BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH (cid:213)(cid:213)(cid:213)(cid:213)(cid:213)

LÊ THỊ THANH VIỆT

GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM THÚC ĐẨY THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – Ngân hàng

Mã số: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS.Nguyễn Thị Uyên Uyên

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2011

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BĐS: SXKD: NH: VN: ĐT: NHNN: NHTM: TSCĐ: DN: DNTN: DNNN: TD: IMF: WB: CK: TTCK: CDS: SPV: SIV: FED: MBS:

CDO: MCO:

Bất động sản. Sản xuất kinh doanh Ngân hàng. Việt Nam. Đầu tư Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Thương mại. Tài sản cố định Doanh nghiệp Doanh nghiệp Tư nhân Doanh nghiệp Nhà nước Tín dụng Quỹ tiền tệ quốc tế. Ngân hàng Thế giới. Chứng khoán. Thị trường Chứng khoán. Hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng. Các thể chế mục đích đặc biệt Các công cụ đầu tư kết cấu Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ. Chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (Mortgage- Backed-Security) Giấy nợ đảm bảo bằng tài sản(Collateralized-Debt-Obligations) Nợ có thế chấp được bảo đảm (Mortgage-Collateralized- Obligation) Ngân hàng Trung Ương Trung Quốc. Quỹ đầu tư tín thác BĐS ( Real estate investment trust)

CBRC: REIT:

Trang 1

MỤC LỤC

Chương 1: Tổng quan về thị trường BĐS và khủng hoảng tài chính.......... Trang 1

1.1 Tổng quan về thị trường BĐS .................................................................................

1.1.1Khái niệm và đặc điểm .......................................................................................

1.1.1.1 Khái niệm thị trường BĐS .......................................................................

1.1.1.2 Đặc điểm của thị trường BĐS ...................................................Trang 2

1.1.2 Sự cần thiết của việc hình thành và phát triển thị trường BĐS ............. Trang 3

1.1.2.1 Vai trò quan trọng của thị trường BĐS đối với nền kinh tế ...................

1.1.2.2 Vai trò quan trọng của thị trường BĐS đối với các thị trường khác của

nền kinh tế .............................................................................................Trang 4

1.1.2.3 Sự cần thiết của việc phát triển thị trường BĐS ......................Trang 4

1.1.3Các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường BĐS........................................... Trang 5

1.1.3.1 Các chủ thể tham gia...............................................................................

1.1.3.2 Cơ chế vận hành ........................................................................Trang 7

1.1.3.3 Các yếu tố khác..........................................................................Trang 7

1.2 Thị trường BĐS và khủng hoảng tài chính ............................................ Trang 8

1.2.1 Khủng hoảng tài chính và những tác động đối với thị trường BĐS...... Trang 8

1.2.1.1 Thị trường BĐS bị ảnh hưởng bởi những biện pháp đối phó với khủng

hoảng tài chính của Chính phủ..............................................................Trang 8

1.2.1.2 Thị trường BĐS bị ảnh hưởng bởi tâm lý người đầu tư trong cuộc

khủng hoảng...........................................................................................Trang 9

1.2.1.3 Các NHTM siết chặt TD gây tác động lớn đối với thị trường BĐS ......

.............................................................................................................Trang 10

1.2.2 Nghiên cứu về bong bóng BĐS cùng những tác động ........................ Trang 10

1.2.2.1 Hai trạng thái bong bóng BĐS xảy ra do tác động của tín dụng...........

.............................................................................................................Trang 11

1.2.2.2 Bong bóng BĐS xảy ra do đầu cơ ...........................................Trang 11

1.2.3 Giai đoạn thứ 2 của bong bóng BĐS................................................... Trang 11

1.2.4 Bùng nổ bong bóng BĐS..................................................................... Trang 12

Trang 2

Kết luận chương 1...........................................................................................Trang 13

Chương 2: Khủng hoảng tài chính Mỹ 2008 và những tác động đối với thị trường

BĐS nước Mỹ- Bài học kinh nghiệm cho VN

2.1 Khủng hoảng tài chính Mỹ: nguyên nhân, diễn biến và sự tác động đến thị

trường BĐS Mỹ...............................................................................................Trang 15

2.1.1 Khủng hoảng tài chính Mỹ- Diễn biến và nguyên nhân .................... Trang 15

2.1.1.1 Diễn biến của cuộc khủng hoảng ...........................................................

2.1.1.2 Nguyên nhân khủng hoảng ......................................................Trang 16

2.1.2 Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tới thị trường BĐS Mỹ .... Trang 18

2.1.3 Những hành động nhằm cứu vãn nền kinh tế của chính phủ Mỹ ....... Trang 19

2.1.3.1 Chính phủ Mỹ bơm tiền vào lưu thông bằng cách in thêm tiền .............

2.1.3.2 Chính phủ Mỹ can thiệp mạnh vào tín dụng NH, mạnh tay cắt giảm lãi

suất, tăng cường mua MBS.................................................................................

2.1.3.3 Ban hành các gói kích thích kinh tế khổng lồ..........................Trang 20

2.1.3.4 Mượn nợ từ phát hành trái phiếu ............................................Trang 20

2.1.3.5 Ưu đãi tín dụng thuế ...............................................................Trang 20

2.1.4 Kết quả ............................................................................................... Trang 21

2.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ........................................................ Trang 22

2.2.1 Bài học về khả năng tự điều tiết của thị trường .................................. Trang 22

2.2.2 Bài học về việc Nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất trong sự phát triển

bền vững và ổn định của thị trường BĐS ................................................... Trang 22

2.2.3 Bài học về việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn NH để đầu tư BĐS sẽ dễ

dẫn đến rủi ro thanh khoản ................................................................................ Trang 23

2.2.4 Bài học về nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác giám sát, dự

báo................................................................................................................ Trang 23

2.2.5 Bài học về hạn chế chi tiêu công ........................................................ Trang 24

2.2.6 Bài học về việc tự do hóa và phát triển cạnh tranh thị trường............ Trang 24

2.2.7 Bài học về tác động tiêu cực của một chính sách thuế không phù hợp .............

...................................................................................................................... Trang 24

Trang 3

Kết luận chương 2...........................................................................................Trang 25

Chương 3: Thị trường BĐS VN- Thực trạng và xu hướng phát triển

3.1 Thị trường BĐS VN và các mối quan hệ tương quan trong nền kinh tế

..........................................................................................................................Trang 26

3.1.1 Mối tương quan giữa thị trường BĐS và nền kinh tế vĩ mô ............... Trang 26

3.1.2 Quan hệ giữa thị trường BĐS- thị trường vốn ................................... Trang 28

3.2 Thực trạng thị trường BĐS VN .............................................................Trang 31

3.2.1 Thị trường BĐS VN chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ .........

...................................................................................................................... Trang 31

3.2.1.1 Thị trường BĐS VN bị đóng băng ..........................................................

3.2.1.2 Luồng vốn FDI vào thị trường BĐS bị giảm sút ....................Trang 32

3.2.2 Những vấn đề nội tại của thị trường BĐS Việt Nam.......................... Trang 32

3.2.2.1 Về mặt quản lý của nhà nước ..................................................Trang 33

3.2.2.2 Về cung cầu hàng hóa BĐS .....................................................Trang 39

3.2.2.3 Mặt bằng giá BĐS hiện nay quá cao.......................................Trang 41

3.2.2.4 Những hạn chế của các DN kinh doanh BĐS VN ...................Trang 44

3.2.3 Những động thái từ phía Nhà nước nhằm giải cứu thị trường BĐS..................

...................................................................................................................... Trang 46

3.3 Xu hướng phát triển của thị trường BĐS VN........................................ Trang 51

3.3.1 Phân khúc nhà ở hạng trung ............................................................... Trang 51

3.3.2 Phân khúc thị trường bán lẻ, văn phòng cho thuê, trung tâm mua sắm.............

...................................................................................................................... Trang 52

3.3.3 Phân khúc thị trường BĐS sinh thái ................................................... Trang 53

Kết luận chương 3...........................................................................................Trang 54

Chương 4: Các giải pháp nhằm thúc đẩy thị trường BĐS VN

4.1 Các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy thị trường BĐS VN................ Trang 55

4.1.1 Chứng khoán hóa BĐS ....................................................................... Trang 55

4.1.2 Thu hút vốn đầu tư nước ngoài ........................................................... Trang 57

Trang 4

4.1.3 Tháo gỡ vướng mắc của hoạt động cho vay BĐS .............................. Trang 59

4.1.4 Lập quỹ tiết kiệm BĐS ....................................................................... Trang 60

4.1.5 Tích cực xây dựng các quỹ đầu tư tín thác BĐS ................................ Trang 61

4.2 Nhóm giải pháp về hàng hóa BĐS .......................................................... Trang 63

4.2.1 Tái tạo và phát triển nguồn hàng hóa cho thị trường BĐS ................. Trang 63

4.2.2 Đa dạng hóa nguồn hàng theo hướng phù hợp với nhu cầu thực của thị

trường........................................................................................................... Trang 63

4.3 Các giải pháp về mặt cơ chế vận hành ................................................... Trang 64

4.3.1 Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản luật, pháp lệnh thuế nhà, đất .............

4.3.2 Hoàn thiện hệ thống thuế ................................................................... Trang 65

4.4 Xây dựng năng lực của các tổ chức tham gia trên thị trường BĐS ....................

..........................................................................................................................Trang 66

4.4.1Những đề xuất đối với Nhà nước nhằm phát triển bền vững thị trường BĐS

Việt Nam............................................................................................................ Trang 67

4.4.2 Những đề xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DN kinh doanh

BĐS Việt Nam................................................................................................... Trang 68

4.5 Các giải pháp khác ...................................................................................Trang 70

4.5.1 Hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng, miền ......................

4.5.2 Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng BĐS ................................ Trang 71

4.5.3 Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về thị trường BĐS ......................... Trang 73

4.5.4 Nâng cao tính minh bạch của thị trường............................................. Trang 74

Kết luận chương 4......................................................................................Trang 77-78

Kết luận chung ................................................................................................Trang 79

LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài

Thị trường bất động sản là một trong những thị trường quan trọng của nền

kinh tế. Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung của nước ta trước đây thì loại

thị trường này chưa phát triển. Từ sau đổi mới (1986), trong quá trình chuyển đổi

sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN có sự quản lý

của Nhà nước, những năm gần đây thị trường bất động sản nước ta đã hình thành,

phát triển với tốc độ nhanh và có diễn biến phức tạp.

Cùng với thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản là một

trong những thị trường đầu vào của nền sản xuất. Nếu phát triển hiệu quả thị trường

này sẽ góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên

do những biện pháp quản lý của Nhà nước đối với thị trường bất động sản còn nhiều

yếu kém, bất cập nên hiện tại thị trường này đang phát triển một cách tự phát, thiếu

tổ chức và tồn tại nhiều yếu tố bất ổn như nạn đầu cơ, mất cân bằng cung cầu, giá cả

cao, thủ tục mua bán phức tạp, chi phí chuyển nhượng cao do hệ thống pháp lý chưa

hoàn thiện…Tình hình phát triển không lành mạnh của thị trường bất động sản ảnh

hưởng lớn tới công tác quy hoạch đô thị, tạo sự phát triển không ổn định cho nền

kinh tế, cũng như gây thất thu cho nhà nước, gây tâm lý bất ổn cho người dân.

Trong những năm qua mặc dù nhà nước đã tập trung nhiều sức lực và tiền

của nhằm giải quyết vấn đề trên nhưng thực tế đây vẫn là vấn đề còn nhiều bế tắc

cần khắc phục và giải quyết. Thêm vào đó cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm

2008 tác động toàn cầu cũng đã gây những hậu quả nặng nề cho thị trường bất động

sản các nước trên thế giới, kể cả Việt Nam. Những bài học gì đã được rút ra? Những

kinh nghiệm gì đã học được từ cách thức quản lý thị trường bất động sản của các

nước? Việc vận dụng dụng những kinh nghiệm này ra sao? Những điều này luôn

thúc đẩy các nhà quản lý phải nhanh chóng tìm ra các biện pháp hỗ trợ quản lý và

thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường bất động sản. Và đây cũng là mục

tiêu nghiên cứu của đề tài.

Phương pháp nghiên cứu 2.

Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết chủ yếu sử dụng các phương

pháp phân tích số liệu thực tế, so sánh tương quan, thống kê, tổng hợp dữ liệu nhằm

làm sáng tỏ, phong phú thêm những vấn đề về lý luận.

Nội dung nghiên cứu 3.

Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, danh mục những từ viết tắt, danh mục

những bảng biểu, đồ thị, phụ lục; nội dung của luận văn gồm bốn chương chính như

sau:

Chương 1: Tổng quan về thị trường bất động sản và khủng hoảng tài chính.

Chương 2: Khủng hoảng tài chính Mỹ và những tác động đối với thị trường

BĐS Mỹ- Bài học kinh nghiệm cho VN

Chương 3: Thị trường BĐS VN- Thực trạng và xu hướng phát triển

Chương 4: Các giải pháp nhằm thúc đẩy thị trường BĐS VN

Trang 1

Chương 1: Tổng quan về thị trường bất động sản và khủng hoảng tài chính

1.1 Tổng quan về thị trường bất động sản

1.1.1 Khái niệm và đặc điểm

1.1.1.1 Khái niệm thị trường bất động sản

Dựa trên các học thuyết kinh tế của A.Smith, J.Keynes, các lý luận mang tính kế

thừa của chủ nghĩa Mac- Lênin, các chuyên gia kinh tế cũng như các nhà nghiên cứu

về BĐS trong nước cũng như quốc tế đã đưa ra một số khái niệm sau đây về thị

trường BĐS:

Khái niệm 1: Thị trường BĐS là nơi hình thành các quyết định về việc ai tiếp cận

được BĐS và BĐS đó được sử dụng như thế nào và vì mục đích gì.

Khái niệm 2: Thị trường BĐS là đầu mối thực hiện và chuyển dịch giá trị của

hàng hóa BĐS.

Khái niệm 3: Thị trường BĐS là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển

nhượng, cho thuê, thế chấp và các dịch vụ có liên quan như môi giới, tư vấn… giữa

các chủ thể trên thị trường mà ở đó vai trò quản lý Nhà nước đối với thị trường BĐS

có tác động quyết định đến sự thúc đẩy phát triển hay kìm hãm hoạt động kinh doanh

đối với thị trường BĐS.

Khái niệm 4: Thị trường BĐS là nơi tiến hành các giao dịch về BĐS gồm chuyển

nhượng, cho thuê, thế chấp và các dịch vụ hỗ trợ như môi giới, tư vấn..

Ngoài ra, còn một số khái niệm khác về thị trường BĐS không phổ biến như:

Do quan điểm khác nhau về hàng hóa BĐS và phạm vi thị trường BĐS nên cũng

có ý kiến cho rằng thị trường BĐS và thị trường đất đai là một bởi vì tài sản là nhà,

công trình xây dựng phải gắn với đất đai mới trở thành BĐS được. Cũng có ý kiến

khác cho rằng thị trường BĐS là thị trường nhà đất địa ốc. Quan niệm này khá phổ

biến ở nước ta vì cho rằng chỉ có nhà đất mới mang ra mua bán chuyển nhượng trên

thị trường. Đây cũng là định nghĩa không đầy đủ bởi vì BĐS nhà đất cũng chỉ là một

bộ phận của hàng hóa BĐS trên thị trường.

Như vậy, hiện có rất nhiều quan niệm khác nhau về thị trường BĐS, dưới góc độ

tổng hợp các kết quả nghiên cứu có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về thị trường

BĐS như sau: “Thị trường BĐS là quá trình giao dịch hàng hóa BĐS giữa các bên

Trang 2

có liên quan. Là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, thế

chấp và các dịch vụ có liên quan đến BĐS như trung gian, môi giới, tư vấn…giữa

các chủ thể trên thị trường mà ở đó vai trò quản lý Nhà nước có tác động quyết

định đến sự thúc đẩy phát triển hay kìm hãm hoạt động kinh doanh trên thị trường

BĐS”.

1.1.1.2 Đặc điểm của thị trường bất động sản:

(cid:190) Thị trường BĐS mang tính vùng, khu vực sâu sắc: BĐS là một loại hàng hóa

cố định, không thể di dời về mặt vị trí và chịu ảnh hưởng của các yếu tố tập quán, tâm

lý, thị hiếu, mà các yếu tố này ở mỗi vùng, mỗi miền thì đều khác nhau nên thị trường

BĐS mang tính địa phương. Do điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế, văn

hóa XH khác nhau nên các vùng, miền có sự phát triển không đồng đều, do đó thị

trường BĐS cũng sẽ có quy mô và trình độ khác nhau.

(cid:190) Thị trường BĐS là thị trường không hoàn hảo: Do BĐS có tính dị biệt, tin

tức thị trường bị hạn chế, thị trường BĐS mang tính độc quyền hơn thị trường hàng

hóa nên thị trường BĐS là thị trường cạnh tranh không đầy đủ. Thêm vào đó, có thể

nói tất cả các thị trường BĐS trên thế giới đều chịu sự can thiệp của Nhà nước dù ở

mức độ cao hay mức độ thấp, mà chủ yếu là can thiệp vào lĩnh vực đất công, nhà công

sản để thực hiện các mục tiêu phát triển chung. Sự tác động của Nhà nước cũng là một

trong những yếu tố tạo nên tính không hoàn hảo của thị trường BĐS.

(cid:190) Thị trường BĐS có nguồn cung có giới hạn và phản ứng chậm đối với cầu:

Mọi hàng hóa khi được thừa nhận trên thị trường và có cầu tăng thì nhà sản xuất có

thể đẩy mạnh sản xuất làm tăng lượng cung nhanh chóng. Điều này không đúng đối

với thị trường BĐS. Khi cầu về BĐS tăng thì cung không thể phản ứng nhanh chóng

như các hàng hóa thông thường khác bởi vì việc tăng cung với một loại mục đích cụ

thể nào đó cần có thời gian dành cho việc chuẩn bị, như xin phép chuyển đổi mục đích

sử dụng, mua đất, xin cấp phép xây dựng, bồi thường, thiết kế, thi công…Trên thực tế

cung không nhất thiết cố định cho từng mục đích sử dụng cụ thể nhưng tổng cung đất

(yếu tố đầu tiên của các BĐS khác) là cố định và hạn chế bằng kiểm soát quy hoạch

gây ảnh hưởng lớn đến giới hạn cung đất bổ sung cho những dự án BĐS khác.

Trang 3

(cid:190) Thị trường BĐS có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường vốn: Hàng hóa BĐS là

loại hàng hóa có giá trị lớn do đó các hoạt động giao dịch, ĐT, kinh doanh trên thị

trường BĐS đều có nhu cầu rất lớn về vốn. Số vốn này được huy động từ tiền nhàn rỗi

của người dân, nhưng đa phần được huy động thông qua các NHTM. Hiện nay phần

lớn lượng vốn huy động này đều chảy vào thị trường BĐS, do thị trường này đem lại

lợi nhuận cao. Ngược lại BĐS với các đặc điểm như có giá trị lớn, không thể di dời,

tuổi thọ cao…nên thường đóng vai trò là tài sản thế chấp trong hoạt động vay mượn

trên thị trường vốn. Giữa hai thị trường này có mối quan hệ khăng khít, biến động của

thị trường này sẽ dẫn đến biến động ở thị trường kia.

1.1.2 Sự cần thiết của việc phát triển thị trường bất động sản

1.1.2.1 Vai trò quan trọng của thị trường bất động sản đối với nền kinh tế:

Thị trường BĐS giữ một vị trí quan trọng đối với sự ổn định XH và gắn liền với các

chính sách của quốc gia vì:

Thị trường BĐS phát triển thì một nguồn vốn lớn tại chỗ được huy động: Nội

dung này đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới chứng minh. Nếu một quốc gia

có giải pháp hữu hiệu bảo đảm cho các BĐS có đủ điều kiện trở thành hàng hóa và

được định giá khoa học, chính thống sẽ tạo cho nền kinh tế của quốc gia đó một tiềm

năng đáng kể về vốn để từ đó phát triển và đạt được các mục tiêu kinh tế XH. Kinh

nghiệm cho thấy, ở các nước phát triển lượng tiền NH cho vay qua thế chấp bằng

BĐS chiếm trên 80% trong tổng lượng vốn cho vay. Vì vậy, phát triển ĐT, kinh

doanh BĐS đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển các tài sản thành nguồn tài

chính dồi dào phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế- XH, đặc biệt là ĐT phát triển cơ

sở hạ tầng của nền kinh tế.

Thị trường BĐS là yếu tố hàng đầu tác động tới tổng tích lũy của nền kinh tế,

góp phần nâng cao mức sống của nhân dân, tạo điều kiện cho người dân an cư lập

nghiệp, cũng như tạo cơ sở vật chất cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước. Tùy theo quy mô và trình độ phát triển, các quốc gia trên thế giới đều chú trọng

vào tổng tích lũy trong mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng của nền kinh tế. Ở mức

thấp, tổng tích lũy thường chiếm tỷ trọng 10-20% GDP, ở mức cao tỷ trọng này chiếm

30-40%. Trong tổng tích lũy thì tích lũy TSCĐ là chủ yếu, mức tích lũy của loại tài

Trang 4

sản này luôn cao gấp nhiều lần so với tích lũy tài sản lưu động. TSCĐ bao gồm nhiều

loại, trong đó BĐS thường chiếm đa phần, thường là trên 60% tổng tích lũy TSCĐ.

BĐS đã trở thành một trong những thành tố quan trọng của GDP. Những nền kinh tế

có tích lũy thấp thì thành tố này chiếm khoảng 5-10% GDP, còn đối với những nền

kinh tế có tổng tích lũy cao có thể tới 15-20% GDP. Do đó, thị trường BĐS khi nóng

lên sẽ làm cho nền kinh tế có độ tăng trưởng cao hơn so với bình thường và khi nguội

đi sẽ làm cho tăng trưởng giảm đi một cách bất thường, đối với những nền kinh tế

bong bóng, có khi còn gây tăng trưởng âm.

1.1.2.2 Vai trò quan trọng của thị trường bất động sản đối với các thị trường

khác của nền kinh tế:

Thị trường BĐS có mối liên hệ mật thiết với thị trường vốn: BĐS là tài sản ĐT

trên đất bao gồm cả giá trị đất đai sau khi đã được ĐT. Mà ĐT tạo lập BĐS thường sử

dụng một lượng vốn lớn với thời gian hình thành BĐS cũng như thu hồi nguồn vốn

dài. Khi BĐS tham gia lưu thông trên thị trường BĐS, các giá trị cũng như các quyền

về BĐS được đem ra trao đổi, mua bán, kinh doanh ... để giải quyết vấn đề lưu thông

tiền tệ, thu hồi vốn ĐT và mang lại lợi nhuận cho các bên giao dịch. Điều này chứng

tỏ thị trường BĐS là đầu ra quan trọng của thị trường vốn. Tuy nhiên ở khía cạnh

ngược lại, thị trường BĐS hoạt động tốt lại là cơ sở để huy động được nguồn vốn lớn

cho phát triển kinh tế thông qua thế chấp và giải ngân.

Ngoài ra, thị trường BĐS còn có quan hệ cùng chiều với thị trường xây dựng và

qua đó mà bắc cầu tới các thị trường vật liệu xây dựng và đồ nội thất, thị trường lao

động ...Thị trường BĐS phát triển sẽ kéo theo sự tăng trưởng của các thị trường trên

và ngược lại, từ đó có thể nhận định dao động của thị trường này có ảnh hưởng lan toả

tới sự phát triển ổn định của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

1.1.2.3 Sự cần thiết của việc phát triển thị trường bất động sản: Con người

ngoài các nhu cầu về ăn mặc, làm việc, lao động…thì nhà ở cũng là một nhu cầu

không thể thiếu được của cuộc sống. Hiện nay trong khi dân số đang tăng nhanh, quá

trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, mức sống của người dân ngày càng cao kéo theo

nhu cầu về nhà ở và đất đai cũng tăng cao. Bên cạnh đó thì các yếu tố XH như tâm lý,

thói quen, tập quán cũng ảnh hưởng lớn đến việc nảy sinh nhu cầu về BĐS. Trong khi

Trang 5

đó đất đai và nhà ở lại có hạn cho nên việc mua bán, chuyển nhượng, cho thuê là

những hoạt động tất yếu phải xảy ra. Trong nền kinh tế thị trường, khi đã có cầu, cầu

mang lại lợi nhuận và pháp luật không cấm thì tức sẽ có cung. Cung cầu gặp nhau trên

cơ sở pháp luật cho phép sẽ hình thành thị trường. Vì thực tế đã chứng minh cầu BĐS

ngày càng tăng, còn cung thì bị giới hạn, cũng như tầm quan trọng của thị trường này

đối với toàn bộ nền kinh tế cho nên cần thiết phải phát triển ổn định và bền vững thị

trường này bất kể trong bối cảnh nền kinh tế đang phồn thịnh hay suy thoái.

Phát triển thị trường BĐS là một nhu cầu tất yếu còn bởi vì khi nền kinh tế của

một quốc gia vận hành theo cơ chế thị trường thì mọi yếu tố đầu vào sản xuất và đầu

ra sản phẩm đều trở thành hàng hóa và hình thành các loại thị trường chuyên biệt phát

triển ở các mức độ khác nhau. Trong điều kiện đó nếu không thừa nhận BĐS là hàng

hóa, cũng như không thừa nhận thị trường BĐS thì sẽ tạo nên sự khuyết kém, thiếu

đồng bộ trong hệ thống thị trường làm suy yếu động lực thúc đẩy của cơ chế thị

trường tới sự vận hành của nền kinh tế. Vì vậy phải thừa nhận thị trường BĐS là một

bộ phận của hệ thống thị trường.

Ngoài ra, khi thị trường BĐS phát triển sẽ thúc đẩy quá trình nghiên cứu và áp

dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ nhằm đẩy nhanh tiến độ xây dựng,

nâng cao chất lượng công trình thi công, cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho

các nhu cầu trực tiếp của người dân. Phát triển và điều hành tốt thị trường BĐS sẽ có

tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các biện pháp kích thích vào đất đai,

tạo lập các công trình, nhà xưởng, vật kiến trúc…để từ đó tạo nên chuyển dịch đáng

kể và quan trọng về cơ cấu trong các ngành, các vùng lãnh thổ và trên phạm vi cả

nước. Thị trường BĐS phát triển cũng thúc đẩy sự phát triển của thị trường hàng hóa,

thị trường vốn, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế thị trường.

1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường bất động sản

1.1.3.1 Các chủ thể tham gia:

(cid:190) Các cá nhân, tổ chức kinh doanh tham gia trên thị trường BĐS: Các cá nhân

tham gia trên thị trường BĐS rất đa dạng về thành phần, họ có thể là các cá nhân sở

hữu BĐS (sở hữu đất đai, có quyền sử dụng đất) tham gia vào thị trường với tư cách là

người bán, cho thuê, thế chấp BĐS để vay vốn, dùng BĐS để góp vốn liên doanh...hay

Trang 6

là các cá nhân có nhu cầu sử dụng BĐS, khi đó họ sẽ tham gia giao dịch trên thị

trường với tư cách là người đi mua, đi thuê, hoặc đơn giản chỉ là người cung cấp các

dịch vụ hỗ trợ hoạt động giao dịch trên thị trường BĐS. Sự phát triển của thị trường,

tình trạng nóng, lạnh, mặt bằng giá cả của hàng hóa BĐS phần lớn đều do sự tham gia

(cụ thể là cung cầu) của các đối tượng này trên thị trường quyết định. Tuy nhiên thị

trường BĐS sẽ không phát triển đầy đủ nếu chỉ có người mua, người bán đơn thuần

mà không có DN kinh doanh BĐS. Sự thiếu vắng các DN kinh doanh BĐS chẳng

những làm giảm thiểu khả năng tạo lập các loại hàng hoá BĐS mà còn làm cho hiệu

quả sử dụng các loại tài sản BĐS (đặc biệt là đất đai) bị lãng phí ở mức độ cao.

(cid:190) Hàng hóa BĐS: Bản thân thị trường BĐS không tự dưng mà có, nó phụ thuộc

vào yếu tố khi nào BĐS được coi là hàng hóa, được trao đổi, mua bán, cho thuê,

chuyển nhượng. Tuy nhiên, nguồn cung hàng hóa BĐS không phải là toàn bộ quỹ

hàng hóa BĐS có thể có mà là lượng hàng hóa BĐS có thể và sẵn sàng tham gia hoạt

động giao dịch mua bán, cho thuê, trao đổi...trên thị trường. Có thể có người có nhiều

hàng hóa BĐS nhưng nếu họ không có nhu cầu bán, cho thuê, trao đổi hoặc có nhu

cầu nhưng muốn chờ một cơ hội để bán với mặt bằng giá cao hơn thì hàng hóa BĐS

đó không được tính vào lượng cung tại thời điểm đó. Để có nguồn hàng hóa BĐS trên

thị trường cần có sự hội tụ của các điều kiện sau: Quỹ hàng hóa BĐS hiện có phải đạt

được các tiêu chuẩn và yêu cầu của thị trường hiện thời, được thị trường chấp nhận về

giá trị sử dụng; Người chủ sở hữu hàng hóa BĐS có nhu cầu bán, cho thuê, trao đổi ...,

tức là sẵn sàng chuyển giao hàng hóa BĐS đó cho người khác; Phải có thị trường

BĐS xuất hiện và quỹ hàng hóa BĐS đó tham gia vào giao dịch trên thị trường là

được thừa nhận. Hàng hóa BĐS là yếu tố quan trọng chi phối sự vận động của thị

trường BĐS. Nếu dự báo không chính xác các yếu tố cung– cầu hàng hóa BĐS sẽ gây

rối loạn thị trường. Chẳng hạn như, nếu dự báo mức cầu cao hơn so với thực tế sẽ dẫn

đến tình trạng gây khan hiếm giả tạo về hàng hoá BĐS để cung bị kích lên ở mức thái

quá; hoặc gây dư thừa loại hàng hoá này trên thị trường, khi đó hàng hóa BĐS với đặc

tính thanh khoản kém sẽ gây ứ đọng vốn, tác động dây chuyền tới các thị trường quan

trọng khác như thị trường tiền tệ, TTCK; còn nếu cầu hàng hóa BĐS được xác định

thấp hơn so với thực tế sẽ dẫn đến việc các DN cắt giảm ĐT tạo lập hàng hoá BĐS,

Trang 7

gây ra tình trạng khan hiếm trên thị trường, khi đó áp lực giá tăng cao, dễ dẫn đến tình

trạng bong bóng kinh tế, gây tác hại tới hiệu quả chung của nền kinh tế.

1.1.3.2 Cơ chế vận hành:

Nhà nước tham gia thị trường BĐS với tư cách là người quản lý vĩ mô đối với

hoạt động của thị trường BĐS. Nhà nước với các công cụ quản lý vĩ mô của mình như

hệ thống thủ tục hành chính, văn bản pháp luật, chính sách nhà ở, chính sách quản lý

và sử dụng đất công…có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển ổn định và bền vững của

thị trường BĐS. Nếu xây dựng được hệ thống văn bản pháp luật phù hợp, các thủ tục

hành chính tinh gọn, rõ ràng sẽ thúc đẩy các giao dịch BĐS phát triển, giúp Nhà nước

quản lý tốt nguồn tài nguyên quốc gia cũng như tận thu được nguồn lợi lớn từ việc thị

trường BĐS phát triển mang lại cũng như hạn chế được nạn quan liêu, tham nhũng.

Còn nếu các chính sách về quản lý và phân bổ nhà, đất công ổn định, ít thay đổi sẽ tạo

tâm lý yên tâm các nhà ĐT, giúp họ thực hiện những dự án chiến lược lâu dài, có quy

mô lớn, góp phần ổn định kinh tế XH. Ngoài việc thực hiện chức năng quản lý quản

lý, Nhà nước còn can thiệp trực tiếp vào thị trường BĐS bằng cách đấu giá quyền sử

dụng đất ở, nhà ở, bán hóa giá nhà ở, sử dụng quỹ đất công, nguồn nhà công sản cho

thuê để điều tiết thị trường. Nhà nước cũng thực hiện các biện pháp kinh tế, tài chính

thúc đẩy thị trường BĐS phát triển, thực hiện giám sát và quản lý việc cung cấp hệ

thống thông tin về BĐS. Tất cả những hoạt động trên của Nhà nước đều hướng về

mục đích cuối cùng là đảm bảo cho thị trường BĐS phát triển ổn định và bền vững.

1.1.3.3 Các yếu tố khác: Ngoài việc chịu sự ảnh hưởng của 2 nhân tố đã kể trên,

thị trường BĐS còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố vĩ mô khác của nền kinh tế, như:

(cid:190) Chính sách thuế: Thuế là nguồn thu chính để xây dựng và phát triển đất nước, tuy

nhiên chính sách thuế có thể trở nên phản tác dụng hoặc kém hiệu quả khi tăng thêm

nhiều sắc thuế trong khi việc đăng ký và quản lý BĐS của Nhà nước chưa tốt.

(cid:190) Lạm phát: Biểu hiện của lạm phát là sự tăng giá liên tục và lâu dài của mức giá

chung. Lạm phát đẩy giá của BĐS tăng cao, làm cho nhu cầu được sở hữu một căn

nhà để ở của người dân trở nên quá xa. Thị trường BĐS dưới tác động của lạm phát có

thể sẽ bị trì trệ, đóng băng do cung và cầu không gặp nhau trên thị trường, từ đó dẫn

đến nguồn vốn bị ứ đọng, gây tác động xấu đến nền kinh tế.

Trang 8

(cid:190) Cấu trúc nợ của các NHTM: Phần đông các NHTM đều có danh mục BĐS trong

đó các khoản cho vay có thế chấp bằng BĐS đều chiếm tỷ trọng cao, từ đó xuất hiện

một quan điểm được chấp nhận một cách hiển nhiên rằng các cuộc khủng hoảng NH

luôn liên quan tới việc cho vay quá nhiều vào lĩnh vực kinh doanh BĐS.

