KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN
TTTT VIỆT NAM TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG
TIỀN TỆ QUỐC TẾ
MỤC LỤC
Lời nói đầu
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TTTT ...........................................1
I/ Tổng quan về TTTT ..............................................................................1
1. Khái niệm TTTT .....................................................................................1
2. Chức năng, vai trò và đặc điểm của TTTT .............................................1
2.1_Chức năng của TTTT ....................................................................1
2.2_Vai trò của TTTT ..........................................................................2
2.3_Đặc điểm của TTTT ......................................................................3
3. Phân loại TTTT ......................................................................................4
3.1_Căn cứ vào đối tượng giao dịch .....................................................4
3.1.1_TTTT sơ cấp ...........................................................................4
3.1.2_TTTT thứ cấp..........................................................................4
3.2_Căn cứ vào phạm vi của các đối tượng giao dịch ...........................5
3.2.1_TTTT liên ngân hàng ..............................................................5
3.2.2_TTTT mở rộng ........................................................................5
3.3_Căn cứ vào đặc trưng các loại hàng hoá giao dịch..........................6
3.3.1_Thị trường giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn.............6
3.3.2_Thị trường giao dịch các khoản vốn vay ngắn hạn .................6
4. Chủ thể của TTTT ..................................................................................7
4.1_Ngân hàng Trung Ương .................................................................7
4.2_Ngân hàng thương mại...................................................................8
4.3_Kho bạc Nhà nước .........................................................................8
4.4_Người đầu tư..................................................................................9
4.5_Người môi giới và kinh doanh .......................................................9
5. Các công cụ trên TTTT ........................................................................10
5.1_Tín phiếu kho bạc ........................................................................10
5.2_Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng .....................................................10
5.3_Thương phiếu...............................................................................10
5.4_Chấp phiếu ngân hàng .................................................................11
5.5_Hợp đồng mua lại ........................................................................11
5.6_Eurocurrency ..............................................................................12
II/ Tổng quan về TTTT Quốc tế .............................................................13
1. Khái niệm TTTT Quốc tế .....................................................................13
2. Đặc trưng của TTTT Quốc tế ...............................................................14
3. Ưu và nhược điểm của TTTT Quốc tế .................................................15
3.1_Ưu điểm.......................................................................................15
3.2_Nhược điểm .................................................................................16
4. Công cụ trên TTTT Quốc tế .................................................................17
4.1_Tiền gửi kỳ hạn Eurocurrency .....................................................17
4.2_Chứng chỉ tiền gửi Eurocurrency có thể chuyển nhượng..............18
4.3_Chứng chỉ và chi phiếu Eurocurrency có lãi suất thả nổi..............18
4.4_Khả năng phát hành chi phiếu ......................................................19
4.5_Hoạt động ngân hàng hải ngoại của ngân hàng nội địa.................19
4.6_Hợp đồng tương lai bảo hiểm rủi ro lãi suất .................................19
4.7_Các hợp đồng kì hạn bảo hiểm rủi ro lãi suất ...............................20
CHƯƠNG II: TTTT VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP TTTT QUỐC TẾ .........................21
I/ Thực trạng TTTT Việt Nam ...............................................................21
1. Quá trình hình thành và phát triển của TTTT Việt Nam ....................21
2. Tình hình TTTT Việt Nam ...................................................................22
2.1_Thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng ...............................22
2.2_TTTT liên ngân hàng ..................................................................28
2.3_Thị trường tín phiếu kho bạc........................................................33
II/ Tác động của các diễn biến trên TTTT Quốc tế đến TTTT
Việt Nam ..................................................................................................35
1. Tác động của chính sách lãi suất..........................................................35
2. Tác động của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ ...................................38
3. Tác động của sự ra đời đồng Euro........................................................40
III/ Đánh giá về mức độ phát triển và hội nhập Quốc tế của TTTT
Việt Nam ...................................................................................................42
1. Môi trường pháp lý và cơ chế chính sách .............................................42
1.1_Môi trường pháp lý cho các chủ thể hoạt động trên TTTT ..........42
1.2_Chính sách tiền tệ và tác động của nó đối với TTTT ...................44
2. Các công cụ trên TTTT ........................................................................45
2.1_Tín phiếu kho bạc ........................................................................45
2.2_Tín phiếu NHNN ........................................................................46
2.3_Các giấy tờ có giá ngắn hạn do TCTD phát hành .........................47
2.4_Thương phiếu...............................................................................49
2.5_Hợp đồng mua lại ........................................................................49
3. Cơ chế lãi suất .......................................................................................50
4. Mức độ hội nhập của TTTT Việt Nam .................................................57
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN TTTT VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP TTTT QUỐC TẾ ...........................60
I/ Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc phát triển
và hội nhập TTTT Việt Nam trong thế kỉ 21 ..........................................60
II/ Các yêu cầu đặt ra đối với việc hội nhập TTTT ...............................64
III/ Các giải pháp nhằm phát triển TTTT Việt Nam trong điều kiện hội
nhập TTTT Quốc tế ................................................................................65
1. Các giải pháp về môi trường pháp lý và cơ chế chính sách ..................65
1.1_Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động của TTTT ............66
1.2_Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ ..........................................67
2. Các giải pháp về cơ chế hoạt động và cơ cấu tổ chức của TTTT .........68
2.1_Hoàn thiện TTTT sơ cấp, hình thành và phát triển TTTT thứ cấp 68
2.1.1_Hoàn thiện TTTT sơ cấp .......................................................68
2.1.2_Hình thành và phát triển TTTT thứ cấp ................................68
2.2_Hoàn thiện các loại hình TTTT hiện có ở nước ta hiện nay..........70
2.2.1_Hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng truyền thống....70
2.2.2_Hoàn thiện TTTT liên ngân hàng .........................................73
2.2.3_Hoàn thiện thị trường mua bán các loại chứng khoán
ngắn hạn ........................................................................................74
3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên ................................78
3.1_Ngân hàng Nhà nước ..................................................................78
3.2_Ngân hàng thương mại ................................................................80
3.3_Tổ chức môi giới .........................................................................81
3.4_Công ty tài chính .........................................................................82
4. Đa dạng hoá và phát triển các công cụ mới của TTTT ........................82
4.1_Các hợp đồng mua lại .................................................................83
4.2_Các công cụ khác .........................................................................84
5. Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực.........84
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
I/ TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
1. Khái niệm TTTT:
TTTT là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mà mọi chủ thể kinh tế đều có thể
tham gia giao dịch các khoản vốn vay ngắn hạn hoặc mua bán các công cụ nợ
ngắn hạn theo cơ chế thị trường.
Các công cụ nợ ngắn hạn trên TTTT bao gồm: tín phiếu kho bạc, tín phiếu
ngân hàng, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi,… chúng có độ rủi ro thấp, tính
lỏng cao và được giao dịch với thời hạn từ 1 năm trở xuống cho đến qua đêm
(cũng có nước qui định tới 2-3 năm trở xuống, nhưng phổ biến là dưới 1 năm)
và nó luôn đổi mới với những công cụ nợ ngắn hạn mới, có hiệu quả.
Theo nghĩa này thì thị trường tiền tệ là giai đoạn phát triển cao hơn của thị
trường tiền gửi truyền thống (hay thị trường tín dụng) giữa các ngân hàng với
khách hàng của họ. Thị trường tiền tệ có tính đa biên và công khai hơn so với thị
trường tín dụng, nơi quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là song biên, riêng
biệt và khép kín (không thể chuyển nhượng).
2. Chức năng, vai trò và đặc điểm của TTTT:
2.1_ Chức năng của TTTT:
TTTT có các chức năng chính sau:
- Tạo ra một thị trường công khai mà các tổ chức kinh tế tạm thời dư thừa
vốn có thể tìm thấy nơi hứa hẹn sinh lời cho nguồn vốn dư thừa ấy, cũng như
các tổ chức đang thiếu vốn tìm được nơi đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Đó là
quan hệ cung – cầu tín dụng ngắn hạn với lãi suất thoả thuận. Như vậy, TTTT ra
đời nhằm đáp ứng các nhu cầu về vốn ngắn hạn bằng cách ghép nối những
người có vốn tạm thời nhàn rỗi với những người thiếu vốn tạm thời, làm lợi cho
cả hai bên tham gia. Do nhu cầu bổ sung thanh khoản, cho nên việc vay thường
có thời hạn ngắn, có khi rất ngắn (1 ngày). Và như vậy, nó có tác dụng cân bằng
khả năng thanh toán giữa các cơ sở tín dụng với nhau.
- Cung cấp các phương tiện, thông qua đó NHTW thực thi được chính
sách tiền tệ, điều phối được mức cung ứng tiền, mức độ mở rộng tín dụng, kiểm
soát được tỷ lệ dự trữ của các NHTM. Ví dụ: khi nền kinh tế bị đình đốn, để
kích sản xuất phát triển, NHTW sẽ thông qua TTTT mua các chứng khoán ngắn
hạn từ các NHTM, tức “bơm” tiền vào lưu thông, đồng thời giúp các NHTM có
thể mở rộng tín dụng. Điều này làm cung tiền tăng và lãi suất ngắn hạn có xu
hướng giảm xuống. Việc lãi suất giảm sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong nước tăng lợi nhuận, tăng khả năng của hàng hoá xuất khẩu, tăng tiêu
dùng xã hội, kích thích đầu tư, từ đó giúp phát triển nền kinh tế.
- Qua hoạt động của TTTT, các nguồn vốn nhàn rỗi, đơn lẻ được tập hợp
chuyển đến nơi thiếu hụt và có nhu cầu đầu tư, hay nó tập hợp và cung cấp một
nguồn vốn ngắn hạn cho các tổ chức kinh tế và tư nhân cần nó.
2.2_ Vai trò của TTTT:
TTTT có các vai trò sau:
- TTTT giúp làm tăng thu nhập và giảm thiểu rủi ro đối với những người
có vốn nhàn rỗi chưa sử dụng hoặc đang chờ đợi các cơ hội đầu tư trong tương
lai.
- TTTT là nơi cung cấp vốn cho những người thiếu vốn để bổ sung thanh
khoản. Điều này đặc biệt có ý nghĩa, nhất là đối với các ngân hàng. Các ngân
hàng thường có tham vọng thu lợi cao, muốn vậy họ phải cho vay nhiều và dự
trữ thừa còn lại thấp. Khi có các luồng tiền gửi rút ra với số lượng lớn, họ phải
đối phó và một trong những biện pháp hiệu quả là tìm đến TTTT để vay.
- Trên bình diện toàn xã hội, TTTT đã góp phần chuyển các nguồn vốn
tiết kiệm thành nguồn vốn đầu tư sinh lời, làm tăng hiệu quả sử dụng vốn và
tăng hiệu quả kinh tế xã hội.
- TTTT là công cụ để chính phủ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, cụ thể:
Thông qua chính sách tiền tệ, NHTW điều tiết cung – cầu tiền và lãi
suất bằng cách trực tiếp tham gia mua bán vốn trên thị trường, từ đó
tác động đến đầu tư, chi tiêu, sản lượng, giá cả v.v… của nền kinh tế.
Thông qua chính sách tài chính, kho bạc Nhà nước tìm kiếm nguồn
vốn trên thị trường tiền tệ để bổ sung thiếu hụt ngân sách tạm thời và
cân bằng thu chi của ngân sách Nhà nước.
- Lãi suất được hình thành trên TTTT là cơ sở để NHNN xác định lãi suất
cơ bản và xây dựng chính sách lãi suất trong từng thời kì, đồng thời nó cũng là
cơ sở để các TCTD tham khảo, hình thành lãi suất kinh doanh của mình.
2.3_ Đặc điểm của TTTT:
- TTTT là tập hợp của một số công cụ tài chính riêng biệt, đó là những
công cụ ngắn hạn, có tính lỏng cao và độ rủi ro thấp như: tín phiếu, kho bạc,
thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi… mỗi loại tạo nên một thị trường riêng của
mình và giữa các thị trường này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
- TTTT là thị trường mang tính chất bán buôn, có khối lượng giao dịch
lớn. Đơn vị tính toán tiêu chuẩn của TTTT thường là rất lớn (như ở TTTT New
York, đơn vị bán là 1 triệu USD).
- TTTT có số người tham gia đông đảo, được chuyên môn hoá ở trình độ
cao của người môi giới và người kinh doanh. TTTT khác thị trường thông
thường là cần có người trung gian để chắp nối cung cầu và họ phải đáp ứng
những yêu cầu chuyên môn cao. NHTW là người quản lý, kiểm soát, bảo trợ,
điều hoà, giữ cho TTTT luôn ổn định.
- TTTT hoạt động dựa trên cơ sở tôn trọng và tín nhiệm lẫn nhau, và
thông qua các phương tiện thông tin hiện đại chứ không diễn ra ở một địa điểm
cụ thể nào. Nó là một khái niệm nói lên sự tiếp xúc giữa cung và cầu để hình
thành giá cả. Thị trường này hoạt động suốt ngày đêm (24 giờ một ngày) thông
qua một mạng lưới điện thoại telex, computer nối mạng giữa những người mua
và người bán, giữa các phòng giao dịch của TTTT, giữa TTTT và khách hàng
của nó.
- Hình thức giao dịch của TTTT rất đa dạng như: mua bán trả tiền ngay,
mua bán chịu, cầm cố, thế chấp khoản vay, cho vay khống, thoả thuận mua lại…
3. Phân loại TTTT: 3.1_Căn cứ vào đối tượng giao dịch
3.1.1_TTTT sơ cấp:
Là thị trường thực hiện việc mua bán lần đầu các chứng khoán mới của Ngân hàng, Công ty tài chính, kho bạc, Doanh nghiệp như Tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHTW, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi…. Các loại chứng khoán này mới được mua bán với khối lượng lớn (theo từng lô) và thể thức mua bán chủ yếu qua đấu giá. Đối tượng bán các chứng khoán này là những người cần vốn phục vụ cho mục đích chi tiêu như kho bạc Nhà nước, các Ngân hàng và các Công ty kinh doanh…còn đối tượng mua (cho vay) chủ yếu là các Ngân hàng thương mại, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các nhà kinh doanh tiền tệ và đông đảo công chúng, họ mua với mục đích để đầu cơ hoặc bán lại kiếm lời.
3.1.2_TTTT thứ cấp:
Là thị trường chuyên tổ chức mua bán các chứng khoán đã phát hành ở
thị trường sơ cấp. Sau khi đã mua hàng ở thị trường sơ cấp, những người chủ sở
hữu các chứng khoán đó không chờ đến hạn để thu hồi vốn và lãi, mà họ đem
bán một phần hay toàn bộ số hàng hoá đó trên thị trường thứ cấp. Sau mỗi lần
giao dịch, quyền sở hữu và quyền đòi nợ các chứng khoán đó được chuyển từ
người này sang người khác, nhưng người mắc nợ (tức người phát hành) có
nghĩa vụ trả nợ thì không thay đổi. TTTT thứ cấp mang tính chất chuyển hoá
hình thái vốn.
Trên thị trường này, người bán chứng khoán thường là các trung gian
chuyên kinh doanh tiền tệ, như các Ngân hàng, các Công ty kinh doanh và môi
giới tiền tệ và các định chế tài chính khác…họ mua chứng khoán ở thị trường sơ
cấp và bán lại trên thị trường này theo giá thoả thuận hoặc giá niêm yết (giá định
trước).
3.2_Căn cứ vào phạm vi của các đối tượng giao dịch
3.2.1_TTTT liên ngân hàng
Là thị trường vốn ngắn hạn do NHTW tổ chức để giải quyết nhu cầu của
các NHTM muốn trao đổi với nhau các khoản vốn tạm thời thừa ở một số ngân
hàng này với các khoản vốn tạm thời thiếu ở một số ngân hàng khác thông qua
các tài khoản của họ ở NHTW nhằm bù đắp số thiếu hụt quỹ dự trữ bắt buộc,
đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bù đắp số thiếu hụt trong thanh
toán bù trừ giữa các ngân hàng…Do đó, việc tham gia thị trường này chỉ hạn
chế dành cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng hoạt động theo
quy chế của thị trường.
Trên thị trường này, lãi suất thị trường được hình thành trên cơ sở cung
cầu với tính chất bán buôn vì đây là thị trường giữa các nhà chuyên kinh doanh
tiền tệ hiểu biết lẫn nhau. NHTW tham gia thị trường với tư cách người quản lý:
Quản lý thị trường và thông qua việc mua bán trên thị trường để điều hành lưu
thông tiền tệ và lãi suất, không vì mục đích kinh doanh.
Trên thị trường này, việc mua bán thường diễn ra theo phương thức đấu
giá trực tiếp. Bên mua và bên bán báo giá và số lượng định mua bán đến trung
tâm xử lý thông tin (thường được đặt tại NHTW). Trung tâm này sẽ tổng hợp số
lượng và mức giá từng loại chứng khoán mua bán trong thời điểm đó và tuỳ theo
sự can thiệp mua bán của NHTW để quyết định giá mua và lượng mua.
Hoạt động của TTTT liên ngân hàng được thể hiện qua hình thức vay
mượn có thế chấp hoặc không có thế chấp hoặc chiết khấu các chứng khoán
ngắn hạn chưa đáo hạn.
3.2.2_TTTT mở rộng
Là thị trường mà các chủ thể tham gia được mở rộng hơn so với TTTT
liên ngân hàng, bao gồm các Ngân hàng, các Công ty kinh doanh, môi giới và
công chúng…. Đặc trưng của thị trường là mua bán qua trung gian môi giới tiền
tệ. Giá cả có thể là giá đấu thầu hoặc giá thoả thuận. Thị trường này là thị trường
của những nhà kinh doanh, nghĩa là họ bán ra chứng khoán theo từng lô nhỏ, lẻ,
với giá định trước hoặc bán ra những loại chứng khoán lớn bằng cách đấu giá.
So với thị trường liên ngân hàng thì thị trường này có chủ thể tham gia mua bán
rộng hơn còn cách thức mua bán cũng tương tự. Do có các chủ thể được mở
rộng nên đây là môi trường thuận lợi cho NHTW can thiệp điều tiết lượng cung
ứng tiền tệ thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường
này.
3.3_Căn cứ vào đặc trưng các loại hàng hoá (công cụ) giao dịch
3.3.1_Thị trường giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn
Là thị trường chuyên giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn có thể
chuyển nhượng được như: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi
ngân hàng… Chúng được mua bán trên thị trường theo phương thức chiết khấu.
Đây là thị trường năng động, sôi nổi. Chúng là bộ phận quan trọng nhất của
TTTT và phát triển rất nhanh chóng. Các chứng khoán ngắn hạn này là những
công cụ chủ yếu của TTTT và thường có thời hạn dưới 1 năm, có độ rủi ro thấp,
tính lỏng cao. Các chứng khoán này cũng là đối tượng để NHTW sử dụng nhằm
điều hành chính sách tiền tệ của mình qua nghiệp vụ thị trường mở. Trên thị
trường này, tuỳ đặc điểm riêng của các chứng khoán ngắn hạn nên chúng có thể
được phân chi tiết thành các thị trường như:
Thị trường tín phiếu kho bạc
Thị trường thương phiếu
Thị trường chứng chỉ tiền gửi ngân hàng
Thị trường các phiếu thuận trả của ngân hàng, thị trường tín phiếu ổn
định tiền tệ
……..
3.3.2_Thị trường giao dịch các khoản vốn vay ngắn hạn
Đây là thị trường chuyên giao dịch các khoản vốn vay ngắn hạn, các
khoản vốn này được định giá trên cơ sở lãi suất và không chuyển nhượng được.
Đây là thị trường rất nhậy cảm với những thay đổi trong chính sách tiền tệ của
NHTW cũng như các tác động khác từ bên ngoài và phụ thuộc và điều kiện, tập
quán, tâm lý của từng vùng. Nó có thể đáp ứng được những nhu cầu rất lớn về
vốn ngắn hạn. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà chúng được định giá theo nhiều
cách khác nhau, từ đó hình thành các loại lãi suất khác nhau như lãi suất đơn, lãi
suất kép và lãi suất hoàn vốn.
Dựa vào đặc điểm của các khoản vốn vay mà thị trường này lại được chia
thành hai thị trường nhỏ:
Thị trường vay mượn ngắn hạn giữa các ngân hàng hay còn gọi là thị
trường tín dụng ngắn hạn liên ngân hàng.
Thị trường tín dụng: là thị trường nhỏ mà ở đó các NHTM và các TCTD
vay tiền của những người có vốn để sau đó cho những người cần vốn vay lại
nhằm mục đích kiếm lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất đi vay và lãi suất cho vay
lại. Một trong những điểm quan trọng nhất của thị trường tín dụng là có thể “tạo
tiền” qua nghiệp vụ tiền gửi của các ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng thêm
lượng tiền cung ứng cho lưu thông nên cần thiết phải có sự quản lý điều tiết của
NHTW.
4. Chủ thể của TTTT
4.1_Ngân hàng Trung Ương
NHTW là chủ thể quan trọng và đặc biệt trên TTTT. NHTW thường là
người đưa ra các chính sách tiền tệ, các thiết chế nhằm ổn định tiền tệ, ổn định
giá trị đồng tiền và đảm bảo một TTTT hoạt động năng động, có hiệu quả, có tổ
chức. NHTW can thiệp vào hoạt động của thị trường bằng cách can thiệp vào
quá trình tạo lập ra tiền của các TCTD và làm thay đổi lãi suất thị trường qua
việc tác động đến cung cầu tiền tệ chủ yếu là thông qua các công cụ quản lý gián
tiếp.
Ngoài ra NHTW còn đóng vai trò là người môi giới trung gian ở TTTT,
giúp các ngân hàng trung gian trong việc thanh toán bù trừ những món nợ với
nhau mà không phải di chuyển tiền bạc bằng cách thiết lập phòng giao hoán tại
trụ sở của NHTW.
NHTW còn thực hiện cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới các
hình thức cho vay theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các giấy
tờ có giá ngắn hạn, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy
tờ có giá ngắn hạn khác.
NHTW can thiệp vào thị trường chủ yếu thông qua các chính sách tiền tệ
bao gồm: chính sách cung ứng tiền, chính sách tín dụng, chính sách đối với ngân
sách Nhà nước. Để đảm bảo thực hiện tốt các chính sách, NHTW các nước
thường sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ, bao gồm các công cụ quản lý
trực tiếp và gián tiếp như: hạn mức tín dụng, kiểm soát tín dụng chọn lọc, cung
ứng tiền mặt pháp định, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở….
4.2_Ngân hàng thương mại
Các NHTM có thể nói là những trung gian hoạt động chính trên TTTT.
NHTM tham gia thị trường này nhằm duy trì khả năng thanh toán hay chi trả của
Ngân hàng, tận dụng vốn tạm thời nhàn rỗi để kiếm lời cũng như vay vốn cần
thiết với mức phí thấp nhất phục vụ mục tiêu trên. Sự có mặt của NHTM với các
tính năng hoạt động riêng biệt của nó sẽ là động lực chính để thúc đẩy hoạt động
của TTTT.
NHTM là thành viên đặc biệt của TTTT, vừa là người cho vay, vừa là
người đi vay. Họ là chủ thể quan trọng nhất, thu hút tiền gửi có kỳ hạn và không
kỳ hạn.
Trên TTTT, NHTM thường sử dụng các công cụ như chứng chỉ tiền gửi,
chấp nhận hối phiếu, khoản vay ngắn hạn giữa các Ngân hàng nhằm phục vụ
cho các hoạt động tín dụng của mình thông qua các nghiệp vụ NHTM. NHTM là
yếu tố quan trọng để luồng vốn luân chuyển có hiệu quả trên TTTT.
4.3_Kho bạc Nhà nước
Kho bạc Nhà nước tham gia TTTT chủ yếu để vay nợ, để bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách bằng cách phát hành tín phiếu kho bạc. Đối tượng thường xuyên mua tín phiếu kho bạc là các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư…. Qua việc vay nợ và trả nợ dân, kho bạc có tác động tích cực đến quá trình hình thành và phát triển TTTT vì thị trường tín phiếu kho bạc là thị trường lớn trong các bộ phận TTTT, hơn nữa, tín phiếu kho bạc là một trong những công cụ quan trọng để NHNN điều hành chính sách tiền tệ.
4.4_Người đầu tư
Những người đầu tư của TTTT bao gồm:
a. Các tổ chức kinh tế tham gia thị trường
Đó là các Tổ chức tài chính và các doanh nghiệp phi ngân hàng như: Hiệp
hội tiết kiệm và cho vay, Công ty bảo hiểm, Ngân hàng tiết kiệm tương trợ, quỹ
tín dụng, quỹ tương trợ TTTT, các tổ chức xã hội, các tổ chức tài chính quốc tế,
Công ty nước ngoài (tài chính và phi tài chính)…. Họ là những tác nhân đông
đảo của thị trường, tham gia với mục đích: Duy trì khả năng thanh toán; cho vay
khoản vốn dư thừa để kiếm lãi; đi vay nguồn vốn cần thiết. Họ không tham gia
vào quá trình tạo tiền.
b. Người đầu tư tư nhân
Khi lãi suất tăng lên, người đầu tư tư nhân tham gia TTTT. Họ tham gia
với mục đích: thanh toán những khoản vay mượn và mua sắm; đề phòng những
tình huống chưa dự kiến trước được; đầu cơ, hy vọng có thay đổi về lãi suất để
kiếm lời.
4.5_Người môi giới và kinh doanh (Brokers và Dealers)
Các thị trường dành cho tất cả các công cụ trên TTTT đều do người môi
giới và người kinh doanh thực hiện.
Người kinh doanh tạo ra thị trường cho các công cụ TTTT bằng cách báo
giá chào mua và giá bán với những người khác, những người phát hành và
những người đầu tư. Họ mua và bán cho những tài khoản sở hữu của họ.
Người môi giới là những người thực hiện việc đưa người mua và người
bán lại với nhau để hưởng hoa hồng. Chức năng của họ là cung cấp thị trường
cho những người tham gia thị trường. Phần lớn hoạt động môi giới ở TTTT xuất
hiện giữa các ngân hàng đang mua vốn hay đang bán vốn với các ngân hàng
khác, và giữa những người kinh doanh các công cụ trên TTTT.
5. Các công cụ trên TTTT
5.1_Tín phiếu kho bạc (Treasury bills)
Tín phiếu kho bạc là chứng nhận nợ ngắn hạn của Chính phủ do kho bạc
Nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời cho ngân sách Nhà nước và
là một công cụ quan trọng để NHTW điều hành chính sách tiền tệ qua nghiệp vụ
thị trường mở. Chúng không mang lãi suất hoặc có lãi suất rất thấp, được phát
hành với thời hạn thông thường là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm và phát hành
bằng cách đấu giá. Việc mua bán thường được thanh toán bằng tiền mặt. Kho
bạc Nhà nước thường phát hành tín phiếu với hình thức vô danh.
