BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
------------------
HHUUỲỲNNHH ĐĐOOAANN NNHHÃÃ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
NGOẠI HỐI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
------------------
HHUUỲỲNNHH ĐĐOOAANN NNHHÃÃ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
NGOẠI HỐI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 60340201
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS HỒ PHÚC NGUYÊN
TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Kính thưa Quý thầy cô
Tôi tên là Huỳnh Đoan Nhã, là học viên Cao học – khoá 19 – Ngành Ngân hàng
– Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.
Cam đoan luận văn nghiên cứu : “ Giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt
Nam”
Người hướng dẫn khoa học : TS Hồ Phúc Nguyên
Luận văn là do bản thân tôi thực hiện. Các cơ sở lý luận được tôi tham khảo
trực tiếp từ các nguồn tài liệu về ngoại hối và tỷ giá hối đoái. Thực trạng thị trường
ngoại hối của Việt Nam đã được tôi thu thập, chọn lọc từ nhiều nguồn khác nhau như
sách báo, tạp chí, …. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trước đều được trình dẫn
nguồn và tên tác giả.
Tôi cam đoan đề tài không sao chép từ các công trình nghiên cứu khoa học
khác.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 09 năm 2013
Học viên
HUỲNH ĐOAN NHÃ
CÁC KÝ HIỆU VÀ THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
IMF : FED : Quỹ Tiền tệ Quốc tế Cục dự trữ Liên bang Mỹ
NHNN : Ngân hàng Nhà nước Việt nam
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTW : Ngân hàng trung ương
USD : Đô la Mỹ
VND : Đồng Việt nam
EUR : Đồng Euro
SGD : GBP : MYR : Đô la Singapore Bảng Anh Đồng Malaysia Ringgit
WTO : TTNH : FOREX : TTTC : TCTD : TTKCT : TTNTLNH : BQLNH : TGLNG : Tổ chức Thương mại Thế giới Thị trường ngoại hối Thị trường ngoại hối Thị trường tài chính Tổ chức tín dụng Thị trường không chính thức Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Bình quân liên ngân hàng Tỷ giá liên ngân hàng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tỷ lệ Lợi nhuận họat động kinh doanh ngoại hối so với tổng lợi nhuận
trước thuế ....................................................................................................................... 36
Bảng 2.2 : Tỷ giá (VND/USD) từ 1990 đến 1992 ......................................................... 41
Bảng 2.3: Tỷ giá VND/USD từ 1994-1998 ................................................................... 42
Bảng 2.4: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ....................................... 43
Bảng 2.5: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ khách hàng ............................................ 45
Bảng 2.6: Tỷ trọng doanh số giao dịch của hai thị trường ngoại tệ .............................. 46
Bảng 2.7: Tỷ trọng doanh số giao dịch của hai thị trường ngoại tệ (2006-2012) ......... 47
Bảng 2.8: Tỷ lệ mua, bán giao dịch kỳ hạn và hoán đổi trong tổng giao dịch thị trường
ngoại hối Việt Nam ....................................................................................................... 52
Bảng 2.9 : Lượng kiều hối chính thức chuyển về Việt Nam từ năm 1997-2012 ......... 56
Bảng 2.10: Diễn biến Tỷ giá BQLNH và Tỷ giá bình quân thị trường tự do từ năm
1999- 2006 ..................................................................................................................... 65
Bảng 2.11: Diễn biến Tỷ giá BQLNH và Tỷ giá bình quân thị trường tự do từ năm
2007- 2012 ..................................................................................................................... 66
Bảng 2.12 : Dự trữ ngoại hối từ năm 2005 - 2012 ........................................................ 69
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 : Lượng kiều hối về Việt Nam từ năm 1997 – 2012 .................................. 57
Biểu đồ 2.2 : Sự biến động của tỷ giá trên thị trường chính thức ................................. 65
Biểu đồ 2.3 : Sự biến động của tỷ giá trên thị trường chính thức và thị trường tự do
giai đoạn 2007 -2012 ..................................................................................................... 67
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
CÁC KÝ HIỆU VÀ THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI ................................. 1
1.1 Ngoại hối và thị trường ngoại hối .......................................................................... 1
1.1.1 Khái niệm ngoại hối ............................................................................................ 1
1.1.2 Thị trường ngoại hối ........................................................................................... 1
1.1.2.1 Khái niệm ...................................................................................................... 1
1.1.2.2 Đặc điểm của thị trường ngoại hối................................................................ 2
1.1.2.3 Chức năng của thị trường ngoại hối .............................................................. 3
1.1.2.4 Các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối ............................................ 3
1.1.2.5 Các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối ....................................................... 5
1.2 Tỷ giá ........................................................................................................................ 7
1.2.1 Khái niệm tỷ giá ................................................................................................. 7
1.2.2 Biến động tỷ giá và những nguyên nhân gây biến động tỷ giá........................... 8
1.2.2.1 Biến động tỷ giá ............................................................................................ 8
1.2.2.2 Những nguyên nhân gây biến động tỷ giá .................................................... 9
1.3 Những nhân tố tác động đến việc phát triển thị trường ngoại hối của một quốc
gia .................................................................................................................................. 12
1.3.1 Tác động của quy luật thị trường ...................................................................... 12
1.3.2 Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế ...................................................... 13
1.3.3 Chính sách quản lý ngoại hối của quốc gia ...................................................... 15
1.3.3.1 Chính sách tỷ giá ......................................................................................... 16
1.3.3.2 Chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trên tài khoản vãng lai
................................................................................................................................... 18
1.3.3.3 Chính sách quản lý ngoại hối đối với tài khoản vốn .................................. 20
1.4 Kinh nghiệm các nước ........................................................................................... 23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 26
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
VIỆT NAM ................................................................................................................... 28
2.1 Sơ lược sự hình thành và phát triển của Thị trường ngoại hối Việt Nam ....... 28
2.2 Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam ................................ 31
2.2.1 Những văn bản pháp lý quy định hoạt động kinh doanh ngoại hối .................. 31
2.2.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng trên TTNH Việt
Nam ............................................................................................................................ 35
2.2.2.1 Quá trình hình thành và hoạt động TTNT liên ngân hàng .......................... 37
2.2.2.2 Thực trạng thị trường ngoại tệ khách hàng của Việt Nam ......................... 44
2.2.2.3 Thực trạng sử dụng các giao dịch ngoại hối phái sinh tại các NHTM Việt
Nam ........................................................................................................................... 48
2.2.2.4 Thực trạng yết giá kinh doanh và mua bán ngoại tệ ................................... 54
2.2.3 Thị trường ngoại tệ không chính thức .............................................................. 56
2.2.4 Vai trò của NHNN đối với TTNH Việt Nam trong giai đoạn vừa qua ............ 58
2.2.4.1 Thực hiện vai trò can thiệp TTNH và điều hành chính sách tỷ giá ............ 58
2.2.4.2 Những biện pháp góp phần hạn chế hoạt động của thị trường ngoại tệ
không chính thức. ...................................................................................................... 59
2.3 Đánh giá quá trình phát triển TTNH của Việt Nam trong thời gian qua và
nguyên nhân của những tồn tại .................................................................................. 60
2.3.1 Những mặt đạt được ......................................................................................... 60
2.3.2 Những hạn chế của Thị trường ngoại hối Việt Nam ....................................... 61
2.3.2.1 Hoạt động TTNTLNH còn khiêm tốn ........................................................ 62
2.3.2.2 Hàng hóa trên thị trường ngoại hối chưa đa dạng....................................... 62
2.3.2.3 Sự thiếu vắng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá và mục đích tham gia thị
trường ngoại hối cũng chưa đa dạng ......................................................................... 63
2.3.2.4 Thị trường phái sinh còn sơ khai ................................................................ 64
2.3.3 Nguyên nhân của thực trạng trên ...................................................................... 64
2.3.3.1 Cơ chế điều hành tỷ giá chưa linh động với diễn biến của thị trường ........ 64
2.3.3.2 Sự tồn tại và ảnh hưởng mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không chính thức
................................................................................................................................... 67
2.3.3.3 Tính chuyển đổi của VND chưa cao ........................................................... 68
2.3.3.4 Dự trữ ngoại hối thấp .................................................................................. 69
2.3.3.5 Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện ........................................................... 70
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 70
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT
NAM .............................................................................................................................. 72
3.1 Định hướng phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam đến năm 2020 ............. 72
3.2 Giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam ......................................... 73
3.2.1 Hoàn chỉnh khung pháp lý ................................................................................ 73
3.2.2 Về điều hành tỷ giá ........................................................................................... 74
3.2.3 Về tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hóa tài khoản vốn theo lộ trình ........ 77
3.2.4 Phát huy vai trò của NHNN- phát triển TTNT liên ngân hàng ........................ 79
3.2.4.1 Phát huy vai trò của NHNN ........................................................................ 79
3.2.4.2 Phát triển TTNTLNH về khối lượng giao dịch và số lượng thành viên ..... 81
3.2.5 Tăng cường kiểm soát, hạn chế và tiến tới loại bỏ dần hoạt động của thị trường
ngoại tệ không chính thức .......................................................................................... 82
3.2.6 Hạn chế tình trạng đôla hóa và tạo khả năng chuyển đổi dần cho đồng Việt
Nam ............................................................................................................................ 84
3.2.6.1 Hạn chế tình trạng đôla hóa một cách triệt để ............................................ 85
3.2.6.2 Nâng cao tính chuyển đổi của VND .......................................................... 86
3.2.7 Nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong hoạt động
kinh doanh ngoại hối .................................................................................................. 87
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ............................................................................................ 90
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Với quyết tâm đưa đất nước bước sang một trang mới, hướng đến mục tiêu phát
triển đất nước ngày càng giàu mạnh cả về kinh tế lẫn vị thế chính trị, Việt Nam đã thực
hiện cải cách kinh tế toàn diện, bắt đầu bằng công cuộc đổi mới vào năm 1986. Từ
năm 1990, công cuộc đổi mới được đẩy mạnh hơn với chủ trương của Đảng và Nhà
nước là phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới cũng được tiến hành đồng thời
với việc phát triển kinh tế đối ngoại, mở cửa, hợp tác và hội nhập, phù hợp với xu
hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ.
Với vai trò là chiếc cầu nối giữa kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, thì việc
phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam theo
hướng toàn diện, hiện đại, phù hợp với trình độ và tiêu chuẩn quốc tế là rất cần thiết,
nhằm bôi trơn và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, kích thích luân chuyển các
khoản đầu tư và tín dụng quốc tế, cung cấp các công cụ phòng chống rùi ro tỷ giá cho
các ngân hàng, các nhà xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư, và đi vay quốc tế bằng hợp
đồng kì hạn, quyền chọn, hoán đổi hay tương lai. Một thị trường ngoại hối hoạt động
hiệu quả còn là điều kiện để hình thành tỷ giá theo quan hệ cung cầu và là nơi để Ngân
Hàng Trung Ương tiến hành can thiệp lên tỷ giá theo hướng có lợi cho nền kinh tế.
Trong những năm qua thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành và từng bước
phát triển, nhưng nhìn chung vẫn non trẻ và sơ khai về trình độ, quy mô hoạt động
cũng như kỹ năng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh. Do đó giữa thị trường ngoại hối
Việt Nam và quốc tế còn có một khoảng cách khá xa.
Vậy lý do của thực trạng này là gì và phải làm sao để thúc đẩy thị trường ngoại hối
Việt Nam phát triển? Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, việc nghiên cứu về thị trường
ngoại hối, chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái của nhà nước, tác
động của những chính sách này đến thị trường ngoại hối Việt Nam là việc làm rất cần
thiết. Nghiên cứu vấn đề này là một yêu cầu cần đặt ra trong quá trình phát triển mới
của đất nước, đó là quá trình hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những lý thuyết và những nghiên cứu trước đây về chính sách quản lý
ngoại hối và đặc điểm hoạt động của thị trường ngoại hối. Luận văn tập trung đánh giá
thực trạng về TTNH Việt Nam và phân tich những tác động của chính sách quản lý
ngoại hối đến TTNH. Từ đó đề xuất những giải pháp để phát triển TTNG trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về ngoại hối, thị trường ngoại hối, các cơ chế tỷ giá hối đoái và ảnh
hưởng của các cơ chế này đến thị trường ngoại hối.
Nghiên cứu thị trường ngoại hối Việt Nam cũng như những tác động của chính
sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái đến thị trường này. Giai đoạn
nghiên cứu chủ yếu từ năm 2006 đến năm 2012.
Nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp để hoàn thiện hơn chính sách quản lý ngoại
hối và chính sách điều hành tỷ giá hối đoái đang áp dụng tại Việt Nam.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang đẩy mạnh công tác hoàn thiện lại
các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối theo chiều hướng tự do hóa hoạt động
ngoại hối, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo lập nhiều công cụ giao dịch ngoại hối cho
doanh nghiệp và nhà đầu tư lựa chọn. Hiện nay trên thị trường ngoại hối, việc giao
dịch chủ yếu được thực hiện thông qua đồng USD và ảnh hưởng của đồng USD là rất
lớn đối với mọi giao dịch hối đoái của Việt Nam, chính vì thế, tỷ giá VNĐ – USD sẽ
được nghiên cứu sâu và được lấy làm trọng tâm của bài nghiên cứu này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp các phương pháp nghiên cứu. Kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích, tập hợp các ý tưởng thực tiễn tại Việt Nam,
cũng như dựa trên quy luật phát triển tất yếu khách quan của một vấn đề kinh tế xã hội
để hình thành nên luận văn.
5. Bố cục của luận văn
Chương 1: Kiến thức tổng quan về thị trường ngoại hối và phát triển thị
trường ngoại hối trong hội nhập kinh tế quốc tế, phần này nghiên cứu những lý
luận nền tảng liên quan đến thị trường ngoại hối.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam, phần
này đi vào tìm hiểu tình hình hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam từ khi bắt
đầu đi vào hoạt động cho đến thời điểm hiện nay. Đồng thời tiến hành đánh giá những
mặt đạt được cũng như những hạn chế, từ đó nhận ra được nguyên nhân của những
mặt hạn chế đó
Chương 3: Giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam, phần này sẽ
là những kiến nghị của người viết đề xuất trên cơ sở thực tế từ chương 2 và lý luận từ
chương 1 nhằm phát triển Thị trường ngoại hối Việt Nam.
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
1.1 Ngoại hối và thị trường ngoại hối
1.1.1 Khái niệm ngoại hối
Theo pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11, ngày 13/12/2005 của ủy Ban
Thường Vụ Quốc Hội nước CHXHCNVN, ngoại hối được quy định như sau:
Ngoại hối bao gồm:
Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung
khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ)
Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ,
hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty,
kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư
trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi
lãnh thổ Việt Nam;
Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển
vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Ngoại hối trong đề tài nghiên cứu này được hiểu là đồng tiền của quốc gia khác
hoặc đồng tiền chung Châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh
toán quốc tế.
1.1.2 Thị trường ngoại hối
1.1.2.1 Khái niệm
Thị trường ngoại hối là nơi các đồng tiền của các quốc gia và vùng lãnh thổ khác
nhau được mua bán với nhau.
2
Trong thực tế, do hoạt động mua bán tiền tệ xảy ra chủ yếu giữa các ngân hàng
(chiếm khoảng 85% tổng doanh số giao dịch), vì vậy theo nghĩa hẹp thì thị trường
ngoại hối là nơi mua bán các đồng tiền khác nhau giữa các ngân hàng tức thị trường
liên ngân hàng.
1.1.2.2 Đặc điểm của thị trường ngoại hối
Thị trường lớn nhất, doanh số giao dịch cao nhất: doanh số giao dịch trên thị
trường lên tới gần 4.900 tỷ USD/ngày vào năm 2012. Thị trường hoạt động tích cực
nhất là London, sau đó là Newyork, Tokyo, Singapore, Frankfurt…
Là thị trường không gian: FOREX không nhất thiết phải tập trung tại vị trí địa lý
hữu hình nhất định mà là bất cứ nơi đâu diễn ra hoạt động mua bán các đồng tiền khác
nhau.
Là thị trường toàn cầu hay thị trường không ngủ. Do sự chênh lệch về múi giờ
giữa các khu vực trên thế giới nên các giao dịch diễn ra suốt ngày đêm. Thị trường bắt
đầu hoạt động từ Australia, Nhật, Singapore, Hongkong, châu Âu, Newyork… và cứ
như vậy, khi thị trường khu vực châu Á đóng cửa thì thị trường châu Mỹ bắt đầu hoạt
động theo một chu kỳ khép kín toàn cầu.
Các thành viên tham gia thị trường duy trì quan hệ với nhau thông qua điện thoại,
mạng vi tính, telex và fax.
Là một thị trường cạnh tranh hoàn hảo: số lượng người mua và người bán lớn,
các sản phẩm đồng nhất, thông tin lưu chuyển tự do và không có các rào cản đối với
việc tham gia thị trường.
Là một thị trường hoat động hiệu quả: các thông tin liên quan đến tỷ giá luôn
được phản ánh nhanh chóng và chính xác. Tỷ giá tuy được yết trên các thị trường khác
nhau nhưng hầu như là thống nhất với nhau (có độ chênh lệch không đáng kể).
Giao dịch tập trung chủ yếu ở thị trường liên ngân hàng: chiếm khoảng 85%
tổng doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu.
3
USD là đồng tiền được mua bán nhiều nhất: chiếm khoảng 41,5% trong tổng số
các đồng tiền tham gia.
Là thị trường rất nhạy cảm đối với các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý…
nhất là đối với các chính sách tiền tệ của các nước phát triển: mỗi diễn biến về kinh tế,
mỗi sự kiện về chính trị và ngoại giao trên thế giới đều có thể là những nhân tố làm
ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường này.
1.1.2.3 Chức năng của thị trường ngoại hối
Dịch vụ cho các khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế.
Giúp luân chuyển các khoản đầu tư, tín dụng quốc tế, các giao dịch tài chính quốc
tế khác.
Thông qua hoạt động của thị trường ngoại hối, mà sức mua đối ngoại của tiền tệ
được xách định một cách khách quan theo quy luật cung cầu của thị trường.
Là nơi kinh doanh và cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng các hợp
đồng như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai.
Là nơi để NHTW tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động theo chiều hướng có lợi
cho nền kinh tế.
1.1.2.4 Các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối
* Nhóm khách hàng mua bán lẻ
Nhóm khách hàng mua bán lẻ bao gồm các công ty nội địa, các công ty đa quốc
gia, những nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối nhằm
phục vụ cho mục đích hoạt động của chính mình.
* Các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại tiến hành giao dịch ngoại hối nhằm hai mục đích:
- Cung cấp dịch vụ cho khách hàng trong đó chủ yếu là mua hộ, bán hộ cho nhóm
khách hàng mua bán lẻ. Vì là mua hộ, bán hộ nên ngân hàng không chịu rủi ro tỷ giá,
và thông qua cung cấp dịch vụ ngân hàng tiến hành thu một khoản phí.
4
- Kinh doanh cho chính mình tức mua bán ngoại hối nhằm kiếm lãi khi tỷ giá thay
đổi. Hoạt động kinh doanh này tạo ra trạng thái ngoại hối do đó ngân hàng chịu rủi ro
tỷ giá. Các ngân hàng tiến hành giao dịch ngoại hối theo hai cách:
Giao dịch trực tiếp giữa ngân hàng với nhau và với khách hàng.
Giao dịch gián tiếp với nhau thông qua nhà môi giới.
* Những nhà môi giới ngoại hối
Hình thức giao dịch gián tiếp thông qua nhà môi giới ngoại hối cũng khá phát triển.
Nhà môi giới thu thập hầu hết các lệnh đặt mua và lệnh đặt bán ngoại tệ từ các ngân
hàng khác nhau, trên cơ sở đó cung cấp tỷ giá chào mua và tỷ giá chào bán cho khách
hàng của mình một cách nhanh chóng, rộng khắp với giá tay trong. Tuy nhiên các
ngân hàng phải trả cho nhà môi giới một khoản phí. Những ai muốn hành nghề môi
giới ngoại hối phải có giấy phép và các nhà môi giới chỉ cung cấp dịch vụ cho khách
hàng, chứ không mua bán ngoại hối cho chính mình.
* Các Ngân hàng Trung Ương
Nhóm chủ thể này tham gia vào thị trường ngoại hối một mặt để cung cấp dịch vụ
cho khách hàng của mình và một mặt nhằm tác động vào tỷ giá hối đoái. Mục tiêu thứ
nhất xuất phát từ vai trò của NHTW là ngân hàng của Chính phủ. NHTW mua bán trên
thị trường ngoại hối để có thể thâu tóm ngoại tệ để thực hiện các hoạt động thanh toán
của Chính phủ. Tuy nhiên, mục tiêu cơ bản của NHTW khi tham gia thị trường ngoại
hối là nhằm điều chỉnh tỷ giá: trong chế độ tỷ giá cố định, NHTW thường xuyên can
thiệp với mục đích duy trì tỷ giá trong một biên độ tỷ giá nhất định. Trong chế độ tỷ
giá thả nổi có điều tiết, NHTW can thiệp nhằm tác động lên tỷ giá theo hướng mà
NHTW cho là có lợi cho nền kinh tế. Mặc dù khối lượng giao dịch của NHTW thường
không lớn nhưng tác động của các giao dịch do NHTW thực hiện lại rất mạnh mẽ vì
các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối luôn chăm chú theo dõi các hoạt động
của NHTW để dự đoán các chính sách kinh tế vĩ mô trong tương lai, dự báo biến động
của tỷ giá và đưa ra quyết định phù hợp trên thị trườn
5
1.1.2.5 Các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối
* Giao dịch ngoại hối giao ngay ( SPOT)
Giao dịch ngoại hối giao ngay là giao dịch trong đó hai bên thỏa thuận mua bán
ngoại hối theo mức tỷ giá được thỏa thuận ngày hôm nay và việc giao hàng/thanh toán
sẽ được thực hiện trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo.
Giao dịch ngoại hối giao ngay được sử dụng phổ biến cả trên thị trường mua bán lẻ
lẫn TTLNH, giúp các chủ thể tham gia thực hiện các giao dịch thương mại và đầu tư
quốc tế, điều chỉnh trạng thái ngoại hối hay khai thác một cơ hội kiếm lợi nhuận trên
thị trường… Hàng ngày tỷ giá giao ngay được công bố trên các báo lớn, các bản tin thị
trường của đài truyền hình; nó được dùng để phân tích, dự báo, là cơ sở để nhà kinh
doanh tính toán các loại tỷ giá khác nhau.
* Giao dịch ngoại hối kỳ hạn (FORWARD)
Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là giao dịch mua bán ngoại hối trong đó tỷ giá được hai
bên thỏa thuận ngày hôm nay và việc giao hàng/thanh toán được thực hiện tại mức tỷ
giá đó vào một ngày xác định trong tương lai. Ngày xác định trong tương lai ở đây
phải cách ngày ký kết hợp đồng từ 3 ngày làm việc trở lên.
Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là loại hợp đồng có tính ràng buộc cao. Cả hai phía mua
và bán đều không có quyền từ chối kể cả trong những tình huống bất lợi cho mình.
Đây không chỉ là một công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá mà còn giúp các nhà kinh
doanh hạn chế được những bất trắc về thanh khoản.
* Giao dịch ngoại hối hoán đổi (SWAP)
Giao dịch hoán đổi ngoại hối là giao dịch trong đó một bên đồng ý thực hiện bán
một đồng tiền nhất định cho bên kia tại một thời điểm nhất định và đồng thời cam kết
thực hiện mua chính đồng tiền đó vào một thời điểm khác trong tương lai với các mức
tỷ giá được thỏa thuận từ trước.
Giao dịch hoán đổi ngoại hối là một giao dịch hối đoái kép. Đối với mỗi bên tham
gia, sẽ có một giao dịch mua vào và một giao dịch bán ra một đồng tiền nhất định với
6
số lượng bằng nhau, tuy nhiên, ngày giá trị mua vào và ngày giá trị bán ra là khác
nhau. Vì không tạo ra trạng thái ngoại hối ròng nên giao dịch hoán đổi ngoại hối là
công cụ giúp cho nhà kinh doanh quản lí luồng tiền một cách thích hợp mà vẫn tránh
được rủi ro tỷ giá.
* Giao dịch ngoại hối tương lai (FUTURE)
Giao dịch tiền tệ tương lai là một giao dịch trong đó hai bên mua bán thỏa thuận
với nhau về việc mua bán một lượng tiền của một loại tiền xác định theo mức tỷ giá
được thỏa thuận ngay tại thời điểm giao dịch và thời điểm giao hàng/thanh toán được
thực hiện vào một ngày xác định trong tương lai. Đây là loại hợp đồng được chuẩn hóa
cả về quy mô hợp đồng lẫn thời gian đáo hạn.
Giao dịch tiền tệ tương lai là một giao dịch được phát triển từ giao dịch có kỳ hạn
song nó có những điểm khác biệt khá cơ bản so với hợp đồng giao dịch có kỳ hạn. Nếu
như địa điểm giao dịch có kỳ hạn là phi tập trung thì giao dịch hợp đồng tương lai chỉ
được giao dịch tập trung tại sàn giao dịch. Nếu như quy mô và thời gian giao hàng của
một hợp đồng kỳ hạn là tùy ý, được thương lượng và thỏa thuận cụ thể giữa hai bên thì
quy mô và thời gian giao hàng ở hợp đồng tiền tệ tương lai được tiêu chuẩn hóa, có
tính chất cố định và không thương lượng được.
Hợp đồng tiền tệ tương lai có thể dùng để phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với các
khoản phải thu và phải trả bằng ngoại tệ. Tuy nhiên, nó không được các nhà phòng
ngừa rủi ro tỷ giá sử dụng phổ biến như hợp đồng kỳ hạn do những hạn chế nhất định.
Tổ chức giao dịch hợp đồng tiền tệ tương lai hấp dẫn các nhà đầu cơ nhiều hơn.
* Giao dịch ngoại hối quyền chọn (OPTION)
Hợp đồng quyền chọn tiền tệ là một công cụ ngoại hối phái sinh, cho phép người
mua quyền chọn có quyền (chứ không phải nghĩa vụ) mua hoặc bán một đồng tiền
nhất định vào một thời điểm xác định trong tương lai tại một mức tỷ giá cố định được
thỏa thuận ngay khi ký kết hợp đồng.
Có hai loại hợp đồng quyền chọn: Quyền chọn mua và quyền chọn bán.
7
- Hợp đồng quyền chọn mua tiền tệ là hợp đồng, trong đó người mua quyền chọn
sau khi trả phí quyền chọn, có quyền mua một đồng tiền nhất định vào một thời điểm
xác định trong tương lai tại mức tỷ giá quyền chọn đã được thỏa thuận từ trước nếu
như người đó quyết định thực hiện quyền chọn mua của mình. Người bán quyền chọn,
sau khi nhận phí quyền chọn, có nghĩa vụ bán một đồng tiền nhất định tại một mức tỷ
giá quyền chọn nếu bên mua đó quyết định thực hiện quyền chọn.
- Hợp đồng quyền chọn bán tiền tệ là hợp đồng, trong đó người mua quyền chọn
sau khi trả phí quyền chọn, có quyền bán một đồng tiền nhất định vào một thời điểm
xác định trong tương lai tại mức tỷ giá quyền chọn đã được thỏa thuận từ trước nếu
như người đó quyết định thực hiện quyền chọn bán của mình. Người bán quyền chọn
bán, sau khi nhận phí quyền chọn, có nghĩa vụ mua một đồng tiền nhất định tại một
mức tỷ giá quyền chọn nếu bên mua đó quyết định thực hiện quyền chọn.
Hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể dùng để bảo hiểm rủi ro tỷ giá cho các khoản
phải thu và phải trả bằng ngoại tệ hoặc trong các hoạt động đấu thầu quốc tế. Ngoài ra,
các nhà đầu tư có thể kết hợp các vị thế hợp đồng quyền chọn khác nhau để tạo ra các
chiến lược quyền chọn nhất định để kiếm lợi nhuận.
1.2 Tỷ giá
1.2.1 Khái niệm tỷ giá
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có đồng tiền riêng. Thương mại, đầu tư và
các quan hệ tài chính quốc tế… đòi hỏi các quốc gia phải thanh toán với nhau. Thanh
toán giữa các quốc gia dẫn đến việc mua bán các đồng tiền khác nhau, đồng tiền này
lấy đồng tiền kia. Hai đồng tiền được mua bán với nhau theo một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ
này gọi là tỷ giá.
Vậy có thể định nghĩa: Tỷ giá là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông
qua đồng tiền khác.
Ở các thị trường hàng hóa, giá cả được biểu thị như là số đơn vị tiền tệ trên một
đơn vị hàng hóa. Trên thị trường ngoại hối, hàng hóa là tiền tệ, khi một đồng tiền được
8
định giá bởi một đồng tiền khác thì đồng tiền này được gọi là đồng yết giá, đồng tiền
khác được gọi là đồng tiền định giá.
Hiện nay có hai phương pháp yết giá được sử dụng phổ biến đó là yết tỷ giá trực
tiếp và yết tỷ giá gián tiếp:
Yết tỷ giá trực tiếp là cách thể hiện số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ. Ở
đây, ngoại tệ đóng vai trò hàng hóa và được đo lường giá trị bằng đồng nội tệ. Hầu hết
các nước trong đó có Việt Nam đang sử dụng cách yết tỷ giá này.
Yết tỷ giá gián tiếp là cách thể hiện số đơn vị ngoại tệ trên một đơn vị nội tệ. Như
vậy trong cách yết tỷ giá này nội tệ đóng vai trò là hàng hóa và được đo lường giá trị
bằng đồng ngoại tệ. Cách yết tỷ giá này được sử dụng tại các nước như: New Zealand,
Úc, Anh và các nước đồng tiền chung EURO.
1.2.2 Biến động tỷ giá và những nguyên nhân gây biến động tỷ giá
1.2.2.1 Biến động tỷ giá
Ổn định giá trị đồng tiền quốc gia là mục tiêu quan trọng trong chính sách tiền tệ
của mỗi nước. Tỷ giá được ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển,
chính vì điều này mà trong quá khứ, nhiều quốc gia đã cố gắng cố định đồng tiền của
quốc gia mình so với ngoại tệ mạnh, đặc biệt là USD để tạo điều kiện phát triển kinh
tế. Thế nhưng, kết quả là không có Ngân Hàng Trung Ương nào có thể cố định đồng
tiền quốc gia mình trong thời gian dài, hành động của họ đã dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng cho nền kinh tế, cụ thể là cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997
– 1999 xuất phát từ nguyên nhân chế độ tỷ giá cố định của đồng tiền Thái Lan so với
đô la Mỹ. Thậm chí, Bretton Woods gắn với chế độ tỷ giá cố định cũng bị sụp đổ.
Nguyên nhân là do tỷ giá luôn biến động, đó là một tất yếu khách quan và sự biến
động của tỷ giá xuất phát từ quan hệ cung cầu về các đồng tiền liên quan. Đây là quy
luật khách quan của nền kinh tế, do đó mọi biện pháp can thiệp trực tiếp và gượng ép
đều sẽ gây ra những hậu quả xấu cho nền kinh tế.
9
Như vậy, sự biến động của tỷ giá là một thực tế khách quan, nó xuất phát từ sự
biến động của cung cầu các đồng tiền. Cung cầu các đồng tiền chịu ảnh hưởng của bởi
nhiều yếu tố và chính các yếu tố này là nguyên nhân gây ra biến động tỷ giá.
1.2.2.2 Những nguyên nhân gây biến động tỷ giá
Tỷ giá hối đoái được hiểu là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo đồng tiền
trong nước. Đây là giá cả của ngoại tệ trên thị trường và được xác định dựa trên quan
hệ cung cầu về ngoại tệ. Được coi là mấu chốt trong quản lý kinh tế vĩ mô, tỷ giá có
tác động ngược trở lại các mối quan hệ kinh tế, lên giá cả hàng hóa trong nước và lưu
thông tiền tệ…
Sự hình thành tỷ giá là quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan. Nhưng nhìn chung, có ba yếu tố chính tác động đến tỷ giá. Đó là mối quan hệ
cung cầu ngoại tệ, chênh lệch về lãi suất và lạm phát giữa các nước, ngoài ra còn có
các nhân tố khác như chính sách của chính phủ, kỳ vọng và tâm lý,…
* Yếu tố lạm phát:
Xét về mặt lý thuyết, nếu các yếu tố khác như nhau, khi tỷ lệ lạm phát của một
nước tăng tương đối so với lạm phát của một nước khác, mức cầu đồng tiền nước đó
giảm vì giá cao hơn so với nước kia. Ngoài ra, người tiêu dung và các doanh nghiệp
trong nước có lạm phát cao có xu hướng tăng nhập khẩu. Cả hai yếu tố này tạo áp lực
giảm giá đồng tiền của nước có lạm phát cao. Tỷ lệ lạm phát thường khác nhau giữa
các quốc gia, tạo nên các kiểu mậu dịch quốc tế để điều chỉnh thích hơp ảnh hưởng
của lạm phát đến tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái cân bằng sẽ thay đổi theo thời gian khi cung – cầu các đồng tiền
thay đổi. Sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát tương đối sẽ ảnh hưởng đến hoạt động
thương mại, từ đó tác động đến cung – cầu tiền, và vì thế tác động đến tỷ giá hối đoái.
* Yếu tố lãi suất :
Lãi suất là một trong những công cụ được các chính phủ sử dụng trong quản lý
vĩ mô nền kinh tế, nó kích thích tập trung nguồn lực tài chính và phân bổ nguồn lực đó
10
một cách có hiệu quả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ổn định mục tiêu của chính sách
tiền tệ quốc gia. Đặc biệt, lãi suất còn là công cụ được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối
đoái trên thị trường, điều chỉnh giá trị đối ngoại của đồng nội tệ. Chính sách lãi suất
cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của đồng nội tệ, bởi vì nó hấp dẫn các luồn vốn
nước ngoài chảy vào trong nước, nếu lãi suất trong nước cao hơn lãi suất nước ngoài
hay lãi suất ngoại tệ sẽ dẫn đến những dòng vốn chảy vào hay sẽ làm chuyển hóa
lượng ngoại tệ trong nền kinh tế sang đồng nội tệ để hưởng lãi suất cao hơn. Điều này
làm cho tăng cung ngoại tệ trên thị trường (cũng có nghĩa làm tăng cầu đối với đồng
nội tệ), từ đó đồng ngoại tệ sẽ có xu hướng giảm giá trên thị trường, hay đồng nội tệ sẽ
tăng giá. Trong trường hợp ngược lại, nếu lãi suất trong nước thấp hơn so với lãi suất
nước ngoài hay lãi suất ngoại tệ, đồng ngoại tệ có xu hướng tăng giá trên thị trường
hay đồng nội tệ sẽ giảm giá.
* Cán cân thanh toán quốc tế :
Cung cầu ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến
động của tỳ giá hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác
nhau, trong đó có cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa
có thể dẫn đến khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Khi nền kinh
tế có mức tăng trưởng ổn định, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng, do đó nhu cầu
về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu sẽ tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi
vào tình trạng suy thoái thì các hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu bị
đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa được
điểu chỉnh kịp thời, trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao.
* Chính sách của chính phủ:
Chính phủ của bất kỳ một nước nào cũng có thể thực hiện các chính sách thuế
khóa và tiền tệ riêng của mình để kiểm soát nền kinh tế. Xét trên góc độ chính sách
tiền tệ, chính phủ có thể tác động đến giá trị của đồng nội tệ để cải thiện kinh tế, hạ giá
hoặc tăng giá đồng nội tệ khi cần. Về cơ bản, tỷ giá hối đoái trở thành một công cụ,
giống như các luật lệ về thuế và mức cung tiền, qua đó có thể giúp chính phủ đạt được
11
các mục tiêu kinh tế mong muốn. Mỗi nước có một cơ quan chính phủ có thể can thiệp
thị trường ngoại hối để khống chế giá trị của một đồng tiền, thông thường là ngân hàng
trung ương (NHTW).
Chính phủ có thể tác động đến tỷ giá hối đoái bằng phương pháp trực tiếp hay gián
tiếp:
- Can thiệp trực tiếp: các NHTW có thể tác động đến tỷ giá bằng cách trực tiếp
mua vào ngoại tệ hoặc bán nội tệ ra thị trường. Khi NHTW can thiệp vào thị trường
hoái đối mà có sự điều chĩnh thay đổi mức cung tiền tệ, điều này gọi là can thiệp
không vô hiệu hóa. Ngược lại, nếu muốn can thiệp vào thị trường hoái đối, trong khi
vẫn duy trì mức cung tiền tệ, NHTW sẽ sử dụng can thiệp vô hiệu hóa bằng cách áp
dụng các giao dịch trên thị trường ngoại hối đồng thời với các hoạt động trên thị
trường mở.
- Can thiệp gián tiếp : NHTW có thể tác động đến đồng nội tệ một cách gián tiếp
bằng cách tác động đến các yếu tố ảnh hưởng đến đồng nội tệ như lãi suất, các biện
pháp kiềm chế lạm phát,…Một chính phủ cũng có thể tác động đến tỷ giá hoái đối
bằng cách áp đặt các hàng rào đối với tài chính và mậu dịch quốc tế như thuế nhập
khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, thuế đánh trên bất kỳ thu nhập nào do đầu tư ở nước đó
của các nhà đầu tư ngoại quốc.
* Kỳ vọng và tâm lý:
Kỳ vọng của thị trường vào tỷ giá tương lai cũng là một trong những nhân tố
tác động đến tỷ giá. Như các thị trường tài chính khác, thị trường ngoại hối phản ứng
lại với các thông tin trong tương lai có liên quan đến tỷ giá. Ví dụ thông tin dự đoán
nền kinh tế Mỹ sẽ yếu đi trong thời gian tới có thể làm những nhà đầu cơ bán đồng
USD. Điều này gây áp lực giảm giá trị đồng USD ngay lập tức. Và nếu người tiêu
dùng có tâm lý thích dùng hàng ngoại hơn hàng nội thì sẽ làm tăng cầu nhập khẩu từ
đó làm tăng cầu ngoại tệ, tỷ giá tăng lên. Hay người sở hữu vốn có tâm lý giảm sự tin
tưởng vào một đồng tiền sẽ làm cầu đồng tiền đó giảm. Điều này sẽ tác động làm đồng
tiền đó có xu hướng giảm giá trên thị trường, tỷ giá sẽ thay đổi.
12
Giới đầu cơ cũng là tác nhân gây ra sự biến động tỷ giá. Các nhà đầu cơ hoạt động
dựa trên kỳ vọng về sự biến động của tỷ giá trong tương lai. Họ sẽ tăng mua những
đồng tiền nào mà họ kỳ vọng là sẽ tăng giá trong tương lai, do đó tác động lên cung
cầu ngoại tệ làm cho tỷ giá thay đổi.
Những yếu tố này không tác động một cách riêng lẻ mà chúng tác động cùng lúc
lên cung cầu ngoại tệ từ đó làm thay đổi tỷ giá và kết quả là khó có thể dự đoán chính
xác tỷ giá sẽ biến động như thế nào và biến động bao nhiêu. Việc xác định chính xác
tỷ giá sẽ biến động ra sao trong tương lai là một bài toán vô cùng phức tạp, bài toán
này chứa nhiều biến số và việc dự đoán sự thay đổi của các biến số này vốn dĩ đã
không phải là chuyện dễ thực hiện. Do đó, mặc dù hiện nay đã có những chương trình
hay kỹ thuật dự đoán tỷ giá hiện đại đặc biệt trong kinh doanh ngoại hối, song không
ai có thể dự đoán chính xác tỷ giá sẽ biến động như thế nào.
Sự biến động của tỷ giá đưa đến hai vấn đề. Thứ nhất, tỷ giá biến động gây ra
những rủi ro cho những chủ thể có hoạt động liên quan đến tỷ giá, đó là những doanh
nghiệp xuất nhập khẩu, những nhà đầu tư, những người đi vay, cho vay bằng ngoại tệ
và cả các ngân hàng. Thứ hai, tỷ giá biến động là mảnh đất màu mỡ để các nhà đầu cơ
tìm kiếm cơ hội kiếm lời. Họ tồn tại khi nào còn có sự biến động của tỷ giá, họ không
quan trọng tỷ giá biến động theo hướng nào cái chính họ cần là phải có sự biến động
của tỷ giá .
Trước sự biến động của tỷ giá và những hệ quả của nó, công cụ phái sinh đã ra đời
và hỗ trợ đắc lực cho các chủ thể phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hoặc mong muốn kiếm
lời từ sự biến động của tỷ giá.
1.3 Những nhân tố tác động đến việc phát triển thị trường ngoại hối của một quốc
gia
1.3.1 Tác động của quy luật thị trường
Trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại của
các chủ thể trong nền kinh tế đều phải vận hành theo quy luật khách quan của thị
trường, đó là quy luật giá trị, quy luật cung-cầu, quy luật cạnh tranh. Những quy luật
13
này chi phối việc lập kế hoạch, chiến lược sản xuất và kinh doanh của các doanh
nghiệp, các cá nhân, tổ chức tài chính có giao dịch liên quan đến ngoại tệ, tác động đến
nhu cầu về ngoại tệ của những chủ thể đó sẽ thay đổi dẫn đến sự biến động của tỷ giá
là giá cả của hàng hóa trên TTNH. Nếu một cơ chế tỷ giá cứng ngắc sẽ làm triệt tiêu
động lực bảo hiểm rủi ro tỷ giá và ngăn cản những người tham gia thị trường phát triển
kỷ năng quản lý rủi ro ngoại hối và làm chậm sự phát triển của thị trường phái sinh.
Ngược lại, tỷ giá biến động dẫn đến làm thay đổi lợi nhuận của các chủ thể có giao
dịch liên quan đến ngoại tệ và làm tăng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Cũng như tạo
cơ hội cho nhà đầu cơ tham gia mua bán tiền tệ để tìm kiếm lợi nhuận thông qua sự kỳ
vọng về biến động của tỷ giá.
Một TTNH được điều hành và hoạt động bằng những biện pháp hành chính, áp đặt
tỷ giá theo ý muốn chủ quan của nhà điều hành tách rời với giá thị trường sẽ vi phạm
quy luật giá trị và quy luật cung cầu. Khi đó tỷ giá chính thức chỉ mang tính danh
nghĩa, giao dịch trên hệ thống ngân hàng sẽ bị thu hẹp lại, tạo cơ hội cho thị trường
không chính thức hoạt động.
TTNH sẽ triệt tiêu sự cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia thị trường bằng những
chính sách ưu tiên cho chủ thể kinh tế nhà nước hơn các chủ thể kinh tế khác, khi đó sẽ
dẫn tới những hành vi tiêu cực trong kinh doanh hạn chế sự phát triển của thị trường.
Tôn trọng quy luật khách quan của thị trường sẽ tạo điều kiện cho thị trường vận
hành đúng với chức năng vốn có của nó. Vấn đề đặt ra cho những nhà quản lý là hãy
lập và điều hành chính sách phù hợp với cơ chế thị trường để thông qua qui luật thị
trường đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra.
1.3.2 Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
Xu hướng phát triển kinh tế của các quốc gia hiện nay là hướng tới hội nhập kinh
tế, là mở cửa nền kinh tế và tùy thuộc vào mỗi quốc gia mà có mức độ mở cửa khác
nhau. Điều này nói lên rằng các quốc gia không thể tự thỏa mãn nhu cầu của chính
mình, mà phải tiến hành chuyên môn hóa sản xuất xuất khẩu những hàng hóa và dịch
vụ có lợi thế so sánh và nhập khẩu những hàng hóa và dịch vụ không có lợi thế so
14
sánh. Như vậy, khi quá trình toàn cầu hoá càng phát triển, mức độ mở cửa của các nền
kinh tế càng lớn thì chu chuyển hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia sẽ càng tăng,
hoạt động thương mại quốc tế sẽ ngày càng phát triển. Và một khi còn tồn tại các đồng
tiền khác nhau giữa các quốc gia, giữa các khu vực thì dẫn đến nhu cầu trao đổi tiền tệ
càng nhiều để đáp ứng với đà phát triển của thương mại và dịch vụ quốc tế từ đó tác
động đến hoạt động của TTNH.
Bên cạnh chu chuyển hàng hóa và dịch vụ phát triển, toàn cầu hóa còn đưa đến
việc mở cửa trong lĩnh vực chu chuyển vốn quốc tế. Một quốc gia mở cửa TTTC sẽ
mang lại những lợi ích nhất định, tăng nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng và phát
triển sản xuất. Những nhà đầu tư, những người đi vay sẽ có cơ hội tiếp cận với các
dòng vốn có chi phí và lãi suất cạnh tranh thông qua TTTC, bên cạnh đó trên TTTC
quốc tế còn cho phép những nhà đầu tư tài chính tìm kiếm khả năng sinh lời cao và
giảm được rủi ro thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư quốc tế. Như vậy, khi mở
cửa TTTC sẽ tạo điều kiện để quá trình luân chuyển vốn giữa các quốc gia phát triển
nhu cầu chuyển đổi tiền tệ sẽ càng tăng giúp cho hoạt động trên TTNH phát triển.
Đây là một tác động vừa mang yếu tố khách quan vừa có yếu tố chủ quan: khách
quan là bởi vì nền kinh tế thế giới hiện nay đứng trước nhu cầu về lương thực, thực
phẩm, nguyên liệu càng gia tăng mà nguồn tài nguyên càng cạn kiệt thì sự liên kết hợp
tác để tận dụng những thế mạnh của những quốc gia, khu vực khác là sự vận động theo
quy luật phát triển tự nhiên của nền kinh tế thị trường, còn chủ quan là tùy thuộc vào
chính sách mức độ hội nhập cuả từng quốc gia. Khi một nền kinh tế mở cửa với thế
giới, nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng trưởng mạnh cùng với luồng vốn đầu tư nước ngoài để
phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là trong trường hợp Việt Nam khi khoảng
90% tổng giá trị nhập khẩu là hàng tư liệu sản xuất và xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều
vào cung cầu và giá cả trên thị trường thế giới.
Những biến động của giá nguyên vật liệu cũng như cầu giảm sút do khủng hoảng
kinh tế là những nhân tố ảnh hưởng đến nhập siêu của Việt Nam và ảnh hưởng đến
nguồn cung cầu ngoại tệ.
15
Quá trình tự do hóa kiểm soát ngoại hối vừa thúc đẩy sự phát triển của TTLNH vừa
tạo điều kiện cho thị trường ngoại tệ phái sinh hoạt động bởi vì trong thế giới mà chính
sách tỷ giá thả nổi được toàn cầu hóa, thì rủi ro tỷ giá sẽ gia tăng một cách mạnh mẽ
và những nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà đầu tư cũng như các ngân hàng sẽ gia
tăng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động thuận lợi tạo cơ hội cho TTNH phát triển thì
quá trình mở cửa sẽ làm cho nền kinh tế của một quốc gia đối mặt với những biến
động từ bên ngoài. Trong một thế giới mà ở đó các thị trường liên kết với nhau sẽ làm
cho mức tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá và tỷ lệ lạm phát … của các quốc gia sẽ
chịu ảnh hưởng lẫn nhau và nếu đó là những sự kiện như khủng hoảng kinh tế, tài
chính của khu vực sẽ làm suy giảm hoạt động sản xuất kinh doanh của các quốc gia,
giảm kim ngạch xuất nhập khẩu, tác động đến doanh số giao dịch trên TTNH sẽ sụt
giảm.
Bên cạnh đó, còn có tác động của các yếu tố: sự phát triển công nghệ thông tin, qui
mô ngày càng lớn của các giao dịch tài chính và những rào cản về tài chính thương
mại bị bãi bỏ theo yêu cầu của hội nhập, đã dẫn đến sự tăng tốc độ chu chuyển các
luồng vốn và trao đổi thương mại, hình thành nên một mạng lưới tài chính toàn cầu với
sự gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các trung tâm tài chính. Những tin tức thị trường
mau chóng lan truyền giữa các châu lục và tạo ra phản ứng dây chuyền trong việc ra
quyết định của các nhà đầu tư, đầu cơ trên toàn cầu cũng như dễ dàng gây ra hiệu ứng
“domino” trên toàn cầu khi một thị trường tài chính của khu vực nào bị khủng hoảng
1.3.3 Chính sách quản lý ngoại hối của quốc gia
TTNH của mỗi quốc gia là nơi mà các chính sách kinh tế, tiền tệ được thực hiện,
những chính sách này sẽ tác động đến hoạt động và phát triển của TTNH mà trực tiếp
là chính sách quản lý ngoại hối. Quản lý ngoại hối hay còn được gọi là kiểm soát ngoại
hối, là một hệ thống những qui định pháp lý mà trong đó có những hạn chế trong trao
đổi, vay, mượn, những khoản thu và chi trong cán cân thanh toán của một quốc gia.
16
Đối với những mục tiêu đầu tư quốc tế quản lý ngoại hối nhằm kiểm soát, quản lý các
luồng vốn di chuyển vào và ra khỏi quốc gia.
Vì thế, chính sách quản lý ngoại hối bao gồm: chính sách tỷ giá, chính sách kết hối,
chính sách lưu thông, kinh doanh và thanh toán ngoại hối vv.. Xây dựng và thực hiện
chính sách quản lý ngoại hối là nhằm đạt mục tiêu ổn định TTNH, tạo sự cân bằng
trong cán cân thanh toán quốc tế, ổn định giá trị tiền tệ, bảo tồn nguồn vốn trong nước
và thu hút đầu tư nước ngoài tạo điều kiện ổn định và phát triển kinh tế.
1.3.3.1 Chính sách tỷ giá
Chính sách tỷ giá là những chủ trương biện pháp của chính phủ thông qua cơ chế
điều hành nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến
một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
Trong một nền kinh tế mở, động cơ hoạch định chính sách là những mục tiêu cân
đối bên trong và cân đối bên ngoài. Tuy nhiên những mục tiêu này có quan hệ mật
thiết với nhau, những thay đổi cân đối bên trong sẽ tác động đến những thay đổi bên
ngoài và ngược lại. Hơn nữa, trong xu thế hội nhập hiện nay những yếu tố của cân đối
bên trong còn chứa đựng những yếu tố bên ngoài và ngược lại.
Tỷ giá là một biến số kinh tế quan trọng, tác động đến nền kinh tế với mức ảnh
hưởng khác nhau ở các mặt hoạt động khác nhau, với TTNH chính sách tỷ giá sẽ có
những tác động trực tiếp và gián tiếp như sau:
(1) Một tỷ giá hối đoái phản ánh đúng cung cầu ngoại tệ trên thị trường sẽ có tác
động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và phát triển sản xuất, lưu thông
hàng hoá gia tăng lượng ngoại tệ trên TTNH.
(2) Tỷ giá được xác định đúng là giá cả của thị trường sẽ tạo cơ sở cho các giao
dịch trên TTNH phát triển.
(3) Một chế độ tỷ giá phù hợp sẽ tạo điều kiện nâng cao uy tín đồng bản tệ, tạo
niềm tin cho các nhà đầu tư quốc tế thu hút luồng vốn đầu tư chảy vào gia tăng lượng
ngoại tệ tạo cơ hội cho dòng chảy ngoại tệ được thông suốt.
17
Lựa chọn một chính sách tỷ giá hợp lý phải tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế, thể chế
chính trị, phương hướng phát triển kinh tế và nhất là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
của từng quốc gia trong từng thời kỳ.
Xuất phát từ mục tiêu đặt ra và những tác động của chính sách, chính sách tỷ giá
gồm 2 nội dung chính như sau:(i) Xác định một chế độ tỷ giá phù hợp (ii) Xác định hệ
thống các công cụ tác động đến tỷ giá.
Chế độ tỷ giá (exchange rate regime) hay còn gọi là cơ chế tỷ giá (exchange rate
mechanism) phản ảnh cách thức xác định tỷ giá mà chính phủ lựa chọn và cách thức
can thiệp vào tỷ giá của NHTW, vì thế chế độ tỷ giá được phân chia thành các chế độ
tỷ giá đặc trưng là:
Chế độ tỷ giá cố định: là chế độ theo đó NHTW công bố và cam kết để duy trì tỷ
giá cố định (gọi là tỷ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được định trước. Vai trò
của NHTW buộc phải mua vào hay bán ra đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm
duy trì tỷ giá cố định và chỉ biến động trong một biên độ hẹp.
Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn: là chế độ tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do
theo qui luật cung cầu trên TTNH mà không có bất kỳ sự can thiệp nào của
NHTW.Vai trò của NHTW chỉ tham gia trên TTNH với tư cách là một thành viên bình
thường, nghĩa là NHTW có thể mua hay bán một đồng tiền nhất định để phục vụ cho
mục đích hoạt động của mình chứ không nhằm mục đích can thiệp lên tỷ giá hay để cố
định lên tỷ giá. Trên thực tế tuy tuyên bố áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi nhưng chính
phủ không hoàn toàn thờ ơ trước sự biến động thất thường của tỷ giá, nên cũng có can
thiệp để giảm sự biến động của tỷ giá, tuy nhiên can thiệp của chính phủ là tùy ý
không đặt ra bất cứ mục tiêu bắt buộc nào phải đạt được.
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: là chế độ tỷ giá, theo đó NHTW tiến hành can
thiệp tích cực trên TTNH nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất định.
NHTW không cam kết duy trì một mức tỷ giá cố định nào, nhưng cam kết can thiệp để
tỷ giá chỉ biến động trong một giới hạn. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là sự kết hợp
giữa chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn và chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
18
Trong thực tế hầu như ít có một quốc gia nào áp dụng chế độ tỷ giá cố định hoặc
thả nổi thuần tuý mà thay vào đó là một chính sách tỷ giá kết hợp giữa thả nổi và cố
định với những đặc trưng đa dạng phù hợp với đặc điểm của từng quốc gia.
Chế độ tỷ giá là công cụ của chính sách kinh tế cuả chính phủ vì vậy chế độ tỷ giá
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chính phủ, mỗi quốc gia sẽ có nguyên tắc xác định
tỷ giá và cơ chế điều hành tỷ giá khác nhau và chính từ đó hình thành các chính sách
tỷ giá khác nhau. Nội dung chính của chính sách tỷ giá chính là chế độ tỷ giá và hệ
thống các công cụ can thiệp. Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ xác định chiến lược phát triển
kinh tế, dự trữ ngoại hối, đặc thù về hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia mà có sự lựa
chọn những chính sách tỷ giá khác nhau.