(cid:190) Chính sách lãi suất, TD: Để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế, hoặc khi cần

đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát lên hàng đầu, Nhà nước có thể áp dụng chính sách

thắt chặt tiền tệ, mặt bằng lãi suất được đẩy lên cao nhằm thu hẹp lượng cung tiền, các

khoản TD cho vay được kiểm soát gắt gao, đặc biệt là TD BĐS. Mặc dù vậy, nếu mở

rộng TD một cách ồ ạt vào thị trường BĐS, nhất là phân khúc thị trường cao cấp sẽ lại

tiềm ẩn những nguy cơ gây ra hiện tượng bong bóng BĐS mới.

1.2 Thị trường bất động sản và khủng hoảng tài chính

1.2.1 Khủng hoảng tài chính và tác động đối với thị trường bất động sản

Nền kinh tế toàn cầu không thể thoát khỏi quy luật tăng trưởng rồi suy tàn. Người

ta coi khủng hoảng là hậu quả tất yếu sau một kỳ tăng trưởng nóng và là dấu hiệu tốt

cho thấy một giai đoạn hồi sinh mới sắp bắt đầu. Khủng hoảng có thể do cách điều

hành nền kinh tế thiếu hợp lý sau một thời gian phát triển nóng, hoặc là kết quả của sự

lũng đoạn tài chính, trục lợi của một số tổ chức cá nhân có tầm ảnh hưởng tài chính

rộng lớn. Khi khủng hoảng xảy ra toàn bộ nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng nặng nề và thị

trường BĐS cũng sẽ bị tác động bởi:

1.2.1.1 Thị trường bất động sản bị ảnh hưởng bởi những biện pháp đối phó

với khủng hoảng tài chính của Chính phủ : Trải qua lịch sử các cuộc khủng hoảng,

một số phương thức chống khủng hoảng thường được Nhà nước áp dụng như:

(cid:190) Thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt, ưu tiên chống lạm phát: Đây là biện

pháp được dùng đầu tiên và chính yếu trong tình trạng nền kinh tế đang phát triển quá

nóng, lạm phát gia tăng. Bằng các công cụ như tăng lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu,

tăng tỷ lệ dự trữ pháp định, không phát hành thêm tiền vào lưu thông. Lãi suất tăng

cao, gánh nặng chi phí lãi vay làm cho những người có nhu cầu thật sự về BĐS cũng

trở nên e ngại khi vay tiền để ĐT. Các NHTM cũng bị đẩy vào cuộc chạy đua lãi suất,

nợ xấu và những rủi ro thanh khoản xuất hiện. Về phần các DN kinh doanh BĐS,

Trang 9

thiếu vốn cộng với việc gia tăng chi phí đầu vào làm cho tiến độ các dự án bị chậm

lại, các hoạt động giao dịch mua bán trở nên trì trệ..

(cid:190) Công bố các gói kích thích kinh tế: Đây là phương thức không thể thiếu trong

việc chống lại suy thoái kinh tế sau thời kỳ khủng hoảng. Việc thắt chặt chính sách

tiền tệ và những hệ lụy do khủng hoảng tài chính gây ra đã ảnh hưởng trực tiếp tới

mọi DN, người dân và đặc biệt là những người nghèo. Các phương thức tiếp cận

nguồn vốn để duy trì hoạt động kinh doanh, sinh hoạt của người dân ngày càng trở

nên khó khăn hơn. Đây là lúc chính phủ sẽ hỗ trợ một lượng tiền lớn để phát triển ĐT

công, nâng cao đời sống người dân, đặc biệt là người nghèo hoặc thất nghiệp, tạo điều

kiện giúp các DN trước đây làm ăn có hiệu quả, có thang điểm TD an toàn hoặc có

ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế được vay vốn để vượt qua khó khăn. Điều khác biệt

của việc bơm tiền sau khủng hoảng nhằm ngăn chặn đà suy thoái đó là tập trung tiền

để kích thích XH làm ra của cải thực sự nhằm nâng cao đời sống vật chất cũng như

tinh thần của toàn dân thay vì bơm tiền để đầu cơ vào những giá trị ảo như BĐS và

CK..Tuy mục đích của phương pháp này đã được xác định không phải nhằm vào việc

cứu vãn thị trường BĐS nhưng việc chính phủ công bố các gói kích thích kinh tế vẫn

thổi một luồng gió mới, tạo cho các cá nhân, tổ chức kinh tế tâm lý lạc quan, hy vọng

vào sự hồi phục của nền kinh tế, do đó thị trường BĐS cũng trở nên khởi sắc hơn.

Tuy nhiên tùy theo bản chất và hoàn cảnh xảy ra cuộc khủng hoảng, Nhà nước

nghiên cứu bổ sung thêm những văn bản pháp luật cũng như những phương thức

chống khủng hoảng mới cho phù hợp như giới hạn khối lượng TD trên số tiền gửi

nhận được, mở rộng biên độ tỷ giá, hoãn- giãn nợ cho các DN, hỗ trợ lãi suất…

1.2.1.2 Thị trường bất động sản bị ảnh hưởng bởi tâm lý nhà đầu tư trong cuộc

khủng hoảng, họ có thể:

(cid:190) Tiết kiệm chi tiêu: Kinh tế giảm phát, thu nhập giảm, thất nghiệp gia tăng dẫn

đến cầu trên thị trường BĐS (sức mua, chuyển nhượng, thuê…) giảm, hàng hóa BĐS

ứ đọng, từ đó các DN sẽ thiếu vốn triển khai dự án, dẫn đến thu hẹp, tinh giản bộ máy

nhân sự nhằm giảm thiểu chi phí. Khi đó, mức sống người lao động càng bị hạ thấp,

đồng tiền bị mất giá nên người dân lại tích cực tiết kiệm trong chi tiêu, tạo ra một

vòng tròn lẩn quẩn làm cho thị trường BĐS càng thêm ảm đạm.

Trang 10

(cid:190) Cơ cấu lại danh mục ĐT: Khủng hoảng xảy ra, kinh tế suy thoái, các nhà ĐT

phải xem xét lại danh mục ĐT, duy trì những khoản ĐT mang lại hiệu quả cao và cắt

giảm một số khoản không cần thiết để ĐT sao cho hiệu quả và hợp lý, hạn chế thấp

nhất những thiệt hại có thể xảy ra. Thông thường các nhà ĐT sẽ chuyển đổi từ những

danh mục ĐT đã phát triển nóng như BĐS, CK sang những khoản mục an toàn hơn là

vàng, USD, trái phiếu chính phủ và tiết kiệm…Thị trường BĐS bị tác động là điều

không thể tránh khỏi.

1.2.1.3 Các Ngân hàng Thương mại siết chặt tín dụng gây tác động lớn đối với

thị trường bất động sản: Tại VN cũng như các nước, nguồn vốn có tính quyết định

và giữ vai trò lớn nhất cung cấp cho thị trường BĐS vẫn là nguồn vốn vay từ NHTM.

Nhưng trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, nợ xấu gia tăng mà chủ yếu các khoản nợ

xấu này thường rơi vào các khoản vốn cho vay BĐS thì việc các NH dè dặt hơn trong

việc cho vay BĐS cũng là điều dễ hiểu. Khi đó hệ thống NH có xu hướng giảm TD

đối với các đối tượng đi vay để ĐT kinh doanh BĐS vì hệ thống NH luôn bị sức ép

thu hồi nợ đối với các đối tượng này. Như vậy nguồn cung tài chính trên thị trường

BĐS sẽ giảm, đi kèm với nó là những thay đổi, chuyển hướng trong chính các nhà ĐT

để một mặt nhằm giãn được thời gian đáo hạn của các khoản vay từ NH, mặt khác

tăng thêm nguồn vốn để triển khai các giai đoạn tiếp theo của dự án. Nhiều nhà ĐT,

nhiều dự án đang triển khai nhưng thiếu vốn, lại bị từ chối các khoản vay để ĐT tiếp,

hàng hóa BĐS ứ đọng trong khi phải thanh toán nợ vay đến hạn nên một bộ phận DN

ĐT, kinh doanh BĐS có thể lâm vào phá sản, nợ nần, thị trường BĐS sẽ trở nên trì trệ.

1.2.2 Nghiên cứu về bong bóng bất động sản cùng những tác động

Hiện tượng bong bóng kinh tế (còn gọi là “bong bóng đầu cơ”, “bong bóng thị

trường”, “bong bóng tài chính” ) là tình trạng thị trường trong đó giá hàng hóa hoặc

tài sản giao dịch tăng đột biến đến một mức giá vô lý hoặc mức giá không bền vững.

Mức giá cao thái quá này của thị trường không hề phản ánh mức độ thỏa dụng hay sức

mua của người tiêu dùng theo như các lý thuyết kinh tế thông thường. Quá trình hình

thành bong bóng có liên quan đến đầu cơ hoặc do tác động của TD.

Trang 11

1.2.2.1 Theo tác giả Franklin Allen & Gale Douglas (2000), có hai trạng

thái bong bóng có liên quan trực tiếp tới thị trường bất động sản do tác động của

tín dụng như sau:

Bong bóng xảy ra do chuyển dịch rủi ro: đây là khái niệm xuất hiện khoảng giữa

những năm 1970, theo đó nhà ĐT vay tiền để ĐT vào các tài sản chưa tồn tại. Lúc này

sự dịch chuyển rủi ro khiến cho việc định giá vượt trội lên so với giá trị cơ bản của tài

sản, sinh ra bong bóng. Thường bong bóng này làm cho khủng hoảng nếu xảy ra sau

đó thì sẽ trầm trọng hơn.

Bong bóng xảy ra do sự gia tăng đột ngột các khoản TD BĐS: Tăng trưởng nhanh

nguồn TD giống như động viên người ta đổ thêm tiền vào các vụ ĐT rủi ro ở hiện tại,

điều này gây tác động lớn lên giá tài sản. Trong suốt quá trình sẽ có nhiều thay đổi

quan trọng. Ở tầm chính sách vĩ mô, theo Allen và Gale, dạng bong bóng này cũng

thường gây những tác động rất khó dự báo lên hành vi các trung gian tài chính, quá

trình tái tạo tiền và độ ổn định chung toàn hệ thống tài chính.

1.2.2.2 Bong bóng bất động sản xảy ra do đầu cơ: Bong bóng kinh tế cũng

có thể xuất hiện khi có hiện tượng đầu cơ đối với BĐS, làm cho giá bị đẩy lên cao, do

vậy càng khuyến khích hoạt động đầu cơ hơn nữa. Cơ chế của bong bóng kinh tế dạng

này thường được giải thích bằng một lý thuyết có tên là “lý thuyết về kẻ ngốc hơn”.

Lý thuyết này giải thích hành vi của những người tham gia vào một thị trường với sự

lạc quan thái quá (anh ngốc). Những anh ngốc này sẵn sàng mua những hàng hóa

được định giá quá cao, với mong đợi sẽ bán nó cho một tay đầu cơ tham lam khác (kẻ

ngốc hơn) ở một mức giá cao hơn nhiều. Bong bóng sẽ tiếp tục phình to thêm chừng

nào mà anh chàng ngốc này vẫn còn tìm được một kẻ ngốc hơn mình sẵn sàng mua

những hàng hóa đó. Và bong bóng kinh tế sẽ kết thúc khi anh ngốc cuối cùng trở

thành kẻ ngốc nhất, là người trả giá cao nhất cho thứ hàng hóa được định giá quá cao

và không tìm được người mua nào khác cho chúng, lúc đó bóng nổ.

1.2.3 Giai đoạn thứ 2 của bong bóng bất động sản

Những dự án ĐT BĐS thường được cho vay ở mức rất cao. NH cố gắng tự bảo vệ

bằng việc yêu cầu những tỷ lệ vay trên giá trị tài sản đảm bảo thấp, đưa ra những giao

kết tài chính dài hạn hơn, và các điều khoản cho vay khắt khe nhằm đề phòng những

Trang 12

hành vi mạo hiểm của những nhà ĐT BĐS sau khi được vay tiền. Nhưng khi thị

trường BĐS trở nên nóng hơn thì những tiêu chuẩn bảo hiểm cũng trở nên xấu hơn. Ở

đầu giai đoạn thứ 2 này, xu thế khủng hoảng vẫn chưa được nhận ra, thị trường tiếp

tục phình to. Một số NH có thể phớt lờ nguy cơ của một tai họa bởi họ tin rằng họ có

thể được bảo vệ khi tai họa xảy ra. Thực tế quốc gia nào cũng xây dựng một mạng

lưới an toàn cho những tổ chức TD, nhằm đề phòng khủng hoảng bắt nguồn từ hệ

thống NH có thể làm ngòi nổ cho một cuộc khủng hoảng tài chính bằng việc phá vỡ

những hệ thống thanh toán và làm gián đoạn các luồng TD cho các công ty đang phụ

thuộc vào NH, từ đó gây suy thoái cho nền kinh tế. Tuy nhiên hệ thống NH dễ bị tổn

thất đối với một cú sốc thanh khoản vì chúng cung cấp tài chính cho những tài sản

không rõ ràng, và không hoàn hảo có thể bán ngay được (như những khoản vay BĐS)

với các khoản nợ ngắn hạn. Những người gửi tiền có thể thấy được những thông tin

bất lợi đối với NH và họ hiểu rằng những NH thường cho vay ở mức cao. Vì vậy, khi

có cú sốc (sự sụp đổ trong giá BĐS) xuất hiện, họ sẽ đổ xô rút hết tiền gửi, buộc hệ

thống NH phải gánh chịu những tổn thất trong việc bán tháo, bán rẻ để thanh lý những

tài sản thế chấp hoặc đi vay với mức lãi suất cao hơn bình thường. Cuối giai đoạn thứ

2 này, giá BĐS bắt đầu giảm, tuy nhiên khi đó các nhà ĐT nói chung vẫn còn lạc

quan, những nhà đầu cơ vẫn tiếp tục nhảy vào thị trường. Một sự trì hoãn dài thường

xuất hiện trước khi vấn đề vỡ nợ được nhận ra và được giải quyết. Lý do của sự trì

hoãn này là các cấp chính quyền giám sát thường do dự khi thừa nhận quy mô của cơn

khủng hoảng, họ lo lắng việc thừa nhận mang tính chất công đối với phạm vi của sự

vỡ nợ có thể làm giảm sự tín nhiệm và tăng nguy cơ cho một cuộc khủng hoảng tài

chính. Đồng thời tâm lý mong chờ giá BĐS quay về mức từng đạt được trước khi

giảm đưa ra một lý do cho việc trì hoãn, với hy vọng rằng sẽ loại bỏ được vấn đề nan

giải. Trong thực tế, các cấp chính quyền giám sát đã mạo hiểm khi chịu đựng để chờ

đợi giá BĐS sẽ đảo chiều.

1.2.4 Bùng nổ bong bóng bất động sản

Ở giai đoạn này, có một sự sụp đổ trong giá trị BĐS. Người ta thường gắn khái

niệm bong bóng với sụp đổ. Có thể hiểu sụp đổ là hiện tượng suy giảm nhanh và lớn

của tổng giá trị toàn thị trường, thông thường là gắn với sự vỡ của một bong bóng.

Trang 13

Khi sự sụp đổ bắt đầu, xu hướng đổ xô rút tiền có chiều hướng gia tăng. Tính nguy

hiểm của việc đổ xô rút tiền có liên quan tới một chính sách công hơn là có liên quan

hoàn toàn tới chính sách riêng của một NH và những khách hàng của nó, bởi vì việc

đánh mất niềm tin về khả năng thanh toán của một NH này có thể ảnh hưởng đến các

NH khác. Những nguyên lý tâm lý hành vi tài chính cho thấy nhà ĐT càng ít hiểu biết

thì họ càng dễ bị cuốn theo ý kiến đám đông (hiệu ứng bầy đàn). Hành vi này là con

dao hai lưỡi bởi việc tháo chạy khỏi thị trường của một người không có ảnh hưởng

quá lớn tới thông tin hay chất lượng thị trường, tuy nhiên hiệu ứng bầy đàn lại sẽ làm

vỡ vụn thị trường. Cũng cần nói thêm, NH cũng đóng vai trò lớn trong việc phá giá trị

thực của BĐS. Sự giảm giá BĐS sẽ trực tiếp làm giảm nguồn vốn của NH do việc

giảm giá trị của BĐS mà NH đang cầm cố, làm giảm cung TD cho BĐS. Bên cạnh đó,

hệ thống kiểm soát của NH sẽ phản ứng lại sự suy giảm vai trò của nguồn vốn NH

bằng cách đưa ra nhiều thủ tục cho vay vốn ngặt nghèo hơn, thắt chặt TD BĐS. Sự sụt

giảm đột ngột của TD BĐS sẽ tạo thêm sức ép để giảm giá BĐS. Việc này cũng giống

như việc giảm bớt cho vay đối với các khu vực khác của nền kinh tế khi NH cố gắng

xây dựng lại các nguồn dự phòng và nguồn vốn để đối phó với sự gia tăng rủi ro của

việc trả nợ không đúng hạn, bằng cách ấn định một tỷ suất vốn cao hơn và thực hiện

dự phòng linh hoạt hơn để phòng ngừa những tổn thất tiềm ẩn. Khi thiếu sự hỗ trợ từ

phía hệ thống NH thì thị trường BĐS bị đóng băng. Các cuộc khủng hoảng tài chính

châu Á gần đây cho thấy, BĐS bùng nổ thường kết thúc khi NH vỡ nợ. Bởi vì BĐS có

nguồn cung không thay đổi (ít nhất là trong ngắn hạn) và tính thanh khoản kém, khi

giá BĐS sụt giảm, hệ thống NH khó lòng phản ứng nhanh để làm giảm bớt sự thiệt hại

nếu không có sự trợ giúp từ phía chính phủ.

Kết luận chương 1

Các nhà kinh tế học nhận định bong bóng kinh tế như một hiện tượng gây tác động

tiêu cực lên nền kinh tế, bởi vì các nguồn lực được phân bổ vào những mục đích

không tối ưu. Khi bong bóng vỡ, nó có thể gây thiệt hại một khối lượng của cải khổng

lồ đồng thời kèm theo một giai đoạn bất ổn kinh tế kéo dài. Hậu quả của bong bóng

kinh tế không chỉ tàn phá nền kinh tế của một quốc gia mà ảnh hưởng của nó có khi

còn lan ra ngoài biên giới. Trong lịch sử TTCK, thị trường BĐS và các thị trường

Trang 14

khác đã xảy ra vô vàn những bong bóng như vậy. Vấn đề là hậu quả của sự vỡ bong

bóng đến đâu, có nằm trong tầm chịu đựng của nền kinh tế hay không. Có nhiều hậu

quả, cả xấu và tốt, không thể lường được trước khi bong bóng nổ. Và liệu có các cơ

chế hữu hiệu để đối phó với những biến động bất thường hay không? Đấy mới là vấn

đề cần xem xét. Làm sao để tránh hay hạn chế tác hại của các bong bóng là vấn đề

chính sách hóc búa. Có thể làm lạnh những cơn sốt thị trường bằng nhiều biện pháp,

can thiệp hành chính một cách nóng vội, không cân nhắc thường là biện pháp tồi tệ

nhất. Dùng các công cụ thị trường, nâng cao nhận thức, tạo cơ chế phòng ngừa rủi ro

và tăng cường tuyên truyền, giáo dục có thể là những biện pháp có hiệu quả lâu dài.

Trang 15

Chương 2: Khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 và những tác động đối với thị

trường bất động sản nước Mỹ- Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

2.1 Khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008

2.1.1 Khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008- Diễn biến và nguyên nhân

2.1.1.1 Diễn biến của cuộc khủng hoảng:

Sau khi bong bóng trên thị trường BĐS Mỹ phát triển đến mức cực đại và vỡ vào

năm 2005, các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức TD cho vay

mua nhà gặp khó khăn vì không thu hồi được nợ. Giá nhà ở giảm nhanh khiến cho các

CDO, MBS do các NH ĐT phát hành bị giảm giá nghiêm trọng. Kết quả là bảng cân

đối tài sản của các tổ chức này xấu đi và xếp hạng TD của họ bị sụt giảm. Khủng

hoảng TD nhà ở thứ cấp nổ ra. Tháng 8/2007, một số tổ chức TD của Mỹ như New

Century Financial Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác rơi vào tình

trạng cổ phiếu bị mất giá mạnh như Countrywide Financial Corporation. Do lo sợ, các

cá nhân, tổ chức gửi tiền ở các tổ chức TD này đã ồ ạt đến rút tiền làm cho tình hình

càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm TD hình thành. Cuộc khủng hoảng tài chính

chính thức nổ ra. Tác động của cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn ngày càng trở nên

sâu rộng khi hàng loạt các tập đoàn tài chính tên tuổi của Mỹ bị sụp đổ. Sau khi Bear

Stearns (NH môi giới và ĐT lớn thứ 5 phố Wall) bị JP Morgan Chase mua lại với giá

2USD/cổ phần vào tháng 3/2008, hàng loạt những tập đoàn hàng đầu của Mỹ cũng nối

gót nhau sụp đổ. Fannie Mae, và Freddie Mac (hai công ty được chính phủ bảo trợ để

mua những khoản cho vay có thế chấp từ các NHTM, sau đó bán lại trên thị trường,

nắm giữ khoảng 70% các khoản bảo đảm cho vay mua nhà ở Mỹ) bị quốc hữu hóa;

Lehman Brothers( tập đòn CK và NH ĐT lớn thứ 4 nước Mỹ) bị phá sản vào tháng

8/2008, chấm dứt 158 năm hoạt động; NH ĐT lớn thứ 3 của Mỹ là Merrill Lynch bị

Bank of America mua lại; tập đoàn bảo hiểm hàng đầu của Mỹ là AIG cũng chỉ tạm

yên sau khoản ứng cứu 85 tỷ USD của chính phủ Mỹ; 2 tập đoàn Goldman Sachs và

Morgan Stanley cũng bất ngờ quyết định chuyển đổi mô hình NH ĐT sang mô hình

NH mẹ để tăng cường khả năng thu hút nguồn vốn nhằm đối phó với tình hình thanh

khoản ngày càng khó khăn…Có thể nói cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính

làm cho nền kinh tế Mỹ rơi vào đợt suy thoái nghiêm trọng nhất kể từ sau Chiến tranh

Trang 16

thế giới thứ hai. Từ tháng 1 đến 9/2008, bình quân mỗi tháng có 84 ngàn lượt lao động

tại Mỹ bị mất việc làm. Từ Mỹ, cuộc khủng hoảng đã lan ra toàn cầu, gây thiệt hại

nặng nề cho nền kinh tế thế giới. (Nguồn Asset.vn)

2.1.1.2 Nguyên nhân khủng hoảng

Căn cứ vào diễn biến của cuộc khủng hoảng có thể thấy, sự bùng nổ của bong

bóng BĐS là nguyên nhân khởi phát đưa nền kinh tế Mỹ đi vào khủng hoảng, trong

đó, yếu tố gốc rễ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng chính là các phát kiến tài

chính, cụ thể là các công cụ tài chính phái sinh dựa trên tài sản thế chấp. CK hóa và

các sản phẩm của quá trình này như các công cụ ĐT kết cấu để mua bán (MBS,

CDO), nợ có thế chấp được bảo đảm (MCO) và các loại tương tự là một phát minh

lớn về công cụ tài chính. Tuy vậy, vì có ít nhất 4 loại chủ thể kinh tế liên quan đến quá

trình CK hóa thay vì 2 loại chủ thể kinh tế là người đi vay- thế chấp và người cho vay-

nhận thế chấp như truyền thống nên đã tồn tại những rủi ro hệ thống, trong khi đó mô

hình giám sát tài chính của Mỹ trước khủng hoảng không đủ năng lực giám sát các rủi

ro này. Các loại chủ thể kinh tế khác xuất hiện trong quá trình CK hóa là Bảo hiểm

cho các sản phẩm CK hóa như hợp đồng hoán đổi tổn thất TD (CDS), các thể chế như

thể chế mục đích đặc biệt (SPV) và các MBS, CDO. Những rủi ro mang tính hệ thống

đã tồn tại và một khi bong bóng kinh tế bùng nổ thì dễ gây phản ứng dây chuyền làm

mất lòng tin ở các chủ thể liên quan. Nội dung của CK hóa là các NH ĐT gộp các loại

tài sản khác nhau với chất lượng không tương đồng thành một và phát hành CK dựa

trên sự bảo đảm bằng các tài sản đó với suy nghĩ làm như vậy sẽ giảm đi rủi ro tiềm

tàng so với việc phát hành CK chỉ dựa vào từng loại tài sản riêng lẻ. Các loại CK từ

các tài sản tổng hợp được các NH ĐT định giá rồi phát hành ra công chúng, các NH ở

Mỹ và các định chế tài chính trên toàn cầu thông qua các quỹ bảo hộ, trong đó có

nhiều định chế không được giám sát chặt chẽ. Điều này đã làm dịch chuyển rủi ro từ

NH sang các tổ chức khác. Các NH ĐT tiếp tục trở lại với những người đi vay thế

chấp, dùng nhiều tiền hơn để mua văn tự cầm cố. Vậy chính những công cụ này đã

làm phình to bong bóng giá BĐS khi nó được quay theo vòng tròn: “cho vay thế chấp-

CK hóa các tài sản thế chấp- tiền thu được từ CK lại tiếp tục cho vay thế chấp”. Khi

lãi suất gia tăng, bong bóng xì hơi vì thị trường BĐS tuột dốc, kéo theo sự tuột dốc

Trang 17

của TTCK. Giá trị thị trường của các NH ĐT bị sụt giảm dẫn đến phá sản, khủng

hoảng bùng nổ.

Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ hơn có thể thấy thực tế nguyên nhân sâu xa gây ra

cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng này là do nền kinh tế Mỹ mất thăng bằng.

Trong khi hầu hết các quốc gia trên thế giới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua

ĐT và đẩy mạnh xuất khẩu thì nước Mỹ đã chọn cho mình một con đường riêng để

duy trì đà tăng trưởng kinh tế đó là khuyến khích và đẩy mạnh tiêu dùng nội địa. Tiêu

dùng của người dân Mỹ hiện đang chiếm tỷ trọng lớn tới 70% GDP, dần dần đã trở

nên quá mức và được khuyến khích bởi sự dễ dãi của các tổ chức TD cho vay tiêu

dùng, chính điều này đã tạo khoản thâm hụt thương mại cực lớn trong nền kinh tế và

làm cho nền kinh tế trở nên mất thăng bằng. Để tài trợ cho các khoản thâm hụt này,

Mỹ đã sử dụng biện pháp vay nợ nước ngoài bằng cách phát hành trái phiếu ra toàn

thế giới. Tính chung từ năm 2004 đến năm 2009, bình quân mỗi ngày nước Mỹ vay

nợ thêm 2 tỷ USD. Cơ sở cho việc mượn nợ một cách mạnh dạn như vậy là lập luận “

Hệ thống kinh tế bao giờ cũng có khả năng tự điều chỉnh về mức cân bằng và thâm

hụt thương mại của Mỹ sẽ được bù đắp bởi các khoản ĐT của các nước trên thế giới

quay ngược trở lại nước Mỹ và cán cân thanh toán sẽ vẫn cân bằng”. Tuy nhiên theo

lẽ thông thường, khi thâm hụt thương mại của một quốc gia tăng lên liên tục trong

nhiều năm thì đồng tiền của quốc gia đó nhiều khả năng sẽ phải giảm giá do NHTW

có thể phải in thêm tiền nhằm tài trợ cho khoản thâm hụt này. Ngoài ra nếu nước Mỹ

tiếp tục sử dụng các khoản nợ nước ngoài để tài trợ cho tiêu dùng thì khi các khoản nợ

này đáo hạn, một khối lượng lớn đồng USD sẽ được in ra để trả nợ, khi đó đồng tiền

này sẽ không còn hấp dẫn các nhà ĐT. Xu hướng này nếu xảy ra sẽ tiếp tục kích thích

giới đầu cơ thực hiện một cuộc tấn công tiền tệ chống lại đồng USD và do đó trong

hoàn cảnh xấu nhất có thể gây ra khủng hoảng nghiêm trọng. USD mất giá, lòng tin

của công chúng vào triển vọng kinh tế xấu đi lập tức sẽ dẫn tới việc người tiêu dùng

cắt giảm chi tiêu, lúc này nước Mỹ mất đi động lực chính của mình cho tăng trưởng

và chìm vào suy thoái toàn diện. Các tổ chức TD phải chịu hậu quả đầu tiên do không

có khả năng thu hồi những khoản cho vay dễ dãi. Các khoản vay này lại được CK hóa

và bán cho giới ĐT khiến cho tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi giới ĐT bị thiệt hại

Trang 18

nặng nề. Giới ĐT trong cơn khủng hoảng cũng sẽ bán tháo các khoản ĐT đang nắm

giữ khiến chúng rớt giá thê thảm và dồn các NH ĐT vào tình thế khó khăn. Sự sụp đổ

của các NH ĐT khiến cho các khoản ủy thác của công chúng bốc hơi và sự phá sản

của hàng loạt những tổ chức kinh tế lớn đã đẩy hàng triệu người vào cảnh mất việc

làm. Sự khánh kiệt làm những người này cắt giảm chi tiêu tối đa hoặc không thanh

toán được các khoản nợ của mình và như vậy đã đẩy nước Mỹ vào một vòng xoáy

khủng hoảng không có lối thoát.

2.1.2 Tác động của khủng hoảng tài chính tới thị trường bất động sản Mỹ

Để tìm hiểu về khủng hoảng thị trường BĐS Mỹ, ta bắt đầu từ nguyên nhân gây

tăng trưởng quá nóng trên thị trường này. Sau khi bong bóng Dot-com vỡ vào năm

2001 và suy thoái kinh tế hiện rõ sau cuộc tấn công khủng bố 11/9, Cục Dự trữ Liên

bang Mỹ (FED) đã có những biện pháp tiền tệ để cứu nền kinh tế nước này khỏi suy

thoái, đó là hạ lãi suất cho vay qua đêm liên NH. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn từ

tháng 5/2001 đến tháng 12/2002, lãi suất liên NH đã giảm 11 đợt, từ mức 6,5% xuống

chỉ còn 1,75% nhằm thúc đẩy tăng trưởng, mức lãi suất danh nghĩa này đã tạo ra lãi

suất thực âm. TD thứ cấp cũng giảm lãi suất theo. Điều này kích thích sự phát triển

của khu vực BĐS và ngành xây dựng, làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Trong

bối cảnh đó, những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho vay dễ dãi, kể cả cho các đối

tượng là người nhập cư bất hợp pháp có hạng mức tín nhiệm dưới chuẩn vì ỷ lại vào

sự bảo đảm ngấm ngầm từ phía chính phủ. Thêm vào đó, trong những năm cuối cùng

của nhiệm kỳ, chính quyền Bill Clinton đã ban hành một đạo luật tái phát triển cộng

đồng, tập trung vào mục tiêu XH là giải quyết nhà ở cho người có thu nhập thấp. Hai

yếu tố này đã thúc đẩy dân chúng vay tiền NH mua nhà. Hậu quả là việc cho vay và đi

vay diễn ra ồ ạt suốt gần 3 năm từ 2002 đến 2005, nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới việc

đẩy giá nhà đất lên cao, hình thành bong bóng nhà ở. Năm 2005, có tới 28% số nhà

được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12% mua chỉ để không. Thời điểm này tổng

giá trị tích lũy các khoản TD nhà ở thứ cấp lên đến 600 tỷ USD (Nguồn: State Street

Global Advisors). Cũng trong năm 2005 này, thị trường nhà ở đã bắt đầu tự điều

chỉnh. Điều này khiến cho giá nhà đất giảm và chất lượng tài sản đảm bảo cho các CK

đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO), nợ có thế

Trang 19

chấp được bảo đảm (MCO) giảm theo. Trong năm này bong bóng nhà ở phát triển tới

mức cực đại và vỡ. Từ quý 4/2005 đến quý 1/2006, giá trị nhà ở trung bình giảm

3,3%. Rủi ro mang tính hệ thống đã làm cho khủng hoảng TD nhà ở thứ cấp nổ ra vào

tháng 5/2006 khi mà nhiều tổ chức phát hành MBS và CDO cũng như các tổ chức tài

chính mà trong danh mục tài sản của mình có nhiều MBS và CDO sụp đổ. Tiếp theo

đó, khủng hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8/2007 khi đến lượt những công cụ ĐT kết

cấu (SIV) và các thể chế mục đích đặc biệt (SPV) cũng sụp đổ, sau đó phát triển thành

khủng hoảng tài chính toàn cầu từ tháng 9/2008 sau khi hàng loạt tổ chức tài chính

khổng lồ sụp đổ (Nguồn: IMF World Economic Outlook 10/2009)

2.1.3 Những hành động nhằm cứu vãn nền kinh tế của chính phủ Mỹ: Ngay

khi khủng hoảng nổ ra, Chính phủ Mỹ và FED ngay lập tức can thiệp bằng nhiều cách

nhằm cứu vãn nền kinh tế Mỹ

2.1.3.1 Chính phủ Mỹ bơm tiền vào lưu thông bằng cách in thêm tiền: Giữa

tháng 12/2008, FED tuyên bố thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ mặt lượng. Thực tế

NHTW Mỹ đã in tiền, bơm vào nền kinh tế với khối lượng khổng lồ lên đến 2.000 tỷ

USD, và gọi đó là “gia tăng mức lưu hoạt có định lượng” (quantitative easing).

2.1.3.2 Chính phủ Mỹ can thiệp mạnh vào tín, mạnh tay cắt giảm lãi suất,

tăng cường mua MBS: Từ tháng 8/2007, FED đã tiếp tục tiến hành các biện pháp nới

lỏng tiền tệ để tăng tính thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Theo đó, chỉ trong

vòng chưa đầy 8 tháng (tháng 9/2007 đến tháng 4/2008) lãi suất cho vay qua đêm liên

NH đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2%, sau đó tiếp tục giảm và đến

ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, đây là mức lãi suất gần bằng 0 hiếm thấy. FED cũng

thực hiện nghiệp vụ thị trường mở khi mua lại các MBS, các trái phiếu chính phủ Mỹ

mà các tổ chức tài chính nước này đang sở hữu…đồng thời hạ lãi suất tái chiết khấu.

