BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM
------------------
LÊ BẢO THY
GIẢI PHÁP THU HÚT
KIỀU HỐI ĐỂ CẢI THIỆN CÁN CÂN TÀI KHOẢN
VÃNG LAI TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS TS LÝ HOÀNG ÁNH
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM
------------------
LÊ BẢO THY
GIẢI PHÁP THU HÚT
KIỀU HỐI ĐỂ CẢI THIỆN CÁN CÂN TÀI KHOẢN
VÃNG LAI TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM
------------------
LÊ BẢO THY
GIẢI PHÁP THU HÚT
KIỀU HỐI ĐỂ CẢI THIỆN CÁN CÂN TÀI KHOẢN
VÃNG LAI TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS TS LÝ HOÀNG ÁNH
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng nội dung của luận án này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Tất
cả những tham khảo từ các nghiên cứu liên quan đều được nêu nguồn gốc một cách
rõ ràng. Những đóng góp trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả đã được
công bố trong các bài báo của tác giả ở phần sau của luận án và chưa được công bố
trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tp.HCM, ngày 10 tháng 06 năm 2013
Tác giả luận án
Lê Bảo Thy
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... 3
MỤC LỤC ................................................................................................................... 4
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ....................................................... 7
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ............................................................................... 8
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ .............................................................................. 9
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT KIỀU HỐI ..................................... 4
ĐỂ CẢI THIỆN CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI ............................................ 4
1.1 KIỀU HỐI ............................................................................................................. 4
1.1.1 Khái niệm kiều hối .................................................................................. 4
1.1.2 Kênh chuyển kiều hối ............................................................................. 5
1.1.3 Động cơ thúc đẩy kiều hối chuyển về trong nước .................................. 6
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút kiều hối .................................. 7
1.1.5 Vai trò của kiều hối trong phát triển kinh tế ......................................... 13
1.2 CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI ......................................................... 18
1.2.1 Khái niệm ...................................................................................................... 18
1.2.2 Các thành phần của cán cân tài khoản vãng lai............................................. 18
1.2.3 Các nhân tố tác động đến cán cân tài khoản vãng lai ................................... 19
1.3 LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN VỀ THU HÚT KIỀU HỐI ĐỂ CẢI THIỆN CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI .................................. 22
1.3.1 Tổng quan các nghiên cứu về kiều hối ................................................. 22
1.3.2 Những nghiên cứu gần đây về kiều hối tại Việt Nam .......................... 25
1.3.3 Lý thuyết và nghiên cứu về thu hút kiều hối để cải thiện cán cân tài
khoản vãng lai ................................................................................................... 27
1.4 KINH NGHIỆM VỀ THU HÚT KIỀU HỐI ĐỂ CẢI THIỆN CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM: .................................................................................... 28
1.4.1 Tại Ấn Độ ...................................................................................................... 28
1.4.2 Tại Trung Quốc ............................................................................................. 29
1.4.3 Tại Philippines .............................................................................................. 30
1.4.4 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .............................................................. 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THU HÚT KIỀU HỐI ĐỂ CẢI THIỆN CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI TẠI VIỆT NAM ............................................................ 34
2.1 XU HƯỚNG KIỀU HỐI TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY .................. 34
2.1.1 Theo khu vực ................................................................................................. 34
2.1.2 Theo thu nhập ................................................................................................ 38
2.1.3 Giá dầu .......................................................................................................... 41
2.1.4 Sự biến động của đồng tiền ảnh hưởng đến lượng kiều hối ......................... 42
2.1.5 Chi phí chuyển kiều hối ................................................................................ 43
2.2 THỰC TRẠNG KIỀU HỐI TẠI VIỆT NAM .............................................. 44
2.2.1 Tình hình kiều hối tại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012 .............................. 44
2.2.2 Các kênh chuyển kiều hối tại Việt Nam ....................................................... 49
2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn kênh chuyển kiều hối của Việt Nam ................................................................................................................... 53
2.2.4 Vai trò của kiều hối đối với nền kinh tế Việt Nam ....................................... 54
2.3 THỰC TRẠNG CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI TẠI VIỆT NAM .. 57
2.3.1 Tình trạng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai tại Việt Nam ...................... 57
2.3.2 Tác động của việc thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai đến nền kinh tế Việt Nam hiện nay ............................................................................................................ 63
2.4 TÁC ĐỘNG CỦA KIỀU HỐI ĐẾN CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI TẠI VIỆT NAM ........................................................................................................ 68
2.4.1 Giới thiệu mô hình .................................................................................... 68
2.4.2 Ý tưởng mô hình ....................................................................................... 69
2.4.3 Dữ liệu và mô tả ........................................................................................ 70
2.4.4 Kiểm định mô hình.................................................................................... 71
2.4.3.1 Kiểm định bằng mô hình các ảnh hưởng cố định (Fixed Effects Model -
FEM) 71
2.4.3.2 Kiểm định bằng mô hình các ảnh hưởng ngẫu nhiên (Random Effects
Model - REM) ....................................................................................................... 72
2.4.3.3 Kiểm định Hausman ............................................................................. 73
2.4.3.4 Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến (Multicollinearity) ........................ 74
2.4.3.5 Kiểm tra hiện tượng tự tương quan (Auto Correlation)........................ 75
2.4.3.6 Kiểm tra hiện tượng phương sai thay đổi (Heteroskedasticity) ............ 75
2.4.3.7 Khắc phục hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi: ............. 75
2.4.1 Kết luận ......................................................................................................... 76
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THU HÚT KIỀU HỐI ĐỂ CẢI THIỆN CÁN CÂN
TÀI KHOẢN VÃNG LAI TẠI VIỆT NAM ........................................................ 78
3.1 GIẢI PHÁP THU HÚT KIỀU HỐI .......................................................... 78
3.2 GIẢI PHÁP SỬ DỤNG KIỀU HỐI CẢI THIỆN CÁN CÂN TÀI
KHOẢN VÃNG LAI ............................................................................................ 84
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .......................................................................................... 88
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 90
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tên tiếng Việt Tên tiếng Anh
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á Asia Development Bank
Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Product GDP
Tổng cục thống kê Việt Nam General Statistics Office GSO
Quỹ tiền tệ quốc tế International Monetary Fund IMF
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
Phương pháp bình phương bé nhất Ordinary Least Square OLS
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam The State Bank of Viet Nam SBV
Ngân hàng Thế giới World Bank WB
WTO Tổ chức thương mại thế giới World Trade Organization
FEM Mô hình các ảnh hưởng cố định Fixed Effects Models
REM Mô hình các ảnh hưởng ngẫu nhiên Random Effects Models
Hệ số phóng đại phương sai Variance Inflation Factors VIF
Đầu tư trực tiếp nước ngoài Foreign Direct Investment FDI
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức Official Development
Assistance
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Association of Southeast Asian
Nations
EU Liên minh Châu Âu European Union
GCC Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh Gulf Cooperation Council
UN Liên Hiệp Quốc United Nation
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Ước tính và dự báo kiều hối đến các quốc gia đang phát triển
Bảng 2.2 Kiều hối đến các quốc gia đang phát triển, qua các thập kỷ
Bảng 2.3 Nguồn tài chính bên ngoài đến các quốc gia đang phát triển, 2009
Bảng 2.4 Cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2000 - 2012
Bảng 2.5 Cán cân dịch vụ Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012
Bảng 2.6 Cán cân thu nhập Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012
Bảng 2.7 Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012
Bảng 2.8 Biến và ký hiệu trong mô hình kiểm định tác động của đầu tư, tiết kiệm
và kiều hối đến cán cân tài khoản vãng lai
Bảng 2.9 Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến của mô hình
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Biểu đồ 1.1 10 nước đang phát triển dẫn đầu về thu hút kiều hối năm 2012
Biểu đồ 2.1 Kiều hối và các dòng tiền khác chảy vào các nước đang phát triển giai
đoạn 1990 – 2015
Biểu đồ 2.2 Việc làm của người di cư tại Mỹ đang phục hồi, đặc biệt khu vực lao
động có tay nghề cao
Biểu đồ 2.3 Kiều hối từ Nga tăng trưởng theo giá dầu
Biểu đồ 2.4 Chi phí chuyển kiều hối tại 20 quốc gia chuyển tiền song phương
hàng đầu
Biểu đồ 2.5 Chi phí kiều hối tại quốc gia được lựa chọn, Q3/2012
Biểu đồ 2.6 Tình hình thu hút kiều hối của Việt nam từ giai đoạn 2000 - 2012
Biểu đồ 2.7 Kiều hối và FDI giai đoạn 2000 -2012
Biểu đồ 2.8 Kiều hối và ODA giai đoạn 2000 -2012
Biểu đồ 2.9 Cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam giai đoạn từ 2000 – 2012
Biểu đồ 2.10 Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012
Biểu đồ 2.11 Cán cân tài khoản vãng lai của một số nước Châu Á từ năm 2009 –
2012
Biểu đồ 2.12 Kiều hối và cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam giai đoạn 2000 -
2012
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã trải qua những thăng trầm
do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như xuất phát từ nội
tại của nền kinh tế: tăng trưởng cao nhưng chưa ổn định, lạm phát tăng cao (năm
2008) và đặc biệt hơn nữa đó là tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai bắt nguồn từ
thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, do tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và hiện trạng môi trường đầu tư của Việt Nam
chưa được cải thiện như mong đợi, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước
ngoài vào Việt Nam chưa tăng trưởng vững chắc. Hiện trạng này chắc chắn sẽ gây
sức ép không nhỏ đến cán cân thanh toán quốc tế về khả năng chống đỡ các cú sốc
bên ngoài và tính bền vững của nền kinh tế khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam có xu
hướng thu hẹp. Giải pháp nào để cải thiện cán cân tài khoản vãng lai tại Việt Nam.
Trong cấu trúc của cán cân tài khoản vãng lai, kiều hối là một trong những nhân tố,
liệu việc phát triển và thu hút lượng kiều hối có thể cải thiện cán cân tài khoản vãng
lai tại Việt Nam? 2. Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu sẽ tập trung vào những mục tiêu chính sau đây:
Nghiên cứu xu hướng kiều hối trong thời gian gần đây.
- - Kiều hối tác động đến cán cân tài khoản vãng lai như thế nào? Kiều hối có thể
cải thiện cán cân tài khoản vãng lai hay không?
- Giải pháp phát triển kiều hối để cải thiện cán cân tài khoản vãng lai tại Việt
Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp định lượng, thống kê, so sánh,
phân tích và tổng hợp dữ liệu nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu. Để tiến hành phân
tích định lượng – kiểm định sự tác động của kiều hối đến cán cân tài khoản vãng lai
tác giả sử dụng dữ liệu bảng (Panel Data), đề tài sử dụng số liệu công bố về kiều hối
và cán cân tài khoản vãng lai của 13 quốc gia đang phát triển tại Châu Á (trong đó
2
có Việt Nam) trong 7 năm của quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng phát triển châu
Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (World Bank), Ngân hàng nhà nước (NHNN) và
Tổng cục thống kê Việt Nam (GSO)…
Tác giả sử dụng mô hình các ảnh hưởng cố định (Fixed Effects Model - FEM)
để kiểm định liệu có mối quan hệ giữa kiều hối và cán cân tài khoản vãng lai hay
không từ đó đưa ra một số gợi ý về chính sách. - Phần mềm xử lý số liệu: Eviews, Stata. 4. Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lý luận về thu hút kiều hối để cải thiện cán cân tài khoản vãng lai
Chương 2: Thực trạng thu hút kiều hối để cải thiện cán cân tài khoản vãng lai tại
Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp thu hút kiều hối để cải thiện cán cân tài khoản vãng lai tại Việt
Nam. 5. Ý nghĩa đề tài nghiên cứu
Về mặt lý luận, đề tài đã hệ thống những công trình nghiên cứu trước đây về
những nội dung có liên quan và lý thuyết về vấn đề đang nghiên cứu.
Về mặt thực tiễn, đề tài chứng minh có mối quan hệ giữa kiều hối và cán cân
tài khoản vãng lai, đưa ra bằng chứng về sự tác động của kiều hối đến cán cân tài
khoản vãng lai thông qua việc kiểm định mối quan hệ giữa kiều hối và cán cân tài
khoản vãng lai. Cuối cùng đề tài cũng đưa ra những khuyến nghị nhằm giúp các nhà
chính sách nhận thức tầm quan trọng của kiều hối đối với nền kinh tế Việt Nam và
biện pháp thu hút, phát triển sao cho nó trở thành nguồn lực cải thiện cán cân tài
khoản vãng lai của Việt Nam. 6. Hướng phát triển của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn
đến việc thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam và nhiều nhân tố khác
ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai. Thông qua việc phân tích cán cân tài
khoản vãng lai có thể thấy kiều hối chỉ là một thành phần của cán cân tài khoản
vãng lai tuy nhiên kiều hối góp phần không nhỏ trong việc cải thiện cán cân tài
3
khoản vãng lai. Việc thu hút kiều hối để cải thiện cán cân tài khoản vãng lai sẽ đóng
góp thêm một hướng giải pháp để cải thiện cán cân tài khoản vãng lai bên cạnh
những giải pháp khác. Hạn chế của đề tài đó là chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa
kiều hối và cán cân tài khoản vãng lai để thấy rõ tầm quan trọng của kiều hối mà bỏ
qua các yếu tố khác do đó chưa phản ánh đầy đủ và cung cấp cái nhìn tổng quát về
các nhân tố cũng như giải pháp cải thiện cán cân tài khoản vãng lai. Đề tài sử dụng
dữ liệu trong vòng 7 năm của 13 quốc gia đang phát triển tại Châu Á trong đó có
Việt Nam để kiểm định tác động của kiều hối đến cán cân tài khoản vãng lai để
củng cố thêm bằng chứng tuy nhiên do hạn chế dữ liệu: một số quốc gia không có
dữ liệu đầy đủ về kiều hối. Tôi hy vọng những đề tài nghiên cứu kế tiếp sẽ hoàn
thiện những thiếu sót trên để cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn.
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT KIỀU HỐI
ĐỂ CẢI THIỆN CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI
1.1 KIỀU HỐI
1.1.1 Khái niệm kiều hối
Về cơ bản kiều hối là một lượng tiền hoặc tương đương tiền của người lao
động nước ngoài gửi về nước (Puri, 1999). Ví dụ, người Trung Đông sống ở Châu
Âu, người Mỹ Latin sống ở Mỹ, người Việt Nam sống ở Mỹ hoặc Úc gửi tiền về
trong nước.
IMF đã đưa ra một định nghĩa rộng về kiều hối bao gồm ba khía cạnh: (i) là
lượng tiền hoặc tương đương tiền được người lao động chuyển về gia đình họ hàng
của mình trong nước; (ii) khoản tiền bồi thường cho người lao động hoặc lương
thưởng dưới dạng tiền hoặc tương đương trả cho cá nhân làm việc ở nước ngoài; và
(iii) là lượng tài sản tài chính do người cư trú tạm thời mang theo khi họ di chuyển
từ một nước tới nước khác và sống tại nước đó nhiều hơn một năm.
Theo WB: “Kiều hối bao gồm các khoản tiền chuyển từ nước ngoài có nguồn
gốc là thu nhập của người lao động, dân di cư ở nước ngoài, được thể hiện trong cán
cân thanh toán quốc tế là khoản chuyển tiền (ròng)”.
Theo Đại sứ quán Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tại Hoa Kỳ đưa ra
nhận định rằng “Kiều hối là một nguồn lực quý giá theo nhiều nghĩa, là một kênh
mang lại ngoại tệ mạnh cho đất nước mà không một kênh nào có thể sánh nổi. Bởi
vì ngoại tệ thu được từ xuất khẩu tuy rất quý nhưng xuất khẩu thì phải mất chi phí
để sản xuất hàng, chi phí vận chuyển mang ra nước ngoài, lại còn phải chịu thuế
nhập khẩu, chịu hạn ngạch, chịu kiện bán phá giá, chi phí tiếp thị, quảng cáo…”.
Theo báo cáo “Di trú và kiều hối” được thống kê hàng năm bởi Ngân hàng
Thế giới, tại một số nước đang phát triển, số tiền được đưa vào từ kiều hối có thể
đứng hàng cao thứ nhì trong các nguồn thu nhập, cao hơn cả viện trợ quốc tế. Số
kiều hối hàng năm trên thế giới được ước tính từ 250 tỷ USD của Ngân hàng Thế
giới và các Ngân hàng Trung ương đến 401 tỷ của IFAD. Mặc dù, kiều hối được sử
dụng với nhiều mục đích khác nhau, cơ bản một nước có số lượng kiều hối cao sẽ
5
thúc đẩy những hoạt động tiêu dùng và đầu tư khác trong nhiều lĩnh vực như: giáo
dục, chăm sóc sức khỏe, các mô hình kinh doanh loại nhỏ...
1.1.2 Kênh chuyển kiều hối 1.1.2.1 Kiều hối chuyển theo kênh chính thức
Chuyển qua các tổ chức tín dụng, các tổ chức được NHNN cho phép làm dịch
vụ nhận và chi trả ngoại tệ hoặc tổ chức kinh tế làm đại lý cho các tổ chức tín dụng
thực hiện việc chi trả ngoại tệ, các tổ chức tín dụng làm đại lý cho các tổ chức tín
dụng được phép, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính quốc tế và
các cá nhân mang theo ngoại tệ hộ cho kiều bào ở nước ngoài, có khai báo với Hải
quan cửa khẩu số ngoại tệ mang hộ từ nước ngoài gửi cho người thụ hưởng ở trong
nước. Hiện nay phương thức chuyển tiền thông qua con đường chính thức đã phổ
biến rộng rãi vì sự nhanh chóng và an toàn. Tuy nhiên cũng rất nhiều kiều bào e
ngại vì phải chứng minh tính pháp lý của món tiền, đồng thời phí dịch vụ của Ngân
hàng còn cao.
- Đặc điểm của phương thức này là:
(cid:1) Tiền nhận được ngay không phải chờ lâu (trong trường hợp khách hàng sử
dụng dịch vụ chuyển tiền ngay của các Tổ chức chuyển tiền nhanh có các đại
lý đặt tại Ngân hàng, công ty kiều hối).
(cid:1) An toàn.
- Khuyết điểm của phương thức này:
(cid:1) Giá ngoại tệ mà ngân hàng bán ra cao hơn (mua vào thấp hơn) thị trường tự
do.
(cid:1) Phải xuất trình nhiều giấy tờ.
1.1.2.2 Kiều hối chuyển theo kênh phi chính thức
Là lượng kiều hối được chuyển vào một quốc gia do kiều bào nhập cảnh vào
quốc gia đó mà không khai báo tại Hải quan cửa khẩu hoặc qua đường dây ngầm
của dịch vụ chuyển tiền tư nhân không qua hệ thống ngân hàng và các công ty kiều
hối được cấp giấy phép nhận và chi trả ngoại tệ. Loại hình này được thực hiện dựa
trên cơ sở quen biết và tin tưởng lẫn nhau. Phương thức chuyển tiền này đơn giản.
6
Chỉ cần điện 2 lần điện thoại: một cho cá nhân làm dịch vụ chuyển tiền và một cuộc
điện thoại cho thân nhân ở Việt Nam đến địa điểm chi trả hoặc đường dây chi trả sẽ
đến tận nhà của kiều quyến để thực hiện chi trả.
- Đặc điểm của phương thức này là:
(cid:1) Tiền nhận được ngay không phải chờ lâu (cid:1) Giá ngoại tệ bán ra thấp hơn (mua vào cao hơn) tỷ giá bán ra và mua vào của
các ngân hàng thương mại
(cid:1) Không đòi hỏi phải xuất trình nhiều giấy tờ
- Khuyết điểm của phương thức này:
(cid:1) Phí cao (cid:1) Không an toàn
1.1.3 Động cơ thúc đẩy kiều hối chuyển về trong nước
Đã có nhiều nghiên cứu về động cơ thúc đẩy người lao động và sống ở nước
ngoài chuyển tiền về trong nước. Các nghiên cứu cơ bản được Stark (1991) và
nhóm tác giả tóm lược ở một số nguyên nhân. Có thể kể đến trước hết xuất phát từ
động cơ bao bọc lẫn nhau. Người di cư thường gửi tiền về nhà vì anh ta quan tâm
tới cuộc sống của gia đình anh ta ở quê nhà. Với động cơ này, người đi lao động
hoặc sống ở nước ngoài cảm thấy giảm bớt lo lắng cho gia đình của mình ở nhà.
Động cơ thứ hai xuất phát từ lợi ích của cá nhân. Những người di cư làm ăn
thành công thường có các khoản tiết kiệm và dùng một phần tiết kiệm này để đầu tư
về nước mình như mua bất động sản, các tài sản tài chính ... Gia đình của họ đóng
vai trò như các đơn vị tín thác, làm nhiệm vụ quản lý các tài sản đó trong thời gian
họ đang làm việc và sống ở nước ngoài. Một lý do khác để chuyển tiền về cho gia
đình là do người chuyển tiền tính tới khả năng được thừa kế từ cha mẹ trong tương
lai. Trong trường hợp này, những thành viên trong gia đình có đóng góp vào sự phát
triển của gia đình (ví dụ như chuyển tiền về cho gia đình) sẽ tất nhiên được hưởng
thừa kế trong tương lai.
Lý do thứ ba là thanh toán các khoản nợ. Thông thường, các gia đình phải vay
tiền để trang trải chi phí cho người đi lao động hoặc sang học tập ở nước ngoài, với
7
hi vọng rằng sau một thời gian lao động và học tập hoặc có việc làm, họ sẽ gửi tiền
về để thanh toán một phần hoặc toàn bộ các khoản nợ trước đó. Đây thực chất giống
như một khoản đầu tư.
Động cơ cuối cùng có thể xem xét là động cơ đồng bảo hiểm. Người di cư có
thể đầu tư vào bất kể tài sản tài chính nào tại nước mình làm việc, nhưng không thể
tránh được các loại rủi ro do thị trường tài chính không hoàn hảo. Chính vì vậy, một
chỗ dựa vững chắc để giảm thiểu rủi ro này là chuyển tiền về cho gia đình. Khi điều
kiện thuận lợi, việc chuyển tiền về sẽ giúp cải thiện cuộc sống gia đình. Ngược lại,
khi điều kiện lao động, kinh tế ở nước ngoài không thuận lợi thì gia đình chính là
chỗ dựa vững chắc và yên tâm cho anh ta trở về. Như vậy, đây là một chiến lược
đồng bảo hiểm với các khoản chuyển tiền đóng vai trò như hợp đồng bảo hiểm cho
người di cư.
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút kiều hối 1.1.4.1 Các nhân tố thuộc về người chuyển và người nhận kiều hối
(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) Các nhân tố thuộc về người chuyển kiều hối
Yếu tố đầu tiên không thể không nhắc đến đó là số lượng kiều bào sinh sống
và lực lượng lao động làm việc ở nước ngoài của mỗi quốc gia, thông thường số
tiền chuyển về sẽ lớn, nếu số lượng này ở nước ngoài nhỏ thì số tiền chuyển về
nước cũng nhỏ. Năm 1970, có 46% lượng kiều hối ghi nhận đến từ Mỹ, nhưng đến
năm 2010, tỷ trọng của Mỹ chỉ khoảng 17%. Một địa chỉ mới là Vùng Vịnh, nơi
tiếp nhận lượng công nhân di trú khổng lồ khi thị trường dầu mỏ bùng nổ. Ả-rập
Xê-út hiện là địa điểm sinh ra kiều hối lớn thứ hai thế giới sau Mỹ, với số kiều hối
chuyển đi đạt 27 tỷ USD trong năm 2010, phần lớn là cho người thân ở Nam Á và
châu Phi. Trên một nửa lượng kiều hối chuyển về Nam Á xuất phát từ Vùng Vịnh.
Trên toàn thế giới, khu vực này đã chuyển một lượng kiều hối cho các nước nghèo
nhiều tương đương các nước Tây Âu.
Yếu tố thứ hai ảnh hưởng không nhỏ đến việc chuyển kiều hối đó là trình độ
của những người chuyển kiều hối. Đối với những người lao động trình độ cao tại
nước ngoài sẽ có một mức thu nhập cao hơn hẳn so với lao động chân tay đơn
8
thuần, trình độ thấp. Điều này cho thấy số lượng kiều hối chuyển về tăng nếu quốc
gia có lượng lao động đang làm việc tại nước ngoài có trình độ cao và ngược lại.
Đối với người đang định cư tại nước ngoài cũng tương tự, trình độ cao hay thấp sẽ
góp phần quyết định công việc ổn định hay không, thu nhập cao hay thấp, qua đó
cũng quyết định lượng kiều hối chuyển về nước cao hay thấp. (cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) Các nhân tố thuộc về người nhận kiều hối
Khi hoàn cảnh kinh tế của quốc gia nhận kiều hối nhiều khó khăn thì đây cũng
chính là động lực lớn cho kiều bào nước ngoài chuyển tiền về giúp đỡ. Chính vì
vậy, luồng kiều hối phần lớn chỉ tập trung tại các nước đang và kém phát triển là
chủ yếu. Vì những nước này đại bộ phận dân cư còn nghèo, cần sự giúp đỡ để cải
thiện cuộc sống.
1.1.4.2 Các nhân tố thuộc về ngân hàng thương mại và các công ty kiều hối
Hiện nay các kênh chuyển kiều hối chính thức ngày càng phổ biến và rộng rãi,
dẫn đến các ngân hàng thương mại và các công ty kiều hối là nhân tố ảnh hưởng
không nhỏ đến lượng kiều hối chuyển về trong nước.
Đầu tiên, đó là số lượng và chất lượng dịch vụ ngân hàng. Sự bùng nổ của hệ
thống ngân hàng dẫn đến sự phát triển của các dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân
hàng dành cho phát triển kiều hối sẽ là động lực lớn đối cho hoạt động thu hút kiều
hối tại các nước đang phát triển. Các ngân hàng không ngừng mở rộng mạng lưới
chi nhánh, phòng giao dịch rộng khắp để cung cấp dịch vụ kiếu hối với thời gian
nhanh chóng và thuận tiện cho người nhận tiền. Chất lượng dịch vụ ngày càng được
nâng cao, đội ngũ nhân viên ngân hàng sẵn sàng hướng dẫn cho người chuyển
(nhận) tiền với sự am hiểu về các sản phẩm dịch vụ. Chính điều này đã làm cho việc
chuyển và nhận kiều hối trở nên dễ dàng hơn, thuận tiện hơn nhằm giảm bớt khó
khăn cho cả người chuyển và nhận kiều hối.
Ngân hàng cũng bắt đầu quan tâm đầu tư về cơ sở hạ tầng, công nghệ nhằm
bắt kịp với trình độ phát triển của nhiều nước tiên tiến. Nếu công nghệ ngân hàng
lạc hậu thì việc chuyển và nhận tiền sẽ diễn ra chậm, mất nhiều thời gian, độ trễ của
việc chuyển tiền cho người nhận là rất lớn. Trường hợp những khoản kiều hối nhận
9
về không được chuyển trực tiếp cho ngân hàng mà phải tiến hành qua nhiều kênh
ngân hàng trung gian thanh toán mới về đến ngân hàng người nhận. Điều này làm
tăng chi phí chuyển tiền và thường khoản tiền này do người nhận tiền chịu. Một
ngân hàng nhận kiều hối chuyển từ nước ngoài nhưng không có hệ thống Swift, vì
vậy thay vì nhận tiền trực tiếp từ ngân hàng nước ngoài thì việc chuyển tiền thường
sẽ được chuyển qua một ngân hàng trong nước có Swift, ngân hàng này sẽ tiến hành
chuyển qua ngân hàng đại lý trong nước, sau đó ngân hàng của người nhận sẽ nhận
được tiền từ ngân hàng đại lý này. Qua quy trình chuyển tiền trên ta có thể thấy việc
chuyển tiền từ một ngân hàng đại lý nước ngoài sẽ phải qua hai ngân hàng trung
gian thanh toán trong nước. Vì vậy thời gian sẽ lâu và chịu thêm hai lần phí trung
gian chuyển tiền. Ngoài hình thức chuyển tiền qua Swifts còn có rất nhiều hình thức
chuyển tiền quốc tế khác nhau, như:
+ Western Union:
Sơ khai là một công ty điện báo được thành lập năm 1851. Hiện nay công ty
này đã có hơn 160,000 đại lý tại hơn 200 quốc gia. Người chuyển tiền có thể gửi
tiền tại bất kỳ đại lý nào của dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union mà không
cần phải có thẻ tín dụng, gửi tiền vào tài khoản hay mở tài khoản tại ngân hàng.
Khách hàng sẽ nhận được tiền ở một trong những điểm chi trả Western Union ngay
sau khi có thông tin của người gửi. Việc chuyển tiền trong mỗi giao dịch từ 5 đến
15 phút. Khách hàng nhận tiền cần xuất trình thẻ căn cước còn hiệu lực hay vài
trường hợp trả lời câu hỏi phụ được cung cấp bởi người gửi tiền.
+ Internet Banking:
Là kênh giao dịch của Ngân hàng, sử dụng môi trường Internet để cung cấp
dịch vụ chuyển tiền cho khách hàng với các nền tảng, cơ sở hạ tầng an ninh, bảo
mật đặc biệt. Đối tượng sử dụng Internet banking là các cá nhân, tổ chức có mở tài
khoản tại ngân hàng, có đăng ký sử dụng dịch vụ và chấp nhận mọi điều khoản,
điều kiện sử dụng.
Ngoài các hình thức chuyển tiến phổ biến trên còn có nhiều hình thức khác
cũng được các ngân hàng trên thế giới sử dụng như Fedwire (hệ thống thanh toán
10
điện tử liên bang ), chuyển tiền nhanh Money Gram, chuyển tiền bằng tin nhắn qua
điện thoại di động…
Mạng lưới của hệ thống ngân hàng cũng là một trong những yếu tố then chốt
của hoạt động thu hút kiều hối. Một ngân hàng có mạng lưới chi trả rộng khắp là thế
mạnh lớn để ngân hàng có thể tiến hành thu hút một số lượng lớn kiều hối. Rõ ràng
một ngân hàng có chi nhánh lớn đặt tại những khu vực trọng điểm so với ngân hàng
có mạng lưới chi nhánh nhiều nằm rải rác ở khu vực nông thôn sẽ có sự chênh lệch
đáng kể trong lượng khách hàng giao dịch. Bởi vì với cùng chất lượng dịch vụ, giá
cả như nhau, số lượng lao động tại khu vực nông thôn giao lưu hợp tác lao động
quốc tế cao hơn khu vực thành thị, có xu hướng ngày càng tăng.
