VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG VƢƠNG LONG

GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THU HÚT SỬ DỤNG VỐN ODA ĐỂ

ĐẦU TƢ CHO KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUA

TRƢỜNG HỢP CHƢƠNG TRÌNH ĐỐI TÁC ĐỔI MỚI SÁNG

TẠO VIỆT NAM - PHẦN LAN (IPP)

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

HÀ NỘI - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG VƢƠNG LONG

GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THU HÚT SỬ DỤNG VỐN ODA ĐỂ

ĐẦU TƢ CHO KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUA

TRƢỜNG HỢP CHƢƠNG TRÌNH ĐỐI TÁC ĐỔI MỚI SÁNG

TẠO VIỆT NAM - PHẦN LAN (IPP)

Ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ

Mã số: 8 34 04 12

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS TRẦN NGỌC CA

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là luận văn là do tự bản thân tôi thực hiện dưới sự

hỗ trợ và hướng dẫn của giáo viên và không sao chép từ các công trình nghiên

cứu của người khác. Các tài liệu và số liệu sử dụng trong nghiên cứu này có

nguồn gốc và trích dẫn rõ ràng.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!

Tác giả

Đặng Vƣơng Long

LỜI CẢM ƠN

Những lời đầu tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Học viện Khoa học và Công nghệ trong suốt khóa học đã tận tình truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm quý báu cho tôi. Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS. TS Trần Ngọc Ca đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ để tôi hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp của mình.

Để hoàn thiện đề tài tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, các cô, chú, các anh chị làm việc tại Chương trình đổi mới sáng tạo Việt Nam - Phần Lan đã tạo điều kiện tốt cho tôi trong suốt thời gian nghiên cứu.

Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã động viên và giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần trong thời gian tôi thựchiện khóa luận.

Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự thông cảm, chỉ dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các quý thầy cô và các bạn.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, Ngày tháng năm

Học viên

Đặng Vƣơng Long

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .............................................................. 7

1.1. Khái niệm, phân loại vốn ODA ................................................................... 7

1.2. Khái niệm về khởi nghiệp ĐMST ............................................................. 10

1.3. Mối quan hệ giữa ODA và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ........................ 14

Chƣơng 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THU HÚT SỬ DỤNG NGUỒN

VỐN ODA CHO KNĐMST TẠI IPP .................................................................... 16

2.1. Thực trạng của quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam ...... 16

2.2. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tại

Việt Nam .......................................................................................................... 21

2.3. Phương thức thu hút, sử dụng nguồn vốn ODA tại Dự án IPP ................. 22

2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút sử dụng nguồn vốn ODA cho

DNKNĐMST ................................................................................................... 55

Chƣơng 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THU HÚT sử dụng NGUỒN

VỐN ODA CHO KNĐMST THÔNG QUA CHƢƠNG TRÌNH IPP ................ 62

3.1. Thuận lợi và khó khăn trong việc sử dụng vốn ODA cho khởi nghiệp

đổi mới sáng tạo tại Việt Nam .......................................................................... 62

3.2. Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn ODA cho khởi nghiệp đổi

mới sáng tạo thông qua Chương trình IPP ....................................................... 64

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 77

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN ......................................................................................... 81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 82

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

ADB AFD CP DN DNĐMST GNP HIFU IAP IPO

IPP2

ISA IT JFC JSC MOST NATIF NIS ODA OECD R&D

Ngân hàng Phát triển Châu Á Cơ quan Phát triển Pháp Chính phủ Doanh nghiệp Doanh nghiệp đổi mới sáng tạo Tổng thu nhập quốc dân Quỹ Đầu tư phát triển đô thị thành phố Hồ Chí Minh Chương trình Tăng tốc đổi mới sáng tạo Chào bán cổ phiếu công chúng Chương trình Đối tác Đổi mới sáng tạo Việt Nam – Phần Lan, giai đoạn 2 IPR Tài khoản tiết kiệm cá nhân Công nghệ thông tin Tổng Công ty Tài chính Nhật Bản Công ty cổ phần Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam Quỹ Đổi mới Công nghệ Quốc gia Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia Viện trợ phát triển chính thức Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Nghiên cứu và Phát triển Khóa đào tạo huấn luyện viên khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc Ngân hàng Thế giới ToT UNDP WB

Hình 1. Khung thời gian hỗ trợ của IPP2 .................................................................. 30

Hình 2. Quy trình sàng lọc và lựa chọn của IPP2 ..................................................... 36

Hình 3. Quy trình hoàn chi của IPP2 ........................................................................ 37

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là một trong những đặc tính cơ bản của

các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (Startup), khởi nghiệp mà

sáng tạo càng nhiều thì doanh nghiệp càng thành công, từ nguồn vốn sẵn có

nhưng không đủ phát triển để nuôi những ý tưởng có tầm cao mới.

Khởi nghiệp ở Việt Nam đang đòi hỏi lượng vốn rất lớn, các tổ chức,

quỹ coi Việt Nam là địa bàn khởi nghiệp và họ đã và đang đề nghị Việt Nam

xây dựng các hành lang chính sách tạo điều kiện cho luồng vốn ODA chảy

vào khu vực tư nhân, khu vực khởi nghiệp từ năm 2010, mạnh nhất là năm

2012. Tuy nhiên, đến nay còn quá nhiều ràng buộc để với đến vốn ODA,

trong khi chính sách hỗ trợ cho tư nhân, khởi nghiệp tiếp cận dòng vốn này lại

không có. Một số doanh nghiệp khởi nghiệp và dự án khi đã tiếp cận được

nguồn vốn ODA rồi thì cũng đang loay hoay để sử dụng nguồn vốn một cách

hiệu quả nhất. Ngày 23 tháng 4 năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định

số 38/2013/NĐ-CP về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức

(ODA) và nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ, trong đó cho phép khu

vực tư nhân tiếp cận nguồn vốn này. Khu vực tư nhân được hiểu là khu vực

kinh tế ngoài nhà nước.

Nguồn vốn ODA tại Việt Nam được thực hiện dưới 3 hình thức chủ yếu

gồm: nguồn vốn ODA viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 10-12%, nguồn

vốn ODA vay ưu đãi chiếm khoảng 80% và nguồn vốn ODA hỗn hợp chiếm

khoảng 8-10%. Đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp nhu cầu vốn là rất lớn.

Đặc biệt là nguồn vốn viện trợ. Do đó, việc nghiên cứu phương thức sử dụng

vốn ODA để đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là cần thiết và là yếu tố

quan trọng góp phần làm nên thành công của các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Đó là những lý do vì sao tác giả đã lựa chọn đề tài của luận văn là: Giải

pháp tăng cƣờng thu hút sử dụng vốn ODA để đầu tƣ cho khởi nghiệp

đổi mới sáng tạo qua trƣờng hợp Chƣơng trình Đối tác Đổi mới sáng tạo

1

Việt Nam - Phần Lan (IPP).

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong thực tiễn, quốc gia nào, địa phương nào phát huy được tinh thần

khởi nghiệp trong toàn dân, nhất là trong giới trẻ; xây dựng được văn khóa

khởi nghiệp trong cộng đồng thì nền kinh tế - xã hội tại quốc gia đó, địa

phương đó sẽ không ngừng phát triển mạnh mẽ và dẫn đầu, các quốc gia như

Mỹ, Israel, Singapore,...đã chứng minh điều đó.

Đối với Việt Nam, là một nước đang phát triển, nếu muốn đi tắt, đón đầu

để trở thành một nước phát triển, tiên tiến, sánh vai cùng với các cường quốc

năm châu thì chỉ có một con đường duy nhất là khởi nghiệp và đổi mới sáng

tạo. Chỉ có con đường khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo thì Việt Nam mới tận

dụng được các cơ hội và vượt qua thách thức khi hội nhập, mới nâng cao

được năng suất lao động quốc gia, giải quyết việc làm cho lực lượng lao động,

nhất là lao động trẻ, mới phát triển khoa học và công nghệ tương ứng với yêu

cầu hội nhập.

Ở Việt Nam, những năm gần đây, số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp

đổi mới sáng tạo đang gia tăng nhanh chóng. Từ khoảng 400 doanh nghiệp

năm 2012, đến nay nước ta đã có khoảng 3000 doanh nghiệp (theo ước tính

của tạp chí Echelon, Singapore) trong các lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt là

trong các ngành truyền thông, thương mại điện tử, công nghệ cao và thực

phẩm. Đối với doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, vòng đời phát

triển sẽ trải qua các giai đoàn từ tiền ươm mầm (pre-seed), ươm mầm (seed),

giai đoạn đầu, các giai đoạn phát triển tiếp theo và cuối cùng là trải qua mua

bán/sáp nhập hoặc chào bán cổ phiếu công chúng (IPO). Trong tất cả các giai

đoạn, nguồn vốn và nhân lực đều hết sức quan trọng. Ở các giai đoạn khác

nhau, với khả năng tài chính, tiềm năng phát triển cũng như thực lực khác

nhau, một starup sẽ cần lượng vốn và loại hình vốn khác nhau. Các nguồn tài

chính starup có thể tiếp cận gồm có các khoản tài trợ (phần lớn đến từ chính

phủ), vốn vay, vay bảo lãnh, vốn đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo hiểm, từ doanh

thu và một số hình thức tài chính mới hiện nay như cho vay ngang hàng, gọi

vốn cộng đồng hay ICO,...Như vậy, có thể thấy viện trợ ODA sẽ giúp giải

2

quyết phần nào cơn khát vốn cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và mang lại

luồng sinh khí mới cho các cá nhân, tổ chức khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

phát triển, góp phần làm thay da đổi thịt cho nhiều nền kinh tế nếu được sử

dụng nguồn vốn ODA hiệu quả.

Mặt khác, với số vốn ODA không nhiều, Dự án IPP đã đạt được thành

công đề ra chính là nhờ nguyên lý linh hoạt tối đa, điều chỉnh nhanh và học

hỏi nhanh từ những vấn đề gặp phải trong quá trình hoạt động dự án.

Từ những lý do trên, kết quả nghiên cứu của đề tài là vô cùng cần thiết

và có tính ứng dụng cao.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

- Phân tích, đánh giá phương thức sử dụng và đưa ra giải pháp để thu

hút nguồn vốn ODA thông qua trường hợp tại Chương trình đối tác Đổi mới

sáng tạo Việt Nam - Phần Lan (IPP).

- Giải pháp để thu hút quả việc sử dụng nguồn vốn ODA cho khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu trên, Luận văn có những nhiệm vụ

sau đây:

- Đưa ra hệ thống lý thuyết có liên quan đến nguồn vốn ODA, khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo.

- Đánh giá thực trạng sử dụng nguồn vốn ODA của dự án IPP

- Đưa ra bài học kinh nghiệm về việc sử dụng nguồn vốn ODA và giải

pháp thu hút nguồn vốn ODA cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là: Dự án Đối Tác Đổi Mới Sáng

Tạo Việt Nam – Phần Lan

4.2. Thời gian nghiên cứu

Thời gian nghiên cứu được xác định từ năm 2013 đến hết năm 2018.

Lý do: Ngày 23 tháng 4 năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

3

38/2013/NĐ-CP về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức

(ODA) và nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ, trong đó cho phép khu

vực tư nhân tiếp cận nguồn vốn này.

4.3. Phạm vi nghiên cứu

Dựa vào lý luận và thực tế phương thức sử dụng nguồn vốn ODA cho

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Dự án Đối Tác Đổi Mới Sáng Tạo Việt Nam

– Phần Lan. Qua đó làm rõ phương thức sử dụng vốn ODA cho các cá nhân,

tổ chức khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Dựa vào kết quả tại các báo cáo Dự án Đối Tác Đổi Mới Sáng Tạo Việt

Nam – Phần Lan để tiến hành các phân tích, đánh giá hiệu quả trong việc sử

dụng nguồn vốn ODA.

Một nội dung quan trọng là đưa ra bài học kinh nghiệm trong việc sử

dụng nguồn vốn ODA cho các cá nhân, tổ chức khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

nhằm phát triển kinh tế xã hội và đưa ra giải pháp để thu hút nguồn vốn ODA

đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể, tác giả sử dụng

một số phương pháp nghiên cứu sau: Sử dụng phương pháp thu thập thông

tin, xử lý thông tin và phương pháp so sánh từ các nguồn số liệu thống kê thu

thập được.

Tác giả thu thập các dữ liệu thứ cấp từ năm 2010 đến năm 2018 thông

qua các bài báo, sách nghiên cứu chuyên khảo, các công trình nghiên cứu

trong và ngoài nước và các báo cáo liên quan đến chính sách hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Đối với trường hợp cụ thể của Dự án Đối Tác

Đổi Mới Sáng Tạo Việt Nam – Phần Lan tác giả đã cũng đã nghiên cứu các

tài liệu và các số liệu tổng hợp từ Dự án để đưa ra bức tranh tổng thể về việc

sử dụng vốn cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo giúp việc phân tích, lý luận có

tính thực tiễn và chính xác hơn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Vấn đề quan trọng ở đây là phải hoàn thiện các văn bản quản lý, chính

4

sách và phương pháp quản lý. Đề tài nghiên cứu nhằm chỉ ra phương thức

hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn ODA cho khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo được tiến hành theo hướng đó. Trong quá trình nghiên cứu phương thức

sử dụng nguồn vốn ODA, cần phải tham khảo kinh nghiệm hay của quốc tế,

đặc biệt cần phải gắn kết với phương thức hoạt động của các dự án khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn triển khai theo hướng xuất phát từ thực tế để đưa ra phương

thức hoạt động hiệu quả và từ kết quả đó quay trở lại phục vụ cho thực tế. Nói

cách khác, phương thức sử dụng nguồn vốn ODA phải xuất phát từ thực tiễn

hoạt động của bản thân các dự án cộng thêm hỗ trợ từ chính sách của Nhà

nước...

Từ năm 2010, Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp,

vốn đầu tư nước ngoài không hoàn lại có xu hướng giảm. Do đó, việc tăng

cường quản lý, sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức( ODA) một

cách hiệu quả là cấp thiết.Trong thời kỳ 2011-2016, nguồn vốn ODA có chiều

hướng giảm dần trong khi hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu

đãi chưa được như mong muốn. Số lượng nhà tài trợ, cả đa phương và song

phương, đã giảm dần và có kế hoạch chấm dứt chương trình viện trợ chính

thức dành cho Việt Nam như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển

Châu Á (ADB). Các bộ, ngành và địa phương vẫn chưa sẵn sàng tiếp cận các

nguồn vốn vay kém ưu đãi áp dụng cơ chế tài chính trong nước theo hình thức

cho vay lại.

Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn vay nước

ngoài tại Việt Nam giai đoạn 2011-2016 vừa qua cũng cho thấy, năng lực hấp

thu nguồn vốn ODA còn kếm, chưa đáp ứng được nhu cầu. Nhiều chương

trình và dự án chậm tiến độ, nhiều trường hợp phải xin gia hạn. Việc lồng

ghép các chương trình và dự án của Chính phủ trên địa bàn với các chương

trình và dự án ODA, nhiều khi có sự trùng lặp dẫn đến hạn chế nguồn vay

ODA.

Vì vậy, từ kết quả đề tài Giải pháp tăng cường thu hút sử dụng vốn oda

5

để đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo qua trường hợp Chương trình

Đối tác Đổi mới Sáng tạo Việt Nam - Phần Lan (IPP) góp phần giải quyết bài

toán tìm ra giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA cho khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam một cách hiệu quả nhất.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận

Chương 2: Đánh giá thực trạng phương thức sử dụng nguồn vốn ODA

cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Dự án IPP

Chương 3: Đề xuất giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng nguồn vốn

6

ODA cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo qua trường hợp của IPP.

Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1. Khái niệm, phân loại vốn ODA

Khái niệm ODA

Thuật ngữ hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) xuất hiện từ sau chiến

tranh Thế giới II và gắn liền với yếu tố chính trị. Sau đại chiến Thế giới lần

thứ II, cả Châu Âu và Châu Á đều đứng trước cảnh đổ nát, hoang tàn, chỉ có

Châu Mỹ nói chung và nước Mỹ nói riêng là không bị ảnh hưởng mà ngược

lại, nước Mỹ nhờ chiến tranh trở nên giàu có. Trước tình hình đó, Mỹ thực

hiện viện trợ ồ ạt cho Tây Âu nhằm ngăn chặn sự ảnh hưởng của Liên Xô và

các nước xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch viện trợ này được gọi là "Hỗ trợ phát

triển chính thức".

Đến nay, thuật ngữ ODA được sử dụng khá phổ biến. Tùy theo từng

cách tiếp cận, có nhiều cách hiểu khác nhau về ODA, cụ thể như sau:

Theo tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đã đưa ra khái niệm

ODA là viện trợ được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy sự phát triển

kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao

dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất

25%. (OECD, 2018). Lợi thế khi vay nguồn viện trợ ODA là nguồn vốn khá

lớn, điều kiện vay thuận lợi, lãi xuất thấp. ODA là nguồn vốn rất quan trọng

đối với các nước đang phát triển

Nguồn vốn ODA là nguồn vốn ưu đãi bao gồm các khoản viện trợ

không hoàn lại và các khoản vay có thời hạn dài và lãi suất thấp. Nếu khoản

vay đó có thành tố cho không hay là viện trợ không hoàn lại. Nguồn ODA

không hoàn lại thường chiếm ít nhất là 25%, còn 75% là cho vay.

Theo nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính Phủ về quản

lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức có định nghĩa ODA như

sau: “Hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA) được hiểu là hoạt động hợp tác

phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính Phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam với Nhà tài trợ là Chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và

7

các tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ”.

Theo PGS. TS Nguyễn Quang Thái (viện chiến lược phát triển): Hỗ trợ

phát triển chính thức ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay

với điều kiện ưu đãi (về lãi suất thời gian ân hạn và trả nợ) của các cơ quan

chính thức thuộc các nước và các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ

(NGO).

Theo chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc: ODA là viện trợ

không hoàn lại hoặc là cho vay ưu đãi của các tổ chức nước ngoài, với phần

viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25% giá trị của khoản vốn vay.

Cho đến nay chưa có định nghĩa hoàn chỉnh về ODA, nhưng sự khác

biệt giữa các định nghĩa không nhiều. Dưới các giác độ khác nhau, ODA

được hiểu cũng khác nhau song có thể định nghĩa một cách chung nhất là: Hỗ

trợ phát triển chính thức (ODA-official development assistance) được hiểu

chung là hình thức hợp tác phát triển giữa Chính phủ nước nhận tài trợ và các

đối tác tài trợ ở nước ngoài.

Bên tài trợ thường bao gồm các Chính phủ, các tổ chức quốc tế

(UNDP, WB, IMF...). Nguồn vốn ODA là nguồn vốn hỗ trợ của các nước

phát triển cho các nước đang phát triển nhằm giúp các nước này phát triển

kinh tế xã hội bền vững.

Nguồn vốn ODA thường bao gồm cụ thể các khoản viện trợ không hoàn

lại, các khoản vay được ưu đãi về lãi suất (lãi suất thấp) và thời hạn thanh toán

(thời hạn dài), tuy nhiên hiện nay, với một số nước trong nhóm các nước có mức

thu nhập trung bình thì nguồn vốn ODA không hoàn toàn là các khoản vay với

lãi suất thấp nữa mà có thể là theo lãi suất trên thị trường

Quá trình cung cấp ODA đem lại lợi ích cho cả hai phía: bên các nước

đang và kém phát triển có thêm khối lượng lớn vốn đầu tư từ bên ngoài để

đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế trong quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé của

mình. Phía còn lại cũng đạt được những lợi ích trong các điều kiện bắt buộc

kèm theo các khoản viện trợ cho vay, đồng thời gián tiếp tạo điều kiện thuận

lợi cho họat động của các công ty của mình khi thực hiện đầu tư tại các nước

8

nhận viện trợ.

Mặt khác việnh trợ ODA mang tính nhân đạo, thể hiện nghĩa vụ đồng

thời là sự quan tâm giúp đỡ của các nước giàu đối với các nước nghèo, tăng

cường thúc đẩy mối quan hệ đối ngoại tốt đẹp giữa các quốc gia với nhau,

giữa các tổ chức quốc tế với các quốc gia.

Phân loại các loại hình ODA:

Các hình thức của ODA được chia làm 3 loại chính, trong mỗi loại lại

được chia thành nhiều loại nhỏ.

Phân loại theo phương thức hoàn trả thì có: Viện trợ không hoàn lại:

Bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận không phải hoàn lại) để bên

nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả thuận giữa các bên; Viện

trợ có hoàn lại (còn gọi là tín dụng ưu đãi): nhà tài trợ cho nước cần vốn vay

một khoản tiền( tuỳ theo quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi

và thời gian trả nợ thích hợp; ODA cho vay hỗn hợp: Là các khoản ODA kết

hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần tín dụng thương mại theo các

điều kiện của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển, thậm chí có loại ODA

vốn vay kết hợp tới 3 loại hình gồm một phần ODA không hoàn lại, một phần

ưu đãi và một phần tín dụng thương mại.

Phân loại theo nguồn cung cấp thì có: ODA song phương: là các khoản

viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia ( nước phát triển viện trợ cho

nước đang và kém phát triển) thông qua hiệp định được ký kết giã hai chính

phủ; ODA đa phương: là viện trợ phát triển chính thức của một tổ chức quốc

tế, hay tổ chức khu vực hoặc của chính một nước dành cho Chính phủ một

nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương

như UNDP ( Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc)…có thể các khoản viện

trợ của các tổ chức tài chính quốc tế được chuyển trực tiếp cho bên nhận viện

trợ.

Phân loại theo mục tiêu sử dụng có: Hỗ trợ cán cân thanh toán; tín dụng

thương nghiệp; viện trợ chương trình; viện trợ dự án.

Hỗ trợ cán cân thanh toán là các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân

sách của Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao

9

tiền tệ trực tiếp cho nước nhận ODA và Hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá);

Tín dụng thương nghiệp: tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có kèm theo

các điều kiện ràng buộc. Chẳng hạn nước cung cấp ODA yêu cầu nước nhận

phải dùng phần lớn hoặc hầu hết vốn viện trợ để mua hàng ở nước cung cấp;

Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều

kiện để được nhận viện trợ dự án là" phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng

mục sẽ sử dụng ODA"; Viện trợ chương trình là nước viện trợ và nước nhận

viện trợ ký hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định

chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.

Tóm lại có rất nhiều cách định nghĩa về nguồn vốn ODA nhưng cách

hiểu chung nhất là nguồn vốn ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn lại

và các khoản tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn và lãi suất thấp của các Chính

phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liệp hợp quốc, các tổ chức phi Chính phủ

(NGO), các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, ADB, WB...) giành cho các nước

nhận viện trợ. ODA được thực hiện thông qua việc cung cấp từ phía các nhà

tài trợ các khoản viện trợ không hoàn lại, vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn

thanh toán (theo định nghĩa của OECD, nếu ODA là khoản vay ưu đãi thì yếu

tố cho không phải đạt 25% trở lên). Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một

phần GNP từ bên ngoài vào một quốc gia, do vậy ODA được coi là một

nguồn lực từ bên ngoài.

1.2. Khái niệm về khởi nghiệp ĐMST

Khái niệm về khởi nghiệp

Theo định nghĩa trên trang Wikipedia, khởi nghiệp là khi bạn bắt đầu

kinh doanh, tự mình quản lý công việc, quản lý người khác để làm chủ thu

nhập của mình. Bạn có thể phát triển, đầu tư vào một loại sản phẩm hay dịch

vụ nào đó. Bạn cũng có thể mua bán sinh lời từ một mặt hàng nào đó.

Khởi nghiệp tức là bạn đã ấp ủ một công việc kinh doanh riêng, thường thì

bạn sẽ thành lập một doanh nghiệp mà tại đó bạn là người quản lý, là người sáng

lập hoặc đồng sáng lập. Việc cung cấp những sản phẩm mới, dịch vụ mới hay

thậm chí kinh doanh những mặt hàng đã có mặt trên thị trường nhưng theo ý

10

tưởng có riêng mình... đều được gọi là khởi nghiệp.

Khởi nghiệp có thể là quá trình tạo ra một lĩnh vực hoạt động mới cho

riêng mình. Qua đó bạn có thể thuê các nhân viên về làm việc cho bạn và bạn

là người quản lý công ty, doanh nghiệp của mình. Khởi nghiệp mang lại rất

nhiều giá trị cho bản thân cũng như nhiều lợi ích cho xã hội, cho người lao

động.