Tháng 12/2007 Chính phủ Mỹ đã lập và giao cho FED chủ trì chương trình Term

Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ hạn từ 28 đến 84 ngày theo

mức lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài chính đã đấu giá. Trong vòng 1 năm từ tháng

12/2007 đến tháng 11/2008, lượng tiền mà FED đã cho vay theo chương trình này đã

là gần 300 tỷ USD. Tính đến tháng 11/2008, FED cũng đã tiến hành cho các tổ chức

tài chính vay thế chấp số tiền lên đến 1.600 tỷ USD.

Trang 20

2.1.3.3 Ban hành các gói kích thích kinh tế khổng lồ: Ngày 13/2/2008, chính

phủ Mỹ đã áp dụng một chương trình kích cầu tổng hợp (Economic Stimulus Act of

2008), trị giá 168 tỷ USD mà mục đích chủ yếu là hoàn lại thuế thu nhập cá nhân,

giảm bớt phần nào gánh nặng nợ nần của người dân Mỹ. Tháng 9/2008, Thượng viện

Mỹ thông qua Đạo luật ổn định kinh tế khẩn cấp 2008 cho phép Bộ tài chính Mỹ chi

tới 700 tỷ USD nhằm cứu vãn nền tài chính của nước này bằng cách mua lại các

khoản nợ xấu của NH, đặc biệt là các CK đảm bảo bằng BĐS, cũng như chi cho cả

các chương trình phục vụ đông đảo người dân nhằm kích thích tiêu dùng như trợ giúp

cho người thất nghiệp, hỗ trợ dinh dưỡng cho người nghèo và người thu nhập thấp,

phát triển cơ sở hạ tầng. Ngày 03/10/2008, gói kích thích này chính thức được phép

thực hiện. Tiếp sau đó, tới ngày 17/2/2009, Barack Obama đã ký American Recovery

and Reinvestment Act. Đạo luật này cho phép Chính phủ thực hiện gói kích thích thứ

hai. Gói kích thích này trị giá 787 tỷ USD.

2.1.3.4 Mượn nợ từ phát hành trái phiếu: Vị trí đặc biệt của USD- đồng tiền

thanh toán quốc tế đã giúp trái phiếu Mỹ từ xưa đến nay được coi là sản phẩm ĐT rất

an toàn, và Mỹ đã lợi dụng điều đó để tận thu nguồn tiền của toàn thế giới. Mặc dù vị

trí bá chủ của đồng USD đang lung lay từ khi khủng hoảng tới nay nhưng không thể

phủ nhận rằng việc tăng sở hữu trái phiếu chính phủ Mỹ trong thời kỳ khủng hoảng

vẫn là sự lựa chọn bắt buộc của nhiều quốc gia. Số liệu của chính phủ Mỹ cho thấy, từ

đầu năm tới nay, Bộ Tài chính Mỹ đã bán ra lượng trái phiếu trị giá 1.410 tỷ USD và

các nhà ĐT nước ngoài đã mua 43,1% tổng số trái phiếu này. Điều này đã giúp Mỹ

huy động được một lượng vốn lớn để tài trợ cho các chương trình kích cầu, trang trải

cho những khoản chi tiêu khổng lồ của chính phủ Mỹ.

2.1.3.5 Ưu đãi tín dụng thuế: Chính phủ Mỹ đã bơm hàng tỷ USD vào thị trường

BĐS với hy vọng đưa nước Mỹ thoát khỏi tình trạng suy thoái của nền kinh tế. Năm

2009, việc áp dụng tín thuế cho người mua nhà lần đầu đã khiến doanh số bán nhà và

lượng nhà mới cấp phép tăng lên

Trang 21

Hình 2.1-Biểu đồ thể hiện sự gia tăng số lượng nhà mới xây, được cấp phép mới.

(Nguồn State Street Global Advisors)

nhưng kể từ khi chính phủ Mỹ áp dụng tín thuế này cho tất cả chủ sở hữu BĐS thì

chính sách này lại không phát huy được hiệu quả. Hiện khoản tín thuế ưu đãi

8.000USD dành cho người mua nhà lần đầu tiên và 6.500USD cho người mua nhà lần

thứ 2 là biện pháp tạm thời đang được chính quyền Mỹ sử dụng nhằm tăng giao dịch

mua nhà, thúc đẩy thị trường BĐS trong giai đoạn suy thoái.

2.1.4 Những kết quả mà Chính phủ Mỹ đã đạt được

Theo số liệu thống kê của Bộ Thương mại Mỹ, doanh số bán nhà mới xây trong

tháng 6/2010 đã bất ngờ hồi phục tốt hơn kỳ vọng. Cụ thể số lượng nhà ở xây mới

được giao dịch trong tháng 6 là 330.000 căn, tăng 22,2% so với lượng giao dịch trong

tháng 5 là 270.000 căn. Lãi suất TD được giữ ổn định ở mức thấp, cùng với giá nhà

đất liên tục giảm sâu kể từ sau khi chương trình ưu đãi thuế của chính phủ kết thúc hồi

tháng 4 (sau đó được gia hạn tới 30/9) đã khuyến khích người dân mạnh dạn ĐT vào

BĐS. Theo một cuộc khảo sát mới nhất của các nhà kinh tế học, các chuyên gia phân

tích BĐS, các nhà ĐT và chiến lược thị trường thì giá BĐS ở Mỹ sẽ tăng hơn 12,4%

từ giữa năm 2010 cho đến cuối năm 2014. Dựa trên giá BĐS và những chi phí bỏ ra

để thế chấp đối với các hộ gia đình Mỹ, so với đỉnh điểm bong bóng BĐS năm 2005

thì giá nhà hiện nay ở Mỹ rẻ hơn tới 60%. Do đó theo Cục Điều tra Dân số Mỹ thì

trước mắt, nhu cầu tìm thuê, mua nhà ở cho hộ gia đình nhỏ lẻ sẽ tăng mạnh. Tuy

Trang 22

nhiên có thể nói chính sách ưu đãi TD thuế không đạt hiệu quả như mong đợi bởi hiện

nay tỷ lệ thất nghiệp ở nước Mỹ vẫn giữ ở mức cao (khoảng 10%), niềm tin của người

tiêu dùng bị giảm sút nghiêm trọng. Thêm vào đó, tại Mỹ có tới 1/3 chủ nhà phải bán

tài sản hiện tại để trả nợ cho các khoản vay sắp đáo hạn, trong khi đó khoản vay này

thường cao hơn giá trị căn nhà họ hiện sở hữu. Vì vậy khoản tín thuế- TD ưu đãi

6.500 USD của chính phủ sẽ không thấm vào đâu để người mua có thể chi trả cho một

ngôi nhà mới. Ở một số phân khúc, giá BĐS vẫn giữ ở mức ổn định, nhưng nếu so

sánh với năm 2007 là thời điểm thị trường đạt đỉnh thì hiện tại giá BĐS vẫn chỉ bằng

1/3. Những người có BĐS cần bán cũng gặp rất nhiều khó khăn bởi thực tế giá trị tài

sản của họ hiện thời bị giảm sút khá nhiều so với giá trị họ đã ĐT. Với những gì đang

có ở hiện tại, tỷ lệ thu hồi nhà ở Mỹ nhiều khả năng sẽ tăng và như thế cuối cùng giá

nhà ở lại bị ảnh hưởng. Nền kinh tế Mỹ đang ở điểm nghỉ, phục hồi nhẹ, nếu giá nhà

đất tiếp tục suy giảm, thì việc tái suy thoái trước khi hoàn thành quá trình hồi phục

cũng không phải là một điều gây bất ngờ.

2.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: Một số bài học kinh nghiệm đã được rút

ra cho VN từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ

2.2.1 Bài học về khả năng tự điều tiết của thị trường bất động sản: Từ diễn

biến của thị trường BĐS các nước cũng như chính diễn biến của thị trường BĐS VN

thời gian qua có thể nhận thấy thị trường BĐS luôn có khả năng tự điều tiết. Cũng như

các loại thị trường khác trong nền kinh tế thị trường, sự vận hành của thị trường BĐS

chịu tác động của một cơ chế nhất định, mà ở đây chính là sự tác động của các quy

luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật giá cả, quy

luật cạnh tranh ...Trong đó đáng kể nhất là quy luật cung cầu và quy luật giá cả. Trong

nền kinh tế thị trường, giá cả điều tiết quan hệ cung-cầu. Thông qua giá cả thị trường

nhận biết được quan hệ cung cầu và tác động trở lại cung cầu, hình thành cung cầu

mới phù hợp với sản xuất và tiêu dùng XH. Vì vậy nên để cho thị trường BĐS tự điều

tiết, Nhà nước chỉ nên chỉ đóng vai trò là người kiểm soát và định hướng.

2.2.2 Nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất trong sự phát triển bền vững và

ổn định của thị trường bất động sản: Nhìn lại những diễn biến trên thị trường BĐS

Mỹ trước- trong và hậu khủng hoảng cho thấy việc Nhà nước quản lý kiểm soát thị

Trang 23

trường BĐS chưa tốt cũng như có những chính sách định hướng không thích hợp là

nguyên nhân làm cho thị trường BĐS phát triển không ổn định, nóng lạnh thất thường

từ đó không phát huy được vai trò là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy

nền kinh tế, gây lãng phí thất thoát tài nguyên quốc gia và bất ổn XH. Để thị trường

BĐS phát triển ổn định và bền vững, Nhà nước cần làm tốt vai trò kiểm soát của

mình. Cụ thể, Nhà nước cần công khai minh bạch các chủ trương, chính sách, cải tiến

thủ tục hành chính; nâng cao năng lực quản lý, định hướng quy hoạch tổng thể những

mặt liên quan đến thị trường; xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về BĐS trên toàn

quốc cũng như thiết lập được một hệ thống văn bản pháp luật tiên tiến, phù hợp với

đặc thù quốc gia.

2.2.3 Bài học về việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn Ngân hàng để đầu

tư vào bất động sản sẽ dễ dẫn đến rủi ro thanh khoản:

Từ khủng hoảng nhà ở thứ cấp Mỹ cho thấy, việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn

vốn NH để ĐT vào BĐS sẽ dễ dẫn đến rủi ro thanh khoản, đặc biệt khi năng lực kiểm

tra, đánh giá, giám sát rủi ro của hệ thống NH chưa hiệu quả. Qua đó có thể thấy, làm

lành mạnh nguồn vốn là điều kiện tiên quyết để thị trường BĐS phát triển ổn định

cũng như hạn chế tối đa những rủi ro cho nền kinh tế. Để tạo vốn lành mạnh cho thị

trường BĐS, và trong điều kiện TTCK VN còn yếu, giải pháp hữu hiệu để giảm rủi ro

TD BĐS là VN nên sớm hình thành các cơ chế chuyên nghiệp như NH ĐT, NH phát

triển, công ty tài chính, quỹ ĐT độc lập hoặc hạch toán độc lập trong NHTM…để bảo

lãnh phát hành hay trực tiếp phát hành trái phiếu, chứng chỉ BĐS, thực hiện các dịch

vụ về lĩnh vực BĐS như thuê mua tài chính, bảo hiểm khoản vay, bảo lãnh phát hành

CK BĐS, bảo lãnh vay vốn, hoặc lập quỹ ĐT tín thác nhằm giảm thiểu rủi ro TD trên

thị trường. Để làm được điều này, cần có cơ chế minh bạch cho việc phòng ngừa,

kiếm soát rủi ro, nhất là việc CK hóa TD BĐS cần phải thông qua thông tin về xếp

hạng TD đủ độ tin cậy cao.

2.2.4 Bài học về nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác giám sát,

dự báo: Cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế vừa qua đã cho thấy sự yếu kém của

công tác giám sát, dự báo và cảnh báo về khả năng xảy ra khủng hoảng, đây cũng

chính là nguyên nhân làm cho nền kinh tế VN bị trì trệ trong suốt thời gian qua. Để

Trang 24

tránh lặp lại tình trạng đó, VN cần phải nghiên cứu để nhận dạng đầy đủ tác động của

cuộc khủng hoảng, đề ra các giải pháp đồng bộ và phối hợp với các nước khác để ứng

phó. Muốn làm được việc này, VN cần tăng cường nguồn lực để làm tốt công tác

giám sát, dự báo, nghiên cứu các vấn đề kinh tế ở cấp quốc gia, khu vực và trên phạm

vi toàn cầu bởi vì vai trò của công tác thông tin, dự báo, giám sát, cảnh báo an toàn

nhất là an toàn hệ thống tài chính- NH là hết sức quan trọng và không thể coi nhẹ

trong bất luận trường hợp nào và vào thời điểm nào.

2.2.5 Bài học về hạn chế chi tiêu công: Thực tế cho thấy, trong nhiều năm qua,

chính phủ Mỹ đã không củng cố ngân sách đúng mức, dẫn đến việc thâm hụt ngân

sách nên đã gặp nhiều khó khăn khi nền kinh tế đối mặt với cuộc khủng hoảng vừa

qua. Bài học rút ra cho VN là cần giảm mức độ thâm hụt ngân sách trong giai đoạn

kinh tế phát triển hưng thịnh, bởi vì bên cạnh việc bảo đảm năng lực ngân sách để đối

phó với những khó khăn mà nền kinh tế có khả năng gặp phải, việc giảm chi tiêu công

trong giai đoạn kinh tế tăng trưởng ổn định cũng sẽ góp phần giảm sức ép tới tổng cầu

và sự tăng giá các loại tài sản, gây áp lực lạm phát lên nền kinh tế.

2.2.6 Bài học về việc tự do hóa và phát triển cạnh tranh thị trường: Nên mở

cửa mạnh hơn về tài chính. Khi luồng vốn trong nước đã trở nên hạn hẹp và không

được sử dụng hiệu quả thì nên mở cửa cho nước ngoài, nếu không sẽ xảy ra việc đình

trệ ách tắc trong toàn bộ nền kinh tế. Ở những lĩnh vực không cần độc quyền vì không

nhạy cảm như xăng dầu, điện, nước, dược phẩm.. thì nên được mở rộng cho các thành

phần kinh tế khác để tránh tình trạng độc quyền, dẫn đến lũng đoạn nền kinh tế. VN

cũng cần tăng phạt hành chính những vi phạm về giá cả, chống đầu cơ và lũng đoạn

nhằm lành mạnh hóa việc cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế.

2.2.7 Bài học về tác động tiêu cực của một chính sách thuế không phù hợp:

Theo IMF, chính sách thuế của Mỹ đã gián tiếp khuyến khích việc sử dụng đòn bẩy

tài chính của khu vực DN cũng như dân cư. Luật thuế thu nhập DN của Mỹ cho phép

khấu trừ chi phí lãi vay khi tính thuế thu nhập DN. Trong khi đó, việc huy động vốn

dưới hình thức phát hành cổ phiếu không nhận được bất kỳ sự ưu đãi tương tự nào về

thuế. Điều này sẽ khuyến khích DN cũng như các tổ chức tài chính sử dụng vốn vay

trong hoạt động SXKD hơn là tăng vốn chủ sở hữu. Đối với khu vực dân cư, luật thuế

Trang 25

thu nhập cá nhân cũng cho phép khấu trừ phần trả lãi vay mua nhà khỏi phần thu nhập

chịu thuế khi tính thuế thu nhập cá nhân. Theo số liệu của IMF, khoản hỗ trợ về thuế

này tương đối lớn, chiếm khoảng 19% thu nhập của tầng lớp trung lưu và khoảng 8%

thu nhập của tầng lớp có thu nhập thấp. Chính sách này đã khuyến khích người dân

tăng các khoản vay mua nhà. Như vậy, những chính sách ưu đãi thuế kể trên đã góp

phần khuyến khích các tổ chức, cá nhân vay vốn để ĐT vào những lĩnh vực rủi ro cao

như CK, BĐS. Điều này tạo nên bong bóng CK, BĐS ở Mỹ, một trong những nguyên

nhân gây ra khủng hoảng tài chính. Ngoài việc khuyến khích sử dụng đòn bẩy tài

chính, chính sách thuế cũng tác động tới mức độ và sự biến động giá cả của các tài sản

cơ bản trong đó có CK. Chẳng hạn, việc Chính phủ cắt giảm thuế đánh vào cổ tức

được chia đã góp phần khiến CK tăng giá. Tuy nhiên, những tác động của chính sách

thuế tới sự tăng giá các loại tài sản khá phức tạp, khó có thể đo lường chính xác.

Trong trường hợp này, nếu chính phủ Mỹ khuyến khích mua nhà thông qua việc giảm

lãi suất cho vay kinh doanh BĐS thay vì sử dụng chính sách thuế có lẽ tình hình sẽ

khả quan hơn.

Kết luận chương 2

Tại VN hiện nay, do nhiều nguyên nhân mà thị trường BĐS đã và đang rơi vào

thời kỳ trầm lắng, gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Mặc dù vậy, thị trường BĐS

vẫn đầy tiềm năng và mở ra nhiều cơ hội tốt. Nhưng để phát triển thị trường còn non

trẻ này không những đòi hỏi sự nỗ lực, kinh nghiệm của các nhà ĐT mà còn cần được

sự điều tiết và định hướng đúng đắn từ phía Nhà nước. Từ cuộc khủng hoảng, chắc

chắn sẽ có nhiều bài học bổ ích được rút ra, VN cần nghiêm túc phân tích, ứng dụng

những kinh nghiệm này từ đó xây dựng được một cơ chế chính sách linh hoạt, phù

hợp với thực tiễn để phát triển thị trường BĐS theo hướng lành mạnh, ổn định, góp

phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và an sinh XH.

Trang 26

Chương 3: Thị trường bất động sản VN- Thực trạng và xu hướng phát triển

3.1 Thị trường bất động sản Việt Nam và các mối quan hệ tương quan trong

nền kinh tế

3.1.1 Mối tương quan giữa thị trường bất động sản và nền kinh tế vĩ mô

Nhìn dưới góc độ thị trường thì ổn định kinh tế vĩ mô cũng đồng nghĩa với việc ổn

định các thị trường: tiền tệ- TD, BĐS, CK, xuất nhập khẩu, thị trường hàng hóa, dịch

vụ, thị trường lao động..vì những thị trường này có mối liên hệ liên thông rất chặt chẽ.

Chẳng hạn, nếu tốc độ tăng trưởng TD nhanh sẽ dễ gây ra lạm phát do làm cho tăng

trưởng kinh tế quá nóng, tạo bong bóng cho các thị trường khác. Còn nếu TTCK èo

uột có thể là nguyên nhân khiến vàng và một số hàng hóa chiến lược lên ngôi. Tương

tự, một thị trường BĐS phát triển mạnh có thể thúc đẩy sự đi lên của hàng loạt thị

trường như thị trường xây dựng, thị trường lao động…Từ 1986 đến nay, nhìn chung

nền kinh tế VN đã có tốc độ tăng trưởng khá cao, nhưng cũng có những đợt suy

giảm gợi tính chất chu kỳ kinh tế.

Hình 3.1-Đồ thị thể hiện Tốc độ tăng trưởng GDP của kinh tế VN từ 1984 đến 2008.

Nguồn www.asset.vn

Biến động kinh tế của những năm 1997-1998 và 2007-2008 cùng được ghi nhận

với các tín hiệu suy giảm tăng trưởng kinh tế, ĐT và tiêu dùng thu hẹp, kinh doanh

khó khăn, cơ hội việc làm sụt giảm, đời sống người dân khó khăn…Giai đoạn 1997-

1998, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã gây gián đoạn dòng vốn ĐT nước ngoài

Trang 27

tại VN, hàng loạt dự án ĐT chậm tiến độ, hoặc buộc phải dừng không thời hạn.

Nhưng, phần đông đối tác VN tham gia các dự án có vốn ĐT nước ngoài đều đóng

góp bằng đất đai, nhà xưởng, hay nhân lực nên ngưng trệ các dự án ĐT mới chỉ đồng

nghĩa với việc các tài sản này chưa tham gia vào quá trình tạo ra giá trị mới chứ không

tạo áp lực tài chính đáng kể nào lên SXKD.

Hình 3.2-Đồ thị thể hiện Biến động vốn FDI và số dự án ĐT qua các năm.

Tuy nhiên trong cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2007-2008, khi quy mô hội nhập

Nguồn Tổng cục Thống kê.

kinh tế quốc tế của VN đã tăng từ cấp khu vực lên toàn cầu, thì tính phức tạp của

những biến động kinh tế giai đoạn này cũng gia tăng. Không chỉ tăng lên về số lượng,

các tổ chức, cá nhân cũng có hình thức đa dạng và phương thức tương tác tinh vi hơn.

Tính phức tạp cao cũng là một thách thức cho những nỗ lực đưa nền kinh tế trở lại chu

kỳ ổn định và phát triển. Là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế, thị trường

BĐS cũng không tránh được chu kỳ thịnh- suy- thịnh. Cơn sốt thị trường đầu tiên xuất

hiện năm 1993-1994, bốn năm sau đó thị trường nóng trở lại vào năm 1998-1999, chu

kỳ lập lại vào năm 2002, sau đó lại bùng phát vào năm 2007. Từ những thống kê trên

nhận thấy chu kỳ của thị trường BĐS VN là khoảng 4 năm. Cùng với quá trình phát

triển của nền kinh tế, tính thị trường của thị trường BĐS ngày càng tăng cao. Nếu

trong thập kỷ 90, người dân ĐT vào BĐS với nguồn tiền nhàn rỗi là chính và phần

lớn là giao dịch ngầm (nên đã ít chịu tác động của cuộc khủng hoảng giai đoạn 1997-

Trang 28

1998) thì hiện nay, nguồn vốn tài trợ chủ yếu lại từ hệ thống NH, hoạt động đầu cơ

làm giá cũng tăng cao. Vì vậy có thể thấy chu kỳ của thị trường BĐS càng về sau càng

trùng với chu kỳ suy thoái của nền kinh tế (như giai đoạn 2008 tới nay) do gắn liền và

chịu ảnh hưởng từ hàng loạt những chính sách vĩ mô Nhà nước. Chẳng hạn trong năm

2008, khi nước ta bắt đầu chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, thị

trường BĐS VN đã có dấu hiệu bất ổn. Do lạm phát tăng nhanh nên giá cả xây dựng

tăng, thêm vào đó khi Nhà nước đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát lên hàng đầu thông

qua việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt thì thị trường BĐS ngay lập tức bị khó

khăn do khó khăn về vốn, tốc độ hoàn vốn của các dự án bị chậm lại, mọi giao dịch

đều bị đình trệ, giá cả đầu ra lại bị sụt giảm, dẫn đến những rủi ro thanh khoản cho hệ

thống NH, từ đó gây những tác động xấu cho nền kinh tế, tác động trở lại những chính

sách vĩ mô của Nhà nước. Hoặc như khoảng nữa đầu năm 2009, việc giải ngân gói

kích thích kinh tế thông qua hỗ trợ lãi suất 4% đã góp phần tạo nên một đợt tăng giá

ngắn thì tại thời điểm 6 tháng cuối năm đó, thị trường BĐS gần như không có biến

động gì về giao dịch và giá cả do nhà ĐT dừng lại để nghe ngóng và chờ đợi xem gói

kích thích kinh tế có được tiếp tục triển khai. Rõ ràng có thể thấy khi các yếu tố kinh

tế vĩ mô không được giữ một cách ổn định, tình trạng lạm phát luôn ở mức cao thì thị

trường BĐS sẽ không phát triển ổn định và bền vững, ngược lại những diễn biến khó

lường của thị trường BĐS cũng sẽ đưa tới những hệ lụy cho nền kinh tế, đặc biệt là

chính sách tiền tệ.

3.1.2 Quan hệ giữa thị trường bất động sản và thị trường vốn.

Nền kinh tế VN đã bức phá về tăng trưởng trong giai đoạn 2005-2007 với sự tinh

vi và phức tạp gia tăng đáng kể nhờ các thị trường vốn hoạt động mạnh mẽ, các sản

phẩm tài chính đa dạng hơn và nhu cầu ĐT gia tăng đáng kể. Quá trình liên thông các

thị trường BĐS, thị trường vốn ngày càng rõ hơn. Theo đánh giá của Cục Quản lý nhà

và thị trường BĐS (Bộ Xây dựng), hiện nay số DN kinh doanh BĐS có quy mô về

vốn từ 10 tỷ đồng trở nên chỉ chiếm gần 30% tổng số DN. Số DN có vốn từ 500 tỷ

đồng trở lên (30 triệu USD) chỉ chiếm 2,4%, còn lại phần lớn là vốn nhỏ không có khả

năng thực hiện các dự án lớn nếu không có sự hỗ trợ của NH. Thực tế cũng chứng

minh, đa phần các nhà ĐT BĐS từ cá nhân cho đến công ty đều phụ thuộc vào nguồn

Trang 29

vốn NH để luân chuyển ĐT sản phẩm. Cá nhân nếu muốn mua căn hộ cũng phải cần

tiền từ NH để xoay, trả góp…các công ty cần nguồn vốn từ trung đến dài hạn để ĐT

dự án, công trình. Trường hợp nguồn vốn từ NH gặp khó khăn thì DN sẽ không triển

khai dự án được. Hiện nay, NH là kênh huy động vốn chủ yếu của các dự án nhưng lại

là dòng vốn ngắn hạn, mặt bằng lãi suất cao, dẫn đến một nghịch lý là các dự án đang

gặp khó khăn về nguồn vốn nhưng các nhà ĐT rất dè chừng khi vay vì luôn phải chịu

áp lực lớn trong việc trả nợ. Thực tế cho thấy thị trường TD BĐS VN vẫn đang trong

vòng lẩn quẩn khó khăn với những vấn đề khó có thể giải quyết trong ngắn hạn, đó là

: Nhu cầu về vốn lớn; Nguồn cung khan hiếm do sự kiểm soát của Nhà nước; Lãi suất

cho vay cao dẫn đến tăng trưởng chậm; Tiềm năng lớn nhưng cũng đầy rủi ro.

Đánh giá khả năng phát triển của thị trường tín dụng bất động sản VN:

Kể từ năm 2008 trở lại đây, do bị tác động bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu đã

khiến cho thị trường BĐS cũng như thị trường TD BĐS bị thu hẹp lại. Thị trường

BĐS trầm lắng, giá hàng hóa BĐS cũng trong xu thế đi xuống, trong khi đó mặt bằng

lãi suất của NH vẫn cao, cung cầu không thể gặp nhau là điều tất yếu. Nhằm kiềm chế

lạm phát, phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng, NHNN chủ trương thực hiện chính

sách tiền tệ thắt chặt, vốn TD ưu tiên cho hoạt động SXKD, do đó các NHTM cũng tỏ

ra thận trọng hơn trong việc cấp vốn cho thị trường BĐS do ngại rủi ro. Mặt khác, do

hoạt động tài trợ vốn cho các dự án ĐT BĐS thường có rủi ro cao nên trong danh mục

ĐT của mình, không phải NH nào cũng mạo hiểm cấp vốn cho các chủ ĐT dự án hoặc

khách hàng vay với mục đích kinh doanh mà chủ yếu tập trung cho cá nhân vay mua

nhà trả góp, mua căn hộ, hoặc sửa chữa nhà. Một ví dụ cho việc này là ACB. Chủ

trương của ACB này là không tập trung cho vay dự án, chỉ đẩy mạnh hỗ trợ vốn cho

khách hàng cá nhân vay mua căn hộ, nhà, đất cũng như sửa chữa nhà dưới hình thức

trả góp. TD BĐS được khai thác chủ yếu từ mảng cho vay mua nhà trả góp thông qua

hình thức liên kết với các chủ ĐT dự án để tài trợ vốn cho khách hàng cá nhân mua

căn hộ. Đây cũng là xu hướng chung ở các NH khác trong giai đoạn hiện nay. TD

BĐS tiêu dùng sẽ khó phát triển như mong đợi.

Vốn đã khó phát triển vì những lý do nói trên, thì nay với quy định về hệ số rủi ro

250% (được đánh giá là tương đối cao) đối với các khoản vay BĐS nhằm mục đích

Trang 30

kinh doanh ở thông tư số 13/TT-NHNN ngày 20/5/2010, và quy định về việc nâng tỷ

lệ an toàn vốn lên 9% của các NH (có hiệu lực từ ngày 1/10) sẽ là một rào cản mới đối

với sự phát triển của thị trường TD BĐS VN. Việc tăng hệ số rủi ro lên một mức quy

định là 250% đối với các khoản vay kinh doanh BĐS (không phân biệt BĐS đã hình

thành hay sẽ hình thành trong tương lai) sẽ làm tổng tài sản có rủi ro của các NHTM

tăng lên rất nhiều. Với mức vốn điều lệ không thay đổi thì tỷ lệ an toàn vốn của các

NH sẽ giảm đi đáng kể. Để nâng cao tỷ lệ an toàn thì các NH phải kiểm soát hiệu quả

sử dụng vốn. Theo đó, các NH không những không thể phát triển mà còn phải thu hẹp

các khoản vay nhằm mục đích kinh doanh BĐS không loại trừ cả cho vay mua căn hộ,

nhà đất, trả góp…bởi vì rất khó để có thể kiểm tra rà soát được xem là các khách hàng

vay mua nhà để ở hay cho thuê, kinh doanh. Không ít NH sẽ chấp nhận hy sinh tăng

trưởng dư nợ ở loại hình TD này nhằm giảm thiểu rủi ro trong tương lai.

Để thực hiện đồng thuận giảm lãi suất huy động về mức 11%/năm theo kêu gọi

của hiệp hội NH VN (VNBA) kể từ ngày 15/10/2010, các NH mà tiên phong là các

NH quốc doanh và cổ phần quy mô lớn đã tiên phong cắt giảm lãi suất (trong khi các

NH vừa và nhỏ vẫn khá thận trọng vì lo ngại sự dịch chuyển của dòng tiền gửi cũng

như muốn duy trì sức mạnh cạnh tranh trong huy động vốn). Rõ ràng có thể thấy việc

các NH cắt giảm chi phí đầu vào là cần thiết, song nhu cầu vốn của khách hàng cuối

năm sẽ tăng trong khi thị trường vàng và ngoại tệ liên tục biến động sẽ làm cho việc

huy động vốn gặp nhiều khó khăn, điển hình là sau đó, VNBA lại kêu gọi áp dụng

trần lãi suất huy động mới là 12%. Vì thế dù lãi suất huy động giảm trung bình 0,2%

nhưng khả năng lãi suất cho vay bằng tiền đồng chưa thể giảm mạnh như kỳ vọng. Và

như vậy thì có thể khẳng định sự tăng trưởng của thị trường TD BĐS vẫn chưa thật sự

được cải thiện trong giai đoạn hiện tại. Tuy nhiên nếu trong thời gian tới, lãi suất giảm

mạnh hơn nữa (khả năng giảm là rất lớn vì NHNN đang tích cực bơm vốn với lãi suất

rẻ để giúp các NH giảm thêm lãi suất) thì TD BĐS sẽ gia tăng bởi vì có một thực tế

không thể phủ nhận là nhu cầu vốn của khách hàng là rất lớn và tăng dần theo sự phát

triển của XH.

Trang 31

3.2 Thực trạng thị trường bất động sản Việt Nam

3.2.1 Thị trường bất động sản Việt Nam chịu tác động của cuộc khủng hoảng

tài chính Mỹ 2008.

3.2.1.1 Thị trường bất động sản Việt Nam bị đóng băng

Do hiệu ứng chậm của nền kinh tế VN trước những biến động của thế giới nên

những tác động của bên ngoài đối với VN thường chậm hơn các nước khác. Khi cuộc

khủng hoảng bắt đầu xuất hiện ở Mỹ vào khoảng giữa năm 2007 thì vào thời điểm đó,

nền kinh tế VN vẫn ở đỉnh cao của sự tăng trưởng. Giá nhà đất tăng đến chóng mặt, có

nơi thậm chí tăng hơn 100% so với giá thật. Người mua vẫn tiếp tục đổ xô do tâm lý

sợ giá sẽ tăng lên nữa. Ví dụ tại TP.HCM, chỉ trong vòng 3 tuần lễ cuối của tháng 7/2007, giá nhà ở khu dân cư Thái Sơn huyện Nhà Bè đã tăng từ 5-6 triệu đồng /1m2 lên đến 10-11 triệu đồng/1m2. Ngoài hiệu ứng chậm của nền kinh tế, một nguyên nhân

khác có thể giải thích cho nghịch lý này đó là các hợp đồng vay liên quan đến BĐS có

kỳ hạn khá dài, thường là 6 tháng hay 1 năm trong đó 1 năm là phổ biến nhất. Khi

những hợp đồng vay chưa đáo hạn thì các nhà ĐT vẫn chưa cảm thấy những khó khăn

về nguồn vốn cũng như hệ thống NH cũng chưa lường được hết những rủi ro tương

tác khi thị trường BĐS quay đầu (Theo báo cáo của NHNN, dư nợ cho vay BĐS năm

2008 lên đến 115.000 tỷ, chưa kể gần 400.000 tỷ cho vay thế chấp bằng sổ đỏ nhà và

bằng khoán đất.). Khoảng tháng 8/2008, khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu có

những tác động rõ nét tới VN. Kinh tế giảm phát, thu nhập giảm dẫn đến cầu trên thị

trường BĐS (sức mua, chuyển nhượng, thuê…) giảm. Hàng hóa BĐS bị ứ đọng, các

DN thiếu vốn để triển khai dự án, hoặc mất khả năng trả nợ NH, tính thanh khoản kém

đã kéo theo nguy cơ phá sản. Lạm phát tăng cao, tỷ lệ nợ xấu BĐS tăng dẫn đến việc

áp dụng chính sách thắt chặt TD của hệ thống NH. Khi NHNN thắt chặt TD, các NH

ngưng cho vay hoặc kiểm soát vay chặt chẽ, lãi suất vay bị đẩy lên cao hơn 20%. Sức

mua của thị trường bị giảm mạnh do người mua vừa khó vay vốn của NH lại phải chịu

lãi suất quá cao. Nhà ĐT phát triển BĐS chậm triển khai các dự án vì không thể huy

động được vốn, thị trường BĐS rơi vào thời kỳ băng giá. Nhiều nhà ĐT không kịp rút

khỏi thị trường phải chịu nhiều thiệt hại, bị chôn vốn do không bán được đất. Cổ

Trang 32

phiếu của các DN BĐS bị giảm giá, giảm tính thanh khoản. Tình trạng thị trường BĐS

đóng băng như hiện nay đã gây ra nhiều hệ quả bất cập. Trong khi giá vật tư thì tăng

mạnh do nhiều yếu tố đưa đến việc tăng chi phí xây dựng, sức mua của thị trường lại

giảm mạnh do người mua vừa khó vay vốn của NH lại vừa phải chịu lãi suất quá cao.

