BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

------------------

HHUUỲỲNNHH ĐĐOOAANN NNHHÃÃ

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG

NGOẠI HỐI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

------------------

HHUUỲỲNNHH ĐĐOOAANN NNHHÃÃ

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG

NGOẠI HỐI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

MÃ SỐ: 60340201

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS HỒ PHÚC NGUYÊN

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013

LỜI CAM ĐOAN

Kính thưa Quý thầy cô

Tôi tên là Huỳnh Đoan Nhã, là học viên Cao học – khoá 19 – Ngành Ngân hàng

– Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.

Cam đoan luận văn nghiên cứu : “ Giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt

Nam”

Người hướng dẫn khoa học : TS Hồ Phúc Nguyên

Luận văn là do bản thân tôi thực hiện. Các cơ sở lý luận được tôi tham khảo

trực tiếp từ các nguồn tài liệu về ngoại hối và tỷ giá hối đoái. Thực trạng thị trường

ngoại hối của Việt Nam đã được tôi thu thập, chọn lọc từ nhiều nguồn khác nhau như

sách báo, tạp chí, …. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trước đều được trình dẫn

nguồn và tên tác giả.

Tôi cam đoan đề tài không sao chép từ các công trình nghiên cứu khoa học

khác.

TP.Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 09 năm 2013

Học viên

HUỲNH ĐOAN NHÃ

CÁC KÝ HIỆU VÀ THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

IMF : FED : Quỹ Tiền tệ Quốc tế Cục dự trữ Liên bang Mỹ

NHNN : Ngân hàng Nhà nước Việt nam

NHTM : Ngân hàng thương mại

NHTW : Ngân hàng trung ương

USD : Đô la Mỹ

VND : Đồng Việt nam

EUR : Đồng Euro

SGD : GBP : MYR : Đô la Singapore Bảng Anh Đồng Malaysia Ringgit

WTO : TTNH : FOREX : TTTC : TCTD : TTKCT : TTNTLNH : BQLNH : TGLNG : Tổ chức Thương mại Thế giới Thị trường ngoại hối Thị trường ngoại hối Thị trường tài chính Tổ chức tín dụng Thị trường không chính thức Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Bình quân liên ngân hàng Tỷ giá liên ngân hàng

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Tỷ lệ Lợi nhuận họat động kinh doanh ngoại hối so với tổng lợi nhuận

trước thuế ....................................................................................................................... 36

Bảng 2.2 : Tỷ giá (VND/USD) từ 1990 đến 1992 ......................................................... 41

Bảng 2.3: Tỷ giá VND/USD từ 1994-1998 ................................................................... 42

Bảng 2.4: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ....................................... 43

Bảng 2.5: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ khách hàng ............................................ 45

Bảng 2.6: Tỷ trọng doanh số giao dịch của hai thị trường ngoại tệ .............................. 46

Bảng 2.7: Tỷ trọng doanh số giao dịch của hai thị trường ngoại tệ (2006-2012) ......... 47

Bảng 2.8: Tỷ lệ mua, bán giao dịch kỳ hạn và hoán đổi trong tổng giao dịch thị trường

ngoại hối Việt Nam ....................................................................................................... 52

Bảng 2.9 : Lượng kiều hối chính thức chuyển về Việt Nam từ năm 1997-2012 ......... 56

Bảng 2.10: Diễn biến Tỷ giá BQLNH và Tỷ giá bình quân thị trường tự do từ năm

1999- 2006 ..................................................................................................................... 65

Bảng 2.11: Diễn biến Tỷ giá BQLNH và Tỷ giá bình quân thị trường tự do từ năm

2007- 2012 ..................................................................................................................... 66

Bảng 2.12 : Dự trữ ngoại hối từ năm 2005 - 2012 ........................................................ 69

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1 : Lượng kiều hối về Việt Nam từ năm 1997 – 2012 .................................. 57

Biểu đồ 2.2 : Sự biến động của tỷ giá trên thị trường chính thức ................................. 65

Biểu đồ 2.3 : Sự biến động của tỷ giá trên thị trường chính thức và thị trường tự do

giai đoạn 2007 -2012 ..................................................................................................... 67

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

CÁC KÝ HIỆU VÀ THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI ................................. 1

1.1 Ngoại hối và thị trường ngoại hối .......................................................................... 1

1.1.1 Khái niệm ngoại hối ............................................................................................ 1

1.1.2 Thị trường ngoại hối ........................................................................................... 1

1.1.2.1 Khái niệm ...................................................................................................... 1

1.1.2.2 Đặc điểm của thị trường ngoại hối................................................................ 2

1.1.2.3 Chức năng của thị trường ngoại hối .............................................................. 3

1.1.2.4 Các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối ............................................ 3

1.1.2.5 Các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối ....................................................... 5

1.2 Tỷ giá ........................................................................................................................ 7

1.2.1 Khái niệm tỷ giá ................................................................................................. 7

1.2.2 Biến động tỷ giá và những nguyên nhân gây biến động tỷ giá........................... 8

1.2.2.1 Biến động tỷ giá ............................................................................................ 8

1.2.2.2 Những nguyên nhân gây biến động tỷ giá .................................................... 9

1.3 Những nhân tố tác động đến việc phát triển thị trường ngoại hối của một quốc

gia .................................................................................................................................. 12

1.3.1 Tác động của quy luật thị trường ...................................................................... 12

1.3.2 Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế ...................................................... 13

1.3.3 Chính sách quản lý ngoại hối của quốc gia ...................................................... 15

1.3.3.1 Chính sách tỷ giá ......................................................................................... 16

1.3.3.2 Chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trên tài khoản vãng lai

................................................................................................................................... 18

1.3.3.3 Chính sách quản lý ngoại hối đối với tài khoản vốn .................................. 20

1.4 Kinh nghiệm các nước ........................................................................................... 23

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 26

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI

VIỆT NAM ................................................................................................................... 28

2.1 Sơ lược sự hình thành và phát triển của Thị trường ngoại hối Việt Nam ....... 28

2.2 Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam ................................ 31

2.2.1 Những văn bản pháp lý quy định hoạt động kinh doanh ngoại hối .................. 31

2.2.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng trên TTNH Việt

Nam ............................................................................................................................ 35

2.2.2.1 Quá trình hình thành và hoạt động TTNT liên ngân hàng .......................... 37

2.2.2.2 Thực trạng thị trường ngoại tệ khách hàng của Việt Nam ......................... 44

2.2.2.3 Thực trạng sử dụng các giao dịch ngoại hối phái sinh tại các NHTM Việt

Nam ........................................................................................................................... 48

2.2.2.4 Thực trạng yết giá kinh doanh và mua bán ngoại tệ ................................... 54

2.2.3 Thị trường ngoại tệ không chính thức .............................................................. 56

2.2.4 Vai trò của NHNN đối với TTNH Việt Nam trong giai đoạn vừa qua ............ 58

2.2.4.1 Thực hiện vai trò can thiệp TTNH và điều hành chính sách tỷ giá ............ 58

2.2.4.2 Những biện pháp góp phần hạn chế hoạt động của thị trường ngoại tệ

không chính thức. ...................................................................................................... 59

2.3 Đánh giá quá trình phát triển TTNH của Việt Nam trong thời gian qua và

nguyên nhân của những tồn tại .................................................................................. 60

2.3.1 Những mặt đạt được ......................................................................................... 60

2.3.2 Những hạn chế của Thị trường ngoại hối Việt Nam ....................................... 61

2.3.2.1 Hoạt động TTNTLNH còn khiêm tốn ........................................................ 62

2.3.2.2 Hàng hóa trên thị trường ngoại hối chưa đa dạng....................................... 62

2.3.2.3 Sự thiếu vắng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá và mục đích tham gia thị

trường ngoại hối cũng chưa đa dạng ......................................................................... 63

2.3.2.4 Thị trường phái sinh còn sơ khai ................................................................ 64

2.3.3 Nguyên nhân của thực trạng trên ...................................................................... 64

2.3.3.1 Cơ chế điều hành tỷ giá chưa linh động với diễn biến của thị trường ........ 64

2.3.3.2 Sự tồn tại và ảnh hưởng mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không chính thức

................................................................................................................................... 67

2.3.3.3 Tính chuyển đổi của VND chưa cao ........................................................... 68

2.3.3.4 Dự trữ ngoại hối thấp .................................................................................. 69

2.3.3.5 Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện ........................................................... 70

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 70

CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT

NAM .............................................................................................................................. 72

3.1 Định hướng phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam đến năm 2020 ............. 72

3.2 Giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam ......................................... 73

3.2.1 Hoàn chỉnh khung pháp lý ................................................................................ 73

3.2.2 Về điều hành tỷ giá ........................................................................................... 74

3.2.3 Về tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hóa tài khoản vốn theo lộ trình ........ 77

3.2.4 Phát huy vai trò của NHNN- phát triển TTNT liên ngân hàng ........................ 79

3.2.4.1 Phát huy vai trò của NHNN ........................................................................ 79

3.2.4.2 Phát triển TTNTLNH về khối lượng giao dịch và số lượng thành viên ..... 81

3.2.5 Tăng cường kiểm soát, hạn chế và tiến tới loại bỏ dần hoạt động của thị trường

ngoại tệ không chính thức .......................................................................................... 82

3.2.6 Hạn chế tình trạng đôla hóa và tạo khả năng chuyển đổi dần cho đồng Việt

Nam ............................................................................................................................ 84

3.2.6.1 Hạn chế tình trạng đôla hóa một cách triệt để ............................................ 85

3.2.6.2 Nâng cao tính chuyển đổi của VND .......................................................... 86

3.2.7 Nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong hoạt động

kinh doanh ngoại hối .................................................................................................. 87

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ............................................................................................ 90

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Với quyết tâm đưa đất nước bước sang một trang mới, hướng đến mục tiêu phát

triển đất nước ngày càng giàu mạnh cả về kinh tế lẫn vị thế chính trị, Việt Nam đã thực

hiện cải cách kinh tế toàn diện, bắt đầu bằng công cuộc đổi mới vào năm 1986. Từ

năm 1990, công cuộc đổi mới được đẩy mạnh hơn với chủ trương của Đảng và Nhà

nước là phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị

trường có sự quản lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới cũng được tiến hành đồng thời

với việc phát triển kinh tế đối ngoại, mở cửa, hợp tác và hội nhập, phù hợp với xu

hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ.

Với vai trò là chiếc cầu nối giữa kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, thì việc

phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam theo

hướng toàn diện, hiện đại, phù hợp với trình độ và tiêu chuẩn quốc tế là rất cần thiết,

nhằm bôi trơn và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, kích thích luân chuyển các

khoản đầu tư và tín dụng quốc tế, cung cấp các công cụ phòng chống rùi ro tỷ giá cho

các ngân hàng, các nhà xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư, và đi vay quốc tế bằng hợp

đồng kì hạn, quyền chọn, hoán đổi hay tương lai. Một thị trường ngoại hối hoạt động

hiệu quả còn là điều kiện để hình thành tỷ giá theo quan hệ cung cầu và là nơi để Ngân

Hàng Trung Ương tiến hành can thiệp lên tỷ giá theo hướng có lợi cho nền kinh tế.

Trong những năm qua thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành và từng bước

phát triển, nhưng nhìn chung vẫn non trẻ và sơ khai về trình độ, quy mô hoạt động

cũng như kỹ năng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh. Do đó giữa thị trường ngoại hối

Việt Nam và quốc tế còn có một khoảng cách khá xa.

Vậy lý do của thực trạng này là gì và phải làm sao để thúc đẩy thị trường ngoại hối

Việt Nam phát triển? Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, việc nghiên cứu về thị trường

ngoại hối, chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái của nhà nước, tác

động của những chính sách này đến thị trường ngoại hối Việt Nam là việc làm rất cần

thiết. Nghiên cứu vấn đề này là một yêu cầu cần đặt ra trong quá trình phát triển mới

của đất nước, đó là quá trình hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở những lý thuyết và những nghiên cứu trước đây về chính sách quản lý

ngoại hối và đặc điểm hoạt động của thị trường ngoại hối. Luận văn tập trung đánh giá

thực trạng về TTNH Việt Nam và phân tich những tác động của chính sách quản lý

ngoại hối đến TTNH. Từ đó đề xuất những giải pháp để phát triển TTNG trong bối

cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu về ngoại hối, thị trường ngoại hối, các cơ chế tỷ giá hối đoái và ảnh

hưởng của các cơ chế này đến thị trường ngoại hối.

Nghiên cứu thị trường ngoại hối Việt Nam cũng như những tác động của chính

sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái đến thị trường này. Giai đoạn

nghiên cứu chủ yếu từ năm 2006 đến năm 2012.

Nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp để hoàn thiện hơn chính sách quản lý ngoại

hối và chính sách điều hành tỷ giá hối đoái đang áp dụng tại Việt Nam.

Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang đẩy mạnh công tác hoàn thiện lại

các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối theo chiều hướng tự do hóa hoạt động

ngoại hối, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo lập nhiều công cụ giao dịch ngoại hối cho

doanh nghiệp và nhà đầu tư lựa chọn. Hiện nay trên thị trường ngoại hối, việc giao

dịch chủ yếu được thực hiện thông qua đồng USD và ảnh hưởng của đồng USD là rất

lớn đối với mọi giao dịch hối đoái của Việt Nam, chính vì thế, tỷ giá VNĐ – USD sẽ

được nghiên cứu sâu và được lấy làm trọng tâm của bài nghiên cứu này.

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp các phương pháp nghiên cứu. Kết

hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích, tập hợp các ý tưởng thực tiễn tại Việt Nam,

cũng như dựa trên quy luật phát triển tất yếu khách quan của một vấn đề kinh tế xã hội

để hình thành nên luận văn.

5. Bố cục của luận văn

Chương 1: Kiến thức tổng quan về thị trường ngoại hối và phát triển thị

trường ngoại hối trong hội nhập kinh tế quốc tế, phần này nghiên cứu những lý

luận nền tảng liên quan đến thị trường ngoại hối.

Chương 2: Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam, phần

này đi vào tìm hiểu tình hình hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam từ khi bắt

đầu đi vào hoạt động cho đến thời điểm hiện nay. Đồng thời tiến hành đánh giá những

mặt đạt được cũng như những hạn chế, từ đó nhận ra được nguyên nhân của những

mặt hạn chế đó

Chương 3: Giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam, phần này sẽ

là những kiến nghị của người viết đề xuất trên cơ sở thực tế từ chương 2 và lý luận từ

chương 1 nhằm phát triển Thị trường ngoại hối Việt Nam.

1

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI

1.1 Ngoại hối và thị trường ngoại hối

1.1.1 Khái niệm ngoại hối

Theo pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11, ngày 13/12/2005 của ủy Ban

Thường Vụ Quốc Hội nước CHXHCNVN, ngoại hối được quy định như sau:

Ngoại hối bao gồm:

Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung

khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ)

Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ,

hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;

Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty,

kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;

Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư

trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi

lãnh thổ Việt Nam;

Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển

vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.

Ngoại hối trong đề tài nghiên cứu này được hiểu là đồng tiền của quốc gia khác

hoặc đồng tiền chung Châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh

toán quốc tế.

1.1.2 Thị trường ngoại hối

1.1.2.1 Khái niệm

Thị trường ngoại hối là nơi các đồng tiền của các quốc gia và vùng lãnh thổ khác

nhau được mua bán với nhau.

2

Trong thực tế, do hoạt động mua bán tiền tệ xảy ra chủ yếu giữa các ngân hàng

(chiếm khoảng 85% tổng doanh số giao dịch), vì vậy theo nghĩa hẹp thì thị trường

ngoại hối là nơi mua bán các đồng tiền khác nhau giữa các ngân hàng tức thị trường

liên ngân hàng.

1.1.2.2 Đặc điểm của thị trường ngoại hối

Thị trường lớn nhất, doanh số giao dịch cao nhất: doanh số giao dịch trên thị

trường lên tới gần 4.900 tỷ USD/ngày vào năm 2012. Thị trường hoạt động tích cực

nhất là London, sau đó là Newyork, Tokyo, Singapore, Frankfurt…

Là thị trường không gian: FOREX không nhất thiết phải tập trung tại vị trí địa lý

hữu hình nhất định mà là bất cứ nơi đâu diễn ra hoạt động mua bán các đồng tiền khác

nhau.

Là thị trường toàn cầu hay thị trường không ngủ. Do sự chênh lệch về múi giờ

giữa các khu vực trên thế giới nên các giao dịch diễn ra suốt ngày đêm. Thị trường bắt

đầu hoạt động từ Australia, Nhật, Singapore, Hongkong, châu Âu, Newyork… và cứ

như vậy, khi thị trường khu vực châu Á đóng cửa thì thị trường châu Mỹ bắt đầu hoạt

động theo một chu kỳ khép kín toàn cầu.

Các thành viên tham gia thị trường duy trì quan hệ với nhau thông qua điện thoại,

mạng vi tính, telex và fax.

Là một thị trường cạnh tranh hoàn hảo: số lượng người mua và người bán lớn,

các sản phẩm đồng nhất, thông tin lưu chuyển tự do và không có các rào cản đối với

việc tham gia thị trường.

Là một thị trường hoat động hiệu quả: các thông tin liên quan đến tỷ giá luôn

được phản ánh nhanh chóng và chính xác. Tỷ giá tuy được yết trên các thị trường khác

nhau nhưng hầu như là thống nhất với nhau (có độ chênh lệch không đáng kể).

Giao dịch tập trung chủ yếu ở thị trường liên ngân hàng: chiếm khoảng 85%

tổng doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu.

3

USD là đồng tiền được mua bán nhiều nhất: chiếm khoảng 41,5% trong tổng số

các đồng tiền tham gia.

Là thị trường rất nhạy cảm đối với các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý…

nhất là đối với các chính sách tiền tệ của các nước phát triển: mỗi diễn biến về kinh tế,

mỗi sự kiện về chính trị và ngoại giao trên thế giới đều có thể là những nhân tố làm

ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường này.

1.1.2.3 Chức năng của thị trường ngoại hối

Dịch vụ cho các khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế.

Giúp luân chuyển các khoản đầu tư, tín dụng quốc tế, các giao dịch tài chính quốc

tế khác.

Thông qua hoạt động của thị trường ngoại hối, mà sức mua đối ngoại của tiền tệ

được xách định một cách khách quan theo quy luật cung cầu của thị trường.

Là nơi kinh doanh và cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng các hợp

đồng như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai.

Là nơi để NHTW tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động theo chiều hướng có lợi

cho nền kinh tế.

1.1.2.4 Các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối

* Nhóm khách hàng mua bán lẻ

Nhóm khách hàng mua bán lẻ bao gồm các công ty nội địa, các công ty đa quốc

gia, những nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối nhằm

phục vụ cho mục đích hoạt động của chính mình.

* Các ngân hàng thương mại

Các ngân hàng thương mại tiến hành giao dịch ngoại hối nhằm hai mục đích:

- Cung cấp dịch vụ cho khách hàng trong đó chủ yếu là mua hộ, bán hộ cho nhóm

khách hàng mua bán lẻ. Vì là mua hộ, bán hộ nên ngân hàng không chịu rủi ro tỷ giá,

và thông qua cung cấp dịch vụ ngân hàng tiến hành thu một khoản phí.

4

- Kinh doanh cho chính mình tức mua bán ngoại hối nhằm kiếm lãi khi tỷ giá thay

đổi. Hoạt động kinh doanh này tạo ra trạng thái ngoại hối do đó ngân hàng chịu rủi ro

tỷ giá. Các ngân hàng tiến hành giao dịch ngoại hối theo hai cách:

Giao dịch trực tiếp giữa ngân hàng với nhau và với khách hàng.

Giao dịch gián tiếp với nhau thông qua nhà môi giới.

* Những nhà môi giới ngoại hối

Hình thức giao dịch gián tiếp thông qua nhà môi giới ngoại hối cũng khá phát triển.

Nhà môi giới thu thập hầu hết các lệnh đặt mua và lệnh đặt bán ngoại tệ từ các ngân

hàng khác nhau, trên cơ sở đó cung cấp tỷ giá chào mua và tỷ giá chào bán cho khách

hàng của mình một cách nhanh chóng, rộng khắp với giá tay trong. Tuy nhiên các

ngân hàng phải trả cho nhà môi giới một khoản phí. Những ai muốn hành nghề môi

giới ngoại hối phải có giấy phép và các nhà môi giới chỉ cung cấp dịch vụ cho khách

hàng, chứ không mua bán ngoại hối cho chính mình.

* Các Ngân hàng Trung Ương

Nhóm chủ thể này tham gia vào thị trường ngoại hối một mặt để cung cấp dịch vụ

cho khách hàng của mình và một mặt nhằm tác động vào tỷ giá hối đoái. Mục tiêu thứ

nhất xuất phát từ vai trò của NHTW là ngân hàng của Chính phủ. NHTW mua bán trên

thị trường ngoại hối để có thể thâu tóm ngoại tệ để thực hiện các hoạt động thanh toán

của Chính phủ. Tuy nhiên, mục tiêu cơ bản của NHTW khi tham gia thị trường ngoại

hối là nhằm điều chỉnh tỷ giá: trong chế độ tỷ giá cố định, NHTW thường xuyên can

thiệp với mục đích duy trì tỷ giá trong một biên độ tỷ giá nhất định. Trong chế độ tỷ

giá thả nổi có điều tiết, NHTW can thiệp nhằm tác động lên tỷ giá theo hướng mà

NHTW cho là có lợi cho nền kinh tế. Mặc dù khối lượng giao dịch của NHTW thường

không lớn nhưng tác động của các giao dịch do NHTW thực hiện lại rất mạnh mẽ vì

các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối luôn chăm chú theo dõi các hoạt động

của NHTW để dự đoán các chính sách kinh tế vĩ mô trong tương lai, dự báo biến động

của tỷ giá và đưa ra quyết định phù hợp trên thị trườn

5

1.1.2.5 Các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối

* Giao dịch ngoại hối giao ngay ( SPOT)

Giao dịch ngoại hối giao ngay là giao dịch trong đó hai bên thỏa thuận mua bán

ngoại hối theo mức tỷ giá được thỏa thuận ngày hôm nay và việc giao hàng/thanh toán

sẽ được thực hiện trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo.

Giao dịch ngoại hối giao ngay được sử dụng phổ biến cả trên thị trường mua bán lẻ

lẫn TTLNH, giúp các chủ thể tham gia thực hiện các giao dịch thương mại và đầu tư

quốc tế, điều chỉnh trạng thái ngoại hối hay khai thác một cơ hội kiếm lợi nhuận trên

thị trường… Hàng ngày tỷ giá giao ngay được công bố trên các báo lớn, các bản tin thị

trường của đài truyền hình; nó được dùng để phân tích, dự báo, là cơ sở để nhà kinh

doanh tính toán các loại tỷ giá khác nhau.

* Giao dịch ngoại hối kỳ hạn (FORWARD)

Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là giao dịch mua bán ngoại hối trong đó tỷ giá được hai

bên thỏa thuận ngày hôm nay và việc giao hàng/thanh toán được thực hiện tại mức tỷ

giá đó vào một ngày xác định trong tương lai. Ngày xác định trong tương lai ở đây

phải cách ngày ký kết hợp đồng từ 3 ngày làm việc trở lên.

Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là loại hợp đồng có tính ràng buộc cao. Cả hai phía mua

và bán đều không có quyền từ chối kể cả trong những tình huống bất lợi cho mình.

Đây không chỉ là một công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá mà còn giúp các nhà kinh

doanh hạn chế được những bất trắc về thanh khoản.

* Giao dịch ngoại hối hoán đổi (SWAP)

Giao dịch hoán đổi ngoại hối là giao dịch trong đó một bên đồng ý thực hiện bán

một đồng tiền nhất định cho bên kia tại một thời điểm nhất định và đồng thời cam kết

thực hiện mua chính đồng tiền đó vào một thời điểm khác trong tương lai với các mức

tỷ giá được thỏa thuận từ trước.

Giao dịch hoán đổi ngoại hối là một giao dịch hối đoái kép. Đối với mỗi bên tham

gia, sẽ có một giao dịch mua vào và một giao dịch bán ra một đồng tiền nhất định với

6

số lượng bằng nhau, tuy nhiên, ngày giá trị mua vào và ngày giá trị bán ra là khác

nhau. Vì không tạo ra trạng thái ngoại hối ròng nên giao dịch hoán đổi ngoại hối là

công cụ giúp cho nhà kinh doanh quản lí luồng tiền một cách thích hợp mà vẫn tránh

được rủi ro tỷ giá.

* Giao dịch ngoại hối tương lai (FUTURE)

Giao dịch tiền tệ tương lai là một giao dịch trong đó hai bên mua bán thỏa thuận

với nhau về việc mua bán một lượng tiền của một loại tiền xác định theo mức tỷ giá

được thỏa thuận ngay tại thời điểm giao dịch và thời điểm giao hàng/thanh toán được

thực hiện vào một ngày xác định trong tương lai. Đây là loại hợp đồng được chuẩn hóa

cả về quy mô hợp đồng lẫn thời gian đáo hạn.

Giao dịch tiền tệ tương lai là một giao dịch được phát triển từ giao dịch có kỳ hạn

song nó có những điểm khác biệt khá cơ bản so với hợp đồng giao dịch có kỳ hạn. Nếu

như địa điểm giao dịch có kỳ hạn là phi tập trung thì giao dịch hợp đồng tương lai chỉ

được giao dịch tập trung tại sàn giao dịch. Nếu như quy mô và thời gian giao hàng của

một hợp đồng kỳ hạn là tùy ý, được thương lượng và thỏa thuận cụ thể giữa hai bên thì

quy mô và thời gian giao hàng ở hợp đồng tiền tệ tương lai được tiêu chuẩn hóa, có

tính chất cố định và không thương lượng được.

Hợp đồng tiền tệ tương lai có thể dùng để phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với các

khoản phải thu và phải trả bằng ngoại tệ. Tuy nhiên, nó không được các nhà phòng

ngừa rủi ro tỷ giá sử dụng phổ biến như hợp đồng kỳ hạn do những hạn chế nhất định.

Tổ chức giao dịch hợp đồng tiền tệ tương lai hấp dẫn các nhà đầu cơ nhiều hơn.

* Giao dịch ngoại hối quyền chọn (OPTION)

Hợp đồng quyền chọn tiền tệ là một công cụ ngoại hối phái sinh, cho phép người

mua quyền chọn có quyền (chứ không phải nghĩa vụ) mua hoặc bán một đồng tiền

nhất định vào một thời điểm xác định trong tương lai tại một mức tỷ giá cố định được

thỏa thuận ngay khi ký kết hợp đồng.

Có hai loại hợp đồng quyền chọn: Quyền chọn mua và quyền chọn bán.

7

- Hợp đồng quyền chọn mua tiền tệ là hợp đồng, trong đó người mua quyền chọn

sau khi trả phí quyền chọn, có quyền mua một đồng tiền nhất định vào một thời điểm

xác định trong tương lai tại mức tỷ giá quyền chọn đã được thỏa thuận từ trước nếu

như người đó quyết định thực hiện quyền chọn mua của mình. Người bán quyền chọn,

sau khi nhận phí quyền chọn, có nghĩa vụ bán một đồng tiền nhất định tại một mức tỷ

giá quyền chọn nếu bên mua đó quyết định thực hiện quyền chọn.

- Hợp đồng quyền chọn bán tiền tệ là hợp đồng, trong đó người mua quyền chọn

sau khi trả phí quyền chọn, có quyền bán một đồng tiền nhất định vào một thời điểm

xác định trong tương lai tại mức tỷ giá quyền chọn đã được thỏa thuận từ trước nếu

như người đó quyết định thực hiện quyền chọn bán của mình. Người bán quyền chọn

bán, sau khi nhận phí quyền chọn, có nghĩa vụ mua một đồng tiền nhất định tại một

mức tỷ giá quyền chọn nếu bên mua đó quyết định thực hiện quyền chọn.

Hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể dùng để bảo hiểm rủi ro tỷ giá cho các khoản

phải thu và phải trả bằng ngoại tệ hoặc trong các hoạt động đấu thầu quốc tế. Ngoài ra,

các nhà đầu tư có thể kết hợp các vị thế hợp đồng quyền chọn khác nhau để tạo ra các

chiến lược quyền chọn nhất định để kiếm lợi nhuận.

1.2 Tỷ giá

1.2.1 Khái niệm tỷ giá

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có đồng tiền riêng. Thương mại, đầu tư và

các quan hệ tài chính quốc tế… đòi hỏi các quốc gia phải thanh toán với nhau. Thanh

toán giữa các quốc gia dẫn đến việc mua bán các đồng tiền khác nhau, đồng tiền này

lấy đồng tiền kia. Hai đồng tiền được mua bán với nhau theo một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ

này gọi là tỷ giá.

Vậy có thể định nghĩa: Tỷ giá là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông

qua đồng tiền khác.

Ở các thị trường hàng hóa, giá cả được biểu thị như là số đơn vị tiền tệ trên một

đơn vị hàng hóa. Trên thị trường ngoại hối, hàng hóa là tiền tệ, khi một đồng tiền được

8

định giá bởi một đồng tiền khác thì đồng tiền này được gọi là đồng yết giá, đồng tiền

khác được gọi là đồng tiền định giá.

Hiện nay có hai phương pháp yết giá được sử dụng phổ biến đó là yết tỷ giá trực

tiếp và yết tỷ giá gián tiếp:

Yết tỷ giá trực tiếp là cách thể hiện số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ. Ở

đây, ngoại tệ đóng vai trò hàng hóa và được đo lường giá trị bằng đồng nội tệ. Hầu hết

các nước trong đó có Việt Nam đang sử dụng cách yết tỷ giá này.

Yết tỷ giá gián tiếp là cách thể hiện số đơn vị ngoại tệ trên một đơn vị nội tệ. Như

vậy trong cách yết tỷ giá này nội tệ đóng vai trò là hàng hóa và được đo lường giá trị

bằng đồng ngoại tệ. Cách yết tỷ giá này được sử dụng tại các nước như: New Zealand,

Úc, Anh và các nước đồng tiền chung EURO.

1.2.2 Biến động tỷ giá và những nguyên nhân gây biến động tỷ giá

1.2.2.1 Biến động tỷ giá

Ổn định giá trị đồng tiền quốc gia là mục tiêu quan trọng trong chính sách tiền tệ

của mỗi nước. Tỷ giá được ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển,

chính vì điều này mà trong quá khứ, nhiều quốc gia đã cố gắng cố định đồng tiền của

quốc gia mình so với ngoại tệ mạnh, đặc biệt là USD để tạo điều kiện phát triển kinh

tế. Thế nhưng, kết quả là không có Ngân Hàng Trung Ương nào có thể cố định đồng

tiền quốc gia mình trong thời gian dài, hành động của họ đã dẫn đến những hậu quả

nghiêm trọng cho nền kinh tế, cụ thể là cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997

– 1999 xuất phát từ nguyên nhân chế độ tỷ giá cố định của đồng tiền Thái Lan so với

đô la Mỹ. Thậm chí, Bretton Woods gắn với chế độ tỷ giá cố định cũng bị sụp đổ.

Nguyên nhân là do tỷ giá luôn biến động, đó là một tất yếu khách quan và sự biến

động của tỷ giá xuất phát từ quan hệ cung cầu về các đồng tiền liên quan. Đây là quy

luật khách quan của nền kinh tế, do đó mọi biện pháp can thiệp trực tiếp và gượng ép

đều sẽ gây ra những hậu quả xấu cho nền kinh tế.

9

Như vậy, sự biến động của tỷ giá là một thực tế khách quan, nó xuất phát từ sự

biến động của cung cầu các đồng tiền. Cung cầu các đồng tiền chịu ảnh hưởng của bởi

nhiều yếu tố và chính các yếu tố này là nguyên nhân gây ra biến động tỷ giá.

1.2.2.2 Những nguyên nhân gây biến động tỷ giá

Tỷ giá hối đoái được hiểu là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo đồng tiền

trong nước. Đây là giá cả của ngoại tệ trên thị trường và được xác định dựa trên quan

hệ cung cầu về ngoại tệ. Được coi là mấu chốt trong quản lý kinh tế vĩ mô, tỷ giá có

tác động ngược trở lại các mối quan hệ kinh tế, lên giá cả hàng hóa trong nước và lưu

thông tiền tệ…

Sự hình thành tỷ giá là quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách

quan. Nhưng nhìn chung, có ba yếu tố chính tác động đến tỷ giá. Đó là mối quan hệ

cung cầu ngoại tệ, chênh lệch về lãi suất và lạm phát giữa các nước, ngoài ra còn có

các nhân tố khác như chính sách của chính phủ, kỳ vọng và tâm lý,…

* Yếu tố lạm phát:

Xét về mặt lý thuyết, nếu các yếu tố khác như nhau, khi tỷ lệ lạm phát của một

nước tăng tương đối so với lạm phát của một nước khác, mức cầu đồng tiền nước đó

giảm vì giá cao hơn so với nước kia. Ngoài ra, người tiêu dung và các doanh nghiệp

trong nước có lạm phát cao có xu hướng tăng nhập khẩu. Cả hai yếu tố này tạo áp lực

giảm giá đồng tiền của nước có lạm phát cao. Tỷ lệ lạm phát thường khác nhau giữa

các quốc gia, tạo nên các kiểu mậu dịch quốc tế để điều chỉnh thích hơp ảnh hưởng

của lạm phát đến tỷ giá hối đoái.

Tỷ giá hối đoái cân bằng sẽ thay đổi theo thời gian khi cung – cầu các đồng tiền

thay đổi. Sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát tương đối sẽ ảnh hưởng đến hoạt động

thương mại, từ đó tác động đến cung – cầu tiền, và vì thế tác động đến tỷ giá hối đoái.

* Yếu tố lãi suất :

Lãi suất là một trong những công cụ được các chính phủ sử dụng trong quản lý

vĩ mô nền kinh tế, nó kích thích tập trung nguồn lực tài chính và phân bổ nguồn lực đó

10

một cách có hiệu quả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ổn định mục tiêu của chính sách

tiền tệ quốc gia. Đặc biệt, lãi suất còn là công cụ được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối

đoái trên thị trường, điều chỉnh giá trị đối ngoại của đồng nội tệ. Chính sách lãi suất

cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của đồng nội tệ, bởi vì nó hấp dẫn các luồn vốn

nước ngoài chảy vào trong nước, nếu lãi suất trong nước cao hơn lãi suất nước ngoài

hay lãi suất ngoại tệ sẽ dẫn đến những dòng vốn chảy vào hay sẽ làm chuyển hóa

lượng ngoại tệ trong nền kinh tế sang đồng nội tệ để hưởng lãi suất cao hơn. Điều này

làm cho tăng cung ngoại tệ trên thị trường (cũng có nghĩa làm tăng cầu đối với đồng

nội tệ), từ đó đồng ngoại tệ sẽ có xu hướng giảm giá trên thị trường, hay đồng nội tệ sẽ

tăng giá. Trong trường hợp ngược lại, nếu lãi suất trong nước thấp hơn so với lãi suất

nước ngoài hay lãi suất ngoại tệ, đồng ngoại tệ có xu hướng tăng giá trên thị trường

hay đồng nội tệ sẽ giảm giá.

* Cán cân thanh toán quốc tế :

Cung cầu ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến

động của tỳ giá hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác

nhau, trong đó có cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa

có thể dẫn đến khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Khi nền kinh

tế có mức tăng trưởng ổn định, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng, do đó nhu cầu

về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu sẽ tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi

vào tình trạng suy thoái thì các hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu bị

đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa được

điểu chỉnh kịp thời, trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao.

* Chính sách của chính phủ:

Chính phủ của bất kỳ một nước nào cũng có thể thực hiện các chính sách thuế

khóa và tiền tệ riêng của mình để kiểm soát nền kinh tế. Xét trên góc độ chính sách

tiền tệ, chính phủ có thể tác động đến giá trị của đồng nội tệ để cải thiện kinh tế, hạ giá

hoặc tăng giá đồng nội tệ khi cần. Về cơ bản, tỷ giá hối đoái trở thành một công cụ,

giống như các luật lệ về thuế và mức cung tiền, qua đó có thể giúp chính phủ đạt được

11

các mục tiêu kinh tế mong muốn. Mỗi nước có một cơ quan chính phủ có thể can thiệp

thị trường ngoại hối để khống chế giá trị của một đồng tiền, thông thường là ngân hàng

trung ương (NHTW).

Chính phủ có thể tác động đến tỷ giá hối đoái bằng phương pháp trực tiếp hay gián

tiếp:

- Can thiệp trực tiếp: các NHTW có thể tác động đến tỷ giá bằng cách trực tiếp

mua vào ngoại tệ hoặc bán nội tệ ra thị trường. Khi NHTW can thiệp vào thị trường

hoái đối mà có sự điều chĩnh thay đổi mức cung tiền tệ, điều này gọi là can thiệp

không vô hiệu hóa. Ngược lại, nếu muốn can thiệp vào thị trường hoái đối, trong khi

vẫn duy trì mức cung tiền tệ, NHTW sẽ sử dụng can thiệp vô hiệu hóa bằng cách áp

dụng các giao dịch trên thị trường ngoại hối đồng thời với các hoạt động trên thị

trường mở.

- Can thiệp gián tiếp : NHTW có thể tác động đến đồng nội tệ một cách gián tiếp

bằng cách tác động đến các yếu tố ảnh hưởng đến đồng nội tệ như lãi suất, các biện

pháp kiềm chế lạm phát,…Một chính phủ cũng có thể tác động đến tỷ giá hoái đối

bằng cách áp đặt các hàng rào đối với tài chính và mậu dịch quốc tế như thuế nhập

khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, thuế đánh trên bất kỳ thu nhập nào do đầu tư ở nước đó

của các nhà đầu tư ngoại quốc.

* Kỳ vọng và tâm lý:

Kỳ vọng của thị trường vào tỷ giá tương lai cũng là một trong những nhân tố

tác động đến tỷ giá. Như các thị trường tài chính khác, thị trường ngoại hối phản ứng

lại với các thông tin trong tương lai có liên quan đến tỷ giá. Ví dụ thông tin dự đoán

nền kinh tế Mỹ sẽ yếu đi trong thời gian tới có thể làm những nhà đầu cơ bán đồng

USD. Điều này gây áp lực giảm giá trị đồng USD ngay lập tức. Và nếu người tiêu

dùng có tâm lý thích dùng hàng ngoại hơn hàng nội thì sẽ làm tăng cầu nhập khẩu từ

đó làm tăng cầu ngoại tệ, tỷ giá tăng lên. Hay người sở hữu vốn có tâm lý giảm sự tin

tưởng vào một đồng tiền sẽ làm cầu đồng tiền đó giảm. Điều này sẽ tác động làm đồng

tiền đó có xu hướng giảm giá trên thị trường, tỷ giá sẽ thay đổi.

12

Giới đầu cơ cũng là tác nhân gây ra sự biến động tỷ giá. Các nhà đầu cơ hoạt động

dựa trên kỳ vọng về sự biến động của tỷ giá trong tương lai. Họ sẽ tăng mua những

đồng tiền nào mà họ kỳ vọng là sẽ tăng giá trong tương lai, do đó tác động lên cung

cầu ngoại tệ làm cho tỷ giá thay đổi.

Những yếu tố này không tác động một cách riêng lẻ mà chúng tác động cùng lúc

lên cung cầu ngoại tệ từ đó làm thay đổi tỷ giá và kết quả là khó có thể dự đoán chính

xác tỷ giá sẽ biến động như thế nào và biến động bao nhiêu. Việc xác định chính xác

tỷ giá sẽ biến động ra sao trong tương lai là một bài toán vô cùng phức tạp, bài toán

này chứa nhiều biến số và việc dự đoán sự thay đổi của các biến số này vốn dĩ đã

không phải là chuyện dễ thực hiện. Do đó, mặc dù hiện nay đã có những chương trình

hay kỹ thuật dự đoán tỷ giá hiện đại đặc biệt trong kinh doanh ngoại hối, song không

ai có thể dự đoán chính xác tỷ giá sẽ biến động như thế nào.

Sự biến động của tỷ giá đưa đến hai vấn đề. Thứ nhất, tỷ giá biến động gây ra

những rủi ro cho những chủ thể có hoạt động liên quan đến tỷ giá, đó là những doanh

nghiệp xuất nhập khẩu, những nhà đầu tư, những người đi vay, cho vay bằng ngoại tệ

và cả các ngân hàng. Thứ hai, tỷ giá biến động là mảnh đất màu mỡ để các nhà đầu cơ

tìm kiếm cơ hội kiếm lời. Họ tồn tại khi nào còn có sự biến động của tỷ giá, họ không

quan trọng tỷ giá biến động theo hướng nào cái chính họ cần là phải có sự biến động

của tỷ giá .

Trước sự biến động của tỷ giá và những hệ quả của nó, công cụ phái sinh đã ra đời

và hỗ trợ đắc lực cho các chủ thể phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hoặc mong muốn kiếm

lời từ sự biến động của tỷ giá.

1.3 Những nhân tố tác động đến việc phát triển thị trường ngoại hối của một quốc

gia

1.3.1 Tác động của quy luật thị trường

Trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại của

các chủ thể trong nền kinh tế đều phải vận hành theo quy luật khách quan của thị

trường, đó là quy luật giá trị, quy luật cung-cầu, quy luật cạnh tranh. Những quy luật

13

này chi phối việc lập kế hoạch, chiến lược sản xuất và kinh doanh của các doanh

nghiệp, các cá nhân, tổ chức tài chính có giao dịch liên quan đến ngoại tệ, tác động đến

nhu cầu về ngoại tệ của những chủ thể đó sẽ thay đổi dẫn đến sự biến động của tỷ giá

là giá cả của hàng hóa trên TTNH. Nếu một cơ chế tỷ giá cứng ngắc sẽ làm triệt tiêu

động lực bảo hiểm rủi ro tỷ giá và ngăn cản những người tham gia thị trường phát triển

kỷ năng quản lý rủi ro ngoại hối và làm chậm sự phát triển của thị trường phái sinh.

Ngược lại, tỷ giá biến động dẫn đến làm thay đổi lợi nhuận của các chủ thể có giao

dịch liên quan đến ngoại tệ và làm tăng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Cũng như tạo

cơ hội cho nhà đầu cơ tham gia mua bán tiền tệ để tìm kiếm lợi nhuận thông qua sự kỳ

vọng về biến động của tỷ giá.

Một TTNH được điều hành và hoạt động bằng những biện pháp hành chính, áp đặt

tỷ giá theo ý muốn chủ quan của nhà điều hành tách rời với giá thị trường sẽ vi phạm

quy luật giá trị và quy luật cung cầu. Khi đó tỷ giá chính thức chỉ mang tính danh

nghĩa, giao dịch trên hệ thống ngân hàng sẽ bị thu hẹp lại, tạo cơ hội cho thị trường

không chính thức hoạt động.

TTNH sẽ triệt tiêu sự cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia thị trường bằng những

chính sách ưu tiên cho chủ thể kinh tế nhà nước hơn các chủ thể kinh tế khác, khi đó sẽ

dẫn tới những hành vi tiêu cực trong kinh doanh hạn chế sự phát triển của thị trường.

Tôn trọng quy luật khách quan của thị trường sẽ tạo điều kiện cho thị trường vận

hành đúng với chức năng vốn có của nó. Vấn đề đặt ra cho những nhà quản lý là hãy

lập và điều hành chính sách phù hợp với cơ chế thị trường để thông qua qui luật thị

trường đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra.

1.3.2 Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế

Xu hướng phát triển kinh tế của các quốc gia hiện nay là hướng tới hội nhập kinh

tế, là mở cửa nền kinh tế và tùy thuộc vào mỗi quốc gia mà có mức độ mở cửa khác

nhau. Điều này nói lên rằng các quốc gia không thể tự thỏa mãn nhu cầu của chính

mình, mà phải tiến hành chuyên môn hóa sản xuất xuất khẩu những hàng hóa và dịch

vụ có lợi thế so sánh và nhập khẩu những hàng hóa và dịch vụ không có lợi thế so

14

sánh. Như vậy, khi quá trình toàn cầu hoá càng phát triển, mức độ mở cửa của các nền

kinh tế càng lớn thì chu chuyển hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia sẽ càng tăng,

hoạt động thương mại quốc tế sẽ ngày càng phát triển. Và một khi còn tồn tại các đồng

tiền khác nhau giữa các quốc gia, giữa các khu vực thì dẫn đến nhu cầu trao đổi tiền tệ

càng nhiều để đáp ứng với đà phát triển của thương mại và dịch vụ quốc tế từ đó tác

động đến hoạt động của TTNH.

Bên cạnh chu chuyển hàng hóa và dịch vụ phát triển, toàn cầu hóa còn đưa đến

việc mở cửa trong lĩnh vực chu chuyển vốn quốc tế. Một quốc gia mở cửa TTTC sẽ

mang lại những lợi ích nhất định, tăng nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng và phát

triển sản xuất. Những nhà đầu tư, những người đi vay sẽ có cơ hội tiếp cận với các

dòng vốn có chi phí và lãi suất cạnh tranh thông qua TTTC, bên cạnh đó trên TTTC

quốc tế còn cho phép những nhà đầu tư tài chính tìm kiếm khả năng sinh lời cao và

giảm được rủi ro thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư quốc tế. Như vậy, khi mở

cửa TTTC sẽ tạo điều kiện để quá trình luân chuyển vốn giữa các quốc gia phát triển

nhu cầu chuyển đổi tiền tệ sẽ càng tăng giúp cho hoạt động trên TTNH phát triển.

Đây là một tác động vừa mang yếu tố khách quan vừa có yếu tố chủ quan: khách

quan là bởi vì nền kinh tế thế giới hiện nay đứng trước nhu cầu về lương thực, thực

phẩm, nguyên liệu càng gia tăng mà nguồn tài nguyên càng cạn kiệt thì sự liên kết hợp

tác để tận dụng những thế mạnh của những quốc gia, khu vực khác là sự vận động theo

quy luật phát triển tự nhiên của nền kinh tế thị trường, còn chủ quan là tùy thuộc vào

chính sách mức độ hội nhập cuả từng quốc gia. Khi một nền kinh tế mở cửa với thế

giới, nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng trưởng mạnh cùng với luồng vốn đầu tư nước ngoài để

phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là trong trường hợp Việt Nam khi khoảng

90% tổng giá trị nhập khẩu là hàng tư liệu sản xuất và xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều

vào cung cầu và giá cả trên thị trường thế giới.

Những biến động của giá nguyên vật liệu cũng như cầu giảm sút do khủng hoảng

kinh tế là những nhân tố ảnh hưởng đến nhập siêu của Việt Nam và ảnh hưởng đến

nguồn cung cầu ngoại tệ.

15

Quá trình tự do hóa kiểm soát ngoại hối vừa thúc đẩy sự phát triển của TTLNH vừa

tạo điều kiện cho thị trường ngoại tệ phái sinh hoạt động bởi vì trong thế giới mà chính

sách tỷ giá thả nổi được toàn cầu hóa, thì rủi ro tỷ giá sẽ gia tăng một cách mạnh mẽ

và những nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà đầu tư cũng như các ngân hàng sẽ gia

tăng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá.

Tuy nhiên, bên cạnh những tác động thuận lợi tạo cơ hội cho TTNH phát triển thì

quá trình mở cửa sẽ làm cho nền kinh tế của một quốc gia đối mặt với những biến

động từ bên ngoài. Trong một thế giới mà ở đó các thị trường liên kết với nhau sẽ làm

cho mức tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá và tỷ lệ lạm phát … của các quốc gia sẽ

chịu ảnh hưởng lẫn nhau và nếu đó là những sự kiện như khủng hoảng kinh tế, tài

chính của khu vực sẽ làm suy giảm hoạt động sản xuất kinh doanh của các quốc gia,

giảm kim ngạch xuất nhập khẩu, tác động đến doanh số giao dịch trên TTNH sẽ sụt

giảm.

Bên cạnh đó, còn có tác động của các yếu tố: sự phát triển công nghệ thông tin, qui

mô ngày càng lớn của các giao dịch tài chính và những rào cản về tài chính thương

mại bị bãi bỏ theo yêu cầu của hội nhập, đã dẫn đến sự tăng tốc độ chu chuyển các

luồng vốn và trao đổi thương mại, hình thành nên một mạng lưới tài chính toàn cầu với

sự gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các trung tâm tài chính. Những tin tức thị trường

mau chóng lan truyền giữa các châu lục và tạo ra phản ứng dây chuyền trong việc ra

quyết định của các nhà đầu tư, đầu cơ trên toàn cầu cũng như dễ dàng gây ra hiệu ứng

“domino” trên toàn cầu khi một thị trường tài chính của khu vực nào bị khủng hoảng

1.3.3 Chính sách quản lý ngoại hối của quốc gia

TTNH của mỗi quốc gia là nơi mà các chính sách kinh tế, tiền tệ được thực hiện,

những chính sách này sẽ tác động đến hoạt động và phát triển của TTNH mà trực tiếp

là chính sách quản lý ngoại hối. Quản lý ngoại hối hay còn được gọi là kiểm soát ngoại

hối, là một hệ thống những qui định pháp lý mà trong đó có những hạn chế trong trao

đổi, vay, mượn, những khoản thu và chi trong cán cân thanh toán của một quốc gia.

16

Đối với những mục tiêu đầu tư quốc tế quản lý ngoại hối nhằm kiểm soát, quản lý các

luồng vốn di chuyển vào và ra khỏi quốc gia.

Vì thế, chính sách quản lý ngoại hối bao gồm: chính sách tỷ giá, chính sách kết hối,

chính sách lưu thông, kinh doanh và thanh toán ngoại hối vv.. Xây dựng và thực hiện

chính sách quản lý ngoại hối là nhằm đạt mục tiêu ổn định TTNH, tạo sự cân bằng

trong cán cân thanh toán quốc tế, ổn định giá trị tiền tệ, bảo tồn nguồn vốn trong nước

và thu hút đầu tư nước ngoài tạo điều kiện ổn định và phát triển kinh tế.

1.3.3.1 Chính sách tỷ giá

Chính sách tỷ giá là những chủ trương biện pháp của chính phủ thông qua cơ chế

điều hành nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến

một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.

Trong một nền kinh tế mở, động cơ hoạch định chính sách là những mục tiêu cân

đối bên trong và cân đối bên ngoài. Tuy nhiên những mục tiêu này có quan hệ mật

thiết với nhau, những thay đổi cân đối bên trong sẽ tác động đến những thay đổi bên

ngoài và ngược lại. Hơn nữa, trong xu thế hội nhập hiện nay những yếu tố của cân đối

bên trong còn chứa đựng những yếu tố bên ngoài và ngược lại.

Tỷ giá là một biến số kinh tế quan trọng, tác động đến nền kinh tế với mức ảnh

hưởng khác nhau ở các mặt hoạt động khác nhau, với TTNH chính sách tỷ giá sẽ có

những tác động trực tiếp và gián tiếp như sau:

(1) Một tỷ giá hối đoái phản ánh đúng cung cầu ngoại tệ trên thị trường sẽ có tác

động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và phát triển sản xuất, lưu thông

hàng hoá gia tăng lượng ngoại tệ trên TTNH.

(2) Tỷ giá được xác định đúng là giá cả của thị trường sẽ tạo cơ sở cho các giao

dịch trên TTNH phát triển.

(3) Một chế độ tỷ giá phù hợp sẽ tạo điều kiện nâng cao uy tín đồng bản tệ, tạo

niềm tin cho các nhà đầu tư quốc tế thu hút luồng vốn đầu tư chảy vào gia tăng lượng

ngoại tệ tạo cơ hội cho dòng chảy ngoại tệ được thông suốt.

17

Lựa chọn một chính sách tỷ giá hợp lý phải tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế, thể chế

chính trị, phương hướng phát triển kinh tế và nhất là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội

của từng quốc gia trong từng thời kỳ.

Xuất phát từ mục tiêu đặt ra và những tác động của chính sách, chính sách tỷ giá

gồm 2 nội dung chính như sau:(i) Xác định một chế độ tỷ giá phù hợp (ii) Xác định hệ

thống các công cụ tác động đến tỷ giá.

Chế độ tỷ giá (exchange rate regime) hay còn gọi là cơ chế tỷ giá (exchange rate

mechanism) phản ảnh cách thức xác định tỷ giá mà chính phủ lựa chọn và cách thức

can thiệp vào tỷ giá của NHTW, vì thế chế độ tỷ giá được phân chia thành các chế độ

tỷ giá đặc trưng là:

Chế độ tỷ giá cố định: là chế độ theo đó NHTW công bố và cam kết để duy trì tỷ

giá cố định (gọi là tỷ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được định trước. Vai trò

của NHTW buộc phải mua vào hay bán ra đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm

duy trì tỷ giá cố định và chỉ biến động trong một biên độ hẹp.

Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn: là chế độ tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do

theo qui luật cung cầu trên TTNH mà không có bất kỳ sự can thiệp nào của

NHTW.Vai trò của NHTW chỉ tham gia trên TTNH với tư cách là một thành viên bình

thường, nghĩa là NHTW có thể mua hay bán một đồng tiền nhất định để phục vụ cho

mục đích hoạt động của mình chứ không nhằm mục đích can thiệp lên tỷ giá hay để cố

định lên tỷ giá. Trên thực tế tuy tuyên bố áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi nhưng chính

phủ không hoàn toàn thờ ơ trước sự biến động thất thường của tỷ giá, nên cũng có can

thiệp để giảm sự biến động của tỷ giá, tuy nhiên can thiệp của chính phủ là tùy ý

không đặt ra bất cứ mục tiêu bắt buộc nào phải đạt được.

Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: là chế độ tỷ giá, theo đó NHTW tiến hành can

thiệp tích cực trên TTNH nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất định.

NHTW không cam kết duy trì một mức tỷ giá cố định nào, nhưng cam kết can thiệp để

tỷ giá chỉ biến động trong một giới hạn. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là sự kết hợp

giữa chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn và chế độ tỷ giá hối đoái cố định.

18

Trong thực tế hầu như ít có một quốc gia nào áp dụng chế độ tỷ giá cố định hoặc

thả nổi thuần tuý mà thay vào đó là một chính sách tỷ giá kết hợp giữa thả nổi và cố

định với những đặc trưng đa dạng phù hợp với đặc điểm của từng quốc gia.

Chế độ tỷ giá là công cụ của chính sách kinh tế cuả chính phủ vì vậy chế độ tỷ giá

phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chính phủ, mỗi quốc gia sẽ có nguyên tắc xác định

tỷ giá và cơ chế điều hành tỷ giá khác nhau và chính từ đó hình thành các chính sách

tỷ giá khác nhau. Nội dung chính của chính sách tỷ giá chính là chế độ tỷ giá và hệ

thống các công cụ can thiệp. Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ xác định chiến lược phát triển

kinh tế, dự trữ ngoại hối, đặc thù về hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia mà có sự lựa

chọn những chính sách tỷ giá khác nhau.

