BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG 

VŨ THỊ XUÂN THƠ

NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế Mã số: 60.31.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Quy HÀ NỘI - 2004

MỤC LỤC

Phần mở đầu

Chương 1 Tổng quan về dịch vụ tài chính 1.1. Trang 4 4

1.1.1 1.1.2 1.1.3 1.1.4 4 6 7 10

1.2 12

1.2.1 12

1.2.1.1 12

1.2.1.2 16

1.2.1.3 16

1.2.2 17

1.2.2.1 17

1.2.2.2 22

Những vấn đề cơ bản về dịch vụ tài chính và vai trò của nó đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Khái niệm dịch vụ tài chính Đặc điểm của dịch vụ tài chính Các loại hình dịch vụ tài chính Vai trò của các dịch vụ tài chính đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân Những yêu cầu hội nhập kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và những cam kết của Việt nam Những yêu cầu hội nhập kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ tài chính Những quy định của GATS đối với thị trường dịch vụ tài chính Những quy định trong Hiệp định khung về Hợp tác dịch vụ của ASEAN đối với thị trường dịch vụ tài chính Những quy định trong Hiệp định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ đối với thị trường dịch vụ tài chính Những cam kết của Việt nam trong các Hiệp định về lĩnh vực dịch vụ tài chính Cam kết về dịch vụ tài chính của Việt Nam trong Hiệp định khung về Hợp tác dịch vụ của ASEAN Cam kết về dịch vụ tài chính trong Hiệp định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ

Chương 2. Thực trạng thị trường dịch vụ tàI chính việt nam trong những 28

2.1 2.2 2.2.1 năm gần đây Khái quát chung về thị trường dịch vụ tài chính Việt nam Thực trạng thị trường dịch vụ bảo hiểm Những thành tựu đạt được 28 29 30

2.2.2 2.2.3 2..2.4 37 41 43

2.3 2.3.1 2.3.2 2.3.3 2.3.4 48 50 58 62 64

Một số vấn đề còn tồn tại Nguyên nhân của những tồn tại Những bất cập của thị trường dịch vụ bảo hiểm so với yêu cầu hội nhập quốc tế Thực trạng thị trường dịch vụ ngân hàng Những thành tựu đạt được Một số vấn đề còn tồn tại Nguyên nhân của những tồn tại Những bất cập của thị trường dịch vụ ngân hàng so với yêu cầu hội nhập quốc tế

70

3.1 70

3.1.1 3.1.2 3.1.3 3.2 70 73 75 79

3.2.1 3.2.1.1 3.2.1.2 3.2.2 3.3 79 79 81 83 87

Chương 3 CÁC GIảI PHÁP NHằM PHÁT TRIểN THị TRườNG DịCH Vụ TÀI CHÍNH VIệT NAM đÁP ứNG YêU CầU HộI NHậP KINH Tế QUốC Tế Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển thị trường dịch vụ tài chính Thái Lan Singapore Các bài học kinh nghiệm rút ra Định hướng, giải pháp phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế Định hướng phát triển dịch vụ bảo hiểm Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ bảo hiểm Các định hướng chủ yếu Giải pháp phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm Định hướng, giải pháp phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế Định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ ngân hàng Các định hướng chủ yếu Các giải pháp phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng Nhãm gi¶i ph¸p ®èi víi Ng©n hµng Nhµ n íc Nhãm gi¶i ph¸p ®èi víi c¸c ng©n hµng th ¬ng m¹i 3.3.1 3.3.1.1 3.3.1.2 3.3.2 3.3.2.1 3.3.2.2 87 87 90 90 90 92

KÕt luËn

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện Luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ hỗ trợ của

các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp.

Nhân dịp hoàn thành bản Luận văn, tôi xin đặc biệt bầy tỏ lòng biết ơn sâu

sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Quy - người đã chỉ bảo tận tâm, nhiệt tình giúp đỡ tôi

trong suốt quá trình thực hiện Luận văn.

Tôi cũng xin cảm ơn các các cô chú, anh chị ở Bộ tài chính, Bộ thương mại,

Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Ngoại thương đã hỗ trợ tài liệu - một phần

không thể thiếu để bản Luận văn được hoàn chỉnh.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp, gia đình đã

hỗ trợ, ủng hộ về tinh thần để tôi có thể hoàn thành Luận văn.

Do hạn chế về năng lực và thời gian nghiên cứu, Luận văn chắc chắn không

tránh khỏi những sai sót, tác giả rất mong được sự góp ý chỉ bảo của thầy cô và

các bạn bè đồng nghiệp.

Hà nội, ngày 20 tháng 6 năm 2004

Tác giả

Vũ Thị Xuân Thơ

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

Tổ chức Thương mại Thế giới WTO

Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ GATS

Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ BTA

Hiệp định khung về hợp tác dịch vụ ASEAN AFAS

Quy chế Đãi ngộ Tối huệ quốc MFN

Quy tắc Đãi ngộ quốc gia NT

Ngân hàng Nhà nước NHNN

Ngân hàng Thương mại NHTM

Ngân hàng Thương mại Quốc doanh NHTMQD

Ngân hàng Thương mại Cổ phần NHTMCP

Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam VCB

INCOMBANK Ngân hàng Công thương

Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn VBARD

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển BIDV

Tổ chức tín dụng TCTD

Tổng sản phẩm Quốc nội GDP

Tổ chức tài chính TCTC

Bảo hiểm nhân thọ BHNT

Bảo hiểm phi nhân thọ BH PHI NT

Ngân hàng thương mại cổ phần á châu ACB

Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu EXIM

Ngân hàng United Overseas Bank Singapore UOB

Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á EAB

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng

Tên bảng Trang

2.1 Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh bảo hiểm 31

2.2 Danh sách các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường bảo 34

hiểm Việt Nam (tính đến ngày 30/11/2003)

2.3 Cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1990 - 2003 48

2.4 Doanh số thanh toán thẻ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 55

2.5 Tỷ trọng giữa cho vay so với vốn huy động giai đoạn 1994-2003 61

2.6 Tình hình huy động vốn của hệ thống ngân hàng 61

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ Tên biểu đồ Trang

2.1 Doanh thu phí bảo hiểm giai đoạn 1993 - 2003 31

2.2 Tỷ trọng doanh thu PBH/GDP giai đoạn 1993 - 2003 32

2.3 So sánh doanh thu PBH nhân thọ và phi NT 35

2.4 So sánh doanh thu PBH/GDP một số nước năm 2001 38

2.5 Tỷ trọng dư nợ tín dụng tính đến 31/12/2003 50

2.6 Thị phần thẻ ATM của ngân hàng Ngoại thương Việt nam 55

năm 2003 so với các ngân hàng khác

2.7 Thị phần thẻ tín dụng quốc tế của ngân hàng Ngoại thương 56

Việt nam năm 2003 so với các ngân hàng khác

2.8 Doanh số bảo lãnh vốn vay trong nước và nước ngoài của 4 57

NHTMNN giai đoạn 1998 - 2002

- 1 -

PHẦN MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài

1.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ phải thực hiện nhiều

cam kết trong các Hiệp định như Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp

định khung về hợp tác dịch vụ ASEAN và Hiệp định chung về thương mại dịch

vụ (GATS) khi Việt Nam tham gia vào WTO. Một trong những nội dung quan

trọng của các cam kết đó là tận dụng mọi ngoại lực, phát huy hết mọi nội lực để

xây dựng một thị trường dịch vụ tài chính vững mạnh. Tuy nhiên tại Việt Nam,

thị trường dịch vụ tài chính phát triển còn chậm. Cho đến nay, một số yếu tố của

thị trường còn chưa đầy đủ, hàng hoá đơn điệu, các quy định pháp lý chưa đủ và

đồng bộ, do vậy chưa huy động được tối đa nguồn lực trong xã hội cho đầu tư.

Chính vì thế mà thị trường này chưa phát huy được đầy đủ vai trò của nó đối với

nền kinh tế. Do đó, việc đánh giá thực trạng thị trường dịch vụ tài chính trong

những năm qua nhằm tìm ra các hạn chế, khó khăn cùng các nguyên nhân làm

cho thị trường dịch vụ tài chính còn chậm phát triển, trên cơ sở đó đề xuất các

giải pháp nhằm phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt nam đáp ứng yêu cầu

2.

hội nhập kinh tế quốc tế là hết sức cần thiết.

Tình hình nghiên cứu

Trong những năm gần đây, đã có nhiều đề tài, nhiều công trình khoa học

tập trung nghiên cứu thị trường dịch vụ tài chính. Ví dụ: Đề tài khoa học cấp Bộ

“Dịch vụ Bảo hiểm và ngân hàng của Việt nam. Những vấn đề đặt ra trong quá

trình đàm phán và thực hiện các cam kết với WTO” do TS. Nguyễn Thị Quy làm

chủ nhiệm đề tài và một số các đề tài mà các sinh viên các trường Đại học khối

kinh tế chọn viết Khóa luận tốt nghiệp.

- 2 -

Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về

cơ sở lý luận và thực tiễn của thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam đáp ứng yêu

3. Mục đích nghiên cứu

cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động, những hạn chế của thị trường

dịch vụ tài chính Việt Nam trong những năm gần đây, luận văn phân tích các

nguyên nhân làm cho thị trường dịch vụ tài chính còn chậm phát triển nhằm đề

xuất các giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt nam đáp ứng yêu

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

- Làm rõ cơ sở lý luận về dịch vụ tài chính và vai trò của nó đối với sự phát

triển nền kinh tế quốc tế.

- Đánh giá thực trạng thị trường dịch vụ tài chính trong những năm gần đây:

những kết quả đạt được, những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó.

- Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

5.1. Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng thị trường dịch vụ tài chính ở

Việt Nam trong những năm gần đây và những nội dung yêu cầu nhằm phát triển

thị trường dịch vụ tài chính đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Luận văn

cũng sẽ nghiên cứu thị trường dịch vụ tài chính của một số nước trên thế giới.

5.2. Phạm vi nghiên cứu:

Khái niệm dịch vụ tài chính là một khái niệm rộng, theo cách hiểu của

GATS, dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến

bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm)

- 3 -

nhưng Luận văn chỉ giới hạn trong việc đánh giá thực trạng thị trường dịch vụ

6.

bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng, kết hợp với

các lý luận, quan điểm kinh tế, tài chính và định hướng phát triển kinh tế tài

chính của Nhà nước để phân tích, đánh giá hoạt động thị trường dịch vụ tài chính

Việt nam.

Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,

7.

thống kê và xuất phát từ thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.

Bố cục của Luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục Luận văn gồm 3 chương

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH

TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.

Chương 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VIỆT NAM

VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.

Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH

Danh mục tài liệu tham khảo

- 4 -

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH

.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VÀ VAI

TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ QUỐC

DÂN.

.1.1

Khái niệm dịch vụ tài chính

Muốn hiểu được khái niệm dịch vụ tài chính, trước hết chúng ta cần

phải làm rõ khái niệm dịch vụ.

Về khái niệm dịch vụ, theo quan niệm phổ biến được dùng ở Việt nam

thì đó là hoạt động kinh tế tuy không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất

cho xã hội nhưng tạo ra giá trị thặng dư do khai thác sức lao động, tri

thức, chất xám của con người đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc

thỏa mãn nhu cầu của con người và là một thành tố quan trọng đóng góp

vào GDP. Dịch vụ là sản phẩm lao động có hàm lượng tri thức cao của

con người, kết tinh các hoạt động đa dạng trên các lĩnh vực như kinh tế,

tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kế toán, tư vấn…

Cùng với sự vận động, phát triển nhanh chóng của nền kinh tế với sự

trợ giúp của khoa học và công nghệ trong quá trình hội nhập khu vực và

quốc tế, lĩnh vực thương mại dịch vụ cũng có những bước phát triển vượt

bậc, do vậy đòi hỏi phải tiếp cận khái niệm dịch vụ bằng cách khác, thống

nhất với các quốc gia và các tổ chức quốc tế mà chúng ta đang xúc tiến

hội nhập, tập trung vào cách tiếp cận của WTO và Hiệp định thương mại

Việt nam - Hoa Kỳ. Nhưng trên thực tế thì WTO không đưa ra một khái

niệm cụ thể về dịch vụ, thay vào đó các khoản mục dịch vụ được phân

tách theo nội dung và cách thức thực hiện chúng thông qua việc dẫn chiếu

các ngành dịch vụ tới bảng phân loại hàng hóa trung tâm của Liên hiệp

quốc. Bởi dịch vụ là khái niệm tương đối trừu tượng nên việc xác định các

phương thức giao dịch phức tạp hơn nhiều so với thương mại hàng hoá,

có thể là dịch vụ di chuyển qua biên giới tức là việc di chuyển độc lập với

- 5 -

người cung cấp và người tiêu dùng; khách hàng di chuyển qua biên giới

để nhận dịch vụ được cung cấp; người sản xuất di chuyển qua biên giới để

cung cấp dịch vụ qua việc thành lập cơ sở thương mại hoặc người cung

cấp dịch vụ chỉ di chuyển tạm thời qua biên giới . Chính vì vậy, GATS

quy định rằng thương mại dịch vụ được định nghĩa như là việc cung cấp

dịch vụ thông qua các phương thức (MODE) sau:

Phƣơng thức 1 (Cung cấp qua biên giới): dịch vụ được cung cấp từ

lãnh thổ của một thành viên tới lãnh thổ của bất kỳ một thành viên nào

khác.

Phƣơng thức 2 (Tiêu dùng ở nƣớc ngoài): dịch vụ được cung cấp

trên lãnh thổ của một thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ

một thành viên nào khác. Phương thức này thường được đưa ra dưới dạng

“sự di chuyển của người tiêu dùng”

Phƣơng thức 3 (Hiện diện thƣơng mại): dịch vụ được cung cấp bởi

một người cung cấp dịch vụ của một thành viên, thông qua sự hiện diện

thương mại trên lãnh thổ của bất kỳ một thành viên nào khác. Hiện diện

thương mại không chỉ bao gồm sự hiện diện của pháp nhân mà còn có

những tổ chức có tính pháp lý. Hiện diện thương mại có thể là thành lập

các chi nhánh hay đại lý để cung cấp các dịch vụ như ngân hàng, tư vấn

pháp lý hay truyền thông.

Phƣơng thức 4: (Hiện diện thể nhân): dịch vụ được cung cấp bởi

một người cung cấp dịch vụ của một thành viên thông qua sự hiện diện

của thể nhân trên lãnh thổ của bất kỳ thành viên nào khác.

Khái niệm dịch vụ tài chính

Trong nền kinh tế thị trường, nguồn tài chính được chuyển từ người

cung cấp tài chính đến người cầu tài chính bằng con đường trực tiếp, hoặc

con đường gián tiếp qua các trung gian tài chính hoặc trung gian môi giới.

Các trung gian này thực thi các dịch vụ tài chính. Theo cách hiểu này, các

hoạt động giao dịch tài chính được thực hiện qua các trung gian (bao gồm

- 6 -

cả trung gian tài chính và trung gian môi giới) được gọi là dịch vụ có tính

chất tài chính. Và nơi diễn ra những hoạt động có tính chất tài chính đó

được gọi là thị trường dịch vụ tài chính.

Theo tổ chức thương mại thế giới (WTO): Một dịch vụ tài chính là

bất cứ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ

tài chính cung cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và

dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài

chính khác (ngoại trừ bảo hiểm). 21

1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ tài chính

Dịch vụ tài chính có những đặc điểm chung là:

- Tính vô hình: là đặc điểm chính để phân biệt sản phẩm dịch vụ tài chính

với các sản phẩm của ngành sản xuất vật chất khác trong nền kinh tế quốc

dân. Chính đặc điểm này làm cho việc đánh giá chất lượng sản phẩm dịch

vụ tài chính trở nên khó khăn ngay cả khi khách hàng đang sử dụng

chúng. Từ đặc tính vô hình của sản phẩm nên trong kinh doanh phải dựa

vào lòng tin, các nhà cung cấp dịch vụ thường chú ý đến việc củng cố

niềm tin đối với khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng

cao hình ảnh uy tín, tạo điều kiện để khách hàng tham gia vào hoạt động

tuyên truyền cho tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính đó.

- Tính không thể tách biệt hay không thể chia cắt: quá trình cung cấp

dịch vụ tài chính và quá trình tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời và có sự

tham gia của khách hàng. Mặt khác quá trình cung ứng dịch vụ này được

tiến hành theo những quy trình nhất định. Sản phẩm dịch vụ tài chính

không có sản phẩm dở dang, dự trữ lưu kho mà sản phẩm được cung cấp

trực tiếp cho người sử dụng khi và chỉ khi khách hàng có nhu cầu. Đặc

tính này sẽ chi phối khi xác định giá (lãi, phí) của dịch vụ tài chính - kế

toán cung cấp cho người sử dụng dịch vụ tồn tại và phát triển, tổ chức

cung ứng dịch vụ cũng tồn tại và phát triển bền vững.

- 7 -

- Tính không ổn định và khó xác định: Một sản phẩm dịch vụ tài chính

dù lớn hay bé (xét về quy mô) đều không đồng nhất thời gian thực hiện,

cách thức thực hiện, điều kiện thực hiện, vì vậy rất khó xác định. Một sản

phẩm dịch vụ tài chính được cấu thành bởi nhiều yếu tố như công nghệ,

trình độ cán bộ, khách hàng.. Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp tới

chất lượng dịch vụ, nhưng lại thường xuyên biến động. Vì vậy nó không

ổn định, khó xác định chính xác.

1.1.3 Các loại hình dịch vụ tài chính

Theo nghĩa rộng, dịch vụ tài chính gồm tất cả các dịch vụ có tính chất

tài chính. Như vậy, dịch vụ tài chính bao gồm các phân ngành dịch vụ

như: phân ngành dịch vụ tài chính (gồm các dịch vụ bảo hiểm; kế toán,

kiểm toán, tư vấn tài chính; dịch vụ chứng khoán và một số dịch vụ hỗ trợ

khác); phân ngành dịch vụ ngân hàng.

Tuy nhiên theo tiêu chí về tổ chức quản lý, phạm vi của dịch vụ tài

chính còn được hiểu theo nghĩa hẹp hơn và chỉ bao gồm các các dịch vụ

thuộc phân ngành dịch vụ tài chính, đó là dịch vụ bảo hiểm; dịch vụ ngân

hàng; dịch vụ kế toán, kiểm toán; dịch vụ tư vấn tài chính (chủ yếu là tư

vấn thuế); dịch vụ chứng khoán.

Những ngành dịch vụ này hiện nay do nhiều ngành khác nhau quản lí.

Ví dụ tại Việt Nam, ngành dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ kế toán - kiểm

toán do Bộ tài chính quản lí, dịch vụ ngân hàng do ngân hàng nhà nước

quản lý. Trong quá trình nhà nước sử dụng công cụ tài chính tiền tệ để

điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô, các ngành dịch vụ này có mối quan hệ chặt

chẽ và tác động bổ trợ lẫn nhau, vì vậy nếu chỉ nhìn nhận dịch vụ tài

chính theo nghĩa hẹp như nêu trên là không đầy đủ. Tuy nhiên việc đánh

giá dịch vụ tài chính theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các phân ngành dịch

vụ tài chính đòi hỏi phải có sự phối hợp liên ngành. Mặt khác, hiện nay

vẫn còn có những ý kiến khác nhau về việc sắp xếp dịch vụ chứng khoán

thuộc phân ngành dịch vụ nào (tài chính hay ngân hàng) hay là một phân

- 8 -

ngành dịch vụ riêng. Do đó, Luận văn chỉ dành tập trung đề cập đến hai

loại hình dịch vụ chủ yếu: đó là dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng.

Theo WTO - phụ lục G quy định các loại hình dịch vụ bảo hiểm và

bảo hiểm ngân hàng như sau:

Dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm:

Bảo hiểm trực tiếp nhân thọ;

Bảo hiểm phi nhân thọ;

Tái bảo hiểm và tái nhượng bảo hiểm;

Bảo hiểm qua trung gian như môi giới và đại lý.

Dịch vụ Ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo

hiểm):

Chấp nhận tiền gửi hoặc đặt cọc và các khoản quỹ có thể thanh toán

khác của công chúng;

Mọi loại hình cho vay, kể cả tín dụng người tiêu dùng, tín dụng cầm

đồ, cầm cố, dịch vụ về hoá đơn và tài trợ của các giao dịch thương

mại;

Thuê mua tài chính.

Mọi dịch vụ thanh toán và chuyển tiền;

Bảo lãnh và cam kết.

Thương vụ tiến hành tự chịu chi phí hoặc nhân danh khách hàng, dù

tại sở giao dịch và trên thị trường không chính thức hoặc các giao dịch

khác về: công cụ thị trường tiền tệ (kể cả séc, hoá đơn, giấy chứng

nhận tiền gửi); ngoại hối; các công cụ dẫn xuất nhưng không hạn chế

bởi các giao dịch kỳ hạn hoặc quyền giao dịch; tỷ giá hối đoái và các

công cụ về lãi suất, kể cả các công cụ như là giao dịch swap, thoả

- 9 -

thuận tỷ giá kỳ hạn; chứng từ có thể chuyển nhượng; các công cụ có

thể chuyển nhượng khác và tài sản tài chính, kể cả kim khí quý.

Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả việc bảo

hiểm phát hành và với hoạt động đại lý (dù theo cách công hoặc tư

nhân) và cung cấp dịch vụ liên quan tới những vấn đề trên.

Môi giới tiền tệ.

Quản lý tài sản có, như là tiền mặt hoặc quản lý danh mục đầu tư gián

tiếp, mọi hình thức quản lý đầu tư tập thể, quản lý quĩ hưu trí, hùn

vốn, góp vốn và dịch vụ tín thác.

Dịch vụ thanh toán hoặc thanh toán bù trừ về tài sản tài chính, kể cả

chứng khoán, các công cụ dẫn xuất và các công cụ có thể chuyển

nhượng khác;

Cung cấp và chuyển thông tin về tài chính, và xử lý dữ liệu tài chính

và phần mềm liên quan do các người cung cấp dịch vụ tài chính thực

hiện;

Các dịch vụ về tư vấn, trung gian và bổ trợ về tài chính về mọi mặt

hoạt động đã nêu trên, kể cả tham chiếu và phân tích tín dụng, nghiên

cứu và tư vấn về đầu tư và đầu tư gián tiếp, tư vấn mua sắm và về cơ

cấu lại hoặc chiến lược dịch vụ.

Tuy nhiên, theo phụ lục của Hiệp định GATS về dịch vụ tài chính, một

dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một

người cung cấp dịch vụ tài chính của một Thành viên cung cấp. Dịch vụ

tài chính không bao gồm “dịch vụ được cung cấp khi thi hành quyền hạn

của cơ quan chính phủ”. “Dịch vụ được cung cấp khi thi hành quyền hạn

của cơ quan chính phủ” trong dịch vụ tài chính được hiểu như sau:

a. Các hoạt động được tiến hành bởi Ngân hàng Trung ương, tổ chức

tiền tệ hoặc bởi bất kỳ một pháp nhân công cộng nào thực hành

chính sách tài chính và chính sách tỷ giá hối đoái;

- 10 -

b. Các hoạt động tạo thành một bộ phận của hệ thống luật pháp về an

ninh xã hội hay các chương trình hưu trí công;

c. Các hoạt động khác do một pháp nhân công cộng tiến hành do

Chính phủ chịu chi phí, đảm bảo hoặc sử dụng nguồn tài chính của

Chính phủ.

Nhưng nếu một thành viên cho phép bất kỳ một hoạt động nào được

nêu tại điểm b hoặc c được người cung cấp dịch vụ tài chính của mình

tiến hành và cạnh tranh với một pháp nhân công cộng hoặc một người

cung cấp dịch vụ tài chính thì thuật ngữ “dịch vụ” vẫn được hiểu là bao

gồm những hoạt động đó.

Pháp nhân “công cộng” trong khuôn khổ WTO được hiểu là:

Chính phủ, Ngân hàng Trung ương hoặc một tổ chức tài chính của một

Thành viên, hoặc một thực thể do một Thành viên sở hữu hoặc kiểm

soát, chủ yếu tiến hành chức năng chính phủ hoặc các hoạt động vì

mục đích của Chính phủ, không bao gồm pháp nhân chủ yếu cung cấp

những dịch vụ tài chính trên cơ sở những điều kiện thương mại; hoặc

Một pháp nhân tư nhân, thực hiện các chức năng mà thông thường vẫn

do một Ngân hàng trung ương hoặc tổ chức tiền tệ, khi thực hiện các

chức năng này.

.1.4 Vai trò của các dịch vụ tài chính đối với sự phát triển

nền kinh tế quốc dân

Dịch vụ nói chung và các dịch vụ hạ tầng nói riêng là tiền đề không

thể thiếu cho phát triển kinh tế, trong đó dịch vụ tài chính có vai trò đặc

biệt quan trọng vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến các vấn đề đặt ra đối với tất

cả các nhà đầu tư trong suốt quá trình hoạt động, từ khâu chuẩn bị đầu tư

cho đến quá trình tổ chức hoạt động và kết thúc dự án đầu tư (vấn đề vốn,

ổn địch sản xuất kinh doanh, tổ chức quản lý..). Vì vậy, phát triển và nâng

cao khả năng cạnh tranh của dịch vụ tài chính có ý nghĩa cực kỳ quan

- 11 -

trọng đối với phát triển và nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh

tế vì cũng như các dịch vụ hạ tầng khác, ở đây dịch vụ tài chính được xem

như đầu vào của tất cả các ngành sản xuất. Có thể khẳng định, hiệu quả và

khả năng cạnh tranh của nền kinh tế chỉ có thể nâng lên khi các ngành sản

xuất trong nền kinh tế có thể tiếp cận được các đầu vào có chất lượng cao

và chi phí thấp.

Dịch vụ tài chính có những vai trò sau:

 Quản lý rủi ro

Bằng việc định giá các rủi ro trong việc cung cấp dịch vụ tài chính,

các tổ chức tài chính đã tạo ra cơ chế tập hợp, giảm thiểu và chuyển giao

rủi ro. Chẳng hạn với việc tạo ra các công cụ tài chính hấp dẫn như gửi

tiền không kỳ hạn, các hợp đồng lựa chọn (options), hợp đồng tương lai

(future), các tổ chức trung gian tài chính có thể giúp cho các tổ chức, cá

nhân quản lý rủi ro có hiệu quả, qua đó thúc đẩy mối quan hệ tương tác

giữa người tiết kiệm và người đầu tư. Đối với loại rủi ro gây tổn thất trực

tiếp cho tài sản và con người, thường sử dụng dịch vụ bảo hiểm. Bằng

những dịch vụ bảo hiểm khác nhau cung cấp cho các tổ chức và cá nhân,

các công ty bảo hiểm đã tạo ra cho những chủ thể này phương sách hữu

hiệu để quản lý rủi ro. Như vậy, phát triển dịch vụ tài chính không những

trực tiếp giảm thiểu rủi ro mà gián tiếp cung cấp các công cụ để tập hợp,

trao đổi và phòng tránh rủi ro cho từng chủ thể trong nền kinh tế.