1.3.3.2 Chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trên tài khoản
vãng lai
Theo Nghị định 160/2006 giao dịch vãng lai là những giao dịch của người cư trú và
không cư trú không vì mục đích chuyển vốn, như vậy, những giao dịch đó bao gồm
các khoản thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch
vụ, các khoản thu nhập từ đầu tư trực tiếp gián tiếp, các khoản tiền lãi và trả lãi nước
ngoài, các khoản chuyển tiền một chiều cho mục đích tiêu dùng. Quản lý ngoại hối đối
với giao dịch trên tài khoản vãng lai gồm những nội dung cụ thể sau:
Theo dõi nguồn thu xuất khẩu
Mỗi quốc gia với trình độ phát triển kinh tế nhất định và với lợi ích của nước đó sẽ
có những chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trên tài khoản vãng lai
khác nhau, qua đó sẽ có quy định về việc kiểm tra quản lý các nguồn thu xuất khẩu,
khi lượng ngoại tệ trong nước quá ít thì các nước thường có chính sách tập trung ngoại
tệ vào một đầu mối do nhà nước quản lý để tăng mức dự trữ ngoại hối cho quốc gia và
cân đối cung cầu ngoại tệ của đất nước, như có quốc gia thực hiện chính sách buộc
phải bán lại tất cả những khoản ngoại tệ từ thu xuất khẩu cho ngân hàng hay thực hiện
chính sách kết hối có tỷ lệ qui định. Những quy định về kiểm soát ngoại hối như vậy
19
sẽ gây bất lợi cho việc phát triển TTNH mà những nước trong khu vực Đông Nam Á
đã từng thực hiện trước đây.
Giám sát việc thanh toán nhập khẩu
Là những biện pháp nhằm quản lý cầu ngoại tệ, để đảm bảo khả năng thanh toán
tiền hàng nhập khẩu, thường có những biện pháp như hạn chế nhập khẩu những hàng
hóa xa xỉ, ưu tiên cho hàng hóa là máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất, áp dụng
những qui định về các chứng từ bắt buộc phải xuất trình khi thanh toán và qui trách
nhiệm kiểm tra chứng từ, xuất trình chứng từ chứng minh nguồn gốc hợp pháp, hợp lệ
của khoản tiền thanh toán, nhằm quản lý chặc chẽ việc sử dụng ngoại tệ và đáp ứng
những yêu cầu của các qui định trong công ước chống rửa tiền mà hiện nay hầu hết các
quốc gia trên thế giới đều có tham gia.
Chính sách kiều hối
Kiều hối là ngoại tệ do người không cư trú chuyển về cho người cư trú trong nước.
Đây là nguồn cung ứng ngoại tệ cho quốc gia mà không có những rủi ro hay phải trả
lãi như những nguồn vốn vay của nước ngoài. Vì thế các quốc gia thường tạo mọi điều
kiện dễ dàng cho hoạt động kiều hối, từ việc sử dụng mức phí hấp dẫn đến rút ngắn
thời gian nhận tiền, cho phép nhận ngoại tệ mặt hay mở tài khoản tiết kiệm bằng ngoại
tệ vv…Tuy nhiên mỗi quốc gia sẽ có những biện pháp để quản lý nguồn ngoại tệ này,
nhằm hạn chế tình trạng đola hóa và nâng cao hiệu quả nguồn ngoại tệ này.
Chính sách mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài
Ban hành những quy định về việc được mua, chuyển ngoại tệ, hay những quy định
cụ thể về số lượng ngoại tệ mặt được phép mang theo khi xuất ngoại hay khi nhập
cảnh. Trong nước có hạn chế hay thả nổi việc thanh toán, cất giữ, định giá bằng ngoại
tệ của người cư trú.
Mở tài khoản ngoại tệ tại nước ngoài
Ngoại tệ của người cư trú nằm trong tài khoản ở nước ngoài có thể được xem là
khoản đầu tư ra nước ngoài, vì thế đối tượng này cũng phải được quản lý bằng những
20
qui định về việc mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài, về mục đích và cách sử dụng tài
khoản của người cư trú là cá nhân hay các tổ chức.
Tóm lại, quản lý ngoại hối trên tài khoản vãng lai có thể được áp dụng theo những
chính sách thắt chặt hay tự do.
Áp dụng những chính sách quản lý ngoại hối thắt chặt như nhà nước độc quyền
trong hoạt động ngoại thương, hoạt động thanh toán quốc tế chỉ do nhà nước thực
hiện, tất cả những giao dịch chuyển ngoại tệ vào phải bán lại cho nhà nước, nếu muốn
chuyển tiền ra phải được sự cho phép của nhà nước mà đại diện là NHNN. Hay nới
lỏng hơn là những chính sách mà nhà nước không độc quyền về hoạt động ngoại
thương nhưng giám sát chặt chẽ nguồn ngoại tệ thu được buộc phải bán cho nhà nước,
hay nhà nhập khẩu chỉ được mua ngoại tệ thông qua ngân hàng theo tỷ giá của nhà
nước ấn định trong từng thời kỳ, mà tỷ giá này thường theo ý muốn chủ quan của nhà
nước chứ không phải do cung cầu trên thị trường xác định.
Ngược lại, chính sách quản lý ngoại hối tự do đối với những giao dịch trên tài
khoản vãng lai, là nhà nước chỉ giám sát để đảm bảo những hoạt động thanh toán hay
những giao dịch liên quan đến ngoại tệ có hợp pháp hay không, không cần phải xin
giấy phép cho những khoản chuyển tiền một chiều ra nước ngoài, hay được ngân hàng
cung ứng ngoại tệ theo nhu cầu hợp pháp, hợp lý theo tỷ giá thị trường.
1.3.3.3 Chính sách quản lý ngoại hối đối với tài khoản vốn
Quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư
Là những quy định đối với các giao dịch trên tài khoản vốn nhằm mục đích thu hút,
quản lý hiệu quả các luồng vốn đầu tư nước ngoài và các luồng vốn đầu tư ra nước
ngoài. Giao dịch vốn(GDV) là những giao dịch chuyển vốn giữa người cư trú và người
không cư trú trong các lĩnh vực liên quan đến đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, vay trả
nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài.
Việc quản lý các giao dịch trên tài khỏan vốn có thể thực hiện theo những biện
pháp:
21
Một là, là quản lý chặt chẽ những luồng vốn vào và ra khỏi đất nước, chỉ có các tổ
chức nhà nước mới được thực hiện chu chuyển vốn theo đúng qui định của nhà nước,
như vậy chỉ có những khoản đầu tư tài trợ, theo đúng nghĩa viện trợ không hoàn lại, là
được nhận vốn đầu tư cũng như chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài và thường việc
chuyển vốn này giữa các quốc gia nhằm mục đích phi lợi nhuận.
Hai là, tự do hóa GDV là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp dụng đối với
những giao dịch này. Đối với người dân, tự do hóa GDV cho phép họ thực hiện các
hoạt động ở nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia hoạt động đầu tư nhằm
đạt lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hữu những công ty khác,
các luồng vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang nơi có tỷ suất
sinh lợi cao.
Tự do hóa GDV sẽ mang lại những lợi ích sau:
- Hình thành sự bình đẳng trong hoạt động đầu tư tài chính, các luồng vốn luân
chuyển linh hoạt và hiệu quả, tạo điều kiện tiếp cận các luồng vốn quốc tế, tăng vốn
đầu tư trong nước, phát triển thị trường tài chính.
- Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn vốn, giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn
trong và ngoài nước với chi phí thấp, nâng cao tính tự chủ của nhà đầu tư;
- Việc mở cửa thị trường tín dụng làm tăng tính linh hoạt của các doanh nghiệp
trước những biến động về hàng hóa và lợi nhuận.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, tự do hóa GDV cũng tạo ra sự đa dạng hóa
các rủi ro phát sinh. Nếu chính sách vĩ mô không đủ mạnh và quản lý tài chính yếu
kém, việc gia tăng luồng vốn vào quá mức sẽ gây ra những rủi ro đáng kể đối với nền
kinh tế.
Những rủi ro do quá trình tự do hóa GDV mang lại:
- Tự do hóa GDV tác động mạnh đến hệ thống ngân hàng, cả chính sách tiền tệ của
NHTW và hoạt động kinh doanh của các TCTD, các tập đoàn và ngân hàng lớn ngày
càng có ảnh hưởng mạnh đến chính sách của các quốc gia. Quá trình tự do hóa GDV
22
ảnh hưởng đến các NHTM – thành viên trực tiếp tham gia các GDV quốc tế và thông
qua hoạt động của những khu vực khác trong nền kinh tế, gây khó khăn về quản lý tài
sản, nhất là trong việc điều chỉnh tỉ giá, lãi suất, phòng ngừa rủi ro nhằm cân bằng lợi
ích giữa việc nắm giữ ngoại tệ và nội tệ cũng như cơ cấu tiền gửi và cho vay.
- Trong quá trình tự do hóa GDV, các luồng vốn vào ngày càng tăng mạnh. Khi
luồng vốn vào quá mức có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế quá nóng, nếu tiền cung
ứng tăng quá mức so với tăng trưởng GDP thực tế sẽ làm tăng tổng phương tiện thanh
toán (M2), gây áp lực lạm phát và biến động về tỉ giá hối đoái, làm tăng thâm hụt cán
cân vãng lai, nhất là khi sản xuất trong nước phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu,
tiềm ẩn rủi ro cán cân thanh toán và tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Trong xu thế toàn cầu hóa, chu chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia tăng mạnh
cả về qui mô và tốc độ, mỗi quốc gia cần có chính sách và biện pháp đối phó thích hợp
nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững.
Quản lý ngoại hối đối với hoạt động vay trả nợ nước ngoài
Vay nợ nước ngoài là khoản vay của các NHTM, các tổ chức tín dụng nước ngoài
dành cho các chủ thể được phép. Khoản vay này thường được tính bằng ngoại tệ
mạnh, sau một thời gian các chủ thể phải hoàn trả khoản vốn vay và lãi vay cho các tổ
chức nói trên.
Các khoản vay nợ nước ngoài của một quốc gia có hai loại: vay thương mại và các
khoản vay ưu đãi.
Thường trong cơ cấu nợ vay nước ngoài của các quốc gia đang phát triển các
khoản vay ưu đãi chiếm phần lớn vì các khoản vay này có lãi suất thấp, thời hạn dài và
thường có một phần là viện trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, để có được khoản vay này,
các nước thường phải chịu ràng buộc về mặt kinh tế, chính trị nhất định.
Việc vay nợ nước ngoài tạo nên nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi khi hợp đồng vay vốn
đến hạn. Đây là nghĩa vụ bắt buộc, dễ dẫn đến khả năng không hoàn trả được nợ, vỡ
23
nợ, gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, đặc biệt là ảnh hưởng đến hệ thống tài chính,
tiền tệ. Vì vậy, các nước thường giám sát và quản lý chặc chẽ khoản vay này.
1.4 Kinh nghiệm các nước
Việt Nam xây dựng và phát triển TTNH trong bối cảnh trên thế giới đã có
những TTNH của các khu vực và thế giới, vì thế Việt Nam có thể kế thừa kinh nghiệm
của các quốc gia trong khu vực mà có những yếu tố kinh tế nền tảng tương đồng với
Việt Nam. Tuy nhiên kinh nghiệm vận hành và phát triển thị trường sẽ tùy thuộc vào
những điều kiện cơ sở của mỗi quốc gia, vấn đề quan trọng là học hỏi kinh nghiệm về
điều hành chính sách tỷ giá cũng như quản lý ngoại hối để vừa tạo cơ sở phát triển
TTNH vừa đảm bảo an toàn hệ thống tài chính trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay.
Kinh nghiệm của Singapore
Theo xếp loại của IMF, chính sách tỷ giá của Singapore là thả nổi có điều tiết,
tuy nhiên theo Singapore chế độ tỷ giá của họ có những đặc điểm rất riêng, là chế độ
tỷ giá dựa trên một rổ tiền tệ, có biên độ dao động rộng và điều chỉnh theo định kỳ. Tỷ
trọng của các ngoại tệ trong rổ căn cứ vào mức độ tham gia vào hoạt động thương mại
quốc tế của các đối tác của Singapore, loại tiền tệ và tỷ trọng được điều chỉnh tùy
thuộc vào sự thay đổi trong hoạt động thương mại của Singapor, tuy nhiên Cơ quan
quản lý tiền tệ của Singapore(MAS) không công bố cụ thể thành phần của rổ tiền tệ
cũng như tỷ trọng của các loại tiền.Với mục tiêu theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi có
điều tiết MAS sẽ can thiệp nếu như tỷ giá SGD vượt quá biên độ dao động và hướng
dao động có thể tăng lên hoặc giảm xuống tùy thuộc vào sự biến động của các chỉ số
kinh tế cơ bản, Singapor được xem là quốc gia thành công nhất khi theo đuổi chính
sách tỷ giá thả nổi có điều tiết với các đặc điểm riêng với tên gọi là BBC (Basket Band
Crawl). Nó được xem là hình mẫu cho các chế độ tỷ giá của Trung Quốc cũng như các
quốc gia thuộc Asean.
NHTW Singapore thiết lập ủy ban theo dõi và giám sự phát triển của TTNH gọi
là Ủy ban ngoại hối (Forex Exchange Committee) bao gồm MAS và các NHTM.
24
Một trong những chiến lược kiểm soát khu vực kinh tế đối ngoại là kiểm soát
chặc chẽ các giao dịch ngoại hối giữa người cư trú và người không cư trú thông qua số
liệu thanh toán quốc tế của các NHTM. Việc nộp muộn báo cáo hoặc báo cáo sai sẽ
chịu phạt nặng tính từ ngày đến hạn nộp báo cáo hoặc sửa sai báo cáo. Khi biết có
nhiều giao dịch không qua hệ thống NHTM, NHTW mở rộng phạm vi kiểm soát ngoại
hối bằng cách yêu cầu các công ty ngoại hối trực thuộc các NHTM báo cáo trực tiếp
tất cả các giao dịch ngoại hối cho NHTW, ngoài ra NHTW còn điều tra các giao dịch
qua biên giới hàng tháng để nắm bắt được tất cả các giao dịch mà hệ thống NHTM
không thống kê được.
Kinh nghiệm Thái Lan
Từ năm 1985 Thái Lan đã có những bước đi mạnh mẽ trong quá trình tự do hóa
giao dịch vốn nhằm thu hút dòng vốn nước ngoài, dỡ bỏ những điều kiện đối với dòng
vốn đầu tư trực tiếp, tự do hóa dòng vốn gián tiếp và vay nợ nước ngoài chỉ đăng ký
với NHNN, hạn chế dòng vốn đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên việc phát triển quá
nhanh TTCK với luồng vốn vào ồ ạt đã gây bất ổn cho thị trường, sau khủng hoảng đã
điều chỉnh quản lý chặc chẽ dòng vốn vào đồng thời thay đổi cơ chế tỷ giá trước
khủng hoảng tài chính năm 1997, Thái Lan duy trì việc thông báo tỷ giá hối đoái chính
thức, tỷ giá hối đoái chính thức cũng được neo với rổ tiền tệ, trong đó USD chiếm đến
90%. Tuy nhiên tỷ giá hối đoái chính thức được hủy bỏ hoàn toàn vào ngày 2/7/1997,
sau đó chính sách tỷ giá được thả nổi nhưng chưa hoàn toàn, NHTW sẽ can thiệp khi
thị trường có biến động lớn.
Kinh nghiệm của Philippine
NHTW Philippine (BSP) duy trì một chính sách tỷ giá thả nổi, tỷ giá được xác
định trên cơ sở cung –cầu trên TTNH. Tuy nhiên BSP sẳn sàng can thiệp khi tỷ giá
biến động bất thường. Tỷ giá được xác định theo thị trường là phù hợp với chính sách
cải cách theo định hướng thị trường của chính phủ và chiến lược cạnh tranh hướng
ngoại với giá cả ổn định và hiệu quả.
25
BSP được giao quyền hợp pháp và toàn diện trong việc qui định và giám sát
TTNH, theo đó BSP được phép chỉ định những nhà giao dịch và đại lý ngoại hối được
ủy quyền để giao dịch trên TTNH. Các NHTM được phép tự do kinh doanh trên tài
khoản ngoại tệ của mình mà không bị bắt buộc phải bán ngoại tệ cho NHTW như
trước năm 1985 và NHTW can thiệp vào TTNH thông qua một NHTM của nhà nước.
Ở Philippine giao dịch peso-dolla được thực hiện giữa các ngân hàng là thành
viên của Hiệp hội các NH của Philippine (Bankers Association of the Philippines-
BAP) và giữa những NH này với NHTW thông qua hệ thống giao dịch Philippine (
Philippine Dealing System-PDS), nếu những NH không phải là thành viên của BAP sẽ
giao dịch pesos-dollar thông qua màn hình Reuters Dealing, để giao dịch với đồng tiền
thứ ba hầu hết những ngân hàng đều sử dụng Reuters Dealing và dịch vụ tài chính của
Bloomberg.
NHTW Philippine đã thành lập Trung tâm giao dịch ngoại hối từ năm 1967, đây
là một dạng thị trường giao dịch tại một địa điểm cụ thể đã tạo điều kiện thuận lợi
đáng kể cho việc phát triển TTNH mới nổi.
Về quản lý ngoại hối Philippine và Indonesia cho phép người cư trú và không
cư trú được mở tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ và với khu vực kinh tế đối ngoại việc
kiểm soát các giao dịch ngoại hối bằng việc yêu cầu các tổ chức và cá nhân có giao
dịch ngoại hối báo cáo kết hợp đăng ký tại NHTW Philipine. Hệ thống quản lý này rất
khác biệt so với các nước khác và nước này rất thành công trong việc kiểm soát ngoại
hối thông qua việc sử dụng hệ thống đăng ký giao dịch.
Indonesia cơ chế xác định tỷ giá trên cơ sở “rổ” tiền tệ, tỷ giá hối đoái chính
thức có biên độ dao động, sau khi có khủng hoảng tài chính ở Thái Lan thì bỏ biên độ
nhưng cho phép tỷ giá dịch chuyển thông qua việc can thiệp vào thị trường ngoại hối.
Malaysia trước cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á, về nguyên tắc, tỷ giá hối đoái
được xác định bởi thị trường, nhưng NHTW Malaysia vẫn can thiệp nhằm ổn định tỷ
giá. Sau khủng hoảng, NHTW Malaysia nâng tỷ giá MYR lên 10% và gắn kết với
USD, kết hợp nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ ngoại tệ khi can thiệp vào thị trường
26
ngoại hối chứ không hoàn toàn sử dụng chính sách tiền tệ để ổn định tỷ giá đồng thời
áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn toàn diện.
Tóm lại với những kinh nghiệm của các quốc gia về phát triển TTNH, Việt Nam
có thể xem xét đó là: Thứ nhất, về chính sách tỷ giá để phát triển TTNH và giảm
những cú sốc do khủng hoảng kinh tế trong điều kiện hội nhập, là thực hiện chính sách
tỷ giá thả nổi không hoàn toàn, nhưng linh hoạt hơn và neo với rổ tiền tệ chứ không
neo chặt với một ngoại tệ (thường là USD). Nâng cao vai trò của NHNN trong quá
trình điều hành chính sách tỷ giá, theo xu hướng ổn định tỷ giá, can thiệp mạnh khi
cần thiết nhằm giảm bớt những tác động của khủng hoảng kinh tế và khu vực. Thứ hai,
quản lý ngoại hối nhằm mục đích đảm bảo thị trường có thể hoạt động hiệu quả, không
có những qui định hành chính gây cản trở nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện để kiểm
soát và quản lý hoạt động của thị trường tránh bị những hoạt động của giới đầu cơ làm
lũng đoạn thị trường và tác động đến an toàn hệ thống tài chính. Muốn vậy cần giám
sát luồng ngoại tệ ra, vào khỏi quốc gia chặc chẽ nhưng vẫn đảm bảo thực hiện qui
định tự do hóa giao dịch vãng lai và mở cửa có giới hạn giao dịch vốn. Nhằm mục
đích khơi thông dòng ngoại tệ tạo điều kiện cho TTNH phát triển nhưng vẫn đảm bảo
an toàn hệ thống tài chính quốc gia. Thứ ba,quan tâm đến việc thiết lập một khung thể
chế cho hoạt động của TTNH, phải có cơ quan chuyên trách về hoạt động ngoại hối để
tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động của TTNH, mở rộng đối tượng tham gia thị
trường và trang bị cơ sở hạ tầng, hệ thống thanh toán, trao đổi thông tin hiện đại, phát
triển cả thị trường giao dịch tập trung và không tập trung.
Kết luận chương 1
Chương 1 đã đưa ra những lý thuyết nghiên cứu trước đây về TTNH với đầy đủ
các khái niệm, đặc điểm, phân loại thị trường, các thành viên tham gia và những giao
dịch trên thị trường ngoại hối.
Bên cạnh đó, trong chương 1 luận văn cũng đã trình bày những nhân tố tác
động đến TTNH để làm cơ sở lý luận cho quá trình đánh giá và phân tích thực trạng
của TTNH.
27
Cuối chương 1, luận văn đã giới thiệu những kinh nghiệm về điều hành chính
sách tỷ giá và chính sách quản lý ngoại hối và cách thức tổ chức và quản lý TTNH của
các nước trong khu vực để làm cơ sở thực tiển cho những nhận định và các đề xuất nhằm phát triển TTNH Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế.
28
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM
2.1 Sơ lược sự hình thành và phát triển của Thị trường ngoại hối Việt Nam
Năm 1991 với Quyết định số 107/QĐ – NH ngày 16/8/1991 do NHNN ban hành về
“Thành lập trung tâm giao dịch ngoại tệ” là mốc đánh dấu cho sự hình thành một thị
trường ngoại hối có tổ chức ở Việt Nam. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền
kinh tế, đến 20/9/1994 “Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng” được thành lập theo
Quyết định số 203/QĐ – NH13 thay thế cho trung tâm giao dịch ngoại tệ. Thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng là bước phát triển cao hơn nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của
nền kinh tế như một tổng thể.
Như vậy, khi tìm hiểu về thị trường ngoại hối Việt Nam, chúng ta có thể chia thành
3 giai đoạn:
Trước năm 1991: giai đoạn Việt Nam chưa có thị trường ngoại hối có tổ chức
Từ năm 1991 đến 1994: giai đoạn hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ
Từ năm 1994 đến nay: giai đoạn hoạt động của Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Trong thời kỳ Việt Nam phát triển kinh tế theo cơ chế tập trung bao cấp, thị trường
nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng ở Việt Nam chưa có điều kiện hình thành
và phát triển. Nhà nước can thiệp sâu vào mọi mặt đời sống kinh tế xã hội đã ngăn
chặn khả năng phát huy tác dụng của quy luật cung cầu trên thị trường. Đồng thời với
chiến lược phát triển kinh tế hướng nội, các mối quan hệ kinh tế bên ngoài đều thông
qua hệ thống độc quyền của Nhà nước về ngoại tệ, điều này đã làm triệt tiêu mọi ảnh
hưởng của quy luật cung cầu trên thị trường, do đó chế độ tỷ giá Việt Nam áp dụng
trong thời kỳ này là chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá. Và nó đã gây ra hậu quả vô
cùng nghiêm trọng: đồng Việt Nam được định giá quá cao so với các đồng tiền tự do
chuyển đổi, tỷ giá chính thức ngày càng chênh lệch xa tỷ giá thực tế làm cho hoạt động
29
xuất nhập khẩu gặp khó khăn, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng nề. Cũng chính vì
tỷ giá VND/USD chính thức thấp hơn so với tỷ giá cân bằng đã khiến cho thị trường
ngoại hối tự do hình thành và phát triển. Mặc dù thị trường tự do không được pháp luật
công nhận nhưng nó vẫn phát triển song song với thị trường chính thức mà Nhà nước
khó có thể kiểm soát. Sau một thời gian giữ thế độc quyền về ngoại tệ, đến ngày
18/10/1988 khi Quyết định số 11/HĐBT về “ Điều lệ quản lý ngoại hối” của Hội đồng
bộ trưởng ra đời đã phá vỡ thế độc quyền trong kinh doanh ngoại hối trước đây của
ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Giờ đây các NHTM có thể kinh doanh ngoại hối
khi được NHNN cấp phép. Đây được xem là sự khởi đầu tạo ra môi trường và điều
kiện cho hoạt động của thị trường ngoại hối hoàn chỉnh hơn để có thể trở thành chiếc
cầu nối giữa cung và cầu ngoại tệ, tạo cơ sở xác định tỷ giá chính thức một cách khách
quan, sát với cung cầu trên thị trường, nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, đầu tư
nước ngoài và thu hút nguồn ngoại tệ vào ngân hàng. Trước tình hình đó, Thống Đốc
NHNN Việt Nam đã ra Quyết định số 107/QĐ – NH ngày 16/8/1991 ban hành quy chế
hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ và hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã
được thành lập tại Thành Phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Mặc dù chỉ tồn tại trong một
thời gian ngắn từ năm 1991 đến năm 1994 nhưng hai trung tâm này đã đánh dấu bước
ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự cơ chế theo
hướng thị trường. Thông qua hoạt động của hai trung tâm với vai trò là người tổ chức
và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều
hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu của thị trường và hướng
nhu cầu ngoại tệ vào các mục tiêu thiết yếu của nền kinh tế. Tuy nhiên với nhu cầu
phát triển kinh tế và nhu cầu phát triển của thị trường thì hai trung tâm giao dịch ngoại
tệ đã bộc lộ những hạn chế không đáp ứng được nhu cầu giao dịch ngoại tệ của toàn
quốc gia cũng như tính nhanh nhạy kịp thời trong giao dịch và thanh toán của cơ chế
thị trường ngày càng sôi động. Thực tế đòi hỏi phải có một mô hình mới linh hoạt hơn,
toàn diện hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong phạm vi cả nước chứ không chỉ gói
gọn tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đứng trước tình hình đó, NHNN đã ra
Quyết định số 203/QĐ – NH13 ngày 20/9/1994 về việc thành lập Thị trường ngoại tệ
30
liên ngân hàng. Mục tiêu của thiết lập Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là xây dựng
một thị trường có tổ chức cho giao dịch ngoại tệ giữa các NHTM và tạo cơ sở hình
thành thị trường ngoại hối hoàn chỉnh trong tương lai. Ngoài ra, thông qua thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN có thể can thiệp một cách hữu hiệu vào thị trường
nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. So với trung tâm giao dịch ngoại tệ, hoạt
động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mang tính thị trường hơn, linh hoạt hơn,
rộng hơn và khách quan hơn. Các thành viên trên khắp nơi có thể tham gia giao dịch,
do đó kết quả giao dịch phản ánh được cung cầu ngoại tệ của toàn bộ nền kinh tế. Tỷ
giá của VND so với ngoại tệ cũng được hình thành một cách khách quan hơn và phản
ánh tương đối sức mua của VND.
Cùng với sự phát triển cơ cở của thị trường ngoại hối là sự cải tiến về mặt pháp luật
của NHNN nhằm dần dần hoàn thiện thị trường. Sự ra đời của Quyết định 17/1998/QĐ
– NHNN7 ngày 10/1/1998 ban hành quy chế giao dịch hối đoái đã giúp cho hoạt động
của các TCTD được thực hiện trôi chảy, đảm bảo các nguồn ngoại tệ được luân
chuyển linh hoạt, phục vụ kịp thời nhu cầu của nền kinh tế. Tuy nhiên sau gần 7 năm
đi vào hoạt động, quyết định này đã bộc lộ một số hạn chế chưa bắt kịp với sự phát
triển của thị trường ngoại hối. Cụ thể là các loại hình giao dịch còn đơn giản, vấn đề
thu phí trong giao dịch ngoại tệ chưa hợp lý, các vấn đề về chứng từ trong giao dịch
chưa được đề cập đến gây khó khăn cho TCTD và khách hàng trong quá trình thực
hiện. Nhằm khắc phục những tồn tại này, ngày 10/11/2004 Thống Đốc NHNN đã ký
quyết định số 1452/2004/QĐ – NHNN về giao dịch hối đoái của các TCTD được phép
hoạt động ngoại hối thay thế quyết định 17/1998/QĐ – NHNN. Quyết định mới này có
những thay đổi rất quan trọng đối với thị trường ngoại hối: quyền giao dịch ngoại tệ
được mở rộng, quyết định mới thông thoáng hơn, không quy định quá chi tiết và chặt
chẽ các nội dung kỹ thuật về giao dịch, điều khoản hợp đồng, phí giao dịch… quyền
lựa chọn tiền tệ được chính thức thông qua tạo thêm một công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ
giá hiệu quả trên thị trường. Điều này đã tạo điều kiện thúc đẩy thị trường ngoại hối
phát triển lên một bước mới phù hợp với thông lệ quốc tế về giao dịch hối đoái.