Các tín phiếu kho bạc thường có mức độ rủi ro thấp đối với người đầu tư,
nó là công cụ lỏng nhất trong các công cụ của thị trường tiền tệ.
5.2_Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng (Bank certificates of deposit):
Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng là công cụ vay nợ do NHTM bán cho người
gửi tiền với lãi suất được quy định cho từng kỳ hạn nhất định, phần lớn là từ 30
ngày đến 12 tháng, được thanh toán lãi hàng năm. Các chứng chỉ tiền gửi ngân
hàng thường là vô danh. Các chứng chỉ tiền gửi cũng tương tự như các loại tiền
gửi có kỳ hạn khác nhưng chúng có thể được bán (hoặc chuyển nhượng) cho
một bên thứ ba mà không bị phạt bởi các ngân hàng phát hành.
Chứng chỉ tiền gửi có khả năng thanh toán rất cao. Chúng có lãi suất cao
hơn lãi suất của các tín phiếu kho bạc nhưng thấp hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm
có kỳ hạn.
Trái ngược với phần lớn các công cụ khác trên TTTT - là những công cụ
được giao dịch trên cơ sở khấu trừ lãi, chứng chỉ tiền gửi được trả lãi sau khi
đến hạn, trừ trường hợp các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn trên một năm thì được
trả lãi nửa năm một.
5.3_Thương phiếu (Commercial Paper)
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc
cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền nhất định trong một thời gian
xác định, hay nói cách khác là giấy nhận nợ đặc biệt mà người giữ nó có quyền
đòi trả tiền khi đến hạn, do các công ty nổi tiếng phát hành. Thương phiếu có thể
được chiết khấu ở NHTM để thu hút vốn về cho người sở hữu thương phiếu
trước kỳ hạn thanh toán. Thương phiếu có độ rủi ro thấp và thời hạn thanh toán
ngắn nên được dùng thay thế cho các công cụ của TTTT như tín phiếu kho bạc
và chứng chỉ tiền gửi.
Thời hạn của thương phiếu tối đa có thể là 270 ngày nhưng phần lớn
thương phiếu được bán có thời hạn 30 ngày hay nhỏ hơn. Lãi suất của thương
phiếu phụ thuộc vào thời hạn thanh toán, khối lượng vay, mức lãi suất chung của
TTTT và sự xếp loại tín nhiệm của người phát hành.
Thương phiếu bao gồm các loại sau:
Hối phiếu (Bill of exchange)
Lệnh phiếu (Promissory note)
Kỳ hoá phiếu (Warehouse Receipt)
5.4_Chấp phiếu ngân hàng (Banker’s acceptance)
Là hối phiếu do Công ty kinh doanh ký phát, trong đó ghi rõ thanh toán
vào một ngày nhất định trong tương lai, thường phát hành trong 90 ngày và
được một ngân hàng đảm bảo thanh toán bằng cách đóng dấu “chấp nhận” lên
hối phiếu đó. Do được ngân hàng đảm bảo thanh toán nên uy tín của nó tương
đối cao và dễ dàng được chuyển nhượng trên TTTT.
Các phiếu thuận trả của ngân hàng là những hối phiếu ngắn hạn, không
mang lãi suất và được bán ở mức chiết khấu. Các phiếu thuận trả của ngân hàng
có độ rủi ro thấp do đó được bán với mức lợi tức nhỏ.
5.5_ Hợp đồng mua lại ( Repurchase Agreement)
Hợp đồng mua lại (viết tắt là Repo hay RP) thực tế là những món vay ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán ngắn hơn 2 tuần lễ), trong đó một vài chứng khoán– thường là tín phiếu kho bạc được dùng làm vật đảm bảo cho khoản vay đó. Tuy nhiên, người đi vay cam kết sẽ mua lại chứng khoán này theo giá cũ, cộng thêm một khoản lãi quy định. Kỳ hạn của hợp đồng mua lại có thể được ấn định hoặc thoả thuận tự do, trong cả hai trường hợp cả người đi vay và người cho vay đều có thể kết thúc thoả thuận này bất kỳ lúc nào. Hợp đồng này mang lại lợi ích lớn cho cả hai bên và sự linh hoạt của nó làm cho nó phát triển rất mạnh trong TTTT thời gian gần đây.
Thông thường, các NHTM là những nhà cung cấp vốn lớn cho các nhà
giao dịch chứng khoán chính phủ dưới dạng hợp đồng mua lại. Mặc dù vậy, một
phần lớn vốn của các NHTM được giữ dưới dạng chứng khoán chính phủ và họ
cũng thích sử dụng hợp đồng mua lại như một nguồn tài trợ vốn.
Hợp đồng mua lại đã cung cấp cho các NHTM một phương tiện huy động
vốn tích cực. Nguồn vốn này thuộc diện không phải áp dụng các quy định về dự
trữ bắt buộc và mức khống chế trần lãi suất, do đó chi phí đối với hợp đồng mua
lại cũng thấp hơn so với tiền gửi và không có khống chế trần lãi suất nên các
NHTM có thể linh hoạt trong khi cạnh tranh thu hút vốn trên TTTT. Ngoài ra,
với các NHTM có sẵn chứng khoán Chính phủ trong danh mục đầu tư của mình
có thể sử dụng chúng cho các thoả thuận mua lại để đi vay, từ đó tạo ra nguồn
vốn khả dụng mới.
5.6_Eurocurrency
Eurocurrency là đồng đôla hoặc đồng ngoại tệ tự do có thể quy đổi được
ký gửi tại ngân hàng bên ngoài nước bản xứ. Eurocurrency có tính lỏng cao. Kỳ
hạn gửi tiền phần lớn là ngắn hạn, khoảng 1/3 số tiền gửi này có kỳ hạn không
quá 8 ngày và gần 90% có kỳ hạn không quá 6 tháng.
Ngoài các công cụ trên, tuỳ từng nước mà còn có thêm một số các công
cụ khác được giao dịch trên thị trường tiền tệ như: Các khoản vay liên ngân
hàng, Tín phiếu ổn định tiền tệ hay tín phiếu NHTW, Các khoản tiền gửi lưu
thông trong thị trường tiền tệ, Quỹ liên bang, trái phiếu đô thị chính quyền địa
phương, quỹ tương trợ thị trường tiền tệ…. Thị trường tiền tệ càng phát triển thì
càng có nhiều loại công cụ mới được ra đời.
II/ TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ QUỐC TẾ
1. Khái niệm thị trường tiền tệ Quốc tế (Eurocurrency)
Ngày nay, TTTT đã vượt ra ngoài biên giới truyền thống vốn có của
chúng, do đó, chúng ta có thể ký một tờ séc bằng đồng đôla Mỹ từ tài khoản mở
tại ngân hàng ở Tokyo, hoặc ký một tờ séc bằng Yên Nhật từ tài khoản mở tại
ngân hàng ở New York. Một thực tế là các đồng tiền khác nhau được duy trì bên
cạnh nhau trên các tài khoản ngân hàng. Tương tự, chúng ta cũng có thể có một
khoản tín dụng bằng đôla Mỹ tại Hồng Kông. Thị trường đi vay và cho vay
ngắn hạn đến một năm bằng các đồng tiền khác nhau trên tài khoản của các
ngân hàng nằm ngoài nước phát hành gọi là TTTT Quốc tế, hay còn gọi là
thị trường Eurocurrency.
Vì vậy, thị trường Eurocurrency được định nghĩa như là thị trường của
các ngân hàng hải ngoại (Eurobanks) trong lĩnh vực huy động và cho vay ngắn
hạn các đồng tiền lưu thông bên ngoài nước phát hành.
Từ định nghĩa này cần giải thích một số thuật ngữ:
Thứ nhất, các Eurobanks là những ngân hàng nhận tiền gửi và cho vay
ngắn hạn các đồng tiền của một quốc gia bất kỳ, nhưng không chịu sự chi phối
bởi các quy định của NHTW phát hành đồng tiền này. Do đó các Eurobanks
chính là ngân hàng nước ngoài (hay còn gọi là ngân hàng không cư trú hay ngân
hàng hải ngoại) kinh doanh đồng tiền của một nước nhất định. Ví dụ: các ngân
hàng không thuộc hệ thống ngân hàng Mỹ (như ngân hàng Pháp, Anh,…) huy
động và cho vay ngắn hạn đôla Mỹ.
Thứ hai, Eurocurrency là đồng tiền của một nước được duy trì trên tài
khoản của các Eurobanks. Vì các Eurobanks không chịu sự chi phối bởi các quy
định của NHTW phát hành đồng tiền Eurocurrency, nên các Eurocurrency được
coi như đồng tiền quốc gia lưu hành “bên ngoài” nước phát hành. Ví dụ, những
đồng đôla Mỹ nằm trên tài khoản của các ngân hàng Pháp mở tại các ngân hàng
đại lý Mỹ gọi là Eurodollars; những yên Nhật nằm trên tài khoản của ngân hàng
Mỹ mở tại các đại lý Nhật gọi là Euroyens….
Thứ ba, sự di chuyển của bản tệ từ hệ thống ngân hàng nội địa sang các
Eurobanks gọi là sự di chuyển từ hệ thống lưu thông nội địa sang hệ thống lưu
thông Eurocurrency (bên ngoài, hải ngoại) và ngược lại.
Do được trải rộng về mặt địa lý nên các thị trường Eurocurrency (hay
Euromarkets) còn gọi là “Thị trường Hải ngoại – Offshore Markets”
Trên thực tế, thị trường Eurocurrency được cấu thành từ hoạt động nhận
tiền gửi và hoạt động cho vay. Hiện nay, hoạt động của thị trường Eurodollar
chiếm đa số tổng doanh số hoạt động của toàn thị trường Eurocurrency. Chính vì
vậy, theo nghĩa hẹp khi nói đến thị trường Eurocurrency thì người ta hiểu đó là
thị trường Eurodollar.
Có điều cần lưu ý rằng: tiền tố “Euro-” đứng trước tên các đồng tiền có
thể làm cho chúng ta dễ bị nhầm lẫn, do đó, cần thiết phải phân biệt nội dung
thuật ngữ “Euro-”: Eurocurrency là những đồng tiền trôi nổi bên ngoài nước
phát hành, do đó, những tiền gửi bằng USD tại các ngân hàng Hồng Kông,
Tokyo nằm ngoài nước Mỹ gọi là Eurodollar. Như vậy, tiền tố đứng trước
“Euro-” ở đây chỉ là quy ước chứ không nhất thiết chỉ tính từ về Châu Âu. Vì
vậy, để tránh nhầm lẫn, cần hiểu rõ và phân biệt giữa thị trường “Eurocurrency”
với thị trường “Tiền tệ Châu Âu”.
2. Đặc trưng của TTTT Quốc tế
TTTT Quốc tế (Eurocurrency) có những đặc trưng khác biệt với TTTT
quốc gia. Cụ thể:
- Đây là thị trường Quốc tế lớn, các NHTW rất ít có khả năng điều tiết các hoạt động của thị trường này. - Các nghiệp vụ tín dụng trên thị trường này không có quy định dự trữ bắt buộc và phí bảo hiểm cho tiền gửi, tổng chi phí giao dịch sẽ giảm đi, do đó lãi suất cho vay theo Eurocurrency thường thấp hơn lãi suất cho vay của khoản vay tương ứng trong nước nên rất hấp dẫn cho các tập đoàn kinh doanh đa quốc gia. - Thị trường Eurocurrency thường là thị trường bán buôn, chủ yếu là thị trường liên ngân hàng. Quy mô giao dịch vốn thường rất lớn, uy tín của các thành viên trên thị trường rất cao, bao gồm một khối lượng lớn các chủ nợ và khách nợ trên toàn thế giới. - Thị trường Eurocurrency là nơi tích trữ khoản thặng dư có tính thanh khoản cao. Các công ty, hãng, các ngân hàng thường gửi vốn nhàn rỗi của mình vào thị trường này để hưởng mức tỷ suất lợi nhuận cao trong khi các khoản thu nhập này không phải nộp thuế. Điều này khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài thực sự ưa thích. - Thị trường này có tính lỏng cao bởi kỳ hạn tiền gửi phần lớn là ngắn hạn.
Mức lãi suất tín dụng Eurocurrency được hình thành trên cơ sở mức lãi
suất chào bán liên ngân hàng tại London (London Interbank Offer Rate-LIBOR)
áp dụng đối với từng đồng tiền. LIBOR là mức lãi suất áp dụng cho các giao
dịch liên ngân hàng (khi các ngân hàng vay mượn lẫn nhau), đồng thời là mức
lãi suất cơ bản áp dụng cho nhóm khách hàng phi ngân hàng. Mức lãi suất
LIBOR đối với mỗi đồng tiền là số trung bình của các mức lãi suất cho vay của
sáu ngân hàng hàng đầu ở London. Mức lãi suất cho vay đối với khách hàng phi
ngân hàng bằng mức lãi suất LIBOR cộng với mức lãi suất gia tăng (premium),
phụ thuộc vào độ tín nhiệm của từng khách hàng. Đối với những khoản tín dụng
trên 6 tháng, ngân hàng thường áp dụng mức lãi suất thả nổi làm giảm rủi ro lãi
suất.
3. Ưu và nhược điểm của TTTT Quốc tế
Từ khái niệm và đặc trưng riêng của thị trường Eurocurrency, có thể nhận
thấy thị trường Eurocurrency có những ưu điểm và hạn chế như sau:
3.1_Ưu điểm
* Thị trường Eurocurrency ra đời đã góp phần làm tăng những phương
tiện sẵn có cho người đi vay và người cho vay.
* Lãi suất thả nổi là điểm khác biệt của thị trường Eurocurrency mà hầu
hết các thị trường nội địa không áp dụng, giúp cho các Eurobanks phòng ngừa
được sự biến động của lãi suất.
* Do tính cạnh tranh trên thị trường Eurocurrency rất cao, cho nên mức lãi
suất được hình thành trên thị trường này cũng có tính cạnh tranh cao, nó không
những tạo điều kiện cho vốn di chuyển giữa các chủ thể kinh tế tư nhân mà còn
giữa các quốc gia. Lợi thế cạnh tranh của Eurobanks được biểu diễn bằng sơ đồ
sau:
So sánh chênh lệch lãi suất giữa Eurodollars và USD tại Mỹ
Lãi suất cho vay ở Mỹ
Lãi suất cho vay Eurodollars
Chênh lệch Eurodollar Chênh lệch ở Mỹ
Lãi suất tiền gửi Eurodollars
Lãi suất tiền gửi ở Mỹ
Từ sơ đồ trên cho thấy, chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền
gửi tại các Eurobanks là hẹp hơn so với tại các ngân hàng ở Mỹ.
*Ngoài ra, khi thị trường Eurocurrency ra đời đã tạo điều kiện tài trợ cho
những nước có thâm hụt cán cân thanh toán một cách dễ dàng và đỡ tốn kém
hơn nhiều so với thời kỳ thị trường này chưa ra đời.
*Hơn nữa, các Eurobanks tạo điều kiện cho những nhà đầu cơ tích luỹ
vốn và khi họ có trong tay một khối lượng lớn tiền tệ trên thị trường
Eurocurrency sẽ giúp duy trì kỷ luật đối với các chính phủ trong việc thực thi
các chính sách kinh tế vĩ mô, do đó các chính sách trở nên ổn định hơn và tỷ giá
cũng ổn định hơn.
3.2_Nhược điểm:
*Một trong những mối quan tâm chính đến thị trường Eurocurrency là thị
trường này bao gồm một khối lượng khổng lồ nguồn vốn có khả năng tạo tín
dụng nhưng lại không có bất cứ một quy chế nào điều chỉnh. Hoạt động của
Eurobanks là không bị điều chỉnh và không tồn tại cơ chế tiếp cận với “người
cho vay cuối cùng”. Vì vậy, nếu một Eurobank sụp đổ sẽ tạo ra hiệu ứng tàn
khốc làm sụp đổ các Eurobanks khác và sẽ làm tăng mối nguy hiểm đến toàn hệ
thống tài chính Quốc tế.
*Một mối quan tâm khác đến thị trường Eurocurrency là thị trường
Eurocurrency đã tạo điều kiện thuận lợi để các quốc gia tài trợ cho thâm hụt cán
cân thanh toán một cách dễ dàng. Thị trường Eurocurrency được coi như chiếc
cầu nối chuyển vốn từ những nước thặng dư đến những nước thâm hụt dẫn đến
nợ của các nước thâm hụt ngày càng tăng. Điều kiện đi vay dễ dàng đã kích
thích các nước thâm hụt đi vay quá mức.
*Eurobanks tạo điều kiện cho những nhà đầu cơ tích luỹ vốn nhằm mục
đích tấn công vào các đồng tiền, do đó làm cho môi trường tiền tệ trở lên bất ổn.
*Ngoài ra, hệ thống Eurobanks có thể gặp phải rất nhiều mối nguy hiểm.
Giả sử khi đã trở thành con nợ quá lớn, có thể một số nước không còn thiện chí
trả nợ. Nếu những người gửi tiền vào Eurobanks nhận thấy rằng dư nợ của các
nước thâm hụt là quá lớn và bộc lộ nhiều rủi ro sẽ ồ ạt rút tiền gửi từ các
Eurobanks và sẽ tạo ra hai hiệu ứng: hệ thống Eurobanks có thể rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán và các nước thâm hụt không còn khả năng tuần
hoàn tín dụng.
4. Công cụ trên TTTT Quốc tế
4.1_Tiền gửi kỳ hạn Eurocurrency
Thông thường, tiền gửi Eurocurrency chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn với
mức lãi suất cố định. Do có mức lãi suất cố định, nên tiền gửi Eurocurrency
thường có kỳ hạn ngắn. Kỳ hạn ký gửi có thể chỉ trong 1 ngày cho đến vài năm,
nhưng phổ biến nhất là từ 1 tuần cho đến 6 tháng. Phần lớn lượng tiền gửi
Eurocurrency là các khoản nợ giữa các ngân hàng có lãi suất chi trả cố định và
có tính cạnh tranh cao.
Ngoài các đồng tiền quốc gia chủ yếu, tiền gửi Eurocurrency bằng SDR
(Special Drawing Rights) cũng được hình thành. SDR là tiền tệ do IMF phát
hành dùng làm tài sản dự trữ tại các NHTW. Tiền gửi có kỳ hạn bằng SDR lần
đầu tiên được đưa ra bởi Chemical Bank ở London. Cũng như các loại tiền gửi
có kỳ hạn khác, tiền gửi có kỳ hạn SDR cũng thuộc loại công cụ không chuyển
nhượng được.
4.2_Chứng chỉ tiền gửi Eurocurrency có thể chuyển nhượng
Một tỷ lệ nhỏ thuộc tài sản nợ của các Eurobanks không phải là tiền gửi
có kỳ hạn, mà là các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng (Negotiable
Certificates of Deposit-NCD). Khác với tiền gửi có kỳ hạn, do được chuyển
nhượng nên các NCD được giao dịch trên thị trường thứ cấp. Ngoài ra, đối với
tiền gửi kỳ hạn, rút trước hạn sẽ bị chịu lãi phạt, do đó càng làm cho NCD có
tính thanh khoản cao hơn so với tiền gửi kỳ hạn. Trong trường hợp Eurodollars,
có khoảng 20% tài sản nợ của Eurobanks là NCD, 80% còn lại theo thông lệ là
tiền gửi kỳ hạn.
Trong thời gian gần đây, các khoản NCD kỳ hạn 3 tháng với lãi suất cố
định đã thấp hơn lãi suất LIBOR 10 điểm. Thị trường thứ cấp linh hoạt cho phép
các nhà đầu tư bán đi các NCD trước kỳ hạn thanh toán. Các chứng chỉ tiền gửi
Eurodollar do các ngân hàng phát hành thường có mệnh giá từ 250 nghìn đến 5
triệu USD. Một số chứng chỉ có tên gọi là Tranche CD được lưu hành với mệnh
giá cực lớn (khoảng từ 10 triệu đến 30 triệu USD) nhưng chỉ được bán ra với 1
số quy mô nhất định cho các nhà đầu tư. Các chứng chỉ loại này có cùng 1 mức
lãi suất, ngày phát hành, kỳ hạn thanh toán lợi tức và thanh toán toàn bộ. Kể từ
năm 1981, một vài ngân hàng chủ chốt ở London như Barclay Bank
International, Chemical Bank, Hongkong Bank…đã huy động SDR bằng
phương thức phát hành NCD cũng như phương thức nhận tiền gửi kỳ hạn.
4.3_Chứng chỉ và chi phiếu Eurocurrency có lãi suất thả nổi
Cuối thập kỷ 70, các chứng chỉ Eurocurrency có lãi suất thả nổi (Floating
Rate Certificate of Deposits: FRCD) và chi phiếu Eurocurrency có lãi suất thả
nổi (Floating Rate Notes: FRN) được lưu hành nhằm bảo vệ cả người đi vay lẫn
người cho vay trước nguy cơ biến động tỷ giá lãi suất. Thông qua việc thanh
toán các hoá đơn tuỳ theo tỷ lệ lãi suất trên thị trường, các công cụ này khiến giá
trị của chi phiếu trở nên ổn định hơn. Chi phiếu Eurocurrency có lãi suất thả nổi
được phát hành với kỳ hạn từ 4 đến 20 năm, phổ biến nhất là từ 5 đến 7 năm. Có
thể coi công cụ này như một sự thay thế cho các trái phiếu có lãi suất cố định và
về nguyên tắc, nó có công dụng giống như FRCD.
4.4_Khả năng phát hành chi phiếu (Note Issuance Facilities: NIF)
NIF đã trở thành một công cụ rất quan trọng trên thị trường Eurodollar
vào giữa thập niên 80. NIF là 1 thoả thuận có thời hạn trung bình, khoảng từ 5
đến 7 năm giữa người đi vay và ngân hàng theo đó người đi vay có thể phát
hành chi phiếu có mệnh giá 100 nghìn USD và 500 nghìn USD thời hạn từ 3 đến
6 tháng dưới tên mình.
Thị trường này bắt đầu đi vào hoạt động vào năm 1985. Hầu hết các chi
phiếu đều được giao dịch với các ngân hàng nhỏ và không phải là đối tượng bảo
đảm. Các giao dịch được thực hiện với các nhà đầu tư phi ngân hàng như các tập
đoàn, công ty bảo hiểm, và cá nhân với NHTW.
4.5_Hoạt động ngân hàng hải ngoại của ngân hàng nội địa
Sự mở rộng hoạt động của các Eurobanks bằng Eurodollars đã khiến cho
Fed chấp nhận cho phép các ngân hàng nội địa ở Mỹ được tiến hành các hoạt
động ngân hàng hải ngoại ngay tại nước Mỹ (International Banking Facilities-
IBF). IBF được thiết lập vào năm 1981 và thực chất là sự tồn tại hai hệ thống tài
khoản khác nhau trong cùng một ngân hàng. IBF được nhận tiền gửi bằng USD
từ người không cư trú nhưng không phải tham gia dự trữ bắt buộc cũng như bảo
hiểm tiền gửi nếu sử dụng tiền gửi này để cho vay những người không cư trú.
IBF đã cạnh tranh thực sự với các Eurobanks ở Châu Âu và đã góp phần chuyển
được một bộ phận hoạt động ngân hàng hải ngoại bằng USD về nước Mỹ.
Tiếp đó, vào năm 1986 chính phủ Nhật cũng cho phép thành lập thị
trường kinh doanh Euroyen tại Tokyo, cho phép các ngân hàng Nhật nhận tiền
gửi bằng Euroyen tại Tokyo, trên cơ sở tiền gửi bằng Euroyen cung cấp tín dụng
cho người không cư trú.
4.6_Hợp đồng tương lai bảo hiểm rủi ro lãi suất
Nhìn chung các Eurobanks bảo hiểm rủi ro tương đối tốt. Thông thường,
tài sản có và tài sản nợ của Eurobanks được cấu thành từ các đồng tiền khác
nhau. Khi tài sản có và tài sản nợ trùng nhau về số lượng và kỳ hạn đối với từng
đồng tiền thì Eurobanks tránh được mọi rủi ro về lãi suất và tỷ giá nhưng điều
này hiếm khi đạt được. Điều này làm phát sinh rủi ro lãi suất đối với các
Eurobanks. Kể từ năm 1981, thị trường Eurodollar tương lai (Eurodollar Future
Market) được giới thiệu đã cho phép các Eurobanks tự bảo hiểm rủi ro lãi suất,
do hợp đồng mua bán lãi suất tương lai quy định:
Hợp đồng mua lãi suất tương lai có lãi khi lãi suất thị trường giảm -
và phát sinh lỗ khi lãi suất thị trường tăng.
Hợp đồng bán lãi suất tương lai có lãi khi lãi suất thị trường tăng -
và phát sinh lỗ khi lãi suất thị trường giảm.
4.7_Các hợp đồng kỳ hạn bảo hiểm rủi ro lãi suất
Hợp đồng lãi suất kỳ hạn (Forward Rate Agreement – FRA) là hợp đồng
được ký kết giữa các ngân hàng (Interbank), nó cho phép các ngân hàng bảo
hiểm rủi ro lãi suất từ sự không cân xứng kỳ hạn giữa tiền gửi và tín dụng. Một
FRA bao gồm hai bên, trong đó một bên mua và một bên bán. Bên mua đồng ý
trả cho bên bán phần chênh lệch lãi suất, nếu lãi suất thị trường giảm xuống dưới
mức lãi suất đã thoả thuận; và bên bán đồng ý trả cho bên mua phần chênh lệch
lãi suất, nếu lãi suất thị trường tăng trên mức lãi suất thoả thuận.
CHƯƠNG II:
Thị trường tiền tệ Việt Nam - những vấn đề đặt ra trong tiến trình hội nhập Thị
trường tiền tệ
QUỐC TẾ
I/ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VIỆT NAM
1. Quá trình hình thành và phát triển của TTTT Việt Nam
Trước năm 1990, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động
trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với trình độ kinh tế phát triển ở mức độ
rất thấp, phổ biến là tự cung tự cấp, sản xuất hàng hoá nhỏ là chủ yếu. Hệ thống
ngân hàng được tổ chức theo mô hình một cấp, thực hiện chức năng kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng mang nặng tính bao cấp và vận hành theo cơ chế
kế hoạch hoá tập trung bằng các mệnh lệnh hành chính.