 Thẩm định và phân bổ hiệu quả vốn đầu tƣ

Để thẩm định các công ty hoặc các dự án là công việc khó khăn và tốn

kém đối với những người đầu tư do không có phương tiện thu thập, xử lý

thông tin về doanh nghiệp, thị trường và các điều kiện kinh tế. Trong bối

cảnh đó, các trung gian tài chính khi cung cấp dịch vụ tài chính đã có khả

năng tốt hơn trong việc thu nhập, thẩm định thông tin, đánh giá và phân

bổ vốn. Như vậy, những chủ thể đầu tư khác có thể dựa vào kết quả đánh

- 12 -

giá của các trung gian tài chính để đầu tư tiết kiệm, phân bổ vốn một cách

có hiệu quả hơn, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

 Giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế

Trong việc cung cấp dịch vụ tài chính, các tổ chức trung gian tài chính

thường bắt buộc khách hàng phải thực hiện sao cho có lợi nhất cho các cổ

đông, các chủ nợ. Nói cách khác, các trung gian tài chính giúp những

người tiết kiệm giám sát những người đi vay bằng việc kiểm soát chặt chẽ

các hoạt động của các tổ chức này. Việc giám sát tốt hoạt động của những

người đi vay sẽ tạo điều kiện phân bổ vốn hiệu quả. Vì những người có

tiết kiệm sẽ tin tưởng và tăng cường đầu tư, qua đó sẽ thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế dài hạn.

 Huy động vốn để tài trợ cho nền kinh tế

Sự phát triển của dịch vụ tài chính sẽ mang lại hiệu ứng quan trọng

nhất là huy động các nguồn lực trong xã hội cho việc tài trợ các dự án,

cung cấp vốn cho thị trường tài chính. Việc huy động vốn trên phạm vi

rộng lớn của các tổ chức trung gian tài chính được thực hiện thông qua sự

huy động tiết kiệm của các ngân hàng thương mại, việc thu phí qua phát

hành các hợp đồng bảo hiểm và thông qua việc huy động vốn của thị

trường chứng khoán.

 Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển mậu dịch

Các dịch vụ tài chính hiện đại hơn như séc, thẻ tín dụng và các cơ chế

thanh toán đã tạo ra sự đơn giản hoá cho các hoạt động trao đổi mậu dịch,

làm cho trao đổi mậu dịch trở nên dễ dàng hơn và nhờ đó sẽ kích thích sự

phát triển của cả nền kinh tế.

.2 NHỮNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC

DỊCH VỤ TÀI CHÍNH NÓI CHUNG VÀ NHỮNG CAM KẾT CỦA

VIỆT NAM

- 13 -

.2.1 Những yêu cầu hội nhập kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ

tài chính

1.2.1.1 Những quy định của GATS đối với thị trường dịch

vụ tài chính

Các nước xin gia nhập WTO trong lĩnh vực thương mại dịch vụ đều

phải đưa ra các cam kết của mình về các vấn đề liên quan đến tự do hoá

thương mại dịch vụ theo hướng giảm nhẹ dần, tiến tới xoá bỏ các hạn chế

và phân biệt đối xử, nhằm đảm bảo cho tất cả các nhà cung cấp dịch vụ

trong nước cũng như ngoài nước những cơ hội và điều kiện như nhau để

tiếp cận thị trường. Trong Thoả thuận về Các cam kết trong Dịch vụ Tài

chính được quy định tại Phần III của GATS việc tiếp cận thị trường đối

với 2 khu vực dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm có thể được thực hiện theo

4 phương thức như đã trình bày ở trên: phương thức cung cấp dịch vụ qua

biên giới, tiêu dùng ở nước ngoài, hiện diện thể nhân hoặc hiện diện

thương mại.

Những quy định của GATS có ảnh hưởng đến dịch vụ tài chính bao

gồm hai nhóm chủ yếu:

• Nhóm thứ nhất là các quy định ràng buộc chung theo Hiệp định

bao gồm các quy tắc chung áp dụng cho mọi loại dịch vụ và những quy

tắc bổ sung cụ thể áp dụng cho riêng lĩnh vực dịch vụ tài chính. Các quy

tắc chung sẽ áp dụng một cách tự động không phụ thuộc vào cam kết. Các

quy tắc này được coi như những nguyên tắc của GATS bao gồm: nguyên

tắc tối huệ quốc (MFN), nguyên tắc đối xử quốc gia (NT), nguyên tắc tiếp

cận thị trường, minh bạch hoá chính sách, mở cửa thị trường.

Nguyên tắc đối xử quốc gia

Điều XVII của GATS quy định “đối với những lĩnh vực dịch vụ

được ghi trong danh mục cam kết, khi áp dụng bất kỳ biện pháp nào tác

động đến việc cung cấp dịch vụ, mỗi thành viên sẽ dành cho dịch vụ và

- 14 -

người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác, sự đối xử không

kém phần thuận lợi hơn sự đối xử mà thành viên đó dành cho dịch vụ và

người cung cấp dịch vụ của chính mình”. Do đó, các thành viên phải đưa

ra danh mục các lĩnh vực có thể áp dụng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia

cùng với những điều kiện hay hạn chế, nếu có. Nguyên tắc đãi ngộ quốc

gia chỉ áp dụng cho những lĩnh vực dịch vụ có trong danh mục cam kết.

Các thành viên cũng có thể liệt kê các giới hạn hoặc những trường hợp

chưa thể thực hiện nguyên tắc đãi ngộ quốc gia được theo từng phương

thức cung cấp dịch vụ.

Nguyên tắc tối huệ quốc

Nguyên tắc này đòi hỏi một nước thành viên phải ngay lập tức và vô

điều kiện dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành

viên nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà thành

viên đó dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ

nước nào khác.

Nguyên tắc minh bạch hoá hệ thống chính sách liên quan đến

dịch vụ tài chính

Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu tất cả các quy định, văn bản pháp lí

liên quan, các điều ước quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ tài chính phải được

công bố, ấn hành công khai; các biện pháp được nước thành viên sử dụng

có liên quan đến dịch vụ tài chính phải được thông báo cho Hội đồng

thương mại dịch vụ của WTO và thông báo ngay khi ban hành những văn

bản mới.

Nguyên tắc tiếp cận thị trƣờng

Nguyên tắc tiếp cận thị trường đòi hỏi các nước thành viên cam kết

dành cho dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ của các thành viên khác sự

đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ theo những điều kiện, điều

khoản và hạn chế đã được thoả thuận và quy định tại Danh mục cam kết

cụ thể, tức là các nước thành viên tuỳ theo khả năng của mình, thông qua

- 15 -

việc điều chỉnh luật lệ, quy định trong nước nhằm mục đích tăng khả năng

thâm nhập thị trường của dịch vụ và người cung cấp dịch vụ nước ngoài

theo 4 phương thức cung cấp dịch vụ của GATS. Một thành viên được coi

là mở cửa thị trường hoàn toàn đối với một khu vực dịch vụ nào đó và

theo một phương thức cung cấp dịch vụ nào đó khi thành viên đó không

duy trì bất kỳ một biện pháp nào hạn chế việc cung cấp dịch vụ như quy

định ở điều XVI GATS. Nếu không mở cửa hoàn toàn tức là mở cửa từng

phần hay mở cửa có điều kiện, giới hạn. Các giới hạn về mở cửa thị

trường mà các nước thành viên đưa ra có thể là các mặt sau đây:

- Hạn chế về số lượng các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trên thị

trường;

- Giới hạn về tổng giá trị dịch vụ giao dịch hoặc tài sản;

- Giới hạn về số lượng các hoạt động dịch vụ hay tổng sản lượng dịch vụ.

- Giới hạn về tổng số các nhân viên nước ngoài trong một khu vực dịch vụ

cụ thể;

- Yêu cầu và hạn chế về các loại hình công ty hay liên doanh;

- Giới hạn về tỷ lệ vốn mà bên nước ngoài đóng góp hoặc tổng vốn đầu tư

nước ngoài.

Các cam kết của các nước thành viên phải được đưa vào “Danh mục

các cam kết cụ thể”. Mỗi danh mục cam kết thường được chia thành hai

cấp độ: các cam kết nền chung cho mọi lĩch vực dịch vụ và những cam

kết cụ thể cho từng khu vực dịch vụ riêng lẻ. Ở mỗi cấp độ, những cam

kết bao gồm 3 phần: giới hạn mức độ mở cửa thị trường, giới hạn áp dụng

đối xử quốc gia và những cam kết bổ sung với các loại, như: cam kết đầy

đủ, cam kết có giới hạn hoặc không (chưa) cam kết.

Cam kết đầy đủ là trường hợp một nước thành viên không áp đặt bất

kỳ một biện pháp nào để giới hạn việc mở cửa thị trường và áp dụng

nguyên tắc đối xử quốc gia. Cam kết có giới hạn là cam kết của các nước

- 16 -

thành viên nhưng có điều kiện, hạn chế về mở cửa thị trường và đãi ngộ

quốc gia. Chưa cam kết là việc một nước thành viên chưa đưa ra cam kết

nào trong một lĩnh vực dịch vụ theo một phương thức cung cấp dịch vụ

nào đó, nghĩa là nước đó được tự do trong việc đưa ra hay duy trì các biện

pháp hạn chế việc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia..

• Nhóm thứ hai là các quy định mang tính chất tự nguyện được tập

hợp trong Bản thoả thuận về các cam kết trong dịch vụ tài chính. Bản thoả

thuận chỉ mang tính chất tự nguyện, tức là chỉ khi một thành viên cam kết

áp dụng bản thoả thuận thì những quy định của bản thoả thuận mới mang

1.2.1.2 Những quy định trong Hiệp định khung về dịch vụ

của ASEAN đối với thị trường dịch vụ tài chính.

tính chất bắt buộc đối với riêng thành viên đó.

Theo quyết định của Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 5 tại

Băng Cốc ngày 15/12/1995, các nước ASEAN đã ký Hiệp định khung về

Hợp tác Dịch vụ ASEAN (AFAS - Asian framework agreement on

Services) với các mục tiêu sau: tăng cường hợp tác về dịch vụ giữa các

thành viên để nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh, đa dạng hoá năng lực

sản xuất, cung cấp và phân phối dịch vụ giữa những người cung cấp dịch

vụ trong khối và ngoài khối ASEAN; xoá bỏ phần lớn các hạn chế đối với

thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên; tự do hoá thương mại dịch

vụ bằng việc mở rộng phạm vi và mức độ tự do hoá mà các nước thành

viên đã cam kết tại GATS với mục tiêu thành lập một khu vực tự do

thương mại dịch vụ ASEAN vào năm 2020.

Cũng giống như GATS, AFAS yêu cầu mỗi nước thành viên đưa ra

một bản lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo hướng phù hợp

nhất với điều kiện quốc gia về việc áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia và

điều kiện tiếp cận thị trường đối với từng loại dịch vụ. Tính pháp lí cuả

AFAS chưa thực sự cao bởi mặc dù trên lí thuyết, một khi các nước thành

viên đưa ra cam kết thì những cam kết này sẽ ràng buộc họ nhưng trên

- 17 -

thực tế thì các cam kết này có thể được điều chỉnh trong từng trường hợp

1.2.1.3 Những quy định trong Hiệp định thương mại Việt

nam - Hoa Kỳ đối với thị trường dịch vụ tài chính.

cụ thể.

Trải qua 8 vòng đàm phán đầy gay go, phức tạp, ngày 13/7/2000

Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA - Vietnam America

Bilateral Trade Agreement) đã chính thức được ký kết, đánh dấu bước

ngoặt lớn nhất trong quan hệ kinh tế, chính trị giữa hai nước, mở ra cho

Việt Nam một giai đoạn phát triển kinh tế mới. Đồng thời, nó cũng là một

bước tiến quan trọng cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập toàn cầu để

đạt đến mục đích cuối cùng: gia nhập WTO

BTA cũng chứa đựng những nội dung chủ yếu của GATS, tuy nhiên

trong BTA còn có những cam kết cụ thể của Việt nam về dịch vụ tài chính

và thời điểm thực hiện những cam kết này. Các quy định của Hiêp định có

hiệu lực ngay từ khi hiệp định có hiệu lực mà không cần chờ sửa đổi, bổ

sung các quy định của pháp luật trong nước có liên quan. Như vậy, có thể

nói, trong số những cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ tài chính,

những cam kết trong BTA có tính pháp lí cao nhất, tính ràng buộc chặt

chẽ nhất. Do đó, thực hiện tốt hiệp định này, cánh cửa vào WTO đã gần

như rộng mở đối với Việt nam, vấn đề chỉ còn là nỗ lực của chính chúng

ta.

1.2.2 Những cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định về

lĩnh vực dịch vụ tài chính

1.2.2.1 Cam kết về dịch vụ tài chính của Việt Nam trong Hiệp

định khung về Hợp tác Dịch vụ ASEAN:

Tiến trình đàm phán dịch vụ ASEAN, đặc biệt là dịch vụ tài chính

đã diễn ra khá chậm chạp do phần lớn các nước thành viên đều muốn duy

trì mức bảo hộ cao đối với thị trường dịch vụ này mặc dù theo cơ chế đàm

- 18 -

phán thì các nước đã là thành viên WTO thì phải cam kết cao hơn mức

cam kết tại GATS, còn các nước chưa phải là thành viên thì các cam kết

không được thấp hơn mức đã cho các nước ngoài ASEAN hưởng. Đối với

Việt Nam, mức độ cam kết được xây dựng trên cơ sở cơ chế hiện hành, cụ

thể lấy Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam làm cam kết chung và đưa ra

một số cam kết cụ thể đối với từng ngành dịch vụ riêng biệt.

• Các cam kết chung (Horizontal) được áp dụng cho tất cả các ngành

dịch vụ, kể cả dịch vụ tài chính, có các nội dung chủ yếu sau:

- Hiện diện thương mại của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải

được cơ quan có thẩm quyền cho phép dưới hình thức văn phòng đại diện,

liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Văn phòng đại diện

không được phép tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Các liên

doanh thành lập dưới dạng công ty TNHH và có tư cách pháp nhân theo

Luật Công ty của Việt Nam, tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài không thấp

hơn 30% vốn pháp định của công ty. Thời gian hoạt động của doanh

nghiệp 100% vốn nước ngoài không được vượt quá 50 năm (trong một số

trường hợp đặc biệt thì không được vượt quá 70 năm). Về mặt đãi ngộ

quốc gia, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vào Việt Nam có quyền sở

hữu các tài sản cố định (trừ đất đai) theo thời hạn trong giấy phép kinh

doanh, được phép thuê đất song không được quyền thế chấp đất.

- Hiện diện thể nhân: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

dựa trên yêu cầu phát triển kinh doanh được phép thuê người nước ngoài,

tuy nhiên chỉ cho các vị trí đòi hỏi trình độ quản lý và kỹ thuật mà Việt

Nam chưa đáp ứng được, đồng thời cũng phải đào tạo lao động Việt Nam

thay thế.

Cam kết cụ thể cho lĩnh vực dịch vụ tài chính:

 Dịch vụ bảo hiểm: Việt Nam tiến hành cam kết trên cả 4 phân ngành

dịch vụ:

- 19 -

(i) dịch vụ bảo hiểm nhân thọ (bao gồm cả bảo hiểm tai nạn và

sức khoẻ);

(ii) dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ;

(iii) dịch vụ tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm (tuy nhiên với

dịch vụ này Việt Nam hầu như "không cam kết" cho cả 4 phương thức

cung cấp);

(iv) dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm.

Đối với 3 phương thức cung cấp (1); (2); (4) hầu như "không cam

kết", riêng phương thức cung cấp thông qua hiện diện thương mại (3) thì

có các hạn chế sau:

Hạn chế về tiếp cận thị trường: -

+ Hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài: cho đến năm

2000, Việt Nam cam kết cho phép thành lập tối đa 5 công ty liên doanh

và/hoặc công ty 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm và các

dịch vụ có liên quan đến bảo hiểm, trong đó tối đa 2 công ty hoạt động

trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, 2 công ty trong lĩnh vực bảo hiểm phi

nhân thọ và 1 công ty trong lĩnh vực môi giới bảo hiểm.

+ Hạn chế về vốn: sau 5 năm kể từ khi có lợi nhuận, các công ty 100%

vốn nước ngoài phải bán lại ít nhất 30% vốn cổ phần của công ty mình

cho các công ty trong nước để nhằm mục đích tạo điều kiện cho các công

ty bảo hiểm trong nước có cơ hội tiếp thu các kỹ thuật nghiệp vụ và công

nghệ bảo hiểm mới; phần vốn góp của bên nước ngoài trong các liên

doanh bảo hiểm không quá 50% vốn điều lệ.

- Hạn chế về đãi ngộ quốc gia:

+ Hạn chế về vốn: vốn pháp định tối thiểu của một công ty liên doanh

bảo hiểm và công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài hoạt động trong lĩnh

vực bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ tương ứng là 2 triệu USD và 5

triệu USD, trong lĩnh vực môi giới bảo hiểm là 100.000 USD và 300.000

- 20 -

USD, trong khi mức vốn pháp định tối thiểu qui định cho các công ty

trong nước tương ứng là 20 tỷ và 1 tỷ đồng.

+ Hạn chế về lĩnh vực hoạt động: doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu

tư nước ngoài không được kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc

(bảo hiểm rủi ro về xây dựng và lắp đặt; bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ

xe cơ giới).

+ Hạn chế về phạm vi hoạt động và đối tượng khách hàng: các công ty

bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được phép thành lập và hoạt động hợp

pháp tại Việt Nam được cung cấp dịch vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm

con người cho các khu vực đầu tư nước ngoài. Trong dịch vụ tái bảo hiểm

và nhượng tái bảo hiểm, dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm, theo tập quán quốc tế,

các công ty bảo hiểm nước ngoài không thường trú tại Việt Nam có thể

trực tiếp cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và

không cần thiết lập hiện diện thương mại trên lãnh thổ Việt Nam. Tổ chức

môi giới tái bảo hiểm phải thu xếp ký kết hợp đồng bảo hiểm, tái bảo

hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam

và chỉ được chuyển dịch vụ ra nước ngoài sau khi chứng minh được rằng

các doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam không

chấp nhận dịch vụ đó. Trong trường hợp tái bảo hiểm cho các tổ chức bảo

hiểm ở nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải tái bảo hiểm

một phần trách nhiệm (hiện nay là 20%) theo hợp đồng tái bảo hiểm đó

cho công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam theo hướng dẫn cụ thể của

Bộ Tài chính

+ Hạn chế về giấy phép: về cơ bản là không có hạn chế, tuy nhiên

công ty bảo hiểm nước ngoài muốn thiết lập hiện diện thương mại tại Việt

Nam thì phải thoả mãn điều kiện là tổ chức kinh tế đang hoạt động hợp

pháp và đang ở trong tình trạng tài chính bình thường ở nước nguyên xứ,

đồng thời ưu tiên cho các công ty bảo hiểm nước ngoài đã được phép mở

văn phòng đại diện thường trú tại Việt Nam.

- 21 -

 Dịch vụ ngân hàng: các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác

mà Việt Nam tiến hành cam kết gồm có:

(i) chấp nhận tiền gửi;

(ii) cho vay dưới mọi hình thức;

(iii) dịch vụ cho thuê tài chính;

(iv) các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền.

Đối với 3 phương thức cung cấp (1); (2); (4): Việt Nam "không cam

kết" ngoại trừ những cam kết chung (horizontal), riêng phương thức cung

cấp thông qua hiện diện thương mại (3) thì không cam kết đối với việc

cấp giấy phép lần đầu, ngoài ra có các hạn chế sau:

- Hạn chế về tiếp cận thị trường:

+ Hạn chế về hình thức pháp nhân: tổ chức tín dụng nước ngoài được

phép thiết lập hiện diện thương mại tại Việt Nam theo quyết định của

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dưới các hình thức sau: văn phòng đại

diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; ngân hàng liên doanh; công ty cho

thuê tài chính liên doanh; công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước

ngoài (nếu ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính hoặc các công ty

muốn tiến hành kinh doanh cho thuê tài chính thì phải thành lập một Công

ty cho thuê tài chính độc lập).

+ Hạn chế về số vốn: vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước

ngoài không dưới 15 triệu USD; vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng liên

doanh là 10 triệu USD; vốn pháp định tối thiểu của công ty cho thuê tài

chính liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là 5

triệu USD.

+ Hạn chế về phần vốn góp: phần vốn góp của bên nước ngoài trong

ngân hàng liên doanh không được vượt quá 50% vốn điều lệ của ngân

hàng liên doanh đó.

- 22 -

+ Hạn chế về phạm vi hoạt động: các ngân hàng nước ngoài được

phép thành lập chi nhánh tại các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương

và có không quá 1 chi nhánh tại mỗi tỉnh hoặc thành phố này; không được

mở văn phòng đại diện tại những nơi đã mở chi nhánh và không được

thành lập các chi nhánh phụ cho các chi nhánh đó; các chi nhánh ngân

hàng nước ngoài không được thiết lập điểm giao dịch nằm ngoài chi

nhánh dưới bất kỳ hình thức nào.

- Hạn chế về về đãi ngộ quốc gia

+ Hạn chế về tổng giá trị giao dịch: nhận tiền gửi không kỳ hạn bằng

đồng Việt Nam của cá nhân Việt Nam và tổ chức là pháp nhân Việt Nam

không có quan hệ tín dụng với ngân hàng tối đa bằng 25% vốn của ngân

hàng nguyên xứ cấp cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc vốn điều

lệ của ngân hàng liên doanh.

+ Hạn chế về đối tượng khách hàng: chi nhánh ngân hàng nước ngoài

và ngân hàng liên doanh không được nhận tiền gửi có kỳ hạn bằng đồng

Việt Nam và tiền gửi bằng ngoại tệ của các thể nhân và pháp nhân Việt

Nam không có quan hệ tín dụng với họ; không được cho vay bằng ngoại

tệ đối với thể nhân Việt Nam: không được thanh toán bằng ngoại tệ với

các thể nhân Việt Nam không có quan hệ tín dụng với họ.

Như vậy, các cam kết về tự do hoá dịch vụ tài chính mà Việt Nam

đưa ra sau Vòng đàm phán thứ nhất về dịch vụ ASEAN được xây dựng

trên cơ sở cam kết của các nước thành viên ASEAN hiện nay, mang tính

bảo hộ cao và hạn chế số lượng các công ty/cá nhân nước ngoài cung cấp

dịch vụ. Những cam kết được xây dựng mang tính chủ động và dựa trên

cơ chế hiện hành của Việt Nam, do vậy, chưa thể hiện tính hội nhập cao.

Số phân ngành bảo hiểm, tài chính ngân hàng đưa vào cam kết không đầy

đủ. Các phương thức cung cấp (1), (2), (4) hầu như không cam kết. Còn

phương thức cung cấp dịch vụ thông qua hiện diện thương mại (3) thì đưa

ra rất nhiều loại hạn chế. Như vậy, phạm vi cam kết của Việt Nam không

- 23 -

rộng mà mức độ cam kết lại quá thấp. Đương nhiên, những cam kết như

vậy có lợi cho các nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam nhưng sẽ khó

khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vì phạm vi kinh doanh bị hạn

chế, và họ phải chịu nhiều phân biệt đối xử. Do đó, những cam kết này sẽ

khó được các nước Thành viên WTO chấp nhận khi đàm phán với Việt

Nam sau này. Và điều này đã được chứng minh qua thực tiễn cam kết của

Việt Nam trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.

1.2.2.2. Cam kết về dịch vụ tài chính trong Hiệp định

Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ:

Nội dung các cam kết cụ thể có liên quan đến lĩnh vực dịch vụ tài

chính của Hiệp định này bao gồm:

Các cam kết chung (Horizontal):

- Hiện diện thương mại: Công ty Hoa Kỳ được tiến hành hoạt động

thương mại tại Việt Nam theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam dưới

các hình thức: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, xí nghiệp liên doanh, xí

nghiệp 100% vốn Hoa Kỳ, BOT và BTO. Các công ty Hoa Kỳ được phép

đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam. Các văn phòng này không được tiến

hành hoạt động thu lợi nhuận tại Việt Nam.

- Hiện diện thể nhân: Chưa cam kết trừ các biện pháp liên quan đến

nhập cảnh và lưu trú tạm thời của các thể nhân của các nhóm sau: Các nhà

quản lý, giám đốc điều hành và các chuyên gia mà người Việt Nam không

thể thay thế, lưu chuyển tạm thời trong nội bộ công ty, được phép nhập

cảnh cho thời gian lưu trú ban đầu là 3 năm và sau đó sẽ được gia hạn;

Người chào bán dịch vụ - những người không sống tại Việt Nam và

không nhận sự trả lương từ bất kỳ nguồn nào tại Việt Nam, và những

người tham gia vào hoạt động liên quan đến việc đại diện cho một nhà

cung cấp dịch vụ với mục đích đàm phán để bán dịch vụ của nhà cung cấp

dịch vụ đó mà (i) việc bán đó không được chào trực tiếp cho công chúng

- 24 -

và (ii) người chào bán không trực tiếp cung cấp dịch vụ. Thời gian nhập

cảnh của những người chào bán dịch vụ này không quá 90 ngày.

Các cam kết cụ thể trong lĩnh vực dịch vụ tài chính:

 Dịch vụ bảo hiểm: Việt Nam cam kết trong tất cả các loại hình dịch

vụ bảo hiểm và phụ trợ bảo hiểm theo GATS ngoại trừ bảo hiểm sức

khoẻ, cụ thể:

- Phương thức (1): Không hạn chế đối với: các dịch vụ bảo hiểm cho

các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại

Việt Nam, các dịch vụ tái bảo hiểm, các dịch vụ bảo hiểm trong vận tải

quốc tế, các dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm, các dịch

vụ tư vấn, giải quyết khiếu nại, đánh giá rủi ro.

- Phương thức (2): Không hạn chế.

- Phương thức (3): Có các hạn chế sau:

+ Hạn chế về hình thức pháp nhân: chỉ được phép thành lập liên

doanh bảo hiểm sau 3 năm, công ty bảo hiểm 100% vốn của Hoa Kỳ sau 5

năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực; việc thành lập chi nhánh phụ thuộc

vào tiến trình xây dựng Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (trên

thực tế hiện nay ta đã cho phép thành lập 4 công ty bảo hiểm 100% vốn

nước ngoài trong đó có công ty bảo hiểm AIA 100% vốn Hoa Kỳ).

+ Hạn chế về phần vốn góp: phần vốn góp của phía Hoa Kỳ không

được vượt quá 50% vốn pháp định của liên doanh.

+ Hạn chế về loại hình kinh doanh: Các công ty cung cấp dịch vụ có

vốn đầu tư Hoa Kỳ không được kinh doanh các dịch vụ đại lý bảo hiểm và

các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc là: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới, bảo hiểm trong xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm đối với các công

trình dầu khí và các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng

và môi trường. Hạn chế này sẽ được bãi bỏ đối với liên doanh là 3 năm

sau khi Hiệp định có hiệu lực, và đối với công ty 100% vốn Hoa Kỳ là 6

- 25 -

năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Đối với việc tái bảo hiểm, doanh

nghiệp bảo hiểm liên doanh, công ty 100% vốn Hoa Kỳ và chi nhánh các

công bảo hiểm Hoa Kỳ phải tái bảo hiểm với Công ty Tái bảo hiểm Việt

Nam một tỷ lệ tối thiểu là 20% và 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực

hạn chế này sẽ được bãi bỏ. Đồng thời, ta không dành đối xử quốc gia đối

với các công ty bảo hiểm nước ngoài kinh doanh bảo hiểm bắt buộc.

- Phương thức (4): Chưa cam kết ngoài các cam kết nền chung.

