị
trường về bảo hiểm. Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, các doanh
nghiệp cần chú trọng khai thác đến thị trường là các hộ gia đình, có tiềm
năng lớn nhưng hiện nay mới chỉ bắt đầu khai thác; phát triển và tăng
cường khai thác các sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Trong
bảo hiểm nhân thọ, cần phát triển thêm các sản phẩm mới như các sản
phẩm bảo hiểm hỗn hợp có số tiền trả nhiều lần, thời hạn bảo hiểm dài
hơn cũng như các sản phẩm hỗ trợ như bảo hiểm bệnh đặc biệt, bảo hiểm
bệnh người lớn, bảo hiểm bệnh phụ nữ… Đồng thời, các doanh nghiệp
bảo hiểm cần phát triển và cung cấp dịch vụ theo hướng cung cấp dịch vụ
tổng hợp, đó là dịch vụ bảo hiểm kết hợp với các dịch vụ tài chính hoặc
các dịch vụ khác như tư vấn đầu tư, tư vấn tiêu dùng, tư vấn y tế, tư vấn
luật...
- Cùng với việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, các doanh nghiệp bảo
hiểm cần đẩy mạnh đa dạng hoá kênh phân phối như phát triển mạng lưới
đại lý bảo hiểm phi nhân thọ chuyên nghiệp, hợp tác với các ngân hàng,
các tổ chức tài chính để bán các sản phẩm bảo hiểm, bán bảo hiểm qua
internet, qua thư trực tiếp...
Giải pháp thứ tƣ: Tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng trình độ nghiệp
vụ, phong cách phục vụ, đạo đức nghề nghiệp và thực hiện tiêu
chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, đại lý làm bảo hiểm; kiện toàn cơ cấu tổ
chức và hoạt động của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp bảo
hiểm nội địa.
- 91 -
- Việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp, phong cách, tác phong phục vụ cho
các cán bộ, đại lý làm bảo hiểm cũng cần được các doanh nghiệp bảo
hiểm coi trọng nhằm xoá bỏ các hiện tượng như ăn chặn tiền bảo hiểm
của khách hàng, đồng loã với khách hàng để trục lợi bảo hiểm, thái độ
quan liêu, hách dịch, vì lợi ích của bản thân mà tư vấn bất lợi cho khách
hàng...
- Các doanh nghiệp bảo hiểm nội địa, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước
cần thực hiện kiện toàn bộ máy tổ chức, trong đó phân định rõ quyền hạn
và nghĩa vụ của các phòng, bộ phận chức năng cũng như mỗi cá nhân theo
hướng đề cao vai trò, trách nhiệm của các phòng, ban, bộ phận và cá nhân
nhằm kích thích sự chủ động, sáng tạo, trách nhiệm cũng như sự phối hợp
công tác của các phòng, ban, bộ phận và cá nhân. Đồng thời, cần hoàn
thiện chế độ phân phối tiền lương, khen thưởng trên cơ sỏ các căn cứ cơ
bản là đóng góp, mức độ phức tạp của công việc và năng lực của mỗi cá
nhân. Đối với các cấp lãnh đạo phòng, ban và cả lãnh đạo doanh nghiệp,
cần thực hiện cơ chế bầu hoặc bổ nhiệm theo nhiệm kỳ nhằm tăng cường
tính năng động, thi đua tích cực cũng như trách nhiệm của đội ngũ lãnh
đạo doanh nghiệp.
Giải pháp thứ năm: Tăng cƣờng các biện pháp hợp tác giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc; nâng cao vai trò của Hiệp hội
bảo hiểm Việt nam; nâng cao uy tín và hình ảnh của thị trƣờng bảo
hiểm Việt nam.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam cần tăng cường hợp tác để phát
triển và khai thác thị trường bảo hiểm nội địa trong các lĩnh vực như đào
tạo thị trường, khai thác bảo hiểm, duy trì mức phí bảo hiểm tối thiểu,
phòng chống trục lợi bảo hiểm, học tập kinh nghiệm, tạo nguồn cán bộ
bảo hiểm. Đồng thời, cần tăng cường vai trò của Hiệp hội bảo hiểm trong
các lĩnh vực hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm nêu trên.
- 92 -
Giải pháp thứ sáu: Các doanh nghiệp bảo hiểm cần nhanh chóng
nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin vào khai thác và quản lý hoạt động kinh
doanh bảo hiểm.