Sự cạnh tranh gay gắt giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính trong việc cung
cấp dịch vụ thanh toán đã góp phần làm cho chi phí chuyển nhận kiều hối giảm
đáng kể, đây cũng là một trong những nhân tố thúc đẩy hoạt động này phát triển.
Kể từ sau biến cố ngày 11/9/2001, các nước tăng cường các biện pháp an
ninh, kiểm soát chặt chẽ việc chuyển ngân chống nạn khủng bố và rửa tiền, điều này
làm cho số lượng ngoại tệ chuyển qua kênh chính thức gia tăng và chuyển qua kênh
không chính thức giảm. Chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng, công ty cung cấp dịch
vụ kiều hối được sử dụng nhiều hơn tạo điều kiện cho các ngân hàng đầu tư nâng
cấp hoạt động dịch vụ của mình.
1.1.4.3 Các nhân tố thuộc về nước nhận kiều hối
Trước hết phải kể đến yếu tố về chính sách quản lý kiều hối và chính sách đối
với kiều bào tại các nước sở tại. Khi nước này có chế độ chính sách và biện pháp để
khuyến khích kiều bào chuyển tiền cho thân nhân trong nước, thì sẽ khơi thông và
thu hút được kiều hối. Theo kinh nghiệm tại một số nước thì những nước nhận thức
được tầm quan trọng của hoạt động này sẽ có nhiều biện pháp khuyến khích luồng
kiều hối. Tại các nước giàu, nhiều nước đã đóng cửa biên giới để bảo vệ người lao
động trong nước. Mỹ hiện đã thắt chặt biên giới phía nam, phần nào giải thích cho
sự tăng trưởng chậm lại làn sóng nhập cư từ Mêhicô. Số người di trú cũng gia tăng
kể từ khi kinh tế đình đốn. Tuy nhiên, do nhận thức được rằng sẽ khó quay lại nên
11
những người di trú thường lưu lại lâu hơn. Theo Pew Hispanic Centre, 27% số
người Mêhicô rời Mỹ năm 2010 đã có thời gian lưu trú ở nước này trong ít nhất một
năm, tăng so với tỷ lệ 6% năm 2005. Điều này có thể giúp giải thích tại sao lượng
kiều hối từ Mỹ chỉ giảm 5% trong năm 2009. Ngược lại tại Anh, nước đã mở cửa
biên giới cho một số nước có lượng người nhập cư lớn nhất vào Anh, lượng kiều
hối đã giảm 27%, dĩ nhiên tỷ giá cũng tác động đáng kể đến sự trồi sụt của kiều hối.
Giới phân tích cho rằng các chính sách kiểm soát biên giới chặt chẽ hơn cũng ảnh
hưởng đến nhóm người di trú và qua đó tác động tới kiều hối trên thế giới.
Nhân tố thứ hai phải kể đến là sự phát triển của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế
trong nước phát triển tốt thì số tiền kiều hối chuyển về với mục đích đầu tư kinh
doanh cũng sẽ rất lớn. Nếu nền kinh tế đang trong thời kỳ phát triển hưng thịnh và
nước sở tại tạo nhiều cơ hội đầu tư thì luồng kiều hối cũng đóng vai trò quan trọng
trong công cuộc đầu tư xây dựng.
Một đất nước có thể chế chính trị ổn định lành mạnh thì luồng kiều hối chuyển
về nước sở tại sẽ an toàn hơn rất nhiều. Khi nền kinh tế chính trị không ổn định, lạm
phát hay chiến tranh xảy ra thì kiều bào ở nước ngoài cũng không an tâm khu
chuyển tiền về nước vì lo sợ rủi ro thanh toán cũng như tính hiệu quả của đồng vốn.
Sự kiện "Mùa xuân Arập" năm 2011 cũng đã làm giảm đáng kể lượng kiều hối ở
Trung Đông và châu Phi, do nhiều người lao động di trú đã rời khỏi các nước có
xáo động chính trị lớn như Libi.
Ngoài ra mối quan hệ giữa nước sở tại và các nước khác cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến lượng kiều hối thu hút được. Một nước tạo được quan hệ tốt với các
nước khác sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác lao động quốc tế, người dân có điều
kiện để ra nước ngoài làm việc, xuất khẩu lao động hoặc định cư dễ dàng hơn, từ đó
có thể tăng số lượng kiều bào và lực lượng người lao động dẫn đến tăng kiều hối.
Đồng thời khi xác lập được mối quan hệ tốt với các nước khác, lực lượng kiều bào
và người lao động sẽ được đối xử tốt hơn, việc chuyển kiều hối về nước thuận lợi
hơn. Hội nhập WTO là cơ hội tốt cho các nước mở rộng quan hệ hợp tác với các
nước trên thế giới, từ đó thúc đẩy việc thu hút kiều hối.
12
1.1.4.4 Các nhân tố khác
Ngoài các nhân tố trên, kiều hối chảy vào một nước còn chịu ảnh hưởng của
nhiều nhân tố khác như:
Thứ nhất, ảnh hưởng của nền kinh tế toàn cầu hay nói cách khác là tình hình
kinh tế của nước có kiều bào sinh sống. Nếu tình hình kinh tế của những nước này
khó khăn cũng sẽ dẫn đến hệ quả tất yếu là khả năng tài chính của kiều bào và lao
động nước ngoài giảm sút, cuộc sống khó khăn hơn thì họ khó có thể giúp đỡ thân
nhân của mình. Thực tế cho thấy khi khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu xảy ra
ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực, nhiều mặt, nhiều nền kinh tế đặc biệt là các nền
kinh tế lớn. Các nước ngừng tuyển dụng lao động nước ngoài, cắt giảm lực lượng
lao động sẵn có, tình trạng thất nghiệp xảy ra, nhiều lao động thất nghiệp, thu nhập
giảm sút, thu nhập kiều bào giảm sút tất yếu việc chuyển tiền về nước cũng giảm
theo. Có thể lấy trường hợp luồng tiền mặt chảy vào Mêhicô năm 2011 dẫn chứng
thực tế đã thấp hơn 12% so với thời điểm trước khi kinh tế suy giảm, một phần do
nhiều người Mêhicô làm việc trong lĩnh vực xây dựng của Mỹ hiện đang làm ăn sa
sút.
Thứ hai, những nhân tố khách quan như chiến tranh, thiên tai (bão lụt, hạn
hán, sóng thần,…) ảnh hưởng khá rõ khi nó xảy ra hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến các
nước xuất phát của kiều hối thông qua việc tác động đến toàn bộ nền kinh tế nước
đó, dẫn đến ảnh hưởng đến thu nhập của lực lượng kiều bào và lực lượng lao động
của nước đó.
Ngoài ra, các yếu tố khác như: sự biến động tiền tệ. Đồng USD và đồng EUR
không còn được săn lùng tại các nước châu Phi như trước đây, do tiền tệ của các
nước ở châu lục này đang tăng giá mạnh trước sự gia tăng của xuất khẩu hàng hóa.
Chuyên gia Marcelo Giugale thuộc WB cho hay: "Khi bạn chuyển tiền về cho
người thân ở Ănggôla, họ không cảm thấy giàu có như trước đây. Làm việc tại châu
Âu trong 5 năm cũng không còn có thể giúp họ mua nổi một ngôi nhà ở quê”. Hoặc
sự tăng giá mạnh của dầu mỏ đã đưa Nga từ chỗ là địa chỉ sinh ra kiều hối lớn thứ
17 thế giới trong năm 2000 (thực tế Nga khi đó là nước nhận kiều hối ròng) trở
13
thành nước chuyển kiều hối lớn thứ tư thế giới vào năm 2010, với lượng kiều hối
chuyển đi xấp xỉ 19 tỷ USD, trong đó hầu hết sang các nước Trung Á. Kiều hối từ
Nga hiện đóng góp trên 1/5 GDP của Tátgikixtan.
1.1.5 Vai trò của kiều hối trong phát triển kinh tế
Tác động của kiều hối có thể diễn ra theo hướng tích cực hoặc tiêu cực. Kiều
hối có thể có tác động tới vấn đề nghèo đói và bất công bằng thu nhập, tiêu dùng,
đầu tư và tiết kiệm gia đình, thị trường lao động, nguồn nhân lực và các biến kinh tế
vĩ mô khác.
Nghèo đói và bất công bằng thu nhập: Dẫn chứng từ kinh nghiệm từ các nước
phát triển, kiều hối có thể tạo sự khác biệt lớn cho nền kinh tế toàn cầu bằng cách
giúp lao động nhập cư gửi tiền về nhà. Mọi người đều biết rằng hàng chục triệu lao
động nhập cư từ các nước đang phát triển làm việc tại châu Âu, Bắc Mỹ và vùng
Vịnh Ba Tư gửi rất nhiều tiền về quê nhà của họ. Điều hầu hết mọi người không
biết là lượng kiều hối này cao gấp 3 lần ngân sách viện trợ/cứu trợ của các nước
giàu, và đang tiếp tục tăng.
Kiều hối đã trở thành nhân tố chính trong chiến lược biến các nước nghèo
thành những nền kinh tế “đang nổi” thành công. Kiều hối đóng góp tích cực vào
việc giảm nghèo đói đối với các gia đình nhận kiều hối hoặc có thể giúp các hộ này
tránh rơi vào tình trạng nghèo đói. Ví dụ, tại Mexico, các nghiên cứu sử dụng số
liệu điều tra mức sống dân cư toàn quốc về thu nhập và chi tiêu cho thấy phần lớn
người nhận kiều hối là người nghèo. Tại Guatemala, kiều hối đã đóng vai trò rất lớn
trong việc giảm mức độ nghèo đói nghiêm trọng tại nước này, với tỉ lệ nghèo đói đã
giảm khoảng 20% theo số liệu năm 2005. Tuy nhiên, yếu tố công bằng thu thập
giữa các hộ giàu và nghèo có thể không đạt được nếu hộ nhận kiều hối chủ yếu là
hộ gia đình giàu có.
Theo báo cáo Migration and Development Briefcase 19 (2012) của WB, kiều
hối đổ về các nước đang phát triển ước tính tăng từ 381 tỷ USD năm 2011 lên 406
tỷ USD năm 2012. Ấn Độ và Trung Quốc dẫn đầu danh sách các nước tiếp nhận
kiều hối lần lượt là 70 tỷ USD và 66 tỷ USD, tiếp đến Mexico (24tỷ USD),
14
Philippines (24 tỷ USD), Nigeira (21 tỷ USD), Ai Cập (18 tỷ USD), Pakistan (14 tỷ
USD), Bangladesh (14 tỷ USD), Viet Nam (9 tỷ USD) và Lebanon (7 tỷ USD).
Biểu đồ 1.1: 10 nước đang phát triển dẫn đầu về thu hút kiều hối năm 2012
“Nguồn: Báo cáo “Migration and Development Briefcase 19” của WB [43]”
Điều có thể gây ngạc nhiên là tác động của kiều hối đối với những nước từng
là thuộc địa hoặc “vệ tinh kinh tế” của các quốc gia dầu lửa. Ví dụ, một số nước
cộng hòa thuộc liên bang Xô-viết trước kia như Tajikistan, Moldova và Cộng hòa
Kyrgyz, với kiều hối chiếm hơn 1/5 GDP của mỗi nước, trong khi kiều hối đổ về
Lesotho, đất nước nằm trong lãnh thổ Nam Phi, chiếm đến 27% GDP, Lebanon với
18% GDP là từ kiều hối, phần lớn từ vùng Vịnh. Kiều hối của các nước như Haiti,
Samoa, Nepal chiếm khoảng 21% GDP mỗi nước, phần lớn từ kiều dân của họ đang
sinh sống tại Mỹ.
Thị trường lao động: Một tác động tiêu cực của kiều hối là tác động tới thị
trường lao động. Kiều hối có thể có tác động trực tiếp tới quyết định không tham
gia vào thị trường lao động của người nhận tiền. Có ý kiến cho rằng các thành viên
của gia đình nhận kiều hối có thể phụ thuộc vào kiều hối và không nỗ lực lao động.
Điều này đặt ra câu hỏi liệu rằng kiều hối có làm gia tăng giá trị ròng của thu nhập
gia đình hay không. Nghiên cứu của WB chỉ ra rằng, kiều hối có thể giảm cả đối
tượng tham gia vào lực lượng lao động và cả số giờ làm việc của những người nhận
15
kiều hối. Tác động tiêu cực này có thể giảm nhẹ nếu các đối tượng nhận kiều hối có
trình độ giáo dục nhất định.
Nguồn nhân lực: Kiều hối có thể giúp gia đình nhận kiều hối đầu tư nhiều hơn
vào nguồn nhân lực dưới dạng tăng chi tiêu cho giáo dục và sức khỏe. Các nghiên
cứu chỉ ra rằng kiều hối sẽ cải thiện được môi trường giáo dục cho trẻ em thuộc các
gia đình nhận kiều hối. Tại El Salvador, số lượng kiều hối đã giúp giảm tỉ lệ trẻ em
bỏ học. Phần lớn, các nước nhận kiều hối là các nước kém hoặc đang phát triển, do
đó, lượng kiều hối chuyển về đặc biệt đóng vai trò quan trọng khi hệ thống y tế
công cộng chưa cung cấp bảo hiểm y tế rộng rãi tới mọi người dân. Tại Guatemala
và Nicaragua, trẻ em tại các gia đình có kiều hối chuyển về đã tiếp cận được nhiều
hơn tới hệ thống chăm sóc y tế so với các gia đình khác tại địa phương.
Tiêu dùng: Kiều hối và tiêu dùng có tác động tích cực tới các hoạt động kinh
tế. Tại Jamaica, 68,7% kiều hối được sử dụng vào các hoạt động chi tiêu hàng ngày,
10,1% được dùng cho giáo dục, 9,5% cho y tế và 3,2% dùng cho giải trí. Tuy nhiên,
tác động tích cực của kiều hối tới tiêu dùng có thể bị giảm mạnh nếu việc tiêu dùng
này chủ yếu cho các sản phẩm nhập khẩu.
Đầu tư và tiết kiệm: Lượng kiều hối tạo cơ hội cho hoạt động đầu tư vào các
ngành kinh doanh mới hoặc mở rộng các doanh nghiệp hiện tại. Kiều hối cung cấp
các cơ hội tài chính cho các doanh nghiệp tiềm năng nhưng khó có khả năng tiếp
cận tới nguồn tài chính chính thức. Ví dụ, tại Mexico, một nghiên cứu của 30 doanh
nghiệp cho thấy 31% các doanh nghiệp được tài trợ ban đầu từ kiều hối. Tại
Jamaica, dưới 1% lượng kiều hối được dùng cho đầu tư; trong một nghiên cứu nhỏ
tại khu vực nông thôn của nước này, 40% vốn thành lập doanh nghiệp nhỏ có nguồn
gốc từ kiều hối (Kirton, 2008). Nếu lượng kiều hối được chuyển về thông qua kênh
tài chính chính thức thì lượng kiều hối này có thể khuyến khích tiết kiệm trong cộng
đồng những người nhận tiền và điều này tạo ra một khoản tiết kiệm nội địa có sẵn
cho đầu tư. Đồng thời, kiều hối qua kênh chính thức sẽ giúp các tổ chức tài chính
tín dụng chính thức tiếp cận các hộ gia đình nghèo dễ dàng hơn, cung cấp cho họ
các dịch vụ tài chính và tạo cơ hội cho họ cải thiện thu nhập và quản lý tài sản của
16
mình nhằm tránh rủi ro tài chính. Ví dụ, các dịch vụ được cung cấp như mở tài
khoản thanh toán, tài khoản tiết kiệm, cho vay hoặc đầu tư bất động sản... với kết
quả đạt được là cải thiện điều kiện kinh tế. Ngoài ra, mở rộng tiếp cận qua kênh
chính thức sẽ giúp các tổ chức này tiếp cận được với đối tượng khách hàng cá nhân
tại khu vực nông thôn và đối tượng khách hàng có thu nhập thấp.
Tỷ lệ tiết kiệm ở châu Á rất cao – điển hình là Trung Quốc, một quốc gia có
tiền tiết kiệm nhiều hơn số tiền có thể dễ dàng đầu tư tại quê nhà và do vậy phụ
thuộc vào thặng dư thương mại để duy trì tăng trưởng sản lượng và tạo thêm việc
làm. Tuy nhiên, châu Mỹ Latinh, nơi tỷ lệ tiết kiệm nội địa khá èo uột, là một câu
chuyện hoàn toàn khác. Ngày nay, kiều hối đang là động lực thúc đẩy tiêu dùng –
người nghèo cần ăn nhiều hơn là họ cần tiết kiệm. Nhưng điều này có thể thay đổi
khi người dân Mỹ Latinh sống tại Mỹ bắt đầu đạt được thành công về kinh tế. Do
vậy, số tiền dành để gửi về nhà của họ trở nên sẵn có hơn, nhất là dành cho việc
thành lập doanh nghiệp nhỏ.
Thực tế, các nước nghèo nhất đang khao khát có vốn để đầu tư vào cơ sở hạ
tầng công cộng cũng như doanh nghiệp tư nhân. Do vậy, đang có mối quan tâm đến
“trái phiếu kiều dân” (diaspora bond) – một loại nợ chính phủ phát hành bằng nội tệ
được bán cho người dân xa xứ để có vốn đầu tư vào các dự án cụ thể. Kiều dân
cũng như các nhà đầu tư tiềm năng khác biết rằng những loại trái phiếu này chứa
đựng rủi ro vỡ nợ cũng như giảm giá trị gốc khi đồng nội tệ mất giá. Hơn nữa,
loại trái phiếu này dường như là phù hợp, ít nhất là về lý thuyết, vì chúng kêu gọi
lòng yêu nước cũng những người con xa xứ và vì vấn đề rủi ro của nội tệ cũng ít
quan trọng hơn đối với kiều dân vì họ hàng, người thân của họ có thể luôn sử dụng
nội tệ. Do vậy, đến nay “trái phiếu kiều dân” đang phát huy hiệu quả, và người ta hy
vọng rằng biện pháp này có thể tạo ra sự khác biệt, nhất là ở khu vực châu Phi cận
Sahara.
Tác động vĩ mô: kiều hối trở thành một nguồn ngoại tệ quan trọng, đặc biệt đối
với các nước có thâm hụt tài khóa, nợ nước ngoài, thường xuyên mất cân bằng cán
cân thương mại và ít các hoạt động đầu tư nước ngoài. Kiều hối giúp gia tăng giá trị
17
GDP thông qua việc gia tăng tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm. Tuy nhiên, luồng ngoại
tệ này có thể làm tăng giá trị đồng nội tệ, ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu và
chính sách nhập khẩu cạnh tranh.
Tất nhiên, những người đầu tiên hưởng lợi là gia đình của người lao động di
cư. Tuy nhiên kiều hối cũng có tác động dài hạn đáng kể đối với tăng trưởng kinh
tế, vì nhiều lý do. Trung Quốc có khởi đầu khá ấn tượng về khía cạnh này. Hoa kiều
cung cấp nguồn vốn khổng lồ – và quan trọng hơn – bí quyết công nghệ và quản lý
cũng như kinh nghiệm trong thương mại quốc tế – giúp kinh tế Trung Quốc cất
cánh trong những năm 1980.
Trong khi đó, Ấn Độ tụt lại khá xa, một phần vì một phần lớn Ấn kiều là công
nhân có tay nghề bậc trung làm việc tại vùng Vịnh. Thật trớ trêu, thị trường tài
chính phát triển của Ấn Độ cũng đóng vai trò đáng kể: thị trường này tạo điều kiện
cho Ấn kiều đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu tại quê nhà thay vì đầu tư vào
các doanh nghiệp mới. Nhưng rõ ràng rằng mối liên kết công nghệ cao của người
Mỹ gốc Ấn bắt đầu phát huy tác dụng, cả về phương diện đầu tư trực tiếp và chuyển
giao công nghệ.
Cho dù rất khó xác định số lượng, nhưng thành công của cộng đồng Ấn kiều
tại Bắc Mỹ rõ ràng đã giúp làm tăng sự quan tâm trở lại quê nhà – đất nước đang nỗ
lực mở cửa với doanh nghiệp nước ngoài – cuộc đấu tranh đầy cam go tại một đất
nước từ lâu chịu sự điều hành của các chính trị gia và quan chức quan liêu – những
người có quá nhiều để mất trong một nền kinh tế cạnh tranh hơn và mở cửa hơn.
Giá dầu thô biến động đã ảnh hưởng đến kiều hối từ Nga và vùng Vịnh, trong
khi suy thoái toàn cầu (đặc biệt là sự sụp đổ của ngành xây dựng) cũng khiến lượng
kiều hối từ châu Âu và Mỹ giảm đáng kể. Tuy nhiên, sự sụt giảm này được phần
nào bù đắp bằng sức mạnh của đồng USD và EUR trong thời kỳ suy thoái, điều này
có nghĩa là kiều hối gửi về có thể thanh toán được nhiều hóa đơn hơn bằng đồng nội
tệ.
18
1.2 CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI
1.2.1 Khái niệm
Cán cân tài khoản vãng lai (còn gọi là tài khoản vãng lai) trong cán cân thanh
toán quốc tế của một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ
giữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước.
Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người
cư trú ngoài nước được ghi vào bên "Nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi
bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài
nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "Có" (ghi bằng mực đen).
1.2.2 Các thành phần của cán cân tài khoản vãng lai
Tài khoản vãng lai là thước đo rộng nhất của mậu dịch quốc tế về hàng hóa dịch vụ
của một quốc gia. Tài khoản vãng lai bao gồm bốn thành phần sau: (1) Cán cân mậu dịch (xuất khẩu, nhập khẩu): Giao dịch hàng hóa giữa các quốc
gia là hoạt động mậu dịch lâu đời và tiêu biểu nhất cho các giao dịch kinh tế
quốc tế. Vì vậy, mà thành phần chủ yếu của tài khoản vãng lai được đặt một
tên gọi riêng là cán cân mậu dịch (một số tài liệu khác gọi là cán cân thương
mại) dùng để đo lường giá trị giao dịch của hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa.
(2) Cán cân dịch vụ (vận tải, du lịch, dịch vụ khác): Đo lường giá trị xuất khẩu và
nhập khẩu dịch vụ giữa các nước. Các giao dịch về dịch vụ quốc tế phổ biến
nhất thường là dịch vụ ngân hàng, dịch vụ du lịch, hàng không hoặc dịch vụ
xây dựng bởi các công ty nội địa thực hiện ở nước ngoài. Ở các quốc gia phát
triển thì khoản mục này đã phát triển rất nhanh chóng trong suốt những thập
niên vừa qua.
(3) Thu nhập (kiều hối, thu nhập từ đầu tư): Thu nhập vãng lai chủ yếu thường đi
kèm các khoản đầu tư đã được thực hiện trong những thời kỳ trước đó. Nếu
một công ty của Việt Nam mở chi nhánh hoặc công ty con ở Mỹ để phân phối
một loại sản phẩm nào đó thì phần thu nhập ròng chuyển về cho công ty mẹ sẽ
được ghi nhận lên tài khoản vãng lai của Việt Nam dưới dạng một khoảng thu
19
nhập từ hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Ngoài ra, lương và tiền thưởng
chuyển về nước của những lao động Việt Nam (những người mang quốc tịch
Việt Nam) làm việc ở nước ngoài cũng được ghi nhận vào phần thu nhập. (4) Chuyển giao vãng lai: Ghi nhận các khoản thanh toán phát sinh liên quan đến
việc thay đổi quyền sở hữu của một loại tài sản nào đó, tài sản thực hoặc tài
sản tài chính. Bất kỳ các giao dịch nào có tính một chiều từ một quốc gia này
với một quốc gia khác (chẳng hạn các món quà tặng, hàng viện trợ, cứu trợ
nhân đạo v.v…) đều được phản ánh lên cán cân chuyển giao vãng lai.
Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được
gộp chung vào trong tính toán này. Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân
thương mại là thành phần quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, đối
với một số quốc gia có phần tài sản hay tiêu sản ở nước ngoài lớn thì thu nhập ròng
từ các khoản cho vay hay đầu tư có thể chiếm tỷ lệ lớn.
Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất
khẩu ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên
tài khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này.
Cùng với tài khoản vốn, tài khoản tài chính, thay đổi trong dự trữ ngoại hối,
sai số thống kê hợp thành cán cân thanh toán quốc tế.
Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, hay
khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia
nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hàm ý
quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư
một cách bền vững. Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng
lai tính bằng phần trăm của GDP lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt
tài khoản vãng lai không lành mạnh.
1.2.3 Các nhân tố tác động đến cán cân tài khoản vãng lai
Tài khoản vãng lai có nhiều yếu tố, trong đó cán cân thương mại là thành phần
chính, ngoại trừ một số quốc gia phát triển có cán cân “vô hình” chiếm tỷ trọng lớn,
20
và cán cân thương mại hàng hóa và dịch vụ đo lường chênh lệch giữa giá trị nhập
khẩu và xuất khẩu cho nên coi là một chỉ số thể hiện xu hướng thương mại quốc tế.
Có thể thấy rằng các nước đang phát triển trên thế giới đều có tài khoản vãng lai
thâm hụt trong khi đó một vài nền kinh tế mới nổi lại có thể đạt được mức thặng dư.
Các nước nghèo thường có cán cân thâm hụt bởi họ phụ thuộc chủ yếu phụ thuộc
vào các khoản viện trợ và vay chính thức.
Như vậy không phải mức độ phát triển của một nước là yếu tố quyết định tình
trạng cán cân vãng lai mà phải do nhiều yếu tố kết hợp lại mà thành, lấy Australia
làm ví dụ, có thể thấy rằng 16 năm qua nước này luôn có tài khoản thâm hụt mặc dù
nền kinh tế luôn tăng trưởng.
Do đó phải xem xét vấn đề kỹ hơn trên nhiều góc độ:
+ Tài khoản vãng lai thặng dư hay thâm hụt thể hiện chủ yếu phụ thuộc vào chênh
lệch giữa giá trị hàng hoá dịch vụ xuất - nhập khẩu do đó không nhất thiết nó là
thông tin tốt hay xấu đối với thị trường bởi một quốc gia có thể dùng hàng nhập
khẩu để sản xuất trong một thời kỳ rồi sau đó sẽ tung ra xuất khẩu.
+ Tài khoản vãng lai còn có thể hiểu là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư quốc gia
(cả của chính phủ và tư nhân), tài khoản vãng lai thâm hụt có thể cho thấy quốc gia
đó đang gia tăng đầu tư cho những dự án có ích cho nền kinh tế: đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng, cho vay để xây dựng các cơ sở sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước và
xuất khẩu…
+ Do một số nước nhập khẩu để sản xuất các hàng hoá xuất khẩu nên cán cân thanh
toán có thể thâm hụt trong hiện tại nhưng trong tương lai có thể sẽ lại thặng dư.
Việc một quốc gia nên hay không nên duy trì tài khoản vãng lai thâm hụt là tùy
thuộc vào cơ cấu kinh tế, định hướng tăng trưởng và phát triển của quốc gia đó. Do
vậy nếu một nước duy trì tình trạng thâm hụt bền vững, như trường hợp Australia,
thì điều này không tạo ra tác động xấu. Tuy nhiên nếu quốc gia này bị khủng hoảng
tài chính nó có thể sẽ phải chịu ảnh hưởng xấu từ tài khoản vãng lai thâm hụt khi
khu vực tài chính cứ ồ ạt rút vốn như từng xảy ra tại Mexico 1995 và Thái Lan
1997.
21
Tóm lại, chúng ta cần quan tâm đến tất cả các chỉ số trong nền kinh tế và đánh
giá tình hình trước khi đánh giá ảnh hưởng của tài khoản vãng lai, vì số liệu này có
thể đem đến cái nhìn sai lệch về tình hình kinh tế của một quốc gia.
Cán cân tài khoản vãng lai của một quốc gia có thể ảnh hưởng đáng kể đến
nền kinh tế của quốc gia đó, việc xác định và điều phối các yếu tố ảnh hưởng đến
cán cân tài khoản vãng lai rất quan trọng. Các yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất là:
(cid:1) Ảnh hưởng của lạm phát: Nếu một quốc gia có tỷ lệ lạm phát tăng so với các
quốc gia có quan hệ mậu dịch, thì tài khoản vãng lai của quốc gia này sẽ giảm
nếu các yếu tố khác bằng nhau. Bởi vì người tiêu dùng và doanh nghiệp trong
nước hầu như sẽ mua hàng nhiều hơn từ nước ngoài (do lạm phát trong nước
cao), trong khi xuất khẩu sang nước khác sẽ sụt giảm.
(cid:1) Ảnh hưởng của thu nhập quốc dân: Nếu mức thu nhập của một quốc gia
(thu nhập quốc dân) tăng theo một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ tăng của các quốc gia
khác, tài khoản vãng lai của quốc gia đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng
nhau. Do mức thu nhập thực tế (đã điều chỉnh do lạm phát) tăng, mức tiêu thụ
hàng hóa tăng. Một tỷ lệ gia tăng trong tiêu thụ hầu như sẽ phản ánh một mức
cầu gia tăng đối với hàng hóa nước ngoài.
(cid:1) Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái: Nếu đồng tiền của một nước bắt đầu tăng giá
so với đồng tiền của nước khác, tài khoản vãng lai của nước đó sẽ giảm nếu
các yếu tố khác bằng nhau. Hàng hóa xuất khẩu từ nước này sẽ trở nên mắc
hơn đối với các nước nhập khẩu nếu đồng tiền họ mạnh. Kết quả là nhu cầu
hàng hóa sẽ giảm. Ngược lại, nếu đồng nội tệ của một quốc gia giảm giá thì sẽ
có tác dụng khuyến khích làm tăng xuất khẩu của quốc gia đó bởi vì đồng nội
tệ giảm giá sẽ làm hàng hóa xuất khẩu từ quốc gia đó trở nên rẻ hơn trước đối
với người nước ngoài.
(cid:1) Ảnh hưởng của các biện pháp hạn chế của chính phủ: Nếu chính phủ của
một quốc gia đánh thuế trên hàng nhập khẩu, giá của hàng nước ngoài đối với
người tiêu dùng tăng trên thực tế. Ngoài việc áp dụng các biện pháp hạn chế,
chính phủ cũng có các cách khác có thể ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng
22
lai. Các chính sách tiền tệ và tài khóa có thể ảnh hưởng đến các biến số kinh tế
như mức lạm phát và thu nhập, và các biến số này lại tác động đến cán cân tài
khoản vãng lai. Ngoài ra, chính phủ có thể trợ cấp cho một số các doanh
nghiệp, nhờ đó có thể tăng cường tiềm năng xuất khẩu của các doanh nghiệp
này.