31
Ngoài ra, pháp lệnh ngoại hối được thông qua và có hiệu lực từ 01/06/2006, đây là
pháp lệnh được xem là thống nhất các hoạt động ngoại hối, hướng tới một thị trường
ngoại hối mở, tự do hóa và minh bạch.
Thêm vào đó, nhiều quyết định khác cũng đã được NHNN ban hành để dần hoàn
thiện khung pháp lý cho hoạt động của thị trường ngoại hối. Đặc biệt là các quyết định
về công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam với ngoại tệ dần được điều chỉnh sao
cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Theo đó là các quyết định về thay đổi biên độ
dao động của tỷ giá giao ngay giữa VND với USD.
Như vậy, thị trường ngoại hối Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ theo
hướng ngày càng tiến gần hơn với thông lệ quốc tế. Những quy định dần được ban
hành đã tạo điều kiện thông thoáng, nới lỏng cơ chế kiểm soát theo hướng tự do hóa
các giao dịch ngoại tệ đã tạo thêm nhiều thay đổi lớn cho thị trường ngoại hối Việt
Nam. Cũng từ đây rủi ro ngoại hối sẽ tăng cao, do đó, để có thể quản lý và hạn chế rủi
ro điều tất yếu là các công cụ bảo hiểm rủi ro ngoại hối sẽ ra đời. Đặc biệt là khi Việt
Nam đã là thành viên của WTO, đã và đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới theo
hướng tự do hóa thì việc điều tiết nền kinh tế bằng phương pháp phi kinh tế đã không
còn phù hợp, và sự ra đời của các công cụ quản lý rủi ro ngoại hối là một yêu cầu tất
yếu để có thể điều tiết nền kinh tế theo hướng tích cực hơn.
2.2 Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam
2.2.1 Những văn bản pháp lý quy định hoạt động kinh doanh ngoại hối
Hiện nay, văn bản có vị trí pháp lý cao nhất về quản lý hoạt động ngoại hối là
Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 được ban hành ngày 13 tháng 12
năm 2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Pháp lệnh ngoại hối ra đời đã thống nhất
những nguyên tắc quản lý ngoại hối vào một đầu mối văn bản pháp lý chuyên ngành,
là cơ sở chi phối toàn bộ các vấn đề liên quan đến ngoại hối và hoạt động kinh doanh
ngoại hối, pháp lệnh khẳng định chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam là nhằm
tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, tổ chức tham gia
hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế; thực hiện mục tiêu của
32
chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam; thực hiện
mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam; thực hiện các cam kết
của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước về ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại
hối của Việt Nam.
Để hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh ngoại hối Chính phủ ban hành Nghị định số
160/2006/NĐ-CP vào ngày 28 tháng 12 năm 2006.
Riêng đối với hoạt động kinh doanh ngoại hối, ngày 11/04/2008, NHNN Việt Nam
đã ban hành Thông tư số 03/2008/TT-NHNN (TT 03) hướng dẫn chi tiết về hoạt động
cung ứng dịch vụ ngoại hối của Ngân hàng và Tổ chức tín dụng phi Ngân hàng đã
được quy định trong Nghị định 160/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
28/12/2006. Đề cập đến các điều kiện cũng như thủ tục xin cấp phép hoạt động cung
ứng dịch vụ ngoại hối của các Ngân hàng.
Theo quy định tại Thông tư 03, các Ngân hàng có thể được cung ứng các dịch vụ
ngoại hối trên thị trường trong nước nếu đáp ứng đủ các điều kiện về: phương án hoạt
động cung ứng dịch vụ đã được Hội đồng Quản trị thông qua; có đầy đủ trang thiết bị,
cơ sở vật chất đáp ứng được yêu cầu thực hiện dịch vụ; có nhân sự am hiểu về hoạt
động ngoại hối, được đào tạo về nghiệp vụ ngoại hối và quản lý rủi ro kinh doanh
ngoại hối.
Ngoài ra, để được cung ứng hoạt động dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế thì
Ngân hàng cần phải đáp ứng được các yêu cầu bổ sung, như: có hệ thống kiểm tra,
kiểm soát, kiểm toán nội bộ; tuân thủ các quy định của NHNN về tỷ lệ đảm bảo an
toàn trong hoạt động và trong việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro
tín dụng, không vi phạm các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối trong thời gian
một năm và phải kinh doanh có lãi trong năm liền kề năm đăng ký hoạt động cung ứng
dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế.
Việc đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế không
được thực hiện trước việc đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị
33
trường trong nước. Đối với các tổ chức tín dụng là ngân hàng liên doanh, ngân hàng
100% vốn nước ngoài được hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối theo quy định tại
giấy phép thành lập và hoạt động. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được hoạt động
cung ứng dịch vụ ngoại hối theo quy định tại giấy phép mở chi nhánh ngân hàng nước
ngoài.
Các tổ chức tín dụng sau khi được cấp giấy phép hoạt động phải duy trì các điều
kiện để cung ứng dịch vụ ngoại hối. Trong trường hợp, sau khi đã được cấp giấy phép
hoạt động mà không tiếp tục duy trì được các điều kiện đã quy định thì tổ chức tín
dụng phải tạm ngừng nghiệp vụ cung ứng dịch vụ ngoại hối được phép và báo cáo cho
NHNN trong vòng 30 ngày làm việc kể từ ngày không còn đủ điều kiện. Cụ thể,
NHNN sẽ đình chỉ, thu hồi hoặc hủy bỏ một số nội dung trong giấy phép hoạt động
trong các trường hợp: bị NHNN đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; có chứng cứ hồ
sơ xin cấp giấy phép hoạt động có những thông tin sai lệch; giấy phép thành lập và
hoạt động bị thu hồi hoặc hết hiệu lực; chia, sáp nhập, hợp nhất, phá sản; tự động
chấm dứt hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối...
Như vậy theo pháp lệnh để được phép hoạt động kinh doanh ngoại hối các NHTM
phải đáp ứng những yêu cầu về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, về trình độ quản lý và
kinh doanh phải có lãi, nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính. Đồng thời để
hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các Tổ chức tín dụng. NHNN
qui định hạn mức trạng thái ngoại hối, hạn mức này được thực hiện dựa vào quyết
định đã ban hành từ năm 2002, đó là QĐ số 1082/2002/QĐ-NHNN ngày 07/10/2002
quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại
hối tại Việt Nam, trừ các ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
theo đó các NHTM được phép duy trì trạng thái ngoại tệ dư thừa hay dư thiếu là 30%
so với vốn tự có.
Để hướng dẫn thực hiện các giao dịch phái sinh, NHNN cũng đã ban hành quyết
định và văn bản hướng dẫn, hiện tại, đối với giao dịch ngoại hối kỳ hạn, hoán đổi thực
hiện theo quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN ngày 28 tháng 05 năm 2004. Theo quyết
34
định này, các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ và khách hàng thoả thuận mức tỷ
giá kỳ hạn giữa đồng Việt Nam và Đôla Mỹ nhưng tỷ giá kỳ hạn này không được vượt
quá mức tỷ giá được xác định trên cơ sở: (i) tỷ giá giao ngay của ngày ký hợp đồng kỳ
hạn, hoán đổi; (ii) chênh lệch giữa hai mức lãi suất hiện hành là lãi suất cơ bản của
đồng Việt Nam (tính theo năm) do NHNN Việt Nam công bố và lãi suất mục tiêu của
Đôla Mỹ do Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ công bố (Fed Funds Target rate; và (iii) kỳ
hạn của hợp đồng. Kỳ hạn của hợp đồng cũng được mở rộng từ 3 ngày đến 365 ngày.
Đồng thời quy định các TCTD không được thu phí giao dịch đối với các giao dịch hối
đoái kỳ hạn, hoán đổi.
Sau đó ngày 10/11/2004 NHNN ra quyết định số 1452/2004QĐ-NHNN đã mở
rộng phạm vi đối tượng được phép tham gia giao dịch kỳ hạn ngoài các tổ chức kinh
tế, các tổ chức khác và cá nhân có nhu cầu ngoại tệ hợp pháp cũng được quyền tham
gia mua bán ngoại tệ kỳ hạn, đây là quyết định tạo điều kiện cho giao dịch kỳ hạn
được sử dụng rộng rãi, phù hợp với những biến động ngày càng tăng của tỷ giá trong
giai đoạn hội nhập.
Trên cơ sở sau khi cho phép thực hiện thí điểm, NHNN đã chính thức cho phép
các NHTM được thực hiện giao dịch quyền chọn thông qua Quyết định số
1452/2004/QĐ-NHNN ngày 10 tháng 11 năm 2004 về giao dịch hối đoái của các tổ
chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối. Quyết định này đã giới thiệu cho thị
trường làm quen với giao dich quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, và là bước đệm tiền
đề giúp cho NHNN đưa ra thực hiện công cụ phòng ngừa rủi ro khác là quyền chọn
tiền đồng.
Những điểm đáng lưu ý của quyết định 1452/2004 là:
Thứ nhất, đồng tiền giao dịch: giao dịch quyền chọn chỉ thực hiện ngoại tệ với
ngoại tệ.
Thứ hai, đối tượng tham gia giao dịch: bao gồm các TCTD được phép, các tổ chức
kinh tế, tổ chức khác, cá nhân và NHNN. Trong đó, các TCTD được phép không được
mua quyền chọn của các tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân. Có nghĩa là các tổ
35
chức tín dụng được phép là người luôn đứng ở vị thế người bán quyền chọn với các tổ
chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân.
Thứ ba, giới hạn cung ứng hợp đồng quyền chọn của các tổ chức tín dụng được
phép: TCTD được phép được duy trì tổng giá trị hợp đồng quyền lựa chọn không có
giao dịch đối ứng tối đa là 10% vốn tự có.
Thứ tư, kỳ hạn của các hợp đồng quyền chọn: do các TCTD được phép và khách
hàng tự thỏa thuận.
Kế tiếp, trước nhu cầu về bảo hiểm rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, ngày 18/4/2005, NHNN đã có công văn số 326/NHNN-QLNH cho phép ACB
triển khai thí điểm giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VND. Theo công văn này,
NHNN đã đưa ra những quy định cụ thể về các loại ngoại tệ được giao dịch, cơ sở tính
phí quyền chọn, thời hạn giao dịch, đối tượng giao dịch… Ngày 29/8/2006, NHNN
cũng đã ban hành công văn số 7404/NHNN-KTTC. Nội dung chính của công văn này
gồm có các hướng dẫn cụ thể, chi tiết về nguyên tắc và nội dung kế toán đối với các
nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ, nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ,
để giải quyết vấn đề hạch toán kế toán nghiệp vụ phái sinh tiền tệ tại các NHTM.
Tuy nhiên, qua 3 năm thực hiện quyền chọn ngoại tệ –VND, NHNN đánh giá việc
sử dụng giao dịch này của các TCTD và doanh nghiệp chỉ nhằm mục đích lách trần tỷ
giá nhiều hơn là bảo hiểm rủi ro tỷ giá và gặp khó khăn trong việc kiểm tra thực hiện
giao dịch này, vì thế vào ngày 18/3/2009 NHNN ban hành văn bản số 1820/NHNN-
QLNH chấm dứt thực hiện quyền lựa chọn tiền tệ ngoại tệ và VND, các TCTD chỉ
được cung cấp quyền lựa chọn giữa hai ngoại tệ với nhau.
Như vậy, những văn bản pháp lý về giao dịch phái sinh đã được ban hành nhưng
còn giới hạn cách sử dụng và chưa cho phép thực hiện giao dịch tiền tệ tương lai
2.2.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng trên
TTNH Việt Nam
36
Trong hoạt động kinh doanh ngoại hối các ngân hàng vừa là nhà tạo thị trường,
nhà môi giới, nhà chấp nhận giá, nhà đầu cơ, có nghĩa là ngân hàng có thể tham gia
kinh doanh trên TTNH với đầy đủ mục đích hay đầy đủ chức năng của các thành viên tham gia. Nhưng kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng Việt Nam hiện nay đa số chỉ
đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ cho khách hàng nghĩa là chỉ có chức năng là nhà tạo
giá thứ cấp, nhà chấp nhận giá, chứ ít có ngân hàng tham gia thực sự trên TTNH với
vai trò nhà tạo gíá sơ cấp.
Các NHTM lớn ở Việt Nam có hoạt động kinh doanh ngoại hối đã phát triển
nghiệp vụ này qua các năm, xem đây là lĩnh vực mở rộng hoạt động kinh doanh và
tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Bởi vì, thông qua các giao dịch ngoại hối với khách
hàng, ngân hàng đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ cho các nhà xuất nhập khẩu góp phần phát triển giao dịch thanh tóan và tài trợ ngoại thương.
Điểm qua về tỷ lệ lợi nhuận kinh doanh ngoại hối của một số NHTM lớn điển
hình có thể thấy rõ điều này.
Bảng 2.1: Tỷ lệ Lợi nhuận họat động kinh doanh ngoại hối so với tổng lợi
nhuận trước thuế
Năm
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Đơn vị tính:%
VCB
11,11
31,61
18,35
10,28
12,45
11,49
ACB
7,29
26,51
14,88
6,16
7,36
8,75
Sacombank
6,37
45,95
14,44
-7,00
-8,5
-6,5
Eximbank
22,14
65,42
8,83
0,66
2,85
7,48
BIDV
6,89
33,64
5,79
3,2
6,42
9,76
Ngân hàng
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo thường niên của các ngân hàng
37
Qua số liệu trên có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh ngoại hối đã mang đến cho
các ngân hàng một khoản lợi nhuận không nhỏ như Eximbank có lợi nhuận từ họat
động kinh doanh ngoại hối chiếm tỷ lệ đến 65,42% năm 2008 so với tổng lợi nhuận
trước thuế, hay Sacombank có tỷ lệ gần 50% năm 2008 so với lợi nhuận trước thuế.
Tại những ngân hàng này cho ta thấy hoạt động kinh doanh ngoại hối không phải là
một mảng kinh doanh hổ trợ cho các hoạt động khác mà còn đóng vai trò quan trọng
trong nguồn thu lợi nhuận của ngân hàng.
Tuy nhiên qua những số liệu trên có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh ngoại hối
của các ngân hàng trong 2 năm 2009, 2010 đã sụt giảm nhiều, do bị ảnh hưởng bởi
khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2009 và biến động của thị trường tài chính trong
nước và trên thế giới. Điều này cho chúng ta thấy rõ sự tác động mạnh mẽ những yếu
tố ngoại sinh đến hoạt động kinh doanh ngoại hối nhất là trong một nền kinh tế mở,
đồng thời sự biến động của thị trường tiền tệ, tài chính sẽ tác động đến TTNH.
Để phát triển hoạt động kinh doanh các ngân hàng như ACB, Sacombank,VCB,
Eximbank, Việt Á Bank đã đầu tư hệ thống Reuters 3000 và cập nhật hệ thống thanh
toán Corebanking với phiên bản T24, là phiên bản mới nhất hiện nay. Những ngân
hàng lớn đều quan tâm đến tổ chức bộ phận kinh doanh ngoại hối và tìm kiếm các
chuyên viên có nhiều kinh nghiệm về hoạt động này, nhằm mục đích thành lập đội ngũ
nhân viên kinh doanh ngoại hối chuyên nghiệp có trình độ cao.
2.2.2.1 Quá trình hình thành và hoạt động TTNT liên ngân hàng
Có thể nói TTNH của Việt Nam gồm 3 thị trường cùng tồn tại:
Thị trường chính thức gồm: Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường bán lẻ
và thị trường không chính thức hay còn gọi là thị trường tự do, thị trường chợ đen.
Thời kỳ trước năm 1991 nhà nước độc quyền về ngoại thương và ngoại hối, áp
dụng chế độ tỷ giá cố định do nhà nước áp đặt, không dựa vào yếu tố thị trường và
những yếu tố cho sự hình thành TTNH là không có. Nghị định 53/HĐBT ngày
26/3/1988 ra đời tách hệ thống ngân hàng thành hai cấp: NHNN và ngân hàng chuyên
38
doanh, trong đó chỉ có ngân hàng Ngoại thương được phép hoạt động kinh doanh
ngoại hối, thanh toán quốc tế và mở tài khoản ở nước ngoài.
Sau đó Nghị định 161/HĐBT ngày 18/10/1988 được ban hành thay thế Nghị định
102(ngày 6/7/1963) của Hội đồng Chính phủ. Theo nghị định 161/HĐBT và Thông tư
hướng dẫn số 33-NH-TT đã chính thức xóa bỏ thế độc quyền trong kinh doanh ngoại
hối của Nhà nước được thể hiện qua nội dung qui định:”Nhà nước XHCN Việt Nam
thông qua NHNN Việt Nam thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về ngoại hối và
kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh doanh ngoại hối đều được thực hiện theo qui định
của NHNN Việt Nam. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam được phép kinh doanh
ngoại hối. Ngoài ra, các ngân hàng chuyên doanh khác, các ngân hàng liên doanh với
nước ngoài, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế
trong nước muốn kinh doanh ngoại hối hoặc dịch vụ thu ngoại tệ đều phải được
NHNN TW Việt nam cho phép.” Như vậy các ngân hàng thương mại muốn kinh
doanh ngoại hối có thể làm thủ tục để NHNN cấp giấy phép.
Trong thực tế lúc bấy giờ trước sự phát triển cuả hoạt động thanh toán quốc tế và
kiều hối, nhiêù NHTM đã làm đơn xin phép hoạt động kinh doanh ngoại hối, và
NHNN đã cấp phép cho một loạt các NHTM có đủ điều kiện. Thời gian này với chủ
trương thu hút vốn nước ngoài, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành
năm 1987, luồng vốn ngoại tệ đổ vào Việt Nam càng tăng nhưng do chúng ta vẫn duy
trì tỷ giá chính thức do NHNN công bố và cách xa tỷ giá thực, vì thế các NHTM gặp
nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh mua ngoại tệ với TTKCT.
Những năm đầu thập niên 90 với những biến động lớn về chính trị sự tan rã của
Liên xô và hàng loạt các nước Đông Âu trong phe XHCN dẫn tới thị trường thanh toán
đa biên giữa Việt Nam và các nước XHCN bị tan rã, tất cả các nước XHCN đều đồng
loạt chuyển đổi đồng tiền thanh toán với Việt Nam sang USD, việc chuyển đổi này ảnh
hưởng khá lớn đến khả năng thanh toán của Việt Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
39
Trong thời gian đó, NHNN đã đề xuất ý kiến thành lập Quỹ điều hòa ngoại tệ tại
NHNN để tập trung nguồn ngoại tệ hiếm hoi từ xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn và can thiệp TTNH nhằm ổn định tỷ giá.
Năm 1991 là năm đánh dấu sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong hoạt động quản lý ngoại hối được
thể hiện bằng việc thành lập 2 Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà nội và T/PHCM
thông qua quyết định số 107/QĐ-NH ngày 16/8/1991 của NHNN về việc ban hành Qui
chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ.Nhằm mục đích thông qua
hoạt động của Trung tâm sẽ nắm bắt được thực tế về cung cầu ngoại tệ và xác định tỷ
giá hợp lý phù hợp với sức mua của VND đồng thời tăng cường công tác quản lý vĩ
mô của nhà nước về quản lý tiền tệ.
Họat động của Trung tâm do Ban điều hành lãnh đạo gồm ba đại diện của NHNN
và bốn đại diện của các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Đối tượng tham gia
gồm: NHNN với mục đích mua, bán ngoại tệ theo yêu cầu của nhà nước, tăng quỹ dự
trữ ngoại tệ và can thiệp thị trường; Các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ;
Các đơn vị tổ chức kinh tế. Chỉ thực hiện giao dịch một ngoại tệ là USD, giao dịch
được tổ chức theo hình thức đấu giá tỷ giá sẽ được ấn định khi đạt được cung và cầu
về ngoại tệ; Số lượng ngoại tệ cho mỗi lần giao dịch: tối thiểu là 10000USD.
NHNN giao cho các ngân hàng được phép, tập hợp các yêu cầu mua bán ngoại tệ
của những khách hàng không được phép mua bán tại Trung tâm, những nhu cầu mua
ngoại tệ là để thanh toán trong vòng 7 ngày kể từ khi mua và việc sử dụng ngoại tệ
phải phù hợp với các qui định về quản lý ngoại hối. Như vậy là không cho phép mua
bán kỳ hạn, trong khi đó ngày giao dịch chỉ có 2 ngày trong tuần thứ 3 và thứ 6.
Các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá không vượt quá
0,5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch trước. Việc công bố tỷ giá chính thức
dựa trên tỷ giá hình thành trên hai trung tâm giao dịch ngoại tệ Hà nội và T/P Hồ chí
Minh đánh dấu cột mốc quan trọng trong quá trình điều hành chính sách tỷ giá, đó là
tỷ giá được hình thành có căn cứ chính thức vào các yếu tố thị trường.
40
Thông qua hoạt động của hai Trung Tâm đã tạo ra tập quán, kiến thức kinh doanh
ngoại hối cho NHNN và các NHTM và các tổ chức kinh tế, tạo nền móng cho việc
hình thành TTNH.
Kể từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động vào ngày 1/12/1994, tổng số phiên
giao dịch qua hai trung tâm là 692 phiên với tổng doanh số là 660 triệu USD.
Tuy nhiên, qua một thời gian hoạt động, Trung tâm giao dịch ngoại hối đã thể hiện
một số vấn đề tồn tại như sau:
Cung cầu ngoại tệ tại hai trung tâm không phản ánh chính xác cung cầu ngoaị tệ
của toàn bộ nền kinh tế bởi vì giao dịch bị giới hạn bởi khu vực địa lý, không thể nào
đại diện cho toàn bộ nhu cầu của cả nước được. Tỷ giá được hình thành tại hai trung
tâm chưa phản ánh được cung cầu ngoại tệ, tỷ giá chính thức do NHNN công bố vẫn
còn mang tính áp đặt, vì thế chênh lệch giữa hai thị trường rất cao. Nguyên nhân của
tình trạng này là do trong giai đoạn trước đó, chính phủ áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ
và tỷ giá này chênh lệch rất lớn so với tỷ giá thanh toán, phần chênh lệch nhà nước
phải bù lỗ. Bên cạnh đó tỷ giá chính thức qui định thấp, các tổ chức kinh tế, cá nhân có
ngoại tệ lại tìm cách không bán ngoại tệ cho ngân hàng, các tổ chức đại diện nước
ngoài hoặc người nước ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản mà thường
đưa hàng vào sử dụng hay sử dụng ngoại tệ mặt trực tiếp trên thị trường.
Thực tế này đã gây ảnh hưởng lớn trên thị trường, làm cho tỷ giá trên thị trường
diễn biến phức tạp, chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường lên đến
hàng trăm điểm.
41
Bảng 2.2 : Tỷ giá (VND/USD) từ 1990 đến 1992
Đơn vị tính: đồng
Năm 1990 1991 1992
Chỉ tiêu
Tỷ giá chính thức(TGCT) 5133 9274 11179
Tỷ giá trên thị trường tự do (TGTTTD) 5610 9546 11334
Chênh chệch ( TGTTTD và TGCT) +477 +272 +155
Nguồn : Báo cáo thường niên NHNN
Thêm vào đó, cách thức giao dịch yêu cầu phải có mặt tại Trung tâm khác xa so
với đặc điểm của TTNH thế giới chủ yếu là thị trường không tập trung, phương thức
mua bán không đáp ứng được sự biến động của tỷ giá, số lượng người tham gia ngày
càng giảm đi, nhiều phiên được tổ chức mang tính hình thức.
Cơ chế thanh toán không khuyến khích các NHTM bán ngoại tệ tại Trung tâm, bởi
vì nếu bán một khoản lớn ngoại tệ phải chia nhỏ ra từng đơn vị mua; trong khi đó nếu
các đơn vị mua lại không có tài khoản tại ngân hàng bán, thì việc thu hồi số tiền VND
rất phức tạp và thường không đáp ứng nhu cầu cuả các ngân hàng thương mại. Vì vậy,
các NHTM thường bán ngoại tệ cho NHNN bên ngoài phiên giao dịch, sau đó tại các
phiên giao dịch NHNN bán lại cho các tổ chức kinh tế. Điều này đã biến NHNN thành
trung gian mua bán giữa các NHTM và tổ chức kinh tế, làm cho vai trò điều tiết của
NHNN bị mờ nhạt.
Với phương thức giao dịch trực tiếp như vậy, thanh toán sẽ phức tạp và tốn phí,
nên thực sự hai trung tâm chỉ có ý nghĩa tại hai thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội với
vai trò cung cấp ngoại tệ để thanh toán chứ chưa phản ánh tất cả những giao dịch của
hoạt động kinh doanh ngoại hối.
42
Bên cạnh đó, hoạt động mua bán ngoại tệ ra thị trường của NHNN không thể giữ
bí mật về số lượng, tại Trung tâm trong các phiên giao dịch các NHTM thường nhìn
vào động thái mua bán của NHNN để thực hiện, nếu NHNN bán ra nhiều thì NHTM
mua vào nhiều,và ngược lại nếu NHNN mua vào nhiều thì các NHTM sẽ bán ra, điều
này gây rối loạn thị trường và gây khó khăn cho NHNN trong việc điều hành lượng
tiền cung ứng.
Trước thực trạng đó và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng nhu cầu
giao dịch ngoại tệ của cả nước, mô hình tổ chức trung tâm không còn phù hợp đòi hỏi
phải có tầm vóc mới với quy mô quốc gia, NHNN đã ra quyết định số 203/QĐ – NH13
ngày 20/9/1994 thành lập Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và ban hành quy chế tổ
chức và hoạt động của TTNTLNH, đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong quá trình
hình thành và phát triển TTNH Việt Nam theo các chuẩn mực quốc tế.
Sau khi quyết định số 203/QĐ – NH13 đi vào thực tiển từ tháng 10 năm 1994,
hoạt động của thị trường ngoại hối có khởi sắc hơn.
Trong giai đoạn từ năm 1994 -1998, tỷ giá tương đối ổn định, chênh lệch giữa
tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do được thu hẹp.
Bảng 2.3: Tỷ giá VND/USD từ 1994-1998
Đơn vị tính: đồng
Năm 1994 1995 1996 1997 1998
Chỉ tiêu
Tỷ giá chính thức(TGCT) 10978 11037 11040 11175 12998
Tỷ giá trên thị trường tự do (TGTTTD) 10984 11050 11052 11180 13020
Chênh chệch ( TGTTTD và TGCT) +13 +13 +12 +5 +10
Nguồn : Báo cáo thường niên NHNN
43
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động phát sinh những bất cập đồng thời với
những thay đổi về tổ chức và hoạt động của ngân hàng nói chung và sự ra đời của các
văn bản luật như Luật NHNN và Luật các Tổ chức tín dụng được ban hành vào tháng
12/1997 nói riêng, Thống đốc NHNN đã ra quyết định số 101/1999/QĐ-NHNN13,
ngày 26/3/1999 về Quy chế tổ chức và hoạt động của TTNTLNH thay thế cho quyết
định số số 203/QĐ – NH13 ngày 20/9/1994.
Từ sau quyết định 101/1999/QĐ-NHNN13, NHNN đã ban hành những văn bản
quy định, và thông tư hướng dẫn thi hành, nhằm quản lý hoạt động ngoại hối và làm
cơ sở pháp lý cho hoạt động trên TTNH.