Từ tháng 6/1987, hệ thống ngân hàng một cấp ở Việt Nam bắt đầu có sự
đổi mới về tổ chức và hoạt động. Nghị quyết Hội nghị trung ương lần 2, khoá VI
nêu rõ: “Kiện toàn NHNN làm nhiệm vụ phát hành và quản lý Nhà nước về tiền
tệ-tín dụng. Phát triển các ngân hàng chuyên nghiệp là tổ chức kinh doanh tín
dụng và dịch vụ ngân hàng”. Ngày 26/3/1988, Chủ tịch HĐBT ban hành nghị
định số 53/HĐBT: ‘Cải tổ hệ thống ngân hàng từ một ngân hàng duy nhất trong
nền kinh tế kế hoạch thành định chế ngân hàng hai cấp theo hướng kinh tế thị
trường”. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, việc phân định vai trò, chức năng,
nhiệm vụ trong hệ thống ngân hàng chưa rõ ràng, ảnh hưởng của cơ chế bao cấp
còn nặng nề đối với mọi hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Trong bối
cảnh trên, chúng ta chưa tạo được một TTTT thực sự.
Kết quả đổi mới toàn diện hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và
những nỗ lực tạo dựng cơ sở pháp lý đã tạo ra các tiền đề cần thiết cho việc ra
đời và phát triển TTTT.
Năm 1995 có thể coi là mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của TTTT,
các loại hình TTTT bước đầu hình thành và đi vào hoạt động. Bên cạnh thị
trường tín dụng truyền thống, TTTT liên ngân hàng và thị trường đấu thầu tín
phiếu kho bạc đã được tổ chức. Đến nay, đã có các loại hình TTTT sau đi vào
hoạt động:
+ Thị trường tín dụng ngắn hạn là thị trường truyền thống, chiếm vai trò
quan trọng trong hoạt động của hệ thống NHTM.
+ Tháng 7/1993, theo Quyết định số 132/QĐ-NH14 của Thống đốc
NHNN, Thị trường tiền tệ liên ngân hàng được thành lập.
+ Ngày 8/6/1995, Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc chính thức đi vào
hoạt động
Các loại hình của TTTT tuy đã đi vào hoạt động nhưng mới ở dạng sơ
khai, phạm vi của thị trường còn bó hẹp trong phạm vi của hệ thống ngân hàng,
hầu như chưa có thị trường thứ cấp… Tuy nhiên, hoạt động của nó đã góp phần
thúc đẩy giao lưu vốn, cung ứng vốn ngắn hạn,… góp phần quan trọng tạo nên
sự tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. Sự ra đời của thị trường mở và triển
khai nghiệp vụ thị trường mở vào ngày 12/7/2000 khiến cho TTTT chính thức
không chỉ bó hẹp trong phạm vi ngân hàng mà sẽ được mở rộng trên phạm vi
toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, việc mua bán các công cụ nợ ngắn hạn như tín
phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN của NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở
để điều tiết lượng tiền cung ứng đã bước đầu hình thành nên TTTT sơ cấp-bước
phát triển mới về chất của TTTT Việt Nam.
2. Tình hình TTTT Việt Nam
2.1_Thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng
Thị trường tín dụng là thị trường truyền thống, chiếm vai trò quan trọng
trong hoạt động của hệ thống NHTM, là nguồn cung ứng vốn ngắn hạn chủ yếu
cho nền kinh tế. Hoạt động trên thị trường này chủ yếu là hoạt động đi vay-huy
động vốn và cho vay- sử dụng vốn của các NHTM.
*Về việc huy động vốn
Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM thể hiện qua các hoạt động bên tài
sản nợ, tạo nên nguồn vốn của các ngân hàng, trong đó, chủ yếu là các loại tiền
gửi của ngân hàng, bao gồm các loại tiền gửi khá phong phú như sau:
- Tiền gửi tiết kiệm (không kỳ hạn, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm)
- Tiền gửi của các tổ chức kinh tế–với các kỳ hạn như tiền gửi tiết kiệm
- Tiền gửi cá nhân
- Các hình thức tiền gửi ngoại tệ (kỳ hạn giống như nội tệ)
- Giấy tờ có giá như các loại kỳ phiếu nội, ngoại tệ…
Đồng thời với những hình thức tiền gửi tương đối phong phú và đa dạng
bằng cả nội tệ lẫn ngoại tệ, chính sách lãi suất đúng đắn của NHNN đã làm cho
lượng vốn huy động qua hệ thống NHTM ngày càng tăng đáp ứng nhu cầu sử
dụng vốn. Huy động vốn trong những năm gần đây tăng liên tục với tốc độ tăng
cao (xem bảng 1). Năm 2002, theo tài liệu công bố của Trung tâm thông tin thư
viện và nghiên cứu khoa học của Văn phòng Quốc hội, tổng nguồn vốn huy
động của toàn ngành ngân hàng đạt 283.000 tỷ đồng.
Tuy đạt được những thành công nhưng việc huy động và luân chuyển vốn
ngắn hạn trên TTTT cũng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chưa hình thành TTTT
sơ cấp. Đối với hoạt động thu hút tiền gửi, các NHTM sử dụng hai công cụ chủ
yếu là sổ tiết kiệm và tài khoản tiền gửi nhưng cả hai loại này lại không thể
chuyển nhượng được. Các kỳ phiếu NHTM phát hành chủ yếu là các chứng chỉ
ghi danh nên việc chuyển nhượng cũng rất khó khăn. Ngoài ra, các công cụ khác
như thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi định kỳ,… chưa có. Chính vì vậy, việc
luân chuyển nguồn vốn trên TTTT kém linh hoạt.
* Về hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay là hoạt động sử dụng vốn vay, hay là các nghiệp vụ
bên tài sản có, là hoạt động chủ yếu của hệ thống NHTM Việt Nam, theo ước
tính hoạt động này mang lại hơn 90% thu nhập cho các ngân hàng.
Ở một nước có TTTT sơ khai như nước ta thì nhu cầu vốn của nền kinh tế
đang đè nặng nên hệ thống ngân hàng, có tới 70% nhu cầu vốn cho sản xuất
kinh doanh phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng1. Trong bối cảnh đó, khi NHNN
kiểm soát khung lãi suất cho vay thì tăng trưởng tín dụng còn nằm trong mức độ
cho phép nhưng từ khi lãi suất được tự do hoá thì dư nợ tín dụng đã vượt nhiều
so với mức dự kiến.
Bảng 1: Tốc độ tăng huy động vốn và sử dụng vốn
Tốc độ tăng so với năm trước (%) Năm
Cho vay Huy động
1990 43,39 82,1
1991 76,02 19,3
1992 50,2 9,1
1993 53,58 34,9
1994 44,09 37,6
1995 26,58 34,3
1996 20,4 28,9
1997 22,6 25,7
1998 16,5 34
1999 19,2 34
2000 25 29
2001 23,1 24,5
2002 27,6 22,5
9,43 Tháng 6/2003 15,03
Nguồn: NHNN và tổng hợp tin từ: Tạp chí ngân hàng số 1/2003, Tạp chí Thị
trường tài chính tiền tệ số 3/2003, trang 11; Tạp chí tài chính tháng 10/2003,
trang 41; Khoá luận tốt nghiệp của Trần Quang Tuyến:“Chính sách lãi suất ở
Việt Nam-thực trạng và giải pháp”
Năm 2002, tín dụng cho nền kinh tế đã tăng 27,6% trong khi kế hoạch đề
ra là 23%; 6 tháng đầu năm 2003, tỷ lệ này đã lên đến 15,03%, như vậy sự tăng
1 Tạp chí tài chính tháng 10 năm 2003, trang 41
trưởng này đã lên đến mức “quá nóng”2.
Tuy nhiên, phần lớn vốn ngân hàng huy động được dùng để cho vay đối
với các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN):
Bảng 2: Cơ cấu tín dụng ngân hàng (%)
1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
DNNN 63,0 56,9 52,8 50,2 52,4 48,2 44,9
DN Tư nhân 37,0 43,1 47,2 49,8 47,6 51,8 55,1
Nguồn: IMF: Vietnam Statistical Appendix, May 11, 1999 - Table 26 và
November 9, 2001- Table 20
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, có rất nhiều doanh nghiệp nhà
nước làm ăn thua lỗ nhưng vẫn nhận được phần lớn tín dụng ngân hàng (xem
phụ lục 1). Trong đó, phải kể đến các tổng công ty 90-91, đã nhận được rất
nhiều tín dụng ngân hàng (lên đến 9000 tỷ đồng), nhưng, theo số liệu của Trung
tâm thông tin tín dụng của NHNN thì trong tổng số 30 tổng công ty 90-91 được
xếp hạng tín dụng thì chỉ có 7 tổng công ty thuộc nhóm AA và nhóm A, chiếm
23%; 4 tổng công ty xếp nhóm BB, chiếm 13%; còn 19 tổng công ty xếp loại dưới trung bình, từ B đến C, chiếm tới 64%3.
Hơn nữa, số vốn cho vay đối với các DNNN này phần lớn lại là cho vay
trung và dài hạn. Dù trong thời gian gần đây tình hình này đã được cải thiện
nhưng đây vẫn còn là một hiện tượng đáng lo ngại khi xem xét tới hiệu quả đồng
vốn: lợi nhuận bình quân trên vốn chủ sở hữu của nhiều doanh nghiệp hiện nay
chỉ vào khoảng 5-7%/ năm. Trên thực tế, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay
trung dài hạn ở một số NHTM đã lên tới 60%, cao hơn nhiều so với mức của NHNN cho phép (30%) và thông lệ Quốc tế (25%)4, dẫn đến rủi ro rất lớn.
* Về công cụ lãi suất
2 Tạp chí ngân hàng số 12 năm 2003, trang 11 3 Tạp chí ngân hàng số 14 năm 2003, trang 62 4 Tạp chí thông tin tài chính số 15 tháng 8 năm 2003, trang 10
Trước năm 90, nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung nên lãi suất chỉ được xem là công cụ phân phối lại thu nhập quốc dân,
phân phối lại sản phẩm giá trị thặng dư, là một phương tiện hạ giá thành sản
phẩm. Kể từ năm 90, chính sách lãi suất đã dần thay đổi để từng bước thích ứng
với cơ chế lãi suất thị trường:
Lãi suất thực dương
Lãi suất thực âm
1996- 1997
1998
1999 2000
2002
2003
1989- 1990
1992- 1996
T6/ 2001
- Tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ
- áp dụng - lãi Hợp suất nhất cho lãi vay suất thoả cho thuận vay tại ngắn khu hạn, vực dài hạn nông thôn
-kiểm soát lãi suất qua các công cụ, chính sách tiền tệ gián tiếp
- áp dụng trần lãi suất tín dụng ngắn hạn và lãi suất cho vay thoả thuận - Lãi suất tiền gửi vẫn được quy định cụ thể
- Thống nhất trần lãi suất tín dụng giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn. - Tự do hoá hoàn toàn lãi suất đầu vào (xoá bỏ chênh lệch lãi suất đầu vào- đầu ra)
- Lãi suất được quy định cụ thể theo kỳ hạn, ngành nghề và khu vực kinh doanh - Các tổ chức tín dụng chấp hành thụ động các mức lãi suất đã quy định
- Xoá bỏ kiểm soát lãi suất tiền gửi ngoại tệ - Lãi suất cho vay theo lãi suất cơ bản+ biên độ%
- Xoá bỏ lãi suất cho vay thoả thuận, đưa thêm trần lãi suất tín dụng khu vực nông thôn và khu vực quỹ tín dụng vào hệ thống lãi suất cho vay. - Xoá bỏ việc quy định cụ thể lãi suất tiền gửi - áp dụng chênh lệch lãi suất đầu vào-đầu ra
Lãi suất tín dụng dài hạn cao hơn lãi suất tín dụng ngắn hạn
Lãi suất tín dụng dài hạn bị ấn định ở mức thấp hơn lãi suất tín dụng ngắn hạn
Bảng 3: Điều chỉnh cơ chế lãi suất kinh doanh của các TCTD
* Về chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: chính sách tín
dụng, công tác tổ chức của ngân hàng, thông tin tín dụng, kiểm soát nội bộ, sử
dụng các hình thức đảm bảo tín dụng…. Trong nhiều năm qua, ngân hàng đã
chú trọng đến việc kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân
hàng và người sử dụng vốn.
Tuy nhiên, các NHTM Việt Nam có mức vốn rất thấp, nợ quá hạn cao
nhất là các NHTM cổ phần. Vòng quay vốn tín dụng ở nước ta chậm là do mắc kẹt vào những khoản nợ xấu có tổng dư nợ cho đến nay lên đến 23.575 tỷ đồng5.
Nợ quá hạn của hệ thống NHTM Việt Nam có chiều hướng gia tăng kể từ năm
97. Qua số liệu của IMF, WB công bố thì tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống NHTM
Việt Nam về con số thì dường như không cao so với các nước trên thế giới và
cũng dường như không đáng lo ngại:
Bảng 4: Nợ quá hạn của hệ thống NHTM Việt Nam
(% tổng dư nợ cho vay)
1995 1996 1997 1998 1999 2000
Hệ thống NH 7,9 9,3 12,4 12,0 13,2 13,1
NHTM QD 9,1 11,0 12,0 11,0 11,1 11,0
NH ngoài QD 3,3 4,2 13,5 16,4 23,0 24,4
Nguồn: IMF – Table 21, Vietnam: Statistical Appendix and Background
Notes, IMF Staff Country report No 00/116.
Năm 2001, tỷ lệ nợ xấu (bao gồm nợ quá hạn, nợ khoanh, nợ chờ xử lý) là
12,7%, đến cuối năm 2002, tỷ lệ nợ xấu còn 8% tổng dư nợ hệ thống ngân hàng6.Nhóm chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh có tỷ lệ
nợ quá hạn và nợ khó đòi thấp. Tuy nhiên, cần phải nhận thấy rằng chế độ hạch
toán kế toán, phân loại tài sản (cách định nghĩa nợ quá hạn) của Việt Nam là
không theo tiêu chuẩn Quốc tế. Ngoài ra, một số khoản nợ khó đòi liên quan đến
các vụ án không được hạch toán vào khoản mục nợ khó đòi và thường được để
5 Tạp chí ngân hàng số 7 năm 2003, trang 1 6 Tạp chí ngân hàng số 14 năm 2003, trang 34
vào “khoản mục chờ xử lý”, chế độ báo cáo cũng làm cho các con số nợ quá hạn
bị bóp méo đi. Nếu theo tiêu chuẩn Quốc tế, con số này có thể tăng lên gấp ba
lần. Năm 2001, tỷ lệ nợ xấu không đòi được do NHNN đưa ra là 12,7% trong khi tỷ lệ này do IMF đưa ra là 30%7. Vì vậy, vấn đề đặt ra là quy chế, quy định
của quy trình tín dụng vẫn còn chưa chặt chẽ.
2.2_TTTT liên ngân hàng
Nhận thức được vai trò của TTTT liên ngân hàng trong nền kinh tế thị
trường, tháng 6 năm 1993 TTTT liên ngân hàng được thành lập do NHNN tổ
chức và điều hành nhằm giúp các TCTD là thành viên sử dụng nguồn vốn của
mình có hiệu quả và đảm bảo khả năng chi trả trong thanh toán.
Đối tượng tham gia TTTT liên ngân hàng bao gồm: Ngân hàng Nhà nước,
NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân
hàng liên doanh. Các thành viên muốn gia nhập thị trường phải đảm bảo các
điều kiện theo quy định và phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong
quan hệ tín dụng với các thành viên khác và với các TCTD không phải là thành
viên. Số thành viên của thị trường tiền tệ liên ngân hàng đã tăng dần lên qua các
năm:
Bảng 5: Số lượng thành viên của TTTT liên ngân hàng qua các năm
Năm 1993 1995 1999 2003
Số thành viên 28 36 48 70
Nguồn: Luận án tiến sỹ của Vũ Thị Lợi: “Hoàn thiện cơ chế điều hoà vốn
trong thị trường tiền tệ liên ngân hàng”
Cơ chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng
* Phương thức giao dịch: Thời kỳ đầu, thị trường áp dụng phương thức
giao dịch tập trung tại vụ Tín dụng của NHNN 49 Lý Thái Tổ mỗi tuần 2 lần với
hình thức họp trực tiếp giữa các đại diện của các thành viên. Dựa vào thông tin
7 Sách: “Thử thách của hội nhập”_Phạm Đỗ Chí, Trần Nam Bình, Vũ Quang Việt_2002, trang 180
các thành viên cung cấp tại phiên họp, chủ tịch hội đồng thực hiện ghép cung
vốn và cầu vốn và điều chỉnh lãi suất cho phù hợp. Sau đó, cùng với việc ứng
dụng công nghệ, NHNN ban hành Quyết định số 190/QĐ-NH14 ngày 6/10/93
áp dụng phương thức giao dịch gián tiếp giữa các thành viên và trung tâm giao
dịch tất cả các ngày trong tuần. Từ năm 96 đến nay, các ngân hàng có thể trực
tiếp cho vay, gửi lẫn nhau mà không cần qua NHNN.
* Các loại cho vay trên thị trường: Giữa các thành viên chủ yếu là cho vay
ngắn hạn với thời gian dưới 1 năm do nhu cầu thiếu vốn tạm thời trong hoạt
động hoặc có vốn tạm thời chưa sử dụng đến. NHNN cho các thành viên vay
thanh toán do thiếu hụt trong thanh toán bù trừ. Loại vay này phụ thuộc vào khả
năng cung ứng tổng phương tiện thanh toán trong chính sách tiền tệ mà NHNN
giao chỉ tiêu cho các chi nhánh NHNN trên các địa bàn tỉnh, thành phố.
* Mức vốn cho vay: Mức vốn cho vay của thành viên phụ thuộc vào khả
năng cho vay và nhu cầu cho vay của các thành viên còn mức vốn cho vay ngắn
hạn của NHNN tuỳ thuộc vào yêu cầu của chính sách tiền tệ từng thời kỳ.
* Thời hạn vay: Thời hạn vay thanh toán từ 1 đến 10 ngày, thời hạn cho
vay ngắn hạn tối đa đến 12 tháng, trung hạn là 12 đến 16 tháng và dài hạn là trên
60 tháng.
* Hình thức cho vay và trả nợ: Các thành viên cho nhau vay theo thoả
thuận nhưng phải chấp hành các nguyên tắc đã quy định, phần lớn là dựa vào tín
chấp hoặc có sự bảo lãnh của NHNN, nếu không phải có tài sản thế chấp.
NHNN cho các thành viên vay áp dụng theo hình thức tái cấp vốn. Việc trả nợ
cho những khoản vay giữa các TCTD do các TCTD tự thoả thuận trong phạm vi
quy định của NHNN còn các khoản vay NHNN do NHNN quy định. Các thành
viên có thể trả nợ NHNN trước hạn còn với các thành viên thì phải được sự chấp
nhận của thành viên cho vay.
* Lãi suất cho vay trên TTTT liên ngân hàng: Từ năm 93-95, các ngân
hàng cho nhau vay theo cơ chế tập trung qua NHNN thì áp dụng theo mức lãi
suất do NHNN quy định trên TTTT liên ngân hàng còn số tiền do NHNN cho
vay áp dụng lãi suất tái cấp vốn. Sau đó, số tiền các ngân hàng trực tiếp cho
nhau vay áp dụng lãi suất thoả thuận phù hợp với quy định của pháp luật.
Diễn biến trên TTTT liên ngân hàng từ khi thành lập đến năm 95 cho thấy
khối lượng vốn vay giữa các ngân hàng ít hơn vay từ NHNN, tuy nhiên, lượng
vốn NHNN cho vay ngày càng giảm thể hiện vai trò can thiệp của NHNN vào
thị trường cũng giảm:
Biểu 1: Quan hệ vay và cho vay giữa các ngân hàng 93-95
Tû VND
Tæng tiÒn vay Vay lÉn nhau Vay NHNN
90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
N¨m
1993
1994
1995
Nguồn: Báo cáo tổng hợp quan hệ vay và cho vay giữa các ngân hàng
của NHNN
Sau năm 96 bắt đầu phát sinh quan hệ vay, cho vay trực tiếp giữa các
ngân hàng, đến đây, vai trò làm đầu mối của NHNN trên thị trường liên ngân
hàng giảm và cũng đã đến lúc thực hiện phương thức giao dịch trực tiếp thích
hợp hơn. Tuy nhiên, lượng tiền vay, cho vay giữa các ngân hàng rất ít. Từ khi
chuyển sang giao dịch trực tiếp, các thành viên không gửi báo cáo quan hệ liên
ngân hàng cho NHNN và NHNN không quản lý và trực tiếp theo dõi hoạt động
của thị trường.
Đến 15/10/01, NHNN ban hành Quyết định 1310/QĐ-NHNN13 về quy
chế vay vốn giữa các tổ chức tín dụng. Quy chế này quy định việc vay, cho vay
giữa các tổ chức tín dụng do các tổ chức tín dụng tự thoả thuận về thời hạn cho
vay ngắn hạn, trung, dài hạn; về lãi suất; về đảm bảo tiền vay, phương thức cho
vay, loại tiền vay và quy định về chế độ cung cấp thông tin báo cáo cho NHNN.
Bảng 6: Cơ cấu nguồn vốn của hệ thống NHTM
1996
1997
1998
1999
2000
Chỉ tiêu
QD CF
QD CF
QD CF
QD CF
QD CF
LD
LD
LD
LD
LD
NN
CT
NN
CT
NN
CT
NN
CT
NN
CT
70,6 82,7 87,5 71,5 91,6 96,0 75,0 92,7 93,8
78
93,4 65,5 74,0 93,0 94,3
TG khách hàng
11,6
1,8
-
13,0
2,0
-
13,7
1,9
-
10,1
1,3
-
11,7
1,2
-
Giấy tờ
có giá
9,5
0,4
-
9,0
0,3
-
7,9
0,5
-
8,5
1,6
-
7,2
1,5
-
Vay NHNN
8,3
15,1 12,5
6,5
6,1
4,0
3,4
4,9
6,2
3,4
3,7
34,5
7,1
4,3
5,7
Vay TCTD khác
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
Đơn vị: %
Ghi chú: - QD: NHTM Quốc doanh;
- CFCT: NHTM cổ phần và công ty tài chính
- LDNN: Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 1/2001
Mặc dù có tỷ trọng nhỏ nhưng thị trường liên ngân hàng vẫn là nơi các
TCTD bổ sung nguồn vốn của mình bằng cách vay các TCTD khác (tham khảo
phụ lục 2) hoặc NHNN. Nếu không kể các ngân hàng liên doanh và chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, dựa trên bảng số liệu trên thì nguồn vốn vay các TCTD
khác chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của các TCTD và có xu
hướng giảm từ năm 1996 đến nay.
Biểu 2: Hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng
Vay NHNN
TriÖu VND
Ho¹t ®éng liªn ng©n hµng
18000 16000 14000 12000 10000 8000 6000 4000 2000 0
1998
1999
2000
2001
N¨m
Nguồn: Báo cáo tổng hợp năm 1998 đến 2001 của NHNN
NHNN có vị trí rất quan trọng trong TTTT liên ngân hàng, mặc dù từ năm
96 NHNN không còn tập trung theo dõi nhưng đã cung cấp cho thị trường một
lượng vốn rất đáng kể. Biểu trên thể hiện lượng vốn cho NHNN vay trong thị
trường liên ngân hàng xấp xỉ lượng vốn mà các TCTD cho nhau vay qua đó thể
hiện thị trường được NHNN sử dụng là một kênh bơm tiền vào lưu thông.
Quy mô hoạt động của thị trường liên ngân hàng nhỏ, phụ thuộc vào các
NHTM Nhà nước nên khi các NHTM Nhà nước có khó khăn về vốn khả dụng
thì hầu như thị trường không hoạt động, gây khó khăn cho thanh toán của ngân
hàng
Bảng 7: Quy mô thị trường liên ngân hàng Việt Nam theo loại hình TCTD
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
6 tháng 2002
Doanh số
Số dư
Doanh số
Doanh số
Số dư
Doanh số
Số dư
Doanh số
Số dư
Số dư
10
NHTMNN
84,5
7,2
102,1
133,6 12,6 153,2 17,6
103
16
NHTMCP
3,4
15,2
0,58
12,6
22,5
3,2
9,8
5,5
1,8
2,5
4,9
9,8
NHLD&NN
52,9
11,4
2,5
44,5
45,2
11,9
17,9
11,2
Tổng số
140,7 13,9 161,7 13,08 190,7 24,9 220,9 32,7 130,7 32,7
đơn vị: nghìn tỷ VND
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 10 năm 2003, trang 13
2.3_Thị trường tín phiếu kho bạc
Sau thí điểm thành công ở Hải Phòng, từ tháng 10/1992, tín phiếu kho bạc
đã được phát hành rộng khắp trên phạm vi cả nước. Đến ngày 26/7/1994, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 72/CP về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, tạo
ra cơ sở pháp lý đầu tiên cho hoạt động phát hành tín phiếu kho bạc.
Việc phát hành tín phiếu kho bạc được thực hiện dưới hình thức đấu thầu
với các thành viên là các NHTM, các công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ
đầu tư…. Lãi suất tín phiếu kho bạc là lãi suất chiết khấu, tức là thay vì trả lãi
trước khi đến hạn, người ta bán tín phiếu thấp hơn mệnh giá và được thanh toán
hoàn trả theo mệnh giá khi đến hạn.
Số thành viên tham gia thị trường tín phiếu kho bạc ngày càng tăng từ 30 thành viên năm 1995, đến năm 2002, số thành viên đã là 44 TCTD8 và một số
công ty bảo hiểm và quỹ tín dụng nhân dân Trung Ương. Tuy nhiên, việc tham
gia đấu thầu vẫn tập trung hầu hết vào các NHTM quốc doanh, có tiềm lực vốn
nói chung và vốn khả dụng nói riêng lớn. Trong năm 2001 NHNN đã tổ chức
được 46 phiên đấu thầu, tổng số có 90 lượt thành viên dự thầu, trong đó có 86
lượt thành viên dự thầu là các NHTM quốc doanh, 2 lượt NHTM cổ phần, 1 lượt chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 1 lượt công ty bảo hiểm9.