(cid:1) Sự tương tác của các yếu tố: Để đơn giản hóa, tác động của mỗi yếu tố kinh
tế và hạn chế của chính phủ đã được đánh giá riêng lẻ, không tính tới các yếu
tố khác. Các yếu tố vừa được trình bày tác động lẫn nhau, vì vậy ảnh hưởng
đồng thời của chúng đối với cán cân mậu dịch rất phức tạp.
1.3 LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN VỀ THU HÚT KIỀU
HỐI ĐỂ CẢI THIỆN CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI 1.3.1 Tổng quan các nghiên cứu về kiều hối
Theo bài viết tổng hợp của Nguyễn Đức Thành (2008) đã cho thấy sự tăng
trưởng nhanh chóng về các nghiên cứu thực nghiệm cũng như lý thuyết về kiều hối
đã tạo nên một nhánh kinh tế học vĩ mô về kiều hối. Hệ thống hóa nội dung trong
nhánh lý thuyết này cho thấy kiều hối tạo ra hiệu ứng vừa tích cực vừa tiêu cực đến
nền kinh tế.
Bouhga-Hagbe (2004) nhận xét: “Các nghiên cứu về kiều hối có thể được chia
làm hai mảng: mảng thứ nhất tập trung nghiên cứu động cơ gửi và cách sử dụng
kiều hối, mảng thứ hai tập trung vào đánh giá tác động vĩ mô của kiều hối.” Nói
cách khác, kinh tế học về kiều hối cũng được chia thành hai nhánh, kinh tế học vi
mô và vĩ mô về kiều hối như trong kinh tế học nói chung.
Trong mảng kinh tế học vĩ mô về kiều hối, theo nghiên cứu tổng kết của
Rapoport & Docquier (2005), các tác giả phân biệt cách tiếp cận ngắn hạn và dài
hạn.
Các tác động ngắn hạn có thể được xét xét một cách đơn giản nhất thông qua
khuôn khổ lý thuyết Keynes. Theo cách tiếp cận này, lượng kiều hối được bơm vào
nền kinh tế có thể đóng vai trò như một cú sốc tăng chi tiêu trong các mô hình
truyền thống. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế mở, khi ta có thể áp dụng mô
23
hình Mundel-Flemming dạng đơn giản với giá cả cố định và một hàng hoá hỗn hợp
(composite good), kết quả của cú sốc kiều hối có thể không đơn giản. Có thể thấy là
tác động tổng hợp của bất cứ cú sốc nào từ phía cầu (kể cả kiều hối) phụ thuộc vào
mức độ linh hoạt của dòng vốn quốc tế và chế độ tỷ giá hối đoái. Ví dụ, trong
trường hợp dòng vốn hoàn toàn tự do di chuyển đi liền với chế độ hối đoái hoàn
toàn thả nổi, kiều hối đổ vào trong nước một mặt kích thích tổng cầu, một mặt có
tác dụng nâng giá đồng nội tệ. Việc nâng giá làm giảm xuất khẩu ròng, khiến tổng
cung suy giảm và hướng tới cân bằng với phần được tạo ra nhờ sức mua của kiều
hối, kéo tổng sản lượng trở lại vị trí ban đầu.
Kiều hối cũng có thể dẫn tới thay đổi trong mức giá cả tương đối giữa các loại
hàng hoá khác nhau, và do đó là sự tái phân bổ các nguồn lực, đến lượt nó sự thay
đổi này lại có thể tác động đến các nhóm xã hội khác nhau ở những mức độ khác
nhau. Do đó, tác động của kiều hối có thể trở nên phức tạp.
Xét trên góc độ dài hạn hơn, vai trò của kiều hối đối với phát triển dài hạn đã
tạo những cuộc tranh luận trong suốt vài thập kỷ qua. Điểm chính yếu ở đây là
người tiếp nhận kiều hối sử dụng khoản tiền nhận được cho tiêu dùng trực tiếp hay
là cho đầu tư sản xuất trong tương lai. Tác giả chỉ ra rằng bên cạnh các quan điểm
bi quan về cách sử dụng phi sản xuất của kiều hối, có nhiều lý do để tin rằng di cư
lao động quốc tế và kiều hối có tác dụng tháo gỡ những khó khăn về nguồn lực ở
các nước nhận kiều hối, như các hạn chế về tín dụng, tài chính, về tư bản con người
và tinh thần doanh nghiệp (entrepreneurship). Các tác giả cũng cho rằng kiều hối có
thể góp phần làm giảm bất bình đẳng trong thu nhập và thông qua đó đóng góp vào
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ngoài ra, trong số nhiều mối quan tâm và quan điểm rất khác nhau, người ta
có thể tạm thời chia ra ba nhóm quan điểm:
Nhóm thứ nhất bao gồm các tác giả lạc quan về vai trò của kiều hối. Ví dụ,
Adams & Page (2003) phát hiện ra rằng cả quy mô di cư quốc tế (được đo bằng tỷ
trọng dân số sống ở nước ngoài) và quy mô kiều hối gửi về (được đo bằng tỷ lệ của
lượng kiều hối trên GDP) đều có tác động đáng kể trong việc xoá đói giảm nghèo ở
24
các nước đang phát triển. Ratha (2003) thừa nhận kiều hối là nguồn tài chính tăng
trưởng nhanh, quy mô lớn và ổn định (ít phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế). Nhờ những
đặc điểm đó, tác giả đặt nhiều kỳ vọng vào kiều hối với tư cách một nguồn tài chính
hữu hiệu cho phát triển. Giuliano và Ruiz-Arranz (2005) lập luận rằng kiều hối có
thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhờ đóng vai trò như một nguồn thay thế cho
nguồn tín dụng trên thị trường nội địa. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của họ cho
thấy ảnh hưởng tăng trưởng của kiều hối phát huy tác dụng rõ nhất ở các nền kinh tế
có thị trường tài chính còn kém phát triển.
Nhóm thứ hai, tập trung vào khía cạnh tiêu cực của kiều hối. Chami,
Fullenkamp và Jahjah (2005) cho rằng vì kiều hối không tuân theo hành vi lợi
nhuận (như FDI), nên tác động của nó đối với tăng trưởng có thể không tích cực
như nhiều nguời thường nghĩ. Lập luận của họ dựa trên một mô hình kinh tế vi mô
cho phép người ta dự đoán hành vi của hộ gia đình tiếp nhận kiều hối. Tiếp đó,
nhóm tác giả sử dụng số liệu dữ liệu bảng cho 113 nước trong quãng thời gian 19
năm để kiểm định giả thuyết của họ. Ngay cả niềm tin truyền thống rằng các kiều
hối thường đối nghịch với các vận động chu kỳ và do đó đóng vai trò như một nhân
tố bình ổn (stabilizer) cũng bị thách thức. Thông qua việc sử dụng số liệu dữ liệu
bảng bao gồm số liệu của 87 nước đang từ năm 1970 đến 2000, Buch và Kuckulenz
(2004) phát hiện ra rằng các kiều hối thực ra có đặc điểm khá tương đồng với các
dòng vốn khác (như FDI và ODA), nhưng về tổng thể kiều hối ổn định hơn.
Nhóm thứ ba bao gồm những người thận trọng với tác động hai chiều, hỗn hợp
của kiều hối. Glytsos (2002) đã phát triển một mô hình kiểu Keynes để nghiên cứu
các hiệu ứng vĩ mô của kiều hối. Kết quả cho thấy ảnh hưởng của kiều hối mang
tính hỗn hợp và phụ thuộc vào đặc điểm của từng nước. Kapur (2003) thảo luận về
những ảnh hưởng có thể của kiều hối trên cả hai mặt kinh tế và chính trị. Trên khía
cạnh kinh tế, tác giả này lưu ý cả hai mặt tiêu cực và tích cực có thể, ở những tầng
bậc khác nhau (hộ gia đình, cộng đồng và quốc gia). Drinkwater et al. (2003) đánh
giá tác động của kiều hối lên thị trường lao động bằng cách liên kết hai hiệu ứng
ngược chiều nhau: thứ nhất là hiệu ứng kiểu “căn bệnh Hà Lan,” hay giả thuyết cho
25
rằng kiều hối đóng vai trò một loại bảo hiểm thất nghiệp và do đó làm tăng tỷ lệ thất
nghiệp; thứ hai là hiệu ứng được cho là tích cực của kiều hối, nghĩa là kiều hối giúp
nới lỏng ràng buộc tín dụng và do đó tạo công ăn việc làm. Tác động tổng hợp phụ
thuộc vào việc hiệu ứng nào lấn át được hiệu ứng còn lại.
Theo bài viết tổng hợp các lý thuyết kinh tế vĩ mô về kiều hối của Nguyễn
Đức Thành (2008) thì vai trò của kiều hối vẫn đang là một đề tài thú vị cho các cuộc
tranh luận của giới nghiên cứu. Rất khó có thể kết luận là kiều hối thuần tuý tốt hay
thuần tuý xấu. Do đó, các nghiên cứu thực nghiệm có ý nghĩa rất quan trọng trong
từng tình huống cụ thể.
1.3.2 Những nghiên cứu gần đây về kiều hối tại Việt Nam
Nhận thức được vai trò của kiều hối đối với nền kinh tế Việt Nam và quy mô
ngày càng lớn của kiều hối, các cơ quan chức năng và giới nghiên cứu ngày càng
quan tâm nhiều hơn đến diễn biến của kiều hối, có thể kể đến các nghiên cứu như
Hernández-Coss (2005), Sakr (2006), Pfau & Giang T. Long (2006), và Nguyễn
Đức Thành (2007), Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2010).
Trong một nghiên cứu về các kênh chuyển kiều hối từ Canada về Việt Nam,
Hernández-Coss (2005) cung cấp một nguồn tham khảo rất tốt giúp chúng ta hiểu
biết không những về việc chuyển kiều hối từ Canada, mà còn, ở một mức độ nào
đó, hệ thống chuyển kiều hối vào Việt Nam nói chung. Theo nghiên cứu này, hệ
thống chuyển tiền không chính thức đã và đang đóng một vai trò quan trọng và có
thể cạnh trạnh hiệu quả với hệ thống chuyển tiền chính thức mới chỉ bắt đầu phát
triển mạnh gần đây.
Trong một công trình nghiên cứu, Sakr (2006) sử dụng một mô hình kinh tế
lượng đơn giản để ước lượng những nhân tố chi phối lượng kiều hối chảy về Việt
Nam. Số liệu được sử dụng là chuỗi thời gian cho một số đại lượng vĩ mô từ năm
1999 đến năm 2005. Kết quả hồi quy cho thấy kiều hối có khuynh hướng tăng lên
khi điều kiện kinh tế trong nước và môi trường đầu tư được cải thiện (thể hiện qua
mức GDP trên đầu người và lượng vốn FDI). Ngoài ra, sự cởi mở hơn về các điều
kiện thể chế từ nửa sau thập kỷ 1990 cũng là một nhân tố quan trọng.
26
Nghiên cứu của Pfau và Long (2006) cung cấp nhiều thống kê mô tả hữu ích
về vấn đề kiều hối ở Việt Nam thông qua các bộ số liệu VLSS. Nghiên cứu này cho
thấy sự phân phối của kiều hối trong cả nước. Một vấn đề rất quan trọng nhưng
đồng thời lại rất chưa rõ ràng, là kiều hối được sử dụng như thế nào. Câu trả lời
chính xác cho vấn đề này có thể giúp ích cho việc làm sáng tỏ cuộc tranh luận về
hiệu ứng thực sự của kiều hối đối với đời sống kinh tế. Nghiên cứu của Pfau và
Long (2006) cho thấy 73% lượng kiều hối được phân bổ cho tiêu dùng trực tiếp,
trong khi 14% được dùng cho “xây (và sửa) nhà,” và chỉ có 6% là được dùng cho
“đầu tư” nói chung, tức là kể cả đầu tư cho giáo dục và đầu tư vào sản xuất nông
nghiệp.
Trong nghiên cứu định lượng gần đây, Nguyễn Đức Thành (2007) sử dụng kỹ
thuật mô hình hoá cân bằng tổng thể (CGE) để phân tích tác động của kiều hối lên
nền kinh tế Việt Nam. Kết quả từ nghiên cứu này củng cố quan điểm cho rằng ảnh
hưởng của kiều hối lên nền kinh tế của các nước đang phát triển là phức tạp và pha
trộn nhiều khuynh hướng khác nhau. Trong khi hộ gia đình có khuynh hướng thu
được lợi ích từ việc tăng thêm thu nhập, thì ảnh hưởng lên khu vực sản xuất lại
không rõ ràng như vậy. Vì kiều hối chảy về đủ lớn để gây áp lực lên đồng nội tệ và
thúc đẩy tiêu dùng của một số mặt hàng, xuất hiện sự dịch chuyển trong cấu trúc
của tổng cầu và các nhận tố sản xuất được phân bổ lại. Trong bối cảnh Việt Nam,
khi kiều hối tăng nhanh đi kèm với việc hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế
thế giới, kết quả ước lượng từ nghiên cứu này cho thấy giá của tất cả các nhân tố
đều tăng, trong khi khu vực sản xuất công nghiệp chịu ảnh hưởng lớn nhất và có
khuynh hướng bị thu hẹp (các điều kiện khác không đổi). Điều này hàm ý rằng ảnh
hưởng dài hạn của kiều hối lên mặt cung của nền kinh tế có thể theo chiều hướng
tiêu cực, và có thể lấn át những ảnh hưởng tích cực mang tính ngắn hạn từ phía cầu
nếu kiều hối không được sử dụng cho các mục đích đầu tư.
Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2010) thảo luận về tầm quan trọng của cộng
đồng người Việt ở hải ngoại (Việt Kiều), đây là một nghiên cứu toàn diện kiểm tra
một loạt các tác động phát triển của di cư. Đặc biệt, báo cáo kiểm tra mô hình và
27
hậu quả của di cư quốc tế, và điều tra tác động của di cư đối với xóa đói giảm
nghèo, phát triển kinh tế và xã hội tại Việt Nam. Báo cáo cũng phân tích các chính
sách hiện hành ảnh hưởng đến tác động của việc phát triển của di cư, cũng như cung
cấp các gợi ý làm thế nào để có thể cải thiện đóng góp của những người di cư.
Tuy nhiên, trước thực tế quy mô lượng kiều hối ngày càng tăng nhanh và ảnh
hưởng kinh tế của nó ngày càng rõ ràng, thì số lượng các nghiên cứu định lượng
cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về hiện tượng kinh tế này vẫn còn rất hạn chế. Bên
cạnh những nghiên cứu về tác động của kiều hối trong việc xóa đói giảm nghèo,
kiều hối tác động đến các biến vĩ mô, phát triển kiều hối tại Ngân hàng để gia tăng
dự trữ ngoại hối … nhưng có rất ít nghiên cứu về tác động của kiều hối đến cán cân
tài khoản vãng lai. Đối với trường hợp của Việt Nam, kiều hối có tác động đến cán
cân tài khoản vãng lai hay không? Thâm hụt tài khoản vãng lai đang là vấn đề cần
quan tâm hiện nay đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong cấu trúc của cán cân tài
khoản vãng lai, kiều hối là một trong những nhân tố, nếu kiều hối có tác động đến
cán cân tài khoản vãng lai thì liệu việc phát triển và thu hút lượng kiều hối có thể
cải thiện cán cân tài khoản vãng lai tại Việt Nam hay không?
1.3.3 Lý thuyết và nghiên cứu về thu hút kiều hối để cải thiện cán cân tài
khoản vãng lai
Mohammad Abdul Hannan Pradhan, Sabiha Afrin, Mohammad Rafiqul Islam
(2012) về đóng góp của kiều hối đối với cán cân tài khoản vãng lai tại Bangladesh:
sử dụng mô hình VECM đã chứng minh có mối tương quan tích cực giữa kiều hối
và cán cân tài khoản vãng lai, cho rằng kiều hối có thể đóng vai trò quan trọng trong
việc giảm thiểu thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Ngoài ra khi xem xét mối liên
hệ giữa kiều hối và tăng trưởng kinh tế cũng cho thấy kết quả tích cực về tác động
của kiều hối đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Những kết quả này có ý nghĩa
quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách. Hiện nay, những kiều hối được
sử dụng rộng rãi để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các thành viên gia đình trong
nước hơn là hướng vào các hoạt động trực tiếp sản xuất. Ghi nhận tỷ lệ đáng kể kiều
28
hối chuyển qua kênh không chính thức. Tác giả cũng kiến nghị một số giải pháp để
thu hút kiều hối nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của Bangladesh.
Bugamelli và Paternò (2005) cho rằng kiều hối có thể giúp làm ổn định cán
cân vãng lai của các nền kinh tế mới nổi, và nhờ thế giúp giảm khả năng tháo lui tư
bản ồ ạt ở các nước này. Theo những phát hiện của tác giả, kiều hối làm giảm xác
suất đảo chiều của cán cân tài khoản vãng lai gây ra bởi sự gia tăng về nợ nước
ngoài hoặc dự trữ ngoại hối giảm. 1.4 KINH NGHIỆM VỀ THU HÚT KIỀU HỐI ĐỂ CẢI THIỆN CÁN CÂN
TÀI KHOẢN VÃNG LAI TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM:
Theo báo cáo của WB về kiều hối trong năm 2012. Theo đánh giá của cơ quan
này, các nước đang phát triển sẽ nhận được khoảng 406 tỷ USD kiều hối (tăng
+6.5% so với năm 2011). Dẫn đầu danh sách này là Ấn Độ với 70 tỷ USD, tiếp theo
là Trung Quốc (66 tỷ USD), Philippines, Mexico (24 tỷ USD) và Nigeria (21 tỷ
USD). Điều này cho thấy các quốc gia đã tiếp nhận được một nguồn vốn khổng lồ
từ kiều hối. Vậy các quốc gia đã thực hiện những giải pháp nào để thu hút một
lượng vốn lớn với chi phí thấp.
1.4.1 Tại Ấn Độ
Khi Ấn Độ chuyển từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghệ cao,
nhiều Ấn kiều đã tìm thấy ở quê nhà cái đã khiến họ ra đi: cơ hội kinh tế.
Năm 2000, Chính phủ Ấn Độ thành lập Ủy ban cấp cao để nghiên cứu phương
cách cải thiện quan hệ với cộng đồng Ấn kiều. Từ năm 2003, Ấn Độ thường xuyên
tổ chức ngày Ấn kiều để các bộ, ngành đối thoại và thu hút đầu tư của người Ấn.
Năm 2004, Ấn Độ thành lập Bộ các vấn đề Ấn kiều, để thường xuyên xử lý những
mối quan tâm của Ấn kiều. Ấn Độ còn xây dựng nhiều thành phố dành riêng cho
Ấn kiều khắp cả nước. Thái độ thiện chí của chính phủ Ấn Độ chẳng mấy chốc đã
nhận được sự trả lời tích cực từ phía Ấn kiều. Trong một thập niên sau khi cải cách
kinh tế và cải thiện quan hệ với cộng đồng Ấn kiều, Ấn Độ đã nhận một lượng kiều
hối lên tới 154 tỷ USD, cao gấp rưỡi Trung Quốc.
29
Thế mạnh lớn nhất của Ấn kiều chính là nguồn chất xám. Bằng chứng rõ rệt
nhất là vô số người Ấn đang làm việc tại Silicon Valley, trung tâm công nghệ cao
của thế giới. Nhờ sự thay đổi thái độ từ trong nước, rất nhiều tài năng công nghệ
gốc Ấn đã lần lược rời bỏ Silicon Valley, để về nước tiếp “nhiên liệu” cho cuộc
bùng nổ công nghệ cao đang diễn ra. Cụ thể, một tỷ phú của tập đoàn Gôgle là Ram
Shriram đang cấp vốn cho nhiều doanh nghiệp Ấn Độ. Người sáng lập Hotmail là
Sabeer Bhatia có kế hoạch đầu tư 2 tỷ USD vào một dự án hạ tầng ở Haryana, mà
ông tin rằng sẽ là Silicon Valley thứ hai của thế giới.
Hiện nay 20 công ty phần mềm của Ấn Độ đang được hỗ trợ bởi các Ấn kiều ở
khắp nơi trên thế giới, nền công nghệ thông tin đã trở thành mũi nhọn kinh tế của
Ấn Độ, có khả năng canh tranh toàn cầu. Cùng trở về với chất xám là nguồn vốn
khổng lồ của các Ấn kiều. Khi quan hệ giữa Ấn kiều và chính phủ chưa được cải
thiện, 20 triệu Ấn kiều với thu nhập bình quân 160 tỷ USD mỗi năm, chỉ gửi về quê
4 tỷ USD. Nhưng lượng kiều hối đã tăng lên nhanh chóng theo nhịp trở về nước của
Ấn kiều để kinh doanh: 11 tỷ USD năm 1995, 22 tỷ USD năm 2005, 24,5 tỷ USD
năm 2006 và 27,5 tỷ USD năm 2007. Thêm vào đó, năm 2005, Ấn kiều cũng đã gửi
32 tỷ USD tiết kiệm vào các ngân hàng Ấn Độ để hưởng lãi suất ưu đãi. Số vốn
này, bằng 23% dự trữ ngoại tệ của Ấn Độ, giúp cân bằng cán cân thương mại và
ngăn chặn lạm phát hiệu quả.
Ngày nay, những Ấn kiều thành đạt thường có xu hướng thiết lập mối liên hệ
chặt chẽ với chính quyền trong nước, để hợp tác trong các lĩnh vực y tế, giáo dục,
đào tạo và nghiên cứu khoa học. Chính những con người này đã trực tiếp thu nhận
kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh, khoa học công nghệ tiên tiến ở bên ngoài
và khi trở về nước, họ trở thành “vũ khí tối thượng” của chính phủ Ấn Độ trong nỗ
lực đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế và đưa thương hiệu quốc gia ra quy mô
toàn cầu.
1.4.2 Tại Trung Quốc
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc hiện nay có sự đóng góp
không nhỏ của bộ phận người Hoa sống ở nước ngoài.
30
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã trở thành địa điểm hấp dẫn cho các
nhà doanh nghiệp gốc Hoa ở các nước Đông Nam Á, bởi lẽ họ có lợi thế về ngôn
ngữ, nền văn hóa, cũng như tạo lập mối quan hệ với chính quyền địa phương. Tại
đây các Hoa kiều được chính phủ Trung Quốc tạo nhiều ưu đãi như giá thuê đất
thấp, giảm tiền điện, thuế kinh doanh thấp, cho vay vốn để kinh doanh lúc ban đầu
… Chính phủ Trung Quốc tổ chức những buổi họp mặt để tuyên dương, để nghe
những nguyện vọng, những suy nghĩ của những Hoa kiều hồi hương, qua đó có
những điều chỉnh phù hợp. Nhưng chất xúc tác quan trọng nhất chính là vấn đề lợi
nhuận, với một thị trường tiêu dùng lớn mạnh, ngày càng có nhiều doanh nhân gốc
Hoa đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc, tại thị trường đang rất sôi động này có nhiều
cơ hội thành công hơn.
Vơi sự hồi hương của đông đảo Hoa kiều cũng như sự gia tăng mạnh mẽ luồng
đầu tư trực tiếp của các Hoa kiều, kiều hối của Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ trong
những năm gần đây. Cụ thể năm 2012 là 60,24 tỷ USD - đứng thứ ba khu vực Đông
Nam Á về nhận kiều hối. 1.4.3 Tại Philippines
Thu hút kiều hối chiếm tới 10% GDP, cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường
các biện pháp kích thích chi tiêu và kiên quyết thanh lọc bộ máy nhà nước ngay ở
những cấp cao nhất để gây dựng niềm tin vào một chính phủ trong sạch, Philippines
đang tạo ra một sự tăng trưởng kinh tế đáng ngạc nhiên giữa cơn khủng hoảng kinh
tế toàn cầu.
Gần đây sự tăng trưởng chậm của kinh tế các nước thành viên Tổ chức các nền
kinh tế lớn mới nổi BRIC - gồm Brasil, Nga (Russia), Ấn Độ (India), Trung
Quốc(China) - đang đe dọa tiếp tục đè nặng lên tình hình kinh tế toàn cầu. Tuy
nhiên, trong quý đầu của năm 2012, kinh tế Philippines lại đạt mức tăng nhanh nhất
kể từ năm 2010, tăng 6,4%, vượt xa so với dự báo là 3,5% từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Nguồn kiều hối đổ về mạnh cộng với việc ngày càng nhiều các công ty nước ngoài
thuê người Philippines đảm nhận dịch vụ chăm sóc khách hàng từ xa giúp nước này
31
giữ được sự ổn định trước những nguy cơ gây ra do việc nền kinh tế thế giới xuống
dốc.
Ước tính có tới 11% dân số của đất nước 92 triệu dân này đang làm việc ở
nước ngoài. Và lượng kiều hối hiện chiếm khoảng 10% trong tổng GDP 225 tỷ
USD vào năm 2011. Người Philippines đi ra nước ngoài để làm việc và điều này
góp phần bảo vệ nền kinh tế quốc gia trước những khó khăn.Trung Đông thu hút
nhiều lao động Philippines nhất, với 61%, tiếp theo là Châu Á với 27% và 6% tới
Châu Âu. Hơn nữa, những người đi xuất khẩu lao động thường chọn làm người giúp
việc, y tá hoặc kỹ thuật viên, đều là các công việc ít bị tác động từ suy thoái kinh tế.
Người Philippines sẵn sàng làm các công việc mà người phương Tây, bị tác động
bởi sự già hóa dân số, không muốn đảm nhận.
Bị thu hút bởi những công việc làm được trả lương cao hơn ở nước ngoài,
khoảng 8 triệu người Philippines đã xuất ngoại với gần 1 triệu người tìm việc ở
nước ngoài mỗi năm. Lượng kiều hối do những công nhân này gửi về nước đóng
vai trò hết sức quan trọng trong việc hỗ trợ nền kinh tế khan hiếm tiền mặt của
Phillipines và sự gia tăng lượng tiền gửi đã góp phần đẩy giá peso Philippines lên.
Theo NHTW Philippines, sở dĩ lượng tiền kiều hối tăng ổn định là do số người
Philippines lao động ở nước ngoài tăng. Ngoài ra việc triển khai những công nhân
có tay nghề cao hơn, tiền lương cao hơn cũng là một lý do khiến lượng kiều hối gia
tăng. Đa số các khoản tiền được gửi từ Mỹ, Arab Saudi, Nhật Bản, Hồng Kông,
Anh, các Tiểu Vương quốc Arab Thống Nhất và Singapore.
Một lĩnh vực khác cũng góp phần không nhỏ là việc phát triển các trung tâm
chăm sóc khách hàng. 10 năm qua Ấn Độ là nước đi đầu trong lĩnh vực này, nhưng
hiện họ đã mất vị trí số một vào tay Philippines. Công việc này được trả lương khá
hậu, đảm bảo cho người lao động sau một vài năm làm việc có thể mua được một
căn chung cư cao tầng với thị trường bất động sản đang bùng nổ ở Manila. Khi các
nền kinh tế phát triển tìm cách cắt giảm chi phí, họ thường chọn phương án chuyển
dịch vụ hỗ trợ sang các quốc gia nói tiếng Anh ở châu Á.
32
Năm 2011, lượng kiều hối mà người lao động Philippines gửi về thông qua
các ngân hàng chính thức 20,1 tỷ. Năm 2012 là 24,45 tỷ USD – đứng đầu khu vực
Đông Nam Á, đứng thứ ba thế giới về thu hút kiều hối, sau quán quân Ấn Độ (69,
35 tỷ USD) và Trung Quốc (60,24 tỷ USD). Kiều hối chảy về Philippines chủ yếu
từ các nước như Mỹ (chiếm 42,6%), Canada (9,2%), Ảrập Xêút (8,1%), Anh (5%),
Nhật Bản (4,7%), các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (4,5%) và Singapore
(4,1%).
1.4.4 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ kinh nghiệm thu hút kiều hối của Ấn Độ, Trung Quốc, Philippine và động
cơ chuyển tiền của kiều bào, ta có thể thấy chỉ cần người dân chuyển kiều hối vào
đầu tư và chỉ cần hệ thống ngân hàng thu hút được tiền kiều hối để chuyển vào đầu
tư sản xuất, kinh doanh thì có thể cải thiện cán cân tài khoản vãng lai. Các quốc gia
như Ấn Độ, Trung Quốc và Philippine đã làm được điều đó.
Ấn Độ xuất khẩu lao động làm việc trong những lĩnh vực đòi hỏi có hàm
lượng chất xám cao, chính sách thu hút Ấn kiều gửi tiết kiệm vào các Ngân hàng
với lãi suất ưu đãi giúp cân bằng cán cân thương mại và ngăn chặn lạm phát hiệu
quả. Ấn kiều thiết lập mối liên hệ chặt chẽ với chính quyền trong nước, để hợp tác
và đầu tư trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Trung Quốc thu hút các nhà doanh nghiệp gốc Hoa ở các nước Đông Nam Á,
với lợi thế về ngôn ngữ, nền văn hóa, cũng như tạo lập mối quan hệ với chính quyền
địa phương đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc, điều này có thể cải thiện cán cân thanh
toán của Trung Quốc từ đó cải thiện cán cân tài khoản vãng lai.
Philippine quyết tâm cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường các biện pháp kích
thích chi tiêu và kiên quyết thanh lọc bộ máy nhà nước ngay ở những cấp cao nhất
để gây dựng niềm tin vào một chính phủ trong sạch, triển khai những công nhân có
tay nghề cao hơn, tiền lương cao hơn cũng là một lý do khiến lượng kiều hối gia
tăng.
Tóm lại, kiều hối có thể tác động cải thiện cán cân tài khoản vãng lai hay
không còn phụ thuộc vào chính sách thu hút kiều hối của các quốc gia và việc định
33
hướng kiều hối này vào những mục đích khác nhau như tiêu dùng, đầu tư vào sản
xuất kinh doanh, đầu tư vào con người trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, tiết kiệm
hưởng chênh lệch lãi suất hay đầu cơ vào những lĩnh vực rủi ro như thị trường bất
động sản, vàng, … Chỉ khi kiều hối đi vào các lĩnh vực đầu tư sản xuất kinh doanh
mới có thể đem lại nguồn lực để phát triển, tăng trưởng kinh tế và cải thiện cán cân
tài khoản vãng lai.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Như vậy, trong chương đầu của bài nghiên cứu, tác giả đã hệ thống, tổng hợp
những lý thuyết, cơ sở lý luận về kiều hối và cán cân tài khoản vãng lai. Thông qua
cơ sở lý luận, tác giả cũng tìm hiểu và khái quát những yếu tố tác động đến việc thu
hút kiều hối, thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Ngoài ra, kết quả của những công
trình nghiên cứu trước đây cũng đưa ra một số bằng chứng về tầm quan trọng của
kiều hối đối với nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội và mối quan hệ giữa kiều hối đối với
cán cân tài khoản vãng lai.
