BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
LƯƠNG QUỐC HÙNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TÀI TRỢ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BÌNH TÂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Năm 2007
1
CHƯƠNG 1
CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NHTM
1.1 Khái niệm:
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng có vị trí quan trọng nhất
trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều khái niệm khác nhau về
NHTM:
Ở Mỹ, NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ
tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp, NHTM là những doanh nghiệp mà hoạt động thường xuyên là
nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền để
dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ, NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài
trợ đầu tư.
Theo Pháp lệnh ngân hàng Việt Nam, NHTM là tổ chức kinh doanh tiền
tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Ở Việt Nam, theo Luật các Tổ chức tín dụng đã sửa đổi: “… Ngân hàng
là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động
kinh doanh khác có liên quan…Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gởi, sử
dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán…”
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về NHTM:
2
NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh về tiền tệ với
hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung
cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan.
1.2 Các hoạt động chủ yếu của NHTM:
1.2.1 Huy động vốn :
Nghiệp vụ huy động vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản
thân ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, NHTM được
sử dụng những biện pháp và công cụ cần thiết mà luật pháp cho phép để huy
động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, làm nguồn vốn tín dụng để cho vay
đối với nền kinh tế. Kết qủa của nghiệp vụ này là tạo ra nguồn vốn đáp ứng
các nhu cầu của nền kinh tế.
Trong tổng nguồn vốn, vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của NHTM,
thực chất là tài sản bằng tiền của các sở hữu chủ mà ngân hàng tạm thời quản
lý và sử dụng nhưng với nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng
yêu cầu. Nguồn vốn huy động gồm có:
- Tiền gửi không kỳ hạn của đơn vị, cá nhân.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu.
- Các khoản tiền gửi khác.
1.2.2 Cấp tín dụng và đầu tư :
Nghiệp vụ cho vay và đầu tư là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất,
quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của NHTM. Đây là các nghiệp
vụ cấu thành bộ phận chủ yếu và quan trọng của tài sản có của ngân hàng.
3
- Cấp tín dụng: là việc TCTD thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu,
cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
+ Cho vay (Trực tiếp): là loại hình tín dụng nghiệp vụ của NHTM trong
đó ngân hàng sẽ cho người đi vay một số vốn để sản xuất kinh doanh, đầu tư
hoặc tiêu dùng. Khi đến hạn người đi vay phải hoàn trả vốn và tiền lãi. Ngân
hàng kiểm soát người đi vay, kiểm soát được qúa trình sử dụng vốn. Người đi
vay có ý thức quan tâm đến việc trả nợ cho nên bắt buộc họ phải quan tâm đến
việc sử dụng sao cho có hiệu qủa để hoàn trả nợ. Trong cho vay mức độ rủi ro
rất lớn, không thu hồi được vốn vay hoặc trả không hết hoặc trả không đúng
hạn… do chủ quan. Do đó, trong hoạt động cho vay, các ngân hàng sử dụng
các biện pháp đảm bảo: thế chấp, cầm cố…
Rủi ro tín dụng nói riêng và rủi ro trong cho vay nói chung vế phía ngân
hàng mang tính khách quan nhiều hơn. Do đó, một mặt các ngân hàng trích
lập quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro, mặt khác bản thân các ngân hàng phải sử
dụng các biện pháp nghiệp vụ theo hướng không ngừng cải tiến và hoàn thiện
để có thể được nhiều rủi ro có thể xảy ra trong cho vay.
+ Chiết khấu: là nghiệp vụ cho vay (gián tiếp) mà ngân hàng sẽ cung
ứng vốn tín dụng cho một chủ thể và một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ
cho ngân hàng. Các đối tượng trong nghiệp vụ này gồm hối phiếu, kỳ phiếu,
trái phiếu và các giấy tờ có giá khác.
+ Cho thuê tài chính: là loại hình tín dụng trung, dài hạn. Trong đó, các
công ty cho thuê tài chính dùng vốn của mình hay vốn do phát hành trái phiếu
để mua tài sản thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và cho thuê trong một
thời gian nhất định. Người đi thuê phải trả cho công ty cho thuê tài chính tiền
thuê mỗi quý hoặc mỗi tháng 1 lần. Khi kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính
người đi thuê được quyền mua hoặc kéo dài thời hạn thuê, hoặc trả lại thiết bị
4
cho công ty cho thuê tài chính. Đây là loại hình tín dụng mới được triển khai ở
Việt Nam và có khả năng phát triển mạnh trong tương lai. Ngân hàng phải lập
công ty trực thuộc chuyên trách nghiệp vụ này.
+ Bảo lãnh ngân hàng: trong loại hình nghiệp vụ ngân hàng này, khách
hàng được ngân hàng cấp bảo lãnh cho khách hàng nhờ đó khách hàng sẽ
được vay vốn ngân hàng khác hoặc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết.
+ Bao thanh toán (Factoring): là hình thức tài trợ cho hoạt động mua
bán qua việc mua lại những khoản thanh toán chưa đến hạn từ các hoạt động
sản xuất kinh doanh, cung ứng hàng hoá và dịch vụ. Hoạt động mua nợ
thường do công ty trực thuộc chuyên trách đảm nhận.
+ Các hình thức khác.
- Đầu tư: Trong nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình
và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như :
• Hùn vốn, mua cổ phần của các công ty, xí nghiệp; việc hùn vốn
mua cổ phần chỉ được phép thực hiện bằng vốn tự có của ngân hàng.
• Mua trái phiếu Chính phủ, chính quyền điạ phương.
• Mua trái phiếu công ty…
Tất cả mọi hoạt động đầu tư vào chứng khoán đều nhằm đa dạng hóa
thu nhập nhưng mặc khác nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động
ngân hàng sẽ được phân tán. Ngoài ra, nếu đầu tư vào trái phiếu Chính phủ thì
mức độ rủi ro sẽ rất thấp. Vì vậy, các NHTM có xu hướng tập trung nguồn
vốn nhàn rỗi đầu tư vào trái phiếu chính phủ.
1.2.3 Các hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng:
Dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa hỗ trợ đáng kể cho việc
khai thác nguồn vốn, mở rộng đầu tư, vừa tạo thêm thu nhập cho ngân hàng
5
qua các khoản hoa hồng, phí dịch vụ… có vị trí xứng đáng trong giai đoạn
phát triển hiện nay của NHTM. Các hoạt động này gồm:
- Các dịch vụ thanh toán, thu chi hộ cho khách hàng (chuyển tiền, thu
hộ séc, dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh toán…).
- Nhận bảo quản các tài sản quý giá, các giấy tờ, chứng thư quan trọng
của dân chúng.
- Mua bán hộ: theo uỷ nhiệm của khách hàng, ngân hàng thông qua
Công ty chứng khoán trực thuộc đứng ra phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu
công ty hoặc trái phiếu nhà nước. Ngân hàng còn mua bán ngoại tệ, kim khí
quý, đá quý cho khách hàng qua các nghiệp vụ phái sinh.
- Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng, bạc, đá quý.
- Tư vấn tài chính, tiền tệ như cung cấp thông tin, hướng dẫn chính sách
tài chính tiền tệ, thương mại, lập dự án đầu tư, uỷ thác đầu tư… cho khách
hàng.
1.3 Tín dụng ngân hàng:
1.3.1 Khái niệm:
TDNH là quan hệ vay trả nợ giữa các ngân hàng với các xí nghiệp, tổ
chức kinh tế, các tổ chức và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng
đứng ra huy động vốn bằng tiền và cho vay (cấp tín dụng) đối với các đối
tượng trên.
TDNH là hình thức tín dụng chủ yếu, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng
trong nền kinh tế.
TDNH ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của hệ thống
ngân hàng; đây là hình thức tín dụng chuyên nghiệp, hoạt động của nó hết sức
đa dạng và phong phú.
1.3.2 Đặc điểm của TDNH:
6
- Chủ thể tham gia gồm một bên là ngân hàng và bên còn lại là các chủ
thể khác trong nền kinh tế như các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân…
- Vốn tín dụng được cấp chủ yếu dưới hình thái tiền tệ hay thay thế cho
tiền (séc, thẻ…).
- Thời hạn tín dụng của ngân hàng rất linh hoạt, có thể là ngắn hạn,
trung hạn hay dài hạn.
- Công cụ của TDNH cũng rất linh hoạt, có thể là kỳ phiếu, trái phiếu
ngân hàng, các hợp đồng tín dụng,…
- Là hình thức tín dụng mang tính tập trung, trong đó ngân hàng là trung
gian tín dụng giữa những người tiết kiệm và những người cần vốn để sản xuất
kinh doanh hoặc tiêu dùng.
- Mục đích của TDNH là nhằm phục vụ sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu
dùng qua đó thu được lợi nhuận.
1.3.3 Tác dụng của TDNH:
- TDNH có thể mở rộng cho mọi đối tượng trong xã hội; nó có thể xâm
nhập vào các ngành, với nhiều loại hình và qui mô hoạt động lớn, vừa và nhỏ,
vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh cũng như dịch vụ, đời sống.
- TDNH giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế do TDNH
không bị giới hạn về qui mô, có thể cung ứng vốn cho nền kinh tế với số
lượng rất lớn, với nhiều thời hạn khác nhau, nhờ đó giúp các doanh nghiệp có
vốn để kinh doanh và mở rộng đầu tư, đổi mới thiết bị, nâng cao năng lực sản
xuất.
- TDNH tác động và ảnh hưởng lớn đối với lưu thông tiền tệ của quốc
gia. Nhờ hoạt động của TDNH mà vốn tiền tệ của xã hội được huy động và sử
dụng hiệu quả cho nhu cầu phát triển kinh tế; nó vừa có tác dụng đẩy nhanh
tốc độ chu chuyển vốn, vừa tập trung phần lớn các chu chuyển tiền tệ qua hệ
7
thống ngân hàng. Đó là những điều kiện quan trọng để ổn định lưu thông tiền
tệ, ổn định giá cả trong nền kinh tế…
1.3.4 Phân loại TDNH:
* Căn cứ vào thời hạn, có 2 loại:
- Cho vay ngắn hạn để phục vụ sản xuất kinh doanh cho các đơn vị kinh
tế.
- Cho vay trung, dài hạn giúp các đơn vị thực hiện các dự án đầu tư, đổi
mới thiết bị, đổi mới công nghệ…
* Căn cứ vào tính chất luân chuyển của vốn, có 2 loại:
- Cho vay vốn lưu động.
- Cho vay vốn cố định.
* Căn cứ vào tính chất đảm bảo, có 2 loại:
- Cho vay bằng tín chấp.
- Cho vay có đảm bảo đối vật (thế chấp, cầm cố) hay đối nhân (bảo
lãnh).
* Căn cứ vào mối quan hệ giữa các chủ thể, có 2 loại:
- Cho vay trực tiếp: người đi vay và người trả nợ là một chủ thể.
- Cho vay gián tiếp (chiết khấu): người đi vay là một chủ thể, còn người
trả nợ (người thanh toán) là một chủ thể khác.
* Căn cứ vào phương pháp cấp tiền vay và thu nợ:
- Cho vay luân chuyển.
- Cho vay từng lần.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay sản xuất kinh doanh.
- Cho vay tiêu dùng.
8
Đối tượng nào được TDNH phục vụ? Tại Việt Nam hiện nay, DNVVN là
nhóm khách hàng chủ lực.
1.4 Doanh nghiệp vừa và nhỏ:
1.4.1 Khái niệm DNVVN:
Việc phân loại DNVVN cũng như các tiêu chí phân loại phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện và mục đích phân loại
của mỗi nước. Nhìn chung, khái niệm DNVVN được sử dụng khác nhau trên
bình diện quốc gia, dựa trên các tiêu chí phổ biến như giá trị tài sản có, số lao
động, doanh thu, tỷ lệ góp vốn của các doanh nghiệp khác… Thậm chí trong
cùng một quốc gia, khái niệm DNVVN còn được phân loại dựa trên đặc tính
ngành và tiểu ngành.
Ở Đài loan, DNVVN là doanh nghiệp :
- Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: có vốn góp dưới 40 triệu
đô la Đài Loan (khoảng 1,4 triệu đô la Mỹ), số lao động thường xuyên dưới
300 người.
- Trong khai khoáng: có vốn góp dưới 40 triệu đô la Đài Loan (khoảng
1,4 triệu đô la Mỹ), lao động thường xuyên dưới 500 người.
- Trong thương mại, vận tải và dịch vụ khác: có tổng doanh thu hàng
năm dưới 40 triệu đô la Đài Loan, lao động dưới 50 người.
Ở Philippin, trong sản xuất, doanh nghiệp được chia thành 4 loại :
- Doanh nghiệp cực nhỏ và hộ gia đình : có vốn dưới 1,5 triệu pesos
(khoản 72.000 đô la Mỹ).
- Doanh nghiệp nhỏ: có vốn từ 1,5 đến 15 triệu pesos (khoảng 72.000 –
720.000 đô la Mỹ).
- Doanh nghiệp lớn: có vốn trên 60 triệu pesos (khoảng 720.000- 2,9
triệu đô la Mỹ).
9
Ở Nhật Bản, DNVVN được phân loại theo khu vực:
- Khu vực sản xuất: doanh nghiệp có dưới 300 lao động và 1 triệu đô la
Mỹ vốn đầu tư.
- Thương mại và dịch vụ: doanh nghiệp có dưới 100 lao động (đối với
doanh nghiệp bán buôn) hay 50 lao động (đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch
vụ), vốn đầu tư dưới 300.000 đô la Mỹ (đối với doanh nghiệp bán buôn) hay
100.000 đô la Mỹ (đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ).
Ở Cộng đồng châu Âu (kể từ 1/1/2005) : DNVVN là doanh nghiệp
Tiêu chí Vừa Nhỏ Vi mô
Số lượng lao động tối đa 249 49 9
Doanh số tối đa (và/ hoặc) 50 triệu euros 10 triệu euros 2 triệu euros
Tài sản tối đa 43 triệu euros 10 triệu euros 2 triệu euros
Tỷ lệ góp vốn tối đa từ 1
25% 25% hoặc nhiều doanh nghiệp ----
khác
Ở Việt Nam, khái niệm DNVVN được biết đến từ những năm 1990.
Hiện nay, Điều 3 của Nghị định số 90/2001/NÐ-CP của Chính phủ ngày 23
tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, định nghĩa
“DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người”. Theo định nghĩa này, DNVVN
• Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
• Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà
bao gồm:
nước;
10
• Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã; Các hộ
kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03
tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về Đăng ký kinh doanh.
Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương,
trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt
áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu
nói trên.
1.4.2 Đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam:
Đặc điểm của các DNVVN xuất phát từ chính quy mô doanh nghiệp.
DNVVN Việt Nam cũng có những đặc điểm tương tự như tại các quốc gia
khác trên thế giới. Ngoài ra, do đặc trưng của nền kinh tế, các DNVVN Việt
Nam còn có những đặc điểm riêng. Những đặc điểm cơ bản của các DNVVN
thể hiện như sau:
- Các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ nên rất cơ động, linh hoạt, dễ
chuyển hướng kinh doanh, dễ xin thành lập doanh nghiệp vì đòi hỏi ít vốn,
diện tích mặt bằng không nhiều, các điều kiện sản xuất đơn giản; nhạy với
những thay đổi của thị trường; sẵn sàng chuyển hướng đầu tư vào các lĩnh vực
mới; có thể sản xuất sản phẩm có chất lượng tốt ngay cả khi điều kiện sản xuất,
kinh doanh có nhiều hạn chế.
- Các DNVVN ở Việt Nam thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều
hình thức tổ chức doanh nghiệp nên các DNVVN thuộc các thành phần khác
nhau không được đối xử bình đẳng trong thời gian dài. Điều đó ảnh hưởng đến
tâm lý, phong cách kinh doanh của các doanh nghiệp khi tạo ra những khác
biệt trong tiếp cận các nguồn lực như giao đất, trong vay vốn ngân hàng, quan
hệ với chính quyền địa phương….
11
- Là những doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ và sử dụng ít lao động,
đây thường là những doanh nghiệp khởi đầu thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
Đặc điểm này đã làm cho các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong quá trình
hoạt động của mình.
- Khả năng quản lý hạn chế: các chủ doanh nghiệp thường là những kỹ
sư hoặc kỹ thuật viên tự đứng ra thành lập và điều hành doanh nghiệp. Họ vừa
quản lý doanh nghiệp, vừa trực tiếp tham gia sản xuất nên trình độ chuyên
môn quản lý không cao. Đôi khi thiếu sự tách bạch rõ ràng giữa các bộ phận,
người quản lý các bộ phận cũng thường là người sản xuất kiêm nhiệm. Phần
lớn những chủ doanh nghiệp đều không được đào tạo chính quy về quản lý,
thậm chí chưa được đào tạo, chỉ dựa trên kinh nghiệm và cảm tính.
- Trình độ chuyên môn lao động thấp. Các DNVVN không đủ khả năng
tài chính để thuê lao động có tay nghề cao. Họ chủ yếu sử dụng các kỹ năng
gia truyền, ít muốn truyền bá ra bên ngoài. Người lao động ít được đào tạo,
kinh phí đào tạo lại hạn hẹp vì vậy trình độ thấp và kỹ năng thấp. Ngoài ra,
các định kiến và tính bảo thủ trong các doanh nghiệp này cũng khiến nhiều lao
động có kỹ năng không muốn làm việc cho khu vực này.
- Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính để đổi mới nên
nhiều DNVVN có những sáng kiến đáng giá nhưng không đủ tài chính cho
việc nghiên cứu ứng dụng nên không thể đổi mới công nghệ hoặc bị các doanh
nghiệp lớn lấn lướt. Tuy nhiên, DNVVN thường thành công trong việc tận
dụng các thiết bị lạc hậu bị nơi khác thải loại, phục chế cho phù hợp với quy
mô của mình theo phương châm “cũ người mới ta” và lấy công làm lời. Điều
này thể hiện tính linh hoạt, cuối cùng đổi mới được công nghệ theo lối riêng
với chi phí thấp, trong chừng mực nào đó tồn tại được trong thị trường cạnh
tranh.
12
- Do tồn tại của lịch sử, đất đai ở đô thị chưa được quản lý và sử dụng
hợp lý. Sau năm 1975, doanh nghiệp quốc doanh và hợp tác được cấp mặt
bằng sản xuất kinh doanh khá hào phóng. Khi cơ cấu kinh tế chuyển đổi,
nhiều đơn vị phải ngưng hoạt động nhưng mặt bằng không được trả lại cho
nhà nước trong khi quỹ đất đai eo hẹp. Các doanh nghiệp được thành lập sau
này rất khó tìm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Các DNVVN Việt Nam thường
sử dụng chính những diện tích đất riêng của chủ doanh nghiệp và khó mở rộng
mặt bằng vì giá đất ngày nay rất cao.
- Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt là thị trường nước ngoài.
Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí sản xuất đã cao không kham nổi phí tổn
tiếp thị quảng cáo. Thêm vào đó, thị trường của họ thường bó hẹp trong phạm
vi điạ phương, sản phẩm không đủ sức cạnh tranh với bên ngoài.
1.4.3 Vai trò của DNVVN :
1.4.3.1 Đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế.
DNVVN ngày càng đóng góp nhiều hơn vào GDP do số lượng doanh nghiệp
ngày càng lớn và phân bố rộng khắp các ngành, các lĩnh vực. Hiện nay, Việt
Nam có gần 200.000 DNVVN, đóng góp khoảng 27% GDP. Ngoài ra, tốc độ
tăng trưởng sản xuất của khu vực DNVVN cũng thường cao hơn so với các
khu vực khác. Nếu tính theo doanh thu của các doanh nghiệp cả nước, tỷ trọng
doanh thu của khu vực DNVVN theo quy mô lao động (dưới 300 người) năm
2002-2004 là 81.5%-86.5%. Điều đó chứng tỏ các DNVVN có đóng góp lớn
vào việc gia tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế.
1.4.3.2 Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc nhiều doanh nghiệp,
chủ yếu là các DNVVN được thành lập tại các vùng nông thôn, miền núi,
vùng sâu, vùng xa sẽ làm giảm tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp và tăng tỷ
trọng giá trị ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Điều này sẽ giúp
chuyển dịch cơ cấu của toàn nền kinh tế.
13
1.4.3.3 Làm tăng hiệu qủa và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Sự ra
đời của các DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh về kinh tế. Nhiều doanh
nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực sẽ làm giảm tính độc quyền
và buộc các doanh nghiệp phải năng động, liên tục đổi mới để tồn tại và phát
triển. Với tính linh hoạt của mình, các DNVVN cũng sẽ tạo sức ép cạnh tranh
với các công ty, các tập đoàn lớn. Đồng thời, các DNVVN còn đóng vai trò
làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá và
phân công lao động xã hội, làm tăng hiệu qủa của chính DNVVN cũng như
công ty hợp tác.
1.4.3.4 Đóng góp không nhỏ vào ngân sách nhà nước. Tỷ lệ đóng góp vào
ngân sách của khu vực DNVVN đã tăng đáng kể và đang có xu hướng tăng
nhanh trong các năm gần đây. Hiện nay, chiếm tới 67% vào nguồn thu ngân
sách từ thuế.
1.4.3.5 Đóng góp vào quá trình gia tốc đổi mới công nghệ. Với sự linh hoạt
của mình, các DNVVN thường đi tiên phong áp dụng công nghệ mới cũng
như các sáng kiến kỹ thuật. Dưới áp lực cạnh tranh, các DNVVN thường
xuyên cải tiến công nghệ, tạo sự khác biệt để có thể cạnh tranh thành công. Dù
không tạo ra những phát minh vĩ đại, sáng kiến của họ vẫn là tiền đề thay đổi
công nghệ.
1.4.3.6 Tăng thu hút vốn đầu tư. Sau khi Luật Doanh nghiệp được ban hành,
việc tạo lập mới và mở rộng hoạt động sản xuất - kinh doanh đối với DNVVN
ở nước ta đã khởi sắc rõ nét. Theo thống kê, từ năm 2000 đến hết năm 2005 đã
có gần 120.000 DNVVN đăng kí thành lập mới theo Luật Doanh nghiệp. So
với năm trước, năm 2002, có 21.535 doanh nghiệp, tăng 9%, năm 2003, tăng
29%, năm 2004 tăng 37% và năm 2005 tăng 41%. Nếu năm 2001, trung bình
cứ 694 người dân có một doanh nghiệp đăng kí kinh doanh thì năm 2005 con
số này là 500 người. Tổng vốn đăng kí của DNVVN giai đoạn 2000-2005 cao
14
gấp 7,9 lần so với 9 năm trước đây (1991-1999). Tỉ trọng đầu tư của doanh
nghiệp khu vực kinh tế tư nhân (chủ yếu là DNVVN) trong tổng đầu tư toàn
xã hội tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001, 25% năm 2002, 27% năm
2003, 32% năm 2004 và 34% năm 2005.
1.4.3.7 Tạo ra nhiều việc làm mới, giảm bớt áp lực về việc làm và thất
nghiệp. Hiện nay, do tỷ lệ tăng dân số tự nhiên cao trong những năm trước,
mỗi năm Việt Nam có thêm khoảng 1,4 triệu lao động mới. Bên cạnh đó, khu
vực doanh nghiệp nhà nước hiện đang sắp xếp lại nên tuy có tuyển mới để trẻ
hóa đội ngũ nhưng cũng cho một số người nghỉ trước tuổi. Do đó, lực lượng
lao động này trông chờ vào khu vực nông thôn và DNVVN. Hiện nay
DNVVN tạo ra việc làm mới với tốc độ tăng trưởng cao, chiếm khoảng 26%
tổng số lao động cả nước.
1.4.3.8 Đóng góp không nhỏ vào xuất khẩu. Với đặc điểm nền kinh tế chưa
phát triển cao, các ngành nghề ở nông thôn chủ yếu là sản xuất nhỏ vốn là các
nghề truyền thống, khu vực ngành nghề có khả năng thâm canh lao động như
dệt may, chế biến thuỷ sản… cũng có rất nhiều DNVVN tham gia. Vì vậy, các
DNVVN là lực lượng quan trọng tham gia làm hàng xuất khẩu. Một số ngành
nghề, đặc biệt là các ngành nghề thủ công, ngành nghề truyền thống, làm hàng
xuất khẩu chủ yếu dành cho các DNVVN.
1.4.3.9 Là tiền đề tạo ra những doanh nghiệp lớn, đồng thời lành mạnh
hóa môi trường đầu tư và kinh doanh. Khi kinh doanh thành công, quy mô
của doanh nghiệp sẽ được mở rộng và dần dần trở thành doanh nghiệp lớn, rồi
đến tập đoàn kinh tế. Ngoài ra, nhiều DNVVN tham gia thị trường sẽ tạo ra
cạnh tranh để phát triển và luôn có doanh nghiệp mới tham gia thêm, đồng
thời cũng có doanh nghiệp bị giải thể do hoạt động không hiệu quả. Việc
doanh nghiệp nhỏ tan rã không gây tác hại lớn, nhưng đối với một doanh
nghiệp lớn hay một tập đoàn vấn đề sẽ phức tạp hơn về mặt kinh tế xã hội.
15
1.4.3.10 Là tiền đề để tạo ra một môi trường văn hoá kinh doanh mang
tính kinh tế thị trường, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi.. Việt Nam trải
qua giai đoạn kinh tế kế hoạch hoá tập trung khá lâu nên môi trường văn hoá
kinh doanh mang tính thị trường gần như không tồn tại hoặc không có cơ hội
phát triển. Ta còn thiếu đội ngũ đông doanh nhân giỏi, có khả năng điều hành
doanh nghiệp trong điều kiện quốc tế hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy,
việc tạo ra một môi trường văn hoá kinh doanh mang tính thị trường cũng như
một đội ngũ đông doanh nhân giỏi là lối cần thiết để hội nhập thành công.
1.5 Sự cần thiết tăng cường tài trợ DNVVN:
1.5.1 Đối với ngân hàng :
1.5.1.1 DNVVN là thị trường tiềm năng đối với ngân hàng. Số liệu thống
kê những năm gần đây cho thấy các DNVVN đang là khu vực có nhiều tiềm
năng phát triển:
Số lượng DNVVN đang tăng lên rất nhanh: Sau 6 năm thực hiện Luật
Doanh nghiệp, đến cuối năm 2005 cả nước có trên 200.000 doanh nghiệp
ngoài quốc doanh (trong đó gần 97% là DNVVN), tăng gấp 4 lần so với năm
2000, tăng gấp 5 lần so với tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh được
thành lập từ năm 1991 đến 1999 gộp lại. Số lượng doanh nghiệp đăng ký
thành lập trung bình hàng năm tăng gấp 3,75 lần số trung bình hàng năm ở
thời kỳ 1991-1999, đạt tốc độ tăng trưởng số lượng doanh nghiệp bình quân
khoảng 10%/năm. Ngoài ra, cả nước còn có gần 2,5 triệu hộ kinh doanh cá
thể phi nông nghiệp và 11 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá (Nguồn số
liệu: Phát biểu của Thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị với các Doanh
nghiệp tại Hà Nội ngày 9/2/2006).
Các DNVVN được đánh giá là năng động, hoạt động có hiệu quả. Điều
này xuất phát từ lợi thế của quy mô nhỏ, gọn nên việc chuyển hướng kinh
16
doanh của các DNVVN dễ dàng hơn các doanh nghiệp lớn. Các DNVVN hoạt
động trên hầu hết mọi địa bàn, mọi ngành nghề kinh tế (trong đó tập trung lớn
hơn vào các ngành thương mại, dịch vụ và tiểu công nghiệp). Thêm vào đó,
phần lớn chủ DNVVN là lớp trẻ, rất năng động, nhạy bén với những thay đổi
trên thị trường; họ có nhiều ý tưởng mới lạ có thể phát triển thành các dự án
kinh doanh hiệu quả. Một số doanh nghiệp tại các làng nghề truyền thống
được kế thừa những kinh nghiệm, bí quyết gia truyền để tạo ra những sản
phẩm đặc thù, có sức cạnh tranh cao.
Mức đóng góp của DNVVN vào nền kinh tế ngày càng lớn: Không chỉ
tăng trưởng về mặt số lượng, các DNVVN đang trở thành bộ phận quan trọng
đóng góp đáng kể cho nền kinh tế. Số liệu thống kê cho thấy các doanh
nghiệp này đóng góp khoảng 39% GDP, 32% tổng vốn đầu tư toàn nền kinh
tế, trên 90% số lao động sử dụng có việc làm thường xuyên. Đây là bộ phận
giữ vai trò quan trọng trong sản xuất, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ,
là các vệ tinh gắn kết, hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển.
Phát triển DNVVN đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất chú
trọng, được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Trong tương lai, môi trường hoạt động
của các doanh nghiệp này sẽ được cải thiện, các chính sách hỗ trợ sẽ được
thực thi tốt hơn, có hiệu quả hơn và do đó các DNVVN sẽ có điều kiện phát
triển mạnh mẽ hơn nữa.
1.5.1.2 Ưu thế của nhiều doanh nghiệp lớn đang giảm sút:
Việt Nam đang theo xu hướng xoá bỏ độc quyền, tạo lập môi trường
cạnh tranh bình đẳng. Trước sức ép của hội nhập, phạm vi của một số Tổng
Công ty độc quyền hiện nay sẽ thu hẹp, song song với việc cổ phần hoá từng
phần hoặc toàn bộ các Tổng công ty này thì các công ty mới, nhỏ hơn cùng
ngành ra đời.
17
Chính bản thân một số doanh nghiệp được coi là lớn hiện nay không có
tiềm lực kinh tế thực sự, điển hình là các Tổng Công ty khối Giao thông-Xây
dựng cơ bản.
Khu vực Nhà nước, nơi tập trung hầu hết các doanh nghiệp lớn hiện
nay, đã và đang bộc lộ sự kém hiệu quả.
1.5.1.3 Lợi ích từ việc tăng cường tài trợ DNVVN:
Các DNVVN từ trước đến nay vẫn bị đánh giá là nhóm khách hàng có
độ rủi ro cao và hạch toán kế toán chưa đáng tin cậy. Tuy nhiên nếu thực hiện
tốt công tác thẩm định và sàng lọc, ngân hàng có thể duy trì một danh mục
khách hàng tốt.
Việc ngân hàng tăng cường tài trợ DNVVN đem lại các lợi ích cơ bản
sau:
- Phân tán rủi ro: Do số lượng khách hàng DNVVN lớn, quy mô từng
khoản vay nhỏ, trải rộng trên hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực nên việc cho
vay các đối tượng này sẽ giúp phân tán rủi ro tín dụng.
- Tạo điều kiện để tăng thu phí dịch vụ ngân hàng do tổng số lượng
giao dịch lớn, các DNVVN lại thường có xu hướng sử dụng dịch vụ trọn gói
tại một ngân hàng do đó tạo cơ hội để ngân hàng nâng cao và thay đổi dần cơ
cấu thu nhập.
- Ngân hàng dễ quản lý do DNVVN thường có quy mô nhỏ, gọn, địa
bàn hoạt động hẹp.
- Khai thác tối ưu mạng lưới chi nhánh ngân hàng rộng khắp cả nước:
Do các DNVVN có mặt trên cả nước nên ngân hàng có thể khai thác tối ưu
mạng lưới chi nhánh tại hầu hết các tỉnh, thành phố. Hơn nữa, thế mạnh của
NHCT là tài trợ cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp và thương
nghiệp. Đây cũng là lĩnh vực hoạt động chính của các DNVVN hiện nay.
18
1.5.2 Đối với DNVVN :
Đối với các doanh nghiệp, vốn kinh doanh được tài trợ bằng nhiều hình
thức như vốn của bản thân chủ doanh nghiệp, vốn góp dưới hình thức hợp
doanh, vay mượn của gia đình và bạn bè, vay từ những tư nhân, sử dụng tín
dụng thương mại, vay từ xã hội qua việc phát hành ra thị trường các công cụ
tài chính như cổ phiếu và trái phiếu, và vay từ các TCTD tiêu biểu là NHTM,
trong đó TDNH vẫn là kênh tài trợ quan trọng nhất đối với các DNVVN do
các các nguồn tài chính khác có những hạn chế :
- Vay vốn tư nhân: lợi thế của hình thức này là đáp ứng được nhu cầu
vốn cấp bách, không cần phải qua nhiều thủ tục phức tạp, phiền hà. Tuy
nhiên, lãi suất của các khoản vay này thường rất cao, các hành vi bạo lực có
thể xẩy ra trong trường hợp doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn.
- Hình thức gọi vốn liên kết cũng gặp nhiều khó khăn do bất cân xứng
thông tin của người bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, điều này có thể
khiến cho tài sản của doanh nghiệp bị đánh giá thấp, và do đó làm giảm nhu
cầu gọi vốn liên kết của bản thân chủ doanh nghiệp (Myers và Majluf 1984).
- Doanh nghiệp có thể sử dụng tín dụng thương mại: loại hình tín dụng
này thường có thời hạn rất ngắn và thường có lãi suất ngầm ẩn cao hơn rất
nhiều so với lãi suất có kỳ hạn tương đương của vốn vay từ NHTM, lãi suất
ngầm ẩn thể hiện ở chênh lệch giữa giá cả được chiết khấu (nếu trả ngay) và
giá cả trả chậm.
- Khả năng các doanh nghiệp nhỏ của Việt Nam có thể phát hành cổ
phiếu và trái phiếu hầu như không thể đạt được, đây là đặc điểm chung cho cả
các nước công nghiệp phát triển. Vì sao? Để được công nhận đủ tư cách phát
hành giấy nợ, doanh nghiệp phải đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của
các cơ quan quản lý thị trường vốn, công tác kế toán, kiểm toán của các doanh
19
nghiệp nhỏ thường có chí phí cao vẫn chưa đủ độ tin cậy để vượt qua các yêu
cầu này.
Vì vậy, TDNH có vai trò quan trọng đối với DNVVN được thể hiện qua
• Đảm bảo cung ứng đủ vốn lưu động thường xuyên, cho phép doanh
việc:
nghiệp duy trì sự ổn định và phát triển có hiệu qủa hoạt động sản xuất kinh
• Đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn để doanh nghiệp đầu tư thêm
doanh của mình.
máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh,
• Cung ứng nguồn vốn với lãi suất thấp, hợp lý góp phần tăng lợi
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp…
• Do khả năng quản lý có giới hạn của các chủ DNVVN nên trong
nhuận, từ đó đẩy mạnh tốc độ tích lũy vốn cho doanh nghiệp.
quá trình tài trợ DNVVN, ngân hàng có thể tư vấn cho các DNVVN về những
vấn đề tài chính cũng như cung cấp thêm cho doanh nghiệp những thông tin
quan trọng về thị trường… giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu qủa phương
án, dự án sản xuất kinh doanh.
1.6 Kinh nghiệm về tài trợ DNVVN ở một số nước và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam:
1.6.1 Kinh nghiệm của Philippines:
Chính phủ Philippines đã đưa ra hàng loạt chính sách quy định các tổ
chức tài chính, đặc biệt ngân hàng phải dành một tỷ lệ nhất định trong tổng số
vốn đầu tư cho các DNVVN vay. Trọng tâm của các chính sách này là Luật
Magna Carta. Theo luật này, các ngân hàng phải dành 10% trong tổng số các
khoản cho vay cho DNVVN.