Đối với cá nhân theo đuổi việc khởi nghiệp, hoạt động này giúp họ tạo

ra công việc, thu nhập cho chính mình mà không phải bắt đầu từ việc đi làm

thuê. Họ được tự do trong công việc, và nếu công ty của họ phát triển tốt thì

nguồn thu nhập của họ có thể cao gấp nhiều lần so với thu nhập do đi làm

thuê mang lại.

Đối với xã hội và nền kinh tế thì các công ty khởi nghiệp tạo ra thêm

nhiều công ăn việc làm. Điều này giúp đất nước giải quyết tình trạng thất

nghiệp, tạo ra nguồn thu nhập cho người lao động nuôi sống bản thân và gia

đình.

Theo quy định trong bản dự thảo Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

được Chính Phủ trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 2 Quốc Hội khoá 14,

nhiều khái niệm chưa từng xuất hiện trong luật bắt đầu được "luật hoá". Dự

thảo này định nghĩa: „Khởi nghiệp là quá trình hiện thực ý tưởng kinh doanh,

bao gồm quá trình thành lập và vận hành doanh nghiệp trong vòng 05 năm kể

từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu, chưa niêm

yết trên thị trường chứng khoán”.

Khái niệm về khởi nghiệp i m i sáng tạo

Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (hay còn gọi là Startup) là một trong

những đặc tính cơ bản của khởi nghiệp. Cũng theo Luật hỗ trợ doanh nghiệp

nhỏ và vừa Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (startup) là quá trình khởi nghiệp

dựa trên việc tạo ra hoặc ứng dụng kết quả nghiên cứu, giải pháp kỹ thuật,

công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia

tăng của sản phẩm, hàng hóa và có khả năng tăng trưởng nhanh.

Theo Blank và Dorf (2012), doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

“là tổ chức lâm thời tìm kiếm mô hình kinh doanh có khả năng tăng tốc phát

11

triển, nhân rộng và mang lại lợi nhuận”. Bên cạnh khả năng tăng tốc (có tiềm

năng tăng trưởng), các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cũng

thường mang đặc điểm đổi mới sáng tạo (Sarkar, 2016) vì các doanh nghiệp

này thường có xu hướng phát triển hoặc hướng tới tạo ra những sản phẩm và

dịch vụ mới cho thị trường. Theo Schumpeter (1934) - một trong những học giả

có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lĩnh vực khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo,

doanh nhân là tác nhân của đổi mới sáng tạo và chuyển đổi kinh tế. Tuy nhiên,

các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo chưa có nhiều thành tựu và thành

công nên nhà đầu tư khó có thể hiểu rõ và định giá doanh nghiệp (Holstein,

2015a). Vì vậy, doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được xem là loại

hình doanh nghiệp rủi ro và khó tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng. Đây là

một trong nhiều lý do khiến doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phải tìm

kiếm các nguồn vốn khác, thường dựa trên việc trao đổi cổ phần trong các giai

đoạn phát triển đầu tiên, bao gồm vốn từ nhà đầu tư thiên thần và vốn đầu tư

mạo hiểm (Thiel & Masters, 2014).

Tại Việt Nam, thuật ngữ “khởi nghiệp đổi mới sáng tạo” lần đầu tiên

xuất hiện trong Nghị quyết 351 của Chính phủ được thông qua ngày 16 tháng

5 năm 2016, tiếp đó được định nghĩa trong Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025 (Đề án 8442) được thông qua

ngày 18 tháng 5 năm 2016, và sau đó là trong Luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa

và nhỏ được thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2017. Cả Đề án 844 và Luật này

đều tập trung nhấn mạnh các đặc điểm tiềm năng tăng trưởng cao và tính sáng

tạo của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và cùng định nghĩa:

“doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được thành lập để triển khai một

ý tưởng kinh doanh trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ hoặc mô

hình kinh doanh mới và có tiềm năng mở rộng quy mô nhanh chóng”. Sự

khác biệt giữa hai văn bản chính sách này là loại hình doanh nghiệp khởi

nghiệp mà từng văn bản hướng tới. Đề án 844 áp dụng đối với các doanh

nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo với thời gian hoạt động tối đa 5 năm kể

từ ngày đăng ký thành lập trong khi Luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ

12

không quy định giới hạn này. Luật cũng xác định doanh nghiệp khởi nghiệp là

doanh nghiệp vừa và nhỏ (dựa trên quy mô lao động và doanh thu). Khác biệt

này quyết định phạm vi và phổ rộng đối tượng thụ hưởng của hai văn bản.

Doanh nghiệp khởi nghiệp i m i sáng tạo (DNKNĐMST)

Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là "loại hình doanh nghiệp

có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ,

mô hình kinh doanh mới, và có thời gian hoạt động không quá 5 năm kể từ

ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu

Một trong những yếu tố quyết định việc doanh nghiệp mới thành lập có

phải là DNKNST hay không, chính là trình độ công nghệ làm nền tảng cho tính

đổi mới sáng tạo. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp góp phần quan trọng tạo

điều kiện cho tinh thần khởi nghiệp và DNKNST. Các nước có trình độ công nghệ

cao cũng thường là các quốc gia có nhiều DNKNST thành công.

Đặc trưng của DNKNĐMST là tạo ý tưởng mới, suy nghĩ sáng tạo hình

thành ra các sản phẩm và phương pháp mới. Sự đổi mới diễn ra thông qua

việc cung cấp các sản phẩm, quy trình, dịch vụ, công nghệ hoặc mô hình kinh

doanh hiệu quả hơn cho thị trường, chính phủ và xã hội. Qua đó, đổi mới sản

phẩm, đổi mới quy trình, đổi mới tổ chức quản lý và đổi mới mô hình kinh

doanh trong doanh nghiệp là các yếu tố quan trọng, trực tiếp đóng góp tăng

năng suất doanh nghiệp. Để một DNKNĐMST có thể phát triển nhanh và

mạnh thì vai trò của Nghiên cứu và phát triển (R&D) là vô cùng quan trọng

được coi là một trong những chìa khóa thành công của các doanh nghiệp. Bộ

phận R&D trong mỗi doanh nghiệp có nhiệm vụ chính là nghiên cứu và triển

khai, thiết kế sản phẩm mới, cải tiến sản phẩm đang có, thiết kế/áp dụng quy

trình công nghệ mới, cải tiến quy trình công nghệ đang có những sản phẩm

mang tính cạnh tranh nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và thực hiện chiến

lược phát triển của doanh nghiệp.

Tuy nhiên hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm nhiều

tới hoạt động R&D. Năm 2017, trong khuôn khổ dự án FIRST do Ngân hàng

Thế giới tài trợ, đã tiến hành điều tra về hoạt động đổi mới sáng tạo trong

doanh nghiệp. Trong tổng số 8.480 doanh nghiệp được gửi phiếu điều tra, có

13

7.641 doanh nghiệp trả lời, chiếm 90,1%. Trong 7.641 doanh nghiệp trả lời

phiếu điều tra, có 3.154 doanh nghiệp lớn và vừa, 4.487 doanh nghiệp nhỏ.

Theo trả lời của doanh nghiệp, trong năm 2016, có 2.423 doanh nghiệp

(31,7%) có hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN), trong đó, có 997

doanh nghiệp (DN) có hoạt động nghiên cứu và phát triển (NC&PT) (chiếm

13% các doanh nghiệp điều tra; và chiếm 41,1% số các doanh nghiệp có hoạt

động KH&CN).

Với vai trò quan trọng của NC&PT, Nhà nước cần có những chính sách

khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho KH và CN một cách hiệu quả, tạo

dựng một đơn vị nghiên cứu của chính họ như thế mới đảm bảo sự phát triển

một cách bền vững.

1.3. Mối quan hệ giữa ODA và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

Theo phân tích ở trên nguồn vốn ODA là nguồn vốn tài trợ hoặc vay ưu

đãi có thể cung cấp trực tiếp bằng tiền hoặc đào tạo nâng cao năng lực. Mục

đích chính của việc cung cấp nguồn vốn ODA là thúc đẩy sự phát triển kinh tế

- xã hội của các nước đang phát triển.

Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là một tổ chức được thiết kế nhằm

cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong những điều kiện không chắc chắn nhất và

có cơ hội tăng trưởng nhanh nhất, xây dựng một phân khúc thị trường mới,

tạo ra sự khác biệt không chỉ ở trong nước mà với tất cả công ty trên thế giới.

Đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp thì nguồn vốn là một trong những

thách thức lớn nhất. Thị trường vốn và hoạt động đầu tư luôn yêu cầu doanh

nghiệp phải có nhiều kinh nghiệm và kiến thức đặc thù, bao trùm toàn diện

chiến lươcj kinh doanh, tài chính, pháp lý, mạng lưới nhưng hầu hết doanh

nghiệp khởi nghiệp có tuổi đời khoảng 1 năm, quy mô nhỏ lẻ và khả năng tăng

trưởng không cao, vốn đầu tư đa phần dưới 10 triệu USD, hoạt động gọi vốn

nhỏ lẻ. Hơn nữa, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thường đang trong giai đoạn

bắt đầu kinh doanh nói chung do đó việc gọi vốn đầu tư là giai đoạn sống còn

của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, là một trong các điều kiện tất

yếu quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.

Như vậy ODA và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có mối quan hệ chặt chẽ

14

giữa một bên cung cấp vốn và một bên cần vốn. Việc cung cấp vốn ODA (tài

trợ hoàn toàn hoặc vay ưu đãi) có vai trò to lớn đối với doanh nghiệp khởi

nghiệp thể hiện như sau:

Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp trong các lĩnh vực tiếp cận kiến

thức khoa học, công nghệ của thế giới và hòa nhập vào các chuỗi giá trị toàn

cầu, tạo điều kiện cho việc trao đổi tri thức hiệu quả. Việc tăng cường các

hoạt động khoa học và công nghệ để tạo nền tảng vững chắc nâng cao năng

suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, năng lực cạnh tranh và tham gia vào

chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu

Giúp doanh nghiệp khởi nghiệp sáng taọ hiện thực hóa các ý tưởng từ đó

phát huy được các ý tưởng khởi nghiệp được c nền tảng vền tảngý tưởng khởi

nghiệppg nghệ để tạo nền tảng vững chắc nâng cao năng. những ý tưởng sáng

tạo như vậy của mọi người được sử dụng và phát huy thì sẽ đem lại một sự

thay đổi trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, thậm chí là tác động lớn

đến các ngành, các lĩnh vực, đem lại lợi ích cho xã hội.

Thông qua Ngân sách Nhà nước ODA là nguồn vốn bổ sung hết sức

quan trọng thông qua hình thức cho vay. Từ đó Nhà nước sẽ có các chương

trình để thu hút đầu tư cho các DNKNĐMST. Thường các nguồn vốn ODA

đầu tư cho DNKNĐMST chủ yếu nghiên cứu và phát triển công nghệ, sản

phẩm hoặc quy trình mới, chuẩn bị kế hoạch kinh doanh, nghiên cứu khả thi

về thị trường cho sản phẩm mới, chuyển giao công nghệ và áp dụng dây

chuyền sản xuất mới.

Tiểu kết chƣơng 1

Trong thời đại của nền cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra manh

mẽ, việc thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng, mang tầm nhìn chiến lược đối với nền kinh tế của

một quốc gia. Trong chương 1, luận văn trình bày những vấn cơ bản các khái

niệm cơ bản liên quan đến nguồn vốn ODA và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

và mối quan hệ giữa vốn ODA và khởi nghiệp sáng tạo. Đây là hai chủ thể

chính liên quan đến các vấn đề lý luận sẽ được trình bày trong các chương

15

tiếp theo.

Chƣơng 2

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THU HÚT SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA

CHO KNĐMST TẠI IPP

2.1. Thực trạng của quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam

Với một quốc gia đang phát triển rất nhanh như Việt Nam, nhu cầu vốn

rất lớn. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA là một trong những

nguồn vốn đầu tư phát triển quan trọng đối với Việt Nam. Trước đây,Việt

Nam nhận được hai nguồn vốn ODA song phương chủ yếu, một từ các nước

thuộc tổ chức SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế), trong đó chủ yếu là từ Liên

Xô (cũ). Đây là một nguồn viện trợ không nhỏ và có ý nghĩa quan trọng nhất

cả về nội dung, quy mô và chất lượng, cũng như giá cả, điều kiện tín dụng…

Khoản viện trợ này đã giúp chúng ta xây dựng một số ngành quan trọng nhất

của sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế.

Nguồn viện trợ ODA thứ hai từ các nước DAC và một số nước khác,

chủ yếu là Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch, Na Uy, Pháp, Ấn Độ… Nguồn

ODA này đã có ý nghĩa tích cực trên một số mặt trong sự nghiệp phát triển

kinh tế và xã hội của Việt Nam. Kể từ khi nối lại quan hệ với các nhà tài trợ

(từ tháng 11-1993), Việt Nam đã đón nhận được sự cam kết và viện trợ vốn

ODA của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, trở thành điểm đến hấp dẫn đối

với ODA cho phát triển kinh tế xã hội. Trong thời kì 1993 - 2007,Việt Nam

đã đạt được những kết quả ấn tượng trong thu hút và sử dụng vốn ODA. Theo

thống kê, số vốn ODA các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam là 37 tỷ USD,

chiếm khoảng 2% tổng ODA toàn cầu. Trong đó 22,6 tỷ USD đã được ký kết.

Bình quân mỗi năm Việt Nam đã thu hút được 2,5 tỷ USD vốn ODA. Dòng

vốn ODA vào Việt Nam có xu hướng tăng nhưng không phải luôn luôn tăng.

Vốn cam kết năm 1997 và 1998 giảm sút do tác động của cuộc khủng hoảng

tiền tệ châu Á.Trong thời gian 1993 - 2007, vốn ODA giải ngân đã tăng hơn 4

lần. Hầu hết sự gia tăng dài hạn của vốn giải ngân là ở vốn vay hơn là vốn

không hoàn lại. Gần một nửa (49%) nguồn vốn vay có lãi suất thấp hơn

16

1%/năm và thời gian trả nợ ít nhất là 30 năm, trong đó có 10 năm ân hạn. Một

phần ba nguồn vốn vay là với lãi suất hang năm từ 1% đến 2,5%. Hơn nữa,

phần lớn khoản vay ODA sẽ được xem xét trong điều kiện hạn chế khả năng

trả nợ bên ngoài của Việt Nam. Tổng nợ quy đổi của Việt Nam khoảng 37%

GDP năm 2007, điều này cho thấy không có dấu hiệu nguy hiểm của khủng

hoảng nợ ở Việt Nam. Đặc biệt trong những năm gần đây, cam kết ODA mà

các nhà tài trợ dành cho Việt Nam tăng khá đều: năm 2005 đạt khoảng 3,5 tỷ

USD, năm 2006 đạt 3,75 tỷ USD, năm 2007 là 4,45 tỷ USD, còn cho năm

2008 con số này là 5,426 tỷ USD. Đây là mức cam kết kỷ lục, nâng tổng giá

trị ODA cam kết trong 2 năm 2006 - 2007 đạt gần 9,88 tỷ USD, bằng 49% dự

báo cam kết vốn ODA cho cả thời kỳ 2006 - 2010. Theo đánh giá của Bộ Kế

hoạch và Đầu tư cho thấy, năm 2007, tổng giá trị ODA được ký kết ước đạt

hơn 3,6 tỷ USD (trong đó, vốn vay hơn 3,3 tỷ USD và viện trợ không hoàn lại

hơn 289 triệu USD), tăng 12,3% so với năm 2006, góp phần đưa tổng vốn

ODA ký kết trong 2 năm 2006 - 2007 lên 6,53 tỷ USD, tương đương 40% dự

kiến ký kết trong thời kỳ 2006 - 2010. Trong 3 tháng đầu 2008, công tác vận

động thu hút vốn đầu tư ODA của Việt Nam có nhiều thuận lợi do Việt Nam

được đánh giá là một trong những nước sử dụng vốn ODA hiệu quả nhất.

Tính đến hết quý I/2008, tổng giá trị ODA ký kết thông qua các hiệp định cụ

thể với các nhà tài trợ đạt 369,06 triệu USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm

2007, trong đó vốn vay đạt 342,69 triệu USD và vốn viện trợ không hoàn lại

đạt 26,37 triệu USD. Trong số này có những dự án tài trợ lớn như: ADB tài

trợ cho dự án “Đường hành lang ven biển phía Nam thuộc tiểu vùng Mê Kông

mở rộng” 150 triệu USD; Nhật Bản tài trợ “Chương trình ngân hàng - tài

chính III” 75 triệu USD; dự án “Giáo dục trung học cơ sở vùng khó khăn

nhất” trị giá 50 triệu USD, “Chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo lần thứ

6” (PRRSC6) trị giá 30,67 triệu USD… Mặc dù gặp nhiều khó khăn do những

biến động của thị trường, tình hình lạm phát vẫn gia tăng, nhưng nhờ những

nỗ lực và các giải pháp của Chính phủ đề ra nhằm hoàn thiện thể chế về quản

lý và sử dụng vốn ODA, tình hình thu hút vốn ODA trong quý 2/2008 vẫn

được đánh giá rất khả quan. Trong quý 2/2008 này Việt Nam ký với Nhật Bản

17

các hiệp định trị giá khoảng 1 tỷ USD cho một số dự án cơ sở hạ tầng thiết

yếu, ký với Liên minh châu Âu (EU) hiệp định trị giá 10,8 triệu USD cho dự

án: “Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam”, ký với Cơ quan Phát triển

Pháp (AFD) hiệp định trị giá 1,5 triệu Euro (khoảng 2,3 triệu USD) viện trợ không

hoàn lại cho Quỹ Đầu tư phát triển đô thị thành phố Hồ Chí Minh (HIFU)…

Ngoài ra còn một số chương trình, dự án ODA đang hoàn tất thủ tục để đi đến ký

kết. Những kết quả này cho thấy, sự tin tưởng, đồng tình và ủng hộ của cộng đồng

các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc đổi mới và các chính sách phát triển kinh

tế - xã hội của Việt Nam. Hơn nữa, các nhà tài trợ quốc tế đánh giá rất cao về môi

trường phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đang ngày một hấp dẫn, thông

thoáng với những tiêu chí của một nền kinh tế thị trường. Có thể nói, nguồn vốn

ODA có vai trò và lợi ích rất lớn đối với Việt Nam, góp phần thúc dẩy tăng trưởng

kinh tế xã hội. Thông qua nguồn vốn ODA, nhiều công trình, chương trình đã

được xây dựng, triển khai. Đặc biệt có nhiều dự án vốn ODA đã được ký kết thực

thi đem tới nhiều ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng đối với quá trình phát triển đi

lên của cả nước như: Góp phần vào sự thành công của chương trình dân số và phát

triển; chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em... Nhiều

công trình lớn được xây dựng từ nguồn vốn ODA: cầu Mỹ Thuận, cầu Sông

Gianh, dự án nâng cấp quốc lộ 1A, dự án thủy lợi Cửa Đạt - Thanh Hóa…

Hiện nay, đối tác lớn cung cấp vốn ODA cho Việt Nam bao gồm:

Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Qũy tiền tệ

quốc tế (IMF), các tổ chức Liên Hiệp Quốc (UN) và nhiều nhà tài trợ song

phương khác như Nhật Bản, Hàn Quốc. Theo thỏa thuận được ký cuối tháng

8, hỗ trợ ODA của Hàn Quốc cho Việt Nam đạt 1 tỷ USD trong giai đoạn

2008 - 2011, nhiều gấp 2 lần so với quy mô trong thỏa thuận ký kết năm

2007.Với cam kết này, Hàn Quốc trở thành nhà tài trợ song phương lớn thứ

hai tại Việt Nam, và Việt Nam là nước nhận hỗ trợ phát triển nhiều nhất của

Hàn Quốc. Kể từ năm 1993 đến nay, Chính phủ Hàn Quốc đã tài trợ 471,4

triệu USD vốn vay ưu đãi cho 16 dự án của Việt Nam. Theo Đề án định

hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính 2006-2010 và đạt

mức tăng trưởng bình quân 7,5 - 8%/năm, Việt Nam cần huy động tổng vốn

18

đầu tư khoảng 160 tỷ USD. Trong đó, 65% huy động từ các nguồn vốn trong

nước và 35% từ các nguồn vốn ngoài nước. Riêng nhu cầu về vốn ODA,

trong 5 năm tới, cần thực hiện được khoảng 11 tỷ USD vốn ODA. Để thực

hiện được nguồn vốn trên, cần phải có vốn ODA cam kết khoảng 19 - 21 tỷ

USD. Đề án trên do Bộ Kế hoạch và Đầu tư lập, đã được Thủ tướng Chính

phủ Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định 290 phê duyệt, đưa ra dự báo, nước ta

có nhiều thuận lợi để tiếp tục thu hút nguồn vốn này. Tuy nhiên, cũng không

hiếm khó khăn khi nhu cầu về vốn ODA của các nước đang phát triển tiếp tục

tăng mạnh, trong khi năng lực quản lý, thực hiện các chương trình và dự án

ODA của Việt Nam còn nhiều yếu kém. Chính vì vậy, sau khi phân tích các

yếu tố liên quan đến chính sách, xác định nguyên tắc thu hút và sử dụng vốn

ODA thời gian tới, Đề án dự báo, nguồn vốn này dành cho Việt Nam sẽ đạt

mức cam kết khoảng 19 - 21 tỷ USD, bình quân 4 tỷ USD/năm, tăng trung bình

8% so với mức cam kết ODA năm 2005. Trong đó, vốn ODA ký kết trong thời

kỳ 2001-2005 chuyển tiếp sang khoảng 8 tỷ USD; nguồn vốn ký kết mới dự báo

sẽ đạt 12,35 - 15,75 tỷ USD. Như vậy, tổng vốn ODA được ký kết thời kỳ 2006 - 2010 sẽ đạt khoảng 20,4 - 23,7 tỷ USD(2). Kết quả khảo sát các nhà tài trợ cũng

cho con số tương đương với dự báo này. Vậy nguyên nhân do đâu mà Việt Nam

thu hút được nhiều ODA trong thời gian gần đây? Đó là:

Thứ nhất, chế độ chính trị ổn định và sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh

tế - xã hội của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nước

được cộng đồng viện trợ ưa thích.

Thứ hai, Việt Nam đã hưởng lợi nhờ đạt được những kết quả ấn tượng

về tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo nhanh đúng vào thời điểm mà các

nhà tài trợ đang tập trung vào lĩnh vực giảm nghèo và sẵn sàng viện trợ cho

những nước sử dụng tốt nguồn vốn này.

Thứ ba, tiến trình hội nhập sâu và chủ động vào kinh tế thế giới và

khu vực, sự năng động của nền kinh tế, tiến trình cải cách hành chính và

mong muốn của Chính phủ Việt Nam tiếp tục gắn bó với các nhà tài trợ đã

khiến họ càng nhiệt tình với Việt Nam hơn.

Như vậy, có thể thấy, Việt Nam đã trở thành đối tác quan trọng của

19

các nhà tài trợ trong các cam kết vốn ODA.Việt Nam cũng đã ký kết nhiều

hiệp định nhận viện trợ ODA. Vấn đề được đặt ra là, vốn ODA, một nguồn

lực quý góp phần thúc đẩy cho tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn

vốn này không phải là khoản cho không của nước ngoài mà đây là vốn vay,

có vay ắt phải có trả. Do đó, bên cạnh thu hút được nhiều, thì quan trọng hơn

là cần sử dụng hiệu quả, hợp lý vốn ODA. Vậy Việt Nam đã quản lý và sử

dụng nguồn vốn hỗ trợ quan trọng này như thế nào trong công cuộc đổi mới

và phát triển kinh tế - xã hội.

Tình hình vốn ODA vào Việt Nam

Trong nhiều năm qua, dòng vốn ODA chảy vào Việt Nam khá dồi dào và

đã đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội. Nhiều chương trình, công

trình, dự án hoàn thành đã đi vào khai thác phục vụ đời sống của người dân,

góp phần phát triển kinh tế. Theo thông tin từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong

giai đoạn 2016 – 2020, tổng nguồn vốn ODA có thể đàm phán, ký kết đạt

khoảng 20 – 25 tỷ USD và giải ngân đạt khoảng 25 – 30 tỷ USD (bao gồm cả

22 tỷ USD đã đàm phán, ký kết của các giai đoạn trước chưa kịp giải ngân).

Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng nguồn vốn này đang còn nhiều đáng phải lưu ý.