Một số công ty ĐT phát triển BĐS có thể sẽ phải buộc nghĩ đến việc chậm triển khai

các dự án để chờ đợi vì khó huy động được vốn.

3.2.1.2 Luồng vốn FDI vào thị trường bất động sản bị giảm sút:

Khi khủng hoảng xảy ra, luồng vốn ĐT FDI vào thị trường BĐS VN đã giảm rõ

rệt. Hầu hết các dự án ĐT tiếp tục đổ dồn vào hai thị trường chính là nhà ở và văn

phòng cho thuê. Tuy nhiên cũng giống như các nước trong khu vực, những dự án

thuộc loại này khi hoàn thành sẽ chịu nhiều rủi ro do nhu cầu về các loại hàng hóa này

cũng chưa thật sự nhiều. Những dự án liên kết với đối tác nước ngoài không những có

ý nghĩa về việc thu hút dòng vốn ĐT mà còn có ý nghĩa quan trọng khác dành cho các

DN BĐS trong nước là tiếp nhận chuyển giao khoa học công nghệ mới trong kiến

trúc, xây dựng cũng như kỹ năng quản lý, quy hoạch phát triển…khi kinh tế toàn cầu

suy thoái thì việc chuyển giao hoặc tiếp cận đó lại càng trở nên khó thực thi.

Hình 3.3-Đồ thị thể hiện tốc độ tăng trưởng các thành phần trong tổng vốn ĐT.

55

40

25

10

-5

-20

-35

Q1/08

Q2/08

Q3/08

Q4/08

Q1/09

Q2/09

Q3/09

Tổng đầu tư

Nhà nước

Ngoài nhà nước

Vốn FDI

Nguồn tổng cục Thống kê.

Trang 33

3.2.2 Những vấn đề nội tại của thị trường bất động sản Việt Nam:

Ngoài việc bị tác động bởi yếu tố khách quan từ bên ngoài là cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu 2008, bản thân thị trường BĐS VN cũng có những hạn chế tồn tại cần

phải giải quyết, có thể kể ra như sau:

3.2.2.1. Về mặt quản lý của Nhà nước

(cid:190) Hệ thống văn bản pháp luật về BĐS, nhà đất chưa hoàn thiện: Có thể thấy

hiện tượng sốt, lắng, đầu cơ BĐS không chỉ là vấn đề của thị trường BĐS mà còn là

vấn đề quản lý vĩ mô, trong đó chính sách đất đai rất quan trọng. Đến nay, dù đã nhiều

lần sửa đổi, Luật Đất đai vẫn chưa tạo được khuôn khổ pháp lý cho sự vận hành của

thị trường đất đai (cụ thể là thị trường quyền sử dụng đất) như là một thị trường thật

sự. Cơ chế chuyển nhượng đất vẫn bị ràng buộc bởi nhiều thủ tục hành chính phiền

hà, cứng nhắc, chậm chạp. Nhưng cũng chính vì thế một khi nhà ĐT có dự án được

duyệt, họ lại được giao đặc quyền sử dụng đất mà hầu như không cần bỏ vốn vào đó,

từ đó họ có quyền quyết định giá BĐS cao. Sửa đổi Luật Đất đai đã nhiều lần được

nêu ra tại diễn đàn Quốc hội như một vấn đề kinh tế bức xúc tuy nhiên theo dự kiến

đến năm 2013 việc này mới có thể được thực hiện. Điều này thể hiện Luật này chưa

được đặt vào vị trí bức xúc cũng như năng lực quản lý, hoạch định chính sách của các

cơ quan có thẩm quyền ở VN còn chưa cao, chưa theo kịp với sự phát triển của XH.

Ngày 8/8/2010, Nghị định 71/2010/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày

23/6/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở đã chính thức có hiệu

lực và thay thế hoàn toàn Nghị định 90/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở.

Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ nhưng nghị định cũng còn nhiều hạn chế phải kể ra đó

là Nghị định bắt buộc phải dành 20% diện tích sàn để làm nhà ở XH đối với các dự án

có quy mô từ 10 hecta trở lên, thiết nghĩ để dự án đồng bộ về chất lượng, mỹ quan,

dịch vụ, nên để cho chủ ĐT thực hiện toàn bộ dự án theo phương án kinh doanh, còn

20% diện tích sàn để thực hiện nhà ở XH thì sẽ cho DN thực hiện tại một vị trí thích

hợp hơn; một nhược điểm khác là tại Nghị định 71 cũng chưa quy định rõ thời gian

bảo hành giữa chủ ĐT với khách hàng.

Nói về dự luật Thuế Nhà đất, dự luật đang trong quá trình hoàn thiện để có thể

trình Quốc hội thông qua trong năm 2010. Tuy nhiên dự luật này có vẻ đang đi lạc

Trang 34

hướng khi mà mục tiêu chống đầu cơ BĐS được đặt lên hàng đầu, còn các mục tiêu

quan trọng khác lại không được đề cập. Thực tế thì các mục tiêu khuyến khích sử

dụng hiệu quả đất, tăng nguồn thu ngân sách, điều tiết hoa lợi thu được từ sử dụng đất

mới chính là những mục tiêu đích thực và là cơ sở để quyết định những nội dung cơ

bản của thuế nhà đất. Nếu cứ theo hướng đặt mục tiêu chống đầu cơ BĐS lên hàng

đầu thì Thuế nhà đất dễ trở thành công cụ phân phối lại tài sản và hạn chế quyền sở

hữu nhà đất hợp pháp của người dân.

Còn về vấn đề chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thuế, theo Thông tư

129/2008/TT-BTC thì các giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải

chịu thuế GTGT. Thông tư này cũng quy định chi tiết rằng, thu nhập chịu thuế GTGT

là giá trị chuyển nhượng BĐS trừ đi giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm chuyển

nhượng. Ví dụ, giá trị chuyển nhượng của một BĐS là 8 tỷ VND, trong khi giá trị tòa

nhà trên đất được xác định là 5 tỷ VND thì số chênh lệch 3 tỷ VND là giá trị của

quyền sử dụng đất. Thu nhập chịu thuế GTGT trong trường hợp này chỉ là 5 tỷ VND.

Việc không đưa giá trị quyền sử dụng đất vào thu nhập chịu thuế GTGT cũng áp dụng

cho các trường hợp thanh toán theo tiến độ ngay từ lần thanh toán đầu tiên. Giá trị

quyền sử dụng đất được xác định và ấn định tại thời điểm thanh toán đợt đầu. Thực tế,

có nhiều vấn đề phát sinh không đơn giản như ví dụ trên. Thứ nhất, làm thế nào để có

thể xác định và thống nhất được giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm chuyển

nhượng cho mục đích giảm trừ tính thuế GTGT? Theo Thông tư 129, trong trường

hợp giá đất tại ngày chuyển nhượng do đối tượng chịu thuế khai không được xem là

có đủ cơ sở để xác định giá hợp lý để tính thuế GTGT theo luật định, thì giá đất được

khấu trừ sẽ là giá đất (hoặc tiền thuê đất) được quy định bởi UBND tỉnh hoặc thành

phố trực thuộc Trung Ương tại ngày chuyển nhượng BĐS. Hơn nữa, theo một số công

văn của Bộ Tài chính, DN và khách hàng có thể tham khảo giá đất niêm yết tại trung

tâm giao dịch BĐS hoặc ký kết hợp đồng với các cơ quan định giá để xác định giá đất

tại ngày chuyển nhượng BĐS. Điều này có nghĩa là sử dụng giá thị trường. Vậy liệu

giá thị trường này đối với đất có thể được xác định một cách trung thực và hợp lý và

có thể được cơ quan thuế chấp nhận hay không? Thứ hai, đối với giao dịch bán căn hộ

chung cư cao tầng, làm thế nào để tính phân bổ giá trị quyền sử dụng đất chung cho

Trang 35

từng căn hộ chung cư cho mục đích khấu trừ thuế GTGT? Thông tư hiện hành về thuế

không đề cập, hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Điều này dẫn đến cách tính toán phân

bổ và trình bày về việc phân bổ đất sử dụng cho các căn hộ của mỗi dự án rất khác

nhau, kể cả trong trường hợp các dự án nằm trong cùng một thành phố. Cuối cùng,

việc khấu trừ giá trị quyền sử dụng đất trong thu nhập chịu thuế GTGT sẽ dẫn đến

việc nhà ĐT phát triển BĐS bị coi là đối tượng được miễn một phần thuế GTGT. Do

đó, họ có thể không được khấu trừ toàn bộ số thuế GTGT đầu vào phát sinh liên quan

đến hoạt động BĐS. Hay nói cách khác, thuế GTGT đầu vào phát sinh liên quan đến

thu nhập chuyển nhượng quyền sử dụng đất được miễn thuế GTGT (như chi phí cải

tạo đất), sẽ không được khấu trừ là GTGT đầu vào.

Tuy nhiên, dù gì đi nữa thì Thông tư hay Nghị định chỉ làm rõ hơn những nội dung

của Luật, cốt lõi vấn đề là Luật đã ban hành. Nếu Luật chưa phù hợp thì không thể đòi

hỏi Thông tư phải chuẩn và làm thế nào để có một bộ Luật tiến tiến, hợp thời lại là

công việc của các cơ quan quản lý.

(cid:190) Vấn đề ngăn chặn nạn đầu cơ làm giá chưa được kiểm soát tốt: Trong thực

tế, nước ta đã từng có lúc có nơi diễn ra cảnh người người đổ xô chen lấn để đăng ký

mua nhà dự án làm thị trường tăng nhiệt. Tuy nhiên sau đó thị trường hạ nhiệt nhanh

chóng, rồi trầm lắng kéo dài. Tình trạng này chứng tỏ, hàng hóa trên thị trường không

khan hiếm. Đầu cơ là có thật. Minh họa cụ thể cho nhận định trên là trong 6 tháng đầu

năm 2010, giá cả trên thị trường BĐS Hà Nội đã có những biểu hiện bất thường, một

số nơi tăng lên đến 40% so với thời điểm cuối năm 2009. Kết quả điều tra của

Vietnam Report cho thấy 61,9% người mua nhà đất tại Hà Nội nhằm mục đích ĐT

chứ không phục vụ nhu cầu ở và sinh hoạt của gia đình. Trong đó, tỷ lệ dành cho đầu

cơ ngắn hạn xấp xỉ với tỷ lệ ĐT dài hạn. Như vậy, so với điều tra cùng kỳ năm 2008

của Vietnam Report, xu hướng đầu cơ đã gia tăng gấp đôi trên thị trường BĐS Hà

Nội. Điều này làm giá nhà đất tại Hà Nội tăng cao đột biến, đẩy tỷ lệ giá nhà/thu nhập

ở Hà Nội lên quá cao. Nếu như tại các nước có thị trường BĐS minh bạch và phát

triển giá một căn hộ chung cư thường cao gấp 4 đến 8 lần thu nhập một năm của

người lao động có mức thu nhập trung bình thì tại Hà Nội, con số này lên đến 25.

Trang 36

Hình 3.4-Biến động giá BĐS trong 6 tháng đầu năm 2010 trên thị trường Hà Nội.

Nguồn: Vietnam Report.

Từ những diễn biến trên cho thấy thị trường BĐS VN cho đến nay vẫn bị giới

đầu cơ thâu tóm và rất khó kiểm soát. Nhiều người hy vọng Luật thuế nhà, đất ở ra đời

sẽ giúp thị trường BĐS bớt căng thẳng và ổn định hơn. Nhưng thực tế, mức thuế suất

hiện tại trong dự thảo luật là quá thấp đối với những đối tượng đầu cơ đất đai, đặc biệt

là với những khu vực đang có quy hoạch. Tuy nhiên cần phải xem lại xem giải pháp

dùng thuế cao để chống đầu cơ đã là giải pháp đúng chưa? Bởi vì nếu cứ theo hướng

nâng cao thuế thì quyền sở hữu đất hợp pháp của những người có nhu cầu thực sự sẽ

bị xâm hại. Mức thuế cao sẽ tăng thêm gánh nặng cho người tiêu dùng khi mà mặt

bằng giá đã cao vọt so với thu nhập của phần lớn nhân dân. Trong khi đó vấn đề cốt

lõi là phải nâng cao trình độ quản lý điều hành và khả năng kiểm soát hoạt động sở

hữu đất đai của dân chúng cho các cơ quan quản lý lại không được chú trọng. Chỉ theo

hướng đó thì vấn đề đánh thuế mới được tính đến, bởi vì quy định đánh thuế lũy tiến

đối với chủ sở hữu nhiều đất trong cả nước sẽ không khả thi khi hiện tại các cơ quan

quản lý về đất vẫn chưa thống kê được mỗi cá nhân, tổ chức đang sở hữu bao nhiêu

nhà, đất. Khi hệ thống đăng ký sở hữu BĐS chưa tốt, thì quy định đánh thuế lũy tiến

đối với đất sẽ càng khuyến khích giao dịch ngầm và khiến các chủ ĐT, người mua

BĐS trì hoãn việc làm giấy tờ sở hữu để lách thuế. Cơ quan thuế cũng sẽ khó kiểm

Trang 37

soát được việc thu thuế BĐS khi chưa bắt buộc mọi giao dịch BĐS phải qua sàn. Hậu

quả là ngành thuế chỉ thu được thuế của người nghèo mà không thu thuế được từ giới

đầu cơ nhà đất. Rõ ràng rất khó và cũng không nhất thiết phải loại trừ hoàn toàn hiện

tượng đầu cơ BĐS. Tuy nhiên cần phải kiểm soát tốt hiện tượng này trong một phạm

vi nào đó để không gây những tác động xấu đền nền kinh tế XH, cũng như không dẫn

đến bong bóng BĐS gây phá hoại kết cấu thị trường.

(cid:190) Chính sách quản lý, phân phối nhà ở, đất ở trong lĩnh vực công còn nhiều

bất cập: Hiện nay quỹ đất đai chưa xây dựng còn rất lớn, nhưng đa phần đã có chủ

ĐT xin quy hoạch dự án (đặc biệt là những vị trí tốt), mà không phải đơn vị nào cũng

có đủ năng lực về vốn, về chuyên môn để có thể đảm đương. Bằng chứng cho sự yếu

kém này là có rất nhiều công ty thuộc Nhà nước và tư nhân đã xin dự án từ vài trăm

đến vài ngàn hecta, nhưng tốc độ triển khai dự án rất chậm. Không chỉ những công ty

không có đủ năng lực, ngay cả những công ty có vốn lớn, nhiều kinh nghiệm ĐT quốc

tế cũng triển khai dự án kém hiệu quả, chẳng hạn như Khu đô thị Phú Mỹ Hưng- Nam

Sài Gòn, ban đầu được giao khoảng 600 hecta đất sạch (đã có người làm công tác đền

bù trước) sau được duyệt bổ sung thêm 200 hecta (lấy đất hai bên đường Nguyễn Văn

Linh), trong 15 năm mà chỉ mới hoàn thiện được khoảng 2/3 dự án.

Xin ĐT dự án diện tích quá lớn là cơ hội để nhà ĐT dự án tìm cách chuyển

nhượng từ từ. Và đó cũng là một trong những lý do làm cho giá cả thị trường BĐS bị

thao túng và thường xuyên biến động, khi đóng băng khi nóng sốt, trong khi những

người cần đất để sử dụng cho sản xuất, kinh doanh thực sự khó khăn. Và đây cũng là

nguồn gốc phát sinh tiêu cực, nhũng nhiễu. Có những đơn vị ĐT nước ngoài ngay từ

khi Nhà nước vừa mới quy hoạch, trong thời gian ngắn đã đăng ký hàng ngàn hecta

(khu Đô thị Tây Bắc Củ Chi-TP.HCM) nhưng thực sự có ĐT hay không còn phải chờ

thời gian trả lời, trong khi đó đã làm mất cơ hội của bao người khác. Đây là những bất

hợp lý tồn tại đã nhiều năm qua, gây khó khăn cho công tác quản lý, làm cho đời sống

của người dân trong khu vực bị xáo trộn, bất ổn kéo dài.

(cid:190) Công tác thẩm định, cấp phép dự án ĐT chưa tốt dẫn đến tính hiệu quả của

những dự án BĐS đã và đang ĐT còn thấp: Không khó để nhận thấy hiệu quả ĐT

của các dự án ở VN hiện nay là thấp, đặc biệt ở khu vực Nhà nước, vốn đang chiếm

Trang 38

gần nửa tổng ĐT toàn XH (khoảng 43%). Tình trạng ĐT dàn trải, thất thoát, lãng phí,

sử dụng vốn kém hiệu quả, chậm tiến độ thi công hoặc nợ đọng vốn ĐT xây dựng cơ

bản…chưa được cải thiện đáng kể. Hiệu quả thấp trong ĐT công được xác định là một

trong những lý do chủ yếu dẫn tới lạm phát cao trong hai năm qua. Đối với các khu

vực có vốn ĐT nước ngoài và tư nhân, các dự án ĐT không hiệu quả là các dự án

không tận dụng được lợi thế của nền kinh tế, không phù hợp với lợi ích của quốc gia.

Tăng trưởng ĐT trong những năm gần đây chủ yếu dựa vào khu vực FDI. Kể từ năm

2006 đến nay, dòng FDI vào VN tăng đột biến, hàng năm luôn đạt kỷ lục so với năm

trước, trong đó gần 50% là ĐT vào BĐS. Cụ thể:

Lượng vốn FDI vào VN Năm (tỷ USD)

2006 10,2

2007 20,3

2008 64,01

2009 21,48

12 Tính đến tháng 10/2010

Đối với các nhà ĐT FDI, VN luôn mở rộng cửa chào đón với nhiều chính sách ưu

đãi. Tuy nhiên, một số dự án ĐT sau khi được cấp phép đã không mang lại hiệu quả,

thậm chí có dự án hoạt động vi phạm pháp luật VN. Đồng thời dòng FDI tăng đột biến

cũng đã làm bộc lộ khả năng hấp thụ vốn chưa cao của nền kinh tế, mà chủ yếu là do

yếu kém về thể chế, kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực có kỹ năng. Đây đang là những

nút thắt cổ chai đối với việc triển khai các dự án FDI. Vì vậy, việc rà soát hiệu quả của

các dự án ĐT và thu hồi giấy phép ĐT cần được liên tục triển khai nhằm tăng hiệu

quả ĐT và lành mạnh môi trường ĐT tại VN. Hiện nay nhiều tỉnh thành trong cả nước

đang đẩy mạnh công tác này, một số dự án đã và sắp bị tước giấy phép do vi phạm

pháp luật nghiêm trọng hoặc chậm triển khai quá 12 tháng mà không có lý do chính

đáng hoặc không được phép gia hạn (bất kể đó là dự án có vốn ĐT nước ngoài). Theo

Ban Quản lý các khu chế xuất- khu công nghiệp TP.HCM (Hepza) hiện có 54 dự án

có vốn ĐT nước ngoài và 11 dự án có vốn ĐT trong nước chậm triển khai, nếu các

chủ ĐT không có khả năng triển khai sẽ bị thu hồi giấy phép. Ở các tỉnh thành trong

Trang 39

cả nước, danh sách các dự án bị tước giấy phép đang ngày càng tăng gồm 12 dự án ở

Phú Quốc, 12 ở Ninh Thuận, 22 ở Tây Ninh, 51 ở Bắc Ninh, 8 ở Long An, Quảng

Nam, Vũng Tàu… Đặc biệt có dự án lên tới 4,15 tỷ USD như Dự án Bãi biển Rồng do

Tano Capital LLC và Global C&D Inc (Mỹ) làm chủ ĐT ở Quảng Nam, hay Dự án

khu liên hợp thép Cà Ná ở tỉnh Ninh Thuận có tổng vốn ĐT lên đến 9,8 tỷ USD do

Công ty Maju Stabil SDN thuộc tập đoàn Lion Group của Malaysia làm chủ ĐT…

Chất lượng FDI được đo lường bằng mức độ phù hợp của từng dự án với cơ cấu kinh

tế của cả nước, từng vùng lãnh thổ và từng địa phương. Việc rút phép ĐT những dự

án không hiệu quả là nhằm làm lành mạnh hóa môi trường ĐT. Tuy nhiên, việc này đã

không xảy ra nếu các cơ quan cấp phép làm tốt hơn công tác thẩm định tính khả thi

của từng dự án cũng như công tác hậu kiểm khi dự án đã đi vào hoạt động. Về mặt

quản lý của Nhà nước, phải nhìn nhận rằng tình trạng yếu kém, thiếu hiệu quả trong

ĐT và xây dựng chủ yếu là do công tác quy hoạch, vấn đề phân cấp ĐT và công tác

quản lý, giám sát, thanh kiểm tra…chưa được kiểm soát chặt chẽ. Quy hoạch thường

thiếu sự gắn kết giữa các ngành, chồng chéo và thiếu đồng bộ. Đặc biệt lập quy hoạch

và thực hiện quy hoạch ở nước ta không liên quan đến nhau. Ba điều kiện tiên quyết

để phân cấp quản lý ĐT và xây dựng có hiệu quả là “năng lực quản lý của cơ quan

phân cấp- trách nhiệm được phân cấp- chế tài kiểm tra giám sát” đã bị xem nhẹ và

lãng quên. Vì thế khi ra quyết định phê duyệt dự án sai cũng ít khi bị truy cứu trách

nhiệm và có biện pháp xử lý thích đáng. Điều này nếu không cải thiện sớm sẽ ảnh

hưởng xấu đến việc kêu gọi thu hút vốn ĐT của Nhà nước.

3.2.2.2 Về cung cầu hàng hóa bất động sản: Hiện nay, nhu cầu về BĐS, nhất là

nhà ở, mặt bằng kinh doanh thương mại, diện tích văn phòng cho các công ty có quy

mô vừa và nhỏ tiếp tục tăng, đặc biệt là tại Hà Nội và TP HCM. Trong năm 2010, nhu cầu về nhà ở đô thị khoảng 62,5 triệu m2.

Trang 40

Hình 3.5- Tỷ lệ mua căn hộ theo Quận/ huyện tại TP.HCM

Hình 3.6- Lý do mua căn hộ để ở tại các Quận/ huyện trong TP.HCM

Nguồn VietRees.

Nguồn cung cho thị trường BĐS năm 2010 được dự báo là dồi dào. Đối với nguồn

cung nhà ở, dự báo năm 2010 sẽ có khoảng gần 90.000 căn hộ chào bán và khoảng hơn 80.000 căn hộ hoàn thành. Các dự án căn hộ có giá bán dưới 18 triệu đồng/m2 sẽ

thu hút được sự quan tâm đặc biệt của người mua tại Hà Nội và TP HCM. Với sự dồi

dào về nguồn cung, cung cầu sẽ tương đối cân bằng trên thị trường BĐS, tạo cho

người mua có nhiều cơ hội để lựa chọn trước khi đưa ra quyết định. Trong khi đó, sự

gia tăng thu nhập và tích lũy tài sản trong tầng lớp trung lưu cũng ngày một nhiều lên,

nhu cầu thoả mãn cuộc sống ngày một cao hơn sẽ góp phần làm cho số lượng BĐS

giao dịch thành công sẽ tăng lên.

Trang 41

Trong năm 2010, các chương trình phát triển nhà ở XH, nhà ở cho người thu nhập

thấp và các chương trình mục tiêu hỗ trợ nhà ở tiếp tục được triển khai mạnh mẽ, góp

phần điều chỉnh thị trường và đảm bảo an sinh XH. Như, chương trình hỗ trợ về nhà ở

cho các hộ nghèo khu vực nông thôn theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày

12/12/2008 tiếp tục thực hiện hỗ trợ cho khoảng 180.000 hộ nghèo thuộc đối tượng là

hộ gia đình có công với cách mạng, hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và các hộ

nghèo khác. Số vốn ước tính là 1.500 tỷ đồng. Chương trình nhà ở cho sinh viên bằng

trái phiếu Chính phủ, mục tiêu bố trí chỗ ở cho 330.000 sinh viên theo Nghị quyết

18/NQ-CP ngày 20/4/2009 của Chính phủ, dự tính nguồn vốn đề nghị phân bổ là

4.800 tỷ đồng. Về nhà ở cho công nhân khu công nghiệp, theo báo cáo của 39 tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương, hiện đã có 26 địa phương đăng ký vay vốn ưu đãi

cho 71 dự án với tổng mức ĐT là 9.583 tỷ đồng (trong đó nhu cầu vay vốn 2 năm

2010, 2011 là 5.900 tỷ đồng) đáp ứng cho khoảng 232.800 công nhân. Còn về nhà ở

cho người thu nhập thấp tại đô thị, hiện đã có 35 địa phương đăng ký vay vốn ưu đãi

cho 124 dự án với tổng mức ĐT là 24.781 tỷ đồng (trong đó nhu cầu vay vốn 2 năm

2010, 2011 là 15.300 tỷ đồng) đáp ứng cho khoảng 64.000 hộ, tương ứng với 285.500

người. Theo Quyết định số 1308/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì đa số các dự

án được bố trí vốn phải hoàn thành trong 2 năm 2010-2011 (trong số 94 dự án có 78

dự án phải hoàn thành trong năm 2010 và 16 dự án sẽ hoàn thành chậm nhất vào quý

III năm 2011). Vì thế nguồn cung BĐS trong năm 2010 là rất dồi dào.

3.2.2.3 Mặt bằng giá bất động sản hiện nay quá cao:

Hiện nay, giá cả hàng hóa BĐS, nhất là giá nhà ở theo chiều hướng đi ngang

nhưng vẫn đứng ở mức cao, diễn biến phức tạp, khó kiểm soát đang là thách thức lớn

cho công tác quản lý thị trường, cũng như nỗ lực giải quyết nhà ở cho các đối tượng

có thu nhập thấp.

Trang 42

Hình 3.7- Biểu đồ thể hiện chỉ số giá căn hộ và đất nền tại TP.HCM

Nguồn VinaLand

Theo kết quả khảo sát thực tế, trong năm 2009, giá BĐS nói chung, trong đó giá

nhà ở nói riêng là quá cao so với mặt bằng thu nhập của người dân, mức độ phát triển

của nền kinh tế nước ta, cũng như vượt quá xa giá trị thực của BĐS. Ví dụ: Chi phí để

tạo ra 1 chung cư cao 20-25 tầng được xây dựng tại Hà Nội tính theo mặt bằng giá

cuối năm 2009, bao gồm các chi phí liên quan đến đất đai, chi phí xây dựng, chi phí

vốn, các khoản chi phí khác cũng như mức lợi nhuận hợp lý của nhà ĐT, thì giá thành

Trang 43

vào khoảng 16,7 - 17,5 triệu đồng/m2. Trong khi giá của loại chung cư này được giao dịch phổ biến trên thị trường dao động từ 28-32 triệu đồng/m2. Mức giá của BĐS cao

có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán của người tiêu dùng nhà ở. Hiện nay,

VN đang có giá nhà đất đứng thứ 20 trên thế giới. Tuy nhiên nếu so với thu nhập của

người dân thì chúng ta thuộc hàng cao nhất thế giới. Theo kinh nghiệm của thế giới,

có một chỉ tiêu để đánh giá mức độ rủi ro trong việc ĐT về nhà ở, đó là tỷ lệ giữa số

tiền mà một gia đình phải trả mỗi tháng cho số tiền vay mua nhà trên mức thu nhập

hàng tháng của gia đình. Đối với gia đình loại trung lưu, tỷ số này vào khoảng 1/3 tức

là mỗi gia đình chỉ phải dành khoảng 33% mức thu nhập hàng tháng để trả nợ tiền vay

mua nhà. Trong khi ở nước ta, tỷ lệ này trung bình vào khoảng trên 80% đối với gia

đình có thu nhập vào loại trung bình khá. Khả năng thanh toán này về nhà ở của nước

ta phản ánh một mức độ rủi ro cao, dễ gây ra khủng hoảng nợ.

Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng giá BĐS cao, có thể kể ra:

(cid:190) Chi phí đầu vào cao do chi phí ĐT xây dựng, lãi suất, chi phí đất hiện quá

cao: Một ví dụ cho tình trạng này là trong giai đoạn cuối năm 2008, thị trường BĐS

đóng băng khiến giá BĐS giảm đến 50 % so với đỉnh điểm 2007, nhưng đối với thị

trường đất thô để phát triển BĐS (đất nông nghiệp, đất thổ cư thì hầu như không giảm

mà còn có xu hướng tăng. Tại Q9 TP.HCM, nhà ĐT BĐS không thể đền bù dưới 2,5 triệu đồng/m2 đất thô, với giá đền bù này thì giá thành đất thương phẩm phải lên tới 8- 9 triệu đồng/m2, chưa kể lợi nhuận, nhưng thực tế hiện nay, đất nền tại đây được rao bán với giá 8 triệu đồng/m2 đã không có người mua. Không chỉ nhà ĐT kêu khổ vì bất

hợp lý này mà chính NN cũng phải chịu hậu quả khi khiển khai các dự án hạ tầng

công ích đường- điện- nước. Điển hình là dự án khu đô thị Thủ Thiêm Q2, TP.HCM. Trong vòng 3-5 năm giá đất thô tại khu vực này đã tăng từ 300- 500 ngàn đồng/m2 lên tới 3- 15 triệu đồng/m2, khiến cho chi phí đền bù dự tính năm 2000 là khoảng 800 tỷ

đồng đã bị đẩy lên 25.000 tỷ đồng theo giá thị trường vào cuối năm 2009.

(cid:190) Mặt khác, cũng phải kể tới nguyên nhân cơ cấu hàng hoá BĐS còn bất cập, thị

trường thiếu hàng hóa có quy mô và giá cả phù hợp với đa số nhu cầu của thị trường,

đặc biệt thiếu loại hình nhà ở cho thuê (theo thống kê, loại hình nhà ở cho thuê/mượn

chỉ chiếm 6,3% tổng số nhà ở trong cả nước).

Trang 44

(cid:190) Vấn đề thông tin bất cân xứng: Tính minh bạch của thị trường BĐS VN hiện

nay là quá thấp. Hiện chưa có cơ quan Nhà nước nào có thể cung cấp các thống kê

đáng tin cậy về giá và khối lượng giao dịch BĐS, trong khi đó mới chỉ là hai thông tin

tối thiểu để có thể theo dõi, đánh giá và quản lý thị trường. Cả nước có hàng trăm,

hàng ngàn dự án BĐS đã được cấp phép nhưng quy mô dự án, chủ ĐT, chi phí đền bù

giải phóng mặt bằng, lượng vốn ĐT, tiến độ triển khai dự án, tiến độ ĐT, tiến độ làm

thủ tục... đều là những thông tin rất khó tiếp cận. Các số liệu về tín dụng BĐS của hệ

thống NH hiện vẫn là số liệu không tiếp cận được đối với những người ngoài hệ thống

NH. Môi trường thông tin thiếu minh bạch như vậy là mảnh đất màu mỡ cho các hoạt

động đầu cơ và bơm thổi giá nhà đất. Thị trường thiếu minh bạch với những thông tin

bất cân xứng đã làm cho phần thiệt hại nghiêng về người có nhu cầu BĐS thật sự. Do

thiếu thông tin để tiếp cận hàng hóa BĐS nên khách hàng chấp nhận mua BĐS với

mọi điều kiện và mọi giá nên dễ dẫn đến gặp rủi ro. Nếu tăng cường minh bạch hóa

cho thị trường BĐS, giá nhà đất nhất định sẽ bình ổn hơn.

(cid:190) Nguồn vốn không thể đáp ứng nhu cầu phát triển nhà ở vì vẫn dựa vào

nguồn TD của hệ thống NHTM: Thông tư số 13/2010/TT-NHNN có hiệu lực từ

ngày 01/10 nhiều khả năng sẽ khiến các NH thắt chặt hơn nữa cho vay trong lĩnh vực

BĐS trong thời gian tới. Thông tư này có thể sẽ buộc các NHTM thu hẹp TD, hạn chế

cho vay ở lĩnh vực BĐS để giảm tỉ lệ rủi ro. Như vậy, nguồn cung tiền cho lĩnh vực

BĐS có thể bị siết lại, gây khó cho cả chủ ĐT và khách hàng muốn tham gia thị

trường. Thông tư này quy định hệ số rủi ro đối với các khoản vay kinh doanh BĐS

tăng từ 100% lên 250%, đồng thời tăng hệ số an toàn vốn của các NH lên 9%. Như

vậy, cùng với tác động của Nghị định 69 về việc thu tiền sử dụng đất theo giá thị

trường, Nghị định 71 với các ràng buộc trong quá trình góp vốn, thì trong ngắn hạn,

thị trường BĐS chắc chắn sẽ chứng kiến một đợt biến động lớn.