Biểu 3: Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc (1995-2002)
8 Tạp chí ngân hàng tháng 8 năm 2003, trang 18 9 Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ tháng 3 năm 2002, trang 27
50% NH C«ng Th¬ng
25%NH Ngo¹i Th¬ng
7%NH §T&PT
18% Thµnh viªn kh¸c
(Tổng hợp tin từ các tạp chí ngân hàng)
Hiện tại, tín phiếu kho bạc chiếm tới 80% tổng giá trị công cụ sử dụng
trên thị trường mở. Khi NHNN bán tín phiếu kho bạc thay cho việc phát hành
tín phiếu NHNN để thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì gánh nặng về chi
phí để thực hiện chính sách tiền tệ sẽ chuyển sang ngân sách. Đây là một ưu
điểm của việc sử dụng tín phiếu kho bạc trong các giao dịch nghiệp vụ thị
trường mở. Khi TTTT chưa phát triển, số lượng thành viên tham gia thị trường
còn hạn chế, số dư tín dụng tín phiếu kho bạc lại khá lớn thì việc sử dụng tín
phiếu kho bạc cho việc thực hiện chính sách tiền tệ sẽ giảm rủi ro của việc phân
tách thị trường (các ngân hàng không phải lựa chọn mua tín phiếu kho bạc hay
tín phiếu NHNN …)
Số dư tín phiếu kho bạc hiện nay khoảng trên 8000 tỷ đồng. Tín phiếu kho
bạc hiện nay đã được các tổ chức tín dụng sử dụng linh hoạt để chiết khấu, cầm
cố tại NHNN hoặc tham gia nghiệp vụ thị trường mở để đảm bảo khả năng
thanh toán và tăng trưởng tín dụng nhưng vẫn nắm được thế chủ động trong
công tác điều hành vốn. Vì vậy, đối với các TCTD, đầu tư vào tín phiếu kho bạc
Nhà nước không chỉ là một hình thức đầu tư an toàn mà còn là một hình thức
đầu tư dự phòng nhằm bảo đảm tính thanh khoản của TCTD. Hiện nay, các
TCTD đã quan tâm nhiều hơn đến việc đầu tư vào tín phiếu kho bạc (ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã xác định chiến lược đầu tư khoảng 3-
5% nguồn vốn huy động vào tín phiếu kho bạc). Thị trường đấu thầu tín phiếu
kho bạc đã thể hiện được vai trò cung cấp thông tin về lượng vốn khả dụng của
các TCTD và đóng vai trò như một chất xúc tác cho sự phát triển của TTTT.
Tuy nhiên, lãi suất tín phiếu kho bạc còn bị lệ thuộc bởi sự chỉ đạo, chưa
phản ánh lãi suất thị trường (xem phụ lục 3). Kỳ hạn của tín phiếu lại hạn chế,
mới chỉ có chủ yếu loại kỳ hạn 364 ngày, 365 ngày và 182 ngày. Tín phiếu cũng
mới được phát hành bằng nội tệ, loại tín phiếu kho bạc bằng ngoại tệ chưa được
phát hành. Bên cạnh đó, thị trường thứ cấp, thị trường mua bán lại tín phiếu kho
bạc chưa phát triển nên việc sử dụng tín phiếu kho bạc của các TCTD như một
công cụ trên TTTT còn rất hạn chế. Tổng số tín phiếu kho bạc phát hành từ 6/1995 đến 29/9/2003 mới chỉ là 29.095 tỷ đồng10.
Bảng 8: Kết quả hoạt động của thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc
qua NHNN
Năm Tổng số phiên trong năm
Khối lượng trúng thầu
Giá trị dự kiến phát hành qua NHNN Thời hạn 365 ngày Thời hạn 364 ngày Thời hạn 182 ngày
1997 37 4.190 tỷ đ 2.917,5 tỷ đ
1998 46 5.130 tỷ đ 4.011 tỷ đ
1999 46 4.400 tỷ đ 3.011 tỷ đ
2000 3 43 6.750 tỷ đ 4.766 tỷ đ
2001 40 6 8.550 tỷ đ 3.955 tỷ đ
2002 50 8.410 tỷ đ 8.410 tỷ đ
Nguồn: “Tạp chí ngân hàng” số 10 năm 2003, trang 7: “Cần đa dạng
hoá các công cụ trên thị trường tiền tệ Việt Nam”_Mai Hương.
II/ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC DIỄN BIẾN TRÊN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
QUỐC TẾ ĐẾN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VIỆT NAM
1. Tác động của chính sách lãi suất:
10 Tạp chí ngân hàng số 14 năm 2003, trang 32
Kể từ ngày 1/6/2001, theo Quyết định số 718/2001 về việc tự do hoá lãi
suất cho vay bằng ngoại tệ, cơ chế tự do hoá lãi suất ngoại tệ đã bắt đầu được
thực hiện ở nước ta, cụ thể là: Các TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng Đôla Mỹ
theo thoả thuận với khách hàng dựa trên cơ sở lãi suất thị trường Quốc tế và
cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước. Do vậy, diễn biến lãi suất
USD ở trong nước đều theo sát mọi diễn biến về lãi suất trên TTTT Quốc tế.
Mỗi lần trên TTTT Quốc tế có biến động thì nhiều NHTM trong nước cũng
phản ứng theo.
Các NHTM nước ta có một khối lượng tương đối lớn vốn ngoại tệ dư thừa
gửi tại các ngân hàng nước ngoài (khoảng 5 tỷ USD), vì vậy, khó có thể tránh
khỏi những tác động lớn bởi việc tăng hay giảm lãi suất của TTTT Quốc tế. Gần
đây, trên TTTT Quốc tế, có xu hướng giảm lãi suất do việc cắt giảm lãi suất của
Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED), đã ảnh hưởng đến diễn biến lãi suất của nước
ta. Ngày 6/11/2002, FED đã cắt giảm 0,5% mức lãi suất chủ đạo đồng USD của
mình từ 1,75% xuống còn 1,25%/năm. Theo phản ứng dây chuyền, lãi suất
SIBOR và LIBOR trên các thị trường tiền tệ chủ đạo của thế giới: Thị trường
liên ngân hàng London và Singapore cũng giảm xuống tương ứng. Đến ngày
9/11/2002, lãi suất LIBOR giảm xuống còn 1,385% và lãi suất SIBOR giảm xuống còn 1,400%11.
Trước tình hình đó, lãi suất tiền gửi USD của các NHTM hoạt động ở
nước ta cũng giảm xuống tức thời. Trước thời điểm này, lãi suất huy động USD
của các NHTM ở nước ta phổ biến ở mức 2,2%-2,4%/năm đối với kỳ hạn 1
năm, cao nhất cũng chỉ trên 2,5% đối với kỳ hạn 3 năm. Do chênh lệch về múi
giờ, tiếp đến là 2 ngày nghỉ cuối tuần nên phản ứng với quyết định cắt giảm lãi
suất của FED của các NHTM nước ta có chậm hơn. Nhanh nhất là ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam ngay từ chiều ngày 7/11/2002 đã giảm lãi suất huy
động USD kỳ hạn 1 năm xuống còn 2,2% so với mức 2,4%/ năm trước đó. ACB
cũng giữ mức huy động vốn USD khá thấp: kỳ hạn 1 năm 1,5%/năm, 2 năm
11 Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ sô 12 năm 2002, trang 2
1,8%/năm12. Việc giảm lãi suất USD của các NHTM thấp hơn so với lãi suất
trên thị trường Quốc tế là do các NHTM tính tới yêu cầu chưa gây đột ngột cho
khách hàng. Ngoài ra, nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu vay vốn các dự án lớn
của các NHTM trong nước vẫn tăng lên, thậm chí, Vietcombank còn phải rút
tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài để cho vay trong nước.
Như vậy, có thể thấy tác động của lãi suất trên TTTT Quốc tế đến TTTT
Việt Nam là rất lớn:
12 Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 12 năm 2002, trang 2
Bảng 9: Diễn biến các đợt điều chỉnh lãi suất của FED, TTTT Quốc tế
Thời điểm
LSCB NHNN (%VND/năm)
Mức điều chỉnh lãi suất của FED (%/năm)
Lãi suất SIBOR (%/năm)
Lãi suất LIBOR (%/năm)
2/1/2000 21/3/2000 16/5/2000 3/1/2001 31/1/2001 20/3/2001 18/4/2001 15/5/2001 27/6/2001 21/8/2001 17/9/2001 2/10/2001 4/11/2001 12/12/2001 6/11/2002
5.75 6.00 6.50 6.00 5.50 4.50 4.25 4.00 3.75 3.50 3.00 2.50 2.0 1.75 1.25
6.500 6.767 7.500 7.185 5.121 4.604 4.380 4.871 4.063 3.632 2.990 2.545 2.016 1.761 1.281
6.600 6.763 7.482 7.188 5.125 4.601 4.384 4.864 4.060 3.628 2.988 2.560 2.020 1.764 1.284
9.00 9.00 8.70 8.40 8.40 7.80 7.80 7.80 7.20 7.20 7.20 7.44
và Việt Nam ba năm 2000-2002
Nguồn: Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ 12/2002
Để thấy rõ hơn về sự tác động của lãi suất trên TTTT Quốc tế đến lãi suất
của TTTT Việt Nam, ta có thể xem biểu sau:
Biểu 4: Diễn biến lãi suất trên thế giới và Việt Nam từ 1/3/01 đến 6/11/02
LSCB (VND)
FED
10
8
6
4
2
0
Nguồn: Tạp chí tài chính tháng 12/2002, trang 48
2. Tác động của Hiệp định thương mại Việt Mỹ:
Theo Hiệp định thương mại Việt Mỹ (HĐTMVM) ký ngày 13/7/2000, lộ
trình mở cửa một số dịch vụ tài chính-ngân hàng là như sau:
-Trong ba năm đầu, các ngân hàng Mỹ chỉ được cung cấp các dịch vụ
thông qua các liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian đó, hạn chế này sẽ
được bãi bỏ.
-Sau tám năm: các định chế tài chính có vốn của Mỹ được phát hành thẻ
tín dụng.
-Sau chín năm: được mở chi nhánh ngân hàng 100% vốn của Mỹ.
-Sau mười năm: được nhận tiền gửi bằng VND của cá nhân người Việt
Nam. Trước thời gian này vẫn nhận tiền gửi nhưng bị hạn chế tỷ lệ.
Như vậy, tác động của HĐTMVM đối với TTTT Việt Nam chủ yếu là lên
hệ thống ngân hàng, chủ thể chủ yếu của TTTT. Khi thực hiện HĐTMVM, các
cam kết mở cửa dịch vụ ngân hàng được thực hiện theo lộ trình chín năm trước
khi mọi hạn chế đối với các ngân hàng Hoa Kỳ được bãi bỏ. Theo lộ trình này,
Việt Nam phải loại bỏ dần những hạn chế đối với các ngân hàng Hoa Kỳ, cho
phép các ngân hàng Hoa Kỳ được tham gia vào mọi hoạt động ngân hàng tại
Việt Nam. Ngoài các hoạt động đã có tại Việt Nam như thanh toán quốc tế, tài
trợ thương mại,… là hàng loạt các dịch vụ mới chưa được thực hiện tại Việt
Nam như môi giới tiền tệ, kinh doanh các sản phẩm phái sinh…. Sức ép cạnh
tranh sẽ đè nặng lên các NHTM Việt Nam khi phải nới lỏng các quy định về
hoạt động của các ngân hàng Hoa Kỳ, nhất là những ràng buộc về nhận tiền gửi
VND, phát hành thẻ tín dụng và các máy rút tiền tự động.
Khả năng lớn hơn của các ngân hàng Hoa Kỳ trong việc tham gia TTTT
liên ngân hàng sẽ có sức ép nhất định đối với hoạt động quản lý của NHNN,
nhất là khi thị trường này hoạt động mạnh mẽ hơn và khi các ngân hàng Hoa Kỳ
được phép tiếp cận nghiệp vụ tái chiết khấu của NHNN. Việc điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia cũng sẽ chịu ảnh hưởng lớn của những biến động trên
TTTT, từ đó, đòi hỏi phải sử dụng linh hoạt các công cụ tiền tệ để điều chỉnh.
Ngoài ra, số lượng ngân hàng Hoa Kỳ gia tăng cũng sẽ làm tăng khối lượng
công việc của đội ngũ thanh tra Nhà nước, nhất là về giám sát và thanh tra tại
chỗ.
Khi thực hiện HĐTMVM, sức ép cạnh tranh sẽ tập trung chủ yếu vào một
số lĩnh vực sau: Thứ nhất, thị trường tín dụng: cạnh tranh về cho vay sẽ trở nên
gay gắt khi các ngân hàng nước ngoài hiểu rõ thị trường Việt Nam và môi
trường pháp lý đảm bảo cho họ xử lý rủi ro để thu hồi nợ trong trường hợp cần
thiết, trong đó, việc cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia hoạt động tái
cấp vốn, chiết khấu từ NHNN sau 3 năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực sẽ
giúp họ bù đắp một phần vốn huy động còn bị hạn chế bởi lộ trình; Thứ hai, giao
dịch thanh toán và chuyển tiền: đây là lĩnh vực có ưu thế của các ngân hàng
nước ngoài cả về loại hình và chất lượng dịch vụ, sau khi có uy tín, các ngân
hàng này sẽ thu hút một lượng đáng kể khách hàng Việt Nam; Thứ ba, dịch vụ
tư vấn, môi giới kinh doanh tiền tệ: lĩnh vực này cũng sẽ thu hút sự quan tâm
của khách hàng Việt Nam. Ngoài ra, sự cạnh tranh gay gắt còn tập trung vào
việc mở rộng đối tượng khách hàng là dân cư dưới các hình thức hoạt động: tăng
vốn huy động VND thông qua huy động tiết kiệm dân cư và vốn nhàn rỗi tạm
thời của tổ chức phi kinh tế, mở rộng hoạt động mới, nhất là dịch vụ thu phí như
thanh toán, chuyển tiền, tư vấn, môi giới, lưu ký…
Tuy nhiên, những sức ép như vậy chính là động lực để đẩy mạnh công
cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, tạo đà cho TTTT phát
triển theo xu hướng của TTTT thế giới. Các ngân hàng Việt Nam đã phải tự điều
chỉnh và hoàn thiện theo xu hướng đó.
Hoạt động đa dạng của các TCTD Mỹ theo Hiệp định đã đặt ra những yêu
cầu mới với NHNN trong hoạt động quản lý Nhà nước về hoạt động ngân hàng,
đặc biệt trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và
giám sát, thanh tra hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Việc quản lý
Nhà nước với các ngân hàng sẽ phức tạp hơn hiện nay và đòi hỏi phải có sự phối
hợp quản lý của nhiều cơ quan, không chỉ riêng NHNN.
Thêm nữa, việc thực hiện HĐTMVM là một cơ hội lớn cho ngành ngân
hàng Việt Nam để các ngân hàng trong nước tích cực tham gia cạnh tranh, tiếp
cận các dịch vụ mới, gia tăng sự hợp tác giữa các ngân hàng Việt Nam với ngân
hàng Mỹ. Ngân hàng Việt Nam hiện có lợi thế là mạng lưới rộng, tiếp cận với
cách thức quản lý và kinh doanh của các ngân hàng Quốc tế hoạt động tại Việt
Nam. Hiện NHNN Việt Nam đã có chương trình triển khai thực hiện HĐTMVM
trong ngành ngân hàng. NHNN đã hoàn tất công tác rà soát các quy định của
pháp luật hiện hành của ngân hàng so với nội dung cam kết liên quan đến lĩnh
vực dịch vụ ngân hàng của HĐTMVM. Trong 2 năm qua, NHNN đã tiến hành
sửa đổi quy chế cho vay với khách hàng của các TCTD, bổ sung quy định cho
phép các cá nhân và pháp nhân nước ngoài được vay vốn tại các TCTD hoạt
động tại Việt Nam theo đúng cam kết trong HĐTMVM. Riêng năm 2003, theo
chương trình xây dựng văn bản pháp luật của ngân hàng, các văn bản pháp luật
cần xây dựng và ban hành có liên quan đến HĐTMVM là 13 văn bản. Một định
hướng sửa đổi Luật các TCTD cũng đang được xem xét để tăng tính tự chủ và tự
chịu trách nhiệm của các TCTD tại Việt Nam.
3. Tác động của sự ra đời đồng Euro:
Tháng giêng năm 1999, đồng Euro ra đời với tư cách là đồng tiền chính
thức đại diện cho khối các nước thuộc Liên minh châu Âu, đến ngày 1/1/2002,
đồng Euro chính thức được phát hành rộng rãi trên lãnh thổ 12 nước châu Âu.
Nó tiềm ẩn một sức mạnh chung của các nước Châu Âu và kỳ vọng vào khả
năng phá vỡ thế độc tôn của đồng đôla Mỹ và đồng Yên Nhật. Việc hình thành
đồng Euro gây ra sự biến động lớn trong cơ cấu tiền tệ thế giới.
Đồng Euro đã có những ảnh hưởng nhất định đối với TTTT Quốc tế trên
cả phương diện giao dịch và tổng dự trữ ngoại tệ của NHTW. Các NHTW
Canada, Trung Quốc, Đài Loan đang hướng tới đồng Euro, chính phủ các vùng
lãnh thổ và các nước như Hồng Kông và các nước Đông Âu đều đang tăng tỷ
trọng đồng Euro trong tỷ lệ dự trữ. Cũng theo tình hình chung, đồng Euro xuất
hiện trên thị trường tiền tệ Việt Nam đã mang lại cho TTTT nước ta những thay
đổi nhất định. Euro ra đời tạo cơ hội cho Việt Nam bắt tay vào chương trình
quản lý một cách tích cực sự đa dạng hoá tiền tệ trong các mối quan hệ kinh tế
đối ngoại.
Lâu nay, trong quan hệ xuất-nhập khẩu, vay-trả nợ, cơ cấu dự trữ quốc gia
cũng như việc mua bán, chuyển đổi đầu tư vào ngoại tệ của dân cư, đồng đôla
đều được quan tâm đặc biệt bởi đôla chiếm thị phần áp đảo trong thanh toán
buôn bán, vay-trả nợ Quốc tế, trong dự trữ quốc gia. Tuy nhiên, kể từ khi xuất
hiện đồng Euro và khi đồng Euro bắt đầu vươn dậy thì sự chuyển hướng sang
đồng Euro đã bắt đầu. Trước tình hình đó, tại Việt Nam, nhiều người đổ xô đi
mua đồng Euro làm phương tiện dự trữ và kinh doanh. Tỷ trọng giao dịch đồng
Euro trong tỷ trọng giao dịch ngoại tệ của ngân hàng với khách hàng tăng vọt từ mức 3% lên mức 20%1.
Bảng 10: Tình hình giao dịch bằng đồng EURO so với USD của
Techcombank (Từ tháng 1 đến ngày 15/12/2003)
Tổng lượng bán Tổng lượng mua
EURO 278.707.200 USD 288.000.000 USD
USD 468.352.670 USD 474.670.000 USD
Nguồn: Bản tin nội bộ của Techcombank
Như vậy, tại ngân hàng này với tỷ lệ giao dịch đa số là đôla Mỹ trước đây
còn Euro chiếm rất ít thì hiện nay, tỷ lệ giao dịch bằng Euro là khoảng 50% so
với đôla Mỹ.
Ngoài quan hệ thương mại, việc Euro ra đời còn ảnh hưởng đến quan hệ
vay-trả. Từ đó, khách hàng có thể cân nhắc, lựa chọn đồng tiền thanh toán và lựa
chọn ngân hàng để thực hiện nghiệp vụ quyền lựa chọn ngoại tệ.
1 Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ 15/6/2003, trang 29.
Hơn nữa, việc ra đời đồng Euro còn tác động đến dự trữ ngoại tệ đang
chiếm chủ yếu là đồng USD và đưa ra cho Việt Nam cơ hội theo đuổi một cách
có hệ thống hơn và tích cực hơn việc quản lý đa dạng đồng tiền trong các quan
hệ Quốc tế. Bằng việc xem xét sức mạnh của đồng Euro và tham chiếu các nước
châu Âu và sự thịnh vượng của các công cụ tiền tệ cho kho bạc và quản lý dự
trữ, chúng ta có thể giảm thiểu biến động và góp phần ổn định TTTT.
III/ ĐÁNH GIÁ VỀ MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
CỦA THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VIỆT NAM
1.Môi trường pháp lý và cơ chế chính sách
1.1_Môi trường pháp lý cho các chủ thể hoạt động trên TTTT
Với việc ban hành Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã
tín dụng và công ty tài chính vào tháng 5/1990, lần đầu tiên Việt Nam có một hệ
thống văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng tương đối toàn diện và tiến bộ.
Kết quả triển khai pháp lệnh, đổi mới trong lĩnh vực tiền tệ- tín dụng là chúng ta
cơ bản tạo dựng được hệ thống ngân hàng hai cấp hoạt động có hiệu quả trong
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN; bên cạnh đó cũng tạo dựng được
hệ thống TTTT dù còn sơ khai, chưa đồng bộ nhưng đã bắt đầu đi vào hoạt
động.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới, phát triển trong thời kỳ đổi mới thì 2
pháp lệnh và cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động, quản lý trong lĩnh vực
tiền tệ-tín dụng tỏ ra tụt hậu, bộc lộ một số hạn chế cản trở tiến trình phát
triển, đổi mới để đáp ứng yêu cầu hội nhập cụ thể:
- Cơ sở pháp lý chưa đồng bộ, thống nhất, thậm chí có mâu thuẫn nội tại,
vừa thiếu vừa chồng chéo và chủ yếu là các văn bản dưới luật-điều này không
phù hợp với việc hình thành hệ thống ngân hàng hiện đại, nhất là trong thời kỳ
hội nhập.
- Cơ sở pháp lý gắn với việc xác lập chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán
còn nhiều bất cập và tỏ ra lạc hậu xa với các nước trong khu vực.
- Việc xác định địa vị pháp lý, quyền tự chủ tài chính, chức năng của các
tổ chức tín dụng chưa đầy đủ và chưa thực sự rõ ràng; chức năng nhiệm vụ,
quyền hạn của NHNN chưa tương xứng với vị thế của NHTW.
- Một số quy chế, văn bản quá lạc hậu, không còn phù hợp cần phải được
huỷ bỏ và thay thế, bổ sung.
Để tạo cơ sở pháp lý cho hệ thống ngân hàng tiếp tục phát triển trong giai
đoạn mới, ngày 12/12/1997, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật NHNN và Luật
các TCTD, hai luật này chính thức có hiệu lực từ tháng 10/1998.
So với hai Pháp lệnh ngân hàng, hai Luật ngân hàng đã có những bước
tiến bộ đáng kể. Việc ban hành hai Luật mới này cũng có ý nghĩa rất quan
trọng đối với sự phát triển và hội nhập TTTT Việt Nam. Điều này thể hiện:
- Tạo cơ sở pháp lý để trực tiếp nâng cấp, kiện toàn và phát triển các chủ
thể tham gia và quản lý TTTT.
- Cơ sở pháp lý trực tiếp và có liên quan đến hoạt động, tổ chức và vận
hành TTTT về cơ bản là được nâng cấp.
- Cơ sở pháp lý mới cũng tạo điều kiện phát triển các công cụ chủ yếu của
TTTT.
Ban hành hai luật cũng là bước tiến mới, song cho đến thời điểm hiện nay
vẫn còn những tồn tại cần phải tiếp tục bổ sung, điều chỉnh trong thời gian tới
để tạo môi trường pháp lý cho sự hoàn thiện và hội nhập của TTTT:
- Xét tổng thể môi trường pháp lý cho hoạt động của các TCTD, cho việc
quản lý, giám sát của NHNN đối với lĩnh vực tiền tệ-tín dụng cũng như cơ sở
pháp lý cho việc phát triển TTTT lên một tầm cao mới vẫn còn thiếu và chưa
thực sự đồng bộ. Ví dụ như:
+Đối với TTTT, theo Khoản 2, điều 9 Luật ngân hàng thì: TTTT là thị
trường vốn ngắn hạn, nơi mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, bao gồm tín
phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác. Như vậy, khái niệm này đã tách một bộ phận quan trọng là thị trường
tín dụng truyền thống và thị trường vay mượn liên ngân hàng ra khỏi TTTT.
+Hiện nay, việc huy động tiền gửi có kỳ hạn dưới 1 năm của các TCTD
theo khoản 3 Điều 30 Luật các tổ chức tín dụng thì “không cấm” nhưng tại
khoản 2 Điều 45 Luật này thì lại “không cho phép”.
- Việc hướng dẫn thi hành luật quá chậm
- Một số nội dung của hai luật đã tỏ ra không phù hợp, chưa chuẩn xác,
cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung.
1.2_Chính sách tiền tệ và tác động của nó đối với TTTT:
TTTT chính là môi trường cho NHNN thực thi chính sách tiền tệ, TTTT
phát triển sẽ giúp cho NHNN thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả hơn. Mặt
khác, chính sách tiền tệ lại có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển và hội
nhập của TTTT.
Chính sách tiền tệ bao gồm các bộ phận chủ yếu sau: Chính sách cung
ứng tiền; Chính sách lãi suất, tín dụng; Chính sách đối với ngân sách Nhà nước.
Sự đổi mới của mỗi bộ phận chính sách tiền tệ đều có tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp đến sự hình thành và phát triển các loại hình và công cụ của TTTT.
Trong thời gian qua, do điều kiện hệ thống NHTM chưa phát triển, chưa
thực sự tự chủ kinh doanh và do thị trường tiền tệ Việt Nam còn manh nha, việc
sử dụng các công cụ trực tiếp vẫn là chủ yếu, thậm chí có lúc buộc phải dùng
các biện pháp hành chính để can thiệp vào lĩnh vực tiền tệ-tín dụng. Các công cụ
trực tiếp được sử dụng điều tiết lượng tiền cung ứng là hạn mức tín dụng, lãi
suất (trần lãi suất). Bên cạnh các công cụ trực tiếp, đã có việc chuyển hướng
sang sử dụng các công cụ gián tiếp như: thông qua cơ chế tái cấp vốn để đưa
tiền vào lưu thông, sử dụng linh hoạt hơn chính sách dự trữ bắt buộc để tác động
đến việc cung ứng vốn của NHTM, từng bước tự do hoá lãi suất. Tuy nhiên, khi
hệ thống TTTT đã mở rộng, quá trình tự do hoá nền kinh tế, mở cửa hội nhập
kinh tế được tăng cường thì hiệu quả của các công cụ trực tiếp không chỉ suy
giảm mà còn có tác động tiêu cực, làm méo mó môi trường tiền tệ, tín dụng,
lãi suất, không đáp ứng yêu cầu giao lưu về vốn trong nền kinh tế và yêu cầu
hội nhập.
Trong chính sách tín dụng, NHNN vẫn tác động một cách trực tiếp bằng
cách cho vay chỉ định qua kênh tái cấp vốn để hỗ trợ cho các chương trình chỉ
định vốn hay áp dụng việc cho vay đối với các TCTD tạm thời mất khả năng chi
trả khi được Thủ tướng chính phủ chấp thuận. Việc làm này vẫn còn tồn tại bất
cập, bởi lẽ, khoản tín dụng này sẽ ảnh hưởng đến lãi suất liên ngân hàng làm sai
lệch thước đo lãi suất. Hơn nữa, tình trạng này còn làm cho các điều kiện tiền tệ
của nền kinh tế phụ thuộc vào các quyết định của Chính phủ.
Trong chính sách lãi suất, NHNN xác định và công bố lãi suất tái cấp vốn.
Nhu cầu vay tái cấp vốn của hệ thống ngân hàng rất không nhạy cảm đối với lãi
suất tái cấp vốn, bởi vì công cụ tái cấp vốn không được điều hành chặt chẽ theo
những nguyên tắc của thị trường: khối lượng cho vay tái cấp vốn được ấn định
bởi hạn mức và chủ yếu nhằm bổ sung vốn khả dụng cho các NHTM Nhà nước
thực hiện các chương trình, dự án kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ.