Bảng 2.4: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Đơn vị tính:%
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Chỉ tiêu
Tỷ lệ tăng/giảm
doanh số giao dịch
giữa ngân hàng và +29 +45 +113 +58 -35,9 +4,23 +6,78 13,47
ngân hàng so với
năm liền kề
Số lượng thành viên 59 65 65 79 98 105 107 107
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN
Theo Báo cáo thường niên của NHNN, doanh số giao dịch của TTNTLNH mỗi
năm đều gia tăng như từ năm 2005 là năm bắt đầu cho thực hiện chính thức giao dịch
quyền chọn tăng 29% so với năm 2004, đặc biệt là vào năm 2007, doanh số giao dịch
giữa các ngân hàng tăng 113% so với năm 2006, do thời điểm này nguồn cung ngoại tệ
dồi dào từ luồng vốn đầu tư gián tiếp chảy vào thị trường chứng khoán rất lớn. Tuy
44
nhiên tỷ lệ tăng của doanh số giao dịch giữa các ngân hàng bị ảnh hưởng khá lớn của
luồng ngoại tệ chảy vào, cụ thể năm 2008, trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ có nhiều
diễn biến phức tạp, hoạt động trên TTNTLNH tiếp tục tăng nhưng với tốc độ thấp hơn
nhiều chỉ tăng khoảng 58% so với năm 2007, do vào năm 2008 hoạt động trên thị
trường chứng khoán có sự sụt giảm lớn so với thời kỳ phát triển mạnh mẽ của năm
2006 và 2007 đã tác động đến doanh số hoạt động trên thị trường ngoại tệ.
Số lượng các thành viên tham gia TTNTLNH tăng hàng năm theo sự gia tăng về
số lượng các NHTM cũng như do nhu cầu thanh toán quốc tế phát triển. Tuy nhiên, số
lượng thành viên tham gia trên thị trường còn khiêm tốn so với tổng số lượng các tổ
chức tài chính trong và ngoài nước hiện tại.
2.2.2.2 Thực trạng thị trường ngoại tệ khách hàng của Việt Nam
Thị trường ngoại tệ chính thức của Việt Nam chia làm hai lĩnh vực: Thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng như được trình bày phần trên và thị trường ngoại tệ giữa ngân
hàng và khách hàng, hay còn gọi là thị trường ngoại tệ khách hàng là thị trường bán lẻ
chiếm phần lớn doanh số giao dịch trên TTNH Việt Nam. Trên thị trường này, các
ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ sẽ tiến hành mua bán ngoại tệ cho khách
hàng là doanh nghiệp hay cá nhân có nhu cầu sử dụng ngoại tệ hợp pháp. Ngân hàng
được phép sẽ giao dịch trên cơ sở tỷ giá BQLNH do NHNN công bố và với biên độ
được qui định trong từng thời kỳ. Các ngân hàng được phép sẽ có trách nhiệm kiểm tra
các chứng từ chứng minh nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp và hợp lý của khách hàng
theo đúng qui định về quản lý ngoại hối do NHNN ban hành.
45
Bảng 2.5: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ khách hàng
Đơn vị tính:%
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Chỉ tiêu
Tỷ lệ tăng/giảm
doanh số giao
dịch giữa ngân +8 +26 +45 +29,41 - 27,27 +5,45 +7,63 +11,72 hàng và khách
hàng so với năm
liền kề
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN
Bên cạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng còn có hoạt động thu mua
ngoại tệ được thực hiện bởi các bàn đổi ngoại tệ do ngân hàng trực tiếp quản lý và các
đại lý đổi ngoại tệ được phép hoạt động theo quyết định số 1216/2003/QĐ-NHNN
ngày 9/10/2003, kênh giao dịch này đã tạo điều kiện thuận tiện cho những người có
nhu cầu bán ngoại tệ, góp phần thu hút nguồn ngoại tệ trên thị trường, làm gia tăng
doanh số thu mua ngoại tệ của ngân hàng. Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động
nhiều quầy đại lý thu đổi đã vi phạm qui định, thực hiện cả hoạt động mua bán ngoại
tệ với tỷ giá vượt biên độ gây rối loạn thị trường. Vì thế, ngày 11/7/2008, Thống đốc
NHNN đã ký quyết định số 21/2008/QĐ-NHNN về việc ban hành qui chế đại lý đổi
ngoại tệ thay thế cho QĐ số 1216/2003/QĐ-NHNN, theo đó trong thời gian 3 tháng kể
từ ngày quyết định có hiệu lực, các TCTD sẽ phải ký kết lại hoặc thanh lý hợp đồng
đại lý đối với các đại lý không đáp ứng yêu cầu về điạ điểm, điều kiện làm đại lý, các
điều khoản trong hợp đồng đại lý, quyết định này được đánh giá là một bước chấn
chỉnh mạnh mẽ của NHNN đối với hoạt động kinh doanh mua bán ngoại tệ của
NHTM với khách hàng.
46
TTNH Việt Nam có đặc điểm khác với TTNH thế giới, về tỷ trọng giao dịch giữa
hai thị trường TTNTLNH và thị trường ngoại tệ khách hàng thông qua bảng số liệu
dưới đây:
Bảng 2.6: Tỷ trọng doanh số giao dịch của hai thị trường ngoại tệ
(1995-2005)
Đơn vị tính:%
Chỉ tiêu Thị trường ngoại tệ Doanh số mua bán TTNTLNH khách hàng Năm
1995 100 12,7 87,3
1996 100 25,1 74,9
1997 100 36,7 63,3
1998 100 10,6 89,4
1999 100 21,1 78,9
2000 100 22,4 77,6
2001 100 19,7 80,3
2002 100 4,7 95,3
2003 100 6,0 94,0
2004 100 5,4 94,6
2005 100 5,8 94,2
Tổng 100 13,0 87,0
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN
47
Qua bảng trên ta thấy tỷ trọng giao dịch trên TTNTLNH quá thấp so với thị trường
ngoại tệ khách hàng mặc dù doanh số của cả hai thị trường đều tăng nhưng tỷ trọng
của TTNTLNH chỉ đạt trung bình 13% trên tổng doanh số giao dịch của TTNH Việt
Nam. Số liệu trên thể hiện trình độ sơ khai của TTNH Việt Nam và khi nói đến hoạt
động kinh doanh ngoại tệ là người ta nghĩ đến đó là thị trường kinh doanh ngoại tệ
giữa ngân hàng và khách hàng.
Sau khi gia nhập WTO, doanh số giao dịch trên TTNH có nhiều thay đổi, do tác
động trực tiếp của quá trình hội nhập đến nguồn cung cầu ngoại tệ, đồng thời tác động
của việc điều hành chính sách tỷ giá có sự linh động hơn trước, thực thi cam kết tự do
hóa tài khoản vãng lai và tự do hóa có chọn lọc tài khoản vốn làm gia tăng luồng vốn
và những giao dịch liên quan đến ngoại tệ.
Bảng 2.7: Tỷ trọng doanh số giao dịch của hai thị trường ngoại tệ (2006-
2012)
Đơn vị tính:%
Chỉ tiêu Thị trường ngoại tệ Doanh số mua bán TTNTLNH khách hàng Năm
2006 100 35,4 64,6
2007 100 29 71
2008 100 35,5 64,5
2009 100 48,58 51,42
2010 100 49 51
2011 100 47,6 52,4
2012 100 46,5 53,5
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN
48
Từ năm 2006 đến nay tỷ trọng doanh số giao dịch trên TTNTLNH có gia tăng rõ
rệt chiếm trung bình khoản 40%, nhất là vào hai năm 2009 và 2010 tỷ trọng đạt gần
50% do có sự tham gia của NHNN đã góp phần làm gia tăng tỷ trọng này. Tuy nhiên,
tỷ trọng này vẫn còn thấp so với đặc điểm của TTNH trên thế giới là doanh số giao
dịch trên TTNTLNH chiếm hơn 85% và là thị trường đóng vai trò chủ đạo trong việc
hình thành tỷ giá phù hợp với cung cầu ngoại tệ trên thị trường.Với một tỷ trọng thấp
như vậy cho thấy giao dịch trên TTLNH không phải là nơi đã thực hiện đúng sự tương
tác giữa các lực lượng thị trường để từ đó hình thành nên tỷ giá của thị trường.
Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ lý do lượng ngoại tệ để đáp ứng nhu
cầu giao dịch của các chủ thể còn khiêm tốn, vai trò của NHNN còn mờ nhạt và số
lượng thành viên tham gia còn hạn chế.
2.2.2.3 Thực trạng sử dụng các giao dịch ngoại hối phái sinh tại các NHTM
Việt Nam
Nghiệp vụ ngoại hối phái sinh ra đời ở Việt Nam cách đây không lâu và còn khá
mới mẻ đối với các NHTM Việt Nam, còn hạn chế về số lượng khách hàng cũng như
doanh số giao dịch. Mặc dù các ngân hàng đều có những chú trọng phát triển nhất định
nhưng tỷ trọng lợi nhuận từ nghiệp vụ này so với tổng lợi nhuận của ngân hàng còn
khá nhỏ bé.
Đối với giao dịch kỳ hạn: Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là công cụ ngoại hối phái
sinh ra đời sớm nhất ở nước ta. Khi khách hàng có nhu cầu mua bán kỳ hạn hoán đổi,
giao dịch viên sẽ căn cứ vào tỷ giá giao ngay, lãi suất (VND theo lãi suất cơ bản do
NHNN công bố, USD theo lãi suất FED công bố) để tính toán giá chào mua, chào bán
cho khách hàng, tỷ giá được tính không được vượt quá tỷ giá trần qui định. Sau đó các
khách hàng sẽ thực hiện ký quỹ, có thể bằng VND hay bằng ngoại tệ, mức ký quỹ tùy
theo từng thời kỳ phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của từng ngân hàng, phổ biến ở
mức 3% đối với VND/USD và 7-10% đối với VND và ngoại tệ khác.
Đối với giao dịch hoán đổi ngoại tệ (Forex swap) chủ yếu chỉ thực hiện giữa các
ngân hàng và giữa NHTM với NHNN nhằm giải quyết vần đề về thiếu vốn tạm thời.
49
Tuy nhiên, việc xác định tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi là
như nhau, nghĩa là không có sự phân biệt giữa một giao dịch kỳ hạn riêng lẽ mà trong
thuật ngữ kinh doanh ngoại hối gọi là Forward Ouright với giao dịch kỳ hạn hoán đổi
Forward swap. Theo lý thuyết, trong giao dịch hoán đổi ngoại hối Forex swap là kết
hợp 2 giao dịch đồng thời mua và bán một lượng ngoại tệ, và phổ biến là loại swap kết
hợp 2 giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn. Trong vế kỳ hạn khi xác định tỷ giá kỳ
hạn sẽ lấy tỷ giá giao ngay đã thực hiện trong vế giao ngay để tính tỷ giá kỳ hạn vì thế
giao dịch này khi thực hiện sẽ có lợi hơn là thực hiện 2 giao dịch giao ngay và kỳ hạn
riêng lẻ.
Đối với các loại giao dịch hoán đổi lãi suất(Interest rate swap/currency swap) đa
số được thực hiện bởi các ngân hàng nước ngoài, còn các ngân hàng Việt Nam chỉ có
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Ngoại thương
(VCB). Trong đó có BIDV là ngân hàng quốc doanh tiên phong đưa ra các sản phẩm
hoán đổi lãi suất, bao gồm: hoán đổi tiền tệ chéo(cross currency swap) - phòng ngừa
rủi ro tỷ giá lẫn lãi suất; Trên TTLNH, BIDV cũng là ngân hàng Việt Nam đầu tiên
thực hiện giao dịch hoán đổi tiền tệ chéo liên ngân hàng trong giao dịch với Ngân hàng
Standard Chartered Bank tại Luân Đôn.
Đối với giao dịch quyền chọn: Khi khách hàng có nhu cầu giao dịch, giao dịch
viên sẽ thu thập các dữ liệu về số lượng ngoại tệ, loại tiền, ngày ký hợp đồng, tỷ giá
thực hiện, loại quyền chọn, kiểu quyền chọn, thời hạn hiệu lực. Căn cứ trên các yếu tố
đó, giao dịch viên sẽ liên lạc với các ngân hàng nước ngoài để tham khảo mức phí.
Nếu đồng ý về mức phí này, khách hàng sẽ tiến hành ký hợp đồng quyền chọn với
ngân hàng. Trong thời gian hiệu lực, nếu khách hàng muốn thực hiện hợp đồng thì gửi
giấy đề nghị thực hiện hợp đồng cho ngân hàng, khách hàng phải chuyển tiền cho ngân
hàng hoặc cho phép ngân hàng ghi nợ vào tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp, sau đó
ngân hàng sẽ ghi có số tiền đối ứng vào tài khoản của doanh nghiệp. Đồng thời ngân
hàng sẽ gửi yêu cầu thực hiện hợp đồng cho đối tác là ngân hàng nước ngoài. Như vậy
vai trò của NHTM giống như trung gian cho khách hàng trong nước và ngân hàng
nước ngoài, thực hiện thu phí khách hàng và trả phí cho ngân hàng nước ngoài.
50
Giao dịch ngoại hối quyền chọn được NHNN cho phép EXIMBANK thực hiện thí
điểm theo công văn số 134/NHNN – QLNH do Phó Thống đốc NHNN ký ngày
12/02/2003 sau khi thấy EXIMBANK đã hội đủ các điều kiện về vốn và khả năng kinh
doanh ngoại tệ. Tuy nhiên trong giai đoạn này chỉ cho giao dịch quyền chọn giữa
ngoại tệ với ngoại tệ. EXIMBANK đã nhận được sự hưởng ứng của nhiều doanh
nghiệp lớn, 11 hợp đồng quyền chọn ngoại tệ đã được ký, trong đó có 5 quyền chọn
bán với tổng trị giá 150.000 EUR và 6 quyền chọn mua với tổng trị giá 558.00 EUR và
5.000.000 JPY. Sau đó NHNN cũng cho phép các ngân hàng khác thực hiện nghiệp vụ
này như: ACB, BIDV, VCB, Sacombank…. Tuy số lượng ngân hàng thực hiện nghiệp
vụ này đã tăng lên nhưng cho đến năm 2004 tổng số hợp đồng quyền chọn cũng chỉ
dừng lại ở con số 50 với doanh số thực hiện trên 5 triệu USD trong đó doanh số mua
chiếm 68%.
Từ năm 2004 sau quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN, mặc dù không còn giới hạn
về số lượng NHTM tham gia giao dịch quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ nhưng thực tế
cho thấy các hoạt động mua bán này chưa thật sự sôi động chỉ có chi nhánh ngân hàng
nước ngoài như HSBC, Citibank và một số ít NHTM Việt Nam như Eximbank,
Techcombank, ACB… còn lại hầu như không có phát sinh giao dịch nào.
Tháng 4/2005 NHNN đã bắt đầu cho triển khai thực hiện thí điểm giao dịch quyền
chọn giữa ngoại tệ với VND. ACB là ngân hàng đầu tiên được thí điểm nghiệp vụ này,
với mức tối đa giá trị hợp đồng là 10 triệu USD và mức tối thiểu là 10.000 USD (quy
đổi ngoại tệ khác tương đương mức này cho quyền chọn giao dịch giữa các ngoại tệ
khác và VND). ACB chia nhỏ giá trị hợp đồng nhằm tạo điều kiện cho khách hàng dễ
sử dụng. Tiếp theo ACB là ngân hàng Techcombank, hợp đồng chỉ được thực hiện với
quyền chọn Châu Âu và BIDV được phép thí điểm từ ngày 22/8/2005 tính đến tháng
5/2008, đã có 7 ngân hàng được phép thực hiện giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và
VND.
Cũng giống với giao dịch giữa quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, quyền chọn ngoại
tệ với VND yêu cầu các NHTM muốn thực hiện nghiệp vụ này phải có đề án chi tiết
51
quy trình nghiệp vụ, phương án phòng ngừa rủi ro, và được NHNN chấp nhận bằng
văn bản. Quy định về tỉ giá thực hiện như sau:
- Đối với hợp đồng quyền chọn VND/USD: tỷ giá này không vượt quá tỷ giá kỳ
hạn VND/USD cùng thời hạn.
- Đối với hợp đồng quyền chọn giữa ngoại tệ khác với VND: tỷ giá do ngân
hàng và khách hàng tự thỏa thuận.
Hầu hết các giao dịch đều được tiến hành theo quyền chọn kiểu Mỹ vì điều kiện
thanh toán linh hoạt hơn. Các ngân hàng như ACB, Techcombank, BIDV, VIB dù là
những ngân hàng tham gia các nghiệp vụ này từ rất sớm nhưng họ chỉ mới thực hiện
được một số hợp đồng với doanh số không đáng kể. Từ 2007 đến thời điểm hiện nay,
số lượng giao dịch quyền chọn ngoại tệ và ngoại tệ của các ngân hàng có tăng lên tuy
nhiên tỷ trọng vẫn còn rất nhỏ.
Trên các website của các ngân hàng có hoạt động kinh doanh ngoại hối đều quảng
cáo có cung cấp tất cả giao dịch ngoại hối phái sinh được cho phép tại Việt Nam bao
gồm: Giao dịch quyền chọn ngoại tệ-ngoại tệ (Forex option), giao dịch hoán đổi lãi
suất (Interest rate swap), giao dịch hoán đổi ngoại tệ (Forex swap), giao dịch kỳ hạn
ngoại tệ (forex forward). Tuy nhiên, giao dịch chiếm tỷ lệ cao nhất đó là giao dịch giao
ngay (khoảng trên 90%) còn những giao dịch phái sinh chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn,
ngoại trừ giao dịch kỳ hạn, các giao dịch phái sinh khác thậm chí không có doanh số
phát sinh.
Thực trạng sử dụng các giao dịch phái sinh của các NHTM Việt Nam trong thời
gian qua được thể hiện qua bảng 2.8:
52
Bảng 2.8: Tỷ lệ mua, bán giao dịch kỳ hạn và hoán đổi trong tổng giao dịch
Đơn vị tính: %
thị trường ngoại hối Việt Nam
Tỷ lệ mua bán kỳ hạn, hoán đổi Chỉ tiêu Tỷ lệ mua bán
2000
5,5
24
76
2001
5,6
19
81
2002
5,6
14
86
2003
4,9
17
83
2004
5,2
16
84
2005
5,5
25
75
2006
5,6
23
77
2007
7,1
26
74
2008
7,4
30
70
2009
8,2
34
66
2010
7,5
38
62
2011
8,7
37
63
2012
6,8
24
76
Năm kỳ hạn & hoán đổi Mua Bán
6,4
25
75
Trung bình
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN
53
Qua thực trạng sử dụng giao dich ngoại hối phái sinh những năm vừa qua có thể
rút ra những nhận định sau:
Thứ nhất, doanh số giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi chỉ chiếm khoảng gần
7% trên tổng doanh số giao dịch của các NHTM và trong doanh số giao dịch kỳ hạn và
hoán đổi có sự bất cân xứng giữa doanh số mua và bán, doanh số bán kỳ hạn của ngân
hàng chiếm tỷ lệ 75% so với doanh số mua vào kỳ hạn, như vậy trong giao dịch kỳ hạn
NHTM thường ở trạng thái đoản về ngoại tệ.
Thứ hai là, trong giao dịch kỳ hạn yêu cầu khách hàng ký quỹ và cách tính tỷ giá
kỳ hạn như quyết định 648/2004/QĐ-NHNN sử dụng lãi suất cơ bản do NHNN công
bố đối với VND và lãi suất USD của FED là chưa phù hợp với thông lệ quốc tế (Lãi
suất của hai đồng tiền là lãi suất tiền gửi và tiền vay trên thị trường tại thời điểm ký kết
hợp đồng). Với cách tính này đã làm cho tỷ giá kỳ hạn cao hơn so với tỷ giá giao ngay
vào ngày đáo hạn của hợp đồng kỳ hạn, như vậy tỷ giá kỳ hạn không phản ánh đúng sự
kỳ vọng về tỷ giá giao ngay của thị trường trong tương lai.
Thứ ba là, giao dịch quyền chọn hiện nay ít được khách hàng sử dụng do những
nguyên nhân sau: (1) Quyền chọn giữa ngoại tệ với VND đã không được phép thực
hiện theo văn bản số 1820/NHNN-QLNH ngày 18/3/2009 NHNN và chỉ còn loại
quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ; (2) Do cách tính phí quyền chọn, hiện tại do giao
dịch quyền chọn trên TTNH Việt Nam quá ít giao dịch vì vậy đa số các ngân hàng sau
khi bán quyền chọn cho khách hàng sẽ thực hiện mua lại quyền chọn trên TTNH quốc
tế, khi phí tính cho khách hàng Việt Nam sẽ gồm hai phần: phần phí quyền chọn của
ngân hàng nước ngoài và phần phí dịch vụ của NHTM Việt Nam, bên cạnh đó NHTM
Việt Nam lại tính luôn phần thuế VAT vào nữa, nếu không thì NHTM sẽ chiụ lỗ phần
phí này, do đó phí quyền chọn sẽ cao. Đây là điều làm nản lòng các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu Việt Nam khi muốn sử dụng giao dịch quyền chọn; (3) Do sợ trách nhiệm
của các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước vì khi bảo hiểm bằng quyền chọn
phải trả phí nhưng nếu đến thời điểm thực hiện người mua quyền chọn bỏ không thực
hiện hợp đồng do tỷ giá trên thị trường biến động thuận lợi hơn tỷ giá thực hiện, và
54
như vậy doanh nghiệp mất đi khoản phí sẽ bị đánh giá là sử dụng phương án bảo hiểm
không hiệu quả.
Qua đó có thể thấy rằng tình hình sử dụng các công cụ phái sinh để bảo hiểm rủi
ro tỷ giá và lãi suất đang có nguy cơ thu hẹp và thị trường phái sinh ngoại tệ của Việt
Nam vừa mới được hình thành đã trở nên èo uột không phát triển.
2.2.2.4 Thực trạng yết giá kinh doanh và mua bán ngoại tệ
Theo kỹ thuật kinh doanh ngoại hối, để có thể đảm bảo trạng thái ngoại hối theo
qui định các NHTM sẽ sử dụng các kỹ thuật yết giá để thực hiện trạng thái ngoại tệ
mục tiêu mình mong muốn. Nếu muốn mua nhiều hơn bán, các ngân hàng sẽ yết tỷ giá
mua vào cao hơn giá trên thị trường và khi muốn bán nhiều hơn mua các NHTM sẽ yết
giá bán thấp hơn giá trên thị trường, và nguyên tắc kinh doanh là yết tỷ giá mua nhỏ
hơn tỷ giá bán để có lời, thông qua tỷ giá được yết có thể xác định được chiến lược
kinh doanh của các ngân hàng.
Tuy nhiên, trên TTNH Việt Nam bảng yết giá của các NHTM không hoàn toàn có
ý nghĩa như vậy, thậm chí có những lúc các NHTM yết tỷ giá mua bằng tỷ giá bán
(VND/USD) và tùy từng thời điểm điều này có mục đích khác nhau:
Khi tỷ giá mua bằng tỷ giá bán và bằng tỷ giá sàn:
a
= S = TGLNH - % (biên độ qui định) là NHTM chỉ muốn bán chứ không muốn S b
mua và ngược lại.
Tỷ giá ngày 13-02-2008 của VCB HCM
TGLNH: 16.079 VND/USD. Biên độ: +/-0,75%
Ngoại tệ Giá mua
Giá bán
Tiền mặt Chuyển khoản
15.858 15.958 15.958 USD
55
Khi tỷ giá bán bằng tỷ giá mua bằng tỷ giá trần:
= TGLNH + % (biên độ qui định) là các NHTM chỉ muốn mua S b = S a
chứ không muốn bán và tình trạng này phổ biến hơn
Tỷ giá ngày 07-09-2004 của VCB HCM
TGLNH: 15.715VND/USD. Biên độ: +/-0,25%
Ngoại tệ Giá mua
Giá bán
Tiền mặt Chuyển khoản
USD 15.747 15.754 15.754
Trường hợp yết giá mua = giá bán và bằng giá trần là phổ biến trong thời gian qua
của các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên vào năm 2008, tình hình lại diễn biến theo một
chiều hướng khác: giá mua = giá bán = giá sàn đây là trường hợp hiếm có chỉ xảy ra
vào giai đoạn đầu của năm 2008 vì đó cũng là giai đoạn nguồn cung USD tăng vọt do
lượng tiền kiều hối về nhiều và thị trường chứng khoán của Việt Nam thu hút mạnh
luồng vốn gián tiếp.
Hiện tượng yết giá như trên là do bị khống chế bởi qui định tỷ giá VND/USD phải
được mua bán theo qui định của NHNN căn cứ vào TGLNH và biên độ qui định,
TGLNH thường có khoảng cách xa so với tỷ giá thị trường nên cho dù sử dụng hết
biên độ vẫn không tương ứng với giá thị trường.
Tuy nhiên, tỷ giá thì yết như vậy nhưng trong thực tế các NHTM Việt Nam hầu
như không thực hiện mua bán theo tỷ giá niêm yết mà có nhiều biện pháp để lách qui
định trần tỷ giá.
56
2.2.3 Thị trường ngoại tệ không chính thức
Thị trường ngoại tệ không chính thức ở Việt Nam hoạt động là do có nhiều nguồn
cung cấp ngoại tệ như:
Nguồn kiều hối: Đây là luồng ngoại tệ chảy vào trong nước ngày càng tăng và
chiếm doanh số khá lớn trong cán cân vãng lai, theo thống kê hiện có khoảng 4,5 triệu
người Việt Nam sống ở 103 nước và vùng lãnh thổ, trong đó gần 400.000 người có
trình độ đại học trở lên. Ngoài ra, còn khoảng 500.000 lao động Việt Nam đang làm
việc ở nước ngoài. Các chuyên gia cho rằng nguồn kiều hối vẫn chủ yếu từ Mỹ,
Canada và một số thị trường có số lượng lao động xuất khẩu nhiều như Hàn Quốc, Đài
Loan, Malaysia...Với số lượng người Việt sinh sống và lao động ở nước ngoài nhiều
như vậy cộng thêm truyền thống gia đình giúp đỡ thân nhân của người Việt đã tạo nên
một nguồn cung ngoại tệ đáng kể hàng năm.
Kể từ năm 2000 thực hiện Quyết định số 170/1999/QĐ-TTg và Thông tư số
02/2000/TT-NHNN7 đã xoá bỏ việc người nhận kiều hối đóng thuế thu nhập không
thường xuyên giúp cho lượng kiều hối gia tăng mạnh mẽ.
Đơn vị: Tỷ USD
Bảng 2.9 : Lượng kiều hối chính thức chuyển về Việt Nam từ năm 1997-2012
1997
0,40
2005
3,80
1998
0,95
2006
5,20
1999
1,20
2007
6,30
2000
1,76
2008
7,20
2001
1,82
2009
6,80
2002
2,20
2010
8,54
2003
2,60
2011
9,00
2004
3,20
2012
10,00
Năm Số lượng Năm Số lượng
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN
57
Biểu đồ 2.1 : Lượng kiều hối về Việt Nam từ năm 1997 – 2012
Đơn vị : tỷ USD
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN
Qua biểu đồ 2.1 cho thấy lượng kiều hối tăng qua các năm. Năm 1997, kiều hối
còn ở mức khiêm tốn chỉ có 400 triệu USD thì đến năm 2004 đã tăng gấp 8 lần đạt 3,2
tỷ USD và năm 2008 đạt mức tăng kỷ lục 7,2 tỉ USD. Năm 2009, do tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính, kinh tế thế giới, kiều hối giảm còn 6,3 tỉ USD. Năm 2010 đạt
hơn 8,5 tỷ USD tương đương 8% GDP tăng 25,6% so với năm 2009 và vượt mục tiêu
dự kiến ban đầu là quanh mức 6 tỷ USD. Đến năm 2012, ngoại hối đạt cột mốc 10 tỷ
USD, một con số ấn tượng, góp phần rất quan trọng vào nguồn cung ngoại tệ của đất
nước và là một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, các
ngân hàng chỉ mua lại khoảng 10% lượng ngoại tệ này.