20
Bên cạnh đó, để tạo ra các nguồn vốn hỗ trợ DNVVN, Chính phủ đã
triển khai các chương trình tín dụng đặc biệt dành cho DNVVN. Nguồn vốn
để thực hiện các chương trình này được cấp từ ngân sách quốc gia hoặc các
nguồn vốn dư thừa của các tổ chức tài chính Nhà nước như Hệ thống an ninh
xã hội và Hệ thống bảo hiểm dịch vụ chính phủ và các nguồn vốn ODA.
Ngoài ra, để nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn của DNVVN, Chính
phủ cho phép các NHTM được thành lập các chi nhánh ngân hàng và tiết kiệm
ở bất cứ chổ nào họ muốn. Chính sách này đã khuyến khích các ngân hàng mở
chi nhánh ở các vùng nông thôn, nơi có lượng lớn khách hàng. Do đó, khả
năng tiếp cận với các nguồn vốn đã trở nên dễ dàng hơn cho các DNVVN do
sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong cùng điạ phương.
Phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng để hỗ trợ cho các
DNVVN.
Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ như hỗ trợ phát triển thị trường, hỗ trợ phát
triển sản phẩm, đào tạo nâng cao tay nghề công nhân…nhằm làm cho các
DNVVN nâng cao được khả năng tín chấp của mình.
1.6.2 Kinh nghiệm của Đức:
Các DNVVN thường có một tỷ lệ vốn vay so với vốn cổ phần rất cao,
điều này hạn chế khả năng đầu tư của họ và việc thiếu tài sản thế chấp là một
trong những lý do chính khiến các DNVVN không có nhiều cơ hội vay tín
dụng. Do vậy các ngân hàng bảo đảm tín dụng cho DNVVN đã được thành lập
với các khoản tiền cho vay. Các tổ chức đảm bảo tín dụng của Đức đã và đang
hoạt động khá thành công. Việc bảo đảm có thể bù đắp một số bất lợi nhất
định của các DNVVN và giúp cho các tổ chức tài chính tránh được mức độ rủi
ro cao khi họ cho các DNVVN vay tiền. Trong trường hợp xảy ra sai phạm,
phần mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu chỉ là một phần trong tổng số tiền
21
vay. Các Phòng Thương mại và Công nghiệp của Đức tư vấn cho các chương
trình bảo đảm món vay, xem xét và đánh giá các đơn xin vay tiền của các chủ
doanh nghiệp trước khi đưa ra khoản đảm bảo món vay.
1.6.3 Kinh nghiệm của Malaysia:
Malaysia xác định khu vực tư nhân phải đóng vai trò đầu tàu của sự
tăng trưởng kinh tế. Khu vực tư nhân không chỉ cần tăng cường đầu tư sẳn có,
mà còn phải mạnh dạn đi vào khai thác những cơ hội mới. Trong bối cảnh
cạnh tranh toàn cầu và dòng vốn quốc tế suy giảm, chính sách của Malaysia
là phát triển các DNVVN. Việc phát triển các DNVVN được xác định như là
một chất xúc tác của tăng trưởng quốc gia. Các DNVVN được chính phủ hỗ
trợ bằng cách cung cấp cho họ những phương thức dễ dàng và đầy đủ hơn để
tiếp cận những nguồn vốn đặc biệt là những điều kiện vay nợ, trong đó vẫn
đảm bảo những điều kiện thế chấp và chi phí vay nợ thấp, những khoản trả nợ
có hiệu lực và các kế hoạch hoàn trả linh hoạt. Chính phủ và những định chế
tài chính được yêu cầu là phải hỗ trợ cho sự phát triển của các DNVVN.
Những định chế tài chính phải tuân thủ những quy định của chính phủ
và phải cam kết trong việc phục vụ khách hàng. Ngân hàng Negara Malaysia
(BNM) có trách nhiệm kiểm tra và đảm bảo rằng các định chế tài chính sẽ
tuân theo những quy định về phục vụ khách hàng.
Một số biện pháp nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp này những
nguồn vốn phù hợp với chi phí thấp: tăng cường hiệu quả và đẩy mạnh cách
hoạt động tín dụng nhỏ; làm tăng vốn có sẵn của các DNVVN, giảm bớt chi
phí tài chính và điều kiện cho vay tín chấp, giúp họ tránh tình trạng vay ở
những nơi bất hợp pháp. Việc này được thực hiện quy định các biện pháp vay
nợ nới lỏng trong chương trình tín dụng nhỏ.
22
Những biện pháp mà chính phủ Malaysia áp dụng là có thể thực hiện
được trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Sự thành công của quốc gia này là
một dẫn chứng rất thuyết phục cho chúng ta1.
1.6.4 Kinh nghiệm của các ngân hàng Hàn Quốc:
Khó khăn trong tài trợ DNVVN với bất cứ NHTM nào là món vay có
giá trị thấp, khối lượng khách hàng nhiều, phân bổ rộng khắp, DNVVN luôn
trong tình trạng thiếu vốn, các kỹ năng quản lý tài chính và cung cấp thông tin
còn hạn chế…. Chính vì vậy, việc tài trợ cho DNVVN luôn phải đối mặt với 3
vấn đề lớn: Chi phí quản lý khoản vay cao, chi phí huy động vốn cao và rủi ro
lớn. Một số kinh nghiệm của các Ngân hàng Hàn quốc trong việc tài trợ thành
công DNVVN như sau:
Thứ nhất, để giảm chi phí huy động vốn, ngân hàng cần tăng cường đầu
tư cho hoạt động kinh doanh của các hộ gia đình, thiết lập các hoạt động liên
quan đến nhượng quyền thương mại, quản lý các khoản tiền thanh toán trong
quá trình kinh doanh của DNVVN.
Thứ hai, để giảm thiểu các chi phí quản lý, các ngân hàng cần tăng
cường đầu tư vào công nghệ thông tin, đặc biệt là việc tự phát triển hệ thống
công nghệ thông tin sẽ giúp tiết giảm chi phí và hiệu quả hơn; tăng quy mô tài
sản lên một mức độ nhất định vẫn duy trì được các chi phí theo tỷ lệ tương
ứng một cách tiết kiệm.
Thứ ba, để giảm thiểu các rủi ro tín dụng, cần phải có một hệ thống xếp
hạng tín dụng hiệu quả (bao gồm: cơ sở dữ liệu, các mô hình chấm điểm và
xếp hạng tín dụng theo quy mô, theo ngành, theo lịch sử phát triển của doanh
nghiệp…và công nghệ thông tin); phải duy trì đủ cán bộ tín dụng có năng lực,
1 Văn Khánh-Văn Thủ; thời báo kinh tế Việt Nam số 199; bài”Đi lên từ một nước nông nghiệp”
việc thẩm định tín dụng phải độc lập và có hiệu quả; các khoản vay phải có tài
23
1.6.5 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam :
Từ thực tế tài trợ DNVVN ở một số nước nêu trên, chúng tôi có thể rút
ra một số vấn đề về việc tài trợ DNVVN ở Việt Nam như sau:
- Chính phủ cần thiết lập các cơ chế chính sách, chương trình tài trợ
DNVVN như thành lập các ngân hàng chuyên cho vay các DNVVN, thành lập
Quỹ bảo lãnh tín dụng riêng cho DNVVN, các quỹ hỗ trợ DNVVN, các trung
tâm tư vấn DNVVN, sử dụng một tỷ lệ nhất định trong tổng số vốn đầu tư của
ngân hàng cho các DNVVN vay…
- Hệ thống ngân hàng và các tổ chức trung gian cần được phát triển
nhanh, mạnh để DNVVN dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn.
- Các DNVVN phải tự hoàn thiện và phát triển dựa trên các chính sách
hỗ trợ khác như hỗ trợ phát triển thị trường, hỗ trợ phát triển sản phẩm…để
đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng khi vay vốn.
Kết luận: Phát triển DNVVN là một thực tế khách quan đối với việc phát
triển nền kinh tế quốc gia. Để phát triển DNVVN cần có những nguồn vốn tài
trợ giải quyết những hạn chế của loại hình doanh nghiệp này. Trong các nguồn
vốn tài trợ chính thức, TDNH là nguồn quan trọng hơn cả. Hoạt động của
TDNH có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển DNVVN và cũng là hoạt động chủ
yếu của ngân hàng. Vì thế, tăng cường hoạt động tài trợ DNVVN là cần thiết
và quan trọng đối với cả ngân hàng lẫn DNVVN .
24
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÀI TRỢ DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHCT
BÌNH TÂN
2.1 Tình hình kinh tế Quận Bình Tân - Thành phố Hồ Chí Minh:
Quận Bình Tân được thành lập theo Nghị định số 130/2003/NĐ-CP
ngày 05/11/2003 của Chính Phủ, gồm 3 xã: Tân Tạo, Bình Hưng Hoà, Bình
Trị Đông và thị trấn An Lạc thuộc huyện Bình Chánh cũ. Quận có 10 phường,
chia ra 92 khu phố với 1715 tổ dân phố. Diện tích tự nhiên 5.188,6 ha; Phía
đông giáp các quận Tân Phú, quận 6 và quận 8. Phía tây giáp huyện Bình
Chánh mới. Phía nam giáp quận 8 và huyện Bình Chánh mới. Phía bắc giáp
quận 12 và huyện Hóc Môn; dân số đến đầu năm 2006 là 424.000 người, hơn
60% là dân nhập cư từ các tỉnh khác.
Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng “Thương mại, dịch vụ,
công nghiệp, nông nghiệp”. Tốc độ tăng trưởng tổng giá trị sản phẩm trên địa
bàn năm 2005 tăng 34,35% so với năm 2004; trong đó khu vực dịch vụ đạt
tốc độ tăng trưởng cao với tổng doanh thu 2.553,85 tỷ đồng (tương đương giá
trị sản phẩm đạt 518,585 tỷ) tăng 43,10% so với năm 2004, khu vực công
nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đạt tổng giá trị sản xuất là 1.722,650 tỷ đồng,
tăng 32,6% so với năm 2004, khu vực nông nghiệp đat tổng giá trị sản phẩm
46,929 tỷ đồng, tăng 13,16% so với năm 2004. Xu hướng 5 năm tới tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân là 30%.
Trong giai đoạn 2006- 2010 và những năm tiếp theo, Quận Bình Tân
tiếp tục đẩy mạnh Chương trình quy hoạch phát triển công nghiệp, thu hút và
phát triển các ngành công nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ hiện đại, sản xuất
những sản phẩm có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao...; hoàn tất
chương trình di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm vào các khu công nghiệp,
25
cụm công nghiệp tập trung góp phần cùng Thành phố chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngày càng hiện đại.
Quận Bình Tân đã xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; công
khai hóa các thủ tục hành chính, thủ tục đăng ký kinh doanh, các quy hoạch
phát triển kinh tế- xã hội, các dự án mời gọi đầu tư;... kịp thời thực hiện việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho nhân
dân, giúp người dân có điều kiện thế chấp để vay vốn, đầu tư sản xuất kinh
doanh.
Quận Bình Tân đã hình thành website, thực hiện chương trình cung cấp
qua mạng cho nhà đầu tư, doanh nghiệp những thông tin về chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, nhất là những thông tin liên quan đến phát triển sản
xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Nhằm kịp thời tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng năm
quận tổ chức gặp gỡ, sinh hoạt định kỳ 2 lần giữa đại diện các ngành chức
năng chính quyền với doanh nghiệp, để trao đổi thông tin, lắng nghe ý kiến
của nhà đầu tư, nhằm tìm được tiếng nói chung giữa chính quyền và doanh
nghiệp. Hội doanh nghiệp quận Bình Tân cũng đã được hình thành và hoạt
động có hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp trên các lãnh vực quản trị doanh nghiệp,
cung cấp thông tin thị trường, xúc tiến thương mại và các hoạt động liên quan
đến sản xuất công nghiệp.
Quận Bình Tân hiện đang quản lý trên 7.000 cơ sở sản xuất công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Ngoài ra, quận còn có các khu công nghiệp,
cụm công nghiệp tập trung do Ban Quản lý các Khu chế xuất – Khu công
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh (Hepza) quản lý: Khu công nghiệp Tân Tạo,
Khu công nghiệp Vĩnh Lộc, Khu công nghiệp giày da Pouyuen (100% vốn
nước ngoài), Khu công nghiệp Tân Tạo mở rộng và 4 cụm công nghiệp: Việt
Tài, Hai Thành, Thiên Tế và Hợp Thành Hưng. Các khu công nghiệp, cụm
26
công nghiệp này đều có hệ thống hạ tầng kỹ thuật (đường giao thông, điện,
nước...) tương đối hoàn chỉnh đã thu hút hàng ngàn nhà đầu tư và một lực
lượng lao động khoảng trên 150.000 người đến từ các địa phương khác.
2.2 Khái quát hệ thống NHTM ở Việt Nam :
Cuối thập niên 80, cùng với công cuộc cải cách kinh tế, hệ thống Ngân
hàng Việt Nam cũng được cải cách. Từ hệ thống ngân hàng một cấp nhập
nhằng giữa chức năng của Ngân hàng Trung ương với NHTM đã tách ra
thành hệ thống ngân hàng 2 cấp riêng biệt và đã khẳng định vai trò đặc biệt
quan trọng của chúng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế ở nước ta thời gian
qua. Tuy nhiên, sự tách bạch này và quá trình xây dựng hệ thống ngân hàng 2
cấp ở Việt Nam đúng nghĩa mới chỉ diễn ra hơn 15 năm nay. Vì vậy, bên cạnh
những thành quả đạt được, công cuộc cải cách để hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay đòi hỏi phải nhanh chóng xóa bỏ các tồn tại.
Quá trình xây dựng các TCTD, trước hết là các NHTM ở nước ta có
điểm xuất phát rất thấp: Các NHTM quốc doanh (nay là NHTM nhà nước)
được tách từ các Vụ, Cục có chức năng tương ứng của Ngân hàng Nhà nước
Trung ương; một số NHTM cổ phần được củng cố sau vụ đổ bể tín dụng
những năm 1988 – 1989, sau đó là quá trình thành lập các NHTM cổ phần
khác với số vốn ít ỏi (NHTM cổ phần đô thị có số vốn ban đầu là 10 tỉ đồng,
20 tỉ đồng lên 50 – 70 tỉ đồng và phát triển đến nay). Số lượng NHTM cổ
phần được cấp phép tăng thêm, theo các năm như năm 1991: 5 ngân hàng;
năm 1992: 17 ngân hàng; năm 1993: 20 ngân hàng; năm 1994: 4 ngân hàng;
năm 1995: 3 ngân hàng; năm 1996: 3 ngân hàng và đến năm 1997 Ngân hàng
Nhà nước dừng việc cấp giấy phép thành lập mới loại hình ngân hàng này.
Vào thời điểm phát triển nhất (năm 1996), hệ thống các NHTM cổ phần
có 52 ngân hàng, trong đó 32 NHTM cổ phần đô thị và 20 NHTM cổ phần
nông thôn.
27
Hệ thống các TCTD ở nước ta đến nay gồm có:
- Các NHTM Nhà nước, gồm: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
(VCB), Ngân hàng Công thương Việt Nam (ICB); Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam (AGRIBANK) và Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu
Long (MHB). Ngoài ra, còn có Ngân hàng Chính sách xã hội.
Các NHTM nhà nước có tổng tài sản chiếm 70% toàn hệ thống và dư nợ cho
vay nền kinh tế chiếm 75%, trong tổng dư nợ cho vay của các NHTM.
- Các NHTM cổ phần, gồm có 26 NHTM cổ phần đô thị và 7 NHTM
cổ phần Nông thôn, có tổng tài sản chiếm 15,6% toàn hệ thống và dư nợ cho
vay nền kinh tế chiếm trên 13% trong tổng dư nợ cho vay của các NHTM.
- 26 chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
- 4 ngân hàng liên doanh với nước ngoài.
- 5 công ty tài chính và 9 công ty cho thuê tài chính;
- Có Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương với 24 chi nhánh ở khu vực và
trên 900 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở;
Dư nợ cho vay các TCTD nêu trên chỉ chiếm khoảng 10% - 12% tổng
dư nợ cho vay nền kinh tế.
2.3 Giới thiệu Ngân hàng Công thương Việt Nam và Chi nhánh NHCT
Bình Tân:
2.3.1 Giới thiệu Ngân hàng Công thương Việt Nam:
NHCTVN được thành lập từ năm 1988, trên cơ sở tách ra từ Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, là một trong năm NHTM nhà nước lớn nhất của Việt
Nam, và được xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp nhà nước đặc biệt của
Việt Nam.
28
Hệ thống mạng lưới của NHCTVN gồm Trụ sở chính, 2 Văn phòng
Đại diện, 2 Sở Giao dịch lớn (Tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh), 138
chi nhánh, 140 phòng giao dịch và hơn 500 điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm, 336
máy rút tiền tự động (ATM), Trường Đào tạo và Phát triển nguồn nhân lực
(tại Hà Nội) và Trung tâm Công nghệ Thông tin (tại Hà Nội).
NHCTVN là chủ sở hữu các công ty con: Công ty Cho thuê Tài chính
NHCT, Công ty TNHH Chứng khoán NHCT và Công ty Quản lý và Khai
thác tài sản NHCT.
NHCTVN là đồng sáng lập và là cổ đông chính trong Indovina Bank,
Công ty Cho thuê Tài chính Quốc tế Việt Nam (VILC) và Công ty Liên doanh
Bảo hiểm Châu Á (IAI), Công ty Chuyển mạch Tài chính quốc gia Việt Nam.