Việc tăng cường sử dụng các công cụ gián tiếp không chỉ làm cho việc
thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, hiệu quả hơn mà còn tạo điều kiện cho
hệ thống ngân hàng phát triển, thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại hình
hàng hoá, công cụ của TTTT. Việc khai trương nghiệp vụ thị trường mở đánh
dấu bước phát triển mới về chất của TTTT, kể từ đây, tín phiếu kho bạc Nhà
nước, tín phiếu NHNN và các công cụ tín dụng khác của NHTM không chỉ được
phát hành mà còn được mua đi bán lại giữa các thành viên- các TCTD, NHNN,
các tổ chức tài chính.
2. Các công cụ trên TTTT
Hàng hoá trên TTTT là công cụ để luân chuyển vốn ngắn hạn, đồng thời
nó cũng là công cụ gián tiếp để thực thi chính sách tiền tệ. Sự đa dạng và chất
lượng của các công cụ không chỉ là tiêu chí quan trọng đánh giá hiệu lực của
chính sách tiền tệ mà nó còn là tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện cũng
như khả năng hội nhập quốc tế của TTTT Việt Nam.
2.1_Tín phiếu kho bạc
Tuy là công cụ đầu tiên và chủ yếu trên TTTT, nhưng việc phát hành tín
phiếu kho bạc trong thời gian qua chủ yếu là nhằm đáp ứng bù đắp thiếu hụt
trong nhu cầu chi tiêu của ngân sách Nhà nước, còn về việc đáp ứng mục tiêu
tạo hàng cho TTTT thì còn rất hạn chế. Nếu đánh giá dưới góc độ là công cụ
của TTTT thì tín phiếu kho bạc vẫn còn một số hạn chế sau:
- Thời hạn phát hành tín phiếu chủ yếu là 1 năm (365 ngày), thời hạn này
tuy có tạo điều kiện cho ngân sách Nhà nước nhưng xét dưới góc độ là công cụ
của TTTT thì thời hạn này không phải là thời hạn thích hợp, hạn chế khả năng
luân chuyển linh hoạt vốn ngắn hạn. Mặt khác, theo khoản 2, Điều 9 và Điều 21
Luật NHNN thì: “TTTT là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua bán các giấy tờ
ngắn hạn có thời hạn dưới 1 năm…”, trong khi, từ năm 1999 về trước, chỉ có
loại tín phiếu 1 năm (365 ngày). Cho đến nay mới chỉ có chủ yếu 3 loại kỳ hạn
là 364 ngày, 365 ngày và 182 ngày.
- Lãi suất tín phiếu kho bạc chưa phản ánh một cách đầy đủ quan hệ cung
cầu trên TTTT, còn tuỳ thuộc vào lãi suất chỉ đạo của Bộ Tài chính và ý chí chủ
quan của người đặt thầu, chưa thực hiện được vai trò định hướng lãi suất trên thị
trường( xem bảng 3, phụ lục). Mối quan hệ giữa lãi suất tín phiếu kho bạc với
các loại lãi suất khác còn nhiều bất hợp lý. Thời gian gần đây, trong lúc nhiều
NHTM thiếu vốn trung và dài hạn phải huy động với lãi suất trên 8%/ năm thì
lại phải đầu tư hàng trăm tỷ đồng vào tín phiếu kho bạc Nhà nước với lãi suất
trên dưới 6%/ năm, chịu chấp nhận lỗ để giải quyết vấn đề thanh khoản và vốn khả dụng13.
13 Tạp chí ngân hàng số 10 năm 2003, trang 17
- Việc mua bán tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp còn rất hạn chế.
Tín phiếu trúng thầu chủ yếu vẫn được nắm giữ đến khi đáo hạn, chưa được mua
bán, chiết khấu trên TTTT .
- Khối lượng mua bán tín phiếu kho bạc vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Do
công tác tổ chức và chỉ đạo đấu thầu còn nhiều tồn tại nên năm 2001, số tín
phiếu bán được chỉ đạt khoảng 60% kế hoạch, 2 phiên chỉ bán được 10 tỷ đồng so với kế hoạch mỗi phiên một trăm tỷ đồng14
2.2_Tín phiếu NHNN
Ngày 8/10/1999, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số
362/1999/QĐ-NHNN1 ban hành “Quy chế phát hành tín phiếu NHNN” nhằm
chuẩn bị công cụ cho nghiệp vụ thị trường mở. Tín phiếu NHNN là giấy tờ có
giá ngắn hạn (thời hạn dưới 1 năm) do NHNN phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả
nợ của NHNN với chủ sở hữu tín phiếu. NHNN phát hành tín phiếu nhằm thực
hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ và phát triển TTTT. Tín phiếu NHNN
có độ rủi ro thấp. Việc sử dụng tín phiếu NHNN làm công cụ trên thị trường
giúp NHNN tăng cường tính độc lập. Tín phiếu NHNN là công cụ linh hoạt để
quản lý vốn khả dụng, nhưng sử dụng tín phiếu NHNN cũng đòi hỏi phải có sự
phối hợp nhất định giữa NHNN với Bộ Tài chính nhằm tránh trường hợp phân
đoạn thị trường với thị trường tín phiếu kho bạc.
Số dư tín phiếu NHNN hiện nay khoảng trên 1200 tỷ đồng, thời hạn
thường ngắn 2-3 tháng. Trước đây, tín phiếu NHNN được phát hành chủ yếu để
hạn chế gia tăng lạm phát nhưng gần đây được phát hành trên thị trường mở
nhằm mục tiêu tạo công cụ cho TTTT, điều tiết nguồn vốn ngắn hạn-bơm tiền ra
và hút tiền vào tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, hiện mục
tiêu này vẫn chưa đạt được. Với nguyên do số dư không lớn và NHNN lại còn
phải chịu chi phí phát hành nên mới đây NHNN đã ký thoả thuận với Bộ Tài
chính, theo đó, NHNN sẽ mua số tín phiếu kho bạc không được các thành viên
mua hết. Khi đó, NHNN có thể chấm dứt việc phát hành tín phiếu NHNN.
14 Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 3 năm 2002, trang 27
2.3_Các giấy tờ có giá ngắn hạn do các tổ chức tín dụng phát hành
Các giấy tờ này bao gồm kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn
hạn…. Từ 1/1/2003, việc phát hành các giấy tờ có giá của các TCTD được thực
hiện thống nhất theo Quy chế ban hành kèm theo Quyết định 1287/2002/QĐ-
NHNN ngày 22/11/2002. Theo đó, các TCTD phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn
là các TCTD được thành lập và hoạt động theo Luật các TCTD, đáp ứng đầy đủ
các điều kiện tại Quy chế này, bao gồm các TCTD Nhà nước, TCTD cổ phần
của Nhà nước và nhân dân, Quỹ tín dụng nhân dân Trung Ương, các TCTD liên
doanh, TCTD nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Công ty cho thuê
tài chính không được phép phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn. Thống đốc NHNN
hoặc giám đốc chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố được uỷ quyền ra quyết định
chấp thuận đối với kế hoạch phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong cả năm của
TCTD, trên cơ sở xem xét hồ sơ đề nghị phát hành và điều kiện phát hành.
Việc phát hành các giấy tờ có giá của các TCTD đã góp phần đa dạng
hoá các công cụ huy động vốn và tạo điều kiện phát triển thị trường thứ cấp ở
Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay, nguồn vốn huy động việc phát hành giấy tờ có
giá nói chung và giấy tờ có giá ngắn hạn nói riêng mới chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư của các
TCTD. Trong ba năm gần đây, các tỷ lệ này đã tăng đáng kể so với các năm
trước, nhưng vẫn ở mức thấp, khoảng 12% và 5% tương ứng. Hình thức giấy tờ
có giá ngắn hạn chủ yếu được các TCTD phát hành là kỳ phiếu. Kỳ phiếu chiếm
tới 95-98% tổng nguồn vốn từ phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn của các TCTD:
12/2000
12/2001
12/2002
Phát hành Giấy tờ có giá (GTCG)
20.841.843 23.012.414 38.162.188
- GTCG ngắn hạn
10.312.983
6.790.012 12.059.572
Trong đó: Kỳ phiếu
10.311.766
6.588.252 11.509.938
- GTCG dài hạn
10.528.859 16.222.402 26.102.616
Trong đó: Trái phiếu
4.682.909
4.412.168
6.158.890
Bảng 11: Tình hình phát hành giấy tờ có giá của các TCTD (Triệu đồng)
Tỷ lệ GTCG/Tổng nguồn vốn (%)
10,88
9,62
13
Tỷ lệ GTCG ngắn hạn/Tổng nguồn vốn (%)
5,38
2,84
4,11
Nguồn: Tạp chí ngân hàng, số 10 năm 2003, trang 7 Chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn là công cụ huy động vốn thông dụng trên thị
trường Quốc tế nhưng còn khá mới đối với các TCTD Việt Nam. Đến nay,
Thống đốc NHNN mới chấp thuận cho phép Ngân hàng Đầu tư và Phát triển,
một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài như: Deutsche Bank, Standard
Chartered Bank, Hongkong Bank….và Công ty cho thuê tài chính quốc tế phát
hành chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn. Chứng chỉ tiền gửi được phát hành và lưu
thông trên TTTT ở Việt Nam là bước đánh dấu sự phát triển nghiệp vụ của
NHTM huy động vốn chuyển từ nghiệp vụ tài sản nợ sang nghiệp vụ tài sản có
và góp phần tăng thêm hàng hoá lưu thông trên thị trường mở và TTTT liên
ngân hàng.
Một số công ty tài chính như Công ty tài chính Sài Gòn, Công ty tài chính
Seaprodex đã phát hành tín phiếu thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng với số dư
hiện nay chỉ khoảng 40-45 tỷ đồng. Tuy nhiên, số dư tín phiếu phát hành thấp
không phải do các công ty này có nhu cầu vốn hạn chế (mỗi đợt đệ đơn, các
công ty này thường xin phát hành tới hàng trăm tỷ đồng), mà chủ yếu do họ
không đáp ứng đủ các điều kiện của NHNN khi phát hành tín phiếu.
2.4_Thương phiếu
Thương phiếu là công cụ trên TTTT có tính lỏng cao. Sự hình thành và
phát triển của nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của thị trường thứ cấp, thị trường
chiết khấu của NHTM và thị trường tái chiết khấu của NHNN đối với các
thương phiếu. Tại các nước có TTTT phát triển, thương phiếu là một công cụ rất
quan trọng và thị trường thương phiếu có tốc độ phát triển rất nhanh. Tuy nhiên,
hình thức thương phiếu hầu như chưa được sử dụng tại Việt Nam do đến nay
khung pháp lý về công cụ này chưa hoàn thiện. Ngoài pháp lệnh thương phiếu
có hiệu lực từ 1/7/2000 và Nghị định 32 của Chính phủ, NHNN chưa ban hành
các văn bản, thông tư hướng dẫn Nghị định này. Hơn nữa, tại chính những văn
bản pháp lý hiện hành liên quan đến thương phiếu cũng còn rất nhiều bất cập,
như theo pháp lệnh, cá nhân có thể tham gia vào quan hệ thương phiếu nhưng lại
bị cấm tham gia quan hệ thương phiếu theo quy định của Nghị định 32. Ngoài
ra, những bất cập về chủ thể được quyền phát hành thương phiếu, chuyển
nhượng thương phiếu,… cũng đang gây trở ngại cho việc sử dụng thương phiếu
tại Việt Nam. Công cụ này cần được chú trọng phát triển để góp phần đưa TTTT
Việt Nam phát triển và hội nhập trong tương lai.
2.5_Hợp đồng mua lại (Repo)
Repo là việc bán chứng khoán kèm theo cam kết sẽ mua lại chứng khoán
theo một giá cố định vào một thời điểm nhất định nào đó trong tương lai. Thực
tế, Repo là việc nhà đầu tư cấp một khoản tín dụng được cầm cố bằng các chứng
khoán có thể chuyển nhượng. Tại Việt Nam, Repo chủ yếu được thực hiện trên
nghiệp vụ thị trường mở giữa NHNN và các TCTD. Hiện nay, NHNN chưa có
văn bản nào hướng dẫn việc thực hiện Repo giữa các TCTD với khách hàng.
Muốn có một TTTT phát triển để đáp ứng được yêu cầu hội nhập thì một
trong các yếu tố quan trọng là tạo cho thị trường có nhiều hàng hoá trao đổi. Vì
vậy, chính phủ phát hành tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN; các công ty cổ
phần đủ điều kiện phát hành cổ phiếu, trái phiếu; doanh nghiệp phát hành
thương phiếu; TCTD phát hành các loại giấy tờ có giá ngắn hạn. Hiện nay,
TTTT và thị trường mở ở Việt Nam đã được thực hiện tương đối linh hoạt, đáp
ứng phần nào nhu cầu về vốn khả dụng cũng như giải quyết được một phần
lượng vốn khả dụng dư thừa của các TCTD trong một số thời kỳ. Chúng ta đã
hướng được hoạt động TTTT theo xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá. Tuy
nhiên, các công cụ hoạt động trên TTTT còn thô sơ, nghèo nàn về chủng loại,
thấp về chất lượng, mới chỉ ở giai đoạn manh nha, chưa đáp ứng được yêu
cầu hội nhập.
3. Cơ chế lãi suất
TTTT hiện nay đã mang tính toàn cầu hơn bao giờ hết. Chu chuyển vốn
không chỉ bó hẹp trong một quốc gia mà còn vượt ra ngoài phạm vi của quốc
gia. Những hạn chế về chu chuyển vốn quốc tế cũng đang ngày càng bị bãi bỏ.
Sự chênh lệch quá lớn về lãi suất trong nước do áp dụng các hạn chế hoặc kiểm
soát lãi suất sẽ dẫn đến sự chu chuyển không hiệu quả của các nguồn lực tài
chính. Vậy cơ chế lãi suất của chúng ta hiện nay có gì phù hợp và không phù
hợp trong điều kiện hội nhập?
Từ năm 91, hệ thống ngân hàng chuyển sang mô hình hai cấp, trong
hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, NHNN sử dụng và điều hành linh
hoạt công cụ lãi suất phù hợp mục tiêu ngắn hạn, dài hạn và theo lộ trình tiến tới
cơ chế lãi suất thị trường:
- Tháng 8/2000 là bước ngoặt đánh dấu giai đoạn tự do hoá một cách cơ
bản. NHNN công bố lãi suất cơ bản, định kỳ mỗi tháng một lần. Các TCTD căn
cứ lãi suất cơ bản do NHNN công bố ấn định lãi suất cho vay không vượt quá
biên độ 0,3%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với cho vay
trung và dài hạn.
- Tháng 6/2001, theo Quyết định số 718/2001 về việc tự do hoá lãi suất
cho vay ngoại tệ, các TCTD được phép ấn định lãi suất cho vay bằng Đôla Mỹ
dựa trên lãi suất thị trường Quốc tế (lãi suất SIBOR) và cung-cầu vốn tín dụng
bằng ngoại tệ trong nước.
- Tháng 6/2002, theo Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN, cơ chế lãi suất
thoả thuận được thực hiện trong hoạt động tín dụng thương mại bằng Việt Nam
đồng của TCTD đối với khách hàng.
Với những bước chuyển đổi như trên, chính sách lãi suất đã có những tác
động cả tích cực và tiêu cực đối với TTTT Việt Nam:
*Tác động của tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ
Việc tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ là phù hợp với cơ chế thị trường
và thông lệ Quốc tế, khắc phục được những hạn chế của cơ chế quản lý lãi suất
theo biên độ trước đây, do đó, sẽ có những tác động tích cực đến TTTT Việt
Nam:
- Việc tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ không gây biến động gì đối với
TTTT Việt Nam trong điều kiện lãi suất trên TTTT Quốc tế đang giảm bởi lẽ,
cung ngoại tệ hiện vẫn đang lớn hơn cầu ngoại tệ.
- Tạo điều kiện mở rộng tín dụng ngoại tệ của các TCTD: Cơ chế này cho
phép những dự án mà mức độ rủi ro cao có thể tiếp cận với nguồn vốn ngoại tệ
của ngân hàng vì ngân hàng đã được phép cho vay vượt trần.
- Các TCTD chủ động hơn trước những biến động về lãi suất trên TTTT
Quốc tế, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh nguồn vốn ngoại tệ.
Trước đây, theo cơ chế điều hành lãi suất cũ, mỗi khi Cục Dự Trữ Liên Bang
Mỹ hạ lãi suất thì lãi suất đối với những khoản cho vay mới tại Việt Nam cũng
hạ ngay lập tức, trong khi ngân hàng vẫn phải huy động ngoại tệ với lãi suất cao
từ trước.
- Với cơ chế lãi suất này, các TCTD có điều kiện để nâng cao chất lượng
tín dụng thông qua việc thực hiện phân loại khách hàng. Cơ chế tự do hoá lãi
suất tạo cơ sở cho ngân hàng tiến hành cho vay với lãi suất thoả thuận, những
khách hàng có uy tín sẽ được hưởng lãi suất thấp và ngược lại.
- Đồng thời, cơ chế tự do hoá lãi suất cũng tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả, có uy tín trong quan hệ tín dụng với các ngân hàng,
đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có hiệu quả tiếp cận với
nguồn vốn tín dụng ngoại tệ của các TCTD với lãi suất thấp. Như vậy, hoạt
động của thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng cũng trở lên sôi nổi hơn.
Mặc dù tiến hành tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ là phù hợp với xu thế
chung nhưng trong điều kiện TTTT Việt Nam còn kém phát triển, năng lực quản
lý và điều hành chính sách tiền tệ của NHNN còn hạn chế thì những cũng vẫn
tồn tại những tác động tiêu cực của cơ chế này:
- Cơ chế tự do hoá lãi suất sẽ tạo quyền chủ động hơn cho các TCTD
trong hoạt động kinh doanh nguồn vốn bằng ngoại tệ, tuy nhiên, TTTT Việt
Nam, đặc biệt là thị trường cung ứng nguồn vốn ngoại tệ quy mô còn nhỏ bé và
chịu sự chi phối của một vài NHTM quốc doanh lớn (xem phụ lục 4). Do đó,
trong điều kiện tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ, giữa các ngân hàng lớn có
thể có sự liên kết, thoả thuận với nhau để chi phối thị trường, điều chỉnh lãi suất
cho vay ngoại tệ theo hướng có lợi cho các ngân hàng. Điều này có thể xảy ra
khi nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán của hoạt động xuất nhập khẩu tăng lên đột
biến.
- Việc cho vay ngoại tệ theo lãi suất thoả thuận về lâu dài sẽ gây nên tình
trạng phân hoá khách hàng sâu sắc. Những doanh nghiệp lớn, hoạt động trong
những lĩnh vực có nhiều lợi thế, có quan hệ tín dụng truyền thống với ngân hàng
sẽ dễ dàng vay được vốn ngoại tệ của ngân hàng với lãi suất thấp và các điều
kiện kèm theo thông thoáng. Ngược lại, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động
trong lĩnh vực không có nhiều lợi thế, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh sẽ phải chịu sự phân biệt đối xử, phải vay với lãi suất cao, do đó, các
doanh nghiệp này sẽ khó tiếp cận với các nguồn vốn ngoại tệ của ngân hàng
hơn. Như vậy, tình trạng bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc
tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng có nguy cơ ngày càng tăng, ảnh hưởng đến
hoạt động cho vay của TTTT.
- Việc thả nổi lãi suất cho vay ngoại tệ đồng nghĩa với việc NHNN không
thể áp đặt các biện pháp hành chính để điều tiết lãi suất, vì vậy, đặt NHNN trước
những khó khăn mới trong việc điều tiết và kiểm soát thị trường , bởi với cơ chế
này, mối tương tác giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, giữa tỷ giá và lãi suất trở nên
mật thiết hơn. Dù lãi suất Đôla Mỹ chủ yếu chịu sự chi phối của FED và thị
trường tài chính Quốc tế, nhưng trong trường hợp cần thiết, NHNN phải sử dụng
một cách linh hoạt các công cụ gián tiếp để điều tiết lãi suất cho vay bằng USD.
*Tác động của việc thực hiện lãi suất thoả thuận bằng Việt Nam đồng:
Việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận bằng Việt Nam đồng là một bước
chuyển quan trọng phù hợp với tiến trình hội nhập TTTT Quốc tế của Việt Nam,
phát huy tinh thần tự chủ kinh doanh của các TCTD. Giai đoạn từ đầu năm 2003
đến nay được đánh dấu bằng sự bùng phát lãi suất tiền gửi của các NHTM. Từ
đầu năm 2003 đến cuối tháng 7 năm 2003, vốn huy động cho đầu tư phát triển
của cả nước đã đạt 102.700 tỷ đồng, trong đó, 84.000 tỷ là từ nguồn vốn huy động trong nước15. Trong số này, vốn của doanh nghiệp và của ngân sách không
nhiều, phần lớn là vốn vay của các NHTM.
Trước hết, sự thay đổi về cơ chế lãi suất đã mang lại hiệu quả tích cực
đối với hoạt động ngân hàng, qua đó, tác động đến sự tăng trưởng của TTTT:
- Điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất thoả thuận giúp cho lãi suất (cho
vay và huy động) của các TCTD phản ánh sát tình hình quan hệ cung cầu về vốn
trên thị trường, phản ánh đúng bản chất là “giá cả” trong quan hệ tín dụng, quan
hệ vốn giữa ngân hàng với khách hàng và nền kinh tế. Đây là kết quả của cơ chế
lãi suất thoả thuận có được do tính khoa học và sự phù hợp với cơ chế thị
trường.
- Cơ chế này cho phép NHNN phát huy khả năng quản lý, vai trò chủ
động linh hoạt trong công tác điều hành chính sách lãi suất theo “tín hiệu của thị
trường”. Hạn chế việc can thiệp hành chính kém hiệu quả.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho NHNN sử dụng các công cụ điều hành chính
sách tiền tệ để tác động nhanh đến lãi suất trên thị trường theo hướng có lợi cho
hoạt động ngân hàng, cho TTTT và cả nền kinh tế.
Với tư cách là giá vốn, lãi suất có tác động điều tiết trực tiếp đến hoạt
động tín dụng: cho vay và huy động vốn, tác động đến lợi nhuận khi xem xét kết
quả kinh doanh, tính toán chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra. Theo đó, lãi suất
mang ý nghĩa quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các TCTD. Thực
hiện cơ chế lãi suất thoả thuận mang lại một số hiệu quả đối với các TCTD như
sau:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD chủ động xem xét, cân nhắc và
tính toán toàn bộ các yếu tố chi phí có liên quan trong việc khai thác và sử dụng
15 Tạp chí tài chính tháng 10 năm 2003, trang 40
vốn sao cho có lợi nhất, phù hợp với nhu cầu thị trường nhưng vẫn đảm bảo
chênh lệch dương, bù đắp chi phí và có lãi.
- Cho phép các TCTD chủ động, linh hoạt trong quá trình khai thác và sử
dụng vốn hiệu quả. Diễn biến của tình hình thị trường, của nền kinh tế và các
yếu tố tác động liên quan đến tổng cầu về vốn (như: sự tăng trưởng và phát triển
của nền kinh tế, các đơn vị sản xuất, các doanh nghiệp mới được thành lập…) đã
tác động kích thích tăng tổng cung về vốn. Theo đó, các TCTD tăng lãi suất huy
động để thu hút nguồn vốn tiền gửi dân cư, sử dụng và cho vay đáp ứng nhu cầu
về vốn của khách hàng và nền kinh tế.
- Chính lãi suất thoả thuận đã tạo khả năng phát huy vai trò của cơ chế thị
trường, của các quy luật kinh tế khách quan, với những lợi ích đem lại từ những
tác động tích cực của quy luật cạnh tranh, quy luật về giá trị và quy luật lợi
nhuận bình quân…. giúp cho các TCTD có được môi trường phát huy hết thế
mạnh và khả năng của mình.
Tuy nhiên, sau khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận đối với Việt Nam
đồng, trong 7 tháng đầu năm 2003, hoạt động ngân hàng bộc lộ một số chỉ số
đáng lo ngại, trong đó đáng quan tâm nhất là diễn biến trái chiều về lãi suất và
sự tăng trưởng nóng của hoạt động tín dụng. Cụ thể là lãi suất huy động VND
bị đẩy lên rất cao, trung bình tăng khoảng 0,02%-0,06%/tháng (đạt mức 8,0%-
8,5%/năm) so với thời điểm cuối năm 2002 đã khiến lãi suất huy động bình quân
VND tăng rất nhiều so với lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Song hành với lãi
suất huy động là lãi suất cho vay bằng VND cũng được đẩy lên mức 9-12%/năm
(tăng trung bình 0,3%-0,5%/ năm so với đầu năm). So với cuối năm trước, nhịp
tăng tổng dư nợ cho vay của toàn ngành ngân hàng là 15,03% trong 6 tháng đầu năm 2003 trong khi tổng nguồn vốn huy động chỉ tăng 9,43%16.
Do sự tăng trưởng quá nóng của tín dụng nên số lượng nợ xấu có thể tăng
lên về số lượng dù có thể giảm về tỷ lệ. Với đặc thù khoảng 70% nhu cầu vốn
cho sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng thì sự nóng lên có
16 Tạp chí tài chính tháng 10 năm 2003, trang 41
phần thái quá của thị trường tín dụng có thể trở thành gánh nặng đối với doanh
nghiệp. Điều này cũng có ảnh hưởng bất lợi đến nhiều ngân hàng, nhất là các
ngân hàng nhỏ còn hạn chế về năng lực tài chính.
Điều này là do lãi suất đã ở mức quá cao so với mức lợi nhuận đem lại từ
hoạt động kinh doanh. Hiện tại, do tỷ lệ lạm phát thấp (chỉ khoảng 2% trong 7
tháng đầu năm) nên lãi suất thực hiện ở mức 5-6%/ năm-một mức quá cao so
với các nước trong khu vực (Trung Quốc có 0,56%/năm, Hàn Quốc 0,58%/năm)
cũng như so với tỷ suất lợi nhuận bình quân của hoạt động kinh doanh. Bên
cạnh đó, lãi suất lại có sự diễn biến trái chiều với lãi suất Quốc tế và trái chiều với lãi suất ngoại tệ trong nước (cao hơn 4-5 lần so với lãi suất ngoại tệ)15.