Quá trình giải ngân vốn ODA tại Việt Nam

Những năm qua, mặc dù Việt Nam được nhận viện trợ rất lớn tuy nhiên

những thực trạng giải ngân vốn ODA lại có dấu hiệu giảm dần. Chẳng hạn,

theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn ODA giải ngân sau hai năm

2013 – 2014 đạt mức kỷ lục, tương ứng trên 5,1 tỷ USD và 5,65 tỷ USD, đã

giảm xuống chỉ còn 2.7 tỷ USD vào cuối quý 2/2016 và 2.1 tỷ USD vào cuối

quý 2 /2017. Đây là minh chứng cho thấy tốc độ giải ngân nguồn vốn này

đang giảm. Trong khi nước ta sắp bước qua giai đoạn “ thu nhập trung bình”

vì thế từ 01/7/2017, Worldbank sẽ ngừng cung cấp viện trợ từ nguồn IDA

(nguồn vốn ODA ưu đãi nhất của WB) cho Việt Nam và từ 01/01/2019,

Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) chính thức không hỗ trợ Việt Nam bằng

nguồn ODA ưu đãi nhất là ADF. Các nhà tài trợ song phương khác như Nhật

Bản, Hàn Quốc cũng đang giảm dần mức ưu đãi cho Việt Nam. Như vậy, Việt

Nam sẽ phải vay với thời gian vay ngắn hơn, lãi suất cao hơn và xuất hiện

20

một số loại phí như phí cam kết. Do vậy, việc giải ngân chậm ảnh hưởng lớn

tới chi phí bỏ ra. Theo thông tin ADB công bố, nếu chậm thực hiện dự án sẽ

làm tăng chi phí 17,6% mỗi năm, trong đó có 6,5% do lạm phát đối với hạng

mục chính và 11,1% chi phí do lợi ích của dự án bị mất đi, tính trung bình nếu

chậm trễ 2-3 năm sẽ làm tăng chi phí lên 50%. Gần đây nhất là dự án Metro

Bến Thành – Suối Tiên tại Tp HCM, từ quy mô vốn 17 ngàn tỷ đồng đã đội

lên thành 47 ngàn tỷ đồng. Có nhiều lý do để “ bao biện” cho sự lãng phí này, tuy nhiên nguyên nhân chính vẫn là quá trình sử dụng vốn(3).

Thực tế quá trình sử dụng nguồn vốn ODA đã phát sinh nhiều bất cập, nhiều

lỗ hỏng gây thất thoát, lãng phí, tham nhũng đã ảnh hưởng đến chất lượng công

trình, làm ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam. Điều này xuất phát từ nhiều

nguyên nhân như: công tác chuẩn bị danh mục, pháp lý, quá trình thẩm định, phê

duyệt, kiểm soát chưa hiệu quả, tư duy và trách nhiệm chưa tốt,…đã ảnh hưởng

đến quá trình giải ngân cũng như hiệu quả từng đồng vốn.

2.2. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tại

Việt Nam

Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) có vai trò quan trọng

giúp Việt Nam xây dựng nền tảng để thu hút các nguồn lực khác. Trong 20

năm qua, các nhà tài trợ đã cung cấp cho Việt Nam một nguồn tài chính đáng

kể, góp phần thực hiện cải cách kinh tế và hội nhập quốc tế.

Xuất phát từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực như: Hàn Quốc,

Malaixia và từ tình hình thực tế trong nước, trong những năm gần đây Việt

Nam đã và đang thực hiện chiến lược phát triển kinh tế với xu hướng mở rộng

và đa dạng hoá các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Một trong những mục tiêu

chính trong chiến lược này là thu hút ODA cho phát triển kinh tế. Vai trò của

ODA được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. ODA

đã trở thành nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu

tư phát triển. Bên cạnh đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ

thuật một lượng lớn vốn ODA đã được sử dụng để đầu tư cho việc phát triển

21

ngành giáo dục, y tế, hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp …

Thứ hai, ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công

nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực. Thông qua các dự án ODA các nhà tài

trợ có những hoạt động nhằm giúp Việt Nam nâng cao trình độ khoa học công

nghệ và phát triển nguồn nhân lực như: cung cấp các tài liệu kỹ thuật, tổ chức các

buổi hội thảo với sự tham gia của những chuyên gia nước ngoài, cử các cán bộ

Việt Nam đi học ở nước ngoài,... Thông qua đó sẽ góp phần đáng kể vào việc

nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam

và đây mới chính là lợi ích căn bản, lâu dài đối với chúng ta.

Thứ ba, ODA giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Các dự án ODA

mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào phát triển cơ sở hạ

tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho

việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả nước.

Bên cạnh đó còn có một số dự án giúp Việt Nam thực hiện cải cách hành

chính nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước. Tất cả

những điều đó góp phần vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Việt Nam.

Thứ tư, ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để

mở rộng đầu tư phát triển. Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn

đầu tư vào một nước, trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu

tư tại nước đó. Bởi vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và

xây mới các cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết

nhằm làm cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn.

Như vậy, ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan

trọng cho phát triển, nó còn có tác dụng nâng cao trình độ khoa học, công

nghệ, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn

FDI góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2.3. Phƣơng thức thu hút, sử dụng nguồn vốn ODA tại Dự án IPP

2.3.1. Tóm tắt chung về Chương trình Đối tác Đ i m i sáng tạo Việt Nam -

Phần Lan

Chương trình Đối tác Đổi mới sáng tạo Việt Nam – Phần Lan (sau đây

22

gọi tắt là IPP) được xây dựng trên cơ sở bản ghi nhớ về hợp tác Khoa học và

Công nghệ giữa Việt Nam và Phần Lan được ký kết năm 2008 nhân chuyến

thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Phần Lan. IPP là chương trình

được ưu tiên lựa chọn để xây dựng và đã được hình thành trên cơ sở chia sẻ

và vận dụng những kinh nghiệm, kiến thức về đổi mới sáng tạo mà Phần Lan

đã thực hiện thành công trong khoảng 50 năm trở lại đây. IPP đã được hai

Chính phủ phê duyệt và chính thức ký kết trong tháng 7 năm 2009. Đây là

nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) không hoàn lại do Chính phủ

Phần Lan tài trợ.

Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo (IPP) nhằm mục đích hỗ trợ Việt

Nam đạt được mục tiêu trở thành xã hội tri thức và tăng cường Hệ thống đổi

mới sáng tạo quốc gia (NIS). Chương trình gồm 2 giai đoạn:

(i) Giai oạn I: Thời gian tháng 8/2009 ến tháng 2/2014

Ngân sách được duyệt ban đầu là 3,38 triệu EUR (Trong đó, Việt Nam

đóng góp là 9,5 tỷ đồng tương đương 0,38 triệu EUR). Ngân sách này đã

được bổ sung trong quá trình triển khai chương trình. Hiện nay lên tới gần 7,2

triệu Eur.

IPP giai đoạn 1 tập trung vào 4 hợp phần sau:

Hợp phần 1 : Xây dựng môi trường thể chế (0.5 triệu EUR)

Mục tiêu của hợp phần này là hỗ trợ để hoàn thiện khung pháp lý về

KH&CN nhằm thúc đẩy phát triển KH&CN, đặc biệt là thúc đẩy các hoạt

động đổi mới sáng tạo…vv. Kết quả dự kiến của hợp phần này là năng lực

xây dựng thể chế được nâng cao, môi trường thể chế về quản lý KH&CN và

đổi mới sáng tạo được hoàn thiện thêm một bước.

Hợp phần 2: Tăng cường năng lực về quản lý KHCN và đổi mới sáng

tạo (0.8 triệu Eur)

Mục tiêu của hợp phần là hỗ trợ để nâng cao khả năng và năng lực quản

lý KH&CN và đổi mới sáng tạo thông qua việc tổ chức các khoá đào tạo ngắn

hạn, các hội thảo tập huấn, học tập kinh nghiệm quốc tế về quản lý KH&CN

và đổi mới sáng tạo. IPP hỗ trợ xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực,

nghiên cứu và xây dựng giáo trình đào tạo về quản lý KH&CN và đổi mới

23

sáng tạo, đào tạo các chuyên gia, giảng viên. Dự kiến, sự hỗ trợ của IPP sẽ

mang lại kết quả là năng lực và khả năng quản lý KH&CN và đổi mới sáng

tạo được tăng cường.

Hợp phần 3: Hỗ trợ quá trình đổi mới và quan hệ đối tác nhà nước-tư

nhân (1.8 triệu Eur).

Mục tiêu của hợp phần là tăng cường hiệu quả liên kết giữa nghiên cứu

và thị trường, giữa các nhà khoa học với doanh nghiệp và thúc đẩy đổi mới công

nghệ trong các doanh nghiệp. IPP giúp xây dựng quan hệ đối tác nhà nước-tư

nhân giữa các cơ quan quản lý KH&CN, các doanh nghiệp và các tổ chức nghiên

cứu, giúp xây dựng quan hệ giữa Việt Nam với quốc tế về quản lý phát triển kinh

doanh và nghiên cứu phát triển. Dự kiến kết quả của hợp phần là quan hệ đối tác

giữa khu vực nhà nước và tư nhân được hỗ trợ và tăng cường.

Hợp phần 4: Tăng cường quan hệ đối tác giữa Việt Nam-Phần Lan (0.7

triệu Eur).

Mục tiêu của hợp phần này là hỗ trợ, môi giới, thúc đấy quan hệ đối tác

giữa các đối tác công-tư Việt Nam và Phần Lan nhằm thúc đẩy việc chuyển giao,

tiếp thu KH&CN và đổi mới sáng tạo giữa hai nước. IPP hỗ trợ nâng cao nhận

thức về cơ hội đối tác Việt Nam-Phần Lan thông qua việc tổ chức các hội thảo,

tham quan, khảo sát trao đổi thông tin. Thông qua triển khai hợp phần này, quan

hệ đối tác giữa khu vực nhà nước và tư nhân của Việt Nam và Phần Lan được

tăng lên cả về số lượng và chất lượng.

Như vậy mục tiêu chính của IPP 1 là hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

được tăng cường về năng lực và khả năng và thông qua các quan hệ đối tác

giữa lĩnh vực nhà nước- tư nhân tạo điều kiện cho Hệ thống đổi mới sáng tạo

quốc gia đóng góp nhiều hơn cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội của Việt

Nam.

Ba đối tượng tham gia chính trong Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

là các doanh nghiệp, khu vực nhà nước và cộng đồng khoa học công

nghệ/nghiên cứu triển khai.

Qua hơn 4 năm triển khai, tất cả các hợp phần của Chương trình đã được

thực hiện thành công và được phía Phần Lan đánh giá cao các kết quả đạt

24

được; Các tiểu dự án của Chương trình được thẩm định, phê duyệt, quản lý và

đánh giá theo đúng quy định; Chương trình đã tạo ra một hướng đi, trào lưu

mới cho phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ vào thực tiễn sản xuất, đổi

mới sáng tạo như một công cụ hữu hiệu để đưa đất nước tiến phát triển kinh

tế, xã hội theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa; Các tiểu dự án được

triển khai đã có những hiệu quả rõ rệt và tích cực cho ngành, cộng đồng, địa

phương, doanh nghiệp;

(ii) Giai oạn II: Từ tháng 3/2014 ến cuối tháng 12/2018.

Nối tiếp những thành công đã đạt được trong giai đoạn 1 (2009 – 2013),

hai chính phủ Việt Nam và Phần Lan đã ký kết hiệp định để tiếp tục phát triển

giai đoạn 2 của IPP. Giai đoạn 2 (IPP2) được triển khai từ năm 2014 đến 2018

với tổng ngân sách là 11 triệu euro. Trong đó vốn viện trợ ODA từ Chính phủ

Phần Lan là 9.9 triệu Eur (chiểm 90% ngân sách). Đóng góp của Chính phủ

Việt Nam là 1.1 triệu Eur (chiếm 10% ngân sách tài trợ). Các cơ quan chủ

quản của IPP2 sẽ là Bộ Khoa học Công nghệ của Việt Nam và Bộ Ngoại giao

Phần Lan. Chương trình sẽ tiếp cận với các đối tác hàng đầu về đổi mới sáng

tạo tại Việt Nam cũng như quốc tế để tìm các giải pháp thích hợp hỗ trợ hệ

thống đổi mới sáng tạo của Việt Nam, góp phần thiết thực và hiệu quả vào

thực hiện những mục tiêu kinh tế của Việt Nam đến năm 2020, phấn đấu xuất

khẩu được ra thị trường thế giới những sản phẩm đổi mới sáng tạo.

IPP2 sẽ triển khai bước đầu phát triển một chương trình đào tạo đẳng cấp

quốc tế về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp để thực hiện tại các trường đại học

của Việt Nam. Việc tài trợ cho các dự án đổi mới sáng tạo sẽ tập trung vào 1)

Các doanh nghiệp ĐMST mới với các sản phẩm và dịch vụ đổi mới sáng tạo

có tiềm năng vươn ra thị trường quốc tế; 2) Các liên kết đối tác địa phương

cùng phát triển hệ thống ĐMST hướng tới lợi ích của các doanh nghiệp

ĐMST tại 4 vùng trọng điểm là Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh

và Cần Thơ. Cũng trong năm 2015, IPP sẽ tổ chức đào tạo các chuyên gia đổi

mới sáng tạo của Việt Nam. Đây chính là những nhóm chuyên gia đầu tiên để

tham gia đào tạo cũng như hỗ trợ thực hành đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.

Việc lựa chọn các dự án để tài trợ sẽ được lựa chọn kỹ lưỡng dựa trên

25

đánh giá nhu cầu thị trường, năng lực thực hiện về đổi mới sáng tạo của các

đơn vị quan tâm, với quy trình lựa chọn cạnh tranh, bình đẳng và minh bạch.

Để tạo điều kiện cho các đối tác quan tâm IPP sẽ tổ chức các sự kiện trao đổi

thông tin và đồng hành với các đối tác đổi mới sáng tạo tại 4 thành phố: Hà

Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Cần Thơ trong tháng 1 năm 2015.

IPP2 hướng tới các mục tiêu dài hạn là hỗ trợ phát triển kinh tế và hệ

thống đổi mới sáng tạo cho Việt Nam. IPP hợp tác với nhiều đối tác quan

trọng trong nước và quốc tế nhằm mở rộng quy mô các hoạt động đào tạo

thực tế về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tại Việt Nam cũng như cải thiện

các chương trình, các cơ chế hỗ trợ ở địa phương đối với doanh nghiệp sáng

tạo mới. IPP2 cũng thực hiện việc kết nối các thành phần của hệ sinh thái

khởi nghiệp nhằm xây dựng một nền tảng vững chắc cho thế hệ doanh nhân

Việt Nam tiếp theo, đồng thời thúc đẩy hợp tác về đổi mới sáng tạo và khởi

nghiệp giữa Việt Nam với các nước, đặc biệt là với Phần Lan.

IPP2 là đơn vị khởi xướng, kết nối, hỗ trợ thực hiện các ý tưởng nhằm

củng cố và phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và kinh doanh tại Việt

Nam. IPP2 hỗ trợ các hoạt động mới và kết nối hợp tác đổi mới sáng tạo trong

phạm vi Việt Nam, khu vực và quốc tế.

IPP2 đã và đang hợp tác với nhiều đối tác quan trọng trong nước và quốc

tế nhằm phát triển hoạt động đào tạo thực tiễn về đổi mới sáng tạo và khởi

nghiệp tại Việt Nam cũng như cải thiện các chương trình, các cơ chế hỗ trợ ở

địa phương đối với doanh nghiệp sáng tạo mới.

IPP 2 kế thừa và tiếp tục triển khai mục tiêu tổng thể từ IPP 1 nhằm hỗ

trợ Việt Nam phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (NIS). Theo thiết

kế của Chương trình IPP2 khoản tài trợ theo các hợp phần như sau:

Hợp phần 1: Phát triển thể chế và nâng cao năng lực: 1.1 triệu Eur

Hợp phần 2: Đối tác sáng tạo: 1 triệu Eur

Hợp phần 3: Các Dự án Đổi mới sáng tạo: 3 triệu Eur

Theo trình tự triển khai của Chương trình, có thể chia làm hai giai đoạn chính.

+ Giai đoạn đầu tiên, sau giai đoạn khởi động, tập trung vào việc tái định

hướng từ việc hỗ trợ Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (NIS) chuyển sang

26

hỗ trợ các các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, tập trung vào việc

nâng cao khả năng phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới sang các thị trường

quốc tế. Nhằm hiện thực mục tiêu này, Chương trình tập trung vào ba kết quả

chính: 1) Phát triển thể chế và nâng cao năng lực, 2) Đối tác sáng tạo và 3)

Các dự án đổi mới sáng tạo.

+ Giai đoạn 2 được triển khai vào cuối Chương trình với việc thực hiện

Chiến lược rút lui của Chương trình (tháng 4/2017), tập trung vào đảm bảo sự

bền vững của các kết quả, cũng như các mục tiêu cấp thiết của Chiến lược

chuyển đổi. Theo đó, các công cụ mới phục vụ cho các đối tác kinh doanh

(Chương trình đối tác và tiếp cận thị trường Việt Nam VMAP) và hợp tác liên

thành phố được tích hợp vào Chương trình. Trong Chiến lược rút lui, số lượng

các kết quả được rút gọn thành hai kết quả chính: 1) Hỗ trợ thể chế và nâng

cao năng lực; và 2) Xây dựng đối tác và Bền vững.

Như vậy qua 2 giai đoạn Chương trình đối tác Đổi mới sáng tạo Việt

Nam - Phần Lan đã hỗ trợ Việt Nam đạt được mục tiêu đã đề ra. Đặc biệt với

Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam - Phần Lan giai đoạn 2

(IPP2) đã đi tiên phong thử nghiệm các mô hình, công cụ mới nhằm tác động

toàn diện tới các yếu tố cấu thành hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Trong đó, bên cạnh việc hỗ trợ Việt Nam thiết kế, xây dựng chính sách về

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; đào tạo và xây dựng năng lực cho đội ngũ huấn

luyện viên khởi nghiệp, giảng viên các trường đại học, cán bộ quản lý cấp

trung ương và địa phương; thúc đẩy phát triển mạng lưới và quan hệ đối tác

về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo với Phần Lan; IPP2 còn thực hiện một cấu

phần quan trọng là hỗ trợ các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở Việt Nam

bằng cơ chế tài chính thử nghiệm được thiết kế từ kinh nghiệm của Phần Lan.

Trong giai đoạn 2014-2018, IPP2 đã thực hiện một loạt các biện pháp

can thiệp chiến lược khác nhau, giúp mang lại những thay đổi đ|ng kể trong

hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Chương trình đã thử

nghiệm thí điểm các cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp tăng trưởng cao,

tập trung vào các tầng khác nhau của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo mới nổi của Việt Nam. Bên cạnh đó, chương trình cũng hỗ trợ xây dựng

27

năng lực đổi mới sáng tạo của các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam thông

qua thí điểm chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp và các tổ chức

xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp, tổ chức các khóa đào tạo nâng cao năng

lực và thực hiện các chương trình đào tạo chuyên gia tư vấn về khởi nghiệp

(ToT).

2.3.2. Mô hình tài trợ cho khởi nghiệp i m i sáng tạo tại Chương

trình Đối tác Đ i m i sáng tạo Việt Nam - Phần Lan

2.3.2.1. Cơ sở và mục tiêu của Chương trình IPP2

Năm 2015, thời điểm IPP2 khởi động đợt tài trợ đầu tiên cho doanh

nghiệp khởi nghiệp, ở Việt Nam có rất ít hoặc không có các kênh hỗ trợ dự án

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo mà phần lớn tập trung cho các doanh nghiệp

vừa và nhỏ và doanh nghiệp thuộc các ngành, địa phương cụ thể. Như đã đề

cập, các mô hình hỗ trợ tài chính cho khởi nghiệp nói chung và dự án đổi mới

sáng tạo nói riêng khi đó còn rất hạn chế. Các chương trình vườn ươm hoạt

động bằng ngân sách nhà nước đã được triển khai nhưng hầu hết chỉ cung cấp

địa điểm làm việc và hạ tầng nghiên cứu mà không có các hình thức hỗ trợ tài

chính và hỗ trợ mềm khác như đào tạo, tập huấn và kết nối mạng lưới. Các dự

án đổi mới sáng tạo khi đó (và hiện nay) nhận được rất ít hỗ trợ trong suốt quá

trình xây dựng ý tưởng do những lo ngại về việc doanh nghiệp thất bại và mức

độ chấp nhận rủi ro của Chính phủ thấp.

Để khắc phục các hạn chế và khiếm khuyết của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi

mới sáng tạo ở Việt Nam, IPP2 triển khai các hướng tác động sau:

Hỗ trợ các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở giai đoạn đầu, có tiềm

năng tăng trưởng, có định hướng vươn ra thị trường quốc tế. Cung cấp hỗ trợ

tài chính và hỗ trợ mềm song song để bổ trợ cho nhau;

Đổi mới tư duy và nâng cao năng lực cho các chủ thể của hệ sinh thái,

bao gồm các huấn luyện viên khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, các liên danh

cung cấp dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp (vườn ươm, quỹ tăng tốc, đơn vị cung

cấp dịch vụ tư vấn, đào tạo, phát triển mạng lưới), các trường đại học, cán bộ

hoạch định chính sách và chính các nhóm khởi nghiệp..

Cách tiếp cận của IPP2 là hoàn toàn mới và chưa có tiền lệ trong khu

28

vực công của Việt Nam

IPP2 không quy định mục tiêu cứng và chi tiết (như tỷ lệ thành công của

doanh nghiệp khởi nghiệp) mà đưa ra các mục tiêu có tính mở và định tính

(như một số doanh nghiệp được hỗ trợ sẽ có thể xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ

ra thị trường quốc tế; các huấn luyện viên đổi mới sáng tạo được IPP2 đào tạo

sẽ trở thành các “tác nhân thay đổi”, áp dụng tri thức, kỹ năng về khởi nghiệp

và đổi mới sáng tạo vào thực tiễn sau khi khóa đào tạo kết thúc;...).

2.3.2.2. Đối tượng tài trợ

Đối tượng IPP2 hỗ trợ là các nhóm khởi nghiệp trong nước và các thành

tố khác trong hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam, bao gồm:

(i) Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong nước có tiềm năng

tăng trưởng cao, có sản phẩm, dịch vụ định hướng xuất khẩu ra thị trường

quốc tế; không ưu tiên theo ngành hay sản phẩm, dịch vụ đặc thù.

Huấn luyện viên đổi mới sáng tạo không phân biệt khu vực công hay tư,

có khả năng tư vấn, truyền đạt tri thức, kỹ năng khởi nghiệp và đổi mới sáng

tạo sau khi kết thúc khóa đào tạo của IPP2.

(ii) Các dự án liên danh phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo, triển khai ý tưởng và mô hình mới góp phần hỗ trợ, thúc đẩy phát triển hệ

sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam; tối thiểu liên danh phải

gồm ba pháp nhân là các đơn vị phát triển hệ sinh thái trong nước cùng tham gia

thực hiện (vườn ươm doanh nghiệp, tổ chức thúc đẩy kinh doanh, viện nghiên

cứu và phát triển, công ty tư vấn, trường đại học,…).

(iii) Các trường đại học trong nước mong muốn phát triển hoạt động đào

tạo về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp; hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp

đổi mới sáng tạo trong khuôn viên các trường đại học.

(iv) Các cán bộ quản lý, hoạch định chính sách và cơ quan nhà nước

trực tiếp tham gia xây dựng chính sách về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.