Như vậy, về cơ bản, các cam kết trong thực thi Hiệp định Thương

mại Việt Nam - Hoa Kỳ 2001 phù hợp với Luật kinh doanh bảo hiểm hiện

hành năm 2000 và chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ

năm 2003 - 2010. Một bước đột phá rõ nhất trong Hiệp định Thương mại

Việt Nam - Hoa Kỳ là: trong khi Luật kinh doanh bảo hiểm cấm thực hiện

phương thức 1 đối với nhà bảo hiểm nước ngoài muốn cung cấp dịch vụ

vào thị trường Việt Nam, thì Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ

đã cho phép nhà bảo hiểm Hoa Kỳ cung cấp dịch vụ theo phương thức

này trong một số trường hợp; đồng thời đối với phương thức 3: cho phép

3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực phần vốn góp của đối tác Hoa kỳ tới

50% vốn liên doanh và 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực đối tác Hoa

kỳ có thể thành lập doanh nghiệp 100% vốn Hoa Kỳ.

 Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác:

Việt Nam cam kết trong tất cả các loại hình dịch vụ ngân hàng và các

dịch vụ tài chính khác theo GATS, cụ thể:

Phương thức (1): Chưa có cam kết trừ đối với các dịch vụ thông tin

ngân hàng

Phương thức 2): Không hạn chế.

Phương thức (3): Có các hạn chế như sau:

- Về tiếp cận thị trường:

- 26 -

+ Hạn chế về loại hình pháp nhân: Các nhà cung cấp dịch vụ ngân

hàng Hoa Kỳ được phép cung cấp dịch vụ tại Việt Nam thông qua các

hình thức pháp lý: chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ, ngân hàng liên doanh

Việt Nam - Hoa Kỳ, công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ, và

công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt Nam - Hoa Kỳ. Trong vòng 3

năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, hình thức pháp lý duy nhất thông

qua đó các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ có thể cung cấp các dịch vụ

ngân hàng tại Viêt Nam là liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian

đó hạn chế này sẽ được bãi bỏ. Sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực,

các ngân hàng Hoa Kỳ mới được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn

Hoa Kỳ tại Việt Nam.

+ Hạn chế về vốn: Trong thời gian 9 năm nêu trên, các ngân hàng Hoa

Kỳ có thể thành lập ngân hàng liên doanh với đối tác Việt Nam trong đó

phần góp vốn của đối tác Hoa Kỳ không thấp hơn 30% nhưng không vượt

quá 49% vốn pháp định của liên doanh.

+ Hạn chế về giá trị giao dịch: trong vòng 10 năm kể từ khi Hiệp định

có hiệu lực, Việt Nam chỉ cho phép chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận

tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng

không có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh phù

hợp với biểu cụ thể trong Hiệp định với một lộ trình từng bước từ thấp

đến cao (đối với pháp nhân lộ trình là 8 năm, đối với thể nhân lộ trình là

10 năm - Xem bảng). Trong thời hạn bảo lưu, không có năm nào tỷ lệ huy

động tiền Đồng cả 2 kênh trên đây của chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ vượt

mức đối xử quốc gia. Sau thời gian đó, các hạn chế này sẽ được bãi bỏ.

- 27 -

Tiền gửi VNĐ nhận tõ c¸c thÓ nh©n

Tiền gửi VNĐ nhận từ các pháp nhân

Năm thứ 1 từ 10/12/2001

50% vốn pháp định chuyển vào

50% vốn ph¸p định chuyển vµo

Năm thứ 2 từ 10/12/2002

100%

100%

250%

Năm thứ 3 từ 10/12/2003

250%

400%

Năm thứ 4 từ 10/12/2004

350%

600%

Năm thứ 5 từ 10/12/2005

500%

700%

Năm thứ 6 từ 10/12/2006

650%

900%

Năm thứ 7 từ 10/12/2007

800%

Đối xử quốc gia đầy đủ

Năm thứ 8 từ 10/12/2008

900%

Năm thứ 9 từ 10/12/2009

1000%

Năm thứ 10 từ 10/12/2010

Đối xử quốc gia đầy đủ

Nguồn: Tạp chí thị trƣờng tài chính tiền tệ số 11/2003

- Về đối xử quốc gia:

+ Hạn chế về loại hình kinh doanh: sau 8 năm kể từ khi Hiệp định có

hiệu lực, các định chế tài chính có vốn đầu tư Hoa Kỳ được phép phát

hành thẻ tín dụng trên cơ sở đối xử quốc gia. Chi nhánh ngân hàng Hoa

Kỳ không được đặt các máy rút tiền tự động tại các địa điểm ngoài văn

phòng cho tới khi mà các ngân hàng Việt Nam được phép làm như vậy và

không đuợc lập các điểm giao dịch phụ thuộc.

+ Hạn chế về vốn: Vốn do Ngân hàng mẹ của Hoa Kỳ cấp để thành

lập chi nhánh phải tối thiểu là 15 triệu USD; Vốn điều lệ tối thiểu của

ngân hàng liên doanh Việt Nam - Hoa Kỳ hay ngân hàng con 100% vốn

Hoa kỳ là 10 triệu USD, của công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa

Kỳ và công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt Nam - Hoa Kỳ là 5 triệu

USD;

+ Hạn chế về quyền sử dụng đất: Các đơn vị tài chính ngân hàng

100% vốn Hoa Kỳ không được nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất.

Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các đơn vị tài chính ngân hàng

này chỉ được quyền nhận tài sản thế chấp bằng quyền sử dụng đất của các

xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và có được quyền sử

- 28 -

dụng đất mà được thế chấp cho các khoản vay trong trường hợp mất khả

năng thanh toán khoản vay, phá sản hay giải thể của xí nghiệp vay nợ đó.

+ Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực Việt Nam dành đối xử

quốc gia đầy đủ đối với quyền tiếp cận Ngân hàng Trung ương trong các

hoạt động tái chiết khấu, swap, forward.

Phương thức (4): Chưa cam kết ngoài các cam kết nền chung.

Như vậy, phải nói rằng so với các cam kết trong Hiệp định khung

ASEAN thì các cam kết về dịch vụ tài chính mà Việt Nam đưa ra trong

Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là một bước tiến lớn trong

việc đáp ứng các yêu cầu chung về mức độ và phạm vi cam kết từ phía

các nước Thành viên WTO. Đây là những cam kết khá mở có nội dung

phù hợp với thông lệ quốc tế dành cho các nước đang phát triển và có nền

kinh tế chuyển đổi trong giai đoạn hiện nay. Do đó, nó sẽ là căn cứ cho

Việt Nam khi đàm phán ra nhập WTO.

Trong Hiệp định này, phạm vi cam kết được mở rộng ra tất cả các

lĩnh vực dịch vụ tài chính qui định trong phụ lục của GATS (chỉ ngoại trừ

dịch vụ bảo hiểm sức khoẻ). Bên cạnh đó, mức độ cam kết cũng cao hơn

rất nhiều so với các cam kết trong ASEAN. Phương thức (2) không có bất

kỳ hạn chế nào; phương thức (1) không hạn chế đối với một số loại hình

dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ và dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; còn phương

thức (3) thì số loại hạn chế về tiếp cận thị trường ít hơn so với cam kết

trong ASEAN (ví dụ: không có hạn chế về thời gian hoạt động của công

ty 100% vốn Hoa Kỳ, hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ bảo

hiểm, hạn chế về vốn pháp định của các loại hình công ty bảo hiểm,

không yêu cầu buộc công ty bảo hiểm 100% vốn Hoa Kỳ bán lại ít nhất

30% vốn cổ phần cho công ty kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam sau 5

năm kinh doanh có lãi...). Đồng thời, với các hạn chế vẫn được duy trì thì

phía Việt Nam đã đưa ra lộ trình cụ thể loại bỏ các hạn chế đó. Nhìn

chung, trong vòng 10 năm, các hạn chế trong phần tiếp cận thị trường sẽ

- 29 -

được loại bỏ hết. Tuy nhiên, có một vài hạn chế trong Hiệp định Việt -

Mỹ (BTA) chặt chẽ hơn so với cam kết trong ASEAN, chẳng hạn như:

hạn chế về phần vốn góp tối đa của bên nước ngoài trong ngân hàng liên

doanh (49% trong BTA so với 50% trong ASEAN).

- 30 -

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ

TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN

ĐÂY

2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH

VIỆT NAM

Quá trình chuyển đổi sang cơ chế quản lý thị trường theo định

hướng XHCN tất yếu dẫn đến việc hình thành và phát triển đầy đủ, đồng

bộ hệ thống các thị trường trong nền kinh tế. Thị trường dịch vụ tài chính

cũng là một trong số các thị trường cần phải được sớm hình thành và phát

triển, song thị trường này chủ yếu mới hình thành và phát triển trong thập

kỷ 90 trở lại đây. Ví dụ thị trường dịch vụ kế toán - kiểm toán chỉ mới

hình thành và phát triển từ đầu thập kỷ 90; thị trường bảo hiểm mới chỉ

thực sự là thị trường dịch vụ tài chính từ năm 1994 trở lại đây khi Nghị

định 100/CP của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm được ban hành và có

hiệu lực cho dù ngành bảo hiểm đã hình thành ở Việt nam từ thập kỷ 60.

Do vậy, có thể nói rằng các thị trường này mới đang trong giai đoạn đầu

của quá trình hình thành và phát triển. Cũng chính vì lẽ đó mà các thị

trường này còn rất nhỏ bé và mức độ hoàn thiện của chúng còn tương đối

thấp... thể hiện trên một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, quy mô hoạt động của thị trường còn khá nhỏ bé: doanh

thu phí bảo hiểm so GDP thấp, hoạt động đầu tư nguồn vốn bảo hiểm trở

lại nền kinh tế rất thấp; hoạt động của các ngân hàng trong nền kinh tế còn

rất hạn chế.

Thứ hai, hệ thống pháp luật đang trong quá trình xây dựng và hoàn

thiện nên hiệu lực pháp lý và hiệu quả quản lý còn có những hạn chế, hệ

thống các văn bản hưóng dẫn vẫn chưa được xây dựng và ban hành một

cách đồng bộ;

- 31 -

Thứ ba, cạnh tranh trên thị trường còn nhiều vấn đề, bất bình đẳng

trong cạnh tranh còn khá lớn, chủ yếu do hậu quả của cơ chế cũ để lại …

Thứ tư, các lực lượng tham gia thị trường còn mỏng, tiềm lực còn

hạn chế, nhất là các doanh nghiệp trong nước so với các doanh nghiệp có

vốn nước ngoài, điều này đã dẫn đến sự hạn chế khả năng cung cấp các

loại dịch vụ cho thị trường với chất lượng cao, chủng loại đa dạng…

Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng thị trường dịch vụ tài chính Việt

nam là thị trường rất tiềm năng, khả năng phát triển của thị trường này là

rất lớn. Điều này được thể hiện đậm nét ở tốc độ tăng trưởng cao trong

những năm qua, nhất là thị trường dịch vụ bảo hiểm, cùng với những

thành quả do việc áp dụng công nghệ khoa học kỹ thuật cao. Đồng thời,

sự hình thành và phát triển của các thị trường dịch vụ tài chính đã có

những đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong

thời gian qua. Đó là việc thị trường dịch vụ tài chính đã góp phần nâng

cao hiệu quả khai thác và sử dụng mọi nguồn lực tài chính nói riêng, nâng

cao hiệu quả khai thác và sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nền kinh

tế nói chung, góp phần thúc đẩy phát triển toàn diện nền kinh tế - xã hội.

Bên cạnh đó, sự phát triển của thị trường này còn có những đóng góp rất

to lớn vào việc lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, nâng cao tiềm lực

và an ninh tài chính quốc gia.

Trong thời gian tới, sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính sẽ

còn được thúc đẩy mạnh mẽ hơn rất nhiều do hệ thống cơ chế, chính sách

quản lý thị trường dịch vụ tài chính ngày càng được hoàn thiện hơn, đặc

biệt là quá trình hội nhập quốc tế của Việt nam được đẩy mạnh sẽ làm cho

động lực cạnh tranh trên thị trường càng mạnh mẽ hơn.

2.2. THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ BẢO HIỂM

Trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên để tồn tại và phát triển,

con người luôn phải đương đầu với nhiều loại rủi ro thiên tai như : lũ lụt,

động đất, mưa bão, hạn hán...và phải gánh chịu hậu quả nặng nề do những

- 32 -

rủi ro đó gây ra. Vì vậy, hạn chế tác hại và nhanh chóng khắc phục hậu

quả của rủi ro thiên tai luôn là nhiệm vụ cấp bách của mọi thời đại. Do

vậy, để đối phó với các rủi ro con người đã dùng các biện pháp: tránh rủi

ro; ngăn ngừa, hạn chế rủi ro; khắc phục rủi ro và tham gia bảo hiểm. Tuy

nhiên, người ta sớm nhận ra rằng việc dự phòng chung theo cộng đồng,

tức là tham gia bảo hiểm, có hiệu quả hơn rất nhiều, đặc biệt là trong nền

kinh tế thị trường. Nền kinh tế càng phát triển thì vai trò của bảo hiểm

càng trở nên quan trọng, bảo hiểm càng phát huy mạnh mẽ tác dụng của

nó. Và nó dần dần trở thành một công cụ không thể thiếu được của đời

sống kinh tế, có chức năng hỗ trợ kinh tế - xã hội phát triển.

2.2.1

Những thành tựu đạt đƣợc

Trước năm 1993, ở Việt Nam có duy nhất một doanh nghiệp bảo

hiểm, đó là Tổng công ty Bảo hiểm Việt nam hoạt động kinh doanh bảo

hiểm trong điều kiện bao cấp nên vai trò của hoạt động bảo hiểm trong sự

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế. Thực hiện chính sách phát

triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, ngày 18 tháng 12 năm

1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/CP về kinh doanh bảo

hiểm.

Từ năm 1993 đến nay, thị trường bảo hiểm có bước phát triển mạnh,

trở thành kênh quan trọng trong huy động và cung ứng vốn đầu tư. Hệ

thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm đã cơ bản đồng bộ và không

ngừng được bổ sung, hoàn thiện (Luật kinh doanh Bảo hiểm đã được ban

hành năm 2000.) Qua đó, đã thúc đẩy xây dựng được một thị trường bảo

hiểm sôi động, cạnh tranh và có quản lý. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm

đã khẳng định được vai trò là công cụ tài chính quan trọng trong việc duy

trì và thúc đẩy phát triển, ổn định nền kinh tế - xã hội, đáp ứng tốt hơn

nhu cầu bảo hiểm. Những kết quả chính đạt được như sau :

2.2.1.1

Phạm vi, quy mô thị trường bảo hiểm phát triển đáng

kể, từng bước đáp ứng được sự phát triển và ổn định nền kinh tế - xã

hội.

- 33 -

Qua bảng số liệu cho thấy hoạt động bảo hiểm mang tính kinh

doanh đã có những bước phát triển cơ bản sau :

Đơn vị : tỷ đồng

Chỉ tiªu

Năm 1993

Năm 1996

Năm 1999

Năm 2002

Năm 2003

Tăng trưởng BQ 1993-2002

1.Doanh thu phí bảo hiểm

700

1.264

2.091

6.992

10.090

29,1%

- Bảo hiểm phi nhân thọ

700

1.263

1.606

2.624

6.390

19,39%

0,95

485

4.368

3.700

- Bảo hiểm nhân thọ

trọng doanh

thu

0,37%

0,46%

0,52%

1,3%

1,8%

2.Tỷ PBH/GDP

3.Vốn kinh doanh

145

397

980

1.900

3..218

4. Bồi thường bảo hiểm

120

760

789

1.400

2.070

5.Dự phòng nghiệp vụ

188

741

2020

8.330

12.432

68

82

145

290

500

17%

6.Nộp ngân sách nhà nước

Nguồn : Chiến lƣợc phát triển thị trƣờng bảo hiểm Việt nam năm 2003 - 2010

Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh bảo hiểm

Báo Đầu tƣ số ra ngày 7/12/2003 và 31/05/04

Thị trƣờng bảo hiểm đạt tốc độ tăng trƣởng cao so với tốc độ tăng •

Đơn vị: tỷ đồng

trƣởng GDP.

- 34 -

Nguồn : Hiệp hội bảo hiểm - 2004

Đơn vị: %

Biểu đồ 2.1. Doanh thu phí bảo hiểm giai đoạn 1993 - 2003

Nguồn : Hiệp hội bảo hiểm - 2004

Biểu đồ 2.2. Tỷ trọng doanh thu PBH/GDP giai đoạn 1993 - 2003

Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường tăng bình quân

29%/năm. Trong những năm gần đây, doanh thu phí bảo hiểm tăng nhanh

: năm 1993 là 700 tỷ đồng, năm 2003 là 10.090 tỷ đồng, tăng hơn 14 lần.

Cơ cấu tỷ trọng doanh thu dịch vụ bảo hiểm trong GDP cũng tăng nhanh

từ 0,37%/GDP năm 1993 lên 1,8%/GDP năm 2003. . 5 , 18

- 35 -

• Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã đóng vai trò tích cực đến việc

ổn định nền kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.

Tổng số tiền bảo hiểm các doanh nghiệp bảo hiểm đã giải quyết bồi

thường trong 10 năm là 7.600 tỷ đồng, riêng năm 2002 là 1400 tỷ VNĐ.

Trong đó có nhiều vụ tổn thất lớn được bồi thường bảo hiểm như : Bồi

thường vụ cháy chợ Đồng Xuân Hà Nội năm 1995 là 8,2 triệu USD, bồi

thường bột mỳ nhập khẩu chở trên tầu bị mất tích năm 1996 là 1,6 triệu

USD, bồi thường vụ tai nạn máy bay của Hãng hàng không Việt nam năm

1997 tại Phnompenh là 15 triệu USD, bồi thường vụ tai nạn tầu Phú

Xuyên năm 2001 là 3 triệu USD 8 .Việc giải quyết bồi thường tốt giúp

các doanh nghiệp và người dân ổn định sản xuất, kinh doanh và đời sống,

giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tạo môi trường đầu tư cho

phát triển kinh tế xã hội.

Bên cạnh đó, ngành bảo hiểm đã đóng góp cho ngân sách nhà nước

đạt tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1993 - 2003 là 17%. Trong

giai đoạn này, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng đã nộp cho ngân sách nhà

2.2.1.2 Hình thành thị trường bảo hiểm với đầy đủ các yếu

tố của thị trường

nước thuế thu nhập doanh nghiệp 1.500 tỷ đồng.

• Đa dạng hóa thành phần sở hữu các doanh nghiệp, mở rộng nội

dung và lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp

Trước năm 1993, ở Việt nam chỉ có duy nhất một doanh nghiệp bảo

hiểm là Tổng công ty bảo hiểm Việt nam hoạt động kinh doanh bảo hiểm

trong điều kiện bao cấp. Đến nay đã phát triển thành một thị trường hoàn

chỉnh với sự tham gia của 24 doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó có 4 doanh

nghiệp Nhà nước, 7 doanh nghiệp liên doanh, 7 công ty cổ phần và 6

doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

- 36 -

Ngoài ra, với sự có mặt của 21 văn phòng đại diện các tổ chức bảo

hiểm tại Việt nam đã tạo môi trường cạnh tranh, người mua bảo hiểm có

điều kiện lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm có sản phẩm phù hợp, chất

lượng dịch vụ tốt để tham gia bảo hiểm. Bước đầu hình thành kênh phân

phối với 5 công ty môi giới bảo hiểm với 76.600 đại lý bảo hiểm chuyên

nghiệp (tính đến hết năm 2002), giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm, đặc

biệt là bảo hiểm nhân thọ phát triển mạnh.

Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm đƣợc nâng

cao.

Tổng vốn điều lệ của ngành bảo hiểm tăng trên 30 lần từ 50 tỷ đồng

năm 1993 lên 1.515 tỷ đồng năm 2002. Tổng dự phòng nghiệp vụ tăng 66

lần từ 188 tỷ đồng năm 1993 lên 12.431 tỷ đồng năm 2003. Năng lực đầu

tư của các doanh nghiệp bảo hiểm được nâng cao từ 200 tỷ đồng năm

1993 (chủ yếu dùng đầu tư gửi tiền tại các ngân hàng), đến năm 2002 tổng

số tiền đầu tư đã tăng lên 6.700 tỷ đồng, phạm vi đầu tư được mở rộng đa

dạng bao gồm các lĩnh vực : sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển cơ sở

hạ tầng

Bảng 2.2. Danh sách các doanh nghiệp hoạt động trên thị trƣờng bảo

hiểm Việt Nam (tính đến ngày 30/11/2003)

TT

Tên công ty

Vốn điều lệ

Lĩnh vực

Năm cấp GP

Hình thức sở hữu

Hoạt động

1.

1964

586 tỷ đồng

Nhà nước

Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET)

Phi nhân thọ Nhân thọ

2. Công ty Tái bảo hiểm quốc gia

1994

40 tỷ đồng

Nhà nước

Tái bảo hiểm

Việt Nam (VINARE)

3. Công ty bảo hiểm thành phố Hồ

1994

40 tỷ đồng

Nhà nước

Phi nhân thọ

Chí Minh (BAOMINH)

4. Công ty LD tư vấn DVBH và tái

1993

250.000 USD

Liên doanh

Môi giới bảo hiểm

BH Bảo việt - Aon

5. Công ty Cổ phần bảo hiểm Nhà

1995

70 tỷ đồng

Cổ phần

Phi nhân thọ

Rồng (BAOLONG)

6. Công

ty cổ phần bảo hiểm

1995

55 tỷ đồng

Cổ phần

Phi nhân thọ

Petrolimex (PJICO)

7. Công ty bảo hiểm dầu khí (PVI)

1996

20 tỷ đồng

Nhà nước

Phi nhân thọ

1996

6 triệu USD

Liên doanh

Phi nhân thọ

8. Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (VIA)

9. Công ty liên doanh bảo hiểm liên

1997

5 triệu USD

Liên doanh

Phi nhân thọ

hiệp (UIC)

1998

70 tỷ đồng

Cổ phần

Phi nhân thọ

10.

Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI)

1999

4 triệu USD

Liên doanh

Phi nhân thọ

11.

Công ty liên doanh bảo hiểm Việt - Úc (BIDV-QBE)

1999

triệu

vốn

Phi nhân thọ

12.

Công ty TNHH bảo hiểm Allianz (Việt Nam)

6,295 USD

100% đầu tư NN

1999

140 tỷ đồng

vốn

Nhân thọ

13.

Công ty TNHH Manulife (Việt Nam)

100% đầu tư NN

1999

10 triệu USD

Liên doanh

Nhân thọ

14.

Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh CMG

1999

75 triệu USD

Nhân thọ

vốn

15.

Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam

100% đầu tư NN

2000

25 triệu USD

Nhân thọ

vốn

16.

Công ty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ (Việt Nam) (AIA)

100% đầu tư NN

vốn

tổng hợp

2001

5 triệu USD

Phi nhân thọ

17.

100% đầu tư NN

Công ty bảo hiểm Groupama Việt Nam

2001

6 tỷ đồng

Cổ phần

18.

Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Việt Quốc

Môi giới bảo hiểm

2002

5 triệu USD

Liên doanh

Phi nhân thọ

19.

Công ty liên doanh TNHH bảo hiểm Samsung-Vina

2002

6 triệu USD

Liên doanh

Phi nhân thọ

20.

Công ty TNHH bảo hiểm châu á - Ngân hàng công thương (IAI)

21.

ty môi giới bảo hiểm

2003

300.000 USD

vốn

Công Grassavoye

100% đầu tư NN

Môi giới bảo hiểm

2003

72 tỷ đồng

Cổ phần

Phi nhân thọ

22.

Công ty Cổ phần bảo hiểm Viễn Đông

2003

6 tỷ đồng

Cổ phần

23.

Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Á Đông

Môi giới bảo hiểm

2003

6 tỷ đồng

Cổ phần

24.

Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Đại Việt

Môi giới bảo hiểm

Nguồn : Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam - năm 2004

2.2.1.3

Chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo

hiểm đã được cải thiện một bước rõ rệt

- 37 -

• Phát triển số lƣợng sản phẩm bảo hiểm.

Trước năm 1993, thị trường bảo hiểm mới có 22 sản phẩm bảo hiểm

chủ yếu tập trung vào các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ truyền thống.

Đến nay đã có gần 500 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân

thọ thuộc cả ba lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo

hiểm trách nhiệm, được cung cấp trên thị trường, đáp ứng nhu cầu phong

phú của người tham gia bảo hiểm. Các dịch vụ liên quan, hỗ trợ khác như

tái bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, tư vấn bảo hiểm… phát triển mạnh đã tạo

Đơn vị: tỷ đồng

điều kiện tăng doanh thu phí bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ.

- 38 -

Nguồn: Tổng hợp từ các tạp chí Thông tin thị trƣờng Bảo hiểm

Biểu đồ 2.3. So sánh doanh thu PBH nhân thọ và phi NT

Mặc dù bảo hiểm nhân thọ còn chưa xuất hiện vào năm 1993 và

phát triển vẫn còn rụt rè vào năm 1996 (0.95 tỷ VNĐ so với 1.263 tỷ

VNĐ DTPBH phi NT) nhưng đến năm 2002 đã đạt 4.368 tỷ đồng, cao

hơn rất nhiều so với mức 2.624 tỷ VNĐ DTPBH phi NT, và đến năm

2003 tương ứng đạt 6.390 tỷ đồng và 3.700 tỷ đồng.

Chất lƣợng sản phẩm đƣợc nâng cao

Do không còn tình trạng hoạt động độc quyền, các doanh nghiệp đã

chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ sung thêm quyền lợi

cho các khách hàng tham gia bảo hiểm. Phí bảo hiểm tương ứng với mức

trách nhiệm, phạm vi bảo hiểm rộng hơn. Quy tắc điều khoản bảo hiểm

được quy định rõ ràng về trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp bảo

hiểm, bảo vệ được quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.

Chất lượng phục vụ cũng có những bước cải tiến đáng kể. Các

doanh nghiệp đã quan tâm đổi mới phương thức phục vụ, chăm sóc khách

hàng, giải quyết bồi thường nhanh chóng, đầy đủ theo thoả thuận trong

hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp và người tham gia bảo hiểm.

2.2.1.4 Quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm đã từng

bước được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường

- 39 -

• Hệ thống pháp luật đƣợc hoàn thiện

Cho đến nay, về cơ bản các văn bản pháp luật về kinh doanh bảo

hiểm đã được xây dựng và ban hành (như luật kinh doanh bảo hiểm được

Quốc hội thông qua năm 2000, các Nghị định thư và thông tư hướng dẫn

thi hành đã được ban hành trong năm 2001).

• Phƣơng thức quản lý đƣợc đổi mới

Công tác quản lý giám sát được thực hiện theo hướng hạn chế dần

sự can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp, tăng quyền tự

chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực thi pháp luật. Việc

giám sát của Nhà nước dựa trên các chỉ tiêu tài chính, kinh tế khách quan,

chú trọng đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm , bảo

vệ quyền và các lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm.

• Vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam bƣớc đầu đã đƣợc khẳng

định

Sự ra đời của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam năm 2001 bước đầu đã

có vai trò quan trọng giúp cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám

sát hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, kết nối mối quan hệ giữa

các doanh nghiệp với cơ quan quản lý, giữa doanh nghiệp với doanh

nghiệp và giữa doanh nghiệp với người tham gia bảo hiểm, nhằm duy trì

môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh

2.2.1.5 Từng bước hội nhập với các nước trong khu vực và

quốc tế

nghiệp bảo hiểm

Với sự phát triển nhanh chóng, ổn định của thị trường bảo hiểm, vai

trò và vị thế của của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế và khu

vực, thông qua các cơ chế hợp tác thương mại, dịch vụ tài chính đa

- 40 -

phương và song phương như với các nước ASEAN, liên minh châu Âu,

Hoa Kỳ và Nhật bản. Thị trường bảo hiểm đã từng bước hội nhập với các

nước trong khu vực và thế giới thông qua:

- Diễn đàn các cơ quan quản lý bảo hiểm ASEAN

Mục tiêu của diễn đàn là điều phối hội nhập về lĩnh vực bảo hiểm,

hài hoà hoá môi trường pháp lý, thống nhất các chỉ tiêu tài chính để giám

sát kiểm tra các doanh nghiệp bảo hiểm trong khu vực ASEAN, thành lập

hội đồng Cơ quan quốc gia về bảo hiểm xe quá cảnh giữa các nước

ASEAN và Học viện bảo hiểm ASEAN, thúc đẩy trao đổi dịch vụ bảo

hiểm , tái bảo hiểm giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong khối ASEAN.

- Hiệp hội các cơ quan quản lý bảo hiểm quốc tế IAIS

Với việc tham gia tích cực các hoạt động của Hiệp hội, Việt nam đã

từng bước tiến tới thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế trong

lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, thúc đẩy trao đổi thông tin thị trường, đào

tạo cán bộ và chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và kinh doanh

bảo hiểm cho phía Việt nam.

2.2.2. Một số vấn đề còn tồn tại

Mặc dù thị trường bảo hiểm có bước phát triển đáng kể, tuy nhiên,

so với tiềm năng phát triển của thị trường bảo hiểm và nhu cầu phát triển

kinh tế- xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, thị trường

2.2.2.1

Thị trường bảo hiểm chưa đáp ứng yêu cầu phát

triển kinh tế - xã hội:

bảo hiểm đã bộc lộ một số tồn tại như sau:

• Quy mô thị trƣờng bảo hiểm còn nhỏ:

Mặc dù thị trường bảo hiểm đạt tốc độ tăng trưởng 29%/năm trong

10 năm qua, nhưng đến năm 2002, tổng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP

của Việt Nam mới chỉ vào khoảng 1.3 %, thấp hơn nhiều so với mức

trung bình của thế giới (8%) và các nước trong khu vực (2.5-7%).

Đơn vị: %

- 41 -

Nguồn: Chiến lƣợc phát triển dịch vụ bảo hiểm Việt nam 2003 - 2010

Biểu đồ 2.4. So sánh doanh thu PBH/GDP một số nƣớc năm 2001

Hoạt động đầu tƣ còn hạn chế:

Mặc dù đến năm 2002, tổng nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp

lên tới 6.700 tỷ đồng, nhưng tỷ trọng đầu tư dưới hình thức gửi tiền tại các

tổ chức tín dụng và ngân hàng vẫn chiếm 70% trên tổng nguồn vốn đầu

2.2.2.2 Năng lực hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm còn

hạn chế:

tư.

• Công nghệ quản lý kinh doanh chƣa đƣợc hiện đại hoá

Nhiều doanh nghiệp vẫn còn áp dụng các phương pháp thủ công

trong việc quản lý hợp đồng bảo hiểm, cấp đơn và thu phí bảo hiểm. Hầu

hết các doanh nghiệp chưa thiết lập được hệ thống phần mềm tin học tính

phí bảo hiểm, trích lập dự phòng nghiệp vụ.

• Thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi đặc biệt là trong lĩnh vực tính phí

bảo hiểm và trích lập dự phòng nghiệp vụ, thẩm định bảo hiểm, quản lý

rủi ro và đầu tư. Đội ngũ cán bộ chuyên môn kinh doanh bảo hiểm chưa

đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập và mở cửa thị trường.

Tuy đến năm 2002 số đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp lên tới 70.000 người

- 42 -

trên tổng số lao động của toàn ngành bảo hiểm 76.600 người nhưng các

doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc đào tạo, nâng cao chất lượng đạo lý

dẫn tới nảy sinh một số tranh chấp làm thiệt hại đến quyền lợi của người

tham gia bảo hiểm và ảnh hưởng xấu dến uy tín của các doanh nghiệp.

• Phƣơng thức quản lý kinh doanh chƣa thực sự chủ động, còn

trông chờ vào sự bảo hộ Nhà nước. Một số doanh nghiệp chỉ chú trọng

tăng doanh thu mà không quan tâm tới việc chăm sóc khách hàng, nâng

2.2.2.3 Vẫn còn tình trạng cạnh tranh không lành mạnh

cao chất lượng phục vụ.

• Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ

Cạnh tranh vẫn tập trung vào việc hạ phí bảo hiểm, tăng chi hoa

hồng bảo hiểm, đôi khi còn dùng các áp lực tài chính để giành dịch vụ, mà

chưa quan tâm đến công tác đánh giá rủi ro, đề phòng và hạn chế tổn thất,

giám định, bồi thường kịp thời và đầy đủ cho khách hàng.

Trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ

Các doanh nghiệp còn quá chú trọng đến việc trả hoa hồng đại lý

cao, tuyển dụng nhiều đại lý để mở rộng thị phần, tăng doanh thu mà chưa

quan tâm đến công tác đào tại nâng cao chất lượng đại lý, dẫn đến cơ cấu

sản phẩm tập trung vào các sản phẩm ngắn hạn, phát sinh nhiều tranh

chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng, làm hạn chế khả năng

huy động vốn đầu tư dài hạn và giảm lòng tin của một bộ phận dân cư đối

với loại hình bảo hiểm còn mới này.

Có thể dẫn chiếu 1 ví dụ điển hình tại Thời báo Kinh tế Việt Nam

ngày 22/9/2003 của tác giả Công Minh như sau:

"Gần đây các đại lý bảo hiểm của một số công ty bảo hiểm nhân thọ nước

ngoài ở nhiều tỉnh phản ánh về hiện tượng đại lý của các công ty trong

nước tìm gặp khách hàng của các công ty nước ngoài và khuyên họ nên

huỷ hợp đồng, chuyển sang mua sản phẩm của công ty mình. Không dừng

- 43 -

lại ở đó, báo chí gần đây cũng đưa tin Tỉnh uỷ Tỉnh Kiên Giang và một số

tỉnh lân cận ra văn bản "cấm" cán bộ, đảng viên, công chức (kể cả những

người đã nghỉ hưu) làm đại lý cho các công ty bảo hiểm nhân thọ có vốn

đầu tư nước ngoài. Điều đáng nói là các văn bản đó được ban hành ở

những địa phương gần nhau về địa lý, gần như cùng 1 thời điểm, với nội

dung, hình thức tương tự nhau và có những điểm không chặt chẽ như

nhau. Dư luận đang đặt câu hỏi: Vì sao những văn bản đó lại chỉ đề cập

đến việc cấm cán bộ, đảng viên, công chức làm đại lý cho các công ty có

vốn nước ngoài mà không cấm hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh

khác, hoặc không cấm làm đại lý cho các công ty có vốn trong nước? Đây

là sự phân biệt đối xử giữa các ngành nghề kinh doanh, giữa các thành

phần kinh tế? Liệu những văn bản đó ra đời nhằm gây khó dễ cho công ty

có vốn nước ngoài?. Đây có thể coi là sử dụng quyền lực hành chính gây

bất bình đẳng trong cạnh tranh và làm xấu đi môi trường kinh doanh và

môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam".

Trong một số lĩnh vực như bảo hiểm cháy, bảo hiểm xe cơ giới, bảo

hiểm nhân thọ, các doanh nghiệp đã ký được thoả thuận hợp tác, nhưng

không thực hiện được làm ảnh hưởng đến uy tín chung của thị trường, gây

2.2.2.4

Các loại hình sản phẩm chưa đa dạng.

khó khăn cho công tác quản lý.

Mặc dù trong 10 năm, số lượng các loại sản phẩm tăng lên nhanh

chóng từ 22 sản phẩm năm 1993 lên 500 sản phẩm năm 2002, nhưng số

lượng và các loại hình sản phẩm vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu bảo

hiểm của nhiều ngành kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Một số lĩnh

vực hầu như chưa được các doanh nghiệp quan tâm cung cấp sản phẩm

cho thị trường như bảo hiểm thiên tai, nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng và

rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y dược, luật sư.

2.2.3

Nguyên nhân của những tồn tại

- 44 -

• Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm còn hạn chế.

Trừ Bảo Việt với số vốn 586 tỷ đồng và công ty BH nhân thọ Prudential

với số vốn thực có 41 triệu đô la Mỹ, các doanh nghiệp bảo hiểm khác

mới chỉ có đủ số vốn theo quy định của pháp luật. Số vốn thực có toàn thị

trường hiện nay là 1.515 tỷ đồng, không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh

tế và nâng cao năng lực nhận bảo hiểm phù hợp với mức độ phát triển

trung bình của thế giới.

• Tƣ duy và thói quen hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong môi

trƣờng bao cấp vẫn còn nặng; nhận thức của người dân về kinh doanh

bảo hiểm tuy đã được nâng lên một bước song vẫn còn thấp hơn so với

yêu cầu, nhiều người dân vẫn chưa có thói quen tham gia bảo hiểm.

• Các doanh nghiệp mới chỉ tập trung khai thác các dịch vụ truyền

thống, các dịch vụ có lãi ngay, tại các thành phố, phục vụ các doanh

nghiệp lớn và người dân có thu nhập cao, mà chưa chú trọng đến việc

cung cấp các sản phẩm bảo hiểm phục vụ bà con nông dân và ngư dân tại

khu vực nông thôn.

• Thị trƣờng tài chính chƣa phát triển và những quy định mang

tính phân biệt đối xử giữa đầu tƣ trong nƣớc và đầu tƣ nƣớc ngoài

cũng là một trong những rào cản làm hạn chế hiệu quả đầu tư của các

doanh nghiệp BH. Tỷ trọng đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng chưa

tương xứng với tổng nguồn vốn có thể đầu tư của các doanh nghiệp BH.

Hình thức đầu tư chủ yếu vẫn là tiền gửi ngân hàng và mua trái phiếu

Chính phủ.

• Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh. Cơ cấu bộ máy quản lý trên bộ

máy kinh doanh quá lớn, nhiều phòng ban và nhiều đơn vị cơ sở của cùng

một doanh nghiệp còn hoạt động chồng chéo về chức năng nhiệm vụ dẫn

tới giảm hiệu quả hoạt động, giảm tốc độ giao dịch, ảnh hưởng đến quyền

lợi của người tham gia bảo hiểm.

- 45 -

• Các doanh nghiệp chƣa quan tâm đổi mới công nghệ, đặc biệt là

việc xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý hợp đồng bảo hiểm, phần mềm tin

học tính phí hợp đồng bảo hiểm, phần mềm tin học tính phí và trích lập dự

phòng nghiệp vụ.

• Các doanh nghiệp chƣa quan tâm đến công tác đào tạo và đào tạo

lại cán bộ chuyên môn nghiệp vụ về các lĩnh vực quản lý rủi ro, định phí

bảo hiểm, chuyên gia đầu tư tài chính.

• Hệ thống pháp lý về kinh doanh bảo hiểm còn thiếu và chƣa đồng

bộ. Do chưa có luật về chống cạnh tranh không lành mạnh, thiếu văn bản

pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm,

nên dẫn tới hiện tượng các doanh nghiệp vi phạm các thoả thuận về hợp

tác và cạnh tranh, không thực hiện triệt để các quy định của pháp lụât về

báo cáo thống kê, một số doanh nghiệp thành lập chi nhánh, bổ nhiệm

người điều hành không xin phép chấp thuận trước của cơ quan có thẩm

quyền...

• Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam mới đƣợc thành lập năm 2001, chƣa

xây dựng đƣợc quy chế gắn kết quyền lợi của các thành viên tham gia

Hiệp hội, để các doanh nghiệp tự nguyện tham gia Hiệp hội, thoả thuận

thống nhất các nguyên tắc cạnh tranh và hợp tác và xây dựng quy chế tự

quản, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tổ chức Hiệp hội thiếu cơ

quan giám sát thi hành các thoả thuận của thành viên, dẫn tới việc các

thoả thuận không đạt được nẩy sinh hiện tượng vượt rào về mức phí thoả

thuận cạnh tranh, tranh giành thu hút đại lý và nhân viên lẫn nhau giữa

các thành viên.

• Quản lý nhà nƣớc về kinh doanh bảo hiểm chƣa theo kịp sự phát

triển của thị trƣờng. Phương thức kiểm tra, giám sát còn nặng về hành

chính, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống các chỉ tiêu

giám sát, đánh giá rủi ro về vốn, về hoạt động tài chính, kinh doanh của

doanh nghiệp còn thiếu. Công nghệ quản lý lạc hậu, chưa có hệ thống

- 46 -

phần mềm quản lý và nối mạng với các doanh nghiệp để phục vụ cho việc

quản lý được kịp thời. đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu và yếu so với yêu

cầu.

Tóm lại, trong thời gian qua, thị trường bảo hiểm đã đạt được nhiều

thành tựu quan trọng, đáp ứng được yêu cầu duy trì và thúc đẩy nền kinh

tế - xã hội tăng trưởng. Đạt được những thành tựu to lớn trên là nhờ có

chủ trương đúng đắn của Chính phủ, phù hợp với tiến trình hội nhập. Qua

đó, uy tín và năng lực của thị trường bảo hiểm Việt Nam đã được cải

thiện, góp phần thúc đẩy trao đổi thương mại, tạo tiền đề ký kết Hiệp định

thương mại Việt nam - Hoa Kỳ và chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập WTO.

Tuy nhiên, những hạn chế có tính rào cản đối với sự phát triển thị trường

dịch vụ bảo hiểm của Việt nam vẫn còn nhiều, đặc biệt là những bất cập

của thị trường dịch vụ bảo hiểm Việt Nam so với những cam kết mà Việt

nam đặt ra khi tham gia WTO và các cam kết trong các Hiệp định AFAS,

BTA.

2.2.4

Những bất cập của thị trƣờng dịch vụ bảo hiểm so

với yêu cầu hội nhập quốc tế

2.2.4.1

Bất cập về hạn chế tiếp cận thị trường theo

phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới: hạn chế các dịch vụ

cung cấp đối với các công ty bảo hiểm nước ngoài

Pháp luật bảo hiểm của Việt Nam chỉ cho phép công ty bảo hiểm nước

ngoài được cung cấp vào Việt Nam các dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất

nhập khẩu, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm. Khi

cung cấp các dịch vụ này vào lãnh thổ Việt Nam, các công ty bảo hiểm

nước ngoài cũng gặp phải một số hạn chế. Chẳng hạn, đối với dịch vụ tái

bảo hiểm; căn cứ vào Điều XVI - GATS, thì pháp luật bảo hiểm áp dụng

hình thức hạn chế tổng trị giá các giao dịch về dịch vụ hoặc tài sản dưới

hình thức hạn ngạch, theo quy định của GATS thì các nước thành viên sẽ

không được phép áp dụng hạn chế này khi cam kết mở cửa thị trường dịch

- 47 -

vụ, trừ khi có thoả thuận trong Danh mục cam kết. Cụ thể, các công ty

bảo hiểm nước ngoài khi cung ứng dịch vụ tái bảo hiểm vào Việt Nam

phải mua một tỷ lệ tối thiểu tái bảo hiểm là 20% tại Công ty tái bảo hiểm

quốc gia Việt Nam. Các công ty bảo hiểm nước ngoài chỉ được cung cấp

dịch vụ tái bảo hiểm vào Việt Nam ở mức tối đa là 40% trị giá hợp đồng

hoặc đơn bảo hiểm gốc (Thông tư số 78/1998/TT-BTC ngày 9/6/1998 về

hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm). Đối với hoạt động môi giới bảo hiểm

và môi giới tái bảo hiểm, các công ty môi giới bảo hiểm nước ngoài phải

ưu tiên thu xếp ký kết hợp đồng cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt

Nam.

Như vậy, có thể nói, mức độ bảo hộ của Việt Nam đối với thị trường

bảo hiểm theo phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới là khá cao,

nhằm hạn chế nguồn phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. So với quy định

tương ứng của WTO thì mức độ mở cửa thị trường bảo hiểm theo phương

2.2.4.2

Bất cập về hạn chế tiếp cận thị trường theo phương

thức cung cấp dịch vụ sử dụng ngoài lãnh thổ: hạn chế hoạt động sử dụng

dịch vụ ngoài lãnh thổ

thức này là chưa tương thích.

Việt Nam hầu như hạn chế hoàn toàn mở cửa thị trường bảo hiểm theo

phương thức cung cấp dịch vụ sử dụng ngoài lãnh thổ và có thể nói là quy

định của pháp luật bảo hiểm Việt Nam theo phương thức này là chưa

tương xứng với quy định của WTO. Bởi lẽ, theo các quy định của pháp

luật bảo hiểm Việt Nam hiện hành thì các tổ chức và cá nhân Việt Nam

không được phép mua bảo hiểm ở nước ngoài cho những rủi ro phát sinh

tại Việt Nam, và chỉ có người nước ngoài làm việc tại Việt Nam mới được

phép mua bảo hiểm ở nước ngoài.

Như vậy, việc bảo hộ thị trường bảo hiểm theo phương thức này là quá

chặt chẽ, nhằm ngăn cản nguồn phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài và nhằm

tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm và thị trường bảo hiểm Việt

- 48 -

Nam có thể phát triển trước sức cạnh tranh của các công ty bảo hiểm nước

ngoài. Nhưng việc bảo hộ quá chặt chẽ này lại vi phạm quy định của

WTO về mở cửa thị trường bảo hiểm theo phương thức cung cấp dịch vụ

sử dụng ngoài lãnh thổ. Trong tương lai, để có thể gia nhập WTO trong

lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm, thì Việt Nam phải có lịch trình giảm dần và

2.2.4.3

Bất cập về hạn chế tiếp cận thị trường theo phương thức

cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại: hạn chế yêu cầu về

vốn pháp định của công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài; tỷ lệ vốn

góp và số lượng nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.

tiến tới xoá bỏ hoàn toàn việc bảo hộ này.

Đối chiếu với Điều XVI - GATS quy định các biện pháp hạn chế tiếp

cận thị trường, các nước thành viên không được duy trì theo 4 phương

thức cung cấp dịch vụ trong những lĩnh vực có cam kết mở cửa thị trường.

Đối với phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương

mại, pháp luật bảo hiểm Việt Nam duy trì các hạn chế khác biệt so với

quy định của WTO, cụ thể như sau:

• Yêu cầu về vốn pháp định của công ty bảo hiểm có vốn đầu tƣ

nƣớc ngoài cao hơn so với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc

Các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài hoạt động ở Việt Nam so với

doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải chịu hạn chế đãi ngộ quốc gia về

vốn pháp định: Theo Nghị định 100/CP, yêu cầu về vốn pháp định của

công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn so với các doanh

nghiệp bảo hiểm trong nước, cụ thể:

- Công ty liên doanh bảo hiểm: 2 triệu USD so với doanh nghiệp bảo

hiểm trong nước : 20 tỷ VNĐ

- Công ty liên doanh môi giới bảo hiểm: 100.000 USD.

- Chi nhánh của tổ chức môi giới bảo hiểm 100% vốn nước ngoài:

300.000 USD so với tổ chức môi giới bảo hiểm trong nước : 1 tỷ VNĐ

- 49 -

Có thể nói việc mở rộng thị trường bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm

nước ngoài là một việc không hề đơn giản mà Chính phủ Việt Nam rất

thận trọng khi mở cửa thị trường bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm nước

ngoài vào hoạt động tại Việt Nam.

• Tỷ lệ vốn góp của bên nƣớc ngoài bị hạn chế

Phần vốn góp của bên nước ngoài trong những liên doanh bảo hiểm bị

hạn chế ở mức không quá 50% vốn điều lệ.

• Hạn chế số lƣợng nhà cung cấp dịch vụ

Theo Thông tư số 26/1998/TT-BTC ngày 4/3/1998 hướng dẫn thủ tục

cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo

hiểm, một trong những nguyên tắc để được cấp giấy chứng nhận kinh

doanh bảo hiểm cho doanh nghiệp, tổ chức môi giới bảo hiểm nước ngoài

là phù hợp với nhu cầu phát triển thêm số lượng các loại hình doanh

nghiệp bảo hiểm ở từng địa bàn; tổ chức môi giới bảo hiểm không được

thành lập quá 1 chi nhánh trong cùng một thành phố.

Ngoài ra, đối với việc tiếp cận thị trường theo phương thức cung cấp

dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại, WTO cho phép nhà cung cấp

dịch vụ bảo hiểm của một nước thành viên được thành lập và mở rộng

một sự hiện diện thương mại trên lãnh thổ của một nước thành viên khác,

kể cả thông qua việc mua lại các công ty bảo hiểm hiện có (Điều 5 Thoả

thuận về các cam kết trong dịch vụ tài chính). Thế nhưng, trong các văn

bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, chưa có một quy định nào liên

quan đến vấn đề cho phép công ty bảo hiểm nước ngoài được phép mua

lại các doanh nghiệp bảo hiểm hiện có ở Việt Nam.

Theo Điều 7 của Thoả thuận về các cam kết trong dịch vụ tài chính của

WTO, các nước thành viên sẽ cho phép các công ty bảo hiểm của một

nước thành viên khác thành lập trên lãnh thổ nước mình được cung ứng

mọi dịch vụ bảo hiểm mới chưa được cung cấp trên lãnh thổ nước mình.

So sánh với yêu cầu này của WTO, thì pháp luật bảo hiểm Việt Nam chưa

- 50 -

cho phép các công ty bảo hiểm nước ngoài ở Việt Nam được phép cung

cấp các dịch vụ bảo hiểm mới. Thể hiện ở chỗ: các công ty bảo hiểm nước

ngoài chỉ được phép kinh doanh phù hợp với những dịch vụ đã xin phép.

Hơn nữa, theo pháp luật Việt Nam các công ty bảo hiểm nước ngoài ở

Việt Nam không được phép tiến hành kinh doanh đồng thời cả 2 loại hình

bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ.

Có thể nói, thị trường bảo hiểm Việt Nam chịu sự kiểm soát khá chặt

chẽ của Nhà nước, chưa thông thoáng và cởi mở với các công ty bảo hiểm

2.2.4.4

Bất cập về hạn chế tiếp cận thị trường theo phương thức

cung cấp dịch vụ qua sự hiện diện của thể nhân - pháp luật bảo hiểm Việt

Nam chưa thừa nhận việc thể nhân nước ngoài cung ứng dịch vụ bảo hiểm

vào Việt Nam

nước ngoài.

Cũng giống như dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ khác, đối với dịch

vụ bảo hiểm, pháp luật Việt Nam không cho phép người nước ngoài vào

cung cấp dịch vụ với tư cách cá nhân. Họ chỉ được phép cung cấp dịch vụ

thông qua sự hiện diện thương mại của các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo

hiểm nước ngoài. Trong khi đó, phương thức cung cấp dịch vụ thông qua

sự hiện của thể nhân được WTO đề cập đến trên hai phương diện: thể

nhân là người cung ứng dịch vụ và thể nhân là người làm thuê cho người

cung ứng dịch vụ. Như vậy, pháp luật bảo hiểm Việt Nam chưa thừa nhận

việc thể nhân nước ngoài cung ứng dịch vụ bảo hiểm vào Việt Nam. Trên

thực tế, pháp luật Việt Nam chỉ cho phép thể nhân nước ngoài vào làm

việc cho người cung ứng dịch vụ bảo hiểm.

Tóm lại, thị trường bảo hiểm Việt nam còn bộc bộ nhiều yếu điểm,

chưa đủ đáp ứng yêu cầu mở rộng thị trường và kinh doanh theo xu

hướng gia nhập WTO. Pháp luật về bảo hiểm chưa thể hiện được quan

điểm hội nhập một cách rõ ràng. Điều kiện và thủ tục cấp phép cho các

doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài còn phức tạp. Đối với các phương

- 51 -

thức cung cấp dịch vụ cơ bản, pháp luật bảo hiểm của Việt Nam mới chủ

yếu điều chỉnh phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện

thương mại, trong khi đó các phương thức cung cấp qua biên giới và tiêu

dùng ngoài lãnh thổ thì chưa có quy định rõ ràng. Trong bối cảnh ta đang

đàm phán gia nhập WTO, vấn đề cơ bản nhất hiện nay đối với các nhà

hoạch định chính sách quản lý xuất, nhập khẩu dịch vụ bảo hiểm là mở

cửa thị trường bảo hiểm sao cho vừa phù hợp với Hiệp định GATS và vừa

phù hợp với điều kiện Việt Nam

2.3 THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG.

Hệ thống ngân hàng Việt nam bắt đầu được chuyển đổi từ hệ thống

ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp từ cuối năm 1988,

theo đó hệ thống ngân hàng Việt nam được phân chia thành Ngân hàng

Nhà nước Việt nam đóng vai trò ngân hàng Trung ương và các ngân hàng

thương mại. Với việc ban hành Pháp lệnh ngân hàng năm 1990, hệ thống

Ngân hàng Việt Nam đã có những tiền đề pháp lý căn bản để thực hiện sự

chuyển đổi. Sự phân chia rõ ràng về mặt pháp lý giữa Ngân hàng Nhà

nước Việt nam, thực hiện vai trò ngân hàng Trung ương và là cơ quan

quản lý nhà nước với các ngân hàng thương mại - tổ chức tài chính thực

hiện chức năng kinh doanh tiền tệ đã tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh

chóng của hệ thống các ngân hàng thương mại mà thông qua đó, một

lượng vốn lớn đã được khơi thông để đầu tư, phát triển kinh tế, tăng thêm

một kênh vốn đầu tư cho nền kinh tế.

1990

1994

1999

2003

Ngân hàng TMQD

4

4

6

6

Ngân hàng TMCP

0

36

48

36

Ngân hàng liên doanh

0

3

4

4

VPDD, chi nhánh NH nước ngoài

0

41

103

69

Nguồn: Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam - 2004.

Bảng 2.3. Cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1990 - 2003.

Nhìn vào bảng trên ta thấy, năm 1990 hệ thống ngân hàng thương mại

- 52 -

của Việt Nam chỉ có 4 ngân hàng thương mại (NHTM), không có ngân

hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), Ngân hàng liên doanh hay văn

phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nào. Nhưng trong các

năm tiếp theo, các con số NHTMCP, Ngân hàng liên doanh được thành

lập tăng dần lên từ 36 NHTMCP và 3 ngân hàng liên doanh năm 1994 đến

48 NHTMCP và 4 ngân hàng liên doanh năm 1999. Tuy nhiên, số

NHTMCP đã giảm xuống còn 36 vào cuối năm 2003 và số văn phòng, chi

nhánh ngân hàng nước ngoài đã tăng nhanh qua các năm từ con số 41 năm

1994 đến 103 năm 1999 và đến cuối năm 2003 giảm xuống chỉ còn 69.

Điều này chứng tỏ cạnh tranh trên lĩnh vực dịch vụ ngân hàng ngày càng

cam go khốc liệt khiến nhiều ngân hàng nước ngoài phải thu hẹp thị

trường ở nước ngoài hay nhiều ngân hàng TMCP không đủ sức cạnh tranh

với các NHTMQD trong nước do hạn chế về vốn, công nghệ, trình độ

quản lí...