3.2.2.4 Những hạn chế của các DN kinh doanh bất động sản Việt Nam

(cid:190) Thiếu vốn và cũng thiếu luôn tính chuyên nghiệp: số DN đăng ký kinh doanh

BĐS tuy rất đông nhưng phần lớn đều có quy mô vốn nhỏ, không phù hợp với yêu cầu

của thị trường. Trong các dự án liên doanh, phía VN cũng thường lép vế vì đơn thuần

chỉ góp vốn bằng quyền sử dụng đất, còn phát triển và kinh doanh thế nào hầu như

Trang 45

hoàn toàn lệ thuộc vào đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, năng lực tài chính yếu chỉ là

một phần nguyên nhân dẫn đến sự thất thế của DN nội. Điều cốt lõi là hiện nay rất

nhiều DN trong nước chưa thấu hiểu về phát triển dự án BĐS, không phân biệt được

điểm khác nhau giữa xây dựng và phát triển BĐS. Trong một dự án BĐS, nhiều chủ

ĐT trong nước hiện chỉ chú trọng đến bản thân căn nhà chứ chưa quan tâm tới việc

xây dựng một khu dân cư hoàn chỉnh có cơ sở hạ tầng đồng bộ. Hệ quả là nhiều sản

phẩm nhà ở ra đời nhưng không được quan tâm do không đảm bảo được các yêu cầu

tiện ích cho cuộc sống của khách hàng. Điều này có một phần do ảnh hưởng của tình

trạng thiếu vốn nhưng phần lớn là do sự thiếu chuyên nghiệp trong công tác phát triển

dự án của các DN kinh doanh BĐS VN. Trong khi các nước trong khu vực đã hình

thành nhiều tập đoàn ủy thác ĐT BĐS, như con đường tất yếu phục vụ cho hoạt động

kinh doanh thời hội nhập, thì các DN trong nước gần như chưa thể hiện được tầm nhìn

đối với việc cần thiết phải liên minh, hợp tác. Hệ quả là các DN không chỉ cạnh tranh

vất vả trên sân nhà do hạn chế về vốn; mà việc tìm kiếm các cơ hội kinh doanh bên

ngoài nước cũng không khả thi do thiếu am hiểu về các thông lệ, luật pháp kinh doanh

quốc tế

(cid:190) DN kinh doanh BĐS VN bị hạn chế về năng lực quản lý: Hiện các DN trong

nước đang thiếu kinh nghiệm quản lý, nhất là quản lý các DN, tập đoàn lớn. Do năng

lực quản lý kém nên tầm nhìn của nhiều DN sẽ bị hạn chế, từ đó không xây dựng

được những chiến lược kinh doanh phù hợp, cho ra đời những sản phẩm không đáp

ứng được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.

(cid:190) Công tác nghiên cứu thị trường, thiết kế, tư vấn, tiếp thị cũng như những

dịch vụ chăm sóc khách hàng chưa được các DN chú trọng: Đa phần chủ ĐT của

các dự án BĐS hiện nay là các công ty xây dựng, hoặc xuất thân từ ngành xây dựng.

Nhưng một công ty xây dựng tốt không có nghĩa là có thể phát triển một dự án tốt.

Xây dựng chỉ là một phần trong quy trình phát triển một dự án BĐS, trong đó bao

gồm rất nhiều bước như nghiên cứu thị trường, thiết kế, quản lý chi phí, quản lý dự

án, tư vấn, tiếp thị, bán hàng, chăm sóc khách hàng… Vì là các công ty xây dựng nên

đa phần chủ ĐT trong nước chỉ chú ý đến xây dựng mà bỏ qua rất nhiều bước của một

quy trình phát triển dự án, hoặc nếu có thực hiện thì cũng thiếu chuyên nghiệp vì

Trang 46

không có kinh nghiệm. Kết quả là, sản phẩm đầu ra chất lượng kém, giá bán thấp,

hoặc chất lượng cao nhưng do cung dư thừa nên bị ứ đọng, hoặc sản phẩm có cơ sở hạ

tầng thiếu đồng bộ…không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Có thể thấy các điểm yếu nêu trên không phải là quá trầm trọng, tuy nhiên nếu

không được khắc phục sẽ gây ảnh hưởng xấu và ngày càng lớn đối với kết quả kinh

doanh của DN, cũng như sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế.

3.2.3 Những động thái từ phía Nhà nước: Trước những diễn biến xấu của thị

trường BĐS, chính phủ đã có một số giải pháp nhằm giúp thị trường BĐS phát triển

ổn định:

(cid:190) Điều chỉnh thuế nhà đất theo hướng hạn chế đầu cơ: Thuế vẫn luôn là công

cụ được xem là hữu hiệu nhất để hạn chế đầu cơ. Bộ Xây dựng đã đề nghị điều chỉnh

bổ sung Pháp lệnh thuế nhà đất (hoặc xây dựng Luật thuế BĐS) theo hướng điều tiết

đối với các hộ gia đình, cá nhân (trước mắt ở đô thị) sở hữu nhiều tài sản nhà đất

nhằm khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân đưa tài sản nhà đất vào sử dụng. Trường

hợp tài sản nhà đất được đưa vào kinh doanh đã nộp thuế kinh doanh hoặc thuế thu

nhập thì BĐS đó không bị đánh thuế luỹ tiến. Giảm mức thuế chuyển nhượng xuống

1% và không thu thuế thu nhập cá nhân do bán nhà, hoặc gộp thuế chuyển nhượng

BĐS với thuế thu nhập cá nhân hoặc thuế thu nhập DN.

Ngày 17/6/2010 vừa qua, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật thuế sử dụng đất

phi nông nghiệp với việc tăng mức thuế nhà đất từ 0,06 lên 0,2% và bắt đầu có hiệu

lực từ 1/1/2012. Như vậy, với việc đánh thuế đất phi nông nghiệp để hạn chế đầu cơ,

rất có thể lại xảy ra hiện tượng các nhà đầu cơ đổ xô vào thị trường nhà ở, căn hộ vì

hai diện này hiện vẫn chưa được xét đến trong diện chịu thuế. Vì thế, trong trung và

dài hạn, cần tiếp tục đưa nhà ở vào diện chịu thuế nhưng cần phải tính toán thật kỹ để

tránh gây thiệt hại cho những người có thu nhập thấp mà chưa có sở hữu nhà. Bởi vì

trên thực tế, hiện tượng đầu cơ không chỉ xảy ra với đất mà rất nhiều nhà đầu cơ sở

hữu từ 2 căn nhà trở lên, trong đó căn thứ 2 phục vụ mục đích đầu cơ nhiều hơn.

(cid:190) Đẩy mạnh công khai, minh bạch các thông tin để ổn định thị trường: Bộ

Xây dựng vừa ban hành Thông tư số 20 hướng dẫn thí điểm xây dựng và công bố một

số chỉ số đánh giá thị trường BĐS tại 4 TP lớn là Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng và Cần

Trang 47

Thơ. Đây được coi là cách để kìm cương thị trường nhà đất vốn luôn bất kham. Các

loại BĐS được lựa chọn để xây dựng các chỉ số bao gồm: BĐS để bán, chuyển

nhượng là căn hộ chung cư, nhà ở riêng lẻ, đất nền; BĐS để cho thuê là văn phòng...

Theo đó, căn hộ chung cư là căn hộ thuộc các chung cư được phân hạng theo quy định

hiện hành (gồm chung cư hạng 1, hạng 2, hạng 3 và hạng 4); nhà ở riêng lẻ là loại nhà

ở (không phải là căn hộ chung cư) được hình thành tại các khu phố, các khu dân cư

hiện hữu, các khu đô thị mới và các dự án nhà ở; đất nền là đất dùng cho mục đích ở,

được hình thành trong các khu đô thị mới, các dự án nhà ở và đất hiện hữu trong các

khu phố, khu dân cư; văn phòng là diện tích sàn của công trình sử dụng cho mục đích

làm việc. Thời điểm gốc được lựa chọn để xây dựng chỉ số là từ quý 1/2011. Các chỉ

số giá giao dịch BĐS và chỉ số lượng giao dịch BĐS sẽ được công bố công khai hằng

quý và hằng năm. Phương pháp tính toán chỉ số dựa trên tình hình giao dịch thực tế

giữa người dân với nhau ở một vị trí và trên một địa bàn, khu vực cụ thể trong các đô

thị chứ không phải giá do chủ ĐT các dự án ấn định. Ngoài ra, còn tính tới biến động

giá của các BĐS tương tự theo thời gian, cũng có thể sẽ có chỉ số cho từng phân khúc

thị trường như nhà cao cấp, nhà trung bình hay căn hộ chung cư, đất nền, nhà phố, văn

phòng, khách sạn...Trước mắt, sẽ thí điểm tại 4 đô thị lớn, sau đó khuyến khích các

tỉnh, TP khác áp dụng để xác định và công bố các chỉ số đánh giá BĐS phục vụ công

tác quản lý thị trường BĐS tại địa phương.

Rõ ràng rằng minh bạch hoá thông tin là rất quan trọng. Một số dự án BĐS hiện

nay khi thông tin đến được với người mua thực sự thì đã không còn là giá gốc, thay

vào đó người tiêu dùng phải trả chênh lệch rất lớn. Điều này chủ yếu là do có sự móc

nối giữa nhà đầu cơ và người nắm giữ thông tin về dự án. Vì vậy, việc Thông tư số 20

ra đời là một động thái tích cực của Chính phủ trong bước đầu của lộ trình minh bạch

hóa thông tin thị trường. Hy vọng đây sẽ là bước ngoặc giúp người tiêu dùng có được

nhiều sự lựa chọn và giúp điều tiết cung cầu tốt góp phần thúc đẩy thị trường BĐS

VN phát triển lành mạnh và ổn định.

(cid:190) Chính phủ công bố gói ĐT về nhà ở XH cho thị trường BĐS: Đầu năm 2009,

Chính phủ đã công bố gói ĐT trị giá 2.500 tỷ đồng về nhà ở XH cho thị trường BĐS

với hy vọng “gói ĐT vào thị trường nhà ở XH sẽ có tác động như một cú hích lớn của

Trang 48

Nhà nước làm cho thị trường này lành mạnh hơn.” Giải quyết tốt nhà ở cho người lao

động là một biểu hiện rất cụ thể của định hướng XH chủ nghĩa trong nền kinh tế thị

trường của nước ta .Việc xây 17 nghìn căn nhà ở XH mang ý nghĩa giải quyết vấn đề

an sinh XH về nhà ở nhiều hơn là kích cầu nhằm bình ổn và phát triển thị trường

BĐS, tuy nhiên giải pháp này cũng góp phần bình ổn cung - cầu trong khu vực nhà ở

cao cấp vốn đang mất cân đối giữa cung thật với cầu ảo do đầu cơ nhà đất tạo nên.

Biện pháp kích cầu nhà ở XH có tác dụng đưa giá nhà đất về mức hợp lý so với thu

nhập của người lao động, thị trường nhà ở - đất ở sẽ phát triển bền vững hơn. Tuy

nhiên thực tế thì chỉ một năm sau khi được chia, 80% đã bán hết. Điều này dẫn đến

một kết quả không mong muốn là nhà ở XH được ngân sách chi tiền lẽ ra phải dành

cho người nghèo, cho sinh viên ở, nhưng thực tế phần lớn lại rơi vào tay những người

nhiều tiền, đồng thời tạo ra một lĩnh vực kinh doanh mới cho những nhà ĐT thứ cấp.

Thêm một hạn chế nữa của loại hình ĐT này là khâu lập thủ tục và hồ sơ xin vay vốn.

Theo quy định để vay được vốn ưu đãi này, DN phải có xác nhận về thời điểm và giá

bán. Nhưng giá bán thì chỉ mới có hướng dẫn và để được phê duyệt thì phải mất một

khoảng thời gian. Điều này làm cản trở “vòng quay vốn” của DN, từ đó tác động lên

giá bán căn hộ. Mãi tới gần đây, những cản trở này mới phần nào được tháo gỡ. Ngày

16/8/2010, Hà Nội đã ban hành Quyết định số 34/2010/UBND, trong đó quy định khá

cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn đối tượng được mua nhà ở XH…Quyết định trên của

Hà Nội đã đưa ra các tiêu chí phù hợp và phân biệt rõ các đối tượng có thu nhập thấp

giúp cho những người có mức thu nhập chưa cao có thể tiếp cận về nhà ở và phục vụ

các đối tượng thực sự khó khăn về nhà ở. Đồng thời góp phần thuận lợi để nhà ĐT

vẫn đạt được mục đích kinh doanh của mình khi tham gia hưởng ứng những chính

sách an sinh XH của Chính phủ.

(cid:190) Chính phủ có những chế độ thông thoáng hơn về sở hữu nhà ở, đất ở đối với

Việt kiều, người nước ngoài: Luật số 34/2009/QH12 sửa đổi bổ sung điều 126 của

Luật Nhà ở và Điều 121 của Luật Đất đai đã được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ

họp thứ 5 ngày 18/6/2009. Theo đó, người VN định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà

ở tại VN, đã mở rộng tiềm năng và cơ hội cho cả cầu và cung về ĐT về phân khúc nhà

ở. Đây là một sự kiện tác động tích cực đến nền kinh tế, thứ nhất sẽ khuyến khích nhà

Trang 49

ĐT nước ngoài vào VN, góp phần thúc đẩy làn sóng ĐT trong tương lai vì tạo điều

kiện về chỗ ở ổn định cho họ và gia đình; thứ hai là góp phần làm cho thị trường BĐS

sôi động hơn do tăng cầu cho thị trường, đặc biệt là nhu cầu về nhà ở cao cấp sẽ tăng

mạnh. Người VN ở nước ngoài được mua sở hữu nhà ở tại VN được xem là một yếu

tố khuyến khích được các đối tượng này tham gia ĐT và làm việc lâu dài tại VN.

Trong khi đó, các DN kinh doanh BĐS cũng hy vọng đây là một yếu tố thúc đẩy sự

phát triển thị trường BĐS sôi động hơn. Thực ra chính sách về nhà ở đối với người

VN ở nước ngoài đã có từ lâu, trong quá trình thực hiện thì gặp nhiều khó khăn do

không phù hợp với thực tế, thủ tục phức tạp, chồng chéo. Cụ thể, năm 2001, Chính

phủ đã ban hành Nghị định 81/2001/NĐ-CP cho phép 4 đối tượng Việt kiều được mua

nhà tại VN. Sau đó, Luật Nhà ở có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 tiếp tục mở rộng đối

tượng Việt kiều được mua nhà và quy định rõ quyền sở hữu nhà ở tại VN của người

VN định cư ở nước ngoài tại Điều 126. Với chủ trương tạo điều kiện thuận lợi cho

người nước ngoài làm ăn sinh sống tại VN, đầu năm 2007, Chính phủ đã giao Bộ Xây

dựng dự thảo chính sách về nhà ở cho người nước ngoài trên nguyên tắc khuyến khích

mua nhà ở VN. Rút kinh nghiệm, đề án cho phép người nước ngoài mua nhà lần này

đã dự kiến mọi quy định về thủ tục (chẳng hạn như những giấy tờ để chứng minh

thuộc các đối tượng được mua nhà sẽ bao gồm: hộ chiếu hợp lệ do cơ quan nước

ngoài cấp, giấy chứng nhận ĐT, thư mời của cơ quan có thẩm quyền của VN, xác

nhận thời gian sinh sống tại VN của cơ quan có thẩm quyền…) sẽ được quy định ngay

trong nghị định mà không cần phải có hướng dẫn. Thực ra, kể từ năm 2007 người

nước ngoài đã được quyền tham gia hầu hết các hoạt động ĐT kinh doanh BĐS nhà ở

tại VN. Việc xây dựng cơ chế mới về nhà ở cho người nước ngoài là một bước tiếp

theo hoàn thiện các quy định nhà ở cho người nước ngoài.

Mới đây nhất, ta có Nghị định 71/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành luật Nhà ở. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 8/8/2010, thay thế nghị

định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của Chính phủ. Nghị định này cho phép

người VN định cư ở nước ngoài được tạo điều kiện hơn nếu muốn mua nhà tại VN.

Thời hạn sở hữu nhà của người VN định cư ở nước ngoài là ổn định, lâu dài. Ngoài

nội dung liên quan đến nhà ở cho Việt kiều, nghị định 71 còn quy định chi tiết về sở

Trang 50

hữu, quản lý sử dụng nhà ở bao gồm nhà chung cư, biệt thự tại đô thị; giao dịch về

nhà ở; quyền sở hữu nhà ở tại VN của người VN định cư ở nước ngoài và của tổ chức,

cá nhân nước ngoài; quản lý Nhà nước về nhà ở.

Nghị định mở rộng đối tượng mua và sở hữu nhà là phù hợp với thực tiễn phát

triển, mở rộng của cộng đồng VN ở nước ngoài. Chính sách mở cho người VN định

cư ở nước ngoài mua và sở hữu nhà là theo quy luật tất yếu. Nó phù hợp với bối cảnh

nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường, theo điều kiện hội nhập WTO và là sự

thể hiện thiết thực tinh thần Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị tạo điều kiện cho kiều bào

gắn bó với quê hương, đất nước.

Tuy nhiên, chính sách thoáng đến đâu cũng phải phù hợp với tư duy, thực tiễn phát

triển kinh tế - XH của đất nước. Khi thực hiện chính sách, phải tính toán được sự tác

động của nó tới thị trường BĐS trong nước. Liệu có xảy ra tình trạng đầu cơ khi lượng

kiều hối chảy ồ ạt vào VN. Và trong trường hợp giá nhà đất lên cao, liệu người thu

nhập thấp trong nước có điều kiện mua nhà nữa không? Đó là chưa kể không phải

người VN định cư ở nước ngoài nào cũng giàu có, sẵn tiền mua nhà hay thị trường

BĐS VN sẽ trở thành nơi rửa tiền của tội phạm quốc tế... Đây là bài toán mà các nhà

quản lý phải cân nhắc tổng thể.

(cid:190) Nhà nước cải cách theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính, từng

bước tạo thuận lợi cho người dân và DN: Hiện nay, chúng ta đã hình thành hệ thống

Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất góp phần đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng

nhận. Nghị định 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được ban

hành và chấm dứt tình trạng phân tán trong việc cấp hai Giấy chứng nhận trong suốt

15 năm qua. Đây là bước đột phá quan trọng trong tiến trình cải cách hành chính với

mục tiêu hướng tới người dân và địa phương, cơ sở trong lĩnh vực quản lý đất đai và

ĐT xây dựng, tạo tiền đề cho việc thực hiện pháp luật về đăng ký BĐS, góp phần

hoàn thiện thị trường BĐS ở VN. Hồ sơ địa chính đã được xây dựng, quản lý thống

nhất ở một đầu mối, khắc phục tình trạng nhiều cơ quan quản lý, đã giảm ít nhất 1/2

thời gian giải quyết các thủ tục hành chính so với trước đây. Ngoài ra, nhiều quy định

mới đã được ban hành nhằm tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức như trong việc xin cấp

Trang 51

giấy chứng nhận và đăng ký biến động về đất như: bổ sung các thủ tục đăng ký biến

động đối với tài sản mà trước đây chưa quy định; giảm thời gian xem xét cấp giấy

chứng nhận lần đầu... Đồng thời, quy định trách nhiệm của cơ quan tiếp nhận hồ sơ

trong việc kiểm tra hồ sơ trước khi tiếp nhận để tránh phiền hà cho người dân và DN.

Nghị định 69/2009/NĐ- CP ra đời đã rút bớt 11 bước xin giao đất tương đương với 6

năm đến nay chỉ còn 1/3 thời gian. Về Luật Đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường

đang chuẩn bị một dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung, trong đó dành riêng 1 chương nói về

cải cách thủ tục hành chính liên quan đến việc quản lý sử dụng đất đai, trong đó quy

định cụ thể về trình tự thủ tục giao đất, thuê đất, cấp giấy chứng nhận cho người sử

dụng đất, đăng ký sử dụng đất... (Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường)

3.3 Xu hướng phát triển của thị trường bất động sản Việt Nam

Thị trường BĐS VN đang rơi vào trầm lắng, chờ đợi những chuyển biến mới,

nhưng một vài phân khúc như phân khúc căn hộ trung bình, mặt bằng bán lẻ, thị

trường BĐS sinh thái vẫn tiếp tục sôi động và duy trì tính thanh khoản ổn định.

3.3.1 Phân khúc nhà ở hạng trung: Nhận thấy nhiều thay đổi từ khách hàng,

thời gian qua nhà ĐT bắt đầu tập trung tăng cung cho phân khúc trung bình, thay thế

nguồn cung căn hộ cao cấp. Các chủ dự án chủ yếu thiết kế những căn hộ có diện tích vừa phải, từ 50-60m2 và nằm tại các vị trí cách trung tâm khoảng 10km, không quá xa

nếu như giao thông ở TP.HCM không bị ùn tắc. Báo cáo thống kê của Công ty CBRE

cho thấy trong quý 2/2010 tại thị trường TP.HCM nguồn cung thị trường căn hộ bán

tăng 3.455 căn hộ. Hầu hết các giao dịch thực hiện tập trung ở phân khúc nhà ở hạng trung cấp và bình dân với các căn hộ có diện tích 60 - 80 m2 được ưa chuộng ở mức giá 600 - 800 USD/m2. Thị trường Hà Nội cũng có giá chào bán thứ cấp tăng 3% tại

phân khúc trung cấp. Không chỉ có một nguồn cầu dồi dào, nguồn cung đang không

ngừng tăng, phân khúc trung bình, nhà giá thấp còn nhận được sự hỗ trợ về vốn. Đây

là một trong những yếu tố quan trọng để nhà ĐT yên tâm phát triển phân khúc này. Từ

đây đến cuối năm 2010, thị trường BĐS khó có cơ hội bùng phát những đợt sốt giá do

bị tác động khách quan từ nhiều phía, nhưng các phân khúc giá bình dân sẽ tiếp tục

trở thành tâm điểm ở cả hai địa bàn lớn là TP. HCM và Hà Nội nhằm phục vụ những

người tiêu dùng có nhu cầu thực tế về nhà ở.

Trang 52

3.3.2 Phân khúc thị trường bán lẻ, văn phòng cho thuê, trung tâm mua sắm:

Theo đà tăng trưởng của thị trường bán lẻ VN cùng với sự phát triển về đô thị và khu

dân cư thì các trung tâm thương mại, siêu thị và đại siêu thị dần trở nên là một phần

của nhu cầu tiêu dùng trong cuộc sống của người Việt. Các trung tâm thương mại lớn

ở TP.HCM và Hà Nội, tăng gấp đôi trong 3 năm qua, đã và đang dần thay đổi thói

quen mua sắm của người dân từ chợ truyền thống, cửa hiệu trên các tuyến phố và các

siêu thị quốc doanh sang các siêu thị hiện đại, trung tâm thương mại, khu mua sắm.

Có 2 xu hướng mới sẽ phát triển trong thị trường mặt bằng bán lẻ sắp tới là nâng

cấp chợ truyền thống tạo thành những trung tâm thương mại kết hợp chợ truyền

thống, và trung tâm thương mại phức hợp bao gồm nhiều loại hình dịch vụ. Đối với

mô hình chợ truyền thống kết hợp trung tâm thương mại sẽ tận dụng được lợi thế vị trí

đắc địa tại những khu vực trung tâm thành phố. Cách này sẽ giúp tăng tỉ lệ doanh thu

trên diện tích rất nhanh, vì chợ vốn đã có vị trí đắc địa, có sẵn lượng khách mua sắm

đông đảo, khi kết hợp thêm mô hình trung tâm thương mại sẽ thu hút thêm nhiều

khách hàng có thu nhập cao.

Theo CBRE VN, tổng nguồn cung mặt bằng bán lẻ tại Hà Nội hiện có khoảng 100.000m2. Tổng nguồn cung hiện tại của khu bách hóa tổng hợp là 37.700m2, trung tâm thương mại khoảng 60.000 m2 và sảnh bán lẻ khoảng 10.300m2. Tỷ lệ trống tại

các khu vực trung tâm thấp, một số khu vực tại quận Hoàn Kiếm, Hai Bà Trung không

còn chỗ. Theo ước tính của CBRE, trong vòng 3 năm tới, diện tích mặt bằng bán lẻ Hà Nội sẽ đạt khoảng 1 triệu m2

Còn TP.HCM hiện có 24 trung tâm mua sắm hiện đại với tổng diện tích 317.665 m2, tăng hơn 2 lần so với năm 2007. Tỉ lệ lấp đầy của các trung tâm này lên đến 94,4%. Ước tính đến 2013, TP.HCM sẽ có 740.000 m2 sàn trung tâm thương mại, tăng

hơn hai lần so với hiện nay, khi các chủ ĐT đang chạy đua triển khai dự án mới. Hiện

nay, Capitaland Group VN & RF Chandle cũng bước vào giai đoạn tăng tốc để kịp

hoàn thành dự án The Vista vào cuối năm 2010. Dự án sẽ cung cấp cho thị trường 14.000 m2 sàn bán lẻ. Hàng loạt dự án trung tâm thương mại khác cũng chuẩn bị khai

trương hoặc thi công vào năm sau. Dự án thiết kế theo mô hình ẩm thực và dịch vụ hỗ trợ văn phòng với tổng diện tích sàn 7.500 m2. Quận 7 có dự án Crescent Mall đang

Trang 53

thi công dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2011 đầu năm 2012. Trong năm 2012,

TP.HCM sẽ có 7 dự án trung tâm thương mại được khởi công. Đó là các dự án:

Saigon M&C quận 1, Tân Phong Shopping Complex, Sunrise City quận 7,

Metropolis, Sport City, Thảo Điền Pearl quận 2 và Saigon Pearl quận Bình Thạnh.

Hoà chung cuộc đua này, tập đoàn Berjaya (Malaysia) đang lập kế hoạch triển khai dự

án Saigon Financial Center, dự kiến hoàn thành năm 2013. Điều này cho thấy

TP.HCM đang đứng trước nguy cơ bội cung mặt bằng bán lẻ trong vài năm tới. Các

số liệu tích cực từ Sở Thống kê TP HCM đã chứng minh sức hấp dẫn của thị trường

bán lẻ tại TP.HCM. Theo đó, từ năm 2005 - 2010, doanh thu của toàn thị trường bán

lẻ ở TP.HCM đã tăng hơn 20% mỗi năm. Trong 5 tháng đầu năm 2010, doanh thu bán

lẻ toàn thành phố đã tăng gần 35%. Thêm vào đó, lợi thế của thị trường bán lẻ còn phụ

thuộc vào sự phát triển lớn mạnh của tầng lớp trung và thượng lưu ngày càng tăng lên

tại đô thị. Một số các tập đoàn bán lẻ nước ngoài cũng như trong nước đã nhận ra

những triển vọng sáng sủa của thị trường này và đang có những chiến lược triển khai

hệ thống phân phối ở các thành phố lớn của VN. Chính những xu thế này của nguồn

cung và nguồn cầu sẽ quyết định giá thuê mặt bằng bán lẻ trong thời gian tới.

3.3.3 Phân khúc thị trường BĐS sinh thái: Đây là kênh ĐT tiềm năng và ổn định.

Gần đây, các kênh truyền thông đã đề cập nhiều tới xu hướng mới trong kinh doanh

BĐS: BĐS sinh thái, còn được gọi là ngôi nhà thứ hai hay nhà nghỉ dưỡng; BĐS du

lịch là các khu nghỉ dưỡng, các căn biệt thự vùng biển như ở Đà Nẵng, Phan Thiết, Bà

Rịa – Vũng Tàu... vốn là những sản phẩm đi đầu trong BĐS sinh thái. Ngoài ra, có

một xu hướng phát triển khác của BĐS sinh thái là các nhà ĐT tập trung phát triển các

khu nghỉ dưỡng, biệt thự sinh thái ở vùng đồi núi, tận dụng cảnh sơn thuỷ hữu tình

của địa phương như đồi núi, hồ nước, sông suối và thảm thực vật xanh tự nhiên. Mỗi

một DN đều đưa ra thị trường các điểm mạnh của mình khi khai thác một khía cạnh

của tiêu chuẩn sinh thái.

Xu hướng ĐT mua biệt thự sinh thái đang được nhiều người có thu nhập cao quan

tâm, bởi lẽ, ngoài việc sử dụng cho các kỳ nghỉ, họ còn có thể cho thuê hoặc bán để

thu lợi nhuận. Theo một số nhà ĐT trong lĩnh vực này, giá BĐS nói chung và BĐS

sinh thái nói riêng luôn gia tăng theo nhu cầu và sự phát triển của hạ tầng XH. Như

Trang 54

vậy, có thể nói tiềm năng gia tăng giá trị của BĐS sẽ rất cao, nếu chủ ĐT biết chọn

lựa những vị trí nằm trong quy hoạch phát triển của Chính phủ. Sản phẩm BĐS sinh

thái luôn có chu kỳ phát triển ổn định, hầu như không xảy ra tình trạng bong bóng,

hay giá ảo. Nguyên nhân do phân khúc này vẫn đang trong giai đoạn đầu phát triển,

khách hàng có nhu cầu sử dụng thực sự, nên ít xảy ra tình trạng bị giới đầu cơ sử dụng

những thủ thuật để tạo ra giá ảo. Do vậy, trong thời gian trước mắt, BĐS sinh thái

phục vụ nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của những người có thu nhập cao,

chứ chưa phục vụ đại đa số người dân.

Kết luận chương 3:

Các số liệu thống kê về nhà ở chưa đồng bộ, còn thiếu, chưa thống nhất, chưa

chính xác, ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách quản lý, phát triển nhà ở và

BĐS. Đó là nhận xét của phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải khi chỉ đạo về chính sách

nhà ở và thị trường BĐS năm 2010. Nhận xét trên phần nào cũng phác họa rõ nét thực

trạng thị trường BĐS ở nước ta hiện nay. Với một thị trường còn non trẻ và tồn tại

nhiều thiếu sót như vậy, VN cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý về lĩnh

vực nhà ở, thị trường BĐS, đặc biệt là chính sách TD trong lĩnh vực BĐS; đẩy mạnh

công tác XH hóa, huy động nhiều nguồn lực ĐT phát triển nhà ở và BĐS. Tiếp tục

nghiên cứu cải cách thủ tục hành chánh, tăng cường công tác quy hoạch, quản lý phát

triển các khu đô thị mới, nhà ở và BĐS, chống hiện tượng đầu cơ trong kinh doanh

BĐS nhằm phát huy được vai trò là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy

nền kinh tế, góp phần ổn định chính trị XH, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của

người dân.

Trang 55

Chương 4: Các giải pháp nhằm thúc đẩy thị trường bất động sản Việt Nam;

Có thể nói thị trường BĐS VN năm 2008 là năm điều chỉnh nội bộ nền kinh tế sau

năm tăng trưởng bùng nổ 2007. Thị trường BĐS VN năm 2009 là năm điều chỉnh do

tác động của khủng hoảng tài chính thế giới. Năm 2010, nhiều khả năng nền kinh tế

vượt qua giai đoạn điều chỉnh và tăng trưởng trở lại. Cùng với nền kinh tế, thị trường

BĐS được dự báo là có thể phục hồi. Tuy nhiên, từ những bài học kinh nghiệm đã

được rút ra trên, có thể nhận thấy rằng để thị trường BĐS VN phát triển bền vững, các

nhân tố như hàng hóa BĐS, các chủ thể tham gia trên thị trường, cơ chế vận hành,

hành lang pháp lý đều cần có bước cải tiến mạnh mẽ. Một số giải pháp kiến nghị như

sau:

4.1 Các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy thị trường bất động sản Việt Nam:

Các hình thức huy động vốn trên thị trường tài chính nói chung và thị trường BĐS

VN nói riêng đang khá nghèo nàn, đơn điệu. Điều này không chỉ gây khó khăn cho

DN mà ngay cả người có tiền nhàn rỗi cũng bị thiệt thòi. Bởi lẽ, họ không có nhiều sự

lựa chọn để ĐT hiệu quả nên mất đi cơ hội dịch chuyển đồng vốn để sinh lợi, làm giàu

mà chủ yếu mua vàng hoặc ngoại tệ để cất giữ. Để thúc đẩy thị trường BĐS phát

triển, việc làm cần thiết hiện nay là phải khơi thông nguồn vốn, đa dạng hóa các kênh

huy động vốn, tận dụng từ các yếu tố nhỏ lẻ đến các yếu tố bên ngoài. Một số giải

pháp đề xuất:

4.1.1 CK hóa BĐS:

Hiện nay, lượng tiền nhà rỗi trong dân cư rất lớn nhưng việc thu hút ĐT vào thị

trường BĐS vẫn còn hạn chế. Lý do là bởi sản phẩm BĐS có giá trị lớn, trong khi vốn

nhàn rỗi của người dân thường lại nhỏ lẻ nên khó có thể tham gia vào được. Do đó,

giải pháp được xem là hữu hiệu nhất trong việc huy động vốn nhàn rỗi chính là phải

làm sao CK hoá được các dự án BĐS. CK BĐS là một loại CK đặc biệt, kết hợp giữa

hình thức ĐT CK và ĐT BĐS, được đảm bảo bằng giá trị BĐS mà nó đại diện, đồng

thời cho phép nhà ĐT kiếm lời trên biến động giá trị của BĐS này, nhưng không nhất

thiết nắm giữ quyền sở hữu trực tiếp một phần hay toàn bộ BĐS đó trong suốt quá

trình sở hữu CK. Năm 2009, thị trường vốn đã ghi nhận liên tiếp việc các DN thu hút

ĐT dưới dạng hình thức trái phiếu DN, tuy nhiên việc huy động theo hình thức này là

Trang 56

rất ít. Giữa lúc khó khăn về huy động vốn cho các dự án BĐS, nhiều DN đã khá thành

công thông qua kênh phát hành trái phiếu BĐS cho từng dự án cụ thể. Cách phát hành

của DN khá hấp dẫn khi lãi suất phù hợp với tình hình thị trường và nhà ĐT được

chiết khấu trên giá bán căn hộ. Một điển hình cho việc phát hành thành công trái phiếu

BĐS là Công ty Cổ phần Địa ốc Sài Gòn Thương Tín (Sacomreal). Hiện Sacomreal

được đánh giá là DN tiên phong và khá thành công trong lĩnh vực này. Từ đầu năm

2008 đến nay, Sacomreal đã 3 lần phát hành trái phiếu huy động vốn cho các dự án

BĐS với mức lãi suất từ 8,8%-13,2%/năm, kỳ hạn từ 6-9 tháng, mỗi trái phiếu kèm

theo quyền mua căn hộ với mức chiết khấu từ 5-8% trên giá bán. Cả 3 đợt phát hành

trái phiếu của Sacomreal đều khá thành công. Hầu hết trái chủ của đợt phát hành 1 khi

trái phiếu đáo hạn đều nhận quyền mua hoặc nhượng lại quyền mua cho người khác.