IPP2 đã hỗ trợ tài chính và đào tạo 18 doanh nghiệp khởi nghiệp, 14 dự

án liên danh phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp với 42 đơn vị phát triển hệ

sinh thái, 12 huấn luyện viên khởi nghiệp, đào tạo 150 giảng viên từ 50

trường đại học, cao đẳng trong cả nước; hỗ trợ 23 doanh nghiệp Phần Lan

29

tham gia Chương trình Đối tác và Tiếp cận thị trường Việt Nam (VMAP và

VMAP+), qua đó đào tạo hơn 25 cán bộ tư vấn Việt Nam; nhiều cơ quan

chính phủ được hỗ trợ chuyên gia quốc tế tư vấn thiết kế chính sách và hàng

trăm cán bộ hoạch định chính sách thuộc các Bộ, ngành trung ương và địa

phương được tham gia các khóa đào tạo nâng cao năng lực trong nước và ở

nước ngoài. Hình dưới đây trình bày tổng quan khung thời gian hỗ trợ dành

cho các đơn vị thụ hưởng:

Hình 1. Khung thời gian hỗ trợ của IPP2

Hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp ở Việt Nam của IPP2 bắt đầu bằng việc

song song tổ chức đợt kêu gọi tài trợ đầu tiên và Khóa đào tạo huấn luyện

viên về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo (ToT1). ToT1 dành cho 12 cá nhân

được lựa chọn trên cơ sở cạnh tranh, với mục tiêu giúp họ trở thành những hạt

nhân nòng cốt về tư vấn khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo (ví dụ: cố vấn đổi

mới sáng tạo, tư vấn chiến lược và chính sách cho các doanh nghiệp khởi

nghiệp). Đây là Khóa đào tạo 8 tháng (từ tháng 6/2015), với hai tháng đầu

tiên học tập trung trên lớp và sáu tháng tiếp theo thực hành trong khuôn khổ

Chương trình Tăng tốc đổi mới sáng tạo (IAP) của IPP2 với 22 nhóm dự án

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và liên danh phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp

đổi mới sáng tạo đã được IPP2 lựa chọn tài trợ đợt một. Sau khi ToT1 được

tổng kết vào tháng 02/2016, IPP2 tiếp tục triển khai đợt kêu gọi tài trợ thứ hai,

bao gồm các dự án liên danh mới về phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi

mới sáng tạo và các dự án tiềm năng nhất của đợt tài trợ đầu tiên. Đồng

thời, IPP2 triển khai sáng kiến hợp tác với các trường đại học khởi đầu bằng

30

Khóa đào tạo giảng viên nguồn về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp

(ToT2) dành cho 12 trường đại học và cơ sở đào tạo được lựa chọn theo

cơ chế cạnh tranh. Trong hai năm tiếp theo, 2017 - 2018, Chương trình hợp

tác với các đối tác tiềm năng ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Huế

(Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Ngoại thương, SIHUB TP. Hồ Chí

Minh, DNES Đà Nẵng, Cao đẳng Công nghiệp Huế) tổ chức nhân rộng các

khóa đào tạo giảng viên nguồn về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp ở cả ba

miền Bắc, Trung, Nam.

Tháng 11 năm 2014, IPP2 tổ chức đoàn công tác do một đồng chí Thứ

trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ làm trưởng đoàn tham dự sự kiện Slush ở

Phần Lan - sự kiện về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo lớn nhất châu Âu với sự tham

dự của khoảng 15.000 người. Mô hình này đã góp phần thôi thúc Bộ khoa học và

Công nghệ tổ chức sự kiện tương tự ở Việt Nam từ năm 2015

- TECHFEST là sự kiện quốc gia kết nối hệ sinh thái khởi nghiệp đổi

mới sáng tạo tại Việt Nam

3.2.2.3. Hỗ trợ về tài chính

Công cụ mà IPP2 sử dụng để tài trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp

và đơn vị phát triển hệ sinh thái là các khoản tài trợ không hoàn lại, trong đó

bao gồm:

Tài trợ dự án doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

Trong đợt tài trợ đầu tiên năm 2015, 18 dự án khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo nhận được gói tài trợ (tối đa 30.000 Euro). Trong đợt tài trợ thứ hai năm

2016, 5 dự án nổi bật nhất trong số 18 dự án nói trên được lựa chọn tiếp nhận

khoản tài trợ bổ sung để tăng tốc phát triển (lên đến 100.000 Euro). Đây là

những doanh nghiệp thể hiện được mô hình kinh doanh hiệu quả, sự gắn kết

nhóm, chứng minh được tiềm năng tăng trưởng nhanh và khả năng mở rộng

thị trường cũng như áp dụng tư duy kinh doanh quốc tế.

IPP2 hỗ trợ tài chính tối đa 70% chi phí dự án gồm 2 dòng/mục chi

chính: Lương và các chi phí liên quan; chi phí xây dựng năng lực như tham

gia Chương trình Đào tạo tăng tốc đổi mới sáng tạo (IAP), dịch vụ tư vấn thuê

ngoài, đào tạo. Bên cạnh đó, các chi phí thực hiện kế hoạch dự án cũng được

31

xem xét hỗ trợ như: Nghiên cứu thị trường; kết nối và hợp tác; thuê khoán

chuyên môn cần thiết; lập kế hoạch kinh doanh; nghiên cứu và phát triển

nhằm xác định thị trường; lập kế hoạch và tìm kiếm các nguồn tài trợ bên

ngoài; nghiên cứu và đăng ký quyền sở hữu trí tuệ (IPRs); phát triển sản

phẩm, dịch vụ (trừ chi phí mua sắm nguyên liệu, thiết bị).

Tài trợ dự án liên danh phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

Song song với việc tài trợ các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, IPP2

cũng tài trợ cho các dự án liên danh phát triển hệ sinh thái có tối thiểu ba đơn

vị phát triển hệ sinh thái tham gia. Trong đợt tài trợ đầu tiên năm 2015, 4 dự

án liên danh phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo nhận được

gói tài trợ (tối đa 50.000 Euro). Trong đợt tài trợ thứ hai năm 2016, 2 dự án

nổi bật nhất trong số 4 dự án nói trên được lựa chọn tiếp nhận khoản tài trợ bổ

sung để tăng tốc phát triển (lên đến 100.000 Euro).

Bên cạnh đó, IPP2 cũng công bố Đợt mời nộp hồ sơ xin tài trợ mới dành

cho các đơn vị phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Qua đó,

10 dự án liên danh mới về phát triển hệ sinh thái đã được lựa chọn tài trợ với

mức khởi đầu là 50.000 Euro. Trong đợt tài trợ tiếp theo năm 2017, 4 trong số

10 dự án này đã được lựa chọn tiếp nhận tài trợ bổ sung để tăng tốc, mở rộng

quy mô phát triển.

Tài trợ dự án thúc đẩy đào tạo khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại các

trường đại học

Trong năm 2017, IPP2 cung cấp các khoản tài trợ thúc đẩy đào tạo về

khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại các trường đại học Việt Nam (các trường

đối tác đã tham gia Chương trình hợp tác với IPP2 từ năm 2016). Khoản tài

trợ không quá 20.000 Euro cho dự án do một trường đại học đơn lẻ thực hiện

và lên đến 100.000 Euro cho dự án hợp tác chung có tối thiểu ba trường đại

học cùng tham gia. Có 4 dự án triển khai tại 8 trường đại học đã được IPP2

lựa chọn tài trợ.

Tài trợ huấn luyện viên khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo

Đối với 12 học viên tham gia Khóa đào tạo huấn luyện viên khởi nghiệp

và đổi mới sáng tạo (ToT1) trong năm 2015, IPP2 đã hỗ trợ học bổng hàng

32

tháng ở mức 1.000 Euro/người nhằm tạo điều kiện để học viên dành đủ thời

gian tham gia học tập và tư vấn, huấn luyện cho các nhóm dự án khởi nghiệp

của IPP2 tại Chương trình Tăng tốc đổi mới sáng tạo (IAP).

3.2.2.4. Hỗ trợ về kỹ năng

Bên cạnh hỗ trợ tài chính, IPP2 còn cung cấp các hỗ trợ mềm cho các

nhóm dự án doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và đơn vị phát triển

hệ sinh thái, bao gồm:

Xây dựng năng lực

Trong khuôn khổ IPP2, Chương trình Tăng tốc Đổi mới sáng tạo (IAP)

được thiết kế và áp dụng cho các nhóm dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và

đơn vị phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo dựa trên giáo trình

khung được xây dựng bởi các chuyên gia quốc tế, có sự tham gia tư vấn,

giảng dạy của các chuyên gia trong nước. IAP bao gồm: (i) một tuần đào tạo

tập trung để trang bị kiến thức cơ bản về khởi nghiệp tinh gọn và xây dựng hệ

sinh thái khởi nghiệp; (ii) các hội thảo hàng tháng về theo chủ đề (như các vấn

đề pháp lý trong sản xuất, kinh doanh; sở hữu trí tuệ; huy động vốn và kỹ năng

thuyết trình gọi vốn); và (iii) huấn luyện theo hình thức một kèm một với các

huấn luyện viên đổi mới sáng tạo được IPP2 đào tạo từ Chương trình ToT1.

Đào tạo huấn luyện viên, giảng viên nguồn về đổi mới sáng tạo và khởi

nghiệp

Như nêu ở phần trên, từ tháng 6/2015 đến tháng 02/2016, IPP2 triển khai

Chương trình ToT1 đào tạo huấn luyện viên khởi nghiệp, gồm 2 tháng học tập

trung dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia từ Thung lũng Silicon (Hoa Kỳ)

và 6 tháng tiếp theo trực tiếp thực hành, huấn luyện cho các nhóm dự án khởi

nghiệp và liên danh phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp do IPP2 tài trợ.

Chương trình ToT2 trong khuôn khổ Chương trình Hợp tác của IPP2 với

các trường đại học và cơ sở giáo dục Việt Nam, được thiết kế dành riêng cho

giảng viên các trường đại học với mục đích trang bị năng lực để các trường có

thể thiết kế chương trình đào tạo riêng về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp,

triển khai giảng dạy thử nghiệm, tiến tới đưa chương trình đào tạo về đổi mới

sáng tạo và khởi nghiệp vào giảng dạy trong các trường đại học Việt Nam.

Khóa ToT2 đầu tiên được tổ chức vào nửa cuối năm 2016, với 12 trường đại

33

học và cơ sở đào tạo được lựa chọn theo cơ chế cạnh tranh, mỗi trường cử 3

giảng viên tham gia. ToT2 gồm 2 tuần học tập trung và hơn 5 tháng trao đổi,

tham vấn với các chuyên gia quốc tế.

Hỗ trợ xây dựng và nâng cao năng lực hoạch định chính sách về đổi mới

sáng tạo

IPP2 hỗ trợ Việt Nam thiết kế một số chính sách quan trọng về đổi mới

sáng tạo và khởi nghiệp thông qua hình thức mời các chuyên gia cao cấp quốc

tế từ Hoa Kỳ và Phần Lan vào làm việc trực tiếp với cơ quan soạn thảo văn

bản hoặc đưa nhóm soạn thảo ra nước ngoài làm việc với các đơn vị đối tác.

Các cơ quan này bao gồm: Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa

học và Công nghệ (NATEC), Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công

nghệ (thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ), Viện Chiến lược và Chính sách

Khoa học và Công nghệ (NISTPASS), và Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam

(NOIP). Đây là các đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng các chính sách liên

quan đến phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (Đề án

844); Luật Chuyển giao công nghệ sửa đổi; hình thành thị trường đầu tư mạo

hiểm và Kế hoạch hành động quốc gia về sở hữu trí tuệ.

Đồng thời, IPP2 đã mời các chuyên gia hàng đầu thế giới về phát triển

kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo (Giáo sư Goran Roos người Thụy Điển hay

Cựu Thủ tướng Phần Lan Esko Aho) đến Việt Nam giảng bày và tham vấn

chính sách cho đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách về khoa học, công nghệ

và đổi mới sáng tạo cấp trung, cấp cao. Nhiều khóa đào tạo ngắn hạn về quản

trị đổi mới sáng tạo dành cho cán bộ quản lý và hoạch định chính sách của

Việt Nam đã được tổ chức tại Phần Lan và Singapore, trong đó, ngoài các đơn

vị thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, còn có sự tham gia của nhiều cơ quan

Chính phủ cấp trung ương và địa phương như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và

Đầu tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công Thương, Văn phòng Chính phủ, Văn

phòng Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các Sở KH&CN cấp tỉnh, lãnh

đạo các trường đại học Việt Nam.

Hoạt động kết nối mạng lưới đổi mới sáng tạo trong nước và quốc tế

Với mục tiêu khuyến khích sự kết nối giữa các bên liên quan trong hệ

34

sinh thái, IPP2 đã hỗ trợ xây dựng Mạng lưới nhà đầu tư thiên thần cho doanh

nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam. IPP2 cũng đã tổ chức đoàn cho các doanh

nghiệp khởi nghiệp và đơn vị phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp tham gia sự

kiện SLUSH diễn ra tại Phần Lan các năm 2014, 2015, 2016 và 2017 để kết

nối và tìm kiếm các nhà đầu tư, khách hàng và đối tác quốc tế tiềm năng.

3.2.2.5. Quy trình lựa chọn trao tài trợ

Sàng lọc và lựa chọn

Trong tất cả các kế hoạch tài trợ của Chương trình, IPP2 áp dụng quy

trình chọn lọc cạnh tranh dựa trên ý kiến đánh giá độc lập, khách quan của

các chuyên gia tư vấn quốc tế và Việt Nam. Việc tuyển chọn dự án dựa trên

các nguyên tắc cơ bản sau:

(i) Minh bạch, độc lập, khách quan

Các nhóm chuyên gia độc lập quốc tế và trong nước tham gia vào quy

trình đánh giá hồ sơ ứng viên. Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý Dự án IPP2 không

tham gia, không can thiệp vào quá trình thẩm định, đánh giá độc lập này. Các

đề xuất lựa chọn được Ban Quản lý trình Ban Chỉ đạo ra quyết định cuối cùng

đều dựa trên khuyến nghị của chuyên gia đánh giá độc lập. Khác biệt chỉ có ở

đợt tài trợ thứ hai, khi để lựa chọn các nhóm dự án đi tiếp vào vòng tăng tốc,

bên cạnh ý kiến của chuyên gia độc lập, IPP2 sử dụng công cụ giám sát hoạt động

của các nhóm dự án trong đợt nhận tài trợ đầu tiên làm thông tin đầu vào có tính

tham khảo thêm cho các quyết định cuối cùng. Kết quả là, có trường hợp nhóm dự

án được chuyên gia độc lập đánh giá cao dựa trên hồ sơ ứng viên, nhưng Ban

Quản lý Dự án IPP2 không chấp nhận tiếp tục tài trợ do kết quả giám sát hoạt

động tại vòng một cho thấy nhóm dự án chưa hoàn thành tốt kế hoạch hoạt động

theo cam kết tại hợp đồng.

Đối với tất cả các trường hợp, dù được lựa chọn hay bị từ chối tài trợ,

IPP2 đều gửi thư thông báo tới từng nhóm dự án, trong đó nêu rõ lý do vì sao

bị từ chối. Để bảo đảm quyền khiếu nại cho các đối tượng này, trong văn bản

thông báo của IPP2 có nêu rõ địa chỉ khiếu nại trực tuyến hoặc trực tiếp tới

hai cơ quan có thẩm quyền: Bộ Ngoại giao Phần Lan và Bộ KH&CN Việt

Nam. Điều này cho phép tất cả các nhóm dự án có thể thuận tiện liên hệ và

35

khiếu nại, nếu phát hiện bất kỳ vấn đề liên quan tới sự thiếu minh bạch và

trung thực trong quá trình lựa chọn dự án, kể cả các vấn đề liên quan tới sử

dụng ngân sách của Chương trình hoặc hành vi trái pháp luật của các cán bộ

dự án. Việc công bố công khai kênh phản hồi ý kiến tới nhà tài trợ góp phần

đảm bảo thực hiện cam kết về tính minh bạch của Chương trình.

(ii) Cơ hội công bằng, bình đẳng, không phân biệt đối xử

IPP2 áp dụng nguyên tắc trao cơ hội công bằng cho mọi đối tượng trong

cộng đồng khởi nghiệp thông qua việc cung cấp rộng rãi thông tin về các đợt

kêu gọi tài trợ trên các phương tiện truyền thông đại chúng, Website IPP2 và

các sự kiện đồng sáng tạo (Co-creation Events) được tổ chức tại các địa bàn

Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Cần Thơ. Quá trình đánh giá,

lựa chọn, thực hiện, giải ngân được thực hiện nghiêm túc theo quy định của

các văn bản quản lý dự án, đồng thời được kiểm toán độc lập để đảm bảo tính

tuân thủ và sự chuẩn mực của các báo cáo tài chính.

Hình 2. Quy trình sàng lọc và lựa chọn của IPP2

Giám sát và đánh giá

Một trong những quy định mang tính nguyên tắc là để được hoàn chi,

các doanh nghiệp khởi nghiệp và đơn vị phát triển hệ sinh thái phải tuân thủ

chế độ báo cáo hàng quý. Báo cáo được gửi tới cán bộ quản lý dự án và cán

bộ quản lý tài chính của IPP2 để xác thực các hoạt động thực tế và kiểm tra

tính hợp lệ của các khoản chi, chứng từ trước khi trình Ban Quản lý IPP2

quyết định. Cán bộ quản lý dự án tiến hành kiểm tra thông qua các kênh khác

nhau như đối tác, khách hàng của doanh nghiệp hoặc các chuyến thực địa tại

36

doanh nghiệp. Cán bộ quản lý tài chính đóng vai trò như kiểm toán nội bộ,

nếu phát hiện các khoản chi hoặc chứng từ không hợp lệ, đề xuất hoàn chi có

thể bị từ chối.

Bên cạnh đó, để được hoàn chi lần cuối và thanh quyết toán toàn bộ dự án

đã nhận tài trợ, các tiểu dự án còn chịu sự kiểm toán cuối cùng do các công ty

kiểm toán độc lập tiến hành. IPP2 thuê kiểm toán độc lập nhằm đảm bảo tính

minh bạch, khách quan và trách nhiệm giải trình của các bên liên quan. Vì vậy,

có trường hợp doanh nghiệp khởi nghiệp và nhóm liên danh phát triển hệ sinh

thái đã không thể được hoàn chi với mức tài trợ tối đa (100 nghìn Euro).

Hình 3. Quy trình hoàn chi của IPP2

Trong khuôn khổ vòng tài trợ thứ nhất, song song với công tác giám sát

về mặt hành chính, 12 huấn luyện viên đổi mới sáng tạo đã được cử đi làm

việc với các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo định kỳ hàng tuần

trong thời gian 6 tháng liên tục. Kết quả của hoạt động huấn luyện cấp tốc này

được các huấn luyện viên đổi mới sáng tạo cùng cán bộ quản lý dự án của

IPP2 trao đổi và phân tích thường xuyên. Điều này giúp IPP2 hiểu rõ hơn về

hoạt động của từng dự án trong quá trình tham gia Chương trình Tăng tốc đổi

mới sáng tạo (IAP), giúp Ban Quản lý IPP2 có thêm thông tin tham khảo

trước khi quyết định lựa chọn dự án đi tiếp vào vòng tài trợ thứ hai. Trong

vòng tài trợ này, các huấn luyện viên đổi mới sáng tạo không song hành trao

đổi, tư vấn với các nhóm dự án vì ở giai đoạn này, doanh nghiệp khởi nghiệp

được xem là đã trưởng thành và không cần sự can thiệp trực tiếp của Chương

37

trình.

Quy trình tài trợ hai giai đoạn này tương tự với thực tiễn áp dụng trên thế

giới về tài trợ cho khởi nghiệp, theo đó các chính phủ thường xác định các

mốc tài trợ và chỉ những doanh nghiệp khởi nghiệp đạt tới mốc nhất định mới

được tài trợ tiếp để tăng tốc phát triển. Trong trường hợp của IPP2, vòng tài

trợ thứ hai là vòng tài trợ nhằm giúp doanh nghiệp tăng trưởng và mở rộng

quy mô (scale-up funding).

2.3.3. Các kết quả ạt ược trong mô hình hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp i m i sáng tạo tại Chương trình Đối tác Đ i m i sáng tạo Việt

Nam - Phần Lan

2.2.3.1. Kết quả thực hiện

IPP2 đã đưa các chuyên gia quốc tế giàu kinh nghiệm tham gia tư vấn,

soạn thảo chính sách có tác động lớn trong dài hạn như Chương trình 844 Hỗ

trợ hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia đến năm 2015; Luật Chuyển giao công

nghệ sửa đổi; Tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn nâng cao năng lực cho gần

100 cán bộ hoạch định chính sách về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

của Việt Nam.

IPP2 đã thực hiện nhiều hoạt động xây dựng năng lực khởi nghiệp và đổi

mới sáng tạo theo tiêu chuẩn quốc tế cho các cá nhân, tổ chức và trường đại

học tại Việt Nam.

IPP2 đã thiết kế Chương trình đào tạo khung theo chuẩn quốc tế, thử

nghiệm đào tạo và cấp chứng chỉ cho 12 chuyên gia tư vấn về khởi nghiệp và

hơn 150 giảng viên nguồn về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo từ 50 trường

đại học và tổ chức giáo dục trên toàn quốc

Bốn khóa đào tạo điều hành cho các quan chức chính phủ cấp cao cho

phép những người tham gia hiểu rõ hơn về những cải cách cần thiết ở Việt

Nam, thúc đẩy họ ủng hộ việc xây dựng chính sách mới. Chương trình đã

thực hiện 2 khóa đào tạo về quản lý đổi mới sáng tạo, 2 khóa về tài trợ cho

đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, và chính sách cho đào tạo E&I. Tổng cộng,

có 92 nhà hoạch định và thực hiện chính sách từ MOST, MOET, MoF, MPI

38

và MTI, ST&E, Ủy ban Quốc hội và Văn phòng Chính phủ. Ngoài ra các

thành phố và các tỉnh, các chuyên gia về hệ sinh thái E&I và các trường đại

học Việt Nam đã tham gia vào các hoạt động này.

Xây dựng Chương trình giảng dạy cốt lõi về khởi nghiệp và đổi mới

sáng tạo với mã nguồn mở đầu tiên tại Việt Nam. Chương trình này có thể

được áp dụng và tùy biến cho nhiều mục đích nâng cao năng lực E&I.

Chương trình giảng dạy này đã được sử dụng rộng rãi bởi các trường đại học,

các nhà phát triển hệ sinh thái và những đối tượng khác có liên quan đến việc

xây dựng các nội dung và phương pháp giảng dạy E&I cần thiết. Những

người thụ hưởng được đào tạo của IPP II (những người tham gia các khóa đào

tạo của IPP) đã báo cáo trong đợt khảo sát giữa năm 2018 rằng họ đã được

đào tạo và cho đến nay đã có tổng cộng hơn 12.000 người sử dụng chương

trình giảng dạy đã được xây dựng.

Xây dựng khái niệm Đào tạo giảng viên – Nâng cao năng lực E&I nhằm

mục đích đào tạo các nhà vô địch đổi mới có khả năng a) huấn luyện khởi

nghiệp b) đào tạo E&I trong các cơ sở giáo dục. Đào tạo Giảng viên 1 (ToT1)

nhằm tạo ra các chuyên gia đổi mới sáng tạo nổi bật ở tầm quốc gia. Ví dụ.

MOST đang dựa vào các nhân sự đã được đào tạo ToT1 về phát triển hoạt

động hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Kết quả là 12 huấn luyện viên

khởi nghiệp đầu tiên tại Việt Nam thuộc IPP II đã làm việc với 18 doanh

nghiệp khởi nghiệp được tài trợ bởi IPP II trong 9 tháng. Năm 2017, khái

niệm này đã được sửa đổi để đào tạo 20 Huấn luyện viên đổi mới sáng tạo

làm việc với các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo của Phần Lan được IPP II lựa

chọn cho hoạt động Đối tác tiếp cận thị trường Việt Nam trong hơn một năm.

Đợt đào tạo Giảng viên 2 (ToT2) nhằm mục tiêu đào tạo các giảng viên

E&I trong các cơ sở giáo dục đại học đã được bắt đầu vào năm 2016. Đợt đào tạo

đầu tiên bao gồm 35 giảng viên được IPP II chọn từ 11 trường đại học và tổ chức

đào tạo. 4 đợt đào tạo tương tự do IPP II đồng tổ chức sau đó tại TP HCM, Hà

Nội, Đà Nẵng và Huế. Tổng cộng, ToT2 đã đào tạo 154 học viên ToT2 được cấp

chứng nhận của IPP II, đại diện cho 54 trường đại học và các cơ sở đào tạo khác.

Thành lập Chương trình đối tác và tiếp cận thị trường Việt Nam

39

(VMAP) - một nền tảng hợp tác mới cho các doanh nghiệp Phần Lan và Việt

Nam. Các doanh nghiệp ứng viên Phần Lan được phỏng vấn và đánh giá

trước khi tham gia VMAP đều là các doanh nghiệp có rất ít hoặc không có sự

hiện diện tại thị trường Việt Nam. VMAP thu hút 33 hồ sơ quan tâm, trong đó

18 hồ sơ được chấp nhận.