Tính đến cuối năm 2003, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam

bao gồm: 6 Ngân hàng Thương mại quốc doanh (Ngân hàng Công

thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân

hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người

nghèo, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long) với 267 chi

nhánh trực thuộc, trên 700 chi nhánh cấp huyện, thị xã và hàng ngàn

phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, công ty kinh doanh vàng bạc, cầm đồ, các

chi nhánh cấp 4; 36 NHTMCP; 4 Ngân hàng liên doanh; 69 VPDĐ, chi

nhánh ngân hàng nước ngoài; 959 quỹ tín dụng nhân dân và một số công

ty tài chính khác, với mạng lưới rộng khắp cả nước.

Tuy nhiên, tổng số tài sản của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam chỉ

tương đương với 38% GDP, tổng dư nợ tín dụng là 22% GDP và tổng số

tiền gửi chiếm khỏang 20% GDP, trong đó tổng dư nợ tín dụng của 4

ngân hàng TMQD (không kể Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng

phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long) chiếm 77.3%, Chi nhánh NH

- 53 -

nước ngoài và liên doanh chiếm 8%, các TCTD khác tỷ trọng dư nợ tín

Đơn vị: %

dụng chiếm 14.7%.

Nguồn: Ngân hàng Nhà nƣớc - năm 2004

Biểu đồ 2.5. Tỷ trọng dƣ nợ tín dụng tính đến 31/12/2003

2.3.1 Những kết quả đạt đƣợc

2.3.1.1 Hệ thống ngân hàng được cải cách mạnh mẽ

Cho đến nay, Chính phủ đã tiến hành hai cuộc cải cách lớn trong

lĩnh vực ngân hàng. Cuộc cải cách lần thứ nhất vào năm 1990 chuyển từ

hệ thống ngân hàng một cấp kém hiệu quả sang hệ thống ngân hàng hai

cấp, đánh dấu một bước chuyển về chất của hệ thống ngân hàng Việt

Nam. Cuộc cải cách lần hai khởi đầu bằng việc Chính phủ thông qua hai

Luật ngân hàng vào tháng 11/1997 và việc thành lập Uỷ ban tái cơ cấu

ngân hàng (tháng 4/1998) với mục tiêu xây dựng một hệ thống ngân hàng

an toàn, hiệu quả và cạnh tranh nhằm giúp bảo vệ ổn định kinh tế vĩ mô,

đảm nhận vai trò trung gian hiệu quả.

Hiện nay, các NHTM Việt nam đang tích cực triển khai Đề án cơ

cấu lại đã được Chính phủ phê duyệt. hơn nữa, các NHTM đang nhận

được sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức quốc tế như WB, IMF, ADB và

chính phủ các nước. Ngân hàng nhà nước cũng đã phối hợp với Bộ tài

chính, Bộ kế hoạch và đầu tư triển khai kế hoạch cấp bổ sung vốn điều lệ

- 54 -

cho các NHTM nhà nước, đảm bảo lộ trình tái cơ cấu của các ngân hàng.

Đến hết năm 2003, 5 ngân hàng thương mại nhà nước đã được cấp bổ

sung vốn điều lệ đợt một và đợt hai với tổng số tiền 7.750 tỷ đồng, trong

đó Ngân hàng Công thương được cấp 1.400 tỷ đồng, ngân hàng Ngoại

thương 1.400 tỷ đồng, ngân hàng Đầu tư và phát triển 2.550 tỷ đồng, ngân

hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn 2.200 tỷ đồng, ngân hàng Phát

triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long 200 tỷ đồng. Nếu thực hiện thành

công chương trình cơ cấu lại các ngân hàng thương mại như tiến độ đã

được chính phủ phê chuẩn thì năng lực cạnh tranh của các ngân hàng

thương mại sẽ được cải thiện đáng kể, một số NHTM sẽ đạt được thứ

2.3.1.2. Công nghệ liên tục được đổi mới:

hạng cao trong khu vực. 7

Trong những năm qua, hoạt động ngân hàng tiếp tục có những bước

phát triển mới về công nghệ và dịch vụ, góp phần tạo thêm vị thế, nâng

cao sức cạnh tranh cho các ngân hàng Việt Nam.

Việc ứng dụng những công nghệ mới trong lĩnh vực ngân hàng đã

thay đổi mạnh mẽ cung cách quản lý các hoạt động ngân hàng, các dịch

vụ ngân hàng, góp phần tăng cường những lợi thế so sánh của ngân hàng

so với các đối thủ cạnh tranh. Nhờ vào những công nghệ mới, khách hàng

có thể nhận được không chỉ các dịch vụ mới có chất lượng tốt mà còn là

tốc độ và sự thuận tiện từ các dịch vụ như: chương trình ngân hàng bán lẻ,

nối mạng với một số khách hàng lớn, chuyển tiền, máy rút tiền tự động

ATM... Vietcombank đã triển khai hệ thống SilverLake cung cấp một hệ

thống ngân hàng bán lẻ, đẩy nhanh tốc độ xử lý, đồng bộ và thống nhất

trong toàn hệ thống giúp cho khách hàng thuận lợi trong việc gửi tiền ở

một ni, rút tiền ở nhiều nơi một cách thuận tiện nhanh chóng và đã triển

khai dự án này trên toàn hệ thống vào cuối năm 2000

Được sự tài trợ của IMF, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kết hợp

với Bộ thương mại đang cùng với các NHTMQD triển khai dự án “Kỹ

- 55 -

thuật Thương mại điện tử” nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng thanh toán phục

vụ cho việc phát triển Thương mại điện tử, tạo tiền đề cho việc đưa

Thương mại điện tử vào phục vụ việc phát triển và hội nhập với các quốc

gia trong khu vực và trên thế giới, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của

công nghệ thông tin trong toàn ngành ngân hàng. Đến nay hệ thống đã kết

nối cho 200 chi nhánh của 50 thành viên; bình quân mỗi ngày hệ thống đã

xử lí từ 8000 đến 9000 lệnh thanh toán với tổng số tiền từ 4000 đến 5000

tỷ đồng. Hay dịch vụ E - Banking, trên thế giới dịch vụ này được triển

khai vào năm 1995 nhưng tháng 11 - 20002, Ngân hàng Công thương Việt

Nam là ngân hàng đầu tiên của Việt Nam khai trương trang web trên

mạng Internet để cung cấp thông tin về hoạt động của ngân hàng, thông

tin thời sự có liên quan và các thông tin về tình hình tài chính trên tài

khoản của khách hàng. Đây là bước khởi đầu thành công trong việc triển

khai thử nghiệm tiểu dự án “Thanh toán điện tử trong Thương mại điện

tử”, đánh dấu một giai đoạn phát triển công nghệ mới của ngành ngân

hàng Việt Nam.

Như vậy, cho đến nay, những hệ thống ứng dụng dịch vụ trên cơ sở

tin học đã được vận hành có hiệu quả tại hệ thống ngân hàng Nhà nước và

NHTM là: Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, Hệ thống chuyển

tiền điện tử, Hệ thống thanh toán bù trừ, Hệ thống kế toán giao dịch tức

thời, Hệ thống thanh tra giám sát từ xa các TCTC, Hệ thống ngân hàng

bán lẻ, Hệ thống quản lý mua bán ngoại tệ và thị trường liên ngân hàng,

Hệ thống quản lý tiền gửi - tiền vay (tiền gửi tiết kiệm, cho vay…), Hệ

thống thanh toán quốc tế SWIFT, Hệ thống thông tin tín dụng, thông tin

phòng ngừa rủi ro tín dụng, Hệ thống nghiệp vụ thị trường mở, Các hệ

thống rút tiền tự động ATM, thanh toán thẻ, hệ thống điểm bán lẻ (POS),

2.3.1.3. Hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng luôn đạt

được sự tăng trưởng đáng kể.

ngân hàng điện tử, các website..

- 56 -

• Về nguồn vốn huy động

Nguồn vốn huy động của các ngân hàng đều tăng trên 20%/năm.

Tính đến 31/12/2003, tổng nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng

trong năm 2003 đạt 360.300 tỷ đồng, tăng 22.7% so với 31/12/2002,

tương đương mức tăng của năm 2002; trong đó tiền gửi bằng VND ước

đạt 255.700 tỷ đồng, tăng 32,9%, tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 104.600

tỷ đồng, tăng khoảng 3,4%. Tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng số

dư vốn huy động đạt 29%, thấp hơn mức 34,5% của cùng kỳ năm trước.

Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đến 31/12/2003 đạt 363.500 tỷ

đồng, tăng 27% so với đầu năm, thấp hơn mức tăng 30,4% của năm 2002;

trong đó cho vay bằng VND ước đạt 283.150 tỷ đồng, tăng 25,5% so với

năm 2002 tăng 29,5%, cho vay bằng ngoại tệ ước đạt 80.350 tỷ đồng, tăng

34% tương đương với mức tăng năm 2002. Tỷ trọng dư nợ cho vay trung

và dài hạn trong tổng dư nợ cho vay đạt 41,7% cao hơn so với tỷ trọng

năm 2002 là 40%. 16

Phương thức huy động vốn ngày càng đa dạng, nhiều ngân hàng đã

triển khai các hình thức trã lãi trước, trả lãi hàng tháng phù hợp với từng

đối tượng khách hàng, lắp đặt máy vi tính tại các quỹ tiết kiệm tạo thuận

lợi cho người gửi tiền. Bên cạnh việc gia tăng về mặt số lượng hoạt động

tín dụng, đầu tư của các ngân hàng trong nước đã chú trọng đẩy mạnh kế

hoạch đầu tư có trọng điểm cho các các ngành kinh tế quan trọng, đồng

thời mở rộng danh mục đầu tư bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân, doanh

nghiệp vừa và nhỏ. Các khoản thu của ngân hàng chủ yếu từ nguồn vốn

đầu tư từ bên ngoài, các khoản thu từ dịch vụ còn chiếm một tỷ trọng nhỏ,

hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại thường đem lại số lợi

nhuận chiếm tới 60-70% tổng lợi nhuận của ngân hàng.

• Về hoạt động thanh toán quốc tế

Các ngân hàng Việt Nam đã tiến hành một loạt các cải cách nhằm

tạo điều kiện cho giao dịch của khách hàng và tránh được những rắc rối

- 57 -

cho họ. Các thủ tục được xem xét nghiên cứu với các hướng dẫn rõ ràng

hơn. Các thông tin được cung cấp đều đặn hơn, mạng lưới thanh toán

quốc tế rộng lớn đủ sức đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của đất nước và đón

đợi trước thời cơ hội nhập. Nếu năm 2000, tổng giá trị thanh toán xuất

nhập khẩu được thực hiện ở VCB đã đạt được 9,175 tỷ USD, tăng 39,4%

so với năm 1999 và chiếm 31,1% thị phần thanh toán ở Việt Nam, trong

đó, thanh toán xuất khẩu đạt 4,163 tỷ USD, tăng 27,6% so với năm 1999

thì đến năm 2003, doanh số thanh toán xuất khẩu của VCB đã đạt gần 12

tỷ USD, tăng gần gấp 3 lần so với năm 2000. 15

Bên cạnh việc thanh toán bằng chứng từ giấy, thanh toán bằng chứng

từ điện tử ngày càng được áp dụng rộng rãi trong hệ thống ngân hàng

thương mại cũng như Ngân hàng Nhà nước. Hình thức thanh toán này đã

rút ngắn được thời gian thanh toán chỉ còn từ 5-10 phút cho một món

thanh toán. VCB cũng đã cấp tín dụng cho khách hàng và đổi ngoại tệ với

tỷ giá ưu đãi nhằm tạo điều kiện cho giao dịch của khách hàng chứ nhiều

khi không nhằm mục đích lợi nhuận.

• Về dịch vụ chuyển tiền và giao dịch thẻ

Vai trò của trung tâm thanh toán bù trừ về ngoại tệ cho các ngân

hàng ở Việt Nam cũng tiếp tục được củng cố nhờ tiến bộ của công nghệ

tin học, đáp ứng khối lượng luân chuyển số tiền rất lớn hàng ngày, nhanh,

an toàn và chính xác. Hiện nay, hệ thống chuyển tiền của VCB được

đánh giá là tiên tiến nhất và được trang bị những phương tiện hiện đại

nhất theo tiêu chuẩn của Mỹ. Nhờ vào hệ thống SWIFT mà 95% giao dịch

của VCB được xử lý tự động và VCB có thể duy trì chính xác 3000 chu

chuyển vốn với tốc độ cao. Chính vì những nỗ lực trong việc đổi mới hoạt

động theo chuẩn mực quốc tế, VCB liên tiếp 4 năm liền nhận giải “Ngân

hàng tốt nhất trong năm” do Tạp chí The Banker trao tặng, giải “Ngân

hàng tốt nhất Việt Nam năm 2003” của tạp chí Euromoney, “Ngân hàng

- 58 -

đại lí tốt nhất trên phạm vi toàn cầu về thanh toán SWIFT” của Bank of

New York...

Các ngân hàng Việt Nam đã chú trọng đến việc hiện đại hoá, triển

khai nhiều hình thức thanh toán tiên tiến bằng séc, thẻ tín dụng trọng nước

và quốc tế (như MASTER Card, VISA Card, VCB Card, JCB Card). Hiện

nay ngành ngân hàng đã thành lập hệ thống thanh toán thẻ liên hàng Việt

Nam để thanh toán bù trừ giao dịch thẻ do các ngân hàng Việt Nam phát

hành sử dụng trong nước, hệ thống sẽ làm giảm chi phí cho các thành

viên, khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ và chi tiêu trong nước. Chỉ

tính riêng VCB, số thẻ Connect 24 được phát hành trong năm 2003 đạt

con số kỷ lục, trên 130.000 thẻ, tăng hơn 400% so với năm 2002, đưa

tổng số loại thẻ này của VCB trên thị trường lên 160.000 thẻ, doanh số đạt

trên 2.400 tỷ đồng, chiếm 74% thị phần toàn thị trường thẻ.

Bảng 2.4. Doanh số thanh toán thẻ của Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt

Đơn vị: triệu USD

2001

2002

2003

46

62

80

VISA Card

19

24

35

MASTER Card

20

20

33

AMEX Card

2

3

4

JCB Card

0

0.2

1

Diners Club

Nguồn: Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam - năm 2004

Nam

- 59 -

Biểu đồ 2.6. Thị phần thẻ ATM của ngân hàng Ngoại thƣơng Việt

Nguồn: Ngân hàng Ngoại thƣơng - 2004

nam năm 2003 so với các ngân hàng khác

Bên cạnh đó, VCB đã phát hành được gần 11.000 thẻ tín dụng quốc

tế trong năm 2003, đưa tổng số chủ thẻ lên 28.000 khách hàng với doanh

số thanh toán thẻ quốc tế trong năm đạt trên 150 triệu USD 17 . (Tuy

nhiên, năm 2003 VCB cũng chỉ chiếm 39% thị phần thị trường thẻ tín

dụng quốc tế, đứng sau ACB chiếm 59% thị phần). VCB cũng đã thu hút

được 11 ngân hàng trong nước khác cùng tham gia liên kết phát hành và

thanh toán thẻ.

Biểu đồ 2.7. Thị phần thẻ tín dụng quốc tế của ngân hàng Ngoại

Nguồn: Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt nam - 2004

thƣơng Việt nam năm 2003 so với các ngân hàng khác

-

- 60 -

Hoạt động kinh doanh ngoại hối trong những năm qua mặc dù diễn

ra trong thời điểm khan hiếm ngoại hối ở Việt Nam nhưng doanh số kinh

doanh ngoại hối của các ngân hàng cũng không bị suy giảm. Nhu cầu

thanh toán bằng ngoại tệ của doanh nghiệp là rất cao, nhất là trong lĩnh

vực dầu khí, trong khi số lượng ngoại tệ được mua bởi các khách hàng

giảm. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng rất gay gắt bởi vì có những ngân

hàng thậm chí đã mua ngoại tệ ngay cả với tỷ giá cao hơn tỷ giá được quy

định bởi Ngân hàng Nhà nước và do khách hàng tích trữ ngoại tệ vì sự

mất giá của tiền đồng Việt Nam. Nếu năm 2000,VCB là ngân hàng thu

được doanh số kinh doanh ngoại hối cao nhất trong các ngân hàng, với

7,405 tỷ USD, tăng 23% so với năm 1999 thì đến năm 2003, mức tăng

giảm đi, chỉ đạt hơn 10 tỷ USD, tăng hơn 14% so với năm 2002. 17

- Về dịch vụ bảo lãnh ngân hàng: Phạm vi nhận bảo lãnh ở Việt Nam

là các ngân hàng (nếu là bảo lãnh vay vốn nước ngoài thì đó là các ngân

hàng được phép hoạt động đối ngoại) được bảo lãnh cho các doanh nghiệp

hoặc bảo lãnh cho nhau; Ngân hàng Nhà nước nhận bảo lãnh cho các

ngân hàng, chỉ nhận bảo lãnh cho một số doanh nghiệp khi được chính

phủ quy định. Các ngân hàng có thể cùng tham gia bảo lãnh cho một

khoản vay, việc bảo lãnh được thực hiện cho từng khoản vay. Hình thức

bảo lãnh thường được các NHTM sử dụng là bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh

thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu. Việc bảo lãnh

được thực hiện theo Quyết định số 283QĐ - NHNN của Thống đốc Ngân

hàng Nhà nước Việt nam, ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng có hiệu

Đơn vị: nghìn tỷ đồng

lực thi hành từ 9/9/2000.

- 61 -

Biểu đồ 2.8. Doanh số bảo lãnh vốn vay trong nƣớc và nƣớc ngoài của

Nguồn: Tạp chí Ngân hàng, Số chuyên đề năm 2003

4 NHTMNN giai đoạn 1998 - 2002.

Qua bảo lãnh, các ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp

vay vốn nước ngoài, điển hình là: Công ty xi măng Chinfon Hải phòng

xây dựng nhà máy xi măng có công suất 1,4 triệu tấn/năm, Tổng Công ty

xây dựng Sông Đà xây dựng Nhà máy thuỷ điển Yaly, Công ty liên doanh

thép VSC Posco Hải phòng xây dựng nhà máy sản xuất thép, Tổng Công

ty Bưu chính viễn thông nhập thiết bị điện thoại. Đến cuối năm 2002,

doanh số bảo lãnh của các tổ chức tín dụng đạt khoảng 17.500 tỷ đồng và

880 triệu đôla Mỹ trong đó các NHTM Nhà nước chiếm 70% doanh số

(khoảng 21.490 tỷ VND)

• Các hoạt động khác như cho thuê tài chính, dịch vụ chứng khoán,

mua bán nợ, dịch vụ địa ốc tuy mới xuất hiện nhưng được rất nhiều doanh

nghiệp quan tâm. Đây là những dịch vụ mới có hướng phát triển khả quan

cho các ngân hàng.

2.3.2

Những mặt còn tồn tại

2.3.2.1 Quy mô ngân hàng nhỏ hẹp, không đáp ứng nhu cầu

thực tế của nền kinh tế:

Nói chung, hệ thống ngân hàng Việt Nam gồm các ngân hàng có

quy mô nhỏ so với khu vực. Tổng vốn tự có của bốn ngân hàng thưong

- 62 -

mại hàng đầu (VBARD, BIDV, Vietcombank, Incombank) đến hết năm

2003 chỉ đạt khoảng 14.520 tỷ đồng (tương đương hơn 900 triệu USD),

tính ra mỗi ngân hàng đạt khoảng 4,5% tổng số tài sản có, trong khi đó

theo thông lệ thế giới tối thiểu là 8%. Vốn điều lệ, vốn tự có của các ngân

hàng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng tài sản (cũng rất nhỏ so với

thế giới), do hệ số an toàn vốn thấp dẫn đến hạn chế khả năng mở rộng tín

dụng. Vì hệ số an toàn được đánh giá thông qua tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng

tài sản có, nói chung các ngân hàng thương mại đang trong tình trạng báo

động, chưa có giải pháp khả thi để giải quyết. Ví dụ như Ngân hàng Ngoại

thương Việt nam - một ngân hàng TMQD hoạt động tương đối hiệu quả

nhưng hệ số an toàn vốn liên tiếp qua các năm 2000, 2001, 2002 cũng chỉ

đạt 1%. Điều này vừa làm cho ngân hàng thương mại khó khăn về tài

2.3.2.2 Dịch vụ ngân hàng còn đơn điệu và kém phát triển:

chính, vừa sút giảm uy tín trên thị trường thế giới.

• Hệ thống kỹ thuật giao dịch của ngân hàng thƣơng mại Việt Nam

chƣa đáp ứng nhu cầu thực tế.

Trong khi các dịch vụ ngân hàng hiện đại đã trở thành thông dụng

của phần lớn các ngân hàng trên thế giới, thì ở ngân hàng Việt Nam đang

từng bước thí điểm như: dịch vụ thanh toán thẻ Master Card, Visa card,

máy rút tiền tự động ATM; nhiều dịch vụ ngân hàng nước ta chưa có như:

chuyển tiền, nhận tiền ngay lập tức ở bất cứ nơi nào có ngân hàng, dịch vụ

ngân hàng qua điện thoại miễn phí. Phương thức nhận tiền gửi của ngân

hàng Việt Nam còn đơn điệu, chủ yếu là phương thức gửi vốn theo kỳ

hạn, trong khi đó các ngân hàng nước ngoài có các phương thức nhận tiền

gửi rất đa dạng như: “gửi qua đêm”, “gửi tạm thời ngắn ngày”. Nói chung,

dịch vụ ngân hàng nước ta còn ít ỏi, phương thức còn lạc hậu, thời gian

thanh toán chậm không những làm hạn chế hiệu quả kinh doanh của ngân

hàng mà còn hạn chế tiện ích cung cấp cho khách hàng.

- 63 -

• Đối với các dịch vụ ngân hàng mới, các ngân hàng Việt Nam khai

thác chƣa có hiệu quả.

Thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ phục vụ các đối tượng khách

hàng là tư nhân của Việt Nam hiện nay chưa phát triển, nếu không muốn

nói là còn bỏ ngỏ, chỉ thực hiện dịch vụ nhận gửi tiền là chính, các dịch

vụ khác như: rút tiền, thanh toán, quản lý tài khoản, uỷ thác đầu tư đều

chưa phát triển hoặc chưa hình thành. Các dịch vụ mới phát triển trong

thời gian gần đây, một số là loại rất cổ nhưng thích hợp với hoàn cảnh

Việt Nam như : dịch vụ cầm đồ, cho thuê két sắt, bảo quản tiền qua đêm.

Một số dịch vụ còn bỏ ngỏ như môi giới chứng khoán, tư vấn khách hàng,

dịch vụ khách hàng tự phục vụ tại các điểm giao dịch bằng thiết bị tự

động và tại nhà. Sự phát triển dịch vụ trong các ngân hàng cũng không

2.3.2.3

Công nghệ ngân hàng còn nghèo nàn, lạc hậu:

đồng đều do năng lực tài chính, công nghệ còn hạn chế, bất cập.

• Mặc dù đã cố gắng đổi mới công nghệ nhƣng so với các ngân

hàng nƣớc ngoài, trang thiết bị kỹ thuật của ngành ngân hàng Việt

Nam còn rất yếu kém.

Hiện nay, trong nước thẻ được sử dụng chưa đúng mục đích, chủ

yếu rút tiền mặt từ tài khoản ký quỹ (97-98% doanh số thẻ) hơn là để

thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ; thanh toán qua máy EDC (Electronic

Data Capture) còn chậm, hoặc thậm chí không thanh toán được tại một số

cơ sở. Nhiều vụ lừa đảo đã xảy ra trong thanh toán thẻ, L/C, séc do hoạt

động kiểm tra thông tin còn hạn chế, nhận thông tin từ các ngân hàng đối

tác còn chậm nên nhiều khi thanh toán cả những thẻ đã được các ngân

hàng khác báo là thẻ/ séc bị đánh cắp, bị mất.

• Về thiết bị kỹ thuật giao dịch, mặc dù yêu cầu vốn cho đổi mới

công nghệ rất lớn nhƣng các ngân hàng thƣơng mại cũng không có

một cơ chế gì đặc biệt từ phía Nhà nƣớc để tạo nguồn vốn cho yêu cầu

này.

- 64 -

Việc trích lợi nhuận hình thành qũy đầu tư phát triển của ngân hàng

thương mại cũng như các doanh nghiệp bình thường là chưa tạo điều kiện

để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Lâu nay, hệ thống ngân hàng Việt

Nam chủ yếu dựa vào các nguồn trợ giúp kỹ thuật của WB, IMF, ADB

trong việc cơ cấu và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, xây dựng khung pháp

lý và phát triển thị trường, đổi mới kỹ thuật thanh toán nhưng nguồn tài

trợ này chưa thể đáp ứng đủ. Công nghệ ngân hàng bao gồm thiết bị kỹ

thuật giao dịch và con người ngân hàng nên bên cạnh vốn đầu tư, việc

hiện đại hoá công nghệ ngân hàng đòi hỏi phải chấp nhận một cuộc cách

mạng thực sự trong đổi mới tư duy và trình độ tay nghề của đội ngũ cán

2.3.2.4

Chất lượng tín dụng thấp, cơ cấu nguồn vốn bất hợp

lý, kế toán và giám sát ngân hàng còn yếu kém:

bộ ngân hàng.

• Chất lƣợng tín dụng của hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều

thấp.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến hết quý I

năm 2004, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế so với cuối năm 2003 của toàn

hệ thống ngân hàng là 4,6%, thấp hơn mức tăng 6,4% của cùng kỳ năm

2003. Trong đó, cho vay cả VND và USD đều có mức tăng thấp hơn so

với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, cho vay bằng VND chỉ đạt tốc độ tăng

trưởng là 3,3% (cùng kỳ năm ngoái là 5,2%), còn tốc độ tăng trưởng bằng

USD sau một năm tăng trưởng mạnh thì trong quý I này cũng chỉ tăng 9%

(cùng kỳ năm ngoái là 10,9%). NHNN cho rằng, nguyên nhân chính khiến

tăng tín dụng thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái là do các ngân hàng tập

trung vào việc củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng.

• Cơ cấu nguồn vốn chƣa hợp lí

Cơ cấu nguồn vốn chủ yếu là nguồn huy động ngắn hạn, yêu cầu

thanh khoản cao, do đó hạn chế nhất định đến việc mở rộng tín dụng trung

và dài hạn đối với nền kinh tế. Mặt khác, có những ngân hàng mà vốn

- 65 -

ngoại tệ luôn chiếm tỷ trọng lớn, (ví dụ ở VCB là 66 -73%), gây khó khăn

cho ngân hàng trong việc thực hiện chủ trương mở rộng tín dụng VND.

Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động luôn bị ứ đọng, đặc biệt là sau cuộc

khủng hoảng Tài chính - tiền tệ. Số liệu trong bảng cho thấy, các NHTM

ngoài QD cho vay vượt quá số vốn huy động, nghĩa là phải sử dụng đến

cả vốn điều lệ và vốn vay từ thị trường liên ngân hàng.

Bảng 2.5. Tỷ trọng giữa cho vay so với vốn huy động giai đoạn 1994-

Đơn vị :%

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2003

NHTMQD

148,1

136,6

125,5

108,6

94,0

78,4

74,5

77,9

NHTM ngoài QD

140,9

102,6

113,8

117,5

107,6

126,7

107,6

112,6

Nguồn: IMF Staff Country Report,No.99/55, 1999; Tạp chí Ngân hàng số 1+2,2001;

2003

Tạp chí Thị trƣờng Tài chính tiền tệ số 8,2004.