Tuy chưa thể thống kê chính xác lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường này
nhưng có thể thấy rằng đó là số lượng khá lớn vì nếu chỉ xét trên lượng kiều hối gửi về
và số lượng ngoại tệ mà các ngân hàng mua được có sự chênh lệch đáng kể, điều này
xảy ra vì đa số những người nhận tiền kiều hối đều rút ngoại tệ và bán ra trên TTKCT
vì tỷ giá cao hơn tỷ giá chính thức trong ngân hàng.
58
Nguồn cung từ các công ty tư nhân có thu nhập ngoại tệ: khi các công ty này được
thanh toán bằng ngoại tệ họ bỏ vào tài khoản tiền gửi cá nhân và theo qui định họ có
thể rút ngoại tệ mặt trên tài khoản ngoại tệ cá nhân và khi tỷ giá chính thức thấp hơn tỷ
giá trên TTKCT, họ bán ra ngoài để kiếm lời. Đặc biệt, trong những trường hợp thị
trường khan hiếm ngoại tệ, các công ty nhập khẩu cần mua ngoại tệ để thanh toán
nhưng ngân hàng không có ngoại tệ để bán, có ngân hàng biết được doanh nghiệp có
ngoại tệ đã sẳn sàng làm trung gian cho những tổ chức kinh tế có ngoại tệ để bán cho
công ty nhập khẩu Như vậy lượng ngoại tệ này cũng có thể được xem như là nguồn
cung trên TTKCT.
Nguồn cung ngoại tệ từ những người có thu nhập bằng ngoại tệ, những người kinh
doanh có thực hiện thanh toán bằng ngoại tệ hay Việt kiều về thăm nhà và một số
những người nước ngoài vào Việt Nam đi du lịch hay học tập, làm ăn, kinh doanh
cũng mang ngoại tệ về họ không bán cho ngân hàng theo tỷ giá chính thức mà bán bên
ngoài ngân hàng với tỷ giá chênh lệch cao hơn tỷ giá chính thức. Nguồn cung này chỉ
chiếm tỷ lệ nhỏ trong doanh số trên TTKCT.
2.2.4 Vai trò của NHNN đối với TTNH Việt Nam trong giai đoạn vừa qua
2.2.4.1 Thực hiện vai trò can thiệp TTNH và điều hành chính sách tỷ giá
Quá trình hội nhập quốc tế càng sâu rộng thì TTNH càng bị tác động, có những tác
động tích cực và tiêu cực ảnh hưởng đến thị trường, NHNN với vai trò thực thi chính
sách tiền tệ thông qua hoạt động can thiệp trên TTNH và sử dụng cơ chế điều hành tỷ
giá qua đó thực thi vai trò cứu cánh cuối cùng cùa NHNN trên TTNH, để tận dụng
những tác động thuận lợi và khắc phục những tác động xấu đến thị trường đảm bảo
cho thị trường hoạt động và phát triển ổn định.
Khi bắt đầu mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đối đầu với cuộc khủng hoảng tài chính
đầu tiên là khủng hoảng tài chính-tiền tệ diễn ra ở khu vực Đông Nam Á vào năm
1997, điểm xuất phát từ Thái Lan, sau đó lan nhanh khắp khu vực và có phạm vi ảnh
hưởng toàn thế giới, Việt Nam cũng không thoát khỏi ảnh hưởng đó. Đây là những
năm khó khăn và nhiều thử thách đối với nền kinh tế Việt Nam, do ảnh hưởng của
59
thiên tai và khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong khu vực. Với bối cảnh
nền kinh tế như vậy, NHNN đã có điều chỉnh cơ chế tỷ giá tương đối linh động hơn so
với giai đoạn trước.
2.2.4.2 Những biện pháp góp phần hạn chế hoạt động của thị trường ngoại
tệ không chính thức.
Ban hành pháp lệnh ngoại hối làm cơ sở pháp lý để qui định những hoạt động liên
quan đến ngoại hối là bước tiến trong quá trình xây dựng một khung thể chế để điều
hành TTNH, nhưng kể từ khi ban hành việc theo dõi giám sát và sử dụng chế tài đối
những hành vi vi phạm pháp lệnh ngoại hối hầu như không được chú trọng mà chỉ
thực hiện thanh tra, kiểm tra, phạt khi thị trường ngoại hối gặp khó khăn về cung cầu
ngoại tệ, tỷ giá căng thẳng…
Trong năm 2008, sau một loạt những hành động của Nhà nước nhằm vào TTKCT
mà đỉnh điểm là khoảng giữa năm 2008, thì TTKCT thức trầm lắng một thời gian, có
lúc gần như đóng băng, nhưng rồi sau đó thị trường hoạt động sôi nổi trở lại cùng với
sự lơ là trong kiểm tra của Nhà nước.
NHNN ban hành các chỉ thị kiểm tra và xử lý những vi phạm trong mua bán và
niêm yết giá bằng ngoại tệ nhằm hạn chế TTKCT và tình trạng đô la hóa. Tuy nhiên,
vào năm 2010 hoạt động mua bán ngoại tệ trên TTKCT vẫn nhộn nhịp vì lúc này sự
chênh lệch tỷ giá giữa hai thị trường rất cao có lúc lên đến 2000 VND, hầu như các
NHTM không mua được ngoại tệ dẫn đến tình trạng căng thẳng ngoại tệ trong khi đó
nhu cầu thanh toán hàng nhập khẩu càng tăng.
NHNN kết hợp với các cơ quan chức năng đã thi hành nhiều biện pháp mạnh
nhằm hạn chế cơ sở tồn tại TTKCT như: cấm triệt để việc mua bán ngoại tệ ngoài
ngân hàng và đi kèm theo đó là những chế tài như tịch thu ngoại tệ, đồng thời đưa ra
những kiến nghị sẽ hạn chế kinh doanh vàng miếng ngoài thị trường chính thức, trong
thời gian này TTKCT đã co cụm không còn hoạt động rầm rộ như trước và ngoại tệ
cũng đã chảy vào ngân hàng nhiều hơn. Tuy nhiên, lại xuất hiện vấn đề bức xúc là nhu
cầu ngoại tệ chính đáng của người dân không được ngân hàng đáp ứng, họ phải lén lút
mua trên TTKCT với giá cao hơn nhiều.
60
2.3 Đánh giá quá trình phát triển TTNH của Việt Nam trong thời gian qua và
nguyên nhân của những tồn tại
2.3.1 Những mặt đạt được
Thứ nhất, đã xây dựng nền móng cơ sở pháp lý cho hoạt động của TTNH
TTNH hoạt động theo quy chế được ban hành về căn bản phù hợp với Luật NHNN
và Luật các Tổ chức tín dụng đảm bảo cho hoạt động của thị trường phù hợp với luật
pháp, đồng thời cơ sở pháp lý của hoạt động kinh doanh ngoại hối đang dần hoàn
thiện, NHNN đã xây dựng hệ thống các văn bản pháp qui về hoạt động quản lý ngoại
hối với mức độ luật hoá càng cao không còn ở dưới dạng các nghị định mà là pháp
lệnh (Pháp lệnh ngoại hối ban hành năm 2005) tạo môi trường cho việc điều hành,
thực hiện chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối và kinh doanh ngoại hối theo khuôn khổ
của pháp luật.
Những quy định quản lý ngoại hối đáp ứng yêu cầu của điều VIII của Hiệp Định
GATT 1994 các biện pháp kiểm soát giao dịch vãng lai đã được tự do hóa, các biện
pháp quản lý ngoại hối chỉ áp dụng trong những trường hợp ngoại lệ để duy trì sự ổn
định tài chính và tiền tệ quốc gia.
NHNN đã từng thành lập trung tâm giao dịch ngoại hối tạo cơ sở cho hoạt động
của một sàn giao dịch ngoại tệ, tuy nhiên cơ chế thanh toán và giao dịch của trung tâm
không hợp lý và không tương thích với hoạt động của sàn giao dịch ngoại hối như
TTNH của các nước trong khu vực và thế giới.
Thứ hai, ảnh hưởng tích cực của quá trình hội nhập tạo động lực cho các NHTM
trong nước nâng cao trình độ mở rộng hoạt động và tăng năng lực vốn. Theo cam kết
khi gia nhập WTO đến năm 2010 các ngân hàng nước ngoài được phép thực hiện tất
cả các dịch vụ mà NHTM trong nước được thực hiện (Phụ lục số 3), sự cạnh tranh gay
gắt của những đối tác nước ngoài có kinh nghiệm có năng lực về vốn và trình độ cao
đã tạo sức ép mạnh lên các NHTM, vì thế các NHTM ngày càng chú ý tập trung nguồn
lực để nâng cao trình độ chuyên môn, trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại và tăng
năng lực vốn để tạo điều kiện kinh doanh ngoại hối tốt hơn. Điển hình như các NHTM
61
trong nước: VCB, Eximbank đã có trang bị phòng kinh doanh ngoại hối với các thiết
bị hiện đại và tổ chức hoạt động kinh doanh nối mạng với thị trường thế giới, hai ngân
hàng này được xem là có thế mạnh về kinh doanh ngoại hối với các chuyên gia có
trình độ cao về nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ. Bên cạnh đó là các ngân hàng nước
ngoài, ngân hàng liên doanh có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối trên
TTNH thế giới như: Standar Chartered Bank, Deustsche Bank, HSBC, … sẽ là những
chủ thể có khả năng tham gia và phát triển TTNH sẽ làm tăng tính cạnh tranh và thanh
khoản cao cho thị trường. Hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTM ngày càng
mở rộng và năng lực kinh doanh, quản trị rủi ro của các NHTM ngày càng được chú
trọng và củng cố.
Thứ ba, mặc dù giao dịch phái sinh còn sơ khai nhưng thị trường này đã bước đầu
hình thành trên cơ sở có khung pháp lý qui định và các chủ thể trên thị trường đã làm
quen với giao dịch kỳ hạn, quyền chọn tiền tệ để bảo hiểm rủi ro tỷ giá và rủi ro lãi
suất.
Thứ tư, thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động và có thời kỳ rất phát triển
(năm 2007, 2008) đã thu hút lượng ngoại tệ đầu tư gián tiếp nước ngoài chảy vào rất
mạnh mẽ, tác động làm tăng lượng cung ngoại tệ cho TTNH giải quyết tình trạng căng
thẳng về cung cầu ngoại tệ.
Thứ năm, thực hiện tốt cam kết tự do hóa tài khoản vãng lai, thực hiện quản lý
giao dịch ngoại hối trên tài khoản vãng lai bằng những giải pháp thị trường và theo
pháp lệnh, xóa bỏ tình trạng cấp phép mua bán ngoại tệ, giao quyền kiểm tra thực hiện
việc bán ngoại tệ cho các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ.
Tuy nhiên đánh giá hoạt động TTNH Việt Nam có thể thấy còn rất nhiều hạn chế
trong tổ chức, quản lý và điều hành thị trường
62
2.3.2 Những hạn chế của Thị trường ngoại hối Việt Nam
2.3.2.1 Hoạt động TTNTLNH còn khiêm tốn
Số ngân hàng tham gia trên TTLNH còn quá ít so với tổng số lượng các tổ chức tín
dụng, các định chế tài chính phi ngân hàng của tất cả các hình thức sở hữu hiện nay,
điều này cũng dẫn đến doanh số giao dịch trên TTNTLNH chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng doanh số giao dịch ngoại tệ của nền kinh tế, qua đó cho thấy sự hạn chế về năng
lực kinh doanh ngoại hối và nguồn vốn còn khiêm tốn của các ngân hàng tham gia
TTNTLNH. Doanh số giao dịch chủ yếu là của NHNN, doanh số giao dịch của các
NHTM với vai trò nhà tạo giá còn hạn chế.
Chính điều này đã cho thấy hoạt động của TTNTLNH chỉ là hình thức chưa thực
sự đóng vai trò là thị trường sơ cấp nơi hình thành tỷ giá, một biến số kinh tế quan
trọng ảnh hưởng đến quá trình điều hành chính sách tỷ giá. Điều này cũng lý giải vì
sao tỷ giá BQLNH thường có sự cách biệt so với tỷ giá trên TTKCT.
Bên cạnh đó, trong vài thời điểm NHNN chưa thực hiện đầy đủ vai trò can thiệp
thị trường, là người cuối cùng mua bán ngoại tệ theo nhu cầu cuả thị trường khi TTNH
căng thẳng về cung cầu USD.
2.3.2.2 Hàng hóa trên thị trường ngoại hối chưa đa dạng
Một TTNH chỉ hoạt động sôi nổi khi nào có sự tham gia của nhiều đồng tiền,
nhưng TTNH của Việt Nam chủ yếu chỉ có USD còn các ngoại tệ mạnh khác như
EUR, JPY, GBP, AUD, SGD chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn trong tổng doanh số giao dịch,
tỷ lệ doanh số giao dịch của các ngoại tệ khác USD chưa tương thích với cơ cấu các
quốc gia có giao dịch thương mại với Việt Nam.
Điều này xuất phát từ những nguyên nhân sau: (1) Do USD là đồng tiền được chấp
nhận nhiều trong thanh toán quốc tế cho dù là thanh toán giữa hai quốc gia không có
Mỹ; (2) Do thói quen sử dụng USD trong thanh toán, cất trữ, định giá của thị trường
Việt Nam; (3) Do các NHTM Việt Nam không sẳn lòng mua những ngoại tệ khác
USD trừ một vài ngân hàng lớn như VCB, Eximbank, ACB.
63
2.3.2.3 Sự thiếu vắng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá và mục đích tham gia
thị trường ngoại hối cũng chưa đa dạng
Trên TTNH thế giới sự tham gia của những người bảo hiểm (Hedger) là lực lượng
lớn tạo nên sự sôi động của thị trường nhưng ở Việt Nam hoạt động này không được
phát triển vì: (1) Do tỷ giá chậm điều chỉnh theo cung cầu trên thị trường, hoặc điều
hành theo khuynh hướng tạo tâm lý kỳ vọng vào sự gia tăng của tỷ giá, vì vậy không
tạo nên sự quan tâm đến việc bảo hiểm rủi ro tỷ giá. (2) Do người sử dụng ngoại tệ còn
thiếu thông tin các sản phẩm phái sinh, thiếu hướng dẫn về định giá sản phẩm này và
năng lực dự báo tỷ giá, đa số các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập ở Việt Nam là
doanh nghiệp nhỏ và vừa nên không có giám đốc tài chính phụ trách về rủi ro tỷ giá,
doanh nghiệp chưa nhận thức được tác động của rủi ro tỷ giá và hiệu quả của việc sử
dụng các công cụ bảo hiểm. Cũng như doanh nghiệp chưa chấp nhận phí bảo hiểm là
một khoản chi phải được tính vào giá thành sản phẩm và mục đích bảo hiểm rủi ro tỷ
giá là để cố định khoản thu và chi không bị rủi ro do tỷ giá biến động.
Tại TTNH của các khu vực và thế giới, các NHTM là những chủ thể chính tham
gia trên TTNH với nhiều mục đích và chức năng khác nhau tác động đến hoạt động
của TTNH. Nhưng mục đích của các NHTM Việt Nam tham gia TTNH chủ yếu để
đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng. Còn những mục đích như kinh doanh chênh
lệch tỷ giá, đầu cơ, môi giới rất hạn chế.
Nguyên nhân là do: Thứ nhất, các NHTM hạn chế về nguồn ngoại tệ không đủ để
thực hiện các hoạt động kinh doanh và thiếu vắng đội ngũ chuyên viên có trình độ và
kinh nghiệm để phân tích, phán đoán xu hướng biến động của tỷ giá cũng như khả
năng sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro ngoại hối khi duy trì một trạng thái mở
ngoại tệ.
Thứ hai, NHNN vẫn chưa xem đầu cơ trên TTNH là một giao dịch như những
nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, và chưa thấy được vai trò của nhà đầu cơ trên TTNH là
làm tăng tính thanh khoản trên thị trường.
64
Thứ ba, là sự liên thông giữa TTNH trong nước và các TTNH trong khu vực như
Thị trường HongKong, Singapore hay ngoài khu vực Châu Á như Thị trường ngoại
hối London, Newyork còn hạn chế.
2.3.2.4 Thị trường phái sinh còn sơ khai
Như đã phân tích trong phần thực trạng TTNH Việt Nam có doanh số giao dịch
trên thị trường phái sinh rất thấp được được ước lượng gần 10% so với tổng doanh số
giao dịch trên TTNH, đây là một tỷ lệ quá nhỏ so với tiêu chuẩn quốc tế, cụ thể theo
dữ liệu khảo sát của BIS, giao dịch giao ngay chỉ chiếm 1/3, giao dịch hoán đổi chiếm
khoảng một nửa và giao dịch kỳ hạn là 10% , tương tự các giao dịch phái sinh chiếm
50% trên thị trường trong nền kinh tế mới nổi của các nước Châu Á trừ trường hợp của
Trung Quốc nơi TTNH chủ yếu vẫn là giao ngay.
Ngoài ra các giao dịch phái sinh chủ yếu là giao dịch kỳ hạn và hoán đổi còn giao
dịch quyền chọn ngày càng vắng bóng và chưa có giao dịch tương lai tiền tệ.
2.3.3 Nguyên nhân của thực trạng trên
2.3.3.1 Cơ chế điều hành tỷ giá chưa linh động với diễn biến của thị trường
Theo cơ chế thả nổi, tỷ giá được xác định bởi lực lượng thị trường và sự chi phối
của chính phủ trên tỷ giá này chỉ được thực hiện thông qua việc mua và bán trên
TTNH. Trong trường hợp của Việt Nam, chứng minh cho cơ chế thả nổi (float) như
được đề cập trong chương 1 là NHNN không thiết lập tỷ giá chính thức mà đơn giản
chỉ thông báo tỷ giá bình quân liên ngân hàng được xác định thông qua tương tác cung
và cầu trên thị trường trong ngày giao dịch hôm trước. Cơ chế quản lý (managed) là tỷ
giá chỉ dịch chuyển trong biên độ được quy định.
65
Bảng 2.10: Diễn biến Tỷ giá BQLNH và
Tỷ giá bình quân thị trường tự do từ năm 1999- 2006
Đơn vị tính: đồng
Tỷ giá bình Tỷ giá bình
Chỉ tiêu Năm Tỷ giá trần có cộng biên độ quân liên ngân hàng quân thị trường tự do Chênh lệch (5) = (4) – (3) (1) (3) (2) (4)
13935 13949 13965 +16 1999
14173 14187 14260 +73 2000
14488 14502 14728 +226 2001
15240 15278 15288 +10 2002
15536 15575 15526 -49 2003
15724 15764 15777 +13 2004
15820 15859 15873 +14 2005
15966 16006 16030 +24 2006
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN
Biểu đồ 2.2 : Sự biến động của tỷ giá trên thị trường chính thức
và thị trường tự do giai đoạn 1999 – 2006
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN
66
Đầu năm 2007, NHNN đã mở rộng biên độ thêm +/-0.25% lên mức +/- 0.5% với
đà tăng tỷ giá ở năm 2006 việc nới rộng biên độ ở đầu năm được kỳ vọng là sẽ làm
cho tỷ giá tiếp tục tăng. Tuy nhiên năm 2007, luồng ngoại tệ vào nước ta tăng đột biến,
tăng gấp 5 lần so với năm 2006, cùng với lượng kiều hối chuyển về lớn đã gây áp lực
tăng giá VND và lúc này tỷ giá trên TTLNH công bố thấp hơn tỷ giá trên TTNT không
chính thức và các NHTM yết tỷ giá mua bằng tỷ giá bán ngoại tệ trên cơ sở trừ hết
biên độ chứ không phải cộng như thường lệ. Biến động tỷ giá trong năm 2007 ngược
với thực trạng phổ biến từ trước đó là: tỷ giá do NHNN công bố đã tăng khoảng
0.25%, trong khi đó trên thị trường tự do vào cuối năm 2007 so với đầu năm thì tỷ giá
không tăng thậm chí còn giảm nhẹ. Vào cuối năm 2007, NHNN nới rộng biên độ lên
+/- 0.75%(theo QĐ số 3039/QĐ- NHNN ngày 24/12/2007). Tình hình trên kéo dài qua
những tháng đầu năm 2008, trong quý 1/2008, trên TTLNH, hầu hết các ngân hàng
đều yết giá trừ hết biên độ 0.75%, nhưng vẫn không bán ra được vì lúc này, các ngân
hàng đều thiếu hụt VND.
Từ năm 2009 đến năm 2012, NHNN nhiều lần điều chĩnh biên độ nhằm điều tiết
thị trường ngoại hối và điều chĩnh tỷ giá giữa 2 thị trường.
Bảng 2.11: Diễn biến Tỷ giá BQLNH và
Tỷ giá bình quân thị trường tự do từ năm 2007- 2012
Đơn vị tính: đồng
Chỉ tiêu Tỷ giá bình Tỷ giá bình Tỷ giá trần có quân liên ngân quân thị Chênh lệch
Năm (5) = (4) – (3) cộng biên độ (3) trường tự do (4) (1) hàng (2)
2007 16.127 16.248 16.110 -138
2008 16.327 16.817 16.650 -167
2009 17.133 17.880 18.334 +454
2010 18.710 19.272 19.630 +358
2011 20.693 20.899 21.688 +788
2012 20.828 21.036 21.106 +70
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN
67
Biểu đồ 2.3 : Sự biến động của tỷ giá trên thị trường chính thức
và thị trường tự do giai đoạn 2007 -2012
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN
Qua biểu đồ 2.5 cho thấy tỷ giá liên tục tăng qua các năm, trong đó tỷ giá bình
quân trên thị trường tự do hầu hết cao hơn tỷ giá trần bình quân liên ngân hàng, nổi bật
là năm 2011 trung bình mức chênh lệch là gần 800 đồng. Qua năm 2012, NHNN thực
thi nhiều biện pháp mạnh thông qua chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá, chênh lệch
tỷ giá giữa hai thị trường chỉ còn ở mức 70 đồng.
2.3.3.2 Sự tồn tại và ảnh hưởng mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không
chính thức
Như trong khung lý thuyết có trình bày khi nào trong nền kinh tế còn tồn tại các tỷ
giá khác nhau và tình trạng cầu vượt cung ngoại tệ thì sẽ tồn tại một thị trường song
song với thị trường ngoại tệ chính thức. Giao dịch trên thị trường không chính
thức(TTKCT) hiện nay vẫn còn sôi nổi và thanh khoản cao hơn giao dịch trên TTNH
chính thức. Bởi vì, những yếu tố của nền kinh tế tạo nên sự tồn tại và phát triển của
TTKCT vẫn còn như: tình trạng đôla hóa hiện diện trong hầu hết các chức năng của
tiền tệ, giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ vẫn còn trong họat động của đời sống kinh
68
tế, sự lo ngại về tình trạng mất giá của VND đã tạo nên tâm lý thích tích trữ USD.
Chênh lệch tỷ giá giữa TTNH chính thức và TTKCT, là nguyên nhân gây khó khăn
cho việc cạnh tranh thu mua ngoại tệ của các ngân hàng với TTKCT, vì thế ngoại tệ
không được tập trung vào ngân hàng, đã làm cho tình trạng căng thẳng về cung cầu
ngoại tệ của nước ta càng lớn. Thị trường chính thức không đáp ứng được nhu cầu
ngoại tệ hợp lý, hợp pháp của doanh nghiệp của người dân, vì thế họ phải tìm đến
TTKCT tạo điều kiện cho thị trường này tồn tại và phát triển.
Ngoài ra, tình trạng bất ổn trên thị trường vàng trong nước theo những chuyên gia
tài chính cho là do giới đầu cơ đang thao túng, làm cho giá vàng trong nước cao hơn
giá thế giới, lượng vàng nhập lậu gia tăng dẫn đến tăng cầu về ngoại tệ trên TTKCT,
tác động tăng tỷ giá VND/USD, ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tỷ giá của
chính phủ.
2.3.3.3 Tính chuyển đổi của VND chưa cao
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) một đồng tiền tự do chuyển đổi là đồng tiền được
sử dụng rộng rãi để thanh toán các giao dịch quốc tế và được mua bán rộng rãi trên thị
trường ngoại hối chủ chốt. Có nghĩa là đồng tiền đó phải được chấp nhận ở trong nước
và trên quốc tế, để tự do chuyển đổi đồng tiền đó phải chuyển đổi được sang ngoại tệ
mà không có bất kỳ sự hạn chế nào.
Để phát triển TTNH điều cần thiết là hàng hoá phải được lưu chuyển dễ dàng, có
nghĩa là VND phải được chuyển đổi dễ dàng sang ngoại tệ và ngược lại khi có ngoại tệ
có thể dễ dàng mua VND. Tuy nhiên, trong thời gian qua nhu cầu ngoại tệ chính đáng
của cá nhân và tổ chức kinh tế chưa được ngân hàng đáp ứng đầy đủ, ngay cả những
nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển ngoại tệ vào đầu tư phải bán ngoại tệ sang VND để
đầu tư trong nước và khi chuyển lợi nhuận về nước họ cũng gặp khó khăn trong việc
mua ngoại tệ, qua thực tế đó có thể đánh giá mức độ tự hóa tài khoản vãng lai chưa
được thực hiện đầy đủ hay tính chuyển đổi của VND chưa cao.
69
2.3.3.4 Dự trữ ngoại hối thấp
Bảng 2.12 : Dự trữ ngoại hối từ năm 2005 - 2012
Đơn vị tính : tỷ USD
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Chỉ tiêu
Dự trữ ngoại hối 8.60 11.50 21.00 23.00 14.10 12.40 9.00 23.00
Nguồn : Ngân hàng phát triển Châu Á ( ADB)
Theo IMF, một quốc gia có dự trữ ngoại hối từ 12 -14 tuần nhập khẩu thì được coi
là đủ. Dự trữ ngoại hối của Việt Nam vào 2 năm 2007, 2008 đạt mức 15 tuần nhập
khẩu, vượt mức an toàn của IMF, đó là do trong 2 năm này kim ngạch xuất khẩu tăng
mạnh, kiều hối chuyển về nước tăng và cán cân vốn cũng tăng mạnh.Tuy nhiên, so
sánh với luồng vốn ngắn hạn chảy mạnh vào trong 2 năm này, thì dự trữ ngoại hối như
vậy là còn thấp.
Năm 2009 mức dự trữ ngoại hối càng giảm mạnh chỉ còn tương đương 10 tuần
nhập khẩu, đó là do những nguyên nhân khách quan của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế thế giới đã làm cho kim ngạch xuất khẩu nước ta giảm mạnh, chuyển tiền
kiều hối giảm và nhất là nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam FDI giảm mạnh vốn thực
hiện dự báo giảm 16,5%, FII chuyển ra ròng khoảng 560 triệu USD. Năm 2010, dự trữ
ngoại hối sụt giảm chỉ còn hơn 7 tuần nhập khẩu, giảm 12% so với năm 2009, một
trong những yếu tố chính làm sụt giảm dự trữ ngoại hối là do thâm hụt cán cân thanh
toán, nhập khẩu tăng cao, như vậy cần phải dự trữ 20 tỷ USD mới đảm bảo nhập khẩu.