Trong chương tiếp theo, tác giả sẽ tiến hành phân tích kiểm định giả thiết
nghiên cứu về mối quan hệ cũng như tác động của kiều hối đến cán cân tài khoản
vãng lai từ đó trả lời cho câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra.
34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THU HÚT KIỀU HỐI ĐỂ CẢI THIỆN CÁN
CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI TẠI VIỆT NAM
2.1 XU HƯỚNG KIỀU HỐI TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1.1 Theo khu vực
Theo báo cáo của WB, Migration and Development Brief 19, (November,
2012), kiều hối chính thức được ghi nhận đối với các quốc gia đang phát triển ước
tính lên đến 406 tỷ USD trong năm 2012, tăng trưởng 6.5% so với năm 2011. Kiều
hối dự kiến sẽ tăng 8% trong năm 2013 và 10% năm 2014 dự kiến sẽ lên đến 534 tỷ
USD vào năm 2015. Quy mô của kiều hối bao gồm cả kênh chính thức và không
chính thức lớn hơn đáng kể, so sánh với dòng vốn tư nhân, kiều hối cho thấy khả
năng phục hồi đáng kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu – đánh dấu sự sụt
giảm nhẹ vào năm 2009, sau đó phục hồi nhanh chóng. Quy mô của kiều hối đến
các nước đang phát triển hiện nay gấp 3 lần so với nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức.
Biểu đồ 2.1: Kiều hối và các dòng tiền khác chảy vào các nước đang phát triển
giai đoạn 1990 – 2015
“Nguồn: Báo cáo “Migration and Development Briefcase 19” của WB [43]”
35
Nhìn chung, kiều hối đã tăng trưởng với một tốc độ nhanh hơn tại bốn trong
sáu khu vực đang phát triển trong năm 2011 so với dự báo trước đó, ngoại lệ ở châu
Mỹ Latinh và vùng Ca-ri-bê và Trung Đông và Bắc Phi (Bảng 2.1). Kiều hối Mỹ La
tinh và vùng Ca-ri-bê được ước tính đã tăng 2.9% trong năm 2012 sau tăng trưởng
gần như bằng phẳng trong những năm trước. Dòng chảy đến các quốc gia ở châu Á
có được nhờ giá dầu cao và gia tăng các luồng kiều hối từ Nga sang Trung Á và từ
Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (Gulf Cooperation Council) (GCC) đến các nước
Nam và Đông Á. Kiều hối đến Đông Á và Thái Bình Dương ước tính đã tăng 7,2%
trong năm 2012, Đông Âu và Trung Á giảm 0.9%, và Nam Á tăng 12.5%. Sự mất
giá của các đồng tiền của một số nước tiếp nhận kiều hối lớn (bao gồm Mexico, Ấn
Độ và Bangladesh) đã khuyến khích động cơ gửi kiều hối để tận dụng lợi thế của
"hiệu ứng kinh doanh" đối với tài sản địa phương. Mặc dù cuộc khủng hoảng ở Bắc
Phi và tình hình kinh tế khó khăn ở châu Âu, dòng chảy đến châu Phi hạ Sahara
được ước tính tăng trưởng 0% trong năm 2012.
Bảng 2.1: Ước tính và dự báo kiều hối đến các quốc gia đang phát triển.
Đơn vị tính: Tỷ USD
2009
2010
2011
2012
316
341
381
406
Các quốc gia đang phát triển
85
95
106
114
Đông Nam Á và Thái Bình Dương
37
37
41
41
Châu Âu và Trung Á
57
58
62
64
Châu Mỹ Latin và Caribe
34
41
43
47
Trung Đông và Bắc Phi
75
82
97
109
Nam Á
28
29
31
31
Châu Phi cận Saharan
23
25
27
30
Các quốc gia kém phát triển (theo
phân loại của Liên Hiệp Quốc)
21
23
28
32
Quốc gia có thu nhập thấp
294
318
353
374
Quốc gia có thu nhập trung bình
119
121
133
128
Quốc gia có thu nhập cao
534
435
462
513
36
Thế giới
6.5%
-4.8%
8.0%
11.7%
Tỷ lệ tăng trưởng
7.2%
1.8%
10.9%
12.3%
Các quốc gia đang phát triển
-19.4%
0.0%
13.1%
-0.9%
Đông Nam Á và Thái Bình Dương
2.9%
-11.8%
0.9%
7.3%
Châu Mỹ Latin và Caribe
8.4%
-6.2%
20.8%
6.3%
Trung Đông và Bắc Phi
4.8%
9.5%
17.7%
12.5%
Nam Á
6.7%
4.9%
6.8%
0.0%
Châu Phi cận Saharan
1.4%
4.5%
11.1%
10.9%
Các quốc gia kém phát triển (theo
phân loại của Liên Hiệp Quốc)
3.4%
9.7%
17.8%
16%
Quốc gia có thu nhập thấp
-5.3%
7.9%
11.2%
5.8%
Quốc gia có thu nhập trung bình
-10.8%
1.7%
9.2%
-3.5%
Quốc gia có thu nhập cao
-6.5%
6.3%
11.0%
3.9%
Thế giới
“Nguồn: Báo cáo “Migration and Development Briefcase 19” của WB [43]”
Trong số các nước trong khu vực đang phát triển, kiều hối được chuyển đến
Nam Á (SA) và Trung Đông và Bắc Phi (MENA) có sự tăng trưởng mạnh nhất, chủ
yếu là do hoạt động hợp tác kinh tế mạnh mẽ với các quốc gia thuộc Hội đồng hợp
tác vùng Vịnh (GCC) (Bảng 2.1). Năm 2011, phong trào mùa xuân Ả rập (Arab
Spring) làm sụt giảm kiều hối về Trung Đông và châu Phi do lao động chạy khỏi
các nước như Libya. Ai Cập là trường hợp ngoại lệ với mức tăng 14%, tăng từ 6,2
tỷ USD lên 14 tỷ USD. Lý do được cho là một bộ phận người dân trở về định cư
trong nước cùng với khoản tiết kiệm của họ.
Kiều hối chuyển về châu Mỹ Latinh và Ca-ri-bê (LAC) đã được hỗ trợ bởi sự
phục hồi của nền kinh tế và sự cải thiện mạnh mẽ trong thị trường lao động tại Mỹ
nhưng lại bị kiểm soát gắt gao bởi sự suy yếu của nền kinh tế châu Âu. Các nước
trong Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) láng giềng của Nga cũng hưởng lợi từ
nền kinh tế Nga bùng nổ bởi giá dầu tăng cao. Đông Âu và khu vực châu Á cũng
37
xuất khẩu lao động di cư đến Tây Âu cho thấy kiều hối yếu do lao động sự suy yếu
của thị trường lao động tại các quốc gia này.
Sự tăng trưởng của kiều hối dự kiến sẽ tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian từ
năm 2013 - 2015. WB dự báo sự tăng trưởng của kiều hối vẫn mạnh mẽ đến các khu
vực tuy nhiên điều này còn tùy thuộc vào kiều hối đến từ Mỹ, GCC, và Nga. Chính
sách thù địch và kiểm soát đối với người di cư ở nhiều nước ngày càng khắc nghiệt,
đặc biệt là châu Âu. Điều này có thể ngăn cản dòng chảy của người di cư trong
tương lai và sau đó hệ quả là làm suy yếu kiều hối.
Mỹ là nước có lao động nhập cư đến từ các nước đang phát triển lớn nhất và
cũng là quốc gia chuyển kiều hối lớn nhất. Nền kinh tế Mỹ đã hồi phục đà tăng
trưởng, mặc dù vẫn còn khiêm tốn, sau khi thu hẹp lại trong năm 2008 và 2009. Lao
động nhập cư ở Mỹ đã tăng lên đáng kể và nhanh hơn so với việc làm của lao động
bản địa - từ năm 2009 và đã phục hồi với mức trước khủng hoảng (Biểu đồ 2.3).
Tuy nhiên, Mỹ vẫn ưa chuộng những ngành nghề có tay nghề cao hơn như chăm
sóc sức khỏe và dịch vụ kỹ thuật hơn lao động tay nghề thấp hơn như xây dựng. Dữ
liệu về số lượng về nhà ở bắt đầu cho thấy rằng mặc dù khu vực ngành xây dựng đã
ổn định sau khi chạm đáy trong năm 2009, nhưng vẫn còn thấp xa so với mức trước
khủng hoảng.
Biểu đồ 2.2: Việc làm của người di cư tại Mỹ đang phục hồi, đặc biệt khu vực
lao động có tay nghề cao.
“Nguồn: Báo cáo “Migration and Development Briefcase 19” của WB [43]”
38
Kiều hối đến Mexico, có nguồn gốc chủ yếu từ Mỹ, giảm từ tháng Bảy đến
tháng 9 năm 2012 so với cùng kỳ năm 2011. Tốc độ tăng trưởng của chín tháng đầu
năm là 0% trong bối cảnh điều kiện thị trường lao động ở Mỹ đã cải thiện. Một loạt
các yếu tố có thể góp phần làm chậm lại dòng chảy. Theo Trung tâm Pew Hispanic,
dòng chảy ròng của người di cư từ Mexico sang Mỹ đã đến giới hạn chững lại. Điều
này có thể xảy ra do Mỹ kiểm soát chặt chẽ biên giới phía Nam khiến người nhập
cư từ Mexico giảm và ít công việc ngành xây dựng ở Mỹ.
Tương tự như vậy, tỷ lệ thất nghiệp cao ở châu Âu đã ảnh hưởng tới kiều hối
từ khu vực này. Người di cư đến Tây Ban Nha có tỷ lệ thất nghiệp là 31,5% trong
năm 2011, cao hơn nhiều so với 19,5% của cư dân bản địa (OECD Migration
Outlook 2012). Một so sánh các mức độ công việc hiện tại với quý I năm 2009 cho
thấy rằng tỷ lệ thất nghiệp của dân di cư tăng nhiều ở Pháp, Hy Lạp, Ý, Tây Ban
Nha và Vương quốc Anh so với cư dân bản địa. Ngược lại, tỷ lệ việc làm của người
nhập cư tăng nhanh hơn so với cư dân bản địa tại Đức (và cũng có Úc, Ca-na-đa và
Mỹ).
Sản lượng và việc làm giảm đã làm giảm kiều hối từ những quốc gia chuyển
kiều hối chính ở châu Âu như Anh, Tây Ban Nha, và Ý. Ba Lan, Romania, Bosnia
và Herzegovina – những nước nhận kiều hối lớn từ các nước Tây Âu - cũng cho
nhìn thấy quy mô kiều hối thu hẹp lại. Vào giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng,
người di cư gửi tiền về nhà bằng cách cắt giảm chi phí của riêng mình. Tuy nhiên,
khi cuộc khủng hoảng tiếp tục diễn ra, họ buộc phải giảm số lượng tiền gửi về nhà.
Trong thực tế, bằng chứng cho thấy người lao động có tính di chuyển cao trong khu
vực đồng EUR, chẳng hạn như những người từ Romania và Ba Lan được trở về nhà
với số lượng kiều hối lớn hơn không giống như các công nhân từ châu Phi hay châu
Mỹ La tinh, những người thích ở lại vì sợ rằng họ có thể không có khả năng quay
trở lại.
2.1.2 Theo thu nhập
Khi phân tích xu hướng kiều hối của các quốc gia theo thu nhập, theo dữ liệu báo
cáo của Ngân hàng Thế giới qua các thập kỷ, ta thấy:
39
Bảng 2.2: Kiều hối đến các quốc gia đang phát triển, qua các thập kỷ
Đơn vị tính: Tỷ USD 1980 - 1989 1990 – 1999 2000 - 2009
217 499 1,762 Kiều hối đến các quốc gia đang phát
triển
18 40 132 Các nước kém phát triển
11 21 113 Các nước thu nhập thấp
194 457 1,610 Các nước có thu nhập trung bình
11 21 39 Các nước có thu nhập cao
“Nguồn: UN/DESA, dựa trên dữ liệu được cung cấp bởi WDI Database Online
(http://data.worldbank.org/data-catalog/world-development-indicators)[48]”
Bảng 2.2 cho thấy kiều hối chảy vào các nước đang phát triển ở tất cả các mức thu
nhập đã phát triển theo cấp số nhân từ năm 1980. Lượng kiều hối được nhân đôi
trong thập kỷ 1990-1999 và tăng gấp ba lần trong thập kỷ 1980-1989. Tăng trưởng
kiều hối ở các nước có thu nhập thấp cao hơn gấp năm lần trong 2000-2009 so với
1990-1999, trong khi xu hướng kiều hối cho các nước kém phát triển cũng đã thấy
sự tăng trưởng đáng kể. Tuy nhiên, các quốc gia có thu nhập thấp không nhận được
số lượng lớn kiều hối. Hơn 90% lượng kiều hối tập trung ở các quốc gia có thu nhập
trung bình đã tăng gấp ba lần khối lượng kiều hối nhận được giữa 1990-1999 và
2000-2009.
Các nghiên cứu của Adams (2008) cho thấy rằng một đường cong hình chữ U
ngược tồn tại giữa mức thu nhập bình quân đầu người và kiều hối bình quân đầu
người tại một quốc gia. Với tất cả các yếu tố khác không đổi, mức kiều hối bình
quân đầu người nhận được tại một quốc gia tăng cho đến khi thu nhập bình quân
đầu người khoảng $ 2.200 mỗi năm, và giảm xuống sau đó. Vì vậy, các nước có thu
nhập trung bình nhận được kiều hối quân đầu người nhiều hơn so với các nước có
thu nhập thấp hoặc cao.
40
Bảng 2.3: Nguồn tài chính bên ngoài đến các quốc gia đang phát triển, 2009
FDI (ròng)
ODA
Kiều hối
Tổng
Nhóm thu nhập,
%
%
%
%
%
%
%
%
khu vực và mẫu
GDP
Nguồn
GDP
Nguồn
GDP
Nguồn
GDP
Nguồn
vốn
vốn
vốn
vốn
các quốc gia
bên
bên
bên
bên
ngoài
ngoài
ngoài
ngoài
1.4
14.7
0.3
9.3
1.7
49.0
3.4
100
Tất cả các nước
đang phát triển
0.4
58.1
0.0
0.3
0.3
41.7
0.6
100
Thu nhập cao
1.6
44.2
0.2
6.2
1.8
49.6
3.6
100
Thu nhập trung
bình
1.4
10.6
5.9
43.9
6.1
45.5
13.4
100
Thu nhập thấp
Khu vực
2.6
36.4
2.1
28.6
7.2
2.5
35.0
100
+ Châu Phi
1.4
69.6
0.3
14.8
2.0
0.3
15.5
100
+ Nam Phi
2.7
35.9
2.6
33.8
7.6
2.3
30.3
100
+ Châu phi cận
Sahara
1.2
39.0
0.2
6.5
1.6
54.5
3.0
100
+ Châu Á
0.8
6.0
0.8
6.0
11.8
88.0
13.4
100
+ Bangladesh
1.4
58.5
0.0
1.0
2.4
1.0
40.5
100
+ Trung Quốc
1.5
27.8
12.0
2.2
5.5
3.9
70.0
100
+ Ấn Độ
1.4
18.4
0.8
10.8
7.7
5.4
70.8
100
+ Pakistan
1.0
7.4
0.2
1.1
12.3
91.5
13.5
100
+ Philipine
1.7
52.5
0.1
4.1
1.4
43.3
3.2
100
+ Châu Mỹ
Latinh
và
Caribean
2.3
88.8
0.0
0.8
0.3
10.4
2.6
100
+ Brazil
1.7
8.9
1.2
6.3
16.5
84.3
19.5
100
+ El Salvado
1.0
27.3
0.0
0.5
2.5
72.2
3.5
100
41
+ Mexico
“Nguồn: WorldBank: GDP, FDI, kiều hối; OECD: ODA [48]”
Ngoài ra, bảng 2.3 cho thấy kiều hối cũng quan trọng như nguồn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) tại các quốc gia có thu nhập thấp và nguồn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) tại các quốc gia có thu nhập trung bình. Đối với châu Phi cận
Sahara, vốn ODA, FDI và kiều hối quan trọng như nhau, tương phản với châu Á nơi
nộp tiền chiếm 55% dòng vốn từ bên ngoài, cao hơn so với nguồn vốn FDI (39%)
và nguồn vốn ODA (6%). Tại khu vực Châu Mỹ Latin và Caribean, dòng vốn FDI
chiếm khoảng 53% của dòng vốn từ bên ngoài, tiếp theo là kiều hối (43%) và vốn
ODA (4%). Mặt khác, theo mẫu tại các nước đang phát triển được cung cấp trong
Bảng 2.3, kiều hối là nguồn tài chính quan trọng nhất, ngoại trừ các nước mới nổi
(thu nhập trung bình) như Nam Phi, Brazil và Trung Quốc, nơi có nguồn vốn FDI
quan trọng hơn.
2.1.3 Giá dầu
Một sự tương phản nổi bật với luồng kiều hối yếu từ Tây Âu đó là dòng chảy
từ Nga, nước đã được hưởng lợi từ giá dầu cao trong vài năm qua. Biểu đồ 2.3 cho
thấy rằng luồng kiều hối bên ngoài từ Nga đã theo sát giá dầu. Giá dầu tăng cao
khiến Nga trở thành đích đến cho những người nhập cư từ khu vực CIS. Trong năm
2000, Nga chỉ là nước đơn thuần nhận tiền kiều hối nhưng đến năm 2010 đã trở
thành nước chuyển tiền lớn thứ 4 với lượng kiều hối gần 19 tỷ USD, kiều hối
chuyển đến Armenia, Georgia, Cộng hoà Kyrgyz, Moldova, và Tajikistan ước tính
tăng trưởng vào năm 2012. Kiều hối từ Nga có giá trị lớn hơn 1/5 quy mô kinh tế
Tajikistan. Đây là một sự tương phản với các nước Đông Âu như Serbia, Albania,
Kosovo, và Ru-ma-ni đã cho thấy kiều hối suy giảm hai con số vào năm 2012.
42
Biểu đồ 2.3: Kiều hối từ Nga tăng trưởng theo giá dầu
“Nguồn: Báo cáo “Migration and Development Briefcase 19” của WB [43]”
2.1.4 Sự biến động của đồng tiền ảnh hưởng đến lượng kiều hối
Tỷ giá là một trong những nhân tố chính quyết định xu hướng của kiều hối.
Một sự sụt giảm không mong đợi của đồng bản tệ có thể thúc đẩy một sự đột biến
thông qua “hiệu ứng kinh doanh (sale effect)” khuyến khích người di cư gửi tiền tiết
kiệm của họ để thực hiện những giao dịch lớn như đất đai, nhà ở và các tài sản
khác. Tương tự, nếu đồng bản tệ mạnh có thể làm cho người di cư trì hoãn gửi kiều
hối cho đến khi tỷ giá hối đoái thuận lợi hơn. Đồng USD và EUR đã không còn
được ưa chuộng ở những nước Châu Phi do đồng tiền của các nước này đã lên giá
nhanh chóng nhờ các hàng hóa xuất khẩu. Câu hỏi đặt ra là liệu những người di cư
sẽ phản ứng bằng cách làm việc lâu hơn tại những nước xa xôi hay chuyển đến các
nước gần quê nhà: thực tế nhiều người chọn cách thứ hai do 1/10 lượng kiều hối
chuyển về Châu Phi đến từ các nước cùng châu lục. Nam Phi đứng đầu danh sách
với 1.4 tỷ USD kiều hối được chuyển đến các nước Châu Phi khác. Tính năng động
này cũng nhìn thấy ở Philippines, khi đồng nội tệ tăng giá có thể thấy sự tăng
trưởng kiều hối yếu đi. Ngược lại, đồng tiền ở Nam Á cũng mất giá đáng kể từ giữa
năm 2011, tiếp theo là tốc độ tăng trưởng rất cao của kiều hối.
43
2.1.5 Chi phí chuyển kiều hối
Chi phí chuyển kiều hối là một nhân tố chính điều khiển kiều hối. Do đó, giảm
chi phí chuyển tiền đã được xác định là một mục tiêu chính sách quan trọng để tạo
điều kiện thuận lợi cho các dòng chảy. Trong năm 2008, nhóm tám nước công
nghiệp phát triển (G8) và nhóm 20 nền kinh tế phát triển và đang phát triển hàng
đầu thế giới (G20) đã cam kết giảm chi phí chuyển gửi kiều hối 5 điểm phần trăm
trong 5 năm. Chi phí chuyển gửi kiều hối trung bình toàn cầu (dựa trên dữ liệu của
tất cả các quốc gia có sẵn) đã giảm so với cùng kỳ từ 9,81% trong 2008 còn 8,96%
trong quý thứ ba của 2012, Châu Phi cận Sahara là khu vực có chi phí chuyển tiền
đắt nhất, với chi phí chuyển tiền (trong quý thứ ba của năm 2012) khoảng 12,4%
trên số tiền chuyển. Gần như gấp đôi so với con số tương ứng là 6,5% đối với khu
“Nguồn: Báo cáo “Migration and Development Briefcase 19” của WB [43]”
vực Nam Á.
Nga là nước có phí chuyển kiều hối giá rẻ nhất chỉ 2% tổng số tiền chuyển về
nước. Các nước có kiều hối lớn như GCC, Mỹ và Vương quốc Anh, chi phí trung
bình là khoảng 5%. Ngược lại, Nhật Bản là nước có phí chuyển kiều hối đắt nhất:
Tính đến quý 3 năm 2012, phí chuyển gửi kiều hối từ Nhật Bản khoảng 17%. Đức
là quốc gia tiếp theo có phí chuyển kiều hối đắt nhất, với chi phí chuyển tiền, trung
bình, khoảng 14% số lượng tiền chuyển. Nhìn chung, với chi phí trung bình toàn
cầu khoảng 8,96%, vẫn còn một chặng đường dài để đi để đáp ứng mục tiêu giảm
chi phí chuyển tiền bằng cách 5 điểm phần trăm vào năm 2014.
44
2.2 THỰC TRẠNG KIỀU HỐI TẠI VIỆT NAM
2.2.1 Tình hình kiều hối tại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012
Trong những năm qua, kiều hối đã trở thành một hiện tượng được giới tài
chính quốc tế quan tâm. Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam liên tục tăng với con
số ấn tượng. Do tình hình kinh tế của đất nước và phát triển chính trị - xã hội ổn
định, vị thế của đất nước ngày một tăng lên và đặc biệt là những chính sách của Nhà
nước thông thoáng đã tạo cơ hội cho người đầu tư và có nhiều lĩnh vực đầu tư có
thể sinh lãi như là chứng khoán, địa ốc, hay công nghệ cao…, do đó thu hút được
nhiều nguồn đầu tư cũng như kiều hối chuyển về cho thân nhân để đầu tư. Có thể
nói kiều hối đang dần có những ảnh hưởng ngày càng rõ nét đến nền kinh tế Việt
Nam.
Đơn vị tính: triệu USD
Biểu đồ 2.6: Tình hình thu hút kiều hối của Việt nam từ giai đoạn 2000 - 2012
‘Nguồn: WorldBank [48]”
Kể từ năm 2000, kiều hối có xu hướng gia tăng rõ rệt, đặc biệt năm 2006 khi
Việt Nam chính thức gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO, sự kiện này
đã tạo đà cho nền kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ tăng trưởng lên đến 8%
năm 2007. Sau khi gia nhập vào WTO, Việt Nam trở thành một quốc gia hấp dẫn
45
đầu tư không chỉ thu hút những nhà đầu tư trong và ngoài nước mà còn Việt kiều
đang sinh sống tại nước ngoài. Theo số liệu từ WB, năm 2006, Việt Nam đã thu hút
được 3,8 tỷ USD kiều hối, là quốc gia đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á sau
Philip (14,8 tỷ USD). Năm 2007, lượng kiều hối đã tăng 62,63% so với năm 2006,
xếp hạng 18 trong top 30 nước nhận kiều hối. Năm 2008, Việt Nam là một trong
mười nước có lượng kiều hối chuyển về nước lớn nhất trên thế giới theo đánh giá
của WB.
Năm 2009, lần đầu tiên lượng kiều hối về Việt nam sụt giảm sau 4 năm tăng
liên tiếp, chỉ còn đạt mức 6,02 tỷ USD giảm 11,53% so với năm 2008. Theo đánh
giá của các chuyên gia tài chính, lượng kiều hối chuyển về nước giảm là tất yếu, do
tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhiều nước trước đây thu nhận
nhiều lao động Việt Nam, đã sa thải nhân viên hiện có hoặc ngừng thu nhận nhân
công mới. Theo ghi nhận của Bộ lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam vào
cuối tháng 12/2009, mới chỉ có 45.000 lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc
trong lúc chỉ tiêu toàn năm của nhà nước là xuất khẩu được 90.000 lao động. Trước
đó, báo chí trong nước liên tục loan tin về những trường hợp công nhân Việt Nam
từ Malaysia, Đài Loan, Nhật Bản, CH Czech, Slovakia … phải hồi hương do mất
việc làm. Ngoài ra, ảnh hưởng từ việc thu nhập của kiều bào bị giảm là khá lớn, bởi
Việt Nam có lượng kiều bào đông (khoảng trên 3 triệu người), tập trung nhiều ở các
nước phát triển và có thu nhập bình quân đầu người cao như Mỹ (khoảng 1,5 triệu
người), Pháp (khoảng 300.000 người), Canada (200.000 người), Australia (250.000
người) … Trong khi đó, ảnh hưởng từ việc giảm lao động xuất khẩu ít hơn, do mức
đóng góp tương ứng của mảng này.
Theo báo cáo về Di trú và kiều hối vừa được Ngân hàng Thế giới (WB) công
bố đã xếp Việt Nam ở vị trí thứ 16 trong số các quốc gia nhận nhiều kiều hối nhất
thế giới trong năm 2010. Với lượng ngoại tệ ước khoảng 8,26 tỷ USD được kiều
bào gửi về trong năm, kiều hối của Việt Nam đã tăng khoảng 2,24 tỷ USD so với
năm 2009 do nền kinh tế toàn cầu đang trên đà phục hồi như hiện nay. Nền kinh tế
đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2010 đạt 6,78% vượt mục tiêu đề ra, cao hơn tốc
46
độ tăng của hai năm trước. Với GDP bình quân đầu người ước đạt 1.160 USD, Việt
Nam đã ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm nước có thu nhập trung
bình. Cơ hội đầu tư vào Việt Nam ngày càng hấp dẫn hơn, việc mở cửa, đổi mới,
hội nhập sâu rộng hơn, sự thông thoáng về chính sách của Nhà nước trong việc thu
hút kiều hối (bãi bỏ nhiều quy định về thuế, không hạn chế số lượng tiền nhận và trả
hàng bằng nguyên tệ, người nhận kiều hối không phải chịu thuế thu nhập đối với
các khoản ngoại tệ từ nước ngoài chuyển về hoặc bắt buộc phải bán ngoại tệ cho
ngân hàng, thông thoáng trong việc kiều bào nước ngoài về thăm quê hương, mua
nhà, đầu tư …) điều này góp phần mạnh mẽ trong việc thu hút kiều hối.
Hiện tại nền kinh tế thế giới đang có những chuyển biến tích cực sau khủng
hoảng, nhiều nước có kiều bào sinh sống hoặc có nhiều lao động làm việc đã thoát
khỏi khủng hoảng, bước đầu trên đà phục hồi tăng trưởng, Việt kiều có thu nhập tốt
hơn, lượng ngoại tệ chuyển về nước nhiều hơn. Bên cạnh những lý do chuyển tiền
về nước để giúp đỡ người thân, tiêu dùng, sản xuất thì họ bắt đầu đầu tư gián tiếp
vào Việt Nam. Nguyên nhân khác do lãi suất và tỷ giá, lãi suất các nước hiện rất
thấp, trong khi lãi suất USD tại Việt Nam khá cao (năm 2010, lãi suất xoay quanh
mức 5%/năm), giá USD trên thế giới giảm nhưng vẫn tăng ở Việt Nam (tháng
12/2010 so với tháng 12/2009 tăng 9,68%), tỷ giá của Việt Nam cũng khá cao điều
này tạo nên sức hút đối với kiều bào và người lao động Việt Nam ở nước ngoài.
8,6 tỷ USD là lượng kiều hối được được ghi nhận bởi WB, tiếp tục đưa Việt
Nam vào danh sách 16 quốc gia nhận kiều hối nhiều nhất thế giới. Không chỉ là con
số 8,6 tỷ USD, điều đáng ghi nhận về kiều hối chảy về Việt Nam năm 2011 là sự
tập trung. Nếu như những năm trước đây, phổ biến tình trạng kiều hối chuyển qua
các kênh không chính thức gây rủi ro cho người chuyển và khó thống kê được
lượng kiều hối thực sự. Nhưng năm 2011, lượng kiều hối chuyển về kênh ngân hàng
đã tăng lên rõ rệt. Điều này xuất phát từ nguyên nhân hiện dịch vụ chuyển tiền khá
đơn giản, thuận tiện, người thân tại Việt Nam có thể nhận tiền chỉ sau 5 phút người
gửi ở nước ngoài thực hiện dịch vụ. Khách hàng cũng có thể nhận tiền tại ngân hàng
hoặc tại nhà; tiền có thể được chuyển vào tài khoản ATM hay thực hiện các giao
47
dịch trên hệ thống ngân hàng điện tử. Bởi thế, dịch vụ kiều hối đang trở thành một
kênh đem lại hiệu quả cao. Một thực tế nữa cũng khiến lượng kiều hối tăng là do lãi
suất huy động VND vẫn còn cao, đã thu hút lượng kiều hối về bán cho ngân hàng
rồi gửi tiết kiệm VND. Chênh lệch tỷ giá trong và ngoài ngân hàng không đáng kể
nên các ngân hàng đã thu mua được USD nhiều hơn trước.
Năm 2012, theo báo cáo của WB, các nước đang phát triển sẽ nhận được 406
tỷ USD kiều hối (tăng 6,5% so với năm 2011). Dẫn đầu danh sách này là Ấn Độ với
70 tỷ USD, tiếp theo là Trung Quốc (66 tỷ USD), Philipines, Mexico (24 tỷ USD)
và Nigieria (21 tỷ USD). Trong top đầu, Việt Nam nhận được 9.052 tỷ USD, xếp
thứ 7 sau Hy Lạp (18 tỷ USD), Pakistan và Bangladesh (14 tỷ USD).