Sự tăng trưởng tín dụng với tốc độ như trên trong điều kiện lãi suất thực
cao cộng với tình trạng một số chủ dự án đã thực hiện vay vốn bằng mọi giá dẫn
đến nguy cơ nhà đầu tư khó có khả năng hoàn trả nợ vay, như trường hợp các dự
án sản xuất xi măng, đường,…. Điều này, đến lượt ngân hàng gây ra rủi ro về
thanh khoản và nợ quá hạn đối với các NHTM cho vay. Ngoài ra, sự tăng trưởng
tín dụng lại tập trung khá nhiều vào dự án của các công ty lớn, các tổng công ty 90, 91 thậm chí có dự án có số cho vay tới hàng nghìn tỷ đồng (9.281 tỷ đồng)17.
Rủi ro đối với những dự án loại này có thể ảnh hưởng rất xấu đến toàn bộ hệ
thống ngân hàng.
Hơn nữa, sự tăng trưởng này lại đặt trong hoàn cảnh lãi suất cao là một
điều cần xem xét đến. Chỉ số thống kê bảng cân đối liên ngành cho thấy năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp rất yếu: mức đóng góp vào tăng trưởng của
vốn lên tới 52,7%, của lao động 19,1%, trong khi chỉ tiêu năng suất tổng hợp
(FRP) chỉ là 28,2%, kém xa so với mức trung bình của khu vực là 40%. Điều
này có nghĩa chất lượng tăng trưởng của các doanh nghiệp Việt Nam thấp.
Theo IMF, để đảm bảo hiệu quả hoạt động ngân hàng, chênh lệch giữa lãi
suất đầu vào và lãi suất đầu ra phải đạt khoảng 10% thế nhưng tỷ lệ hiện nay của
17 Tạp chí ngân hàng số 14 năm 2003, trang 62
các ngân hàng tại thành phố Hồ Chí Minh chưa đến 3%. Cơ cấu sử dụng vốn
vay của các NHTM không hợp lý: lượng vốn sử dụng cho vay trung và dài hạn
quá cao (cho vay trung và dài hạn đã chiếm 43,2% tổng dư nợ ngân hàng) trong
khi phần lớn vốn huy động là ngắn hạn.
Qua đánh giá nêu trên có thể nhận thấy chính sách lãi suất của Việt Nam
đi theo hướng tự do hoá là tất yếu, đúng đắn, nhưng, trước những tác động tích
cực và tiêu cực như đã phân tích, vấn đề đặt ra là với điều kiện như Việt Nam
hiện nay, việc tự do hoá hoàn toàn lãi suất đã hoàn toàn thích hợp với tình hình
phát triển của Việt Nam và yêu cầu của Quốc tế chưa.
Hiện tại, đối chiếu với các điều kiện cần thiết để tự do hoá lãi suất với
thực tế ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy rằng:
- Kinh tế vĩ mô thời gian qua ở nước ta tuy có những tiến bộ, biểu hiện xu
thế ổn định nhưng chưa thật vững chắc, còn tiềm ẩn những nhân tố bất lợi, thiếu
bền vững, chưa đáp ứng được yêu cầu ứng biến nhanh khi có tác động xấu đến
lãi suất.
- Hệ thống tài chính của Việt Nam chưa mạnh, năng lực tài chính của các
tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng còn hạn chế, mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế
của TTTT vẫn còn lạc hậu so với các nước trong khu vực (xem phụ lục 5), hoạt
động kinh doanh theo cơ chế thị trường mới ở mức tiếp cận, nhiều tồn tại cũ về
tài chính như nợ tồn đọng, nợ quá hạn,… chưa được giải quyết, trình độ, kỹ
năng và kỹ thuật, công nghệ còn nhiều bất cập.
- Dự trữ quốc gia ngoại tệ chưa đủ mạnh.
- Kinh nghiệm về xây dựng, quản lý, điều hành, giám sát và tác động vào
mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo cơ chế thị trường còn rất mới.
- Năng lực tài chính và khả năng thanh toán cũng như hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế còn nhiều khó khăn, ở
mức thấp, đang trong quá trình tìm hiểu, chuyển đổi.
- Các luật, văn bản pháp quy về hoạt động thương mại, phi thương mại
trong cơ chế thị trường, cách xử lý vi phạm… chưa rành rọt, thiếu đồng bộ,
thậm chí còn chồng chéo.
Với cơ sở kinh nghiệm thực tế mà các nước đã thực hiện tự do hoá lãi suất
và hoàn cảnh, điều kiện cụ thể ở Việt Nam hiện nay, việc nước ta đang thực
hiện tự do hoá lãi suất, để cho các tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng, hoàn
toàn tự do, chủ động thực hiện lãi suất theo thị trường cần phải được chú ý, quan
tâm theo dõi một cách sát sao, và can thiệp một cách linh hoạt, chủ động. Nếu
không việc tự do hoá lãi suất sẽ vượt quá trình độ phát triển của thị trường tài
chính-tiền tệ và nền kinh tế Việt Nam gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ cơ cấu lãi
suất trong nền kinh tế.
Tính tất yếu về xu thế hội nhập cũng như tự do hoá lãi suất theo cơ chế thị
trường là không cần bàn luận thêm. Song việc thực hiện như thế nào cho thích
hợp thì phải có sự chuẩn bị đầy đủ về mọi vấn đề có liên quan. Những thách
thức do sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt trong cơ chế thị trường giữa các tổ chức
kinh doanh tiền tệ, tín dụng; nhất là theo lộ trình thực hiện hiệp định thương mại
Việt-Mỹ thì chẳng bao lâu nữa hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng trên lãnh
thổ Việt Nam tiếp dần đến sự bình đẳng, vì vậy, phải khẩn trương chuẩn bị đủ
các điều kiện cần thiết để trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và Quốc tế,
không bị những cú sốc, hụt hẫng.
4. Mức độ hội nhập của TTTT Việt Nam.
Hiện tại, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế nhỏ với quy mô GDP tương
đương khoảng 35 tỷ USD. TTTT còn nông cạn và kém phát triển. Sự nông cạn
này được nhìn nhận qua các chỉ số M2 (tổng phương tiện thanh toán)/GDP của
Việt Nam đạt khoảng 70%. Đó là con số đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên,
chỉ số này vẫn còn thấp so với các nước (xem phụ lục 5).
*Tiền gửi nước ngoài của dân chúng và các đối tượng không phải ngân
hàng: đến nay, Việt Nam chưa cho phép công chúng, các công ty không phải
ngân hàng được mở tài khoản tiền gửi ở nước ngoài. Nhà nước thực hiện quản lý
các giao dịch tài khoản vốn khá chặt chẽ. Do đó, việc đánh giá nhu cầu tiền gửi
ở nước ngoài phải nhìn nhận gián tiếp qua tiền gửi bằng đôla trong nước (hay tỷ
lệ đô la hoá). Khi mức độ đôla hoá cao, cũng phản ánh nhu cầu điều chỉnh danh
mục tài sản của dân chúng. Tỷ lệ đôla hoá tiền gửi hiện tại là khá cao ở Việt
Nam phần nào phản ánh nhu cầu gửi tiền ra nước ngoài. Vào năm 1999-2001, tỷ
lệ đôla hoá tiền gửi của Việt Nam đã có lúc lên tới 40% so với tổng tiền gửi
(tương đương khoảng 20% GDP):
Bảng 12: Mức độ đôla hoá tiền gửi ở Việt Nam (%)
Năm
Tiền gửi bằng ngoại tệ so với tổng tiền gửi của cả hệ thống
1992 44,9
1993 42,0
1994 41,8
1995 34,6
1996 32,1
1997 34,1
1998 34,8
1999 36,8
2000 31,3
2001 31,5
2002 30,24
Nguồn: NHNN và Patrick Honhan and Anqing Shi “Deposit Dollarization and
the Financial Sector”, Globalization and national financial system
The World Bank, 2003
*Tiền gửi nước ngoài của khu vực các ngân hàng Việt Nam: Trong
những năm qua, các NHTM gửi tiền ở nước ngoài một lượng đáng kể. Trong hai
năm (2000-2003), lượng tiền gửi ở nước ngoài đã liên tục tăng và đạt khoảng
20% tổng tài sản có của cả hệ thống. Khối ngân hàng nước ngoài có tỷ trọng này
trên dưới 30% tài sản có. Đó là mức lớn hơn mức trung bình của cả hệ thống;
trong khi khối NHTM Nhà nước có tỷ lệ trung bình theo như toàn hệ thống
(20%) do đây là khối có lượng tiền gửi lớn nhất nếu xét về tuyệt đối. Tiền gửi ở
nước ngoài tăng lên phản ánh quan hệ mở cửa nhiều hơn với bên ngoài. Tuy
nhiên, có thể cũng phản ánh tình hình cho vay bằng ngoại tệ trong nước khó
khăn hơn. Suy luận này phù hợp với cho vay ngoại tệ trong nước giảm đi.
Có quan điểm cho rằng một số NHTM Việt Nam gửi quá nhiều tiền ở
nước ngoài (James A.Hanson, 2003: are small countries “underbanked”-
Globalization and national financial system-The World Bank, 2003). Tuy nhiên,
nếu so sánh tỷ lệ tiền gửi giữa hai nhóm NHTM Nhà nước và nhóm nước ngoài
ta thấy có một khoảng cách khá xa (10%). Sự khác biệt này có thể giải thích
rằng các NHTM trong nước còn yếu kém hơn các ngân hàng nước ngoài trên
phương diện quản lý danh mục đầu tư ở phạm vi toàn cầu và cũng kém ngân
hàng nước ngoài về khả năng truy cập vào hệ thống tiền tệ Quốc tế.
CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG
TIỀN TỆ QUỐC TẾ
I/ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ
HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VIỆT NAM TRONG THẾ KỶ XXI:
Quan điểm của Đảng ta về việc hội nhập TTTT, một bộ phận quan trọng
của thị trường tài chính Việt Nam vào thị trường tài chính Quốc tế đã được thể
hiện rõ trong các văn kiện của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng (năm 2001):
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VIII tại
Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế. Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
Quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng Quốc tế,
phấn đấu và hoà bình, độc lập và phát triển.... Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và
đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế Quốc tế lớn, các tổ
chức Quốc tế và khu vực.... Chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác Quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định
hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo
vệ môi trường. Chính phủ cùng các bộ, ngành, và các doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và
thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế Quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ
thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và đ doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế va đổi mới cơ chế quản lý kinh tế-xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp,
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế.
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001)
Thêm vào đó, ngày 27/11/2001, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết về
vấn đề hội nhập kinh tế Quốc tế, thể hiện rõ những quan điểm và một số biện
pháp nhằm thúc đẩy nâng cao hiệu quả trong quá trình hội nhập.
Như vậy, quan điểm hội nhập quốc tế thị trường tài chính quốc gia trong
thế kỷ 21 của Việt Nam là: “Chủ động hội nhập Quốc tế thị trường tài chính
quốc gia theo lộ trình tổng thể về hội nhập Quốc tế của toàn bộ nền kinh tế
nhằm khai thác triệt để các tác động tích cực đồng thời hạn chế tối đa các tác
động tiêu cực của quá trình hội nhập; đảm bảo an ninh, an toàn trong quá
trình hội nhập Quốc tế”. Cụ thể bao gồm các nội dung sau:
- Chủ động xây dựng lộ trình hội nhập Quốc tế thị trường tài chính quốc
gia nằm trong lộ trình hội nhập Quốc tế tổng thể nền kinh tế Việt Nam.
- Điều chỉnh hệ thống cơ chế, chính sách nhằm mở cửa thị trường tài
chính quốc nội cho sự tham gia của các cá nhân và tổ chức nước ngoài; đồng
thời khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước tham gia vào thị trường tài
chính nước ngoài.
- Củng cố hệ thống các doanh nghiệp trong nước hoạt động kinh doanh
trên thị trường tài chính quốc gia nhằm nâng cao khả năng kinh doanh, cạnh
tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước, bảo đảm sự phát triển
lành mạnh, vững chắc của thị trường tài chính trong nước.
Để thực hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thì chiến lược phát triển
cho TTTT Việt Nam để đáp ứng các yêu cầu hội nhập được xây dựng như sau:
* Chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng đến năm 2010:
Đối với NHNN:
- Nhanh chóng triển khai đưa Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vào
cuộc sống. Phát hiện và kịp thời đề xuất với Chính phủ và Quốc hội những vấn
đề cần chỉnh sửa trong Luật nói trên trong quá trình thực hiện.
- Xây dựng đề án chiến lược về mô hình tổ chức và chức năng nhiệm vụ
của NHNN theo hướng:
+ Phát triển theo chiều sâu các nghiệp vụ quản lý của NHNN với tư cách
là NHTW. NHNN trước hết là Ngân hàng của các ngân hàng và thực sự là trung
tâm tiền tệ, thanh toán và hối đoái lớn nhất.
+ Xác định rõ địa vị pháp lý của NHNN là NHTW của nước Việt Nam,
nằm trong cơ cấu của Chính phủ.
+ Tổ chức lại mạng lưới chi nhánh theo hướng rút gọn đầu mối quản lý,
hình thành các chi nhánh NHNN ở khu vực, không nhất thiết phải phụ thuộc vào
địa giới hành chính như hiện nay.
+ Hoạt động thanh tra ngân hàng phải đảm đương được nhiệm vụ là thanh
tra Nhà nước chuyên ngành đặt tại NHNN.
+ Hiện đại hoá các mặt hoạt động quản lý của NHNN trên tất cả các lĩnh
vực: đào tạo, tuyển dụng, hoạch định và điều hành chính sách đều phải được
nâng cấp và mang tính nghề nghiệp cao.
Đối với các tổ chức tín dụng:
- Nhanh chóng cấu trúc lại các TCTD theo hướng:
+ Tách bạch chức năng tín dụng chính sách ra khỏi chức năng tín dụng
thương mại. Các bước đi có thể tuần tự hoặc đan xen các hình thức như: quy các
loại chính sách vào một đầu mối, tách hoạch toán nghiệp vụ, tách mô hình tổ
chức, tiến tới hình thành một TCTD chính sách của Nhà nước hoạt động theo
quy định tại Luật các tổ chức tín dụng.
+ Nâng quy mô và năng lực tài chính của các TCTD, sớm có đề án khả thi
về thiết lập một số tập đoàn tài chính-tiền tệ cỡ trung bình của một số nước tiên
tiến trong khu vực.
+ Cổ phần hoá một số NHTM cổ phần quốc doanh nhưng vẫn đảm bảo
nguyên tắc Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối.
+ Hình thành loại hình TCTD 100% vốn nước ngoài.
+ Có giải pháp thích hợp về cơ cấu tổ chức để đưa ngân hàng đến với dân
chúng. Chỉ cho phép thành lập mới các TCTD có số chi nhánh và điểm giao dịch
tối thiểu từ 10 trở lên. Phát triển tiện ích ngân hàng, đa dạng hoá các dịch vụ
ngân hàng, phát triển các dịch vụ thanh toán trong ngân hàng để thay dần thói
quen sử dụng tiền mặt trong dân cư.
* Chiến lược hoàn thiện chính sách tiền tệ của ngành ngân hàng đến
năm 2010:
- Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ theo hướng
tự do hoá có sự điều tiết gián tiếp của Nhà nước thông qua lãi suất định hướng
lãi suất NHNN (lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản)
- Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng vừa linh hoạt
trong ngắn hạn, vừa ổn định trong dài hạn, khuyến khích xuất khẩu, góp phần ổn
định TTTT và đặc biệt là thị trường vốn.
- Hoàn thiện hệ thống TTTT thứ cấp, đặc biệt là thị trường liên ngân
hàng.
- Xây dựng và hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở, phát triển một số trung
tâm giao dịch nghiệp vụ này, coi đây là một trong những công cụ chủ yếu của
chính sách tiền tệ giúp NHNN điều tiết kịp thời và có hiệu quả lượng tiền cung
ứng phù hợp với yêu cầu kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
trong từng thời kỳ.
- Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá
các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, đồng thời xây dựng hệ thống biện pháp
kiểm soát chu chuyển nợ Quốc tế, đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát nợ nước
ngoài. Kiểm soát tiến tới xoá bỏ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán và tiết kiệm
trong nội địa tiến tới trên lãnh thổ Việt Nam chỉ thanh toán và tiết kiệm bằng
đồng Việt Nam.
- Kiểm soát, hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng Đôla hoá trên cơ sở
nâng cao vị thế đồng Việt Nam, đa dạng hoá các công cụ tài chính, các hình thức
đầu tư phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, kết hợp với các biện pháp
quản lý ngoại tệ nói trên.
II/ CÁC YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC HỘI NHẬP THỊ
TRƯỜNG TIỀN TỆ:
Thế giới ngày nay đang đứng trước xu hướng mang tính quy luật là các
nền kinh tế của mọi quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau, hợp tác chặt chẽ
với nhau ở phạm vi khu vực cũng như toàn cầu. Đây cũng là vấn đề mang tính
thời sự đối với TTTT. Quá trình hội nhập Quốc tế hiện nay là một xu hướng tất
yếu khách quan không cho phép Việt Nam đứng ngoài cuộc. Chính sách mở cửa
nền kinh tế đã tạo thuận lợi cho sự du nhập dòng tài chính từ bên ngoài vào đưa
TTTT Việt Nam tiếp cận thị trường toàn cầu rộng lớn. Vì vậy, yêu cầu hội nhập
đối với TTTT Việt Nam là một tất yếu khách quan.
Mức độ hội nhập, mở cửa về ngân hàng (tín dụng, tiền tệ và các dịch vụ
ngân hàng) của Việt Nam cho đến nay chưa tương thích, thấp hơn mở cửa
thương mại và các dịch vụ khác. Đồng thời, mức độ mở cửa hội nhập Quốc tế về
ngân hàng của Việt Nam còn rất hạn chế, thấp hơn nhiều so với khu vực và thế
giới. Vì vậy, để hội nhập thì TTTT Việt Nam phải đáp ứng được các yêu cầu
sau:
1. Tạo môi trường thuận lợi cho các chính sách tiền tệ hoạt động có hiệu
quả. Điều này phải gắn liền với việc phát triển các công cụ trên TTTT đa dạng
về chủng loại, có chất lượng nhằm phát triển TTTT theo hướng hội nhập.
2. Đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế, cần nhanh chóng xây dựng bộ máy
làm luật một cách chuyên nghiệp hơn so với trước đây. Các cơ quan của chính
phủ cần bám sát các nhu cầu thực tiễn của các NHTM, bám sát lộ trình gia nhập
của ngành để đề ra các chính sách, đồng thời coi các nhu cầu bức xúc của các
NHTM và nền kinh tế để làm cơ sở cải cách hành chính.
3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam, xây dựng một
hệ thống ngân hàng có uy tín, hoạt động có hiệu quả, an toàn, có khả năng huy
động vốn tốt trong xã hội để có thể trước hết là tự bảo vệ mình sau đó là cạnh
tranh với những ngân hàng nước ngoài vừa lớn về quy mô, vừa đa dạng về dịch
vụ.
4. Phát triển cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát trong hệ thống
ngân hàng phù hợp với thông lệ Quốc tế có hiệu quả và hiệu lực để ngăn chặn và
phòng ngừa rủi ro trong các các hoạt động trên TTTT.
5. Mở cửa thị trường trong nước trên cơ sở xoá bỏ dần các giới hạn đối
với các đối tác nước ngoài, bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và các
tổ chức nước ngoài theo các cam kết song phương và đa phương.
III/ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ QUỐC
TẾ
Trước những vấn đề còn tồn tại trong TTTT, để TTTT có thể phát triển và
hội nhập cần phải có những giải pháp hữu hiệu. Trong giai đoạn hiện nay, sự
hoàn thiện và phát triển TTTT ngoài việc đáp ứng yêu cầu nội tại của nền kinh
tế còn phải đáp ứng yêu cầu hội nhập về tài chính ngân hàng và tự do hoá tài
chính. Để đáp ứng đồng thời hai yêu cầu này, TTTT phải phát triển và lành
mạnh. TTTT trong nước phát triển sẽ thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế nói
chung, hội nhập tài chính nói riêng và tiến trình tự do hoá tài chính. Vì vậy,
giải pháp để nâng cao khả năng hội nhập của TTTT Việt Nam vào TTTT
Quốc tế chính là giải pháp giúp phát triển thị trường và hoàn thiện TTTT Việt
Nam theo hướng phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ Quốc tế. Trên cơ sở
đó, người viết xin nêu ra một số giải pháp như sau:
1. Các giải pháp về môi trường pháp lý và cơ chế chính sách:
Hiện nay, việc ban hành Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng, cùng
hàng loạt Nghị định và các văn bản hướng dẫn Luật đã tạo cơ sở pháp lý và có ý
nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển TTTT Việt Nam. Tuy nhiên, xét tổng
thể môi trường pháp lý cho hoạt động của các TCTD cũng như cơ sở pháp lý
cho việc phát triển TTTT lên một tầm cao mới để đáp ứng yêu cầu hội nhập
vẫn còn thiếu và chưa thực sự đồng bộ; việc thi hành luật còn quá chậm; một
số nội dung của luật không theo kịp xu hướng phát triển của thị trường. Có
thể nói, môi trường pháp lý là căn cứ quan trọng để TTTT và các chính sách tiền
tệ hoạt động an toàn, hiệu quả trong cơ chế thị trường và hội nhập Quốc tế, vì
vậy, người viết xin đề xuất các giải pháp sau:
1.1_Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động của TTTT
- Tăng cường cơ sở pháp lý nhằm xác định đúng đắn quan hệ phối hợp tín
dụng giữa NHNN với ngân sách nhà nước, với các cơ quan nhà nước để tăng
cường tính độc lập của NHNN. Định rõ và đầy đủ địa vị pháp lý, chức năng,
nhiệm vụ của NHNN là NHTW. Đề cao vai trò của NHNN trong điều chỉnh vĩ
mô đối với lĩnh vực tiền tệ-tín dụng, kiểm soát lạm phát, đạc biệt là vấn đề giám
sát đối với toàn bộ hệ thống tín dụng ngân hàng và TTTT, đồng thời đảm bảo
đầy đủ quyền tự chủ kinh doanh cho các NHTM, các NHTM hoạt động kinh
doanh bình đẳng theo pháp luật.
- Tăng cường pháp chế XHCN, kỷ cương tài chính, cương quyết giải thể
hoặc sáp nhập những TCTD làm ăn thua lỗ, không đủ vốn điều lệ. Đẩy nhanh
quá trình lành mạnh hoá để tạo ra hệ thống ngân hàng vững mạnh.
- Tiếp tục hoàn thiện và phát triển nền tảng pháp lý cho hệ thống ngân
hàng theo hai hướng: Một là: nhanh chóng ban hành một cách đồng bộ, hệ thống
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng
nhằm tạo hành lang pháp lý mới, đầy đủ, chặt chẽ; Hai là: bổ sung, điều chỉnh
một số nội dung của hai Luật này cho phù hợp với thực tế yêu cầu mới của hệ
thống ngân hàng cũng như của nền kinh tế.
+ Điều chỉnh lại thời hạn các giấy tờ có giá ngắn hạn: là từ một năm trở
xuống, cho phép các tín phiếu kho bạc 365 ngày được giao dịch trên TTTT.
+ Cho phép các tổ chức tài chính phi ngân hàng có đủ các điều kiện, đáp
ứng yêu cầu được huy động tiền gửi có kỳ hạn dưới 1 năm để tạo điều kiện cho
hoạt động của TTTT.
+ Cho phép giao dịch trái phiếu chính phủ mà có thời hạn đáo hạn dưới 1
năm được giao dịch như hàng hoá trên TTTT
- Tạo môi trường pháp lý thuận lợi, thu hút nhiều nhà đầu tư trực tiếp
tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ trên TTTT để TTTT hoạt động sôi động,
phát triển TTTT thứ cấp, nâng cao khả năng điều hoà vốn ngắn hạn trên phạm vi
toàn bộ nền kinh tế. Các chủ thể cần thu hút, ngoài các TCTD, bao gồm: các tổ
chức tài chính phi ngân hàng (công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty chứng
khoán, công ty tài chính…); các tổ chức phi tài chính (các doanh nghiệp,…); các
nhà môi giới, các nhà đầu tư tư nhân. Đặc biệt, cần sửa đổi quy chế hoạt động
của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, cho phép các tổ chức không phải là các
TCTD, thậm chí cả các cá nhân nếu họ có tiền mặt và tiền gửi. Điều này sẽ giúp
cho hoạt động của thị trường mở sôi động hơn, từ đó, hình thành và phát triển
TTTT thứ cấp.
- Sửa đổi bổ sung quy chế hoạt động của thị trường mở, ban hành quy chế
tiêu chuẩn hoá việc phát hành kỳ phiếu của các NHTM: Sớm ban hành những
văn bản hướng dẫn Pháp lệnh thương phiếu. Hoàn thiện cơ chế trích lập và sử
dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng.
1.2_Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ
Bên cạnh việc theo đuổi các mục tiêu cơ bản của mình thì việc điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN phải nhất quán chuyển nhanh, chuyển vững chắc
sang sử dụng các công cụ gián tiếp là cơ bản. Đây là xu thế đúng, phù hợp với
quy luật thị trường và thông lệ Quốc tế, qua đó nâng cao hiệu lực của chính sách
tiền tệ:
-Chính sách cung tiền: Tăng cường sử dụng các công cụ gián tiếp không
chỉ làm cho việc thực thi chính sách cung ứng tiền linh hoạt hơn mà còn làm cho
các loại hình và công cụ của thị trường tiền tệ phát triển. Đặc biệt, cần hoàn
thiện và phát triển hoạt động nghiệp vụ thị trường mở nơi tín phiếu kho bạc Nhà
nước và tín phiếu ngân hàng không chỉ được phát hành mà còn được mua đi bán
lại giữa các thành viên-các TCTD với NHNN, thúc đẩy TTTT thứ cấp phát triển.
-Chính sách lãi suất, tín dụng: NHNN phải sử dụng một cách linh hoạt,
hiệu quả các công cụ gián tiếp để điều tiết lãi suất cho vay, nhất là đối với USD.
-Chính sách đối với ngân sách: Tiến hành thường xuyên việc đấu thầu tín
phiếu và trái phiếu chính phủ không chỉ đáp ứng mục tiêu bù đắp thiếu hụt chi
tiêu của ngân sách Nhà nước mà còn trở thành hàng hoá quan trọng trên TTTT.
Cải tiến cơ chế lãi suất đấu thầu theo hướng sát hơn với thị trường, phản ánh
cung cầu về vốn trên thị trường.
2. Các giải pháp về cơ chế hoạt động và cơ cấu tổ chức của TTTT
2.1_Hoàn thiện TTTT sơ cấp, hình thành và phát triển TTTT thứ cấp
2.1.1_Hoàn thiện TTTTsơ cấp
Hiện nay, TTTT Việt Nam mới ở dạng sơ khai, kém rất xa với trình độ
phát triển của TTTT Quốc tế, TTTT sơ cấp mới hình thành còn TTTT thứ cấp
hầu như chưa có; hàng hoá còn nghèo nàn về chất lượng và chủng loại,
phạm vi thị trường bó hẹp trong phạm vi hệ thống các TCTD . Vì vậy, để phát
triển và hội nhập TTTT Việt Nam trước hết phải hoàn thiện TTTT sơ cấp:
-Chuẩn xác hoá, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các công cụ. Khắc
phục tình trạng còn nghèo nàn hàng hoá trên TTTT.