Mức dự trữ như hiện nay là quá thấp so với các nước trong khu vực như Philippine
62.4 tỷ USD, Malaysia 106.5 tỷ USD năm 2010 (theo báo cáo của ADB). Năm 2011,
dự trữ ngoại hối tiếp tục xuống thấp ở mức 9 tỷ USD, đến năm 2012 dự trữ ngoại hối
tăng mạnh trở lại, đảm bảo an toàn cho số tuần nhập khẩu và qua đó cho thấy tín hiệu
khả quan của nền kinh tế.
70
Như vậy, tình hình dự trữ ngoại tệ của Việt Nam thấp chủ yếu là do: (1) Cán cân
thương mại thường xuyên thâm hụt, thặng dư của cán cân vốn lại giảm dần từ năm
2008 đến nay đến nay, (2) Lượng ngoại tệ vào có tăng nhưng không được tập trung
vào hệ thống ngân hàng và nguồn thu ngoại tệ còn nằm tản mạn trong dân cư, trong
các công ty. (3) Việc phối hợp chưa được chặc chẽ giữa Bộ Tài chính và NHNN về
quản lý nguồn thu ngoại tệ do xuất khẩu dầu thô làm hạn chế khai thác hiệu quả nguồn
thu ngoại tệ còn khan hiếm của đất nước.(4) Định hướng chiến lược quản lý dự trữ
ngoại hối chủ yếu mới chỉ đặt ra mặt cơ cấu đảm bảo an toàn tài sản, hình thức đầu tư
còn đơn giản chủ yếu dưới hình thức tiền gửi tại các ngân hàng, các công cụ tài chính
như trái phiếu chính phủ, chưa áp dụng các hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận cao
như đầu tư vào cổ phiếu hay uỷ thác đầu tư vào các quỹ.
2.3.3.5 Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện
Pháp lệnh ngoại hối và Nghị định 160 đã được ban hành để quản lý hoạt động kinh
doanh ngoại hối theo khuôn khổ pháp luật, nhưng Thông tư hướng dẫn thực hiện chế
tài xử phạt do vi phạm pháp lệnh ngoại hối trong việc sử dụng ngoại tệ thanh toán, yết
giá hàng hóa trong nước gây trở ngại cho việc kiểm tra, giám sát và xử phạt không
đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp và giảm hiệu quả của pháp lệnh và nghị định.
Kết luận chương 2
Chương 2 đã trình bày sơ lược quá trình hình thành và phát triển thị trường
ngoại hối Việt Nam, đồng thời phân tích thực trạng của TTNH Việt Nam. Nêu lên
những hạn chế của TTNH đó là: Thứ nhất, hoạt động của TTNTLNH chiếm tỷ lệ quá
thấp so với tổng doanh số giao dịch ngoại tệ trên thị trường, thứ hai là vai trò của
NHNN chưa phát huy hiệu quả đối với sự phát triển TTNH trong giai đoạn hội nhập,
thứ ba là sự tồn tại và hoạt động mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không chính thức,
thứ tư là thị trường ngoại tệ phái sinh còn sơ khai chưa được phát triển.
Trên cơ sở đó Luận văn đã tóm tắt những mặt đạt được và những hạn trong quá
trình phát triển TTNH của Việt Nam thời gian qua, đồng thời đưa ra nguyên nhân mà
71
chủ yếu những thiếu sót trong quá trình điều hành chính sách tỷ giá và thực thi những
biện pháp quản lý ngoại hối là những nhân tố tác động trực tiếp đến quá trình hoạt
động và phát triển của TTNH nói riêng và nền kinh tế nói chung để làm cơ sở cho
những giải pháp trong chương 3.
72
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM
3.1 Định hướng phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam đến năm 2020
Định hướng phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam đến năm 2020 đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ban hành ngày
24/5/2006 với nội dung cụ thể như sau:
Tăng cường khả năng và mức độ bao quát của NHNN trong việc quản lý, giám
sát các giao dịch ngoại hối trong nước và quốc tế, đồng thời có biện pháp hữu hiệu hạn
chế, kiểm soát hiện tượng đào thoát vốn đầu tư ra nước ngoài. Thực hiện tự do hóa các
giao dịch vãng lai và từng bước nới lỏng kiểm soát các giao dịch vốn một cách thận
trọng, phù hợp với lô trình mở cửa thị trường tài chính. Từng bước nâng cao tính
chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, theo hướng trước mắt bảo đảm đồng tiền Việt
Nam được tự do chuyển đổi trên các giao dịch vãng lai và từng bước được chuyển đổi
trên các giao dịch vốn. Thu hẹp phạm vi sử dụng đồng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam
và giảm dần tình trạng đô la hóa. Nâng cao trách nhiệm và khả năng của các NHTM
trong việc đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ đi đôi với việc nới lỏng hạn chế và tạo điều
kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tiếp cận thi trường ngoại hối.
Tăng nhanh dự trữ ngoại hối nhà nước. Thực hiện các biện pháp quản lý tập
trung, thống nhất dự trữ ngoại hối nhà nước tại NHNN. Tập trung các nguồn ngoại tệ
vào hệ thống ngân hàng. Thực hiện chính sách ngoại hối mở để khuyến khích xuất
khẩu và thu hút nguồn ngoại tệ chảy vào nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt, theo cơ chế thị
trường và theo hướng gắn với một rổ các dồng tiền của các đối tác thương mại, đầu tư
quan trọng của Việt Nam. Nới lỏng dần biên độ giao dịch của tỷ giá chính thức, tiến
tới sử dụng các công cụ gián tiếp để điều hành tỷ giá hối đoái. Giảm mạnh và tiến tới
xóa bỏ sự can thiệp hành chính vào thị trường ngoại hối. Phát triển mạnh thị trường
73
ngoại hối và các thị trường tiền tệ phái sinh theo các thông lệ quốc tế. NHNN chỉ can
thiệp thị trường và đáp ứng nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của đất nước chủ yếu nhằm thực
hiện mục tiêu CSTT và bình ổn thị trường tiền tệ. Nâng cao năng lực quản lý và can
thiệp thị trường ngoại tệ của NHNN thông qua các nghiệp vụ thị trường. Hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý về ngoại hối để tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường ngoại hối
phát triển, các TCTD mở rộng hoạt động ngoại hối và các tổ chức, cá nhân tiếp cận
một cách thuận lợi các nguồn ngoại hối. Thu hẹp đáng kể hoạt động ngoại hối không
chính thức.
3.2 Giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam
3.2.1 Hoàn chỉnh khung pháp lý
Để phát triển TTNH an toàn và có hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia,
cần có cơ chế giám sát hoạt động thị trường, đồng thời với quan điểm nhà nước không
trực tiếp can thiệp vào thị trường nhưng phải giám sát chặc chẽ thị trường tài chính nói
chung và TTNH nói riêng thông qua khuôn khổ luật pháp. Vì thế vấn đề cần quan tâm
nhất hiện nay NHNN phải hoàn thiện và bổ sung các quy định về luật pháp, tạo môi
trường pháp lý đồng bộ thông thoáng về hoạt động tài chính tiền tệ cho hoạt động của
thị trường tài chính.
Hoạt động kinh doanh ngoại hối muốn phát triển được cần phải có khung pháp lý
đầy đủ, rõ ràng; vừa tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia dễ dàng hiểu rõ và thực thi
theo đúng pháp luật, vừa tạo điều kiện cho NHNN có thể kiểm tra giám sát nhằm đảm
bảo quyền lợi cho nhà kinh doanh vừa bảo đảm hệ thống tài chính được an toàn. Các
biện pháp phải thực hiện là:
(1) Tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh khung pháp lý, cơ chế, chính sách tiền tệ
và các văn bản pháp quy liên quan theo hướng phù hợp với lộ trình thực hiện các cam
kết quốc tế trong mở cửa lĩnh vực tiền tệ, dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các cam kết
trong Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ và WTO. Hoàn thiện
khung pháp lý về ngoại hối nhằm thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển, các TCTD
74
mở rộng hoạt động ngoại hối và các lực lượng thị trường được tiếp cận một cách tuận
lợi các nguồn ngoại hối.
(2) Cần mau chóng ban hành các thông tư, quyết định hướng dẫn cụ thể và kịp thời
nhằm nâng cao hiệu quả của các văn bản pháp lý.
(3) Các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh là những nghiệp vụ mang tính kỹ thuật cao
và phức tạp cả trong thực hiện và kiểm soát vì thế các văn bản cần phải đầy đủ cả
những chế tài nghiêm minh về dân sự và hình sự để phòng ngừa và xử lý những hành
vi phá hoại gây rối loạn thị trường, hay vi phạm những thỏa thuận trong hợp đồng kinh
doanh ngoại hối.
3.2.2 Về điều hành tỷ giá
Khi nền kinh tế ngày càng hội nhập, dù chưa hoàn toàn tự do hóa tài khoản vốn
nhưng dưới yêu cầu của những cam kết khi gia nhập WTO luồng vốn sẽ di chuyển dễ
dàng hơn đã đặt ra thách thức mới đối với việc kiểm soát luồng vốn, điều hành chính
sách tiền tệ và cơ chế tỷ giá mà những nhà nghiên cứu gọi là "bộ ba bất khả thi": (i) tỉ
giá hối đoái cố định; (ii) tự do hóa tài khoản vốn và (iii) sự độc lập của chính sách tiền
tệ. Các nhà làm chính sách hiểu rằng chỉ có thể đạt được 2 trong 3 mục tiêu trên cùng
một lúc, vì nếu tự do hóa luồng vốn mà thực thi chính sách tỷ giá cố định cần phải mua
ngoại tệ vào đưa nội tệ ra làm tăng lượng cung tiền ảnh hưởng đến việc thực hiên mục
tiêu của chính sách tiền tệ, vì thế nếu muốn tự do hóa dòng vốn và ổn định tiền tệ thì
phải thả nổi tỷ giá. Tương tự để có thể vừa thực hiện chính sách tỷ giá cố định vừa
đảm bảo tính độc lập của chính sách tiền tệ thì cần phải kiểm soát dòng vốn không thể
tự do hóa.
Điều này đã được chứng minh trong giai đoạn năm 2007-2009, khi lượng ngoại tệ
chảy vào gia tăng mạnh mẽ, NHNN đã phải mua USD để ổn định tỷ giá và không thực
hiện trung hòa kịp thời cùng với giá nguyên liệu thế giới gia tăng đã làm tăng mức lạm
phát, ngay cả khi trung hòa kịp thời thì lãi suất vẫn bị tác động ảnh hưởng mục tiêu
của chính sách tiền tệ. Như vậy, việc hội nhập kinh tế đã đặt ra cho NHNN những
thách thức về điều hành chính sách vĩ mô nói chung và chính sách tỷ giá nói riêng.
75
Để thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt cần phải xác định:
Thứ nhất, nên xây dựng một cơ chế điều hành tỷ giá linh động vừa hoạt động
trong điều kiện bình thường vừa sử dụng khi có các cú sốc từ bên ngoài hay khi khủng
hoảng tiền tệ xảy ra. Vì vậy, chính sách tỷ giá nên được xây dựng theo hướng thiên về
thả nổi nhằm phản ánh đúng những biến động của thị trường nhưng NHNN sẽ có
những hành động can thiệp kịp thời đúng thời điểm thông qua việc mua vào và bán ra
ngoại tệ khi tỷ giá biến động quá mức, kết hợp với việc kiểm soát luồng vốn. Tuy
nhiên, để tỷ giá của TTLNH là tỷ giá phù hợp với giá trị thực của VND thì hoạt động
trên TTLNH phải hiệu quả sự tham gia đặt lệnh mua bán của các chủ thể trên thị
trường phải sôi nổi doanh số chiếm tỷ trọng lớn và vai trò tham gia của NHNN chỉ là
thành viên của thị trường và đóng vai trò can thiệp.
Như vậy, tỷ giá hàng ngày được công bố phải theo tín hiệu thị trường, trong một
ngày tỷ giá cũng có thể tăng và giảm chứ không chỉ có một tỷ giá cố định trong suốt
ngày và thậm chí là suốt tuần như trước hay cố định một thời gian lâu rồi sau đó lại
tăng mạnh như cách điều hành tỷ giá từ trước nay, mà nên thay đổi có tăng có giảm
hàng ngày vì:
(1) Chính sự tăng giảm đó mới tạo cơ hội cho hoạt động kinh doanh ngoại hối phát
triển, vì nếu giá cả của thị trường (tỷ giá) cứ cố định thì sẽ không có rủi ro tỷ giá và
không cần thực hiện bảo hiểm rủi ro, như vậy sẽ không có các chủ thể muốn bảo hiểm
rủi ro hạn chế lượng thành viên tham gia thị trường.
(2) Việc điều hành tỷ giá tạo ra tâm lý kỳ vọng sự tăng giá USD như bao lâu nay
cũng không phù hợp với xu thế vận động của thị trường mà nên linh hoạt hơn phù hợp
với diễn biến của cung cầu tiền tệ trên thị trường.
Để có thể xác định tỷ giá phù hợp với cơ chế thị trường vấn đề cần phải đặt ra là
NHNN phải có đội ngũ chuyên viên giỏi, kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh ngoại
hối phải được giao quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm và về tỷ giá đã tính toán, nhằm
thực hiện được mục tiêu chính sách tỷ giá đưa ra.
76
Cơ chế tỷ giá linh hoạt phù hợp với sự biến động cung cầu trên thị trường sẽ giúp
cho TTNH hoạt động hiệu quả.
Thứ hai, xóa bỏ cơ chế neo tỷ giá vào USD mà nên xác định tỷ giá trên cơ sở neo
tỷ giá vào một rổ tiền với cơ cấu các tiền tệ theo tỷ trọng thương mại của những quốc
gia có quan hệ thương mại với Việt Nam. Tỷ giá VND được phản ánh chính xác hơn
và ít bị phụ thuộc riêng vào sự mạnh yếu của USD, tình trạng Đô la hóa thị trường
cũng sẽ giảm. Tỷ giá đó phải được tính toán để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền
tệ là kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng nội tệ .
Một cơ chế quản lý phù hợp phải đi kèm với việc xây dựng một hệ thống giám sát
tài chính hiệu quả, thường xuyên giám sát các hoạt động trên TTNH để kịp thời ngăn
chặn các hành vi lũng đoạn thị trường, đầu cơ… và cảnh báo nguy cơ xảy ra khủng
hoảng tiền tệ để kịp thời ứng phó.
NHNN cần xây dựng qui chế thông tin, thống kê, hệ thống hóa kịp thời số liệu
luồng ngoại tệ ra vào trong nước, từ đó dự báo quan hệ cung cầu trên thị trường để làm
căn cứ điều hành chính sách tỷ giá và quản lý TTNH hiệu quả hơn.
TTTT và TTNH có mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, lãi
suất với bản chất là giá cả trên TTTT và tỷ giá với bản chất là giá cả trên TTNH cũng
có tác động lẫn nhau. Đối với những quốc gia duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi và lãi suất
thả nổi, thì khi chênh lệch lãi suất của một cặp đồng tiền không tương thích với sự biến
động của tỷ giá thì theo qui luật ngang giá lãi suất với tác động của các lực lượng thị
trường thông qua những hoạt động kinh doanh chênh lệch giá sẽ đưa tỷ giá đến vị trí
cân bằng mới.
Ở Việt Nam, với chính sách lãi suất chưa thả nổi hoàn toàn và tỷ giá theo cơ chế
thả nổi có quản lý để tránh hiện tượng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản, NHNN bằng
các nghiệp vụ của mình tác động để giảm lãi suất huy động USD xuống làm tăng
chênh lệch lãi suất giữa VND và USD, tăng tính hấp dẫn của tiền đồng lên, từ đó hạn
chế hiện tượng găm giữ ngoại tệ giảm bớt tình trạng căng thẳng về ngoại tệ.
77
3.2.3 Về tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hóa tài khoản vốn theo lộ trình
Việt Nam đã cam kết thực hiện tự do hoá tài khoản vãng lai theo pháp lệnh ngoại
hối không hạn chế nhu cầu mua ngoại tệ hợp lý hợp pháp của những cá thể và các tổ
chức kinh tế nhưng trong thực tế nhu cầu chính đáng về ngoại tệ của người dân, doanh
nghiệp chưa được đáp ứng kịp thời, đầy đủ. Những nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển
ngoại tệ vào đầu tư, họ có nhu cầu chính đáng khi có lợi nhuận sẽ bán VND mua ngoại
tệ để chuyển về nước, nhưng TTNH Việt Nam thường xuyên ở trong tình trạng cầu lớn
hơn cung và ngân hàng gặp khó khăn cho việc thỏa mãn nhu cầu mua ngoại tệ của nhà
đầu tư, chính điều này là một trong những nguyên nhân làm giảm sức thu hút của thị
trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài, làm hạn chế nguồn ngoại tệ chảy
vào ảnh hưởng đến nguồn cung ngoại tệ trên thị trường, vì thế cần phải hoàn thiện tốt
những cam kết về tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai. Muốn vậy NHNN
cần có những biện pháp tăng cường thu hút ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, đảm bảo
cân bằng cung cầu ngoại tệ, tạo điều kiện thực hiện tốt thanh toán quốc tế, thúc đẩy
hoạt động ngoại thương phát triển.
Giao dịch quan trọng trong tài khoản vãng lai của nước ta đó là kiều hối, là khoản
chuyển tiền một chiều không có rủi ro với số lượng lớn góp phần bù đáng kể vào tình
trạng thâm hụt cán cân thương mại, cần tạo mọi điều kiện tốt nhất để gia tăng nguồn
kiều hối, đồng thời áp dụng các biện pháp kinh tế có kết hợp biện pháp hành chính để
khoản ngoại tệ này sẽ được thu hút vào hệ thống ngân hàng nhằm phát huy lợi thế của
nguồn ngoại tệ này.
Tuy chính sách cơ chế quản lý ngoại hối của nước ta trong thời kỳ hội nhập phải
đảm bảo tuân thủ các cam kết quốc tế, hướng đến tự do hóa thị trường tài chính- tiền
tệ-ngoại hối. Nhưng không có nghĩa là buộc chúng ta phải ngay lập tức phải thực thi
các chính sách quản lý tự do hóa hoàn toàn như các nền kinh tế phát triển, mà cần dựa
vào thực tiễn, hoàn cảnh của nước ta hiện nay.
Trong giai đoạn này và trong vài thập niên tới, nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng,
cũng như thực hiện các chương trình kinh tế xã hội lớn của nhà nước rất cần vốn vì
78
thế, chúng ta cần phải tập trung quản lý ngoại tệ từ mọi nguồn về một đầu mối là
NHNN, từ nguồn thu xuất khẩu dầu thô, đến tất cả các nguồn thu xuất khẩu khác,
nhằm sử dụng tốt nguồn ngoại tệ của nước ta trên phương châm phát huy hết sức mạnh
nội lực rồi mới đến huy động nguồn vốn từ bên ngoài, bởi vì chúng ta đều hiểu rằng
vốn đầu tư của nước ngoài vào làm cho cán cân vốn thặng dư, trong ngắn hạn sẽ giúp
cải thiện cán cân vãng lai thâm hụt, nhưng trong tương lai luồng vốn này sẽ được
chuyển ra dưới hình thức lợi nhuận hay chuyển vốn về nước.
Nói như vậy, để thấy rằng việc tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài là rất
cần thiết nhưng việc quản lý nguồn vốn vào và ra nhằm phát huy hiệu quả của vốn đầu
tư vừa có những biện pháp ứng phó kịp thời khi có những bất ổn của việc đảo chiều
luồng vốn xảy ra là hết sức quan trọng. Theo tiến trình hội nhập, Việt Nam đã và đang
thực thi cam kết tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hoá tài khoản vốn có giới hạn.
Tiếp tục phát huy theo định hướng trên, Việt Nam nên tự do hóa giao dịch theo một lộ
trình tự do hoá dòng vốn vào và chưa nên tự do hóa luồng vốn chảy ra, vì những lý do
sau:
- Việt Nam không đưa ra cam kết cụ thể về mặt thời gian đối với việc tự do hóa
giao dịch vốn.
- Việt Nam đang trong giai đoạn thâm hụt cán cân thương mại lớn, đang rất cần
vốn để xây dựng, vì vậy ưu tiên cho các luồng vốn vào là điều cần quan tâm.
- Tự do hóa giao dịch vốn là vấn đề quan trọng nhưng rất phức tạp và cần được
tiến hành một cách có trật tự và thận trọng, tùy thuộc và điều kiện của mỗi nước,
những lợi ích tiềm năng và khả năng cạnh tranh của hệ thống tài chính.
Để có thể thực hiện nới lỏng quản lý giao dịch vốn phải tăng cường kỷ luật tài
chính, minh bạch hóa hệ thống kế toán, kiểm toán, tăng cường thanh tra, giám sát và
phòng ngừa rủi ro, trong đó việc thực hiện minh bạch hóa thông tin đóng vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo hiệu lực của các quyết định chính sách và biện pháp điều
chỉnh.
Đối với luồng vốn vào, tự do hóa vốn đi dần từng bước, trước tiên với nguồn
vốn dài hạn, như luồng vốn FDI, vì luồng vốn này ít bị những biến động về tài chính
79
như các luồng vốn khác, nếu có hiện tượng đảo chiều luồng vốn ra nước ngoài thì
cũng không gây ra khủng hoảng tài chính như luồng vốn ngắn hạn, từng bước mở cửa
thị trường vốn trong nước theo phạm vi và trình tự hợp lý, phù hợp dần với thông lệ
quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh. Luồng vốn ngắn hạn nên giám sát
chặt chẽ, có biện pháp điều chỉnh cơ cấu luồng vốn nước ngoài theo hướng hạn chế rủi
ro của các luồng vốn ngắn hạn thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô và kiểm soát
các luồng vốn, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và trình độ phát triển của thị
trường tài chính Việt Nam, nhằm ổn định thị trường và tỉ giá hối đoái.
Đối với dòng vốn đầu tư ra nước ngoài, NHNN cần nhanh chóng ban hành các
Thông tư hướng dẫn quản lý ngoại hối đối với hoạt động ĐTRNN nhằm tạo khuôn khổ
pháp lý đồng bộ cho công tác quản lý, theo dõi, giám sát của các cơ quan chức năng và
tạo điều kiện cho nhà đầu tư mua và chuyển ngoại tệ ra đầu tư nước ngoài trong giai
đoạn tiền khả thi, điều tra thăm dò khảo sát, trước khi có Giấy chứng nhận đầu tư.
Ngoài ra, để đối phó với tình trạng doanh nghiệp sử dụng nguồn ngoại tệ không đúng
với mục đích, NHNN cần có chế tài cụ thể để cảnh cáo, trừng phạt. Đối với những dự
án đã đi vào hoạt động và có nguồn thu nhập ổn định, doanh nghiệp đã mở tài khoản
ngoại tệ tại nước đầu tư để hoạt động. NHNN cần phải giám sát hoạt động thu chi trên
tài khoản đó, đồng thời yêu cầu thực thi việc báo cáo theo đúng Nghị định 78/2006-
NHNN.
3.2.4 Phát huy vai trò của NHNN- phát triển TTNT liên ngân hàng
3.2.4.1 Phát huy vai trò của NHNN
Phát triển TTNH theo định hướng để thực thi chính sách tiền tệ của NHNN đề ra
trong từng giai đoạn, thì chức năng can thiệp TTNH của NHNN rất quan trọng nhằm
tác động lên cung cầu ngoại tệ, theo đó NHNN phải thực thi đúng vai trò là người mua
bán cuối cùng trên TTNTLNH. Khi các NHTM cần mua ngoại tệ NHNN phải bán và
ngược lại khi các NHTM dư ngoại tệ bán thì NHNN phải mua vào có như vậy tạo tính
thanh khoản cho thị trường để tránh găm giữ ngoại tệ cũng như tâm lý kỳ vọng sự tăng
tỷ giá. Nếu NHNN không bán ngoại tệ khi cầu lớn hơn cung sẽ tạo cơ hội cho giới đầu
80
cơ tung tin đồn về sự sụt giảm dự trữ ngoại hối, làm người dân hoang mang và sẽ tăng
cường cất giữ ngoại tệ càng trầm trọng thêm tình trạng căng thẳng về cung cầu ngoại
tệ đồng thời làm giảm hiệu quả về sử dụng ngoại tệ.
Với chức năng can thiệp TTNH, động thái mua bán ngoại tệ của NHNN như phát
tín hiệu cho thị trường về sự thay đổi của tỷ giá, thông qua đó NHNH sẽ điều hành tỷ
giá theo mục tiêu đề ra. Vì thế, khi nào nên mua và nên bán NHNN phải có phương án
cụ thể để thực hiện đúng thời điểm mới phát huy tác dụng, tránh tình trạng thực hiện
biện pháp tình thế, chịu sự dẫn dắt của TTKCT, làm mất đi vai trò định hướng thị
trường của NHNN. Khi đó tỷ giá hình thành trên TTLNH sẽ tác động đến tỷ giá giao
dịch trên TTNH khách hàng qua đó NHNN đã gián tiếp tác động đến hoạt động của
TTNH cả nước.
Để có thể tác động kịp thời lên TTNH điều quan trọng là NHNN phải có lượng dự
trữ ngoại hối đủ mạnh, vì thế vấn đề quản lý, sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối cần đặc biệt
chú trọng thông qua các biện pháp sau:
(1) Xác định mức dự trữ ngoại hối hợp lý phù hợp với qui mô của nền kinh tế, của
tình hình tự do hóa cán cân vãng lai và cán cân vốn nhằm đảm bảo khả năng thanh
toán quốc tế, bảo vệ giá trị đồng tiền, cân bằng giữa lợi ích điều hành chính sách tiền
tệ và chi phí của việc nắm giữ dự trữ ngoại hối. Theo thông lệ quốc tế phải dự trữ
lượng ngoại tệ đủ để đáp ứng các nhu cầu nhập khẩu, Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF) tại Việt Nam ông Sanjay Kalra cho rằng: ” Trong điều kiện thị trường
vốn, thị trường tài chính chưa thực sự phát triển, tôi cho rằng, nguồn dự trữ ngoại tệ
tương đương 12 tuần nhập khẩu là đủ với Việt Nam trong thời điểm hiện nay, bởi
nguồn dự trữ này vừa đủ để Việt Nam thanh toán 100% khoản nợ ngắn hạn”.Tuy
nhiên, ông cũng khuyến cáo, Việt Nam nên tăng nhanh mức dự trữ ngoại tệ cần nâng
cao dự trữ lên mức hợp lý đảm bảo đủ can thiệp duy trì sự ổn định trên thị trường
ngoại hối cũng như của cả hệ thống tài chính và toàn bộ nền kinh tế, có thể chống đỡ
cú sốc từ bên ngoài và duy trì sức mạnh kinh tế của quốc gia.
81
(2) Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian
trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình
nhưng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị mất giá, có
thể xem xét sử dụng thêm vàng vào cơ cấu dự trữ ngoại hối, vì theo xu hướng hiện nay
của các NHTW trên thế giới, khi nền kinh tế thế giới có những bất ổn thì vàng là nơi
trú ẩn an toàn hơn. Đồng thời để tăng hiệu quả đồng vốn dự trữ có thể xem xét đầu tư
với phương châm an toàn và có tính thanh khoản cao như mua trái phiếu của những
quốc gia được xếp hạng có uy tín.