Thống kê WB cho thấy có đến 90% lượng kiều hối chảy về khu vực nông
thôn, nơi phần lớn những người lao động ra đi từ đó. Ngoài những thị trường truyền
thống như Mỹ, Canada, Pháp, Đức và Australia, một số thị trường mới được khơi
nguồn từ năm 2005 như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Malaysia là những thị
trường xuất khẩu lao động lớn của Việt Nam trong thời gian gần đây.
Kiều hối về Việt Nam ngày càng mở rộng từ nhiều nước. Nếu như năm 1994,
khi mới vào Việt Nam, kiều hối chuyển qua kênh Western Union chỉ từ 16 quốc gia
thì hiện tại con số này lên đến 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tính từ năm 2007,
phần lớn lượng kiều hối đổ về Việt Nam được dồn vào hoạt động sản xuất kinh
doanh, chủ yếu thông qua các kênh như: chứng khoán, vàng, bất động sản, gửi tiết
kiệm ngân hàng.
Năm 2010, tỷ lệ vốn đầu tư của kiều hối được Bộ kế hoạch và Đầu tư ước tính
khoảng 70%, trong số 8,5 tỷ USD được gửi về Việt Nam. Các dự án đầu tư xây
dựng như: trung tâm thương mại, văn phòng và căn hộ chung cư cao cấp…tại các
trung tâm thành phố như TP.HCM, Hà Nội đã thu hút lượng lớn kiều hối. Bên cạnh
đó, xu hướng đầu tư vào các dự án xây dựng căn hộ nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái
ven biển ngày càng tăng.
Theo thống kê từ Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, năm 2011, gần 52%
kiều hối đã đổ vào thị trường bất động sản, còn lại là kênh tiền gửi tiết kiệm và tiêu
48
dùng, trong số 9 tỷ USD gửi về Việt Nam thì năm 2012 xu hướng kiều hối có dấu
hiệu chững lại do thị trường chứng khoán, bất động sản không có dấu hiệu khả
quan, xu hướng lãi suất tiết kiệm lại tiếp tục giảm, chưa kể môi trường kinh doanh
và đầu tư nước ta chưa ổn định do còn yếu tố chính sách và nguy cơ tồn kho hàng
hóa gia tăng, áp lực lạm phát đã không khuyến khích người có nguồn vốn từ kiều
hối đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Về mặt vị trí địa lý thì từ trước đến nay, vùng đồng bằng sông Hồng mà Hà
Nội là trung tâm và vùng Đông Nam Bộ (TP.HCM là trung tâm) là hai vùng tiếp
nhận kiều hối nhiều nhất cả về giá trị và người nhận. Tuy nhiên, những năm gần đây
cùng với lượng người xuất khẩu lao động từ vùng Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông
Cửu Long tăng lên do số lượng người ở nông thôn đi xuất khẩu lao động ngày càng
tăng, đây là xu hướng tích cực khi kiều hối chuyển về nhiều vùng của Việt Nam hơn
và đã chảy vào khu vực người nghèo điều này góp phần làm thay đổi bộ mặt nông
thôn và nâng cao mức sống người dân.
Nghiên cứu của Pfau và Long (2006) cung cấp nhiều thống kê mô tả hữu ích
về vấn đề kiều hối ở Việt Nam thông qua các bộ số liệu VLSS. Nghiên cứu này cho
thấy sự phân phối của kiều hối trong cả nước. Về mặt địa lý, đồng bằng sông Hồng
mà Hà Nội là trung tâm, và vùng Đông Nam (với trung tâm là TP Hồ Chí Minh) là
hai vùng tiếp nhận kiều hối chủ yếu trên tất cả các mặt: dân số, tổng giá trị và mật
độ dân chúng nhận kiều hối. Vào đầu thập niên 1990, hai vùng này, mặc dù chỉ
chiếm 38% dân số cả nước, nhưng đã tiếp nhận gần ba phần tư tổng lượng kiều hối
toàn quốc. Tuy nhiên, đã có một sự dịch chuyển mạnh trong cơ cấu phân bổ kiều
hối những năm sau đó. Lượng kiều hối chuyển về hai cực nói trên giảm một cách
tương đối, và tăng lên ở tất cả các vùng khác, đáng kể nhất là vùng Bắc Trung Bộ
và đồng bằng sông Cửu Long. Sự dịch chuyển này phản ánh một thực tế là trong
thập niên vừa rồi, nguồn cung công nhân xuất khẩu lao động đã dịch chuyển khỏi
hai thành phố lớn và chuyển về các vùng lân cận. Trong khi dân số ở khu vực nông
thôn dần dần giảm đi, thì tỷ trọng kiều hối khu vực này nhận được lại tăng lên đáng
kể. Có khả năng là vào giai đoạn đầu, cơ hội xuất khẩu lao động chủ yếu rơi vào
49
khu vực thành thị, nơi người dân có lợi thế về thông tin đi làm việc ở nước ngoài.
Nhưng theo thời gian, một mặt cung lao động từ thành thị giảm, mặt khác thông tin
được lan toả sang khu vực nông thôn ngày càng nhanh, kết quả là lượng công nhân
xuất khẩu lao động từ khu vực nông thôn đã tăng lên nhanh chóng.
2.2.2 Các kênh chuyển kiều hối tại Việt Nam
Trong một nghiên cứu về các kênh chuyển kiều hối từ Canada về Việt Nam,
Hezmandez - Coss (2005) đã cung cấp một nguồn tham khảo rất tốt giúp chúng ta
hiểu biết không những về việc chuyển kiều hối từ Canada, mà còn, ở một mức độ
nào đó, hệ thống chuyển kiều hối vào Việt Nam nói chung. Theo nghiên cứu này, hệ
thống chuyển tiền không chính thức đã và đang đóng một vai trò quan trọng, có thể
cạnh tranh hiệu quả với hệ thống chuyển tiền chính thức mới chỉ bắt đầu phát triển
mạnh gần đây.
Kênh chuyển tiền phi chính thức
Hiện nay, kênh chuyển tiền phi chính thức tại Việt Nam bao gồm ba hình thức
chuyển tiền chủ yếu là chuyển tiền qua các đại lý tư nhân, chuyển tiền tay ba và
chuyển tiền trực tiếp.
Chuyển tiền qua các đại lý tư nhân là hình thức chuyển tiền qua một trung
gian mà trung gian này chính là các đại lý bán lẻ của các công ty thương mại dịch
vụ với chức năng chính là bán các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của các công ty
nói trên. Như vậy, dịch vụ chuyển tiền chỉ là một chức năng phụ của các đại lý này.
Các đại lý này chịu sự điều chỉnh bằng các quy định do trung tâm phân tích báo cáo
và giao dịch tài chính Canada ban hành. Tuy nhiên, trong thực tế, các đại lý này tỏ
ra không mấy tôn trọng nghĩa vụ pháp lý của họ nên làm dấy lên những lo ngại rằng
sự lạm dụng tín dụng có thể xuất hiện ở khu vực này.
Chuyển tiền tay ba là hình thức chuyển tiền được thực hiện bằng việc ghi sổ
và bù trừ trên tài khoản của các bên tham gia. Dòng chuyển tiền này đi kèm với
dòng chu chuyển các hàng hóa và dịch vụ, bởi vì, người cung ứng dịch vụ chuyển
tiền này có hoạt động kinh doanh tại một địa bàn cụ thể như kinh doanh các sản
phẩm băng hình, kinh doanh dịch vụ vận chuyển hàng hóa hay kinh doanh tạp hóa.
50
Chuyển tiền trực tiếp là hình thức chuyển tiền mà các cá nhân tự mang tiền về.
Theo thông tư số 15/2011/TT-NHNN ngày 12/8/2011 về mang ngoại tệ tiền mặt khi
xuất cảnh, nhập cảnh tại Điều 2 - Mức ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam tiền mặt
phải khai báo Hải quan cửa khẩu khi xuất cảnh, nhập cảnh quy định:
1. Cá nhân khi xuất cảnh, nhập cảnh qua các cửa khẩu quốc tế của Việt Nam bằng
hộ chiếu mang theo ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam tiền mặt trên mức quy định
dưới đây phải khai báo Hải quan cửa khẩu:
a) 5.000 USD (Năm nghìn Đôla Mỹ) hoặc các loại ngoại tệ khác có giá trị tương
đương;
b) 15.000.000 VNĐ (Mười lăm triệu đồng Việt Nam).
2. Trường hợp cá nhân nhập cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt bằng hoặc thấp hơn
mức 5.000 USD hoặc các loại ngoại tệ khác có giá trị tương đương và có nhu cầu
gửi số ngoại tệ tiền mặt này vào tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ của cá nhân mở
tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động ngoại
hối (sau đây gọi chung là tổ chức tín dụng được phép), cũng phải khai báo Hải quan
cửa khẩu. Tờ khai nhập cảnh - xuất cảnh có xác nhận của Hải quan cửa khẩu về số
ngoại tệ tiền mặt mang vào là cơ sở để tổ chức tín dụng được phép cho gửi ngoại tệ
tiền mặt vào tài khoản thanh toán.
3. Mức ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam tiền mặt quy định phải khai báo Hải
quan cửa khẩu quy định tại Khoản 1 Điều này không áp dụng đối với những cá
nhân mang theo các loại phương tiện thanh toán, giấy tờ có giá bằng ngoại tệ hoặc
bằng đồng Việt Nam như séc du lịch, thẻ ngân hàng, sổ tiết kiệm, các loại chứng
khoán và các loại giấy tờ có giá khác.
Kênh chuyển tiền chính thức
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế sử dụng tiền mặt rất phổ biến do thói
quen sử dụng tiền mặt và hệ thống tài chính ngân hàng còn nhiều yếu kém. Bên
cạnh đó, khu vực nông thôn còn nghèo đói đã hạn chế khả năng tiếp cận công nghệ
cũng như những định chế tài chính trung gian. Cơ sở hạ tầng và công nghệ chưa đủ
51
để cung ứng những dịch vụ chuyển tiền với chi phí hợp lý do do đó kênh chuyển
tiền chính thức chưa cạnh tranh được với kênh chuyển tiền phi chính thức.
Tuy nhiên, những năm gần đây do nhận thức được tầm quan trọng của kiều
hối, Việt Nam đã có những chính sách khuyến khích người Việt ở nước ngoài
chuyển ngoại tệ về nước với cơ chế chuyển tiền thông thoáng và thuận lợi. Cá nhân
trong nước khi nhận kiều hối dù số lượng lớn vẫn không phải chịu thuế thu nhập, có
thể nhận trực tiếp đô la mặt mà không nhất thiết phải bán lại cho ngân hàng v.v…
Không như trước đây, người Việt ở nước ngoài hiện có nhiều thông tin về dịch vụ
chuyển tiền trong nước. Họ nhìn nhận các kênh chính thức có ưu thế nhanh, an toàn
và có tính chất bảo mật cho khách hàng. Kênh chuyển tiền chính thức của Việt Nam
gồm các ngân hàng, bưu điện, công ty dịch vụ kiều hối và các tổ chức chuyển tiền
đặc biệt như Western Union. (cid:2) Bưu điện
Có thể nói, với ưu thế mạng lưới chi nhánh rộng khắp cả nước từ thành thị đến nông
thôn, dịch vụ chuyển tiền là một trong những dịch vụ quan trọng của Bưu chính
Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay Bưu chính Việt Nam phải đối mặt với những thách
thức khó khăn trong môi trường cạnh tranh khốc liệt vì ngày càng có nhiều đối thủ
cạnh tranh. Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp dịch vụ chuyển tiền, với cơ sở hạ
tầng được đầu tư tốt, các điểm giao dịch chủ yếu tập trung tại các trung tâm đô thị,
các dịch vụ chuyển tiền của ngân hàng có chỉ tiêu thời gian nhanh hơn hẳn của Bưu
chính. Để góp phần nâng cao chất lượng phục vụ, khuyến khích khách hàng sử dụng
dịch vụ chuyển tiền của Bưu điện và tăng cường khả năng cạnh tranh, Bưu chính
Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu và đưa ra các loại hình dịch vụ chuyển tiền có áp
dụng triệt để công nghệ tin học nhằm đẩy nhanh tốc độ khai thác dịch vụ, đáp ứng
nhu cầu của khách hàng như: Chuyển tiền nhanh (CTN), Thư chuyển tiền, Điện
chuyển tiền, Phát hàng thu tiền, Thư chuyển tiền quốc tế (TFP1) và chuyển tiền
nhanh quốc tế (MoneyGram)… (cid:2) Western Union
52
Từ 300 điểm giao dịch năm 2001, đến tháng 11/2011 Western Union đã phát
triển lên 8,000 điểm, đạt kỷ lục “mạng lưới chi trả kiều hối lớn nhất Việt Nam” .
Western Union có mặt tại tất cả các vùng trọng điểm kiều hối lớn trên cả nước. Với
mạng lưới 8.000 điểm giao dịch được vận hành bởi các đối tác chiến lược như Ngân
hàng Á Châu, Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Tổng công ty Bưu chính Việt
Nam, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Phát triển nhà
Đồng Bằng Sông Cửu Long, Ngân hàng TMCP Quân Đội, Ngân hàng TMCP Kỹ
Thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Hàng Hải…, khách hàng tại Việt Nam có thể
nhận tiền từ nước ngoài thông qua dịch vụ chuyển tiền của Western Union tại khắp
63 tỉnh thành trên cả nước. Một số điểm giao dịch của Western Union hoạt động
suốt 365 ngày trong năm và ngoài giờ làm việc, tạo sự thuận tiện tối đa cho khách
hàng khi chọn lựa điểm giao dịch phù hợp với thời gian biểu của mình. (cid:2) Ngân hàng
Hiện nay, khá nhiều ngân hàng trong nước có quan hệ đại lý rộng với tổ chức
chuyển tiền, ngân hàng hoặc chi nhánh nước ngoài làm dịch vụ này. Trong nước,
các ngân hàng cũng mở rộng hơn mạng lưới đại lý chi trả nhằm phủ kín các địa bàn
xa. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thực hiện chuyển tiền từ các đại lý của tổ
chức Money Gram ở Mỹ, Anh, Đức, Australia, Canada, ngoài ra còn có quan hệ đại
lý với hơn 1.000 ngân hàng và chi nhánh ở rất nhiều nước trên thế giới. Công ty
kiều hối Đông Á (thuộc Ngân hàng Đông Á) là đại lý của 27 công ty chuyển tiền có
trụ sở ở Mỹ, Australia, Đức, Canada và đang tiếp tục hợp tác thêm với nhiều công
ty nữa. Ngân hàng Á Châu (ACB) là đại lý của tổ chức chuyển tiền quốc tế Western
Union từ 8 năm nay và hiện có gần 600 đại lý chi trả ở hầu hết các tỉnh thành lớn.
Do hệ thống máy tính giữa các đại lý đã được nối mạng và nối với cả Western
Union nên hiện tại lệnh chuyển tiền có thể thực hiện trong vài phút. Trước đây,
khách hàng khi đến nhận tiền phải đọc mã số do người gửi tiền thông báo trước, còn
nay đơn giản hơn, khách hàng chỉ cần đọc tên người gửi, số tiền gửi, xuất trình
chứng minh nhân dân của người nhận là đại lý chi trả tức thời. Ngân hàng có rất
53
nhiều thế mạnh về việc cung cấp dịch vụ chuyển tiền kiều hối. Để giúp khách hàng
chuyển, nhận tiền từ nước ngoài về Việt Nam được nhanh chóng, thuận tiện, an toàn
và chi phí thấp Ngân hàng đã triển khai nhiều giải pháp, cụ thể: thiết lập nhiều kênh
chuyển tiền trực tiếp từ nước ngoài về Việt Nam, đặc biệt từ các quốc gia có nhiều
kiều bào và lao động xuất khẩu của Việt Nam như Mỹ, Hàn Quốc và vùng lãnh thổ
Đài Loan, Malaysia, các nước Trung đông; phối hợp với nhiều đối tác nước ngoài
triển khai nhiều sản phẩm kiều hối mang lại tiện ích tối đa cho khách hàng như
dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union, dịch vụ chuyển tiền trong ngày từ Mỹ về
Việt Nam Wells Fargo ExpressSend, dịch vụ chuyển tiền kiều hối Online, dịch vụ
chuyển tiền qua điện thoại di động Mobile Phone …. ; triển khai công nghệ kiều hối
hiện đại, cho phép xử lý giao dịch kiều hối tập trung với mức độ tự động cao.
2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn kênh chuyển kiều hối
của Việt Nam
Kiều hối chuyển qua kênh chuyển tiền phi chính thức hay kênh chuyển tiền
chính thức phụ thuộc vào mức độ phổ biến của mỗi kênh tại mỗi quốc gia. Trong
trường hợp nghiên cứu về Việt Nam, Hernandez-Coss (2005) phát hiện ra rằng có
ba nhóm nhân tố tác động đến quyết định lựa chọn kênh chuyển tiền của các Việt
kiều tại Canada: đó là động cơ cá nhân, động cơ về dịch vụ khách hàng và động cơ
kinh tế.
Các động cơ cá nhân bao gồm tính tuyệt mật, sự gần gũi về văn hóa và các
giao tiếp cá nhân. Các động cơ về dịch vụ khách hàng bao gồm việc giải quyết các
tranh chấp, khả năng tiếp cận dễ dàng và sự linh hoạt một cách đúng đắn và tin cậy.
Các động cơ kinh tế bao gồm tốc độ chuyển tiền, chi phí, các lợi ích thứ cấp và môi
trường pháp lý. Theo nghiên cứu này, hệ thống chuyển tiền không chính thức đã và
đang đóng một vai trò quan trọng, và nhờ “uy tín đã được thừa nhận rộng rãi, mức
phí hợp lý, tốc độ và tính gần gũi về văn hoá”. Cụ thể là, để chuyển tiền cho gia
đình tại Việt Nam, một Việt kiều tại Canada chỉ phải trả mức chi phí từ 1 - 2% tính
trên lượng tiền gửi khi sử dụng kênh chuyển tiền phi chính thức trong khi nếu họ sử
dụng kênh chuyển tiền chính thức thì mức phí này lên đến từ 2 - 10%. Không chỉ có
54
vậy, gia đình của người gửi tiền phải đợi từ 2 đến 5 ngày mới nhận được tiền nếu họ
sử dụng kênh chuyển tiền chính thức thay vì được nhận ngay trong ngày nếu sử
dụng kênh chuyển tiền phi chính thức.
Một lý do nữa khiến kiều hối chảy vào qua kênh chính thức giảm xuống, bởi
vì, hoạt động nhận kiều hối phải chịu thuế và chỉ được nhận bằng đồng Việt Nam
với một mức tỷ giá chênh lệch khá lớn so với tỷ giá thị trường. Ngoài ra, một lý do
rất tế nhị, phù hợp với văn hóa của người Việt Nam khiến người ta ưa thích kênh
chuyển tiền phi chính thức đó là tính tuyệt mật. Những người nhận tiền không muốn
chính quyền địa phương hay hàng xóm biết về các vấn đề tài chính của họ bởi nó có
thể gây nên các phiền hà cho họ và gia đình như trộm cắp hay chỉ đơn giản là sự dò
xét của mọi người xung quanh.
2.2.4 Vai trò của kiều hối đối với nền kinh tế Việt Nam
Theo WB, kiều hối là lợi ích lớn nhất mà các nước xuất khẩu lao động nhận
được từ quá trình dịch chuyển lao động toàn cầu. Mấy năm trở lại đây, có sự tăng
trưởng nhanh chóng của kiều hối trong mối tương quan với các dòng tài chính khác.
Rõ ràng là trong khi các dòng tài chính khác khá bất ổn định, và thậm chí có khuynh
hướng giảm từ sau năm 2000 thì kiều hối vẫn tăng một cách vững chắc. Vì đặc
điểm tích cực trên, kiều hối đã trở thành mối quan tâm của nhiều cơ quan Chính phủ
và các tổ chức phát triển.
Theo đánh giá của WB, kiều hối đã đóng góp một phần quan trọng vào sự
phục hồi kinh tế thế giới trong giai đoạn sau khủng hoảng. Nguồn tiền gửi về từ
kiều hối được xem là nguồn ngoại tệ quan trọng thứ hai sau nguồn đầu tư trực tiếp
của các nước đang phát triển. Tính trong tương quan với GDP, kiều hối đóng vai trò
quan trọng hơn đối với nhóm nước nhỏ và có truyền thống lâu dài tiếp nhận kiều
hối, nó chiếm khoảng 2% trong tổng GDP của các quốc gia đang phát triển và
chiếm 6% của các quốc gia có thu nhập thấp, thậm chí hơn 25% tại một số quốc gia.
Có thể thấy kiều hối là một nguồn lực lớn và gần như tăng nhanh, liên tục
trong thời gian qua. Lượng kiều hối là một trong những nguồn ngoại tệ vào Việt
Nam lớn nhất, đây là nguồn lực mà trong nước được hưởng hoàn toàn, đặc biệt kiều
55
hối tương đối ổn định và có tốc độ tăng trưởng mạnh hơn so với các nguồn viện trợ
khác, không tạo gánh năng nợ nước ngoài cho nền kinh tế. Nguồn vốn này giúp đất
nước giảm thiểu nhiều rủi ro trong quá trình huy động vốn, giảm sự phụ thuộc vào
nguồn vốn nước ngoài. So với nguồn thu ngoại tệ khác như thu từ xuất khẩu, nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA) thì kiều
hối có những ưu điểm vượt trội. Xuất khẩu đang là lĩnh vực tạo ra nguồn thu ngoại
tệ đáng kể cho đất nước. Tuy nhiên, xuất khẩu hoặc du lịch phải đầu tư nhiều mới
có được những khoản ngoại tệ nói trên trong khi đó nguồn thu từ kiều hối thì dường
như không phải đầu tư, hoặc nếu có thì không đáng kể so với giá trị mà nó mang lại.
Nguồn vốn FDI cũng có những tiêu cực như ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội gia
tăng và vốn của tư bản nước ngoài, nếu họ không xuất khẩu thì sẽ cạnh tranh với
hàng hóa cùng loại sản xuất trong nước. Trong khi đó nguồn vốn kiều hối thì tránh
được mặt tiêu cực này. Còn ODA cũng là nguồn vốn quan trọng, nhưng 90% là vốn
vay, nếu sử dụng tốt sẽ trở thành gánh nặng nợ nần cho các thế hệ sau, trong khi
nguồn vốn kiều hối thì không phải trả. Có thể thấy rằng lượng kiều hối gia tăng
mạnh mẽ, mặc dù nền kinh tế thế giới trải qua các giai đoạn khủng hoảng, với giá trị
kiều hối vượt trội hẳn so với dòng chảy FDI và ODA.
Biểu đồ 2.7: Kiều hối và FDI giai đoạn 2000 -2012
“Nguồn: Theo WorldBank [48]”
56
Biểu đồ 2.8: Kiều hối và ODA giai đoạn 2000 -2012
“Nguồn: Theo WorldBank [48]”
So với FDI và ODA, trước năm 2000, lượng kiều hối thấp hơn FDI. Tuy nhiên
sau năm 2000, lượng kiều hối tăng mạnh và đều đặn lấn át cả FDI và ODA, khoảng
cách giữa các nguồn càng lớn. Kiều hối đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ
thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam. Đây là nguồn vốn tăng trưởng ổn định và
không tạo gánh nặng nợ nước ngoài. Sự gia tăng chuyển kiều hối về quê hương giúp
cho các NHTM phát triển nhiều dịch vụ, nhiều kênh chuyển tiền thúc đẩy sự phát
triển và hội nhập tài chính quốc tế. Ngoài ra việc thiết lập quan hệ chuyển tiền trực
tiếp với các NHTM tại quốc gia có nhiều Việt kiều và người lao động Việt Nam,
các ngân hàng còn tận dụng được sự phát triển công nghệ của các nước tiên tiến.
Việt Nam là một nước sản xuất dầu thô và vừa nhận được số lượng kiều hối
đáng kể. Do đó Việt Nam là một trường hợp điển hình để so sánh lợi ích của kiều
hối và thu nhập từ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Trong khi số thu nhập về dầu thô
trong năm 2007 lên đến khoảng 12,7 tỷ USD (số liệu báo cáo từ Tập đoàn Dầu khí
Quốc gia) hoàn toàn nằm trong tay Nhà nước. Việc sử dụng số tiền này một cách
hữu hiệu không tránh khỏi những mâu thuẫn liên hệ đến chính trị, giữa quyền lợi
của Đảng và của nhân dân. Ngược lại, kiều hối gồm nhiều triệu món tiền nhỏ, được
57
phân phối rộng rãi và không qua trung gian Nhà nước. Do đó kiều hối không bị ảnh
hưởng tiêu cực như số lượng thu nhập từ dầu thô.
Kiều hối góp phần thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng, là động lực cho tăng trưởng
kinh tế. Thực tế, nguồn kiều hối đã giúp nhiều gia đình nghèo có phương tiện sinh
số và vốn làm ăn, đã đóng góp tích cực vào xóa đói giảm nghèo và khoảng cách
giàu nghèo trong xã hội. Ngoài ra kiều hối còn sử dụng nhiều cho mục đích đầu tư,
góp phần phát triển kinh tế tư nhân, từ đó tạo công ăn việc làm cho xã hội, giảm tỷ
lệ thất nghiệp. Như vậy kiều hối giúp giảm mức nghèo đói ở Việt Nam, đặc biệt khu
vực nông thôn vì phần đông công nhân xuất khẩu lao động phát xuất từ đây.
Từ chỗ gửi về nhằm giúp đỡ thân nhân, đến nay, kiều bào ở nước ngoài đã
quan tâm đến hoạt động kinh doanh quy mô gia đình. Nhiều doanh nghiệp, doanh
nhân Việt kiều với tiềm lực tài chính cũng đã đầu tư về Việt Nam. Tính đến tháng
6/2012, có 51/63 tỉnh, thành phố có các dự án đầu tư của người Việt Nam ở nước
ngoài, với 3.546 doanh nghiệp, tổng vốn đầu tư đạt khoảng 8,4 tỷ USD. Trong đó,
các dự án đầu tư chủ yếu đến từ doanh nhân Việt kiều ở Mỹ, Canada, Úc, Nga,
Pháp, Hà Lan, Cộng hòa Séc, Nhật Bản, tập trung vào lĩnh vực dịch vụ (khách sạn,
nhà hàng, du lịch), bất động sản, nuôi trồng thủy sản, chế biến, xuất khẩu thủy hải
sản, dịch vụ dầu khí, sản xuất điện, công nghệ phần mềm… Đây là kênh dẫn vốn
chính thức với khối lượng lớn cho các dự án ở Việt Nam. 2.3 THỰC TRẠNG CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI TẠI VIỆT NAM
2.3.1 Tình trạng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai tại Việt Nam
Sau 2 năm liên tiếp cán cân vãng lai đạt trạng thái thặng dư: năm 2000
(3.548% so với GDP) và năm 2001 (2.829% so với năm 2001), giai đoạn từ 2002
đến nay cán cân vãng lai của Việt Nam đã bắt đầu thâm hụt trở lại. Từ năm 2007,
thâm hụt cán cân vãng lai tăng cao gấp 2 - 5 lần mức thâm hụt bình quân của 5 năm
về trước 2002 - 2006. Ðặc biệt, năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới, mức thâm hụt tài khoản vãng lai đạt mức kỷ lục là 10.787 tỷ USD,
chiếm 11.945% so với GDP, cao nhất trong cả giai đoạn (Biểu đồ 2.9).
58
Biểu đồ 2.9: Cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam giai đoạn từ 2000 – 2012
“Nguồn: Theo IMF[46]”
Khi đánh giá thâm hụt hay thặng dư cán cân tài khoản vãng lai của một quốc
gia cần xem xét nước đó là nước chủ nợ ròng hay nước nợ ròng đối với phần còn lại
của thế giới. Thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai có nghĩa là nước này đang tăng
khoản nợ hay giảm khoản cho vay đối với phần còn lại của thế giới. Nếu là nước
cho vay thì có thể thường xuyên trang trải cho mức thâm hụt này, nếu là nước nợ thì
thâm hụt có thể trở nên nghiêm trọng hơn. Ðể hiểu rõ hơn tình hình cán cân vãng lai
của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2012, chúng ta sẽ phân tích trạng thái của các cán
cân tiểu bộ phận.
(cid:2) Cán cân thương mại
Bảng 2.4: Cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012
59
“Nguồn: IMF Country Report Vietnam No 03/382, 06/423, 07/386, 09/110, 10/281,
12/165 [46]”
Từ năm 2000 – 2001 sau khủng hoảng tài chính Châu Á 1997, cán cân thương
mại Việt Nam ở trạng thái thặng dư, giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục trong
nhiều năm từ 11.54 tỷ USD (năm 1999) lên đến 111 tỷ USD (năm 2012). Từ năm
2002 – 2012, cán cân thương mại của Việt Nam rơi vào trạng thái thâm hụt, nguyên
nhân không phải do hoạt động xuất khẩu giảm mà do nhập khẩu tăng quá nhanh từ
10.46 tỷ USD (năm 1999) lên đến 113.4 tỷ USD (năm 2012) .
Biểu đồ 2.10: Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012
“Nguồn: Tổng cục Thống kê [47]”
(cid:2) Cán cân dịch vụ
Bảng 2.5: Cán cân dịch vụ Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012
60
“Nguồn: IMF Country Report Vietnam No 03/382, 06/423, 07/386, 09/110, 10/281,
12/165 [46]”
Cán cân dịch vụ của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2012 liên tục trong trạng thái
thâm hụt. Trừ năm 2006, cán cân dịch vụ gần đạt trạng thái cân bằng (thâm hụt rất
nhỏ, 8 triệu USD) do những ảnh hưởng tích cực từ chỉ thị về phát triển dịch vụ của
Chính phủ năm 2005 nhằm chuẩn bị cho quá trình mở cửa tự do hóa dịch vụ của
Việt Nam theo Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và tiến tới gia nhập WTO, từ năm
2007 đến nay, thâm hụt cán cân dịch vụ ngày càng tăng với tốc độ nhanh, năm 2011
là 3 tỷ USD và năm 2012 là 0.8 tỷ USD.
(cid:2) Cán cân thu nhập
Bảng 2.6: Cán cân thu nhập Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012
“Nguồn: IMF Country Report Vietnam No 03/382, 06/423, 07/386, 09/110, 10/281,
12/165 [46]”
Theo IMF, cán cân thu nhập bao gồm các khoản thu nhập của người lao động
(các khoản tiền lương, tiền thưởng) và thu nhập của nhà đầu tư (lãi từ hoạt động đầu
tư trực tiếp, gián tiếp) thuộc các đối tượng người Việt Nam cư trú ở nước ngoài và
người không cư trú ở Việt Nam.
