TIỂU LUẬN:
Giải pháp nhằm thu hút mọi đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào
ngành công nghiệp Việt Nam
Lời Nói Đầu
Chủ trương hợp tác với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, kinh
nghiệm quản lý và thị trường thế giới phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đã được xác
định và cụ thể hoá trong các văn kiện.Nghị quyết của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Luật đầu tư nước ngoài tại việt Nam ban hành năm 1987 đã mở đầu trong việc thu
hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài theo phương châm đa dạng hoá, đa phương
hoá các kinh tế đối ngoại;góp phần thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế.
Theo tính toán kinh tế vĩ mô, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế-xã
hội đề ra cho giai đoạn 5 năm 2001-2005, nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội cần
khoảng 65-70 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư tích luỹ trong nước 30-35 tỷ USD, số
còn lại phải tìm từ nguồn bên ngoài.
Tích luỹ trong nước từ GDP dành cho đầu tư đã tăng liên tục trong những
năm qua, từ 14,4% năm 1990 đến 27,9% năm 1996. Đây là nguồn vốn quyết định
để có thể chủ động bố trí cơ cấu đầu tư theo chiến lược phát triển kinh tế- xã hội và
có thể xây dựng khu vực kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ nền
kinh tế.
Tuy nhiên, do xuất phát điểm của nước ta quá thấp, kém nhiều so với các
nước trong khu vực và trên thế giới, chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì chúng ta
không thể thu hẹp khoảng cách trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất, quản lý kinh
doanh và nhất là chất lượng sản phẩm, kỹ năng thâm nhập hàng hoá nước ta vào khu
vực và thị trường thế giới.Trong điều kiện đó, để tiến hành CNH-HĐH đất nước,
đảm bảo duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế, thu hẹp khoảng cách của nước ta và các
nước trong khu vực, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào phục vụ chủ trương phát
triển kinh tế- xã hội của Việt Nam là hết sức quan trọng.
Thực tế cho thấy, trong mấy năm gần đây, đầu tư nước ngoài tập trung chủ
yếu vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ (chiếm hơn 50%vốn đầu tư nước ngoài ) là
rất đúng hướng và phù hợp với chủ trương của nước ta. Nhưng tình hình trong nước
và thế giới có nhiều thay đổi với những thuận lợi và khó khăn mới khác với dự báo
ban đầu. Trong khi đó, nguồn vốn ODA có nhiều hướng giảm cả về quy mô và mức
ưu đãi; nguồn vốn vay thương mại để đầu tư không nhiều, phải chịu lãi xuất cao,
điều kiện cho khắt khe, chịu nhiều rủi ro của biến động tỷ giá...
Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề, em đã mạnh dạn thực hiện đề tài::
“Giải pháp nhằm thu hút mọi đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp
Việt Nam” nhằm đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (những FDI) vào
ngành công nghiệp của nước ta hơn 12 năm qua, từ đó rút ra kết luận cần thiết. Trên
cơ sở đó đề ra chủ trương và một hệ thống các giải pháp cùng những kiến nghị để
thu hút và sủ dụng hiệu quả hơn nguồn vốn FDI vào ngành công nghiệp việt Nam
trong thời gian tới.
I. Lý Luận Chung Về Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài.
1. Khái Niệm Về Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài.
1.1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu
tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành
quyền điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại.
1.2. Động cơ của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Động cơ chung nhất của các chủ đầu tư nước ngoài là tìm kiếm thị trường
đầu tư hấp dẫn, thuận lợi và an toàn nhằm thu lợi nhuận cao và sự thịnh vượng lâu
dài của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, động cơ cụ thể của chủ đầu tư trong những dự án lại rất khác
nhau tuỳ thuộc vào các chiến lược phát triển của từng doanh nghiệp và mục tiêu của
từng doanh nghiệp đó ở thị trường nước ngoài, tuỳ thuộc mối quan hệ sẵn có của
doanh nghiệp với nước chủ nhà.
Khái quát chung lại có ba động cơ cụ thể tạo nên ba định hướng khác nhau
trong đầu tư trực tiếp nước ngoài:
- Đầu tư định hướng thị trường ;
- Đầu tư định hướng chi phí;
- Đầu tư định hướng nguồn nguyên liệu.
Đầu tư định hướng thị trường là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ sang các nước sở tại. Việc sản xuất sản phẩm
cùng loại ở nước sở tại cho phép nhà đầu tư không cần đầu tư công nghệ máy móc
thiết bị mới lại có thể tận dụng được lao động rẻ, tiết kiệm được chi phí vận chuyển
qua đó nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Đây cũng là chiến lược bành trướng thị trường
của các công ty đa quốc gia để vượt qua hàng rào bảo hộ của các nước sở tại và kéo
dài tuổi thọ các sản phẩm của doanh nghiệp bằng cách khai thác các sản phẩm mới.
Đầu tư định hướng chi phí là hình thức đầu tư ở nước ngoài nhằm giảm chi
phí sản xuất thông qua việc tận dụng lao động và tài nguyên rẻ ở nước sở tại nhờ đó
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Hình thức đầu tư này
đặc biệt phù hợp với những ngành nghề, lĩnh vực đầu tư sử dụng nhiều lao động,
thiết bị cũ lạc hậu, mức độ nhiễm môi trường cao mà nước chủ đầu tư không cho
phép sử dụng hoặc chi phí sử lý ô nhiễm môi trường đòi hỏi lớn .
Đầu tư định hướng nguồn nguyên liệu là hình thức đầu tư theo chiều dọc.
Các cơ sở đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành trong dây truyền kinh doanh
của công ty mẹ, có trách nhiệm khai thác tại chỗ nguồn nguyên liệu của nước sở tại,
cung cấp cho công ty mẹ để tiếp tục chế biến hoàn chỉnh sản phẩm. Hình thức đầu
tư này phù hợp với các dự án khai thác dầu khí, tài nguyên thiên nhiên hoặc khai
thác và sơ chế các sản phẩm nông lâm ngư nhiệp ở các nước sở tại...
1.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hiện nay, có 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu sau:
- doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài;
- Doanh nghiệp liên doan;
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước
ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp
theo qui định, pháp luật của nước sở tại.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư
nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên
doanh. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp: Chia lợi nhuận và chịu rủi
ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn pháp định.
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh với bên Việt
Nam trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp đồng chia lợi nhuận hoặc
phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân mới.
1.4. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết
định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình
thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về
chính trị, không để lại gánh nặng cho nền kinh tế.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên
doanh hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp tuỳ theo tỷ lệ vốn góp của mình. Đối
với nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với
số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hoặc bằng 49%; 51% còn lại do nước chủ
nhà nằm giữ. Trong khi đó Luật đầu tư nước ngoài của việt Nam cho phép rộng rãi
hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài quy định bên nước ngoài phải góp tối
thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được
công nghệ kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý... là những mục tiêu mà
các hình thức đầu tư khác không giải quyết được.
Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư
dưới hình thức vốn pháp định trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay
của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn
lợi nhuận thu được.
2. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Là hoạt động kinh tế, hoạt động trực tiếp nước ngoài cũng chịu tác động của
các nhân tố chủ quan và khách quan.
2.1. Yếu tố thị trường.
Có thể nói đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành bại trong hoạt
động đầu tư, do đó cũng là yếu tố hàng đầu tác động đến việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài. Đặc điểm của thị trường bản địa thể hiện quy mô đầu tư...Có tiêu thụ
được sản phẩm khi đó mới nói đến thu hồi vốn, sinh lời, mới nói đến sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp.Trong quá trình lập dự án đầu tư, yếu tố thị trường được
nghiên cứu, đánh giá đầu tiên.
2.2 Hệ thống pháp luật.
Luật đầu tư nước ngoài là hành lang, là sân chơi cho các doanh nghiệp. Nó
có thể khuyến khích thúc đẩy hoạt động đầu tư cũng như cản trở, hạn chế hoạt động
đầu tư nước ngoài thông qua những chính sách ưu đãi, mức thu thuế, tiền cho thuê
đất đai tiền, nhà xưởng...Về lâu dài nhân tố này gữi vai trò chủ chốt trong cải thiện
môi trường đầu tư theo hướng tích cực.
2.3 ổn định chính trị.
Đây cũng là một trong những nhân tố được nhà đầu tư nước ngoài xem xét
kỹ lưỡng trước khi quyết định một hoạt động đầu tư. Sự bất ổn về chính trị có thể
dẩn tới sự thay đổi Bộ máy nhà Nước, dịch chuyển cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư,
thay đổi chiến lược phát triển kinh tế kể cả những chính sách ưu đãi trong đầu
tư...theo hướng không thuận lợi cho nhà đầu tư. Sự bất ổn về chính trị của nước sở
tại không cho phép nhà nước ngoài lạc quan về tương lai lâu dài, không an toàn cả
tính mạng lẫn tài sản cho nhà đầu tư. Như thế sẽ ảnh hưởng xấu đến tiến trình thu
hút vốn đầu tư nước ngoài.
2.4.Các chính sách của nước sở tại.
Đối với các nhà đầu tư, trước khi quyết định đầu tư hay không, đầu tư dưới
hình thức nào, vào lĩnh vực nào, quy mô ra sao...họ thường căn cứ chủ yếu và trước
hết những chính sách kinh tế của nhà nước nhận đầu tư đến mới là thế mạnh nội tại
có được của nước đó. Bao gồm chính sách tiền tệ, chính sách xuất nhập khẩu, chính
sách khuyến khích đầu tư, ưu đãi về thuế, tài chính, giá thuế các dịch vụ giao dịch,
sinh hoạt...
2.5Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, thông tin liên lạc là yếu tố ảnh hưởng đến
hoạt đống sản xuất kinh doanh, chi phí cũng như mức tiêu thụ sản phẩm... Các nhà
đầu tư thường muốn đầu tư vào những vùng có điều kiện cơ sở hạ tầng thận lợi.
Điều đó phần nào giảI thích tại sao miền núi, trung du mặc dù là nơi tập trung của
các nguồn nguyên liệu, tài nguyên thiên nhiên chỉ thu hút được khoảng 10% dự án
đầu tư mỗi năm so với cả nước.
2.6 Đặc điểm của thị trường nhân lực.
Chúng ta không thể phủ nhận rằng giá nhân công rẻ là một trong những động
cơ thúc đẩy đầu tư vào Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài.Giá nhân công rẻ
làm giảm chi phí sản xuất và do đó giá sản phẩm sẽ rẻ tương đối, lợi nhuận sẽ thu
được nhiều hơn. Tuy nhiên về lâu dài người ta cần kiến thức, cần trình độ kỹ thuật,
trình độ quản lý của người lao động vì đó là yếu tố quyết định sự thành bại của quá
trình chuyển giao công nghệ trong hợp tác đầu tư.