Như vậy, đây là một hình thức huy động vốn rất linh động để DN khơi thông nguồn

vốn. Chi phí vốn ĐT cho thị trường BĐS qua kênh này là khá thấp so với mặt bằng lãi

suất hiện nay. Khi NH thắt chặt TD, qua kênh trái phiếu, DN huy động được một

lượng vốn lớn với giá phải chăng, lại tiêu thụ tốt sản phẩm nên hạn chế được rủi ro.

Do đó, nhiều DN tìm đến thị trường trái phiếu dự án như một cách huy động vốn hiệu

quả để làm hạ tầng, phát triển dự án. Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng mức lãi suất

và thời hạn trái phiếu, giá BĐS cũng như quyền mua căn hộ cần phải phù hợp với tình

hình tài chính suốt quá trình thực hiện dự án. Bên cạnh đó, trái phiếu dự án chỉ đạt

hiệu quả khi thị trường địa ốc phát triển ổn định và không phải DN nào cũng thực hiện

được. Nhà ĐT cũng nên thận trọng trước kênh ĐT này vì rủi ro đối với DN BĐS

không phải là không có. Một hướng đi khác có thể làm là phát hành chứng chỉ BĐS

nhằm giúp các DN thiếu vốn ĐT thực hiện dự án nhà ở có được công cụ huy động

vốn, đồng thời tạo thêm kênh ĐT mới cho các tầng lớp dân cư. Chứng chỉ BĐS sẽ

được chuyển nhượng tự do để tăng tính thanh khoản và NH sẽ đảm nhận giám sát việc

giải ngân theo tiến độ thi công công trình. Khi hoàn thành dự án, toàn bộ BĐS sẽ được

đưa ra bán đấu giá và chia cho các nhà ĐT theo tỷ lệ nắm giữ chứng chỉ. Việc phát

hành chứng chỉ BĐS là khả thi và có nhiều ưu điểm hơn so với việc phát hành trái

phiếu công trình. Đồng thời, chứng chỉ BĐS cũng sẽ thu hút thêm nguồn vốn từ XH,

nhất là các nhà ĐT địa ốc chuyên nghiệp để tập trung vào các dự án trọng điểm, khai

Trang 57

thông nguồn vốn cho thị trường BĐS. Theo Nghị định 71 của Chính phủ, có hiệu lực

từ ngày 8/8/2010, các hình thức huy động vốn ĐT dự án BĐS: vay vốn, phát hành trái

phiếu, hợp đồng góp vốn - hợp tác ĐT... lần đầu tiên được quy định. Một trong những

nét mới của Nghị định 71 so với Nghị định 90 là đưa ra quy định về các hình thức huy

động vốn, trong đó có đề cập đến hình thức phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, nhìn

chung VN hiện chưa có quy định cụ thể hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ CK hóa, trong

khi CK hóa đòi hỏi phải có các điều kiện về khung pháp lý, sự tham gia của các nhà

ĐT, tổ chức định mức tín nhiệm, sự pháp triển của TTCK.

4.1.2 Thu hút vốn ĐT nước ngoài:

Đây là kênh huy động vốn, kêu gọi ĐT vào BĐS hiệu quả nếu Nhà nước biết tranh

thủ thời cơ và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà ĐT nước ngoài. Theo báo cáo mới

nhất của Goldman Sachs, dòng vốn ĐT nước ngoài đang đổ vào các thị trường mới

nổi cao kỷ lục, khoảng 575 tỷ USD/ năm cao hơn 20% so với trước khủng hoảng tài

chính toàn cầu. VN hiện lần thứ 3 liên tiếp đứng đầu nhóm các thị trường mới nổi.

Dòng vốn mạnh cung cấp các nguồn cung tài chính với chi phí thấp, giúp hạ lợi tức

trái phiếu và làm cho cầu nội địa tăng lên. Tuy nhiên điều này cũng làm đồng tiền nội

địa tăng giá, gây áp lực lạm phát lên các nền kinh tế mới nổi. Vì vậy cần thiết phải có

sự kiểm soát dòng vốn ngoại này. Đối với công tác quản lý dòng vốn FDI của cơ quan

chức năng, hiện nay, số liệu vốn ĐT nước ngoài được định kỳ tổng hợp từ số liệu báo

cáo của các địa phương đối với vốn chuyển vào và từ DN đối với vốn chuyển ra. Cục

ĐT nước ngoài là cơ quan duy nhất có thể tổng hợp được một cách tương đối đầy đủ

số liệu. Tuy vậy, công tác thu thập thông tin về ĐT nước ngoài còn rất nhiều hạn chế.

Số liệu vốn thực hiện mà địa phương báo cáo về Cục hiện nay là số liệu tổng hợp về

giá trị của vốn đã thực hiện, không phân chia theo các yếu tố cấu thành như vốn chủ

sở hữu, lợi nhuận tái ĐT…, cũng không chia được thành vốn bằng tiền mặt và vốn

bằng hiện vật như máy móc thiết bị, nhà xưởng, giá trị quyền sử dụng đất… và các

khoản tương đương tiền như công nghệ, bí quyết kỹ thuật, thương hiệu…Trong khi

đó, NHNN có trách nhiệm thống kê dòng vốn vào và ra khỏi nền kinh tế qua kênh NH

(vốn bằng tiền) làm căn cứ để lập, phân tích cán cân thanh toán quốc tế của VN,

nhưng lại không có đủ nguồn dữ liệu để tính toán dòng vốn chuyển vào và ra qua các

Trang 58

hoạt động ĐT trực tiếp, do vậy không bổ sung và đối chiếu dữ liệu được với Cục ĐT

nước ngoài về các dòng FDI vào và ra. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế giới,

các dòng vốn chuyển vào và chuyển ra biến động tương đối mạnh, việc không có

nguồn số liệu chính xác và kịp thời để tính toán cân bằng tổng thể trong cán cân thanh

toán, từ đó có những quyết sách kịp thời và đúng đắn ứng phó với những biến động

bên ngoài khiến cho các chính sách tỷ giá và tiền tệ trở nên kém linh hoạt và chậm trễ,

ảnh hưởng tới điều tiết vĩ mô...

Về thực trạng thị trường BĐS VN hiện nay, đa số các dự án có vốn ĐT hàng tỷ

USD đều là các dự án có vốn ĐT trực tiếp nước ngoài, và với nhiều thủ thuật nhằm

lách luật các chủ ĐT nước ngoài chỉ góp một phần vốn thực, còn 50- 60% được huy

động từ nguồn vốn trong nước. Điều này khiến cho tổng nguồn vốn FDI ĐT vào VN

hằng năm bị thất thoát đi rất nhiều, đồng thời ảnh hưởng đến chính sách mở cửa, kêu

gọi ĐT của Chính phủ. Mặc dù hiện nay VN đã có đầy đủ các quy định liên quan đến

việc ĐT trực tiếp nước ngoài vào thị trường BĐS nhưng việc quản lý kiểm tra và hậu

kiểm vẫn còn rất lỏng lẻo, không sâu sát nên hiện tượng các nhà ĐT nước ngoài sử

dụng trực tiếp nguồn vốn trong nước để thực hiện các dự án đã xảy ra hàng loạt. Tình

trạng này ngày càng kéo dài sẽ khiến cho thị trường tiền tệ VN sẽ ngày càng thêm khó

khăn.

Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần có những chính sách cụ thể hơn, rõ ràng

hơn để ràng buộc các nhà ĐT, cần có những quy định chặt chẽ để kiểm soát nguồn

vốn thực được các nhà ĐT đăng ký trước khi thực hiện dự án. Trong quá trình triển

khai dự án, công tác kiểm tra tiến độ thực hiện phải được thực hiện thường xuyên

tránh các hiện tượng thu hút các nguồn vốn trong nước để thực hiện dự án treo. Việc

công bố công khai các thông tin về dự án cũng như tiến độ thực hiện là rất cần thiết,

bên cạnh đó là những quy định về việc cắt giảm chính sách ưu đãi khi vi phạm những

cam kết trong giấy phép ĐT. Các nhà ĐT luôn tìm kiếm cơ hội ĐT an toàn, giảm

thiểu rủi ro. Vì thế nếu chính sách vĩ mô tốt sẽ khiến dòng FDI đi đúng hướng và phát

triển bền vững, hiệu quả. Môi trường kinh doanh là điều quan trọng khiến các nhà ĐT

yên tâm ĐT và tăng vốn vào VN. Các địa phương cần ban hành quy chế thu hút ĐT

nước ngoài vào BĐS để có thể đảm bảo hoặc thanh toán chi phí xây dựng bên ngoài

Trang 59

hàng rào, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, có chính sách một giá với các dịch vụ… Các

lĩnh vực như công nghệ cao, công nghệ sinh học, dự án ĐT hạ tầng giao thông, cảng

biển, sân bay, dự án phát triển ngành điện, trường học, bệnh viện; lĩnh vực chế biến

khoáng sản, nông lâm sản... sẽ phải được quan tâm. Chính sách đi kèm sẽ phải có ưu

đãi hơn, ví dụ ĐT BOT thì cấp đất không thu tiền thuê đất, ĐT BT thì được ưu đãi các

dự án sinh lợi hơn (ví dụ như BĐS). Một số loại hình thì không thu thuế trong cả giai

đoạn thực hiện dự án...Đặc biệt, cơ quan quản lý phải công bố danh mục dự án phát

triển BĐS, kêu gọi ĐT trực tiếp nước ngoài, thành lập công ty phát triển quỹ đất đảm

trách việc chuẩn bị nguồn đất và làm dịch vụ công về BĐS. Đồng thời phải thống nhất

được với các nhà ĐT về mức đền bù giải toả, tỷ lệ nhà được bán, mức giá, trách

nhiệm XH…

4.1.3 Tháo gỡ vướng mắc của hoạt động cho vay BĐS

Trong bối cảnh thị trường tài chính ở nước ta hiện nay, TD NH vẫn sẽ là kênh

cung cấp vốn chủ yếu cho các DN kinh doanh BĐS. Tuy nhiên, để việc huy động theo

kênh này hiệu quả hơn cần phải tăng cường huy động vốn trung và dài hạn của các

NH để cho vay trung và dài hạn. Đồng thời, cần phải thiết lập và nâng cao chất lượng

các kênh thông tin về thị trường BĐS để làm cơ sở cho các NH thẩm định dự án, đánh

giá khả năng chi trả của các chủ ĐT.

Hiện nay, Luật Đất đai chưa quy định việc xử lý giá trị quyền sử dụng đất thế chấp

để thu hồi nợ, chưa có các quy định về căn cứ để xác định giao dịch BĐS (hợp pháp)

để cho vay cũng như những quy định về việc xác định giá trị tài sản là quyền sử dụng

đất của các DN Nhà nước được giao đất trước đây nay chuyển sang thuê…đã khiến

nhiều DN gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ các NH. Bên cạnh đó, để

tăng khả năng huy động vốn, cần có cơ chế cho phép các DN kinh doanh BĐS được

huy động vốn bằng cách bán sản phẩm, dịch vụ theo hình thức thu tiền trước nhưng

phải đăng ký với cơ quan chức năng và do NHTM đảm nhận, hoặc sớm có những văn

bản cho phép các DN BĐS được thế chấp tài sản tại các NH nước ngoài, nhằm được

hưởng lãi suất thấp. Ngoài ra, trong điều kiện hiện nay, để huy động vốn phát triển các

khu đô thị mới, khu kinh tế tập trung mới…có thể áp dụng các hình thức khác như

mời các DN kinh doanh BĐS tham gia đấu giá đổi đất lấy cơ sở hạ tầng (như

Trang 60

TP.HCM thời gian qua giao cho Công ty Liên doanh Phú Mỹ Hưng làm đường đổi

600 hecta đất hai bên đường tại quận 7); kêu gọi các hộ dân trong diện giải phóng

góp đất, vốn theo nghĩa như cổ đông trong các dự án kinh doanh BĐS để hưởng cổ

tức. Để thị trường BĐS ngày càng phát triển bền vững, thiết nghĩ, Nhà nước cần phải

sớm hoàn thiện, chỉnh sửa và bổ sung một số quy định trong hệ thống pháp luật về đất

đai, BĐS để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động cho vay ĐT, kinh doanh vào

BĐS.

4.1.4 Lập quỹ tiết kiệm BĐS:

Đây là loại hình quỹ tiết kiệm nhiều nước trên thế giới đã triển khai rất thành công,

có thể áp dụng ở VN theo dạng quỹ bảo hiểm. Theo đó tất cả những người đi làm có

thu nhập đã có nhà hoặc chưa có nhà, có nhu cầu mua nhà hay không đều phải trích

nộp quỹ với mức chỉ cần 1% thu nhập hàng tháng. Lượng tiền mỗi người đóng góp

vào quỹ là không nhiều, nhưng khi toàn XH hưởng ứng tham gia thì số tiền thu được

là rất lớn. Nếu tính thu nhập trung bình của một người đi làm hiện nay là 3 triệu đồng/

tháng. Thời gian làm việc của một người trung bình là 25 năm. VN hiện có khoảng 9

triệu lao động đi làm có thu nhập, thì với 1% lương trích nộp, số tiền của quỹ tiết kiệm

có thể đạt tới hàng trăm tỷ đồng. Đây là nguồn vốn dài hạn không nhỏ dành cho các

doanh nghịêp, các chủ ĐT dự án nhà ở và những người có nhu cầu vay vốn để ĐT xây

dựng hoặc mua nhà để ở với mức lãi suất hợp lý, góp phần quan trọng giải quyết nhu

cầu bức xúc của XH hiện tại cũng như trong tương lai. Đối với người đóng quỹ, khi

về hưu, ai không có nhu cầu vay nhà thì lấy lại số tiền đã đóng nhân với lãi suất hàng

năm.

Trong quá trình thí điểm có thể nghiên cứu, học tập kinh nghiệm từ các quốc gia đi

trước để điều chỉnh % đóng góp, hoặc bổ sung những quy định cụ thể khác. Ví dụ

Singapore quy định đơn vị sử dụng lao động phải đóng góp 13%, còn người lao động

phải góp 20% tiền lương hàng tháng vào quỹ tiết kiệm này. Mức đóng góp tuy cao

nhưng người lao động sẽ được đảm bảo không bị mất nhà ngay cả khi không còn khả

năng trả góp. Hay như Malaysia, % đóng góp thấp hơn Singapore chỉ là 3%, nhưng có

điểm đáng chú ý là chính phủ Malaysia quy định lương tối thiểu của người lao động

phải bao gồm cả chi phí cho nhu cầu nhà ở.

Trang 61

4.1.5 Tích cực xây dựng các quỹ ĐT tín thác BĐS:

Quỹ tín thác BĐS hay còn gọi là REIT (Real estate investment trust) là hình thức

gọi vốn cho một dự án BĐS từ những cá nhân, tổ chức khác, thông qua việc phát hành

các chứng từ có giá như cổ phiếu. Đây là một hình thức ĐT dựa vào uy tín và kinh

nghiệm của công ty thành lập REIT và hành lang pháp lý bảo vệ các nhà ĐT mua

chứng chỉ quỹ. Chứng chỉ REIT nửa như trái phiếu, nửa như cổ phiếu. Nhà ĐT ủy

thác cho công ty quản lý quỹ REIT ĐT vốn của quỹ vào BĐS kiếm lời. Ưu điểm của

REIT tại thị trường VN là huy động nguồn vốn nhàn rỗi của tất cả cá nhân, tổ chức

trong nước thông qua REIT để ĐT chuyên nghiệp BĐS trong khi các Quỹ ĐT quốc tế

tại VN như Vinacapital, Indochina Capital…chỉ huy động nguồn vốn quốc tế, còn các

quỹ CK của VN thì bị hạn chế bởi tỷ lệ ĐT cho BĐS. Tuy nhiên, người nắm giữ

chứng chỉ REIT cũng sẽ phải chấp nhận rủi ro vì các khoản ĐT của quỹ có thể có lãi,

có thể lỗ do thị giá của chứng chỉ quỹ cũng sẽ tăng hoặc giảm theo diễn biến của thị

trường địa ốc. Cổ phiếu của REIT luôn có tính thanh khoản cao và lợi nhuận thu nhập

bình quân hàng năm của quỹ khá ổn định. Dưới hình thức ủy thác, nhiều nước trên thế

giới thường chuyển giao ít nhất 90% lợi nhuận cho các nhà ĐT. Thế mạnh trong ĐT

của quỹ REIT là khả năng thanh khoản khá dễ dàng so với chủ sở hữu BĐS cá nhân.

Cổ phiếu của REIT chủ yếu được mua bán trên các sàn giao dịch tập trung. Tại đây,

cổ phiếu sẽ được mua bán nhanh hơn là ĐT dưới hình thức mua bán tài sản BĐS trên

các thị trường tự do. Điểm lợi khác khi ĐT vào REIT là nhà ĐT có thể tăng thêm lợi

nhuận khi tái ĐT bằng cổ tức vì vậy có thể hiểu REIT là công cụ tài chính mà nhà ĐT

với số vốn ít cũng có thể trực tiếp ĐT sở hữu một phần tỷ lệ tương ứng trong dự án

BĐS có quy mô lớn.

Vì những ưu điểm trên, mô hình REIT khá phổ biến ở nước ngoài và trong thời

gian gần đây đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở Châu Á. Cụ thể, trong vòng 6

năm qua, thị trường REIT Châu Á tăng từ 2 tỷ USD ( năm 2001) lên đến 87 tỷ USD

(năm 2007). Chỉ riêng tại Châu Á (không kể Nhật Bản), ước tính có 19 quỹ REIT

được niêm yết với tổng vốn huy động đạt 4,6 tỷ USD.Trong số các thị trường REIT

Châu Á mới nổi phải kể đến thị trường Singapore. Trong một năm qua, giá trị vốn hoá

của thị trường REIT Singapore tăng 125% từ 13 lên 29 tỷ USD, các quỹ REIT tại

Trang 62

Singapore phát triển đa dạng với rất nhiều lĩnh vực và địa lý khác nhau từ quỹ REIT

địa ốc, REIT chăm sóc sức khỏe, REIT cung cấp dịch vụ nhà hàng, khách sạn, đến

REIT bán lẻ tại Trung Quốc, Malaysia…

Hiện nay thị trường BĐS VN đã có yếu tố thuận lợi để áp dụng thí điểm mô hình

REIT vì có nhiều DN, công ty quản lý tài sản, các công ty quản lý quỹ cùng hoạt

động; thị trường BĐS mới nổi với những triển vọng tốt; TTCK đang trên đà phát

triển; có nhiều tổ chức tài chính trung gian tầm cỡ có thể cung cấp vốn và hạn mức

TD lớn trong ngắn và trung hạn giúp khởi động bất kỳ một dự án BĐS nào, đồng thời

các nguyên tắc chung của hệ thống quỹ tại VN theo Luật Ủy Ban CK đã được định

khung và vận hành tốt nhiều năm nay. Tại VN, một số REIT được thành lập để

chuyên ĐT một hoặc một số BĐS đã đi vào hoạt động hoặc đang tạo ra thu nhập

tương đối ổn định. Vì vậy, chứng chỉ REIT có mức độ rủi ro thấp hơn cổ phiếu của

các công ty chỉ chuyên về ĐT phát triển các BĐS mới. Hơn nữa, Chứng chỉ REIT lại

có thể chuyển nhượng trên TTCK, yếu tố này cung cấp tính thanh khoản cho phần vốn

ĐT. REIT trong thị trường BĐS VN có đặc điểm đa dạng, tính thanh khoản, cổ tức

cao cũng như lợi nhuận thu nhập bình quân hàng năm ổn định.

Tuy nhiên điều kiện để xây dựng REIT thành công cần nhiều yếu tố liên quan đến

sự phát triển bền vững của thị trường. Mục đích của nhà ĐT là lợi nhuận và chỉ bỏ

vốn ĐT khi tin tưởng dự án ủy thác có lợi ích tài chính cao hơn các dạng ĐT khác,

nếu không, nhà ĐT sẽ quay sang gửi tiền vào NH hoặc mua trái phiếu Chính phủ tuy

lãi ít nhưng an toàn. Yêu cầu về hành lang pháp lý chặt chẽ đảm bảo cho hoạt động

hiệu quả của REIT là khâu yếu nhất hiện nay của thị trường BĐS VN. Các nước trên

thế giới có những bộ luật, quy chế quy định rất chi tiết về các tiêu chuẩn hoạt động

của công ty quản lý quỹ REIT và REIT hoạt động dưới sự giám sát của một số tổ chức

chuyên nghiệp như NH giám sát, đơn vị kiểm toán, định giá. Vì vậy, vấn đề hiện nay

của VN là cần nhanh chóng soạn thảo và hoàn chỉnh một bộ luật về REIT, trong đó

cũng cần những quy định cụ thể về TTCK, thuế. Luật này là phải đảm bảo được tính

minh bạch về thông tin, tránh việc sau này phải có những thông tư, nghị định hướng

dẫn, bổ sung như các Luật hiện nay của VN đang mắc phải. Đồng thời cần có mô hình

thí điểm trước khi nhân rộng loại hình ĐT này càng sớm càng tốt.

Trang 63

4.2 Nhóm giải pháp về hàng hóa bất động sản

4.2.1 Tái tạo và phát triển nguồn hàng cho thị trường bất động sản:

Chương trình nhà ở XH cần tiếp tục được triển khai sâu rộng và nhanh chóng

hơn. Đây cũng chính là một giải pháp kích cầu hữu hiệu cho nền kinh tế, giải quyết

đầu ra cho thị trường BĐS, đồng thời thực hiện chính sách an sinh XH của Đảng và

Nhà nước một cách thiết thực nhất. Muốn thực hiện chương trình này một cách hiệu

quả, Nhà nước cần thiết phải có những văn bản, chính sách quy định chặt chẽ về cơ

chế chuyển nhượng, đối tượng thụ hưởng, trả góp dài hạn với lãi suất mua nhà

thấp…nhằm mục đích phục vụ đúng đối tượng cần hỗ trợ, tránh xảy ra hiện tượng đầu

cơ, tham ô, nhũng nhiễu. Thêm vào đó Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ cụ

thể cho các DN ĐT kinh doanh BĐS tham gia vào chương trình xây dựng nhà ở XH

như:

(cid:190) Miễn thuế chuyển quyền sử dụng đất, giá trị gia tăng.

(cid:190) Nhà nước sẽ mua lại toàn bộ căn hộ khi nhà ĐT xây dựng xong và bàn giao

với phần lợi nhuận hợp lý cho DN.

(cid:190) Các DN được huy động vốn với lãi suất thấp.

(cid:190) Nhà nước cần nhanh chóng phê duyệt các thủ tục giấy tờ, quy hoạch, điện

nước..

(cid:190) Nhà nước cần xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, thuận tiện

cho giao thông liên lạc nối các khu nhà ở XH đến các khu vực trung tâm khác

trong khu vực…

4.2.2 Đa dạng hóa nguồn hàng theo hướng phù hợp với nhu cầu thực của thị

trường: Cần đa dạng hoá hàng hoá BĐS, từng bước XH hoá việc ĐT hạ tầng kỹ

thuật, hạ tầng XH, xây dựng các công trình công cộng trong cơ chế hoạt động của thị

trường BĐS; phát triển thị trường cho thuê nhà ở, văn phòng, cơ sở sản xuất, kinh

doanh; có biện pháp kích cầu hợp lý đối với thị trường nhà ở cho người có thu nhập

thấp, người thuộc diện được ưu đãi; tạo sức cạnh tranh cho thị trường BĐS trong nước

so với thị trường khu vực, có sức hấp dẫn các nhà ĐT.

Sở dĩ cần phải đa dạng hóa hàng hóa BĐS vì hiện nay, thị trường BĐS vẫn chưa

hồi phục hoàn toàn, việc lướt sóng, thu lời ngắn hạn sẽ không còn thích hợp mà các

Trang 64

nhà ĐT cần chú trọng đến dài hạn. Cho nên, thay vì tập trung vào phân khúc mua bán,

các nhà ĐT BĐS nên chuyển sang phân khúc cho thuê. Hình thức ĐT này không dài

hạn nhưng lại thu lời nhanh và có thể giúp chủ ĐT thu hồi giá trị gia tăng của lô đất,

chờ đợi những đợt nóng sốt mới của BĐS. Có 2 loại hình cho thuê:

(cid:190) Loại hình nhà trọ: Đây là loại hình cho thuê cần được tập trung phát triển ở

gần các khu dân cư xung quanh nhà máy, khu công nghiệp, khu chế xuất…cho thuê.

Đối tượng phục vụ của loại hình này là các công nhân, người lao động nhập cư có thu

nhập thấp.

(cid:190) Loại hình căn hộ cho thuê: Các DN kinh doanh BĐS cũng cần chú ý ĐT vào

việc xây dựng và phát triển những căn hộ chủ yếu dùng cho thuê. Hình thức này cao

cấp hơn dạng nhà trọ do căn hộ được trang bị đầy đủ vật dụng sinh hoạt thiết yếu cho

người thuê như giường, bàn ghế, truyền hình cáp. Đối tượng phục vụ của loại hình

này là giới trẻ, người độc thân, các lao động nhập cư có mức thu nhập trung bình khá,

có nhu cầu sử dụng những căn hộ thuê tiện nghi hơn so với nhà trọ thông thường

nhưng vẫn chưa có khả năng sở hữu chính thức một căn hộ.

Việc chuyển dần từ mua sang thuê là một trong những động thái đa dạng hóa các

sản phẩm BĐS, mang đến nhiều hướng mới cho thị trường. Có thể khẳng định những

người có mức thu nhập trung bình vẫn là đối tượng khách hàng lớn mà các nhà ĐT

cần khai thác để giảm tải nhu cầu của XH. Thông qua đó, nhà ĐT có thể chuyển

hướng sang nhiều hình thức mới trong thời gian chờ đợi thị trường nhà đất trở lại

trạng thái nóng sốt

4.3 Các giải pháp về mặt cơ chế vận hành

4.3.1 Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản luật, pháp lệnh thuế nhà, đất :

(cid:190) Nghiên cứu, ban hành Luật đăng ký BĐS: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế và

thực tiễn VN đã chỉ ra rằng BĐS cần phải được đăng ký. Chỉ khi được đăng ký, BĐS

mới có được những giá trị phái sinh. Một trong những giá trị phái sinh là việc tạo ra

nguồn vốn. Vì vậy cần nghiên cứu ban hành luật này, đồng thời cần sớm hoàn thiện

khung pháp lý về BĐS để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất. Xây dựng, hoàn thiện hệ

thống pháp luật để dễ dàng chuyển BĐS thành vốn ĐT, tạo hệ thống đăng ký BĐS

thống nhất, công khai hóa hoạt động kinh doanh BĐS.

Trang 65

(cid:190) Nghiên cứu, ban hành Luật về thị trường thế chấp thứ cấp. Đây là một văn

bản pháp luật quan trọng và cần thiết để từ đó làm cơ sở pháp lý cho hệ thống NH có

thể tạo nguồn vốn trung và dài hạn từ nguồn vốn ngắn hạn do thế chấp BĐS tạo ra. Để

thị trường BĐS phát triển bền vững và hệ thống NH có thể tài trợ lành mạnh cho thị

trường này cần phải có một hệ thống thứ cấp mạnh và được quản lý tốt.

(cid:190) Về căn bản mọi đối tượng tham gia vào thị trường BĐS đều thiếu vốn. Vì

vậy, quỹ tiết kiệm BĐS là cầu nối trung gian giữa NH, công ty kinh doanh BĐS và

các người có nhu cầu về BĐS. Để mô hình quỹ tiết kiệm BĐS thành công, nền kinh tế

cần một hệ thống NH lành mạnh, một hệ thống công ty kinh doanh BĐS lành mạnh và

các chủ thể kinh tế có tiết kiệm. Và để mô hình này hoạt động hợp pháp và theo đúng

chức năng ưu việt của nó, Nhà nước ta cần nghiên cứu, ban hành Luật về quỹ tiết

kiệm BĐS.

(cid:190) Nghiên cứu ban hành Luật về các loại hình quỹ đầu tư như là quỹ ĐT tín

thác BĐS. Đây là một loại hình quỹ thành công ở rất nhiều quốc gia, đặc biệt từ

những năm đầu thế kỷ 20 trở lại đây. Tại VN đã có một số quỹ ĐT loại này được hình

thành, nhưng nhìn chung cần phải có thời gian để loại hình này phát triển. Vì vậy

trong thời gian tới, cùng với việc trưởng thành của nền kinh tế thì việc ra đời một văn

bản pháp luật là cần thiết để các quỹ ĐT tín thác BĐS hoạt động hợp pháp.

(cid:190) Việc phát hành trái phiếu BĐS cũng đã hình thành tại VN. Tuy nhiên do

chưa có khung pháp lý nên việc mở rộng diện và đối tượng chưa thể triển khai được.

Vì vậy việc nghiên cứu, ban hành một văn bản pháp quy về vấn đề này sớm hay muộn

cũng là cần thiết để mở ra một kênh tài chính mới cho thị trường BĐS. Hướng triển

khai là NHNN phối hợp với bộ Tài chính ra thông tư liên bộ cho thí điểm, nhân lên

diện rộng và ban hành chính sách.

(cid:190) Nghiên cứu ban hành luật về thông tin BĐS để làm cơ sở pháp lý nhằm xây

dựng các chỉ số liên quan đến thị trường như chỉ số nhà, chỉ số giá xây dựng…

4.3.2 Hoàn thiện hệ thống thuế:

Nhà nước cần xây dựng chính sách thuế nhà đất theo hướng thực hiện bổ sung

đánh thuế sở hữu nhà ở để góp phần tăng cường quản lý chặt chẽ hoạt động xây dựng

Trang 66

nhà ở. Muốn vậy Nhà nước phải xây dựng tiêu chuẩn diện tích nhà ở bình quân theo

từng tỉnh thành để từ đó căn cứ đánh thuế sử dụng đất và nhà theo hình thức thuế suất

lũy tiến từng phần. Theo đó hộ gia đình, cá nhân càng có nhiều diện tích đất, hay sở

hữu nhiều nhà mức thuế càng tăng cao, nhà cao cấp mức thuế cao hơn nhà trung bình.

Như hiện nay, Singapore áp dụng mức thuế cố định, người mua nhà ở chịu thuế 4%,

người mua nhà nhưng không ở chịu mức thuế cao hơn là 12%. Các nước khác như

Ca-na-đa, Nhật Bản, Mỹ cũng áp dụng đánh thuế cho đất trống đối với các nhà đầu

cơ. Anh cũng có mức thuế BĐS rất cao đối với các cá nhân có nhiều BĐS... Làm như

vậy, Nhà nước không những sẽ tăng thu ngân sách, mà còn hạn chế được nạn đầu cơ

đẩy giá BĐS tăng lên quá mức gây bong bóng, đồng thời thúc đẩy việc sử dụng nhà

đất có hiệu quả, không lãng phí và thực hiện công bằng trong thu thuế nhà đất.

Về quy định thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ BĐS, VN có thể học tập

kinh nghiệm của Singapore đánh thuế trên số lần chuyển nhượng, mua bán trong

khoảng thời gian nhất định. Hiện, Singapore đánh thuế cao với hành vi đầu cơ, căn cứ

vào thời gian giữa mua và bán, theo đó, đất mua đi bán lại trong năm đầu tiên bị đánh

thuế 100% trên giá trị chênh lệch mua bán, sau 2 năm thì mức thuế là 50%, sau 3 năm

là 25% (giảm dần). Vì đất đai có giá thị trường, nên không thể khai thấp giá đất để

trốn thuế. Như vậy nếu 1 người muốn đầu cơ đất thì phải 4 năm sau bán mới có lời.

Rủi ro trong 4 năm sẽ nhiều, vì thế họ sẽ phải tính cách khác ĐT, có lợi hơn cho họ,

và cho nền kinh tế. Hoặc VN có thể xây dựng thuế lũy tiến theo số lần chuyển

nhượng. Việc này có thể hạn chế phần nào việc mua đi, bán lại đẩy giá BĐS tăng lên.

4.4 Xây dựng năng lực của các tổ chức tham gia trên thị trường BĐS

Hiện nay, các tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường BĐS có thể

khái quát theo sơ đồ sau:

Trang 67

Thị trường tài

chính

Thị trường tiêu

dùng

Các tổ chức cá nhân Các cá nhân có

Nhμ n−íc

nhu cầu về BĐS

Thị trường

kinh doanh BĐS

BĐS

Thị trường

Chứng khoán

Từ sơ đồ trên có thể thấy được, thị trường BĐS qua mối liên hệ trực tiếp với Nhà

nước và các tổ chức cá nhân tiêu dùng, kinh doanh BĐS có mối quan hệ gián tiếp với

hầu hết các thị trường khác của nền kinh tế. Mỗi biến động của các cá nhân, tổ chức

này thông qua thị trường BĐS đều có khả năng gây ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh

tế. Vì thế để tránh xảy ra những tác động xấu đến thị trường như thời gian vừa qua,

Nhà nước cần rà soát, xem xét lại năng lực của các tổ chức kinh doanh BĐS cũng như

có những định hướng, tạo điều kiện cho các đối tượng này phát triển; bản thân các DN

BĐS cần sớm tìm ra những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Một số

giải pháp kiến nghị:

4.4.1 Những đề xuất đối với Nhà nước nhằm phát triển bền vững thị trường bất

động sản Việt Nam:

(cid:190) Nhà nước cần tạo điều kiện phát triển các DN kinh doanh BĐS. Áp dụng cơ chế

thống nhất về thuế và các chính sách hỗ trợ. Hoàn thiện công tác đấu thầu theo hướng

tăng tỷ lệ tham gia bắt buộc của khu vực ngoài quốc doanh, tránh tình trạng độc

Trang 68

quyền, ôm công trình hoặc bán thầu tiêu cực. Trong trường hợp cần có sự độc quyền

thì cũng phải có cơ chế giám sát, kiểm soát các tổ chức độc quyền này. Đa dạng hóa

các tổ chức tài chính và ban hành cơ chế để các tổ chức này tham gia thị trường BĐS.