Đơn vị : tỷ đồng

1995

1997

1999

2001

2003

37.120

68.860

99.450

139.580

255.700

bằng VN§

13.020

24.740

38.300

56.900

104.600

bằng USD

50.140

72.200

93.600

196.480

360.300

Tổng

Nguồn : Ngân hàng nhà nƣớc - 2004

2.3.2.5 Môi trường pháp lý cho dịch vụ ngân hàng còn nhiều

vướng mắc:

Bảng 2.6. Tình hình huy động vốn của hệ thống ngân hàng

Dịch vụ ngân hàng, khác với các ngành kinh doanh khác, có quan hệ

nhiều mặt với đầy đủ các thành phần kinh tế ở khắp các địa bàn trong toàn

quốc. Vì thế, quan hệ pháp luật phát sinh cũng rất đa dạng, phức tạp, liên

quan đến hầu hết các lĩnh vực và chịu sự điều chỉnh của các quy phạm

pháp luật khác nhau. Từ khi có Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ

- 66 -

chức tín dụng, với việc nới lỏng khung cho vay vốn tới một số doanh

nghiệp, cho phép các tổ chức tín dụng tự chủ động hơn trong việc kinh

doanh…đã tạo cơ sở pháp lý giúp cho các ngân hàng cạnh tranh bình đẳng

hơn, hợp pháp hơn, kinh doanh có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, ngành ngân

hàng Việt Nam phải đối mặt với khá nhiều lực cản do luật lệ và cơ chế

chính sách còn thiếu và chưa đồng bộ như: Chưa đảm bảo môi trường

cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp, chính sách mở cửa chưa

thông thoáng, quy định về hỗ trợ tài chính và công nghệ cho dịch vụ ngân

hàng còn chưa đầy đủ... Thực tế, có sự phân chia về khu vực thị trường cụ

thể của các NHTMQD, chủ yếu phục vụ khu vực nhà nước, do các DNNN

vẫn được hưởng những ưu đãi lớn về tài chính và tín dụng. Ngân hàng

quốc doanh luôn được hoạt động dưới sự hỗ trợ và đỡ đầu của nhà nước

thông qua các biện pháp khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ để làm lạnh mạnh

hoá các hoạt động ngân hàng.

2.3.3

Nguyên nhân của những tồn tại đó

Vốn tự có của các ngân hàng còn thấp.

Trong khi xu hướng sát nhập hoặc cơ cấu lại sở hữu để tăng vốn cho

các ngân hàng đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước thì ở Việt Nam, việc sát

nhập hoặc cơ cấu lại sở hữu gần như không thể thực hiện được do những

trở ngại rất lớn từ quan niệm, thói quen và đặc biệt là cơ sở pháp lý. Vốn

tự có thấp đã làm giảm khả năng mở rộng tín dụng của các ngân hàng

thương mại và làm tăng rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó, chưa có sự hợp tác

một cách tích cực để thực hiện đồng tài trợ các dự án giữa các ngân hàng,

làm cho hiệu quả sử dụng vốn của toàn hệ thống thấp. Do đó, vốn tự có

nhỏ bé là điều bất lợi cho ngân hàng thương mại khi các tổ chức quốc tế

đánh giá để cho vay, khi bản thân nó cho vay các dự án lớn trong nước có

giá trị tài trợ vượt quá 15% vốn tự có của mình.

Đầu tƣ chi phí cho việc phát triển dịch vụ còn dè dặt.

- 67 -

Nhận thức của các ngân hàng về phát triển dịch vụ còn hạn chế, mặt

khác các ngân hàng còn tách xa nhau về khả năng tài chính, địa dư hoạt

động, thế mạnh cạnh tranh, bí mật kinh doanh … nên việc kết nối hệ

thống dịch vụ của các ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn, đồng thời mặt

bằng tin học của Việt Nam so với các nước trong khu vực còn cách xa

lớn, cơ sở pháp lý cho việc ứng dụng tin học và tự động hóa các nghiệp vụ

còn thiếu và không đồng bộ, tạo ra sự khó khăn trong chuyển giao và tiếp

nhận thông tin, lưu trữ... Đồng thời, chi phí đầu tư phát triển các dịch vụ

mới là rất lớn. Ví dụ như chi phí ban đầu về đầu tư cho việc phát hành,

thanh toán thẻ là rất lớn. Giá mỗi máy ATM trị giá khoảng 30.000 USD

hay chi phí cho mỗi máy EDC là khoảng 650 USD, chi phí bỏ ra cho hệ

thống SWITCH kết nối hệ thống thẻ quốc tế lên đến hàng triệu USD. Hơn

nữa, các ngân hàng thiếu sự hợp tác lẫn nhau, mỗi ngân hàng theo đuổi

một chiến lược riêng đối với cùng loại sản phẩm dịch vụ có nhiều điểm

tương đồng, dẫn tới lãng phí trong đầu tư và làm tăng chi phí vận hành

cũng như quản lý hệ thống. Ví dụ mỗi ngân hàng sử dụng một hệ thống

thẻ riêng nên thanh toán giữa các ngân hàng phải thông qua tổ chức thẻ

quốc tế. Nếu mỗi ngân hàng thuê riêng một đường Leased line tốc độ

9.600 MB để truyền dữ liệu với tổ chức thẻ quốc tế cho mỗi loại thẻ với

giá thuê khoảng 8.000 USD/đường thì chi phí thấp nhất mà các ngân hàng

phải trả hàng tháng có thể là 16.000 USD.

Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khu vực doanh nghiệp tƣ

nhân còn hạn chế, nhiều ngân hàng còn chưa mạnh dạn cho vay đối với

các doanh nghiệp tư nhân, thủ tục vay vốn còn phức tạp.

Thực tiễn kế toán và giám sát ngân hàng yếu kém làm cho việc

đánh giá đầy đủ tình trạng thực sự của hệ thống ngân hàng rất khó

khăn. Sự không hiệu quả của hệ thống kế toán ngân hàng ảnh hưởng đến

tính minh bạch của hệ thống, làm méo mó bức tranh thực sự về hoạt động

của ngân hàng, gây nhiều khó khăn cho việc nâng cao chất lượng quản lý

- 68 -

của ngân hàng. Cơ chế giám sát tỏ ra gặp nhiều khó khăn để thực thi các

• Một số tổ chức tín dụng chƣa nhận thức đƣợc đầy đủ vai trò và

quy định thận trọng đảm bảo an toàn của hệ thống.

hiệu quả hỗ trợ hoạt động tín dụng của Trung tâm thông tin tín dụng

nên việc cung cấp thông tin cho CIC cũng như khai thác thông tin từ CIC

chưa được chú trọng đúng mức, không đầy đủ và kịp thời.

Tóm lại, mặc dù sau 10 năm hoạt động và đổi mới, thu được những

thành tựu đáng khích lệ, dịch vụ ngân hàng Việt Nam vẫn còn khoảng

cách khá xa so với tiêu chuẩn quốc tế về cả các loại hình dịch vụ, chất

lượng dịch vụ cũng như công nghệ ngân hàng và kỹ năng quản lý. Trước

quá trình toàn cầu hoá và hội nhập khu vực, môi trường cạnh tranh ngày

càng gay gắt, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần có những chuyển biến

mạnh mẽ hơn nữa, trong đó cần phải chú trọng vai trò của NHTMQD

trong toàn bộ hệ thống. Bên cạnh đó, để duy trì được một hệ thống tài

chính lành mạnh, nhất thiết phải có nhiều biện pháp tháo gỡ mạnh mẽ từ

phía các cơ quan quản lý hành chính nhằm từng bước nâng cao và phát

huy được khả năng cạnh tranh bền vững cho hệ thống ngân hàng trước

các thách thức to lớn ngày càng đến gần trong quá trình hội nhập với nền

kinh tế thế giới.

2.3.4

Những bất cập về dịch vụ ngân hàng của Việt nam

so với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Hiện nay, trong lĩnh vực ngân hàng, với sự tham gia của 6 ngân hàng

liên doanh, 69 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và văn phòng đại diện

ngân hàng nước ngoài chứng tỏ các ngân hàng nước ngoài đã có vị trí

cạnh tranh trong thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam.. Tuy nhiên, pháp

luật về ngân hàng Việt Nam hiện hành còn sử dụng nhiều quy định, biện

pháp có tính chất hạn chế về số lượng hoặc trị giá các giao dịch dịch vụ

được cung cấp cũng như những hạn chế về số lượng người cung cấp dịch

vụ, số lượng thể nhân được tuyển dụng hoặc những yêu cầu hình thức

- 69 -

pháp nhân, tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài. Những hạn chế này theo

Điều XVI - GATS các nước thành viên sẽ không được phép duy trì trừ

2.3.4.1

Vấn đề cấp phép đối với các chi nhánh ngân hàng nước

ngoài còn nhiều vướng mắc

trường hợp có quy định khác trong Danh mục cam kết.

Theo nghị định 13/1999/NĐ - CP về tổ chức, hoạt động của tổ chức tín

dụng nước ngoài tại Việt nam đã nêu rõ, nếu xét trên khía cạnh pháp lí,

các ngân hàng và các TCTD có vốn đầu tư nước ngoài có thể tham gia với

quy mô và nội dung rất rộng rãi. Tuy nhiên trên thực tế thì các ngân hàng

liên doanh và các TCTD không được tự động tham gia vào các hoạt động

ngân hàng được qui định trong Nghị định mà chỉ có thể được thực hiện

một phần hoặc toàn bộ các hoạt động ngân hàng phụ thuộc vào từng

trường hợp cấp phép cụ thể. Như vậy, Nhà nước Việt nam bảo lưu quyền

được xem xét cấp phép hoặc không cấp phép đối với một ngân hàng nước

ngoài. Như vậy là mâu thuẫn với những cam kết của Việt nam trong BTA

:Việt nam sẽ không có quyền ngăn cản hoạt động ngân hàng của một ngân

hàng nước ngoài nếu như ngân hàng đó thực hiện đầy đủ những quy định

trong bản cam kết và không trái với những quy định quản lí của nhà nước

2.3.4.2

Bất cập về tiếp cận thị trường theo phương thức cung cấp

dịch vụ qua biên giới: hạn chế các dịch vụ cung cấp đối với các NH &

TCTD nước ngoài

Việt nam.

Theo Điểm 3 (c) Thoả thuận về Các cam kết trong dịch vụ tài chính

và Phụ lục về dịch vụ tài chính trong GATS, thì mỗi nước thành viên sẽ

cho phép các ngân hàng của nước thành viên khác được cung cấp với tư

cách là nhà cung cấp chính, thông qua trung gian hoặc với tư cách là trung

gian các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ dịch vụ

bảo hiểm) trải dài từ các dịch vụ truyền thống do ngân hàng cung cấp như

nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán và chuyển tiền cho đến các dịch vụ

- 70 -

kinh doanh ngoại hối, các loại công cụ phái sinh, kinh doanh chứng

khoán, môi giới tiền tệ. . . Trong khi đó, pháp luật về ngân hàng Việt Nam

hiện hành chỉ thực sự cho phép các ngân hàng nước ngoài được cung cấp

vào Việt Nam các dịch vụ ngân hàng truyền thống như dịch vụ chấp nhận

tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền. . . Tuy nhiên, việc cung

cấp các dịch vụ này của ngân hàng và tổ chức tín dụng nước ngoài phải

2.3.4.3

Bất cập về tiếp cận thị trường theo phương thức

cung cấp dịch vụ sử dụng ngoài lãnh thổ : hạn chế hoạt động sử dụng

dịch vụ ngoài lãnh thổ đối với công dân trong nước

chịu một số hạn chế nhất định.

Do nền kinh tế Việt Nam kém phát triển, nhu cầu tiêu dùng các dịch

vụ ngân hàng ở nước ngoài của người dân còn thấp. Vì vậy, pháp luật

ngân hàng hiện nay còn thiếu các quy định cụ thể cho phép người dân

mua các dịch vụ ngân hàng theo quy định của WTO. Chẳng hạn, Việt

Nam chưa có quy định cho phép công dân Việt Nam được mua chứng

khoán, hay được phép tham gia các giao dịch ngoại hối như nghiệp vụ

giao dịch kỳ hạn, giao dịch swap, môi giới tiền tệ. . . ở nước ngoài.

Trên thực tế, Việt Nam chỉ cho phép doanh nghiệp, công dân Việt

Nam được phép mua một vài dịch vụ ngân hàng ở nước ngoài như: dịch

vụ thanh toán và chuyển tiền; mở tài khoản ở nước ngoài. . . Tuy nhiên,

việc mua các dịch vụ này ở nước ngoài cũng phải chịu một số điều kiện,

hạn chế khắt khe ví dụ như: các doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam chỉ

được phép mở một tài khoản ở nước ngoài và phải có giấy phép của Ngân

hàng Nhà nước.

2.3.4.4

Bất cập về tiếp cận thị trường theo phương thức

cung cấp dịch vụ qua sự hiện diện thương mại : hạn chế số lượng nhà

cung cấp dịch vụ và việc tham gia góp vốn của bên nước ngoài

- 71 -

Pháp luật về ngân hàng Việt Nam hiện hành còn duy trì nhiều quy

định, biện pháp nhằm hạn chế hoạt động của các ngân hàng nước ngoài

theo phương thức cung cấp dịch vụ qua sự hiện diện thương mại. Đối

chiếu với Điều XVI của GATS, thì các hạn chế mà Việt Nam hiện đang

áp dụng không được phép duy trì, trừ trường hợp các nước thành viên có

thoả thuận và có quy định khác trong Danh mục cam kết. Cụ thể các hạn

chế mà pháp luật ngân hàng của Việt Nam vẫn duy trì khác so với quy

định của GATS như sau:

Số lƣợng nhà cung cấp dịch vụ trên quy mô vùng hoặc trên toàn

lãnh thổ bị hạn chế

Thực tế hoạt động tín dụng, ngân hàng ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà

nước cấp giấy phép kinh doanh cho các tổ chức tín dụng nước ngoài căn

cứ vào nhu cầu phát triền kinh tế. Đối chiếu Luật Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng được thông qua năm 1997 và Nghị

định 13/1999/NĐ - CP ngày 17/03/1999, các tổ chức tín dụng nước ngoài

bị hạn chế về phạm vi địa lý và không gian hoạt động. Ngân hàng nước

ngoài được mở chi nhánh tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,

nhưng không được mở chi nhánh phụ thuộc của chi nhánh đó. Tại nơi đã

được mở chi nhánh, ngân hàng nước ngoài không được đặt văn phòng đại

diện. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được mở các điểm giao dịch

dưới bất kỳ hình thức nào ngoài trụ sở chi nhánh của mình. Tổ chức tín

dụng nước ngoài được đặt văn phòng đại diện tại một số tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương của Việt Nam và tại mỗi tỉnh, thành phố chỉ được

phép đặt một văn phòng đại diện (Nghị định 13/1999/NĐ-CP, Điều 25).

Tỷ lệ vốn góp của bên nƣớc ngoài còn bị hạn chế ở mức thấp

- 72 -

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, cổ đông góp vốn vào ngân

hàng thương mại cổ phần Việt Nam so với vốn điều lệ được quy định,

một pháp nhân hay một thể nhân nước ngoài tối đa 10%; tổng số vốn cổ

phần của các cổ đông nước ngoài tối đa không quá 30% vốn điều lệ. Tỷ lệ

góp vốn điều lệ của Bên nước ngoài, Bên Việt Nam trong ngân hàng liên

doanh do các bên thoả thuận và được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà

nước khi cấp giấy phép. Đối với các ngân hàng liên doanh thực hiện

nghiệp vụ ngân hàng thương mại; phần vốn góp của Bên nước ngoài

không quá 50% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh. Phần vốn góp của

Bên nước ngoài trong tổ chức tín dụng phi ngân hàng liên doanh không

2.3.4.5

Bất cập về tiếp cận thị trường theo phương thức cung cấp

dịch vụ thông qua sự hiện diện của thể nhân : Việt Nam chưa chấp nhận

việc người nước ngoài cung cấp dịch vụ ngân hàng với tư cách cá nhân

được vượt quá 30% vốn điều lệ (Điều 26, Nghị định 13/1999/NĐ-CP).

Trong khuôn khổ WTO, thì phương thức cung cấp dịch vụ thông qua

sự hiện diện thương mại được đề cập theo 2 khía cạnh: thể nhân là người

cung ứng dịch vụ trực tiếp và thể nhân là người làm thuê cho người cung

ứng dịch vụ ở phương thức cung cấp dịch vụ. Đối chiếu với pháp luật Việt

Nam hiện hành, thì Việt Nam chưa chấp nhận việc người nước ngoài cung

cấp dịch vụ nói chung và dịch vụ ngân hàng nói riêng với tư cách cá nhân

họ chỉ được phép cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại của

các tổ chức cung cấp dịch vụ nước ngoài. Về nguyên tắc, Việt Nam chỉ

cho phép các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh thuê

và sử dụng các chuyên gia nước ngoài trong trường hợp khẩn cấp hoặc

khi công việc yêu cầu chuyên gia có chuyên môn kỹ thuật cao mà lao

động Việt Nam chưa đáp ứng được. Các chuyên gia nước ngoài để được

vào làm việc tại Việt Nam phải có giấy phép lao động do Bộ Lao động -

Thương binh và Xã hội cấp. Nhưng trên thực tế, vấn đề gây khó khăn nhất

cho lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc là vấn đề thủ tục xin cấp

- 73 -

giấy phép lao động. Các thủ tục liên quan đến hợp pháp hoá lãnh sự, công

chứng, và xác minh lý lịch tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền của

Việt Nam thường rất phức tạp, gây khó khăn cho lao động nước ngoài.

Tóm lại, tại Việt Nam, các ngân hàng liên doanh và các chi nhánh

ngân hàng nước ngoài được hoạt động tương đối bình đẳng với các ngân

hàng của Việt Nam và chính sách của Việt Nam đối với hoạt động ngân

hàng là cởi mở tương đương với các nước trong khu vực Đông Nam Á có

cùng điều kiện hoàn cảnh tương tự. Tuy nhiên so với yêu cầu của Hiệp

định thương mại dịch vụ và Thoả thuận về các cam kết trong dịch vụ tài

chính của WTO, thì cơ chế chính sách mở cửa dịch vụ ngân hàng gia nhập

WTO còn chưa đầy đủ và đồng bộ. Các công cụ thanh toán trong nền kinh

tế còn đơn điệu chưa đầy đủ. Cơ chế điều hành tỷ giá và ngoại tệ của Việt

Nam còn mang dấu ấn hành chính.

- 74 -

CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ.

3.1. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRONG VIỆC PHÁT

TRIỂN THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH

Các nước được chọn nghiên cứu là Thái lan và Singapore - những

nước có trình độ phát triển kinh tế tương đồng với Việt Nam. Chúng ta có

thể đối chiếu hệ thống chính sách, biện pháp quản lý dịch vụ bảo hiểm và

ngân hàng của hai nước này và so sánh thực trạng mở cửa thị trường dịch

vụ tàì chính của Việt Nam để qua đó, nghiên cứu bổ sung các công cụ

quản lý cần thiết, bãi bỏ các công cụ không còn phù hợp và rút ra bài học

kinh nghiệm, giải pháp thích hợp cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

mà cụ thể là xây dựng bản chào về dịch vụ trong đàm phán gia nhập WTO

của Việt nam trong thời gian tới.

3.1.1

Thái Lan

Thái Lan là một nước nông nghiệp truyền thống. Bắt đầu từ năm

1960, Thái Lan thực hiện Kế hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội lần thứ

nhất và đến nay là Kế hoạch lần thứ 9. Trong những năm 1970, Thái Lan

thực hiện chính sách "hướng xuất khẩu" với ASEAN, Mỹ, Nhật, EC là

các thị trường xuất khẩu chính. Ngành công nghiệp và dịch vụ đã dần dần

đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, vai trò của nông nghiệp ngày

càng giảm dần. Tăng trưởng GDP năm 1999 đạt 4,4%; 2000 đạt 4,6%,

2001 đạt 1,8% (giảm do tác động của sự kiện 11/9/2001 tại Mỹ), năm

2002 đạt 5,2%. 1

Sau đây là những kinh nghiệm của Thái Lan trong việc mở cửa thị

trường dịch vụ tài chính..

 Đối với dịch vụ bảo hiểm.

- Cục Bảo hiểm (DOI) và Uỷ ban Bảo hiểm, đều thuộc Bộ Thương mại

- 75 -

Thái Lan, là 2 cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo

hiểm đã thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm theo các nội dung

sau:

+ Tăng phần góp vốn nước ngoài lên 25% trong các doanh nghiệp bảo

hiểm trong nước, tiếp tục tăng lên 49% trong năm 2003, duy trì mức giới

hạn đến năm 2013, dự kiến tự do hoá hoàn toàn thị trường bảo hiểm trước

năm 2020;

+ Không giới hạn số lượng doanh nghiệp có vốn nước ngoài trên thị

trường.

+ Chỉ cho phép công ty bảo hiểm nước ngoài được thành lập 1 chi nhánh

tại Thái Lan và chi nhánh đó không được tiến hành kinh doanh hoạt động

môi giới và đại lý bảo hiểm.

- Tăng cường cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm mới: DOI

quy định mức quỹ vốn tối thiểu là 500 triệu Baht hay không dưới 4% dự

phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ; không thấp hơn 20% doanh thu phí

bảo hiểm ròng của năm trước nhưng không dưới 300 triệu Baht đối với

bảo hiểm phi nhân thọ.

- Xúc tiến thiết lập "Tiêu chuẩn Điều hành Doanh nghiệp tốt", trong đó có

Bộ thực hành tốt nhất (Code of Best Practice) đối với bảo hiểm phi nhân

thọ.

- Nâng cao nhận thức xã hội về nhu cầu bảo hiểm phi nhân thọ, tăng

cường thực thi chế độ bảo hiểm xe cơ giới bắt buộc;

- Cải tiến chất lượng, trình độ dịch vụ của các đại lý, hệ thống quản lý bồi

thường, hệ thống quản lý rủi ro, kiểm toán nội bộ và hệ thống công nghệ

thông tin.

 Đối với dịch vụ ngân hàng.

Cam kết cụ thể của Thái Lan về dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ GATS

thể hiện ở những nội dung sau:

- 76 -

- Phương thức (1), (2): Về tiếp cận thị trường: không hạn chế đối với dịch vụ tư

vấn ngân hàng, chưa cam kết đối với dịch vụ khác. Về đối xử quốc gia : không

hạn chế với mọi loại dịch vụ.

- Phương thức (3): Bao gồm:

a) Văn phòng đại diện của các ngân hàng: không hạn chế.

b) Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: không hạn chế đối với các chi nhánh ngân

hàng nước ngoài hoạt động theo cơ cấu cổ phần hiện tại. Nếu các ngân hàng nước

ngoài đã mở 1 trụ sở chi nhánh đầu tiên tại Thái Lan trước tháng 7 năm 1995 thì

sẽ được phép mở thêm không quá 2 chi nhánh. Không hạn chế việc tham gia vào

hệ thống thanh toán và thanh toán bù trừ bằng séc.

c) Đối với các hình thức hiện diện thương mại khác, Thái Lan đưa ra những hạn

chế chủ yếu sau:

+ Các hạn chế về việc mua cổ phần tối đa của bên nước ngoài và phần vốn cổ

phần kết hợp tối đa của một cá nhân và những người có quan hệ họ hàng với

người này trong vốn đăng ký đã nộp với từng loại hình ngân hàng cụ thể. Ví dụ:

25% và 5% trong các ngân hàng địa phương, 25% và 10% đối với các công ty tài

chính và các công ty tín dụng (và những hạn chế này có thể được nới lỏng trong

vòng 10 năm nếu việc nới lỏng là cần thiết để thúc đẩy kinh doanh và điều kiện

hoạt động của các ngân hàng thương mại). Những cổ đông nước ngoài thâm nhập

thị trường trong giai đoạn này thì sau đó sẽ được hưởng những ưu đãi đã có liên

quan đến toàn bộ cổ phần mà họ nắm giữ.

+ Quy định về giám đốc điều hành phải có quốc tịch Thái Lan. Ví dụ: ít nhất là

3/4 đối với các ngân hàng cổ phần địa phương, công ty tài chính và công ty tín

dụng; 1/2 đối với các ty cổ phần địa phương; 3/4 trong 5 năm đầu hoạt động và 1/

2 trong các năm sau đó đối với các công ty quản lý tài sản.

- Phương thức (4): Hạn chế về số lượng thể nhân nước ngoài trong mỗi

trụ sở của ngân hàng nước ngoài. Ví dụ: 2 người đối với các văn phòng

đại diện, 6 người đối với chi nhánh được cấp phép đầy đủ. Đối với công

ty tài chính: tối đa là 4 giám đốc, văn phòng đại diện: 2 người. Đối với

- 77 -

công ty chứng khoán và công ty quản lý tài sản: 2 người đối với văn

phòng đại diện.

3.1.2

Singapore

Mặc dù kinh tế Singapore từ cuối những năm 1980 đạt tốc độ tăng

trưởng vào loại cao nhất thế giới: 1994 đạt 10%, 1995 là 8,9%, và 1996

đạt 6,2% nhưng đến cuối năm 1997 do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền

tệ, đồng đôla Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm

1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Do nền kinh tế vững cộng thêm chính

sách kinh tế của Chính phủ có hiệu quả, Singapore được đánh giá là nước

phục hồi nhanh và mạnh nhất khu vực, năm 1999 tăng trưởng đạt 5,5%,

xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 382 tỷ USD. Tăng trưởng kinh tế năm

2000 đạt trên 9%. Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc

chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Hiện nay, Singapore đang tập trung

khai thác triệt để công nghệ thông tin để nâng cao sức cạnh tranh của nền

kinh tế. Thu nhập tính theo đầu người: 24.000 USD/người/năm, đứng thứ

2 ở Châu Á sau Nhật Bản. 23

Singapore cũng đã áp dụng những biện pháp tích cực trong việc

phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm và ngân hàng.

 Đối với dịch vụ bảo hiểm.

- Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS) là cơ quan quản lý độc lập đối với

hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cho phép tự do tiếp cận thị trường bảo

hiểm trực tiếp thông qua:

+ Bãi bỏ hạn chế phần vốn góp nước ngoài là 49%;

+ Không giới hạn số lượng doanh nghiệp có vốn nước ngoài trên thị

trường;

+ Tháng 8/1999, cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được thành

lập các chi nhánh tại Singapore và cho phép các nhà bảo hiểm và tái bảo

hiểm đa ngành tham gia vào kinh doanh bảo hiểm bảo lãnh tài chính.

- 78 -

- Dành NT cho các doanh nghiệp nước ngoài trong hầu hết các hoạt động

kinh tế;

- Kể từ tháng 10/1997, quy định tăng vốn thành lập doanh nghiệp tối

thiểu là 25 triệu Đô la Singapore đối với bảo hiểm trực tiếp và tái bảo

hiểm và 400.000 Đô la Singapore đối với bảo hiểm phụ thuộc. Nhà đầu tư

phải đặt cọc (ký quỹ) tại ngân hàng của Singapore ít nhất 500.000 Đô la

Singapore đối với mỗi loại hình hoạt động kinh doanh là bảo hiểm trực

tiếp, tái bảo hiểm hay bảo hiểm phụ thuộc. Tất cả các doanh nghiệp bảo

hiểm phải định kỳ trình báo cáo tài chính cho MAS phê duyệt.

- Áp dụng mức thuế ưu đãi là 10% đối với thu nhập của các công ty bảo

hiểm từ kinh doanh bảo hiểm ngoài lãnh thổ.