Nhìn vào số liệu thống kê ta thấy trong cán cân thu nhập luôn trong trạng thái
thâm hụt và xu hướng ngày càng gia tăng do khoản thu của cán cân thu nhập chủ
yếu từ đầu tư (gồm thu lãi tiền gửi của hệ thống ngân hàng, thu cổ tức từ hoạt động
đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài và đầu tư vào chứng khoán do người
không cư trú phát hành) tăng với tốc độ thấp hơn tốc độ tăng của các khoản chi.
61
Ngoài ra, các khoản thu trong cán cân thu nhập còn bao gồm cả các khoản tiền
lương, tiền thưởng của người cư trú làm việc tại nước ngoài. Trong những năm gần
đây thì số lượng người Việt Nam làm việc tại nước ngoài tăng lên nhanh chóng do
những chính sách khuyến khích xuất khẩu lao động của Nhà nước. Giai đoạn 2003 -
2005, cả nước đã đưa được 173.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, năm 2006
đạt 78.855 người, năm 2007 tăng lên 79.950 người. Năm 2011, nước ta đã xuất
khẩu trên 88.000 lao động với 4 thị trường xuất khẩu trọng điểm là: Ðài Loan, Hàn
Quốc, Malaysia và Nhật Bản (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 2011).
(cid:2) Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều
Bảng 2.7: Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều Việt Nam giai đoạn 2000 –
2012
“Nguồn: IMF Country Report Vietnam No 03/382, 06/423, 07/386, 09/110, 10/281,
12/165 [46]”
Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều bao gồm các khoản chuyển giao
bằng tiền, quà tặng, viện trợ, bồi thường của tư nhân và chính phủ. Nhìn vào số liệu
thống kê ta thấy, cán cân chuyển giao vãng lai của Việt Nam luôn trong trạng thái
thặng dư từ 2000 – 2012 và có xu hướng tăng trưởng nhanh, năm 2012 chuyển giao
vãng lai ròng đạt 8.4 tỷ USD. Nguyên nhân là do lượng kiều hối tăng đột biến bắt
đầu từ năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO cộng với
sự ổn định về chính trị, tăng trưởng kinh tế đứng ở mức cao, sự sôi động của thị
trường chứng khoán và thị trường bất động sản, sự cải thiện mạnh mẽ về môi
trường đầu tư, thị trường xuất khẩu lao động khởi sắc và mức độ hội nhập kinh tế
62
quốc tế cao lên. Có thể nói thặng dư của cán cân chuyển giao vãng lai góp phần
không nhỏ vào việc cải thiện cán cân vãng lai cũng như cán cân tổng thể.
Sau khi phân tích thực trạng của các cán cân bộ phận có thể thấy trạng thái cán
cân vãng lai của Việt Nam chịu tác động chủ yếu từ trạng thái cán cân thương mại
do các giao dịch về hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu và chi của tài khoản
vãng lai (chiếm khoảng 70% - 85%). Trong khi đó, cán cân chuyển giao vốn vãng
lai ròng (bao gồm viện trợ và kiều hối) có tác động tích cực đến cán cân vãng lai.
Trong những năm gần đây, diễn biến xuất nhập khẩu của Việt Nam chịu tác động
quá nhanh và mạnh mẽ từ việc gia nhập WTO. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu có mức
tăng trưởng khá nhanh nhưng vẫn không bì kịp với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu
khi rào cản thuế quan dần dần được xóa bỏ, đã làm hàng hóa nước ngoài tràn vào
Việt Nam trong khi để tăng tốc độ xuất khẩu không phải là việc đơn giản mà đòi hỏi
phải có thời gian lâu dài. Sự gia tăng nhập khẩu tác nhân của nhiều nguyên nhân
khác như nhu cầu của kinh tế ... Chính hoàn cảnh này đã đẩy cán cân thương mại
Việt Nam vào tình thế ngày càng thâm hụt, lên tới 13,67% so với GDP vào năm
2008. Thêm vào đó, theo các chuyên gia kinh tế, nguồn gốc sâu xa của tình trạng
trên đó chính là năng lực xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam khi chưa thực sự tham
gia vào chuỗi cung ứng của khu vực cũng như trên thế giới. Giá trị gia tăng trong
nhóm hàng xuất khẩu thấp và chỉ tập trung vào một số mặt hàng chủ lực chính nên
rất dễ bị tổn thương khi có các cú sốc từ bên ngoài. Trong khi đó, nhu cầu nhập
khẩu để chế biến hàng xuất khẩu, phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, ... trong những
năm qua tăng nhanh đáng kể.
Tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai được bù đắp đáng kể bởi nguồn thu nhập
từ chuyển giao vốn vãng lai (viện trợ và kiều hối) và các giao dịch kinh tế khác
thuộc cán cân vốn và tài chính. Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam và các dòng
vốn chảy vào Việt Nam đóng vai trò quan trọng để bù đắp thiếu hụt của cán cân
vãng lai trong thời gian qua, đặc biệt là trong hai năm 2007 - 2008. Tuy nhiên, do
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, lượng kiều hối chuyển
về nước có phần giảm sút mạnh thời gian qua tạo nên sức ép thâm hụt đối với cán
63
cân vãng lai cũng như cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trực tiếp, đầu tư gián tiếp và vay nợ nước ngoài dài hạn, ổn định cũng là
những hình thức được sử dụng để bù đắp cho sự thiếu hụt cán cân thương mại, cán
cân vãng lai và có vai trò quyết định đến khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân vãng
lai trong thời gian qua. Đặc biệt là vai trò của nguồn vốn hỗ trợ chính thức ODA và
FDI trong việc bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai và cải thiện dự trữ ngoại hối. Tỷ
trọng nguồn vốn vay ODA hằng năm luôn chiếm tới 73 đến 78% trong tổng nợ
nước ngoài của Chính phủ Việt Nam.
2.3.2 Tác động của việc thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai đến nền kinh
tế Việt Nam hiện nay
Để có cái nhìn chung về tình hình thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai của Việt
Nam, có thể so sánh với tình hình các nước có điều kiện và hoàn cảnh gần với nước
ta. Biểu đồ 2.11 thể hiện tình hình tài khoản vãng lai của một số nước Châu Á.
Ngoại trừ Ấn Độ có thâm hụt tài khoản vãng lai thì Việt Nam là nước duy nhất
trong khu vực ASEAN có thâm hụt tài khoản vãng lai. So với các nước trong khu
vực đều có thăng dư tài khoản vãng lai như Thái Lan, Phiplipine, Indonesia,
Malaysia, Trung Quốc thì tình hình tài khoản vãng lai của Việt Nam lại thâm hụt.
Theo số liệu báo cáo của ADB (Basic Statistics, 2009, 2010, 2011) thì các nước có
thăng dư tài khoản vãng lai trên GDP khá lớn như: Malaysia (16.7% năm 2009),
Thái Lan (7.7% GDP năm 2009), China (5.8% năm 2009), năm 2011, tình hình cán
cân tài khoản vãng lai các nước có dấu hiệu xấu nhưng vẫn thặng dư là Malaysia
(11.5% năm 2011), Thái Lan (3.4% năm 2011), Philipine (3.1% GDP năm 2011).
Có thể nói trong điều kiện một nền kinh tế mở, việc xuất hiện tình trạng thâm
hụt hay thặng dư hoàn toàn là điều bình thường. Với Việt Nam là một nước có tốc
độ tăng trưởng cao, ở giai đoạn đầu của phát triển, thâm hụt tài khoản vãng lai là
điều hết sức bình thường, và nhiều khi là cần thiết để có thể tận dụng được nguồn
vốn từ bên ngoài để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên,
nếu con số thâm hụt chỉ ở mức vừa phải (thông thường là dưới 5%), thì không đáng
64
lo ngại. Nhưng khi thâm hụt tài khoản vãng lai vượt ngưỡng này sẽ gây ra rủi ro cho
nền kinh tế.
Biểu đồ 2.11: Cán cân tài khoản vãng lai của một số nước Châu Á
từ năm 2009 – 2012
“Nguồn: Theo IMF [46]”
Hiểu theo nghĩa rộng, phần này đề cập đến thâm hụt vãng lai, bởi cấu thành
của cán cân vãng lai bao gồm nhiều khoản mục, nhưng thành phần chính của nó là
cán cân thương mại. Thực tế Việt nam cho thấy thâm hụt thương mại là cấu phần
chính của thâm hụt vãng lai.
Thâm hụt tài khoản vãng lai tốt hay xấu? Nếu chỉ nhìn vào con số nhập
siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai thì chắc chắn sẽ không có câu trả lời rõ ràng.
Câu trả lời tùy thuộc vào tình hình kinh tế vĩ mô, cũng như phụ thuộc vào tình hình
tài khoản vốn. Có một điểm cần nhấn mạnh là việc nhập siêu và thâm hụt tài khoản
vãng lai về nguyên tắc là không tốt và cũng không xấu. Nó chỉ xấu khi thâm hụt quá
lớn và dẫn tới khủng hoảng cán cân thanh toán, mất giá đồng tiền.
Tuy nhiên, dường như có một quan niệm phổ biến (không chỉ ở Việt Nam) là
nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai là không tốt và thể hiện một nền kinh tế
yếu kém và ngược lại xuất siêu và có thặng dư trên tài khoản vãng lai, thì quan niệm
này cho rằng thặng dư thương mại là điều tốt và thể hiện một nền kinh tế có khả
65
năng cạnh tranh tốt nhưng theo lý thuyết kinh tế thì không hẳn là như vậy. Trong
nhiều trường hợp, thì thâm hụt cán cân thương mại là thể hiện một nền kinh tế đang
tăng trưởng tốt. Khi một nền kinh tế có tiềm năng tăng trưởng tốt, có nhiều cơ hội
đầu tư với lợi nhuận cao, nhu cầu đầu tư cao hơn khả năng tiết kiệm trong nước,
điều này sẽ làm cho các dòng vốn nước ngoài chảy vào quốc gia đó để đáp ứng nhu
cầu đầu tư. Tức là một quốc gia có thể sử dụng nguồn lực của nước khác để phát
triển kinh tế trong nước. Ngược lại, tài khoản vãng lai thặng dư lại có thể là dấu
hiệu bất ổn của nền kinh tế, dòng vốn trong nước chảy ra nước ngoài tìm kiếm
những cơ hội đầu tư tốt hơn. Tức là nguồn lực không được sử dụng cho phát triển
nền kinh tế trong nước. Trên thực tế, nhập siêu hoặc/và thâm hụt tài khoản vãng lai
không hoàn toàn hàm ý xấu; nó chỉ trở nên xấu trong từng trường hợp kinh tế vĩ mô
và cơ cấu kinh tế nhất định. Có thể nói trong điều kiện một nền kinh tế mở, việc
xuất hiện tình trạng thâm hụt hay thặng dư thương mại (và tài khoản vãng lai) hoàn
toàn là điều bình thường. Với Việt Nam là một nước có tốc độ tăng trưởng cao, ở
giai đoạn đầu của phát triển, nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai là điều hết sức
bình thường, và nhiều khi là cần thiết để có thể tận dụng được nguồn vốn từ bên
ngoài để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, thâm hụt cao
và thường xuyên sẽ gây ra rủi ro cho nền kinh tế. Trong nhiều trường hợp thì thâm
hụt thương mại (nhập siêu) và hệ quả là thâm hụt tài khoản vãng lai thực sự gây ra
nhiều vấn đề. Nhiều nước đã lâm vào khủng hoảng (khủng hoảng nợ, khủng hoảng
tiền tệ) sau khi có mức thâm hụt thương mại lớn, thường xuyên và lâu dài. Điển
hình là cuộc khủng hoảng Châu Á những năm 1997-1998.
Thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai xảy ra khi nhập khẩu
nhiều hơn xuất khẩu, tiêu dùng trong nước vượt quá khả năng sản xuất. Làm thế nào
để một quốc gia có thể duy trì thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai?
Để tài trợ thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai một quốc gia cần có
ngoại tệ để thanh toán các khoản nhập khẩu và thâm hụt này. Do đó cần có dòng
vốn chảy vào (FDI, đầu tư gián tiếp, vay ngắn hạn, dài hạn, kiều hối, ODA). Chính
vì vậy, thâm hụt thương mại (và tài khoản vãng lai) thường đi cùng với thặng dư
66
trên tài khoản vốn. Nếu không có thặng dư trên tài khoản vốn thì nước nhập siêu
buộc phải sử dụng đến dự trữ ngoại hối để đáp ứng cho các nhu cầu nhập khẩu của
mình. Nếu dự trữ ngoại hối không đủ đáp ứng, thì chắc chắn sẽ dẫn tới việc đồng
tiền buộc phải mất giá. Như vậy, thâm hụt thương mại thường được tài trợ từ các
nguồn trong cùng tài khoản vãng lai như kiều hối, các khoản chuyển giao lãi suất
đầu tư, ODA, và khoản thặng dư tài khoản vốn (bao gồm có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, đầu tư gián tiếp, các khoản vay trong ngắn hạn và dài hạn) cùng dự trữ
ngoại hối của chính phủ. Như vậy, về mặt lý thuyết, thâm hụt thương mại hay thâm
hụt tài khoản vãng lai có thể không ảnh hưởng tới ổn định vĩ mô nếu như tài khoản
vốn còn thặng dư hoặc dự trữ ngoại hối của chính phủ còn khả năng tài trợ cho
thâm hụt. Tuy nhiên, trên thực tế, khi tài khoản vãng lai càng thâm hụt nhiều thì lại
càng khó có thặng dư trên tài khoản vốn. Nhiều nước đã lâm vào khủng hoảng
(khủng hoảng nợ, khủng hoảng tiền tệ) bởi đồng tiền mất giá sau khi có mức thâm
hụt thương mại lớn, liên tục trong nhiều năm.
Xét đến trường hợp của Việt Nam, tài khoản vãng lai của Việt Nam trong
những năm qua được tài trợ khá đều đặn bởi những luồng chuyển giao và thặng dư
từ tài khoản vốn. Một điều khá may mắn là những năm qua, kiều hối vẫn duy trì đều
đặn và đạt mức 8 tỷ USD năm 2010. Tài khoản vốn cũng luôn thặng dư với lượng
vốn FDI vào Việt Nam vẫn tăng, dù 2008 và 2009 khủng hoảng kinh tế làm sụt
giảm đầu tư sang nhiều nước đang phát triển song lượng vốn vào Việt Nam giảm ít
hơn so với dự đoán và phục hồi khá nhanh trong năm 2010. Vốn FDI năm 2010 là
7,6 tỷ USD, tăng lên so với mức 6,9 tỷ USD năm 2009 và được dự báo sẽ đạt 7,9 tỷ
USD năm 2011. Bên cạnh đó đầu tư gián tiếp ròng cũng phục hồi đạt 1,6 tỷ USD
trong năm 2010 từ mức 0,1 tỷ USD năm 2009.
Tuy nhiên, mặc dù nguồn kiều hối và FDI khá đều đặn, nhưng do lượng nhập
siêu của Việt Nam là quá lớn nên dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong năm 2010 đã
xấu đi đáng kể. Dự trữ ngoại hối năm 2009 chỉ còn 14,1 tỷ USD, tương đương với 2
tháng nhập khẩu, sang đến năm 2010 dự trữ ngoại hối có tăng lên một chút tới 15,4
tỷ USD, song tính tương đương số tháng nhập khẩu thì chỉ còn 1,9 tháng. Như vậy
67
dự trữ ngoại hối của Việt Nam đang ít đi, điều này càng dấy lên lo ngại khó giữ
được đồng tiền nếu xảy ra trường hợp xấu nhất đồng tiền mất giá khi thâm hụt tài
khoản vãng lai quá trầm trọng.
Cùng với những chỉ số này, nợ nước ngoài của Việt Nam trong hai năm gần
đây cũng tăng mạnh mẽ. Mức độ nợ được IMF dự báo tăng lên tới 40,8% vào năm
2010 từ mức chỉ có hơn 33% năm 2008. Đáng lo ngại nữa là chỉ số dự trữ ngoại hối
so với tổng dư nợ ngắn hạn của Việt Nam đã sụt giảm mạnh, từ mức 10.177 năm
2007 xuống mức chỉ còn 290 trong năm 2009. Với khoản nợ nước ngoài lớn và dự
trữ ngoại hối so với nghĩa vụ trả nợ trong ngắn hạn xấu đi như thế này, một khi
đồng tiền mất giá mạnh thì Việt Nam sẽ không thể chịu đựng những khoản nợ đó
và khủng hoảng là khó tránh khỏi. Như vậy có thể nhận thấy trong năm 2011, nếu
xu hướng nhập siêu của Việt Nam vẫn duy trì như các năm qua, thì mặc dù thâm hụt
tài khoản vãng lai của Việt Nam vẫn có thể được bù đắp một phần (bằng nguồn kiều
hối và thặng dự trên tài khoản vốn từ ODA, FDI), song khả năng xảy ra khủng
khoản cán cân thanh toán là rất lớn. Với thực trạng như vậy, việc hạn chế nhập siêu
và cải thiện thâm hụt tài khoản vãng lai là hết sức cấp thiết.
Biểu đồ 2.12: Kiều hối và cán cân tài khoản vãng lai Việt Nam
giai đoạn 2000 - 2012
“Nguồn: Theo IMF [46]”
68
Qua biểu đồ 2.12 ta có thể thấy, trong giai đoạn 2000-2012, cán cân tài khoản
vãng lai của Việt Nam thâm hụt liên tục, trong khi kiều hối tăng trưởng nhanh, liên
tục. Để tài trợ thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai thì bên cạnh việc
sử dụng tài trợ từ các nguồn như các khoản chuyển giao lãi suất đầu tư, ODA, FDI,
khoản thặng dư tài khoản vốn (bao gồm có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư
gián tiếp, các khoản vay trong ngắn hạn và dài hạn) cùng dự trữ ngoại hối của chính
phủ thì kiều hối đóng vai trò quan trọng để cải thiện cán cân tài khoản vãng lai, dù
không cải thiện hoàn toàn thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai nhưng thu hút kiều
hối sẽ đóng vai trò như một giải pháp quan trọng bên cạnh các giải pháp khác để cải
thiện cán cân tài khoản vãng lai. 2.4 TÁC ĐỘNG CỦA KIỀU HỐI ĐẾN CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI
TẠI VIỆT NAM 2.4.1 Giới thiệu mô hình
Dữ liệu tác giả sử dụng để kiểm định tác động của kiều hối đến cán cân tài
khoản vãng lai là dữ liệu bảng bao gồm các quan sát của 13 quốc gia đang phát triển
tại Châu Á trong giai đoạn từ năm 2006 - 2012. Việc sử dụng dữ liệu bảng có một
vài ưu điểm:
Thứ nhất, dữ liệu bảng làm tăng kích thước mẫu một cách đáng kể. Thứ hai,
thông qua nghiên cứu các quan sát theo không gian lặp lại, dữ liệu bảng phù hợp
hơn để nghiên cứu động học thay đổi. Thứ ba, dữ liệu bảng giúp ta nghiên cứu
những mô hình hành vi phức tạp hơn.
Bất chấp các ưu điểm đáng kể, dữ liệu bảng đặt ra một số vấn đề ước lượng và
suy luận. Vì dữ liệu này liên quan đến cả bình diện không gian và thời gian, nên
những vấn đề cố hữu trong dữ liệu theo không gian (ví dụ như phương sai không
đồng nhất) và dữ liệu theo chuỗi thời gian (ví dụ như tự tương quan) cần được giải
quyết. Ngoài ra còn có thêm một số vấn đề, như tương quan chéo trong các đơn vị
cá nhân trong cùng một thời đoạn. Tác giả sử dụng hai mô hình nghiên cứu: (1) mô
hình các ảnh hưởng cố định (FEM) và (2) mô hình các ảnh hưởng ngẫu nhiên
(REM).
69
(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) Mô hình ảnh hưởng cố định (FEM – Fixed Effects Model)
Trong mô hình FEM, tung độ gốc trong mô hình hồi quy được phép khác nhau
giữa các quốc gia, khi thừa nhận sự kiện là mỗi quốc gia có thể có những đặc điểm
riêng nhất định. Để xem xét các tung độ gốc khác nhau, ta có thể sử dụng các biến
giả. Mô hình FEM sử dụng biến giả được gọi là mô hình biến giả bình phương tối
thiểu (LSDV). Mô hình FEM phù hợp trong những tình huống mà tung độ gốc của
từng quốc gia có thể tương quan với một hay nhiều biến độc lập. Một nhược điểm
của mô hình LSDV là nó làm mất đi nhiều bậc tự do khi số đơn vị N rất lớn, trong
trường hợp đó ta sẽ phải đưa vào N biến giả (nhưng khống chế số hạng tung độ gốc
chung). (cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) Mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM – Random Effects Model)
Trong mô hình ECM, ta giả định rằng tung độ gốc của một quốc gia được rút
ngẫu nhiên từ một mẫu lớn hơn nhiều với một trị trung bình không đổi. Tung độ gốc
của mỗi quốc gia khi đó được biểu thị như sự sai lệch so với trị trung bình không
đổi này. Một ưu điểm của mô hình REM so với mô hình FEM là: nó không làm mất
bậc tự do vì ta không phải ước lượng N tung độ gốc riêng lẻ. Ta chỉ cần ước lượng
trị trung bình của tung độ gốc và phương sai của nó. Mô hình REM thích hợp trong
những tình huống mà tung độ gốc (ngẫu nhiên) của từng quốc gia không tương quan
với các biến độc lập.
2.4.2 Ý tưởng mô hình
Để kiểm định mối quan hệ giữa kiều hối và cán cân tài khoản vãng lai, tác giả
sử dụng mô hình ảnh hưởng cố định (FEM - Fixed Effects Model) và mô hình ảnh
hưởng ngẫu nhiên (REM – Random Effects Models) để xem xét tác động của ba
biến: đầu tư (I), tiết kiệm (S) và kiều hối (Re) đến cán cân tài khoản vãng lai (Ca).
Bước 1: Kiểm định mối quan hệ giữa đầu tư, tiết kiệm, kiều hối và cán cân tài
khoản vãng lai bằng mô hình FEM.
Bước 2: Kiểm định mối quan hệ giữa đầu tư, tiết kiệm, kiều hối và cán cân tài
khoản vãng lai bằng mô hình REM.
Bước 3: Kiểm định Hausman để xem xét mô hình FEM hay REM phù hợp.
70
Bước 4: Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến, phương sai thay đổi và tương
quan chuỗi.
Bước 5: Xác định mô hình và kết luận. 2.4.3 Dữ liệu và mô tả
Dữ liệu của các biến được thu thập từ nguồn dữ liệu công bố trên website của
IMF “World Economic Outlook Database, October 2012” bao gồm: Đầu tư và tiết
kiệm quốc gia, cán cân tài khoản vãng lai. Dữ liệu về kiều hối của 13 quốc gia đang
phát triển của Châu Á (trong đó có Việt Nam) được khai thác và thu thập từ nguồn
dữ liệu công bố trên website của WB “Remittances Data Inflow, November 2012”.
Theo dữ liệu từ IMF, nhóm các quốc gia đang phát triển (Developing Asia) bao
gồm 27 nước nhưng tác giả chỉ sử dụng dữ liệu của 13 nước do một số quốc gia
trong nhóm này không có đủ dữ liệu về kiều hối trong khoảng thời gian cần nghiên
cứu. Dữ liệu của 13 quốc gia cần nghiên cứu được thu thập trong khoảng thời gian
từ 2006 – 2012 tạo thành dữ liệu bảng (Panel Data). Tác giả nhận thấy việc kết hợp
dữ liệu của nhiều quốc gia qua các năm có nhiều ưu điểm hơn so với dữ liệu 22 năm
của Việt Nam vì kỹ thuật ước lượng dữ liệu bảng có thể xem xét các biến số có tính
đặc thù theo từng quốc gia. Thông qua kết hợp các chuỗi theo thời gian của các
quốc gia, dữ liệu bảng cung cấp nhiều thông tin hơn, đa dạng hơn, ít cộng tuyến hơn
giữa các biến số, nhiều bậc tự do hơn và hiệu quả hơn. Bảng dữ liệu xin xem phần
phụ lục 02.
Bảng 2.8: Biến và ký hiệu trong mô hình kiểm định tác động của đầu tư, tiết
kiệm và kiều hối đến cán cân tài khoản vãng lai
Biến Ký hiệu Nguồn
Ca IMF Cán cân tài khoản vãng lai
I IMF Đầu tư
S IMF Tiết kiệm
Re WB Kiều hối
71
2.4.4 Kiểm định mô hình
Cơ sở để tác giả đưa hai biến đầu tư và tiết kiệm vào phương trình cùng với
biến kiều hối được chứng minh trong phụ lục 01.
Để kiểm định mối quan hệ giữa các biến số này, cán cân tài khoản vãng lai
(Ca) được biểu thị là một hàm số của kiều hối (Re), đầu tư (I) và tiết kiệm (S). Cụ
thể ta có phương trình sau:
(cid:1)(cid:2)(cid:3)(cid:4) = (cid:6)(cid:7) + (cid:6)(cid:9)(cid:10)(cid:3)(cid:4) + (cid:6)(cid:11)(cid:12)(cid:3)(cid:4) + (cid:6)(cid:13)(cid:14)(cid:15)(cid:3)(cid:4) + (cid:16)(cid:3)(cid:4)
Trong đó:
i (từ 1 đến 13): số thứ tự quốc gia theo bảng dữ liệu của 13 quốc gia (Xem phụ lục
02).
t (từ 1 đến 7): thể hiện khoảng thời gian từ năm 2006 – 2012;
(cid:1)(cid:17)(cid:3)(cid:4) là cán cân tài khoản vãng lai của quốc gia i tại thời điểm t;
(cid:12)(cid:3)(cid:4) là tiết kiệm của quốc gia i tại thời điểm t;
(cid:10)(cid:3)(cid:4) là đầu tư của quốc gia i tại thời điểm t;
(cid:14)(cid:18)(cid:3)(cid:4) là kiều hối của quốc gia i tại thời điểm t và (cid:16)(cid:3)(cid:4) là sai số của quốc gia i tại thời
điểm t.
2.4.3.1 Kiểm định bằng mô hình các ảnh hưởng cố định (Fixed Effects
Model - FEM)
Kết quả kiểm định trên Eviews cho thấy:
Dependent Variable: CA
Method: Panel Least Squares
Date: 05/27/13 Time: 21:31
Sample: 1 91
Periods included: 7
Cross-sections included: 13
Total panel (balanced) observations: 91
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
I -1.313663 0.702400 -1.870248 0.0654
72
S 0.497982 0.448760 1.109685 0.2707
RE -0.001784 0.000440 -4.050171 0.0001*
C 66.19171 19.58680 3.379404 0.0012
Effects Specification
Cross-section fixed (dummy variables)
R-squared 0.933251 Mean dependent var 20.61907
Adjusted R-squared 0.919901 S.D. dependent var 77.14713
S.E. of regression 21.83398 Akaike info criterion 9.163089
Sum squared resid 35754.19 Schwarz criterion 9.604558
Log likelihood -400.9205 Hannan-Quinn criter. 9.341194
F-statistic 69.90748 Durbin-Watson stat 1.601682
Prob(F-statistic) 0.000000
*Từ kết quả ước lượng phương trình của mô hình FEM ta thấy: có mối quan hệ giữa
kiều hối (biến Re) và cán cân tài khoản vãng lai (biến Ca) có ý nghĩa thống kê với
mức ý nghĩa 5% (p-value < 0.05) trong khi các biến đầu tư (I) và tiết kiệm (S)
không có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5% (p-value > 0.05).
2.4.3.2 Kiểm định bằng mô hình các ảnh hưởng ngẫu nhiên (Random
Effects Model - REM)
Kết quả kiểm định trên Eviews cho thấy:
Dependent Variable: CA
Method: Panel EGLS (Cross-section random effects)
Date: 05/27/13 Time: 21:38
Sample: 1 91
Periods included: 7
Cross-sections included: 13
Total panel (balanced) observations: 91
Swamy and Arora estimator of component variances
73
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
I -0.973969 0.687464 -1.416758 0.1601
S 0.775583 0.434414 1.785355 0.0777
RE -0.001276 0.000412 -3.093076 0.0027*
C 43.24431 26.37957 1.639311 0.1048
Effects Specification
S.D. Rho
Cross-section random 67.99471 0.9065
Idiosyncratic random 21.83398 0.0935
Weighted Statistics
R-squared 0.132933 Mean dependent var 2.484290
Adjusted R-squared 0.103035 S.D. dependent var 24.38210
S.E. of regression 23.09186 Sum squared resid 46391.37
F-statistic 4.446106 Durbin-Watson stat 1.194261
Prob(F-statistic) 0.005908
Unweighted Statistics
R-squared -0.297420 Mean dependent var 20.61907
Sum squared resid 694964.8 Durbin-Watson stat 0.079721
Từ kết quả ước lượng phương trình của mô hình REM ta thấy: có mối quan hệ giữa
kiều hối (biến Re) và cán cân tài khoản vãng lai (biến Ca) có ý nghĩa thống kê với
mức ý nghĩa 5% (p-value < 0.05) trong khi các biến đầu tư (I) và tiết kiệm (S)
không có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5% (p-value > 0.05).
2.4.3.3 Kiểm định Hausman
Kiểm định (Hausman, 1978) giúp ta chọn lựa giữa mô hình FEM và ECM với
giả thiết:
74
H0: Không có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên (chọn
mô hình REM).
H1: Có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên (chọn mô hình
FEM). (cid:2) Kết quả kiểm định Hausman trên Eviews như sau:
Correlated Random Effects - Hausman Test
Equation: Untitled
Test cross-section random effects
Test Summary Chi-Sq. Statistic Chi-Sq. d.f. Prob.
Cross-section random 13.313150 3 0.0040*
Cross-section random effects test comparisons:
Variable Fixed Random Var(Diff.) Prob.
-1.313663 -0.973969 0.020760 0.0184 I
0.497982 0.775583 0.012670 0.0137 S
(cid:3) Ta thấy hệ số p-value (Hausman) = 0.0040 < 0.05 nên ta bác bỏ giả thiết H0,
RE -0.001784 -0.001276 0.000000 0.0010
chọn giả thiết H1 do đó mô hình FEM là mô hình phù hợp.