NHCTVN có quan hệ ngân hàng đại lý với 776 ngân hàng trên khắp thế
giới và có thể gởi điện Swift có mã khoá tới 18.312 ngân hàng cùng chi nhánh
và văn phòng của họ trên toàn cầu.
Các sản phẩm dịch vụ tài chính của NHCTVN bao gồm: các dịch vụ
ngân hàng bán buôn và bán lẻ trong và ngoài nước, tiền gửi, thanh toán, cho
vay và đầu tư, bảo lãnh và tái bảo lãnh, tài trợ thương mại, chuyển tiền, phát
hành và thanh toán các loại thẻ trong nước và thẻ tín dụng quốc tế, séc du
lịch, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và cho thuê tài
chính và các dịch vụ ngân hàng khác.
NHCTVN là thành viên chính thức của Hiệp hội các Ngân hàng Châu
Á (ABA), Hiệp hội các ngân hàng Việt Nam (VNBA), Hiệp hội Thanh toán
Viễn thông Liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT), Hiệp hội thẻ Visa, Master,
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Hiệp hội Các Định
chế tài chính cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ APEC, Hiệp hội các Doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
29
2.3.2 Giới thiệu Chi nhánh NHCT Bình Tân:
Chi nhánh NHCT Bình Tân trực thuộc NHCTVN được thành lập trên
cơ sở nâng cấp Chi nhánh cấp 2 NHCT Khu Công nghiệp Tân Tạo trực thuộc
Chi nhánh NHCT 6 thành phố Hồ Chí Minh, kể từ ngày 01/10/2004.
Chi nhánh NHCT Bình Tân là đơn vị hạch toán phụ thuộc, tổ chức hoạt
động theo Quy chế tổ chức, hoạt động của chi nhánh NHCT do NHCTVN
ban hành. Chi nhánh NHCT Bình Tân có trụ sở đặt tại Lô 9, đường C, Khu
công nghiệp Tân Tạo, Quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
Mô hình tổ chức của Chi nhánh NHCT Bình Tân gồm Ban Giám đốc
và các phòng, tổ nghiệp vụ sau: Phòng Kinh doanh; Phòng kế toán tài chính
(trong đó có 3 quỹ tiết kiệm); Phòng Tổ chức hành chính; Tổ kiểm tra nội bộ;
Tổ ngân quỹ.
Các sản phẩm dịch vụ tài chính hiện nay của Chi nhánh NHCT Bình
- Mở tài khoản và nhận tiền gửi: mở tài khoản và nhận các loại tiền gửi
Tân gồm có:
không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ; nhận tiền gửi tiết kiệm
- Hoạt động tín dụng: cho vay ngắn hạn bằng VNĐ và ngoại tệ phục
không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ; tiết kiệm dự thưởng.
vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tiêu dùng; cho vay trung, dài hạn
bằng VNĐ và ngoại tệ để thực hiện dự án đầu tư xây dựng mới, đổi mới thiết
bị công nghệ, mở rộng sản xuất, các chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng, các
- Bảo lãnh: thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh trong và ngoài nước gồm
dự án phục vụ đời sống.
bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh
- Cầm cố sổ tiết kiệm, kỳ phiếu do ngân hàng phát hành.
bảo hành.
30
- Dịch vụ ngân hàng quốc tế.
- Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
- Các dịch vụ ngân hàng khác: dịch vụ thẻ tín dụng và rút tiền tự động
(ATM); dịch vụ tiền tệ, ngân quỹ.
2.4 Tình hình tài trợ DNVVN tại Chi nhánh NHCT Bình Tân:
Trên cơ sở định hướng phát triển khách hàng DNVVN của NHCTVN,
Ban lãnh đạo Chi nhánh NHCT Bình Tân đã chú trọng đến loại khách hàng
này từ khi Chi nhánh được thành lập. Hầu hết các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng (huy động vốn, cho vay, thanh toán, bảo lãnh,...) đã đến được với các
doanh nghiệp. Số liệu hiện có tại Chi nhánh cho thấy DNVVN đang là nhóm
khách hàng chiếm tỷ trọng lớn trong các hoạt động của Chi nhánh nói chung,
đặc biệt là hoạt động tín dụng.
2.4.1 Hoạt động huy động vốn:
Việc đảm bảo nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các hoạt động
của NHTM. Vì vậy, Chi nhánh đã cố gắng áp dụng nhiều hình thức huy động
như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và
tiết kiệm dự thưởng cũng như phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, phát
hành chứng chỉ tiền gửi để thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ dân cư, các
tổ chức kinh tế và các tổ chức khác như tổ chức xã hội, chính trị…trên địa bàn
trong thời gian qua:
Bảng 2.1 Tình hình huy động vốn của Chi nhánh NHCT Bình Tân ĐVT : triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006
Bằng VND Bằng ngoại tệ quy đổi Nguồn vốn huy động Nguồn: Chi nhánh NHCT Bình Tân 46.006 38.743 9.319 2.069 55.325 40.812
31
Tính đến 31/12/2006, tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh đạt
40.812 triệu đồng, giảm 14.513 triệu đồng so với năm 2005, tương ứng với tỷ
lệ giảm là 26,23%, trong đó :
Nguồn vốn huy động bằng VNĐ là 38.743 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 95%
trong tổng nguồn vốn huy động, giảm 15,8% so với năm 2005; nguồn vốn
huy động bằng ngoại tệ qui đổi VNĐ là 2.069 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 5% tổng
nguồn vốn huy động, giảm 77,8% so với năm 2005.
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi doanh nghiệp là 20.537 triệu đồng,
giảm 15,5% so với năm 2005, huy động từ dân cư là 19.633 triệu đồng, giảm
34,9% so với năm 2005.
Nguồn vốn huy động không kỳ hạn chiếm 50% tổng nguồn vốn huy
động, giảm 0,4% so với năm 2005, nguồn vốn huy động có kỳ hạn chiếm
50% tổng nguồn vốn huy động, giảm 41,8% so với năm 2005.
Bảng 2.2 Cơ cấu nguồn vốn huy động tại Chi nhánh NHCT Bình Tân
Chỉ tiêu Năm 2005
24.316 19.738 4.578 30.144 346 29.798 865 55.325
Tiền gửi tổ chức kinh tế Không kỳ hạn Có kỳ hạn Tiền gửi tiết kiệm Không kỳ hạn Có kỳ hạn Kỳ phiếu Tổng cộng Nguồn: Chi nhánh NHCT Bình Tân ĐVT : triệu đồng Năm 2006 20.537 19.781 756 19.633 392 19.241 643 40.813
Từ các số liệu trong bảng 2.1, bảng 2.2 cho thấy, tình hình huy động
vốn tại Chi nhánh đang gặp khó khăn. Điều này ảnh hưởng đến việc đáp ứng
nhu cầu vốn phục vụ đầu tư tín dụng và các hoạt động khác của Chi nhánh.
Nguyên nhân chủ yếu:
32
- Trụ sở của Chi nhánh nằm trong khu công nghiệp và chỉ có một quỹ
tiết kiệm đặt tại trụ sở trung tâm nên ở xa khu dân cư tập trung, ít khách vãng
lai. Do đó, nguồn vốn huy động tại Chi nhánh chủ yếu là từ tiền gửi thanh
toán của các doanh nghiệp đang hoạt động trong khu công nghiệp, mà tiền gửi
loại này luân chuyển thường xuyên, số dư không ổn định. Trong đó, nguồn
vốn huy động bằng ngoại tệ rất thấp do hiện nay Chi nhánh chưa có nhiều
khách hàng hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và do hoạt động thanh
toán nhập khẩu của doanh nghiệp giảm nên tiền gửi thanh toán bằng ngoại tệ
cũng giảm theo.
- Chỉ số giá tiêu dùng tăng tác động đến tâm lý người gửi tiền và lãi
suất huy động của hệ thống NHCT thấp hơn lãi suất huy động của hệ thống
các NHTM cổ phần với cùng loại sản phẩm và kỳ hạn gửi. Trong khi đó, trên
điạ bàn hiện nay đã có nhiều NHTM và các TCTD khác vừa mới thành lập
(chỉ tính riêng trong Khu công nghiệp Tân Tạo hiện có 4 NHTM) cùng cạnh
tranh thị phần, lãi suất.
- Các hình thức huy động vốn truyền thống vẫn còn đơn điệu, Chi
nhánh hiện chưa đủ điều kiện đa dạng hoá các sản phẩm huy động khác như
thẻ ATM, dịch vụ chi trả lương qua ngân hàng, chuyển tiền, kiều hối, …
Những khó khăn trên dẫn đến sự mất cân đối giữa nguồn vốn huy động
tại chỗ và dư nợ tín dụng. Do đó, Chi nhánh phải sử dụng chủ yếu nguồn vốn
điều hoà của NHCTVN có lãi suất cao để đáp ứng nhu cầu vốn của khách
hàng, đặc biệt là khách hàng DNVVN.
2.4.2 Hoạt động tín dụng:
- Về số lượng khách hàng: Số lượng khách hàng có quan hệ tín dụng tại
Chi nhánh tăng liên tục qua các năm, từ 87 khách hàng trong năm 2005 tăng
lên 175 khách hàng trong năm 2006, chiếm tỷ lệ 200%. Trong tổng số 87
33
khách hàng năm 2005 thì có 76 là khách hàng DNVVN, chiếm 87,4% tổng số
khách hàng và trong năm 2006, trong tổng số 175 khách hàng thì có 164
khách hàng là DNVVN, chiếm 93,7% tổng số khách hàng.
Bảng 2.3 Số lượng DNVVN tại Chi nhánh NHCT Bình Tân
Số lượng 31/12/2006
31/12/2005 87 76 175 164
khách hàng DNVVN Nguồn : Chi nhánh NHCT Bình Tân
- Về sản phẩm tín dụng: hiện nay, các sản phẩm Chi nhánh NHCT Bình
Tân cung cấp cho các DNVVN là các hình thức cho vay (từng lần, hạn mức,
dự án đầu tư) và bảo lãnh (dự thầu, thực hiện hợp đồng, thanh toán, bảo hành).
Các hình thức tín dụng khác như chiết khấu giấy tờ có giá, bao thanh toán …
chưa phát triển.
- Về quy mô dư nợ:
Dư nợ tín dụng của Chi nhánh năm 2006 (chủ yếu từ hoạt động cho
vay) là 264.457 triệu đồng, tăng so với năm 2005 là 34.929 triệu đồng, tương
đương vôùi tỷ lệ 15,12%. Trong đó, dư nợ ngắn hạn đạt 207.421 triệu đồng
(chiếm 78,4% tổng dư nợ) và dư nợ trung hạn đạt 57.036 triệu đồng (chiếm
21,6% tổng dư nợ).
Bảng 2.4 Tình hình dư nợ tín dụng tại Chi nhánh NHCT Bình Tân ĐVT: triệu đồng 31/12/2006 31/12/2005 Chỉ tiêu
229.528 170.846 58.681 264.457 207.421 57.036
Dư nợ Ngắn hạn Trung dài hạn Nguồn: Báo cáo hàng năm của Chi nhánh NHCT Bình Tân
Trong tổng dư nợ tín dụng của Chi nhánh, dư nợ tín dụng đối với
DNVVN cũng tăng liên tục qua các năm, từ 93.114 triệu đồng (chiếm 40,57%
34
tổng dư nợ) năm 2005 tăng lên 143.914 triệu đồng (chiếm 54,42% tổng dư nợ)
năm 2006, với tốc độ tăng trưởng tín dụng 54,56%.
Bảng 2.5 Tình hình dư nợ tín dụng DNVVN tại Chi nhánh NHCT Bình Tân ĐVT: triệu đồng
Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006
93.114 64.570 28.544 143.914 116.533 27.381
Dư nợ Ngắn hạn Trung dài hạn Nguồn: Báo cáo hàng năm của Chi nhánh NHCT Bình Tân
Trong thời gian qua, hoạt động bảo lãnh được thực hiện tại Chi nhánh đều là
bảo lãnh trong nước bằng nội tệ chủ yếu là bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực
hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh bảo hành, còn các hình thức bảo
lãnh khác (bảo lãnh bảo hiểm, bảo lãnh nộp thuế…) ít phát sinh. Số dư bảo
lãnh năm 2005 là 1.909 triệu đồng. Đến 31/12/2006, số dư bảo lãnh là 2.065
triệu đồng, tăng 8% so với năm 2005. Trong đó, bảo lãnh thực hiện hợp đồng
là 498 triệu đồng, bảo lãnh bảo hành là 138 triệu đồng, bảo lãnh dự thầu là 729
triệu đồng, bảo lãnh thanh toán là 700 triệu đồng.
- Về cơ cấu dư nợ:
Cơ cấu dư nợ tín dụng đối với DNVVN của Chi nhánh NHCT Bình Tân
là 100% cho vay bằng VNĐ. Điều đó, cho thấy các DNVVN của Chi nhánh
NHCT Bình Tân là các doanh nghiệp ít hoạt động trong các lĩnh vực xuất
nhập khẩu.
Trong tổng số dư nợ, dư nợ cho vay ngắn hạn đối với DNVVN luôn
chiếm tỷ trọng cao so với dư nợ cho vay trung dài hạn, từ 2 lần năm 2005 tăng
lên 4 lần năm 2006. Điều này cho thấy Chi nhánh NHCT Bình Tân chủ yếu
đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn lưu động của các DNVVN, trong khi đó cho vay
35
trung, dài hạn có thời hạn dài, rủi ro tiềm ẩn lớn nên Chi nhánh chưa dám mạo
hiểm.
Theo thành phần kinh tế, dư nợ cho vay tại Chi nhánh đối với DNVVN
thuộc khu vực ngoài quốc doanh chiếm 100%.
Theo ngành kinh tế, dư nợ tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất
công nghiệp (68%), kinh doanh dịch vụ (26%), xây dựng (3%), hoạt động
phục vụ cá nhân và cộng đồng (2%), các ngành khác (1%).
Bảng 2.6 Dư nợ DNVVN tại Chi nhánh NHCT Bình Tân theo ngành kinh tế ĐVT: triệu đồng
Năm Khác Cộng Công nghiệp Xây dựng Thương nghiệp Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng
3.235 93.114 1.477 143.914
13.638 1.926 2005 73.414 900 2006 98.494 4.305 36.728 2.909 Nguồn: Báo cáo của Chi nhánh NHCT Bình Tân
- Về chất lượng dư nợ: tổng dư nợ tín dụng hiện tại của Chi nhánh đều
là nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn), chưa có nợ xấu phát sinh và các khoản nợ
này đều có tài sản đảm bảo theo đúng quy định, góp phần làm cho chất lượng
dư nợ được đảm bảo tốt.
2.4.3 Các hoạt động dịch vụ khác:
2.4.3.1 Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ:
Trong năm 2006, Chi nhánh mới triển khai thực hiện được dịch vụ thẻ
ATM của NHCTVN tại Chi nhánh nhằm đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân
hàng đối với khách hàng như chi trả lương cho doanh nghiệp qua thẻ ATM…
và nâng cao thu phí dịch vụ góp phần quảng bá thương hiệu của NHCTVN.
Tính đến 31/12/2006, tổng số thẻ phát hành đạt 500 thẻ. Số lượng thẻ ATM
còn ít do Chi nhánh mới lắp đặt được 1 máy tại Khu công nghiệp Tân Tạo,
trong khi đó tại đây có rất nhiều máy của các NHTM khác như Ngân hàng
36
Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân
hàng Đông Á và các ngân hàng này phát hành thẻ miễn phí cho các doanh
nghiệp hoạt động trong Khu công nghiệp.
2.4.3.2 Hoạt động kinh doanh ngoại tệ :
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ năm 2006 giảm so với năm 2005, trong
đó doanh số mua vào năm 2006 đạt 13.990 ngàn USD, giảm 21,62% so với
năm 2005, doanh số bán ra năm 2006 đạt 14.064 ngàn USD, giảm 21,69% so
với năm 2005. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh ngoại tệ đã đáp ứng được nhu
cầu thanh toán tiền nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ
sản xuất kinh doanh của khách hàng là doanh nghiệp.
ĐVT: ngàn USD Bảng 2.7 Kết qủa kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh NHCT Bình Tân
Kinh doanh ngoạt tệ Năm 2005 Năm 2006
17.848 13.990 -21,62 17.960 14.064 -21,69
-Doanh số mua Tăng/giảm so với năm trước (%) -Doanh số bán Tăng/giảm so với năm trước (%) Nguồn: Chi nhánh NHCT Bình Tân
2.4.3.3 Hoạt động thanh toán :
Dịch vụ thanh toán ngày càng phát triển theo sự phát triển của công
nghệ ngân hàng, đã góp phần lưu chuyển nhanh nguồn vốn trong nền kinh tế,
thúc đẩy sản xuất, tăng tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt. Hoạt động thanh
toán tại Chi nhánh đã được thực hiện đúng theo quy định, chưa phát sinh sai
sót nên đã đáp ứng được nhu cầu thanh toán của khách hàng, Trong đó:
Hoạt động thanh toán trong nước đối với DNVVN ngày càng phát triển
được thể hiện qua số lượng tài khoản tiền gửi thanh toán của DNVVN tại Chi
nhánh tăng qua các năm, hầu hết tài khoản tiền gửi thanh toán mà các
37
DNVVN mở tại Chi nhánh đều được sử dụng giao dịch qua ngân hàng và các
phương tiện thanh toán khác mà ngân hàng cung cấp như Séc, ủy nhiệm chi,
uỷ nhiệm thu, L/C… để thực hiện việc nộp, rút tiền mặt, chuyển khoản trong
cùng hệ thống NHCT hoặc chuyển tiền đi và nhận tiền qua tài khoản mở tại
ngân hàng khi đã cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế cũng phát triển và đã đáp ứng được nhu
cầu thanh toán giá trị hàng hoá nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu
phục vụ sản xuất kinh doanh của các DNVVN dưới các phương thức thanh
toán như phương thức nhờ thu, phương thức chuyển tiền… Năm 2005, số
lượng thanh toán nhờ thu là 32 món, giá trị thanh toán chuyển tiền đi là 3 triệu
USD và thanh toán chuyển tiền đến là 3,4 triệu USD thì đến năm 2006 số
lượng thanh toán là 38 món, giá trị thanh toán chuyển tiền đi là 8,2 triệu USD,
giá trị thanh toán chuyển tiền đến là 5,3 triệu USD.