2.7 Trình độ phát triển khoa học-công nghệ của nước sở tại.
Trong quá trình thực hiện đầu tư, hoạt động chuyển giao công nghệ (CGCN)
từ đầu tư sang nước nhận đầu tư là một tất yếu. Tuy nhiên, để chuyển giao được
công nghệ cũng đòi hỏi nước nhận đầu tư phải có một trình độ phát triển khoa học
công nghệ nhất định, nó thể hiện ở trình độ đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, ở quy
mô các viện nghiên cứu, các trang thiết bị...của nước đó.
2.8 Mức độ ổn định của đồng ngoại tệ.
Đồng nội tệ ổn định là một trong những nhân tố đảm bảo sự ổn định trong
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá máy móc thiết bị cũng như đảm doanh thu cho
nhà đầu tư. Khi đồng nội tệ mất gía, đặc biệt là khi có lạm phát nó sẽ có ảnh hướng
xấu tới chi phí sản xuất, tỷ lợi nhuận của doanh nghiệp nhất là đối với các doanh
nghiệp có tỷ lệ nội địa hoá cao.
Ngoài yếu tố tỷ lệ lạm phát, sự ổn định của đồng nội tệ còn phụ thuộc vào tỷ
giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là gía cả của một đơn vị tiền tệ của một nước chính
bằng tiền tệ của nước khác, là số lượng tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại
tệ.
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng gián tiếp tới chi tiêu đầu tư. Khi đồng nội tệ mất
giá (tỷ giá hối đoái tăng )giá cả hàng hoá nội địa sẽ rẻ tương đối so với hàng hoá
trên thị trường thế giới, kết quả là khả năng cạnh tranh của hàng hoá nước đó tăng
làm cho nhu cầu xuất khẩu cũng như nhu cầu xuất khẩu tăng. Ngược lại,tỷ giá hối
đoái giảm dẫn tới giá cả hàng hoá nội địa đắt tương đối so với hàng hoá trên thị
trường thế giới. Kết quả là khả năng cạnh tranh của nước đó giảm làm cho nhu cấu
xuất khẩu giảm, kim ngạch xuất khẩu cũng giảm. Các doanh nghiệp không muốn
mở rộng sản xuất hàng xuất khẩu.
3. Vai trò của FDI với sự phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam.
Trên bước đường thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
Đảng và Nhà nước, hoạt động đầu tư nước ngoài trong những năm qua đã mang lại
những thành quả đáng khích lệ: đóng góp 28,5% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội,
tạo ra năng lực sản xuất lớn và sản phẩm tiêu dùng lớn lao, góp phần tăng nhanh
kim ngạch xuất khẩu tạo việc làm cho khoảng 270.000 lao động Việt Nam, mang
vào Việt nam nhiều công nghệ tiên tiến hiện đại.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại nước ta gắn liền với quá trình chuyển đổi cơ
cấu quản lý kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
có sự điều tiết kinh tế của Nhà nước. Trước đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, mọi
hoạt động kinh tế của nhà nước đều do nhà nước quản lý, nguồn vốn hoạt động của
các doanh nghiệp do Nhà nước cấp phát, khu vực tư nhân bị cấm hoạt động. Do vậy
trong một thời kỳ dài nền kinh tế bị kìm hãm, không có tích luỹ nội bộ, không có tái
đầu tư sản xuất mở rộng. Sau Đại hội VI, nền kinh tế thoát khỏi sự quản lý chặt chẽ
của Nhà nước, mọi nguồn vốn đều huy động cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, do
xuất phát điểm của nền kinh tế thấp nên nguồn vốn đầu tư nội bộ rất ít, đất nước
chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế trong bối cảnh đó tiếp thu kinh nghiệm của các
nước trong khu vực, nước ta mở rộng hợp tác quốc tế, kêu gọi mọi tổ chức cá nhân
đầu tư vào nước ta. Kết quả là nước ta đã thu hút một khối lượng đáng kể nguồn vốn
nước ngoài, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, đưa nước ta tiến lên một bước
mới.
3.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
vùng, lãnh thổ.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy phát triển một số ngành mà chúng ta
chưa đủ điều kiện để phát triển và khai thác như ngành khai thác dầu khí, bưu chính
viễn thông, chế tạo máy, sản xuất ô tô xe máy...Đây là những ngành đòi hỏi vốn đầu
tư lớn, công nghệ và trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại. Riêng năm 1998, các doanh
nghiệp FDI đã sản xuất được 12,5 tr.tấn dầu thô, 550.00 tấn thép và sản phẩm thép
các loại, 1.911.000 máy biến thế, vải lụa thành phẩm 68,4 tr.mét, quần áo dệt kim
470.000 sản phẩm,thuốc lá bao các loại là 13,7 tr.bao,bia các loại 174,7tr.lít, sữa
đặc có đường 31tr.hộp, xe máy 213.500chiếc...
Về cơ cấu đầu tư lãnh thổ trực tiếp nước ngoài đã góp phần thúc đẩy các tỉnh,
các khu vực phát triển đồng đều hơn. Nhờ các chính sách khuyến khích của Nhà
nước mà các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó
khăn, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Nhiều công trình cơ sở hạ tầng như
điện, nước, bệnh viện, bưu điện... được xây dựng nguồn vốn FDI.
3.2. Bổ sung nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế.
Tuy hoạt động thời gian chưa được bao lâu song các dự án đầu tư nước ngoài
đã góp phần đáng kể vào tổng đầu tư toàn xã hội. Trong thời kỳ 1991-1995 phần
vốn FDI đưa vào Việt Nam qua các dự án xấp xỉ 5,5 tỷ USD chiếm 33% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội.Trong năm 1996 tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 6,3 tỷ USD
thì vốn của các doanh nghiệp FDI thực hiện 1,47 tỷ USD. Năm 1997 vốn thực hiện
của các khu vực đạt 9,25 tỷ USD chiếm khoảng 27,02% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội, bằng 1,1 lần vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước và bằng 1,6 lần vốn
đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước. Qua các số liệu nêu trên có thể thay
nguồn vốn FDI chiếm bộ phận lớn trong tổng đầu tư của cả nước, nhiều hơn vốn
đầu tư bất kỳ nguồn nào.Vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc giải quyết thiếu hụt nguồn vốn trong quá trình đổi mới và phát triển kinh
tế của nước ta.
3.3. Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp sản phẩm Việt Nam gia nhập vào thị trường
quốc tế, giúp các nhà sản xuất Việt Nam tiếp cận và tiếp thu trình độ sản xuất cũng
như phương pháp quản lý của các nước tiên tiến. Sở dĩ như vậy là do đầu tư nước
ngoài đã mang vào Việt Nam nhiều công nghệ máy móc hiện đại, phương thức tổ
chức sản xuất mới, hiệu quả cao. Các sản phẩm của doanh nghiệp FDI thường có
hàm lượng kinh tế cao, đạt tiêu chuẩn kinh tế cao và còn cao hơn nhiều so với sản
phẩm của doanh nghiệp trong nước. Do vậy muốn tồn tại và cạnh tranh đựợc thì
các nhà sản xuất trong nước thì phải tiếp thu và đổi mới công nghệ, nâng cao năng
lực sản xuất và chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, FDI còn làm trung gian giữa Việt
Nam với tổ chức tài chính quốc tế. Hoạt động còn có hiều quả của các doanh nghiệp
FDI ở nước ta bằng chứng rõ ràng nhất là sự ổn định của chính sách, pháp luật tình
hình kinh tế-chính trị-xã hội của nước ta. Điều này làm vững tin các nhà đầu tư
nước ngoài cũng như các tổ chức quốc tế.
3.4. Nâng cao năng lực khoa học-công nghệ.
Cùng với hoạt động đầu tư, hoạt động chuyển giao công nghệ đã giúp Việt
Nam nâng cao năng lực khoa học công nghệ cho nhiều ngành nghề, lĩnh vực của
nền kinh tế như công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, công
nghiệp chế biến và khai thác đầu khí ... Sự có mặt của các tập đoàn, các Công ty lớn
của nước ngoài sẽ đóng góp tích cực hơn nữa vào việc phổ biến công nghệ và nâng
cao năng lực sản xuất của các ngành, lĩnh vực, địa phương. Bên cạnh đó, hoạt động
trực tiếp đầu tư nước ngoài đã giúp người lao động Việt Nam nâng cao tay nghề,
trình độ kỹ thuật của công nhân cũng như trình độ quản lý và tổ chức sản xuất của
người cán bộ. Với chất lượng mẫu mã đạt tiêu chuẩn quốc tế, hàm lượng chất xám
cao, sản phẩm của Việt Nam có thể đứng trên thị trường trong nước và nước ngoài.
Hoạt động chuyển giao công nghệ không những nâng cao trình độ khoa học
kỹ thuật của Việt Nam mà còn trực tiếp đòi việt Nam phát triển khoa học kỹ thuật
của mình một cách cấp thiết, đúng hướng, đáp ứng tốt cho hoạt động chuyển giao
công nghệ, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.5. Giải quyết việc làm cho người lao động.
Tính đến hết năm 1998, các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm cho khoảng
270.000 lao động trực tiếp và hàng ngàn lao động gián tiếp trong các lĩnh vực ngành
nghề như công nghiệp, dịch vụ, xây dựng... Một điều đáng chú ý là các doanh
nghiệp FDI đã góp phần nâng cao chất lượng người lao động (kỹ thuật trình độ tay
nghề, kinh nghiệm...) thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp cũng như hoạt động chuyển giao công nghệ. Sự xuất hiện của các doanh
nghiệp FDI không những thu hút sử dụng lao động Việt Nam mà đòi hỏi người liên
doanh phải không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ của mình. Bên cạnh đó, sự xuất
hiện các doanh nghiệp FDI thực sự làm giảm sức ép về giải quyết việc làm cho
người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam xuống còn rất thấp so với
những năm trước đổi mới.
3.6. Thực hiện các chính sách, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thực hiện các chiến lược của Nhà nước
như sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu hay hướng về xuất khẩu. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài thúc đẩy hoạt động xuất khẩu vì các sản phẩm của các doanh nghiệp
FDI thường có chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế. Khi tham gia liên doanh các
doanh nghiệp Việt Nam đã trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất hàng xuất
khẩu. Qua đó, các nước trên thế giới biết đến Việt Nam như một địa điểm cung cấp
hàng hoá có chất lượng với giá cả rẻ tương đối. Đây cũng là cơ hội cho các doanh
nghiệp trong nước mở rộng thị trường ra bên ngoài. Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước
ngoài cũng góp phần thực hiện các chủ trương, chương trình kinh tế lớn của đất
nước như trồng rừng, nâng cao dân trí, phát triển kinh tế miền núi, góp phần làm
chuyển dịch cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh tế hợp lý. Đặc biệt, đầu tư trực tiếp nước
ngoài đóng một vai trò hết sức quan trọng trong giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội
hiện nay của Việt Nam, đó là tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây
dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho xã hội Xã hội Chủ nghĩa. Ngoài ra, đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã đóng góp một khoảng đáng kể cho Ngân sách, góp phần làm tăng tốc
độ tăng GDP, tăng trưởng nền kinh tế bình quân 9-10% như giai đoạn hiện nay.