1.3.3.2 Chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trên tài khoản

vãng lai

Theo Nghị định 160/2006 giao dịch vãng lai là những giao dịch của người cư trú và

không cư trú không vì mục đích chuyển vốn, như vậy, những giao dịch đó bao gồm

các khoản thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch

vụ, các khoản thu nhập từ đầu tư trực tiếp gián tiếp, các khoản tiền lãi và trả lãi nước

ngoài, các khoản chuyển tiền một chiều cho mục đích tiêu dùng. Quản lý ngoại hối đối

với giao dịch trên tài khoản vãng lai gồm những nội dung cụ thể sau:

Theo dõi nguồn thu xuất khẩu

Mỗi quốc gia với trình độ phát triển kinh tế nhất định và với lợi ích của nước đó sẽ

có những chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trên tài khoản vãng lai

khác nhau, qua đó sẽ có quy định về việc kiểm tra quản lý các nguồn thu xuất khẩu,

khi lượng ngoại tệ trong nước quá ít thì các nước thường có chính sách tập trung ngoại

tệ vào một đầu mối do nhà nước quản lý để tăng mức dự trữ ngoại hối cho quốc gia và

cân đối cung cầu ngoại tệ của đất nước, như có quốc gia thực hiện chính sách buộc

phải bán lại tất cả những khoản ngoại tệ từ thu xuất khẩu cho ngân hàng hay thực hiện

chính sách kết hối có tỷ lệ qui định. Những quy định về kiểm soát ngoại hối như vậy

19

sẽ gây bất lợi cho việc phát triển TTNH mà những nước trong khu vực Đông Nam Á

đã từng thực hiện trước đây.

Giám sát việc thanh toán nhập khẩu

Là những biện pháp nhằm quản lý cầu ngoại tệ, để đảm bảo khả năng thanh toán

tiền hàng nhập khẩu, thường có những biện pháp như hạn chế nhập khẩu những hàng

hóa xa xỉ, ưu tiên cho hàng hóa là máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất, áp dụng

những qui định về các chứng từ bắt buộc phải xuất trình khi thanh toán và qui trách

nhiệm kiểm tra chứng từ, xuất trình chứng từ chứng minh nguồn gốc hợp pháp, hợp lệ

của khoản tiền thanh toán, nhằm quản lý chặc chẽ việc sử dụng ngoại tệ và đáp ứng

những yêu cầu của các qui định trong công ước chống rửa tiền mà hiện nay hầu hết các

quốc gia trên thế giới đều có tham gia.

Chính sách kiều hối

Kiều hối là ngoại tệ do người không cư trú chuyển về cho người cư trú trong nước.

Đây là nguồn cung ứng ngoại tệ cho quốc gia mà không có những rủi ro hay phải trả

lãi như những nguồn vốn vay của nước ngoài. Vì thế các quốc gia thường tạo mọi điều

kiện dễ dàng cho hoạt động kiều hối, từ việc sử dụng mức phí hấp dẫn đến rút ngắn

thời gian nhận tiền, cho phép nhận ngoại tệ mặt hay mở tài khoản tiết kiệm bằng ngoại

tệ vv…Tuy nhiên mỗi quốc gia sẽ có những biện pháp để quản lý nguồn ngoại tệ này,

nhằm hạn chế tình trạng đola hóa và nâng cao hiệu quả nguồn ngoại tệ này.

Chính sách mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài

Ban hành những quy định về việc được mua, chuyển ngoại tệ, hay những quy định

cụ thể về số lượng ngoại tệ mặt được phép mang theo khi xuất ngoại hay khi nhập

cảnh. Trong nước có hạn chế hay thả nổi việc thanh toán, cất giữ, định giá bằng ngoại

tệ của người cư trú.

Mở tài khoản ngoại tệ tại nước ngoài

Ngoại tệ của người cư trú nằm trong tài khoản ở nước ngoài có thể được xem là

khoản đầu tư ra nước ngoài, vì thế đối tượng này cũng phải được quản lý bằng những

20

qui định về việc mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài, về mục đích và cách sử dụng tài

khoản của người cư trú là cá nhân hay các tổ chức.

Tóm lại, quản lý ngoại hối trên tài khoản vãng lai có thể được áp dụng theo những

chính sách thắt chặt hay tự do.

Áp dụng những chính sách quản lý ngoại hối thắt chặt như nhà nước độc quyền

trong hoạt động ngoại thương, hoạt động thanh toán quốc tế chỉ do nhà nước thực

hiện, tất cả những giao dịch chuyển ngoại tệ vào phải bán lại cho nhà nước, nếu muốn

chuyển tiền ra phải được sự cho phép của nhà nước mà đại diện là NHNN. Hay nới

lỏng hơn là những chính sách mà nhà nước không độc quyền về hoạt động ngoại

thương nhưng giám sát chặt chẽ nguồn ngoại tệ thu được buộc phải bán cho nhà nước,

hay nhà nhập khẩu chỉ được mua ngoại tệ thông qua ngân hàng theo tỷ giá của nhà

nước ấn định trong từng thời kỳ, mà tỷ giá này thường theo ý muốn chủ quan của nhà

nước chứ không phải do cung cầu trên thị trường xác định.

Ngược lại, chính sách quản lý ngoại hối tự do đối với những giao dịch trên tài

khoản vãng lai, là nhà nước chỉ giám sát để đảm bảo những hoạt động thanh toán hay

những giao dịch liên quan đến ngoại tệ có hợp pháp hay không, không cần phải xin

giấy phép cho những khoản chuyển tiền một chiều ra nước ngoài, hay được ngân hàng

cung ứng ngoại tệ theo nhu cầu hợp pháp, hợp lý theo tỷ giá thị trường.

1.3.3.3 Chính sách quản lý ngoại hối đối với tài khoản vốn

Quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư

Là những quy định đối với các giao dịch trên tài khoản vốn nhằm mục đích thu hút,

quản lý hiệu quả các luồng vốn đầu tư nước ngoài và các luồng vốn đầu tư ra nước

ngoài. Giao dịch vốn(GDV) là những giao dịch chuyển vốn giữa người cư trú và người

không cư trú trong các lĩnh vực liên quan đến đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, vay trả

nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài.

Việc quản lý các giao dịch trên tài khỏan vốn có thể thực hiện theo những biện

pháp:

21

Một là, là quản lý chặt chẽ những luồng vốn vào và ra khỏi đất nước, chỉ có các tổ

chức nhà nước mới được thực hiện chu chuyển vốn theo đúng qui định của nhà nước,

như vậy chỉ có những khoản đầu tư tài trợ, theo đúng nghĩa viện trợ không hoàn lại, là

được nhận vốn đầu tư cũng như chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài và thường việc

chuyển vốn này giữa các quốc gia nhằm mục đích phi lợi nhuận.

Hai là, tự do hóa GDV là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp dụng đối với

những giao dịch này. Đối với người dân, tự do hóa GDV cho phép họ thực hiện các

hoạt động ở nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia hoạt động đầu tư nhằm

đạt lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hữu những công ty khác,

các luồng vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang nơi có tỷ suất

sinh lợi cao.

Tự do hóa GDV sẽ mang lại những lợi ích sau:

- Hình thành sự bình đẳng trong hoạt động đầu tư tài chính, các luồng vốn luân

chuyển linh hoạt và hiệu quả, tạo điều kiện tiếp cận các luồng vốn quốc tế, tăng vốn

đầu tư trong nước, phát triển thị trường tài chính.

- Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn vốn, giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn

trong và ngoài nước với chi phí thấp, nâng cao tính tự chủ của nhà đầu tư;

- Việc mở cửa thị trường tín dụng làm tăng tính linh hoạt của các doanh nghiệp

trước những biến động về hàng hóa và lợi nhuận.

Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, tự do hóa GDV cũng tạo ra sự đa dạng hóa

các rủi ro phát sinh. Nếu chính sách vĩ mô không đủ mạnh và quản lý tài chính yếu

kém, việc gia tăng luồng vốn vào quá mức sẽ gây ra những rủi ro đáng kể đối với nền

kinh tế.

Những rủi ro do quá trình tự do hóa GDV mang lại:

- Tự do hóa GDV tác động mạnh đến hệ thống ngân hàng, cả chính sách tiền tệ của

NHTW và hoạt động kinh doanh của các TCTD, các tập đoàn và ngân hàng lớn ngày

càng có ảnh hưởng mạnh đến chính sách của các quốc gia. Quá trình tự do hóa GDV

22

ảnh hưởng đến các NHTM – thành viên trực tiếp tham gia các GDV quốc tế và thông

qua hoạt động của những khu vực khác trong nền kinh tế, gây khó khăn về quản lý tài

sản, nhất là trong việc điều chỉnh tỉ giá, lãi suất, phòng ngừa rủi ro nhằm cân bằng lợi

ích giữa việc nắm giữ ngoại tệ và nội tệ cũng như cơ cấu tiền gửi và cho vay.

- Trong quá trình tự do hóa GDV, các luồng vốn vào ngày càng tăng mạnh. Khi

luồng vốn vào quá mức có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế quá nóng, nếu tiền cung

ứng tăng quá mức so với tăng trưởng GDP thực tế sẽ làm tăng tổng phương tiện thanh

toán (M2), gây áp lực lạm phát và biến động về tỉ giá hối đoái, làm tăng thâm hụt cán

cân vãng lai, nhất là khi sản xuất trong nước phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu,

tiềm ẩn rủi ro cán cân thanh toán và tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng.

Trong xu thế toàn cầu hóa, chu chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia tăng mạnh

cả về qui mô và tốc độ, mỗi quốc gia cần có chính sách và biện pháp đối phó thích hợp

nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững.

Quản lý ngoại hối đối với hoạt động vay trả nợ nước ngoài

Vay nợ nước ngoài là khoản vay của các NHTM, các tổ chức tín dụng nước ngoài

dành cho các chủ thể được phép. Khoản vay này thường được tính bằng ngoại tệ

mạnh, sau một thời gian các chủ thể phải hoàn trả khoản vốn vay và lãi vay cho các tổ

chức nói trên.

Các khoản vay nợ nước ngoài của một quốc gia có hai loại: vay thương mại và các

khoản vay ưu đãi.

Thường trong cơ cấu nợ vay nước ngoài của các quốc gia đang phát triển các

khoản vay ưu đãi chiếm phần lớn vì các khoản vay này có lãi suất thấp, thời hạn dài và

thường có một phần là viện trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, để có được khoản vay này,

các nước thường phải chịu ràng buộc về mặt kinh tế, chính trị nhất định.

Việc vay nợ nước ngoài tạo nên nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi khi hợp đồng vay vốn

đến hạn. Đây là nghĩa vụ bắt buộc, dễ dẫn đến khả năng không hoàn trả được nợ, vỡ

23

nợ, gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, đặc biệt là ảnh hưởng đến hệ thống tài chính,

tiền tệ. Vì vậy, các nước thường giám sát và quản lý chặc chẽ khoản vay này.

1.4 Kinh nghiệm các nước

Việt Nam xây dựng và phát triển TTNH trong bối cảnh trên thế giới đã có

những TTNH của các khu vực và thế giới, vì thế Việt Nam có thể kế thừa kinh nghiệm

của các quốc gia trong khu vực mà có những yếu tố kinh tế nền tảng tương đồng với

Việt Nam. Tuy nhiên kinh nghiệm vận hành và phát triển thị trường sẽ tùy thuộc vào

những điều kiện cơ sở của mỗi quốc gia, vấn đề quan trọng là học hỏi kinh nghiệm về

điều hành chính sách tỷ giá cũng như quản lý ngoại hối để vừa tạo cơ sở phát triển

TTNH vừa đảm bảo an toàn hệ thống tài chính trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay.

Kinh nghiệm của Singapore

Theo xếp loại của IMF, chính sách tỷ giá của Singapore là thả nổi có điều tiết,

tuy nhiên theo Singapore chế độ tỷ giá của họ có những đặc điểm rất riêng, là chế độ

tỷ giá dựa trên một rổ tiền tệ, có biên độ dao động rộng và điều chỉnh theo định kỳ. Tỷ

trọng của các ngoại tệ trong rổ căn cứ vào mức độ tham gia vào hoạt động thương mại

quốc tế của các đối tác của Singapore, loại tiền tệ và tỷ trọng được điều chỉnh tùy

thuộc vào sự thay đổi trong hoạt động thương mại của Singapor, tuy nhiên Cơ quan

quản lý tiền tệ của Singapore(MAS) không công bố cụ thể thành phần của rổ tiền tệ

cũng như tỷ trọng của các loại tiền.Với mục tiêu theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi có

điều tiết MAS sẽ can thiệp nếu như tỷ giá SGD vượt quá biên độ dao động và hướng

dao động có thể tăng lên hoặc giảm xuống tùy thuộc vào sự biến động của các chỉ số

kinh tế cơ bản, Singapor được xem là quốc gia thành công nhất khi theo đuổi chính

sách tỷ giá thả nổi có điều tiết với các đặc điểm riêng với tên gọi là BBC (Basket Band

Crawl). Nó được xem là hình mẫu cho các chế độ tỷ giá của Trung Quốc cũng như các

quốc gia thuộc Asean.

NHTW Singapore thiết lập ủy ban theo dõi và giám sự phát triển của TTNH gọi

là Ủy ban ngoại hối (Forex Exchange Committee) bao gồm MAS và các NHTM.

24

Một trong những chiến lược kiểm soát khu vực kinh tế đối ngoại là kiểm soát

chặc chẽ các giao dịch ngoại hối giữa người cư trú và người không cư trú thông qua số

liệu thanh toán quốc tế của các NHTM. Việc nộp muộn báo cáo hoặc báo cáo sai sẽ

chịu phạt nặng tính từ ngày đến hạn nộp báo cáo hoặc sửa sai báo cáo. Khi biết có

nhiều giao dịch không qua hệ thống NHTM, NHTW mở rộng phạm vi kiểm soát ngoại

hối bằng cách yêu cầu các công ty ngoại hối trực thuộc các NHTM báo cáo trực tiếp

tất cả các giao dịch ngoại hối cho NHTW, ngoài ra NHTW còn điều tra các giao dịch

qua biên giới hàng tháng để nắm bắt được tất cả các giao dịch mà hệ thống NHTM

không thống kê được.

Kinh nghiệm Thái Lan

Từ năm 1985 Thái Lan đã có những bước đi mạnh mẽ trong quá trình tự do hóa

giao dịch vốn nhằm thu hút dòng vốn nước ngoài, dỡ bỏ những điều kiện đối với dòng

vốn đầu tư trực tiếp, tự do hóa dòng vốn gián tiếp và vay nợ nước ngoài chỉ đăng ký

với NHNN, hạn chế dòng vốn đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên việc phát triển quá

nhanh TTCK với luồng vốn vào ồ ạt đã gây bất ổn cho thị trường, sau khủng hoảng đã

điều chỉnh quản lý chặc chẽ dòng vốn vào đồng thời thay đổi cơ chế tỷ giá trước

khủng hoảng tài chính năm 1997, Thái Lan duy trì việc thông báo tỷ giá hối đoái chính

thức, tỷ giá hối đoái chính thức cũng được neo với rổ tiền tệ, trong đó USD chiếm đến

90%. Tuy nhiên tỷ giá hối đoái chính thức được hủy bỏ hoàn toàn vào ngày 2/7/1997,

sau đó chính sách tỷ giá được thả nổi nhưng chưa hoàn toàn, NHTW sẽ can thiệp khi

thị trường có biến động lớn.

Kinh nghiệm của Philippine

NHTW Philippine (BSP) duy trì một chính sách tỷ giá thả nổi, tỷ giá được xác

định trên cơ sở cung –cầu trên TTNH. Tuy nhiên BSP sẳn sàng can thiệp khi tỷ giá

biến động bất thường. Tỷ giá được xác định theo thị trường là phù hợp với chính sách

cải cách theo định hướng thị trường của chính phủ và chiến lược cạnh tranh hướng

ngoại với giá cả ổn định và hiệu quả.

25

BSP được giao quyền hợp pháp và toàn diện trong việc qui định và giám sát

TTNH, theo đó BSP được phép chỉ định những nhà giao dịch và đại lý ngoại hối được

ủy quyền để giao dịch trên TTNH. Các NHTM được phép tự do kinh doanh trên tài

khoản ngoại tệ của mình mà không bị bắt buộc phải bán ngoại tệ cho NHTW như

trước năm 1985 và NHTW can thiệp vào TTNH thông qua một NHTM của nhà nước.

Ở Philippine giao dịch peso-dolla được thực hiện giữa các ngân hàng là thành

viên của Hiệp hội các NH của Philippine (Bankers Association of the Philippines-

BAP) và giữa những NH này với NHTW thông qua hệ thống giao dịch Philippine (

Philippine Dealing System-PDS), nếu những NH không phải là thành viên của BAP sẽ

giao dịch pesos-dollar thông qua màn hình Reuters Dealing, để giao dịch với đồng tiền

thứ ba hầu hết những ngân hàng đều sử dụng Reuters Dealing và dịch vụ tài chính của

Bloomberg.

NHTW Philippine đã thành lập Trung tâm giao dịch ngoại hối từ năm 1967, đây

là một dạng thị trường giao dịch tại một địa điểm cụ thể đã tạo điều kiện thuận lợi

đáng kể cho việc phát triển TTNH mới nổi.

Về quản lý ngoại hối Philippine và Indonesia cho phép người cư trú và không

cư trú được mở tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ và với khu vực kinh tế đối ngoại việc

kiểm soát các giao dịch ngoại hối bằng việc yêu cầu các tổ chức và cá nhân có giao

dịch ngoại hối báo cáo kết hợp đăng ký tại NHTW Philipine. Hệ thống quản lý này rất

khác biệt so với các nước khác và nước này rất thành công trong việc kiểm soát ngoại

hối thông qua việc sử dụng hệ thống đăng ký giao dịch.

Indonesia cơ chế xác định tỷ giá trên cơ sở “rổ” tiền tệ, tỷ giá hối đoái chính

thức có biên độ dao động, sau khi có khủng hoảng tài chính ở Thái Lan thì bỏ biên độ

nhưng cho phép tỷ giá dịch chuyển thông qua việc can thiệp vào thị trường ngoại hối.

Malaysia trước cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á, về nguyên tắc, tỷ giá hối đoái

được xác định bởi thị trường, nhưng NHTW Malaysia vẫn can thiệp nhằm ổn định tỷ

giá. Sau khủng hoảng, NHTW Malaysia nâng tỷ giá MYR lên 10% và gắn kết với

USD, kết hợp nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ ngoại tệ khi can thiệp vào thị trường

26

ngoại hối chứ không hoàn toàn sử dụng chính sách tiền tệ để ổn định tỷ giá đồng thời

áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn toàn diện.

Tóm lại với những kinh nghiệm của các quốc gia về phát triển TTNH, Việt Nam

có thể xem xét đó là: Thứ nhất, về chính sách tỷ giá để phát triển TTNH và giảm

những cú sốc do khủng hoảng kinh tế trong điều kiện hội nhập, là thực hiện chính sách

tỷ giá thả nổi không hoàn toàn, nhưng linh hoạt hơn và neo với rổ tiền tệ chứ không

neo chặt với một ngoại tệ (thường là USD). Nâng cao vai trò của NHNN trong quá

trình điều hành chính sách tỷ giá, theo xu hướng ổn định tỷ giá, can thiệp mạnh khi

cần thiết nhằm giảm bớt những tác động của khủng hoảng kinh tế và khu vực. Thứ hai,

quản lý ngoại hối nhằm mục đích đảm bảo thị trường có thể hoạt động hiệu quả, không

có những qui định hành chính gây cản trở nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện để kiểm

soát và quản lý hoạt động của thị trường tránh bị những hoạt động của giới đầu cơ làm

lũng đoạn thị trường và tác động đến an toàn hệ thống tài chính. Muốn vậy cần giám

sát luồng ngoại tệ ra, vào khỏi quốc gia chặc chẽ nhưng vẫn đảm bảo thực hiện qui

định tự do hóa giao dịch vãng lai và mở cửa có giới hạn giao dịch vốn. Nhằm mục

đích khơi thông dòng ngoại tệ tạo điều kiện cho TTNH phát triển nhưng vẫn đảm bảo

an toàn hệ thống tài chính quốc gia. Thứ ba,quan tâm đến việc thiết lập một khung thể

chế cho hoạt động của TTNH, phải có cơ quan chuyên trách về hoạt động ngoại hối để

tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động của TTNH, mở rộng đối tượng tham gia thị

trường và trang bị cơ sở hạ tầng, hệ thống thanh toán, trao đổi thông tin hiện đại, phát

triển cả thị trường giao dịch tập trung và không tập trung.

Kết luận chương 1

Chương 1 đã đưa ra những lý thuyết nghiên cứu trước đây về TTNH với đầy đủ

các khái niệm, đặc điểm, phân loại thị trường, các thành viên tham gia và những giao

dịch trên thị trường ngoại hối.

Bên cạnh đó, trong chương 1 luận văn cũng đã trình bày những nhân tố tác

động đến TTNH để làm cơ sở lý luận cho quá trình đánh giá và phân tích thực trạng

của TTNH.

27

Cuối chương 1, luận văn đã giới thiệu những kinh nghiệm về điều hành chính

sách tỷ giá và chính sách quản lý ngoại hối và cách thức tổ chức và quản lý TTNH của

các nước trong khu vực để làm cơ sở thực tiển cho những nhận định và các đề xuất nhằm phát triển TTNH Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế.

28

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG

CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM

2.1 Sơ lược sự hình thành và phát triển của Thị trường ngoại hối Việt Nam

Năm 1991 với Quyết định số 107/QĐ – NH ngày 16/8/1991 do NHNN ban hành về

“Thành lập trung tâm giao dịch ngoại tệ” là mốc đánh dấu cho sự hình thành một thị

trường ngoại hối có tổ chức ở Việt Nam. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền

kinh tế, đến 20/9/1994 “Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng” được thành lập theo

Quyết định số 203/QĐ – NH13 thay thế cho trung tâm giao dịch ngoại tệ. Thị trường

ngoại tệ liên ngân hàng là bước phát triển cao hơn nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của

nền kinh tế như một tổng thể.

Như vậy, khi tìm hiểu về thị trường ngoại hối Việt Nam, chúng ta có thể chia thành

3 giai đoạn:

Trước năm 1991: giai đoạn Việt Nam chưa có thị trường ngoại hối có tổ chức

Từ năm 1991 đến 1994: giai đoạn hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ

Từ năm 1994 đến nay: giai đoạn hoạt động của Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.

Trong thời kỳ Việt Nam phát triển kinh tế theo cơ chế tập trung bao cấp, thị trường

nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng ở Việt Nam chưa có điều kiện hình thành

và phát triển. Nhà nước can thiệp sâu vào mọi mặt đời sống kinh tế xã hội đã ngăn

chặn khả năng phát huy tác dụng của quy luật cung cầu trên thị trường. Đồng thời với

chiến lược phát triển kinh tế hướng nội, các mối quan hệ kinh tế bên ngoài đều thông

qua hệ thống độc quyền của Nhà nước về ngoại tệ, điều này đã làm triệt tiêu mọi ảnh

hưởng của quy luật cung cầu trên thị trường, do đó chế độ tỷ giá Việt Nam áp dụng

trong thời kỳ này là chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá. Và nó đã gây ra hậu quả vô

cùng nghiêm trọng: đồng Việt Nam được định giá quá cao so với các đồng tiền tự do

chuyển đổi, tỷ giá chính thức ngày càng chênh lệch xa tỷ giá thực tế làm cho hoạt động

29

xuất nhập khẩu gặp khó khăn, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng nề. Cũng chính vì

tỷ giá VND/USD chính thức thấp hơn so với tỷ giá cân bằng đã khiến cho thị trường

ngoại hối tự do hình thành và phát triển. Mặc dù thị trường tự do không được pháp luật

công nhận nhưng nó vẫn phát triển song song với thị trường chính thức mà Nhà nước

khó có thể kiểm soát. Sau một thời gian giữ thế độc quyền về ngoại tệ, đến ngày

18/10/1988 khi Quyết định số 11/HĐBT về “ Điều lệ quản lý ngoại hối” của Hội đồng

bộ trưởng ra đời đã phá vỡ thế độc quyền trong kinh doanh ngoại hối trước đây của

ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Giờ đây các NHTM có thể kinh doanh ngoại hối

khi được NHNN cấp phép. Đây được xem là sự khởi đầu tạo ra môi trường và điều

kiện cho hoạt động của thị trường ngoại hối hoàn chỉnh hơn để có thể trở thành chiếc

cầu nối giữa cung và cầu ngoại tệ, tạo cơ sở xác định tỷ giá chính thức một cách khách

quan, sát với cung cầu trên thị trường, nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, đầu tư

nước ngoài và thu hút nguồn ngoại tệ vào ngân hàng. Trước tình hình đó, Thống Đốc

NHNN Việt Nam đã ra Quyết định số 107/QĐ – NH ngày 16/8/1991 ban hành quy chế

hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ và hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã

được thành lập tại Thành Phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Mặc dù chỉ tồn tại trong một

thời gian ngắn từ năm 1991 đến năm 1994 nhưng hai trung tâm này đã đánh dấu bước

ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự cơ chế theo

hướng thị trường. Thông qua hoạt động của hai trung tâm với vai trò là người tổ chức

và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều

hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu của thị trường và hướng

nhu cầu ngoại tệ vào các mục tiêu thiết yếu của nền kinh tế. Tuy nhiên với nhu cầu

phát triển kinh tế và nhu cầu phát triển của thị trường thì hai trung tâm giao dịch ngoại

tệ đã bộc lộ những hạn chế không đáp ứng được nhu cầu giao dịch ngoại tệ của toàn

quốc gia cũng như tính nhanh nhạy kịp thời trong giao dịch và thanh toán của cơ chế

thị trường ngày càng sôi động. Thực tế đòi hỏi phải có một mô hình mới linh hoạt hơn,

toàn diện hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong phạm vi cả nước chứ không chỉ gói

gọn tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đứng trước tình hình đó, NHNN đã ra

Quyết định số 203/QĐ – NH13 ngày 20/9/1994 về việc thành lập Thị trường ngoại tệ

30

liên ngân hàng. Mục tiêu của thiết lập Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là xây dựng

một thị trường có tổ chức cho giao dịch ngoại tệ giữa các NHTM và tạo cơ sở hình

thành thị trường ngoại hối hoàn chỉnh trong tương lai. Ngoài ra, thông qua thị trường

ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN có thể can thiệp một cách hữu hiệu vào thị trường

nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. So với trung tâm giao dịch ngoại tệ, hoạt

động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mang tính thị trường hơn, linh hoạt hơn,

rộng hơn và khách quan hơn. Các thành viên trên khắp nơi có thể tham gia giao dịch,

do đó kết quả giao dịch phản ánh được cung cầu ngoại tệ của toàn bộ nền kinh tế. Tỷ

giá của VND so với ngoại tệ cũng được hình thành một cách khách quan hơn và phản

ánh tương đối sức mua của VND.

Cùng với sự phát triển cơ cở của thị trường ngoại hối là sự cải tiến về mặt pháp luật

của NHNN nhằm dần dần hoàn thiện thị trường. Sự ra đời của Quyết định 17/1998/QĐ

– NHNN7 ngày 10/1/1998 ban hành quy chế giao dịch hối đoái đã giúp cho hoạt động

của các TCTD được thực hiện trôi chảy, đảm bảo các nguồn ngoại tệ được luân

chuyển linh hoạt, phục vụ kịp thời nhu cầu của nền kinh tế. Tuy nhiên sau gần 7 năm

đi vào hoạt động, quyết định này đã bộc lộ một số hạn chế chưa bắt kịp với sự phát

triển của thị trường ngoại hối. Cụ thể là các loại hình giao dịch còn đơn giản, vấn đề

thu phí trong giao dịch ngoại tệ chưa hợp lý, các vấn đề về chứng từ trong giao dịch

chưa được đề cập đến gây khó khăn cho TCTD và khách hàng trong quá trình thực

hiện. Nhằm khắc phục những tồn tại này, ngày 10/11/2004 Thống Đốc NHNN đã ký

quyết định số 1452/2004/QĐ – NHNN về giao dịch hối đoái của các TCTD được phép

hoạt động ngoại hối thay thế quyết định 17/1998/QĐ – NHNN. Quyết định mới này có

những thay đổi rất quan trọng đối với thị trường ngoại hối: quyền giao dịch ngoại tệ

được mở rộng, quyết định mới thông thoáng hơn, không quy định quá chi tiết và chặt

chẽ các nội dung kỹ thuật về giao dịch, điều khoản hợp đồng, phí giao dịch… quyền

lựa chọn tiền tệ được chính thức thông qua tạo thêm một công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ

giá hiệu quả trên thị trường. Điều này đã tạo điều kiện thúc đẩy thị trường ngoại hối

phát triển lên một bước mới phù hợp với thông lệ quốc tế về giao dịch hối đoái.