2.4.4 Đặc điểm của các DNVVN có quan hệ với Chi nhánh NHCT
Bình Tân:
Trong quá trình tài trợ DNVVN tại Chi nhánh NHCT Bình Tân, cho
thấy DNVVN có các đặc điểm sau:
- Các DNVVN đang quan hệ tại Chi nhánh NHCT Bình Tân đều là các
doanh nghiệp có trụ sở hoạt động tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh, dưới
các loại hình công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 76% tổng số DNVVN) và hộ đăng ký
kinh doanh cá thể (chiếm 24% tổng số DNVVN); hoạt động sản xuất kinh
doanh đa ngành nghề, chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp.
Trong tổng số 164 DNVVN có vay vốn tại Chi nhánh NHCT Bình Tân có 133
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp, chiếm
81% trong tổng số DNVVN đang vay tại Chi nhánh. Đây cũng là lĩnh vực
38
- Đa số các doanh nghiệp trong khu công nghiệp là các doanh nghiệp
mới di dời nhà xưởng từ khu dân cư nội thị vào, phải chịu chi phí đầu tư ban
đầu lớn cho việc thuê đất và xây dựng nhà xưởng nên hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp bị lỗ trong thời gian đầu.
- Các doanh nghiệp đều có báo cáo tài chính khi vay vốn ngân hàng
nhưng chưa được kiểm toán độc lập, đa số các báo cáo tài chính này được xây
dựng để đối phó với cơ quan thuế, thường thấp hơn tình trạng thực tế, không ít
DNVVN có lãi trên thực tế nhưng trên báo cáo tài chính lại thể hiện lỗ… Bên
cạnh đó, các DNVVN trong bán hàng thường ít lập hợp đồng kinh tế, ít lập
chứng từ khi giao nhận hàng hoá hay thanh toán tiền hàng ít được lập thành
chứng từ. Điều này đã ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng.
- Tài sản được dùng để làm đảm bảo khoản vay của các doanh nghiệp
chủ yếu là tài sản cá nhân của chủ doanh nghiệp nên trách nhiệm của chủ
doanh nghiệp với khoản nợ ngân hàng là tương đối cao. Tài sản đảm bảo chủ
yếu của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp là máy móc thiết bị hình
thành từ vốn vay hay giá trị hợp đồng thuê lại đất đã được thanh toán hết và
nhà xưởng được xây dựng trên đất. Thời gian chờ đợi được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu văn phòng, nhà xưởng trên đất rất
lâu vì phụ thuộc vào quy trình thực hiện của các cơ quan chức năng.
- Đa số nhà xưởng, trụ sở làm việc của DNVVN, nhất là hộ kinh doanh
cá thể, cơ sở sản xuất chật hẹp, ngoại trừ các DNVVN trong khu công nghiệp;
sản phẩm chủ yếu tiêu thụ ở thị trường trong nước.
- Cơ cấu tổ chức của DNVVN phần lớn chưa chặt chẽ, việc quản lý
mang nặng tính gia đình thể hiện qua sổ sách theo dõi tài chính, hoạt động
39
kinh doanh rất đơn giản; chưa có kế hoạch, chiến lược cụ thể trong kinh
doanh.
- Phần lớn nguồn vốn kinh doanh của các DNVVN là vốn tự có được
tích tụ trong quá trình sản xuất kinh doanh và huy động từ anh em, bạn bè nên
thường có trách nhiệm cao trong sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn vay.
Việc vay vốn ngân hàng được tính toán rất kỹ lưỡng về số tiền, thời hạn, lãi
suất vay, phí nhằm đảm bảo vốn cho nhu cầu kinh doanh với chi phí thấp
nhất.
- Các hộ kinh doanh cá thể, cơ sở sản xuất tận dụng được lao động gia
đình, tiết kiệm được nhiều chi phí so với các doanh nghiệp như chi phí đầu tư
tài sản cố định, chi phí quản lý, chi phí nguyên vật liệu,… nên hiệu quả kinh
doanh của nhiều hộ kinh doanh cá thể cao.
2.5 Đánh giá về hoạt động tài trợ DNVVN của Chi nhánh NHCT
Bình Tân :
2.5.1 Những kết quả đạt được:
Chi nhánh được thành lập từ cuối năm 2004, bước đầu khó tránh khỏi
nhiều khó khăn nhưng đến nay Chi nhánh đã cố gắng, nỗ lực vươn lên, tạo
được sự tăng trưởng tín dụng phát triển vững chắc, ổn định và hiệu quả. Định
hướng hoạt động của Chi nhánh đối với khách hàng DNVVN phù hợp với
định hướng phát triển khách hàng DNVVN của NHCTVN và quá trình phát
triển của loại hình doanh nghiệp này.
- Đến nay, nhóm khách hàng DNVVN tại Chi nhánh NHCT Bình Tân
đang chiếm tỷ lệ rất lớn, ổn định và hiệu qủa trong hoạt động của Chi nhánh
nói chung, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng. Đến 31/12/2006, lợi nhuận
của Chi nhánh đạt 3 tỷ đồng, giảm 21,25% so với lợi nhuận năm 2005.
Nguyên nhân không phải do thu nhập giảm mà ngược lại thu nhập tăng trưởng
40
cao (tăng 23%) nhưng do chi phí trả lãi điều chuyển vốn chiếm tỷ trọng lớn
nên đã ảnh hưởng đến lợi nhuận của Chi nhánh.
- Đi đôi với việc tăng cường mở rộng tín dụng đối với các DNVVN là
việc đảm bảo chất lượng tín dụng đối với loại khách hàng này tại Chi nhánh.
Đến 31/12/2006, chất lượng tín dụng tại Chi nhánh được đảm bảo tốt, chưa
phát sinh nợ xấu, nợ quá hạn. Điều này khẳng định được việc cho vay đối với
loại hình doanh nghiệp này của Chi nhánh đang đi đúng hướng và hoạt động
có hiệu qủa của loại hình này trong nền kinh tế.
- Các DNVVN đã được đáp ứng bởi hầu hết các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng (huy động vốn, dịch vụ cho vay, thanh toán, bảo lãnh, ...), đặc biệt là
trong hoạt động tín dụng, Chi nhánh đã đáp ứng phần nào về nhu cầu vốn lưu
động cho hoạt động sản xuất kinh doanh và nhu cầu vốn trung dài hạn cho
việc đầu tư tài sản cố định như xây dựng, nâng cấp nhà xưởng, mua sắm trang
thiết bị, đổi mới công nghệ của các DNVVN nhằm nâng cao năng lực sản xuất
và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh.
2.5.2 Những khó khăn, tồn tại trong tài trợ DNVVN:
Có thể nói hầu hết các dịch vụ ngân hàng đã đến với các doanh nghiệp.
Tuy nhiên khó khăn lớn nhất, bức xúc nhất của các DNVVN hiện nay vẫn là
thiếu vốn bởi năng lực tài chính nội tại của các doanh nghiệp này hạn chế, quá
trình tiếp cận vốn ngân hàng còn gặp rất nhiều rào cản.
2.5.2.1 Từ cơ chế, chính sách của Nhà nước:
Cơ chế chính sách của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước tuy ngày
càng hoàn thiện, vẫn chưa theo kịp với sự biến đổi nhanh chóng của cơ chế thị
trường trong quá trình hội nhập. Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động
tín dụng liên quan nhiều đến cơ chế, chính sách của nhà nước, của các ngành,
các cấp liên quan, cụ thể như sau:
41
- Về đăng ký giao dịch đảm bảo:
Trong thủ tục đăng ký và xoá đăng ký giao dịch bảo đảm, thời gian giải
quyết hồ sơ của cơ quan đăng ký thường chậm (đăng ký giao dịch bảo đảm
mất 5 ngày, xoá đăng ký giao dịch bảo đảm mất 5 ngày) và còn nhiều bất cập
như:
+ Theo Mục III của Thông tư 05, hồ sơ đăng ký thế chấp bằng quyền sử
dụng đất tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai phải có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, quy định trên không phù hợp với
trường hợp thế chấp bằng tài sản hình thành trong tương lai do chủ sở hữu tài
sản có quyết định giao đất của cấp thẩm quyền mà chưa có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tại khu công nghiệp hoặc bảo đảm bằng nhà ở gắn liền với
đất ở của những căn hộ chung cư hình thành từ vốn vay tại khu đô thị do
khách hàng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với
đất hình thành trong tương lai.
+ Thế chấp tài sản gắn liền với đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phải
đăng ký, trong khi Nghị định 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 sửa đổi, bổ
sung Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 chỉ quy định tài sản được
dùng để bảo đảm cho các nghĩa vụ trả nợ tại nhiều TCTD mới phải đăng ký
còn tại một TCTD thì không có quy định.
+ Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể
từ thời điểm đăng ký (Điều 8, 1 khoản 8 mục I Thông tư 05/2005/TTLT-TP-
TNMT) quy định này chỉ áp dụng đối với hợp đồng thế chấp khác. Tuy nhiên,
khi thực hiện tại địa phương thì tất cả các hợp đồng thế chấp bảo đảm tiền vay
điều phải qua đăng ký làm ảnh hưởng đến thời gian giải quyết cho vay.
Những bất cập này đã ảnh hưởng đến quá trình cho vay và giải ngân
của ngân hàng, một phần khiến khách hàng khó tiếp cận vốn vay của ngân
42
hàng, nhiều khách hàng mất đi cơ hội kinh doanh khi nhu cầu vay vốn cần
được giải ngân sớm.
Mặt khác, Trung tâm đăng ký nhà đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi
trường TP.HCM đã tạm ngưng đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử
dụng đất đối với những trường hợp có giấy tờ hợp lệ nhưng chưa được cấp
đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở và quyền sử dụng đất ở tạo ra cho các TCTD trên địa bàn thành phố gặp
rất nhiều khó khăn trong quá trình đăng ký giao dịch bảo đảm.
- Về thực hiện công chứng, chứng thực : Hiện nay tại TPHCM có nhiều
loại giấy tờ khác nhau về hình thức chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, đất ở.
Rất nhiều nhà, đất của khách hàng chưa được chuyển đổi theo mẫu thống nhất
- Giấy Hồng “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất”
nên khách hàng không thể công chứng, chứng thực hợp đồng bảo đảm bằng
tài sản gắn liền với đất hoặc bằng quyền sử dụng đất tại các phòng công
chứng. Các quy định về công chứng, chứng thực cũng còn bất cập. Điều này
làm cho khách hàng, nhất là DNVVN vốn đã có ít tài sản để làm tài sản đảm
bảo khoản vay lại càng không có tài sản để thế chấp ngân hàng.
- Quy định của nhà nước về cấp giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài
sản và quyền sử dụng đất chưa chặt chẽ: Ở nhiều địa phương, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới cả 3 hình thức bìa đỏ, bìa hồng và bìa
xanh; Nhà nước chỉ khuyến khích chứ không bắt buộc đổi giấy tờ chứng nhận
quyền sở hữu mới. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong kiểm soát và
thẩm định tính pháp lý của hồ sơ tài sản bảo đảm. Ngoài ra, tại một số địa
phương, thủ tục hành chính về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
và chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho các doanh nghiệp nói chung còn
chậm gây khó khăn cho việc hoàn thiện hồ sơ tài sản bảo đảm. Điều này đã
góp phần hạn chế nguồn vốn đầu tư vốn đã hạn hẹp của doanh nghiệp.
43
- Thông tin về tài chính doanh nghiệp và TDNH do Trung tâm thông
tin tín dụng (CIC) cung cấp chưa cập nhật, khối lượng thông tin chưa đầy đủ,
nhất là khi nhiều TCTD chưa chấp hành tốt khâu báo cáo rủi ro. Hoạt động
của trung tâm còn khá thụ động, cho nên vẫn chưa đáp ứng tốt những nhu cầu
thông tin của các bên để đánh giá, thẩm định khoản vay và kiểm soát chất
lượng tín dụng còn hạn chế.
- Việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng được Chính phủ ban hành cách
nay 6 năm theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN để
bảo lãnh cho các DNVVN khi không đủ tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn của
các TCTD hầu như không triển khai được. Theo Quyết định số 193/2001/QĐ-
TTg ngày 20/12/2001 về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt
động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN, vốn điều lệ của Quỹ tối thiểu là
30 tỷ đồng, trong đó vốn cấp của ngân sách tỉnh không quá 30% nhưng các
địa phương không đủ ngân sách để góp vốn vào Qũy. Đến năm 2004, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 115/2004/QĐ-TTg về việc sửa đổi,
bổ sung Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng
cho DNVVN ban hành kèm theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg nhưng cho
đến nay mới chỉ một số ít địa phương triển khai được, một số tỉnh, thành phố
khác còn đang trong thời gian chuẩn bị. Nguyên nhân của sự chậm trễ triển
khai thành lập Qũy là do hầu hết các địa phương không đủ ngân sách để đóng
góp, trong khi các doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề càng không có vốn để
góp khi bản thân họ cũng đang thiếu vốn để kinh doanh, tất nhiên không thừa
tiền để lập quỹ cho doanh nghiệp khác vay, rồi cạnh tranh với mình. Quyền
lợi cũng như trách nhiệm của người hay tổ chức góp vốn chưa được xác định
rõ và việc điều hành tác nghiệp quỹ quá phức tạp. Ngay cả Ngân hàng Nhà
nước, cơ quan chịu trách nhiệm thực thi các quyết định về Quỹ bảo lãnh tín
dụng đến đầu năm 2006 chỉ mới ban hành một Thông tư hướng dẫn một số
44
nội dung về góp vốn thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng trong đó nêu rõ, khi nào
các TCTD "có nhu cầu" căn cứ trên tình hình thực tế để quyết định tham gia
góp vốn. Tuy nhiên, nếu chỉ động viên khuyến khích thì rất khó bởi các ngân
hàng phải bảo toàn vốn và kinh doanh có lãi, không thể làm công việc chính
sách. Do đó, các TCTD không hào hứng với việc góp vốn thành lập Quỹ bảo
lãnh tín dụng.
+ Một số bất cập liên quan đến quá trình xử lý, phát mãi tài sản đảm
bảo nợ vay như thời gian để hoàn thành thủ tục phát mãi tài sản thế chấp thu
hồi nợ quá dài (từ khi tiến hành khởi kiện ra tòa án, đến khi thi hành án, bán
đấu giá tài sản để thu được nợ vay mất trung bình khỏang 2 năm) làm hạn
chế, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các TCTD cũng như rủi ro phát
sinh cũng rất lớn.
2.5.2.2 Từ phía DNVVN:
Quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ, năng lực tài chính của doanh nghiệp
không mạnh đã hạn chế khả năng đầu tư, không đáp ứng yêu cầu của ngân
hàng về mức vốn tự có tối thiểu và các hệ số tài chính cơ bản để được vay
vốn. Tỷ trọng vốn tự có nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của doanh
nghiệp làm cho các doanh nghiệp dễ vỡ nợ khi đối mặt với những diễn biến
bất thường của thị trường, đặc biệt đối với các DNVVN trong Khu công
nghiệp Tân Tạo. Đa số là các doanh nghiệp bị buộc phải di dời khỏi khu dân
cư nội thị vào khu công nghiệp nên chi phí đầu tư ban đầu để xây dựng cơ sở
vật chất rất lớn và đa số họ trong thời gian này rất khó khăn về tài chính. Do
đó, khó có khách hàng DNVVN nào trong khu công nghiệp đủ điều kiện được
vay.
Đa số DNVVN chưa chấp hành tốt các quy định về kế toán, thống kê.
Hệ thống báo cáo tài chính thường không đầy đủ, không cập nhật, độ tin cậy
kém, nhiều hệ thống sổ sách kế toán song hành nên tình hình tài chính của các
45
DNVVN không đảm bảo tính minh bạch, gây khó khăn cho ngân hàng trong
quá trình thẩm định, đánh giá doanh nghiệp và ra quyết định cho vay. Hơn
nữa, các giao dịch của DNVVN, nhất là của các hộ kinh doanh, các cơ sở sản
xuất thường theo phương thức trao tay không có hợp đồng kinh tế, một số
trường hợp thậm chí không có hoá đơn, thanh toán bằng tiền mặt nên ngân
hàng rất khó đánh giá doanh số hoạt động thực tế cũng như xác minh nguồn
trả nợ.
Vốn đăng ký kinh doanh của các DNVVN thường thấp hơn rất nhiều so
với vốn thực tế đưa vào kinh doanh. Vốn góp không chính thức và vốn huy
động từ gia đình, bạn bè, người thân thường thể hiện dưới dạng nợ phải trả.
Điều đó tạo ra hệ quả là vốn tự có thấp và các hệ số tài chính cơ bản không
đáp ứng được yêu cầu cho vay mặc dù doanh nghiệp có thể chứng minh được
vốn tự có tham gia lớn.
Doanh nghiệp không hiểu về cơ chế tín dụng của NHTM, có tâm lý sợ
thủ tục vay vốn của ngân hàng rườm rà, phức tạp, việc giải quyết cho vay của
ngân hàng khó khăn hoặc sợ minh bạch tình hình tài chính, sẽ tiết lộ bí mật
kinh doanh. Phần lớn các DNVVN thiết lập thủ tục vay vốn không đúng yêu
cầu của ngân hàng.
Tính kế hoạch, tính chiến lược trong hoạt động sản xuất kinh doanh
không cao, đặc biệt là khả năng thiết lập kế hoạch tài chính; phương án, kế
hoạch sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư rất hạn chế, sơ sài, hoạt động kinh
doanh chủ yếu theo thương vụ nên thiếu tính thuyết phục khi ngân hàng thẩm
định cho vay.
Nhà xưởng, trụ sở làm việc của DNVVN, nhất là hộ kinh doanh cá thể,
cơ sở sản xuất chật hẹp; công nghệ sản xuất của các DNVVN đang sử dụng
đã lạc hậu. Điều này dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra chưa thể đáp ứng yêu
46
cầu mỹ thuật, chất lượng nên khả năng cạnh tranh chưa cao, chủ yếu tiêu thụ
ở thị trường trong nước.
Việc quản lý điều hành sản xuất kinh doanh của đội ngũ lãnh đạo
DNVVN thiếu bài bản, mang nặng tính gia đình, chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm; bộ máy quản lý tài chính thường hay thay đổi, vì vậy khó khăn trong
phối hợp với ngân hàng.
Chủ doanh nghiệp, cán bộ giao dịch với ngân hàng còn thiếu kinh
nghiệm, có tư tưởng e ngại, thiếu tự tin trong quan hệ, trong khả năng thuyết
trình, đàm phán với ngân hàng.
Các DNVVN thường thiếu tài sản, nhất là bất động sản để đảm bảo nhu
cầu vay vốn ngân hàng. Trong khi đó, tài sản của đa số các DNVVN hoạt
động trong Khu công nghiệp Tân Tạo có thể được dùng làm đảm bảo khoản
vay là giá trị hợp đồng thuê đất đã thanh toán hết và nhà xưởng được xây
dựng trên đất nhưng lại chưa có Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu công trình của các cơ quan chức năng do thời gian cấp giấy
chứng nhận dài nên tài sản của khách hàng chưa đầy đủ tính pháp lý để làm
tài sản đảm bảo.
2.5.2.3 Từ phía ngân hàng:
a/ Từ phía Chi nhánh NHCT Bình Tân:
Chi nhánh vẫn chưa khai thác tích cực nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư
và các tổ chức kinh tế, đặc biệt là các nguồn vốn có lãi suất thấp. Nguồn vốn
huy động bằng VNĐ hiện đang bị hạn chế, mặc dù Chi nhánh đã bắt đầu triển
khai dịch vụ thẻ ATM để gia tăng lượng tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất
thấp nhưng hoạt động này vẫn chưa hiệu qủa do hiện nay Chi nhánh chỉ mới
có 1 máy ATM được đặt tại khu công nghiệp, xa khu dân cư, ít người biết đến
và thường bị lỗi kỹ thuật khi sử dụng. Nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ rất
47
thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu thanh toán L/C nhập khẩu của doanh nghiệp
do Chi nhánh chưa có nhiều khách hàng hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu.
Do nguồn vốn huy động không đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn tại Chi
nhánh ngày càng tăng nên Chi nhánh phải nhận nguồn vốn điều hoà của
NHCTVN với lãi suất cao, ảnh hưởng đến lãi suất cho vay của Chi nhánh. Vì
vậy, sự hạn chế về nguồn vốn huy động là một trong những nguyên nhân gây
khó khăn cho việc phát triển hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của
ngân hàng đối với khách hàng, đặc biệt là DNVVN.
Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp cho DNVVN tại Chi nhánh
chưa đa dạng, chủ yếu vẫn là các sản phẩm truyền thống như huy động vốn và
cấp tín dụng. Sự đơn điệu còn được thể hiện ngay cả trong sản phẩm truyền
thống như nhận tiền gửi và chủ yếu cho vay, bảo lãnh. Các dịch vụ hỗ trợ phi
tài chính đối với khách hàng như cung cấp thông tin, đào tạo, tư vấn... còn
hạn chế. Quy trình, thủ tục của sản phẩm dịch vụ chưa được thiết kế phù hợp
với khách hàng có quy mô vừa và nhỏ nên còn khá rườm rà, phức tạp.
Hệ thống thông tin về khách hàng còn nhiều bất cập, thiếu tin cậy, chưa
phục vụ được nhiều cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng do dữ liệu nhập
chưa chính xác và thiếu sự kiểm tra, đôn đốc kịp thời của cán bộ quản lý.
Lực lượng cán bộ thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, chưa tương
xứng với đặc thù số lượng khách hàng DNVVN đông, qui mô nhỏ nên việc bố
trí đủ cán bộ chuyên phục vụ nhóm khách hàng này là một khó khăn cho Chi
nhánh.
Công tác tuyên truyền, quảng bá hoạt động phục vụ khách hàng
DNVVN của Chi nhánh NHCT Bình Tân còn hạn chế. Mặc dù tỷ trọng phục
vụ khách hàng DNVVN khá lớn nhưng chưa tạo dựng được hình ảnh là một
ngân hàng có ưu thế trong tài trợ DNVVN.
48
Tuy các Nghị định 178/1999/NĐ-CP, Nghị định 82/2002/NĐ-CP và
Thông tư 05/2005/TT-NHNN quy định các hình thức đảm bảo tiền vay như
thế chấp, cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, đảm bảo bằng tài sản
hình thành từ vốn vay, đảm bảo bằng tín chấp của các tổ chức chính trị – xã
hội và cho vay không có bảo đảm, hiện nay Chi nhánh chỉ nhận tài sản là bất
động sản làm tài sản đảm bảo khoản vay.
b/ Từ phía NHCTVN:
Quy trình sản phẩm tín dụng áp dụng chung cho mọi đối tượng khách
hàng, không phân biệt quy mô khách hàng và khoản vay nên có những điểm
chưa phù hợp với các DNVVN. Mặt khác, loại sản phẩm theo tên gọi hiện
nay như cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn... mang tính tổng hợp, hàm
chứa trong đó nhiều loại sản phẩm nhỏ. Vì vậy, chưa thể phân tích, đánh giá
loại sản phẩm nào nên kết hợp với nhau để tạo thành sản phẩm trọn gói...
Quy định về bảo đảm tiền vay của NHCTVN còn một số điểm bất cập
như còn phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài
quốc doanh về mức cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa, quy định bắt
buộc chi nhánh thuê tư vấn định giá trong trường hợp giá quyền sử dụng đất
cao hơn khung giá quy định của nhà nước, trong khi các ngân hàng khác
không thực hiện quy định này.
Một số khoản phí của NHCTVN cao hơn của các ngân hàng khác như
phí chuyển tiền… và một số khoản phí được NHCTVN áp dụng, trong khi các
ngân hàng khác chưa áp dụng như phí cung cấp bản sao chứng từ, phí thay
đổi giá trị bảo đảm nhưng không thay đổi tài sản bảo đảm,... ít nhiều ảnh
hưởng đến khả năng thu hút khách hàng.
Phạm vi hoạt động của các chi nhánh phụ thuộc mức phân cấp quản lý
của Tổng giám đốc NHCTVN. Do đó, muốn cho vay doanh nghiệp tại khu
49
công nghiệp, cụm công nghiệp là chi nhánh hay thành viên phụ thuộc đơn vị
chính đóng ở địa bàn khác, theo quy định của NHCTVN thì phải trình Tổng
giám đốc phê duyệt, dù khách hàng đáp ứng đủ điều kiện vay vốn.
Một số khách hàng vay theo phương thức hạn mức tín dụng có tài sản
thế chấp bảo đảm nợ vay đã qua chứng thực của công chứng nhà nước để thực
hiện đăng ký giao dịch bảo đảm, nhưng theo công văn số 067/CV-HĐQT-
NHCT5 của Hội đồng Quản trị NHCTVN ban hành ngày 27 tháng 05 năm
2003, hợp đồng bảo đảm bổ sung, khi đánh giá lại tài sản bảo đảm cũng phải
được công chứng Nhà nước chứng thực lại.
Hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng tuy đã được hiện đại hóa
nhưng chưa hoàn chỉnh và thường bị nghẽn mạch, đứng mạng, nhất là vào giờ
cao điểm nên các giao dịch thường được thực hiện khá lâu, gây phiền hà cho
khách hàng.
Kết luận: Việc phân tích tình hình tại Chi nhánh NHCT Bình Tân cho thấy
những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, khó khăn trong việc tài trợ
cho DNVVN của Chi nhánh, từ đó có giải pháp thích hợp nhằm tăng cường
khả năng tài trợ cho DNVVN.
50
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TÀI TRỢ DNVVN TẠI
CHI NHÁNH NHCT BÌNH TÂN
3.1 Định hướng tài trợ DNVVN của Chi nhánh NHCT Bình Tân năm
2007:
- Xây dựng hình ảnh NHCTVN là ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam
phục vụ DNVVN từ nay đến năm 2010.
- Doanh số hoạt động phục vụ khách hàng ở tất cả các lĩnh vực tiền gửi,
tín dụng, dịch vụ đều tăng trưởng, cụ thể:
+ Tốc độ huy động vốn tăng 47%.
+ Tốc độ cho vay đối với nền kinh tế tăng 19%.
+ Tốc độ thu phí dịch vụ tăng 41%
- Hoạt động tín dụng: cho vay 100% doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tỷ
trọng dư nợ tín dụng DNVVN chiếm đa số tổng dư nợ toàn Chi nhánh; tỷ lệ
nợ xấu (nhóm 3,4,5) là 0%.
3.2 Giải pháp tăng cường tài trợ DNVVN :
3.2.1 Giải pháp về tạo nguồn vốn cho ngân hàng để tài trợ DNVVN:
Đẩy mạnh khai thác, tăng trưởng nguồn vốn theo hướng đa dạng hoá
hình thức huy động vốn, đặc biệt là các nguồn vốn đầu vào thấp, để đáp ứng
nhu cầu vốn của DNVVN. Sự thiếu hụt nguồn vốn làm hạn chế sự tăng trưởng
tín dụng và ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Thực tế trong
thời gian qua, Chi nhánh phải nhận khá nhiều nguồn vốn điều hoà của
NHCTVN để đáp ứng nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp - đặc biệt của các
DNVVN - ngày càng tăng tại Chi nhánh. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến
việc gia tăng lãi suất cho vay và phí dịch vụ. Do đó, việc thu hút nguồn vốn có
51
lãi suất thấp, ổn định để bổ sung nguồn tài trợ DNVVN có ý nghĩa rất lớn, cụ
- Thực hiện công cụ lãi suất huy động linh hoạt, nhanh nhạy, phù hợp
thể là:
- Thu hút tăng số lượng khách hàng mở tài khoản giao dịch.
- Phát triển dịch vụ thẻ ATM bằng cách tiếp cận các siêu thị, khách sạn,
với diễn biến thị trường, đảm bảo cạnh tranh được với các ngân hàng khác.
nhà hàng… để mở các cơ sở chấp nhận thẻ Visa, Master Card, Cash Card...
Mở rộng dịch vụ chi trả lương qua hệ thống máy ATM đối với các doanh
- Tổ chức thực hiện dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế Visa, Master Card, chi
nghiệp và tổ chức có đông công nhân, đông người lao động...
trả kiều hối Western Union, Well-Fargo, tư vấn, hỗ trợ khách hàng, quảng bá
- Cùng với việc triển khai sử dụng các hình thức huy động vốn truyền
và tiếp thị dịch vụ này tại Chi nhánh, trung tâm và các điểm giao dịch.
thống, cần phát triển các sản phẩm huy động vốn mới, đa dạng các kỳ hạn
khác nhau, phương thức huy động tiền gửi và phương thức trả lãi linh hoạt
như đa dạng nhiều kỳ hạn gửi khác nhau như 1 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3
tháng…hoặc tiết kiệm rút gốc linh hoạt dựa trên cơ sở thoả thuận giữa ngân
hàng và khách hàng. Khách hàng rút tiền khi nào, thì tính toán thực tế số ngày
gửi để tính lãi suất thực tế phù hợp với kỳ hạn đó… Đây là hình thức huy
- Sớm triển khai mở các điểm giao dịch nằm ngoài khu công nghiệp, tại
động vốn cạnh tranh có hiệu qủa.
những khu vực đông dân cư, kinh tế phát triển để khai thác nguồn tiền nhàn
- Lẽ sống còn của Chi nhánh NHCT Bình Tân cũng như của các chi
rỗi của dân cư.
nhánh khác là phải kéo giảm chi phí đầu vào. Thị trường đã định lãi suất cho
vay hay mức phí dịch vụ như mức trần không thể vượt qua nếu muốn giữ chân
52
khách hàng. Cay nghiệt hơn là mức trần này lại có xu hướng giảm dưới áp lực
của cạnh tranh. Lợi nhuận hạch toán của Chi nhánh NHCT Bình Tân nằm ở
khoảng chênh lệch giữa mức trần này và chi phí đầu vào.
Sự cạnh tranh quyết liệt lại diễn ra luôn cả đối với chi phí điều hành và
chi phí huy động. Tiết kiệm chi tiêu nội bộ không đơn thuần là chống lãng phí
mà còn góp phần tích cực vào việc tăng lợi nhuận cho Chi nhánh. Thị trường
cạnh tranh tạo nên một mức sàn đối với chi phí huy động. Bản thân ngân hàng
nào cũng muốn giảm lãi tiền gửi các loại xuống càng thấp càng tốt nhưng họ
không làm được vì sẽ mất khách hàng.
Lối thoát cuối cùng nằm ở nguồn vốn phi giá trong thanh toán. Khách
hàng muốn ra lệnh cho ngân hàng chuyển tiền đi đâu đó hay thanh toán cho ai
đó, bắt buộc phải chuẩn bị đủ tiền. Khi bắt đầu thực hiện lệnh, ngân hàng trích
ngay tài khoản của người ra lệnh. Khoản tiền này được treo trên mạng của hệ
thống ngân hàng cho đến khi được ghi có tài khoản hay chi trả cho người
hưởng. Đây là nguồn vốn trong thanh toán mà ngân hàng được hưởng miễn
phí huy động, thậm chí ngân hàng còn thu phí dịch vụ chuyển tiền hay thanh
toán. Công nghệ thông tin phát triển đã rút ngắn thời gian thực hiện lệnh, kéo
giảm nguồn vốn này. Nếu ngân hàng thực hiện tốt khâu thanh toán, tạo uy tín
thu hút được khách hàng, doanh số tăng thêm bù đắp được sự sụt giảm do rút
ngắn thời gian.
DNVVN thuộc khu vực tư nhân chưa hoàn toàn tin tưởng vào ngân
hàng nên ít chịu để tiền tồn đọng trong tài khoản tiền gửi. Họ thường cất giữ
tiền mặt ở cơ sở vừa tránh được cảnh phải bị duyệt chi đã xảy ra trong quá khứ,
vừa tự do quay vòng vốn ngoài giờ ngân hàng làm việc, vừa tự do bảo toàn
vốn theo cách riêng qua trung gian của vàng hay USD.
3.2.2 Giải pháp về chế độ chăm sóc khách hàng:
53
- Tổ chức và xây dựng chính sách khách hàng dựa vào việc phân loại
khách hàng để có những chính sách chăm sóc đặc biệt đối với khách hàng
- Kéo dài thời gian phục vụ khách hàng tại các điểm kinh tế dân cư
chiến lược, khách hàng có nguồn tiền gửi lớn tại Chi nhánh.
- Vận động khách hàng gửi tiền tiết kiệm và chuyển tiền thanh toán qua
đông, sầm uất, có khả năng thu hút vốn.
tài khoản tại Chi nhánh để thường xuyên có nguồn vốn luân chuyển trên tài
khoản tiền gửi tại Chi nhánh góp phần phát triển nguồn vốn huy động tại chổ
- Nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cán bộ, nhân viên trong Chi
hỗ trợ cho nhu cầu sử dụng vốn của Chi nhánh;
nhánh đối với công tác huy động vốn, không chỉ cán bộ trực tiếp giao dịch tiền
gửi mà tất cả các cán bộ, nhân viên đều có trách nhiệm làm công tác tiếp thị cả
- Thường xuyên tổ chức học tập, trao đổi nghiệp vụ để nâng cao trình
tiền gửi lẫn tiền vay.
- Nâng cao tác phong, lề lối làm việc, văn hoá giao dịch và bố trí đội
độ chuyên môn cho cán bộ giao dịch, đáp ứng điều kiện hiện đại, hội nhập.
ngũ giao dịch viên có đủ năng lực, phẩm chất để đảm bảo thực hiện giao dịch
nhanh, chính xác, thể hiện phong cách chuyên nghiệp với thái độ phục vụ ân
- Cải tiến qui trình nghiệp vụ gọn nhẹ nhằm giảm thiểu các thủ tục giao
cần, niềm nở.
dịch như nhận tiền gửi, rút tiền hoặc thanh toán… để giảm bớt thời gian, chi
- Tăng cường hoạt động hỗ trợ phi tài chính đối với khách hàng
phí giao dịch cho khách hàng.
DNVVN nhằm thu hút khách hàng và gắn bó họ với Chi nhánh. Các hoạt động
hỗ trợ phi tài chính bao gồm cung cấp thông tin kinh tế, hướng dẫn thủ tục, hỗ
trợ thiết lập phương án, dự án vay vốn, giới thiệu các cơ hội kinh doanh, giới
54
thiệu đối tác đầu tư/bạn hàng/nhà cung cấp cho khách hàng thông qua nhiều
kênh khác nhau. Đồng thời Chi nhánh cũng có thể hỗ trợ những khách hàng
tiêu biểu tham gia các khoá đào tạo, tham gia triển lãm, hội chợ giới thiệu sản
phẩm, thúc đẩy quan hệ mua bán, chuyển giao công nghệ giữa các doanh
nghiệp trong và ngoài nước.
- Hoàn thiện mối quan hệ với giữa ngân hàng và khách hàng, trên cơ sở
củng cố khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới. Ngân hàng nên tạo sự bình
đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp mới thành lập đi vào
hoạt động với các doanh nghiệp đã có thương hiệu, giữa khách hàng mới và
khách hàng truyền thống. Không quá chú trọng vào mối quan hệ hình thức mà
cần quan tâm đến tình hình tài chính, tính khả thi và hiệu quả của phương án
- Áp dụng chính sách ưu đãi nhất định đối với doanh nghiệp. Thông
sản xuất kinh doanh.
qua việc xác định khách hàng chiến lược, phân loại khách hàng theo các tiêu
chí như có năng lực tài chính mạnh, sản xuất kinh doanh hiệu qủa cao, thường
xuyên duy trì số dư tiền gửi lớn, có tín nhiệm cao trong quan hệ tín dụng,
thanh toán, tạo lợi nhuận và doanh thu nhiều cho ngân hàng… để có các hình
thức khuyến khích như tăng lãi suất tiền gửi, miễn giảm phí dịch vụ, giảm lãi
suất tiền vay, tổ chức thăm hỏi khách hàng hoặc gia đình khách hàng vào dịp
lễ, Tết…
3.2.3 Giải pháp hoàn thiện và bổ sung các sản phẩm dịch vụ mới phù hợp
với DNVVN theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có và phát
triển sản phẩm mới phù hợp với DNVVN:
- Nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ hiện có tại ngân hàng theo
hướng chấp hành đúng quy trình thủ tục cung cấp sản phẩm, dịch vụ của
NHCTVN đã hướng dẫn khi tài trợ khách hàng DNVVN như định giá tài sản
bảo đảm, thu thập và xử lý thông tin trong trường hợp hệ thống báo cáo tài
55
chính của khách hàng không đầy đủ… Điều này không chỉ có ý nghĩa duy trì
được khách hàng cũ, thu hút được khách hàng mới mà còn đảm bảo thu nhập
cao cho ngân hàng qua việc tăng trưởng tín dụng gắn với nâng cao chất lượng
tín dụng.
- Trên cơ sở hướng dẫn thực hiện của NHCTVN, Chi nhánh cần nhanh
chóng triển khai thực hiện các sản phẩm, dịch vụ hiện chưa có tại Chi nhánh,
đặc biệt là các sản phẩm tín dụng như cho vay thông qua phát hành và sử dụng
thẻ tín dụng, cho vay theo hạn mức thấu chi, cho vay hợp vốn, cho vay theo
hạn mức tín dụng dự phòng... để đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
+ Cho vay thông qua phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: ngân hàng chấp
nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín
dụng để thanh toán tiềm mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền
tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng. Việc cho vay thông
qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng theo quy định của Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước và NHCTVN về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: ngân hàng cam kết đảm
bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng chỉ để
đầu tư cho dự án. Trong thời hạn hiệu lực rút vốn của hợp đồng khách hàng
phải trả phí cam kết theo mức quy định của ngân hàng.
+ Cho vay hợp vốn: ngân hàng cùng hệ thống hoặc phối hợp với một số
TCTD khác thực hiện cho vay đối với một dự án hoặc phương án vay của
khách hàng, trong đó NHCT hoặc một TCTD khác làm đầu mối giải ngân,
phát vay. Cho vay hợp vốn được thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của Ngân
hàng Nhà nước và hướng dẫn của NHCTVN.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi là việc ngân hàng thoả thuận bằng hợp
đồng chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán
56
của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà
nước về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
+ Triển khai các dịch vụ khác như dịch vụ quản lý tài sản, uỷ thác đầu
tư, tư vấn và cung cấp thông tin. Ngân hàng có cơ sở dữ liệu tương đối đầy đủ
về khách hàng, đồng thời hiểu sâu sắc nhất nghiệp vụ ngân hàng, tài chính,
tiền tệ nên có lợi thế trong việc tư vấn cho khách hàng. Tận dụng thế mạnh
này, các ngân hàng cần đẩy mạnh cung cấp dịch uỷ thác đầu tư, vụ tư vấn và
cung cấp thông tin không những cho các doanh nghiệp mà còn cho các cá
nhân. Ngoài ra, ngân hàng còn tư vấn về các lĩnh vực như pháp luật, đầu tư,
thuế...
- Chi nhánh cần tìm hiểu, nghiên cứu nhu cầu khách hàng, kinh nghiệm
của các ngân hàng trong và ngoài nước để thiết kế các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng phù hợp với DNVVN. Đặc biệt, cần chú trọng tới cung ứng dịch vụ ngân
hàng trọn gói, gắn phát triển và cung cấp sản phẩm tín dụng với các sản phẩm
dịch vụ và tiện ích khác như: tiền gửi, dịch vụ tài khoản, dịch vụ chi trả lương,
phát hành thẻ ATM cho người lao động của doanh nghiệp...
- Linh hoạt hình thức cho vay có đảm bảo và hình thức cho vay không
có đảm bảo bằng tài sản: Trong trường hợp năng lực của khách hàng thường
lớn hơn so với tài sản thực có của họ, muốn mở rộng tín dụng đồng thời giúp
doanh nghiệp phát triển, ngân hàng cần mạnh dạn áp dụng hình thức cho vay
đảm bảo bằng hàng hoá, dịch vụ. Ngân hàng có thể giải quyết cho vay căn cứ
vào tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh trang
của sản phẩm đó trên thị trường. Tài sản bảo đảm tiền vay chỉ là phương tiện
cuối cùng, là nguồn trả nợ khi rủi ro xảy ra, do vậy ngân hàng cần linh hoạt áp
dụng hình thức thế chấp, cầm cố, tín chấp, bão lãnh… sao cho phù hợp.
57
Hình thức đảm bảo bằng cầm cố hàng hóa đã có từ lâu trên thế giới. Để
thực hiện tốt, ngân hàng phải có nhà kho riêng hay kết hợp tốt với các tổng
kho, kho ngoại quan…
3.2.4 Giải pháp hỗ trợ:
3.2.4.1 Tăng cường tuyên truyền, quảng bá hoạt động của Chi nhánh để
thực hiện tốt chính sách khách hàng đối với DNVVN :
Trong xu thế nền kinh tế chú trọng về dịch vụ ngày nay, hoạt động
marketing, xúc tiến, thiết lập kênh phân phối, cổ động truyền thông, quảng cáo
và thăm hỏi, tặng quà lưu niệm cho khách hàng tác động rất lớn đến việc nắm
bắt nhu cầu của khách hàng. Do đó, ngân hàng cần:
- Xây dựng website Chi nhánh NHCT Bình Tân, trên website của ngân
hàng có trang web phục vụ riêng cho DNVVN. Trang web này là cầu nối giữa
ngân hàng với DNVVN thông qua việc cung cấp thông tin, quảng cáo, giới
thiệu, tạo điều kiện cho DNVVN và ngân hàng có cơ hội tìm hiểu lẫn nhau.
Đồng thời, đây cũng là bước đầu để phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử
đến các DNVVN.
- Tham gia hỗ trợ các DNVVN tham gia các hội chợ, triển lãm giới
thiệu sản phẩm nhằm thúc đẩy quan hệ mua bán, chuyển giao công nghệ giữa
các DNVVN; tổ chức, tham gia các hội thảo, diễn đàn về các chủ đề liên quan
tới phát triển DNVVN.
- Thiết kế các tờ rơi giới thiệu tính năng từng sản phẩm dịch vụ, cẩm
nang dịch vụ của Chi nhánh cũng như các chỉ dẫn cần thiết về quyền và nghĩa
vụ của khách hàng một cách ngắn gọn dễ hiểu, giúp khách hàng hiểu được cơ
bản về sản phẩm dịch vụ mình sẽ sử dụng và chủ động tìm đến ngân hàng khi
có nhu cầu và sử dụng.
58
- Thông qua các kênh thông tin đại chúng như: đài phát thanh, truyền
hình, báo chí (báo điện tử, các trang web), các ấn phẩm như báo, tạp chí;
marketing trực tiếp qua thư, điện thoại...; các quảng cáo ngoài trời… và các
hình thức tuyên truyền, quảng bá khác thiết thực, hiệu qủa sẽ giúp khách hàng
có được các thông tin cập nhật, nhất quán, có được sự hiểu biết cơ bản về các
sản phẩm dịch vụ của ngân hàng và nắm được cách thức sử dụng, lợi ích của
các sản phẩm ngân hàng.
- Tìm kiếm khách hàng tiềm năng thông qua những khách hàng đang
giao dịch do các doanh nghiệp thường có mối quan hệ mật thiết trong quá
trình kinh doanh và bản thân các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực
hiểu nhau rõ.
- Hằng năm, ngân hàng nên tổ chức hội nghị khách hàng để tạo sự gắn
bó giữa ngân hàng và khách hàng, đồng thời tham khảo ý kiến đánh giá của
khách hàng về sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng, để nghiên cứu điều chỉnh
cho phù hợp.
3.2.4.2 Mở rộng địa bàn hoạt động đầu tư tín dụng:
Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh được xem là điạ bàn có mật độ
DNVVN rất cao và cũng là nơi tập trung nhiều cơ sở ngân hàng nhất. Do đó,
đối với NHTM đây là địa bàn tiềm năng nhưng có tính cạnh tranh quyết liệt.
Trong thời gian sắp tới, Chi nhánh cần mở rộng hoạt động tín dụng ra các địa
bàn lân cận, nơi tập trung những khu công nghiệp qua việc phối hợp với các
chi nhánh NHCT khác trên điạ bàn để cung cấp các sản phẩm dịch vụ trọn gói,
gia tăng tiện ích cho khách hàng.
3.2.4.3 Hoàn thiện hệ thống thông tin :
59
Số lượng DNVVN đông nên việc hoàn thiện hệ thống thông tin (bao
gồm cả thông tin quản lý và thông tin phục vụ khách hàng) có ý nghĩa quan
trọng và là một nhiệm vụ cấp thiết.
- Muốn có được các thông tin đáng tin cậy thì phải chấn chỉnh ngay từ
khâu nhập dữ liệu từ hồ sơ giấy vào chương trình máy tính theo đúng quy
trình, đảm bảo thông tin chính xác, đầy đủ kịp thời. Hội sở chính cần sớm đưa
ra qui chế phối hợp cung cấp thông tin và xác định rõ thẩm quyền cũng như
trách nhiệm trong việc cung cấp, quản lý thông tin.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng, làm căn
cứ đưa ra các quyết định kinh doanh hiệu quả nhất đối với mỗi khách hàng.
- Thiết lập hệ thống dữ liệu, thông tin tín dụng, thông tin ngành hàng và
các thông tin liên quan nhằm phục vụ công tác thẩm định, quản lý các giới
hạn an toàn, cảnh báo sớm các dấu hiệu rủi ro…
3.2.5 Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chuyên sâu về DNVVN :
- Cần bổ sung đủ số lượng cán bộ, nhân viên có đủ năng lực, trình độ,
có tâm huyết và có đạo đức nghề nghiệp nhằm hạn chế sự kiêm nhiệm của cán
bộ, nhân viên trong công việc, để tập trung sâu vào chuyên môn, đáp ứng
lượng khách hàng đông, phù hợp với sự phân bố và phát triển của các
DNVVN.
- Song song với việc bổ sung đủ người phù hợp với số lượng khách
hàng, cần phải sắp xếp, bố trí nhân sự hợp lý, trên tinh thần đúng người, đúng
việc. Để giải quyết vấn đề này phải lập được một hệ thống tiêu chuẩn về trình
độ chuyên môn, kinh nghiệm, phẩm chất cá nhân cho từng chức danh cụ thể,
có như thế mới phát huy được sức mạnh tập thể, của cán bộ, nhân viên tâm
huyết với nghề.
60
- Không ngừng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân viên dưới
nhiều hình thức: bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, tổ chức tập huấn, thi tình
huống, đặc biệt là trình độ thẩm định dự án, phương án vay vốn, lựa chọn
khách hàng, vận dụng các chế độ thể lệ tín dụng đã ban hành nhằm bổ sung
những kỹ năng, kiến thức mới chuyên sâu về phục vụ khách hàng DNVVN.
Khuyến khích cán bộ, nhân viên tự đào tạo, nâng cao trình độ bằng chế độ hỗ
trợ kinh phí. Việc đào tạo không chỉ dừng lại ở các kiến thức chuyên môn mà
quan trọng hơn nữa là tăng cường tính chủ động của cán bộ, nhân viên khi
tiếp cận khách hàng, hoàn thiện các kỹ năng giao dịch.
- Không ngừng rèn luyện tư cách, đạo đức nghề nghiệp và nâng cao
tinh thần trách nhiệm của cán bộ nhân viên. Xỷ lý nghiêm minh đối với các
trường hợp vi phạm.
- Xây dựng chính sách tiền lương, tiền thưởng gắn với trình độ, chất
lượng và hiệu quả công việc, đồng thời có chính sách đãi ngộ phù hợp để
khuyến khích người tốt, người giỏi làm việc cho ngân hàng, tạo động lực cho
cán bộ tâm huyết với nghề.
3.3 Kiến nghị:
3.3.1 Đối với các cơ quan quản lý nhà nước:
3.3.1.1 Thực hiện chính sách phù hợp để hỗ trợ mặt bằng sản xuất ổn
định, lâu dài cho các DNVVN.
Trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước được giao đất và sử dụng
không có hiệu quả, đất đai bỏ hoang hoặc sử dụng không đúng mục đích, thì
các DNVVN (trong đó chủ yếu là doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân) lại
gặp rất nhiều khó khăn khi tìm mặt bằng kinh doanh với chi phí rất lớn. Ngay
cả khi doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất thì việc lo đủ các thủ tục cần thiết
để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để có thể thế chấp, cầm cố
cũng phải tốn nhiều công sức và tiền bạc. Điều này đã góp phần hạn chế
61
nguồn vốn đầu tư vốn đã hạn hẹp của doanh nghiệp. Nhằm giải quyết vấn đề
về mặt bằng cho sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp nói chung và các
DNVVN nói riêng, Luật Đất đai 2003 và các Nghị định hướng dẫn của Chính
phủ số 180/2004/NĐ-CP…, đã quy định một số vấn đề cụ thể.nhưng đến nay,
việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp
nhận đất và có thể dùng quyền sử dụng đất làm tài sản thế chấp để vay vốn từ
các TCTD, trong thời gian tới Chính phủ phải tập trung giải quyết một số vấn
đề sau:
- Đổi mới thủ tục giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thủ tục giao dịch có liên quan đến quyền sử dụng đất theo hướng cải
cách thủ tục hành chính;
- Thiết lập một hệ thống cơ quan đăng ký đất đai thống nhất trên toàn
quốc với chức năng đăng ký và đăng ký lại các giao dịch về đất, hoặc khi có
sự thay đổi trong hồ sơ địa chính do các quyết định hành chính gây ra.
- Ban hành quy định cụ thể đối với thế chấp quyền sử dụng đất tài sản
gắn liền với đất tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao; thực
hiện đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ có các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng,
quyền sở hữu tài sản của khách hàng như quyết định giao đất, hợp đồng thuê
đất, giấy phép xây dựng, hợp đồng xây lắp, hoá đơn...
- Hình thành quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất một cách hệ thống, đảm
bảo tính ổn định, chắc chắn, công khai, minh bạch đáp ứng yêu cầu của người
sử dụng đất, đồng thời giúp nhà nước quản lý được đất đai thông qua việc xác
định mục đích sử dụng đất; xây dựng được hệ thống tổ chức phát triển quỹ đất,
giải quyết những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, đến bù, tái định cư và
thu hồi đất đối với những khu vực sử dụng đất sai mục đích, không có hiệu
quả, lãng phí tài nguyên đất - Thực chất là đẩy mạnh triển khai thực hiện Luật
Đất đai và các Nghị định hướng dẫn Luật này.
62
3.3.1.2 Nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích phát triển các
Quỹ hỗ trợ dành cho DNVVN.
Hiện nay, các NHTM đều cho rằng họ thừa vốn để cho vay, nhưng rất
nhiều DNVVN không thể xây dựng kế hoạch kinh doanh khả thi thuyết phục
được ngân hàng cho vay vốn, còn doanh nghiệp thì lại cho rằng họ rất khó
khăn trong việc tiếp cận vay vốn tín dụng. Như vậy, cung và cầu chưa gặp
nhau và vai trò của nhà nước là hỗ trợ tạo điều kiện để cung và cầu về tiền cho
sản xuất – kinh doanh gặp được nhau. Cụ thể là:
- Về phía DNVVN, Nhà nước hỗ trợ đào tạo cho doanh nghiệp có khả
năng thành lập được những kế hoạch kinh doanh có tính khả thi để thuyết
phục các ngân hành cho vay vốn; khuyến khích các doanh nghiệp cùng góp
vốn hình thành các quỹ tự giúp nhau…
- Về phía ngân hàng, Nhà nước nghiên cứu áp dụng chính sách ưu đãi,
bảo đảm lợi nhuận mà các NHTM thu được từ khoản vay của các khách hàng
là DNVVN.
- Bên cạnh đó, Nhà nước có chính sách khuyến khích thành lập những
Quỹ, Công ty bão lãnh tín dụng cho DNVVN; các Quỹ đầu tư mạo hiểm; phát
triển lĩnh vực cho thuê và cho vay không cần thế chấp; phát triển các mô hình
tài chính vi mô bền vững về mặt tài chính và được quản lý một cách chuyên
nghiệp theo hướng thị trường….