3.7. Khôi phục ngành nghề truyền thống.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp nước ta khôi phục những ngành nghề
truyền thống như sản xuất đồ mỹ nghệ, đồ thủ công cho sản xuất. Đây là những
ngành nghề rất phù hợp với điều kiện nước ta: sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu
sẵn có, công nghệ không đòi hỏi quá hiện đại... Hơn nữa, sản phẩm của những
ngành nghề này đã có trên thị trường từ lâu đời nên việc ổn định và mở rộng thị
trường ra bên ngoài là rất thuận lợi và trong tầm tay. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong mấy năm qua thực sự làm sống lại không những một sản phẩm, một ngành
nghề mà cả làng, cả vùng có truyền thống sản xuất sản phẩm đó, sống dựa vào sản
phẩm đó là chính.
3.8. Tạo ra sự cân bằng và ổn định cung-cầu trên thị trường nội địa.
Kể từ khi có luật đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoạt động của các doanh
nghiệp FDI đã tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa, giải quyết sự
thiếu hụt một số mặt hàng khan hiếm đồng thời tạo ra một số ngành nghề, sản phẩm
mới mà trước đây chưa từng xuất hiện ở Việt Nam. Nhờ đó, đời sống vật chất của
người dân càng được cải thiện và nâng cao, gián tiếp kích thích tiêu dùng của dân
chúng. Bên cạnh đó, sản phẩm của các doanh nghiệp FDI xuất hiện trên thị trường
đã góp phần làm giảm sức ép của sự mất cân bằng cung cầu một số mặt hàng đến sự
ổn định tỷ lệ lạm phát cũng như giảm phát cho nền kinh tế. Hoạt động của các
doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, thay thế
hàng nhập khẩu đã giúp Việt Nam tiết kiệm một khoản ngoại tệ nhập khẩu đán kể,
đồng thời góp phần làm cân bằng cán cân thương mại, cán cân thanh toán.
II. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam.
1. Khái quát chung về tình hình đầu tư vào ngành công nghiệp Việt Nam.
Trong những năm gần đây, thông qua các hình thức liên doanh hoặc đầu tư
100% vốn nước ngoài, ngành công nghiệp nước ta đã đạt được mục tiêu thu hút vốn
vào kỷ thuật để phát triển, cung cấp ngày càng nhiều hàng hoá tiêu dùng cho xã hội.
Giá trị sản lượng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI)
chiếm tỷ trọng 23,8% trong tổng giá trị ngành công nghiệp của cả nước. Một số
ngành quan trọng có năng lực sản xuất tăng nhanh như ngành thép, ngành lắp ráp ô
tô, xe máy, điện tử, công nghiệp hàng tiêu dùng.
Các doanh nghiệp FDI tuy mới hoạt động trên thị trường Việt Nam nhưng đã
thể hiện được sức mạnh của mình. Với những ưu thế về kỹ thuật công nghệ, khả
năng dồi dào về vốn, có kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong nền kinh tế thị trường
và lĩnh hội được các bí quyết kinh doanh từ các công ty mẹ. Các doanh nghiệp FDI
thường có qui mô lớn, trình độ trang bị hiện đại, khả năng quản lý và điều hành tốt
hơn các doanh nghiệp trong nước.
Sự có mặt của các doanh nghiệp FDI đã đẩy các doanh nghiệp trong nước
vào một tình thế cạnh tranh mới mẽ hơn và quyết liệt hơn. Đây chính là nhân tố thúc
đẩy cạnh tranh trong nước và là đòn bẩy vô hình buộc các doanh nghiệp trong nước
phải tăng cường đầu tư đổi mới qui trình công nghệ, cải tiến quản lý, đẩy nhanh phát
triển sản xuất kinh doanh.
Tiền lương trả cho người lao động tại các doanh nghiệp FDI cao hơn hẳn các
doanh nghiệp trong nước, góp phần tăng thu nhập cho người lao động. Việc trả
lương cao ở các doanh nghiệp FDI như một nam châm vô hình thu hút dần các bàn
tay khéo léo và trí tuệ người Việt Nam vào làm việc. Mức thu nhập trung bình một
lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI vào khoảng 70-100 USD/tháng, các
cán bộ quản lý 200-300 USD.
Theo số liệu thống kê, giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp năm 1999
đạt trên 116 tỷ đồng, tăng 10,3% so với năm 1998. Trong đó, khu vực doanh nghiệp
Nhà Nước chiếm tỷ trọng 43,48% toàn ngành, tăng 4,52%. Khu vực doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 21,7%, tăng 8,8%. Đặc biệt, khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài chiếm tỷ trọng 34,75%, tăng khoảng 20%. Giá trị sản lượng toàn
ngành công nghiệp nữa đầu năm 2000 đạt 100.586 tỷ đồng, bằng 54,3% kế hoach
năm và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tốc độ tăng cao nhất kể từ
năm 1996 (tăng 13,2%), năm 1997 (13,6%), năm 1998 (tăng 12,6%), và năm 1999
(tăng 10,3%), trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,7%.
Tính đến ngày 31/12/2000 cả nước có 2.628 dự án FDI còn hiệu lực với tổng
vốn đầu tư là 36.291,02 triệu USD, trong đó có 1.645 dự án đầu tư vào ngành công
nghiệp với số vốn đầu tư đăng ký (TVĐK) 19.208,02 triệu USD, chiếm 62,6% số
dự án với 53,126% tổn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước. Tổng vốn đầu
tư đăng ký (TVĐK), vốn pháp định (VPĐ) và vốn đầu tư thực hiện (ĐTTH) thể hiện
qua bảng sau:
Bảng 1: Tình hình FDI vào ngành công nghiệp
FDI Cả nước Ngành công nghiệp Tỷ lệ % so với
toàn ngành
Tổng số dự án 2.628 1.645 62,6
TVĐK (tr. USD) 36.291 19.280 53,126
VPĐ (tr. USD) 16.283 8.742 53,69
ĐTTT (tr. USD) 17.715 10.866 61,33
(Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư-Báo PTKT 2000)
Những số liệu trên cho thấy FDI vào công nghiệp chiếm hơn một nữa số dự án FDI
của cả nước điều này có ý nghĩa rất lớn là chúng ta đã thu hút được phần lớn FDI
vào sản xuất công nghiệp, phù hợp với mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ
chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
2. Thực tạng về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời
gian qua.
Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng
XHCN, có sự quản lý của Nhà nước, Đảng ta đã nhận thấy vai trò hết sức to lớn của
đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào việc đưa sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện
đại hoá đi lên thắng lợi, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, sự
nghiệp vẽ vang của dân tộc ta: “có thể nói, trong thời đại ngày nay không một quốc
gia nào dù lớn, dù nhỏ, dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay định
hướng XHCN lại không cần đến nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài , và coi đó là
một nguồn lực quốc tế cần được khai thác để từng bước hoà nhập vào cộng đồng
quốc tế”.
Trước sự đổi mới trong nhận thức đó, ngày 29/12/1987, Luật đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam đã được nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua, mở ra một cơ hội mới trong giao lưu và tiếp thu những thành tựu mới của thế
giới về các lĩnh vực của đời sống xã hội tạo điều kiện nâng cao năng xuất xã hội,
nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Cho đến nay, sau hơn 10 năm, kể
từ khi triển khai Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: “cộng đồng các
doanh nghiệp FDI đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta”.
Vậy thực trạng của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta ra sao? Ta có thể
tới một số khía cạnh sau:
2.1. Về qui mô đầu tư.
Ta có thể thấy mức biến động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
qua bảng sau:
Bảng 2: Tình hình biến động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn
1991-2000.
Năm Vốn đăng ký mới Số vốn tăng giảm Tỷ lệ tăng giảm Số dự án
(tr. USD) so với năm trước so với năm trước
(%) (tr. USD)
88-90 1.528 - 213 -
1991 1.275 +133,8 151 +792
1992 2.027 +59 197 +572
1993 2.589 +27,7 269 +562
1994 3.746 +44,7 243 +1.157
1995 6.607 +76,4 370 +2.861
1996 8.640 +30,8 325 +2.033
1997 4.649 -46,2 345 -3.991
1998 3.897 -16,2 275 -752
1999 1.567 -59,8 312 -2.330
2000 1.973 +25,9 344 +409
3.144 88-2000 38.552
Nguồn: - Chuyên san Báo Thời báo kinh tế 2000-2001
-Niên giám thống kê 1999 N XBTK 2000
Qua đây, ta thấy từ năm 1997 trở đi, số vốn đăng ký vào Việt Nam đã liên
tục giảm sút. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do các nước đầu tư lớn vào
Việt Nam trước đây là các nước Đông và Đông Nam á đều đang trong tình trạng
khủng hoảng kinh tế, tài chính bắt đầu từ Thái Lan (năm1997). Các nước này trở
nên rè rặt, xem xét trước khi bỏ vốn đầu tư.
Tuy nhiên từ cuối năm 2000, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại nước ta đã có
dấu hiệu phục hồi. Cuối năm 2000, với dự án Nam Côn Sơn với 1 tỷ USD bước đầu
cho phục hồi. Và theo số liệu thống kê, cho đến hết quí I năm 2001, cả nước có
thêm 83 dự án có vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép, với tổng số vốn đăng
ký đạt 273 triệu USD, tăng 16,9% về số dự án và 44,1% về số vốn so với cùng kỳ
năm 2000. Như vậy đây là một dấu hiệu tốt trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong kế hoạch kinh tế 5 năm 2001-2005.
Về qui mô dự án đầu tư, nếu như trước năm 1998, qui mô một dự án vào
khoảng 13-14 triệu USD/1dự án thì năm 1998, còn chỉ ở mức 6-7 triệu USD/1dự án.
Điều này cho ta thấy rằng vốn đầu tư nước ngoài còn chưa đầu tư mang tính tập
trung. Và trong tình trạng suy giảm đầu tư nước ngoài trong thời gian này thì đây là
một xu hướng tất nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư dàn trải để tránh rủi ro.
Nhưng bên cạnh đó vẫn có một số dự án với qui mô rất lớn, hàng tỷ USD, đầu tư
vào các ngành dầu khí, khu đô thị mới...
2.2. Cơ cấu đầu tư.
Một là: Cơ cấu đầu tư theo ngành.
Ta có thể xem xét cơ cấu đầu tư theo ngành qua bảng sau:
Bảng 3: Cơ cấu ĐTTTNN theo ngành giai đoạn 1998-1999.
Dự án đầu tư Tổng vốn đăng ký Ngành, lĩmh vực
Số dự án Tỷ lệ (%) Số vốn (tr. USD) Tỷ lệ/Tổng vốn
Tổng số 2.800 100 37.088,4 100
1. Nông, lâm nghiệp 286 10,2 1.329,0 3,58
2. Thuỷ sản 92 3,3 347,1 0,9
3.Công nghiệp 1.426 50,9 14,273,1 38,48
9,6 4.592,5 12,38 4. Xây dựng (cả XD khu 270
chế xuất
5. Khách sạn, du lịch 200 7,1 4.812,0 13,03
6. Giao thông vận tải, 138 4,9 3.426,9 9,2
bưu điện
7. Tài chính, ngân hàng 33 1,2 233,1 0,63
8. Văn hoá, y tế, giáo 89 3,2 456,5 1,23
dục
9. Các ngành dịch vụ 266 9,5 7.628,2 20,57
khác (cả xây dựng văn
phòng-căn hộ
Nguồn: Niên giám thống kê năm 1999, NXB TK 2000
Trong những năm qua, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực xây
dựng khách sạn du lịch và xây dựng văn phòng, căn hộ còn rất lớn. Các ngành này
thu hút tới trên 30% Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Cho tới
năm 2000, có khoảng 250 dự án, còn hiệu lực đầu tư vào các ngành này với tổng số
vốn đăng ký khoảng 7,6 tỷ USD và tổng số vốn đã thực hiện đạt khoảng 3,2 tỷ
USD. Tuy số dự án này đã làm thay đổi căn bản của một số ngành dịch vụ nước ta
nhưng chưa phải là tốt nhất cho nền kinh tế nước ta.
Cũng trong những năm qua, mặc dù chiếm hơn 38% vốn đăng ký nhưng rõ
ràng tỷ lệ này chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành. Tuy nhiên, trong một số lĩnh
vực sản xuất công nghiệp như: sản xuất và lắp giáp xe máy, ô tô, điện tử, tủ lạnh...
khu vực các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã chiếm tới 80% đến 100% tổng giá
trị sản phẩm.
Bên cạnh đó, một số ngành sản xuất vật chất khác như: nông, lâm nghiệp,
thuỷ sản hay tài chính-ngân hàng cũng chiếm một tỷ trọng hết sức khiêm tốn trong
thu hút đầu tư. Hay trong một số lĩnh vực khác xã hội như văn hoá, giáo dục, y tế thì
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng hết sức nhỏ bé do các ngành này đều có một
đặc điểm chung là độ rủi ro cao, lợi nhuận thấp hoặc thời gian hoàn vốn lâu. Đây
chính cũng là một vấn đề đặt ra rong thu hút vốn ĐTNN.
Cho đến năm 1999, cơ cấu đầu tư theo ngành đã có những thay đổi theo
hướng cân đối hơn. Do có nhiều chính sách khuyến khích định hướng đầu tư, số vốn
đầu tư vào ngành công nghiệp đã tăng lên, chiếm 54,6% tổng số vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, các ngành dịch vụ khách sạn, du lịch chiếm 9,44%. Như vậy, xu hướng
đầu tư nước ngoài càng hợp lý hơn theo hướng mà chúng ta mong đợi. Tính đến
năm 2000, lĩnh vực công nghiệp nặng (sản xuất xi măng, thép cán, tàu biển, ô tô, xe
máy, hoá chất...) chiếm khoảng 600 dự án với tổng số vốn đăng ký khoảng 6,7 tỷ
USD, vốn đã thực hiện đạt khoảng 3,2 tỷ USD... Đây là một bằng chứng rõ ràng
chứng minh cho xu hướng hợp lý trên.
Hai là: Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ:
Trong những năm qua, sự phân bố vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu
tập trung vào một số địa phương có cơ sở vật chất hạ tầng tương đối tốt, điều kiện
môi trường thuận lợi, có nhiều chính sách ưu đãi với các hệ thống các KCN-KCX
có cơ sở vật chất tốt, giá thuê đất rẻ...các địa phương này chủ yếu thuộc các vùng
Đông Nam Bộ, Đồng Bằng Sông Hồng (hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước)
chiếm tới 82,74% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước.
Bảng 4: Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng lãnh thổ: 1998-1999
STT Vùng kinh tế Số dự Tổng vốn dăn ký
án Số vốn (tr. USD) Tỷ lệ /tổng số %
Tổng số 2.766 35.382,2 100
1 Đồng Bằng Sông Hồng 629 10.469,1 29,6
2 Đồng Bằng Bắc Bộ 135 1.577,8 4,5
3 Tây Bắc Bắc Bộ 10 54,1 0,15
4 Bắc Trung Bộ 45 847,2 2,4
5 Duyên Hải Nam Trung Bộ 147 2.701,2 7,6
6 Tây Nguyên 9 58,8 0,16
7 Đông Nam Bộ 1.636 18.802,6 53,14
8 Đồng Bằng Sông Cửu Long 155 871,4 2,45
Nguồn: Niên giám thống kê 1999, NXB Thống kê,2000
3. Đánh giá tình hình FDI vào ngành công nghiệp Việt Nam.
3.1. Những kết quả đạt được.
Phân tích tình hình FDI vào ngành công nghiệp Việt Nam đã góp phần quan
trọng trong công cuộc CNH-HĐH đất nước, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế-xã hội của đất nước ta.Thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Đóng góp vốn cho nền kinh tế
Hoạt động FDI đã bổ xung nguồn vốn quan trọng tiến trình đổi mới và phát
triển nền kinh tế.FDI đống vai trò như “ cú huých” giúp Việt Nam thoát khỏi “vòng
luẩn quẩn” của sự nghèo đói từng bước xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của xã hội
chủ nghĩa.
Theo số liệu thống kê, bên nước ngoài góp phần trong qua trình hợp tác đầu
tư như sau:
Bảng 5: Bên nước ngoài góp vốn
(Đơn vị: tr.USD)
Năm 1991-1995 1996 1997 1998 1999 2000
Tổng số vốn 4.462,0 1.475,1 1.303,2 884,4 982,7 833,3
Nguồn:Bộ kế hoạch và đầu tư
Bảng số liệu cho thấy, vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam là rất lớn, cao
nhất là năm 1996 (1,475tr.USD), các nước về sau có giảm là do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính Châu á năm 1997. Trong những năm đầu đổi mới kinh tế đất
nước (1991-1997),FDI đóng vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu đầu tư, cơ
cấu kinh tế, đưa tỉ lệ tăng GDP bình quân thời kỳ này lên 8,5%.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm một tỷ lệ lớn trong ngành công
nghiệp ( 48,7%vốn đăng ký và 57,5% vốn thực hiện) đặc biệt là công nghiệp dầu
khí và công nghiệp nặng.
Thứ hai: đóng góp vào cơ cấu đầu tư toàn xã hội
Bảng 6: Vốn và cơ cấu nguồn vốn đầu tư xã hội giai đoạn 1991-2000
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
1. Tổng số vốn 13.47 24.73 42.17 54.29 68.04 79.36 96.87 97.336 103.90 124.0
(tr. USD) 1 7 0 00 7 6 8 7 0
a. Vốn Nhà nước 5.115 8.688 18.55 20.79 26.04 35.19 46.57 52.536 64.000 74.20
6 6 8 4 0 0
b. Vốn ngoài 6.430 10.86 13.00 17.00 20.00 20.77 20.00 20.500 21.000 29.00
0 0 0 3 0 quốc doanh 4 0
c. Vốn ĐTTTNN 1.926 5.185 10.62 16.00 22.00 22.70 30.00 24.300 18.900 20.80
1 0 0 0 0 0
2. Cơ cấu vốn 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100
(%)
a. Vốn Nhà nước 28,0 35,1 44,0 38,3 38,3 45,2 48,1 54,0 61,6 59,8
b. Vốn ngoài 47,7 43,9 30,8 31,3 29,4 26,2 20,6 21,1 20,2 23,4
quốc doanh
c. Vốn ĐTTNN 14,3 21,0 25,2 30,4 32,3 28,6 31,3 29,4 18,2 16,8
Nguồn: Chuyên san thời báo kinh tế : kinh tế 2000-2001
Như vậy, tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp vào cơ cấu nguồn vốn
đầu tư toàn xã hội liên tục tăng lên các năm từ 1991-1997, sau đó giảm dần trong
một số năm gần đây “dư trấn” của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trong khu vực
đã có dấu hiệu phục hồi trong năm 2001 này.
Thứ 3: Đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước.
Bảng 7: Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một số lĩnh vực của nền kinh
tế giai đoạn 1991-2000
199 199 199 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 91-00
1 2 3
-xuất khẩu (tr. 52 112 269 352 336 788 1790 1982 2.547 3.320 9.403
USD)
-Doanh thu (tr. 151 228 505 1.026 2.063 2.743 3.851 3.910 4.600 6.500 22.64
1 USD)
-Tỷ trọng GDP - - 6.30 7,39 9,07 10,03 11,75 - - - -
(%)
-Nộp ngân sách - 128 195 263 315 317 271 260 1.749 - -
(tr. USD)
-lao động trực - - - 220 250 270 290 327 327 - -
tiếp đến từng
năm (1000
người)
Nguồn: Chuyên san thời báo kinh tế : Kinh tế 2000-2001
Qua bảng trên ta, sự đóng góp của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài là hết sức to lớn đối với nền kinh tế quốc dân nước ta. Bên cạnh gần 350
nghìn (tính hết quý I/2001) lao động trực tiếp được thu hút vào khu vực kinh tế này.
Bên cạnh dó, kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng, trong đó giá trị xuất khẩu
ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các
ngành có vốn FDI.
Thứ 4: Góp phần tích cực vào phát triển ngành công nghiệp Việt Nam
Các doanh nghiệp FDI với số vốn đầu tư lớn, doanh thu, kim ngạch, xuất
khẩu đáng kể, tốc độ tăng trưởng cao (20%) năm... đã góp phần đưa tốc độ tăng
trưởng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước đạt 10%năm. FDI chủ yếu vào ngành
công nghiệp đã thực sự làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ .Năm 1990 công nghiệp và xây dựng đóng góp 22,7%.GDP,
đến năm 1995 tăng lên 28,8% và năm 2000 là 33,3%GDP.
Bên cạnh đó, cạnh tranh hợp tác cũng phát triển của các doanh nghiệp trong
nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vô hình chung đã đã thúc đẩy
ngành công nghiệp Việt Nam phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng cao,
đúng như sự mong mỏi của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thứ 5: Giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng lao động FDI đã tạo việc
làm thêm cho khoảng 30-32 vạn lao động thưuờng xuyên và hàng chục lao động
thời vụ, giảm bớt tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm ở cả thành thị và nông thôn.
Mặt khác, thông qua việc thu hút lao động xã hội, người lao động Việt Nam
được đào tạo và nâng cao tay nghề. Đặc biệt là lao động trong các doanh nghiệp
FDI, hiện tại có khoảng 16-17 vạn người. Lao động trong các doanh nghiệp này
không những được đào tạo nâng cao trình độ kỹ thuật mà còn được tiếp cận với các
phương pháp tổ chức quản lý tiên tiến. Thu nhập của công nhân lao động trong các
doanh nghiệp này cũng rất cao, bình quân 100 USD/ tháng (riêng dầu khí 692
USD/tháng, các ngành ô tô xe mày, điện tử tin học từ 70-80 USD/ tháng).
Thứ 6: Cùng với hoạt động đầu tư là hoạt động chuyển giao công nghệ
Hoạt động FDI vào ngành công nghiệp kéo theo là hoạt động chuyển giao
công nghệ vào Việt Nam. Hơn 12 năm qua, các nhà đầu tư nước ngoài đã đưa vào
Việt Nam nhiều công nghệ tiên tiến, hiện đại đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất lắp
ráp ô tô xe máy, điện tử tin học, ngành dầu khí...Hiện khu vực FDI chiếm 100% về
sản xuất thiết bị văn phòng; 78% thiết bị truyền thông, radio, ti vi; 76,4% thiết bị y
tế chính xác...
3.2 Một số tồn tại, hạn chế nguyên nhân của những hạn chế.
Bên cạnh những tích cực đã đạt được, FDI vào công nghiệp Việt Nam còn
tồn tại một số vấn đề sau:
Một là: Mức độ ngân sách Nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với thực lực
của nó. Bên cạnh còn nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ.
Nguyên nhân chủ yếu là do nhà đầu tư không lường hết được sự biến động
của thị trường quốc tế cũng như dự báo chính xác dung lượng thị trường Việt Nam.
Gần như cùng một lúc có quá nhiều dự án FDI đi vào hoạt động cùng một lĩnh vực(
như lắp ráp ô tô xe máy, sản xuất bia...) dấn đến hàng hoá ứ đọng không tiêu thụ
được, công xuất sử dụng rất thấp. Bên cạnh đó cũng có một số doanh nghiệp của các
công ty đa quốc gia, các tập đoàn lớn “lỗ giả nhưng lãi thật”, công ty con ở việt
Nam lỗ song công ty mẹ ở nước ngoài lại có lãi, dẫn đến đóng nộp ngân sách hạn
chế.
Hai là: Tốc độ triển khai hoạt động của các dự án còn chậm so với dự kiến
ban đầu
Nguyên nhân chủ yếu vẫn là các thủ tục sau khi cấp Giấy phép, tiến độ giải
phóng mặt bằng và đền bù cho người dân. Riêng thời gian chờ được cấp đất đai mất
3-6 tháng, có dự án kéo dài tới hai năm. Theo phản ánh của một số doanh nghiệp tại
Hà Nội, để được cấp giấy phép quyền sử dụng đất phải qua 11 cơ quan chức năng 8
chữ ký trung lặp nhiều lần ở các cơ quan chức năng thành phố như: phó chủ tịch
thành phố ( hai người): 3 lần; Giám đốc Sở địa chính: 3 lần; Kiến trúc sư thành phố
:2 lần...
Ba là: Một số mục tiêu trước mắt và lâu dài đặt ra khi liên doanh chưa thực
hiện được.
+Mục tiêu chuyển dần từ lắp ráp bằng linh kiện nước ngoài sang lắp ráp bằng
các linh kiện trong nước là chủ yếu vẫn những chưa đủ điều kiện thực hiện
Nguyên nhân chính là do việc thực hiện nội địa hoá cần đầu tư về vốn, nhà
xưởng, thiết bị công nghiệp trong khi đó số sản phẩm tiêu thụ còn hạn chế (2%-20%
công suất thiết kế) nên ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất, giá thành sản phẩm của
doanh nghiệp .
+Mục tiêu tăng dần tỷ lệ vốn góp bên của Việt Nam trong liên doanh chưa
thực hiện được. Do vậy mà lợi nhuận được chia được từ kết quả sản xuất kinh doanh
rất nhỏ. Nhiều liên doanh thua lỗ, bên Việt Nam không tiếp tục liên doanh được
đành bán lại phần góp vốn của mình, xảy ra tình trạng các liên doanh chuyển sang
hình thức 100% vốn nước ngoài.
Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực tài chính của bên Việt Nam hạn chế,
khả năng trình độ quản lý có hạn.
Bốn là: vấn đề về lao động.
Về việc đào tạo công nhân kỹ thuật dẫn đến sự bất cập về số lượng cũng như
về chất lượng người lao động; thái độ cư sử của chủ đầu tưu nước ngoài với người
lao động. Một cán bộ nước ngoài có mức lương gấp 10-13 lần tổng lương của 10 lao
động Việt Nam và vẫn xãy ra tình trạng xúc phạm lao động lao động Việt Nam,
công nhân thường phải làm thêm giờ vất vả, quy định của doanh nghiệp rất khắt
khe.
Năm là: vấn đề chuyển giao công nghệ.
Một số doanh nghiệp FDI đưa vào Việt Nam có dây chuyền công nghệ qua
hiện đại, công suất sử dụng thấp cho nên rất phí. Ngược lại không ít nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt Nam công nghệ lạc hậu, trung bình như ở lĩnh vực Dệt-May,
Da-Giầy.Nếu Việt Nam không cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề này thì có nguy cơ Việt
Nam sẽ là bãi thải công nghệ của các nước ASEAN. Hơn nữa, nước ta thiếu đội ngũ
cán bộ khoa học kỹ thuật để có thể giảm định, cũng như tìm đúng công nghệ mình
cần mà chuyển giao công nghệ chủ yếu do bên nước ngoài giới thiệu và thực hiện.
Nước ta thiếu kế hoạch và chiến lược cụ thể nên hoạt động chuyển giao công nghệ
diến lẻ tẻ, khập khiễng
Sáu là: Cơ cấu đầu tư nước ngoài có một số bất hợp lý, hiệu quả kinh tế-xã
hội của khu vực đầu tư nước ngoài chưa cao.
Chiều hướng tăng tỷ trọng vốn FDI trong lĩnh vực công nghiệp là tốt. Tuy
nhiên, tỷ trọng vốn FDI vào các dự án thay thế nhập khẩu, hướng vào nội địa còn
cao, nhất là các dự án của EU, Mỹ, Nhật Bản.
Chủ trương đa phương hoá nguồn vốn FDI chưa được thực hiện tốt.Vốn đầu
tư từ các nước Châu á chiếm tới gần 67%, trong khi vốn đầu tư từ Tây-Bắc Âu, Bắc
Mỹ còn thấp(các nước EU chiếm 12,9%; Mỹ và Canada chiếm 4%); các nước G7
(trừ Nhật Bản) mới chiếm khoảng 12%. Do vậy, FDI ở nước ta bị ảnh hưởng lớn khi
các nước xung quanh lâm vào khủng hoảng.
Bảy là: Vấn đề về hình thức thu hút vốn đầu tư.
Hơn 12 năm qua, đầu tư nước ngoài vào công nghiệp Việt Nam chủ yếu theo
ba hình thức là doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, và
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh; trong đó các doanh
nghiệp FDI chỉ được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.Việt
Nam chưa chú trọng đến các hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài như thành lập
công ty cổ phần có vốn FDI; cho phép mua bán sáp nhập doanh nghiệp trong nước
với công ty nước ngoài như trào lưu hiện nay trên thế giới (Mỹ và Anh)...do đó
trong nhiều năm nước ta chưa mở được các kênh mới để thu hút vốn đầu tư nước
ngoài của thế giới.
Tám là: Cán bộ là yếu tố quyết định nhưng đang là khâu yếu nhất.
Nhiều cán bộ Việt Nam được cử vào làm việc trong các liên doanh thiếu kiến thức
chuyên môn, không nắm vững pháp luật và thương trường, không biết ngoại ngữ,
nhiều người giữ cương vị lãnh đạo của liên doanh chỉ vì đối tác Việt Nam có đất
góp vốn.
Một số cán bộ chưa phát huy vai trò đại diện chủ sở hữu Nhà nước trong liên
doanh, kém phẩm chất, thoái hoá lo nghĩ trước hết đến lợi ích cá nhân thậm trí đứng
về lợi của chủ đầu tư nước ngoài.
Nguyên nhân chính là do công tác đào tạo cán bộ quản lý FDI tử trung ương đến địa
phương, công tác đào tạo công nhân kỹ thuật chưa được quan tâm đúng mức; các cơ
quan cử người vào liên doanh thiếu trách nhiệm buông lỏng quản lý, hầu như khoán
trắng.
Chín là: Công tác qui hoạch nói chung, qui hoạch liên quan đến thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong công nghiệp còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu
hụt cụ thể.
Do qui hoạch ngành và một số sản phẩm quan trọng làm chậm hoặc chưa có, lại dựa
trên một số dự báo thiếu chuẩn xác chưa lường hết diễn biến phức tạp của thị
trường...
Việc cấp phép những năm đầu còn chạy theo số lượng, thiếu về thay thế nhập
khẩu; tuy có bổ sung hàng hoá cho thị trường, tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu, nhưng
tình trạng này kéo dài dẫn đến một số sản phẩm chèn ép sản xuất trong nước.
Mười là: Hệ thống luật pháp, chính sách đang trong quá trình hoàn thiện nên
thiếu tính hoàn thiện và ổn định, chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự báo được trước.
Tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao; một số luật pháp, chính
sách liên quan trực tiếp đến FDI thay đổi nhiều. Nhiều vướng mắc trong quá trình
triển khai dự án liên quan đến phạm vi điều chỉnh của các luật, qui định chuyển
ngành như: đất đai, quản lý ngoại hối, công nghệ môi trường, lao động, xuất nhập
cảnh, pháp lệnh thi hành án...
Luật pháp, chính sách chưa tạo sân chơi bình đẳng giữa đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài.
Mười một: công tác quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
còn những mặt yếu kém, vừa buông lỏng, vừa can thiệp sâu vào các hoạt động của
các doanh nghiệp.
Trong một thời gian dài chưa xây dựng chiến lược, qui hoạch thu hút và sử
dụng vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với yêu cầu và điều kiện mới là cơ sở cho vận
động, xúc tiến đầu tư, sử lý các dự án cụ thể; việc thực thi pháp luật, chính sách
chưa nghiêm; công tác quản lý còn nhiều sơ hở để đối tác nước ngoài như nâng giá
đầu vào, hạ giá đầu ra để “ăn” chênh lệch ngay từ bên ngoài, gian lậu thương mại,
trốn thuế, lợi dụng độc quyền để đưa giá sản phẩm lên cao hơn giá hàng cùng loại
nhập khẩu, đưa thiết bị lạc hậu vào Việt Nam, trả lương công nhân thấp dưới mức
qui định, vi phạm qui định về quan hệ lao động.
Mười hai: từ năm 1997 đến nay, nhịp đọ tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam nói chung và công nghiệp nói riêng và liên tục giảm sút.
Những hạn chế nêu trên về môi trường đầu tư càng bộc lộ rõ hơn do tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, làm mất dần lợi thế so sánh vốn và có gây ảnh
hưởng đến tiêu cực đến thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta.
Trong những năm gần đây đã có những chuyển biến tích cực trong đầu tư nước
ngoài về chuyển dịch cơ cấu, doanh thu, kim ngạch xuất khẩu, nhưng nhịp tăng vốn
đầu tư nước ngoài cấp vốn mới là thực hiện suy giảm. So với năm trước, vốn đăng
ký cấp mới năm 1997 giảm 49%, năm 1998 giảm 16%, năm 1999 giảm 59% và năm
2000 tiếp tục giảm 59,5%. Như vậy, vốn cấp mới của năm 1999 chỉ bằng 18,2% của
năm cao nhất là năm 1996. Tương tự, vốn thực hiện năm 1997 tăng 25%, nhưng
năm 1998 giảm 40%, năm 1999 giảm 19% và năm 2000 giảm 20%. Số dự án xin
hoãn cất phép, giảm tiến độ gia tăng (tính chung cả nước là 6-7 tỷ USD) nhiều
doanh nghiệp sản xuất cầm trừng hoặc thu hẹp qui mô sản xuất. Việc suy giảm đầu
tư nước ngoài sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế
hiện nay và trong những năm sau.
Bên cạnh đó cũng có một số nguyên nhân khách quan như:
+ Khủng hoảng kinh tế trong khu vực.
Đây là nguyên nhân khách quan quan trọng dẫn đến suy giảm đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam.
Hiện nay, đầu tư nước ngoài từ các nước Châu á vào Việt Nam chiếm 67%
vốn đầu tư; trong đó các nước ASEAN khoảng 23% vào Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan, Hồng Kông chiếm 40,5%. Do khủng hoảng kinh tế nên đẩu tư nước ngoài của
các nền kinh tế trong khu vực suy giảm rõ rệt do các công ty mẹ bị phá sản hoặc gặp
khó khăn vì chính sách của các chính phủ hạn chế đầu tư ra nước ngoài và cũng khó
khăn trong huy động vốn của các tổ chức tài chính quốc tế và vay từ các nhân hàng.
Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động cũng gặp khó khăn,
phải sản xuất cầm trừng, thậm trí giảm tiến độ hoặc triển khai do khó khăn của công
ty và do thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước cũng như thị trường xuất khẩu
trong khu vực bị thu hẹp lại. Trong khi đó khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt
Nam ở thị trường nước ngoài bị giảm do sự xuống giá của các đồng tiền trong khu
vực.
+ Sự cạnh tranh trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới vào trong
khu vực diễn ra ngày càng gay gắt. Hiện nay, ba phần tư vốn đầu tư trên thế giới là
đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển do sự tăng cường liên kết giữa các công ty
đa quốc gia của Mỹ, Nhật, Tây Âu. Một phần tư số vốn đầu tư nước ngoài còn lại bị
thu hút vào các thị trường đầu tư lớn Trung Quốc, ấn Độ, Braxin, Mêhicô...
Trong bối cảnh đó, các nước đang phát triển, nhất là các nước trong khu vực
như Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN đã và đang cải thiện môi trường thu hút vốn
đầu tư nước ngoài nhằm vượt lên trên các nước khác, coi đó là giải pháp, chiến lược
phục hồi và phát triển kinh tế.
Trên đây là đánh giá tình hình FDI vào ngành công nghiệp Việt Nam trong
thờigian qua (1998-2000) đồng thời đã nêu ra những ưu điểm và những tồn tại, hạn
chế cũng như nguyên nhân của những hạn chế đó. Từ đó sẽ đưa ra các giải pháp cơ
bản nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian
tới.
III Một số giải pháp nằm tăng cường thu hút FDI vào công nghiệp Việt Nam
trong thời gian tới.
1.Mục tiêu và chiến lược phát triển ngành công nghiệp trong thời gian tới.
1.1.Mục tiêu.
Mục tiêu chung của nền kinh tế là đến năm 2020, nước ta sẽ trở thành một
nước công nghiệp, do đó tốc độ phát triển công nghiệp phải đạt cao (trên
12%/năm) trong nhiều năm; năm 2020 giá trị gia tăng công nghiệp trong GDP
đạt trên 40%.
Từ những yếu tố tiền đề cho phát triển công nghiệp, trong bối cảnh kinh tế
thế giới và khu vực hiện nay, đồng thời nhằm phấn đấu đạt mục tiêu đến năm
2020, trong đó hình thành một cơ cấu công nghiệp tương đối toàn diện, khuôn khổ
chiến lược công nghiệp của nước ta như sau.
1.2.Chiến lược phát triển ngành công nghiệp.
-Phát triển công nghiệp nhằm khai thác hết tiềm năng của nền kinh tế, đó
là nguồn nhân lực dồi dào, nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú. Công nghiệp
cần hướng mạnh về xuất khẩu, nâng cao hiệu quả của xuất khẩu, chế biến sâu tài
nguyên hướng về xuất khẩu, giảm đến mức ít nhất xuất khẩu nguyên liệu thô.
Chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu phải là trục chính trong Chiến lược phát
triển công nghiệp.
- Phát triển công nghệ nằm nâng cao năng suất lao động của xã hội thông
qua quá trình cơ giới hoá, tự động hoá, hoá học hoá... với bước đi thích hợp cho
từng giai đoạn cho nền kinh tế.
- Chiến lược phát triển dài hạn công nghiệp cần xác định được cơ cấu công
nghiệp hợp lý, lưạ chọn các ngành công nghiệp chiến lược quan trọng để có chính
sách nuôi dưỡng và phát triển các ngành có lợi thế so sánh và có khả năng cạnh
tranh trong tương lai trên thị trường khu vực thế giới.
Cụ thể như sau:
+ Phát triển mạnh những ngành công nghiệp ta đang có lợi thế về nguồn
nhân lực và tài nguyên, nhằm tạo ra những khởi động tốt cho phát triển công
nghiệp như: Ngành Dệt-May; ngành công nghiệp chế biến hướng về xuất khẩu đặc
biệt là chế biến các sản phẩm nông-lâm-thuỷ sản, những vùng có quy mô sản
phẩm hàng hoá nguyên liệu lớn; ngành công nghiệp, khai thác dầu khí.
+ Nuôi dưỡng và phát triển các ngành công nghiệp quan trọng có sức cạnh
tranh mạnh mẽ sau năm 2000.Đó là: Ngành công nghiệp cơ khí chế tạo và Ngành
công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin.
+ Phát triển có chọn lọc những ngành công nghiệp nặng, nhằm tạo ra
nguyên liệu cơ bản cho công nghiệp, đồng thời phát huy các lợi thế về tài
nguyên.Đó là các ngành: Công nghiệp lọc, hoá dầu; Công nghiệp luyện kim. Tạo
tiền đề cho phát triển các ngành khác như Cơ khí, chế tạo, đóng tàu, sản xuất ô tô
và một số ngành công nghiệp khác.
2. Giải pháp
2.1Các giải pháp trước mắt.
2.1.1Thống nhất nhận thức về vai trò quan trọng của nguồn vốn FDI.
Sự cần thiết lâu dài của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vai trò quan trọng
của doanh nghiệp đầu tư với tư cách là thành phần kinh tế tư bản nhà nước đã
được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng. Tuy nhiên, do chưa được cụ thể
hoá đầy đủ dẫn đến nhận thức, quan điểm xử lý một số vấn đề cụ thể về đầu tư
nước ngoài còn khác nhau (như về lựa chọn, cho phép và mở rộng các hình thức
đầu tư, về việc tư nhân hợp tác đầu tư với nước ngoài, tỷ lệ góp vốn bên Việt Nam,
về sử dụng máy móc thiết bị dã sử dụng, về phát triển những khu công nghiệp, về
mối quan hệ giữa đầu tư nước ngoài với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo
định hướng Xã hội chủ nghĩa...). Điều đó dẫn đến việc lúng túng trong hoach định
chính sách, trong điều hành chính sách cụ thể, làm chậm tiến độ xem xét dự án và
bỏ lỡ cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài, làm môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Do
vậy, cần sự thống nhất cao trong Đảng và xã hội về sự cần thiết khách quan và vai
trò quan trọng của đầu tư nước ngoài đối với sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại
hoá đất nước; để có hành động nhất quán ở mọi ngành mọi cấp, thu hút và sử dụng
có hiệu vốn đầu tư nước ngoài.
2.1.2. Công bố rõ danh mục định hướng kêu gọi đều tư nước ngoài của ngành
công nghiệp cho thời kỳ 2001-2005.
Danh mục cần xác định rõ sản phẩm, công suất tiến độ, công nghệ thị
trường tiêu thụ, địa bàn thực hiện dự án cũng như các chính sách khuyến khích ưu
đãi đầu tư...
2.1.3. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư.
Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần phải được đổi mới về nội dung và
phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chủ động, có hiệu quả. Trước hết,
cần xác định thúc tiến đầu tư cũng như xúc tiến thưong mại là nhiệm vụ và trách
nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, của Bộ, ngành, các tỉnh. Ban quản lý các
Khu công nghiệp. Cần thnàh lập bộ phận xúc tiến tại Bộ Công nghiệp, tổng công
ty, các cơ quan đại diện của nước ta tại một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài để
chủ động thu hút đầu tư nươc ngoài. Ngân sách nhà nước cần dành một khoản
kinh phí thoả đáng cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư.
Cần tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư hiện có dự án đầu tư
đang hoạt động, giúp họ giải quyết các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý
nghĩa quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất với các nhà
đầu tư mới.
2.1.4. Quản lý chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu.
Hiện tại, có một số mặt hàng công nghiệp trong nước đã sản xuất được đảm
bảo chát lượng, cần hạn chế nhập khẩu. Bên cạnh đó các cơ quan hữu quan cần
kiểm tra và quản lý chát chẽ các thiết bị dây chuyền công nghệ trước khi cho nhập
vào Việt Nam, tránh tình trạng cho nhập ồ ạt các dây chuyền thiết bị công nghệ lạc
hậu, sản xuất kinh doanh không hiệu quả, gây ô nhiễm môi trường.
2.1.5.Thường xuyên có báo cáo tổng kết từng quý từng năm, từng giai đoạn
thực hiện kế hoạch, mục tiêu, chiến lược của ngành.
Bộ công nghiệp phải báo cáo thường xuyên việc thực hiện kế hoạch của
từng quý, từng năm, từng giai đoạn. Trong đó cần đánh giá những thành tựu đạt
được, những hạn chế tồn tại và kiến nghị, đưa ra giải pháp tháo gỡ để ngày cơ
càng nâng cao hiẹuquả thu hút FDI vào ngành công nghiệp.
2.1.6. Cần có giải thích hợp để tăng nguồn nguyên liệu trong nước.
Bởi hiện có một số mặt hàng công nghiệp như may mặc, giầy dép, sữa, dầu
thực vật, tuy có giá trị xuất khẩu cao nhưng nguyên liệu chiếm một tỷ trọng khá
lớn và chủ yếu được nhập khẩu từ nước ngoài cho nên cần có giải pháp thích hợp
để tăng nguồn nguyên liệu trong nước.
Chính vì phải nhập khẩu quá nhiều nguyên liệu cho sản xuất nên các sản
phẩm công nghiệp Việt Nam kém về hiệu quả cạnh tranh. Vấn đề này đạt ra cho
các nhà quản lý vĩ mô phải có giải pháp để tăng tính cạnh tranh của sản phẩm kể
cả thị trường trong và ngoài nước.
Việc phát triển các nguồn nguyên vật liệu cho sản xuất công nghiệp cần có
những giải pháp đồng bộ, tử các cơ sở vĩ mô của nhà nước, đến sự phối hợp hành
động của nhiều bộ, ngành liên quan. Có như vậy chủ trương phát huy nội lực của
Đảng mới có thể trở thành hiện thực.
2.2. Các giải pháp lâu dài.
2.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư nước
ngoài.
Trong thời gian tới, Bộ Công nghiệp cùng với các Bộ, ban ngành có liên
qua tiếp tục nghiên cứu, kiến nghị với Chính phủ với Quốc hội để hoàn thiện
khuôn khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng rõ ràng và ổn định; một hệ thống ưu
đãi và khuyến khích mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực.
Triển khai việc nghiên cứu để tiến tới xây dựng một Bộ Luật đầu tưu chung cho cả
đầu tư trong nưóc và cả đầu tư nước ngoài, nhằm tạo “ sân chơi” bình đẳng, môi
trường cạnh tranh lành mạnh cho các nhà đầu tư.
Nhà nước cần sớm hoàn chỉnh hệ thống pháp lý chung về kinh tế để tạo lập
môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng; sớm ban hành các Bộ luật Hải quan,
luật cạnh tranh và chống độc quyền... Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người
lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài để khuyến
khích sử dụng người Việt Nam giữ các vị trí quản lý và chuyên môn chủ chốt. Xây
dựng chính sách thúe khuyến khích sản xuất phụ tùng linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội
địa hoá; hoàn chỉnh hệ thống pháp luật chính sách về thuế xuất nhập khẩu, thuế
VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, cải tiến hệ thống tín dụng, bảo lãnh đầu tư...
2.1.2.Xây dựng hệ thống chính sách để cải thiện môi trường kinh doanh.
a. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư.
Quyết đinh 53/1999 Quyết Định của Thủ tướng Chính phủ là bước đi đầu
tiên thực hiện lộ trình tiến tới tạo dựng một mặt bằng thống nhât giá hàng hoá,
dịch vụ đối với doanh nghiệp có vốn FDI theo tinh thần Nghị quyết Trung ương
lần thứ VI.
Trong năm 2001, cần tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hoá,
dịch vụ để sau một hoặc hai năm về cơ bản áp dụng một mặt bằng thống nhất một
số giá, phí cho các doanh nghiệp trong nước có vốn FDI. Trước hết, cần tiếp tục
giảm giá điện, cước phí viễn thông, cước vận tải biển...
b.1. Đất đai:
Ngoài vấn đề thuế chấp quyến sử dụng đất, cần xắp xếp lại giá cho thuê
đất, miễn giảm tiền thuê trong một số năm để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp ; giải
quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng gây ách tắc đối với việc triển
khia dự án.
Nghiên cứu sửa đổi Luật đất đai và các văn bản liên quan để tạo có sở pháp
lý cho phép các thành phần kinh tế quốc doanh có thể góp vốn liên doanh, hợp tác
với nước ngoài.
b.2.Tài chính, tín dụng, ngoại hối:
-Giảm dần tỷ lệ hối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt buộc khi có
điều kiện; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với các
giao dịch vãng lai.
Phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp
vốn đầu tưu bằng các nguồn huy động dài hạn như: trái phiếu, cổ phiếu; tiến tới
thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp FDI. Sớm ban hành các quy định về cầm cố,
thuế chấp, bảo lãnh để đẩy nhanh việc giải ngân vốn vay của các doanh nghiệp
FDI; có quy định cụ thể về hoạt động của các quỷ đầu tư.
c. Bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn đối với nhứng lĩnh vực, địa
bàn và dự án cần thu hút FDI.
Để thu hút được FDI vào các lĩnh vực, địa bàn vào các dự án ưu tiên và
khuyến khích đầu tư, cần tạo dựng và công bố một hệ thống ưu đãi có sức cạnh
tranh cao. Về phần mình, Bộ công nghiệp cần có quy hoạch và để trình danh mục
các lĩnh vực, ngành cần khuyến khích và ưu đãi đầu tư lên Chính phủ để nhằm thu
hút FDI đúng hướng.
- Thực hiện thuế xuất nhập khẩu thực sự khuyến khích các doanh nghiệp
công nghệ cao sản xuất cơ khí, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo; đặc biệt là công
nghệ sản xuất phụ tùng, linh kiện và nguyên liệu.
- Đối với một số hạn chế của những dự án đặc biệt quan trọng, cần sử lý đặc
cách và có chính sách hỗ trợ hợp lý trong khuôn khổ những cam kết theo lộ trình
hội nhập.
-Sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích các doanh nghiệp hướng
mạnh hơn nữa vào xuất nhập khẩu như khuyến khích chế biến sâu, sử dụng
nguyên vật liệu sẵn có trong nước, tạo giá trị tăng cao ...Các đòn bẩy kinh tế đó có
thể là miễn giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu vật liệu trong thời hạn nhất định cho
các doanh nghiệp đạt tỷ lệ xuất khẩu trên 80%, cho các dự án thuộc diện đặc biệt
khuyến khích đầu tư hoặc đưa ra ngoài diện đối tượng áp dụng thuế VAT các máy
móc thiết bị nhập khẩu; nhờ có các doanh nghiệp có thể hạ giá thành sản phẩm, tạo
tài sản cố định của các doanh nghiệp FDI.
d. Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư.
Mỗi hình thức đầu tư (liên doanh, 100% vốn nước ngoài) tuy có vị trí đặc
biệt thù riêng, nhưng đều nằm trong quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quy
hoạch ngành và lãnh thổ, quy hoạch các sản phẩm quan trọng; chịu sự điều chỉnh
của pháp luật Việt Nam; sự quản lý, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quản lý
Nhà nước. Do đó, ngoài các dự án không cấp phép đầu tư, các dự án do yêu cầu an
ninh, quốc phòng, giữ gìn bản sắc vă hoá, thuần phong mỹ tục và các dự án quốc
kế dân sinh quan trọng; cần mở rộng danh mục cho các dự án cho phép nhà đầu tư
nước ngoài được lựa chọn hình thức đầu tư xuất phát từ hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
e. Đa dạng hoá hình thức FDI.
Cần có chính sách và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
liên doanh với nước ngoài, đồng thời đa dạng hơn nữa hình thức đầu tư để khai
thác thêm các kênh đầu tư mới như cho phép thành lập công ty cổ phần có vốn
FDI, công ty hợp danh, đầu tư nước ngoài theo hình thức mua lại và sáp nhập (Mỹ
và Anh)... Xem xét việc cho phép các tập đoàn lớn có nhiều dự án FDI ở Việt Nam
thành lập các công ty quản lý vốn( holding company) để điều hành chung các dự
án. Mục đích là để có sự quản lý một cách tập trung, thống nhất, tránh dàn trải,
lãng phí, không hiệu quả và không có quy hoạch. Hiện nay luật pháp Việt Nam
cũng đã có quy định doanh nghiệp Việt Nam được quyền mua cổ phần của các
doanh nghiệp FDI quan trọng, Chính phủ cũng đã có chủ trương cổ phần hoá các
doanh nghiệp FDI, trong đó có cả doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài.
g. Khu công nghiệp, khu chế xuất.
Nhiệm vụ trọng tâm là thu hút đầu tư để lấp đầy các khu công nghiệp
(KCN) đã được thành lập.
Cần lựa chọn một vài địa phương có điều kiện địa lý, kinh tế-xã hội thuận
lợi để thành lập khu kinh tế và tập trung đầu tư đúng mức cả về vốn, con người.
Tổ chức và có cơ chế chính sách phù hợp để xây dựng thnàh công các khu kinh tế
này.
Tiếp đến là Khu chế xuất (KCX), hoạt động của các KCX thời gian qua
kém hiệu quả, có nhiều khu triển khai chậm hoặc không triển khai được và xin
chuyển thành KCN để có thể linh hoạt trong đầu tư. Trong thời gian tới, nước ta
cần tập trung đẩy nhanh hoạt động của cá KCX đã được thành lập bằng các chính
sách ưu đãi, khuyến khích hơn, đồng thời tạm ngừng thành lập các KCX mới.
2.2.3. Xây dựng quy hoạch có biện pháp hỗ trợ phát triển vùng nguyên, nhiên
liệu.
Hiện nay, số lượng dự án đầu tưu vào các lĩnh vực của ngành công nghiệp
về tương đối đã đạt được sự cân bằng giữa cung và cầu, cá biệt có một số lĩnh vực
bắt đầu có dấu hiệu bão hoà như: điện tử tiêu dùng, sản xuất kem giặt, sản xuất
rượu bia... Mặt khác, sự đầu tư chỉ tập trung vào một số lĩnh vực nhất định đã làm
mất cân đối trong cơ cấu vùng, lãnh thổ. Do vậy, cần có quy hoạch cụ thể, đặt quy
hoạch thu hút FDI vào ngành công nghiệp trong cơ cấu hữu cơ quy hoach tổng thể
các nguồn lực, vùng lãnh thổ của đát nước. Hướng FDI vào nhứng dự án trọng
điểmcủa ngành cũng như các vùng có nguyên nhiên liệu nhưng đang gặp nhiều
khó khăn về kinh tế- xã hội.
Việc hỗ trợ cho các dự án đầu tư ở các vùng nguyên, nhiên liệu; một mặt,
tạo ra sự đầu tư hợp lý, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Mặt khác, tạo điều kiện phát
triển kinh tế-xã hội của vùng, khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến.
2.2.4. Tập trung cao độ phương pháp quản lý, điều hành để tháo gỡ khó
khăn, hỗ trợ các dự án đầu tư nước ngoài hoạt động có hiệu quả.
Giải quyết kịp thời, triệt để và có trách nhiệm các vấn đề vướng mắc phát
sinh giúp các doanh nghiệp triển khia dự án thuận lợi; khuyến khích họ đầu tư
chiều sâu, mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn. Đây là cách
tốt nhất chứng minh có tính thuyết phục về môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với
các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng. Muốn vậy, cần phân loại dự án thành các
nhóm khác nhau để có biện pháp sử lý và hỗ trợ thích hợp.
2.2.5. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
.
Sau khi tạo dựng được môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thông
thoáng, hấp dẫn; vấn đề then chốt có tính quyết định và việc chỉ đạo điều hành tập
trung, thống nhất và quyên quyết của Chính phủ, việc thực hiện nghiêm túc của Bộ
Công nghiệp, các Bộ, ngành liên quan và các địa phương.
Cần quy định cụ thể chế độ kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước đối
với hoạt động của các doanh nghiệp FDI để chấm dứt tình trạng tuỳ tiện, hết sức
tránh tình trạng hoạt hoá các quan hệ kinh tế của doanh nghiệp; đồng thời vẫn đảm
bảo giám sát được các doanh nghiệp và áp dụng các chế tài đối với sự vi phạm
pháp luật của các doanh nghiệp .
Cần triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng minh bạch các
thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp. Công khai các quy trình, thời hạn, trách
nhiệm sử lý các thủ tục hành chính và kiên quyết giảm đầu mối, giảm các thủ tục
hành chính không cần thiết nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về các
cải cách hành chính trong các khu vực FDI; duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ,
đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư.
2.2.6. Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo công nhân ký thuật tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động Công đoàn và các tổ chức đoàn thể trong
các doanh nghiệp có vốn FDI.
Trong hoạt động FDI, công tác cán bộ đặc biệt quan trọng vì cán bộ vừa
tham gia hoạch định chính sách, vừa là người vận dụng luật pháp, chính sách để sử
lý các nghiệp hàng ngày liên quan đến mọi hoạt động của FDI. Cán bộ quả lý Việt
Nam trong các liên doanh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích cuả
Nhà nước Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam, của người lao động; đảm bảo
cho doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật. Do đó, phải đặc biệt chú trọng
đến công tác đào tạo nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ
chuyên môn của đội ngũ công chức Nhà nước các cấp, đội ngũ cán bộ Việt Nam
trong các doanh nghiệp FDI.
Vấn đề đặt ra bây giờ là cần có cơ cấu đào tạo hợp lý theo hướng tăng số
công nhân được đào tạo tay nghề; cơ sở đào tạo có sự kết hợp chặt chẽ với các
doanh nghiệp FDI đóng trong địa bàn và phải có trách nhiệm về chất lượng cũng
như chương trình đào tạo. Tăng cường, mở rộng các trường dạy nghề ở địa
phương và giảm sức ép cho các trường Trung ương. Nhà nước cần quản lý việc
cấp phát bằng cũng như quy chế tuyển sinh nhằm mục đích đào tạo ra những cán
bộ quản lý có trình độ, những người thợ lành nghề, giỏi và có đầu óc sáng tạo. Bên
cạnh đó, Nhà nước cần sớm hoàn thiện Bộ Luật lao động, cũng như các quy định
có liên quan đến tiền lương, thời gian làm việc, chế độ Bảo hiểm xã hội... của
người lao động.Tổng liên đoàn lao động Việt Nam có kế hoach vận động thành lập
Công đoàn ở tất cả các doanh nghiệp FDI và nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức
của Công đoàn trong các doanh nghiệp FDI; Ban tổ chức Trung ương Đảng quy
định và hướng dẫn phương thức sinh hoạt và nội dung hoạt động của tổ chức Đảng
trong các doanh nghiệp nghiệp có vốn FDI, phù hợp với đặc điểm của loại hình
doanh nghiệp. Xây dựng tổ Công đoàn thật sự trở thành người bảo vệ quyền lợi
chính đáng, hợp pháp của người lao động, tác phong công nghiệp cho công nhân,
quan hệ hợp tác xây dựng với chủ đầu tư, đóng góp vào hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
2.2.7. Đầu tư thích đáng vào sự phát triển khoa học- công nghệ của nước ta.
Hoạt động hợp tác đầu tư kèm theo nó là hoạt động chuyển giao công nghệ
(CGCN) vào Việt Nam, muốn xây dựng xã hội Xã hội Chủ nghĩa, trước hết cần
xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của nước nhà. Muốn vậy, CGCN là con đường
gắn nhất và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, do nôn nóng và thiếu hiểu biết nên trong
thời gian qua nước ta cho chuyến giao nhiều dây chuyền công nghệ lạc hậu từ 40-
60 năm và nước ta có nguy cơ thành bãi thải công nghệ của các nước trong khu
vực và trên thế giới; năng lực sản xuất thì không hiệu quả. Một số công nghệ lại
qua hiện đại, công nhân Việt Nam không kịp tiếp nhận, làm quen trong một thời
gian gắn cho nên phải thuê chuyên gia nước ngoài;các dây duyền công nghệ lại
không phát huy hết công suất thiết kế.
Do đó hoạt động CGCN đạt hiệu quả, Nhà nước cần đầu tư kinh phí cho
công tác kinh phí cho công tác ứng dụng cho Viện cứu khoa học- kỹ thuật, các
trường Đại học... có chính sách về lương và chế độ kèm theo cho cán bộ nghiên
cứu khoa học. Đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật đủ trình độ tiếp thu kinh nghiệm
quản lý và vận hành các dây chuyền công nghệ, tiến tới làm chủ công nghệ đó.
Năm 2001, mức dự tính đầu tư cho khoa học công nghệ khoảng 2,3% tổng chi
Ngân sách, song theo dự tính với nguồn kinh phí này cũng chỉ đáp ứng được 40-
50% nhu cầu hoạt động của ngành công nghệ. Các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyến cũng cần có sự quan tâm đúng mức của các công trình nghiên cưú khoa học
công nghệ trong địa bàn, thực hiện tốt, nhanh làm thủ tục thẩm định, xét duyệt các
dự án bằng cách phối hợp với ngân hàng... khuyến khích các doanh nghiệp có mối
quan hệ mật thiết với các ngành Nghiên cứu , các trung tâm, các trường Đại học
cũng đầu tư, nghiên cứu, ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học.
Muốn tiến hành CNH-HĐH đất nước, cần có thiết bị, dây chuyền công
nghệ... hoạt động CGCN có thể đáp ứng được yêu cầu đó. Song, để hoạt động
CGCN đạt được hiệu quả và phục vụ cho nhu cầu thiết thực của nước ta hiện nay,
một trong những đòi hỏi cơ bản là nước ta cần có một trình độ khoa học công nghệ
nhất định.
Kết luận
Đầu tư trực tiếp nước ngoài một bộ phận hợp thành nền kinh tế, đang ngày
càng đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước,
góp vốn giữ vững nhịp độ tăng trưởng hiện nay và nhiều năm tới. Việc Quốc hội
thông qua Luật đầu tư nước ngoài bổ sung sửa đổi và Nghị quyết 24/2000 NĐ-CP
ngày 31 tháng 7 năm 2000của Chính phủ cùng một số luật, văn bản khác là cơ sở
pháp lý để tạo một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp. Nhũng chủ trương,
chính sác này cần có thời gian mới phát huy tác động tích cực với môi trường đầu
tư chung của cả nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan cùng với Bộ
Công nghiệp phải tiếp tục nghiên cứu và kiến nghị nhiều biện pháp tích cực nhằm
tháo gỡ khó khăn, ách tắc không chỉ do các doanh nghiệp FDI hoạt động trong
ngành công nghiệp mà tất cả các doanh nghiệp nghiệp đang hoạt động sản xuất
kinh doanh trên cả nước. Giúp họ vượt qua khủng hoảng trong khu vực, tăng khả
năng cạnh trạnh và phát triển bền vững trong tiến trình hội nhập khu vực kinh tế
thế giới đất nước. Xem việc thu hút và sử dụng vốn FDI không phải biện pháp tiến
trình mà hoạt động lâu dài, có tính chiến lược; vốn FDI giữ vai trò quan trọng nhất
định trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội.
Mục tiêu và giới hạn bài viết này chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu tổng
hợp để minh hoạ một bức tranh tổng quát về tình hình hoạt động của các doanh
nghiệp FDI trong lĩnh vực công nghiệp mà chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu tài
chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh, lỗ- lãi của từng doanh nghiệp, từng chuyên
ngành nhỏ khu vực này. Rất mong sự đóng góp ý kiến, quan tâm của cô giáo tới
đề tài này để sửa đổi, bổ sung bài viết, phục vụ tốt cho công cuộc thu hút, sử dụng
và quản lý vốn FDI trong ngành công nghiệp, cho pháp triển kinh tế- xã hội của
nước ta.
Tài liệu tham khảo
- Giáo trình:” Kinh tế và quản lý công nghiệp”-Đại học KTQD Hà Nội
-“Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Cơ sở pháp lý-Hiện trạng-Cơ hội-Triển
vọng” Nguyễn Anh Tuấn, Phan Hữu Thẵng, Hoàng Văn Tuấn-NXB Thế
Giới/1994.
-“Những giải pháp chính trị-kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam” Nguyễn Khắc Thân, Chu Văn Cấp-
NXBCTQG/1996
-Niên giám Thống Kê 1999-NXB Thống Kê/2000
-Báo công nghiệp số xuân 2001, số16/2000
-Kinh tế và dự báo số 11/1997,02/1998
-Con số và sự kiện số 6/2001,số 1+2/2002
-Chuyên san thời báo kinh tế: kinh tế 1999-2000
kinh tế 2000-2001
mục lục
Lời Nói Đầu ................................................................................................................ 1
I. Lý Luận Chung Về Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài. ........................................ 3
1. Khái Niệm Về Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài. ................................................ 3
2. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài. ......................................................................................................... 6
3. Vai trò của FDI với sự phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam. ............................. 8
II. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt
Nam. ..................................................................................................................... 13
1. Khái quát chung về tình hình đầu tư vào ngành công nghiệp Việt Nam. ........ 13
2. Thực tạng về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời
gian qua. ........................................................................................................... 15
3. Đánh giá tình hình FDI vào ngành công nghiệp Việt Nam. ............................ 20
III Một số giải pháp nằm tăng cường thu hút FDI vào công nghiệp Việt
Nam trong thời gian tới. ...................................................................................... 29
1.Mục tiêu và chiến lược phát triển ngành công nghiệp trong thời gian tới. ...... 29
2. Giải pháp ...................................................................................................... 30
Kết luận .................................................................................................................... 40
Tài liệu tham khảo ................................................................................................... 41