31

Ngoài ra, pháp lệnh ngoại hối được thông qua và có hiệu lực từ 01/06/2006, đây là

pháp lệnh được xem là thống nhất các hoạt động ngoại hối, hướng tới một thị trường

ngoại hối mở, tự do hóa và minh bạch.

Thêm vào đó, nhiều quyết định khác cũng đã được NHNN ban hành để dần hoàn

thiện khung pháp lý cho hoạt động của thị trường ngoại hối. Đặc biệt là các quyết định

về công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam với ngoại tệ dần được điều chỉnh sao

cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Theo đó là các quyết định về thay đổi biên độ

dao động của tỷ giá giao ngay giữa VND với USD.

Như vậy, thị trường ngoại hối Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ theo

hướng ngày càng tiến gần hơn với thông lệ quốc tế. Những quy định dần được ban

hành đã tạo điều kiện thông thoáng, nới lỏng cơ chế kiểm soát theo hướng tự do hóa

các giao dịch ngoại tệ đã tạo thêm nhiều thay đổi lớn cho thị trường ngoại hối Việt

Nam. Cũng từ đây rủi ro ngoại hối sẽ tăng cao, do đó, để có thể quản lý và hạn chế rủi

ro điều tất yếu là các công cụ bảo hiểm rủi ro ngoại hối sẽ ra đời. Đặc biệt là khi Việt

Nam đã là thành viên của WTO, đã và đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới theo

hướng tự do hóa thì việc điều tiết nền kinh tế bằng phương pháp phi kinh tế đã không

còn phù hợp, và sự ra đời của các công cụ quản lý rủi ro ngoại hối là một yêu cầu tất

yếu để có thể điều tiết nền kinh tế theo hướng tích cực hơn.

2.2 Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam

2.2.1 Những văn bản pháp lý quy định hoạt động kinh doanh ngoại hối

Hiện nay, văn bản có vị trí pháp lý cao nhất về quản lý hoạt động ngoại hối là

Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 được ban hành ngày 13 tháng 12

năm 2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Pháp lệnh ngoại hối ra đời đã thống nhất

những nguyên tắc quản lý ngoại hối vào một đầu mối văn bản pháp lý chuyên ngành,

là cơ sở chi phối toàn bộ các vấn đề liên quan đến ngoại hối và hoạt động kinh doanh

ngoại hối, pháp lệnh khẳng định chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam là nhằm

tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, tổ chức tham gia

hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế; thực hiện mục tiêu của

32

chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam; thực hiện

mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam; thực hiện các cam kết

của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng

cường hiệu lực quản lý nhà nước về ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại

hối của Việt Nam.

Để hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh ngoại hối Chính phủ ban hành Nghị định số

160/2006/NĐ-CP vào ngày 28 tháng 12 năm 2006.

Riêng đối với hoạt động kinh doanh ngoại hối, ngày 11/04/2008, NHNN Việt Nam

đã ban hành Thông tư số 03/2008/TT-NHNN (TT 03) hướng dẫn chi tiết về hoạt động

cung ứng dịch vụ ngoại hối của Ngân hàng và Tổ chức tín dụng phi Ngân hàng đã

được quy định trong Nghị định 160/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày

28/12/2006. Đề cập đến các điều kiện cũng như thủ tục xin cấp phép hoạt động cung

ứng dịch vụ ngoại hối của các Ngân hàng.

Theo quy định tại Thông tư 03, các Ngân hàng có thể được cung ứng các dịch vụ

ngoại hối trên thị trường trong nước nếu đáp ứng đủ các điều kiện về: phương án hoạt

động cung ứng dịch vụ đã được Hội đồng Quản trị thông qua; có đầy đủ trang thiết bị,

cơ sở vật chất đáp ứng được yêu cầu thực hiện dịch vụ; có nhân sự am hiểu về hoạt

động ngoại hối, được đào tạo về nghiệp vụ ngoại hối và quản lý rủi ro kinh doanh

ngoại hối.

Ngoài ra, để được cung ứng hoạt động dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế thì

Ngân hàng cần phải đáp ứng được các yêu cầu bổ sung, như: có hệ thống kiểm tra,

kiểm soát, kiểm toán nội bộ; tuân thủ các quy định của NHNN về tỷ lệ đảm bảo an

toàn trong hoạt động và trong việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro

tín dụng, không vi phạm các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối trong thời gian

một năm và phải kinh doanh có lãi trong năm liền kề năm đăng ký hoạt động cung ứng

dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế.

Việc đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế không

được thực hiện trước việc đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị

33

trường trong nước. Đối với các tổ chức tín dụng là ngân hàng liên doanh, ngân hàng

100% vốn nước ngoài được hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối theo quy định tại

giấy phép thành lập và hoạt động. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được hoạt động

cung ứng dịch vụ ngoại hối theo quy định tại giấy phép mở chi nhánh ngân hàng nước

ngoài.

Các tổ chức tín dụng sau khi được cấp giấy phép hoạt động phải duy trì các điều

kiện để cung ứng dịch vụ ngoại hối. Trong trường hợp, sau khi đã được cấp giấy phép

hoạt động mà không tiếp tục duy trì được các điều kiện đã quy định thì tổ chức tín

dụng phải tạm ngừng nghiệp vụ cung ứng dịch vụ ngoại hối được phép và báo cáo cho

NHNN trong vòng 30 ngày làm việc kể từ ngày không còn đủ điều kiện. Cụ thể,

NHNN sẽ đình chỉ, thu hồi hoặc hủy bỏ một số nội dung trong giấy phép hoạt động

trong các trường hợp: bị NHNN đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; có chứng cứ hồ

sơ xin cấp giấy phép hoạt động có những thông tin sai lệch; giấy phép thành lập và

hoạt động bị thu hồi hoặc hết hiệu lực; chia, sáp nhập, hợp nhất, phá sản; tự động

chấm dứt hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối...

Như vậy theo pháp lệnh để được phép hoạt động kinh doanh ngoại hối các NHTM

phải đáp ứng những yêu cầu về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, về trình độ quản lý và

kinh doanh phải có lãi, nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính. Đồng thời để

hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các Tổ chức tín dụng. NHNN

qui định hạn mức trạng thái ngoại hối, hạn mức này được thực hiện dựa vào quyết

định đã ban hành từ năm 2002, đó là QĐ số 1082/2002/QĐ-NHNN ngày 07/10/2002

quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại

hối tại Việt Nam, trừ các ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài,

theo đó các NHTM được phép duy trì trạng thái ngoại tệ dư thừa hay dư thiếu là 30%

so với vốn tự có.

Để hướng dẫn thực hiện các giao dịch phái sinh, NHNN cũng đã ban hành quyết

định và văn bản hướng dẫn, hiện tại, đối với giao dịch ngoại hối kỳ hạn, hoán đổi thực

hiện theo quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN ngày 28 tháng 05 năm 2004. Theo quyết

34

định này, các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ và khách hàng thoả thuận mức tỷ

giá kỳ hạn giữa đồng Việt Nam và Đôla Mỹ nhưng tỷ giá kỳ hạn này không được vượt

quá mức tỷ giá được xác định trên cơ sở: (i) tỷ giá giao ngay của ngày ký hợp đồng kỳ

hạn, hoán đổi; (ii) chênh lệch giữa hai mức lãi suất hiện hành là lãi suất cơ bản của

đồng Việt Nam (tính theo năm) do NHNN Việt Nam công bố và lãi suất mục tiêu của

Đôla Mỹ do Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ công bố (Fed Funds Target rate; và (iii) kỳ

hạn của hợp đồng. Kỳ hạn của hợp đồng cũng được mở rộng từ 3 ngày đến 365 ngày.

Đồng thời quy định các TCTD không được thu phí giao dịch đối với các giao dịch hối

đoái kỳ hạn, hoán đổi.

Sau đó ngày 10/11/2004 NHNN ra quyết định số 1452/2004QĐ-NHNN đã mở

rộng phạm vi đối tượng được phép tham gia giao dịch kỳ hạn ngoài các tổ chức kinh

tế, các tổ chức khác và cá nhân có nhu cầu ngoại tệ hợp pháp cũng được quyền tham

gia mua bán ngoại tệ kỳ hạn, đây là quyết định tạo điều kiện cho giao dịch kỳ hạn

được sử dụng rộng rãi, phù hợp với những biến động ngày càng tăng của tỷ giá trong

giai đoạn hội nhập.

Trên cơ sở sau khi cho phép thực hiện thí điểm, NHNN đã chính thức cho phép

các NHTM được thực hiện giao dịch quyền chọn thông qua Quyết định số

1452/2004/QĐ-NHNN ngày 10 tháng 11 năm 2004 về giao dịch hối đoái của các tổ

chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối. Quyết định này đã giới thiệu cho thị

trường làm quen với giao dich quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, và là bước đệm tiền

đề giúp cho NHNN đưa ra thực hiện công cụ phòng ngừa rủi ro khác là quyền chọn

tiền đồng.

Những điểm đáng lưu ý của quyết định 1452/2004 là:

Thứ nhất, đồng tiền giao dịch: giao dịch quyền chọn chỉ thực hiện ngoại tệ với

ngoại tệ.

Thứ hai, đối tượng tham gia giao dịch: bao gồm các TCTD được phép, các tổ chức

kinh tế, tổ chức khác, cá nhân và NHNN. Trong đó, các TCTD được phép không được

mua quyền chọn của các tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân. Có nghĩa là các tổ

35

chức tín dụng được phép là người luôn đứng ở vị thế người bán quyền chọn với các tổ

chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân.

Thứ ba, giới hạn cung ứng hợp đồng quyền chọn của các tổ chức tín dụng được

phép: TCTD được phép được duy trì tổng giá trị hợp đồng quyền lựa chọn không có

giao dịch đối ứng tối đa là 10% vốn tự có.

Thứ tư, kỳ hạn của các hợp đồng quyền chọn: do các TCTD được phép và khách

hàng tự thỏa thuận.

Kế tiếp, trước nhu cầu về bảo hiểm rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp xuất nhập

khẩu, ngày 18/4/2005, NHNN đã có công văn số 326/NHNN-QLNH cho phép ACB

triển khai thí điểm giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VND. Theo công văn này,

NHNN đã đưa ra những quy định cụ thể về các loại ngoại tệ được giao dịch, cơ sở tính

phí quyền chọn, thời hạn giao dịch, đối tượng giao dịch… Ngày 29/8/2006, NHNN

cũng đã ban hành công văn số 7404/NHNN-KTTC. Nội dung chính của công văn này

gồm có các hướng dẫn cụ thể, chi tiết về nguyên tắc và nội dung kế toán đối với các

nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ, nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ,

để giải quyết vấn đề hạch toán kế toán nghiệp vụ phái sinh tiền tệ tại các NHTM.

Tuy nhiên, qua 3 năm thực hiện quyền chọn ngoại tệ –VND, NHNN đánh giá việc

sử dụng giao dịch này của các TCTD và doanh nghiệp chỉ nhằm mục đích lách trần tỷ

giá nhiều hơn là bảo hiểm rủi ro tỷ giá và gặp khó khăn trong việc kiểm tra thực hiện

giao dịch này, vì thế vào ngày 18/3/2009 NHNN ban hành văn bản số 1820/NHNN-

QLNH chấm dứt thực hiện quyền lựa chọn tiền tệ ngoại tệ và VND, các TCTD chỉ

được cung cấp quyền lựa chọn giữa hai ngoại tệ với nhau.

Như vậy, những văn bản pháp lý về giao dịch phái sinh đã được ban hành nhưng

còn giới hạn cách sử dụng và chưa cho phép thực hiện giao dịch tiền tệ tương lai

2.2.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng trên

TTNH Việt Nam

36

Trong hoạt động kinh doanh ngoại hối các ngân hàng vừa là nhà tạo thị trường,

nhà môi giới, nhà chấp nhận giá, nhà đầu cơ, có nghĩa là ngân hàng có thể tham gia

kinh doanh trên TTNH với đầy đủ mục đích hay đầy đủ chức năng của các thành viên tham gia. Nhưng kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng Việt Nam hiện nay đa số chỉ

đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ cho khách hàng nghĩa là chỉ có chức năng là nhà tạo

giá thứ cấp, nhà chấp nhận giá, chứ ít có ngân hàng tham gia thực sự trên TTNH với

vai trò nhà tạo gíá sơ cấp.

Các NHTM lớn ở Việt Nam có hoạt động kinh doanh ngoại hối đã phát triển

nghiệp vụ này qua các năm, xem đây là lĩnh vực mở rộng hoạt động kinh doanh và

tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Bởi vì, thông qua các giao dịch ngoại hối với khách

hàng, ngân hàng đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ cho các nhà xuất nhập khẩu góp phần phát triển giao dịch thanh tóan và tài trợ ngoại thương.

Điểm qua về tỷ lệ lợi nhuận kinh doanh ngoại hối của một số NHTM lớn điển

hình có thể thấy rõ điều này.

Bảng 2.1: Tỷ lệ Lợi nhuận họat động kinh doanh ngoại hối so với tổng lợi

nhuận trước thuế

Năm

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Đơn vị tính:%

VCB

11,11

31,61

18,35

10,28

12,45

11,49

ACB

7,29

26,51

14,88

6,16

7,36

8,75

Sacombank

6,37

45,95

14,44

-7,00

-8,5

-6,5

Eximbank

22,14

65,42

8,83

0,66

2,85

7,48

BIDV

6,89

33,64

5,79

3,2

6,42

9,76

Ngân hàng

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo thường niên của các ngân hàng

37

Qua số liệu trên có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh ngoại hối đã mang đến cho

các ngân hàng một khoản lợi nhuận không nhỏ như Eximbank có lợi nhuận từ họat

động kinh doanh ngoại hối chiếm tỷ lệ đến 65,42% năm 2008 so với tổng lợi nhuận

trước thuế, hay Sacombank có tỷ lệ gần 50% năm 2008 so với lợi nhuận trước thuế.

Tại những ngân hàng này cho ta thấy hoạt động kinh doanh ngoại hối không phải là

một mảng kinh doanh hổ trợ cho các hoạt động khác mà còn đóng vai trò quan trọng

trong nguồn thu lợi nhuận của ngân hàng.

Tuy nhiên qua những số liệu trên có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh ngoại hối

của các ngân hàng trong 2 năm 2009, 2010 đã sụt giảm nhiều, do bị ảnh hưởng bởi

khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2009 và biến động của thị trường tài chính trong

nước và trên thế giới. Điều này cho chúng ta thấy rõ sự tác động mạnh mẽ những yếu

tố ngoại sinh đến hoạt động kinh doanh ngoại hối nhất là trong một nền kinh tế mở,

đồng thời sự biến động của thị trường tiền tệ, tài chính sẽ tác động đến TTNH.

Để phát triển hoạt động kinh doanh các ngân hàng như ACB, Sacombank,VCB,

Eximbank, Việt Á Bank đã đầu tư hệ thống Reuters 3000 và cập nhật hệ thống thanh

toán Corebanking với phiên bản T24, là phiên bản mới nhất hiện nay. Những ngân

hàng lớn đều quan tâm đến tổ chức bộ phận kinh doanh ngoại hối và tìm kiếm các

chuyên viên có nhiều kinh nghiệm về hoạt động này, nhằm mục đích thành lập đội ngũ

nhân viên kinh doanh ngoại hối chuyên nghiệp có trình độ cao.

2.2.2.1 Quá trình hình thành và hoạt động TTNT liên ngân hàng

Có thể nói TTNH của Việt Nam gồm 3 thị trường cùng tồn tại:

Thị trường chính thức gồm: Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường bán lẻ

và thị trường không chính thức hay còn gọi là thị trường tự do, thị trường chợ đen.

Thời kỳ trước năm 1991 nhà nước độc quyền về ngoại thương và ngoại hối, áp

dụng chế độ tỷ giá cố định do nhà nước áp đặt, không dựa vào yếu tố thị trường và

những yếu tố cho sự hình thành TTNH là không có. Nghị định 53/HĐBT ngày

26/3/1988 ra đời tách hệ thống ngân hàng thành hai cấp: NHNN và ngân hàng chuyên

38

doanh, trong đó chỉ có ngân hàng Ngoại thương được phép hoạt động kinh doanh

ngoại hối, thanh toán quốc tế và mở tài khoản ở nước ngoài.

Sau đó Nghị định 161/HĐBT ngày 18/10/1988 được ban hành thay thế Nghị định

102(ngày 6/7/1963) của Hội đồng Chính phủ. Theo nghị định 161/HĐBT và Thông tư

hướng dẫn số 33-NH-TT đã chính thức xóa bỏ thế độc quyền trong kinh doanh ngoại

hối của Nhà nước được thể hiện qua nội dung qui định:”Nhà nước XHCN Việt Nam

thông qua NHNN Việt Nam thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về ngoại hối và

kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh doanh ngoại hối đều được thực hiện theo qui định

của NHNN Việt Nam. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam được phép kinh doanh

ngoại hối. Ngoài ra, các ngân hàng chuyên doanh khác, các ngân hàng liên doanh với

nước ngoài, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế

trong nước muốn kinh doanh ngoại hối hoặc dịch vụ thu ngoại tệ đều phải được

NHNN TW Việt nam cho phép.” Như vậy các ngân hàng thương mại muốn kinh

doanh ngoại hối có thể làm thủ tục để NHNN cấp giấy phép.

Trong thực tế lúc bấy giờ trước sự phát triển cuả hoạt động thanh toán quốc tế và

kiều hối, nhiêù NHTM đã làm đơn xin phép hoạt động kinh doanh ngoại hối, và

NHNN đã cấp phép cho một loạt các NHTM có đủ điều kiện. Thời gian này với chủ

trương thu hút vốn nước ngoài, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành

năm 1987, luồng vốn ngoại tệ đổ vào Việt Nam càng tăng nhưng do chúng ta vẫn duy

trì tỷ giá chính thức do NHNN công bố và cách xa tỷ giá thực, vì thế các NHTM gặp

nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh mua ngoại tệ với TTKCT.

Những năm đầu thập niên 90 với những biến động lớn về chính trị sự tan rã của

Liên xô và hàng loạt các nước Đông Âu trong phe XHCN dẫn tới thị trường thanh toán

đa biên giữa Việt Nam và các nước XHCN bị tan rã, tất cả các nước XHCN đều đồng

loạt chuyển đổi đồng tiền thanh toán với Việt Nam sang USD, việc chuyển đổi này ảnh

hưởng khá lớn đến khả năng thanh toán của Việt Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.

39

Trong thời gian đó, NHNN đã đề xuất ý kiến thành lập Quỹ điều hòa ngoại tệ tại

NHNN để tập trung nguồn ngoại tệ hiếm hoi từ xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu thiết

yếu của nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn và can thiệp TTNH nhằm ổn định tỷ giá.

Năm 1991 là năm đánh dấu sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền

kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong hoạt động quản lý ngoại hối được

thể hiện bằng việc thành lập 2 Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà nội và T/PHCM

thông qua quyết định số 107/QĐ-NH ngày 16/8/1991 của NHNN về việc ban hành Qui

chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ.Nhằm mục đích thông qua

hoạt động của Trung tâm sẽ nắm bắt được thực tế về cung cầu ngoại tệ và xác định tỷ

giá hợp lý phù hợp với sức mua của VND đồng thời tăng cường công tác quản lý vĩ

mô của nhà nước về quản lý tiền tệ.

Họat động của Trung tâm do Ban điều hành lãnh đạo gồm ba đại diện của NHNN

và bốn đại diện của các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Đối tượng tham gia

gồm: NHNN với mục đích mua, bán ngoại tệ theo yêu cầu của nhà nước, tăng quỹ dự

trữ ngoại tệ và can thiệp thị trường; Các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ;

Các đơn vị tổ chức kinh tế. Chỉ thực hiện giao dịch một ngoại tệ là USD, giao dịch

được tổ chức theo hình thức đấu giá tỷ giá sẽ được ấn định khi đạt được cung và cầu

về ngoại tệ; Số lượng ngoại tệ cho mỗi lần giao dịch: tối thiểu là 10000USD.

NHNN giao cho các ngân hàng được phép, tập hợp các yêu cầu mua bán ngoại tệ

của những khách hàng không được phép mua bán tại Trung tâm, những nhu cầu mua

ngoại tệ là để thanh toán trong vòng 7 ngày kể từ khi mua và việc sử dụng ngoại tệ

phải phù hợp với các qui định về quản lý ngoại hối. Như vậy là không cho phép mua

bán kỳ hạn, trong khi đó ngày giao dịch chỉ có 2 ngày trong tuần thứ 3 và thứ 6.

Các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá không vượt quá

0,5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch trước. Việc công bố tỷ giá chính thức

dựa trên tỷ giá hình thành trên hai trung tâm giao dịch ngoại tệ Hà nội và T/P Hồ chí

Minh đánh dấu cột mốc quan trọng trong quá trình điều hành chính sách tỷ giá, đó là

tỷ giá được hình thành có căn cứ chính thức vào các yếu tố thị trường.

40

Thông qua hoạt động của hai Trung Tâm đã tạo ra tập quán, kiến thức kinh doanh

ngoại hối cho NHNN và các NHTM và các tổ chức kinh tế, tạo nền móng cho việc

hình thành TTNH.

Kể từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động vào ngày 1/12/1994, tổng số phiên

giao dịch qua hai trung tâm là 692 phiên với tổng doanh số là 660 triệu USD.

Tuy nhiên, qua một thời gian hoạt động, Trung tâm giao dịch ngoại hối đã thể hiện

một số vấn đề tồn tại như sau:

Cung cầu ngoại tệ tại hai trung tâm không phản ánh chính xác cung cầu ngoaị tệ

của toàn bộ nền kinh tế bởi vì giao dịch bị giới hạn bởi khu vực địa lý, không thể nào

đại diện cho toàn bộ nhu cầu của cả nước được. Tỷ giá được hình thành tại hai trung

tâm chưa phản ánh được cung cầu ngoại tệ, tỷ giá chính thức do NHNN công bố vẫn

còn mang tính áp đặt, vì thế chênh lệch giữa hai thị trường rất cao. Nguyên nhân của

tình trạng này là do trong giai đoạn trước đó, chính phủ áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ

và tỷ giá này chênh lệch rất lớn so với tỷ giá thanh toán, phần chênh lệch nhà nước

phải bù lỗ. Bên cạnh đó tỷ giá chính thức qui định thấp, các tổ chức kinh tế, cá nhân có

ngoại tệ lại tìm cách không bán ngoại tệ cho ngân hàng, các tổ chức đại diện nước

ngoài hoặc người nước ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản mà thường

đưa hàng vào sử dụng hay sử dụng ngoại tệ mặt trực tiếp trên thị trường.

Thực tế này đã gây ảnh hưởng lớn trên thị trường, làm cho tỷ giá trên thị trường

diễn biến phức tạp, chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường lên đến

hàng trăm điểm.

41

Bảng 2.2 : Tỷ giá (VND/USD) từ 1990 đến 1992

Đơn vị tính: đồng

Năm 1990 1991 1992

Chỉ tiêu

Tỷ giá chính thức(TGCT) 5133 9274 11179

Tỷ giá trên thị trường tự do (TGTTTD) 5610 9546 11334

Chênh chệch ( TGTTTD và TGCT) +477 +272 +155

Nguồn : Báo cáo thường niên NHNN

Thêm vào đó, cách thức giao dịch yêu cầu phải có mặt tại Trung tâm khác xa so

với đặc điểm của TTNH thế giới chủ yếu là thị trường không tập trung, phương thức

mua bán không đáp ứng được sự biến động của tỷ giá, số lượng người tham gia ngày

càng giảm đi, nhiều phiên được tổ chức mang tính hình thức.

Cơ chế thanh toán không khuyến khích các NHTM bán ngoại tệ tại Trung tâm, bởi

vì nếu bán một khoản lớn ngoại tệ phải chia nhỏ ra từng đơn vị mua; trong khi đó nếu

các đơn vị mua lại không có tài khoản tại ngân hàng bán, thì việc thu hồi số tiền VND

rất phức tạp và thường không đáp ứng nhu cầu cuả các ngân hàng thương mại. Vì vậy,

các NHTM thường bán ngoại tệ cho NHNN bên ngoài phiên giao dịch, sau đó tại các

phiên giao dịch NHNN bán lại cho các tổ chức kinh tế. Điều này đã biến NHNN thành

trung gian mua bán giữa các NHTM và tổ chức kinh tế, làm cho vai trò điều tiết của

NHNN bị mờ nhạt.

Với phương thức giao dịch trực tiếp như vậy, thanh toán sẽ phức tạp và tốn phí,

nên thực sự hai trung tâm chỉ có ý nghĩa tại hai thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội với

vai trò cung cấp ngoại tệ để thanh toán chứ chưa phản ánh tất cả những giao dịch của

hoạt động kinh doanh ngoại hối.

42

Bên cạnh đó, hoạt động mua bán ngoại tệ ra thị trường của NHNN không thể giữ

bí mật về số lượng, tại Trung tâm trong các phiên giao dịch các NHTM thường nhìn

vào động thái mua bán của NHNN để thực hiện, nếu NHNN bán ra nhiều thì NHTM

mua vào nhiều,và ngược lại nếu NHNN mua vào nhiều thì các NHTM sẽ bán ra, điều

này gây rối loạn thị trường và gây khó khăn cho NHNN trong việc điều hành lượng

tiền cung ứng.

Trước thực trạng đó và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng nhu cầu

giao dịch ngoại tệ của cả nước, mô hình tổ chức trung tâm không còn phù hợp đòi hỏi

phải có tầm vóc mới với quy mô quốc gia, NHNN đã ra quyết định số 203/QĐ – NH13

ngày 20/9/1994 thành lập Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và ban hành quy chế tổ

chức và hoạt động của TTNTLNH, đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong quá trình

hình thành và phát triển TTNH Việt Nam theo các chuẩn mực quốc tế.

Sau khi quyết định số 203/QĐ – NH13 đi vào thực tiển từ tháng 10 năm 1994,

hoạt động của thị trường ngoại hối có khởi sắc hơn.

Trong giai đoạn từ năm 1994 -1998, tỷ giá tương đối ổn định, chênh lệch giữa

tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do được thu hẹp.

Bảng 2.3: Tỷ giá VND/USD từ 1994-1998

Đơn vị tính: đồng

Năm 1994 1995 1996 1997 1998

Chỉ tiêu

Tỷ giá chính thức(TGCT) 10978 11037 11040 11175 12998

Tỷ giá trên thị trường tự do (TGTTTD) 10984 11050 11052 11180 13020

Chênh chệch ( TGTTTD và TGCT) +13 +13 +12 +5 +10

Nguồn : Báo cáo thường niên NHNN

43

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động phát sinh những bất cập đồng thời với

những thay đổi về tổ chức và hoạt động của ngân hàng nói chung và sự ra đời của các

văn bản luật như Luật NHNN và Luật các Tổ chức tín dụng được ban hành vào tháng

12/1997 nói riêng, Thống đốc NHNN đã ra quyết định số 101/1999/QĐ-NHNN13,

ngày 26/3/1999 về Quy chế tổ chức và hoạt động của TTNTLNH thay thế cho quyết

định số số 203/QĐ – NH13 ngày 20/9/1994.