-Mở rộng phạm vi thị trường, đa dạng hoá các chủ thể tham gia: TTTT
hiện nay mới chỉ bó hẹp trong phạm vi các TCTD và các chủ thể hoạt động trên
thị trường chủ yếu là các NHTM. Với phạm vi hẹp như vậy, TTTT không thể
thực hiện tốt chức năng cung ứng và điều hoà vốn ngắn hạn cho nền kinh tế
được. Cần có giải pháp tạo môi trường thuận lợi thu hút các tổ chức và cá nhân
trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ trên TTTT như: các công ty tài
chính, công ty bảo hiểm, doanh nghiệp, nhà đầu tư tư nhân…
-Hoàn thiện phương thức phát hành: Trước hết, các loại công cụ như tín
phiếu kho bạc cần được phát hành đều đặn để các TCTD và các chủ thể khác có
kế hoạch chủ động, đồng thời, các loại công cụ này phải được phát hành với số
lượng đủ lớn làm phát sinh và nuôi dưỡng các giao dịch trên thị trường. Về mặt
kỹ thuật cần thực hiện đấu thầu và công bố kết quả đấu thầu qua mạng vi tính để
mọi thành viên trên thị trường được biết kết quả cùng một lúc, đảm bảo nhanh
chóng, chính xác và công bằng.
2.1.2_Hình thành và phát triển TTTT thứ cấp
TTTT Việt Nam kém linh hoạt, thậm chí có lúc ách tắc và không thực
hiện tốt chức năng điều hoà vốn chủ yếu là do chưa hình thành thị trường thứ
cấp. Khi các TCTD lâm vào tình trạng ứ đọng vốn thì các họ sẽ chuyển hướng
để “kinh doanh trên lưng nhau”, “kinh doanh” với NHNN và kho bạc Nhà nước
tạo thành vòng luẩn quẩn, không thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế. Do chưa có
TTTT thứ cấp, điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ gián tiếp kém
hiệu lực, cách khá xa mức độ phát triển của TTTT Quốc tế. Vì vậy, hình thành
và phát triển thị trường thứ cấp là mục tiêu quan trọng nhất của việc hoàn
thiện và phát triển TTTT Việt Nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập Quốc tế,
muốn vậy phải:
- Trên phương diện tổng thể phải có kế hoạch để kiên quyết loại bỏ tình
trạng thanh toán bằng tiền mặt quá lớn trong nền kinh tế.
- NHNN phải tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng khác, xúc tiến
tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là tích cực hoàn thiện, tạo cơ sơ pháp
lý nhanh chóng, đầy đủ và an toàn cho các thị trường thứ cấp đi vào hoạt động.
Thị trường thứ cấp không phát triển hoặc khập khễnh thì toàn bộ TTTT khó có
cơ hội phát triển tốt.
- Hoàn thiện hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở:
+ Sửa đổi bổ sung trong các văn bản liên quan đến hoạt động của nghiệp
vụ thị trường mở theo hướng đa dạng hoá và nâng cao chất lượng hàng hoá, mở
rộng thành viên
+ Sớm hoàn thiện hệ thống kỹ thuật, nhanh chóng tiến hành nối mạng
giữa các thành viên thị trường với NHNN để thị trường hoạt động thông suốt.
+ Tiến hành tổ chức các phiên giao dịch đều đặn hơn, cho phép các loại
tín phiếu kho bạc kỳ hạn 1 năm giao dịch trên thị trường và trong thời gian tới,
đưa thương phiếu vào giao dịch trên thị trường mở.
+ Cần tạo ra sự bình đẳng giữa các TCTD, giảm cho vay theo chỉ định,…
để thu hút nhiều TCTD thuộc các thành phần kinh tế tham gia giao dịch trên thị
trường mở.
2.2_Hoàn thiện các loại hình TTTT hiện có ở nước ta hiện nay
2.2.1_Hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng truyền thống
Ở nước ta hiện nay và trong vài năm tới, thị trường này vẫn chiếm tỷ
trọng cao nhất và giữ một vai trò quan trọng. Để từng bước phát triển và hoàn
thiện thị trường này tiến tới hội nhập nhất là trong điều kiện các hiệp định
thương mại với các lộ trình tự do hoá dần như hiện nay, chúng ta phải thực
hiện đồng bộ các giải pháp đối với cả hoạt động huy động vốn đến hoạt động
cho vay, cụ thể:
a. Đối với việc huy động vốn tín dụng ngắn hạn
Việc tăng cường huy động vốn tín dụng ngắn hạn không những đòi hỏi
ngoài việc đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: ổn định tiền tệ, kiềm chế
lạm phát, củng cố sức mua đồng tiền, ổn định tỷ giá hối đoái, thực hiện chính
sách lãi suất theo cơ chế thị trường mà còn phải có những phương pháp, cách
thức huy động vốn phù hợp hay nói cách khác đòi hỏi phải hoàn thiện các công
cụ huy động vốn hiện có, bổ sung những công cụ mới thích hợp. Việc huy động
vốn tín dụng ngắn hạn ở nước ta chủ yếu được thực hiện qua 2 kênh: tiền gửi tiết
kiệm và tiền gửi thanh toán. Nhưng trong quá trình phát triển kinh tế, cộng với
những tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì tỷ trọng vốn huy động qua các công cụ
huy động vốn cũng có sự thay đổi, lượng vốn huy động qua tiền gửi thanh toán
của cá nhân các tổ chức kinh tế sẽ ngày càng tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn. Do
vậy, các biện pháp để tăng vốn huy động sẽ tập trung vào việc tăng vốn huy
động qua công cụ tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế và cá nhân.
Với công cụ này, do mục đích chính của người gửi tiền là dùng để thanh
toán chứ không vì kinh doanh và do ngân hàng không phải in tiền và các loại
chứng chỉ tiền gửi, mà tự các cá nhân và các tổ chức kinh tế thấy cần thiết phải
mang tiền đến gửi để thực hiện thanh toán. Do đó lãi suất mà ngân hàng phải trả
thường thấp hơn các loại huy động vốn khác, chi phí huy động cũng thấp, không
những thế ngân hàng còn thu được một phần từ dịch vụ thanh toán, nên hình
thức này có rất nhiều lợi ích xét về mặt kinh tế. Theo hướng này cần thực hiện
các giải pháp sau:
- Hoàn thiện và phát triển phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
phù hợp với cơ chế thị trường. Mặc dù năm 1991, NHNN đã ban hành Quyết
định 101/QĐ-NH về thanh toán không dùng tiền mặt và Quyết định 181/QĐ-NH
về thanh toán bù trừ, và ngày 25/11/1993 Chính phủ cũng đã ban hành Nghị
định 91/CP về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt. Năm 1996, Chính phủ
tiếp tục ban hành Nghị định 30/CP quy định về thanh toán séc trong nền kinh tế,
nhưng cho đến nay, công tác thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta còn rất
kém, tỷ lệ thanh toán dùng tiền mặt vẫn chiếm một tỷ trọng cao, đặc biệt là trong
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và trong các tầng lớp dân cư. Điều này không
những tạo ra sự kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn mà còn gây mất an toàn xã
hội, đồng thời còn tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế gây bất hợp pháp và
tham nhũng…. Để phát triển phương thức thanh toán phải: đưa ra nhiều phương
tiện thanh toán đa dạng; hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán; hiện đại hoá công
nghệ thanh toán.
- Tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng đối với các loại hình ngân
hàng, nới lỏng những quy định đối với các ngân hàng liên doanh, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, ngân hàng cổ phần… để các ngân hàng này phát huy thế
mạnh, kinh nghiệm trong việc huy động tiền gửi.
- Xây dựng các điểm rút tiền, thanh toán tự động séc cá nhân, thẻ thanh
toán tại các khu vực công cộng (mạng lưới các bưu cục, các siêu thị, khách sạn),
tạo điều kiện để dân chúng không phải mất thời gian đến ngân hàng, kho bạc rút
tiền mặt ra chi tiền.
- Ngân hàng thực hiện thông báo thường xuyên về tình hình, số dư tài
khoản cho các tổ chức kinh tế có tiền gửi tại ngân hàng thông qua mạng giúp các
tổ chức này thường xuyên nắm được thực trạng số dư tài khoản của mình
b. Đối với hoạt động cho vay
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của ngân hàng cũng như của bất
kỳ một doanh nghiệp nào, yếu tố đầu ra luôn đóng vai trò quan trọng và quyết
định. Chính hoạt động cho vay hay năng lực hấp thụ vốn đầu ra của các định chế
tài chính là nhân tố cực kỳ quan trọng để thúc đẩy quá trình thu hút vốn đầu tư
vào, từ đó góp phần phát triển thị trường tín dụng. Tuy nhiên, hoạt động cho
vay còn rất nhiều bất cập, gây ảnh hưởng đến chất lượng và quy mô tín dụng:
nợ quá hạn trong toàn bộ hệ thống cao, nền kinh tế thì thiếu vốn trong khi
các ngân hàng lại thừa vốn không cho vay được…. Vì vậy, cần phải thực hiện
các giải pháp sau để phát triển và nâng cao chất lượng của hoạt động cho vay:
- Khuyến khích các ngân hàng, các TCTD đa dạng hoá các loại hình cho
vay, kể cả hoạt động thuê mua, bảo lãnh tín chấp, đồng tài trợ, cho vay hợp
vốn…
- Tăng cường vốn tự có của các ngân hàng và các TCTD bởi vì dù các
ngân hàng có nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các hình thức cho vay nhưng
theo quy định về tỷ lệ cho vay tối đa với một khách hàng trên vốn tự có của
TCTD là 15% (tỷ lệ này cũng phù hợp với những chuẩn mực và thông ước quốc
tế) trong khi vốn tự có của các ngân hàng nước ta lại quá nhỏ, do đó lượng cho
vay không đáp ứng được nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh.
- Tiến hành xếp hạng tín nhiệm các doanh nghiệp để các ngân hàng có cơ
sở, căn cứ cho vay
- Xử lý những khoản nợ quá hạn: Tỷ lệ nợ xấu trong toàn bộ hệ thống
Ngân hàng nói chung vẫn còn cao, một số năm gần đây nợ xấu chiếm khoảng
11% tổng dư nợ, trong đó Ngân hàng thương mại Nhà nước chiếm 9% (tỷ lệ nợ
quá hạn an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế là dưới 3%). Việc giải quyết nợ xấu đã
được các Ngân hàng quan tâm tích cực giải quyết, song còn nhiều vướng mắc,
số nợ tồn đọng là rất lớn, trong số nợ tồn đọng loại có tài sản đảm bảo chỉ chiếm
40% còn lại không có tài sản đảm bảo là 60%, trong 60% thì 20% là không có
tài sản bảo đảm là những con nợ không còn hoạt động, hoặc gặp nguyên nhân
khách quan về thiên tai, giải thể phá sản. Phần lớn con nợ là Doanh nghiệp Nhà
nước hiệu quả sử dụng vốn thấp, thua lỗ chờ giải thể, nên nhiều khoản nợ xấu
chưa được hạch toán chuyển nợ quá hạn, khoảng hơn 10.000 tỉ đồng tài sản thế
chấp tồn đọng chưa xử lý được.
- Cải tiến các quy định, thủ tục và điều kiện vay vốn, nhất là các quy định
về bảo lãnh, cầm cố thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng. Thực hiện bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận tín dụng, mức lãi suất tín dụng.
Chấm dứt việc dùng vốn tín dụng của các NHTM quốc doanh để ưu đãi hoặc hỗ
trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước.
- Thành lập thêm một số ngân hàng chính sách nhằm tách hẳn chức năng
tín dụng chính sách ra khỏi chức năng tín dụng thương mại để cho các NHTM
hoạt động kinh doanh bình đẳng theo pháp luật. Hoặc phải tách bạch triệt để cơ
chế tín dụng ưu đãi với cơ chế hoạt động kinh doanh của ngân hàng: đồng thời
phải thực hiện giám sát chặt chẽ, tránh tình trạng hạch toán lẫn lộn.
- Thay đổi cách xác định thời hạn tín dụng cho phù hợp với chu kỳ sản
xuất kinh doanh (ví dụ như quy định thời hạn trả nợ đối với dự án đầu tư không
quá 10 năm là không phù hợp vì có nhiều dự án lớn như dự án trồng cây công
nghiệp dài ngày không thể đáp ứng yêu cầu này)
- Tăng cường chức năng thẩm định, quản lý, giám sát con nợ của các ngân
hàng. Ngân hàng phải có những điều kiện kiên quyết hơn đối với những khoản
cho vay, kể cả việc bắt các doanh nghiệp vay vốn phải cải cách, đổi mới sản
xuất kinh doanh để hoạt động có hiệu quả.
2.2.2_Hoàn thiện TTTT liên ngân hàng
Đi vào hoạt động từ tháng 7/93, nhưng đến nay quy mô thị trường này
vẫn còn nhỏ, kém linh hoạt, còn trông cậy nhiều vào sự bảo lãnh của NHNN,
chưa đủ lớn mạnh để hội nhập. Để phát triển thị trường này đáp ứng được yêu
cầu hội nhập cần tập trung vào thực hiện các vấn đề sau:
-Đẩy mạnh việc củng cố hệ thống ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh,
tiềm lực tài chính và thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng
nhằm đảm bảo sự lành mạnh và an toàn của cả hệ thống và tạo ra những thành
viên có đủ uy tín trên thị trường.
-Áp dụng kỹ thuật, công nghệ thanh toán hiện đại để đảm bảo việc thanh
toán, chuyển vốn được thực hiện một cách nhanh gọn, chính xác ngay trong
ngày, có như vậy, các giao dịch vay mượn rất ngắn từ 1 ngày đến 1 tuần mới có
thể phát triển, đặc biệt là những giao dịch vốn qua đêm, một bộ phận chiếm tỷ
trọng rất lớn trong thị trường liên ngân hàng.
-Tổ chức đấu thầu thường xuyên tín phiếu kho bạc đồng thời phát triển
các công cụ của TTTT khác như chứng chỉ tiền gửi, hối phiếu, kỳ phiếu, thương
phiếu… để có các phương tiện làm thế chấp trong các quan hệ vay mượn giữa
các ngân hàng, tránh những rủi ro trong các giao dịch cũng như sự lệ thuộc quá
nhiều vào sự bảo lãnh của NHNN.
-Thành lập các công ty môi giới làm trung gian cho các giao dịch trên thị
trường nhằm giúp cho cung cầu trên thị trường này gặp nhau một cách dễ dàng,
thuận lợi hơn.
-Tiếp tục củng cố và hoàn thiện việc cung cấp thông tin của trung tâm
thông tin tín dụng ngân hàng.
-Sửa đổi, bổ sung và ban hành lại các văn bản pháp quy về thanh toán bù
trừ liên ngân hàng cho phù hợp với Luật ngân hàng và tình hình mới. Mở rộng
cho phép các thành viên khác của TTTT được tham gia thanh toán bù trừ, nhất
là các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Khuyến khích
các TCTD hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật để tiến tới thực hiện
phương pháp thanh toán thủ công và bán thủ công đang áp dụng. Đồng thời
cũng áp dụng các biện pháp bảo mật để tránh rủi ro trong thanh toán điện tử. Có
vậy mới đáp ứng được yêu cầu thanh toán vốn nhanh chóng, chính xác, an toàn.
2.2.3_Hoàn thiện thị trường mua bán các chứng khoán ngắn hạn
a. Thị trường tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc thường có mức độ rủi ro thấp nên được ưu chuộng trên
TTTT, chúng cũng là công cụ được sử dụng để tạo nguồn bù đắp cho thiếu hụt
chi tiêu của chính phủ, nên có thể nói đây là bộ phận thị trường quan trọng và
chiếm tỷ trọng lớn trong TTTT. Nếu thị trường tín phiếu kho bạc phát triển sẽ
khiến cho các hoạt động trên TTTT trở lên sôi động hơn, hoà nhập vào xu thế
Quốc tế. Vì vậy, cần phải đưa ra các giải pháp nhằm phát triển thị trường tín
phiếu kho bạc đủ khả năng hội nhập:
- Tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc một cách đều đặn thường xuyên
nhằm giúp các NHTM, các TCTD phi ngân hàng, các doanh nghiệp có kế hoạch
chủ động sử dụng vốn của mình, đồng thời khi cần thiết có thể bán ra thị trường
để thu tiền, như vậy một lượng tín phiếu sẽ là căn cứ để thực hiện các giao dịch
mua bán lại. Tuy nhiên , quy mô phát hành tín phiếu kho bạc phải được đặt
trong mối quan hệ nhu cầu của ngân sách nhà nước và hiệu quả kinh tế tổng thể
giữa vay của thị trường nội địa và vay ở thị trường nước ngoài.
- Kho bạc Nhà nước nên phát hành nhiều loại tín phiếu kho bạc với thời hạn khác nhau như: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hoặc 1 năm, với mức lãi xấp xỉ gần
bằng lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn cùng loại của Ngân hàng để khuyến khích
các chủ thể đầu tư vào công cụ này, đồng thời hạn chế sự ỷ lại của ngân sách
Nhà nước vào Ngân hàng như đối với loại tín phiếu kho bạc 364 ngày trong thời
gian qua.
- Hạn chế việc phát hành tín phiếu kho bạc ghi danh, mở rộng phát hành
tín phiếu kho bạc vô danh có thể chuyển nhượng, để tạo điều kiện cho chúng
được trao đổi mua bán trên thị trường thứ cấp.
- Có các quy chế nới lỏng để mở rộng các thành viên tham gia, đặc biệt là
các tổ chức tài chính phi ngân hàng và xác định lãi suất trúng thầu một cách hợp
lý, theo sát thực tế thị trường để thu hút các thành phần tham gia. Lãi suất này sẽ
là căn cứ, cơ sở để tác động đến lãi suất phát hành trái phiếu chính phủ trên
trung tâm giao dịch chứng khoán và các loại lãi suất cho vay ưu đãi khác từ
nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Kinh nghiệm của nước ta trong các năm qua
cho thấy việc cố giữ lãi suất tín phiếu kho bạc thấp hơn lãi suất thị trường đã
làm giảm đáng kể khối lượng tín phiếu bán ra và cản trở sự phát triển của thị
trường thứ cấp. Do vậy, rất cần có sự phối hợp giữa Bộ tài chính và NHNN
trong việc xây dựng các tiêu chí và phương thức hình thành lãi suất phù hợp với
thị trường.
- Thông báo đấu thầu kịp thời và sớm đến các thành viên thị trường, tránh
các trường hợp các thành viên thị trường phải đặt thầu gấp, không kịp ký quỹ
hoặc không kịp tham gia đặt thầu.
- Đẩy mạnh công tác môi giới trung gian các giao dịch mua bán lại tín
phiếu sau khi đấu thầu cũng như công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến
nghiệp vụ đấu thầu và mua bán lại sau khi đấu thầu.
- Nhanh chóng hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thị trường mở để tạo thị
trường thứ cấp cho tín phiếu kho bạc hoạt động.
- NHNN cần giám sát chặt chẽ việc giao dịch trên thị trường thứ cấp thông qua theo dõi của Sở Giao dịch và có chính sách chiết khấu thích hợp để hỗ trợ thị trường.
b. Thị trường tín phiếu Ngân hàng Nhà nước
Đây là công cụ có độ rủi ro thấp nên cũng rất được ưa chuộng trên thị
trường tiền tệ, giúp phát triển thị trường tiền tệ lớn mạnh hơn, dần đáp ứng
được các yêu cầu hội nhập. Tuy nhiên, NHNN chỉ nên sử dụng tín phiếu Ngân
hàng Nhà nước khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt kiềm chế lạm phát, rút
bớt tiền trong lưu thông. Để hoạt động này có hiệu quả cần tuân thủ các yêu cầu:
- Thực hiện hình thức tín phiếu Ngân hàng Nhà nước ghi sổ để tạo điều
kiện thuận tiện cho việc mua bán, chuyển nhượng trên thị trường thứ cấp.
- Cải tiến và thực hiện các thể thức mua lại thuận lợi, thông qua phương
thức tái cấp vốn, tái chiết khấu ngắn hạn để khuyến khích các Ngân hàng mua
tín phiếu thay vì hình thức mua bắt buộc.
Chỉ có trên cơ sở thực hiện tốt các yêu cầu này thì tín phiếu Ngân hàng
Nhà nước mới thực sự trở thành công cụ hữu dụng của TTTT.
c. Thị trường chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng
Chứng chỉ tiền gửi (CDS ) trên TTTT là những giấy biên nhận có khả năng
chuyển nhượng về khoản vốn gửi tại một ngân hàng hay một tổ chức tài chính
nào khác, nó là một công cụ vô danh có mức lãi suất và thời gian đáo hạn cố
định. Ở nước ta, CDS này hầu như chưa thể chuyển nhượng được, trừ một số
kỳ phiếu của các NHTM quốc doanh, khác xa với những diễn biến trên TTTT
Quốc tế, do vậy, để phát triển được thị trường CDS, tăng khả năng hội nhập
Quốc tế của TTTT Việt Nam, cần thực hiện các giải pháp sau:
- Cần phải quy định chuẩn hoá các loại CDS về hình thức, nội dung, kỳ
hạn cũng như các quy định về việc phát hành, lưu thông và chuuyển nhượng. Để
tạo điều kiện cho CDS được lưu thông trên thị trường thuận lợi, cần phải hướng
dẫn Ngân hàng thực hiện các quy định thì được cấp giấy phép phát hành CDS.
- Đưa vào sử dụng rộng rãi các loại CDS như: CDS lãi suất cố định, CDS
lãi suất thả nổi, CDS lãi suất chiết khấu, CDS ngoại tệ để tạo ra sự phong phú, đa
dạng các công cụ cho TTTT và tăng khả năng thu hút vốn cho các ngân hàng.
- Nâng cao khả năng chuyển nhượng, đảm bảo quyền lợi cho người nắm
giữ CDS, cho phép người sở hữu CDS bán chứng trước thời hạn cho bất kỳ một
tổ chức tài chính nào nếu được chấp nhận, nhằm mục đích tăng tính hấp dẫn
cũng như tính lỏng của công cụ này.
- Tạo sân chơi bình đẳng và phải trao quyền hạn, quy trách nhiệm rõ ràng
cho các Ngân hàng trong việc phát hành CDS, đồng thời tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc phát hành CDS, nhằm bảo đảm an toàn cho người nắm
giữ CDS và CDS được lưu thông rộng rãi.
Trong điều 46, chương III luật các TCTD đã ghi khi được thống đốc Ngân
hàng Nhà nước chấp thuận thì TCTD được phát hành CDS trái phiếu và giấy tờ
có giá khác để huy động vốn. Cho đến nay thống đốc NHNN mới chấp thuận
cho một Ngân hàng nước ngoài được phát hành CDS bằng VNĐ loại 24 tháng,
nên trong TTTT ở Việt nam còn vắng bóng công cụ này.
- Để phát triển thị trường thì yếu tố rất quan trọng là phải có các biện pháp
để phát triển đồng bộ, song song cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, do
vậy cần tạo điều kiện cho thị trường thứ cấp của CDS hoạt động.
d. Thị trường thương phiếu:
Pháp lệnh thương phiếu đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2000, Luật các tổ chức
tín dụng đã quy định về chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, nhưng
đến nay các văn bản hướng dẫn pháp lệnh chưa được ban hành nên thương
phiếu vẫn chưa được xuất hiện trên TTTT Việt Nam mặc dù nhu cầu và khả
năng sử dụng thương phiếu ở Việt Nam là rất to lớn. Hơn nữa, trên TTTT
Quốc tế, thương phiếu là một công cụ rất phổ biến. Vì vậy, để có thể đưa thị
trường thương phiếu vào hoạt động, tiến dần tới việc hoàn thiện và hội nhập, cần
có những giải pháp sau:
- Sớm ban hành các văn bản pháp lý cụ thể quy định và hướng dẫn về
hoạt động của thị trường thương phiếu trên cơ sở phối hợp giữa các bộ, ngành
hữu quan như: Bộ Tài chính, NHNN, Bộ Tư pháp, Bộ thương mại. Các văn bản
này phải đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, và nhất quán.
- Bên cạnh đó, các TCTD cũng phải sớm có quy chế chiết khấu và tái
chiết khấu thương phiếu của mình.
- Cần phải quy định rõ các mức phạt cụ thể và các cơ quan đứng ra xử lý
các tranh chấp đối với những vi phạm về thương phiếu của các chủ thể hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam để đảm bảo sự an toàn cho người cầm giữ thương
phiếu.
- Đồng thời, cần nhanh chóng tiến hành xếp hạng tín nhiệm đối với các
doanh nghiệp để các ngân hàng có cơ sở đứng ra đảm bảo bằng thư tín dụng, tạo
điều kiện cho các nhà phát hành tham gia vào thị trường thương phiếu.
3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên
3.1_Ngân hàng Nhà nước
NHNN là thành viên đặc biệt của TTTT, thông qua nghiệp vụ thị trường
mở mua bán các công cụ trên TTTT nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách
tiền tệ trong từng thời kỳ, đồng thời cũng là người tổ chức, trực tiếp quản lý điều
hành một số loại hình thị trường, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng. Tuy
nhiên, ngoài những thành công của NHNN, việc TTTT Việt Nam hiện còn kém
phát triển và thiếu linh hoạt chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập một phần
là do NHNN chưa thực hiện tốt vai trò điều tiết của mình trên TTTT. Vì vậy,
cần có những giải pháp để nâng cao năng lực hoạt động của NHNN, xây dựng
một NHNN mạnh, có tầm cỡ.
- Với tư cách là NHTW, NHNN trước hết phải tập trung thực hiện tốt các
chức năng của NHTW, trong hoạt động của TTTT phải đảm bảo là người can
thiệp cuối cùng vào thị trường và chỉ nên thông qua các công cụ quản lý gián
tiếp để tác động chi phối. Muốn vậy, phải tiến hành cải tiến và xây dựng các
công cụ chính sách tiền tệ phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay, đặc biệt
là công cụ gián tiếp.
- Trong điều hành quản lý cần phải tôn trọng các quy luật khách quan và
cơ chế thị trường. Đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh cho các tổ chức ngân hàng,
tín dụng; đồng thời đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực giám sát của NHNN
bởi đây là chìa khoá đảm bảo an ninh tiền tệ và là cơ sở quan trọng nhất để
TTTT phát triển lành mạnh, có hiệu quả.
- Xây dựng chiến lược tổng thể để có kế hoạch, bước đi, chính sách phù
hợp trong quá trình tạo dựng, phát triển TTTT.