Danh mục dự án tài trợ do IPP lập bao gồm: 18 dự án khởi nghiệp giai

đoạn 1 (tài trợ vốn ban đầu), 4 dự án hệ sinh thái ở giai đoạn 1 (các nhóm liên

doanh), 5 dự án khởi nghiệp giai đoạn 2 (tài trợ mở rộng quy mô), 2 dự án hệ

sinh thái giai đoạn 2 và 7 dự án tích hợp mới (được điều hành bởi các trường

đại học và những người ủng hộ hệ sinh thái). Các doanh nghiệp khởi nghiệp

được hỗ trợ bởi IPP II đã được chứng minh là thành công đặc biệt.

Hơn 70% trong số các doanh nghiệp này được báo cáo là sống sót sau 3

năm hoạt động.

Kết quả của việc Chương trình hỗ trợ hoạt động hợp tác đổi mới sáng tạo

liên thành phố giữa các thành phố của Phần Lan và Việt Nam để hỗ trợ Phần Lan

chuyển đổi từ hỗ trợ ODA sang quan hệ thương mại là 9 thỏa thuận hợp tác được

ký kết chính thức vào cuối năm 2018. Các hoạt động tập trung vào phát triển các

đô thị thông minh và đổi mới sáng tạo trên cơ sở đối tác thương mại đã thu hút

được sự quan tâm của các thành phố.

Tổ chức tại Việt Nam 92 sự kiện kết nối IPP II khác nhau trong suốt

vòng đời chương trình với hơn 5.400 người tham gia trên toàn quốc. Đưa vào

SLUSH Helsinki gần 100 doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam và những

người ủng hộ khởi nghiệp để học hỏi và kết nối. Tổ chức các chương trình và

hoạt động kết nối 90 tổ chức và doanh nghiệp Phần Lan thông qua các sáng

kiến liên quan đến IPP II như WHISE và VMAP.

Trong giai đoạn từ tháng 8/2015 đến tháng 1/2016, 18 dự án công ty và 04

dự án hệ thống đã được nhận hỗ trợ tài chính và đào tạo từ IPP2 (bao gồm các

hoạt động như hội thảo đào tạo, cố vấn kinh doanh trực tiếp, kết nối với các

chuyên gia, các nhà tư vấn và nhà đầu tư thông qua Chương trình Tăng tốc Đổi

mới Sáng tạo năm 2015 – IAP). Trong giai đoạn 2 của Chương trình đã tài trợ 5

40

công ty khởi nghiệp, 2 nhóm dự án và Danh sách như sau:

STT

Tên Tiểu dự án

Đơn vị thụ hƣởng

Mã TDA

I

Các tiểu dự án tài trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp giai đoạn 1

1

PC0001 Mạng lưới vạn vật kết nối

Viet Systems Company

2

PC0003 Nền tảng Kpibsc.com

Proview

3

PC0004

Brodev Vietnam jsc.

4

PC0006

iNext Technology

5

PC0008

Entobel

6

PC0009

CRAN

7

PC0030

Vietnam Plasma

Beeketing - Nền tảng tiếp thị cho các trang web thương mại điện tử Telemedicine solution (Improving manufacturing technology of iTeleM and building brand identity documents) Côn trùng là một thành phần thức ăn bền vững Giám sát và xử lý nước trong nuôi cá da trơn tiên tiến giải pháp tổng thể Phát triển plasma lạnh cho các ứng dụng y sinh

8

PC0032 ABIVIN

Abivin JSC

9

PC0035

Zinmed Vietnam JSC.

and

10

PC0044

Ứng dụng quản lý điều trị cho bệnh nhân tiểu đường FlexAds - Nền tảng phân phối nội dung di động linh hoạt

11

PC0049

Thương mại quốc tế về thuốc thảo dược trị bỏng

ICOMM Media Tech., Jsc Công ty Cổ phần ứng dụng khoa học và công nghệ

12

PC0051 Người ứng dụng

Applancer

Global

13

PC0054

ezCloud - Hệ thống quản lý khách sạn toàn diện

Ezloud Technology JSC

14

PC0056 Tùy biến cho thời trang nữ

Stitch Appeal

15

PC0065 Dừa Hamona-The Premium

Hamona Vietnam Co., Ltd

16

PC0066

HandiEquip

HandiGlass - kính thông minh hỗ trợ cho những người bị liệt để tương tác với máy tính bằng cách di chuyển đầu và mắt.

17

PC0068

SEN

Giáo dục thông minh hiện nay, nền tảng phát triển và thương mại hóa

18

PC0071

Green Leap International

Hộp cơ điện - Chăm sóc các khu vường trên sân thượng trong thành phố

II. Tài trợ cho các hệ sinh thái giai đoạn 1

41

STT

Tên Tiểu dự án

Đơn vị thụ hƣởng

Mã TDA

Đại học Đà Nẵng

1

PS001

Phát triển hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại Đà Nẵng

Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Xã hội Đà Nẵng (DISED)

9Start Lab

Lotus Villgro Việt Nam

2

PS008

BK-Holdings

PS009

3

SNV Vietnam

Conech

PS010

4

Vườn ươm tác động Việt Nam- Thúc đẩy đầu tư vào đổi mới dựa trên khởi nghiệp xã hội và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp xã hội tại Việt Nam Chương trình hỗ trợ đổi mới Việt Nam (VIAP) - cơ sở ươm tạo, máy gia tốc và phòng thí nghiệm nghiên cứu cho chuỗi giá trị thực phẩm ở đồng bằng sông Hồng Fablabs Vietnam – Phát triển mạng lưới phòng thí nghiệm chế tạo tại Việt Nam III Tiểu dự án tài trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp giai đoạn 2

1

PC0004

2

PC0032

3

PC0054

Beeketing – Nền tảng tiếp thị cho trang web thương mại điện tử ABIVIN – Phân tích và Tối ưu hoá Dữ liệu lớn ezCloud – Hệ thống quản lý khách sạn toàn diện

Công ty Cổ phần Brodev Việt Nam Công ty Cổ phần Abivin Việt Nam Công ty Cổ phần Công nghệ ezCloud toàn cầu

4

PC0065 Hamona – Dừa tươi cao cấp

5

PC0068

Phát triển và thương mại hóa nền tảng giáo dục thông minh tức thời (SEN)

Công ty TNHH Hamona Việt Nam Công ty Cổ phần Công nghệ Giáo dục thông minh quốc tế – SEN TECHS

IV Hệ sinh thái, Pha 2

Đại học Đà Nẵng

1

PS001

Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Xã hội Đà Nẵng (DISED)

Phát triển hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại Đà Nẵng

Công ty Hỗ trợ Doanh nghiệp Đà Nẵng – DNES

Công ty TNHH Conech Công ty TNHH NoBo

2

PS010

Fablabs Vietnam – Phát triển mạng lưới phòng thí nghiệm chế tạo tại Việt Nam

Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội

Công ty TNHH VENTI

V Các Tiểu dự án hệ sinh thái khởi nghiệp giai đoạn 1

42

Tên Tiểu dự án

Đơn vị thụ hƣởng

STT

Mã TDA

1

PE003

Công ty Cổ phần Capella Việt Nam

Xây dựng mạng lưới các nhà đầu tư thiên thần được công nhận để hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam (iAngel)

tâm Ươm

2

PE005

Ươm tạo doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực Mê Kông – Việt Nam – Asean (SIMVA)

3

PE006

Mạng lƣới đổi mới sáng tạo doanh nghiệp và khởi nghiệp khu vực Đồng bằng sông Mê Kông và Cần Thơ

tạo Trung Doanh nghiệp Công nghệ – Đại học Cần Thơ (CTBI – CTU); Công ty TNHH ATNM; ETM Partners Mekongprosales Greenland; Hiệp hội Doanh nghiệp TP. Cần Thơ;

Công ty Cổ phần Tư vấn và Đầu tư Cộng hưởng (CoPlus);

4

PE007

Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế (HUEIC);

Hệ thống Đổi mới sáng tạo và Hệ sinh thái khởi nghiệp tại Thừa Thiên – Huế

Sở Kế hoạch và Đầu tư (DPI) – Tỉnh Thừa Thiên – Huế

Trung tâm Dịch vụ Công nghệ cao Hòa Lạc;

5

PE012

Xây dựng nền tảng hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp phục vụ hệ sinh thái khởi nghiệp tại Việt Nam

Đại học Việt Nhật – Đại học Quốc gia; Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ và Giải pháp Môi trường Việt Nam (VNSE);

6

PE028

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – Chi nhánh TP Hồ Chí Minh (VCCI-HCM);

Vườn ươm cho các doanh nghiệp khởi nghiệp trong ngành cơ khí đổi mới sáng tạo

Trường Cao đẳng Hoa Sen; Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng;

7

PE031

Nền tảng ƣơm mầm đổi mới sáng tạo xã hội (SIIP)

Công ty TNHH Habataku; Trường Đại học Hà Nội;

43

STT

Tên Tiểu dự án

Đơn vị thụ hƣởng

Mã TDA

Viện Tin học Doanh nghiệp – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (ITB- VCCI);

8

PE036

Nâng cao năng lực cho hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam

Quỹ Phát triển Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa (SMEDF);

ty TNHH Xuất

TNHH

9

PE044

Chương trình tăng tốc khởi nghiệp Catapult

Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) Công Nhập khẩu Đại Khánh Công ty WEDIDIT SOLUTIONS Nodeon Vietnam

10

PE046 Vườn ươm khởi nghiệp HATCH!

Công ty TNHH Alpine (HATCH); Khởi nghiệp trẻ Việt Nam (VYE);

VI Các Tiểu dự án vòng tài trợ cuối cùng

E05

Mạng lưới đổi mới sáng tạo doanh nghiệp và khởi nghiệp khu vực đồng bằng sông Cửu Long và Cần Thơ

1

1. Công ty TNHH Tư vấn năng lượng – công nghệ và quản trị kinh doanh ETM 2. Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ Doanh nghiệp (BSA) 3. Đại học Nam Cần Thơ 4. Hiệp hội Doanh nghiệp Cần Thơ 5. Fablab Cần Thơ

1. Công ty CP HATCH Ventures Việt Nam

2

E06

Dự án Hệ thống Quản lý và Tăng tốc Kinh doanh 2017

2. Công ty TNHH Khởi nghiệp trẻ Việt Nam

3

E07

3. Công ty NIW 1. Công ty CP Capella Việt Nam 2. Công ty CP Đầu tư Innovation Hub

Nâng cao mạng lưới đầu tư thiên thần để hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam (iAngel network)

3. Hiệp hội Doanh nghiệp Trẻ Hà Nội

44

STT

Tên Tiểu dự án

Đơn vị thụ hƣởng

Mã TDA

4

U01

Khởi nghiệp và Đổi mới Sáng tạo Xã hội Việt Nam (VES)

1. BK-Holdings, Đại học Bách Khoa Hà Nội (HUST) 2. Đại học Công nghệ Sài Gòn (STU)

3. Đại học Đà Lạt (DLU)

1. Cao đẳng Công nghiệp Huế (HUEIC)

5

U02

Chương trình nâng cao nhận thức về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tại các trường đại học và cao đẳng khu vực miền Trung hướng tới phát triển bền vững

2. Đại học Bách Khoa Đà Nẵng (DUT) 3. Đại học Nha Trang (NTU)

6

U03

1. Đại học Tài chính và Marketing (UFM))

Chương trình Thạc sí Quản trị Kinh doanh cho cấp lãnh đạo về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp – Đại học Tài chính và Marketing

for

Social

7

I03

Social Innovation Incubation Platform (SIIP)

Centre Initiatives Promotion and IBE Consulting Human Resources Development Company Limited Foreign Trade University

2.2.3.2. Kết quả giải ngân

Sau 3 năm thực hiện, Chương trình IPP 2 đã tài trợ 23 doanh nghiệp

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, 6 dự án liên danh và 17 hệ sinh thái khởi

nghiệp với những kết quả đáng khích lệ. Việc sử dụng vốn tài trợ cho các

45

doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thể hiện qua bảng sau:

STT Mã TDA

Tên Tiểu dự án

Tổng kinh phí

Giá trị hợp đồng

Tổng giải ngân

%

%

Đối ứng của đơn vị

Đơn vị thụ hƣởng

18.028.532.139

12.416.074.131

12.221.255.181

98%

5.807.276.958 48%

I

Các tiểu dự án tài trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp giai đoạn 1

PC0001 Mạng lưới vạn vật kết nối

957.536.387

689.952.760

670.275.471

97%

287.260.916

43%

1

985.184.609

689.825.000

689.629.227

100%

295.555.382

43%

Viet Systems Company Proview

2

PC0003

985.300.000

689.710.000

689.710.000

100%

295.590.000

43%

3

PC0004

Brodev Vietnam jsc.

4

PC0006

iNext Technology

985.310.000

689.717.000

681.362.534

99%

303.947.466

45%

Entobel

5

PC0008

995.562.145

689.932.800

674.991.134

98%

320.571.011

47%

CRAN

6

PC0009

976.626.450

690.000.000

683.638.515

99%

292.987.935

43%

7

PC0030

Vietnam Plasma

998.908.983

689.975.000

649.290.839

94%

349.618.144

54%

8

PC0032

984.960.000

689.472.000

689.472.000

100%

295.488.000

43%

9

PC0035

985.714.284

689.999.999

689.999.998

100%

295.714.286

43%

10

PC0044

984.549.484

89.961.454

89.198.172

100%

295.351.312

43%

Nền tảng Kpibsc.com Beeketing - Nền tảng tiếp thị cho các trang web thương mại điện tử Telemedicine solution (Improving manufacturing technology of iTeleM and building brand identity documents) Côn trùng là một thành phần thức ăn bền vững Giám sát và xử lý nước trong nuôi cá da trơn tiên tiến giải pháp tổng thể Phát triển plasma lạnh cho các ứng dụng y sinh ABIVIN Ứng dụng quản lý điều trị cho bệnh nhân tiểu đường FlexAds - Nền tảng phân phối nội dung di động linh hoạt

11

PC0049

978.736.840

89.360.000

85.115.789

99%

293.621.051

43%

Thương mại quốc tế về thuốc thảo dược trị bỏng

PC0051

12

1.394.846.647

89.118.118

60.601.574

96%

34.245.073 111%

PC0054

13

985.326.720

90.000.000

89.728.705

100%

295.598.015

43%

PC0056

Người ứng dụng ezCloud - Hệ thống quản lý khách sạn toàn diện Tùy biến cho thời trang nữ

14

891.352.487

90.000.000

23.946.739

90%

267.405.748

43%

15

PC0065

Dừa Hamona-The Premium

984.803.734

89.080.000

89.080.000

100%

295.723.734

43%

Abivin JSC Zinmed Vietnam JSC. ICOMM Media and Tech., Jsc Công ty Cổ phần ứng dụng khoa học và công nghệ Applancer Ezloud Global Technology JSC Stitch Appeal Hamona Vietnam Co., Ltd

46

STT Mã TDA

Tên Tiểu dự án

Tổng kinh phí

Giá trị hợp đồng

Tổng giải ngân

%

%

Đơn vị thụ hƣởng

Đối ứng của đơn vị

HandiEquip

983.417.774

689.990.000

88.392.442

100%

295.025.332

43%

PC0066

16

SEN

984.731.832

89.990.000

89.312.282

100%

295.419.550

43%

PC0068

17

985.663.763

89.990.000

87.509.760

100%

298.154.003

43%

PC0071

18

Green Leap International

HandiGlass - kính thông minh hỗ trợ cho những người bị liệt để tương tác với máy tính bằng cách di chuyển đầu và mắt. Giáo dục thông minh hiện nay, nền tảng phát triển và thương mại hóa Hộp cơ điện - Chăm sóc các khu vường trên sân thượng trong thành phố Tài trợ cho các hệ sinh thái giai đoạn 1

II.

5.616.719.457 691.750.000

4.592.799.498 484.225.000

3.932.316.120 484.225.000

86% 100%

1.684.403.337 207.525.000

43% 43%

475.450.000

332.815.000

332.815.000

100%

142.635.000

43%

1

PS001

Phát triển hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại Đà Nẵng

455.086.000

32.136.000

12.400.200

94%

42.685.800

46%

Đại học Đà Nẵng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Xã hội Đà Nẵng (DISED) 9Start Lab

2

PS008

1.618.374.957

.146.852.000

.132.862.470

99%

85.512.487

43%

Lotus Villgro Việt Nam

BK-Holdings

873.116.254

20.900.000

17.953.878

100%

255.162.376

41%

3

PS009

SNV Vietnam

753.516.220

27.461.354

27.461.354

100%

26.054.866

43%

4

PS010

Conech

749.426.026

.148.410.144

24.598.218

46%

24.827.808

43%

Vườn ươm tác động Việt Nam- Thúc đẩy đầu tư vào đổi mới dựa trên khởi nghiệp xã hội và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp xã hội tại Việt Nam Chương trình hỗ trợ đổi mới Việt Nam (VIAP) - cơ sở ươm tạo, máy gia tốc và phòng thí nghiệm nghiên cứu cho chuỗi giá trị thực phẩm ở đồng bằng sông Hồng Fablabs Vietnam – Phát triển mạng lưới phòng thí nghiệm chế tạo tại Việt Nam

III

Tiểu dự án tài trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp giai

19.123.861.098

11.496.757.776

10.729.440.378

93%

8.394.420.720 78%

47

STT Mã TDA

Tên Tiểu dự án

Tổng kinh phí

Giá trị hợp đồng

Tổng giải ngân

%

%

Đối ứng của đơn vị

Đơn vị thụ hƣởng

đoạn 2

PC0004

1

4.031.120.000

2.299.840.000

2.015.060.000

88%

2.016.060.000 100%

Công ty Cổ phần Brodev Việt Nam

PC0032

2

3.281.088.786

2.300.000.000

2.185.000.000

95%

1.096.088.786

50%

Beeketing – Nền tảng tiếp thị cho trang web thương mại điện tử ABIVIN – Phân tích và Tối ưu hoá Dữ liệu lớn

PC0054

3

4.369.740.000

2.299.870.000

2.184.870.000

95%

2.184.870.000 100%

ezCloud – Hệ thống quản lý khách sạn toàn diện

4

PC0065

Hamona – Dừa tươi cao cấp

4.324.141.204

2.299.440.000

2.162.070.602

94%

2.162.070.602 100%

5

PC0068

3.117.771.108

2.297.607.776

2.182.439.776

95%

935.331.332

43%

Phát triển và thương mại hóa nền tảng giáo dục thông minh tức thời (SEN)

Công ty Cổ phần Abivin Việt Nam Công ty Cổ phần Công nghệ ezCloud toàn cầu Công ty TNHH Hamona Việt Nam Công ty Cổ phần Công nghệ Giáo dục thông minh quốc tế – SEN TECHS

IV Hệ sinh thái, Pha 2

6.226.675.605 1.247.073.600

4.584.314.145 917.280.000

4.358.514.724 872.951.520

95% 95%

1.868.160.881 374.122.080

43% 43%

936.096.164

688.265.025

655.267.315

95%

280.828.849

43%

1

PS001

Phát triển hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại Đà Nẵng

934.913.474

678.960.000

654.439.432

96%

280.474.042

43%

1.044.162.000

676.370.520

730.913.400

108%

313.248.600

43%

952.568.362

632.188.200

666.639.653

105%

285.928.709

43%

2

PS010

Fablabs Vietnam – Phát triển mạng lưới phòng thí nghiệm chế tạo tại Việt Nam

283.122.000

Đại học Đà Nẵng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Xã hội Đà Nẵng (DISED) Công ty Hỗ trợ Doanh nghiệp Đà Nẵng – DNES Công ty TNHH Conech Công ty TNHH NoBo Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội

48

STT Mã TDA

Tên Tiểu dự án

Tổng kinh phí

Giá trị hợp đồng

Tổng giải ngân

%

%

Đối ứng của đơn vị

Đơn vị thụ hƣởng

1.111.862.005

708.128.400

778.303.404

110%

333.558.601

43%

V

13.928.395.230

10.717.728.310

9.802.909.144

91%

4.125.486.086

42%

1

PE003

1.628.145.692

1.149.680.000

1.139.701.985

99%

488.443.707

43%

Công ty Cổ phần Capella Việt Nam

Công ty TNHH VENTI Các Tiểu dự án hệ sinh thái khởi nghiệp giai đoạn 1 Xây dựng mạng lưới các nhà đầu tư thiên thần được công nhận để hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam (iAngel)

797.703.803

562.100.000

558.392.662

99%

239.311.141

43%

2

PE005

Ươm tạo doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực Mê Kông – Việt Nam – Asean (SIMVA)

818.135.788

573.650.000

572.695.052

100%

245.440.736

43%

571.305.346

431.830.000

365.464.324

85%

205.841.022

56%

283.970.795

339.864.000

198.779.557

58%

85.191.238

43%

3

PE006

Mạng lƣới đổi mới sáng tạo doanh nghiệp và khởi nghiệp khu vực Đồng bằng sông Mê Kông và Cần Thơ

517.981.000

380.380.000

365.818.600

96%

152.162.400

42%

632.414.802

482.678.000

442.690.361

92%

189.724.441

43%

4

PE007

468.394.234

368.718.000

327.875.964

89%

140.518.270

43%

Hệ thống Đổi mới sáng tạo và Hệ sinh thái khởi nghiệp tại Thừa Thiên – Huế

404.858.000

297.010.000

283.400.600

95%

121.457.400

43%

5

PE012

1.080.946.900

756.677.110

756.662.830

100%

324.284.070

43%

Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp Công nghệ – Đại học Cần Thơ (CTBI – CTU); Công ty TNHH ATNM; ETM Partners Mekongprosales Greenland; Hiệp hội Doanh nghiệp TP. Cần Thơ; Công ty Cổ phần Tư vấn và Đầu tư Cộng hưởng (CoPlus); Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế (HUEIC); Sở Kế hoạch và Đầu tư (DPI) – Tỉnh Thừa Thiên – Huế Trung tâm Dịch vụ Công nghệ cao

Xây dựng nền tảng hỗ trợ các doanh nghiệp khởi

49

STT Mã TDA

Tên Tiểu dự án

Tổng kinh phí

Giá trị hợp đồng

Tổng giải ngân

%

%

Đối ứng của đơn vị

Đơn vị thụ hƣởng

Hòa Lạc;

nghiệp phục vụ hệ sinh thái khởi nghiệp tại Việt Nam

150.000.000

105.000.000

105.000.000

100%

45.000.000

43%

410.990.000

287.714.000

287.693.000

100%

123.297.000

43%

284.772.120

280.000.000

275.640.484

98%

9.131.636

3%

6

PE028

Vườn ươm cho các doanh nghiệp khởi nghiệp trong ngành cơ khí đổi mới sáng tạo

113.000.000

105.350.000

105.350.000

100%

7.650.000

7%

1.071.812.683

757.904.000

750.268.878

99%

321.543.805

43%

7

PE031

Nền tảng ươm mầm đổi mới sáng tạo xã hội (SIIP)

305.000.000

229.600.000

195.200.000

85%

109.800.000

56%

232.000.000

162.400.000

162.400.000

100%

69.600.000

43%

1.295.737.237

921.872.000

907.016.066

98%

388.721.171

43%

8

PE036

Nâng cao năng lực cho hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam

138.800.000

113.400.000

97.160.000

86%

41.640.000

43%

Đại học Việt Nhật – Đại học Quốc gia; Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ và Giải pháp Môi trường Việt Nam (VNSE); Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – Chi nhánh TP Hồ Chí Minh (VCCI-HCM); Trường Cao đẳng Hoa Sen; Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng; Công ty TNHH Habataku; Trường Đại học Hà Nội; Viện Tin học Doanh nghiệp – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (ITB- VCCI); Quỹ Phát triển Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa

50

STT Mã TDA

Tên Tiểu dự án

Tổng kinh phí

Giá trị hợp đồng

Tổng giải ngân

%

%

Đối ứng của đơn vị

Đơn vị thụ hƣởng

(SMEDF);

113.400.000

724.290.041

754.864.000

507.003.029

67%

217.287.012

43%

9

PE044

Chương trình tăng tốc khởi nghiệp Catapult

276.030.789

321.636.000

193.221.552

60%

82.809.237

43%

105.000.000

73.500.000

73.500.000

100%

31.500.000

43%

1.386.956.000

970.869.200

970.869.200

100%

416.086.800

43%

10

PE046

Vườn ươm khởi nghiệp HATCH!