Từ sau quyết định 101/1999/QĐ-NHNN13, NHNN đã ban hành những văn bản

quy định, và thông tư hướng dẫn thi hành, nhằm quản lý hoạt động ngoại hối và làm

cơ sở pháp lý cho hoạt động trên TTNH.

Bảng 2.4: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng

Đơn vị tính:%

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Chỉ tiêu

Tỷ lệ tăng/giảm

doanh số giao dịch

giữa ngân hàng và +29 +45 +113 +58 -35,9 +4,23 +6,78 13,47

ngân hàng so với

năm liền kề

Số lượng thành viên 59 65 65 79 98 105 107 107

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN

Theo Báo cáo thường niên của NHNN, doanh số giao dịch của TTNTLNH mỗi

năm đều gia tăng như từ năm 2005 là năm bắt đầu cho thực hiện chính thức giao dịch

quyền chọn tăng 29% so với năm 2004, đặc biệt là vào năm 2007, doanh số giao dịch

giữa các ngân hàng tăng 113% so với năm 2006, do thời điểm này nguồn cung ngoại tệ

dồi dào từ luồng vốn đầu tư gián tiếp chảy vào thị trường chứng khoán rất lớn. Tuy

44

nhiên tỷ lệ tăng của doanh số giao dịch giữa các ngân hàng bị ảnh hưởng khá lớn của

luồng ngoại tệ chảy vào, cụ thể năm 2008, trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ có nhiều

diễn biến phức tạp, hoạt động trên TTNTLNH tiếp tục tăng nhưng với tốc độ thấp hơn

nhiều chỉ tăng khoảng 58% so với năm 2007, do vào năm 2008 hoạt động trên thị

trường chứng khoán có sự sụt giảm lớn so với thời kỳ phát triển mạnh mẽ của năm

2006 và 2007 đã tác động đến doanh số hoạt động trên thị trường ngoại tệ.

Số lượng các thành viên tham gia TTNTLNH tăng hàng năm theo sự gia tăng về

số lượng các NHTM cũng như do nhu cầu thanh toán quốc tế phát triển. Tuy nhiên, số

lượng thành viên tham gia trên thị trường còn khiêm tốn so với tổng số lượng các tổ

chức tài chính trong và ngoài nước hiện tại.

2.2.2.2 Thực trạng thị trường ngoại tệ khách hàng của Việt Nam

Thị trường ngoại tệ chính thức của Việt Nam chia làm hai lĩnh vực: Thị trường

ngoại tệ liên ngân hàng như được trình bày phần trên và thị trường ngoại tệ giữa ngân

hàng và khách hàng, hay còn gọi là thị trường ngoại tệ khách hàng là thị trường bán lẻ

chiếm phần lớn doanh số giao dịch trên TTNH Việt Nam. Trên thị trường này, các

ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ sẽ tiến hành mua bán ngoại tệ cho khách

hàng là doanh nghiệp hay cá nhân có nhu cầu sử dụng ngoại tệ hợp pháp. Ngân hàng

được phép sẽ giao dịch trên cơ sở tỷ giá BQLNH do NHNN công bố và với biên độ

được qui định trong từng thời kỳ. Các ngân hàng được phép sẽ có trách nhiệm kiểm tra

các chứng từ chứng minh nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp và hợp lý của khách hàng

theo đúng qui định về quản lý ngoại hối do NHNN ban hành.

45

Bảng 2.5: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ khách hàng

Đơn vị tính:%

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Chỉ tiêu

Tỷ lệ tăng/giảm

doanh số giao

dịch giữa ngân +8 +26 +45 +29,41 - 27,27 +5,45 +7,63 +11,72 hàng và khách

hàng so với năm

liền kề

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN

Bên cạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng còn có hoạt động thu mua

ngoại tệ được thực hiện bởi các bàn đổi ngoại tệ do ngân hàng trực tiếp quản lý và các

đại lý đổi ngoại tệ được phép hoạt động theo quyết định số 1216/2003/QĐ-NHNN

ngày 9/10/2003, kênh giao dịch này đã tạo điều kiện thuận tiện cho những người có

nhu cầu bán ngoại tệ, góp phần thu hút nguồn ngoại tệ trên thị trường, làm gia tăng

doanh số thu mua ngoại tệ của ngân hàng. Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động

nhiều quầy đại lý thu đổi đã vi phạm qui định, thực hiện cả hoạt động mua bán ngoại

tệ với tỷ giá vượt biên độ gây rối loạn thị trường. Vì thế, ngày 11/7/2008, Thống đốc

NHNN đã ký quyết định số 21/2008/QĐ-NHNN về việc ban hành qui chế đại lý đổi

ngoại tệ thay thế cho QĐ số 1216/2003/QĐ-NHNN, theo đó trong thời gian 3 tháng kể

từ ngày quyết định có hiệu lực, các TCTD sẽ phải ký kết lại hoặc thanh lý hợp đồng

đại lý đối với các đại lý không đáp ứng yêu cầu về điạ điểm, điều kiện làm đại lý, các

điều khoản trong hợp đồng đại lý, quyết định này được đánh giá là một bước chấn

chỉnh mạnh mẽ của NHNN đối với hoạt động kinh doanh mua bán ngoại tệ của

NHTM với khách hàng.

46

TTNH Việt Nam có đặc điểm khác với TTNH thế giới, về tỷ trọng giao dịch giữa

hai thị trường TTNTLNH và thị trường ngoại tệ khách hàng thông qua bảng số liệu

dưới đây:

Bảng 2.6: Tỷ trọng doanh số giao dịch của hai thị trường ngoại tệ

(1995-2005)

Đơn vị tính:%

Chỉ tiêu Thị trường ngoại tệ Doanh số mua bán TTNTLNH khách hàng Năm

1995 100 12,7 87,3

1996 100 25,1 74,9

1997 100 36,7 63,3

1998 100 10,6 89,4

1999 100 21,1 78,9

2000 100 22,4 77,6

2001 100 19,7 80,3

2002 100 4,7 95,3

2003 100 6,0 94,0

2004 100 5,4 94,6

2005 100 5,8 94,2

Tổng 100 13,0 87,0

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN

47

Qua bảng trên ta thấy tỷ trọng giao dịch trên TTNTLNH quá thấp so với thị trường

ngoại tệ khách hàng mặc dù doanh số của cả hai thị trường đều tăng nhưng tỷ trọng

của TTNTLNH chỉ đạt trung bình 13% trên tổng doanh số giao dịch của TTNH Việt

Nam. Số liệu trên thể hiện trình độ sơ khai của TTNH Việt Nam và khi nói đến hoạt

động kinh doanh ngoại tệ là người ta nghĩ đến đó là thị trường kinh doanh ngoại tệ

giữa ngân hàng và khách hàng.

Sau khi gia nhập WTO, doanh số giao dịch trên TTNH có nhiều thay đổi, do tác

động trực tiếp của quá trình hội nhập đến nguồn cung cầu ngoại tệ, đồng thời tác động

của việc điều hành chính sách tỷ giá có sự linh động hơn trước, thực thi cam kết tự do

hóa tài khoản vãng lai và tự do hóa có chọn lọc tài khoản vốn làm gia tăng luồng vốn

và những giao dịch liên quan đến ngoại tệ.

Bảng 2.7: Tỷ trọng doanh số giao dịch của hai thị trường ngoại tệ (2006-

2012)

Đơn vị tính:%

Chỉ tiêu Thị trường ngoại tệ Doanh số mua bán TTNTLNH khách hàng Năm

2006 100 35,4 64,6

2007 100 29 71

2008 100 35,5 64,5

2009 100 48,58 51,42

2010 100 49 51

2011 100 47,6 52,4

2012 100 46,5 53,5

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN

48

Từ năm 2006 đến nay tỷ trọng doanh số giao dịch trên TTNTLNH có gia tăng rõ

rệt chiếm trung bình khoản 40%, nhất là vào hai năm 2009 và 2010 tỷ trọng đạt gần

50% do có sự tham gia của NHNN đã góp phần làm gia tăng tỷ trọng này. Tuy nhiên,

tỷ trọng này vẫn còn thấp so với đặc điểm của TTNH trên thế giới là doanh số giao

dịch trên TTNTLNH chiếm hơn 85% và là thị trường đóng vai trò chủ đạo trong việc

hình thành tỷ giá phù hợp với cung cầu ngoại tệ trên thị trường.Với một tỷ trọng thấp

như vậy cho thấy giao dịch trên TTLNH không phải là nơi đã thực hiện đúng sự tương

tác giữa các lực lượng thị trường để từ đó hình thành nên tỷ giá của thị trường.

Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ lý do lượng ngoại tệ để đáp ứng nhu

cầu giao dịch của các chủ thể còn khiêm tốn, vai trò của NHNN còn mờ nhạt và số

lượng thành viên tham gia còn hạn chế.

2.2.2.3 Thực trạng sử dụng các giao dịch ngoại hối phái sinh tại các NHTM

Việt Nam

Nghiệp vụ ngoại hối phái sinh ra đời ở Việt Nam cách đây không lâu và còn khá

mới mẻ đối với các NHTM Việt Nam, còn hạn chế về số lượng khách hàng cũng như

doanh số giao dịch. Mặc dù các ngân hàng đều có những chú trọng phát triển nhất định

nhưng tỷ trọng lợi nhuận từ nghiệp vụ này so với tổng lợi nhuận của ngân hàng còn

khá nhỏ bé.

Đối với giao dịch kỳ hạn: Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là công cụ ngoại hối phái

sinh ra đời sớm nhất ở nước ta. Khi khách hàng có nhu cầu mua bán kỳ hạn hoán đổi,

giao dịch viên sẽ căn cứ vào tỷ giá giao ngay, lãi suất (VND theo lãi suất cơ bản do

NHNN công bố, USD theo lãi suất FED công bố) để tính toán giá chào mua, chào bán

cho khách hàng, tỷ giá được tính không được vượt quá tỷ giá trần qui định. Sau đó các

khách hàng sẽ thực hiện ký quỹ, có thể bằng VND hay bằng ngoại tệ, mức ký quỹ tùy

theo từng thời kỳ phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của từng ngân hàng, phổ biến ở

mức 3% đối với VND/USD và 7-10% đối với VND và ngoại tệ khác.

Đối với giao dịch hoán đổi ngoại tệ (Forex swap) chủ yếu chỉ thực hiện giữa các

ngân hàng và giữa NHTM với NHNN nhằm giải quyết vần đề về thiếu vốn tạm thời.

49

Tuy nhiên, việc xác định tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi là

như nhau, nghĩa là không có sự phân biệt giữa một giao dịch kỳ hạn riêng lẽ mà trong

thuật ngữ kinh doanh ngoại hối gọi là Forward Ouright với giao dịch kỳ hạn hoán đổi

Forward swap. Theo lý thuyết, trong giao dịch hoán đổi ngoại hối Forex swap là kết

hợp 2 giao dịch đồng thời mua và bán một lượng ngoại tệ, và phổ biến là loại swap kết

hợp 2 giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn. Trong vế kỳ hạn khi xác định tỷ giá kỳ

hạn sẽ lấy tỷ giá giao ngay đã thực hiện trong vế giao ngay để tính tỷ giá kỳ hạn vì thế

giao dịch này khi thực hiện sẽ có lợi hơn là thực hiện 2 giao dịch giao ngay và kỳ hạn

riêng lẻ.

Đối với các loại giao dịch hoán đổi lãi suất(Interest rate swap/currency swap) đa

số được thực hiện bởi các ngân hàng nước ngoài, còn các ngân hàng Việt Nam chỉ có

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Ngoại thương

(VCB). Trong đó có BIDV là ngân hàng quốc doanh tiên phong đưa ra các sản phẩm

hoán đổi lãi suất, bao gồm: hoán đổi tiền tệ chéo(cross currency swap) - phòng ngừa

rủi ro tỷ giá lẫn lãi suất; Trên TTLNH, BIDV cũng là ngân hàng Việt Nam đầu tiên

thực hiện giao dịch hoán đổi tiền tệ chéo liên ngân hàng trong giao dịch với Ngân hàng

Standard Chartered Bank tại Luân Đôn.

Đối với giao dịch quyền chọn: Khi khách hàng có nhu cầu giao dịch, giao dịch

viên sẽ thu thập các dữ liệu về số lượng ngoại tệ, loại tiền, ngày ký hợp đồng, tỷ giá

thực hiện, loại quyền chọn, kiểu quyền chọn, thời hạn hiệu lực. Căn cứ trên các yếu tố

đó, giao dịch viên sẽ liên lạc với các ngân hàng nước ngoài để tham khảo mức phí.

Nếu đồng ý về mức phí này, khách hàng sẽ tiến hành ký hợp đồng quyền chọn với

ngân hàng. Trong thời gian hiệu lực, nếu khách hàng muốn thực hiện hợp đồng thì gửi

giấy đề nghị thực hiện hợp đồng cho ngân hàng, khách hàng phải chuyển tiền cho ngân

hàng hoặc cho phép ngân hàng ghi nợ vào tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp, sau đó

ngân hàng sẽ ghi có số tiền đối ứng vào tài khoản của doanh nghiệp. Đồng thời ngân

hàng sẽ gửi yêu cầu thực hiện hợp đồng cho đối tác là ngân hàng nước ngoài. Như vậy

vai trò của NHTM giống như trung gian cho khách hàng trong nước và ngân hàng

nước ngoài, thực hiện thu phí khách hàng và trả phí cho ngân hàng nước ngoài.

50

Giao dịch ngoại hối quyền chọn được NHNN cho phép EXIMBANK thực hiện thí

điểm theo công văn số 134/NHNN – QLNH do Phó Thống đốc NHNN ký ngày

12/02/2003 sau khi thấy EXIMBANK đã hội đủ các điều kiện về vốn và khả năng kinh

doanh ngoại tệ. Tuy nhiên trong giai đoạn này chỉ cho giao dịch quyền chọn giữa

ngoại tệ với ngoại tệ. EXIMBANK đã nhận được sự hưởng ứng của nhiều doanh

nghiệp lớn, 11 hợp đồng quyền chọn ngoại tệ đã được ký, trong đó có 5 quyền chọn

bán với tổng trị giá 150.000 EUR và 6 quyền chọn mua với tổng trị giá 558.00 EUR và

5.000.000 JPY. Sau đó NHNN cũng cho phép các ngân hàng khác thực hiện nghiệp vụ

này như: ACB, BIDV, VCB, Sacombank…. Tuy số lượng ngân hàng thực hiện nghiệp

vụ này đã tăng lên nhưng cho đến năm 2004 tổng số hợp đồng quyền chọn cũng chỉ

dừng lại ở con số 50 với doanh số thực hiện trên 5 triệu USD trong đó doanh số mua

chiếm 68%.

Từ năm 2004 sau quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN, mặc dù không còn giới hạn

về số lượng NHTM tham gia giao dịch quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ nhưng thực tế

cho thấy các hoạt động mua bán này chưa thật sự sôi động chỉ có chi nhánh ngân hàng

nước ngoài như HSBC, Citibank và một số ít NHTM Việt Nam như Eximbank,

Techcombank, ACB… còn lại hầu như không có phát sinh giao dịch nào.

Tháng 4/2005 NHNN đã bắt đầu cho triển khai thực hiện thí điểm giao dịch quyền

chọn giữa ngoại tệ với VND. ACB là ngân hàng đầu tiên được thí điểm nghiệp vụ này,

với mức tối đa giá trị hợp đồng là 10 triệu USD và mức tối thiểu là 10.000 USD (quy

đổi ngoại tệ khác tương đương mức này cho quyền chọn giao dịch giữa các ngoại tệ

khác và VND). ACB chia nhỏ giá trị hợp đồng nhằm tạo điều kiện cho khách hàng dễ

sử dụng. Tiếp theo ACB là ngân hàng Techcombank, hợp đồng chỉ được thực hiện với

quyền chọn Châu Âu và BIDV được phép thí điểm từ ngày 22/8/2005 tính đến tháng

5/2008, đã có 7 ngân hàng được phép thực hiện giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và

VND.

Cũng giống với giao dịch giữa quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, quyền chọn ngoại

tệ với VND yêu cầu các NHTM muốn thực hiện nghiệp vụ này phải có đề án chi tiết

51

quy trình nghiệp vụ, phương án phòng ngừa rủi ro, và được NHNN chấp nhận bằng

văn bản. Quy định về tỉ giá thực hiện như sau:

- Đối với hợp đồng quyền chọn VND/USD: tỷ giá này không vượt quá tỷ giá kỳ

hạn VND/USD cùng thời hạn.

- Đối với hợp đồng quyền chọn giữa ngoại tệ khác với VND: tỷ giá do ngân

hàng và khách hàng tự thỏa thuận.

Hầu hết các giao dịch đều được tiến hành theo quyền chọn kiểu Mỹ vì điều kiện

thanh toán linh hoạt hơn. Các ngân hàng như ACB, Techcombank, BIDV, VIB dù là

những ngân hàng tham gia các nghiệp vụ này từ rất sớm nhưng họ chỉ mới thực hiện

được một số hợp đồng với doanh số không đáng kể. Từ 2007 đến thời điểm hiện nay,

số lượng giao dịch quyền chọn ngoại tệ và ngoại tệ của các ngân hàng có tăng lên tuy

nhiên tỷ trọng vẫn còn rất nhỏ.

Trên các website của các ngân hàng có hoạt động kinh doanh ngoại hối đều quảng

cáo có cung cấp tất cả giao dịch ngoại hối phái sinh được cho phép tại Việt Nam bao

gồm: Giao dịch quyền chọn ngoại tệ-ngoại tệ (Forex option), giao dịch hoán đổi lãi

suất (Interest rate swap), giao dịch hoán đổi ngoại tệ (Forex swap), giao dịch kỳ hạn

ngoại tệ (forex forward). Tuy nhiên, giao dịch chiếm tỷ lệ cao nhất đó là giao dịch giao

ngay (khoảng trên 90%) còn những giao dịch phái sinh chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn,

ngoại trừ giao dịch kỳ hạn, các giao dịch phái sinh khác thậm chí không có doanh số

phát sinh.

Thực trạng sử dụng các giao dịch phái sinh của các NHTM Việt Nam trong thời

gian qua được thể hiện qua bảng 2.8:

52

Bảng 2.8: Tỷ lệ mua, bán giao dịch kỳ hạn và hoán đổi trong tổng giao dịch

Đơn vị tính: %

thị trường ngoại hối Việt Nam

Tỷ lệ mua bán kỳ hạn, hoán đổi Chỉ tiêu Tỷ lệ mua bán

2000

5,5

24

76

2001

5,6

19

81

2002

5,6

14

86

2003

4,9

17

83

2004

5,2

16

84

2005

5,5

25

75

2006

5,6

23

77

2007

7,1

26

74

2008

7,4

30

70

2009

8,2

34

66

2010

7,5

38

62

2011

8,7

37

63

2012

6,8

24

76

Năm kỳ hạn & hoán đổi Mua Bán

6,4

25

75

Trung bình

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN

53

Qua thực trạng sử dụng giao dich ngoại hối phái sinh những năm vừa qua có thể

rút ra những nhận định sau:

Thứ nhất, doanh số giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi chỉ chiếm khoảng gần

7% trên tổng doanh số giao dịch của các NHTM và trong doanh số giao dịch kỳ hạn và

hoán đổi có sự bất cân xứng giữa doanh số mua và bán, doanh số bán kỳ hạn của ngân

hàng chiếm tỷ lệ 75% so với doanh số mua vào kỳ hạn, như vậy trong giao dịch kỳ hạn

NHTM thường ở trạng thái đoản về ngoại tệ.

Thứ hai là, trong giao dịch kỳ hạn yêu cầu khách hàng ký quỹ và cách tính tỷ giá

kỳ hạn như quyết định 648/2004/QĐ-NHNN sử dụng lãi suất cơ bản do NHNN công

bố đối với VND và lãi suất USD của FED là chưa phù hợp với thông lệ quốc tế (Lãi

suất của hai đồng tiền là lãi suất tiền gửi và tiền vay trên thị trường tại thời điểm ký kết

hợp đồng). Với cách tính này đã làm cho tỷ giá kỳ hạn cao hơn so với tỷ giá giao ngay

vào ngày đáo hạn của hợp đồng kỳ hạn, như vậy tỷ giá kỳ hạn không phản ánh đúng sự

kỳ vọng về tỷ giá giao ngay của thị trường trong tương lai.

Thứ ba là, giao dịch quyền chọn hiện nay ít được khách hàng sử dụng do những

nguyên nhân sau: (1) Quyền chọn giữa ngoại tệ với VND đã không được phép thực

hiện theo văn bản số 1820/NHNN-QLNH ngày 18/3/2009 NHNN và chỉ còn loại

quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ; (2) Do cách tính phí quyền chọn, hiện tại do giao

dịch quyền chọn trên TTNH Việt Nam quá ít giao dịch vì vậy đa số các ngân hàng sau

khi bán quyền chọn cho khách hàng sẽ thực hiện mua lại quyền chọn trên TTNH quốc

tế, khi phí tính cho khách hàng Việt Nam sẽ gồm hai phần: phần phí quyền chọn của

ngân hàng nước ngoài và phần phí dịch vụ của NHTM Việt Nam, bên cạnh đó NHTM

Việt Nam lại tính luôn phần thuế VAT vào nữa, nếu không thì NHTM sẽ chiụ lỗ phần

phí này, do đó phí quyền chọn sẽ cao. Đây là điều làm nản lòng các doanh nghiệp xuất

nhập khẩu Việt Nam khi muốn sử dụng giao dịch quyền chọn; (3) Do sợ trách nhiệm

của các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước vì khi bảo hiểm bằng quyền chọn

phải trả phí nhưng nếu đến thời điểm thực hiện người mua quyền chọn bỏ không thực

hiện hợp đồng do tỷ giá trên thị trường biến động thuận lợi hơn tỷ giá thực hiện, và

54

như vậy doanh nghiệp mất đi khoản phí sẽ bị đánh giá là sử dụng phương án bảo hiểm

không hiệu quả.

Qua đó có thể thấy rằng tình hình sử dụng các công cụ phái sinh để bảo hiểm rủi

ro tỷ giá và lãi suất đang có nguy cơ thu hẹp và thị trường phái sinh ngoại tệ của Việt

Nam vừa mới được hình thành đã trở nên èo uột không phát triển.

2.2.2.4 Thực trạng yết giá kinh doanh và mua bán ngoại tệ

Theo kỹ thuật kinh doanh ngoại hối, để có thể đảm bảo trạng thái ngoại hối theo

qui định các NHTM sẽ sử dụng các kỹ thuật yết giá để thực hiện trạng thái ngoại tệ

mục tiêu mình mong muốn. Nếu muốn mua nhiều hơn bán, các ngân hàng sẽ yết tỷ giá

mua vào cao hơn giá trên thị trường và khi muốn bán nhiều hơn mua các NHTM sẽ yết

giá bán thấp hơn giá trên thị trường, và nguyên tắc kinh doanh là yết tỷ giá mua nhỏ

hơn tỷ giá bán để có lời, thông qua tỷ giá được yết có thể xác định được chiến lược

kinh doanh của các ngân hàng.

Tuy nhiên, trên TTNH Việt Nam bảng yết giá của các NHTM không hoàn toàn có

ý nghĩa như vậy, thậm chí có những lúc các NHTM yết tỷ giá mua bằng tỷ giá bán

(VND/USD) và tùy từng thời điểm điều này có mục đích khác nhau:

Khi tỷ giá mua bằng tỷ giá bán và bằng tỷ giá sàn:

a

= S = TGLNH - % (biên độ qui định) là NHTM chỉ muốn bán chứ không muốn S b

mua và ngược lại.

Tỷ giá ngày 13-02-2008 của VCB HCM

TGLNH: 16.079 VND/USD. Biên độ: +/-0,75%

Ngoại tệ Giá mua

Giá bán

Tiền mặt Chuyển khoản

15.858 15.958 15.958 USD

55

Khi tỷ giá bán bằng tỷ giá mua bằng tỷ giá trần:

= TGLNH + % (biên độ qui định) là các NHTM chỉ muốn mua S b = S a

chứ không muốn bán và tình trạng này phổ biến hơn

Tỷ giá ngày 07-09-2004 của VCB HCM

TGLNH: 15.715VND/USD. Biên độ: +/-0,25%

Ngoại tệ Giá mua

Giá bán

Tiền mặt Chuyển khoản

USD 15.747 15.754 15.754

Trường hợp yết giá mua = giá bán và bằng giá trần là phổ biến trong thời gian qua

của các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên vào năm 2008, tình hình lại diễn biến theo một

chiều hướng khác: giá mua = giá bán = giá sàn đây là trường hợp hiếm có chỉ xảy ra

vào giai đoạn đầu của năm 2008 vì đó cũng là giai đoạn nguồn cung USD tăng vọt do

lượng tiền kiều hối về nhiều và thị trường chứng khoán của Việt Nam thu hút mạnh

luồng vốn gián tiếp.

Hiện tượng yết giá như trên là do bị khống chế bởi qui định tỷ giá VND/USD phải

được mua bán theo qui định của NHNN căn cứ vào TGLNH và biên độ qui định,

TGLNH thường có khoảng cách xa so với tỷ giá thị trường nên cho dù sử dụng hết

biên độ vẫn không tương ứng với giá thị trường.

Tuy nhiên, tỷ giá thì yết như vậy nhưng trong thực tế các NHTM Việt Nam hầu

như không thực hiện mua bán theo tỷ giá niêm yết mà có nhiều biện pháp để lách qui

định trần tỷ giá.

56

2.2.3 Thị trường ngoại tệ không chính thức

Thị trường ngoại tệ không chính thức ở Việt Nam hoạt động là do có nhiều nguồn

cung cấp ngoại tệ như:

Nguồn kiều hối: Đây là luồng ngoại tệ chảy vào trong nước ngày càng tăng và

chiếm doanh số khá lớn trong cán cân vãng lai, theo thống kê hiện có khoảng 4,5 triệu

người Việt Nam sống ở 103 nước và vùng lãnh thổ, trong đó gần 400.000 người có

trình độ đại học trở lên. Ngoài ra, còn khoảng 500.000 lao động Việt Nam đang làm

việc ở nước ngoài. Các chuyên gia cho rằng nguồn kiều hối vẫn chủ yếu từ Mỹ,

Canada và một số thị trường có số lượng lao động xuất khẩu nhiều như Hàn Quốc, Đài

Loan, Malaysia...Với số lượng người Việt sinh sống và lao động ở nước ngoài nhiều

như vậy cộng thêm truyền thống gia đình giúp đỡ thân nhân của người Việt đã tạo nên

một nguồn cung ngoại tệ đáng kể hàng năm.

Kể từ năm 2000 thực hiện Quyết định số 170/1999/QĐ-TTg và Thông tư số

02/2000/TT-NHNN7 đã xoá bỏ việc người nhận kiều hối đóng thuế thu nhập không

thường xuyên giúp cho lượng kiều hối gia tăng mạnh mẽ.

Đơn vị: Tỷ USD

Bảng 2.9 : Lượng kiều hối chính thức chuyển về Việt Nam từ năm 1997-2012

1997

0,40

2005

3,80

1998

0,95

2006

5,20

1999

1,20

2007

6,30

2000

1,76

2008

7,20

2001

1,82

2009

6,80

2002

2,20

2010

8,54

2003

2,60

2011

9,00

2004

3,20

2012

10,00

Năm Số lượng Năm Số lượng

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN

57

Biểu đồ 2.1 : Lượng kiều hối về Việt Nam từ năm 1997 – 2012

Đơn vị : tỷ USD

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN

Qua biểu đồ 2.1 cho thấy lượng kiều hối tăng qua các năm. Năm 1997, kiều hối

còn ở mức khiêm tốn chỉ có 400 triệu USD thì đến năm 2004 đã tăng gấp 8 lần đạt 3,2

tỷ USD và năm 2008 đạt mức tăng kỷ lục 7,2 tỉ USD. Năm 2009, do tác động của cuộc

khủng hoảng tài chính, kinh tế thế giới, kiều hối giảm còn 6,3 tỉ USD. Năm 2010 đạt

hơn 8,5 tỷ USD tương đương 8% GDP tăng 25,6% so với năm 2009 và vượt mục tiêu

dự kiến ban đầu là quanh mức 6 tỷ USD. Đến năm 2012, ngoại hối đạt cột mốc 10 tỷ

USD, một con số ấn tượng, góp phần rất quan trọng vào nguồn cung ngoại tệ của đất

nước và là một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, các

ngân hàng chỉ mua lại khoảng 10% lượng ngoại tệ này.