(3) Phải tập trung nguồn ngoại tệ vào một đầu mối do NHNN quản lý, có như vậy
mới phát huy hết hiệu quả của vốn ngoại tệ cũng như tạo điều kiện cho NHNN có đủ
ngoại tệ dự trữ để tham gia can thiệp trên thị trường ngoại tệ khi cần thiết. Nên chuyển
nguồn thu ngoại tệ từ dầu thô mà Bộ Tài chính quản lý về NHNN và khi Bộ Tài Chính
cần ngoại tệ sẽ yêu cầu bán lại trên cơ sở bằng với tỷ giá NHNN đã mua của Bộ Tài
chính, có như vậy sẽ sử dụng hợp lý nguồn ngoại tệ của quốc gia vừa đáp ứng nhu cầu
ngọai tệ cần thiết của NSNN.
Ngoài ra, NHNN cần kết nối thị trường tiền tệ trong nước với thị trường tiền tệ
quốc tế nhằm tiếp cận các thông lệ quốc tế trong kinh doanh tiền tệ. NHNN phải thực
sự là đầu tàu dẫn dắt và khuyến khích TTLNH phát triển phù hợp với môi trường quốc
tế, có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ngoại hối phát
triển.
3.2.4.2 Phát triển TTNTLNH về khối lượng giao dịch và số lượng thành
viên
Đặc điểm của TTNH trên thế giới là giao dịch trên TTNTLNH chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng doanh số giao dịch ngoại hối của quốc gia, mà trong đó NHNN đóng vai trò
là người tạo lập và điều tiết TTNH.
TTNTLNH là nơi để NHNN thực thi và điều hành chính sách tỷ giá tương ứng với
từng thời kỳ của nền kinh tế thông qua việc can thiệp vào cung cầu tiền tệ trên thị
trường. Đây cũng được coi là cơ sở để phát triển giao dịch giữa các ngân hàng, là nơi
82
các NHTM tham gia thực hiện kinh doanh cho chính mình và mua bán ngoại tệ đáp
ứng nhu cầu cho khách hàng. Do đó để hoạt động kinh doanh ngoại hối phát triển, điều
cần thiết cần thu hút nhiều ngân hàng tham gia để tăng doanh số giao dịch giúp cho
thị trường hoạt động sôi nổi. Bởi vì, từ khi ra đời vào năm 1994 đến nay, doanh số
giao dịch trên TTNTLNH vẫn chiếm tỷ lệ thấp so với doanh số giao dịch và nhu cầu
của toàn bộ nền kinh tế, tính thanh khoản của thị trường không cao thường chỉ giao
dịch một phía, các NHTM đặt lệnh mua nhiều hơn.
Doanh số giao dịch gia tăng sẽ có điều kiện thực hiện nhiều loại hình giao dịch
phái sinh giữa các ngân hàng như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn, trên cơ sở đó các
NHTM mới phát triển được các giao dịch ngoại hối phái sinh trên thị trường bán lẻ
cho khách hàng, bởi vì các NHTM khi thực hiện các giao dịch phái sinh cho khách
hàng sẽ tìm kiếm giao dịch đối ứng trên TTNTLNH để bảo hiểm cân bằng trạng thái
ngoại hối.
Để tăng số lượng các thành viên trên TTNTLNH nên mở rộng đối tượng được
phép tham gia bao gồm các NHTM trong nước, liên doanh, nước ngoài và cả các tổ
chức kinh tế có vốn lớn nếu đáp ứng đủ các điều kiện do NHNN qui định. Một TTNH
phát triển phải có một TTLNH hoạt động hiệu quả có doanh số chiếm tỷ trọng lớn và
giao dịch chủ yếu trên TTLNH là giữa những NHTM và các tổ chức phi ngân hàng,
vai trò của NHNN chỉ đóng vai trò là người mua bán cuối cùng chứ không phải đóng
vai trò chủ yếu trong giao dịch.
Điều cần thiết là các NHTM phải có vốn ngoại tệ đủ lớn để trở thành nhà tạo thị
trường (maket makers) thực hiện chiến lược kinh doanh tiền tệ trên TTNTLNH, muốn
vậy phải có biện pháp thu hút lượng ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng.
3.2.5 Tăng cường kiểm soát, hạn chế và tiến tới loại bỏ dần hoạt động của thị
trường ngoại tệ không chính thức
Việc tồn tại thị trường ngoại tệ không chính thức đã ảnh hưởng nhiều đến hoạt
động kiểm soát và quản lý ngoại hối của NHNN. Một lượng lớn cung cầu ngoại tệ nằm
ngoài khả năng kiểm soát của Chính phủ làm cho việc xác định giá trị bản tệ và hoạch
83
định chính sách tiền tệ quốc gia gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong tình hình tài chính
bất ổn và bị tác động bởi biến động của thị trường tài chính toàn cầu.
Ở Việt Nam, những yếu tố để thị trường ngoại tệ không chính thức tồn tại và phát
triển xuất phát từ thực trạng kinh tế và cơ chế quản lý ngoại hối của Việt Nam, nội
dung chi tiết đã được liệt kê trong chương 2. Vấn đề hiện nay, để thu hẹp và tiến tới
xóa bỏ hoàn toàn thị trường bày cần phải áp dụng những biện pháp mạnh tay hơn đồng
thời phải kết hợp với các cơ quan chức năng để đạt được hiệu quả tốt nhất.
Thứ nhất, cần triệt để nghiêm cấm việc mua bán ngoại tệ ngoài các TCTD được
phép. Để tăng cường hiệu lực của pháp lệnh ngoại hối cần phảỉ có những chế tài về
mặt kinh tế như xử phạt, tịch thu ngoại tệ, để có tác dụng răn đe gây ảnh hưởng mạnh
đến ý định thực hiện việc mua bán ngoại tệ ngoài thị trường. NHNN phối hợp với các
cơ quan chức năng công an, quản lý thị trường mới có kết quả tốt, đồng thời nên có
những biện pháp hổ trợ như tuyên truyền, thông tin về pháp lệnh ngoại hối trên các
phương tiện truyền thông báo, đài, để người dân có thể biết và thực hiện tốt, đây là
một khâu quan trọng đối với thực trạng của nước ta, vì trãi qua một thời gian khá lâu
mặc dù pháp lệnh đã ra đời từ năm 2006 nhưng rất ít người dân nắm được vì thế họ vô
tình phạm luật, cũng như chưa thấy ai bị phạt, bị tịch thu ngoại tệ, nên họ không sợ.
Bên cạnh đó, còn do sự tiện lợi do mua bán ngoại tệ trên thị trường không chính thức
khi nào cần ngoại tệ có thể đến tiệm vàng để mua dễ dàng và nhanh chóng trong khi
đó nếu đến NHTM sẽ phải xuất trình đầy đủ các loại chứng từ, mà nhiều khi không
được đáp ứng nhu cầu. Để cạnh tranh với thị trường ngoại tệ không chính thức NHNN
nên cho phép các NHTM thực hiện mua bán ngoại tệ mặt theo giá thỏa thuận như đã
triển khai thí điểm tại Eximbank.
Thứ hai, các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ phải đáp ứng đủ nguồn ngoại
tệ cho cá nhân và tổ chức có nhu cầu chính đáng, hợp lệ và hợp pháp. Mặc dù kinh
doanh là việc của mỗi ngân hàng nhưng NHNN có thể có những biện pháp quản lý
hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM thông qua việc kiểm tra đột xuất, khi
khách hàng cần ngoại tệ nhưng do tình trạng khan hiếm ngoại tệ, các ngân hàng găm
84
giữ và không chịu bán, NHNN có thể xử phạt bằng những biện pháp kinh tế như khi
ngân hàng cần mua ngoại tệ trên TTNTLNH, NHNN sẽ không ưu tiên bán cho những
ngân hàng đó.
Bên cạnh đó, các NHTM cũng nên hợp tác với NHNN trong việc tạo điều kiện dễ
dàng thuận lợi cho cá nhân cần mua ngoại tệ và tư vấn cho người dân có thể thay thế
sử dụng ngoại tệ mặt bằng các phương tiện thanh toán khác vừa an toàn vừa hiện đại.
Ngoài ra, các NHTM có thể bán ngoại tệ theo đúng loại ngoại tệ của nước mà cá nhân
đến nhằm giảm căng thẳng cầu USD, cũng như các NHTM có kinh doanh ngoại tệ
cũng phải mua cả những loại ngoại tệ khác USD.
Để giảm bớt tình trạng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản, các NHTM nên có những
chính sách khuyến khích các tổ chức kinh tế khi có thu ngoại tệ nếu bán cho ngân hàng
sẽ được ưu tiên bán lại ngoại tệ khi doanh nghiệp cần, hay có thể thỏa thuận mua ngoại
tệ theo tỷ giá có kỳ hạn. Về phía NHNN nên kết hợp chính sách lãi suất và chính sách
tỷ giá một cách hợp lý để khuyến khích nhà đầu tư bán ngoại tệ chuyển sang VND
nhằm tăng cường nguồn cung ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu ngoại tệ cuả thị trường.
Thứ ba, rà soát và rút giấy phép các đại lý thu đổi ngoại tệ vi phạm pháp lệnh
ngoại hối, đồng thời củng cố và phát triển hoạt động thu đổi ngoại tệ do ngân hàng
thực hiện, vì hiện nay số lượng các phòng giao dịch của các ngân hàng đã gia tăng
đáng kể và có thể thực hiện thu đổi ngoại tệ mà không cần phải ký hợp đồng với các
đại lý. NHNN nên hổ trợ các ngân hàng mở phòng giao dịch thu đổi ngoại tệ tại các
cửa khẩu vùng biên để thay thế các hoạt động buôn tiền của tư nhân vừa đáp ứng nhu
cầu ngoại tệ của cá nhân vừa thu mua lượng ngoại tệ mặt trong dân cư. Thông qua đó,
NHNN sẽ quản lý được hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thu hẹp dần hoạt động của
thị trường ngoại tệ không chính thức.
85
3.2.6 Hạn chế tình trạng đôla hóa và tạo khả năng chuyển đổi dần cho đồng
Việt Nam
3.2.6.1 Hạn chế tình trạng đôla hóa một cách triệt để
Để hạn chế những nguyên nhân gây nên tình trạng đôla hóa và làm giảm khả năng
chuyển đổi của VND, NHNN cần phải thực thi đồng thời các biện pháp sau:
(1) Thiết lập hệ thống luật có chế tài phạt nặng việc thực hiện niêm yết và thanh
toán bằng ngoại tệ ở trong nước. Để chế tài trên có hiệu quả phải có sự phối hợp với
cơ quan chức năng để tăng cường kiểm tra kiểm soát việc thực hiện pháp lệnh ngoại
hối, triệt để kiên quyết thực hiện trong nước chỉ được thanh toán bằng Việt Nam đồng.
(2) NHNN nên xây dựng lộ trình hạn chế cho phép cá nhân mở tài khoản tiết kiệm
ngoại tệ mà không xuất trình nguồn gốc hợp pháp của ngoại tệ. Để tập trung nguồn
ngoại tệ còn trôi nổi bên ngoài hệ thống ngân hàng, cũng như để thu hút nguồn kiều
hối, tạm thời trong giai đoạn này, chúng ta vẫn duy trì cho phép cá nhân được mở tài
khoản tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tại ngân hàng được phép, nếu nguồn ngoại tệ
này có nguồn gốc hợp pháp.
Theo qui định, các tổ chức kinh tế khi nhập ngoại tệ vào tài khoản phải chứng
minh nguồn gốc hợp pháp của nguồn ngoại tệ đó, nhưng cá nhân thì lại không bị yêu
cầu. Đây chính là kẻ hở trong quản lý ngoại hối gây ra nhiều hệ lụy như: các tổ chức
kinh tế giữ ngoại tệ trên tài khoản tiết kiệm cá nhân, khoản tiền này có thể xuất phát từ
những thu nhập bất hợp pháp hoặc của tội phạm. Tuy nhiên, do pháp lệnh ngoại hối
cho phép người dân có quyền giữ, gửi tiết kiệm và bán ngoại tệ cho ngân hàng nên
trong ngắn hạn chưa thể chấm dứt việc cá nhân gửi tài khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ
nhưng trong trung hạn, dài hạn sẽ tiến tới xóa bỏ việc này.
Hạn chế việc rút ngoại tệ mặt sẽ giải quyết được vấn đề căng thẳng về cung cầu
ngoại tệ và sử dụng có hiệu quả lượng ngoại tệ trong nền kinh tế. Bên cạnh đó việc hạn
chế nắm giữ tiền mặt đôla Mỹ sẽ cắt đứt công cụ tiếp tay cho hoạt động buôn lậu và
TTKCT.
86
(3) Trong những thời điểm quan trọng có thể thi hành biện pháp hạn chế cho vay
bằng ngoại tệ, chỉ cho doanh nghiệp có nguồn thu bằng ngoại tệ vay, nhằm giảm bớt
sự căng thẳng về cung cầu ngoại tệ. Tuy nhiên đây chỉ là biện pháp hành chính chỉ
được áp dụng như một giải pháp tình thế, trong cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị
trường thì việc chọn vay ngoại tệ hay nội tệ tùy thuộc vào doanh nghiệp lựa chọn
phương án vay nào khả thi hơn khi so sánh giữa lãi suất của hai đồng tiền và có bảo
hiểm rủi ro tỷ giá bằng công cụ phái sinh kỳ hạn. Đối với các cá nhân vay vốn nước
ngoài cho phép cá nhân được nhận tiền vay bằng ngoại tệ trên tài khoản mở tại ngân
hàng nhưng chỉ được rút VND để thực hiện việc đầu tư, kinh doanh.
3.2.6.2 Nâng cao tính chuyển đổi của VND
Điều 3 Pháp lệnh ngoại hối có ghi rõ: “Thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ
quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam”, nhưng cho đến nay tính
chuyển đổi của VND vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn.
Để thực hiện được điều này, cần thực hiện các biện pháp đồng bộ và phải có sự
phối hợp giữa các cơ quan chức năng. có lộ trình, bởi vì điều này không phải muốn là
được như Trung Quốc có dự trữ ngoại hối lớn nhất, là nền kinh tế vươn lên thứ hai thế
giới nhưng CNYvẫn chưa phải là đồng tiền có khả năng chuyển đổi cao.
Để nâng cao tính chuyển đổi của VND cần phải tiến hành từng bước theo lộ
trình:
Thứ nhất, thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của VND cho những giao dịch trên
tài khoản vãng lai, về mặt lý thuyết Việt Nam đã tự do hóa tài khoản vãng lai, bằng
pháp lệnh ngoại hối nhưng thực tế, có những giao dịch hợp pháp, được phép thanh
toán nhưng không mua được ngoại tệ vì ngân hàng không đủ ngoại tệ để cung cấp cho
nhu cầu chính đáng của người dân, của doanh nghiệp.
Thứ hai, xây dựng cơ chế từng bước đưa VND tham gia vào thanh toán xuất nhập
khẩu.Theo ý kiến của ông Trương Văn Phước, Tổng giám đốc Ngân hàng Xuất nhập
khẩu Việt Nam (Eximbank) nói: “Ở một mức độ nào đó, việc chuyển đổi đồng tiền
bản địa trong thanh toán quốc tế ở thời điểm hiện nay có thể làm được”. Theo ông,
87
năm 2010, kim ngạch nhập khẩu cả nước là 84 tỷ USD, nếu 10% trong số này (8,4 tỷ
USD) được thanh toán cho đối tác bằng VND thì áp lực tỷ giá sẽ giảm đi rất nhiều.
Thứ ba, từng bước thực hiện tính chuyển đổi của VND đối với các giao dịch trên tài
khoản vốn thông qua việc cho phép sử dụng VND trong quan hệ vay, trả nợ nước
ngoài và đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.
Các biện pháp trên chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở:
- Phát triển nền kinh tế bền vững, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị VND, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện cán cân thanh toán.
- Nâng cao dự trữ ngoại tệ là điều kiện đảm bảo thực hiện tính chuyển đổi của
VND.
- Nâng cao chất lượng dich vụ của hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo đáp ứng
kịp thời nhanh chóng việc chuyển đổi đồng tiền phục vụ nhu cầu ngoại tệ hợp pháp
của người dân và tổ chức kinh tế.
- Nâng cao năng lực kinh doanh đàm phán ký kết hợp đồng của những nhà kinh
doanh xuất nhập khẩu nhằm dành quyền lựa chọn VND trong thanh toán.
Như vậy, có thể thấy rằng việc nâng cao tính chuyển đổi VND là vấn đề có tầm vĩ
mô đòi hỏi sự phát triển của nền kinh tế và sự hoàn thiện của hệ thống tài chính.
3.2.7 Nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong hoạt
động kinh doanh ngoại hối
Trước tiên là tăng năng lực tài chính, các ngân hàng thương mại của Việt Nam
cần tập trung nâng cao năng lực về vốn, để có thể phát triển các nghiệp vụ kinh doanh
ngoại hối, vốn lớn là điều kiện cần thiết để thực hiện hoạt động này và tiềm lực vốn
càng lớn khả năng cạnh tranh sẽ cao hơn.
Kế tiếp là nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ chuyên viên, vì kinh doanh
ngoại hối với đầy đủ hoạt động của nó là một lĩnh vực đòi hỏi trình độ nghiệp vụ
chuyên môn cao và bộ máy tổ chức phải khoa học. Cho nên những ngân hàng muốn
88
phát triển nghiệp vụ này cần phải: Tuyển chọn những chuyên viên có trình độ cao có
hiểu biết tốt về các loại sản phẩm phái sinh, có kinh nghiệm trên thị trường kinh doanh
tiền tệ quốc tế để lãnh đạo phòng ban này, làm đầu tàu hướng dẫn và huấn luyện các
nhân viên giao dịch, thường xuyên mở lớp tập huấn đào tạo để cập nhật những kiến
thức mới cũng như học hỏi rút kinh nghiệm để nâng cao trình độ.
Tổ chức hoạt động của phòng kinh doanh theo mô hình chuyên môn hóa cao có đủ
ba phòng ban chức năng với đội ngũ chuyên nghiệp:
Đối với phòng kinh doanh giao dịch trực tiếp với khách hàng phải là những giao
dịch viên (Dealer) có sự nhạy bén trong kinh doanh có năng lực phân tích, tổng hợp
các yếu tố tác động đến tỷ giá để yết tỷ giá phù hợp, đồng thời phải xác định chiến
lược kinh doanh để thiết lập trạng thái ngoại tệ vừa phù hợp với thị trường để đảm bảo
nâng cao lợi nhuận vừa đảm bảo an toàn, tránh rủi ro cao.
Đối với phòng hỗ trợ (back office) cần có những nhân viên có tính chu đáo cẩn
thận hạn chế sai sót về mặt nghiệp vụ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh .
Đối với phòng kiểm soát (Mid office): phải độc lập với 2 phòng trên và có trách
nhiệm theo dõi giám sát những giao dịch do các giao dịch viên ký kết, để đảm bảo các
giao dịch viên này tuân thủ những qui định kinh doanh ngoại hối về hạn mức trạng thái
ngoại tệ, về tỷ giá giao dịch, nhằm phát hiện sớm những giao dịch có dấu hiệu vi phạm
để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong kinh doanh. Bởi vì, như chúng ta đã biết các
giao dịch ngoại hối phái sinh như giao dịch quyền chọn hay tương lai có tính đòn bẩy
tài chính rất cao, vì thế có thể có những giao dịch viên liều lĩnh chạy theo lợi nhuận
cao mà rủi ro lớn, đặt ngân hàng vào nguy cơ phá sản.
Hiện đại hóa hệ thống máy tính nối mạng, quản lý bằng hệ thống cơ sở dữ liệu,
trang bị các phần mềm tính phí quyền chọn và hệ thống EBS để có thể tham chiếu giá
cả và lượng giao dịch trên thị trường thế giới. Electronic Brokerage System (EBS) là
hệ thống môi giới cho các nhà kinh doanh, làm nghiệp vụ môi giới dựa trên cơ sở kỹ
thuật và dịch vụ thanh toán. EBS là thành viên của thị trường chứng khoán Bắc Mỹ
thông qua EBS, các nhà kinh doanh ngoại hối có thể thấy được các luồng tiền di
89
chuyển trên thị trường thế giới; các ngân hàng có thể thấy được các lệnh trên thị
trường mua và thị trường bán đang ở mức nào.
Nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối, song song với
những biện pháp phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối, các ngân hàng cần phải
quan tâm đến việc quản trị rủi ro do hoạt động kinh doanh này mang đến.
Để hạn chế rủi ro và tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh, ngân hàng cần
chú ý đến các biện pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng hạn mức trạng thái ngoại tệ một cách linh hoạt và hợp lý. Hạn
mức (hay giới hạn trạng thái ngoại hối mở)là một công cụ quản trị rủi ro hữu hiệu
trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hạn mức này ngân hàng nên phân định và giới
hạn mức thua lỗ tối đa cho mỗi giao dịch ngoại hối tùy thuộc vào năng lực kinh doanh,
kinh nghiệm, trình độ của mỗi giao dịch viên. Đồng thời phải ban hành các chế tài đối
với những hành vi vi phạm, giao quyền đầy đủ và tự chủ cho bộ phận giám sát, để chủ
động xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm nhằm tăng tính kỷ luật trong kinh
doanh và đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng.
Thứ hai, quan tâm đến hoạt động phân tích và dự báo, trong giai đoạn hội nhập
kinh tế ngày càng sâu và rộng của thế giới ngày nay, sự tăng giảm giá của bất cứ loại
ngoại tệ mạnh nào, sự thay đổi chính sách kinh tế của những nước có quan hệ thương
mại với nước ta, giá cả của những sản phẩm thiết yếu như xăng, dầu, vàng đều ngay
lập tức ảnh hưởng đến tỷ giá, ảnh hưởng đến lãi lỗ trên trạng thái ngoại hối của ngân
hàng đó.
Đối với hoạt động kinh doanh ngoại hối công tác phân tích và dự báo đóng vai trò
hết sức quan trọng, độ chính xác của hoạt động này sẽ giúp cho ngân hàng lập chiến
lược kinh doanh xác định hạn mức trạng thái, mức biến động tỷ giá đối với ngoại tệ,
để yết giá phù hợp nhằm thực hiện được chiến lược đã đề ra, cũng như định giá và phí
của các giao dịch một cách hợp lý vừa mang tính cạnh tranh cao vừa phòng ngừa rủi
ro.
90
Kết luận chương 3
Trong chương 3 Luận văn trình bày cơ sở để phát triển TTNH Việt Nam là dựa
trên những thành quả đạt được trong quản lý, trong điều hành nền kinh tế vượt qua
được những cú sốc khủng hoảng kinh tế trong những năm vừa qua, sự phát triển hệ
thống ngân hàng, đồng thời căn cứ vào mức độ mở cửa nền kinh tế để đưa ra định
hướng phát triển TTNH cho phù hợp chủ trương chính sách phát triển kinh tế trong
từng giai đoạn.
Xác định (1) Phát triển TTNH là bước đi tất yếu không thể tránh khỏi trong quá
trình hội nhập nền kinh tế, phải xác định đây là mục tiêu để hoàn thiện thị trường tài
chính tiến tới đón nhận những thời cơ cũng như những thách thức do quá trình mở cửa
mang đến. Bước chuẩn bị càng chu đáo bao nhiêu thì càng tận dụng được cơ hội cũng
như hóa giải được những rủi ro bất trắc do qua trình mở cửa mang đến vì thế (2) định
hướng xây dựng TTNH phải đảm bảo an tòan nhưng cần phải chú ý đến yếu tố hội
nhập vì có liên thông với TTNH thế giới thì TTNH Việt Nam mới phát triển.
Trên cơ sở định hướng đó, Luận văn đã đưa ra các biện pháp nhằm phát triển
TTNH Việt Nam trong tiến trình hội nhập với những biện pháp cụ thể nhằm hoàn
thiện và phát triển thị trường TTNTLNH, hạn chế và thu hẹp thị trường ngoại tệ không
chính thức, hạn chế tình trạng đôla hóa, nâng cao tính chuyển đổi của VND, hoàn
thiện thị trường tài chính để tạo điều kiện tương tác với TTNH cùng phát triển, hoàn
thiện khung pháp lý làm cơ sở cho các hoạt động kinh doanh ngoại hối và công tác
giám sát quản lý TTNH hoạt động nhằm đạt được mục đích đảm bảo an toàn hệ thống
tài chính.
KẾT LUẬN
Đề tài “ Giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam ” có mục đích
nhằm tìm hiểu rõ hơn về quá trình phát triển và thực trạng thị trường ngoại hối, quản
lý ngoại hối tại Việt Nam hiện nay cũng như tác động của quá trình hội nhập đến thị
trường ngoại hối . Đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm quản lý ngoại hối và hoạt động
của thị trường ngoại hối của các nước khác trên thế giới, từ đó đề xuất ra các giải pháp
thích hợp đối với thị trường ngoại hối Việt Nam.
Qua đề tài, có thể thấy chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái
ở nước ta trong thời gian qua đã có nhiều đổi thay rõ rệt, đã đem lại nhiều kết quả khả
quan và đóng góp một phần không nhỏ vào việc ổn định và phát triển kinh tế. Tuy
nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế của các chính sách điều hành và quản lý thị
trường ngoại hối.
Với những phân tích dựa trên thực tế thực trạng của thị trường ngoại hối ở Việt
Nam, đề tài đã giải quyết được những vấn đề sau:
- Nêu được thực trạng của thị trường ngoại hối tại Việt Nam hiện nay
- Thấy được những mặt tích cực & mặt tiêu cực của quá trình hội nhập kinh tế
mang lại.
- Làm rõ những mặt tích cực và mặt hạn chế của những chính sách quản lý ngoại
hối và điều hành tỷ giá.
- Đề xuất những giải pháp thiết thực cho chính sách quản lý ngoại hối và điều
hành tỷ giá ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn trong thời gian tới.
Qua đề tài, tác giả đã nêu lên những ý kiến của mình đóng góp cho việc ngày
càng hoàn thiện những chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập ngày nay. Tất cả nhằm một mục đích góp phần xây dựng thị trường ngoại hối
Việt Nam ngày càng phát triển và đóng góp nhiều hơn vào việc ổn định và phát triển
kinh tế của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Dương Tấn Diệp (2001), Giáo trình "Kinh tế vĩ mô", NXB Thống kê
2. Dương Hữu Hạnh (2009), Tiền tệ và tài chính quốc tế, NXB Thống kê
3. Đặng Hào Quang (2006), Kinh doanh ngoại hối, NXB Thống kê
4. Học viện Ngân hàng (2001), Giáo trình "Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối",
NXB Thống kê
5. Lê Văn Tư & Phạm Văn Năng (2003), Thị trường tài chính, NXB Thống kê
6. Nguyễn Minh Kiều (2008), Thị trường ngoại hối và các giao dịch ngoại hối,
NXB Thống kê
7. Nguyễn Văn Tiến (2005), Thị trường ngoại hối, các nghiệp vụ phái sinh, NXB
Thống kê
8. Nguyễn Văn Tiến (2001), Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở,
NXB Thống kê
9. Nguyễn văn Tiến (2002), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh
ngân hàng, NXB Thống kê.
10. Nguyễn Minh Trí (2009), Nhập môn tài chính ngân hàng : Tiền tệ, hệ thống tài
chính & nền kinh tế , Trường đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh
11. Thái Bá Cẩn & Trần Nguyên Nam (2004), Phát triển thị trường dịch vụ tài
chính Việt Nam trong tiến trình hội nhập, NXB NXB Thống kê
12. Tài chính Quốc tế - NXB Thống kê – 2000
Tiếng Anh
13. International Financial Statistics, Year Book 2002 and October 2003. IMF
Các website
14. http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/1998373
15. http://vneconomy.vn/p0c6/tai-chinh.htm
16. http://www.oanda.com/convert/fxhistory
17. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=217
18. http://www.adb.org/data/statistics
19. http://www.imf.org/external/index.htm
20. http://thuvienphapluat.vn/archive/Quyet-dinh