- MAS đã thực hiện các biện pháp minh bạch hoá thị trường bảo hiểm

như sau:

+ Đưa ra Các tiêu chuẩn Quản lý Công ty phù hợp với các Thực tiễn

Quốc tế Tốt nhất (international best practices);

+ Uỷ ban về Phân phối Hiệu quả Bảo hiểm Nhân thọ được thành lập tháng

3/2000 đã đề xuất nâng cao chất lượng quy trình tư vấn bán hàng, quảng

bá sản phẩm, và các yêu cầu đào tạo chuyên môn cho các nhà trung gian

bảo hiểm;

+ MAS đã tiến hành xây dựng 1 khuôn khổ pháp lý đối với các Nhà tư

vấn Tài chính Độc lập (IFAs) trong hoạt động đại lý bảo hiểm nhân thọ

 Đối với dịch vụ ngân hàng

Hệ thống ngân hàng của Singapore có sự tham gia của các ngân hàng nước

ngoài, đặc biệt trên 80% tài sản của các ngân hàng trong nước đều thuộc quyền

kiểm soát của 4 ngân hàng lớn nhất là: Development Bank of Singapore.

Overseas Chinese banking Corporation, Overseas Union Bank và United

Overseas bank.

- 79 -

- Về chính sách mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài, mỗi ngân hàng chỉ

được mở 1 chi nhánh độc lập và được hoạt động một số nghiệp vụ cũng

như tất cả các nghiệp vụ ngân hàng. Thời gian qua, vẫn cấp giấy phép mới

nhưng chủ yếu chỉ cấp giấy phép hoạt động ngân hàng hạn chế, ngân hàng

hải ngoại hoat động bằng ngoại tệ với đối tượng khách hàng chủ yếu là

người không cư trú.

- Mức vốn được cấp ban đầu: lúc đầu là 6 triệu đô la Singapore, tương

đương 3,7 triệu USD; năm 1993 có Luật Ngân hàng sửa đổi, trong đó quy

định 200 triệu đô la Singapore

- Về nội dung và phạm vi hoạt động của Ngân hàng nước ngoài,

Singapore quy định 3 loại giấy phép khác nhau: Giấy phép hoạt động tất

cả các nghiệp vụ NHTM (giấy phép đầy đủ) ; giấy phép hoạt động ngân

hàng hạn chế; giấy phép hoạt động ngân hàng hải ngoại (offshore

banking).

3.1.3 Các bài học kinh nghiệm rút ra

3.1.3.1 Kinh nghiệm tổ chức quản lí

Về tổ chức quản lí nhà nước, hiện nay chúng ta có ngân hàng nhà

nước quản lí dịch vụ ngân hàng, còn bảo hiểm chịu sự quản lí của 3 hệ

thống cơ quan quản lí nhà nước về bảo hiểm: Cơ quan bảo hiểm Việt nam

quản lí bảo hiểm xã hội, Bộ y tế quản lí bảo hiểm y tế và Vụ Bảo hiểm

Bộ tài chính quản lí hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Sự phân tách này tạo

ra một sự không thống nhất, đôi khi chồng chéo và phức tạp trong hoạt

động quản lí. Như vậy, ngành ngân hàng thì đã rõ rồi, nhưng đối với hoạt

động bảo hiểm, nên chăng chỉ cần duy trì 2 cơ quan quản lí là đủ, ví dụ:

cơ quan bảo hiểm Việt Nam quản lí cả hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo

hiểm y tế, Vụ bảo hiểm Bộ tài chính quản lí hoạt động kinh doanh bảo

hiểm, hoặc tiến tới hình thành một cơ quan quản lí độc lập hoạt động bảo

hiểm như trường hợp Singapore.

- 80 -

3.1.3.2 Cần tập trung khuyến khích đầu tư nước ngoài

Việt nam cần thấy được tầm quan trọng của việc tập trung khuyến

khích đầu tư nước ngoài, loại bỏ dần những quy định mang tính phân biệt

đối xử giữa các doanh nghiệp kinh doanh dich vụ trong nước và nước

ngoài.

Đối chiếu với Thái Lan và Singapore, có thể thấy thị truờng dịch vụ

tài chính của ta còn duy trì nhiều hạn chế về tiếp cận thị truờng và đãi ngộ

quốc gia, cụ thể:

- Thứ nhất, Việt Nam hạn chế phương thức 1 và 2: Tổ chức, cá nhân

có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo

hiểm hoạt động ở Việt Nam, trừ các sản phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp

bảo hiểm trong nước chưa cung cấp được (Điều 6 - Luật kinh doanh bảo

hiểm); Không được phép tái bảo hiểm toàn bộ trách nhiệm đã nhận bảo

hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, nếu tái bảo hiểm bắt buộc,

doanh nghiệp phải tái bảo hiểm theo tỷ lệ 20% trách nhiệm cho Công ty

Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (Điều 9 - Luật kinh doanh bảo hiểm và

Điều 22 - Nghị định 42); Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải mua bảo

hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động của mình tại doanh nghiệp

bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam (Điều 92 - Luật kinh doanh bảo hiểm).

Trên thực tế, Thái Lan và Singapore đã gần như loại bỏ toàn bộ các hạn

chế này để đa dạng hoá sản phẩm cho người tiêu dùng.

Hay đối với dịch vụ ngân hàng, pháp luật về ngân hàng Việt Nam

hiện hành chỉ thực sự cho phép các ngân hàng nước ngoài được cung cấp

vào Việt Nam các dịch vụ ngân hàng truyền thống như dịch vụ chấp nhận

tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền. . . Tuy nhiên, việc cung

cấp các dịch vụ này của ngân hàng và tổ chức tín dụng nước ngoài phải

chịu một số hạn chế nhất định, trong khi đó cả Thái Lan và Singapore đều

hầu như không hạn chế đối với các hình thức dịch vụ ngân hàng.

- 81 -

- Thứ hai, về phương thức 3, khác với Thái Lan và Singapore, Việt

Nam chưa cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được thành lập

chi nhánh tại Việt Nam. Còn ngân hàng nước ngoài được mở chi nhánh

tại các tỉnh, thành phố trực thuộc TW nhưng không được mở chi nhánh

phụ thuộc của chi nhánh đó. Tại nơi đã có chi nhánh, ngân hàng nước

ngoài không được đặt văn phòng đại diện. Chi nhánh Ngân hàng nước

ngoài không được mở các điểm giao dịch dưới bất kỳ hình thức nào ngoài

trụ sở chi nhánh của mình

Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể được thực hiện một số hoặc

toàn bộ các nghiệp vụ ngân hàng, theo quy định cụ thể của Ngân hàng nhà

nước quy định trong giấy phép, phù hợp với loại hình và quy mô của

TCTD được cấp giấy phép. Tóm lại, hoạt động ngân hàng vẫn dưới sự

giám sát quản lí của nhà nước.

- Thứ ba, về phương thức 4, pháp luật Việt Nam hiện hành chưa chấp

nhận việc người nước ngoài cung cấp dịch vụ nói chung gồm cả dịch vụ

bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng với tư cách cá nhân họ chỉ được phép

cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại của các tổ chức cung

cấp dịch vụ nước ngoài và còn quy định khắt khe hơn hai nước Thái Lan

và Singapore ở chỗ : Về nguyên tắc, Việt Nam chỉ cho phép các doanh

nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh thuê và sử dụng các chuyên

gia nước ngoài trong trường hợp khẩn cấp hoặc khi công việc yêu cầu

chuyên gia có chuyên môn kỹ thuật cao mà lao động Việt Nam chưa đáp

ứng được. Các chuyên gia nước ngoài để được vào làm việc tại Việt Nam

phải có giấy phép lao động do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp.

Nhưng trên thực tế, vấn đề gây khó khăn nhất cho lao động nước ngoài

vào Việt Nam làm việc là vấn đề thủ tục xin cấp giấy phép lao động. Các

thủ tục liên quan đến hợp pháp hoá lãnh sự, công chứng, và xác minh lý

lịch tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thường rất

phức tạp, gây khó khăn cho lao động nước ngoài.

- 82 -

3.1.3.3 Đàm phán mở cửa thị trường cần được thực hiện

theo phương châm “từng bước và thận trọng, đồng thời đẩy

nhanh tự do hoá khi cần thiết”

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam trong lĩnh vực bảo

hiểm và ngân hàng đã có những bước tiến cụ thể. Đó là, Việt nam đã tham

gia Diễn đàn các cơ quan quản lí bảo hiểm ASEAN, tham gia Hiệp hội

các cơ quan quản lí bảo hiểm quốc tế IAIS, là thành viên của tổ chức

thanh toán liên ngân hàng toàn cầu SWIFT… Việt nam cũng đã kí kết và

đang thực hiện Hiệp định thương mại Viêt Nam - Hoa Kỳ. Đây là một

bước tiến quan trọng, mở đầu cho quá trình thực hiện các cam kết quốc tế

cụ thể về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cho nước ngoài, là cơ sở cho

quá trình đàm phán gia nhập WTO.

Mở cửa thị trường dịch vụ tài chính là một công cụ hữu hiệu để thu

hút vốn, công nghệ, trình độ quản lí và chuyên môn tiên tiến từ nước

ngoài. Do đó việc đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cần

“từng bước và thận trọng” như Thái Lan (chỉ cho phép công ty bảo hiểm

nước ngoài được thành lập 1 chi nhánh tại Thái Lan và chi nhánh đó

không được tiến hành kinh doanh hoạt động môi giới và đại lí bảo hiểm)

cho doanh nghiệp trong nước có thời gian đủ dài để nâng cao năng lực

cạnh tranh, nhưng cần đẩy nhanh tự do hoá theo kinh nghiệm của Thái

Lan (tăng phần góp vốn nước ngoài lên 25% trong các doanh nghiệp bảo

hiểm trong nước, tiếp tục tăng lên 49% trong năm 2003, duy trì mức giới

hạn đến năm 2013, dự kiến tự do hoá hoàn toàn thị trường bảo hiểm trước

năm 2020)

3.1.3.4 Cần mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp

Hiện nay ta duy trì một số hạn chế như: Doanh nghiệp bảo hiểm

không được phép đồng thời kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm

- 83 -

phi nhân thọ, trừ trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ kinh doanh

nghiệp vụ bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm tại nạn con người bổ trợ cho bảo

hiểm nhân thọ (Điều 60 - Luật kinh doanh bảo hiểm). Trong khi đó, cả

Thái Lan và Singapore đều cho phép doanh nghiệp kinh doanh cả 2 loại

nghiệp vụ này, gọi là bảo hiểm hỗn hợp. Tất nhiên việc cho phép này sẽ

gây khó khăn nhất định cho công tác giám sát tài chính của doanh nghiệp

nhưng thực tế lâu nay tổng công ty Bảo hiểm Việt nam đã thực hiện cả hai

nghiệp vụ này.

Những chính sách hạn chế và kinh nghiệm của 2 nước Thái Lan và

Singapore trong việc phát triển, mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, điển

hình là dịch vụ bảo hiểm và ngân hàng được mô tả ở như trên đã cho ta

thấy những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm hơn nữa để có thể có được

chính sách đúng đắn trong lĩnh vực dịch vụ tài chính trong giai đoạn hiện

nay. Bởi vậy, đứng trước những yêu cầu hội nhập quốc tế, thị trường dịch

vụ tài chính phải có những bước tiến mới để phù hợp với tiến trình hội

nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

3.2 ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG DỊCH

VỤ BẢO HIỂM VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP

3.2.1 Định hƣớng phát triển dịch vụ bảo hiểm

3.2.1.1 Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ bảo

hiểm

Xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống

kinh tế xã hội tại một bất kì một quốc gia nào trên thế giới. Vai trò của

toàn cầu hoá đã được khẳng định và đã trở thành một xu thế tất yếu đối

với mọi nền kinh tế. Việc mở của thị trường tài chính trong đó có bảo

hiểm là yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ quốc gia nào khi gia nhập WTO.

Nhận thức được vai trò của hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá các nhà

hoạch định chính sách đã đưa ra một số quan điểm định hướng cho việc

- 84 -

xây dựng đường lối phát triển cho ngành bảo hiểm Việt Nam trong thời

gian tới:

Thứ nhất, thị trƣờng bảo hiểm Việt nam phải đáp ứng đƣợc

những đòi hỏi của nền kinh tế tức là phát triển thị trƣờng dịch vụ bảo

hiểm phải phù hợp với chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của đất n-

ƣớc.

Nhà nước đã đặt ra nhiều mục tiêu kinh tế xã hội khá cao cho giai

đoạn 2001 - 2010 như: nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm là 7,5%, giá

trị sản xuất nông, lâm, ngư, nghiệp tăng 4,8%/năm, giá trị sản xuất công

nghiệp tăng 13%/năm, giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm..., và GDP của năm

2010 tăng ít nhất gấp đôi năm 2000 19 .Để thị trường bảo hiểm Việt Nam

có thể đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế Việt Nam cũng như

tác động vào nền kinh tế bằng nguồn vốn đầu tư nhàn rỗi và là tấm lá

chắn cho nền kinh tế bằng bồi thường cho những rủi ro tổn thất thuộc

trách nhiệm bảo hiểm thì ngành bảo hiểm cần phải có sự cố gắng về mọi

mặt và đặc biệt phải có định hướng chiến lược phát triển đúng đắn và tư-

ơng đối lâu dài.

Thứ hai, trên khía cạnh toàn cầu hoá, thị trƣờng bảo hiểm Việt

Nam sẽ mở rộng cửa cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài.

Trên thực tế từ năm 1994 khi NĐ100/CP ra đời thì số lượng các

công ty bảo hiểm cũng tăng lên nhanh chóng và có mặt của các công ty có

vốn đầu tư nước ngoài. Ví dụ như trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ tuy

mới ra đời từ năm 1996 thì đến nay cũng đã có thêm bốn công ty chủ yếu

là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài (Công ty Chingfong Manulife,

Bảo Minh CMG, Prudential và Công ty Bảo hiểm quốc tế Mỹ AIA). Và

trong tương lai chắc chắn thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ có sự góp mặt

của nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài khác.

Thứ ba là mở rộng thị trƣờng khai thác và đa dạng hoá sản phẩm.

- 85 -

Mục tiêu mà ngành bảo hiểm Việt Nam cần phấn đấu là phải nâng

tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP từ 1.3%GDP như hiện nay lên

đến 2% vào những năm 2005 - 2010, để vừa tăng khả năng đáp ứng cho

các rủi ro được bảo hiểm phát sinh trong nền kinh tế vừa tạo nguồn vốn

đầu tư dài hạn cho nền kinh tế tham gia và thúc đẩy quá trình hình thành

thị trường tài chính ở Việt Nam. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải đẩy

mạnh các hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đa dạng hoá các loại hình

doanh nghiệp bảo hiểm. Hiện nay thị trường bảo hiểm nói chung hầu như

chỉ tập trung ở các thành phố lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh,

Hải Phòng, Đà Nẵng,...Trong khi tiềm năng phát triển thị trường bảo hiểm

ở các tỉnh và thành phố khác là khá lớn nhưng vẫn chưa được khai thác

triệt để.

Trong hoàn cảnh thị trường bảo hiểm ở các thành phố lớn gần như

đã bão hoà, các công ty bảo hiểm có động thái bắt đầu mở rộng khai thác

ở các tỉnh và thành phố khác. Thị trường tập trung chủ yếu vào một số

tỉnh vùng đồng bằng có mức sống trung bình khá so với cả nước.

Đa dạng hoá sản phẩm cũng đồng nghĩa với việc mở rộng thị trư-

ờng. Hiện nay cơ cấu sản phẩm khá đa dạng nhưng vẫn còn thiếu một số

sản phẩm đặc trưng. Giá cả sản phẩm còn chưa phù hợp đã ảnh hưởng

nhiều đến hoạt động triển khai bán hàng của các công ty. Việc đa dạng

hoá sản phẩm, chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ là xu

hướng tất yếu của các công ty để phát triển.

Cuối cùng, cạnh tranh trong trong xu thế hợp tác là xu thế phát

triển chung của thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam trong giai đoạn mới.

Cạnh tranh là tất yếu xảy ra với bất kỳ một thị trường nào. Cạnh

tranh không lành mạnh bằng cách hạ phí bảo hiểm nhằm lôi kéo khách

hàng, mở rộng điều kiện bảo hiểm vô hạn, quảng cáo tràn lan đều không

mang lại lợi ích lâu dài mà chỉ làm tình hình thị trường thêm tồi tệ đi, gây

nguy hiểm cho cả công ty và khách hàng. Nhất là trong thời gian tới khi

- 86 -

mà thị trường bảo hiểm Việt Nam tiếp nhận thêm một số công ty bảo

hiểm với tiềm lực kinh tế mạnh thì cạnh tranh kiểu đó sẽ tự đưa mình đến

chỗ phá sản.

Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cũng đã được thành lập ngày

19/12/1999 nhằm tăng cường sự hợp tác giữa các công ty bảo hiểm và hạn

chế sự cạnh tranh tiêu cực. Trong thời gian tới Hiệp hội sẽ có những biện

pháp nhằm hạn chế tối đa sự cạnh tranh không lành mạnh, thúc đẩy thị tr-

ường bảo hiểm Việt Nam phát triển theo đúng đường lối của Đảng và Nhà

nước.

3.2.1.2 Các định hướng chủ yếu

Bảo hiểm là một ngành dịch vụ tài chính mang tính toàn cầu, rủi ro

bảo hiểm không giới hạn trong phạm vi một nước, các doanh nghiệp bảo

hiểm phải thực hiện liên kết đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm để phân tán rủi

ro và cùng nhau gánh chịu tổn thất xảy ra. Do vậy, thị trường bảo hiểm

các nước chịu sự tác động lẫn nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau.

Hơn nữa, theo yêu cầu thực hiện những cam kết trong quan hệ thương mại

song phương và đa phương của việt nam với các nước trong khối

ASEAN, EU, Hoa Kỳ, tiến tới thực hiện các cam kết quốc tế khi Việt nam

gia nhập WTO, việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm đòi hỏi thị

trường bảo hiểm phải tăng năng lực cạnh tranh, phát triển phù hợp với

tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đặt

ra mục tiêu phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm theo các hướng sau:

- Xây dựng và phát triển thị trường bảo hiểm với đầy đủ các yếu tố

của thị trường, tăng tỷ trọng hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên tổng giá

trị dịch vụ nói riêng và GDP nói chung, thực hiện chức năng bảo hiểm là

công cụ để bảo vệ nền kinh tế trước các nguy cơ rủi ro và là công cụ để

huy động vốn cho đầu tư phát triển, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế

với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7,5%/năm trong 10 năm tới.

- 87 -

- Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có khả năng tài chính vững

mạnh, năng lực kinh doanh và công nghệ quản lí được hiện đại hoá, đội

ngũ cán bộ làm công tác trong ngành bảo hiểm có trình độ đủ đáp ứng nhu

cầu cạnh tranh hội nhập.

- Người dân có điều kiện tiếp cận các loại sản phẩm bảo hiểm với

chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Các doanh nghiệp bảo hiểm có

đủ khả năng cung cấp các loại sản phẩm phục vụ các nhu cầu bảo hiểm cơ

bản của nền kinh tế và của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là các chương

trình bảo hiểm phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, bảo hiểm nhân thọ dài

hạn theo hướng phát huy nội lực, chủ động thu hút ngoại lực.

- Quản lí, giám sát phải được thực hiện dựa trên hệ thống các chỉ tiêu

quản lí và chỉ tiêu tài chính khách quan, phù hợp với yêu cầu, thực tiễn

kinh doanh bảo hiểm của nước ta và các ngyên tắc, chuẩn mực quốc tế ;

công nghệ quản lí, giám sát được hiện đại hoá, đội ngũ cán bộ quản lí có

đủ tri thức và năng lực quản lí bảo đảm thị trường bảo hiểm hoạt động an

toàn, có hiệu quả.

3.2.2. Giải pháp phát triển thị trƣờng bảo hiểm

Trong những năm tới, thị trường bảo hiểm Việt nam đứng trước các

cơ hội thuận lợi cho sự phát triển, đó là: Nhà nước quan tâm hơn đến việc

khuyến khích phát triển thị trường bảo hiểm bằng việc ban hành Luật kinh

doanh bảo hiểm và các quy định có liên quan; Nền kinh tế nước ta đang

hồi phục và bắt đầu bước vào giai đoạn ổn định và phát triển với tốc độ

cao, thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, tạo nguồn tài chính

cho việc tham gia bảo hiểm ; đồng thời, nhận thức của trong nhân dân và

các doanh nghiệp, các tổ chức Việt nam về mục đích, ý nghĩa của bảo

hiểm ngày càng tăng ; môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo

hiểm từng bước được hoàn thiện cùng với sự phát triển của khoa học và

công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm

cũng như từng bước thiết lập một thị trường bảo hiểm cạnh tranh lành

- 88 -

mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó thị trường bảo hiểm trong thời gian tới

cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn, bao gồm: Tác động

tiêu cực của tiến trình tự do hoá, toàn cầu hoá, tiến trình hội nhập về kinh

tế và tác động của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ sau khi được phê

chuẩn và có hiệu lực, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam nhất là các

doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần nội địa phải đối mặt trực

tiếp với sự cạnh tranh gay gắt từ các công ty bảo hiểm nước ngoài có tiềm

lực tài chính mạnh hơn rất nhiều lần; sự biến động nhanh của môi trường

kinh doanh và yêu cầu hội nhập vào nền kinh tế tri thức đối với các doanh

nghiệp.

Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra, củng cố vai trò của thị

trường bảo hiểm trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, chúng ta cần thực

hiện ngay các giải pháp nhằm khắc phục những điểm yếu, những tồn tại

hiện nay và chuẩn bị tốt để đối phó với những khó khăn, thách thức sắp

tới, nhất là thách thức của hội nhập và toàn cầu hoá.

 Giải pháp thứ nhất: Xây dựng chiến lƣợc phát triển và các chính

sách hữu hiệu hỗ trợ sự phát triển của thị trƣờng bảo hiểm:

- Đối với chính sách hội nhập, để từng bước thực hiện của tiến trình hội

nhập và mở cửa thị trường bảo hiểm, cần xác định rõ số lượng các doanh

nghiệp bảo hiểm hợp lý trên thị trường cho từng thời kỳ, nhất là số lượng

các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp

trong nước đủ mạnh để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh.

Thực hiện mở cửa từng bước các lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, trong

từng giai đoạn có thể giới hạn lĩnh vực bảo hiểm mà các doanh nghiệp có

vốn nước ngoài được phép hoạt động.

- Để nâng cao trình độ của bảo hiểm Việt nam và nhu cầu phát triển kinh

tế xã hội, cần ban hành chính sách hướng các công ty bảo hiểm nước

ngoài vào việc triển khai loại hình bảo hiểm đòi hỏi vốn lớn và công nghệ

- 89 -

bảo hiểm cao mà các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam chưa đáp ứng

được.

- Củng cố vai trò của doanh nghiệp Nhà nước với tư cách là thành phần

kinh tế chủ đạo thông qua việc tập trung thành lập một tập đoàn kinh

doanh tài chính - bảo hiểm tổng hợp, có đủ vốn và khả năng đóng vai trò

chủ đạo trong nền kinh tế, có khả năng chấp nhận bảo hiểm với mức trách

nhiệm cao, mức giữ lại cao và có khả năng cạnh tranh trên thị trường bảo

hiểm quốc tế.

- Tách chức năng thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội của doanh

nghiệp bảo hiểm nhà nước khỏi chức năng kinh doanh. (Chẳng hạn, đối

với lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp, Nhà nước có thể thành lập doanh

nghiệp bảo hiểm nông nghiệp công ích, như vậy sẽ có doanh nghiệp bảo

hiểm nhà nước chỉ thực hiện chức năng kinh doanh; có doanh nghiệp chỉ

thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội-các doanh nghiệp bảo hiểm công

ích).

 Giải pháp thứ hai: Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực pháp lý của các

quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm

nhằm tạo khung pháp lý và môi trƣờng kinh doanh, cạnh tranh

lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm

- Cụ thể, hoàn thiện và bổ sung các quy định của Luật kinh doanh bảo

hiểm và các văn bản có liên quan phù hợp với tập quán kinh doanh bảo

hiểm quốc tế về kinh doanh bảo hiểm, điều kiện thực tiễn Việt nam và

mục tiêu, định hướng của Nhà nước về phát triển thị trường bảo hiểm.

Các quy định pháp luật cần tạo ra sự bình đẳng theo hướng các doanh

nghiệp cùng hoạt động trong lĩnh vực thì được hưởng những quyền và

chịu nghĩa vụ pháp luật như nhau, xoá bỏ những quy định quản lý bất lợi

đối với các doanh nghiệp nhà nước.

- Song song với việc xây dựng và hoàn thiện các quy định điều chỉnh hoạt

động kinh doanh bảo hiểm, cần xây dựng một cơ chế kiểm tra, giám sát

- 90 -

hữu hiệu đối với việc thực hiện các quy định của pháp luật nhằm xác lập

và duy trì một thị trường bảo hiểm Việt nam cạnh tranh lành mạnh, tạo

tiền đề cho sự phát triển.

 Giải pháp thứ ba: Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm, nâng cao

chất lƣợng phục vụ khách hàng; đa dạng hoá kênh phân phối.

- Các doanh nghiệp bảo hiểm đẩy mạnh đa dạng hoá các loại hình dịch vụ

bảo hiểm nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng và phong phú của thị

trường về bảo hiểm. Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, các doanh

nghiệp cần chú trọng khai thác đến thị trường là các hộ gia đình, có tiềm

năng lớn nhưng hiện nay mới chỉ bắt đầu khai thác; phát triển và tăng

cường khai thác các sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Trong

bảo hiểm nhân thọ, cần phát triển thêm các sản phẩm mới như các sản

phẩm bảo hiểm hỗn hợp có số tiền trả nhiều lần, thời hạn bảo hiểm dài

hơn cũng như các sản phẩm hỗ trợ như bảo hiểm bệnh đặc biệt, bảo hiểm

bệnh người lớn, bảo hiểm bệnh phụ nữ… Đồng thời, các doanh nghiệp

bảo hiểm cần phát triển và cung cấp dịch vụ theo hướng cung cấp dịch vụ

tổng hợp, đó là dịch vụ bảo hiểm kết hợp với các dịch vụ tài chính hoặc

các dịch vụ khác như tư vấn đầu tư, tư vấn tiêu dùng, tư vấn y tế, tư vấn

luật...

- Cùng với việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, các doanh nghiệp bảo

hiểm cần đẩy mạnh đa dạng hoá kênh phân phối như phát triển mạng lưới

đại lý bảo hiểm phi nhân thọ chuyên nghiệp, hợp tác với các ngân hàng,

các tổ chức tài chính để bán các sản phẩm bảo hiểm, bán bảo hiểm qua

internet, qua thư trực tiếp...

 Giải pháp thứ tƣ: Tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng trình độ nghiệp

vụ, phong cách phục vụ, đạo đức nghề nghiệp và thực hiện tiêu

chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, đại lý làm bảo hiểm; kiện toàn cơ cấu tổ

chức và hoạt động của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp bảo

hiểm nội địa.

- 91 -

- Việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp, phong cách, tác phong phục vụ cho

các cán bộ, đại lý làm bảo hiểm cũng cần được các doanh nghiệp bảo

hiểm coi trọng nhằm xoá bỏ các hiện tượng như ăn chặn tiền bảo hiểm

của khách hàng, đồng loã với khách hàng để trục lợi bảo hiểm, thái độ

quan liêu, hách dịch, vì lợi ích của bản thân mà tư vấn bất lợi cho khách

hàng...

- Các doanh nghiệp bảo hiểm nội địa, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước

cần thực hiện kiện toàn bộ máy tổ chức, trong đó phân định rõ quyền hạn

và nghĩa vụ của các phòng, bộ phận chức năng cũng như mỗi cá nhân theo

hướng đề cao vai trò, trách nhiệm của các phòng, ban, bộ phận và cá nhân

nhằm kích thích sự chủ động, sáng tạo, trách nhiệm cũng như sự phối hợp

công tác của các phòng, ban, bộ phận và cá nhân. Đồng thời, cần hoàn

thiện chế độ phân phối tiền lương, khen thưởng trên cơ sỏ các căn cứ cơ

bản là đóng góp, mức độ phức tạp của công việc và năng lực của mỗi cá

nhân. Đối với các cấp lãnh đạo phòng, ban và cả lãnh đạo doanh nghiệp,

cần thực hiện cơ chế bầu hoặc bổ nhiệm theo nhiệm kỳ nhằm tăng cường

tính năng động, thi đua tích cực cũng như trách nhiệm của đội ngũ lãnh

đạo doanh nghiệp.

 Giải pháp thứ năm: Tăng cƣờng các biện pháp hợp tác giữa các

doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc; nâng cao vai trò của Hiệp hội

bảo hiểm Việt nam; nâng cao uy tín và hình ảnh của thị trƣờng bảo

hiểm Việt nam.

- Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam cần tăng cường hợp tác để phát

triển và khai thác thị trường bảo hiểm nội địa trong các lĩnh vực như đào

tạo thị trường, khai thác bảo hiểm, duy trì mức phí bảo hiểm tối thiểu,

phòng chống trục lợi bảo hiểm, học tập kinh nghiệm, tạo nguồn cán bộ

bảo hiểm. Đồng thời, cần tăng cường vai trò của Hiệp hội bảo hiểm trong

các lĩnh vực hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm nêu trên.

- 92 -

 Giải pháp thứ sáu: Các doanh nghiệp bảo hiểm cần nhanh chóng

nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ, đặc

biệt là công nghệ thông tin vào khai thác và quản lý hoạt động kinh

doanh bảo hiểm.

Công nghệ thông tin ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống

xã hội cũng như trong lĩnh vực kinh doanh. Các doanh nghiệp bảo hiểm

cần nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông

tin vào khai thác và quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhằm nâng

cao hiệu quả quản lý, hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí quản lý, hạ thấp

phí bảo hiểm để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm quốc tế

và các ngành khác; chuẩn bị tốt các điều kiện để thích ứng với những thay

đổi của môi trường kinh doanh mới, hội nhập vào tiến trình toàn cầu hoá

và nền kinh tế tri thức.

3.3 ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG DỊCH

VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP

3.3.1 Định hƣớng phát triển dịch vụ ngân hàng

3.3.1.1 Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ ngân

hàng

Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi nhằm khắc

phục tính tự cấp, tự túc, mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học - kỹ thuật

với nước ngoài, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới. Trong

quá trình đó, nhu cầu thu hút, quản lí và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư

nói chung và vốn nước ngoài nói riêng càng trở nên cấp thiết. Chính vì

vậy Đại hội IX của Đảng chỉ rõ : “ Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi

đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ; kết hợp nội lực với ngoại lực

thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”. Các hoạt động tài

chính đối ngoại có nhiệm vụ cơ bản và cấp bách là thu hút, huy động các

nguồn vốn quốc tế, phân bổ, quản lí và sử dụng có hiệu quả, đồng thời tạo

- 93 -

nguồn vốn để trả nợ khi đến hạn, nhằm phục vụ cho đường lối, chính sách

đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn công nghiệp hóa đất

nước.

Quán triệt tư tưởng này, phát triển ngành dịch vụ ngân hàng Việt Nam cần

được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:

Nguyên tắc 1: Hội nhập cạnh tranh hay còn gọi là chủ động hội nhập

Đây là quan điểm hội nhập trong đó chủ động gắn liền sự phát triển nền kinh

tế quốc gia với khu vực và thế giới, chủ động khai thác lợi thế so sánh với các

quốc gia khác. Đồng thời, hội nhập không thể tách rời với cạnh tranh, chỉ có cạnh

tranh mới hội nhập được. Quan điểm này là sự phát triển cao hơn của quan điểm

mở cửa có kiểm soát, chủ động đặt nền kinh tế nước ta trước sự cạnh tranh của

các nền kinh tế từ bên ngoài. Đây cũng là quan điểm phải giành thắng lợi trên thị

trường, đồng thời đặt ra yêu cầu và chi phối nhiều chính sách, cơ chế điều hành

nền kinh tế của Việt Nam. Với nguyên tắc này, việc bố trí lộ trình hội nhập cho

đến năm 2020 của Việt Nam cần phải cụ thể hoá được các bước đi chủ động,

tham gia hợp tác với khu vực và quốc tế để phát triển nền kinh tế.

Nguyên tắc 2: Hội nhập với phát triển bền vững và hài hoà các yếu tố

kinh tế hay còn gọi là hội nhập thận trọng.

Với đặc thù của một nước đang phát triển, các cơ sở kinh tế Việt Nam

còn chưa ổn định và chưa phát triển ở trình độ cao, nên việc hội nhập cần

phải tính đến một cơ cấu kinh tế hài hoà, dài hạn và phát triển bền vững

trong môi trường toàn cầu hoá. Do đó, quan điểm hội nhập cạnh tranh

phải gắn liền với quan điểm phát triển bền vững, đảm bảo hài hoà các yếu

tố phát triển kinh tế đi cùng với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và tái

tạo môi trường tự nhiên, sinh thái, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc

sống. Hội nhập phải tính đến phát triển trong nước, đảm bảo cho các

doanh nghiệp trong nước có đủ thời gian và điều kiện cạnh tranh hiệu quả

với nước ngoài.

- 94 -

3.3.1.2 Các định hướng chủ yếu

• Giai đoạn 1 (từ nay đến 2005): Giai đoạn hoàn thiện hệ thống ngân

hàng

- Củng cố tăng cường sức mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam theo

hướng các hoạt động ngân hàng phải tuân thủ nguyên tắc thị trường và

nguyên tắc an toàn.

- Cơ cấu lại ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại.

- Tạo “sân chơi” bình đẳng cho tất cả các ngân hàng và nâng cao tính

minh bạch của hệ thống tài chính. Cụ thể hoá và nới lỏng các điều kiện,

thủ tục cấp phép cho các Tổ chức Tín dụng Quốc tế hoạt động tại Việt

Nam; và các quy định về hạn chế hoạt động dịch vụ ngân hàng và của các

Tổ chức này.

- Tiến hành thí điểm cổ phần hoá một số Ngân hàng thương mại Quốc

doanh với sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài.

- Tăng cường khuôn khổ pháp quy và việc giám sát hệ thống ngân hàng.

• Giai đoạn 2 (2006-2010): Giai đoạn thực hiện các yêu cầu đã cam kết

trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác Thương mại Dịch vụ

ASEAN, cụ thể:

- Xây dựng môi trường pháp lý cho hệ thống ngân hàng phù hợp thông

lệ quốc tế

- Loại bỏ dần các hạn chế về: số lượng nhà cung cấp dịch vụ ngân

hàng, tổng giá trị các giao dịch về dịch vụ ngân hàng, tổng các hoạt động

tác nghiệp hay tổng số lượng dịch vụ ngân hàng, tổng số người được

tuyển dụng của các tổ chức tài chính nước ngoài;

- Loại bỏ dần, tiến tới không hạn chế việc tham gia góp vốn của bên

nước ngoài dưới hình thức tỷ lệ % tối đa số cổ phiếu nước ngoài nắm giữ.

- 95 -

- Trong giai đoạn này, hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu vươn ra

thị trường tài chính quốc tế.

• Giai đoạn 3 (2010 - 2020): Giai đoạn hội nhập năng động

Cho tới năm 2020, ngành ngân hàng của Việt Nam cần phải phát

triển đầy đủ các yếu tố cần thiết và sẵn sàng hội nhập hoàn toàn vào thị

trường thế giới. Không hạn chế số lượng công ty có vốn nước ngoài được

thành lập, tuy nhiên vẫn phải duy trì điều kiện thành lập căn cứ vào tình

hình phát triển kinh tế và tình hình phát triển thị trường ngân hàng Việt

Nam.

3.3.2 Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng:

3.3.2.1 Nhóm giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước:

Để phát huy tốt hơn chức năng và vai trò của mình trong hoạt động

của ngành dịch vụ ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước cần thực

hiện những nhiệm vụ sau:

 Giải pháp thứ nhất: Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, nâng

cao vai trò điều tiết, kiểm soát tiền tệ nhằm ổn định sức mua của

đồng tiền, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trƣởng

kinh tế.

- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và có sự phối kết hợp linh hoạt trong điều

hành các công cụ chính sách tiền tệ. Phối hợp với các bộ, ngành để có sự

phối hợp nhịp nhàng hơn giữa các chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách

tiền tệ với quản lí nợ của chính phủ, chính sách tài khoá…)

- Bổ sung, sửa đổi hoặc trình chính phủ chỉnh sửa các quy định về quản lí

ngoại hối cho phù hợp với yêu cầu quản lí và phát triển của nền kinh tế

trong xu thế hội nhập. Thực hiện việc phân cấp, uỷ quyền về quản lí ngoại

hối cho các chi nhánh Ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố và tăng cường

công tác nghiên cứu hoạch định chính sách tại Ngân hàng Trung ương.

- 96 -

 Giải pháp thứ hai: Tăng cƣờng vai trò thanh tra, giám sát của Ngân

hàng Trung ƣơng, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác thanh tra

cả về nghiệp vụ và đội ngũ cán bộ nhằm tạo chuyển biến mạnh về

chất trong hoạt động thanh tra.

- Bám sát thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng để sớm phát hiện

và ngăn chặn kịp thời những sai phạm. Tập trung chú trọng thanh tra chất

lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước và

công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các tổ chức tín dụng nhằm quản lí

tốt chất lượng tín dụng.

- Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, đặc biệt là chất

lượng của các cuộc thanh tra tại chỗ. Chấm dứt việc kết luận thanh tra

không rõ ràng, không quy trách nhiệm cụ thể cho tổ chức, cá nhân vi

phạm

 Giải pháp thứ ba: Rà soát lại công tác chuẩn bị các điều kiện cho

việc tham gia vào WTO đúng tiến trình

- Nới lỏng từng bước hạn chế về sự tham gia của các định chế tài chính

nước ngoài tại Việt Nam theo lộ trình mà Chính phủ đã cam kết trong các

Hiệp định về thương mại dịch vụ, như Hiệp định khung về Hợp tác dịch

vụ ASEAN, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ.

- Xây dựng hệ thống thanh toán nhằm đảm bảo an toàn, nhanh chóng,

chính xác và tiện lợi cho hoạt động thanh toán của bất cứ ngân hàng nào

trong nước và quốc tế. Xây dựng hệ thống thông tin và tài chính hiện đại,

đảm bảo cho hệ thống tài chính hoạt động an toàn, hiệu quả và dễ giám

sát.

- Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục chỉ đạo việc rà soát các văn bản cần

ban hành mới, bổ sung, sửa đổi đặc biệt là các văn bản theo cam kết tại

Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.

- 97 -

- Rà soát lại quy định về an toàn hệ thống, bao gồm các quy định về vốn

điều lệ, về trình độ của đội ngũ quản lý ngân hàng thương mại, về chế độ

báo cáo tài chính, về quy chế thanh tra, giám sát, về bảo hiểm tiền gửi và

tiền vay và các quy định can thiệp khẩn cấp khác.

3.3.2.2 Nhóm giải pháp đối với các ngân hàng thương

mại:

Xu thế toàn cầu hóa đang mở ra nhiều cơ hội cũng như đặt ra nhiều

thách thức cho ngành dịch vụ ngân hàng Việt Nam. Hầu như các cơ hội

vẫn đang còn ở dạng tiềm năng, việc khai thác và phát huy các cơ hội đó

hiệu quả hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực của bản thân

ngành ngân hàng, trong khi đó, các thách thức tồn tại thật sự, buộc ngành

ngân hàng từng ngày đối mặt với nó. Để có thể đứng vững và phát triển

trước sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng nước ngoài, để thực hiện

tốt các cam kết mà Việt Nam đã đưa trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và

đẩy nhanh tiến trình gia nhập GATS về dịch vụ ngân hàng, các ngân hàng

thương mại Việt Nam cần thực hiện một số việc cần thiết như:

 Giải pháp thứ nhất: Nâng cao năng lực tài chính của các ngân

hàng thƣơng mại giúp tăng cƣờng khả năng hội nhập kinh tế quốc

tế

- Xây dựng các ngân hàng thương mại có quy mô đủ lớn, hoạt động an

toàn, có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước. Nâng cao năng lực quản lý và tiềm lực tài

chính của các ngân hàng thương mại trên cơ sở đẩy mạnh tái đầu tư và tái

cơ cấu lại sở hữu, tạo điều kiện cho việc hiện đại hoá hoạt động ngân

hàng. Đồng thời việc cơ cấu lại ngân hàng thương mại phải đảm bảo

không gây trở ngại cho hoạt động tiền tệ - tín dụng - thanh toán đối với

nền kinh tế. Trên cơ sở đó, tăng cường khả năng hội nhập của các ngân

hàng thương mại vào thị trường tài chính quốc tế.

- 98 -

- Phân tách giữa nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng theo nguyên tắc

thương mại phù hợp với cơ chế thị trường và nghiệp vụ tín dụng ưu đãi

theo chính sách của Nhà nước để đảm bảo ngân hàng thương mại huy

động vốn và phân bổ tín dụng có hiệu quả, an toàn, và theo nguyên tắc thị

trường, hạn chế được tình trạng nợ quá hạn quá lớn.

 Giải pháp thứ hai: Hoàn thiện môi trƣờng pháp lý đối với dịch vụ

ngân hàng:

- Hoàn thiện các cơ chế, chính sách điều tiết hoạt động thương mại dịch

vụ nói chung và tài chính ngân hàng nói riêng. Các chính sách để hoàn

thiện môi trường pháp lý phải được xây dựng, hoạch định theo hướng hội

nhập và mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng để kích thích nền kinh tế,

các ngân hàng chuyển đổi theo hướng hiệu quả hơn nhằm nâng cao năng

lực cạnh tranh.

 Giải pháp thứ ba: Cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống ngân hàng một cách

hợp lí

- Xúc tiến các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến

độ xử lí nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại, hoàn thành và đưa

vào triển khai phát triển hệ thống quản trị rủi ro, quản lí tài sản nợ - tài sản

có, hệ thống thông tin quản lí và hệ thống kiểm soát nội bộ.

- Giảm chi phí nghiệp vụ: rà soát lại cơ cấu tổ chức của các ngân hàng

thương mại và tiến hành giảm biên chế ở c khâu quản lý và nghiệp vụ cụ

thể, đồng thời áp dụng tiến bộ công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu

quả.

- Tăng cường đào tạo và sử dụng cán bộ có năng lực: Đào tạo và đào tạo

lại các bộ phải được coi là một việc làm cấp bách, trước hết ưu tiên đào

tạo cán bộ quản lý với chưng trình đào tạo hiện đại, tiên tiến của thế giới.

- Nâng cao hơn nữa quyền tự chủ tài chính: các ngân hàng thương mại

phải được đảm bảo sự độc lập, tự chủ tài chính và tự chịu trách nhiệm về

- 99 -

kết quả kinh doanh của mình. Đồng thời, Ngân hàng nhà nước cũng phải

phối hợp với Bộ tài chính xem xét, trình chính phủ cấp bổ sung vốn điều

lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước và triển khai thực hiện Đề án

tăng vốn tự có cho các ngân hàng thương mại nhà nước sau khi được Thủ

tướng chính phủ phê duyệt.

- Sửa đổi quy chế: xây dựng quy trình tín dụng, quy trình kiểm soát phù

hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.

 Giải pháp thứ tƣ: Nâng cao chất lƣợng phục vụ của ngành ngân

hàng:

- Nâng cao năng lực và kinh nghiệm của nhân viên: Hiện nay, nhiều

ngân hàng đang vận dụng nhiều công nghệ mới như: hệ thống chuyển tiền

tự động, hệ thống xử lý thông tin, mạng nội bộ, sản phẩm mạng...đòi hỏi

nhân viên phi thành thạo, nắm bắt và giải quyết tốt chúng trong công việc

thường ngày. Để nâng cao năng lực vận hành hệ thống, nên tổ chức các

lớp đào tạo kỹ năng sử dụng hệ thống công nghệ thông tin, phi chuẩn bị

trước những tình huống sẽ xảy ra khi giao dịch với khách hàng và đề ra

các biện pháp xử lý.

- Chiến lược dịch vụ hướng về khách hàng: Khách hàng được coi như

những nhân viên của ngân hàng, những người tham gia vào quá trình sản

xuất cung cấp dịch vụ. Những ý kiến đánh giá của họ thường rất xác đáng.

Để có được sự tham gia tích cực hơn của khách hàng và hướng dẫn họ

trong các hoạt động của mình, các ngân hàng nên tổ chức các buổi hội

nghị khách hàng, mời họ phát biểu về hoạt động của ngân hàng. Các quy

định thủ tục cần phi được thông báo đầy đủ tới khách hàng để họ có thể

nắm bắt được những chính sách và chiến lược của ngân hàng.

- Tiêu chuẩn hoá các thủ tục và quy trình tiến hành công việc: Các thủ

tục phiền hà, các quy trình tiến hành công việc phức tạp đã làm hạn chế

chất lượng một số dịch vụ của các ngân hàng. Các ngân hàng cần nhanh

chóng nghiên cứu các quy trình hoạt động và giảm những bước không cần

- 100 -

thiết để tạo thuận lợi cho giao dịch của khách hàng cũng như của nhân

viên mình. Các thủ tục cần được tiêu chuẩn hoá và dễ hiểu, cần phi quy

định thời gian tối thiểu cho từng công việc và trách nhiệm của từng cá

nhân khi thực hiện công việc đó.

 Giải pháp thứ năm: Ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới

trong hoạt động ngân hàng

Các giải pháp công nghệ hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của

công việc, những lợi ích của công nghệ mới chưa được phát huy nhiều,

tốc độ và một số bất cập vẫn chưa được giải quyết triệt để. Vì vậy, các

ngân hàng cần phải tiếp tục phát triển thêm những công nghệ mới nhằm

hoàn thành phát triển công nghệ và tạo ra những sản phẩm hoàn hảo với

sự hỗ trợ của công nghệ. Cần cố gắng đảm bảo việc ứng dụng công nghệ

trên toàn bộ hệ thống từ Trung ương tới các chi nhánh trực thuộc để tạo ra

tính đồng bộ và tốc độ xử lý cũng như thông tin trao đổi được nhanh

chóng, giải quyết kịp thời yêu cầu của khách hàng.

Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là công cụ hữu

hiệu để thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản

phẩm, dịch vụ, tạo dựng nên những doanh nghiệp thành đạt, đủ sức cạnh

tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Chìa khoá để nâng cao sức

cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ là mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp phải

nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản

phẩm, dịch vụ. Hội nhập kinh tế quốc tế đang được đẩy nhanh, thách thức

cạnh tranh gay gắt đang gõ cửa từng doanh nghiệp, nhất là các doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Lựa chọn duy nhất hiện

nay đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính là phải mở rộng

phát triển, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh để sẵn sàng bước

vào cuộc chiến sống còn trên thương trường. Thách thức rất nặng nề

nhưng cơ hội mở ra cũng lớn. Chủ động hội nhập là phương châm hành

động đúng đắn mà chúng ta cần sớm thực hiện với sự đồng tâm nhất trí từ

- 101 -

trên xuống dưới, từ phía nhà nước và các doanh nghiệp, có như vậy chúng

ta mới có thể vượt qua thách thức, tận dụng được cơ hội và biến tiềm

năng, lợi thế của mỗi doanh nghiệp nói riêng và của cả ngành dịch vụ tài

chính nói chung thành hiện thực.

- 102 -

KẾT LUẬN

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng với chủ trương đa

phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đã đánh dấu bước khởi đầu cho

tiến trình hội nhập của Việt Nam. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII

của Đảng đã khẳng định phải đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu

vực và thế giới. Thực hiện chủ trương của Đảng, cho đến nay, Việt Nam

đã thu được những kết quả quan trọng bước đầu trong quá trình hội nhập,

đặc biệt trong lĩnh vực tài chính. Đó là khai thông được quan hệ với các tổ

chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế

giới, Ngân hàng phát triển châu Á; gia nhập ASEAN (1995), APEC

(1998); ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Hiện nay, Việt

Nam đang thực hiện đàm phán gia nhập WTO, tuy chưa đạt đến đích cuối

cùng nhưng những cố gắng này hứa hẹn sẽ đạt kết quả đáp ứng lợi ích của

nhiều bên.

Tất cả những điều trên đây chứng minh một điều rằng hội nhập tài

chính quốc tế không những đang là một xu thế phát triển mạnh mẽ của

quá trình phát triển thế giới mà còn là nguồn sống, là sức sống của nhiều

quốc gia đang phát triển. Và Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế

đó. Để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, nắm bắt đúng yêu cầu hội

nhập, đề ra mục tiêu, chiến lược phù hợp để tham gia vào quá trình này

trong thời gian càng sớm càng tốt là điều kiện sống còn để Việt Nam có

cơ hội bắt kịp được với trình độ phát triển chung của toàn thế giới, tránh

được nguy cơ tụt hậu vĩnh viễn.

Nắm bắt được tầm quan trọng của việc hội nhập tài chính quốc tế đối

với từng quốc gia, đặc biệt là Việt nam, Luận văn đã chọn nghiên cứu đề

tài „Những giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam

đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế‟. Thông qua đánh giá thực trạng

- 103 -

hoạt động thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam, ta có thể rút ra một số

kết luận:

- Thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam vẫn chứa đựng nhiều bất cập như

quy mô thị trường nhỏ, hình thức dịch vụ đơn điệu, hệ thống chính sách

và luật pháp còn khập khiễng và chưa đồng bộ, nguồn nhân lực có trình độ

thấp, kỹ năng không cao, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp rất hạn chế ngay

cả trên thị trường nội địa. Hầu hết các công ty bảo hiểm và các ngân hàng Việt

Nam chưa có đủ khả năng cạnh tranh để tự đứng vững trên thị trường tự do, chứ

chưa nói đến việc mở rộng thị trường ra bên ngoài. Do đó, Việt Nam sẽ phải đối

mặt với rất nhiều khó khăn nếu muốn đảm bảo được mục tiêu phát triển nội lực,

bảo vệ thị trường nội địa trước áp lực ngày càng tăng của hội nhập quốc tế, đồng

thời mở rộng thị trường hơn khi thực hiện đầy đủ các quy chế của AFTA, APEC

và WTO trong giai đoạn tới.

- Đồng thời, thông qua việc phân tích những quy định và yêu cầu hội nhập kinh tế

quốc tế của GATS và trong các Hiệp định AFAS, Hiệp định thương mại Việt

Nam - Hoa Kỳ về dịch vụ tài chính, cùng với việc phân tích những cam kết tự do

hoá ngành dịch vụ tài chính của một số nước, Việt Nam cũng có thể rút ra cho

mình nhiều bài học kinh nghiệm để có thể chuẩn bị sẵn sàng cho việc gia nhập

WTO. Bởi những lợi ích mà Việt Nam sẽ đạt được sau khi trở thành Thành viên

chính thức của WTO là to lớn và không thể phủ nhận. Mặt khác, khi tham gia hội

nhập, Việt Nam sẽ gặp phải những thách thức, khó khăn, phải tuân thủ những

nguyên tắc mà WTO đề ra, đặc biệt là nguyên tắc tự do hóa thương mại. Việc

tuân thủ những nguyên tắc này không phải là đơn giản, nhất là với các nước đang

trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Tuy nhiên, để đạt được những lợi ích

đó, trớc hết phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận những kết quả không mong muốn

ít nhiều sẽ xảy ra khi cải cách, thay đổi các chính sách trong nước. Ngành dịch vụ

tài chính Việt Nam cần sẵn sàng cho sự thay đổi đó.

- 104 -

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Aaditya Mattoo (2000). “Dịch vụ tài chính và WTO: Tự do hoá trong các

nền kinh tế đang phát triển và đang chuyển đổi”. Gia nhập WTO: Vấn đề,

thách thức và tác động đến khung pháp lý của Việt Nam, Hà Nội.

2. Ban Thư Ký WTO về Thương mại dịch vụ (10/1999), “Thái lan: Bảng

cam kết cụ thể về dịch vụ”

3. Báo Đầu tư số ra ngày 7/12/2003 và 31/05/2004

4. Báo Thị trường tài chính tiền tệ, số 11 năm 2003 và số 5,8 năm 2004.

5. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Dự án VIE/02/009 ngành dịch vụ tài chính

6. Bộ Tài chính (2002), “Tự do hoá dịch vụ tài chính trong khuôn khổ WTO,

kinh nghiệm của các nước”.

7. Bộ Tài chính (2003), “Báo cáo về thị trường tài chính và dịch vụ tài chính

năm 2003”

8. Bộ Thương mại, Dự án VIE/95/015, “Hợp tác dịch vụ trong ASEAN”.

9. Bộ Tư pháp (2003), “Báo cáo tổng hợp kết quả rà soát, đối chiếu các quy

định của WTO với pháp luật Việt nam hiện hành”

10. Đinh Văn Nhã (2002), Hệ thống giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường

vốn và thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học

cấp bộ, Học viện tài chính - Bộ tài chính, Hà Nội

11. Ngân hàng Nhà nước Việt nam (1/2004), “Báo cáo hoạt động ngân hàng

năm 2003, định hướng nhiệm vụ năm 2004”, Tài liệu Hội nghị tổng kết

hoạt động ngân hàng năm 2003 triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2004.

12. Nguyễn Hạnh Phúc, “Hệ thống ngân hàng Việt Nam và tiến trình tái cơ

cấu”, Báo Chứng Khoán Việt Nam 5/2000.

13. Tạp chí Ngân hàng, số 3,5 và số chuyên đề năm 2003, số 1 đến 4 năm

2004.

14. Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam số từ số 1 đến số 5/2004

- 105 -

15. Thủ tướng chính phủ (2003), “Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm

Việt nam từ năm 2003 đến năm 2010”, Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg

ngày 29/08/2003

16. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia

Hà nội, 2001.

17. Vụ Âu - Mỹ, Bộ Thương mại (12/2000), “Báo cáo về việc ký kết và

những nội dung chủ yếu của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ”.

18. Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Thương mại (1999), “Nghiên cứu

về thương mại dịch vụ”.

19. Vụ Quan hệ quốc tế, Bộ Tài chính (8/1999),“Chiến lược hội nhập quốc tế

trong lĩnh vực tài chính giai đoạn 2000 - 2010”.

20. Thông tin trên các trang web:

www.dei.gov.vn

www.avi.gov.vn

www.usvtc.org

www.mot.gov.vn

www.mofa.gov.vn

www.wto.org

Tiếng Anh

21. GATS, “Opening markets for services”, 1998.

22. Phillip Tan, Country Profile: Singapore insurance industry,

PricewaterhouseCoopers Singapore, 2002

23. WTO, “Financial Services and the GATS: Liberalisation in the

Developing and Transition Economies”, 1998.