(cid:190) Ban hành cơ chế chính sách thu hút ĐT trực tiếp từ dân cư và các tổ chức kinh

tế vào việc tạo lập và kinh doanh BđS, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển thị

trường CK BĐS

(cid:190) Có những chính sách hỗ trợ lãi suất, thuế.. để khuyến khích các nhà ĐT kinh

doanh BĐS đặc biệt về nhà ở XH, phục vụ nhu cầu của người có thu nhập thấp, người

nghèo…

(cid:190) Ràng buộc năng lực tài chính của chủ ĐT BĐS: Hà Nội vừa ra quyết định bổ

sung thay thế một số điều của Quy định tạm thời về quản lý ĐT xây dựng và kinh

doanh các dự án khu đô thị mới, khu nhà ở trên địa bàn. Từ 1/7/2010, đối với những

dự án khu đô thị mới, nhà ở có quy mô sử dụng đất từ 20 hecta trở lên, chủ ĐT phải

có vốn chiếm ít nhất 20% tổng mức ĐT. Riêng đối với các dự án khu đô thị nhà ở có

quy mô sử dụng đất dưới 20 hecta, thì vốn của chủ sở hữu phải chiếm tối thiểu 15%

tổng mức ĐT. Tổng mức ĐT dự án khu đô thị mới được lập theo quy hoạch hiện

hành, bao gồm chi phí sử dụng hoặc thuê đất, tiền bồi thường giải phóng mặt bằng, hỗ

trợ tái định cư.. Đối với các dự án khu đô thị mới và nhà ở thương mại có quy mô sử

dụng đất từ 10 hecta trở lên, theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chủ

ĐT có trách nhiệm bàn giao lại cho thành phố 20% diện tích xây dựng nhà ở để phục

vụ nhu cầu tái định cư, nhà ở XH, nhà ở cho người thu nhập thấp. Chi phí bồi thường

giải phóng mặt bằng ĐT hạ tầng được trừ vào tiền sử dụng đất. Trong trường hợp chi

phí này lớn hơn tiền thuê đất thì được hoàn trả từ ngân sách NN. Riêng đối với các dự

án đang được triển khai theo quyết định cũ mà đã được NN phê duyệt vào mục đích

công cộng thì không phải trả lại.

4.4.2 Những đề xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DN kinh

doanh bất động sản Việt Nam: Trong bối cảnh thị trường BĐS đang khó khăn như

hiện nay, nếu không nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, không có chiến lược bài

bản, DN có thể sẽ thua lỗ, đóng cửa và phá sản từ đó gây tác động xấu đến sức cạnh

tranh của nền kinh tế. Có 2 nhóm yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến năng lực cạnh

Trang 69

(cid:190) Đa dạng hóa các hàng hóa, dịch vụ cung cấp cũng như nâng cao chất lượng

hàng hóa, dịch vụ: DN kinh doanh BĐS cần phân bổ lại cơ cấu các sản phẩm của

mình ở nhiều phân khúc, tập trung phát triển những sản phẩm hướng vào nhu cầu hiện

tại của khách hàng, lấy số lượng bù đắp lợi nhuận như nhà giá rẻ hoặc nhà có diện tích

vừa phải phục vụ cho phân khúc khách hàng có thu nhập trung bình… Đồng thời một

vấn đề các DN cần chú ý đó là khi nguồn cung các sản phẩm BĐS ngày càng nhiều,

thì chất lượng sản phẩm dịch vụ càng được khách hàng quan tâm. Xây dựng chất

lượng dịch vụ tốt cũng là một trong những cách để quảng bá hình ảnh một DN uy tín

ra công chúng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của DN.

(cid:190) Các DN kinh doanh bất động sản cần mở rộng kênh huy động vốn: Nguồn

vốn của các DN kinh doanh BĐS hiện nay chủ yếu là từ các NHTM. Tuy nhiên như

đã phân tích ở phần thực trạng thị trường TD BĐS, kênh vốn chính này chưa đáp ứng

được nhu cầu vốn của thị trường BĐS. Do đó các DN cần tìm những hướng đi mới để

có thể chủ động được nguồn vốn của mình như mở rộng phát hành trái phiếu DN và

phát hành trái phiếu BĐS từ chính dự án BĐS mình ĐT, đồng thời đẩy mạnh các công

tác liên doanh, liên kết, sát nhập để phát triển và tạo thế giao dịch bằng vai phải lứa

với các đối tác quốc tế, do việc này sẽ tạo thành chuỗi cung ứng sản phẩm dịch vụ

chuyên nghiệp cho toàn bộ quy trình phát triển dự án.

(cid:190) Các DN cần nâng cao tính chuyên nghiệp, chú trọng đến việc xây dựng bộ

phận nghiên cứu, phân tích thông tin thị trường, cũng như chăm sóc hậu mãi

khách hàng: ở thời đại mà tính chuyên nghiệp đang là yếu tố tạo lợi thế cạnh tranh,

Trang 70

các nhà ĐT trong nước cần phải đi vào những thị phần chuyên biệt; ĐT nghiêm túc

vào lĩnh vực nghiên cứu phát triển để nắm bắt xu hướng khách hàng, Để làm được

điều này, các DN phải cập nhật kỹ năng mới, ứng dụng công nghệ mới, chuyên sâu

trong từng công đoạn : quy hoạch, thiết kế, xây dựng, quản lý dự án, tiếp thị, hậu

mãi... Việc này có thể học hỏi từ cách làm của các đối tác nước ngoài đang có mặt tại

VN. Ở mỗi DN phải xây dựng được bộ phận nghiên cứu, xây dựng thông tin thị

trường. Bộ phận này phải thường xuyên theo dõi cập nhật đầy đủ diễn biến của thị

trường thông qua các kênh truyền thông đại chúng và khảo sát thực tế. Đây là một

công việc không phải là DN nào cũng có thể thực hiện tốt được trong bối cảnh thị

trường BĐS kém minh bạch như hiện nay. Trong trường hợp chưa thể tự xây dựng và

vận hành tốt đội ngũ đảm nhận công việc này thì các DN có thể thực hiện thông qua

các đơn vị chuyên về cung cấp thông tin thị trường, nghiên cứu và tư vấn BĐS chuyên

nghiệp hiện nay. Tuy nhiên vì Nhà nước chưa xây dựng được chỉ số BĐS nên các DN

kinh doanh BĐS cần lựa chọn đơn vị có uy tín để thoả thuận cung cấp những thông

tin phù hợp và cần thiết cho mình.

4.5 Các giải pháp khác:

4.5.1 Hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng, miền:

Nhà nước ta cần nhanh chóng quy hoạch phân bổ về đất đai, quy hoạch phát triển

đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất...Về vấn đề này VN có thể học tập kinh nghiệm

từ Nhật Bản. Ngay từ năm 1972, Nhật đã ban hành Luật xúc tiến di chuyển công

nghiệp, làm cơ sở pháp lý cơ bản cho sự hình thành các khu công nghiệp. Nhằm

khuyến khích các cơ sở công nghiệp di chuyển về các vùng xa xôi hẻo lánh, chính phủ

Nhật đã áp dụng một số biện pháp như ưu đãi thuế, trợ cấp hoặc cho vay vốn ưu đãi,

phát triển cơ sở hạ tầng. Sau đó, năm 1988 ban hành tiếp Luật thúc đẩy các dự án đặc

biệt để phát triển công nghiệp tiên tiến của vùng, tiếp tục di chuyển các cơ sở sản xuất

tạo nên những trung tâm phát triển công nghiệp nòng cốt của khu vực. Trên cơ sở đó,

chính quyền địa phương chủ động soạn thảo lập nên kế hoạch cụ thể cho các thành

phố, cụm công nghiệp, trình chính phủ thẩm tra và cấp giấy phép thực hiện. Kết quả là

từ một nước có đặc điểm đất chật, người đông, địa hình cắt khúc không thuận lợi,

Nhật Bản đã trở thành một nước công nghiệp phát triển với hệ thống đô thị, khu công

Trang 71

nghiệp được quy hoạch một cách hiện đại, quy cũ hàng đầu thế giới. Như vậy có thể

thấy sự can thiệp của chính phủ vào quá trình lập kế hoạch và xác định vị trí xây dựng

khu công nghiệp được xem là cần thiết nhằm đảm bảo yếu tố phát triển bền vững và

cân bằng giữa các khu vực, tạo sự quy cũ cho từng vùng, từng miền, từng khu vực.

Công tác quy hoạch phải đi trước một bước, cần phải điều tra thống kê các quỹ đất

hiện có, đề xuất cụ thể các chỉ tiêu về quy hoạch, mật độ xây dựng, hình thức ĐT, các

cơ chế ưu đãi... Hoàn chỉnh các quy hoạch và công bố công khai rộng rãi cũng là tạo

điều kiện để nhà ĐT thuộc mọi thành phần kinh tế biết, nghiên cứu và hoạch định

chiến lược ĐT kinh doanh cho đơn vị mình. Thông qua chỉnh trang đô thị, Nhà nước

có thể hoán chuyển các đơn vị hành chánh sự nghiệp, trường học, cơ quan quân đội,

công an… tại các vị trí trung tâm sang những vùng ven, hoặc không còn là những khu

vực đắc địa, tạo nên sự phát triển đồng đều của toàn khu vực. Mặt khác thông qua việc

đó, quy hoạch chỉnh trang lại đô thị trở nên đẹp, văn minh, hiện đại, và Nhà nước sẽ

thu được phần rất lớn chênh lệch thuế nhà đất. Với nguồn thu này, Nhà nước sẽ tái ĐT

vào các công trình hạ tầng, phúc lợi công cộng hay xây dựng nhà ở XH chẳng hạn.

Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu, rà

soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện

thuận lợi cho nhà ĐT trong việc xác định và xây dựng dự án. Đồng thời nhằm hạn chế

tình trạng lãng phí đất công, ĐT giữ chỗ, và tạo cơ hội đồng đều cho các chủ ĐT, Nhà

nước chỉ nên duyệt dự án có quy mô vừa phải (khoảng từ 50-100 hecta), hoặc nếu

diện tích duyệt cao hơn cần thu thêm thuế lũy tiến và thuế “nằm chờ” phần diện tích

vượt trội.

4.5.2 Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng bất động sản:

Tính đến tháng 8/2010, tổng số NH Mỹ sụp đổ trong năm 2010 lên đến 108. Như

vậy hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất trong 100 năm qua vẫn tiếp tục

tác động đến thị trường tài chính Mỹ. Trong bối cảnh đó, 39 NHTM đang hoạt động ở

VN dường như không bị ảnh hưởng đáng kể. Phải chăng hệ thống NH VN đã có cơ

chế đủ mạnh để đủ sức vượt qua mọi khủng hoảng.

Hiện nay, báo cáo nợ xấu của hệ thống NH bình quân khoảng 1,28% trên tổng dư

nợ, nhưng đến khi thực tế có NH tỷ lệ nợ xấu lên tới 12% tính theo chuẩn kế toán

Trang 72

VN, nếu tính theo chuẩn quốc tế tỷ lệ kia còn cao hơn. Hội thảo Nâng cao năng lực

quản trị rủi ro của các NHTM VN đã diễn ra ở Hà Nội vào ngày 18/8/2010 cho thấy

thông tin tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trong tổng dư nợ của các NHTM VN đang ở mức

cao hơn so với nhiều NH các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc cung cấp, khai

thác và sử dụng thông tin TD tại nhiều NHTM vẫn còn yếu, vì vậy mới có chuyện một

khách hàng vay vốn tại nhiều NHTM nhưng không có sự kiểm tra, đánh giá về mức

độ rủi ro. Về mặt lý thuyết, NH là một nghề kinh doanh rủi ro, hiệu quả hoạt động của

nó phụ thuộc nhiều vào mức độ rủi ro. Kể từ năm 2000 đến nay, ngoài các loại hình

rủi ro truyền thống như rủi ro TD, rủi ro thanh toán, rủi ro nhầm lẫn tiền mặt, một số

NH đã bắt đầu gặp phải các loại hình rủi ro mới với giá trị khá lớn như thẻ TD giả

mạo, rủi ro tác nghiệp, rủi ro đạo đức. Gần đây nhất, chỉ do tin đồn thất thiệt mà một

số NH cổ phần đã phải gánh chịu những rủi ro không nhỏ và chắc chắn đã lâm vào

cảnh phá sản nếu không có sự trợ giúp của NHNN.

Có thể nói thời gian qua NHNN đã có rất nhiều quy định để có thể giảm bớt những

rủi ro trong hoạt động TD của các NH. Vào năm 2005 lần đầu tiên có những văn bản

quy định rõ về tiêu chuẩn an toàn vốn của NHTM. Quyết Định số 457/2005/QĐ-

NHNN ngày 19/4/2005 của Thống Đốc NHNN ban hành quy định về các tỷ lệ bảo

đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức TD đã quy định tỷ lệ an toàn vốn tối

thiểu lên 8%. Ngoài ra quyết định này cũng quy định khá rõ về vốn cấp 1 (vốn tự có),

vốn cấp 2 (vốn bổ sung) và các mức độ rủi ro khác nhau của tài sản có rủi ro. Cũng ở

quyết định này, NHNN quy định rõ tỷ lệ cho vay đối với một khách hàng và một

nhóm khách hàng có liên quan và tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng

để cho vay trung và dài hạn là 40%.

Tuy nhiên sự phát triển nhanh của ngành tài chính - NH VN sau khi gia nhập

WTO, đặc biệt vào năm 2006-2007 đã đòi hỏi những quy định về quản lý rủi ro trong

ngành NH cần được nâng cao. Năm 2009, NHNN đã ban hành thông tư số

15/2009/TT-NHNN để nâng tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho

vay trung hạn và dài hạn đối với công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính là

30% (từ mức 40% trước đó), quỹ TD nhân dân Trung Ương 20% (từ mức 30% trước

đó). NHNN cũng xây dựng các yêu cầu cao về mức vốn tối thiểu của các NHTM.

Trang 73

Theo Nghị định 141/2006/CP của Chính phủ, đến 31/12/2010 là hạn chót để các NH

phải bảo đảm nâng vốn lên tối thiểu 3.000 tỷ đồng, dự kiến nâng lên 5.000 tỷ cho năm

2012 và 10.000 tỷ đồng vào năm 2015 cũng là một một cách tạo ra sự lành mạnh

trong hoạt động của các NHTM. Tuy nhiên, điều này cũng gây áp lực rất lớn đối với

các NH nhỏ, nhất là NH có vốn điều lệ quanh mức 1.000 tỷ đồng. Thống kê cho thấy

trong tổng cộng 39 NHTM cổ phần đang hoạt động có tới 24 NH có vốn điều lệ dưới

3.000 tỷ đồng. Trong đó có 15 NH có vốn dưới 2.000 tỷ đồng và 8 NH có vốn quanh

mức 1.000 tỷ đồng. Áp lực tăng vốn điều lệ, chạy theo lợi nhuận khiến các NH đẩy

mạnh TD, chạy đua lãi suất. Trong khi nợ xấu của nhiều NH đang ở mức khá cao và

tiềm ẩn rủi ro cho cả hệ thống. Và tháng 5 vừa qua, NHNN cũng đã có Thông tư

13/2010/TT-NHNN cải tổ toàn diện các quy định về kiểm soát an toàn vốn của các

NHTM. Cụ thể NHNN đã nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 9% (tăng 1%), quy định

chặt chẽ về vốn cấp 1, vốn cấp 2, nâng tỷ lệ rủi ro một số khoản vay, và hạn chế mức

cho vay 80%... Tuy có nhiều ý kiến về các quy định và thời điểm áp dụng nhưng điều

này cho thấy NHNN đang cố gắng có những kiểm soát chặt chẽ hơn đối với những rủi

ro có thể có của hoạt động NH.

Các cơ chế quản trị rủi ro cho hệ thống NH VN đang tiến dần tới thông lệ quốc tế

và được đánh giá là khá chặt chẽ. Tuy nhiên, giải pháp hữu hiệu nhất chính là nâng

cao năng lực tự quản trị rủi ro của các NH chứ không phải là áp đặt từ trên NHNN

xuống theo các tỷ lệ, chỉ tiêu nhất định, để từ đó các NHTM cố gắng làm mọi việc để

đạt chỉ tiêu đó, kể cả chuyện bóp méo số liệu. Để tăng cường năng lực quản trị rủi ro

của các NHTM, cần phải có cơ chế khác ngoài cơ chế hành chính. Sự kiểm soát của

thị trường, khách hàng và của các tổ chức kinh doanh khác thông qua cạnh tranh là ba

cơ chế quản trị hữu hiệu, song hiện nay cả ba yếu tố này đều chưa có trong hệ thống

NHTM VN.

4.5.3 Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về thị trường bất động sản:

Nền kinh tế nước ta là kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Thị trường

BĐS cũng là một bộ phận của nền kinh tế thị trường nên cũng cần sự quản lý điều tiết

từ phía Nhà nước. Hiện Bộ Xây dựng là cơ quan có chức năng nhiệm vụ quản lý Nhà

nước về thị trường BĐS. Tuy nhiên cơ quan quản lý thực tế về thị trường BĐS chỉ

Trang 74

mới đặt tại một đơn vị cấp Cục. Điều này gây nên những bất cập về phạm vi và tầm

quản lý. Vì vậy rất cần một cơ quan đủ tầm, quản lý thị trường BĐS trong thời gian

tới, phù hợp nhất là Tổng cục nhà ở và thị trường BĐS đặt tại Bộ Xây dựng. Về mặt

nhân lực cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách quản lý Nhà

nước và thị trường BĐS ở các cơ quan chức năng. Nguồn nhân lực có năng lực và

trình độ thì mới có thể quản lý và điều hành thị trường BĐS phát triển nhịp nhàng và

đồng bộ. Ngoài việc xây dựng được cơ quan quản lý đủ tầm, đội ngũ cán bộ chuyên

trách có năng lực, điều quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước là

phải xây dựng được hệ thống thông tin cho thị trường. Cần phải thiết lập ngay hệ

thống thông tin thị trường BĐS thống nhất từ Trung Ương tới địa phương, với kỷ luật

và chế độ báo cáo nghiêm túc, tập trung, đầy đủ, kịp thời, làm cơ sở cho việc hoạch

định chính sách, điều chỉnh thị trường BĐS một cách khoa học. Việc thiết lập được

một hệ thống đăng ký BĐS hiện đại, thể hiện rõ quyền sử dụng đất đai và sở hữu tài

sản rõ ràng sẽ góp phần công khai minh bạch hóa thị trường BĐS, hạn chế nạn đầu cơ,

tham nhũng.

4.5.4 Nâng cao tính minh bạch của thị trường:

Luật Kinh doanh BĐS 2006 thể hiện mong muốn của nhà làm luật về một thị

trường BĐS hiện đại, minh bạch với những công ty địa ốc có uy tín và chuyên nghiệp:

chủ ĐT phải có đủ vốn để hoàn thành xong cơ sở hạ tầng hoặc thi công xong phần

móng trước khi huy động vốn; người môi giới muốn được hành nghề thì phải có

chứng chỉ và phải đăng ký kinh doanh. Để minh bạch hóa thị trường BĐS, Luật tách

biệt khâu tạo lập - lưu thông BĐS khi buộc các công ty địa ốc phải bán sản phẩm qua

sàn giao dịch chứ không được tự ĐT rồi tự bán sản phẩm. Trong một giao dịch BĐS,

bên môi giới không được đồng thời vừa là bên môi giới vừa là bên mua hoặc bên bán.

Tuy nhiên, các công ty địa ốc luôn tìm ra cách để thoát khỏi những ràng buộc của luật.

Quy định buộc bán BĐS qua sàn giao dịch khiến nhiều công ty địa ốc phải san sẻ lợi

ích kinh tế cũng như thông tin dự án cho bên môi giới. Hơn nữa, hoạt động của công

ty địa ốc cũng bị ảnh hưởng khi không nắm phần chủ động trong việc tiêu thụ sản

phẩm. Đó là cái cớ khiến các công ty địa ốc xé rào qua việc tự lập sàn giao dịch BĐS.

Điều kiện Luật định để mở sàn giao dịch không quá phức tạp. Luật Kinh doanh BĐS

Trang 75

chỉ yêu cầu sàn giao dịch phải là pháp nhân hoặc sử dụng tư cách pháp nhân của công

ty địa ốc để hoạt động, có quy chế và cơ sở vật chất, kỹ thuật phù hợp với nội dung

hoạt động. Về mặt nhân sự, sàn BĐS chỉ cần ít nhất hai nhân viên có chứng chỉ môi

giới. Đáp ứng các điều kiện này không phải là một yêu cầu khó, nhất là đối với các

công ty địa ốc lớn. Chi phí thành lập và hoạt động của sàn giao dịch không quá cao,

nhưng lợi ích của sàn đối với công ty địa ốc là tương đối lớn, như chủ động trong

khâu tiêu thụ sản phẩm, không phải san sẻ thông tin lợi ích cho bên môi giới. Đồng

thời, bản thân hoạt động môi giới của sàn cũng tạo ra lợi nhuận cho công ty địa ốc.

Lập sàn giao dịch, như vậy, đúng là một công đôi ba việc cho công ty địa ốc. Và nếu

lập sàn giao dịch dưới pháp nhân của công ty con, công ty địa ốc còn thoát luôn quy

định “không được vừa là bên môi giới vừa là bên mua hoặc bên bán”, dù công ty địa

ốc trên thực tế vẫn kiểm soát toàn bộ quá trình mua bán. Một khi các công ty địa ốc

được lập sàn giao dịch, sẽ trở về tình trạng như trước khi ban hành Luật Kinh doanh

BĐS, thời điểm mà các công ty địa ốc nắm trọn từ xây dựng đến tiêu thụ sản phẩm và

tha hồ thao túng giá

Nghị định 71/2010/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 08/8/2010 thay thế cho nghị định

90/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở, quy trình xin phép, triển khai các dự

án nhà ở đã được đơn giản hóa hơn, góp phần làm cho thị trường BĐS minh bạch hơn.

Theo các quy định trong Nghị định 71, tình trạng bán nhà trên giấy, đầu cơ tăng giá

cũng sẽ được hạn chế. Tuy nhiên Nghị định đã cho phép các công ty địa ốc được phân

phối 20% sản phẩm (nhà ở) mà không thông qua sàn, điều này mâu thuẫn với Luật

Kinh doanh BĐS 2006, tạo kẽ hở cho các công ty địa ốc chạy dự án, nạn tham nhũng

cũng có cơ hội phát triển. Thực ra hiện nay, các nhà làm Luật đang đánh đồng giữa

huy động vốn và bán sản phẩm, dẫn đến tình trạng phổ biến là làm hợp đồng huy động

vốn trước rồi làm hợp đồng mua bán sau, phổ biến tình trạng các sàn lập ra chỉ để

đóng dấu cho hợp đồng mua bán, hợp pháp hóa việc góp vốn trước đó. Đúng ra phải

mở rộng thị trường huy động vốn vì ĐT BĐS không thể tránh khỏi huy động vốn

trước, ĐT BĐS hiếm khi chủ ĐT có tiền để bỏ ra toàn bộ. Huy động vốn là hợp đồng

hợp tác, cùng ĐT, cùng chịu rủi ro và cùng chia lợi nhuận theo tỷ lệ tham gia (theo

luật ĐT). Lợi nhuận đó có thể là tiền hoặc là BĐS (sản phẩm được chia) và cho phép

Trang 76

Một trong những nguyên nhân làm cho thị trường BĐS từ trước đến nay phát triển

không lành mạnh là do Nhà nước chưa kiểm soát và xây dựng được các trung tâm

chịu trách nhiệm về việc cung cấp thông tin, thẩm định tính pháp lý, cũng như làm cầu

nối giữa cung và cầu, giữa người mua, nhà ĐT và các tổ chức TD. Để nâng cao tính

minh bạch của thị trường, cần thiết phải có những trung tâm giao dịch BĐS chính quy

chịu trách nhiệm chính về những việc sau:

(cid:190) Thống kê, xác định giá mang tính định hướng, cung cấp thông tin về giá cả

của thị trường, làm cơ sở để người mua có thể tham chiếu khi thực hiện các giao dịch

mua bán. Việc xây dựng chỉ số giá BĐS mang lại nhiều cái lợi: đó là chỉ số để giúp

các nhà quản lý theo dõi, định hướng phát triển thị trường; giúp các NH tham khảo

trong việc định giá cho vay, thế chấp. Đồng thời qua chỉ số này, người dân dễ dàng

theo dõi biến động giá của từng khu vực cũng như tăng tính minh bạch của thị trường

BĐS. Hiện có một số công ty, kể cả công ty nước ngoài, đã làm việc này. Tuy nhiên,

mục đích của họ là xây dựng các chỉ số giá để phục vụ hoạt động kinh doanh của công

ty cũng như cung cấp thông tin tư vấn cho các đối tác mà chưa được công khai rộng

rãi. Nhược điểm của các chỉ số giá này là chỉ xây dựng theo mức giá rao bán nhà đất,

chưa phải là giá giao dịch thật sự nên chỉ số giá còn khoảng cách so với giá giao dịch

thực tế. Đó là chưa kể các DN xây dựng chỉ số giá đều gắn với hoạt động kinh doanh

của mình nên đôi khi chỉ số giá chưa mang tính khách quan. Vì vậy, đề nghị nên có

chỉ số giá chung cho cả nước và do các cấp có thẩm quyền đứng ra thực hiện. Nếu

chưa thể làm rộng rãi thì trước mắt có thể xây dựng chỉ số giá BĐS ở các khu vực

trọng điểm của nền kinh tế như TP.HCM, Hà Nội, Cần Thơ...

Trang 77

(cid:190) Cung cấp thông tin: Các trung tâm này chịu trách nhiệm cung cấp thông tin về

nguồn cung BĐS (trong hiện tại cũng như thuộc diện được quy hoạch trong tương lai),

cung cấp thông tin về thời hạn thực hiện các dự án ĐT BĐS, khu vực quy hoạch phát

triển đô thị, khu vực định hướng phát triển cũng như khu vực bị hạn chế việc mua bán

sang nhượng.

(cid:190) Thẩm định hàng hóa BĐS: Các trung tâm này cũng có chức năng thẩm định

BĐS về cơ sở pháp lý, về các đặc tính, đặc điểm cũng như thực hiện các dịch vụ pháp

lý đảm bảo theo đúng Pháp luật Nhà nước quy định. Các trung tâm này đóng vai trò là

cấu nối giữa bên mua và bên bán, hướng dẫn thực hiện các thủ tục pháp lý trong các

giao dịch theo đúng trình tự và quy định của Pháp luật, nhằm đảm bảo cho các giao

dịch hợp pháp và được sự bảo hộ của Nhà nước, đồng thời giúp Nhà nước kiểm soát

được các giao dịch mua bán BĐS chính thức

(cid:190) Là cầu nối giữa người mua -người bán- hệ thống các tổ chức TD: làm chức

năng trung gian thanh toán giữa người mua và người bán, cũng như giới thiệu nguồn

cung cấp TD cho các chủ thể tham gia thị trường có nhu cầu về vốn.

Kết luận chương 4:

Có thể nhận thấy, thị trường BĐS ở nước ta chưa phát triển đúng tầm và còn nhiều

hạn chế. Thị trường phát triển không đồng đều và thiếu ổn định. Tính cạnh tranh,

minh bạch của thị trường BĐS từ khâu tạo lập đến hoạt động giao dịch mua bán của

thị trường còn yếu. Để thúc đẩy thị trường BĐS phát triển bền vững, khắc phục được

những khuyết tật để thị trường ổn định, hạn chế những tác động xấu của thị trường

BĐS đối với nền kinh tế cần đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý của Nhà

nước đối với thị trường BĐS. Theo đó, cần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm

pháp luật như Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh BĐS, Luật ĐT, Luật thuế nhà đất.. và

nhiều văn bản dưới Luật nhằm hướng dẫn thị trường dần đi vào quỹ đạo, tạo môi

trường thuận lợi cho các nhà ĐT, kinh doanh BĐS cả trong và ngoài nước; Cập nhật

và xây dựng được các chương trình, dự án phát triển nhà, phát triển các khu đô thị

mới, các dự án ĐT khác có tầm chiến lược cao, ổn định và hiện đại phù hợp với sự

phát triển của quốc gia cũng như thế giới; Cũng như sớm chuyên nghiệp hóa các tổ

Trang 78

chức dịch vụ hỗ trợ thị trường như môi giới, tư vấn, thiết kế, định giá, quảng cáo, sàn

giao dịch BĐS .. góp phần hoàn thiện cơ cấu cho thị trường BĐS; Ngoài ra Nhà nước

cũng cần có những chính sách kinh tế vĩ mô ổn định, lành mạnh hóa thị trường vốn và

thị trường tiền tệ nhằm hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển ổn định và bền vững thị trường

BĐS VN.

Để làm được những việc trên, đòi hỏi Nhà nước cần nhận định rõ và đầy đủ tầm

quan trọng, các thuận lợi cũng như những bất cập của thị trường BĐS. Bởi vì điều này

là cơ sở cho việc tìm kiếm những giải pháp khắc phục tồn tại, phát huy thuận lợi, từng

bước nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường BĐS VN, từ đó nâng cao vị thế của

nền kinh tế trước mắt và trong cả tương lai.

Trang 79

Kết luận

Kể từ khi đổi mới (1986) thị trường BĐS từng bước hình thành và phát triển. Nhưng

thị trường chỉ thật sự phát triển kể từ khi ban hành Pháp lệnh nhà ở năm 1991 và Luật

Đất đai năm 1993. Từ đó đến nay, thị trường BĐS phát triển đã đóng vai trò quan

trọng trong phát triển kinh tế - XH của đất nước. Nhiều dự án trong lĩnh vực SXKD,

nhiều khu nhà ở, khu đô thị mới với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ đã được hình

thành làm thay đổi bộ mặt đô thị, nâng cao điều kiện sống của nhân dân, góp phần

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH. Tuy nhiên, không chỉ riêng ở VN

mà còn ở các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, thị trường BĐS

được xem là thị trường khó quản lý nhất, nóng lạnh thất thường, giá cả liên tục biến

động gây tác động xấu cho nền kinh tế. Vì vậy việc sớm tìm ra những giải pháp nhằm

phát triển bền vững thị trường BĐS là một việc mà các nhà hoạch định chính sách của

VN cần phải làm ngay. Chỉ có như thế nhà nước mới có thể quản lý và phát triển tốt

thị trường BĐS, từ đó ổn định an sinh XH, thúc đẩy sản xuất, tăng nguồn thu cho

ngân sách, kích thích tăng trưởng, nâng cao vị thế của nền kinh tế VN trên trường thế

giới./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ths. Hoàng Công Gia Khánh (2009), Fed và các công cụ chính sách tiền tệ trong

khủng hoảng tài chính, Tạp chí Tài chính (số 2).

2. TS. Nguyễn Văn Lương và PGS.TS Nguyễn Thị Nhung (2009), Chính sách tiền

tệ trong vai trò điều tiết hoạt động của các ngân hàng thương mại, Tạp chí Ngân

Hàng (số 1+2).

3. Kinh tế 2008-2009: Việt Nam và Thế giới (2009), Thời báo kinh tế Việt Nam .

4. TS. Phạm Văn Hà (2009), Biến động giá cả lạm phát năm 2008: phân tích, dự

báo và kiến nghị, Tạp chí Tài chính (số 2).

5. TS.Nguyễn Ðức Ðộ (2009), Xu hướng tăng lãi suất huy động VND: Vấn đề đặt

ra và sự lựa chọn chính sách, Tạp chí Tài chính (số 4).

6. Nguyễn Xuân Hưng (2009), Lạm bàn về cơ chế lãi suất trong cơ chế thị trường

của Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng (số 07).

7. Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế-xã hội quốc gia-Bộ Kế hoạch Đầu tư

(2008), Bối cảnh trong nước, quốc tế và việc nghiên cứu xây dựng chiến lược 2011-

2020.

8. PGS.TS Trần Ngọc Thơ (2005), Kinh tế Việt Nam trên đường hội nhập, Nhà xuất

bản Thống kê.

9. Trung tâm tri thức doanh nghiệp quốc tế, Đặng Đức Thành (2009), Kinh doanh

BĐS thời khủng hoảng, Nhà xuất bản Trẻ.

10. Wold Economic Outlook of IMF 10,12/2009.

11. Các báo, tạp chí khác và các trang tin trên internet như:

-www.En.wikipedia.org/real estate financing.vn

-www.imf.org- Quỹ tiền tệ quốc tế

-www.mof.gov.vn- Bộ Tài chính

-www.taisancong.mof.gov.vn- Cục Quản lý Công sản- Bộ Tài chính

-www.monre.gov.vn- Bộ Tài nguyên và Môi trường

-www.Sbv.gov.vn- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

-www.Khudothimoi.com

-www.Cafef.com

-www.Vietnammls.net

***o0o***

-www.Taichinh.saga.vn

Trang 1

PHỤ LỤC

A. Phân loại thị trường BĐS:

Có nhiều cách phân loại thị trường BĐS, nhìn chung chỉ mang tính chất tương

đối, có thể phân loại theo những mặt sau:

Căn cứ theo thứ tự thời gian BĐS tham gia thị trường:

Thị trường cấp 1: là thị trường mà người sở hữu đất chuyển giao quyền sử dụng

đất cho người khác. Thị trường này do Nhà nước quản lý, còn gọi là thị trường sơ cấp.