- Đảm bảo bình đẳng theo pháp luật đối với mọi loại hình ngân hàng và
các TCTD, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh
- Thiết lập hệ thống thông tin, báo cáo mới giữa NHNN với các Bộ, ngành
và chính quyền địa phương để phối hợp điều hành chính sách tiền tệ.
- Hiện đại hoá trung tâm thanh toán, xây dựng trung tâm thanh toán quốc
gia tại NHTW, kiện toàn và phát triển hình thức thanh toán bù trừ và các hình
thức thanh toán không dùng tiền mặt khác để đảm bảo tính hiệu quả và tăng
nhanh quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
- Nâng cao năng lực phân tích, dự báo diễn biến của cung cầu tiền tệ, lãi
suất, tỷ giá của TTTT để có thể ra những quyết định chính sách đúng đắn và can
thiệp kịp thời.
- Tiến hành rà soát và bãi bỏ những Công văn, Chỉ thị, Quyết định không
còn phù hợp với tình hình hiện tại cũng như việc cấp giấy phép con không cần
thiết để tạo ra sự đồng bộ, thống nhất trong các chính sách cũng như tạo ra chủ
động tích cực trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng.
- Từng bước cải tiến mô hình tổ chức, cấu trúc lại hệ thống NHTM từ
trung ương đến địa phương theo hướng tinh giảm bộ máy biên chế, khắc phục
chồng chéo.
- Kiện toàn lại hệ thống thanh tra của NHNN, tăng cường công tác thanh
tra, giám sát của NHNN đối với hoạt động của các NHTM, tập trung vào những
nhiệm vụ trọng yếu như: chất lượng tín dụng, quản lý rủi ro và đảm bảo khả
năng thanh toán; cải thiện và nâng cao chất lượng thanh tra; về lâu dài phải hình
thành bộ máy giám sát tài chính và tiền tệ quyền lực mạnh, hiệu quả và có tính
độc lập cao.
3.2_Ngân hàng thương mại
Để thị trường tiền tệ tiếp tục phát triển và hội nhập Quốc tế thì việc tạo
ra hệ thống NHTM vững mạnh, hiệu quả, sức cạnh tranh cao có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng. Chính vì vậy, nhiệm vụ trọng tâm hiện nay và những năm tiếp
theo là phải đẩy mạnh và cương quyết lành mạnh hoá toàn bộ hệ thống ngân
hàng, các TCTD; chấn chỉnh, củng cố toàn diện hệ thống NHTM phù hợp với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập Quốc tế. Để đạt
mục tiêu này cần:
- Có biện pháp nâng cao tiềm lực tài chính, mức vốn tự có cho các NHTM
(hiện nay các NHTM của ta đều có vốn tự có rất thấp so với khu vực)
*Đối với các NHTM quốc doanh: có thể bổ sung vốn tự có từ các nguồn:
Thực hiện cổ phần hoá một số NHTM quốc doanh để tăng vốn
Phát hành trái phiếu chính phủ để lấy nguồn bổ sung hoặc NHNN
cho vay dưới hình thức tái cấp vốn để tăng tiềm lực tài chính.
Cho phép các ngân hàng giữ lại một phần hoặc toàn bộ khoản
nộp về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để bổ sung vốn.
*Đối với các NHTM cổ phần:
Giải thể hoặc sát nhập các đơn vị yếu kém
Thí điểm gọi vốn nước ngoài thông qua bán cổ phần cho người
nước ngoài.
Phát hành cổ phiếu mới
Tăng quy định về vốn pháp định đối với loại hình NHTM cổ
phần
- Củng cố và lành mạnh hoá tài chính của các NHTM, trên cơ sở:
+ Cơ cấu lại nợ, có các biện pháp tạo nguồn tài chính để xử lý số nợ
đọng, nợ khoanh, tạo môi trường tài chính lành mạnh cho ngân hàng hoạt động.
+ Tách các nghiệp vụ chính sách và cho vay theo chỉ định của chính phủ
ra khỏi các hoạt động của các NHTM quốc doanh, loại bỏ độc quyền, nhằm tạo
điều kiện và sức ép nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM quốc doanh.
+ Ban hành cơ chế để xử lý tài sản thế chấp, lập Trung tâm dịch vụ bán
đấu giá, phát triển các Công ty mua bán nợ để tạo điều kiện cho các ngân hàng
tiến hành phát mại được tài sản thế chấp thu hồi các khoản nợ.
+ Cải thiện chất lượng quản lý tài sản nợ của các NHTM, đặc biệt là phân
định rõ bản chất và mức độ rủi ro của các loại tài sản, tăng cường giám sát quản
lý thu hồi nợ, cải tiến chính sách khách hàng và điều kiện tín dụng, trích lập các
quỹ để bù đắp các khoản vốn thất thoát.
- Áp dụng hệ thống kế toán theo thông lệ Quốc tế, thực hiện kiểm toán
định kỳ về công khai tài chính đối với các NHTM.
- Sớm thực hiện đề án ứng dụng công nghệ tin học vào dịch vụ thanh toán
của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
- Phát triển các chiến lược kinh doanh của các NHTM trên cơ sở đánh giá
đúng các điểm mạnh, điểm yếu, thách thức, cơ hội và môi trường kinh doanh
mới phù hợp với lộ trình mở cửa TTTT.
- Nâng cao năng lực quản trị, kinh doanh của các NHTM, áp dụng các
công cụ và cách thức quản lý mới cho phù hợp và theo kịp các nước trong khu
vực, đặc biệt trong công tác quản lý vốn khả dụng có hiệu quả.
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, nâng cao trình độ kỹ năng mọi mặt
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, xử lý nghiêm minh những tổ chức và cá nhân có
sai phạm, từ đó rút ra bài học trong công tác đào tạo, quản lý cán bộ.
3.3_ Các tổ chức môi giới
Công ty môi giới là một hình thức rất phổ biến trên TTTT quốc tế. Để
phát triển và hội nhập TTTT Việt Nam, cần thiết phải lập một mạng lưới các
công ty môi giới. Để thiết lập loại hình này, đầu tiên nên thiết lập một vài công
ty môi giới thuộc các NHTM lớn hoạt động theo Luật doanh nghiệp để từng
bước rút NHNN ra khỏi vai trò môi giới và chỉ đóng vai trò quản lý vĩ mô trên
TTTT. Trước mắt, nên thiết lập bộ phận môi giới tiền tệ như là một phòng của
các công ty tài chính, công ty đầu tư chứng khoán trực thuộc các NHTM. Như
vậy, các công ty này có thể vừa môi giới trên TTTT vừa môi giới trên thị trường
chứng khoán bởi vì thời gian đầu cả hai loại thị trường này còn chưa phát triển,
các môi giới chưa phức tạp và chưa nhiều. Sau này khi TTTT đã phát triển hơn
thì có thể tách rời bộ phận này ra thành một công ty môi giới riêng hoạt động
trên TTTT. Điều quan trọng là các công ty môi giới này phải được luật pháp
thừa nhận. Khi nào TTTT phát triển tiến đến một mức độ nhất định thì các mạng
lưới môi giới sẽ tự động phát triển theo như là một tất yếu của thị trường.
3.4_Các Công ty tài chính
Các công ty tài chính ở nước ta hầu như là còn non trẻ. Xét về tiềm năng,
các tổ chức này là các chủ thể có vai trò đáng kể trên TTTT, cho nên khi hệ
thống các công ty này phát triển mạnh sẽ có tác dụng thúc đẩy TTTT phát
triển nâng cao khả năng hội nhập. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của Thái Lan và
Malaixia, nếu chúng ta quá dễ dàng cho các công ty này tham gia TTTT hoặc
huy động tiền gửi thì cũng có thể tạo nên những hậu họa nghiêm trọng.
Để phát triển hệ thống các công ty tài chính, nhất là việc cho phép huy
động tiền gửi, một mặt phải đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể, mặt khác phải tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động ở các công ty tài chính, đảm bảo
sự hoạt động lành mạnh, an toàn, phát huy được vai trò đối với nền kinh tế.
4. Đa dạng hoá và phát triển các công cụ mới của TTTT
Các công cụ trên TTTT chính là hàng hoá cho thị trường hoạt động,
nhưng nó phải đa dạng, phong phú, phù hợp với nhu cầu của thị trường cả ở hiện
tại và trong tương lai. Như vậy, để phát triển và hội nhập TTTT nước ta đòi
hỏi phải củng cố, hoàn thiện các công cụ đã có, đồng thời phải tạo ra các
công cụ mới phù hợp với trình độ phát triển của TTTT và xu thế trên TTTT
Quốc tế.
4.1_Các hợp đồng mua lại
Để phát triển các công cụ này, NHNN cần soạn thảo một thỏa ước chung
về hợp đồng mua lại để cho các thành viên thị trường cùng ký kết. Trong đó cần
phải bao hàm đầy đủ các nội dung sau:
*Thời hạn hợp đồng và giá chứng khoán ngắn hạn được mua bán: Do hai
bên thoả thuận
*Quyền lợi của người được chuyển nhượng: người được chuyển nhưọng
có đầy đủ quyền sở hữu đối với chứng khoán trong thời gian hợp đồng, có thể
thực hiện các quyền gắn với quyền sở hữu cho đến khi hết hạn hợp đồng
*Thể thức giao chứng khoán và thời điểm chuyển quyền sở hữu
+ Chuyển giao thực sự: Trực tiếp giao chứng khoán ngắn hạn cho nhau
hoặc chuyển chứng khoán ghi sổ.
+ Chuyển giao về mặt pháp lý: Người chuyển nhượng vẫn giữa chứng
khoán nhưng cam kết sẽ cá biệt hoá các chứng khoán đã chuyển nhượng theo tên
của người được chuyển nhượng hoặc người được uỷ quyền và người này có
quyền kiểm tra số chứng khoán đó bất cứ lúc nào trong thời gian hợp đồng.
*Nghĩa vụ của các bên
+ Trong thời gian hợp đồng, người chuyển nhượng không được phép
chuyển nhượng hoặc đem thế chấp chứng khoán cho một bên thứ ba khác.
+ Khi hợp đồng đến hạn, người chuyển nhượng phải thanh toán cho người
được chuyển nhượng theo giá đã thoả thuận và người này có trách nhiệm trả lại
chứng khoán đã nhận cho người chuyển nhượng nên đã nhận chứng khoán hoặc
ra lệnh chuyển khoản chứng khoán ghi sổ. Trường hợp chứng khoán vẫn do
người chuyển nhượng giữ thì chỉ cần chấm dứt việc có thể hoá chứng khoán đó
theo tên người được chuyển nhượng.
- Trong thời gian trước mắt, để tăng tính hiệu quả của công cụ này thì chỉ
nên quy định giao dịch các hợp đồng mua lại có kỳ hạn tối đa là 30 ngày, nếu có
thời hạn dài hơn sẽ ảnh hưởng đến thị trường và lấn sân các giao dịch khác.
4.2_Các công cụ khác
Ngoài hợp đồng mua lại, cũng cần phải có các biện pháp, chính sách, để
đưa thêm các công cụ khác vào hoạt động nhằm tạo sự đa dạng cho các công cụ
như: chấp phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi; đặc biệt là các công cụ đang phổ
biến trên thị trường tiền tệ Quốc tế như: tiền gửi kỳ hạn Eurocurrency, chứng chỉ
tiền gửi Eurocurrency có thể chuyển nhượng, các hợp đồng tương lai bảo hiểm
rủi ro lãi suất, các hợp đồng kỳ hạn bảo hiểm rủi ro lãi suất…
5. Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực
Một nguyên nhân quan trọng làm cho TTTT Việt Nam chậm phát triển
dẫn tới chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập là do lực lượng cán bộ hoạt
động kinh doanh tiền tệ tại các TCTD còn yếu kém về năng lực và trình độ.
Hầu hết là được đào tạo trong thời kỳ nền kinh tế được quản lý theo cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, vì vậy, rất lúng túng khi chuyển sang hoạt động kinh
doanh tiền tệ theo cơ chế thị trường, trong môi trường luật pháp sơ khai, không
đồng bộ. Khả năng phân tích và thẩm định dự án của cán bộ hoạt động kinh
doanh tiền tệ rất yếu, đồng thời, một bộ phận không nhỏ suy thoái về đạo đức,
tiếp tay móc ngoặc với khách hàng…là nguyên nhân làm cho tỷ lệ nợ quá hạn
của hệ thống TCTD cao, hiệu quả hoạt động kinh doanh tiền tệ thấp. Do đó, cần
có các giải pháp đồng bộ đào tạo đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ vừa có trình độ, năng lực chuyên môn cao, vừa có phẩm chất đạo
đức tốt:
- Nhanh chóng nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường, trình độ am hiểu
về pháp luật và bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ theo cơ chế thị
trường thông qua đào tạo và đào tạo lại.
- Xây dựng các mô hình thực hành, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ kinh
doanh tiền tệ; Ban hành quy chế, quy trình hoạt động đối với cán bộ kinh doanh
tiền tệ sát hợp với thực tế, điều hành theo cơ chế và kiểm tra giám sát, xử lý theo
quy chế, quy trình; Khen thưởng và xử phạt nghiêm minh, kịp thời; gắn quyền
lợi với trách nhiệm.
- Thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát và thực hiện luân
phiên cán bộ thanh tra để hạn chế những hiện tượng tiêu cực
- Thường xuyên trau dồi đạo đức, tác phong làm việc khoa học
- Để tạo điều kiện cho đội ngũ kinh doanh tiền tệ hoạt động hiệu quả cần
có một số biện pháp bổ trợ, trong đó, quan trọng nhất là tạo môi trường pháp lý
đồng bộ, phù hợp với điều kiện môi trường kinh doanh tiền tệ của Việt Nam…
Bên cạnh việc nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ, hiện đại
hoá cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm đáp ứng khả năng hội nhập Quốc tế cũng là
một yêu cầu rất cấp bách. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt
động của các chủ thể kinh doanh trên TTTT, đặc biệt là hệ thống các tổ chức tín
dụng, NHNN, kho bạc Nhà nước… đã được hiện đại hoá, tuy nhiên còn thấp so
với yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động và còn khoảng cách khá xa so với
khu vực và thế giới. Vì vậy, cần có các giải pháp hiện đại hoá hoạt động kinh
doanh tiền tệ, nhằm tiến tới hội nhập với TTTT khu vực và thế giới. Trong đó,
đặc biệt cần hiện đại hoá hệ thống thông tin. Chính vì thiếu thông tin về khách
hàng, về thị trường và khả năng trao đổi thông tin giữa các tổ chức tín dụng hạn
chế dẫn đến khả năng phân tích và thẩm định dự án của cán bộ kinh doanh tiền
tệ yếu kém. Do đó, cần phải có giải pháp xây dựng hệ thống thông tin hiện đại,
nối mạng thông suốt giữa các chủ thể tham gia hoạt động trên TTTT; giữa
NHNN, kho bạc Nhà nước với các TCTD, giữa các TCTD với nhau; giữa các
TCTD với các khách hàng là doanh nghiệp…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phần tiếng Việt:
1. Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính_Hoàng Kim, Nhà xuất bản Tài chính,
Hà Nội, 2001.
2. Giáo trình tài chính quốc tế_Nhà xuất bản Thống Kê, 2001.
3. Lý thuyết tài chính_Nhà xuất bản Tài chính, 2000.
4. Giáo trình tài chính quốc tế_Nhà xuất bản Tài chính, 2002.
5. Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở_Nguyễn Văn Tiến, Nhà xuất
bản Thống kê, 2001.
6. Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh_Nguyễn Văn
Tiến, Nhà xuất bản Thống Kê.
7. Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng_Nhà xuất bản Thống Kê.
8. Giáo trình Lý thuyết tài chính_Nhà xuất bản Thống Kê.
9. Lý thuyết tiền tệ, ngân hàng_Nhà xuất bản Thống Kê, 2000.
10. Thử thách của hội nhập_Phạm Đỗ Chí, Trần Nam Bình, Vũ Quang
Việt_2002
11. Tạp chí Thông tin Kinh Tế – Xã Hội, các số2, 10 năm 2003
12. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, các số 301, 303 năm 2003
13. Tạp chí ngân hàng, số 1 năm 2001, các số 7, 8, 11 năm 2002, các số 6 đến 14
năm 2003
14. Thị trường tài chính tiền tệ, các số 12 năm 2002; 2 đến 7, 9 đến 11 năm 2003
15. Tạp chí Tài chính, các số 1, 3, 9 năm 2001, 12 năm 2002; 4 đến 10 năm
2003
16. Tạp chí Thông tin tài chính, các số 12, 15 năm 2003
17. Văn kiện Đại hội Đảng VIII_Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 1996
Phần tiếng Anh:
1. International Financial Management_Cheol S. Eun, Georgia Institute of
Technology và Bruce G. Resnick, Wake Forest University.
2. International Financial Markets_J. Orlin Grabbe.
3. The economics of money, banking and financial markets_Frederic S.
Mishkin.
4. The techniques of foreign exchange_Carew Edna.
5. Financial Times.
6. Các trang Web: http://www.ft.com
http://www.investopia.com
http://www.nettraders.com
http://www.cfos100.com
http://www.vnexpress.net
LỜI NÓI ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã
Hội Chủ Nghĩa, TTTT Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện
theo xu hướng năng động, tích cực, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh
tế. TTTT đóng vai trò nhất định trong việc kết nối cung cầu về vốn ngắn hạn,
góp phần khơi thông và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngắn hạn tạm thời
nhàn rỗi, đáp ứng nhu cầu thiếu hụt trong thanh toán của nền kinh tế. Đồng thời,
sự phát triển của TTTT Việt Nam còn có ảnh hưởng đến hiệu lực của việc thực
thi chính sách tiền tệ thông qua các công cụ gián tiếp và sự phát triển của hệ
thống các tổ chức tài chính.
Trong những năm gần đây, trước xu thế kinh tế thế giới đang ngày càng
được Quốc tế hoá, tài chính Quốc tế được coi như là chiếc cầu nối giữa kinh tế
trong nước với kinh tế thế giới bên ngoài, liên kết tài chính giữa các nền kinh tế
trở nên chặt chẽ với nhau hơn. Chính điều này đã khẳng định vai trò vĩ mô của
TTTT Quốc tế và mối quan hệ giữa thị trường này với các TTTT mỗi quốc gia.
Trong xu thế quốc tế hoá tài chính mạnh mẽ, TTTT Việt Nam cũng không
nằm ngoài quan hệ chung này. TTTT Quốc tế đã có những ảnh hưởng nhất định
lên TTTT Việt Nam. Vì vậy, muốn cho nền tài chính-tiền tệ phát triển thì TTTT
Việt Nam cần hội nhập vào TTTT Quốc tế và đáp ứng được yêu cầu đặt ra của
quá trình hội nhập.
Do vậy, em chọn đề tài “Thực trạng và khả năng hội nhập của thị
trường tiền tệ Việt Nam vào thị trường tiền tệ Quốc tế” cho khoá luận tốt
nghiệp nhằm xem xét, đánh giá về khả năng hội nhập Quốc tế của TTTT Việt
Nam và đề ra những giải pháp để hoàn thiện TTTT Việt Nam trong tiến trình hội
nhập.
Khoá luận gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về thị trường tiền tệ
Chương II: Thị trường tiền tệ Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong tiến
trình hội nhập thị trường tiền tệ Quốc tế
Chương III: Giải pháp nhằm phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam trong
điều kiện hội nhập thị trường tiền tệ Quốc tế
Mặc dù mong muốn đóng góp nhiều nhưng do đề tài là một vấn đề lớn
trong khi năng lực còn hạn chế nên khoá luận này không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến góp ý đối với khoá luận này.
Nhân đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành của mình đến Ths. Đặng Thị
Nhàn, người đã tận tình hướng dẫn em trong việc hoàn thành khoá luận.
KẾT LUẬN
Trước xu thế kinh tế thế giới ngày càng được quốc tế hoá, kinh tế Việt
Nam đang từng bước chuyển mình, phát triển và hội nhập. Thị trường tiền tệ của
nước ta cũng không nằm ngoài xu thế này. Tuy nhiên, thị trường tiền tệ Việt
Nam vẫn còn đang ở trong giai đoạn manh nha, phạm vi của thị trường bó hẹp
trong hệ thống các tổ chức tín dụng. Vốn ngắn hạn cung ứng cho nền kinh tế chủ
yếu thông qua thị trường tín dụng ngắn hạn. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng ở
trong tình trạng đóng băng. Hàng hoá trên thị trường tiền tệ nghèo chủng loại,
kém về chất lượng. Ngoài ra, khả năng chuyển nhượng của các hàng hóa còn rất
hạn chế do thị trường tiền tệ thứ cấp hầu như chưa hình thành. Môi trường pháp
lý cho các chủ thể hoạt động kinh doanh tiền tệ thiếu, không đồng bộ và còn
nhiều bất cập. Chính vì vậy, tính linh hoạt, khả năng luân chuyển, điều hoà vốn
ngắn hạn của thị trường tiền tệ Việt Nam còn kém mà biểu hiện rõ nhất là tình
trạng ứ đọng vốn của hệ thống NHTM. Sự nghèo nàn của công cụ, thiếu linh
hoạt của thị trường làm giảm sút hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế, đồng
thời hạn chế hiệu lực của việc thực thi chính sách tiền tệ.
Chính vì vậy, khả năng hội nhập của thị trường tiền tệ Việt Nam vào thị
trường tiền tệ Quốc tế cũng còn yếu kém. Môi trường pháp lý cho thị trường tiền
tệ Việt Nam chưa phù hợp với quy luật thị trường và thông lệ Quốc tế khiến cho
thị trường tiền tệ của ta cũng chưa phát triển được theo tiêu chuẩn Quốc tế. Điều
đó dẫn đến các công cụ trên thị trường tiền tệ Việt Nam còn ít và kém hiệu quả
so với các công cụ trên thị trường tiền tệ Quốc tế.
Trong những năm tới, Việt Nam cần phải hết sức nỗ lực trong việc thực
hiện các giải pháp nhằm hoàn thiện thị trường tiền tệ theo xu hướng hội nhập
vào Quốc tế. Điều đó không chỉ có ý nghĩa riêng đối với thị trường tiền tệ, hệ
thống ngân hàng mà còn có ý nghĩa đối với cả nền kinh tế.
CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT:
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTW: Ngân hàng Trung Ương
TCTD Tổ chức tín dụng
TTTT Thị trường tiền tệ
PHỤ LỤC
dài
Số DNNN
Nợ/Vốn tự có (%)
có
Nợ/Tài sản (%)
có
có
Nợ quá hạn ngắn hạn (%)
5.429 2.196
138,8 116,7
58,9 53,9
Nợ ngắn hạn/Tài sản (%) 46,5 44,1
Nợ hạn/Tài sản (%) 10,2 7,4
5,9 1,4
Nợ quá hạn/Tổng thu phải (%) 4,9 1,1
ăn
2.393
176,6
64,1
48,8
14,3
4,8
6,9
61,4
20,4
840
278,0
84,9
32,6
26,4
Tổng số Làm có lãi Tạm thời thua lỗ Thua lỗ
Phụ lục 1: Tình hình làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp Việt Nam
Nguồn: Tạp chí ngân hàng, số 8/2002, trang 15
Tại thời điểm năm 1997
Phụ lục2: Quy mô thị trường liên ngân hàng Việt Nam
theo loại hình giao dịch
Chỉ tiêu
gửi các
2000 Doanh số 66,5 2,9 74,7 46,6
Tín dụng đối với các TCTD -Nội tệ -Ngoại tệ Tiền tại TCTD -Nội tệ -Ngoại tệ Tổng số
1998 Doanh số 52,9 43 44 0,79 140,7
1999 Số Doanh dư số 5,2 60,2 3,6 0,89 4,9 63 37,6 0,21 13,9 161,7
Số dư 2,8 0,08 7 3,2 13,08 190,7
2001 Doanh số 80,6 8 87 45,3 220,9
Số dư 7 0,788 9,2 7,9 24,9
6 tháng 2002 Doanh số 43,5 11,7 58,6 16,8 130,8
Số dư 11 1,1 11,7 8,9 32,8
Số dư 10,3 0,933 12,6 8,89 32,7
(Đơn vị: nghìn tỷ VND)
Nguồn: Vụ Tín dụng, NHNN Việt Nam: Tổng hợp tình hình giao dịch liên ngân
hàng từ báo cáo của các TCTD từ 1998-6/2002
Phụ lục 3: Lãi suất trúng thầu tín phiếu kho bạc (1995-2002)
LSTT cao nhÊt LSTT thÊp nhÊt
18 16 14 12 10 8 6 4 2 0
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
(tổng hợp tin từ các báo: -Tạp chí “ Tài chính” số tháng 1/2001, trang 56
-Tạp chí “Thị trường tài chính tiền tệ” số3/2002, trang 13
LSTT: Lãi suất trúng thầu
Phụ lục 4: Tỷ lệ tập trung trong hệ thống ngân hàng của Việt Nam
và một số nước trong khu vực
(Đơn vị:%)
Nước Thị phần tiền Tỷ lệ tiền gửi của 5 Tỷ lệ tiền gửi của 5
gửi của 5 ngân ngân hàng lớn nhất ngân hàng lớn nhất
hàng lớn nhất thuộc sở hữu Nhà thuộc sở hữu của các
ngân hàng nước ngoài nước
Việt Nam 76,69* 0 100
Cam pu chia 67 71 16
Indonesia 53,5 7 44
Hàn Quốc 48 0 30
Malaysia 30 18 0
Philippin 46 13 12
Thái Lan 75 7 31
Trung Quốc 75 - -
* Chỉ bao gồm 4 NHTM Nhà nước
Nguồn: Jens Annders Kovsted (2002), So sánh hoạt động của các khu vực tài
chính ở Việt Nam_Dự án Ciem-Nias, Viện Quản Lý Kinh tế Trung Ương.
Phụ lục 5: Độ sâu tài chính của Việt Nam và một số nước
M2/GDP(%) 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
Việt Nam 26,5 23,6 25,3 23,7 25,0 25,3 24,6
Trung Quốc 83,0 101,3 110,7 107,1 - - 92,1
43,7 Indonesia 43,3 45,8 45,6 49,1 54,3 57,0
69,2 Malaysia 66,2 78,3 89,9 89,1 96,0 105,0
38,8 Hàn Quốc 38,3 40,0 42,0 43,5 43,8 46,0
34,5 Philippines 34,1 36,2 42,1 45,7 50,3 43,0
92,3 Singapore 91,1 93,5 87,1 86,8 84,5 86,0
72,7 Thái Lan 69,8 74,9 79,2 78,7 79,5 90,0
Nguồn: WB 1997 (Table 3.4_Vietnam deepening reform for growth. An
economic report No 17931_VN Washington D.C WB)
A