Tuy chưa thể thống kê chính xác lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường này

nhưng có thể thấy rằng đó là số lượng khá lớn vì nếu chỉ xét trên lượng kiều hối gửi về

và số lượng ngoại tệ mà các ngân hàng mua được có sự chênh lệch đáng kể, điều này

xảy ra vì đa số những người nhận tiền kiều hối đều rút ngoại tệ và bán ra trên TTKCT

vì tỷ giá cao hơn tỷ giá chính thức trong ngân hàng.

58

Nguồn cung từ các công ty tư nhân có thu nhập ngoại tệ: khi các công ty này được

thanh toán bằng ngoại tệ họ bỏ vào tài khoản tiền gửi cá nhân và theo qui định họ có

thể rút ngoại tệ mặt trên tài khoản ngoại tệ cá nhân và khi tỷ giá chính thức thấp hơn tỷ

giá trên TTKCT, họ bán ra ngoài để kiếm lời. Đặc biệt, trong những trường hợp thị

trường khan hiếm ngoại tệ, các công ty nhập khẩu cần mua ngoại tệ để thanh toán

nhưng ngân hàng không có ngoại tệ để bán, có ngân hàng biết được doanh nghiệp có

ngoại tệ đã sẳn sàng làm trung gian cho những tổ chức kinh tế có ngoại tệ để bán cho

công ty nhập khẩu Như vậy lượng ngoại tệ này cũng có thể được xem như là nguồn

cung trên TTKCT.

Nguồn cung ngoại tệ từ những người có thu nhập bằng ngoại tệ, những người kinh

doanh có thực hiện thanh toán bằng ngoại tệ hay Việt kiều về thăm nhà và một số

những người nước ngoài vào Việt Nam đi du lịch hay học tập, làm ăn, kinh doanh

cũng mang ngoại tệ về họ không bán cho ngân hàng theo tỷ giá chính thức mà bán bên

ngoài ngân hàng với tỷ giá chênh lệch cao hơn tỷ giá chính thức. Nguồn cung này chỉ

chiếm tỷ lệ nhỏ trong doanh số trên TTKCT.

2.2.4 Vai trò của NHNN đối với TTNH Việt Nam trong giai đoạn vừa qua

2.2.4.1 Thực hiện vai trò can thiệp TTNH và điều hành chính sách tỷ giá

Quá trình hội nhập quốc tế càng sâu rộng thì TTNH càng bị tác động, có những tác

động tích cực và tiêu cực ảnh hưởng đến thị trường, NHNN với vai trò thực thi chính

sách tiền tệ thông qua hoạt động can thiệp trên TTNH và sử dụng cơ chế điều hành tỷ

giá qua đó thực thi vai trò cứu cánh cuối cùng cùa NHNN trên TTNH, để tận dụng

những tác động thuận lợi và khắc phục những tác động xấu đến thị trường đảm bảo

cho thị trường hoạt động và phát triển ổn định.

Khi bắt đầu mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đối đầu với cuộc khủng hoảng tài chính

đầu tiên là khủng hoảng tài chính-tiền tệ diễn ra ở khu vực Đông Nam Á vào năm

1997, điểm xuất phát từ Thái Lan, sau đó lan nhanh khắp khu vực và có phạm vi ảnh

hưởng toàn thế giới, Việt Nam cũng không thoát khỏi ảnh hưởng đó. Đây là những

năm khó khăn và nhiều thử thách đối với nền kinh tế Việt Nam, do ảnh hưởng của

59

thiên tai và khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong khu vực. Với bối cảnh

nền kinh tế như vậy, NHNN đã có điều chỉnh cơ chế tỷ giá tương đối linh động hơn so

với giai đoạn trước.

2.2.4.2 Những biện pháp góp phần hạn chế hoạt động của thị trường ngoại

tệ không chính thức.

Ban hành pháp lệnh ngoại hối làm cơ sở pháp lý để qui định những hoạt động liên

quan đến ngoại hối là bước tiến trong quá trình xây dựng một khung thể chế để điều

hành TTNH, nhưng kể từ khi ban hành việc theo dõi giám sát và sử dụng chế tài đối

những hành vi vi phạm pháp lệnh ngoại hối hầu như không được chú trọng mà chỉ

thực hiện thanh tra, kiểm tra, phạt khi thị trường ngoại hối gặp khó khăn về cung cầu

ngoại tệ, tỷ giá căng thẳng…

Trong năm 2008, sau một loạt những hành động của Nhà nước nhằm vào TTKCT

mà đỉnh điểm là khoảng giữa năm 2008, thì TTKCT thức trầm lắng một thời gian, có

lúc gần như đóng băng, nhưng rồi sau đó thị trường hoạt động sôi nổi trở lại cùng với

sự lơ là trong kiểm tra của Nhà nước.

NHNN ban hành các chỉ thị kiểm tra và xử lý những vi phạm trong mua bán và

niêm yết giá bằng ngoại tệ nhằm hạn chế TTKCT và tình trạng đô la hóa. Tuy nhiên,

vào năm 2010 hoạt động mua bán ngoại tệ trên TTKCT vẫn nhộn nhịp vì lúc này sự

chênh lệch tỷ giá giữa hai thị trường rất cao có lúc lên đến 2000 VND, hầu như các

NHTM không mua được ngoại tệ dẫn đến tình trạng căng thẳng ngoại tệ trong khi đó

nhu cầu thanh toán hàng nhập khẩu càng tăng.

NHNN kết hợp với các cơ quan chức năng đã thi hành nhiều biện pháp mạnh

nhằm hạn chế cơ sở tồn tại TTKCT như: cấm triệt để việc mua bán ngoại tệ ngoài

ngân hàng và đi kèm theo đó là những chế tài như tịch thu ngoại tệ, đồng thời đưa ra

những kiến nghị sẽ hạn chế kinh doanh vàng miếng ngoài thị trường chính thức, trong

thời gian này TTKCT đã co cụm không còn hoạt động rầm rộ như trước và ngoại tệ

cũng đã chảy vào ngân hàng nhiều hơn. Tuy nhiên, lại xuất hiện vấn đề bức xúc là nhu

cầu ngoại tệ chính đáng của người dân không được ngân hàng đáp ứng, họ phải lén lút

mua trên TTKCT với giá cao hơn nhiều.

60

2.3 Đánh giá quá trình phát triển TTNH của Việt Nam trong thời gian qua và

nguyên nhân của những tồn tại

2.3.1 Những mặt đạt được

Thứ nhất, đã xây dựng nền móng cơ sở pháp lý cho hoạt động của TTNH

TTNH hoạt động theo quy chế được ban hành về căn bản phù hợp với Luật NHNN

và Luật các Tổ chức tín dụng đảm bảo cho hoạt động của thị trường phù hợp với luật

pháp, đồng thời cơ sở pháp lý của hoạt động kinh doanh ngoại hối đang dần hoàn

thiện, NHNN đã xây dựng hệ thống các văn bản pháp qui về hoạt động quản lý ngoại

hối với mức độ luật hoá càng cao không còn ở dưới dạng các nghị định mà là pháp

lệnh (Pháp lệnh ngoại hối ban hành năm 2005) tạo môi trường cho việc điều hành,

thực hiện chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối và kinh doanh ngoại hối theo khuôn khổ

của pháp luật.

Những quy định quản lý ngoại hối đáp ứng yêu cầu của điều VIII của Hiệp Định

GATT 1994 các biện pháp kiểm soát giao dịch vãng lai đã được tự do hóa, các biện

pháp quản lý ngoại hối chỉ áp dụng trong những trường hợp ngoại lệ để duy trì sự ổn

định tài chính và tiền tệ quốc gia.

NHNN đã từng thành lập trung tâm giao dịch ngoại hối tạo cơ sở cho hoạt động

của một sàn giao dịch ngoại tệ, tuy nhiên cơ chế thanh toán và giao dịch của trung tâm

không hợp lý và không tương thích với hoạt động của sàn giao dịch ngoại hối như

TTNH của các nước trong khu vực và thế giới.

Thứ hai, ảnh hưởng tích cực của quá trình hội nhập tạo động lực cho các NHTM

trong nước nâng cao trình độ mở rộng hoạt động và tăng năng lực vốn. Theo cam kết

khi gia nhập WTO đến năm 2010 các ngân hàng nước ngoài được phép thực hiện tất

cả các dịch vụ mà NHTM trong nước được thực hiện (Phụ lục số 3), sự cạnh tranh gay

gắt của những đối tác nước ngoài có kinh nghiệm có năng lực về vốn và trình độ cao

đã tạo sức ép mạnh lên các NHTM, vì thế các NHTM ngày càng chú ý tập trung nguồn

lực để nâng cao trình độ chuyên môn, trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại và tăng

năng lực vốn để tạo điều kiện kinh doanh ngoại hối tốt hơn. Điển hình như các NHTM

61

trong nước: VCB, Eximbank đã có trang bị phòng kinh doanh ngoại hối với các thiết

bị hiện đại và tổ chức hoạt động kinh doanh nối mạng với thị trường thế giới, hai ngân

hàng này được xem là có thế mạnh về kinh doanh ngoại hối với các chuyên gia có

trình độ cao về nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ. Bên cạnh đó là các ngân hàng nước

ngoài, ngân hàng liên doanh có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối trên

TTNH thế giới như: Standar Chartered Bank, Deustsche Bank, HSBC, … sẽ là những

chủ thể có khả năng tham gia và phát triển TTNH sẽ làm tăng tính cạnh tranh và thanh

khoản cao cho thị trường. Hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTM ngày càng

mở rộng và năng lực kinh doanh, quản trị rủi ro của các NHTM ngày càng được chú

trọng và củng cố.

Thứ ba, mặc dù giao dịch phái sinh còn sơ khai nhưng thị trường này đã bước đầu

hình thành trên cơ sở có khung pháp lý qui định và các chủ thể trên thị trường đã làm

quen với giao dịch kỳ hạn, quyền chọn tiền tệ để bảo hiểm rủi ro tỷ giá và rủi ro lãi

suất.

Thứ tư, thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động và có thời kỳ rất phát triển

(năm 2007, 2008) đã thu hút lượng ngoại tệ đầu tư gián tiếp nước ngoài chảy vào rất

mạnh mẽ, tác động làm tăng lượng cung ngoại tệ cho TTNH giải quyết tình trạng căng

thẳng về cung cầu ngoại tệ.

Thứ năm, thực hiện tốt cam kết tự do hóa tài khoản vãng lai, thực hiện quản lý

giao dịch ngoại hối trên tài khoản vãng lai bằng những giải pháp thị trường và theo

pháp lệnh, xóa bỏ tình trạng cấp phép mua bán ngoại tệ, giao quyền kiểm tra thực hiện

việc bán ngoại tệ cho các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ.

Tuy nhiên đánh giá hoạt động TTNH Việt Nam có thể thấy còn rất nhiều hạn chế

trong tổ chức, quản lý và điều hành thị trường

62

2.3.2 Những hạn chế của Thị trường ngoại hối Việt Nam

2.3.2.1 Hoạt động TTNTLNH còn khiêm tốn

Số ngân hàng tham gia trên TTLNH còn quá ít so với tổng số lượng các tổ chức tín

dụng, các định chế tài chính phi ngân hàng của tất cả các hình thức sở hữu hiện nay,

điều này cũng dẫn đến doanh số giao dịch trên TTNTLNH chiếm tỷ trọng nhỏ trong

tổng doanh số giao dịch ngoại tệ của nền kinh tế, qua đó cho thấy sự hạn chế về năng

lực kinh doanh ngoại hối và nguồn vốn còn khiêm tốn của các ngân hàng tham gia

TTNTLNH. Doanh số giao dịch chủ yếu là của NHNN, doanh số giao dịch của các

NHTM với vai trò nhà tạo giá còn hạn chế.

Chính điều này đã cho thấy hoạt động của TTNTLNH chỉ là hình thức chưa thực

sự đóng vai trò là thị trường sơ cấp nơi hình thành tỷ giá, một biến số kinh tế quan

trọng ảnh hưởng đến quá trình điều hành chính sách tỷ giá. Điều này cũng lý giải vì

sao tỷ giá BQLNH thường có sự cách biệt so với tỷ giá trên TTKCT.

Bên cạnh đó, trong vài thời điểm NHNN chưa thực hiện đầy đủ vai trò can thiệp

thị trường, là người cuối cùng mua bán ngoại tệ theo nhu cầu cuả thị trường khi TTNH

căng thẳng về cung cầu USD.

2.3.2.2 Hàng hóa trên thị trường ngoại hối chưa đa dạng

Một TTNH chỉ hoạt động sôi nổi khi nào có sự tham gia của nhiều đồng tiền,

nhưng TTNH của Việt Nam chủ yếu chỉ có USD còn các ngoại tệ mạnh khác như

EUR, JPY, GBP, AUD, SGD chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn trong tổng doanh số giao dịch,

tỷ lệ doanh số giao dịch của các ngoại tệ khác USD chưa tương thích với cơ cấu các

quốc gia có giao dịch thương mại với Việt Nam.

Điều này xuất phát từ những nguyên nhân sau: (1) Do USD là đồng tiền được chấp

nhận nhiều trong thanh toán quốc tế cho dù là thanh toán giữa hai quốc gia không có

Mỹ; (2) Do thói quen sử dụng USD trong thanh toán, cất trữ, định giá của thị trường

Việt Nam; (3) Do các NHTM Việt Nam không sẳn lòng mua những ngoại tệ khác

USD trừ một vài ngân hàng lớn như VCB, Eximbank, ACB.

63

2.3.2.3 Sự thiếu vắng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá và mục đích tham gia

thị trường ngoại hối cũng chưa đa dạng

Trên TTNH thế giới sự tham gia của những người bảo hiểm (Hedger) là lực lượng

lớn tạo nên sự sôi động của thị trường nhưng ở Việt Nam hoạt động này không được

phát triển vì: (1) Do tỷ giá chậm điều chỉnh theo cung cầu trên thị trường, hoặc điều

hành theo khuynh hướng tạo tâm lý kỳ vọng vào sự gia tăng của tỷ giá, vì vậy không

tạo nên sự quan tâm đến việc bảo hiểm rủi ro tỷ giá. (2) Do người sử dụng ngoại tệ còn

thiếu thông tin các sản phẩm phái sinh, thiếu hướng dẫn về định giá sản phẩm này và

năng lực dự báo tỷ giá, đa số các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập ở Việt Nam là

doanh nghiệp nhỏ và vừa nên không có giám đốc tài chính phụ trách về rủi ro tỷ giá,

doanh nghiệp chưa nhận thức được tác động của rủi ro tỷ giá và hiệu quả của việc sử

dụng các công cụ bảo hiểm. Cũng như doanh nghiệp chưa chấp nhận phí bảo hiểm là

một khoản chi phải được tính vào giá thành sản phẩm và mục đích bảo hiểm rủi ro tỷ

giá là để cố định khoản thu và chi không bị rủi ro do tỷ giá biến động.

Tại TTNH của các khu vực và thế giới, các NHTM là những chủ thể chính tham

gia trên TTNH với nhiều mục đích và chức năng khác nhau tác động đến hoạt động

của TTNH. Nhưng mục đích của các NHTM Việt Nam tham gia TTNH chủ yếu để

đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng. Còn những mục đích như kinh doanh chênh

lệch tỷ giá, đầu cơ, môi giới rất hạn chế.

Nguyên nhân là do: Thứ nhất, các NHTM hạn chế về nguồn ngoại tệ không đủ để

thực hiện các hoạt động kinh doanh và thiếu vắng đội ngũ chuyên viên có trình độ và

kinh nghiệm để phân tích, phán đoán xu hướng biến động của tỷ giá cũng như khả

năng sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro ngoại hối khi duy trì một trạng thái mở

ngoại tệ.

Thứ hai, NHNN vẫn chưa xem đầu cơ trên TTNH là một giao dịch như những

nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, và chưa thấy được vai trò của nhà đầu cơ trên TTNH là

làm tăng tính thanh khoản trên thị trường.

64

Thứ ba, là sự liên thông giữa TTNH trong nước và các TTNH trong khu vực như

Thị trường HongKong, Singapore hay ngoài khu vực Châu Á như Thị trường ngoại

hối London, Newyork còn hạn chế.

2.3.2.4 Thị trường phái sinh còn sơ khai

Như đã phân tích trong phần thực trạng TTNH Việt Nam có doanh số giao dịch

trên thị trường phái sinh rất thấp được được ước lượng gần 10% so với tổng doanh số

giao dịch trên TTNH, đây là một tỷ lệ quá nhỏ so với tiêu chuẩn quốc tế, cụ thể theo

dữ liệu khảo sát của BIS, giao dịch giao ngay chỉ chiếm 1/3, giao dịch hoán đổi chiếm

khoảng một nửa và giao dịch kỳ hạn là 10% , tương tự các giao dịch phái sinh chiếm

50% trên thị trường trong nền kinh tế mới nổi của các nước Châu Á trừ trường hợp của

Trung Quốc nơi TTNH chủ yếu vẫn là giao ngay.

Ngoài ra các giao dịch phái sinh chủ yếu là giao dịch kỳ hạn và hoán đổi còn giao

dịch quyền chọn ngày càng vắng bóng và chưa có giao dịch tương lai tiền tệ.

2.3.3 Nguyên nhân của thực trạng trên

2.3.3.1 Cơ chế điều hành tỷ giá chưa linh động với diễn biến của thị trường

Theo cơ chế thả nổi, tỷ giá được xác định bởi lực lượng thị trường và sự chi phối

của chính phủ trên tỷ giá này chỉ được thực hiện thông qua việc mua và bán trên

TTNH. Trong trường hợp của Việt Nam, chứng minh cho cơ chế thả nổi (float) như

được đề cập trong chương 1 là NHNN không thiết lập tỷ giá chính thức mà đơn giản

chỉ thông báo tỷ giá bình quân liên ngân hàng được xác định thông qua tương tác cung

và cầu trên thị trường trong ngày giao dịch hôm trước. Cơ chế quản lý (managed) là tỷ

giá chỉ dịch chuyển trong biên độ được quy định.

65

Bảng 2.10: Diễn biến Tỷ giá BQLNH và

Tỷ giá bình quân thị trường tự do từ năm 1999- 2006

Đơn vị tính: đồng

Tỷ giá bình Tỷ giá bình

Chỉ tiêu Năm Tỷ giá trần có cộng biên độ quân liên ngân hàng quân thị trường tự do Chênh lệch (5) = (4) – (3) (1) (3) (2) (4)

13935 13949 13965 +16 1999

14173 14187 14260 +73 2000

14488 14502 14728 +226 2001

15240 15278 15288 +10 2002

15536 15575 15526 -49 2003

15724 15764 15777 +13 2004

15820 15859 15873 +14 2005

15966 16006 16030 +24 2006

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN

Biểu đồ 2.2 : Sự biến động của tỷ giá trên thị trường chính thức

và thị trường tự do giai đoạn 1999 – 2006

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN

66

Đầu năm 2007, NHNN đã mở rộng biên độ thêm +/-0.25% lên mức +/- 0.5% với

đà tăng tỷ giá ở năm 2006 việc nới rộng biên độ ở đầu năm được kỳ vọng là sẽ làm

cho tỷ giá tiếp tục tăng. Tuy nhiên năm 2007, luồng ngoại tệ vào nước ta tăng đột biến,

tăng gấp 5 lần so với năm 2006, cùng với lượng kiều hối chuyển về lớn đã gây áp lực

tăng giá VND và lúc này tỷ giá trên TTLNH công bố thấp hơn tỷ giá trên TTNT không

chính thức và các NHTM yết tỷ giá mua bằng tỷ giá bán ngoại tệ trên cơ sở trừ hết

biên độ chứ không phải cộng như thường lệ. Biến động tỷ giá trong năm 2007 ngược

với thực trạng phổ biến từ trước đó là: tỷ giá do NHNN công bố đã tăng khoảng

0.25%, trong khi đó trên thị trường tự do vào cuối năm 2007 so với đầu năm thì tỷ giá

không tăng thậm chí còn giảm nhẹ. Vào cuối năm 2007, NHNN nới rộng biên độ lên

+/- 0.75%(theo QĐ số 3039/QĐ- NHNN ngày 24/12/2007). Tình hình trên kéo dài qua

những tháng đầu năm 2008, trong quý 1/2008, trên TTLNH, hầu hết các ngân hàng

đều yết giá trừ hết biên độ 0.75%, nhưng vẫn không bán ra được vì lúc này, các ngân

hàng đều thiếu hụt VND.

Từ năm 2009 đến năm 2012, NHNN nhiều lần điều chĩnh biên độ nhằm điều tiết

thị trường ngoại hối và điều chĩnh tỷ giá giữa 2 thị trường.

Bảng 2.11: Diễn biến Tỷ giá BQLNH và

Tỷ giá bình quân thị trường tự do từ năm 2007- 2012

Đơn vị tính: đồng

Chỉ tiêu Tỷ giá bình Tỷ giá bình Tỷ giá trần có quân liên ngân quân thị Chênh lệch

Năm (5) = (4) – (3) cộng biên độ (3) trường tự do (4) (1) hàng (2)

2007 16.127 16.248 16.110 -138

2008 16.327 16.817 16.650 -167

2009 17.133 17.880 18.334 +454

2010 18.710 19.272 19.630 +358

2011 20.693 20.899 21.688 +788

2012 20.828 21.036 21.106 +70

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN

67

Biểu đồ 2.3 : Sự biến động của tỷ giá trên thị trường chính thức

và thị trường tự do giai đoạn 2007 -2012

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN

Qua biểu đồ 2.5 cho thấy tỷ giá liên tục tăng qua các năm, trong đó tỷ giá bình

quân trên thị trường tự do hầu hết cao hơn tỷ giá trần bình quân liên ngân hàng, nổi bật

là năm 2011 trung bình mức chênh lệch là gần 800 đồng. Qua năm 2012, NHNN thực

thi nhiều biện pháp mạnh thông qua chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá, chênh lệch

tỷ giá giữa hai thị trường chỉ còn ở mức 70 đồng.

2.3.3.2 Sự tồn tại và ảnh hưởng mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không

chính thức

Như trong khung lý thuyết có trình bày khi nào trong nền kinh tế còn tồn tại các tỷ

giá khác nhau và tình trạng cầu vượt cung ngoại tệ thì sẽ tồn tại một thị trường song

song với thị trường ngoại tệ chính thức. Giao dịch trên thị trường không chính

thức(TTKCT) hiện nay vẫn còn sôi nổi và thanh khoản cao hơn giao dịch trên TTNH

chính thức. Bởi vì, những yếu tố của nền kinh tế tạo nên sự tồn tại và phát triển của

TTKCT vẫn còn như: tình trạng đôla hóa hiện diện trong hầu hết các chức năng của

tiền tệ, giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ vẫn còn trong họat động của đời sống kinh

68

tế, sự lo ngại về tình trạng mất giá của VND đã tạo nên tâm lý thích tích trữ USD.

Chênh lệch tỷ giá giữa TTNH chính thức và TTKCT, là nguyên nhân gây khó khăn

cho việc cạnh tranh thu mua ngoại tệ của các ngân hàng với TTKCT, vì thế ngoại tệ

không được tập trung vào ngân hàng, đã làm cho tình trạng căng thẳng về cung cầu

ngoại tệ của nước ta càng lớn. Thị trường chính thức không đáp ứng được nhu cầu

ngoại tệ hợp lý, hợp pháp của doanh nghiệp của người dân, vì thế họ phải tìm đến

TTKCT tạo điều kiện cho thị trường này tồn tại và phát triển.

Ngoài ra, tình trạng bất ổn trên thị trường vàng trong nước theo những chuyên gia

tài chính cho là do giới đầu cơ đang thao túng, làm cho giá vàng trong nước cao hơn

giá thế giới, lượng vàng nhập lậu gia tăng dẫn đến tăng cầu về ngoại tệ trên TTKCT,

tác động tăng tỷ giá VND/USD, ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tỷ giá của

chính phủ.

2.3.3.3 Tính chuyển đổi của VND chưa cao

Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) một đồng tiền tự do chuyển đổi là đồng tiền được

sử dụng rộng rãi để thanh toán các giao dịch quốc tế và được mua bán rộng rãi trên thị

trường ngoại hối chủ chốt. Có nghĩa là đồng tiền đó phải được chấp nhận ở trong nước

và trên quốc tế, để tự do chuyển đổi đồng tiền đó phải chuyển đổi được sang ngoại tệ

mà không có bất kỳ sự hạn chế nào.

Để phát triển TTNH điều cần thiết là hàng hoá phải được lưu chuyển dễ dàng, có

nghĩa là VND phải được chuyển đổi dễ dàng sang ngoại tệ và ngược lại khi có ngoại tệ

có thể dễ dàng mua VND. Tuy nhiên, trong thời gian qua nhu cầu ngoại tệ chính đáng

của cá nhân và tổ chức kinh tế chưa được ngân hàng đáp ứng đầy đủ, ngay cả những

nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển ngoại tệ vào đầu tư phải bán ngoại tệ sang VND để

đầu tư trong nước và khi chuyển lợi nhuận về nước họ cũng gặp khó khăn trong việc

mua ngoại tệ, qua thực tế đó có thể đánh giá mức độ tự hóa tài khoản vãng lai chưa

được thực hiện đầy đủ hay tính chuyển đổi của VND chưa cao.

69

2.3.3.4 Dự trữ ngoại hối thấp

Bảng 2.12 : Dự trữ ngoại hối từ năm 2005 - 2012

Đơn vị tính : tỷ USD

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Chỉ tiêu

Dự trữ ngoại hối 8.60 11.50 21.00 23.00 14.10 12.40 9.00 23.00

Nguồn : Ngân hàng phát triển Châu Á ( ADB)

Theo IMF, một quốc gia có dự trữ ngoại hối từ 12 -14 tuần nhập khẩu thì được coi

là đủ. Dự trữ ngoại hối của Việt Nam vào 2 năm 2007, 2008 đạt mức 15 tuần nhập

khẩu, vượt mức an toàn của IMF, đó là do trong 2 năm này kim ngạch xuất khẩu tăng

mạnh, kiều hối chuyển về nước tăng và cán cân vốn cũng tăng mạnh.Tuy nhiên, so

sánh với luồng vốn ngắn hạn chảy mạnh vào trong 2 năm này, thì dự trữ ngoại hối như

vậy là còn thấp.

Năm 2009 mức dự trữ ngoại hối càng giảm mạnh chỉ còn tương đương 10 tuần

nhập khẩu, đó là do những nguyên nhân khách quan của khủng hoảng tài chính và suy

thoái kinh tế thế giới đã làm cho kim ngạch xuất khẩu nước ta giảm mạnh, chuyển tiền

kiều hối giảm và nhất là nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam FDI giảm mạnh vốn thực

hiện dự báo giảm 16,5%, FII chuyển ra ròng khoảng 560 triệu USD. Năm 2010, dự trữ

ngoại hối sụt giảm chỉ còn hơn 7 tuần nhập khẩu, giảm 12% so với năm 2009, một

trong những yếu tố chính làm sụt giảm dự trữ ngoại hối là do thâm hụt cán cân thanh

toán, nhập khẩu tăng cao, như vậy cần phải dự trữ 20 tỷ USD mới đảm bảo nhập khẩu.