230.150.000

177.632.000

161.105.000

91%

69.045.000

43%

Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) Công ty TNHH Xuất Nhập khẩu Đại Khánh Công ty TNHH WEDIDIT SOLUTIONS Nodeon Vietnam Công ty TNHH Alpine (HATCH); Khởi nghiệp trẻ Việt Nam (VYE);

VI

Các Tiểu dự án vòng tài trợ cuối cùng

20.617.526.074

16.184.642.795

14.432.268.252

89%

6.185.257.822

43%

E05

Mạng lưới đổi mới sáng tạo doanh nghiệp và khởi nghiệp khu vực đồng bằng sông Cửu Long và Cần Thơ

2.355.572.904

1.788.960.600

1.648.901.033

92%

706.671.871

43%

1

781.997.994

598.500.000

547.398.596

91%

234.599.398

43%

1. Công ty TNHH Tư vấn năng lượng – công nghệ và quản trị kinh doanh ETM 2. Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ Doanh nghiệp (BSA) 3. Đại học Nam Cần Thơ 4. Hiệp hội Doanh nghiệp Cần Thơ 5. Fablab Cần Thơ

51

STT Mã TDA

Tên Tiểu dự án

Tổng kinh phí

Giá trị hợp đồng

Tổng giải ngân

%

%

Đối ứng của đơn vị

Đơn vị thụ hƣởng

1.766.460.001

1.298.348.100

1.236.522.001

95%

529.938.000

43%

2

E06

Dự án Hệ thống Quản lý và Tăng tốc Kinh doanh 2017

577.452.877

432.870.900

404.217.014

93%

173.235.863

43%

842.229.934

668.769.150

589.560.954

88%

252.668.980

43%

1.002.327.349

743.616.858

701.629.144

94%

300.698.205

43%

3

E07

Nâng cao mạng lưới đầu tư thiên thần để hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam (iAngel network)

2.240.823.814

1.577.072.781

1.568.576.670

99%

672.247.144

43%

1.321.276.616

972.188.406

924.893.631

95%

396.382.985

43%

4

U01

Khởi nghiệp và Đổi mới Sáng tạo Xã hội Việt Nam (VES)

976.072.351

718.830.000

683.250.646

95%

292.821.705

43%

832.816.190

719.600.000

582.971.333

81%

249.844.857

43%

1.560.836.700

1.149.907.500

1.092.585.690

95%

468.251.010

43%

5

U02

698.596.200

629.895.000

489.017.340

78%

209.578.860

43%

Chương trình nâng cao nhận thức về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tại các trường đại học và cao đẳng khu vực miền Trung hướng tới phát triển bền vững

294.996.000

650.548.500

206.497.200

32%

88.498.800

43%

1. Công ty CP HATCH Ventures Việt Nam 2. Công ty TNHH Khởi nghiệp trẻ Việt Nam 3. Công ty NIW 1. Công ty CP Capella Việt Nam 2. Công ty CP Đầu tư Innovation Hub 3. Hiệp hội Doanh nghiệp Trẻ Hà Nội 1. BK-Holdings, Đại học Bách Khoa Hà Nội (HUST) 2. Đại học Công nghệ Sài Gòn (STU) 3. Đại học Đà Lạt (DLU) 1. Cao đẳng Công nghiệp Huế (HUEIC) 2. Đại học Bách Khoa Đà Nẵng (DUT) 3. Đại học Nha Trang (NTU)

52

STT Mã TDA

Tên Tiểu dự án

Tổng kinh phí

Giá trị hợp đồng

Tổng giải ngân

%

%

Đơn vị thụ hƣởng

Đối ứng của đơn vị

6

U03

552.894.550

478.485.000

387.026.185

81%

165.868.365

43%

1. Đại học Tài chính và Marketing (UFM))

Chương trình Thạc sí Quản trị Kinh doanh cho cấp lãnh đạo về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp – Đại học Tài chính và Marketing

2.607.616.409

1.838.550.000

1.825.331.486

99%

782.284.923

43%

7

I03

Nền tảng ươm mầm đổi mới sáng tạo xã hội (SIIP)

1.264.869.184

952.000.000

885.408.429

93%

379.460.755

43%

940.687.000

966.500.000

658.480.900

68%

282.206.100

43%

Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng; Công ty TNHH tư vấn và phát triển nguồn nhân lực IBE Trường ĐH Ngoại thương

83.541.709.603

59.992.316.655

55.476.703.799

92%

28.065.005.804

51%

Tổng tiền

Theo bảng giải ngân trên tỷ lệ giải ngân đạt 92% so với giá trị hợp đồng đã ký. Với khoản vốn đầu tư trên IPP2 đã

53

góp phần tạo nên thành công của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Hiện nay, ngoài chương trình Đổi mới sáng tạo Việt Nam - Phần Lan, giai

đoạn 2 (IPP2) còn có một số chương trình, Dự án cũng và đang có những chính

sách, gói hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo như:

bao gồm 100 triệu USD vốn vay IDA (Ngân hàng Thế giới); 10 triệu USD trong đó

có hợp phần 2b1 “Khoản tài trợ cho các Doanh nghiệp mới về Khoa học

Ban Quản lý Dự án FIRST với tổng số vốn của dự án là 110 triệu USD,

động kinh doanh và tạo ra các động lực để các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

Các khoản tài trợ có đối ứng thông qua lựa chọn cạnh tranh sẽ được cung cấp cho

các doanh nghiệp mới được thành lập để triển khai các hoạt động: (i) nghiên cứu để

phát triển sản phẩm mẫu hay thử nghiệm tính khả thi cho các sản phẩm hay quy

trình mới; (ii) lập các kế hoạch kinh doanh, tiến hành các nghiên cứu khả thi về thị

trường, chuyển giao công nghệ và giới thiệu các dây chuyền sản xuất; (iii) các hoạt

động hỗ trợ triển khai Tiểu hợp phần. Các đơn vị thụ hưởng dự án có thể dùng vốn

tài trợ cho các mục đích NC&PT, trả cho các dịch vụ tư vấn và mua các trang thiết

bị nhỏ. Kết quả đầu ra từ hoạt động này là các sản phẩm hoặc các quy trình mới

được phát triển bởi các doanh nghiệp qua đó kĩ năng kinh doanh thực hành trong các đơn vị thụ hưởng cũng được hình thành và phát triển(4).

Các tiểu dự án sẽ được thực hiện trong vòng 24 tháng. Số tiền tài trợ cho mỗi

tiểu dự án sẽ không vượt quá 500.000 USD. Vốn đối ứng theo tỷ lệ 70/30. Số tiền

tài trợ sẽ chỉ được hoàn trả cho đơn vị thụ hưởng sau khi đơn vị chứng minh được

các khoản chi đã được thực hiện từ nguồn ngân sách của mình.

công nghệ và Đổi mới sáng tạo” với gói 10 triệu USD hỗ trợ thúc đẩy hoạt

Trung tâm Đ i m i sáng tạo ứng phó v i biến i khí hậu Việt Nam

(VCIC): Được Ngân hàng Thế giới tài trợ từ nguồn vốn của Chính phủ Úc và Bộ

Phát triển Quốc tế Anh (DFID) dưới sự quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ

(MOST), và được điều hành bởi Ban Quản lí Dự án (PMU), VCIC sẽ hỗ trợ các

doanh nghiệp đổi mới sáng tạo ứng phó với biến đổi khí hậu từ giai đoạn ươm mầm

cho đến thương mại hoá, tiếp cận thị trường quốc tế và biến những thách thức về

khí hậu trở thành cơ hội phát triển bền vững và tăng trưởng xanh, nhằm thực hiện

Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng Xanh theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg của

Thủ tướng Chính phủ.

54

Dự án được thực hiện từ tháng 8/2015 đến tháng 7/2019 với tổng kinh phí là

4,18 triệu USD, trong đó vốn ODA 3,8 triệu USD do WB viện trợ không hoàn lại,

vốn đối ứng Việt Nam 380.000 USD

Là thành viên của mạng lưới CIC toàn cầu, với mô hình kinh doanh mới bao

gồm vườn ươm tạo và tổ chức thúc đẩy ươm tạo, cũng như sở hữu: (1) đội ngũ

chuyên gia thường xuyên trong và ngoài nước tại văn phòng; (2) cơ sở dữ liệu về

các công ty khoa học và công nghệ, bằng sáng chế, quỹ đầu tư, nhà đầu tư thiên

thần; (3) mạng lưới các đơn vị hỗ trợ và các phòng thí nghiệm tiêu chuẩn quốc gia;

(4) Không gian làm việc chung; (5) Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp sáng tạo,

VCIC đủ điều kiện để tạo môi trường tốt nhất cho sự phát triển của các start-up tại

Việt Nam.

Đến với VCIC, các doanh nghiệp start-up sẽ không chỉ nhận được hỗ trợ

chuyên môn từ các dịch vụ tư vấn hoàn thiện sản phẩm, xúc tiến thương mại, tiếp

cận vốn, quản lý rủi ro ... và hỗ trợ tài chính mà còn có cơ hội tạo ra các giá trị cho

xã hội thông qua việc giảm thiểu và thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu

đối với cuộc sống của người dân cũng như hệ sinh thái quốc gia.

Như vậy, Chương trình IPP 2 hay các dự án, quỹ đầu tư cho doanh nghiệp

khởi nghiệp hầu hết đều trải qua các vòng lựa chọn rất khắt khe do đó doanh nghiệp

khởi nghiệp phải nỗ lực hơn nữa để đưa ra các ý tưởng đổi mới sáng tạo đồng thời

chứng minh được ứng dụng của ý tưởng đó trong thực tiễn như vậy mới có thể tiếp

cận được các nguồn vốn này.

2.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc thu hút sử dụng nguồn vốn ODA cho

DNKNĐMST

Các nguồn tài trợ có kỳ hạn hoặc không kỳ hạn cho các doanh nghiệp

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có thể đến từ các Dự án Phát triển Kinh tế do

các đối tác nước ngoài tài trợ (các đối tác này có thể là các nước, hay nhóm

các nước như "Liên minh châu Âu", hoặc các tổ chức quốc tế như "Công ty

Tài chính Quốc tế" hay "Ngân hàng Phát triển Châu á",...), trong đó

có một bộ phận được tổ chức dưới hình thức một "nguồn tài trợ. Để có thể

55

tiếp cận được các nguồn vốn này bản thân các doanh nghiệp phải chứng minh

được giá trị cốt lõi của mình đồng thời Nhà nước cũng cần phải có những

chính sách để gỡ bỏ các rào cản.

Cơ chế, chính sách của Nhà nước đang này càng hoàn thiện để thúc

đẩy sự phát triển của doanh nghiệp (DN) khởi nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn quy

định gây khó cho nhà đầu tư rót vốn vào DN khởi nghiệp.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các DN khởi nghiệp vẫn đang khó tiếp cận

vốn. Theo thống kê, Việt Nam hiện có khoảng 3.000 DN khởi nghiệp đổi mới

sáng tạo. Tuy nhiên, số lượng thương vụ gọi vốn thành công chưa nhiều. Ước

tính chưa đến 1/3 số DN tiếp cận được vốn vay ưu đãi. Một số quy định còn

khó khả thi ví dụ năm 2018, Chính phủ ban hành Nghị định 38/2018/NĐ-CP

quy định chi tiết về đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo. Nghị định

được các ban hành với mục tiêu giúp khơi thông dòng vốn cho khởi nghiệp

sáng tạo thông qua việc khuyến khích thành lập các công ty đầu tư khởi

nghiệp sáng tạo đã tiến bộ hơn văn bản trước đó, tuy nhiên vẫn có một số nội

dung khó khả thi để cộng đồng doanh nghiệp thực hiện. Tại Điều 5 của Nghị

định 38 quy định, các nhà đầu tư tư nhân có thể thành lập quỹ đầu tư khởi

nghiệp sáng tạo nhưng lại không được thành lập tư cách pháp nhân và tối đa

là 30 nhà đầu tư góp vốn thành lập quỹ và đầu tư không quá 50% vốn điều lệ

của DN khởi nghiệp sáng tạo. là điểm gây khó cho nhà đầu tư. Về nguyên tắc,

khi startup thành lập DN, vốn điều lệ không nhiều vì đang trong giai đoạn

hoàn thiện ý tưởng, sản phẩm demo. Khi gọi vốn, căn cứ vào ý tưởng, triển

vọng tăng trưởng, phủ rộng thị trường trên phạm vi quốc gia vùng lãnh thổ

hay quốc tế để gọi vốn. Vốn gọi có thể dùng để tăng vốn điều lệ hoặc phát

triển thị trường, mở rộng hoạt động kinh doanh trong tương lai của startup.

Cho đến nay, DN chủ yếu gọi vốn từ các quỹ đầu tư nhà nước, quỹ đầu

tư chứng khoán, quỹ đầu tư mạo hiểm, nhà đầu tư cá nhân. Các thương vụ lớn

56

chủ yếu đến từ các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn cho DN nói chung, đặc

biệt là nguồn vốn cho DN khởi nghiệp chưa phát triển, nhà đầu tư vẫn gặp

nhiều khó khăn về thủ tục đầu tư.

Đối với Chương trình IPP để được chọn, dự án phải đáp ứng sáu tiêu

chí. Thứ nhất, doanh nghiệp khởi nghiệp phải là một team giỏi, có kiến thức,

có chút kinh nghiệm, có đam mê. Thứ hai, sản phẩm của doanh nghiệp phải

đáp ứng được nhu cầu của thị trường, phải là thứ thị trường còn thiếu. Tiếp

đó, doanh nghiệp phải có sẵn giải pháp tiêu thụ các sản phẩm của mình.

Ngoài ra, start-up cần phải chứng minh rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình

đem lại lợi ích cho khách hàng. Sản phẩm của doanh nghiệp phải là sản phẩm

có khả năng cạnh tranh, không chỉ ở thị trường trong nước mà thậm chí là ở

cả thị trường quốc tế. Ngoài ra, một tiêu chí nữa để được chọn là doanh

nghiệp khởi nghiệp phải có số tiền nhỏ đủ trả lương cho công nhân và một số

dịch vụ”.

Tuy nhiên, start-up Việt Nam còn thiếu hai yếu tố là kinh nghiệm và

thiếu sự giúp đỡ, hỗ trợ cần thiết về vốn, các chương trình đào tạo, huấn

luyện…” do đó khó khăn trong việc thu hút vốn tài trợ.

Qua thực tiễn của IPP2 nhận thấy một số yếu tố ảnh hưởng cụ thể đến

việc thu hút vốn ODA như sau:

2.4.1. Về phía Nhà nư c

2.4.1.1.Thiếu chính sách ưu tiên cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

Hiện nay có nhiều khó khăn và vướng mắc trong việc cho phép tư nhân

tiếp cận luồng vốn vay ODA bởi nó làm ảnh hưởng đến nợ công, nợ nước

ngoài và cơ cấu nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.

Theo đó, khu vực tư nhân được tiếp cận vốn ODA và vốn vay ưu đãi

của Chính phủ thông qua cơ chế cho vay lại thông qua bên thứ 2 có thể là

ngân hàng, là cơ quan Nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, hiện nay đều chưa

có hướng dẫn chi tiết.

Về trường hợp quy định, Doanh nghiệp vay vốn ODA để phục vụ dự án

57

của Chính phủ phải có 20% tổng vốn đầu tư là vốn chủ sở hữu. Quy định này

theo các Doanh nghiệp cũng làm khó cho các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam

bởi nếu vốn vay lớn, vốn chủ sở hữu của Doanh nghiệp sẽ không đủ so với

quy định. Đặc biệt các dự án theo hình thức PPP (hợp tác đối tác công - tư

giữa Nhà nước và tư nhân) sẽ cần lượng vốn vay lớn, mà khó có DN nào đáp

ứng được.

Đến nay còn quá nhiều ràng buộc để với đến vốn ODA, trong khi chính

sách hỗ trợ cho tư nhân, khởi nghiệp tiếp cận dòng vốn này lại không có, ví

dụ:

Thứ nhất: Chính sách hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa

đủ mạnh. Các doanh nghiệp FDI chưa lan tỏa, cắm rễ sâu vào kinh tế địa

phương. Có thể nhận định, cộng đồng Starup ở Việt Nam chưa thật sự được

ưu tiên. Thí dụ: hiện có hơn 20 quỹ đầu tư mạo hiểm có hoạt động đầu tư cho

khởi nghiệp ĐMST tại Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết là các quỹ nước ngoài,

chỉ có văn phòng đại diện tại Việt Nam. Điều này cần suy nghĩ từ góc nhìn

chính sách. Nếu không xây dựng hành lang pháp lý phù hợp, các nhà đầu tư

mạo hiểm nước ngoài sẽ không lựa chọn Việt Nam mà thay vào đó là các

nước khác ở khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, các Startup trong nước có thể sẽ

ra nước ngoài để lập nghiệp.

Thứ hai: Chính sách thuế chưa có sự phân biệt theo hướng dành ưu đãi

cao hơn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Cụ thể: Hiện nay, các Doanh

nghiệp khởi nghiệp áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông

như các DN khác là 20%. Việc ưu đãi thuế suất 10% hay miễn thuế TNDN

đối với thu nhập từ các hoạt động thuộc một số ngành nghề, lĩnh vực được ưu

đãi cũng giống như bất kỳ DN nào mới thành lập từ dự án đầu tư mới. Hiện

nay, mới chỉ có Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa được ban hành vào năm 2017 và

Nghị định số 39/2018 ngày 11/3/2018 Quy định chi tiết Luật Hỗ trợ DN nhỏ

và vừa. Mặc dù, trong Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa quy định về việc hỗ trợ

thuế, kế toán cho DN nhỏ và vừa nhưng chưa có quy định nào đối với DN

58

khởi nghiệp, ngay cả Nghị định số 39/2018/NĐ-CP cũng chưa đề cập tới vấn

đề này. Các quy định về các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng chưa chính thức ban

hành. Mặc dù Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy định chi tiết

về việc đầu tư cho DN nhỏ và vừa khởi nghiệp đổi mới sáng tạo nhưng cũng

chưa có quy định cụ thể về nghĩa vụ của các nhà đầu tư.

Thứ ba: Hiện chưa có quy định chính sách thuế phân biệt đối với nhà

đầu tư vào DN khởi nghiệp khi chuyển nhượng vốn. Chính sách thuế hiện quy

định đánh thuế đối với từng lần chuyển nhượng vốn, từng lần chuyển nhượng

chứng khoán đối với việc đầu tư vào bất kỳ DN nào sau đó chuyển nhượng

vốn. Việc đầu tư vào các DN này có độ rủi ro cao, chính sách thuế chưa cho

phép nhà đầu tư thực hiện biện pháp bù trừ lỗ. Điều này có ảnh hưởng nhất

định đến việc thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào

các DN khởi nghiệp.

Hơn nữa, quy định về thuế thu nhập cá nhân đối với các nhà đầu tư cá

nhân cho hoạt động khởi nghiệp cũng vẫn áp dụng các quy định chung cho cá

nhân có thu nhập.

2.4.1.2. Thủ tục chưa phù hợp đặc thù của khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

Việc xin xác nhận sở hữu trí tuệ (SHTT) hoặc bản quyền cũng tốn thời

gian, mà xin tại nước ngoài thì ít được công nhận. Vấn đề bảo hộ quyền

SHTT rất quan trọng đối với doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST. Tuy nhiên,

hiện tại ở Việt Nam, các thủ tục đăng ký bảo hộ SHTT còn đòi hỏi rất nhiều

thời gian, mà không có hiệu quả cao, việc bảo hộ kém (rất nhiều trường hợp

đăng ký rồi mà khi có các đơn vị nhái hoặc thậm chí ăn cắp trí tuệ để thương

mại thì cơ quan chức năng cũng không hành động tích cực). Vì vậy, nhiều

doanh nghiệp phải tốn công sức tự tạo rào cản công nghệ để cạnh tranh.

2.4.1.3. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo còn nhiều hạn chế

Được hình thành bởi 3 nhóm chủ thể chính là: các doanh nghiệp khởi

nghiệp (DNKN), các đối tượng hỗ trợ khởi nghiệp và các nhà đầu tư cho khởi

59

nghiệp, hệ sinh thái khởi nghiệp được hiểu là các điều kiện, môi trường trong

đó các cá nhân, tổ chức, DN và xã hội đến với nhau để thúc đẩy sự thịnh

vượng và phồn vinh của nền kinh tế (WEF - 2014).

Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của nước ta còn tồn tại nhiều khó

khăn, rào cản, kém sức cạnh tranh so với các nước khác trong khu vực. Các

hạn chế chủ yếu do môi trường kinh doanh chưa thực sự thuận lợi cho khởi

nghiệp, quy định về điều kiện kinh doanh chưa phù hợp với yêu cầu của cuộc

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; thiếu hỗ trợ về cơ sở vật chất phục vụ

nghiên cứu; hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước hạn chế, thủ tục phức tạp;

chưa có hành lang pháp lý cho các sản phẩm, dịch vụ mới; nhân lực công

nghệ bị thiếu hụt cả về chất lượng và số lượng,

Mặc dù thực trạng khởi nghiệp ở Việt Nam năm 2017 có nhiều cải thiện

giúp cho tỷ lệ người tham gia khởi sử kinh doanh đã tăng lên, tuy nhiên vẫn

còn nhiều chỉ số mà Việt Nam kém xa so với các nước cùng trình độ phát

triển kinh tế và các nước trong khu vực, trong đó phải kể đến như: sự lo sợ

thất bại trong kinh doanh, khả năng kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh và yếu tố

đổi mới sáng tạo trong kinh doanh... Trong khi đó, những điểm yếu của hệ

sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam như Chương trình hỗ trợ của Chính phủ,

Chuyển giao công nghệ, Chính sách của Chính phủ,... vẫn không được cải

thiện so với các năm 2013-2015. Vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ các

hoạt động của các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo còn hạn chế. Thiếu

chính sách rõ ràng để phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo như: Quỹ hỗ

trợ vốn, chính sách khuyến khích tư nhân đầu tư mạo hiểm vào các doanh

nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, khuyến khích các chương trình đào tạo đổi mới

sáng trong trường học...

2.4.1. Về phía Doanh nghiệp khởi nghiệp

Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa biết cách khai thác hiệu quả các thông tin

pháp luật vì hiện tại hệ thống pháp luật của chúng ta đặc biệt pháp luật về

kinh tế, thương mại vừa nhiều, vừa chồng chéo và bất cập. Mặt khác, các cơ

60

quan quản lý nhà nước dù có sự quan tâm đến doanh nghiệp nhưng vẫn còn

nhiều khó khăn trong phương thức để phổ biến, hướng dẫn, tổ chức thi hành

pháp luật cho doanh nghiệp; nhiều thắc mắc của doanh nghiệp về nội dung

các quy định của pháp luật và việc áp dụng pháp luật chưa được các cơ quan

nhà nước có trách nhiệm giải đáp kịp thời khiến cho việc thực thi pháp luật

của doanh nghiệp càng gặp nhiều khó khăn hơn. Nguyên nhân chính của tình

trạng này là ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý của nhiều người quản lý doanh

nghiệp còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp còn khó khăn về nguồn lực để tiếp

cận với thông tin pháp lý và tư vấn pháp luật, hoạt động hỗ trợ của các hiệp

hội doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chồng chéo, thiếu hiệu quả; các cơ quan

quản lý nhà nước chưa thi hành tốt nhiệm vụ của mình trong việc tổ chức

triển khai thực hiện pháp luật cho doanh nghiệp, nhiều văn bản được ban hành

cùng thời điểm nhưng không nhất quán, chồng chéo cũng gây nhiều khó khăn

cho doanh nghiệp. Chất lượng thông tin mà doanh nghiệp có được chưa đầy

đủ, kịp thời và độ tin cậy cao. Đa số các trang thông tin cho doanh nghiệp

cung cấp các thông tin chung chung, lạc hậu, thiếu các thông tin phục vụ.

Tiểu kết chƣơng 2

Vốn ODA không chỉ có song phương mà còn đa phương từ các tổ chức

phi chính phủ, định chế tài chính thế giới mà các quỹ là cấu thành lên. Tuy

nhiên, việc doanh nghiệp tiếp cận được vốn ODA của Chính Phủ còn rất

nhiều khó khăn.

Trong chương 2 tập trung vào phân tích đầu tư vốn ODA không hoàn lại

của Chương trình IPP2 cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Từ việc tài trợ cho

các doanh nghiệp có ý tưởng sáng tạo, các nhóm đến hệ sinh thái khởi nghiệp

thông qua quá trình xét tuyển công khai minh bạch. Từ bài học rút ra từ IPP2

thấy được thực trạng việc thu hút nguồn vốn ODA vào phát triển doanh

nghiệp khởi nghiệp từ đó có giải pháp cụ thể để tăng nguồn vốn vào đầu tư

61

cho doanh nghiệp khởi nghiệp.