Công nghệ thông tin ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống
xã hội cũng như trong lĩnh vực kinh doanh. Các doanh nghiệp bảo hiểm
cần nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông
tin vào khai thác và quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý, hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí quản lý, hạ thấp
phí bảo hiểm để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm quốc tế
và các ngành khác; chuẩn bị tốt các điều kiện để thích ứng với những thay
đổi của môi trường kinh doanh mới, hội nhập vào tiến trình toàn cầu hoá
và nền kinh tế tri thức.
3.3 ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG DỊCH
VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP
3.3.1 Định hƣớng phát triển dịch vụ ngân hàng
3.3.1.1 Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ ngân
hàng
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi nhằm khắc
phục tính tự cấp, tự túc, mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học - kỹ thuật
với nước ngoài, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới. Trong
quá trình đó, nhu cầu thu hút, quản lí và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư
nói chung và vốn nước ngoài nói riêng càng trở nên cấp thiết. Chính vì
vậy Đại hội IX của Đảng chỉ rõ : “ Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi
đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ; kết hợp nội lực với ngoại lực
thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”. Các hoạt động tài
chính đối ngoại có nhiệm vụ cơ bản và cấp bách là thu hút, huy động các
nguồn vốn quốc tế, phân bổ, quản lí và sử dụng có hiệu quả, đồng thời tạo
- 93 -
nguồn vốn để trả nợ khi đến hạn, nhằm phục vụ cho đường lối, chính sách
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn công nghiệp hóa đất
nước.
Quán triệt tư tưởng này, phát triển ngành dịch vụ ngân hàng Việt Nam cần
được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:
•
Nguyên tắc 1: Hội nhập cạnh tranh hay còn gọi là chủ động hội nhập
Đây là quan điểm hội nhập trong đó chủ động gắn liền sự phát triển nền kinh
tế quốc gia với khu vực và thế giới, chủ động khai thác lợi thế so sánh với các
quốc gia khác. Đồng thời, hội nhập không thể tách rời với cạnh tranh, chỉ có cạnh
tranh mới hội nhập được. Quan điểm này là sự phát triển cao hơn của quan điểm
mở cửa có kiểm soát, chủ động đặt nền kinh tế nước ta trước sự cạnh tranh của
các nền kinh tế từ bên ngoài. Đây cũng là quan điểm phải giành thắng lợi trên thị
trường, đồng thời đặt ra yêu cầu và chi phối nhiều chính sách, cơ chế điều hành
nền kinh tế của Việt Nam. Với nguyên tắc này, việc bố trí lộ trình hội nhập cho
đến năm 2020 của Việt Nam cần phải cụ thể hoá được các bước đi chủ động,
tham gia hợp tác với khu vực và quốc tế để phát triển nền kinh tế.
•
Nguyên tắc 2: Hội nhập với phát triển bền vững và hài hoà các yếu tố
kinh tế hay còn gọi là hội nhập thận trọng.
Với đặc thù của một nước đang phát triển, các cơ sở kinh tế Việt Nam
còn chưa ổn định và chưa phát triển ở trình độ cao, nên việc hội nhập cần
phải tính đến một cơ cấu kinh tế hài hoà, dài hạn và phát triển bền vững
trong môi trường toàn cầu hoá. Do đó, quan điểm hội nhập cạnh tranh
phải gắn liền với quan điểm phát triển bền vững, đảm bảo hài hoà các yếu
tố phát triển kinh tế đi cùng với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và tái
tạo môi trường tự nhiên, sinh thái, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống. Hội nhập phải tính đến phát triển trong nước, đảm bảo cho các
doanh nghiệp trong nước có đủ thời gian và điều kiện cạnh tranh hiệu quả
với nước ngoài.
- 94 -
3.3.1.2 Các định hướng chủ yếu
• Giai đoạn 1 (từ nay đến 2005): Giai đoạn hoàn thiện hệ thống ngân
hàng
- Củng cố tăng cường sức mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam theo
hướng các hoạt động ngân hàng phải tuân thủ nguyên tắc thị trường và
nguyên tắc an toàn.
- Cơ cấu lại ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại.