Mức dự trữ như hiện nay là quá thấp so với các nước trong khu vực như Philippine

62.4 tỷ USD, Malaysia 106.5 tỷ USD năm 2010 (theo báo cáo của ADB). Năm 2011,

dự trữ ngoại hối tiếp tục xuống thấp ở mức 9 tỷ USD, đến năm 2012 dự trữ ngoại hối

tăng mạnh trở lại, đảm bảo an toàn cho số tuần nhập khẩu và qua đó cho thấy tín hiệu

khả quan của nền kinh tế.

70

Như vậy, tình hình dự trữ ngoại tệ của Việt Nam thấp chủ yếu là do: (1) Cán cân

thương mại thường xuyên thâm hụt, thặng dư của cán cân vốn lại giảm dần từ năm

2008 đến nay đến nay, (2) Lượng ngoại tệ vào có tăng nhưng không được tập trung

vào hệ thống ngân hàng và nguồn thu ngoại tệ còn nằm tản mạn trong dân cư, trong

các công ty. (3) Việc phối hợp chưa được chặc chẽ giữa Bộ Tài chính và NHNN về

quản lý nguồn thu ngoại tệ do xuất khẩu dầu thô làm hạn chế khai thác hiệu quả nguồn

thu ngoại tệ còn khan hiếm của đất nước.(4) Định hướng chiến lược quản lý dự trữ

ngoại hối chủ yếu mới chỉ đặt ra mặt cơ cấu đảm bảo an toàn tài sản, hình thức đầu tư

còn đơn giản chủ yếu dưới hình thức tiền gửi tại các ngân hàng, các công cụ tài chính

như trái phiếu chính phủ, chưa áp dụng các hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận cao

như đầu tư vào cổ phiếu hay uỷ thác đầu tư vào các quỹ.

2.3.3.5 Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện

Pháp lệnh ngoại hối và Nghị định 160 đã được ban hành để quản lý hoạt động kinh

doanh ngoại hối theo khuôn khổ pháp luật, nhưng Thông tư hướng dẫn thực hiện chế

tài xử phạt do vi phạm pháp lệnh ngoại hối trong việc sử dụng ngoại tệ thanh toán, yết

giá hàng hóa trong nước gây trở ngại cho việc kiểm tra, giám sát và xử phạt không

đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp và giảm hiệu quả của pháp lệnh và nghị định.

Kết luận chương 2

Chương 2 đã trình bày sơ lược quá trình hình thành và phát triển thị trường

ngoại hối Việt Nam, đồng thời phân tích thực trạng của TTNH Việt Nam. Nêu lên

những hạn chế của TTNH đó là: Thứ nhất, hoạt động của TTNTLNH chiếm tỷ lệ quá

thấp so với tổng doanh số giao dịch ngoại tệ trên thị trường, thứ hai là vai trò của

NHNN chưa phát huy hiệu quả đối với sự phát triển TTNH trong giai đoạn hội nhập,

thứ ba là sự tồn tại và hoạt động mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không chính thức,

thứ tư là thị trường ngoại tệ phái sinh còn sơ khai chưa được phát triển.

Trên cơ sở đó Luận văn đã tóm tắt những mặt đạt được và những hạn trong quá

trình phát triển TTNH của Việt Nam thời gian qua, đồng thời đưa ra nguyên nhân mà

71

chủ yếu những thiếu sót trong quá trình điều hành chính sách tỷ giá và thực thi những

biện pháp quản lý ngoại hối là những nhân tố tác động trực tiếp đến quá trình hoạt

động và phát triển của TTNH nói riêng và nền kinh tế nói chung để làm cơ sở cho

những giải pháp trong chương 3.

72

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM

3.1 Định hướng phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam đến năm 2020

Định hướng phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam đến năm 2020 đã được

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ban hành ngày

24/5/2006 với nội dung cụ thể như sau:

Tăng cường khả năng và mức độ bao quát của NHNN trong việc quản lý, giám

sát các giao dịch ngoại hối trong nước và quốc tế, đồng thời có biện pháp hữu hiệu hạn

chế, kiểm soát hiện tượng đào thoát vốn đầu tư ra nước ngoài. Thực hiện tự do hóa các

giao dịch vãng lai và từng bước nới lỏng kiểm soát các giao dịch vốn một cách thận

trọng, phù hợp với lô trình mở cửa thị trường tài chính. Từng bước nâng cao tính

chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, theo hướng trước mắt bảo đảm đồng tiền Việt

Nam được tự do chuyển đổi trên các giao dịch vãng lai và từng bước được chuyển đổi

trên các giao dịch vốn. Thu hẹp phạm vi sử dụng đồng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam

và giảm dần tình trạng đô la hóa. Nâng cao trách nhiệm và khả năng của các NHTM

trong việc đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ đi đôi với việc nới lỏng hạn chế và tạo điều

kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tiếp cận thi trường ngoại hối.

Tăng nhanh dự trữ ngoại hối nhà nước. Thực hiện các biện pháp quản lý tập

trung, thống nhất dự trữ ngoại hối nhà nước tại NHNN. Tập trung các nguồn ngoại tệ

vào hệ thống ngân hàng. Thực hiện chính sách ngoại hối mở để khuyến khích xuất

khẩu và thu hút nguồn ngoại tệ chảy vào nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt, theo cơ chế thị

trường và theo hướng gắn với một rổ các dồng tiền của các đối tác thương mại, đầu tư

quan trọng của Việt Nam. Nới lỏng dần biên độ giao dịch của tỷ giá chính thức, tiến

tới sử dụng các công cụ gián tiếp để điều hành tỷ giá hối đoái. Giảm mạnh và tiến tới

xóa bỏ sự can thiệp hành chính vào thị trường ngoại hối. Phát triển mạnh thị trường

73

ngoại hối và các thị trường tiền tệ phái sinh theo các thông lệ quốc tế. NHNN chỉ can

thiệp thị trường và đáp ứng nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của đất nước chủ yếu nhằm thực

hiện mục tiêu CSTT và bình ổn thị trường tiền tệ. Nâng cao năng lực quản lý và can

thiệp thị trường ngoại tệ của NHNN thông qua các nghiệp vụ thị trường. Hoàn thiện

khuôn khổ pháp lý về ngoại hối để tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường ngoại hối

phát triển, các TCTD mở rộng hoạt động ngoại hối và các tổ chức, cá nhân tiếp cận

một cách thuận lợi các nguồn ngoại hối. Thu hẹp đáng kể hoạt động ngoại hối không

chính thức.

3.2 Giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam

3.2.1 Hoàn chỉnh khung pháp lý

Để phát triển TTNH an toàn và có hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia,

cần có cơ chế giám sát hoạt động thị trường, đồng thời với quan điểm nhà nước không

trực tiếp can thiệp vào thị trường nhưng phải giám sát chặc chẽ thị trường tài chính nói

chung và TTNH nói riêng thông qua khuôn khổ luật pháp. Vì thế vấn đề cần quan tâm

nhất hiện nay NHNN phải hoàn thiện và bổ sung các quy định về luật pháp, tạo môi

trường pháp lý đồng bộ thông thoáng về hoạt động tài chính tiền tệ cho hoạt động của

thị trường tài chính.

Hoạt động kinh doanh ngoại hối muốn phát triển được cần phải có khung pháp lý

đầy đủ, rõ ràng; vừa tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia dễ dàng hiểu rõ và thực thi

theo đúng pháp luật, vừa tạo điều kiện cho NHNN có thể kiểm tra giám sát nhằm đảm

bảo quyền lợi cho nhà kinh doanh vừa bảo đảm hệ thống tài chính được an toàn. Các

biện pháp phải thực hiện là:

(1) Tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh khung pháp lý, cơ chế, chính sách tiền tệ

và các văn bản pháp quy liên quan theo hướng phù hợp với lộ trình thực hiện các cam

kết quốc tế trong mở cửa lĩnh vực tiền tệ, dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các cam kết

trong Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ và WTO. Hoàn thiện

khung pháp lý về ngoại hối nhằm thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển, các TCTD

74

mở rộng hoạt động ngoại hối và các lực lượng thị trường được tiếp cận một cách tuận

lợi các nguồn ngoại hối.

(2) Cần mau chóng ban hành các thông tư, quyết định hướng dẫn cụ thể và kịp thời

nhằm nâng cao hiệu quả của các văn bản pháp lý.

(3) Các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh là những nghiệp vụ mang tính kỹ thuật cao

và phức tạp cả trong thực hiện và kiểm soát vì thế các văn bản cần phải đầy đủ cả

những chế tài nghiêm minh về dân sự và hình sự để phòng ngừa và xử lý những hành

vi phá hoại gây rối loạn thị trường, hay vi phạm những thỏa thuận trong hợp đồng kinh

doanh ngoại hối.

3.2.2 Về điều hành tỷ giá

Khi nền kinh tế ngày càng hội nhập, dù chưa hoàn toàn tự do hóa tài khoản vốn

nhưng dưới yêu cầu của những cam kết khi gia nhập WTO luồng vốn sẽ di chuyển dễ

dàng hơn đã đặt ra thách thức mới đối với việc kiểm soát luồng vốn, điều hành chính

sách tiền tệ và cơ chế tỷ giá mà những nhà nghiên cứu gọi là "bộ ba bất khả thi": (i) tỉ

giá hối đoái cố định; (ii) tự do hóa tài khoản vốn và (iii) sự độc lập của chính sách tiền

tệ. Các nhà làm chính sách hiểu rằng chỉ có thể đạt được 2 trong 3 mục tiêu trên cùng

một lúc, vì nếu tự do hóa luồng vốn mà thực thi chính sách tỷ giá cố định cần phải mua

ngoại tệ vào đưa nội tệ ra làm tăng lượng cung tiền ảnh hưởng đến việc thực hiên mục

tiêu của chính sách tiền tệ, vì thế nếu muốn tự do hóa dòng vốn và ổn định tiền tệ thì

phải thả nổi tỷ giá. Tương tự để có thể vừa thực hiện chính sách tỷ giá cố định vừa

đảm bảo tính độc lập của chính sách tiền tệ thì cần phải kiểm soát dòng vốn không thể

tự do hóa.

Điều này đã được chứng minh trong giai đoạn năm 2007-2009, khi lượng ngoại tệ

chảy vào gia tăng mạnh mẽ, NHNN đã phải mua USD để ổn định tỷ giá và không thực

hiện trung hòa kịp thời cùng với giá nguyên liệu thế giới gia tăng đã làm tăng mức lạm

phát, ngay cả khi trung hòa kịp thời thì lãi suất vẫn bị tác động ảnh hưởng mục tiêu

của chính sách tiền tệ. Như vậy, việc hội nhập kinh tế đã đặt ra cho NHNN những

thách thức về điều hành chính sách vĩ mô nói chung và chính sách tỷ giá nói riêng.

75

Để thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt cần phải xác định:

Thứ nhất, nên xây dựng một cơ chế điều hành tỷ giá linh động vừa hoạt động

trong điều kiện bình thường vừa sử dụng khi có các cú sốc từ bên ngoài hay khi khủng

hoảng tiền tệ xảy ra. Vì vậy, chính sách tỷ giá nên được xây dựng theo hướng thiên về

thả nổi nhằm phản ánh đúng những biến động của thị trường nhưng NHNN sẽ có

những hành động can thiệp kịp thời đúng thời điểm thông qua việc mua vào và bán ra

ngoại tệ khi tỷ giá biến động quá mức, kết hợp với việc kiểm soát luồng vốn. Tuy

nhiên, để tỷ giá của TTLNH là tỷ giá phù hợp với giá trị thực của VND thì hoạt động

trên TTLNH phải hiệu quả sự tham gia đặt lệnh mua bán của các chủ thể trên thị

trường phải sôi nổi doanh số chiếm tỷ trọng lớn và vai trò tham gia của NHNN chỉ là

thành viên của thị trường và đóng vai trò can thiệp.

Như vậy, tỷ giá hàng ngày được công bố phải theo tín hiệu thị trường, trong một

ngày tỷ giá cũng có thể tăng và giảm chứ không chỉ có một tỷ giá cố định trong suốt

ngày và thậm chí là suốt tuần như trước hay cố định một thời gian lâu rồi sau đó lại

tăng mạnh như cách điều hành tỷ giá từ trước nay, mà nên thay đổi có tăng có giảm

hàng ngày vì:

(1) Chính sự tăng giảm đó mới tạo cơ hội cho hoạt động kinh doanh ngoại hối phát

triển, vì nếu giá cả của thị trường (tỷ giá) cứ cố định thì sẽ không có rủi ro tỷ giá và

không cần thực hiện bảo hiểm rủi ro, như vậy sẽ không có các chủ thể muốn bảo hiểm

rủi ro hạn chế lượng thành viên tham gia thị trường.

(2) Việc điều hành tỷ giá tạo ra tâm lý kỳ vọng sự tăng giá USD như bao lâu nay

cũng không phù hợp với xu thế vận động của thị trường mà nên linh hoạt hơn phù hợp

với diễn biến của cung cầu tiền tệ trên thị trường.

Để có thể xác định tỷ giá phù hợp với cơ chế thị trường vấn đề cần phải đặt ra là

NHNN phải có đội ngũ chuyên viên giỏi, kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh ngoại

hối phải được giao quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm và về tỷ giá đã tính toán, nhằm

thực hiện được mục tiêu chính sách tỷ giá đưa ra.

76

Cơ chế tỷ giá linh hoạt phù hợp với sự biến động cung cầu trên thị trường sẽ giúp

cho TTNH hoạt động hiệu quả.

Thứ hai, xóa bỏ cơ chế neo tỷ giá vào USD mà nên xác định tỷ giá trên cơ sở neo

tỷ giá vào một rổ tiền với cơ cấu các tiền tệ theo tỷ trọng thương mại của những quốc

gia có quan hệ thương mại với Việt Nam. Tỷ giá VND được phản ánh chính xác hơn

và ít bị phụ thuộc riêng vào sự mạnh yếu của USD, tình trạng Đô la hóa thị trường

cũng sẽ giảm. Tỷ giá đó phải được tính toán để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền

tệ là kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng nội tệ .

Một cơ chế quản lý phù hợp phải đi kèm với việc xây dựng một hệ thống giám sát

tài chính hiệu quả, thường xuyên giám sát các hoạt động trên TTNH để kịp thời ngăn

chặn các hành vi lũng đoạn thị trường, đầu cơ… và cảnh báo nguy cơ xảy ra khủng

hoảng tiền tệ để kịp thời ứng phó.

NHNN cần xây dựng qui chế thông tin, thống kê, hệ thống hóa kịp thời số liệu

luồng ngoại tệ ra vào trong nước, từ đó dự báo quan hệ cung cầu trên thị trường để làm

căn cứ điều hành chính sách tỷ giá và quản lý TTNH hiệu quả hơn.

TTTT và TTNH có mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, lãi

suất với bản chất là giá cả trên TTTT và tỷ giá với bản chất là giá cả trên TTNH cũng

có tác động lẫn nhau. Đối với những quốc gia duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi và lãi suất

thả nổi, thì khi chênh lệch lãi suất của một cặp đồng tiền không tương thích với sự biến

động của tỷ giá thì theo qui luật ngang giá lãi suất với tác động của các lực lượng thị

trường thông qua những hoạt động kinh doanh chênh lệch giá sẽ đưa tỷ giá đến vị trí

cân bằng mới.

Ở Việt Nam, với chính sách lãi suất chưa thả nổi hoàn toàn và tỷ giá theo cơ chế

thả nổi có quản lý để tránh hiện tượng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản, NHNN bằng

các nghiệp vụ của mình tác động để giảm lãi suất huy động USD xuống làm tăng

chênh lệch lãi suất giữa VND và USD, tăng tính hấp dẫn của tiền đồng lên, từ đó hạn

chế hiện tượng găm giữ ngoại tệ giảm bớt tình trạng căng thẳng về ngoại tệ.

77

3.2.3 Về tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hóa tài khoản vốn theo lộ trình

Việt Nam đã cam kết thực hiện tự do hoá tài khoản vãng lai theo pháp lệnh ngoại

hối không hạn chế nhu cầu mua ngoại tệ hợp lý hợp pháp của những cá thể và các tổ

chức kinh tế nhưng trong thực tế nhu cầu chính đáng về ngoại tệ của người dân, doanh

nghiệp chưa được đáp ứng kịp thời, đầy đủ. Những nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển

ngoại tệ vào đầu tư, họ có nhu cầu chính đáng khi có lợi nhuận sẽ bán VND mua ngoại

tệ để chuyển về nước, nhưng TTNH Việt Nam thường xuyên ở trong tình trạng cầu lớn

hơn cung và ngân hàng gặp khó khăn cho việc thỏa mãn nhu cầu mua ngoại tệ của nhà

đầu tư, chính điều này là một trong những nguyên nhân làm giảm sức thu hút của thị

trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài, làm hạn chế nguồn ngoại tệ chảy

vào ảnh hưởng đến nguồn cung ngoại tệ trên thị trường, vì thế cần phải hoàn thiện tốt

những cam kết về tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai. Muốn vậy NHNN

cần có những biện pháp tăng cường thu hút ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, đảm bảo

cân bằng cung cầu ngoại tệ, tạo điều kiện thực hiện tốt thanh toán quốc tế, thúc đẩy

hoạt động ngoại thương phát triển.

Giao dịch quan trọng trong tài khoản vãng lai của nước ta đó là kiều hối, là khoản

chuyển tiền một chiều không có rủi ro với số lượng lớn góp phần bù đáng kể vào tình

trạng thâm hụt cán cân thương mại, cần tạo mọi điều kiện tốt nhất để gia tăng nguồn

kiều hối, đồng thời áp dụng các biện pháp kinh tế có kết hợp biện pháp hành chính để

khoản ngoại tệ này sẽ được thu hút vào hệ thống ngân hàng nhằm phát huy lợi thế của

nguồn ngoại tệ này.

Tuy chính sách cơ chế quản lý ngoại hối của nước ta trong thời kỳ hội nhập phải

đảm bảo tuân thủ các cam kết quốc tế, hướng đến tự do hóa thị trường tài chính- tiền

tệ-ngoại hối. Nhưng không có nghĩa là buộc chúng ta phải ngay lập tức phải thực thi

các chính sách quản lý tự do hóa hoàn toàn như các nền kinh tế phát triển, mà cần dựa

vào thực tiễn, hoàn cảnh của nước ta hiện nay.

Trong giai đoạn này và trong vài thập niên tới, nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng,

cũng như thực hiện các chương trình kinh tế xã hội lớn của nhà nước rất cần vốn vì

78

thế, chúng ta cần phải tập trung quản lý ngoại tệ từ mọi nguồn về một đầu mối là

NHNN, từ nguồn thu xuất khẩu dầu thô, đến tất cả các nguồn thu xuất khẩu khác,

nhằm sử dụng tốt nguồn ngoại tệ của nước ta trên phương châm phát huy hết sức mạnh

nội lực rồi mới đến huy động nguồn vốn từ bên ngoài, bởi vì chúng ta đều hiểu rằng

vốn đầu tư của nước ngoài vào làm cho cán cân vốn thặng dư, trong ngắn hạn sẽ giúp

cải thiện cán cân vãng lai thâm hụt, nhưng trong tương lai luồng vốn này sẽ được

chuyển ra dưới hình thức lợi nhuận hay chuyển vốn về nước.

Nói như vậy, để thấy rằng việc tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài là rất

cần thiết nhưng việc quản lý nguồn vốn vào và ra nhằm phát huy hiệu quả của vốn đầu

tư vừa có những biện pháp ứng phó kịp thời khi có những bất ổn của việc đảo chiều

luồng vốn xảy ra là hết sức quan trọng. Theo tiến trình hội nhập, Việt Nam đã và đang

thực thi cam kết tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hoá tài khoản vốn có giới hạn.

Tiếp tục phát huy theo định hướng trên, Việt Nam nên tự do hóa giao dịch theo một lộ

trình tự do hoá dòng vốn vào và chưa nên tự do hóa luồng vốn chảy ra, vì những lý do

sau:

- Việt Nam không đưa ra cam kết cụ thể về mặt thời gian đối với việc tự do hóa

giao dịch vốn.

- Việt Nam đang trong giai đoạn thâm hụt cán cân thương mại lớn, đang rất cần

vốn để xây dựng, vì vậy ưu tiên cho các luồng vốn vào là điều cần quan tâm.

- Tự do hóa giao dịch vốn là vấn đề quan trọng nhưng rất phức tạp và cần được

tiến hành một cách có trật tự và thận trọng, tùy thuộc và điều kiện của mỗi nước,

những lợi ích tiềm năng và khả năng cạnh tranh của hệ thống tài chính.

Để có thể thực hiện nới lỏng quản lý giao dịch vốn phải tăng cường kỷ luật tài

chính, minh bạch hóa hệ thống kế toán, kiểm toán, tăng cường thanh tra, giám sát và

phòng ngừa rủi ro, trong đó việc thực hiện minh bạch hóa thông tin đóng vai trò quan

trọng trong việc đảm bảo hiệu lực của các quyết định chính sách và biện pháp điều

chỉnh.

Đối với luồng vốn vào, tự do hóa vốn đi dần từng bước, trước tiên với nguồn

vốn dài hạn, như luồng vốn FDI, vì luồng vốn này ít bị những biến động về tài chính

79

như các luồng vốn khác, nếu có hiện tượng đảo chiều luồng vốn ra nước ngoài thì

cũng không gây ra khủng hoảng tài chính như luồng vốn ngắn hạn, từng bước mở cửa

thị trường vốn trong nước theo phạm vi và trình tự hợp lý, phù hợp dần với thông lệ

quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh. Luồng vốn ngắn hạn nên giám sát

chặt chẽ, có biện pháp điều chỉnh cơ cấu luồng vốn nước ngoài theo hướng hạn chế rủi

ro của các luồng vốn ngắn hạn thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô và kiểm soát

các luồng vốn, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và trình độ phát triển của thị

trường tài chính Việt Nam, nhằm ổn định thị trường và tỉ giá hối đoái.

Đối với dòng vốn đầu tư ra nước ngoài, NHNN cần nhanh chóng ban hành các

Thông tư hướng dẫn quản lý ngoại hối đối với hoạt động ĐTRNN nhằm tạo khuôn khổ

pháp lý đồng bộ cho công tác quản lý, theo dõi, giám sát của các cơ quan chức năng và

tạo điều kiện cho nhà đầu tư mua và chuyển ngoại tệ ra đầu tư nước ngoài trong giai

đoạn tiền khả thi, điều tra thăm dò khảo sát, trước khi có Giấy chứng nhận đầu tư.

Ngoài ra, để đối phó với tình trạng doanh nghiệp sử dụng nguồn ngoại tệ không đúng

với mục đích, NHNN cần có chế tài cụ thể để cảnh cáo, trừng phạt. Đối với những dự

án đã đi vào hoạt động và có nguồn thu nhập ổn định, doanh nghiệp đã mở tài khoản

ngoại tệ tại nước đầu tư để hoạt động. NHNN cần phải giám sát hoạt động thu chi trên

tài khoản đó, đồng thời yêu cầu thực thi việc báo cáo theo đúng Nghị định 78/2006-

NHNN.

3.2.4 Phát huy vai trò của NHNN- phát triển TTNT liên ngân hàng

3.2.4.1 Phát huy vai trò của NHNN

Phát triển TTNH theo định hướng để thực thi chính sách tiền tệ của NHNN đề ra

trong từng giai đoạn, thì chức năng can thiệp TTNH của NHNN rất quan trọng nhằm

tác động lên cung cầu ngoại tệ, theo đó NHNN phải thực thi đúng vai trò là người mua

bán cuối cùng trên TTNTLNH. Khi các NHTM cần mua ngoại tệ NHNN phải bán và

ngược lại khi các NHTM dư ngoại tệ bán thì NHNN phải mua vào có như vậy tạo tính

thanh khoản cho thị trường để tránh găm giữ ngoại tệ cũng như tâm lý kỳ vọng sự tăng

tỷ giá. Nếu NHNN không bán ngoại tệ khi cầu lớn hơn cung sẽ tạo cơ hội cho giới đầu

80

cơ tung tin đồn về sự sụt giảm dự trữ ngoại hối, làm người dân hoang mang và sẽ tăng

cường cất giữ ngoại tệ càng trầm trọng thêm tình trạng căng thẳng về cung cầu ngoại

tệ đồng thời làm giảm hiệu quả về sử dụng ngoại tệ.

Với chức năng can thiệp TTNH, động thái mua bán ngoại tệ của NHNN như phát

tín hiệu cho thị trường về sự thay đổi của tỷ giá, thông qua đó NHNH sẽ điều hành tỷ

giá theo mục tiêu đề ra. Vì thế, khi nào nên mua và nên bán NHNN phải có phương án

cụ thể để thực hiện đúng thời điểm mới phát huy tác dụng, tránh tình trạng thực hiện

biện pháp tình thế, chịu sự dẫn dắt của TTKCT, làm mất đi vai trò định hướng thị

trường của NHNN. Khi đó tỷ giá hình thành trên TTLNH sẽ tác động đến tỷ giá giao

dịch trên TTNH khách hàng qua đó NHNN đã gián tiếp tác động đến hoạt động của

TTNH cả nước.

Để có thể tác động kịp thời lên TTNH điều quan trọng là NHNN phải có lượng dự

trữ ngoại hối đủ mạnh, vì thế vấn đề quản lý, sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối cần đặc biệt

chú trọng thông qua các biện pháp sau:

(1) Xác định mức dự trữ ngoại hối hợp lý phù hợp với qui mô của nền kinh tế, của

tình hình tự do hóa cán cân vãng lai và cán cân vốn nhằm đảm bảo khả năng thanh

toán quốc tế, bảo vệ giá trị đồng tiền, cân bằng giữa lợi ích điều hành chính sách tiền

tệ và chi phí của việc nắm giữ dự trữ ngoại hối. Theo thông lệ quốc tế phải dự trữ

lượng ngoại tệ đủ để đáp ứng các nhu cầu nhập khẩu, Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ

quốc tế (IMF) tại Việt Nam ông Sanjay Kalra cho rằng: ” Trong điều kiện thị trường

vốn, thị trường tài chính chưa thực sự phát triển, tôi cho rằng, nguồn dự trữ ngoại tệ

tương đương 12 tuần nhập khẩu là đủ với Việt Nam trong thời điểm hiện nay, bởi

nguồn dự trữ này vừa đủ để Việt Nam thanh toán 100% khoản nợ ngắn hạn”.Tuy

nhiên, ông cũng khuyến cáo, Việt Nam nên tăng nhanh mức dự trữ ngoại tệ cần nâng

cao dự trữ lên mức hợp lý đảm bảo đủ can thiệp duy trì sự ổn định trên thị trường

ngoại hối cũng như của cả hệ thống tài chính và toàn bộ nền kinh tế, có thể chống đỡ

cú sốc từ bên ngoài và duy trì sức mạnh kinh tế của quốc gia.

81

(2) Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian

trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình

nhưng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị mất giá, có

thể xem xét sử dụng thêm vàng vào cơ cấu dự trữ ngoại hối, vì theo xu hướng hiện nay

của các NHTW trên thế giới, khi nền kinh tế thế giới có những bất ổn thì vàng là nơi

trú ẩn an toàn hơn. Đồng thời để tăng hiệu quả đồng vốn dự trữ có thể xem xét đầu tư

với phương châm an toàn và có tính thanh khoản cao như mua trái phiếu của những

quốc gia được xếp hạng có uy tín.