Chƣơng 3

GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THU HÚT sử dụng NGUỒN VỐN ODA

CHO KNĐMST THÔNG QUA CHƢƠNG TRÌNH IPP

3.1. Thuận lợi và khó khăn trong việc sử dụng vốn ODA cho khởi nghiệp

đổi mới sáng tạo tại Việt Nam

3.1.1. Thuận lợi

Sự quan tâm của Nhà nư c và Chính Phủ

Doanh nghiệp khởi nghiệp, quốc gia khởi nghiệp là một vấn đề mới và

được Nhà nước đặc biệt quan tâm trong những năm gần đây. Đặc biệt đối với

nền kinh tế Việt Nam, để ngành kinh tế đủ lớn, năng động, hội nhập sâu, tốc

độ phát triển nhanh; có nhiều cơ hội cho thế hệ khởi nghiệp thành

công; Chính phủ phải tạo thể chế pháp luật, nhân lực, thị trường. Cụ thể:

+ Về nguồn nhân lực: Cần chú trọng số lượng và chất lượng, đáp ứng

yêu cầu cách mạng công nghiệp lần thứ 4, mở ra ngành mới, xu hướng mới

cho giáo dục như trí tuệ nhân tạo... Bên cạnh đó là chính sách thu hút, giữ

chân các nhà đầu tư.

+ Về hạ tầng: Chính phủ và các bộ ngành chú trọng hạ tầng viễn thông

thông minh.

+ Về thị trường: cần tạo thị trường mới, thay đổi trong việc mua sắm đổi

mới sản phẩm, thử nghiệm mô hình kinh doanh mới.

Với việc hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã và đang nhận được

sự quan tâm và đầu tư từ các doanh nghiệp trên khắp thế giới. Hệ sinh thái

khởi nghiệp theo đó cũng dần được hình thành, hướng tới mục tiêu quốc gia

khởi nghiệp với khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là trung tâm. Ngày 18/5/2016,

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi

mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”. Đề án hướng tới mục tiêu tạo dựng

hình ảnh quốc gia khởi nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày

62

càng sâu, rộng. Đây là lần đầu tiên Chính phủ xây dựng một kế hoạch cụ thể

thúc đẩy môi trường đầu tư kinh doanh, đặc biệt là khuyến khích khởi nghiệp

một cách quy mô.

Làn sóng khởi nghiệp ang phát triển mạnh mẽ

Tại Việt Nam, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (ĐMST) đang phát triển

mạnh mẽ. Theo thống kê của tạp chí Echelon, Singapore, một trong những tạp

chí lớn về khởi nghiệp ở Đông Nam Á, Việt Nam hiện có khoảng 3.000 doanh

nghiệp khởi nghiệp ĐMST, tăng gần gấp đôi so với năm 2015 (khoảng 1.800

doanh nghiệp). Chất lượng của các doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST cũng

ngày càng tăng cao. Theo thống kê của tổ chức Topica Foun2der Institute

(TFI), năm 2017, Việt Nam tiếp nhận 92 thương vụ đầu tư khởi nghiệp đổi

mới sáng tạo với tổng số vốn hơn 291 triệu USD, tăng gần gấp đôi về số

thương vụ và gần 50% về tổng vốn đầu tư so với năm 2016 là 50 thương vụ

với 205 triệu USD.

Hiện Việt Nam có khoảng 30 cơ sở ươm tạo (BI) và tổ chức thúc đẩy

kinh doanh (BA). Một số tên tuổi tiêu biểu như: Vườn ươm doanh nghiệp

CNC Hòa Lạc, Vườn ươm doanh nghiệp CNC TP Hồ Chí Minh, Vườn ươm

Đà Nẵng (DNES)…

Hết năm 2017, có khoảng 40 quỹ đầu tư có hoạt động tại Việt Nam, phần

lớn là các quỹ đầu tư nước ngoài. Một số tập đoàn, công ty lớn của Việt Nam

cũng đã bắt đầu thành lập quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp như: Quỹ

sáng tạo CMC, FPT Ventures, Viettel Venture.

Từ những chủ trương đó đã hình thành được nhiều thiết chế như Trung

tâm Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp, Quỹ Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp quốc

gia, không gian làm việc chung… cùng với đó, trong giai đoạn 2016-2020, Bộ

KH&CN và Trung ương Đoàn đã ký kết chương trình phối hợp tăng cường hỗ

trợ thanh niên khởi nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp khởi nghiệp khoa

học, công nghệ, thông qua việc hình thành các trung tâm hỗ trợ sáng tạo khởi

63

nghiệp nhằm kết nối vốn, quỹ đầu tư, đào tạo, tập huấn, trợ giúp pháp lý…”.

3.1.1. Khó khăn

Vốn ODA ở Việt Nam luôn dành cho các doanh nghiệp và DNNVV

trong lĩnh vực công nghệ. Có rất ít chương trình tài trợ dành cho doanh

nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp.

Một số Quỹ, tổ chức hỗ trợ chủ yếu được cấp dưới hình thức vốn tài trợ

không hoàn lại cho các dự án NC&PT, chuyển giao công nghệ, đổi mới và

nâng cấp công nghệ hoặc để phát triển năng lực, tổ chức đào tạo, tập huấn và

hoạt động tư vấn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo chứ

chưa được phép cấp vốn tài trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Làn sóng khởi nghiệp đã và đang phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng

doanh nghiệp và thế hệ trẻ Việt Nam. Tuy nhiên, môi trường và các điều kiện

cho khởi nghiệp, gồm hệ thống khung pháp luật, các chính sách hỗ trợ, quỹ

đầu tư mạo hiểm, có nhiều khó khăn về vốn, đầu tư. Hiện chưa có chính sách

ưu đãi thuế và các chính sách đầu tư tài chính để các nhà đầu tư thiên thần

(người bỏ vốn mồi đầu tiên) sẵn sàng bỏ vốn. Trong khi giai đoạn vốn mồi rất

quan trọng với các doanh nghiệp khởi nghiệp.

3.2. Giải pháp tăng cƣờng thu hút nguồn vốn ODA cho khởi nghiệp đổi

mới sáng tạo thông qua Chƣơng trình IPP

3.2.1. Giải pháp chung

Tính đến năm 2018, Việt Nam đã tiếp nhận 80 tỉ USD nguồn vốn ODA,

vốn vay ưu đãi, trở thành một trong những nước tiếp nhận nguồn vốn này

nhiều nhất trên thế giới, trong đó khoảng 80% là của 6 nhóm ngân hàng trên.

Trong số 80 tỉ USD có 7 tỉ USD là viện trợ không hoàn lại, trên 70 tỉ USD là

vốn vay với lãi suất dưới 2% và 1,62 tỉ USD vốn vay kém ưu đãi nhưng lãi

suất vẫn thấp hơn vốn vay thương mại.

Kết quả trên thể hiện nỗ lực và sự chủ động của Việt Nam trong việc tìm

kiếm, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước. Các nhà tài trợ

đều có chung đánh giá Việt Nam đã sử dụng hiệu quả các nguồn vốn vay và

đây cũng là một trong những lý do các nhà tài trợ vẫn tiếp tục cam kết dành

64

cho Việt Nam nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi trong những năm qua.

Việt Nam đạt tỉ lệ cao về số lượng dự án hoàn thành và đạt kết quả phát

triển, cùng các mục tiêu đề ra. Theo báo cáo đánh giá kết quả các dự án JICA,

ADB, WB, các dự án của cả 3 nhà tài trợ này tại Việt Nam đạt kết quả cao

hơn, tốt hơn các quốc gia khác (Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Sri Lanka).

Xin tài trợ hay gọi vốn đầu tư đối với đa số những người khởi nghiệp

sáng tạo ở Việt Nam không hề đơn giản vì nhiều lí do. Hiện nay, ở Việt Nam,

các startup xin hỗ trợ tài chính qua ba con đường chủ yếu (không kể người

thân), thứ nhất là các nhà đầu tư thiên thần, thứ hai là các quỹ đầu tư và cuối

cùng là vay vốn ngân hàng.

Theo tài liệu nghiên cứu phục vụ cho việc xây dựng chính sách của

IPP2, hai đối tượng đầu tiên đều chưa được khuyến khích một cách hợp pháp

ở Việt Nam. Dẫu cho xuất hiện các câu lạc bộ đầu tư thiên thần thì họ hoạt

động vẫn rất hạn chế và việc vận hành của họ thường dựa vào các nguồn tiền

và dự án nước ngoài, nếu nguồn tài chính này hết thì các tổ chức này khó mà

có thể tiếp tục duy trì.

Các quỹ đầu tư mạo hiểm thực chất xuất hiện ở Việt Nam dưới dạng văn

phòng đại diện, còn “túi tiền” của họ nằm ở các nước có chính sách thuế và

đầu tư thuận lợi hơn. Hai hình thức đầu tư mạo hiểm này cũng thường chỉ

quan tâm tới các startup đã thể hiện sự tăng trưởng nhất định về mặt người

dùng hoặc doanh thu. Còn các ngân hàng, mặc dù tỏ ra ủng hộ “phong trào

startup” nhưng hỗ trợ của họ vẫn chỉ dừng lại ở hình thức vay ưu đãi nhưng

rất khó triển khai vì các ngân hàng chưa có kinh nghiệm định giá và đánh giá

các dự án khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

Tuy nhiên, việc khó tiếp cận nguồn vốn không chỉ dừng lại ở những lí do

khách quan mà còn đến từ việc startup không có đủ kiến thức và mối quan hệ

để gọi vốn

Thông qua việc thu hút và sử dụng vốn ODA tại Chương trình Đối tác

Đổi mới sáng tạo Việt Nam- Phần Lan (IPP) có thể đưa ra một số giải pháp

65

chung để thu hút vốn ODA cho loại hình này như sau:

Thứ nhất: Hoàn thiện và đồng bộ thể chế pháp lý. Hiện nay, các quy

định pháp lý quản lý nợ nói chung, nguồn ODA nói riêng chủ yếu điều chỉnh

và kiểm soát các quan hệ trước và trong quá trình đầu tư; giai đoạn sau đầu tư,

các quy định của pháp luật còn khá sơ lược. Bên cạnh đó, cơ chế vận động và

sử dụng nguồn ODA còn phức tạp liên quan đến nhiều cấp, nhiều bộ, ngành,

địa phương và một phần phụ thuộc vào cách thức của từng nhà tài trợ nên đã

ảnh hưởng đến hiệu quả thu hút, quản lý, sử dụng nguồn vốn này

Thứ hai : Các doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ luôn cần sự đồng hành của

chính quyền và những nỗ lực từ phía các cơ quan chức năng để hành động vì

doanh nghiệp. Vì tính mới, tính sáng tạo và tính mạo hiểm, rủi ro đối với người

khởi nghiệp là rất lớn. Rủi ro đó có thể không đơn thuần là rủi ro về mặt kinh

doanh, mà còn có thể là về phương diện pháp lý. Những người khởi nghiệp

thường gặp những sai lầm, thất bại nhiều lần trước khi có thể thành công.

Thứ ba: Đối với các DNKNST muốn thu hút được đầu tư cần phải có

khả năng cung cấp giá trị cho thị trường lớn; nó phải làm cái gì đó mà nhiều

khách hàng muốn; nó phải có khả năng đạt tới khách hàng nhanh chóng nhất

có thể được; và nó phải sẵn lòng thay đổi khi thị trường hay công nghệ thay

đổi. Do đó, doanh nghiệp phải luôn có ý tưởng kinh doanh sáng tạo – một ý

tưởng mới chưa từng có tiền lệ – bởi vậy, nó mới ở dạng tiềm năng, cần đầu tư

thêm nhiều chất xám và công sức để hoàn thiện và hiện thực hóa ý tưởng đó.

3.2.2. Giải pháp cụ thể

Về phía Nhà nư c

(1) Ưu tiên sử dụng vốn nhất là vốn ODA ể hỗ trợ khởi nghiệp i

m i sáng tạo

Hiện nay để khơi thông dòng vốn đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo, việc Nhà nước cần thực hiện trong thời gian tới còn rất nặng nề và cấp

thiết như tạo lập hành lang pháp lý ổn định, thông thoáng và minh bạch về

đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, tiếp tục đầu tư cho các tổ chức hỗ

66

trợ khởi nghiệp, v.v... Với các biện pháp đồng bộ mang tính cách mạng, khởi

nghiệp sẽ phát triển mạnh mẽ, là nơi khởi nguồn đổi mới sáng tạo trong kinh

doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo ra của cải cho đất nước.

Việc thành lập các tổ chức tài chính nhà nước theo mô hình Quỹ mẹ của

Hàn Quốc với số vốn ban đầu từ ngân sách nhà nước để hỗ trợ đối tượng khởi

nghiệp theo lĩnh vực ưu tiên là cần thiết, qua đó sẽ tạo “vốn mồi” để thu hút

và tranh thủ sự đầu tư của các Quỹ đầu tư trong và ngoài nước (Quỹ con).

Chú trọng vào tài trợ giai đoạn đầu và chấp nhận rủi ro kèm theo. Nên hỗ

trợ doanh nghiệp khởi nghiệp vượt qua giai đoạn “thung lũng chết” nhưng

cũng chấp nhận rằng các doanh nghiệp khởi nghiệp có thể thất bại hoặc thay

đổi mô hình kinh doanh/sản phẩm sau khi chương trình kết thúc

Nhà nước có thể hỗ trợ gián tiếp cho DN khởi nghiệp thông qua các hình

thức như hỗ trợ mặt bằng sản xuất, thực hiện các chính sách khuyến khích

như giảm lãi suất, miễn giảm thuế... Hiện nay, mức thuế suất thu nhập DN áp

dụng ở Việt Nam là 20%. Ở Thái Lan là 15% và ở Indonesia là 12,5%. Ngoài

ra, Chính phủ đứng ra bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp

trong những năm đầu theo các điều kiện đi kèm; Thúc đẩy các doanh nghiệp

khởi nghiệp chủ động tìm kiếm cơ hội tham gia vào các cụm liên kết ngành và

chuỗi giá trị nhằm tăng giá trị của doanh nghiệp khi huy động vốn.

Trên cơ sở môi trường kinh doanh đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp

được mở rộng, Nhà nước cần hoàn chỉnh hệ sinh thái hỗ trợ xung quanh hoạt

động của doanh nghiệp khởi nghiệp. Việc xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp

nên đứng dưới góc độ định hướng, Nhà nước không trực tiếp can thiệp mà

đóng vai trò là “trọng tài” để doanh nghiệp khởi nghiệp và hệ sinh thái hỗ trợ

tự bổ sung và liên kết với nhau.

(2) Tạo iều kiện về chính sách, hành lang pháp lý, giảm thiểu rào cản

tài chính ể hỗ trợ khởi nghiệp i m i sáng tạo

Hành lang pháp lý của chúng ta hiện mới chỉ điều chỉnh đối với các mô

hình doanh nghiệp truyền thống, cũng như hoạt động đầu tư truyền thống.

67

Còn đối với KNST, với nhiều đặc thù cần thiết, nhiều ưu đãi, hỗ trợ cần thực

hiện, thì còn một số vướng mắc. Ngay cả với hoạt động hỗ trợ, triển khai đề

án thì cũng chỉ đang vận dụng theo những quy định hỗ trợ với nội dung và

định mức chi còn khoảng cách khá lớn so với thực tiễn triển khai.

Cần tạo điều kiện môi trường kinh doanh thông thoáng, cắt giảm các thủ

tục pháp lý để xây dựng một thị trường vốn dành cho các doanh nghiệp khởi

nghiệp. Ý tưởng xây dựng một thị trường chứng khoán chuyên dành cho các

doanh nghiệp khởi nghiệp theo mô hình KONEX (Hàn Quốc) là ý tưởng hữu

hiệu giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp có thể tiếp cận được các nguồn vốn

với những tiêu chuẩn ở mức thấp hơn, tách bạch với niêm yết, thị trường linh

hoạt hơn, có lợi cho cả doanh nghiệp và nhà đầu tư.

Chính phủ nên tạo một không gian ứng dụng để các doanh nghiệp khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo có cơ hội ứng dụng thử sản phẩm để người dùng

đánh giá trước khi bán ra thị trường. Nếu họ có cơ chế bán sản phẩm trong

vòng 2- 3 năm để đo sức hút thị trường thì chắc chắn các startup sẽ phát huy

được hết năng lực và nhiệt huyết làm ra sản phẩm mới.

Trong quá trình xét duyệt cung cấp vốn cần đảm bảo quy trình lựa chọn

và giám sát rõ ràng, minh bạch, nhanh gọn và đơn giản để giảm thiểu khả

năng tham nhũng và hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp tập trung vào công tác

phát triển kinh doanh thay vì thủ tục hành chính

Để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư cho Startup, Nhà nước

cần nhanh chóng ký ban hành nghị định hướng dẫn thành lập quỹ đầu tư cho

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong nước; xem xét ban hành các văn bản pháp

luật liên quan đến gọi vốn cộng đồng, đặc biệt là gọi vốn cộng đồng lấy cổ

phần; xem xét việc thành lập thị trường mua bán cổ phần doanh nghiệp khởi

nghiệp; rà soát, giảm thiểu các thủ tục liên quan đến đăng ký đầu tư từ nước

ngoài vào trong nước và đầu tư trong nước ra nước ngoài; nới lỏng các quy

định quản lý đối với việc thoái vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Thêm vào đó,

các chính sách cần phải đồng bộ, thống nhất, tránh sự thay đổi đột ngột khiến

68

môi trường pháp lý thêm bất ổn.

Để thu hút được nguồn vốn đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo Nhà nước

cần phải có một số những giải pháp về chính sách cụ thể:

Đối với chính sách thuế

Thứ nhất, đối với các DNKN ĐMST. Các DNKN trong thời gian đầu

hoạt động có thể chưa có doanh thu, thu nhập. Vì vậy, có thể áp dụng có mức

ưu đãi thuế cao hơn so với các DN khác như cho phép miễn thuế trong thời

gian 5 năm đầu hoạt động của DN và áp dụng thuế suất thuế TNDN 10%

trong thời gian dài hơn so với thời hạn 15 năm hiện đang áp dụng với các DN

được ưu đãi khác. Đồng thời, cho phép chuyển lỗ không giới hạn thời gian

thay vì 5 năm như hiện nay để đảm bảo hỗ trợ tối đa cho DNKN.

Thứ hai, đối với các nhà đầu tư khởi nghiệp: Có những chính sách hỗ trợ

đầu tư, chính sách thuế để khuyến khích các nhà đầu tư cho khởi nghiệp.

Thứ ba, đối với các đối tượng hỗ trợ DNKN bao gồm các trường đại học,

viện nghiên cứu, vườn ươm: Ban hành quy định về chính sách tài chính nói

chung, chính sách thuế nói riêng có tính chất đặc thù đối với nhóm đối tượng

này. Có thể vận dụng những kết quả đạt được từ việc thí điểm đối với vườn ươm

tại Cần Thơ để phát triển cho tất cả các vườn ươm trên toàn quốc. Cụ thể:

- Miễn thuế nhập khẩu các hàng hóa là máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật

tư, phương tiện vận tải trong nước chưa sản xuất được; Công nghệ trong nước

chưa tạo ra được; Tài liệu, sách, báo, tạp chí khoa học và các nguồn tin điện

tử về khoa học và công nghệ của DN nhập khẩu phục vụ trực tiếp vào hoạt

động ươm tạo công nghệ tại vườn ươm.

- Áp dụng mức thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm, miễn thuế 4

năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với các DN thực

hiện dự án đầu tư mới ươm tạo công nghệ cao trong các lĩnh vực tại vườn

ươm hoặc TNDN từ thực hiện dự án đầu tư mới ứng dụng công nghệ cao

thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển (theo quy định

của Luật Công nghệ cao) mà được ươm tạo thành công tại Vườn ươm được áp

69

dụng.

- Áp dụng quy định về việc giảm thuế TNCN cho các chuyên gia làm

việc tại vườn ươm như đối với các cá nhân làm việc trong các khu kinh tế

hiện nay.

Đối với các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp khác, cũng cần có những quy

định cụ thể hơn như miễn thuế đối với thu nhập nhận được từ hỗ trợ khởi nghiệp

cho các trường đại học, viện nghiên cứu, các đối tượng tư vấn pháp lý, hỗ trợ

kinh doanh, các đối tượng xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết lập các khu làm việc

chung cho các startup, đối với các hoạt động quảng bá, truyền thông…

Thứ tư, ban hành và cho phép DNKN ĐMST áp dụng những quy định

về thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán đơn giản theo quy định của

pháp luật về thuế, kế toán. Việc đăng ký thuế được thực hiện qua mạng

internet và các DNKN trong 5 năm đầu nếu chưa có doanh thu có thể khai

thuế GTGT 6 tháng hoặc 1 lần/năm.

Thứ năm, thay thế hình thức miễn giảm thuế có thời hạn sang hình thức

khấu trừ thuế đầu tư cho DNKN ĐMST và các đối tượng hỗ trợ, đầu tư. Khấu

trừ thuế đầu tư - tức là cho phép khấu trừ một tỷ lệ % nhất định trên tổng giá

trị tài sản mới đầu tư cho khoa học công nghệ trực tiếp vào số thuế TNDN

phải nộp trong năm tính thuế.

Hình thức ưu đãi này có tác dụng tương tự như việc Nhà nước hỗ trợ

trực tiếp một phần vốn cho DN, tương ứng với khả năng tạo vốn và tạo thu

nhập trên cơ sở kinh doanh có lãi và thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà

nước. Đối với các DNKN ĐMST, sau thời gian đầu được miễn thuế, những

năm sau nếu có thu nhập có thể áp dụng hình thức này.

Tương tự, các nhà đầu tư và các nhà hỗ trợ cho DNKN ĐMST nếu có

phát sinh các chi phí đầu tư cho DNKN ĐMST cũng có thể áp dụng hình thức

này. Tuy nhiên, muốn áp dụng hình thức khấu trừ thuế đầu tư có kết quả tốt

nhất, phải quan tâm đến 2 vấn đề đó là xác định tỷ lệ khấu trừ thuế đầu tư và

quy định thế nào là giá trị đầu tư cho DNKN ĐMST và như vậy, cần những

70

quy định cụ thể, chặt chẽ hơn.

Đối với chính sách tài chính

Trở ngại lớn nhất trong cả việc tiếp cận tín dụng, bảo lãnh tín dụng hay

hưởng ưu đãi về lãi suất vay đặt ra là các DNKN ĐMST chưa đáp ứng được

các tiêu chuẩn khắt khe đặt ra về vốn, về xếp hạng tín nhiệm DN.

Đặc biệt, các DNKN ĐMST thường không thể đáp ứng hoặc chỉ có thể

đáp ứng được rất ít các điều kiện cho vay tín dụng không thế chấp đối với

DNNVV. Vì vậy, cần có cơ chế đặc thù để các DNKN ĐMST có thể tiếp cận

được các ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư góp vốn đầu tư vào các DNKN

ĐMST:

Một là, xây dựng quỹ đầu tư cho DNKN ĐMST theo mô hình hợp tác

công tư thuộc Chính phủ. Hoạt động của quỹ này thực hiện theo cách thức của

các quỹ tín thác nhằm kêu gọi vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong xã hội.

Việc đầu tư cho các DNKN ĐMST có thể được thiết lập dưới dạng đối

tác đầu tư thông qua hình thức là các khoản vay hoặc vốn chủ sở hữu nhằm

cung cấp vốn đầu tư trong giai đoạn khởi nghiệp.

Hai là, xây dựng một chương trình tài chính đặc biệt dành cho DNKN

ĐMST. Chính phủ có thể thông qua một tập đoàn tài chính quốc gia cho các

DNKN ĐMST vay không thế chấp hoặc bảo lãnh trong một thời gian nhất

định, thường là thời gian đầu của khởi nghiệp.

Tuy nhiên, do tỷ lệ rủi ro của DNKN ĐMST cao nên nguồn vốn của

chương trình này được coi như một khoản chi tiêu của Chính phủ.

Ba là, thiết kế riêng các gói sản phẩm tín dụng cho các DNKN ĐMST tại

các ngân hàng thương mại, trong đó giảm bớt các điều kiện đánh giá về năng

lực tài chính hay xếp hạng tín nhiệm DN mà có thể đánh giá dựa trên tiêu

thức xác định DNKN ĐMST hoặc các tiêu chí đánh giá tính khả thi của

phương án kinh doanh nhằm kiểm soát rủi ro mà không cần tài sản đảm bảo.