- Tạo “sân chơi” bình đẳng cho tất cả các ngân hàng và nâng cao tính
minh bạch của hệ thống tài chính. Cụ thể hoá và nới lỏng các điều kiện,
thủ tục cấp phép cho các Tổ chức Tín dụng Quốc tế hoạt động tại Việt
Nam; và các quy định về hạn chế hoạt động dịch vụ ngân hàng và của các
Tổ chức này.
- Tiến hành thí điểm cổ phần hoá một số Ngân hàng thương mại Quốc
doanh với sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài.
- Tăng cường khuôn khổ pháp quy và việc giám sát hệ thống ngân hàng.
• Giai đoạn 2 (2006-2010): Giai đoạn thực hiện các yêu cầu đã cam kết
trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác Thương mại Dịch vụ
ASEAN, cụ thể:
- Xây dựng môi trường pháp lý cho hệ thống ngân hàng phù hợp thông
lệ quốc tế
- Loại bỏ dần các hạn chế về: số lượng nhà cung cấp dịch vụ ngân
hàng, tổng giá trị các giao dịch về dịch vụ ngân hàng, tổng các hoạt động
tác nghiệp hay tổng số lượng dịch vụ ngân hàng, tổng số người được
tuyển dụng của các tổ chức tài chính nước ngoài;
- Loại bỏ dần, tiến tới không hạn chế việc tham gia góp vốn của bên
nước ngoài dưới hình thức tỷ lệ % tối đa số cổ phiếu nước ngoài nắm giữ.
- 95 -
- Trong giai đoạn này, hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu vươn ra
thị trường tài chính quốc tế.
• Giai đoạn 3 (2010 - 2020): Giai đoạn hội nhập năng động
Cho tới năm 2020, ngành ngân hàng của Việt Nam cần phải phát
triển đầy đủ các yếu tố cần thiết và sẵn sàng hội nhập hoàn toàn vào thị
trường thế giới. Không hạn chế số lượng công ty có vốn nước ngoài được
thành lập, tuy nhiên vẫn phải duy trì điều kiện thành lập căn cứ vào tình
hình phát triển kinh tế và tình hình phát triển thị trường ngân hàng Việt
Nam.
3.3.2 Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng:
3.3.2.1 Nhóm giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước:
Để phát huy tốt hơn chức năng và vai trò của mình trong hoạt động
của ngành dịch vụ ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước cần thực
hiện những nhiệm vụ sau:
Giải pháp thứ nhất: Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, nâng
cao vai trò điều tiết, kiểm soát tiền tệ nhằm ổn định sức mua của
đồng tiền, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trƣởng
kinh tế.
- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và có sự phối kết hợp linh hoạt trong điều
hành các công cụ chính sách tiền tệ. Phối hợp với các bộ, ngành để có sự
phối hợp nhịp nhàng hơn giữa các chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách
tiền tệ với quản lí nợ của chính phủ, chính sách tài khoá…)
- Bổ sung, sửa đổi hoặc trình chính phủ chỉnh sửa các quy định về quản lí
ngoại hối cho phù hợp với yêu cầu quản lí và phát triển của nền kinh tế
trong xu thế hội nhập. Thực hiện việc phân cấp, uỷ quyền về quản lí ngoại
hối cho các chi nhánh Ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố và tăng cường
công tác nghiên cứu hoạch định chính sách tại Ngân hàng Trung ương.
- 96 -
Giải pháp thứ hai: Tăng cƣờng vai trò thanh tra, giám sát của Ngân
hàng Trung ƣơng, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác thanh tra
cả về nghiệp vụ và đội ngũ cán bộ nhằm tạo chuyển biến mạnh về
chất trong hoạt động thanh tra.
- Bám sát thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng để sớm phát hiện
và ngăn chặn kịp thời những sai phạm. Tập trung chú trọng thanh tra chất
lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước và
công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các tổ chức tín dụng nhằm quản lí
tốt chất lượng tín dụng.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, đặc biệt là chất
lượng của các cuộc thanh tra tại chỗ. Chấm dứt việc kết luận thanh tra
không rõ ràng, không quy trách nhiệm cụ thể cho tổ chức, cá nhân vi
phạm
Giải pháp thứ ba: Rà soát lại công tác chuẩn bị các điều kiện cho
việc tham gia vào WTO đúng tiến trình
- Nới lỏng từng bước hạn chế về sự tham gia của các định chế tài chính
nước ngoài tại Việt Nam theo lộ trình mà Chính phủ đã cam kết trong các
Hiệp định về thương mại dịch vụ, như Hiệp định khung về Hợp tác dịch
vụ ASEAN, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
- Xây dựng hệ thống thanh toán nhằm đảm bảo an toàn, nhanh chóng,
chính xác và tiện lợi cho hoạt động thanh toán của bất cứ ngân hàng nào
trong nước và quốc tế. Xây dựng hệ thống thông tin và tài chính hiện đại,
đảm bảo cho hệ thống tài chính hoạt động an toàn, hiệu quả và dễ giám
sát.
- Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục chỉ đạo việc rà soát các văn bản cần
ban hành mới, bổ sung, sửa đổi đặc biệt là các văn bản theo cam kết tại
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
- 97 -
- Rà soát lại quy định về an toàn hệ thống, bao gồm các quy định về vốn
điều lệ, về trình độ của đội ngũ quản lý ngân hàng thương mại, về chế độ
báo cáo tài chính, về quy chế thanh tra, giám sát, về bảo hiểm tiền gửi và
tiền vay và các quy định can thiệp khẩn cấp khác.
3.3.2.2 Nhóm giải pháp đối với các ngân hàng thương
mại:
Xu thế toàn cầu hóa đang mở ra nhiều cơ hội cũng như đặt ra nhiều
thách thức cho ngành dịch vụ ngân hàng Việt Nam. Hầu như các cơ hội
vẫn đang còn ở dạng tiềm năng, việc khai thác và phát huy các cơ hội đó
hiệu quả hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực của bản thân
ngành ngân hàng, trong khi đó, các thách thức tồn tại thật sự, buộc ngành
ngân hàng từng ngày đối mặt với nó. Để có thể đứng vững và phát triển
trước sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng nước ngoài, để thực hiện
tốt các cam kết mà Việt Nam đã đưa trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và
đẩy nhanh tiến trình gia nhập GATS về dịch vụ ngân hàng, các ngân hàng
thương mại Việt Nam cần thực hiện một số việc cần thiết như:
Giải pháp thứ nhất: Nâng cao năng lực tài chính của các ngân
hàng thƣơng mại giúp tăng cƣờng khả năng hội nhập kinh tế quốc
tế
- Xây dựng các ngân hàng thương mại có quy mô đủ lớn, hoạt động an
toàn, có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Nâng cao năng lực quản lý và tiềm lực tài
chính của các ngân hàng thương mại trên cơ sở đẩy mạnh tái đầu tư và tái
cơ cấu lại sở hữu, tạo điều kiện cho việc hiện đại hoá hoạt động ngân
hàng. Đồng thời việc cơ cấu lại ngân hàng thương mại phải đảm bảo
không gây trở ngại cho hoạt động tiền tệ - tín dụng - thanh toán đối với
nền kinh tế. Trên cơ sở đó, tăng cường khả năng hội nhập của các ngân
hàng thương mại vào thị trường tài chính quốc tế.
- 98 -
- Phân tách giữa nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng theo nguyên tắc
thương mại phù hợp với cơ chế thị trường và nghiệp vụ tín dụng ưu đãi
theo chính sách của Nhà nước để đảm bảo ngân hàng thương mại huy
động vốn và phân bổ tín dụng có hiệu quả, an toàn, và theo nguyên tắc thị
trường, hạn chế được tình trạng nợ quá hạn quá lớn.
Giải pháp thứ hai: Hoàn thiện môi trƣờng pháp lý đối với dịch vụ
ngân hàng:
- Hoàn thiện các cơ chế, chính sách điều tiết hoạt động thương mại dịch
vụ nói chung và tài chính ngân hàng nói riêng. Các chính sách để hoàn
thiện môi trường pháp lý phải được xây dựng, hoạch định theo hướng hội
nhập và mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng để kích thích nền kinh tế,
các ngân hàng chuyển đổi theo hướng hiệu quả hơn nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh.
Giải pháp thứ ba: Cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống ngân hàng một cách
hợp lí
- Xúc tiến các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến
độ xử lí nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại, hoàn thành và đưa
vào triển khai phát triển hệ thống quản trị rủi ro, quản lí tài sản nợ - tài sản
có, hệ thống thông tin quản lí và hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Giảm chi phí nghiệp vụ: rà soát lại cơ cấu tổ chức của các ngân hàng
thương mại và tiến hành giảm biên chế ở c khâu quản lý và nghiệp vụ cụ
thể, đồng thời áp dụng tiến bộ công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu
quả.
- Tăng cường đào tạo và sử dụng cán bộ có năng lực: Đào tạo và đào tạo
lại các bộ phải được coi là một việc làm cấp bách, trước hết ưu tiên đào
tạo cán bộ quản lý với chưng trình đào tạo hiện đại, tiên tiến của thế giới.
- Nâng cao hơn nữa quyền tự chủ tài chính: các ngân hàng thương mại
phải được đảm bảo sự độc lập, tự chủ tài chính và tự chịu trách nhiệm về
- 99 -
kết quả kinh doanh của mình. Đồng thời, Ngân hàng nhà nước cũng phải
phối hợp với Bộ tài chính xem xét, trình chính phủ cấp bổ sung vốn điều
lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước và triển khai thực hiện Đề án
tăng vốn tự có cho các ngân hàng thương mại nhà nước sau khi được Thủ
tướng chính phủ phê duyệt.
- Sửa đổi quy chế: xây dựng quy trình tín dụng, quy trình kiểm soát phù
hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
Giải pháp thứ tƣ: Nâng cao chất lƣợng phục vụ của ngành ngân
hàng:
- Nâng cao năng lực và kinh nghiệm của nhân viên: Hiện nay, nhiều
ngân hàng đang vận dụng nhiều công nghệ mới như: hệ thống chuyển tiền
tự động, hệ thống xử lý thông tin, mạng nội bộ, sản phẩm mạng...đòi hỏi
nhân viên phi thành thạo, nắm bắt và giải quyết tốt chúng trong công việc
thường ngày. Để nâng cao năng lực vận hành hệ thống, nên tổ chức các
lớp đào tạo kỹ năng sử dụng hệ thống công nghệ thông tin, phi chuẩn bị
trước những tình huống sẽ xảy ra khi giao dịch với khách hàng và đề ra
các biện pháp xử lý.
- Chiến lược dịch vụ hướng về khách hàng: Khách hàng được coi như
những nhân viên của ngân hàng, những người tham gia vào quá trình sản
xuất cung cấp dịch vụ. Những ý kiến đánh giá của họ thường rất xác đáng.
Để có được sự tham gia tích cực hơn của khách hàng và hướng dẫn họ
trong các hoạt động của mình, các ngân hàng nên tổ chức các buổi hội
nghị khách hàng, mời họ phát biểu về hoạt động của ngân hàng. Các quy
định thủ tục cần phi được thông báo đầy đủ tới khách hàng để họ có thể
nắm bắt được những chính sách và chiến lược của ngân hàng.
- Tiêu chuẩn hoá các thủ tục và quy trình tiến hành công việc: Các thủ
tục phiền hà, các quy trình tiến hành công việc phức tạp đã làm hạn chế
chất lượng một số dịch vụ của các ngân hàng. Các ngân hàng cần nhanh
chóng nghiên cứu các quy trình hoạt động và giảm những bước không cần
- 100 -
thiết để tạo thuận lợi cho giao dịch của khách hàng cũng như của nhân
viên mình. Các thủ tục cần được tiêu chuẩn hoá và dễ hiểu, cần phi quy
định thời gian tối thiểu cho từng công việc và trách nhiệm của từng cá
nhân khi thực hiện công việc đó.
Giải pháp thứ năm: Ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới
trong hoạt động ngân hàng
Các giải pháp công nghệ hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của
công việc, những lợi ích của công nghệ mới chưa được phát huy nhiều,
tốc độ và một số bất cập vẫn chưa được giải quyết triệt để. Vì vậy, các
ngân hàng cần phải tiếp tục phát triển thêm những công nghệ mới nhằm
hoàn thành phát triển công nghệ và tạo ra những sản phẩm hoàn hảo với
sự hỗ trợ của công nghệ. Cần cố gắng đảm bảo việc ứng dụng công nghệ
trên toàn bộ hệ thống từ Trung ương tới các chi nhánh trực thuộc để tạo ra
tính đồng bộ và tốc độ xử lý cũng như thông tin trao đổi được nhanh
chóng, giải quyết kịp thời yêu cầu của khách hàng.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là công cụ hữu
hiệu để thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản
phẩm, dịch vụ, tạo dựng nên những doanh nghiệp thành đạt, đủ sức cạnh
tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Chìa khoá để nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ là mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp phải
nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản
phẩm, dịch vụ. Hội nhập kinh tế quốc tế đang được đẩy nhanh, thách thức
cạnh tranh gay gắt đang gõ cửa từng doanh nghiệp, nhất là các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Lựa chọn duy nhất hiện
nay đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính là phải mở rộng
phát triển, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh để sẵn sàng bước
vào cuộc chiến sống còn trên thương trường. Thách thức rất nặng nề
nhưng cơ hội mở ra cũng lớn. Chủ động hội nhập là phương châm hành
động đúng đắn mà chúng ta cần sớm thực hiện với sự đồng tâm nhất trí từ
- 101 -
trên xuống dưới, từ phía nhà nước và các doanh nghiệp, có như vậy chúng
ta mới có thể vượt qua thách thức, tận dụng được cơ hội và biến tiềm
năng, lợi thế của mỗi doanh nghiệp nói riêng và của cả ngành dịch vụ tài
chính nói chung thành hiện thực.
- 102 -
KẾT LUẬN
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng với chủ trương đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đã đánh dấu bước khởi đầu cho
tiến trình hội nhập của Việt Nam. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng đã khẳng định phải đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới. Thực hiện chủ trương của Đảng, cho đến nay, Việt Nam
đã thu được những kết quả quan trọng bước đầu trong quá trình hội nhập,
đặc biệt trong lĩnh vực tài chính. Đó là khai thông được quan hệ với các tổ
chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế
giới, Ngân hàng phát triển châu Á; gia nhập ASEAN (1995), APEC
(1998); ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Hiện nay, Việt
Nam đang thực hiện đàm phán gia nhập WTO, tuy chưa đạt đến đích cuối
cùng nhưng những cố gắng này hứa hẹn sẽ đạt kết quả đáp ứng lợi ích của
nhiều bên.
Tất cả những điều trên đây chứng minh một điều rằng hội nhập tài
chính quốc tế không những đang là một xu thế phát triển mạnh mẽ của
quá trình phát triển thế giới mà còn là nguồn sống, là sức sống của nhiều
quốc gia đang phát triển. Và Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế
đó. Để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, nắm bắt đúng yêu cầu hội
nhập, đề ra mục tiêu, chiến lược phù hợp để tham gia vào quá trình này
trong thời gian càng sớm càng tốt là điều kiện sống còn để Việt Nam có
cơ hội bắt kịp được với trình độ phát triển chung của toàn thế giới, tránh
được nguy cơ tụt hậu vĩnh viễn.
Nắm bắt được tầm quan trọng của việc hội nhập tài chính quốc tế đối
với từng quốc gia, đặc biệt là Việt nam, Luận văn đã chọn nghiên cứu đề
tài „Những giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế‟. Thông qua đánh giá thực trạng
- 103 -
hoạt động thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam, ta có thể rút ra một số
kết luận:
- Thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam vẫn chứa đựng nhiều bất cập như
quy mô thị trường nhỏ, hình thức dịch vụ đơn điệu, hệ thống chính sách
và luật pháp còn khập khiễng và chưa đồng bộ, nguồn nhân lực có trình độ
thấp, kỹ năng không cao, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp rất hạn chế ngay
cả trên thị trường nội địa. Hầu hết các công ty bảo hiểm và các ngân hàng Việt
Nam chưa có đủ khả năng cạnh tranh để tự đứng vững trên thị trường tự do, chứ
chưa nói đến việc mở rộng thị trường ra bên ngoài. Do đó, Việt Nam sẽ phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn nếu muốn đảm bảo được mục tiêu phát triển nội lực,
bảo vệ thị trường nội địa trước áp lực ngày càng tăng của hội nhập quốc tế, đồng
thời mở rộng thị trường hơn khi thực hiện đầy đủ các quy chế của AFTA, APEC
và WTO trong giai đoạn tới.
- Đồng thời, thông qua việc phân tích những quy định và yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế của GATS và trong các Hiệp định AFAS, Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ về dịch vụ tài chính, cùng với việc phân tích những cam kết tự do
hoá ngành dịch vụ tài chính của một số nước, Việt Nam cũng có thể rút ra cho
mình nhiều bài học kinh nghiệm để có thể chuẩn bị sẵn sàng cho việc gia nhập
WTO. Bởi những lợi ích mà Việt Nam sẽ đạt được sau khi trở thành Thành viên
chính thức của WTO là to lớn và không thể phủ nhận. Mặt khác, khi tham gia hội
nhập, Việt Nam sẽ gặp phải những thách thức, khó khăn, phải tuân thủ những
nguyên tắc mà WTO đề ra, đặc biệt là nguyên tắc tự do hóa thương mại. Việc
tuân thủ những nguyên tắc này không phải là đơn giản, nhất là với các nước đang
trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Tuy nhiên, để đạt được những lợi ích
đó, trớc hết phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận những kết quả không mong muốn
ít nhiều sẽ xảy ra khi cải cách, thay đổi các chính sách trong nước. Ngành dịch vụ
tài chính Việt Nam cần sẵn sàng cho sự thay đổi đó.
- 104 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Aaditya Mattoo (2000). “Dịch vụ tài chính và WTO: Tự do hoá trong các
nền kinh tế đang phát triển và đang chuyển đổi”. Gia nhập WTO: Vấn đề,
thách thức và tác động đến khung pháp lý của Việt Nam, Hà Nội.
2. Ban Thư Ký WTO về Thương mại dịch vụ (10/1999), “Thái lan: Bảng
cam kết cụ thể về dịch vụ”
3. Báo Đầu tư số ra ngày 7/12/2003 và 31/05/2004
4. Báo Thị trường tài chính tiền tệ, số 11 năm 2003 và số 5,8 năm 2004.
5. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Dự án VIE/02/009 ngành dịch vụ tài chính
6. Bộ Tài chính (2002), “Tự do hoá dịch vụ tài chính trong khuôn khổ WTO,
kinh nghiệm của các nước”.
7. Bộ Tài chính (2003), “Báo cáo về thị trường tài chính và dịch vụ tài chính
năm 2003”
8. Bộ Thương mại, Dự án VIE/95/015, “Hợp tác dịch vụ trong ASEAN”.
9. Bộ Tư pháp (2003), “Báo cáo tổng hợp kết quả rà soát, đối chiếu các quy
định của WTO với pháp luật Việt nam hiện hành”
10. Đinh Văn Nhã (2002), Hệ thống giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường
vốn và thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp bộ, Học viện tài chính - Bộ tài chính, Hà Nội
11. Ngân hàng Nhà nước Việt nam (1/2004), “Báo cáo hoạt động ngân hàng
năm 2003, định hướng nhiệm vụ năm 2004”, Tài liệu Hội nghị tổng kết
hoạt động ngân hàng năm 2003 triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2004.
12. Nguyễn Hạnh Phúc, “Hệ thống ngân hàng Việt Nam và tiến trình tái cơ
cấu”, Báo Chứng Khoán Việt Nam 5/2000.
13. Tạp chí Ngân hàng, số 3,5 và số chuyên đề năm 2003, số 1 đến 4 năm
2004.
14. Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam số từ số 1 đến số 5/2004
- 105 -
15. Thủ tướng chính phủ (2003), “Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm
Việt nam từ năm 2003 đến năm 2010”, Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg
ngày 29/08/2003
16. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia
Hà nội, 2001.
17. Vụ Âu - Mỹ, Bộ Thương mại (12/2000), “Báo cáo về việc ký kết và
những nội dung chủ yếu của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ”.
18. Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Thương mại (1999), “Nghiên cứu
về thương mại dịch vụ”.
19. Vụ Quan hệ quốc tế, Bộ Tài chính (8/1999),“Chiến lược hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực tài chính giai đoạn 2000 - 2010”.
20. Thông tin trên các trang web:
www.dei.gov.vn
www.avi.gov.vn
www.usvtc.org
www.mot.gov.vn
www.mofa.gov.vn
www.wto.org
Tiếng Anh
21. GATS, “Opening markets for services”, 1998.
22. Phillip Tan, Country Profile: Singapore insurance industry,
PricewaterhouseCoopers Singapore, 2002
23. WTO, “Financial Services and the GATS: Liberalisation in the
Developing and Transition Economies”, 1998.