(3) Phải tập trung nguồn ngoại tệ vào một đầu mối do NHNN quản lý, có như vậy

mới phát huy hết hiệu quả của vốn ngoại tệ cũng như tạo điều kiện cho NHNN có đủ

ngoại tệ dự trữ để tham gia can thiệp trên thị trường ngoại tệ khi cần thiết. Nên chuyển

nguồn thu ngoại tệ từ dầu thô mà Bộ Tài chính quản lý về NHNN và khi Bộ Tài Chính

cần ngoại tệ sẽ yêu cầu bán lại trên cơ sở bằng với tỷ giá NHNN đã mua của Bộ Tài

chính, có như vậy sẽ sử dụng hợp lý nguồn ngoại tệ của quốc gia vừa đáp ứng nhu cầu

ngọai tệ cần thiết của NSNN.

Ngoài ra, NHNN cần kết nối thị trường tiền tệ trong nước với thị trường tiền tệ

quốc tế nhằm tiếp cận các thông lệ quốc tế trong kinh doanh tiền tệ. NHNN phải thực

sự là đầu tàu dẫn dắt và khuyến khích TTLNH phát triển phù hợp với môi trường quốc

tế, có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ngoại hối phát

triển.

3.2.4.2 Phát triển TTNTLNH về khối lượng giao dịch và số lượng thành

viên

Đặc điểm của TTNH trên thế giới là giao dịch trên TTNTLNH chiếm tỷ trọng lớn

trong tổng doanh số giao dịch ngoại hối của quốc gia, mà trong đó NHNN đóng vai trò

là người tạo lập và điều tiết TTNH.

TTNTLNH là nơi để NHNN thực thi và điều hành chính sách tỷ giá tương ứng với

từng thời kỳ của nền kinh tế thông qua việc can thiệp vào cung cầu tiền tệ trên thị

trường. Đây cũng được coi là cơ sở để phát triển giao dịch giữa các ngân hàng, là nơi

82

các NHTM tham gia thực hiện kinh doanh cho chính mình và mua bán ngoại tệ đáp

ứng nhu cầu cho khách hàng. Do đó để hoạt động kinh doanh ngoại hối phát triển, điều

cần thiết cần thu hút nhiều ngân hàng tham gia để tăng doanh số giao dịch giúp cho

thị trường hoạt động sôi nổi. Bởi vì, từ khi ra đời vào năm 1994 đến nay, doanh số

giao dịch trên TTNTLNH vẫn chiếm tỷ lệ thấp so với doanh số giao dịch và nhu cầu

của toàn bộ nền kinh tế, tính thanh khoản của thị trường không cao thường chỉ giao

dịch một phía, các NHTM đặt lệnh mua nhiều hơn.

Doanh số giao dịch gia tăng sẽ có điều kiện thực hiện nhiều loại hình giao dịch

phái sinh giữa các ngân hàng như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn, trên cơ sở đó các

NHTM mới phát triển được các giao dịch ngoại hối phái sinh trên thị trường bán lẻ

cho khách hàng, bởi vì các NHTM khi thực hiện các giao dịch phái sinh cho khách

hàng sẽ tìm kiếm giao dịch đối ứng trên TTNTLNH để bảo hiểm cân bằng trạng thái

ngoại hối.

Để tăng số lượng các thành viên trên TTNTLNH nên mở rộng đối tượng được

phép tham gia bao gồm các NHTM trong nước, liên doanh, nước ngoài và cả các tổ

chức kinh tế có vốn lớn nếu đáp ứng đủ các điều kiện do NHNN qui định. Một TTNH

phát triển phải có một TTLNH hoạt động hiệu quả có doanh số chiếm tỷ trọng lớn và

giao dịch chủ yếu trên TTLNH là giữa những NHTM và các tổ chức phi ngân hàng,

vai trò của NHNN chỉ đóng vai trò là người mua bán cuối cùng chứ không phải đóng

vai trò chủ yếu trong giao dịch.

Điều cần thiết là các NHTM phải có vốn ngoại tệ đủ lớn để trở thành nhà tạo thị

trường (maket makers) thực hiện chiến lược kinh doanh tiền tệ trên TTNTLNH, muốn

vậy phải có biện pháp thu hút lượng ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng.

3.2.5 Tăng cường kiểm soát, hạn chế và tiến tới loại bỏ dần hoạt động của thị

trường ngoại tệ không chính thức

Việc tồn tại thị trường ngoại tệ không chính thức đã ảnh hưởng nhiều đến hoạt

động kiểm soát và quản lý ngoại hối của NHNN. Một lượng lớn cung cầu ngoại tệ nằm

ngoài khả năng kiểm soát của Chính phủ làm cho việc xác định giá trị bản tệ và hoạch

83

định chính sách tiền tệ quốc gia gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong tình hình tài chính

bất ổn và bị tác động bởi biến động của thị trường tài chính toàn cầu.

Ở Việt Nam, những yếu tố để thị trường ngoại tệ không chính thức tồn tại và phát

triển xuất phát từ thực trạng kinh tế và cơ chế quản lý ngoại hối của Việt Nam, nội

dung chi tiết đã được liệt kê trong chương 2. Vấn đề hiện nay, để thu hẹp và tiến tới

xóa bỏ hoàn toàn thị trường bày cần phải áp dụng những biện pháp mạnh tay hơn đồng

thời phải kết hợp với các cơ quan chức năng để đạt được hiệu quả tốt nhất.

Thứ nhất, cần triệt để nghiêm cấm việc mua bán ngoại tệ ngoài các TCTD được

phép. Để tăng cường hiệu lực của pháp lệnh ngoại hối cần phảỉ có những chế tài về

mặt kinh tế như xử phạt, tịch thu ngoại tệ, để có tác dụng răn đe gây ảnh hưởng mạnh

đến ý định thực hiện việc mua bán ngoại tệ ngoài thị trường. NHNN phối hợp với các

cơ quan chức năng công an, quản lý thị trường mới có kết quả tốt, đồng thời nên có

những biện pháp hổ trợ như tuyên truyền, thông tin về pháp lệnh ngoại hối trên các

phương tiện truyền thông báo, đài, để người dân có thể biết và thực hiện tốt, đây là

một khâu quan trọng đối với thực trạng của nước ta, vì trãi qua một thời gian khá lâu

mặc dù pháp lệnh đã ra đời từ năm 2006 nhưng rất ít người dân nắm được vì thế họ vô

tình phạm luật, cũng như chưa thấy ai bị phạt, bị tịch thu ngoại tệ, nên họ không sợ.

Bên cạnh đó, còn do sự tiện lợi do mua bán ngoại tệ trên thị trường không chính thức

khi nào cần ngoại tệ có thể đến tiệm vàng để mua dễ dàng và nhanh chóng trong khi

đó nếu đến NHTM sẽ phải xuất trình đầy đủ các loại chứng từ, mà nhiều khi không

được đáp ứng nhu cầu. Để cạnh tranh với thị trường ngoại tệ không chính thức NHNN

nên cho phép các NHTM thực hiện mua bán ngoại tệ mặt theo giá thỏa thuận như đã

triển khai thí điểm tại Eximbank.

Thứ hai, các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ phải đáp ứng đủ nguồn ngoại

tệ cho cá nhân và tổ chức có nhu cầu chính đáng, hợp lệ và hợp pháp. Mặc dù kinh

doanh là việc của mỗi ngân hàng nhưng NHNN có thể có những biện pháp quản lý

hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM thông qua việc kiểm tra đột xuất, khi

khách hàng cần ngoại tệ nhưng do tình trạng khan hiếm ngoại tệ, các ngân hàng găm

84

giữ và không chịu bán, NHNN có thể xử phạt bằng những biện pháp kinh tế như khi

ngân hàng cần mua ngoại tệ trên TTNTLNH, NHNN sẽ không ưu tiên bán cho những

ngân hàng đó.

Bên cạnh đó, các NHTM cũng nên hợp tác với NHNN trong việc tạo điều kiện dễ

dàng thuận lợi cho cá nhân cần mua ngoại tệ và tư vấn cho người dân có thể thay thế

sử dụng ngoại tệ mặt bằng các phương tiện thanh toán khác vừa an toàn vừa hiện đại.

Ngoài ra, các NHTM có thể bán ngoại tệ theo đúng loại ngoại tệ của nước mà cá nhân

đến nhằm giảm căng thẳng cầu USD, cũng như các NHTM có kinh doanh ngoại tệ

cũng phải mua cả những loại ngoại tệ khác USD.

Để giảm bớt tình trạng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản, các NHTM nên có những

chính sách khuyến khích các tổ chức kinh tế khi có thu ngoại tệ nếu bán cho ngân hàng

sẽ được ưu tiên bán lại ngoại tệ khi doanh nghiệp cần, hay có thể thỏa thuận mua ngoại

tệ theo tỷ giá có kỳ hạn. Về phía NHNN nên kết hợp chính sách lãi suất và chính sách

tỷ giá một cách hợp lý để khuyến khích nhà đầu tư bán ngoại tệ chuyển sang VND

nhằm tăng cường nguồn cung ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu ngoại tệ cuả thị trường.

Thứ ba, rà soát và rút giấy phép các đại lý thu đổi ngoại tệ vi phạm pháp lệnh

ngoại hối, đồng thời củng cố và phát triển hoạt động thu đổi ngoại tệ do ngân hàng

thực hiện, vì hiện nay số lượng các phòng giao dịch của các ngân hàng đã gia tăng

đáng kể và có thể thực hiện thu đổi ngoại tệ mà không cần phải ký hợp đồng với các

đại lý. NHNN nên hổ trợ các ngân hàng mở phòng giao dịch thu đổi ngoại tệ tại các

cửa khẩu vùng biên để thay thế các hoạt động buôn tiền của tư nhân vừa đáp ứng nhu

cầu ngoại tệ của cá nhân vừa thu mua lượng ngoại tệ mặt trong dân cư. Thông qua đó,

NHNN sẽ quản lý được hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thu hẹp dần hoạt động của

thị trường ngoại tệ không chính thức.

85

3.2.6 Hạn chế tình trạng đôla hóa và tạo khả năng chuyển đổi dần cho đồng

Việt Nam

3.2.6.1 Hạn chế tình trạng đôla hóa một cách triệt để

Để hạn chế những nguyên nhân gây nên tình trạng đôla hóa và làm giảm khả năng

chuyển đổi của VND, NHNN cần phải thực thi đồng thời các biện pháp sau:

(1) Thiết lập hệ thống luật có chế tài phạt nặng việc thực hiện niêm yết và thanh

toán bằng ngoại tệ ở trong nước. Để chế tài trên có hiệu quả phải có sự phối hợp với

cơ quan chức năng để tăng cường kiểm tra kiểm soát việc thực hiện pháp lệnh ngoại

hối, triệt để kiên quyết thực hiện trong nước chỉ được thanh toán bằng Việt Nam đồng.

(2) NHNN nên xây dựng lộ trình hạn chế cho phép cá nhân mở tài khoản tiết kiệm

ngoại tệ mà không xuất trình nguồn gốc hợp pháp của ngoại tệ. Để tập trung nguồn

ngoại tệ còn trôi nổi bên ngoài hệ thống ngân hàng, cũng như để thu hút nguồn kiều

hối, tạm thời trong giai đoạn này, chúng ta vẫn duy trì cho phép cá nhân được mở tài

khoản tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tại ngân hàng được phép, nếu nguồn ngoại tệ

này có nguồn gốc hợp pháp.

Theo qui định, các tổ chức kinh tế khi nhập ngoại tệ vào tài khoản phải chứng

minh nguồn gốc hợp pháp của nguồn ngoại tệ đó, nhưng cá nhân thì lại không bị yêu

cầu. Đây chính là kẻ hở trong quản lý ngoại hối gây ra nhiều hệ lụy như: các tổ chức

kinh tế giữ ngoại tệ trên tài khoản tiết kiệm cá nhân, khoản tiền này có thể xuất phát từ

những thu nhập bất hợp pháp hoặc của tội phạm. Tuy nhiên, do pháp lệnh ngoại hối

cho phép người dân có quyền giữ, gửi tiết kiệm và bán ngoại tệ cho ngân hàng nên

trong ngắn hạn chưa thể chấm dứt việc cá nhân gửi tài khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ

nhưng trong trung hạn, dài hạn sẽ tiến tới xóa bỏ việc này.

Hạn chế việc rút ngoại tệ mặt sẽ giải quyết được vấn đề căng thẳng về cung cầu

ngoại tệ và sử dụng có hiệu quả lượng ngoại tệ trong nền kinh tế. Bên cạnh đó việc hạn

chế nắm giữ tiền mặt đôla Mỹ sẽ cắt đứt công cụ tiếp tay cho hoạt động buôn lậu và

TTKCT.

86

(3) Trong những thời điểm quan trọng có thể thi hành biện pháp hạn chế cho vay

bằng ngoại tệ, chỉ cho doanh nghiệp có nguồn thu bằng ngoại tệ vay, nhằm giảm bớt

sự căng thẳng về cung cầu ngoại tệ. Tuy nhiên đây chỉ là biện pháp hành chính chỉ

được áp dụng như một giải pháp tình thế, trong cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị

trường thì việc chọn vay ngoại tệ hay nội tệ tùy thuộc vào doanh nghiệp lựa chọn

phương án vay nào khả thi hơn khi so sánh giữa lãi suất của hai đồng tiền và có bảo

hiểm rủi ro tỷ giá bằng công cụ phái sinh kỳ hạn. Đối với các cá nhân vay vốn nước

ngoài cho phép cá nhân được nhận tiền vay bằng ngoại tệ trên tài khoản mở tại ngân

hàng nhưng chỉ được rút VND để thực hiện việc đầu tư, kinh doanh.

3.2.6.2 Nâng cao tính chuyển đổi của VND

Điều 3 Pháp lệnh ngoại hối có ghi rõ: “Thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ

quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam”, nhưng cho đến nay tính

chuyển đổi của VND vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn.

Để thực hiện được điều này, cần thực hiện các biện pháp đồng bộ và phải có sự

phối hợp giữa các cơ quan chức năng. có lộ trình, bởi vì điều này không phải muốn là

được như Trung Quốc có dự trữ ngoại hối lớn nhất, là nền kinh tế vươn lên thứ hai thế

giới nhưng CNYvẫn chưa phải là đồng tiền có khả năng chuyển đổi cao.

Để nâng cao tính chuyển đổi của VND cần phải tiến hành từng bước theo lộ

trình:

Thứ nhất, thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của VND cho những giao dịch trên

tài khoản vãng lai, về mặt lý thuyết Việt Nam đã tự do hóa tài khoản vãng lai, bằng

pháp lệnh ngoại hối nhưng thực tế, có những giao dịch hợp pháp, được phép thanh

toán nhưng không mua được ngoại tệ vì ngân hàng không đủ ngoại tệ để cung cấp cho

nhu cầu chính đáng của người dân, của doanh nghiệp.

Thứ hai, xây dựng cơ chế từng bước đưa VND tham gia vào thanh toán xuất nhập

khẩu.Theo ý kiến của ông Trương Văn Phước, Tổng giám đốc Ngân hàng Xuất nhập

khẩu Việt Nam (Eximbank) nói: “Ở một mức độ nào đó, việc chuyển đổi đồng tiền

bản địa trong thanh toán quốc tế ở thời điểm hiện nay có thể làm được”. Theo ông,

87

năm 2010, kim ngạch nhập khẩu cả nước là 84 tỷ USD, nếu 10% trong số này (8,4 tỷ

USD) được thanh toán cho đối tác bằng VND thì áp lực tỷ giá sẽ giảm đi rất nhiều.

Thứ ba, từng bước thực hiện tính chuyển đổi của VND đối với các giao dịch trên tài

khoản vốn thông qua việc cho phép sử dụng VND trong quan hệ vay, trả nợ nước

ngoài và đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.

Các biện pháp trên chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở:

- Phát triển nền kinh tế bền vững, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị VND, thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện cán cân thanh toán.

- Nâng cao dự trữ ngoại tệ là điều kiện đảm bảo thực hiện tính chuyển đổi của

VND.

- Nâng cao chất lượng dich vụ của hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo đáp ứng

kịp thời nhanh chóng việc chuyển đổi đồng tiền phục vụ nhu cầu ngoại tệ hợp pháp

của người dân và tổ chức kinh tế.

- Nâng cao năng lực kinh doanh đàm phán ký kết hợp đồng của những nhà kinh

doanh xuất nhập khẩu nhằm dành quyền lựa chọn VND trong thanh toán.

Như vậy, có thể thấy rằng việc nâng cao tính chuyển đổi VND là vấn đề có tầm vĩ

mô đòi hỏi sự phát triển của nền kinh tế và sự hoàn thiện của hệ thống tài chính.

3.2.7 Nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong hoạt

động kinh doanh ngoại hối

Trước tiên là tăng năng lực tài chính, các ngân hàng thương mại của Việt Nam

cần tập trung nâng cao năng lực về vốn, để có thể phát triển các nghiệp vụ kinh doanh

ngoại hối, vốn lớn là điều kiện cần thiết để thực hiện hoạt động này và tiềm lực vốn

càng lớn khả năng cạnh tranh sẽ cao hơn.

Kế tiếp là nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ chuyên viên, vì kinh doanh

ngoại hối với đầy đủ hoạt động của nó là một lĩnh vực đòi hỏi trình độ nghiệp vụ

chuyên môn cao và bộ máy tổ chức phải khoa học. Cho nên những ngân hàng muốn

88

phát triển nghiệp vụ này cần phải: Tuyển chọn những chuyên viên có trình độ cao có

hiểu biết tốt về các loại sản phẩm phái sinh, có kinh nghiệm trên thị trường kinh doanh

tiền tệ quốc tế để lãnh đạo phòng ban này, làm đầu tàu hướng dẫn và huấn luyện các

nhân viên giao dịch, thường xuyên mở lớp tập huấn đào tạo để cập nhật những kiến

thức mới cũng như học hỏi rút kinh nghiệm để nâng cao trình độ.

Tổ chức hoạt động của phòng kinh doanh theo mô hình chuyên môn hóa cao có đủ

ba phòng ban chức năng với đội ngũ chuyên nghiệp:

Đối với phòng kinh doanh giao dịch trực tiếp với khách hàng phải là những giao

dịch viên (Dealer) có sự nhạy bén trong kinh doanh có năng lực phân tích, tổng hợp

các yếu tố tác động đến tỷ giá để yết tỷ giá phù hợp, đồng thời phải xác định chiến

lược kinh doanh để thiết lập trạng thái ngoại tệ vừa phù hợp với thị trường để đảm bảo

nâng cao lợi nhuận vừa đảm bảo an toàn, tránh rủi ro cao.

Đối với phòng hỗ trợ (back office) cần có những nhân viên có tính chu đáo cẩn

thận hạn chế sai sót về mặt nghiệp vụ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh .

Đối với phòng kiểm soát (Mid office): phải độc lập với 2 phòng trên và có trách

nhiệm theo dõi giám sát những giao dịch do các giao dịch viên ký kết, để đảm bảo các

giao dịch viên này tuân thủ những qui định kinh doanh ngoại hối về hạn mức trạng thái

ngoại tệ, về tỷ giá giao dịch, nhằm phát hiện sớm những giao dịch có dấu hiệu vi phạm

để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong kinh doanh. Bởi vì, như chúng ta đã biết các

giao dịch ngoại hối phái sinh như giao dịch quyền chọn hay tương lai có tính đòn bẩy

tài chính rất cao, vì thế có thể có những giao dịch viên liều lĩnh chạy theo lợi nhuận

cao mà rủi ro lớn, đặt ngân hàng vào nguy cơ phá sản.

Hiện đại hóa hệ thống máy tính nối mạng, quản lý bằng hệ thống cơ sở dữ liệu,

trang bị các phần mềm tính phí quyền chọn và hệ thống EBS để có thể tham chiếu giá

cả và lượng giao dịch trên thị trường thế giới. Electronic Brokerage System (EBS) là

hệ thống môi giới cho các nhà kinh doanh, làm nghiệp vụ môi giới dựa trên cơ sở kỹ

thuật và dịch vụ thanh toán. EBS là thành viên của thị trường chứng khoán Bắc Mỹ

thông qua EBS, các nhà kinh doanh ngoại hối có thể thấy được các luồng tiền di

89

chuyển trên thị trường thế giới; các ngân hàng có thể thấy được các lệnh trên thị

trường mua và thị trường bán đang ở mức nào.

Nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối, song song với

những biện pháp phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối, các ngân hàng cần phải

quan tâm đến việc quản trị rủi ro do hoạt động kinh doanh này mang đến.

Để hạn chế rủi ro và tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh, ngân hàng cần

chú ý đến các biện pháp sau:

Thứ nhất, xây dựng hạn mức trạng thái ngoại tệ một cách linh hoạt và hợp lý. Hạn

mức (hay giới hạn trạng thái ngoại hối mở)là một công cụ quản trị rủi ro hữu hiệu

trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hạn mức này ngân hàng nên phân định và giới

hạn mức thua lỗ tối đa cho mỗi giao dịch ngoại hối tùy thuộc vào năng lực kinh doanh,

kinh nghiệm, trình độ của mỗi giao dịch viên. Đồng thời phải ban hành các chế tài đối

với những hành vi vi phạm, giao quyền đầy đủ và tự chủ cho bộ phận giám sát, để chủ

động xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm nhằm tăng tính kỷ luật trong kinh

doanh và đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng.

Thứ hai, quan tâm đến hoạt động phân tích và dự báo, trong giai đoạn hội nhập

kinh tế ngày càng sâu và rộng của thế giới ngày nay, sự tăng giảm giá của bất cứ loại

ngoại tệ mạnh nào, sự thay đổi chính sách kinh tế của những nước có quan hệ thương

mại với nước ta, giá cả của những sản phẩm thiết yếu như xăng, dầu, vàng đều ngay

lập tức ảnh hưởng đến tỷ giá, ảnh hưởng đến lãi lỗ trên trạng thái ngoại hối của ngân

hàng đó.

Đối với hoạt động kinh doanh ngoại hối công tác phân tích và dự báo đóng vai trò

hết sức quan trọng, độ chính xác của hoạt động này sẽ giúp cho ngân hàng lập chiến

lược kinh doanh xác định hạn mức trạng thái, mức biến động tỷ giá đối với ngoại tệ,

để yết giá phù hợp nhằm thực hiện được chiến lược đã đề ra, cũng như định giá và phí

của các giao dịch một cách hợp lý vừa mang tính cạnh tranh cao vừa phòng ngừa rủi

ro.

90

Kết luận chương 3

Trong chương 3 Luận văn trình bày cơ sở để phát triển TTNH Việt Nam là dựa

trên những thành quả đạt được trong quản lý, trong điều hành nền kinh tế vượt qua

được những cú sốc khủng hoảng kinh tế trong những năm vừa qua, sự phát triển hệ

thống ngân hàng, đồng thời căn cứ vào mức độ mở cửa nền kinh tế để đưa ra định

hướng phát triển TTNH cho phù hợp chủ trương chính sách phát triển kinh tế trong

từng giai đoạn.

Xác định (1) Phát triển TTNH là bước đi tất yếu không thể tránh khỏi trong quá

trình hội nhập nền kinh tế, phải xác định đây là mục tiêu để hoàn thiện thị trường tài

chính tiến tới đón nhận những thời cơ cũng như những thách thức do quá trình mở cửa

mang đến. Bước chuẩn bị càng chu đáo bao nhiêu thì càng tận dụng được cơ hội cũng

như hóa giải được những rủi ro bất trắc do qua trình mở cửa mang đến vì thế (2) định

hướng xây dựng TTNH phải đảm bảo an tòan nhưng cần phải chú ý đến yếu tố hội

nhập vì có liên thông với TTNH thế giới thì TTNH Việt Nam mới phát triển.

Trên cơ sở định hướng đó, Luận văn đã đưa ra các biện pháp nhằm phát triển

TTNH Việt Nam trong tiến trình hội nhập với những biện pháp cụ thể nhằm hoàn

thiện và phát triển thị trường TTNTLNH, hạn chế và thu hẹp thị trường ngoại tệ không

chính thức, hạn chế tình trạng đôla hóa, nâng cao tính chuyển đổi của VND, hoàn

thiện thị trường tài chính để tạo điều kiện tương tác với TTNH cùng phát triển, hoàn

thiện khung pháp lý làm cơ sở cho các hoạt động kinh doanh ngoại hối và công tác

giám sát quản lý TTNH hoạt động nhằm đạt được mục đích đảm bảo an toàn hệ thống

tài chính.

KẾT LUẬN

Đề tài “ Giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam ” có mục đích

nhằm tìm hiểu rõ hơn về quá trình phát triển và thực trạng thị trường ngoại hối, quản

lý ngoại hối tại Việt Nam hiện nay cũng như tác động của quá trình hội nhập đến thị

trường ngoại hối . Đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm quản lý ngoại hối và hoạt động

của thị trường ngoại hối của các nước khác trên thế giới, từ đó đề xuất ra các giải pháp

thích hợp đối với thị trường ngoại hối Việt Nam.

Qua đề tài, có thể thấy chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái

ở nước ta trong thời gian qua đã có nhiều đổi thay rõ rệt, đã đem lại nhiều kết quả khả

quan và đóng góp một phần không nhỏ vào việc ổn định và phát triển kinh tế. Tuy

nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế của các chính sách điều hành và quản lý thị

trường ngoại hối.

Với những phân tích dựa trên thực tế thực trạng của thị trường ngoại hối ở Việt

Nam, đề tài đã giải quyết được những vấn đề sau:

- Nêu được thực trạng của thị trường ngoại hối tại Việt Nam hiện nay

- Thấy được những mặt tích cực & mặt tiêu cực của quá trình hội nhập kinh tế

mang lại.

- Làm rõ những mặt tích cực và mặt hạn chế của những chính sách quản lý ngoại

hối và điều hành tỷ giá.

- Đề xuất những giải pháp thiết thực cho chính sách quản lý ngoại hối và điều

hành tỷ giá ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn trong thời gian tới.

Qua đề tài, tác giả đã nêu lên những ý kiến của mình đóng góp cho việc ngày

càng hoàn thiện những chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam trong thời kỳ hội

nhập ngày nay. Tất cả nhằm một mục đích góp phần xây dựng thị trường ngoại hối

Việt Nam ngày càng phát triển và đóng góp nhiều hơn vào việc ổn định và phát triển

kinh tế của đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Dương Tấn Diệp (2001), Giáo trình "Kinh tế vĩ mô", NXB Thống kê

2. Dương Hữu Hạnh (2009), Tiền tệ và tài chính quốc tế, NXB Thống kê

3. Đặng Hào Quang (2006), Kinh doanh ngoại hối, NXB Thống kê

4. Học viện Ngân hàng (2001), Giáo trình "Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối",

NXB Thống kê

5. Lê Văn Tư & Phạm Văn Năng (2003), Thị trường tài chính, NXB Thống kê

6. Nguyễn Minh Kiều (2008), Thị trường ngoại hối và các giao dịch ngoại hối,

NXB Thống kê

7. Nguyễn Văn Tiến (2005), Thị trường ngoại hối, các nghiệp vụ phái sinh, NXB

Thống kê

8. Nguyễn Văn Tiến (2001), Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở,

NXB Thống kê

9. Nguyễn văn Tiến (2002), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh

ngân hàng, NXB Thống kê.

10. Nguyễn Minh Trí (2009), Nhập môn tài chính ngân hàng : Tiền tệ, hệ thống tài

chính & nền kinh tế , Trường đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh

11. Thái Bá Cẩn & Trần Nguyên Nam (2004), Phát triển thị trường dịch vụ tài

chính Việt Nam trong tiến trình hội nhập, NXB NXB Thống kê

12. Tài chính Quốc tế - NXB Thống kê – 2000

Tiếng Anh

13. International Financial Statistics, Year Book 2002 and October 2003. IMF

Các website

14. http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/1998373

15. http://vneconomy.vn/p0c6/tai-chinh.htm

16. http://www.oanda.com/convert/fxhistory

17. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=217

18. http://www.adb.org/data/statistics

19. http://www.imf.org/external/index.htm

20. http://thuvienphapluat.vn/archive/Quyet-dinh