Từ kết quả kiểm định bằng mô hình FEM và REM, tác giả sử dụng kiểm định
Hausman để xác định mô hình phù hợp, kết quả cho thấy mô hình FEM phù hợp
hơn mô hình REM. Với mô hình FEM, phương trình ước lượng mối quan hệ giữa
cán cân tài khoản vãng lai (CA), kiều hối (RE), đầu tư (I) và tiết kiệm (S) như sau:
(cid:1)(cid:2)(cid:3)(cid:4) = (cid:19)(cid:19). (cid:7)(cid:21)(cid:7)(cid:22)(cid:7) − (cid:7). (cid:11)(cid:7)(cid:11)(cid:19)(cid:19)(cid:11)(cid:10)(cid:3)(cid:4) + (cid:24). (cid:13)(cid:21)(cid:22)(cid:21)(cid:25)(cid:9)(cid:12)(cid:3)(cid:4) − (cid:24). (cid:24)(cid:24)(cid:7)(cid:22)(cid:25)(cid:13)(cid:14)(cid:15)(cid:3)(cid:4) + (cid:16)(cid:3)(cid:4)
Ta thấy hệ số hồi quy của biến Re có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%, củng cố
bằng chứng về mối quan hệ giữa kiều hối và cán cân tài khoản vãng lai. 2.4.3.4 Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến (Multicollinearity)
Bảng 2.9: Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến của mô hình
75
Partial 1- Partial Biến VIF Kết luận Correlation Correllation
I 0.53574 0.46426 2.15396545 Không có hiện tượng đa cộng tuyến
S 0.485425 0.514575 1.943351309 Không có hiện tượng đa cộng tuyến
Re 0.327629 0.672371 1.487274139 Không có hiện tượng đa cộng tuyến
2.4.3.5 Kiểm tra hiện tượng tự tương quan (Auto Correlation)
(cid:2) Kết quả kiểm tra trên Stata:
Wooldridge test for autocorrelation in panel data
H0: no first order autocorrelation
F(1,12) = 3897.167
Prob > F = 0.0000 (cid:3) Kết luận: p-value < (cid:26) (mức ý nghĩa 5%) ta bác bỏ giả thiết H0 tức mô hình có
hiện tượng tự tương quan.
2.4.3.6 Kiểm tra hiện tượng phương sai thay đổi (Heteroskedasticity)
(cid:2) Kết quả kiểm tra trên Stata:
Modified Wald test for groupwise heteroskedasticity in fixed effect regression
model:
H0: sigma(i)^2 = sigma^2 for all i
chi2 (13) = 51256.48
Prob>chi2 = 0.0000 (cid:3) Kết luận: p-value < (cid:26) (mức ý nghĩa 5%) ta bác bỏ giả thiết H0 tức mô hình có
hiện tượng phương sai thay đổi.
2.4.3.7 Khắc phục hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi:
Kết quả kiểm tra cho thấy mô hình có hiện tượng phương sai thay đổi và tự tương quan và hậu quả của nó có thể làm cho hệ số hồi quy không đáng tin cậy và R2 phản
ánh không đúng bản chất, làm mất đi tính hiệu quả của ước lượng. Do đó cần khắc
phục 2 hiện tượng trên như sau:
Kết quả khắc phục hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi trên Stata:
Cross-sectional time-series FGLS regression
76
Coefficients: generalized least squares
Panels: heteroskedastic with cross-sectional correlation
Correlation: no autocorrelation
Estimated covariances = 91 Number of obs = 91
Estimated autocorrelations = 0 Number of groups = 13
Estimated coefficients = 4 Time periods = 7
Wald chi2(3) = 598.17
Prob > chi2 = 0.0000
Ca Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval]
.00059 .0001519 3.88 .0002923 .0008877 Re 0.000*
1.445517 .0967916 14.93 1.255809 1.635225 S 0.000*
1.232725 .1456756 8.46 .9472056 1.518244 I 0.000*
-58.70238 6.652496 -8.82 -71.74104 -45.66373 _cons 0.000*
Note: you estimated at least as many quantities as you have observations. (cid:3) Sau khi khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi và hiện tượng tự tương quan
ta có phương trình hồi quy như sau:
(cid:1)(cid:2)(cid:3)(cid:4) = −(cid:27)(cid:25). (cid:22)(cid:24)(cid:9)(cid:11)(cid:25) + (cid:7). (cid:9)(cid:11)(cid:9)(cid:22)(cid:9)(cid:27)(cid:10)(cid:3)(cid:4) + (cid:7). (cid:13)(cid:13)(cid:27)(cid:27)(cid:7)(cid:22)(cid:12)(cid:3)(cid:4) + (cid:24). (cid:24)(cid:24)(cid:24)(cid:27)(cid:21)(cid:14)(cid:15)(cid:3)(cid:4) + (cid:16)(cid:3)(cid:4)
Từ kết quả ước lượng phương trình của mô hình FEM ta thấy có bằng chứng
về mối quan hệ giữa kiều hối (biến Re) và cán cân tài khoản vãng lai (biến Ca) tại
13 quốc gia đang phát triển tại Châu Á trong đó có Việt Nam, kết quả có ý nghĩa
thống kê với mức ý nghĩa 5% (p-value < 0.05).
2.4.1 Kết luận
Kết quả kiểm định mô hình FEM ở trên cho thấy có sự tác động của kiều hối
đến cán cân thanh toán vãng lai. Các tham số thống kê của các mô hình đều chứng
tỏ các mô hình là phù hợp và có ý nghĩa. Hệ số ước lượng của kiều hối mang dấu
dương ((cid:24). (cid:24)(cid:24)(cid:24)(cid:27)(cid:21)) và có ý nghĩa thống kê, có ý nghĩa: một sự tăng lên kiều hối có
tác động tích cực đến cán cân tài khoản vãng lai, giảm mức độ thâm hụt cán cân tài
khoản vãng lai. Điều này hoàn toàn phù hợp với giả thiết nghiên cứu ban đầu.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
77
Bằng phương pháp định lượng, tác giả sử dụng dữ liệu về kiều hối và cán cân
tài khoản vãng lai của 13 quốc gia đang phát triển tại Châu Á (trong đó có Việt
Nam) để hình thành dữ liệu bảng (Panel Data) và thông qua mô hình FEM và REM
để kiểm định mối quan hệ giữa kiều hối và cán cân tài khoản vãng lai. Kết quả kiểm
định cho thấy có mối quan hệ giữa kiều hối và cán cân tài khoản vãng lai, có sự tác
động của kiều hối đến cán cân tài khoản vãng lai tại 13 nước lựa chọn trong đó có
Việt Nam. Việc chứng minh có mối quan hệ tác động giữa kiều hối và cán cân tài
khoản vãng lai, tác giả sẽ đưa ra những khuyến nghị chính sách trong chương tiếp
theo của bài nghiên cứu.
78
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THU HÚT KIỀU HỐI ĐỂ CẢI THIỆN CÁN CÂN
TÀI KHOẢN VÃNG LAI TẠI VIỆT NAM
3.1 GIẢI PHÁP THU HÚT KIỀU HỐI
(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) Về phía Nhà nước
Thu thập thông tin về người di cư: hàng năm, chỉnh sửa lại các bảng hỏi và các
dàn mẫu của các cuộc điều tra quốc gia nhằm thu thập được thông tin của tất cả các
loại hình di cư (bao gồm di cư mùa vụ, di cư ngắn hạn và di cư không đăng ký hộ
khẩu). Tiến hành các cuộc điều tra chuyên sâu để hiểu sâu hơn về các loại hình di
cư khác nhau và đóng góp của các loại hình di cư đó cho quá trình phát triển. Tăng
cường phân tích và phổ biến số liệu nhằm lồng ghép các số liệu có chất lượng, phù
hợp, đầy đủ và toàn diện về di cư trong nước vào các hoạt động lập kế hoạch và
hoạch định chính sách kinh tế xã hội.
Cần cải thiện hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm hiện tại của
Chính phủ, bao gồm cả việc thông qua cách thức tiếp cận dựa vào khách hàng.
Trước hết các trung tâm này cần cải thiện chất lượng của các dịch vụ hiện hành và
sau đó cải thiện các hoạt động tiếp thị để thu hút khách hàng. Đặc biệt, các trung
tâm này tập trung vào việc giới thiệu nguồn việc làm cho đối tượng xuất khẩu lao
động nước ngoài.
Đào tạo đội ngũ nhân lực có trình độ và tay nghề cao, xuất khẩu lao động
trong các lĩnh vực đòi hỏi nhiều chất xám như điện tử, viễn thông, công nghệ thông
tin, lập trình, công nghệ sinh học, du lịch, khách sạn, vừa thu hút lượng kiều hối gửi
về nước của lao động vừa học hỏi thêm kinh nghiệm từ các nước tiên tiến trên thế
giới.
Nhà nước cần chủ động có những giải pháp đồng bộ và hiệu quả nhằm giảm
sự mất cân đối trong đầu tư ở các làng nghề, vùng lãnh thổ, gia tăng đầu cơ trên thị
trường bất động sản và sự bất ổn trên thị trường vốn. Cần thực thi các chính sách
nhằm định hướng hoặc tạo động lực dẫn dắt kiều hối đầu tư vào các lĩnh vực sản
xuất và phát triển con người, đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững của nền
kinh tế. Bên cạnh đó, cần cải thiện môi trường kinh doanh vì môi trường kinh doanh
79
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền
kinh tế. Môi trường kinh doanh thuận lợi sẽ tạo cơ hội gia tăng hiệu quả đầu tư cũng
như sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Minh bạch nguồn thông tin về văn hoá kinh doanh ở Việt Nam, các giao dịch
vốn. Cần có nhiều chiến dịch quảng bá để cung cấp đầy đủ các thông tin về chính
sách của Nhà nước nhằm giải toả tâm lý cho kiều bào ở nước ngoài, thu hút ngày
càng nhiều các doanh nhân là kiều bào từ các nước trên thế giới đầu tư về quê
hương. Hình thành thêm những tổ chức làm cầu nối thích hợp cho kiều bào về nước
và xây dựng một diễn đàn có tính chất thường niên về tư vấn chính sách cho Chính
phủ đối với một số lĩnh vực quan trọng của kinh tế - xã hội có sự tham gia của trí
thức kiều bào.
Cần thống kê đúng, đầy đủ và kịp thời nguồn kiều hối để làm cơ sở cho việc
hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô. Cần có số liệu thống kê rõ cả về lượng đầu tư
trực tiếp của Việt kiều và mối liên hệ với số liệu các luồng ngoại tệ khác. Đồng
thời, Chính phủ cần thường xuyên rà soát các dự án đầu tư, đánh giá tính hiệu quả,
khả thi của các dự án theo từng ngành để có hướng xử lý đối với từng loại dự án.
Nhà nước cần tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng mở rộng mạng lưới rộng
khắp để thu nhận và chi trả kiều hối. Tăng cường mạng lưới chi nhánh NHTM Việt
Nam tại nước ngoài và thiết lập quan hệ chuyển tiền trực tiếp với các NHTM tại các
quốc gia có nhiều Việt kiều và người lao động Việt Nam. Các NHTM cần đa dạng
hoá sản phẩm cho đối tượng khách hàng mục tiêu là Việt kiều và người lao động
Việt Nam ở nước ngoài.
NHNN nghiên cứu và đưa ra chính sách điều chỉnh tỷ giá phù hợp với thực tế,
giảm thiểu khoản chênh lệch tỷ giá giữa ngân hàng và thị trường tự do để thu hút
lượng kiều hối về hệ thống ngân hàng theo hướng có lợi cho khách hàng. Quy định
thống nhất tỷ giá cho các công ty chi trả kiều hối và phải ngang bằng với tỷ giá của
ngân hàng. Các ngành có liên quan như quản lý thị trường, thanh tra, cơ quan thông
tin đại chúng ... phối hợp cùng hệ thống ngân hàng chấm dứt tình trạng bán hàng
thu bằng ngoại tệ và niêm yết hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ trái phép. NHNN cần
80
có biện pháp đảm bảo cho lãi suất tiền gửi nội tệ đủ sức hấp dẫn để khuyến khích
người nhận kiều hối chuyển sang nội tệ, từ đó tạo ra nguồn cung ngoại tệ dồi dào
cho các NHTM, tăng nguồn dự trữ ngoại hối của nền kinh tế. Đồng thời, tăng cường
công tác thống kê và giám sát nguồn chuyển tiền kiều hối để phát hiện các giao dịch
bất thường nhằm tránh lợi dụng kênh chuyển tiền này để rửa tiền và tài trợ khủng
bố.
Cho phép các ngân hàng trong nước hoạt động ở nước ngoài điều này cũng
góp phần làm tăng lựa chọn thay thế cho việc gửi kiều hối. Ví dụ, Banque Populaire
của Ma-rốc đã mở chi nhánh tại tất cả các nước châu Âu nơi mà người Ma-rốc di cư
mang lại sự tin tưởng và dịch vụ phi tài chính với chi phí thấp, thủ tục đơn giản
nhắm đến đối tượng người di cư.
Ưu đãi về tiền gửi tiết kiệm về: ngoại tệ và bảo hiểm tiền gửi, và các dịch vụ
đặc biệt nhắm vào nhu cầu di cư, chẳng hạn như các khoản vay, nghỉ hưu và trái
phiếu có thể khuyến khích kiều hối gián tiếp. Các quốc gia như Lebanon hay Trung
Quốc đã phát hành trái phiếu cho cộng đồng người của họ, và kinh nghiệm cho
thấy, sau khi đáo hạn, một số phần tiền có thể vẫn còn ở trong nước. Ngân hàng Al
Amal Ma-rốc, thành lập năm 1989, chuyên tài trợ cho các dự án đầu tư của người di
cư.
Ưu đãi cho người di cư trở về nước để du lịch và ưu đãi riêng để người di cư
gửi về nhà hoặc mang theo những hàng hóa và thiết bị. Ví dụ, một năm một lần,
Tunisia được phép nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ lên đến một ngàn dinar Tunisia mà
không phải trả thuế, và một chiếc xe tư nhân, thiết bị nhà và đồ nội thất được miễn
thuế khi họ trở về. Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều nước khác cũng cung cấp đặc quyền nhập
khẩu như vậy.
Một số quốc gia cấp thẻ ID hoặc giấy tờ căn cước cho người di cư, bất kể tình
trạng pháp lý của họ, để truy cập tài khoản ngân hàng. Ví dụ điển hình là lãnh sự
quán Mexico, thẻ mở rộng của lãnh sự quán Mexico ở nước ngoài được chấp nhận
rộng rãi bởi các ngân hàng thương mại ở Mỹ. Một số nước như Tunisia, phát hành
thẻ ID để tiến hành các dịch vụ trong nước đối với người di cư của họ, ví dụ như thủ
81
tục hải quan đặc biệt, giảm giá vé máy bay và tài khoản ngoại tệ ở Tunisia. Trong
năm 1995, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã tạo ra "thẻ màu hồng" cho người di cư từ bỏ
quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ nhưng vẫn muốn bảo vệ quyền lợi của họ để có thể mua và
thừa kế đất ở Thổ Nhĩ Kỳ. Hiện nay, Việt Nam cũng có những chính sách tương tự
đối với người di cư, tuy nhiên thủ tục hành chính hết sức phức tạp ví dụ: kiều bào
muốn được mua vé các tuyến bay nội địa với giá của người trong nước cần có một
trong các loại giấy xác nhận sau: giấy xác nhận ưu đãi, giấy xác nhận người gốc
Việt Nam, giấy xác nhận có quan hệ thân nhân với người Việt Nam định cư ở nước
ngoài (dùng cho trường hợp người nước ngoài có quan hệ vợ, chồng, cha, mẹ của
vợ hoặc chồng, con riêng, con nuôi hợp pháp với kiều bào). Nếu muốn thu hút đối
tượng trên, thì nên cải tiến đơn giản thủ tục hành chính ví dụ chỉ cần cấp duy nhất
một giấy xác nhận hoặc thẻ ID dành cho đối tượng trên và khi xuất trình giấy tờ trên
thì họ sẽ được hưởng toàn bộ ưu đãi. (cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) Về phía Ngân hàng
Thứ nhất, các NHTM cần mở rộng quảng cáo, tiếp thị, tìm đối tác đầu vào.
Các NHTM nên hợp tác với các công ty xuất khẩu lao động, hỗ trợ tín dụng cho các
cá nhân đi lao động ở nước ngoài, trung tâm tư vấn du học khi đó các ngân hàng sẽ
đồng thời quảng cáo, giới thiệu, cung cấp các thông tin chuyển tiền từ nước ngoài
về cho thân nhân ở Việt Nam. Bên cạnh đó các ngân hàng có thể phối hợp với Uỷ
ban người Việt Nam ở nước ngoài để biết số lượng người Việt Nam định cư ở nước
ngoài nơi nào nhiều nhất từ đó xác định khách hàng tiềm năng của mình.
Thứ hai, triển khai các biện pháp đơn giản hóa thủ tục nhận và gửi tiền như
rút ngắn thời gian chuyển tiền, thông tin khách hàng bằng cách hoàn thiện và phát
triển công nghệ để có thể mang đến cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ và tiện
ích tiên tiến như: Home Banking, Mobile Banking, Internet Banking.
Những thay đổi trong hệ thống thanh toán liên quan đến kiều hối cá nhân ảnh
hưởng đến tất cả các khoản thanh toán có giá trị nhỏ lẻ. Thành phần trong nhóm này
bao gồm các nền tảng thanh toán mới hoặc các công cụ (bao gồm thẻ, điện thoại di
động hoặc các công cụ chuyển tiền trên Internet), yêu cầu bảo đảm an toàn vốn và
82
các quy định về truy cập của các đại lý chuyển tiền đến hệ thống thanh toán bù trừ,
và không được tiết lộ phí chuyển tiền. Điều thú vị là, Châu Phi hiện đang đi đầu
trong chuyển giao công nghệ tiền điện thoại di động. Ví dụ, Kenya M-Pesa hiện có
hơn 9 triệu thuê bao. Ngoài việc chuyển tiền, dịch vụ khác như thanh toán cho các
hóa đơn và cửa hàng tạp hóa (Mohapatra et al. 2010). Công nghệ chuyển tiền mới
cũng đang được áp dụng ở Nam Á. Ở Bangladesh, Banglalink - nhà điều hành điện
thoại di động lớn thứ hai ở Bangladesh, đã tung ra một dịch vụ chuyển tiền điện
thoại di động với các đối tác là các ngân hàng và viễn thông, các công ty có tiềm
năng để cung cấp cho hàng triệu thuê bao điện thoại di động truy cập vào hệ thống
ngân hàng quốc gia. Các dịch vụ này làm giảm thời gian chuyển tiền hiện tại từ bốn
đến năm ngày còn một ngày.
Do đó, các Ngân hàng cần hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ đi kèm với kiều
hối nhằm tạo lợi thế cạnh tranh như phát triển mạng lưới ATM, sản phẩm tiền gửi
tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, với tiện ích và ưu đãi về lãi suất … Tăng cường công
tác quảng bá, cập nhật thường xuyên thông tin cần thiết liên quan đến dịch vụ kiều
hối (hướng dẫn khách hàng chi tiết những thao tác làm sao chuyển tiền và nhận tiền,
biểu phí, danh sách các Ngân hàng mà Ngân hàng có mở tài khoản: tên Ngân hàng,
Swift Code, địa chỉ liên lạc, số tài khoản của Ngân hàng cung cấp dịch vụ và mạng
lưới chi trả kiều hối).
Thứ ba, xây dựng chính sách khách hàng thân thiện. Các ngân hàng cần dựa
vào khả năng cũng như tình hình của ngân hàng mình mà đưa ra chính sách sao cho
hấp dẫn, khuyến khích vật chất, tạo sự thân mật, tin tưởng cho khách hàng. Chính
sách khách hàng cần được công báo rộng rãi trên cơ sở đẩy mạnh và phát triển công
tác thông tin truyền thông để công chúng biết về chương trình và những ích lợi khi
tham gia chuyển kiều hối với các ngân hàng. Các ngân hàng cũng có thể sử dụng
các chương trình khuyến mãi để tác động trực tiếp tới tâm lý khách hàng và sẽ có
tác dụng rất lớn trong việc chuyển tiền thường xuyên tại ngân hàng.
Thứ tư, Ngân hàng liên kết với các công ty kiều hối trong nước có mạng lưới
rộng khắp để mở rộng phạm vi mạng lưới chi trả kiều hối đến tận nơi mà các Ngân
83
hàng thương mại không có chi nhánh, phòng giao dịch. Phát triển các dịch vụ thanh
toán không dùng tiền mặt, thẻ thanh toán, mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng, dịch
vụ thanh toán điện tử như vấn tin số dư, thanh toán hàng hóa và dịch vụ qua Internet
… Những hoạt động này cho phép khách hàng có thể thanh toán mà không cần đến
ngân hàng, tạo điều kiện cho người lao động hoặc Việt kiều có thể chuyển tiền về
nước dễ dàng và thân nhân nhận tiền thuận lợi. Với sự trợ giúp của Ngân hàng thế
giới trong thời gian gần đây, một số ngân hàng thương mại đã hiện đại hóa các trang
thiết bị làm việc, cho phép nối mạng với chi nhánh và quầy giao dịch theo một tiêu
chuẩn thống nhất đã cho phép các khách hàng có thẻ ATM được rút tại nhiều chi
nhánh ngân hàng cùng hệ thống. Thời gian tới, các Ngân hàng cần cho phép khách
hàng có tiết kiệm ngoại tệ được phép rút tiền và thanh toán thẻ tại nhiều ngân hàng
và ở nhiều địa bàn trong và ngoài nước hơn để tạo điều kiện cho khách hàng trong
dịch vụ nhận kiều hối đồng thời góp phần hạn chế giao dịch bằng tiền mặt.
Thứ năm, xây dựng biểu phí dịch vụ hợp lý, đây là một trong những yếu tố
quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng ví dụ: có chính
sách ưu đãi về phí đối với các công ty kiều hối, miễn phí nhận kiều hối bằng tiền
mặt, bằng ngoại tệ với khách hàng đến nhận kiều hối sau 2 ngày kể từ ngày số tiền
được ghi Có vào tài khoản Ngân hàng.
Thứ sáu, chất lượng dịch vụ và trình độ của đội ngũ cán bộ nhân viên Ngân
hàng. Thái độ phục vụ là một trong những yếu tố then chốt, CBNV cần có thái độ
niềm nở chu đáo với khách hàng tạo ấn tượng đối với khách hàng gửi và nhận kiều
hối. Thường xuyên tập huấn để CBNV am hiểu về sản phẩm dịch vụ và có đủ kỹ
năng tư vấn cho khách hàng những tiện ích, sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng
nhằm hướng cho khách hàng đến việc có nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ
khác của ngân hàng.
Đào tạo và huấn luyện một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp trong nghiệp vụ
kiều hối. Nhóm nhân viên này sẽ chịu trách nhiệm theo dõi và lập danh sách các
khách hàng tiềm năng qua quen biết, giới thiệu và những khách hàng có giao dịch
kiều hối dù chỉ một lần với ngân hàng. Ngoài ra họ còn là những người tiếp xúc trực
84
tiếp với khách hàng nên họ sẽ nhận biết những gì mà khách hàng quan tâm do đó có
thể kiến nghị những giải pháp có lợi cho việc thu hút kiều hối của ngân hàng
Thứ bảy, giảm phí chuyển tiền sẽ làm tăng thu nhập của người di cư, tăng ưu
đãi của họ để gửi tiền về nhà, và khuyến khích việc sử dụng các kênh chuyển tiền
chính thức. Hiện nay, chi phí gửi tiền vẫn cao, ví dụ: một người nhập cư nghèo điển
hình gửi về 200 USD hoặc ít hơn cho mỗi giao dịch, chi phí trung bình thông qua ba
nhà khai thác chuyển tiền hàng đầu (như Western Union) có thể lên đến 18 USD.
Nói cách khác, các khoản phí này có tính lũy thoái vì vậy các khoản tiền nhỏ của
người di cư nghèo tốn chi phí nhiều hơn cho mỗi đô la được gửi đi. Mặc dù chi phí
chuyển tiền đã được giảm trong những năm gần đây, nhưng nhìn chung vẫn còn duy
trì cao. Do đó, tận dụng sức mạnh của công nghệ, các ngân hàng và các nhà khai
thác nên cắt giảm chi phí để tạo điều kiện cho người di cư chuyển tiền về nhiều hơn. 3.2 GIẢI PHÁP SỬ DỤNG KIỀU HỐI CẢI THIỆN CÁN CÂN TÀI KHOẢN
VÃNG LAI
Tăng cường liên kết các hoạt động giữa NHTM và cơ quan quản lý kiều hối
hoặc thành lập một ngân hàng phát triển quốc gia để khai thác nguồn tài chính tiềm
năng kiều hối trong khuôn khổ chiến lược phát triển quốc gia liên kết với khu vực
tài chính và đa phương. NHNN cũng có thể yêu cầu NHTM gửi một phần dự trữ
của họ (10-15 phần trăm) trong ngân hàng phát triển quốc gia, với các mục tiêu tạo
thành dòng dư thừa thanh khoản được tạo ra để chuyển tiền vào các dự án phát
triển, hỗ trợ sự hình thành vốn của ngân hàng phát triển quốc gia, và mời các ngân
hàng thương mại trở thành đối tác của dự án phát triển.
(cid:1) Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng ở cấp địa phương và khu vực trong nền kinh tế,
ngành giáo dục, và sức khỏe tài chính để kích thích nguồn tiền gửi về. Cụ thể
hơn, các ngân hàng cần hỗ trợ các dự án "phát triển cộng đồng" bằng cách
phát triển mạng lưới địa phương, trong đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tổ
chức tài chính, trung tâm y tế, trường học và gia đình liên kết với nhau để trao
đổi và thúc đẩy việc sử dụng các nguồn tài nguyên với các dịch vụ về tài
chính, giáo dục , dịch vụ y tế và lao động.
85
(cid:1) Tận dụng tính thanh khoản của kiều hối để đầu tư kinh tế và phát triển xã hội,
tiếp cận dòng tiền gửi về để đầu tư vào các dự án công cộng của cơ sở hạ tầng
(điện, đường giao thông, đường sắt, công giao thông vận tải), du lịch, nông
nghiệp và các doanh nghiệp nhỏ (quần áo, trạm xăng, xe hơi sửa chữa,…). (cid:1) Phát triển sản phẩm và dịch vụ để đầu tư cơ sở hạ tầng công cộng, hợp tác với
khu vực tư nhân. Ngân hàng nhà nước phải đảm bảo sự tham gia của ngân
hàng thương mại bằng cách cung cấptrợ cấp hoặc mức lãi suất thấp hơn để tài
trợ cho các dự án trong nông nghiệp, y tế, giáo dục và các dự án giao thông
vận tải và thông tin liên lạc.
Những người di cư có khả năng tham gia vào các chương trình đầu tư lớn có
thể tăng khả năng để họ tiếp cận với những tài sản sinh lợi nhuận và lợi ích kinh
doanh khác. Nghiên cứu của 71 nước đang phát triển bởi Adams (2008) kết luận
rằng kiều hối nhận được bình quân đầu người của một quốc gia có liên quan tích
cực đến lợi nhuận đầu tư từ nguồn tiền chuyển về nhà. Trong nghiên cứu này, bằng
chứng thực nghiệm cho thấy rằng lượng tiền mà những người nhập cư chuyển tiền
cho các gia đình có liên quan đến mục tiêu quốc gia lớn hơn để thúc đẩy cả về kinh
tế và đầu tư xã hội. Do đó, ý kiến về việc xây dựng ngân hàng phát triển quốc gia để
hỗ trợ và hội tụ lợi ích của cả người di cư và lợi ích quốc gia và tận dụng việc sử
dụng kiều hối từ cá nhân đến địa phương, khu vực và dự án phát triển quốc gia có
thể khả thi đối với Việt Nam.
Việt Nam cần có những chính sách năng động để hỗ trợ cộng đồng người di
cư mong muốn đóng góp vào sự phát triển của quê hương như cung cấp những
chương trình đào tạo: chính phủ thành lập quỹ có sẵn cho những người di cư có nhu
cầu quay trở lại quê hương và mở các doanh nghiệp nhỏ, với điều kiện là người di
cư tham gia vào các chương trình đào tạo trong cả nước. Các chương trình đào tạo
nhằm mục đích nâng cao năng suất và kích thích doanh nghiệp vừa và nhỏ mới
thành lập, lãnh đạo doanh nghiệp nắm vững những quy định, chính sách, ưu đãi
dành cho đối tượng người di cư, mặc khác cũng nhằm mục đích trao đổi kinh
nghiệm, chuyển giao công nghệ đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao như
86
công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp. Chính phủ cũng thường xuyên tổ chức
chiến dịch truyền thông trên các phương tiện truyền thông khác nhau về các chương
trình ưu đãi: thông tin trước khi di cư và định hướng (Philippines), hội chợ và các
chuyến thăm định hướng cho người di cư và gia đình họ (Colombia và Tunisia), và
đường dây nóng cho các nhà đầu tư nhập cư (Tunisia).
Tạo điều kiện để cá nhân và hộ gia đình có thể tiếp cận với công cụ tài chính.
Trong khi những tổ chức tài chính trung gian như Ngân hàng, quỹ tín dụng, tổ chức
cung cấp dịch vụ kiều hối chuyển tiền, họ cũng có thể hưởng lợi từ việc cung cấp
các dịch vụ kiều hối điều này sẽ thu hút được khách hàng mới. Từ đó, các Ngân
hàng có cơ hội để khuyến khích khách hàng đầu tư và tiết kiệm thông qua việc giới
thiệu các sản phẩm dịch vụ liên kết giữa kiều hối và tiêu dùng, vay mua nhà, bảo
hiểm v.v… Khuyến khích chuyển tiền thông qua các kênh ngân hàng có thể khuyến
khích tiết kiệm nhiều hơn (vì chuyển bằng tiền mặt, kiều hối ít có khả năng được
đầu tư và tiết kiệm hơn so với chuyển tiền qua Ngân hàng).
Các NHTM chú trọng công tác nhận và chi trả ngoại tệ, cả mạng lưới nhận và
chi trả kiều hối trong và ngoài nước. Chính phủ cũng đang thúc đẩy việc mở văn
phòng đại diện hoặc chi nhánh của các ngân hàng tại nước ngoài, nơi có nhiều
người Việt Nam lao động, học tập và bà con Việt kiều sinh sống, làm ăn. Đồng thời
phối hợp với Bộ Ngoại giao và các đại sứ quán Việt Nam tại nước ngoài tìm hiểu
thực tế quy định chuyển tiền của các nước sở tại, khả năng thực tế để đưa ra biện
pháp giúp người Việt Nam lao động sinh sống ở nước ngoài có thể chuyển ngoài về
nước một cách thuận lợi.