- Các thủ tục vay vốn phản ánh chính sách tiền tệ của Nhà nước. Các
chính sách kinh tế của Nhà nước phải đồng bộ, nhất quán. Không thể một mặt
khuyến khích phát triển DNVVN, mặt khác lại thực thi chính sách thắt chặt
tiền tệ và tài chính.
3.3.1.3 Hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Trung
tâm Thông tin Tín dụng:
63
- Ngân hàng Nhà nước cần rút kinh nghiệm và tiếp tục hoàn thiện qui
chế hoạt động của Trung tâm Thông tin Tín dụng. Hoạt động của tổ chức này
cần phải phù hợp với thực tế và có hiệu quả tích cực ở các mặt như: tổ chức
thu thập thông tin; phân tích đánh giá xếp loại các doanh nghiệp và lưu trữ
thông tin; cung cấp chính xác và kịp thời thông tin khi các NHTM có nhu
cầu.
- Các NHTM và Trung tâm Thông tin Tín dụng phải thực hiện tốt vai
trò, trách nhiệm của mình trong việc cung cấp đầy đủ, kip thời và chính xác
các thông tin liên quan đến khách hàng cũng như việc bảo mật tuyệt đối mọi
thông tin theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước
- Sớm thành lập Trung tâm Thông tin Tín dụng tư nhân ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy phân bổ tín dụng kém hiệu quả một phần do các TCTD thiếu
thông tin về người đi vay. Thế chấp thường được sử dụng làm công cụ để bảo
đảm khoản cho vay. Tuy nhiên, việc đòi hỏi thế chấp lại là cản trở lớn đối với
nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN vì họ thường ít tài sản hoặc tài
sản không có đủ giấy tờ hợp pháp để thế chấp. Thay vì đòi hỏi thế chấp, một
giải pháp khác hiệu quả hơn đang được TCTD ở nhiều nước sử dụng là chỉ
phục vụ những khách hàng có khả năng trả nợ thông qua việc lựa chọn và
theo dõi họ thường xuyên. Giải pháp này đòi hỏi TCTD phải nắm vững thông
tin về quá trình thanh toán của những khách hàng tiềm năng khi ra quyết định
cho vay và xác định lãi suất vay. Trung tâm Thông tin Tín dụng chính là các
tổ chức trung gian đứng ra thu thập, cung cấp và chia sẻ thông tin cho các tổ
chức cho vay, qua đó giúp các tổ chức này tăng dung lượng cho vay và gián
tiếp giúp bên đi vay tiếp cận nguồn vốn tín dụng dễ dàng hơn. Trong những
năm gần đây, tốc độ tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là tín dụng cho DNVVN
đang tạo ra một nhu cầu rất lớn về thông tin tín dụng mà khả năng và nguồn
lực của CIC không thể đáp ứng hết. Do đó, việc sớm thành lập Trung tâm
64
Thông tin Tín dụng tư nhân là một mô hình có thể giúp đưa DNVVN đến gần
nguồn vốn TDNH.
3.3.1.4 Ban hành chế độ kiểm toán bắt buộc đối với doanh nghiệp:
Hiện nay, công tác kiểm toán tại các doanh nghiệp chưa được thực hiện
đồng bộ. Công tác kiểm toán chỉ được coi trọng đối với doanh nghiệp nhà
nước. Đối với khu vực ngoài quốc doanh, rất ít doanh nghiệp thực hiện kiểm
toán độc lập nên các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp gửi cho ngân
hàng thiếu độ tin cậy. Hoạt động kiểm toán độc lập sẽ hạn chế được sự thiếu
trung thực của báo cáo tài chính của doanh nghiệp, qua đó giúp ngân hàng
đánh giá đúng tình hình tài chính của doanh nghiệp khi thẩm định. Do đó, nhà
nước nên ban hành quy định kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh
nghiệp để phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp một cách chính xác và trung thực.
3.3.1.5 Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội DNVVN
cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong hoạt động cung cấp thông tin,
marketing làm cầu nối cho doanh nghiệp với thị trường trong và ngoài nước,
đặc biệt là trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực cho DNVVN.
3.3.1.6 Về việc thanh lý tài sản thế chấp của các TCTD:
Cho phép các ngân hàng tự bán các tài sản bảo đảm là quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất để xử lý nợ quá hạn không phải qua Trung tâm
dịch vụ bán đấu giá tài sản.
Hiện nay các TCTD đang vướng vấn đề thuế trong việc xử lý (bán) tài
sản. Theo khoản 8 điều 31 Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29.12.1999 về
bảo đảm tiền vay của các TCTD: “Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là biện
pháp để thu hồi nợ, không phải là hoạt động kinh doanh của TCTD”. Do vậy,
khi các TCTD phát mãi tài sản thế chấp của khách hàng (chưa chuyển quyền
65
sở hữu cho ngân hàng) để thu hồi nợ không nên yêu cầu phải nộp thuế giá trị
gia tăng để giảm bớt chi phí và khó khăn trong công tác thu nợ khoản thu của
ngân hàng. .
3.3.1.7 Thúc đẩy việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng tại các địa
phương:
Để giải quyết bài toán thiếu vốn của ngân sách, có thể cho các điạ
phương góp vốn theo tiến độ nhất định. Các TCTD cũng nên tham gia góp vốn
theo một tỷ lệ nhất định vì hoạt động tác nghiệp của Quỹ chủ yếu là các hoạt
động nghiệp vụ của ngân hàng. Do đó, sự góp vốn và tham gia của cán bộ
ngân hàng có kinh nghiệm trong ban quản lý Quỹ sẽ giúp cho Quỹ hoạt động
có hiệu qủa và ổn định, mang lại lợi nhuận cho cổ đông của Quỹ. Bên cạnh đó,
cần gắn kết chắt chẽ giữa góp vốn với lợi ích của doanh nghiệp góp vốn như
được ưu tiên bảo lãnh, được tham gia hội đồng quản lý Quỹ. Ngoài ra, chính
phủ cần tạo điều kiện cho một số địa phương có nguồn vốn hạn hẹp được tiếp
cận và sử dụng nguồn vốn ODA dành cho DNVVN để góp vốn.
Do hoạt động của Quỹ tiềm ẩn nhiều rủi ro và số vốn Quỹ quản lý lớn
nên công tác kiểm tra, giám sát phải đặt hàng đầu, cán bộ Quỹ phải có trình độ
am hiểu chuyên sâu các nghiệp vụ ngân hàng để hiệu qủa hoạt động của Quỹ
được nâng cao.
3.3.2 Đối với NHCTVN:
- Cần nghiên cứu để thiết kế lại các sản phẩm hiện có thành các sản
phẩm riêng biệt, phù hợp với khách hàng DNVVN, sản phẩm nào phải loại bỏ
hoặc kết hợp với nhau để tạo thành gói sản phẩm, đồng thời phát triển và đa
dạng hoá sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với khách hàng DNVVN. Trên cơ sở
đó, ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn cho từng loại sản phẩm.
66
- Cải tiến quy trình thủ tục của ngân hàng thông qua việc lấy ý kiến của
các chi nhánh trong hệ thống NHCT, đặc thù của khách hàng DNVVN, khảo
sát, học tập kinh nghiệm của các ngân hàng trong và ngoài nước nhằm nâng
cao tính cạnh tranh và giải quyết những vướng mắc khi cho vay khách hàng
DNVVN như về tài sản đảm bảo, thông tin khách hàng…
- Gia tăng tiện ích sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại cho khách hàng
như dịch vụ gửi tin nhắn vào điện thoại di động thông tin kết qủa giao dịch tài
khoản, thông tin số dư theo định kỳ, thông báo mời nhận tiền ..., hộp thư thoại
trả lời tự động số dư tài khoản; các tiện ích internet banking như ra lệnh giao
dịch tài khoản cá nhân, giao dịch thẻ ATM, mở tài khoản cá nhân qua mạng,
tích hợp chung tài khoản thẻ ATM với tài khoản tiền gửi cá nhân, tiền gửi tiết
kiệm, giúp khách hàng có thể giao dịch ATM 24h/24h.…
- Phát triển dịch vụ bao thanh toán (Factoring): Dịch vụ bao thanh toán
cho phép một DNVVN được bán các hoá đơn phải thu cho một ngân hàng để
nhận ngay lại một khoản tiền mặt. Giá trị khoản tiền mặt này thường bằng
một phần (thường là phần lớn) của giá trị khoản phải thu trong hoá đơn. Phần
còn lại sẽ được thanh toán khi khách hàng của DNVVN đó thực hiện thanh
toán khoản tiền đó và sẽ khấu trừ đi phần tiền lãi phát sinh và các phí dịch vụ
khác. Nếu khách nợ không chịu thanh toán, ngân hàng sẽ dùng phần tiền còn
lại để bù đắp cho khoản lỗ phát sinh. Tuy nhiên, ở nhiều nước đang phát triển,
hình thức “đại lý tài chính có bảo đảm” thường được sử dụng tức là cho phép
đại lý có thể yêu cầu DNVVN phải bồi thường các khoản lỗ trong trường hợp
khách hàng của họ không chịu thanh toán khoản phải thu đó.
Dịch vụ bao thanh toán có thể là một giải pháp cho các DNVVN có
tình hình luồng tiền không ổn định. Thông qua việc đẩy nhanh luồng tiền,
dịch vụ bao thanh toán cho phép DNVVN tăng trưởng nhanh hơn nếu chỉ sử
dụng luồng tiền truyền thống. Các dịch vụ bao thanh toán cũng có thể cung
67
cấp các dịch vụ tài chính bổ sung có ích khác như dịch vụ đánh giá khả năng
tín dụng của khách hàng, dịch vụ thu tiền giúp họ tập trung hơn vào các hoạt
động kinh doanh và các lĩnh vực chủ chốt mà họ có thế mạnh. Do các khoản
phải thu được sử dụng làm bảo đảm nên không cần thế chấp tài sản.
Dịch vụ bao thanh toán yêu cầu một DNVVN phải hoạt động có lãi và
có hệ thống kiểm soát tín dụng tốt và cũng phải có khách hàng có quá trình
thanh toán sòng phẳng. Biện pháp này có vẻ không khả thi trong trường hợp
doanh số của DNVVN chủ yếu thu bằng tiền mặt (chẳng hạn như đơn vị bán
lẻ), nhưng chỉ phù hợp các DNVVN cho thanh toán sau (ví dụ như các đơn vị
sản xuất hoặc nhà phân phối) trong các lĩnh vực kinh doanh.
- Về bảo đảm tiền vay, khi ký hợp đồng bảo đảm bổ sung, trong thời
hạn đăng ký giao dịch bảo đảm còn hiệu lực thì không cần thông qua công
chứng.
- Về phí dịch vụ, cần tính toán thu phí sao cho hợp lý, có thể cạnh tranh
được với các ngân hàng để khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ của
NHCT.
- Tăng cường tính liên kết hệ thống trong dịch vụ ngân hàng:
NHCTVN nên tận dụng lợi thế mạng lưới kênh phân phối rộng khắp để thu
hút khách hàng. Một chi nhánh giao dịch tài khoản chính với trụ sở chính,
Công ty mẹ... thì NHCTVN cũng nên chỉ đạo các chi nhánh thực hiện thu hộ
tiền mặt, có chính sách miễn, giảm phí chuyển tiền cho hệ thống đơn vị thành
viên, đại lý bán hàng khi mở và giao dịch thanh toán trong cùng hệ thống
NHCT để giữ nguồn vốn huy động; Trong biểu phí dịch vụ qui định chính
sách chiết khấu phí khi sử dụng dịch vụ liên kết cùng hệ thống NHCT, chiết
khấu phí cho khách hàng sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ tại NHCT...
68
- Đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường và
nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chi nhánh; cải tiến thủ tục
cho vay đối với DNVVN theo hướng đơn giản, rõ ràng hơn, tiếp tục cải tiến
quy trình cho vay thông qua việc lấy ý kiến trong hệ thống và tìm hiểu qui
trình thủ tục của các ngân khác nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay của
ngân hàng hiện nay. Đồng thời cần đa dạng hoá hơn nữa các hình thức bảo
đảm tín dụng để thích ứng với đặc điểm của DNVVN.
- Đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin, đặc biệt là chú trọng đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực ngân hàng. Xác định
công nghệ thông tin là lĩnh vực then chốt, là cơ sở, nền tảng cho các hoạt động
kinh doanh, tăng năng suất, hiệu qủa và nâng cao năng lực cạnh tranh và hiện
đại hoá NHCT. Do đó, cần đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá công nghệ ngân
hàng để tự động hoá, tin học hoá tất cả các giao dịch và nghiệp vụ bằng cách
phát triển và truy cập nhiều chức năng mới vào phần mền ứng dụng hiện đại,
nâng cao tính bảo mật của hệ thống cho phép khách hàng giao dịch ở bất kỳ
điểm nào trong hệ thống NHCT. Qua đó, phát huy vai trò của công nghệ thông
tin trong việc quản trị rủi ro hệ thống và nâng cao năng lực điều hành của
NHCTVN.
3.3.3 Đối với DNVVN :
Để nâng cao khả năng tiếp cận các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đặc
biệt trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng, một mặt ngân hàng phải tìm mọi biện
pháp nâng cao chất lượng hoạt động, mặt khác DNVVN cần phải khắc phục
tồn tại của chính mình, từng bước tạo sự tin cậy và uy tín đối với ngân hàng.
Để thực hiện điều này, các DNVVN cần phải:
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để gia tăng
mức độ tín nhiệm của mình đối với ngân hàng, khắc phục được tình trạng
thiếu tài sản thế chấp.
69
- Phải có kế hoạch, lộ trình bổ sung vốn chủ sở hữu bằng các hình
thức kêu gọi thành viên tăng vốn góp, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá.
- Có chiến lược, phương án phát triển kinh doanh rõ ràng và có tính
thuyết phục. Chủ động trong việc xây dựng dự án, phương thức đầu tư phù
hợp với năng lực về vốn, công nghệ và con người. Đặc biệt chú trọng đến
phương án lựa chọn công nghệ đảm bảo tính tiên tiến, hiện đại, tạo ra sản
phẩm có tính cạnh tranh, chất lượng cao.
- Đào tạo và bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kinh tế - tài chính - kỹ thuật
để đội ngũ cán bộ quản lý nâng cao năng lực quản lý điều hành doanh nghiệp.
Tích cực đào tạo nguồn nhân lực, chủ động và sáng tạo áp dụng các kiến thức
công nghệ mới, các chương trình quản lý kinh tế vào sản xuất kinh doanh, xây
dựng doanh nghiệp phát triển và bền vững;
- Thực hiện nghiêm chỉnh Luật doanh nghiệp và các văn bản liên quan
trong hoạt động sản xuất kinh doanh; thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hạch
toán kế toán, báo cáo tài chính đúng quy định, công khai minh bạch…
- Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hoá kinh doanh mang bản sắc
riêng trên cơ sở các chuẩn mực quốc gia và quốc tế. Nền kinh tế thị trường
càng phát triển, đòi hỏi doanh nghiệp, doanh nhân càng phải có đạo đức trong
kinh doanh, hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật, có trách nhiệm với toàn xã
hội trên sản phẩm bán ra… Đó là văn hoá kinh doanh. Ở Việt Nam hiện nay,
bên cạnh một bộ phận doanh nghiệp hiểu biết pháp luật nhưng cố tình vi phạm,
vẫn còn một số chủ doanh nghiệp thiếu hiểu biết, vô tình phạm luật trong quá
trình hoạt động. Vì vậy, xây dựng văn hoá kinh doanh cũng là một khía cạnh
cần được quan tâm nhiều trong DNVVN.
- Chủ động tìm hiểu, nghiên cứu kỹ tiện ích của các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng cũng như cách thức tiếp cận và sử dụng các dịch vụ ấy. Trên cơ sở
70
đó tận dụng cơ hội, tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ của các sở, ban ngành của
thành phố, mở rộng hoạt động nghiên cứu thị trường và marketing để từng
bước vươn hoạt động sản xuất kinh doanh ra các thị trường bên ngoài.
- Phát triển các quan hệ liên doanh, liên kết giữa các DNVVN với nhau
và với các doanh nghiệp lớn, kể cả các tổng công ty lớn của Nhà nước và các
tập đoàn quốc gia hoạt động trên đất nước ta đang là một yêu cầu cấp bách.
Trong thời đại hiện nay, liên kết kinh tế đã trở thành tất yếu trong quan hệ
kinh tế, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà mở ra trên phạm vi toàn cầu,
liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp lại càng cấp thiết. Liên kết kinh tế giữa
các DNVVN tạo nên sức mạnh của từng doanh nghiệp và của tổng thể nền
kinh tế, bảo đảm cho mỗi sản phẩm, mỗi doanh nghiệp cũng như nền kinh tế
mỗi nước đứng vững trước sức cạnh tranh có tính toàn cầu, hơn nữa, còn phát
triển thêm thị phần của mình trên thị trường thế giới. DNVVN có thể liên kết
với doanh nghiệp lớn trong việc cung ứng nguyên vật liệu, thực hiện các hợp
đồng phụ, đặc biệt là tạo ra mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm... Các
doanh nghiệp lớn góp phần bảo đảm cho DNVVN nhu cầu về tài chính, công
nghệ, thị trường, kể cả về kinh nghiệm quản lý, v.v...
Kết luận: Trên cơ sở những kết qủa đạt được và những khó khăn, tồn tại trong
tài trợ DNVVN tại Chi nhánh NHCT Bình Tân, chương 3 đưa ra một số giải
pháp tăng cường tài trợ DNVVN tại Chi nhánh NHCT Bình Tân. Mong rằng
các giải pháp nêu trên giúp ích cả đôi bên để phương châm “sự phát triển của
DNVVN là cơ sở cho sự thành công của Chi nhánh NHCT Bình Tân” không
phải là sáo rỗng.