(3) Hình thành mạng lư i liên kết hỗ trợ

Trong thời gian tới, để thúc đẩy đầu tư cho các doanh nghiệp khởi

71

nghiệp cũng như xây dựng hoàn chỉnh mô hình hệ sinh thái khởi nghiệp, nhà

nước cần vào cuộc bằng cách hỗ trợ hiệu quả hơn các phương thức kết nối

bên trong hệ sinh thái và với các hệ sinh thái khởi nghiệp quốc tế.

Hiện nay chưa có đầu mối chính thức nào của nhà nước có chức năng

nhiệm vụ và mối tương tác đủ sâu rộng để làm đầu mối tổng hợp, cung cấp

thông tin tổng hợp về hệ sinh thái đến trong và ngoài nước.

Ngoài ra, Việt Nam cũng cần xem xét đặt đại diện hỗ trợ khởi nghiệp tại

các thung lũng khởi nghiệp lớn trên thế giới như Silicon Valley tại Mỹ như rất

nhiều quốc gia trên thế giới đã làm. Ngoài Silicon Valley, Việt Nam có thể

tập trung chú ý đến nguồn vốn của các nhà đầu tư khu vực vì thường các quỹ

đầu tư quy mô rất lớn mới đa dạng hóa đầu tư bằng việc đưa vốn đầu tư ra các

thị trường nhỏ, xa tầm – đại diện của SYS chia sẻ. Đại diện hỗ trợ khởi

nghiệp tại nước ngoài có mục tiêu chia sẻ thông tin về khởi nghiệp Việt Nam

ra nước ngoài, tạo kết nối thường xuyên với hệ sinh thái khởi nghiệp tại đây,

cũng như kết nối với hội người Việt ở nước ngoài, thu hút Việt Kiều làm cố

vấn, đầu tư, hỗ trợ các startup tiềm năng. Văn phòng 844 có thể nghiên cứu đề

xuất cơ chế đặc thù về visa để thu hút doanh nhân khởi nghiệp, chuyên gia,

nhà đầu tư cho khởi nghiệp từ nước ngoài đến Việt Nam.

(4) Kết hợp hỗ trợ tài chính v i hỗ trợ mềm

Bên cạnh vốn tài trợ, cần cung cấp hỗ trợ mềm cho các doanh nghiệp khởi

nghiệp như huấn luyện, tư vấn, kết nối mạng lưới và các dịch vụ phát triển kinh

doanh. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp tiếp tục thu hút vốn đầu tư để đảm bảo

tính bền vững của hoạt động kinh doanh sau khi chương trình kết thúc

(5) Chú trọng vào công tác thay i tư duy trong hệ sinh thái

Song song với hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, cần có

các hoạt động phát triển năng lực cho các bên liên quan trong hệ sinh thái để

tạo ra thay đổi tư duy của các bên liên quan và đảm bảo tính bền vững sau khi

chương trình kết thúc

Về phía nhà ầu tư

Cần xây dựng chiến lược đầu tư, minh bạch phần vốn góp để phân chia

hiệu quả quyền sở hữu công ty; Tham vấn các ý kiến của chuyên gia để giảm

72

thiểu rủi ro và tránh những chi phí phát sinh ngoài dự toán; Đồng thời, tương

ứng với phần trăm sở hữu DN, NĐT cần yêu cầu các DN khởi nghiệp cam kết

mức lợi nhuận kỳ vọng theo từng giai đoạn cụ thể.

Cần đa dạng hóa các danh mục đầu tư, không nên tập trung vốn đầu tư vào

một lĩnh vực cụ thể, NĐT cần xác định rõ thời gian đầu tư cho từng danh mục.

Điều này sẽ giúp các NĐT có thể chủ động trước những biến động khách quan

của thị trường, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động đầu tư mạo hiểm.

Các NĐT cần có chiến lược đầu tư phù hợp theo các giai đoạn phát triển

của DN khởi nghiệp; thực hiện thoái vốn một cách linh hoạt để tránh gây tổn

thất cho DN, ảnh hưởng đến phần vốn góp của các NĐT khác trong DN.

Các chính sách cần phải được thiết kế với mục tiêu hỗ trợ tối đa cho các

nhà đầu tư cho khởi nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này, cần ban hành quy

định chính thức về đầu tư mạo hiểm bên cạnh việc quy định về đầu tư cho các

DNNVV khởi nghiệp sáng tạo như Nghị định số 38/2018/NĐ-CP của Chính

phủ. Trong đó, cần chỉ rõ nghĩa vụ thuế của các nhà đầu tư này khi thực hiện

đầu tư cũng như khi chuyển nhượng vốn. Nên đưa ra những quy định về giảm

thuế TNDN (đối với các nhà đầu tư là DN) hoặc thuế TNCN (đối với các cá

nhân đầu tư) trong trường hợp có thu nhập từ đầu tư hoặc chuyển nhượng

vốn. Đồng thời, có thể cho phép bù trừ số lỗ của dự án đầu tư cho khởi nghiệp

với các dự án khác để giảm bớt rủi ro cho các nhà đầu tư, khuyến khích họ bỏ

vốn cho DNKN.

Về phía doanh nghiệp khởi nghiệp:

Các DN khởi nghiệp gọi vốn thành công từ các NĐT, cần điều chỉnh kế

hoạch kinh doanh cho phù hợp với tình hình thực tế. Tranh thủạo việc làm

cho gần 1,3 triệu lao động. Nhưng cũng trong năm 2016, cả nước có 12.478

doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể. Trong đó, Doanh nghiệp khởi nghiệp

(loại khởi nghiệp ĐMST), hiện nay dựa trên kỹ thuật công nghệ cao, tri thức

khoa học, với nhiều ý tưởng sáng tạo, phong phú nhưng lại thiếu kinh nghiệm,

cho nên khả năng thành công tương đối thấp. Trong khoảng hơn 100 nghìn

73

doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, chỉ có khoảng hơn 1 nghìn doanh

nghikhởi nghiệp gọi vốn Song, cứ khoảng 100 doanh nghiệp khởi nghiệp

ĐMST thì có tới 90 doanh nghiệp đứng trước nguy cơ giải thể trong hai năm

đầu hoạt động.

Trong thời gian đầu khởi nghiệp Cần phải có một chương trình đào tạo

với cấu trúc rõ ràng và tạo cho các nhà khởi nghiệp có những cơ hội, kinh

nghiệm để phát triển ý tưởng và tăng hiệu quả gọi vốn qua các vòng gọi vốn

tăng trưởng.

Đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp, cần có sự chuẩn bị sẵn sàng các

yếu tố cần thiết khi khởi nghiệp. Chủ động nghiên cứu, cập nhật thông tin về

chính sách, pháp luật để kịp thời năm bắt, tiếp nhận, tận dụng các cơ hội, ưu

đãi từ chính sách, Nhà nước và hạn chế tối đa các rủi ro trong quá trình khởi

nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cường liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp với

nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước để tận dụng được

74

tối đa nguồn vốn, nguồn nhân lực cũng như công nghệ hay thị trường.

Tiểu kết chƣơng 3

Trong những năm trở lại đây, với định hướng của Đảng đưa nước ta trở

thành một quốc gia khởi nghiệp, Nhà nước đã đưa ra nhiều đường hướng,

biện pháp khuyến khích khởi nghiệp trong nước. Song, đến nay startup Việt

vẫn gặp một số khó khăn trong kêu gọi vốn đầu tư. Vì vậy cần phải có những

chính sách và giải pháp phù hợp để có thể thu hút nguồn vốn đầu tư cho khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo đặc biệt là nguồn ODA .

Để công tác thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA có kết quả, chúng ta

đã xây dựng một hành lang pháp lý cơ bản và khá đầy đủ. Tuy nhiên, để đảm

bảo việc thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA một cách hiệu quả, khuôn khổ

thể chế pháp lý cần phải hoàn thiện và đồng bộ. Hiện nay, các quy định pháp

lý quản lý nợ nói chung, nguồn ODA nói riêng chủ yếu điều chỉnh và kiểm

soát các quan hệ trước và trong quá trình đầu tư; giai đoạn sau đầu tư, các

quy định của pháp luật còn khá sơ lược. Bên cạnh đó, cơ chế vận động và sử

dụng nguồn ODA còn phức tạp liên quan đến nhiều cấp, nhiều bộ, ngành, địa

phương và một phần phụ thuộc vào cách thức của từng nhà tài trợ nên đã ảnh

hưởng đến hiệu quả thu hút, quản lý, sử dụng nguồn vốn này.

Chương 3 tập trung chủ yếu để đưa ra các giải pháp để thu hút các

nguồn vốn đầu tư cho khởi nghiệp nói chung và vốn ODA nói riêng. Trên cơ

sở nghiên cứu kinh nghiệm của Chương trình IPP2, phân tích các mô hình,

chính sách tài chính hỗ trợ khởi nghiệp trên thế giới và thực tiễn Việt Nam, từ

đó đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp để thu hút nguồn vốn cho đầu tư

khởi nghiệp nhất là các nguồn vốn ODA của Chính Phủ. Về cơ bản các giải

pháp đều xoay quanh các nguyên tắc, các cơ chế, chính sách hỗ trợ khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo nên được thiết kế hỗ trợ trải rộng trên các giai đoạn

phát triển khởi nghiệp (từ bước chứng minh ý tưởng cho tới khi mở rộng ra

thị trường toàn cầu), nhưng cần tập trung hỗ trợ ở giai đoạn ban đầu giúp các

doanh nghiệp khởi nghiệp vượt lên phát triển. Trong các giải pháp thì giải

75

pháp hỗ trợ từ Chính phủ là quan trọng then chốt. Bên cạnh đó, cần nhận thức

rõ rằng, tuy lượng vốn hỗ trợ khởi nghiệp là quan trọng, nhưng điều quan

trọng hơn là cần tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu tư khởi nghiệp, trong đó

chú trọng khả năng tiếp cận thông tin, sự hỗ trợ mạnh mẽ từ nhiều tổ chức,

76

dịch vụ và các quy định pháp lý thuận lợi cho việc đầu tư.

KẾT LUẬN

Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đại diện cho mô hình kinh

doanh mới, là động lực chính thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng năng suất

trong xã hội dựa trên tri thức và công nghệ. Đó là hình thức phù hợp nhất

để thực hiện các phát minh, sáng kiến và đó là cơ chế tốt nhất để thương

mại hóa các công nghệ mới, đưa các thành tựu khoa học kỹ thuật vào cuộc

sống, đóng góp vào sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ mới và vị

trí mà chúng hoạt động.

Với lợi thế của một quốc gia dân số hơn 90 triệu người, trong đó chủ

yếu là thế hệ trẻ, nền kinh tế internet của Việt Nam đang nắm giữ tiềm

năng phát triển rất lớn. Điều đó đồng nghĩa với việc trong các năm tiếp

theo là sự phát triển của làn sóng startup ngày càng cạnh tranh mãnh mẽ và

khốc liệt trên nhiều lĩnh vực. Việc thành công của các doanh nghiệp còn

phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó không thể không nói đến vấn đề

vốn nhằm phát triển vòng đời của doanh nghiệp, đáp ứng mục tiêu tăng

trưởng không giới hạn. Doanh nghiệp khởi nghiệp ở Việt Nam đang đòi hỏi

lượng vốn rất lớn, các tổ chức, quỹ coi Việt Nam là địa bàn khởi nghiệp tuy

nhiên để thu hút luồng vốn ODA chảy vào khu vực tư nhân, khu vực khởi

nghiệp đến nay còn quá nhiều ràng buộc. Để góp phần tạo nên sự thành

công trong việc thu hút vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo rất cần

sự quan tâm của Nhà nước về chính sách, pháp luật nói chung nhằm tạo ra

các sân chơi minh bạch, hiệu quả từ đó hỗ trợ cho việc thu hút các quỹ đầu

tư, các tổ chức và cộng đồng

Vốn tài trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo luôn

được các chương trình chia theo giai đoạn phát triển và việc sử dụng vốn

của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Các khoản vốn tài trợ nhỏ

thường do Chính phủ cấp cho các dự án được chọn lọc ở giai đoạn chứng

minh ý tưởng để phục vụ mục đích thẩm định trên thị trường, các khoản tài

77

trợ lớn hơn thường cấp để doanh nghiệp phát triển sản phẩm mẫu nhằm đạt

được Sản phẩm Khả thi Tối thiểu (MVP) và vốn tài trợ bổ sung thường

được cấp ở giai đoạn sau để thúc đẩy, mua sắm thiết bị và mở rộng.

Một số chương trình đặc biệt nhằm mục đích cấp vốn trực tiếp cho các

doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tiềm năng ở giai đoạn đầu có

định hướng mở rộng ra thị trường quốc tế để đẩy nhanh quá trình mở rộng

quy mô của những doanh nghiệp tăng trưởng nhanh. Các chương trình khác

tài trợ vốn để doanh nghiệp thu thập thông tin, chuyên môn, và/hoặc tài trợ

kinh phí di chuyển và tham dự các hội chợ về khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo.

Mặc dù còn nhiều hạn chế trong đáp ứng nhu cầu của thực tiễn khởi

nghiệp, nhưng hoạt động đầu tư và tài chính cho khởi nghiệp ở Việt Nam

đã có nhiều chuyển động tích cực. Hoạt động đầu tư cho khởi nghiệp thông

qua vốn chủ sở hữu đã có mặt tại Việt Nam dưới hình thức các VCF và

Quỹ đầu tư vào các doanh nghiệp tư nhân cuối những năm 1990, sau khi

Việt Nam thực hiện đường lối Đổi mới và kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ

cùng sự phát triển nhanh của ngành công nghệ thông tin và truyền thông

(Klingler-Vidra, 2014; Ly, 2015). Các hình thức đầu tư vốn khác cũng dần

xuất hiện, bao gồm: tài trợ không hoàn lại, vốn vay, vốn chủ sở hữu và bán

hàng, từ nhiều nguồn khác nhau như các VCF, doanh nghiệp, ngân hàng, tổ

chức thúc đẩy kinh doanh, vườn ươm doanh nghiệp và các nhà đầu tư thiên

thần.

Đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở Việt Nam đã tăng mạnh

trong những năm gần đây, nhưng còn thấp so với khu vực và thế giới. Theo

TechinAsia4, năm 2017, Đông Nam Á thu hút 7,86 tỷ USD đầu tư vào

doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, trong đó Việt Nam chiếm dưới

1%5. Theo CBInsights6, nếu tính tổng vốn đầu tư vào doanh nghiệp khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo từ năm 2012 đến nay, Việt Nam đứng thứ 4 trong

khu vực Đông Nam Á, sau Singapore, Indonesia và Malaysia7. Mức độ đầu

78

tư thấp như vậy chưa đáp ứng được nhu cầu vốn của khoảng 2-3.000 doanh

nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam. Bên cạnh nguồn vốn từ bạn bè, gia đình

và bản thân người sáng lập, các nguồn vốn cho khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo tại Việt Nam chủ yếu đến từ các VCF, doanh nghiệp lớn, tổ chức thúc

đẩy kinh doanh và nhà đầu tư thiên thần trong nước và quốc tế. Một số

doanh nghiệp huy động được vốn từ ngân hàng nhưng số này rất ít.

Tính đến cuối năm 2017, có khoảng 40 quỹ đầu tư mạo hiểm có hoạt

động đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Việt

Nam, trong đó hầu hết là các quỹ quốc tế. Chỉ một số ít các quỹ này đặt văn

phòng tại Việt Nam như IDG Ventures (Hoa Kỳ) 8, CyberAgent Ventures

(Nhật Bản), DFJ-VinaCapital (hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam), và 500

Startups (Hoa Kỳ). Các quỹ không có văn phòng tại Việt Nam thực hiện

sàng lọc, lựa chọn và đầu tư từ các quỹ hải ngoại. Bên cạnh đó, còn có các

quỹ đầu tư vào công ty tư nhân để tham gia đầu tư cho doanh nghiệp khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo đã trưởng thành như các quỹ Mekong Capital,

Dragon Capital, VinaCapital (Klingler-Vidra, 2014).

Số lượng tổ chức thúc đẩy kinh doanh và vườn ươm doanh nghiệp

cung cấp vốn đầu tư giai đoạn hạt giống cho các doanh nghiệp khởi nghiệp

đổi mới sáng tạo còn tương đối ít. Có thể kể tới: Tổ chức Thúc đẩy kinh

doanh Thung lũng Silicon Việt Nam (VSVA); Quỹ Tăng tốc khởi nghiệp

Việt Nam (VIISA) của Tập đoàn FPT; Công ty Chứng khoán BIDV;

DNES; Dragon Capital Group (Việt Nam), Hanwah và H-Camp (Hàn

Quốc). Các đơn vị khác như Tổ chức Topica Founder Institute hay Tổ chức

Thúc đẩy kinh doanh CLAS - Expara Việt Nam chỉ tham gia cung cấp các

khóa đào tạo, tập huấn và hỗ trợ mềm nhằm kết nối các doanh nghiệp khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo với các nhà đầu tư.

Tóm lại, thị trường đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt

Nam đang ngày càng năng động và đa dạng hơn, có sự tham gia của cả nhà

79

đầu tư trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, để thu hút nguồn vốn ODA

đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo hiện nay vẫn còn hạn chế so với nhu cầu

của các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phải đương đầu với sự

cạnh tranh quyết liệt từ các doanh nghiệp đến từ các nước trong khu vực và

thế giới. Chỉ bằng sự nỗ lực đơn lẻ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi

mới sáng tạo thì không thể thành công trước những thách thức của hội

nhập. Các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cần được hỗ trợ tích

cực hơn của Nhà nước, đặc biệt trong việc giảm thiểu rủi ro, các rào cản

cản từ phía cơ chế chính sách, tạo môi trường kinh doanh thực sự mở, bình

đẳng, thuận lợi, rõ ràng, minh bạch để doanh nghiệp có thể tiếp cận được

với nhiều nguồn tài trợ, nguồn vốn khác nhau góp phần nâng cao vị thế của

80

doanh nghiệp trên bước đường khởi nghiệp.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

(1) Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ

sinh thái khởi nghiệp ĐMST quốc gia đến năm 2025”. Định nghĩa doanh nghiệp

khởi nghiệp ĐMST trên đây là kế thừa khái niệm khởi nghiệp của các loại hình

“emerging high-growth companies”, “early-stage

innovative companies”,

“entrepreneurs” hay “startups” trong các văn bản chính sách và các nghiên cứu

trên thế giới.

(2) Nguồn dữ liệu phân tích tình hình sử dụng ODA của Việt Nam.

https://data.worldbank.org/indicator.

(3) Nguồn dữ liệu phân tích tình hình sử dụng ODA của Việt Nam.

https://data.worldbank.org/indicator.

(4) Sổ tay hướng dẫn thực hiện Dự án, Ban Quản lý Dự án FIRST theo đó

quy định hợp phần tài trợ và các mục tiêu của Dự án.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Vũ Thị Kim Oanh (2005). Những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu

quả nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, Luận án tiến sỹ. Đại học ngoại

thương, Hà Nội

2. Tôn Thanh Tâm (2005), Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn hỗ

trợ phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại

học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Huyền (2008), Khai thác nguồn vốn ODA trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường đại học

kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.

4. Đặng Đức Hải (2012), Kinh nghiệm sử dụng nguồn vốn ODA phát triển

KH&CN của các nước ASEAN, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Ngoại

thương, Hà Nội.

5. Hà Thị Thu (2014), Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính

thức (ODA) vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam: Nghiên cứu tại

vùng Duyên hải Miền Trung, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc

dân, Hà Nội.

6. Đặng Bảo Hà (2015), Xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp: Vai

trò, chính sách của Chính phủ, Cục Thông tin Khoa học và công nghệ Quốc

gia, Hà Nội

7. Hoàng Thị Tư (2016). Cơ chế, chính sách hỗ trợ đặc biệt cho doanh nghiệp

khởi nghiệp”, Tạp chí Tài chính kỳ I tháng 9/2016, Hà Nội.

8. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2017), Xây dựng hệ tiêu chí đánh giá chính sách

thúc đẩy khởi nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa”. Tạp chí khoa học, Đại học

Quốc gia Hà Nội, Chuyên san Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Vol. 33,

No 3, 2017, Hà Nội.

9. Trần Đình Nam (2017), Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn

ODA vào phát triển đường sắt đô thị ở Việt Nam (Nghiên cứu điển hình các

dự án phát triển đường sắt ở thành phố Hà Nội), Luận án tiến sĩ, Trường Đại

82

học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

10. Nguyễn Văn Trưởng (2018), Nghiên cứu cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp sáng tạo, kinh nghiệm quốc tế - đề xuất giải pháp cho Việt Nam, Luận

án thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt

Nam, Hà Nội.

11. Lê Thị Thanh (2018), Quản lý sử dụng nguồn vốn ODA không hoàn lại tại

các dự án của Tổng Cục Môi Trường, Luận án thạc sĩ, Học viện Khoa học xã

hội, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

12. Dương Hồng Ngọc (2018), Thực trạng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt

Nam: Khó khăn và giải pháp, Luận văn thạc sĩ, Khoa Kinh doanh Quốc tế -

Marketing, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh

13. Ban Quản lý Dự án FIRST (2014), Sổ tay Hướng dẫn thực hiện Dự án, Hà

Nội.

14. Chương trình đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam - Phần Lan, giai đoạn 2

(2014,2015,2016,2017,2018), Báo cáo thực hiện các năm 2014,2015,2016,

2017,2018, Hà Nội.

15. Chính phủ (2006), Nghị định 131/2006/CP ngày 09/11/2006 về Quy chế quản

lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA), Hà Nội.

16. Chính phủ (2010), Nghị định số 78/2010/NĐ-CP ngày 14/07/2010 về Cho

vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ, Hà Nội.

17. Chính phủ (2013), Nghị định số 38/2013/NĐ-CP ngày 23/04/2016 về Quản lý

và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và nguồn vốn vay ưu

đãi của các nhà tài trợ, Hà Nội.

18. Chính phủ (2016), Nghị định số 16/2016/NĐ-CP ngày 16/03/2016 về Quản lý

và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các

nhà tài trợ nước ngoài, Hà Nội.

19. Chính phủ (2016), Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ phát

triển doanh nghiệp đến năm 2020, Hà Nội.

20. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 844/QĐ-Tgg ngày 18/5/2016 về

việc phê duyệt đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc

gia đến năm 2025, Hà Nội.

83

21. Bộ Tài chính (2007), Thông tư số 108/2007/TT-BTC ngày 07/09/2007 Hướng

dẫn cơ chế quản lý tài chính đối với các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển

chính thức (ODA), Hà Nội.

22. Bộ Tài chính (2013), Thông tư số 218/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 Quy

định về quản lý tài chính đối với các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn

hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay ưu đãi nước ngoài của các nhà tài

trợ, Hà Nội.

23. Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 111/2016/TT-BTC ngày 30/06/2016 Quy

định về quản lý tài chính đối với các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn

hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước

ngoài, Hà Nội.

24. Tổng cục thống kê (2016), kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Việt Nam giai đoạn 2010-2014, Nxb Thống kê, Hà Nội.

25. Bộ Kế hoạch - đầu tư (2001), Thông tư số 06/2001/TT-BKH ngày 20/09/2010

về việc Hướng dẫn thực hiện quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát

triển chính thức.

26. Phạm Văn Quân (2013). Khái niệm và các hình thức ODA

http://voer.edu.vn/m/khai-niem-va-cac-hinh-thuc-cua-oda/f6c40b53

(06/08/2013)

27. Tina Seeling (2019) - Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, Nhà xuất bản trẻ

28. http://khoinghieptre.cn/het-nam-2016-khoi-nghiep-viet-nam-da-di-den-dau/

29. Các trang Web: http://www.most.gov.vn/vn; http://startup.gov.vn ;

http:

//ipp.vn/;

http://khoinghieptre.vn;

84

1. World Economic Forum. (2013). Entrepreneurial Ecosystems.

2. OECD (2018). Official Development Assistance (ODA) http://www.oecd.

org/dac/stats/What-is-ODA.pdf

3. Steve Blank (2010), What‟s A Startup? First Principles. https://steveblank.

com/2010/01/25/whats-a-startup-first-principles/

4. Mason, C. & Brown, R (2014). Entrepreneurial Ecosystems. OECD, The

Hague

5. Paul Graham(2005), how to start a start up,http://paulgraham.com/start.

html

85

Tiếng Anh