Chính phủ cần có chính sách ưu đãi và khuyến khích đối với nguồn tiền của
người Việt Nam ở nước ngoài gửi về cho gia đình, người thân và tạo điều kiện
thuận lợi để họ cùng gia đình được tham gia đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Xây
dựng các ưu đãi về thuế đối với nguồn tiền kiều hối sử dụng cho mục đích đầu tư,
kinh doanh tại Việt Nam. Có chế độ khen thưởng kịp thời những kiều bào có nhiều
đóng góp trong việc tuyên truyền chính sách, chủ trương của Nhà nước và vận động
gửi tiền về Việt Nam với số lượng nhiều, thường xuyên.
87
Nhà nước cần chủ động có những giải pháp đồng bộ và hiệu quả nhằm giảm
sự mất cân đối trong đầu tư ở các làng nghề, vùng lãnh thổ, gia tăng đầu tư trên thị
trường bất động sản và giảm sự bất ổn trên thị trường vốn. Cần thực thi các chính
sách nhằm định hướng hoặc tạo động lực dẫn dắt kiều hối đầu tư vào các lĩnh vực
sản xuất và phát triển con người, đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững của
nền kinh tế.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần cải thiện môi trường kinh doanh vì môi trường
kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể
trong nền kinh tế. Môi trường kinh doanh thuận lợi sẽ tạo cơ hội gia tăng hiệu quả
đầu tư cũng như sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Minh bạch nguồn thông tin
về văn hoá kinh doanh ở Việt Nam, cần có nhiều chiến dịch quảng bá để cung cấp
đầy đủ các thông tin về chính sách của Nhà nước nhằm giải toả tâm lý cho kiều bào
ở nước ngoài, thu hút ngày càng nhiều các doanh nhân là kiều bào từ các nước trên
thế giới đầu tư về quê hương. Hình thành thêm những tổ chức làm cầu nối thích
hợp cho kiều bào về nước và xây dựng một diễn đàn có tính chất thường niên về tư
vấn chính sách cho Chính phủ đối với một số lĩnh vực quan trọng của kinh tế - xã
hội có sự tham gia của trí thức kiều bào.
Sau khi phân tích thực trạng của cán cân vãng lai của Việt Nam có thể thấy
thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai chịu tác động chủ yếu của thâm hụt cán cân
thương mại. Kể từ khi gia nhập WTO, mặc dù kim ngạch xuất khẩu có mức tăng
trưởng khá nhanh nhưng vẫn không bì kịp với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu khi rào
cản thuế quan dần dần được xóa bỏ, đã làm hàng hóa nước ngoài tràn vào Việt Nam
trong khi để tăng tốc độ xuất khẩu không phải là việc đơn giản mà đòi hỏi phải có
thời gian lâu dài. Thêm vào đó, nguồn gốc sâu xa của tình trạng trên đó chính là
năng lực xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam khi chưa thực sự tham gia vào chuỗi
cung ứng của khu vực cũng như trên thế giới. Giá trị gia tăng trong nhóm hàng xuất
khẩu thấp và chỉ tập trung vào một số mặt hàng chủ lực chính nên rất dễ bị tổn
thương khi có các cú “shock” từ bên ngoài. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu để chế
biến hàng xuất khẩu, phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, ... trong những năm qua tăng
88
nhanh đáng kể. Do đó, bên cạnh việc sử dụng nguồn kiều hối, Chính phủ cần tận
dụng nguồn lực về tri thức, kinh nghiệm của kiều bào đang định cư tại nước ngoài
để cải thiện hoạt động xuất khẩu. Ví dụ: thành lập câu lạc bộ doanh nhân của kiều
bào, phối hợp tổ chức những cuộc triển lãm, giới thiệu hàng Việt Nam chất lượng
cao đến với khách hàng thế giới. Lấy ý kiến một cách khách quan của kiều bào về
sản phẩm chủ lực, hàng xuất khẩu chính của Việt Nam để tìm hiểu làm thế nào để
cải thiện sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng, vì sao một số sản phẩm không thể
cạnh tranh với hàng hóa các nước ngoài, thói quen văn hóa của dân bản địa để nâng
cao chất lượng sản phẩm và phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Cần tăng cường trao
đổi về mặt kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để nhập khẩu những máy móc công nghệ
mới thay vì thừa hưởng kỹ thuật công nghệ lỗi thời, lạc hậu như thực trạng FDI hay
ODA. Ngoài ra, đối với những doanh nghiệp nước ngoài mà chủ doanh nghiệp là
kiều bào Việt Nam, cần chủ động hợp tác liên lạc, để có những đơn đặt hàng về sản
phẩm bên cạnh đó là đơn đặt hàng về nguồn lao động Việt Nam, tạo điều kiện để
xuất khẩu lao động Việt Nam vì đây chính là cơ hội để học hỏi về kỹ thuật, công
nghệ, kinh nghiệm, môi trường làm việc tại nước ngoài, khi lực lượng này trở về
nước có thể trở thành lao động chủ lực nòng cốt để phát triển kinh tế nước nhà.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong chương 3, tác giả đưa ra những đề xuất, khuyến nghị chính sách gồm hai
nhóm giải pháp:
- Làm thế nào để thu hút và phát triển nguồn kiều hối? - Sau khi đã thu hút được nguồn kiều hối thì sử dụng nguồn lực này như thế
nào để cải thiện cán cân tài khoản vãng lai?
89
KẾT LUẬN
Bài nghiên cứu này cung cấp cái nhìn tổng quát về vấn đề hết sức “nóng
bỏng” của nền kinh tế Việt Nam hiện nay đó là “Thâm hụt cán cân tài khoản vãng
lai” tại Việt Nam. Thông qua việc nhận thức tầm quan trọng của nguồn kiều hối đối
với tất cả lĩnh vực của kinh tế xã hội. Tác giả tiến hành kiểm định mối quan hệ giữa
kiều hối và cán cân tài khoản vãng lai bằng các phương pháp định lượng phổ biến
như mô hình FEM, REM với dữ liệu bảng. Các kết quả từ mô hình tác giả xây dựng
chính là bằng chứng quan trọng để đưa ra những gợi ý, khuyến nghị về chính sách.
Trong điều kiện thực tế của nước ta hiện nay, việc thu thập lượng dữ liệu lớn
là rất khó và gặp rất nhiều hạn chế về số liệu, khó đảm bảo tính chính xác tuyệt đối.
Vì vậy, rất có thể kết luận mà tác giả đưa ra có thể khác với một số quan sát và
nghiên cứu. Tác giả đã cố gắng tiếp cận với nguồn số liệu đang tin cậy như Tổng
cục thống kê Việt Nam, IMF, WB, NHNN… để cung cấp cho người đọc những
bằng chứng đáng tin cậy nhất.
Thông qua bài nghiên cứu này, tác giả cũng mong muốn đóng góp một phần
kiến thức của mình vào sự phát triển của đất nước, mặc dù không tránh được sai sót
do kiến thức còn hạn chế. Tuy nhiên, tác giả vẫn mong muốn những khuyến nghị,
gợi ý về chính sách của mình có thể đóng góp cho các cơ quan chức năng và những
tác giả sau trong việc nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này và khắc phục những hạn
(cid:4)(cid:5)
chế của bài nghiên cứu.
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Thắng, Nguyễn Đức Nhật, Nguyễn Cao Đức
(2008), Thâm hụt Cán cán tài khoản vãng lai: Nguyên nhân và giải pháp,
Trung tâm nghiên cứu chính sách và phát triển (DEPOCEN) và Trung tâm
Phân tích và dự báo (CAF).
2. Đặng Thu Hằng, Vũ Thanh Hà, Phan Hoàng Yến và Nguyễn Thuỳ Dương
(2010), Nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn kênh chuyển kiều hối – kinh
nghiệm nghiên cứu của một số nước và của Việt Nam, Học viện Ngân hàng. 3. Mai Thu Hiền và Cao Thị Thanh Thủy (2012), Các giải pháp cải thiện cán
cân tài khoản vãng lai của Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 17/2012, 18-25.
4. Nguyễn Việt Hòa, Phạm Thị Ngọc Trang, Nguyễn Hồ Thanh Vĩnh (2011),
Kiểm định các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng của tỷ giá lên
lạm phát và cán cân thương mại, Công trình nghiên cứu dự thi giải thưởng
nghiên cứu khoa học sinh viên “Nhà kinh tế trẻ” – Năm 2011.
5. Phan Thanh Hoàn, Nguyễn Đăng Hào (2007), Mối quan hệ giữa tỷ giá hối
đoái và Cán cân thương mại Việt Nam thời kỳ 1995 – 2004, Tạp chí khoa học
Đại học Huế, số 43.
6. Liên minh Châu Âu - Cục lãnh sự - Bộ Ngoại giao Việt Nam (2011), Báo cáo
tổng quan về tình hình di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài, Available
at: [http://dicu.gov.vn].
7. Tô Trung Thành – Đại Học kinh tế quốc dân Hà Nội (2010), Đầu tư công “lấn
át” đầu tư tư nhân? Góc nhìn từ mô hình thực nghiệm VECM, Available at:
[http://vi.wordpress.com/tag/kinh-te-tai-chinh/].
8. Nguyễn Đức Thành (2008), Từ cuộc tranh luận trong kinh tế học vĩ mô về kiều
hối đến những gợi mở cho thực tiễn ở Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Kinh
tế và Chính sách (CEPR), Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc Gia Hà Nội. 9. Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2011), Tài chính quốc tế, Trường Đại học Kinh tế
Tp.HCM (lưu hành nội bộ).
91
10. Nguyễn Văn Tiến (2011), Giáo trình tài chính quốc tế, Nhà xuất bản Thống
kê.
11. Đào Thị Thanh Tú và Nguyễn Thị Bảo Huyền (2011), Thu hút và nâng cao
hiệu quả nguồn vốn kiều hối trong phát triển kinh tế Việt Nam, Học viện Ngân
hàng.
(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) TÀI LIỆU TIẾNG ANH 12. Adams, Richard H. & John Page (2003), International Migration,
Remittances, & Poverty in Developing Countries, Policy Research Working
Paper No. 3179, The World Bank.
13. Asian Development Bank (2006), Workers' Remittance Flows in Southeast
Asia, No. 011806.
14. Bouhga-Hagbe, Jacques (2004), A Theory of Workers’ Remittances With an
Application to Morocco?.Working Paper No. WP/04/194, International
Monetary Fund.
15. Buch, Claudia M. & Anja Kuckulenz (2004), Worker Remittances & Capital
Flows to Developing Countries. Discussion Paper No. 04-31, Centre for
European Economic Research (ZEW).
16. Bugamelli, Matteo and Francesco Paternò (2005), Do Workers’ Remittances
Reduce the Probability of Current Account Reversals?, Policy Research
Working Paper No.3766, World Bank.
17. Chami, Ralph; Connel Fullenkamp, & Samir Jahjah (2005), Are Immigrant
Remittance Flows a Source of Capital for Development?, IMF Staff Papers,
Vol. 52: 55-81.
18. Dang Nguyen Anh, Tran Thi Bich, Nguyen Ngoc Quynh, Dao The Son
(2010), Development on the Move - Measuring and Optimising Migration’s
Economic and Social Impacts in Vietnam, Global Development Network. 19. DennisW. Jansen, Diego E. Vacaflores, and George S. Naufal (2012),
TheMacroeconomic Consequences of Remittances, International Scholarly
Research Network, Volume 2012, Article ID 218071, 14 pages.
92
20. Drinkwater, Stephen; Paul Levince & Emanuaela Lotti (2003), The Labor
Market Effects of Remittances, Working Paper, University of Surrey.
21. Emmanuel K.K. Lartey, Federico S. Mandelman,and Pablo A. Acosta (2008),
Remittances, Exchange Rate Regimes, and the Dutch Disease: A Panel Data
Analysis, Federal Reserve Bank,Working Paper 2008-12.
22. Giovanni P. Olivei, Economist, Federal Reserve Bank of Boston. Erika M.
Dreyer provided outstanding research assistance (2000), The Role of Savings
and Investment in Balancing the Current Account: Some Empirical Evidence
from the United States.
23. Giuliano, Paola & Marta Ruiz-Arranz (2005), Remittances, Financial
Development, & Growth, Working Paper WP/05/234, International Monetary
Fund.
24. Glytsos, Nicholas P (2002), Dynamic Effects of Migrant Remittances on
Growth: An Econometric Model with an Application to Mediterranean
Countries. Working Paper No. 74, Centre of Planning & Economic Research,
Athens, Greece.
25. Hernandez, Diego (2009), Remittances and Financial Development in Latin
America. Master's Thesis, School of Business and Economics – Institute of
Public Economics.
26. Hernández-Coss, Raúl (2005), The Canada-Vietnam Remittance Corridor:
Lessons on Shifting from Informal to Formal Transfer Systems, World
BankSakr, Khaled (2006), The Size, Benefits, and Determinants of Migrants’
Remittances in Vietnam in IMF Country Report No. 06/20: Vietnam Selected
Issues, January 2006, p.34-44.
27. International Monetary Fund (2011), Annual Report: IMF Committee on
Balance of Payments Statistics.
28. Julca Alex (2012), Can remittances support development finance in
developing countries?, World Economic and Social Survey 2012.
93
29. Kapur, Devesh (2003), Remittances: The New Development Mantra? paper
prepared for the G-24 Technical Group Meeting.
30. Kirton Claremont (2008), The Socio-Economic Impact of Migrant
Remittances: Pros and Cons, Department of Economics University of the
West Indies, Mona, Jamaica Caribbean Diaspora Economy Research Group
(CDERG).
31. Mohammad Abdul Hannan Pradhan, Sabiha Afrin, Mohammad Rafiqul Islam
(2012), Contribution of Remittance on Current Account of Balance of
Payments in Bangladesh: VECM Estimation, International Journal of Applied
Research in Business Administration & Economics, Vol.01.Issue 01.Article
No.07.
32. Nguyen Duc Thanh (2007), Economywide Effects of International
Remittances: A Computable General Equilibrium Assessment for Vietnam,
Chapter 4 in “The Economics of International Migration: A Perspective from
the Source Countries,” PhD disseratation, GRIPS, Tokyo.
33. Pfau, D. Wade & Giang Thanh Long (2006), The Growing Role of
International Remittances in the Vietnamese Economy: Evidence from the
Vietnam (Household) Living Standard Surveys, paper presented at the
Conference on Global Movements in the Asia Pacific, Ritsumeikan Asia-
Pacific University (APU), Oita, Japan, Nov. 17-18, 2006.
34. Pfau, Wade Donald and Giang, Long Thanh - National Graduate Institute for
Policy Studies (GRIPS), National Economics University (NEU) (2010), The
growing Role of International Remittances in the Vietnamese Economy:
Evidence from the Vietnam (Household) Living Standard Surveys. MPRA
Paper No. 24945, posted 13. September 2010 / 04:02.
35. Puri, Shivani & Tineke Ritzema (1999), Migrant Worker Remittances, Micro-
Finance and the Informal Economy: Prospects and Issues, ILO Working
Paper No
94
36. Rapoport, Hillel and Frédéric Docquier (2005), The Economics of
Migrants’Remittances, IZA DP No. 1531.
37. Raquel Torres Ruiz, Alejandro Lorca Corróns (2011), EU- Mediterranean
Migration and Remittance Flows: A tool for Co-Development and Leveraging
Foreign Investment.
38. Ratha, Dilip (2003), Workers’ Remittances: An Important & Stable Source of
External Development Finance, Chapter 7 in Global Development Finance
2003, The World Bank.
39. Ratha, Dilip (2007), Leveraging Remittances for Development, The World
Bank.
40. Selen Sarisoy Guerin ECARES, Université Libre de Bruxelles (2012), The
relationship between capital flows and current account: volatility and
causality, Available at SSRN: [http://ssrn.com/abstract=2018195 or
http://dx.doi.org/10.2139/ssrn.2018195].
41. Stark, O (1991), The Migration of Labor, Basil Blackwell 42. The WorldBank (2011), Migration and Remittances Factbook 2011, Second
Edition, Available online at http://www.worldbank.org/prospects/
migrationandremittances.
43. The WorldBank (2012), Migration and Development Brief 19, Migration and
Remittances Unit, Development Prospects Group.
(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) WEBSITE 44. Asian Development Bank: [http://www.adb.org/] 45. Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam: [http://www.sbv.gov.vn] 46. IMF - World Economic Outlook Database:
[http://www.imf.org/external/pubs/ft/weo/2012/02/weodata]
47. Tổng cục thống kê: [http://www.gso.gov.vn] 48. The WorldBank - Countries and Economies:
[http://data.worldbank.org/country]
95
(cid:2) VĂN BẢN PHÁP LUẬT 49. Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/03/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngoài;
50. Nghị quyết số 3/2007/NQ-CP ngày 19/01/02007 của Chính Phủ về những giải
pháp chủ yếu, chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội và ngân
sách Nhà Nước năm 2007;
51. Quyết định số 170/1999/QĐ-TTg ngày 19/08/1999 của Thủ Tướng Chính Phủ
về khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước;
52. Quyết định số 78/2002/QĐ-TTg ngày 17/06/2002) về việc sửa đổi, bổ sung
Quyết định số 170/1999/QĐ-TTg ngày 19 tháng 8 năm 1999 về việc khuyến
khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước;
53. Quyết định số 878/2002/QĐ-NHNN ngày 19/08/2002 của NHNN Việt Nam
về việc sửa đổi, bổ sung một số điểm tại Thông tư số 02/2000/TT-NHNN
ngày 24/2/2000 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành Quyết định số
170/1999/QĐ-TTg ngày 19/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ;
54. Quyết định số 77/2006/QĐ-UBND ngày 22/05/2006 của Ủy ban nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh về chương trình hành động của Uỷ ban nhân dân
thành phố thực hiện Nghị quyết 36 – NQ/TW của Bộ Chính trị, chương trình
hành động của chính phủ và kế hoạch 47 – KH/TU của thành ủy về công tác
đối với người Việt Nam ở nước ngoài trên địa bàn thành phố.
55. Thông tư số 15/2011/TT-NHNN ngày 12/8/2011 về mang ngoại tệ tiền mặt
khi xuất cảnh, nhập cảnh.
THE END (cid:4)(cid:4)(cid:4)(cid:4)(cid:5)(cid:5)(cid:5)(cid:5)
PHỤ LỤC 01
MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI, ĐẦU TƯ VÀ
TIẾT KIỆM
- Trong một nền kinh tế đóng, không có hoạt động xuất nhập khẩu ta có:
Y = C + I + G (i)
- Trong đó:
Y là thu nhập quốc dân, được chi vào các khoản C là tiêu dùng, I là đầu tư, và G là
chi tiêu của khu vực chính phủ. Đẳng thức (i) ở trên được viết lại là:
Y - C – G = I (ii)
Y – C – G là tiết kiệm, gọi là S. Ta sẽ có S = I. Như vậy trong nền kinh tế đóng, bao
giờ cũng có sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư. - Trong nền kinh tế mở ta có các hoạt động XNK, nên đẳng thức (i) sẽ được viết
như sau:
Y = C + I + G + (EX-IM) (iii) - Trong đó EX là xuất khẩu, IM là nhập khẩu. Số chênh lệch giữa EX-IM là thâm
hut/thặng dư thương mại. Để đơn giản hóa việc trình bày, nếu ta coi EX-IM
tương đương với tài khoản vãng lai, viết tắt là CA, ta sẽ có:
CA = Y – C – G – I (iv)
- Và ta biết Y – C – G chính là tiết kiệm S. Nên ta có thể viết là:
CA = S – I (v)
Dựa vào đẳng thức (v), tác giả có cơ sở để đưa hai biến đầu tư và tiết kiệm vào
phương trình ước lượng mối quan hệ giữa biến cán cân tài khoản vãng lai với các
biến đầu tư, tiết kiệm và kiều hối.
“Nguồn: Giovanni P. Olivei, Economist, Federal Reserve Bank of Boston. Erika M. Dreyer provided outstanding research assistance, 2000. The Role of Savings and Investment in Balancing the Current Account: Some Empirical Evidence from the United States”.
PHỤ LỤC 02
DỮ LIỆU CỦA 13 QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN TẠI CHÂU Á
STT Quốc gia Năm
Kiều hối (Triệu USD)
1 1 1 1 1 1 1 2 2 2 2 2 2 2 3 3 3 3 3 3 3 4 4 4 4 4 4 4 5 5 5 5 5 5 5
Bangladesh Bangladesh Bangladesh Bangladesh Bangladesh Bangladesh Bangladesh China China China China China China China India India India India India India India Indonexia Indonexia Indonexia Indonexia Indonexia Indonexia Indonexia Malaysia Malaysia Malaysia Malaysia Malaysia Malaysia Malaysia
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Cán cân tài khoản vãng lai (Tỷ USD) 0.764 0.617 1.173 2.659 1.748 0.027 -0.396 232.712 353.876 412.37 261.012 237.623 201.72 190.681 -9.299 -8.077 -30.974 -25.912 -52.224 -62.756 -74.542 10.86 10.492 0.126 10.628 5.144 1.719 -18.858 26.188 29.737 39.439 31.421 27.345 31.735 23.069
Tổng đầu tư quốc gia (% GDP) 24.552 24.327 24.295 24.394 24.808 25.309 25.754 42.972 41.738 44.046 48.243 48.219 48.584 47.78 35.299 37.357 34.338 36.788 34.705 35.037 35.997 25.4 24.92 27.816 30.985 32.574 32.77 34.896 22.704 23.41 21.458 17.836 23.148 23.585 24
Tổng tiết kiệm quốc gia (% GDP) 28.198 29.494 29.874 29.808 29.356 29.113 27.307 51.55 51.865 53.17 53.474 52.225 51.348 50.091 34.276 36.656 31.885 34.742 31.502 31.602 32.168 28.381 27.348 27.841 32.958 33.301 32.973 32.789 38.795 38.769 38.526 33.368 34.227 34.606 31.51
5427.52 6562.32 8940.61 10520.65 10850.21 12067.83 13736.13 27401.04132 38186.21589 47492.31446 47929.77862 52269.4475 61365.29 66274.51563 28333.64228 37216.75528 49977.27692 49468.36657 54034.71084 63011.07 69796.94531 5722.36 6174.34 6794.20 6792.91 6916.05 6923.97 7179.69 1365.48 1556.24 1329.07 1130.87 1102.41 1197.79 1363.42
6 6 6 6 6 6 6 7 7 7 7 7 7 7 8 8 8 8 8 8 8
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
-0.302 -0.438 -0.647 -0.407 -0.36 -0.3 -0.576 0.192 -0.014 0.344 0.536 -0.378 -0.181 0.849 -4.99 -6.878 -13.874 -9.261 -3.946 0.214 -4.517
40 35 30 20 15 20 20 26.465 30.211 27.942 31.549 37.068 34.092 29.207 22.14 22.523 22.051 18.215 15.566 13.078 12.522
16.831 6.605 -4.217 -0.982 -2.332 4.341 -9.123 28.593 30.077 30.682 35.718 34.699 33.139 32.448 18.226 17.72 13.586 12.493 13.33 13.179 10.563
2.800 7.934 6.266 4.511 3.159 2.998 2.968 1453.23 1733.86 2727.14 2985.59 3468.86 4216.92 5114.59 5121.00 5998.00 7039.00 8717.00 9690.00 12263.00 13932.80
9
4.42
2006
-0.093
15.699
14.019
9
7.59
2007
0.254
15.523
19.536
9
2008
0.674
15.367
23.79
14.78
9
2009
-1.325
15.207
-1.146
12.01
9
2010
-2.532
14.946
-10.668
10.85
9
2011
-4.605
14.483
-21.908
10.85
9
10 10 10 10 10 10 10
Maldives Maldives Maldives Maldives Maldives Maldives Maldives Nepal Nepal Nepal Nepal Nepal Nepal Nepal Pakistan Pakistan Pakistan Pakistan Pakistan Pakistan Pakistan Papua New Guinea Papua New Guinea Papua New Guinea Papua New Guinea Papua New Guinea Papua New Guinea Papua New Guinea Philippines Philippines Philippines Philippines Philippines Philippines Philippines
2012 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
-4.374 5.341 7.112 3.627 9.358 8.922 7.078 7.147
14.375 18.009 17.337 19.288 16.592 20.541 21.714 21.108
-14.042 22.379 22.099 21.377 22.146 25.011 24.863 24.078
9.15 15251.00 16302.00 18642.00 19765.00 21427.00 23065.00 24325.21
11 11 11 11 11 11 11 12 12 12 12 12 12 12 13 13 13 13 13 13 13
Sri Lanka Sri Lanka Sri Lanka Sri Lanka Sri Lanka Sri Lanka Sri Lanka Thailand Thailand Thailand Thailand Thailand Thailand Thailand Viet Nam Viet Nam Viet Nam Viet Nam Viet Nam Viet Nam Viet Nam
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
-1.5 -1.4 -3.886 -0.215 -1.076 -4.543 -3.201 2.315 15.682 2.157 21.896 13.176 11.87 -0.749 -0.164 -6.992 -10.787 -6.116 -4.287 0.201 0.457
27.98 27.952 27.552 24.434 27.143 27.803 29.186 28.297 26.434 29.124 21.241 25.935 26.627 31.277 36.81 43.131 39.713 38.129 39.043 29.883 34.091
22.676 23.626 18.01 23.924 24.948 20.302 21.893 29.415 32.783 29.916 29.544 30.067 30.06 31.078 36.541 33.299 27.767 31.565 34.904 30.046 34.422
2184.77 2526.70 2947.40 3362.80 4155.05 5193.25 6312.25 1333.07 1635.04 1897.94 2776.10 3580.35 3994.46 4102.65 3800.00 6180.00 6805.00 6020.00 8260.00 8600.00 9052.40 “Nguồn: Theo IMF [46] và WorldBank [48]”
Bảng dữ liệu thực hiện trên Eviews:
Country 1 1 1 1 1 1 1 2 2 2 2 2 2 2 3 3 3
Year 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3
Ca 0.764 0.617 1.173 2.659 1.748 0.027 -0.396 232.712 353.876 412.37 261.012 237.623 201.72 190.681 -9.299 -8.077 -30.974
I 24.552 24.327 24.295 24.394 24.808 25.309 25.754 42.972 41.738 44.046 48.243 48.219 48.584 47.78 35.299 37.357 34.338
S 28.198 29.494 29.874 29.808 29.356 29.113 27.307 51.55 51.865 53.17 53.474 52.225 51.348 50.091 34.276 36.656 31.885
Re 5427.52 6562.32 8940.61 10520.65 10850.21 12067.83 13736.13 27401.04132 38186.21589 47492.31446 47929.77862 52269.4475 61365.29 66274.51563 28333.64228 37216.75528 49977.27692
3 3 3 3 4 4 4 4 4 4 4 5 5 5 5 5 5 5 6 6 6 6 6 6 6 7 7 7 7 7 7 7 8 8 8 8 8 8 8 9 9 9
4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3
-25.912 -52.224 -62.756 -74.542 10.86 10.492 0.126 10.628 5.144 1.719 -18.858 26.188 29.737 39.439 31.421 27.345 31.735 23.069 -0.302 -0.438 -0.647 -0.407 -0.36 -0.3 -0.576 0.192 -0.014 0.344 0.536 -0.378 -0.181 0.849 -4.99 -6.878 -13.874 -9.261 -3.946 0.214 -4.517 -0.093 0.254 0.674
36.788 34.705 35.037 35.997 25.4 24.92 27.816 30.985 32.574 32.77 34.896 22.704 23.41 21.458 17.836 23.148 23.585 24 40 35 30 20 15 20 20 26.465 30.211 27.942 31.549 37.068 34.092 29.207 22.14 22.523 22.051 18.215 15.566 13.078 12.522 15.699 15.523 15.367
34.742 31.502 31.602 32.168 28.381 27.348 27.841 32.958 33.301 32.973 32.789 38.795 38.769 38.526 33.368 34.227 34.606 31.51 16.831 6.605 -4.217 -0.982 -2.332 4.341 -9.123 28.593 30.077 30.682 35.718 34.699 33.139 32.448 18.226 17.72 13.586 12.493 13.33 13.179 10.563 14.019 19.536 23.79
49468.36657 54034.71084 63011.07 69796.94531 5722.36 6174.34 6794.20 6792.91 6916.05 6923.97 7179.69 1365.48 1556.24 1329.07 1130.87 1102.41 1197.79 1363.42 2.800 7.934 6.266 4.511 3.159 2.998 2.968 1453.23 1733.86 2727.14 2985.59 3468.86 4216.92 5114.59 5121.00 5998.00 7039.00 8717.00 9690.00 12263.00 13932.80 4.42 7.59 14.78
4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7
-1.325 -2.532 -4.605 -4.374 5.341 7.112 3.627 9.358 8.922 7.078 7.147 -1.5 -1.4 -3.886 -0.215 -1.076 -4.543 -3.201 2.315 15.682 2.157 21.896 13.176 11.87 -0.749 -0.164 -6.992 -10.787 -6.116 -4.287 0.201 0.457
15.207 14.946 14.483 14.375 18.009 17.337 19.288 16.592 20.541 21.714 21.108 27.98 27.952 27.552 24.434 27.143 27.803 29.186 28.297 26.434 29.124 21.241 25.935 26.627 31.277 36.81 43.131 39.713 38.129 39.043 29.883 34.091
-1.146 -10.668 -21.908 -14.042 22.379 22.099 21.377 22.146 25.011 24.863 24.078 22.676 23.626 18.01 23.924 24.948 20.302 21.893 29.415 32.783 29.916 29.544 30.067 30.06 31.078 36.541 33.299 27.767 31.565 34.904 30.046 34.422
12.01 10.85 10.85 9.15 15251.00 16302.00 18642.00 19765.00 21427.00 23065.00 24325.21 2184.77 2526.70 2947.40 3362.80 4155.05 5193.25 6312.25 1333.07 1635.04 1897.94 2776.10 3580.35 3994.46 4102.65 3800.00 6180.00 6805.00 6020.00 8260.00 8600.00 9052.40
9 9 9 9 10 10 10 10 10 10 10 11 11 11 11 11 11 11 12 12 12 12 12 12 12 13 13 13 13 13 13 13
PHỤ LỤC 03
DỮ LIỆU VỀ KIỀU HỐI VÀ CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI
CỦA VIỆT NAM
Năm
Cán cân tài khoản vãng lai (CA) (triệu USD) -133 -8 -1,395 -1,872 -254 -2,020 -1,528 -1,074 1,177 1,106 920 -627 -1,931 -1,591 -560 -164 -6,992 -10,787 -6,116 -4,287 201 457
Kiều hối (RE) (% GDP) 0.4580 1.3844 1.0697 1.5326 1.3703 1.8994 1.4874 3.4883 4.1809 4.2982 3.3821 5.0432 5.3080 5.0823 5.9511 6.2364 8.6905 7.5358 6.4613 7.9749 7.0077 6.5749
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
“Nguồn: Theo IMF [46] và WorldBank [48]” (cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)