Thị trường cấp 2: là thị trường mà người được cấp quyền sử dụng đất tái chuyển

nhượng quyền sử dụng đất. Trong thị trường này cả người bán và người mua đều

không phải là người sở hữu đất đai, họ chỉ tham gia mua bán quyền sử dụng đất. Có

thể hiểu đơn giản đây là thị trường xây dựng công trình để bán hoặc cho thuê

Thị trường cấp 3: là thị trường bán lại hoặc cho thuê lại các công trình đã được

mua hoặc thuê.

Tổng hợp các kết quả nghiên cứu và các nhận định của các nhà khoa học, có thể

cho rằng thị trường BĐS nước ta bao gồm thị trường BĐS sơ cấp và thị trường BĐS

thứ cấp:

Thị trường sơ cấp được hình thành từ khi nhà nước giao hoặc cho thuê đất. Chủ

thể tham gia thị trường này là nhà nước (đại diện chủ sở hữu) với nhà đầu tư hoặc

người có nhu cầu sử dụng đất.

Giai đoạn từ sau khi nhận quyền sử dụng đất, người sử dụng đất tiến hành đầu tư

tạo lập BĐS (xác định vị trí tạo lập, xác lập quyền sở hữu hoặc sử dụng, xây dựng cơ

sở hạ tầng, công trình kiến trúc…) sau đó tiến hành các giao dịch về hàng hóa BĐS

nhà đất như mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, bảo hiểm…giai đoạn này

gọi là thị trường thứ cấp.

Phân loại theo mục đích sử dụng, ta có:

-Thị trường đất đai (nông nghiệp và phi nông nghiệp)

-Thị trường công trình thương nghiệp (trụ sở, văn phòng, khách sạn, trung tâm

thương mại, cửa hàng…) và các công trình công cộng (giao thông, thủy lợi, y tế, văn

hóa..)

-Thị trường công trình công nghiệp (nhà xưởng, mặt bằng sản xuất, khu công

nghiệp, khu chế xuất…)

Trang 2

-Thị trường nhà ở (đô thị và nông thôn)

-Thị trường công trình đặc biệt có hàng hóa BĐS là các BĐS phi vật thể được coi

như tài nguyên khai thác được (kinh doanh du lịch…) như di sản văn hóa, di tích lịch

sử…

Phân loại căn cứ theo hoạt động trên thị trường BĐS:

-Thị trường mua bán chuyển nhượng BĐS

-Thị trường đấu giá quyền sử dụng đất

-Thị trường cho thuê BĐS

-Thị trường thế chấp và bảo hiểm BĐS

-Thị trường dịch vụ BĐS: bao gồm các hoạt động dịch vụ môi giới BĐS, tư vấn,

thông tin, định giá BĐS, bảo trì, bảo dưỡng BĐS…

Phân loại theo khu vực, ta có:

-Thị trường BĐS ở đô thị

-Thị trường BĐS ở nông thôn

-Thị trường BĐS ở các đô thị lớn.

B. MỘT SỐ VẤN ĐỀ BẤT HỢP LÝ TRONG BAN HÀNH VÀ HƯỚNG DẪN THI

HÀNH LUẬT THUẾ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỊ TRƯỜNG BĐS

Việc đưa ra hai phương thức nộp thuế cho hai mức 2% -25% trong chuyển

nhượng BĐS tại thời điểm giữa tháng 9/2009 đã lập tức gây tác động đến thị trường

BĐS. Thị trường bị đóng băng, cả người bán lẫn người mua đều ngưng giao dịch và

chờ đợi. Thông tư số 02/2010/TT- BTC ngày 11/01/2010 của Bộ Tài chính ban hành

hướng dẫn bổ sung thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành

nghị định 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số

điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân cũng đã gỡ rối được phần nào cho giao dịch

BĐS, đặc biệt giảm được nguy cơ tiêu cực do sự chênh lệch giữa hai mức thuế thu

nhập cá nhân đối với chuyển nhượng BĐS. Tuy nhiên, có một thực tế là thời gian qua,

phần lớn trường hợp chuyển nhượng hợp đồng góp vốn mua căn hộ, nền đất…đều

được các cơ quan thuế tính theo phương án thu 25%. Sở dĩ áp dụng cách tính này là do

cơ quan thuế căn cứ vào các hóa đơn, giấy tờ để xác định giá vốn và giá bán, từ đó áp

dụng mức thu 25% trên phần lãi, mà không biết rằng đằng sau những chứng từ đó còn

Trang 3

hàng loạt những chi phí phát sinh khác mà bản thân nhà đầu tư không thể chứng minh.

Điều này thể hiện sự không rõ ràng của pháp luật, dẫn đến cách hành xử cảm tính của

bộ máy thuế vụ, gây không ít thiệt thòi, phiền toái cho người đầu tư.

C. VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ, THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

Hiện nay thời gian để hoàn tất phê duyệt một dự án BĐS từ 2-3 năm, cần khoảng

30 con dấu (Nguồn hội thảo của HoREA 2009) trong khi tại quốc gia láng giềng Thái

Lan chỉ cần từ 1 đến 3 tháng. Tính tới tháng 5/ 2010, số lượng đồ án quy hoạch đã

thẩm định tại TP.HCM chỉ khoảng 23% (Nguồn Sở Quy hoạch Kiến trúc TP.HCM)

Bản chất của vấn đề là do các bộ, ngành quản lý ít khi ngồi lại cùng nhau rà soát các

điều khoản pháp quy trùng lặp trong cơ chế quản lý, hoặc ban hành những văn bản còn

mang tính chủ quan, chưa khảo sát nghiêm túc các ý kiến từ các đối tượng có liên quan

nhằm giảm thiểu thời gian thực hiện lập dự án, giảm chi phí đầu tư do tiết kiệm được

thời gian, tăng nguồn cung cho thị trường. Việc kéo dài thời gian phê duyệt dự án là

nguyên nhân chính dẫn đến tệ quan liêu, nhũng nhiễu, lãng phí quỹ đất công, hơn nữa

việc này còn gây thiệt hại tài chính cho nhà đầu tư, đời sống sinh hoạt của người dân

trong khu vực quy hoạch cũng bị xáo trộn gây bất ổn xã hội.

Quy trình và thủ tục pháp lý của các dự án đầu tư- xây dựng- kinh doanh BĐS

STT

Thủ tục

Văn bản

Cơ quan nhà nước

Thời hạn (Ngày)

01

02

Sở QHKT/XD CV cung cấp thông tin

03

Sở QHKT VB chấp thuận

04

VB xác nhận UBND cấp phường/quận

05

VB thỏa thuận

06

VB cung cấp, xác nhận UBND cấp phường/quận Sở QHKT Viện QHXD

07

Quyết định UBND UBND tỉnh/TP

Sở QHKT/XD VB chấp thuận Cung cấp thông tin về quy hoạch Giới thiệu địa điểm dự án (Đối với DA chưa có đất) Xác nhận ranh giới đất không có tranh chấp, khiếu kiện (Đối với DA có đất) Thỏa thuận về địa điểm DA (nơi có đất) Xác định chỉ giới đường đỏ và các số liệu hạ tầng KT Chấp thuận giao cho chủ ĐT lập Quy hoạch XD tỷ lệ 1/2000 (nếu chưa có QH chi tiết này) Thẩm định nhiệm vụ QHXDCT tỉ lệ 1/2000

Trang 4

08

09

Quyết định UBND UBND tỉnh/TP

10

Sở QHKT/XD VB chấp thuận

11

Quyết định UBND UBND tỉnh/TP

12

Sở QHKT/XD VB chấp thuận

13

Sở QHKT/XD VB chấp thuận

14

Sở QHKT/XD VB chấp thuận

15

VB chấp thuận UBND quận/huyện

16

Sở QHKT/XD VB chấp thuận

17

Quyết định UBND UBND tỉnh/TP

18

Sở QHKT/XD VB chấp thuận Phê duyệt nhiệm vụ QHXDCT tỉ lệ 1/2000 Thẩm định đồ án QHXDCT tỉ lệ 1/2000 Phê duyệt đồ án QHXDCT tỉ lệ 1/2000 Chấp thuận đề cương nhiệm vụ đồ án QHXDCT 1/500 Chấp thuận lập nhiệm vụ đồ án QHXDCT 1/500 Chấp thuận ranh giới, mốc giới và diện tích ô đất lập QHXDCT 1/500; lập đồ án Chấp thuận ranh giới ô đất lập QHXDCT 1/500 và lập dự án tại địa phương có đất Thẩm định nhiệm vụ QHXDCT 1/500 Phê duyệt nhiệm vụ QHXDCT 1/500 Thẩm định đồ án QHXDCT 1/500

19

Quyết định UBND Phê duyệt đồ án QHXDCT 1/500

20 Giao chủ đầu tư dự án

VB chấp thuận Thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường

21

22

Quyết định UBND

23

Quyết định UBND Thủ tục đăng ký và cấp Giấy chứng nhận đầu tư Phê duyệt phương án tổng thể dự kiến bồi thường hỗ trợ GPMB và TB thu hồi đất

24

Hợp đồng/Quyết định UBND Giao đất, cho thuê đất; Ký HĐ thuê đất (nếu là đất thuê)

H ồ sơ kèm theo Đo đạc, lập hồ sơ địa chính (phục vụ thu hồi đất và GPMB)

25 Đo đạc, cắm mốc giới phục

UBND tỉnh/TP hoặc UBND quận/huyện Sở TNMT và liên ngành thẩm định; UBND TP phê duyệt UBND TP UBNDTP/ Sở KH-ĐT UBND TP; UBND quận/huyện UBND TP; UBND quận/huyện; Sở TN-MT Chủ đầu tư; P. địa chính xã/phường; Ban GPMB Sở Hồ sơ kèm theo

Trang 5

26

vụ GPMB và giao mốc giới dự án

27

H ồ sơ kèm theo Các thỏa thuận chuyên ngành (điện, nước, thoát nước..)

28

VB chấp thuận Các thủ tục về chiều cao tĩnh không

29

VB chấp thuận

VB chấp thuận

TNMT/Phòng TNMT Các sở, ban, ngành, công ty… Bộ quốc phòng/bộ chỉ huy quân sự Sở ban ngành liên quan Bộ công an/Sở công an Sở QHKT

30 31 32 Cấp phép xây dựng

Các chấp thuận liên quan đến đặc điểm riêng của đất Thủ tục về phòng cháy chữa cháy Thỏa thuận kiến trúc Thẩm định thiết kế cơ sở B

ộ XD/Sở XD VB chấp thuận VB chấp thuận Giấy phép xây dựng

33 Công tác GPMB

H ồ sơ kèm theo

Sở XD Chủ đầu tư – UBND các cấp – Ban GPMB

D. SO SÁNH CÁC CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH KINH TẾ CỦA VIỆT NAM VÀ

TRUNG QUỐC

Để dìu dắt nền kinh tế năng động nhưng còn non trẻ và nhiều khiếm khuyết của

mình vượt qua cơn khủng hoảng, chính phủ Việt Nam cũng đã tăng cường học tập

kinh nghiệm của bạn bè quốc tế, từng bước tìm ra các chính sách phù hợp trong điều

hành nền kinh tế. Có thể nhận thấy, chính sách điều hành kinh tế của Việt Nam hiện có

phần tương đồng với Trung Quốc.

Cũng như Trung Quốc, Việt Nam cũng đang tập trung vào việc tăng cung cho thị

trường BĐS bằng các mô hình nhà giá rẻ, nhà ở xã hội. Theo đó, các đối tượng được

mua loại hình nhà ở này chỉ được sang nhượng sau 10 năm, (trong khi ở Trung Quốc,

sau 2 năm sử dụng chủ sở hữu có thể bán, sang nhượng, nếu bán trước thời hạn 2 năm

chỉ phải đóng thuế trên phần lãi thu được, không phải trên giá bán. Đồng thời Chính

phủ Trung Quốc cũng có những ưu đãi hết sức cụ thể cho các doanh nghiệp thực hiện

mô hình này như được hưởng ưu đãi về lãi suất, về thủ tục, về cơ sở hạ tầng của toàn

khu…). Hơn 300 căn nhà ở xã hội đầu tiên ở Hà Nội vừa được hoàn thành và đang

nhận hàng ngàn bộ hồ sơ xin mua. Rõ ràng là nhu cầu của người dân thực sự là rất lớn.

Vấn đề cần làm hiện nay là đẩy nhanh tiến độ các dự án này, đồng thời Nhà nước cần

có những chính sách hỗ trợ cụ thể cho chủ đầu tư như giao đất, giảm thuế, hỗ trợ lãi

Trang 6

suất. Về mặt quản lý, cần có những điều khoản, quy định bổ sung như xác nhận về thu

nhập, tình trạng khó khăn nhà ở, số nhân khẩu… Đây là những việc làm cấp bách để

chương trình này phát huy được mục đích tốt đẹp vốn có của nó, đó là nhà ở xã hội

được phục vụ đúng đối tượng, cũng như tránh tình trạng mua đi bán lại, giá nhà bị đẩy

lên cao, hoặc tham ô nhũng nhiễu.

Để ngăn chặn tình trạng đầu cơ gây bong bóng BĐS, Việt Nam cũng tính thuế

lũy tiến BĐS với 3 bậc thuế từ 0,03% đến 0,09% trên diện tích đất chịu thuế. Về nhà ở,

áp dụng thuế suất theo biểu thuế suất tính theo năm, với giá tính thuế nhà ở đến 600

triệu đồng, chịu thuế suất 0%, phần trên 600 triệu đồng chịu thuế suất 0,03%. Đã và

đang xúc tiến hoàn chỉnh Luật Nhà ở, Luật Đất đai…Trung Quốc hiện đánh thuế 1%

lên những BĐS có giá trị cao hơn gấp 3 lần giá thị trường, quy định chặt chẽ việc một

cá nhân khi nào được quyền mua căn hộ thứ 2, ra quyết định cấm chuyển đổi đất nông

nghiệp thành đất công nghiệp. Cũng nhằm mục đích chống đầu cơ, đưa BĐS về với

giá trị thực, từ tháng 7/2005, Trung Quốc đã thiết lập được chỉ số BĐS. Vấn đề này

Việt Nam chưa làm được.

Cũng như Trung Quốc, Việt Nam cũng có nhiều hạn chế trong vấn đề quản lý

nhà đất. Cả hai nước đều chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu về BĐS trên toàn lãnh thổ, và

có nhiều bất cập trong việc minh bạch thị trường. Thị trường BĐS của cả Việt nam lẫn

Trung Quốc đều mang tính chất là thị trường tiền mặt, phần lớn là giao dịch ngầm (đã

thế, hiện Việt Nam đang quy định 20% giao dịch BĐS có thể không qua sàn). Những

vấn đề này đã làm giảm hoặc mất tác dụng của một số quy định pháp luật, làm tăng rủi

ro cho thị trường BĐS cũng như gây thất thu cho nhà nước. Ví dụ các kẽ hở trong

công tác quản lý của Trung Quốc đang bị giới đầu cơ lợi dụng. Trung Quốc thiếu cơ sở

dữ liệu về hoạt động kinh doanh BĐS trên toàn quốc, do vậy các NH không thể kiểm

tra dữ liệu xem một người nộp đơn xin thế chấp có sở hữu một căn hộ ở thành phố

khác hay không. Ngoài ra quy định nâng mức tiền đóng góp lần đầu ít có tác động tới

những nhà đầu tư đa phần thanh toán một lần khi mua BĐS (Không theo hình thức trả

góp). Theo các phương tiện truyền thông Trung Quốc, thậm chí có những cặp vợ

chồng khi mua BĐS thứ 2 đã giả vờ ly hôn để được hưởng những ưu đãi đối với những

người mua nhà lần đầu tiên như mức tiền đóng góp lần đầu và được hưởng lãi suất

thấp hơn.

Trang 7

Những giải pháp nhằm thúc đẩy thị trường BĐS Trung Quốc trong giai đoạn sụt

giảm 2007-2008 như hạ lãi suất, tháo gỡ những ràng buộc tín dụng về cho vay BĐS,

kích cầu bằng nhà giá rẻ, hỗ trợ ưu đãi mua nhà thứ hai nếu nhà thứ nhất nhỏ hơn so

với tiêu chuẩn, sáp nhập các đơn vị đầu tư kinh doanh BĐS…đã thúc đẩy thị trường

BĐS Trung Quốc phát triển quá nóng cho đến nay, Trung Quốc sau đó lại phải có

những giải pháp để hạ nhiệt. Thị trường BĐS Việt Nam đang trong thời kỳ trầm lắng,

nền kinh tế lại chưa đủ mạnh, cần nhìn thấy những ưu khuyết điểm, vận dụng thận

trọng những đường lối, chính sách thích hợp, tùy vào từng giai đoạn, từng mục đích

phát triển ưu tiên để đưa nền kinh tế phát triển và bền vững.

E. MỘT SỐ SẢN PHẨM TÍN DỤNG BĐS HIỆN CÓ TẠI VIỆT NAM

1. ANZ Bank với Dịch vụ cho vay thế chấp nhà

Sản phẩm cho vay thế chấp bằng BĐS đang sở hữu

Đối với các cá nhân có tài sản đáng kể từ ngôi nhà đang sở hữu, thì dịch vụ cho

vay thế chấp nhà của ANZ sẽ cho vay dựa trên giá trị thị trường của ngôi nhà này để

sử dụng cho bất cứ mục đích gì. Giá trị của khoản vay sẽ phụ thuộc vào giá trị ngôi

• Lãi suất hấp dẫn, tính trên số tiền vay giảm dần

• Thời hạn vay lên tới 5 năm

• Số tiền được vay lên tới 50% giá trị tài sản thế chấp

• Cung cấp thông tin minh bạch và định giá theo giá thị trường của tài sản thế

nhà của người vay. Những đặc tính nổi bật của sản phẩm này là:

• Kì lãi suất hiệu quả và linh hoạt (1 tháng, 3 tháng, 6 tháng) cho phép bạn quản

chấp (bởi các công ty định giá BĐS quốc tế chuyên nghiệp).

• Thủ tục nhanh gọn và đơn giản

lí rủi ro lãi suất 1 cách tốt nhất.

Sản phẩm Cho Vay Mua Nhà / Xây Sửa Nhà

ANZ cung cấp những khoản cho vay mua nhà linh hoạt nhằm hỗ trợ những khách

hàng đang có mong muốn mua một căn nhà hoặc nâng cấp ngôi nhà hiện tại của mình.

Các chuyên gia cho vay mua nhà của ANZ sẽ tư vấn trong suốt quá trình vay để người

vay chọn lựa được giải pháp vay tốt nhất. Đặc tính nổi bật của sản phẩm cho vay mua

• Lãi suất cạnh tranh so với thị truờng, tính trên số tiền vay giảm dần

nhà của ANZ là:

Trang 8

• Thời hạn vay lên tới 20 năm

• Số tiền được vay lên tới 100% giá trị BĐS

• Cung cấp thông tin minh bạch và định giá theo giá thị trường của tài sản thế

• Kì lãi suất hiệu quả và linh họat (1 tháng, 3 tháng, 6 tháng) cho phép bạn quản

chấp (bởi công ty định giá BĐS quốc tế chuyên nghiệp)

lý rủi ro lãi suất một cách tốt nhất.

2. Maritime Bank với bộ sản phẩm Cho vay mua BĐS

Sản phẩm “Cho vay mua nhà với người có thu nhập cao”

Đối tượng: Khách hàng là người có thu nhập cao có nhu cầu mua nhà chung cư,

nhà chia lô, biệt thự, nhà ở trong khu dân cư, đất nền…có giấy tờ hợp pháp theo qui

định của pháp luật được mua bán trực tiếp hoặc được bán thông qua các sàn giao dịch

BĐS để phục vụ nhu cầu định cư lâu dài, ổn định cuộc sống hoặc đầu tư

Điều kiện vay vốn: Có hộ khẩu thường trú/ Thẻ tạm trú KT3 trên địa bàn tỉnh,

thành phố với Đơn vị kinh doanh Maritime Bank cho vay. Có tổng thu nhập ổn định

trên 20 triệu đồng/ tháng và có nguồn trả nợ khác bảo đảm khả năng thanh toán các

khoản nợ cả gốc và lãi trong suốt thời gian vay vốn. Có tài sản bảo đảm tiền vay phù

hợp với qui định của pháp luật và của Maritime Bank.

Thời hạn vay vốn: - Thời hạn cho vay tối đa của sản phẩm là 180 tháng

Hạn mức: - Hạn mức cho vay tối đa của sản phẩm là 2 tỷ đồng. Khách hàng thế

chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, Maritime Bank sẽ cho vay tối đa 70% giá trị

ngôi nhà theo định giá của Maritime Bank. Khách hàng bổ sung thêm tài sản bảo đảm

khác hoặc dùng tài sản bảo đảm khác, Maritime Bank có thể cho vay tối đa đến 90%

giá trị ngôi nhà theo định giá của Maritime Bank nhưng không vượt quá tỷ lệ bảo đảm

tiền vay theo quy định của Maritime Bank

Phương thức trả nợ: Trả gốc với phân kỳ trả nợ hợp lý là hàng tháng/ hàng quý/

6 tháng. Trả lãi hàng tháng/ 3 tháng và cùng kỳ trả gốc tính trên dư nợ thực tế

Tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm là tài sản hình thành từ vốn vay; BĐS, vàng,

giấy tờ có giá (Sổ tiết kiệm, Chứng chỉ tiền gửi,…); Bảo lãnh vay vốn, thanh toán do

các Tổ chức tín dụng phát hành

Sản phẩm “Cho vay mua nhà với người có thu nhập trung bình”

Trang 9

Đối tượng: Khách hàng là người có thu nhập trung bình có nhu cầu mua nhà

chung cư, nhà chia lô, biệt thự, nhà ở trong khu dân cư, đất nền…có giấy tờ hợp pháp

theo qui định của pháp luật được mua bán trực tiếp hoặc được bán thông qua các sàn

giao dịch BĐS để phục vụ nhu cầu định cư lâu dài, ổn định cuộc sống hoặc đầu tư

Điều kiện vay vốn: Có hộ khẩu thường trú/ Thẻ tạm trú KT3 trên địa bàn tỉnh,

thành phố với Đơn vị kinh doanh Maritime Bank cho vay. Có tổng thu nhập ổn định

từ 10 đến 20 triệu đồng/ tháng và có nguồn trả nợ khác bảo đảm khả năng thanh toán

các khoản nợ cả gốc và lãi trong suốt thời gian vay vốn. Có tài sản bảo đảm tiền vay

phù hợp với qui định của pháp luật và của Maritime Bank

Thời hạn vay vốn: Thời hạn cho vay tối đa của sản phẩm là 180 tháng

Hạn mức: Hạn mức cho vay tối đa của sản phẩm là: 1,2 tỷ đồng. Khách hàng thế

chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, Maritime Bank sẽ cho vay tối đa 70% giá trị

ngôi nhà theo định giá của Maritime Bank. Khách hàng bổ sung thêm tài sản bảo đảm

khác hoặc dùng tài sản bảo đảm khác, Maritime Bank có thể cho vay tối đa đến 90%

giá trị ngôi nhà theo định giá của Maritime Bank nhưng không vượt quá tỷ lệ bảo đảm

tiền vay theo quy định của Maritime Bank

Phương thức trả nợ, Tài sản bảo đảm: tương tự sản phẩm cho vay mua nhà với

người có thu nhập cao.

Sản phẩm “Cho vay mua nhà với người có thu nhập thấp”

Đối tượng: Khách hàng là người có thu nhập thấp có nhu cầu mua nhà chung cư,

nhà chia lô, biệt thự, nhà ở trong khu dân cư, đất nền…có giấy tờ hợp pháp theo qui

định của pháp luật được mua bán trực tiếp hoặc được bán thông qua các sàn giao dịch

BĐS để phục vụ nhu cầu định cư lâu dài, ổn định cuộc sống hoặc đầu tư

Điều kiện vay vốn: Có hộ khẩu thường trú/ Thẻ tạm trú KT3 trên địa bàn tỉnh,

thành phố với Đơn vị kinh doanh Maritime Bank cho vay. Có tổng thu nhập ổn định

từ 4 đến 10 triệu đồng/ tháng và có nguồn trả nợ khác bảo đảm khả năng thanh toán

các khoản nợ cả gốc và lãi trong suốt thời gian vay vốn. Có tài sản bảo đảm tiền vay

phù hợp với qui định của pháp luật và của Maritime Bank.

Thời hạn vay vốn: - Thời hạn cho vay tối đa của sản phẩm là 120 tháng

Hạn mức: Hạn mức cho vay tối đa của sản phẩm là: 500 triệu đồng. Khách hàng

thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, Maritime Bank sẽ cho vay tối đa 70% giá

Trang 10

trị ngôi nhà theo định giá của Maritime Bank. Khách hàng bổ sung thêm tài sản bảo

đảm khác hoặc dùng tài sản bảo đảm khác, Maritime Bank có thể cho vay tối đa đến

90% giá trị ngôi nhà theo định giá của Maritime Bank nhưng không vượt quá tỷ lệ bảo

đảm tiền vay theo quy định của Maritime Bank

Phương thức trả nợ: Trả gốc và lãi hàng tháng tính trên dư nợ thực tế

Tài sản bảo đảm: tương tự 2 loại hình trên

F. KẾ HOẠCH HOÀN CHỈNH NHẰM PHỤC HỒI NỀN KINH TẾ MỸ

Theo các nhà kinh tế, kế hoạch phục hồi kinh tế Mỹ hoàn chỉnh cần bao gồm 5

phần:

Phần thứ nhất: tăng đầu tư vào năng lượng sạch và nâng cấp hệ thống điện. Việc

này cần được thực hiện thông qua đảm bảo trợ cấp giá, thuế đối với khí thải các bon

cần ngày một cao hơn. Hệ thống hạn chế khí thải gây ra nhiều rắc rối, không cần thiết.

Phần thứ hai: chương trình cải tổ cơ sở hạ tầng trong 1 thập kỷ với những dự án

xây dựng đường sắt cao tốc liên thành phố, cơ sở hạ tầng nước và xử lý chất thải, nâng

cấp đường cao tốc với nguồn tiền vừa từ chính quyền liên bang, chính quyền các bang

vừa từ nguồn vốn tư nhân. Những dự án này hết sức phức tạp, cần đến sự điều hành

của chính phủ trong vấn đề quản lý đất đai, thiết kế dự án, hợp tác nhà nước và tư

nhân, trợ cấp một phần hay đảm bảo tín dụng.

Phần thứ ba: tăng cường hỗ trợ giáo dục, hướng nghiệp. Hàng chục triệu người

lao động Mỹ thiếu kỹ năng cần thiết để có được việc làm và mức lương đúng với

mong muốn của họ. Khủng hoảng việc làm đang tạo ra khủng hoảng cấu trúc về kỹ

năng việc làm. Khủng hoảng ảnh hưởng mạnh đến lao động trẻ, những người đang

trong quá trình cố gắng học hành và người lao động già hiện còn thiếu bằng cấp.

Phần thứ tư: tăng xuất khẩu cơ sở hạ tầng sang châu Phi và một số nước thu nhập

thấp. Trung Quốc đang đi trước Mỹ và châu Âu trong hoạt động xuất khẩu này. Chi

phí thấp, chỉ đơn giản là đảm bảo tín dụng, thế nhưng lợi ích không nhỏ bao gồm xuất

khẩu hàng hóa sang châu Phi, hỗ trợ sự phát triển của châu Phi, cải thiện quan hệ và sự

ổn định chính trị của các nước này.

Phần thứ năm: cần đưa ra khung tài khóa đáng tin cậy để giảm thâm hụt ngân

sách liên bang xuống mức ổn định trong 5 năm tới. Chi phí quân sự sẽ bị cắt giảm,

điều này đồng nghĩa với cần chấm dứt chiến tranh Iraq và chiếm đóng Afghanistan;

Trang 11

ngưng sử dụng hệ thống vũ khí tốn kém. Biện pháp khác bao gồm cắt trợ cấp thuế,

đánh thuế các tổ chức tài chính phố Wall, tăng thuế đối với người giàu và nếu cần, đưa

ra thuế giá trị gia tăng. Chi phí đầu tư công có thể bù lại bởi việc đưa ra thuế cho lĩnh

vực công như thuế đánh vào khí thải các bon...

G. NHẬN DIỆN CÁC YẾU TỐ GÂY SỨC ÉP LẠM PHÁT LÊN NỀN

KINH TẾ VIỆT NAM TRONG NĂM 2010

Sức ép lạm phát năm 2010 của Việt Nam đến từ nhiều phía, đó là các yếu tố “chi

phí đẩy”, “cầu kéo”, “tiền tệ”. Bỏ qua các nguyên nhân trực tiếp chi phí đẩy và cầu

kéo, yếu tố tiền tệ là vấn đề cố hữu của nền kinh tế trong nhiều năm qua. Sau những

năm suy giảm phát triển kinh tế cuối giai đoạn 90, từ năm 2000, các nhân tố lạm phát

bắt đầu được nuôi dưỡng khi giải pháp kích cầu tăng trưởng thông qua gia tăng chi tiêu

công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước được ưa chuộng. Tuy nhiên khả năng

sản xuất trong nước lại không đáp ứng được sự tăng lên của nhu cầu nội địa. Chi tiêu

của nhà nước so với GDP đã tăng từ 5% năm 2000 lên trên 8% từ sau năm 2005. Tỷ lệ

vốn ĐT/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến 40% từ năm 2004 đến nay.

Năm 2009, bội chi ngân sách đã lên cao, chiếm 7% GDP trong khi hệ số ICOR tính

bình quân 5 năm cho cả 2 giai đoạn 2001-2005 (4,6%) và 2006-2010 (5,8%) của Việt

Nam đều cao gấp đôi so với Malaysia hay Indonesia khi các nước này ở trong cùng

giai đoạn giống ta. Thực tế chỉ số ICOR cao cũng không phải là điều đáng lo ngại nếu

nó được giải thích bởi sự gia tăng kết cấu hạ tầng, xây dựng phát triển đẩy mạnh nền

tảng kinh tế nhưng thực tế tại Việt Nam, tổng chi đầu tư cho kết cấu hạ tầng trên GDP

cao nhưng kết cấu hạ tầng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Việc bơm tiền ra là để đầu

tư kích thích tăng trưởng kinh tế, xong hệ số ICOR cao, đầu tư lại không hiệu quả,

nguy cơ lạm phát là không tránh khỏi, thêm vào đó tốc độ tăng trưởng tín dụng năm

2009 đã ở mức 38%, gấp 7 lần tốc độ tăng trưởng GDP, cao hơn nhiều so với mức

chênh lệch 3,5 lần giữa tốc độ tăng trưởng bình quân và tốc độ tăng GDP trong 5 năm

trước, điều này là sức ép gây lạm phát cho năm 2010. Sức ép lạm phát gia tăng, cơ sở

hạ tầng yếu kém, thiếu đồng bộ, mặt bằng lãi suất vẫn còn cao và còn có thể cao hơn

nếu tỷ lệ lạm phát tăng cao, những yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau gây ảnh hưởng

xấu đến thị trường BĐS.

Trang 12

H. NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG QUẢN LÝ CHƯA TỐT- THỊ

TRƯỜNG BĐS PHÁT TRIỂN CHƯA LÀNH MẠNH.

Có thể nói hiện nay nhà nước chưa làm tốt vai trò kiểm soát thị trường BĐS. Nhà

nước chưa thể hiện được vai trò chủ động tham gia thị trường với tư cách chủ sở hữu

đất đai và nhiều BĐS, cũng như chưa phát huy được vai trò định hướng, điều tiết vĩ

mô và kiểm soát hoạt động của thị trường BĐS. Từ yếu điểm trên dẫn đến tình trạng

mất cân đối trong quan hệ cung cầu trên thị trường. Nhiều đơn vị (nhất là các công ty

có quy mô vừa và nhỏ) cần mặt bằng để tổ chức, sản xuất, làm văn phòng nhưng

không thuê được đất, hoặc nếu thuê được chi phí cũng rất cao. Trong khi đó, hàng loạt

dự án từ vài trăm đến vài ngàn hecta lại triển khai chậm, chiếm dụng quỹ đất rất lớn

của nhà nước. Điều này rất lãng phí tài nguyên quốc gia, cũng như làm giảm cơ hội

tăng thu cho nhà nước, kiềm hãm đà tăng trưởng của nền kinh tế. Nhà nước cần phải

có quy hoạch chung thống nhất, quy hoạch về mật độ dân cư, hệ số sử dụng đất, tầng

cao, cơ sở hạ tầng, công trình công cộng, đường thoát nước ngầm…có quy hoạch tổng

thể, chia đầu tư từng khu vực, từng phần cho các đơn vị chuyên nghiệp và có năng lực.

Sự chồng chéo là điều thấy rõ nhất trong quản lý BĐS hiện nay. Thị trường BĐS VN

từ trước đến nay không chịu sự quản lý của riêng một bộ ngành nào. Ví dụ trong khi

Bộ Tài nguyên Môi trường nỗ lực đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất thì Bộ Xây dựng lại vừa ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở,

trong đó có quy định cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà. Bởi thế có tình trạng nhiều dự

án kéo dài, lấn chiếm, vi phạm đồng thời Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật

Kinh doanh BĐS… nhưng trách nhiệm xử lý chính lại không thuộc thẩm quyền của cơ

quan cụ thể nào.

Nhà nước chưa làm tốt vai trò quản lý đã làm cho thị trường BĐS phát triển

không lành mạnh. Thị trường thiếu sự định hướng từ phía nhà nước đã dẫn đến tình

trạng cung không gặp cầu, hiện tượng đầu cơ tràn lan đẩy giá lên cao, gây bong bóng

giá. Thêm vào đó việc chồng chéo trong cơ chế quản lý và các thủ tục hành chính rắc

rối phiền hà cũng góp phần thúc đẩy các giao dịch ngầm trong việc mua bán chuyển

nhượng BĐS, gây thất thu cho nhà nước, chưa kể tình trạng quan liêu tham nhũng

cũng thừa cơ hội phát triển, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế.